text
stringlengths
82
354k
Cao Thị Nhíp (có nguồn ghi Nguyễn Thị Nết) là một nữ chiến sĩ cách mạng Việt Nam, người đã tham gia dẫn đường cho xe tăng của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến vào Sài Gòn trong Chiến dịch Mùa Xuân 1975. Cô được công chúng biết đến với tấm ảnh chụp của nhà báo Đậu Ngọc Đản đăng trên trang nhất báo "Sài Gòn Giải Phóng" số đầu tiên và tham gia đóng vai chính trong bộ phim về cô có tên "Cô Nhíp", tác phẩm sau đó giành được giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4. Cao Thị Nhíp sinh ra trong một gia đình nghèo, quê ở Tiền Giang. Lên Sài Gòn khi còn nhỏ tuổi, cô đã làm nghề buôn bán, hàng ngày tới Bình Phước, Tây Ninh để nhập hàng về. Một thời gian sau đó Nhíp tham gia vào Biệt động Sài Gòn và làm tình báo ẩn dưới thân phận là người làm công cho một gia đình sĩ quan Việt Nam Cộng hòa. Cô hoạt động cách mạng dưới cái tên Nguyễn Thị Trung Kiên. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4 năm 1975, tổ công tác của Trung Kiên nhận nhiệm vụ dẫn đường cho Trung đoàn 24, Sư đoàn 10 thuộc Quân đoàn 3, Quân đội nhân dân Việt Nam vào đánh chiếm sân bay Tân Sơn Nhất. Cô và đồng đội đã làm giao liên hành quân cùng trung đoàn từ Dầu Tiếng xuống Củ Chi rồi đưa tới ngã ba Ba Quẹo, là cánh quân chủ lực đầu tiên có mặt tại nội đô Sài Gòn trong ngày 29 tháng 4. Ngày 30 tháng 4, cô dẫn đầu trên một chiếc xe tăng của đoàn tiến vào sân bay. Tại đây, nhà báo Đậu Ngọc Đản đã có cơ hội chụp lại cô Nhíp bằng máy hiệu Canon, ống kính liền, chỉ ở một tiêu cự. Một trong số các bức ảnh sau đó được đăng lên trang nhất số đầu tiên của báo "Sài Gòn Giải Phóng" ngày 5 tháng 5 năm 1975; ảnh của cô nằm ở góc bên phải trên cùng, với dòng chữ chú thích "Nguyễn Trung Kiên, nữ biệt động 18 tuổi hướng dẫn xe tăng quân Giải Phóng chiếm sân bay Tân Sơn Nhất". Bức ảnh xuất hiện trên báo đã được đặt làm lịch Tết năm 1976, được in lại trong nhiều sách báo cách mạng và sau này được Ngọc Đản hiến tặng cho Bảo tàng Báo chí Việt Nam. Nhờ việc xuất hiện trên báo khi ấy, cô cũng được công chúng biết đến và được đích thân đạo diễn Khương Mễ mời vào vai chính trong bộ phim về cô "Cô Nhíp", là tác phẩm điện ảnh đầu tiên của điện ảnh cách mạng miền nam Việt Nam sau giải phóng. Phim đã giành giải Bông sen bạc tại #đổi . Trước đó, cô được cho là người đã đề xuất ý tưởng với Đặng Đức Lập, đại đội phó Đại đội 2 của Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 24, cho xe tăng dẫn đầu đội tiến về Dinh Độc Lập; lúc cách cổng dinh không còn xa, sau khi nhận tin Dương Văn Minh từ chức thì người chỉ huy xe tăng quyết định cho xe quay đầu lại. Hậu giải phóng, cô đi làm thuyết minh viên tại Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh, sau chuyển về công tác ở Công ty thương nghiệp tổng hợp quận 5 của thành phố và sinh hai người con. Hiện gia đình Cao Thị Nhíp đang định cư ở Mỹ.
Công viên 29 tháng 3 Công viên 29 tháng 3 là một công viên tại thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Với hồ nước rộng, mật độ cây xanh dày đặc, nhiều cây cổ thụ to lớn, rợp bóng mát, nơi đây được xem là "lá phổi xanh" giữa lòng đô thị Đà Nẵng. Công viên 29 tháng 3 có tổng diện tích 188.081 m², gồm 106.301 m² mặt hồ và 81.780 m² đất, giáp với hai trục đường lớn của Đà Nẵng là đường Điện Biên Phủ và đường Nguyễn Tri Phương, thuộc địa bàn phường Thạc Gián, quận Thanh Khê. Khu đất công viên ngày nay trước năm 1975 vốn là bãi rác trung tâm của Đà Nẵng, người dân thường gọi là Hầm Bứa. Mùa hè năm 1976, chính quyền đã huy động thanh niên tại địa phương dọn vệ sinh bãi rác. Theo nhà báo Trương Điện Thắng, việc dọn dẹp này diễn ra trong hơn một tháng. Công trường Công viên 29 tháng 3 cũng được thành lập sau đó. Năm 1982, Công ty Công viên Cây xanh thành phố Đà Nẵng được thành lập, trở thành đơn vị quản lý Công viên 29 tháng 3. Ban đầu, công viên được xây dựng tường rào bao quanh, tuy nhiên đến năm 2007 chính quyền thành phố Đà Nẵng đã cho phá bỏ tường rào để tạo không gian mở cho người dân đến vui chơi, giải trí. Năm 2015, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng có chủ trương điều chỉnh mở rộng ranh giới công viên thêm 6.000 m² ở phía đường Điện Biên Phủ và Nguyễn Tri Phương. Tuy nhiên, việc mở rộng này chưa được thực hiện thì sau đó công viên đã phải cắt một phần diện tích để xây dựng công trình hầm chui Điện Biên Phủ. Cuối năm 2017, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định chuyển giao Công viên 29 tháng 3 cho quận Thanh Khê quản lý. Vào ngày 6 tháng 5 năm 2019, nhiều người dân phản ánh tình trạng hồ nước công viên 29 tháng 3 bị ô nhiễm nghiêm trọng. Người dân cho biết, tình trạng này diễn ra đã nhiều ngày do một lượng lớn nước thải đen ngòm, sủi bọt bốc mùi hôi từ các cống xả ồ ạt chảy thẳng ra hồ. Cùng ngày, Công ty Thoát nước và Xử lý nước thải thành phố Đà Nẵng cũng xác nhận có một lượng lớn nước thải chưa qua xử lý từ các đập chảy tràn ra hồ nước rộng 10 ha của công viên, đồng thời cho biết lượng nước thải tràn ra hồ mỗi ngày khoảng 200–500 m³.
Canh tác giá thể Canh tác giá thể hay canh tác theo chiều dọc ("Vertical farming") hay nông nghiệp thẳng đứng là phương pháp canh tác trồng trọt theo các lớp giá thể xếp chồng lên nhau theo chiều dọc từ dưới lên trên Canh tác theo chiều thường kết hợp trong môi trường có kiểm soát (thường là nhà kính) nhằm mục đích tối ưu hóa sự phát triển của cây trồng và các kỹ thuật canh tác không sử dụng đất như thủy canh, và khí canh. Những cấu trúc được lựa chọn phổ biến để chứa các hệ thống canh tác thẳng đứng bao gồm các tòa nhà, công-te-nơ vận chuyển, đường hầm và hầm mỏ bỏ hoang. Tính đến năm 2020, có khoảng 30 ha (74 mẫu Anh) đất nông nghiệp đang hoạt động theo loại hình này trên thế giới. Khái niệm canh tác giá thể hiện đại được đề xuất vào năm 1999 do ông Dickson Despommier một giáo sư khoa Sức khỏe Cộng đồng và Môi trường tại Đại học Columbia. Giáo sư Despommier và các sinh viên của ông ta đã đưa ra thiết kế một trang trại chọc trời được quảng bá là có thể sản xuất ra lượng lương thực đủ để nuôi sống 50.000 người Mặc dù thiết kế vẫn chưa được đi vào triển khai thi công xây dựng, nhưng đề xuất này đã phổ biến cho sự thành công ý tưởng canh tác theo chiều dọc. Kỹ thuật này là trồng cây theo mô hình 3D thay vì 2D như trồng cây trên ruộng đồng hoặc trong nhà kính. Canh tác giá thể có thể được thực hiện trong các tòa nhà cao tầng hoặc trong các container ở đó các lớp được xếp chồng lên nhau để tận dụng không gian. Trong mô hình này công nghệ điều khiển môi trường nông nghiệp (CEA) được sử dụng để tạo môi trường phù hợp cho từng loại cây. Mục tiêu chính của mô hình này là tối đa sản lượng thực phẩm trên một đơn vị diện tích. Ưu điểm chính của việc sử dụng các công nghệ canh tác thẳng đứng là tăng năng suất cây trồng đi kèm với yêu cầu diện tích đất cần để trồng trọt nhỏ hơn. Một lợi thế khác là tăng khả năng canh tác nhiều loại cây trồng hơn cùng một lúc vì cây trồng không chia sẻ cùng một mảnh đất trong khi phát triển do nhiều phương pháp dựa trên giá thể. Ngoài ra, cây trồng có khả năng chống lại sự gián đoạn của thời tiết do được trồng trong nhà, có nghĩa là cây trồng ít bị ngót do thời tiết khắc nghiệt hoặc bất thường. Do sử dụng đất hạn chế nên canh tác thẳng đứng ít ảnh hưởng đến hệ thực vật và hệ động vật bản địa hơn, giúp bảo tồn hệ động thực vật địa phương hơn nữa. Người trồng không còn lo sâu bọ, cỏ dại phá hại mùa màng nên không cần sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, trong một môi trường được kiểm soát khép kín, hơi ẩm do thực vật tiết ra sẽ được máy hút ẩm thu thập, tái chế để làm nước tưới. Mô hình này cũng có những nhược điểm như chi phí đầu tư xây dựng ban đầu rất tốn kém và hiệu quả kinh tế của mô hình cần phải có thời gian để tạo dựng, chi phí bỏ ra cho các nông trại loại này vượt quá giá trị các sản phẩm nông nghiệp chúng làm ra. Đối với những cây trồng cần thụ phấn thì quá trình thụ phấn sẽ rất khó khăn hoặc tốn kém, việc sử dụng côn trùng như ong để thụ phấn cho những trang trại trong nhà kính và nó rất khó khăn trong việc duy trì đàn ong. Chi phí cho lao động cao hơn vì cần những công nhân được đào tạo bài bản, có hiểu biết về công nghệ, do sự phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ, và công nghệ phụ thuộc nhiều vào sự tiến bộ của khoa học như hiệu quả sử dụng năng lượng của các đèn LED ánh sáng đơn sắc cao nhất hiện này tầm 40% tức là 60% năng lượng vẫn chưa có hiệu quả, giá thành của thiết bị đèn LED phụ thuộc nhiều vào ngành vật liệu, chi phí cho các sensor còn cao. Khi trồng cây trong nhà, điện là rất quan trọng nếu mất điện trong thời gian kéo dài thì toàn bộ cây trồng có thể chết.
Ghép cành hay ghép cây ("Grafting") là một kỹ thuật làm vườn theo đó các mô của cây trồng được ráp nối với nhau để tiếp tục phát triển cùng nhau. Phần trên của cây kết hợp được gọi là "cành ghép" trong khi phần dưới được gọi là cùi ghép. Sự thành công của sự kết hợp này đòi hỏi các mô mạch phải phát triển cùng nhau và sự kết hợp như vậy được gọi là cấy ghép. Kỹ thuật này được sử dụng phổ biến nhất trong việc nhân giống vô tính các loại cây được trồng thương mại cho các ngành nghề làm vườn và nông nghiệp. Kỹ thuật này thông dụng là gắn một cành ghép, hoặc một vết cắt (mắt ghép) mong muốn vào thân của một loại cây khác được gọi là gốc ghép (gốc ghép vẫn sống bình thường trong đất). Hai hệ thống mô của cành ghép/mắt ghép và gốc ghép sẽ kết nối với nhau tạo thành một cơ thể, chúng sẽ tự sinh sản sinh dưỡng. Ghép cành tạo ra một loại cây có các đặc tính của cả cành ghép và gốc ghép.. Các cây ăn quả thường được ghép cành để bảo toàn đặc tính tốt của cành ghép hoặc tạo ra cây cảnh, ví dụ như xoài, bưởi, cam, phật thủ, hoa giấy. Ghép cây là kỹ thuật kết hợp các phần của hai hoặc nhiều cây khác nhau để chúng phát triển như một cây duy nhất. Gốc ghép được chọn vì bộ rễ của nó, trong khi cành ghép được chọn vì thân, lá, hoa hoặc quả của nó. Để ghép cây thành công, các mô mạch gỗ của gốc ghép và cành ghép phải được tiếp xúc với nhau. Ghép cây thành công chỉ yêu cầu có kết nối mạch gỗ giữa các mô ghép. Nghiên cứu được thực hiện trên hypocotyl của Arabidopsis thaliana cho thấy sự kết nối của phloem diễn ra sau ba ngày ghép ban đầu, trong khi sự kết nối của xylem có thể mất tới bảy ngày. Các mối ghép không mạnh bằng các mối ghép tự nhiên, vì vậy một điểm yếu vật lý thường vẫn xảy ra tại chỗ ghép do chỉ có các mô mới hình thành mới kết nối với nhau. Mô cấu trúc hiện có (hoặc gỗ) của cây gốc không hợp nhất. Ghép cây tự nhiên. Ghép cây tự nhiên xảy ra khi hai cành cây hoặc rễ cây cùng loài tiếp xúc với nhau và hợp nhất với nhau. Quá trình này được gọi là inosculation. Màng vỏ cây có thể bị bong ra khi rễ cây tiếp xúc vật lý với nhau, lộ ra mạch gỗ và cho phép rễ cây ghép lại với nhau. Một nhóm cây có thể chia sẻ nước và khoáng chất thông qua ghép gốc, điều này có lợi cho những cây yếu hơn và cũng có thể tạo thành một khối rễ lớn hơn để thích nghi với khả năng chống cháy và tái sinh như được minh họa bởi cây sồi đen California ("Quercus kelloggii"). Ngoài ra, ghép cây có thể bảo vệ nhóm cây khỏi thiệt hại do gió gây ra do độ ổn định cơ học tăng lên được cung cấp bởi ghép cây. Công dụng khoa học. Ghép cây là kỹ thuật nối hai hoặc nhiều phần của cây lại với nhau để tạo thành một cây hoàn chỉnh. Kỹ thuật này đã được sử dụng từ hàng nghìn năm để tạo ra các giống cây mới với các đặc điểm mong muốn, chẳng hạn như khả năng kháng sâu bệnh, khả năng chống chịu thời tiết khắc nghiệt hoặc năng suất cao. Ghép cây cũng đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu về ra hoa và truyền virus thực vật. Trong nghiên cứu về ra hoa, ghép cây có thể được sử dụng để truyền tín hiệu ra hoa từ cây đã ra hoa cho cây chưa ra hoa. Điều này giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về quá trình ra hoa và phát triển các giống cây mới ra hoa sớm hơn hoặc nở hoa vào những thời điểm cụ thể trong năm. Trong nghiên cứu về truyền virus thực vật, ghép cây có thể được sử dụng để nghiên cứu cách virus lây lan giữa các cây và phát triển các biện pháp kiểm soát virus. Ví dụ, các nhà khoa học có thể ghép cây một cây nhiễm virus với cây khỏe mạnh để xem virus có lây lan sang cây khỏe mạnh hay không. Vân sam trắng có thể được ghép cây thành công bằng cách sử dụng cành ghép dài 8–10 cm trên gốc ghép 4-5 năm tuổi. Gốc ghép nên được trồng trong chậu và trải qua thời gian làm lạnh trước khi ghép. Nienstaedt et al. (1958) đã phát triển một phương pháp ghép cây vân sam trắng ở độ tuổi sinh hạt. Cành ghép được thu thập vào mùa thu và ghép vào gốc ghép trong chậu đã được xử lý ngày dài khác nhau trước khi ghép. Greenwood (1988) đã nghiên cứu các kỹ thuật để tăng tốc độ sinh trưởng của cây ghép vân sam trắng. Các chế độ canh tác bao gồm điều chỉnh độ dài ngày và sử dụng kho lạnh để đáp ứng nhu cầu ướp lạnh. Ghép cây thân thảo. Ghép thường được thực hiện cho các loại cây không có gỗ và rau (cà chua, dưa chuột, cà tím và dưa hấu). Ghép cà chua rất phổ biến ở châu Á và châu Âu, và đang ngày càng phổ biến ở Hoa Kỳ. Ưu điểm chính của việc ghép là đối với gốc ghép kháng bệnh. Các nhà nghiên cứu ở Nhật Bản đã phát triển các quy trình tự động sử dụng robot ghép vào năm 1987. Ống nhựa có thể được sử dụng để ngăn chặn khô héo và hỗ trợ việc chữa lành tại giao diện ghép/mầm ghép. Lịch sử, xã hội và văn hóa. Lưỡi liềm Màu mỡ. Khi con người bắt đầu thuần hóa thực vật và động vật, các kỹ thuật làm vườn có thể nhân giống một cách đáng tin cậy những phẩm chất mong muốn của cây gỗ sống lâu cần được phát triển. Mặc dù ghép cây không được đề cập cụ thể trong Kinh thánh Hebrew, người ta cho rằng văn bản Kinh thánh cổ đại đã gợi ý đến việc ghép cây. Một số học giả tin rằng cụm từ "hạt giống pha trộn" bao gồm cả ghép cây, mặc dù cách giải thích này vẫn còn gây tranh cãi trong giới học giả. Ghép cây cũng được đề cập đến trong Tân ước. Trong Rô-ma 11, bắt đầu từ câu 17, có một cuộc thảo luận về việc ghép cây ô liu hoang dã liên quan đến mối quan hệ giữa người Do Thái và người ngoại bang. Đến năm 500 trước Công nguyên, việc ghép cây đã được thiết lập và thực hành tốt trong khu vực khi Mishna mô tả việc ghép cây là một kỹ thuật phổ biến được sử dụng để trồng nho. Theo một nghiên cứu gần đây, kỹ thuật ghép cây đã được thực hành ở Trung Quốc trước năm 2000 trước Công nguyên. Bằng chứng bổ sung về ghép cây ở Trung Quốc được tìm thấy trong luận thuyết nông nghiệp thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên của Gia Cát Lượng, Qimin Yaoshu (Kỹ năng thiết yếu cho người dân thường). Cuốn sách thảo luận về việc ghép cành lê lên gốc táo dại, táo tàu và lựu (táo nhà chưa được đưa vào Trung Quốc), cũng như ghép hồng. Qimin Yaoshu đề cập đến các văn bản cũ hơn đề cập đến ghép cây, nhưng những tác phẩm đó đã mất. Tuy nhiên, với sự tinh tế của các phương pháp được thảo luận và lịch sử lâu đời của ngành trồng cây ở khu vực này, việc ghép cây hẳn đã được thực hành hàng thế kỷ vào thời điểm này. Hy Lạp và La Mã, và Thời kỳ Hoàng kim Hồi giáo. Người Hy Lạp đã ghép cây từ năm 424 trước Công nguyên. Ghi chép đầu tiên về ghép cây được tìm thấy trong một cuốn sách y học có tên là "On the Nature of the Child". Người ta cho rằng kỹ thuật ghép cây đã có từ hàng thế kỷ trước đó. Người La Mã cũng ghép cây. Năm 160 trước Công nguyên, Marcus Porcius Cato đã viết một cuốn sách có tên là "De Agri Cultura" (Về Nông nghiệp), trong đó mô tả một số phương pháp ghép cây. Các tác giả khác ở La Mã cũng viết về ghép cây, tuy nhiên, những cuốn sách của họ thường có sự kết hợp sai lầm giữa gốc ghép và chồi ghép. Trong thời kỳ Trung cổ ở châu Âu, thế giới Ả Rập đã trải qua một thời kỳ vàng son về khoa học, công nghệ và văn hóa. Việc tạo ra những khu vườn lộng lẫy là một hình thức cạnh tranh phổ biến giữa các nhà lãnh đạo Hồi giáo thời bấy giờ. Vì thế giới Ả Rập nhận được rất nhiều cây cảnh ngoại lai để trang trí những khu vườn này, nên ghép cây đã được sử dụng rất nhiều trong thời kỳ này. Châu Âu và Mỹ. Sau khi Đế chế La Mã sụp đổ, kỹ thuật ghép cây vẫn được sử dụng rộng rãi ở các tu viện ở châu Âu. Đến thời Phục hưng, kỹ thuật này lại trở nên phổ biến rộng rãi nhờ sự phát minh ra máy in. Nhiều tác giả đã xuất bản sách về làm vườn, bao gồm thông tin về ghép cây. Một ví dụ là cuốn sách A New Orchard and Garden: Or, the Best Way for Planting, Graffing, and to Make Any Ground Good for a Rich Orchard, Particularly in the North, được viết bởi William Lawson vào năm 1618. Trong khi ghép cây tiếp tục phát triển ở châu Âu trong thế kỷ 18, thì nó được coi là không cần thiết ở Mỹ vì sản phẩm từ cây ăn quả chủ yếu được dùng để làm rượu táo hoặc cho lợn ăn. Cơn đại dịch rượu vang Pháp. Đầu những năm 1860, các cây nho trên khắp nước Pháp bỗng dưng chết hàng loạt. Các nhà khoa học nhanh chóng xác định thủ phạm là phylloxera, một loại côn trùng gây hại rễ cây nho. Ban đầu, nông dân đã cố gắng tiêu diệt phylloxera bằng cách nhổ bỏ và đốt cháy những cây nho bị ảnh hưởng, nhưng không thành công. Sau đó, các nhà khoa học phát hiện ra rằng phylloxera là một loài xâm lấn từ Bắc Mỹ, và gốc rễ cây nho ở đó có khả năng chống lại loại côn trùng này. Một số người đề nghị nhập khẩu gốc rễ từ Bắc Mỹ, nhưng những người khác lo ngại rằng nó sẽ làm thay đổi hương vị của rượu vang Pháp. Cuối cùng, người Pháp đã tìm ra giải pháp là ghép nho Pháp vào gốc rễ của Bắc Mỹ. Cơn đại dịch phylloxera đã gây ra thiệt hại nặng nề cho ngành công nghiệp rượu vang Pháp, nhưng nhờ những nỗ lực của các nhà khoa học và nông dân, ngành công nghiệp này đã phục hồi và hiện Pháp là một trong những nước sản xuất rượu vang hàng đầu thế giới.
Nhắn gửi tất cả các em, những người tôi đã yêu Nhắn gửi tất cả các em, những người tôi đã yêu (僕が愛したすべての君へ, Boku ga Aishita Subete no Kimi e) là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng lãng mạn Nhật Bản được viết bởi Yomoji Otono và phát hành bởi Hayakawa Publishing vào ngày 23 tháng 6 năm 2016. Một anime điện ảnh được Bakken Record chuyển thể công chiếu ở Nhật vào ngày 7 tháng 10 năm 2022. Cuốn tiểu thuyết thứ hai tựa đề Nhắn gửi một tôi, người đã yêu em (君を愛したひとりの僕へ, Kimi o Aishita Hitori no Boku e, "To The Solitary Me That Loved You"), cũng được viết bởi Yomoji Otono, được phát hành bởi Hayakawa Publishing vào cùng ngày. Anime điện ảnh "Nhắn gửi một tôi, người đã yêu em" do TMS Entertainment chuyển thể cũng công chiếu vào ngày 7 tháng 10 năm 2022. Cuốn thứ ba của bộ tiểu thuyết tiêu đề 僕が君の名前を呼ぶから ("Boku ga Kimi no Namae o Yobukara"), cũng được viết bởi Yomoji Otono được xuất bản bởi Hayakawa Publishing vào ngày 10 tháng 8 năm 2022. Phương tiện truyền thông. Tại Việt Nam, hai cuốn tiểu thuyết được Nhà xuất bản Hà Nội và Nhã Nam xuất bản vào ngày 20 tháng 7 năm 2020. Anime điện ảnh chuyển thể của "Nhắn gửi tất cả các em, những người tôi đã yêu" và anime điện ảnh chuyển thể của "Nhắn gửi một tôi, người đã yêu em" được thông báo vào 16 tháng 9 năm 2021. Phim "Nhắn gửi tất cả các em, những người tôi đã yêu" được sản xuất bởi Bakken Record và do Jun Matsumoto làm đạo diễn, phim "Nhắn gửi một tôi, người đã yêu em" được sản xuất bởi TMS Entertainment và do Ken'ichi Kasai làm đạo diễn. Riko Sakaguchi chấm bút kịch bản cho hai phim, shimano được giới thiệu là thiết kế nhân vật cho hai phim, và Takashi Ohmama sáng tác nhạc cho hai phim. Bài hát chủ đề cho "Nhắn gửi tất cả các em, những người tôi đã yêu" là "Kumo o Kō" do Keina Suda thể hiện, bài hát chủ đề cho "Nhắn gửi một tôi, người đã yêu em" là "Shion" do Saucy Dog thể hiện. Hai phim được công chiếu vào ngày 7 tháng 10 năm 2022. Hai phim được phát hành và công chiếu tại Việt Nam vào ngày 10 tháng 2 năm 2023 với lời giới thiệu "Dù là em ở thể giới nào, tôi nhất định sẽ yêu em lần nữa", "Kết thúc của chuyện tình này dựa vào thứ tự bạn chọn khi bắt đầu". Tiểu thuyết đã được tiêu thụ 240.000 bản in.
Pristipomoides zonatus là một loài cá biển thuộc chi "Pristipomoides" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830. Tính từ định danh "zonatus" trong tiếng Latinh mang nghĩa là "có dải sọc", hàm ý đề cập đến các dải sọc vàng ở hai bên thân của loài này. Phạm vi phân bố và môi trường sống. "P. zonatus" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii, quần đảo Marquises và đảo Tahiti, giới hạn phía bắc đến Nam Nhật Bản, phía nam đến Úc và đảo Lord Howe. Những cá thể lang thang đã được ghi nhận tại quần đảo Galápagos ở Đông Thái Bình Dương. "P. zonatus" sống tập trung trên các rạn san hô ở độ sâu khoảng từ 70 đến ít nhất là 300 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "P. zonatus" là 57,5 cm, nhưng phổ biến hơn với chiều dài khoảng 35 cm. Cá có màu hồng đỏ với các dải sọc vàng ở hai bên thân. Vây lưng và vây đuôi màu vàng, các vây khác màu hồng như thân. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 63–67. "P. zonatus" là những loài cá nhỏ, động vật giáp xác và động vật thân mềm. Tuổi thọ cao nhất được ghi nhận ở loài này là 30 năm. "P. zonatus" là loại cá thực phẩm được đánh giá là có thịt ngon. Đây là một trong những loài chính yếu trong nghề đánh bắt xa bờ ở Hawaii.
Hecuba (; còn gọi là Hecabe; , ]) là một hoàng hậu trong thần thoại Hy Lạp, vợ của vua Priam thành Troy trong chiến tranh thành Troy. Các nguồn cổ đại đề cập về cha mẹ của Hecuba không giống nhau. Theo Homer, Hecuba là con gái của vua Dymas thành Phrygia, nhưng Euripides và Virgil thì viết rằng bà là con gái của vua Cisseus thành Thrace. Nhà viết thần thoại Pseudo-Apollodorus lại đưa ra thêm thông tin: Cha mẹ của Hecuba có thể là thần sông Sangarius và Metope. Theo Suetonius, trong "Tiểu sử 12 hoàng đế", hoàng đế Tiberius hay hỏi các nhà thông thái những câu hỏi khó về thần thoại cổ đại. Một trong những câu ông thích hỏi là: "Ai là mẹ của Hecuba?" Hecuba có tất cả 19 người con. Một vài người trong số đó là các nhân vật chính trong "Iliad" của Homer, như chiến binh Hector, Paris, nữ tiên tri Cassandra. Hai người con Hector và Troilus được đề cập rằng họ sinh ra bởi mối quan hệ của Hecuba với thần Apollo, do vậy Apollo là cha ruột của họ. Những người con khác của Hecuba sinh ra với vua Priam là Helenus, Deiphobus, Laodice, Polyxena, Creusa, Polydorus, Polites, Antiphus, Pammon, Hipponous và Iliona. Hecuba trong các tác phẩm cổ đại khác. Pseudo-Apollodorus đề cập trong "Bibliotheca" rằng Hecuba có một người con trai tên là Troilus với vị thần Apollo. Một nhà tiên tri đã dự báo thành Troy sẽ không bị thất thủ nếu Troilus còn sống đến 20 tuổi. Troilus bị Achilles giết. Hecuba còn là nhân vật chính trong hai vở kịch của Euripides: "Những người phụ nữ thành Troy" và "Hecuba". "Những người phụ nữ thành Troy" nói về hậu quả sau việc thành Troy bị thất thủ, bao gồm cả việc Hecuba bị Odysseus bắt làm nô lệ. Nội dung trong vở kịch "Hecuba" cũng diễn ra ngay sau sự kiện đó. Polydorus, con trai út của Priam và Hecuba được gửi đến cho vua Polymestor để được bảo vệ an toàn khỏi cuộc chiến tranh. Nhưng khi thành Troy bị thất thủ, Polymestor đã giết Polydorus. Hecuba biết được điều này, và khi Polymestor đến thành Troy, Hecuba đã dùng thủ đoạn để làm mù mắt ông và giết chết hai người con trai của ông. Một câu chuyện khác kể rằng khi bà bị Odysseus bắt đi làm nô lệ, bà đã gầm gừ và nguyền rủa ông. Vì thế, các vị thần đã biến bà thành một con chó, cho phép bà được chạy trốn.
Hiện tượng quan sát thấy UFO ở Thái Lan Hiện tượng quan sát thấy UFO ở Thái Lan đã được ghi nhận từ đầu thế kỷ 14. Hiện tượng quan sát thấy UFO từng được ghi lại trong biên niên sử Thái Lan có tiêu đề "Traibhumikatha: câu chuyện về ba mặt phẳng tồn tại" "Chak Kaeo" (; "Crystal Chakram") dưới thời trị vì của Vua Lithai (พญาลิไท; 1347–1368) của Vương quốc Sukhothai. UFO được xác định là "vũ khí bay" giúp vua Sukhothai chiến thắng trong trận chiến. Tiến sĩ Debhanom Muangman, cựu trưởng khoa Y tế Công cộng, Đại học Mahidol và là cựu sinh viên Đại học Harvard, tuyên bố có mối liên hệ với người ngoài hành tinh sau khi một thực thể thuộc chủng “Xám” bước chân vào phòng ngủ của ông ở Si Yan, Bangkok. Vào thập niên 1950, ông sang Mỹ du học và cho biết chính mắt mình đã nhìn thấy đĩa bay trên bầu trời New Hampshire. Ông tiếp tục nghiên cứu các hiện tượng huyền bí, bao gồm ma quỷ, linh hồn, trải nghiệm tâm linh và tái sinh. Ông hiện là chủ tịch của Hiệp hội Nghiên cứu Tâm lý học Thái Lan (สมาคมค้นคว้าทางจิตแห่งประเทศไทย). Ông tuyên bố rằng ở kiếp trước mình từng sinh ra trên Sao Hỏa và được đặt tên là "Peerati". Thông qua việc tiếp xúc với người ngoài hành tinh bằng thần giao cách cảm thông qua thiền định, ông kể lại rằng những người ngoài hành tinh thân thiện với ông được đặt tên là "Eddie", một người thuộc Sao Diêm Vương và "Parasital", một người Sao Hỏa. Ngoài ra, có một nhóm ở tỉnh Nakhon Sawan tự gọi mình là "Nhóm Khao Kala" (กลุ่มเขากะลา). Khao Kala là ngọn núi thấp ở khu vực Ban Pu Ta Ching, tiểu khu Phra Non, huyện Mueang Nakhon Sawan, tọa lạc tại tiểu khu Khao Kala thuộc huyện Phayuha Khiri. Họ tin rằng nơi này là cánh cổng không gian. Nhóm này được Thượng sĩ Cherd Chuensamnaun (จ่าสิบเอก เชิด ชื่นสำนวน), một quân nhân về hưu tập hợp vào đầu tháng 12 năm 1997. Ông tuyên bố đã tiếp xúc với người ngoài hành tinh thông qua thiền định, nhưng ông qua đời vào năm 2000. Các con gái của ông vẫn tiếp tục công việc của cha mình, dẫn đầu là Somjit Raepeth (สมจิตร แร่เพชร), con gái lớn của Chuensamnaun. Họ đã liên hệ với Tiến sĩ Muangman trong cuộc hội thảo lần thứ 2 của Hiệp hội Nghiên cứu Tâm lý học Thái Lan được tổ chức tại Đại học Ramkhamhaeng vào giữa tháng 12 năm 1997. Các cuộc hội thảo này đều được tổ chức hàng năm kể từ năm 1996 và khẳng định là họ đã liên lạc định kỳ với UFO hoặc người ngoài hành tinh, chẳng hạn như liên lạc với UFO xuất hiện trên bầu trời tỉnh Sing Buri vào ngày 3 tháng 1 năm 1998 trước cặp mắt quan sát của hàng nghìn người. Về phần bà Raepeth, trước đây bà đã từng làm y tá. Ban đầu, bà không tin vào UFO hay người ngoài hành tinh. Nhưng bà đã thay đổi thái độ sau khi cho biết mình từng nhìn thấy một UFO bay lơ lửng trên nhà mình, như cha bà đã chỉ ra trước đó. Sau đó, bà bỏ nghề y tá để chuyên tâm vào công việc đặc biệt này. Kể từ đó, họ đã sử dụng Khao Kala như một trung tâm nhằm tiếp xúc với người ngoài hành tinh thông qua thiền định hoặc thực hành pháp theo phong cách Phật giáo. Có nhiều người tham gia hoạt động này gồm cả người dân địa phương và người ngoài. Do đó, nơi này nổi tiếng là điểm quan sát thấy UFO của Thái Lan hay Khu vực 51 của Thái Lan. Đầu năm 2016, có bản tin gây tiếng vang trong dư luận nước này. Hội thảo này được tổ chức vào ngày 20 và liên quan đến việc tiếp xúc với người ngoài hành tinh qua điện thoại di động của Tiến sĩ Muangman. lời nói giao tiếp hiện ra như giọng nói của một người phụ nữ nói thứ ngôn ngữ không ai hiểu nổi. Giọng nói của một người phụ nữ khác, mà Tiến sĩ Muangman khẳng định là giọng nói của người ngoài hành tinh, đang đóng vai trò thông dịch viên và phiên dịch viên trong nhóm người ngoài hành tinh. Vấn đề này đã trở thành một vấn đề gây tranh cãi trong xã hội Thái Lan. Nhiều người tỏ ra hoài nghi và ngờ vực vụ việc. Vào giữa tháng 8 năm 2019, một bản tin cho biết đã nhận được một tin nhắn tại Trung tâm Thiền Khao Kala, Khao Kala, đến từ cư dân trên Sao Diêm Vương. Tin tức này đã gây ra sự chỉ trích rộng rãi là không đáng tin cậy và nhiều người tin rằng đó là một trò lừa đảo, ngay cả chính Tiến sĩ Muangman. Người dẫn kênh tuyên bố rằng cư dân Sao Diêm Vương đã truyền tải một thông điệp cảnh báo về một thảm họa trong tương lai gần. Câu chuyện này rẽ sang một hướng mới khi hàng chục cảnh sát và kiểm lâm xông vào núi Khao Kala để xác định liệu Trung tâm Thiền Khao Kala, do một nhóm tín đồ UFO điều hành, có đang lấn chiếm khu vực rừng hay không. Cảnh sát cũng đưa ra lệnh triệu tập Charoen Raepeth (เจริญ แร่เพชร), chồng của Somjit Raepeth và là chủ đất của trung tâm thiền định này. Người đứng đầu tiểu khu Khao Kala, nói rằng hầu hết những người sống trong khu vực này đều không phải là tín đồ UFO hay người ngoài hành tinh, và hầu hết những người theo dõi đều đến từ bên ngoài thị trấn. Theo ý kiến của Komkrit Uitekkeng, một nhà thần học của Đại học Silpakorn, vấn đề này là sự pha trộn giữa niềm tin vào hồn ma, thần thánh, người ngoài hành tinh và Phật giáo.
Hiện tượng quan sát thấy UFO ở Ba Lan Đây là danh sách những trường hợp được cho là đã nhìn thấy vật thể bay không xác định hoặc UFO ở Ba Lan. Ngày 10 tháng 5 năm 1978, Emilcin. Một nông dân ở Emilcin được cho là đã bị những thực thể hình người thấp bé, mặt xanh lá cây, nói một ngôn ngữ phi thường trong một chiếc máy bay màu trắng, lơ lửng và phát tiếng kêu vo ve bắt cóc và kiểm tra y tế. Hiện tại có một đài tưởng niệm tại địa điểm này. Ngày 19 tháng 1 năm 2009, Jarnołtówek. Vào 1 giờ sáng, Adam Maksymów ở làng Jarnołtówek gần Prudnik ra ngoài để sạc pin chiếc ô tô của mình. Anh ta bị gián đoạn bởi một tiếng động mà anh ta ví như tiếng tên lửa nổ tung. Sau đó, anh ta chợt nghe thấy một âm thanh vo ve mà anh ta so sánh với âm thanh của một đàn ong. Anh ta nhìn thấy một luồng sáng chói mắt và một chiếc đĩa khổng lồ với chùm sáng màu xanh phát sáng hình tam giác ở dưới bụng của nó bay lên khỏi mặt đất và bay lên bầu trời đêm với tốc độ không thể tin được. Những cư dân khác của làng Jarnołtówek cũng cho biết đã nhìn thấy vật thể này.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Al-Hamadaniah Sports Arena () là một nhà thi đấu thể thao ở Aleppo, Syria. Với sức chứa 7.964 chỗ ngồi, đây là nhà thi đấu lớn nhất ở Syria. Nhà thi đấu được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng rổ, bóng ném và bóng chuyền. Al-Hamadaniah Sports Arena là một phần của Thành phố Thể thao Al-Hamadaniah. Bên cạnh nhà thi đấu có bốn nhà thi đấu thể thao phụ dùng để tập luyện. Mặt sân của nhà thi đấu có chiều dài 60 m và chiều rộng 25 m.
Cờ góc tam giác trong bóng đá Anh Việc sử dụng cờ góc tam giác trong bóng đá Anh là chuyện thường xuyên dựa trên thành tích truyền thống. Truyền thống cho rằng chỉ những câu lạc bộ vô địch FA Cup mới có quyền sử dụng cờ góc tam giác thay vì cờ hình vuông thông thường. Tuy nhiên, truyền thống này không có cơ sở trong các quy định của Hiệp hội Bóng đá (FA) và các câu lạc bộ được tự do quyết định hình dạng lá cờ mà họ sử dụng. Chưa ai hiểu rõ về nguồn gốc của truyền thống này, tuy vậy có thể giải thích rằng Cardiff City sau khi giành chiến thắng trong trận Chung kết FA Cup 1927 đã sử dụng cờ góc tam giác để kỷ niệm chiến thắng cũng như nhắc nhở đối thủ trong trận derby South Wales của họ là đội Swansea City về chuyện này. Kể từ đó, nó đã trở thành một truyền thống được chấp nhận rằng chỉ những người vô địch FA Cup mới được quyền sử dụng cờ góc tam giác. Giả thuyết này từng được phổ biến rộng rãi trong bộ phim "Twin Town" năm 1997. Trong khi một số câu lạc bộ giành cúp FA bao gồm Arsenal và Aston Villa sử dụng cờ góc tam giác, một số chẳng hạn như Liverpool thì không. Một số câu lạc bộ chưa bao giờ vô địch FA Cup sử dụng cờ góc tam giác, chẳng hạn như AFC Wimbledon mặc dù họ coi mình là người kế thừa truyền thống này của Wimbledon. Truyền thống này không có cơ sở pháp lý trong các quy định của FA. Thật vậy, hầu hết các câu lạc bộ thậm chí không đưa ra lệnh bắt đầu sử dụng cờ tam giác vì nó thường được giao cho những người trông coi sân cỏ của câu lạc bộ đưa ra quyết định. Cựu trọng tài người Anh David Elleray với tư cách là giám đốc kỹ thuật của Hội đồng Hiệp hội Bóng đá Quốc tế đã tuyên bố rằng có quyền tự do liên quan đến cách các câu lạc bộ chọn cờ phạt góc của họ. Tuy nhiên, các tờ báo đã khẳng định một cách sai lầm rằng cờ góc tam giác chỉ dành cho đội vô địch FA Cup. Tương tự như vậy, đó là một câu hỏi phổ biến trong các câu đố ở quán rượu khẳng định sai truyền thống này là đúng.
Thuốc nhuộm chỉ thị nước tiểu Thuốc nhuộm chỉ thị nước tiểu là một chất giả định được cho là có thể phản ứng với nước tiểu nhằm tạo thành một đám mây màu trong hồ bơi hoặc bồn tắm nước nóng, do đó cho biết vị trí của những người đang đi tiểu khi họ ở dưới nước. Một báo cáo năm 2015 của Tổ chức Hồ bơi Quốc gia gọi đây là "câu chuyện huyễn tưởng về hồ bơi phổ biến nhất mọi thời đại", với gần một nửa số người Mỹ được các nhà nghiên cứu khảo sát tin rằng loại thuốc nhuộm này có tồn tại. Nước tiểu rất khó phát hiện vì nhiều hợp chất tự nhiên có trong nước tiểu không ổn định và phản ứng tự do với các chất khử trùng thông thường, chẳng hạn như chlor, tạo ra một số lượng lớn các hợp chất sản phẩm phụ khử trùng (DBP) từ các hóa chất hữu cơ ban đầu trong nước tiểu. Tin đồn về nguồn gốc của thuốc nhuộm chỉ thị nước tiểu ít nhất đã có từ năm 1958, và câu chuyện này thường được các bậc cha mẹ kể cho trẻ nghe vì họ không muốn chúng đi tiểu trong hồ bơi. Cuốn tiểu sử năm 1985 của Orson Welles mô tả ông từng sử dụng loại thuốc nhuộm này như một phần của một trò chơi khăm vào năm 1937.
Tổng cục Du lịch Quốc gia Lào Tổng cục Du lịch Quốc gia Lào (LNTA) là cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm quản lý, thúc đẩy và phát triển ngành du lịch của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. LNTA được xem là cơ quan ngang bộ, chỉ báo cáo trực tiếp với văn phòng thủ tướng. Tính đến năm 2008, chủ tịch của LNTA là Somphong Mongkhonvilay. Trụ sở chính của LNTA ở Viêng Chăn.
Tham nhũng ở Bắc Triều Tiên Tham nhũng ở Bắc Triều Tiên là vấn đề phổ biến và ngày càng gia tăng trong xã hội nước này. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên được xếp hạng 174 trong số 180 quốc gia trong Chỉ số Nhận thức Tham nhũng năm 2021 của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (đồng hạng với Yemen và Afghanistan). 180 quốc gia trong chỉ số này đều được xếp hạng dựa theo mức độ tham nhũng thấy rõ trong khu vực công; quốc gia có khu vực công bị cho là tham nhũng nhiều nhất xếp thứ 180. Những quy định nghiêm ngặt và hình phạt hà khắc do chế độ áp đặt, chẳng hạn như cấm tiếp cận phương tiện truyền thông nước ngoài hoặc sửa đổi máy thu thanh hoặc truyền hình hòng tiếp cận truyền thông nước ngoài, thường bị né tránh bằng cách đưa hối lộ cho cảnh sát. Việc mật báo về đồng nghiệp và các thành viên trong gia đình đã trở nên ít phổ biến hơn. Truyền thông nhà nước Bắc Triều Tiên từng thừa nhận nạn tham nhũng tràn lan ở nước này khi đưa ra những lời buộc tội chống lại Jang Song-thaek sau khi ông này bị hành quyết vào tháng 12 năm 2013. Lời tuyên bố có đề cập đến nạn hối lộ, làm sai lệch tài liệu, buôn bán tài nguyên và đất đai, đảm bảo tài chính và phung phí tiền bạc cho mục đích cá nhân của các tổ chức nằm dưới quyền kiểm soát của Jang Song-thaek.
Nghèo đói ở Bắc Triều Tiên Nghèo đói ở Bắc Triều Tiên rất lớn, mặc dù khó có số liệu thống kê xác thực do thiếu nghiên cứu đáng tin cậy, kiểm duyệt tràn lan và thao túng truyền thông rộng lớn ở nước này. Tình trạng nghèo đói ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thường được giới truyền thông phương Tây lặp đi lặp lại nhiều lần với phần lớn đề cập đến nạn đói đã ảnh hưởng đến đất nước vào giữa thập niên 1990. Một báo cáo năm 2006 cho thấy rằng Bắc Triều Tiên cần khoảng 5,3 triệu tấn ngũ cốc mỗi năm trong khi chỉ thu hoạch được khoảng 4,5 triệu tấn, và do đó phải dựa vào viện trợ nước ngoài để khắc phục tình trạng thâm hụt. Nạn đói tiếp tục là một vấn đề mang tính hệ thống. Năm 2021, đã có báo cáo về nạn đói lan rộng ở nước này. Bắc Triều Tiên sở hữu cả một nền kinh tế chỉ huy vốn là điều khá phổ biến ở các quốc gia cộng sản. Chính phủ kiểm soát hoàn toàn mọi hoạt động trao đổi tiền tệ, khiến nền kinh tế vẫn trì trệ do thiếu sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Nghèo đói ở Bắc Triều Tiên cũng được cho là do sự quản lý yếu kém của chế độ toàn trị. Có nghiên cứu ước tính rằng 60% tổng dân số Bắc Triều Tiên sống dưới mức nghèo khổ vào năm 2020.
UEFA Europa League 2023–24 UEFA Europa League 2023–24 là mùa giải thứ 53 của giải đấu bóng đá cấp câu lạc bộ hạng hai của châu Âu do UEFA tổ chức và là mùa giải thứ 15 kể từ khi giải được đổi tên từ Cúp UEFA thành UEFA Europa League. Trận chung kết sẽ được diễn ra tại Sân vận động Aviva ở Dublin, Cộng hòa Ireland. Đội vô địch của giải sẽ tự động lọt vào vòng bảng UEFA Champions League 2024-25 và cũng giành quyền thi đấu với đội vô địch của UEFA Champions League 2023-24 trong trận Siêu cúp châu Âu 2024. Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức hiện tại gồm 32 đội tham dự tại vòng bảng sau khi UEFA công bố thể thức hoàn toàn mới được giới thiệu cho mùa giải sau. Phân bố đội của hiệp hội. Tổng cộng có 58 đội từ 31 đến 36 trong số 55 hiệp hội thành viên UEFA dự kiến tham dự ở UEFA Europa League 2023–24. Trong số đó, 15 hiệp hội có các đội lọt vào Europa League trực tiếp, trong khi đối với 40 hiệp hội còn lại mà không có đội nào lọt vào trực tiếp, từ 15 đến 20 hiệp hội trong số đó có thể có các đội thi đấu sau khi được chuyển qua từ Champions League (hiệp hội thành viên duy nhất không thể có đội tham dự là Liechtenstein do không tổ chức giải vô địch quốc gia và chỉ có đội vô địch cúp quốc gia tham dự vào Europa Conference League dựa trên thứ hạng hiệp hội của họ). Thứ hạng hiệp hội dựa trên hệ số hiệp hội UEFA được sử dụng để xác định số đội tham dự cho mỗi hiệp hội: Thứ hạng hiệp hội. Đối với UEFA Europa League 2023–24, các hiệp hội được phân bố vị trí dựa theo hệ số hiệp hội UEFA năm 2022, tính đến thành tích của họ ở các giải đấu châu Âu từ mùa giải 2017-18 đến 2021-22. Ngoài việc phân bố dựa trên hệ số hiệp hội, các hiệp hội có thể có thêm đội tham dự Europa League, như được ghi chú dưới đây: Lịch thi đấu của giải đấu như sau. Các trận đấu được lên lịch vào Thứ Năm, ngoại trừ trận chung kết diễn ra vào Thứ Tư, cho dù có thể diễn ra vào Thứ Ba hoặc Thứ Tư do mâu thuẫn lịch thi đấu. Lễ bốc thăm cho vòng bảng được tổ chức vào ngày 1 tháng 9 năm 2023, lúc 13:00 CEST, ở Monaco. 32 đội được bốc thăm vào tám bảng gồm 4 đội. Đối với lễ bốc thăm, các đội được xếp vào bốn nhóm hạt giống, mỗi nhóm gồm 8 đội dựa trên hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023. Với tư cách là đội vô địch của UEFA Europa Conference League 2022–23, West Ham United vào Nhóm 1 bất kể hệ số câu lạc bộ (CC) của họ. Các đội từ cùng hiệp hội không thể được bốc thăm vào cùng bảng. Aris Limassol, Brighton Hove Albion, BK Häcken, Raków Częstochowa, Servette và TSC có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Tất cả 6 câu lạc bộ cũng có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Hơn nữa, Brighton giành quyền tham dự bóng đá châu Âu lần đầu tiên trong lịch sử của họ. Có tổng cộng 21 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng. Thống kê không tính đến vòng loại và vòng play-off. "Tính đến ngày 14 tháng 12 năm 2023."
Chung kết UEFA Europa League 2024 Trận chung kết UEFA Europa League 2024 sẽ là trận đấu cuối cùng của UEFA Europa League 2023-24, mùa giải thứ 53 của giải đấu bóng đá cấp câu lạc bộ hạng hai của châu Âu do UEFA tổ chức và là mùa giải thứ 15 kể từ khi giải được đổi tên từ Cúp UEFA thành UEFA Europa League. Trận đấu sẽ được diễn ra tại Sân vận động Aviva ở Dublin, Cộng hòa Ireland vào ngày 22 tháng 5 năm 2024. Đội vô địch sẽ giành quyền thi đấu với đội vô địch của UEFA Champions League 2023-24 trong trận Siêu cúp châu Âu 2024 Lựa chọn địa điểm tổ chức. Vào ngày 16 tháng 7 năm 2021, Ủy ban điều hành UEFA thông báo rằng do việc rút quyền đăng cai UEFA Euro 2020, Sân vận động Aviva ở Dublin đã được trao quyền đăng cai cho trận chung kết năm 2024. Đây là một phần trong thỏa thuận dàn xếp của UEFA nhằm ghi nhận những nỗ lực và đầu tư tài chính được thực hiện để đăng cai UEFA Euro 2020. Thông tin trận đấu. Đội "nhà" (vì mục đích hành chính) được xác định bằng một lượt bốc thăm bổ sung được tổ chức sau khi bốc thăm tứ kết và bán kết.
Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Dân chủ Đức (1950–1954) Tại phiên họp khai mạc Volkskammer (Đại hội Nhân dân Đức) vào ngày 8 tháng 11 năm 1950, Otto Grotewohl được bầu làm Thủ tướng. Đồng thời, Luật về Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức được thông qua, tạo ra một cấu trúc mới. Grotewohl đã trình bày chính phủ của mình tại phiên họp thứ 2 Volkskammer vào ngày 15 tháng 11 năm 1950. Chính phủ bao gồm 4 quốc vụ khanh với nhiệm vụ riêng (Staatssekretäre mit eigenem Geschäftsbereich), các bộ trưởng được thành lập theo nghị quyết tại phiên họp chính phủ thứ nhất, diễn ra trước phiên họp thứ 2 Volkskammer. Tại phiên họp thứ 2 chính phủ, được tổ chức vào ngày 16 tháng 11 năm 1950, các bộ trưởng tương ứng các bộ đã được bổ nhiệm theo nghị quyết. Trong số 21 bộ trưởng (Ministern) và gần 30 quốc vụ khanh (Staatssekretär) có 13 ứng viên dự khuyết và ủy viên Trung ương Đảng SED (Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức), trong đó có 4 ủy viên Bộ Chính trị. Các đảng trong khối được đại diện tổng cộng 9 bộ trưởng và 8 quốc vụ khanh, riêng CDU (Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo) có 4 bộ trưởng. DBD (Đảng Nông dân Dân chủ Đức) là đảng duy nhất không có phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng vào thời kỳ đầu của chính phủ. Luật chính phủ Cộng hòa Dân chủ Đức ngày 8 tháng 11 năm 1950 (GDR Gazette số 1135) trao quyền cho chính phủ theo Điều 5 để thành lập các Quốc vụ khanh phụ trách nhiệm vụ riêng. Các Quốc vụ khanh phụ trách nhiệm vụ riêng được phép tham gia biểu quyết trong các cuộc họp Chính phủ.
Vladimir Aleksandrovich Gusinsky (tiếng Nga: "Владимир Александрович Гусинский", sinh ngày 06 tháng 10 năm 1952) là một ông trùm truyền thông Nga. Ông thành lập công ty cổ phần Media-Most bao gồm kênh phát sóng tự do NTV (Nga) và tờ báo Segodnya, đài phát thanh Tiếng vọng Moskva và một số tạp chí khác. Gusinsky sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Moscow. Năm 1969, Gusinsky đăng ký vào Học viện Dầu khí Gubkin, tuy nhiên, ông đã không tốt nghiệp. Ông là đối thủ chính trị quan trọng của V.Putin trong cuộc chiến củng cố quyền lực. Công ty cổ phần truyền thông "Đại kiều" do ông trùm Gusinski đứng đầu đã kiểm soát phần lớn cổ phần trong các đài truyền hình và báo chí quan trọng ở Nga. Cụm từ ""Ông trùm tài phiệt" có thêm trong từ điển thường dùng ở Nga chính là xuất hiện cùng với sự phất lên của những con người như Gusinski. Sau khi hai ông chủ truyền thông Gusinski và Boris Berezovsky cùng nhau giúp đỡ Yeltsin trúng cử tổng thống liên tiếp hai nhiệm kỳ và họ đã trở thành hạt nhân của chính quyền. Cuối năm 1997 đến đầu năm 1998, các ông trùm tài chính bắt đầu cuộc đại chiến truyền thông xung quanh việc mua cổ phần công ty thông tin. Gusinski nhờ sự trợ giúp của tư bản phương Tây đã lập ra công ty thông tin, truyền hình hiện đại, cự tuyệt mọi điều đình của chính phủ và bắt đầu cuộc chiến đầy cam go với các ông trùm khác. Gusinski là con cháu của người Do thái, có đầu óc linh hoạt, Gusinski được ví với từ "Tiếng sấm lừng lẫy". Trước 30 tuổi, ông là một đạo diễn có tiếng. Năm 1986, khi Gorbachov lên nắm quyền, lúc đó ông ta mới 34 tuổi nhưng những biến động của xã hội đã đem lại nhiều cơ hội buôn bán, Gusinski nhanh chóng gây dựng nên sự nghiệp. Đầu tiên, ông làm cai thầu xây dựng, sửa chữa các công trình kiến trúc, sau đó làm tư vấn pháp luật về tiền tệ và phân tích chính trị. Năm 1989, Ngân hàng Nga từng bước thương mại hóa, ông chọn đúng thời cơ, lập nên ngân hàng thương mại Bridge số một ở Moscow. Trong quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước, thực lực của các ngân hàng không ngừng được mở rộng. Tài sản cá nhân của Gusinski lúc này lên tới 400 triệu đô la. Năm 1993, Gusinski bước vào ngành truyền thông và là người tiên phong trong cuộc cạnh tranh trong ngành này. Ông tự bỏ vốn lập ra một kênh mới trên đài truyền hình độc lập ở Nga, sau này đã bán 77% cổ phần. Ông ta cũng nắm giữ các báo lớn có ảnh hưởng ở Nga như "Báo ngày nay", "Báo thứ bảy", ngoài ra còn mua tiếp "Đài tiếng nói Moscow", hợp tác với tạp chí Tin tức của Mỹ cho ra đời "Tuần báo Tổng kết". Ông ta còn đặt ra mục tiêu phấn đấu là thành lập "Tập đoàn truyền thông Murdoch và Time Warner". Chỉ vài tuần sau khi Putin lên nắm quyền, ông đã tiến hành "khai đao"" ông trùm tài phiệt Vladimir Gusinski - một trong bảy tập đoàn truyền thông lớn ở Nga và sau đó, Gusinsky đã bị bắt với nhiều cáo trạng.
Boris Abramovich Berezovsky (tiếng Nga: "Борис Абрамович Березовский"; sinh ngày 23 tháng 1 năm 1946 – mất ngày 23 tháng 3 năm 2013) còn được biết đến với tên gọi Platon Elenin là một trùm tài phiệt Nga (Đại gia đầu sỏ) đồng thời là quan chức chính phủ, kỹ sư và nhà toán học và là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nga. Berezovsky phất lên ở Nga vào những năm 1990, khi nước này thực hiện tư hữu hóa tài sản nhà nước. Từ năm 1994 đến năm 1995, Boris Berezovsky giữ chức chủ tịch hội đồng quản trị công ty tiêu thụ xe hơi và lợi dụng chức vụ của mình, ông cùng đồng bọn buôn lậu 7.033 chiếc xe hơi hãng Lada, thu món lợi kếch xù lên tới 600 triệu rúp (tương đương với 2 tỷ đô la). Với khối tài sản và ảnh hưởng của mình, ônng trở thành nhân vật làm mưa làm gió trong chính trường Nga, nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ Paul Khlenikov gọi ông là "Cha cố điện Kremly". Sau khi V.Putin lên nắm chính quyền, Berezovsky là đối thủ chính trị của V.Putin, ông đã sử dụng công cụ truyền thông trong tay, ra sức công kích chính phủ Putin, tuyên truyền, đả kích những vấn đề lớn của Putin về Chechnya, về thể chế liên bang, và phát triển kinh tế. Ông đã công khai công kích làm cho Putin phải khó nhọc đối phó, đặc biệt là vấn đề Chechnya. Boris Berezovsky liên tiếp chi viện kinh tế cho lực lượng vũ trang chống chính phủ ở Chechnya. Sau đó, trước lúc cơ quan kiểm sát chuẩn bị khởi tố, nghe được tin này, Boris Berezovsky vội vã chạy sang nước Anh. Chính phủ Putin vẫn xét xử Boris Berezovsky theo luật pháp Nga và áp dụng biện pháp tích cực để trấn áp ông ta. Tháng 1 năm 2002, kênh truyền hình TV6 của Boris Berezovsky bị buộc ngừng phát sóng.
The Farmer (bài hát) "The Farmer" là đĩa đơn đầu tay của ban nhạc rock Ireland Thin Lizzy, do hãng đĩa Parlophone phát hành vào 1970. Đây là bản thu âm duy nhất của đội hình bốn thành viên ban đầu gồm Phil Lynott, Eric Bell, Brian Downey và Eric Wrixon. Bối cảnh và sản xuất. Thin Lizzy thành lập vào cuối năm 1969 và nhanh chóng nổi tiếng trên báo chí khắp Dublin bởi các thành viên đã được biết đến trước đó trong những ban nhạc địa phương quanh thành phố. Sau khi có buổi biểu diễn ra mắt tại St Aidan's Hall vào tháng 7 năm 1970, EMI Ireland đã ký hợp đồng với Thin Lizzy để thu âm một đĩa đơn. Bài hát do ca sĩ chính kiêm tay bass Phil Lynott chắp bút, thu âm tại Trend Studios, đường Baggot và sản xuất bởi John D'Ardis. Mặt B đĩa là một sáng tác của D'Ardis "I Need You", có sự tham gia đội biểu diễn kèn đồng. Do chưa có kinh nghiệm thu âm, nhóm đã nảy ra ý định thu lại màn biểu diễn trực tiếp của bài hát, vì nghệ sĩ guitar Eric Bell nghĩ rằng D'Ardis sẽ thu âm trực tiếp ban nhạc bằng hệ thống sân khấu thay vì sử dụng thiết bị phòng thu. Sau khi thu âm, quản lý của nhóm cho biết họ đang thiếu tiền và cần thanh lý một thành viên đội hình. Tay chơi keyboard Eric Wrixon tỏ ra không phù hợp với phần còn lại trong kế hoạch dài hạn của nhóm và lặng lẽ rời đi. Lynott và Bell đã hỗ trợ tài chính cho ban nhạc khi kết hợp như một bộ đôi dân ca và biểu diễn tại nhiều quán rượu ở Dublin. Đĩa đơn phát hành vào ngày 31 tháng 7 năm 1970 bởi Parlophone. 500 bản của đĩa đã in ra, nhưng chỉ có 283 bản được bán. Số bản sao còn lại có thể bị nấu chảy và tái chế sau đó. Nhóm đã thất vọng trước sự thất bại của đĩa đơn, nhưng đến nay nó lại là một trong những bản phát hành hiếm nhất của Thin Lizzy. Sang thế kỷ 21, các bản in "The Farmer" được bán với giá khoảng 800 bảng Anh.
Nam vương Thế giới 2012 Nam vương Thế giới 2012 là phiên bản thứ 7 của cuộc thi Nam vương Thế giới được tổ chức tại Kent County Showground, Kent, Anh, vào ngày 24 tháng 11 năm 2012. Kamal Ibrahim đến từ Ireland trao lại vuơng miện cho người kế nhiệm, Francisco Escobar đến từ Colombia. Thí sinh tham gia. Cuộc thi có tổng cộng 48 thí sinh tham gia:
Những nhà vô địch trong thế giới hoang dã chương trình truyền hình nhiều tập của Mỹ Những nhà vô địch trong thế giới hoang dã () là tên của loạt phim tài liệu được phát sóng trên kênh truyền hình cáp "Animal Planet" (Thế giới động vật) của Hoa Kỳ và từng được mua bản quyền phát sóng có thuyết minh tiếng Việt trên kênh khoa giáo VTV2 của Việt Nam. Chương trình lên sóng lần đầu tại Mỹ là vào ngày mùng 7 tháng 7 năm 2002. Mỗi tập sẽ đặt trọng tâm vào một đặc tính riêng biệt của động vật, ví dụ như: sức mạnh, tốc độ, hành vi, thói quen, tập tính, giải phẫu hay chế độ ăn, sau đó xem xét và xếp hạng 10 loài động vật xứng đáng là những nhà vô địch hoặc là những ví dụ hiếm có sở hữu phẩm chất này. Cùng với việc mỗi loài động vật được xếp hạng từ thấp lên cao thì mỗi tập của chương trình sẽ có một phân đoạn ứng dụng hình họa máy tính để đem ra so sánh khả năng của động vật với những điều tương tự ở con người, tiếp sau đó là đoạn phỏng vấn với những nhân vật có cùng một số đặc điểm phổ biến tương tự. Người ta cũng thường xuyên chèn vào trong chương trình những thước phim hoạt hình, clip phim và đoạn phim quảng cáo (trailer) cũ nhưng bản quyền thuộc về phạm vi công cộng.
Lê Thị Thu Nguyệt Lê Thị Thu Nguyệt sinh năm 1944 tại Tân Định, Quận 1, Sài Gòn, là chiến sĩ biệt động Sài Gòn trong Chiến tranh Việt Nam. Bà được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2015 vì lập nhiều chiến công, trong đó có vụ đánh bom một máy bay chở cố vấn Mỹ vào năm 1963. Cha bà là ông Lê Đình Lang, Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương, bị lộ nên năm 1954 tập kết ra Bắc. Mẹ bà từng là hội viên Hội Phụ nữ cứu quốc, mắc bệnh không có thuốc chữa đã qua đời khi bà mới vài tuổi. Ở lại Sài Gòn, bà được cha gửi vào nhà chú ruột Lê Văn Lý. Ông Lý là cơ sở cách mạng, mở tiệm cắt tóc để che mắt địch. Năm 14 tuổi, bà tham gia hoạt động cách mạng với nhiệm vụ giao liên, đưa người vào chiến khu, mang tài liệu công văn, vận chuyển vũ khí vào nội thành. Gia nhập lực lượng biệt động. Năm 1960, bà gia nhập lực lượng biệt động Sài Gòn, cùng năm Mặt trận giải phóng miền Nam ra đời. Là thành viên đội 159 chuyên đánh cố vấn quân sự Mỹ, bà cùng đồng đội dùng thun, ná tẩm thuốc độc bắn chết bốn cố vấn Mỹ trên đường Trần Hưng Đạo. Tháng 10 năm 1962, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tổ chức trưng bày chiến lợi phẩm thu được của Việt Cộng. Địa điểm triển lãm kéo dài từ Nhà hát Lớn đến khách sạn Continental, qua đường Nguyễn Huệ, có 100 nhà báo đến dự và hàng ngàn người xem. Dưới sự chỉ huy của Lê Thanh Tùng cùng các chiến đấu viên Trần Cưỡng, Trần Tiên Cương, bà tổ chức ném lựu đạn phá hỏng 1 trực thăng HU1A, làm chết ba, và bị thương hai, phá vỡ cuộc triển lãm dự định kéo dài trong bảy ngày. Đánh bom máy bay Mỹ. Năm 1963, bà nhận nhiệm vụ gài mìn nổ chậm vào máy bay Boeing 707 chở cố vấn quân sự Mỹ. Để thực hiện được trận đánh quan trọng này, Đội Biệt động 159 trước đó đã tiến hành gài người vào làm nhân viên điều khiển không lưu ở sân bay; đồng thời đưa Thu Nguyệt đóng vai người yêu của người này để ra vào sân bay điều nghiên mục tiêu. Ngày 28 tháng 3 năm 1963, một gói thuốc nổ mạnh C4 cài đồng hồ hẹn giờ được ngụy trang trong một chiếc túi du lịch, giống y hệt chiếc túi du lịch mà cố vấn Mỹ thường dùng. Khi khoác “túi du lịch” đến từ giã “người yêu”, Thu Nguyệt đánh tráo túi du lịch của một người Mỹ trong phòng đợi. Theo kế hoạch, mìn sẽ nổ khi máy bay cất cánh 15 phút, nhưng chiếc Boeing 707 hôm ấy rời Sài Gòn sang San Francisco, quá cảnh sân bay Honolulu được hai phút mìn mới phát nổ. Toàn bộ chiếc máy bay số hiệu FHA007 bị phá hỏng, những tài liệu quan trọng bị cháy. Hàng chục sĩ quan cấp tá Mỹ bị thương vì vừa xuống sân bay, gần khu vực máy bay phát nổ. Nếu như hôm ấy, chiếc đồng hồ hẹn giờ không bị trục trặc do máy bay lên độ cao 10.000 m, áp suất không khí khiến nó chạy chậm lại, thì 80 cố vấn Mỹ đã thiệt mạng. Năm ấy do điều kiện kinh tế của cách mạng khó khăn nên khi đi mua đồng hồ bà chọn chiếc rẻ tiền nhất. Chính vì thế, kết quả đã không được như mong muốn. Sở dĩ bom nổ chậm hơn là do đồng hồ hẹn giờ lạc hậu, khi máy bay lên cao, thay đổi áp suất, đồng hồ bị ngưng hoạt động. Bà bị bắt vào cuối năm 1963, khi đang chuẩn bị đi báo cáo thành tích trong Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua. Sau 11 năm trải qua các nhà tù từ An ninh quân đội, Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp, tới nhà tù Côn Đảo, bà được trao trả tại Lộc Ninh vào năm 1973. Sau chiến tranh, bà công tác tại địa phương, từng là Phó Chủ tịch Hội LHPN quận Tân Bình, sau đó là cửa hàng trưởng Công ty Lương thực Tân Bình. Năm 1976, bà lập gia đình cùng ông Đỗ Khánh Vân, sau là Đại tá công tác tại Quân khu 7. Ông bà có hai người con trai, trong đó có một người từng du học tại Boston, Mỹ.
Thomas Delaine (sinh ngày 24 tháng 3 năm 1992) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp. Anh hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Ligue 1, Strasbourg. Sự nghiệp thi đấu. Delaine bỏ ra vài năm ở hạng dưới của bóng đá Pháp và đã từng cân nhắc tới việc giải nghệ để chuyển sang công việc làm vườn, trước khi gia nhập câu lạc bộ Paris FC ở Ligue 2. Delaine ra mắt đội bóng trong trận hòa 0–0 trước Clermont Foot vào 28 tháng 7 năm 2017. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2022, Delaine rời Metz để gia nhập Strasbourg bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm.
Võ Thị Minh Sinh Võ Thị Minh Sinh (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1970, người Thổ) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Nghệ An, Chủ tịch Nhóm nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An. Bà từng là Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy; và Bí thư Huyện ủy Quỳ Hợp. Võ Thị Minh Sinh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Kế toán, Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có hơn 30 năm sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Nghệ An. Xuất thân và giáo dục. Võ Thị Minh Sinh sinh ngày 15 tháng 12 năm 1970 tại xã Nghĩa An, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Bà là người Thổ lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Nghĩa Đàn, tới thủ đô Hà Nội theo học đại học từ năm 1990 và tốt nghiệp Cử nhân Hạch toán – Kế toán vào năm 1992. Từ tháng 1 năm 1998, bà học tiếng Đức tại Viện Goethe Hà Nội, đến tháng 11 thì hoàn thành, sang Đức làm thực tập sinh chuyên ngành ngoại thương và kinh tế đối ngoại. Sau đó, bà theo học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, thành thạo tiếng Thổ, sử dụng tiếng Thái và tiếng Đức. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 22 tháng 12 năm 1994, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và có chứng chỉ Cao cấp lý luận chính trị. Tháng 8 năm 1992, sau khi tốt nghiệp đại học, Võ Thị Minh Sinh ở về quê nhà Nghệ An, được nhận vào làm ở Công ty Kinh doanh cà phê cao su Nghệ An, một doanh nghiệp nhà nước của tỉnh, bắt đầu ở vị trí kế toán tổng hợp, đồng thời là Phó Bí thư Chi đoàn Thanh niên. Sau đó 3 năm, vào tháng 11 năm 1995, bà được điều sang Công ty Hữu Nghị Nghệ An, là Trợ lý Giám đốc kiêm Kế toán, Bí thư Đoàn Thanh niên. Trong giai đoạn 1998–99, bà học và thực tập ở Đức, và là Bí thư Chi bộ Thực tập sinh trường Đại học Duisburg-Essen thuộc Đảng ủy tại Đức. Tháng 1 năm 2000, bà trở về Nghệ An, được bổ nhiệm làm Chuyên viên Phòng Kế hoạch Miền núi của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, sau đó 1 năm thì được điều sang dự án "Hạ tầng cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng" (CBRIP) làm Kế toán trưởng. Tháng 10 năm 2003, bà là Phó Chánh Văn phòng Sở, kiêm Kế toán trưởng dự án CBRIP, Trưởng Ban Nữ công Sở, đến tháng 5 năm 2004 thì được điều tới một dự án khác là "Hạ tầng cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng" làm Kế toán trưởng, hàm Phó phòng. Vào tháng 10 năm 2010, bà là Đảng ủy viên Sở, Ủy viên Ban Chấp hành Công đoàn tỉnh, Phó Ban Nữ công quần chúng Công đoàn viên chức Nghệ An, và là Phó Trưởng phòng Kế hoạch Công nghiệp và Dịch vụ Sở, sau đó 1 năm thì là Phó Chủ tịch Công đoàn Sở, Giám đốc Trung tâm xúc tiến đầu tư và tư vấn phát triển Nghệ An. Cuối năm 2013, bà được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An, kiêm Chủ tịch Công đoàn Sở. Tháng 12 năm 2014, Võ Thị Minh Sinh được điều về huyện Quỳ Hợp, nhậm chức Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Quỳ Hợp. Sang tháng 8 năm sau, bà thăng chức làm Bí thư Huyện ủy, đến tháng 10 cùng năm tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015–2020 thì được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, rồi Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh nhiệm kỳ 2016–2021. Cuối năm 2016, bà được điều lên tỉnh, nhậm chức Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Nghệ An. Vào tháng 6 năm 2019, bà được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sau đó được phân công, giới thiệu và được bầu làm Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2019–2024. Tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025, bà tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy. Sang năm 2021, bà ứng cử đại biểu quốc hội từ Nghệ An, bầu cử tại đơn vị bầu cử số 5 gồm thị xã Cửa Lò và các huyện Diễn Châu, Nghi Lộc, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 89%. Trong nhiệm kỳ này, bà cũng là Chủ tịch Nhóm nữ đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội
Freshworks Inc., là một công ty phần mềm dịch vụ khách hàng dựa trên đám mây được thành lập năm 2010 tại Chennai, Ấn Độ.. Freshworks đã nhận được nhiều giải thưởng và được xếp hạng trong danh sách Forbes Cloud 100 và báo cáo Gartner Magic Quadrant cho Trung tâm Tương tác Khách hàng CRM. Lịch sử hình thành. Freshworks là một công ty phần mềm được thành lập vào ngày 13 tháng 10 năm 2010 bởi Girish Mathrubootham và Shan Krishnasamy. Tập trung vào việc phát triển phần mềm dịch vụ khách hàng dựa trên đám mây, công ty đã tiến hành nhiều vòng gọi vốn từ các nhà đầu tư nổi tiếng như Accel, Tiger Global Management và Sequoia Capital. Trong quá trình phát triển, Freshworks đã mua lại 3 công ty khác là 1CLICK.io, Konotor và Frilp vào năm 2015. Vào năm 2016, công ty đã ra mắt sản phẩm thứ hai của mình là Freshsales - phần mềm quản lý mối quan hệ khách hàng (CRM). Vào năm 2017, Freshdesk chính thức đổi tên thành Freshworks Inc. và trong năm 2018, công ty đạt doanh thu định kỳ hàng năm trên 100 triệu USD và ra mắt bộ sản phẩm đa dạng gọi là Freshworks 360. Freshworks đã được liệt kê thứ 40 trên danh sách Forbes Cloud 100 trong 3 năm liên tiếp (2017-2019) và được đưa vào 3 báo cáo Gartner Magic Quadrant về phần mềm tương tác với khách hàng. Năm 2020, công ty đạt doanh thu định kỳ hàng năm trên 200 triệu USD và được liệt kê thứ 16 trên danh sách Forbes Cloud 100. Freshworks cũng là công ty "Tầm nhìn" duy nhất trong MQ của Gartner cho Trung tâm Tương tác Khách hàng CRM. Năm 2021, Freshworks tiếp tục đạt doanh thu định kỳ hàng năm trên 300 triệu USD và trở thành công ty "Tầm nhìn" duy nhất trong MQ của Gartner cho Trung tâm Tương tác Khách hàng CRM lần thứ hai liên tiếp. Năm 2022, Freshworks tiếp tục mở rộng danh mục sản phẩm của mình với việc giới thiệu các giải pháp mới. Công ty đã thông báo đạt doanh thu trị giá 400 triệu USD trong năm đó, tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ so với năm trước.
Phạm Trường Sơn (Hà Tĩnh) Phạm Trường Sơn (sinh ngày 27 tháng 12 năm 1967) là tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là Trung tướng, hiện là Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thừa Thiên Huế. Ông từng là Đảng ủy viên Đảng ủy Quân chủng, Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân. Phạm Trường Sơn là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Quân sự, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp hơn 30 năm phục vụ không quân trước khi chuyển sang Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam. Xuất thân và giáo dục. Phạm Trường Sơn sinh ngày 27 tháng 12 năm 1967 tại thị trấn Đức Thọ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Đức Thọ, vào tháng 7 năm 1985 thì nhập ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam, vào Trường dự bị bay Không quân rồi đi học lái máy bay quân sự tại Krasnodar thuộc Liên Xô và tốt nghiệp vào tháng 10 năm 1988. Tháng 9 năm 2003, ông tới Học viện Phòng không – Không quân làm học viên đào tạo chỉ huy, tham mưu không quân cấp chiến thuật – chiến dịch cho đến tháng 7 năm 2006, tốt nghiệp Cử nhân Quân sự. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 23 tháng 8 năm 1991, là đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng tham gia khóa chính trị tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở Phường 13, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11 năm 1988, sau khi tốt nghiệp sĩ quan không quân ở Krasnodar, Liên Xô, Phạm Trường Sơn trở về Việt Nam, nhận quân hàm Trung úy, là Phi công của Trung đoàn 937, Sư đoàn 370, Quân chủng Phòng không – Không quân. Trong giai đoạn 1988–2003, ông là phi công phản lực lái máy bay chiến đấu Su-22, Sukhoi Su-30MKK, tiêm kích đa năng, lần lượt thăng quân hàm Trung úy, Thượng úy, Đại úy, Thiếu tá, giữ các chức Biên đội trưởng Phi đội 1, Phi đội 2, rồi Phó Phi đội trưởng Phi đội 2 của Trung đoàn 937. Vào tháng 9 năm 2003, ông thăng quân hàm Trung tá, là Phó Bí thư Chi bộ, Phi đội trưởng Phi đội 2, Trung đoàn 937, sau đó 3 năm, tháng 11 năm 2008 thì là Thượng tá, Phó Trung đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng, rồi Trung đoàn trưởng, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Phó Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 937. Tháng 4 năm 2011, ông được bổ nhiệm làm Phó Sư đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Sư đoàn 370, rồi thăng quân hàm Đại tá, thăng chức Sư đoàn trưởng, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Phó Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 370, đồng thời là Đảng ủy viên Đảng ủy Quân chủng Phòng không – Không quân. Sang cuối năm 2018, ông là Phó Tham mưu trưởng Quân chủng, Đảng ủy viên Đảng ủy Bộ Tham mưu Quân chủng. Tháng 12 năm 2019, Phạm Trường Sơn được được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân, đồng thời được Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phong quân hàm Thiếu tướng. Năm 2021, với sự giới thiệu của Đảng ủy Quân chủng Phòng không – Không quân, ông ứng cử đại biểu quốc hội từ Thừa Thiên Huế, tại đơn vị bầu cử số 1 gồm thị xã Hương Trà và các huyện Phong Điền, Quảng Điền, A Lưới, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 83,54%. Ngày 20 tháng 8 năm 2022, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam. Tháng 12 năm 2023, ông được phong quân hàm Trung tướng. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #CF9C65;" | Chức vụ quân sự
Khachapuri ( "khach’ap’uri" #đổi từ #đổi "sữa đông" + #đổi "bánh mì") là món ăn truyền thống của Gruzia, món bánh mì nhân pho mát. Bánh mì được ủ men và nổi lên, nặn thành nhiều hình dạng khác nhau, sau đó đổ hỗn hợp pho mát (tươi hoặc già, phổ biến nhất là pho mát Khachapuri chuyên dụng) vào giữa, thêm trứng và các nguyên liệu khác. Theo truyền thống, bánh mì được xé ra và nhúng vào phần hỗn hợp pho mát ở giữa. Món ăn này rất phổ biến ở Gruzia, ở trong nhà hàng lẫn món ăn đường phố. Là một loại lương thực chính của Gruzia, giá làm khachapuri được sử dụng làm thước đo lạm phát ở các thành phố khác nhau của Gruzia bằng "chỉ số khachapuri" do Trường Quốc tế Kinh tế tại Đại học Bang Tbilisi phát triển. Đây là món ăn truyền thống của Gruzia, được ghi vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể của Gruzia. Thay mặt cho sáng kiến ​​của Hiệp hội ẩm thực Georgia, ngày 27 tháng 2 đã được chọn làm Ngày Khachapuri, để kỷ niệm món bánh đặc trưng của Gruzia cũng như quảng bá món ăn này đến với bạn bè quốc tế. Biến thể của Khachapuri. Có rất nhiều loại khachapuri khác nhau ở Gruzia: Khachapuri còn rất được ưa chuộng ở Các quốc gia hậu Xô viết, trong đó có Nga. Được biết, 175.000 chiếc khachapuri đã được tiêu thụ trong kỳ Thế vận hội Mùa đông 2014 ở Sochi. Khachapuri là món ăn đường phố phổ biến ở Armenia, thường được bán trong các nhà hàng hoặc căng tin trường học. Ngoài ra, món ăn này ngày càng trở nên phổ biến như một món ăn dành cho bữa ăn nửa buổi tại Israel, nơi mà được người Do Thái Gruzia mang đến.
Giải vô địch cờ tướng quốc gia năm 2023 Giải vô địch cờ tướng quốc gia năm 2023, tên đầy đủ là Giải vô địch cờ tướng quốc gia năm 2023 Cúp Phuơng Trang, là Giải vô địch cờ tướng Việt Nam lần thứ 32 của bảng nam và lần thứ 30 của bảng nữ. Giải đấu do Liên đoàn cờ tướng Việt Nam tổ chức ở thành phố Đà Lạt từ ngày 10 tháng 2 năm 2023 đến ngày 20 tháng 2 năm 2023. Giải đấu được chia làm 2 bảng: bảng nam và bảng nữ. Các kỳ thủ tranh tài ở 3 nội dung: cờ tiêu chuẩn, cờ nhanh và cờ chớp. Ở nội dung quan trọng nhất là cờ tiêu chuẩn, chức vô địch thuộc về Nguyễn Thành Bảo và Nguyễn Hoàng Yến.
Phạm Hùng Thái (sinh ngày 14 tháng 10 năm 1970) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Tây Ninh, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Tây Ninh, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Trưởng Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh Tây Ninh. Ông từng là thủ trưởng hai cơ quan của Tỉnh ủy Tây Ninh, gồm Trưởng Ban Nội chính và Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Phạm Hùng Thái là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Luật, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có gần 20 năm phục vụ trong ngành công an, rồi xuất ngũ và tham gia lãnh đạo tổ chức Đảng, chính quyền tỉnh Tây Ninh. Xuất thân và giáo dục. Phạm Hùng Thái sinh ngày 14 tháng 10 năm 1970 tại xã Phước Chỉ, huyện Trảng Bảng, tỉnh Hậu Nghĩa, nay là thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Trảng Bàng, theo học ngành công an và tốt nghiệp Cử nhân Luật, chuyên ngành Điều tra tội phạm. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 11 tháng 9 năm 1995, là đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng tham gia khóa chính trị tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở Khu phố 6, Phường 3, thành phố Tây Ninh. Tháng 12 năm 1990, Phạm Hùng Thái nhập ngũ Công an nhân dân Việt Nam, bắt đầu ở vị trí Cán bộ điều tra của Phòng Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Tây Ninh. Sau đó 1 năm, ông được điều chuyển làm Cán bộ nghiên cứu tổng hợp của Phòng Tham mưu tổng hợp Công an tỉnh, công tác liên tục 10 năm 1991–2001, lần lượt là Phó Bí thư rồi Bí thư Chi bộ. Vào tháng 5 năm 2001, ông được bổ nhiệm làm Phó Chánh Văn phòng Công an tỉnh, là Bí thư Đảng ủy cơ sở và Đảng ủy viên Đảng ủy Công an tỉnh, thăng chức lên Chánh Văn phòng Công an tỉnh từ tháng 8 năm 2005. Tháng 4 năm 2007, ông được điều về huyện Tân Châu, được chỉ định vào Ban Thường vụ Huyện ủy, nhậm chức Bí thư Đảng ủy, Trưởng Công an huyện Tân Châu, rồi công tác đến cuối năm 2009, được 19 năm trong ngành công an. Tháng 11 năm 2009, Phạm Hùng Thái rời ngành công an, nhậm chức Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Tân Châu theo hình thức biệt phái rồi chính thức, và đến tháng 10 năm 2010, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Tây Ninh lần thứ nhiệm IX, nhiệm kỳ 2010–2015 thì được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Sang đầu năm 2011, ông được phân công làm Bí thư Huyện ủy Tân Châu, lãnh đạo huyện được 2 năm cho đến tháng 10 năm 2013 thì điều lên giữ chức Phó Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy Tây Ninh. Tháng 10 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Tây Ninh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015–2020, ông tái đắc cử Tỉnh ủy viên, được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, sang tháng 12 cùng năm thì nhậm chức Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Năm 2016, ông trúng cử là Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Tây Ninh nhiệm kỳ 2016–2021, được bầu kiêm nhiệm làm Trưởng Ban Pháp chế Hội đồng nhân dân tỉnh. Tháng 8 năm 2018, ông được điều chuyển sang làm Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy. Đến tháng 10 năm, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Tây Ninh lần thứ nhiệm XI, kỳ 2020–2025, Phạm Hùng Thái tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy, được phân công làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Tây Ninh. Năm 2021, với sự giới thiệu của Tỉnh ủy, ông ứng cử đại biểu quốc hội từ Tây Ninh, tại đơn vị bầu cử số 1 gồm thị xã Trảng Bàng và các huyện Bến Cầu, Gò Dầu, Châu Thành, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khoá XV với tỷ lệ 73,39%. Trong nhiệm kỳ này, ông được phân công là Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng
Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia Romagna 2022 Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia Romagna 2022 (tên chính thức là Formula 1 Rolex Gran Premio del Made in Italy e dell'Emilia-Romagna 2022) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 24 tháng 4 năm 2022 tại trường đua Imola ở Imola, Ý. Đây là chặng đua đầu tiên của mùa giải 2022 khi thể thức đua sprint được sử dụng lần đầu tiên. Charles Leclerc là người dẫn đầu Giải vô địch các tay đua sau chặng đua trước ở Úc với 71 điểm, hơn George Russell 34 điểm ở vị trí thứ hai, với Carlos Sainz Jr. ở vị trí thứ ba, kém Russell bốn điểm. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Ferrari dẫn trước Mercedes 39 điểm và 49 điểm trước Red Bull Racing. Buổi tập đầu tiên bắt đầu lúc 13:30 giờ địa phương (UTC+02:00) vào thứ Sáu, ngày 22 tháng 4. Buổi tập thứ hai bắt đầu lúc 12:30 giờ địa phương vào ngày 23 tháng 4. Vào buổi tập đầu tiên, Charles Leclerc lập thời gian nhanh nhất trước Carlos Sainz Jr. và Max Verstappen. Buổi tập này bị gián đoạn hai lần do điều kiện ẩm ướt và những cú xoay xe ở góc cua thứ 12 của Lando Norris và Valtteri Bottas. Trong buổi tập thứ hai, George Russell lập thời gian nhanh nhất trước Sergio Pérez và Leclerc. Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian 45 phút. Trong phần đầu tiên của vòng phân hạng (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đã đạt được thời gian trong phần đầu tiên tối đa 107% thời gian nhanh nhất đều đủ điều kiện tham dự cuộc đua. Trong phần này, 15 tay đua dẫn đầu lọt vào phần tiếp theo. Leclerc lập thời gian nhanh nhất trong khi các cặp tay đua của Williams và AlphaTauri cũng như Esteban Ocon bị loại. Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất lọt vào phần thứ ba của vòng phân hạng. Verstappen là tay đua với thời gian nhanh nhất trong khi cặp tay đua của Mercedes cũng như Mick Schumacher, Lance Stroll và Chu Quán Vũ đã bị loại. Lần đầu tiên kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản 2012, cả hai tay đua của Mercedes đều không thể vượt qua phần cuối cùng của vòng phân hạng. Phần cuối cùng (Q3) kéo dài mười hai phút và trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên được xác định sẵn. Phần này bị gián đoạn nhiều lần do Kevin Magnussen, Bottas và Norris gặp sự cố. Với thời gian là 1:27,999 phút, Verstappen lập thời gian nhanh nhất trước Leclerc và Norris. Đó là vị trí pole đầu tiên của Verstappen ở Ý. Max Verstappen xuất phát tệ và để Charles Leclerc dẫn đầu trong khi Pierre Gasly đâm Chu Quán Vũ ở góc cua thứ 9 khiến Gasly bị thủng lốp và Chu Quán Vũ phải bỏ cuộc đó khiến xe an toàn được triển khai. Trong những vòng đua đầu tiên, Leclerc đã cố gắng hết sức để giữ Verstappen ngoài phạm vi DRS nhưng lốp bắt đầu bị mòn. Ở vòng đua thứ 19, Verstappen đã có thể vượt qua Leclerc ở góc cua thứ 1 với hệ thống DRS để giành chiến thắng ở cuộc đua sprint. Leclerc về thứ nhì trước Sergio Pérez về thứ ba trong khi Carlos Sainz Jr. về thứ tư. Với kết quả này, Sainz trở lại vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng các tay đua trong khi Verstappen tăng từ vị trí thứ 6 lên thứ 5 khi cả hai tay đua của Mercedes là George Russell và Lewis Hamilton đều không ghi điểm.
Võ Huyền Chi (sinh năm 1984) hay còn được biết đến với nghệ danh là Huyền Chi là một nữ diễn viên lồng tiếng người Việt Nam, hiện đang sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nữ diễn viên từng được biết đến thông qua các vai diễn như Sakura Kinomoto trong "Cardcaptor Sakura" hay Mōri Ran trong "Thám tử lừng danh Conan" hay ca khúc "Giấc mơ thần tiên" (lời việt của "Yume wo Kanaete") cho bộ phim "Doraemon" trên kênh HTV3. Ngoài ra, cô cũng từng trình bày lời Việt cho ca khúc nổi tiếng "Let It Go" trong bộ phim "Nữ hoàng băng giá" năm 2023 của Disney. Từ năm 2015, cô đã làm việc tại ACE Media. Huyền Chi có tên đầy đủ là Võ Huyền Chi sinh năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ nhỏ, cô đã tự ý thức được việc giọng nói của mình có sự khác biệt. Đến trước năm 2015, cô đã làm việc cho Công ty Cổ phần Truyền thông Trí Việt (TVM Corp) và sau đó làm việc cho ACE Media. Trong một lần phỏng vấn với VTV9, cô đã cho rằng vai diễn khó nhất trong cuộc đời mình là Bu Bu trong bộ phim hoạt hình Bubu Chacha.
Chalap hay shalap hoặc chalob (, #đổi ; , #đổi ; , ]), hay còn được gọi là Tan (, #đổi ) bởi Enesay (), là thức uống phổ biến ở Kyrgyzstan và Kazakhstan. Nguyên liệu gồm qatiq hoặc suzma, muối, và thời nay, người ta thêm nước bão hòa carbon. Công ty giải khát Shoro tiếp thị chalap là "Chalap Shoro" (). Ở Uzbekistan, nó là một phần của văn hóa nông thôn bắt nguồn từ truyền thống du mục. Trong ẩm thực Uzbekistan, nó bao gồm các loại rau, khiến người ta liên tưởng rằng nó giống như một món súp lạnh.
Tạ Đình Thi (sinh ngày 24 tháng 9 năm 1973) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Hà Nội, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ Việt Nam – Bỉ. Ông từng là Tổng Cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, Chánh Văn phòng Ủy ban chỉ đạo Quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. Tạ Đình Thi là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Kỹ thuật môi trường, và Cử nhân Quản trị kinh doanh, Thạc sĩ Quản lý công cộng, Tiến sĩ Kinh tế, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp tập trung hoạt động trong ngành tài nguyên môi trường Việt Nam. Xuất thân và giáo dục. Tạ Đình Thi sinh ngày 24 tháng 9 năm 1973 tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, nay thuộc thành phố Hà Nội. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Thường Tín, theo học đại học và có hai bằng gồm Cử nhân Kỹ thuật môi trường, và Cử nhân Quản trị kinh doanh. Sau đó, ông học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Quản lý công cộng, rồi là nghiên cứu sinh ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên quan điểm phát triển bền vững của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ Việt Nam", trở thành Tiến sĩ Kinh tế vào năm 2007. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 30 tháng 12 năm 1998, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, rồi từng học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phường Vĩnh Phúc, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Tháng 4 năm 1996, sau khi tốt nghiệp và có hai bằng đại học, Tạ Đình Thi ký hợp đồng lao động với Cục Môi trường thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, làm việc với vị trí cán bộ hợp đồng. Sau đó 1 năm, ông được tuyển dụng công chức, là Chuyên viên Cục Môi trường, phân công về Văn phòng Cục, đồng thời là Bí thư Chi đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh ở Cục Môi trường từ đầu năm 1998. Trong giai đoạn này, ông cũng là Ủy viên Ban Chấp hành rồi giữ chức Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường. Tháng 2 năm 2003, ông được điều tới Văn phòng Bộ Tài nguyên và Môi trường – cơ quan được chuyển đổi từ Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường trước đó 1 năm – làm Chuyên viên, thăng chức Phó Trưởng phòng vào tháng 9 cùng năm rồi Trưởng phòng Tổng hợp từ tháng 1 năm 2006. Vào những năm này, ông phụ trách trực tiếp giúp việc Thứ trưởng Thường trực giai đoạn 2003–08, là Phó Chánh Văn phòng Bộ, Thư ký Bộ trưởng Phạm Khôi Nguyên giai đoạn 2008–09. Bên cạnh đó, ông cũng là Phó Bí thư Đảng ủy Văn phòng Bộ, tiếp tục là Phó Bí thư Đoàn Bộ, rồi được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đoàn Khối các cơ quan Trung ương, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam khóa V nhiệm kỳ 2005–2010, Tổ trưởng Tổ Công đoàn Phòng Tổng hợp, Văn phòng Bộ. Tháng 8 năm 2009, Tạ Đình Thi được bổ nhiệm làm Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ của Bộ Tài nguyên và Môi trường, sau đó lần lượt là Bí thư Chi bộ Vụ, Phó Vụ trưởng phụ trách từ tháng 5 năm 2010, rồi Vụ trưởng tháng 1 năm 2011. Về tổ chức Đảng, ông cũng là Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Bộ Tài nguyên và Môi trường, Chánh Văn phòng Ban Cán sự Đảng của Bộ, Ủy viên Ban Cán sự Đảng của Bộ. Tháng 3 năm 2018, Tạ Đình Thi được bổ nhiệm làm quyền rồi chính thức là Bí thư Đảng ủy, Tổng Cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, đồng thời kiêm nhiệm là Chánh Văn phòng Cơ quan thường trực Ủy ban chỉ đạo Quốc gia về thực hiện Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đầu năm 2021, ông được giới thiệu ứng cử đại biểu quốc hội từ Hà Nội, tại đơn vị bầu cử số 9 gồm huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức, Phú Xuyên và Thường Tín, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 75,55%. Vào ngày 15 tháng 12 năm 2021, Tạ Đình Thi được miễn nhiệm sau 25 năm công tác ở Bộ Tài nguyên và Môi trường, được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, và cũng là Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ Việt Nam – Bỉ. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước
Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc () là nhà xuất bản của Trung Quốc tọa lạc tại số 520, đường Nam Tân Hà Đông thành phố Lan Châu tỉnh Cam Túc, mã ISBN 7-226. Nhà xuất bản này quản lý sáu nhà xuất bản chuyên nghiệp trực thuộc, bao gồm Nhà xuất bản Thiếu niên Nhi đồng Cam Túc, Nhà xuất bản Giáo dục Cam Túc, Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật Cam Túc, Nhà xuất bản Mỹ thuật Nhân dân Cam Túc và Nhà xuất bản Văn nghệ Đôn Hoàng, những ấn phẩm chính gồm "Độc giả" (读者), "Phi điệp thám tác" (飞碟探索), "Cam Túc họa báo" (甘肃画报), "Cố sự tác văn nguyệt san" (故事作文月刊), "Ma ma họa san" (妈妈画刊) và sáu tạp chí định kỳ khác. Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc chính thức thành lập vào ngày 5 tháng 3 năm 1951 và trực thuộc Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Cam Túc và Sở Văn hóa và Giáo dục Cam Túc. Sau khi cuộc Cách mạng Văn hóa bắt đầu vào năm 1966, Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc chỉ xuất bản các tác phẩm của Mao Trạch Đông. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc đã bị Ủy ban Cách mạng Cam Túc giải thể và tổ chức lại. Tháng 2 năm 1978, Tỉnh ủy Cam Túc đã quyết định khôi phục Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc trở thành một đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh; Cục Xuất bản Cam Túc và cơ quan quản lý hành chính của Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc cùng hợp tác dưới dạng hai thương hiệu một tổ chức. Tháng 1 năm 2006, Nhà xuất bản Nhân dân Cam Túc đã tổ chức lại và lập ra Tập đoàn Xuất bản Độc giả.
Ngoại hạng Anh 2018/19 (kết quả chi tiết) Sau đây là kết quả chi tiết của Giải bóng đá Ngoại hạng Anh mùa giải 2018/19. Manchester United v Leicester City Newcastle United v Tottenham Hotspur Wolverhampton Wanderers v Everton F.C. Watford F.C. v Brighton Hove Albion AFC Bournemouth v Cardiff City Liverpool F.C. v West Ham United Arsenal F.C. v Manchester City Cardiff City v Newcastle United Everton F.C. v Southampton F.C. Leicester City v Wolverhampton Wanderers Tottenham Hotspur v Fulham F.C. West Ham United v AFC Bournemouth Chelsea F.C. v Arsenal F.C. Burnley F.C. v Watford F.C. Manchester City v Huddersfield Town F.C. Brighton Hove Albion v Manchester United Wolverhampton Wanderers v Manchester City AFC Bournemouth v Everton F.C. Arsenal F.C. v West Ham United Huddersfield Town F.C. v Cardiff City Southampton F.C. v Leicester City Liverpool F.C. v Brighton Hove Albion Watford F.C. v Crystal Palace Fulham F.C. v Burnley F.C. Newcastle United v Chelsea F.C. Leicester City v Liverpool F.C. Brighton Hove Albion v Fulham F.C. Chelsea F.C. v AFC Bournemouth Cardiff City v Arsenal F.C. Tottenham Hotspur v Liverpool F.C. AFC Bournemouth v Leicester City Chelsea F.C. v Cardiff City Newcastle United v Arsenal F.C. Watford F.C. v Manchester United Wolverhampton Wanderers v Burnley F.C. Everton F.C. v West Ham United Southampton F.C. v Brighton Hove Albion Fulham F.C. v Watford F.C. Liverpool F.C. v Southampton F.C. Manchester United v Wolverhampton Wanderers Brighton Hove Albion v Tottenham Hotspur Everton F.C. v Fulham F.C. AFC Bournemouth v Crystal Palace
Chế độ tam viện Các loại Tam viện. Một loại chế độ tam viện gây tranh cãi là một loại có hai cơ quan lập pháp, được bầu hoặc bổ nhiệm riêng rẽ, và cơ quan thứ ba bao gồm tất cả các thành viên của cả hai, họp cùng nhau sau cùng. Trong những trường hợp được coi là chế độ tam viện, chẳng hạn như Quốc hội Tynwald của đảo Mann và Quốc hội Iceland (từ 1874 đến 1991), thường có một vai trò liên tục, rõ ràng cho một viện thống nhất, được phân biệt rõ ràng với chế độ lưỡng viện. Hiện tại, không có quốc gia nào trên thế giới đang sử dụng hệ thống tam viện. Tuy nhiên, trong lịch sử đã từng ghi nhận hệ thống tam viện ở Cộng hòa La Mã, Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư... Các chế độ tam viện. Cộng hòa La Mã. Cộng hòa La Mã có ba hội đồng lập pháp làm việc với Viện nguyên lão La Mã của giai cấp quý tộc. Bao gồm các: Thượng viện và các hội đồng làm việc cùng nhau để bổ nhiệm các quan tòa, ban hành luật và các vấn đề về lãnh thổ. Liên minh Châu Âu. Mặc dù không phải một chính thể độc lập, Liên minh châu Âu đôi khi được coi là một tổ chức tam viện, bao gồm Nghị viện châu Âu, Hội đồng châu Âu và Ủy ban châu Âu. Tuy nhiên, quyền hạn của các viện là khác nhau và Ủy ban đôi khi được coi là một cơ quan hành pháp, nên nó có thể được xem là tam viện hoặc lưỡng viện . Cộng hòa Nam Phi. Năm 1983, chính phủ Apartheid của Nam Phi đưa ra hiến pháp quy định cơ quan lập pháp tam viện. Vào ngày 2 tháng 11, khoảng bảy mươi phần trăm dân số da trắng của đất nước đã bỏ phiếu ủng hộ những thay đổi – người Nam Phi da đen không được hỏi ý kiến ​​– và theo đề xuất, họ tiếp tục bị từ chối đại diện vì trên lý thuyết họ là công dân của Bantustan. Chế độ tam viện của Nam Phi trước đây được chia ra làm ba viện, đại diện cho các chủng tộc: Việc thành lập quốc hội tam viện đã gây tranh cãi trên hai mặt trận. Một mặt, nhiều người da trắng theo chủ nghĩa bảo thủ hoàn toàn không thích ý tưởng cho phép những người không phải da trắng tham gia vào Nghị viện. Tranh chấp là một yếu tố dẫn đến việc thành lập Đảng Bảo thủ, một đảng ly khai khỏi Đảng Quốc gia đang lấn át hơn. Mặt khác, nhiều người da màu và người châu Á cho rằng hệ thống này là giả tạo, nói rằng các viện dành riêng cho họ vô nghĩa và không có quyền hạn.
Chương trình giữa hiệp Super Bowl LVII Chương trình giữa hiệp Super Bowl LVII, tên chính thức là Apple Music Super Bowl LVII Halftime Show, diễn ra vào ngày 12 tháng 2 năm 2023, tại Sân vận động State Farm ở Glendale, Arizona, là một phần của giải đấu Super Bowl LVII. Nó được chiếu trên kênh Fox tại Hoa Kỳ và là Super Bowl halftime show đầu tiên được tài trợ bởi Apple Music. Nữ ca sĩ Rihanna đã trình diễn suốt chương trình. Vào tháng 10 năm 2019, Rihanna tiết lộ với "Vogue" cô đã từ chối lời đề nghị từ National Football League (NFL) để biểu diễn tại Super Bowl LIII halftime show cùng với Colin Kaepernick. Vào năm 2016, Kaepernick đã khuỵu gối chân trong lúc hát quốc ca trước khi bắt đầu trận đấu NFL để phản đối sự tàn bạo của cảnh sát và sự bất bình đẳng chủng tộc ở Hoa Kỳ. Vào ngày 22 tháng 9 năm 2022, NFL công bố rằng nhà tài trợ đặt tên mới cho Super Bowl halftime show sẽ là Apple Music bắt đầu từ Super Bowl LVII, thay thế cho nhà tài trợ cũ là Pepsi. Vào ngày 25 tháng 9 năm 2022, NFL công bố rằng Rihanna sẽ biểu diễn tại halftime show. Buổi biểu diễn sẽ là buổi trình diễn trực tiếp của Rihanna trong vòng 5 năm trở lại đây kể từ lần xuất hiện tại Giải Grammy lần thứ 60 vào năm 2018. Trong những ngày trước buổi halftime show, Rihanna tiết lộ trong bài phỏng vấn với Nate Burleson cô sẽ mang đến một khách mời "bất ngờ"; Người đại diện của Rihanna xác nhận rằng cô đang thai đứa con thứ hai. Danh sách bài hát. Danh sách được lấy từ "Today."
Tên của đóa hồng Tên của đoá hồng ( [il ˈnoːme della ˈrɔːza]) là cuốn tiểu thuyết đầu tay năm 1980 của tác giả người Ý Umberto Eco. Tác phẩm nói đến một vụ án giết người bí ẩn lịch sử lấy bối cảnh tại một tu viện ở Ý vào năm 1327, và một bí ẩn trí tuệ kết hợp ký hiệu học trong tiểu thuyết, phân tích Kinh thánh, nghiên cứu thời trung cổ và lý thuyết văn học. Nó đã được dịch sang tiếng Anh bởi William Weaver vào năm 1983. Cuốn tiểu thuyết đã bán được hơn 50 triệu bản trên toàn thế giới và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất từng được xuất bản. Nó đã nhận được nhiều giải thưởng và danh hiệu quốc tế, chẳng hạn như Giải thưởng Strega năm 1981 và Giải thưởng Medicis Étranger năm 1982, và được xếp hạng 14 trong danh sách 100 Cuốn sách của Thế kỷ của Le Monde. Cuốn tiểu thuyết này được dịch bởi dịch giả Lê Chu Cầu sang tiếng Việt. Tóm tắt cốt truyện. Năm 1327, tu sĩ dòng Phanxicô William xứ Baskerville và Adso xứ Melk, một tập sinh dòng Biển Đức đi dưới sự bảo vệ của ông, đến một tu viện Dòng Biển Đức ở miền Bắc nước Ý để tham dự một cuộc tranh luận thần học. Tu viện này đang được sử dụng làm nơi trung lập trong cuộc tranh chấp giữa Giáo hoàng John XXII và các tu sĩ dòng Phanxicô, những người bị nghi ngờ là dị giáo. Tu viện bị xáo trộn bởi cái chết của Adelmo xứ Otranto, một hoạ sư được kính trọng vì những bức tranh minh họa của ông. Adelmo rất giỏi trong các tác phẩm nghệ thuật hài hước, đặc biệt là về các vấn đề tôn giáo. William được viện trưởng của tu viện, Abo xứ Fossanova, để điều tra cái chết: Trong cuộc điều tra của mình, anh ấy đã tranh luận với một trong những tu sĩ lâu đời nhất trong tu viện, Jorge xứ Burgos, về ý nghĩa thần học của tiếng cười, điều mà Jorge coi thường. Ngày hôm sau, một học giả của Aristotle và dịch giả tiếng Hy Lạp và tiếng Ả Rập, Venantius xứ Salvemec, được tìm thấy đã chết trong một thùng tiết lợn. Severinus xứ Sankt Wendel, nhà thảo dược, nói với William rằng cơ thể của Venantius có vết đen trên lưỡi và ngón tay, điều này cho thấy có chất độc. Benno xứ Uppsala, một học giả hùng biện, tiết lộ với William rằng thủ thư, Malachi của Hildesheim, và trợ lý của anh ta là Berengar của Arundel, có một mối quan hệ đồng giới, cho đến khi Berengar quyến rũ Adelmo, người đã tự sát vì mâu thuẫn tôn giáo xấu hổ. Các tu sĩ duy nhất khác biết về sự bừa bãi là Jorge và Venantius. Bất chấp việc Malachi cấm William và Adso vào thư viện mê cung, họ vẫn thâm nhập vào mê cung và phát hiện ra rằng phải có một căn phòng bí mật, được đặt tên là "finis Africae" sau ranh giới địa lý được cho là của thế giới. Họ tìm thấy một cuốn sách trên bàn của Venantius cùng với một số ghi chú khó hiểu. Ai đó giật lấy cuốn sách, và họ đuổi theo vô ích. Đến ngày hôm sau, Berengar mất tích, điều này gây áp lực lên William. William biết được Salvatore xứ Montferrat và Remigio xứ Varagine, hai tu sĩ hầm rượu, có tiền sử với những kẻ dị giáo Dulcinian như thế nào. Adso trở lại thư viện một mình vào buổi tối. Khi rời thư viện qua nhà bếp, Adso bị quyến rũ bởi một cô gái nông dân, người mà anh có trải nghiệm tình dục đầu tiên. Sau khi thú nhận với William, Adso được miễn tội, mặc dù anh ta vẫn cảm thấy tội lỗi. Vào ngày thứ tư, Berengar được tìm thấy chết đuối trong bồn tắm, với ngón tay và lưỡi của anh ta có những vết tương tự như vết ở Venantius. Bernard Gui, một thành viên của Tòa án dị giáo, đến để tìm kiếm kẻ sát nhân thông qua sắc lệnh của giáo hoàng. Gui bắt cô gái nông dân mà Adso yêu, cũng như Salvatore, buộc tội cả hai là dị giáo và phù thủy sau khi tìm thấy họ bằng bùa yêu nghiệp dư của Salvatore (trứng, một con mèo đen và một con gà). Trong cuộc tranh luận thần học vào ngày hôm sau, Severinus, sau khi lấy được một cuốn sách "kỳ lạ", được tìm thấy đã chết trong phòng thí nghiệm của mình (bị một quả cầu nặng nề đập vào đầu), khiến William và Adso phải tìm kiếm cuốn sách. Họ tìm thấy nó, nhưng không nhận ra nó; thay vào đó nó được đảm nhận bởi Benno, người sau đó đồng ý với yêu cầu của Malachi rằng anh ta trở thành Trợ lý Thủ thư. Remigio và Malachi đều là nhân chứng về cái chết của Severinus. Remigio bị Gui thẩm vấn tại tòa án, người có thể buộc anh ta tiết lộ quá khứ dị giáo, và sau đó thú nhận sai về tội ác của Tu viện dưới sự đe dọa tra tấn. Remigio, Salvatore và cô gái nông dân bị bắt đi và được cho là đã chết. Để đối phó với những bi kịch gần đây trong tu viện, Jorge dẫn đầu một bài giảng về sự xuất hiện của Kẻ chống Chúa cứu thế. Malachi, cận kề cái chết, trở lại bài giảng sớm vào ngày thứ sáu, và những lời cuối cùng của ông liên quan đến bọ cạp. Nicholas xứ Morimondo, thợ lắp kính, nói với William rằng bất cứ ai là thủ thư sau đó sẽ trở thành Trụ trì, và với ánh sáng mới, William đến thư viện để tìm kiếm bằng chứng. Trụ trì đau khổ vì William đã không giải quyết được tội ác và Tòa án dị giáo đang làm suy yếu anh ta, vì vậy anh ta đã sa thải William. Đêm đó, William và Adso thâm nhập vào thư viện một lần nữa và bước vào "finis Africae" bằng cách tình cờ giải được câu đố từ nguyên của nó. William và Adso phát hiện ra Jorge đang đợi họ trong căn phòng cấm. Anh ta thú nhận rằng anh ta đã chủ mưu Tu viện trong nhiều thập kỷ, và nạn nhân cuối cùng của anh ta là chính Viện trưởng, người đã bị mắc kẹt đến chết ngạt bên trong lối đi thứ hai dẫn đến căn phòng. William yêu cầu Jorge cho cuốn sách thứ hai "Thi pháp học của Aristole", mà Jorge vui vẻ cung cấp. Trong khi lật qua các trang nói về đức tính của tiếng cười, William suy luận rằng Jorge - không thể phá hủy bản sao cuối cùng của cuốn sách này - đã tẩm thạch tín vào các trang, giả sử chính xác rằng người đọc sẽ phải liếm ngón tay của mình để lật chúng. Hơn nữa, William kết luận rằng Venantius đang dịch cuốn sách khi anh ta không chịu nổi chất độc arsen. Berengar đã tìm thấy anh ta và sợ bị lộ, đã vứt xác trong tiết lợn trước khi lấy cuốn sách và chết trong bồn tắm. Malachi đã được Jorge dụ để lấy nó từ kho chứa của Severinus, nơi Berengar đã chuyển nó đi, vì vậy anh ta đã giết Severinus, lấy cuốn sách và chết sau khi điều tra nội dung của nó. Jorge xác nhận những suy luận của William và biện minh cho hành động khó xảy ra này là một phần của kế hoạch thiêng liêng. Những cái chết tương ứng theo thứ tự và biểu tượng với Bảy tiếng kèn trong Khải Huyền kêu gọi các vật thể từ trên trời rơi xuống (nhảy từ tháp của Adelmo), vũng máu (Venantius), chất độc từ nước (Berengar), sự va chạm của các vì sao (đầu của Severinus). đã bị nghiền nát bởi một quả địa cầu), bọ cạp (mà Ma-la-chi hay nói đến), châu chấu và lửa. Trình tự này, được giải thích trong suốt cốt truyện (đến mức được chính William chấp nhận) là công việc có chủ ý của một kẻ giết người hàng loạt, trên thực tế là kết quả ngẫu nhiên trong kế hoạch của Jorge. Ông ta ăn hết các trang bị nhiễm độc của cuốn sách và sử dụng đèn lồng của Adso để đốt lửa, ngọn lửa giết chết ông ta, thiêu rụi thư viện, sau đó lan rộng và phá hủy toàn bộ tu viện. Adso triệu tập các tu sĩ trong một nỗ lực vô ích để dập tắt ngọn lửa. Khi ngọn lửa lan sang phần còn lại của tu viện, William than thở về sự thất bại của mình. Bối rối và bị đánh bại, William và Adso rời khỏi tu viện. Nhiều năm sau, Adso, giờ đã già, quay trở lại đống đổ nát của tu viện và trục vớt bất kỳ mẩu sách vụn và mảnh vỡ nào còn sót lại từ đám cháy, cuối cùng tạo ra một thư viện nhỏ hơn. Eco là một giáo sư về ký hiệu học, và đã sử dụng các kỹ thuật siêu tự sự, hư cấu hóa một phần và sự mơ hồ về ngôn ngữ để tạo ra một thế giới phong phú bởi các lớp ý nghĩa. Lời giải cho bí ẩn giết người trung tâm xoay quanh nội dung cuốn sách Hài kịch của Aristotle đã bị thất lạc. Mặc dù vậy, Eco vẫn suy đoán về nội dung và để các nhân vật phản ứng với nội dung đó. Thông qua mô-típ của cuốn sách bị thất lạc và có thể bị bãi bỏ, cuốn sách có thể đã thẩm mỹ hóa sự lố bịch, phi anh hùng và hoài nghi, Eco cũng đưa ra một lời biện hộ đầy mỉa mai về lòng khoan dung và chống lại những chân lý siêu hình giáo điều hoặc tự túc — một góc độ xuất hiện trên bề mặt của cuốn sách. chương cuối cùng. Về vấn đề này, phần kết bắt chước một cuốn tiểu thuyết về ý tưởng, trong đó William đại diện cho tính hợp lý, điều tra, suy luận logic, chủ nghĩa kinh nghiệm và cả vẻ đẹp của tâm trí con người, chống lại chủ nghĩa giáo điều, sự kiểm duyệt của Jorge và theo đuổi việc giữ bí mật, bất kể giá nào. của thư viện đã đóng cửa và ẩn mình với thế giới bên ngoài, bao gồm cả các tu sĩ khác của Tu viện. Tên của đoá hồng đã được mô tả như một tác phẩm của chủ nghĩa hậu hiện đại. Câu trích dẫn trong cuốn tiểu thuyết, "sách luôn nói về sách khác, và mỗi câu chuyện kể một câu chuyện đã được kể", đề cập đến một ý tưởng hậu hiện đại rằng tất cả các văn bản vĩnh viễn đề cập đến các văn bản khác, thay vì thực tế bên ngoài, đồng thời quay trở lại đối với quan niệm thời trung cổ rằng việc trích dẫn và trích dẫn sách vốn dĩ là cần thiết để viết những câu chuyện mới. Cuốn tiểu thuyết kết thúc bằng một sự trớ trêu: như Eco giải thích trong phần "Tái bút cho Tên của Hoa hồng", "rất ít thông tin được phát hiện và vị thám tử bị đánh bại." trong sự mệt mỏi rằng "không có khuôn mẫu." Do đó, Eco lật ngược nhiệm vụ tìm kiếm mục đích, sự chắc chắn và ý nghĩa của chủ nghĩa hiện đại, bỏ lại cốt truyện danh nghĩa, cốt truyện của một câu chuyện trinh thám bị phá vỡ, một loạt cái chết theo một mô hình hỗn loạn do nhiều nguyên nhân, tai nạn và được cho là không có ý nghĩa cố hữu. Người ta đã chú ý nhiều đến điều bí ẩn mà nhan đề cuốn sách đề cập đến. Trên thực tế, Eco đã tuyên bố rằng ý định của anh ấy là tìm một "danh hiệu hoàn toàn trung lập". Trong một phiên bản của câu chuyện, khi viết xong cuốn tiểu thuyết, Eco vội vàng gợi ý mười cái tên cho nó và yêu cầu một vài người bạn của mình chọn một cái. Họ đã chọn Tên của đoá hồng. Trong một phiên bản khác của câu chuyện, Eco đã muốn có tựa đề trung lập là Adso of Melk, nhưng điều đó đã bị nhà xuất bản của anh ấy phủ quyết, và sau đó tựa đề Tên của đoá hồng "gần như tình cờ đến với tôi." Trong phần tái bút cho Tên của bông hồng, Eco tuyên bố đã chọn tiêu đề "bởi vì bông hồng là một nhân vật tượng trưng giàu ý nghĩa đến mức bây giờ nó hầu như không còn ý nghĩa gì". Dòng cuối cùng của cuốn sách, "Stat rosa pristina nomine, nomina nuda tenemus" được dịch là: "bông hồng của tuổi già chỉ còn lại cái tên của nó; chúng ta sở hữu những cái tên trần trụi." Cảm giác chung, như Eco đã chỉ ra,là vẻ đẹp của quá khứ, giờ đã biến mất, chúng ta chỉ giữ lại cái tên. Trong cuốn tiểu thuyết này, “bông hồng” đã mất có thể được coi là Thi học của Aristotle (nay đã mất vĩnh viễn), thư viện tinh xảo nay đã bị phá hủy, hay cô nông dân xinh đẹp nay đã chết. Văn bản này cũng đã được dịch là "Bông hồng của ngày hôm qua chỉ có tên, chúng tôi chỉ có tên trống." Dòng này là một câu thơ của nhà sư thế kỷ thứ mười hai Bernard xứ Cluny (còn được gọi là Bernard xứ Morlaix). Các bản thảo thời Trung cổ của dòng này không thống nhất: Eco trích dẫn nguyên văn một biến thể thời Trung cổ, nhưng Eco không biết vào thời điểm văn bản được in phổ biến hơn trong các ấn bản hiện đại, trong đó tham chiếu đến Rome (Roma), chứ không phải thành hoa hồng (rose hay rosa). Văn bản thay thế, với ngữ cảnh của nó, chạy: "Nunc ubi Regulus aut ubi Romulus aut ubi Remus? / Stat Roma pristina nomine, nomina nuda tenemus". Điều này được dịch là "Bây giờ Regulus, hoặc Romulus, hoặc Remus ở đâu? / Rome nguyên thủy chỉ tồn tại trong cái tên của nó; chúng tôi chỉ giữ những cái tên trần trụi." Tiêu đề cũng có thể là một sự ám chỉ đến vị trí duy danh trong vấn đề phổ quát, do William xứ Ockham đưa ra. Theo chủ nghĩa duy danh, phổ quát là những cái tên trần trụi: không có bông hồng phổ quát, chỉ có tên gọi. Ảnh hưởng đến lịch sử và địa lý. William xứ Ockham, người sống trong thời kỳ mà cuốn tiểu thuyết được dựng lên, lần đầu tiên đưa ra nguyên tắc được gọi là Dao cạo Ockham, thường được tóm tắt như một câu châm ngôn rằng người ta phải luôn chấp nhận lời giải thích đơn giản nhất có thể giải thích cho tất cả các sự kiện (một phương pháp được sử dụng bởi William xứ Baskerville trong tiểu thuyết). Cuốn sách mô tả đời sống tu sĩ vào thế kỷ 14. Hành động diễn ra tại một tu viện Biển Đức trong cuộc tranh cãi xung quanh các học thuyết về sự nghèo khó tuyệt đối của Chúa Kitô và sự nghèo khó của các tông đồ tông đồ giữa các nhánh của Dòng Phanxicô và Dòng Đa Minh; (xem tranh cãi mới về vấn đề nghèo đói). Bối cảnh được lấy cảm hứng từ Tu viện Thánh Michael hoành tráng ở Thung lũng Susa, Piedmont và được Umberto Eco đến thăm. Cuốn sách nhấn mạnh sự căng thẳng này đã tồn tại trong Cơ đốc giáo trong thời trung cổ: Những người theo thuyết tâm linh, một phe trong dòng tu Phanxicô, yêu cầu Nhà thờ phải từ bỏ tất cả của cải, và một số giáo phái dị giáo bắt đầu giết những người khá giả, trong khi phần lớn các tu sĩ dòng Phanxicô và các giáo sĩ đã có một cách giải thích rộng rãi hơn về phúc âm. Ngoài ra, trong bối cảnh là cuộc xung đột giữa Louis IV và Giáo hoàng John XXII, với việc Hoàng đế ủng hộ các Linh hồn và Giáo hoàng lên án họ. Một số nhân vật, chẳng hạn như Bernard Gui, Ubertino xứ Casale và Minorite Michael xứ Cesena, là những nhân vật lịch sử, mặc dù đặc điểm của Eco về họ không phải lúc nào cũng chính xác về mặt lịch sử. Đặc biệt, chân dung Gui của ông đã bị các nhà sử học chỉ trích rộng rãi là một bức tranh biếm họa phóng đại; Edward Peters đã tuyên bố rằng nhân vật này "khá nham hiểm và khét tiếng ... hơn [Gui] từng có trong lịch sử", và ông và những người khác đã lập luận rằng nhân vật này thực sự dựa trên những miêu tả kỳ cục của những người điều tra và các giáo sĩ Công giáo nói chung trong văn học Gothic thế kỷ 18 và 19, chẳng hạn như The Monk (1796) của Matthew Gregory Lewis. Ngoài ra, một phần đối thoại của cuốn tiểu thuyết được lấy từ sách hướng dẫn điều tra viên của Gui, Practica Inquisitionis Heretice Pravitatis. Trong cảnh điều tra, nhân vật Gui hỏi người quản ngục Remigius, "Bạn tin điều gì?", Remigius trả lời: "Bạn tin điều gì, thưa Chúa?" Gui trả lời, "Tôi tin vào tất cả những gì Kinh Tin kính dạy," và Remigius nói với anh ta, "Vì vậy, tôi tin, thưa Chúa." Sau đó, Bernard chỉ ra rằng Remigius không tuyên bố tin vào Kinh Tin kính, mà tin rằng anh ấy, Gui, tin vào Kinh Tin kính; đây là một ví dụ được diễn giải từ sổ tay điều tra viên của Gui, được sử dụng để cảnh báo những điều tra viên về xu hướng thao túng của những kẻ dị giáo.[23] Mô tả của Adso về cổng của tu viện có thể nhận ra là cổng của nhà thờ ở Moissac, Pháp. Dante Alighieri và Thần khúc của ông được nhắc đến một lần khi đi ngang qua. Ngoài ra còn có một tài liệu tham khảo nhanh về "Umberto xứ Bologna" nổi tiếng - chính Umberto Eco.
Giải đua ô tô Công thức 1 Ấn Độ Giải đua ô tô Công thức 1 Ấn Độ là một chặng đua Công thức 1 từng xuất hiện trong lịch Công thức 1. Nó được tổ chức tại trường đua Buddh International ở khu vực 25 dọc theo đường cao tốc Yamuna ở huyện Gautam Buddh Nagar, bang Uttar Pradesh từ năm 2011 đến 2013. Chặng đua đầu tiên diễn ra vào ngày 30 tháng 10 năm 2011 và là cuộc đua thứ 17 của mùa giải Công thức 1 năm 2011. Cuộc đua khai mạc thuộc về tay đua người Đức Sebastian Vettel. Jaypee Sports International Limited là nhà tổ chức giải đua ô tô Công thức 1 ở Ấn Độ và đã ký hợp đồng 5 năm với Công ty quản lý Công thức 1 (FOM) để tổ chức sự kiện này ở Ấn Độ. Vào tháng 8 năm 2013, FIA thông báo rằng giải đua ô tô Công thức 1 Ấn Độ sẽ không diễn ra vào năm 2014 trước khi quay trở lại thời điểm đầu mùa giải vào năm 2015. Sau đó, vì tranh chấp thuế với chính quyền Uttar Pradesh, điều đó cũng đã bị từ bỏ. Trường đua Buddh International được xây dựng cách New Delhi khoảng 50 km về phía nam ở Greater Noida, có chiều dài 5,137 km và được thiết kế bởi nhà thiết kế trường đua nổi tiếng người Đức Hermann Tilke. Trường đua dự kiến hoàn thành vào mùa xuân năm 2011 nhưng không thể đáp ứng được do chậm tiến độ. Tuy nhiên, việc bàn giao chính thức diễn ra 12 ngày trước ngày đua đầu tiên (30/10/2011). Chi phí xây dựng của trường đua này là từ 290 đến 400 triệu euro. Kế hoạch tổ chức giải đua ô tô Công thức 1 Ấn Độ đã có sẵn vào năm 1997, dự kiến ở . Năm 2003, Ấn Độ chỉ có hai trường đua cố định, một ở Chennai (Irungattukottai) và trường đua Kari ở Coimbatore. Vào thời điểm đó, hai địa điểm rộng 240 ha ở vùng lân cận sân bay Bengaluru đã được kiểm tra. Ngoài ra, ở bang Andhra Pradesh, Thủ hiến Chandrababu Naidu đã dành 610 ha đất gần sân bay ở Hyderabad. Vào tháng 12 năm 2003, một thỏa thuận trước bảy năm để tổ chức sự kiện này ở Hyderabad vào năm 2007 đã được ký kết và trường đua đó đã được xây dựng gần làng Gopanapally, gần ngoại ô Hyderabad với diện tích bao gồm 553 ha đất. Tất cả các tay đua giành chiến thắng. Tất cả các chặng đua được tổ chức tại trường đua Buddh International.
William Fitzgerald Harper (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1980, nghệ danh William Jackson Harper) là nam diễn viên, nhà soạn kịch người Mỹ. Anh được biết đến qua vai Chidi Anagonye trong bộ phim hài "The Good Place" (2016–2020, đài NBC), vai diễn mang về cho anh một đề cử giải Primetime Emmy hạng mục Nam phụ xuất sắc trong sê-ri phim hài. Năm 2022, anh đóng vai chính trong phim truyền hình "The Resort". William Fitzgerald Harper sinh ngày 8 tháng 2 năm 1980 tại Dallas và lớn lên ở Garland, Texas. Anh theo học trường Trung học Lakeview Centennial, sau đó tốt nghiệp Cao đẳng Santa Fe năm 2003. Harper bắt đầu sự nghiệp tại New York với vở kịch mang tên "Full Bloom". Năm 2008, anh góp mặt trong vở "Ruined" của đạo diễn Lynn Nottage do sân khấu Manhattan Theatre Club sản xuất, tác phẩm sau đó thắng giải Pulitzer cho hạng mục kịch năm 2009. Từ năm 2009 tới 2011, anh vào vai Danny Rebus trong phim truyền hình "The Electric Company" của đài PBS. Harper lần đầu tham gia sân khấu Broadway năm 2014 với vở All the Way, trong tác phẩm này anh đảm nhận hai vai James Harrison và Stokely Carmichael. Tháng 10 năm 2022, nam diễn viên tham gia dự án phim "" của Vũ trụ Điện ảnh Marvel, phim phát hành năm 2023.
Phạm Văn Thịnh (Bắc Giang) Phạm Văn Thịnh (sinh ngày 13 tháng 12 năm 1981) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy ban Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Bắc Giang, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Bắc Giang, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Ông từng là Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bắc Giang; Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa. Phạm Văn Thịnh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Tài chính – Ngân hàng, Thạc sĩ Kinh tế, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Bắc Giang. Xuất thân và giáo dục. Phạm Văn Thịnh sinh ngày 13 tháng 12 năm 1981 tại xã Lãng Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc, nay là tỉnh Bắc Giang. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Yên Dũng, thi đỗ đại học năm 1999, tới thủ đô Hà Nội theo học Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và tốt nghiệp Cử nhân Tài chính – Ngân hàng vào năm 2003. Sau đó, ông theo học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 8 tháng 8 năm 2003, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, rồi từng học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở tổ dân phố Vĩnh Ninh 1, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc Giang. Tháng 10 năm 2003, sau khi tốt nghiệp Kinh tế Quốc dân, Phạm Văn Thịnh trở lại Bắc Giang, ký kết hợp đồng lao động với Ban Tổ chức Chính quyền nay là Sở Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang, công tác ở vị trí cán bộ hợp đồng. Sau đó nửa năm, ông được tuyển vào làm công chức, là Chuyên viên Văn phòng Sở, rồi chuyển vị trí làm Chuyên viên Phòng Tổ chức Bộ máy và Biên chế của Sở. Trong giai đoạn này, ông tham gia hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, được bầu làm Phó Bí thư Chi đoàn Sở Nội vụ. Tháng 6 năm 2008, ông được điều sang Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, là Chuyên viên Phòng Kinh tế, sau đó 2 năm thì thăng chức làm Phó Trưởng phòng, đồng thời là Chi ủy viên, Phó Bí thư Chi bộ Kinh tế Tổng hợp của Văn phòng tỉnh. Tháng 3 năm 2013, ông được điều về huyện Sơn Động, chỉ định vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, nhậm chức Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Sơn Động ở tuổi 31. Vào tháng 10 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015–2020, ông được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, khi mà trước đó ông được bổ nhiệm làm Phó Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Bắc Giang vào tháng 6 cùng năm. Tháng 3 năm 2016, ông được điều tới huyện Hiệp Hòa, giữ chức Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa, đến đầu năm 2019 thì trở lại Cục Thuế tỉnh làm Cục trưởng. Tháng 10 năm 2010, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025, Phạm Văn Thịnh tái đắc cử Tỉnh ủy viên, được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, phân công làm Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Bắc Giang. Năm 2021, được sự giới thiệu của Tỉnh ủy, ông ứng cử đại biểu quốc hội từ Bắc Giang, tại đơn vị bầu cử số 3 gồm huyện Tân Yên, Việt Hòa, Việt Yên, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 70,03%. Trong nhiệm kỳ này, ông cũng là Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng
Thoeun Theara (), sinh năm 1998, tại làng Sdav, xã Prey Kandieng, huyện Peam Ro, tỉnh Prey Veng, biệt danh là Pu-thao-đay-pi-kheat có nghĩa là sát thủ cầm búa. Vì vậy những đối thủ khi chạm trán với Thoeun Theara thường rất ngại ngán với cú chơi cùi trỏ rất điêu luyện và sắt bén, thường làm cho đối thủ rướm máu trên trán, đầu, mặt, mũi là khó tránh khỏi. Thoeun Theara là con trai duy nhất trong một gia đình có bốn người con, Theara không có bất kỳ cơ hội nào để học hành. Anh rời quê hương ở tỉnh Prey Veng để đến sống ở Thái Lan với cha mẹ khi còn nhỏ và anh lớn lên chứng kiến ​​cha mẹ mình làm thợ đốn gỗ cực khổ cho một doanh nghiệp ở tỉnh Saraburi. Năm 10 tuổi, anh quyết định làm việc trong một cửa hàng bánh mì, nơi anh kiếm được 300 baht mỗi ngày. Ngoài làm việc toàn thời gian từ 7 giờ sáng đến tối, Theara còn làm thêm đến 11 giờ đêm để kiếm số tiền 5.000 baht mỗi tháng (150 USD). Khi Thoeun Theara 15 tuổi (năm 2013), anh về thăm quê hương ở Prey Veng cùng cha mẹ và quyết định ở lại Campuchia để làm việc cho một doanh nghiệp sản xuất gạch gần đó. Vào năm 2016, Thoeun Theara và cha mẹ anh quyết định trở lại Thái Lan để làm việc, nơi đó họ đều nhận được công việc là thợ rèn tủ kim loại. Họ làm việc theo đơn đặt hàng của khách và công việc mới này giúp họ tiết kiệm được một khoản tiền kha khá vì mỗi tháng họ kiếm được khoảng 15.000 baht. Thật không may, công việc mới này chỉ kéo dài được một năm trước khi họ lại thất nghiệp, điều này buộc Theara và cha mẹ anh phải quay trở lại Campuchia vào năm 2017 và Theara lại làm công nhân xây dựng ở Phnôm Pênh, chỉ kiếm được 40.000 riel trong một ngày. Khi đang làm công việc xây dựng, Theara được một người bạn khuyên nên tập luyện tại câu lạc bộ Kun Khmer của Bộ nông nghiệp gần siêu thị Aeon Mall Phnôm Pênh với huấn luyện viên Yuth Phuthong, đồng thời là chủ tịch câu lạc bộ. Theara nói: "Tôi đã luyện tập cùng bạn bè mà không cho bố mẹ biết. Tôi yêu thích và muốn tập boxing từ năm 15 tuổi. Khi đó, tôi thích xem những trận đấu của Eh Phuthong và Meun Sophea. Đối với Muay Thái ở Thái Lan, tôi thích những trận đấu của Buakaw [Banchamek] và khi tôi thấy anh ấy giành chức vô địch, tôi muốn tập Kun Khmer để tạo dựng danh tiếng như họ." Với thể chất mạnh mẽ bẩm sinh cũng như sức mạnh có được nhờ làm việc chăm chỉ như một người lao động, Theara đã có thể nhanh chóng phát triển các kỹ năng của mình và xuất hiện lần đầu tiên trong một đấu trường tư nhân vào năm 2017. Anh ấy đã kết thúc năm đó với thành tích bất bại sau khi thắng 09 trận liên tiếp và nhận được 01 trận hòa. Huấn luyện viên Kun Khmer Eh Phuthong là sư phụ của Theara - ông có câu lạc bộ đồng minh ở Thái Lan, đã quyết định cử Theara sang tập luyện và thi đấu tại quốc gia này. Trong những lần thượng đài từ năm 2018 đến đầu năm 2020, Theara đã gặp gỡ nhiều võ sĩ nổi tiếng của Thái Lan trên võ đài và từng thượng đài với họ và thắng hơn 30 trận. Trong hơn hai năm ở Thái Lan, Theara đã tạo dựng được danh tiếng của mình và khiến người hâm mộ Campuchia mong mỏi anh trở lại Campuchia, điều mà cuối cùng anh đã làm được vào giữa năm 2020. “Quyết định trở lại Campuchia là do tôi đưa ra chứ không ai ép buộc. Đó là quyết định của riêng tôi vì tôi muốn trở lại để quảng bá võ thuật Khmer của chúng tôi, đồng thời tôi cũng có một gia đình ở Campuchia”, Theara nói và cho biết thêm rằng anh đã kết hôn với một phụ nữ Khmer tên Meymey vào năm 2020 và hiện họ có một con gái. . Sự trở lại của Theara với quyền anh Kun Khmer lúc đầu không như mong đợi của nhiều người vì sau 4 trận đấu, anh ấy phải nghỉ thi đấu dài hạn vì chấn thương, nhưng sau đó vào cuối năm 2022, anh ấy đã khiến mọi người choáng váng tại cuộc thi tranh đai Nhà vua Thái Lan khi anh ấy đã sử dụng cùi chỏ thành thạo để rạch một vết rộng trên mắt phải của võ sĩ Thái Lan Saiyok Sakchainrong khiến máu không ngừng chảy cho đến khi bác sĩ buộc phải dừng trận đấu ở hiệp đầu tiên. Theara nói thêm: "Tôi không biết dùng từ nào để diễn tả cảm xúc của mình, tôi chỉ biết rơi nước mắt để thể hiện sự xúc động của mình. Đây là chiến thắng quan trọng nhất và là khoảnh khắc thú vị nhất mà tôi từng gặp trong đời." Theara nói về chiến thắng đầy khó chịu của mình: "Bản thân tôi không ngờ mình lại thi đấu tốt như vậy, nhưng giành được chiếc đai này có nghĩa là tạo ấn tượng rất lớn cho võ thuật Khmer của chúng tôi và góp phần quảng bá môn võ này ra nước ngoài, được công nhận nhiều hơn, vì võ thuật của chúng tôi lúc đó được xếp hạng lần đầu tiên xếp hạng thế giới." Ngoài việc giành cúp và đai tại giải đấu của nhà vua Thái Lan, Theara đã chính thức nhận được tổng số tiền thưởng gần 30.000 đô la, cộng với một loạt quyên góp từ những người hâm mộ quyền anh địa phương, bao gồm 10.000 đô la khác và ba mảnh đất - mỗi mảnh đất trong một năm. các tỉnh Kandal, Kampong Speu và Kampong Chhnang. “Giành được chiếc đai này đã giúp cuộc sống của tôi dễ dàng hơn và tôi muốn dùng số tiền mình có để xây một ngôi nhà ở Phnôm Pênh. Nhưng tôi vẫn chưa có đất ở Phnôm Pênh, nên nếu có nhà tài trợ nào cho tôi một lô đất ở Phnôm Pênh thì tốt quá, vì tôi muốn sống ở Phnôm Pênh để tiện huấn luyện và chiến đấu. Các võ sĩ nói. Sau khi đánh bại Saiyok của Thái Lan trong trận chung kết hạng 72,5kg, Theara tiếp tục đánh bại Beckham của Thái Lan với một điểm ở Town Arena. Sau chiến thắng, WMO quyết định công nhận võ thuật Khmer và đưa Theara lên vị trí đầu tiên ở hạng cân 72,5 kg. Nhưng hiện tại Theara đã tụt xuống vị trí thứ hai, với Youssef Boughanem của Bỉ chiếm vị trí đầu tiên, Beckham ở vị trí thứ ba, David Pennimpede của Mỹ ở vị trí thứ tư và Saiyok ở vị trí thứ năm. Tuy nhiên, ở trận giao hữu quốc tế tại Nhà thi đấu truyền hình PNN vào ngày 14/1/2023, Theara hạ knock-out một võ sĩ mạnh khác của Thái Lan là Kang Kiệt Nawi ở hiệp 5, cho thấy anh không có ý định nhường ngôi số một lâu dài. Tuy nhiên, Theara nói rằng anh ấy có tham vọng giành được đai tại một sự kiện lớn hơn trên đấu trường quốc tế. Mục tiêu tiếp theo của anh ấy là giành được một danh hiệu tại sự kiện ONE Championship. Theara nói: "Tôi thấy một số võ sĩ nổi tiếng nhất thế giới, họ đã giành được nhiều nhà vô địch và danh hiệu, vì vậy tham vọng của tôi không dừng lại sau khi giành được một danh hiệu ở Thái Lan. Tôi muốn có thêm cơ hội giành được những danh hiệu lớn trên đấu trường quốc tế. Nếu có cơ hội thi đấu tại ONE Championship thì càng tốt vì tôi muốn kiểm tra khả năng của mình với những võ sĩ đẳng cấp thế giới để biết rõ hơn tiềm năng của mình ở mức độ nào."
Kinh Tế nhật báo Kinh Tế nhật báo (, ) là một tờ báo nhà nước của Trung Quốc tập trung vào các báo cáo kinh tế. Được thành lập tại Bắc Kinh vào ngày 1 tháng 1 năm 1983, tờ báo là một cơ quan cấp thứ trưởng trực thuộc Quốc vụ viện. Tờ báo được quản lý bởi Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1984, Đặng Tiểu Bình đã viết một dòng chữ cho "Kinh Tế nhật báo". Vào tháng 10 năm 2020, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chỉ định "Kinh Tế nhật báo" là cơ quan đại diện nước ngoài của Trung Quốc. Vào ngày 28 tháng 1 năm 1993, "Nhật báo Kinh tế" đã đăng một bài báo có tựa đề "Nước có thể thực sự trở thành xăng?" "—— Kỷ lục về doanh nhân tư nhân Vương Hồng Thành và phát minh của ông" (水真能变成油吗? ——记民营企业家王洪成与他的发明). Bài báo được viết bởi các phóng viên "của Kinh Tế Nhật báo" là Ngô Hồng Bác (吴红博) và Lưu Đông Hoa (刘东华) đã ca ngợi "phát minh" biến nước thành xăng của Vương Hồng Thành (王洪成) là "phát minh vĩ đại thứ năm của Trung Quốc" (中国第五大发明) sau tứ đại phát minh truyền thống. Tuy nhiên, công nghệ nước thành xăng (水变油技术) sau đó bị coi là một trò lừa bịp và giả khoa học. Vào năm 1998, người khởi xướng nó là Vương Hồng Thành đã bị kết án 10 năm tù.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Ivan Konstantinovich Aivazovsky (tiếng Nga: Иван Константинович Айвазовский; 29 tháng 7, 1817 – 2 tháng 5, 1900) là họa sĩ Nga theo trường phái Lãng mạn, được coi là một trong những bậc thầy vĩ đại nhất về nghệ thuật tranh biển cả. Tên rửa tội của ông là Hovhannes Aivazian. Ông ra đời trong một gia đình người Armenia sống tại cảng biển ở Feodosia, Crimea, nằm bên bờ biển Đen và đây là nơi ông sống phần lớn cuộc đời. Sau khi tốt nghiệp Học viện Nghệ thuật Hoàng gia ở Saint Petersburg, Aivazovsky du hành sang Tây Âu và sống một thời ngắn tại Italia vào đầu những năm 1840. Tiếp đó ông trở về Nga và được bổ nhiệm làm họa sĩ chính thức của Hải quân Nga. Aivazovsky có mối quan hệ khăng khít với quân đội và chính giới Đế quốc Nga, ông thường xuyên được mời tham dự các cuộc thao diễn quân sự. Suốt cả cuộc đời, Aivazovsky luôn được chính quyền tài trợ và coi trọng. Cụm từ "rất xứng đáng với nét cọ của Aivazovsky", do Anton Chekhov truyền bá, được sử dụng trong tiếng Nga để miêu tả những thứ xinh xắn. Đến thế kỷ 21, tên tuổi của ông vẫn rất nổi tiếng tại Nga. Là một trong những họa sĩ Nga tài danh nhất trong thời đại của ông, Aivazovsky nổi tiếng không chỉ ở Đế quốc Nga. Ông đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm cá nhân tại Tây Âu và Hoa Kỳ. Trong gần 60 năm sự nghiệp, ông sáng tác khoảng 6000 bức tranh, đưa ông trở thành một trong những họa sĩ giàu sức sáng tạo nhất trong thời đại bấy giờ. Đại đa số các tác phẩm của ông vẽ cảnh biển cả, ngoài ra ông cũng thường khắc họa cảnh chiến tranh, cảnh lấy chủ đề xứ Armenia và cả tranh chân dung. Phần lớn tác phẩm của ông được lưu giữ tại các bảo tàng ở Nga, Ukraine, Armenia, Thổ Nhĩ Kỳ cũng như nhiều bộ sưu tập tư nhân. Trong suốt 60 hoạt động nghệ thuật, Aivazovsky sáng tác khoảng 6000 bức tranh mà một tạp chí nghệ thuật trực tuyến miêu tả là "những giá trị rất khác , cũng có những tác phẩm khiêm tốn". Tuy nhiên, theo một thống kế, có đến tận 20000 bức tranh được gắn với tên tuổi của ông. Đại đa số tác phẩm của Aivazovsky vẽ cảnh biển. Ông hiếm khi vẽ cảnh trên đất liền và cũng chỉ vẽ một số ít tranh chân dung. Theo Rosa Newmarch, Aivazovsky "không bao giờ nhìn cảnh thiên nhiên thật để vẽ tranh, luôn chỉ vẽ từ trí nhớ từ những nơi xa bờ biển". Rogachevsky viết rằng "Trí nhớ nghệ thuật của ông thật là phi thường. Ông có thể tái tạo những điều ông chỉ thấy trong một khoảng thời gian rất ngắn, dẫu không có cả tranh phác thảo". Bolton tán dương "khả năng của ông trong việc tạo dựng hiệu ứng mặt nước động và ánh nắng, ánh trăng phản chiếu". Aivazovsky chủ yếu theo trường phái lãng mạn, nhưng ông cũng đã áp dụng một số thành tố của chủ nghĩa hiện thực. Leek cho rằng Aivazovsky cả đời trung thành với chủ nghĩa lãng mạn, "cho dù tác phẩm của ông hướng theo thể loại hiện thực chủ nghĩa". Các tác phẩm thời kỳ đầu của ông chịu ảnh hưởng của các thầy giáo ở Học viện Nghệ thuật là Maxim Vorobiev và Sylvester Shchedrin. Các họa sĩ cổ điển như Salvator Rosa, Jacob Isaacksz van Ruisdael và Claude Lorrain cũng góp phần định hình phong cách và phương pháp cá nhân của Aivazovsky. Karl Bryullov, nổi danh nhất với tác phẩm "Ngày cuối cùng của thành Pompeii" |"The Last Day of Pompeii", "đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kích thích sự phát triển sức sáng tạo của Aivazovsky", theo như Bolton nhận xét. Các tác phẩm đẹp nhất của Aivazovsky trong thập niên 1840-1850 sử dụng bảng màu sắc rất đa dạng, đi theo chủ đề thiên anh hùng ca và chủ đề Romania. Newmarch đưa ra quan điểm rằng cho tới giữa thế kỷ 19, các đặc trưng của trường phái lãng mạn trong tranh của Aivazovsky đã "ngày càng hiện lên rõ rệt hơn". Newmarch, cũng như đa số học giả, xem bức "Đợt sóng thứ chín" | "Ninth Wave" là kiệt tác xuất sắc nhất của Aivazovsky và đánh giá nó "dường như đánh dấu sự chuyển tiếp giữa màu sắc kỳ ảo trong các tác phẩm đầu tay, và khung cảnh chân thực hơn trong những năm sau này". Cho đến những năm 1870, màu sắc thanh nhã đã chiếm ưu thế trong các tác phẩm của Aivazovsky; và ở hai thập kỷ cuối đời, Aivazovsky sáng tác một loạt tranh vẽ cảnh biển dùng tông màu trắng bạc. Quá trình chuyển tiếp từ chủ nghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực hồi giữa thế kỷ 19 ở Nga đã khiến cho Aivazovsky, người luôn trung thành với phong cách lãng mạn, phải hứng chịu phê bình chỉ trích. Lý do khiến ông không sẵn sàng, hoặc không có khả năng đi theo sự thay đổi này, là do nơi sinh sống: ở Đế quốc Nga, Feodosia là một thành phố vùng sâu vùng xa, cách xa hai kinh thành Moskva và Saint Petersburg. Tư duy và thế giới quan của Aivazovsky bị coi là lạc hậu, không bắt kịp được những sự phát triển trong văn hóa, nghệ thuật Nga. Nhà phê bình nghệ thuật Vladimir Stasov chỉ chấp nhận những tác phẩm thời kỳ đầu của Aivazovsky, còn Alexandre Benois viết trong tác phẩm "Lịch sử hội họa Nga thế kỷ 19" rằng dù là học trò của Vorobiev, Aivazovsky đứng ngoài rìa những bước phát triển chung của hội họa phong cảnh Nga. Các tác phẩm thời kỳ sau của Aivazovsky bao gồm những khung cảnh đầy dữ dội và thường là những bức tranh lớn. Ông khắc họa "cuộc tranh đấu đầy lãng mạn giữa con người và các thành tố của biển cả ("Cầu vồng | The Rainbow, 1873"), và cái gọi là "biển xanh dương" "(Vịnh Naples lúc sáng sớm | The Bay of Naples in Early Morning, 1897; Thảm họa | Disaster, 1898)."
Vi Đức Thọ (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1976, người Thái) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sơn La, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sơn La, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Sơn La, Ủy viên Ủy ban Xã hội của Quốc hội. Ông từng là Bí thư Huyện ủy Sông Mã, tỉnh Sơn La. Vi Đức Thọ là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Kinh tế xây dựng, Thạc sĩ Quản lý dự án xây dựng, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Sơn La. Xuất thân và giáo dục. Vi Đức Thọ sinh ngày 22 tháng 11 năm 1976 tại xã Mường Bon, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La, quê quán ở xã Tú Nang, huyện Yên Châu. Ông là người dân tộc Thái, lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Mai Sơn, thi đỗ Trường Đại học Xây dựng Hà Nội vào năm 1995, đến thủ đô nhập học rồi tốt nghiệp Cử nhân chuyên ngành Kinh tế xây dựng. Từ ngày 19 tháng 9 năm 2011 đến ngày 28 tháng 9 năm 2012, ông sang Anh theo học cao học ở Đại học Portsmouth, nhận bằng Thạc sĩ Quản lý dự án xây dựng. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 2 tháng 6 năm 2006, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và có chứng chỉ Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở Tổ 7, thành phố Sơn La. Tháng 4 năm 2002, sau khi hoàn thành quá trình học tập, Vi Đức Thọ được tuyển dụng công chức vào Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La, bổ nhiệm làm Chuyên viên Văn phòng Sở Xây dựng tỉnh. Ông công tác liên tục thời gian dài ở đây, lần lượt là Chuyên viên, Chuyên viên chính, Phó Chánh Văn phòng rồi Chánh Văn phòng Sở Xây dựng Sơn La. Tháng 9 năm 2012, sau khi trở về từ Anh, ông được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Sở Xây dựng Sơn La. Đến tháng 11 năm 2014, ông được điều về huyện Sông Mã, chỉ định vào Ban Thường vụ Huyện ủy, nhậm chức Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2015–2020, ông được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, rồi sau đó được phân công làm Bí thư Huyện ủy huyện Sông Mã. Vào ngày 7 tháng 5 năm 2019, Vi Đức Thọ được Tỉnh ủy giới thiệu, rồi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Sơn La, Bí thư Đảng đoàn. Sau đó, ngày 26 tháng 8 cùng năm, ông được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sơn La, tiếp tục tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Sơn La lần thứ XV, nhiệm kỳ 2020–2025. Năm 2021, ông ứng cử đại biểu quốc hội từ Sơn La, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 3 gồm huyện Vân Hồ, Mộc Châu, Phù Yên, Bắc Yên, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 83,56%. Trong nhiệm kỳ này, ông được phân công làm Ủy viên Ủy ban Xã hội của Quốc hội. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội
Yam khai dao (, ], "salad trứng chiên") là một món ăn Thái được làm từ trứng gà hoặc trứng vịt chiên. Một món ăn rất dễ chuẩn bị, nhưng không thường được bán tại các nhà hàng. Khá dễ dàng tìm kiếm các loại nguyên liệu đầy dinh dưỡng và tốt cho sức khỏe. Nó bao gồm nhiều vitamin, như vitamin B2 (Riboflavin), vitamin B12 và vitamin D.
Chamaléa Thị Thủy (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1983, người Ra Glai) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Ninh Thuận, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Ninh Thuận. Bà từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Ninh Thuận. Chamaléa Thị Thủy là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Khoa học lịch sử, Thạc sĩ Triết học, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp đều hoạt động ở quê nhà Ninh Thuận. Xuất thân và giáo dục. Chamaléa Thị Thủy sinh ngày 20 tháng 4 năm 1983 tại xã Tân Sơn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Thuận Hải, nay là tỉnh Ninh Thuận, quê quán ở thôn Đầu Suối A, xã Phước Chiến, huyện Thuận Bắc, tỉnh Ninh Thuận. Bà là người dân tộc Ra Glai, lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Thuận Bắc, thi đỗ đại học năm 2001, tới Thành phố Hồ Chí Minh học và tốt nghiệp Cử nhân chuyên ngành Khoa học lịch sử, sau đó học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Triết học. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 18 tháng 7 năm 2008, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và có chứng chỉ Cao cấp lý luận chính trị. Tháng 9 năm 2006, sau khi tốt nghiệp đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, Chamaléa Thị Thủy trở lại Ninh Thuận, được tuyển dụng công chức vào Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận, và bổ nhiệm làm Chuyên viên Phòng Chính sách – Nghiệp vụ của Ban Dân tộc tỉnh. Vào tháng 7 năm 2009, bà được điều về huyện Bác Ái, là Chuyên viên Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện, thăng chức Phó Chánh Văn phòng này từ tháng 12 cùng năm. Tháng 6 năm 2012, bà được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Bác Ái, nhậm chức Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện, sau đó đến tháng 5 năm 2014 thì được bầu vào Ban Thường vụ Huyện ủy, là Trưởng Ban Tổ chức Huyện ủy Bác Ái khi 31 tuổi. Tháng 7 năm 2015, bà được điều chuyển vị trí cao hơn là Phó Bí thư Huyện ủy, phụ trách tổ chức cơ sở Đảng huyện Bác Ái, trúng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận nhiệm kỳ 2016–2021. Đến tháng 9 năm 2016, và được miễn nhiệm ở Bác Ái, được chỉ định làm Ủy viên Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Ninh Thuận. Đầu năm 2017, tại Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XII, nhiệm kỳ 2017–2022, bà được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, sau đó được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận, là Bí thư Đảng đoàn, Bí thư Chi bộ, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Ninh Thuận. Tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020–2025, Chamaléa Thị Thủy tái đắc cử Tỉnh ủy viên, được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy ở tuổi 36, được phân công làm Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Ninh Thuận. Năm 2021, với sự giới thiệu của Tỉnh ủy, bà ứng cử đại biểu quốc hội từ Sơn La, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 3 gồm thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, huyện Ninh Hải, Thuận Bắc, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 70,06%. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng
Dãy núi Ba Nhan Khách Lạp Dãy núi Ba Nhan Khách Lạp hoặc Ba Nhan Khách Lạt () là dãy núi nằm ở phía nam trung tâm của tỉnh Thanh Hải, tây bắc Trung Quốc. Nó kéo dài từ phần trung nam tỉnh Thanh Hải theo hướng đông nam đến ngã ba Thanh Hải và Tứ Xuyên, với tổng chiều dài hơn 780 km. Cái tên Ba Nhan Khách Lạp bắt nguồn từ tiếng Mông Cổ có nghĩa là "núi đen giàu có". Về mặt địa chất, nó là một nhánh thuộc dãy núi Côn Lôn với đỉnh cao nhất là núi Quả Lạc ở độ cao 5.369 mét. Sườn phía bắc của dãy núi Ba Nhan Khách Lạp tương đối thoai thoải, trong khi sườn phía nam dốc với nhiều thung lũng sâu. Do nằm trên cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng nên địa hình rất cao, nhiệt độ khá thấp, tuyết trên các đỉnh núi cao trên 5.000 mét so với mực nước biển quanh năm không tan. Các sườn núi và ngọn đồi có độ cao thấp hơn vào mùa hè là những đồng cỏ quan trọng, và vật nuôi chính là cừu và bò Tây Tạng. Phần lớn cư dân nơi đây đều là người Tây Tạng làm nghề chăn nuôi gia súc. Dãy núi này là cội nguồn của sông Hoàng Hà và là lưu vực giữa sông Hoàng Hà và sông Dương Tử. Một số con sông lớn, chẳng hạn như sông Nhã Lung và sông Đại Độ, chảy về phía nam từ dãy núi này, là các nhánh thượng nguồn quan trọng của sông Dương Tử.
Ivan Ivanovich Shishkin (; 25 tháng 1 năm 1832 – 20 tháng 3 năm 1898) là một họa sĩ tranh phong cảnh người Nga. Shishkin là con của một gia đình thương nhân người Nga sống ở Yelabuga, tỉnh Vyatka (nay thuộc Cộng hòa Tatarstan). Ông tốt nghiệp trường trung học Kazan và theo học Trường Hội họa, Điêu khắc và Kiến trúc Moskva trong bốn năm. Sau đó, ông tiếp tục học tại Học viện Nghệ thuật Hoàng gia Sankt Peterburg từ năm 1856 đến 1860, tốt nghiệp với bằng danh dự và được trao một huy chương vàng. Ông nhận được học bổng hoàng gia để tiếp tục học bậc cao tại châu Âu. Năm năm sau đó, Shishkin trở thành thành viên của Học viện Nghệ thuật Hoàng gia Sankt-Peterburg và trở thành giáo sư hội họa từ năm 1873 đến 1898. Cùng thời gian đó, Shishkin là người dẫn dắt lớp hội họa phong cảnh của Trường Mỹ thuật Cao cấp ở Sankt-Peterburg. Trong một thời gian ngắn, ông sống và làm việc tại Thụy Sĩ và Đức theo diện học bổng của Học viện Nghệ thuật Hoàng gia Sankt-Peterburg. Sau khi quay trở lại Sankt-Peterburg, ông trở thành thành viên của "Hội Triển lãm Nghệ thuật lưu động" (Peredvizhniki, The Itinerants) và của Hội Thợ khắc tranh Nga. Ông cũng tham gia nhiều triển lãm của Học viện Nghệ thuật, Triển lãm Toàn Nga tại Moskva (1882), tại Nizhniy Novgorod (1896) và Triển lãm Quốc tế (ở Paris vào năm 1867 và 1878 ở Viên vào năm 1873). Phương pháp vẽ của Shishkin dựa trên nghiên cứu phân tích thiên nhiên. Ông nổi tiếng với những tác phẩm vẽ cảnh thiên nhiên và đồng thời cũng là thợ in ấn và thợ vẽ phác thảo tài ba. Ivan Shishkin sở hữu một nhà nghỉ ngoại ô (dacha) ở Vyra, phía nam St Petersburg. Tại đây ông đã sáng tác một số tác phẩm tuyệt vời nhất của mình. Tranh của ông nổi tiếng nhờ sự khắc họa đầy thơ mộng bốn mùa trong rừng, thiên nhiên hoang dã, động vật và chim chóc. Năm 1891, ông được bổ nhiệm làm giáo sư chủ nhiệm lớp phong cảnh của Trường Nghệ thuật Cao cấp, trực thuộc Học viện Nghệ thuật Hoàng gia. Năm 1898, ông hoàn thiện tác phẩm "Khu rừng thông nhỏ" và qua đời ngày 20 tháng Ba tại Sankt-Peterburg trong lúc đang vẽ dở tác phẩm mới. Một tiểu hành tinh do nhà thiên văn học người Liên Xô Lyudmila Zhuravlyvova phát hiện năm 1978, đã được đặt theo tên của ông - Tiểu hành tinh 3558 Shishkin.
Hàu ốp lết, còn được gọi là o-a-tsian (), o-chien () hoặc orh luak (; Peng'im: "o5 luah4") là một món ăn bắt nguồn từ người Mân Nam (cả người Phúc Kiến và Tiều). Do sự ảnh hưởng của cộng đồng người Phúc Kiến món ăn được nổi tiếng với nhiều cách nêm riêng như tại Mân Nam và Triều Sán, cùng với Đài Loan và nhiều quốc gia Đông Nam Á như Philippines, Thái Lan, Malaysia và Singapore. Hàu ốp lết là "một món yêu thích" tại chợ đêm Đài Loan, và liên tục được nhiều người nước ngoài xếp hạng là món ăn hàng đầu tại Đài Loan. Sự phổ biến và giá cả phải chăng là một trong những điểm nổi trội tại chợ đêm. Tại Philippines, menu tiếng Anh của món thường được gọi là "oyster cake". Món ăn bao gồm một ốp lết được phủ đầy bề mặt bằng lớp hàu Thái Bình Dương nhỏ. Bột (thông thường là bột khoai lang) được trộn với bột trứng, cho kết quả là vỏ bọc trứng sẽ dày hơn. Mỡ heo thường được sử dụng để chiên món ốp lết. Tuỳ theo sự đa dạng của các vùng, một loại nước sốt sẽ được đổ lên trên món ốp lết để tăng thêm hương vị. Tương ớt hoặc sa tế pha với nước chanh thường được thêm vào để tăng thêm sự kích thích khẩu vị. Tôm đôi khi thường được dùng để thay thế hàu; khi đó, nó được gọi là tôm ốp lết (). Trong Tiếng Trung Quốc, "hàu ốp lết" còn được biết với nhiều cách gọi khác nhau tùy theo vùng địa lý Trung Quốc. Ở Thái Lan nó còn được gọi "hoi thot" (), và được thay đổi thành vẹm ốp lết ("hoi malaeng phu thot", ), mặc dù phiên bản gốc là hàu ("hot nang rom thot", ) cũng phổ biến nhưng giá lại cao hơn. Tại Bangkok, những khu vực đề xuất cho món hàu ốp lết bao gồm Talat Wang Lang gần Bệnh viên Siriraj; bến thuyền Wang Lang (Siriraj) ở Bangkok Noi; Đường Yaowarat trong Phố Tàu Bangkok, nơi có một nhà hàng Michelin-Bib Gourmand cùng với phường Charoen Krung tại Bang Rak. Vào năm 2017, Đại hội ẩm thực đường phố thế giới công bố hàu ốp lết là một trong ba món ăn đường phố xuất sắc trong những món ăn đường phố tại Thái Lan.
Nhà thi đấu Đại học Thể thao Quốc gia Đài Loan Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nhà thi đấu Đại học Thể thao Quốc gia Đài Loan (; thường được gọi là Nhà thi đấu Lâm Khẩu do vị trí địa lý) là một nhà thi đấu đa năng nằm ở Quy Sơn, Đào Viên, Đài Loan. Nhà thi đấu nằm trong khuôn viên của Đại học Thể thao Quốc gia Đài Loan. Nhà thi đấu được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng rổ và bóng chuyền. Nhà thi đấu có sức chứa tối đa là 15.000 người cho 1 sự kiện thể thao. Các nội dung thi đấu môn bơi lội và môn bóng nước của Đại hội Thể thao Sinh viên Thế giới Mùa hè 2017 đã được tổ chức tại đây. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hiệp hội Thanh niên Liên Hợp Quốc Tổ chức Thanh niên Liên Hợp Quốc (; viết tắt: UN Youth) là mạng lưới bao gồm toàn bộ các tình nguyện viên trẻ tuổi của một tổ chức phi chính phủ (NGO) do thanh niên lãnh đạo. Tổ chức này đã và đang hỗ trợ tích cực cho các mục tiêu và nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và đó cũng là mục đích của họ nhằm lan tỏa những nguyên tắc này cũng như hoạt động của Liên Hợp Quốc trong xã hội dân sự của nước sở tại. Vào tháng 8 năm 2011, Mạng lưới Hiệp hội Thanh niên Liên Hợp Quốc (UNYANET) được thành lập tại Wien. UNYANET là mạng lưới quốc tế dành cho các Hiệp hội Thanh niên Liên Hợp Quốc và các Bộ phận UNA-Youth. WFUNA là một tổ chức thành viên phi lợi nhuận và phi chính phủ trên phạm vi toàn cầu của các Tổ chức Liên Hợp Quốc (UNA) hiện có mặt tại hơn 100 quốc gia. Hội Thanh niên WFUNA nằm trong mạng lưới các Tổ chức Thanh niên LHQ và phân bộ/mặt trận thanh niên của các Tổ chức Liên Hợp Quốc trên toàn thế giới. Hoạt động của UNYA. UNYA tiến hành nhiều hoạt động khác nhau, một số trong số đó là:
Tuyến Ilsan là một tuyến tàu điện ngầm do Korail điều hành kết nối Ga Jichuk ở Deogyang-gu và Ga Daehwa ở Ilsanseo-gu, Goyang-si, Gyeonggi-do. Các chuyến tàu từ tuyến này tiếp tục đến và đi từ Tuyến 3 của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul. Tuyến bắt đầu xây dựng vào ngày 15 tháng 3 năm 1991 như một phần mở rộng của Tuyến 3 Tàu điện ngầm Seoul với tuyến mở cửa vào năm 1996. Sau khi Tuyến Ilsan hoàn thành, Đường sắt Quốc gia Hàn Quốc bất ngờ tuyên bố sẽ chuyển quyền sở hữu tuyến này cho Chính quyền Thành phố Seoul. Theo Đường sắt Quốc gia Hàn Quốc, Chính quyền Thành phố Seoul đã yêu cầu Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tiếp quản hoạt động của Tuyến Ilsan, được kết nối với Tàu điện ngầm Seoul Tuyến 3, lưu ý rằng sẽ cần có các cơ sở quản lý và lực lượng lao động dư thừa nếu Đường sắt Quốc gia Hàn Quốc vận hành Tuyến Ilsan. Chính quyền thành phố Seoul đã bác bỏ yêu cầu vì Tuyến Ilsan nằm ở tỉnh Gyeonggi, và lo ngại chi phí tăng lên nếu Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul vận hành tuyến này Cuối cùng, Tuyến Ilsan vẫn thuộc thẩm quyền của Đường sắt Quốc gia Hàn Quốc mà ngày nay trở thành Korail. Ngày 27 tháng 12 năm 2014 nhà ga Wonheung bắt đầu hoạt động.
Thân vương xứ Condé Nhà Bourbon-Condé (Tiếng Pháp: "Maison de Bourbon-Condé"), là một gia đình quý tộc của Pháp thuộc chi nhánh của Vương tộc Bourbon, được đặt theo tên của địa danh Condé-en-Brie, hiện thuộc tỉnh Aisne, vùng Hauts-de-France. Tên của gia tộc bắt nguồn từ tước hiệu Thân vương xứ Condé (tiếng Pháp: "Prince de Condé") ban đầu được lập ra vào khoảng năm 1557 để trao cho nhà lãnh đạo Tin lành người Pháp, Louis de Bourbon (1530–1569), chú của Vua Henry IV, và các hậu duệ nam giới của ông đã truyền nhau tước vị này. Dòng Bourbon-Condé tuyệt tự vào năm 1830, khi hậu duệ đời thứ tám của vị thân vương đầu tiên là Louis Henri Joseph de Bourbon, qua đời mà không có con trai. Tước hiệu thân vương xứ Condé được tái lập dưới thời Quân chủ Tháng Bảy và trao cho Louis d'Orléans (qua đời năm 1866), cháu nội của vua Louis-Philippe I của Pháp. Các Thân vương xứ Condé xuất thân từ gia tộc Vendôme - tổ tiên của Vương tộc Bourbon hiện đại. Chưa bao giờ có một Thân vương quốc, hay chư hầu chủ quyền của xứ Condé nào được thành lập. Cái tên này chỉ đóng vai trò là nguồn lãnh thổ của một tước hiệu cho Louis, người được thừa kế từ cha mình, Charles IV de Bourbon, duc de Vendôme (1489–1537), lãnh chúa của Condé-en-Brie ở Champagne, bao gồm Château de Condé và hàng chục ngôi làng cách Paris khoảng 50 dặm về phía Đông. Nó đã được truyền từ các quý ông của Avesnes, cho các Bá tước của St. Pol. Khi Marie de Luxembourg-St.Pol kết hôn với François, Bá tước xứ Vendôme (1470–1495) vào năm 1487, Condé-en-Brie trở thành một phần tài sản sở hữu của gia tộc Bourbon-Vendôme.
Nguyễn Phương Thủy (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1974) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ Việt Nam – Lào, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Hà Nội. Bà từng là Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội. Nguyễn Phương Thủy là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Luật học, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có đa phần sự nghiệp hoạt động ở Văn phòng Quốc hội, rồi được bầu làm Đại biểu Quốc hội. Xuất thân và giáo dục. Nguyễn Phương Thủy sinh ngày 18 tháng 9 năm 1974 tại xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây, nay là thành phố Hà Nội. Bà lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Thường Tín, thi đỗ Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1992, theo học và tốt nghiệp Cử nhân Luật vào năm 1996. Từ tháng 11 năm 2004 đến tháng 12 năm 2005, bà sang Úc để theo học cao học ở Đại học Monash ở Melbourne và có bằng Thạc sĩ Luật học. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 28 tháng 12 năm 2001, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và có chứng chỉ Cao cấp lý luận chính trị. Hiện bà thường trú ở phố Láng Hạ, phường Láng Hạ, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Tháng 6 năm 1996, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Luật Hà Nội, bà ký hợp đồng với trường, công tác ở vị trí Giảng viên hợp đồng tại Khoa Tư pháp. Sau một thời gian ngắn 4 tháng, vào tháng 10 năm 1996, bà được tuyển dụng vào Văn phòng Quốc hội, được bổ nhiệm làm Chuyên viên Vụ Tổng hợp của Văn phòng Quốc hội. Đến tháng 8 năm 2003, bà được điều chuyển vị trí sang Chuyên viên Vụ Công tác lập pháp, rồi Chuyên viên Vụ Pháp luật từ tháng 5 năm 2008, được nâng ngạch lên Chuyên viên chính từ cuối năm 2009. Trong giai đoạn này, bà còn là Chi ủy viên Chi bộ Vụ Pháp luật nhiệm kỳ 2008–2010, Phó Chù tịch Công đoàn bộ phận Vụ Pháp luật từ năm 2008, và Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiếm tra Công đoàn cơ quan Văn phòng Quốc hội nhiệm kỳ 2009–2013. Tháng 4 năm 2010, bà được thăng chức làm Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Phó Bí thư Chi bộ Vụ, bên cạnh đó là Ủy viên Ban Chấp hành Công đoàn cơ quan Văn phòng Quốc hội khóa VIII, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội khóa XIV kiêm Tổ trưởng Tổ giúp việc về Văn bản pháp luật và Giải quyết khiếu nại, tố cáo của Văn phòng Hội đồng Bầu cử quốc gia. Sang đầu năm 2017, Nguyễn Phương Thủy được nâng lên ngạch cao nhất là Chuyên viên cao cấp, được bổ nhiệm làm Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Ủy viên Ban Thư ký Quốc hội khoá XIV. Bà cũng được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiêm Ủy ban Kiểm tra của Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội khoá XIV, nhiệm kỳ 2020–2025, kiêm Tổ trưởng Tổ giúp việc về Văn bản pháp luật và Thông tin, tuyên tuyền của Văn phòng Hội đồng Bầu cử quốc gia. Năm 2021, với sự giới thiệu của Đảng ủy Văn phòng Quốc hội, bà ứng cử đại biểu quốc hội từ Hà Nội, tại đơn vị bầu cử số 9 gồm các huyện Ứng Hòa, Mỹ Đức, Phú Xuyên và Thường Tín, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 74,57%. Ngày 23 tháng 7 năm 2021, bà được phê chuẩn làm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, và Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ Việt Nam – Lào từ tháng 11 cùng năm. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước
Hà Quốc Trị (sinh ngày 18 tháng 2 năm 1969) là nhà báo, chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa, Ủy viên Ủy ban Xã hội của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Khánh Hòa. Ông từng là Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Hà Quốc Trị là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Luật, Thạc sĩ Báo chí, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có nhiều năm công tác ở Ủy ban Kiểm tra Trung ương trước khi chuyển tới tổ chức Đảng địa phương, từng là thư ký của hai Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Văn Chi và Ngô Văn Dụ. Xuất thân và giáo dục. Hà Quốc Trị sinh ngày 18 tháng 2 năm 1969 tại xã Phương Khoan, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phú, nay là tỉnh Vĩnh Phúc. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Sông Lô, từ tháng 8 năm 1987 đến tháng 4 năm 1988 thì theo học lớp sơ cấp công nghệ chè của Xí nghiệp chè Phú Thọ. Tháng 1 năm 1991, ông thi đỗ Trường Đại học Tuyên giáo, nay là Học viện Báo chí và Tuyên truyền, lên Hà Nội học và tốt nghiệp Cử nhân Báo chí vào tháng 1 năm 1995. Ông cũng có một bằng đại học khác là Cử nhân Luật, học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Báo chí. Hà Quốc Trị được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 9 tháng 10 năm 1990, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và có chứng chỉ Cao cấp lý luận chính trị. Tháng 5 năm 1988, sau khi hoàn thành khóa sơ cấp công nghệ chè của Xí nghiệp chè Phú Thọ thì ông bắt đầu làm công nhân ở đây hơn 2 năm. Sau 4 năm 1991–95 theo học đại học ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, ông được nhận vào làm ở Tạp chí Kiểm tra của Cơ quan Ủy ban kiểm tra Trung ương, là Phóng viên, Biên tập viên liên tiếp hơn 10 năm 1995–2006. Vào tháng 11 năm 2006, ông được bổ nhiệm làm Phó Tổng biên tập Tạp chí Kiểm tra của Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Sang đầu năm 2009, ông được điều rời Tạp Chí Kiếm tra sau gần 15 năm công tác, giữ hàm Phó Vụ trưởng, phân công làm Thư ký Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa X, Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Văn Chi. Sang năm 2011, khi chính trị gia Nguyễn Văn Chi nghỉ hưu, Hà Quốc Trị được phân công làm Thư ký Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XI Ngô Văn Dụ, đồng thời được nâng hàm Vụ trưởng trong giai đoạn này. Sang tháng 5 năm 2014, ông được bổ nhiệm làm Vụ trưởng Vụ Tổng hợp Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Tháng 1 năm 2016, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, Hà Quốc Trị được bầu làm Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, giữ vị trí này trong 4 năm cho đến tháng 5 năm 2020 thì được điều về tỉnh Khánh Hòa, nhậm chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa. Năm 2021, với sự giới thiệu của Tỉnh ủy, ông ứng cử đại biểu quốc hội từ Khánh Hòa, tại đơn vị bầu cử số 2 ở thành phố Nha Trang, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 59,25%. Trong nhiệm kỳ này, ông được phân công làm Ủy viên Ủy ban Xã hội của Quốc hội và Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Khánh Hòa. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng
Nhà trưng bày Tretyakov Nhà trưng bày Quốc gia Tretyakov (#đổi , phiên âm "Gossudarstvennaya Tretyakovskaya Galereya") là một bảo tàng nghệ thuật ở Moskva. Tính đến năm 2018, đã có hơn 180.000 vật phẩm và bao gồm các bức tranh, tác phẩm điêu khắc và các sản phẩm kim loại quý được tạo ra từ thế kỷ XI đến thế kỷ XX được trưng bày nơi đây. Đây là một trong những bộ sưu tập nghệ thuật lớn nhất và nổi tiếng nhất ở Nga cùng với bảo tàng Ermitazh ở Sankt-Peterburg. Trong nhà trưng bày này, tất cả các tác phẩm nghệ thuật từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 20 được trưng bày. Tòa nhà chính của phòng trưng bày nằm trên ngõ Lavrushinsky ở quận Zamoskvorechye, gần ga tàu điện ngầm Tretyakovskaya. Nhà trưng bày này được đặt theo tên của người sáng lập, thương gia dệt may và nhà sưu tầm nghệ thuật người Nga Pavel Mikhailovich Tretyakov (1832-1898). Sự khởi đầu của bộ sưu tập nghệ thuật của ông bắt đầu từ năm 1851, khi Tretyakov cùng với em trai Sergei mua một ngôi nhà hai tầng ở phía nam hữu ngạn sông Moskva. Họ đã thành lập cơ sở kinh doanh của họ ở tầng trệt của tòa nhà trong khi một bộ sưu tập tranh ấn tượng của các nghệ sĩ đương đại địa phương dần mọc lên ở tầng trên. Qua nhiều năm, bộ sưu tập ngày càng lớn đến mức vào năm 1874 khiến Pavel Tretyakov mua một khu đất ở ngay gần ngôi nhà và xây dựng một tòa nhà mới trên đó dành riêng cho việc lưu trữ các tác phẩm. Vào đầu những năm 1890, bộ sưu tập của anh em nhà Tretyakov bao gồm khoảng 2,000 tác phẩm (1,362 tranh vẽ màu, 526 tranh vẽ chì, và 9 tác phẩm điêu khắc). Sau khi Sergei Tretyakov qua đời vào tháng 8 năm 1892, ông đã để lại di chúc thừa kế một phần của mình trong Bộ sưu tập Nghệ thuật Thành phố Moscow. Vài tuần sau, Pavel Tretyakov tặng phần còn lại của bộ sưu tập cho thành phố để tạo điều kiện thành lập một bảo tàng nghệ thuật cho công chúng. Bảo tàng nghệ thuật mới thành lập đã được mở cửa cho công chúng vào tháng 8 năm 1893 với tên gọi Phòng trưng bày nghệ thuật thành phố Moscow của Pavel và Sergei Mikhailovich Tretyakov. Để tỏ lòng biết ơn về sự đóng góp, Pavel Tretyakov đã nhận được danh hiệu công dân danh dự từ chính quyền thành phố Moskva. Sau cái chết của Pavel Tretyakov vào tháng 12 năm 1898, bảo tàng được quản lý bởi chính quyền thành phố cùng với các nghệ sĩ Nga như Ilya Ostrukhov. Từ năm 1899 đến năm 1906, nhà trưng bày này, hiện là bảo tàng, đã được cải tạo rộng rãi. Họa sĩ Viktor Vasnetsov đóng vai trò chính trong việc cải tạo ngôi nhà này. Mặt tiền về cơ bản dựa trên truyền thống của kiến ​​trúc phong cách Moskva cũ và được trang trí ở phần trên với hình phù điêu của thánh George. Vài tháng sau Cách mạng Tháng Mười, nhà trưng bày Tretyakov đã được quốc hữu hóa theo sắc lệnh của nhà lãnh đạo cách mạng Vladimir Ilyich Lenin vào tháng 6 năm 1918 và nhận được tên gọi hiện tại, "Nhà trưng bày Quốc gia Tretyakov." Kể từ đó, các cuộc triển lãm tạm thời thường xuyên cũng được tổ chức. Vào những năm 1920, các bộ sưu tập từ nhiều bảo tàng khác và một phần của các bộ sưu tập tư nhân khác nhau bị nhà nước tịch thu đã được tích hợp vào nhà trưng bày Tretyakov và điều này khiến lượng hàng tồn kho của bảo tàng tăng lên đáng kể đến nỗi nhà trưng bày Tretyakov phải được mở rộng vào giữa những năm 1930 do thiếu chỗ. Việc mở rộng nhà trưng bày Tretyakov được thực hiện theo thiết kế của kiến ​​trúc sư nổi tiếng Alexei Shchusev và được hoàn thiện vào năm 1936. Phần mở rộng phần lớn dựa trên kiến ​​trúc của tòa nhà ban đầu. Từ năm 1941 đến năm 1951, Alexander Ivanovich Samoshkin là giám đốc nhà trưng bày Tretyakov. Trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại 1941-1945, phần lớn những hiện tượng triển lãm của bảo tàng đã được chuyển đến Novosibirsk và được đặt tạm thời trong tòa nhà dang dở của nhà hát opera. Biện pháp này cũng được coi là đúng đắn, bởi vì trong trận Moskva, khu phức hợp bảo tàng đã bị hư hại nghiêm trọng trong các cuộc không kích. Nhà trưng bày Tretyakov chỉ có thể hoạt động bình thường trở lại sau chiến thắng trước Đức Quốc Xã và hoàn thành việc tái thiết lại đất nước. Lễ mở cửa lại phòng trưng bày diễn ra vào ngày 17 tháng 5 năm 1945. Năm 1977, phòng trưng bày đã nhận được một phần quan trọng trong bộ sưu tập của George Costakis. Từ năm 1980 đến 1992, Yuri Korolev (1929–1992) là giám đốc của nhà trưng bày. Trong thời gian này, bảo tàng đã được tu sửa và mở rộng rộng rãi để đáp ứng số lượng du khách ngày càng tăng và để đáp ứng tốt hơn lượng hàng tồn kho ngày càng tăng. Một bộ phận chuyên về nghệ thuật hiện đại cũng được khai trương vào năm 1986 tại một tòa nhà mới trên sông Moskva, ngay đối diện với lối vào chính của công viên Gorky. Tuy nhiên, tòa nhà chính của bảo tàng đã đóng cửa cho du khách từ năm 1986 đến năm 1995 vì lý do cải tạo. Kể từ khi mở cửa trở lại vào tháng 4 năm 1995, nhà trưng bày Tretyakov đã trưng bày tác phẩm của mình trong tổng số 62 hội trường trong các tòa nhà đã được tân trang lại hoàn toàn. Hiện giờ, Yelena Pronicheav là giám đốc của Nhà trưng bày Tretyakov kể từ năm 2023.
Hồng Kỳ (ca sĩ) Hồng Kỳ (1955 - ) là nghệ sĩ sân khấu, nam ca sĩ người Việt Nam, ông được nhiều thế hệ thiếu nhi biết đến với ca khúc "Alibaba". Bùi Hồng Kỳ sinh năm 1955, trong một gia đình nhà giáo, là con thứ hai trong số 5 anh chị em, tại phố Hàng Bè, Hà Nội, ông bộc lộ năng khiếu ca hát từ khi 5-6 tuổi. Năm 1964, Hồng Kỳ tham gia Câu lạc bộ Thiếu nhi Thủ đô, cùng thời với Như Quỳnh. Năm 1965 ông bắt đầu hát trên sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, và gia nhập đội Sơn Ca của đài. Vì chuyện gia đình mà năm 1972, ông không được học trường âm nhạc dù có điểm cao, cũng như không được nhập ngũ vì không đủ tiêu chuẩn. Ban đầu ông công tác tại Đoàn Ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam, rồi chuyển sang Đoàn Văn công đường sắt và Liên đoàn xiếc. Ngoài ca hát, Hồng Kỳ còn biết chơi trống, trong thời gian này ông gia nhập một bạn nhạc và được biết đến với bài hát "Điệu nhảy trên trống”. Năm 1980, ông là nghệ sĩ đầu tiên được vào biên chế của Nhà hát Tuổi trẻ và bắt đầu giành được nhiều giải thưởng ở thứ hạng cao, ông thuộc trong số học viên Đại học tại chức khóa đầu tiên tại Nhạc viện Hà Nội (niên khóa 1985-1990). Năm 1982, Hồng Kỳ đoạt giải nhì tại Liên hoan tiếng hát toàn quốc. Hồng Kỳ còn tham gia diễn hài kịch, và thường xuyên tham gia các chương trình phục vụ thiếu nhi. Hồng Kỳ được mệnh danh là “ca sĩ của tuổi thơ”, được các thế hệ khán giả nhỏ tuổi biết đến với "Alibaba", "Lời tâm sự của chú gà trống", "Tí sún"... Ông được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú năm 2001. NSƯT Hồng Kỳ sống tại Hà Nội cùng vợ từng là một giáo viên, họ có hai người con gái. Hồng Kỳ được biết đến với sở thích sưu tập xe Vespa. Năm 2001, Hồng Kỳ được phong danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú Năm 2013, được phong tặng Huân chương Lao động hạng ba
Trực họa ngoài trời En plein air (]; trong tiếng Pháp có nghĩa là 'ngoài trời'), hay vẽ plein air, trực họa ngoài trời, là hoạt động vẽ ở ngoài trời. Phương pháp vẽ này khác biệt với vẽ tranh trong xưởng vẽ hay vẽ theo các quy tắc của hội họa hàn lâm, vốn sẽ tạo ra một hình ảnh đã được xác định từ trước. Lý thuyết "en plein air" gắn liền với Pierre-Henri de Valenciennes (1750–1819), người đầu tiên giải thích kỹ càng thuật ngữ này trong chuyên luận "Sự phản chiếu và lời khuyên cho sinh viên trong việc vẽ tranh, đặc biệt là phong cảnh" ("Reflections and Advice to a Student on Painting, Particularly on Landscape," 1800")." Trong tác phẩm này, ông đã phát triển các khái niệm của phương pháp vẽ tranh phong cảnh mà ở đó họa sĩ sẽ trực tiếp vẽ cảnh đang nhìn lên khung vải. Phương pháp này cho phép họa sĩ nắm bắt tốt hơn những thay đổi của thời tiết và ánh sáng. Sự ra đời của khung vải và giá vẽ dễ mang theo đã mở đường cho phương pháp này phát triển, đặc biệt tại Pháp. Đầu thập niên 1830, họa phái Barbizon, chuyên vẽ tranh dưới ánh sáng tự nhiên, có tầm ảnh hưởng rất lớn. Đặc trưng nổi bật nhất của họa phái này là đặc tính tông màu, màu sắc, nét vẽ phóng khoáng và đường nét mềm mại. Những đặc tính này cũng xuất hiện tại họa phái sông Hudson và trường phái hội họa ấn tượng giữa thế kỷ 19, với không nhiều thay đổi. Trang thiết bị và thách thức. "Hộp giá vẽ" (box easel), thường được gọi là "Hộp giá vẽ kiểu Pháp" (French box easel) hoặc "giá vẽ ngoài trời" (field easel, plein air easel), được phát minh vào giữa thế kỷ 19. Không biết ai là người phát minh ra thiết bị này, nhưng chiếc giá vẽ có chân tương tự như chân kính viễn vọng này cực kỳ dễ mang theo người, lại thêm hộp đựng sơn cùng bảng pha màu chứa bên trong, khiến rất dễ mang nó vào vẽ trong rừng hoặc trên đồi. Đến tận ngày nay, thiết bị này vẫn rất phổ biến bởi có thể gấp gọn nó thành một cái vali dễ cất giữ. Hộp Pochade là một hộp nhỏ gọn để họa sĩ cất giữ tất cả bảng màu, họa cụ bên trong và có thể đặt tác phẩm vào mặt trong của nắp hộp. Thách thức với loại hình vẽ "en plein air" gồm có loại sơn sử dụng để vẽ ngoài trời, động vật, côn trùng, người đi lại, và điều kiện môi trường như là thời tiết. Màu acrylic có thể cứng lại và khô nhanh hơn trong điều kiện thời tiết nắng ấm, và một khi khô thì không thể tái sử dụng lại được. Ngược lại, thời tiết ẩm thấp hay mưa gió cũng là một thách thức. Sự ra đời của vẽ plein air tạo tiền đề cho phát minh sơn acrylic. Trước đó, chất liệu vẽ truyền thống, gắn bó lâu năm với "en plein air" là sơn dầu. Các họa sĩ ấn tượng Pháp như Claude Monet, Camille Pissarro, Alfred Sisley, và Pierre-Auguste Renoir rất ủng hộ vẽ plein air, phần nhiều các tác phẩm của họ đều được vẽ xong ngoài trời dưới ánh sáng khuếch tán của một cái dù lớn màu trắng. Claude Monet là một họa sĩ plein air nhiệt thành. Ông đưa ra kết luận rằng để đạt tới được sự gần gũi, trung thực tới bối cảnh ngoài trời tại một thời điểm nhất định, người vẽ cần phải ra bên ngoài để làm việc, chứ đừng chỉ vẽ cảnh bên ngoài nhìn từ trong xưởng vẽ. Nửa sau thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 tại Nga, các họa sĩ như Vasily Polenov, Isaac Levitan, Valentin Serov, Konstantin Korovin và I. E. Grabar nổi tiếng vì vẽ tranh "en plein air". Người ủng hộ hội họa plein air không chỉ ở Cựu thế giới. Các họa sĩ ấn tượng người Mỹ, chẳng hạn như họa phái Old Lyme, cũng là những người nhiệt tình vẽ "en plein air". Giới họa sĩ ấn tượng Mỹ nổi tiếng với cách vẽ tranh này có thể kể đến Guy Rose, Robert William Wood, Mary DeNeale Morgan, John Gamble, và Arthur Hill Gilbert. Ở Canada, Nhóm Bảy người (the Group of Seven) và Tom Thomson là những người ủng hộ "en plein air". Một số họa sĩ tiêu biểu.
Đào Hồng Vận (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1973) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Hưng Yên. Ông từng là Bí thư Huyện ủy Văn Giang, Hưng Yên. Đào Hồng Vận là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Nông học, Cử nhân Tài chính ngân hàng, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều hoạt động ở quê nhà Hưng Yên. Xuất thân và giáo dục. Đào Hồng Vận sinh ngày 22 tháng 4 năm 1973 tại xã Long Hưng, huyện Văn Giang, tỉnh Hải Hưng, nay là tỉnh Hưng Yên. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Văn Giang, tới Hà Nội theo học đại học và có hai bằng cử nhân gồm Cử nhân Nông học, và Cử nhân Tài chính ngân hàng. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 7 tháng 12 năm 2000, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở xã Phụng Công, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Tháng 3 năm 1996, sau khi tốt nghiệp đại học, Đào Hồng Vận ở về Hải Hưng, ký hợp đồng lao động với Sở Địa chính tỉnh Hải Hưng, công tác ở vị trí nhân viên hợp đồng, rồi sau đó chuyển sang Sở Địa chính tỉnh Hưng Yên khi tỉnh được tái lập vào tháng 11 năm 1996. Sang đầu năm 1997, ông được nhận vào là công chức, là Công chức tập sự tại Sở Địa chính tỉnh, phân công về Phòng Tổ chức Hành chính của Sở từ tháng 6 năm 1999. Tháng 10 năm này, ông được điều về huyện Văn Giang, là Chuyên viên Phòng Địa chính huyện. Vào tháng 7 năm 2002, ông được thăng chức làm Phó Trưởng phòng Tài chính – Kế hoạch – Thương mại huyện Văn Giang, được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện từ tháng 8 năm 2005, và là Trưởng phòng Tài chính – Kế hoạch từ đầu năm 2006. Tháng 10 năm 2011, ông được bầu vào Ban Thường vụ Huyện ủy, được phân công làm Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy Văn Giang từ tháng 1 năm 2012. Tháng 2 năm 2014, Đào Hồng Vận được điều lên Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên, bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Hưng Yên, công tác hơn 1 năm cho đến tháng 3 năm 2015 thì trở lại Văn Giang nhậm chức Bí thư Huyện ủy, rồi được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện từ tháng 4 năm 2015. Tháng 11 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015–2020, ông được bầu vào Ban Chấp hành Tỉnh ủy, rồi tái đắc cử vào tháng 10 năm 2020 tại Đại hội lần thứ XIX. Năm 2021, với sự giới thiệu của Tỉnh ủy, Đào Hồng Vận ứng cử đại biểu quốc hội từ Hưng Yên, tại đơn vị bầu cử số 3 gồm thị xã Mỹ Hào và các huyện Văn Giang, Văn Lâm, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 75,49%, đồng thời được phân công làm Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Ngày 23 tháng 3 năm 2022, ông được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hưng Yên, được Ban Bí thư Trung ương Đảng chuẩn y, sau đó đến ngày 11 tháng 5 thì miễn nhiệm công tác ở Văn Giang, nhậm chức Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng
Trần Đình Văn (sinh ngày 17 tháng 6 năm 1966) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Lâm Đồng, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng, Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Lâm Đồng. Ông từng là Bí thư Đảng ủy, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Lâm Đồng. Trần Đình Văn là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Ngữ văn, Cử nhân Luật, Cử nhân Chính trị học, Thạc sĩ Luật học, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở tỉnh Lâm Đồng. Xuất thân và giáo dục. Trần Đình Văn sinh ngày 17 tháng 6 năm 1966, quê quán ở xã Hương Vinh, huyện Hương Trà, nay là thị xã của tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Đà Lạt, theo học đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, có ba bằng đại học gồm Cử nhân Ngữ văn, Cử nhân Luật, Cử nhân Chính trị chuyên ngành Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Luật học. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 4 tháng 7 năm 1994, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Tháng 9 năm 1990, sau khi tốt nghiệp đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Đình Văn trở lại Lâm Đồng, được tuyển dụng công chức vào Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng, bổ nhiệm làm Chuyên viên Văn phòng Thanh tra tỉnh Lâm Đồng. Tháng 3 năm 1993, ông là Thanh tra viên Văn phòng Thanh tra tỉnh, rồi thăng chức Phó Chánh Văn phòng Thanh tra tỉnh từ tháng 6 năm 1997, là quyền Chánh Văn phòng từ tháng 12 năm 1998 và Chánh Văn phòng từ tháng 2 năm 2000. Tháng 8 năm 2005, ông được điều về thành phố Đà Lạt, nhậm chức Chánh Thanh tra thành phố Đà Lạt, đến tháng 7 năm 2009 thì được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt. Đến tháng 8 năm 2013, ông được điều lên Tỉnh ủy Lâm Đồng, nhậm chức Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy. Tháng 10 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ nhiệm kỳ 2015–2020, ông được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, được phân công làm Bí thư Đảng ủy, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Lâm Đồng. Tháng 7 năm 2019, Trần Đình Văn được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, tiếp tục là Chánh Văn phòng Tỉnh ủy. Sang tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lần thứ nhiệm kỳ 2020–2025, ông tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy, nhậm chức Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Lâm Đồng. Năm 2021, với sự giới thiệu của Tỉnh ủy, ông ứng cử đại biểu quốc hội từ Lâm Đồng, tại đơn vị bầu cử số 3 gồm thành phố Bảo Lộc và các huyện Bảo Lâm, Đạ Huoai, Đạ Tẻh, Cát Tiên, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 80,55%. Trong nhiệm kỳ này, ông được phân công là Ủy viên Ủy ban Tư pháp của Quốc hội và Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng
Khao kha mu (, ], #đổi ; , bính âm: "zhū jiǎo fàn"), đôi khi gọi đơn giản là kha mu (), là một món ăn Thái nổi tiếng. Nó ảnh hưởng bởi ẩm thực Trung Quốc, đặc biệt là ẩm thực Triều Châu. "Khao kha mu" là một món ăn bao gồm chân giò hầm trong nước lẩu cô đặc gia vị (một vài gia vị được trộn với bột cacao hoặc nấu với đậu phộng ), sau đó được thái thành lát mỏng và đặt lên trên cơm nóng. Món ăn được phục vụ với nửa quả trứng, một vài miếng dưa cải muối chua và cải rổ trụng cùng với ớt mắt chim tươi và vài tép tỏi đặt bên cạnh. Đôi khi thường dùng bữa với nước lèo. Nước chấm đi kèm thường được làm từ ớt chuông vàng, tỏi, muối hột, nước chanh và giấm. "Khao kha mu" là món ăn có thể tìm thấy trên đường phố, khu ăn uống trong khu mua sắm đến nhà hàng sang trọng. Tại Bangkok, có nhiều nhà hàng "khao kha mu" nổi tiếng tại các khu vực như Bang Wa, Phlapphla Chai, Mo Mi, Sam Yan, ... Một vài nhà hàng ở Bang Rak nhận được giải Bib Gourmand hai lần tại đánh giá Michelin năm 2018 và 2019.
Khao mu daeng (, ], nghĩa đen: 'cơm thịt heo đỏ') là một món ăn Thái, biến thể địa phương của "xá xíu" với cơm (, pinyin: "chā shāo fàn") của ẩm thực Trung Quốc. "Khao mu daeng" bao gồm cơm nóng, topped with thịt đỏ, "kun chiang", nửa quả trứng luộc (hoặc nửa miếng trứng luộc), và ba chỉ heo chiên giòn; đi kèm với dưa leo cắt lát và hành lá; và phủ nước sốt đậu ngọt. Nước chấm được làm từ sốt tương đen và ớt giấm, trong khi có thể tùy chọn thêm "nam phrik phao" (sốt ớt nướng kiểu Thái) vào. Khao mu krop (, ], nghĩa đen: 'cơm thịt heo giòn'; , "xiāngzhá wúhuā ròu gài fàn") là một biến thể của "khao mu daeng". Nó chỉ đơn thuần là "khao mu daeng" không thịt heo đỏ. Cả hai "khao mu daeng" và "khao mu krop" là món ăn có thể dễ tìm thấy, thậm chí ở đường phố, khu ăn uống, chợ hoặc tại nhiều nhà hàng với nhiều món cơm khác như "khao man kai", "khao kha mu" và "khao na pet". Tại Bangkok, có nhiều nhà hàng "khao mu daeng" nổi tiếng tại khu vực Si Lom, Talat Phlu, Wat Trai Mit, Thanon Plaeng Nam, và Sam Phraeng.
Ma trận bổ sung Cho hai ma trận A và B, trong đóformula_1ta có ma trận bổ sung ("A"|"B") được viết làformula_2Điều này rất hữu ích khi giải các hệ phương trình tuyến tính. Đối với một số cho trước các ẩn, số nghiệm của một hệ phương trình tuyến tính chỉ phụ thuộc vào hạng của ma trận biểu diễn các hệ số của hệ và hạng của ma trận bổ sung tương ứng. Cụ thể hơn, theo định lý Rouché–Capelli, một hệ phương trình tuyến tính bất kỳ là không nhất quán hay vô nghiệm nếu hạng của ma trận bổ sung lớn hơn hạng của ma trận hệ số; tuy nhiên nếu hạng của hai ma trận trên là bằng nhau thì hệ phải có ít nhất một nghiệm. Nghiệm là duy nhất khi và chỉ khi hạng bằng số ẩn; nếu không thì nghiệm tổng quát của hệ có k tham số tự do trong đó k là hiệu số giữa số ẩn và hạng, do đó trong trường hợp này hệ có vô số nghiệm. Một ma trận bổ sung cũng có thể được sử dụng để tìm nghịch đảo của một ma trận bằng cách gắn nó với ma trận đơn vị. Tìm nghịch đảo của một ma trận. Cho C là một ma trận vuông 2×2formula_3Để tìm nghịch đảo của C ta lập ma trận ("C"|"I") trong đó I là ma trận đơn vị 2×2. Sau đó ta tiến hành đơn giản hóa phần tương ứng với "C" về ma trận đơn vị, chỉ bằng các phép biến đổi hàng sơ cấp trên ("C"|"I"):formula_4 formula_5ta được phần bên phải chính là nghịch đảo của ma trận đã cho. Sự tồn tại của nghiệm và số nghiệm. Xét một hệ phương trình tuyến tính:formula_6Ma trận hệ số làformula_7và ma trận bổ sung làformula_8Bởi hai ma trận trên đều có hạng bằng nhau và bằng 2 nên tồn tại ít nhất một nghiệm; và do hạng của chúng ít hơn số ẩn bằng 3 nên hệ sẽ có vô số nghiệm. Ngược lại, xét hệ sauformula_9Ma trận hệ số làformula_10và ma trận bổ sung làformula_11Trong ví dụ này ma trận hệ số có hạng bằng 2 trong khi ma trận bổ sung có hạng bằng 3; do đó hệ phương trình tuyến tính là vô nghiệm. Thật vậy, số hàng độc lập tuyến tính tăng đã làm hệ phương trình này không nhất quán. Nghiệm của một hệ phuơng trình tuyến tính. Ma trận bổ sung được sử dụng trong đại số tuyến tính để biểu diễn các hệ số và vectơ nghiệm của từng tập phương trình. Đối với tập phương trìnhformula_12từ các số hạng hệ số và hằng số ta có hai ma trậnformula_13và do đó ma trận bổ sung làformula_14 Chú ý rằng hạng của ma trận hệ số bằng 3 và bằng hạng của ma trận bổ sung, do đó có ít nhất một nghiệm tồn tại; và do hạng đó cũng bằng số ẩn, hệ chỉ có đúng một nghiệm. Để thu được nghiệm này, ta có thể tiến hành các phép biến đổi hàng trên ma trận bổ sung cho đến khi phần bên trái trở thành ma trận đơn vị, ta đượcformula_15do đó nghiệm của hệ là ("x", "y", "z") = (4, 1, −2).
Lâm Xung (phim truyền hình) Lâm Xung (tên tiếng Anh: The Unyielding Master Lim) là một loạt phim truyền hình dài 20 tập của Hồng Kông được hãng TVB công chiếu năm 1986. Lấy hình mẫu chính từ nhân vật Lâm Xung và các nhân vật, chi tiết khác trong Thủy Hử, loạt phim truyền hình này khắc họa lại cuộc đời đầy sự kiện của Báo Tử đầu Lâm Xung - một tướng quân trong triều đình vua Tống Huy Tông nhưng vì gặp nhiều oan ức và sự chèn ép từ những tên tham quan trong triều đình Nhà Tống bấy giờ như Cao Cầu mà phải quay sang làm tướng cướp trên Lương Sơn Bạc. Sau khi được TVB phát sóng, "Lâm Xung" cũng đã được công chiếu tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam và được công chúng đón nhận tích cực. Thời vua Triết Tông, triều đình Bắc Tống đã rơi vào cảnh hủ bại, vua quan u tối khiến dân gian hết sức khốn khổ. Lâm Xung (Cao Hùng), vốn là con trai của một vị quan đề hạt ở Đông Kinh sinh ra vào giai đoạn này. Vốn rất giỏi võ nghệ lại trọng nghĩa khí, lại giức chức giáo đầu của cấm quân, Lâm Xung kết thân với vị quan sai Lỗ Đạt, sau xuất gia lấy pháp danh Lỗ Trí Thâm (Tần Hoàng) và một thanh niên làm chân sai vặt nhưng cũng rất giỏi võ nghệ trong kỹ viện tên Yến Thanh (Thang Trấn Nghiệp) với mong muốn được dùng tài võ nghệ để cứu nước cứu dân. Trong một lần tình cờ, Lâm Xung cũng làm quen và kết thân với Lý Sư Sư (Thích Mỹ Trân), vốn là đệ nhất kỹ nữ ở kinh thành. Thấy bất an trước mối quan hệ của con trai với một kỹ nữ nơi lầu xanh, cha của Lâm Xung đã quyết định hứa hôn cho Lâm Xung cùng con gái của Trương đại nhân vốn là phủ doãn ở Đông Kinh tên là Trương Minh Châu (Trần Mẫn Nhân). Cùng lúc này Cao Cầu (Lưu Giang) là một kẻ tiểu nhân vốn xuất thân hèn kém nhưng hết sức mưu mô, xảo quyệt nên đã được thái tử của Triết Tông là Đoan vương tuyển mộ làm tùy tùng. Sau khi Đoan vương lên ngôi và trở thành hoàng đế Tống Huy Tông (Quan Lễ Kiệt), Cao Cầu được vị hoàng đế trẻ hết sức trọng dụng và lộ mặt thật thành một tên quan lộng quyền khiến nhân dân hết sức khốn khổ. Đắc tội với Cao Cầu, Lâm Xung ngay lập tức bị hắn hãm hại, bị đày đi Thương Châu với mục tiêu thủ tiêu Lâm giáo đầu trên đường đi đày. Rất may cho Lâm Xung là Yến Thanh và Lỗ Trí Thâm cứu thoát. Biết tin Lâm Xung thoát chết, Cao Cầu lập tức sai thuộc hạ là Lục Khiêm (Hứa Thiệu Hùng) truy sát. Về phần Huy Tông, gã hoàng đế trẻ bỏ bê triều chính và chỉ đam mê Lý Sư Sư nhưng rồi phát hiện ra mỹ nhân họ Lý chỉ một lòng một dạ với Yến Thanh nên quyết tâm ra lệnh trừ khử Yến Thanh bằng mọi giá. Để cứu người mình yêu, Lý Sư Sư quyết định tự sát. Cái chết của cô lại càng thúc đẩy Yến Thanh quay trở về kinh thành để báo thù. Nhận lệnh của Cao Cầu, Lục Khiêm lần theo dấu của Lâm Xung đến Thương Châu và giết chết thê tử của Lâm Giáo đầu là Trương Minh Châu. Căm phẫn đến cực độ trước những oan ức và nỗi đau do Cao Cầu và Lục Khiêm gây ra, Lâm Xung cuối cùng đã báo thù giết chết Lục Khiêm và sau đó cùng với Yến Thanh, Lỗ Trí Thâm lên Lương Sơn Bạc để đánh lại triều đình.
Nguyễn Đình Việt (sinh ngày 9 tháng 7 năm 1977) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Cao Bằng. Ông từng là Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Văn phòng Quốc hội. Nguyễn Đình Việt là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Kinh tế, Thạc sĩ Thương mại, Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp tập trung hoạt động trong các cơ quan của Quốc hội, từng hoạt động tư nhân trước khi bước vào chính trường. Xuất thân và giáo dục. Nguyễn Đình Việt sinh ngày 9 tháng 7 năm 1977 tại xã Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hải Hưng, nay là thị trấn huyện lỵ huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Yên Mỹ, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế. Tháng 11 năm 2000, ông sang Úc để học cao học, tốt nghiệp vào tháng 11 năm 2004 và nhận hai bằng thạc sĩ gồm Thạc sĩ Thương mại tài chính, và Thạc sĩ Quản trị kinh doanh. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 19 tháng 5 năm 2007, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Tháng 9 năm 1999, sau khi tốt nghiệp đại học ở Hà Nội, ông về Hưng Yên, được tuyển vào làm nhân viên của Công ty Thương mại và sản xuất vật tư thiết bị giao thông vận tải, một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty Cơ khí của Bộ Giao thông Vận tải. Làm việc ở đây được 1 năm, ông đi du học 4 năm cho đến cuối năm 2004 thì trở về nước, làm Quản trị tài chính của Công ty cổ phần Đầu tư, Xây dựng và Thương mại An Phát, một hãng tư nhân ở Hưng Yên. Sau đó 3 năm, vào tháng 7 năm 2007, ông được tuyển dụng vào Ban Quản lý các Khu công nghiệp tỉnh Hưng Yên, đồng thời kết nạp Đảng Cộng sản, tham gia hệ thống nhà nước. Tháng 8 năm 2009, ông được điều lên Văn phòng Quốc hội, bổ nhiệm làm Chuyên viên Vụ Kinh tế của Văn phòng Quốc hội. Giai đoạn này, ông được bổ nhiệm hàm Trưởng phòng, là Thư ký Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Hà Văn Hiền. Vào tháng 7 năm 2011, ông được thăng chức làm Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế, rồi Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Kinh tế từ tháng 7 năm 2016. Tháng 5 năm 2017, Nguyễn Đình Việt được bổ nhiệm làm Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Văn phòng Quốc hội, đến tháng 9 cùng năm thì kiêm nhiệm Ủy viên Ban Thư ký Quốc hội, Bí thư Chi bộ Vụ. Ông cũng được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ cơ quan Văn phòng Quốc hội tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2020–2025. Năm 2021, ông ứng cử đại biểu quốc hội từ Cao Bằng, tại đơn vị bầu cử số 2 gồm huyện Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hạ Lang, Thạch An và thành phố Cao Bằng, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 65,57%. Ngày 23 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn giữ chức Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước
Maguindanao del Norte (, Jawi: دايرت نو ڤڠوترن ماڬينداناو) là một tỉnh của Philippines, thuộc Khu tự trị Bangsamoro tại Mindanao Hồi giáo. Thủ phủ là Datu Odin Sinsuat. Tỉnh Maguindanao del Norte giáp với tỉnh Cotabato ở phía đông, Lanao del Sur ở phía bắc, Maguindanao del Sur ở phía đông nam, và Sultan Kudarat ở phía nam. Thành phố lớn nhất tỉnh là thành phố Cotabato, nó được quản lý hành chính độc lập với tỉnh nhưng được gộp vào khi được đại diện trong quốc hội. Kế hoạch lập ra một tỉnh tại vùng đất nay là Maguindanao del Norte đã có từ năm 2006 khi tỉnh Shariff Kabunsuan tồn tại chỉ trong hai năm rồi nhập lại vào Maguindanao. Theo trưng cầu ý kiến vào ngày 17 tháng 9 năm 2022, tỉnh Maguindanao tách thành hai tỉnh là Maguindanao del Sur và Maguindanao del Norte. Ainee Sinsuat tuyên thệ làm thống đốc đầu tiên vào ngày 13 tháng 10 năm 2022. Giai đoạn chuyển tiếp kéo dài đến ngày 9 tháng 1 năm 2023. Maguindanao del Norte gồm có 1 thành phố độc lập, 12 khu tự quản, và 1 quận lập pháp.
Danh sách núi Đông Nam Á Bảng dưới đây là danh sách núi ở Đông Nam Á. Bởi vì có sự khác biệt định nghĩa phân vùng giữa địa lí chính trị và địa lí địa chất, đảo New Guinea và mũi đông nam của dãy núi Himalaya ở phía nam cao nguyên Thanh Tạng hoàn toàn không thuộc về Đông Nam Á ở trong một số định nghĩa địa chất học, đảo New Guinea thuộc về mảng Ấn - Úc, khu sinh học thuộc giới Australasia, về phương diện địa chất người ta đem nó quy vào châu Đại Dương. Cao nguyên Thanh Tạng thường được coi là một phần của Trung Á, dãy núi Himalaya trở thành ranh giới của Trung Á và Nam Á. Nếu không bao gồm hai khu vực kể trên, núi Kinabalu nằm ở Borneo của Malaysia sẽ là núi cao nhất ở Đông Nam Á. Tuy nhiên, xét về phân vùng địa lí chính trị, thông thường sẽ đem nửa phần phía tây đảo New Guinea do Indonesia cai quản (tỉnh Tây Papua và tỉnh Papua) coi là một phần của châu Á, vì vậy bốn đỉnh núi ở Indonesia như Puncak Jaya, S; nếu đem một phần lãnh thổ của Myanmar nằm ở cao nguyên Thanh Tạng coi là Đông Nam Á thì đỉnh núi Hkakabo Razi mới là đỉnh núi cao nhất.
Bảo tàng Bán Pha Tây An Bảo tàng Bán Pha Tây An () là một bảo tàng tọa lạc tại thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Bảo tàng này lưu giữ các hiện vật từ di chỉ Bán Pha. Bảo tàng cho phép du khách tiếp cận các công trình được khai quật, có cả một bộ sưu tập hiện vật từ địa điểm và cũng có một số ngôi nhà được xây dựng lại sở hữu thiết kế giống với khu định cư thời kỳ đồ đá mới. Bên cạnh đó, bảo tàng còn có thêm tuyến xe buýt chở khách đi tham quan khởi hành từ chỗ Đội quân đất nung và từ Tây An. Năm 1974, một viên kỹ sư người Áo tên là Ernst Wegerer từng đến thăm bảo tàng này thì tình cờ nhìn thấy hai chiếc đĩa đá Dropa. Khi Wegerer hỏi chuyện về những chiếc đĩa đá này thì người quản lý không nói được gì cả nhưng cho phép ông ta cầm một chiếc trên tay và chụp ảnh cận cảnh. Ông tuyên bố rằng trong các bức ảnh của mình không thể nhìn thấy hàng chữ tượng hình vì chúng đã bị đèn flash của máy ảnh che khuất và cũng do số đĩa này dần xuống cấp. Đến năm 1994, những cái đĩa đá này và tay quản lý đột nhiên biến mất tăm hơi khỏi bảo tàng.
Wilhelm Karl Joseph Killing (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1847 – mất ngày 11 tháng 2 năm 1923) là nhà toán học Đức có nhiều cống hiến quan trọng cho lý thuyết của các đại số Lie, nhóm Lie và hình học phi Euclid. Killing sinh ngày 10 tháng 5 năm 1847 ở Burbach gần Siegen, tỉnh Westphalia. Cha của ông ban đầu là thư ký tòa án và giữ một số chức vụ thị trưởng. Vì công việc của người cha, gia đình của ông phải chuyển đi nhiều lần. Sau đó, ông vào trường ngữ pháp ở Brilon để nghiên cứu về ngôn ngữ cổ điển. Trong suốt thời gian đó, Killing đã rất say mê hình học từ giáo viên của mình. Ông bắt đầu học toán vào học kỳ mùa đông năm 1865/66 tại Münster nơi ông tiếp tục con đường học vấn của mình chủ yếu bằng cách nghiên cứu các tác phẩm của Plücker, Hesse và Disquisitiones Arithmeticae của chính Carl Friedrich Gauss. Ngoài ra, ông còn tiếp tục làm việc với Ernst Eduard Kummer, Hermann von Helmholtz và Karl Weierstrass trong học kỳ mùa đông năm 1867/1866 ở Berlin. Sau đó, ông trở thành thành viên của hiệp hội sinh viên Công giáo K.D.St.V. Sauerlandia Münster. Vào tháng 3 năm 1872, Killing nhận bằng tiến sĩ từ Weierstrass với luận án về việc áp dụng ước số cơ bản của ma trận vào lý thuyết diện tích. Từ năm 1873 đến năm 1878, ông giảng dạy tại các trường học ở Berlin (Trường trung học Friedrichwerder và Trường Công giáo St. Hedwig). Từ năm 1878 trở đi, ông dạy học tại trường trung học quê hương của ông ở Brilon và vào năm 1882, ông là giáo sư toán học tại Lyceum Hosianum ở Braunsberg và trở thành hiệu trưởng. Khi còn là giáo viên trường trung học, ông đã xuất bản vài cuốn sách mặc dù phải tập trung với toán học và khối lượng công việc giảng dạy nặng nề. Ngoài ra, ông còn dạy các môn học khác như tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Từ năm 1880 trở đi, ông tập trung về hình học phi Euclide trong mọi chiều. Cuốn sách của ông, "Các dạng không gian phi Euclid trong xử lý phân tích", được xuất bản năm 1885. Cùng năm 1885, ông được bầu làm thành viên của viện hàn lâm khoa học Leopoldina. Vào năm 1878, Killing viết về các dạng không gian dưới các thuật ngữ của hình học phi Euclid trong tạp chí Crelle. Sau đó, ông phát triển những thứ này vào 1880 và năm 1885. Sử dụng các bài giảng của Weierstrass, ông giới thiệu mô hình hyperboloid của hình học hyperbol, mô hình được mô tả bằng các "toạ độ Weierstrass". Ông cũng được nhắc đến bởi tìm ra công thức biến đổi tương đương toán học với phép biến đổi Lorentz trong "n" chiều vào năm 1885. Quanh năm 1880, Killing phát minh ra đại số Lie độc lập với Sophus Lie. Thư viện trong trưởng của Killing không có tạp chí Scandinavian của Lie và do vậy bài của Lie không xuất hiện trước mắt Killing (Lie lúc sau vẫn khinh bỉ Killing, có lẽ vì tinh thần cạnh tranh đã cho rằng tất cả những gì hợp lệ đã được chứng minh bởi Lie và những gì chưa hợp lệ được thêm vào bởi Killing). Trên thực tế, bài viết của Killing không chặt chẽ logic như bài của Lie, nhưng Killing đặt mục tiêu cao hơn vào phân loại các nhóm, và tạo ra nhiều giả thuyết sau được chứng minh là đúng. Bởi mục tiêu của Killing rất cao, ông cũng rất khiêm tốn về thành tựu của bản thân mình.#đổi Từ năm 1888 đến năm 1890, Killing đã phân loại xong các đại số Lie đơn phức hữu hạn số chiều, là một bước cần thiết để phân loại các nhóm Lie, và phát minh ra khái niệm của đại số Cartan và ma trận Cartan. Do vậy ông chạm tới kết luận rằng, các đại số Lie đơn duy nhất là các đại số tương ứng với nhóm symplectic, trực giao hoặc tuyến tính, ngoại trừ một lượng nhỏ ngoại lệ ra. Bài luận án năm 1894 của Élie Cartan về căn bản là viết lại bài của Killing. Killing còn giới thiệu khái niệm của hệ nghiệm. Ông phát hiện ra đại số Lie ngoại lệ "g2" vào năm 1887; bài phân loại hệ nghiệm của ông tìm ra tất cả các trường hợp ngoại lệ, nhưng xây dựng chính xác chúng lúc sau mới được bắt đầu. Theo lời của A. J. Coleman, "Ông đã viết phương trình đặc trưng của nhóm Weyl khi Weyl mới có 3 tuổi và liệt kê các cấp của phép biến đổi Coxeter 19 năm trước khi Coxeter được sinh ra." Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tư liệu liên quan tới
Tỉnh Maguindanao del Sur (, Jawi:دايرت نو ڤاڬابڬتنن ماڬينداناو ), là một tỉnh của Philippines thuộc Khu tự trị Bangsamoro tại Mindanao Hồi giáo. Thủ phủ là Buluan gần thành phố Tacurong thuộc tỉnh Sultan Kudarat. Tỉnh này giáp với tỉnh Cotabato ở phía đông, Maguindanao del Norte ở phía tây, và Sultan Kudarat ở phía nam. Theo trưng cầu ý kiến vào ngày 17 tháng 9 năm 2022, tỉnh Maguindanao tách thành hai tỉnh là Maguindanao del Sur và Maguindanao del Norte. Mariam Mangudadatu tuyên thệ nhậm chức thống đốc vào ngày 13 tháng 10 năm 2022. Giai đoạn chuyển tiếp kéo dài đến ngày 9 tháng 1 năm 2023. Maguindanao del Sur gồm có 24 khu tự quản và 1 quận lập pháp.
Tinh vân gió sao xung Tinh vân gió sao xung (đôi khi còn được gọi là plerion - lấy từ tiếng Hy Lạp "πλήρης", "pleres", nghĩa là "đầy đủ"), là loại tinh vân đôi khi được tìm thấy bên trong lớp vỏ của tàn dư siêu tân tinh, năng lượng của nó lấy từ gió của một sao xung nằm tại vùng trung tâm. Những tinh vân này được đề xuất phân loại thành một kiểu tinh vân vào năm 1976, điểm khác biệt đến từ độ lớn sóng vô tuyến bên trong tàn tích siêu tân tinh. Kể từ đó, người ta phát hiện nhiều nguồn bức xạ khác được phát ra từ chúng như hồng ngoại, quang học, milimet, tia X và tia gamma. Sự phát triển của tinh vân gió sao xung. Tinh vân gió sao xung phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Tinh vân gió sao xung xuất hiện ngay sau khi một sao xung hình thành, và thường nằm bên trong một tàn tích siêu tân tinh, ví dụ như Tinh vân Con Cua, hoặc tinh vân trong Tàn tích siêu tân tinh Vela lớn. Khi tinh vân gió sao xung già đi, tàn dư siêu tân tinh tiêu tan và biến mất. Theo thời gian, các tinh vân gió sao xung có thể trở thành các tinh vân xung kích hình cung bao quanh các sao xung quay chậm hoặc sao xung miligiây. Đặc tính của tinh vân gió sao xung. Gió sao xung chứa các hạt tích điện (plasma) di chuyển nhanh đến một tốc độ tương đối, mà tốc độ này được tính bằng tốc độ quay của từ trường của sao xung trên 1 teragass (100 triệu tesla). Gió sao xung thường thổi vào môi trường liên sao xung quanh, tạo ra sóng xung kích theo phương đứng được gọi là 'xung kích chặn gió', ở đó gió giảm tốc độ xuống tốc độ tương đối thấp. Ngoài khu vực này, bức xạ synchrotron tăng lên trong dòng chảy từ hóa. Tinh vân gió sao xung thường có các đặc tính sau: Tinh vân gió sao xung có thể được dùng để thăm dò tương tác của sao xung/sao neutron với môi trường xung quanh chúng. Các tính chất độc đáo đó có thể dùng để suy ra hình dạng, năng lượng và thành phần của gió sao xung, vận tốc trong không gian của chính sao xung và các tính chất của môi trường xung quanh.
Chuỗi Kempner:31–33 là một phiên bản đặc biệt của chuỗi điều hòa, được hình thành từ chuỗi điều hòa bằng cách loại bỏ trong chuỗi đó các phần tử có biểu diễn cơ số 10 chứa chữ số 9. Tức là dấu nháy đơn dùng để nói rằng "n" chỉ lấy các số không chứa chữ số 9. Chuỗi này được lần đầu nghiên cứu bởi A. J. Kempner trong 1914. Chuỗi này trái ngược với trực giác vì không giống như chuỗi điều hòa, chuỗi này thực ra hội tụ. Kempner chứng minh tổng của chuỗi này nhỏ hơn 90. Baillie đã chứng minh và tính giá trị tổng của chuỗi, được làm tròn đến 20 chữ số: (dãy số trong bảng OEIS). Theo heuristic, chuỗi này hội tụ bởi vì hầu như mọi số lớn đều chứa mọi chữ số. Ví dụ chẳng hạn, cho một số nguyên có 100 chữ số, số đó sẽ rất có khả năng chứa ít nhất một chữ số 9 trong đó, do đó nó có thể bị loại khỏi tổng trên. Schmelzer và Baillie tìm ra thuật toán hiệu quả trong bài toán tổng quát loại bỏ bất kỳ xâu chữ số. Ví dụ chẳng hạn, tổng của trong đó "n" không chứa "42" có giá trị nằm vào khoảng . Một ví dụ khác: tổng của trong đó "n" không chứa xâu chữ số "314159" là khoảng . (Tất cả giá trị này đều đã được làm tròn ở chữ số cuối.) Bài chứng minh tính hội tụ của Kempner được nhắc lại trong nhiều sách, ví dụ như trong sách của Hardy và Wright,:120 và ngoài ra cũng là bài tập trong cuốn Apostol.:212 Ta nhóm các phần tử theo số chữ số của mẫu số. Số các số nguyên dương có "n" chữ số và không có chữ số '9' là 8 × 9"n"−1 bởi vì có 8 lựa chọn (từ 1 đến 8) cho chữ số đầu tiên, và 9 lựa chọn độc lập (từ 0 đến 8) cho mỗi chữ số còn lại trong "n"−1 chữ số. Mỗi số không chứa chữ số '9' này lớn hơn hoặc bằng với 10"n"−1, do đó nghịch đảo của mỗi số này nhỏ hơn hoặc bằng với 101−"n". Do đó, tổng của toàn bộ nhóm này nhỏ hơn 8 × ()"n"−1. Do đó tổng ban đầu không lớn hơn Ta có thể lập luận tương tự cho bất kỳ chữ số khác không. Số các số nguyên dương "n" chữ số không chứa chữ số '0' là 9"n", do đó tổng của trong đó "n" không có chữ số '0' không quá Chuỗi này vẫn hội tụ nếu ta loại bỏ đi "k" chữ số liên tiếp, ví dụ chẳng hạn, nếu ta bỏ các phần tử có xâu chữ số 42 thì ta vẫn có thể chứng minh theo cách gần như trên. Đầu tiên, quan sát rằng ta có thể làm việc với các số trong hệ cơ số 10"k" và bỏ đi các phần tử có mẫu số chứa "chữ số" bằng với xâu trên. Chứng minh tương tự với hệ cơ số 10 sẽ cho thấy chuỗi này hội tụ. Sau đó quay về hệ cơ số 10, ta nhận thấy rằng chuỗi này chứa các phần tử có mẫu số bỏ xâu cho trước và các các mẫu số chứa nó nếu nó không nằm trong giới hạn ""k" chữ số". Ví dụ chẳng hạn nếu ta bỏ 42, thì trong hệ cơ số 100, chuỗi này sẽ bỏ cả 4217 và 1742, nhưng không bỏ 1427, do đó nó lớn hơn tổng không chứa 42 (Trong hệ cơ số 100, số có 4 chữ số trong cơ số 10 sẽ chuyển thành số có hai chữ số, số 42 gốc hoặc sẽ là chữ số trái hoặc chữ số phải, hoặc có chữ số 4 nằm ở chữ số trái và chữ số hai ở chữ số phải, phương pháp chứng minh trên chỉ loại bỏ hoàn toàn chữ số chứ không nửa này nửa nọ, do đó số 1427 vẫn được cộng vào). Farhi xét chuỗi Kempner tổng quát, là các tổng "S"("d", "n") của các nghịch đảo của các số tự nhiên chứa "n" lần chữ số  "d" trong đó 0 ≤ "d" ≤ 9 (do vậy, tổng của chuỗi Kempner gốc là "S"(9, 0)). Ông chứng minh rằng cho mỗi chữ số "d" dãy các giá trị "S"("d", "n") với "n" ≥ 1 là dãy giảm dần và hội tụ đến 10 ln 10. Dãy này chưa thực sự giảm dần khi bắt đầu với "n" = 0; ví dụ chẳng hạn, đối với chuỗi Kempner gốc ta có "S"(9, 0) ≈ 22.921  23.026 ≈ 10 ln 10  "S"(9, "n") với "n" ≥ 1. Các phương pháp xấp xỉ. Chuỗi này hội tụ cực kỳ chậm. Baillie đã chỉ ra rằng sau khi cộng 1024 phần tử, hiệu giữa cận trên với giá trị tổng vẫn lớn hơn 1. Cận trên 80 vẫn còn thô. Trong 1916, Irwin đã chứng minh giá trị của tổng chuỗi Kempner nằm giữa 22.4 và 23.3, sau này tìm ra được giá trị trên Baillie xét tổng của nghịch đảo của tất cả các luỹ thừa bậc "j" cho mọi "j". Ông phát triển công thức đệ quy biểu diễn tổng của luỹ thừa bậc "j" từ khối ("k" + 1) chữ số bằng các luỹ thừa cao hơn của khối "k" chữ số. Do đó, chỉ cần một lượng tính toán nhỏ, chuỗi gốc (tương ứng với "j" = 1, cộng trên tất cả giá trị "k") có thể được ước lượng chính xác.
Danh sách chương trình giữa hiệp Super Bowl Các chương trình biểu diễn giữa hiệp là truyền thống của các trận đấu bóng bầu dục Mỹ tại mọi cấp độ thi đấu. Màn giải trí trong trận tranh chức vô địch Siêu cúp Bóng bầu dục Mỹ hàng năm của Giải Bóng bầu dục Quốc gia (NFL) đại diện cho mối liên kết cơ bản giữa bóng bầu dục với văn hóa đại chúng, điều này giúp mở rộng khán giả truyền hình và sự quan tâm đến trận siêu cúp trên toàn nước Mỹ. Sau đây là danh sách những nghệ sĩ biểu diễn, nhà sản xuất, chủ đề và nhà tài trợ cho mỗi chương trình giữa hiệp Super Bowl. Danh sách này không bao gồm những nghệ sĩ hát quốc ca, được liệt kê riêng trong bài viết Danh sách những người biểu diễn quốc ca tại Super Bowl. Nghệ sĩ chính được in đậm.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tranh chỉ đinh hoặc nghệ thuật đinh và chỉ được tạo nên bởi một sợi chỉ duy nhất quấn quanh hệ thống đinh được đóng chặt trên Mặt phẳng. Các đường thẳng được tạo ra khi sợi chỉ quanh 2 đinh. Nhiều đường thẳng khi giao nhau và thay đổi nhiều góc độ tạo ra sự xuất hiện của các Đường cong Bézier bậc hai. Từ những Đường cong Bézier bậc hai sẽ tiếp tục tạo ra hình ảnh như việc vẽ tranh bằng bút chì. Tranh chỉ đinh do Mary Everest Boole phát minh vào cuối thế kỷ 19 để làm cho các ý tưởng toán học dễ tiếp cận hơn với trẻ em.Nó đã được phổ biến như một nghề Thủ công mỹ nghệ vào cuối những năm 1960 thông qua các bộ dụng cụ và sách hướng dẫn cách làm. Năm 2016, Petros Vrellis áp dụng thuật toán số hóa cho ra một chuỗi các chữ số bằng Máy tính để tạo ra tác phẩm nghệ thuật Tranh chỉ đinh. Người dùng chỉ cần quấn chỉ từ cây đinh tương ứng với con số này đến cây đinh ứng với số khác bằng một sợi chỉ duy nhất.
Những ngôi sao thành Eger (tiểu thuyết) Những ngôi sao thành Eger (tiếng Hungary: Egri csillagok lit. "Stars of Eger") là một tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Hungary Géza Gárdonyi. Nó được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1899 và là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng và được công nhận rộng rãi nhất ở Hungary. Cuốn tiểu thuyết được dịch bởi Lê Xuân Giang Câu chuyện lấy bối cảnh vào nửa đầu thế kỷ 16 và kéo dài khoảng 25 năm. Các sự kiện lịch sử chính được đề cập là cuộc chiếm đóng Buda không đổ máu, nơi ngự trị của các vị vua Hungary, vào năm 1541, và Cuộc vây hãm Eger năm 1552 (nay thuộc miền Bắc Hungary) của người Thổ Nhĩ Kỳ đã tạo thành chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết. Câu chuyện cũng đề cập đến một số chủ đề lịch sử khác như tác động của Cải cách, mối bất hòa giữa người Hungary và Hoàng đế La Mã Thần thánh, cũng như nhiều chủ đề quan trọng chung như lòng thương xót, lòng hiếu thảo và tình yêu hôn nhân, tình bạn, lòng tin và sự trung thực. Hầu hết các nhân vật của cuốn sách đều là nhân vật lịch sử, đặc biệt là chính người anh hùng Gergely Bornemissza, mặc dù hầu hết họ đã được lãng mạn hóa mạnh mẽ theo ý đồ của tác giả. Câu chuyện cuộc đời của Gergely trong cuốn tiểu thuyết gần như được kể lại đầy đủ, ngoại trừ vai trò là một sĩ quan trong cuộc vây hãm Eger. Éva Cecey, tình yêu và là vợ sau này của Gergely, là hư cấu; miêu tả của cô ấy trong tiểu thuyết dựa trên "người phụ nữ lý tưởng" của Gárdonyi. Cuốn tiểu thuyết gồm năm phần kể về cuộc đời của Gergely Bornemissza từ năm 8 tuổi cho đến năm 1552, khi ông ngoài ba mươi tuổi. I. Gergely là một đứa trẻ mồ côi và là con trai của một phụ nữ nghèo, trong khi Éva Cecey là con gái của một địa chủ. Họ vẫn là bạn chơi. Khi đang chơi trong rừng, hai đứa trẻ bị bắt bởi một người Thổ Nhĩ Kỳ tên là Jumurdzsák và phải tham gia vào một cuộc hành trình của các tù nhân. Nhờ sự tinh ranh của cô bé Gergely, hai đứa trẻ đã trốn thoát được và sau đó còn giải thoát cho những tù nhân khác. Mẹ của Gergely chết trong một cuộc đột kích của quân Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng cậu bé được nhà quý tộc giàu có Bálint Török nhận làm con nuôi, nơi cậu được học hành tử tế. II. Vài năm sau, Gergely phải trải nghiệm rằng Buda bị người Thổ Nhĩ Kỳ bắt giữ do lừa dối và cha nuôi của anh là Bálint Török bị bắt làm tù binh. Gergely gặp lại Éva, lúc này đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp. III. Gergely biết rằng Éva, một tay đua và chiến binh xuất sắc sẽ kết hôn với Adam Fürjes hèn nhát theo yêu cầu của nữ hoàng. Họ bỏ trốn cùng nhau và kết hôn. Cùng với một số người bạn, họ dự định giải thoát Bálint Török khỏi nhà tù của hắn ở Istanbul. Họ đến thành phố Ottoman, nhưng dù trải qua nhiều cuộc phiêu lưu, cuối cùng họ vẫn thất bại trong việc giải thoát cho nhà quý tộc Hungary. IV. Đó là năm 1552, một lực lượng khoảng 200.000 người Thổ Nhĩ Kỳ đang tiến đến thị trấn nhỏ Eger, thành trì chỉ được bảo vệ bởi 2000 binh sĩ. István Dobó, đội trưởng của tòa thành, kêu gọi quân đội của hoàng đế đến viện trợ, nhưng không có ai đến. Gergely gia nhập lực lượng đang chuẩn bị chiến đấu ở Eger, trong khi rời Éva về nhà cùng đứa con trai nhỏ của họ. Ngay sau khi anh ta rời đi, một kẻ lạ mặt đến và bắt cóc cậu bé. Éva nhận ra rằng người lạ hẳn là Turk Jumurdzsák. Cô ấy hiểu rằng phải có mối liên hệ với cuộc bao vây Eger, vì vậy cô ấy đã cải trang thành một người đàn ông và cố gắng vào lâu đài bị bao vây. V. Mặc dù lực lượng của người Thổ Nhĩ Kỳ áp đảo, nhưng người Hungary ở Eger vẫn có thể tự vệ. Những bức tường kiên cố của Eger và tinh thần cao độ của những người bảo vệ cho phép pháo đài chống chọi được với 5 cuộc tấn công lớn và các đợt đại bác liên tục - gần 12.000 viên đạn đại bác đã hạ cánh bên trong pháo đài trước khi cuộc bao vây kết thúc. Bằng một sự khéo léo vô song, Bornemissza đã nghĩ ra những quả lựu đạn thô sơ nhưng gây chết người và những quả bom cỡ thùng bột để sử dụng chống lại những kẻ tấn công, cũng như một bánh xe cối xay nước chứa đầy thuốc súng mà anh ta lăn vào hàng ngũ Ottoman. Éva cuối cùng cũng đến Eger. Mặc dù quân Ottoman tấn công hết lần này đến lần khác, tòa thành vẫn đứng vững, cùng với những người phụ nữ của Eger tham gia trận chiến. Cuối cùng, lực lượng Ottoman rút lui. Con trai nhỏ của Gergely và Éva được đổi lấy một cậu bé Thổ Nhĩ Kỳ đã bị bắt, và gia đình cuối cùng cũng được đoàn tụ. Chuyển thể thành phim. Cuốn tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim hai lần: Stars of Eger (1923), một bộ phim câm của đạo diễn Pál Fejös. Stars of Eger (1968), phim âm thanh của đạo diễn Zoltán Várkonyi
Đàm Minh Diện (sinh ngày 7 tháng 2 năm 1970, người Tày) là sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là Đại tá, hiện là Phó Tham mưu trưởng Quân khu 1, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Cao Bằng. Ông từng là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cao Bằng, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Cao Bằng; Phó Chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng của Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh này. Đàm Minh Diện là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Cử nhân Quân sự, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có hơn 35 năm tại ngũ, đa phần phục vụ quân đội ở Cao Bằng. Xuất thân và giáo dục. Đàm Minh Diện sinh ngày 7 tháng 2 năm 1970 tại xã Hoàng Tung, huyện Hòa An, Khu tự trị Việt Bắc, nay là tỉnh Cao Bằng. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Hòa An, nhập ngũ Quân đội nhân dân Việt Nam vào tháng 10 năm 1987, theo học Trường Sĩ quan Lục quân 1, nay là Trường Đại học Trần Quốc Tuấn, tốt nghiệp Cử nhân Quân sự vào tháng 7 năm 1991. Ông cũng từng trở lại trường Lục quân 1 để học khóa quân sự từ tháng 9 năm 2001 đến tháng 8 năm 2002, học tại Học viện Lục quân từ tháng 9 năm 2006 đến tháng 8 năm 2008, học các khóa tại Học viện Quốc phòng giai đoạn tháng 2–7 năm 2016, khóa chỉ huy tham mưu cấp chiến dịch – chiến lược từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 7 năm 2020. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 24 tháng 5 năm 1991 tại trường Lục quân 1, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Tháng 7 năm 1991, Đàm Minh Diện tốt nghiệp loại giỏi của Trường Sĩ quan Lục quân 1, nhận quân hàm Trung úy, được điều về Quân khu 1, công tác ở Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Cao Bằng, bắt đầu ở vị trí Trung đội trưởng của Tiểu đoàn 2. Tháng 2 năm 1996, ông là Phó Đại đội trưởng, rồi Đại đội trưởng, đồng thời là Giáo viên của Trường Quân sự thuộc Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Cao Bằng. Vào cuối năm 2003, ông là Phó Tiểu đoàn trưởng rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, đến tháng 9 năm 2008 thì được phong quân hàm Trung tá, được phân công là Trợ lý Tác huấn rồi lần lượt thăng chức Phó Trưởng Ban Tác huấn, rồi Trưởng Ban Tác huấn, Phòng Tham mưu Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh. Tháng 5 năm 2011, ông được điều về huyện Trà Lĩnh, chỉ định vào Ban Thường vụ Huyện ủy, quân hàm Thượng tá, giữ chức Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự huyện Trà Lĩnh. Sau đó 3 năm, ông là Đảng ủy viên, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Quân sự tỉnh, rồi được thăng quân hàm Đại tá, nhậm chức Phó Tham mưu trưởng, thăng lên Phó Chỉ huy trưởng kiêm Tham mưu trưởng. Tháng 6 năm 2019, Đàm Minh Diện được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cao Bằng, được phân công làm Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự tỉnh, bổ nhiệm làm Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Cao Bằng. Tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025, ông tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy. Năm 2021, với sự giới thiệu của Bộ Tư lệnh Quân khu 1, ông tham gia ứng cử đại biểu quốc hội, tại đơn vị bầu cử số 1 gồm huyện Quảng Hòa, Trùng Khánh, Hạ Lang, Thạch An và thành phố Cao Bằng, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 69,03%. Ngày 30 tháng 10 năm 2023, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định bổ nhiệm ông làm Phó Tham mưu trưởng Quân khu 1, tiến hành bàn giao các chức vụ ở Bộ Chí huy Quân sự tỉnh Cao Bằng cho Đại tá Đàm Minh Tuân. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #CF9C65;" | Chức vụ quân sự
Ivan Nikolaevich Kramskoi (tiếng Nga: Ива́н Никола́евич Крамско́й; 8 tháng Sáu (lịch cũ 27 tháng Năm), 1837, Ostrogozhsk – 6 tháng Tư (lịch cũ 24 tháng Ba), 1887, Saint Petersburg) là họa sĩ và nhà phê bình nghệ thuật người Nga. Ông là trí thức lãnh đạo phong trào nghệ thuật "Những kẻ lang thang" (The Itinerants, Peredvizhniki) trong giai đoạn 1860–1880. Cuộc đời và sự nghiệp. Kramskoi xuất thân từ một gia đình tiểu tư sản khốn khó. Từ năm 1857 đến 1863, ông học tại Học viện Nghệ thuật St. Petersburg. Kramskoi phản đối nghệ thuật hàn lâm kinh viện và là người khởi xướng "Cuộc nổi dậy của những người mười bốn tuổi" (Revolt of the Fourteen), kết cục là một nhóm học viên đã bị đuổi học và họ tự thành lập nên "Artel of Artists" ("Артель художников"). Tiếp nhận ảnh hưởng của các nhà cách mạng dân chủ Nga, Kramskoi xác định trách nhiệm cao cả của nghệ sĩ với cộng đồng, các nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực, bản chất đạo đức và tính dân tộc của nghệ thuật. Ông trở thành một trong những người thành lập và nhà lý luận quan trọng của Hội Triển lãm Nghệ thuật của những người lang thang (hay Peredvizhniki). Trong giai đoạn 1863-1868, ông dạy môn vẽ phác họa tại một hội đoàn nhằm thúc đẩy nghệ thuật ứng dụng. Kramskoi tổ chức một phòng trưng bày tranh chân dung các nhà văn, nhà khoa học, nghệ sĩ và nhân vật công chúng quan trọng (Lev Nikolaevich Tolstoy, 1873, Ivan Shishkin, 1873, Pavel Mikhailovich Tretyakov, 1876, Mikhail Saltykov-Shchedrin, 1879, Sergei Botkin, 1880), tại đây tính đơn giản nhưng giàu sức biểu cảm trong bố cục và cách khắc họa sáng sủa đã nhấn mạnh được các nhân tố tâm lý học quan trọng của nhân vật. Lý tưởng dân chủ của Kramskoi thể hiện sáng rõ nhất trong các bức chân dung người nông dân, bộc lộ được rất nhiều đặc điểm chi tiết đại diện cho những người bình dân. Khi vẽ một trong những tác phẩm lừng danh nhất, bức "Thiên Chúa trên hoang mạc (Christ in the Desert" ,1872, nhà trưng bày Tretyakov), Kramskoi kế tục truyền thống nhân văn của Alexander Ivanov qua việc xử lý một đối tượng tôn giáo theo cách giàu tính luân lý và triết học. Ông lồng ghép cách giải thích tâm lý, đậm tính sinh mệnh, vào hình ảnh của Thiên Chúa, lúc Người đã kinh qua quá nhiều trải nghiệm đau thương, qua đó gợi lên sự hy sinh cao thượng của Người. Khao khát truyền bá suy nghĩ, tư tưởng giàu sức biểu cảm của mình, Kramskoi sáng tác nhiều tác phẩm nghệ thuật theo chủ đề tranh chân dung và tranh vẽ cảnh sinh hoạt đời thường ("Nekrasov trong thời kỳ 'Những khúc ca cuối'"/ "Nekrasov during the period of 'Last songs,'" 1877–78; "Người đàn bà xa lạ"/"Unknown Woman," 1883; "Nỗi buồn khôn nguôi"/"Inconsolable grief," 1884; đều trưng bày tại Nhà trưng bày Tretyakov). Tất cả các tác phẩm ấy bộc lộ cảm xúc chân thành và phức tạp của chủ thể tranh, cùng tính cách và số phận của họ. Thiên hướng nghệ thuật của Kramskoi, suy xét sắc sảo của ông về điều đó, cộng với hành trình bền bỉ truy cầu những tiêu chí cộng đồng khách quan để đánh giá nghệ thuật đã truyền một sức ảnh hưởng to lớn tới sự phát triển của chủ nghĩa hiện thực và thẩm mỹ học Nga vào ba thập niên cuối của thế kỷ 19. Kramskoi bị coi là người lập dị vì tặng họa phẩm được lồng khung đắt tiền cho khách hàng mà không đòi tiền bạc gì cả. Ông qua đời vì phình động mạch chủ trong lúc đang làm việc bên giá vẽ, hưởng dương chỉ bốn mươi chín năm.
Tinh vân tiền hành tinh Tinh vân tiền hành tinh là một thiên thể tồn tại chóng vánh ở giai đoạn trước khi một ngôi sao tiến hóa từ pha cuối nhánh tiệm cận khổng lồ thành tinh vân hành tinh. Một tinh vân tiền hành tinh phát ra bức xạ hồng ngoại mạnh và nó là một loại tinh vân phản xạ. Đây là giai đoạn tiến hóa có độ sáng thấp áp chót trong vòng đời của các ngôi sao có khối lượng trung bình (1–8 M☉). Cái tên tinh vân tiền hành tinh không phản ánh đúng bản chất vì nó đặt theo khái niệm trước đó là tinh vân hành tinh vốn đã được đưa vào sử dụng chính thức từ lâu, cũng như nó gây nhầm lẫn với khái niệm đĩa tiền hành tinh. Trước đây, các nhà thiên văn học quan sát qua kính thiên văn và thấy những tinh vân hành tinh có vẻ ngoài giống các hành tinh khí trong Hệ Mặt Trời như Sao Hải Vương, Sao Thiên Vương, và đặt tên như vậy. Để tránh sự nhầm lẫn, một số nhà khoa học đã đề xuất gọi thiên thể này là tinh vân tiền sao tiệm cận khổng lồ. Trong suốt pha cuối của giai đoạn nhánh tiệm cận khổng lồ, sự thất thoát vật chất làm giảm khối lượng của lớp vỏ hydro xuống khoảng 10−2 M☉ và khối lượng lõi là 0,60 M☉, khi đó ngôi sao sẽ bắt đầu tiến hóa về xanh trên biểu đồ Hertzsprung-Russell. Khi lớp vỏ hydro tiếp tục giảm khối lượng xuống khoảng 10−3 M☉, lớp vỏ này sẽ bị phá vỡ đến gần như không thể giảm khối lượng thêm được nữa. Lúc này, nhiệt độ hiệu dụng của ngôi sao sẽ vào khoảng 5.000 K và nó được định nghĩa là đạt đến điểm cuối của giai đoạn tiệm cận khổng lồ để bắt đầu trở thành tinh vân tiền hành tinh. Giai đoạn tinh vân tiền hành tinh. Trong giai đoạn tinh vân tiền hành tinh, nhiệt độ hiệu dụng của ngôi sao trung tâm sẽ tiếp tục tăng do sự thất thoát vật chất của lớp vỏ, được gây ra bởi kết quả của quá trình đốt cháy lớp vỏ hydro. Ở giai đoạn này, ngôi sao trung tâm vẫn còn quá lạnh để ion hóa lớp vỏ xung quanh, lớp vỏ này đã bị phóng ra ngoài từ giai đoạn trước. Tuy vậy, ngôi sao dường như vẫn tạo ra những cơn gió sao theo phương đứng nhằm định hình và tạo xung kích cho lớp vỏ, gần như chắc chắn những cơn gió này sẽ cuốn theo vật chất từ giai đoạn tiệm cận khổng lồ để tạo ra gió phân tử nhanh. Các quan sát và ảnh chụp độ phân giải cao từ năm 1998 đến 2001 chứng minh rằng giai đoạn tinh vân tiền hành tinh phát triển nhanh chóng sẽ định hình hình dạng của tinh vân hành tinh ở giai đoạn tiếp theo. Tại thời điểm trong hoặc ngay khi kết thúc giai đoạn tiệm cận khổng lồ, hình dạng đường bao thay đổi từ đối xứng gần như hình cầu sang đối xứng trục. Hình dạng nhận được lúc này được gọi là tinh vân lưỡng cực, là loại tinh vân có nhiều thùy và có xung kích hình cung giống các thiên thể Herbig–Haro. Những hình dạng này thậm chí xuất hiện ngay cả trong pha đầu của giai đoạn tiền hành tinh. Giai đoạn tinh vân tiền hành tinh sẽ tiếp tục diễn ra cho đến khi ngôi sao trung tâm đạt nhiệt độ khoảng 30.000 K và nó đủ nóng (tạo ra đủ bức xạ cực tím) để ion hóa tinh vân bao quanh sao (được tạo nên bởi khí được giải phóng ra ngoài) và nó trở thành một loại tinh vân phát xạ được gọi là tinh vân hành tinh. Quá trình này phải diễn ra trong vòng ít hơn 10.000 năm, nếu không thì mật độ của lớp bao quanh sao sẽ giảm xuống dưới ngưỡng mật độ tiêu chuẩn của tinh vân hành tinh là khoảng 100 trên cm³ và sẽ không có tinh vân hành tinh nào xuất hiện, trường hợp như vậy đôi khi được các nhà khoa học gọi vui là một "tinh vân hành tinh lười biếng".
The Line, Ả Rập Xê Út The Line () là một thành phố thông minh tuyến tính đang được xây dựng tại Neom, tỉnh Tabuk, Ả Rập Xê Út, được thiết kế để không có ô tô, đường phố hoặc khí thải carbon. Thành phố dài này là một phần của dự án Tầm nhìn 2030 mà Ả Rập Xê Út tuyên bố sẽ tạo ra khoảng 460.000 việc làm và bổ sung khoảng 48 tỷ USD vào GDP của đất nước. Kế hoạch The Line là sự phát triển khởi đầu của dự án trị giá 500 tỷ đô la ở Neom. Các kế hoạch của thành phố dự trù dân số sẽ là 9 triệu người. Công việc đã được khởi động bắt đầu dọc theo toàn bộ chiều dài của dự án vào tháng 10 năm 2022. Dự án đã phải đối mặt với những lời chỉ trích liên quan tác động đối với môi trường và dân số hiện tại của khu vực, cũng như những nghi ngờ về khả năng kinh tế và công nghệ của nó.
Khu định cư tuyến tính Một khu định cư tuyến tính là một khu định cư (thường có quy mô nhỏ đến trung bình) hoặc một nhóm các tòa nhà được xây dựng dọc theo một đường dài. Nhiều khu định cư được hình thành dọc theo tuyến đường giao thông, chẳng hạn như đường bộ, sông hoặc kênh đào. Những khu khác hình thành do những hạn chế về địa hình, chẳng hạn như bờ biển, núi, đồi hoặc thung lũng. Các khu định cư tuyến tính có thể không có trung tâm rõ ràng. Trong trường hợp các khu định cư được xây dựng dọc theo một tuyến đường, tuyến đường đó có trước khu định cư và sau đó khu định cư phát triển dọc theo tuyến đường vận chuyển. Thông thường, nó chỉ là một con phố duy nhất với những ngôi nhà ở hai bên đường. Mileham, Norfolk, Anh là một ví dụ về mô hình này. Quá trình phát triển sau này có thể bổ sung thêm các ngã rẽ và các quận cách xa đường chính ban đầu. Khu định cư tuyến tính trái ngược với sự phát triển dải băng, đó là sự lan rộng ra bên ngoài của một thị trấn hiện có dọc theo đường phố chính và với khu định cư hạt nhân, là một nhóm các tòa nhà tập trung xung quanh một điểm trung tâm. Vào năm 2022, quá trình xây dựng The Line bắt đầu, đó là một thành phố tuyến tính dài 170 km (110 dặm) ở Ả Rập Xê Út.
Hệ thống APG IV Hệ thống phân loại thực vật có hoa APG IV là phiên bản thứ tư của hệ thống phân loại thực vật hiện đại, chủ yếu dựa trên phân tử, dành cho thực vật có hoa (thực vật hạt kín) được phát triển bởi Angiosperm Phylogeny Group (APG). Hệ thống phân loại này xuất bản vào năm 2016, bảy năm sau khi hệ thống APG III tiền nhiệm được xuất bản vào năm 2009 và 18 năm sau khi hệ thống APG đầu tiên được xuất bản vào năm 1998. Phiên bản APG IV này được tham chiếu chéo với phiên bản năm 2009. So với hệ thống APG III, hệ thống APG IV công nhận 5 bộ mới (Boraginales, Dilleniales, Icacinales, Metteniusales và Vahliales), cùng với một số họ mới, tạo nên tổng số 64 bộ thực vật hạt kín và 416 họ. Phiên bản chi tiết (với toàn bộ các họ). † = bộ mới công nhận trong hệ thống APG;
Siêu tân tinh giàu calci Trong thiên văn học, siêu tân tinh giàu calci là một phân lớp siêu tân tinh có độ sáng mờ nhạt hơn các siêu tân tinh khác và tạo ra một lượng lớn calci bất thường. Vì độ sáng siêu tân tinh giàu calci nằm trong khoảng giữa độ sáng của tân tinh và các siêu tân tinh khác, nên loại này còn được gọi là sự kiện thiên văn chuyển tiếp. Tính đến tháng 8 năm 2017, chỉ có khoảng 15 sự kiện thiên văn được phân loại là siêu tân tinh giàu calci. Do độ sáng thấp khiến những khám phá mới và nghiên cứu tiếp theo của sự kiện thiên văn này trở nên khó khăn. Siêu tân tinh giàu calci trở thành một trong những phân lớp siêu tân tinh bí ẩn nhất hiện được biết đến. Nguồn gốc và phân loại. Alexei Filippenko và các cộng tác viên xác định được một nhóm siêu tân tinh đặc biệt giàu calci một cách bất thường. Mặc dù chúng có vẻ hơi giống với siêu tân tinh Loại Ib và Ictuy nhiên phổ nguyên tố calci chiếm ưu thế, không có các dấu hiệu khác hay thấy ở siêu tân tinh Loại Ib và Ic, và thuật ngữ "giàu calci" được đặt ra để mô tả các loại siêu tân tinh này. Những khám phá tiếp theo đã phân loại sự kiện thiên văn này và nhóm siêu tân tinh. Chúng có chung các đặc điểm như các đường cong ánh sáng tăng nhanh và mờ nhanh chóng, giá trị cực đại về độ sáng nằm giữa giá trị độ sáng của tân tinh và siêu tân tinh, và phổ nguyên tố calci chiếm ưu thế trong 2–3 tháng sau lần nổ đầu tiên. Bản chất chính xác của các hệ thống sao và các vụ nổ tiếp theo tạo ra siêu tân tinh giàu calci vẫn chưa được biết. Mặc dù trông tương tự như siêu tân tinh loại Ib, có một cơ chế nổ khác có thể là nguyên nhân tạo ra siêu tân tinh giàu calci. Các siêu tân tinh này có nguồn gốc từ một tỷ lệ lớn các thiên hà được xác định là thiên hà kiểu sơ khai, nằm trong quần thể sao già Một điểm đặc biệt khác của siêu tân tinh giàu calci là sao dường như phát nổ ở rất xa các thiên hà, thậm chí vươn tới đường trung gian liên ngân hà ấm nóng ("WHIM"). Các cuộc tìm kiếm thiên hà lùn kết luận rằng siêu tân tinh giàu calci phát nổ trong môi trường có mật độ rất thấp, không giống như các loại siêu tân tinh khác. Có một số lý thuyết cố gắng giải thích hiện tượng này. Hệ sao đôi gồm sao có tốc độ cao, chẳng hạn như hệ gồm hai sao lùn trắng hoặc hệ gồm sao lùn trắng và sao neutron, đã bị văng ra khỏi thiên hà của chúng do cú đá pulsar ("pulsar kick") hoặc tương tác với lỗ đen siêu khối lượng trong thiên hà. Một sự kiện siêu tân tinh giàu calci giải phóng vật chất bằng vài phần mười khối lượng Mặt Trời ở tốc độ hàng nghìn km/giây và đạt độ sáng cực đại bằng khoảng 100–200 triệu lần so với Mặt Trời. Mặc dù các siêu tân tinh giàu calci tương đối hiếm và nhỏ bé so với các loại siêu tân tinh khác, nhưng chúng được cho là có đóng góp đáng kể vào việc tạo ra calci trong Vũ trụ.
Nirmala Srivastava (tên khai sinh Nirmala Salve; sinh 21/03/1923#đổi mất 23/02/2011), còn được gọi là Shri Mataji Nirmala Devi, là nhà sáng lập và Đạo sư, Guru của Sahaja Yoga, một phong trào thực hành tâm linh còn được biết đến như một pháp môn Bà tuyên bố mình đã giác ngộ hoàn toàn khi được sinh ra, và dành cả đời cho việc phát triển và truyền dạy một kỹ thuật đơn giản giúp con người đạt được sự tự khai ngộ của mình. Sinh ra tại Chindawara, Madhya Pradesh, India vào một gia đình có cha là ông Prasad Salve theo Ấn Độ giáo và mẹ là bà Cornelia Salve theo Thiên Chúa giáo, và được đặt tên là Nirmala, có nghĩa là "thuần khiết". Bà cho biết mình được sinh ra với sự giác ngộ hoàn toàn. Cha bà là một học giả thông thạo mười bốn ngôn ngữ khác nhau, là học giả đã dịch Kinh Koran sang Tiếng Marathi, và mẹ của bà là người phụ nữ Ấn Độ đầu tiên nhận bằng tốt nghiệp danh dự về toán học. Shri Mataji là hậu duệ của triều đại Shalivahana/Satavahana. Bà có anh trai N.K.P. Salve là cựu Bộ trưởng Bộ Năng lượng Ấn Độ và có cháu trai Harish Salve là Tổng luật sư Ấn Độ. Bà trải qua những năm tháng tuổi thơ ở gia đình tại thành phố Nagpur, bang Maharashtra, Ấn Độ.#đổi Lúc còn trẻ bà có ở trong ashram của Nhà lãnh đạo Ấn Độ có ảnh hưởng lớn - Mahatma Gandhi. Giống như cha mẹ mình, bà tham gia đấu tranh cho Phong trào Độc lập của Ấn Độ với tư cách là một nhà lãnh đạo thanh niên, và bị bắt vào năm 1942 vì tham gia phong trào "Rời Ấn Độ" (Quit India). Việc nhận trách nhiệm chăm sóc cho các em ruột của mình, và sống một lối sống khắc nghiệt trong quãng thời gian này đã truyền cảm hứng cho Bà sống một cuộc đời dâng hiến cho lợi ích của xã hội nói chung. Bà theo học Trường Y Khoa Công Giáo ở thành phố Ludhiana và Trường Y Khoa Balakram ở thành phố Lahore. Ngay trước khi Ấn Độ giành độc lập năm 1947, Shri Mataji kết hôn với ông Chandrika Prasad Srivastava, lúc đó là một công chức cấp cao của Ấn Độ, sau này Thư ký Liên hiệp cho Thủ tướng Ấn Độ Lal Bahadur Shastri, được trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Danh dự bởi Nữ hoàng Elizabeth II. Họ có chung hai người con gái, Kalpana Srivastava và Sadhana Varma. Nirmala Srivastava sáng lập ra Sahaja Yoga trong năm 1970. Những năm cuối đời. Năm 2003, một tổ chức từ thiện dành cho việc phục hồi phụ nữ bị bất hạnh được thành lập tại Delhi (tên là Vishwa Nirmala Prem Ashram). Cùng năm đó, bà thành lập Trường Shri P.K. Salve Kala Pratishthan tại Nagpur trở thành một Trường quốc tế về âm nhạc, nghệ thuật, nhằm thúc đẩy âm nhạc cổ điển và nghệ thuật. Cho đến năm 2004, trong các chuyến đi của mình, Bà đã tổ chức nhiều bài giảng cộng đồng, và các buổi phỏng vấn với báo chí, truyền hình và đài phát thanh. Năm 2004, trang web chính thức của Bà thông báo rằng Bà đã hoàn thành công việc của mình và các trung tâm Sahaja Yoga đã có mặt ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bà vẫn tiếp tục đem tới những bài giảng tới học trò của mình Bà đã nói về những tác hại của việc uống rượu và rất nhiều người đã được chữa khỏi nghiện ngập khi họ đạt được sự tự giác ngộ thông qua phương pháp Sahaja Yoga..
Chợ đầu mối là chợ có vai trò tập trung hàng hóa quy mô lớn từ một khu vực sản xuất rộng lớn, từ đó phân phối đến các chợ tiêu thụ hoặc các kênh phân phối khác. Chợ đầu mối tạo sự thuận lợi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh khi thu hút hàng hóa mọi nơi đổ về, giúp nhà sản xuất mau chóng xuất hàng. Hàng hóa các loại với số lượng lớn tập trung về địa điểm này tạo điều kiện cho những thương nhân lớn đến gom hàng để mang đến khu vực khác có các chợ tiêu thụ, phố mua bá Quy mô và cấu trúc. Tại Việt Nam, theo quy định diện tích mặt bằng nền chợ tối thiểu là 8.000 m² đối với chợ cải tạo, nâng cấp đạt chuẩn chợ đầu mối và tối thiểu 10.000 m² đối với chợ đầu mối xây mới, không kể diện tích dành cho khuôn viên, đường đi, bãi đỗ xe và các công trình phụ trợ khá Các hạng mục công trình chính của chợ đầu mối bao gồm: Vai trò, chức năng. Chợ đầu mối là loại chợ nằm trong hệ thống các chợ mua bán. Chúng có một vai trò, chức năng quan trọng trong mạng lưới sản xuất, phân phối, tiêu thụ hàng hóa. Có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội của một vùng rộng lớn. Chợ đầu mối thường tập trung theo chuyên ngành như chợ đầu mối nông sản, chợ đầu mối thủy hải sản, chợ đầu mối rau, chợ đầu mối lúa gạ, như vùng nông nghiệp chuyên canh, vùng tập trung nuôi trồng thủy sả, thúc đẩy phát triển và mở rộng mức độ lưu thông hàng hóa nhiều vùng trong nước hoặc nhiều nước. Góp phần ổn định hoạt động mua bán, thị trường. Do đó nắm giữ vai trò như tiền đề phát triển kinh tế. Do tầm quan trọng của chợ đầu mối, chính sách phát triển kinh tế hàng đầu thường tập trung vào việc thúc đẩy mở rộng, phát triển cơ sở hạ tầng khu vực chợ đầu mới, chú trọng nâng cấp hệ thống giao thông vận tải để phục vụ. Chính sách ưu tiên thu hút doanh nghiệp tăng cường đầu tư đồng bộ và hiện đại hóa các chợ đầu mối theo công nghệ "hậu cần", như các khu tập kết hàng hóa và các khu phân loạ Chợ đầu mối là loại hình khác với chợ thông thường, chợ là nơi mua bán chủ yếu để trung chuyển hàng hóa chứ không phải mua bán hàng để tiêu dùng. Do đó có sự khác biệt trong cách thức hoạt động và đối tượng mua bán. Chợ đầu mối do đó khác nhiều với các loại chợ thông thường, như loại hình chợ tổng hợp, hay còn gọi là chợ bách hóa, cũng như khác với chợ chuyên doanh. Và do vai trò, chức năng riêng biệt mà chợ đầu mối thường đặt ở ngoại thành, còn trung tâm đô thị là dành cho chợ thông thường. Chợ đầu mối thường tập trung nhiều ở các thành phố lớn, là trung tâm kinh tế, thương mại quan trọng. Chợ đầu mối không chỉ thu gom, quản lý, bán mua mà còn gắn kết với kiểm dịch, chế biến, bảo quả, ban ngày lại là chợ bán lẻ, như chợ Cây Đa. Cách thức giao dịch ở chợ đầu mối nổi bật việc mua chịu trả sau, trả chậm, mua bán gối đầ, cung cấp hàng với đại lý, hoặc giữa các thương nhân với nhau. Chợ hoạt động theo cơ chế thị trường, các nhà buôn bán đưa ra đơn hàng, các nhà phát triển, khoa học hỗ trợ và người sản xuất đáp ứng các nhu cầu về hàng hóa đã được đặt ra. Tại khu vực chợ đầu mối, nhiều tiểu thương mua bán thường phải nộp "tiền bãi" từ các băng nhóm, nhưng nhà nước lại không xử lý. Điều này gây khó khăn cho việc mua bán, thường xuyên bị các băng nhóm quấy nhiễu đủ kiểu. Bên cạnh đó, các chợ tự phát mọc lên bên ngoài chợ đầu mối với giá hàng hóa rẻ hơn đã khiến tiểu thương trong chợ dần mất khách hàng. Hình thức mua bán online hiện nay cũng thúc đẩy việc tiểu thương liên hệ trực tiếp nhà sản xuất và hàng hóa được ship thẳng từ các địa phương đến cửa hàng tiểu thương trong đô thị cũng làm cho hoạt động mua bán của chợ đầu mối sụt giảm. Danh sách chợ đầu mối. Một số chợ đầu mối:
Phạm Nhuệ Giang (sinh ngày 19 tháng 12, 1957) là nhà biên kịch - đạo diễn phim, Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam. Bà là một trong số ít những đạo diễn nữ ở Việt Nam, bà thành công với nhiều bộ phim điện ảnh lẫn truyền hình như: "Thung lũng hoang vắng, Hậu họa, Trò đời, Lập trình cho trái tim"... Trong số đó có những phim đoạt giải Bông sen bạc, Cánh diều và Phạm Nhuệ Giang là con thứ út trong gia đình có hai anh em, mẹ là diễn viên Bích Châu, bố là đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa, bố mẹ bà sau này đã ly hôn. Nhuệ Giang sinh tại Hoàn Kiếm, Hà Nội, tên của của bà được đặt theo tên sông Nhuệ (Hán Việt : Nhuệ Giang). Gia đền bên ngoại của bà là hậu duệ của tướng quân Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhuệ Giang được học đàn chuyên nghiệp từ lớp 1, học piano 9 năm tại trường Âm nhạc Việt Nam và là bạn cùng lớp với Đặng Thái Sơn. Năm 1980, bà tốt nghiệp Đại học Xây Dựng và có hai năm làm việc cho Công ty xây dựng số 1, từng làm giám sát xây dựng Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Xô. Năm 1983 bà tiếp tục nhập học Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh, làm lại từ đầu và trở thành một trong những sinh viên khoa đạo diễn đầu tiên của trường. Sau khi tốt nghiệp, bà công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam bắt đầu với vai trò phó đạo diễn và chỉ đạo sản xuất rồi trở thành nữ đạo diễn duy nhất của hãng trong hơn 30 năm. Theo tiêu chí của Hãng phim, để trở thành đạo diễn chính thức như các đồng nghiệp khác Phạm Nhuệ Giang cũng phải trải qua vị trí Phó đạo diễn cho 3 bộ phim. Bà từng làm phó cho đạo diễn Đặng Nhật Minh qua các bộ phim "Trở về, Thương nhớ đồng quê, Hà Nội Mùa đông 46" và "Mùa ổi". Trong sự nghiệp đạo diễn của mình, Phạm Nhuệ Giang làm phim không nhiều, nhưng bộ phim nào ra mắt đều được công chúng trong nước và quốc tế đón nhận nồng nhiệt. Phim ngắn "Chú bé culi" của bà được kênh truyền hình Canal+ của Pháp mua lại vào năm 1992. Bà tự chuyển thể bộ phim điện ảnh đầu tay của mình là ""Bỏ trốn"” từ truyện ngắn của Phan Thị Thanh Nhàn; bộ phim sau đó giành giải B của Giải thưởng Hội Ðiện ảnh Việt Nam 1996 và Giải thưởng Ban giám khảo bình chọn tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12. Năm 1996, sau khi làm xong phim “"Bỏ trốn"”, bà có ý định chuyển thể tiếp truyện ngắn "Tâm hồn mẹ" nhưng cốt truyện quá ngắn, không có nhiều tình tiết để các nhà biên kịch phát triển thê. Một thời gian dài sau khi nhiều nhà biên kịch từ chối, Phạm Nhuệ Giang đã tự mình hoàn thành kịch bản phim này. Năm 1997, Nhuệ Giang viết kịch bản và đạo diễn bộ phim truyền hình "Mọi thời của họ". Bộ phim "Thung lũng hoang vắng" năm 2001, đã đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp đạo diễn của bà. Bộ phim giành giải Bông sen bạc, một giải thưởng của Liên hoan phim Melbourne, còn bà được giải Mai Vàng; bộ phim cũng mang lại cho diễn Hồng Ánh giải Bông Sen Bạc cho vai nữ chính và giải quay phim xuất sắc cho nhà quay phim Lý Thái Dũng. Nhuệ Giang cũng là một người tuyển trạch diễn viên mát tay, khi lựa được những diễn viên không chuyên để lại ấn tượng trong các bộ phim bà tham gia sản xuất, như: Mai Hoa cho "Đời cát", Lan Hà cho "Trái tim bé bỏng" và Thu Trang cho "Thung lũng hoang vắng." Năm 2003, Nhuệ Giang gác lại mọi công việc để bắt tay vào học tiếng Anh, khi nhận được suất học bổng master về nghệ thuật của Quỹ Ford. Năm 2005, bà dành một tháng để nghiên cứu lịch sử điện ảnh rồi giảng dạy trong sáu năm tiếp theo. Năm 2011, bà cho ra mắt bộ phim điện ảnh "Tâm hồn mẹ" sau hơn 20 năm lên ý tưởng và dựng kịch bản. Bộ nhận được bằng khen của ban giám khảo Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 và giải Phim xuất sắc do ban giám khảo Liên hoan phim Việt Nam tại Pháp bình chọn. Từ khi nghỉ hưu năm 2015, Nhuệ Giang tiếp tục đóng góp cho nghệ thuật khi giảng dạy đạo diễn tại Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, làm giám khảo chấm giải tại Trung tâm Hỗ trợ tài năng và phát triển điện ảnh Việt Nam, biên kịch và làm phim truyền hình. Bà có được thành công nhất định khi làm phim truyền hình với các phim "Sống gượng, Hậu họa, Trò đờ" Sau thời gian cùng thực tập khi quay bộ phim "Đứng trước biển", bà kết hôn với đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, con trai đạo diễn Hải Ninh. Việc kết hôn của họ dù không có sự đồng thuận từ bố mẹ vì chênh lệch tuổi tác.
Tống Văn Băng (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1974) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Đảng ủy viên, Trưởng Ban Tổ chức Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Hải Phòng. Ông từng là Thành ủy viên, Chủ tịch Liên đoàn Lao động thành phố Hải Phòng. Tống Văn Băng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân tiếng Anh, Thạc sĩ Luật Quốc tế, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có khởi đầu từ nghề giáo trường đại học rồi chuyển sang ngành công đoàn Việt Nam. Xuất thân và giáo dục. Tống Văn Băng sinh ngày 17 tháng 7 năm 1974 tại xã An Hòa, huyện An Hải, nay là huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Hải Phòng, học đại học ngoại ngữ và tốt nghiệp hai bằng gồm Cử nhân tiếng Anh và Cử nhân Luật Quốc tế, sau đó học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Luật Quốc tế. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 14 tháng 3 năm 2001 tại Trường Đại học Hàng hải Việt Nam, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, Hải Phòng. Tháng 11 năm 1998, sau khi hoàn thành chương trình đại học và cao học, Tống Văn Băng được tuyển dụng vào Trường Đại học Hàng hải Việt Nam, bắt đầu công tác ở vị trí Giảng viên Luật, Bộ môn Luật Hàng hải. Tháng 9 năm 2002, ông vừa giảng dạy, vừa công tác thanh niên, được bầu làm Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Trường Đại học Hàng hải Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Thành đoàn Hải Phòng khóa X, nhiệm kỳ 2002–2007, và Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Trường. Hết nhiệm kỳ khóa X, ông chuyển sang ngành công đoàn, được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Công đoàn Trường Hàng hải, bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Liên đoàn Lao động thành phố khóa XII, nhiệm kỳ 2008–2013, và đồng thời là Phó Giám đốc Trung tâm Đào tạo và Giới thiệu việc làm của trường. Kết thúc nhiệm kỳ ở trường, vào tháng 5 năm 2013, ông được bầu vào Ban Thường vụ, là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Liên đoàn Lao động thành phố khóa XIII, nhiệm kỳ 2013–2018, và cũng là Ủy viên Ủy Ban Kiểm tra Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Sau đó ông chuyển sang làm Trưởng Ban Tổ chức Liên đoàn Lao động thành phố từ tháng 5 năm 2015, rồi Phó Chủ tịch thường trực Liên đoàn Lao động thành phố từ tháng 7 năm 2016. Tháng 6 năm 2018, Tống Văn Băng được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bí thư Đảng đoàn, Bí thư Đảng ủy cơ quan, Chủ tịch Liên đoàn Lao động thành phố Hải Phòng. Ông được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố trong năm 2018, đến tháng 10 năm 2020 thì tái đắc cử Thành ủy viên tại Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020–2025. Năm 2021, với sự giới thiệu của Đảng ủy, ông tham gia ứng cử đại biểu quốc hội, tại đơn vị bầu cử số 1 gồm quận Hồng Bàng, Lê Chân, huyện Thủy Nguyên, Cát Hải, Bạch Long Vĩ, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 90,59%. Trong khóa này, ông cũng là Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội. Vào ngày 29 tháng 8 năm 2022, ông được miễn nhiệm công tác tại Hải Phòng, được bổ nhiệm làm Trưởng Ban Tổ chức Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội
Mazaceae là một họ thực vật trong bộ Lamiales. Họ này được James L. Reveal mô tả vào năm 2011. Các chi trong họ này trước đây được gộp vào họ Phrymaceae và trong các phân loại cũ hơn thì được xếp vào họ Scrophulariaceae. Các chi bao gồm:
Lê Văn Hiệu (sinh ngày 2 tháng 8 năm 1967) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương, Ủy viên Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Hải Dương. Ông từng là thủ trưởng hai đơn vị cấp cao của Hải Dương gồm Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy, và Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Lê Văn Hiệu là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Luật, Thạc sĩ Quản lý khoa học và công nghệ, Thạc sĩ Quản lý kinh tế, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Hải Dương. Xuất thân và giáo dục. Lê Văn Hiệu sinh ngày 2 tháng 8 năm 1967 tại xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Hưng, nay là tỉnh Hải Dương. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Nam Sách, lên thủ đô Hà Nội học đại học, tốt nghiệp Cử nhân Luật, sau đó học cao học và có hai bằng thạc sĩ gồm Thạc sĩ Quản lý khoa học và công nghệ và Thạc sĩ Quản lý kinh tế. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 13 tháng 9 năm 1997, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phố Hải Đông, phường Lê Thanh Nghị, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Sau khi tốt nghiệp đại học, Lê Văn Hiệu tiến hành kinh doanh tư nhân. Đén tháng 9 năm 1992, ông được tuyển dụng vào Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, phân về Sở Thương mại tỉnh Hải Dương, là cán bộ Chi cục Quản lý thị trưởng tỉnh. Ông công tác ở đây liên tục hơn 10 năm 1992–2003, lần lượt là Đội phó, Đội trưởng, rồi Chi cục phó Chi cục Quản lý thị trường Hải Dương. Tháng 8 năm 2003, ông được điều sang Sở Thương mại và Du lịch, nhậm chức Phó Giám đốc Sở, được một thời gian thì trở lại Sở Thương mại đã được đổi tên thành Sở Công Thương, nhậm chức Phó Giám đốc Sở kiêm Chi cục trưởng Chi cục Quản lý thị trường Hải Dương. Tháng 5 năm 2009, ông được điều về huyện Nam Sách, giữ chức Bí thư Huyện ủy, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Nam Sách. Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hải Dương lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010–2015, ông được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Tháng 12 năm 2014, Lê Văn Hiệu được bầu bổ sung vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy, được phân công làm Trưởng Ban Dân vận Tỉnh ủy Hải Dương. Sang tháng 7 năm 2015, ông được điều chuyển làm Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy, tái đắc cử Thường vụ Tỉnh ủy tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015–2020. Tháng 11 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020–2025, ông tiếp tục là Thường vụ Tỉnh ủy, giữ chức Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Hải Dương, kế nhiệm Bí thư Tỉnh ủy Phạm Xuân Thăng, kiêm Trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy cho đến tháng 3 năm 2021. Năm 2021, với sự giới thiệu của Tỉnh ủy, ông tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Hải Dương, tại đơn vị bầu cử số 1 gồm thành phố Chí Linh, thị xã Kinh Môn và huyện Kim Thành, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 84,33%. Trong nhiệm kỳ này, ông cũng là Ủy viên Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội và Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Hải Dương. Nửa cuối năm 2022, trong vụ án sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á, Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương Phạm Xuân Thăng bị xử lý kỷ luật khai trừ khỏi Đảng Cộng sản, bị khởi tố, bắt giữ để điều tra, Lê Văn Hiệu được chỉ định điều hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương. Ông giữ cương vị này cho đến ngày 27 tháng 10 năm 2022 thì bàn giao cho Ủy viên Trung ương Đảng, tân Bí thư Tỉnh ủy Trần Đức Thắng. Chiều 2 tháng 6, tại Kỳ họp chuyên đề thứ 15 của Hội đồng nhân dân tỉnh Hải Dương khóa XVII, các đại biểu đã bầu ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước
Meleager (, tiếng Hy Lạp:  #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ) là một anh hùng trong thần thoại Hy Lạp. Anh là người lãnh đạo cuộc săn lợn rừng Calydon trong sử thi truyền thống của Homer viết lại. Meleager còn là một thành viên trong nhóm thuỷ thủ Argonaut. Meleager có một người con với Atalanta là Parthenopeus nhưng anh lại kết hôn với Cleopatra, con gái của Idas và Marpessa. Họ có với nhau một người con gái là Polydora. Cuộc săn lợn rừng Calydon. Khi Meleager chào đời, các nữ thần Moirai (các nữ thần số mệnh) nói rằng cậu bé chỉ có thể sống sốt cho đến khi một thanh củi trong lò sưởi của gia đình bị cháy hết, Meleager sẽ chết. Althaea, mẹ cậu bé nghe lỏm được đã lấy nước dập tắt lửa cho thanh củi khỏi cháy rồi giấu nó đi. Sau này khi Meleager trưởng thành, vua cha Oeneus cử anh tập hợp tất cả các anh hùng từ Hy Lạp để đi săn con lợn rừng Calydon, một con ác thú đã phá hoại thành, dày xéo những rễ cây. Đó là do trong một lễ tế thần, Oeneus đã quên mất nữ thần Artemis khiến nữ thần phẫn nộ, thả con lợn rừng xuống. Ngoài những người anh hùng được yêu cầu, Meleager còn mời cả nữ thợ săn Atalanta, người mà anh đem lòng yêu mến. Theo một lời kể về cuộc đi săn, khi hai nhân mã Hylaeus và Rhaecus cố gắng cưỡng hiếp Atalanta, Meleager đã giết họ. Sau đó, Atalanta đã bắn con lợn làm nó bị thương, cuối cùng Meleager giết nó. Anh quyết định trao thưởng miếng da lợn cho Atalanta vì cô là người đầu tiên khiến con lợn bị thương. Những người chú của Meleager là Toxeus và Plexippus bất bình vì anh trao thưởng cho một người phụ nữ. Trong lúc tức giận, Meleager đã cãi vã với hai người chú rồi giết chết họ. Anh cũng giết Iphicles và Eurypylus vì đã xúc phạm Atalanta. Khi Althaea biết được chính Meleager đã giết những người em trai của mình, bà vô cùng phẫn nộ, lấy ra thanh củi quyết định số mệnh con trai mình rồi ném vào ngọn lửa. Do đó, lời tiên đoán đã ứng nghiệm, Meleager chết. Những em gái của Meleager khóc thương cho số phận anh, rồi họ bị biến thành những con gà sao ("meleagrides"). Cuộc tấn công của người Curetes. Theo câu chuyện khác, khi cuộc tấn công của người Curetes nhằm vào thành Calydon diễn ra, Cleopatra, vợ của Meleager đã thuyết phục anh bảo vệ thành Calydon khỏi cuộc tấn công. Cuộc tấn công này đã khiến Meleager tử trận, sau đó Cleopatra đau buồn rồi qua đời hoặc treo cổ tự vẫn vì cái chết của chồng. Khi người anh hùng Heracles xuống âm phủ để bắt chó ngao ba đầu Ceberus, anh đã gặp linh hồn của Meleager (đó là linh hồn duy nhất không trốn chạy khỏi Heracles). Bacchylides miêu tả rằng linh hồn của Meleager vẫn còn mặc binh giáp sáng loáng, ghê gớm đến mức Heracles còn phải lấy cây cung ra để phòng thủ. Nhưng Heracles đã khóc vì xúc động khi nghe lời kể của Meleager đã lỡ bỏ rơi em gái mình là Deianira ở trần thế (Deianira là người em gái còn lại không bị biến thành gà sao). Rồi Meleager cầu xin Heracles lấy Deianira làm vợ và Heracles chấp thuận.
Macarthuriaceae là một họ thực vật trong bộ Caryophyllales và bao gồm một chi duy nhất, "Macarthuria" Macarthuriaceae gồm những cây thân thảo hoặc những cây giống như cói hoặc cứng, có thân màu xanh lá cây và lá tiêu giảm. Hoa nhỏ có năm bao hoa, đôi khi cũng có năm "cánh hoa" và tám nhị hoa hợp nhất. Năm 2009, "Macarthuria" được đặt cùng với "Limeum" trong họ Limeaceae, dựa trên hình thái của nó, vào thời điểm đó chưa có bằng chứng phân tử nào tiến hành với "Macarthuria". Trước đó, Endress và Bittrich đã đặt nó trong họ Molluginaceae. Tuy nhiên, vào năm 2011, bằng chứng phân tử đã được công bố, cho thấy "Macarthuria" có quan hệ chị em với tất cả các họ cốt lõi trong bộ Caryophyllales. Vì vậy, "Macarthuria" cần được đặt trong một họ riêng của nó, Macarthuriaceae.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Kewa là một chi thực vật có hoa, bao gồm các loài có thân mọng nước, có nguồn gốc từ miền đông và miền nam châu Phi, bao gồm Saint Helena và Madagascar. Chi này bao gồm những cây bụi hoặc thảo mộc nhỏ tạo thành đệm và chiếc lá có vị chua, ăn được. "Kewa" là chi duy nhất trong họ Kewaceae . Những loài này trước đây được đưa vào chi "Hypertelis" của họ Molluginaceae, nhưng các nghiên cứu phân tử đã chỉ ra rằng hầu hết không thuộc về chi này mà có họ hàng khá xa với họ Molluginaceae, được xếp vào một nhánh bao gồm Aizoaceae, Gisekiaceae và Barbeuiaceae. Chỉ còn loài điển hình "Hypertelis spergulacea" trong họ Molluginaceae; tất cả được chuyển đến chi "Kewa", được đặt tên theo Kew, nơi có Vườn Bách thảo Hoàng gia Kew. Các loài được chuyển đến chi "Kewa" từ "Hypertelis" vào năm 2014 gồm: Cây sống lâu năm nhưng tương đối ngắn. Chúng có thể dễ dàng được nhân giống từ hạt và tạo thành những cây bụi giống như chiếc đệm hấp dẫn với những chiếc lá có lông và những bông hoa trắng đầy sao.
A Boss and a Babe A Boss and a Babe (; RTGS: "Cho Ka Che Khu Kan") là một bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Jiratchapong Srisang (Force) và Kasidet Plookphol (Book), đánh dấu lần tái hợp thứ hai của 2 nam diễn viên trên màn ảnh nhỏ, sau "Enchanté" (2022). Bộ phim dựa trên bộ tiểu thuyết "คบวันนี้เลิกกันปีใหม่" của Brave2Y. Bộ phim được đạo diễn bởi Siwaj Sawatmaneekul và sản xuất bởi GMMTV cùng với Studio Wabi Sabi. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim được phát sóng vào lúc 20:30 (), thứ Sáu trên GMM 25 và có mặt trên nền tảng trực tuyến Viu vào 22:30 (ICT) cùng ngày, bắt đầu từ ngày 3 tháng 3 năm 2023. Bộ phim kết thúc vào ngày 19 tháng 5 năm 2023.
Lê Mạnh Hùng (sinh ngày 24 tháng 10 năm 1973) là doanh nhân, chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Đảng ủy viên Khối Doanh nghiệp Trung ương, Phó Bí thư Đảng ủy tập đoàn, Bí thư Đảng ủy cơ quan, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Cà Mau, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. Ông từng là Phó Tổng giám đốc tập đoàn này, kiêm vị trí lãnh đạo các công ty con như Công ty Hóa dầu Long Sơn, Công ty Dung dịch khoan và Hóa phẩm Dầu khí. Lê Mạnh Hùng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Kỹ sư Hóa dầu, Tiến sĩ Hóa học, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp tập trung vào ngành công nghệ hóa dầu của Việt Nam, từ chuyên viên cho đến khi lãnh đạo Tập đoàn Dầu khí. Xuất thân và giáo dục. Lê Mạnh Hùng sinh ngày 24 tháng 10 năm 1973 tại xã Hiệp Cường, huyện Kim Động, tỉnh Hải Hưng, nay là tỉnh Hưng Yên. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Kim Động, đến năm 1991 thì thi đỗ Đại học Bách khoa Hà Nội, lên thủ đô nhập học từ tháng 9 cùng năm rồi tốt nghiệp Kỹ sư Công nghệ hữu cơ – hóa dầu vào tháng 7 năm 1995. Sau đó, ông tiếp tục học cao học từ tháng 9 năm 1997 đến tháng 8 năm 2000, nhận bằng Thạc sĩ Công nghệ hóa dầu, là nghiên cứu sinh rồi trở thành Tiến sĩ Hóa học chuyên ngành Hóa dầu và Xúc tác hữu cơ. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 30 tháng 8 năm 2007, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phường Mộ Lao, quận Hà Đông, Hà Nội. Tháng 7 năm 1995, sau khi tốt nghiệp Bách khoa Hà Nội, Lê Mạnh Hùng được nhận vào làm ở Nhà máy Bia Việt Đức ở Khu Công nghiệp Sài Đồng – Hà Nội, bắt đầu ở vị trí chuyên viên công tác kỹ thuật, phụ trách kỹ thuật công nghệ. Làm ở đây 2 năm, ông học cao học 3 năm cho đến năm 2000, vào ngày 15 tháng 8 năm này thì được nhận vào làm ở một doanh nghiệp nhà nước và Công ty liên doanh Nhà máy Lọc dầu Việt Nga, sau đó là Ban Quản lý dự án Nhà máy Lọc dầu Dung Quất Quảng Ngãi, là Kỹ sư Công nghệ ở Phòng Công nghệ và Môi trường. Từ ngày 26 tháng 2 năm 2001, ông được điều tới Tổng công ty Dung dịch khoan và Hóa phẩm Dầu khí (PVchem), tiếp tục là Kỹ sư Công nghệ thuộc khối kỹ thuật. Ở Tổng công ty này 4 năm, cho đến ngày 1 tháng 12 năm 2005, ông được điều tới Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, nay là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), là Chuyên viên của Ban Chế biến Dầu khí. Sau tháng 5 năm 2006, ông tiếp tục được điều chuyển, và lần này là vào công chức, là Chuyên viên của Vụ Dầu khí, nay là Vụ Công nghiệp, Văn phòng Chính phủ. Cuối năm 2007, ông trở lại PVN, nhậm chức Phó Trưởng ban Chế biến Dầu khí, cho đến ngày 15 tháng 6 năm 2009 thì được điều đến một công ty con của tập đoàn là Công ty Hóa dầu Long Sơn liên doanh giữa tập đoàn, SCG, và Qatar Petroleum International, làm Phó Tổng Giám đốc. Sang cuối năm 2009, ông được điều tới Cụm Khí–Điện–Đạm Cà Mau của tập đoàn, nhậm chức Bí thư Đảng ủy, Trưởng ban Quản lý dự án, rồi kiêm nhiệm thêm là Thành viên Hội đồng Thành viên, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC) từ ngày 22 tháng 3 năm 2011. Tập đoàn Dầu khí. Vào ngày 26 tháng 9 năm 2013, Lê Mạnh Hùng được điều về trụ sở, được bổ nhiệm làm Phó Tổng Giám đốc tập đoàn, bên cạnh đó được bầu giữ các chức vụ trong tổ chức xã hội như Phó Chủ tịch Hội Hóa học Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Hữu nghị Việt – Anh. Ngày 23 tháng 6 năm sau, ông được bầu vào Ban Thường vụ Đảng ủy tập đoàn, tiếp tục là Phó Tổng Giám đốc kiêm Chủ tịch Hộì đổng Thành viên Công ty Hóa dầu Long Sơn khi tập đoàn đang kiểm soát vốn điều lệ công ty này. Ông được miễn nhiệm ở Long Sơn từ năm 2017, chuyển sang kiêm Chủ tịch Hội đồng Quản trị PVchem từ ngày 29 tháng 6 năm này cho đến giữa năm 2018. Ngày 20 tháng 6 năm 2019, ông được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bổ nhiệm làm Thành viên Hội đồng Thành viên, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, bên cạnh đó, giữ vị trí Phó Bí thư Đảng ủy tập đoàn, rồi Bí thư Đảng ủy Cơ quan tập đoàn này từ tháng 6 năm 2020, được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối Doanh nghiệp Trung ương từ ngày 30 tháng 10 năm 2020. Năm 2021, với sự giới thiệu của Đảng ủy Khối Doanh nghiệp, ông tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Cà Mau, tại đơn vị bầu cử 1 gồm thành phố Cà Mau, huyện Thới Bình, U Minh, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội với tỷ lệ 72,42%.
Hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát Hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát xảy ra khi bầu khí quyển của một hành tinh chứa khí nhà kính với một lượng đủ để ngăn bức xạ nhiệt rời khỏi hành tinh, ngăn không cho hành tinh nguội đi và có nước lỏng trên bề mặt. Một phiên bản mất kiểm soát của hiệu ứng nhà kính có thể được xác định bằng giới hạn đối với bức xạ sóng dài chiều đi của một hành tinh đạt được một cách tiệm cận do nhiệt độ bề mặt cao hơn làm bay hơi một chất có thể ngưng tụ (thường là hơi nước) vào khí quyển. Phản hồi tích cực này có nghĩa là hành tinh không thể hạ nhiệt thông qua bức xạ sóng dài chiều đi (thông qua định luật Stefan–Boltzmann) và tiếp tục nóng lên cho đến khi nó có thể tỏa ra bên ngoài các dải hấp thụ của các chất có thể ngưng tụ. Hiệu ứng nhà kính mất kiểm soát thường xảy ra với hơi nước là chất có thể ngưng tụ. Trong trường hợp này, hơi nước đến tầng bình lưu và thoát vào không gian thông qua quá trình thoát thủy động lực học. Điều này có thể đã xảy ra với Sao Kim.
Đồng dư thức của Kummer Trong toán học, đồng dư thức của Kummer là một số đồng dư thức bao gồm cả số Bernoulli, được phát hiện bởi #đổi . Dạng đơn giản nhất của đồng dư thức Kummer phát biểu rằng trong đó "p" là số nguyên tố, "h" và "k" là hai số nguyên dương chẵn không chia hết cho "p"−1 và các số "B""h" là số Bernoulli. Tổng quát hơn, nếu "h" và "k" là số nguyên dương chẵn không chia hết cho "p" − 1, thì trong đó φ("p""a"+1) là hàm phi Euler, được tính tại "p""a"+1 và "a" là số nguyên không âm. Tại "a" = 0, biểu thức lấy dạng đơn giản hơn ở trên. Hai vế của đồng dư thức là các giá trị của hàm zeta p-adic, và đồng dư thức Kummer chỉ ra rằng hàm zeta "p"-adic cho số nguyên âm có tính liên tục, do đó có thể mở rộng theo tính liên tục cho mọi số nguyên "p"-adic.
Deianira, Deïanira hoặc Deianeira ( ; , or , ]) còn được biết đến với cái tên Dejanira, là một công chúa người thành Calydon trong thần thoại Hy Lạp. Tên của cô được dịch ra là "kẻ tiêu diệt đàn ông" hoặc "người giết chồng cô ấy". Cô là vợ của người anh hùng Heracles và theo một dị bản cổ ra đời muộn hơn, cô là người đã vô tình giết chồng mình với cái áo của Nessus bị nhiễm độc. Deianira cũng là nhân vật chính trong một vở kịch của Sophocles là "Người phụ nữ ở Trachis". Deianira là con gái của Althaea với chồng bà là Oeneus (tên của ông có nghĩa là "người bán rượu nho"), vua của thành Calydon (sau khi thần rượu nho ban tặng cho ông cây nho để trồng trọt), và là em gái của Meleager. Các anh chị em của cô là Toxeus, Clymenus, Periphas, Agelaus (hoặc Ageleus), Thyreus (hoặc là Phereus hoặc Pheres), Gorge, Eurymede và Melanippe. Theo một vài dị bản, Deianira là con gái của vua Dexamenus ở Olenus và chị/em gái của Eurypylus, Theronice và Theraephone. Các nguồn khác gọi những người con gái này của Dexamenus là Mnesimache hoặc Hippolyte. Thần thoại và Văn học. Cuộc hôn nhân với Heracles. Theo Bacchylides, khi người anh hùng Heracles xuống âm phủ để bắt chó ngao ba đầu Cerberus, anh đã gặp linh hồn của Meleager - anh trai Deianira. Meleager kể về cuộc đời mình, rồi cầu xin Heracles kết hôn với Deianira và Heracles chấp thuận. Theo Sophocles, Deianira được thần sông Achelous cầu hôn nhưng Heracles đã đánh bại Achelous trong một cuộc thi để lấy được Deianira làm vợ. Trong một phiên bản khác của câu chuyện trên, Deianira là con gái của Dexamenus. Heracles đã tới cưỡng hiếp cô rồi hứa sẽ quay trở lại cưới cô. Khi Heracles ra đi, nhân mã Eurytion xuất hiện và yêu cầu cưới cô làm vợ. Cha của cô vì sợ hãi nên đã đồng ý, tuy nhiên Heracles kịp thời quay lại trước hôn lễ để giết chết nhân mã và giành lấy cô dâu của mình. Cái chết của Heracles. Câu chuyện trung tâm về Deianira liên quan đến Cái áo của Nessus. Một nhân mã tên là Nessus cố gắng để bắt cóc hoặc cưỡng hiếp Deianira khi anh ta chở cô qua dòng sông Euenos. Nhưng Heracles đã mau chóng cứu vợ bằng cách bắn mũi tên tẩm độc của mình vào người nhân mã. Trong lúc hấp hối, Nessus nói với Deianira lấy máu của anh ta tẩm vào một chiếc áo, chỉ cần đưa cho Heracles mặc thì anh sẽ chung thuỷ với cô suốt đời. Deianira tin lời của anh ta và giữ một ít máu của Nessus bên mình. Heracles sinh ra những đứa con ngoài giá thú trên khắp Hy Lạp và sau đó đem lòng yêu Iole. Vì vậy, khi Deianira lo sợ chồng sẽ không còn yêu mình nữa, cô đã bôi một ít máu của Nessus lên chiếc áo lông sư tử Nemean nổi tiếng của Heracles. Lichas, người hầu của Heracles mang cho anh chiếc áo để anh mặc vào. Máu độc của nhân mã đốt cháy cơ thể Heracles một cách khủng khiếp, và cuối cùng anh đã nhờ người đưa mình vào giàn thiêu. Đau đớn, Deianira tự sát bằng cách treo cổ tự tử hoặc tự sát bằng kiếm.
Thân vương quốc Najran Thân vương quốc Najran là một quốc gia tồn tại ở bán đảo Ả Rập từ năm 1633 đến năm 1934. Xứ này bắt nguồn từ một thân vương quốc thần quyền Hồi giáo dưới quyền thống trị của Yemen vào năm 1633, mặc dù về sau chịu ảnh hưởng của Ottoman. Najran phản đối cuộc nổi dậy của người Yemen chống lại Ottoman vào thập niên 1880. Theo hiệp ước Xê Út–Idris năm 1920, Tiểu vương quốc Nejd và Hasa đã chính thức tuyên bố chủ quyền đối với phần lãnh thổ của Najran, và vào năm 1921, lực lượng dân quân Ikhwan bèn xâm chiếm Najran. Vương quốc Yemen Mutawakkilite cũng có tham vọng ở Najran, và do đó đã cố gắng tự mình chinh phục lấy xứ này vào năm 1924. Mùa đông năm 1931/1932, quân đội Yemen một lần nữa lại cố chiếm Najran, nhưng bị người Ả Rập Xê Út đánh đuổi vào năm 1932. Tháng 11 năm 1933, quân đội Yemen đã chiếm đóng Najran. Năm 1934, sau Chiến tranh Ả Rập Xê Út–Yemen, nền độc lập của Najran chấm dứt hoàn toàn khi Yemen từ bỏ chủ quyền đối với Najran và thân vương quốc này bị sáp nhập vào Ả Rập Xê Út.