title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Pangong Tso | Pangong Tso
Pangong Tso hay hồ Pangong (; tiếng Hindi: पांगोंग त्सो; ) là một hồ nội lục ở Himalayas nằm ở độ cao khoảng 4.350 m. Nó dài 134 km và kéo dài từ Ấn Độ đến Khu tự trị Tây Tạng, Trung Quốc. Khoảng 60% chiều dài của hồ nằm trong Khu tự trị Tây Tạng. Hồ rộng 5 km (3,1 mi) tại điểm rộng nhất của nó. Tất cả cùng nhau bao gồm 604 km2. Trong mùa đông, hồ đóng băng hoàn toàn, mặc dù là nước mặn. Nó không phải là một phần của khu vực lưu vực sông Indus và về mặt địa lý là một lưu vực sông không giáp biển riêng biệt.
Hồ đang trong quá trình được xác định theo Công ước Ramsar là vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế. Đây sẽ là vùng đất ngập nước xuyên biên giới đầu tiên ở Nam Á theo quy ước.
Đảo Chim là đảo nổi tiếng nhất trong Pangong Tso. | wiki |
Polianthion biloculare | Polianthion biloculare là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Được Alexander Segger George mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1967 dưới danh pháp "Pomaderris bilocularis".
Năm 2006, Jürgen Kellermann chuyển nó sang chi "Polianthion" thành "Polianthion bilocularis". Tuy nhiên, danh từ "Polianthion" là giống trung, như được thể hiện trong các danh pháp "P. collinum", "P. wichurae" (loài điển hình) và "P. minutiflorum" mà Kellermann và cộng sự đã chuyển hoặc định danh mới năm 2006, vì thế "Polianthion bilocularis" là viết sai quy tắc chính tả và danh pháp đúng phải là "Polianthion biloculare" như ghi nhận trong POWO.
Mẫu định danh.
Mẫu định danh số "A. S. George 7355"; thu thập ngày 16 tháng 11 năm 1965 tại Khu bảo tồn Tuttaning, East Pingelly.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "biloculare" (giống đực/giống cái: "bilocularis") từ tiếng Latinh "bi" (hai) và "loculus" (ngăn, ô); ở đây để nói tới bầu nhụy 2 ngăn; một đặc điểm mà George cho là khác biệt với các loài "Pomaderris" không cánh hoa khác.
Phân bố.
Loài đặc hữu khu vực tỉnh thực vật tây nam Tây Úc.
Mô tả. | wiki |
Polianthion biloculare | Phân bố.
Loài đặc hữu khu vực tỉnh thực vật tây nam Tây Úc.
Mô tả.
Cây bụi thanh mảnh, cao tới 50 cm, rậm lông măng với các lông đơn và lông hình sao. Lá hình trứng ngược-hình tim, cắt cụt, dài 4-9 mm gồm cả cuống lá dài 1-1,5 mm. Lá kèm hình mác, nhọn, màu nâu, khô xác, dài ~2 mm, có lông măng mặt ngoài, rậm lông với các lông đơn áp ép mặt trong. Hoa màu vàng, đầu cành, trong ngù hoa. Cuống cụm hoa dài 3-4 mm. Các thùy đài hoa hình mác, dài 1,5-2 mm, dài hơn nhiều so với ống đài, có lông măng mặt ngoài, nhẵn nhụi mặt trong với các gân giữa. Không cánh hoa và đĩa hoa. Nhị thò ra. Vòi nhụy mập, hơi 2 thùy. Bầu nhụy nửa hạ, rậm lông măng trên đỉnh, 2 ngăn, mỗi ngăn 1 noãn. Quả nửa thò ra, với kiểu nứt cắt vách. Hạt thuôn dài, nhẵn bóng, có áo hạt.
Chú thích. | wiki |
Phân số Ai Cập | Phân số Ai Cập là tổng các phân số đơn vị riêng biệt, chẳng hạn formula_1. Cách đây khoảng 4000 năm, người Ai Cập đã hiểu được phân số và biết các phép tính về phân số. Tuy nhiên, người Ai Cập cổ đại chỉ thừa nhận các phân số có tử bằng 1. Đây là phân số đầu tiên trên thế giới và sử dụng rộng rãi ở Ai Cập
Định nghĩa.
Những phân số có tử số là 1 thì ta gọi đó là phân số Ai Cập. Dạng tổng quát: formula_2 (y là mẫu số và y ≠ 0)
Cách viết và tên gọi.
Khi loài người bắt đầu có sự phân hóa giàu nghèo thì cũng là lúc đồng thời nhu cầu đếm và chia phát sinh. Để chia cho kết quả công bằng, phân số được ra đời. Lịch sử ghi nhận phân số được đưa thành kí hiệu Toán học đầu tiên là của người Ai Cập cách đây khoảng 3.650 năm. Lúc đó, các phân số đều chỉ có tử số là 1, các mẫu số là số tự nhiên lớn hơn 0. Ngày ấy, loài người thống nhất gọi đó là những phân số Ai Cập.
Do người Ai Cập cổ đại chỉ công nhận các phân số có tử số bằng 1 nên các phân số có tử số lớn hơn 1 đều dược viết dưới dạng tổng các phân số có tử bằng 1 và mẫu số khác nhau. | wiki |
Phân số Ai Cập | Do người Ai Cập cổ đại chỉ công nhận các phân số có tử số bằng 1 nên các phân số có tử số lớn hơn 1 đều dược viết dưới dạng tổng các phân số có tử bằng 1 và mẫu số khác nhau.
Người ta tin rằng mọi phân số đều biểu diễn được dưới dạng tổng của nhiều phân số. Bởi vậy, không cần đưa thêm những phân số có tử số khác 1 vào. Những phân số hay được sử dụng để biểu diễn nhất là những phân số Ai Cập mà mẫu số có nhiều ước số như 12, 24, 60, 36, 144... Có lẽ đó cũng là nguyên nhân hình thành đơn vị như: tá (12 giờ của nửa ngày, 12 chi trong chu kì lịch, 12 tháng của một năm), 24 giờ (trong một ngày), 60 giây (trong một phút), 60 phút (trong một giờ)... Lịch sử ghi nhận bài toán nổi tiếng có tên Bài toán phân số Ai Cập của Paul Erdős: "Mọi phân số có dạng 4/n (n là số tự nhiên lớn hơn 4) đều biểu diễn được thành tổng của 3 phân số Ai Cập khác nhau".
Hiện đang có một lời giải cho bài toán này như sau:
Ta có
formula_3
Vậy mọi phân số có dạng 4/n (n là số tự nhiên lớn hơn 0) đều biểu diễn được thành tổng của 3 phân số Ai Cập khác nhau
Người ta viết một phân số bất kì dưới dạng liên phân số, sau khi có khái niệm phân số nghịch đảo
Sau này người ta thường gọi các phân số dạng 1/n là phân số Ai Cập.
Trong các tài liệu cổ ở Babylon, người ta thấy các phân số có mẫu là lũy thừa của 60. Có lẽ Ấn Độ Là nơi đầu tiên xuất hiện cách viết phân số như ngày nay. | wiki |
Tây Tạng thuộc Thanh | Tây Tạng dưới sự cai trị của nhà Thanh đề cập đến mối quan hệ của nhà Thanh đối với Tây Tạng từ năm 1720 đến năm 1912. Trong thời kỳ này, nhà Thanh coi Tây Tạng là một nước chư hầu. Tây Tạng tự coi mình là một quốc gia độc lập chỉ có mối quan hệ "đạo sư và bảo hộ" với nhà Thanh, được thiết lập vào năm 1653. Các học giả như Melvyn Goldstein đã coi Tây Tạng là một chính quyền bảo hộ của nhà Thanh.
Trước thời Thanh, Đế quốc Tây Tạng đã kiểm soát một khu vực rộng lớn của châu Á hiện đại, bao gồm cả các vùng của Trung Quốc, khi Phật giáo Tây Tạng dưới thời Liên Hoa Sinh và Ninh-mã phái được thành lập. Sau sự suy tàn của đế chế, các khu vực của đế chế đã phát triển thành các chính thể tự trị, một số thuộc các trường phái kế thừa sau này của Kagyu và Sakya. Ninh-mã phái vẫn là phi chính trị. Sau đó, Cố Thủy Hãn của Hãn quốc Hòa Thạc Đặc thống nhất Tây Tạng vào năm 1642 dưới quyền về tinh thần và thời gian của Đạt lai Lạt ma thứ 5 của Cách-lỗ phái. | wiki |
Tây Tạng thuộc Thanh | Cơ quan chính quyền Ganden Phodrang của Tây Tạng và quân đội thường trực của nó đã được thành lập. Năm 1653, Đạt lai Lạt ma trong chuyến thăm cấp nhà nước tới triều đình nhà Thanh, và được tiếp đón tại Bắc Kinh và "được công nhận là quyền thần của Đế quốc Đại Thanh". Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ xâm chiếm Tây Tạng năm 1717, và sau đó đã bị trục xuất bởi nhà Thanh năm 1720. Các hoàng đế nhà Thanh sau đó đã bổ nhiệm các cư dân đế quốc được gọi là những người tham vọng đến Tây Tạng, hầu hết trong số họ là người Mãn đã báo cáo cho Lý Phiên Nguyên, một cơ quan chính phủ nhà Thanh giám sát biên giới đế quốc. Dưới thời Thanh, Tây Tạng vẫn giữ được quyền tự chủ về chính trị của mình. Khoảng một nửa các vùng đất Tây Tạng được miễn trừ khỏi quyền cai trị hành chính của Lhasa và được sáp nhập vào các tỉnh lân cận của Trung Quốc, mặc dù trên danh nghĩa hầu hết chỉ thuộc quyền của Bắc Kinh. | wiki |
Tây Tạng thuộc Thanh | Đến những năm 1860, "sự cai trị" của nhà Thanh ở Tây Tạng đã trở thành lý thuyết nhiều hơn là thực tế, do gánh nặng đối nội và đối ngoại của nhà Thanh Năm 1890, nhà Thanh và Anh ký Hiệp ước Thanh-Anh liên quan đến Sikkim và Tây Tạng, mà Tây Tạng không quan tâm vì nó chỉ để "một mình Lhasa thương lượng với các cường quốc nước ngoài thay mặt cho Tây Tạng". Anh kết luận vào năm 1903 rằng quyền thống trị của Trung Quốc đối với Tây Tạng là một "hư cấu hợp hiến", và tiến hành xâm lược Tây Tạng vào năm 1903–1904. Nhà Thanh bắt đầu thực hiện các bước để khẳng định lại quyền kiểm soát, sau đó xâm lược Lhasa vào năm 1910. Trong Công ước Anh-Nga năm 1907, Anh và Nga công nhận nhà Thanh là tông chủ quyền của Tây Tạng và cam kết sẽ thoái thác các công việc của Tây Tạng, do đó đã ấn định tình trạng độc quyền trong một văn bản quốc tế. Sau khi nhà Thanh bị lật đổ trong Cách mạng Tân Hợi năm 1911, "ngang bang" đã gửi thư đầu hàng cho Đạt lai Lạt ma thứ 13 vào mùa hè năm 1912. Sau đó, Đạt lai Lạt ma đã trục xuất "ngang bang" và quân đội Trung Quốc khỏi Tây Tạng, tất cả người Hán, sau khi tái khẳng định nền độc lập của Tây Tạng vào ngày 13 tháng 2 năm 1913. | wiki |
Ivan Valchanov | Ivan Valchanov
Ivan Nikolov Valchanov (Bulgarian: Иван Николов Вълчанов; sinh 28 tháng 9 năm 1991 ở Sandanski) là một cầu thủ bóng đá Bulgaria thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Etar.
Sự nghiệp.
Ngày 28 tháng 8 năm 2012, đội bóng Ý Novara ký hợp đồng với Valchanov theo dạng cho mượn dài hạn, với điều khoản mua vĩnh viễn.
Ngày 28 tháng 1 anh ký hợp đồng với Cherno More.
Septemvri Sofia.
Ngày 17 tháng 6 năm 2017 Valchanov ký hợp đồng với đội bóng mới trở về First League Septemvri Sofia. Anh ra mắt cho đội bóng ngày 17 tháng 7 năm 2017 trong trận đấu trước Dunav Ruse. Ngày 7 tháng 8 năm 2017, hợp đồng của anh kết thúc sau thỏa thuận đôi bên.
Etar.
Ngày 8 tháng 8 năm 2017, Valchanov ký hợp đồng với Etar Veliko Tarnovo.
Thống kê sự nghiệp.
"Tính đến 12 tháng 12 năm 2017" | wiki |
Ngân hàng Thái Lan | Ngân hàng Thái Lan
Ngân hàng Thái Lan (, ) là ngân hàng trung ương của Vương quốc Thái Lan.
Ngân hàng Thái Lan bắt đầu hoạt động ngày 10 tháng 12 năm 1942. Ban lãnh đạo ngân hàng này gồm một thống đốc và 4 phó thống đốc.
Tarisa Watanagase đã được bổ nhiệm làm thống đốc vào ngày 17 tháng 10 năm 2006, thay thế Pridiyathorn Devakula, người đã trở thành bộ trưởng tài chính.
Vai trò của ngân hàng này :
Kể từ tháng 5 năm đã theo đuổi mục tiêu kiểm soát lạm phát, hơn là tổng lượng tiền tệ lưu thông, trong việc thiết lập chính sách tiền tệ. Mục tiêu lạm phát của ngân hàng này hiện nay là 0%-3,5%.
Lãi suất được quyết định bởi Ủy ban Chính sách Tiền tệ, bao gồm 3 quan chức từ Ngân hàng Thái Lan và 4 chuyên gia từ bên ngoài. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Gloria Macaraeg Macapagal Arroyo (sinh ngày 5 tháng 4 năm 1947) là tổng thống thứ 14 của Philippines. Bà là nữ chính khách thứ hai trở thành nguyên thủ quốc gia (sau Tổng thống Corazon Aquino), là phụ nữ đầu tiên đảm nhiệm chức vụ phó tổng thống của đảo quốc này và cũng là tổng thống Philippines đầu tiên sinh sau thế chiến II.
Arroyo nhận lãnh chức vụ tổng thống năm 2001 do cuộc cách mạng EDSA lần thứ hai, đánh đổ Joseph Estrada khỏi quyền lực giữa những cáo buộc về tình trạng tham nhũng tràn lan. Năm 2004, Arroyo đắc cử tổng thống khi đánh bại diễn viên điện ảnh Fernando Poe, Jr..
Năm 2005, Arroyo được bình chọn bởi tạp chí "Forbes" trở thành nhân vật thứ tư trong danh sách những phụ nữ nhiều quyền lực nhất trên thế giới. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2006, Arroyo rơi xuống vị trí thứ 45 trong danh sách bình chọn này của tạp chí Forbes .
Thiếu thời.
Arroyo chào đời với tên Gloria Macaraeg Macapagal, con gái của Diosdado Macapagal và Evangelina Macaraeg. Gloria 14 tuổi khi cha của cô, Diosdado Macapagal, đắc cử tổng thống. Gloria được gởi đến Tu viện Assumption để theo đuổi chương trình giáo dục bậc tiểu học và trung học, tốt nghiệp thủ khoa năm 1964; sau đó theo học trong hai năm tại Trường Ngoại giao thuộc Đại học Georgetown ở Washington, D.C., tại đây cô trở thành bạn học cùng lớp với cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton. Gloria nhận văn bằng cử nhân chuyên ngành kinh tế tại Đại học Assumption khi tốt nghiệp hạng xuất sắc năm 1968. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Sau khi trở về Philippines, Arroy lấy bằng Thạc sĩ chuyên ngành kinh tế tại Đại học Ateneo de Manila và học vị Tiến sĩ Kinh tế học tại Đại học Philippines.
Arroyo kết hôn với Jose Miguel Arroyo năm 1968. Họ có ba con, Juan Miguel (sinh năm 1969), Evangelina Lourdes (1971), và Diosdado Ignacio Jose Maria (1974).
Từ năm 1977 đến năm 1987, Arroyo giảng dạy tại các trường học như Đại học Philippines và Đại học Ateneo de Manila. Bà cũng đảm nhận chức vụ chủ tịch Khoa Kinh tế Đại học Assumption.
Năm 1987, nữ tổng thống đầu tiên của Philippines, Corazon Aquino, mời Arroyo tham chính trong cương vị Phụ tá Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp, hai năm sau bà được đề bạt vào chức vụ thứ trưởng. Đồng thời trong cương vị Giám đốc điều hành Ban Xuất khẩu hàng dệt may, Arroyo chứng kiến tốc độ tăng trưởng cao của công nghiệp dệt may trong thập niên 1980.
Chính trường.
Mặc dù cha từng là tổng thống Philippines, Arroyo không chịu tham gia chính trường cho mãi đến năm 1992, hai mươi bảy năm sau khi ông rời khỏi chức vụ. Arroyo đắc cử vào Thượng viện Philippines năm 1992, tái đắc cử năm 1995, đứng đầu cuộc bầu cử thượng viện với 16 triệu phiếu cử tri bầu cho bà.
Với tư cách một nhà lập pháp, Arroyo đệ trình hơn 400 dự luật và bảo trợ 55 đạo luật quan trọng về kinh tế suốt trong thời gian bà phục vụ tại Thượng viện. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Với tư cách một nhà lập pháp, Arroyo đệ trình hơn 400 dự luật và bảo trợ 55 đạo luật quan trọng về kinh tế suốt trong thời gian bà phục vụ tại Thượng viện.
Năm 1998, mặc dù có xem xét đến khả năng ra tranh cử tổng thống, nhưng lại chịu thuyết phục bởi cựu tổng thống Fidel V. Ramos, Arroyo đồng ý gia nhập Đảng LAKAS để đứng chung liên danh với ứng cử viên tổng thống, Chủ tịch Hạ viện Jose De Venecia. De Venecia và Arroyo vận động tranh cử toàn quốc với sự hỗ trợ của Ramos và bộ máy đầy quyền lực của đảng LAKAS. Arroyo đắc cử phó tổng thống với 13 triệu phiếu, hơn hai lần so với số phiếu của ứng cử viên kế cận, Thượng nghị sĩ Edgardo Angara. Nhưng De Venecia thất bại trước phó tổng thống đương nhiệm rất được lòng dân, Joseph Estrada.
Phó Tổng thống.
Ngày 30 tháng 6 năm 1998, Arroyo bắt đầu nhiệm kỳ phó tổng thống. Một thời gian ngắn sau đó, Estrada bổ nhiệm bà vào nội các đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Phát triển và Phúc lợi Xã hội với nhiệm vụ chính là giám sát các chương trình của chính phủ phục vụ dân nghèo.
Tháng 10 năm 2000, Arroyo từ nhiệm khỏi nội các để giữ khoảng cách với Tổng thống Estrada đang bị cáo buộc tham nhũng bởi chính những chính trị gia ủng hộ ông trước đó. Arroyo gia nhập tổ chức dân sự ("civil society") cùng với nhiều công dân Philippines khác kêu gọi tổng thống từ chức. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Ngày 20 tháng 1 năm 2001, sau nhiều ngày bất ổn chính trị với những cuộc biểu tình bùng phát trên đường phố, Tối cao Pháp viện công bố bỏ trống chiếc ghế tổng thống. Trước đó, quân đội và cảnh sát quốc gia rút lại sự trung thành dành cho Estrada và quay sang ủng hộ Arroyo. Ngay trong ngày, Arroyo tuyện thệ nhậm chức tổng thống thứ 14 của Philippines trước Chánh án Toà Tối cao Hilario Davide Jr.
Tiến trình loại bỏ Estrada về sau được biết đến với tên gọi Cuộc cách mạng EDSA II, sau khi cuộc cách mạng EDSA năm 1986 lật đổ chính quyền Ferdinand Marcos. EDSA là bốn chữ cái đầu của "Epifano de los Santos Avenue", một xa lộ thuộc Vùng đô thị Manila là địa điểm chính diễn ra các cuộc biểu tình.
Sau này Estrada tra vấn về tính hợp pháp của phán quyết toà án khi ông tìm cách giành lại ghế tổng thống nhưng Tối cao Pháp viện công nhận sự kế nhiệm của Arroyo là hợp pháp. Ngay cả khi Estrada và những người ủng hộ ông không bao giờ công nhận chức vụ tổng thống của Arroyo, bà vẫn có thể hành xử đầy đủ quyền hạn và đặc quyền dành cho tổng thống. Cộng đồng quốc tế cũng công nhận Arroyo là tổng thống Philippines.
Tổng thống.
Giai đoạn đầu: 2001 – 2004. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Tổng thống.
Giai đoạn đầu: 2001 – 2004.
Sự kiện Arroyo kế nhiệm tổng thống chia cắt đất nước Philippines thành hai phe, một phe ủng hộ bà trong khi phe kia đứng về phía Estrada. Suốt trong nhiệm kỳ đầu, những tra vấn về tính hợp pháp của chức vụ tổng thống luôn đeo đuổi Arroyo, mặc cho Toà án Tối cao đã phát quyết về vấn đề này. Mặt khác, những chính trị gia từng ủng hộ Estrada quay lưng lại với ông trong khi sự kiện các đồng minh chính trị của Arroyo giành được thắng lợi áp đảo trong cuộc bầu cử tổ chức vào tháng 5 năm 2004 được nhiều người xem là sự thừa nhận hiển nhiên của cử tri dành cho chức vụ tổng thống của Arroyo.
Thách thức lớn nhất đối với Arroyo là cải cách một chính quyền luôn bị nhìn xem là thối nát. Khó khăn xuất hiện khắp mọi nơi khi thực thi sứ mạng dễ làm nản lòng này; công việc của Arroyo càng khó khăn hơn khi những người ủng hộ Estrada sẵn sàng chụp lấy mọi cơ hội để phá hoại quyền lãnh đạo của bà.
Ngày 21 tháng 5 năm 2001, hàng ngàn người ủng hộ tổng thống bị phế truất diễu hành đến dinh tổng thống yêu cầu phóng thích và phục hồi chức vụ cho Estrada, đang bị giam giữ vì tội danh tham ô. Chỉ trong vài ngày, tình trạng bạo loạn lụi tàn khi những mối đe doạ cho chính phủ Arroyo bị dập tắt. Nỗ lực không thành công nhằm lật đổ Arroyo được gọi là EDSA 3 hay Sức mạnh của dân nghèo.
Binh biến Oakwood. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Ngày 27 tháng 7 năm 2003, Arroyo đối mặt với một cuộc nổi dậy lộ diện khi hơn ba trăm sĩ quan cấp thấp và binh sĩ phản loạn (các phương tiện truyền thông gọi nhóm người này là "Magdalos" vì băng màu đỏ họ mang trên cánh tay) tạo ra một cuộc binh biến, chiếm giữ một khách sạn và một trung tâm mua sắm trong khu kinh doanh trong thành phố Makati thuộc Vùng đô thị Manila ("Metro Manila"). Cuối cùng, nhóm quân nhân phiến loạn đồng ý qui hàng khi đạt được một thoả thuận với chính phủ sau 22 giờ thương thuyết. Suốt trong lúc đàm phán, những thủ lĩnh của Magdalo, Trung uý Hải quân Antonio Trillanes IV và Đại uý Thủy quân lục chiến Gary Alejano nêu lên những yêu cầu đòi cải tổ Lực lượng vũ trang Philippines. Sáu trong số những thủ lĩnh này, trong đó có Trillanes và Alejano, muốn ra trước toà án binh trong khi binh sĩ dưới quyền chỉ muốn trở về doanh trại. Sau khi cuộc khủng hoảng chấm dứt, những điều kiện đạt được khi thương thảo đã bị chính phủ phớt lờ. Các phụ tá của Arroyo cho rằng cuộc binh biến có liên quan đến Estrada và những người ủng hộ ông. Một cựu phụ tá của Estrada bị bắt giữ liên quan đến cuộc nổi dậy. Tổng thống cho thành lập Uỷ ban Feliciano để điều tra về cuộc binh biến. Sau này, Uỷ ban nhận ra rằng cuộc nổi dậy, được gọi là Binh biến Oakwood (gọi theo tên khách sạn bị phiến quân nắm giữ), không phải là tự phát mà đã được hoạch định trước. Rõ ràng có kế hoạch nhắm lật đổ chính phủ Arroyo, mặc dù vẫn không có chứng cớ đầy đủ về sự dính líu của Estrada.
Jose Pidal. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Jose Pidal.
Tháng 8 năm 2003, chồng của Arroyo, Jose Miguel, bị cáo buộc bởi Thượng nghị sĩ Panfilo Lacson, cho rằng đệ nhất phu quân đã chuyển những đóng góp và ngân quỹ vận động tranh cử vào một tài khoản ngân hàng dưới một tên giả, Jose Pidal. Lacson còn trưng ra những bức ảnh cho thấy đệ nhất phu quân đang "tình tứ" với cô phụ tá Victoria Toh. Thế là những đồn đại cho rằng Mike Arroyo lừa dối vợ trở nên râm ran trên khắp cả nước.
Những cáo buộc này không có giá trị pháp lý nhưng đủ để làm tổng thống bối rối và tức giận ông chồng. Vài tuần sau đó, trước các phóng viên, Mike Arroyo thể hiện một cử chỉ hoà giải khi tặng hoa cho bà vợ tổng thống của mình.
Kinh tế Lễ hội.
Chính phủ ban hành chính sách điều chỉnh những ngày lễ sao cho có thể kéo dài các kỳ nghỉ cuối tuần - chẳng hạn, nếu ngày lễ Độc lập của Philippines (12 tháng 6) là vào thứ Tư, sẽ được dời đến thứ Sáu hoặc thứ Hai để kéo dài kỳ nghỉ cuối tuần nhằm phát triển du lịch trong nước - Chính sách này được áp dụng từ năm 2002 mặc cho những luận cứ phản bác cho rằng không cần thiết phải phá vỡ truyền thống trong khi giới doanh nghiệp than phiền chính phủ luôn chậm trễ trong việc ấn định các ngày lễ. Đến nay, dân chúng đòi hỏi phải công bố trước lịch lễ hội cả năm.
Arroyo nhấn mạnh đến mục đích chính của chính sách kinh tế lễ hội là: | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Arroyo nhấn mạnh đến mục đích chính của chính sách kinh tế lễ hội là:
Cuối tháng 8 năm 2005, giới doanh nghiệp và công chúng nhận ra họ bị rơi vào "bẫy lễ hội" khi chính phủ Arroyo đột ngột công bố ngày lễ kỷ niệm các anh hùng quốc gia vào ngày 29 tháng 8. Mãi cho đến cuối ngày 26 tháng 8 (thứ Sáu), thư ký báo chí Ignacio Bunye nói rõ rằng sẽ không có ngày lễ nào được công bố; đến cuối tuần, chính phủ công bố ngày lễ là ngày làm việc bình thường.
Nhưng khi đến ngày 29 tháng 8, người dân kinh ngạc khi thấy cửa hiệu và văn phòng chính phủ đóng cửa. Sau đó, giới luật sư, nghiệp đoàn và thủ lĩnh doanh nghiệp tổ chức các buổi họp và các buổi tụ tập để yêu cầu Arroyo chấm dứt chính sách kinh tế lễ hội mà họ cho là "lợi bất cập hại". Những người chỉ trích phê phán chính phủ Arroyo là "cực kỳ luộm thuộm và vô trách nhiệm".
Nhiều người tin rằng chính phủ hấp tấp công bố ngày lễ 29 tháng 8 là vì nỗi sợ bị Quốc hội ấn định lịch thảo luận và biểu quyết về vụ luận tội tổng thống (khi ấy đang bị đình hoãn), sẽ là ngày 5 và 6 tháng 8. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Khi Arroyo không chịu công bố kỳ nghỉ lễ kéo dài 8 ngày trong tháng 12 năm 2005 (chỉ có ngày 26 và 30 tháng 12 được nghỉ lễ, nhưng ngày 27, 28 và 29 tháng 12 là ngày làm việc) nhiều người chỉ ra rằng chiến lược của nền kinh tế lễ hội là thủ phạm chính gây ra sự sút giảm lượng hàng hoá bán lẻ trên cả nước. Những người bán lẻ trên khắp Philippines báo cáo sút giảm 15% doanh số trong tháng 12 năm 2005 so với cùng kỳ năm 2004. Những nhà phân tích nhấn mạnh sự kiện số lượng đông đảo ngày lễ được công bố trải đều suốt năm 2005 khiến dân chúng đi nhiều và chi tiêu nhiều cho du lịch nên không còn nhiều tiền dành cho mua sắm trong mùa lễ hội.
Bầu cử năm 2004.
Ngày 30 tháng 12 năm 2002 tại thành phố Baguio, Arroyo tuyên bố sẽ không ra tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2004, nhưng bà đã đổi ý và quyết định đấu tranh cho một nhiệm kỳ mới kéo dài sáu năm. Xuất hiện trong một cuộc tụ họp đông đảo tại tỉnh nhà Pampanga, Arroyo cho biết bà quyết định "hoãn lại kế hoạch nghỉ hưu", nhắc đến những yêu cầu đang gia tăng từ những người ủng hộ muốn bà ra tranh cử. Vì thái độ xoay chiều đột ngột này mà uy tín của Arroyo bị tổn thương. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Cuộc bầu cử năm 2004 được xem là cơ hội cho Arroyo củng cố uy tín chính phủ của bà, vẫn luôn bị ám ảnh bởi tính hợp pháp từ cuộc chính biến năm 2001 đưa bà lên ghế tổng thống. Arroyo tranh đấu trong một cuộc vận động tranh cử đầy cay đắng chống lại một ứng viên tổng thống và là bạn thân của Estrada, diễn viên điện ảnh được ưa chuộng Fernando Poe, Jr. Trong mắt quần chúng, Arroyo có lợi thế là một nhà trí thức khi đối đầu với Poe, một người không hoàn tất nổi chương trình trung học. Những ứng viên khác là Thượng nghị sĩ Raul Roco, Thượng nghị sĩ Panfilo Lacson và nhà truyền bá phúc âm Eduardo Villanueva.
Trong những lần thăm dò trước mùa bầu cử, Arroyo chỉ bám đuổi theo Poe, nhưng uy tín của bà tăng dần cho đến khi vượt qua Poe. Về sau người ta cho rằng Arroyo có được thành công này là nhờ bộ máy chính trị, Liên minh K4 với ảnh hưởng vượt trội của Đảng LAKAS (cùng với De Venecia, năm 2002, Arroyo đảm nhiệm chức vụ đồng chủ tịch đảng LAKAS); quyết định của bà khi chọn người đứng cùng liên danh, một thượng nghị sĩ được lòng dân, Noli De Castro; sự ủng hộ của bà dành cho các nhóm tôn giáo có nhiều ảnh hưởng; và lòng trung thành của các tỉnh như Cebu, Pampanga và những nơi khác.
Như đã được tiên báo bởi các cuộc thăm dò dư luận, Arroyo dành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống tổ chức ngày 10 tháng 5 năm 2004, khoảng cách với đối thủ gần nhất, Poe, là một triệu phiếu bầu. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Như đã được tiên báo bởi các cuộc thăm dò dư luận, Arroyo dành thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống tổ chức ngày 10 tháng 5 năm 2004, khoảng cách với đối thủ gần nhất, Poe, là một triệu phiếu bầu.
Dù có những cáo buộc xuất hiện trong suốt cuộc vận động tranh cử cho rằng Arroyo sử dụng tiền thuế của người dân cho ngân quỹ vận động tranh cử, cũng có những cáo buộc về gian lận và có những bất thường không quan trọng được tìm thấy trong kỳ bầu cử nhưng những người cáo buộc không đưa ra được bằng chứng cho những cáo buộc gian lận và tham nhũng trên quy mô toàn quốc.
Giai đoạn hai: 2004 đến 2010.
Ngày 24 tháng 6 năm 2004, hơn một tháng sau ngày bầu cử, Quốc hội tuyên bố Arroyo thắng cử. Ngày 30 tháng 6 năm 2004, trên đảo Cebu, Arroyo tuyên thệ nhậm chức, là tổng thống đầu tiên của Philippines làm lễ nhậm chức ở đây. Động thái này thể hiện lòng biết ơn dành cho dân chúng đảo Cebu đã ủng hộ bà trong cuộc tuyển cử. Không theo nếp cũ, Arroyo chỉ đọc diễn văn nhậm chức tại Manila rồi đến đảo Cebu để tiến hành lễ nhậm chức.
Vụ tai tiếng "Hello Garci". | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Vụ tai tiếng "Hello Garci".
Ngày 10 tháng 6 năm 2005, một cựu phó giám đốc Văn phòng Điều tra Quốc gia (NBI), Samuel Ong, tiết lộ rằng ông có một bộ những cuộn băng gốc về cuộc nói chuyện giữa Tổng thống Arroyo và một viên chức thuộc Ủy ban Bầu cử. Theo nhận xét của Ong, nội dung cuộn băng cho thấy Arroyo đã gian lận trong kỳ bầu cử toàn quốc năm 2004 khoảng 1 triệu phiếu, với số phiếu này bà đã đánh bại đối thủ của mình. Ngày 27 tháng 6, Arroyo thừa nhận sai lầm khi nói chuyện với một viên chức bầu cử, nhưng cho đó chỉ là một "sai sót trong phán đoán" và khẳng định không tìm cách gây ảnh hưởng trên kết quả bầu cử.
Ngày 8 tháng 7 năm 2005, mười thành viên nội các nộp đơn từ chức và yêu cầu tổng thống cũng làm như vậy. Sau đó trong ngày, Đảng Tự do và cựu tổng thống Corazon Aquino, cả hai từng là đồng minh của Arroyo, cùng kêu gọi bà từ chức. Tổng thống một lần nữa bác bỏ những yêu cầu này.
Trong khi đó, cựu tổng thống Fidel Ramos tiếp tục ủng hộ Arroyo, cương quyết bác bỏ mọi lời yêu cầu tổng thống từ chức và đề nghị nên tiến hành tu chính hiến pháp để thay đổi thể chế chính quyền Philippines từ tổng thống chế sang thể chế đại nghị liên bang.
Tháng 9 năm 2005, Viện Dân biểu biểu quyết 158 chống 51 dập tắt mọi nỗ lực đưa tổng thống ra luận tội, với lý do "chưa đủ chứng cớ". Phe đối lập đã không kiếm đủ 79 phiếu cần có để chuyển vụ việc lên Thượng viện. Có một số thành viện chủ chốt của phe đối lập vắng mặt lúc biểu quyết trong khi một số khác thay đổi ý kiến vào phút chót. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Tuy nhiên, chính phủ Arroyo vẫn tiếp tục đối đầu với những chống đối không ngơi nghỉ với những cuộc tụ họp chống đối trên đường phố, trên các phương tiện truyền thông dù có gây ảnh hưởng bất lợi trên sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Cựu tổng thống Corazon Aquino, một đồng minh quan trọng của Arroyo trong cuộc Cách mạng Quyền lực Nhân dân năm 2001 (EDSA II), đứng về phe đối lập và lãnh đạo các cuộc tụ họp trên đường phố.
Ngay sau quyết định của Viện Dân biểu, "Social Weather Station" (SWS) công bố một loạt những cuộc thăm dò cho thấy công luận vẫn tỏ ra nghi ngờ về vị trí của Arroyo trong chính phủ. 79% người trả lời cuộc thăm dò muốn tổng thống phải bị luận tội vì đã nói chuyện qua điện thoại với một viên chức bầu cử, hành động này đồng nghĩa với sự gian lận. 64% cho biết họ muốn Arroyo từ nhiệm, trong khi đó có 51% tin rằng cách mạng quyền lực nhân dân là giải pháp giúp loại bỏ tổng thống khỏi chức vụ.
Thảm hoạ Wowowee.
Ngày 4 tháng 2 năm 2006, xảy ra thảm hoạ khi đám đông chen lấn hỗn loạn tại ULTRA, thành phố Pasig làm thiệt mạng 73 người và làm bị thương gần 400 người khác khi những người này đến tham dự trò chơi truyền hình Wowowee. Tổng thống đưa ra hạn định 72 giờ đồng hồ cho cuộc điều tra và đến an ủi thân nhân những người thiệt mạng trước và sau cuộc hỗn loạn.
Bầu cử 2010.
Trong cuộc bầu cử tổng thống Philippines nhiệm kỳ tiếp theo, bà bị ông Benigno Aquino III cáo buộc bà tham nhũng và gian lận bầu cử trong khi tại vị.
Giai đoạn hậu tổng thống. | wiki |
Gloria Macapagal Arroyo | Bầu cử 2010.
Trong cuộc bầu cử tổng thống Philippines nhiệm kỳ tiếp theo, bà bị ông Benigno Aquino III cáo buộc bà tham nhũng và gian lận bầu cử trong khi tại vị.
Giai đoạn hậu tổng thống.
Ngày 18/11/2011, bà Gloria Arroyo đã bị bắt giữ tại một bệnh viện ở Manila vì vì những cáo buộc gian lận trong cuộc bầu cử năm 2007.
Mặc dù Tòa án Tối cao Philippines đã cho phép bà Arroyo ra nước ngoài chữa bệnh, nhưng chính quyền đã yêu cầu cơ quan xuất nhập cảnh ngăn cựu lãnh đạo này rời khỏi đất nước đồng thời đẩy nhanh tiến trình cáo buộc bà Arroyo vi phạm luật bầu cử. | wiki |
Văn Đức Khuê | Văn Đức Khuê (文德奎, 1807-1864), trước tên là Giai, sau đổi là Khuê; là danh thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử.
Văn Đức Khuê sinh năm Đinh Mão (1807) tại xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Sớm mồ côi cha, ông lớn lên là nhờ mẹ. Khoa Quý Mão (1843) đời Thiệu Trị, ông thi đỗ Cử nhân. Năm sau (1844), ông thi đỗ Tiến sĩ, được làm quan, dần trải tới chức Chưởng ấn tại triều.
Năm 1861 đời Tự Đức, Nam Kỳ bị quân Pháp xâm chiếm, ông vào quân thứ Gia Định, rồi nhận lệnh đi chiêu mộ quân nghĩa dũng. Sau đó, ông lần lượt được giữ các chức: Lang trung bộ Binh, Tán tương quân vụ sung hàm Hồng lô tự khanh, Tuyên phủ sứ Phú Yên, Biện lý bộ Hình.
Năm Quý Hợi (1863), quân của Tạ Văn Phụng hoành hành đánh phá ở Hải An (hay Hải Yên, gồm Hải Dương và Quảng Yên), ông được cử làm Tán lý quân vụ để cùng với Trương Quốc Dụng đi bình định.
Tháng 6 (âm lịch) năm 1864, đạo quân thứ Hải Yên đánh nhau với quân Tạ Văn Phụng tại La Khê (nay thuộc xã Tiền An, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Quan quân nhà Nguyễn thất thế, bị quân thủy bộ của đối phương vây kín. Hiệp thống Trương Quốc Dụng, Tán tương Trần Huy San và ông đều chết trận .
Theo "Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam", sau khi Trương Quốc Dụng hy sinh, vì xúc động Văn Đức Khuê đã xua quân phản công, nhưng vì thế yếu, ông bèn tử tiết theo bạn , hưởng dương 57 tuổi, được truy tặng chức Bố chính sứ.
Ông nổi tiếng là người hiếu hạnh, thanh liêm và tài giỏi .
Tưởng nhớ. | wiki |
Văn Đức Khuê | Ông nổi tiếng là người hiếu hạnh, thanh liêm và tài giỏi .
Tưởng nhớ.
Ghi nhận công lao và sự hy sinh của Văn Đức Khuê và Trương Quốc Dụng, năm 1877, dân làng La Khê đã lập đền thờ hai ông (có tên là đền Quan Đại). Trong đền có bức hoành phi "Công nhược Thái Sơn" ("công lao như núi Thái Sơn") và nhiều đôi câu đối, trong đó có câu:
Còn trong nhà thờ tổ họ Văn ở Quỳnh Lưu (Nghệ An), chân dung và linh vị của Văn Đức Khuê được đặt vào vị trí trân trọng nhất để cho con cháu luôn ghi nhớ . | wiki |
Sát thủ quyền | Sát thủ quyền là món võ mang lối đánh có tính sát thương cao, hiểu theo một góc độ rộng khắp thì nó cũng là một dạng của chân quyền, được chuyên biệt hóa về lối đánh nhằm mang lại sát thương cao nhất cho đòn triển khai. Người Trung Quốc có môn võ Thái cực quyền vận dụng nhu mềm để khống chế cương lực, hay môn võ Ngũ hình quyền mô phỏng hoạt động, dáng điệu của các loài thú trong rừng để luyện tập trí lực. Thì Sát thủ quyền là môn võ sáng tạo của người Việt Nam cho phù hợp với dáng dấp nhỏ bé, nhanh nhẹn. Mức độ sát thương của đòn đánh cao, rất thực dụng trong chiến đấu.
Đặc trưng.
Về bộ pháp, sát thủ quyền sử dụng hấu hết các bộ pháp của chân quyền.
Về di chuyển, tiến thoái trong cách đánh, nó đòi hỏi linh hoạt, có thể luồn lách, sàng tránh đòn của đối phương. Đây chính là lối tấn công quần thân. Lối đánh này đòi hỏi phản ứng nhanh nhẹn, mạch hoạt, tấn công chuẩn xác vào các điểm yếu, các huyệt đạo tối quan trọng trên cơ thể đối phương khiến cho bằng thời gian ngắn nhất, hiệu quả đòn đánh sát thương mạnh nhất. Thường nạn nhân sẽ bất tỉnh nhân sự hay nạng hơn là tử thương.
Vũ khí trên cơ thể con người sử dụng trong sát thủ quyền chủ yếu bằng cùi trỏ, đầu gối, cạnh bàn tay, cạnh bàn chân.
Hệ thống liên hợp tấn công.
Mỗi võ phái cổ truyền luôn có những đòn đánh, chiêu thức sử dụng các đòn tấn công có sự ly ngắn và đòi hỏi tốc độ cao. Sát thủ quyền là một liên hoàn các chiêu thức đánh cận chiến quần thân. | wiki |
Sát thủ quyền | Mỗi võ phái cổ truyền luôn có những đòn đánh, chiêu thức sử dụng các đòn tấn công có sự ly ngắn và đòi hỏi tốc độ cao. Sát thủ quyền là một liên hoàn các chiêu thức đánh cận chiến quần thân.
Sát thủ quyền có tất cả là 4 bài quyền, mỗi bài có các cách di chuyển hợp lý riêng biệt, lối sử dụng đòn tấn công cũng có khác biệt. Sát thủ quyền chủ yếu sử dụng các kỹ thuật nhập nội.
Nguồn gốc.
Xét trong các lối ứng chiến của sát thủ quyền, có nhiều kết luận về nguồn gốc của món võ đặc biệt này.
Kỹ thuật.
Xét trong bài quyền thứ nhất thì Sát thủ quyền có lối đánh mang ảnh hưởng lớn của Thiếu Lâm Nam phái. Tuy nhiên trong bài quyền này, ở đoạn cuối bài lại có sự xuất hiện của chiêu thức Ác phong đắc tử, chiêu thức này theo như võ sư Hà Định (chưởng môn phái Lam Sơn căn bản) thì nó có nguồn gốc từ vị mãnh tướng Lê Phụng Hiểu xuất thân từ vùng Băng Sơn - châu Ái.
Xét bài quyền thứ hai. Bài quyền này có sử dụng thêm nhiều đòn chân phụ trợ, trong đó có đòn chân "Song cước tảo địa". Đòn chân này không có trong 108 đòn đá của võ Thiếu Lâm.
Môn phái.
Sát thủ quyền hiện còn lưu truyền trong võ phái Lam Sơn căn bản, đây là võ phái mà theo như lời của chưởng môn phái thì có sự thừa kế các kỹ thuật cổ truyền của võ học Thanh Hóa, trên cơ sở của kỹ thuật Nam Thiếu Lâm.
Như vậy Sát thủ quyền là sản phẩm có nguồn gốc từ võ học cổ truyền Ái châu - Thanh Hóa.
Tập luyện. | wiki |
Sát thủ quyền | Như vậy Sát thủ quyền là sản phẩm có nguồn gốc từ võ học cổ truyền Ái châu - Thanh Hóa.
Tập luyện.
Tập luyện Sát thủ quyền lần lượt qua các giai đoạn sau: Luyện tập bộ pháp, quyền pháp, phân thế. Chuyên sâu vào các công pháp: Nhãn pháp, công phá bằng trỏ, gồi, cạnh bàn tay, cạnh bàn chân.
Môn sinh khi đã trải qua các căn bản quyền pháp của võ phái mới có thể bước đầu làm quen luyện tập Sát thủ quyền. Hầu hết khi đã học xong Bát lộ quyền thì mới bắt đầu cho phép luyện tập Sát thủ quyền. | wiki |
Nguyễn Đức Thuận | Nguyễn Đức Thuận (1916 – 1985) có tên khai sinh là Bùi Phong Tư là nhà cách mạng Việt Nam, nguyên là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam kiêm Phó Chủ nhiệm UBKH Nhà nước. Ông là tác giả cuốn "Bất khuất", một cuốn tự truyện từng gây tiếng vang ở miền Bắc về "sức chịu đựng kỳ diệu của một người chiến sĩ", suốt 8 năm bị tra tấn dã man vẫn không khuất phục...").
Quê quán.
Nguyễn Đức Thuận tên thật là Bùi Phong Tư, tục danh là Tư Móm, quê làng Bản Ngũ, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Quá trình hoạt động cách mạng.
Ông xuất thân công nhân, năm 1936 tham gia phong trào thợ thuyền ở Hà Nội, năm 1937 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1940 là ủy viên trong Thành ủy Hà Nội, cuối năm 1940 bị bắt, kết án 15 năm khổ sai đày lên nhà tù Sơn La, đến cuối năm 1943 bị đày ra Côn Đảo.
Tác phẩm. | wiki |
Nguyễn Đức Thuận | Tác phẩm.
Nguyễn Đức Thuận có một cuốn tự truyện duy nhất và khá nổi tiếng tại miền Bắc lúc in lần đầu là cuốn "Bất khuất". Cuốn sách này thuật lại toàn bộ thời gian ông bị bắt và chịu tù đày của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và sách cũng từng gây chấn động miền Bắc và quốc tế về sức chịu đựng khó tin của một người chiến sĩ. Sách được xuất bản lần đầu vào tháng 4 năm 1967 với 210.000 bản in tại miền Bắc. Những năm sau đó, Nhà xuất bản Ngoại văn Việt Nam đã dịch tác phẩm "Bất khuất" ra 5 ngôn ngữ khác (Anh, Hoa, Nga, Pháp và quốc tế ngữ), in với số lượng lớn phát hành ra nước ngoài, nhằm gây chú ý của dư luận thế giới. Cuốn sách này có nhiều ý kiến tranh cãi về độ xác thực của một số chi tiết trong đó song vẫn được xem là một tác phẩm có giá trị nên đã được tái bản một số lần.
Tuy nhiên trong cuốn hồi ký Đèn cù, Trần Đĩnh cho rằng mình là người chấp bút tác phẩm này.
Cuộc sống gia đình. | wiki |
Nguyễn Đức Thuận | Tuy nhiên trong cuốn hồi ký Đèn cù, Trần Đĩnh cho rằng mình là người chấp bút tác phẩm này.
Cuộc sống gia đình.
Vợ ông là bà Nguyễn Thị Phương Nhu sinh năm 1927, con một nhà giáo ở Bình Định, năm 1945 cùng gia đình vào Sài Gòn sinh sống. Năm 1946, bà tham gia hoạt động bí mật và được kết nạp vào Hội Phụ nữ cứu quốc Sài Gòn. Năm 1947, bà đã trốn nhà, thoát ly ra bưng biền, đến cơ quan Phụ nữ Nam Bộ, làm Ủy viên thư ký Ban chấp hành Phụ nữ Cứu quốc tỉnh Vĩnh Long. Lúc đó, bà là một trong 4 đại biểu của phụ nữ tỉnh đi dự Hội nghị cán bộ Phụ nữ Nam Bộ họp vào đầu năm 1950 tại xã Vĩnh Thuận Đông, huyện Long Mỹ, tỉnh Rạch Giá, giữa rừng U Minh Thượng và U Minh Hạ. Đến tham dự hội nghị, có cả ông Lê Đức Thọ ở Trung ương cử vào, ông Lê Duẩn, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ và ông Nguyễn Đức Thuận, Phó bí thư xứ uỷ Nam Kỳ. Sau hội nghị, Lê Đức Thọ mời bà ở lại làm việc trong Ban Tuyên huấn Phụ nữ Nam Bộ và có ý tác thành với Nguyễn Đức Thuận.
Vinh danh.
^ Tên ông được dùng để đặt cho một con đường ở xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Đường dài 3 km; từ đường Nguyễn Văn Linh - ngã ba quốc lộ 5 với quốc lộ 1B - đến ngã ba Kiên Thành - Trâu Quỳ (lối rẽ vào Khu công nghiệp vừa và nhỏ huyện Gia Lâm).
^ Tên ông được dùng để đặt cho một con đường ở phường Hiệp Thành, Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. | wiki |
Bốn con rồng châu Á | Bốn con rồng châu Á
Bốn con rồng châu Á, bốn con hổ châu Á hay bốn con rồng nhỏ là bốn nền kinh tế phát triển ở Đông Á, bao gồm Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Hồng Kông. Các nền kinh tế này đã trải qua quá trình công nghiệp hóa thần tốc đồng thời duy trì được tốc độ tăng trưởng đặc biệt cao trong những năm từ thập niên 1960 cho đến đầu thế kỷ 21.
Đến đầu thế kỷ 21, nền kinh tế của các nước này đã phát triển, chuyển mình từ những nước công nghiệp mới thành những nền kinh tế có thu nhập cao, chuyên về các lĩnh vực kinh tế tri thức cần nhiều chất xám và có lợi thế cạnh tranh lớn. Hồng Kông và Singapore trở thành những trung tâm tài chính và cảng thương mại quốc tế hàng đầu của thế giới, trong khi Hàn Quốc và Đài Loan dẫn đầu về sản xuất linh kiện và thiết bị điện tử. Sự thành công trong công cuộc phát triển kinh tế của họ đã trở thành di sản, hình mẫu cho nhiều nước đang phát triển, đặc biệt là nhóm Hổ mới châu Á nằm ở khu vực Đông Nam Á nghiên cứu áp dụng, học tập theo.
Năm 1993, báo cáo của Ngân hàng Thế giới mang tên gọi "The East Asian Miracle" ("Kỳ tích Đông Á") đã ghi nhận các chính sách tân tự do cùng với sự bùng nổ kinh tế, bao gồm việc duy trì chính sách định hướng xuất khẩu, thuế thấp và các nhà nước phúc lợi tối thiểu. Những phân tích về thể chế chính trị cho thấy rằng nhà nước có sự can thiệp ở mức độ đáng kể. Một số nhà phân tích cho rằng các chính sách công nghiệp và sự can thiệp của chính phủ có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với báo cáo của Ngân hàng Thế giới. | wiki |
Let_s Wait Awhile | Let's Wait Awhile
"Let's Wait Awhile" là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Janet Jackson, phát hành như là đĩa đơn thứ 5 trích từ album phòng thu thứ ba của cô, "Control" (1986). Nó được sáng tác và sản xuất bởi Jackson cùng bộ đôi Jimmy Jam & Terry Lewis, với sự tham gia hỗ trợ viết lời từ Melanie Andrews. Đây cũng là bài hát đầu tiên mà nữ ca sĩ đồng sản xuất. Được lấy cảm hứng từ cuộc trò chuyện của Janet với một người bạn, bài hát nói về việc tiết dục và trì hoãn sự thân mật quá đà trong mối quan hệ.
Bài hát nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao sự ngọt ngào của bài hát. Nó cũng được ca ngợi bởi thông điệp ý nghĩa truyền tải, và là một công cụ hữu hiệu để giảng dạy khuyến khích tiết dục. "Let's Wait Awhile" đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và Adult Contemporary, cũng đạt hạng 3 ở Vương quốc Anh và 4 ở Ireland.
Một video ca nhạc cho bài hát được đạo bởi Dominic Sena với câu chuyện của một cặp vợ chồng trong tình yêu. Janet đã biểu diễn nó trong tất cả các chuyến lưu diễn của mình, và nhận được lời khen vì làm nổi bật giọng hát của cô. Bài hát đã được hát lại và lấy nhạc mẫu rất nhiều lần, cũng như xuất hiện làm nhạc phimc cho các phim truyền hình dài tập tại Brazil. | wiki |
Agatanushi | Agatanushi
là một tước hiệu quý tộc cổ xưa trong hệ thống "kabane" ở thời kỳ Yamato tại Nhật Bản từ thế kỷ thứ 4 đến thế kỷ thứ 6, trước khi ra đời thể chế "Ritsuryō". Tước hiệu này có từ nguyên trong "kanji" gồm và , một đơn vị hành chính dưới cấp hành tỉnh, và tước hiệu "agatanushi" được xếp dưới tước . Các nhà nghiên cứu cho rằng, "agatanushi" vốn là những thủ lĩnh bộ tộc nhỏ trong thời kỳ Kofun đã bị vương quyền Yamato hùng mạnh thôn tính.
Theo sách Tùy thư của Trung Quốc ghi chép, lãnh thổ Yamato vốn được chia thành các "kuni" (国, quốc), dưới là cấp "agata" (県, huyện), được cai trị lần lượt bởi "kuni no miyatsuko" và "agatanushi", người chịu trách nhiệm để thu thập cống phẩm cho triều đình. Tuy nhiên, các chức vị này dường như đã được xác nhận quyền lực địa phương trên thực tế, chứ không phải đơn thuần là một thần tử của triều đình Yamato. | wiki |
Sữa non | Sữa non hay sữa đầu còn được gọi là thức ăn đầu tiên của sự sống (tên khoa học là "colostrum") là một loại sữa mẹ đặc biệt. Là dạng vật chất có màu vàng, đặc dính , xuất hiện vào cuối thời kỳ mang thai và lưu thông qua tuyến vú của người mẹ trong vòng 72 giờ đầu sau khi sinh con và xuất hiện ở hai ngày đầu sau khi sinh. Sữa non có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng cân đối, các kháng thể giúp diệt vi khuẩn, vi rút độc hại và các chất điều hòa miễn dịch giúp cho cơ thể của trẻ sơ sinh chống lại bệnh tật và phát triển khỏe mạnh. Sữa non có nhiều thành phần dưỡng chất và đã được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á... trong những thực phẩm để nuôi sống con người. Chính vì thế mà sữa non được ví như một thực phẩm vàng cho trẻ sơ sinh.
Đặc điểm.
Sữa non hoặc sữa đầu còn được tạo ra trong giai đoạn cuối của thai kỳ, thường là khoảng tháng thứ sáu đến tháng thứ bảy. Sữa non vẫn còn tồn tại trong một vài ngày sau khi sinh. Nó là một loại sữa đặc, dính và có màu từ gam vàng đến cam. Nó là loại thực phẩm hoàn hảo đầu tiên của trẻ nhỏ vì nó được sản sinh ra phục vụ cho nhu cầu của trẻ sơ sinh. | wiki |
Sữa non | Mặc dù khối lượng ít, nhưng sữa có nồng độ dinh dưỡng cao, sữa non đặc sánh, màu vàng nhạt, rất giàu chất đạm, kháng thể, vitamin A và bạch cầu. Lượng đạm trong sữa non nhiều gấp 10 lần trong sữa trưởng thành và nhiều thành phần quan trọng khác như immunoglobulin, các yếu tố tăng trưởng, kháng thể, vitamin, khoáng chất, enzyme, amino acid... Đó là minh chứng cho việc nuôi con bằng sữa mẹ là một biện pháp tự nhiên an toàn, lành mạnh.
Khoảng tháng thứ 7, thai phụ bắt đầu có dấu hiệu tiết sữa non. Một số người mẹ thấy ngực mình chảy sữa ở giai đoạn sớm hơn, tháng thứ 5 hoặc thứ 6. Một số người mẹ khác không có dấu hiệu tiết sữa non mặc dù tuyến sữa vẫn hoạt động khá tốt. Ban đầu, người mẹ sẽ thấy đầu núm vú có những gợn trắng, trông giống như mụn. Đó là dấu hiệu cảnh báo bạn chuẩn bị tiết sữa non. Khoảng một vài ngày sau đó (có khi kéo dài đến hàng tuần) mới xuất hiện dấu hiệu tiết sữa thật sự.
Công dụng.
Một số lợi ích cụ thể của sữa non là:
Trên thị trường. | wiki |
Sữa non | Công dụng.
Một số lợi ích cụ thể của sữa non là:
Trên thị trường.
Trên thị trường sữa ở Việt Nam xuất hiện nhiều loại sữa là thực phẩm chức năng nhưng gọi là sữa non, thậm chí còn có hành vi so sánh các sản phẩm này tương đương với sữa mẹ trong khi đó theo Nghị định 21 của Chính phủ Việt Nam thì các sản phẩm dinh dưỡng dành cho trẻ nhỏ trên nhãn không được ngụ ý sản phẩm có chất lượng tương đương hoặc tốt hơn sữa mẹ, chưa kể là nhiều sản phẩm này không đủ điều kiện tiêu chuẩn chất lượng Lực lượng chức năng tiến hành điều tra sản phẩm Sữa non . Kết quả cho thấy nhiều khuất tất khi người tiêu dùng đang bị doanh nghiệp phân phối sản phẩm này đánh lừa bằng nhiều chiêu thức tinh vi, xảo quyệt. | wiki |
Ong đá | Ong đá
Ong đá hay còn gọi là ong mật Hy Mã Lạp Sơn (Danh pháp khoa học: "Apis dorsata laboriosa") là một phân loài ong có kích thước cơ thể lớn nhất trong loài ong mật. Cơ thể chúng có màu đen và sọc trắng ở bụng. Chúng còn được biết đến là loài ong có tổ lớn nhất, với lượng mật khổng lồ, chúng thường chỉ xây một bánh tổ ở dưới các vách đá có độ cao 1.200m trở lên so với mực nước biển, do tổ lớn nên dự trữ mật nhiều nhất, thường từ 40 – 60 kg mật/bánh tổ. Loài ong này đang có nguy cơ bị tuyệt chủng cao. | wiki |
Saida, Syria | Saida, Syria
Saida, cũng đánh vần Sayda (), là một ngôi làng ở miền nam Syria, một phần hành chính của Tỉnh Daraa, nằm ở phía đông Daraa. Các địa phương gần đó bao gồm al-Naimah ở phía tây, al-Ghariyah al-Gharbiyah ở phía bắc, Kahil và al-Musayfirah ở phía đông và al-Taybeh và Umm al-Mayazen ở phía nam. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), Saida có dân số 11.215 trong cuộc điều tra dân số năm 2004.
Lịch sử.
Trong sổ đăng ký thuế của Ottoman năm 1596, Sayda là một ngôi làng nằm ở "nahiya" của Butayna, Qada của Hauran. Nó có dân số 41 hộ gia đình và 13 cử nhân, tất cả đều là người Hồi giáo. Họ đã trả mức thuế cố định 40% cho các sản phẩm nông nghiệp, bao gồm lúa mì, lúa mạch, vụ hè, dê và ong, ngoài các khoản thu không thường xuyên; tổng cộng 8.188 akçe. 1/6 doanh thu đã đi đến một waqf.
Saida là một "khirba" (ngôi làng đổ nát) vào năm 1858 trong thời kỳ Ottoman. Tuy nhiên, nửa sau của thế kỷ đó đã chứng kiến sự hồi sinh trong canh tác ngũ cốc và an ninh ở vùng Hauran, trong đó Saida là một phần. Trong thời gian đó, nó đã được định cư và đến năm 1895 có 250 cư dân. | wiki |
Danh sách giải thưởng và đề cử của Lena Meyer-Landrut | Đây là danh sách giải thưởng và đề cử của nữ ca sĩ - nhạc sĩ người Đức Lena Meyer-Landrut. Cô đại diện cho Đức tại Eurovision Song Contest 2010 ở Oslo, Na Uy, và chiến thắng cuộc thi với ca khúc "Satellite", Trước đó, để tham dự Eurovision, cô đã chiến thắng cuộc thi tài năng "Unser Star für Oslo". Cô nhận được nhiều giải thưởng âm nhạc của Đức và châu Âu, trong đó có 4 giải MTV châu Âu, 3 giải ECHO và 2 giải 1LIVE KRONE.
Eurovision Song Contest.
Eurovision Song Contest (Cuộc Thi Ca khúc Truyền hình châu Âu) là một cuộc thi âm nhạc được tổ chức luân phiên hàng năm giữa các nước thành viên Liên hiệp Phát sóng châu Âu ("Europeon Broadcasting Union" - EBU), nước chiến thắng cuộc thi lần trước sẽ giành quyền đăng cai cuộc thi kế tiếp, thường là vào tháng 5. Lena chiến thắng cuộc thi này vào năm 2010 và tiếp tục tham dự cuộc thi năm sau với ca khúc Taken by a Stranger nhưng chỉ về thứ 10.
1LIVE Krone Awards.
1LIVE KRONE Awards là giải thưởng âm nhạc thường niên dành cho lứa tuổi vị thành niên của kênh 1 LIVE.
Bravo Otto Awards.
Bravo Otto Awards là giải thưởng thường niên của tạp chí Bravo Otto tại Đức.
Comet Awards.
VIVA Comet Awards là giải thưởng hàng năm của tạp chí VIVA Comet tại Đức.
German Television Awards.
German Television Awards là giải thưởng truyền hình thường niên của Đức được thành lập vào tháng 10 năm 1998 của các kênh Das Erste, ZDF, RTL và Sat.1.
Goldene Henne Awards.
Goldene Henne là giải thưởng thường niên nhằm tôn vinh nghệ sĩ Đức Helga Hahnemann. | wiki |
Danh sách giải thưởng và đề cử của Lena Meyer-Landrut | Goldene Henne Awards.
Goldene Henne là giải thưởng thường niên nhằm tôn vinh nghệ sĩ Đức Helga Hahnemann.
Goldene Kamera Awards.
Goldene Kamera Awards là giải thưởng truyền hình thường niên của Đức được trao bởi tạp chí truyền hình HÖRZU.
ECHO Awards.
ECHO là một giải thưởng âm nhạc Đức trao hằng năm cho các nghệ sĩ thành công nhất về mặt doanh số bán hàng trên toàn quốc thông qua "Deutsche Phono-Akademie" (một hiệp hội của các công ty ghi âm).
European Music Award Sound.
European Music Award Sound là giải thưởng âm nhạc thường niên trao bởi Hiệp hội Âm nhạc châu Âu cho các ca sĩ - nhạc sĩ xuất sắc nhất khắp thế giới.
ESC Radio Awards.
ESC Radio Awards là giải thưởng do đài phát thanh ESC Radio của Eurovision Song Contest tổ chức.
MTV Awards.
MTV Europe Music Awards.
MTV Europe Music Awards (MTV EMAs hay đơn giản EMAs) là một giải thưởng thành lập năm 1994 bởi kênh truyền hình MTV châu Âu nhằm trao giải cho các nghệ sĩ xuất sắc nhất trên toàn thế giới. Địa điểm trao giải luôn được thay đổi và chỉ ở trong châu Âu.
MTV Germany Jahresvoting.
MTV Germany Jahresvoting là giải thưởng âm nhạc thường niên của kênh MTV Đức. Giải thưởng được trao thông qua kết quả phiếu bầu của khán giả.
Nickelodeon Kids' Choice Awards. | wiki |
Danh sách giải thưởng và đề cử của Lena Meyer-Landrut | MTV Germany Jahresvoting là giải thưởng âm nhạc thường niên của kênh MTV Đức. Giải thưởng được trao thông qua kết quả phiếu bầu của khán giả.
Nickelodeon Kids' Choice Awards.
Nickelodeon Kids Choice Awards (KCA) là giải thưởng thường niên, thường diễn ra vào cuối tháng Tư, nhằm tôn vinh các thành tựu lớn trong nằm về truyền hình, phim ảnh và âm nhạc. Kết quả được xác định thông qua bình chọn của trẻ em và thanh thiếu niên qua kênh truyền hình cáp Nickelodeon và Disney Channel.
Radiopreis SIEBEN.
Radiopreis SIEBEN là giải thưởng thường niên trao bởi đài phát thanh Radio 7 của Đức. | wiki |
Thảo mộc | Thảo mộc là một nhóm thực vật được phân bố rộng rãi và đại trà, ngoại trừ rau và các loại thực vật khác được tiêu thụ để cung cấp chất dinh dưỡng, với đặc tính thơm dùng để tạo hương vị và trang trí thực phẩm, nhằm mục đích y học hoặc làm nước hoa. Nếu dùng để chế biến thì thường phân biệt thảo mộc với gia vị. Thảo mộc thường chỉ đến các bộ phận lá xanh hoặc hoa của cây (tươi hoặc khô), trong khi các gia vị thường được sấy khô và sản xuất từ các bộ phận khác của cây như hạt, vỏ cây, rễ và quả.
Thảo mộc có nhiều cách sử dụng như chế biến, dược liệu, hương thơm và trong một số trường hợp là tinh thần. Cách dùng thông dụng của thuật ngữ "thảo mộc" khác nhau giữa các loại thảo mộc chế biến và dược liệu; trong sử dụng y học hoặc tinh thần, bất kỳ bộ phận nào của cây cũng có thể được xem là "thảo mộc", gồm lá, rễ, hoa, hạt, vỏ rễ, vỏ trong (và tầng sinh mạch), nhựa và vỏ ngoài.
Trong thực vật học, danh từ "thảo mộc" dùng để chỉ một "thực vật không tạo ra thân gỗ" và tính từ "thân thảo" có nghĩa là "giống như thảo mộc", dùng để chỉ các bộ phận của cây có màu xanh và kết cấu mềm".
Định nghĩa. | wiki |
Thảo mộc | Định nghĩa.
Trong thực vật học, thuật ngữ thảo mộc dùng để chỉ một loại cây thân thảo, tức được định nghĩa là một cây nhỏ, có hạt, không có thân gỗ, trong đó tất cả các bộ phận trên mặt đất chết đi vào cuối mỗi mùa sinh trưởng. Thông thường thuật ngữ này chỉ cây lâu năm, mặc dù cây thân thảo cũng có thể là cây hàng năm (cây chết vào cuối mùa sinh trưởng và mọc lại từ hạt vào năm sau), hoặc cây hai năm. Thuật ngữ này trái ngược với cây bụi và cây thân gỗ. Cây bụi và cây thân gỗ cũng được xác định theo kích thước, trong đó cây bụi cao dưới 10 mét còn cây thân gỗ có thể cao hơn 10 mét. Từ herbaceous (thân thảo) có nguồn gốc từ tiếng Latin "herbaceus" nghĩa là "cỏ", nguồn gốc từ "herba" (cỏ, thảo mộc).
Một ý nghĩa khác của thuật ngữ thảo mộc có thể là chỉ nhiều loại thực vật hơn, với mục đích chế biến, trị liệu hoặc các mục đích khác. Ví dụ, một số thảo mộc được mô tả phổ biến nhất như cây xô thơm, hương thảo và oải hương sẽ bị loại khỏi định nghĩa thực vật học về thảo mộc vì chúng không chết hàng năm và chúng có thân gỗ. Theo nghĩa rộng hơn, thảo mộc có thể là cây thân thảo lâu năm nhưng cũng có thể là cây thân gỗ, cây bụi thấp, cây bụi, cây hàng năm, dây leo, dương xỉ, rêu, tảo, địa y và nấm. Ngành thảo dược học có thể sử dụng không chỉ thân và lá mà còn cả quả, rễ, vỏ cây và nướu. Do đó, một định nghĩa về thảo mộc là một loại cây được sử dụng cho con người, mặc dù định nghĩa này có vấn đề vì nó có thể bao gồm rất nhiều loại thực vật thường không được mô tả là thảo mộc. | wiki |
Thảo mộc | Lịch sử.
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Theophrastus đã chia thế giới thực vật thành cây thân gỗ, cây bụi và thảo mộc. Thảo mộc được chia làm ba nhóm, đó là thảo mộc trong chậu (ví dụ như hành tây), thảo mộc ngọt (ví dụ như cỏ xạ hương) và thảo mộc làm salad (ví dụ như cần tây hoang dã). Trong thế kỷ XVII, khi nhân giống chọn lọc làm thay đổi kích thước và hương vị của thực vật khỏi cây dại, thảo mộc trong chậu bắt đầu được gọi là rau vì chúng không còn được coi là chỉ phù hợp với chậu.
Thực vật học và nghiên cứu về thảo mộc trong giai đoạn sơ khai chủ yếu là nghiên cứu về công dụng dược lý của thực vật. Trong thời Trung Cổ, khi thuyết dịch thể là kim chỉ nam của y học, người ta cho rằng thực phẩm sở hữu đặc tính dịch thể của riêng chúng, có thể thay đổi tính khí của con người. Rau mùi tây và cây xô thơm thường được dùng chung trong nấu ăn thời Trung Cổ, chẳng hạn như trong nước dùng gà, nổi tiếng là một loại thực phẩm trị liệu vào thế kỷ 14. Một trong những loại nước sốt phổ biến nhất thời bấy giờ, nước sốt xanh, được làm với rau mùi tây và thường là cả cây xô thơm. Trong một công thức nấu ăn từ thế kỷ 14 được ghi lại bằng tiếng Latinh "dành cho các lãnh chúa, để giải quyết tính khí và kích thích sự thèm ăn của họ", nước sốt xanh được phục vụ với một đĩa pho mát và cả lòng đỏ trứng luộc trong rượu pha loãng với thảo mộc và gia vị.
Sinh sản. | wiki |
Thảo mộc | Sinh sản.
Thảo mộc lâu năm thường được nhân giống bằng cách giâm cành, bất kể là giâm cành gỗ mềm chưa trưởng thành, hoặc giâm gỗ cứng nơi vỏ cây đã được cạo để lộ lớp tượng tầng. Một vết cắt thường sẽ có chiều dài khoảng 3 đến 4 inch. Rễ cây có thể mọc ra từ thân cây. Lá được tước từ phần dưới cho đến một nửa cây trước khi giâm được đặt trong môi trường tăng trưởng hoặc đặt rễ trong một cốc nước. Quá trình này đòi hỏi môi trường có độ ẩm cao, đủ ánh sáng và nhiệt ở vùng rễ.
Công dụng.
Chế biến.
Thảo mộc chế biến được phân biệt với rau ở chỗ, giống như gia vị, chúng được sử dụng với số lượng nhỏ và cung cấp hương vị hơn là chất cho thực phẩm.
Thảo mộc có thể là cây lâu năm như cỏ xạ hương, cây xô thơm hoặc oải hương, cây hai năm như rau mùi tây hoặc cây hàng năm như húng quế. Các loại thảo mộc lâu năm có thể là cây bụi như cây hương thảo ("Rosmarinus officinalis") hoặc cây thân gỗ như nguyệt quế ("Laurus nobilis") – điều này trái ngược với thảo mộc thực vật, mà theo định nghĩa không thể là cây thân gỗ. Một số cây được sử dụng làm cả thảo mộc và gia vị, chẳng hạn như cỏ thì là và hạt thì là hoặc lá và hạt rau mùi. Ngoài ra còn có một số loại thảo mộc, chẳng hạn như những loại thuộc họ bạc hà, được sử dụng cho cả mục đích chế biến và dược liệu. | wiki |
Thảo mộc | Hoàng đế Charlemagne (742–814) đã biên soạn danh sách 74 loại thảo mộc khác nhau sẽ được trồng trong vườn của ông. Mối liên hệ giữa thảo mộc và sức khỏe rất quan trọng đã có từ thời Trung Cổ ở Châu Âu-- "The Forme of Cury" (nghĩa là "nấu ăn") thúc đẩy việc sử dụng đại trà thảo mộc, kể cả trong món salad, và tuyên bố trong lời nói đầu của cuốn sách "sự đồng ý và lời khuyên của bậc thầy về vật lý và triết học trong Tòa án của nhà vua".
Trà.
Một số thảo mộc có thể được ngâm trong nước sôi để pha trà thảo mộc (còn được gọi là tisane). Thông thường, lá, hoa, hạt khô hoặc các loại thảo mộc tươi được sử dụng. Trà thảo mộc có xu hướng được làm từ thảo mộc thơm, có thể không chứa tanin hoặc caffein, và thường không được pha với sữa. Các ví dụ phổ biến bao gồm trà hoa cúc, hoặc trà bạc hà. Trà thảo mộc thường được sử dụng để thư giãn hoặc có thể kết hợp với các nghi lễ.
Dược phẩm.
Thảo mộc từng được sử dụng trong y học thời tiền sử. Từ năm 5000 trước Công nguyên, bằng chứng cho thấy người Sumer sử dụng thảo mộc trong y học đã được ghi lại trên chữ hình nêm. Vào năm 162 sau Công nguyên, bác sĩ Galen được biết đến với việc pha chế các phương thuốc thảo dược phức tạp có chứa tới 100 thành phần. | wiki |
Thảo mộc | Một số thực vật mang hóa chất có tác dụng đối với cơ thể. Có thể có một số tác động khi tiêu thụ ở mức độ nhỏ, điển hình là "gia vị" trong ẩm thực và một số loại thảo mộc độc hại với số lượng lớn hơn. Ví dụ, một số loại chiết xuất thảo mộc, chẳng hạn như chiết xuất của St. John's-wort ("Hypericum perforatum") hoặc kava ("Piper methysticum") có thể được sử dụng cho mục đích chữa trị để giảm trầm cảm và căng thẳng. Tuy nhiên, một lượng lớn các loại thảo mộc này có thể dẫn đến quá tải độc tố và các biến chứng, một số có tính chất nghiêm trọng và nên thận trọng khi sử dụng. Các biến chứng cũng có thể phát sinh khi dùng một số loại thuốc theo toa. | wiki |
Thảo mộc | Thảo mộc từ lâu đã được sử dụng làm cơ sở của y học cổ truyền Trung Quốc, với việc sử dụng có niên đại từ thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên và rất lâu trước đó. Ở Ấn Độ, hệ thống y học Ayurveda dựa trên thảo mộc. Việc sử dụng thảo mộc để chữa bệnh trong các nền văn hóa phương Tây bắt nguồn từ hệ thống chữa bệnh bằng nguyên tố Hippocrates (Hy Lạp), dựa trên phép ẩn dụ chữa bệnh bằng nguyên tố bậc bốn. Nhà thảo dược học nổi tiếng của truyền thống phương Tây bao gồm Avicenna (Ba Tư), Galen (La Mã), Paracelsus (Đức Thụy Sĩ), Culpepper (Anh) và các bác sĩ chiết trung thiên về thực vật của thế kỷ 19/đầu thế kỷ 20 của Mỹ (John Milton Scudder, Harvey Wickes Felter, John Uri Lloyd). Dược phẩm hiện đại có nguồn gốc từ thuốc thảo mộc thô, và cho đến ngày nay, một số loại thuốc vẫn được chiết xuất dưới dạng các hợp chất phân đoạn/phân lập từ thảo mộc thô và sau đó được tinh chế để đáp ứng các tiêu chuẩn dược phẩm.
Một số thảo mộc có chứa các đặc tính thần kinh đã được con người sử dụng cho cả mục đích tôn giáo và giải trí kể từ đầu kỷ nguyên Holocene, đáng chú ý là lá và chiết xuất của cây cần sa và cây coca. Lá của cây coca đã được người dân ở các xã hội phía bắc Peru nhai trong hơn 8.000 năm, trong khi việc sử dụng cần sa như một chất kích thích thần kinh đã có ở Trung Quốc (thế kỉ thứ nhất) và Bắc Phi (thế kỷ thứ 3). | wiki |
Thảo mộc | Người Úc bản địa đã phát triển "thuốc từ cây bụi" dựa trên những thực vật sẵn có đối với họ. Sự cô lập của các nhóm này tức là các phương thuốc được phát triển dành cho những bệnh ít nghiêm trọng hơn nhiều so với các bệnh phương Tây mà họ mắc phải trong thời kỳ thuộc địa. Các thảo mộc như bạc hà sông, cây keo và bạch đàn được sử dụng để chữa ho, tiêu chảy, sốt và đau đầu.
Nghi thức.
Thảo mộc được sử dụng trong nhiều tôn giáo. Trong thời kỳ tu viện, các nhà sư sẽ trồng thảo mộc cùng với rau, trong khi những loại khác sẽ được dành riêng trong một vườn thuốc cho các mục đích cụ thể. Ví dụ, mộc dược ("Commiphora myrrha") và nhũ hương (loài "Boswellia") trong tôn giáo Hy Lạp hóa, 9 bùa thảo mộc trong ngoại giáo Anglo-Saxon, lá neem ("Azadirachta indica"), lá húng quế (Aegele "marmelos" , húng quế hoặc "tulsi" ("Ocimum tenuiflorum"), nghệ hoặc "haldi" ("Curcuma longa"), cần sa trong Ấn Độ giáo và cây xô thơm trắng trong Wicca. Rastafari cũng coi cần sa là một loại cây thánh.
Mỹ phẩm. | wiki |
Thảo mộc | Mỹ phẩm.
Ban đầu, luôn có sự nghi ngờ trong các xã hội cổ đại, đặc biệt là trong môi trường hoài nghi của các truyền thống phương Tây về hiệu quả của thuốc thảo dược. Việc sử dụng mỹ phẩm thảo dược có từ khoảng 6 thế kỷ trước ở các nước châu Âu và phương Tây. Hỗn hợp và bột nhão thường được pha chế để làm trắng da mặt. Trong suốt những năm 1940, mỹ phẩm thảo dược bắt đầu nổi lên với màu son đỏ nổi bật, mỗi năm lại có một màu đỏ đậm hơn. Mỹ phẩm thảo dược có nhiều dạng, chẳng hạn như kem thoa mặt, tẩy tế bào chết, son môi, nước hoa tự nhiên, phấn phủ, dầu dưỡng thể, chất khử mùi và kem chống nắng. Chúng kích hoạt thông qua biểu mô của tuyến bã nhờn để làm cho da mềm mại hơn. Các loại dầu Ayurvedic được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ, được đánh giá cao vì đặc tính tự nhiên mang lại sức khỏe.
Khác.
Các cây thảo mộc (rải rác) trên tầng của nơi ở và các tòa nhà khác. Những cây như vậy thường có mùi thơm hoặc làm se, và nhiều loại cũng được dùng làm thuốc trừ sâu (ví dụ như đuổi bọ chét) hoặc chất khử trùng. Ví dụ, cỏ thơm ("Filipendula ulmaria") đôi khi được rải khắp các tầng vào thời Trung Cổ vì mùi thơm của nó. | wiki |
Chó hoang | Chó hoang hay còn gọi là chó thả rông, chó chạy rông, chó đi lạc, chó đi hoang, chó đường phố là thuật ngữ chỉ về những con chó nhà trong tình trạng không có chủ sở hữu, không tìm thấy, xác định được chủ sở hữu, không có ai quản lý, coi sóc, nuôi dưỡng và sống trong tình trạng lang thang. Cần phân biệt chó hoang với các loài chó hoang dã trong tự nhiên như chó hoang châu Phi, chó hoang Ấn Độ, chó Dingo, những con chó hoang thường chạy lung tung, chúng sống tập trung thành từng đàn và kiếm ăn bằng cách ăn thịt thối, thức ăn thừa, bới rác, nhặt rác hoặc ăn thức ăn người ta vứt cho.
Chó hoang dễ dẫn đến các nguy cơ có thể tấn công con người hay tấn công các vật nuôi, gia súc khác, chó hoang có nguy cơ dễ bị nhiễm dại trở thành những con chó dại rồi cắn người truyền bệnh dại cho con người, bênh cạnh đó, chó hoang lang thang hay bới rác, phóng uế lung tung cũng đẫn đến mất vệ sinh môi trường nhất là ở vùng đô thị. Về bản thân những con chó này cũng có nguy cơ bị bắt và giết bởi những kẻ trộm chó (cẩu tặc) rồi bán cho các quán thịt chó thành cầy tơ, không rõ nguồn gốc, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tình hình.
Ấn Độ. | wiki |
Chó hoang | Tình hình.
Ấn Độ.
Ở Ấn Độ, Số lượng chó hoang lên đến hàng chục triệu con nguyên nhân của việc tăng đột biến số lượng chó hoang này là do một luật cấm giết chó ban hành năm 2001, số lượng chó đã tăng lên một cách nhanh chóng. Mỗi năm có tới hàng triệu người bị chúng tấn công, trong đó đa phần là trẻ em. Không quốc gia nào có nhiều chó hoang như ở Ấn Độ. Chó hoang thường ẩn nấp ở những công viên, trong các con hẻm hay góc phố. Ở trong làng hàng đêm thường phải nghe những tiếng hú của chúng, những người chạy bộ thường phải mang theo gậy tre để đánh đuổi chúng còn những người đi xe đạp thì đút đầy đá vào túi để ném những con chó rượt theo. Tại New Delhi của Ấn Độ có hàng triệu người bị chó hoang tấn công mỗi năm, có rất nhiều nạn nhân của những con chó hoang này đang phải điều trị tại đây. Trong số đó, phần lớn là trẻ em, sinh viên và những người già. Ở Mumbai, nơi có hơn 80.000 người bị chó cắn mỗi năm, chính phủ kiểm soát số lượng chó bằng cách sử dụng xe máy xua và bắn mực vào lông chúng. | wiki |
Chó hoang | Ước tính có hơn 1 triệu con chó hoang trong khu vực bang Kashmir, riêng Srinagar có khoảng 91.000 con, theo số liệu của chính quyền thành phố. Đã có khoảng 53.000 trường hợp bị "cẩu xực" được giới chức địa phương ghi nhận trong vòng 5 năm. Chính quyền bang Kashmir, Ấn Độ đang triển khai một chương trình triệt sản dành cho chó hoang ở thủ phủ của bang này là Srinagar. Triệt sản là biện pháp nhân đạo nhất nhằm khống chế số lượng chó hoang đang bùng nổ tại đây. Chiến dịch được phát động sau những cuộc biểu tình của các nhà hoạt động xã hội nhằm phản đối sự gia tăng các vụ chó cắn tại thành phố này. Các cuộc "triệt sản" tiến hành tại cơ sở đặc biệt vừa được thiết lập ở một bệnh viện thú y của Đại học Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Sher-e-Kashmir ở Shuhama, ngoại ô Srinagar. Chính quyền thành phố này hồi năm 2008 cũng đã phát động một chiến dịch tương tự nhưng phải bỏ dở do thiếu kinh phí.
Một vụ việc kinh hoàng do chó hoang đã diễn ra, đó là vụ bố mẹ ngủ quên, con 2 tuổi bị chó hoang cắn xé chết, thi thể của một bé gái bị chó hoang cắn xé ở thị trấn Devendranagar, thuộc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ nằm ở ở gần chợ Pandri Haat. Bố mẹ của cô bé là những công nhân xây dựng, họ đã ngủ thiếp đi bên cạnh hai con của mình trong cửa hàng lúc nửa đêm. Có thể cánh cửa cửa hàng không đóng kín nên những con chó hoang đã lẻn vào bên trong hoặc đứa bé đã đi ra bên ngoài. Cô bé xấu số bị kéo đi xa 500m và bị vồ chết. Những dấu vết bị cắn do chó hoang gây ra được tìm thấy khắp người bé gái. | wiki |
Chó hoang | Mexico.
Tại Mexico, Tại Thủ đô Mexico City, nơi có đến 1,2 triệu con chó bao gồm vài chục ngàn con chó hoang. Có sự kiện bầy chó hoang vồ chết 4 người, xác của bốn người được tìm thấy trong công viên rìa thủ đô Mexico City được xác định là do chó hoang cắn chết. Nạn nhân gồm một phụ nữ 26 tuổi và cậu con trai 1 tuổi, người nữ bị mất cánh tay trái, cả hai mẹ con nạn nhân đều bị chảy máu tới chết, đồng thời một phần thi thể bị ăn nham nhở. Sau đó có một cặp đôi tuổi thiếu niên cũng bị chảy máu tới chết, có ít nhất 10 con chó đã tấn công các nạn nhân.Ít nhất 100 sĩ quan cảnh sát đã được huy động tới công viên để truy tìm chó hoang. Họ đã bắt giữ được 25 con trong đêm 7-1, trong đó có 10 con cái, 8 con đực và 7 chó con. Sau đó phát hiện thêm bé gái 15 tuổi cũng là nạn nhân trong vụ chó hoang tấn công người nâng tổng số người bị tấn công lên 5 người, người dân Mexico City đang hưởng ứng lời kêu gọi của nhà chức trách đưa chó đi thiến tại các trạm thiến chó di động.
Mỹ. | wiki |
Chó hoang | Mỹ.
Tại Mỹ, ít nhất 50.000 con chó hoang chạy lang thang thành đoàn trên đường phố Detroit và sống trong các căn nhà bỏ hoang ở thành phố, đàn chó bơi lội vui vẻ trong một căn phòng ngầm bị ngập nước, các bầy chó đông đến khoảng 20 con đã được thấy sống trong các căn nhà bỏ hoang, đe dọa cộng đồng hiện gồm 700.000 người, so với con số 1,8 triệu trước đây. Tình trạng nghèo đói làm nhiều con chó bị bỏ lại phải tìm cách tự sống còn. Các con chó này tấn công giết chết các con chó có chủ, cắn người đưa thư và tràn ngập các nơi nhận thú vô thừa nhận, nơi có tới 70% rồi sẽ bị chích thuốc cho chết. Có 3 trung tâm cứu trợ động vật tại Detroit chỉ có sức chứa là 15.000 con nên không thể giải quyết được vấn nạn trên.
Một sự kiện diễn ra khi bầy chó hoang tấn công và làm chết người từng được ghi nhận. Năm 2009, trên con đường nông thôn ở Lexington, Georgia (Mỹ), nơi chính quyền tin rằng một đàn chó hoang đã vồ chết một đôi vợ chồng lớn tuổi. Hiện trường để lại là một mảnh vụn áo sơ mi, vài nhúm tóc và một vệt máu, họ đã khoanh vùng được 16 con chó mà họ cho là có liên quan. Giám định pháp y ban đầu cho thấy nạn nhân là bà bị thú vật cắn chết còn ông cũng chết vì những vết thương do thú vật cắn xé. Ngoài ra, từng có một phụ nữ đang ngồi trên hiên nhà đã tử vong sau khi bị hai con chó hoang lao vào cắn xé da đầu.
Romania. | wiki |
Chó hoang | Romania.
Ở România, Tòa án Hiến pháp ra phán quyết ủng hộ luật giết hàng chục ngàn con chó hoang trên đường phố thủ đô Bucharest sau khi một bé trai 4 tuổi bị cắn chết người dân đòi chính quyền xử lý hơn 60.000 đến 65.000 con chó hoang ở đây, vốn thường xuyên cắn người và có khoảng 1.100 người đã bị chó hoang tấn công tại Bucharest trong 4 tháng đầu năm và gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động du lịch. Quốc hội Romania thông qua dự luật cho phép hạ sát chó nếu chúng không được nhận nuôi trong vòng 2 tuần. Để giảm số chó, người ta cũng dùng phương pháp thiến, các nhà chức trách tiến hành thu gom và thiến những con chó hoang này thay vì giết chúng, đã thiến được khoảng 100.000 con chó tại Romania, trong đó có 10.600 con ở Bucharest.
Mới nhất, một cụ ông 89 tuổi đã chết tại bệnh viện sau khi bị những con chó hoang vồ tại một công viên ở thủ đô Sofia của Bulgaria sau khi bị một bầy gồm 25 con chó hoang tấn công tại khu vực gần nhà ở Sofia. Bầy chó đẩy ông ngã xuống đường và cắn nhiều chỗ trên tay và chân ông này. Đây là vụ thứ hai xảy ra chỉ trong vòng 3 tháng ở Sofia Số lượng chó hoang chạy rông khắp thủ đô của Bulgaria được cho là đã gia tăng cùng với diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế, khiến nhiều con chó và con của chúng bị bỏ rơi trên đường phố.
Nga. | wiki |
Chó hoang | Nga.
Ở Nga, có khoảng 35.000 con chó hoang đang lang thang khắp Moscow, mỗi một dặm vuông lại có 84 con chó trong đó tại khu vực tây nam Moscow, có khoảng 30.000 tới 50.000 con chó hoang và có khoảng 500 con chó hoang sống trong hệ thống tàu ngầm. Người ta có thể thấy chó ở khắp nơi, chúng nằm trong sân các khu nhà, lang thang gần các khu chợ và quầy hàng, ngủ trong các ga tàu điện ngầm và lối đi cho người đi bộ và có thể nghe thấy chúng sủa và tru lên vào ban đêm. Dù khác nhau về màu lông nhưng đều có chung một dáng vẻ. Tất cả đều tầm trung, lông dày, đầu hình chữ V và mắt màu quả hạnh, tai chúng đều dài và dựng. Trong hệ thống tàu điện ngầm ở Moscow có không ít những con chó hoang thông minh, có con chó hoang màu đen coi ga tàu là nhà, và canh giữ khu vực này khỏi những kẻ say rượu và các con chó khác. Những con chó hoang ở Moscow được sản sinh theo cách chó nuôi bị quẳng ra đường. | wiki |
Chó hoang | Để chuẩn bị cho kỳ Olympic mùa đông tại Nga, Nga quyết định tiêu diệt toàn bộ chó hoang tại Sochi trước thềm Thế vận hội Mùa đông để bảo vệ vận động viên, khách khứa tới tham dự Olympic. Thành phố Sochi có một lượng lớn chó hoang và con số đó ngày càng tăng, buộc chính quyền địa phương phải ban hành chính sách duy nhất về chó hoang: trả tiền để giết chúng. Hàng nghìn chó hoang lang thang khắp các đường phố và vùng ngoại ô của thành phố Sochi đánh bả chết đồng loạt, thậm chí họ còn cho phép dùng phi tiêu độc để giết chó, nhiều người chứng kiến cái chết đau đớn, dai dẳng của những con chó hoang trên đường phố. Chó hoang ở Sochi bị tiêu diệt đồng loạt dấy lên sự phẫn nộ, chỉ trích của nhiều tổ chức bảo vệ động vật. Chính quyền thành phố Sochi đã chi tới khoảng 2.800 USD cho một công ty để đánh bẫy và tiêu diệt các con vật hoang, lang thang.
Ý. | wiki |
Chó hoang | Ý.
Tại Ý, có đến nửa triệu chó hoang khắp nước Ý, chủ yếu là ở miền nam. Trong đó, có nhiều con bị chính chủ bỏ rơi và để chạy hoang. Từng có sự kiện lũ chó gây ra những vụ tấn công rùng rợn, bầy chó hoang đã cắn chết một bé trai 10 tuổi (đang chạy xe đạp thì bị lũ chó lôi xuống xe và cắn chết) và vồ trọng thương một cô gái 24 tuổi khi đang đi bộ trên một bãi biển ở khu vực Ragusa thuộc đảo Sicily. Nguyên nhân do người đàn ông có trách nhiệm chăm sóc bỏ bê và trở nên đói ghê gớm. Đến nay đã có khoảng 30 con chó hoang bị bắt nhưng vẫn còn khoảng 20 con chạy rông. Con chó hoang nổi tiếng ở Ý là con chó Fido, Fido là một chú chó hoang trên đường phố Luco di Mugello, một thị trấn nhỏ ở Florence, Ý, sau đó nó được một người nuôi và đã thể hiện tình cảm của mình đối với chủ.
Việt Nam.
Gần 90 người đã bị chó lạ tấn công ở xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, khiến chính quyền địa phương ra quân tìm và diệt trên diện rộng. Chính quyền địa phương đã cho lập 9 đội, mỗi đội hơn ba chục người gồm nhiều thành phần, chủ yếu dùng gậy gộc để tìm và diệt chó đồng thời liên tục thông tin trên loa truyền thanh, phát tờ rơi để người dân cảnh giác. Các đội đã diệt được 22 con không rõ nguồn gốc, mỗi thôn thành lập một tổ công tác, cứ thấy chó thả rông là tiêu diệt tại chỗ, nhiều người cho rằng hành động thấy chó thả rông là tiêu diệt tại chỗ thật thô bạo. | wiki |
Chó hoang | Ở một số xã phía Tây của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên vào năm 2013, xuất hiện đàn chó lạ, không rõ xuất xứ có đặc điểm gần giống nhau và vô cùng dữ tợn lao vào tấn công động vật và nhiều người đã làm hoảng loạn dư luận, đàn chó lạ cùng có một đặc điểm là chó lai, có màu lông xám tro, tai vểnh, mắt lồi, trọng lượng lớn từ 15 – 20 kg. Khi xuất hiện, đàn chó này tỏ ra vô cùng hung tợn, tấn công tất cả người và động vật. Tất cả móng của những con chó đã bị tiêu diệt đều bằng lì như bị cắt. Nhưng con chó trên vô cùng hung hãn, luôn sẵn sàng cắn bất cứ ai nên tất thảy đều phải dùng gậy gộc, cuốc xẻng để tiêu diệt nó, đàn chó lạ vô chủ xuất hiện trên địa bàn tất cả xóm của xã, đã có 15 người trong xã bị chó lạ cắn phải tiêm phòng.
Ở Thành phố Hồ Chí Minh có phong trào săn bắt chó thả rông, để đảm bảo an toàn cho người đi đường, phòng chống bệnh dại trong cộng đồng, Thành phố đã thành lập Đội săn bắt chó đi rông, nếu chủ nhân không đến đóng phạt và nhận lại, người ta sẽ đem đi tiêu hủy. Thường những chú chó này được tiêm một liều thuốc và sau đó hỏa thiêu. Thông thường chó hoang ở Việt Nam không phổ biến do nạn trộm chó.
Nam Mỹ. | wiki |
Chó hoang | Nam Mỹ.
Tại Argentina, một đàn chó hoang đã tấn công một cách ngẫu nhiên một kẻ hiếp dâm giúp bé gái 12 tuổi tránh khỏi bị cưỡng hiếp bé gái 12 tuổi trong lúc đang đi bộ đến thăm nhà một người thân thì bất ngờ bị một gã tấn công, bịt miệng và kéo đến một khu vực đất trống tách biệt với khu dân cư, bé cũng la hét kêu cứu nhưng không có ai giúp đỡ vì khu vực không có một bóng người. Tuy nhiên, đây là nơi hoang vắng này lại có nhiều chó hoang. Khi nghe thấy tiếng kêu la của bé gái, đàn chó hoang đã chạy xuyên qua đường, lao thẳng về phía người đàn ông rồi bắt đầu tấn công ông này. Trong lúc người đàn ông đang bị đàn chó cắn xé, bé gái đã kịp vùng dậy chạy trốn. Ở Brazil, một trong những sân bay đông đúc nhất Brazil phải đóng cửa sau khi một con chó bị lạc và chạy khắp đường băng. Ở Chile có hoạt động đeo một trái bóng bay cho mỗi chú chó hoang sẽ nhằm thu hút sự chú ý và quan tâm từ người dân để chỉ rằng những chú chó này cũng là một sinh linh, nhưng lại không có một mái ấm, những chú chó được cho ăn và được quan tâm hơn, thay vì ghẻ lạnh.
Các nước khác. | wiki |
Chó hoang | Các nước khác.
Một nước láng giềng của Ấn Độ, Chính quyền thành phố Afghanistan đang triển khai một chiến dịch nhằm hạn chế sự da tăng chóng mặt của những con chó hoang bằng việc bẫy và đầu độc hết chó hoang trong thành phố. Tại Pakistan, Chính quyền thành phố Karachi đã giết hàng trăm con chó vô chủ lang thang trên đường phố để ngăn ngừa bệnh dại do tỏ ra lo ngại trước thực trạng số lượng chó vô chủ lang thang trong thành phố ngày càng tăng. Vì vậy, quan chức thành phố quyết định phát động chiến dịch tiêu hủy chúng. Sau Karachi, thành phố Lahore cũng thực hiện chiến dịch tương tự.
Nạn dịch Ebola khiến nhiều người chết, những con chó hoang chó hoang đào xác nạn nhân Ebola ở Liberia lên ăn thịt họ trên các đường phố. Việc này bắt nguồn từ lực lượng mai táng của Bộ Y tế Liberia lại tiến hành chôn cất vào ban đêm để tránh xung đột với dân làng khiến các thi thể người nhiễm bệnh tiếp tục làm "mồi" cho lũ chó hoang, Chính việc mai táng vội vàng và sơ xài này khiến các thi thể dễ dàng trở thành mồi của chó hoang. Những con chó ăn thi thể người nhiễm virus Ebola có thể mang dịch bệnh này lan tràn khắp Tây Phi khi nó liếm hoặc cắn người, những con chó có thể nhiễm virus Ebola nhưng không có triệu chứng và chúng có thể lây nhiễm cho người khi liếm hoặc cắn ai đó. | wiki |
Chó hoang | Từng có thời gian tại châu Âu, thủ đô Sarajevo của Bosnia chịu giá rét, nhiều chó hoang ở thủ đô này cũng đang oằn mình trong giá rét, thiếu ăn và không có nơi trú ẩn, nhiều người dân địa phương tìm cách cứu giúp số chó hoang tại đây và lên tiếng kêu gọi cộng đồng cùng chung tay thực hiện. Người ta đã giúp 3.000 con chó hoang tránh rét, nhiều người khác mang thức ăn cho chó hoang và không ai làm bất cứ điều gì để xua đuổi chúng. thủ đô này hiện đang có khoảng 3.000 chó hoang nên việc cứu giúp không hề đơn giản. Nhiều năm qua, chính quyền địa phương đã vận động xây dựng nơi trú ẩn cho động vật.
Ở Mã Lai hơn 300 con chó hoang ở Malaysia bị gửi tới hai hòn đảo không người ở bang Selangor, phía Tây Malaysia do đàn chó hoang này ngày càng gây ra nhiều vấn đề, đặc biệt là cắn nhau trên đường phố và đôi khi chúng cắn cả trẻ con, bắt chúng và thả lên hai hòn đảo ở bang Selangor, phía Tây Malaysia vì cho rằng, điều này sẽ giúp tình hình yên ổn và bản thân đàn chó vẫn có khả năng kiếm mồi nhờ vào các động vật hoang dã trên đảo. Tuy nhiên vì quá đói vì nhiều tuần không tìm được thức ăn, chúng đành ăn thịt lẫn nhau. Ước tính có khoảng 200 con chó còn sống. Nhóm bảo vệ động vật khẳng định, khi đàn chó khỏe trở lại, chúng sẽ được thuần hóa và được chuyển tới nơi ở mới. Cảnh sát Mexico đã mở một cuộc truy quét lớn một bầy chó hoang, chúng được cho là thủ phạm gây ra cái chết của ít nhất 4 người và gây ra không ít hoang mang trong dư luận. | wiki |
Đau khi quan hệ tình dục | Đau khi quan hệ tình dục hoặc đau khi giao hợp là sự đau đớn khi quan hệ tình dục do nguyên nhân y tế hoặc tâm lý. Cơn đau chủ yếu có thể ở bề mặt ngoài của cơ quan sinh dục, hoặc sâu hơn trong khung chậu do áp lực sâu chống lại cổ tử cung. Nó có thể ảnh hưởng đến một phần nhỏ của âm hộ hoặc âm đạo hoặc được cảm nhận trên khắp bề mặt. Hiểu về thời gian, vị trí và bản chất của cơn đau rất quan trọng trong việc xác định nguyên nhân của cơn đau.
Nhiều nguyên nhân về thể chất, tâm lý và xã hội hoặc mối quan hệ có thể góp phần gây đau đớn trong các cuộc gặp gỡ tình dục. Thông thường, nhiều nguyên nhân cơ bản góp phần vào nỗi đau. Cơn đau có thể mắc phải hoặc bẩm sinh. Các triệu chứng đau cũng có thể xảy ra sau khi mãn kinh. Chẩn đoán thường là kiểm tra sức khỏe và lịch sử y tế.
Nguyên nhân cơ bản sẽ quyết định việc điều trị. Nhiều phụ nữ cảm thấy nhẹ nhõm khi nguyên nhân thực thể được xác định và điều trị. Ngay cả khi cơn đau có thể được tái tạo trong khi kiểm tra thể chất, bác sĩ và bệnh nhân phải thừa nhận vai trò có thể có của các yếu tố tâm lý trong việc gây ra hoặc duy trì cơn đau.
Trên toàn cầu, chứng đau khi quan hệ tình dục đã được ước tính sẽ ảnh hưởng đến 8-22% phụ nữ, tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ.
Dấu hiệu và triệu chứng. | wiki |
Đau khi quan hệ tình dục | Trên toàn cầu, chứng đau khi quan hệ tình dục đã được ước tính sẽ ảnh hưởng đến 8-22% phụ nữ, tại một số thời điểm trong cuộc sống của họ.
Dấu hiệu và triệu chứng.
Phụ nữ bị đau khi giao hợp đã cố gắng mô tả nỗi đau của họ theo nhiều cách. Điều này phản ánh có bao nhiêu nguyên nhân khác nhau và chồng chéo đối với chứng khó đọc. Vị trí, tính chất và thời gian của cơn đau giúp hiểu được nguyên nhân và phương pháp điều trị tiềm năng.
Một số phụ nữ mô tả đau bề ngoài khi mở âm đạo hoặc bề mặt của cơ quan sinh dục khi bắt đầu thâm nhập. Những phụ nữ khác cảm thấy đau sâu hơn trong vòm âm đạo hoặc sâu bên trong xương chậu khi dương vật thâm nhập sâu hơn. Một số phụ nữ cảm thấy đau ở nhiều hơn một trong những nơi này. Xác định xem nỗi đau là nông hay sâu hơn rất quan trọng trong việc tìm hiểu điều gì có thể gây ra nỗi đau của người phụ nữ.
Một số phụ nữ luôn trải qua cơn đau khi giao hợp ngay từ lần thử đầu tiên. Những phụ nữ khác bắt đầu cảm thấy đau khi giao hợp sau khi bị chấn thương hoặc nhiễm trùng hoặc theo chu kỳ với kinh nguyệt. Đôi khi cơn đau tăng theo thời gian. | wiki |
Đau khi quan hệ tình dục | Khi cơn đau xảy ra, người phụ nữ có thể bị phân tâm khỏi cảm giác khoái cảm và hưng phấn. Cả bôi trơn âm đạo và giãn âm đạo đều giảm. Khi âm đạo khô và không bị xẹp, thâm nhập sẽ đau hơn. Sợ bị đau có thể làm cho sự khó chịu tồi tệ hơn. Ngay cả sau khi nguồn đau ban đầu đã biến mất, một người phụ nữ có thể cảm thấy đau đơn giản chỉ vì cô ấy mong đợi nỗi đau. Sợ hãi, tránh né và đau khổ tâm lý xung quanh việc cố gắng giao hợp có thể trở thành một phần lớn trong trải nghiệm của chứng đau khi giao hợp của phụ nữ. | wiki |
William II của Anh | William II của Anh (tiếng Norman cổ: Williame) (khoảng 1056 - 2 tháng 8 năm 1100), người con thứ ba của "William Nhà chinh phạt", là vua nước Anh từ 1087 tới 1100. Ông là vị vua nắm quyền lực vùng Normandie và có nhiều ảnh hưởng ở Scotland. Dù vậy, William II không mấy thành công trong việc bành trướng quyền kiểm soát ở xứ Wales. William II thường được gọi là "Rufus", tên gọi này xuất phát từ khuôn mặt luôn đỏ rực của ông.
Mặc dù là một chiến binh xuất chúng nhưng William II lại là một người cai trị tàn nhẫn và không mấy khi được lòng dân; theo như cuốn "Anglo-Saxon Chronicle" (Biên niên sử Anglo-Saxon), ông "bị ghét bởi hầu hết mọi người". Các nhà ghi chép biên niên sử thời đó cũng chỉ có những cái nhìn rất mơ hồ về Rufus, chỉ yếu là vì thời đó rất nhiều tri thức đều là người của nhà thờ, nơi mà luôn đấu tranh chống lại Rufus bền bỉ và lâu dài, thêm vào đó là trong truyền thống Normandie, William Rufus coi rẻ người Anh và văn hoá của họ.
Bản thân William thì có vẻ là một nhân vật khoa trương và triều đại của ông được biết đến với sự hiếu chiến. Ông không bao giờ kết hôn và cũng không có người con ngoại hôn nào; một trong những nhân vật lấy được lòng của William là Ranulf Flambard, người được phong là Giám mục xứ Durham ("Bishop of Durham") năm 1099. Vào thời của mình và cả sau khi qua đời, William vẫn bị lên án khắp nơi vì vô số mối quan hệ đồng tính luyến ái của ông. | wiki |
William II của Anh | Cái chết của William vẫn là một nghi vấn cho tới ngày nay sau khi nhà vua trúng tên trong một cuộc đi săn. Nhiều sử gia đã cho rằng cái chết của William không phải do một tai nạn mà ông đã bị sát hại. Sau khi William qua đời, người em trai Henry nhanh chóng kế vị và trở thành vua Henry I.
Nói về William, sử gia Frank Barlow nhận xét rằng William là một người chiến binh tàn nhẫn, máu lạnh, cũng như ít khi biểu hiện đức tin và những phẩm hạnh đạo đức. Tuy vậy, William lại là một nhà cai trị thông thái và là một chiến tướng bách thắng. Chính vì thế, dù vẫn đưa ra những chỉ trích về tính cách của William, sử gia Barlow vẫn viết về William như một người hào hiệp và có nhiều chiến công, người đã mang trật tự và hòa bình đến cho nước Anh và đất Normandie.
Thời thơ ấu.
Ngày sinh của William II không được ghi chép chính xác, tuy nhiên năm sinh phỏng đoán của ông nằm trong khoảng từ 1056 đến 1060, là người con trai thứ ba trong bốn người con trai của vua William I của Anh và hoàng hậu Matilda xứ Flanders. Những người anh trai của ông lần lượt là Robert, Richard và người em trai Henry. Sau khi William I qua đời năm 1087, William II trở thành nhà vua mới của nước Anh trong khi đất Normandie được thừa kế bởi người anh trai Robert. Richard không may qua đời khi đang đi săn ở New Forest năm 1075.
William II cũng có 5 hoặc 6 người chị em gái, 4 trong số đó được biết danh tính đích xác, nhưng Adeliza và Matilda thì vẫn chưa được xác định: | wiki |
William II của Anh | William II cũng có 5 hoặc 6 người chị em gái, 4 trong số đó được biết danh tính đích xác, nhưng Adeliza và Matilda thì vẫn chưa được xác định:
Mối quan hệ của William với những người anh em của mình không thật sự hòa hợp. Orderic Vitalis còn thuật lại một câu chuyện chứng minh cho điều này. Khoảng 1077-1078, William cùng người em Henry đã bày trò đổ một thùng phân lên người anh trai Robert từ trên cao khiến cho Robert vô cùng tức giận và cảm thấy bị xúc phạm. Sự việc này khiến cho vua cha William I phải đứng ra phân xử.
Giữa nước Anh và nước Pháp. | wiki |
William II của Anh | Giữa nước Anh và nước Pháp.
Sự phân chia đất nước thành hai phần thừa kế sau cái chết của William I đã khiến cho những lãnh chúa mà đất phong của họ nằm giữa lãnh địa của William II và người anh trai Robert - công tước Normandie cảm thấy khó xử khi mà đứng giữa sự thù địch của hai anh em nhà William, họ khó lòng có thể làm hài lòng cho cả hai và lo sợ sẽ bị một trong hai người tấn công. Do sự lo sợ đó, họ quyết định hành động để đưa đất nước thống nhất dưới một nhà cai trị duy nhất. Vụ nổi loạn năm 1088 nổ ra chống lại William dưới sự lãnh đạo của viên giám mục đầy quyền lực và là anh em cùng cha khác mẹ với William I - Odo xứ Bayeux. Robert, trong khi đó lại không kịp có mặt trên đất Anh để thu hút sự ủng hộ của phe cánh của mình, cho nên William II đã có đủ thời gian để mua chuộc nhân tâm bằng tiền bạc cũng như lời hứa hẹn sẽ cai trị tốt hơn. Sau cùng William II đã đánh bại hoàn toàn cuộc nổi dậy. Đến năm 1091, William II đưa quân đánh xứ Normandie, khuất phục lực lượng của Robert và bắt Robert phải cắt cho mình một phần lãnh thổ. Tuy vậy, cả hai nhanh chóng bỏ qua những nỗi bất hòa và William II đã lên kế hoạch giúp sức cho Robert giành lại những vùng lãnh thổ đã mất cho nước Pháp, chủ yếu là Maine. Kế hoạch này đã không được thực hiện, nhưng William II tiếp tục duy trì một thái độ hiếu chiến đối với những vùng lãnh thổ của Pháp đến cuối thời cai trị của mình. | wiki |
William II của Anh | Đương thời, William II đã trở thành vị quân vương quyền lực nhất châu Âu, che mờ tầm ảnh hưởng của các hoàng đế dòng họ Salian tộc Đức. Về tôn giáo, nhà vua không chịu nhiều sự khống chế của Đức Giáo hoàng từ Tòa thánh La Mã. Các giám mục và chức sắc tôn giáo trong nước đều được sắc phong và chịu sự ràng buộc phong kiến với nhà vua. Trong khi đó, tại châu Âu, những quân vương khác có ý định thoát khỏi ảnh hưởng của Tòa thánh thì dễ dàng bị rút phép thông công như trường hợp của hoàng đế La Mã Thần thánh Heinrich IV. Quyền lực và luật pháp của vua Anh bấy giờ là rất lớn, khiến cho William II trở nên tương đối độc lập với Giáo hoàng. Tuy vậy, năm 1097, William II cho khởi công xây dựng Cung điện Westminster để biểu dương quyền lực của mình. Tòa cung điện được hoàn thành năm 1099 và trở thành cung điện lớn nhất châu Âu thời đó.
Quan hệ với giáo hội và đức tin.
Tổng Giám mục Canterbury dưới thời vua cha William I là Lanfranc qua đời năm 1087, hai năm sau khi nhà vua lên ngôi nhưng William II lại trì hoãn việc bổ nhiệm một vị Tổng Giám mục mới và tạm thời chiếm đoạt những nguồn thu của giáo hội. Đến năm 1093, nhà vua trong một cơn bạo bệnh đã vội vàng bổ nhiệm triết gia nổi tiếng nhất thời đó, Anselm vào chức vụ Tổng Giám mục Canterbury. Sự bổ nhiệm này tạo nên một mối bất hòa lâu dài giữa vương quyền và giáo hội. Trên cương vị Tổng Giám mục, Anselm tỏ ra là một người ủng hộ mạnh mẽ cho những cuộc cải cách tôn giáo của Giáo hoàng Gregory VII hơn là người tiền nhiệm Lanfranc. | wiki |
William II của Anh | Mối quan hệ của William II và Anselm nhìn chung là không tốt, bất đồng trong rất nhiều những vấn đề của giáo hội, đến nỗi nhà vua từng nói về Anselm rằng "Ngày hôm qua ta thù ghét hắn ta, ngày hôm nay ta thù ghét hắn ta hơn và hắn ta có thể chắc chắn rằng từ nay về sau ta sẽ còn thù ghét hắn dữ dội và cay đắng hơn nữa." Hàng giáo sĩ Anh, vốn ủng hộ nhà vua hơn do nhận được nhiều lợi ích thiết thân, đã không ủng hộ những chính sách của Anselm. Năm 1095, William II triệu tập một hội đồng tại Rockingham để hòng ép buộc Anselm làm việc theo ý mình, tuy nhiên, Tổng Giám mục vẫn không bị lay chuyển, do đó, Anselm bị lưu đày vào tháng 10 năm 1097. Sự việc này đến tai của tân Giáo hoàng Urban II, vốn là người linh họa và có đường lối mềm dẻo hơn trong ngoại giao. Urban II vốn đang xung đột gay gắt với hoàng đế La Mã Thần thánh Heinrich IV về vấn đề tôn giáo, không muốn có thêm một rắc rối, cho nên đã quyết định kí với William II một hòa ước. Theo hòa ước vừa kí, William II thừa nhận địa vị giáo hoàng của Urban II và ngược lại giáo hoàng sẽ phê chuẩn cho giáo hội Anglo-Norman của nước Anh được giữ nguyên như cũ. Anselm vẫn tiếp tục bị đi đày và những nguồn thu của Tổng Giám mục Canterbury tiếp tục chảy vào túi của nhà vua cho đến cuối thời cai trị của William II. | wiki |
William II của Anh | Sự xung đột này có thể được xem là dấu hiệu của sự thiếu ổn định trong chính trị nước Anh thời trung cổ, mà điển hình là vụ ám sát Thomas Becket dưới triều đại vua Henry II nhà Plantagenet sau này, cũng như những chính sách của vua Henry VIII hàng thế kỉ sau, chứ không phải chỉ là khiếm khuyết riêng của triều đại William II. Tuy vậy, những chức sắc tôn giáo đương thời lại không hề dính dáng đến chính trị. Khi Tổng Giám mục Lanfranc báo cáo với vua William I rằng ông ta đã bỏ tù giám mục nổi loạn Odo xứ Bayeux, nhà vua đã sửng sốt nói rằng "Sao! Ông ta là một giáo sĩ cơ mà?" Lanfranc vặn lại nhà vua "Bệ hạ không bắt giữ giám mục xứ Bayeux, mà đã bắt giữ Bá tước xứ Kent" (trên thực tế, Odo nắm giữ cả hai tước vị này).
Ngoài ra, tuy William II thường bị người đương thời chỉ trích về những hành vi của mình, nhà vua vẫn được ca ngợi vì đã thành lập nên Tu viện Bermondsey. Việc này đã chứng tỏ rằng nhà vua cũng có những đức tin tôn giáo của riêng mình, chứ không phải một ông vua ác cảm với tôn giáo.
Qua đời. | wiki |
William II của Anh | Qua đời.
William đã qua đời do bị một mũi tên xuyên qua phổi, khi đang đi săn bắn trong rừng New Forest, có thể là gần Brockenhurst ngày nay vào ngày 2 tháng 8 năm 1100. Cái chết của nhà vua đến nay vẫn là một nghi án trong lịch sử. Ghi chép sớm nhất còn lại về vụ việc này là ở trong cuốn Biên niên sử Anglo-Saxon, chép rằng "nhà vua bị bắn bởi chính một kẻ hầu cận của mình". Càng về sau, nhiều chi tiết mới, cả sự thật lẫn bịa đặt, đã được thêu dệt thêm về cái chết của William II. Một nhà quý tộc tên Walter Tirel được cho rằng đã giết vua. Địa điểm chính xác mà nhà vua bị giết được đề cập sớm nhất bởi John Leland vào năm 1530, theo đó William II bị bắn tại Thorougham. Cái tên này ngày nay đã không còn được sử dụng nữa, nhưng ngày nay có thể nằm ở Park Farm thuộc lãnh địa Beaulieu.
Xác của nhà vua bị bỏ lại và sau đó được phát hiện bởi một người nông dân. Em trai của nhà vua, Henry, vội vàng trở về Winchester để kiểm soát kho báu hoàng gia, rồi sau đó nhanh chóng tới London để trở thành nhà vua mới ngay trước cả khi vị Tổng Giám mục có thể đến để gia miện. Sử gia William xứ Malmesbury cho rằng thi thể của William II đã được người ta đưa tới Nhà thờ Winchester. | wiki |
Saphir | Saphir
Xa-phia (hay "Lam ngọc", "sapphire" trong tiếng Anh, "saphir" trong tiếng Pháp) là dạng tinh thể đơn của nhôm oxide (Al2O3) (corundum). Xa-phia tồn tại ngoài tự nhiên dưới dạng đá quý hoặc được chế tạo dành cho nhiều ứng dụng.
"Xa-phia" bao gồm tất cả các dạng đá quý thuộc nhóm khoáng chất corundum ngoại trừ hồng ngọc.
Nhóm corundum bao gồm các dạng oxide nhôm tinh khiết. Áp suất và nhiệt độ lòng đất làm cho oxide nhôm kết tinh thành những viên đá quý đẹp màu trắng. Hàm lượng các tạp chất khác nhau trong xa-phia như sắt và crôm làm cho nó các sắc xanh, đỏ, vàng, hồng, tím, da cam hoặc lục nhạt.
Hồng ngọc cũng thuộc nhóm corundum. Trong nhiều năm, các chuyên gia đã tranh luận về chuyện những loại đá gì được gọi là xa-phia cho đến khi thống nhất được rằng corundum đỏ sẽ được gọi là hồng ngọc ("ruby") còn corundum với tất cả các màu khác sẽ được gọi là "xa-phia". | wiki |
Jahanabad | Jahanabad
Jahanabad là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Pilibhit thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
Địa lý.
Jahanabad có vị trí Nó có độ cao trung bình là 125 mét (410 feet).
Nhân khẩu.
Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Jahanabad có dân số 12.420 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Jahanabad có tỷ lệ 37% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 46%, và tỷ lệ cho phái nữ là 26%. Tại Jahanabad, 19% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Hệ thống tên lửa Tor (; ) là một hệ thống tên lửa đất đối không tầm thấp, được thiết kế để tiêu diệt máy bay, trực thăng, tên lửa hành trình, phương tiện bay không người lái và tên lửa đạn đạo bay thấp hoặc đến gần. Hệ thống được phát triển bởi Liên Xô với tên định danh của GRAU là 9K330 Tor và tên định danh của NATO là SA-15 "Gauntlet". Một phiên bản dành cho hải quân cũng được phát triển với tên định danh của GRAU và NATO lần lượt là 3K95 "Kinzhal" và SA-N-9 "Gauntlet". Tor được thiết kế để bắn hạ các vũ khí dẫn đường chính xác như AGM-86 ALCM và BGM-34 trong điều kiện ngày và đêm, thời tiết xấu hay trong môi trường chế áp điện tử. Tor có thể phát hiện mục tiêu trong lúc di chuyển nhưng phải dừng lại để phóng tên lửa, tuy nhiên một phiên bản có thể phóng trong lúc di chuyển đã và đang được phát triển để loại bỏ nhước điểm này.
Phát triển. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Phát triển.
Việc phát triển hệ thống được bắt đầu từ ngày 4 tháng 2 năm 1975, theo chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Hệ thống được phát triển để thay thế 9K33 Osa (tên định danh NATO: SA-8 "Gecko") cả phiên bản trên đất liền và dành cho hải quân để trang bị cho các lớp tàu chiến mới, bao gồm cả lớp tàu chiến-tuần duơng Kirov, và tái trang bị cho các tàu cũ hơn. Dự án được trao cho Cục thiết kế Antey (đứng đầu bởi V.P. Efremov) , MKB Fakel được phụ trách phát triển tên lửa và Cục thiết kế Antey (đứng đầu bởi S.A. Fadeyev) phụ trách phát triển phiên bản dành cho hải quân. Tất cả các nhà phát triển đã được hợp nhất lại thành Tập đoàn Almaz-Antey vào năm 2002.
Đặc điểm.
Mô tả. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Đặc điểm.
Mô tả.
Các hệ thống ở các nước khác có tính năng kĩ chiến thuật tương đương với Tor có lẽ là Rapier của Anh và Crotale của Pháp, nhưng chúng được nhận định là có khả năng chiến đấu kém hơn Tor. Cả 3 hệ thống đều sử dụng được đặt trên các xe phóng di động và tự hành, Tor sử dụng khung gầm xe chiến đấu 92330, với kíp chiến đấu 4 người (lái xe và 3 vận hành viên), và hoạt động như là một Đơn vị mang đạn kiêm nền phóng và radar (TLAR) (tuơng tự nhưng không phải là TELAR, vì nó không điều chỉnh vị trí tên lửa vào vị trí phóng). Xe 9A330 dựa trên khung gầm GM-335 sản xuất bởi Metrowagonmash, phiên bản Tor-M1 sử dụng khung gầm cải tiến GM-5955. Tor được trang bị hệ thống phòng vệ NBC (phóng xạ, sinh học và hóa học). Cũng như Rapier và Crotale, ngoài khung gầm bánh xích, Tor cũng có phiên bản bánh lốp và phiên bản cố định. Tor có thể được vận chuyển bằng nhiều phuơng tiện khác nhau (bao gồm cả máy bay). Thời gian phản ứng của Tor là 7-8 giây (khi đứng yên) và 7-10 giây (khi đang di chuyển).
Tính năng của TLAR. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Tính năng của TLAR.
Với cách bố trí tuơng tự các hệ thống tiền nhiệm là 9K33 Osa và 9K22 Tunguska, Tor có radar tìm kiếm được đặt ở phía trên tháp pháo và radar theo dõi được đặt ở phía trước, cùng với 8 tên lửa sẵn sàng được phóng đặt thẳng đứng giữa 2 radar. Radar tìm kiếm của Tor là radar xung Doppler quét 3 chiều sử dụng băng tần F với ănten hình parabol cụt bao quát góc phuơng vị 32°, với đầu ra vào khoảng 1.5 kW, cung cấp khả năng bao quát khu vực có bán kính 25 km. Trái tim "điện tử" của hệ thống là hệ thống kiểm soát hỏa lực cho phép tìm kiếm lên đến 48 mục tiêu cùng lúc và theo dõi 10 trong số đó, kết hợp cùng với tính năng nhận dạng bạn thù.
Radar. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Radar.
Radar dẫn bắn của Tor là một radar xung Doppler sử dụng băng tần G/băng tần H (các phiên bản sau này sử dụng băng tần K với ăngten quét mảng pha điện tử bị động. Tầm phát hiện của radar là 20 km. Phiên bản đời đầu của Tor chỉ có thể dẫn bắn một mục tiêu cùng lúc bằng hai tên lửa. Các phiên bản sau này (Tor-M1 và M2E) kết hợp thêm một kênh điều khiển hoẳ lực khác, cùng với một máy tính điều khiển hỏa lức cho phép dẫn bắn hai mục tiêu (Tor-M1) và bốn mục tiêu (Tor-M2E) cùng lúc bằng bốn tên lửa (Tor-M1) và tám tên lửa (Tor-M2E). Trên radar theo dõi cũng có một ănten để dẫn đường cho tên lửa sau khi phóng. Toàn bộ các radar này được NATO định danh là "Scrum Half". Để giảm mức độ bộc lộ của hệ thống, radar theo dõi có thể được gập xuống khi di chuyển và radar theo dõi có thể được xoay theo hướng khác. Để tác chiến trong môi trường tác chiến điện tử mạnh, phiên bản 9K332 được trang bị một hệ thống dẫn bắn quang học, kết hợp cùng với radar chính.
Độ cơ động. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Độ cơ động.
Là một hệ thống cơ động, Tor có khả năng tìm kiếm và theo dõi mục tiêu trong lúc di chuyển nhưng chỉ có thể phóng tên lửa khi hệ thống đứng yên. Khi được chuẩn bị, thời gian phản ứng (là thời gian từ lúc phát hiện mục tiêu đến lúc phóng tên lửa) của hệ thống được mô tả là từ 5-8 giây, tùy thuốc vào phiên bản; tuy nhiên, thời gian phản ứng có thể lâu hơn khi di chuyển và phóng tên lửa với khoảng nghỉ ngắn. Một máy phát điện có thể được lắp đặt để radar và hệ thống tên lửa có thể hoạt động khi động cơ chính của hệ thống đang tắt, cho phép tăng thời gian trực chiến. Máy tính trên hệ thống Tor cung cấp khả năng tự động hóa hơn tất cả các hệ thống trước đây của Liên Xô. Hệ thống phân loại mức độ nguy hiểm mục tiêu và hệ thống có thể được liên kết thông qua một vài sửa đổi nhỏ, nếu cần thiết. Máy tính hiệu năng cao kết hợp cùng với radar mảng pha quét điện tử bị động là nhân tố chính làm nên khả năng khai hỏa chính xác, khả năng đánh chặn các vật thể nhỏ, có tốc độ và khả năng cơ động cao và thời gian phản ứng nhanh của hệ thống.
Triển khai.
Thông thường, một đội hình bao gồm 4 hệ thống Tor kết hợp với xe chỉ huy Ranzhir-M, cung cấp liên kết tự động với hệ thống Tor, 9K33 Osa. 9K31 Strela-1 và 9K22 Tunguska. Cho phép phân công nhiệm vụ giữa các thành viên trong kíp chiến đấu và cho phép mỗi TLAR được liên kết với một mạng lưới phòng không rộng hơn, tăng cường tầm phát hiện mục tiêu và giảm thời gian phản ứng của hệ thống. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Ngoài ra, Tor cũng có thể được kết hợp với xe chỉ huy Polyana-D4, cung cấp liên kết tự động với các hệ thống Tor, Buk, 2K22 Tunguska, S-300V.
Tên lửa.
Được thiết kế để đánh chặn các mục tiêu nhỏ với độ cơ động cao. Tên lửa 9M330 có trọng lượng 167 kg, dài 3m, trang bị một đầu nổ nặng 15 kg với tốc độ tối đa vào khoảng Mach 2.8 (3,430 km/h). Sử dụng phuơng pháp dẫn đường vô tuyến và ngòi nổ cận đích điều khiển bằng radar, tên lửa có thể cơ động lên đến 30 g và tấn công mục tiêu với tốc tộ là Mach 2 (2,500 km/h). Tên lửa được đẩy ra khỏi ống phóng trước khi động cơ đẩy nhiên liệu rắn được kích hoạt và hệ thống điều hướng bằng khí nén đổi hướng tên lửa bay đến mục tiêu. Mỗi tên lửa được đặt trong một ống phóng kín trong một trong hai dãy ống phóng, mỗi dãy có bốn ống phóng. Tấm bắn của tên lửa vào khoảng 12 km với tầm bắn tối thiểu là 1,5–2 km, tùy thuộc vào phiên bản có trần bay hiệu quả vào khoảng 6-10,000m.
Biến thể.
9K330 Tor. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Biến thể.
9K330 Tor.
Yêu cầu mà dự án này đặt ra rất khó để đáp ứng; Hệ thống phải có khả năng phát hiện và theo dõi các mục tiêu với tốc độ cao, diện tích phản xạ radar thấp và có khả năng ứng phó nhanh và hiệu quả với các cuộc không kích quy mô lớn, trong khi có số lượng đạn tên lửa lớn và có khả năng liên kết với các hệ thống phòng không khác. Để đáp ứng các yêu cầu này, nhà thiết kế đã ứng dụng các công nghệ mới bao gồm radar quét mảng pha điện tử bị động nhằm cải thiện khả năng phát hiện và theo dõi mục tiêu, tăng cường khảng năng xử lí thông tin và một hệ thống phóng thẳng đứng giúp giảm thời gian phản ứng và số đạn tên lửa trực chiến. Sau các bài thử nghiệm và đánh giá từ tháng 12 năm 1983 đến tháng 12 năm 1984, hệ thống mặt đất đã được chấp nhận đưa vào biên chế vào ngày 19 tháng 3 năm 1986.
9K331 Tor-M1.
"Tor-M1" lần đầu được giới thiệu vào năm 1991 cùng với tên lửa 9M331 với độ chính xác được cải thiện cùng khả năng tấn công hai mục tiêu cùng lúc, tên lửa có tầm bắn tối thiểu là 1.5 km và trần bay tối thiểu là 10 m. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Ngay cả khi Tor mới chỉ được đưa vào sản xuất, các nâng cấp cho hệ thống đã bắt đầu được phát triển, kết quả của các nâng cấp này là phiên bản Tor-M1. Nhiều cải tiến đã được áp dụng lên hệ thống bao gồm: kênh dẫn bắn thứ hai được thêm vào, cho phép tấn công hai mục tiêu cùng lúc, cũng như các nâng cấp về hệ thống dẫn đường quang học và thiết bị máy tính. Năng lực kháng tác chiến điện tử, đầu nổ tên lửa cùng với khả năng kiểm soát đạn dược của hệ thống cũng được sửa đổi. Các cuộc thử nghiệm cấp liên bang từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1989 cho thấy rằng hệ thống có thể tấn công nhiều mục tiêu trong khoảng thời gian ngắn hơn cùng với thời gian phản ứng giảm hơn một giâu và xác xuất tiêu diệt mục tiêu cũng được nâng cao. Các cải tiến khác đã được thêm vào như là một phản ứng sau Chiến dịch Deliberate Force, tạo nên phiên bản Tor-M1-1, hay Tor-M1V, với khả năng kết nối mạng được và kháng tác chiến điện tử được tăng cường cùng với khả năng phân biết mồi bẫy gây nhiễu phóng ra từ mục tiêu.
Năm 1993, hệ thống Tor đã thực hiện một bài thử nghiệm đánh chặn các mục tiêu sử dụng mồi bẫy gây nhiễu và có kích thước ngang với rocket cỡ nhỏ (tuơng đuơng với một mục tiêu của hệ thống Vòm Sắt 1) trong môi trường bị gây nhiễu điện tử mạnh với tỉ lệ bắn trúng đạt 100%.
9K332 Tor-M2E.
Tại MAKS 2007, Almaz Antey đã công bố thông tin về phiên bản nâng cấp của hệ thống Tor là Tor-M2E. Bản nâng cấp này tiếp tục gia hạn vòng đời của hệ thống.
Phiên bản mới nhất bao gồm các nâng cấp: | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Tại MAKS 2007, Almaz Antey đã công bố thông tin về phiên bản nâng cấp của hệ thống Tor là Tor-M2E. Bản nâng cấp này tiếp tục gia hạn vòng đời của hệ thống.
Phiên bản mới nhất bao gồm các nâng cấp:
Tor-M2 được trang bị 8 tên lửa 9M331 hoặc 16 tên lửa 9M338 với trần bay được nâng lên 10 km và tầm bắn được nâng lên thành 16 km. Tốc độ tối đa của tên lửa là 1000 m/s. Hệ thống có khả năng dừng bắn trong khoảng thời gian ngắn, từ 2-3 giây.
Phiên bản Tor-M2 sử dụng cả khung gầm bánh lốp và bánh xích và được trang bị một hệ thống điện tử mới và hệ thống dẫn đường quang học mọi thời tiết.
Tor-M1-2U.
Phiên bản này được đưa vào hoạt động từ cuối năm 2012. Hệ thống có khả năng tấn công bốn mục tiêu cùng lúc ở độ cao 10 km. Kíp chiến đấu của hệ thống gồm 3 người. Nó có thể tấn công mục tiêu trong lúc đang di chuyển với vận tốc 25 km/h.
3K95 Kinzhal (phiên bản hải quân).
3K95 "Kinzhal" (tiếng Nga: Кинжал – dao găm) là phiên bản hải quân của hệ thống tên lửa Tor phát triển bởi "Altair" và có định danh của NATO là SA-N-9 Gauntlet. Sử dụng cùng loại tên lửa 9M330 với phiên bản mặt đất, hệ thống có thể được trang bị trên các tàu có giãn nước trên 800 tấn và đã được trang bị trên tàu sân bay Đô đốc Kuznetsov, tàu khu trục săn ngầm lớp Udaloy, tàu chiến-tuần duơng lớp Kirov và tàu hộ vệ lớp Neustrashimy. Phiên bản hải quân của hệ thống Tor-M1 sau này được biết đến với tên gọi "Yozh" (tiếng Nga: Ёж – nhím gai), trong khi phiên bản xuất khẩu là "Klinok" (tiếng Nga: Клинок – lưỡi dao). | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Mặc dù được thử nghiệm sớm hơn phiên bản mặt đất, Kinzhal có thời gian phát triển bị kéo dài hơn nhiều. Sau các giai đoạn thử nghiệm trên tàu hộ vệ Project 1124 (bao gồm bài thử nghiệm đánh chặn 4 tên lửa chống hạm P-5 Pyatyorka vào năm 1986) nó đã được đưa vào hoạt động vào năm 1989.
Được lưu trữ trong các ống phóng thẳng đứng, các tên lửa được gộp lại vào các bệ phóng gồm có từ 3 đén 6 module (32 ("Neustrashimy"), 64 ("Udaloy"), 192 ("Kuznetsov", "Kirov") tên lửa). Mỗi module chứa 8 tên lửa sẵn sàng phóng; khi phóng tên lửa sẽ được đẩy ra khỏi ống phóng bằng máy phóng khí nén trước khi bệ phóng đưa đạn tên lửa tiếp theo vào vị trí phóng.
Hệ thống kiểm soát hỏa lực được sử dụng là hệ thống kiểm soát hỏa lực đa kênh 3R95 (định danh NATO là Cross Swords) , kết hợp hai băng tần radar khác nhau, radar tìm kiếm mục tiêu sử dụng băng tần G (tầm phát hiện tối đa là 45 km) và radar điều khiển hỏa lực sử dụng Băng tần K. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Sử dụng hai radar tìm kiếm quét cơ học hình parabol gắn trên đỉnh, hệ thống kiểm soát hỏa lực có khả năng tầm bao quát 360°, cùng với tính năng nhận dạng bạn thù. Radar kiểm soát hỏa lực là một radar mảng pha quét điện tử bị động gắn trên hệ thống kiểm soát hỏa lực có tầm bao quát 60°. Tuơng tự như phiên bản mặt đất, hệ thống có khả năng theo dõi và dẫn bắn 8 tên lửa vào 4 mục tiêu cùng lúc với tầm bắn vào khoảng 1.5–12 km và độ cao từ 10–6000 m. Hệ thống có kíp chiến đấu gồm 13 người. Ở các phiên bản nâng cấp, một radar dẫn bắn phụ 3R95 và hệ thống dẫn đường bằng hồng ngoại có thể được nhìn thấy trên hệ thống. Radar 3R95 cũng có thể cung cấp thông tin cho Hệ thống vũ khí phòng thủ tầm gần AK-630, cung cấp một lưới phòng thủ thứ hai nếu mục tiêu lọt qua được lưới phòng thủ tên lửa.
Tor-M2KM. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Tor-M2KM.
Tor-MK2M là phiên bản module chiến đấu tự hành có thể được trang bị trên nhiều địa điểm khác nhau. Tháng 10 năm 2016, hệ thống đã được đặt trên sàn đáp trực thăng của tàu hộ vệ "Admiral Grigorovich" để thử nghiệm đánh chặn một tên lửa hành trình. Đây là một lợi thế khi có thể trang bị tên lửa đất đối không lên các tàu chiến không đủ trọng tải trang bị hệ thống Kinzhal lớn và nặng hơn; nó cũng có thể được trang bị trên các xe tải, đặt trên mái nhà, hoặc bất kì mặt phẳng nào có chiều rộng 2.5 m và chiều dài 7.1 m. Module nặng 15 tấn và được tích hợp đầy đủ các trang bị cần thiết để tự hoạt động mà không cần bất cứ hỗ trợ bên ngoài nào. Hệ thống mất 3 phút để chuyển trạng thái thông thường sang chiến đấu và có thể phát hiện 144 mục tiêu trên không trong khi theo dõi cùng lúc 20 mục tiêu nguy hiểm nhất bởi kíp chiến đấu 2 người. Tor-M2KM có tầm bắn 15 km. Tháng 6 năm 2022, phiên bản này đã được lắp trên sàn đáp trực thăng của tàu tuần tra "Vasily Bykov", sử dụng tên lửa 9M331M mới.
Tor-M2DT.
Là phiên bản được thiết kế để sử dụng tại các vùng cực có nhiệt độ xuống đến -50 °C dựa trên khung gầm bánh xích mọi địa hình DT-30PM. Hệ thống có khả năng theo dõi 40 mục tiêu, đặc biệt là các vũ khí dẫn đường chính xác, và theo dõi và dẫn bắn 4 mục tiêu trong số đó cùng lúc tại khoảng cách 12 km và
độ cao 10 km bằng 16 tên lửa ngay cả khi đang di chuyển. Hệ thống được hoàn thành vào năm 2018 và 12 hệ thống đầu tiên đã được chuyển giao vào tháng 11 cùng năm.
Tor-2E. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | độ cao 10 km bằng 16 tên lửa ngay cả khi đang di chuyển. Hệ thống được hoàn thành vào năm 2018 và 12 hệ thống đầu tiên đã được chuyển giao vào tháng 11 cùng năm.
Tor-2E.
Công ty cổ phần Rosoboronexport, là một phần của Rostec, đã bắt đầu quảng cáo về dự án mới nhất của hệ thống Tor-E2 được phát triển và sản xuất bởi Almaz-Antey Air and Space Defence Concern vào năm 2018. Tor-E2 là phuơng tiện chiến đấu cơ động, hoạt động độc lập, mọi địa hình có khả năng phát hiện và nhận dạng các mục tiêu trên không trong lúc hành quân hoặc đứng yên, và khai hỏa vào các mục tiêu khi đang đứng yên, dừng khoảng ngắn hoặc di chuyển. Một đội hình bốn kênh của hệ thống Tor-E2 bao gồm 4 xe chiến đấu, có thể cùng lúc tấn công 16 mục tiêu từ mọi hướng cách 15 km và độ cao 12 km. Mỗi xe mang theo 16 tên lửa, gấp đôi so với các phiên bản trước. Ngoài ra, hai xe Tor-E2 có thể hoạt động ở chế độ "liên kết", cho phép chúng trao đổi thông tin về tình hình trên không tại nhiều khoảng độ cao khác nhau và thực hiện tấn công tọa độ kết hợp. Ở chế độ này, một xe sẽ đóng vai trò phục kích, nhận thông tin từ xe còn lại và không lộ diện cho tời lúc phóng tên lửa. Một đài chỉ huy có thể được kết nối với đội hình 4 xe Tor-E2 để điều khiển và tuơng tác với các hệ thống điều khiển phòng không khác.
HQ-17 (Phiên bản của Trung Quốc).
HQ-17 là hệ thống của Trung Quốc phát triển từ Tor-M1. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | HQ-17 (Phiên bản của Trung Quốc).
HQ-17 là hệ thống của Trung Quốc phát triển từ Tor-M1.
Năm 1996, Trung Quốc đã đặt hàng 14 hệ thống Tor-M1 từ Nga và thêm 13 hệ thống vào năm 1999. Việc chuyển iao các hệ thống hoàn thành lần lượt vào các năm 1997 và 2000.
FM-2000.
FM-2000 là một hệ thống phòng không tầm ngắn (SHORAD) cơ động của Tập đoàn Khoa học và Công nghiệp Hàng không vũ trụ Trung Quốc công bố vào năm 2018 tại Triễn lãm Hàng không vũ trụ quốc tế Trung Quốc và được đưa vào hoạt động từ năm 2019. Nó có tầm bắn 15 km và độ cao đánh chặn là 10 km. Nó là một phiên bản của HQ-17.
Lịch sử hoạt động.
Chiến tranh Nam Ossetia 2008.
Tại cuộc hội thảo về Chiến tranh Nam Ossetia 2008, người phát ngôn Bộ quốc phóng Nga Anatoliy Nogovitsyn đã nhắc đến khả năng hệ thống tên lửa Tor đã được sử dụng bởi lực lượng vũ trang Georgia để bắn hạ một chiếc Tupolev Tu-22MR trong một nhiệm vụ trinh sát. Các phân tích sau này đã kết luận rằng chiếc Tu-22M đã bị bắn hạ bởi một hệ thống Buk-M1 mà Georgia có được từ Ukraine năm 2007.
Chiến tranh Syria.
Từ ngày 30 tháng 9 năm 2015, lực lượng vũ trang Nga đã trực tiếp can thiệp vào Nội chiến Syria. Như là một phần của mạng lưới phòng không, hệ thống Tor-M2, cùng với hệ thống phòng thủ điểm Pantsir-S1 đã được triển khai đến Sân bay Khmeimim, và đã chứng minh được sức mạnh trong các cuộc tấn công tràn ngập bằng UAV khi hệ thống Pantsir-S1 đã phá hủy hơn 45 UAV tính đến tháng 6 năm 2020.
Bắn hạ chuyến bay 752 của Ukraine International Airlines. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Bắn hạ chuyến bay 752 của Ukraine International Airlines.
Ngày 9 tháng 1 năm 2020, tờ Newsweek đã đưa tin rằng các quan chức Mỹ tin rằng Chuyến bay 752 của Ukraine International Airlines đã bị bắn hạ bởi một hệ thống Tor-M1 của Iran, có vẻ như là bắn nhầm. Ngày hôm sau, Thủ tướng Canada Justin Trudeau nói rằng đã có các bằng chứng đáng tin cậy của Canada và đồng minh rằng tên lửa không đối đất của Iran là nguyên nhân gây ra vụ rơi Chuyến bay 752 của Ukraine International Airlines. Ông không đề cập chi tiết thêm về các bằng chứng. Eliot Higgins của Bellingcat đã đăng trên Twitter một bức ảnh được cho là phần mũi với cánh mũi đặc trưng của tên lửa được sử dụng trong hệ thống Tor được khẳng định là chụp tại hiện trường vụ tai nạn. Ngày 11 tháng 2 năm 2020, Iran thừa nhận rằng đã bắn rơi máy bay của Ukraine do lỗi của con người nhưng Iran đã không đóng cửa không phận vì tình hình chiến tranh, và vào ngày 20 tháng , Tổ chức hàng không dân sự Iran xác nhận rằng "hai tên lửa Tor-M1 [...] đã được bắn về phía máy bay."
Theo các nguồn thông tin quân sự, các tai nạn tuơng tự cũng đã từng xảy ra trước đây, với một trường hợp đáng chú ý là khi Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran tấn công một máy bay dân sự do nhầm lẫn vào tháng 6 năm 2007 bằng hệ thống Tor.
Chiến tranh Nagorno-Karabakh 2020. | wiki |
Tổ hợp tên lửa Tor | Chiến tranh Nagorno-Karabakh 2020.
Ngày 9 tháng 11 năm 2020, Bộ quốc phòng Azerbaijan đã đăng tải một đoạn video cho thấy rằng một hệ thống Tor-M2KM của Armenia bị phá hủy gần Khojavend. Một drone đã theo dõi hệ thống khi nó đang được để trong nhà chứa và theo sau bởi các cuộc tấn công của drone tự sát IAI Harop và nhiều quả bom dẫn đường.
Cuộc tấn công của Nga vào Ukraine 2022.
Năm 2022, Nga đã sử dụng nhiều hệ thống Tor trong cuộc tấn công vào Ukraine. Một vài hệ thống đã bị bỏ lại bởi lực lượng Nga sau khi bị kẹt trong bùn. | wiki |
Thomas Edison | Thomas Alva Edison (11 tháng 2 năm 1847 – 18 tháng 10 năm 1931) là một nhà phát minh và thương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Ông được một nhà báo đặt danh hiệu "Thầy phù thủy ở Menlo Park", ông là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Một số phát minh được gán cho ông, tuy ông không hoàn toàn là người đầu tiên có ý tưởng đó, nhưng sau khi bằng sáng chế đầu tiên được thay đổi nó trở thành của ông (nổi tiếng nhất là bóng đèn, trên thực tế là công việc của rất nhiều người bên trong công ty của ông). Edison được coi là một trong những nhà phát minh, nhà khoa học vĩ đại và giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, cũng như các bằng sáng chế ở Anh Quốc, Pháp, và Đức (tổng cộng 1.500 bằng phát minh trên toàn thế giới).
Gia đình.
Tổ tiên Edison (Gia đình Edison ở Hà Lan) đã nhập cư tới New Jersey năm 1730. John Edison vẫn trung thành với Anh Quốc khi các thuộc địa tuyên bố độc lập (xem Những người trung thành với Đế chế thống nhất), dẫn tới việc ông bị bắt giữ. Sau khi suýt bị treo cổ, ông và gia đình bỏ đi tới Nova Scotia, Canada, định cư trên vùng đất mà chính phủ thuộc địa dành cho những người trung thành với nước Anh.
Ra đời và những năm thơ ấu. | wiki |
Thomas Edison | Ra đời và những năm thơ ấu.
Thomas Edison sinh tại Milan, Ohio, con của Samuel Ogden Edison, Jr (1804 - 1896) và Nancy Matthews Elliott (1810–1871). Thomas là đứa con thứ bảy trong gia đình. Thuở nhỏ, Edison nổi tiếng là một cậu bé hiếu kì. Edison đi học muộn vì ông vốn ốm yếu. Đầu óc ông luôn lơ mơ và giáo viên của ông là Reverend Engle gọi ông là "rối trí". Trong khi bạn bè đồng lứa còn ham chơi thì Edison đã không những luôn băn khoăn tìm hiểu mọi vật quanh mình mà còn muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Vì những trò nghịch ngợm của mình mà Edison đã bị đuổi học ngay khi đi học được ba tháng.
Mẹ ông từng là một giáo viên ở Canada và bà rất vui mừng đảm nhận việc dạy con. Bà khuyến khích và dạy ông đọc và làm thực nghiệm. Sau này ông nhớ lại, "Mẹ tôi đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có một điều gì đó để sống, một ai đó để tôi không thể làm cho thất vọng." | wiki |
Thomas Edison | Cuộc sống của Edison ở Port Huron vừa cay đắng vừa ngọt ngào. Ông bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Hơi điếc từ thời thanh niên, ông đã trở thành một điện tín viên sau khi ông cứu Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả. Cha của Jimmie là nhân viên nhà ga J.U. Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan, rất vui mừng bảo trợ cho Edison và dạy ông trở thành điện tín viên. Chứng nặng tai giúp Edison tránh khỏi mọi tiếng ồn ào và cũng không phải nghe nhân viên điện báo bên cạnh. Một trong những cố vấn của ông những năm đầu tiên này là một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope, ông đã cho phép chàng trai trẻ sống và làm việc trong tầng hầm ở nhà ông tại nhà Elizabeth, New Jersey.
Một số trong những phát minh đầu tiên của ông liên quan tới điện tín gồm cả máy đếm phiếu. Edison đã xin cấp bằng phát minh đầu tiên, máy đếm phiếu điện tử, ngày 28 tháng 10 năm 1868.
Các cuộc hôn nhân và cuộc sống sau đó. | wiki |
Thomas Edison | Các cuộc hôn nhân và cuộc sống sau đó.
Năm 1871, ở tuổi 24, Edison trở thành chủ một xí nghiệp được nhiều người biết đến. Cuộc sống dần ổn định và nhu cầu có một mái ấm gia đình chợt đến trong đầu. Ông chú ý đến cô thư ký 16 tuổi Mary Stilwell (1855–1884) dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty, một hôm, ông đến gặp nàng và nói: "Thưa cô, tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có muốn làm vợ tôi không?". Cô gái sửng sốt, không tin ở tai mình - "Ý cô thế nào? Cô nhận lời tôi nhé? Tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút" - Edison nhắc lại lời cầu hôn "cấp tốc" của mình. "Năm phút cơ à? thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời" - đỏ mặt lý nhí, Mary đáp.
Ngày 25 tháng 12 năm 1871, ông cưới Mary Stilwell, và họ có ba người con:
Mary Edison qua đời ở tuổi 29 vào ngày 9 tháng 8 năm 1884, với những nguyên nhân không rõ: có thể là từ khối u não hoặc dùng quá liều morphine.
Ngày 24 tháng 2 năm 1886, ở tuổi ba chín, ông lấy Mina Miller (1865–1947) - một cô gái mười chín tuổi. Họ có thêm ba người con nữa:
Thomas Edison mất ở New Jersey ở tuổi 84.
Sáng Chủ Nhật ngày 18 tháng 10 năm 1931, Thomas Edison qua đời chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng đèn điện đầu tiên. Những từ cuối cùng của ông nói với vợ là: "Ở ngoài kia đẹp quá". | wiki |
Thomas Edison | Hoa Kỳ tưởng nhớ ông bằng cách tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ trong một phút để tưởng nhớ người vĩ nhân, "người bạn của nhân loại" đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá, một "mặt trời thứ hai".
Nhà phát minh.
Không học ở trường, Edison tự học ở sách theo cách riêng của mình. Dần dần, với sự suy nghĩ, tìm tòi, thực hiện không chú trọng lý thuyết suông, từng bước Edison đã chinh phục những gì mà người thời bấy giờ cho là "không tưởng". Phát minh đầu tiên của ông là một chiếc máy điện báo kép có khả năng cùng một lúc phát đi hai tin. Ít lâu sau, ông cải tiến thành máy "tải ba", "tải tư" rồi "đa tải". Tải tư được bán cho Western Union với giá 10.000 USD.
Một thời gian sau, chán nản với công việc của một điện báo viên, Edison đến New York, trung tâm tài chính bậc nhất lúc bấy giờ, với hy vọng sẽ kiếm thêm chi phí cho các cuộc thí nghiệm của mình. Tại đây, ông đã hợp tác với vài người bạn thành lập một công ty nhỏ chuyên về điện và điện báo. Phát minh thứ hai của ông là cải tiến chiếc máy điện báo đa tải thành "Hệ thống điện báo nhận các tin tức hối đoái ngân hàng". Chiếc máy đầu tiên đã đem về cho ông một số tiền lớn. Toàn bộ số tiến kiếm được lúc này, ông trút hết vào các thí nghiệm của mình về sau. | wiki |
Subsets and Splits