title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Danh sách đảo Việt Nam
Thừa Thiên Huế. Hòn Sơn Chà, tức Hòn Chảo, cù lao Hàn Đà Nẵng. Quần đảo Hoàng Sa Quần đảo Hoàng Sa. "Ghi chú: liệt kê cả rạn san hô ("đá", "bãi", "bãi cạn") và bãi ngầm ("bãi", "bãi ngầm")" Quần đảo Trường Sa. "Ghi chú: liệt kê cả rạn san hô ("đá", "bãi", "bãi cạn") và bãi ngầm ("bãi", "bãi ngầm")" Quần đảo Trường Sa được chia làm tám cụm (xem chi tiết về phân cụm tại đây) với danh sách chưa đầy đủ như sau:
wiki
Quan hệ Việt Nam – Áo
Quan hệ Việt Nam – Áo là quan hệ song phương giữa Cộng hòa Áo và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Áo đã đặt Đại sứ quán của mình tại Hà Nội và Việt Nam cũng đã đặt Đại sứ quán của mình tại Viên. Quan hệ ngoại giao giữa hai nước đã được thiết lập từ ngày 1 tháng 12 năm 1972. Lịch sử tổng quan. Năm 1972, khi chiến tranh ở Việt Nam còn chưa kết thúc, Áo là một trong những nước phương Tây đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Nhiều người dân Áo đã xuống đường tuần hành ủng hộ Việt Nam. Trong những năm qua, mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hệ hai nước không ngừng phát triển. Đỉnh cao trong quan hệ là chuyến thăm Áo cấp Nhà nước của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tháng 6 năm 2008, đưa quan hệ hai nước lên một tầm cao mới. Áo ủng hộ Việt Nam ứng cử vào HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2008-2009. Việt Nam ủng hộ Áo ứng cử HĐBA LHQ nhiệm kỳ 2009-2010. Tổng thống Áo Heinz Fischer cũng đã có chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5 năm 2012. Ngày 1 tháng 12 năm 2022 là kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Thương mại. Thương mại song phương giữa hai nước những năm gần đây có phát triển nhưng còn ở mức khiêm tốn so với tiềm năng của hai nước. Các mặt hàng Việt Nam xuất sang Áo là giầy dép, máy vi tính, hàng dệt may, linh kiện điện tử, túi xách, va li, đồ gỗ... và nhập từ Áo chất dẻo nguyên liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng, tân dược, gỗ và các sản phẩm gỗ.
wiki
Tiến hóa văn minh
Tiến hóa văn minh, phát triển văn hóa xã hội hay phát triển văn hóa là các thuật ngữ chung về những lý thuyết tiến hóa xã hội và văn hóa, mô tả cách các nền văn hóa và xã hội thay đổi theo thời gian. Trong khi tiến trình tiến hóa văn minh có xu hướng tăng độ phức tạp của một xã hội hoặc nền văn hóa, mặc khác nó cũng xem xét quá trình có thể dẫn đến giảm độ phức tạp (thoái hóa), hoặc có thể sản sinh đổi mới hay phát triển mà không cần bất kỳ sự thay đổi đáng kể một cách phức tạp (phân nhánh tiến hóa). Tiến hóa văn minh có thể được định nghĩa là "quá trình tổ chức lại cấu trúc bị ảnh hưởng theo thời gian, cuối cùng sản sinh một hình thức hay cấu trúc có chất lượng khác với hình thức tổ tiên."
wiki
Tiến hóa văn minh
Gần như suốt thế kỷ 19 và một vài giai đoạn của thế kỷ 20, người ta tiếp cận đến tiến hóa văn minh nhằm mục đích cung cấp hình mẫu cho sự tiến hoá nhân loại toàn thể, với lập luận rằng xã hội khác nhau ở các giai đoạn khác nhau của sự biến đổi xã hội. Các nỗ lực toàn diện nhất để phát triển một lý thuyết chung về tiến hóa văn minh tập trung vào phát triển hệ thống văn hóa-xã hội được thực hiện bởi Talcott Parsons trên thang điểm trong đó có một lý thuyết về lịch sử thế giới. Những phương pháp tiếp cận gần đây tập trung vào những thay đổi cụ thể cho từng xã hội và từ chối ý tưởng về sự tiến bộ xã hội. Hầu hết các nhà khảo cổ học và nhân học văn hóa làm việc trong khuôn khổ lý thuyết hiện đại của sự tiến hóa văn minh. Những phương pháp tiếp cận hiện đại đến tiến hóa văn minh bao gồm nhân học nhận thức, xã hội học, lý thuyết hiện đại hóa và lý thuyết xã hội hậu công nghiệp. Đã có nhiều xã hội khác nhau trong suốt lịch sử loài người, với ước tính nhiều hơn một triệu xã hội; tuy nhiên ngày nay chỉ có khoảng hai trăm hoặc nhiều hơn các xã hội khác nhau còn tồn tại.
wiki
Thuyết tam giác tình yêu
Thuyết tam giác tình yêu Thuyết tam giác tình yêu là một lý thuyết về tình yêu do nhà tâm lý học Robert Sternberg xây dựng. Lý thuyết này chia mối quan hệ giữa người với người thành ba yếu tố, bao gồm thân mật, đam mê và tận tụy/cam kết". Theo Sternberg, yếu tố "thân mật" đề cập đến "cảm giác gần gũi, kết nối và gắn bó trong các mối quan hệ yêu đương", còn niềm "đam mê" nghĩa là "động lực tạo ra sự lãng mạn, hấp dẫn thể xác, thỏa mãn tình dục và những hiện tượng khác có liên quan trong mối quan hệ yêu đương", trong khi lòng "tận tụy/cam kết" mang sắc thái nghĩa khác nhau tùy ngữ cảnh (ngắn hạn hay dài hạn). Trong trường hợp ngắn hạn, yếu tố này quyết định việc "một người có tình cảm với một ai đó" và trong trường hợp dài hạn, nó thể hiện "cam kết của một người trong việc duy trì tình yêu đó".
wiki
Lá rơi trong thành phố
Lá rơi trong thành phố Lá rơi trong thành phố là tiểu thuyết đầu tay của tác giả Việt Nam Lê Xuân Khoa phát hành năm 2013. Nội dung. Củ Đậu là một chuyên viên Công nghệ Thông tin nhưng có đam mê âm nhạc từ nhỏ. Chính âm nhạc và những mối quan hệ xuất phát từ mạng internet đã mở ra những cuộc phiêu lưu trong cuộc sống rất đỗi bình dị của anh. Chúng là một chuỗi thăng trầm, va vấp dẫn anh đi tìm giá trị sống. Xuất bản tại Việt Nam. Tác phẩm được Thaihabooks và Nhà xuất bản Văn Học phát hành tháng 7/2013. Ngày 29/06/2013, buổi ra mắt tại Hà Nội với chủ đề "Chuyện về một thế hệ" đã thu hút sự chú ý của đông đảo công chúng. Cuốn tiểu thuyết ngay lập tức nhận được nhiều lời ca ngợi từ cả những người yêu văn chương lẫn giới chuyên môn và phê bình. Họ đánh giá cao cuốn sách vì nó có cả tính đương đại, mới mẻ lẫn chiều sâu tâm linh. Chỉ sau một tuần ra mắt, cuốn sách đã thành món hàng "nóng" được săn tìm và trở nên khan hiếm tại các hiệu sách trên phố Đinh Lễ, Hà Nội. Được đón nhận nồng nhiệt, Lê Xuân Khoa tiếp tục được mời giới thiệu sách tại 2 thành phố lớn là thành phố Hồ Chí Minh ngày 28/06/2013 trong chương trình "Một Hà Nội đương đại" và tại Đà Nẵng trong chương trình "Hành trình đi tìm tôi". Đây là một trường hợp hy hữu tại Việt Nam, khi một tác giả trẻ lần đầu tiên xuất bản đã gây được tiếng vang khắp cả nước. Liên kết ngoài. Trang web của tác giả Lê Xuân Khoa Facebook Page của cuốn sách "Lá rơi trong thành phố"
wiki
Lời nói thô tục
Lời nói thô tục, nói tục hay chửi thề là những ngôn từ xúc phạm, cũng có thể được gọi là lời nguyền rủa, từ bẩn, ngôn ngữ xấu, ngôn ngữ thô bạo, ngôn từ xúc phạm, lời lẽ thô lỗ, ngôn ngữ báng bổ, ngôn ngữ tục tĩu, ngôn từ dâm dục, nói tục, và ngôn từ bậy bạ. Việc sử dụng ngôn ngữ như vậy được gọi là nói tục, chửi bậy. Lời nói thô tục thường được coi là bất lịch sự, thô lỗ, mang tính xúc phạm. Nó thể hiện việc hạ thấp giá trị một ai đó hay một cái gì đó, hay cũng có thể thể hiện cảm xúc. Tiếng Việt. Trong tiếng Việt, các từ chửi thề thường có xu hướng bắt nguồn từ các trào lưu như " đéo", "con cặc"... hoặc đến từ những từ dân gian có từ lâu như "địt mẹ"," vãi lồn", "con mẹ"... hoặc cũng bắt nguồn từ những từ chỉ quan hệ tình dục trong tiếng Anh. Tiếng Anh. Theo nghĩa đen của nó, "profane" ám chỉ sự thiếu tôn trọng đối với những thứ được coi là thiêng liêng, ngụ ý bất cứ điều gì truyền cảm hứng xứng đáng với sự tôn kính, cũng như hành vi thể hiện sự thiếu tôn trọng hoặc gây ra hành vi phạm tội tôn giáo. Từ nguyên.
wiki
Lời nói thô tục
Từ nguyên. Thuật ngữ "profane" bắt nguồn từ tiếng Latin cổ điển - "profanus", nghĩa đen là before (outside) - "trước (bên ngoài) ngôi đền". Nó mang ý nghĩa của một trong hai "desecrating what is holy" - "làm ô uế những gì là thánh thiện" hoặc "with a secular purpose" - "với một mục đích thế tục" sớm nhất là những năm 1450. Lời nói thô tục đại diện cho sự thờ ơ thế tục đối với tôn giáo hay nhân vật tôn giáo trong khi báng bổ là một cuộc tấn công nhiều hơn vào tôn giáo và các nhân vật tôn giáo được coi là tội lỗi và một sự vi phạm trực tiếp của Mười Điều Răn. Hơn nữa nhiều câu Kinh Thánh chứng tỏ chống lại chửi thề. Profanity, theo nghĩa ban đầu của "blasphemous profanity" - "thô tục báng bổ", là một phần của truyền thống cổ xưa của các giáo phái truyện tranh cười và chế nhạo tại các thần linh hoặc các vị thần. Một ví dụ từ "Gargantua và Pantagruel"  "Christ, look ye, its "Mere de... merde... shit", Mother of God." Trong tiếng Anh, lời thề và lời nguyền có xu hướng là từ tiếng Đức chứ không phải là từ nguyên Latin. "Shit" có gốc tiếng Đức, như, có khả năng, là "fuck". Các lựa chọn thay thế hơn thường xuất phát từ tiếng Latinh như "defecate" - "đại tiện" hoặc "excrete" - "bài tiết" và "fornicate" - "gian dâm" hay "copulate" - "quan hệ tình dục".
wiki
Sudan thuộc Anh-Ai Cập
Sudan thuộc Anh-Ai Cập ( "") là địa danh cũ của thuộc địa Sudan từ năm 1899 đến năm 1956 trong thời gian Sudan bị Anh và Ai Cập đồng cai trị dưới thể chế đồng trị. Xứ này có diện tích khoảng 970.000 dặm vuông. Địa sản chính là nhựa keo và bông gòn. Lịch sử. Sudan thuộc Anh-Ai Cập là tiền thân của nước Sudan. Xứ này bắc giáp Ai Cập; đông-bắc là Hồng Hải; đông là Đông Phi thuộc Ý và Ethiopia; nam là Uganda và Congo thuộc Bỉ; còn tây là châu Phi Xích đạo thuộc Pháp. Thủ phủ là Khartoum. Chính phủ Anh chủ trương chinh phục Sudan từ cuối thế kỷ 19 vì muốn ngăn các cường quốc Âu châu như Pháp và Bỉ không khống chế được thượng nguồn sông Nin. Ngoài ra sau cuộc chiến tranh Anh-Ai Cập 1882, Anh đã chiếm đóng Ai Cập và đưa Tawfiq lên làm quốc vương nên lo ngại nếu không kiểm soát được Sudan, thì miền hạ lưu Ai Cập sẽ dễ bị uy hiếp. Dựa vào cớ bảo vệ quyền lợi của Ai Cập, chính phủ Anh cho động quân.
wiki
Sudan thuộc Anh-Ai Cập
Năm 1896 tướng Horatio Kitchener chỉ huy quân đội Anh mở cuộc chinh phạt Sudan. Quân Anh phá được lực lượng của Mahdi Muhammad Ahmad trong trận Umm Durman đẫm máu và chiếm được thành Khartoum. Sang năm sau thể chế Anh-Ai đồng trị thành hình. Chức toàn quyền Sudan thì do chính phủ Ai Cập bổ nhiệm nhưng phải được Luân Đôn thuận phê sẽ đứng đầu xứ thuộc địa này. Tuy về mặt pháp lý, Ai Cập là thành viên bình đẳng với Anh trong việc cai trị Sudan nhưng trên thực tế, Sudan là phiên thuộc của Anh. Chính phủ Ai Cập có vận động sáp nhập Sudan vào Ai Cập để rộng quyền hơn nhưng những vận động đó không thành. Năm 1936 quân đội Anh rút khỏi Ai Cập, chỉ giữ quyền kiểm soát Kênh đào Suez nhưng đối với Sudan, chính phủ Anh tiếp tục cai trị song hành với Ai Cập. Vào những năm đầu Chiến tranh thế giới thứ hai quân đội Ý mở cuộc xâm lăng Sudan từ xứ Đông Phi thuộc Ý nhưng bị đánh bại. Sang năm 1941 Lực lượng Phòng thủ Sudan nhân danh quân đội Đồng Minh mở cuộc phản công đánh vào thuộc địa Eritrea của Ý, buộc tướng Guglielmo Nasi phải đầu hàng. Cuộc cách mạng Ai Cập năm 1952 lật đổ nền quân chủ và tân tổng thống Muhammad Naguib quyết định chấm dứt thể chế đồng trị của Ai Cập ở Sudan. Mất cơ chế pháp lý đó, Anh cũng phải rút lui và nước Sudan độc lập ra đời năm 1956 sau 55 năm phụ thuộc Anh.
wiki
Bé Ký
Bé Ký Bé Ký (1938 - 12 Tháng Năm 2021) tên thật là Nguyễn Thị Bé là một họa sĩ Việt Nam quê ở Hải Dương. Bà mồ côi cha mẹ từ năm lên tám. Ngón vẽ của bà phần lớn là tự học nhưng bà cũng được các họa sĩ Trần Đắc, Trần Văn Thọ và Văn Đen chỉ dẫn thêm. Vào Nam sau khi đất nước chia đôi, bà được chú ý đến sau buổi triển lãm tranh đầu tiên năm 1957 ở hội Pháp văn Đồng minh ("Alliance française") do René de Berval bảo trợ. Tranh bà sau được trưng bày ở Hội Việt Mỹ và Trung tâm Pháp. Cho đến năm 1975 bà đã đi triển lãm ở Paris và Đông Kinh. Sau năm 1975 vì không thích ứng được với lối mỹ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa (Socialist realism), sinh hoạt của bà bị hạn chế. Vượt biên không thành, gia đình bà càng gặp nhiều khó khăn. Năm 1989, bà cùng chồng là họa sĩ Hồ Thành Đức được xuất cảnh sang Mỹ. Từ đó đến nay tranh Bé Ký đã được trưng bày ở nhiều phòng tranh (gallery) và bảo tàng mỹ thuật tại Mỹ kể cả Viện Smithsonian. Tranh Bé Ký thuộc trường phái sketchings tức phác họa bằng bút lông trên giấy và lụa. Thời kỳ sau năm 1989 tranh Bé Ký thu nạp thêm dạng sơn mài. Năm 2002 bà cho ra mắt cuốn "My Beloved Vietnam - Quê Hương Mến Yêu," song ngữ Việt-Anh. Bà mất tại tư gia ở Quận Cam (California) năm 2021.
wiki
Dinornis
Dinornis (tạm gọi là Chim khổng lồ moa) là một chi chim tuyệt chủng thuộc họ moa. Giống như tất cả các loài họ Moa, nó là thành viên của bộ Dinornithiformes. Đây là loài đặc hữu ở New Zealand. Hai loài được tính vào "Dinornis" gồm Dinornis novaezealandiae của đảo phía Bắc, và Dinornis robustus của vùng phía Nam. Ngoài ra, hai loài nữa (dòng giống mới A và dòng giống B) đã được đề xuất dựa trên các dòng DNA riêng biệt. Mô tả. "Dinornis" có thể là loài chim cao nhất từng tồn tại, những con cái của loài lớn nhất cao đến và là một trong những loài lớn nhất, nặng đến hay trong các ước tính khác nhau. Lông vũ có màu nâu đỏ giống với màu tóc bao phủ toàn cơ thể ngoại trừ phần chân dưới và phần lớn đầu (cộng với một phần nhỏ của cổ dưới đầu). Bàn chân to và mạnh, những con chim có cổ dài giúp cho chúng có thể với tới các thảm thực vật trên cao. Nối với cơ thể là đầu của nó nhỏ, mỏ nhọn, ngắn, phẳng và hơi cong. Dị hình giới tính.
wiki
Dinornis
Dị hình giới tính. Từ lâu người ta đã nghi ngờ rằng một số loài moa lần lượt cấu thành giống đực và cái. Điều này đã được xác nhận bằng cách phân tích các dấu hiệu di truyền giới tính cụ thể của DNA được lấy từ mẫu xương. Ví dụ, trước năm 2003 có ba loài "Dinornis" được công nhận: moa khổng lồ của đảo phía Nam ("D. robustus"), moa khổng lồ của đảo phía Bắc ("D. novaezealandiae") và moa mảnh ("D. struthioides"). Tuy nhiên, DNA cho thấy rằng tất cả "D. struthioides" đều là giống đực, và tất cả "D. robustus" đều là giống cái. Do đó, ba loài "Dinornis" được phân lại thành hai loài, mỗi loài xuất hiện trước đây trên Đảo Bắc New Zealand ("D. novaezealandiae") và Đảo Nam ("D. robustus"); Tuy nhiên "robustus", bao gồm ba dòng di truyền riêng biệt và thậm chí có thể được phân thành nhiều loài. "Dinornis" dường như đã có sự lưỡng hình sinh dục rõ rệt nhất trên tất cả các moa, với con cái lên đến 150% về chiều cao và 280% cân nặng như con đực. Phân loại. Biểu đồ dưới đây theo một phân tích năm 2009 bởi Bunce "et al": Sự tuyệt chủng.
wiki
Dinornis
Phân loại. Biểu đồ dưới đây theo một phân tích năm 2009 bởi Bunce "et al": Sự tuyệt chủng. Trước khi có sự xuất hiện của loài người, loài moa khổng lồ có mật độ sinh thái ổn định ở New Zealand trong ít nhất 40.000 năm. Loài moa khổng lồ, cùng với các loài moa khác, đã bị những người định cư Polynesian săn bắt hết để làm thực phẩm. Tất cả các đơn vị phân loại trong loài này đã bị tuyệt chủng tính đến năm 1500 ở New Zealand. Người ta thường xác nhận rằng người Maori vẫn săn lùng chúng vào đầu thế kỷ XV, mặc dù một số giả thuyết cho rằng chúng đã tuyệt chủng vào giữa thế kỷ XIV. Mặc dù một số loài chim lớn đã bị tuyệt chủng do canh tác, trong đó do rừng bị chặt, bị cháy và đất bị biến thành đất trồng trọt, nhưng loài moa khổng lồ đã tuyệt chủng 300 năm trước khi những người định cư châu Âu đến.
wiki
Phnôm Pênh
Phnôm Pênh (tiếng Khmer: ភ្ន៓ពេញ; chuyển tự: "Phnum Pénh"; IPA: ), hay Phnom Penh, còn gọi là Nam Vang hay "Nam Vinh", hoặc "Kim Biên" (phiên âm từ người Hoa và người Việt dùng), là thành phố lớn nhất và là thủ đô của Vương quốc Campuchia. Đây cũng là thủ phủ của thành phố tự trị Phnôm Pênh. Từng được gọi là "Hòn ngọc châu Á" thập niên 1920, Nam Vang cùng với Xiêm Riệp và Sihanoukville, là những thành phố thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế nhất của Campuchia. Thành phố này có nhiều toà nhà mang ảnh hưởng kiến trúc Pháp cùng nhiều công trình đặc sắc của kiến trúc Khmer. Với dân số là 2,2 triệu người (2011), thành phố này là trung tâm chính trị, văn hóa, thương mại của Campuchia. Nguồn gốc tên gọi. Địa danh này xuất phát từ "Wat Phnom Daun Penh" (hay "Wat Phnom", nghĩa là "Chùa trên đồi"), xây từ năm 1373 để thờ 5 pho tượng Phật. Đồi ở đây là một gò đất nhân tạo, đắp cao 27 mét. Tên quả đồi lấy từ nhân vật Daun Penh (Bà Pênh), tương truyền là một góa phụ giàu có. Phnôm Pênh còn có nghĩa là "vùng đất của Bà Pênh". Phnôm Pênh một thời còn có tên là "Krong Chaktomuk" có nghĩa "Thành phố 4 mặt" do thành phố nằm trên ngã tư của mấy con sông Mekong, Bassac, sông Tonlé Sap chạy ngang tạo thành 4 ngả sông. "Krong Chaktomuk" còn là cách gọi tắt sắc phong vua Ponhea Yat đặt cho thị trấn này là "Chaktomuk Mongkol Sakal Kampuchea Thipadei Sereythor Inthabot Borei Roth Reach Seima Maha Nokor". Lịch sử.
wiki
Phnôm Pênh
Lịch sử. Đầu tiên ghi lại một thế kỷ sau khi nó được cho là đã diễn ra, huyền thoại về việc thành lập Phnom Penh kể về một người phụ nữ địa phương, Penh (thường được gọi là Daun Penh ("Bà ngoại" hoặc "Bà già Penh") bằng tiếng Khmer), sống ở Chaktomuk, thuộc Phnom Penh ngày nay. Đó là vào cuối thế kỷ 14, khi ấy thủ đô Khmer vẫn còn ở Angkor gần Xiêm Riệp, cách Chaktomuk 350 km (217 mi) về phía bắc. Khi thu thập củi dọc theo bờ sông, bà Penh đã đuổi theo một cây koki nổi trên sông và đánh bắt nó từ dưới nước. Bên trong cái cây, bà tìm thấy bốn bức tượng Phật và một trong những Vishnu. Phát hiện này được coi là một phước lành thiêng liêng, và với một số dấu hiệu cho thấy kinh đô của đế quốc Khmer đã được dời đến Phnom Penh từ Angkor. Để xây dựng những vật linh thiêng mới, Penh đã dựng lên một ngọn đồi nhỏ trên bờ phía tây của sông Tonle Sap và để nó trong một ngôi đền, bây giờ được gọi là Wat Phnom ở phía bắc của trung tâm Phnom Penh. "Phnom" là tiếng Khmer cho "đồi" và đồi của Penh lấy tên của người sáng lập, và khu vực xung quanh nó được biết đến sau ngọn đồi.
wiki
Phnôm Pênh
Phnôm Pênh chính thức được chọn làm kinh đô của Campuchia từ thế kỷ 15 dưới triều vua Ponhea Yat khi kinh đô Angkor Thom bị quân Xiêm chiếm mất. Triều đình phải bỏ vùng Tây Bắc rút về Đông Nam lấy Phnôm Pênh làm bản doanh mới. Ngày nay trong số những mộ tháp phía sau Wat Phnom là tháp chứa di cốt Ponhea Yat cùng các hoàng thân. Chứng tích khác từ thời Angkor vàng son còn lưu lại là mấy pho tượng Phật ở Wat Phnom. Dù vậy mãi đến năm 1866 triều vua Norodom I thì Phnôm Pênh mới trở thành doanh sở dài lâu của người Khmer. Cung điện vua Khmer được xây vào thời kỳ này, đánh dấu thời điểm khi ngôi làng nhỏ dần chuyển mình thành chốn đô hội. Khi người Pháp sang lập nền Bảo hộ trên xứ Campuchia thì họ cũng cho đào kênh rạch, đắp đường sá, mở bến cảng thông thương. Đến thập niên 1920 thì cảnh quan đẹp đẽ của Phnôm Pênh đã khiến nơi này có mệnh danh là "Hòn ngọc châu Á". Trong 40 năm kế tiếp thành phố tiếp tục mở mang giao thông, nối đường sắt với hải cảng Sihanoukville và mở Sân bay Quốc tế Pochentong.
wiki
Phnôm Pênh
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, lực lượng vũ trang của phe cộng sản (Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) lấy đất Campuchia làm căn cứ và khu an toàn để đánh Việt Nam Cộng hòa và ủng hộ Khmer Đỏ, gây xáo trộn và bất an khiến hàng ngàn người Campuchia phải lánh miền quê, tản cư vào thành phố để tránh giao tranh. Chiến cuộc lan rộng. Đến năm 1975 thì dân số Phnôm Pênh đã lên 2 triệu dân, phản ánh tình hình bất an ở nông thôn. Ngày 17 tháng 4 trùng ngày tết Khmer, thủ đô nước Cộng hòa Khmer thất thủ; quân Khmer Đỏ tiến chiếm được Phnôm Pênh. Chế độ này thi hành chính sách giải thể phố xá, dồn dân thành thị về miền quê lao động sản xuất. Thủ lĩnh Pol Pot dùng trường Trung học Chao Ponhea Yat thành nhà giam tra tấn và thủ tiêu mọi thành phần liên quan đến chính thể Cộng hòa Khmer cùng giới trí thức, chuyên môn. Nơi đó sau năm 1979 trở thành Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng cùng với Choeung Ek (Cánh Đồng Chết), cách Phnôm Pênh 15 km, nay là 2 nơi tưởng niệm những nạn nhân bị chế độ Khmer Đỏ sát hại.
wiki
Phnôm Pênh
Năm 1979, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiến chiếm Phnôm Pênh, đánh bại Khmer Đỏ. Dân chúng sau đó mới dần hồi cư về thành phố. Phnôm Pênh lại khởi sắc, xây dựng lại. Đầu tư nước ngoài và ngoại viện trong những năm liên tiếp giúp chấn chỉnh lại thành phố. Một giai đoạn tái thiết bắt đầu, được thúc đẩy bởi sự ổn định liên tục của chính phủ, thu hút đầu tư nước ngoài mới và viện trợ của các nước bao gồm Pháp, Úc và Nhật Bản. Các khoản vay được thực hiện từ Ngân hàng Phát triển Châu Á và Ngân hàng Thế giới để phục hồi nguồn cung cấp nước sạch, đường sá và cơ sở hạ tầng khác. Dân số tăng đều từ 826.000 (1998) lên 1.3 triệu (2008). Địa lý và khí hậu. Phnôm Pênh tọa lạc tại vị trí trung nam Campuchia, chỗ hợp lưu của sông Tonlé Sap và sông Mekong. Những con sông này cung cấp nước ngọt và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác cho thành phố. Phnom Penh và các khu vực xung quanh bao gồm một khu vực đồng bằng ngập lụt điển hình của Campuchia. Mặc dù Phnom Penh nằm ở độ cao 11,89 mét (39 ft) so với sông, lũ lụt lại được xem là một vấn đề, và đôi khi nước sông tràn bờ. Tọa độ: (11°33' North, 104°55' East). Thành phố có diện tích 678,46 km vuông (262 sq mi), với 11.401 ha (28.172 mẫu Anh) trong đô thị và 26.106 ha (64.509 mẫu Anh) đường sá. Đất nông nghiệp trong đô thị có diện tích 34.685 km2 (13 dặm vuông) với 1.476 km2 (365 mẫu Anh) dưới thủy lợi. Khí hậu.
wiki
Phnôm Pênh
Khí hậu. Phnom Penh có khí hậu xavan (phân loại khí hậu Köppen Aw). Khí hậu nhiệt đới gần giống vùng Nam Bộ của Việt Nam khi nóng quanh năm và biên độ dao động thấp. Nhiệt độ thường dao động từ 22 đến 35 °C (72 đến 95 °F) và thời tiết phụ thuộc vào gió mùa nhiệt đới. Gió mùa tây nam thổi vào đất liền mang gió ẩm từ vịnh Thái Lan và Ấn Độ Dương từ tháng 5 đến tháng 10. Gió mùa đông bắc mở ra vào mùa khô, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3. Thành phố có lượng mưa lớn nhất từ tháng 9 đến tháng 10 và thời kỳ khô hạn nhất là tháng 1 và tháng 2. Thành phố có hai mùa rõ rệt. Mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiệt độ cao kèm theo độ ẩm cao. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 khi nhiệt độ có thể giảm xuống 22 °C (72 °F). Nhưng nhiệt độ có thể lên đến 40 °C (104 °F) trong tháng Tư. Các đơn vị hành chính. Thành phố Phnôm Pênh tương đương đơn vị cấp tỉnh, có 12 quận và 98 phường. Nhân khẩu. Tính đến năm 2008, dân số Phnom Penh là 2.009.264 người, với tổng mật độ dân số là 5,358 người / km2 (13,877 / sq mi) trong khu vực nội ô 678,46 km vuông (262 dặm vuông). Tốc độ tăng dân số của thành phố là 3,92%. Khu vực nội ô đã tăng gấp bốn lần kể từ năm 1979, và khu vực đô thị sẽ tiếp tục mở rộng để hỗ trợ dân số và nền kinh tế ngày càng tăng của thành phố. Dân số của Phnom Penh dự kiến ​​sẽ tăng lên 3 triệu vào cuối năm 2016.
wiki
Phnôm Pênh
Phnom Penh là nơi sinh sống chủ yếu của người Campuchia (hoặc người Khmer) - chiếm 90% dân số của thành phố. Có rất nhiều nhóm thiểu số người Hoa, người Việt, và các nhóm dân tộc thiểu số khác là người Thái Lan, Budong, người M'Nông, Kuy, Chong, và người Chăm. Tôn giáo nhà nước là Phật giáo Nam Tông. Hơn 90% người dân ở Phnom Penh là Phật tử. Người Chăm đã sùng bái đạo Hồi trong hàng trăm năm. Từ năm 1993, cũng đã có sự gia tăng trong việc sùng bái Kitô giáo mặc dù thực tế đã bị xóa sổ sau năm 1975 khi Khmer Đỏ tiếp quản. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Khmer, nhưng tiếng Anh và tiếng Pháp được sử dụng rộng rãi trong thành phố. Số lượng cư dân khu ổ chuột vào cuối năm 2012 là 105.771 người, so với 85.807 vào đầu năm 2012. Kinh tế. Phnom Penh là trung tâm kinh tế của Campuchia khi nó chiếm một phần lớn nền kinh tế nước này. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hai con số trong những năm gần đây đã gây ra một sự bùng nổ kinh tế ở Phnom Penh, với các khách sạn, nhà hàng, quán bar, nhà cao tầng và các tòa nhà dân cư mọc quanh thành phố.
wiki
Phnôm Pênh
Nền kinh tế chính dựa trên các lợi ích thương mại như hàng may mặc, kinh doanh và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong vài năm qua, hoạt động kinh doanh bất động sản đang bùng nổ, với giá bất động sản tăng nhanh chóng. Du lịch cũng là một đóng góp lớn trong thủ đô như nhiều trung tâm mua sắm và thương mại mở, làm cho Phnom Penh một trong những điểm đến du lịch lớn trong cả nước cùng với Xiêm Riệp và Sihanoukville. Theo Hội đồng Du lịch và Du lịch Thế giới, du lịch chiếm 17,5% (2,053 triệu USD) GDP của Campuchia trong năm 2009 và chiếm 13,7% tổng số việc làm. Một trong những khu vực nổi tiếng nhất ở Phnom Penh cho khách du lịch là Sisowath Quay, bên cạnh sông Tonle Sap. Sisowath Quay là một dải đường dài 3 dặm bao gồm các nhà hàng, quán bar và khách sạn. Dự án phát triển đô thị mới trị giá 2,6 tỷ đô la, Camko City, có nghĩa là thúc đẩy cảnh quan thành phố. Cục Nội vụ đô thị Phnom Penh có kế hoạch mở rộng và xây dựng cơ sở hạ tầng mới để phù hợp với dân số và nền kinh tế ngày càng tăng. Các tòa nhà cao tầng sẽ được xây dựng tại lối vào của thành phố và gần các hồ và bờ sông. Hơn nữa, các con đường mới, kênh đào và hệ thống đường sắt sẽ được sử dụng để kết nối Camko City và Phnom Penh. Các dự án khác bao gồm:
wiki
Phnôm Pênh
Với sự phát triển kinh tế bùng nổ từ những năm 1990, các hệ thống bán lẻ mới đã mở ra mang phong cách phương Tây như Trung tâm mua sắm Sorya, City Mall, Aeon Mall và Parkson Mall. Nhiều thương hiệu quốc tế đã mở ra như Mango, Salvatore Ferragamo, Montagut, Hugo Boss, Padini. Phnom Penh là trung tâm của nhiều ngân hàng tài chính quốc tế và các trung tâm mua sắm ở khu vực trung tâm Đông Nam Á gần đây. Tòa nhà chọc trời cao nhất ở Phnom Penh là Vattanac Capital Tower ở độ cao 188 mét (617 ft), thống trị đường chân trời của Phnom Penh với tòa nhà chọc trời hàng xóm Canadia Tower (Tháp OCIC). Tháp đã được đứng đầu trong tháng 5 năm 2012 và dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2012. Những tòa nhà hiện đại đã được xây dựng trên toàn thành phố, không tập trung ở bất kỳ một khu vực cụ thể. Văn hóa. Phnom Penh cũng được biết đến với ảnh hưởng của nó đối với kiến trúc Khmer mới. Ẩm thực Phnom Penh được biết đến với món hủ tiếu Phnom Penh, sự biến đổi của nó trên món phở, một món ăn có sẵn ở các quán cà phê sang trọng cũng như các quán cà phê 'đường phố'. Thành phố này vừa là trung tâm kinh tế và văn hóa của Campuchia. Âm nhạc và nghệ thuật đang tạo nên một sự hồi sinh khắp Campuchia, đặc biệt là ở Phnom Penh. Phnom Penh hiện đang tổ chức một số sự kiện âm nhạc trên toàn thành phố. Các ban nhạc 'Indie' (những người không có nhà tài trợ của công ty) đã phát triển về số lượng.
wiki
Phnôm Pênh
Hai bảo tàng được viếng thăm nhiều nhất trong thành phố là Bảo tàng Quốc gia Phnom Penh, là bảo tàng khảo cổ và lịch sử hàng đầu của đất nước, và Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng, một nơi từng là nhà tù của chính quyền Khmer Đỏ. Kiến trúc. Kiến trúc lâu đời nhất ở Phnom Penh là đền Wat Phnom, đã xuất hiện từ những ngày sáng lập của thành phố, được xây dựng vào năm 1373. Các điểm du lịch chính là Vương cung Campuchia với Chùa Bạc và Bảo tàng Quốc gia, được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa Pháp vào cuối thế kỷ 19. Phong cách Khmer đã lưu trữ một bộ sưu tập lớn các cổ vật Khmer trong thành phố. Tượng đài Độc lập Phnôm Pênh (Khmer: Vimean Akareach), mặc dù xây từ những năm 1950, cũng được xây dựng theo phong cách Khmer cổ đại. Người Pháp, là những bậc thầy thuộc địa từ thế kỷ 19 đến thập niên 1940, cũng để lại dấu ấn của họ tại Phnom Penh, với nhiều biệt thự thời thuộc địa, nhà thờ Pháp, đại lộ và chợ Art Deco, Phsar Thom Thmei. Một địa danh nổi tiếng của thời kỳ thuộc địa là Hotel Le Royal.
wiki
Phnôm Pênh
Bắt đầu với sự độc lập từ Pháp vào những năm 1950 và kéo dài cho đến thời Khmer Đỏ vào những năm 1970, Phnom Penh trải qua sự phát triển to lớn của thủ đô của một quốc gia mới độc lập. Vua Norodom Sihanouk háo hức trình bày một phong cách kiến ​​trúc mới và do đó thúc đẩy quá trình xây dựng đất nước. Một kỷ nguyên vàng mới của kiến ​​trúc đã diễn ra, với nhiều dự án và các kiến ​​trúc sư trẻ người Khmer, thường được đào tạo ở Pháp, được tạo cơ hội để tham gia thiết kế và xây dựng. Phong trào mới này được gọi là "Kiến trúc Khmer mới" và thường được đặc trưng bởi sự kết hợp của Bauhaus, Kiến trúc Hậu Hiện đại châu Âu và các yếu tố truyền thống từ Angkor. Kiến trúc sư nổi bật nhất là Vann Molyvann, người được đề cử làm kiến ​​trúc sư quốc gia chính bởi nhà vua vào năm 1956. Molyvann đã tạo ra các tòa nhà mang tính bước ngoặt như Nhà hát quốc gia Preah Suramarit và tòa nhà Hội đồng Bộ trưởng. Các kiến ​​trúc sư khác đã giúp xây dựng Đại học Hoàng gia Khmer mới thành lập, Viện Ngoại ngữ và Trung tâm Thể thao Quốc gia. Với sự phát triển của tầng lớp trung lưu thượng lưu và kinh tế, các vùng ngoại ô mới được xây dựng vào những năm 1950 và 60. Mặc dù các tòa nhà này vẫn tồn tại trong thời kỳ Khmer Đỏ và cuộc nội chiến Campuchia, ngày nay chúng đang bị đe dọa do sự phát triển kinh tế và đầu cơ tài chính [cần dẫn nguồn]. Các biệt thự và khu vườn từ thời cận đại đang bị phá hủy và tái phát triển để xây dựng các công trình lớn hơn. Nhà hát quốc gia mang tính bước ngoặt của Molyvann đã
wiki
Phnôm Pênh
đầu cơ tài chính [cần dẫn nguồn]. Các biệt thự và khu vườn từ thời cận đại đang bị phá hủy và tái phát triển để xây dựng các công trình lớn hơn. Nhà hát quốc gia mang tính bước ngoặt của Molyvann đã bị gạt bỏ năm 2008. Một phong trào đang gia tăng ở Campuchia để bảo tồn các di sản hiện đại này. Các biệt thự cũ đôi khi được chuyển đổi thành khách sạn boutique, chẳng hạn như Knai Bang Chatt.
wiki
Phnôm Pênh
Các di tích và đài tưởng niệm liên quan đến nạn diệt chủng trong thời Khmer Đỏ vào những năm 1970 là Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng (một trường trung học cũ được sử dụng làm trại tập trung) và tọa lạc ở ngoại ô thành phố là Trung tâm diệt chủng Choeung Ek. Tượng đài Hữu nghị Việt Nam - Campuchia được Đảng Cộng sản Việt Nam cho xây dựng như một biểu tượng của tình hữu nghị Khmer-Việt trong cuối những năm 1970 sau sự tình nguyện hỗ trợ giải phóng Campuchia từ chính quyền Khmer Đỏ của quân đội nước này. Dân số, đầu tư nước ngoài và phát triển đô thị ở Phnom Penh đã tăng đáng kể trong những năm 1990 và đầu những năm 2000. Sự tăng trưởng nhanh chóng dẫn đến cơ sở hạ tầng của thành phố bộc lộ những hạn chế rõ ràng (hệ thống thoát nước đặc biệt rất kém, và Phnom Penh thường xuyên bị lũ lụt trong mùa mưa) và nhu cầu về cả không gian dân cư và thương mại. Nhu cầu đồng thời về nhà ở và nhà ở thương mại và sự gia tăng đầu tư quốc tế đã dẫn đến việc chính quyền phải lập kế hoạch xây dựng một số thành phố vệ tinh. Thành phố lớn nhất trong số này là: Thành phố Quốc tế Grand Phnom Penh, Thành phố CamKo, Thành phố Đảo Kim Cương, Thị trấn Boeung Kak và Thành phố Chruy Cangva. Ở vùng ngoại ô của thành phố, đất nông nghiệp đã được phát triển thành các nhà máy may và nhà ở cho các tầng lớp kinh tế thấp hơn và những khu di dời do sự phát triển mới ở trung tâm thành phố. Du lịch. Các điểm du lịch chính ở Phnom Penh: Bên ngoài thành phố có: Thể thao.
wiki
Phnôm Pênh
Du lịch. Các điểm du lịch chính ở Phnom Penh: Bên ngoài thành phố có: Thể thao. Các môn võ thuật như Bokator, Pradal Serey (boxing kiểu Khmer) và môn đấu vật truyền thống của người Khmer có địa điểm ở Phnom Penh được theo dõi bởi những khán giả tận tâm. Campuchia đã ngày càng tham gia vào các môn thể thao hiện đại trong 30 năm qua. Cũng như phần còn lại của đất nước, bóng đá và võ thuật đặc biệt phổ biến. Các trận đối kháng sống còn và quyền anh tự do cũng trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây. Địa điểm thể thao nổi bật nhất trong thành phố là Sân vận động Olympic Phnôm Pênh với sức chứa 50.000 chỗ ngồi, mặc dù đất nước này chưa bao giờ tổ chức một kỳ Thế vận hội Mùa hè do sự gián đoạn của cuộc nội chiến và chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ trong những năm 1970. Được xây dựng vào năm 1964, đây là sân nhà của đội tuyển bóng đá quốc gia Campuchia. Khi hoàn thành, đây là một trong những sân vận động lớn nhất Đông Nam Á. Các trận đấu bóng chuyền, bóng rổ và taekwwondo thường được tổ chức tại sân vận động. Sân vận động từng bị đóng cửa năm 2000, nhưng được tái phát triển và mở cửa trở lại. Trung tâm thể thao quốc gia Campuchia tổ chức các cuộc thi bơi lội, quyền anh và bóng chuyền. Các câu lạc bộ bóng đá địa phương đáng chú ý bao gồm Phnom Penh Crown FC, Khemara Keila FC và National Police Commissary FC. Giao thông. Đường không.
wiki
Phnôm Pênh
Giao thông. Đường không. Sân bay Quốc tế Pochentong là sân bay lớn nhất Campuchia có các chuyến bay quốc tế, trong đó có tuyến bay đến Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam. Hãng hàng không quốc gia Campuchia, Cambodia Angkor Air, ra mắt vào năm 2009, có trụ sở tại Phnom Penh và có trung tâm chính tại đó, với trung tâm phụ tại Sân bay Quốc tế Angkor. Các chuyến bay từ Bangkok và Kuala Lumpur đến Phnom Penh được điều hành bởi AirAsia, một hãng hàng không giá rẻ của khu vực. Các hãng vận chuyển ngân sách khác bao gồm Jetstar Asia Airways với các chuyến bay hàng ngày đến Singapore. Air France từng phục vụ Phnom Penh từ sân bay Paris-Charles de Gaulle nhưng dịch vụ này đã ngừng hoạt động. Qatar Airways bay đến và đi từ Phnom Penh, qua thành phố Hồ Chí Minh.
wiki
Phnôm Pênh
Air France từng phục vụ Phnom Penh từ sân bay Paris-Charles de Gaulle nhưng dịch vụ này đã ngừng hoạt động. Qatar Airways bay đến và đi từ Phnom Penh, qua thành phố Hồ Chí Minh. Có nhiều công ty xe đò, bao gồm giao thông công cộng Phnom Penh và GST Express, chạy đến hầu hết các thủ phủ của tỉnh, bao gồm Sihanoukville, Kampong Chnang, Oudong, Takeo. Công ty vận tải Phnom Penh Sorya cung cấp dịch vụ xe buýt đến một số điểm đến của tỉnh dọc theo tuyến đường quốc gia và đến Thành phố Hồ Chí Minh. Giant Ibis là một công ty xe đò lớn có trụ sở tại Phnom Penh, thường tổ chức các chặng đường đi đến Sihanoukville, Kampot, Xiêm Riệp và Thành phố Hồ Chí Minh, và có cung cấp Wi-Fi miễn phí, điều hòa không khí và giá cả phải chăng. Mặc dù thành phố cách biển 290 km (180 dặm), đây là nơi có cảng nước ngọt chính của Campuchia, một cảng chính trên sông Mekong, và nó được kết nối với Biển Đông thông qua một eo biển của đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam. Có những tuyến phà cao tốc nối với Cần Thơ. Giao thông công cộng. Phnom Penh từng có một thời gian dài không có xe buýt công cộng phục vụ nhu cầu đi lại của người dân và du khách. Những nỗ lực ban đầu của chính phủ Nhật Bản để phát triển dịch vụ xe buýt Phnom Penh bắt đầu vào năm 2001. Một bản cập nhật của kế hoạch tổng thể giao thông đô thị JICA cho Phnom Penh đã được hoàn thành và thực hiện vào năm 2014. Hiện nay, thành phố hiện được phục vụ bởi 17 tuyến xe buýt có hệ thống điều hòa, do Chính quyền thành phố Phnom Penh điều hành.
wiki
Phnôm Pênh
Các phương tiện giao thông cá nhân có tính phí trong thành phố bao gồm xích lô, xe ôm, tuk-tuk và taxi. Các hình thức giao thông cá nhân được người dân địa phương sử dụng bao gồm xe đạp, xe máy và ô tô. Có thể di chuyển mọi nơi trong nội ô thành phố bằng hệ thống xe tuk-tuk, một loại phương tiện rất thịnh hành ở Campuchia. Thông thường một chiếc xe tuk-tuk có thể chở được từ 4 – 6 người. Không như nhiều quốc gia Đông Nam Á khác, taxi không phải là phương tiện giao thông phổ biến tại Phnom Penh, một phần vì số lượng ít, một phần khác xuất phát từ nhu cầu của người dân khi tuk-tuk vẫn được ưa chuộng hơn. Đường bộ. Là thủ đô của Campuchia, một số đường quốc lộ kết nối thành phố với nhiều vùng khác nhau của đất nước:
wiki
Náng
Náng hay đại tướng quân, chuối nước, tỏi voi (danh pháp hai phần: Crinum asiaticum) là một loài thực vật thuộc họ Náng (còn gọi là họ Loa kèn đỏ, Amaryllidaceae). Loài này có thể thấy ở Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Việt Nam. Đặc điểm. Mô tả: Cây thân thảo lưu niên, cao 1m, có hành (giò) cỡ trung bình, hình trứng, đường kính 5–10 cm, thót lại thành cổ dài 12–15 cm hay hơn. Lá mọc từ gốc, nhiều, hình dải ngọn giáo, lõm, có khía ở trên, mép nguyên, dài tới hơn 1m, rộng 5–10 cm. Cụm hoa hình tán nằm ở đầu một cán dẹp dài 40–60 cm, to bằng ngón tay, mang 6-12 hoa, có khi nhiều hơn, màu trắng, có mùi thơm về chiều, bao bởi những mo dài 8–10 cm. Hoa có ống mảnh, màu lục, các phiến hoa giống nhau, hẹp, dài, 6 nhị có chỉ nhị đỏ, bao phấn vàng. Quả mọng hình gần tròn, đường kính 3–5 cm, thường chỉ chứa một hạt. Cây ra hoa vào mùa hè. Bộ phận dùng: Toàn cây - "Herba Crini Asiatici." Nơi sống và thu hái: Loài phân bố từ Ấn Độ qua Inđônêxia tới đảo Molluyc. Ở nước ta, cây mọc hoang dại ở những nơi ẩm mát, dựa rạch, cũng thường trồng làm cảnh; người ta thường tách các hành con để trồng. Để làm thuốc, người ta thu hái các bộ phận khác nhau của cây quanh năm, dùng tươi hay phơi khô. Thành phần hoá học: Các bộ phận của cây, nhất là hành chứa lycorin. Rễ cây chứa alcaloid harcissin (lycorin), vitamin và các hợp chất kiềm có mùi hôi của tỏi. Hạt chứa lycorin và crinamin.
wiki
Náng
Thành phần hoá học: Các bộ phận của cây, nhất là hành chứa lycorin. Rễ cây chứa alcaloid harcissin (lycorin), vitamin và các hợp chất kiềm có mùi hôi của tỏi. Hạt chứa lycorin và crinamin. Tính vị, tác dụng: Hành của Náng có vị đắng; có tác dụng bổ, nhuận tràng, long đờm. Rễ tươi gây nôn, làm mửa và làm toát mồ hôi. Hạt tẩy, lợi tiểu và điều kinh. Lá làm long đờm. Trong y học Đông phương, người ta xem Náng có vị cay, tính mát, có độc; có tác dụng thông huyết, tán ứ, tiêu sưng, giảm đau. Hành của nó có vị đắng, hôi, tính nóng; có tác dụng khư phong tán hàn, giải độc tiêu sưng. Sử dụng. Ở Ấn Độ, người ta còn dùng hành của cây để trị chứng thiếu mật và những rối loạn đường tiết niệu. Lá được dùng đắp trị bệnh ngoài da và làm tan sưng. Đơn thuốc: 1. Bong gân, sai gân khi bị ngã, đau các khớp xương, dùng lá Náng tươi giã ra, thêm ít rượu, nướng nóng đắp vào chỗ đau rồi băng lại. Hoặc dùng 10 lá Náng, 10g lá Dây đòn gánh, 8g lá Bạc thau, giã đắp. 2. Mụn nhọt, rắn cắn, bệnh ngoài da, trĩ ngoại, giã lá Náng tươi đắp, hoặc ép lấy nước uống. 3. Gây nôn, làm toát mồ hôi, làm long đờm, dùng hành ép lấy nước, pha loãng uống. Ghi chú: Nếu ăn phải hành của Náng, hoặc uống nước ép đặc sẽ bị nôn mửa, đau bụng, ỉa chảy, mạch nhanh, hô hấp không đều, nhiệt độ cơ thể cao, thì giải độc bằng nước trà đặc hoặc dung dịch acid tannic 1-2%. Hoặc cho uống nước đường, nước muối loãng; cũng có thể dùng giấm với nước Gừng (tỷ lệ 2:1) cho uống.
wiki
Nước dimer
Nước dimer Nước dimer bao gồm hai phân tử nước liên kết lỏng lẻo bởi một liên kết hydro. Đó là cụm nước nhỏ nhất. Công thức hoá học: <chem>(H2O)2</chem>. Cấu tạo phân tử - Tính chất. Năng lượng liên kết ab initio giữa hai phân tử nước được ước tính là 5-6 kcal/mol, mặc dù các giá trị từ 3 đến 8 đã thu được tùy thuộc vào phương pháp. Năng lượng phân ly được đo bằng thực nghiệm (bao gồm cả hiệu ứng lượng tử hạt nhân) của nước dimer <chem>(H2O)2</chem> và nước nặng dimer <chem>(D2O)2</chem> là 3,16 ± 0,03 kcal/mol (13,22 ± 0,12 kJ/mol) và 3,56 ± 0,03 kcal / mol (14,88 ± 0,12 kJ/mol), tương ứng. Các giá trị phù hợp tuyệt vời với các tính toán. Khoảng cách O-O của trạng thái rung động được đo bằng thực nghiệm tại ca. 2,98 Å; liên kết hydro gần như tuyến tính, nhưng góc với mặt phẳng của phân tử chấp nhận là khoảng 57°. Trạng thái mặt đất rung động được gọi là dimer nước tuyến tính (hiển thị trong hình bên phải), là một đỉnh gần prolate (viz., Xét về hằng số quay, formula_1). Các cấu hình quan tâm khác bao gồm dimer tuần hoàn và dimer chia đôi.
wiki
Răng người
Ở người, răng được chia ra thành: Giải phẫu học răng người. Cấu trúc chính. Răng có cấu trúc như xương cứng được cắm chặt vào các hốc răng của hàm. Hai hàm răng lần lượt xuất hiện trong cả cuộc đời. Mỗi răng gồm hai phần: thân răng, đó là phần có thể nhìn thấy bên trong miệng và chân răng là phần được cắm bên trong xương hàm. Chân răng thường dài hơn thân răng. Răng cửa chỉ có một chân, trong khi các răng mọc xa về phía sau có hai hoặc ba chân. Nguyên tố cấu trúc quan trọng nhất của răng gồm mô đã vôi hóa được gọi là "ngà răng". Ngà răng là một chất liệu giống như xương cũng có chứa các tế bào sống. Nó là một mô nhạy cảm và gây ra cảm giác đau khi bị kích thích bằng nhiệt hoặc bằng hóa chất. Ngà của thân răng được "men răng" bảo vệ bao bọc, lớp men này là một mô tế bào rất cứng và không có cảm giác. Chân răng được bao bọc bằng một lớp xương răng, một chất tương tự với ngà răng giúp giữ răng trong hốc răng. Giữa răng có hình dạng một hốc rỗng chứa đầy mô liên kết nhạy cảm được gọi là "tủy răng". Tủy này kéo dài từ bên trong thân răng thẳng xuống đến cuối chân răng. Chân răng có lỗ mở ở phần sâu nhất trong xương hàm. Qua lỗ mở này, các mạch máu và dây thần kinh nhỏ bé chạy vào hốc tủy răng. Sự nâng đỡ răng người.
wiki
Răng người
Sự nâng đỡ răng người. Mỗi răng đều có chân được dính chặt vào xương hàm; phần hàm nâng đỡ răng được gọi là "mỏm ổ răng". Tuy nhiên phương thức gắn vào phức tạp và các răng được dính chặt vào hàm nhờ các sợi được gọi là "dây chằng nha chu". Ở đây gồm một loạt sợi collagen cứng, chạy từ xương răng bao bọc chân răng đến sát bên xương ổ răng. Các sợi này nằm rải rác với các mô liên kết, trong mô kiên kết cũng có chứa các mạch máu và sợi thần kinh. Cách thức gắn răng đưa đến một mức độ chuyển động tự nhiên rất nhỏ. Điều này có tác dụng như một loại giảm xóc có thể bảo vệ răng và xương khỏi bị tổn hại khi cắn. Khu vực quan trọng chủ yếu trong hệ thống này là ở cổ răng, nơi tiếp giáp giữa thân răng và chân răng. Ở vùng này nướu răng thắt chặt vào răng có tác dụng bảo vệ các mô nâng đỡ nằm dưới khỏi bị nhiễm trùng và các ảnh hưởng có hại khác. Sự phát triển của răng người. Dấu hiệu đầu tiên về sự phát triển của răng xuất hiện khi bào thai chỉ 6 tuần tuổi. Ở giai đoạn này các tế bào biểu mô của miệng nguyên thủy tăng lên về số lượng và hình thành một băng dầy có hình dáng của hàm răng. Tại một chuỗi các điểm tương ứng với răng riêng rẽ, băng này tạo ra các điểm mọc vào trong như chồi trong mô mà biểu mô bao phủ. Sau đó, các chồi này trở thành hình chuông và dần dần mọc lên để tạo nên hình dáng nối liền sau cùng giữa men răng và ngà răng. Một số tế bào nào đó sau đó tiếp tục hình thành ngà răng, trong khi đó các tế bào khác tạo nên men răng.
wiki
Răng người
Các rìa chuông tiếp tục phát triển sâu hơn và cuối cùng các chân răng trọn vẹn hình thành, nhưng quá trình này không hoàn toàn cho đến khoảng 1 năm sau khi các răng sữa đã xuất hiện. Lúc mới sinh, dấu hiệu duy nhất của khớp cắn được cung cấp bằng "các đệm nướu", chúng là các băng làm dày của mô nướu. Khoảng 6 tháng tuổi, răng cửa dưới bắt đầu nhú qua nướu, quá trình này gọi là "sự mọc răng". Tuổi mọc răng có thể thay đổi: có một số ít trẻ có răng lúc mới sinh trong khi đó có những trẻ đến một tuổi mới có răng. Sau khi các răng cửa dưới xuất hiện, các răng cửa trên bắt đầu mọc và tiếp theo là các răng nanh và răng hàm, tuy vậy sự liên tục chính xác có thể thay đổi.
wiki
Răng người
Khoảng 2,5 - 3 tuổi, đứa trẻ thường có một bộ đầy đủ 20 chiếc răng sữa. Chúng sẽ được đặt cách nhau một cách lý tưởng để cung cấp chỗ cho các răng vĩnh viễn lớn hơn. Đến 6 tuổi, các răng cửa sữa trên và dưới trở nên lung lay và được thay thế bằng các răng vĩnh viễn. Các răng hàm vĩnh viễn phát triển không đúng vị trí của răng hàm sữa mà ở phía sau chúng. Các răng hàm vĩnh viễn thứ nhất xuất hiện lúc 6 tuổi, răng hàm thứ hai lúc 12 tuổi và răng hàm thứ ba (răng khôn) khoảng 18 tuổi. Tuy nhiên, có sự thay đổi đáng kể về thời gian xuất hiện của tất cả các răng. Khoảng 25% số người không bao giờ phát triển một răng khôn; lý do của vấn đề này có thể là do tiến hóa: khi hàm trở nên nhỏ đi thì số răng sẽ giảm đi. Một số răng khôn có thể không bao giờ mọc qua nướu và nếu chúng bị lèn chặt (bị nêm sát vào nhau dưới nướu) chúng có thể cần được nhổ bỏ; điều này xảy ra trong 50% số người.
wiki
Kiếm mồi
Kiếm mồi hay tìm mồi hay tìm kiếm con mồi ("Prey detection") là một giai đoạn trong quá trình săn mồi thông qua quá việc vật săn mồi tìm kiếm, theo dấu để phát hiện và xác định vị trí của con mồi bằng các tín hiệu giác quan và dấu hiệu cảm giác. Kẻ săn mồi phát hiện con mồi bằng các giác quan khác nhau trên những manh mối vật chất. Luôn có sự chạy đua tiến hóa liên tục trong khả năng phát hiện sự trá hình và tương tự năng lực ẩn trốn cũng biến đổi luôn luôn. Ở mỗi cặp động vật săn đuổi-trốn tránh, cấp độ tiến hóa trá hình và phát hiện là khác nhau. Việc tìm kiếm con mồi là hoạt động đầu tiên trong mỗi cuộc săn, tiếp theo, kẻ săn mồi sẽ phải rình mồi hoặc đuổi bắt con mồi, sau đó là giai đoạn xử lý con mồi và cuối cùng là thưởng thức, xơi tái con mồi, dấu xác để lần khác ăn tiếp. Con mồi. Động vật ăn thịt luôn trong một cuộc chạy đua tiến hóa trong việc đấu tranh sinh tồn với chính con mồi của chúng, trong đó các đột biến có lợi liên tục được bảo tồn thông qua cơ chế chọn lọc tự nhiên. Đổi lại, những kẻ săn mồi cũng phải chịu áp lực chọn lọc như vậy đối với chính chúng, những kẻ thành công nhất trong việc xác định vị trí con mồi sẽ truyền gen của chúng với số lượng nhiều hơn cho nguồn gen của thế hệ tiếp theo. Sự thích nghi của động vật bị săn đuổi với vị trí con mồi cho phép chúng tránh những kẻ săn mồi là phổ biến trong tự nhiên là một phần của quy luật tự nhiên.
wiki
Kiếm mồi
Những điều khiến kẻ săn mồi khó phát hiện được gọi chung là lẩn tránh hay ẩn trốn ("Crypsis") có thể liên quan đến việc trốn tránh tạm thời như các loài ăn đêm, các cách thức, hành vi như ẩn náu và các biện pháp thích nghi phi hành vi như ngụy trang. Cách thức phòng vệ của động vật bị săn đuổi bao gồm các phương pháp khác với phương cách ẩn trốn, chẳng hạn như ra tín hiệu chết chóc để xua đuổi và khả năng chiến đấu chống lại kẻ ăn thịt. Thông thường các đặc điểm hành vi và phương pháp phòng vệ thụ động được kết hợp với nhau, ví dụ, một con vật săn mồi có thể trông giống và hành động giống như kẻ săn mồi của chính nó (bắt chước). Phương pháp. Có nhiều phương pháp được sử dụng để phát hiện con mồi, các hệ thống cảm giác được sử dụng để rà tìm con mồi bao gồm hệ thống thị giác (trực quan, tầm nhìn, tầm quan sát, để ý trong tầm mắt), hệ thống khứu giác (đánh hơi, ngửi mùi, nếm vị), hệ thống thính giác (nghe ngóng) và hệ thống cảm giác (chẳng hạn như xúc giác, cảm nhận nhiệt, liếm để nếm vị). Một số kẻ săn mồi có thể sử dụng tất cả các giác quan này để xác định con mồi của chúng, trong khi những con khác có thể phụ thuộc chủ yếu hoặc hoàn toàn vào một giác quan duy nhất. Các phương pháp phát hiện cũng có thể được chia thành phát hiện trực tiếp bản thân con mồi và các manh mối gián tiếp, chẳng hạn như mùi nước tiểu của chúng hoặc các dấu vết động vật để lại.
wiki
Kiếm mồi
Phát hiện con mồi một cách trực quan: Những kẻ săn mồi bằng mắt thường có thể hình thành thứ được gọi là hình ảnh tìm kiếm con mồi nhất định. Các thí nghiệm trên chim giẻ cùi xanh cho thấy chúng tạo thành hình ảnh tìm kiếm con mồi nhất định. Động vật ăn thịt không cần trực tiếp xác định vị trí vật chủ của chúng ví dụ các loài chim săn mồi như chim ưng, chim cắt có thể phát hiện phân và nước tiểu của con mồi (phản xạ tia cực tím), cho phép chúng xác định những khu vực có số lượng lớn các con chuột đồng. Sự thích nghi này rất cần thiết trong việc phát hiện con mồi, vì chuột đồng rất nhanh chóng lẩn trốn khỏi những kẻ săn mồi như vậy. Trong môi trường thí nghiệm, nhiều động vật đã chứng minh khả năng chuyển đổi tri giác: động vật săn mồi bằng thị giác sẽ hình thành hình ảnh tìm kiếm các loài săn mồi khó tìm nhất trong môi trường của chúng, khi loài nào bị săn mồi nhiều hơn, số lượng của nó sẽ giảm và hình ảnh tìm kiếm loài đó sẽ ít hữu ích hơn đối với kẻ săn mồi; kẻ săn mồi sau đó sẽ chuyển sang hình ảnh tìm kiếm con mồi trở nên phong phú hơn.
wiki
Kiếm mồi
Đối với nhiều loài động vật, các giác quan hóa học quan trọng hơn nhiều so với thị giác hoặc thính giác. Một số loài bọ săn mồi chuyên biệt có thể định vị con mồi bằng cách sử dụng pheromone mà chúng tiết ra. Các pheromone bị kẻ thù khai thác như thế này được gọi là kairomone. Trong khi đó, một số loài săn mồi chủ yếu dựa vào tín hiệu âm thanh để phát hiện con mồi. Ở những kẻ săn mồi về đêm, những manh mối không nhìn thấy được là đặc biệt quan trọng, cú chuồng (Tyto alba) dựa vào tiếng ồn do con mồi tạo ra và có thể định vị con mồi với độ chính xác cao. Dơi có thêm khả năng định vị bằng tiếng vang để định vị con mồi như côn trùng bay, do đó chúng có thể định vị con mồi ngay cả khi chúng im lìm, không phát ra âm thanh. Lần theo.
wiki
Kiếm mồi
Lần theo. Một khi kẻ săn mồi đã tìm thấy con mồi, chúng đã phát hiện ra vị trí, nơi ẩn náu của bữa ăn, thì không phải lúc nào nó sẽ không luôn cố gắng đuổi theo hoặc có bắt lấy để ăn thịt nó. Con mồi có những cách thức khác để ngăn ngừa những kẻ săn mồi ăn thịt chúng ngoài việc tránh bị phát hiện. Những con mồi đầy chết chóc có thể báo hiệu cho chúng qua thứ có màu sắc dễ thấy để những kẻ ăn thịt tiềm năng như động vật ăn thịt sẽ tránh ăn chúng dựa trên những trải nghiệm khó chịu trong quá khứ. Ngay cả khi một kẻ săn mồi có thể muốn ăn con mồi của nó, những động vật di chuyển lanh lẹ này có thể cực kỳ khó bắt. Những con vật sống theo bầy đàn sẽ được lợi trong việc nâng cao khả năng cảnh giác, thậm chí những con vật sống đơn độc cũng có khả năng nhanh chóng tẩu thoát khi cần.
wiki
Kiếm mồi
Ngay cả khi nó thực hiện một cuộc vây bắt, con mồi của nó có thể thu hút những kẻ săn mồi cạnh tranh, tạo cơ hội cho nó trốn thoát trong cuộc vật lộn giành sự sống. Nó cũng có thể giả dạng để chỉ bị tấn công một cơ quan không quan trọng ví dụ như một số loài có ngoại hình ngụy tạo như một bộ phận của cơ thể chúng giống với một bộ phận khác, chẳng hạn như côn trùng có cái đầu giả, điều này làm giảm tỷ lệ việc ăn mồi (hoặc vết thương gây tử vong), tạo cơ hội thứ hai cho con mồi để trốn thoát. Những kẻ săn mồi có thể có nhiều khả năng trong việc tìm kiếm con mồi, nhưng ngay cả khi chúng thành công trong việc làm như vậy, chúng có thể không kết thúc bằng một bữa ăn nhất là khi còn phải canh chừng những kẻ ăn cướp thành quả của chúng.
wiki
Động đất Cotabato 2019
Động đất Cotabato 2019 Vào tháng 10 năm 2019, tỉnh Cotabato trên đảo Mindanao ở Philippines đã bị trận động đất tấn công, ba trong số đó cao hơn 6.0 trong thang đo cường độ với cường độ VIII. Lần đầu tiên là vào ngày 16 tháng 10, trận đồng đất với cường độ 6,3 , với một tâm chấn gần Tulunan. Khiến cho 7 người thiệt mạng và 215 người khác bị thương. Trận động đất thứ hai là vào ngày 29 tháng 10, một sự kiện cường độ 6,6 độ richter với một tâm chấn gần Bual, ở phía đông bắc của sự kiện ngày 16 tháng 10. Trận động đất thứ ba là vào ngày 31 tháng 10, cường độ 6,5 độ richter với tâm chấn gần Tulunan. Nó không được coi là dư chấn của sự kiện ngày 29 tháng 10. 23 người chết và hơn 432 người bị thương sau hai sự kiện này..
wiki
Moufida Tlatli
Moufida Tlatli Moufida Tlatli (; sinh năm 1947) là một đạo diễn phim người Tunisia. Cô là người phụ nữ Ả Rập đầu tiên chỉ đạo một bộ phim dài đầy đủ ("Sự im lặng của cung điện") trong Thế giới Ả Rập. Tiểu sử. Cô sinh ra ở vùng ngoại ô Sidi Bou Saïd của thủ đô Tunis năm 1947. Cô nói rằng cô phát hiện ra tình yêu của mình với điện ảnh với sự giúp đỡ của giáo viên triết học. Sau khi tốt nghiệp "Học viện" Pháp "des hautes études cinématographiques" năm 1968, cô trở về Tunisia, nơi cô làm biên tập viên phim cho các bộ phim Tunisia khác nhau. Cô đã đạo diễn bộ phim nổi bật đầu tiên của mình The Silences of the Palace vào năm 1994. Bộ phim được đánh giá cao và giành được một số giải thưởng: Máy ảnh vàng của Liên hoan phim Cannes, Golden Tanit of Carthage, Giải thưởng danh hiệu của Viện phim Anh, Giải thưởng phê bình quốc tế của Liên hoan phim Toronto và Golden Tulip của Liên hoan phim quốc tế Istanbul. Bộ phim thứ hai của cô, "The Season of Men", được chiếu trong phần Un Sure Regard tại Liên hoan phim Cannes 2000. Sau sự sụp đổ của tổng thống Zine El Abidine Ben Ali năm 2011, bà được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Văn hóa trong chính phủ lâm thời.
wiki
Danh sách trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới
Giải vô địch bóng đá thế giới bắt đầu được tổ chức từ năm 1930, dành cho các đội tuyến bóng đá nam của các quốc gia thuộc Liên đoàn Bóng đá Thế giới (FIFA). Giải đấu này diễn ra bốn năm một lần, ngoại trừ hai năm 1942 và 1946, khoảng thời gian bị gián đoạn bởi Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong giải vô địch mới nhất được tổ chức tại Qatar năm 2022, Argentina đã thắng 4-2 trong loạt sút luân lưu (3-3 sau hiệp phụ) trước Pháp. Trận chung kết giải vô địch bóng đá thế giới là trận đấu cuối cùng, xác định đội tuyển đăng quang ngôi vô địch. Nếu 90 phút thi đấu chính thức kết thúc bằng một tỷ số hòa, hai đội sẽ thi đấu thêm hai hiệp phụ, mỗi hiệp kéo dài 15 phút. Khi kết quả sau hai hiệp phụ vẫn là một tỷ số hòa, trận đấu được phân định bằng loạt sút luân lưu 11 mét. Trong lịch sử, tất cả các Giải vô địch bóng đá thế giới đều được kết thúc bởi một trận chung kết, ngoại trừ năm 1950. Tại giải đấu này, các đội tuyển Uruguay, Brasil, Thụy Điển và Tây Ban Nha đứng đầu bốn bảng và tiếp tục thi đấu vòng tròn tính điểm. Chiến thắng 2–1 của Uruguay trước Brasil ở lượt trận cuối cùng đã giúp Uruguay giành ngôi vô địch. Liên đoàn Bóng đá Thế giới ghi nhận đây là trận chung kết của Giải vô địch bóng đá thế giới năm 1950.
wiki
Danh sách trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới
Sau 22 Giải vô địch bóng đá thế giới được tổ chức, đã có 80 quốc gia từng tham dự vòng chung kết. Trong số này chỉ có 13 quốc gia được tham dự trận chung kết và 8 đội tuyển từng đứng lên bục đăng quang. Với 5 lần đoạt cúp, Brasil là đội tuyển giàu thành tích nhất. Tiếp sau Brasil là đội tuyển Đức và đội tuyển Ý cùng 4 lần vô địch. Đội tuyển Argentina có 3 lần đoạt cúp, Uruguay và Pháp từng 2 lần đoạt cúp, Anh và Tây Ban Nha đều từng 1 lần lên ngôi vô địch. Đội chiến thắng trận chung kết nhận Cúp FIFA World Cup. Năm 1970 và 1994, cùng với 1986, 1990 và 2014 là các trận cho đến nay mà hai đội cùng gặp nhau (Brazil - Ý và Đức - Argentina). Kể từ năm 2022, trận chung kết năm 1934 vẫn là trận chung kết gần nhất diễn ra giữa hai đội chơi trận chung kết đầu tiên của họ. Trận chung kết của giải đấu gần đây nhất ở Qatar diễn ra tại khu liên hợp thể thao lớn nhất của đất nước, Sân vận động Lusail ở Lusail. Tính đến năm 2022, chỉ các quốc gia từ Châu Âu và Nam Mỹ đã tham dự vòng chung kết World Cup. Sáu quốc gia giành quyền vào chung kết với tư cách chủ nhà: Uruguay, Ý, Anh, Đức, Argentina và Pháp. Hai quốc gia đã thua trận chung kết với tư cách là chủ nhà: Brazil và Thụy Điển. Chú thích. Chung Riêng
wiki
Hoằng Hà
Hoằng Hà là một xã thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Xã Hoằng Hà có diện tích 4,22 km², dân số năm 1999 là 4252 người, mật độ dân số đạt 1008 người/km². Theo điều tra dân số ngày 1/4/2009 người dân có mặt ở xã Hoằng Hà là 4.245 người với tổng số hộ, tăng gấp hơn hai lần so với năm 1945. Chú thích. Khái quát tình hình, địa lý – dân số - kinh tế - văn hóa, xã hội xã Hoằng Hà. Khi tổng đốc Thanh Hóa vương duy trinh, đi công cán qua đây cũng để lại đôi câu đối đề ở văn chỉ làng Đạt tài như sau. Thiên tích thông minh Hoằng Hóa dục Thánh phù công dụng đạt tài năng Dịch nghĩa là: Trời phú thông minh Hoằng Hóa tiến phát Thánh phò công dụng Đạt tài lừng danh Làng đạt tài có 4 đình, 3 nghè, 2 chùa, 1 đền và 1 văn chỉ, ở mỗi giáp có 1 đình đó là: Đình hưng, đình tây, đình đông và đình quán, mỗi đình thường từ 5 đến 7 gian, mỗi đình dài từ 15 đến 21 mét rộng khoảng 7 mét và cao trên 3 mét. Đó là những nơi hội họp của làng vào những ngày hội lớn. + Còn 3 nghè của làng để thờ các vị thiên thần đó là: - Làng thượng, thờ ngũ vị tinh tú - Nghè tây, thờ thần khai canh - Nghè đông, thờ nhân ảnh thần + Một văn chỉ: Có tấm bia từ chỉ dựng năm 1745 vào thời Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng. Làng Hà Thái có một nghè thờ, một ngôi đình và có một chùa cũ thờ phật bà, có 1 văn chỉ. Nghè có 4 bán hương thờ các vị thánh thần như sau: - Thờ tứ vị thượng đẳng thần - Ngũ vị tinh tú bắc đẩu tinh quân - Ngọ lang tiên bòng - Và thờ Ông Lê Quang Giám (người đã hiến đất xây dựng đình nghè)
wiki
Hoằng Hà
- Thờ tứ vị thượng đẳng thần - Ngũ vị tinh tú bắc đẩu tinh quân - Ngọ lang tiên bòng - Và thờ Ông Lê Quang Giám (người đã hiến đất xây dựng đình nghè) Nhà thờ đức chúa Giê – su ở Làng Ngọc Đỉnh xây dựng 1915 và được tu bổ năm 1937 và 1998. Ngày nay, đây là nhà thờ lớn nhất và khang trang bề thế ở Hoằng Hóa. Đây là nơi bà con giáo dân được thả tâm hồn được thanh thản, thể hiện nét vui tươi, phấn khởi, một nét văn hóa lành mạnh của bà con theo đạo được tỏ lòng “ kính chúa – yêu nước”. Người dân sưng tội để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm của mình, để họ được sống “ tốt đời, đẹp đạo”.
wiki
Eupomatiaceae
Eupomatiaceae Eupomatia là một họ thực vật hạt kín. Họ này được nhiều nhà phân loại học công nhận. Hệ thống APG III năm 2009 (không đổi so với Hệ thống APG II năm 2003 và Hệ thống APG năm 1998), cũng công nhận họ này và gán nó vào bộ Magnoliales của nhánh magnoliids. Họ bao gồm 3 loài cây gỗ và cây bụi trong một chi, Eupomatia, sinh sống tại New Guinea và miền đông Australia. Môi trường sống của các loài cây này là rừng mưa nhiệt đới, từ sát mực nước biển tới độ cao 1.300 m. Họ này có quan hệ gần với họ Annonaceae và đã từng được miêu tả như là một phần của họ đó. Hóa thực vật. Có sự hiện diện của các lignan và ancaloit (như sampangin, eupomatin-1, liriodenin và lanuginosin, các chất kháng sinh và chất kháng nấm), cũng như các proanthocyanidin, cyanidin và flavonoit, đặc biệt là velutin. Không có các iridoit, flavonol và axít ellagic, glicozit. Sử dụng. Gỗ nhiều màu sắc của "E. laurina" được đánh giá cao, và quả của nó được sử dụng để làm thức uống, mứt và kẹo tại Australia. Thổ dân Australia gọi chúng là bolwarra.
wiki
Tanna japonensis
Tanna japonensis Tanna japonensis, còn gọi là Higurashi (蜩, 茅 蜩, ひぐらし), là một loài ve sầu thuộc chi Tanna. Loài này phân bố trên toàn khu vực Đông Á, và là phổ biến nhất ở Nhật Bản. Tiếng kêu của nó chói tai của nó có thể được nghe nhiều nhất vào buổi sáng và buổi tối. Tên kanji của nó bắt nguồn từ chữ Miscanthus, một loại cây sậy mà nó sinh sống. Tại Nhật Bản, cũng được biết đến với tên kanakana (カナカナ?) Vì tiếng ồn mà nó gây ra. Miêu tả. Con đực trưởng thành có chiều dài cơ thể của 28–38 mm, con cái dài 21–25 mm. Bụng của con đực dài hơn và dày hơn so với bụng của con cái, nên dễ dàng để phân biệt con đực và con cái. Ngoài ra, khoang ổ bụng của con đực phát triển hơn, khiến cho nó tiếng kêu vọng. Cơ thể chúng có màu đỏ nâu với màu xanh lá cây xung quanh mắt kép và ở trung tâm của ngực, mẫu vật ở núi có xu hướng tối hơn.
wiki
Kỷ niệm chương Chiến dịch Đông Dương
Kỷ niệm chương Chiến dịch Đông Dương () là huân chương quân sự của Pháp được thành lập vào ngày 1 tháng 8 năm 1953 theo sắc lệnh 53-722 nhằm ghi nhận sự tham gia vào cuộc chiến tranh Đông Dương của các thành viên Quân đội viễn chinh Pháp vùng Viễn Đông, cả lính chính quy và lính dự bị. Lịch sử. Cuộc xung đột ở Đông Dương thuộc Pháp bắt đầu ngay sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc với quân đội Pháp ban đầu dưới sự chỉ huy của tướng Philippe Leclerc. Trong tám năm đầu của cuộc xung đột này, quân đội thực dân Pháp đều được trao Huân chương Thuộc địa với chiếc móc cài "EXTRÊME-ORIENT" (), rất tiếc là giải thưởng này không phải ai cũng có thể giành được trên chiến trường và hoàn toàn loại trừ nhân sự bản địa. Giới chính khách và tướng lĩnh đã kiến nghị chính phủ trao giải thưởng kỷ niệm dành riêng cho tất cả những người tham gia dưới quyền chỉ huy của Pháp. Ngay cả sau khi giải thưởng được thành lập, những người lính Pháp vẫn nhận được Huân chương Thuộc địa có móc cài "EXTRÊME-ORIENT" bên cạnh kỷ niệm chương Chiến dịch Đông Dương. Quy chế. Kỷ niệm chương Chiến dịch Đông Dương được trao cho những người lính thuộc lục quân, hải quân và không quân đã tham gia tối thiểu 90 ngày trong một đơn vị chính quy hoặc bổ sung trong chiến dịch Đông Dương từ ngày 16 tháng 8 năm 1945 đến ngày 11 tháng 8 năm 1954.
wiki
Kỷ niệm chương Chiến dịch Đông Dương
Kỷ niệm chương này cũng có thể được trao tặng cho thường dân, công dân Pháp hoặc Liên hiệp Pháp, thành viên của hải quân Thương thuyền hoặc hàng không dân dụng, trên tàu hoặc là một phần của phi hành đoàn của máy bay dẫn đường hàng không, đã đảm bảo thời gian tối thiểu là chín mươi ngày liên tục, trong khoảng thời gian kể từ ngày nói trên, việc vận chuyển binh lính hoặc thiết bị quân sự đến hoặc trong Đông Dương. Thời hạn phục vụ tối thiểu chín mươi ngày trên chiến trường đã được miễn cho những nhân viên bị thương trong quá trình hoạt động tại chiến trường hoặc được đề cập trong các công văn trong chiến dịch. Mô tả. Kỷ niệm chương Chiến dịch Đông Dương là một huy chương hình tròn đường kính 36mm được đúc bằng đồng. Ở mặt chính giữa phía dưới, một tấm bảng hình chữ nhật rộng 24 mm x cao 5 mm mang dòng chữ phù điêu "INDOCHINE" () được đỡ bởi một con naja bảy đầu, năm đầu của nó nằm bên dưới tấm bảng, hai đầu nằm phía trên tấm bảng. góc trên, mỗi bên một cái. Trên cùng của tấm bảng, một con voi ba đầu được bao quanh bởi dòng chữ hình bán nguyệt phù điêu "RÉPUBLIQUE FRANÇAISE" () dọc theo chu vi huân chương. Ở mặt sau của tấm phù điêu, một vòng nguyệt quế và lá sồi có đường kính 25 mm được bao quanh bởi dòng chữ "CORPS EXPÉDITIONNAIRE FRANÇAIS D'EXTRÊME-ORIENT" () chạy dọc theo toàn bộ chu vi huân chương.
wiki
Kỷ niệm chương Chiến dịch Đông Dương
Vòng treo ruy băng được trang trí bằng một con rồng xoắn bằng đồng cao 20 mm, rộng 25 mm. Chiếc nhẫn đi qua một vòng trên đỉnh huân chương được treo trên dải ruy băng màu xanh lá cây rộng 39mm mang bốn sọc vàng rộng 5mm đặt cách nhau 5mm bắt đầu từ 2mm tính từ các cạnh.
wiki
Túc Hiếu Hoàng hậu
Túc Hiếu Hàng Hoàng hậu (chữ Hán: 肅孝杭皇后, ? - 1456), cũng gọi Cảnh Đế Hàng Hoàng hậu (景帝杭皇后), là Hoàng hậu thứ hai của Minh Đại Tông Chu Kì Ngọc. Bà là mẹ của Hoài Hiến thái tử Chu Kiến Tế của Minh Đại Tông. Và dù từng là Hoàng hậu, nhưng truyện của bà không được ghi lại trong Minh sử phần Hậu phi truyện, mà chỉ có thể tìm được chút manh mối qua Bản kỷ về Đại Tông. Tiểu sử. Hàng thị là con gái của Hàng Dục (杭昱), không rõ quê quán. Bà trước là Thành vương thứ phi, sinh hạ cho Thành vương đứa con trai duy nhất Chu Kiến Tế (朱見濟). Sau sự kiện Sự biến Thổ Mộc bảo, triều đình nhà Minh cùng với Tôn Thái hậu đề nghị lập Thành vương Chu Kì Ngọc làm Hoàng đế. Thành vương kế vị, sử gọi là Minh Đại Tông hoặc [Minh Cảnh Đế], lập con trai của Minh Anh Tông là Chu Kiến Thâm làm Hoàng thái tử. Năm Chính Thống thứ 14 (1449), Cảnh Thái Đế lập Uông thị làm Hoàng hậu, còn Hàng thị làm Quý phi. Cảnh Thái năm thứ 3 (1452), ông phế chức Thái tử của Chu Kiến Thâm lập con trai Chu Kiến Tề làm Thái tử. Do Uông Hoàng hậu kịch liệt phản đối, dẫn đến khiến Đại Tông nổi giận, phế truất ngôi vị Hoàng hậu. Sau đó lập Hàng Quý phi làm Hoàng Hậu, cha bà là Dục cũng thành Chỉ huy Cẩm y vệ. Không lâu sau Thái tử Chu Kiến Tề qua đời sớm. Năm thứ 7 (1456), Hoàng hậu Hàng thị qua đời, thuỵ hiệu là Túc Hiếu Hoàng hậu (肅孝皇后), an táng vào Khánh Lăng.
wiki
Túc Hiếu Hoàng hậu
Năm thứ 7 (1456), Hoàng hậu Hàng thị qua đời, thuỵ hiệu là Túc Hiếu Hoàng hậu (肅孝皇后), an táng vào Khánh Lăng. Sau sự kiện Đoạt môn chi biến, Minh Anh Tông trở lại làm Hoàng đế. Anh Tông đã ra lệnh phế Đại tông làm Thành vương như cũ và tước hiệu "Túc Hiếu hoàng hậu" của Hàng thị cũng bị hủy bỏ. Về sau, triều Nam Minh mới phục lại thuỵ hiệu cho bà. Phim ảnh. Được diễn bởi Lưu Thi Thi trong phim Nữ y Minh phi truyện (2016).
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312, Quân đoàn 1 là một trong những đơn vị bộ binh chủ lực cấp trung đoàn được thành lập sớm nhất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Lịch sử. Chiến tranh Đông Duơng lần thứ nhất. Năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt. Đặt ra yêu cầu phải có những Trung đoàn chủ lực, đột phá, là chỗ dựa vững chắc cho chiến tranh nhân dân. Ngày 11-12-1950 Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh ra Quyết định thành lập Trung đoàn 141. Sau khi được thành lập, đội hình chiến đấu của trung đoàn và các đơn vị khác đã có nhiều thành tích trên các chiến trường Việt Bắc, chiến trường Tây Bắc tạo tiền đề cho sự ra đời của Sư đoàn 312, một trong những đại đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chiến dịch Trần Hưng Đạo. Khi mở chiến dịch Trần Hưng Đạo, phía VNDCCH dự kiến sẽ tổ chức thành lập chính thức Đại đoàn 312 trên cơ sở 2 trung đoàn 141 và 209) Ngày 25 tháng 12 năm 1950, binh đoàn cơ động số 3 cùng với tiểu đoàn Mường mở cuộc hành quân Bécassine vào vùng tự do Lập Thạch và Tam Dương (Vĩnh Yên, Phú Thọ) của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, đúng vào nơi Trung đoàn 141 và Trung đoàn 209 của Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kết để chuẩn bị thành lập Đại đoàn 312. Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312 Lê Trọng Tấn báo cáo xin được nổ súng tấn công và được đồng ý.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Cùng ngày, tiểu đoàn 10 dù thuộc địa và tiểu đoàn Mường chia làm hai cánh tiến vào Liễn Sơn, Xuân Trạch (Lập Thạch, Vĩnh Phúc), lập tức bị trung đoàn 141 chặn đánh, phải lui về cố thủ ở Liễn Sơn chờ cứu viện. Ngày 26 tháng 12, tiểu đoàn Senegal lên ứng cứu cũng bị chặn đánh, phải lui về Xuân Trạch. Ngày 27, Đại đoàn 312 tiến công mạnh vào Xuân Trạch-Xuân Hoà (Lập Thạch), xoá sổ tiểu đoàn 24 BMTS, bắt sống tiểu đoàn trưởng Piscard với 300 quân, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn dù 10 BPC. Đêm này 13 tháng 1 năm 1951, trung đoàn 141 (Đại đoàn 312) tấn công Bảo Chúc, vị trí cách Vĩnh Yên 11 km về phía Tây Bắc. Do bị bất ngờ, quân Pháp chống cự yếu ớt. Sáng ngày 14, GM3 cho quân lên cứu Bảo Chúc. Tiểu đoàn Mường tới Thủy An thì bị trung đoàn 209 (Đại đoàn 312) chặn đánh, lui về Cẩm Trạch. Các tiểu đoàn khác cũng bị Đại đoàn 308 chặn đánh ở Đạo Tú. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của không kích và pháo kích, GM3 cuối cùng cũng rút được về Vĩnh Yên, với một tiểu đoàn bị xóa sổ và một tiểu đoàn khác bị thiệt hại nặng. Quân Việt Minh thừa thắng chiếm một loạt các cao điểm sát bên ngoài thị xã. Đến chiều ngày 14, Vĩnh Yên hoàn toàn bị bao vây. Sau nhiều ngày chiến đấu, nhận thấy việc cố gắng tấn công Vĩnh Yên không còn kết quả, lúc 2 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm 1951, Bộ chỉ huy của tướng Giáp đành phải hạ lệnh kết thúc chiến dịch. Các đơn vị Quân đội Nhân dân Việt Nam chủ động rút lui toàn bộ. Đến sáng 18 thì quân Pháp đã kiểm soát hoàn toàn khu vực Vĩnh Yên. Chiến dịch Lý Thường Kiệt.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Chiến dịch Lý Thường Kiệt. Hạ tuần tháng 9 lên đường, đến ngày 25/9 đại đoàn 312 vượt sông Hồng tiến vào Tây Bắc, chia làm hai cánh tiến vào phân khu Nghĩa Lộ: Tới cuối tháng 9-1951 thì Pháp biết rằng trung đoàn 141 và trung đoàn 209 đã tiến tới Nam Muội cách Nghĩa Lộ khoảng 10 km về phía bắc. Trung đoàn 165 đã tiến tới Ca Vinh cách Nghĩa lộ 40 km về phía đông. Ngày 2/10/1951, Raoul Salan ném tiểu đoàn dù 8 "(8th BPC)" do đại úy Gauthier chỉ huy xuống Gia Hội, cách Nghĩa Lộ 20 km về phia bắc để tiếp viện, đe dọa sau lưng cánh quân 312 đang tiến về Nghĩa Lộ. Nhiệm vụ tiểu đoàn này là phá rối trung đoàn 141 và 209 để cầm chân và làm giảm nhẹ áp lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam vào Nghĩa Lộ. Đêm ngày 2/10, trung đoàn 141 cùng một liên đội pháo tăng cường (năm khẩu), hai đại đội công binh, tiến công đồn hạ phía nam Nghĩa Lộ nhưng không thành công. Thiếu tá Girardin trưởng đồn bị tử trận, có lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ còn cách đồn chỉ huy 50m, nhưng cuối cùng đồn vẫn giữ vững không bị thất thủ sau nhiều đợt xung phong của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trên hướng thứ yếu Phong Thổ, từ đêm 29 tháng 9 đến ngày 10 tháng 10; trung đoàn 148 cùng bộ đội địa phương Lào Cai bao vây, tiến công các đồn Yên Na (4 tháng 10), diệt 113 lính, thu 12 súng các loại và 20 tấn quân trang quân dụng. Ngày 9 tháng 10, tiểu đoàn 930 tiến công Than Thuộc, Pác Tà. Sau 30 phút chiến đấu Pháp bỏ đồn chạy. Tiểu đoàn 910 tiến công Than Uyên, không kết quả.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Về phía Việt Nam, lực lượng của đại đoàn 312 cũng bị tiêu hao nhiều sau 10 ngày chiến đấu liên tục (287 người chết, 702 người bị thương, 22 người mất tích), lương thực chỉ còn 2 ngày. Ngày 10 tháng 10, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận định thời cơ đánh địch đã hết và ra lệnh kết thúc chiến dịch. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn ra lệnh thu quân. Chiến dịch Hòa Bình. Chiều 11 tháng 12, một đoàn ca nô từ thị xã Hòa Bình xuống, bị tiểu đoàn 6 trung đoàn 141 phục ở Lạc Sơn, bắn chìm một chiếc, bắt 15 tù binh. Tuyến cơ động trên sông Đà của Pháp bị cắt đứt. Ngày 13 tháng 12, tại phía bắc thị xã Hòa Bình, quân Pháp đi sục sạo đến xóm Mới, gặp tiểu đoàn 16 trung đoàn 141 chặn đánh, thiệt hại một trung đội và phải rút về thị xã. Ngày 14 tháng 12, Pháp rút binh đoàn cơ động số 4 về Trung Hà, kết thúc cuộc càn quét vùng Ba Vì. Đêm 29 tháng 12, trung đoàn 141 của Đại đoàn 312 tiến công diệt điểm cao 400, 600, diệt gần 100 lính, bắt 96 (có 35 lính lê dương). QĐNDVN hy sinh 16 người, bị thương 60 người. Cũng trong đêm 29 tiêu diệt Đồi Mồi. Đêm 31 đánh chiếm cao điểm Hàm Voi, tiêu hao một trung đội Âu Phi. Đây là những vị trí quan trọng trên đường 21 bảo vệ sườn cho tuyến thị xã Hòa Bình – Đường số 6. Ngày 25 tháng 2, Tổng Quân ủy quyết định kết thúc chiến dịch. Chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1954, Trung đoàn 141 (Bao gồm các tiểu đoàn 11, 16, 428) do Quang Tuyến chỉ huy đứng trong đội hình Đại đoàn 312, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trận Him Lam.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1954, Trung đoàn 141 (Bao gồm các tiểu đoàn 11, 16, 428) do Quang Tuyến chỉ huy đứng trong đội hình Đại đoàn 312, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trận Him Lam. Từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 3 năm 1954, các đơn vị của Tiểu đoàn 428 đã đào xong chiến hào, trận địa hỏa lực, sở chỉ huy tiểu đoàn và tuyến xuất phát xung phong. Sáng 11-3, biết Việt Minh sẽ đánh vào Him Lam, Pháp điều bộ binh, xe tăng, xe ủi đất hòng san lấp chiến hào. 2 đơn vị nhỏ của Tiểu đoàn 428 và Tiểu đoàn 11 dựa vào công sự được chuẩn bị vững chắc với quyết tâm "một tấc không đi, một li không rời" đã đánh trả quyết liệt. Tối 11-3, Trung đội 3 của Đại đội 670 Tiểu đoàn 428 do Đại đội phó "Dần" trực tiếp chỉ huy được giao nhiệm vụ phòng ngự giữ đồi hỏa lực. Lúc đó Đinh Thế Phẩm đang là Tiểu đội trưởng súng máy của trung đội, được trang bị 3 khẩu trung liên với 12 chiến sĩ. 8 giờ sáng, 2 máy bay Đakôta vừa hạ cánh xuống sân bay bị trúng ngay đạn sơn pháo của Việt Nam, bốc cháy. 10 giờ 30, súng cối 120 ly bắt đầu bắn thử. Một chiếc Dakôta thứ ba nằm trên sân bay bị gãy đôi.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Ngay sau đó, bộ binh và 2 xe tăng từ Mường Thanh tiến ra, đánh vào trận địa xuất phát xung phong của Việt Nam. Trung đội 3 đánh lui nhiều đợt xung phong, giành giật với Pháp từng ụ súng, từng mét chiến hào. Đến 12 giờ trưa quân Pháp mới chiếm được một góc trận địa. Đại đội phó "Dần" bị thương nặng. Trung đội trưởng Lục Văn Kiên ra lệnh đưa 2 khẩu trung liên vòng sang trái trận địa, lợi dụng các hố bom, hố đạn đại bác, các gốc cây to đánh vào sườn để cầm chân quân Pháp. Tư lệnh pháo binh và Tư lệnh 312 đề nghị Bộ Chỉ huy Mặt trận cho một bộ phận lựu pháo 105 bắn chặn quân Pháp, bảo vệ đường hào xuất phát xung phong. Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh kết hợp với hiệu chỉnh pháo 105, bắn 20 phát vào Him Lam. Đại đoàn 351 báo cáo: trừ 2 phát đầu không trúng mục tiêu, 18 phát sau đều rơi vào Him Lam, phá vỡ nhiều công sự, khói pháo đang trùm lên đồn. Thấy bị nã pháo, quân Pháp từ Mường Thanh nhanh chóng rút lui. Sau 2 ngày đêm từ ngày 12-3 đến 14 giờ 30 phút ngày 13-3-1954, Trung đội 3 Đại đội 670, được sự chi viện hỏa lực của Tiểu đoàn 428 đã bảo vệ thành công trận địa xuất phát xung phong và trận địa hỏa lực. Đại đội 670 sau đó được bổ sung vũ khí, củng cố lại đội hình, tiếp tục chiến đấu tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam, mở màn cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
15 giờ, các đơn vị của Đại đoàn 312 bắt đầu tiến ra trận địa xuất phát xung phong. Ở hướng chủ yếu, hai tiểu đoàn 428 và 11 của Trung đoàn 141, do Trung đoàn trưởng Quang Tuyến và Chính ủy Mạc Ninh chỉ huy, phải vượt qua sông Nậm Rốm và đoạn đường trống trải từ bờ sông đến đồn Pháp bị pháo bắn chặn, một số chiến sĩ thương vong. Đại đội trợ chiến của Tiểu đoàn 428 bị pháo trùm lên đội hình. Đại đội trưởng, Đại đội phó đều hy sinh, một khẩu ĐKZ bị hỏng. Thế nhưng, toàn đại đội vẫn kiên quyết tiến vào chiếm lĩnh trận địa. Tiểu đoàn 428 có mặt tại vị trí xuất phát xung phong cứ điểm số 2 đúng thời gian.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
18 giờ 15 phút: Bộ đội Việt Minh bắt đầu xung phong tiến đánh cụm cứ điểm trên đồi Him Lam. Đại đội chủ công của Tiểu đoàn 428 tiến đánh cứ điểm số 2, vừa mở xong hàng rào cuối cùng thì vấp phải một luồng đạn từ lô cốt tiền duyên không ngừng tuôn ra cửa mở. Đại đội dùng hỏa lực bắn thẳng của bản thân đơn vị kiềm chế hỏa lực địch, mở đường cho xung kích. Nhưng mãi vẫn không dập tắt được hỏa điểm. Tiểu đội trưởng Phan Đình Giót mau lẹ trườn lên dưới làn đạn, dùng tiểu liên bắn và ném lựu đạn về phía lô cốt. Khi anh tới gần lô cốt thì đạn và lựu đạn đã hết. Anh lao mình vào lỗ châu mai làm ngừng tiếng súng trong giây lát, tạo thời cơ cho bộ đội xung phong và cổ vũ toàn thể đồng đội. Anh trở thành một tấm gương hy sinh tiêu biểu cho Quân đội Nhân dân Việt Nam trong chiến thắng lịch sử tại Điện Biên Phủ.Các chiến sĩ xung kích dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh giáp lá cà tiêu diệt quân Pháp trong cứ điểm. 22 giờ 30, Tiểu đoàn 428 đánh chiếm xong toàn bộ cứ điểm số 2.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Tại cứ điểm số 1, Tiểu đoàn 11 phải vượt qua nhiều hàng rào đạn đại bác Pháp, lực lượng bị tiêu hao, vào chiếm lĩnh trận địa xuất phát xung phong chậm. Lúc này pháo Pháp ở Mường Thanh đã hoàn hồn, bắt đầu đổ đạn bắn chặn mong làm ngừng cuộc tiến công vào cứ điểm. Hỏa lực trong đồn tuôn về phía bộ đội Việt Nam đang mở cửa đột phá. Trung đội Bộc phá của Đại đội 243 mở được bảy hàng rào thì gặp hai hỏa điểm bắn chéo cánh sẻ, các chiến sĩ lên người nào thương vong người đó. Tiểu đoàn trưởng quyết định sử dụng trung đội bộc phá dự bị và điều một súng DKZ lên yểm hộ bắn sập lô cốt tiền duyên. Nhưng hỏa lực trong cứ điểm không biết từ chỗ nào vẫn tiếp tục tuôn ra chặn đứng các chiến sĩ xung kích trước hàng rào cuối cùng. Cuộc chiến trước cửa mở diễn ra quyết liệt suốt 4 giờ liền. Quân Pháp trong đồn dồn sức đối phó hy vọng cầm cự kéo dài tới khi có lực lượng phản kích từ Mường Thanh tới cứu nguy. Tư lệnh Đại đoàn ra lệnh cho các đơn vị đã chiếm được các cứ điểm số 2 và 3, đánh sang phối hợp với Tiểu đoàn 11 tiêu diệt cứ điểm số 1. Cả hai đơn vị đều không tìm ra đường giữa bãi mìn và dây thép gai dày đặc trong khi đó quân Pháp không ngừng xả súng. Thấy trận đánh có chiều hướng kéo dài, Đại tướng Giáp gọi điện cho Lê Trọng Tấn cố gắng kết thúc trận đánh trước khi trời sáng. Những trận công kiên kéo dài thường đưa bên tiến công vào thế bất lợi. Lê Trọng Tấn cho biết Tiểu đoàn 11 vẫn báo cáo quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, nhưng Trung đoàn 141 đã ra lệnh cho tiểu đoàn dự bị vào trận.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Giữa lúc đó, tại cửa mở của Tiểu đoàn 11, Đại đội phó "Hiệu" bò lên quan sát, phát hiện hai hỏa điểm ngầm trong cứ điểm. Anh quay xuống dẫn lên bốn tổ đại liên đồng loạt tuôn đạn về phía hỏa điểm địch tạo điều kiện cho các chiến sĩ bộc phá mở nốt hàng rào cuối cùng. Tiểu đội trưởng Trần Oanh (tên thật là "Nguyễn Hữu Oanh") dẫn đầu mũi nhọn lao lên nhưng bị chặn lại trước ba chiếc lô cốt. Trần Oanh phân công năm chiến sĩ đánh các lô cốt nhỏ, riêng anh phụ trách chiếc lô cốt lớn. Oanh bí mật bò tới gần lỗ châu mai, ném vào trong một trái thủ pháo. Lô cốt mẹ bị tiêu diệt. Oanh phất cờ Quyết chiến Quyết thắng vẫy toàn đơn vị đánh vào trung tâm, quân Pháp dồn sức kháng cự quyết liệt, bộ đội chia thành từng toán nhỏ tiêu diệt từng bộ phận tàn dư địch. Một số quân Pháp sống sót ở Him Lam bỏ đồn, chạy vào rừng tìm đường về Mường Thanh. 23 giờ 30 đêm ngày 13 tháng 3, Lê Trọng Tấn báo cáo Bộ Chỉ huy chiến dịch: Đại đoàn 312 đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam, diệt 300 lính, bắt 200, thu toàn bộ vũ khí, trang bị. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc. Chiến tranh Đông Duơng lần thứ hai. Tháng 2/1963, Sư đoàn 312 nhận lệnh cử một tiểu đoàn gồm 600 cán bộ, chiến sĩ thuộc trung đoàn 141 vào chiến trường Trị-Thiên. Trong suốt Chiến tranh Việt Nam, trung đoàn đã tham gia nhiều chiến dịch như Chiến dịch Cánh đồng Chum Lào, Chiến dịch Quảng Trị, Chiến dịch Hồ Chí Minh. Biên chế. Trung đoàn bao gồm: Thành tích.
wiki
Trung đoàn 141, Sư đoàn 312
Trong suốt Chiến tranh Việt Nam, trung đoàn đã tham gia nhiều chiến dịch như Chiến dịch Cánh đồng Chum Lào, Chiến dịch Quảng Trị, Chiến dịch Hồ Chí Minh. Biên chế. Trung đoàn bao gồm: Thành tích. Năm 2000, Trung đoàn được Nhà nước tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 2020, Trung đoàn được Bộ Quốc phòng tặng cờ “Đơn vị xuất sắc tiêu biểu trong phong trào thi đua quyết thắng toàn quân giai đoạn 2015 – 2020” và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhì.
wiki
Johnny Đặng
Johnny Đặng (còn được gọi là Johnny Tuấn Đặng, sinh ngày 21 tháng 11 năm 1974) là một doanh nhân và thợ kim hoàn người Mỹ gốc Việt, nổi tiếng nhờ các mẫu grillz do mình chế tác. Ông là chủ chuỗi cửa hàng trang sức Johnny Dang & Co. Tiểu sử. Johnny Dang sinh ra tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, miền Trung Việt Nam vào năm 1974. Thời niên thiếu, ông theo học nghề kim hoàn theo lời khuyên của cha, người đã sang Mỹ từ năm 1987. 9 năm sau đó, cả gia đình Johnny rời Việt Nam đến thành phố Houston thuộc bang Texas theo diện bảo lãnh. Ông làm việc ở một chợ trời tại địa phương cho đến khi gặp rapper Paul Wall, người cảm thấy ấn tượng với kỹ nghệ chế tác grillz của ông. Năm 2002, hai người hợp tác kinh doanh. Trong văn hóa đại chúng. Johnny Đặng được nhắc đến trong các sản phẩm âm nhạc của Migos, Gucci Mane, Lil Pump, Lucky Luciano, DaBaby, YNW Melly, King Von, Keith Ape, Nav, 2 Chainz, Chief Keef, Juice WRLD và nhiều người khác. Ông từng xuất hiện trong một số video âm nhạc như "Gucci Bandanna" của Soulja Boy, Gucci Mane, và Shawty Low, "Grillz" của Nelly, "Wild Boy" của Machine Gun Kelly, "No Angel" của Beyoncé, "We Takin' Over" của DJ Khaled, "And I Still" của Rod Wave, "Ice Tray" của Quavo và Lil Yachty, và "Ice Cream Paint Job" của Dorrough. Ngoài ra, ông cũng tham gia hát một số bài, chẳng hạn như "Stay Iced Up" trong album "Heart of a Champion" của Paul Wall. Tranh cãi.
wiki
Johnny Đặng
Tranh cãi. Ngày 7 tháng 11 năm 2021, các video có sự xuất hiện của Johnny Đặng đồng loạt biến mất khỏi kênh YouTube của Khoa Pug; ngược lại, các video trên kênh của Johnny Đặng cũng không có sự xuất hiện của nam YouTuber; làm dấy lên tin đồn hai người "cạch mặt" nhau do những lùm xùm liên quan đến việc đầu tư vào đồng tiền ảo Diamond Boyz Coin (DBZ). Cả hai đều không lên tiếng xác nhận cho đến giữa tháng 11, Johnny Đặng mới livestream giải thích về mối quan hệ với Khoa Pug, đồng thời ông cũng tâm sự rằng bản thân không hài lòng với cách cư xử của nam YouTuber quê Nha Trang. Trong một bài phỏng vấn đăng ngày 28 tháng 11, Johnny Đặng tiếp tục nhắc đến Khoa Pug, cho rằng anh đã không giữ lời hứa. Tối ngày 30 tháng 11, Khoa Pug bất ngờ đăng tải dòng trạng thái trên trang cá nhân, tố bị "người bạn mới quen" lừa hơn 30 tỷ đồng để tổ chức tiệc sinh nhật, mặc dù không trực tiếp nhắc tên, nhiều người cho rằng nhân vật trong bài viết trên là Johnny Đặng. Sáng ngày 1 tháng 12, "ông hoàng kim cương" đã đăng tải một đoạn video kể lại rõ tường tận những xích mích với Khoa Pug. Tối ngày 2 tháng 12, sau khi Khoa Pug đăng tải đoạn video dài gần 1 tiếng nói về việc mình bị "ông hoàng kim cương" đe dọa tính mạng nếu như nói ra toàn bộ sự thật, Johnny Đặng đã đăng tải video phản bác thông tin mà nam YouTuber nói về ông và đồng DBZ trước đó.
wiki
Ngư lôi Type 95
Ngư lôi Type 95 Ngư lôi Shiki 95 (九五式魚雷, きゅうごしきぎょらい) là loại ngư lôi được hải quân Hoàng gia Nhật Bản phát triển và sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Với cơ sở thiết kế dựa trên ngư lôi kiểu 93 (Long Lance) tuy nhiên Shiki 95 nhỏ hơn với trọng lương đầu đạn chỉ có 405 kg, tầm hoạt động ngắn hơn cũng như đường kính nhỏ hơn và được dự định phóng từ các ống ngư lôi 533mm của tàu ngầm khi lặn. Tầm hoạt động của nó khoảng 9.000 m với 49–51 knot (91–94 km/h) hay 12.000 m với 45–47 knot (83–87 km/h) gấp ba lần tầm hoạt động của ngư lôi Mark 14 của Hoa Kỳ với tốc độ tương đương. Ngư lôi Shiki 95 là loại ngư lôi nhanh nhất lúc bấy giờ được sử dụng trong hải quân. Đầu đạn của nó là lớn nhất trong các loại ngư lôi được sử dụng bởi tàu ngầm, và chỉ đứng thứ hai sau Shiki 93 loại ngư lôi được phóng bởi các tàu nổi của Nhật Bản. Nó chạy bằng nhiên liệu trộn oxy nguyên chất chứ không phải khí nén thông thường như các loại ngư lôi khác.
wiki
Xuân Diệu
Ngô Xuân Diệu (2 tháng 2 năm 1916 — 18 tháng 12 năm 1985), là nhà thơ, nhà báo, nhà văn viết truyện ngắn và nhà phê bình văn học người Việt Nam. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào Thơ mới đầu thế kỷ XX. Được đánh giá là "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới", Xuân Diệu nổi tiếng với tập "Thơ thơ" (1938), thể hiện một tiếng nói riêng biệt chịu ảnh hưởng văn hoá phương Tây, đặc biệt là chủ nghĩa tượng trưng Pháp. Ông là một trong những người đầu tiên áp dụng thủ pháp thơ phương Tây như enjambment vào thơ Việt Nam, dù đôi khi vẫn tuân theo hình thức truyền thống như "lục bát". Trong khoảng thời gian từ năm 1936 đến năm 1944, thơ của ông đã thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, Xuân Diệu còn được mệnh danh là "ông hoàng thơ tình". Sau khi gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1945, thơ của ông chủ yếu ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh, và các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; ông không còn sáng tác thơ tình nhiều như trước. Khi qua đời năm 1985, ông để lại khoảng 450 bài thơ, cùng một số truyện ngắn, tiểu luận phê bình. Tiểu sử.
wiki
Xuân Diệu
Tiểu sử. Ngô Xuân Diệu, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh nhưng sinh tại quê mẹ Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Cha là ông Ngô Xuân Thọ (trong tộc phả ghi là Ngô Xuân Thụ) và mẹ là bà Nguyễn Thị Hiệp. Sau này ông lấy tên làng là Trảo Nha làm bút danh. Xuân Diệu sống ở Tuy Phước đến năm 11 tuổi thì ông vào Nam học ở Quy Nhơn. Bắt đầu sáng tác.
wiki
Xuân Diệu
Bắt đầu sáng tác. Năm 1936, Xuân Diệu ra Huế nhập học trường Khải Định, tại đây ông đã gặp Huy Cận và tốt nghiệp trường tú tài năm 1937. Sau đó, ông ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, một tổ chức văn học gồm phần lớn các cây bút trẻ Việt Nam được đào tạo dưới hệ thống giáo dục thuộc địa, thông thạo cả văn học Việt Nam lẫn phương Tây. Ông đến với nhóm khá muộn, song đã tự tạo dựng danh tiếng cho mình như một chỗ dựa vững chắc trong giới trí thức Việt Nam, xuất bản những cuốn tiểu thuyết lãng mạn mục đích giải trí cùng với những tác phẩm châm biếm gây phẫn nộ cả xã hội đương thời lẫn chính quyền Pháp. Trong số đồng nghiệp của ông có Thế Lữ, chuyên làm thơ mang tính kỳ ảo và viết truyện ngắn trinh thám, chịu ảnh hưởng chủ nghĩa lãng mạn Pháp và nhà văn Edgar Allan Poe. Theo các nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân, Xuân Diệu mượn cảm hứng từ cùng một chủ đề lãng mạn, nhưng ông "đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới". Họ cũng chỉ ra Xuân Diệu chịu ảnh hưởng từ Charles Baudelaire, so sánh khía cạnh thơ ông với Anna de Noailles và André Gide, đánh giá thơ ông là đỉnh cao trong những bài thơ Việt Nam chịu ảnh hưởng Pháp. Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
wiki
Xuân Diệu
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Từ năm 1938 đến 1940, Xuân Diệu sống với nhà thơ và người bạn thân mật Huy Cận tại số 40 Hàng Than, Hà Nội. Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào tháng 9 năm 1940, nhiều thành viên Tự lực văn đoàn tập trung hoàn toàn vào chính trị, trong đó có người sáng lập Nhất Linh. Cuối năm 1940, ông vào Mỹ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức (tham tá thương chánh). Một số thành viên còn lại, như Khái Hưng, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí, bị Pháp bắt giam tại Nhà tù Sơn La, đánh dấu khởi đầu sự lụi tàn của nhóm. Khi Xuân Diệu trở lại Hà Nội năm 1942, hầu hết các nhà văn ông từng làm việc cùng đều đã ly tán hoặc tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp do chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông sống bằng nghề viết văn trong hai năm cho đến khi tham gia phong trào Việt Minh. Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng. Trong hồi ký "Cát bụi chân ai" của nhà văn Tô Hoài, chính trong thời gian này, Xuân Diệu đã vài lần có ý thân mật quá mức với đồng đội, gồm cả chính Tô Hoài, nên bị cấp chỉ huy khiển trách. Giữa hai cuộc chiến. Hòa bình lập lại năm 1954, Xuân Diệu về sống tại Hà Nội, viết báo và sáng tác thơ. Năm 1956, ông kết hôn với nữ đạo diễn Bạch Diệp 27 tuổi, nhưng mối tình không được viên mãn và cả hai sớm chia tay. Bạch Diệp sau đó tái hôn với một người đàn ông khác, còn Xuân Diệu sống một mình trong một căn hộ ngay bên dưới gia đình Huy Cận, người đã kết hôn với Ngô Xuân Như, em gái Xuân Diệu.
wiki
Xuân Diệu
Từ 1955 đến tháng 6 năm 1958, Xuân Diệu bị lôi kéo vào Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm nổi tiếng lúc bấy giờ. Khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc, một số cải cách của chính quyền mới có những sai lầm khi thực hiện, những tiếng nói bất đồng chính kiến ​​bắt đầu dấy lên trong một số nhà văn, họ tuyên bố đòi quyền tự do chỉ trích những sai lầm của chính phủ. Dù chính phủ thừa nhận những sai sót, song phong trào sớm phát triển từ việc chỉ trích những sai lầm của chính phủ sang công kích cá nhân những nghệ sỹ khác và kêu gọi biểu tình chống Nhà nước, gây ra rạn nứt giữa các nhà văn ủng hộ chính phủ và những nhân vật bất đồng chính kiến ​​như Lê Đạt hay Trần Dần. Cuối cùng, Xuân Diệu, Huy Cận và những người khác, chọn đứng về phía chính phủ; trong một đáp trả công bố vào tháng 5 năm 1958, ông cáo buộc những người như Lê Đạt, Trần Dần đã lợi dụng sáng tác văn nghệ để phục vụ mưu đồ chính trị. Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ "Ngày Nay" và "Tiên Phong". Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam.
wiki
Xuân Diệu
Bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia viết báo cho các tờ "Ngày Nay" và "Tiên Phong". Ông là một trong những người sáng lập Đoàn báo chí Việt Nam, nay là Hội Nhà báo Việt Nam. Trong sự nghiệp sáng tác thơ văn, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới" (Hoài Thanh), "ông hoàng của thơ tình". Xuân Diệu là thành viên của Tự Lực văn đoàn và cũng đã là một trong những chủ soái của phong trào "Thơ Mới". Tác phẩm tiêu biểu của ông ở giai đoạn này: "Thơ thơ" (1938), "Gửi hương cho gió" (1945), truyện ngắn "Phấn thông vàng" (1939), "Trường ca" (1945). Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh, đảng viên Đảng Dân chủ Việt Nam, sau tham gia Đảng Cộng sản. Sau Cách mạng tháng Tám, ông hoạt động trong Hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký tạp chí "Tiền phong" của Hội. Sau đó ông công tác trong Hội văn nghệ Việt Nam, làm thư ký tòa soạn tạp chí "Văn nghệ" ở Việt Bắc. Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam.
wiki
Xuân Diệu
Xuân Diệu tham gia ban chấp hành, nhiều năm là ủy viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Từ đó, Xuân Diệu trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu ca ngợi cách mạng, một "dòng thơ công dân". Bút pháp của ông chuyển biến phong phú về giọng vẻ: có giọng trầm hùng, tráng ca, có giọng chính luận, giọng thơ tự sự trữ tình. Tiêu biểu là: "Ngọn quốc kỳ" (1945), "Dưới sao vàng" (1949), "Ngôi sao" (1955), "Riêng chung" (1960), "Mũi Cà Mau - Cầm tay" (1962), "Một khối hồng" (1964), "Hai đợt sóng" (1967), "Tôi giàu đôi mắt" (1970), "Thanh ca" (1982), "Tuyển tập Xuân Diệu" (1983). Là cây đại thụ của nền thi ca hiện đại Việt Nam, Xuân Diệu đã để lại khoảng 450 bài thơ (một số lớn nằm trong di cảo chưa công bố), một số truyện ngắn, và nhiều bút ký, tiểu luận, phê bình văn học. Xuân Diệu từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I. Ông còn được bầu là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa Dân chủ Đức năm 1983. Ông qua đời ngày 18 tháng 12 năm 1985 sau một cơn nhồi máu cơ tim, thọ 69 tuổi, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch Cuộc sống riêng tư. Xuân Diệu lập gia đình với NSND Bạch Diệp nhưng hai người đã ly dị và không có con chung. Sau khi ly dị, ông sống độc thân cho đến lúc mất vào năm 1985.
wiki
Xuân Diệu
Cuộc sống riêng tư. Xuân Diệu lập gia đình với NSND Bạch Diệp nhưng hai người đã ly dị và không có con chung. Sau khi ly dị, ông sống độc thân cho đến lúc mất vào năm 1985. Xuân Diệu là người cùng quê Hà Tĩnh với Huy Cận (làng Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh) nên khi gặp nhau, hai ông đã trở thành đôi bạn thân. Vợ của Huy Cận, bà Ngô Thị Xuân Như là em gái của Xuân Diệu. Quan hệ thân thiết giữa 2 người được một số trang báo đưa tin, có những người còn nghi vấn rằng Xuân Diệu cùng với Huy Cận có quan hệ đồng tính. Vợ chồng Huy Cận và Xuân Diệu từng ở chung một nhà nhiều năm. Bài thơ "Tình trai" của Xuân Diệu và "Ngủ chung" của Huy Cận được cho là viết về đề tài đó. Theo hồi ký "Cát bụi chân ai" của Tô Hoài thì Xuân Diệu từng bị kiểm điểm về việc này. Cũng có một số các bài thơ khác được viết tặng cho người khác, như bài thơ "Em đi" là để gửi tặng nhà thơ Hoàng Cát. Những bài thơ tình của ông dùng những cách diễn đạt và đại từ thường dùng chỉ các mối quan hệ nam nữ, nhưng một số người quen của ông nghi ngờ Xuân Diệu là người đồng tính. Theo nhà văn Tô Hoài, việc ông có quan hệ thân mật với đồng đội được những người ở cùng ông trong thời gian hoạt động tại căn cứ địa cách mạng biết tới, thậm chí đã bị quân đội cảnh cáo. Tới nay, một số bài thơ về yêu đương của ông vẫn là một chủ đề có nhiều phân tích.
wiki
Xuân Diệu
Tuy nhiên, những nghi vấn về việc Xuân Diệu có quan hệ đồng tính chỉ là suy diễn dựa trên những lời đồn hoặc một số bài thơ của ông. Với những nhà thơ giàu cảm xúc như Xuân Diệu, việc có những câu từ mượt mà dành cho những người bạn là chuyện không hiếm, nên rất khó để dựa vào đó để kết luận. Bản thân Xuân Diệu cũng chưa hề phát biểu hoặc xác nhận mình có quan hệ yêu đương đồng giới, ông thậm chí còn tỏ rõ khao khát có vợ trong bài thơ "Khung cửa sổ": Con nuôi của ông là Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ - con trai nhà thơ Huy Cận, và cũng là cháu ruột của ông (cậu ruột). Câu nói nổi tiếng. Trong tập "Chân dung và đối thoại", Trần Đăng Khoa ghi lại câu nói của Xuân Diệu: Tác phẩm. Thơ Văn xuôi Tiểu luận phê bình Dịch thơ Giải thưởng và tôn vinh. Giải thưởng. Ông đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996). Tôn vinh. Tên của ông được đặt cho một đường phố ở Hà Nội, một con đường ở thành phố Quy Nhơn (Bình Định), là tên của 1 trường trung học phổ thông ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định và 1 trường THCS tại huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình có con đường mang tên Xuân Diệu ở phường Nam Lý Ông được lập nhà tưởng niệm và nhà thờ ở làng Trảo Nha, thị trấn Nghèn, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (bên cạnh đường lên Ngã Ba Đồng Lộc). Tại TPHCM có con đường mang tên ông ở quận Tân Bình.
wiki
Tümentsogt, Sükhbaatar
Tümentsogt, Sükhbaatar Tümentsogt (tiếng Mông Cổ: Түмэнцогт) là một sum của tỉnh Sükhbaatar ở miền đông Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 2.404 người. Địa lý. Sum nằm cách thủ đô Ulaanbaatar 400 km. Khí hậu. Tümentsogt có khí hậu bán khô hạn. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở khu vực này là 3 °C. Tháng ấm nhất là tháng 7, khi nhiệt độ trung bình là 24 °C và lạnh nhất là tháng 1, với -20 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 498 mm. Tháng ẩm ướt nhất là tháng 6, với lượng mưa trung bình là 147 mm, và khô nhất là tháng 2, với 4 mm.
wiki
Quần đảo Virgin
Quần đảo Virgin là nhóm đảo phía tây của quần đảo Leeward, thuộc phần phía bắc của Tiểu Antilles, tạo nên ranh giới giữa biển Caribe và Đại Tây Dương. Về chủ quyền, các đảo đông bắc tạo thành Quần đảo Virgin thuộc Anh và phía tây nam là Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Quần đảo cũng được gọi là Quần đảo Thủ lĩnh cướp biển. Về mặt lý thuyết tên chính thức của quần đảo Virgin thuộc Anh chỉ đơn thuần là "Quần đảo Virgin" và tên gọi chính thức của Quần đảo Virgin thuộc Mỹ là "Quần đảo Virgin của Hoa Kỳ", nhưng trong thực tế từ năm 1977 cả hai vùng lãnh thổ hầu như đều được gọi là "Quần đảo Virgin thuộc Anh" và "Quần đảo Virgin thuộc Mỹ" để phân biệt. Quần đảo nằm về phía đông của Puerto Rico. Quần đảo Virgin thuộc Anh là một lãnh thổ hải ngoại của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland bao gồm các hòn đảo Tortola, Virgin Gorda, Jost Van Dyke, hơn năm mươi hòn đảo nhỏ lân cận, và hòn đảo Anegada xa hơn về phía bắc. Quần đảo Virgin thuộc Mỹ là một lãnh thổ chưa hợp nhất của Hoa Kỳ gồm có các đảo St. John, St. Thomas, các đảo nhỏ xung quanh và hòn đảo St. Croix về phía nam.
wiki
Quần đảo Virgin
Christopher Columbus đã đặt tên cho quần đảo là "Santa Ursula y las Once Mil Vírgenes", rút ngắn lại là "Las Vírgenes". Tuy nhiên trước đó đã có các thổ dân Người Arawak, Người Carib và người Cermic trên đảo, tuy nhiên họ đã bị tuyệt chủng do dịch bệnh, lao động nặng nhọc và bị thực dân châu Âu tiêu diệt. Sau đó, quần đảo được thực dân châu Âu thuộc địa hóa, với nô lệ được mang từ châu Phi sang. Hiện nay, đa số dân cư tại quần đảo đều là con cháu của những người nô lệ này. Năm 1917, Đan Mạch đã bán thuộc địa của mình trên quần đảo cho Hoa Kỳ. Xe cơ giới chạy bên trái đường ở cả hai phần quần đảo thuộc Anh và Mỹ, mặc dù vậy hầu hết xe đều có tay lái bên trái do được nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Ngoài ra, đồng đô la Mỹ là đơn vị tiền tệ chính thức trên cả Quần đảo Virgin thuộc Anh và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ.
wiki
Ánh Minh
Lê Đoàn Ánh Minh (sinh ngày 16 tháng 5 năm 1985) là một ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ gốc Việt. Cô bắt đầu sự nghiệp năm 2003 trên sân khấu của Asia và sau một thời gian là thành viên của nhóm nhạc Puriti, Ánh Minh bắt đầu sự nghiệp solo và nhanh chóng trở thành ngôi sao trong làng nhạc hải ngoại với phong cách ấn tượng, gợi cảm. Hiện tại Ánh Minh đang là ca sĩ của Trung tâm Thúy Nga và thường xuyên xuất hiện trong các chương trình Paris By Night từ năm 2011 đến nay. Ngoài hoạt động biểu diễn tại các chương trinh của Thúy Nga và Asia, phát hành album, cô còn đi lưu diễn khắp các tiểu bang tại Mỹ, Nhật, Úc và nhiều nước Châu Âu. Bên cạnh đó, Ánh Minh cũng làm đại sứ quảng bá cho các nhãn hiệu Senhoa Jewelry, Belage Gourmet, Twinkle Lens. Tiểu sử. Ánh Minh sinh ngày 16 tháng 5 năm 1985 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Cô là con thứ 3 trong một gia đình có 6 chị em gồm có 2 chị, 2 em gái và 1 em trai. Năm 2 tuổi, Ánh Minh cùng gia đình đến California, Hoa Kỳ. Bố của cô ban đầu làm việc tại một cửa hàng bánh ngọt tại San Bernardino, California, rồi cùng mẹ cô mở một tiệm làm móng tại Redlands. Sau đó, ông tốt nghiệp ngành thần học tại đại học Union, California và làm mục sư tại một nhà thờ ở Riverside. Mặc dù gia đình không ai theo con đường nghệ thuật, cô vẫn được ủng hộ việc theo đuổi đam mê ca hát. Sự nghiệp.
wiki
Ánh Minh
Sự nghiệp. Năm 2003, Ánh Minh gửi một demo CD gồm hai bài hát cho trung tâm Asia và được ký hợp đồng ngay sau đó. Cô được kết hợp với nữ ca sĩ Thùy Hương, trở thành nhóm nhạc hai thành viên Puriti. Nhóm thường xuyên biểu diễn cho các chương trình của Asia và ra hai album: "Baby I Would" năm 2004 và "Men say tình ái" năm 2006. Sau album thứ hai, hai người tách ra hát solo để theo đuổi sự nghiệp riêng. Ánh Minh phát hành album solo đầu tiên "Take Control" và một album nhạc Giáng Sinh "Mùa Đông Yêu Thương" năm 2010, ngoài ra cô còn góp giọng vào các album "Liên khúc Chinese Remix" năm 2007 (với Lâm Nhật Tiến, Lâm Thúy Vân, Lê Nguyên) và "Liên khúc Mưa" năm 2010 (với Lâm Thúy Vân, Nguyễn Hồng Nhung, Quốc Khanh).
wiki
Ánh Minh
Năm 2011, sau khi hết hợp đồng với Asia, Ánh Minh đã ký hợp đồng với trung tâm Thúy Nga và xuất hiện lần đầu trong Paris By Night số 104 với màn biểu diễn solo ca khác "Bắt Đầu Từ Một Kết Thúc". Album đầu tiên của cô dưới hãng đĩa mới mang tên "Sunrise", lấy chủ đề là một sự bắt đầu, được phát hành vào tháng 6 năm 2013. Một năm sau, Ánh Minh phát hành DVD mang tên Mơ tổng hợp các video âm nhạc và các màn trình diễn trên sân khác các bài hát từ "Sunrise". Năm 2015, cô lần đầu trở về Việt Nam để thực hiện video âm nhạc cho "Tôi là người Việt Nam", một bài hát được sáng tác bởi Ánh Minh và nhạc sĩ Dương Khắc Linh. Bên cạnh danh lam thắng cảnh tại các vùng miền tại Việt Nam, video còn lồng ghép những cảnh quay tại Paris, Rome, Los Angeles và cũng nhận được nhiều phản hồi tích cực từ khán giả tại Việt Nam cũng như hải ngoại. Cuối tháng 5 năm 2016, album phòng thu thứ tư "Love" sản xuất bởi Dương Khắc Linh, được đưa lên các trang âm nhạc trực tuyến tại Việt Nam như Zing Mp3, NhacCuaTui, NhacSo.Net. Phong cách nghệ thuật.
wiki
Ánh Minh
Phong cách nghệ thuật. Ánh Minh theo đuổi dòng nhạc trẻ, kết hợp với phong cách gợi cảm, vũ đạo mạnh mẽ trên sân khấu. Cô thường thu âm các album của mình tại phòng thu tại nhà riêng ở Eastvale, thêm vào đó cô còn thực hiện thêm cả công việc sáng tác, sản xuất, master. Ánh Minh cũng thường tự thiết kế trang phục biểu diễn, trang điểm và làm tóc lúc lên sân khấu cũng như chụp hình cho bìa CD. Cô thừa nhận lấy cảm hứng cho phong cách thời trang độc đáo của mình từ các nhân vật anime và Final Fantasy. Ngoài ra Ánh Minh còn trang điểm và sáng tác nhạc cho những nghệ sĩ khác.
wiki
S.S. Villacidrese Calcio
S.S. Villacidrese Calcio Società Sportiva Villacidrese Calcio là một câu lạc bộ bóng đá Ý đến từ Villacidro, Sardinia. Màu sắc của nó là trắng và xanh. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1979. Từ Serie D đến Lega Pro Seconda Divisione. Villacidrese xếp vị trí đầu tiên ở Eccellenza Sardinia trong mùa giải 1998-99, lần đầu tiên thăng hạng lên Serie D. Trong 10 mùa giải tiếp theo, đội đã chơi ở Serie D. Trong mùa giải Serie D 2008-09, đội được xếp hạng nhất ở Girone G, lần đầu tiên giành được vị trí trong Lega Pro Seconda Divisione trong lịch sử của mình, nơi nó đã chơi năm 2009-10 ở bảng A. Từ Lega Pro Seconda Divisione đến loại trừ khỏi bóng đá. Câu lạc bộ đã chơi mùa thứ hai của bóng đá chuyên nghiệp trong "girone B" của Lega Pro Seconda Divisione. Vào cuối mùa giải, câu lạc bộ đã xuống hạng Serie D, cũng bị trừ 13 điểm. Vào mùa hè năm 2011, nó không kháng cáo việc loại trừ Covisod khỏi giải đấu này và nó đã bị loại khỏi hệ thống bóng đá.
wiki
Juanes MTV Unplugged
Juanes MTV Unplugged Juanes MTV Unplugged là album thứ sáu của ca sĩ-nhạc sĩ Juanes, và album đầu tiên được ghi hoàn toàn sống. Ngày phát hành của nó được lên kế hoạch cho các ngày 29 tháng 5 năm 2012, được ghi lại vào ngày 1 tháng 2 năm đó tại Miami, Mỹ. Sản xuất của album đã được dẫn dắt bởi nhạc sĩ Juan Luis Guerra và sự tham dự của Joaquin Sabina và Paula Fernandes trên sân khấu. Đĩa đơn đầu tiên từ sản xuất được phát hành vào ngày 5 tháng 3 năm 2012 và bao gồm một bài hát chưa được phát hành ghi lại trong buổi hòa nhạc được gọi là "Tín hiệu".
wiki
Sylvensteinsee
Đập Sylvenstein là một hồ chứa nước nhân tạo ở khu Isarwinkel phía Nam thị trấn Lenggries, vùng đồi núi của khu vực Oberbayern. Trên con đường từ Bad Tölz tới Achensee. Nó được xây từ năm 1954 cho tới 1959 mục đích chính là để tránh nạn lụt tại vùng thung lũng sông Isar. Từ năm 1990 nó bảo đảm là ngay cả trong mùa khô cũng có đủ lượng nước quy định chảy xuống sông Isar. Mô tả. Hồ Sylvenstein được đặt theo tên một chỗ hẹp tại phần đầu thung lũng Isar, với cái cầu dài thường được chụp hình với bối cảnh là dãy núi Karwendel. Dưới hồ trước đây là làng Fall, đã bị giật sập trước khi nước tràn vào, và được xây lại vài chục mét cao hơn bên con đường phía sau của làng Vorderriß. Vì phong cảnh đẹp hồ này thường được viếng thăm, và cũng là nơi nghỉ mát. Đập Sylvenstein. Hồ Sylvenstein có 2 nhà máy thủy điện tại đập. Từ năm 1994 cho tới năm 2001 đập được nâng lên cao thên 3 m, để việc tránh nạn lụt được bảo đảm hơn. Tuy nhiên trong vụ lụt vào năm 2005 tại vùng Alpen hồ cũng đầy tràn vào ngày 23 tháng 8 năm 2005 phải mở cổng đập để nước thoát bớt ra. Đập nước này cao khoảng 44 m, với chiều dài 180 m. Đập này không những chỉ chận nước sông der Isar mà cả phụ lưu Dürrach và Walchen. Lịch sử. Lý do xây đập.
wiki
Sylvensteinsee
Đập nước này cao khoảng 44 m, với chiều dài 180 m. Đập này không những chỉ chận nước sông der Isar mà cả phụ lưu Dürrach và Walchen. Lịch sử. Lý do xây đập. Vào đầu thế kỷ 20 đoạn đầu của sông Isar dần dần bị lấy nước đi nhiều. Để gia tăng công xuất cho đập thủy điện Walchensee được xây xong vào năm 1924, một phần lớn nước của sông Isar bị dẫn tại đập nước "Krüner Wehr" vào hồ Walchensee. Từ năm 1949 nước từ suối Rißbach, mà trước đó chạy vào sông Isar, cũng bị dẫn vào hồ Walchensee. Nguyên thủy nước từ hồ Achensee cũng chảy vào suối rồi vào sông Isar. Khi nhà máy thủy điện Achensee được xây ở Jenbach vào năm 1927 thì sông Isar mất đi nguồn nước này, vì hồ Achensee từ đó chạy qua đập thủy điện vào sông Inn nằm thấp hơn khoảng 380 m. Sông Isar ở phần trên dần dần trở thành con sông không nước, nhất là vào mùa khô mực nước càng ngày càng thấp. Vì thế hồ Sylvenstein mới được xây mặc dù có nhiều tranh cãi về việc này, để có thể giữ được mực nước ở mức nhất định nào đó và một phần cũng để tránh được nạn lụt. Khi nạn lụt xảy ra vào tháng 6 năm 2013 tại Trung Âu nhiều phần đất tại Bayern bị ngập lụt, nước tại hồ Sylvenstein dâng lên tới tận miệng hồ. Mực nước cao 13 m hơn là thường lệ. Biện pháp hiện đại hóa.
wiki
Sylvensteinsee
Biện pháp hiện đại hóa. Giữa năm 1994 và năm 2001 nhiều biện pháp hiện đại hóa đập được thực hiện. Một hệ thống kiểm soát đập, một hệ thống thứ 2 dẫn nước lụt và đập nước được nâng cao để có thể chứa thêm được nhiều nước được xây. Một nhà máy thủy điện thứ hai cũng được hoàn thành, có một máy Compact-Axial-Turbine với nămg xuất là 3,8 MW.
wiki
Bảo tàng Khu vực ở Muszyna
Bảo tàng Khu vực ở Muszyna Bảo tàng Khu vực ở Muszyna (tiếng Ba Lan: "Muzeum Regionalne w Muszynie") là một bảo tàng tọa lạc tại Muszyna, Ba Lan. Bảo tàng hiện đang hoạt động trong cơ cấu tổ chức của Trung tâm Văn hóa Thành phố và Xã hội ở Muszyna. Lược sử hình thành. Bảo tàng Khu vực ở Muszyna được Karol Rojna thành lập vào năm 1958. Lúc đầu, Bảo tàng có tên là Bảo tàng Khu vực, về sau được đổi tên thành Bảo tàng Kỷ vật Muszyna-Zdrój. Từ năm 1968, Chi nhánh Hiệp hội Du lịch và Tham quan Ba Lan (PTTK) ở Krynica-Zdrój tiếp quản và quản lý Bảo tàng trong 40 năm tiếp theo. Trụ sở của Bảo tàng là tòa nhà nơi trước đây từng là một nhà trọ trong thập niên 1930 và từng thuộc quần thể lâu đài, tọa lạc tại số 26 Phố Antoni Kita. Do điều kiện kỹ thuật kém, trụ sở này đã bị phá bỏ vào năm 2009, sau đó được xây dựng lại ở một địa điểm khác và đưa vào hoạt động trở lại vào tháng 7 năm 2010. Triển lãm. Bộ sưu tập của Bảo tàng Khu vực ở Muszyna hiện chiếm bốn phòng, bao gồm các triển lãm về lịch sử của Muszyna, các bộ sưu tập liên quan đến các cộng đồng địa phương, các bộ sưu tập nghệ thuật đương đại và không chuyên. Giờ mở cửa. Bảo tàng Khu vực ở Muszyna hoạt động quanh năm, mở cửa tất cả các ngày trong tuần trừ thứ Hai. Khách tham quan được vào cửa miễn phí.
wiki
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Tăng nhiệt độ đại dương và axit hóa đại dương đang  hoàn toàn làm thay đổi hệ sinh thái thủy sinh. Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi sự phân bố cá và năng suất của các loài cá biển cá nước ngọt. Điều này có ảnh hưởng đến sự bền vững của đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản, đến đời sống của cộng đồng phụ thuộc vào ngư nghiệp, và đến khả năng các đại dương giữ lại và lưu trữ carbon (máy bơm sinh học). Tác động của mực nước biển dâng có nghĩa là các cộng đồng ngư nghiệp ven biển đang ở tiền tuyến của biến đổi khí hậu, trong khi đó việc thay đổi mô hình mưa và sử dụng nước tác động đến đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản (nước ngọt) nội địa. Vai trò của đại dương. Đại dương và hệ sinh thái ven biển đóng một vai trò quan trọng trong chu trình carbon toàn cầu và đã loại bỏ khoảng 25% lượng carbon dioxide thải ra từ các hoạt động con người từ năm 2000 đến năm 2007 và khoảng một nửa CO2 có nguồn gốc từ con người được thải ra từ khi khởi đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp. Tăng nhiệt độ đại dương và axit hóa đại dương có nghĩa là năng lực của bồn chứa carbon đại dương sẽ dần dần yếu đi, làm tăng lên những sự lo ngại toàn cầu được thể hiện trong các Tuyên bố Monaco và Manado. Hệ sinh thái đại dương khỏe mạnh là rất cần thiết cho việc làm dịu biến đổi khí hậu. Rạn san hô cung cấp môi trường sống cho hàng triệu loài cá và với biến đổi khí hậu nó có thể khiến những loài san hô này chết đi. Tác động lên ngành sản xuất cá.
wiki
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Tác động lên ngành sản xuất cá. Axit hóa đại dương ngày càng nhiều khiến cho các sinh vật biển như tôm, hàu, hoặc san hô trở nên khó khăn hơn khi tạo vỏ – một quá trình được gọi là vôi hóa. Rất nhiều động vật quan trọng như động vật phù du, loài hình thành nên nền móng cho chuỗi thức ăn đại dương có lớp vỏ calci. Vì thế toàn bộ mạng lưới thức ăn đại dương đang bị biến đổi – có những vết nứt ở trong chuỗi thức ăn. Do đó, sự phân bố, năng suất và thành phần loài của sản xuất cá toàn cầu đang thay đổi, tạo ra những tác động phức tạp và liên kết trong đại dương, cửa sông, rạn san hô, rừng ngập mặn và thảm cỏ biển, những nơi cung cấp môi trường sống và các khu vực vườn ươm cho cá. Thay đổi mô hình mưa và sự khan hiếm nước đang tác động đến ngư nghiệp trên sông và hồ và sản xuất đánh bắt thủy sản. Sau kỷ băng hà khoảng 200.000 năm trước, nhiệt độ khí quyển toàn cầu đã tăng 3 độ, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ biển. Tác động lên cộng đồng ngư dân.
wiki
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Tác động lên cộng đồng ngư dân. Những quốc gia và dân cư đánh bắt cá và sống ven biển phụ thuộc vào ngư nghiệp đặc biệt dễ bị biến đổi khí hậu gây thiệt hại. Các quốc gia nằm dưới thấp như Maldives và Tuvalu đặc biệt dễ bị thiệt hại và toàn bộ cộng đồng có thể trở thành những người tị nạn do biến đổi khí hậu đầu tiên. Cộng đồng đánh bắt cá ở Bangladesh là đối tượng của không chỉ hiện tượng mực nước biển tăng, mà còn cả của ngập lụt và các cơn bão ngày càng xuất hiện nhiều. Cộng đồng đánh bắt cá dọc theo sông Mekong tạo ra hơn 1 triệu tấn cá ba sa hàng năm và sinh kế và ngành sản xuất cá sẽ phải chịu thiệt hại từ hiện tượng xâm nhập mặn, thứ là kết quả từ hiện tượng mực nước biển dâng và xây đập. Đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản đóng góp đáng kể vào an ninh lương thực và sinh kế. Cá cung cấp dinh dưỡng thiết yếu cho 3 tỷ người và ít nhất 50% lượng đạm động vật và chất khoáng cho 400 triệu người từ những nước nghèo nhất. Sinh kế của hơn 500 triệu người ở các quốc gia đang phát triển phụ thuộc, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, vào đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản - nuôi trồng thủy sản là hệ thống sản xuất thực phẩm tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, tăng trưởng 7% một năm và sản phẩm từ cá là một trong các loại thực phẩm được giao dịch rộng rãi nhất, với hơn 37% (theo khối lượng) sản lượng thế giới được giao dịch quốc tế. Thích ứng và giảm nhẹ.
wiki
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Thích ứng và giảm nhẹ. Các tác động của biến đổi khí hậu có thể được giải quyết qua thích nghi và giảm nhẹ. Chi phí và lợi ích của thích ứng về cơ bản là ở địa phương hoặc quốc gia, trong khi đó chi phí của giảm thiểu về cơ bản là ở quốc gia trong khi lợi ích thì cho toàn cầu. Một số hoạt động tạo ra cả lợi ích về giảm nhẹ và thích nghi, ví dụ như việc phục hồi rừng ngập mặn có thể bảo vệ bờ biển khỏi bị xói mòn và cung cấp nơi sinh sản cho cá, đồng thời cũng cô lập carbon. Thích ứng.
wiki
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Thích ứng. Một số cơ quan quốc tế, bao gồm cả Ngân hàng thế Giới và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc có những chương trình để giúp các quốc gia và cộng đồng thích ứng với hiện tượng ấm lên toàn cầu, ví dụ như bằng các chính sách phát triển nhằm nâng cao khả năng phục hồi tài nguyên thiên nhiên, thông qua các đánh giá rủi ro và tính chất dễ bị tổn thương, bằng cách tăng sự nhận thức về các tác động của biến đổi khí hậu và tăng cường những cơ quan quan trọng như dự báo thời tiết và hệ thống cảnh báo sớm. Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2010 - Phát triển và Biến đổi Khí hậu, Chương 3 cho thấy rằng giảm hiện tượng chứa quá mức trong các đội đánh cá và xây dựng lại các quần thể cá đều có thể nâng cao khả năng phục hồi từ biến đổi khí hậu và làm tăng thu nhập kinh tế từ đánh bắt thủy sản biển khoảng 50 tỷ USD mỗi năm, đồng thời cũng làm giảm lượng khí nhà kính gây ra bởi tàu đánh cá. Do đó, loại bỏ trợ cấp nhiên liệu cho việc đánh cá có thể có lợi kép khi giảm thiểu cả việc phát thải cả việc đánh bắt quá mức.
wiki
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Đầu tư vào nuôi trồng thủy hải sản bền vững có thể làm vật đệm cho việc sử dụng nước trong nông nghiệp trong khi sản xuất thực phẩm và đa dạng hóa các hoạt động kinh tế. Nhiên liệu sinh học bằng tảo biển cũng cho thấy tiềm năng vì tảo biển có thể sản xuất ra lượng dầu trên mỗi mẫu anh nhiều hơn từ 15 đến 300 lần so với hoa màu thông thường, ví dụ như hạt nho, đậu tương hoặc mè, và tảo biện không yêu cầu nguồn nước ngọt khan hiếm. Các chương trình như GEF-Coral Reef Targeted Research được tài trợ đã cung cấp những lời khuyên về việc xây dựng khả năng phục hồi và một hệ sinh thái rạn san hô lưu trữ, trong khi đó sáu quốc gia Thái Bình Dương gần đây đã đạt được một thỏa thuận chính thức trong việc bảo vệ các rạn san hộ tại một điểm nóng đa dạng sinh học – Tam giác San hô. Giảm nhẹ. Đại dương đã lấy đi 50% lượng CO2 có nguồn gốc từ con người, vậy là các đại dương đã hấp thụ nhiều tác động của biến đổi khí hậu. Nổi tiếng Vách đá Trắng Dover minh họa cách mà đại dương bắt giữ và chôn vùi carbon. Những vách đá vôi, được hình thành từ những bộ xương của biển sinh vật phù du gọi là coccoliths. Tương tự, dầu mỏ, hình là do phần lớn để biển và thủy sinh vật phù du nữa minh họa vai trò quan trọng của đại dương trong bon.
wiki
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Chính xác bằng cách nào mà đại dương giữ lại và chôn vùi CO2 là chủ đề của những cuộc nghiên cứu liên tục bởi các nhà khoa học trên khắp thế giới, ví dụ như Dự án Carboocean. Mức hiện tại của khí nhà kính tức là độ axít đại dương sẽ tiếp tục tăng lên và hệ sinh thái thủy sinh sẽ tiếp tục bị thoái hóa và biến đổi. Có những cơ chế phản hồi có liên quan ở đây. Ví dụ như, vùng nước ấm hơn có khả năng hấp thụ ít CO2 hơn, vậy nên khi nhiệt độ đại dương tăng lên, một số CO2 đã bị hòa tan sẽ bị thải trở lại khí quyển. Hiện tượng nóng lên cũng đồng thời làm giảm lượng dinh dưỡng trong vùng biển khơi trung (sâu khoảng 200 tới 1000 m). Điều này ngược lại lại giới hạn độ tăng trưởng của tảo silic có lợi cho những thực vật phù du nhỏ hơn, thứ là máy bơm sinh học cacbon chất lượng thấp hơn. Điều này hạn chế khả năng cô lập cácbon của đại dương khi nó ấm. Điều đã rõ ràng là, một hệ sinh thái ven biển và đại dương khỏe mạnh là hết sức cần thiết để duy trì vai trò cấp thiết của bồn chứa cacbon đại dương, như đã được trình bày, ví dụ như, trong bản đánh giá Blue Carbon được trình bày bởi UNEP và báo cáo về bồn chứa cacbon ven biển của IUCN và những bằng chứng ngày càng nhiều về vai trò của sinh khối cá trong việc vận chuyển cacbon từ mặt nước xuống sâu dưới đại dương.
wiki