title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Thomas Edison
Phát minh đầu tiên mang lại nổi tiếng cho Edison là máy quay đĩa năm 1877. Công chúng không thể ngờ được về phát minh này và coi nó là điều ma thuật. Edison bắt đầu được gọi là "Thầy phù thủy ở Menlo Park, New Jersey", nơi ông sống. Chiếc máy quay đĩa đầu tiên của ông ghi lại âm thanh trên các trụ bọc thiếc cho chất lượng âm thanh thấp và nó phá hủy luôn đường rãnh ghi âm khi nghe lại nên chỉ có thể nghe được một lần. Trong thập kỷ 1880, một model được thiết kế lại sử dụng các trụ bìa giấy các tông tráng sáp ong được chế tạo bởi Alexander Graham Bell, Chichester Bell, và Charles Tainter. Đây là một lý do khiến Thomas Edison tiếp tục làm việc để tạo ra chiếc "Máy hát hoàn thiện" của riêng ông. Ông cũng từng phát minh ra máy Kiểm phiếu điện tử và đã xin cấp bằng sáng chế, nhưng đã bị từ chối. Menlo Park. Sự cách tân lớn nhất của Edison chính là phòng thí nghiệm ở Menlo Park, nó được xây dựng ở New Jersey. Đây là viện nghiên cứu đầu tiên được thành lập với mục đích chuyên biệt nhằm tạo ra các cải tiến và cách tân liên tục trong công nghệ. Chính tại đây, đa số các phát minh được đưa vào thực tiễn của ông đã ra đời, mặc dù việc căn bản của ông là quản lý và điều hành công việc của các nhân viên.
wiki
Thomas Edison
Ông góp công trong việc thực nghiệm điện thoại, máy quay đĩa, tàu điện, máy phân tích quặng, đèn điện, và một số cải tiến phát minh khác. Tuy nhiên, ban đầu ông làm việc về đèn điện và chịu trách nhiệm thử nghiệm và ghi lại về thiết bị đó. Năm 1880 ông được chỉ định làm kỹ sư trưởng của Xưởng đèn Edison. Trong năm đầu tiên này, xưởng dưới sự quản lý của Francis Upton, đã sản xuất ra 50.000 bóng đèn. Theo Edison, Hammer là "một người tiên phong trong lĩnh vực đèn chiếu sáng".
wiki
Thomas Edison
Đa số các bằng sáng chế của Edison là những bằng sáng chế hữu ích, chỉ khoảng hơn mười chiếc là bằng sáng chế thiết kế. Nhiều phát minh của ông không hoàn toàn là ý tưởng ban đầu của ông, nhưng những cải tiến giúp nó có thể được sản xuất hàng loạt là của ông. Ví dụ, trái với điều mọi người vẫn nghĩ, Edison không phát minh ra bóng đèn điện. Nhiều thiết kế đã được phát triển bởi các nhà phát minh từ trước đó gồm cả bằng sáng chế mà ông mua lại từ Henry Woodward và Mathew Evans, Moses G. Farmer, Joseph Swan, James Bowman Lindsay, William Sawyer, Humphry Davy, và Heinrich Göbel. Năm 1878, Edison xin cấp phép cho thuật ngữ "sợi dây tóc" cho yếu tố dây phát sáng mang dòng điện, mặc dù nhà phát minh người Anh Joseph Swan đã sử dụng thuật ngữ đó từ trước. Edison đã lấy các đặc tính từ các thiết kế trước đó và trao nhiệm vụ cho các công nhân của ông tạo ra những bóng đèn có tuổi thọ cao hơn. Năm 1879, ông đã sản xuất ra một ý niệm mới: một chiếc đèn có sức chịu đựng cao trong một môi trường chân không lớn, nó sẽ cháy sáng hàng trăm giờ. Trong khi những nhà phát minh trước đó đã sản xuất ra đèn điện trong các điều kiện phòng thí nghiệm, Edison đã tập trung vào việc áp dụng thương mại hóa và đã có thể bán ý tưởng của mình tới các gia đình và các cửa hàng bằng cách sản xuất hàng loạt các bóng đèn có tuổi thọ cao và tạo ra một hệ thống phát và cung cấp điện.
wiki
Thomas Edison
Phòng thí nghiệm Menlo Park có thể được xây dựng nhờ tiền bán bộ máy thu phát cùng lúc bốn tín hiệu mà Edison sáng chế ra năm 1874. Chiếc máy điện báo thu phát bốn tín hiệu cùng lúc có thể gửi bốn tín hiệu điện báo cùng lúc trên cùng một dây dẫn. Khi Edison liên hệ bán máy cho Western Union, ông đã bị sốc khi Western Union đưa ra một cái giá không thể ngờ nổi; quyền sáng chế được bán với giá $10.000. Chiếc máy điện báo này là thành công tài chính lớn đầu tiên của ông. Lĩnh vực điện khí. Năm 1879 Edison thành lập ra Thomson-Houston đến năm 1890 ông thành lập công ty Edison General Electric. Hai năm sau Edison General Electric và Thomson-Houston hợp nhất hình thành công ty Edison General Electric and Thomson-Houston, tiền thân của tập đoàn điện khí khổng lồ GE ngày nay. Về sau có tới hơn 10 công ty mang tên ông Bắt đầu vận hành nhà máy điện đầu tiên Năm 1880 Edison đăng ký bằng sáng chế về phân phối điện, sự kiện đó đóng vai trò chính trong việc tích lũy để phát minh ra đèn điện. Tháng 12 năm 1880, Edison thành lập Công ty Chiếu sáng mang tên ông đặt tại số 257, đường Pearl thành phố New York và đến năm 1882 đã thành công khi đưa trạm phát điện đầu tiên đi vào hoạt động.
wiki
Thomas Edison
Trạm phát điện đầu tiên "Jumbo số 1" là một máy phát điện chạy bằng hơi nước trực tiếp nặng 27 tấn, riêng phần lõi (armature) nặng đến 6 tấn và được sử dụng để làm mát không khí. Trạm phát điện này có thể làm sáng 700 ngọn đèn gồm 16 nến. Trong vòng 14 tháng, nhà máy điện đầu tiên của Edison đã phục vụ cho 508 thuê bao và hỗ trợ 12.732 bóng đèn. Thành công thực sự của Edison, giống như người bạn của ông Henry Ford, trong khả năng của mình để tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc thành lập hệ thống sản xuất hàng loạt và các quyền sở hữu trí tuệ. George Westinghouse và Edison đã trở thành đối thủ vì Edison xúc tiến việc sử dụng dòng điện một chiều (DC) cho phân phối điện trong hệ thống luân phiên thay vì một hệ thống đơn giản hơn là dòng điện xoay chiều (AC) được phát minh bởi Nikola Tesla và xúc tiến bởi Westinghouse. Không giống như DC, dòng điện xoay chiều có thể được tăng cường điện áp rất cao bằng các máy biến áp, và sau đó truyền qua những đường dây điện mảnh hơn và rẻ hơn, và hạ điện áp tại điểm đến để phân phối cho người sử dụng.
wiki
Thomas Edison
Năm 1887, có 121 trạm phát điện Edison ở Hoa Kỳ cung cấp điện dòng điện một chiều cho khách hàng. Khi những hạn chế của dòng điện một chiều đã được thảo luận trước công chúng, Edison đã phát động một chiến dịch tuyên truyền để thuyết phục mọi người rằng dòng điện xoay chiều là quá nguy hiểm để sử dụng. Vấn đề với dòng điện một chiều là các nhà máy điện này chỉ cung cấp cho khách hàng trong vòng khoảng một dặm rưỡi (khoảng 2,4 km) từ các trạm phát điện, do đó nó chỉ thích hợp cho các trung tâm thương mại. Khi George Westinghouse đề nghị sử dụng điện áp cao dòng điện xoay chiều thay thế, vì nó có thể mang điện hàng trăm dặm và ít tổn hao do truyền tải khi so với điện một chiều, Edison đã tiến hành một "cuộc chiến tranh dòng điện" để ngăn chặn dòng điện xoay chiều được sử dụng rộng rãi.
wiki
Thomas Edison
Cuộc chiến chống lại dòng điện xoay chiều đã khiến ông tham gia vào việc phát triển và xúc tiến việc tử hình bằng ghế điện (sử dụng dòng AC) như một nỗ lực để miêu tả dòng điện xoay chiều có khả năng gây tử vong lớn hơn so với DC. Edison đã thực hiện một chiến dịch ngắn gọn nhưng mạnh mẽ để cấm việc sử dụng dòng điện xoay chiều hoặc hạn chế điện áp nhằm những mục đích an toàn. Trong một phần của chiến dịch này, nhân viên của Edison cho giật điện công khai một số động vật để chứng minh sự nguy hiểm của AC; dòng điện xoay chiều hơi nguy hiểm hơn ở những tần số gần 60 Hz vì có khả năng đáng kể gây nguy hiệm đến tính mạng hơn dòng điện một chiều. Một trong những thí nghiệm đáng chú ý của ông vào năm 1903, những công nhân của Edison cho giật điện con voi tên Topsy tại Luna Park, gần đảo Coney, sau khi nó giết vài người và chủ của nó muốn giết nó. Công ty của ông đã quay phim lại những cuộc tử hình bằng giật điện.
wiki
Thomas Edison
Cuối cùng thì Nikola Tesla đã chứng minh được tính hiệu quả của việc truyền tải và sử dụng dòng điện xoay chiều. Dòng điện xoay chiều sau đó thay thế hầu hết dòng điện một chiều trong các trạm phân phối điện, nhanh chóng mở rộng phạm vi và cải tiến hiệu quả của các trạm phân phối điện. Mặc dù dòng điện một chiều không còn được ưa chuộng sử dụng, nó vẫn tồn tại đến ngày nay trong những hệ thống dẫn truyền dòng điện một chiều điện áp cao (HVDC), cũng như các mạch điện tử, với các IC, BJT, hay các vi điều khiển... vẫn cần được cấp nguồn một chiều . Dòng điện một chiều điện áp thấp vẫn còn tiếp tục được sử dụng cho những khu vực đông dân cư trong nhiều năm nhưng cuối cùng bị thay thế bởi hệ thống dòng điện xoay chiều điện áp thấp. Nhà cửa. Vào Thập niên 1880, Thomas Edison mua đất đai ở Fort Myers, Florida, và xây Seminole Lodge làm nơi nghỉ đông. Henry Ford, ông trùm ô tô, sau này đã sống ở nhà nghỉ đông của ông, The Mangoes phía đối diện. Edison thậm chí cũng đóng góp về kỹ thuật cho ngành ô tô. Họ là bạn bè tới tận khi Edison mất trong trạng thái bình yên, thọ 84 tuổi. Edison and Ford Winter Estates hiện đang mở cửa cho công chúng. Danh sách các cống hiến. Người ta thống kê được, Edison có tổng cộng đến 1.907 phát minh được cấp bằng sáng chế - một con số khổng lồ.
wiki
Phổ Nghi
Phổ Nghi (, ; 7 tháng 2, năm 1906 – 17 tháng 10, năm 1967), Tây Tạng tôn vị Văn Thù Hoàng đế (文殊皇帝), là vị vua thứ 12 và là vị vua cuối cùng của triều đại Mãn Thanh nói riêng và của chế độ quân chủ trong lịch sử Trung Quốc nói chung. Ông lên ngôi lúc 2 tuổi, thoái vị năm 1912 khi Cách mạng Tân Hợi bùng nổ và được Phát xít Nhật đưa lên làm Hoàng đế bù nhìn của Đại Mãn Châu Đế quốc ở Đông Bắc Trung Quốc năm 1934. Năm 1945, ông bị Hồng quân Liên Xô bắt và quản thúc, sau đó có góp mặt trong phiên tòa xét xử các tội phạm chiến tranh của Nhật. Từ năm 1949 đến 1959, ông được trả về nước và bị Quốc vụ viện Trung Quốc quản thúc, giam giữ vì tội danh bắt tay với quân xâm lược Nhật. Tháng 12 năm 1959, ông được thả và sống ở Bắc Kinh như một thường dân cho đến khi qua đời. Ông có một niên hiệu chính thức khi là Hoàng đế Đại Thanh, gọi là Tuyên Thống, do đó hay được gọi là Tuyên Thống Hoàng đế (宣統皇帝). Và dù sau này ông có thêm hai niên hiệu khác trong thời kỳ Mãn Châu quốc là Đại Đồng cùng Khang Đức, thì ông vẫn được biết đến như Tuyên Thống Đế hơn cả. Do viết chiếu thư nhường vị, ông cũng được biết đến với vị hiệu là Tốn Hoàng đế (遜皇帝) hay Mạt đại Hoàng đế (末代皇帝). Thân thế.
wiki
Phổ Nghi
Thân thế. Tốn Hoàng đế Phổ Nghi sinh ngày 14 tháng 1 (âm lịch) năm Quang Tự thứ 32 (1906), nhũ danh Ngọ Cách (午格), biểu tự Diệu Chi (耀之), hiệu Hạo Nhiên (浩然), xuất thân hoàng tộc Ái Tân Giác La. Cụ nội của Phổ Nghi là Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Hoàng đế. Khi Đạo Quang Đế băng hà, con trai trưởng lên ngôi, tức là Hàm Phong Đế. Ông nội của Phổ Nghi là Thuần Hiền Thân vương Dịch Hoàn, con trai thứ 7 của Đạo Quang Đế và là anh em cùng cha khác mẹ với Hàm Phong Đế. Sau khi Hàm Phong Đế băng hà, con trai duy nhất của ông lên ngôi, trở thành Đồng Trị Đế. Mẹ Phổ Nghi là Ấu Lan, con gái của Vinh Lộc - một trong những lãnh đạo của phe bảo thủ trong Triều đình và là một người ủng hộ trung thành của Từ Hi Thái hậu. Năm Đồng Trị thứ 13 (1875), Đồng Trị Đế qua đời mà không có con trai, em họ là Quang Tự Đế lên thay. Năm Quang Tự thứ 34 (1908), Quang Tự Đế mất cũng không có người kế vị. Trước tình thế ấy, Phổ Nghi được lập làm Hoàng đế.
wiki
Phổ Nghi
Xét theo thứ tự, Phổ Nghi là con trai trưởng của Thuần Thân vương Tải Phong, con trai của Thuần Hiền Thân vương và người thiếp thứ hai của mình là bà Lưu Giai thị. Lưu Giai thị vốn là một người hầu trong phủ Thuần Thân vương mang họ Lưu, sau được đổi thành thị tộc Mãn Châu là ["Lưu Giai"] khi bà trở thành một người thuộc Mãn tộc. Thuần Thân vương do đó là em cùng cha khác mẹ của Quang Tự Đế và là người anh em xếp cùng hàng sau ông. Điều thú vị là người anh họ ít nổi tiếng hơn của Phổ Nghi, Phổ Tuyết Trai (溥雪齋) là một bậc thầy quan trọng về nhạc cụ cổ truyền cổ cầm. Phổ Nghi được Từ Hi Thái hậu chọn lên ngôi khi bà đang hấp hối. Vào lúc bấy giờ, vấn đề chọn thừa tự là trường hợp thứ ba của Đại Thanh, lần thứ nhất là khi Đồng Trị Đế tuyệt tự, mà bối phận chữ ["Phổ"] khi ấy không có ai đủ khả năng, nên Quang Tự Đế phải thay thế. Triều Thanh quy định rất gắt gao và rạch ròi, thành viên hoàng thất trưởng thành dù mất đi mà không có con, thì hoàng gia cũng phải chỉ định người dòng khác làm con thừa tự để chăm hương khói mãi mãi. Sự việc của Đồng Trị Đế năm xưa, khiến Đồng Trị Đế trở thành người không có thừa tự do Quang Tự Đế được chọn để thừa tự Hàm Phong Đế. Sau khi Quang Tự Đế qua đời, triều đình yêu cầu lập thừa tự có thể vừa hương khói Đồng Trị (kiêm Hàm Phong), lại vừa hương khói Quang Tự, do đó Phổ Nghi vào thời điểm được chọn chính là con của cả Đồng Trị Đế lẫn Quang Tự Đế. Tiểu sử. Hoàng đế Đại Thanh (1908-1912).
wiki
Phổ Nghi
Tiểu sử. Hoàng đế Đại Thanh (1908-1912). Sau khi được chỉ định làm Tự Hoàng đế, Phổ Nghi đã lên ngôi lúc mới 2 tuổi (nếu tính tuổi mụ thì là 3 tuổi), chính thức nhậm Hoàng vị vào tháng 11 (âm lịch) năm Quang Tự thứ 34 (1908), sau khi người bác là Quang Tự Đế băng hà ngày 14 tháng 11, ngay hôm sau (15 tháng 11), sau khi vừa được triều đình Phổ Nghi dâng tôn tước hiệu Thái hoàng thái hậu, thì Từ Hi Thái hậu cũng qua đời vào buổi trưa. Các quan chức triều đình đã theo di mệnh của Từ Hi Thái hậu, đem đến nhà và đưa Phổ Nghi đi. Khi ấy, Phổ Nghi đã khóc và chống cự khi các quan triều đình ra lệnh cho các thái giám bế ông lên. Bà vú em của Phổ Nghi là Vương Tiều thị, khi ấy là người duy nhất có thể dỗ được ông và do đó được theo vào Tử Cấm Thành. Phổ Nghi sau đó không được gặp mẹ mình trong 6 năm. Theo di chiếu của Từ Hi Thái hậu, cha ruột của Phổ Nghi là Tái Phong được mệnh làm Nhiếp chính vương, quản lý tất cả sự vụ trong triều đình đến khi Phổ Nghi trưởng thành. Và dù không có thân thích gì, Phổ Nghi vẫn phải tôn Hoàng hậu của Quang Tự Đế là Na Lạp thị làm Long Dụ Hoàng thái hậu và gọi bà là ["Kiêm thiêu Mẫu hậu"], do Phổ Nghi đã là con của cả Quang Tự Đế. Trong nội cung, mọi việc đều do Thái hậu quyết định, và bà ta cùng 4 vị Thái phi của Đồng Trị Đế đã tranh giành sự ảnh hưởng lên vị Hoàng đế nhỏ.
wiki
Phổ Nghi
Việc nuôi dưỡng Phổ Nghi rất khó khăn để khiến cậu bé trở thành một đứa trẻ có sức khỏe và biết điều. Ban đêm, cậu bé được cung phụng như ông trời con và cậu bé đã không thể cư xử như một đứa bé bình thường. Ngoài bà vú nuôi họ Vương ra, những người lớn xung quanh cậu bé hoàn toàn xa lạ, giữ khoảng cách và không thể rèn luyện cho cậu bé. Khi cậu đến đâu mọi người đều phái quỳ xuống và khấu đầu. Do dù còn rất nhỏ, Phổ Nghi đã phát hiện ra quyền lực tuyệt đối được sử dụng đối với các hoạn quan và ông thường bắt đánh đập họ vì những lỗi nhỏ. Cha Phổ Nghi, Nhiếp chính vương Tái Phong đã nắm quyền lực của Đại Thanh từ khi Phổ Nghi lên ngôi cho đến ngày 6 tháng 12 năm 1911, khi Long Dụ Thái hậu phế truất vị trí của ông vì để lên án trách nhiệm trước Cách mạng Tân Hợi. Trước áp lực của dư luận, cũng như bị lừa gạt từ Viên Thế Khải, Long Dụ Thái hậu đã ký Thanh đế thoái vị chiếu thư (清帝退位詔書) vào ngày 12 tháng 2 năm 1912. Sau Cách mạng Tân Hợi, theo một thỏa thuận do Viên Thế Khải làm môi giới trung gian với Triều đình ở Bắc Kinh và những người Cộng hòa ở Nam Trung Hoa, thì các "Điều kiện ưu đãi của Hoàng đế nhà Thanh" (清帝退位優待條件) ký với Trung Hoa Dân Quốc mới đã được thông qua và chấp thuận, Phổ Nghi được giữ lại tước vị Hoàng đế và được chính quyền Cộng hòa đối xử với danh nghĩa như một Hoàng đế ngoại quốc sống ở Trung Hoa Dân Quốc. Điều này tương tự như Luật đảm bảo của Ý năm 1870 ban cho Giáo hoàng một số đặc quyền và danh dự nhất định như đối với Vua Ý.
wiki
Phổ Nghi
Theo như những điều khoản ấy, Phổ Nghi và triều đình được phép ở lại trong Tử Cấm Thành, các cung điện riêng như Dưỡng Tâm điện cũng như được ở lại trong Di Hoà Viên, hằng năm Chính phủ Cộng Hoà sẽ trợ cấp cho hoàng gia 4 triệu lượng bạc và duy trì một vị hoàng đế cũng như một triều đình nhà Thanh chỉ còn lại hư danh trong Tử Cấm Thành và tồn tại song song với chính quyền dân quốc, thời gian này Phổ Nghi vẫn được đối xử như một vị Thiên tử và nhận được mọi sự kính trọng cũng như quyền hành trong triều đình riêng của mình. Thời kỳ phục hồi Đế vị ngắn (1917). Năm 1917, quân phiệt Trương Huân vốn là người trung thành với nhà Thanh nên đã phục hồi đế vị cho Phổ Nghi trong 12 ngày, từ ngày 1 tháng 7 đến 12 tháng 7 năm ấy. Những công dân nam của Bắc Kinh đã phải nhanh chóng đội tóc đuôi sam giả để tránh bị phạt do đã cắt bỏ chúng vào năm 1912. Trong 12 ngày này, một quả bom nhỏ đã được một máy bay của quân Cộng hòa Trung Hoa thả xuống Tử Cấm Thành và gây ra hư hại nhỏ. Sự kiện này được xem như cuộc không kích đầu tiên ở Đông Á. Sự phục hồi đế vị này đã thất bại do làn sóng phản đối khắp Trung Hoa và một sự can thiệp đúng lúc của một quân phiệt khác là Đoàn Kỳ Thụy. Giữa tháng 7 năm ấy, quân Trương Huân thất bại, các đường phố Bắc Kinh đã tràn ngập các đuôi sam giả đã bị các chủ nhân của nó nhanh chóng vứt đi cũng như chúng được vội vã mua để đội lên đầu vậy.
wiki
Phổ Nghi
Lúc bấy giờ, Phổ Nghi tuy đã tuyên bố thoái vị, tước hiệu Hoàng đế chỉ mang tính chất quân chủ lập hiến, không có quyền lực, nhưng hôn sự của Hoàng đế vẫn là vấn đề trọng đại của triều đình Mãn Thanh đang lụi tàn. Năm 1920, vào lúc Phổ Nghi 15 tuổi, có chính khách của chính phủ Dân Quốc đề nghị hôn nhân cho vị Hoàng đế đang thành niên. Ngày 20 tháng 11 năm đó, tờ 《Tiểu công báo》 có "Thanh Đế nghị hôn" vấn đề, đề cập rằng Tổng thống Từ Thế Xương có ý định đem con gái của chính mình gả cho Tuyên Thống Đế. Sang ngày 25 tháng 11, tắc có "Nghị hôn tin tức", các vị Thái phi từ chối hôn nhân của Từ Thế Xương, nói rằng Hoàng đế nên đến tuổi như Đồng Trị Đế cùng Quang Tự Đế, vào năm 17 tuổi mới bàn đến hôn nhân. Tuy Từ Thế Xương bị khước từ, nhưng rồi các Thái phi cũng từ đó chú ý đến vấn đề hôn nhân của Phổ Nghi, bắt đầu để mắt đến việc chọn các con gái thuộc quý tộc Mông Cổ hoặc quan lại Mãn Châu, danh gia vọng tộc, mới xứng đáng vị trí Hoàng hậu tương lai.
wiki
Phổ Nghi
Từ năm 1921, lựa chọn đã chính thức bắt đầu quá trình. Rất nhiều người bị tuyển, rồi đào thải, cuối cùng còn lại 4 người: con gái của Vinh Nguyên là Quách Bố La thị, con gái của Đoan Cung là Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, con gái Hành Vĩnh là Hoàn Nhan thị, và cuối cùng là con gái của Dương Thương Trát Bố là Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, tất cả đều xuất thân quý tộc, không gia đình giàu có thì cũng là dòng dõi cao quý. Cuối cùng, Hoàng hậu được chọn cho Quách Bố La thị, tên Uyển Dung, còn một vị trí Phi là Ngạch Nhĩ Đức Đặc thị, tên Văn Tú. Năm 1922, ngày 10 tháng 3, Phổ Nghi thông qua triều đình của mình tuyên bố thành hôn, cuối cùng đại hôn diễn ra vào ngày 1 tháng 12 cùng năm, Uyển Dung chính thức trở thành Hoàng hậu nhà Thanh. Quy trình đó được chính Phổ Nghi kể lại như sau: Năm 1924, tháng 10, Phổ Nghi bị chính phủ Trung Hoa Dân Quốc do quân phiệt Phùng Ngọc Tường gây sức ép buộc phải rời khỏi Tử Cấm Thành. Ngày 5 tháng 11 năm đó, gia đình Phổ Nghi đã chính thức rời khỏi Tử Cấm Thành, đem theo Uyển Dung và Văn Tú. Họ sống như những người dân thường trong xã hội tại một ngôi làng ở Thiên Tân, nơi đã chịu sự quản lý bởi Nhật Bản. Phổ Nghi từ đó đổi tên thành Phổ Hạo Nhiên (溥浩然).
wiki
Phổ Nghi
Năm 1928, quân phiệt Tôn Điện Anh đã đem quân vào khu vực lăng tẩm nhà Thanh ở Sơn Đông, quật mộ của Càn Long Đế và Từ Hi Thái hậu. Chỉ có lăng của Khang Hi Đế là còn tương đối toàn vẹn, vì khi cậy mở được cửa lăng thì một khối nước màu vàng khè từ bên trong tuôn tràn ra rất mạnh, quân sĩ sợ hãi quá phải bỏ chạy. Tin các lăng tẩm của Càn Long Đế và Từ Hi Thái hậu bị khai quật để lấy của đã gây chấn động và căm phẫn sâu sắc cho Phổ Nghi, đồng thời cũng khiến các thành viên hoàng tộc, cựu thần nhà Thanh bất mãn. Ông Johnston, thầy dạy tiếng Anh của Phổ Nghi kể lại: ["Chỉ qua một vài ngày Phổ Nghi đã già đi rất nhiều. Chỉ những ai hiểu lòng tôn thờ tổ tiên của người Trung Hoa và người Mãn Châu mới hiểu nỗi đau đớn của Phổ Nghi"]. Sau đó. Phổ Nghi gửi một điện văn cho Tưởng Giới Thạch và yêu cầu trừng trị những kẻ xâm phạm các lăng tẩm, kể cả Tôn Điền Dương. Tưởng Giới Thạch sau đó liền cho mở một cuộc điều tra, nhưng cuối cùng cũng ỉm đi luôn. Chính phủ Cộng hoà cũng không gửi một lời chia buồn đến cho Phổ Nghi. Biến cố này càng khiến Phổ Nghi nung nấu quyết tâm khôi phục ngai vàng nhà Mãn Thanh bằng bất cứ giá nào, cho dù có phải nhờ vào sự trợ giúp của Đế quốc Nhật Bản - kẻ thù của nước Trung Hoa khi đó. Hoàng đế Mãn Châu quốc. Ngày 1 tháng 3 năm 1932, Phổ Nghi đã được Nhật Bản dựng lên làm Quốc trưởng Mãn Châu Quốc, một vị trí bị nhiều nhà sử học coi là nhà nước bù nhìn của Đế quốc Nhật Bản, dưới niên hiệu là Đại Đồng (大同).
wiki
Phổ Nghi
Năm 1934, Phổ Nghi đã chính thức đăng quang Hoàng đế Đại Mãn Châu Đế quốc với niên hiệu Khang Đức (康德). Ông vẫn bí mật luôn ở thế xung đột với Nhật Bản nhưng bên ngoài vẫn tỏ ra phục tùng. Ông không hài lòng khi trở thành Quốc trưởng Mãn Châu Quốc và sau đó là Hoàng đế Đại Mãn Châu Đế quốc thay vì được phục hồi hoàn toàn làm Hoàng đế Đại Thanh. Là một phần của Chính sách thuộc địa Nhật Bản ở Mãn Châu Quốc, Phổ Nghi phải ở Ngụy Hoàng cung trong thời gian này. Trong thời gian trị vì này, ông xung đột với Nhật Bản về y phục, khi người Nhật muốn ông mặc y phục Mãn Châu Quốc, còn ông xem đó là một sự sỉ nhục nếu mặc các y phục khác thay vì mặc y phục truyền thống của triều Thanh. Trong một trường hợp thỏa hiệp tiêu biểu, ông mặc một bộ đồng phục khi ngồi trên ngai và mặc long phục trong lễ tuyên cáo lên ngôi tại Thiên Đàn. Em trai Phổ Nghi là Phổ Kiệt (溥傑) cưới Hiro Saga, một người bà con xa với Nhật Hoàng Hirohito và được phong làm Hoàng tự (người kế vị).
wiki
Phổ Nghi
Trong thời kỳ trị vì của Hoàng đế Đại Mãn Châu Đế quốc, toàn bộ gia đình của ông bị người Nhật giám sát chặt chẽ và liên tục thực hiện các bước Nhật hóa Mãn Châu như họ đã thực hiện ở Triều Tiên và những nơi khác. Khi Phổ Nghi đi thăm Tokyo trong một chuyến thăm cấp quốc gia, ông đã tâng bốc một cách ngượng nghịu trước Hoàng gia Nhật Bản. Ông còn cảm tạ Nhật Hoàng Hirohito đã cho bầu trời trong và ánh bình minh cho dịp này. Trong những năm tháng nhạt nhẽo này, ông bắt đầu quan tâm lớn đến Phật giáo, nhưng người Nhật đã sớm ép buộc ông chọn Thần đạo là quốc giáo của Mãn Châu. Những người ủng hộ cũ của ông dần bị loại bỏ và thay bằng những vị quan thân Nhật. Trong thời kỳ này, Phổ Nghi liên tục ký những luật do người Nhật soạn thảo, đọc thuộc lòng những bài kinh cầu nguyện, tham vấn những nhà tiên tri và viếng thăm khắp vương quốc của mình. Cuộc sống cuối đời.
wiki
Phổ Nghi
Cuộc sống cuối đời. Khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Phổ Nghi bị Hồng quân Liên Xô bắt năm 1945. Ông được đưa sang Liên Xô và sống ở Siberia, ban đầu ở Chita, sau đó được chuyển về Khabarovsk Ông đã làm chứng tại một phiên tòa tội ác chiến tranh tại Tokyo năm 1946. Tại phiên tòa này, ông đã kể lể những ngược đãi của Nhật Bản đối với mình. Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông lên nắm quyền năm 1949, Phổ Nghi đã viết thư cho Stalin đề nghị không đưa ông trở lại Trung Quốc. Ông cũng viết ra quan điểm sống của mình đã thay đổi do ảnh hưởng của các tác phẩm của Marx và Lenin mà ông đã đọc trong tù. Tuy nhiên, do Stalin mong muốn làm ấm lại quan hệ với Mao Trạch Đông nên ông đã cho hồi hương Phổ Nghi vào năm 1950. Do tội danh bắt tay với quân Nhật, Phổ Nghi phải trải qua 10 năm trong trại cải tạo Phủ Thuận, tỉnh Liêu Ninh cho đến khi được tuyên bố là đã được cải tạo xong. Phổ Nghi đến Bắc Kinh năm 1959, với sự cho phép đặc biệt từ Chủ tịch Mao Trạch Đông và đã sống 6 tháng tiếp theo trong một căn hộ bình thường ở Bắc Kinh với em gái của mình trước khi bị chuyển đến một khách sạn do Chính phủ tài trợ. Ông lên tiếng ủng hộ những người Cộng sản và làm việc tại Vườn thực vật Bắc Kinh. Ông đã kết hôn với một y tá tên là Lý Thục Hiền ngày 30 tháng 4 năm 1962 bằng một lễ kết hôn tổ chức tại Phòng Khánh tiết của Đại lễ đường.
wiki
Phổ Nghi
Sau đó, Phổ Nghi được bổ nhiệm làm Ủy viên Ủy ban Văn sử, Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc gọi tắt là Chính hiệp, đến năm 1964 là Ủy viên Chính Hiệp, nơi ông được trả lương khoảng 100 tệ. Với sự cổ vũ của Mao và sau đó là Thủ tướng Chu Ân Lai và được Chính phủ công khai tán thành, Phổ Nghi đã viết tự truyện "Nửa cuộc đời trước đây của tôi" (我的前半生; bản dịch tiếng Anh có tên "From Emperor to Citizen" - "Từ Hoàng đế đến Thường dân") vào thập niên 1960 cùng với Lý Văn Đạt, một biên tập viên của Cục Xuất bản Nhân dân Bắc Kinh. Mao Trạch Đông bắt đầu tiến hành Cách mạng Văn hóa năm 1966, và các Hồng vệ binh xem Phổ Nghi, một biểu tượng của chế độ phong kiến Trung Hoa là một mục tiêu dễ tấn công. Tuy nhiên Phổ Nghi vẫn được bảo vệ bởi lực lượng công an địa phương dù khẩu phần ăn, các vật dụng sang trọng như bàn và ghế bành đã bị cắt bỏ. Khi về già, Phổ Nghi đã chịu ảnh hưởng về mặt thể chất và tình cảm. Ông đã qua đời ở Bắc Kinh do biến chứng của ung thư thận và bệnh tim năm 1967 trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Theo luật Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, xác ông được hỏa táng thay vì mai táng như tổ tiên của ông. Tro của ông được chôn tại Nghĩa trang Cách mạng Bát Bảo Sơn, nơi chôn cất các quan chức của đảng và nhà nước Trung Quốc. Trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, đây là nơi chôn cất các nàng hầu trong các cung phủ và các thái giám.
wiki
Phổ Nghi
Năm 1995, bà quả phụ Lý Thục Hiền đã di chuyển tro của ông đến Thanh Tây lăng cách Bắc Kinh 120 km về phía Tây Nam. Miếu hiệu và thụy hiệu. Từ trước đến nay, Phổ Nghi luôn được gọi là Thanh Phế Đế (清废帝) hay Tốn Đế (逊帝; chữ "Tốn" có nghĩa là nhường lại), hoặc Mạt đại Hoàng đế, đó là bởi vì ông là quân chủ cuối cùng của Đại Thanh, qua đời lấy thân phận thường dân, chưa từng lấy lễ Thiên tử, nên không có miếu hiệu cùng thụy hiệu. Di sản. Chiếc đồng hồ đắt nhất thế giới. Ngày 23/5/2023, Hãng Phillips đã cho đấu giá chiếc đồng hồ Patek Philippe Reference 96 Quantieme Lune của Hoàng đế Phổ Nghi tại Hong Kong và thu về mức giá kỷ lục với 6,2 triệu USD. Được biết, trên thế giới chỉ còn lại 8 chiếc loại này. Ban đầu, các nhà đấu giá kỳ vọng sẽ thu về khoảng 3 triệu USD, nhưng sau khoảng 5 phút đấu giá, chiếc đồng hồ đã được chốt giá bán là 40 triệu Đô la Hồng Kông (khoảng 5,1 triệu USD), cộng thêm các khoảng phí khác lên đến 6,2 triệu USD. Đây là số tiền cao nhất mà một người mua từng bỏ ra cho một mẫu đồng hồ Patek Philippe 96. Một chiếc đồng hồ Patek Philippe thuộc về Haile Selassie, hoàng đế Ethiopia cuối cùng, được bán với giá 2,9 triệu USD vào năm 2017. Các tài liệu lịch sử mà hãng đấu giá Philipps có được đã chứng minh cựu hoàng từng mang chiếc đồng hồ này khi đến một trại tù của Liên Xô ở Khabarovsk. Sau đó, ông tặng nó cho Georgy Permyakov, một người nói tiếng Quan thoại thông thạo, từng là gia sư và phiên dịch tiếng Nga cho Phổ Nghi trong thời gian ông bị giam giữ.
wiki
Chu Thiệu cộng hòa
Thời kỳ Cộng hòa (chữ Hán: 共和; 841 TCN-828 TCN) hay Chu Thiệu Cộng hòa (周召共和) trong lịch sử cổ đại Trung Quốc là một khoảng thời gian ngắn thời Tây Chu không có vua (thiên tử) cầm quyền. Hai đại thần Chu Công và Thiệu Công cùng nhau điều hành việc triều chính nhà Chu sau khi vua Chu Lệ Vương tàn bạo bị đánh đổ. Hoàn cảnh. Vua thứ 10 nhà Tây Chu là Chu Lệ Vương áp dụng chính sách bạo ngược và đàn áp dân chúng. Năm 841 TCN, nhân dân nổi dậy chống lại triều đình, lật đổ Lệ Vương. Lệ Vương phải bỏ chạy đến đất Trệ (nay là Hoắc Châu, Lâm Phần, Sơn Tây). Trước cảnh biến loạn, thái tử Cơ Tĩnh trốn vào nhà đại thần Thiệu Mục Công. Quân khởi nghĩa nghe tin bèn đến vây nhà Thiệu công đòi nộp thái tử. Thiệu Công bèn mang con mình ra thế mạng cho Cơ Tĩnh. Quân khởi nghĩa tưởng là thái tử, bèn giết chết con Thiệu Công. Cơ Tĩnh thoát nạn. Các giả thuyết. Hai đại thần nhiếp chính. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên, phần Chu bản kỷ, trong hoàn cảnh đó, hai đại thần nhà Chu là Chu Định công (周定公) và Thiệu Mục công (召穆公) Cơ Hổ cùng nhau đứng ra quản lý việc triều chính. Việc chính sự không phải độc quyền của một người như trước, cho nên gọi là Cộng hòa. Cộng hòa mang nghĩa cùng chung sinh sống trong sự hòa hoãn và cả hai người không ai xưng danh hiệu khác (đế, vương) để tự tôn mình.
wiki
Chu Thiệu cộng hòa
Thời kỳ Cộng hòa cũng là mốc thời gian đánh dấu việc các niên đại vua chúa và sự kiện của lịch sử Trung Quốc được xác định số năm một cách chính xác, không phải ước lệ như các đời trước. Từ thời điểm này, các sự kiện lịch sử được Sử ký biên theo số năm cụ thể. Chính thể Cộng hòa chỉ thực thi trong lãnh thổ do nhà Chu trực tiếp quản lý. Các nước chư hầu không bị sự kiện này tác động, vẫn duy trì chế độ quân chủ cha truyền con nối như trước. Năm 828 TCN, Chu Lệ vương qua đời tại đất Di. Thái tử Cơ Tĩnh - được Thiệu Công che chở trước đây - được lập lên nối ngôi, tức là Chu Tuyên Vương. Chu Công và Thiệu Công trao lại quyền trị nước cho người nối dõi nhà Chu, quyền hành lại thuộc về một vị quân chủ như trước đây. Chính thể Cộng hòa gồm hai người song song điều hành tồn tại từ năm 841 TCN đến năm 828 TCN, tất cả 14 năm. Trong những năm đầu Chu Tuyên Vương cầm quyền, Thiệu Công và Chu Công tiếp tục hỗ trợ đắc lực để củng cố, chấn hưng cơ nghiệp nhà Chu. Như vậy thời kỳ chính thể Cộng hòa trong lịch sử cổ đại Trung Quốc phát sinh và chấm dứt do hoàn cảnh sự khủng hoảng chính trị của nhà Tây Chu. Chế độ Cộng hòa là giải pháp của hai đại thần Chu Công và Thiệu Công tự đứng ra thực hiện cứu vãn cơ nghiệp nhà Chu. Thời kỳ Cộng hòa chấm dứt trong hòa bình và tự nguyện của hai đại thần cầm quyền lâm thời, để trở lại chế độ quân chủ như cũ.
wiki
Chu Thiệu cộng hòa
Tuy nhiên, trong khi không có học giả nào hoài nghi tính xác thực của nhân vật Thiệu Mục công Cơ Hổ thì Chu Định công lại bị nhiều nhà sử học nghi ngờ tính xác thực do không thấy nhắc tới ở đâu, ngoài Sử ký. Cộng Bá Hòa. Theo Trúc thư kỷ niên thì Cộng Bá Hòa được các chư hầu cử thay mặt thiên tử hành sự, niên hiệu viết là Cộng hòa nguyên niên. Đến năm Cộng hòa thứ 14 trao trả lại quyền hành cho Chu Tuyên Vương. Tuy nhiên, hiện vẫn còn bất đồng trong giới học giả về vấn đề thực sự ông Cộng Bá Hòa này là ai. Có thuyết cho rằng Cộng Bá Hòa là quân chủ nước Cộng (nay là huyện Huy, Lũng Nam, Cam Túc), tên là Bá Hòa (Sử ký tác ẩn). Lại có thuyết, như của Tư Mã Trinh, cho rằng quân chủ nước Cộng có tước bá, tên là Hòa. Lại có thuyết cho rằng ông chính là Vệ Vũ công Cơ Hòa (Sử ký chính nghĩa).
wiki
Đèo Đá Đẽo
Đèo Đá Đẽo Đèo Đá Đẽo là đèo trên Đường Hồ Chí Minh ở ranh giới huyện Minh Hóa và huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình Đèo Đá Đẽo dài 17 km. Đèo được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia năm 2010. Vị trí. Đèo Đá Đẽo nằm trên Đường Hồ Chí Minh ở ranh giới ba xã là xã Thượng Hóa huyện Minh Hóa và xã Xuân Trạch, Thượng Trạch huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Di tích lịch sử. Trước đây đoạn đường này thuộc quốc lộ 15A. Trong chiến tranh Việt Nam, quốc lộ 15A vượt qua vùng "cán soong" thì đèo Đá Đẽo là một trọng điểm bắn phá của quân đội Mỹ bằng máy bay và pháo từ tàu biển. Hiện nay đèo Đá Đẽo là một trong 37 di tích của nhóm "Di tích lịch sử Đường Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh" được Chính phủ công nhận . Trên đỉnh đèo có bia "Di tích Đèo Đá Đẽo" với dòng chữ "Đèo Đá Đẽo, trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ từ năm 1965 - 1972" ghi nhớ lại thời kỳ chiến tranh ác liệt .
wiki
Vụ Trung Quốc tấn công ngư dân Việt Nam 2005
Vụ việc Vịnh Bắc Bộ này xảy ra vào ngày 8 tháng 1 năm 2005 tại Vịnh Bắc Bộ. Diễn biến. Hai tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam trong khi đang đánh cá tại vịnh Bắc Bộ đã bị một tàu cảnh sát biển của Trung Quốc bao vây và nổ súng tấn công làm chết 9 người, 7 người bị thương và bắt giữ 8 người. Một tàu đánh cá và xác những ngư dân đều bị phía Trung Quốc đưa về Hải Khẩu, Hải Nam. Tàu kia trốn thoát được trở về. Nạn nhân. Trên tàu của ông Nguyễn Phi Phường có 16 thuyền viên, 8 người bị bắn chết, 8 người kia bị bắt, trong đó có hai người bị thương. Trên tàu của ông Trần Văn Hoàn đến ứng cứu có 1 thuyền viên bị bắn chết, 5 người khác bị thương, chiếc thuyền hứng hơn 400 vết đạn. Có 8 người bị bắt giữ. Phản ứng của Việt Nam và Trung Quốc. Năm ngày sau sự việc trên, báo chí Việt Nam mới loan tin và trước thông tin này, phía Bộ Ngoại giao Việt Nam yêu cầu Trung Quốc cần cho điều tra và xử lý nghiêm những kẻ bắn chết người. Theo điều tra của Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thanh Hóa, các tàu đánh cá Việt Nam đang ở trong phần lãnh hải Việt Nam khi bị tấn công. Các tàu Việt Nam khi đó đang ở 18°16' vĩ độ Bắc, 107°6' kinh độ Đông, cách đường phân định đến 10 hải lý. Phía Trung Quốc nói những tàu trên xâm phạm bất hợp pháp chủ quyền của Trung Quốc và nói họ nổ súng để cảnh cáo những hải tặc. Nhưng qua bằng chứng các hình ảnh ghe đánh cá không trang bị vũ khí. Những ngư dân trên phần lớn là dân thuộc xã Hòa Lộc, huyện Hậu Lộc và xã Hoằng Trường, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Việt Nam.
wiki
Vụ Trung Quốc tấn công ngư dân Việt Nam 2005
Việt Nam. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nói rằng "Chúng tôi coi việc tàu Trung Quốc bắn chết 9 ngư dân Việt Nam và làm bị thương nhiều người khác, gây thiệt hại đến tài sản và ngư cụ của ngư dân Việt Nam là nghiêm trọng." "Việt Nam đã yêu cầu phía Trung Quốc có các biện pháp tích cực nhằm ngăn chặn và chấm dứt ngay những hành động sai trái trên, cho điều tra và xử lý nghiêm những kẻ bắn chết người". Trung Quốc. Ngày 15 tháng 1, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói lực lượng tuần duyên Trung Quốc đã bắn chết vài kẻ cướp có vũ khí và bắt sống 8 kẻ khác vì những người này định cướp thuyền đánh cá của Trung Quốc. Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Khổng Tuyền nói sáng ngày 8 tháng 1, một số tàu của Trung Quốc từ đảo Hải Nam đang đánh cá trong lãnh hải Trung Quốc ở vịnh Bắc Bộ thì bị ba tàu lạ có trang bị vũ khí kéo đến định bắn phá và cướp tàu Trung Quốc. Ông Khổng Tuyền nói, sau khi nhận tin, tuần duyên Trung Quốc "đã đến giải cứu. Ba tàu vũ trang đã nổ súng trước vào tàu biên phòng và làm bị thương nhân viên công lực Trung Quốc." Người Phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố cảnh sát tuần duyên Trung Quốc buộc phải hành động và đã "bắn chết một số người có vũ trang, bắt một tàu và tám người khác cùng vũ khí, đạn dược và ngư cụ." Ông cũng gọi vụ này là trường hợp "ăn cướp có vũ trang nghiêm trọng trên biển".
wiki
Vụ Trung Quốc tấn công ngư dân Việt Nam 2005
Ông cũng gọi vụ này là trường hợp "ăn cướp có vũ trang nghiêm trọng trên biển". Bản tin của Tân Hoa xã hôm thứ Bảy thì nói những người này đã "thú nhận mình là người Việt Nam, đã thực hiện bốn vụ cướp có vũ trang đối với tàu Trung Quốc trên vịnh Bắc bộ trước đây." Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng tuyên bố nhiều vụ việc tàu Trung Quốc bị tấn công bởi tàu nước ngoài, nhưng lại không nêu rõ tàu nước gì và hoàn cảnh cụ thể ra sao.
wiki
Sứa lược có tua
Sứa lược có tua Sứa lược có tua (danh pháp khoa học: Tentaculata) là một lớp sứa lược. Đặc trưng chung phổ biến cho lớp này là một cặp tua cảm dài, dạng lông vũ, có thể co giãn, có thể thụt vào trong lớp vỏ bao có lông rung chuyên biệt hóa. Ở một vài loài, các tua cảm nguyên sinh bị suy giảm và chúng có các tua cảm thứ sinh nhỏ hơn. Các tua cảm có các colloblast, là các tế bào dính nhớt ở đỉnh dùng để bắt các con mồi nhỏ. Kích thước và hình dạng cơ thể dao động tùy theo từng loài. Nhóm này bao gồm các loài có kích thước nhỏ, hình ô van, sống ven bờ biển của cá Đại Tây Dương lẫn Thái Bình Dương như chi "Pleurobrachia". Các loài dẹp hơn như trong chi "Mnemiopsis", với kích thước dài khoảng 10 cm (4 inch), rất phổ biến ở khu vực ven bờ của Đại Tây Dương; chúng có miệng lớn và chủ yếu ăn ấu trùng của động vật thân mềm (Mollusca) hay giáp xác thân kiếm (Maxillopoda). Các loài này là các nguồn phát quang sinh học rực rỡ. Chi "Leucothea" là tương tự, nhưng có kích thước lớn hơn, rất phổ biến ven bờ của Thái Bình Dương. Chi "Cestum" là các loài sứa lược dẹp như các dải ruy băng, có thể có kích thước dài trên 90 cm (3 ft), tìm thấy ở các vùng nước nhiệt đới.
wiki
Cầu Alma
Cầu Alma (tiếng Pháp: Pont de l'Alma) là một cây cầu bắc qua sông Seine thuộc Paris, Pháp. Được đặt tên theo trận Alma trong Chiến tranh vùng Crimea (1854), cây cầu này nối liền Đại lộ George V với kè Branly. Lịch sử. Cầu Alma được xây dựng lần đầu từ năm 1854 (ngay sau chiến thắng của liên quân Pháp - Anh tại trận Alma) và hoàn thành năm 1856 dưới sự giám sát của Gariel. Cầu được Napoléon III cắt băng khánh thành ngày 2 tháng 4 năm 1856. Điểm nhấn của chiếc cầu là 4 bức tượng trang trí ở các trụ cầu: một lính zouave, một lính grenadier (tác phẩm của Georges Diebolt), một lính bộ binh và một lính pháo binh (tác phẩm của Arnaud. 4 bức tượng này tượng trưng cho 4 trung đoàn đã chiến đấu dũng cảm trong Chiến tranh vùng Crimea. Bức tượng người lính zouave còn được sử dụng để đo mực nước sông Seine. Khi mực nước sông Seine dâng đến chân tượng thì đường sông được đóng trên diện rộng, còn khi nước sông dâng đến đùi của bức tượng thì việc giao thông trên sông Seine phải ngừng hoàn toàn. Trong lịch sử người ta đã ghi nhận vào năm 1910 nước sông Seine đã dâng tới tận vai của bức tượng.
wiki
Cầu Alma
Từ năm 1970 đến năm 1974, cầu Alma được xây mới hoàn toàn, bức tượng lính bộ binh được chuyển về rừng Vincennes, tượng lính grenadier được chuyển về Dijon còn tượng lính pháo binh được chuyển về La Fère thuộc Aisne. Chỉ còn duy nhất bức tượng người lính zouave được giữ lại nhưng chuyển lên vị trí cao hơn và mất đi ý nghĩa dự báo mực nước sông Seine. Năm 1987 tuần báo International Herald Tribune đã trao tặng cho chính quyền Paris tác phẩm điêu khắc "Ngọn lửa Tự do" ("Flamme de la Liberté") phỏng theo ngọn lửa của Tượng Nữ thần Tự do, tác phẩm này để kỷ niệm tình hữu nghị Pháp - Hoa Kỳ và cảm ơn việc Pháp đã tham gia trùng tu bức tượng. Ngày 31 tháng 8 năm 1997, chiếc xe của Công nương Diana và bạn trai Dodi Al-Fayed đã gặp tai nạn tại đường hầm của Alma, tức là đoạn nối giữa cầu và quảng trường Alma, tai nạn thảm khốc này đã dẫn tới cái chết của cả Công nương và Al-Fayed. Sau sự kiện này, "Ngọn lửa Tự do" đã trở thành nơi những người yêu quý Công nương Diana đến tưởng niệm (đài tưởng niệm chính thức của Công nương nằm trong khu vườn của khu Le Marais).
wiki
Trần Thị Huân
Trần Thị Huân Trần Thị Huân (chữ Hán: 陳氏勳; ? – ?), còn có tên húy là Lại, phong hiệu Tứ giai Huệ tần (四階惠嬪), là một cung tần của vua Minh Mạng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Tiểu sử. Huệ tần Trần Thị Huân nguyên quán ở huyện Diên Khánh, tỉnh Quảng Nam. Phụ thân của bà là ông Trần Văn Hùng, sau được truy tặng chức "Vệ úy". Năm sinh năm mất của bà đều không được sử sách ghi lại. Bà vào hầu vua Minh Mạng từ thuở ông còn ở nơi tiềm để. Khi vua Minh Mạng lên ngôi, phong cho bà Huân tới chức Huệ tần (惠嬪) ở hàng Tứ giai. Sau khi qua đời, Huệ tần Trần thị được ban thụy là Uyển Thuận (婉順). Tẩm mộ của bà Huệ tần hiện nay tọa lạc tại phường Thủy Xuân, Huế. Không xa đó là mộ của "Kỳ ngoại hầu" Hồng Tuần, cháu nội của bà (Hồng Tuần là con của An Quốc công Miên Ngung). Hậu duệ. Huệ tần Trần Thị Huân sinh cho vua Minh Mạng tổng cộng 6 hoàng tử và 9 hoàng nữ. Bà cũng là phi tần sinh cho Minh Mạng nhiều con nhất.
wiki
Kẽm hydride
Kẽm hydride Kẽm hydride là một hợp chất vô cơ có thành phần chính gồm hai nguyên tố là kẽm và hydro, với công thức hóa học được quy định là ZnH2. Hợp chất này tồn tại dưới dạng thức là một chất rắn không màu trắng, không mùi mà từ từ phân hủy thành các nguyên tố thành phần ở nhiệt độ phòng; mặc dù đây là hợp chất hydride kim loại ổn định nhất. Nhiều hợp chất phối hợp có chứa liên kết Zn–H được sử dụng làm chất khử, tuy nhiên ZnH2 không có ứng dụng chung. Phát hiện và tổng hợp. Kẽm(II) hydride được Hermann Schlesinger tổng hợp lần đầu tiên vào năm 1947, thông qua một phản ứng giữa dimetylzinc và lithi nhôm hydride, một quá trình hơi nguy hiểm do bản chất tự nhiên của Zn(CH3)2. Các phương pháp sau này chủ yếu là phản ứng phản ứng muối giữa các kẽm halide và kim loại kiềm hydride, an toàn hơn đáng kể. Những ví dụ bao gồm: Một lượng nhỏ khí kẽm(II) hydride cũng đã được sản xuất bằng cách cắt kẽm bằng laser dưới khí hydro và các kỹ thuật năng lượng cao khác. Những phương pháp này đã được sử dụng để đánh giá các tính chất của dạng khí.
wiki
VTV Cup
VTV Cup Giải bóng chuyền nữ quốc tế VTV Cup là một giải đấu quốc tế được sự phối hợp tổ chức bởi Liên đoàn bóng chuyền Việt Nam và Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức với sự tham dự của đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Việt Nam và các đội bóng mạnh hàng đầu khu vực và châu lục. Đây là giải đấu uy tín nhất của làng bóng chuyền Việt Nam, được tổ chức lần đầu tiên năm 2004. Các mùa giải từ 2020 đến 2022 bị hủy bỏ do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu và việc lùi lịch thi đấu của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021. Giải đấu dự kiến sẽ trở lại vào năm 2023.
wiki
Thập diện mai phục
Thập diện mai phục (; tựa tiếng Anh: House of Flying Daggers) là một bộ phim tình cảm võ hiệp năm 2004 của Trung Quốc và Hồng Kông hợp tác sản xuất. Phim do Trương Nghệ Mưu đạo diễn và có sự tham gia của Kaneshiro Takeshi, Chương Tử Di và Lưu Đức Hoa. Không giống như nhiều phim võ hiệp khác, đây là một bộ phim thiên về chuyện tình hơn là một phim võ thuật. Phim được phát hành giới hạn tại Mỹ vào ngày 3 tháng 12 năm 2004, tại New York và Los Angeles, và công chiếu ở một số rạp phụ trong nước hai tuần sau. Phim được chọn đệ trình lên giải Oscar cho phim ngoại ngữ hay nhất năm 2004 nhưng không thành công, mặc dù vậy phim vẫn nhận đề cử quay phim đẹp nhất. Nội dung. Phim lấy bối cảnh Trung Hoa cổ xưa, thời gian này có một lực lượng phiến quân tên Phi Đao Môn nổi dậy chống lại triều đình. Hai vị quan võ Kim bộ đầu và Lưu bộ đầu là bạn thân của nhau, nhận được lệnh đi giết thủ lĩnh Phi Đao Môn trong vòng 10 ngày. Đây được xem là nhiệm vụ khó khăn khi không ai biết mặt người thủ lĩnh ấy. Lưu bắt giữ Tiểu Muội, cô gái mù bị tình nghi là con gái của người thủ lĩnh cũ. Kim giả vờ là người hiệp sĩ ủng hộ phe Phi Đao Môn, tấn công nhà tù để giải cứu Tiểu Muội, hòng lấy lòng tin của cô. Trong lúc Kim và Tiểu Muội trên đường về sào huyệt Phi Đao Môn, Lưu đã dẫn lực lượng viện binh đi theo họ. Không may, Kim và Tiểu Muội yêu nhau.
wiki
Thập diện mai phục
Để cho sự việc trở nên chân thật hơn, Lưu cho binh lính giả vờ phục kích hai người. Sau đó họ bị phục kích thật sự bởi nhóm binh lính khác. Trong cuộc gặp gỡ bí mật, Lưu giải thích rằng quan binh triều đình muốn cả Kim và Tiểu Muội phải chết. Vài ngày sau, Kim và Tiểu Muội bị phục kích lần nữa, nhưng được phe Phi Đao Môn cứu mạng và đưa về sào huyệt. Thực ra Tiểu Muội không hề bị mù và cô đã hứa hôn với Lưu, người được tiết lộ là thành viên của Phi Đao Môn. Phi Đao Môn không hề sợ quân triều đình, họ chỉ đang chờ thời điểm tổng tấn công. Lưu đau khổ nói với Tiểu Muội rằng anh chờ đợi cô suốt 3 năm kể từ ngày anh làm gián điệp trong triều đình, và hỏi tại sao cô có thể yêu Kim chỉ trong 3 ngày, chỉ nghe cô trả lời là cô đã trao trái tim cho Kim. Lưu định cưỡng hiếp Tiểu Muội, nhưng một người đàn chị đã phóng dao vào lưng Lưu. Tiểu Muội được lệnh giết chết Kim vì anh là quan triều đình, nhưng cô đã thả anh ra và từ chối bỏ trốn cùng anh. Một lúc sau, Tiểu Muội đổi ý và cưỡi ngựa đuổi theo Kim, cô bị Lưu phóng dao vào ngay ngực. Kim phát hiện ra Lưu và hai người đàn ông bắt đầu đánh nhau. Một cơn bão tuyết ập xuống, trong khi quân triều đình chuẩn bị tấn công sào huyệt Phi Đao Môn. Một tình huống căng thẳng diễn ra, kết quả là Kim và Lưu không chết, chỉ có Tiểu Muội chết, vì cô rút con dao ra khỏi ngực. Lưu bỏ đi vào rừng trong khi Kim gào khóc bên xác Tiểu Muội.
wiki
Lysá hora
Lysá hora Lysá hora (; ; , tiếng địa phương: "Gigula") là ngọn núi cao nhất của dãy Moravia-Silesia ở vùng đất lịch sử Cieszyn Silesia, Cộng hòa Séc. Đây là một trong những nơi ít mưa nhất của đất nước với lượng mưa trung bình hàng năm chỉ rơi vào khoảng . Với độ cao 1,323 mét, Lysá hora xếp ở vị trí thứ 26 trong những ngọn núi cao nhất ở Cộng hòa Séc. Từ nguyên. Tên có thể dịch là "núi "trọc""; cái tên bắt nguồn từ thực tế là Lysá hora không có cây cối, và đây cũng là điểm đặc trưng thu hút sự tò mò của khách tham quan. Ngoài ra, ngọn núi này còn có tên gọi là "Lissa huera" trong một tài liệu viết từ năm 1261. Du lịch. Ngày nay, ngọn núi trở thành địa điểm nổi tiếng để đi bộ đường dài vào mùa hè, thu hút những người đi bộ đường dài bình thường và những người hâm mộ môn đi bộ. Bên cạnh đó, nơi đây cũng được xem là điểm đến lý tưởng dành cho những người yêu thích bộ môn thể thao trượt tuyết băng và trượt tuyết đổ đèo với khu trượt tuyết hiện đại bậc nhất khu vực. Gò đá Ivančena được dựng lên trên đỉnh núi trở thành đài tưởng niệm các Hướng đạo sinh bị hành quyết vào tháng 4 năm 1945 ở thị trấn Cieszyn (thuộc Ba Lan ngày nay) vì đã tham gia kháng chiến chống phát xít Đức. Vào tháng 4 hằng năm, rất đông du khách đến đây để dành những lời tri ân sâu sắc tưởng nhớ công lao của các thế hệ đi trước.
wiki
Chó chăn cừu Magellan
Chó cừu Magellan ("Ovejero magallánico") là giống chó có nguồn gốc từ Chile. Nó được phát triển để dự phần vào hoạt động chăn cừu của vùng Magallanes y la Antártica Chilena ở phía nam Chile. Hiện nay, Câu lạc bộ Chăm sóc Chó của Chile (KCC) đang làm việc với các tổ chức giống quốc tế nhằm đạt được sự công nhận cho giống chó này. Nguồn gốc. Câu chuyện về nguồn gốc của giống chó Ovejero magallánico bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, khi những nhóm người liên quan đến việc quản lý cừu cần sự giúp đỡ và hỗ trợ của những con chó được huấn luyện. Với những năm tháng trôi qua, những con chó nhập khẩu, có lẽ không cùng loại, được lai với một tiêu chí thuần chủng, tức là các mẫu được chọn có khả năng phát triển công việc chăn thả, chịu được điều kiện khí hậu khắc nghiệt của Patagonia Chilê. Tính năng, đặc điểm. Chó chăn cừu Magellan có bản năng bẩm sinh cho việc chăn cừu, trí thông minh, phục tùng và trung thành, trên hết là một sự chống chịu thời tiết lạnh giá cực kỳ tốt, tuyết và các hành trình dài, là một phần đặc thù của Ovejero magallánico.
wiki
Chó chăn cừu Magellan
Trong số những thứ khác, nó là một trong vài giống chó chăn cừu trên thế giới vẫn giữ được tập tục mang hàng hóa trên lưng với khoảng cách di chuyển lên hơn 30 km. hàng ngày chăm sóc cho sự tiều tụy của năm ngàn con cừu với 5 bạn đồng hành. Ở giữa vùng lãnh nguyên phía nam, chúng thường ăn ba ngày một lần và hầu như không uống nước trong khi làm việc, vì chúng không bao giờ tách đàn, điều này không xảy ra với các giống khác được giới thiệu trong những năm gần đây, như Chó Border Collie Scotland hay Chó Kelpie Úc.
wiki
Swfdec
Swfdec Swfdec là một phần mềm nguồn mở thay thế trình chơi đa phương tiện cho web Adobe Flash. Hiện tại chương trình tương thích với Linux và FreeBSD và được phát hành dưới giấy phép GNU Lesser General Public License (LGPL). Swfdec là một thư viện có thể sử dụng để phát các tệp Flash. Có một trình đa phương tiện và trình cắm bổ sung cho Mozilla sử dụng thư viện này. Swfdec hỗ trợ Flash kể từ phiên bản 4, và phần lớn Flash phiên bản 9. Thư viện được cập nhật liên tục để tương thích với các chương trình, hỗ trợ phần lớn (bao gồm YouTube, Google Video, Lulu.tv, AOL video, và CNN video) để sử dụng bát cứ lúc nào. Swfdec đã được chọn làm trình chơi Flash cho Fedora, và được chuyển hệ sang DirectFB để nhúng vào X11 và GTK+. Thư viện sử dụng Cairo để dựng hình và PulseAudio, OSS, hoặc ALSA để xử lý âm thanh.
wiki
Nước mắt loài cỏ dại
Nước mắt loài cỏ dại Nước mắt loài cỏ dại là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Mega GS do Hoàng Tuấn Cường làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 14h00 thứ 7, Chủ Nhật hàng tuần bắt đầu từ ngày 16 tháng 11 năm 2019 và kết thúc vào ngày 5 tháng 4 năm 2020 trên kênh VTV3. Nội dung. "Nước mắt loài cỏ dại" xoay quanh câu chuyện về gia đình bà Hai Đài (NSND Minh Đức) giàu có sống ở trang trại rộng lớn Đà Lạt và có cơ sở làm ăn ở Sài Gòn. Bà có ba người con là ông Thành (Khương Thịnh), ông Minh (Lê Vinh) và cô con gái út tên Kiều (Yến Nhi). Khang (Xuân Phúc) là cháu đích tôn của bà Hai Đài, là con trai duy nhất của ông Thành và người vợ quá cố tên Ngọc (Huyền Thạch) - kết quả của mối tình ép buộc chỉ vì sự môn đăng hộ đối. Ngay từ nhỏ đến lớn anh không được bà nội yêu thương như những người em họ khác bởi một bí mật mà bà Hai Đài giấu bao năm qua. Chỉ một người biết chuyện này đó là bà quản gia câm - người luôn được bà Hai Đài tin tưởng. Diễn viên. Cùng một số diễn viên khác... Ca khúc trong phim. Bài hát trong phim là ca khúc "Nước mắt loài cỏ dại" do Lex Vũ sáng tác và Vinh Quang trình bày.
wiki
Natri thiopental
Natri thiopental Natri thiopental, tên khác: Sodium Pentothal (một thương hiệu của Abbott Laboratories, tránh nhầm lẫn với pentobarbital), thiopental, thiopentone, or Trapanal (cũng là một thương hiệu), là một loại thuốc gây tê toàn thân barbiturat có thời gian tác dụng ngắn giải phóng nhanh chóng, tương tự như thiobarbital. Natri thiopental đã từng là một loại thuốc thiết yếu trong  Danh sách các thuốc thiết yếu của WHO, đó là danh sách các nhu cầu y tế tối thiểu cho một hệ thống chăm sóc sức khoẻ cơ bản, nhưng đã được thay thế bằng propofol. Mặc dù thiopental vẫn được liệt kê như là một sự thay thế chấp nhận được đối với propofol, tùy thuộc vào sự sẵn có tại chỗ của dược phẩm và chi phí của những chất này. Trước đây nó là thuốc đầu tiên trong ba loại thuốc được sử dụng trong hầu hết các lần tiêm thuốc độc ở Hoa Kỳ, nhưng nhà sản xuất tại Mỹ Hospira đã ngừng sản xuất thuốc trên và EU đã cấm xuất khẩu thuốc cho mục đích này.
wiki
Chi Cỏ kê
Chi Cỏ kê Chi Cỏ kê (danh pháp khoa học: Panicum) là một chi lớn gồm khoảng 450 loài cỏ bản địa khắp vùng nhiệt đới thế giới, với một ít loài sống cả ở vùng ôn đới phía bắc. Chúng thường là cỏ lớn (cao 1–3 m), sống một năm hay lâu năm. Bông cỏ mọc thành chùy dài tận 60 c, hạt dài 1–6 mm, rộng 1–2 mm. Quả phát triển từ bông con (spikelet) gồm hai hoa. Chỉ có hoa trên là sinh sản được; hoa dưới vô sinh. Bông có có hai mày (glume) phát triển đầy đủ. Úc có tận 29 loài "Panicum" bản địa và 9 loài du nhập. Hai loài "Panicum" nổi bật là kê Proso và cỏ kê. Một số loài. Một số loài từng được xếp vào chi này, theo The Plant List:
wiki
Vũ Tần
Vũ Tần (sinh năm 1942) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Cục trưởng Cục Đối ngoại. Thân thế và sự nghiệp. Ông sinh ngày 19 tháng 8 năm 1942, quê tại xã Lâu Thượng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Nhập ngũ ngày 8 tháng 4 năm 1959, được kết nạp vào Đảng tháng 12 năm 1966 (chính thức ngày 13 tháng 9 năm 1967).  Tháng 4 năm 1959, chiến sĩ, tiểu đội trưởng Tiểu đoàn 3, Sư đoàn 316 tại Lào Tháng 5 năm 1961, theo học tiếng Nga tại Trường Văn hóa Lạng Sơn Tháng 6 năm 1964, phiên dịch tiếng Nga cho Học viện Quân sự. Tháng 7 năm 1965, phiên dịch tiếng Nga tại Trung đoàn Tê lửa 238, Trung đoàn 285, Quân chủng Phòng không Không quân Tháng 6 năm 1968, đại đội phó Tên lửa, Đại đội 1, Tiểu đoàn 72, Trung đoàn Tên lửa 285, Sư đoàn Phòng không 375, Quân chủng Phòng không Không quân Tháng 1 năm 1970, học viên bổ túc cán bộ tiểu đoàn tên lửa, trung đoàn tên lửa tại Trường Sĩ quan Phòng không Tháng 7 năm 1971, đại đội trưởng, tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 71, Tiểu đoàn 72, Trung đoàn Tên lửa 285, Sư đoàn Phòng không 363, Quân chủng PK-KQ Tháng 7 năm 1972, tiểu đoàn phó, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 74, Tiểu đoàn 72, Trung đoàn Tên lửa 285, Sư đoàn Phòng không 363, Quân chủng PK-KQ Tháng 3 năm 1976, học viên nghiệp vụ đối ngoại quân sự Tháng 7 năm 1977, trợ lý Phòng Nghiệp vụ 1, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng Tháng 9 năm 1980, phó tùy viên quân sự Việt nam tại Ba Lan Tháng 8 năm 1984, học viên Học viện Chính trị Quân sự
wiki
Vũ Tần
Tháng 7 năm 1977, trợ lý Phòng Nghiệp vụ 1, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng Tháng 9 năm 1980, phó tùy viên quân sự Việt nam tại Ba Lan Tháng 8 năm 1984, học viên Học viện Chính trị Quân sự Tháng 8 năm 1985, phó Phòng Ngoại vụ Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng.  Tháng 1 năm 1989, trưởng Phòng Quốc tế, Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng kiêm Bí thư Đảng ủy Cục Tháng 3 năm 1992, Phó Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng kiêm Phó Bí thư Đảng ủy Cục Tháng 8 năm 1993, học viên Học viện Quốc phòng Tháng 6 năm 1995, Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng kiêm Bí thư Đảng ủy Cục Tháng 7 năm 2003, ông nghỉ hưu. Thiếu tướng (11.1999)
wiki
Itanium
Itanium ( ) là một vi xử lý thuộc họ vi xử lý của Intel 64 bit thực thi kiến trúc Intel Itanium (trước đây gọi là IA-64). Thị trường máy chủ cao cấp. Khi công bố lần đầu tiên năm 2001, nền tảng Itanium được so sánh với các thiết lập tốt hơn RISC và các vi xử lý CISC là đáng thất vọng. Sự cạnh tranh trong việc thực thi các ứng dụng x86 hiện có và các hệ điều hành là đặc biệt yếu, với một điểm sáng năm 2001 báo cáo rằng tốc độ của Itanium tương đương với một máy tính Pentium tốc độ 100 MHz (cao nhất là các máy có tốc độ 1,1 HGz Pentium trên thị trường tại thời điểm đó). Itanium không tạo ấn tượng lớn trước IA-32 hay RISC, và sau đó phải chịu lép vế từ sự giới thiệu thành công của các hệ thống nền x86-64 vào thị trường máy chủ, lý do là vì các hệ thống tương thích hơn với các ứng dụng x86 kiểu cũ. Nhà báo John C. Dvorak đã có bình luận năm 2009 về lịch sử của vi xử lý Itanium, đã nói "Điều này tiếp tục là một trong những thất bại lớn nhất trong 50 năm qua" trong một bài báo có tựa đề "Làm thế nào để Itanium hủy diệt nền công nghiệp máy tính". Chuyên mục công nghệ cao Ashlee Vance nhận xét sự chậm trễ và dưới mức chuẩn "biến Itanium thành một sản phẩm trò đùa trong ngành công nghiệp sản xuất chip." Trong cuộc phỏng vấn, Donald Knuth đã nói "Itanium đã đạt...được giả định tuyệt vời—cho đến khi nó chuyển thành lời ước cho các trình biên dịch khi về cơ bản nó không thể thực thi. "
wiki
Itanium
Red Hat và Microsoft thông báo các kế hoạch hủy bỏ sự hỗ trợ Itanium trong các hệ điều hành do sự thiếu quan tâm thị trường; mặc dù vậy, phiên bản phân phối Linux khác như Debian vẫn có sẵn dành cho Itanium. Vào ngày 22 tháng 3 năm 2011, Oracle thông báo ngừng sự phát triển Itanium, mặc dù các hỗ trợ kỹ thuật cho các sản phẩm hiện tại vẫn tiếp tục. Một cựu quan chức Intel cho rằng việc kinh doanh Itanium đã có lợi nhuận cho Intel vào cuối năm 2009. Năm 2009, các chip đã gần như hoàn toàn được triển khai trên các máy chủ HP, trong đó có hơn 95% thị phần máy chủ Itanium, tạo các hệ điều hành cho HP-UX. Vào ngày 22 tháng 3 năm 2011, Intel tái khẳng định cam kết của mình trong việc tạo ra Itanium với nhiều thế hệ chip trong việc phát triển và theo đúng tiến độ. Hệ thống. Kittson. Vi xử lý "Kittson" sẽ ra mắt sau vi xử lý Poulson vào năm 2014. Ít thông tin chi tiết được biết hơn là sự tồn tại của tên mã và tương thích socket và chế độ nhị phân giữa Poulson, Kittson và Tukwila.
wiki
Emma xứ Normandie
Emma xứ Normandie (985 – 6 tháng 3 1052) là một vương hậu của Anh, Đan Mạch và Na Uy. Bà là con gái của Richard I xứ Normandy, và người vợ thứ hai của ông, Gunnora. Thông qua các cuộc hôn nhân của mình với Æthelred Bất tài (1002-1016) và Cnut Đại đế (1017-1035), bà trở thành vương hậu của Anh, Đan Mạch và Na Uy. Bà là mẹ của ba người con trai, Vua Edward Kẻ xưng tội, Alfred theling và Harthacnut, cũng như hai cô con gái, Goda của Anh và Gunhilda của Đan Mạch. Ngay cả sau khi cái chết của chồng, Emma vẫn là một bà hoàng đáng mến trong mắt dân chúng, và tiếp tục tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị. Bà là nhân vật trung tâm của Encomium Emmae Reginae, một nguồn quan trọng cho lịch sử của chính trị Anh đầu thế kỷ 11. Như Catherine Karkov nói, Emma là một trong những vương hậu thời trung cổ được thể hiện trực quan nhất. Kết hôn với Æthelred II.
wiki
Emma xứ Normandie
Kết hôn với Æthelred II. Trong một nỗ lực để hoà bình xứ Normandy, Vua Ǽthelred II của Anh kết hôn với Emma vào năm 1002. Tương tự như Richard II, Công tước xứ Normandy hy vọng sẽ cải thiện được mối quan hệ với người Anh trước cuộc xung đột gần đây và một âm mưu bắt cóc thất bại chống lại Richard bởi Æthelred. Các cuộc đột kích của người Viking vào nước Anh thường được đặt trụ cuộc tại Normandy vào cuối thế kỷ thứ 10, và vì vậy lại kết thúc cuộc hôn nhân này nhằm mục đích đoàn kết chống lại mối đe dọa của người Viking. Sau khi kết hôn, Emma được đặt tên tiếng Angl-Saxon là "Anglfgifu", được sử dụng cho các vấn đề chính thức, và Emma trở thành vương hậu Anh. Bà đã nhận được tài sản của riêng mình ở Winchester, Rutland, Devonshire, Suffolk và Oxfordshire, cũng như thành phố Exeter. Æthelred và Emma có hai con trai, Edward Kẻ xưng tội và Alfred theling, và một cô con gái, Goda của Anh (hoặc Godgifu). Khi Vua Sweyn Forkbeard của Đan Mạch xâm chiếm và chinh phục nước Anh vào năm 1013, Emma và các con của bà đã được gửi đến Normandy, nơi Ǽthelred II cùng chạy trốn ngay sau đó. Họ trở về Anh sau cái chết của Sweyn năm 1014.
wiki
Emma xứ Normandie
Cuộc hôn nhân của Emma và Æthelred kết thúc khi Æthelred qua đời ở London vào năm 1016. Con trai lớn nhất của Æthelred từ cuộc hôn nhân đầu tiên của ông, Æthelstan, đã được thừa kế làm vua Anh cho đến khi ông chết vào tháng 6 năm 1014. người sống sót lâu nhất trong số đó là Edmund II. Emma đã cố gắng để con trai lớn của mình, Edward, được công nhận là người thừa kế. Mặc dù phong trào này được hỗ trợ bởi cố vấn trưởng của Æthelred, Eadric Streona, nhưng hi vọng đó đã bị Edmund II, con trai lớn thứ ba của Æthelred, và các đồng minh của ông ta, những người cuối cùng nổi dậy chống lại cha mình và coi Emma chỉ là dì ghẻ, và những đứa con của "dì ghẻ" thì không có quyền được thừa kế. Năm 1015, Cnut, con trai của Sweyn Forkbeard, xâm chiếm nước Anh. Ông ấy bị đưa ra khỏi Luân Đôn cho đến khi cái chết của Æthelred và Edmund vào tháng Tư và tháng 11 năm 1016. Nữ hoàng Emma đã cố gắng duy trì sự kiểm soát của Anglo-Saxon ở London cho đến khi cuộc hôn nhân của bà với Cnut được sắp xếp. Một số học giả tin rằng cuộc hôn nhân đã cứu mạng con trai của bà, vì Cnut đã cố gắng tự thoát khỏi những yêu sách đối thủ, nhưng cuối cùng thì Cnut vẫn tha mạng cho họ. Kết hôn với Cnut.
wiki
Emma xứ Normandie
Kết hôn với Cnut. Cnut giành được quyền kiểm soát hầu hết nước Anh sau khi ông đánh bại Edmund Ironside vào ngày 18 tháng 10 tại Trận Assandun, sau đó họ đồng ý chia cắt vương quốc, Edmund lấy Wessex và Cnut phần còn lại của đất nước. Nhưng Edmund qua đời ngay sau đó vào ngày 30 tháng 11 và Cnut trở thành vua của tất cả nước Anh. Vào thời điểm kết hôn, những đứa con trai của Emma từ cuộc hôn nhân của bà đến Ǽthelred II được gửi đến sống ở Normandy dưới sự dạy dỗ của anh trai bà. Lúc này Emma trở thành Vương hậu Anh, và sau đó là Đan Mạch và Na Uy. "Encomium Emmae Reginae" nói trong cuốn sách thứ hai rằng cuộc hôn nhân của Emma và Cnut, mặc dù bắt đầu như một chiến lược chính trị, nhưng đã trở thành một cuộc hôn nhân trìu mến. Trong cuộc hôn nhân của họ, Emma và Cnut có một cậu con trai, Harthacnut và một cô con gái, Gunhilda. Âm mưu liên quan đến cái chết của Alfred (Ǽthelred). Năm 1036, Alfred Aetheling và Edward the Confession, con trai của Emma với Æthelred, trở về Anh từ nơi lưu đày ở Normandy để thăm mẹ họ. Trong thời gian ở Anh, họ được bảo vệ bởi Harthacnut. Tuy nhiên, Harthacnut đã tham gia với vương quốc của mình ở Đan Mạch. Alfred bị bắt và bị làm hỏng mắt do bị cầm bàn ủi nóng lên mắt. Sau đó ông chết vì vết thương. Edward thoát khỏi cuộc tấn công, và trở về Normandy. Ông trở lại sau khi vị trí của mình trên ngai vàng đã được bảo đảm.
wiki
Emma xứ Normandie
Edward thoát khỏi cuộc tấn công, và trở về Normandy. Ông trở lại sau khi vị trí của mình trên ngai vàng đã được bảo đảm. "Encomium Emmae Reginae" đổ lỗi cho việc bắt giữ, tra tấn và giết người hoàn toàn của Alfred đối với Harold Harefoot, nghĩ rằng ông ta có ý định tống khứ hai kẻ yêu sách tiềm năng hơn lên ngai vàng Anh bằng cách giết Edward và Alfred. Một số học giả đưa ra lập luận rằng đó có thể là Godwin, Bá tước Wessex, người đang đi cùng Alfred và Edward với tư cách là người bảo vệ họ. Harthacnut và Edward the Confesor Phối hợp trị vì. Harthacnut, con trai của Cnut, đã kế vị ngai vàng của Đan Mạch sau cái chết của cha mình vào năm 1035. Năm năm sau, ông và anh trai của mình, Edward the Confessor, chia sẻ ngai vàng nước Anh, sau cái chết của Harold, anh trai cùng cha khác mẹ của Harthacnut. Triều đại của họ rất ngắn, chỉ kéo dài hai năm trước khi chính Harthacnut sụp đổ. Emma đóng một vai trò trong triều đại phối hợp này bằng cách là nối ràng buộc chung giữa hai vị vua. Sách "Encomium của Vương hậu Emma" cho rằng bản thân bà có thể đã có một vai trò quan trọng, thậm chí là một vai trò bình đẳng trong sự đồng lãnh đạo của vương quốc Anh. Qua đời và chôn cất.
wiki
Emma xứ Normandie
Qua đời và chôn cất. Sau cái chết của bà vào năm 1052, Emma được an táng cùng với Cnut và Harthacnut trong Tu viện cổ Minster, Winchester, trước khi được chuyển đến nhà thờ mới được xây dựng sau Cuộc chinh phục Norman. Trong cuộc Nội chiến Anh (1642-1651), hài cốt của họ đã bị phá hủy và nằm rải rác trên sàn Nhà thờ bởi các lực lượng quốc hội. Vào năm 2012, Daily Mail đã báo cáo rằng các nhà khảo cổ học của Đại học Bristol "sẽ sử dụng các kỹ thuật DNA mới nhất... để xác định và tách một kho xương lộn xộn". Hậu duệ. Bà kết hôn với Alfred và có ba người con: Bà kết hôn với Cnut Đại đế và có hai người con: Vương hậu Emma.
wiki
Emma xứ Normandie
Hậu duệ. Bà kết hôn với Alfred và có ba người con: Bà kết hôn với Cnut Đại đế và có hai người con: Vương hậu Emma. Như Pauline Stafford đã lưu ý, Emma là người đầu tiên được coi là vương hậu thời trung cổ đầu tiên được miêu tả qua chân dung đương đại. Cuối cùng, Emma là nhân vật trung tâm của Encomium Emmae Reginae (tựa đề không chính xác là Gesta Cnutonis Regis trong thời Trung cổ sau này)một nguồn quan trọng cho nghiên cứu về sự kế thừa tiếng Anh trong thế kỷ 11. Trong triều đại của Æthelred, Emma rất có thể phục vụ ít hơn một kẻ đầu sỏ một hiện thân vật lý của hiệp ước giữa người Anh và người vha người Norman của bà. Tuy nhiên, ảnh hưởng của bà tăng lên đáng kể dưới thời Cnut. Cho đến năm 1043, Stafford viết, Emma là người phụ nữ giàu nhất nước Anh và nắm giữ những vùng đất rộng lớn ở East Midlands và Wessex." Thẩm quyền của Emma không chỉ đơn giản là gắn liền với đất đai dao động rất lớn từ năm 1036 đến 1043,mà bà cũng đã có những bước tiến đáng kể trên các giáo hội của Anh.
wiki
Nhà hát Odéon
Nhà hát Odéon (tiếng Pháp: "Théâtre de l'Odéon", còn có tên "Théâtre de l'Europe") nằm ở Quận 6 thành phố Paris. Công trình được xây dựng trong khoảng thời gian từ 1779 đến 1782 theo phong cách kiến trúc Cổ điển mới, dành cho đoàn kịch Comédie-Française. Vào thế kỷ 19 Odéon trở thành một trong những nhà hát danh tiếng của Paris nhờ sự có mặt của nhiều diễn viên danh tiếng, trong đó có huyền thoại Sarah Bernhardt. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhà hát tiếp tục giữ vai trò trung tâm của kịch nghệ nhờ những vở diễn của các tác giả như Samuel Beckett, Marguerite Duras. Odéon ngày nay là một trong năm nhà hát quốc qua Pháp. Với sức chứa 800 chỗ ngồi, nhà hát đón khoảng 70 ngàn khán giả mỗi năm. Ngoài nhà hát chính ở khu phố Saint-Germain-des-Prés, Odéon còn một phòng biểu diễn ở Quận 17. Nhà hát Odéon. Odéon nằm ở số 2 phố Corneille, khu vực tập trung nhiều nhà hát của thành phố. Mặt trước của công trình, một hàng cột thẳng đứng đặc trưng cho phong cách Cổ điển mới. Bên trong, sảnh hình vuông cũng được trang trí các cột và hai cầu thang đối xứng ở hai bên. Phòng trình diễn mang hình elip là tác phẩm của kiến trúc sư Jean-François-Thérèse Chalgrin khi nhà hát được sửa chữa sau vụ cháy năm 1799. Trần nhà hát được André Masson trang trí lại vào năm 1965 với chủ đề thần Apollon cùng các nhận vật nổi tiếng của nghệ thuật sân khấu.
wiki
Nhà hát Odéon
Bên cạnh nhà hát ở Saint-Germain-des-Prés, Odéon có thêm phòng biểu diễn Ateliers Berthier ở đại lộ Berthier, Quận 17. Công trình này vốn là một nhà kho được kiến trúc sư Charles Garnier cho xây dựng năm 1895, phục vụ cho Nhà hát quốc gia Paris. Tới năm 2003, Ateliers Berthier được sửa chữa lại và mở cửa đón tiếp công chúng. Từ 2006, phòng trình diễn này được về Odéon. Tổng cộng Odéon hiện nay có khoảng 120 nhân viên, mỗi năm tổ chức gần 300 buổi trình diễn. Năm 2007, nhà hát ở chính ở Saint-Germain-des-Prés đón 71.116 khán giả. Ateliers Berthier với 395 chỗ cũng đón 45.409 lượt khán giả Lịch sử. Thế kỷ 17. Từ năm 1687, đoàn kịch Théâtre-Français chuyển về một căn phòng trên phố Ancienne Comédie. Vì địa điểm quá hẹp, vào năm 1767, Hầu tước Marigny yêu cầu hai kiến trúc sư Marie-Joseph Peyre và Charles de Wailly xây dựng một nhà hát trên khu đất của Hoàng thân Condé. Nhưng phải sau chiến tranh, tới năm 1780, Bá tước Provence mới đặt viên đá đầu tiên bắt đầu cho việc thi công công trình. Trong khoảng thời gian này, đoàn kịch trú tạm trong căn phòng "Salle des Machines" của cung điện Tuileries.
wiki
Nhà hát Odéon
Ngày 9 tháng 4 năm 1782, Maria Antonia của Áo khánh thành "Ngôi đền mới mà sự hào hiệp của hoàng gia dựng nên dành cho vinh quang của nghệ thuật sân khấu". Đoàn kịch Théâtre-Français chuyển tới nhà hát Odéon nhưng vẫn giữ cái danh nghĩa trước đó: "Comédiens ordinaires du Roi", tức "Đoàn kịch của nhà vua". Tại Odéon, ngày 27 tháng 4 năm 1784, vở "Le Mariage de Figaro" của Beaumarchais được trình diễn trước Maria Antonia và hoàng gia. Vào thời kỳ Cách mạng Pháp, Théâtre-Français bị tách làm hai. Diễn viên Talma cùng những người cộng hòa bỏ về nhà hát tại Palais-Royal bên hữu ngạn. Năm 1793, vở "L'Ami des Lois" của nhóm ở lại bị cấm. Tiếp theo đó, tới vở "Pamela ou la Vertu récompensée" của François de Neufchâteau thì nhà hát phải đóng cửa, nhiều diễn viên bị bắt. Ngày 27 tháng 6 năm 1794, đoàn kịch mới mang tên "Théâtre Égalité", tức "Sân khấu bình đẳng", "bởi nhân dân và vì nhân dân" được thành lập. Nhưng sau khi Maximilien de Robespierre bị xử chém ngày 28 tháng 7 năm 1794, các diễn viên bị bắt lại quay về Odéon. Sự bất đồng giữa hai nhóm diễn viên khiến đoàn kịch phải giải tán vào tháng 12 năm đó.
wiki
Nhà hát Odéon
Tới năm 1796, Théâtre-Français lấy tên Odéon, xuất phát từ "Odeum", có nghĩa nơi dành cho ca hát. Quyết định ngày 13 tháng 7 năm 1796 của Ban đốc chính giao Théâtre-Français cho nhà thầu Poupart-Dorfeuille et Cie để thành lập một nhà hát quốc gia. Nhưng Poupart-Dorfeuille et Cie thất bại, hợp đồng được chuyển cho một chủ nhà băng cũ là Sageret. Théâtre-Français được chia làm hai, một phần thuộc về phố Loi và một phần ở lại Odéon. Thế kỷ 19. Ngày 18 tháng 3 năm 1799, một đám cháy lớn thiêu chụi một phần Odéon. Kiến trúc sư Chalgrin nhận trách nhiệm sửa chữa và nhà hát mở cửa trở lại vào tháng 6 năm 1808 với tên "Théâtre de Sa Majesté l'Impératrice et Reine", tức "Nhà hát của Hoàng đế và Hoàng hậu". Nhưng tới ngày 20 tháng 3 năm 1818, Odéon lại bị cháy lần thứ hai. Các diễn viên phải chuyển tới phòng Favart trong 8 tháng. Pierre Thomas Baraguay, kiến trúc sự của Viện công khanh, xây dựng lại. Tháng 9 năm 1819, nhà hát hoàn thành và mang tên "Second Théâtre-Français". Theo lệnh của Louis XVIII, Comédie-Française trở về Odéon.
wiki
Nhà hát Odéon
Cuối thập niên 1820, một số vở kịch của Victor Hugo được trình diễn ở Odéon. Trong "Ba ngày vinh quang" của Cách mạng tháng Bảy 1830, nhà hát là một trong những trung tâm của cuộc nổi dậy. Thời kỳ Quân chủ tháng Bảy, ngoài Comédie-Française, một số gánh hát khác cũng trình diễn ở Odéon khiến nhà hát mang biệt danh "Théâtre omnibus", tức "Nhà hát hành khách". Tuy vậy, Odéon cũng gặt hái được một vài thành công nhờ các tên tuổi diễn viên như Marie Dorval, Rachel Félix... Ngày 15 tháng 8 năm 1866, Sarah Bernhardt bắt đầu khởi nghiệp tại Odéon với vai diễn Aricie trong "Phèdre" của Jean Racine. Sau khi phải đóng cửa trong thời kỳ Paris bị vây hãm cuối Chiến tranh Pháp-Phổ, Odéon mở cửa trở lại cùng với nền cộng hòa mới. Sarah Bernhardt lên tới đỉnh cao nhờ vở "Ruy Blas" của Victor Hugo. Thế kỷ 20. Năm 1906, André Antoine trở thành giám đốc nhà hát, Odéon thay đổi bộ mặt. Phòng trình diễn của nhà hát được sửa chữa lại với 300 ghế ngồi sang trọng. Hệ thống điện cũng được lắp đặt. Cùng với đó, đoàn kịch của nhà hát cũng có những phát triển. Vở "Julius Caesar" của William Shakespeare được trình diễn cuối năm 1906 có sự tham gia của 500 diễn viên cùng 70 kỹ thuật viên. Nhưng tới năm 1914, do những khó khăn trong quản lý, André Antoine từ chức. Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhà hát vẫn có gắng duy trì các buổi trình diễn.
wiki
Nhà hát Odéon
Năm 1930, nhà hát Odéon được sửa chữa lại toàn bộ. Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Paris bị chiếm đóng, Odéon phải đóng cửa vào tháng 8 năm 1944. Thời kỳ hậu chiến, nhà hát bắt đầu tìm lại được thành công. Trong những năm 1960, nhiều tác phẩm các những nhà viết kịch lớn được trình diễn ở Odéon: "Oh les beaux jours" của Samuel Beckett, "Des journées entières dans les arbres" của Marguerite Duras, "Rhinocéros" của Eugène Ionesco... Trong cuộc bạo động Tháng 5 năm 1968, các sinh viên chiếm lấy nhà hát. Sau khi vụ việc kết thúc, Odéon lại phải đóng cửa vài tháng để tu sửa. Tới tháng 9 năm 1971, Odéon trở thành nhà hát quốc gia. Quyết định ngày 1 tháng 7 năm 1990, Odéon trở thành Nhà hát châu Âu, dành cho "những di sản kịch nghệ của châu Âu. Thư viện Jean-Louis Barrault hoàn thành năm 1995, dành cho độc giả tìm hiểu về nghệ thuật kịch với những lưu trữ đa dạng: hình ảnh, âm thanh, tài liệu... Thập niên 2000, nhà hát được sửa chữa một lần nữa và mở cửa trở lại vào năm 2006. Odéon còn có thêm một phòng trình diễn nữa ở Quận 17.
wiki
Khát nước
Khát nước Khát nước (danh pháp khoa học: Clamator coromandus) là một loài chim trong họ Cuculidae. Khát nước được tìm thấy ở Đông Nam Á và một phần của Nam Á. Chúng có phần trên đen bóng, đầu đen với đôi cánh dài màu hạt dẻ, đuôi dài màu đen bóng, cổ họng xù xì, mặt dưới màu xám và lông cổ áo màu trắng xám. Chúng sinh sản dọc theo dãy Himalaya và di cư về phía nam vào mùa đông đến Sri Lanka, nam Ấn Độ và vùng nhiệt đới Đông Nam Á bao gồm các vùng của Indonesia, Thái Lan và Philippines. Chúng dài khoảng 47 cm. Phân bố. Loài được tìm thấy từ dãy Himalaya phía tây đến dãy Himalaya phía đông và kéo dài sang Đông Nam Á. Chúng đã được ghi nhận từ Ấn Độ, Nepal, Trung Quốc, Indonesia, Lào, Bhutan, Bangladesh, Campuchia, Thái Lan, Myanmar, Malaysia, Việt Nam, Sri Lanka và Philippines. Một số quần thể có thể không di cư.
wiki
Andahuaylas
Andahuaylas Andahuaylas (ngữ hệ Quechua: "Antawaylla", nghĩa là "đồng cỏ") là một thành phố của Peru. Đây là thủ phủ của tỉnh Andahuaylas thuộc vùng Apurímac. Nó còn được biết đến với cái tên "pradera de los celajes" (nghĩa là "thảo nguyên của những đám mây màu" trong tiếng Tây Ban Nha). Với dân số xấp xỉ 42.268 người (theo điều tra dân số năm 2017), đây là thành phố lớn số một trong khu vực. Vị trí. Andahuyalas nằm ở phía tây của Vùng Apurímac. Thành phố gần nhất là Abancay. Sân bay Andahuaylas là sân bay riêng của Andahuaylas. Liên kết ngoài. Pukllay, El verdadero carnaval originrio de Perú. (www.pukllay.pe)
wiki
V (ca sĩ)
Kim Tae-hyung (; sinh ngày 30 tháng 12 năm 1995), thường được biết đến với nghệ danh V (), là một nam ca sĩ và nhạc sĩ người Hàn Quốc. Anh là thành viên của nhóm nhạc nam Hàn Quốc BTS. Tiểu sử. V sinh ngày 30 tháng 12 năm 1995 với tên khai sinh là Kim Tae-hyung tại Seo-gu, Daegu, Hàn Quốc và lớn lên tại Geochang-gun. Anh là con cả trong một gia đình có 3 anh em. V lần đầu tiên khao khát trở thành một ca sĩ chuyên nghiệp khi còn học trường tiểu học. Với sự ủng hộ của cha, anh bắt đầu học saxophone trong những năm đầu tiên học trường trung học như là một phương tiện để theo đuổi sự nghiệp ca hát. V sau cùng trở thành một thực tập sinh sau khi vượt qua buổi thử giọng của Big Hit Entertainment ở Daegu. Sau khi tốt nghiệp Trường Trung học Nghệ thuật Hàn Quốc vào năm 2014, V theo học trường Đại học Global Cyber chuyên ngành Phát thanh và Giải trí ​​— tốt nghiệp vào tháng 8 năm 2020. Đến năm 2021, anh tham gia khóa học Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh (MBA) tại Đại học Hanyang Cyber chuyên ngành Quảng cáo và Truyền thông. Sự nghiệp. 2013–nay: BTS. Trước khi ra mắt, V là "thành viên bí mật" của BTS. Người hâm mộ hầu như không hề hay biết về sự tồn tại của anh và mọi thông tin về anh đều được công ty chủ quản giữ kín để tạo sự bất ngờ. Anh cho biết khái niệm này khiến anh cảm thấy bất an và cô đơn vì nghĩ rằng điều đó có nghĩa là anh có thể bị loại khỏi đội hình.
wiki
V (ca sĩ)
Ngày 13 tháng 6 năm 2013, V ra mắt với tư cách là thành viên của BTS với album đầu tay "2 Cool 4 Skool" của nhóm. Anh lần đầu tiên được ghi nhận với tư cách là nhạc sĩ sau khi đồng sáng tác và đồng sản xuất bài hát "Hold Me Tight" trong mini album thứ ba "The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 1" của nhóm vào năm 2015. Anh cũng tham gia viết lời cho bài hát "Fun Boyz" được đồng sáng tác bởi thành viên Suga. Đối với bài hát "Run", giai điệu của V được sử dụng với phần lời gốc của Jungkook cho album tiếp theo là "The Most Beautiful Moment in Life, Pt. 2". Hơn nữa, anh cũng tham gia sáng tác nhạc và viết lời cho bài hát solo "Stigma" trong album "Wings" của nhóm. V cũng phát hành không chính thức bản cover bài hát "Hug Me" hợp tác với thành viên J-Hope và bản cover bài hát "Someone Like You" của Adele.
wiki
V (ca sĩ)
Tháng 5 năm 2018, bài hát solo thứ hai "Singularity" của anh được phát hành như một đoạn giới thiệu cho album phòng thu thứ ba sắp tới của BTS, "". Bài hát ra mắt trên đài phát thanh của Vương quốc Anh vào ngày 25 tháng 10 thông qua BBC Radio 1. Một tháng sau khi phát hành, tờ "The Guardian" bổ sung "Singularity" vào danh sách phát 50 bài hát hàng đầu trong tháng 6 năm 2018 và "Billboard" cũng bổ sung bài hát này vào danh sách 50 bài hát hàng đầu của BTS của nhà phê bình ở vị trí số 28. Nhìn chung, "Singularity" được các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt và dẫn đến việc bài hát được vinh danh trong danh sách Lựa chọn của các nhà phê bình cuối năm. Tờ "New York Times" vinh danh bài hát ở vị trí số 20 trong danh sách 65 bài hát xuất sắc nhất năm 2018 cùng với "Fake Love", nhà phê bình âm nhạc Mikael Wood của "LA Times" gọi đây là "bài hát xuất sắc nhất và đáng để phát lại nhất năm 2018" và được nhà phê bình âm nhạc Laura Snapes của "The Guardian" vinh danh trong danh sách Bài hát nhạc Pop xuất sắc nhất năm 2018. V cùng với thành viên J-Hope hợp tác với nữ ca sĩ người Thụy Điển Zara Larsson cho bài hát "A Brand New Day" trong album nhạc phim của trò chơi di động "BTS World". Bài hát được phát hành vào ngày 14 tháng 6 năm 2019 và ra mắt ở vị trí số 1 trên World Digital Song Sales Chart. Tám tháng sau, anh hợp tác với thành viên Jimin cho bài hát "Friends" và cũng tham gia sáng tác và viết lời cho bài hát solo "Inner Child" của anh trong album "" của nhóm.
wiki
V (ca sĩ)
2016–nay: Hoạt động solo. Năm 2016, V bắt đầu sự nghiệp diễn xuất với vai phụ trong bộ phim truyền hình cổ trang "Hoa lang" của KBS2 dưới tên Kim Tae-hyung. Anh cũng hợp tác với thành viên Jin trong bài hát "It's Definitely You" cho nhạc phim của bộ phim này. Nhân dịp kỷ niệm 4 năm ra mắt của BTS, V phát hành "4 O'Clock" vào ngày 8 tháng 6 năm 2017, một bài hát mà anh đồng sản xuất cùng với thành viên RM. V phát hành bài hát solo đầu tay "Scenery" của mình ngoài hoạt động nhóm vào ngày 30 tháng 1 năm 2019 thông qua trang SoundCloud của BTS. Bản ballad được viết lời và sáng tác bởi V — anh cũng là người chụp ảnh bìa — và được sản xuất bởi nhà sản xuất Docskim của Big Hit với sự tham gia của 2 nhà sản xuất khác của Big Hit là Pdogg và Hiss Noise. Bài hát phá vỡ kỷ lục của SoundCloud khi đạt 100 triệu lượt phát trực tuyến từ 20 triệu trong hơn 14 ngày, khoảng thời gian ngắn nhất trên nền tảng. Xuyên suốt 2 tuần sau khi phát hành, "Scenery" phá vỡ kỷ lục tổng cộng 9 lần cho lượt phát trực tuyến hàng ngày. Bảy tháng sau, anh phát hành bài hát solo thứ hai cũng như bài hát tiếng Anh đầu tiên mang tên "Winter Bear" thông qua trang SoundCloud cùng với video âm nhạc do chính anh đạo diễn được đăng tải trên kênh YouTube của BTS vào ngày 9 tháng 8. Anh đồng sản xuất bài hát này cùng với RM, Hiss Noise và Adora. Anh cũng chụp ảnh bìa cho album dưới bút danh "Vante".
wiki
V (ca sĩ)
Năm 2020, V phát hành bài hát "Sweet Night" cho nhạc phim của bộ phim truyền hình "Itaewon Class" của JTBC được phát hành vào ngày 13 tháng 3 năm 2020. Bài hát thuộc thể loại indie pop do V sản xuất, viết lời và được thể hiện hoàn toàn bằng tiếng Anh. "Sweet Night" nhận được đánh giá chung tích cực cho phần sáng tác, giọng hát và ca từ ấm áp và đạt vị trí số 2 trên bảng xếp hạng Digital Song Sales của "Billboard", đây là lần ra mắt cao nhất của một nghệ sĩ solo Hàn Quốc trong lịch sử bảng xếp hạng. Ngày 25 tháng 12 cùng năm, V phát hành bài hát solo "Snow Flower" hợp tác với Peakboy. Năm 2021, V tham gia hát nhạc phim cho bộ phim truyền hình "Mùa hè yêu dấu của chúng ta" của tvN và phát hành bài hát "Christmas Tree" vào ngày 24 tháng 12. Bài hát ra mắt ở vị trí số 79 trên "Billboard" Hot 100 và là bài hát solo đầu tiên của V ra mắt trên bảng xếp hạng này. Phong cách nghệ thuật.
wiki
V (ca sĩ)
Phong cách nghệ thuật. V sở hữu chất giọng baritone (giọng nam trung) và nhận được sự đón nhận tích cực từ giới phê bình, đặc biệt là lời khen ngợi về quãng giọng và chất giọng "trầm". Giọng hát của anh được công nhận rộng rãi hơn sau khi anh thể hiện bài hát solo "Stigma" và được khen ngợi nhờ vào chất giọng gió và phong cách âm nhạc độc đáo của anh. Âm sắc của V trong "Singularity", bài hát mở đầu "" (2018) của BTS được nhà phê bình âm nhạc Blanca Méndez đánh giá là "người tạo nên giai điệu" nổi bật trong album. Tương tự, Katie Goh của "Vice" xem đây là "một trong những màn phô diễn giọng hát xuất sắc nhất của V". Karen Ruffini viết trên tờ "Elite Daily" rằng "V... dễ dàng cất lên những âm trầm mượt mà, điều này là một trong những yếu tố then chốt trong tổng thể các bài hát của BTS." với Tamar Herman từ tạp chí "Billboard" cũng lưu ý rằng chất giọng trầm lặng của V là một trụ cột trong những bài hát của BTS. Phong cách âm nhạc của V chịu ảnh hưởng nặng nề bởi niềm yêu thích mà anh dành cho dòng nhạc jazz và cổ điển. Eric Benét và Ruben Studdard là những nguồn cảm hứng âm nhạc của anh.
wiki
V (ca sĩ)
Với tư cách là nghệ sĩ biểu diễn, phong cách của V thường được biết đến với khái niệm "đối ngẫu" hoặc kỹ năng khơi gợi nhiều biểu hiện cảm xúc khác nhau trên sân khấu. Nhà báo người Anh Rhian Daly viết cho "NME" đặc biệt lưu ý điều này khi thảo luận về màn biểu diễn "Singularity" của V trong Love Yourself: Speak Yourself World Tour, mô tả động tác của anh là "tỉ mỉ và cẩn thận". Crystal Bell từ MTV lưu ý rằng các buổi biểu diễn của V thường được quay trực tiếp tại địa điểm tổ chức buổi hòa nhạc và cách mà anh sử dụng chúng để tạo ra những biểu cảm đầy tinh tế trong buổi biểu diễn. Tác động và ảnh hưởng. V đặt ra thuật ngữ "I Purple You" trong buổi gặp gỡ người hâm mộ của BTS được tổ chức vào tháng 11 năm 2016. Kể từ đó, màu tím đã trở thành biểu tượng của BTS và người hâm mộ của nhóm. UNICEF cũng sử dụng cụm từ này trong chiến dịch chống bạo lực của họ với sự hợp tác của BTS. Năm 2018, Eugene Investment & Securities Co., Ltd. tiến hành nghiên cứu phân tích về xu hướng tìm kiếm trên Google liên quan đến ngành công nghiệp K-pop. Kết quả cho thấy "V" dẫn đầu bảng xếp hạng, đồng nghĩa với việc đây là từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất xuyên suốt 5 năm qua tại Hàn Quốc. Theo cuộc khảo sát do Gallup Korea thực hiện, V được xếp ở vị trí số 4 cho thần tượng được yêu thích nhất năm 2019; trước đó anh được xếp ở vị trí số 9 vào năm 2018.
wiki
V (ca sĩ)
Năm 2018, anh được Tổng thống Hàn Quốc trao tặng Huân chương Văn hóa cùng với các thành viên khác của BTS nhờ những đóng góp của nhóm trong việc truyền bá văn hoá và ngôn ngữ Hàn Quốc. Tháng 7 năm 2021, anh được Tổng thống Moon Jae-in bổ nhiệm làm Đặc phái viên của Tổng thống về Thế hệ Tương lai và Văn hóa cùng với các thành viên khác của BTS nhằm "nâng cao nhận thức về chương trình nghị sự toàn cầu, tăng trưởng bền vững và củng cố sức mạnh ngoại giao của các quốc gia trên toàn cầu". Nhiều nghệ sĩ đã đề cập đến anh như là một hình mẫu và nguồn ảnh hưởng, chẳng hạn như Younghoon của The Boyz và Hwall, Jangjun và Jaehyun của Golden Child, Been của MVP, Byun Hyun-min của Rainz, Serim của Cravity, Yeosang và Mingi của Ateez, Jungseung và Dylan của D-Crunch, Bao của Lucente, Yunmin của Newkidd, Hanyu của Boy Story, Beomgyu của TXT, thí sinh Koo Jungmo của Produce X 101, Lee Taeseung, Mahiro Hidaka và cựu thành viên Park Ji-hoon của Wanna One. Đời tư. Kể từ năm 2018, V sống tại Hannam-dong, Seoul, Hàn Quốc cùng với các thành viên trong nhóm. Tháng 7 năm 2019, anh mua một căn hộ cao cấp trị giá 4,55 triệu USD tại Gangnam-gu. Sức khỏe.
wiki
V (ca sĩ)
Đời tư. Kể từ năm 2018, V sống tại Hannam-dong, Seoul, Hàn Quốc cùng với các thành viên trong nhóm. Tháng 7 năm 2019, anh mua một căn hộ cao cấp trị giá 4,55 triệu USD tại Gangnam-gu. Sức khỏe. Tháng 10 năm 2018, trong buổi hòa nhạc Love Yourself World Tour được tổ chức tại Paris, V gặp khó khăn khi hát do bị bệnh và không thể thực hiện phần hát của mình xuyên suốt buổi hòa nhạc. Tháng 10 năm 2021, Big Hit thông báo rằng V sẽ không thể thực hiện vũ đạo trong buổi hòa nhạc Permission to Dance on Stage của nhóm do bị đau cơ ở vùng bắp chân. Thay vào đó, anh sẽ phải ngồi trên ghế biểu diễn trong khi thực hiện phần hát của mình. Danh sách đĩa nhạc. Sáng tác. Tất cả các thông tin của bài hát đều được trích từ cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Bản quyền Âm nhạc Hàn Quốc.
wiki
Cột sắt Delhi
Cột sắt Delhi là một cây cột sắt được đúc vào thế kỷ thứ 5, do Kumara Gupta I thuộc triều Gupta, cai trị bắc Ấn Độ trong giai đoạn 320-540, dựng lên. Ban đầu cột này là một phần thuộc đền Muttra, với thần tượng Garuda trên đỉnh. Tuy nhiên sau khi ngôi đền Hindu này bị Qutb-ud-din Aybak phá huỷ để xây dựng Qutub Minar và đền thờ Hồi giáo Quwwat-ul-Islam, nó là phần duy nhất còn sót lại. Qutub được xây dựng xung quanh cột. Cột có những dòng chữ cho thấy nó đã được dựng lên làm cột cờ để bày tỏ lòng thành kính tới vị thần Vishnu của đạo Hindu, và tưởng nhớ vị vua Gupta là Chandragupta II (375-413). Được làm từ 98% sắt rèn không hoàn toàn tinh khiết, nó cao 7.21 m và có đường kính 0.41 m. Cột này là minh chứng cho kỹ năng tinh xảo của thợ rèn Ấn Độ cổ xưa trong xử lý thành phần và gia công thép. Nó đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà khảo cổ học và nhà luyện kim bởi vì nó đã chống chịu được rỉ sét trong 1600 năm, dù điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Một hàng rào đã được dựng lên quanh cột để ngăn người dân theo tín ngưỡng truyền thống tới đứng dựa vào cột vòng tay ra phía sau ôm lấy nó để lấy hên. Các phân tích khoa học.
wiki
Cột sắt Delhi
Một hàng rào đã được dựng lên quanh cột để ngăn người dân theo tín ngưỡng truyền thống tới đứng dựa vào cột vòng tay ra phía sau ôm lấy nó để lấy hên. Các phân tích khoa học. Các nhà luyện kim ở Kanpur IIT cho rằng, và họ cũng đã khám phá ra hợp chất này, một lớp mỏng "misawite", một hỗn hợp gồm sắt, oxy, và hydro, đã bảo vệ cột sắt không bị gỉ. Lớp bảo vệ đã hình thành trong ba năm kể từ khi cột được dựng lên và từ đó ngày càng trở nên dày thêm. Theo R. Balasubramaniam của IIT, sau 1600 năm, lớp này chỉ tăng thêm một phần hai mươi milimét. Trong một báo cáo trên tờ "Current Science", Balasubramaniam nói lớp bảo vệ được hình thành nhờ xúc tác với sự hiện diện của một khối lượng lớn phospho trong sắt — lượng phospho này lớn hơn 1% so với chưa tới 0.05% trong thép hiện nay. Lượng phospho nhiều là kết quả của quá trình xử lý thép đặc biệt và duy nhất do người Ấn Độ cổ thực hiện, họ biến quặng sắt thành thép bằng cách vùi nó trong than. Những lò luyện kim ngày nay dùng đá vôi thay cho than, chế tạo ra xỉ nóng chảy và gang sau này biến thành thép. Trong quá trình xử lý hiện đại đa phần phospho bị xỉ lấy đi. Tuyên bố rằng cột sắt là "một minh chứng sống cho trình độ tinh xảo của những nhà luyện kim Ấn Độ cổ", Balasubramaniam nói rằng "lược đồ động lực" ("kinetic scheme") mà nhóm ông phát triển để dự đoán sự tăng thêm của lớp bảo vệ có thể hữu ích để làm mô hình tính toán quá trình rỉ sét trong thời gian dài của các container chứa chất thải hạt nhân.
wiki
Cột sắt Delhi
Một lý thuyết khác cho rằng lý do cột có thể chống lại được rỉ sét vì độ dày của nó, cho phép Mặt Trời hun nóng cột trong thời gian ban ngày tới mức đủ để làm bay hơi hơi nước hay sương trên bề mặt. Nhiệt tích luỹ được cũng giữ cho bề mặt cột khô vào ban đêm.
wiki
Jackie Joyner-Kersee
Jackie Joyner-Kersee Jacqueline Joyner-Kersee (sinh ngày 3 tháng 3 năm 1962) là một vận động viên điền kinh trong sân vận động đã giải nghệ người Mỹ. Bà được xếp hạng một trong số những vận động viên vĩ đại nhất mọi thời đại của bảy môn phối hợp cũng như nhảy xa. Bà đã giành được ba huy chương vàng, một bạc và hai huy chương đồng Olympic, trong hai nội dung đó tại bốn Thế vận hội Olympic khác nhau. Tạp chí "Sports Illustrated for Women" đã bình chọn Joyner-Kersee là Nữ vận động viên vĩ đại nhất mọi thời đại. Bà có tên trong Hội đồng quản trị của USA Track & Field (USATF), cơ quan quản lý quốc gia Hoa Kỳ của môn thể thao này. Joyner-Kersee là một nhà từ thiện tích cực trong giáo dục trẻ em, bình đẳng chủng tộc và quyền phụ nữ. Bà là người sáng lập Quỹ Jackie Joyner-Kersee, tổ chức khuyến khích những người trẻ tuổi ở Đông St. Louis theo đuổi thể thao và học thuật. Bà hợp tác với Comcast để tạo ra chương trình Internet Essentials vào năm 2011, chương trình này có giá 9,95 đô la/tháng cho người Mỹ có thu nhập thấp và cung cấp máy tính xách tay giá rẻ và dịch vụ internet tốc độ cao 40 giờ/tháng. Kể từ khi thành lập, chương trình này đã cung cấp truy cập internet cho 4 triệu người Mỹ. Joyner-Kersee là một trong những vận động viên nổi tiếng nhất đã vượt qua căn bệnh hen suyễn nghiêm trọng.
wiki
Đại ban
Đại ban Đại ban (, dịch nôm na là 'tầng lớp đầu sỏ') là người điều hành hãng buôn cấp cao hay chủ doanh nghiệp vận hành ở Trung Quốc hoặc Hồng Kông. Lịch sử. Xuyên suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, "đại ban" là những doanh nhân sinh ra ở nước ngoài chịu trách nhiệm đứng đầu các thương xá "" rộng lớn ví dụ như , Swire, Dent & Co. và nhiều hãng buôn khác. Lần đầu tiên ghi nhận việc người ta sử dụng thuật ngữ "đại ban" (tai-pan) trong tiếng Anh là trên tờ "Canton Register" ngày 28 tháng 10 năm 1834. Có nhiều cách viết khác nhau trong quá khứ như "taepan" (xuất hiện lần đầu), "typan" và "taipan". Thuật ngữ này còn chỉ đến các đại gia đầu sỏ người Philippines gốc Hoa vốn là những tỷ phú sáng lập đầy quyền năng của các đế chế kinh doanh Hoa-Phi.
wiki
Giải quần vợt Wimbledon 2005 - Đơn nam
Roger Federer vô địch Wimbledon năm thứ 3 liên tiếp khi đánh bại Andy Roddick trong trận chung kết hai năm liên tiếp, 6–2, 7–6(7–2), 6–4 để giành chức vô địch Đơn nam tại Giải quần vợt Wimbledon 2005. Đây là giải Grand Slam đầu tiên mà tay vợt số 1 thế giới và vô địch Wimbledon tương lai Andy Murray và Novak Djokovic thi đấu. Cả hai tay vợt đều bị đánh bại ở vòng ba: Djokovic bị đánh bại bởi Sébastien Grosjean sau 4 set, trong khi Murray bị đánh bại bởi David Nalbandian sau khi đã dẫn 2-0; đến hiện tại đây là trận đấu duy nhất mà Murray thua từ 2 set trở lên. Novak Djokovic lần đầu tiên lọt Top 100 ATP sau giải đấu. Hạt giống. Roger Federer (Vô địch) Andy Roddick "(Chung kết)" Lleyton Hewitt "(Bán kết)" Rafael Nadal "(Vòng hai)" Marat Safin "(Vòng ba)" Tim Henman "(Vòng hai)" Guillermo Cañas "(Rút lui)" Nikolay Davydenko "(Vòng hai)" Sébastien Grosjean "(Tứ kết)" Mario Ančić "(Vòng bốn)" Joachim Johansson "(Vòng ba)" Thomas Johansson "(Bán kết)" Tommy Robredo "(Vòng một)" Radek Štěpánek "(Vòng hai)" Guillermo Coria "(Vòng bốn)" Mariano Puerta "(Vòng một)" David Ferrer "(Vòng một)" David Nalbandian "(Tứ kết)" Tommy Haas "(Vòng một)" Ivan Ljubičić "(Vòng một)" Fernando González "(Tứ kết)" Dominik Hrbatý "(Vòng hai)" Juan Carlos Ferrero "(Vòng bốn)" Taylor Dent "(Vòng bốn)" Nicolas Kiefer "(Vòng ba)" Feliciano López "(Tứ kết)" Richard Gasquet "(Vòng bốn)" Jiří Novák "(Vòng ba)" Nicolás Massú "(Vòng hai)" Robin Söderling "(Vòng một)"
wiki
Giải quần vợt Wimbledon 2005 - Đơn nam
Taylor Dent "(Vòng bốn)" Nicolas Kiefer "(Vòng ba)" Feliciano López "(Tứ kết)" Richard Gasquet "(Vòng bốn)" Jiří Novák "(Vòng ba)" Nicolás Massú "(Vòng hai)" Robin Söderling "(Vòng một)" Mikhail Youzhny "(Vòng bốn)" Filippo Volandri "(Vòng một)" Olivier Rochus "(Vòng hai)" Guillermo Cañas rút lui vì chấn thương. Anh được thay thế bởi tay vợt không được xếp hạt giống xếp hạng cao nhất Olivier Rochus, trở thành hạt giống #33.
wiki
Padaek
Padaek Padaek hay còn gọi là padek hoặc nước mắm Lào (tiếng Lào: ປາແດກ, ), tương tự như pla ra ở Thái Lan (), là một loại gia vị truyền thống của người Lào được làm từ cá lên men ướp muối. Nó đặc hơn và nhiều gia vị hơn nước mắm thường thấy ở khắp Thái Lan và Việt Nam, thường chứa nhiều loại cá. Quá trình lên men diễn ra trong một thời gian dài, tạo cho padaek một mùi thơm tương tự như các loại pho mát như Époisses. Không giống như các phiên bản nước mắm khác ở Đông Nam Á, padaek được làm từ cá nước ngọt do bản chất không giáp biển của vương quốc Lan Xang trước đây. Padaek được sử dụng trong nhiều món ăn, nổi bật nhất là tam maak hoong, một món gỏi đu đủ cay của Lào.
wiki
Chhapar
Chhapar Chhapar là một thành phố và khu đô thị của quận Churu thuộc bang Rajasthan, Ấn Độ. Địa lý. Chhapar có vị trí Nó có độ cao trung bình là 302 mét (990 foot). Nhân khẩu. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Chhapar có dân số 17.855 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Chhapar có tỷ lệ 55% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 65%, và tỷ lệ cho phái nữ là 46%. Tại Chhapar, 19% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.
wiki
Xuân Lam, Hưng Nguyên
Xuân Lam, Hưng Nguyên Xuân Lam là một xã thuộc huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Tên của xã được ghép từ tên của hai xã cũ là Hưng Xuân và Hưng Lam. Địa lý. Xã Xuân Lam nằm ở phía tây nam huyện Hưng Nguyên, có vị trí địa lý: Xã Xuân Lam có diện tích 11,10 km², dân số năm 2018 là 7.700 người, mật độ dân số đạt 694 người/km². Lịch sử. Địa bàn xã Xuân Lam hiện nay trước đây vốn là hai xã Hưng Xuân và Hưng Lam thuộc huyện Hưng Nguyên. Trước khi sáp nhập, xã Hưng Xuân có diện tích 4,30 km², dân số là 4.200 người, mật độ dân số đạt 977 người/km². Xã Hưng Lam có diện tích 6,80 km², dân số là 3.500 người, mật độ dân số đạt 518 người/km². Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 831/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Nghệ An (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của hai xã Hưng Xuân và Hưng Lam thành xã Xuân Lam.
wiki
Chỉ số nhà chọc trời
Chỉ số nhà chọc trời Chỉ số nhà chọc trời (tiếng Anh: "Skyscraper Index") là một giả thuyết kinh tế học cho rằng các tòa nhà chọc trời cao nhất trên thế giới được xây dựng vào thời điểm trước sự suy sụp kinh tế. Các chu kỳ kinh tế và tốc độ xây dựng nhà chọc trời có tương quan với nhau để cho số tiền đầu tư để xây dựng nhà chọc trời lên tới đỉnh cao lúc mà tỷ lệ tăng trưởng không còn lên được nữa theo chu kỳ và nền kinh tế đến kỳ suy thoái. Giả thuyết này do Andrew Lawrence, một giám đốc nghiên cứu tại ngân hàng đầu tư Anh Dresdner Kleinwort Wasserstein, đưa ra vào tháng 1 năm 1999. Các tòa nhà này có thể được hoàn thành sau khi suy thoái đã bắt đầu hay về sau, khi một chu kỳ mới lại kéo lên kinh tế, hoặc kế hoạch xây dựng tòa nhà có thể bị bãi bỏ. Khác với các khái niệm về trước mà dựa trên chiều cao – "chiều cao là một áp kế đo sự bùng nổ tăng trường" – Lawrence dùng các kế hoạch nhà chọc trời để dự đoán các khủng hoảng kinh tế thay vì bùng nổ tăng trường.
wiki
Lourdes Valera
Lourdes del Valle Valera Galvis (15 tháng 6 năm 1963 – 2 tháng 5 năm 2012) là một nữ diễn viên người Venezuela đã tham gia hơn hai mươi tác phẩm điện ảnh và truyền hình trong sự nghiệp của mình, đặc biệt nổi tiếng với diễn xuất của cô trong nhiều phim telenovela. Nghề nghiệp. Lần đầu tiên Valera tham gia nhà hát vào năm mười tuổi với nhóm kịch của trường tiểu học. Năm 1979, khi được mười sáu tuổi, cô đã ra mắt truyền hình trong chương trình RCTV "Radio Rochela", nơi cô phát triển kỹ năng hài kịch của mình như một diễn viên hài. Cô cũng tham gia chương trình "Niño de papel". Năm 1983, Valera được chọn tham gia bộ phim telenovela đầu tiên của cô, vở opera xà phòng của Venezuela "Leonela". Ngoài diễn xuất, mẹ cô còn khăng khăng yêu cầu Valera phải hoàn thành việc học của mình và cô tốt nghiệp ngành truyền thông xã hội tại Đại học Trung tâm Venezuela. Năm 1985, Valera bắt đầu một vai diễn trong vở opera "Cristal", và sau đó tiếp tục diễn xuất trong nhiều vở kịch xà phòng khác trong suốt sự nghiệp của mình, bao gồm "La vida entera", "Ciudad Bendita", "Se solicita príncipe azul", "Cosita rica", "Las González", "Guerra de teeses", "Amantes de luna" "llena", "Obléñame a querer", "El país de las teeses", "Contra viento y marea", "La llaman Mariamor", "Cruz de nadie", "Las dos Dianas", "Señora" và "Topacio". Đời tư.
wiki
Lourdes Valera
Đời tư. Năm 1993, Valera kết hôn với đạo diễn phim Luis Alberto Lamata, người mà cô gặp năm 1984. Hai vợ chồng không bao giờ có con. Năm 2008, sau khi kiểm tra khả năng phẫu thuật thẩm mỹ, cô được chẩn đoán mắc bệnh ung thư phổi, từ đó cô tạm thời hồi phục. Tái phát bệnh năm 2011 đã khiến cô qua đời vào ngày 2 tháng 5 năm 2012.
wiki
Gạch bùn
Gạch bùn là một loại gạch được tạo ra từ hỗn hợp của đất sét trộn, bùn, cát và nước, trộn với một chất liệu kết dính như trấu hay rơm, còn được biết đến bằng tên trong tiếng Tây Ban Nha là "adobe". Thợ làm gạch tạo ra được một hỗn hợp cứng và phơi khô chúng dưới ánh mặt trời trong khoảng thời gian 25 ngày. Tại các vùng khí hậu ấm mà thiếu gỗ để làm nguyên liệu cho lò nung thì gạch thường được phơi dưới ánh nắng mặt trời. Trong một số trường hợp thợ làm gạch tăng tuổi thọ của gạch bùn bằng cách xếp gạch nung lên trên hoặc phủ vữa ở bên ngoài. Thời cổ đại. Các cư dân Nam Á ở Mehrgarh đã xây dựng và sống trong các ngôi nhà bằng gạch bùn từ khoảng 7000 đến 3300 năm trước công nguyên. Gạch bùn được sử dụng tại hơn 15 địa điểm đã được nghiên cứu từ thế kỷ thứ ba trước công nguyên được xem như là dấu vết văn hoá chính của nền văn minh lưu vực sông Ấn cổ. Gạch bùn còn được sử dụng tại Trung Đông trong suốt thời kì Tiền đồ sứ Đồ đá mới B. Các cư dân Lưỡng Hà sử dụng "gạch phơi khô dưới ánh nắng mặt trời" tại các công trình xây dựng của họ; thường là những viên gạch phẳng trên gạch bùn dạng lồi. Một số viên gạch được tạo hình trong khuôn vuông và được nắn tròn nên ở giữa thường dày hơn hai bên. Tại Crete, trong thời kì văn minh Minos, ở Knossos có những dấu tích khảo cổ cho thấy gạch phơi dưới mặt trời đã được sử dụng trong thời đại đồ đá mới (khoảng trước 3400 năm trước công nguyên).
wiki
Gạch bùn
Tại Crete, trong thời kì văn minh Minos, ở Knossos có những dấu tích khảo cổ cho thấy gạch phơi dưới mặt trời đã được sử dụng trong thời đại đồ đá mới (khoảng trước 3400 năm trước công nguyên). Gạch bùn còn được sử dụng ở một số khu vực trong thời kì tiền La Mã ở Ai Cập và được sử dụng rộng rãi hơn trong giai đoạn chịu ảnh hưởng của La Mã. Thời cận đại và hiện đại. Nhà thờ hồi giáo lớn ở Djenné nằm ở miền trung của Mali là công trình kiến trúc bằng gạch bùn lớn nhất thế giới. Công trình này được hoàn thành vào đầu thế kỉ 20. Như các công trình kiến trúc ở vùng Sahel, nó được xây bằng một loại gạch bùn gọi là "Banco". Đó là một loại gạch bùn làm từ bùn và trấu mịn, tạo thành hỗn hợp lên men. Hỗn hợp này sau đó có thể dùng để tạo ra gạch hoặc làm vữa. Loại vữa đó phải trát lại hàng năm. Thời hiện đại, gạch bùn vẫn còn được sử dụng trong các công trình xây dựng tại các khu vực kém phát triển ở châu Phi (Niger, Sudan...) hay châu Á (Afghanistan, Pakistan...).
wiki
Cao Tiêu
Cao Tiêu (16 tháng 10 năm 1930 – 14 tháng 2 năm 2012), tên thật là Hoàng Ngọc Tiêu, một nhà văn và nhà thơ Việt Nam. Ông cũng là một sĩ quan cao cấp trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá, từng giữ chức Cục trưởng Cục Tâm lý chiến thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị. Thân thế. Ông sinh ngày 16 tháng 10 năm 1930 (có tư liệu ghi năm sinh 1929) tại Dưỡng Thông, Kiến Xương, Thái Bình. Xuất thân trong một gia đình Nho học trung lưu khá giả, thuở nhỏ, ông được cho theo học Tiểu học tại Kiến Xương. Khi lên Trung học, ông được gia đình cho ra học ở Thị xã Thái Bình và sau đó lên Hà Nội. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II). Sự nghiệp sĩ quan chính trị. Đầu tháng 1 năm 1951, ông nhập ngũ Quân đội Quốc gia Việt Nam, theo học sĩ quan khóa 4 Lý Thường Kiệt tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch, ông được điều chuyển về một Tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam, phục vụ ở ban Tâm lý chiến của đơn vị, hoạt động tại các tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc phần. Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, trung tuần tháng 7 năm 1954, ông cùng đơn vị di chuyển vào Nam. Đầu tháng 8 cùng năm, ông được chuyển về Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia phục vụ ở Ban Tác động Tinh thần.
wiki
Cao Tiêu
Khi chính thể Đệ Nhất Cộng hòa thành lập, ông tiếp tục phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa và được thăng cấp Trung úy tại nhiệm. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy làm Trưởng ban Nhân viên Phòng 5 tại Bộ Tổng Tham mưu. Sau Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Phó Phòng 5 Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1965, Nha Chiến tranh Tâm lý được đổi thành Tổng cục Chiến tranh Chính trị, ông chuyển sang phục vụ tại Bộ chỉ huy Tổng cục. Cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá, giữ chức vụ Cục phó Cục Tâm lý chiến. Ngày 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm chức vụ Cục trưởng Cục Tâm lý chiến, trực thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị. Ông giữ chức vụ này cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Hoạt động văn hóa. Trong thời gian công tác tại Cục Tâm lý chiến, ông còn được cử làm Chủ nhiệm Nguyệt san "Tiền Phong" và Bán Nguyệt san "Chiến sĩ Cộng hòa". Năm 1970 ông đoạt giải Văn học Nghệ thuật của Việt Nam Cộng hòa với tác phẩm "Hoa trăng". Tác phẩm này đã được Vũ Văn Tuynh phổ nhạc và Bội Ngọc phát hành cùng năm. Năm 1974 ông là thành viên giám khảo môn thơ của giải thưởng Văn học Nghệ thuật. Đời tư.
wiki
Cao Tiêu
Đời tư. Ông và vợ có tất cả 8 người con, trong đó người con thứ 6 là Hoàng Văn Tuyên sinh năm 1965. Cuối tháng 4, cũng như một số sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng hòa, ông cùng gia đình di tản ra nước ngoài. Sau đó, gia đình ông định cư tại quận Orange, Nam Tiểu bang California, Hoa Kỳ. Tại Hội chợ tết Sinh viên ở Nam California trong nhiều năm, khách du Xuân cũng được thưởng lãm những nét bút đẹp, những bài thơ hay của Thi sĩ Cao Tiêu khi ông khai bút đầu Xuân. Ngày 14 tháng 2 năm 2012, ông từ trần tại nơi định cư, hưởng thọ 82 tuổi.
wiki
Truyền thuyết Việt Nam
Truyền thuyết Việt Nam Truyền thuyết là một thể loại văn học dân gian, ra đời sau truyện thần thoại, thường có yếu tố tưởng tượng kì ảo, các nhân vật, sự kiện đều liên quan đến lịch sử, là những truyện truyền miệng kể lại truyện tích các nhân vật lịch sử hoặc giải thích nguồn gốc các phong cảnh địa phương theo quan niệm của nhân dân, biện pháp nghệ thuật phổ biến của nó là khoa trương, phóng đại, đồng thời nó cũng sử dụng yếu tố hư ảo, thần kỳ như cổ tích và thần thoại. Dựa theo nội dung truyền thuyết Việt Nam có thể chia theo các thời kì sau: GS. Lê Chí Quế đã đưa ra một số đặc trưng nghệ thuật của truyền thuyết dân gian như sau: Tham khảo. Có thể tham khảo các truyện Lạc Long Quân- Âu Cơ; Bánh Chưng - Bánh Giầy; Thánh Gióng; Sơn Tinh - Thủy Tinh; Sự tích Hồ Gươm;...
wiki
European Hot 100 Singles
European Hot 100 Singles được biên soạn bởi "Billboard" và tạp chí "Music & Media" từ tháng 3 năm 1984. Bảng xếp hạng dựa trên các bảng xếp hạng doanh số đĩa đơn quốc gia ở 15 quốc gia châu Âu: Áo, Bỉ (tách riêng vùng Flanders và Wallonia), Đan Mạch, Đức, Hungary, Hà Lan, Ireland, Na Uy, Pháp, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và Ý. Bảng xếp hạng đột ngột bị dừng phát hành từ ngày 11 tháng 12 năm 2010. Sau đó, "Billboard" chính thức đưa tin đã đóng cửa văn phòng của bảng xếp hạng này tại Luân Đôn. Lịch sử. Bảng xếp hạng châu Âu đầu tiên bắt đầu với tên "Europarade" từ đầu năm 1976 bởi TROS Radio ở Hà Lan. Bảng xếp hạng chỉ gồm 6 nước (Anh, Pháp, Đức, Hà Lan, Bỉ và Tây Ban Nha). Bảng xếp hạng thu thập top 15 ca khúc từ các nước và cho số điểm tương ứng, phụ thuộc vào vị trí từ 1 đến 15 vị trí đứng của ca khúc. Ý và Đan Mạch được thêm vào năm 1979 và trong 1980, Úc và Thuỵ Sĩ cũng đã góp tên. Ireland là quốc gia thứ 11 của bảng xếp hạng này, gia nhập vào tháng 10 năm 1983. Tháng 3 năm 1984, "Music & Media" ở Amsterdam đã mở bảng xếp hạng châu Âu của riêng mình, "The Eurochart Hot 100". Bảng xếp hạng lấy vị trí xếp hạng của các ca khúc ở mỗi nước, cùng với phần trăm doanh số đĩa bán được của ca khúc đó ở từng quốc gia. Trong các năm 1986-1987, Bảng xếp hạng châu Âu chính thức này cũng đã trở thành một chương trình âm nhạc truyền hình trên kênh truyền hình châu Âu Music Box với dẫn chương trình người Hà Lan.
wiki
European Hot 100 Singles
Bảng xếp hạng nhanh chóng giành được sự đón nhận, bắt đầu có thêm nhiều quốc gia, còn Music & Media trở thành một ấn phẩm của "Billboard" từ tháng 1 năm 1986. Từ 1982 đến 1986, "Europarade", phát hành trong tờ Music Week và tạp chí Hitkrant của Hà Lan, đã được dùng. Từ tháng 11 năm 1986, Eurochart Top 100 của Music & Media đã được dùng làm nguồn thông tin để "Billboard" bắt đầu phát hành bảng xếp hạng European Hot 100 Singles cho đến nay. Thành tích của bảng xếp hạng. Thành tích của nghệ sĩ. Giữ vị trí quán quân ở bảng xếp hạng đĩa đơn và album cùng lúc. Cho đến nay, Madonna là nghệ sĩ có nhiều vị trí quán quân đồng thời nhất với 5 đĩa đơn và album. Sau đó là Michael Jackson với 5 đĩa đơn và 3 album.
wiki
Ana Ligia Mixco Sol de Saca
Ana Ligia Mixco Sol de Saca Ana Ligia Mixco Sol de Saca (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1961) là một nữ doanh nhân người Salvador, từng là Đệ nhất phu nhân El Salvador từ năm 2004 đến 2009. Bà là vợ của cựu Tổng thống Antonio Saca. Mixco, con gái của Ana María Sol de Mixco và José Mauricio Mixco Orellana, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1961, tại Santa Tecla, Tỉnh La Libertad, El Salvador. Cô theo học Colegio Fátima cho trường tiểu học trước khi học tại Trung tâm Berkely. Năm 1982, cô đại diện cho tỉnh La Libertad là thí sinh trong cuộc thi Hoa hậu El Salvador. Lần đầu tiên cô gặp Antonio Saca vào ngày 11 tháng 1 năm 1988. Cặp đôi kết hôn vào ngày 11 tháng 8 năm 1989 và có ba đứa con, Gerardo Antonio, Jose Alejandro và Christian Eduardo. Năm 1993, cô và chồng đồng sáng lập SAMIX Group, một công ty truyền thông, với Mixco là phó chủ tịch của SAMIX. Năm 2006, Đệ nhất phu nhân Ana Ligia Mixco de Saca từng là chủ tịch danh dự của ban tổ chức Đại hội Thể thao Mỹ Latinh đặc biệt, diễn ra tại San Salvador từ ngày 28 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4 năm 2006. Đây là lần đầu tiên Người đặc biệt Thế vận hội đã được tổ chức ở Mỹ Latinh.
wiki
Ngân hàng liên doanh Lào-Việt
Ngân hàng liên doanh Lào-Việt Ngân hàng liên doanh Lào-Việt (tên giao dịch tiếng Anh: Lao - Viet Bank, tên viết tắt LVB) là một ngân hàng liên doanh giữa Ngân hàng Đầu tư và Phát triển của Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương của Lào. Ngân hàng này có trụ sở tại 44 Lanexang Avenue, Viêng Chăn, Lào. Thành lập. Ngân hàng này được thành lập ngày 22 tháng 6 năm 1999, trước sự chứng kiến của các vị lãnh đạo cao cấp của hai Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Ngoại Thương Lào (BCEL) đã ký kết thoả thuận hợp tác thành lập Ngân hàng Liên doanh Lào-Việt.
wiki
Cycloserine
Cycloserine Cycloserine, được bán dưới tên nhãn hiệu là Seromycin, là một loại kháng sinh dùng để điều trị bệnh lao. Cụ thể hơn thì nó được sử dụng, cùng với các loại thuốc chống lao khác, cho bệnh lao kháng thuốc. Chúng được đưa vào cơ thể bằng đường miệng. Tác dụng phụ thường gặp bao gồm phản ứng dị ứng, co giật, buồn ngủ, lảo đảo và tê. Chúng được khuyến cáo là không nên sử dụng ở những người bị suy thận, động kinh, trầm cảm, hoặc nghiện rượu. Vẫn chưa rõ liệu sử dụng trong khi mang thai có an toàn cho em bé hay không. Cycloserine có cấu trúc tương tự như amino acid d-alanine và hoạt động bằng cách can thiệp vào quá trình tổng hợp thành tế bào của vi khuẩn. Cycloserine được phát hiện vào năm 1954 từ một chủng "Streptomyces". Nó nằm trong danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế. Chi phí bán buôn ở các nước đang phát triển là khoảng 29,70–51,30 USD / tháng. Vào năm 2015, chi phí tại Hoa Kỳ đã tăng lên 3.150 đô la Mỹ một tháng và sau đó giảm xuống còn 1.050 đô la Mỹ mỗi tháng. Đặc tính hóa học. Trong môi trường có tính axit nhẹ, cycloserine thủy phân để tạo ra hydroxylamine và D-serine. Cycloserine có thể được coi là một dạng serine vòng, có được nhờ mất đi dihydrogen oxy hóa để hình thành liên kết nitơ-oxy. Cycloserine ổn định trong điều kiện cơ bản, với ổn định lớn nhất ở pH = 11.5.
wiki
Lai Thành
Lai Thành Lai Thành là một xã nằm ở huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, Việt Nam. Địa lý. Xã Lai Thành nằm cách trung tâm thành phố Ninh Bình 33 km, có vị trí địa lý: Xã Lai Thành có diện tích 10,49 km², dân số năm 2019 là 12.982 người, mật độ dân số đạt 1.238 người/km². Xã này nằm trên quốc lộ 10 đồng thời là điểm cuối của đường quốc lộ 12B (tỉnh lộ 480 cũ) nối từ Quốc lộ 1 tại Mai Sơn qua Thị trấn Yên Thịnh về đây. Lịch sử. Đây là một xã thuộc vùng đồng bằng, có lịch sử hình thành từ việc khai mở đất hoang ven biển cùng với huyện Kim Sơn năm 1829. Xã này được thành lập theo quyết định số 199/QD-NV ngày 22/7/1964 trên cơ sở xã Công Trứ. Văn hóa. Lai Thành là địa danh có cửa biển Thần Phù, làng nghề cói Kim Sơn và là làng nghề rượu Kim Sơn. Lai Thành cũng có đền Vua Lê Đại Hành, tương truyền khi Ngô Nhật Khánh đưa Chiêm Thành tấn công thành Thiên Phúc ở đây bị bão dìm chết gần nơi này và xưa kia những người Trường Yên đi lập nghiệp tại đây đã mang theo truyền thống sinh hoạt ở cố đô Hoa Lư khi lập nên đền này. Đây cũng là xã được công nhận Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ở Ninh Bình.
wiki
GoGo Sentai Boukenger vs. Super Sentai
GoGo Sentai Boukenger vs. Super Sentai là bộ phim thuộc thể loại tokusatsu. Bộ phim được phát hành dưới định dạng vào tháng 2 năm 2007. Đây là bộ phim kỉ niệm 30 năm Super Sentai. Cốt truyện. Ma thần Thời gian Chronos và Thầy tế Gajah lên kế hoạch bắt cóc nhóm Boukenger vào một thế giới khác. Để giải cứu bạn bè, BoukenSilver, nhờ sự giúp đỡ của AkaRed, đã tìm kiếm và tập hợp các thành viên của một vài nhóm Super Sentai đời trước, trong khi Chronos tiến hành nghi thức hồi sinh cho 3 yêu quái từng bị Super Sentai đánh bại. Sau khi được giải thoát, Boukenger tham gia vào liên minh Super Sentai để đánh bại kế hoạch của Chronos. Nhân vật. Nhân vật mới. AkaRed. AkaRed là hiện thân của tất cả các chiến binh đỏ (red senshi) trong suốt loạt series Super Sentai. Là người sở hữu sức mạnh của tất cả các chiến binh đỏ. Ma thần Thời gian Chronos. là nhân vật phản diện trong tập phim. Hắn có thể điều khiển thời gian và làm hồi sinh các yêu quái Super Sentai đời trước. Hắn cũng có thể bắt cóc Boukenger và MagiShine vào trong một nhà tù thời gian. Chronos được lồng tiếng bởi Bunkō Ogata.
wiki
Viva la Vida or Death and All His Friends
Viva la Vida or Death and All His Friends, còn có tên gọi tắt là Viva la Vida, là album phòng thu thứ tư của ban nhạc alternative rock người Anh Coldplay, phát hành vào ngày 12 tháng 6 năm 2008 bởi hãng Parlophone. Album đặt tên theo một cụm từ tiếng Tây Ban Nha mà dịch ra tiếng Việt có nghĩa là "Cuộc sống muôn năm". Ca từ trong album chủ yếu nói về tình yêu, sự sống, cái chết và chiến tranh. Các buổi ghi âm album đã diễn ra từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008 với các nhà sản xuất Jon Hopkins, Rik Simpson, Markus Dravs và Brian Eno. Đây là album đầu tiên của nhóm có Eno tham gia với vai trò nhà sản xuất. Ban nhạc buộc mình thử nghiệm các phong cách mới, bởi như Eno yêu cầu thì mỗi bài hát trong album phải mang những nét đặc trưng riêng biệt, và bản thu âm “Viva la Vida” là phải nổi bật nhất. Theo dự định thì ban nhạc chỉ muốn làm album này với thời lượng 42 phút, tuy nhiên trên thực tế thì thời lượng của album dài hơn dự định. Ngày phát hành album đã bị trì hoãn nhiều lần. Bìa của album "Viva la Vida or Death and All His Friends" là bức tranh Nữ thần Tự do dẫn dắt nhân dân do Eugène Delacroix vẽ.
wiki
Viva la Vida or Death and All His Friends
Viva la Vida đạt thành công vang dội ở cả mặt thương mại lẫn giải thưởng. Năm đĩa đơn được phát hành để thúc đẩy quảng bá album bao gồm "Violet Hill" và "Viva la Vida" (tháng 5 năm 2008), "Lovers in Japan" và "Lost!" (tháng 11 năm 2008) và "Strawberry Swing" (tháng 9 năm 2009). Ca khúc chính "Viva la Vida" trở thành bài hát đầu tiên đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng ở cả Vương quốc Anh lẫn Mỹ. Album cũng đoạt giải Album Rock xuất sắc nhất tại lễ trao giải Grammy năm 2009 và còn được đề cử ở hạng mục Album của năm. Đây đồng thời còn là một trong những album bán chạy nhất năm 2008. Tính đến năm 2011, album đã bán hơn 10 triệu bản. Ngày 25 tháng 11 năm 2008 ban nhạc cho tái phát hành "Viva la Vida" với một ấn bản mới có chứa cả album gốc và EP "Prospekt's March". Bối cảnh.
wiki