title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Vị trí của Mặt Trời
Phương trình thời gian. Ngoài sự dao động theo hướng Bắc-Nam hàng năm của vị trí biểu kiến của Mặt Trời, tương ứng với sự thay đổi xích vĩ của nó được mô tả ở trên, còn có một dao động nhỏ hơn nhưng phức tạp hơn theo hướng Đông-Tây. Nó là hệ quả của độ nghiêng của trục Trái Đất và cũng do sự thay đổi tốc độ chuyển động quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời do hình dạng elip của quỹ đạo. Các tác động chính của dao động Đông-Tây này là sự thay đổi thời gian của các sự kiện hàng ngày như Mặt Trời mọc và Mặt Trời lặn, và sự khác nhau khi đối chiếu số giờ đọc được từ đồng hồ Mặt Trời so với đồng hồ hiển thị thời gian địa phương trung bình. Như đồ thị bên cho thấy, một đồng hồ Mặt Trời có thể nhanh hoặc chậm lên đến khoảng 16 phút so với đồng hồ thường. Do Trái Đất tự quay với tốc độ trung bình khoảng một độ cứ sau bốn phút, so với Mặt Trời, sự dịch chuyển 16 phút này tương ứng với một sự dịch chuyển khoảng bốn độ về phía Đông hoặc Tây của vị trí trông thấy của Mặt Trời, so với vị trí trung bình của nó. Cụ thể là một sự dịch chuyển về phía Tây sẽ làm cho đồng hồ Mặt Trời đi trước đồng hồ thường. Vì tác động chính của dao động này liên quan đến thời gian, nó được gọi là phương trình thời gian, sử dụng từ "phương trình" theo nghĩa hơi cổ xưa có nghĩa là "hiệu chỉnh" hơn là nghĩa "bằng nhau". Dao động được đo bằng các đơn vị thời gian, phút và giây, tương ứng với lượng mà đồng hồ Mặt Trời sẽ đi trước đồng hồ thường. Phương trình thời gian có thể dương hoặc âm. Biểu đồ analemma.
wiki
Vị trí của Mặt Trời
Biểu đồ analemma. Một biểu đồ analemma là một sơ đồ cho thấy sự thay đổi hàng năm của vị trí của Mặt Trời trên thiên cầu, so với vị trí trung bình của nó khi nhìn từ một vị trí cố định trên Trái Đất. (Từ "analemma" cũng thỉnh thoảng, nhưng hiếm khi, được sử dụng trong các bối cảnh khác.) Nó có thể được coi là một hình ảnh của các chuyển động biểu kiến của Mặt Trời trong một năm và trông giống như hình con số 8. Biểu đồ analemma còn có thể được hình dung là một loạt các bức ảnh chồng chất được chụp vào cùng một thời điểm trong ngày, cách nhau vài ngày trong một năm. Biểu đồ analemma cũng có thể được coi là một biểu đồ kết hợp của xích vĩ của Mặt Trời, thường được vẽ theo chiều dọc, so với phương trình thời gian, được vẽ theo chiều ngang. Thông thường, các tỉ lệ được chọn sao cho khoảng cách bằng nhau trên biểu đồ biểu thị các góc bằng nhau theo cả hai hướng trên thiên cầu. Do đó, 4 phút (hay chính xác hơn là 3 phút, 56 giây) theo phương trình thời gian, được biểu thị bằng cùng khoảng cách 1° theo xích vĩ, vì Trái Đất tự quay với tốc độ trung bình 1° cứ sau 4 phút, so với Mặt Trời. Một số biểu đồ analemma được vẽ như nó sẽ được nhìn thấy trên bầu trời bởi một người quan sát nhìn lên trên. Nếu hướng Bắc được hiển thị ở trên cùng, thì hướng Tây là ở "bên phải". Điều này thường được thực hiện ngay cả khi analemma được biểu diễn trên một quả địa cầu địa lý, trên đó các lục địa, v.v., được hiển thị với hướng Tây ở bên trái.
wiki
Vị trí của Mặt Trời
Một số analemma được đánh dấu ngày để hiển thị vị trí của Mặt Trời trên biểu đồ vào các ngày khác nhau, cách nhau vài ngày, trong suốt cả năm. Điều này cho phép analemma được sử dụng để thực hiện các phép tính định lượng tương tự đơn giản như thời gian và góc phương vị của các sự kiện Mặt Trời mọc và Mặt Trời lặn. Các analemma không có dấu ngày được sử dụng để chỉnh thời gian được chỉ bởi các đồng hồ Mặt Trời.
wiki
Kepler-452b
Kepler-452b là một ngoại hành tinh quay quanh ngôi sao cấp G Kepler-452. Nó được xác định bởi kính thiên văn không gian Kepler và việc phát hiện ra nó đã được NASA công bố vào ngày 23 tháng 7 năm 2015. Đây là lần đầu tiên phát hiện hành tinh giống Trái Đất quay quanh trong vùng sinh sống của một ngôi sao tương tự như Mặt Trời. Nó được cho là hành tinh thứ hai gần giống Trái Đất được biết cho đến nay, sau Kepler-438b, mặc dù người ta không rõ liệu Kepler-452b có phải là một hành tinh cấu tạo từ đất đá hay là một hành tinh khí. Kepler-452b lớn hơn so với Kepler-1649c, đường kính Kepler 452b là 19 113km còn đường kính Kepler 1649c là 13 507km. Hành tinh này cách Hệ Mặt trời 1,400 năm ánh sáng; với tốc độ 59.000 km/h của New Horizons, tàu vũ trụ nhanh nhất từng được con người chế tạo, sẽ mất khoảng 25,8 triệu năm để tiếp cận Kepler-452b. Đặc điểm. Chu kì quay quanh Mặt trời của Kepler-452b bằng 385 ngày Trái Đất. Đường kính của Kepler-452b lớn hơn 63% đường kính Trái Đất và già hơn Trái Đất 1,5 tỉ năm, di chuyển trên quỹ đạo nằm trong vùng sự sống của ngôi sao mẹ của nó. Cường độ ánh sáng chiếu đến Kepler-452b bởi sao mẹ bằng 1,1 lần cường độ ánh sáng chiếu đến Trái Đất bởi Mặt Trời. Nếu bỏ qua hiệu ứng nhà kính, nhiệt độ bề mặt trung bình là 265K. Khối lượng Kepler-452b chưa rõ, tuy nhiên theo kết quả tính toán mô hình thì bằng khoảng 5 lần khối lượng Trái Đất. Với khối lượng đó, trọng lực trên hành tinh này bằng 1,88 lần so với Trái Đất. Phương pháp phát hiện.
wiki
Kepler-452b
Phương pháp phát hiện. Kepler-452b được phát hiện ra nhờ kính thiên văn Kepler bằng cách theo dõi thay đổi về độ sáng của các ngôi sao: khi hành tinh bay ngang qua, ngôi sao đó sẽ "tối đi" chút ít. Phương pháp này chỉ có thể đo được kích cỡ của hành tinh mà không thể đo được khối lượng của chúng, do đó, tính chất và tình trạng của Kepler-452b chỉ được suy ra từ hai dữ liệu: kích cỡ hành tinh và lượng bức xạ nó nhận được từ ngôi sao chủ. Việc Kepler-452b là hành tinh cấu tạo từ đất đá (Terrestrial planet) hay là hành tinh khí (nguyên văn tiếng Anh - Gas Giant) vẫn chưa được chứng tỏ rõ ràng. Trong báo cáo của nhóm phát hiện, xác suất Kepler-452b là một hành tinh đá là từ 49-62%. Các hành tinh đất đá giống Trái Đất. Theo Chỉ số tương tự Trái Đất (Earth Similarity Index, ESI), một chỉ số dùng để đánh giá mức độ giống của các vật thể có khối lượng hành tinh so với Trái Đất, Kepler-452b đứng ở vị trí số 6 trong danh sách các hành tinh giống Trái Đất nhất.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính của Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Theo Bộ Quốc phòng Việt Nam, sứ mệnh của quân đội là "vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân". Ngày truyền thống là ngày 22 tháng 12 hàng năm. Quân kỳ là quốc kỳ Việt Nam có thêm dòng chữ "Quyết thắng" màu vàng ở góc phía trên bên trái. Mười lời thề danh dự của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam nói rằng quân đội có nhiệm vụ: "không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội". Danh xưng. Quân đội nhân dân Việt Nam thường được viết tắt là "Quân đội Nhân dân". Tên được đặt bởi Hồ Chí Minh vì ông cho rằng đây là quân đội "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ". Sau này, Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng thêm: "có nguồn gốc nhân dân, bảo vệ tính mạng, tài sản và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ nền độc lập thống nhất và bản sắc dân tộc". Tên gọi qua các thời kỳː Khẩu hiệu. Khẩu hiệu của Quân đội nhân dân Việt Nam là: Khẩu hiệu được trích từ bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi lễ kỷ niệm 20 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944-22/12/1964) vào tối ngày 29/12/1964 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng (Hà Nội).
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Ngoài ra còn có khẩu hiệu khác là "Trung với nước, hiếu với dân". Nhiều người thường bị nhầm lẫn câu nói này với câu nói bên trên. Đây thực ra là một câu nói khác, được thêu trên lá cờ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào năm 1946. Ở đây, "Trung là trung với Tổ quốc, Hiếu là hiếu với nhân dân". Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, được sự giúp đỡ hết lòng của nhân dân, quân đội ta hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ trao cho, đã có truyền thống vẻ vang là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, công tác và lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn giản dị, đoàn kết nội bộ, đồng cam cộng khổ với nhân dân, luôn luôn sẵn sàng khắc phục khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Bộ đội ta là bộ đội nhân dân, bộ đội cách mạng có truyền thống anh dũng, khắc khổ, kiên nhẫn, cần cù, chất phác, việc khó khăn nguy hiểm mấy cũng không sợ, nhất định làm cho kỳ được. Đó là truyền thống, đạo đức, tác phong tốt, phải luôn được giữ vững và phát triển". Nhà nước Việt Nam nói: "ngoài mục tiêu, lý tưởng vì nhân dân phục vụ, chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân, Quân đội nhân dân Việt Nam không có mục tiêu, lý tưởng nào khác". Quá trình phát triển. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập với 34 người theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quá trình phát triển. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập với 34 người theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu Quốc quân và đổi tên thành Việt Nam Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Mặt trận Việt Minh thực hiện thành công cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Từ năm 1945 đến năm 1949, Giải phóng quân phải chiến đấu với đối thủ mạnh hơn hẳn là quân đội Thực dân Pháp, tuy nhiên bằng sách lược chiến tranh hợp lý, Giải phóng quân ngày càng phát triển bất chấp việc quân Pháp liên tục càn quét, khiến quân Pháp sa lầy vào một cuộc chiến tiêu hao tốn kém và ngày càng kiệt sức. Từ năm 1945 đến đầu năm 1950, Giải phóng quân đã phát triển từ một đội quân nhỏ gồm vài nghìn người trở thành Quân đội Quốc gia Việt Nam với quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành 40 chi đội. Đến cuối năm 1950, Giải phóng quân giành chiến thắng lớn trong Chiến dịch Biên giới đồng thời chuyển đổi vị thế từ phòng thủ sang phản công.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Sau Chiến dịch Biên giới, biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc được khai thông, Việt Nam bắt đầu nhận được sự viện trợ vũ khí của khối Xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, Trung Quốc và một số nước Đông Âu), Giải phóng quân phát triển vượt bậc cả về số lượng và khả năng chiến đấu. Năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam đổi tên thành "Quân đội nhân dân Việt Nam". Sau đó, thành lập các đại đoàn quân chủ lực 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351, binh chủng pháo binh cũng được thành lập. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Quân đội nhân dân Việt Nam lập nên Chiến thắng Điện Biên Phủ trước thực dân Pháp. Cho đến kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương năm 1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có tổng quân số khoảng 25 vạn quân chủ lực và vài chục vạn dân quân địa phương. Sau hiệp định Geneva, bộ phận quân đội nhân dân ở miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội Việt Nam bắt đầu xây dựng quân đội theo hệ chính quy thống nhất. Bộ Chính trị quyết định cắt giảm 8 vạn quân chủ lực, đưa 3 vạn quân sang làm kinh tế, chỉ giữ lại 17 vạn quân chủ lực, đồng thời thành lập thêm các quân chủng Hải quân, Phòng không Không quân, binh chủng xe tăng, lực lượng biên phòng...
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Ngày 15 tháng 2 năm 1961, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, là một bộ phận của Quân đội nhân dân chiến đấu ở miền Nam. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tiến hành chiến tranh chống Mỹ với chiến lược được gọi là "toàn dân, toàn diện, lâu dài", tiêu biểu là chống chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam; chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của Mỹ ở miền Bắc mà nổi bật là chiến dịch Điện Biên Phủ trên không tháng 12 năm 1972; Cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975 với kết thúc là chiến dịch Hồ Chí Minh vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Trong thời kỳ 1961-1975, tài liệu Mỹ thường phân biệt 2 lực lượng: Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (Mỹ gọi là "Việt Cộng") với Quân đội nhân dân Việt Nam (Mỹ gọi là "quân Bắc Việt Nam"). Nhưng thực ra, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được hình thành từ một bộ phận du kích của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự phân biệt này của Mỹ xuất phát từ việc Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về pháp lý có sự độc lập với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhưng vẫn chịu sự lãnh đạo về Đảng của Đảng Lao động Việt Nam (do Hiệp định Genève không cấm), nhằm có vị thế hợp lý trên bàn đàm phán tại Paris. Sau năm 1975, khi đã "công khai" sự lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với Mặt trận Giải phóng, Chính phủ Cách mạng lâm thời và Quân Giải phóng trong suốt cuộc chiến, thì Quân giải phóng được xem là một phần Quân đội nhân dân Việt Nam như bản chất khi thành lập nó.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Cho đến năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có 1,24 triệu quân chủ lực và hàng triệu dân quân địa phương, đứng thứ 4 về tổng quân số trên thế giới, chỉ sau Liên Xô, Hoa Kỳ và Trung Quốc . Năm 1977, Việt Nam chủ trương giảm số quân chủ lực xuống còn 85 vạn người (60 vạn quân thường trực chiến đấu, 25 vạn quân tham gia sản xuất kinh tế). Tuy nhiên, khi tình hình biên giới Tây Nam phức tạp, Việt Nam buộc phải chuyển các đơn vị kinh tế sang chiến đấu và tăng quân số lên trên 1 triệu người. Đồng thời hơn 5 vạn bộ đội được đưa sang Lào để đảm bảo sự ổn định tại Lào. Ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân đội Việt Nam huy động 25 vạn quân chủ lực mở cuộc phản công trước cuộc tiến công của Quân đội Campuchia Dân chủ (Khmer Đỏ). Sau đó đã phối hợp với các lực lượng vũ trang Campuchia, đánh tan 21 sư đoàn quân Campuchia Dân chủ, xoá bỏ chế độ diệt chủng. Ngày 17/2/1979, Trung Quốc đem 60 vạn quân đánh vào biên giới phía Bắc Việt Nam, cuộc chiến tranh chỉ kéo dài trong 30 ngày, nhưng sau đó 2 bên căng thẳng suốt 10 năm. Trong năm 1979-1980, Việt Nam phải duy trì quân số chủ lực đến trên 2 triệu người, đến năm 1983 giảm xuống còn 1,6 triệu người. Năm 1989, sau khi bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và rút quân khỏi Lào và Campuchia, quân đội Việt Nam giảm xuống còn khoảng 60 vạn người. Năm 2010, theo Việt Nam công bố, lực lượng thường trực Việt Nam gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương có tổng quân số khoảng gần nửa triệu người, và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm 2010, theo Việt Nam công bố, lực lượng thường trực Việt Nam gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương có tổng quân số khoảng gần nửa triệu người, và lực lượng quân dự bị khoảng 5 triệu người. Tham chiến. Quân đội nhân dân Việt Nam đã chiến đấu với nhiều quốc gia, chính thể, tổ chức... như: Pháp, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Quốc gia Việt Nam/Việt Nam Cộng hòa, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Úc, New Zealand, Vương quốc Lào, Vương quốc Campuchia - Cộng hòa Khmer, Campuchia Dân chủ (Khmer Đỏ), FULRO, tổ chức du kích của người H'Mông tại Lào (trong chiến tranh Việt Nam nói riêng và các cuộc xung đột, chiến tranh khác tại Đông Dương nói chung). Những cuộc chiến / chiến dịch tiêu biểu bao gồm: Theo thống kê của Việt Nam thì đến năm 2012, Việt Nam có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 191.605 liệt sĩ hy sinh trong Chiến tranh Đông Dương, 849.018 liệt sĩ hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam, số còn lại hy sinh trong các cuộc chiến tranh khác, hoặc hy sinh khi thực hiện nhiệm vụ trong thời bình. Nhiều liệt sĩ cũng đồng thời là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thì: "Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đã có gần 160.000 đảng viên hy sinh...". Hoàng Văn Nhủng là liệt sỹ đầu tiên, hy sinh ngày 5 tháng 2 năm 1945 khi đánh diệt đồn Đồng Mu (Bảo Lạc, Cao Bằng), trong trận đánh thứ ba của Quân đội nhân dân Việt Nam (khi đó mang tên là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân).
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Tính tới năm 2012, cả nước có 9.637 công trình ghi công liệt sĩ trên cả nước (nghĩa trang, đài tưởng niệm, đền thờ). Tỉnh có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là Quảng Nam với 65.000 liệt sĩ (ngoài ra tỉnh Quảng Nam còn có hơn 30.000 thương binh). Huyện có nhiều liệt sĩ nhất cả nước là huyện Điện Bàn (cũng thuộc tỉnh Quảng Nam) với hơn 19.800 liệt sĩ. Tặng thưởng. Trong suốt các cuộc chiến đã có tổng cộng: Sáng ngày 21 tháng 12 năm 2019, Quân đội nhân dân Việt Nam được trao tặng Huân chương Quân công hạng nhất từ thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thay mặt Nhà nước Việt Nam trao. Từ tháng 12/1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho 44.253 bà mẹ có chồng hoặc con cái là binh sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam đã hy sinh, trong đó: Tính đến tháng 7/2020, Nhà nước Việt Nam đã phong tặng hoặc truy tặng 139.275 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trong đó tỉnh Quảng Nam có số lượng Bà mẹ Việt Nam anh hùng được phong tặng và truy tặng cao nhất (15.261 mẹ), tiếp theo là Bến Tre với 6.905 mẹ, Quảng Ngãi có 6.802 mẹ, Hà Nội có 6.723 mẹ. Nhiệm vụ.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Nhiệm vụ. Quân đội nhân dân Việt Nam có 02 nhiệm vụ, bao gồm: "chiến đấu, công tác phục vụ nhân dân" và "sản xuất" để hoàn thành mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ chính trị của Tổ quốc, bảo vệ bản sắc dân tộc. Chiến đấu. Đây là nhiệm vụ then chốt của Quân đội nhân dân Việt Nam. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Quân đội được tổ chức có hai thành phần: Quân đội thường trực làm nòng cốt cùng lực lượng rộng rãi quần chúng vũ trang. Ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương và Dân quân tự vệ. Hướng tổ chức là tinh gọn, được trang bị các loại vũ khí, khí tài phù hợp, thường xuyên thực hành huấn luyện, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, vững vàng bản chất chính trị, nắm chắc tình hình đất nước, khu vực và quốc tế để có các biện pháp tác chiến phù hợp, đẩy mạnh hợp tác quốc tế. Công tác phục vụ nhân dân.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Công tác phục vụ nhân dân. Quân đội nhân dân luôn gắn bó mật thiết, đồng cam cộng khổ với nhân dân, thực sự là cầu nối vững chắc và tin cậy của chính quyền với nhân dân. Quân đội còn có nhiệm vụ tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của chính quyền, phản bác lại các luận điểm bóp méo, bôi nhọ, không đúng sự thật. Bên cạnh đó, quân đội là một trong các lực lượng nòng cốt trong công tác cứu hộ, cứu nạn, giúp dân phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, xả thân trong hiểm nguy để cứu tính mạng và tài sản của nhân dân. Giải quyết hậu quả chiến tranh bao gồm rà, phá bom mìn, tẩy độc môi trường và các chính sách hậu chiến. Tại những khu vực khó khăn, vùng sâu, vùng xa, quân đội chịu cả trách nhiệm phổ cập giáo dục và chăm sóc y tế với người dân. Sản xuất.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Các đơn vị quân đội đã tận dụng mọi tiềm năng, nguồn lực lao động, đất đai, kỹ thuật... Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo nguồn thực phẩm bổ sung tại chỗ, góp phần giữ ổn định và cải thiện đáng kể đời sống vật chất cho bộ đội. Các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp quốc phòng đã sản xuất được một số loại vũ khí, trang bị khí tài phù hợp, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại, yêu cầu sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Nhiều đơn vị làm kinh tế của quân đội đã sản xuất và kinh doanh có hiệu quả, trở thành các tổ chức, tập đoàn kinh tế lớn của đất nước, đi đầu trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng, góp phần xứng đáng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước... Hoạt động sản xuất kinh tế của lực lượng quân đội còn hướng tới giúp dân khai hoang, cải tạo đồng ruộng, xây dựng ruộng lúa nước, trồng cỏ phục vụ chăn nuôi gia súc; hỗ trợ vốn làm nhà và cây con giống, giúp đỡ về kỹ thuật sản xuất, chống di dân và đón nhận dân ở tuyến sau đến định cư, giúp dân ổn định cuộc sống lâu dài. Đến nay, Quân đội đã xây dựng được 23 khu kinh tế quốc phòng đây là nhân tố quan trọng trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh của đất nước. Doanh nghiệp quân đội ngoài phục vụ các mục tiêu quân sự còn phục vụ nhu cầu dân sự, tiến hành đầu tư trong và ngoài nước. Quân đội sản xuất xây dựng kinh tế nhằm góp phần gìn giữ năng lực sản xuất quốc
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
nghiệp quân đội ngoài phục vụ các mục tiêu quân sự còn phục vụ nhu cầu dân sự, tiến hành đầu tư trong và ngoài nước. Quân đội sản xuất xây dựng kinh tế nhằm góp phần gìn giữ năng lực sản xuất quốc phòng, nâng cao năng lực chiến đấu cho Quân đội và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách quốc phòng.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Tổ chức. Theo Luật Quốc phòng năm 2005 (luật số 39/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005), Quân đội nhân dân là một bộ phận và là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân, bao gồm Lực lượng Thường trực và Lực lượng Dự bị Động viên. Lực lượng Thường trực của Quân đội nhân dân có Bộ đội Chủ lực và Bộ đội Địa phương. Cấp tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam từ thấp đến cao là Tiểu đội, Trung đội, Đại đội, Tiểu đoàn, Trung đoàn, Lữ đoàn, Sư đoàn (trước đây gọi là Đại đoàn). Cấp cao nhất là Quân đoàn, hiện nay có 4 quân đoàn là các quân đoàn 1, 2, 3, 4. Đây chính là quân chủ lực cơ động. Từ cấp tiểu đoàn trở lên có ban chỉ huy gồm cấp trưởng, cấp phó, tham mưu trưởng và cấp phó phụ trách công tác chính trị, theo chế độ một thủ trưởng. Trước đây, khi thực hiện chế độ "2 thủ trưởng", thì ngoài thủ trưởng quân sự (đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng...), từ cấp đại đội trở lên còn có thủ trưởng chính trị, được gọi là chính trị viên (ở cấp đại đội và tiểu đoàn) hoặc chính ủy (ở cấp trung đoàn trở lên). Cấp thủ trưởng chính trị này từ sau Chiến tranh Việt Nam đã chuyển thành cấp phó phụ trách công tác chính trị. Theo nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ X, chế độ chính ủy – chính trị viên lại được khôi phục trong toàn quân từ năm 2006.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương; các quân khu, quân chủng, bộ đội biên phòng, quân đoàn, binh chủng; hệ thống các đơn vị bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu và các đơn vị kinh tế - quốc phòng. 2020 Lãnh đạo. Chủ tịch nước có vai trò là Thống lĩnh của Quân đội nhân dân Việt Nam và giữ vai trò là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh thông qua Hội đồng Quốc phòng và An ninh. Quân ủy Trung ương là cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Quân đội nhân dân Việt Nam, được thành lập vào tháng 1 năm 1946 do Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp làm Bí thư Quân ủy Trung ương. Do Việt Nam là nước đơn đảng, Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, lãnh đạo Quân đội trực tiếp, tuyệt đối nên Tổng Bí thư (kiêm nhiệm Bí thư Quân ủy Trung ương) là chức danh lãnh đạo cao nhất đối với quân đội. Các chức vụ cao nhất trong Quân đội nhân dân Việt Nam gồm Bộ trưởng Bộ quốc phòng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Tổng Tham mưu trưởng, có cấp bậc quân hàm cao nhất là Đại tướng. Ngoài ra, trước đây từng có chức vụ Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang do Đại tướng Võ Nguyên Giáp nắm giữ. Cấp bậc quân hàm.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Cấp bậc quân hàm. Theo Lệnh số 32/2014/L-CTN ngày 09/12/2014 của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc công bố "Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam" đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 27/11/2014, các cấp bậc của Quân đội nhân dân Việt Nam được quy định như sau: Màu viền của quân hàm thể hiện các quân chủng: Lục quân: màu đỏ tươi; Phòng không - Không quân: màu xanh da trời; Hải quân: màu tím than Màu nền là màu vàng. Quân hàm Bộ đội biên phòng có màu viền là màu đỏ tươi tương tự như Lục quân, nhưng có màu nền xanh lá cây. Quân hàm Cảnh sát biển có màu viền vàng nhưng có màu nền là màu xanh nước biển. Quân phục. Ngày 26 tháng 8 năm 2009, Thủ tướng Việt Nam ra Quyết định số 109/2009/QĐ-TTg quy định về quân hiệu, cấp hiệu, phù hiệu lễ phục của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ ngày 22 tháng 12 năm 2009, các sĩ quan Việt Nam cũng sử dụng quân phục mới kiểu K-08. Trang bị và viện trợ.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Từ ngày 22 tháng 12 năm 2009, các sĩ quan Việt Nam cũng sử dụng quân phục mới kiểu K-08. Trang bị và viện trợ. Quân đội nhân dân Việt Nam không công khai các thông tin về vũ khí, khí tài của mình nên việc biết chi tiết số lượng hay chính xác toàn bộ chủng loại là rất khó. Hiện nay, quân đội nhân dân Việt Nam đang sở hữu một lượng vũ khí lớn từ thời Chiến tranh Việt Nam được sản xuất ở Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ (do sau năm 1975 đã tịch thu được một số lượng vũ khí tương đối lớn do Hoa Kỳ viện trợ cho quân đội Sài Gòn trước đó). Số vũ khí này hiện nay ngày càng lạc hậu làm giảm sức mạnh tương quan với quân đội các nước khác là vấn đề lớn đối với quân đội Việt Nam. Từ năm 1990 trở đi, các bạn hàng vũ khí của Việt Nam được mở rộng với Ấn Độ, Israel, Bắc Triều Tiên, Nga... Ngoài ra hiện nay, Việt Nam còn nhận được viện trợ khí tài từ Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong suốt chiến tranh Việt Nam (1954-1975) và chiến tranh biên giới Tây Nam (1979-1989), Việt Nam hầu như dựa hoàn toàn vào các hệ thống vũ khí trang bị có nguồn gốc từ Liên Xô. Liên Xô sụp đổ năm 1991 đã kết thúc giai đoạn viện trợ và Việt Nam bắt đầu phải thanh toán tiền mua vũ khí, trang bị bằng ngoại tệ hoặc bằng hàng đổi hàng.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Việt Nam đặt việc phát triển kinh tế lên hàng đầu và chỉ duy trì mức tăng chi tiêu quốc phòng một cách nhỏ giọt. Việt Nam không tiến hành các đợt mua sắm hay nâng cấp vũ khí lớn. Phải tới tận cuối những năm 1990, chính phủ Việt Nam công bố một loạt các chương trình mua sắm các hệ thống vũ khí trang bị hiện đại. Theo đó, Việt Nam chậm rãi phát triển hải quân và không quân để kiểm soát các vùng nước nông và vùng đặc quyền kinh tế. Hầu hết các chương trình mua sắm quốc phòng chủ yếu được thực hiện để đảm bảo ưu tiên này. Việt Nam đã mua một số máy bay chiến đấu và tàu chiến có khả năng tác chiến cao. Việt Nam cũng lên kế hoạch phát triển nền công nghiệp quốc phòng với ưu tiên cho hải quân, có sự kết hợp với các đồng minh cũ (Nga, Đông Âu, Ấn Độ). Hành khúc. Bài hát duyệt binh. Những bài hát được sử dụng khi làm lễ duyệt binh lớn: Đánh giá.
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Hành khúc. Bài hát duyệt binh. Những bài hát được sử dụng khi làm lễ duyệt binh lớn: Đánh giá. Trung tá Pháp Marcel Bigeard (sau này là Bộ trưởng Quốc phòng Pháp), đã có kinh nghiệm 9 năm chiến đấu ở Đông Dương, tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ từ lúc xây dựng cứ điểm cho đến khi đầu hàng, đã bày tỏ sự kính trọng của mình đối với Quân đội nhân dân Việt Nam: "Tôi đã thấy họ khởi sự từ những khẩu súng bất kỳ như súng săn và sau đó, tháng này qua tháng khác, họ được tổ chức thành những nhóm nhỏ, rồi từ các nhóm nhỏ thành trung đội, từ các trung đội lên đại đội, từ đại đội lên tiểu đoàn và lữ đoàn và cuối cùng là thành các sư đoàn đủ quân. Tôi đã thấy tất cả những điều này và tôi có thể nói với các vị rằng họ đã trở thành những người lính bộ binh vĩ đại nhất trên thế giới. Những người lính dẻo dai này có thể đi bộ 50 km trong đêm tối bằng sức của một bát cơm, trên những đôi giày ba-ta và hát vang trên đường ra trận. Theo quan điểm của tôi, họ đã trở thành những người lính bộ binh ngoại hạng và họ đã đánh bại được chúng ta [quân đội Pháp]". Thiếu tá đặc nhiệm Mỹ Charles A. Beckwith, từng tham gia Chiến tranh Triều Tiên rồi sau đó tiếp tục sang Việt Nam tham chiến, đã ca ngợi Quân đội nhân dân Việt Nam: "Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được 200 người lính như họ. Họ là những người lính giỏi nhất mà tôi từng thấy. Họ tận tâm và thuộc loại cừ khôi. Tôi chưa từng thấy lính nào giỏi như họ".
wiki
Quân đội nhân dân Việt Nam
Tướng Merrill McPeak, Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ, từng là phi công chiến đấu ở Việt Nam. Trong phim "The Vietnam War", ông kể lại: "bằng phương tiện quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể săn lùng những chiếc xe vận tải của Việt Nam như săn thỏ. Nhưng bắn nhiều rocket, thả nhiều bom đến như vậy, nhưng không lực Mỹ vẫn không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển trên đường Trường Sơn". Cho đến nay, Merrill McPeek nói rằng ông vẫn "ức tới nghẹn cổ" và kết luận: "Ông đã ủng hộ nhầm phe, nếu có thể được thì ngày ấy ông nên chiến đấu cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở bên phía Việt Nam". Trong một cuộc khảo sát sau cuộc chiến với các sĩ quan Hoa Kỳ từng phục vụ trong chiến tranh Việt Nam, 44% đánh giá Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam là "thiện chiến và gan góc". Một sĩ quan nhận xét: "Có một khuynh hướng đánh giá thấp đối thủ. Trong thực tế, họ là địch thủ giỏi nhất mà chúng ta (quân đội Mỹ) từng phải đối mặt trong lịch sử". Xem thêm. • Bí thư Quân ủy Trung ương • Bộ trưởng Bộ Quốc phòng • Mười lời thề danh dự của quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam • Quân ủy Trung ương
wiki
Đồng Đại Lộc
Đồng Đại Lộc (sinh 1958), là một Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông hiện đang làm giảng viên tại Học viện Cảnh sát Nhân dân. Ông nguyên là Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát, Bộ Công an (Việt Nam), nguyên Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy. Ông nguyên là Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh Thanh Hóa. Thân thế. Đồng Đại Lộc sinh năm 1958 tại xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, trong gia đình có đông anh em. Bố mẹ đều là những người lao động bình thường. Bản thân ông là người có ý chí nỗ lực phấn đấu, vượt qua rất nhiều khó khăn trong cuộc sống để theo đuổi việc học hành. Ông từng là Giám đốc Công an tỉnh Thanh Hóa. Ông từng là học sinh chuyên toán, Trường Trung học Phổ thông Chuyên Lam Sơn, Thanh Hóa, Học viên Học viện Cảnh sát Nhân dân và là người có đóng góp vào công cuộc đơn giản hóa thủ tục hành chính công an trong tỉnh bằng công nghệ thông tin . Không chỉ là nhà lãnh đạo của ngành công an, ông còn là người có khả năng và yêu văn nghệ. Ông sáng tác nhiều tập thơ hay, nhất là những bài thơ về người lính. Trong số đó, có những bài đã được phổ nhạc rất thành công. Như bài: Bia Mộ không khắc tên - Hát về những liệt sĩ vô danh đã hy sinh tại Quảng Nam.
wiki
Đồng Đại Lộc
Lúc ông làm Giám đốc công an Thanh Hóa, đã có sáng kiến xây dựng đề án " Xây dựng khu dân cư, An toàn - An Ninh - Trật tự" được nhân rộng ra toàn quốc như một hình mẫu điển hình. Ông cũng là người đi đầu trong cả nước về công tác cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ tin học vào công tác Công an.
wiki
Nix kiện Hedden
Nix kiện Hedden Nix kiện Hedden (), 149 U.S. 304 (1893), là một phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ cho rằng, theo các quy định hải quan của Hoa Kỳ, cà chua nên được phân loại là một loại rau thay vì một loại trái cây. Phán quyết ​​nhất trí của Tòa án cho rằng Đạo luật thuế quan năm 1883 đã sử dụng nghĩa thông thường của các từ "trái cây" và "rau", thay vì nghĩa kỹ thuật về thực vật. Bối cảnh của vụ án. John Nix thành lập ủy ban trái cây John Nix & Co. tại Thành phố New York vào năm 1839. Công ty trở thành một trong những đơn vị bán sản phẩm lớn nhất ở Thành phố New York vào thời điểm đó và là một trong những công ty đầu tiên vận chuyển sản phẩm từ Virginia, Florida và Bermuda đến New York. Năm 1883, Tổng thống Chester A. Arthur ký Đạo luật Thuế quan ngày 3 tháng 3 năm 1883, yêu cầu phải áp thuế đối với rau nhập khẩu, nhưng không áp thuế lên trái cây. Công ty John Nix & Co. đã đệ đơn kiện Edward L. Hedden, Cục trưởng Cục thuế của Cảng vụ New York, để đòi lại các khoản thuế đã nộp theo phản đối. Họ lập luận chống lại mức thuế bằng cách chỉ ra rằng về mặt thực vật học, cà chua là một loại quả do cấu trúc mang hạt của nó phát triển từ phần hoa của cây.
wiki
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội (tên giao dịch tiếng Anh là Military Commercial Joint Stock Bank), gọi tắt là Ngân hàng Quân đội, viết tắt là MB Bank, là một ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam, một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Quốc phòng. Thời điểm năm 2018, vốn điều lệ của ngân hàng là 21.605 nghìn tỷ đồng, tổng tài sản của ngân hàng năm 2018 là 362.325 nghìn tỷ đồng. Các cổ đông chính của Ngân hàng Quân đội là Viettel, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước, Tổng Công ty Trực thăng Việt Nam và Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn. Ngoài dịch vụ ngân hàng, Ngân hàng Quân đội còn tham gia vào các dịch vụ môi giới chứng khoán, quản lý quỹ, kinh doanh địa ốc, bảo hiểm, quản lý nợ và khai thác tài sản bằng cách nắm cổ phần chi phối của một số doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Hiện nay, Ngân hàng Quân đội đã có mạng lưới khắp cả nước với trên 100 chi nhánh và trên 190 điểm giao dịch trải dài khắp 48 tỉnh thành phố. Ngân hàng còn có văn phòng đại diện tại Liên bang Nga, chi nhánh tại Lào và Campuchia. Lịch sử.
wiki
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
Lịch sử. Vào ngày 04 tháng 11 năm 1994, Ngân hàng TMCP Quân Đội (MB) chính thức khai trương với 25 cán bộ nhân viên và vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng. Năm 2000, MB thành lập Công ty TNHH Chứng khoán Thăng Long (nay là Công ty CP Chứng khoán Ngân hàng TMCP Quân Đội MBS) và Công ty Quản lý nợ và Khai thác tài sản Ngân hàng TMCP Quân Đội (MBAMC). Năm 2003, MB triển khai cải tổ toàn diện về hệ thống và nhân lực, trong khi năm 2004, trở thành ngân hàng đầu tiên phát hành cổ phần thông qua đấu giá ra công chúng với tổng mệnh giá là 20 tỷ đồng. MB tiếp tục đạt những bước phát triển quan trọng như ký kết thỏa thuận ba bên với Vietcombank và tập đoàn viễn thông quân đội Viettel về việc thanh toán cước viễn thông của Viettel, đạt thỏa thuận hợp tác với Citibank, thành lập công ty quản lý quỹ Đầu tư chứng khoán Hà Nội HFM (nay là Công ty CP Quản lý quỹ Đầu tư Ngân hàng Quân Đội MB Capital), triển khai thành công dự án hiện đại hóa công nghệ thông tin CoreT24 của tập đoàn Temenos (Thụy Sĩ). Năm 2008, MB tái cơ cấu tổ chức và tập đoàn viễn thông quân đội Viettel chính thức trở thành cổ đông chiến lược. Năm 2009, MB ra mắt Trung tâm Dịch vụ Khách hàng 247 và khai trương chi nhánh đầu tiên tại nước ngoài tại Lào năm 2010.
wiki
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội
MB thực hiện thành công việc niêm yết cổ phiếu trên sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (HSX) từ ngày 01 tháng 11 năm 2011, khai trương chi nhánh thứ hai tại nước ngoài tại Campuchia trong cùng năm. Năm 2019, MB nâng cấp thành công hệ thống CoreT24 từ R5 lên R10 và ra mắt logo và bộ nhận diện thương hiệu mới. MB được vinh danh là "Ngân hàng Tiêu biểu Việt Nam" năm 2020 và nhận giải thưởng "Nơi làm việc tốt nhất Châu Á" vào năm 2021. Bê bối. Ngày 08 tháng 1 năm 2020, một số khách hàng cá nhân sử dụng thẻ rút tiền hoặc thanh toán, chi tiêu vượt quá số dư, hạn mức thẻ của Ngân hàng Quân Đội cấp cho khách hàng. Sự việc đã gây thất thoát cho ngân hàng hàng trăm tỉ đồng Công ty thành viên. Các công ty có trên 50% cổ phần do MB nắm giữ như sau: Mạng lưới ATM - POS MB. Hiện MB có 480 máy ATM, 2500 máy POS đặt tại các tỉnh, thành phố trong cả nước.
wiki
Grand Canyon
Grand Canyon Grand Canyon hay Hẻm núi lớn là một khe núi dốc được tạo ra bởi sông Colorado ở tiểu bang Arizona của Hoa Kỳ. Grand Canyon nằm trọn gần như trong Vườn Quốc gia Grand Canyon – đây là một trong những vườn quốc gia đầu tiên được thành lập của Hoa Kỳ. Tổng thống Theodore Roosevelt đã chính là người đề xướng việc thành lập này và đã tham quan khu vực này nhiều lần để săn báo sư tử và rất thích cảnh quan ở đây. Hẻm núi Grand Canyon bị sông Colorado cắt tạo nên một khe núi hàng triệu năm về trước, với độ dài 446 km, rộng 0,4 đến 24 km và sâu hơn 1600 m. Hơn 2 tỷ năm của lịch sử Trái Đất đã được thể hiện nhờ sông Colorado cắt qua từng lớp đất một của Cao nguyên Colorado. Theo các ghi chép thì người châu Âu đã phát hiện Grand Canyon năm 1540 bởi García López de Cárdenas từ Tây Ban Nha. Các cuộc thám hiểm khoa học đầu tiên về Hẻm núi lớn này được chỉ huy bởi U.S. Major John Wesley Powell cuối những năm 1860. Powell đã gọi các lớp đá sừng sững ở khu vực này là " một cuốn sách vĩ đại". Trước đó rất lâu, khu vực này đã được Thổ dân châu Mỹ định cư và xây các cộng đồng trong thành của vực này. "Hẻm núi lớn" này là một trong 7 kì quan thế giới đó.
wiki
Nghĩa trang Rakowicki
Nghĩa trang Rakowicki () là một nghĩa trang ở Ba Lan, nằm ở trung tâm của Kraków, Ba Lan. Nó nằm trong Khu hành chính số 1 Stare Miasto có nghĩa là "Phố cổ" - khác biệt với Phố cổ Kraków lịch sử ở phía tây. Được thành lập vào đầu thế kỷ 19 khi khu vực này là một phần của Áo-Hungary, nghĩa trang đã được mở rộng nhiều lần và hiện tại có diện tích khoảng 42 héc ta. Nhiều người dân Krakow đáng chú ý, trong số đó có cha mẹ của Giáo hoàng John Paul II, được chôn cất tại đây. Lịch sử. Nghĩa trang Rakowicki được thành lập vào năm 1800-1802 tại một khu đất ở làng Prądnik Czerwony, ban đầu chỉ rộng 5,6 héc ta. Nó được sử dụng lần đầu tiên vào giữa tháng 1 năm 1803. Nghĩa trang mới ra đời liên quan đến lệnh cấm của chính phủ về sức khỏe cộng đồng đối với việc chôn cất trong các nghĩa trang nhà thờ cũ trong thành phố. Đất đã được mua với giá 1.150 đồng zloty Ba Lan từ tu viện của dòng Camêlô Discalced của Czerna, và được xây dựng bằng nguồn vốn từ thành phố và các làng xung quanh (trong đó có một số huyện của Kraków): Rakowice, Prądnik Czerwony và Biały, Olsza, Grzegórzki, Piaski, Bronowice, Làng Czarna, Làng Nowa, Krowodrza và Kawiory, tất cả đều được trao quyền chôn cất người chết ở đó. Lễ tang đầu tiên diễn ra vào ngày 15 tháng 1 năm 1803, với sự chôn cất của một người 18 tuổi tên Apolonia từ gia đình Lubursiecki của Bursikowa.
wiki
Nghĩa trang Rakowicki
Năm 1807, cái giếng đầu tiên được đào, và vào năm 1812, cây thánh giá lớn đầu tiên được xây dựng. Chi phí được trả bằng các khoản đóng góp công cộng. Nghĩa trang Rakowicki liên tục được mở rộng trong những năm qua. Lần mở rộng đầu tiên vào năm 1836 khi mua thêm 100% đất từ các tu sĩ Carmelite với giá 5.000 zloty. Thiết kế phần mới mở rộng của nghĩa trang được ủy quyền cho kiến trúc sư Karol R. Kremer, người đứng đầu ban xây dựng đô thị, người đã thiết kế nơi này giống như một công viên thành phố. Bức tường xung quanh được làm bằng gạch và đá thu được từ Nhà thờ All Saints bị phá hủy. Nghĩa trang mới xây dựng đã được ban phước vào ngày 2 tháng 11 năm 1840. Nhà nguyện đầu tiên được dựng lên vào năm 1862, sáu năm sau khi giấy phép của Áo được cấp. Năm 1863, thành phố đã mua thêm đất từ các tu sĩ Carmelite - và từ Walery Rzewuski - ở phía tây của nghĩa trang, và chôn cất nạn nhân của một trận dịch năm 1866. Năm 1877, trung tâm hành chính mới được xây dựng cùng với nhà đại thể. Lần mở rộng tiếp theo diễn ra mười năm sau, vào mùa thu năm 1886. Họa sĩ Jan Matejko đã được chôn cất ở đó. Giữa năm 1933 và 1934, nghĩa trang được mở rộng ở đầu phía bắc, qua một căn cứ quân sự cũ, lấy phần đất của một con đường thành phố. Năm 1976, cuối cùng nó đã được đưa vào danh sách các di sản địa phương. Vào năm 1979, đây là nơi cuối cùng được Đức Giáo hoàng John Paul II ghé thăm trong chuyến viếng thăm đầu tiên của Giáo hoàng vào ngày 02 tháng 6 tới quê hương của ngài. Ý nghĩa văn hóa.
wiki
Nghĩa trang Rakowicki
Ý nghĩa văn hóa. Nghĩa trang này là nơi chôn cất những công dân bình thường của thành phố cũng như các anh hùng dân tộc: các nhà văn, nhà khoa học nổi tiếng, đại diện của các gia đình quý tộc, các nhà đấu tranh độc lập, các nhà hoạt động chính trị và xã hội, các nhà lãnh đạo, người tham gia các phong trào độc lập Ba Lan và các cựu chiến binh hai cuộc chiến tranh thế giới thế kỷ 20. Tên Nghĩa trang Rakowicki bắt nguồn từ tên của đường Rakowicka, từng là một con đường ngoại ô dẫn đến làng Rakowice cách đó 2 km. Bố trí.
wiki
Nghĩa trang Rakowicki
Bố trí. Trong nghĩa trang, có những khu đặc biệt được phân bổ cho các liệt sĩ đã từng tham gia các cuộc nổi dậy quốc gia Ba Lan như Cuộc nổi dậy tháng 11, Cuộc nổi dậy tháng 1 và Cuộc nổi dậy Kraków. Những người thương vong trong Thế chiến thứ nhất được chôn cất ở đó, bao gồm cả những người lính Ba Lan chiến đấu cho cả ba quân đội đế quốc: Áo, Nga và Phổ - hầu hết trong số họ đã chết trong các bệnh viện địa phương. Có thành viên của Quân đoàn Ba Lan trong Thế chiến thứ nhất; những người tham gia Lữ đoàn II của Quân đoàn Ba Lan; các công nhân thiệt mạng trong các cuộc đình công năm 1936; Thương vong trong Thế chiến thứ hai bao gồm các binh sĩ của chiến dịch Ba Lan tháng 9 năm 1939. Tất cả các phi công Đồng minh bị bắn hạ trên Ba Lan đều được chôn cất tại đây, bao gồm cả những người ban đầu được chôn cất tại Vác-sa-va, cùng với hàng trăm nạn nhân thương vong của Khối Thịnh vượng chung Anh và tù nhân chiến tranh đã chết trong thời kỳ chiếm đóng của Đức. Những người này được BAOR tập hợp lại thành một khu riêng của Khối thịnh vượng chung có cắm Thánh giá Hy sinh. Các chiến sĩ đảng phái Ba Lan, nạn nhân của tội ác Đức quốc xã; và những người lính Liên Xô đã chết trong cuộc tấn công chống Đức vào Kraków năm 1945, được chôn cất tại đây. Ý nghĩa quốc gia.
wiki
Nghĩa trang Rakowicki
Ý nghĩa quốc gia. Nghĩa trang là một di tích quốc gia có giá trị lịch sử và nghệ thuật lớn. Bia mộ và lăng mộ là tác phẩm của kiến trúc sư nổi tiếng Teofil Żebrawski, Feliks Księżarski, Sławomir Odrzywolski, Jakub Szczepkowski, cũng như các nghệ sĩ điêu khắc như Konstanty Laszczka, Tadeusz Błotnicki, Wacław Szymanowski, Karol Hukana. Năm 1981, một Ủy ban Cộng đồng về Bảo tồn Kraków đã được thành lập, với một tiểu ban đặc biệt để bảo vệ các nghĩa trang của Kraków và các di sản khu vực khác. OKRK đang tổ chức một sự kiện hàng năm để phục hồi các ngôi mộ và bia mộ lịch sử. Các công trình đang được tiến hành đồng thời tại Nghĩa trang Rakowicki và Nghĩa trang chân đồi mới (với sự hợp tác của Hiệp hội Podgórze.pl). OKRK đang tổ chức một đợt quyên góp hàng năm, gây quỹ cho việc cải tạo các ngôi mộ lịch sử và các di tích công cộng. Các quỹ công cộng được sử dụng để phục hồi các ngôi mộ xuống cấp mà không có chủ sở hữu. Những nhân vật đáng chú ý. Những người được chôn cất tại Nghĩa trang Rakowicki bao gồm:
wiki
Sân bay Robin Hood Doncaster Sheffield
Sân bay Robin Hood Doncaster Sheffield Sân bay Robin Hood Doncaster Sheffield một sân bay quốc tế nằm ở Căn cứ không quân hoàng gia Finningley cũ tại Finningley, trong Borough Metropolitan Doncaster trong South Yorkshire, Anh. Sân bay có cự ly 3 hải lý (5,6 km; 3,5 mi) về phía đông nam của Doncaster và 18 mi (29 km) về phía đông của Sheffield. Sân bay đã phục vụ 724.252 lượt hành khách trong năm 2014, sân bay Robin Hood là sân bay nhỏ hơn trong hai sân bay thương mại lớn của Yorkshire, sân bay kia là sân bay Leeds Bradford . Sân bay ban đầu được vận hành bởi Peel Airports, một bộ phận của Peel Group. Tại thời điểm này, Peel sân bay cũng đã sở hữu và quản lý sân bay Liverpool John Lennon và sân bay thành phố Manchester. Peel Airports cũng sở hữu một cổ phần 75% trong sân bay Durham Tees Valley, 25% còn lại thuộc sở hữu của các hội đồng địa phương trong khu vực DTVA.. Sân bay Doncaster Sheffield có giấy phép sử dụng cảng hàng không của Cục hàng không Anh (số P876) cho phép các chuyến bay vận chuyển hành khách công cộng hay các chỉ dẫn bay.
wiki
Offa của Mercia
Offa, vua của Mercia, 1 vương quốc của người Anglo-Saxon nước Anh, giữ ngôi từ năm 757 cho đến khi ông qua đời vào ngày 29 tháng 7 năm 796. Là con trai của Thingfrith và hậu duệ của Eowa, Offa lên ngôi sau một thời gian nội chiến sau vụ ám sát Æthelbald, sau khi đánh bại người đòi lên ngôi vua khác Beornred. Trong những năm đầu của triều đại Offa, ông đã gần như hoàn toàn củng cố quyền kiểm soát của các dân tộc vùng Hwicce và Magonsæte. Lợi dụng sự bất ổn trong vương quốc Kent, ông đã chiếm quyền lãnh chúa. Năm 771, Offa cũng kiểm soát cả Sussex, sự cai trị của ông đã không gặp phải thách thức trong cả hai vùng lãnh thổ này. Trong thập niên 780, ông đã mở rộng sự thống trị lớn hơn với Mercia, bao trùm trên hầu hết miền Nam nước Anh, liên minh với Beorhtric của Wessex, người kết hôn với con gái Eadburh Offa, và giành lại kiểm soát hoàn toàn phía đông nam. Ông cũng trở thành vua của Đông Anglia sau khi chém đầu vua Æthelberht II của Đông Anglia đầu năm 794, có lẽ do nổi loạn chống lại ông. Offa là một vị vua Thiên chúa giáo có nhiều mâu thuẫn với Giáo hội, đặc biệt là với Jaenberht, Tổng Giám mục Canterbury. Offa đã thuyết phục Đức Giáo hoàng Adrian I chia tổng giáo phận Canterbury làm hai, tạo ra một tổng giáo phận mới Lichfield. Điều này giảm quyền lực của Canterbury, nguyên nhân có thể do năm 787 Jaenberht đã từ chối tổ chức nghi lễ phong vua xứ Mercia cho con trai ông.
wiki
Offa của Mercia
Offa đã có sự bất hòa với Đức Giám mục của Worcester, đã được hòa giải trong Hội đồng Brentford năm 781. Nhiều đồng tiền còn sót lại từ triều Offa mang hình ông và chất lượng vượt tiền đúc hơn cả thời Frankish. Một số đồng tiền mang hình ảnh của người vợ, Cynethryth Anglo, nữ hoàng Saxon duy nhất từng được thể hiện trên một đồng xu. Chỉ có ba đồng tiền vàng của Offa còn sót lại: một là một bản sao của đồng đina Abbasid năm 774, và chứa văn bản tiếng Ả Rập trên một mặt của đồng xu, và chữ "Offa Rex" ở phía mặt kia. Các đồng tiền vàng này không chắc chắn đã được đưa vào sử dụng, nhưng có thể đã được đúc được sử dụng như là bố thí hay cho quà tặng đến Rome. Nhiều sử gia coi Offa là vị vua Anglo-Saxon quyền lực nhất vua trước Alfred Đại đế. Sự thống trị của ông không bao giờ mở rộng đến Northumbria, mặc dù ông gả một cô con gái, Ælfflæd cho vua Northumbrian Æthelred vào năm 792. Triều đại của ông đã từng được một số nhà sử học xem là một phần của một quá trình dẫn đến một Anh quốc thống nhất, nhưng điều này không còn là quan điểm của đa số. Theo phán xét của một nhà sử học gần đây: "Offa được thúc đẩy bởi một sự ham muốn quyền lực, không phải là một tầm nhìn thống nhất nước Anh, và những gì ông để lại là một danh tiếng, không phải là một di sản". Offa qua đời năm 796 và con trai ông, Ecgfrith đã kế vị, người trị vì trong vòng chưa đầy năm tháng trước khi Coenwulf của Mercia trở thành vua. Bối cảnh và nguồn gốc.
wiki
Offa của Mercia
Offa qua đời năm 796 và con trai ông, Ecgfrith đã kế vị, người trị vì trong vòng chưa đầy năm tháng trước khi Coenwulf của Mercia trở thành vua. Bối cảnh và nguồn gốc. Vào nửa đầu thế kỷ VIII, người thống trị người Anglo-Saxon là vua Æthelbald của Mercia, người mà năm 731 đã trở thành vua của tất cả các tỉnh phía nam sông Humber. Æthelbald là một trong những vị vua quyền lực nhất xứ Mercian trong giai đoạn từ giữa thế kỷ thứ 7 đến đầu thế kỷ thứ 9, và giai đoạn sau đó là sự suy yếu của Mercian tại vương triều Egbert của Wessex. Quyền lực và thanh thế do Offa tạo dựng đã biến ông thành một trong những vị vua quan trọng trong Sơ Kỳ Trung Cổ của nước Anh mặc dù không còn tài liệu nói về tiểu sử cùng thời nói về ông còn tồn tại. Nguồn tư liệu chủ chốt cho thời kỳ này là Biên niên sử Anglo-Saxon, 1 tập hợp các biên niên sử dụng Tiếng Anh cổ thuật lại lịch sử của người Anglo-Saxon. Biên niên sử là tác phẩm của Tây Saxon, tuy nhiên nó thường bị coi là có quan điểm thiên lệch cho Wessex; do vậy nó không truyền tải chính xác sự mở rộng quyền lực của Offa, một người Mercia. Sự ảnh hưởng quyền lực có thể thấy được từ tài liệu Đặc quyền của người Anglo-Saxon được viết dưới triều đại của Offa Các đặc quyền được mô tả trong tài liệu công nhận sự cai trị vùng đất của những người thừa kế, người giáo hội và những người được vua ủy quyền cấp cho đất đai.
wiki
Offa của Mercia
Các đặc quyền được mô tả trong tài liệu công nhận sự cai trị vùng đất của những người thừa kế, người giáo hội và những người được vua ủy quyền cấp cho đất đai. Cuốn tư liệu ghi lại tên của cả những vị vua lệ thuộc và những lãnh chúa, danh sách để minh chứng cho nó là Văn thứ Ismere, nó mô tả Æthelric là nơi nào, con của vua Oshere của Hwicce được mô tả là "subregulus"", hay subking. Các tu sĩ và các nhà biên niên sử thế kỷ thứ 8 đã viết 1 tác phẩm lịch sử về nhà thờ nước Anh gọi là "Historia Ecclesiastica Gentis Anglorum"; nó ghi lại các sử kiện lịch sử bắt đầu từ năm 731, nó đóng vai trò như là một trong những dữ liệu chính về lịch sử Anglo-Saxon, nó cung cấp thông tin tổng quan về triều đại Offa
wiki
Khu rừng bí mật
Khu rừng bí mật Khu rừng bí mật () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của Jo Seung-woo và Bae Doo-na. Bộ phim được phát sóng trên đài cáp tvN vào Thứ Bảy và Chủ Nhật lúc 21:00 (KST) từ ngày 10 tháng 6 năm 2017 đến ngày 30 tháng 7 năm 2017. Cùng với đó, bộ phim sẽ được phát sóng đồng thời trên Netflix, Netflix đã mua bản quyền bộ phim với giá 200.000 USD cho mỗi tập phim. Bộ phim đã trở thành hit với khán giả trong nước lẫn quốc tế, và đã nhận được những lời đánh giá tích cực cho cốt truyện của bộ phim, trình tự hấp dẫn và màn trình diễn mạnh mẽ. Bộ phim được giới thiệu trên danh sách Top 10 các phim truyền hình quốc tế hay nhất năm 2017 bởi tờ báo New York Times bình chọn, và đã giành được nhiều giải thưởng bao gồm giải thưởng danh giá nhất (Daesang) cho phim truyền hình tại Lễ trao giải nghệ thuật Baeksang lần thứ 54. Tóm tắt nội dung. Câu chuyện xoay quanh một công tố viên lạnh lùng và vô cảm về thể chất, là người cùng hợp tác với một nữ thám tử nhiệt tình và nồng hậu để khám phá những vụ tham nhũng tràn lan và sự thật đằng sau những vụ án giết người hàng loạt. Tỷ suất người xem. Trong bảng bên dưới, các con số đại diện cho xếp hạng thấp nhất và các con số thể hiện xếp hạng cao nhất.
wiki
Thỏ biển
Thỏ biển (Danh pháp khoa học: "Aplysiomorpha") là động vật nhuyễn thể, thuộc loại có vỏ sống ở biển nông. Nhưng vỏ đã thoái hóa thành màng cutin trong suốt không xoáy ốc, vùi dưới lớp màng ngoài ở phần lưng bề ngoài không nhìn thấy. Đặc điểm. Hình dáng. Thỏ biển có 2 cặp xúc tu trên đầu, cặp trước là ống xúc giác, cặp sau là ống khứu giác. Khi bò, 2 cặp xúc tu này vươn về phía trước và 2 bên, khi nằm yên dựng đứng lên trên trông rất giống cặp tai thỏ nên được gọi là thỏ biển, thực ra chúng không phải là thỏ. Thức ăn. Thỏ biển ăn các loại rong biển, khi ăn loại rong biển nào thì nó sẽ có màu sắc của loại rong đó: Ăn tảo đỏ, mình nó đỏ như hoa hồng; ăn tảo mực nó biến thành màu nâu sẫm, có con lại mọc lông nhung, mình trồi ra những cành rong. Do đó hình dạng và màu sắc của nó lẫn vào trong môi trường cư trú. Đó cũng là cách đặc biệt để tránh kẻ thù. Tự vệ. Thỏ biển có thể tránh kẻ thù một cách tiêu cực, nhưng cũng biết phòng ngự một cách tích cực. Trong cơ thể thỏ biển có 2 tuyến dịch: tuyến màu tím ở dưới rìa màng ngoài, khi gặp kẻ địch nó tiết ra dịch màu tía làm cho nước biển ngầu lên màu tím, thoát khỏi tầm nhìn của địch để chạy trốn. Và tuyến độc khác nằm ở trước màng ngoài, có thể tiết ra dịch trắng như sữa mang tính axit, mùi khó ngửi, đó là thứ vũ khí hóa học của nó. Sinh sản.
wiki
Thỏ biển
Sinh sản. Mùa xuân là mùa sinh sản của thỏ biển. Thỏ biển lưỡng tính giao phối dị thể. Cách giao phối của chúng rất đặc biệt: thường giao phối tập thể, cứ khoảng 5 đến vài chục con nối thành một chuỗi. Lúc đó, con đầu tiên làm con cái, tiếp đó làm con đực, con sau lại làm con cái, cứ như vậy kéo dài ra. Trứng rụng trong quá trình giao phối hoặc sau khi tách ra vài giờ. Chúng đẻ rất nhiều trứng, nhưng trứng thụ tinh không nhiều lắm, đều được bọc trong sợi keo. Người Quảng Đông gọi bọc trứng thỏ biển này là "sợi bột biển" là một nguyên liệu chế biến món ăn thượng hạng, đồng thời cũng là thuốc tiêu viêm thanh nhiệt.
wiki
Sân bay Thisted
Sân bay Thisted Sân bay Thisted () là một sân bay phục vụ thị xã Thisted của Đan Mạch. Sân bay này thuộc sở hữu đô thị Thisted. Sân bay Thisted nằm bên quốc lộ 26 Đan Mạch, 8 km so với Hanstholm và 15 km so với Thisted. Sân bay Thisted trước đây đã có hai chuyến bay mỗi ngày nối Thisted và thủ đô Đan Mạch Copenhagen, cung ứng bởi "flying.dk" cũng là đơn vị vận hành sân bay này. Flying.dk đã ngưng bay từ sân bay này từ ngày 1 tháng 1 năm 2007. Đô thị Thisted đã ủng hộ sự hoạt động của sân bay này với kinh phí hàng năm 2,5 triệu DKK. Địa chỉ sân bay:
wiki
Cộng hòa Uryankhay
Cộng hòa Uryankhay là một nhà nước ly khai lãnh đạo bởi người Tuva tồn tại trong một thời gian ngắn, từ năm 1911 đến năm 1914, từ khu vực Tannu Uriankhai của nhà Thanh. Vào năm 1914, nó đã trở thành Uryankhay Krai, một lãnh thổ bảo hộ của Đế quốc Nga. Lịch sử. Thành lập. Nó được tuyên bố là một nước cộng hòa vào năm 1911 bởi phong trào ly khai Tuva trong Cách mạng Tân Hợi và Cách mạng Ngoại Mông 1911, và được khuyến khích bởi Đế quốc Nga. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1911, Ngoại Mông tuyên bố độc lập từ nhà Thanh của Trung Quốc. Trong suốt thời gian còn lại của tháng 12, các nhóm người Uriankhai bắt đầu cướp bóc và đốt cháy các cửa hiệu sở hữu bởi người Hoa. Giới quý tộc Uriankhai bị chia rẽ trong quá trình hành động chính trị của họ. Thống đốc Uriankhai (amban-Noyon), Gombo-Dorzhu, ủng hộ trở thành người bảo hộ của Nga, hy vọng rằng người Nga sẽ bổ nhiệm ông làm Thống đốc Uriankhai. Tuy nhiên, công chúa của hai khoshuun khác (tiếng Tuva: Kozhuun có nghĩa là "Kỳ) thích nộp cho nhà nước Ngoại Mông mới dưới sự cai trị thần quyền của nhà lãnh đạo tinh thần Phật giáo Jebstundamba Khutukhtu của Urga. Sụp đổ.
wiki
Cộng hòa Uryankhay
Sụp đổ. Không nản lòng, Gombu-Dorzhu đã gửi đơn thỉnh cầu tới người quản lý biên giới của Sa hoàng tại Usinsk, nói rằng ông đã được chọn làm lãnh đạo của một nhà nước Tannu Uriankhai độc lập. Ông yêu cầu bảo vệ và đề nghị quân đội Nga được gửi ngay vào nước này để ngăn chặn Trung Quốc khôi phục lại quyền cai trị khu vực. Không có câu trả lời - ba tháng trước đó, Hội đồng Bộ trưởng Sa hoàng đã quyết định chính sách thận trọng sáp nhập dần dần Uriankhai bằng cách khuyến khích thực dân Nga. Hội đồng sợ rằng hành động kết tủa của Nga có thể kích động Trung Quốc. Sa hoàng Nicholas II đã ra lệnh cho quân đội Nga tiến vào Cộng hòa Uryankhay vào năm 1912, với lý do những người định cư Nga bị cáo buộc là bị tấn công. Tuy nhiên, điều này đã thay đổi do áp lực từ giới thương mại ở Nga vì cách tiếp cận tích cực hơn. Ngoài ra, một kiến ​​nghị do Nga tài trợ từ hai khoshuun Uriankhai vào mùa thu năm 1913 yêu cầu họ được chấp nhận là một phần của Nga. Các khoshuun Uriankhai khác sớm theo sau. Vào ngày 14 tháng 4 năm 1914, Cộng hòa Uryankhay trở thành lãnh thổ bảo hộ của Nga với tên gọi Uryankhay Krai.
wiki
Học viện Cảnh sát Campuchia
Học viện Cảnh sát Campuchia (tiếng Campuchia: បណ្ឌិត្យសភានគរបាលកម្ពុជា được "đọc là: bandetyosaphea nokorbal kampouchea", tiếng Anh: Police Academy of Cambodia) là trường đào tạo sĩ quan, hạ sĩ quan cảnh sát Campuchia bậc đại học và sau đại học. Học viện được thành lập vào năm 1996 ở làng Sdouv Kanlaeng, xã Dey Eth, quận Kien Svay, tỉnh Kandel với diện tích 13 ha. Lịch sử. Tiền thân của Học viện cảnh sát Campuchia là trường Cảnh sát quốc gia Dey Eth trực thuộc Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia được thành lập vào năm 1996 tại làng Sdouv Kanlaeng, xã Dey Eth, quận Kien Svay, tỉnh Kandel với diện tích 13 ha.  Trường Cảnh sát quốc gia ra đời có nhiệm vụ tổ chức các khóa đào tạo cho lực lượng Cảnh sát quốc gia Campuchia nhằm giúp cho lực lượng Cảnh sát nâng cao kiến thức trong lĩnh vực chuyên môn, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì trật tự xã hội. Sau đó, để phù hợp với những yêu cầu cần thiết trong tiến trình phát triển xã hội và những tiến bộ trong công tác đào tạo cho lực lượng Cảnh sát quốc gia Campuchia, năm 2002, Bộ Nội vụ và chính phủ Hoàng gia Campuchia đã quyết định đổi tên trường Cảnh sát quốc gia Dey Eth thành Trường Cảnh sát hoàng gia (RPS) theo tiểu Nghị định số 73 ngày 2/5/2002 về việc thành lập trường Cảnh sát hoàng gia.
wiki
Học viện Cảnh sát Campuchia
Năm 2007, Chính phủ hoàng gia và Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia đã quyết định đổi tên trường Cảnh sát Hoàng gia thành Học viện Cảnh sát Campuchia (PAC) theo tiểu Nghị định số 88 ngày 27/7/2007 để phù hợp với chính sách cải cách của chính phủ hoàng gia và chính sách phát triển đa ngành của quốc gia. Từ đó, Học viện Cảnh sát Campuchia tồn tại cho đến ngày nay. Chương trình giáo dục và đào tạo. Chương trình giáo dục của Học viện Cảnh sát Campuchia được chia ra làm hai chương trình bao gồm: Chương trình đào tạo trong nước dài hạn; đào tạo chuyên ngành Cảnh sát và chương trình đào tạo tại nước ngoài. Tính đến năm 2012 đối với chương trình đào tạo trong nước, Học viện Cảnh sát Campuchia đã đào tạo được 1097 khóa học với 74024 học viên tốt nghiệp; đối với chương trình đào tạo tại nước ngoài, đã có 4253 cán bộ, học viên được Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia kí quyết định và cử tham dự các hội thảo, chương trình nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm ở rất nhiều quốc gia bạn bè. Hệ thống giáo dục đào tạo. Dựa trên sự phát triển trong giáo dục và đào tạo của Cảnh sát  quốc gia từng năm, Học viện Cảnh sát  Campuchia đã phát triển các cấp đào tạo để đảm bảo hiệu quả giáo dục và đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
wiki
Học viện Cảnh sát Campuchia
Hiện nay, công tác giáo dục đào tạo tại Học viện Cảnh sát Campuchia được chia ra làm 3 cấp: Cấp giáo dục đào tạo tại các trường Cảnh sát theo khu vực (cấp 1) gồm có 6 trường được đặt tại các tỉnh Stung Treng, Kampong Cham, Kampong Speu, Siem Reap, Battambang và Kampong Chhnang đào tạo học viên trong cả nước; Cấp giáo dục đào tạo ở trình độ trung cấp (cấp2) được thực hiện tại Trường đào tạo chuyên môn Cảnh sát  cao cấp, nơi mà trước đây là Trường Cảnh sát  quốc gia Dey Eth, hiện nay là trường đào tạo chuyên môn cao cấp tạm thời đang nằm ngay trong khuôn viên Học viện Cảnh sát  Campuchia và Cấp giáo dục đào tạo đại học nghiên cứu tại Học viện Cảnh sát  Campuchia (Cấp 3). Tại cấp thứ 3 này, Học viện Cảnh sát Campuchia được giao nhiệm vụ giáo dục và đào tạo và cấp bằng cho các chương trình liên kết, cử nhân, thạc sĩ, bổ túc kỹ năng chuyên môn, bồi dưỡng và phát triển kỹ năng đào tạo cho nhân viên Cảnh sát cấp cao (quân hàm từ cấp tá tới thiếu tướng). Trong tương lai, Học viện Cảnh sát Campuchia sẽ tiến hành đào tạo nghiên cứu sinh, mở các khóa học cấp quản lý, lãnh đạo. Hợp tác quốc tế.
wiki
Học viện Cảnh sát Campuchia
Hợp tác quốc tế. Trong suốt 13 năm qua, Học viện Cảnh sát Campuchia đã có được nhiều thành tựu và sự tiến bộ cũng như phát triển trong công tác đào tạo Cảnh sát của mình. Học viện Cảnh sát Campuchia đạt được kết quả trong đào tạo cảnh sát một phần là nhờ có sự mở rộng hợp tác và quan hệ quốc tế của Học viện. Bên cạnh đó là sự nỗ lực và quan tâm sát sao từ phía Ban lãnh đạo Bộ Nội vụ. Kết quả của những nỗ lực này là sự hợp tác ngày càng gắn bó chặt chẽ giữa Học viện với các nước bạn bè như Pháp, Trung Quốc, Úc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam… Theo chủ chương và công tác hợp tác quốc tế, Học viện Cảnh sát  nhân dân Việt Nam đã cùng với Học viện Cảnh sát  Campuchia kí Biên bản ghi nhớ giữa 2 bên tại thủ đô Hà Nội vào ngày 21/8/2008. Đây là bước ngoặt cho sự phát triển mối quan hệ hợp tác giữa 2 nhà trường, tăng cường tình đoàn kết cũng như sự hỗ trợ, giúp nhau trong công tác đào tạo Cảnh sát. Kể từ đó đến nay, hàng năm Học viên Cảnh sát luôn mở những lớp đào tạo cho lực lượng Cảnh sát, Bộ Nội vụ Vương quốc Campuchia. Đồng thời còn tổ chức nhiều đoàn đến thăm và làm việc giữa hai nhà trường. Nhiệm vụ.
wiki
Học viện Cảnh sát Campuchia
Nhiệm vụ. Phù hợp với nền tảng chính trị của chính phủ Hoàng gia cũng như sự chỉ đạo của Bộ Nội vụ trong sự phát triển nguồn lực con người, Học viện Cảnh sát  hoàng gia Campuchia đã đề ra cho mình nhiệm vụ và định hướng trong tương lai. Học viện Cảnh sát Campuchia đã xây dựng kế hoạch 5 năm và chương trình hành động cụ thể, từ đó có định hướng cho những bước hoạt động đào tạo hàng năm tiếp theo phù hợp với những nhu cầu cấp bách của hiện tại và trong tương lai. Đặc biệt với sự chỉ đạo trực tiếp về phát triển nguồn lực con người cùng với lực lượng Cảnh sát  quốc gia, Học viện Cảnh sát  Campuchia sẽ tiếp tục tiến hành công tác đào tạo theo các vấn đề then chốt như: Tiếp tục khuyến khích việc nghiên cứu khoa học Cảnh sát  với các chủ đề liên quan tới tội phạm xuyên quốc gia, phòng chống tội phạm, ma túy, buôn bán người, tội phạm vũ trang, tội phạm mạng… đồng thời sử dụng các nghiên cứu để phát triển nội dung giảng dạy cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn; Tiếp tục tiến hành cải cách và phát triển nhân viên Cảnh sát  ở tất cả các cấp; Tiếp tục tăng cường và phát triển nguồn lực con người cho nhân viên văn phòng các cấp tại Học viện Cảnh sát  Campuchia và phát triển năng lực giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên tại Học viện để có thể đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ công tác giáo dục đào tạo; Tiếp tục phát triển các chương trình giảng dạy và nội dung đào tạo để phù hợp với bối cảnh và phát triển của quốc gia cũng như trong khu vực và toàn cầu…
wiki
Học viện Cảnh sát Campuchia
Với tất cả những gì đã đạt được và phương hướng phát triển vững mạnh trong tương lai, chắc chắn Học viện Cảnh sát Campuchia sẽ ngày càng lớn mạnh và đạt được nhiều thành công hơn nữa trong công tác đào tạo lực lượng Cảnh sát, góp phần bảo vệ, xây dựng và phát triển Vương quốc Campuchia.
wiki
Núi Shari
Núi Shari là núi lửa dạng tầng kỷ Đệ tứ và là một trong 100 núi nổi tiếng Nhật Bản. Đỉnh núi . Đỉnh núi bao gồm núi Shari, và sườn núi phía tây. Tọa lạc tại bán đảo Shiretoko của Hokkaidō trên biên giới Shari và Kiyosato tại quận Shari, Abashiri và Shibetsu tại quận Shibetsu, Nemuro. Tên gọi. Tên cũ trong tiếng Ainu là Onnenupuri. Tên gọi "Shari" trong tiếng Ainu nghĩa là "đầm lầy nơi lau sậy mọc lên". Cũng được gọi bằng cái tên hay . Địa chất. Ngọn núi này được tạo thành từ các khoáng chất chính là andesite, dacite, và basalt. Tuyến đường leo núi. Con đường đi lên phổ biến nhất bắt đầu từ sườn Kiyosato. Một chuyến xe buýt công cộng (Sharibus) chạy ba lần một ngày (lần đầu tiên lúc 6:30) từ ga Shiretokoshari bắt đầu đường mòn.
wiki
Ngựa Iceland
Ngựa Băng Đảo hay ngựa Iceland là một giống ngựa có nguồn gốc và được phát triển ở Iceland. Mặc dù những con ngựa nhỏ (ngựa giống lùn) nhưng hầu hết các cơ quan đăng ký tại Iceland đề cập đến nó như một con ngựa bình thường. Ngựa Iceland sống lâu và khỏe mạnh với những phẩm chất giống quý. Trong khu vực bản địa của chúng, chúng cũng có vài bệnh tật riêng. Luật lệ ở Iceland ngăn ngựa ngoại lai quay trở lại từ khi nhập khẩu vào nước này và động vật xuất khẩu không được phép quay trở lại (tái nhập khẩu hay tạm nhập tái xuất). Ngựa Băng Đảo có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của người dân ở Băng Đảo, nó đã gắn bó với cuộc sống nơi đây suốt một thời gian dài trong lịch sử, và gắn với từng hoạt động của người dân từ sinh hoạt hàng ngày, đồng áng, săn bắn, chăn thả cho đến những cuộc thi đua ngựa, cũng như sử dụng trong chiến tranh. Người dân nơi đây cũng dành những tình cảm quý mến cho giống ngựa mà họ tự hào. Đại cương.
wiki
Ngựa Iceland
Đại cương. Các dáng đi của ngựa Băng Đảo ngoài việc đi bộ điển hình, đi nước kiệu, chạy lúp xúp và phi nước đại thường được cho thấy bởi các giống khác. Các giống ngựa duy nhất của con ngựa ở Iceland, chúng cũng là phổ biến về mặt quốc tế, và các quần thể khá lớn tồn tại ở châu Âu và Bắc Mỹ. Giống ngựa này vẫn được sử dụng cho công việc truyền thống là chăn cừu trên quê hương của mình, cũng như để giải trí, trình diễn, và đua kéo xe. Được phát triển từ những con ngựa Bắc Âu đưa tới Iceland định cư trong các thế kỷ thứ 9 và thứ 10, các giống được đề cập trong văn học và tài liệu lịch sử trong suốt lịch sử Iceland, các ghi chép đầu tiên một con ngựa xuất hiện trong thế kỷ 12. Ngựa này được tôn kính trong thần thoại Bắc Âu, một di cư mang đến Iceland định cư sớm nhất của đất nước. Chọn lọc nhân giống qua nhiều thế kỷ đã phát triển các giống vào hình thái hiện tại của nó. Chọn lọc tự nhiên cũng đã đóng một vai trò quan trọng, khi khí hậu khắc nghiệt Iceland loại bỏ nhiều ngựa qua thời tiết lạnh lẽo và đói kém. Trong thập niên 1780, phần lớn các giống ngựa đã bị tiêu diệt trong những hậu quả của một vụ phun trào núi lửa. Các Hiệp hội giống đầu tiên cho con ngựa Iceland đã được tạo ra ở Iceland vào năm 1904, và ngày nay giống được đại diện bởi các tổ chức trong 19 quốc gia khác nhau, được tổ chức theo một hiệp hội chủ quản, các Liên đoàn quốc tế của Hiệp hội Ngựa Iceland. Lịch sử.
wiki
Ngựa Iceland
Lịch sử. Ngựa Băng đảo có nguồn gốc từ lâu đời và gắn bó với cuộc sống của người Băng đảo trong suốt tiến trình lịch sử. Nguồn gốc. Tổ tiên của con ngựa Iceland có thể đã được đưa tới đảo Iceland bởi thời kỳ Viking Scandinavi giữa 860 và 935 AD. Những người định cư Bắc Âu được theo dõi bởi những người nhập cư từ các thuộc địa Bắc Âu ở Ireland, Isle of Man và quần đảo Tây của Scotland. Những người định cư sau này đến với các tổ tiên của những gì ở nơi khác sẽ trở thành ngựa Shetland, ngựa cao nguyên và ngựa Connemara, mà đã được lai với các loài động vật nhập khẩu trước đó có thể cũng đã được liên hệ với ngựa Yakut, và các giống có thể giống nhau đến giống ngựa Nordlandshest của Na Uy hay giống khác với các đặc tính tương tự bao gồm ngựa lùn đảo Faroe của Quần đảo Faeroe và ngựa Fjord Na Uy
wiki
Ngựa Iceland
Phân tích di truyền đã cho thấy mối liên hệ giữa con ngựa Mông Cổ và ngựa Iceland, ngựa Mông Cổ được cho là đã được ban đầu được nhập khẩu từ Nga bởi thương nhân Thụy Điển; máu ngựa nhập khẩu này sau đó đã góp phần vào sự ra đời của ngựa Fjord, ngựa Exmoor, ngựa cao nguyên Scotland, ngựa Shetland và ngựa Connemara, tất cả đều đã được tìm thấy để được liên kết gen cho ngựa Iceland. Khoảng 900 năm trước đây, các nỗ lực đã được thực hiện để du nhập máu đông vào Iceland, dẫn đến sự thoái hóa của các con ngựa nòi Năm 982 AD các Althing (quốc hội) Iceland thông qua luật cấm nhập khẩu của ngựa vào Iceland, do đó kết thúc việc lai tạp hỗn loạn này. Các giống ngựa đã được nuôi thuần trong Iceland trong hơn 1.000 năm. Thời kỳ đầu. Người dân Bắc Âu sớm nhất tôn kính con ngựa như một biểu tượng của khả năng sinh sản, và con ngựa trắng đã bị giết hại trong các bữa tiệc sinh tế và nghi lễ (ngựa hiến tế). Khi những người định cư đã tới Iceland, họ đã đem niềm tin của họ, và con ngựa của họ, với họ. Ngựa đóng một phần quan trọng trong thần thoại Bắc Âu, và một số con ngựa đóng vai trò chính trong thần thoại Bắc Âu, trong đó có những con ngựa chạy nước kiệu tám chân có tên Sleipnir, thuộc sở hữu của Odin, giám quản của các vị thần Bắc Âu. Skalm, một con ngựa cái là con ngựa Iceland đầu tiên được biết đến bởi tên, xuất hiện trong sách định cư từ thế kỷ thứ 12.
wiki
Ngựa Iceland
Theo cuốn sách, một thủ lĩnh tên Seal-Thorir thành lập một khu định cư tại nơi Skalm dừng lại và nằm xuống. Ngựa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu thút Iceland Saga của Hrafnkel, Saga Njal và Saga Grettir. Mặc dù được viết vào thế kỷ thứ 13, ba saga được thiết lập như xa trở lại như thế kỷ thứ 9. Văn học đầu tiên này đã có một ảnh hưởng ngày hôm nay, với nhiều câu lạc bộ cưỡi ngựa và bò ở Iceland hiện đại vẫn mang tên của ngựa từ thần thoại Bắc Âu. Thời Trung Cổ. Ngựa được thường được coi là sở hữu quý giá nhất của một người Iceland thời trung cổ. Không thể thiếu của những chiến binh, những con ngựa chiến đôi khi bị chôn vùi cùng với những kỵ mã đã ngã xuống của mình và những câu chuyện được kể về những việc làm của họ. Ngựa Iceland cũng được bố trí với những trận đánh đẫm máu giữa những con ngựa đực giống, chúng được sử dụng để giải trí và để sinh ra những động vật tốt nhất cho việc sinh sản, và chúng đã được mô tả trong cả văn học và các văn kiện chính thức từ thời kỳ thịnh vượng chung của 930-1262 AD.
wiki
Ngựa Iceland
Trận chiến giữa những con tuấn mã là một phần quan trọng của văn hóa Iceland, cả về thể chất và bằng lời nói, trong số các khán giả đã được phổ biến. Những cuộc xung đột ở những trận ngựa đã cho đối thủ một cơ hội để cải thiện vị chính trị và xã hội của họ tại các chi phí của kẻ thù và có tác động xã hội và chính trị rộng, đôi khi dẫn đến việc tái cơ cấu các liên minh chính trị. Tuy nhiên, không phải tất cả việc chiến đấu của con người là nghiêm trọng, và các sự kiện cung cấp một sân khấu dành cho bạn bè và thậm chí cả kẻ thù để chiến đấu mà không có khả năng hậu quả lớn. Tán tỉnh giữa nam và nữ thanh niên cũng đã được phổ biến tại những hội đấu ngựa. Chọn lọc tự nhiên đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của giống ngựa này, như một số lượng lớn những con ngựa đã chết vì thiếu thức ăn và tiếp xúc với các yếu tố. Giữa 874 và 1300 AD, trong điều kiện khí hậu thuận lợi hơn trong khoảng thời gian ấm áp thời trung cổ, các nhà lai tạo chọn lọc giống ngựa Iceland theo quy định đặc biệt về màu sắc và cấu tạo. Từ 1300-1900, giống chọn lọc trở nên ít ưu tiên; khí hậu thường khắc nghiệt và nhiều ngựa và người chết đây cũng là đặc trưng chung của vùng Băng Đảo giá lạnh.
wiki
Ngựa Iceland
Giữa năm 1783 và năm 1784, khoảng 70% trong những con ngựa ở Iceland đã bị giết bởi ngộ độc tro núi lửa và đói sau vụ phun trào năm 1783 của Lakagígar. Đợt phun trào này kéo dài tám tháng, bao phủ hàng trăm dặm vuông đất có dung nham, và định tuyến lại hoặc khô lên một số con sông. Dân số phục hồi chậm trong hàng trăm năm tiếp theo, và từ đầu của các giống chọn lọc thế kỷ 20 một lần nữa trở nên quan trọng. Các Hiệp hội giống Iceland đầu tiên được thành lập vào năm 1904, và đăng ký giống đầu tiên ở Iceland được thành lập vào năm 1923. Thời cận đại. Ngựa Iceland đã được xuất khẩu sang Vương quốc Anh trước khi thế kỷ 20 để làm việc như ngựa kéo xe tại các mỏ than, vì sức mạnh của chúng và kích thước nhỏ nhưng lanh lợi. Tuy nhiên, những con ngựa đã chưa bao giờ đăng ký và ít bằng chứng về sự tồn tại của chúngvẫn còn. Việc xuất khẩu chính thức đầu tiên của con ngựa Iceland đã đến Đức trong những năm 1940, nhập khẩu chính thức đầu tiên của Vương quốc Anh là vào năm 1956, khi một người nông dân Scotland, Stuart McKintosh, bắt đầu một chương trình nhân giống. Lai tạo khác trong Vương quốc Anh theo chân McKintosh, và Hiệp hội Iceland Horse Society of Great Britain được thành lập vào năm 1986.
wiki
Ngựa Iceland
Số lượng ngựa Iceland xuất khẩu sang các quốc gia khác đã tăng lên đều đặn kể từ khi xuất khẩu đầu tiên của thế kỷ 19. Từ năm 1969, nhiều Hiệp hội đã làm việc với nhau để bảo vệ, cải thiện và thị trường những con ngựa dưới sự bảo trợ của Liên đoàn quốc tế của ngựa Iceland. Ngày nay, ngựa Iceland vẫn còn là một giống nổi tiếng với độ tinh khiết của dòng máu, và là con ngựa giống hiện tại duy nhất ở Iceland. Các con ngựa Iceland là đặc biệt phổ biến ở Tây Âu, Scandinavia, và Bắc Mỹ. Có khoảng 80.000 con ngựa Iceland ở Iceland (so với dân số của 317.000 cá thể), và khoảng 100.000 ở nước ngoài. Gần 50.000 cá thể là ở Đức. Đặc điểm. Ngựa Iceland cân nặng từ 330 đến 380 kg (730 và 840 lb) và đứng cao trung bình 52 và 56 inch (132 và 142 cm), thường được coi là kích thước của ngựa giống lùn, nhưng các nhà nhân giống và giống đăng ký luôn tham khảo như ngựa Iceland như ngựa bình thường. Một số giả thuyết đã được đưa ra là tại sao ngựa Icelandic luôn luôn được gọi ngựa bình thường, trong đó có tính khí hung hăng của giống và cá tính rất lớn. Một giả thuyết khác cho rằng các trọng lượng, cấu trúc xương và khả năng thồ nặng của giống giống của nghĩa là nó có thể được phân loại như một con ngựa, chứ không phải là một con ngựa lùn.
wiki
Ngựa Iceland
Các giống xuất hiện trong nhiều màu sắc bao gồm hạt dẻ, màu đen, màu xám, Palomino, pinto và loang nâu. Hiện có hơn 100 tên cho màu sắc khác nhau và các mẫu màu sắc trong tiếng Iceland. Chúng có đầu cân đối, với các cấu trúc thẳng và trán rộng. Cổ ngắn, cơ bắp, và rộng; tới vai rộng và thấp; ngực sâu; vai cơ bắp và hơi dốc; lưng dài; mông rộng, cơ bắp, ngắn và hơi dốc. Chân khỏe và ngắn, có xương pháo tương đối dài và cổ chân ngắn. Bờm và đuôi đầy đủ, với mái tóc thô, và phần đuôi thấp. Giống này được biết đến là nhiệt huyết. Các giống có bộ lông kép được phát triển cho việc cách ly và tăng thêm ở nhiệt độ lạnh. Đặc điểm khác nhau giữa các nhóm khác nhau của con ngựa Iceland, tùy thuộc vào trọng tâm của các nhà lai tạo cá nhân. Một số tập trung trên động vật cho bầy đàn và ngựa lùn phục vụ cho công việc, đó là những điểm phân biệt với những giống để làm việc dưới kéo xe, được lựa chọn cẩn thận cho họ khả năng để thực hiện các dáng ngựa Iceland truyền thống. Những con khác được nuôi chỉ để lấy thịt ngựa. Một số nhà chăn nuôi tập trung vào màu lông được ưa chuộng. Thành viên của các giống thông thường không được cưỡi đến khi chúng được bốn tuổi, và phát triển kết cấu là không hoàn thành cho đến bảy tuổi. Năm hiệu quả nhất của chúng là từ tám đến mười tám tuổi, mặc dù chúng vẫn giữ được sức mạnh và sức chịu đựng của chúng vào tuổi đôi mươi. Một con ngựa Iceland sống ở Đan Mạch đạt đến một độ tuổi kỷ lục là 56 tuổi trong khi con ngựa khác, sống ở Vương quốc Anh, đến tuổi 42.
wiki
Ngựa Iceland
Những con ngựa này rất mập mạp phì nhiêu, và cả hai giới là phù hợp cho chăn nuôi lên đến 25 tuổi; ngựa cái đã được ghi nhận sinh con ở độ tuổi 27. Những con ngựa có xu hướng không dễ dàng hoảng sợ, có lẽ là kết quả của việc không có bất kỳ kẻ thù tự nhiên ở quê hương Iceland mẹ đẻ của chúng. Ngựa Icelandi có xu hướng thân thiện, ngoan ngoãn và dễ dàng để điều khiển, mặc dù cũng nhiệt tình và tự tin. Như một kết quả của sự cô lập của chúng từ những con ngựa khác, bệnh ở các giống trong Iceland là chủ yếu là chưa biết, ngoại trừ đối với một số loại ký sinh trùng nội. Tỷ lệ lây nhiễm thấp của bệnh ở Iceland được duy trì bởi pháp luật ngăn chặn ngựa xuất khỏi đất nước được trả lại, và bằng cách yêu cầu tất cả thiết bị dùng cho ngựa đưa vào nước này là một trong hai điều kiện là phải mới và không sử dụng hoặc khử trùng hoàn toàn. Kết quả là, ngựa bản địa có khả năng miễn dịch không mắc phải bệnh; một đợt bùng phát trên đảo có thể sẽ gây tổn thất về giống này. Điều này trình bày vấn đề với việc ngựa Iceland bản địa chống lại những người khác của các giống ngựa từ nước ngoài, như là không có vật nuôi của bất kỳ loài có thể được nhập khẩu vào Iceland, và một lần ngựa rời khỏi đất nước này rồi thi không được phép quay trở lại. Dáng ngựa.
wiki
Ngựa Iceland
Dáng ngựa. Các con ngựa Iceland là một trong những giống có 05 dáng vẻ, với chắc chắn-chân vững vàng và khả năng gồng mạnh để vượt qua địa hình gồ ghề. Cũng như các dáng điển hình của đi bộ, chạy nước kiệu, và phi nước đại, giống này nổi bật với khả năng của mình để thực hiện hai dáng bổ sung. Mặc dù hầu hết các chuyên gia ngựa xem xét về khả năng phi nhảy và phi nước đại được tạo dáng riêng biệt, Một con ngựa màu nâu nhạt với màu nâu đậm trên chân sau của nó bị liệt trong một vòng bụi bẩn bằng một tay đua trong màu đen trang phục chính thức. Dáng đi bổ sung đầu tiên là một dáng đi ambling được gọi là tölt. Điều này được biết đến với khả năng tăng tốc bùng nổ của nó và tốc độ; nó cũng thoải mái. Có sự khác biệt đáng kể trong phong cách trong dáng đi, và do đó các tölt được nhiều cách khác nhau so với dáng ngựa tương tự như các con Saddlebred, hay ngựa nước kiệu Tennessee, với một số con ngựa có thể phi nước đại lên tới 30 dặm một giờ (48 km/h) Không phải tất cả những con ngựa Iceland có thể thực hiện dáng đi này. Sử dụng.
wiki
Ngựa Iceland
Sử dụng. Ngựa Iceland vẫn đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của người Iceland, dù ngày càng cải tiến cơ giới và đường bộ, thu hẹp sự cần thiết cho việc sử dụng của giống này. Các quan chức đua ngựa Iceland đầu tiên được tổ chức tại Akureyri vào năm 1874, và nhiều bộ tộc vẫn tổ chức trong cả nước từ tháng Tư đến tháng Sáu. Cả hai cuộc thi phi nước đại và tốc độ cuộc đua được tổ chức, cũng như các lớp thực hiện trưng bày dáng vẻ độc đáo của giống ngựa này. Sự kiện mùa đông thường được tổ chức. Năm 2009 là một sự kiện như vậy dẫn đến cả ngựa và người cỡi rơi xuống nước và cần được giải cứu. Các chương trình đầu tiên, tập trung vào chất lượng của các loài động vật như giống, đã được tổ chức vào năm 1906. Hội Nông nghiệp Iceland, cùng với Hiệp hội cưỡi ngựa Quốc gia, doanh nghiệp tổ chức các chương trình thường xuyên với một loạt các lớp học. Một số con ngựa vẫn được nuôi để giết thịt, và nhiều thịt được xuất khẩu sang Nhật Bản. Nông dân vẫn sử dụng ngựa nuôi để chăn cừu ở vùng cao nguyên của Iceland, nhưng hầu hết những con ngựa được dùng để cưỡi cạnh tranh và giải trí.
wiki
Ngựa Iceland
Khi con người đến Iceland, họ đã mang đến một số gia súc mà ngày nay ta có thể thấy như cừu Iceland, bò và đặc biệt là giống ngựa rất khỏe của đất nước này. Các môn thể thao khác như golf, tennis, bơi, cờ vua, cưỡi ngựacũng hết sức phổ biến. Cờ vua là một thú tiêu khiển được yêu thích của tổ tiên Viking của người Iceland. Nước này có rất nhiều kiện tướng cờ vua như Friðrik Ólafsson, Jóhann Hjartarson, Margeir Pétursson, và Jón Arnason. Glíma là một môn vật cổ khởi nguồn từ thời kỳ xa xưa của nước này. Bơi và cưỡi ngựa rất được yêu thích tại Iceland. Du lịch sinh thái với những hoạt động như leo núi, trượt tuyết, cưỡi ngựa cũng rất được ưa chuộng. Những chú ngựa Iceland nhỏ nhắn, xinh xắn và vô cùng thân thiện. Tới đất nước này, du khách được tham gia những tour du lịch cưỡi ngựa rất thú vị và an toàn, trải nghiệm cảm giác có một không hai trên đường du hành. Hàng năm, khi mùa Đông bắt đầu, những người nuôi ngựa ở phía Bắc Iceland lại đưa bầy ngựa gồm hàng ngàn con vừa mới trải qua mùa hè ở các cao nguyên đầy cỏ trở về nhà để trả lại cho chủ. Một con ngựa lồng lên ở trại chọn ngựa Víðidalstungurétt, Bắc Iceland. Những nông dân đang chọn ngựa của họ. Người chủ có thể nhận ra ngựa của mình chỉ bằng ánh mắt. Nếu số lượng ngựa được đưa về nhiều quá, họ sẽ nhận ngựa bằng cách dùng máy scanner để đọc chip gắn trên người chúng. Đăng ký.
wiki
Ngựa Iceland
Đăng ký. Hôm nay, con ngựa Iceland được đại diện bởi các hiệp hội tại 19 quốc gia, với các Liên đoàn quốc tế của Ngựa Iceland (FEIF) phục vụ như là một tổ chức quốc tế chủ quản quản lý. Các FEIF được thành lập vào ngày 25 tháng 5 năm 1969, với sáu quốc gia ban đầu là các thành viên gồm: Áo, Đan Mạch, Đức, Iceland, Hà Lan, và Thụy Sĩ. Pháp và Na Uy đã gia nhập vào năm 1971, và Bỉ và Thụy Điển vào năm 1975. Sau đó, Phần Lan, Canada, Anh, Mỹ, Quần đảo Faroe, Luxembourg, Ý, Slovenia và Ireland đã trở thành thành viên, nhưng sau đó lại Ireland vì thiếu điều kiện của các thành viên. New Zealand đã được trao danh hiệu "thành viên liên kết". Năm 2000, WorldFengur được thành lập như là đăng ký FEIF chính thức cho ngựa Iceland. Việc đăng ký là một chương trình cơ sở dữ liệu web được sử dụng như một sách chỉ nuôi ngựa để theo dõi lịch sử và dòng máu của giống ngựa Iceland. Các công tác đăng ký chứa thông tin về phả hệ, tác giả, chủ sở hữu, con cái, hình ảnh, đánh giá giống và đánh giá, và nhận dạng duy nhất của mỗi con ngựa đã đăng ký. Các cơ sở dữ liệu được thành lập bởi chính phủ Iceland trong hợp tác với các FEIF. Kể từ khi ra đời, khoảng 300.000 con ngựa Iceland, sống và chết, đã được đăng ký trên toàn thế giới.
wiki
Ayn al-Bayda, Jarabulus
Ayn al-Bayda, Jarabulus Ayn al-Bayda () là một ngôi làng ở phía bắc tỉnh Aleppo, miền bắc Syria. Nằm trên phía bắc đồng bằng Manbij, khoảng một nửa giữa Jarabulus và hạ lưu sông Sajur, ngôi làng cách khoảng về phía tây sông Euphrates và khoảng về phía nam biên giới với tỉnh Gaziantep của Thổ Nhĩ Kỳ. Với 1.111 người, theo điều tra dân số năm 2004, Ayn al-Bayda về mặt hành chính thuộc về Nahiya Jarabulus trong huyện Jarabulus. Các địa phương lân cận bao gồm Amarnah cách về phía đông bắc, Mazaalah cách về phía tây bắc và Dabis cách về phía tây nam.
wiki
Tiền giấy Euro
Euro (ký hiệu tiền tệ quốc tế: "EUR") là tiền tệ chung của 12 nước thuộc Liên minh châu Âu. Tiền giấy và tiền kim loại Euro bắt đầu được lưu hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 tuy rằng loại tiền tệ này đã được đưa vào sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1999. Trình bày. Tiền giấy Euro có 7 mệnh giá, mỗi mệnh giá có một màu khác nhau. Các tờ tiền giấy mang hình của kiến trúc châu Âu từ các thời kỳ khác nhau trong lịch sử nghệ thuật. Mặt trước có hình của một hay nhiều cửa sổ hay cổng vào (ngụ ý mời chào) và mặt sau là một chiếc cầu (ngụ ý kết nối). Đó không phải là công trình kiến trúc có thật mà chỉ là tập hợp của những đặc điểm phong cách của từng thời kỳ kiến trúc một. Tất cả các tờ tiền giấy đều có cờ hiệu châu Âu, chữ đầu tự của Ngân hàng Trung ương châu Âu bao gồm 5 ngôn ngữ (BCE, ECB, EZB, EKT, EKP), một bản đồ châu Âu (bao gồm cả các khu hành chính hải ngoại của Pháp) ở mặt sau, tên "Euro" bằng chữ La tinh và chữ Hy Lạp, chữ ký của Giám đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu đương nhiệm. Vì Wim Duisenberg đã trao lại chức giám đốc cho Jean-Claude Trichet trong mùa thu 2003 nên trên các tờ tiền giấy in sau này chữ ký cũng đã thay đổi. 12 ngôi sao của EU cũng có trên tờ tiền giấy Euro. Các tờ tiền giấy là do người Áo Robert Kalina thiết kế sau một cuộc thi trong toàn EU. Số xê ri.
wiki
Tiền giấy Euro
Các tờ tiền giấy là do người Áo Robert Kalina thiết kế sau một cuộc thi trong toàn EU. Số xê ri. Khác với tiền kim loại Euro các tờ tiền giấy Euro không có một mặt đặc trưng cho từng quốc gia và vì thế mà không thể nhận biết qua hình ảnh là tờ tiền giấy là của quốc gia nào. Thay vào đấy, thông tin này có trong số xê ri trên mặt sau. Mẫu tự đầu tiên của số xê ri có 12 chữ số là dấu hiệu của Ngân hàng Trung ương Quốc gia chịu trách nhiệm in tờ tiền giấy này. Ngân hàng Trung ương Quốc gia này hoặc là đã đưa tờ tiền giấy vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng hoặc là đã cung cấp cho một Ngân hàng Trung ương Quốc gia khác để ngân hàng này đưa vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng đó. Các mẫu tự W, K và J được dành riêng cho các quốc gia EU không tham gia vào Euro trong thời gian này. Sau mẫu tự của Ngân hàng Trung ương Quốc gia là một số bao gồm 10 con số và cuối cùng là một con số kiểm định. Tổng số ngang (cộng tất cả các con số của dãy số lại cho đến khi nào chỉ còn một con số) của 11 con số này là một tổng số kiểm định trong bảng phía dưới. Con số kiểm định cũng có thể được kiểm tra bằng cách thay thế mẫu tự bằng thứ tự của mẫu tự đó trong bảng chữ cái (A=1;Z=26). Tổng số ngang của các con số kể cả số thay cho chữ cái phải là 8.
wiki
Tiền giấy Euro
Một con số kiểm định đúng tất nhiên không phải là một sự bảo đảm là tờ tiền giấy này là tờ tiền thật. Chỉ có con số kiểm định đúng thôi thì tờ tiền giả không trở thành tờ tiền thật nhưng kinh nghiệm cho thấy nhiều người giả mạo đã in số kiểm định sai trên tờ tiền giả. Để kiểm tra tiền giả hay thật nên dùng những phương pháp khác. Dấu hiệu của Ngân hàng Trung ương Quốc gia. Các mẫu tự được phân phát bắt đầu từ Z (ngược với bảng chữ cái), thứ tự của các quốc gia là tên của các nước trong ngôn ngữ của từng nước. Hy Lạp đúng ra là nhận chữ W nhưng vì W không có trong bảng chữ cái của tiếng Hy Lạp nên Hy Lạp đã đổi lấy chữ Y của Đan Mạch. Mã của bản in. Ở mặt trước, hơi kín đáo một ít là một chuỗi ngắn bao gồm mẫu tự và số, là mã của bản in; chữ cái đầu tiên là ký hiệu của nhà in đã in tờ tiền giấy này. Ký hiệu của nhà in không trùng hợp với ký hiệu của ngân hàng trung ương quốc gia, tức là tiền giấy do một quốc gia đưa vào lưu hành có thể đã được in ở một nước khác (thí dụ như một số tờ tiền giấy của Phần Lan được in từ một nhà in của Anh). Các mã A, C và S được dành riêng cho các nhà in hiện thời không in tiền giấy Euro. Hai dấu hiệu cuối cùng của chuỗi ký hiệu ngắn này là vị trí của tờ tiền giấy trên tờ giấy in, tức là từ A1 (phía tên bên trái) đến J6 (phía dưới bên phải), tùy theo kích thước của tờ giấy in.
wiki
Tiền giấy Euro
Hai dấu hiệu cuối cùng của chuỗi ký hiệu ngắn này là vị trí của tờ tiền giấy trên tờ giấy in, tức là từ A1 (phía tên bên trái) đến J6 (phía dưới bên phải), tùy theo kích thước của tờ giấy in. Trong số này 2 nhà in của Đức chiếm phần lớn nhất trong số lượng tiến giấy được in. Trong số 14,8899 tỉ tờ tiền giấy Euro được in cho ngày 1 tháng 1 năm 2002 có 4,7829 tỉ là từ Ngân hàng Liên bang Đức. Các đặc điểm chống giả mạo. Các tờ tiền giấy Euro có nhiều đặc điểm an toàn nhằm để ngăn cản hay làm cho việc giả mạo khó khăn hơn. Các đặc điểm bí mật. Trên các tờ tiền giấy Euro còn có những đặc điểm an toàn bí mật (được gọi là "M-Features"). Những đặc điểm này được kiểm tra một cách tự động trong các chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Cho đến nay các phương pháp kiểm tra này đã có thể nhận biết được tiền giả một cách chắc chắn. Mỗi một tờ tiền giấy trung bình được kiểm tra 3 tháng một lần trong một chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu nhằm khám phá và ngăn chặn tiền giả trong lưu hành Các đặc điểm an toàn của loạt thứ hai. Loạt tiền giấy Euro thứ hai sẽ từng bước thay thế các loại tiền giấy hiện nay vào năm 2008. Các tờ tiền giấy mới này có các đặc điểm an toàn mới hay được tiếp tục cải tiến. Cho đến nay vẫn chưa có thông tin chi tiết chính thức về các đặc điểm an toàn này. Giả mạo.
wiki
Tiền giấy Euro
Giả mạo. Tỷ lệ tiền giấy Euro giả mạo đã tăng rõ rệt trong năm 2003, vì thế mà các đặc điểm an toàn mới hiện đang được xem xét thí dụ như việc tích hợp chip điện tử để nhận diện tiền giấy. Ngân hàng Trung ương châu Âu dự định khoảng năm 2008 sẽ lưu hành loạt tiền Euro mới có thêm nhiều đặc điểm an toàn mới nhưng hình dáng của các tờ tiền giấy sẽ không thay đổi.
wiki
Dầu lai lá đờn
Dầu lai lá đờn Dầu lai lá đờn (PHH) (danh pháp hai phần: Jatropha integerrima - dầu lai lá nguyên; "integerrima: completest, most or very whole or intact, ám chỉ lá nguyên vẹn, ko có răng hay thuỳ như các cây cùng chi") là một loài thực vật có hoa thuộc họ Đại kích (Euphorbiaceae). Ở Việt Nam nhiều người coi nó như một loài mai đỏ và đặt biệt danh là Hồng mai/nhất chi mai đỏ mặc dù nó hoàn toàn không có dính dáng gì đến họ Mai. Đặc điểm. Cây bụi cao 1-2m, phiến lá màu xanh lục đậm. Hoa mọc thành chùm trên cuống dài, màu đỏ tươi, có 5 cánh. Công dụng. Cây được trồng rộng rãi để làm cảnh vì cho hoa đẹp, nở quanh năm, chịu hạn tốt và dễ nhân giống bằng giâm cành.
wiki
Grumman J2F Duck
Grumman J2F Duck Grumman J2F Duck (định danh công ty G-15) là một loại máy bay hai tầng cánh lưỡng dụng. Nó được trang bị cho các quân chủng và binh chủng của quân đội Hoa Kỳ từ giữa thập niên 1930 tới sau Chiến tranh thế giới II, chủ yếu làm nhiệm vụ thông dụng và cứu hộ không-hải. Ngoài ra nó còn được Hải quân Argentina sử dụng, chiếc đầu tiên giao hàng năm 1937. Sau chiến tranh, J2F Duck phục vụ trong các tổ chức dân sự độc lập, cũng như lực lượng vũ trang của Colombia và México. J2F là một phiên bản cải tiến của loại JF Duck, điểm khác biệt chính là J2F có một phao nổi lớn hơn và dài hơn.
wiki
Tổng tuyển cử Indonesia 2019
Các cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại Indonesia vào ngày 17 tháng 4 năm 2019. Lần đầu tiên trong lịch sử của đất nước, tổng thống, phó tổng thống, thành viên của Hội nghị Hiệp thương Nhân dân (MPR), và các thành viên của các cơ quan lập pháp địa phương đã được bầu vào cùng ngày với hơn 190 triệu cử tri đủ điều kiện bỏ phiếu. Mười sáu đảng đã tham gia cuộc bầu cử toàn quốc, bao gồm bốn đảng mới. Cuộc bầu cử tổng thống, lần thứ tư trong lịch sử của đất nước, đã sử dụng một hệ thống trực tiếp, đa số đơn giản, với đương kim Tổng thống Indonesia Joko Widodo, được gọi là Jokowi liên minh cùng giáo sĩ hồi giáo Ma'ruf Amin, đối thủ của họ là tướng Prawobo Subianto và cựu phó thống đốc Jakarta Sandiaga Uno. Cuộc bầu cử nhằm tìm ra tổng thống Indonesia trong nhiệm kỳ năm năm từ 2019 đến 2024. Cuộc bầu cử được coi là màn tái đấu cho cuộc bầu cử tổng thống Indonesia 2014, trong đó Widodo đã đánh bại Subianto. Cuộc bầu cử lập pháp, là cuộc bầu cử lần thứ 12 như vậy đối với Indonesia, đã chứng kiến hơn 240.000 ứng cử viên tranh cử hơn 20.000 ghế trong MPR và các hội đồng địa phương cho các tỉnh và thành phố / chế độ, với hơn 8.000 người tranh cử Hội đồng Đại diện Nhân dân (DPR) chỗ ngồi một mình. Cuộc bầu cử được mô tả là "một trong những lá phiếu một ngày phức tạp nhất trong lịch sử toàn cầu".
wiki
Tổng tuyển cử Indonesia 2019
Vào ngày 21 tháng 5 năm 2019, Ủy ban bầu cử tổng hợp tuyên bố Jokowi và Amin là người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, đã bảo đảm hơn 55% số phiếu với hơn 85 triệu phiếu bầu. Đồng thời, Widodo PDI-P đã hoàn thành đầu tiên trong cuộc bầu cử Hội đồng đại diện nhân dân (DPR) với 19,33%, tiếp theo là Gerindra với tỷ lệ 12,57%. Các đảng hàng đầu tiếp theo theo số phiếu bầu là Golkar, Đảng Thức tỉnh quốc gia (PKB), Đảng Nasdem và Đảng Công lý Thịnh vượng (PKS). Sau cuộc bầu cử, đã xuất hiện hơn 7 triệu nhân viên bầu cử, 569 người đã chết trong quá trình bỏ phiếu và kiểm đếm kéo dài. Đội ngũ chiến dịch của Bohowo tuyên bố những cái chết bằng cách nào đó có liên quan đến gian lận gây bất lợi cho ông. Tính đến ngày 9 tháng 5 năm 2019, ủy ban bầu cử (KPU) cho biết người chết bao gồm 456 sĩ quan bầu cử, 91 nhân viên giám sát và 22 sĩ quan cảnh sát. Bối cảnh. Cuộc bầu cử ở Indonesia trước đây được tổ chức riêng biệt, với luật bầu cử năm 2008 quy định rằng cuộc bầu cử tổng thống và lập pháp được tổ chức ít nhất ba tháng cách nhau. Tuy nhiên, sau một vụ kiện năm 2013 Tòa án hiến pháp, đã quyết định rằng cuộc bầu cử năm 2019 - sẽ là cuộc bầu cử lập pháp lần thứ 12 và cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 4 - sẽ được tổ chức đồng thời. Mục đích đã nêu của cuộc bầu cử đồng thời là giảm chi phí liên quan và giảm thiểu chính trị giao dịch, bên cạnh việc tăng cử tri đi bầu cử.
wiki
Tổng tuyển cử Indonesia 2019
Trong bầu cử tổng thống 2014, thống đốc Jakarta Joko Widodo đã đánh bại cựu tướng Mitchowo Subianto để trở thành [tổng thống Indonesia] thứ bảy. Mặc dù ban đầu có chính phủ thiểu số, Jokowi sau đó đã xoay xở để bảo đảm sự hỗ trợ của Golkar và Đảng phát triển thống nhất, cho phép ông kiểm soát cơ quan lập pháp. Trong bầu cử lập pháp cùng năm, cựu đảng đối lập PDI-P đã cố gắng giành được phần lớn nhất trong DPR, trước Golkar và Gerindra. Mặc dù có kế hoạch giới thiệu bỏ phiếu điện tử, DPR vào tháng 3 năm 2017 tuyên bố sẽ không bắt buộc bỏ phiếu điện tử trong cuộc bầu cử năm 2019 vì lo ngại hack và vì thiếu phủ sóng internet trên toàn quốc. Vào ngày 7 tháng 4 năm 2017, Ủy ban bầu cử tổng hợp (KPU), Cơ quan giám sát bầu cử (Bawaslu) và Bộ Nội vụ đã tổ chức một cuộc họp với ủy ban đặc biệt của Hội đồng đại diện nhân dân để thảo luận dự thảo luật liên quan đến cuộc bầu cử năm 2019. Chủ tịch ủy ban đặc biệt của Hạ viện cân nhắc dự luật, Lukman Edy, đã tuyên bố vào ngày 25 tháng 4 năm 2017 rằng Thứ Tư, ngày 17 tháng 4 năm 2019, đã được thống nhất là ngày bầu cử.
wiki
Tổng tuyển cử Indonesia 2019
Đề cử của các ứng cử viên cho các cơ quan lập pháp quốc gia và khu vực cũng như các ứng cử viên cho tổng thống và phó tổng thống đã được hoàn thành vào tháng 9 năm 2018. Thời gian chiến dịch là từ ngày 13 tháng 10 năm 2018 đến ngày 13 tháng 4 năm 2019 sau đó là ba ngày ngày bỏ phiếu vào ngày 17 tháng Tư. Kết quả cuối cùng sẽ được công bố vào ngày 22 tháng 5. Lễ nhậm chức của tổng thống và phó chủ tịch dự kiến vào Chủ nhật, ngày 20 tháng 10 năm 2019.
wiki
Amomum billburttii
Amomum billburttii Amomum billburttii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Yee Kiew Kam mô tả khoa học đầu tiên năm 1982 dưới danh pháp "Elettariopsis burttiana". Phân tích phát sinh chủng loại phân tử chi "Amomum" nghĩa rộng năm 2018 của de Boer "et al." cho thấy nó thuộc về chi "Amomum" nghĩa hẹp, vì thế nó được Jana Leong-Škorničková và Kristýna Hlavatá chuyển sang chi "Amomum", nhưng do danh pháp "Amomum burttii" đã được Rosemary Margaret Smith đặt từ năm 1985 cho loài ở Sarawak trên đảo Borneo, (danh pháp chính thức hiện nay là "Sulettaria burttii") nên các tác giả đã đổi danh pháp của loài này thành "Amomum billburttii". Phân bố. Loài này có ở Perak và Penang, Malaysia bán đảo.
wiki
A La Già Da
A La Già Da A La Già Da (아시량국, 阿尸良國)), và Alla (안라, 安羅, An La), là một thành bang của liên minh Già Da vào thời Tam Quốc Triều Tiên. Lãnh thổ thành bang thuộc địa phận huyện Haman ngày nay. Khi chính sách đối ngoại mang tính đối đầu của Đại Già Da thất bại. A La Già Da và các chính sách ít mang tính đối đầu hơn của nó đã giúp đỡ liên minh trong thập niên 540. Trong thế kỷ thứ 6, liên minh Già Da không thể mạo hiểm để có thái độ thù địch với Tân La hay Bách Tế. A La Già Da đã đưa ra một thỏa thuận quan trọng trong nỗ lực theo đuổi các giải pháp ngoại giao nhằm duy trì nền độc lập của mình, bao gồm cả việc tổ chức đàm luận giữa Bách Tế, Tân La và Nụy Quốc (Nhật Bản). Liên minh Già Da đã bị suy yếu phần lớn vào thời điểm đó, các thành bang phía tây bắc của liên minh nằm dưới sự ảnh hưởng của Bách Tế trong khi các thành bang ở phía tây nam chịu ảnh hưởng của Tân La. A La Già Da tìm cách duy trì nền độc lập của mình bằng cách tự liên minh mình với Cao Câu Ly, và sau đó mời Cao Câu Ly xâm lược Bách Tế và năm 548. Nỗ lực nhằm làm suy yếu ảnh hướng của Bách Tế này đã không thành công khi Cao Câu Ly thất bại trong chiến tranh. Năm 553, Tân La đã đè bẹp Bách Tế trong một cuộc chiến và chiếm được khu vực Gyeonggi (bồn địa sông Hán), chấm dứt 120 năm liên minh giữa hai nước. Tân La bắt đầu sáp nhập các thành bang Già Da dã chịu ảnh hưởng của mình từ trước và xâm chiếm các thành bang còn lại nằm trong tầm ảnh hưởng của Bách Tế. A La Già Da đầu hàng Tân La vào năm 559.
wiki
Nhũ ảnh
Nhũ ảnh là một kỹ thuật chụp X quang đặc biệt dành cho tuyến vú thường được dùng trong hỗ trợ chẩn đoán các bệnh lý tuyến vú ở phụ nữ. X quang là một xét nghiệm chẩn đoán đã có từ rất lâu và được dùng khá thường xuyên trong y khoa. Cũng như các kỹ thuật chụp X quang của những cơ quan khác, nhũ ảnh cũng dùng chùm tia X chiếu xuyên qua tuyến vú để ghi hình ảnh của tuyến vú lên phim. Tuy nhiên trong nhũ ảnh chùm tia X thường dùng là chùm tia có cường độ thấp và bước sóng dài hơn. Hiện nay nhũ ảnh là một trong những phương tiện quan trọng để tầm soát và chẩn đoán sớm ung thư vú. Do đó ở nhiều nước trên thế giới, phụ nữ lớn tuổi được khuyến cáo nên chụp nhũ ảnh định kỳ (thông thường là mỗi năm một lần). Các loại nhũ ảnh. Nhũ ảnh tầm soát: chỉ định ở những phụ nữ không có triệu chứng gì ở vú nhằm mục đích phát hiện ung thư vú ở giai đoạn sớm, do đó nhũ ảnh tầm soát thường chỉ định ở những phụ nữ trên 35 – 40 tuổi và chụp định kỳ nhũ ảnh tầm soát mỗi 1- 2 năm. Đó là vì ở lứa tuổi này nguy cơ ung thư vú tăng lên. Lúc này mô tuyến vú cũng thoái hóa dần, mô tuyến giảm đi, thay vào đó là mô mỡ, thuận lợi hơn cho việc chụp và đọc kết quả nhũ ảnh. Nhũ ảnh chẩn đoán: chỉ định ở những phụ nữ có những triệu chứng bất thường ở vú như nổi bướu, nổi cục trong vú, co kéo núm vú, tiết dịch núm vú v.v... Quy trình chụp nhũ ảnh.
wiki
Nhũ ảnh
Nhũ ảnh chẩn đoán: chỉ định ở những phụ nữ có những triệu chứng bất thường ở vú như nổi bướu, nổi cục trong vú, co kéo núm vú, tiết dịch núm vú v.v... Quy trình chụp nhũ ảnh. Bệnh nhân sẽ ngồi trước máy chụp, đặt vú của mình lên một mặt phẳng, sau đó sẽ có một tấm plastic phẳng và trong đè lên bên trên để ép chặt vú của bệnh nhân. Việc ép chặt tuyến vú nhằm những mục đích sau: Vì không có một tư thế nào có thể chụp hết được toàn bộ tuyến vú do đó sẽ có nhiều tư thế để chụp nhũ ảnh để lấy được hình ảnh đầy đủ của tuyến vú.
wiki
Ủy ban Nobel Na Uy
Ủy ban Nobel Na Uy (tiếng Na Uy: "Den norske Nobelkomité") là cơ quan có nhiệm vụ tuyển chọn người (hoặc tổ chức) đủ tiêu chuẩn để trao Giải Nobel Hòa bình hàng năm. Ủy ban này gồm có 5 thành viên chính thức và 3 thành viên dự khuyết, do Quốc hội Na Uy ("Storting") bổ nhiệm. Lịch sử. Alfred Nobel từ trần tháng 12 năm 1896, tới tháng 1 năm 1897 thì nội dung bản Di chúc của ông được tiết lộ. Di chúc này được viết từ năm 1895. Trong Di chúc có nói tới một Giải Nobel Hòa bình sẽ được trao hàng năm "cho người nào đã làm công việc tốt nhất hoặc nhiều nhất cho tình hữu nghị giữa các dân tộc, cho việc bãi bỏ hoặc giảm thiểu các quân đội thường trực và cho việc tổ chức và xúc tiến các hội nghị hòa bình", và một số tiền của Nobel sẽ được tặng cho giải này. Quỹ Nobel quản lý tài sản này. Các giải Nobel khác do các cơ quan của Thụy Điển trao (Viện Hàn lâm Thụy Điển, Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển, Học viện Karolinska) vốn đã tồn tại sẵn, còn trách nhiệm về Giải Nobel Hòa bình được trao cho Quốc hội Na Uy, đúng ra là "một ủy ban gồm 5 người do Quốc hội Na Uy bầu chọn". Do đó một cơ quan mới được thành lập— Ủy ban Nobel Na Uy.
wiki
Ủy ban Nobel Na Uy
Luật gia Fredrik Heffermehl đã nhận xét rằng không cần phải yêu cầu một cơ quan lập pháp làm một nhiệm vụ tư pháp như quản lý một di chúc. Nhiệm vụ của một nghị viện là lập và thay đổi luật, còn một di chúc không thể bị thay đổi trừ phi tài sản trên đã rõ ràng lỗi thời. Tuy nhiên, vấn đề này đã không được bàn luận sâu hơn, vì thời đó sợ rằng số tiền được tặng có thể bị mất trong các trận chiến về pháp luật, nếu không thiết lập ngay một cơ quan (quản lý). Ngày 26.4.1897 Quốc hội Na Uy chấp nhận nhiệm vụ được giao, và ngày 5 tháng 8 cùng năm Quốc hội đã chính thức hóa tiến trình chọn lựa cùng ấn định thời gian phục vụ cho các thành viên của Ửy ban Nobel. Giải Nobel Hòa bình đầu tiên được trao năm 1901 cho Henri Dunant và Frédéric Passy. Ban đầu, Ủy ban gồm toàn các nghị sĩ đương nhiệm, và các báo cáo hàng năm được thảo luận tại các khóa họp của nghị viện. Dần dần, việc gắn chặt với Nghị viện sau này giảm bớt và Ủy ban trở nên độc lập hơn. Vì vậy, tên đã được thay đổi trước đây từ "Ủy ban Nobel Na Uy" thành "Ủy ban Nobel của Quốc hội Na Uy" ("Det norske Stortings Nobelkomité") năm 1901, nhưng đổi lại tên cũ năm 1977. Ngày nay, các nghị sĩ đương nhiệm không được ở trong Ủy ban, ngoại trừ họ nói rõ ý định sẽ từ nhiệm sớm.
wiki
Ủy ban Nobel Na Uy
Tuy nhiên, Ủy ban vẫn gồm chủ yếu là các chính trị gia. Một đề nghị năm 1903 bầu chọn một học giả luật (Ebbe Hertzberg) đã bị bác bỏ. Cuối năm 1948, hệ thống bầu chọn được thay đổi để làm cho Ủy ban có tỷ lệ cân xứng hơn với các đảng chính trị có đại diện ở Quốc hội. Đảng Lao động Na Uy, đảng kiểm soát đa số ít ỏi trong Quốc hội đã đưa ra sự thay đổi này. Thông lệ này đã được củng cố, nhưng bị chỉ trích dữ dội. Đã có các đề nghị thâu nạp các thành viên không có quốc tịch Na Uy vào Ủy ban, nhưng cho tới nay việc đó chưa xảy ra. Ủy ban Nobel Na Uy được hỗ trợ bởi Viện Nobel Na Uy, một cơ quan được thành lập năm 1904. Ủy ban có thể nhận khoảng trên 100 đề cử ứng viên và yêu cầu Viện Nobel Na Uy chọn lựa khoảng 20 ứng viên vào tháng Hai hàng năm. Giám đốc của Viện Nobel Na Uy cũng là thư ký của Ủy ban Nobel Na Uy; chức vụ đó hiện nay thuộc về Geir Lundestad. Thorbjørn Jagland làm chủ tịch Ủy ban Nobel Na Uy từ năm 2009.
wiki
Grzegorz Królikiewicz
Grzegorz Królikiewicz Grzegorz Królikiewicz (sinh ngày 5 tháng 6 năm 1939 - mất ngày 21 tháng 9 năm 2017) là một đạo diễn phim kiêm nhà biên kịch người Ba Lan. Kể từ năm 1981, ông giảng dạy tại khoa Đạo diễn, Điện ảnh và Truyền hình tại Học viện Điện ảnh Quốc gia ở Łódź, và vào năm 1993, ông chính thức trở thành giáo sư. Ông là thành viên của Học viện Điện ảnh Ba Lan. Sự nghiệp. Năm 1962, Grzegorz Królikiewicz tốt nghiệp chuyên ngành Luật tại Đại học Łódź. Ông tiếp tục theo học và tốt nghiệp Học viện Điện ảnh Quốc gia ở Łódź vào năm 1970. Ông làm đạo diễn cho một số bộ phim tài liệu, phim điện ảnh và chương trình truyền hình. Trong giai đoạn 1976 - 1978, ông đạo diễn chương trình truyền hình Redakcją Faktu (Editorial Office of Facts). Ông đảm nhận chức vụ giám đốc nghệ thuật Xưởng phim Aneks trong những năm 1981 - 1983. Tiếp theo đó, ông giữ chức vụ giám đốc Nhà hát mới ở Łódź trong những năm 2003 - 2005.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Tiền giấy thực sự ra đời ở Trung Quốc, thời Bắc Tống. Tuy nhiên, những hình thức sơ khai của nó, đã có từ thời cổ đại ở nhiều nơi trên thế giới. Các hình thức sơ khai. Ở "Mesopotamia" cổ đại người ta đã sử dụng draft (một loại giấy tờ bảo đảm cho thóc lúa dự trữ trong kho) trong thanh toán như tiền. Ở Hy Lạp, đơn vị tiền giấy cổ xưa được sử dụng là "drachma" (xuất phát từ "drama" = 1 kg thóc). Ở Nhật Bản thời phong kiến cổ, đồng tiền giấy lấy cơ sở là lúa gạo của 1 năm bằng 1 "koku". Và Ai Cập cũng đã sử dụng tiền giấy vào thế kỷ 1 trước công nguyên. Còn tiền giấy Trung Quốc được sử dụng từ thế kỷ VII dưới triều đại nhà Đường. Khi ấy hệ thống tiền tệ chính của Trung Quốc vẫn là tiền xu tròn lỗ vuông và tiền vàng, bạc. Xuất phát từ hoạt động của các hiệu cầm đồ, kim hoàn nhận giữ tiền hộ khách hàng, người ta nghĩ ra cách thanh toán bằng những tờ giấy chứng nhận gửi tiền để dễ vận chuyển và an toàn trong sử dụng. Tiền ngày ấy được gọi là "phi tệ" vì nó nhẹ. Đến thế kỷ X, tiền giấy Trung Quốc đã được sử dụng rất rộng rãi trên địa bàn rộng lớn và đã có một hệ thống thanh toán ngân hàng khá hoàn chỉnh. Tiền giấy chính thức ở Trung Quốc. Ở Trung Quốc vua Đường Cao Tông (650–683) phát hành tiền giấy lần đầu tiên, được công nhận là tiền tệ trong thế kỷ thứ 10. Vào khoảng năm 1300 tiền giấy cũng được ban hành ở Nhật Bản, Ba Tư và Ấn Độ.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Ở Trung Quốc vua Đường Cao Tông (650–683) phát hành tiền giấy lần đầu tiên, được công nhận là tiền tệ trong thế kỷ thứ 10. Vào khoảng năm 1300 tiền giấy cũng được ban hành ở Nhật Bản, Ba Tư và Ấn Độ. Năm 1023, triều đình Bắc Tống đã chiếm lấy quyền phát hành tiền giấy, lập Giao Tử Vụ tại Ích Châu, đến năm 1024 phát hành "Quan Giao Tử" từ 1 đến 10 quan. Năm 1033 Giao Tử cải lại làm hai loại: 5 quan và 10 quan. Năm 1068, Giao Tử lại cải thành hai loại: 1 quan và 500 đồng. Rồi ngày càng phát triển rộng ra. Năm 1069, lập Giao Tử vụ tại Lộ Châu, phát hành Giao Tử tại lộ Hà Đông. Năm 1071, phát hành Giao tử tại Thiểm Tây. Rồi Giao tử cải thành "Tiền dẫn", thành "Hội tử", thành "Giao sao"…. Khi ấy người châu Âu hầu như không biết gì về Trung Quốc. Một sự kiện rất nổi tiếng và được coi là đem lại những hiểu biết đầu tiên của châu Âu về Trung Quốc là cuộc phiêu lưu của một người Italia tên là Marco Polo đến Trung Quốc vào thế kỷ XIII. Cuộc phiêu lưu này được chính Marco Polo kể lại bằng một cuốn hồi ký làm xôn xao dư luận châu Âu thời đó vì vô vàn những điều mới lạ. Trong đó, ông có trình bày về cách sản xuất và lưu hành tiền giấy. Khi đó, tiền giấy là một điều hoàn toàn mới lạ ở châu Âu, nhiều người tỏ ra không tin và nghi ngờ giá trị của một loại tiền được hời đóng cửa nhiều trung tâm tài chính lúc đó. Từ đó tiền giấy Trung Quốc hầu như không được nhắc đến nữa. Tiền giấy thời nhà Hồ Việt Nam.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Tiền giấy thời nhà Hồ Việt Nam. Thời nhà Hồ ở Việt Nam đã ban hành tiền giấy năm 1396. Đó là một thời điểm rất sớm so với lịch sử tiền giấy nhưng chính sách ban hành tiền giấy đó không hề được đánh giá là tiến bộ. Sử cũ chỉ chép lại rằng: "mùa hạ, tháng 4 năm Bính Tý, niên hiệu Quang Thái năm thứ 9 (1396) (khi đó Hồ Quý Ly chưa cướp ngôi nhà Trần) bắt đầu phát hành tiền giấy "Thông bảo hội sao". In xong, hạ lệnh cho người đem tiền đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy tiền giấy 1 quan 2 tiền. Thể thức tiền giấy: Giấy 10 đồng vẽ rong; 30 đồng vẽ sóng; 1 tiền vẽ mây; 2 tiền vẽ rùa; 3 tiền vẽ lân; 5 tiền vẽ phượng; 1 quan vẽ rồng. Ai làm giả phải tội chết, tịch thu điền sản vào nhà nước. Cấm hẳn tiền đồng không được chứa và tiêu riêng; đều thu lại chứa tại Ngao Trì, chứa tại kinh thành và ở trị sở các xứ. Ai phạm thì cũng phải tội như trên".
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Như vậy là đồng tiền giấy này đã được đưa vào trong lưu thông một cách triệt để. Nó khác hẳn tiền giấy của Trung Quốc, chỉ lưu thông rất hạn chế. Không hiểu khi đó Hồ Quý Ly lấy ý tưởng độc đáo này ở đâu vì trước đó không có tiền lệ lịch sử ở đâu làm điều tương tự. Chỉ biết rằng chính sách này của Hồ Quý Ly là nhằm mục đích thu thập kim loại làm vũ khí cho chiến tranh. Cách phát hành tiền là đổi hoàn toàn tiền cũ lấy tiền mới, nên về lý thuyết nó không ảnh hưởng gì tới giá trị đồng tiền mà thậm chí đó là một tư tưởng tiến bộ giúp tiết kiệm kim loại và sử dụng tiền thuận tiện hơn. Tuy nhiên, cũng chỉ bằng lý luận cũng đã thấy ngay sự không hợp lý của chính sách này, đó là sự vi phạm quy luật phù hợp giữa hình thức và nội dung. Sự ra đời của tiền giấy đâu có dễ dàng, đâu phải cứ ban hành một điều luật bắt buộc mà được. Sự ra đời tiền giấy phải có những tiền đề kinh tế của nó, phải trải qua những giai đoạn thai nghén trung gian để có được lòng tin của dân chúng, có cơ chế điều hành của hệ thống tài chính - ngân hàng. Và vì vậy, thực tế chính sách tiền giấy của Hồ Quý Ly đã hoàn toàn thất bại.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Lịch sử đã ghi nhận: vừa mới ban hành tiền giấy, nhà nước đã ban hành một chính sách độc đoán hơn cả tính chất độc đoán sẵn có của tiền giấy: Cấm hẳn tiêu tiền kim loại. Thực tế, đến năm 1403 tức sau bảy năm ban hành, tiền giấy vẫn không được ưa dùng, và do nhà nước cấm tiền đồng, nhân dân buộc phải trao đổi theo hình thức hàng đổi hàng. Nhà nước đã phải định giá tiền giấy cho trao đổi, lập điều luật định tội không tiêu tiền giấy. Nhà nước ngoài việc dùng pháp luật cưỡng bức còn đưa ra nhiều biện pháp khác cố làm cho đồng tiền đó được lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Năm 1401, Hồ Hán Thương đặt kho Thường bình, phát tiền giấy cho các lộ, theo thời giá đong thóc chứa vào kho ấy. Năm 1402, định lại các thuế về tô ruộng, theo đó: Triều đình trước mỗi mẫu thu 3 thăng thóc nay thu 5 thăng nhưng nộp bằng tiền giấy thì được giảm đi. Thuế đinh cũng tương tự, thu bằng thóc thì thu nặng hơn trước nhưng thu bằng tiền giấy thì lại giảm đi. Bằng những biện pháp cưỡng bức kết hợp với khuyến khích như vậy mà tiền giấy vẫn không được lưu thông dù rất ít.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Bình luận về tiền giấy "Thông bảo hội sao", người xưa đã viết: Tiền giấy chẳng qua chỉ là một mảnh giấy vuông, phí tổn chỉ đáng năm, ba tiền mà đem đổi lấy vật đáng giá năm, sáu trăm đồng của người ta, cố nhiên không phải là cái đạo đúng mức. Vả lại, người có tiền giấy cất giữ cũng dễ rách nát, mà kẻ làm giả mạo sinh ra vô cùng, thật không phải là cách bình ổn vật giá mà lưu thông của cải của dân vậy. Quý Ly không xem kỹ đến cái gốc lợi hại, chỉ ham chuộng hư danh sáng chế, để cho tiền của, hàng hoá thường vẫn lưu thông tự nhiên ứ đọng, khiến dân nghe thấy đã sợ, thêm mối xôn xao, thế có phải là chế độ bình trị đâu. Việc ban hành tiền giấy của nhà Hồ xem như thất bại. Cùng với sự sụp đổ của nhà Hồ, tiền giấy cũng chấm dứt lưu hành. Năm 1429, ngay năm thứ hai sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã cho đúc tiền kim loại trở lại, nhân dân lại quay trở lại dùng tiền này. Tiền giấy "Thông bảo hội sao" nhà Hồ ban hành như một bông hoa trái mùa nên nhanh chóng lụi tàn. Tuy nhiên chính sách tiền tệ của nhà Hồ là một bài học lịch sử đắt giá của đất nước . Nhất là những chính sách ban hành đồng tiền mới ngày nay có nhiều điều phải học hỏi không thừa. Tiền giấy hiện đại ra đời ở châu Âu.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Tiền giấy hiện đại ra đời ở châu Âu. Những giấy bạc đầu tiên của châu Âu được ra đời vào năm 1483, nó được phát hành trong bối cảnh người Tây Ban Nha bị bao vây bởi những người Moors. Ngoài ra cũng có giả thuyết cho là việc xuất hiện những tờ tiền làm bằng giấy bồi gồm nhiều dạng trị giá khác nhau được sản xuất vào năm 1574 bởi những công dân bị vây hãm thuộc thành Leyden. Cả thành phố Leyden và Middelburg lúc bấy giờ đang bị người Tây Ban Nha bao vây nên thiếu bạc để đúc những đồng tiền kim loại nên họ buộc phải dùng bìa các quyển sổ của đạo Công giáo để làm vật liệu cho loại tiền giấy bồi. Tuy loại tiền giấy bồi được mô tả là loại tiền giấy lâu đời nhất của châu Âu còn giữ được, nhưng mặt khác, chúng không phải là những tờ giấy bạc thật. Thụy Điển.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Thụy Điển. 300 năm sau khi Marco Polo tường trình về tiền giấy của người Trung Hoa, Ngân hàng Stockholm Banco ở Thuỵ Điển mới phát hành những tờ giấy bạc đầu tiên. Nguyên do của việc phát hành những tờ giấy bạc này là do sự phá giá của loại tiền kim loại bằng đồng đó xuất hiện vào năm 1644. Nhằm tìm ra giải pháp hợp lý cho cán cân chi phí của giai đoạn chuyển thể kinh tế, Johann Palmstruth đã đề nghị phát hành cái gọi là "Kreditivsedla" và năm 1661 những tờ giấy bạc đầu tiên được xuất hiện từ xưởng Riskdaler và Daler. Người ta cho rằng những tờ tiền này bao gồm những loại có chỉ số giá trị được viết bằng tay. Đợt phát hành lần thứ hai vào năm 1662 - 1664 các chỉ số được in một cách cẩn thận hơn, và lần thứ ba được phát hành vào năm 1666 - có xem xét gia tăng một cách đáng kể theo đơn đặt hàng. Phỏng chừng có đến 60 tờ giấy bạc có các đơn vị 10, 25, 50 và 100 Daler bạc được lưu giữ lại. Anh.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Anh. Cùng vào thời gian đó tại Anh, người ta cũng được biết đến những tờ giấy bạc Goldsmith. Ngay từ thời xa xưa đó đã có hình thức ký gửi tiền. Đối với những khoản tiền gửi có lãi - thời hạn rút tiền được ấn định (có kỳ hạn). Cùng những loại ký gửi không có lãi thì được hoàn trả lại theo yêu cầu (không kì hạn). Những nhà ngân hàng phát hành ra những chi phiếu cho số tiền gửi không cần đề tên... nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho việc chi trả số tiền ký gửi. Những chi phiếu này đã được phát hành bằng chỉ số giá trị nhỏ và tròn số, những tờ "giấy bạc" này được xem như là những tờ giấy bạc tiên phong của ngành ngân hàng. Vào năm 1694, Ngân hàng Anh quốc được thành lập và những tờ giấy bạc đầu tiên được phát hành. Cùng lúc các đạo luật của Quốc hội được ban hành để củng cố vị trí đặc biệt của ngân hàng và các thương nhân cũng bắt đầu nhận thức được sự tài trợ của ngân hàng trong giai đoạn kinh tế khủng khoảng. Chính vì thế mà Ngân hàng Anh quốc đã thành công trong việc xác lập các nền tảng vững chắc cho mình lúc bấy giờ. Scotland, Nauy và Đan Mạch. Sau Anh một năm là Scotland đã thiết lập ngân hàng trung ương. Ngân hàng kế đến là Na Uy và vùng Danish, việc phát hành các tờ giấy bạc phi lãi suất đã bắt đầu xuất hiện do sáng kiến của thương nhân Thor Mohlen. Kể cả Đan Mạch vua Federic IV đã có tờ giấy bạc được sản xuất vào 18 năm sau: vào năm 1713 trong cuộc chiến tranh Bắc Âu. Pháp.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Pháp. Ở Pháp, tình trạng tài chính đang kiệt quệ, chính lý do này đã thúc đẩy vua Louis XIX áp dụng chính sách cải cách tiền kim loại đang được lưu hành. Vào năm 1703, ông ta đã chỉ thị thu hồi các đồng tiền kim khí, đóng dấu đè và tái phát hành với chỉ số giá trị cao hơn. Các biên nhận thu hồi tiền kim khí còn được gọi là coin scrip, như đã thông báo tính hợp pháp của nó. Song biện pháp này không cứu vãn được tình trạng tài chính của nước Pháp. Nợ nần chồng chất của chính phủ kéo dài dai dẳng kể cả sau khi nhà vua mất. Chính vì thế, người ta không thấy làm ngạc nhiên trước tư tưởng của John Law một người Scotland về việc phục hồi ngân sách của chính phủ, đã được hồ hởi công nhận. Law ước mong phát hành gia tăng giấy bạc và đề xướng chính sách tín dụng. Vào năm 1716, ông ta được chính phủ cho phép thiết lập Ngân hàng trung ương nhằm phát hành các đồng tiền "ECUS" dưới dạng giấy bạc. Đến năm 1718, chính phủ tiếp quản ngân hàng. Các tờ giấy bạc được phát hành sau này nhằm trả cho các công ty "Livres Tournois" và các cổ phần hai công ty thuộc địa là "Compagnie des Indes" và "Compagnie d'Occident". Sau đó, Law đã tiến hành thực hiện một dự án tài chính và chứng khoán nguy hiểm mà hậu quả dẫn đến là một tai hoạ nghiêm trọng vào năm 1720. Ngân hàng bị đóng cửa, Law đã phải rời nước Pháp và bỏ lại các tài sản của ông ta.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Đó cũng không phải là kinh nghiệm duy nhất của nước Pháp về tiền giấy ở thế kỉ XVIII. Nền tài chính nước Pháp còn gặp phải nhiều điều bất hạnh, suy thoái kéo dài qua thời kỳ cách mạng tư sản. Việc sụt giảm các khoản lợi tức đã khiến chính phủ phải đương đầu với những yêu cầu gia tăng về các khoản chi phí phát sinh. Trong khuôn khổ dự án do Tallyran đưa ra, nhằm bảo đảm tính an toàn cho tín phiếu - mà bảo chứng của chúng là những tài sản của Giáo hội bị tịch thu. Những tờ giấy bạc của đợt phát hành đầu tiên có lãi trong khi những đợt phát hành sau đó không có. Mặt khác, nhằm làm giảm sức khan hiếm tiền lẻ, nhiều thành phố, thị trấn đã cho phát hành "loại giấy bạc tín nhiệm" (billets de confiance, tín tệ) với hàng nghìn mẫu trong lưu thông. Đối với chính phủ cũng vậy, không còn in tín phiếu với chỉ số giá trị nhỏ. Cùng một lúc phát hành tín phiếu trị giá cao đồng thời liên tục gia tăng lượng phát hành. Dưới thời Cộng hoà Pháp, các tín phiếu Hoàng gia đến lượt chúng bị thay thế. Những tín phiếu này vào năm 1795 được thay thế bằng tín phiếu đồng quan (Franc) khi hệ thống thập phân xuất hiện. Ngày 1 tháng 1 năm 1796 đã có hơn 7 triệu Livres dưới dạng tín phiếu được đưa vào lưu thông. Trị giá của chúng chỉ đạt 0,5 của giá trị 1 xu.
wiki