title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Lịch sử ra đời tiền giấy
Ngày 1 tháng 1 năm 1796 đã có hơn 7 triệu Livres dưới dạng tín phiếu được đưa vào lưu thông. Trị giá của chúng chỉ đạt 0,5 của giá trị 1 xu. Để đạt mục đích khôi phục lại lòng tin vào bản vị tiền tệ - Chính phủ Cộng hoà Pháp quyết định huỷ bỏ tín phiếu, thay vào đó phát hành một dạng tiền giấy mới "Mandats Territoriaux" phó phiếu và chuyển đổi trị giá 30 livres ăn 1 đồng. Và như vậy, "Promesses' des mandats Territoraux" được khởi đầu phát hành thay cho tín phiếu. Các Mandats thực tế được phát hành sau đó, ở một số lượng nhỏ và kể cả loại tiền giấy mới cũng không thể hãm được sự lạm phát. Dù rằng chỉ trong vài tuần đầu phát hành, giá trị của Mandats đã rớt giá xuống còn 95% trên giá trị mặt. Trước tháng 2 năm 1796, toàn bộ tiền giấy được tuyên báo là không còn giá trị. Sau sự việc biến mất tín phiếu và Mandats, Ngân hàng Pháp quốc được thành lập năm 1800 - dưới sự ảnh hưởng của Napoleon, thoát thai từ trong những ngân hàng "Caisses des comptes courrants" (Ngân hàng tiền mặt). Nga. Ở Nga, ngân hàng cổ phần được thiết lập vào năm 1768. Lúc này tiền giấy đã được dư luận rộng rãi chấp nhận. Tuy nhiên, khi chính phủ bắt đầu cho lưu hành với một số lượng lớn tiền giấy trong thời kỳ cuộc chiến tranh lần thứ hai chống Thổ Nhĩ kỳ (1787 - 1792) thì sự tín nhiệm của dân chúng giảm dần và tiền giấy đi đến mất giá trị. Từ lúc ấy trở đi, Nga tiếp tục phát hành không ngừng tiền giấy chính phủ. Áo.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Áo. Cuộc chiến của Áo dưới thời Maria Therisia và Federic đại đế liên tiếp xảy ra đã làm chính phủ Áo nợ nần chồng chất. Chính vào thời kỳ này buộc chính phủ phải lưu tâm việc phát hành tiền giấy. Và vì vậy, ngân hàng Banco del Giro ra đời vào năm 1703, khởi thủy được xem là nhằm phổ biến các quy định về việc lưu hành tiền giấy, song sự tín nhiệm vào ngân hàng này đã không đạt được như mong muốn, vì thế kế hoạch sớm bị huỷ bỏ. Chỉ khi việc quản lý ngân hàng được chuyển đổi - đến Vienna, tên gọi được đổi lại là "Wiener Stadt Banco", lúc bấy giờ ngân hàng mới lấy lại được sự tín nhiệm. Đến năm 1759, đợt phát hành tiền giấy mang tính chất "tạm thời" bắt đầu xuất hiện và nó phải bị thay thế bởi giấy bạc thật của chính phủ phát hành vào năm 1762. Rập theo khuôn khổ những tờ giấy bạc này là kì phiếu "Bancozettel" được phát hành rộng rãi. Tuy nhiên, khi chính phủ lâm vào tình trạng nợ nần vì các cuộc chiến tranh phát sinh, thêm vào đó là việc phát hành hàng loạt các loại giấy bạc với một lượng lớn nhằm bù đắp cán cân tài chính đã làm cho giấy bạc này mất giá trị. Cuộc chiến với Pháp đã dẫn đến sự suy yếu vì các khoản nợ và chính phủ tự nhận thấy không thể nào kéo lại giá trị của giấy bạc, chỉ còn phương cách duy nhất là cải cách tiền tệ nhằm ngăn chặn tình trạng phá sản của quốc gia. Vì vậy, năm 1811, một loại tiền giấy mới ra đời với chỉ số giá trị thay đổi 1: 5 (một đồng mới ăn năm đồng cũ) và người ta gọi những tờ giấy bạc này là những tờ giấy bạc "dự kiến".
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Chẳng bao lâu sau, những tờ giấy bạc này đã bị tụt giá và phải nhường chỗ cho một loại giấy bạc khác vào năm 1813. Đó là loại "giấy bạc dự báo trước tương lai một chính sách thuế khoá" (anticipation notes). Giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh Napôlêon đã làm nảy sinh một hi vọng mới về nền kinh tế hoà bình, phát triển và ổn định tiền tệ. Vào năm 1816, ngân hàng "Austrian National script Bank" (Ngân hàng Áo quốc) được thiết lập để xác lập lại mặt ổn định giá trị cho những tờ giấy bạc mà ngân hàng phát hành. Đức. Ở Đức vật liệu để làm tờ giấy bạc đầu tiên được phát hành trước đó là loại tiền giấy bồi (carboard coins) mà các thành phố của Đức lúc bấy giờ như: Leyden và Middelburg đã sản xuất vào năm 1574. Khi những loại giấy bạc này được phát hành với tên gọi là "giấy bạc cấp bách" thì giấy bạc của ngân hàng Banco được phát hành năm 1705 bởi Elector Johann Wilhem được xem là giấy bạc thật đầu tiên của Đức. Elector đã thiết lập ngân hàng "Banco di Gyro d'affrancatione" mà những tờ giấy bạc thật đó tuy mang tên cá nhân nhưng có thể chuyển đổi được. ở Ansbach Bayreuth ngân hàng "Hoch Furslich Brandenburgische" đã phát hành giấy bạc có tên gọi là "Banco billets" (giấy bạc Banco) vào giữa thế kỉ 18. Dù cho chúng được làm cùng kiểu như những loại giấy bạc của ngân hàng "Hochfurslich Brandenburg - Aspach - Bayreuthische Hof - Banco" thành lập năm 1780, thì những tờ giấy bạc này đứng về mặt giá trị hợp pháp có rất ít giá trị.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Nỗi sợ hãi của việc phá giá tiền tệ qua sự xuất hiện tiền giấy đã ăn sâu vào tâm khảm người Đức. Mãi cuối thế kỉ 18 cho đến một phần vào giữa thế kỉ 19, việc phát hành giấy bạc đại loại như vậy đã được vạch ra nhưng quyết định thi hành cứ bị trì hoãn. Vào năm 1765, ở Phổ ngân hàng Konigliche Giro und Lehnbank được thành lập và tiền giấy đầu tiên ra đời. Những tờ giấy bạc này dưới dạng "Pound Banco" không có vai trò quan trọng trong việc lưu hành. Chỉ những giấy bạc được phát hành từ năm 1820 trở đi mới có tầm quan trọng. Ngân hàng được đổi tên là "Preussische Bank" vào năm 1847 là tiền thân của ngân hàng Reichsbank ra đời vào năm 1876. Quan trọng hơn là vào đầu thế kỷ XIX, chính phủ Phổ đã cho phát hành "giấy bạc an toàn" (bank safe notes). Italia. Ở Italia, hệ thống tổ chức ngân hàng đã phát triển sớm hơn các nước khác ở châu Âu. Các biên nhận ký gửi và các tín phiếu do các ngân hàng làm ra được xem là đã xuất hiện ngay thời kỳ trung cổ như ngân hàng "Casa Di Giorgio" ở Genoa, ngân hàng "Bancodisant' Ambrogio" ở Milan và ngân hàng "Banco Dirialto" ở Venice. Qua đó, các dạng tín phiếu có thể chuyển nhượng theo dạng bối thự. Những tờ giấy bạc này được xem như là những tờ giấy bạc tiên phong trong các loại giấy bạc đương thời. Những tờ giấy bạc thật, dẫu sao chúng đã được phát hành đầu tiên vào giữa thế kỉ 18 thuộc lãnh địa Sardina. Tiếp sau đó là những tờ giấy bạc của ngân hàng Sacro Monte Delta Pieta Di Roma và những tờ giấy bạc của ngân hàng Banco Di Santo Spirito Di Roma.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Ba Lan. Ở Ba Lan, tiền giấy xuất hiện đầu tiên vào khoảng thế kỉ 18. Những kẻ phiến loạn dưới sự lãnh đạo của Kosciuszko đã phát hành giấy bạc vào năm 1794. Với sự đập tan cuộc nổi loạn, việc phát hành tiền giấy đã phải chấm dứt. Chỉ có ở công quốc Warsaw do Napoleon sáng lập, tiền giấy được tái lưu hành. Những tờ giấy bạc này về mặt thiết trí giống với các phiếu tiền tệ Saxon. Bắc Mỹ. Người ta đoán rằng: tiền giấy ở châu Mĩ xuất hiện khá lâu sau châu Âu. Nhưng có điều chắc chắn giống như ở châu Âu, Bắc Mĩ bắt đầu biết đến loại tiền không có giá trị nội tại (no intrinsic value) từ những năm 1600.
wiki
Lịch sử ra đời tiền giấy
Việc cung cấp tiền kim khí ở Canađa dưới thời kì thuộc địa Pháp thiếu hụt dẫn đến tình trạng kéo dài thiếu đồng tiền hợp pháp. Nhằm mục đích bảo đảm tối thiểu việc chi trả cho binh lính, những người Canađa đã tự đề ra phương sách và ứng dụng bằng cách dựng một phần tư của các lá bài đóng dấu, và có chữ ký của thống đốc cũng như của viên toàn quyền - thế là chúng được sử dụng như là tiền giấy. Vào năm 1685, loại tiền giấy có đặc tính nêu trên được đưa vào lưu thông. Điều đáng chú ý là thay vì phải thu hồi ngay các loại tiền giấy nêu trên mang tính chất lưu hành trong điều kiện cần kíp ngay sau khi việc cung cấp tiền kim khí đó được bổ sung đủ nhưng điều này đã không xảy ra. Những đợt phát hành tiếp theo bao gồm loại 1/2 lá bài hoặc là trọn tấm được tiếp tục lưu hành khắp cả thuộc địa. Loại tiền này còn được duy trì lưu hành mãi cho đến năm 1718 - 1719 và chỉ chấm dứt phát hành sau khi có quyết định thu hồi của viên thống đốc. Ở Hoa Kỳ, tiền giấy ra đời từ khi các tiểu bang hợp nhất đòi độc lập, đó chính là đồng USD ($) được công nhận cho đến nay. Chú thích. Đỗ Văn Ninh (1992), "Tiền cổ Việt Nam", Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992.
wiki
Hojo undō
Hojo undō Hỗ trợ vận động (Phiên âm tiếng Nhật theo Romaji: "Hojo undō", Hán Tự: 補助運動) là một thuật ngữ Nhật Bản, nhằm chỉ các bài tập hỗ trợ sức mạnh trong các môn võ thuật Nhật Bản. Hỗ trợ vận động nhắm tới phát triển sức mạnh ở cả hai bên (trái và phải) của cơ thể về sức bền, sự uyển chuyển của cơ bắp, tốc độ và tư thế. Các bài tập hỗ trợ vận động dùng các thiết bị đơn giản, truyền thống làm từ tre hoặc đá: - Chi Ishi - Ishi sashi - Tetsu geta - Nigiri game - Makiage kigu - Tan - Makiwara - Jari bako - Kongoken - Tou
wiki
Douangchay Phichit
Douangchay Phichit Douangchay Phichit (, phiên âm tiếng Việt: Đuông-chay Phi-chít) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Lào, hàm Thượng tướng. Ông sinh ngày 5 tháng 4 năm 1944 tại tỉnh Attapeu. Ông từng giữ chức Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lào. Ngày 17 tháng 5 năm 2014, ông thiệt mạng cùng phu nhân trong vụ tai nạn máy bay AN-74-300 tại làng Nadee, huyện Paek, tỉnh Xiengkhuang. Máy bay gặp nạn chở 19 quan chức Lào tới dự lễ kỷ niệm 55 năm ngày giải phóng Cánh đồng Chum tại Xiengkouang, có một quan chức sống sót.
wiki
Mett
Mett là một chế phẩm của thịt lợn sống băm nhỏ phổ biến ở Đức. Ở Bỉ và Hà Lan, một chế phẩm tương tự được làm từ thịt bò. Tên bắt nguồn từ "mett", có nghĩa là "thịt lợn băm nhỏ mà không có thịt xông khói", hoặc meti Saxon cũ, có nghĩa là "thực phẩm". Nó thường được dùng với muối và hạt tiêu đen, và đôi khi với tỏi, caraway hoặc hành tây xắt nhỏ, và ăn sống, thường là trên một cuộn bánh mì. Trong một bữa tiệc buffet, đôi khi nó được phục vụ như một Mettigel (mett hedgeoose). Nó cũng được bán dưới dạng "mettwurst", một loại xúc xích thô, cay, thường được hun khói. Ở Đức, luật pháp quy định mett không chứa quá 35% chất béo. Miêu tả. Tên này có nguồn gốc từ tiếng Đức thấp nghĩa là "thịt lợn băm nhỏ không có thịt xông khói", hoặc meti Saxon cũ cho "thực phẩm". Nó còn được gọi là Hackepeter (Bắc Đức, Đông Đức và Berlin). Nó bao gồm thịt lợn băm, thường được bán hoặc phục vụ với muối và hạt tiêu đen, theo vùng cũng với tỏi hoặc caraway, và ăn sống. Nó cũng được phép thêm hành tây xắt nhỏ, trong trường hợp đó được gọi là Zwiebelmett (hành tây Mett). Về mặt pháp lý, German Mett không được phép chứa hơn 35% chất béo. Trừ khi được đóng gói sẵn, Lebensmittelhygiene-Verordnung của Đức ("chỉ thị vệ sinh thực phẩm / sức khỏe") cho phép mett chỉ được bán vào ngày sản xuất. Các loại. Schinkenmett ("ham Mett"), được chuẩn bị từ đùi trên (ham), được coi là đặc biệt tốt.
wiki
Mett
Các loại. Schinkenmett ("ham Mett"), được chuẩn bị từ đùi trên (ham), được coi là đặc biệt tốt. Trái ngược với Mett băm địa phương thường có sẵn, thịt lợn thô Mett (Gazer Schweinemett) được sản xuất trong một máy xay thịt công nghiệp. Để bảo toàn cấu trúc của nó, thịt lợn thường được chế biến ở trạng thái bán đông lạnh. Thực phẩm và sức khỏe Quy định không cho phép nhiệt độ trên 2 °C (36 °F); nước đá có thể không được sử dụng để làm mát. Phong cách phục vụ. Mett thô thường được ăn trên bánh mì (Mettbrötchen) hoặc bánh mì cắt lát, thường xuyên với một vòng hành tây thô hoặc hành tây thái hạt lựu. Tại các bữa tiệc, Mett thỉnh thoảng được phục vụ như một Mettigel (nhím Mett, cũng là Hackepeterigel hoặc Hackepeterchwein). Hình thức phục vụ Mett này đặc biệt phổ biến vào những năm 1970. Để sản xuất nó, một lượng lớn Mett có hình dạng như một con nhím, vòng hành tây quý hoặc que Pretzel được sử dụng như gai, ô liu như mắt và mũi. Ở các vùng miền Nam nước Đức Mett (Mettstange) được phục vụ trên bánh mì Lye thay vì bánh mì thông thường. Ở miền nam Brazil, chịu ảnh hưởng của những người nhập cư Đức, nó được gọi là Hackepeter hoặc Carne de Onça ở Curitiba, nơi món ăn này rất phổ biến và được người ta ăn với hành tăm.
wiki
Bà Bovary
Bà Bovary (tiếng Pháp: "Madame Bovary") là một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Gustave Flaubert, được đánh giá là trau chuốt về nghệ thuật và hình thức. Khi xuất bản lần đầu tiên ở Pháp (dưới tên "Madame Bovary, mœurs de province") tác phẩm đã trải qua một cơn sóng gió, bị công kích là mang "màu sắc dâm dật" và xúc phạm tới luân lý công cộng và tôn giáo. Tác giả cũng chịu số phận tương tự, ông bị truy tố ra toà. Trước tòa, để bênh vực tác phẩm và tác giả, luật sư bào chữa cho rằng, nhân vật chính trong truyện ngoại tình chỉ là do một chuỗi những đau khổ, ăn năn hối hận, rồi đi tới một hình phạt cuối cùng, một kết thúc bất ngờ đối. Chính ở chỗ kết cục đó mà cuốn sách rất mực đạo đức và bổ ích. Rốt cuộc, chính ủy viên công tố cũng phải thừa nhận tác phẩm là một bức tranh tuyệt vời về mặt tài nghệ nhưng là một bức tranh đáng báng bổ về mặt đạo đức, có hại cho luân lý xã hội, song tác giả được tuyên bố vô can. Từ vụ án có một không hai đó (năm 1857), đã gây nên một tiếng vang lớn trong dư luận đương thời và làm nó trở lên nổi tiếng. Sau khi được tuyên bố trắng án nó trở thành một cuốn sách bán chạy nhất trong năm 1857.
wiki
Bà Bovary
Hiện nay nó vẫn là một cuốn sách được nhiều người biết đến. Năm 2007, trong một cuộc bầu chọn 10 tác phẩm vĩ đại nhất của mọi thời đại do tạp chí Time tổ chức khảo sát lấy ý kiến của 125 nhà văn nổi tiếng đương thời như Franzen, Mailer, Wallace, Wolfe, Chabon, Lethem, King, kết quả "Bà Bovary" đứng thứ 2 trong danh sách, chỉ sau tác phẩm đứng đầu "Anna Karenina" của Tolstoy Nội dung. Tác phẩm bắt đầu bằng việc giới thiệu Charles Bovary, một anh chàng lớn con thực thà và chậm chạp, làm đối tượng gây cười cho bạn bè trong lớp vì vẻ "thộn" của mình, là loại người không có cá tính không có khả năng gây ra một sự ngạc nhiên nào cho ai. Tuy vậy, anh ta hiền lành chăm chỉ, tuy không thông minh nhưng cũng lên lớp đều đều rồi theo học y sĩ, cuối cùng "ra trường một cách vất vả", và về quê làm nghề thầy thuốc. Là người con ngoan ngoãn không bao giờ có ý kiến và quan niệm riêng, Charles đã cưới một bà góa lớn tuổi "nghe đồn là khá giả" theo sự quyết định của bố mẹ anh ta. Cuộc hôn nhân cũng êm ả nếu không có sự ghen tuông của vợ anh ta. Nhất là từ khi Charles đi chữa bệnh cho một chủ trại và quen biết với con gái ông ta, cô Emma. Người vợ lớn tuổi của anh ta chết sau một cơn uất ức. Một thời gian sau đó, Charles cưới Emma.
wiki
Bà Bovary
Emma là thiếu nữ có học, được nuôi dạy trong trường dòng cho đến năm 18 tuổi mới về nhà. Thay vì học giáo lý vì các khuôn phép, ra khỏi trường Emma chỉ còn giữ lại một tâm hồn lãng mạn khát khao đi tìm một bóng hình lý tưởng, như trong các tiểu thuyết mà cô đã đọc lén khi còn ở trường dòng. Về nông thôn chẳng bao lâu, Emma chán ngán cuộc sống tẻ nhạt, nhận lời lấy Charles và thất vọng sâu sắc ngay sau cuộc hôn nhân. Nỗi buồn chán càng tăng lên sau một lần cô tham gia vũ hội, những cảm giác ngây ngất khi được tiếp xúc với cái xã hội náo nhiệt phồn hoa như tiểu thuyết. Nhưng sau đó lại buộc phải trở lại sống một cuộc sống tẻ nhạt. Để vợ khuây khỏa, Charles đưa Emma lên Yonville. Họ có một đứa con gái, nhưng Emma chẳng ngó ngàng gì đến con, bỏ mặc nó cho người vú nuôi.
wiki
Bà Bovary
Một lần nữa Emma lại chán ngán cuộc sống ở đây, với những con người chán ngắt, xấu xí, dốt nát và giả dối nhưng được xem là thành đạt và khả kính - với những đại diện tiêu biểu như dược sĩ Homer, người thu thuế Binet... Emma đã gặp Léo Dupuis - một thanh niên đang là luật sư tập sự tại thành phố đó. Dù rất si mê Emma nhưng anh ta không dám ngỏ lời vì sợ ảnh hưởng đấn con đường sự nghiệp của anh ta hãy còn đang tập sự. Emma thất vọng và trong một buổi hội chợ của thành phố, cô gặp Rodolphe và sa ngã trước những lời tán tỉnh của hắn. Vì lúc ấy trong lòng Emma rất cô đơn trống trải đang mong đang cái gì đó khác với sự đơn điệu thường ngày; bên cạnh một ông chồng hiền lành nhưng thô kệch, đã từng thất bại một lần khi liều lĩnh giải phẫu chân cho một người bị tật trong khi Emma chờ đợi thành công để tìm đôi chút lý tưởng về anh ta. Cuộc dan díu với Rodolphe kéo dài cho đến khi y chán Emma, còn cô thì muốn kết thúc mối tình lãng mạn là một cuộc bắt cóc và chạy trốn đầy say mê như trong tiểu thuyết. Thêm vào đó khi dan díu với Rodolphe, Emma đã bị một tên lái buôn là L'heureux gạ gẫm cô mua sắm không tiếc tay và cô bắt mắc nợ. Rodolphe lẩn trốn sau khi để lại một bức thư "đầy đau khổ", Emma lâm bệnh.
wiki
Bà Bovary
Một thời gian sau Emma gặp lại Léon. Lúc này anh ta đã là luật sư và không còn ngần ngại gì nữa. Emma lại lao vào cuộc dan díu mới và rồi kết thúc bằng sự chán nán cả Léon. Khi ấy thương gia L'heureux báo cho Emma biết cô đang mắc nợ rất nhiều và nếu cô không trả kịp thì hắn sẽ tịch thu tài sản. Emma hốt hoảng tìm đến các tình nhân cũ nhờ giúp đỡ nhưng đều bị từ chối. Không dám thú thật với chồng, Emma tuyệt vọng ra cửa hàng của dược sĩ Homer mua một liều thạch tín và tự tử. Cái chết đau đớn và vật vã của Emma làm cho Charles sa sút về thể xác lẫn tinh thần. Và ít lâu sau, anh ta đột ngột chết khi đang ngồi ngoài ngoài vườn với con gái. Câu chuyện kết thúc bằng việc gã dược sĩ Homer được thưởng huy chương Bắc đẩu bội tinh. Đặc điểm nhân vật.
wiki
Bà Bovary
Đặc điểm nhân vật. Hình ảnh nhân vật Emma Bovary đã gây nhiều cuộc tranh luận khác nhau trong quá trình tiếp nhận, cho đó là thiên hướng của con người tự tạo ảo tưởng về bản thân, là sự khát khao hạnh phúc hư ảo, hoặc là cách nhìn khắc khổ u ám trong nghệ thuật chỉ thấy mặt xấu của con người và sự vật. Đến mức Tòa án đương thời đã phải tiến hành xét xử vì chính quyền cho đó là sự xâm hại thuần phong mỹ tục, nhưng mặt khác tác phẩm lại được các nghệ sĩ, các nhà phê bình như Lamartine, Hugo, Sainte-Beuve... đánh giá rất cao. Được đi vào hệ thống từ vựng qua sự khái quát thành một danh từ bovarisme (đặc điểm tính chất theo kiểu Bovary), tác phẩm thể hiện phần nào suy nghĩ mang tính trải nghiệm của chính tác giả, dù đã tỏ ra rất khách quan, đối với xã hội trưởng giả tầm thường. Từng viết trong thư gửi một người bạn rằng "Emma chính là tôi", ông cũng thổ lộ rằng khi nữ nhân vật chính uống thạch tín tự tử, ông cảm thấy có vị đắng của chất này trong miệng. Nhân vật Homais lại là hình ảnh biếm họa về những "nhà hoạt động" phái tự do tư sản khoa trương, mị dân, ngu muội tiêu biểu đến mức tất cả các dược sĩ ở hạ lưu sông Seine sau khi đọc tác phẩm đều muốn tìm tới Flaubert để tạt tai nhà văn. Giá trị tác phẩm.
wiki
Bà Bovary
Giá trị tác phẩm. Là cuốn tiểu thuyết hay nhất mang tính chất hiện thực trong số ba cuốn tiểu thuyết ít ỏi của cuộc đời cầm bút Flaubert, Bà Bovary cũng đã báo hiệu những nét đổi mới của tiểu thuyết phương Tây hiện đại thế kỷ 20. Kể lại một cốt truyện với những mô típ lãng mạn đang thịnh hành đương thời, Flaubert đã vượt lên rất nhiều nhà văn khác nhờ bút pháp kể chuyện khách quan, nghệ thuật sử dụng lời kể gián tiếp để làm hé lộ dòng suy tư nội tâm của nhân vật, nghệ thuật di chuyển điểm nhìn và khả năng xử lý thời gian cực kỳ tinh tế, những đoạn đối thoại đặc sắc, ngôn ngữ trau truốt, ngoại cảnh tinh vi, chính xác. Nhiều đoạn miêu tả cảnh vật và đồ vật của tác phẩm đã trở thành mẫu mực, kinh điển trong văn xuôi Pháp... Coi trọng sự chính xác của ngôn từ cũng như tính nhạc của lời văn, nên Flaubert viết rất chậm. Người ta còn kể rằng Flaubert từng đọc to những câu văn của mình để lắng nghe tính nhạc trong đó. Nhiều nhà nghiên cứu cũng từng cho rằng tác phẩm đã bộc lộ những giới hạn của Flaubert, như mầm mống suy đồi của chủ nghĩa hiện thực phê phán nửa sau thế kỷ 19 cùng với thái độ bi quan, chua chát. Các nhà nghiên cứu phương Tây đều đánh giá đây là cột mốc thứ hai sau Don Quixote (Cervantes) trên hành trình biến đổi diện mạo theo xu hướng hiện đại hóa của tiểu thuyết phương Tây. Chuyện bên lề của tác phẩm.
wiki
Bà Bovary
Chuyện bên lề của tác phẩm. Khi tác phẩm vừa xuất bản lần đầu tiên, G.Flaubert phải đối mặt với những phản ứng gay gắt của dư luận và luật pháp. Ông đã nói với vị luật sư bào chữa cho mình rằng: "Bà Bovary, chính là tôi. Để cứu tôi, thì ông đã giết chết tác phẩm của tôi...". Vì luật sư đã bào chữa rằng: "Tác giả không vi phạm thuần phong mỹ tục, vì cuối tác phẩm tác giả đã để cho nhân vật chính chết một cách đau đớn..." Phim chuyển thể. Nhiều phim chuyển thể, trong đó bản 1949 của Mỹ; và bản 1991 (được đề cử giải Oscar phim tiếng nước ngoài hay nhất).
wiki
Vụ cháy cửa hàng bách hóa Shirokiya
là vụ cháy tại một cửa hàng bách hóa ở Shirokiya, Tokyo, Nhật Bản vào ngày 16 tháng 12 năm 1932 khiến 14 người chết và 67 người bị thương. Cửa hàng bách hóa Shirokiya gồm có tám tầng và hai tầng hầm. Các tầng từ 4 đến 8 bốc cháy trong vụ việc. Ở Nhật Bản, người ta cho rằng vụ cháy cửa hàng bách hóa Shirokiya người ta cũng cho rằng vụ cháy của hàng bách hóa Shirokiya là chất xúc tác cho việc thay đổi trang phục truyền thống của Nhật Bản với việc mặc quần lót theo kiểu phương Tây mặc dù không có bằng chứng hay nghiên cứu nào chỉ ra điều này là đúng hay sai. Thời điểm vụ cháy diễn ra. Vào thời điểm vụ cháy diễn ra, của hàng bách hóa Shirokiya đang có đợt giảm giá cuối năm theo chủ đề giáng sinh và bên trong được trang trí lộng lẫy. Ngọn lửa bắt đầu bùng lên vào khoảng 9 giờ 15 phút, ngay trước khi khu đồ chơi mở cửa bán hàng. Một nhân viên đã kể lại rằng chính người này đã nhìn thấy một tia lửa phát ra từ bóng đèn trang trí trên cây thông noel vào một số đồ chơi dễ bắt lửa và khiến ngọn lửa nhanh chóng lan rộng. Cầu thang mở cung cấp oxy tạo nên môi trường cho đám cháy ngày càng mạnh và lan rộng sang các tầng khác. Cầu thang trở thành ống khói cắt đứt lối thoát hiểm chính.
wiki
Vụ cháy cửa hàng bách hóa Shirokiya
Do xe thang và vòi rồng không thể lên được tầng 5 nên ngọn lửa nhanh chóng lan rộng và những người bên trong phải tìm lối thoát khác. Một số người phụ nữ buộc phải trèo lên mái nhà và nhảy xuống lưới an toàn do những lính cứu hỏa răng ra. Một số người khác lại cố gắng thoát ra bằng giây thừng làm từ quần áo hoặc rèm cửa. Khoảng 80 người đã leo xuống tầng 7 theo cách này. Những người không bám trụ được đã rơi xuống và qua đời. Truyền thuyết đô thị. Người ta tin rằng vụ cháy tại cửa hàng bách hóa Shirokiya đã thay đổi phong tục thời trang của phụ nữ Nhật Bản. Theo truyền thống của Nhật, hầu như phụ nữ đều không mặc quần lót khi đang mặc kimono trên người và họ sợ rằng khi nhảy xuống thì tà áo sẽ bị tốc lên khiến họ bị lộ phần bên trong nên họ đã không nhảy xuống và dẫn đến việc những người phụ nữ này đã tử vong ngay sau đó. Tin tức này đã thu hút sự chú ý từ các nước xa xôi như châu Âu. Người ta cho rằng sau vụ hỏa hoạn kia, ban quản lý cửa hàng đã yêu cầu những nhân viên của cửa hàng mặc quần lót cùng với kimono và xu hướng đó giờ đây dần trở nên phổ biến trên toàn Nhật Bản.
wiki
Vụ cháy cửa hàng bách hóa Shirokiya
Trái ngược với suy nghĩ này, Inoue Shoichi, giáo sư về phong tục và kiến trúc tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế về Nghiên cứu Nhật Bản cho rằng hầu hết những người trong vụ hỏa hoạn đều đã được cứu bởi lính cứu hỏa và theo ông câu chuyện về những người phụ nữ kia là bịa đặt. Tuy nhiên, câu chuyện này phổ biến trong rất nhiều các tập sách tham khảo trong đó có một cuốn sách do chính Cơ quan phòng cháy chữa cháy của Nhật Bản phát hành. Mặt khác, người ta cũng cho rằng vụ cháy của hàng bách hóa này là chất xúc tác cho việc thay đổi trang phục truyền thống của Nhật Bản với việc mặc quần lót theo kiểu phương Tây mặc dù không có bằng chứng hay nghiên cứu nào chỉ ra điều này là đúng hay sai.
wiki
Chặng đua GP Bỉ
Chặng đua GP Bỉ Chặng đua GP Bỉ (tên chính thức Belgian Grand Prix")" là một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 vô địch thế giới diễn ra hàng năm. Các đội đua sẽ thi đấu ở trường đua Circuit de Spa-Francorchamps, Bỉ. Lịch sử. Trước năm 1950, giải đua GP Bỉ là một giải đua độc lập. Từ năm 1950 nó được sáp nhập và trở thành một chặng đua của giải đua xe Công thức 1 thế giới. Chặng đua được tổ chức nhiều nhất ở trường đua Circuit de Spa-Francorchamps. Tay đua giành được nhiều chiến thắng nhất là Micheal Schumacher (6 chiến thắng) Năm 2012: Romain Grosjean bị cấm thi đấu một chặng du gây ra tai nạn liên hoàn ở pha xuất phát khiến cho nhiều tay đua trong đó có cả Fernando Alonso và Lewis Hamilton phải bỏ cuộc. Người chiến thắng là Jenson Button. Năm 2018: Xảy ra tai nạn ở pha xuất phát, chiếc xe của Fernando Alonso chồm lên khoang lái của Charles Leclerc. Nhờ được trang bị hệ thống bảo vệ đầu Halo nên Leclerc không bị chấn thương nào. Người chiến thắng là Sebastian Vettel. Năm 2019: Charles Leclerc giành chiến thắng F1 đầu tiên trong sự nghiệp. Anh giành tặng chiến thắng cho tay đua xấu số Anthoine Hubert, tay đua F2 qua đời trước đó một ngày. Năm 2020: Lewis Hamilton giành chiến thắng Năm 2021: Có mưa lớn nên cuộc đua phải kết thúc sớm dù các tay đua vẫn chưa đua chính vòng đua nào (chỉ chạy sau xe an toàn). Ban tổ chức vẫn tính kết quả, Max Verstappen chiến thắng, George Russell lần đầu lên podium.
wiki
Tóc đuôi sam
Tóc đuôi sam Tóc đuôi sam là một kiểu tóc nam bện dài và kết thúc ở ngọn tóc là một chỏm đuôi ngựa thường có buộc bím. Đây từng là kiểu tóc truyền thống của một số dân tộc thổ dân châu Mỹ và người Mãn ở Mãn Châu (Trung Quốc). Người Mãn. Tóc đuôi sam từng là kiểu tóc đặc trưng của đàn ông Mãn ở Mãn Châu rồi sau đó được áp đặt cho người Hán vào thời nhà Thanh. Tuy nhiên, kiểu tóc này cũng được liên kết với tư tưởng hiếu thuận và trung thành của Nho giáo khiến kiểu tóc này vẫn đã tồn tại phổ biến thời điểm đấy cho đến cuối nhà Thanh khi kiểu tóc châu Âu như ngày nay được du nhập vào Trung Quốc. Lệnh để tóc đuôi sam. Lệnh cạo đầu ("Thế phát lệnh" ) là một loạt các chỉ dụ được nhà Mãn Thanh áp đặt cưỡng bức trong thế kỷ 17. Đến năm 1753 mệnh lệnh này cũng được áp đặt cho thổ dân Đài Loan với câu khẩu hiệu: "Để tóc thì mất đầu, giữ đầu thì cạo tóc". Tóc đuôi sam bị bãi bỏ hoàn toàn sau khi người Hán đã ép hoàng đế Mãn Châu thoái vị để chuyển sang Nhà nước Trung Hoa Dân Quốc sau Cách mạng Tân Hợi vào năm 1912.
wiki
Stafford, Oregon
Stafford, Oregon Stafford là một cộng đồng chưa hợp nhất, được xếp loại là một ấp có khoảng 2.200 cư dân trong Quận Clackamas, Oregon, Hoa Kỳ. Cộng đồng này có diện tích khoảng chừng 3.900 mẫu Anh (16 km²), nằm trong một vùng gần giống như tam giác ở phía nam Lake Oswego, phía đông Tualatin và phia tây West Linn. Theo sách "Các địa danh Oregon", Stafford được George A. Steel, một nhà tiên phong nổi danh của Portland đặt tên theo thị trấn quê hương của ông là Stafford, Ohio. Tháng 11 năm 2006, cư dân của Stafford đã bỏ phiếu với tỉ lệ 344-30 để thành lập một ấp. Đây là cộng đồng thứ hai của Oregon làm như vậy (sau Beavercreek). Các học sinh trong vùng này đi học tại các trường trong Học khu West Linn-Wilsonville
wiki
Cá sặc rằn
Cá sặc rằn Cá sặc rằn (danh pháp hai phần: "Trichopodus pectoralis") là một loài cá nước ngọt nằm trong họ Cá tai tượng, bản địa của Đông Nam Á. Cá sặc rằn còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như cá sặc bổi, cá rô tía da rắn/cá rô tía Xiêm (, ) hay cá lò tho, tiếng Khmer gọi là ត្រី កន្ធរ /trei kantho/. Loài cá này là một món ăn quan trọng trong nền ẩm thực của nhiều nước, đồng thời nó cũng được sử dụng làm cá cảnh. Đặc điểm. Cá sặc rằn trưởng thành dài trung bình 15 cm, cá biệt có thể lên đến 25 cm. Chúng có thân mình dẹt, hơi thuôn hình bầu dục, phủ kín các họa tiết vằn vện tối màu; miệng nhọn hướng lên trên và vây bụng dạng sợi đặc trưng của chi Cá sặc. Cá phân bố ở xung quanh lưu vực sông Mekong của Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Chúng chủ yếu sống trong những vùng nước chảy chậm có nhiều thực vật thủy sinh và chất hữu cơ. Nhờ có "mê lộ" mà chúng có thể sống trong những môi trường nước tù đọng và thiếu oxy như ruộng lúa, đầm lầy... Cá là loài ăn thịt trong thời kì đầu, tuy nhiên khi trưởng thành, cấu tạo bộ máy tiêu hóa của cá biến đổi phù hợp với việc ăn tạp. Tại Việt Nam, loài này là đặc sản của nhiều tỉnh, thành vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Loài này thường được phơi khô trước khi bán ra thị trường. Món "gỏi xoài khô cá sặc rằn" là một món khai vị được ưu chuộng ở miền Tây.
wiki
Vụ sập cầu treo Morbi 2022
Vụ sập cầu treo Morbi 2022 diễn ra vào ngày 30 tháng 10 năm 2022, lúc 6:40 chiều theo giờ địa phương (), Julto Pul, một cây cầu treo 143 năm tuổi ở Morbi, Gujarat, Ấn Độ bắc qua sông Machchhu đã bị sập. Hàng trăm người có mặt trên cầu vào thời điểm đó. Có ít nhất 141 người chết và nhiều người khác mất tích. Hàng chục người bị thương nặng. Bối cảnh. Julto Pul là một cây cầu dành cho người đi bộ dài 230 mét (750 ft), được xây dựng dưới thời cai trị của Đế quốc Anh ở Ấn Độ vào thế kỷ 19 và khánh thành vào ngày 20 tháng 2 năm 1879. Sau đó, cây cầu đã bị đóng cửa để sửa chữa trong sáu tháng. Cây cầu thuộc sở hữu của đô thị Morbi, nơi đã ký hợp đồng với quỹ tư nhân "Oreva" để bảo trì và vận hành vài tháng trước đó. Cây cầu đã bị đóng cửa hai năm trước khi sự cố xảy ra và được mở cửa trở lại sau khi cải tạo vào ngày 26 tháng 10 nhân dịp Năm mới Gujarat. 4 ngày sau khi tái khánh thành, cây cầu đã bị sập. Chủ tịch của thành phố, người đã ký hợp đồng sửa chữa sau trận động đất năm 2001, cho biết công ty tư nhân chịu trách nhiệm cải tạo "đã mở cây cầu cho du khách mà không thông báo cho chúng tôi và do đó, chúng tôi không thể kiểm tra độ an toàn của cầu tiến hành". Nguyên nhân.
wiki
Vụ sập cầu treo Morbi 2022
Nguyên nhân. Nghị sĩ Mohan Kundariya tuyên bố ông tin rằng nguyên nhân là do quá tải. Một phát ngôn viên của các nhà khai thác Oreva Group nói với tờ báo "The Indian Express" rằng có quá nhiều người đang ở đoạn giữa của cây cầu "cố gắng lắc lư". Một du khách vào ngày xảy ra vụ việc đã báo cáo với NDTV rằng "Một số thanh niên cố tình lắc cây cầu, gây khó khăn cho người đi lại", điều này có thể khiến dây cáp bị đứt. Phản ứng. Thủ tướng Narendra Modi thông báo trên Twitter rằng ông sẽ tặng 200.000 rupee (khoảng 60.000.000 đồng) cho các gia đình có người mất tích trong vụ sập cầu và các nạn nhân bị thương sẽ nhận được 50.000 rupee (khoảng 15.000.000 đồng). Về hoạt động cứu hộ, cả 3 quân chủng hải, lục, không quân của Ấn Độ đều cùng tham gia.
wiki
Palaeobatrachus
Palaeobatrachus Palaeobatrachus, còn gọi là ếch cổ đại, là một chi ếch nguyên thủy từ Trung Âu tồn tại từ kỷ Phấn trắng đến kỷ Neogen (130-5 triệu năm trước). Mặc dù không có quan hệ họ hàng gần, nhưng nó trông giống với các loài cóc có vuốt ở châu Phi ("Xenopus") ngày nay. Các di cốt của chi này rất phong phú trong các trầm tích nước ngọt ở miền tây Bohemia, tại Geiseltal (Tây Đức) và ở Đông Đức. Đôi khi chúng được bảo quản rất tốt, với các dấu vết của các cơ quan nội tạng, cơ bắp, dây thần kinh, mạch máu và biểu bì, và với một chút màu sắc. Nòng nọc và trứng cũng được tìm thấy.
wiki
Ngôi nhà La Mã ở Wrocław
Ngôi nhà La Mã ở Wrocław (), Hoặc Ngôi nhà của các quý bà Trzebnica ở Wrocław (Ba Lan: "Dom Panien Trzebnickich chúng tôi Wrocławiu)," là một biệt thự theo phong cách Roman tại Plac Biskupa Nankiera (Square ĐGM Nankier) ở Wrocław. Chính xác hơn, đây là một tòa nhà theo kiến trúc Gô-tích sớm với các yếu tố La Mã có từ đầu thế kỷ 13 (được đề cập năm 1208), một phần được xây dựng lại sau Thế chiến II. Nó là trung tâm cho Xitô của Trzebnica, đó là lý do tại sao nó được gọi là Ngôi nhà của các quý bà của Trzebnica. Gần đó, dọc theo đường Kotlarska, là "Nowe Jatki", một trung tâm mua sắm thời trung cổ thuộc tu viện. Tòa nhà được dựng lên theo kế hoạch hình thang làm bằng gạch được đặt trong một sợi chỉ của người Wendish (hai bánh, còn được gọi là Slavonic). Các yếu tố La Mã của tòa nhà này, bao gồm các vòm ở phần trung tâm, được pha trộn với các chi tiết kiến trúc Gothic của các cửa sổ và vòm của các hầm. Trên mỗi hai tầng của tòa nhà ban đầu có ba phòng. Tòa nhà đã nhiều lần được xây dựng lại, và vẫn là tài sản của tu viện cho đến khi giải thể các tu viện vào năm 1810.
wiki
Ngôi nhà La Mã ở Wrocław
Trong Thế chiến II, địa điểm xung quanh Quảng trường của Giám mục Nankier đã bị hư hại. Trong cuộc cải tạo năm 1959, mảnh vỡ lịch sử của nền tảng kiến trúc lâu đời nhất của tòa nhà nằm dưới mặt đường được phát hiện. Từ năm 1966 đến 1969, địa điểm này được xây dựng lại một phần theo dự án của Henryk Dziurla. Trải qua tám thế kỷ, mức độ của các đường phố lân cận đã tăng lên chiều cao của tầng trên của tòa nhà, đó là lý do tại sao lối vào ngày nay là dưới mặt đất. Ở phần phía nam của tầng dưới có những mảnh vỡ của các thùng cũ, và ở tầng trên, các hầm chéo. Trong quá trình tái thiết, trần nhà đã được gỡ bỏ một phần, nối các tầng trên và tầng dưới, và toàn bộ tòa nhà được phủ một mái;àm từ bê tông cốt thép đương đại. Phần trên mặt đất được tráng men từ bên ngoài. Nơi này sau đó đã được điều chỉnh cho nhu cầu là một phòng trưng bày nghệ thuật dưới sự bảo trợ của Trung tâm Nghệ thuật Văn hóa ở Wrocław (OKiS). Sau đó, phòng trưng bày đã được chuyển đổi thành Phòng trưng bày nghệ thuật Foto-Medium-Art và trở thành một trong những trung tâm Neo-avantgarde quan trọng nhất ở Ba Lan. Sau đó, nó đổi tên thành Trung tâm Nhiếp ảnh Lower Silesia, "Nhà Romanesque". Từ tháng 1 năm 2017, nó được gọi là Phòng trưng bày Foto-Gen . Vào tháng 4 năm 2017, một tấm bảng bằng đồng kỷ niệm sự thành lập của "Ngôi nhà của các quý bà của Trzebnica" Cistercian đã được đặt ở mặt tiền của tòa nhà và cái tên "Dom Panien Trzebnickich (Ngôi nhà của các quý bà của Trzebnica)" đã chính thức trở lại.
wiki
Ngôi nhà La Mã ở Wrocław
Phòng trưng bày Foto-Gen chuyên trưng bày các tác phẩm nhiếp ảnh và phương tiện truyền thông mới. Có các triển lãm thường xuyên cho gia đình và các nghệ sĩ quốc tế, thuyết trình cũng như các bài giảng được tổ chức ở đó. Phóng sự truyền thông từ các sự kiện này có thể được xem trên kênh video của Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật trong Wrocław (OKiS), phương tiện truyền thông địa phương và toàn quốc.
wiki
Kali permanganat
Kali permanganat là một hợp chất vô cơ có công thức hóa học là KMnO4, dùng làm chất tẩy trùng trong y học. Nó dễ tan trong nước tạo thành dung dịch màu tím đậm, khi dung dịch loãng sẽ có màu tím đỏ, khi bay hơi tạo chất rắn với tinh thể lăng trụ màu đen tím sáng lấp lánh. Ngoài ra kali permanganat là một chất oxy hóa mạnh, sẽ bốc cháy hoặc phát nổ nếu kết hợp với các chất hữu cơ khác. Kali permanganat bị phân hủy ở nhiệt độ trên 200℃. Năm 2000, sản lượng toàn cầu khoảng 30.000 tấn. Lịch sử.
wiki
Kali permanganat
Năm 1659, Johann Rudolf Glauber trộn một hỗn hợp của khoáng chất pyrolusit và kali carbonat để có được một loại vật liệu mà khi hòa tan trong nước, đã cho một dung dịch màu xanh lá cây (kali manganat) mà từ từ chuyển sang màu tím và sau đó cuối cùng màu đỏ. Báo cáo này là mô tả đầu tiên của việc sản xuất kali permanganat. Khoảng gần 200 năm sau, nhà hóa học người Anh Henry Bollmann Condy đã có mối quan tâm đến chất khử trùng, và đưa ra thị trường một số sản phẩm bao gồm nước ion hóa. Ông thấy rằng pyrolusit pha trộn với NaOH và hòa tan nó trong nước tạo ra một dung dịch với đặc tính tẩy uế. Ông được cấp bằng sáng chế giải pháp này, và tiếp thị nó như là chất lỏng Condy. Mặc dù có hiệu quả, giải pháp không phải là rất ổn định. Điều này đã được khắc phục bằng cách sử dụng KOH thay vì NaOH. Chất này đã ổn định hơn, và có lợi thế của việc chuyển đổi dễ dàng các tinh thể kali permanganat hiệu quả như nhau. Vật liệu kết tinh này được gọi là tinh thể của Condy hoặc bột của Condy. Kali permanganat tương đối dễ sản xuất nên Condy sau đó đã buộc phải dành thời gian đáng kể trong pháp lý để ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh từ các sản phẩm tiếp thị tương tự như chất lỏng Condy hoặc tinh thể Condy. Các nhiếp ảnh gia thời kỳ đầu sử dụng nó như là một thành phần bột của đèn flash. Nó được thay thế bằng các chất oxy hóa khác, do sự bất ổn của hỗn hợp permanganat. Dung dịch nước của KMnO4 đã được sử dụng cùng với T-Stoff (tức là 80% hydro peroxide) làm nhiên liệu đẩy cho máy bay gắn động cơ
wiki
Kali permanganat
thế bằng các chất oxy hóa khác, do sự bất ổn của hỗn hợp permanganat. Dung dịch nước của KMnO4 đã được sử dụng cùng với T-Stoff (tức là 80% hydro peroxide) làm nhiên liệu đẩy cho máy bay gắn động cơ tên lửa Messerschmitt Me 163. Trong ứng dụng này, nó được gọi là Z-Stoff. Sự kết hợp của các nhiên liệu đẩy đôi khi vẫn còn được sử dụng trong ngư lôi.
wiki
Sông Shilka
Sông Shilka Sông Shilka () là một con sông chảy trong địa phận Zabaykalsky, đông nam Liên bang Nga với chiều dài 560 km (348 dặm Anh). Nó được tính từ nơi hợp lưu của sông Onon và sông Ingoda. Sông Shilka chảy trong một thung lũng sâu nằm giữa hai dãy núi Shilkinsky và Amazarsky ở phía bắc và dãy núi Borshchovochnyi ở phía nam. Dòng chảy nhanh; tại nhiều nơi sông Shilka bị chia ra thành các nhánh sông hay tạo thành các bãi nông. Nguồn nuôi chủ yếu là nước mưa. Mùa lũ trong tháng 7-8; một vài nơi bị ngập lụt. Lưu lượng trung bình ở 149 km từ cửa sông là 521 m³/s, lớn nhất đạt 11.400 m³/s (tháng 7 năm 1958), nhỏ nhất đạt 0,81 m³/s (tháng 3 năm 1969); về mùa đông bị đóng băng trong một số năm. Đóng băng vào cuối tháng 10 — đầu tháng 11, băng tan vào cuối tháng 4 — nửa đầu tháng 5 năm sau. Nó hợp lưu với sông Argun trên biên giới Nga-Trung Quốc để tạo thành sông Amur (Hắc Long Giang). Sông này phù hợp cho giao thông thủy trên toàn bộ chiều dài của nó.
wiki
Vùng liên bang Phía Nam
Vùng liên bang Phía Nam <mapframe latitude="47.9" longitude="39.6" zoom="4" width="280" height="300" align="right" /> Vùng liên bang phía nam (tiếng Nga: Ю́жный федера́льный о́круг, "Yuzhny federalny okrug") là một trong 8 vùng liên bang của Nga. Dân số vùng là 22,907,141 người (57% dân thành thị) với diện tích 589,200 km². Ngày 19 tháng 1 năm 2010, vùng liên bang này được chia làm đôi, phần phía nam trở thành Vùng liên bang Bắc Kavkaz. Vùng liên bang phía nam từng được gọi là Vùng liên bang Bắc Kavkaz khi được thành lập tháng 5 năm 2000 nhưng sau đó được đổi tên vì lý do chính trị.
wiki
Nguyễn Hữu Khiếu
Nguyễn Hữu Khiếu (1915 - 2005) là nhà chính trị, nhà ngoại giao Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III, khóa IV, đại biểu Quốc hội khóa II, khóa III, khóa IV (1960-1975), đã từng giữ các chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương, Bộ trưởng Bộ Lao động (1965-1974), Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Liên Xô, Bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên (3/1976-9/1976), Bí thư Ban Cán sự Đảng Ngoài nước. Tiểu sử. Nguyễn Hữu Khiếu còn có tên gọi khác là Thiện, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1915. Ông có quê quán ở xã Triệu An, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Quá trình hoạt động cách mạng. Từ năm 1940 đến năm 1943, Nguyễn Hữu Khiếu bị thực dân Pháp giam tại nhà lao Đăk Mil (huyện Đắk Mil, tỉnh Đắc Nông). Tháng 3 năm 1945 ông là Ủy viên Xứ ủy Ai Lao tại Lào. Trong kháng chiến chống Pháp, ông làm Phó Bí thư Liên khu ủy Liên khu 4 kiêm Giám đốc Công an Liên khu IV. Với cương vị Giám đốc Công an khu 4 Nguyễn Hữu Khiếu là người rất thương đồng đội, tin tưởng đồng đội. Ông rất hiểu và biết "dùng" cán bộ của mình để bố trí đúng người đúng việc vì lực lượng Công an Khu 4 lúc bấy giờ được ông tập hợp rất nhiều người ở nhiều ngành nghề tham gia, đại bộ phận là nhân viên còn rất trẻ. Ông biết "cài cắm" ai vào nhiệm vụ nào để hoàn thành nhiệm vụ tốt nhất. Trong lúc bộn bề công việc mà vẫn đạp xe hơn năm chục cây số, thay mặt nhà trai đi hỏi vợ cho cán bộ của mình. Anh em ốm đau, ông dặn dò hậu cần phải chăm lo tốt bữa ăn cho anh em.
wiki
Nguyễn Hữu Khiếu
Ông đã xây dựng lực lượng Công an Khu 4 trong sạch, vững mạnh, không có một cán bộ nào phạm sai lầm nghiêm trọng. Đặc biệt, ông rất quan tâm đào tạo cán bộ kế cận. Trong các cuộc họp giao ban của Ban giám đốc, ông đều mời lãnh đạo phòng, ban tới dự, cùng nghe chủ trương, cùng bàn biện pháp, lắng nghe ý kiến của anh em. Vì vậy, không khó khăn khi bố trí cán bộ thay thế. Ông dặn dò của nhân viên dưới quyền: "Sự rèn luyện của người chiến sĩ cũng như rèn một cái dùi, lấy cái dùi ấy đâm vào vách đất, thì đừng vội tự mãn - phải rèn cho đến khi đem nó đâm vào tường vôi mà không bị quằn mũi". Ông là người có tầm nhìn chiến lược, dự đoán được ngày hòa bình lập lại và trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó tích cực, tranh thủ chuẩn bị lực lượng tình báo để tung vào hàng ngũ kẻ thù bằng nhiều con đường, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài. Nhiều cán bộ tình báo đã ở vị trí lãnh đạo, giữ trọng trách trong bộ máy của địch, biết cách dùng địch để địch mắc mưu ta, khiến chúng không lường được. Công tác chính quyền dân sự và ngoại giao. Sau năm 1954, ông tiếp tục giữ các cương vị quan trọng Đại biểu Quốc hội Việt Nam (Khóa II, Khóa III, Khóa IV), Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa, Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương, Bộ trưởng Bộ Lao động Việt Nam, Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Liên Xô. Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ 3, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và làm Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương.
wiki
Nguyễn Hữu Khiếu
Năm 1960, tại Đại hội Đảng lần thứ 3, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và làm Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương. Từ năm 1960 đến năm 1965, ông tham gia công tác Quốc hội, được bầu làm Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách . Ngày 11 tháng 10 năm 1965 Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Nghị quyết số 166 miễn nhiệm chức ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ông để chuyển sang nhận nhiệm vụ ở Hội đồng Chính phủ. Tháng 10 năm 1965, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Lao động, nay là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thay ông Nguyễn Văn Tạo cho đến tháng 4 năm 1974. Người thay thế ông là ông Nguyễn Thọ Chân. Từ tháng 3 năm 1974 đến tháng 3 năm 1976, ông được bổ nhiệm chức vụ Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Liên Xô thay cho ông Võ Thúc Đồng theo Nghị quyết số 440 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Năm 1975 ông còn kiêm thêm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Afghanistan. Từ ngày 6 tháng 3 năm 1976 đến tháng 9 năm 1976, ông là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh Bình Trị Thiên (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên). Đến tháng 10 ông Bùi San được Ban Bí thư Trung ương Đảng cử thay ông làm Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV, ông được bầu làm Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV (1976 – 1982). Từ năm 1976 đến năm 1980, ông tiếp tục làm Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô lần thứ 2. Khi hết nhiệm kỳ, người thay thế là ông Nguyễn Hữu Mai.
wiki
Nguyễn Hữu Khiếu
Từ năm 1976 đến năm 1980, ông tiếp tục làm Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô lần thứ 2. Khi hết nhiệm kỳ, người thay thế là ông Nguyễn Hữu Mai. Sau đó ông giữ chức vụ Bí thư Ban Cán sự Đảng ngoài nước cho đến khi nghỉ hưu. Ông mất đột ngột tại Hà Nội vào ngày 1 tháng 1 năm 2005, không lâu sau lễ mừng thọ 90 tuổi. Gia đình. Nguyễn Hữu Vinh hay còn gọi là Anh Ba Sàm là con trai của ông. Nguyễn Hữu Vinh sinh ngày 15/09/1956 ở Hà Nội. Là con út trong gia đình (anh cả Nguyễn Hữu Dũng, anh trai Nguyễn Hữu Thọ, chị gái Nguyễn Thị Hữu Thiện) có truyền thống cách mạng.
wiki
Leningradsky Prospekt
Leningradsky Prospekt Leningradsky Prospekt (tiếng Nga: Ленингра́дский проспе́кт), hay Đại lộ Leningrad, là một đại lộ chính ở Moscow, Nga. Nó tiếp tục đi theo con đường Tverskaya Street và 1st Tverskaya-Yamskaya Street về phía tây bắc từ Belorussky Rail Terminal, và đổi tên một lần nữa thành Leningrad Highway qua ga tàu điện ngầm Sokol. Đường cao tốc tiếp tục đến Saint Petersburg thông qua Tver (không giống như Moskovsky Prospekt ở Saint Petersburg, được đặt theo tên, và dẫn đến Moscow). Cho đến năm 1957, Leningradsky Prospekt là một phần của Leningrad Highway (Đường cao tốc Petersburg trước năm 1924). Cả hai đại lộ đều giữ lại những cái tên liên quan đến Lenin của họ sau khi khôi phục tên Saint Petersburg lịch sử.
wiki
Đình Giàn
Đình Giàn là một ngôi đình cổ ở xã Xuân Đỉnh, Từ Liêm, Hà Nội nay là phường Xuân Đỉnh, Bắc Từ Liêm, Hà Nội thờ thái úy Lý Phục Man, người đã có công dẹp giặc Lương. Năm 1990, đình Giàn được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Kiến trúc. Đình Giàn hiện nay có bố cục hình chữ "Công" gồm đại đình, trung cung, hậu cung, mang dáng dấp kiến trúc thời Nguyễn nằm trên diện tích khoảng 4000m². Đình vẫn còn lưu giữ các văn bia cho biết thời gian tu bổ vào các năm Gia Long thứ 16 (1817), Tự Đức 30 (1877), Thành Thái 13 (1901) và 29 đạo sắc phong thần của 3 triều đại nhà Lê Trung Hưng, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn: 12 đạo sắc phong của các vua Lê Huy Tông, Lê Dụ Tông, Lê Hiển Tông và Lê Duy Kì, 4 đạo sắc phong của nhà Tây Sơn, còn lại thuộc triều Nguyễn. Lịch sử. Theo lịch sử thần tích của Đình Giàn, có 2 giả thiết được đặt ra: Giả thiết 1:. Từ xưa, Lý Phục Man (thành hoàng làng Đình Giàn) thường giàn quân ở nơi đất đình hiện nay, sau ông đánh được giặc. Rồi một lần do thua trận nên ông đã cưỡi ngựa qua đây, tiếng ngựa chạy nhanh, hí vang trời nên người dân ngưỡng mộ đã lập miếu rồi sau thành Đình Giàn.  Giả thiết 2:.
wiki
Đình Giàn
Giả thiết 2:. Vào thời Lý, vua Lý Thái Tổ (1009 - 1225) đi vi hành, đến bến Cổ Sở, đêm nằm mộng thấy một người kì dị ở trước mặt tự xưng là Lý Phục Man rồi dõng dạc đọc mấy câu rằng:""Thiên hạ tao mông muội, trung thần nặc tính danh, Trung Thiên minh nhật nguyệt, Tự khả hiện chân hình"." (Trong nước gặp lúc mờ tối nên người trung ẩn giấu họ tên. Nay giữa trời cao sáng tỏ, có thể hiện chân hình). Ngâm xong, liền biến mất. Vua Lý tỉnh giấc, hạ lệnh cho lập đền thờ và đắp tượng, hàng năm tế tự.Tưởng nhớ công lao của Thiếu uý Tướng quân Lý Phục Man đối với đất nước, nhân dân đã lập đền thờ tôn ông làm Thành hoàng của nhiều làng quê ở Đồng bằng Bắc Bộ. Theo truyền thuyết của dân làng Giàn, nhân dân vớt được cây gỗ quý trôi dạt đến, người ta đã dùng nó để xây đền và tới Sấu Giá xin tôn hiệu, bài vị của thần về thờ. Từ đó, hai làng có liên hệ mật thiết qua những ngày hội làng để tưởng nhớ tướng quân Lý Lễ hội Đình Giàn.
wiki
Đình Giàn
Lễ hội Đình Giàn. Lễ hội Đình Giàn hằng năm được nhân dân mở hàng năm. Trước đây, do điều kiện và nhiều lý do, lễ hội không được mở, phải đến năm 1992 sau khi di tích Đình Giàn được công nhận thì lễ hội mới được phục dựng. Lễ hội được bắt đầu từ ngày mồng 9 tháng 2 âm lịch hằng năm và tổ chức 5 năm 1 lần hội chính. Vào những ngày hội lệ, chỉ tổ chức 2 ngày và không rước kiệu Ông, kiệu Bà. Còn những năm tổ chức hội chính, lễ hội được tổ chức 3 ngày. Ngày thứ nhất là lễ rước nước uy nghiêm từ Đình đến giếng cổ thời Hai Bà Trưng và đội Tế làm lễ, lấy nước và rước về Đình để cúng. Vào ngày thứ hai, kiệu Ông, kiệu Bà rước về chùa Thiên Phúc và Đền Thanh Vân(nơi thờ Mẫu Liễu hạnh) để dâng hương, cũng cùng ngày thì các đội Dâng hương trên địa bàn phường rước lễ và lồng oản tới và Dâng hương tại ĐÌNH. Vào ngày cuối cùng của Lễ hội, tất cả các kiệu của Đình(Lồng oản, Án Gian, Long Đình, Kiệu Ông, kiệu Bà) cùng với 5 lồng oản từ các cụm dân phố đi Du Xuân. Khi rước kiệu, kiệu Ông đi trước, kiệu Bà đi sau rồi mới đến các kiệu khác. Trong khi rước, kiệu Ông chạy rầm rầm rồi đột nhiên dừng lại và quay tròn, có thể rằng đây chính là hoạt động ngựa hí vang trời của Lý Phục Man thời xưa, còn theo kinh nhiệm dân gian đây là hình thức "Kiệu bay".Khi kiệu hạ, vào buổi chiều, đội Tế tế giã hội cũng đồng nghĩa là Lễ hội kết thúc. Trong Lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian, cùng với nhiều hoạt động văn hóa dân gian cổ từ xưa.
wiki
Anandpur Sahib
Anandpur Sahib Anandpur Sahib là một thành phố và là nơi đặt hội đồng đô thị ("municipal council") của quận Rupnagar thuộc bang Punjab, Ấn Độ. Nhân khẩu. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Anandpur Sahib có dân số 13.886 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Anandpur Sahib có tỷ lệ 73% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 77%, và tỷ lệ cho phái nữ là 68%. Tại Anandpur Sahib, 13% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.
wiki
Hợp Hưng
Hợp Hưng Hợp Hưng là một xã thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Việt Nam. Xã có diện tích 8,59 km², dân số năm 1999 là 5.830 người, mật độ dân số đạt 679 người/km². Dân số năm 2019 là 6.242 người trong đó có 3091 nam và 3151 nữ. Giao Thông. Xã có mạng lưới giao thông vận tải thuận tiện với tuyến vành đai 2(TL485B), đường Bối Xuyên -Khả Chính , các trục đường liên thôn. Có không gian mở kết nối giữa Tp.Nam Định. Tuyến vành đai 2 bao quanh thành phố và một phần trùng với TL485B nối từ thị trấn Nam Giang đến Quốc lộ 21B Hành Chính. Xã Hợp Hưng gồm 11 đơn vị cấp thôn trực thuộc, bao gồm thôn Tiên Trưởng, thôn Lập Vũ, thôn Nội Chế, thôn Vàng, thôn Lập Thành, thôn Khả Chính, thôn Đồng Lạc, thôn Lương Mỹ, thôn Thị An, thôn Vụ Nữ và thôn Thám Hòa
wiki
Liên hoan phim Cannes 2013
Liên hoan phim Cannes 2013 Liên hoan phim Cannes lần thứ 66 tổ chức tại Cannes, Pháp, từ ngày 15 tới 26 tháng 5 năm 2013. Steven Spielberg là trưởng ban giám khảo cho phim chính. Đạo diễn người New Zealand Jane Campion là trưởng ban giám khảo cho Cinéfondation và phim ngắn. Nữ diễn viên người Pháp Audrey Tautou là MC cho buổi khai mạc và bế mạc liên hoan phim Cannes. Liên hoan mở đầu với trình chiếu phim "The Great Gatsby", do Baz Luhrmann đạo diễn và phim bế mạc "Zulu", do Jérôme Salle đạo diễn. Poster của liên hoan lần này là hình ảnh của cặp diễn viên Paul Newman và vợ ông Joanne Woodward. "The Bling Ring", Sofia Coppola đạo diễn, khai mạc cho buổi Un Certain Regard. Bộ phim "La vie d'Adèle" của Pháp đã chiến thắng giải Palme d'Or. Với một ngoại lệ chưa từng có, ban giám khảo quyết định "bước tiến đặc biệt" đó là trao giải Palme d'Or thêm cho hai nữ diễn viên chính cùng với đạo diễn của bộ phim.
wiki
Macaca radiata
Macaca radiata Macaca radiata là một loài động vật có vú trong họ Cercopithecidae, bộ Linh trưởng. Loài này được É. Geoffroy mô tả năm 1812. Đây là đặc hữu của miền nam Ấn Độ. Sự phân bố của loài này bị giới hạn bởi Ấn Độ Dương ở ba phía và sông Godavari và Tapti cùng với một loài khỉ raveus cạnh tranh có liên quan ở phía bắc. Những thay đổi sử dụng đất trong vài thập kỷ qua đã dẫn đến những thay đổi trong ranh giới phân phối của nó với loài khỉ rakesus, gây lo ngại cho tình trạng của loài này trong tự nhiên. Loài khỉ thế giới cũ này là một động vật hoạt động ban ngày. Thân dài 35–60 cm cộng với đuôi 35-68. Con đực nặng 5,5 đến 9,0 kg, con cái 3,5 đến 4,5 kg. Khỉ nuôi nhốt có thể sống tới 35 năm. Chúng ăn trái cây, các loại hạt, hạt, hoa, động vật không xương sống và ngũ cốc. Ở miền nam Ấn Độ, loài khỉ này tồn tại dưới dạng con người, ăn thức ăn do con người cung cấp và đột kích mùa màng và nhà cửa. Hai phân loài của đã được xác định: "M. r. radiata" và "M. r. Diluta".
wiki
É
É hay é trắng, húng trắng, trà tiên, tiến thực, hương thảo, húng lông, húng quế lông (danh pháp khoa học: Ocimum africanum; các đồng nghĩa: Ocimum basilicum" var. "pilosum) là một phân loài của húng quế, thường được biết đến với hạt (thực chất là quả) dùng để nấu chè hoặc pha đồ uống giải khát, và thân cành được sử dụng làm rau gia vị hoặc các bài thuốc trong dân gian. Mô tả. É là một loài cây nhỏ sống hàng năm, thân phân nhánh ngay từ gốc tạo thành bụi cao từ 0,5-1m, thân vuông màu lục nhạt có lông thưa. Lá mọc đơn đối chéo chữ thập có hình bầu dục, dài 5–6 cm, rộng 2–3 cm, gốc tròn, đầu nhọn, mép khía răng, hai mặt đều có lông ở gân, vò ra thấy có mùi thơm của sả (do vậy loài cây này có tên "pilosum" với ý nghĩa là có "lông mềm thưa"). Quả é hình bầu dục kích thước nhỏ, nhẵn, trông giống hạt vừng, màu xám đen, mỗi quả chứa một hạt bên trong. Khi cho quả é vào nước thì quả hút nước tạo thành màng nhầy trắng bọc bên ngoài hạt. Nguyên nhân chính là do tế bào biểu bì của hột é có một hay nhiều lớp mucilage được dự trữ trong vách tiếp tuyến, khi hột gặp nước, các tế bào chứa mucilage ấy trương lên, vỡ ra và mucilage tan trong nước, đó là những biến đổi các thành phần hoá học trong vách tế bào. Trong hạt é có chứa nhiều chất nhầy (là loại chất xơ tan được) và tính mát (hàn).
wiki
É
É phân biệt với húng quế ta (phương Tây hay gọi là húng quế Thái [Thai basil]) trên hai phương diện: hoa và thân é có màu trắng và có lông (do đó mới có tên "é trắng" hay "húng quế lông") trong khi húng quế ta có màu tím và không lông (nên đôi khi còn được gọi với tên "é tía"). Thành phần hóa học. Toàn cây é có chứa tinh dầu với hàm lượng từ 2,5-3%, có thể đến 5%. Hàm lượng tinh dầu cao nhất vào lúc cây ra hoa. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là citral với tỷ lệ 56-75% và nhiều chất khác. Ngoài ra, cây é còn chứa các polyphenol, flavonoid, thymol, quercetin, acid cafeio, acid rosmarimic. Hạt é chứa khoảng 5% nước, 3-4% chất vô cơ và chất nhầy. Thủy phân chất nhầy sẽ được galacturonic, arabinoza, galactoza. Toàn thân chứa 2,5 đến 3,5% tinh dầu tươi. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là citral với tỉ lệ 56%, ngoài ra còn khoảng hơn 20 chất khác. Công dụng. Bộ phận dùng của é là cành, lá và hạt. Thân và lá thu hái khi cây chưa có hoa hoặc có ít nụ hoa; hạt lấy ở những quả già và tinh dầu cất từ lá. Lá và cành. Lá và cành é được sử dụng như một loại rau trong ẩm thực, một thành phần của các bài thuốc dân gian hay chiết xuất tinh dầu. Thân và lá é có vị cay, mùi thơm, tính ấm, có tác dụng phát hãn, giải biểu, khu phong, lợi thấp, tán ứ, chỉ thống do đó thường được dùng để chữa đau bụng, trướng bụng, ăn không tiêu, nôn mửa, cảm, cúm, sốt, đau đầu, viêm lợi, chảy máu chân răng, tưa lưỡi, viêm bàng quang, đái rắt, đái buốt.
wiki
É
Cây é là một loại rau gia vị thơm ngon nên ngày xưa dùng để tiến vua nên còn có tên là cây "tiến thực". Món lẩu é trắng nấu thịt gà là món ăn đặc trưng vùng đất Tuy Hòa. Hạt. Theo y học cổ truyền thì hạt é có tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt, lợi cổ họng, giải nhiệt, thông tiện, thường dùng chữa ho khan, cổ họng sưng đau, nôn ra máu, đi cầu ra máu, chảy máu cam, viêm đường tiết niệu, nhức răng, đau mắt đỏ, mụn nhọt. Dân gian hay dùng để làm mát và nhuận cơ thể. Có thể uống nhiều lần trong ngày, dùng thường xuyên không độc, làm thức uống giải khát để trừ các bệnh nhiệt trong mùa hè. Để tăng tác dụng nhuận trường có thể dùng chung với hạt đười ươi (lười ươi), có thể ngâm nước để uống ngay hoặc nấu thành chè. Chè hạt é hay nước é rất phổ biến ở Việt Nam, và thường thấy kết hợp với những nguyên liệu khác như mủ trôm, thạch đen (sương sáo), dừa nạo, dầu chuối, hoa nhài, các loại hoa quả như dâu tây, dứa v.v. Theo y học hiện đại thì hạt é có chứa nhiều chất nhầy có tác dụng tốt cho sức khỏe. Hạt é có thể pha với đường để uống, nước hạt é rất mát, chữa được rôm sảy. Hạt é không bị tiêu hóa, phân hủy nên chất béo trong hạt é không thấm vào cơ thể. Chính chất nhày của hạt é giúp giảm lượng cholesterol.
wiki
Lữ Lương Vĩ
Lữ Lương Vĩ Lữ Lương Vĩ (tiếng Hán: 呂良偉, tiếng Anh: "Ray Lui") là một nam diễn viên Hồng Kông. Tiểu sử. Lữ Lương Vĩ sinh ngày 22 tháng 12 năm 1956 tại Chợ Lớn, có cha là một tiểu thương đã di cư từ Quảng Đông sau khi quân Nhật chiếm đóng Đông Dương. Năm 1967, Lữ sang Hồng Kông theo học một khóa đào tạo diễn xuất của đài TVB và khởi nghiệp với những vai kép phụ trong dòng phim truyền hình của nhà đài. Mãi đến năm 1980, danh vọng của Lữ mới vụt sáng khi anh được giao vai thứ trong phim "Bến Thượng Hải" để từ đó mau chóng chiếm các vai kép độc trong phim truyền hình TVB suốt thập niên 1980. Năm 1989, Lữ Lương Vĩ mãn hợp đồng tại TVB và tìm cách làm mới kỹ năng diễn xuất trong việc thử các vai trong phim truyền hình Hoa lục. Tuy nhiên may mắn không mỉm cười với anh thêm lần nào nữa, Lữ Lương Vĩ không phải cái tên được săn đón tại Trung Quốc giữa rừng minh tinh Hương Cảng thế hệ vàng. Mãi đến năm 2009, Lữ mới tái xuất màn ảnh nhỏ Hương Cảng trong loạt phim TVB "Phú quý môn". Ngày nay, Lữ Lương Vĩ quan tâm nhiều đến việc kinh doanh và chỉ chọn tham gia số ít phim được xếp hạng bom tấn.
wiki
Cá voi xám
Cá voi xám (danh pháp hai phần: Eschrichtius robustus), là một con cá voi tấm sừng hàm hàng năm di chuyển giữa khu vực kiếm thức ăn và sinh sản. Nó đạt tới chiều dài khoảng 16,5 mét, trọng lượng 50 tấn, và tuổi thọ 50-70 năm. Tên gọi phổ biến của cá voi đến từ các đốm xám và đường văn màu trắng trên da đen của nó. Cá voi xám từng được gọi là cá quỷ vì hành vi phản kháng của chúng khi bị săn bắn. Cá voi xám là loài còn sống duy nhất trong chi Eschrichtius, chi này lại là chi sống sót duy nhất trong họ Eschrichtiidae. Loài động vật có vú này có nguồn gốc từ cá voi ăn bằng hàm răng lọc đồ ăn đã phát triển ở đầu thế Oligocen, hơn 30 triệu năm trước. Những con cá voi xám phân bố trong vùng Đông Bắc Thái Bình Dương (Bắc Mỹ) dân số và một cực kỳ nguy cấp dân Tây Bắc Thái Bình Dương (châu Á). Số lượng ở Bắc Đại Tây Dương đã bị tuyệt diệt (có thể do nạn săn bắt cá voi) trên bờ biển châu Âu trước năm 500 và bờ biển Mỹ khoảng cuối những năm 17 đến thế kỷ đầu tiên 18. Tuy nhiên, ngày 08 tháng 5 năm 2010, việc xuất hiện một con cá voi xám đã được xác nhận ngoài khơi bờ biển Israel ở biển Địa Trung Hải, dẫn một số nhà khoa học nghĩ rằng họ có thể phục hồi số lượng ở khu vực sinh sản cũ mà không được sử dụng trong nhiều thế kỷ. Phân loại học.
wiki
Cá voi xám
Phân loại học. Theo cách hiểu thông thường, cá voi xám được xem là loài duy nhất còn sinh tồn trong chi và họ của nó. Phân tích DNA gần đây chỉ ra các loài trong họ Balaenopteridae, như cá voi lưng gù ("Megaptera novaeangliae" và cá voi vây ("Balaenoptera physalus"), có quan hệ gần gũi hơn với cá voi xám hơn là các loài khác trong họ Balaenopteridae như cá voi Minke. John Edward Gray đã xếp nó vào chi "Eschrichtius" năm 1865, và đặt tên chi này theo tên của nhà động vật học Daniel Eschricht. Tên gọi phổ biến của nó xuất phát từ màu xám của nó. Các mẫu bán hóa thạch của loài cá voi xám đã tuyệt chủng được Gray thu thập từ các bờ biển Đại Tây Dương thuộc Anh và Thụy Điển, theo đó ông Gray đã miêu tả khoa học loài này đầu tiên mà sau này chỉ tìm thấy được loài còn sinh tồn sống trong các vùng nước thuộc Thái Bình Dương. Các loài đang sinh sống trong Thái Bình Dương đã được Cope miêu tả và đặt tên là "Rhachianectes glaucus" năm 1869. So sánh khung xương cho thấy các loài ở Thái Bình Dương giống hệt các hóa thạch ở Đại Tây Dương trong thập niên 1930, và cách đặt tên của Gray sau đó đã được công nhận. Mặc dù sự giống nhau giữa các cá thể trong Thái Bình Dương và Đại Tây Dương không thể được chứng minh bằng các dữ liệu giải phẫu, khung xương của nó có nét đặc trưng và dễ dàng phân biệt với tất cả các cá thể cá voi còn sống khác.
wiki
Cá voi xám
Có nhiều tên gọi đã được sử dụng để chỉ cá voi xám, bao gồm cá voi sa mạc, cá voi lưng xám, devil fish, mussel digger và rip sack. Tên khoa học "Eschrichtius gibbosus" đôi khi cũng có một số tài liệu sử dụng; tên gọi này đã được chấp nhận theo miêu tả của Erxleben năm 1777. Số cá thể. Có hai nhóm phân bố trên Thái Bình Dương: một nhóm với số lượng ít hơn 130 con (theo đánh giá năm 2008) tuyến đường di cư của chúng giữa biển Okhotsk và Hàn Quốc, và một nhóm lớn hơn với số cá thể khoảng 20.000 đến 22.000 con sống ở phía đông Thái Bình Dương và di chuyển giữa các vùng nước ngoài khơi Alaska và Baja California Sur. Nhóm phía tây được IUCN xếp vào nhóm cực kỳ nguy cấp. Không có cá thể cái mới sinh được ghi nhận năm 2010, nên có ít nhất 26 con cái có khả năng sinh theo quan sát từ năm 1995. Ngay cả một số rất nhỏ các con cái chết hàng năm sẽ làm số lượng cá thể của phân nhóm này suy giảm.
wiki
Cá voi xám
Năm 2007, S. Elizabeth Alter sử dụng cá tiếp cận gen để ước tính sự phong phú của thời kỳ trước khi cá voi bị đánh bắt dựa trên các mẫu lấy từ 42 con cá voi xám ở California, và công bố sự biến đổi DNA ở hợp phần di truyền loci với số cá thể 76.000–118.000 con, lớn hơn từ 3 đến 5 lần so với số cá thể trung bình bằng phương pháp thống kê năm 2007. NOAA đã tiến hành nghiên cứu số cá thể mới trong giai đoạn 2010–2011; dữ liệu này đã được công bố năm 2012. Hệ sinh thái biển có thể đã thay đổi kể từ thời kỳ trước khi đánh bắt cá voi, làm cho sự hồi phục của số lượng cá voi trước thời gian bị đánh bắt là không khả thi; nhiều nhà sinh thái biển đã cho rằng số cá thể cá voi xám ở đông Thái Bình Dương xấp xỉ khả năng tiếp nhận số cá thể trong môi trường đó.
wiki
Cá voi xám
Cá voi xám đã tuyệt chủng ở bắc Đại Tây Dương trong thế kỷ 18. Phân tích đồng vị phóng xạ cacbon của các hóa thạch được lấy ở các bờ biển châu Âu (Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh) đã xác nhận điều đó, có thể nguyên nhân do đánh bắt cá voi. Xác định tuổi của các mẫu khác ở thời kỳ La Mã cũng đã đực tìm thấy ở Địa Trung Hải trong khi đào bến cảng cổ Lattara gần Montpellier năm 1997, đã dấy lên câu hỏi liệu các cá thể cá voi xám Đại Tây Dương đã di chuyển lên và xuống bờ biển châu Âu để vào sinh đẻ trong Địa Trung Hải hay không. Tương tự, việc định tuổi cacbon của các mẫu bán hóa thạch bờ biển đông châu Mỹ đã xác nhận cá voi xám đã sinh sống ở đây ít nhất từ thế kỷ 17. Số cá thể này phân bố ít nhất là từ Southampton, New York, đến Jupiter Island, Florida, từ 1675. Trong quyển lịch sử đảo Nantucket từ 1835, Obed Macy đã viết rằng trong các khu vực sinh sống của cá heo 1672 được gọi là "scragg", chúng đã vào cảng và bị giết bởi những người định cư. A. B. Van Deinse chỉ ra rằng "scrag whale", được P. Dudley miêu tả năm 1725 là một trong những loài bị săn bắt ở những người săn cá voi New England trước đây, hầu hết là cá voi xám.
wiki
Cá voi xám
Giữa năm 1980, 3 cá thể cá voi xám được nhìn thấy ở phía đông biển Beaufort, nên người ta cho rằng sự phân bố của chúng cách phía đông dãi phân bố hiện hữu lúc đó là . Tháng 5 năm 2010, một con cá voi xám được nhìn thấy ngoài khơi Địa Trung Hải thuộc Israel. Người ta cho rằng con cá voi này có nguồn gốc từ Thái Bình Dương vào Đại Tây Dương qua hành lang Tây Bắc, vì các tuyến hàng hải thay thế qua kênh đào Panama hoặc Mũi Hảo Vọng không tiếp giáp với lãnh thổ sinh sống của cá voi. Khi băng tan từ từ và sự thu hẹp biển băng Bắc Cực đạt đến đỉnh điểm năm 2007 làm cho tuyến đường Tây-Bắc trở nên thông thoáng hơn Cùng con cá đó đã được thấy lần nữa ngày 30 tháng 5 năm 2010 ngoài khơi bờ biển Barcelona. Tháng 1 năm 2011, một con cá voi xám được đánh dấu thuộc nhóm phía tây đã được theo dõi là đã di chuyển về phía đông đến dải phân bố của nhóm phía đông ngoài khơi bờ biển British Columbia.
wiki
Love at First Hate
Love at First Hate Love at First Hate (; ) là một bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2018 với sự tham gia của Yuke Songpaisan (Son) và Worranit Thawornwong (Mook). Bộ phim được sản xuất bởi GMMTV và On & On Infinity. Đây là một trong mười dự án phim truyền hình cho năm 2018 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "Series X" vào ngày 1 tháng 2 năm 2018. Bộ phim được phát sóng vào 22:00 (), thứ Sáu trên One 31 và phát lại vào 23:00 (ICT) cùng ngày trên LINE TV, bắt đầu từ ngày 14 tháng 9 năm 2018. Bộ phim kết thúc vào ngày 7 tháng 12 năm 2018. Bộ phim được phát lại vào lúc 21:25 (ICT), thứ Hai và thứ Ba trên GMM 25, bắt đầu từ ngày 30 tháng 4 năm 2019 đến ngày 11 tháng 6 năm 2019. Diễn viên. Dưới đây là dàn diễn viên của bộ phim:
wiki
Sigurd Aalefjær
Sigurd Aalefjær Sigurd Arthur Aalefjær (14 tháng 9 năm 1917 - 10 tháng 3 năm 1991) là một kỹ sư người Na Uy, công chức và giám đốc nhà máy thủy điện Na Uy. Ông sinh ra ở Bend, Oregon là con trai của Wilhelm Torjussen Aalefjær (1881–1969) và Inger Larsen Kostøl (1890–1975); gia đình nhanh chóng chuyển đến Vennesla ở Vest-Agder, Na Uy. Ông kết hôn với Magda Synnøve Berg (1920–2002) vào năm 1943. Ông cư trú và mất tại Bærum. Ông tốt nghiệp trung học tại Trường Kristiansand Cathedral vào năm 1937 và tốt nghiệp kỹ sư xây dựng tại Viện Công nghệ Na Uy ở Trondheim trong năm 1941. Ông làm việc cho Cơ quan Tài nguyên và Năng lượng Na Uy từ năm 1942 đến năm 1946, Drammens Elektrisitetsverk từ năm 1946 đến năm 1949 và Cơ quan Tài nguyên Nước và Năng lượngmôộtt lần nữa từ năm 1949. Từ năm 1960 đến khi nghỉ hưu năm 1984, ông là giám đốc của Statskraftverkene (nay là "Statkraft"). Ông được phong tước Hiệp sĩ, Hạng Nhất của Dòng Thánh Olav vào năm 1983.
wiki
Elizabeth Hurley
Elizabeth Hurley Elizabeth Jane Hurley (sinh ngày 10 tháng 6 năm 1965) là một người mẫu và diễn viên Anh. Năm 1994, cô đã trở thành trọng tâm của sự chú ý của các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới do sự thành công toàn cầu của bộ phim Bốn đám cưới và một đám ma (Four Weddings and a Funeral - 1994, doanh thu 245 triệu USD, giành 4 giải BAFTA, 1 giải Quả cầu vàng, giải César phim tiếng nước ngoài hay nhất, đề cử 2 giải Oscar). Các phim nổi tiếng khác của cô: phim viễn tưởng (1997) và phim hài lãng mạn Bedazzled (2000)...
wiki
Sanuki udon
Sanuki udon Sanuki udon (讃岐うどん) là một loại mì udon phổ biến nhất trong khu vực Shikoku, nhưng hiện nay dễ dàng tìm thấy trên khắp các khu vực lân cận và phần lớn vùng Kansai của Nhật Bản. Loại mỳ này có đặc trưng bởi sợi mỳ hình vuông và cạnh dẹt. Hiện có nhiều cửa hàng chuyên phục vụ mỳ Sanuki udon, và thường viết tên mỳ "Sanuki" bằng chữ hiragana (さぬき) xuất trên tên của các cửa hàng hoặc trên các bảng hiệu. Món mỳ này thường được phục vụ dạng mỳ nước, và ban đầu được phổ biến rộng rãi ở tỉnh Kagawa của Nhật Bản. Nước dùng được làm từ một loại dashi khác nhau về độ đậm và hương vị trên khắp Nhật Bản. Sanuki udon được đặt tên theo tên trước đây của tỉnh Kagawa, tỉnh Sanuki.
wiki
Tháp Thánh Urbanô
Tháp Thánh Urbanô Tháp Thánh Urbanô () ở Košice, Slovakia là một tháp chuông thời phục hưng có hình lăng trụ với mái nhà hình chóp dựng lên vào thế kỷ 16. Vào năm 1557, dưới bàn tay của Franciscus Illenfeld tại Olomouc, Chuông nhà thờ được đúc và có trọng lượng 7 tấn. Chiếc chuông lắp đặt trong tháp dành riêng cho Giáo hoàng Urbanô I, người bảo trợ của nông dân trồng nho. Năm 1775, mái nhà hình chóp theo phong cách Baroque cùng với cây thánh giá sắt kép được xây dựng. Bên ngoài các bức tường của toà tháp có 36 bia mộ cũ niên đại từ thế kỷ 14 và 15, một trong 36 bia mộ là của Đế quốc La Mã có niên đại từ thế kỷ 4. Năm 1966, một trận hoả hoạn phá huỷ chuông Thánh Urbanô và làm toàn tháp hư hỏng nghiêm trọng. Mãi đến năm 1971, công cuộc tái xây dựng và mở của toà tháp mới bắt đầu. Trong quá trình này chiếc chuông được tân trang lại. Năm 1996, một số bản sao của chuông Thánh Urbanô lắp đặt trong hành lang, do các nhân viên của VSŽ Košice chế tạo. Sáu năm sau khi tái xây dựng, từ năm 1977 đến năm 1995, Bảo tàng Đông Slovakia tổ chức buổi triển lãm đồ đúc. Trong khoảng năm 2000 đến năm 2010, các cuộc triển lãm bảo tàng tượng sáp độc đáo diễn ra ở đây, khắc họa các nhân vật lịch sử gắn liền với Košice. Sau đó, bảo tàng đóng cửa.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
là một loạt các cuộc pháo kích chống lại phiên Chōshū vào năm 1863 và 1864, nhằm giành quyền kiểm soát eo biển Shimonoseki bởi hạm đội liên hợp hải quân bốn nước Anh, Pháp, Hà Lan và Mỹ, diễn ra ngoài khơi và trên bờ biển Shimonoseki. Bối cảnh. Bất chấp những nỗ lực xoa dịu của Mạc phủ Tokugawa nhằm thiết lập bầu không khí đoàn kết hòa bình, nhiều "daimyō" ​​vẫn cay đắng bất bình với chính sách mở cửa ngoại thương của Mạc phủ. Sự phản đối mạnh mẽ đối với ảnh hưởng của châu Âu và Mỹ bùng lên thành xung đột mở khi Thiên hoàng Kōmei, phá vỡ truyền thống triều đình hàng thế kỷ, bắt đầu đóng vai trò tích cực trong các vấn đề của nhà nước và ban hành vào ngày 11 tháng 3 và 11 tháng 4 năm 1863 chiếu chỉ "Lệnh trục xuất những kẻ man di" (攘夷実行の勅命 – "Jōi jikkō no chokumei"). Phiên Chōshū, dưới sự lãnh đạo của "daimyō" Mōri Takachika, bắt đầu hành động trục xuất tất cả người nước ngoài sau hạn chót là ngày 10 tháng 5, theo lịch truyền thống của Nhật Bản. Công khai thách thức Mạc phủ, Takachika ra lệnh cho quân mình nổ súng mà không báo trước đối với tất cả các tàu thuyền nước ngoài đi qua eo biển Shimonoseki. Đường thủy dài 600 mét mang tính chiến lược nhưng nguy hiểm này chia cắt các đảo Honshū và Kyūshū và cung cấp một con đường nối Biển Nội địa với Biển Nhật Bản.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Ngay cả trước khi căng thẳng leo thang ở eo biển Shimonoseki, các nhà ngoại giao và chuyên gia quân sự nước ngoài, đặc biệt là Công sứ Mỹ tại Nhật Bản Robert Pruyn và Đại úy Hải quân Mỹ David McDougal đã nhận thức được tình trạng bấp bênh ở Nhật Bản. McDougal đã viết một bức thư cho Bộ trưởng Hải quân, Gideon Welles, ngày 12 tháng 6 năm 1863, nêu rõ, "Ý kiến ​​chung là chính phủ Nhật Bản đang trong giai đoạn trước của cuộc cách mạng, đối tượng chính là trục xuất người nước ngoài." Tôn vương Nhương di. Phiên Chōshū được trang bị hầu hết là những khẩu đại bác cổ, bắn đạn đại bác, nhưng cũng có một số vũ khí hiện đại, chẳng hạn như năm khẩu Dahlgren, đã được Mỹ tặng lại cho Nhật Bản, và ba tàu chiến hơi nước do Mỹ chế tạo: thuyền ba buồm "Daniel Webster" với sáu khẩu đại bác, thuyền hai buồm "Lanrick", hoặc "Kosei", với mười khẩu đại bác và tàu hơi nước "Lancefield", hay "Koshin", mang bốn khẩu đại bác. Cuộc tấn công đầu tiên xảy ra vào ngày 25 tháng 6 năm 1863, ngay sau khi "Sắc chỉ nhương di" có hiệu lực. Tàu thương mại chạy bằng hơi nước SS "Pembroke", dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Simon Cooper, đang thả neo bên ngoài eo biển Shimonoseki thì bị hai tàu chiến của Chōshū được chế tạo ở châu Âu đánh chặn và nã pháo.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Thủy thủ đoàn của một tàu Chōshū đã chế nhạo các thủy thủ Mỹ điên cuồng bằng một tiếng kêu to và khiếp đảm: "Tôn vương Nhương di!" ( "sonnō jōi"). Dưới làn đạn đại bác bắn tới tấp, "Pembroke" đã cố gắng tiến được và thoát ra ngoài qua eo biển Bungo liền kề với chỉ thiệt hại nhẹ và không có thương vong. Khi vừa đặt chân đến Thượng Hải, Cooper đã nộp báo cáo về vụ tấn công và gửi nó đến Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Yokohama, Nhật Bản. Ngày hôm sau, tàu thông báo của hải quân Pháp "Kien Chan" cũng đang thả neo bên ngoài eo biển, thì pháo binh của quân Chōshū trên đầu các mũi tàu xung quanh Shimonoseki đều nã đạn như mưa vào con tàu. "Kien Chan" bị hư hỏng động cơ và bị thương bốn người trước khi thoát ra biển khơi. Vào ngày 11 tháng 7, bất chấp cảnh báo từ thủy thủ đoàn của tàu "Kien Chan", tàu chiến 16 khẩu đại bác "Medusa" của Hà Lan đã đi vào eo biển Shimonoseki. Thuyền trưởng lái tàu là François de Casembroot, tin chắc rằng Lãnh chúa Mori sẽ không dám bắn vào tàu của mình do sức mạnh của con tàu của ông và mối quan hệ lâu đời giữa Hà Lan và Nhật Bản. Nhưng Takachika đã dám làm vậy, nã oàng oàng vào "Medusa" bằng hơn ba mươi quả đạn pháo và giết hoặc làm bị thương chín thủy thủ. De Casembroot bắn trả và chạy thoát khỏi vòng vây của quân Chōshū với tốc độ tối đa, lo sợ sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng của Tổng lãnh sự Hà Lan, người có mặt trên tàu. Trong một thời gian ngắn, lãnh chúa Nhật Bản đã bắn trúng cờ của hầu hết các quốc gia có lãnh sự quán tại Nhật Bản.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Trận chiến eo biển Shimonoseki. Sáng ngày 16 tháng 7 năm 1863, được sự tán thành của công sứ Pruyn, trong một phản ứng nhanh chóng rõ ràng trước cuộc tấn công vào tàu "Pembroke", tàu khu trục USS "Wyoming", dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng McDougal, đã đi vào eo biển và một mình giao chiến với tàu do Mỹ chế tạo. nhưng hạm đội địa phương có người điều khiển kém cỏi trong gần hai giờ trước khi rút lui. McDougal đánh chìm hai tàu đối phương và làm hư hại nặng một chiếc khác, cùng với đó là thương vong cho khoảng 40 người Nhật. Chiếc "Wyoming" bị thiệt hại nghiêm trọng, 4 thủy thủ đoàn chết và 7 người bị thương, một người sau đó chết vì vết thương của mình. Hai tàu hơi nước phía Nhật bị tàu "Wyoming" đánh chìm được Chōshū đưa lên một lần nữa vào năm 1864 và cột vào cảng Hagi làm chiến lợi phẩm. Diễn biến. Chiến sự năm 1863. Sau cuộc giao tranh của McDougal, vào ngày 20 tháng 7, Hải quân Pháp trả đũa vụ tấn công tàu buôn của họ. Lực lượng của Pháp bao gồm thủy quân lục chiến và hai tàu chiến, tàu thông báo "Tancrède" và kỳ hạm của Đô đốc, "Semiramis". Với 250 người dưới sự chỉ huy của Đại úy Benjamin Jaurès, họ tràn vào Shimonoseki và phá hủy một thị trấn nhỏ, cùng với ít nhất một ụ pháo.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Sự can thiệp được đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Nhật Bản là Duchesne de Bellecourt ủng hộ, nhưng chính phủ Pháp, một khi nhận được thông báo, đã chỉ trích mạnh mẽ các đại diện của họ tại Nhật vì đã có những bước đi thiếu nghiêm túc như vậy, vì lý do rằng Pháp có những cam kết quân sự quan trọng hơn nhiều để tôn trọng ở các khu vực khác trên thế giới, và không thể để xảy ra xung đột ở Nhật Bản. Duchesne de Bellecourt bị miễn chức vào năm 1864. Mạc phủ còn chúc mừng Jaurès vì đã có những bước đi quyết định chống lại phe Nhương di, và được trao tặng một biểu ngữ đặc biệt. Chiến sự năm 1864. Ngày 17 tháng 8 năm 1864, một hạm đội bao gồm chín tàu Anh (, "Conqueror", "Tartar", "Leopard", "Barrosa", "Perseus", "Argus", "Coquette" và "Bouncer"), bốn tàu Hà Lan ("Djambi", "Metalen-Kruis", "Medusa" và "Amsterdam"), và ba tàu chiến Pháp ("Tancrède", "Sémiramis" và "Dupleix"), cùng với 2.000 binh lính, thủy quân lục chiến và thủy thủ, tất cả dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sir Augustus Leopold Kuper của Hải quân Hoàng gia, đã rời khỏi Yokohama tiến vào eo biển Shimonoseki.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Tàu hơi nước do Mỹ điều hành đã đồng hành cùng hạm đội nhằm góp phần hỗ trợ chiến dịch này. Trận chiến kéo dài hai ngày sau đó vào ngày 5 và 6 tháng 9 đã làm được điều mà các cuộc hành quân trước đó không làm được; nó đã phá hủy khả năng của phiên Chōshū trong việc gây chiến với các cường quốc phương Tây. Không thể sánh được với hỏa lực của hạm đội quốc tế, và trong bối cảnh thương vong ngày càng tăng, quân binh Chōshū cuối cùng đầu hàng hai ngày sau vào ngày 8 tháng 9 năm 1864. Thương vong của quân Đồng minh bao gồm 72 người chết hoặc bị thương và hai tàu của Anh bị hư hại nặng. Một tường thuật đầy đủ về trận chiến có trong quyển "A Diplomat in Japan" của Ernest Satow. Satow đã có mặt với tư cách là phiên dịch viên trẻ tuổi cho đô đốc Anh, Augustus Kuper trên chiếc kỳ hạm HMS "Euryalus" của Anh, do Thuyền trưởng J. H. I. Alexander chỉ huy. Đó cũng là hành động mà tại đó Duncan Gordon Boyes được thưởng Thập tự Chiến thắng (VC) của mình ở tuổi mười bảy. Satow mô tả Boyes đã nhận được phần thưởng "vì đức tính cực kỳ can đảm ở một người quá trẻ." Một người chiến thắng VC khác tại Shimonoseki là Thomas Pride, và người thứ ba là người Mỹ đầu tiên giành được huy chương, William Seeley. De Casembroot đã viết lời tường thuật của mình về các sự kiện này trong quyển "De Medusa in de wateren van Japan, in 1863 en 1864".
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Thỏa thuận nghiêm ngặt, được đưa ra sau lệnh ngừng bắn và do Công sứ Mỹ Pruyn tiến hành đàm phán, bao gồm khoản bồi thường 3.000.000 đô la từ phía Nhật Bản, số tiền tương đương với chi phí của khoảng 30 tàu hơi nước vào thời điểm đó. Mạc phủ Tokugawa tỏ ra không có khả năng chi trả số tiền như vậy, và thất bại này trở thành cơ sở của sức ép từ bên ngoài nhằm tiếp tục mở các cảng; Nhật Bản buộc phải lựa chọn giữa việc bồi thường ba triệu piastres và mở một cảng khác trên Biển Nội địa. Bến cảng Hyōgo đã được mở cửa cho hoạt động ngoại thương và thuế hải quan được giảm đồng nhất xuống còn 5%. Hậu quả. Ngay sau sự can thiệp của nước ngoài, Mạc phủ cũng đã khởi động chuẩn bị riêng cho một cuộc thảo phạt Chōshū, sử gọi là cuộc chinh phạt Chōshū lần thứ nhất. Mạc phủ làm như vậy nhằm trừng phạt sự biến Cấm môn năm 1864, do quân phiên Chōshū dám tấn công binh lính Mạc phủ ở Kyoto. Tuy nhiên, cuộc chinh phạt đã bị hủy bỏ sau khi một thỏa hiệp được thông qua, liên quan đến việc xử trảm những kẻ chủ mưu của cuộc nổi dậy. Cùng thời điểm với chiến dịch này, Hải quân Hoàng gia Anh giao chiến với samurai Satsuma trong vụ pháo kích Kagoshima, một trong số các cuộc xung đột Nhật Bản năm 1863 và 1864. Ý nghĩa lịch sử.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Ý nghĩa lịch sử. Gần giống với một loạt các cuộc xung đột nhỏ do các cường quốc châu Âu gây ra ở châu Á, châu Phi và các nơi khác trong thế kỷ XIX, những rắc rối ở Nhật Bản dường như minh chứng cho chính sách ngoại giao pháo hạm của họ, một công cụ phổ biến trong chủ nghĩa đế quốc. Sự căm phẫn cay đắng trước ảnh hưởng của nước ngoài khiến phiên Chōshū cảm thấy có lý khi tham gia vào những hành động khiêu khích quân sự ngu xuẩn bất chấp chính phủ của họ. Sự tức giận mang tính dân tộc tương tự nhắm vào người nước ngoài sau này bùng phát trong Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn ở Trung Quốc. Sau đó, Mỹ và các đồng minh châu Âu cảm thấy buộc phải sử dụng vũ lực quân sự để duy trì hiệp ước với Nhật Bản. Đối với Mỹ, tháng 7 năm 1863 là một tháng quan trọng, với các trận Gettysburg và Vicksburg. Trong khi bị lôi kéo một cách cay đắng vào cuộc nội chiến đẫm máu, chính phủ của Tổng thống Abraham Lincoln đã bị thế giới theo dõi cẩn thận vì những dấu hiệu của sự yếu kém và thiếu quyết đoán. Các hành động của tàu "USS Wyoming" đã khiến nó trở thành tàu chiến nước ngoài đầu tiên duy trì một cách xúc phạm các quyền lợi về hiệp ước với Nhật Bản; thực tế này cùng với khả năng các sự kiện sẽ làm Mỹ sa lầy trong một cuộc chiến tranh nước ngoài đã khiến trận Shimonoseki trở thành một cuộc giao tranh quan trọng.
wiki
Pháo kích Shimonoseki
Trong khi các trận chiến ở eo biển Shimonoseki chỉ là lời chú ở cuối trang trong lịch sử của các cường quốc châu Âu, thì một khía cạnh thú vị của vụ pháo kích này là sự tháo vát của người Nhật, điều mà một thế hệ người châu Âu và Mỹ khác sẽ đánh giá cao trong tám mươi năm sau. Người Nhật thời phong kiến đã không để mắt đến một con tàu chạy bằng hơi nước cho đến khi Đề đốc Perry đến chỉ một thập kỷ trước trận hải chiến của tàu "USS Wyoming". Tuy nhiên, họ đã nhanh chóng phát triển vượt bậc trong một khoảng thời gian ngắn. Năm 2004, chính quyền thành phố Shimonoseki, nhận thức được tầm quan trọng của cuộc pháo kích trong lịch sử Nhật Bản, đã đặt một số bản sao với kích thước thật của những khẩu đại bác mà Chōshū sử dụng tại nơi chúng bị chiếm. Các bản sao được làm bằng thép rỗng và bao gồm hiệu ứng âm thanh hoạt động bằng đồng xu và khói từ thùng.
wiki
Cùng nhau ta đi lên
Cùng nhau ta đi lên (còn gọi là Đội ca) là một bài hát dành cho thiếu nhi được sáng tác bởi cố nhạc sĩ Phong Nhã vào năm 1950. Lịch sử. Năm 1950, nhạc sĩ Phong Nhã đã sáng tác bài "Cùng nhau ta đi lên" và do có giai điệu và lời ca phù hợp nên đã được chọn làm bài hát chính thức của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Lời bài hát Đội ca được sáng tác để phù hợp với yêu cầu của Trung ương Đoàn. Năm 1950, nhạc sĩ Phong Nhã đã được cử tới đơn vị thiếu sinh quân ở Bắc Kạn. Khi ấy, đơn vị này đang được phụ trách bởi Đỗ Nhuận và Đinh Ngọc Liên. Nhạc sĩ Phong Nhã đã gặp cả đội văn nghệ thiếu nhi của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Lời bài hát Đội ca tức bài Cùng nhau ta đi lên lúc ấy đã được tác giả sáng tác trong quá trình dạy thêm cho các em thiếu nhi ở đó. Sau khi nghe giai điệu và lời bài hát Đội ca tức bài Cùng nhau ta đi lên lúc ấy đã được ban thanh vận trung ương đã duyệt và quyết định chọn bài hát này làm bài Đội ca. Cũng chính vì giai điệu và lời bài hát Đội ca hoàn toàn phù hợp nên đến năm 1968 bài hát Đội ca – "Cùng nhau ta đi lên" vẫn được tiếp tục chọn làm bài Đội ca chính thức của thiếu niên Việt Nam. Đội ca của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Theo Điều lệ Đội, Đội ca là 01 trong 05 biểu trưng của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh "(bên cạnh Cờ Đội, Huy hiệu Đội, Khăn quàng và Khẩu hiệu Đội)". Hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh nêu: ""Đội ca: Là bài hát "Cùng nhau ta đi lên", nhạc và lời của nhạc sĩ Phong Nhã.""
wiki
Cùng nhau ta đi lên
Hướng dẫn thực hiện Điều lệ Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh nêu: ""Đội ca: Là bài hát "Cùng nhau ta đi lên", nhạc và lời của nhạc sĩ Phong Nhã."" Đội ca được Đội viên và phụ trách hát trong các Lễ Chào cờ của Đội. Lời bài hát. Lời 1: Cùng nhau ta đi lên theo bước Đoàn thanh niên đi lên, cố gắng xứng đáng cháu ngoan Bác Hồ. Lời thề ta ghi sâu mãi mãi trong tim không phai quyết xứng danh, thiếu niên anh dũng nước nhà. Tiến quyết tiến hướng Quốc kì thắm tươi, anh em ta yêu Tổ quốc suốt đời, cùng yêu nhân dân yêu chuộng lao động tăng gia, thi đua học hành ngày một tiến xa. Lời 2: Ngày mai anh em ta khôn lớn trở nên bao thanh niên quyết chí giữ vững dân chủ hòa bình. Ngày nay anh em ta gắng sức học hành tập rèn, quyết trở nên, thanh niên anh dũng sau này. Bước dấn bước gió tung bay tóc xanh, ta noi gương đời tranh đấu Bác Hồ. Phục vụ nhân dân xây dựng xã hội tương lai, nêu cao Quốc kì rực trong nắng tươi.
wiki
Eviota brahmi
Eviota brahmi Eviota brahmi, tên thông thường là Brahm’s dwarfgoby, là một loài cá biển thuộc chi "Eviota" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2014. Từ nguyên. Loài cá này được đặt theo tên của Brahm Kai Erdmann, người đã phát hiện ra loài này bị xác định nhầm là "Eviota nigriventris". Phạm vi phân bố và môi trường sống. "E. brahmi" được tìm thấy ở một vài địa điểm thuộc Papua New Guinea: ngoài khơi đảo Jalun (quần đảo Hermit); vịnh Kimbe (đảo New Britain); đảo New Hanover (quần đảo Bismarck); và ngoài khơi thủ phủ Madang. Loài cá này được quan sát ở độ sâu khoảng 20 m trở lại. Mô tả. Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở "E. brahmi" là 1,7 cm. Cơ thể có một dải sọc lớn màu đỏ, kéo dài từ mắt đến gốc vây đuôi, kết thúc bằng một đốm màu đen. Một dải trắng nằm trên dải đỏ, trải dài từ hàm trên, dọc theo sống lưng và uống cong xuống rìa sau của đốm đen ở cuống đuôi. Vùng sống lưng trong mờ, có màu kem. Vùng trước mắt và mõm có màu đen, lan rộng sang hai bên má và vùng dưới mắt. Vùng dưới đầu, ngực và bụng màu trắng. Các tia vây của tất cả các vây có màu hồng nhạt, màng vây trong suốt. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia vây ở vây lưng: 9 - 11; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 - 10; Số tia vây ở vây ngực: 15 - 16.
wiki
Sông Sacramento
Sông Sacramento Sông Sacramento là sông dài nhất tiểu bang California. Nguồn sông là chỗ hợp lưu của hai nhánh South Fork và Middle Fork Sacramento, gần núi Shasta thuộc dãy núi Cascade; sông Sacramento chảy về hướng nam với chiều dài 719 km. Nước nguồn của sông là từ dãy núi Klamath gần núi Shasta. Phụ lưu chính là sông Pit dài 320 km (200 mi). Sông Sacramento chảy theo hướng từ bắc vào nam rồi chuyển sang hướng tây tại thành phố Sacramento để nhập sông San Joaquin từ phía nam lên rồi đổ vào vịnh Suisun. Từ Suisun, nước chảy vào vụng San Pablo trước khi nhập vào San Francisco. Tàu lớn có thể ngược dòng sông lên đến Red Bluff cách cửa biến 290 km (180 mi). Triền sông Sacramento là nơi khám phá ra mỏ vàng năm 1848, mở đầu cho cuộc đổ xô đi tìm vàng California vào giữa thế kỷ 19. Sông Sacramento cùng với sông San Joaquin rút nước toàn thể thung lũng Central, tạo ra miền đất nông nghiệp trù phú của tiểu bang California.
wiki
Doxazosin
Doxazosin, được bán dưới tên thương hiệu Cardura và các nhãn khác, là một loại thuốc dùng để điều trị các triệu chứng của u xơ tuyến tiền liệt và huyết áp cao. Đối với huyết áp cao, nó là một lựa chọn ít được ưa thích. Nó được uống qua đường miệng. Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm chóng mặt, buồn ngủ, sưng, buồn nôn, khó thở và đau bụng. Các tác dụng phụ nghiêm trọng có thể bao gồm huyết áp thấp khi đứng, nhịp tim không đều và dương vật cương đau. Ung thư tuyến tiền liệt nên được loại trừ trước khi bắt đầu điều trị. Nó là một chất chặn adrenergic chọn lọc α1 trong lớp hợp chất quinazoline. Doxazosin được cấp bằng sáng chế vào năm 1977 và được đưa vào sử dụng y tế vào năm 1988. Nó là có sẵn như là một loại thuốc gốc. Một tháng cung cấp ở Vương quốc Anh tiêu tốn của NHS khoảng 0,5 £ vào năm 2019. Tại Hoa Kỳ, chi phí bán buôn của số thuốc này là khoảng 5,50 USD. Năm 2016, đây là loại thuốc được kê đơn nhiều thứ 157 tại Hoa Kỳ với hơn 4 triệu đơn thuốc. Sử dụng trong y tế. Huyết áp cao. Doxazosin thường được thêm vào liệu pháp chống tăng huyết áp khác như thuốc đối kháng kênh calci, thuốc lợi tiểu, thuốc đối kháng beta-adrenoreceptor, thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc ức chế thụ thể angiotensin-2. Doxazosin thường được coi là an toàn, dung nạp tốt và hiệu quả như một loại thuốc hạ huyết áp bổ sung. Giống như các chất đối kháng thụ thể alpha-1 khác, nó có vai trò trong việc quản lý phẫu thuật đối với bệnh u tủy thượng thận. Phì đại tuyến tiền liệt lành tính.
wiki
Doxazosin
Giống như các chất đối kháng thụ thể alpha-1 khác, nó có vai trò trong việc quản lý phẫu thuật đối với bệnh u tủy thượng thận. Phì đại tuyến tiền liệt lành tính. Doxazosin được coi là có hiệu quả trong việc giảm điểm triệu chứng tiết niệu và cải thiện lưu lượng nước tiểu đỉnh điểm ở nam giới bị phì đại tuyến tiền liệt lành tính.
wiki
Loharu
Loharu Loharu là một thành phố và là nơi đặt ủy ban đô thị ("municipal committee") của quận Bhiwani thuộc bang Haryana, Ấn Độ. Địa lý. Loharu có vị trí Nó có độ cao trung bình là 262 mét (859 feet). Nhân khẩu. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Loharu có dân số 11.421 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Loharu có tỷ lệ 55% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 66%, và tỷ lệ cho phái nữ là 44%. Tại Loharu, 17% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.
wiki
Đồng tiền của bà góa
Đồng tiền của bà góa là một câu chuyện được tường thuật trong Phúc âm Nhất lãm (Máccô 12:41-44 và Luca 21:1-4). Theo đó, Chúa Giêsu đang giảng dạy tại Đền thờ Jerusalem thì chứng kiến một bà góa nghèo dâng cúng hai đồng tiền kẽm vào hòm công đức, trong khi những người giàu có thì bỏ rất nhiều tiền. Bản văn. Đức Giêsu ngồi đối diện với thùng tiền dâng cúng cho Đền Thờ. Người quan sát xem đám đông bỏ tiền vào đó ra sao. Có lắm người giàu bỏ thật nhiều tiền. Cũng có một bà goá nghèo đến bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm, trị giá một phần tư đồng xu Rôma. Đức Giêsu liền gọi các môn đệ lại và nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào thùng nhiều hơn ai hết. Quả vậy, mọi người đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ mà đem bỏ vào đó; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình mà bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình." (Mc 12:41-44) Luận giải. Phúc âm Máccô cho biết: hai "đồng kẽm" (tiếng Hy Lạp: "lepton", số nhiều "lepta") hợp thành một "quadrans" là giá trị 1/4 "đồng xu", là đơn vị tiền nhỏ nhất của La Mã. Khi lưu hành ở Palestine, một "lepton" trị giá khoảng sáu phút làm công theo lương trung bình mỗi ngày.
wiki
Đồng tiền của bà góa
Khi quan sát những người giàu có đóng góp công đức, Chúa Giêsu nhấn mạnh việc một bà góa nghèo chỉ dâng hai đồng kẽm. Ông biết số tiền này tuy nhỏ nhất nhưng là tất cả những gì bà góa đã có, trong khi những người khác chỉ cho một phần rất nhỏ trong sự tài sản của riêng mình. Qua đó, Giêsu diễn giải với các môn đệ rằng sự hy sinh của bà góa quý giá hơn những người giàu, do đó, với cách nhìn của Thiên Chúa thì bà là người dâng cúng nhiều hơn cả. Tiêu chuẩn đánh giá của Giêsu dường như đại diện cho tiêu chuẩn của Thiên Chúa, đó là, không phải qua số lượng tiền mà là tính cách toàn thể của những gì được dâng và tương quan của những gì được dâng đối với người dâng cúng. Giêsu nói rằng, bà đã "bỏ vào đó tất cả tài sản, tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" như là cách ám chỉ việc tích trữ kho tàng trên trời, luận điểm mà ông có đề cập trong một số dụ ngôn giảng đạo. Ngoài ra, ông cũng chỉ trích giới lãnh đạo Do Thái giáo đã đạo đức giả trong cách hành xử dâng cúng công đức của mình nhằm tìm kiếm sự tôn trọng từ người dân.
wiki
Ngưu Ma Vương
Ngưu Ma Vương (phồn thể: 牛魔王; giản thể: 牛魔王), là một nhân vật phản diện trong bộ truyện kinh điển Tây Du Ký có bản thể là . Trong tiếng Trung, ngưu chỉ chung đến cả trâu và bò, nhưng bản thể của Ngưu Ma Vương thường được mô tả giống trâu trong các tác phẩm văn hóa đại chúng. Ngưu Ma Vương là đại ca trong Thất Đại Thánh. Ngưu Ma Vương tính cách phóng khoáng, lớn mật. Vợ là Thiết Phiến Công Chúa, con là Hồng Hài Nhi. Khi thấy Tôn Ngộ Không biểu diễn 72 phép thần thông cùng Như Ý Kim Cô Bổng liền kết bái huynh đệ. Là một trong số ít yêu ma có thể dùng sức mạnh thuần túy, không nhờ pháp bảo hay thần thông cũng có thể gây khó dễ cho Tôn Ngộ Không. Ngưu Ma Vương thích kết giao rộng rãi, có không ít mối quan hệ, danh khí khá lớn nên cũng có thể tính là một vị tuyệt thế kiêu hùng. Tên gọi. Có 2 tên goi: Ngoại hình. Vì bản thế là khuê ngưu nên Ngưu Ma Vương rất to lớn, hơn Tôn Ngộ Không nhiều nên làm đại ca. Khuôn mặt hình trâu, tay chân to lớn, vạm vỡ, ục mịch, thiếu linh hoạt. Phép thuật và binh khí. Ngô Thừa Ân mô tả Ngưu Ma Vương có 72 phép thần thông biến hóa - Địa Sát Thất Thập Nhị Biến, ngang ngửa Tôn Ngộ Không. Ngưu Ma Vương thường dùng một binh khí to lớn gọi là Cái Rìu Trong hồi 61, Ngô Thừa Ân cũng nói rằng: "Ngưu Vương cũng có bảy mươi hai phép biến, võ nghệ cũng gần như Đại Thánh, chỉ phải cái thân người cục mịch, không linh hoạt." Xuất hiện trong truyện.
wiki
Ngưu Ma Vương
Trong hồi 61, Ngô Thừa Ân cũng nói rằng: "Ngưu Vương cũng có bảy mươi hai phép biến, võ nghệ cũng gần như Đại Thánh, chỉ phải cái thân người cục mịch, không linh hoạt." Xuất hiện trong truyện. Tây du ký: Ngưu Ma Vương xuất hiện qua loa ở phần đầu là kết nghĩa huynh đệ với Tôn Ngộ Không cùng với sáu con yêu tinh khác. Do nhìn thấy Ngộ Không biểu diễn gậy Như Ý tỏa ra ánh hào quang nên kết bái làm huynh đệ. Truyền thuyết Hồng Hoang: Ngưu Ma Vương là người trong Triệt Giáo, đệ tử ký danh của Thượng Thanh Thánh Nhân - Thông Thiên Giáo Chủ. Vì Triệt Giáo hữu giáo vô loại chiêu thu nhiều đệ tử nên đệ tử ký danh của Thông Thiên lên tới cả chục vạn người. Ngưu ma vương xuất hiện sau Long Hán lượng kiếp (Long Phượng Lân đại kiếp), sau đó có cơ duyên gia nhập Triệt Giáo, khổ tu ngàn vạn năm. Tu vi thời điểm xảy ra lượng kiếp thứ 2 - Vu Yêu lượng kiếp là Kim Tiên sơ kỳ. Tu vi thời điểm xảy ra lượng kiếp thứ 3 - Phong Thần lượng kiếp là Thái Ất Kim Tiên sơ kỳ. Trong 2 lượng kiếp này, Ngưu ma vương vì tu vi quá thấp nên không xuất hiện. Lượng kiếp thứ 4 - Tây Du lượng kiếp, lúc này Ngưu Ma Vương đã có tu vi Đại La Kim Tiên, cùng với đó là sự xuống dốc của Triệt Giáo sau Phong Thần kiếp nên mới được Thông Thiên Giáo Chủ cho xuất hiện tham gia lượng kiếp. Vợ Ngưu ma vương là Thiết Phiến công chúa, con gái của Minh Hà Lão Tổ. 2 người Kết duyên trước khi Tây Du lượng kiếp bắt đầu và xuất sinh Hồng Hài Nhi. Tam Muội chân Hỏa của Hồng Hài Nhi là đích thân Thông Thiên Giáo Chủ truyền thụ.
wiki
Kế hoạch Annan
Kế hoạch Annan (tiếng Anh: Annan Plan), còn được gọi là Kế hoạch thống nhất Síp, là một đề xuất của Liên Hợp Quốc nhằm giải quyết tranh chấp lãnh thổ ở đảo Síp. Các phần khác nhau của kế hoạch dựa trên lập luận của mỗi bên (người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ và người Síp gốc Hy Lạp) trong các cuộc họp được tổ chức dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc. Đề xuất là tái cấu trúc Cộng hòa Síp để trở thành "Cộng hòa Síp thống nhất" ("United Republic of Cyprus"), là một nước liên bang gồm hai quốc gia. Nó đã được sửa đổi nhiều lần trước khi đưa ra trưng cầu dân ý năm 2004 cho người dân Síp, và được 65% người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ, nhưng chỉ có 24% người Síp gốc Hy Lạp ủng hộ. Đề xuất. Kế hoạch Annan (được đặt theo tên của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan) đã trải qua năm lần sửa đổi trước khi có được bản thảo cuối cùng. Bản sửa đổi lần thứ năm đề xuất thành lập Cộng hòa Síp Thống nhất, bao gồm toàn bộ đảo Síp ngoại trừ Khu vực căn cứ có chủ quyền của Liên hiệp Anh. Quốc gia mới này sẽ là một liên bang gồm hai quốc gia cấu thành - Nhà nước Síp Hy Lạp và Nhà nước Síp Thổ Nhĩ Kỳ, lãnh đạo bởi một bộ máy chính phủ liên bang. Nhà nước liên bang này, được cho là có phần dựa trên mô hình liên bang Thụy Sĩ, sẽ kết hợp các yếu tố sau:
wiki
Kế hoạch Annan
Nhà nước liên bang này, được cho là có phần dựa trên mô hình liên bang Thụy Sĩ, sẽ kết hợp các yếu tố sau: Kế hoạch này bao gồm hiến pháp liên bang, hiến pháp cho từng bang cấu thành, một chuỗi luật hiến pháp và liên bang, và đề xuất về quốc kỳ Cộng hòa Síp Thống nhất và quốc ca. Nó cũng quy định một Ủy ban Hòa giải để đưa hai cộng đồng xích lại gần nhau hơn và giải quyết các tranh chấp còn tồn tại trong quá khứ. Kế hoạch cũng sẽ thiết lập một quyền quay trở lại có hạn chế giữa các lãnh thổ của hai cộng đồng, và nó sẽ cho phép cả Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ duy trì sự hiện diện quân sự lâu dài trên đảo, mặc dù có sự cắt giảm lớn, theo từng giai đoạn về quân số. Trưng cầu dân ý. Cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức đồng thời riêng rẽ tại Síp vào ngày 24 tháng 4 năm 2004 với kết quả là đa số người Síp gốc Hy Lạp bỏ phiếu bác bỏ Kế hoạch của Liên Hợp Quốc (75,38% phản đốii), trong khi thiểu số người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ bỏ phiếu ủng hộ cho Kế hoạch (64,91% ủng hộ). Tỷ lệ cử tri đi bầu cao: 89,18% đối với người Síp gốc Hy Lạp và 87% đối với người Síp gốc Thổ Nhĩ Kỳ. Các nhà lãnh đạo chính trị của cả hai bên (Tassos Papadopoulos và Rauf Denktaş) đã vận động bỏ phiếu 'không', nhưng Talat đã vận động bỏ phiếu 'có', và được Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ mạnh mẽ.
wiki
Kế hoạch Annan
Các nhà lãnh đạo chính trị của cả hai bên (Tassos Papadopoulos và Rauf Denktaş) đã vận động bỏ phiếu 'không', nhưng Talat đã vận động bỏ phiếu 'có', và được Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ mạnh mẽ. Trong các cuộc thăm dò ý kiến, 76% người Síp gốc Hy Lạp đã bỏ phiếu 'không' với lý do chính về 'mối quan ngại về an ninh'. Thổ Nhĩ Kỳ không chỉ một lần nữa được trao quyền can thiệp quân sự đơn phương, mà còn được phép giữ một số lượng lớn binh lính ở Síp sau khi dàn xếp, trong khi Lực lượng Vệ binh Quốc gia sẽ bị giải thể. Một nghiên cứu học thuật về phản ứng của cử tri đối với Kế hoạch Annan cho rằng kế hoạch này chắc chắn sẽ bị từ chối trong các cuộc thăm dò, bởi vì nó được phát triển thông qua một "quy trình ngoại giao bí mật được thiết kế khá tệ", không quan tâm đến quan điểm của công chúng Síp. Nghiên cứu khuyến nghị rằng những nỗ lực trong tương lai nên kết hợp tham vấn với công chúng vào quá trình đàm phán.
wiki
Ống kính Canon EF-S 17–55mm
Canon EF-S 17–55mm 2.8 IS USM là ống kính zoom chuẩn của Canon sử dụng cho các máy ảnh DSLR sử dụng cảm biến APS-C 1.6. Nó có trường nhìn quy đổi trên full-frame là 27-88mm. 17-55 IS USM được bán rời, hoặc làm ống kính bộ cho 7D, 60D Tại Việt Nam (10-2016), 17-55 IS USM được bán với giá 11-16 triệu, tùy theo tình trạng ống, tuy nhiên, khá ít người sử dụng ống này do giá khá cao, một số ống khác như 17-50 f/2.8 của các hãng thứ ba như Tamron hay Sigma được dùng rộng rãi hơn do vẫn có khẩu độ 2.8 nhưng giá chỉ bằng 1/2 hay 1/3. Tổng quan. Nó được đánh giá là ống kính zoom đa dụng tốt nhất của dòng EF-S, chất lượng quang học tương đương với các ống cao cấp dòng L. Với khẩu độ khá lớn 2.8, cùng với cơ cấu ổn định hình ảnh 3 stop, 17-55 vô cùng hữu ích khi sử dụng trong các môi trường thiếu ánh sáng so với ống kit 18-55 3.5–5.6 không có IS, và hơn nữa do kích thước khá lớn, thậm chí nhỉnh hơn một số ống dòng L như 24-105L nên 17-55 khá vừa tay. Phiên bản mới của ống 18-55 có ổn định hình ảnh tới 4 stop, tuy nhiên khẩu độ tối đa chỉ đạt 3.5 ở 18mm hay 5.6 ở 55mm nên vẫn kém hơn 17-55. Tuy nhiên, ống này nhận nhiều phản ánh tiêu cực từ người dùng do bị lóe hình nếu không sử dụng hood cũng như chất lượng ảnh không tốt khi sử dụng các filter. 17-55 bị tối góc khi dùng ở khẩu độ 2.8 với 0,5-1 EV tại mọi tiêu cự, mặc dù các thân máy Canon hiện nay đã có trình sửa lỗi ống kính.
wiki
Ống kính Canon EF-S 17–55mm
Đồng thời, 17-55 cũng bị quang sai nhẹ ở mép các vùng tương phản cao và góc hình. Cũng như các ống zoom khác, 17-55 cũng bị méo hình, nhưng không đáng kể. Một số người dùng phàn nàn rằng có bụi lọt vào ống kính của họ. Chất lượng. 17–55mm không phải ống kính dòng L, nhưng nó có các thành phần được sử dụng trong các ống dòng L như 2 thấu kính UD (ultra-low dispersion), do đó 17-55 có chất lượng quang học tương đương dòng L. Một số người dùng cho rằng quyết định không định danh ống này thuộc dòng L là đúng đắn, tuy nhiên theo Canon vì ống này chỉ dùng cho các máy cảm biến APS-C 1.6x (ngàm EF-S) nên không thể xếp vào dòng L. Mặc dù không có thiết kế khung vỏ như các ống dòng L (vỏ nhựa thay vì kim loại) nhưng nó vẫn chắc chắn hơn EF-S 17–85mm. Ống tương tự. Trong dòng ống kính EF-S, 17-55 thường được so sánh với EF-S 18–55mm 3.5–5.6 - ống kính bộ rẻ tiền cho các máy dòng xxxD; EF-S 17–85mm 4–5.6 IS USM, nằm giữa 18–55mm và 17–55mm trên một vài khía cạnh — phụ thuộc vào việc nó được đem so sánh với phiên bản nào của họ 18-55, phiên bản 18-55 IS STM ra mắt năm 2013 có chất lượng quang học nhỉnh hơn 17-85, cơ cấu IS đến 4 stop; ngoài ra 17-85mm cũng hơn 18-55mm ở dải tiêu cự. Và EF-S 15–85mm 3.5–5.6 IS USM, có chất lượng khung vỏ tương đương 17-55 và dải tiêu cự lớn nhất trong 4 ống này.
wiki
Ống kính Canon EF-S 17–55mm
Thường thì do chất lượng và giá thành cao nên 17-55 thường được so sánh với EF 17–40mm 4L USM, có chất lượng ảnh tương đương và thuộc dòng L mà 17-55 không có, dù 17-55 có khẩu độ lớn hơn và cơ cấu ổn định hình ảnh. Ngoài ra nó cũng có thể dược so sánh với họ 24-70, trong đó có 2 phiên bản có khẩu độ f/2.8 không có IS và 1 phiên bản f/4 có IS. Khi lắp lên thân máy (full-frame cho 24–70, và APS-C 1.6x cho 17–55), thì có thể coi như 2 ống kính này có trường nhìn tương đương nhau. Việc có thêm cơ cấu ổn định hình ảnh IS cho 17-55 khiến nó vượt trội hơn 24-70 khi sử dụng ở nơi ít ánh sáng. 17–55 và 24–70 4 cùng có cơ cấu IS, nhưngg 17-55 có nhiều hơn 1-stop. Dù sao, đối với nhiều người dùng Canon, họ vẫn coi 17-55 như 24-70 của APS-C 1.6x. Ống EF 28–90mm, có dải tiêu cự tương tự khi dùng trên full-frame, nhưng chỉ là ống kính bộ rẻ tiền, không có ổn định hình ảnh, kết cấu khung vỏ và chất lượng quang học kém hơn.
wiki
Đào Tiềm
Đào Tiềm (chữ Hán: 陶潛, ? - 427), biểu tự Nguyên Lượng (元亮), hiệu Uyên Minh (淵明), lại có biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh (五柳先生), là một trong những nhà thơ lớn của Trung Quốc thời nhà Tấn và Lưu Tống. Tiểu sử. Đào Tiềm không rõ sinh năm nào (ước chừng là năm 352 hoặc 369), người đất Tầm Dương, nay thuộc huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, sinh trưởng trong một gia đình địa danh môn thế tộc vào thời Đông Tấn. Tằng tổ là Bát Châu Đô đốc Đào Khản, tước Trường Sa quận công (長沙郡公). Tổ phụ Đào Mậu (陶茂) làm Thái thú Vũ Xương, cha Đào Dật (陶敏) làm Thái thú An Thành, mẹ là con gái danh sĩ Mạnh Gia (孟嘉), gọi Mạnh thị (孟氏). Từ nhỏ ông sinh hoạt khá hàn vi, nhưng tính chăm học, bách gia chư tử sách vở đều có đọc qua. Năm 29 tuổi, ông làm Tế tửu Giang Châu. Mười ba năm tiếp theo, mấy lần ông làm quan nhỏ, mỗi lần chỉ trong thời gian ngắn. Khoảng 40 tuổi, vì nhà nghèo mà còn phải nuôi mẹ già, vợ con (ông có cả thảy năm người con trai), nên ông ra làm huyện lệnh Bành Trạch (vì thế ông còn được gọi là Đào Bành Trạch). Được hơn 80 ngày, nhân cuối năm quận phái viên đốc bưu đến huyện, nha lại khuyên Đào Tiềm chỉnh đốn y phục ra đón. Ông than rằng: "Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa" ("Ta lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru"!). Ngay hôm ấy ông viết bài "Quy khứ lai từ" (Lời bày tỏ việc trở về), rồi trả ấn bỏ quan mà về.
wiki
Đào Tiềm
Năm 418, lúc ông 53 tuổi, Lưu Dụ giết Tấn An Đế, chuẩn bị tiếm ngôi, có vời ông ra, mặc dù đời sống rất thiếu thốn vì mùa màng thất thu, nhà cửa bị cháy sạch... nhưng ông cương quyết từ chối, được người đương thời khen, gọi ông là Tĩnh tiết tiên sinh (靖節先生). Năm ông 62 tuổi, gặp lúc đói kém, nhà thơ lâm cảnh khốn cùng đến mức phải đi xin ăn. Tiêu Thống đời Lương viết "Truyện Đào Uyên Minh" kể lại rằng: "Khi Thứ sử Giang Châu là Đàn Đạo Tế đến thăm thì thấy nhà thơ nằm co ro, nhịn đói đã mấy ngày. Đạo Tế cho đưa rượu thịt tới, ông vẫy tay bảo đưa ra. Không bao lâu thì mất (năm 427 thời Nam Bắc triều), thọ 63 tuổi". Ông mất, để lại một số thơ văn, người đời sưu tập lại thành "Đào Uyên Minh thi văn tập", 10 quyển, trong đó có trên 120 bài thơ. Thành tựu. Trích nhận xét. Tóm lược theo "Văn học Trung Quốc tập I": Trích thêm các ý kiến: Trích tác phẩm. Và: Ngũ Liễu tiên sinh "Văn học Trung Quốc tập I" cho rằng đây là chính một thiên tự truyện của Đào Tiềm. Bản dịch: Xem thêm hai sáng tác rất nổi tiếng khác, đó là Quy khứ lai từ và Đào hoa nguyên ký (Ký suối hoa đào). Ảnh hưởng. Chừng bảy tám mươi năm sau khi ông mất, thơ ông ngày càng được đề cao. Nhất là những khi cần chống lại chủ nghĩa hình thức trong thơ văn, thì người ta càng quý trọng ông và đưa ông ra làm gương. Người đầu tiên viết truyện về ông và sưu tập thơ ông đầy đủ là Thái tử nhà Lương, Chiêu Minh Thái tử Tiêu Thống Bàn về tầm ảnh hưởng của ông, Nguyễn Hiến Lê viết:
wiki
Jean-Louis Bonnard Hương
Jean-Louis Bonnard (1 tháng 3 năm 1824 ở Saint-Christôt-en-Jarret; bị trảm ngày 1 tháng 5 năm 1852) là một nhà truyền giáo người Pháp tại Việt Nam và là một trong các thánh tử đạo Việt Nam, được Giáo hội Công giáo Rôma phong thánh năm 1988. Cuộc đời. Sau khóa học tại Saint-Jodard, ông gia nhập chủng viện Lyon. Năm 22 tuổi ông rời chủng viện để hoàn thành các nghiên cứu thần học tại Hội Thừa sai Paris. Từ Nantes, nơi ông được truyền chức, ông đã đi thuyền đến Địa phận Tây Đàng Ngoài, Việt Nam và đến nơi hồi tháng 5 năm 1850. Tên tiếng Việt của ông là Hương. Năm 1851 ông được giao phụ trách hai giáo xứ ở đây. Vào thời điểm đó nhà Nguyễn đang cấm đạo. Tử đạo. 21 tháng 3 năm 1852, ông bị bắt và bỏ tù. Bản án tử hình được đưa ra nhằm chống lại ông, và bản án được thi hành ngay sau khi có được sự chuẩn y của vua Tự Đức (1 tháng 5 năm 1852). Thường thì xác tử tội được chôn ở nơi hành hình, nhưng các quan đã cho hốt đất thấm máu, rồi đem xác và đầu ông lên thuyền lớn để ném xuống sông, được cho là vì "không muốn để cho các tín hữu tôn kính vị tử đạo." Có các thuyền của phó tế, thầy giảng và một số giáo dân đi theo để quan sát. Khoảng 8-9 giờ tối, những thuyền lớn rời đi và các tín hữu đến vớt xác. Xác ông bị buộc vào thớt cối đá xay bột. Đầu ông bỏ trong rọ được cột vào tay.
wiki
Jean-Louis Bonnard Hương
Xác ông được mặc áo lễ và đặt tại nhà nguyện nhà tràng Vĩnh Trị, vào khoảng 1 giờ sáng ngày 2 tháng 5 năm 1852, xác ông được quàn ở đó đến tối hôm sau, có mặt Phaolô Lê Bảo Tịnh là giáo sư nhà tràng. Có cha Retord Liêu cùng một linh mục người Việt, một thừa sai và một số thầy giảng đến làm lễ an táng.
wiki
Chiến dịch Golden Flow
Chiến dịch Golden Flow Chiến dịch Golden Flow là thuật ngữ không chính thức được đặt ra từ thời Nixon để chỉ việc kiểm tra ma túy bắt buộc đối với tất cả quân nhân nghĩa vụ vừa trở về từ Việt Nam, vốn thuộc về một chương trình dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Jerome Jaffe, trưởng cơ quan phòng chống ma túy của Nhà Trắng. Tháng 6 năm 1971, quân đội Mỹ thông báo rằng họ bắt đầu phân tích nước tiểu của tất cả các quân nhân trở về. Chương trình tỏ ra có hiệu lực vào tháng 9 với kết quả thuận lợi là chỉ 4,5% binh sĩ có kết quả xét nghiệm dương tính với heroin. Lính Mỹ tại Việt Nam không được phép lên máy bay về nước cho đến khi nào họ vượt qua được buổi kiểm tra ma túy trong nước tiểu. Nếu thất bại, những người lính này bị buộc phải ở lại Việt Nam, cai nghiện và thử lại lần nữa. Sự phát triển của thuật ngữ này bao hàm ý nghĩa nhằm thử nghiệm phân tích nước tiểu ngẫu nhiên và còn mang biệt danh là "Bữa Tiệc Nước Chanh".
wiki
Đảng Cộng sản Thái Lan
Đảng Cộng sản Thái Lan (Tiếng Thái: พรรคคอมมิวนิสต์แห่งประเทศไทย) hay còn gọi là đảng CPT, tiền thân là "Đảng Cộng sản Xiêm" là một trong những chính đảng lớn đã từng tồn tại trong Lịch sử Thái Lan. Thành lập vào 1 tháng 10 năm 1942 và phát triển mạnh trong những năm của Chiến tranh Lạnh. Đảng Cộng sản Thái Lan từng là đảng cộng sản mạnh thứ nhì Đông Nam Á sau Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đảng này và các phe cánh tả đã dần tan rã mà suy vong hoàn toàn hoặc suy yếu và không hề còn tồn tại từ đầu những năm 1990. Lịch sử. Năm 1929, Hồ Chí Minh thừa lệnh Quốc tế Cộng sản thực hiện hợp nhất hai tổ chức cộng sản của người Hoa và người Việt tại Thái Lan thành Đảng Cộng sản Xiêm. Đảng này hoạt động bí mật với chủ trương lật đổ hoàng gia Thái bằng bạo lực. Đảng phát triển nhanh chóng và lôi kéo được thành phần dân nghèo nhưng bị chính quyền khủng bố và đàn áp gắt gao. Để đối phó, lãnh đạo đảng cộng sản Xiêm quyết định đào tạo một thế hệ lãnh đạo mới rồi thành lập Đảng Cộng sản Thái Lan vào ngày 1/12/1942. Năm 1948, Đảng Cộng sản Thái Lan có khoảng 3.000 đảng viên và được sự ủng hộ lớn của nông dân và dân nghèo. Đảng Cộng sản Thái Lan theo chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Đảng Cộng sản Xiêm được Quốc tế Cộng sản tài trợ, sau này Đảng Cộng sản Thái Lan được cộng sản Trung Quốc và Việt Nam viện trợ bằng tiền và vũ khí, thông qua các đảng cộng sản từ các nước Campuchia, Lào, Malaysia...
wiki
Đảng Cộng sản Thái Lan
Năm 1960, Đảng Cộng sản Thái Lan tham dự đại hội toàn quốc lần hai của Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia cuộc họp Quốc tế của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế tại Moskva. Tại hội nghị này, khi xảy ra mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc thì Đảng Cộng sản Thái Lan đã ngả theo Trung Quốc. Thời điểm này, số lượng đảng viên và quần chúng ủng hộ của Đảng Cộng sản Thái Lan tương đối lớn. Các tổ chức của đảng này đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thuộc miền Bắc, Đông Bắc và miền Nam Thái Lan, kể cả thủ đô Bangkok. Năm 1965, Quân đội Giải phóng Nhân dân Thái Lan do Đảng Cộng sản Thái Lan được thành lập. Đấu tranh vũ trang trở thành phương cách đấu tranh chính thức với sự yểm trợ của các nước cộng sản trong khu vực. Năm 1969 đảng này thành lập Mặt trận Yêu nước Thái Lan. Năm 1977, đảng Cộng sản Thái Lan đã thành lập Liên minh các Tổ chức Đấu tranh cho Dân chủ và Tự do của Thái Lan với Quân đội Giải phóng Nhân dân Thái Lan là nòng cốt. Đây là giai đoạn mạnh nhất của Đảng Cộng sản Thái Lan. Họ được sự ủng hộ của rất đông dân chúng và học sinh sinh viên nhất là sau hai vụ bạo động của sinh viên ở thủ đô Bangkok bị chính quyền Thái Lan đàn áp đẫm máu vào các ngày 14/10/1976 và 6/10/1979. Ước tính số đảng viên cộng sản và du kích của đảng Cộng sản Thái Lan gần một vạn người và khoảng một triệu người ủng hộ. Một nửa các thành phố Thái Lan có tổ chức đảng.
wiki
Đảng Cộng sản Thái Lan
Năm 1979, Việt Nam đưa quân sang Campuchia rồi xung đột với Thái Lan dẫn đến chính quyền cộng sản Lào cấm Đảng Cộng sản Thái Lan sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ kháng chiến. Quan hệ ngoại giao, thương mại giữa Thái Lan - Trung Quốc được tái lập. Năm 1980 chính phủ Thái Lan thông qua nghị định số 66/2521 ân xá cho các thành viên Đảng Cộng sản Thái Lan về chiêu hồi. Tháng 4/1981 lãnh đạo cộng sản Thái Lan đề nghị được đàm phán hòa bình với chính quyền và chấp nhận giải giáp trước khi bắt đầu đàm phán. Tháng 10/1981, tướng Chawalit Yongchaiyud tuyên bố cuộc chiến chống các lực lượng cộng sản Thái Lan đã kết thúc. Năm 1982, Thủ tướng Prem Tinsulanonda ban hành nghị định 65/2525 tiếp tục ân xá cho các du kích cộng sản Thái Lan còn lại kèm theo các chính sách ưu đãi như cấp đất, xây nhà và hỗ trợ trong việc ổn định đời sống. Điều đó đã khiến lực lượng của đảng Cộng sản Thái Lan suy sụp nhanh chóng. Trong thời gian này hai lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Thái Lan bị quân đội chính phủ bắt giữ khiến tổ chức Đảng Cộng sản Thái Lan chính thức tan rã.
wiki
Kimhwa
Kimhwa Kimhwa (Hán Việt: "Kim Hóa") là một huyện thuộc tỉnh Kangwon tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Địa hình của huyện chủ yếu là đồi núi ngoại trừ phần đông nam có vị trí thấp. Đỉnh cao nhất trên địa bàn là Paegyonsan (백연산). Dòng sông chính là Pukhan. Xấp xỉ 80% diện tích của huyện là đất rừng. Ngành kinh tế chính của huyện là nông nghiệp. Các cây trồng địa phương gồm có khoai tây, ngô, lúa gạo, lùa mì, và lúa mạch. Thêm vào đó, chăn nuôi và nuôi tằm cũng phát triển bên cạnh các khu vực trồng cây ăn quả. Có một số mỏ khai khoáng mangan, vàng, bạc, đá tan, fluorit, barit, và than antraxit. Năm 2008, dân số toàn huyện là 56.541 (26.710 nam và 29.831 nữ), trong đó dân số thành thị là 18.525 người (32,8%) và dân số nông thôn là 38.016 người (67,2%).
wiki
Triều Tiên Dân chủ
Triều Tiên Dân chủ (tiếng ) là một tờ báo nhà nước của chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Nó được xuất bản ở Bình Nhưỡng. Tờ báo được bắt đầu vào năm 1945. Đây cũng chính là là tờ báo chính của Nội các Triều Tiên và Ủy ban Thường vụ Hội đồng Nhân dân Tối cao. Lịch sử. "Triều Tiên Dân chủ" được thành lập vào năm 1945. Tờ báo này bắt đầu với tên gọi là "Bình Nhưỡng Nhật báo", là cơ quan của Ủy ban Nhân dân Bình An Nam. Vào tháng 10 năm 1945, nó được đổi tên thành "Triều Tiên Dân chủ" và được giữ nguyên cho đến hiện tại, vì nó trở thành cơ quan của Ủy ban Nhân dân Lâm thời Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, và giữ vị trí hiện tại vào tháng 9 năm 1948 khi Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên chính thức được thành lập. "Triều Tiên Dân chủ" được coi là tờ báo của Triều Tiên tương đương với tờ báo "Izvestiya" của Liên Xô. Ở Liên Xô, "Izvestiya" tập trung vào kinh tế hơn so với tờ báo "Pravda", vốn là tờ báo tuyên truyền nhiều hơn về nội dung. Sự khác biệt này đã được phản ánh trong hai tờ báo của Triều Tiên là "Triều Tiên Dân chủ" và "Rodong Sinmun". Kể từ năm 1967 cho đến năm xảy ra Sự cố phe phái Giáp Sơn - nội dung của tờ "Triều Tiên Dân chủ" giống với nội dung của "Rodong Sinmun". Tờ báo ra mắt trang web chính thức của mình vào năm 2019. Tổng quát.
wiki
Triều Tiên Dân chủ
Tờ báo ra mắt trang web chính thức của mình vào năm 2019. Tổng quát. "Triều Tiên Dân chủ" là tờ báo chính thức của chính phủ Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Cụ thể, đó là cơ quan của Nội các Triều Tiên và Đoàn Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Tối cao. Nó được coi là tờ báo có thẩm quyền thứ hai trong nước, sau "Rodong Sinmun". Không giống như "Rodong Sinmun", nó xử lý nhiều vấn đề về hành chính hơn, chẳng hạn như các quyết định và mệnh lệnh của Nội các, luật, quy định và các vấn đề chính sách. Nội dung về cả chính sách đối ngoại và đối nội, kinh tế và văn hóa cũng rất điển hình. Nhiệm vụ chính thức của tờ báo là "trang bị cho công nhân của các cơ quan quản lý nhân dân và các cơ quan kinh tế quốc gia với tư tưởng cách mạng của Lãnh tụ Vĩ đại và hệ tư tưởng Chủ thể, đồng thời giúp ích rất nhiều cho toàn xã hội trong việc hoàn thành các kỳ công của tư tưởng Chủ thể bằng cách giữ chặt công nhân xung quanh Đảng và Lãnh tụ vĩ đại và mạnh mẽ tổ chức và vận động họ". "Triều Tiên Dân chủ" được xuất bản và lưu hành ở thủ đô Bình Nhưỡng. , số lượng báo được xuất bản và lưu hành là 200.000. Tổng biên tập của báo là Jong Ri-jong. Các bài xã luận về năm mới.
wiki