title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Triều Tiên Dân chủ
Các bài xã luận về năm mới. Như một truyền thống kể từ năm 1996, cùng với hai tờ báo nhà nước chính khác ở Triều Tiên đó là Thông tấn xã Trung ương Triều Tiên và tờ "Rodong Sinmun", luôn xuất bản một bài xã luận chung về Năm mới nêu rõ các chính sách của đất nước trong năm. Các bài xã luận thường ca ngợi chính sách Tiến quân trị, chính phủ và các nhà lãnh đạo, cũng như khuyến khích sự phát triển của đất nước. Họ cũng chỉ trích các chính sách của Hàn Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và các chính phủ phương Tây đối với đất nước. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2006, cơ quan này đã gửi một bài xã luận chung từ các tờ báo nhà nước của Triều Tiên kêu gọi Lục quân Hoa Kỳ rút khỏi Hàn Quốc. Trong khi các bài xã luận vào ngày 1 tháng 1 hàng năm là một truyền thống của các tờ báo, năm đó đã thu hút sự chú ý từ các phương tiện truyền thông phương Tây, bằng cách kêu gọi một "chiến dịch toàn quốc nhằm đánh đuổi quân đội Mỹ". Bài xã luận đưa ra một số đề cập đến sự thống nhất bán đảo Triều Tiên. Bài xã luận năm 2009 cũng nhận được sự chú ý tương tự, vì không có sự chỉ trích đối với chính sách của Hoa Kỳ mà còn thừa nhận các vấn đề nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc gia. Bài xã luận cũng đề cập đến việc phi hạt nhân hóa trên bán đảo Triều Tiên, trong đó các nhà phân tích cho rằng đó là một dấu hiệu "đáng hy vọng". Điều này đã được lặp lại một lần nữa trong bài xã luận năm 2010 của nó, trong đó kêu gọi chấm dứt các hành động thù địch với Hoa Kỳ và mong muốn một Bán đảo Triều Tiên không có hạt nhân.
wiki
Triều Tiên Dân chủ
Ấn bản xã luận chung năm 2011, ngoài lời kêu gọi phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên và giảm căng thẳng giữa hai miền Triều Tiên, lần đầu tiên, đã đề cập đến các ngành công nghiệp nhẹ đang phát triển của CHDCND Triều Tiên, được đưa ra như một lý do cho sự trỗi dậy sắp tới trong kinh tế quốc gia trong năm mới và để đạt được sứ mệnh quốc gia Kangsong Taeguk. Ấn bản xã luận chung năm 2012, ấn bản đầu tiên dưới thời lãnh đạo của Kim Jong-un, bắt đầu với sự tôn vinh lớn đối với cựu lãnh tụ vĩ đại Kim Jong-il và bên cạnh những lời kêu gọi thường xuyên cải thiện quan hệ liên Triều và thực hiện Tuyên bố vào ngày 4 tháng 10 năm 2007, và kêu gọi cả nước ưu tiên thực hiện sứ mệnh Cường thịnh đại quốc năm 2012 của Kim Jong-il, tiếp nối những di sản của ông và cha của ông là Kim Nhật Thành cho toàn thể đất nước và sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xây dựng và khuyến khích các lĩnh vực khác nhau trong nước để đóng góp vào sự tiến bộ của quốc gia trên mọi lĩnh vực bằng mọi giá. Thông lệ này đã kết thúc vào năm 2013 khi Kim Jong-un có bài phát biểu mừng năm mới đầu tiên trên truyền hình sau 19 năm.
wiki
Cá chép đỏ
Cá chép đỏ là các sản phẩm lai giống từ biến thể của cá chép Koi thân ngắn, có màu sắc đỏ hoặc vàng đỏ (biến thể này trong tiếng Nhật còn được gọi là Kawarimono hay Aka Muji-đỏ đơn sắc, hay Higoi-sắc đỏ). Ở Việt Nam chúng thường được dùng làm lễ vật cúng tiễn Táo quân chầu trời vào ngày 23 tháng Chạp, vào dịp này, người ta mua cá chép đỏ về để cúng ông Táo, ông Công và cũng là để phóng sinh. Trong số các sản phẩm của cá chép đỏ thì cá chép đỏ ở Thủy Trầm đã trở thành thương hiệu ở Việt Nam, với việc tỉnh Phú Thọ đã công nhận làng nghề cá chép đỏ Thủy Trầm và Cục Sở hữu trí tuệ đã công nhận thương hiệu cá chép đỏ Thủy Trầm và bảo hộ trên phạm vi toàn quốc Đặc điểm. Cá chép đỏ ở Việt Nam có nguồn gốc xuất xứ từ Nhật Bản, và nguồn cá chép đỏ chủ yếu là loài cá cảnh lai cá chép Nhật nên có đuôi dài và màu đỏ cờ. Giống cá chép ta có màu sắc đỏ nhạt hoặc hơi vàng ít được ưa chuộng, có thể phân biệt cá chép đỏ với cá vàng biến thể đỏ bằng việc quan sát ở đuôi của cá theo đó, cá chép đỏ có đuôi ngắn hơn cá cảnh.
wiki
Cá chép đỏ
Giống cá chép đỏ hầu như rất ít có mầm bệnh. Cá chép đỏ rất mẫn cảm với nguồn nước, hàng tháng phải tháo nước và tiêu nước ô nhiễm, cá có khả năng chịu nhiệt độ thấp nên thời tiết rét đậm, rét hại có thể không bị ảnh hưởng. Đây là giống cá ăn tạp, có thể tận dụng nhiều nguồn thức ăn, như cỏ, cám, rau băm, các loại cá tạp băm nhỏ và tận dụng mọi nơi, mọi chỗ để nuôi.. Thức ăn của cá chép đỏ khá đơn giản, ít tốn kém chủ yếu là rong rêu, tận dụng nguồn thực vật phù du, sinh vật phù du, khi nuôi, thỉnh thoảng chúng được cho ăn cám bổ sung. Sinh trưởng. Cá thường sinh sản khi thời tiết ấm dần lên, thường là vào tháng 2 âm lịch. Cá chép đỏ chậm lớn, cá chép con khi mới sinh trưởng chỉ bằng nửa đốt ngón tay và sau 6 tháng thì chúng to khoảng hai đến ba ngón tay. Để cá phát triển đều và khỏe mạnh, người dân phải nuôi đúng mật độ và cho ăn đầy đủ. Cá chép đỏ khi đạt từ 1 kg trở lên có thể làm thực phẩm, thịt cá giàu dinh dưỡng và ngon như cá chép trắng, do cá có màu đỏ đẹp, lại ứng với truyền thuyết về cá chép vượt vũ môn hóa rồng của người Việt nên người dân nuôi cá chủ yếu chỉ để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng chứ không phát triển nuôi cá thương phẩm. Các sản phẩm. Hiện nay, ở Việt Nam có các sản phẩm cá chép đỏ sau đây đã dần thịnh hành và có tiếng, được ưa chuộng:
wiki
Cá chép đỏ
Các sản phẩm. Hiện nay, ở Việt Nam có các sản phẩm cá chép đỏ sau đây đã dần thịnh hành và có tiếng, được ưa chuộng: "Cá chép Tam dương" (Vĩnh Phúc) là một loại cá chép cảnh có màu đỏ tươi, thân thon, đuôi dài, thân có thể có lẫn sắc trắng hoặc đen, có giá cao hơn chép ta đỏ, chung có đuôi dài, màu vảy xen lẫn trắng hoặc đen, mình thon, dẹt, thường được dùng nuôi cảnh, cá Tam Dương có chất lượng cá đồng đều, vảy bóng, màu sắc bắt mắt, chúng có màu sắc bắt mắt hơn cá chép vàng. Sản phẩm cá chép Tam Dương tại chợ cá làng Sở Thượng có hai loại: Đỏ ớt và Tam Dương, loại cá này có màu đỏ chói hơn so với các loại khác. "Cá chép đỏ Thủy Trầm" là sản phẩm có màu sắc đỏ đậm, nhiều chủng loại, mẫu mã đẹp, cá chép đỏ loại đẹp nhất được đưa đến chợ thường có nguồn gốc từ Thủy Trầm. Giống cá này ngoại hình đồng đều, màu sắc đỏ tươi, cá khỏe. Giống cá chép đỏ này phù hợp với điều kiện thủy nhưỡng nên sinh trưởng và phát triển tốt. Cá chép đỏ Thủy Trầm còn có những ưu điểm về giống nên cho thu hoạch những lứa cá chất lượng tốt, khỏe mạnh, đẹp, màu đỏ như màu cờ và không có đốm. Tiêu chuẩn này cũng liên quan đến văn hóa tâm linh khi nhiều người quan niệm, cá chép càng đỏ sẽ càng giúp công danh thuận lợi, rực rỡ hơn.
wiki
Cá chép đỏ
Ngoài ra còn có cá chép ở làng Tân Cổ đa dạng về chủng loại, khỏe, đẹp, có thể thích nghi khi vận chuyển đi xa, chúng đỏ óng, không có đốm đen trên người và to đồng đều nhau. Cá chép đỏ ở Cẩm Khê có màu đỏ chót, màu đậm hơn rất nhiều so với cá chép đỏ được nuôi ở các vùng đất khác, cá không được đỏ bằng và màu nhạt, cá có kích cỡ chiếc bật lửa ga, có màu đỏ chót, vảy bóng mượt, không có chấm đen, chấm đốm được ưa chuộng. Cá chép ở chợ Yên Sở là cá chép đỏ, vàng, tùy theo màu sắc và kích cỡ, với hai loại cá chép đỏ là cá chép ta, màu vàng nhạt, đuôi ngắn, mình dày, cá chép ta có màu vàng nhạt hơn cá chép Tam Dương, mình dày, đuôi ngắn. Cá chép Yên Lập có màu đỏ rực và khỏe nhờ nguồn nước của sông Phó Đáy, cá ở đây có màu đỏ rực và khỏe.
wiki
Trần Quốc Tỏ
Trần Quốc Tỏ (sinh ngày 28 tháng 1 năm 1962) là một chính trị gia người Việt Nam và tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thượng tướng. Ông hiện là Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, Thứ trưởng Bộ Công an, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XV, nhiệm kỳ 2021–2026, thuộc đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Thái Nguyên. Ông đã trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh Bắc Ninh (gồm Thành phố Từ Sơn và các huyện Tiên Du và Yên Phong). Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông hiện là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Phó Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên. Xuất thân. Trần Quốc Tỏ sinh ra tại xã Quang Thiện, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; là con út trong một gia đình có 4 anh em trai Vinh, Quang, Sáng, Tỏ và hai chị gái. Ông là em trai của cố Đại tướng Trần Đại Quang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an (2011-2016), cố Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2016 - 2018). Sự nghiệp. - 10/1978–9/1989: Chiến sĩ; sau đó là Đội trưởng đội Cảnh sát Hình sự-Kinh tế, Công an huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Hà Nam Ninh.
wiki
Trần Quốc Tỏ
Sự nghiệp. - 10/1978–9/1989: Chiến sĩ; sau đó là Đội trưởng đội Cảnh sát Hình sự-Kinh tế, Công an huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Hà Nam Ninh. - 9/1989–3/2007: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Công an huyện Kim Sơn, Đội trưởng đội Cảnh sát Điều tra tội phạm (1989-1994), Trưởng Công an thị trấn Phát Diệm (1994-1999); Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy, Phó Trưởng Công an huyện, Phó Thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Sơn (1999-2005); Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, Bí thư Đảng ủy, Trưởng Công an huyện, Thủ trưởng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình. - 3/2007–10/2011: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Cục, Bí thư Chi bộ, Trưởng phòng 2, Cục Cảnh sát môi trường; Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Cục, Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường, Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm, Bộ Công an. - 11/2011–2/2014: Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Tổng cục, Bí thư Đảng ủy Cục, Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an; Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm; Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an. Hàm Thiếu tướng Công an nhân dân (2013). Từ tháng 3/2014: ông được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam điều động giữ chức Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thái Nguyên. 22/10/2015: ông được Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước Việt Nam công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh Phó giáo sư ngành khoa học an ninh (theo Quyết định số 46/QĐ-HĐCDGSNN ngày 22/10/2015 của Chủ tịch Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước).
wiki
Trần Quốc Tỏ
12/11/2015: ông được Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân bổ nhiệm chức danh Phó giáo sư. 28/10/2015: ông được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên. Tháng 1/2016: được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII. 20/05/2020: ông được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Công an. 23/05/2020: ông Mai Văn Chính, Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương, công bố quyết định của Bộ Chính trị về việc ông thôi tham gia Ban chấp hành, Ban thường vụ, thôi giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên nhiệm kỳ 2015 - 2020, để chỉ định tham gia Ban chấp hành, Ban thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương nhiệm kỳ 2015 - 2020 và giữ chức Thứ trưởng Bộ Công an. 24/09/2020: Ông vinh dự được chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ký quyết định thăng cấp bậc từ Thiếu tướng lên Trung tướng. 30/01/2021: Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, ông được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII, nhiệm kỳ 2021-2026. 14/05/2021: Ông được Chủ tịch nước kí quyết định tặng thưởng huân chương quân công hạng nhì. Cùng đợt với thứ trưởng Lê Tấn Tới và thứ trưởng Lê Quốc Hùng được tặng huân chương quân công hạng ba. Vì những đóng góp cho ngành Công an.
wiki
Trần Quốc Tỏ
Ngày 4 tháng 6 năm 2021, đã diễn ra lễ công bố Quyết định của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII về việc chỉ định Đảng ủy Công an Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025. Bộ Chính trị chỉ định ông Trần Quốc Tỏ làm Phó Bí thư kiêm Chủ nhiệm uỷ ban kiểm tra Đảng uỷ Công an Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025. Ngày 4 tháng 6 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định số 855/QĐ-TTg, bổ nhiệm ông Trần Quốc Tỏ làm Ủy viên Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương. Ngày 6 tháng 1 năm 2022, ông được Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc ký và trao quyết định thăng cấp bậc từ Trung tướng lên Thượng tướng. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV tỉnh Thái Nguyên. 22/5/2016: ông trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021 thuộc đoàn đại biểu tỉnh Thái Nguyên ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh Thái Nguyên (gồm thành phố Thái Nguyên và các huyện Đồng Hỷ, Võ Nhai) với 275.979 phiếu, đạt tỷ lệ 79,62% số phiếu hợp lệ.
wiki
Unit testing
Unit testing Trong lập trình máy tính, unit testing (tiếng Việt: kiểm thử đơn vị) là một phương pháp kiểm thử phần mềm mà mỗi đơn vị mã nguồn, tập hợp một hoặc nhiều các môđun chương trình máy tính cùng với dữ liệu kiểm soát liên quan, thủ tục sử dụng, và các quy trình vận hành, được kiểm tra để xác định chúng có phù hợp để sử dụng hay không. Kiểm thử đơn vị là một loại kiểm thử phần mềm, trong đó sẽ tiến hành kiểm tra từng phần nhỏ - module hoặc các thành phần của phần mềm. Mục đích của nó nhằm đảm bảo mỗi đoạn code (mỗi phần của chương trình) đều hoạt động hoàn hảo. Kiểm thử đơn vị được thực hiện bởi người phát triển(có một số trường hợp có thể là kiểm thử viên - tester hoặc QA) ở giai đoạn đang phát triển phần mềm. Quá trình kiểm thử đơn vị sẽ tách code thành các đoạn mã đơn vị (một hàm, một phương thức, một thủ tục, một module hoặc là một đối tượng) và kiểm tra độ chính xác của nó. Trong chu trình phát triển phần mềm SDLC, STLC, V-Model thì kiểm thử đơn vị là lần kiểm tra đầu tiên trước khi tiến hành kiểm tra tích hợp (intergration testing). Unit Testing => Integration Testing => System Testing => Acceptance Testing Kiểm thử đơn vị là phương pháp kiểm thử Whitebox, thường được thực hiện bởi người phát triển phần mềm (developer).
wiki
VOA1
VOA1 VOA1 là một dịch vụ đài phát phát sóng âm nhạc qua hệ thống thanh bằng vô tuyến thuộc sở hữu của đài truyền hình quốc tế Hoa Kỳ Voice of America và đặt tại thủ đô Washington, DC. Nó có sẵn dưới dạng webcast trực tuyến 24 giờ và một chương trình được cung cấp trên các đài được chọn trên toàn thế giới. Nó cũng có sẵn trên nguồn cấp dữ liệu chính của đài phát thanh VOA. VOA1 phát sóng âm nhạc 40 định dạng hàng đầu, với các bản tin 5 phút vào đầu giờ và phát sóng chương trình đặc biệt như "Jazz America". Lịch sử. Năm 1985, VOA Châu Âu được tạo ra như một dịch vụ đặc biệt bằng tiếng Anh, được chuyển qua vệ tinh tới các chi nhánh AM, FM và cáp trên khắp Châu Âu. Với định dạng hiện đại bao gồm các trò chơi đĩa trực tiếp, mạng đã trình bày các bản nhạc hàng đầu cũng như tin tức VOA và các tính năng quan tâm của địa phương (như "EuroFax") 24 giờ một ngày. VOA Châu Âu đã bị đóng cửa mà không có thông báo trước cho công chúng vào tháng 1 năm 1997 như là một biện pháp cắt giảm chi phí. Tiếp theo là VOA Express, từ ngày 4 tháng 7 năm 1999, được cải tiến thành VOA Music Mix. Kể từ ngày 1 tháng 11 năm 2014, VOA Music Mix được đổi tên thành VOA1.
wiki
Quận Musselshell, Montana
Quận Musselshell là một quận thuộc tiểu bang Montana, Hoa Kỳ. Quận lỵ đóng ở , Montana. Quận được đặt tên theo. Dân số theo điều tra năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ là người. Địa lý. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận này có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước. Thông tin nhân khẩu. Theo điều tra dân số năm 2000, có 4.497 người, 1.878 hộ, và 1.235 gia đình sống trong quận hạt. Mật độ dân số là 2 người trên một dặm vuông (1/km ²). Có 2.317 đơn vị nhà ở mật độ trung bình của <1/km ² (1/sq mi). Thành phần chủng tộc của cư dân sinh sống trong quận gồm chủng tộc của quận là 96,91% người da trắng, 0,07% da đen hay Mỹ gốc Phi, 1,27% người Mỹ bản xứ, 0,16% châu Á, Thái Bình Dương 0,04%, 0,38% từ các chủng tộc khác, và 1,18% từ hai hoặc nhiều chủng tộc. 1,60% dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào. 26,6% là người gốc Đức, 14,8% tiếng Anh, Na Uy 8,4%, Ailen 8,1% và 7,4% gốc Mỹ theo điều tra dân số năm 2000. 96,5% nói tiếng Anh và 2,6% tiếng Đức là ngôn ngữ đầu tiên của họ. Có 1.878 hộ gia đình trong đó có 27,20% trẻ em dưới 18 tuổi sống chung với họ, 55,60% là đôi vợ chồng ở với nhau, 6,60% có nữ hộ và không có chồng, và 34,20% là không lập gia đình. 30,10% hộ gia đình được tạo thành từ các cá nhân và 13,80% có người sống một mình 65 tuổi trở lên là ai. Cỡ hộ trung bình là 2,33, và kích cỡ gia đình trung bình là 2,91.
wiki
Quận Musselshell, Montana
Trong quận dân số trải rộng với 23,40% dưới độ tuổi 18, 5,70% 18-24, 24,00% 25-44, 29,40% từ 45 đến 64, và 17,50% từ 65 tuổi trở lên là người. Độ tuổi trung bình là 43 năm. Đối với mỗi 100 nữ có 95,40 nam giới. Đối với mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, có 95,70 nam giới. Thu nhập trung bình cho một hộ gia đình trong quận là 25.527 USD, và thu nhập trung bình của gia đình là USD 32.298. Nam giới có thu nhập trung bình USD 25.000 so với 17.813 USD đối với phái nữ. Thu nhập bình quân đầu người là 15.389 USD. 19,90% dân số và 13,00% của các gia đình có thu nhập dưới chuẩn nghèo. Trong tổng dân số, 31,70% những người dưới độ tuổi 18 và 10,50% của những người 65 tuổi trở lên đang sống dưới mức nghèo khổ.
wiki
Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh là trường đại học nằm tại Thành phố Hồ Chí Minh, được thành lập từ những năm 1976. Hiện nay trường đào tạo giáo viên thể dục cho miền nam Việt Nam Lịch sử. Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh, trước đây là trường Sư phạm Thể dục Miền Nam trực thuộc Bộ Giáo dục, được thành lập theo quyết định số 17/QĐ/GD ngày 24/3/1976, sau đó đổi tên thành trường Sư phạm Thể dục TW2. Trường được công nhận là trường Cao đẳng Sư phạm Thể dục TW2 theo quyết định số 34/HĐBT ngày 08/6/1984. Đến ngày 08/11/2005 Trường được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 285/2005/QĐ-TTg Thành lập Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở Trường Cao đẳng Sư phạm Thể dục TW2 Chức năng - nhiệm vụ. Nhiệm vụ chính của trường là đào tạo giáo viên thể dục trình độ cử nhân Đại học cho các trường phổ thông từ Quảng Trị trở vào, là trung tâm nghiên cứu khoa học về giáo dục thể chất và đào tạo chuẩn hóa giáo viên thể dục theo định chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam Thành tích. Với bề dày lịch sử phát triển như vậy, trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao TP. Hồ Chí Minh vinh dự được Đảng và nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng sau:
wiki
La Gloria, Veracruz
La Gloria, Veracruz La Gloria là một thị trấn ở đô thị Perote của bang thuộc México Veracruz. Theo cuộc điều tra dân số năm 2005, nó có dân số 2.243 (1092 nam giới và phụ nữ 1151) . Thị xã nằm ở thung lũng Perote và được bao quanh bởi dãy núi. Độ cao của nó của 2.460 mét (8.100 ft) khiến đây là một trong những khu vực cao nhất của bang Veracruz. Thị trấn nằm về phía tây nam của Cofre de Perote, khoảng 40 km (25 dặm) từ thành phố Perote. Thị trấn được kết nối với Perote bởi một đường cao tốc nhỏ; ở đó, các xa lộ liên bang nhỏ cắt Quốc lộ 140, đi vào Xalapa . Một nửa dân số sống của thị xã trong tuần sinh sống và làm việc ở Mexico City, nằm cách 200 km (120 dặm) về phía tây Thị trấn có vị trí 8,5 km (5,3 dặm) so với các nông trang Granjas Carroll de Mexico, nuôi gần 1.000.000 con lợn trong năm 2008. Rất nhiều cư dân đã phản đối các hoạt động nuôi lợn . Nhiều người ban đầu từ thị trấn đã di cư vào Hoa Kỳ . La Gloria là nghi là nơi người ta nghi ngờ là xuất phát điểm của dịch cúm lợn năm 2009
wiki
Semiramis
Semiramis ( ; "Šammīrām", "Semiramis," "Šamiram") là một nữ vương huyền thoại của Assyria. Bà là người Lydia-Babylon, vợ của Onnes và Ninus. Các truyền thuyết được kể lại bởi Diodorus Siculus, lấy nguồn từ các tác phẩm của Ctesias của Cnidus, nói về bà và mối quan hệ với Onnes và Vua Ninus, một vị vua trong truyền thuyết của Assyria, không được ghi lại trong "Danh sách vua Assyria". Người Assyria bản địa ở Iraq, đông bắc Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và tây bắc Iran vẫn sử dụng Semiramis (cũng như "Shamiram") để đặt tên cho trẻ em nữ. Nhân vật Shammuramat thực tế trong lịch sử (dạng gốc tiếng Akkad và Aramaic) là người vợ người Assyria của Shamshi-Adad V (trị vì 824 TCN - 811 TCN), vua của Assyria và là người trị vì Đế chế Tân Assyria. Sau khi chồng qua đời, bà trở thành nhiếp chính trong năm năm cho đến khi con trai bà Adad-nirari III đến tuổi trưởng thành. Bà nắm quyền vào thời điểm bất ổn về chính trị, điều này có thể giải thích tại sao người Assyria có thể chấp nhận sự cai trị của một người phụ nữ (điều thông thường không thể xảy ra). Người ta đã suy đoán rằng bà đã trị vì rất thành công, được người Assyria tôn sùng, và những thành tựu triều đại của bà đạt được (bao gồm ổn định và củng cố đế chế sau một cuộc nội chiến tàn phá) đã được truyền tụng qua các thế hệ cho đến khi bà được nâng lên thành một nhân vật thần thoại.
wiki
Semiramis
Tên tuổi của Semiramis được gắn cho nhiều công trình khác nhau ở Tây Á và Tiểu Á, nguồn gốc đã bị lãng quên hoặc không rõ. Nhiều địa điểm khác nhau ở Assyria và khắp Mesopotamia nói chung, Media, Ba Tư, Levant, Tiểu Á, Ả Rập, và Kavkaz mang tên Semiramis, với một vài sai khác, thậm chí cả ở thời Trung cổ. Một tên cũ của thành phố Van của người Armenia là "Shamiramagerd" (trong tiếng Armenia có nghĩa là "được tạo bởi Semiramis"). Gần như mọi công trình lớn hay tác phẩm nghệ thuật cổ đại ở lưu vực sông Euphrates hoặc ở Iran đều được gắn với tên tuổi Semiramis, thậm chí cả "Bản khắc Behistun" của Darius, hoặc Vườn treo Babylon. Herodotus cho rằng bà là người cho xây dựng hệ thống đê điều định hướng dòng chảy sông Euphrates và tên bà được đặt cho một trong cánh cổng của Babylon. Nhân vật lịch sử. Trong khi Semiramis trong truyền thuyết trị vì vương quốc Ba Tư huyền thoại trong sử sách Hy Lạp và Armenia, thì nữ vương Assyrian Shammuramat (Semiramis), vợ của Shamshi-Adad V (không phải "Ninus" hư cấu như trong truyền thuyết), chắc chắn có tồn tại. Sau cái chết của chồng, bà trở thành nhiếp chính từ 811- 806 TCN cho con trai mình, Adad-nirari III. Do đó trong một thời gian ngắn, Shammuramat nắm quyền cai trị Đế quốc Tân Assyrian rộng lớn (911-605 TCN), trải dài từ dãy Kavkaz ở phía bắc cho tới Bán đảo Ả Rập ở phía nam, và từ Tây Iran ở phía đông cho tới Đảo Síp ở phía tây.
wiki
Semiramis
Bà nắm quyền vào thời điểm bất ổn về chính trị, điều này có thể giải thích tại sao người Assyria có thể chấp nhận sự cai trị của một người phụ nữ (điều thông thường không thể xảy ra). Người ta đã suy đoán rằng bà đã trị vì rất thành công, được người Assyria tôn sùng, và những thành tựu triều đại của bà đạt được (bao gồm ổn định và củng cố đế chế sau một cuộc nội chiến tàn phá) đã được truyền tụng qua các thế hệ cho đến khi bà được nâng lên thành một nhân vật thần thoại.. Tại thành phố Ashur, bà cho xây một obelisk (bút tháp), ghi lại rằng: "Bia của Sammuramat, nữ vương của Shamshi-Adad, Vua của vũ trụ, Vua của Assyria, Mẹ của Adad Nirari, Vua của vũ trụ, Vua của Assyria, Con dâu của Shalmaneser, Vua của Bốn Miền Thế giới." Georges Roux suy đoán rằng các huyền thoại Hy Lạp và Ấn-Iran (Ba Tư và Media) sau này dựng lên các huyền thoại xoay quanh Semiramis lấy cảm hứng từ các chiến dịch quân sự thành công mà bà tiến hành chống lại các dân tộc này, và tính mới lạ về việc một người phụ nữ cai trị một đế chế rộng lớn như vậy. Truyền thuyết theo kể lại của Diodorus Siculus.
wiki
Semiramis
Truyền thuyết theo kể lại của Diodorus Siculus. Theo Diodorus, Semiramis có nguồn gốc quý tộc, là con gái của nữ thần cá Derketo của Ascalon ở Assyria và một người phàm. Sau khi sinh con, Derketo bỏ rơi đứa trẻ và nhảy xuống sông. Đứa trẻ được chim bồ câu cho ăn, cho đến khi được người chăn cừu Simmas tìm thấy. Semiramis kết hôn với Onnes hoặc Menones, một trong những vị tướng của Vua Ninus. Lời khuyên của bà đã giúp ông giành được những thắng lợi to lớn, và tại cuộc bao vây Bactra, bà đã đích thân chỉ huy một đạo quân đi chiếm một yếu điểm phòng ngự, khiến thành phố phải đầu hàng. Ninus ấn tượng đến nỗi rơi vào lưới tình với bà ngay tức khắc, và ép Onnes phải đưa bà cho ông ta làm vợ, đầu tiên là đổi bằng con gái của ông Sonanê và sau đó đe dọa sẽ móc mắt Onnes ra. Onnes, vừa sợ nhà vua lại vừa yêu vợ say đắm, trở nên điên loạn và treo cổ tự tử. Ninus sau đó cưới bà làm vợ.
wiki
Semiramis
Semiramis và Ninus có một con trai tên Ninyas. Sau khi vua Ninus chinh phục châu Á, bao gồm cả Bactrians, ông đã bị thương nặng bởi một mũi tên. Semiramis sau đó giả trang thành con trai của mình và khiến quân đội của người chồng quá cố làm theo chỉ dẫn của bà vì họ nghĩ rằng những mệnh lệnh này đến từ vị vua mới. Sau cái chết của Ninus, bà trị vì như nữ vương cầm quyền trong suốt 42 năm, chinh phục phần lớn châu Á. Semiramis đã khôi phục Babylon cổ đại và phòng thủ bằng một bức tường gạch cao bao quanh thành phố hoàn toàn. Bà cũng xây dựng một số cung điện ở Ba Tư, bao gồm Ecbatana. Diodorus cũng gắn tên bà cho bia Behistun, hiện đã được biết là thực hiện dưới thời Darius I của Ba Tư (trị vì 522-486 TCN). Bà không chỉ cai trị châu Á một cách hiệu quả mà còn sáp nhập Libya và Aethiopia vào đế chế. Sau đó, bà gây chiến với vua Stabrobates (Sthabarpati) của Ấn Độ, cho làm một đội quân voi giả bằng cách khoác da trâu tối màu lên những con lạc đà để đánh lừa quân Ấn Độ. Kế hoạch này ban đầu thành công, nhưng sau đó bà bị thương trong cuộc phản công và quân đội của bà bị tiêu diệt phần lớn, bị buộc phải tái chiếm Indus và rút lui về phía tây. Trong truyền thuyết cổ đại.
wiki
Semiramis
Trong truyền thuyết cổ đại. Những truyền thuyết liên quan đến Semiramis đã được ghi chép bởi các tác giả bao gồm Plutarch, Eusebius, Polyaenus và Justinus. Bà được gắn với hình ảnh nữ thần Ishtar và Astarte từ trước cả thời Diodorus. Bà cũng được liên kết với biểu tượng cá và chim bồ câu, như được thể hiện tại Hierapolis Bambyce (Mabbog), ngôi đền lớn theo một truyền thuyết được cho là thành lập bởi Semiramis, nơi có một bức tượng của bà với chim bồ câu vàng trên đầu. Tên tuổi của Semiramis được gắn cho nhiều công trình khác nhau ở Tây Á và Tiểu Á, nguồn gốc đã bị lãng quên hoặc không rõ. Nhiều địa điểm khác nhau ở Assyria và khắp Mesopotamia nói chung, Media, Ba Tư, Levant, Tiểu Á, Ả Rập, và Kavkaz mang tên Semiramis, với một vài sai khác, thậm chí cả ở thời Trung cổ. Bà được ghi nhận là người sáng lập thành phố Van để làm nơi cư trú mùa hè, và thành phố cũng có thể được gọi là "Shamiramagerd" (trong tiếng Armenia có nghĩa là "được tạo ra bởi Semiramis"). Strabo tin rằng bà đã xây dựng các công trình kiến trúc "trên khắp toàn bộ lục địa". Gần như mọi công trình lớn hay tác phẩm nghệ thuật cổ đại ở lưu vực sông Euphrates hoặc ở Iran đều được gắn với tên tuổi Semiramis, thậm chí cả "Bản khắc Behistun" của Darius, hoặc Vườn treo Babylon. Herodotus cho rằng bà là người cho xây dựng hệ thống đê điều định hướng dòng chảy sông Euphrates và tên bà được đặt cho một trong cánh cổng của Babylon.
wiki
Semiramis
Nhà sử học La Mã Ammianus Marcellinus tin rằng bà là người đầu tiên thiến một thiến niên nam làm hoạn quan: "Semiramis, vị nữ vương cổ đại, là người đầu tiên thiến những thiếu niên nam trước khi trưởng thành." Truyền thuyết Armenia thể hiện Semiramis theo hướng tiêu cực, có thể do bà đã đánh bại họ trong một chiến dịch quân sự. Một trong những truyền thuyết phổ biến nhất của Armenia liên quan đến Semiramis và một vị vua Armenia, Ara "Người đẹp". Theo truyền thuyết, Semiramis đã phải lòng vị vua đẹp trai người Armenia Ara và hỏi cưới ông. Khi ông từ chối, bà đã đem quân đội Assyria tiến đánh Armenia. Semiramis đã chiến thắng, nhưng Ara đã bị giết mặc dù bà đã ra lệnh bắt sống ông ta. Để tránh nguy cơ chiến tranh lâu dài với người Armenia, Semiramis, nổi tiếng là một phù thủy, đã mang xác ông về cầu nguyện với các vị thần để làm Ara sống lại. Khi người Armenia tấn công để trả thù cho vị vua của họ, bà đã ngụy trang cho một trong những người tình của mình thành Ara và lan truyền tin đồn rằng các vị thần đã đưa Ara trở lại cuộc sống, để thuyết phục người Armenia không tiếp tục chiến tranh. Trong một truyền thuyết, những lời cầu nguyện của Semiramis đã có tác dụng và Ara sống lại. Trong thế kỷ 19, người ta ghi lại có một ngôi làng tên là Lezk, gần Van, được truyền thuyết cho là nơi phục sinh của Ara. Trong văn hóa sau này.
wiki
Semiramis
Trong văn hóa sau này. Semiramis thường được nhìn nhận theo hướng tích cực trước khi Kitô giáo lên ngôi, mặc dù cũng tồn tại một số quan điểm tiêu cực. Trong thời Trung cổ, bà bị gắn liền với tính lăng loàn và dâm đãng. Một câu chuyện cho rằng bà có mối quan hệ loạn luân với con trai, bào chữa cho điều đó bằng cách thông qua luật để hợp pháp hóa hôn nhân giữa cha mẹ và con cái, và phát minh ra đai trinh tiết để răn đe bất kỳ đối thủ tình cảm cho đến khi cuối cùng bị giết bởi con mình. Điều này có thể đã được lan truyền vào thế kỷ thứ 5 bởi cuốn "Lịch sử phổ thông" của Orosius ("Bảy cuốn Sách sử Chống Ngoại giáo"), được cho là nằm trong một "cuộc bút chiến chống ngoại giáo". Trong "Hài kịch thần thánh", Dante nhìn thấy Semiramis trong số linh hồn của những kẻ dâm đãng trong Tầng địa ngục thứ hai. Tuy nhiên, bà cũng được ngưỡng mộ vì những thành tựu chiến trận và chính trị, và có ý kiến cho rằng danh tiếng của bà đã phục hồi phần nào vào cuối thời Trung cổ và Phục hưng. Bà được đưa vào "Sách về những Thành phố của Phụ nữ" của Christine de Pizan (hoàn thành năm 1405), và bắt đầu từ thế kỷ 14, bà thường có tên trong các danh sách nữ của "Cửu Vĩ" "Nhân" (Khái niệm thời Trung đại về 9 nhân vật lịch sử, tôn giáo, huyền thoại mang hình tượng Hiệp sĩ lý tưởng).
wiki
Semiramis
Semiramis xuất hiện trong nhiều vở kịch và nhạc kịch, chẳng hạn như bi kịch "Semiramis" của "Voltaire," và trong nhiều vở opera riêng biệt với tiêu đề "Semiramide" bởi Domenico Cimarosa, Marcos Portugal, Josef Mysliveček, và Giacomo Meyerbeer, Pedro Calderón de la Barca và Gioachino Rossini. Arthur Honegger đã soạn nhạc một vở "kịch câm ballet" cùng tên của Paul Valéry vào năm 1934, chỉ được phục hồi vào năm 1992 sau nhiều năm bị lãng quên. Trong vở kịch "Những chiếc ghế" của Eugène Ionesco, nhân vật Bà già được gọi là Semiramis. Bà được Chaucer nhắc đến trong tác phẩm "The Craft of Lovers" như là "Nữ vương của Babilon", cũng như bởi Shakespeare trong Màn 2 Cảnh 1 của "Titus Andronicus" và Cảnh 2 của Lời giới thiệu trong "The Taming of the Shrew". Semiramis thường được dùng như hình ảnh ẩn dụ cho người phụ nữ cai trị và đôi khi phản ánh các tranh chấp chính trị có liên quan đến các nhà lãnh đạo nữ, thường theo hướng bất lợi (ví dụ, để chỉ trích Elizabeth I của Anh). Cũng có khi bà được sử dụng như một ví dụ về một người phụ nữ trị vì có năng lực, như các vị quân chủ quyền lực Margrete I của Đan Mạch và Yekaterina II Đại đế đều được gọi là "Semiramis của phương Bắc".
wiki
Thân vương quốc Murom
Thân vương quốc Murom (tiếng Nga: Муромское княжество) là một lãnh địa của người Rus' thời trung cổ có thủ phủ đặt tại thành phố Murom, nay thuộc tỉnh Vladimir, Nga. Murom nằm trong một khu vực có nhiều người Phần Lan và trong phần lớn lịch sử thời trung cổ của nó, nằm ở quê hương của người Muromia. Nó dường như là một khu định cư quan trọng của người Phần Lan vào thế kỷ thứ IX, với sự hiện diện đáng chú ý về mặt khảo cổ học của người Scandinavia từ thế kỷ thứ X, bằng chứng là những thanh kiếm của người Frank, một chiếc trâm mai rùa và một thanh kiếm. Sách "Primary Chronicle" cho rằng Murom nằm dưới sự kiểm soát của Rus vào thế kỷ thứ VIII. Gleb Vladimirovich, con trai của Vladimir Đại đế, cai trị thân vương quốc vào đầu thế kỷ XI. Murom là một phần lãnh thổ của Thân vương quốc Chernigov vào cuối thế kỷ XI, do gia tộc Sviatoslavichi, hậu duệ của Iaroslav Thông thái kiểm soát; có lẽ nó đã được Vsevolod Iaroslavich giữ lại ngay cả sau khi Thân vương xứ Chernigov trở thành Đại công tước xứ Kiev vào năm 1076. Oleg Sviatoslavich, cháu trai của Iaroslav và Thân vương xứ Chernigov, cai trị Murom thông qua một "posadnik" vào đầu những năm 1090, và nó được công nhận là phạm vi ảnh hưởng của Oleg tại Đại hội Liubech năm 1097. Tại đây, Davyd, anh trai của Oleg được phong làm đồng cai trị Chernigov, và các vùng đất của Oleg được phân chia giữa Oleg, Davyd và anh trai của họ là Iaroslav; sau này thu được Murom với Ryazan.
wiki
Thân vương quốc Murom
Murom dường như đã bị phá hủy hoặc ít nhất là bị tàn phá bởi Cuộc xâm lược Rus của người Mông Cổ vào năm 1237-1238. Khan Batu đến biên giới Ryazan vào mùa đông năm 1237 và yêu cầu các Thân vương xứ Ryazan, Murom và Pronsk cống nạp. Điều này đã bị từ chối, và sau đó các vùng đất này đã bị tàn phá. Năm 1392, Vasily Dmitr'evich, Thân vương xứ Moscow và Đại công tước xứ Vladimir, nhận được quyền công nhận từ Khan Tokhtamysh cho phép sáp nhập Thân vương quốc Murom, cùng với các Thân vương quốc Nizhni Novgorod và Gorodets. Danh sách các Thân vương xứ Murom. Sau khi Iaroslav và sự tàn phá Murom bởi người Mông Cổ, các Thân vương của Murom biến mất trong gần một thế kỷ, tiếp tục với:
wiki
Đại số tuyến tính
Đại số tuyến tính là một nhánh của toán học liên quan đến các phương trình tuyến tính như: formula_1 ánh xạ tuyến tính như: formula_2 và biểu diễn của chúng trong không gian vectơ và thông qua ma trận. Đại số tuyến tính là trung tâm của hầu hết các lĩnh vực toán học. Ví dụ, đại số tuyến tính là cơ bản trong các bài thuyết trình hiện đại về hình học, bao gồm cả việc xác định các đối tượng cơ bản như đường thẳng, mặt phẳng và phép quay. Ngoài ra, giải tích hàm, một nhánh của giải tích toán học, về cơ bản có thể được xem là ứng dụng của đại số tuyến tính vào không gian của các hàm. Đại số tuyến tính cũng được sử dụng trong hầu hết các ngành khoa học và lĩnh vực kỹ thuật, vì nó cho phép mô hình hóa nhiều hiện tượng tự nhiên và tính toán hiệu quả với các mô hình như vậy. Đối với các hệ thống phi tuyến, không thể được mô hình hóa bằng đại số tuyến tính, nó thường được sử dụng để xử lý các phép xấp xỉ bậc nhất, do thực tế là vi phân của một hàm đa biến tại một điểm là ánh xạ tuyến tính gần đúng nhất của hàm gần điểm đó.
wiki
Đại số tuyến tính
Đại số tuyến tính được sử dụng nhiều trong toán học, như trong đại số đại cương, giải tích hàm, hình học giải tích... để giải các bài toán như phép quay trong không gian, nội suy bình phương nhỏ nhất, nghiệm của hệ phương trình vi phân, tìm đường tròn qua ba điểm... Nó cũng có vô vàn ứng dụng trong khoa học tự nhiên (vật lý, công nghệ...) và khoa học xã hội (kinh tế...), vì các mô hình phi tuyến tính hay gặp trong tự nhiên và xã hội thường có thể xấp xỉ bằng mô hình tuyến tính. Lịch sử. Quy trình giải các phương trình tuyến tính đồng thời, ngày nay được gọi là phép khử Gauss xuất hiện trong văn bản toán học Trung Quốc cổ đại Chương 8: "Mảng chữ nhật" trong "Cửu chương toán thuật". Việc sử dụng nó được minh họa trong 18 bài toán, với 2 đến 5 phương trình. Hệ phương trình tuyến tính phát sinh ở châu Âu với sự ra đời năm 1637 hệ tọa độ trong hình học do René Descartes đưa ra. Thực tế, trong hình học mới này, ngày nay được gọi là hình học Descartes, các đường thẳng và mặt phẳng được biểu diễn bằng các phương trình tuyến tính, và việc tính toán các giao điểm của chúng biến thành việc giải các hệ phương trình tuyến tính.
wiki
Đại số tuyến tính
Các phương pháp hệ thống đầu tiên để giải hệ thống tuyến tính sử dụng các định thức, được Leibniz xem xét lần đầu tiên vào năm 1693. Năm 1750, Gabriel Cramer sử dụng chúng để đưa ra các giải pháp rõ ràng của hệ thống tuyến tính, ngày nay được gọi là quy tắc Cramer. Sau đó, Gauss mô tả thêm phương pháp loại trừ, phương pháp này ban đầu được coi là một tiến bộ trong ngành trắc địa. Năm 1844, Hermann Grassmann xuất bản "Lý thuyết mở rộng" bao gồm các chủ đề mới cơ bản về cái mà ngày nay được gọi là đại số tuyến tính. Năm 1848, James Joseph Sylvester đưa ra thuật ngữ "ma trận." Đại số tuyến tính phát triển với những ý tưởng được ghi nhận trong mặt phẳng phức. Ví dụ: hai số formula_3 và formula_4 trong formula_5 có sự khác biệt formula_6, và các đoạn thẳng formula_7 và formula_8 có cùng chiều dài và hướng. Các phân đoạn này là tương đương nhau. Hệ thống bốn chiều formula_9 của các quaternion được bắt đầu vào năm 1843. Thuật ngữ "vectơ" được giới thiệu là formula_10 đại diện cho một điểm trong không gian. Chênh lệch bậc bốn formula_11 cũng tạo ra một đoạn tương đương với formula_12 Các hệ thống số siêu phức khác cũng sử dụng ý tưởng về một không gian tuyến tính có cơ sở.
wiki
Đại số tuyến tính
Arthur Cayley đã giới thiệu phép nhân ma trận và ma trận nghịch đảo vào năm 1856, làm cho nhóm tuyến tính tổng quát trở nên khả thi. Cơ chế biểu diễn nhóm đã có sẵn để các nhà toán học mô tả các số phức và siêu phức. Điều quan trọng nhất là Cayley sử dụng một chữ cái duy nhất để biểu thị một ma trận, do đó coi ma trận như một đối tượng tổng hợp. Ông cũng nhận ra mối liên hệ giữa ma trận và định thức, và viết "Sẽ có nhiều điều để nói về lý thuyết ma trận này, theo tôi, có vẻ như, có trước lý thuyết về định thức". Benjamin Peirce đã xuất bản tác phẩm "Đại số liên kết tuyến tính" của mình (1872), và con trai của ông là Charles Sanders Peirce đã mở rộng tác phẩm này sau đó. Điện báo yêu cầu một hệ thống vật lý giải thích nó, và ấn phẩm năm 1873 có tên Một luận thuyết về điện và từ trường đã thiết lập một lý thuyết trường về lực và yêu cầu hình học vi phân để biểu thị. Đại số tuyến tính là hình học vi phân phẳng và phục vụ trong không gian tiếp tuyến với đa tạp. Đối xứng điện từ của không thời gian được biểu thị bằng các phép biến đổi Lorentz, và phần lớn lịch sử của đại số tuyến tính là lịch sử của các phép biến đổi Lorentz.
wiki
Đại số tuyến tính
Định nghĩa hiện đại và chính xác hơn đầu tiên của không gian vectơ được Peano đưa ra vào năm 1888; đến năm 1900, một lý thuyết về các phép biến đổi tuyến tính của không gian vectơ hữu hạn chiều đã xuất hiện. Đại số tuyến tính có hình thức hiện đại vào nửa đầu thế kỷ XX, khi nhiều ý tưởng và phương pháp của các thế kỷ trước được khái quát hóa thành đại số trừu tượng. Sự phát triển của máy tính dẫn đến việc tăng cường nghiên cứu các thuật toán hiệu quả để loại bỏ Gaussian và phân rã ma trận, và đại số tuyến tính trở thành một công cụ thiết yếu để mô hình hóa và mô phỏng. Phạm vi nghiên cứu. Không gian vectơ. Cấu trúc chính của đại số tuyến tính là các không gian vectơ. Một không gian vectơ trên trường số formula_13 là một tập formula_14 kèm theo phép toán hai ngôi. Các phần tử trong formula_14 gọi là những "vectơ", các phần tử trong formula_13 gọi là "vô hướng". Phép toán đầu tiên là phép cộng vectơ, cộng 2 vectơ formula_17 và formula_3 cho ra một vectơ thứ 3 là formula_19. Phép toán thứ hai là phép nhân một vô hướng formula_20 với bất kỳ vectơ formula_17 nào và kết quả cho ra một vectơ mới formula_22, phép toán này gọi là phép nhân vô hướng của formula_17 với formula_20. Các phép nhân và cộng trong không gian vectơ phải thỏa mãn 8 tiên đề sau, với formula_25, formula_17 và formula_3 là các vectơ trong tập formula_14. formula_20 và formula_30 là các vô hướng trong trường số formula_13. Ánh xạ tuyến tính.
wiki
Đại số tuyến tính
Ánh xạ tuyến tính. Cho 2 không gian vectơ formula_14 và formula_33 trên trường formula_13, một biến đổi tuyến tính (còn gọi là ánh xạ tuyến tính) là một ánh xạ: bảo toàn phép cộng và phép nhân vô hướng: với mọi vectơ formula_37 và mọi vô hướng formula_38. Giới thiệu chung. Trong trường đại học, đại số tuyến tính bắt đầu từ nghiên cứu các vectơ trong hệ tọa độ Descartes 2 chiều hoặc 3 chiều. Các vectơ là các đoạn thẳng có hướng và độ lớn. Các kết quả trong không gian 2 hoặc 3 chiều có thể được mở rộng ra cho nhiều chiều hơn, gọi tổng quát là không gian vectơ. Không gian vectơ là một khái niệm trừu tượng của đại số trừu tượng, được định nghĩa trên một trường toán học, phổ biến trong ứng dụng là trường số thực hoặc trường số phức. Các biến đổi tuyến tính chuyển các phần tử trong một không gian vectơ này sang không gian vectơ kia, tuân thủ phép cộng và phép nhân vô hướng. bản thân tập hợp của các biến đổi này cũng hình thành nên không gian vectơ của chính chúng. Nếu hệ cơ sở của một không gian vectơ là cố định, mọi biến đổi tuyến tính đều có thể viết thành bảng gọi là ma trận. Việc nghiên cứu các tính chất của ma trận, như định thức và vectơ riêng là một phần quan trọng của đại số tuyến tính.
wiki
Đại số tuyến tính
Sử dụng đại số tuyến tính có thể giải chính xác hoặc gần đúng rất nhiều bài toán, bao gồm cả các bài toán không tuyến tính. Lý do là ta luôn có thể sử dụng vi giải tích để biến các hàm không tuyến tính thành gần đúng tuyến tính ở gần những điểm quan tâm. Phương pháp này là một trong những phương pháp phổ biến nhất trong toán học ứng dụng vào khoa học và kỹ thuật.
wiki
Thủ Đức
Thủ Đức là một thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Thành phố Thủ Đức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết nghị thành lập vào cuối năm 2020 trên cơ sở sáp nhập 3 quận cũ là Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức. Ngày 1 tháng 1 năm 2021, Nghị quyết 1111/NQ-UBTVQH14 chính thức có hiệu lực, Thủ Đức trở thành thành phố đầu tiên của Việt Nam thuộc loại hình đơn vị hành chính thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Thủ Đức nằm ở cửa ngõ phía đông Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, là đầu mối của các tuyến giao thông huyết mạch giữa Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam Bộ như: Đường Võ Nguyên Giáp – Xa lộ Hà Nội, Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây, Quốc lộ 1, Quốc lộ 13, Đại lộ Phạm Văn Đồng – Quốc lộ 1K. Ngoài ra, tuyến đường sắt đô thị Bến Thành – Suối Tiên chạy dọc theo Xa lộ Hà Nội trên địa bàn thành phố cũng đang trong quá trình hoàn thiện. Hiện nay, thành phố Thủ Đức đang được chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư xây dựng thành một đô thị sáng tạo tương tác cao. Địa lý. Thành phố Thủ Đức nằm ở phía đông Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý: Thành phố có diện tích 211,56 km², dân số năm 2019 là 1.013.795 người, mật độ dân số đạt 4.792 người/km². Hành chính. Thành phố Thủ Đức có 34 phường trực thuộc, gồm: Lịch sử. Nguồn gốc tên gọi.
wiki
Thủ Đức
Thành phố có diện tích 211,56 km², dân số năm 2019 là 1.013.795 người, mật độ dân số đạt 4.792 người/km². Hành chính. Thành phố Thủ Đức có 34 phường trực thuộc, gồm: Lịch sử. Nguồn gốc tên gọi. Địa danh Thủ Đức được cho là lấy từ tên hiệu "Thủ Đức" của ông Tạ Dương Minh (còn gọi là Tạ Huy). Ông là người Hoa nằm trong phong trào "phản Thanh phục Minh", bị truy đuổi phải di cư sang Việt Nam và thần phục nhà Nguyễn. Người ta cho rằng ông có công lao với vùng đất này thời mới khai hoang lập ấp khoảng năm 1679–1725. Lịch sử hành chính. Thời Pháp thuộc. Với Hòa ước Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế nhượng hẳn 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp làm thuộc địa. Chính quyền thực dân Pháp chia 3 tỉnh này thành 13 thành các hạt thanh tra ("inspection"), do các viên chức Pháp ngạch thanh tra các công việc bản xứ (inspecteur des affaires indigeânes) đứng đầu, nhưng tạm thời vẫn giữ cơ cấu phủ huyện cũ. Sau khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ, năm 1868, chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ các đơn vị hành chính phủ, huyện, phân chia lại toàn bộ cõi Nam Kỳ. Các hạt thanh tra về sau cũng được đổi thành hạt tham biện ("arrondissement"), do các Chánh tham biện (administrateur) người Pháp đứng đầu. Tuy vậy, chính quyền thực dân Pháp vẫn giữ lại cơ cấu hành chính cấp thấp như tổng, thôn. Trên địa bàn tỉnh Gia Định cũ (đến ngày 16 tháng 8 năm 1867 đổi tên thành tỉnh Sài Gòn), chính quyền Pháp thành lập tuần tự các đơn vị hành chính trực thuộc, trong đó có Khu thanh tra Sài Gòn và thành phố ("Ville") Sài Gòn.
wiki
Thủ Đức
Ngày 29 tháng 10 năm 1866, khu thanh tra Sài Gòn nhận thêm phần đất của khu thanh tra Ngãi An giải thể nhập vào (khu thanh tra này thành lập từ ngày 14 tháng 3 năm 1866, trên địa bàn huyện Ngãi An cũ thuộc phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa; lúc bấy giờ huyện này đã giải thể, địa bàn nhập vào huyện Bình An cùng phủ từ năm 1862). Khi nhập vào khu thanh tra Sài Gòn, huyện Ngãi An còn bốn tổng trực thuộc (An Bình, An Điền, An Thổ, An Thủy); riêng tổng Chánh Thiện giải thể vào ngày 29 tháng 10 năm 1866, địa bàn nhập vào các tổng kế cận. Đến ngày 9 tháng 10 năm 1868, huyện Ngãi An tách ra lập khu thanh tra độc lập, mang tên gọi là khu thanh tra Thủ Đức; nhưng đến ngày 30 tháng 12 năm 1868, lại giải thể tái nhập vào khu thanh tra Sài Gòn. Năm 1871, các thôn đổi thành làng. Năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn (Ville de Saigon). Tòa tham biện hạt Sài Gòn chuyển từ trung tâm thành phố Sài Gòn đặt tại làng Bình Hòa, tại vị trí ngày nay là trụ sở Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh. Năm 1911, tỉnh Gia Định được chia thành bốn quận: Thủ Đức, Nhà Bè, Gò Vấp và Hóc Môn. Năm 1939, quận Thủ Đức có 6 tổng với 43 làng: Năm 1945, giải thể tổng An Thành, các làng thuộc tổng này sáp nhập vào hai tổng An Bình và Long Vĩnh Hạ cùng quận. Thời Việt Nam Cộng hòa. Năm 1955, quận Thủ Đức có 19 làng: Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Quận lỵ Thủ Đức đặt tại xã Linh Đông Xã.
wiki
Thủ Đức
Thời Việt Nam Cộng hòa. Năm 1955, quận Thủ Đức có 19 làng: Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Quận lỵ Thủ Đức đặt tại xã Linh Đông Xã. Năm 1957, giải thể tổng An Thổ của quận Thủ Đức; xã An Bình Xã thuộc tổng này sáp nhập vào tổng An Thủy, hai xã còn lại: Hiệp Bình Xã và Tam Bình Xã nhập vào tổng An Điền. Như thế lúc nảy tổng An Thủy có 4 xã, tổng An Điền có 6 xã. Cắt tổng Long Vĩnh Hạ với bốn xã: Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Long Phước Thôn và Long Bình, cùng tổng An Thủy với bốn xã: Bình An, An Bình Xã, Đông Hòa Xã và Tân Đông Hiệp, chuyển sang thuộc quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa. Như thế quận Thủ Đức còn 11 xã. Năm 1962, quận Dĩ An trả lại tổng Long Vĩnh Hạ với bốn xã: Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Long Phước Thôn và Long Bình cho quận Thủ Đức. Như thế lúc này quận Thủ Đức có 15 xã. Từ năm 1962, chính quyền Việt Nam Cộng hòa bỏ dần, đến năm 1965 bỏ hẳn cấp hành chính tổng, các xã trực tiếp thuộc quận. Năm 1966, do cắt xã An Khánh Xã nhập vào Đô thành Sài Gòn nên quận Thủ Đức còn 14 xã. Địa bàn xã An Khánh Xã cũ được chia thành 2 phường: An Khánh và Thủ Thiêm cùng thuộc quận 1 của Đô thành Sài Gòn. Đầu năm 1967, lại tách 2 phường: An Khánh và Thủ Thiêm lập Quận 9 (quận Chín) thuộc Đô thành Sài Gòn.
wiki
Thủ Đức
Năm 1972, lập xã Phước Bình thuộc quận Thủ Đức. Như thế quận Thủ Đức có 15 xã. Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận Thủ Đức gồm 15 xã trực thuộc: Tam Bình Xã, Long Bình, Long Phước Thôn, Long Thạnh Mỹ, Bình Trưng, Thạnh Mỹ Lợi, Phú Hữu, An Phú, Linh Xuân Thôn, Phước Long Xã, Linh Đông Xã, Long Trường, Tăng Nhơn Phú, Hiệp Bình Xã, Phước Bình. Trước năm 1975, quận Thủ Đức có diện tích khoảng 200 km², gồm 15 xã với dân số là 184.989 người. Huyện Thủ Đức (1975–1997). Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn – Gia Định được thành lập. Theo nghị quyết ngày 9 tháng 5 năm 1975 của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam thành phố Sài Gòn – Gia Định, huyện Thủ Đức được thành lập trên cơ sở toàn bộ quận Thủ Đức cũ thời Việt Nam Cộng hòa. Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn – Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn – Gia Định). Theo đó, Quận 9 (quận Chín) bị giải thể, hai phường trực thuộc chuyển thành hai xã: Thủ Thiêm và An Khánh nhập vào huyện Thủ Đức cùng thuộc thành phố Sài Gòn – Gia Định.
wiki
Thủ Đức
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Huyện Thủ Đức trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, gồm thị trấn Thủ Đức và 16 xã: An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Phước Long, Tam Bình, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm. Ngày 14 tháng 2 năm 1987, theo Quyết định số 33-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, huyện Thủ Đức thành lập thêm một số xã mới như sau: Từ đó, huyện có thị trấn Thủ Đức và 22 xã: An Khánh, An Phú, Bình Trưng, Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Hiệp Phú, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Long Bình, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Long Trường, Phú Hữu, Phước Bình, Phước Long, Tam Bình, Tam Phú, Tân Phú, Tăng Nhơn Phú, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm. Quận Thủ Đức, Quận 2 và Quận 9 (1997–2020). Ngày 6 tháng 1 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 03-CP. Theo đó, giải thể huyện Thủ Đức để thành lập 3 quận mới là quận Thủ Đức, Quận 2 và Quận 9. Đến năm 2019: Thành phố Thủ Đức (2021–nay). Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1111/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021). Theo đó:
wiki
Thủ Đức
Sau khi thành lập, thành phố Thủ Đức có 211,56 km² diện tích tự nhiên và 1.013.795 người, gồm 34 phường trực thuộc. Quá trình hình thành thành phố Thủ Đức. Phát biểu tại buổi lễ công bố Nghị quyết 1111/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 31 tháng 12 năm 2020, ông Nguyễn Thiện Nhân cho biết, bên cạnh các thành tựu phát triển kinh tế mà Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được sau năm 2010 thì một vấn đề cơ bản đang đặt ra là tính vượt trội của tốc độ tăng trưởng của kinh tế thành phố so với cả nước trong giai đoạn này đã giảm mạnh mà chưa có giải pháp khắc phục hiệu quả. Ông dẫn chứng số liệu: bình quân giai đoạn 2001–2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế thành phố cao hơn cả nước là 1,65 lần, song năm 2011 chỉ còn 1,17 lần và bình quân giai đoạn 2011–2019 chỉ cao hơn 1,2 lần. "Điều này đặt ra hai nhiệm vụ cho phát triển lâu dài của thành phố: hoàn thiện cơ chế tài chính - ngân sách và tạo ra động lực mới cho tăng trưởng dựa trên thành tựu cách mạng công nghiệp 4.0. Động lực mới này phải được hình thành trên cơ sở: tạo tương tác có hiệu quả cao giữa các yếu tố nền tảng của cách mạng công nghiệp 4.0 và xác định địa bàn nào cho phép có sự tương tác đó hiệu quả cao nhất", ông Nhân nói.
wiki
Thủ Đức
Cũng theo ông Nhân, trong quá trình phát triển hơn 20 năm, Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức đã tạo nên các hạ tầng kỹ thuật và xã hội quan trọng cho phát triển kinh tế thời kỳ 4.0, nhưng lại nằm rời rạc ở ba quận, không có quy hoạch thống nhất, chính sách thống nhất, quản lý nhà nước thống nhất, do đó không phát huy được tác dụng tổng hợp để tạo ra một trung tâm tăng trưởng mới cho kinh tế thành phố. Qua hội thảo quốc tế được tổ chức ở thành phố vào năm 2018 và 2019, Thường vụ Thành ủy đã thống nhất chủ trương xây dựng một khu đô thị sáng tạo tương tác cao trên địa bàn ba quận này. Thành phố đã chủ động tổ chức thành công thi tuyển quốc tế về ý tưởng thiết kế quy hoạch khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía đông thành phố. Các công ty tư vấn quốc tế có uy tín đã khẳng định: Quận 2, Quận 9 và quận Thủ Đức đã có nhiều tiền đề quan trọng để hình thành một khu đô thị sáng tạo, tương tác cao, nếu được quy hoạch hợp lý, bổ sung các cấu phần còn thiếu, sẽ trở thành một trung tâm kinh tế 4.0 của thành phố, là hạt nhân cho phát triển kinh tế của thành phố và khu vực Đông Nam Bộ. Theo lãnh đạo thành phố, để khu đô thị sáng tạo tương tác cao phát huy tác dụng thì nó phải được quản lý về mặt nhà nước bởi một đơn vị hành chính chứ không thể thuộc ba quận. Do đó, việc sáp nhập ba quận thành một đơn vị hành chính mới có một quy hoạch thống nhất, một hệ thống chính sách thống nhất và một chính quyền quản lý thống nhất là nhu cầu cần thiết.
wiki
Thủ Đức
Ngày 14 tháng 8 năm 2020, Văn phòng Chính phủ ban hành thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình đồng ý thực hiện chủ trương thành lập thành phố Thủ Đức. Ngày 10 tháng 11 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã có Văn bản số 1568/TTg-CN về việc công nhận kết quả rà soát, đánh giá khu vực dự kiến thành lập thành phố Thủ Đức là đô thị loại I trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, hiện nay Thủ Đức vẫn chưa chính thức trở thành đô thị loại I do chưa được Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định công nhận. Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đang xây dựng đề án đề nghị công nhận thành phố Thủ Đức là đô thị loại I để trình Thủ tướng Chính phủ. Đô thị sáng tạo tương tác cao. Ý tưởng về khu đô thị sáng tạo do ông Nguyễn Thiện Nhân, lúc bấy giờ Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khởi xướng, hướng đến xây dựng đô thị thông minh, có chất lượng sống, dựa trên nền tảng về thể chế, lợi thế kinh tế, cơ sở hạ tầng thành phố đã có, gồm khu công nghệ cao (Quận 9); làng đại học hơn 80.000 sinh viên, giảng viên (quận Thủ Đức); khu đô thị mới, trung tâm tài chính Thủ Thiêm (Quận 2). Năm 2018, thành phố đã tổ chức cuộc thi tuyển quốc tế "Ý tưởng quy hoạch phát triển Khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông Thành phố Hồ Chí Minh", thu hút nhiều chuyên gia quốc tế tham dự. Ngày 23 tháng 11 năm 2019, UBND TP.HCM đã trao giải nhất cho đề án của liên danh hai công ty Sasaki – enCity đến từ Mỹ và Singapore.
wiki
Thủ Đức
Theo ý tưởng quy hoạch của đội Sasaki – enCity thì khu đô thị này sẽ bao gồm 6 trọng điểm sáng tạo, cụ thể: Cùng với việc thành lập thành phố Thủ Đức, Sở Quy hoạch – Kiến trúc đã phối hợp với đơn vị tư vấn (liên danh công ty Sasaki – enCity) hoàn chỉnh dự thảo của đề án hình thành và phát triển khu đô thị sáng tạo tương tác cao phía Đông TP.HCM. Theo đó, đề án xác định các trung tâm đổi mới sáng tạo gồm: Khu đô thị mới Thủ Thiêm - Trung tâm công nghệ tài chính; Khu liên hợp thể dục thể thao quốc gia Rạch Chiếc - Trung tâm thể thao và sức khỏe Rạch Chiếc; Khu công nghệ cao - Trung tâm sản xuất tự động hóa và Khu công viên khoa học; Khu Đại học Quốc gia thành phố - Trung tâm công nghệ thông tin và công nghệ giáo dục; Khu Tam Đa, Long Phước - Trung tâm công nghệ sinh thái; Khu Trường Thọ - Đô thị tương lai; Trung tâm kết nối giao thông Vùng Đông Nam Bộ, Khu cảng quốc tế Cát Lái; Trung tâm khởi nghiệp lớn nhất Việt Nam. Với hệ thống giao thông được đầu tư phát triển đồng bộ, thuận lợi để kết nối, hợp tác phát triển kinh tế với các tỉnh lân cận, khu vực này được đánh giá rất thuận lợi để phát triển hệ thống mới hạ tầng đô thị, hạ tầng dịch vụ, đặc biệt là ngành logistics phân phối, vận chuyển hàng hóa bằng cách kết nối luồng vận chuyển đa phương thức bao gồm hàng hải (cụm cảng Cái Lái - Phú Hữu), đường sắt, đường bộ (cảng ICD Long Bình đang thực hiện, bến xe miền Đông mới) và đường thủy nội địa.
wiki
Thủ Đức
Hệ sinh thái khởi nghiệp tại khu vực đã hình thành và phát triển mạnh mẽ, có sự tham gia của nhiều trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, các quỹ đầu tư trong và ngoài nước. Trong đó, Khu công nghệ cao và Khu Đại học Quốc gia TP.HCM có vị trí chủ đạo, đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo của Khu đô thị sáng tạo. Khu công nghệ cao hiện đã thu hút thành công hơn 10 tập đoàn, công ty công nghệ vào đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao như Intel, Nidec, Jabil, Sonion, Sanofi, Nanogen, FPT, Nipro, Datalogic, Samsung... với hàm lượng giá trị tạo ra từ nghiên cứu và phát triển trong cơ cấu giá trị sản phẩm vượt gấp nhiều lần so với sản phẩm từ các khu công nghiệp cả nước. Khu Đại học Quốc gia TPHCM có cơ sở hạ tầng kỹ thuật khá hiện đại, tập trung 12 trường đại học, Viện nghiên cứu, cũng là nơi thu hút nhiều nguồn nhân lực chất lượng cao không chỉ trên địa bàn TP.HCM mà còn kết nối với các tỉnh Bình Dương, Bình Phước và Bà Rịa – Vũng Tàu. Hiện nay, khu vực này đã cơ bản hình thành khu Trung tâm đô thị mới Thủ Thiêm. Mặt bằng hạ tầng đã sẵn sàng cho đầu tư quy mô lớn với chức năng chính là trung tâm thương mại - tài chính quốc tế, dịch vụ và dân cư hiện đại. Đường phố. Gồm các đường đặt tên số, và các tên chữ dưới đây:
wiki
Thủ Đức
An Phú<br>An Tư Công Chúa<br>Bác Ái<br>Bát Nàn<br>Bà Giang<br>Bạch Đông Ôn<br>Bình Chiểu<br>Bình Phú<br>Bình Trưng<br>Bờ Kè<br>Bùi Tá Hán<br>Bùi Thiện Ngộ<br>Bùi Xương Trạch<br>Bưng Ông Thoàn<br>Cao Đức Lân<br>Cây Bàng<br>Cây Keo<br>Cầu Đình<br>Cầu Xây<br>Chân Lý<br>Chu Mạnh Trinh<br>Chu Văn An<br>Chương Dương<br>Công Lý<br>Dân Chủ<br>Dương Đình Hội<br>Dương Lâm<br>Dương Thanh<br>Dương Văn Cam<br>Đàm Văn Lễ<br>Đào Trinh Nhất<br>Đặng Bỉnh Thành<br>Đặng Đình Tướng<br>Đặng Hữu Phổ<br>Đặng Nghiêm<br>Đặng Như Mai<br>Đặng Thanh Hiếu<br>Đặng Thị Rành<br>Đặng Văn Bi<br>Đinh Củng Viên<br>Đinh Thị Thi<br>Đình Phong Phú<br>Đoàn Công Hớn<br>Đoàn Hữu Trưng<br>Đoàn Kết<br>Đồng Văn CốngĐỗ Pháp Thuận<br>Đỗ Quang<br>Đỗ Thế Diên<br>Đỗ Xuân Hợp<br>Einstein<br>Giang Văn Minh<br>Gò Dưa<br>Hàn Thuyên<br>Hàng Tre<br>Hiền Vương<br>Hiệp Bình<br>Hoàng Diệu 2<br>Hoàng Hữu Nam<br>Hoàng Thế Thiện<br>Hồ Bá Phấn<br>Hồ Thị Nhung<br>Hồ Văn Tư<br>Hồng Đức<br>Hồng Sến<br>Hữu Nghị<br>Ích Thạnh<br>Kha Vạn Cân<br>Khải Định<br>Khổng Tử<br>Lã Xuân Oai<br>Lâm Quang Ky<br>Lâm Viên<br>Lê Đình
wiki
Thủ Đức
Đức<br>Hồng Sến<br>Hữu Nghị<br>Ích Thạnh<br>Kha Vạn Cân<br>Khải Định<br>Khổng Tử<br>Lã Xuân Oai<br>Lâm Quang Ky<br>Lâm Viên<br>Lê Đình Quản<br>Lê Hiến Mai<br>Lê Hữu Kiều<br>Lê Phụng Hiểu<br>Lê Quý Đôn<br>Lê Thị Hoa<br>Lê Thước<br>Lê Văn Chí<br>Lê Văn Miến<br>Lê Văn Ninh<br>Lê Văn Tách<br>Lê Văn Thịnh<br>Lê Văn Việt<br>Liên Phường<br>Linh Đông<br>Linh Trung<br>Long Phước<br>Long Sơn<br>Long ThuậnLò Lu<br>Lồ Bắc<br>Lương Định Của<br>Lương Khải Siêu<br>Lưu Đình Lễ<br>Lý Tế Xuyên<br>Mai Chí Thọ<br>Man Thiện<br>Mạc Hiển Tích<br>Nam Cao<br>Nam Hòa<br>Ngô Chí Quốc<br>Ngô Quang Huy<br>Nguyễn An<br>Nguyễn Bá Lân<br>Nguyễn Bá Luật<br>Nguyễn Bỉnh Khiêm<br>Nguyễn Công Trứ<br>Nguyễn Cơ Thạch<br>Nguyễn Cừ<br>Nguyễn Duy Hiệu<br>Nguyễn Duy Trinh<br>Nguyễn Đăng Đạo<br>Nguyễn Đăng Giai<br>Nguyễn Địa Lô<br>Nguyễn Khoa Đăng<br>Nguyễn Đôn Tiết<br>Nguyễn Hoàng<br>Nguyễn Khuyến<br>Nguyễn Mộng Tuân<br>Nguyễn Thị Định<br>Nguyễn Thị Nhung<br>Nguyễn Thị Tư<br>Nguyễn Quang Bật<br>Nguyễn Quý Cảnh<br>Nguyễn Quý Đức<br>Nguyễn Thanh Sơn<br>Nguyễn Thiện Thành<br>Nguyện Thị Diệp<br>Nguyễn Thị Thích<br>Nguyễn
wiki
Thủ Đức
Tư<br>Nguyễn Quang Bật<br>Nguyễn Quý Cảnh<br>Nguyễn Quý Đức<br>Nguyễn Thanh Sơn<br>Nguyễn Thiện Thành<br>Nguyện Thị Diệp<br>Nguyễn Thị Thích<br>Nguyễn Trọng Quản<br>Nguyễn Trung Nguyệt<br>Nguyễn Trường Tộ<br>Nguyễn Tuyển<br>Nguyễn Tư Nghiêm<br>Nguyễn Ư DĩNguyễn Văn Bá<br>Nguyễn Văn Giáp<br>Nguyễn Văn Hưởng<br>Nguyễn Văn Kỉnh<br>Nguyễn Văn Lịch<br>Nguyễn Văn Tăng<br>Nguyễn Văn Thạnh<br>Nguyễn Xiển<br>Phan Bá Vành<br>Phạm Công Trứ<br>Phạm Đôn Lễ<br>Phạm Thận Duật<br>Phạm Văn Đồng<br>Phạm Văn Ngôn<br>Phan Đạt Đức<br>Phan Huy Chú<br>Phan Văn Đáng<br>Phú Châu<br>Phước Thiện<br>Quốc Hương<br>Quốc lộ 1<br>Quốc lộ 1K<br>Quốc lộ 13<br>Suối Cái<br>Sử Hy Nhan<br>Tagore<br>Tam Bình<br>Tam Châu<br>Tam Đa<br>Tam Hà<br>Tạ Hiện<br>Tăng Nhơn Phú<br>Tâm Tâm Xã<br>Tây Hòa<br>Thái Ly<br>Thái Thuận<br>Thảo Điền<br>Thạnh Mỹ Lợi<br>Thân Văn Nhiếp<br>Thống Nhất<br>Thủy Lợi<br>Tinh Thiều<br>Tỉnh lộ 43Tô Ngọc Vân<br>Tô Vĩnh Diện<br>Tố Hữu<br>Tống Hữu Định<br>Trần An<br>Trần Bạch Đằng<br>Trần Đức Thảo<br>Trần Lựu<br>Trần Não<br>Trần Ngọc Diện<br>Trần Quý Kiên<br>Trần Trọng Khiêm<br>Trần Văn
wiki
Thủ Đức
Hữu Định<br>Trần An<br>Trần Bạch Đằng<br>Trần Đức Thảo<br>Trần Lựu<br>Trần Não<br>Trần Ngọc Diện<br>Trần Quý Kiên<br>Trần Trọng Khiêm<br>Trần Văn Nữa<br>Trần Văn Sắc<br>Trịnh Khắc Lập<br>Trịnh Phong Đáng<br>Trịnh Văn Căn<br>Truông Tre<br>Trúc Đường<br>Trương Gia Mô<br>Trương Hanh<br>Trương Văn Bang<br>Trương Văn Hải<br>Trường Khánh<br>Trường Lưu<br>Văn An<br>Võ Chí Công<br>Võ Minh Nhân<br>Võ Nguyên Giáp<br>Võ Trường Toản<br>Võ Văn Hát<br>Võ Văn Ngân<br>Vũ Phương Đề<br>Vũ Tông Phan<br>Xa lộ Hà Nội<br>Xuân Thủy
wiki
Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương
là tên tiểu thuyết phát hành năm 2013 của Murakami Haruki. Đây cũng là tiểu thuyết đầu tiên trong vòng 3 năm kể từ tập cuối tiểu thuyết "1Q84" phát hành năm 2010. Cốt truyện. Tazaki Tsukuru có bốn người bạn thân thời cấp 3. Trong tên của họ đều có Hán tự chỉ màu sắc như "đỏ", "xanh", "trắng" và "đen". Trong tên Tazaki không có gì chỉ màu sắc nên cậu cảm thấy lạ lẫm và lo lắng. Cũng chỉ có mình cậu trong nhóm bạn đó rời bỏ quê nhà đi học một trường đại học ở Tokyo. Rồi một ngày nọ, khi đó cậu 20 tuổi, bốn người kia bảo chấm dứt tình bạn với cậu. Không hiểu lý do vì sao, cậu cảm thấy mất mát và trở nên cô độc. Bởi thế, từ tháng 7 năm thứ hai đại học đến tháng 1 năm thứ ba, "cậu sống mà lúc nào cũng nghĩ đến chết". Thời gian trôi đi, Tazaki đã trở thành một kỹ sư thiết kế đường ray xe lửa và đã 36 tuổi. Bề ngoài, cậu là một người đàn ông thành đạt song thực ra, sự khước từ của bốn người bạn kia đã để lại một vết sẹo không thể nào xoá được trong tâm hồn cậu. Khi tâm sự với người mình yêu về quá khứ của mình, cô gái nói "Anh phải thẳng thắn đối diện quá khứ". Bởi vậy, Tazaki quyết định thực hiện một chuyến "hành hương" kéo dài nhiều năm để đi tìm căn nguyên cho hành động của bốn người bạn của cậu 16 năm trước. Cậu luôn cảm thấy mình là một kẻ thiếu màu sắc hay nhân phẩm, sống một cuộc đời trống rỗng và phù du. Quá trình sáng tác.
wiki
Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương
Quá trình sáng tác. "Kể từ một câu chuyện giống như đường trượt như '1Q84', tôi muốn viết một thứ gì đó khác đi." Murakami nhắn nhủ nhà xuất bản của mình vào tháng 2. "Nhưng tôi không biết nó sẽ như thế nào cho đến khi tôi thực sự bắt đầu xắn tay viết." Ông còn cho biết thêm: "Ban đầu tôi định viết một truyện ngắn nhưng tôi càng viết, nó tự nhiên càng dài ra. Chuyện này không thường xảy ra với tôi lắm, có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi viết "Rừng Na Uy". Phát hành. Tháng 2 năm 2013, ông thông báo cuốn tiểu thuyết đầu tiên trong 3 năm kể từ "1Q84" sẽ được phát hành vào tháng 4. Ngày 12 tháng 4, cuốn sách được chính thức phát hành với tên "Shikisai wo motanai Tazaki Tsukuru, kare no junrei no toshi" (nghĩa là "Tazaki Tsukuru không màu và những năm hành hương của cậu"). Bức tranh tên "Pillar of Fire" của Morris Louis được sử dụng làm hình bìa sách.
wiki
Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương
Ban đầu cuốn sách được cho in 500.000 bản nhưng với số lượng đơn đặt hàng tăng cao, Bungeishunju, nhà xuất bản cuốn sách đã phải in thêm 300.000 bản, phá kỷ lục lượng bản in đầu của bất cứ cuốn sách nào. Một tuần sau khi phát hành, nhà xuất bản đã cho in lên đến 1 triệu bản. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên của Murakami Haruki có tên tiếng Anh chính thức "Colorless Tsukuru Tazaki and His Years of Pilgrimage". Nửa sau tên cuốn sách ám chỉ bản nhạc "Years of Pilgrimage" của nhạc sĩ người Hungary, Franz Liszt. Cũng chính bản nhạc này đã góp phần thôi thúc Tazaki thực hiện cuộc "hành hương" của mình. Cũng sau khi cuốn sách phát hành, album solo của nghệ sĩ piano người Nga Lazar Berman, trong đó có chứa bản thu "Years of Pilgrimage", cũng đã cháy hàng tại Nhật. Universal Music gấp rút cho ấn hành lại album để phát hành vào ngày 15 tháng 5 năm 2013. Khu sách Daikanyama Tsutaya ở Shibuya, Tokyo đã cho đếm ngược thời gian và bắt đầu thực hiện bán cuốn sách lúc nửa đêm trong vòng 3 tiếng đồng hồ. Trong sự kiện này, nhà phê bình văn học Fukuda Kazuya cũng có mặt để chào người đọc và nói chuyện với họ về các tác phẩm đã xuất bản của Murakami Haruki.
wiki
Tazaki Tsukuru không màu và những năm tháng hành hương
Tháng 5 năm 2013, Philip Gabriel, một trong các dịch giả chính của Murakami Haruki sang tiếng Anh, xác nhận rằng ông đang dịch cuốn sách này và dự kiến cuối năm 2013 sẽ hoàn thành để xuất bản năm 2014. Trong một đoạn phỏng vấn bằng e-mail, Gabriel nói: "Đây là một cuốn sách rất thực tế, như "Rừng Na Uy" vậy. Nó, với tôi, có vẻ nặng nề, thậm chí là u buồn hơn so với những tác phẩm khác, nhưng quan trọng nhất, là nó có triển vọng". Đồng thời trong thời gian này, một cuốn sách phi hư cấu của Murakami có tên "Ozawa Seiji-san to Ongaku ni Tsuite Hanashi wo Suru" (nghĩa là "Tôi nói với nhạc trưởng Ozawa Seiji về âm nhạc") (2011) cũng đang được dịch sang tiếng Anh bởi Jay Rubin. Tại Hàn Quốc, sau cuộc tranh chấp giữa các đơn vị xuất bản lớn thì cuối cùng, Minumsa đã mua thành công bản quyền của "Tazaki Tsukuru" với mức giá tối thiểu ước tính 150 triệu won (khoảng 2,7 tỉ đồng). Tại Việt Nam, cuốn sách sẽ được đơn vị chuyên phát hành sách của Murakami Haruki tại Việt Nam - Nhã Nam - phát hành và được dịch bởi Uyên Thiểm (Lương Việt Dũng). Đây sẽ là tiểu thuyết đầu tiên và là ấn phẩm thứ sáu có bản quyền (sau chùm 5 tập truyện ngắn do Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành năm 2006 - 2007) của Haruki được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật sang tiếng Việt. Bản tiếng Việt được ra mắt từ cuối tháng 9 năm 2014.
wiki
Người Negidal
Người Negidal Negidal ("негидальцы" trong Tiếng Nga; tên tự gọi: "элькан бэйэнин", hay elkan bayenin nghĩa là "người bản xứ." Tên Negidal là một từ Nga hóa của thuật ngữ tiếng Evenk là "ngegida", nghĩa là "người ven biển.") là một dân tộc tại vùng Khabarovsk ở Nga, họ sống dọc theo sông Amgun và sông Amur. Ngôn ngữ của họ thuộc hệ ngôn ngữ Tungus và rất gần gũi với tiếng Evenk. Người Negidal có nguồn gốc từ người Evenk, những người sống dọc Amgun và hợp chủng với người Nivkh, người Nanai, và người Ulch. Về mặt chính thức, họ được coi là tín đồ Chính Thống giáo, song vẫn duy trì đức tin thuyết vật linh và Shaman giáo. Theo điều tra năm 2002, có 567 người Negidal tại Nga, 147 trong số đó vẫn còn nói tiếng Negidal.
wiki
Svend Robinson
Svend Robinson (sinh ngày 4 tháng 3 năm 1952) là một chính khách người Canada. Ông là một Nghị sĩ Quốc hội từ năm 1979 đến năm 2004, người đại diện cho các khu vực bầu cử ngoại ô ở khu vực-Vancouver của Burnaby cho Đảng Dân chủ Mới (NDP). Ông được ghi nhận là thành viên đầu tiên của Quốc hội trong lịch sử Canada trở thành người đồng tính công khai khi còn đương chức. Năm 2004, ông đã phạm tội đánh cắp một chiếc nhẫn đắt tiền và quyết định không tham gia cuộc bầu cử tháng 6 năm 2004. Vào thời điểm đó, ông là một trong những thành viên phục vụ lâu nhất trong Hạ viện, đã được bầu và bầu lại trong bảy nhiệm kỳ liên tiếp. Trong cuộc bầu cử liên bang Canada 2019, Robinson là ứng cử viên NDP cho tranh đua Burnaby North-Seymour, nhưng đã thua Terry Beech đương nhiệm Tự do với 1.560 phiếu bầu. Đầu đời. Robinson được sinh ra ở Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ, người gốc Đan Mạch, của Edith Jensen và Wayne Robinson. Cha ông phản đối Chiến tranh Việt Nam và đưa gia đình đến sống ở Canada. Robinson học trung học tại Trường Trung học Burnaby North. Sau đó, ông lấy được bằng luật từ Đại học British Columbia và hoàn thành công việc sau đại học về luật quốc tế tại Trường Kinh tế Luân Đôn. Ông được gọi đến Luật sư British Columbia với tư cách là luật sư và luật sư vào năm 1978, và thực hành luật với Robert Gardner và Cộng sự cho đến khi được bầu vào Hạ viện vào tháng 5 năm 1979.
wiki
Svend Robinson
Ông được gọi đến Luật sư British Columbia với tư cách là luật sư và luật sư vào năm 1978, và thực hành luật với Robert Gardner và Cộng sự cho đến khi được bầu vào Hạ viện vào tháng 5 năm 1979. Trước khi trở thành người đồng tính, Robinson đã kết hôn với Patricia Fraser, bạn gái thời trung học của anh, từ năm 1972 đến năm 1975.
wiki
Đảo lửa
Đảo lửa (chữ Hán: 火燒島, tựa tiếng Anh: Island of Fire) là một bộ phim hành động Hồng Kông sản xuất năm 1990, đạo diễn là Chu Diên Bình. Dàn diễn viên gồm Lương Gia Huy, Thành Long, Lưu Đức Hoa, Hồng Kim Bảo. Một số cảnh trong phim được quay tại Đài Loan và Philippines. Mặc dù trên poster phim thì Thành Long đứng vai chính nhưng vai chính thực sự là Lương Gia Huy. Nội dung. Huỳnh Vỹ, một sĩ quan cảnh sát, chứng kiến một sát thủ giết hại bố vợ mình, vốn là một ủy viên cảnh sát. Khi tên sát thủ cố gắng chạy thoát, hắn bị giết bởi một quả bom được cài trong xe. Vỹ và cộng sự của anh sau đó đã xác định được danh tính tên sát thủ nhưng phát hiện ra rằng hắn là một kẻ phạm trọng tội, người rõ ràng đã bị tử hình trong tù vài tháng trước. Vỹ quyết định điều tra chuyện này, anh vào nhà tù bằng cách tấn công một nhóm thành viên băng đảng tại một quán bar. Trong tù, anh bị nghi ngờ là cảnh sát và bị đánh tơi tả trong một trận giao đấu do nhà tù sắp đặt.
wiki
Đảo lửa
Các bạn tù của Vỹ gồm có Đại Chùy, người đã vô tình giết một chàng trai chơi bài trong khi cố gắng kiếm tiền đưa cho bệnh viện làm phẫu thuật cứu mạng bạn gái anh; Bi Sắt, người tự mình vào tù để tìm cách trả thù cho người em trai bị Đại Chùy giết; và Lưu Thế Kiệt, một tù nhân tốt bụng nhưng đáng thương, thường xuyên trốn về thăm cậu con trai nhỏ. Căng thẳng diễn ra khi Chùy và Bi Sắt ở cùng một khối, nhưng mọi âm mưu làm hại Chùy đều bị ngăn cấm bởi Quế, một đại ca quyền lực. Điều này kết thúc khi Quế bị nhà tù gài bẫy và giết chết. Trong lúc lao động ngoài trời, Kiệt cố gắng vượt ngục lần nữa nhưng đã lái xe tông chết một lính canh, sau đó anh bị tử hình. Cái chết của Quế và sự thối nát của bọn lính canh khiến Vỹ và Chùy gặp nguy hiểm. Một cái bẫy vô tình giết chết Heo - bạn cùng phòng của Vỹ, gây ra một cuộc bạo động quy mô lớn, một gã quản giáo bị Chùy hành hung và bị Vỹ giết chết. Chùy, Bi Sắt và Vỹ đều bị tử hình.
wiki
Đảo lửa
Vỹ tỉnh lại ở một địa điểm bí mật, nơi Trưởng ngục chào đón anh. Trưởng ngục nói rằng hắn làm giả việc tử hình các tù nhân để có thể chiêu mộ họ vào một đội sát thủ. Vỹ cùng với Kiệt, Chùy và Bi Sắt được cử đến một sân bay ở Pasay, Philippines, nơi một trùm ma túy đang bị dẫn độ về Hồng Kông. Họ ám sát tên trùm ma túy, nhưng bị phản bội bởi Trưởng ngục, giống tên sát thủ đã giết bố vợ của Vỹ, và thoát khỏi một chiếc xe có cài bom. Họ bắt một viên cảnh sát làm con tin và bị quân đội bao vây. Cộng sự của Vỹ, người có mặt trong lực lượng cảnh sát hộ tống tên trùm ma túy, giúp Vỹ cướp một chiếc máy bay. Kiệt, Chùy và Bi Sắt cố gắng chạy đến máy bay nhưng đều bị bắn chết, chỉ có Vỹ tẩu thoát thành công. Khi Trưởng ngục trở về nhà, hắn thấy Vỹ đang đợi hắn và yêu cầu câu trả lời. Trưởng ngục giải thích rằng những người bị giết bởi đội sát thủ thực sự có liên quan đến hắn; tên trùm ma túy đã hợp tác với hắn và bố vợ của Vỹ đã điều tra các hoạt động của hắn. Vỹ tức giận định giết Trưởng ngục, nhưng người cộng sự khuyên can anh, vì tất cả lời nói của Trưởng ngục đều đã được ghi âm lại. Trưởng ngục bị bắt giữ và Vỹ trở lại cuộc sống của mình như một cảnh sát.
wiki
Timothy Olyphant
Timothy David Olyphant (sinh ngày 20 tháng 5 năm 1968) là một nam diễn viên người Mỹ. Anh được biết đến nhiều nhất qua vai diễn Cảnh sát trưởng Seth Bullock trong sê-ri truyền hình (phim truyền hình) "Deadwood" (2004-2006) và Raylan Givens trong sê-ri truyền hình "Justified" (2010-nay). Ngoài ra, anh còn tham gia nhiều phim điện ảnh khác. Thời sinh viên, Olyphant còn là một vận động viên bơi lội tài năng. Thời thơ ấu. Olyphant sinh tại Honolulu, Hawaii, Mỹ, là con của John Vernon Bevan Olyphant và Katherine Lyon. "Olyphant" là tên một dòng tộc người Scotland ở cao nguyên Scotland. Anh lớn lên ở Modesto, California và bắt đầu thi đấu bơi lội từ năm 6 tuổi. Lên cấp 3, Olyphant bắt đầu luyện tập nghiêm túc dưới sự hướng dẫn của hướng dẫn viên Darrell Lohrke và trở thành vận động viên bơi lội được xếp hạng cấp quốc gia. Anh vào chung kết Giải vô địch quốc gia bơi quãng ngắn Hoa Kỳ năm 1986, phần Hỗn hợp cá nhân 200. Cùng năm đó, anh tốt nghiệp Trường Trung học Fred C. Beyer. Vào Đại học Nam California học ngành mĩ thuật, Olyphant tiếp tục thi đấu bơi lội ở Los Angeles. Anh ghi danh lớp diễn xuất như một môn tự chọn tại Đại học California Irvine nhằm hoàn tất số tín chỉ cần thiết để tốt nghiệp Đại học Nam California. Sau đó, Olyphant quyết định dời đến thành phố New York để học diễn xuất thay vì tiếp tục học lên thạc sĩ ngành mĩ thuật. Anh học diễn xuất trong hai năm tại William Esper Studio rồi đi tìm việc nghề diễn xuất. Sự nghiệp diễn xuất.
wiki
Timothy Olyphant
Sự nghiệp diễn xuất. Olyphant ra mắt năm 1995 tại sân khấu Off-Broadway chuyên nghiệp năm 1995 với vai Tim Hapgood trong vở "The Monogamist" của Playwrights Horizons, qua đó nhận giải Theatre World. Năm 1996, anh xuất hiện trong vở kịch độc diễn "SantaLand Diaries" do David Sedaris viết và do Joe Mantello chuyển thể và đạo diễn, cũng như xuất hiện trong vở kịch "Plunge". Sau đó, Olyphant quay về Los Angeles và tìm việc trong ngành truyền hình. Năm 195 anh lần đầu bắt đầu nghiệp diễn trên TV trong tập phim thử nghiệp của sê-ri làm lại "77 Sunset Strip" do Clint Eastwood sản xuất. Anh cũng được nhận diễn trong tập thử nghiệp của sê-ri Mr. & Mrs. Smith (1996) của đài CBS trong vai Scooby. Olyphant diễn ba tập của phim truyền hình đề tài cảnh sát "High Incident" và phim truyền hình "Ellen Foster" (1997) của Hallmark Channel. Năm 1998, anh góp mặt trong phim "When Trumpets Fade" - một phim lấy đề tài là trận chiến rừng Hürtgen năm 1944 - của HBO. Năm 1998, anh được mời diễn trong tậo phim "Valley of the Twenty Something Guys" của sê-ri "Sex and the City" trong vai bạn trai của Carrie Bradshaw.
wiki
Timothy Olyphant
Olyphant lần đầu diễn xuất trong phim điện ảnh với một vai nhỏ trong phim "The First Wives Club" (1996). Anh xuất hiện thoáng qua trong phim "A Life Less Ordinary" (1997) và thu hút sự chú ý của khán giả qua sự góp mặt trong phim kinh dị "Scream 2" (1997). Anh đóng vai kẻ buôn ma túy trong phim hài "Go" (1999). Các phim tiếp theo có anh diễn là "Advice from a Caterpillar" (1999), "No Vacancy" (1999), "The Broken Hearts Club: A Romantic Comedy" (2000), "Gone in 60 Seconds" (2000), "Rock Star" (2001) và "Dreamcatcher" (2003). Năm 2004, anh đóng vai một nhà sản xuất phim khiêu dâm trong phim "The Girl Next Door". Từ 2004 đến 2006, Olyphant vào vai vị cảnh sát trưởng Seth Bullock trong sê-ri "Deadwood" của HBO trong ba mùa phim. Anh xem đó là một trong những vai chính đầu tiên thể hiện sự "phức tạp" và "tinh tế". Tháng 1 năm 2007, anh tham gia phim hài "Catch and Release" bên nữ diễn viên Jennifer Garner. Để diễn trong phim này, anh đã vượt qua nhiều nam diễn viên tên tuổi khác, trong đó có cả Matthew Fox. Được biết Olyphant từng học diễn xuất với Garner khi anh mới chuyển đến New York. Sau đó, anh tham gia phim "Live Free or Die Hard" cùng với Bruce Willis trong vai kẻ khủng bố trên mạng Thomas Gabriel. Cũng trong năm 2007, anh cạo trọc đầu để vào vai chính Đặc vụ 47 trong phim "Hitman". Năm 2008, các phim có anh tham gia là "Stop-Loss" (kể về chiến tranh Iraq), "Meet Bill" (phim hài có Aaron Eckhart và Jessica Alba) và lồng tiếng cho trò chơi điện tử "Turok".
wiki
Timothy Olyphant
Olyphant còn là bình luận viên thể thao không nhận lương cho show truyền thanh buổi sáng trên sóng truyền thanh Indie 103.1 ở Los Angeles cho đến khi kênh này chấm dứt vào tháng 1 năm 2009. Tháng 6 năm 2008, anh tham gia sê-ri "Damages" của FX với vai Glenn Close. Cùng lúc đó, anh cũng tham gia hài kịch tình huống "Samantha Who?" nhưng sau anh được thay bởi Billy Zane. Năm 2009, anh diễn cùng Steve Zahn và Milla Jovovich trong phim "A Perfect Getaway" với vai một cựu chiến binh chiến tranh Iraq nhưng có thể cũng là một kẻ giết người hàng loạt. Năm 2010, anh vào vai cảnh sát trưởng thị trấn trong bản làm lại của phim "The Crazies". Mùa xuân năm 2010, Olyphant nhận vai chính Raylan Givens trong sê-ri "Justified" của FX. Trong phim, Givens đội nón Stetson và hành xử như một cảnh sát trưởng của miền Viễn Tây hoang dã dù rằng đó là vào thế kỉ 21. Sê-ri dựa trên nhân vật của Elmore Leonard trong các tiểu thuyết "Pronto" và "Riding the Rap" và truyện ngắn "Fire in the Hole". Cũng trong năm 2010, anh diễn hai tập trong mùa 7 của hài kịch "The Office" (kênh NBC). Năm 2011, anh lồng tiếng Spirit of the West cho phim hoạt hình "Rango". Đời tư. Olyphant sống ở Westwood, Los Angeles cùng vợ và ba con. Anh kết hôn với vợ là Alexis Knief vào tháng 7 năm 1991. Con gái đầu lòng Grace Katherine sinh năm 1999, nối tiếp là con trai Henry và con gái Vivian.
wiki
Embraer EMB 120 Brasilia
Embraer EMB 120 Brasilia là một máy bay dân dụng cỡ lớn hai động cơ tuabin phản lực cánh quạt, do hãng Embraer sản xuất. Thiết kế và phát triển. Chuyến bay đầu tiên diễn ra vào ngày 27 tháng 7-1983, và bắt đầu đi vào hoạt động thương mại chính thức vào tháng 10 năm 1985. Từ năm 1994, việc sản xuất chỉ còn thực hiện trên EMB 120ER, với tầm bay tăng lên 1.575 km và sức chứa cũng tăng lên. Lịch sử hoạt động. Hầu hết những chiếc EMB 120 được bán tại Hoa Kỳ và những nơi khác tại Tây bán cầu. Một số hãng hàng không của Châu Âu như Régional tại Pháp, DAT tại Bỉ, và DLT tại Đức cũng mua máy bay EMB-120. Việc sản xuất hàng loạt kết thúc vào năm 2001. Đến năm 2007, dây chuyền vẫn có thể thực hiện việc chế tạo thêm máy bay, dây chuyền sản xuất EMB 120 chia sẻ nhiều thiết bị sản xuất với dây chuyền sản xuất Dòng ERJ-145, hiện đang được sản xuất. Không quân Angola đã mua mới một chiếc EMB 120 vào năm 2007. SkyWest hiện nay đang vận hành một đội bay nhiều chiếc EMB 120 dưới các biểu tưởng của United Express và Delta Connection. Quốc gia sử dụng. Dân sự. [[Tập tin:Airnorth Brasilia.jpg|nhỏ|250px|Airnorth Embraer EMB 120 Brasilia]] Đến tháng 8, [[2006]] tổng cộng có 208 chiếc EMB 120 hoạt động trong các hãng hàng không trên khắp thể giới. Các hãng sử dụng chính bao gồm: Khoảng 40 hãng hàng không khác cũng sử dụng loại máy bay này nhưng với số lượng nhỏ hơn. Thông số kỹ thuật (EMB 120ER).
wiki
Embraer EMB 120 Brasilia
Khoảng 40 hãng hàng không khác cũng sử dụng loại máy bay này nhưng với số lượng nhỏ hơn. Thông số kỹ thuật (EMB 120ER). [[Tập tin:Skywest Airlines Embraer EMB-120ER Brasilia N216SW.jpg|nhỏ|250px|Skywest Airlines Embraer EMB-120ER Xem thêm. Trình tự thiết kế. [[Thể loại:Máy bay phản lực]] [[Thể loại:Máy bay quân sự]] [[Thể loại:Máy bay cánh quạt]] [[Thể loại:Máy bay cánh dưới]] [[Thể loại:Máy bay nhiều động cơ]] [[Thể loại:Máy bay dân dụng cỡ lớn Brazil 1980-1989]] [[Thể loại:Máy bay Embraer]]
wiki
The Crystal Ship
The Crystal Ship "The Crystal Ship" là ca khúc nằm trong album debut The Doors của ban nhạc huyền thoại người Mỹ The Doors. Ca khúc cũng đồng thời xuất hiện tại mặt B (B-side) trong single "Light My Fire". Theo tay trống John Densmore, The Crystal Ship là bản tình ca cho người bạn gái cũ của Jim Morrison, Mary Werbelow. Một giả thuyết cũng được đưa ra, cho rằng hình ảnh "con thuyền pha lê" được truyền cảm hứng từ hình ảnh Platform Holly, một giàn khoan dầu nằm tại bờ biển Santa Barbara, California, với sự lấp lánh tựa một con thuyền pha lê bập bềnh trong đêm mà Jim Morrison đã tình cờ bắt gặp.
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Địa điểm xuất phát phát triển của nền văn minh Hy Lạp là đồng bằng Thessalia (Θεσσαλία) màu mỡ, rộng lớn ở vùng bắc Hy Lạp cùng với các đồng bằng Attike (Αττική), Beotia (Βοιωτια) ở trung Hy Lạp và bán đảo Peloponnese (Πελοπόννησος) ở phía nam Hy Lạp. Tại đây nghề trồng trọt và chăn nuôi phát triển rất sớm. Địa hình Hy Lạp có nhiều đồi núi xen kẽ, chia cắt các đồng bằng, tạo thành các tiểu vùng. Các bờ biển phía đông Hy Lạp là nơi tấp nập tàu thuyền. Lãnh thổ nền văn minh Hy Lạp thời kỳ đầu bao gồm Hy Lạp ngày nay và các đảo thuộc biển Aegaeum và vùng Tây Tiểu Á. Địa lý Hy Lạp đa dạng kết hợp với khí hậu tốt, cận nhiệt đới, vào mùa đông ít tuyết. Khí hậu Hy Lạp mưa nhiều vào mùa đông sang mùa xuân rất thuận lợi cho trồng trọt. Hy Lạp có nhiều khoáng sản như sắt (ở Sparte - Σπάρτη), đồng (ở đảo Kypros - Κύπρος), vàng (ở Thrace - Θράκη) và bạc (ở Attike - Αττική). Đó là điều kiện thuận lợi cho thủ công nghiệp phát triển khá sớm. Những điều kiện địa lý, tự nhiên rất thuận lợi cho các ngành nghề như thương mại, thủ công nghiệp và một nền nông nghiệp tuy không giàu có nhưng đủ đảm bảo các nhu cầu của cư dân trong vùng. Hy Lạp nằm ở vị trí thuận lợi, án ngữ trên con đường giao lưu của các dòng di cư trong lịch sử cổ đại của các dòng người từ châu Phi lên, từ Trung Á sang, từ châu Âu xuống. Cư dân Hy Lạp gọi vùng đất của mình là Acaios rồi Ddanaos, đến khi La Mã xuất hiện thì gọi là Henlat và người Hy Lạp được gọi là Hellen.
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Cư dân Hy Lạp gọi vùng đất của mình là Acaios rồi Ddanaos, đến khi La Mã xuất hiện thì gọi là Henlat và người Hy Lạp được gọi là Hellen. Tuy nền văn minh Hy Lạp xuất hiện muộn hơn nền văn minh Ai Cập cổ đại nhưng nhờ tiếp thu được nhiều giá trị từ Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại và phát triển lên, nâng lên tầm khái quát, nên nền văn minh Hy Lạp cổ đại đã có rất nhiều đóng góp giá trị. Các thời kỳ của văn minh Hy Lạp. Văn minh Hy Lạp trải qua các thời kỳ phát triển rực rỡ, người ta chia làm hai thời kỳ lớn: thời kỳ Tiền Hy Lạp (kéo dài từ 3000 năm đến 1200 năm TCN) và thời kỳ Hy Lạp chính thống (từ thế kỷ 12 TCN đến thế kỷ 1 TCN). Thời kỳ Tiền Hy Lạp (còn gọi là thời kỳ văn minh vùng biển Aegaeum) bao gồm ba giai đoạn: Thời kỳ Hy Lạp chính thống được phân ra ba thời kỳ nhỏ: Thời kỳ hậu Hy Lạp chính thống: Những thành tựu của văn hóa Hy Lạp. Văn học Hy Lạp. "Xem bài chính: tiếng Hy Lạp" Văn học cổ điển được viết dưới thời Hy Lạp cổ xưa từ thế kỷ thứ 4 và phát triển lên trong thời Đế chế Byzantine. Vào thời kỳ đầu, Hy Lạp có 2 tác phẩm đồ sộ của Homer, "Iliad" và "Odyssey". Một nhà thơ vĩ đại của thời kỳ này là Hesiodos (Ησίοδος). Ông có hai tác phẩm trường tồn là "Works and Days" (Έργα και ημέραι) và "Theogonia" (Θεογονία).
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Chiếm vị trí quan trọng trong văn học Hy Lạp cổ đại phải kể đến thần thoại Hy Lạp. Thần thoại Hy Lạp khá phong phú và thể hiện trong đó cách giải thích của người Hy Lạp về tự nhiên, nguồn gốc loài người đồng thời nêu lên những kinh nghiệm của cuộc sống lao động và ước vọng của mình. Các nhân vật trong thần thoại từ vũ trụ, thần thánh tới các bậc anh hùng dũng sĩ. Từ khối hỗn mang (gọi là "Chaos"), xuất hiện nữ thần đất Gaia rồi thần ái tình Eros nhờ đó Chaos và Gaia lấy nhau sinh ra đêm tối, ánh sáng, sao trời, biển cả, núi non, sông ngòi, sấm chớp... Bàn tay khéo léo của Prometheus đã nặn ra loài người từ đất sét và lấy trộm lửa mang đến cho loài người. Dưới sự điều khiển của thần Zeus, vị thần tối cao của các thần ngự trị trên đỉnh Olympus quanh năm tuyết phủ đã can thiệp vào mọi lĩnh vực đời sống con người. Thần thánh vừa thể hiện sức mạnh của trần gian vừa thể hiện sự lao động sáng tạo của con người như: thần trồng nho Dionysus, nữ thần nông nghiệp Demeter, thần thợ rèn Hephaistos, nữ thần anh hùng Calios, nữ thần múa Ternexiso...
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Nhiều bài thơ trữ tình cũng được sáng tác ở thời kỳ này là của Sappho (Σαπφώ) và Pindarus (Πίνδαρος). Những người Hy Lạp còn nổi tiếng với các tác phẩm kịch sân khấu và các trường ca bất hủ. Có khoảng 100 vở bi kịch được trình diễn trong suốt thời gian dài, về sau chỉ còn ba kịch gia được xem là tồn tại lâu hơn cả: Aeschylus (Αἰσχύλος), Sophocles (Σοφοκλης) và Euripides (Ευριπίδης). Trên cơ sở truyện dân gian, ra đời truyền thuyết về thành Troia. Giống như các vở bi kịch, thể loại kịch nói cũng được thể hiện trong các dịp trang trọng tại nhà hát Dionysus tại Athena, nhưng ở đây vở diễn bao hàm đầy đủ các yếu tố như tục tĩu, chửi bới và lăng nhục. Một tác phẩm kịch trường tồn của Aristophanes (΄Αριστοφανης) là một kho tàng của thể loại hài hước. Menanderus (Μένανδρος) là nhà văn đã đề xuất thể loại kịch Hy Lạp theo trào lưu mới. Tác phẩm văn xuôi vĩ đại của thế kỷ thứ 4 là viết về triết học. Thời kỳ này xuất hiện rất nhiều triết gia Hy Lạp, nhưng có ba triết gia nổi tiếng: Socrates, Platon và Aristotle. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, Platon là người hầu như không có đối thủ. Sử học Hy Lạp. Hai trong rất nhiều nhà sử học của thời kỳ Hy Lạp cổ điển là Herodotus (Ἡρόδοτος) và Thucydides (Θουκυδίδης). Nhà sử học thứ ba, Xenophon (Ξενοφῶν), viết "Hellenica" khi Thucydides kết thúc công việc vào năm 411 TCN và được tiếp tục công việc cho đến năm 362 TCN.
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Vào thời kỳ Roma, Hy Lạp có các sử gia quan trọng sau thời Alexander Đại đế là Timaeus, Polybius (Πολυβιος), Diodorus Siculus, Dionysius của Halicarnassus, Appian của Alexandria, Lucius Flavius Arrianus và Plutarch. Thời kỳ của các tác phẩm sử học được họ viết từ thế kỷ thứ 4 TCN cho đến thế kỷ thứ 2. Nghệ thuật. "Xem bài chính: Nghệ thuật Hy Lạp" Kiến trúc Hy Lạp cổ đại và điêu khắc của nền văn minh Hy Lạp phát triển rực rỡ và để lại dấu ấn sâu sắc hơn cả. Những công trình điêu khắc Hy Lạp cổ thời gian đầu chịu ảnh hưởng của trường phái nghệ thuật phương Đông. Nhưng nghệ thuật tạo hình và điêu khắc đạt đến đỉnh cao là ở thời kỳ Hy Lạp hóa (thế kỷ 5 đến thế kỷ 4 TCN). Nhiều công trình được sáng tạo bởi Polygnotus, Myron, Phidias. Tác phẩm Tượng thần Athena và Marsyas (tại Vườn Bách thảo của Copenhagen) được sáng tác bởi Myron. Kiến trúc và điêu khắc Hy Lạp cổ thường đi song hành bên nhau. Những giá trị lớn tập trung tại các công trình kiến trúc lớn, những bức tranh tường, những bức tượng lớn trong một đại sảnh là hình ảnh thường gặp ở Athena. Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc của Hy Lạp cổ đại đã có tác dụng kinh điển và ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nền nghệ thuật của nhiều quốc gia từ cổ đại cho đến ngày nay. Đồ gốm của Hy Lạp cổ đại có thể xem như những tác phẩm tuyệt đẹp và sức lan tỏa, thắm đượm tinh chất huyền
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Đồ gốm của Hy Lạp cổ đại có thể xem như những tác phẩm tuyệt đẹp và sức lan tỏa, thắm đượm tinh chất huyền thoại và thơ ca Hy Lạp cổ. Đồ gốm được sản xuất cho các công việc và sử dụng chúng hàng ngày mà không phải để trưng bày. Rất nhiều đồ gốm Hy Lạp cổ đại vẫn còn cho đến ngày nay, như các loại bình đựng rượu, bình đựng nước, các bình tế lễ, các loại bình có tay cầm, các loại chén bát. Phong cách làm gốm của Hy Lạp cũng thay đổi theo các thời kỳ khác nhau, mỗi thời kỳ lại có những đặc sắc riêng, càng về sau càng tinh xảo và thẩm mỹ hơn. Các bức tượng cổ Hy Lạp là cả một nền nghệ thuật mẫu mực, ảnh hưởng đến trường phái nhiều quốc gia châu Âu sau này, đặc biệt ảnh hưởng trực tiếp đến phong cách Roma cho đến thời kỳ Phục Hưng. Kiến trúc Hy Lạp cổ là những công trình đồ sộ và nghệ thuật cho cả châu Âu sau này. "Xem bài chính: Kiến trúc Hy Lạp cổ đại" Triết học Hy Lạp cổ. "Xem bài chính: Triết học Hy Lạp cổ đại" Hy Lạp cổ đại là quê hương của triết học phương Tây, ở đây có cả hai trường phái triết học duy vật và duy tâm. Ẩm thực Hy Lạp cổ. "Xem bài chính: Ẩm thực Hy Lạp cổ đại" Bức tranh ẩm thực Hy Lạp cổ đại phản ánh như là đặc tính tiết kiệm, chính là đặc trưng của vùng Địa Trung Hải, bởi vì nông nghiệp thực sự không thuận lợi cho khu vực này. Các món ăn truyền thống như, bánh mì, dầu ôliu và rượu. Ngoài những thực phẩm chính trên, người Hy Lạp cổ đại còn các thực phẩm như: trái cây và các loại rau, thịt và cá, sữa dê, mật ong...
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Ngoài những thực phẩm chính trên, người Hy Lạp cổ đại còn các thực phẩm như: trái cây và các loại rau, thịt và cá, sữa dê, mật ong... Những dụng cụ dùng để chế biến và sử dụng thức ăn hàng ngày cũng như cất giữ thực phẩm của người Hy Lạp cổ đại được xem là tuyệt đẹp và có tầm ảnh hưởng đến nghệ thuật châu Âu nhiều thế kỷ sau này và cho đến tận ngày nay. Ẩm thực thường ngày của cư dân Hy Lạp cổ đại thường có các bữa như sau: Các hoạt động thể thao Hy Lạp cổ. "Xem bài chính: Olympia Hy Lạp cổ đại" Thể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín ngưỡng của các thành phố Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776 TCN và kéo dài tới năm 393. Được tổ chức mỗi 4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số môn tham gia thi đấu chính thức có lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau. Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ theo thời gian, tuy vậy nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và thần thoại Hy Lạp. Những cuộc thi đấu được diễn ra ở Olympia, một địa điểm thiêng liêng cho các thần Hy Lạp, trong quận Elis của vùng Tây Hy Lạp. Đền thờ ở Olympia có chứa một bức tượng của thần Zeus cao đến 12 mét bằng ngà voi và vàng do Phidias điêu khắc. Bức tượng này chính là một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Thành tựu y học Hy Lạp cổ.
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Thành tựu y học Hy Lạp cổ. Về y học, Hy Lạp cổ có một thiên tài lỗi lạc, đó là Hippocrates, một trong những danh y giỏi nhất của mọi thời và thường được xem là cha đẻ của y học. Sinh năm 460 TCN tại đảo Cos vùng biển Aegeum, Hippocrates là con trai một người làm thuốc, được cha truyền cho những kiến thức về y tế, sau đó tiếp tục học ở Athena và nhiều thành phố khác trong vùng. Ông hành nghề trên đảo Cos và nổi tiếng từ đó. Vào thời trước Hippocrates, người Hy Lạp rất mê tín dị đoan. Họ tin rằng bệnh tật do ma lực huyền bí gây nên và chỉ có thể được chữa khỏi nhờ các thầy phù thủy. Hippocrates đã mở ra một kỷ nguyên mới cho y học, xem bệnh tật như một hiện tượng thiên nhiên, có thể chữa trị dựa vào quan sát lâm sàng tỉ mỉ cũng như căn cứ vào các triệu chứng của bênh. Cụ thể là ông nhìn nước da, quan sát mắt bệnh nhân, chú ý họ có bị sốt hoặc lạnh hay không. Hippocrates cũng khuyến khích học trò làm việc hết sức mình vì lợi ích của bệnh nhân. Lời thề nổi tiếng mà các bác sĩ tuyên đọc trước khi ra trường trước đây, về sau được đặt tên là lời thề Hippocrates. Lời thề này chủ yếu nhấn mạnh, cấm bác sĩ giúp nữ bệnh nhân phá thai, trao thuốc độc theo yêu cầu, gợi ý của bệnh nhân, làm phẫu thuật không cần thiết. Ngoài ra, lời thề còn đòi hỏi bác sĩ tránh quan hệ tình dục với bệnh nhân, không tiết lộ những chuyện liên quan đến bệnh nhân. Toán, lý học Hy Lạp cổ. "Xem bài chính: Toán học Hy Lạp cổ đại"
wiki
Văn hóa Hy Lạp
Toán, lý học Hy Lạp cổ. "Xem bài chính: Toán học Hy Lạp cổ đại" Thế giới Hy Lạp cổ đại còn cống hiến cho nhân loại nhiều nhà bác học mà đóng góp của họ tới nay vẫn còn giá trị như: Euclides, người đưa ra các tiên đề hình học và đặt cơ sở cho môn hình học sơ cấp; Pythagoras, người đã chứng minh định lý mang tên ông và ngay từ thế kỉ thứ 5 TCN đã đưa ra giả thuyết Trái Đất hình cầu; Thales, người đã đưa ra định lý Thales; và, đặc biệt nhất, Archimedes, người đã đề ra nguyên lý đòn bẩy, chế ra gương cầu lõm, máy bắn đá và phát hiện ra lực đẩy tác động lên một vật nếu vật đó trong lòng chất lỏng (lực đẩy Archimedes). Luật pháp và tổ chức nhà nước. Các quốc gia ở phương Tây chịu ảnh hưởng nhiều về hệ thống pháp luật và cách tổ chức nhà nước từ Hy Lạp cổ đại. Nhà nước ở Hy Lạp cổ đại hình thành trên cơ sở sự tan rã của xã hội thị tộc. Nhà nước dân chủ chủ nô ở Hy Lạp ngày càng được hoàn thiện qua những cải cách của Solon, Cleisthenes và Pericles. Về luật pháp, bộ luật cổ nhất của Hy Lạp là bộ luật Draco, bộ luật này có những hình phạt rất khắc nghiệt, có khi chỉ ăn cắp cũng bị xử tử. Sau này, nhờ những cải cách của Solon, Cleisthenes... luật pháp Hy Lạp ngày càng mang tính dân chủ hơn (nhưng cũng chỉ công dân tự do mới được hưởng, nô lệ thì không).
wiki
Zingiber nanlingense
Zingiber nanlingense Zingiber nanlingense là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Lin Chen, An Qiang Dong và Fu Wu Xing miêu tả khoa học đầu tiên năm 2011 dưới danh pháp "Zingiber nanlingensis". Tuy nhiên, do "Zingiber" là danh từ giống trung nên danh pháp đúng quy tắc chính tả phải là "Zingiber nanlingense" và điều này được WCSP, POWO ghi nhận; trong khi IPNI, The Plant List, ZRC vẫn ghi nhận theo danh pháp gốc. Từ nguyên. Tính từ định danh "nanlingense" (giống đực/giống cái: "nanlingensis") lấy theo tên gọi dãy núi Nam Lĩnh ở phía bắc tỉnh Quảng Đông. Mẫu định danh. Các mẫu định danh bao gồm: Phân bố. Loài này là đặc hữu Trung Quốc, được tìm thấy trong khu vực phía bắc tỉnh Quảng Đông, ở cao độ khoảng 100 m. Phân loại. Gần giống với "Z. mioga", loài được Schumann (1904) xếp trong tổ trong tổ "Cryptanthium".
wiki
Bia Seidl
Maria Beatriz Parpinelli Seidl (sinh ngày 19 tháng 9 năm 1961, tại Rio de Janeiro, Brazil) là một nữ diễn viên người Brazil. Nghề nghiệp. Trên truyền hình, cô đóng trong một số phim tiểu thuyết quan trọng như "Paraíso", "Louco Amor", "Dona Beija", "Mandala", "Vale Tudo", "Vamp", "Engraçadinha." "." "." "Seus Amores e Seus Pecados", "Đài tưởng niệm Maria Moura", "Alma Gêmea" và gần đây ở "Insensato Coração". Nhưng nó được đánh dấu bằng màn trình diễn là Gláucia "A Gata Comeu đáng" ghét và đáng ghen tị ở một trong những phim hit lớn nhất của nó. Bia đã tâm sự trên cuốn tiểu thuyết của Sílvio de Abreu, "Jogo da Vida", một cuốn tiểu thuyết của São Paulo. Vera, nhân vật của cô ở "Malhação", phát hiện ra một căn bệnh ung thư vú và đang tiến hành phẫu thuật cắt bỏ vú triệt để (lựa chọn, một quyết định dũng cảm không tái tạo lại bộ ngực đã mất). Trong nhà hát đóng vai Bernard Shaw "Cândida" là nhân vật chính, một người phụ nữ kết hôn với một người mục sư. Năm 2007, cô đã xuất hiện trong tiểu thuyết "Duas Caras". Năm 2008, Rod tham gia hai tập phim "Casos e Acasos". Năm 2009, cô được chọn vào đóng phim microssérie "Deu a Louca no Tempo". Trong cùng năm đó đã tham gia vào việc làm lại cuốn tiểu thuyết "Paraíso". Nữ diễn viên tham gia dàn diễn viên của phiên bản đầu tiên của cuốn tiểu thuyết này mở đầu năm 1982.
wiki
Bia Seidl
Năm 2010, cô được mời tham gia loạt phim "A Vida Alheia". Năm sau, nữ diễn viên của tiểu thuyết "Insensato Coração". Năm 2012, cuốn tiểu thuyết là "Lado a Lado", đóng vai người mẹ gương mẫu Margarida. Năm 2017, Bia ký hợp đồng với RecordTV để chơi Débora, một trong những nhân vật chính trong "Apocalipse".
wiki
Lasionycta skraelingia
Lasionycta skraelingia Lasionycta skraelingia là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. It has a miền Toàn bắc distribution, có mặt từ Scandinavia tới tây bắc Bắc Mỹ. ở Bắc Mỹ this species được tìm thấy ở three specimens from Windy Pass, Ogilvie Mountains, Yukon. Sải cánh dài khoảng 31 mm. Con trưởng thành bay từ cuối tháng 6 đến đầu tháng 7. In Eurasia, loài này là hai năm một lần. Điều này có thể cũng là trường hợp ở Bắc Mỹ. Các mẫu vật được thu thập Yukon được trong hai năm lẻ. Tại Scandinavia loài là ăn tạp và ăn các loài cây "Betula nana", "Polygonum aviculare" và "Vaccinium uligonosum". Chú thích. [[Thể loại:Lasionycta]] [[Thể loại:Côn trùng châu Âu]]
wiki
Hà Đức Chinh
Hà Đức Chinh (sinh ngày 22 tháng 9 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Topenland Bình Định và đội tuyển quốc gia Việt Nam. Hà Đức Chinh là thành viên đội tuyển U-20 Việt Nam tham dự U-20 World Cup 2017 tại Hàn Quốc. Tiểu sử. Hà Đức Chinh là người dân tộc Mường, sinh ra tại xóm Dụ, xã Xuân Đài, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ trong một gia đình thuần nông nghèo khó. Bản thân Đức Chinh đam mê đá bóng từ nhỏ nhưng gia đình không có điều kiện mua bóng nên phải đến khi vào lớp 4, được chọn vào đội bóng của trường, Đức Chinh mới được làm quen với quả bóng. Anh tham gia nhiều giải đá bóng nhi đồng và được các huấn luyện viên bóng đá của tỉnh đưa xuống huấn luyện tại trường Năng khiếu TDTT tỉnh Phú Thọ. Từ năm 2007 đến năm 2012, Hà Đức Chinh thường xuyên góp mặt trong những giải đấu phong trào cấp huyện, cấp tỉnh. Tuy nhiên, niềm đam mê và tài năng của Đức Chinh chính thức được phát huy, toả sáng khi khoác áo đội nhà Phú Thọ thi đấu tại Hội khỏe Phù Đổng năm 2012 diễn ra ở Cần Thơ. Hà Đức Chinh đã gây được sự chú ý với huấn luyện viên Trần Minh Chiến cùng các tuyển trạch viên của lò đào tạo bóng đá trẻ PVF. Anh được tuyển vào trung tâm đào tạo bóng đá trẻ PVF vào năm 2012. Sự nghiệp. Hà Đức Chinh thuộc lứa cầu thủ tuyển U-19 Việt Nam tham dự chung kết giải U-19 Đông Nam Á 2015 và đoạt vé dự vòng chung kết U-19 châu Á 2016. Trước đó, đội tuyển anh tham dự đã giành chức vô địch U19 quốc gia 2015 với 7 lần lập công.
wiki
Hà Đức Chinh
Mùa giải V-League 2016, Hà Đức Chinh nằm trong số 6 cầu thủ của PVF được đem cho Than Quảng Ninh mượn để thi đấu. PVF đã đồng ý và không thu bất kỳ khoản phí nào. Tuy nhiên, đi kèm yêu cầu câu lạc bộ Than Quảng Ninh phải cam kết đảm bảo số trận ra sân thi đấu nhất định cho các cầu thủ PVF nhằm đảm bảo các cầu thủ phải được cọ xát tại sân chơi V-League. Đại diện câu lạc bộ Than Quảng Ninh không tiết lộ mức lương thưởng cụ thể nhưng chắc chắn không thấp hơn mức phụ cấp 250.000 đồng/ngày các cầu thủ hưởng ở PVF. Ngày 18 tháng 11 năm 2016, Hà Đức Chinh cùng 8 cầu thủ được trao chứng nhận hoàn thành khóa đào tạo cầu thủ bóng đá trẻ đầu tiên của Quỹ Đầu tư và Phát triển Tài năng Bóng đá Việt Nam diễn ra tại Trung tâm Thể thao Thành Long. Đức Chinh được PVF ký kết bàn giao cho câu lạc bộ SHB Đà Nẵng để thi đấu cho mùa giải V-League 2017 cùng với Mạc Đức Việt Anh, Đỗ Thanh Thịnh và Phạm Trọng Hóa. Ban đầu, Đức Chinh không được huấn luyện viên Park Hang-seo đánh giá quá cao khi tập trung cùng U-23 Việt Nam chuẩn bị cho vòng chung kết U-23 châu Á 2018. Tuy nhiên, sự nỗ lực trong tập luyện và thi đấu giúp anh dần ghi điểm với ông thầy người Hàn Quốc. Hai pha lập công trong các trận giao hữu vào lưới câu lạc bộ Ulsan Hyundai và tuyển U-23 Palestine giúp Đức Chinh được HLV Park điền tên vào danh sách tham dự vòng chung kết giải U-23 châu Á năm 2018 tại Trung Quốc.
wiki
Hà Đức Chinh
Ngày 4 tháng 11 năm 2021, Hà Đức Chinh chính thức chia tay câu lạc bộ SHB Đà Nẵng. Sau đó, anh đã tìm được bến đỗ mới là câu lạc bộ Topenland Bình Định. Tuy nhiên, Đức Chinh lại không có phong độ tốt trong màu áo mới, sau 31 trận đấu tiên, anh không có nổi pha lập công nào ở các giải chính thức. Đời sống cá nhân. Ngày 22 tháng 2 năm 2022, Hà Đức Chinh đã chính thức kết hôn với cô bạn gái 4 năm Mai Hà Trang.
wiki
Thanh Huyền
Thanh Huyền (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1942) là một ca sĩ Việt Nam trong thập niên 1960 đến 1980. Bà nổi tiếng với những ca khúc dân ca và trữ tình cách mạng. Thanh Huyền được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân vào năm 1984 và là nữ ca sĩ đầu tiên được trao tặng danh hiệu này. Tiểu sử và sự nghiệp. Thanh Huyền tên thật là Trương Thị Thanh Huyền, sinh năm 1942 tại Hà Nội. Bà sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, được thừa hưởng nét đẹp và giọng hát ngọt ngào, mượt mà từ người mẹ vốn là một nghệ sĩ cải lương nổi tiếng. Với năng khiếu bẩm sinh, khi Hà Nội được giải phóng vào năm 1954, bà tham gia sinh hoạt trong đội đồng ca thiếu niên Ấu Trĩ Viên của thành phố và đội Sơn ca (dưới sự dẫn dắt của nhạc sĩ Mộng Lân, Nguyễn Lân Tuất). Bà còn đạt nhiều giải cao trong các cuộc thi ca hát thiếu nhi, liên tiếp trong hai năm 1955 và 1956, bà đã giành Giải nhất về hát đơn ca Thiếu nhi toàn Thành phố Hà Nội. Sau đó, bà theo học khoa Thanh nhạc của Trường Âm nhạc Việt Nam (sau này là Nhạc viện Hà Nội), dưới sự dẫn dắt của những nhà giáo, nghệ sĩ tên tuổi như Mai Khanh, Thúy Huyền... Bà còn học hát cả hát văn, ca Huế, dân ca Bắc Bộ, điều này đã giúp bà hát thành công nhiều thể loại thanh nhạc.
wiki
Thanh Huyền
Năm 1963, sau khi tốt nghiệp khoa Thanh nhạc, bà về công tác tại Nhà hát ca múa nhạc Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu. Bà cùng đoàn ca múa nhạc đi lưu diễn nhiều nơi, vào tận các chiến trường Nghệ An, Hà Tĩnh trong những năm chiến tranh, biểu diễn tại Pháp, Algérie, Italia phục vụ Hội nghị Paris. Thanh Huyền là một trong những giọng ca sáng nhất của nhạc cách mạng trong suốt những năm 1960-1970. Với giọng hát kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân ca và kĩ thuật thanh nhạc cổ điển, bà được coi là giọng ca dân ca kế thừa của cố nghệ sĩ Thương Huyền (nữ nghệ sĩ hát dân ca rất nổi tiếng vào cuối những năm 1940-những năm 1960, mất vào năm 1989). Bà nổi tiếng với nhiều ca khúc được phát trên sóng phát thanh Đài tiếng nói Việt Nam thời đó: những ca khúc dân ca Bắc Bộ (đặc biệt là Quan họ Bắc Ninh) như "Bèo dạt mây trôi", "Xe chỉ luồn kim", "Người ở đừng về, Gửi anh một khúc dân ca" (Dân Huyền)... và những ca khúc tân nhạc như "Đường cày đảm đang" (An Chung), "Lời ca dâng Bác" (Trọng Loan), "Khi thành phố lên đèn", "Rặng trâm bầu" (Thái Cơ), "Mẹ yêu con" (Nguyễn Văn Tý)... và đặc biệt với ca khúc "Hát ru" (nhạc Hoàng Vân, thơ Tố Hữu). Thanh Huyền còn là một trong những giọng ca từng nhiều lần biểu diễn trước Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thanh Huyền đã đoạt 3 Huy chương Vàng trong các kỳ Hội diễn chuyên nghiệp toàn quốc. Bà đã được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng III, Huân chương Lao động hạng II. Năm 1984, bà được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân đợt đầu tiên.
wiki
Doãn Uẩn
Doãn Uẩn (chữ Hán: "尹蘊", 1795-1850), tự là Nhuận Phủ, Ôn Phủ, hiệu là Nguyệt Giang, Tĩnh Trai, là một danh thần thời Nguyễn, phụng sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Sinh thời, ông là một trong những trụ cột của triều đình, trấn giữ vùng biên cương tây nam, suốt những năm trị vì của vua Thiệu Trị. Thân thế. Ông tên thật là Doãn Ôn ("尹溫"), sinh ngày 17 tháng 11 năm Ất Mão (tức 27 tháng 12 năm 1795), tại làng Khê Cầu, tổng Khê Cầu, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, trấn Sơn Nam Hạ (nay là thôn Khê Cầu, nằm cạnh ngã ba đường tránh quốc lộ 10, thuộc xã Minh Khai, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Nguyên quán ông tại làng Ngoại Lãng, tổng Vô Ngại, huyện Thư Trì (nay thuộc xã Song Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Ông là con cháu đời thứ năm của dòng họ Doãn đất Song Lãng, tính từ Thủy tổ là Doãn Doanh, hiệu Chính Nghị. Đến đời thứ 2, thì một nhánh dời qua cư trú tại làng Khê Cầu. Cha ông là cụ Doãn Đình Dụng, hiệu Lãng Khê, là một danh sĩ thời bấy giờ. Tiến sĩ Doãn Khuê là em họ - con chú ruột - của ông. Thuở nhỏ, ông được cha và chú bác trong nhà đều là những bậc túc nho, khoa bảng trực tiếp rèn cặp. Năm 19 tuổi, ông theo học Hoàng giáp Bùi Huy Bích. Tháng 9 năm Minh Mạng thứ 9 (Mậu Tý -1828), ông đỗ Cử nhân hạng ưu. Năm sau, ông tiếp tục tham gia thi Hội nhưng không đỗ. Sự nghiệp. Nội chính.
wiki
Doãn Uẩn
Sự nghiệp. Nội chính. Tuy vậy, cuối năm 1829, ông được triều đình bổ chức quan Điểm bạ ở Hàn lâm viện và bắt đầu sự nghiệp quan trường của mình. Hai năm sau, năm 1831, ông được thăng chức Viên ngoại lang bộ Hộ. Cũng trong năm này, ông được vua Minh Mạng đổi tên thành Doãn Uẩn. Năm 1832, ông được phân giữ chức Lang trung bộ Hộ, đến tháng 11 thì được thăng Tham tri bộ Hộ và thự quyền Án sát Vĩnh Long. Tháng 3 năm 1833, thăng Án sát Vĩnh Long. Tháng 5 cùng năm, Lê Văn Khôi nổi dậy, giết Tổng đốc An-Biên Nguyễn Văn Quế và Bố chánh Phiên An Bạch Xuân Nguyên, chiếm được thành Phiên An. Tháng 6, quân nổi dậy do Thái Công Triều chỉ huy đã thu phục dễ dàng các thành, trong đó có cả thành Vĩnh Long. Mặc dù Vĩnh Long thất thủ, ông vẫn chiêu mộ quân sĩ tìm cách thu phục lại tỉnh thành. Sau khi quân triều đình do Tống Phúc Lương, Nguyễn Xuân, Phan Văn Thúy, Trương Minh Giảng và Trần Văn Năng, chỉ huy, gồm thủy bộ binh tượng tiến vào Gia Định đánh Lê Văn Khôi, tháng 8 năm đó, ông cùng quân sĩ bản bộ thu phục lại được thành Vĩnh Long, sau đó cùng quân triều đình tập trung về Phiên An để tấn công quân Lê Văn Khôi.
wiki
Doãn Uẩn
Tháng 10 âm năm 1833, quân Xiêm tấn công Đại Nam theo lời cầu viện của Lê Văn Khôi. Các tỉnh Vĩnh Long, Định Tường, An Giang và Hà Tiên nhanh chóng thất thủ. Tuy nhiên, cuối tháng Chạp cùng năm, quân Đại Nam do Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân tới An Giang đánh úp đạo quân Xiêm do Phi Nhã Chất Tri (tức Chao Phraya Bodin Decha), sau đó thừa thắng truy kích sang tận biên giới Xiêm. Ông ở lại Vĩnh Long, thực hiện chính sách "Hòa hợp bộ lạc, củng cố bờ cõi lâu dài" của vua Minh Mạng để vỗ yên dân chúng sau cơn loạn lạc chiến tranh.
wiki
Doãn Uẩn
Tháng 10 âm năm 1833, vua Cao Miên Nặc Ông Chân (Ang Chan II) bỏ thành Nam Vang, chạy sang Nam Kỳ lánh nạn quân Xiêm, vì thành Phiên An (Gia Định) đang trong tay quân Lê Văn Khôi, nên vua Ang Chan cùng triều đình Cao Miên về Vĩnh Long tá túc. Ông cùng bố chính Đoàn Khiêm Quang tổ chức đón tiếp và lo an cư cho vua Ang Chan ở thành Vĩnh Long. Đại Nam thực lục chính biên, chépː "Quốc vương Chân lạp là Nặc Chân đến tỉnh Vĩnh Long, bọn quan lại thuộc hạ và dân chúng đi theo Nặc Chân có đến hơn 1800 người, thuyền hơn 110 chiếc. Trước đây, Nặc Chân đã chạy đến An Giang nhiều lần xin trú ngụ ở Gia Định, nhưng các tướng quân và tham tán cho rằng tỉnh thành chưa hạ được nên chưa cho. Kịp khi Nam Vang và Hà Tiên nối nhau thất thủ, An Giang mới phái thuộc viên ở tỉnh hộ tống bọn Nặc Chân sang Vĩnh Long. Khi đã đến Vĩnh Long, bọn bố chính Đoàn Khiêm Quang và án sát Doãn Uẩn, mở tiệc thết đãi ở dinh đốc học, có hỏi duyên cớ tại sao sợ hãi phải chạy. Chân đáp rằng: tháng trước, nghe tin quân Xiêm kéo đến, liền phái binh biền đi phòng ngự…"
wiki
Doãn Uẩn
Tháng giêng năm Giáp Ngọ (1834), ông theo lệnh vua Minh Mạng hộ tống vua Ang Chan về nước sau thắng lợi ở trận Thuận Cảng(Vàm Nao)-Cổ Hỗ (nay là chợ Thủ, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới) tháng chạp năm trước. Đầu tháng 7 năm Giáp Ngọ (1834), ông được triều về kinh, bổ làm Lang trung bộ Hình. Cũng trong thời gian đó, Nông Văn Vân, anh vợ của Lê Văn Khôi, bấy giờ là Tri châu Bảo Lạc, cũng nổi dậy ở Bảo Lạc, mở rộng địa bàn chiếm cứ khắp vùng Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn. Doãn Uẩn được bổ làm Án sát Thái Nguyên, cùng Nguyễn Đình Phổ và Nguyễn Công Trứ mang quân đi trấn áp. Tháng 10 năm đó, quân nổi dậy bị trấn áp thu hẹp vùng kiểm soát. Ông ở lại Thái Nguyên vỗ yên dân ở các vùng Chợ Mới, Bạch Thông, Chợ Rã..., sau đó trược triệu hồi về Kinh vào tháng 2 năm Bính Thân (1836).
wiki
Doãn Uẩn
Tháng 7 âm lịch năm Ất Mùi, Minh Mạng thứ 16 (1835), Doãn Uẩn dâng sớ tâu lên vua đề xuất việc điều chỉnh hành chính tỉnh Thái Nguyên, chia tách phủ Phú Bình (với 9 châu, huyện) thành 2 phủ Phú Bình và Tòng Hóa, và đã được vua Minh Mạng chuẩn y cho thi hành. Đại Nam thực lục chép: “"Đặt thêm phủ Tòng Hóa thuộc Thái Nguyên. Bọn quan tỉnh là Lê Trường Danh và Doãn Uẩn tâu nói: “Tỉnh hạt nguyên có 2 phủ Thông Hóa và Phú Bình. Phủ Thông Hóa thống trị 2 huyện châu, mà phủ Phú Bình thống trị đến 9 huyện châu. Vậy xin trích 4 huyện Định Châu, Văn Lãng, Phú Lương và Đại Từ đặt làm phủ Tòng Hóa. Còn 5 huyện Tư Nông, Bình Toàn, Võ Nhai, Phổ Yên, Động Hỷ vẫn làm phủ Phú Bình... Phủ lỵ Tòng Hóa đặt ở làng Trung Khảm thuộc Định Châu. Phủ lỵ Phú Bình đặt ở làng Triều Dương huyện Tư Nông...” Vua y lời tâu."” Sau khi về Kinh, ông được thăng Hữu Thị lang bộ Lại. Tháng 8 năm đó, ông được đổi sang làm Hữu Thị lang bộ Hình, đến tháng 11 lại được đổi làm Tả Thị lang bộ Hộ và được điều ra Bắc nhậm chức Kinh lược Phó sứ, Thự Tuần phủ quan phòng Hưng Yên để giải quyết việc quan hệ với Công giáo. Đầu năm 1837, ông nhậm chức Kinh lược phó sứ Thanh Hóa, phụ trách đạo Nông Cống, cùng Kinh lược sứ Trương Đăng Quế và Phó sứ khác là Nguyễn Đăng Giai, tham gia đánh dẹp cuộc nổi dậy của Lê Duy Hiển, bắt được thủ lĩnh quân nổi dậy là Lê Yên, chia lại ruộng đất ổn định hành chính, quản lý chặt chẽ vùng nông thôn Thanh Hóa.
wiki
Doãn Uẩn
Năm 1838 ông được vua Minh Mạng cho giữ nguyên ấn Hưng Yên Tuần phủ quan phòng và được thăng lên Tổng đốc Định-Yên, kiêm Tuần phủ Hưng Yên. Đầu năm 1839, ông lãnh chức Khâm sai, cùng Thự Tả Tham tri bộ Lễ là Tôn Thất Bạch và Bố chính Quảng Nam là Vương Hữu Quang, đi duyệt tuyển dân đinh các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Tháng 7 năm Kỷ Hợi (1839), ông cùng Thượng thư Võ Xuân Cẩn vào tỉnh Bình Định, làm sổ địa bạ, hoạch định quân điền (quân bình điền địa), phân cấp ruộng công. Hoạt động ở Cao Miên. Năm 1840 ông được cử làm Phó Khâm sai đại thần tại Trấn Tây. Tại đây, ông góp phần định lại các loại thuế, ổn định đời sống nhân dân, giữ yên biên cương Tây Nam. Tháng 7 đến tháng 12 năm 1840 ông được cử làm Bang biện đại thần Trấn Tây, cùng Hiệp tán Cao Hữu Dực coi giữ thành Trấn Tây. Đến khi vua Minh Mạng mất, vua Thiệu Trị đăng quang đã quyết định bỏ thành Trấn Tây rút quân về nước, thì ông được gọi về kinh và thăng chức Hữu Tham tri bộ Hộ. Đến tháng 5 năm 1844, ông lại được cử vào Nam Kỳ giữ chức Tuần phủ An Giang thay cho Nguyễn Công Trứ. Trong thời gian này, ông cùng Tổng đốc Nguyễn Văn Chương đã dâng sớ xin vua cho nhân dân 6 tỉnh Nam Kỳ được miễn các loại thuế trong vòng một năm, lược bỏ các thủ tục thanh tra bất hợp lý.
wiki
Doãn Uẩn
Năm 1845, ông cùng Tổng đốc Nguyễn Văn Chương dâng sớ tâu trình tình hình ở Trấn Tây: hoàng thân Cao Miên sang cầu cứu nhà Nguyễn, đề nghị triều đình cử đại thần giải quyết dứt điểm việc Cao Miên. Triều đình cử Tổng đốc Nguyễn Văn Chương làm Khâm sai quân thứ đại thần, cùng Tuần phủ Doãn Uẩn, Đề đốc Nguyễn Văn Hoàng dẫn quân sang cứu viện Cao Miên. Quân Nam nhanh chóng hạ các đồn quân Cao Miên của Ang Duong ở khoảng biên giới, thừa thắng tấn công các đồn Sách Sô, Thiết Thằng, vây hãm Oudong, buộc quân Xiêm của Chao Phraya Bodin Decha phải xin giảng hòa, rút quân về nước. Quốc vương Cao Miên là Ang Duong phải dâng thư xin tạ tội và thần phục nhà Nguyễn. Cuối 1846, sau nhiều lần trì hoãn quân Xiêm cũng phải lui binh về Battambang. Đầu năm 1847, Ang Duong phải cho sứ thần sang kinh đô Huế triều cống, vua Thiệu Trị phong cho Ang Duong làm Cao Miên quốc vương, Ang Mey làm Cao Miên quận chúa. Đến tháng 3, vua hạ chiếu cho Bảo hộ Cao Miên tại Trấn Tây là Võ Văn Giải (Vũ Văn Giải) rút hết quân về nước đóng tại An Giang để nghỉ ngơi. Sau khi quân Trấn Tây rút về nước, vua sai ông cùng các tướng lĩnh khác kinh lý 6 tỉnh Nam Kỳ. Tới tháng 6 năm Đinh Mùi (1847), ông được thăng Thượng thư Bộ Binh kiêm Đô ngự sử và Tổng đốc An-Hà, hàm chính Nhị phẩm, được phong tử tước hiệu Tuy Tĩnh. Vinh danh.
wiki
Doãn Uẩn
Vinh danh. Tháng 7 năm Đinh Mùi (1847), vua Thiệu Trị cho đúc 12 cỗ thần công: 3 cỗ thần công thượng tướng quân, 9 cỗ thần công đại tướng quân. Ông được phong hiệu là An Tây mưu lược tướng, và được khắc tên vào cỗ đại tướng quân thứ nhất "Thần uy phục viễn đại tướng quân". Cùng thời gian này, Doãn Uẩn đứng ra xây dựng chùa Tây An tại chân núi Sam ở Châu Đốc An Giang. Cuối năm 1847, vua Thiệu Trị băng, vua Tự Đức lên nối ngôi, ông về kinh dự lễ an táng vua ở Xương Lăng. Tháng 6 âm năm 1849, vua Tự Đức chuẩn y cho khắc bia ghi công các tướng thắng trận ở Trấn Tây, đặt tại Võ miếu Huế, (tiếp nối chỉ dụ dựng bia võ công An tây năm 1847 chưa kịp thực hiện của tiên đế Thiệu Trị), tên của ông được ghi hàng thứ 3/6 người gồm: Vũ Văn Giải, Nguyễn Văn Chương Doãn Uẩn, Đoàn Văn Sách, Nguyễn Văn Hoàng, Tôn Thất Nghị. Ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Kỷ Dậu (tức 3 tháng 1 năm 1850), ông bệnh mất tại An Giang, thọ 56 tuổi. Linh cữu ông được đưa về an táng tại quê nhà. Sau khi mất ông được truy tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ và bài vị của ông được vua cho đặt ở đền Hiền Lương cùng với 39 danh thần nhà Nguyễn khác.
wiki
Doãn Uẩn
Tại phường Tiền Phong thành phố Thái Bình tỉnh Thái Bình có một con đường rộng 8m dài 360 m, nối giữa đường Lý Bôn với đường Nguyễn Doãn Cử, được đặt tên là đường Doãn Uẩn, nằm cạnh bến xe khách Hoàng Hà. Đường Doãn Uẩn thành phố Thái Bình, được đặt tên theo quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình ra ngày 9 tháng 9 năm 2003, cùng với đường Doãn Khuê thành phố Thái Bình. Tháng 12 năm 2013, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định lấy tên Doãn Uẩn đặt cho một con đường mới xây dựng tại khu dân cư Nam Tiên Sơn mở rộng, thuộc phường Khuê Mỹ quận Ngũ Hành Sơn. Đường Doãn Uẩn ở Đà Nẵng là đoạn đường hình chữ L, nối ra đường Lê Văn Hiến (đường Doãn Uẩn nằm ở phía tây đường này), đầu kia nối với tuyến đường mà sau đó được đặt tên là đường Đảo Đá Bắc. Đường Doãn Uẩn tại Đà Nẵng có chiều dài 350m.. Quyết định số 23 ngày 5 tháng 1 năm 2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đã lấy tên Doãn Uẩn đặt cho con đường dẫn lên cầu Cồn Tiên tại thành phố Châu Đốc. Đường Doãn Uẩn thành phố Châu Đốc năm tại phường Châu Phú A, dài 440m, lòng đường rộng 12m, bắt đầu từ đường Cử Trị lên cầu Cồn Tiên. Con ruột.
wiki
Doãn Uẩn
Con ruột. Con cả của ông là Doãn Chính ("尹正") sau này làm Tri phủ Phú Bình tỉnh Thái Nguyên, chống "giặc cờ" thủ hạ của Ngô Côn, tàn quân Thái Bình Thiên Quốc ở Trung Quốc kéo sang vây hãm thành Phú Bình trong 3 tháng. Sau vì hết lương, Doãn Chính phải tự vẫn. Vua Tự Đức xuống chiếu ban khen và truy tặng hàm Thị độc học sĩ.. Sách Thái Bình phong vật chí chépː sau khi ông tuẫn tiết, quân triều đình nhà Nguyễn đánh và thu lại được phủ thành Phú Bình, Nguyễn Tri Phương khi đó đang là Kinh lược đại thần ở Bắc Kỳ đến tận phủ thành Phú Bình lập đàn tế, bài văn tế có câuː"遠不愧古人, 近不愧名臣之後, 下則為河岳, 上則為日星之光。Viễn bất quý cố nhân, cận bất quý danh thần chi hậu, Hạ tắc vi hà nhạc, thượng tắc vi nhật tinh chi quang." "(Xa không thẹn với cổ nhân, gần không thẹn là con danh thần, Sống với đời ví như sông núi, thác về trời sánh tựa ánh dương dạng ngời.)" Tác phẩm. Trong hầu hết sự nghiệp của mình, ông được biết như là một văn tướng. Tuy nhiên, xuất thân dòng danh sĩ, ông cũng để lại một số tác phẩm có giá trị lịch sử và văn học như: Bình thơ Giang Thành dạ cổ. Trích "Tuy Tĩnh tử tạp ngôn" của An Tây mưu lược tướng Doãn Uẩn: Giới thiệu đoạn văn trên, nhà văn Trần Thanh Giao viết:
wiki
Ernie Bot
Ernie Bot Ernie Bot (, ) là E"nhanced Representation through Knowledge Integration", hay còn được gọi là ERKI, là một sản phẩm dịch vụ chatbot trí tuệ nhân tạo của Baidu, đang được phát triển từ năm 2019. ERKI được xây dựng trên một mô hình ngôn ngữ lớn có tên gọi là "Ernie 3.0-Titan". Sản phẩm này đã được ra mắt vào ngày 17 tháng 3 năm 2023. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2023, Baidu đã thông báo trên WeChat chính thức của mình rằng dịch vụ đám mây Wenxin Yiyin sẽ được phát hành vào ngày 27 tháng 3, nhưng việc ra mắt đã bị trì hoãn đến một ngày không xác định. Baidu đã giới thiệu Wenxin Qianfan, một nền tảng dịch vụ mô hình ngôn ngữ lớn cấp cho doanh nghiệp. Wenxin Qianfan bao gồm không chỉ Wenxin Yiyin mà còn là một bộ công cụ phát triển đầy đủ của Baidu Wenxin Big Model và các công cụ phát triển tương ứng.
wiki
Giải tưởng niệm Astrid Lindgren
Giải tưởng niệm Astrid Lindgren Giải tưởng niệm Astrid Lindgren (tiếng Thụy Điển: "Litteraturpriset till Astrid Lindgrens minne") là một giải thưởng văn học thiếu nhi quốc tế, do chính phủ Thụy Điển lập ra năm 2002 để vinh danh Astrid Lindgren, nhà văn viết sách thiếu nhi người Thụy Điển. Giải được trao hàng năm với khoản tiền thưởng tổng cộng lên tới 5 triệu krona Thụy Điển. Giải này được trao cho các nhà văn, họa sĩ vẽ minh họa, người kể chuyện và/hoặc người quảng bá việc đọc sách thiếu nhi, phản ánh được tinh thần của Astrid Lindgren. Mục tiêu của giải là để gia tăng sự quan tâm tới văn học của thiếu nhi và những người trẻ, cùng thúc đẩy quyền tiếp cận văn hóa của các thiếu nhi và người trẻ trên một cấp độ toàn cầu. Vốn quỹ của giải do chính phủ Thụy Điển cấp và do Hội đồng văn hóa Thụy Điển quản lý.
wiki
Việt phục
Y phục truyền thống Việt Nam (còn gọi Việt Nam phục sức hay Việt phục (越服)) bao gồm các loại y phục của người Việt/Kinh và y phục cung đình. Một số quan điểm khác tổng quát các dân tộc đã sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay từ lâu đời, chẳng hạn như người Chăm-pa, người Khmer và các dân tộc thiểu số khác. Lịch sử. Trang phục trước thế kỷ XI. Trước thời Bắc thuộc, có sách ghi người Việt mặc áo cài bên trái. Kể từ thời tự chủ thế kỷ thứ 10 trở đi thì áo người Việt đại thể có ba loại căn cứ theo cách cắt cổ áo: Đàn bà còn dùng yếm một mảnh vải vuông che phần ngực, một góc cắt lẹm đi rồi đính hai dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính hai dải vải, gọi là dải yếm, dài đủ để quành ra sau lưng rồi buộc lại ở trước ngực. Khi ở nhà làm lụng, người đàn bà có khi chỉ mặc yếm. Khi ra ngoài giao tiếp mới mặc thêm áo. Ở phía dưới bụng thì ngày xưa đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Khố là mảnh vải hẹp mà dài. Người mặc quấn quanh bụng vài vòng rồi chèn từ phía trước bẹn ra sau cài chặt lại. Tích Chử Đồng Tử từ thời Hùng Vương đã nhắc tới việc trang phục dùng khố. Tuy nhiên, khẳng định này vẫn còn tranh cãi. Thời Lý, Trần. Người Việt mặc loại áo dài cổ tròn (viên lĩnh) 4 vạt, gọi là áo "tứ điên"; dưới thì vận thường đen. Đàn ông đàn bà đều có thể mặc vậy. Ngoài ra, còn có các kiểu khác như: áo giao lĩnh (cổ chéo) ở trên, dưới quây thường bên
wiki
Việt phục
ngoài hay mặc váy bên trong (với nữ) hoặc mặc áo giao lĩnh hay viên lĩnh trên mặc quần hay khố (với nam). Áo may dài quá đầu gối, cài khuy với áo viên lĩnh, buộc vạt bên phải với áo giao lĩnh. Sứ giả Triệu Nhữ Thích bình rằng lối ăn mặc người Việt thời bấy giờ (1125) không khác người Tống là mấy. Nam đầu đội mũ đinh tự, nhìn như con ốc. Cả nam và nữ, quý tộc và thường dân đều đi đất và nhuộm răng đen. Thời Lê. Áo trực lĩnh phổ biến, dùng làm thường phục trong dân gian (mặc lót trong là 1 viên lĩnh đơn y hoặc yếm). Màu sắc áo cũng đã thành lệ: đàn ông thường dùng áo màu xanh, khi có việc trọng đại thì dùng màu đen, màu thẫm. Người làm ruộng thì dùng màu nâu. Bông vải là hàng chính. Chỉ người sang trọng mới dùng hàng tơ lụa. Quần thì chỉ có hai màu trắng và nâu. Họa hoằn những người giàu có hay già cả mới dùng quần màu đỏ. Căn cứ theo minh họa trong sách "Vạn quốc nhân vật chi đồ" (1645) của Nhật Bản thì vẽ người đàn bà đội nón dâu (rộng), tóc dài, mặc váy ở dưới, phía trên mặc áo trực lĩnh, mặc yếm trong. Đàn ông thì búi tóc, mặc một loại rông cài bên phải. Thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ 18, chúa Nguyễn Võ Vương ở Đàng Trong có sắc quy định y phục trong Nam, nhất là lối ăn mặc của phụ nữ, bỏ váy mà mặc quần, còn áo thì cài khuy, bỏ lối thắt vạt. Đàng Ngoài thuộc chúa Trịnh thì vẫn giữ áo tứ thân buộc vạt. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là "Áo tứ thân" có thể đã ra đời từ thế kỷ 12. Áo tứ thân hình dạng tương đồng với áo Bối Tử thời Tống. Hoàng Bào.
wiki
Việt phục
Hoàng Bào. Trong tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú ghi nhận: "Từ thời Lê Trung Hưng về sau, các lễ lớn như vua lên ngôi, tiến tôn và ban chiếu, đều đội mũ Xung Thiên, mặc Hoàng Bào..." . Áo thời Lê không được ghi chép rõ về hoa văn, hiện vật duy nhất của Hoàng Bào thời Lê là từ áo bồi táng của vua Lê Dụ Tông thời Lê Trung Hưng, nhưng hoa văn rồng trên áo này đã theo kiểu "long vân đại hội", một dạng hoa văn rất phổ biến thời Minh mạt. Lúc này, đồ án rồng rất to trước ngực và sau lưng, ở trên vai là hình đồ án rồng tương tự nhưng kích thước nhỏ hơn, khắp xung quanh áo là hình mây cùng ngọn lửa. Có thể thấy, cục diện hoa văn này đã xa thời Minh sơ mà rất gần với thời Minh mạt, cho nên hoa văn cách thức của áo Bào Lê Dụ Tông chỉ biểu thị một giai đoạn Lê Trung Hưng, còn thời Lê Sơ có lẽ vẫn theo kiểu hình Đoàn Long. Thời Nguyễn. Thời Nguyễn thì nam giới cả hai miền Nam Bắc đã quen mặc áo ngũ thân (áo lập lĩnh may bằng năm khổ vải), thân áo dài quá đầu gối, tay áo hẹp. Đàn bà từ Hoành Sơn vào Nam cũng mặc áo ngũ thân nhưng khác áo đàn ông chút ít với thân áo may dài hơn; gấu áo dài quá bắp chân, dưới hạ y mặc quần. Đàn bà từ Hà Tĩnh trở ra vẫn mặc áo tứ thân (giản lược về màu sắc) và mặc váy. Lễ phục thì vẫn còn dùng áo giao lĩnh, nhưng khoác ra bên ngoài cùng khi hành lễ, gọi là áo thụng hay bổ phục
wiki