title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Hungry Tree | Chiến dịch bảo tồn.
Cây đã được liệt kê vào một trong những "Cây Di sản" của đất nước bởi Hội đồng Cây Ireland. Lý do cho việc này là vì giá trị của cây như một sự độc đáo và điểm thu hút khách du lịch hơn là tuổi tác hay sự quý hiếm của nó.
Nghị viên Ciarán Cuffe thuộc Đảng Xanh đã tổ chức một chiến dịch vào năm 2017 để Ủy ban Khu vực Trung tâm Dublin cấp cho cây một phiên bản của lệnh bảo tồn cây của Vương quốc Anh (Tree preservation order; TPO). Cuffe nói rằng Hungry Tree và những cây lân cận khác "là một phần lịch sử thú vị của khu vực nội thành phía Bắc. Một chút giống như Blessington Street Basin, nó là một viên ngọc ẩn. Tôi yêu cái cây và tôi ghét khi để đánh mất nó... Những hàng cây này đã chứng kiến sự đổi thay của lịch sử và do tuổi cao càng đáng quý hơn". Dù vậy, đơn xin TPO đã bị từ chối vì người ta cho rằng cái cây nằm trong phần khuôn viên của các công trình khác và vì vậy nó nằm dưới sự bảo hộ của những công trình này. Đã có những ý kiến cân nhắc về việc liệt băng ghế như là một công trình cần được bảo tồn, tuy nhiên điều này đã nhận phải sự phản đối vì có thể dẫn đến đòi hỏi hội đồng phải phá huỷ cây để bảo vệ băng ghế. | wiki |
Obuchi Keizō | (25 tháng 6 năm 1937 – 14 tháng 5 năm 2000) là một chính trị gia Nhật Bản, người từng giữ chức chủ tịch hạ viện Nhật Bản trong 12 nhiệm kỳ và trở thành thủ tướng thứ 84 của Nhật Bản từ 30 tháng 7 năm 1998 tới 5 tháng 4 năm 2000. Cuộc đời chính trị của Obuchi chấm dứt khi ông bị hôn mê vào năm 2000 và được kế nhiệm bởi Mori Yoshiro trước 1 tháng khi ông qua đời do cơn tai biến mạch máu não.
Thiếu thời.
Obuchi sinh ngảy 25 tháng 6 năm 1937 in Nakanojō, tỉnh Gunma, là con trai của Obuchi Mitsuhei, một trong bốn đại diện tiêu biểu trong Quốc hội Nhật Bản cho một quận ở Gunma. Năm 13 tuổi, Obuchi chuyển đến một trường trung học tư thục ở Tokyo và sống ở thành phố cho đến cuối đời. Năm 1958, Obuchi đăng ký học tại Đại học Waseda chuyên ngành văn học Tiếng Anh, với hy vọng trở thành một nhà văn. Khi cha ông qua đời cùng năm đó, Obuchi quyết định theo bước chân của mình với tư cách là một chính trị gia, và tiếp tục làm nghiên cứu sinh về khoa học chính trị sau khi tốt nghiệp bằng Cử nhân Văn học bằng tiếng Anh vào năm 1962. | wiki |
Obuchi Keizō | Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1963, Obuchi đã đi đến 38 quốc gia, đi vòng quanh thế giới và nhận những công việc lặt vặt khi đi vì thiếu tiền. Những người này bao gồm một người rửa bát, một trợ lý hướng dẫn aikido và một trợ lý đoàn quay phim truyền hình ở Berlin, nơi có yêu cầu thể chất cao nhất. Khi ở Hoa Kỳ, Obuchi đã gặp Tổng chưởng lý Robert F. Kennedy, người đã có bài phát biểu vào năm trước tại Đại học Waseda nơi Obuchi còn là sinh viên. 36 năm sau trong chuyến thăm Tổng thống Bill Clinton với tư cách là Thủ tướng Nhật Bản, ông đã gặp lại thư ký của Kennedy, người đã giúp sắp xếp chuyến thăm trước đó.
Sự nghiệp chính trị.
Tháng 11 năm đó, được truyền cảm hứng từ cuộc nói chuyện của ông với Kennedy, Obuchi đã tranh cử vào Hạ viện và được bầu vào một ghế đại diện cho Quận 3 của Gunma, khiến ông trở thành nhà lập pháp trẻ nhất trong lịch sử Nhật Bản khi mới 26 tuổi. Obuchi phục vụ nhiệm kỳ đầu tiên của ông tại Hạ Viện trong khi đang theo đuổi nghiên cứu tại Đại học Waseda. | wiki |
Vương Đông Phong | Vương Đông Phong (; bính âm Hán ngữ: "Wáng Dōng Fēng"; sinh tháng 2 năm 1958) là người Hán, chuyên gia kinh tế, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX. Ông từng là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hà Bắc, Chủ nhiệm Ủy ban Thường vụ Nhân Đại kiêm Bí thư thứ nhất Quân ủy Quân khu Hà Bắc; Phó Bí thư Thành ủy Thiên Tân, Bí thư Đảng tổ, Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thiên Tân, một trong bốn thành phố trực thuộc Trung ương của Trung Quốc; Phó Bí thư chuyên chức Thành ủy Thiên Tân; Ủy viên Đảng tổ, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý hành chính Công Thương Quốc gia Trung Quốc.
Vương Đông Phong là Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Thạc sĩ Kinh tế học, học hàm Nhà kinh tế cao cấp.
Xuất thân và giáo dục. | wiki |
Vương Đông Phong | Vương Đông Phong là Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Thạc sĩ Kinh tế học, học hàm Nhà kinh tế cao cấp.
Xuất thân và giáo dục.
Vương Đông Phong là người Hán sinh tháng 2 năm 1958, người Tây An, tỉnh Thiểm Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tháng 9 năm 1979 đến tháng 7 năm 1981, Vương Đông Phong theo học chuyên ngành kế toán tại Trường Tài chính và thương mại thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Tháng 12 năm 1980, ông được kết nạp Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 9 năm 1982 đến tháng 7 năm 1984, ông theo học chuyên ngành quản lý doanh nghiệp khoa kinh tế thương mại tại Học viện Cán bộ quản lý tài chính và thương mại tỉnh Thiểm Tây. Tháng 9 năm 1994 đến tháng 12 năm 1996, ông theo học chính quy chuyên ngành quản lý kinh tế, Học viện Hàm thụ thuộc Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 9 năm 1999 đến tháng 7 năm 2001, ông theo học nghiên cứu sinh tại chức chuyên ngành kinh tế học ứng dụng tại Đại học Giao thông Tây An và được trao học vị Thạc sĩ Kinh tế học. Tháng 3 năm 2000 đến tháng 1 năm 2003, ông theo học chuyên ngành triết học lớp nghiên cứu sinh tại chức, Viện Nghiên cứu sinh thuộc Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. | wiki |
Vương Đông Phong | Tháng 3 năm 2003 đến tháng 1 năm 2005, ông theo học chuyên ngành lý luận luật học lớp nghiên cứu sinh tại chức, Viện Nghiên cứu sinh thuộc Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 5 đến tháng 7 năm 2007, ông theo học lớp nghiên cứu chiến lược quốc phòng tại Đại học Quốc phòng Trung Quốc. Tháng 5 đến tháng 7 năm 2010, ông theo học lớp nâng cao cán bộ cấp tỉnh bộ tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sự nghiệp.
Các giai đoạn.
Thiểm Tây.
Tháng 7 năm 1981, sau khi tốt nghiệp đại học, Vương Đông Phong bắt đầu sự nghiệp của mình, ông về công tác ở công ty cung ứng du lịch thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Tháng 7 năm 1984, Vương Đông Phong chuyển đến công tác ở phòng nghiệp vụ tổng hợp thuộc Văn phòng Tài chính và thương mại Chính phủ nhân dân thành phố Tây An, cán bộ Ban Tài chính và thương mại Thành ủy Tây An. Tháng 7 năm 1987, ông được luân chuyển làm thư ký Ban thư ký, hàm Phó Trưởng phòng thuộc Văn phòng Thành ủy Tây An. | wiki |
Vương Đông Phong | Tháng 8 năm 1989, ông được bổ nhiệm giữ chức Trưởng phòng Pháp quy chính sách kiêm Chủ nhiệm Phòng nghiên cứu chính sách thuộc Cục Quản lý Hành chính Công thương thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Tháng 7 năm 1991, Vương Đông Phong được bổ nhiệm làm Phó Cục trưởng Cục Quản lý Hành chính Công thương thành phố Tây An. Tháng 5 năm 1996, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Cục Quản lý Hành chính Công thương thành phố, Cục trưởng Cục Quản lý Hành chính Công thương thành phố Tây An. Tháng 2 năm 1998, ông được bổ nhiệm làm Bí thư Ban Cán sự Đảng Cục Quản lý Hành chính Công thương tỉnh, Cục trưởng Cục trưởng Cục Quản lý Hành chính Công thương tỉnh Thiểm Tây. Tháng 1 năm 2001, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Thành ủy Vị Nam, Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Vị Nam, tỉnh Thiểm Tây. Tháng 1 năm 2003, ông được luân chuyển giữ chức Bí thư Thành ủy Đồng Xuyên, tỉnh Thiểm Tây.
Cơ quan trung ương.
Tháng 7 năm 2004, Vương Đông Phong được bổ nhiệm làm Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý Hành chính Công thương Quốc gia Trung Quốc. Ngày 14 tháng 11 năm 2012, tại phiên bế mạc của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18, ông được bầu làm Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XVIII ("CCDI").
Thiên Tân. | wiki |
Vương Đông Phong | Thiên Tân.
Tháng 4 năm 2013, Vương Đông Phong được luân chuyển giữ chức Phó Bí thư chuyên trách Thành ủy Thiên Tân. Nửa đêm ngày 10 tháng 9 năm 2016, trang web của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đột nhiên đăng thông báo ngắn gọn: "Quyền Bí thư Thành ủy, Thị trưởng Thiên Tân Hoàng Hưng Quốc có dấu hiệu vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, hiện đang bị tổ chức điều tra"; cụm từ vi phạm kỷ luật nghiêm trọng thường được Trung Quốc sử dụng để ám chỉ tham nhũng. Ngày 14 tháng 9 năm 2016, Vương Đông Phong được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Thành ủy Thiên Tân, Phó Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Thiên Tân, quyền Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Thiên Tân thay thế Hoàng Hưng Quốc. Ngày 6 tháng 11 năm 2016, ông chính thức được bầu giữ chức vụ Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Thiên Tân. Ngày 24 tháng 10 năm 2017, tại phiên bế mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIX, ông được bầu làm Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX.
Hà Bắc.
Ngày 28 tháng 10 năm 2017, Vương Đông Phong được luân chuyển làm Ủy viên Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Bí thư Tỉnh ủy Hà Bắc kế nhiệm Triệu Khắc Chí. Ngày 29 tháng 1 năm 2018, tại hội nghị lần thứ nhất của Đại hội Đại biểu Nhân dân tỉnh Hà Bắc khóa XIII, ông được bầu kiêm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân tỉnh Hà Bắc, lãnh đạo toàn diện tỉnh Hà Bắc. | wiki |
Skrzak | Skrzak
Skrzak hoặc skrzat là đứa trẻ tinh quái nhỏ biết bay ở Ba Lan và xuất hiện trong thần thoại Wendish. Kể từ khi trận động đất giải phóng các vị thần khỏi Void, nhiều mê cung dưới lòng đất đã tồn tại. Một trong nhiều cư dân của những đường hầm này là các skrzak. Sống chủ yếu trong bóng tối, trần nhà cao, những sinh vật này tấn công những kẻ xâm phạm không thương tiếc. Nếu mục tiêu của chúng có thể tránh được những chiếc răng nanh và móng vuốt sắc nhọn, thì tiếng cười điên rồ mà những quái nhân này phát ra sẽ khiến một người đàn ông phát điên. Sự theo đuổi của chúng là không ngừng nghỉ và kèm theo đó là sự kiên quyết tấn công của chúng. Những sinh vật nhỏ này có xu hướng trông giống con người, mặc dù da của chúng có màu đen tía và chúng hiếm khi đi bộ mà thay vào đó là bay với đôi cánh lớn trên lưng. | wiki |
IPhone XS | iPhone XS và iPhone XS Max (cách điệu: iPhone và iPhone Max; Số La Mã "X", được đọc là "mười") là các mẫu smartphone do công ty Apple Inc. thiết kế, phát triển và kinh doanh trên thị trường. Đây là thế hệ thứ 12 trong các dòng flagship iPhone. Bộ đôi này được ra mắt vào 10h ngày 12 tháng 9 năm 2018 (0h ngày 13/09/2018 theo giờ Việt Nam) tại Nhà hát Steve Jobs trong công viên Apple Park bởi CEO Tim Cook. Apple cho đặt trước iPhone Xs, Xs Max từ ngày 14 tháng 9 năm 2018 và chính thức phát hành vào ngày 21 tháng 9 năm 2018 cùng với iPhone XR. iPhone Xs Max là chiếc điện thoại có màn hình lớn nhất và giá thành cao nhất của Apple tính đến thời điểm nó ra mắt.
Thiết kế.
Thiết kế của iPhone Xs tương tự như thế hệ tiền nhiệm iPhone X (ra mắt cuối năm 2017), 2 mặt kính cường lực kết hợp khung thép không gỉ. Điểm khác biệt nằm ở phần bố trí thêm 2 dải ăng-ten, số lượng lỗ loa dưới đáy máy, cụm camera kép đặt lệch một chút so với iPhone X và màu sắc mới (thêm màu Gold thay vì chỉ 2 màu như iPhone X). iPhone Xs Max là phiên bản phóng to với màn hình lớn hơn và thời lượng pin mạnh mẽ.
Các vấn đề.
Vấn đề về sạc pin. | wiki |
IPhone XS | Các vấn đề.
Vấn đề về sạc pin.
iPhone XS và XS Max được người dùng báo cáo rằng họ gặp vấn đề khi sạc pin qua cổng Lightning. Khi thiết bị để lâu, màn hình tắt thì sẽ không thể sạc pin được và chỉ có thể sạc lại khi bật sáng màn hình. Vấn đề này là lỗi từ chức năng "Vô hiệu hóa thiết bị USB khi khóa" trong phần Cài Đặt, nhằm để tránh những thiết bị không rõ nguồn gốc truy cập vào dữ liệu người dùng trên iPhone. Lỗi này được gọi là "Charge gate". Vấn đề này đã được Apple khắc phục trong bản cập nhật iOS 12.0.1.
Làm mịn da quá mức khi chụp selfie.
Các thiết bị iPhone từ trước đến nay vốn cho ảnh chụp selfie chân thực với đầy đủ các khiếm khuyết của người dùng. Tuy nhiên với bộ đôi XS/XS Max, người dùng cũng đã báo cáo về việc làm mịn da một cách bất bình thường khi chụp selfie, và cảm thấy không quen với điều này. Nhiều người cho rằng đó là do tính năng mới Smart HDR được tích hợp vào iPhone XS và XS Max, nhưng có một số người cho rằng đó là do một tính năng ẩn nào đó được gọi là "beauty mode" và được đặt tên là "beauty gate". Có nhiều cuộc tranh cãi xảy ra rằng nếu camera thực sự làm đẹp khuôn mặt hay chỉ là vấn đề của những chiếc camera chất lượng cao.
Apple sau đó nói rằng vấn đề là do thuật toán Smart HDR chọn khung hình phơi sáng mờ hơn thay vì chọn phơi sáng nét nhất. Vấn đề này đã được sửa trong phiên bản iOS 12.1.
Vấn đề về bắt sóng và kết nối. | wiki |
IPhone XS | Vấn đề về bắt sóng và kết nối.
Nhiều người dùng iPhone XS gặp vấn đề khi bắt sóng LTE, Wi-Fi và kết nối Bluetooth. Một số chuyên gia cho rằng đó là lỗi từ 2 dải ăng-ten mới. Apple đã liên lạc những người dùng bị ảnh hưởng để tiến hành điều tra. Phiên bản iOS 12.0.1 gây ra vấn đề khiến cho Bluetooth không thể hoạt động. Apple khuyến khích người dùng cập nhật lên phiên bản iOS mới hơn.
Doanh số.
Doanh số của bộ đôi XS/XS Max không được cao như kỳ vọng. Kết thúc năm 2019, iPhone XR (mẫu máy ra mắt cùng XS) bùng nổ về doanh số và trở thành chiếc smartphone bán chạy nhất năm trên toàn thế giới. | wiki |
Tối hậu thông điệp | Tối hậu thông điệp (chữ La-tinh: ultimatum), hoặc gọi tối hậu thư, là văn thư ngoại giao ắt phải tiếp nhận yêu cầu vì mục đích giải quyết đầu mối tranh chấp "chưa đâu vào đâu", dây dưa bỏ lửng giữa các nước mà một phía đương sự đề xuất với đối phương, hạn chế thời gian hồi đáp, nếu không thì sẽ sử dụng vũ lực hoặc chọn lấy biện pháp cưỡng chế khác, nếu đối phương không đúng hẹn hồi đáp tiếp nhận yêu cầu, thì ngay lập tức phía đưa ra tối hậu thông điệp chọn lấy biện pháp chiến tranh.
Khái niệm.
Từ nguyên của nó là "một cái sau cùng" trong tiếng La-tinh. Tối hậu thông điệp về phương diện ngoại giao là yêu cầu cuối cùng, không có đất dư để đàm phán. Nếu tối hậu thông điệp không được tiếp nhận, bước tiếp theo chính là xét xử và cưỡng chế nghiêm khắc, thậm chí là tuyên chiến. Có lúc, các nước có ý tuyên chiến sẽ lấy tối hậu thông điệp làm thủ đoạn khai chiến. Tối hậu thông điệp này thông thường có chứa điều khoản khá hà khắc, và những kẻ sáng lập biết rằng đối phương không thể tiếp nhận tất cả. Tối hậu thông điệp Tháng Bảy do đế quốc Áo - Hung đưa ra cho Vương quốc Serbia dẫn đến chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ đột ngột (thông điệp bị coi thường, lơ là); tối hậu thông điệp do Đức Quốc Xã đưa ra cho Litva nhằm trao trả Klaipėda vào tháng 3 năm 1939 (thông điệp được tiếp nhận).
Luật quốc tế. | wiki |
Tối hậu thông điệp | Luật quốc tế.
Tối hậu thư thường được đưa ra sau khi đàm phán phá vỡ. Việc không trải qua đàm phán mà đã đề xuất tối hậu thông điệp, thường bị cộng đồng quốc tế chỉ trích. "Công ước La Hay thứ ba" (1907) đem tối hậu thông điệp đưa ra điều kiện sát gần tuyên chiến coi là một loại trình tự hợp pháp của khai chiến, mục đích là khiến cho đối phương có thể biết chính xác và không lầm lẫn rằng trạng thái chiến tranh sắp đến gần, và trao cho nó cơ hội chọn lựa nhất định. Điểm khác nhau tối hậu thông điệp và tuyên chiến ở chỗ: tuyên chiến một khi đã tuyên bố hoặc thông tri, thì có nghĩa là bắt đầu trạng thái chiến tranh; nhưng mà tối hậu thông điệp sau khi đưa ra cho đến trước khi chọn lấy hành động vũ lực, vẫn còn có thời gian quy định nhất định. Trong thời gian quy định này, có thể thông qua phương thức ngoại giao mà chọn lấy giải quyết tranh chấp hoà bình. Không có tuyên chiến hoặc đưa ra tối hậu thông điệp mà tiến hành chiến tranh, là làm trái phép "công ước thứ ba" trong "Công ước La Hay". Hiến chương Liên hợp quốc xoá bỏ quyền chiến tranh của các nước, cấm chỉ các nước sử dụng vũ lực về phương diện quan hệ quốc tế, khiến cho tối hậu thông điệp được đưa ra muốn giải quyết tranh chấp bằng cách sử dụng vũ lực đã mất đi tính hợp pháp. Nghị quyết do Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc làm ra để cấm chỉ xâm lược và chọn lấy biện pháp cưỡng chế, nội dung và tính chất của nó giống như tối hậu thông điệp, nhưng hoàn toàn không phải do một nước đưa ra. | wiki |
Công ty Dầu hỏa Kuwait Quốc tế | Công ty Dầu hỏa Kuwait Quốc tế
Kuwait Petroleum International (KPI), thường được gọi với thương hiệu của mình Q8, lọc và buôn bán nhiên liệu, dầu nhờn và các sản phẩm dầu hỏa chủ yếu ở châu Âu và Đông Nam Á. Được thành lập vào năm 1983, nó là chi nhánh quốc tế của Tổng công ty Dầu khí Kuwait., Nó cung cấp cho 4.000 trạm xăng lẻ, cũng như các hoạt động bán hàng trực tiếp cung cấp nhiên liệu và dầu sưởi ấm cho người sử dụng tư nhân và công nghiệp. Q8 cũng điều hành một dịch vụ Diesel quốc tế (IDS) - một dịch vụ thẻ nhiên liệu an toàn được hỗ trợ bởi công nghệ tự động cho các công ty vận tải đường bộ quốc tế - tại hơn 700 địa điểm trên khắp châu Âu. Q8 cũng có một doanh nghiệp hàng không đáng kể tiếp thị nhiên liệu máy bay phản lực tại hơn 40 sân bay trên toàn thế giới và kinh doanh dầu nhờn với năm cơ xưởng trộn dầu nhờn, bán hàng trực tiếp và các hoạt động tiếp thị trên khắp châu Âu và xuất khẩu sản phẩm đến hơn 75 quốc gia trên toàn thế giới. | wiki |
Tế bào mẹ nguyên sơ | Tế bào mẹ nguyên sơ
Một tế bào nguyên sơ là một tế bào sinh học có vai trò tương tự như tế bào gốc, có xu hướng phân chia thành một loại tế bào cụ thể, nhưng khác ở chỗ là tế bào nguyên sơ chỉ có thể phân chia theo 1 dòng tế bào nhất định. Ví dụ: Tế bào nguyên sơ hồng cầu phân chia ra tế bào hồng cầu mới trong khi tế bào gốc có thể phát triển thành bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể. Sự khác biệt quan trọng giữa các tế bào gốc và tế bào nguyên sơ là tế bào gốc có thể tái tạo vô thời hạn, trong khi tế bào nguyên sơ chỉ phân chia đến giới hạn nào đó. Tranh cãi về sự chính xác trong định nghĩa vẫn còn và khái niệm này vẫn còn đang phát triển.
Cụm từ "tế bào nguyên sơ" và "tế bào gốc" đôi khi có nghĩa tương đương. | wiki |
Inoue Genzaburō | Inoue Genzaburō
(4/4/1829-29/1/1868) được sinh ra ở tỉnh Bushu (nay nằm ở miền đông Tokyo) và là con trai thứ ba của Inoue Tozaemon. Ông là đội trưởng đội 6 của đảng Shinsengumi.
Giống như anh của ông, Inoue Matsugoro, Genzaburō học kiếm ở trường Tennen Rishin Ryu vào năm 1847 và sau đó được nhận vào trường Menkyo năm 1860. Tuy nhiên, mọi người đã nghĩ sai là lúc đó ông sống ở Shieikan. Năm 1863, ông đã được Kondō Isami thu nhận vào đảng Roshigumi (sau này đổi tên thành Shinsengumi) cùng một số thành viên khác ở Shieikan.
Kondō đã đặt niềm tin của mình vào Genzaburō vì ông là người đứng đắn và có năng lực. Ông đã bắt giữ 8 thành viên của tổ chức Duy tân chí sĩ trong sự kiện Ikedaya vào năm 1864.
Genzaburō Inoue đã chết tại cuộc chiến Toba-Fushimi vào tháng 1 năm 1868. Cháu trai của ông, Inoue Taisuke, đã chôn cất cái đầu cùng với thanh kiếm của ông ở một ngôi chùa gần Osaka.
Genzaburō Inoue có bà con với Okita Sōji. Ông có một thanh kiếm tên là Shirakawazumi Kanetsune (白川住兼常, Bạch Xuyên Trú Kiêm Thường). | wiki |
Cổ Lực Na Trát | Gülnezer Bextiyar (, sinh ngày 2 tháng 5 năm 1992), phiên âm Quan thoại thành "Gulinazha'er Baihetiya'er" (, Hán-Việt: "Cổ Lực Na Trát Nhĩ - Bái Hợp Đề Á Nhĩ"), thường được biết đến với tên bính âm là Guli Nazha ở nước ngoài và Cổ Lực Na Trát ở Trung Quốc, là một nữ diễn viên, người mẫu thế hệ 9X người Uyghur ở Trung Quốc.
Năm 2015, Cổ Lực Na Trát tốt nghiệp trường Học viện Điện ảnh Bắc Kinh. Cô hiện là gương mặt được các thương hiệu thời trang săn đón.
Ngày 8/6/2021, Cổ Lực Na Trát và công ty chủ quản Đường Nhân Ảnh Thị đã chính thức kết thúc hợp đồng sau 10 năm gắn bó. Đến ngày 11/6/2021, cô gia nhập Truyền thông Hoà Tụng, hai bên đã đưa ra thông báo hợp tác chính thức.
Tiểu sử.
Cổ Lực Na Trát sinh ra trong một gia đình dân tộc Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) thuộc khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc. Từ nhỏ cô đã được ba mẹ cho theo học tại học viện Nghệ thuật Tân Cương.
Năm 16 tuổi, Cổ Lực Na Trát được các tay săn ảnh phát hiện trên đường. Từ đó cô bắt đầu làm người mẫu bán thời gian cho các thương hiệu áo cưới và báo.
Sự nghiệp.
Năm 2010, cô từng tham gia thử vai trong bộ phim điện ảnh "Vua của Sheng Yan". | wiki |
Cổ Lực Na Trát | Sự nghiệp.
Năm 2010, cô từng tham gia thử vai trong bộ phim điện ảnh "Vua của Sheng Yan".
Năm 2011, Cổ Lực Na Trát thi vào Học viện Điện ảnh Bắc Kinh. Ngay từ khi bước vào cổng trường, cô đã được các tay săn ảnh chú ý, từ đó trở nên nổi tiếng trong cộng đồng mạng, được khen ngợi là thí sinh đẹp nhất.. Tháng 8 cùng năm, cô được chọn tham gia bộ phim Hiên Viên Kiếm Thiên Chi Ngân cùng các ngôi sao như Hồ Ca, Lưu Thi Thi, Đường Yên. Đây cũng là bước đệm giúp cô ký hợp đồng với công ty điện ảnh Đường Nhân vào ngày 9 tháng 12 cùng năm.
Tháng 7 năm 2012, bộ phim Hiên Viên Kiếm công chiếu trên đài Hồ Nam. Vai diễn Tiểu Tuyết thanh lệ thoát tục trong phim gây được sự chú ý của số đông khán giả
. Tuy nhiên do diễn xuất nhiều hạn chế, Cổ Lực Na Trát cũng vấp phải nhiều phê bình trong bộ phim này. Cùng năm, cô đảm nhận vai nữ chính, Trần Mạn trong bộ phim kinh phí thấp "Chiếc hộp bảo hiểm bí mật" của học viện điện ảnh. Từ đó nhận được đề cử Người mới xuất sắc trong lễ trao giải Lạc thị Thịnh điển lần 3.
Từ năm 2013, tranh thủ các kỳ nghỉ lễ, cô đã tham gia một số vai nhỏ trong các phim "Tân câu chuyện cảnh sát 2013" cùng Thành Long, "Anh hùng lưu manh" cùng Triệu Hựu Đình. | wiki |
Cổ Lực Na Trát | Từ năm 2013, tranh thủ các kỳ nghỉ lễ, cô đã tham gia một số vai nhỏ trong các phim "Tân câu chuyện cảnh sát 2013" cùng Thành Long, "Anh hùng lưu manh" cùng Triệu Hựu Đình.
Năm 2014, Cổ Lực Na Trát tốt nghiệp Học viện Điện ảnh Bắc Kinh. Từ đó có nhiều thời gian hơn để tham gia vào các dự án điện ảnh và truyền hình. Cô đã góp mặt trong phim điện ảnh "Toàn thành thông tập" cùng Lưu Diệp, Triệu Văn Trác. Tiếp đó là "Bậc thầy chia tay" cùng các diễn viên nổi tiếng như Dương Mịch, Đặng Siêu.
Cùng năm, cô góp mặt trong bộ phim "Yêu thì xem phim cùng anh", đóng cặp với nam diễn viên Hàn Quốc Kim Bum. Ngoài ra còn tham gia một vai khách mời trong bộ phim "Đội bóng 11 người."
Cuối năm 2014, bước ngoặt đầu tiên của Cổ Lực Na Trát xuất hiện khi cô được chọn cho vai nữ chính trong bộ phim truyền hình "Sơn Hải Kinh - truyền thuyết Xích Ảnh". Đây có thể xem là vai chính đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất của cô. Cùng thời gian, cô đảm nhận nhân vật Điêu Thuyền trong "Võ thần Triệu Tử Long".
Năm 2015, cô đảm nhận nữ chính trong phần truyện "Hằng Nương" của phim "Truyền Thuyết Thanh Khâu." Đường Vũ Nhu của "Tiên kiếm Vân chi Phàm". Vai diễn này đã giúp cô được đề cử giải Nữ diễn viên cổ trang của Liên hoan phim Hoa Đỉnh. Tiếp đó là show truyền hình thực tế "Thần Tượng Đến Rồi" của đài Hồ Nam. Cuối năm này, cô tiếp tục tham gia "Ninh Mông Sơ Thượng" cùng Lưu Khải Uy. | wiki |
Cổ Lực Na Trát | Tháng 4 năm 2016, Cổ Lực Na Trát đảm nhận vai nữ chính phim điện ảnh "Quy tắc trò chơi" cùng Hà Nhuận Đông và Hoàng Tử Thao. Tiếp đó là nhân vật thánh nữ Từ Hữu Dung trong bộ phim huyền huyễn "Trạch thiên ký" cùng Lộc Hàm. Được biết chi phí đầu tư của phim lên đến 58 triệu USD (khoảng 1 nghìn 300 tỷ VND).
Tháng 2 năm 2017, cô tham gia show truyền hình thực tế Hoa tỷ đệ mùa 3.
Tháng 4 năm 2017, cô vào vai tay guitar bass Đinh Kiến Quốc trong phim điện ảnh Ban nhạc Máy Khâu. Đây là vai diễn đánh dấu sự thay đổi về mặt hình tượng của Cổ Lực Na Trát. Trước khi nhận lời tham gia phim, cô thậm chí không biết gì về nhạc cụ, nhưng lại chơi bass thành thạo sau vài tháng khổ luyện. Cùng thời gian này, cô vào vai Thẩm Diệc Ân trong bộ phim đề tài thời trang "Trả lại thế giới cho em."
Ngày 17/4/2017, bom tấn huyền huyễn Trạch Thiên Ký được công chiếu, chính thức gia nhập "Đường đua tỷ view" khi đạt hơn 30 tỷ lượt xem online trên tất cả các trang mạng trực tuyến tại Trung Quốc.
Tháng 9 năm 2017, cô tiếp tục góp mặt trong phim điện ảnh "Tam quốc vô song". Lần thứ hai đảm nhận nhân vật lịch sử Điêu Thuyền. Cùng thời điểm, bộ phim Ban nhạc Máy Khâu công chiếu. Sau 3 tuần bộ phim đã vượt qua doanh thu 400 triệu NDT.
Cuối năm 2017, cô đảm nhận nhân vật Viên Lai trong bộ phim truyền hình chiếu mạng 10 năm 3 tháng 30 ngày cùng Đậu Kiêu và nhận "cơn mưa lời khen" về tạo hình xuất sắc.
Đầu năm 2018, Cổ Lực Na Trát sánh vai cùng Trần Vỹ Đình trong bộ phim đề tài an ninh Phong Bạo Vũ. | wiki |
Cổ Lực Na Trát | Đầu năm 2018, Cổ Lực Na Trát sánh vai cùng Trần Vỹ Đình trong bộ phim đề tài an ninh Phong Bạo Vũ.
Ngày 19/7/2019, Cổ Lực Na Trát trở lại với bộ phim Trả lại thế giới cho em sau thời gian dài vắng mặt trên màn ảnh nhỏ. Sau khi được công chiếu trên đài truyền hình Giang Tô, phim đạt raiting khả quan. Mảng thời trang của phim được nhận xét tích cực. Được biết ekip phim đã chuẩn bị cho cô 260 trang phục đến từ các thương hiệu lớn. Ngoài ra nhà sản xuất còn mời cả cựu Tổng biên tập Harper's Bazaar - Tô Mang làm giám chế thời trang của phim.
Ngày 11/4/2019, chương trình thực tế về tình yêu "Thích anh, em cũng vậy" lên sóng độc quyền trên iQiyi và Cổ Lực Na Trát tham gia với vai trò là quan sát viên. Sau khi chương trình kết thúc đã nhận được nhiều bình luận tích cực và đạt 7.2 điểm trên Douban. Chương trình còn được đề cử trên lễ trao giải Kim Cốt Đoá 2019.
Ngày 19/9/2019, bộ phim 10 năm 3 tháng 30 ngày được công chiếu trên mạng iQiyi và Tencent. Tuy còn nhận nhiều hạn chế về diễn xuất nhưng phim cũng đạt thành tích đáng kể khi đứng đầu bảng xếp hạng phim truyền hình chiếu mạng chỉ sau 3 ngày khởi chiếu, trở thành phim Hot tháng 9. Đến ngày 13/12 cùng năm, phim được phát lại trên đài Thâm Quyến và giành được vị trí "Quán quân" trong khung giờ vàng của nhà đài.
Tháng 10/2019, cô cùng Lưu Dĩ Hào và Cốc Gia Thành hợp tác trong bộ phim cổ trang Dân Quốc huyền huyễn Thập Nhị Đàm với nhân vật Dạ Minh. | wiki |
Cổ Lực Na Trát | Tháng 10/2019, cô cùng Lưu Dĩ Hào và Cốc Gia Thành hợp tác trong bộ phim cổ trang Dân Quốc huyền huyễn Thập Nhị Đàm với nhân vật Dạ Minh.
Sau thành công ở mùa đầu tiên, iQiyi tiếp tục hợp tác và sản xuất "Thích anh, em cũng vậy" mùa 2. Chương trình được lên sóng vào tháng 4/2020 cùng với sự góp mặt của ba thành viên mới là Lý Vấn Hàn, Tôn Nghệ Châu và Vương Cúc. Ngoài ra, "Thích anh, em cũng vậy" đã được phát độc quyền trên iQiyi Việt Nam vào 12h00 thứ tư hàng tuần và đài Đông Phương (Trung Quốc).
Tháng 5/2020, cô chính thức gia nhập đoàn phim Đại Đường Minh Nguyệt cùng Hứa Ngụy Châu với vai diễn Khố Địch Lưu Ly, được biết đây là dự án trọng điểm của Youku trong năm 2021.
Tháng 7/2020, theo báo cáo tài chính của công ty Từ Văn, bộ phim truyền hình Phong Bạo Vũ do cô và Trần Vỹ Đình đóng chính đã thu về cho công ty này từ phía nhà đài và kênh chiếu mạng cho đợt phát sóng đầu tiên là 590 triệu NDT.
Tháng 10/2020, cơ quan kiểm duyệt thông báo kế hoạch sửa đổi phim truyền hình và điện ảnh trọng điểm quốc gia tháng 9. Trong đó, bộ phim Thập Nhị Đàm do cô đóng chính gồm 30 tập phim sẽ được tăng lên 32 tập chính thức khi phát sóng.
Tối ngày 31/10/2020, cô tham gia đêm hội Song Thập Nhất 11/11 của tianmao do Hồ Nam Vệ Thị tổ chức và biểu diễn ca khúc "May mắn bé nhỏ". Tại đêm hội này, Cổ Lực Na Trát Livestream cho thương hiệu mà mình đại diện - Chando và chỉ sau 1 giờ đầu tiên, giá trị đơn hàng đã vượt mốc 100 triệu NDT. | wiki |
Cổ Lực Na Trát | Đến tháng 11/2020, cô tiếp tục vào vai Dư Giai Ân trong bộ phim Vẻ Đẹp Không Gì Sánh Bằng cùng Trần Hiểu.
Ngày 27/1/2021, bộ phim cổ trang Phong Khởi Nghê Thường (Đại Đường Minh Nguyệt) chính thức lên sóng trên Truyền hình Hồ Nam, Kim Ưng độc bá kịch trường và mạng Youku với 40 tập. Ngoài ra phim sẽ được phát song song trên nền tảng FPT Play của Việt Nam.
Ngày 27/3/2021, web drama dân quốc huyền huyễn Thập Nhị Đàm được phát sóng độc quyền trên mạng Youku.
Ngày 25/4/2021, bộ phim Phong Bạo Vũ ấn định phát sóng trên cả 3 nền tảng iQiyi, Tencent và Youku. Đồng thời phim đã được mua bản quyền phát song song trên FPT Play, VieOn của Việt Nam.
Đời tư.
Cổ Lực Na Trát sống một mình trong căn hộ ở Bắc Kinh. Gia đình hiện còn mẹ và chị gái.
Ngày 9 tháng 8 năm 2015, Cổ Lực Na Trát và nam diễn viên Trương Hàn công khai hẹn hò và đã chia tay vào ngày 25 tháng 12 năm 2017 sau gần hai năm hẹn hò.
Chứng thực thương hiệu.
Lưu ý: Những đại ngôn được lặp lại qua các năm là đại ngôn còn hạn hợp đồng.
Tạp chí, tuần san.
Một số thành tích khác.
• Bảng xếp hạng quyền lực của nữ diễn viên điện ảnh Hoa Ngữ năm 2017: No37.
• Bảng xếp hạng người đại diện thương hiệu xa xỉ hiệu quả nhất nửa đầu năm 2019:
_Sergio Rossi No2.
_Alexander McQueen No9.
• Bảng xếp hạng người đại diện thương hiệu mỹ phẩm hiệu quả nhất nửa đầu năm 2019:
_Su:m37 No7.
Thống kê của CBN và Alibaba (tập đoàn) công bố
• Top 20 bộ phim có sức ảnh hưởng tiêu dùng nhất năm 2019:
_Trả lại thế giới cho em No13. | wiki |
Cổ Lực Na Trát | _Su:m37 No7.
Thống kê của CBN và Alibaba (tập đoàn) công bố
• Top 20 bộ phim có sức ảnh hưởng tiêu dùng nhất năm 2019:
_Trả lại thế giới cho em No13.
•Top 20 show truyền hình có sức ảnh hưởng tiêu dùng nhất năm 2019:
_Show Thích anh, em cũng vậy No7.
• Bảng xếp hạng nữ ngôi sao 9x có lượt đọc nhiều nhất 2 tuần đầu năm 2020:
_No4 (với 55.969.750 lượt đọc).
Bảng xếp hạng ngôi sao 9x có lượng sản phẩm tiêu thụ Hot nhất nửa đầu năm 2020 do CBNData công bố:
_TOP3 toàn bảng và là nữ nghệ sĩ 9x có chỉ số cao nhất.
Bảng xếp hạng ngôi sao 9x có lượng sản phẩm tiêu thụ Hot nhất năm 2020 do CBNData công bố:
_TOP1 sao nữ 9X và TOP3 toàn bảng. | wiki |
Samuel Scheidt | Samuel Scheidt
Samuel Scheidt (rửa tội 3 tháng 11 năm 1587 – 24 tháng 3 năm 1654) là một nhà soạn nhạc người Đức, nghệ sĩ trình diễn đàn organ và giáo viên vào thời kì tiền kì baroque.
Cuộc đời sự nghiệp.
Scheidt sinh ra ở Halle, sau khi học ở đó ông đã đến Amsterdam để học tập với Jan Pieterszoon Sweelinck. Ông là nhà soạn nhạc người Đức đầu tiên sáng tác cho Organ có ảnh hưởng đến quốc tế và thể hiện cho sự nở rộ của phong cách miền bắc nước Đức.
Âm nhạc của ông bao gồm hai loại chính: khí nhạc (với số lượng lớn tác phẩm sáng tác cho nhạc cụ phím và chủ yếu là đàn Organ) và thanh nhạc (A acapella). Ngoài ra ông còn viết các thể loại khác như Prelude, Fugue, Fantasias và các vũ điệu. | wiki |
Synchiropus monacanthus | Synchiropus monacanthus
Synchiropus monacanthus là một loài cá biển thuộc chi Cá đàn lia gai ("Synchiropus") trong họ Cá đàn lia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1935.
Phân bố và môi trường sống.
"S. monacanthus" có phạm vi phân bố ở Tây Ấn Độ Dương. Loài cá này được tìm thấy dọc theo bờ biển Đông Phi, từ Zanzibar và Tanzania trải dài đến thị trấn Port Alfred, Nam Phi. Chúng sống ở độ sâu khoảng 175 – 428 m.
Mô tả.
Mẫu vật lớn nhất của "S. monacanthus" có chiều dài cơ thể được ghi nhận là 13 cm, thuộc về cá thể đực; cá cái có chiều dài tối đa được ghi nhận là 11 cm. Cơ thể của chúng có các vân màu xanh lục và nâu đỏ ở thân trên, thân dưới có màu trắng; các vây có vệt tím ở cận rìa. Vây lưng thứ nhất của cá đực vươn cao, có các dải sọc xiên màu sẫm.
Số gai ở vây lưng: 4; Số tia vây mềm ở vây lưng: 7 - 8; Số gai ở vây hậu môn: 0; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 6 - 8. | wiki |
Bẫy rồng | Bẫy rồng (tựa tiếng Anh: Clash) là một bộ phim hình sự - hành động - võ thuật Việt Nam của đạo diễn Lê Thanh Sơn thực hiện, được công chiếu vào ngày 9 tháng 12 năm 2009. Dàn diễn viên của phim gồm có Johnny Trí Nguyễn, Ngô Thanh Vân, Hoàng Phúc, Lâm Minh Thắng và Hiếu Hiền.
Do có nhiều cảnh liên quan đến bạo lực và tình dục nên khi công chiếu ở Việt Nam, phim chỉ dành cho người từ 16 tuổi trở lên.
Nội dung.
Câu chuyện bắt đầu khi Trinh (biệt danh Phượng hoàng) tập hợp một số nhân vật giang hồ để thực hiện phi vụ cuối cùng cho Hắc Long - một tên trùm xã hội đen có thế lực mạnh mẽ. Nhiệm vụ là phải cướp một chiếc máy tính xách tay có khả năng xâm nhập và điều khiển vệ tinh Vinasat-1 đang nằm trong tay một băng gangster người Pháp – những tên này tới Sài Gòn với mục đích rao bán chiếc máy tính trên với số tiền khổng lồ.
Sau khi tập hợp lực lượng bao gồm Quân (biệt danh Hổ), Cang (biệt danh Xà), Phong (biệt danh Ngưu) và Tuấn (biệt danh Diều hâu), Trinh và băng nhóm liên hệ ông Hải - một trùm buôn lậu vũ khí để mua vài khẩu AK-47. Tại đây, ông Hải nhận ra Cang là người đã từng hại chết em trai ông và một trận chiến nảy lửa diễn ra. Sau khi Trinh, Quân và Cang hạ gục hết bọn thuộc hạ, ông Hải lao ra xả súng AK dữ dội. Tuấn (dù được phân công ở lại xe) đã đến ứng cứu, anh đâm ông Hải một nhát vào hông khiến ông ta khựng lại. Cả nhóm tháo chạy nhưng Tuấn đã bị trúng đạn ở chân. | wiki |
Bẫy rồng | Sau cuộc mua vũ khí bất thành, nhóm phải nhận số súng ru-lô do Hắc Long cung cấp. Nhóm của Trinh sau đó lấy được chiếc máy tính từ tay bọn gangster Pháp, nhưng Cang đã phản bội nhóm, giết chết Tuấn rồi cướp mất chiếc máy tính. Bây giờ chỉ còn một mình Quân ở bên cạnh Trinh, Trinh chỉ còn biết tin tưởng vào Quân, và hai người đã yêu nhau.
Cang hẹn gặp A Lũ, một gangster của Hội Tam Hoàng, để ra giá 100.000 USD cho chiếc máy tính. Quân xuất hiện và đánh gục bọn gangster Tam Hoàng. Cang bỏ chạy thì bị Hắc Long bắt được. Hắc Long tra tấn Cang để hỏi chỗ cất giấu chiếc máy tính. Quân, bấy giờ bất ngờ tiết lộ rằng mình là một công an nằm vùng, cùng các cộng sự bất ngờ uy hiếp để bắt Hắc Long và một cuộc giao chiến nổ ra. Nhân lúc tình hình căng thẳng Cang mang chiếc máy tính lên xe motor tẩu thoát, Hắc Long và Trinh cố gắng đuổi theo Cang nhưng không thành công. | wiki |
Bẫy rồng | Cang hẹn gặp A Thoòng ở bờ sông để bán chiếc máy tính. Bất ngờ Hắc Long và nhóm gangster Pháp cũng xuất hiện ở bờ sông để tìm cách đoạt chiếc máy tính. Canoe của công an cũng xuất hiện ngay sau đó để yêu cầu cả bọn đầu hàng và một trận đấu súng ác liệt diễn ra. Từng tên tội phạm bị hạ, cho đến cuối cùng chỉ còn lại Quân, Hắc Long, Trinh và Cang. Quân đánh nhau với Hắc Long, trong khi Trinh đánh nhau với Cang. Trinh giết chết Cang, trong khi đó Hắc Long cầm súng bắn Quân. Hắc Long tiết lộ hắn đã giết con gái của Trinh, sau đó hắn định giết luôn cả cô. Quân chưa chết do có mặc áo chống đạn, anh đứng dậy và bắn chết Hắc Long khi hắn đang uy hiếp để giết chết Trinh. Chiếc máy tính sau đó được giao lại cho chính phủ Việt Nam, Quân và Trinh tiếp tục yêu nhau.
Nhạc phim.
Nhạc phim do nhà soạn nhạc Christopher Wong thực hiện.
Bài hát chính thức của phim là: Tiếc (Regret) do ban nhạc Little Wings và rapper Hà Okio thực hiện. Về sau, rapper Hà Okio dùng một số riff và đoạn chorus của "Tiếc" để viết bài hát "Tung bay". MV "Tung Bay" được nhóm đạo diễn Bone Ho, nhà sản xuất Trần Hoàng Hải và ca sĩ Hà Okio đồng thực hiện, với sự xuất hiện của Hà Okio (rapper), Hồ Quang Hưng (guitar, ca sĩ) và nhóm đạo diễn Lê Thanh Sơn, đạo diễn Bone Ho, nhà sản xuất Vũ Đỗ, nhà sản xuất Trần Hoàng Hải xuất hiện cameo ở cuối MV.
Võ thuật. | wiki |
Bẫy rồng | Võ thuật.
Tương tự "Dòng máu anh hùng", trong "Bẫy rồng", Johnny Trí Nguyễn và Ngô Thanh Vân sử dụng nhiều đòn đá của Vovinam và Taekwondo, nhưng đặc biệt được bổ sung những kỹ thuật công phu và đẹp mắt hơn. Ngoài ra, trong phim còn xuất hiện các thế võ vật khống chế đối phương đặc trưng của Jujitsu (Nhu thuật) và Judo, các thế đánh chỏ và đầu gối của Muay Thái.
Lâm Minh Thắng, trước khi tham gia "Bẫy rồng", anh cũng từng xuất hiện trong nhiều vai giang hồ - xã hội đen, nhưng đây là lần đầu anh thể hiện võ thuật điện ảnh chuyên nghiệp. Tuy vậy, sự thể hiện trong phim cho thấy anh là một người có khiếu võ thuật và vào các vai giang hồ. Trong phim, anh sử dụng Quyền Anh và võ tự do.
Hiếu Hiền cũng là một diễn viên nổi tiếng với các vai bặm trợn lại là một người không biết võ và trong "Bẫy rồng" anh cũng chỉ bắn súng chứ không hề đánh. Sự xuất hiện của nhân vật Phong (biệt danh Ngưu) của Hiếu Hiền trong "Bẫy rồng" góp phần làm bớt căng thẳng cho một bộ phim hành động với đầy cảnh bắn giết.
Trần Thế Vinh - diễn viên thủ vai Tuấn (biệt danh Diều hâu) trong phim, bên ngoài là một võ sư pencak silat. | wiki |
Piaractus brachypomus | Piaractus brachypomus là danh pháp khoa học của một loài cá Pacu Amazon, một họ hàng gần của cá răng đao và cá đô la bạc. Giống như một số loài có quan hệ họ hàng gần khác, "P. brachypomus" thường được gọi là cá pacu bụng đỏ. Điều này đã tạo ra nhiều lộn xộn về bản chất và nhu cầu của tất cả các loài có liên quan, với danh tiếng và các yêu cầu của một loài thường bị gán sai lầm cho loài khác. Tên gọi không gây nhầm lẫn cho "P. brachypomus" là pirapitinga.
Khu vực sinh sống bản địa là lưu vực các sông Amazon và Orinoco tại Colombia, Venezuela, Peru, Bolivia và Brasil, cũng được ghi nhận có ở Argentina nhưng đã du nhập vào nhiều nơi khác như Ấn Độ, Bangladesh, Canada, Đài Loan, Hoa Kỳ, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam.
Tại Việt Nam, nó được gọi là cá chim trắng ? hay cá chim trắng toàn thân,
Mô tả chung. | wiki |
Piaractus brachypomus | Tại Việt Nam, nó được gọi là cá chim trắng ? hay cá chim trắng toàn thân,
Mô tả chung.
Pacu bụng đỏ thường bị nhầm lẫn với các loài cá pacu khác (Piaractus mesopotamicus, Colossoma macropomum) hay piranha (Pygocentrus natteri) do bề ngoài tương tự nhau của chúng. Cơ thể chúng sâu và dẹp bên, với hai bên mình có màu trắng bạc và sẫm dần về phía gần lưng. Màu đỏ có ở bụng, cằm, vây ngực và đôi khi cũng có ở ở các tia vây trước của vây hậu môn. Các tia vây khác sẫm màu đồng nhất. Giống như ở các loài cá chép mỡ (Characiformes) khác, vây béo nhỏ không chia thành tia vây nằm ở khoảng giữa vây lưng và vây đuôi. Số lượng tia vây: Vây lưng = 15-18, vây ngực = 16-19, vây hậu môn = 24-28, vây chậu = 8. Vài tia vây đầu tiên của vây lưng và vây hậu môn dài hơn các tia vây còn lại. Một hàng răng cưa sắc nhọn hình thành từ vảy bị biến đổi nằm ở phần bụng. Mặc dù không phát triển và không sắc nhọn như ở các loài cá răng đao họ hàng nhưng cá pacu bụng đỏ cũng có 2 hàng răng cứng và phẳng để nghiền hạt và quả hạch. Công thức bộ răng của chúng bao gồm 2 dãy răng cửa có hình dạng răng hàm nằm trên xương tiền hàm trên và một hàng răng trên xương hàm dưới.
Khi còn non, cá pacu bụng đỏ trông giống như cá piranha ở chỗ cũng có các đốm màu từ xám sẫm tới đen trên cơ thể, một đặc trưng tiêu chuẩn của cá piranha, giúp chúng thoát khỏi các cuộc tấn công của cá săn mồi, kể cả cá piranha khi cá pacu còn dễ bị thương tổn. Khi chúng lớn dần thì các đốm này sẽ dần biến mất. | wiki |
Piaractus brachypomus | "P. brachypomus" có thể và sẽ lớn nhanh trong các điều kiện thích hợp. Kích thước tổng thể mà nó có thể phát triển được vẫn là vấn đề của tranh luận đáng kể và không ít sự lộn xộn. Phần lớn sự lộn xộn bắt nguồn từ thực tế là một loài có thể và thường rất dễ bị nhận dạng sai thành loài khác, và kích thước có thể đạt được khi nuôi nhốt thường là nhỏ hơn so với kích thước có thể đạt được trong tự nhiên hoang dã. "P. brachypomus" là loài cá tương đối nhỏ, với kích thước khoảng 25–88 cm, tối đa ghi nhận là 88 cm, cân nặng tối đa 25 kg và tuổi thọ tối đa 28 năm. Tuy nhiên, nó có thể dễ dàng lớn vượt trội phần lớn các loài nuôi trong bể cảnh: chúng là loài cá khỏe và cường tráng cần nhiều không gian bơi lội và có nhu cầu rất cao về hệ thống lọc nước. Chúng có bộ răng khỏe có thể gây ra những vết cắn nghiêm trọng.
Thức ăn khi nuôi nhốt. | wiki |
Piaractus brachypomus | Thức ăn khi nuôi nhốt.
"P. brachypomus" chủ yếu là loài ăn cỏ, nhưng trên thực tế nó là loài kiếm ăn theo cơ hội. Các phân tích dạ dày các mẫu vật hoang dã chỉ ra rằng nó là loài chủ yếu là ăn cỏ, ăn các loại quả và hạt nhưng cũng ăn cả côn trùng, động vật phù du và cá nhỏ. Trong các bể cá cảnh thì người ta thường cho nó ăn loại thức ăn đa dạng bao gồm các viên hay mẩu thức ăn sấy khô có chất lượng, cùng nhiều rau và quả. Rau chân vịt, lá rau diếp, các loại rau quả như táo, chuối, đào, nho, bí xanh, lê, cải bắp và cà rốt cũng là nguồn thức ăn tốt. Chúng đôi khi cũng "vồ lấy" thức ăn trôi nổi, làm nước bắn tung tóe và làm cho mi mắt là thiết yếu. Trong điều kiện nuôi nhốt, không nên nuôi loài này với bất kỳ loài cá nhỏ nào tới mức bị chúng coi là thức ăn, mặc dù chúng thường là vô hại khi bơi cạnh các loài cá to lớn hơn.
Trong bể cá cảnh.
Khi có kích thước lớn hơn, "P. brachypomus" cần bể cá to hơn để phát triển. Nhiệt độ nước thích hợp với chúng khoảng và hệ thống cần được lọc nước và lưu thông oxy tốt. "P. brachypomus" to lớn hơn đôi khi được coi là "cá quỷ" và được nuôi trong các bể cá cảnh cùng các loài cá to lớn khác. Chúng có xu hướng nhút nhát và ẩn dật và sẽ tháo lui để ẩn nấp khi cảm thấy không an toàn. Đôi khi chúng cũng đánh nhau khi nuôi thành một nhóm. Phải mất nhiều thời gian để chúng thích nghi với bể cá và chúng thường có thể cố gắng nhảy ra ngoài.
Sử dụng. | wiki |
Piaractus brachypomus | Sử dụng.
Được FishBase đánh giá là có tầm quan trọng nhỏ trong ngư nghiệp, nhưng có tầm quan trọng ở quy mô thương mại trng nghề nuôi cá cảnh.
Đe dọa đối với con người: Được FishBase đánh giá là có thể gây chấn thương (traumatogenic) . | wiki |
R. Tee | R. Tee
Kim Jung-gu (tiếng Hàn: 김중구, sinh ngày 10 tháng 2 năm 1990), còn được biết đến với nghệ danh R. Tee (tiếng Hàn: 알티), là một nhà sản xuất nhạc, nhạc sĩ và DJ người Hàn Quốc đã ký hợp đồng với The Black Label. R. Tee đã sản xuất các bài hát cho các nghệ sĩ bao gồm Big Bang, Blackpink, IKON và Winner.
Sáng tác và sản xuất.
Các khoản tín dụng được điều chỉnh từ cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Bản quyền Âm nhạc Hàn Quốc. ID tìm kiếm của R. Tee là 10000790. | wiki |
XMind | XMind
XMind là phần mềm lập bản đồ tư duy, được phát triển bởi XMind Ltd. Ngoài các yếu tố quản lý, phần mềm có thể được sử dụng để nắm bắt ý tưởng, làm rõ suy nghĩ, quản lý thông tin phức tạp và thúc đẩy hợp tác nhóm.
Nó hỗ trợ sơ đồ tư duy, sơ đồ xương cá, sơ đồ cây, biểu đồ tổ chức, bảng tính, v.v. Thông thường, nó được sử dụng để quản lý kiến thức, biên bản cuộc họp, quản lý nhiệm vụ. Trong khi đó, XMind có thể đọc các tệp FreeMind và MindManager và lưu vào Evernote. Đối với XMind Pro/Zen, nó có thể xuất bản đồ tư duy vào các tài liệu Microsoft Word, PowerPoint, Excel, PDF, FreeMind và MindManager. | wiki |
Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp | Đệ Ngũ Cộng hòa là chế độ cộng hòa của Pháp ngày nay. Đệ Ngũ Cộng hòa được thành lập sau khi Đệ Tứ Cộng hòa sụp đổ vào năm 1958. Đệ Ngũ Cộng hòa có Hiến pháp được soạn thảo năm 1958.
Tính tới nay, Đệ Ngũ Cộng hòa là thể chế tồn lại lâu thứ nhì tại Pháp kể từ sau Cách mạng Pháp. Nó có khoảng thời gian tồn tại chỉ sau Đệ Tam cộng hòa.
Bối cảnh.
Năm 1958, Đệ Tứ Cộng hòa Pháp yếu kém và nội các được thay đổi thường xuyên. Vào thời điểm đó, Pháp rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị do Chiến tranh Algérie. Lãnh đạo thực dân Pháp Jacques Massu và những người khác đã sử dụng sự bất mãn của người dân với chính phủ để kích động một số sĩ quan ở Algiers, Seoul nhằm phát động một cuộc đảo chính vào ngày 13 tháng 5 và các cuộc bạo loạn chống chính phủ cũng nổ ra ở miền Nam nước Pháp vào ngày 25 tháng 5, buộc tổng thống René Coty phải bổ nhiệm Charles de Gaulle, người sau đó không còn chức vụ, làm thủ tướng. | wiki |
Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp | Để giải quyết sự bất ổn chính trị của Cộng hòa thứ tư do việc thực thi thể chế đại nghị, De Gaulle yêu cầu sửa đổi hiến pháp để tăng quyền lực của tổng thống và cơ quan hành pháp. Vào tháng 6 năm đó, Quốc hội đã trao cho de Gaulle toàn quyền trong một lệnh khẩn cấp để xây dựng một hiến pháp mới. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1958, Pháp đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp, cuối cùng đã được thông qua với 82,60% sự đồng ý. Vào ngày 5 tháng 10, Charles de Gaulle tuyên bố thành lập Cộng hòa Pháp thứ năm. Cuộc bầu cử Quốc hội được tổ chức vào tháng 11 và Quốc phòng Cộng hòa mới, do Charles de Gaulle lãnh đạo, đã giành chiến thắng.
Vào tháng 1 năm 1959, Charles de Gaulle trở thành tổng thống đầu tiên Đệ Ngũ Cộng hòa, thành lập một chính phủ liên minh do "Cộng hòa Dân chủ" lãnh đạo. Vào tháng 3 năm 1962, nền độc lập của Algérie đã được công nhận. Các lãnh thổ ở Châu Phi, ngoại trừ Somalia, được tuyên bố độc lập vào năm 1960, và Pháp chỉ có thể duy trì quan hệ song phương với các hiệp định song phương và hỗ trợ kinh tế. Sau khi thành lập Đệ Ngũ Cộng hòa, tình hình chính trị của Pháp dần ổn định và nền kinh tế của nó phát triển.
Hệ thống chính trị. | wiki |
Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp | Hệ thống chính trị.
Tổng thống Pháp ban đầu được bầu bởi cử tri đoàn. Năm 1962, Charles de Gaulle thay đổi tổng thống thành một cuộc bầu cử công dân trực tiếp với nhiệm kỳ 7 năm. Sau đó, Charles de Gaulle trở thành tổng thống đầu tiên được bầu trực tiếp sau hai vòng bỏ phiếu. Sửa đổi hiến pháp năm 2002 đã rút ngắn bảy năm xuống còn năm năm và có thể được bầu lại nhiều nhất một lần. Cuộc bầu cử tổng thống là một hệ thống tranh cử hai vòng. Các ứng cử viên nhận được hơn một nửa số phiếu trong vòng bỏ phiếu đầu tiên có thể được bầu làm tổng thống. Nếu không có ứng cử viên nào nhận được hơn một nửa số phiếu trong vòng bỏ phiếu đầu tiên, vòng bỏ phiếu đầu tiên sẽ nhận được nhiều phiếu nhất. Hai trong số các ứng cử viên có thể tham gia vòng bỏ phiếu thứ hai và ứng cử viên nào được nhiều phiếu hơn trong vòng bỏ phiếu thứ hai được bầu làm tổng thống.
So với các tổng thống của các nước châu Âu khác, tổng thống Pháp có thẩm quyền giải tán Quốc hội. Tổng thống Pháp có quyền lực lớn hơn các tổng thống của các nước châu Âu khác, bởi vì nhiều nước châu Âu như Đức, Ý, Hy Lạp và Bồ Đào Nha là biểu tượng của tổng thống. Ý nghĩa lớn hơn và không có sức mạnh thực sự. | wiki |
Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp | Đồng thời, Đệ Ngũ Cộng hòa thiết lập tập quán hệ thống hai đầu. Khi đảng của tổng thống chiếm hơn một nửa quốc hội, thủ tướng được chỉ định của tổng thống là đảng của tổng thống và trở thành cơ quan điều hành của tổng thống. Ngược lại, nếu đảng đối lập chiếm hơn một nửa trong Quốc hội, thì tổng thống sẽ chỉ định những người được đảng đối lập bầu làm thủ tướng, và đảng đối lập sẽ cai trị. Thực hành hiến pháp, tổng thống điều hành các vấn đề đối ngoại, và thủ tướng điều hành các vấn đề nội bộ.
Giống như cánh hữu Chirac phục vụ giữa những năm 1986 và 1988 Thủ tướng Chính phủ, nhưng nó đã được tổng thống cánh tả của Đảng xã hội chủ nghĩa của Mitterrand, Pháp đã ba lần trong quá khứ xuất hiện chế độ "đồng quản trị", tương ứng, 1986-1988 xuất hiện vào năm 1993-1995 và 1997-2002. Sau khi nhiệm kỳ của tổng thống được rút ngắn vào năm 2002, cuộc bầu cử tổng thống đã diễn ra trước cuộc bầu cử quốc hội, làm giảm khả năng "đồng quản trị".
Các tổng thống của Đệ Ngũ Cộng hòa.
Nguyên thủ quốc gia Pháp () là ngôi vị của người đứng đầu Cộng hòa Pháp. Kế từ năm 1958, danh xưng Quốc trưởng (chef d'État) không xuất hiện trong các văn bản pháp luật, do nó từng là một danh xưng chính thức trong các thời kỳ Phục hoàng, Đế chế thứ hai và Chính phủ Vichy, mang ý nghĩa một chức vị chuyên chế hoặc ít tập trung quyền lực thực tế. Theo Hiến pháp của nền Đệ ngũ Cộng hòa, Nguyên thủ quốc gia Pháp có danh xưng chính thức là Tổng thống Cộng hòa Pháp () là một chức vị đứng đầu nhà nước và có thực quyền. | wiki |
Đệ Ngũ Cộng hòa Pháp | Các thủ tướng của Đệ Ngũ Cộng hòa.
Đây là lần đầu tiên chức vụ được gọi là Thủ tướng Chính phủ, chứ không phải là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, thể hiện sự chia sẻ quyền lực vơi Tổng thống Cộng hòa, là nguyên thủ quốc gia không phải đứng đầu Chính phủ
Đảng Chính trị: | wiki |
Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XIII | Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XIII
Một cuộc bầu cử quốc hội lần thứ 13 được tổ chức tại Việt Nam vào ngày 22 tháng 5 năm 2011.
Theo Bộ Nội vụ Việt Nam, đã có 827 ứng cử viên. 31,4% là phụ nữ, 14,3% không phải là Đảng viên của Đảng Cộng sản, 16,1% là thành viên của các dân tộc thiểu số và 22,1% là ứng cử viên tái tranh cử.
500 dân biểu được bầu ra. 333 dân biểu tham gia đầu tiên, 4 là tự ứng cử. Hầu như tất cả trong số họ có ít nhất một bằng đại học, 15,6% là dân tộc thiểu số, 24,4% là phụ nữ, và 8,4% không phải là thành viên của Đảng Cộng sản. Cử tri đi bầu là 99,51%, với các tỉnh miền núi phía bắc như Lai Châu, Hà Giang, Hòa Bình và Lạng Sơn báo cáo số cử tri đi bỏ phiếu là 99,99% . | wiki |
Holodomor | Holodomor (tiếng Ukraina: "Голодомор", nghĩa đen: "Cái chết tập thể vì nạn đói"), nói về nạn đói ở Liên Xô vào thời kỳ 1932–1933 xảy ra ở vùng mà bây giờ thuộc Ukraina.
Từ ngữ.
Từ Holodomor là do 2 chữ „"Holod"" và „"Mor"" của tiếng Ukraina. „"Holod"" („") có nghĩa "Đói", „"Mor"" là một tiếng cổ có nghĩa "Chết", "Bệnh dịch", "Chết tập thể"; theo nghĩa hiện tại (cả tiếng Ukraina lẫn tiếng Nga) "Sự tiêu diệt". Holodomor nghĩa đen có nghĩa là "Cái chết vì đói".
Bối cảnh chính trị.
Stalin theo đuổi các mục tiêu chính trị để ngăn chặn các phong trào đòi ly khai đòi độc lập ở Ukraina và để củng cố chính quyền Liên Xô tại Ukraina. Trước đó, Liên Xô đã hành động mạnh với giới trí thức và các giáo sĩ người Ukraina. Giữa năm 1926 và năm 1932, 10.000 giáo sĩ bị xử bắn hoặc trục xuất bởi những người Bolshevik. Vào năm 1931, hơn 50.000 trí thức bị trục xuất đến Siberia, trong số đó có 114 nhà thơ, nhà văn và nghệ sĩ quan trọng trong nước. Sau đó, Liên Xô bắt đầu đối phó với những người nông dân, những người vẫn còn ngoan cố chống lại tập thể hóa và công nghiệp hóa. Trong tinh thần "Nga hóa", văn hóa riêng của Ukraine bị loại bỏ để chỉ còn một nền văn hóa Xô Viết. | wiki |
Holodomor | Năm 1932. Stanislaw Franzewitsch Redens, một chính khách thân cận của Joseph Stalin, từ tháng 7 năm 1931 đứng đầu an ninh mật tại Ukraina, nhận được lệnh, cùng với bí thư thứ nhất của đảng Cộng sản Ukraina Stanislaw Wikentjewitsch Kossior, lập ra một kế hoạch coi như là một phần của chương trình tập thể hóa, tiêu diệt những thành phần địa chủ (Kulak) và "phản cách mạng". 2 ngàn Kolchos (Hợp tác xã) sau đó được thành lập trên những vùng đất được quốc hữu hóa. Vào năm 1933, khi số lượng ngũ cốc không đạt được như theo kế hoạch, Redens bị mất chức.
Khởi đầu.
Holodomor bắt đầu với một đợt hạn hán nghiêm trọng vào mùa đông và mùa xuân năm 1931/1932 và kéo dài cho đến tháng 7 năm 1933. Mặc dù dân cư nông thôn bị thiếu ăn, các cán bộ chính phủ tăng tỷ lệ thuế đến 44 phần trăm. Mặc dù thế, trong khi năm 1931 từ 7,2 triệu tấn ngũ cốc đã được trưng dụng ở Ukraine, trong năm 1932 đã giảm ở mức 4,3 triệu tấn. Các hạt lương thực đã được chủ yếu bán ra để có được ngoại tệ trên thị trường thế giới. Các khoản thu được cần thiết để công nghiệp hóa nền kinh tế của Liên Xô.
Nạn đói đã được dự đoán từ năm 1930 bởi các viện nghiên cứu và cố vấn cho chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, nhưng ít hoặc không có hành động phòng ngừa nào được thực hiện. | wiki |
Holodomor | Nạn đói đã được dự đoán từ năm 1930 bởi các viện nghiên cứu và cố vấn cho chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina, nhưng ít hoặc không có hành động phòng ngừa nào được thực hiện.
Trong cuộc tập thể hóa nông nghiệp đã xảy ra nạn đói nhiều lần tại khu vực của Liên Xô, kể từ khi tiếp quản bởi những người Bolshevik từ năm 1917 sau Cách mạng tháng 10. Không giống như ở các vùng khác bị ảnh hưởng bởi hạn hán, chính quyền đã đóng cửa biên giới Ukraina để ngăn cấm xuất cảnh ngay từ đầu của nạn đói, làm cho người dân không còn cách ra khỏi khu vực bị ảnh hưởng bởi hạn hán. Các lữ đoàn Bolshevik truy lùng thực phẩm cất giấu của nông dân để bắt họ nộp thuế. Nhiều nông dân bị mất tất cả tài sản của họ và kết thúc như người ăn xin ở các thành phố. Tại một số nơi, trong dân chúng đã có nạn ăn xác người chết.
Nạn đói tại Ukraina đã được các ký giả Gareth Jones và Malcolm Muggeridge thông báo cho quốc tế biết vào mùa xuân 1933. Những ký giả thân thiện với chế độ Liên Xô như Walter Duranty của tờ báo The New York Times cho đó là không có gì nghiêm trọng cả. Trong lúc đó, trên báo chí, người ta hầu như chỉ chú trọng tới việc Hitler trở thành nhà độc tài Đức.
Số người chết.
Theo con số của viện Khoa học Ukraina, công bố vào tháng 11 năm 2008 thì số người chết tại địa phận Ukraina ước tính khoảng chừng 2,4 - 3,5 triệu người. Một số sử gia phương Tây thậm chí còn đưa ra con số lên tới 7,5 triệu người chết | wiki |
Holodomor | Tuy nhiên, căn cứ theo số liệu dân cư tại hồ sơ lưu trữ, thì các con số trên của phương Tây là phóng đại quá mức. Theo hồ sơ lưu trữ về dân số Ukraina, năm 1930, dân số là 29,62 triệu người, đến năm 1933 là 30,06 triệu người.
Như vậy, bất chấp nạn đói, dân số Ukraina vẫn tăng khoảng 440.000 người trong 3 năm, do đó số lượng người chết đói không thể nào lên tới hàng triệu như ước tính của chính phủ Ucraina và phương Tây.
Theo nghiên cứu của Jacques Vallin vào năm 2012, số người chết do mọi nguyên nhân (già, bệnh tật, tai nạn...) tại Ukraina năm 1931 là gần 515.000 người, con số này vào năm 1932 là 668.000, và năm 1933 là khoảng 1.850.000. Trừ đi số người chết do các nguyên nhân tự nhiên hoặc chiến tranh, hoặc việc số liệu đăng ký dân cư bị mất, thì số người chết vì đói ở Ukraina trong các năm 1932-1933 là khoảng 1,4 triệu (khoảng 150.000 vào năm 1932 và 1,25 triệu vào năm 1933). | wiki |
Holodomor | Theo số liệu thống kê dân số của Cục lưu trữ Liên Bang Nga vào năm 1993 cho thấy: trong năm 1931, toàn Liên Xô có hơn 4.008.000 người chết, trong 1932 có hơn 4.448.000 người chết (số người chết do mọi nguyên nhân, không phải chỉ tính chết vì đói). Trong khi đó, số người chết bình quân mỗi năm tại Liên Xô trong vòng 5 năm 1926-1930 là 3.735.000 người. Như vậy, trong hai năm 1931-1932, số người chết vì đói trên toàn Liên Xô chỉ vào khoảng gần 1 triệu người (1931 là khoảng 270.000 người và 1932 là khoảng hơn 700.000 người). Nếu trừ đi số người chết đói ở các vùng khác, thì số người chết vì nạn đói tại vùng Ukraina sẽ không thể vượt quá vài trăm nghìn người.
Về nguyên nhân gây ra nạn đói. | wiki |
Holodomor | Về nguyên nhân gây ra nạn đói.
Về nguyên nhân của Holodomor có nhiều quan điểm trái hẳn nhau. Một số sử gia Ukraina cho rằng đó là một sự kiện cố ý. Sử gia người Hungary Miklós Kun cho rằng đó là việc phân phối lương thực một cách cố ý, trong khi tại các làng mạc Ukraina người dân bị nạn đói đe dọa, thì thực phẩm của Ukraina được chở tới các nước Cộng hòa khác theo lệnh của Stalin trong khuôn khổ phân phối thực phẩm với giá bao cấp...". Ngược lại, các sử gia người Nga thì cho rằng nạn đói Holodomor là kết quả của việc mất mùa do thiên tai (cụ thể là trận hạn hán kỷ lục năm 1932), cộng thêm với việc tập thể hóa nông trường và sự phản kháng của nông dân Ukraina làm cho tình trạng càng thê thảm hơn.Năm 1932, Ukraine có lượng mưa lớn bất thường (gấp 2-3 lần mức bình thường), dẫn đến cây trồng bị nhiễm nấm ký sinh nghiêm trọng, đặc biệt là bệnh gỉ sắt. Dịch bệnh cây trồng đã làm sụt giảm mạnh năng suất cây lương thực, khiến hàng triệu tấn lương thực bị mất tại Ukraina trong năm 1932 | wiki |
Holodomor | Gunnar Heinsohn, nhà xã hội học Đức, cho rằng tại Ukraina, Kazakhstan và một vài vùng tại Dãy núi Kavkaz, những nơi mà có chống đối mạnh về việc tịch thu tài sản trong quá trình tập thể hóa, thì chính phủ Liên Xô đã dùng biện pháp tịch thu lương thực để đập tan sự phản đối. Và ngay cả các phong trào đấu tranh đòi ly khai độc lập của các dân tộc thiểu số cũng bị dùng biện pháp tương tự để đối phó. Ông này cho rằng đảng Cộng sản Liên Xô đã không cho cung cấp lương thực với những người bị nạn đói, cũng như không cho phép họ được ra khỏi khu vực thiếu ăn này. Lối diễn tả này của Gunnar Heinsohn thường bị chỉ trích vì các lý do chính trị mang hàm ý bôi nhọ vì hiềm thù chống Cộng.
Nhiều người khác chỉ trích từ Holodomor khi nó được dùng bởi một số người Ukraina, họ cho rằng Ucraina đã lợi dụng hậu quả của nạn đói không chỉ ở nước Ukraina với những mục đích chính trị dân tộc quá khích. Ngoài ra, những số liệu chỉ ra là nạn đói năm 1932 không chỉ có người Ukraina phải gánh chịu, mà nó còn xảy ra tại các vùng đất khác ở Liên Xô do hậu quả của thiên tai, nên không thể coi đây là hành vi cố ý nhắm riêng vào dân tộc Ukraina. | wiki |
Holodomor | Những vùng khác mà cũng bị ảnh hưởng trong đó có Nam Nga, các vùng giữa và dưới khu vực sông Volga, Nam Ural, Bắc Kazakhstan và Tây Sibiria. Một số sử gia, như Robert Conquest, cho là tổng số người bị ảnh hưởng lên tới 14,5 triệu người, bao gồm cả những người bị nạn đói lẫn những người bị ảnh hưởng gián tiếp (di cư sang vùng khác, bán bớt tài sản để mua lương thực...)
Những nghiên cứu sau này của phương Tây, nhất là sau khi văn thư lưu trữ được tự do tham khảo vào thập niên 1990, cho thấy Holodomor là kết quả tổng hợp của một loạt hậu quả dây chuyền, cả chủ quan lẫn khách quan: một nền chính trị khắc nghiệt trong việc tập thể hóa, sự chống đối của nông dân địa phương khiến nhân lực sản xuất nông nghiệp bị tụt giảm, cũng như thiên tai đã đưa đến việc mất mùa trên diện rộng. Ngoài ra, cũng cần lưu ý là ngay cả ở Hoa Kỳ trong thời kỳ này cũng xảy ra nạn đói do chính sách kinh tế sai lầm (xem Nạn đói ở Hoa Kỳ 1932-1933) | wiki |
Holodomor | Trong 1 nghiên cứu công phu của Robert W. Davies và Stephen G. Wheatcroft vào năm 2004, dựa trên các tài liệu lưu trữ của Liên Xô, các ông kết luận rằng: quan điểm cho rằng "nạn đói được cố ý gây ra để chống lại Ukraine và các nhóm quốc gia" hay được diễn giải ở phương Tây (dựa trên cuốn sách của sử gia có tiếng là thiên vị chống Cộng là Robert Conquest) là hoàn toàn sai. Nạn đói diễn ra không chỉ giới hạn ở Ukraine, nó về cơ bản không phải do con người tạo ra, và nó cũng khác xa ý định của Stalin và những lãnh đạo của Liên Xô là muốn xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại trên cơ sở tập trung đất đai manh mún vào hợp tác xã. Năm 1933, chính phủ Liên Xô thực hiện cứu trợ rộng rãi mặc dù không đủ, hạt giống và thức ăn gia súc, và gửi đi hơn 20.000 công nhân công nghiệp, tất cả các thành viên Đảng Cộng sản, huy động họ tham gia việc đồng áng. Bất chấp những điều kiện tự nhiên khủng khiếp, vụ thu hoạch rất thành công vào năm 1933 đã chấm dứt nạn đói ở hầu hết các khu vực.
Tranh cãi chính trị.
Hiện nay, ngày tưởng niệm Holodomor tại Ukraina được chính phủ nước này ấn định vào ngày thứ Bảy thứ tư trong tháng 11.
Raphael Lemkin, người mà sau Đệ Nhị thế chiến đã thành công trong việc đòi hỏi thành lập Quy ước Liên Hiệp Ước ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng (), ông này cho rằng nạn đói ở Ukraina là thí dụ cổ điển của một vụ diệt chủng. | wiki |
Holodomor | Chính phủ của Ukraina dưới thời của tổng thống Viktor Andriyovych Yushchenko, đã cố gắng vận động để được quốc tế công nhận Holodomor là một tội ác diệt chủng người Ukraina. Năm 2008, chính phủ Ukraina dưới thời tổng thống Viktor Andriyovych Yushchenko bỏ công sức vận động cho việc Holodomor được công nhận là một "tội ác diệt chủng dân tộc Ukraina". Sau cùng, ngoài Ukraina, có 13 nước gồm Argentina, Úc, Azerbaijan, Bỉ, Brazil, Ecuador, Estonia, Gruzia, Ý, Canada, Colombia, Latvia, Litva, Moldova, Paraguay, Peru, Ba Lan, Tây Ban Nha, Cộng hòa Séc, Hungary, Hoa Kỳ và tòa thánh Vatican công nhận Holodomor chính thức là tội diệt chủng. Tuy nhiên, đến năm 2010, chính phủ mới của Ukraina dưới thời tổng thống Viktor Fedorovych Yanukovych, đã bãi bỏ cuộc vận động và không công nhận việc gọi Holodomor là "tội diệt chủng" nữa.
Nga không chấp nhận sử dụng từ diêt chủng cho nạn đói Holodomor. Theo ngoại trưởng của Nga thì nạn chết đói tại Liên Xô vào những năm 1932-1933 không chỉ có những người trong dân tộc Ukraina trở thành nạn nhân, mà cả người Nga và các dân tộc khác. Tại Nga, đa số mọi người cho rằng Holodomor là một trò tuyên truyền được một số các nhóm chính trị ở Ukraina lợi dụng cho những mưu đồ của họ. | wiki |
Holodomor | Vào ngày 23 tháng 10 năm 2008, Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu trong một nghị quyết đã gọi Holodomor là Tội ác chống lại loài người. Tuy nhiên, Hội đồng Nghị viện của Ủy hội châu Âu (PACE) vào tháng 4 năm 2010 đã từ chối không dùng chữ "tội diệt chủng" mà phe đối lập ở Ukraina yêu cầu, trong nghị quyết về nạn đói lớn trong thập niên 1930 tại Liên Xô. | wiki |
Tháp Bismarck tại Żary | Tháp Bismarck tại Żary (tiếng Ba Lan: "Wieża Bismarcka w Żarach") là tháp Bismarck tọa lạc ở thị trấn Żary, tỉnh Lubuskie ở tây Ba Lan. Hiện tại, tháp không cho khách tham quan tiếp cận do đã xuống cấp và có hiện tượng trộm cắp vật liệu xây dựng.
Lịch sử.
Tháp Bismarck được xây dựng ở Żary từ ngày 1 tháng 4 năm 1914, trùng với kỷ niệm 99 năm ngày sinh của Bismarck. Những người khởi xướng xây dựng tòa tháp Żary chính là Hiệp hội Karkonosze (Riesengebirgieverein - Sektion Sorau) và Hiệp hội Làm đẹp Thị trấn Żary (Verschönerungsverein der Stadt Sorau) .
Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến công trình bị gián đoạn cho đến năm 1918. Bismarck không còn được sùng bái rộng rãi, khủng hoảng kinh tế hậu chiến ảnh hưởng không nhỏ tới việc hoàn thành các công trình xây dựng. Cầu thang gỗ dẫn lên đỉnh tòa tháp chưa hoàn thành, và chỉ được dựng bởi dầm gỗ.
Sau khi Thế chiến II kết thúc , những khu vực nằm trong biên giới Ba Lan và tòa tháp được chuyển thành đài quan sát. Vào thời kỳ đỉnh cao những năm 1970, một đài thiên văn bằng gỗ được dựng nên, đến năm 2002 thì bị dỡ xuống vì lý do an toàn.
Tòa tháp được sử dụng cho đến năm 1980, khi một tháp quan sát mới và cao hơn được xây dựng. Kể từ đó, tòa tháp rơi vào tình trạng hư hỏng và trở thành một nơi lý tưởng cho những tên trộm và những kẻ phá hoại. Cầu thang đá granit, một phần của mặt tiền và tầng sân thượng đã bị đánh cắp. Khí hậu ẩm ướt của Ba Lan cũng khiến tòa tháp bị mục nát nặng nề. | wiki |
Đàm Thị Loan | Đàm Thị Loan (1926–2010) coi như là một trong 3 đội viên nữ đầu tiên và không chính thức của Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Bà cũng là một trong hai người tham gia thượng cờ tại Lễ Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, tổ chức tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Bà còn là một sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam với cấp bậc Trung tá, là vợ của Đại tướng Hoàng Văn Thái.
Thân thế và hoạt động.
Bà tên thật là Đàm Thị Nết, người dân tộc Tày, sinh ngày 26 tháng 8 năm 1926, quê quán tại thôn Ảng Giàng, xã Bình Long, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Cuối năm 1940, các cán bộ Việt Minh về Cao Bằng xây dựng cơ sở và bắt đầu hoạt động mạnh. Tháng 11 năm 1940, bà gia nhập Việt Minh, lấy bí danh là Thanh Xuân, được phân công phụ trách trung đội phó trung đội tự vệ xã Hòa Minh, Cao Bằng kiêm công tác đưa đón cán bộ bí mật qua lại.
Cuối năm 1941, bà nhận được giấy gọi về "Địa điểm Đỏ" (tức núi Lũng Hoàng, Hòa An, Cao Bằng), thoát ly gia đình tham gia hoạt động cách mạng. Bà được huấn luyện về chính trị, quân sự, và tham gia trung đội Cứu quốc quân. Thời gian này bà lấy các bí danh Minh Phượng, Minh Nhật. | wiki |
Đàm Thị Loan | Ngày 16 tháng 12 năm 1944, bà nhận được giấy gọi để tham gia đội Tuyên truyền Giải Phóng quân . Khi Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân làm lễ thành lập lúc 5 giờ chiều ngày 22 tháng 12 năm 1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo (Cao Bằng), bà coi như là một trong 3 đội viên nữ đầu tiên của đội. Tuy nhiên, do được phân công chuẩn bị bữa cơm cho đội nên cả ba đội viên nữ đều không tham dự lễ tuyên thệ.
Tháng 5 năm 1945, Việt Nam Giải phóng quân được thành lập. Bà tham gia chi đội Giải phóng quân dưới sự chỉ huy của Chi đội trưởng Đàm Quang Trung với tên mới là Đàm Thị Loan. Cách mạng tháng 8 nổ ra, ngày 25 tháng 8 năm 1945, chi đội của bà tiến về Hà Nội và đóng quân tại Bảo an binh của Pháp trước đây.
Tham gia thượng cờ trong Lễ Độc lập.
Tối ngày 1 tháng 9, bà được Chi đội trưởng Đàm Quang Trung giao nhiệm vụ tham gia thượng cờ vào ngày Lễ Độc lập được tổ chức sáng hôm sau.
Lúc 14 giờ ngày 2 tháng 9, bà cùng bà Dương Thị Thoa (tức Lê Thi), đại diện cho nữ sinh Hà Nội, cùng thực hiện nghi thức thượng cờ. Theo hồi ức của bà Lê Thi thì do hình thể thấp hơn nên bà Loan được phân công làm động tác nâng cờ còn bà Lê Thi kéo cờ .
Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tiến đến lễ đài, ông nhận ra bà là một trong những đội viên của Việt Nam Giải phóng quân, và đã có lời động viên với bà.
Buổi lễ thượng cờ thành công, bà và bà Dương Thị Thoa chia tay khi chưa kịp biết tên nhau.
Hoạt động trong quân đội. | wiki |
Đàm Thị Loan | Buổi lễ thượng cờ thành công, bà và bà Dương Thị Thoa chia tay khi chưa kịp biết tên nhau.
Hoạt động trong quân đội.
Sau cách mạng tháng 8, bà được phân công làm Trung đội trưởng Trung đội Tự vệ nữ Hà Nội (còn gọi là Trung đội Minh Khai), kiêm huấn luyện quân sự cho các nữ tự vệ. Một thời gian sau, bà được rút về Bộ Tham mưu, một nữ tự vệ khác là Trịnh Thị Xuyến được cử làm Trung đội trưởng Trung đội Minh Khai.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến, bà cùng cơ quan Bộ Tổng tham mưu rút lên Việt Bắc, tham gia công tác cơ yếu . Sau khi chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc, bà cùng cơ quan về Hà Nội. Năm 1958, bà được thăng quân hàm Thượng úy.
Năm 1967, bà được thăng quân hàm Đại úy. Cuối tháng 11 năm đó, bà được phân công công tác tại Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam đặt tại Tây Ninh. Bà công tác tại đây cho đến khi cho tới năm 1970 trở về Hà Nội nhận nhiệm vụ mới.
Bà được thăng quân hàm Thiếu tá năm 1975, Trung tá năm 1977, tiếp tục công tác ở Bộ Tổng mưu cho đến khi nghỉ hưu. Không lâu sau, Đại tướng Hoàng Văn Thái chồng bà cũng qua đời vì bệnh tim. | wiki |
Đàm Thị Loan | Bà được thăng quân hàm Thiếu tá năm 1975, Trung tá năm 1977, tiếp tục công tác ở Bộ Tổng mưu cho đến khi nghỉ hưu. Không lâu sau, Đại tướng Hoàng Văn Thái chồng bà cũng qua đời vì bệnh tim.
Năm 1998, bà cho đăng báo hồi ký "Từ Việt Bắc đến Tây Ninh" kể lại cuộc đời hoạt động của mình, trong đó có nhắc đến cô thiếu nữ Hà Nội cùng tham gia thượng cờ với bà tại Lễ Độc lập. Thời gian đó, bà Thoa cũng cho đăng trên nội san của cơ quan có kể về "cô du kích người Tày" cùng thượng cờ. Ban biên tập tạp chí Lịch sử Quân đội đã phát hiện sự trùng hợp này, nên nhân dịp buổi họp mặt của Trung đoàn 102 tổ chức ở Viện Bảo tàng Quân đội năm 1999 đã tổ chức cho hai người gặp nhau sau lễ thượng cờ.
Những năm sau đó, bà và bà Thoa thường gặp nhau vào ngày 2 tháng 9 tại Quảng trường Ba Đình để kỷ niệm buổi kéo cờ lịch sử.
Bà qua đời vào ngày 28 tháng 1 năm 2010 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, hưởng thọ 84 tuổi. Bà Thoa cũng qua đời sau đó 10 năm, thọ 94 tuổi.
Phong tặng.
Bà đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Độc lập, Huân chương Kháng chiến hạng nhất và nhiều huân, huy chương khác.
Gia đình.
Ngày 15 tháng 9 năm 1945, bà kết hôn với một cán bộ chỉ huy của Việt Nam Giải phóng quân là Hoàng Văn Thái, về sau trở thành Đại tướng, Tổng Tham mưu trưởng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, một trong những tướng lĩnh Việt Nam nổi bật thời kỳ hiện đại. Ông bà có với nhau 6 người con. | wiki |
Lâm sản | Lâm sản hay lâm thổ sản là một từ có nguồn gốc Hán Việt dùng để chỉ các sản vật từ rừng và lâm nghiệp cho tiêu dùng trực tiếp hoặc sử dụng thương mại, chẳng hạn như gỗ, giấy, hoặc thức ăn cho gia súc. Cho đến nay thì gỗ luôn là lâm sản phổ biến nhất, được sử dụng cho nhiều mục đích như: nhiên liệu gỗ (ví dụ như trong hình thức than), các vật liệu cấu trúc thành phẩm dùng cho xây dựng các tòa nhà, hoặc làm nguyên liệu thô (bột giấy, ván dăm...). Tất cả các sản phẩm ngoài gỗ khác có nguồn gốc từ các nguồn tài nguyên rừng, bao gồm một loạt các lâm sản khác được gọi chung là lâm sản ngoài gỗ.
Kể từ năm 1947, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) đã công bố một kỷ yếu hàng năm về lâm sản. "The FAO Yearbook of Forest Products" là một tài liệu chứa các dữ liệu thống kê về lâm sản cơ bản cho tất cả các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nó bao gồm hàng loạt các dữ liệu hàng năm về khối lượng sản xuất và khối lượng tiêu thụ và giá trị thương mại lâm sản. Thông tin thống kê trong niên giám thống chủ yếu dựa trên dữ liệu được cung cấp cho FAO bởi các quốc gia thông qua các câu hỏi hay ấn phẩm chính thức. Trong trường hợp không có số liệu chính thức, FAO làm cho một ước tính dựa trên các thông tin tốt nhất có sẵn. | wiki |
Lâm sản | FAO cũng xuất bản các cuộc khảo sát hàng năm về công suất bột giấy và sản xuất giấy trên thế giới. Các cuộc điều tra trình bày các thống kê về sản lượng giấy và bột giấy sản xuất theo quốc gia. Các thống kê dựa trên thông tin do phóng viên trên toàn thế giới, hầu hết trong số họ hoạt động trong các Hiệp hội giấy và bột giấy, và đại diện cho 85% sản lượng giấy của thế giới. | wiki |
Trang viên ở Kalinowice Górne | Trang viên ở Kalinowice Górne
Trang viên ở Kalinowice Górne (tiếng Ba Lan: "Zespół dworski w Kalinowicach Górnych") là một trang viên lâu đời nằm ở ngôi làng Kalinowice Górne, huyện Ząbkowicki, tỉnh Dolnośląskie, Ba Lan. Trang viên có tên trong danh sách di tích. Công trình kiến trúc này là một phần trong khu phức hợp trang viên bao gồm một công viên và trang trại xung quanh.
Lịch sử.
Trong giai đoạn thế kỷ 13-thế kỷ 15, địa điểm này là nơi ở của hiệp sĩ. Trong giai đoạn 1550-1595, khu đất được gia đình quý tộc Seidliz und Strupchen xây dựng thành một cung điện thời Phục hưng. Năm 1826, trang viên được xây dựng lại theo phong cách Cổ điển. Vào năm 1885, một tòa tháp cao 28 mét theo phong cách Baroque của Pháp và một sân thượng được xây thêm vào. Sau năm 1903, công trình kiến trúc này thuộc sở hữu của gia đình hoàng gia từ năm 1903. Vào năm 2007, khu trang viên này được một công ty đến từ Wrocław mua lại. Tuy nhiên, công ty này khiến trang viên bị huỷ hoại thông qua việc dỡ bỏ phần ngói và không thực hiện bất kỳ biện pháp bảo tồn nào. Vào tháng 10 năm 2018, Tổ chức giải cứu trang viên và trang trại Kalinowice Górne tiếp quản công trình kiến trúc này.
Kiến trúc.
Trang viên là một dinh thự một tầng mang phong cách Cổ điển, được xây bằng gạch trên mặt phẳng hình chữ nhật, gồm có hai gian nhà. | wiki |
Văn hóa Hầm mộ | Văn hóa Hầm mộ hay văn hóa Catacomb (từ tiếng Nga và tiếng Ukraina катакомба nghĩa là hầm mộ hay mộ động), khoảng 2000-1250 TCN, là thuật ngữ chỉ một văn hóa đầu thời đại đồ đồng trên khu vực về cơ bản ngày nay là phía đông và nam Ukraina, các vùng Hạ Volga, bắc Kavkaz và dọc sông Đông. Nó có quan hệ mật thiết với văn hóa Yamna (khoảng 3600-2300 TCN), và dường như có thể là thuật ngữ mang tính khu vực nhiều hơn để nói tới một vài văn hóa nhỏ hơn có liên quan về mặt khảo cổ học, như văn hóa Donetsk, văn hóa Pred-Kavkaz và văn hóa Kharkiv-Voronezh v.v. Được V. A. Gorodtsov phát hiện đầu thế kỷ 20.
Kinh tế và nghi thức mai táng.
Tên gọi của văn hóa này xuất phát từ thực tiễn chôn cất người chết của nó. Những ngôi mộ này là tương tự như các ngôi mộ của văn hóa Yamna, nhưng với khoảng không trống rỗng ngoài đường hầm chính, tạo ra 'hầm mộ'. Các di vật động vật được kết hợp lại thành phần nhỏ của các ngôi mộ.
Trong một số ngôi mộ nhất định có một thực tiễn đặc biệt về lớp mặt nạ bằng đất sét màu đỏ (tượng trưng cho lửa) trên khuôn mặt người chết trong tư thế nằm nghiêng trên một bên hông, tạo ra một sự kết nối hiển nhiên (dù không nhất thiết là chính xác) với mặt nạ bằng vàng nổi tiếng của Agamemnon (xem thêm văn hóa Tashtyk).
Kinh tế về cơ bản là chăn thả gia súc, mặc dù các dấu vết của hạt cây lương thực cũng được tìm thấy. Tuy nhiên, ở đây dường như có các thợ lành nghề khéo tay, cụ thể là trong lĩnh vực luyện kim.
Nguồn gốc và sự biến mất. | wiki |
Văn hóa Hầm mộ | Nguồn gốc và sự biến mất.
Nguồn gốc của văn hóa Hầm mộ gây tranh cãi. Jan Lichardus liệt kê 3 khả năng:
Văn hóa này là đầu tiên trong việc giới thiệu các họa tiết trang trí đồ gốm dạng sọc nổi vào vùng thảo nguyên và thể hiện sự sử dụng đa dạng các dạng rìu chiến được chau chuốt, đưa ra mối liên kết với phương Tây (văn hóa Rìu chiến, khoảng 3200-1800 TCN). Giống với văn hóa Afanasevo (3500-2500 TCN), bao gồm các biến dạng hộp sọ, lại đưa ra mối liên kết với phương Đông.
Văn hóa Hầm mộ được thay thế bằng văn hóa Srubna (văn hóa Mộ gỗ, khoảng thế kỷ 16 tới thế kỷ 9 TCN) từ khoảng thế kỷ 17, gắn liền với sự mở rộng của Iran hay bằng Cimmeria (được phân loại như là các tộc người có nguồn gốc Iran, Thracia hay Celt).
Ngôn ngữ.
Thành phần hợp thành về mặt ngôn ngữ của văn hóa Hầm mộ là không rõ ràng. Trong ngữ cảnh của giả thuyết Kurgan do Marija Gimbutas đề xuất, thành phần Ấn-Âu khó có thể phủ nhận, cụ thể là ở các giai đoạn muộn hơn. Việc đặt tổ tiên của các ngôn ngữ như tiếng Hy Lạp, tiếng Armenia và các phương ngữ Cổ-Balkan vào đây là đáng chú ý, do nó có thể giải thích rõ nét và gọn gàng ngăn nắp một số các đặc trưng chia sẻ chung nhất định. | wiki |
Văn hóa Hầm mộ | Gần đây hơn, nhà khảo cổ học người Ukraina là V. Kulbaka đã cho rằng các văn hóa Hậu Yamna trong khoảng 3200-2800 TCN; đặc biệt là các nhóm Budzhak, Starosilsk, Novotitarovka; có thể là đại diện cho các tổ tiên Hy Lạp-Armenia-"Arya"(=Ấn-Iran) (ngôn ngữ Graeco-Arya, ngôn ngữ Graeco-Armenia), và văn hóa Hầm mộ là của các tộc người Ấn-Iran "hợp nhất" (tới khoảng 2500 TCN) và sau đó "phân chia".
Phiên bản năm 1998 của S. A. Grigoryev cho giả thuyết Armenia gắn văn hóa Hầm mộ với các dân tộc Ấn-Arya, do nghi thức chôn cất hầm mộ có nguồn gốc tại Tây Nam Turkmenistan từ đầu thiên niên kỷ 4 TCN (nghĩa địa Parkhai). | wiki |
ATP Finals | Nitto ATP Finals, tên chính thức là ATP Finals"," là giải đấu quần vợt nam cuối cùng trong năm, quy tụ 8 tay vợt nam đứng đầu bảng xếp hạng thế giới.
Không như các giải đấu quần vợt khác, ATP Finals không tiến hành theo thể thức loại trực tiếp suốt cả giải. 8 tay vợt được chia thành 2 nhóm, mỗi nhóm 4 tay vợt, thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt ở từng nhóm. 2 tay vợt xếp đầu mỗi nhóm vào bán kết, 2 người thắng ở bán kết gặp nhau ở chung kết để xác định nhà vô địch.
Lịch sử của giải. | wiki |
ATP Finals | Giải đấu thực sự được coi là cuộc cách mạng thứ ba của các giải đấu quần vợt được bắt đầu từ năm 1970. Ban đầu giải có tên The Masters, được Liên đoàn quần vợt Quốc tế (ITF) tổ chức. The Masters là giải đấu cuối năm giữa các tay vợt hàng đầu của các giải đấu nam, nhưng thành tích của giải không được tính vào thành tích chung trong cả năm. Năm 1990, Hiệp hội quần vợt nhà nghề (ATP) tham gia vào việc điều hành các giải đấu nam và thay The Masters bằng ATP Tour World Championship ("Giải vô địch thế giới ATP"). Lần này thành tích của giải được tính vào thành tích chung của tay vợt tham dự. Nhà vô địch kiếm được số điểm bằng với việc thắng một trong bốn giải Grand Slam. ITF vẫn còn điều hành các giải Grand Slam đã tạo ra một giải đấu cạnh tranh có tên Grand Slam Cup, quy tụ 16 tay vợt có thành tích tốt nhất ở các giải Grand Slam trong năm. Tháng 12 năm 1999, ATP và ITF thỏa thuận với nhau không tiếp tục tạo ra hai giải đấu riêng biệt nữa và thành lập ra một giải do cả hai tổ chức cùng điều hành, lấy tên Tennis Masters Cup. Cũng như The Masters và ATP Tour World Championships, Masters Cup gồm 8 tay vợt hàng đầu tham dự, theo bảng xếp hạng ATP Race. Tuy nhiên, theo luật của giải đấu, tay vợt xếp thứ 8 trong bảng xếp hạng ATP Race không đảm bảo một suất tham dự. Nếu có tay vợt giành được một trong 4 giải Grand Slam trong năm có thứ hạng thấp hơn 8 nhưng vẫn trong 20 thứ hạng đầu sẽ giành được quyền tham dự, thay vì tay vợt hạng 8. Nếu có hai tay vợt ngoài hạng 8 cùng vô địch các | wiki |
ATP Finals | được một trong 4 giải Grand Slam trong năm có thứ hạng thấp hơn 8 nhưng vẫn trong 20 thứ hạng đầu sẽ giành được quyền tham dự, thay vì tay vợt hạng 8. Nếu có hai tay vợt ngoài hạng 8 cùng vô địch các giải Grand Slam trong năm, tay vợt có thứ hạng cao hơn trong bảng xếp hạng sẽ giành quyền tham dự. | wiki |
ATP Finals | Từ năm 2009, Masters Cup lại được đổi tên là ATP World Tour Finals ("Giải đấu chung kết ATP") và được tổ chức tại The O2 Arena ở London từ 2009 đến 2012.
Trong nhiều năm, các tay vợt tham gia đấu đôi ở một giải đấu khác tổ chức sau giải đơn 1 tuần. Gần đây cả hai nội dung được tổ chức chung. Cũng như giải đơn, 8 cặp đôi hàng đầu tham dự và cũng chia thành 2 nhóm đấu vòng tròn một lượt, bán kết và chung kết.
Cựu số 1 thế giới Roger Federer và Djokovic đang là 2 người dẫn đầu với 6 lần vô địch giải này, xếp tiếp theo là các cựu số 1 thế giới Pete Sampras, Ivan Lendl mỗi người 5 lần vô địch.
Djokovic là người lập và đang giữ kỷ lục là tay vợt vô địch 4 năm liên tiếp từ năm 2012 – 2015
Thứ tự các tay vợt vô địch đơn.
Dưới đây là bảng thống kê số lần vô địch của các tay vợt, xếp theo số lần vô địch và thứ tự thời gian.
Danh sách các tay vợt tham gia.
Tính từ khi là giải có tên là Tennis Masters Cup (từ 2000 đến "nay"). | wiki |
Văn học | Văn học hay ngữ văn (thường gọi tắt là văn) theo cách nói chung nhất, là bất kỳ tác phẩm nào bằng văn bản. Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thì văn học là dạng văn bản được coi là một hình thức nghệ thuật, hoặc bất kỳ một bài viết nào được coi là có giá trị nghệ thuật hoặc trí tuệ, thường là do cách thức triển khai ngôn ngữ theo những cách khác với cách sử dụng bình thường. Trong các định nghĩa hiện đại hơn, văn học bao hàm cả các văn bản được nói ra hoặc được hát lên (văn học truyền miệng). Sự phát triển trong công nghệ in ấn đã cho phép phân phối và phát triển các tác phẩm chữ viết, và tạo ra loại văn học điện tử.
Văn học có thể phân loại thành: hư cấu hoặc phi hư cấu (theo nội dung), và thơ hoặc văn xuôi (theo hình thức). Thể loại văn xuôi có thể phân loại tiếp thành tiểu thuyết, truyện ngắn và kịch bản. Các tác phẩm văn học có thể được phân loại theo từng giai đoạn lịch sử được nhắc đến, hoặc một số thể loại nội dung hoặc hành văn đặc thù (bi kịch, hài kịch, lãng mạn, gợi tình...)
Văn học là một trong những loại hình giữ vị trí quan yếu nằm trong 7 loại hình nghệ thuật cơ bản.
Các định nghĩa. | wiki |
Văn học | Văn học là một trong những loại hình giữ vị trí quan yếu nằm trong 7 loại hình nghệ thuật cơ bản.
Các định nghĩa.
Các định nghĩa của văn học đã thay đổi theo thời gian: đó là một "định nghĩa phụ thuộc vào văn hóa". Ở Tây Âu trước thế kỷ 18, văn học biểu thị tất cả các cuốn sách và văn bản. Một ý nghĩa hạn chế hơn của thuật ngữ này xuất hiện trong thời kỳ Lãng mạn, trong đó nó bắt đầu phân định là các tác phẩm viết "giàu trí tưởng tượng". Các cuộc tranh luận đương đại về những gì cấu thành nên văn học có thể được xem là trở lại với các quan niệm cũ hơn, bao quát hơn; nghiên cứu văn hóa, ví dụ, lấy làm chủ đề phân tích cả hai thể loại phổ biến và thiểu số, bên cạnh các tác phẩm kinh điển.
Định nghĩa đánh giá giá trị của văn học coi nó chỉ bao gồm những tác phẩm có chất lượng cao hoặc sự khác biệt, tạo thành một phần của truyền thống được gọi là "belles-lettres" ('tác phẩm giá trị'). Kiểu định nghĩa này được sử dụng trong "Encyclopædia Britannica" Eleventh Edition (1910-11) khi nó phân loại văn học là "thể hiện tốt nhất của tư tưởng chuyển thể thành văn bản." Vấn đề trong quan điểm này là không có định nghĩa khách quan về những gì cấu thành "văn học": bất cứ thứ gì cũng có thể là văn học, và bất cứ thứ gì mà được coi là văn học đều có khả năng bị loại trừ, vì các đánh giá về giá trị có thể thay đổi theo thời gian. | wiki |
Văn học | Định nghĩa hình thức là "văn học" tạo ra hiệu ứng thơ ca; đó là "văn chương" hay "thi pháp" của văn học phân biệt nó với lời nói thông thường hoặc các loại văn bản khác (ví dụ, báo chí). Jim Meyer coi đây là một đặc điểm hữu ích trong việc giải thích việc sử dụng thuật ngữ này có nghĩa là tài liệu được xuất bản trong một lĩnh vực cụ thể (ví dụ: "văn học khoa học "), vì văn bản đó phải sử dụng ngôn ngữ theo các tiêu chuẩn cụ thể. Vấn đề với định nghĩa chính thức là để nói rằng văn học đi lệch khỏi cách sử dụng ngôn ngữ thông thường, trước tiên phải xác định những cách sử dụng đó; điều này thật khó khăn vì " ngôn ngữ thông thường " là một phạm trù không ổn định, khác nhau tùy theo các phạm trù xã hội và trong lịch sử.
Thể loại.
Thể loại văn học là một phương thức phân loại văn học. Tuy nhiên, cách phân biệt thể loại văn học như vậy có thể thay đổi, và đã được sử dụng theo những cách khác nhau trong các thời kỳ và truyền thống khác nhau.
Lịch sử. | wiki |
Văn học | Lịch sử.
Lịch sử văn học theo sát sự phát triển của nền văn minh. Khi được định nghĩa độc quyền là tác phẩm được viết ra, văn học Ai Cập cổ đại, cùng với văn học Sumerian, được coi là văn học lâu đời nhất thế giới. Các thể loại chính của văn học thời kỳ Ai Cập cổ đại - văn bản giáo huấn, thánh ca, lời cầu nguyện, và truyện cổ tích được viết gần như hoàn toàn bằng thơ; trong khi sử dụng hình thức thơ ca có thể nhận ra rõ ràng, giai điệu của câu thơ là không rõ rệt. Hầu hết văn học Sumerian là thơ ca, vì nó được viết bằng các dòng căn lề trái, và có thể chứa các tổ chức dựa trên dòng như khớp nối thơ hoặc khổ thơ,
Các giai đoạn lịch sử khác nhau được phản ánh trong văn học. Các saga quy mô quốc gia và bộ lạc, các câu chuyện kể về nguồn gốc của thế giới và các phong tục, và những huyền thoại đôi khi mang thông điệp đạo đức hoặc tinh thần, chiếm ưu thế trong thời đại tiền đô thị. Các sử thi của Homer, có niên đại từ thời trung cổ đến trung đại và sử thi Ấn Độ vĩ đại của thời kỳ sau đó, đã có nhiều bằng chứng về chủ quyền tác giả văn học có chủ ý, tồn tại như những huyền thoại lâu đời qua truyền thống truyền miệng trong một thời gian dài trước khi được ghi chép lại trên giấy. | wiki |
Văn học | Văn học trong tất cả các hình thức của nó có thể được coi là hồ sơ bằng văn bản, cho dù bản thân văn học là thực tế hay hư cấu, vẫn hoàn toàn có thể giải mã các sự kiện thông qua những thứ như hành động và lời nói của nhân vật hoặc phong cách viết của tác giả và hàm ý đằng sau các từ ngữ. Cốt truyện không chỉ nhằm mục đích giải trí; bên trong nó chứa thông tin về kinh tế, tâm lý học, khoa học, tôn giáo, chính trị, văn hóa và chiều sâu xã hội. Nghiên cứu và phân tích văn học trở nên rất quan trọng trong việc học tập về lịch sử loài người. Văn học cung cấp những hiểu biết về cách xã hội đã phát triển và các quy tắc xã hội trong mỗi thời kỳ khác nhau trong suốt lịch sử. Ví dụ, các tác giả hậu hiện đại cho rằng lịch sử và tiểu thuyết cả hai tạo thành các hệ thống biểu thị mà theo đó chúng ta có ý nghĩa về quá khứ. Người ta khẳng định rằng cả hai điều này là "diễn ngôn, cấu trúc của con người, hệ thống biểu thị và cả hai đều rút ra yêu sách chính của họ đối với sự thật từ danh tính đó". Văn học cung cấp quan điểm về cuộc sống, điều này rất quan trọng trong việc có được sự thật và hiểu được cuộc sống của con người trong suốt lịch sử và các thời kỳ của nó. Cụ thể, văn học khám phá các khả năng sống theo các giá trị nhất định trong các hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định. | wiki |
Văn học | Văn học giúp chúng ta hiểu các tài liệu tham khảo được thực hiện trong văn học hiện đại hơn bởi vì các tác giả thường tham khảo thần thoại và các văn bản tôn giáo cũ khác để mô tả các nền văn minh cổ đại như Hellenes và Ai Cập. Không chỉ có tài liệu viết về từng chủ đề đã nói ở trên, và cách chúng phát triển trong suốt lịch sử (như một cuốn sách về lịch sử kinh tế hoặc một cuốn sách về tiến hóa và khoa học chẳng hạn) mà người ta cũng có thể tìm hiểu về những điều này trong tác phẩm hư cấu. Các tác giả thường bao gồm những khoảnh khắc lịch sử trong các tác phẩm của họ, như khi Lord Byron nói về người Tây Ban Nha và người Pháp trong "Childe Harold's Pilgrimage: Canto I" và bày tỏ ý kiến của mình thông qua nhân vật Childe Harold. Thông qua văn học, chúng ta có thể liên tục phát hiện ra thông tin mới về lịch sử. Tất cả các lĩnh vực học thuật đều có nguồn gốc trong văn học. Thông tin trở nên dễ dàng hơn để truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác một khi chúng ta bắt đầu ghi chép nó. Cuối cùng, tất cả mọi thứ đã được viết ra, từ những thứ như phương pháp chữa trị tại nhà và cách chữa bệnh, hoặc cách xây dựng nơi trú ẩn cho các truyền thống và thực hành tôn giáo. Từ đó mọi người có thể nghiên cứu văn học, cải thiện ý tưởng, nâng cao kiến thức của chúng tôi và các lĩnh vực học thuật như lĩnh vực y tế hoặc ngành nghề có thể được bắt đầu. Theo cách tương tự như sách vở mà chúng ta nghiên cứu ngày nay tiếp tục được cập nhật khi chúng ta tiếp tục phát triển và học hỏi ngày càng nhiều. | wiki |
Văn học | Khi văn hóa đô thị phát triển hơn, các học viện đã cung cấp một phương tiện truyền tải cho văn học sáng tác và triết học trong các nền văn minh sơ khai, dẫn đến sự phổ biến của văn học ở Trung Quốc cổ đại, Ấn Độ cổ đại, Ba Tư và Hy Lạp cổ đại và La Mã. Nhiều tác phẩm của các thời kỳ trước, thậm chí ở dạng tường thuật, có một mục đích đạo đức hoặc giáo huấn bí mật, chẳng hạn như "Panchatantra" tiếng Phạn hoặc "Metamorphoses" của Ovid. Văn học chính kịch và châm biếm cũng được phát triển khi văn hóa đô thị tạo ra lượng khán giả công chúng lớn hơn, và sau đó là độc giả, cho sản xuất văn học. Thơ trữ tình (trái ngược với thơ sử thi) thường là đặc sản của triều đình và giới quý tộc, đặc biệt là ở Đông Á nơi các bài hát được giới quý tộc Trung Quốc sưu tầm thành thơ, đáng chú ý nhất là "Kinh Thi". Trong một thời gian dài, thơ của những bản nhạc trước thời kỳ có chữ viết phổ biến và các bài hát xen kẽ với thơ và cuối cùng đã ảnh hưởng đến thơ trong môi trường văn học. | wiki |
Văn học | Ở Trung Quốc cổ đại, văn học sơ khai chủ yếu tập trung vào triết học, lịch sử, khoa học quân sự, nông nghiệp và thơ ca. Trung Quốc, cái nôi của nghề làm giấy và in mộc bản hiện đại, đã tạo ra các văn hóa in ấn đầu tiên trên thế giới. Phần lớn văn học Trung Quốc bắt nguồn từ thời kỳ Bách gia chư tử trong triều đại Đông Chu (769‒269 TCN). Các tác phẩm quan trọng nhất trong số này bao gồm các kinh điển của Nho giáo, Đạo giáo, Pháp gia, Mặc gia, cũng như các tác phẩm về khoa học quân sự (ví dụ "Binh pháp Tôn Tử" của Tôn Tử) và lịch sử Trung Quốc (ví dụ "Sử ký Tư Mã Thiên" của Tư Mã Thiên). Văn học Trung Quốc cổ đại đã nhấn mạnh vào lịch sử, với liệt kê rất chi tiết các thông tin về các đời vua. Một phần mẫu mực của lịch sử tường thuật về Trung Quốc cổ đại là "Tả truyện", được biên soạn không muộn hơn 389 TCN, và được gán cho nhà sử học mù Tả Khâu Minh vào thế kỷ thứ 5 TCN. | wiki |
Văn học | Ở Ấn Độ cổ đại, văn học bắt nguồn từ những câu chuyện ban đầu được truyền miệng. Thể loại ban đầu bao gồm kịch, truyện ngụ ngôn, kinh điển và thơ sử thi. Văn học tiếng Phạn bắt đầu với kinh Vệ Đà, có niên đại từ năm 1500-1000 TCN, và tiếp tục với sử thi tiếng Phạn của thời đại đồ sắt Ấn Độ. Veda là một trong những văn bản kinh sách lâu đời nhất. Samhitas (các bộ sưu tập Veda) có niên đại khoảng 1500-1000 TCN, và các văn bản "xung quanh Vệ đà", cũng như sự tái cấu trúc của Samhitas, có niên đại vào khoảng 1000‒500 TCN, dẫn đến một giai đoạn Vệ đà, kéo dài từ giữa thiên niên kỷ 2 đến giữa thiên niên kỷ thứ 1 TCN, hoặc Thời đại đồ đồng muộn và Thời đại đồ sắt. Khoảng thời gian giữa thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 1 TCN đã chứng kiến sự hình thành và tái cấu trúc của hai sử thi Ấn Độ có ảnh hưởng nhất là "Mahabharata" và "Ramayana", với sự tái cấu trúc của chúng còn kéo dài đến thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên. Các tác phẩm văn học lớn khác là Ramcharitmanas & Krishnacharitmanas. | wiki |
Văn học | Ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại, các sử thi của Homer, người đã viết "Iliad" và "Odyssey", và Hesiod, người đã viết "Works and Days" và "Theogony", là các tác phẩm sớm nhất và có ảnh hưởng nhất của văn học Hy Lạp cổ đại. Thể loại văn học cổ điển Hy Lạp bao gồm triết học, thơ, lịch sử, hài kịch và chính kịch. Plato và Aristotle là tác giả của các tác phẩm triết học nền tảng của triết học phương Tây, Sappho và Pindar là những nhà thơ trữ tình có ảnh hưởng lớn, và Herodotus và Thucydides là những nhà sử học Hy Lạp đầu tiên. Mặc dù kịch là phổ biến ở Hy Lạp cổ đại, trong số hàng trăm bi kịch được viết và trình diễn trong thời cổ điển, chỉ có một số vở kịch giới hạn của ba tác giả vẫn tồn tại: Aeschylus, Sophocles và Euripides. Các vở kịch của Aristophanes cung cấp các ví dụ thực tế duy nhất về thể loại phim hài được gọi là Hài kịch cũ, hình thức hài kịch Hy Lạp sớm nhất, và trên thực tế được sử dụng để định nghĩa thể loại này. | wiki |
Văn học | Lịch sử và các tiểu sử La Mã đã tiên liệu văn học thời Trung cổ sẽ phát triển mạnh mẽ với các tác phẩm mô tả cuộc sống của các vị thánh và các biên niên sử kỳ diệu, nhưng hình thức đặc trưng nhất của thời Trung cổ là sự lãng mạn, một câu chuyện phiêu lưu và đôi khi kỳ diệu với sức hấp dẫn mạnh mẽ. Văn học gây nhiều tranh cãi, văn học tôn giáo, văn học chính trị và văn học mang tính giảng dạy đã phát triển nhanh chóng trong thời kỳ Phục hưng như là kết quả của sự phát minh ra máy in, trong khi sự lãng mạn thời trung cổ đã phát triển thành một dạng dựa nhiều hơn vào nhân vật và tâm lý của câu chuyện. Những cuốn tiểu thuyết thời kỳ ban đầu và có ý nghĩa quan trọng là Tây du ký của Trung Quốc và Faust của Đức. | wiki |
Văn học | Trong Thời đại Khai sáng, các nghiên cứu và suy đoán triết học về lịch sử và bản chất con người đã lồng ghép văn học với các phát triển xã hội và chính trị. Phản ứng không thể tránh khỏi là sự bùng nổ của Chủ nghĩa lãng mạn vào cuối thế kỷ 18, giai đoạn này lấy lại thành kiến tưởng tượng và viển vông của những mối tình lãng mạn cũ và văn học dân gian, đồng thời khẳng định sự ưu việt của trải nghiệm và cảm xúc cá nhân. Nhưng khi thế kỷ 19 trôi qua, tiểu thuyết châu Âu phát triển theo chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, tài liệu tỉ mỉ về cuộc sống thực và các xu hướng xã hội. Phần lớn đầu ra của chủ nghĩa tự nhiên là mang tính luận chiến ngầm, và ảnh hưởng đến sự thay đổi xã hội và chính trị, nhưng tiểu thuyết và kịch thế kỷ 20 đã lùi về phía chủ quan, nhấn mạnh đến động cơ vô thức và áp lực xã hội và môi trường đối với cá nhân. Các nhà văn như Proust, Eliot, Joyce, Kafka và Pirandello tiêu biểu cho xu hướng ghi lại những hiện thực nội tâm hơn là hiện thực bên ngoài. | wiki |
Văn học | Thể loại tiểu thuyết cũng cho thấy nó có thể đặt câu hỏi về thực tế trong các hình thức của thế kỷ 20, bất chấp các công thức cố định của nó, thông qua các câu hỏi của truyện trinh thám mang tính hoài nghi và thực tế thay thế của khoa học viễn tưởng. Sự khác biệt giữa các hình thức "chính thống" và "thể loại" của văn học (bao gồm cả báo chí) tiếp tục mờ nhạt trong suốt thời gian cho đến thời đại của chúng ta. William Burroughs, trong các tác phẩm đầu tiên của mình và Hunter S. Thompson đã mở rộng việc tường thuật mang tính phim tài liệu thành những tuyên bố chủ quan mạnh mẽ sau Thế chiến thứ hai, và các nhà phê bình hậu hiện đại đã chê bai ý tưởng về chủ nghĩa hiện thực khách quan nói chung.
Tâm lý học và văn học. | wiki |
Văn học | Tâm lý học và văn học.
Các nhà lý thuyết cho rằng văn học cho phép người đọc tiếp cận các khía cạnh tình cảm tinh tế trong tính cách con người mà bình thường không dễ tiếp cận. Văn học trong bối cảnh này giúp hỗ trợ sự phát triển tâm lý và hiểu biết của người đọc, cho phép người đó tiếp cận các trạng thái cảm xúc mà không dễ dàng được người đó thể hiện ra. D. Mitchell, chẳng hạn, giải thích cách một tác giả sử dụng văn học dành cho thanh thiếu niên để mô tả trạng thái "kinh ngạc" mà bà đã trải qua khi còn nhỏ. Một số nhà nghiên cứu tập trung vào tầm quan trọng của văn học trong sự phát triển tâm lý của một cá nhân. Ví dụ, học ngôn ngữ sử dụng văn học vì nó trình bày rõ ràng hoặc chứa đựng văn hóa, là một yếu tố được coi là quan trọng trong việc học ngôn ngữ. Điều này được chứng minh trong trường hợp của một nghiên cứu cho thấy sự hiện diện của các giá trị văn hóa và các đoạn văn quen thuộc trong văn bản văn học có tác động quan trọng như thế nào đến hiệu quả đọc tiếng Anh của học sinh thiểu số. Các nhà tâm lý học cũng đã sử dụng văn học như một công cụ hoặc phương tiện trị liệu cho con người, để giúp họ hiểu những thách thức và vấn đề - ví dụ như trong việc lồng ghép các thông điệp cao siêu vào các tác phẩm văn học hoặc trong việc viết lại các câu chuyện truyền thống để giúp người đọc giải quyết các vấn đề của họ hoặc đúc kết chúng vào các thông điệp xã hội đương đại. | wiki |
Văn học | Hogan cũng giải thích rằng thời gian và cảm xúc mà một người dành để hiểu hoàn cảnh của một nhân vật làm cho văn học trở thành "mang tính sinh thái có giá trị trong việc nghiên cứu cảm xúc". Vì vậy, văn học có thể đoàn kết một cộng đồng lớn bằng cách khơi gợi những cảm xúc phổ quát, cũng như cho phép người đọc tiếp cận những khía cạnh văn hóa mà họ chưa được tiếp xúc, và tạo ra những trải nghiệm cảm xúc mới. Các nhà lý thuyết lập luận rằng các tác giả chọn các hình thức văn học theo cảm xúc tâm lý mà họ đang cố gắng mô tả.
Một số nhà tâm lý học coi văn học là một công cụ nghiên cứu tâm lý hợp lệ, vì nó cho phép họ khám phá những ý tưởng tâm lý mới. Các lý thuyết tâm lý về văn học, chẳng hạn như Hệ thống phân cấp nhu cầu của Maslow đã được công nhận rộng rãi. | wiki |
Văn học | "Lý thuyết Tâm lý Lực lượng Thứ ba" của nhà tâm lý học Maslow giúp các nhà phân tích văn học hiểu một cách sâu xa cách các nhân vật phản ánh nền văn hóa và lịch sử mà họ thuộc về. Nó cũng cho phép họ hiểu được ý định và tâm lý của tác giả. Lý thuyết cho rằng con người sở hữu bên trong mình "bản ngã" thực sự của họ và rằng việc hoàn thành điều này là lý do để sống. Nó cũng gợi ý rằng sự phát triển thần kinh cản trở việc hiện thực hóa điều này và khiến một người trở nên xa lánh con người thật của mình. Maslow cho rằng văn học khám phá cuộc đấu tranh để tự hoàn thiện bản thân của con người. Paris trong cuốn "Tâm lý học lực lượng thứ ba và nghiên cứu văn học" lập luận rằng "vô thức nguyên sơ" của DH Lawrence là một phép ẩn dụ cho cái tôi thực sự ". Văn học, nó đã được đề xuất, do đó là một công cụ cho phép người đọc phát triển và áp dụng lý luận phê bình vào bản chất của cảm xúc.
Biểu tượng và hình ảnh có thể góp phần định hình phản ứng tâm lý và thẩm mỹ đối với văn bản.
Thể loại.
Trữ tình.
Thơ là loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý cô đọng, tuân theo các quy luật nhất định. Thơ thường dùng như một hình thức biểu tả cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc sống, như khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một thảm cảnh.
Trào lưu, trường phái. | wiki |
Văn học | Trào lưu, trường phái.
Khi nghiên cứu về văn học, người ta cũng phân chia văn học theo các dòng, các trường phái khác nhau như Văn học hiện thực, Văn học lãng mạn, Văn học cổ điển, Văn học dân gian, Văn học hiện đại, Văn học mới, văn học hậu hiện đại, Văn học phương Đông, Văn học phương Tây, Văn học Trung Quốc, Văn học Nga, Văn học Việt Nam, Văn học Pháp và các nền văn học của các quốc gia khác. | wiki |
10 vị Bồ Tát | 10 vị Phật, Bồ Tát đã được đề cập đến trong cuốn sách Dasabodhisattuppattikatha (Cuộc đời của 10 vị Bồ Tát hay Câu chuyện về sự ra đời của 10 vị Bồ Tát) viết bằng chữ Pali. Cuốn sách này kể về 10 vị bát giới có cuộc đời sinh sống như những vị Bồ Tát. Cuốn sách này được coi như "một tác phẩm nhỏ của nền văn học Pali". Có một vài bản thể khác của cuốn sách này, nhưng chung quy tất cả đều được lấy ra từ quyển sách của nhà sư Saddhatissa. Mặc dù có một vài sự khác biệt về câu chữ nhưng chúng đề thống nhất về nội dung mà câu chuyện hướng tới. Mỗi vị Bồ Tát trong câu truyện này đều sống một cuộc sống từ bi, nhân hậu và qua đời do một số nguyên nhân mà tự họ gây ra. Mọi người đều sẽ được tái sinh 1 lần và đến cuối đạt được Phật thành một cách toàn vẹn.
Trong Kinh Sotattakī, một trong những văn bản độc quyền của Kinh điển Pali, đoạn 87 có viết: A-nan-đà có hỏi Thích-ca Mâu-ni về những người đang tu luyện để đạt được Phật thành. Đức phật Thích-ca Mâu-ni đã trả lời:
"Metteyyo Uttamo Rāmo, Paseno Kosalobibū, Dīghasoṇīca Caṅkīca, Subo, Todeyya Brahmano. Nāḷāgirī Pālileyyo, Bhodhisatthā imedasa anukkamena sabhodiṁ, pāpuṇissanti nāgate"
Dịch ra nghĩa là:
"10 người sẽ nhận được thành quả từ việc tu luyện trong tương lai là: Di-lặc, vua Uttarāma, vua Pasenadi(Ba-tư-nặc), Abhibhū, Dīghasoṇī, Caṅkī, Subha, một Bà-la-môn tên là Todeyya, voi dữ Nāḷāgirī và vị vua của voi Pālileyya. Họ sẽ trở thành những vị Bồ Tát trong tương lai"
Di-lặc. | wiki |
10 vị Bồ Tát | Di-lặc.
Theo Anāgatavamsa, Phật Di-lặc là một đệ tử xuất gia mang tên "Ajita". Một lần, Kiều Đàm Di đã cúng dường Thích-ca Mâu-ni và các đệ tử một chiếc áo cà sa vàng. Vì không có đệ tử nào nhận lễ vật này nên Ajita nhận lễ vật. Những nhà sư khi đó cảm thấy không hài lòng và cho rằng áo cà sa chỉ dành cho Đức Phật. Để cho mọi người biết được Ajita là người tiếp nối mình. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giấu chiếc bát hành khất bằng ngọc của mình đi và bảo các đệ tử đi tìm. Nhưng chỉ có Ajita mới có thể lấy được bát của Người. Sau khi Ajita lấy được bát, Thích-ca Mâu-ni đã giải thích cho những đệ tử của mình rằng Ajita sẽ là một trong những vị Bồ Tát ở tương lai. Người cũng kể về tương lai của Di-lặc như thỉnh cầu của Xá-lợi-phất.
Vua Uttarāma.
Vào thời kỳ của Đức Phật Ca-diếp, vua Uttarāma là một chàng trai mang tên Nārada. Khi ông ta nhìn thấy Đức Phật, ông đã nghĩ rằng mình sinh ra là để hiến dâng tính mạng cho Đức Phật. Và rồi, ông đã tự đốt cháy cơ thể mình, như một ngọn đuốc. Sau đó, Đức Phật Ca-diếp đã báo trước rằng Nārada sẽ trở thành một vị Bồ Tát trong tương lai
Sau khi Phật Di Lặc qua đời, mọi thứ sẽ trải qua 100.000 Sunya-Kalpas. Sau khi trải qua 100.000 Sunya-Kalpas, khi đó sẽ tiến đến Maṇḍa-Kalpa. Và lúc đó, ông ấy sẽ trở thành Phật Rāma.
Pasenadi.
Vua Pasenadi của Vương quốc Kosala là đệ tử của Đức phật Thích-ca Mâu-ni. Ông thường mời Người và các đệ tử đến đến cung điện của mình dùng bữa và đến Phật địa để nghe Kinh | wiki |
10 vị Bồ Tát | Pasenadi.
Vua Pasenadi của Vương quốc Kosala là đệ tử của Đức phật Thích-ca Mâu-ni. Ông thường mời Người và các đệ tử đến đến cung điện của mình dùng bữa và đến Phật địa để nghe Kinh
Trong thời kì của Phật Câu-na-hàm, ông là một người đàn ông trẻ tuổi tên là Suddha. Ông ấy đã bảo vệ một đầm sen trong hồ. Mỗi ngày, ông chỉ bán 2 bông trong đó để lấy tiền. Cảm thấy ấn tượng về việc làm của ông, Người đã báo trước cho ông rằng ông sẽ trở thành một vị Phật trong tương lai.
Ông đã trở thành một vị Bồ Tát tên là Dhammarājā, cùng thời kì với Phật Rāma.
Abhibhū.
Bồ Tát Abhibhū sẽ được sinh ra vào Sārā-kalpa tiếp theo, được hình thành trong vài Sunya-Kalpas tới. Sau khi Abhibhū qua đời, thế giới sẽ tiếp tục trải qua 100.000 Sunya-Kalpas nữa.
Dīghasoni.
Được hình thành trong những Kalpas mới, Dīghasoni Asurin, một vị thần sẽ trở thành Bồ Tát
Caṅkī.
Caṅkī(hay Candanī), một bà-la-môn, sẽ trở thành một người tiếp nối Dīghasoni | wiki |
Yabu Meizan | Yabu Meizan (, tên khai sinh Yabu Masashichi (), (20 tháng 1 năm 1853 1934) là một nghệ sĩ và chủ xưởng người Nhật Bản nổi tiếng với việc vẽ tranh trên sứ. Ông là nhà sản xuất đồ sứ satsuma với số lượng lớn nhất. Thuật ngữ gốm sứ satsuma ban đầu chỉ được đặt ra nhằm ám chỉ đồ sứ được vẽ nghệ thuật từ tỉnh Satsuma. Sau này, thuật ngữ trên được mở rộng ra, bao hàm cả sứ chất lượng thấp được sản xuất hàng loạt để xuất khẩu, trong khi Meizan là một trong những nghệ sĩ tiếp tục truyền thống chất lượng nghệ thuật cao trong khi cũng xuất khẩu thành công. Ông được coi là "hoàng tử" của loại hình nghệ thuật này. Ngày nay, các tác phẩm của ông được nhiều nhà sưu tập tìm kiếm. Một bộ sưu tập lớn các tác phẩm nghệ thuật của ông hiện là một phần của Bộ sưu tập nghệ thuật Nhật Bản Khalili.
Cuộc đời và sự nghiệp. | wiki |
Yabu Meizan | Yabu Meizan sinh ngày 20 tháng 1 năm 1853 tại Nagahori, Osaka. Năm 1880, ông mở xưởng sản xuất đồ gốm ở Osaka, tuyển mộ và đào tạo nghệ sĩ làm gốm. Gốm dùng làm chế tác được ông mang từ lò Chin Jukan ở tỉnh Satsuma đến Osaka để trang trí. Nhà sáng lập bảo tàng nghệ thuật người Mỹ Charles Parsons kể lại chuyến viếng thăm xưởng của Meizan trong cuốn sách "Ghi chú về một chuyến đi vòng quanh thế giới vào năm 1894 và 1895" như sau: "Ông ấy rất nổi tiếng. Ông có 17 người đàn ông và con trai đều cùng làm việc, tất cả đều làm công việc trang trí. Ông đảm nhận vai trò thiết kế và tận tụy hướng dẫn những đứa con cẩn thận trong khi thực hiện công việc. Một vài nghệ nhân ở đây là những người lao động rất tuyệt vời. Tất cả đều trật tự, gọn gàng và im lặng, không nói lời nào". Meizan tích cực tiếp thị công việc của mình trên phạm vi quốc tế cũng như trong nước, đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức trình bày các sản phẩm của Nhật Bản tại các hội chợ trên thế giới. Điều này mang lại cho ông sự hoan nghênh lớn cũng như nguồn thu nhập dồi dào. Thành công của ông đã truyền cảm hứng cho một xưởng khác sử dụng tên và bắt chước phong cách của ông, nhưng độ tinh tế và chi tiết thì không thể sánh bằng. Sự nghiệp của ông lao dốc trong Thế chiến I khi chiến tranh và bất ổn kinh tế gây khó khăn cho việc điều hành một doanh nghiệp xuất khẩu. Nghệ thuật Nhật Bản cũng không được lòng người mua Mỹ và châu Âu, những người dần dần ngó lơ thị trường Nhật để chuyển hướng sang Trung Quốc.
Phong cách. | wiki |
Yabu Meizan | Phong cách.
Các tác phẩm của Meizan được đặc trưng bởi cách trang trí tỉ mỉ dựa trên việc sử dụng các tấm lát bằng đồng. Những tấm đồng khắc này ban đầu sẽ được dùng để in các thiết kế trên giấy, sau đó chúng sẽ lần lượt được cắt để dán các tấm giấy nến vẽ lên trên lọ hoặc đĩa. Đồ trang trí của ông sử dụng các chủ đề của Trung Quốc và Phật giáo cho đến những năm 1890, khi ông bắt đầu sử dụng nhiều hơn những biểu tượng của Nhật Bản, như ngư dân hoặc samurai chiến đấu. Trong quá trình sáng tác, Meizan thường vẽ hoặc sao chép các bản in phổ biến của nhiều nghệ sĩ, trong đó có Hiroshige. Các thiết kế của ông ngày càng có thêm nhiều chi tiết hơn. Một tác phẩm có thể mô tả hàng ngàn bông hoa hoặc con bướm, hoặc hàng trăm người trong một đám rước. Cuối sự nghiệp, Meizan áp dụng một cách tiếp cận khác, bao quát toàn bộ bình hoa trong một mô típ duy nhất. Hướng nghệ thuật mới này có thể xem như lấy cảm hứng từ ý kiến của các nhà phê bình. Tuy nhiên, nó là một thất bại thương mại vào thời điểm đó. Người mua vẫn ưa chuộng mẫu thiết kế chật kín trên sản phẩm.
Triển lãm. | wiki |
Yabu Meizan | Triển lãm.
Từ 1885 đến 1916, Meizan trưng bày các tác phẩm nghệ thuật của mình tại một số cuộc triển lãm quốc gia và hội chợ thế giới và giành được nhiều huy chương. Trong số này có thể kể đến Triển lãm Kyoto lần thứ tư năm 1885 (nơi ông giành được huy chương đồng), Triển lãm Paris năm 1899 và năm 1900, Triển lãm tại Louisiana, Hoa Kỳ năm 1904, Triển lãm nghệ thuật London-Nhật Bản Triển lãm năm 1910. Đối với buổi triển lãm tổ chức tại Louisiana, Meizan vinh dự được bổ nhiệm làm thư ký Hiệp hội Triển lãm Nhật Bản, có nhiệm vụ tổ chức, sắp xếp và trang trí hội trường. Triển lãm quốc tế cuối cùng của ông là Triển lãm quốc tế Panama Thái Bình Dương năm 1915 tại San Francisco.
Sau này, các tác phẩm của Meizan cũng được đưa vào các buổi triển lãm cho Bộ sưu tập Khalili tại Bảo tàng Quốc gia xứ Wales và Cardiff lần lượt những năm 1994 và 1995. Bộ sưu tập của ông cũng hiện diện tại Trung tâm Nghệ thuật Wilmington, Delwar năm 1999, tại Bảo tàng Nghệ thuật Portland năm 2002 và Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam năm 2006. | wiki |
T-17 | Xe tăng T-17 là xe tăng siêu nhẹ được thiết kế và phát triển bởi Liên Xô trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới.
Quá trình phát triển.
Năm 1926, ủy ban thiết kế (sau này là OKMO ) "КБ Orudiyno-Arsenalny Trest" (OAT) bắt đầu nghiên cứu xe tăng trinh sát hạng nhẹ một người "Liliput" . Nhóm nghiên cứu phải đối mặt với một số vấn đề như việc nghiên cứu ra khung gầm xe tăng và động cơ mới. Dự án liên tục bị đình trệ. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1928, dưới sự lãnh đạo của trưởng phòng thí nghiệm động cơ AP Kushka và LY Lalmena, kỹ sư S. Ginzburg và E. Grote tiến hành sản xuất một phiên bản xe tăng mới.
Vào tháng 12 năm 1930, một lực lượng cơ giới và thiết giáp được thành lập để có khả năng hành quân cơ động và hỗ trợ bộ binh. Năm 1929, học thuyết "Quy tắc chiến trường" (Polevoi Ustay) tuyên bố rằng chiến tranh trong tương lai sẽ dựa vào yếu tố chiến thuật và phát triển lý thuyết về các cuộc hành quân liên tục qua việc áp dụng các ý tưởng cơ động và cơ giới vào các cuộc hành quân tấn công trong tương lai. Ustay nhấn mạnh mục tiêu của tác chiến chiều sâu là hủy diệt hoặc vô hiệu hóa hệ thống phòng thủ tại phòng tuyến sâu của đối phương.
Vào tháng 5 năm 1930, Liên Xô thành lập lữ đoàn hỗ trợ cơ giới đầu tiên bao gồm 60 xe tăng và 32 xe tăng siêu nhẹ (xe tăng siêu nhẹ là xe tăng loại nhỏ được trang bị súng máy hạng nặng).
Khung gầm và hệ thống truyền động. | wiki |
T-17 | Khung gầm và hệ thống truyền động.
Các nhà phát triển xe tăng T-17 đã sử dụng khung gầm và hệ thống truyền động của T-16 cho mẫu cơ sở. Thân xe được dựa trên phiên bản "Liliput". Bộ phận phát động được sử dụng là động cơ hai xi-lanh làm mát bằng không khí với công suất 16 mã lực. Bánh xích được làm từ cao su và thép.
Cấu trúc tháp pháo và vũ khí trang bị.
Tháp pháo, nằm trên cùng khung gầm của T-17 (thường được gọi giống như người tiền nhiệm của nó, "Liliput"), được tán vào khung xe. Lái xe, ngồi trong thân xe, cũng vận hành một khẩu súng máy được gắn ở bên phải của trục dọc.
Quá trình thử nghiệm.
Do sự chậm trễ ban đầu kéo dài, cuối cùng một nguyên mẫu T-17 đã sẵn sàng vào cuối năm 1929. Bất chấp các vấn đề nảy sinh, xe tăng T-17 đã được thử nghiệm vào tháng 1 năm 1930. Vào tháng 6 năm đó, một cuộc thử nghiệm khác được tiến hành và cho thấy khả năng cơ động của T-17 tốt hơn xe tăng T-18.
Quá trình sửa đổi.
Một trong những hạn chế lớn nhất của xe tăng thời bấy giờ là lỗi bánh xích. Do đó, một trong ba chiếc xe tăng siêu nhẹ này được đặt hàng vào mùa hè năm 1930, đã được thử nghiệm trong một cấu hình bánh xích khác. Phiên bản thứ hai này của T-17 có bánh cao su kiểu Kégresse . Tuy nhiên, thiết kế này bị coi là phi thực tế, và người ta quyết định nghiên cứu hoàn chỉnh cấu hình bánh xích bằng kim loại , tiếp tục với các phiên bản được sản xuất sau này của T-18. | wiki |
Quận Clay, North Carolina | Quận Clay là một quận nằm ở tiểu bang Bắc Carolina. Tại thời điểm năm 2000, quận có dân số 8.775 người. Quận lỵ đóng ở Hayesville.
Quận được lập năm 1861 từ phần phía đông nam của quận Cherokee.
Địa lý.
Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có tổng diện tích 221 dặm Anh vuông (571 km²), trong đó, 215 dặm Anh vuông (556 km²) là diện tích đất và 6 dặm Anh vuông (15 km²) trong tổng diện tích (2,67%) là diện tích mặt nước.
Các thị trấn.
Quận được chia thành 6 xã: Brasstown, Hayesville, Hiwassee, Shooting Creek, Sweetwater, và Tusquittee.
Thông tin nhân khẩu.
Theo cuộc điều tra dân số tiến hành năm 2000, quận này có dân số 8.775 người, 3.847 hộ, và 2.727 gia đình sinh sống trong quận này. Mật độ dân số là 41 người trên mỗi dặm Anh vuông (16/km²). Đã có 5.425 đơn vị nhà ở với một mật độ bình quân là 25 trên mỗi dặm Anh vuông (10/km²). Cơ cấu chủng tộc của dân cư sinh sống tại quận này gồm 98,01% người da trắng, 0,80% người da đen hoặc người Mỹ gốc Phi, 0,33% người thổ dân châu Mỹ, 0,09% người gốc châu Á, 0,07% người các đảo Thái Bình Dương, 0,15% từ các chủng tộc khác, và 0,56% từ hai hay nhiều chủng tộc. 0,83% dân số là người Hispanic hoặc người Latin thuộc bất cứ chủng tộc nào. | wiki |
Quận Clay, North Carolina | Có 3,847 hộ trong đó có 23,50% có con cái dưới tuổi 18 sống chung với họ, 59,80% là những cặp kết hôn sinh sống với nhau, 7,50% có một chủ hộ là nữ không có chồng sống cùng, và 29,10% là không gia đình. 26,30% trong tất cả các hộ gồm các cá nhân và 14,40% có người sinh sống một mình và có độ tuổi 65 tuổi hay già hơn. Quy mô trung bình của hộ là 2,25 còn quy mô trung bình của gia đình là 2,68,
Phân bố độ tuổi của cư dân sinh sống trong huyện là 18,60% dưới độ tuổi 18, 6,20% từ 18 đến 24, 22,80% từ 25 đến 44, 29,80% từ 45 đến 64, và 22,70% người có độ tuổi 65 tuổi hay già hơn. Độ tuổi trung bình là 47 tuổi. Cứ mỗi 100 nữ giới thì có 94,90 nam giới. Cứ mỗi 100 nữ giới có độ tuổi 18 và lớn hơn thì, có 91,40 nam giới.
Thu nhập bình quân của một hộ ở quận này là $31.397, và thu nhập bình quân của một gia đình ở quận này là $38.264, Nam giới có thu nhập bình quân $29.677 so với mức thu nhập $19.529 đối với nữ giới. Thu nhập bình quân đầu người của quận là $18.221, Khoảng 7,80% gia đình và 11,40% dân số sống dưới ngưỡng nghèo, bao gồm 14,60% những người có độ tuổi 18 và 13,00% là những người 65 tuổi hoặc già hơn. | wiki |
Albert Benjamin Simpson | Albert Benjamin Simpson (15 tháng 12 năm 1843 – 29 tháng 10 năm 1919) là nhà thuyết giáo người Canada, nhà thần học, tác gia, và là nhà sáng lập Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp (C&MA), một hệ phái thuộc trào lưu Tin Lành trong cộng đồng Kháng Cách, với tôn chỉ truyền bá phúc âm đến mọi nơi trên thế giới.
Tuổi trẻ.
Simpson ra đời tại Cavendish, đảo Prince Edward, Canada, là con thứ ba trong gia đình có bốn người con của James Simpson, Jr. và Janet Clark.
Harold H. Simpson đã thiết lập được bản gia phả về các dòng tộc tại Cavendish với tựa đề "Cavendish: Lịch sử và Con người", cho thấy dòng họ Clark (họ ngoại của A.B. Simpson) là một trong những gia đình thành lập Cavendish vào năm 1790, cũng như tìm ra rằng A.B. Simpson và Lucy Maud Montgomery, tác giả loạt truyện thiếu nhi nổi tiếng "Anne of Green Gables", có cùng một tổ phụ.
Cậu bé Albert được nuôi dưỡng theo truyền thống nghiêm khắc của Thanh giáo và của Giáo hội Trưởng Lão Scotland. Albert tiếp nhận đức tin Cơ Đốc trong một cuộc phục hưng năm 1859 dưới sự dẫn dắt của Henry Grattan Guinness, một nhà truyền bá Phúc âm đến từ Ái Nhĩ Lan.
Simpson đến sống một thời gian ở Chatham, bang Ontario, theo học thần học tại Trường Knox thuộc Đại học Toronto. Sau khi tốt nghiệp năm 1865, Simpson được phong chức mục sư Giáo hội Trưởng Lão Canada. | wiki |
Albert Benjamin Simpson | Lúc 21 tuổi, Simpson nhận lời mời đến làm quản nhiệm tại một nhà thờ lớn gần Hamilton, Ontario, Nhà thờ Trưởng Lão Knox (đóng cửa năm 1971). Tháng 12 năm 1873, ở tuổi 30, Simpson rời Canada đến quản nhiệm giáo đoàn Trưởng Lão lớn nhất thành phố Louisville, tiểu bang Kentucky, Nhà thờ Chesnut Street Presbyterian.
Năm 1880, Simpson được mời làm quản nhiệm Nhà thờ Trưởng Lão đường 13 tại Thành phố New York, ở đó ông xuất bản tạp chí truyền giáo "The Gospel in All Lands", tạp chí truyền giáo bằng tranh đầu tiên. Simpson cũng thành lập và bắt đầu xuất bản tạp chí minh hoạ "The Word, Work, and World". Năm 1911, tạp chí này đổi tên thành "Alliance Weekly", nay là "Alliance Life", là tạp chí chính thức của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp.
Quan tâm đến người nghèo, Simpson dần dần rời bỏ giáo hội Trưởng Lão và khởi đầu mục vụ dành cho những người bị ruồng bỏ đang sống trong Thành phố New York.
Thần học Simpson.
Simpson phát triển một nền thần học đã tạo ảnh hưởng đáng kể trên các nhóm tôn giáo có nguồn gốc từ Phong trào Thánh khiết, đặc biệt trong vòng các giáo phái thuộc Phong trào Ngũ Tuần và C&MA. Nền thần học được biết đến với tên Phúc âm Tứ diện: "Chúa Giê-xu là Cứu Chúa, Đấng Thánh hoá, Đấng Chữa lành và Vua Hầu đến". Phúc âm Tứ diện được thể hiện trên biểu trưng của Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp. | wiki |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.