title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Alfred Koch | Vào tháng 2 năm 2002, Koch đã được Quốc hội Leningrad đề cử làm thành viên của Quốc hội Nga. Sau khi gặp kháng cự lớn chống lại cá nhân ông, ông phải rút lại, thôi ứng cử. Koch cũng là người đứng đầu chiến dịch bầu cử năm 2003 cho Liên minh quyền lực Pháp quyền. Sau thất bại trong cuộc bầu cử của họ, ông đã rút ra khỏi trường chính trị.
Năm 2006, Koch đã viết một trong những cuốn sách bán chạy nhất ở Nga "một thùng rượu vodka" (), một cuộc đối thoại với nhà báo Igor Swineseko về khoảng thời gian từ năm 1982 đến 2001. Bản dịch tiếng Anh được xuất bản vào mùa xuân năm 2009.
Vào năm 2008, ông đã tài trợ cho một luận điểm khoa học phản biện từng điểm việc không công nhận Holocaust theo tiêu đề "Từ chối sự từ chối" (Отрицание отрицания), với Pawel Poljan. Đó là cuốn sách đầu tiên về chủ đề này ở Nga. Koch là một nhà bình luận thường xuyên trong "Medwed", một tạp chí Nga dành cho đàn ông mà ông viết về lịch sử và các chuyến du lịch.
Theo tạp chí Der Spiegel, Koch là một "nhà phê bình sắc bén" chính sách đối ngoại của Putin trong cuộc khủng hoảng Ukraina và "rời khỏi Nga tới Đức vì sợ bị truy tố". Koch đã sống ở Đức từ năm 2013 và hiện đã được quyền công dân Đức. | wiki |
Giáo dục của Người bị Áp bức | Giáo dục của người bị áp bức (tiếng Bồ Đào Nha: Pedagogia do Oprimido) là một cuốn sách của nhà giáo dục Brazil Paulo Freire, được viết bằng tiếng Bồ Đào Nha vào năm 1967-68, nhưng được xuất bản lần đầu tiên bằng tiếng Anh, trong bản dịch của Myra Bergman Ramos, vào năm 1970 (New York: Herder & Herder). Cuối năm đó, một bản dịch tiếng Tây Ban Nha được xuất bản (Montevideo: Tierra Nuova). Phiên bản bằng tiếng Bồ Đào Nha được xuất bản vào năm 1972 tại Bồ Đào Nha (Porto: Afrontamento), và cuối cùng xuất hiện ở Brazil vào năm 1974 (Rio de Janeiro: Paz e Terra). Cuốn sách được coi là một trong những văn bản nền tảng của phương pháp sư phạm phê bình, và đề xuất một phương pháp sư phạm với mối quan hệ mới giữa giáo viên, học sinh và xã hội.
Dành riêng cho những người bị áp bức và dựa trên kinh nghiệm của bản thân giúp người lớn Brazil đọc và viết, Freire bao gồm một phân tích chi tiết về giai cấp của chủ nghĩa Mác khi ông khám phá mối quan hệ giữa người khai hoang và người bị đô hộ. Trong cuốn sách, Freire gọi phương pháp sư phạm truyền thống là "mô hình giáo dục ngân hàng" vì nó coi học sinh như một chiếc bình rỗng chứa đầy kiến thức, giống như một con heo đất. Ông lập luận rằng phương pháp sư phạm thay vào đó nên coi người học như một người đồng sáng tạo ra tri thức.
Tính đến năm 2000, cuốn sách đã bán được hơn 750.000 bản trên toàn thế giới. Đây là cuốn sách được trích dẫn nhiều thứ ba trong khoa học xã hội.
Tóm tắt. | wiki |
Giáo dục của Người bị Áp bức | Tính đến năm 2000, cuốn sách đã bán được hơn 750.000 bản trên toàn thế giới. Đây là cuốn sách được trích dẫn nhiều thứ ba trong khoa học xã hội.
Tóm tắt.
Freire tổ chức "Giáo dục của người bị áp bức" thành bốn chương và một lời tựa.
Freire sử dụng lời nói đầu để cung cấp thông tin cơ bản về công việc của mình và những nhược điểm tiềm ẩn. Ông giải thích rằng điều này đến từ kinh nghiệm của ông với tư cách là một giáo viên ở Brazil và khi ông sống lưu vong chính trị. Trong thời gian này, ông nhận thấy rằng các học sinh của mình có một nỗi sợ hãi tự do một cách vô thức, hay nói đúng hơn: nỗi sợ thay đổi cách thế giới. Sau đó, Freire vạch ra những lời chỉ trích mà cuốn sách của ông sẽ phải đối mặt. Hơn nữa, độc giả của ông nên là những người cấp tiến — những người coi thế giới luôn thay đổi và linh hoạt — và ông thừa nhận rằng lập luận của ông rất có thể sẽ thiếu nhiều thứ. Dựa trên phương pháp tìm kiếm tự do dựa trên kinh nghiệm của người nghèo và tầng lớp trung lưu với giáo dục, Freire tuyên bố rằng ý tưởng của ông bắt nguồn từ thực tế - không hoàn toàn là lý thuyết. | wiki |
Giáo dục của Người bị Áp bức | Freire sử dụng chương 1 để giải thích tại sao phương pháp sư phạm này là cần thiết. Mô tả vấn đề trọng tâm của loài người là khẳng định bản sắc của con người là con người, Freire nói rằng mọi người đều nỗ lực vì điều này, nhưng sự áp bức đã làm gián đoạn nhiều người trong cuộc hành trình này. Những quá trình tạm dừng này được gọi là khử ẩm. Nhân bản hóa, khi các cá nhân trở nên khách quan, xảy ra do bất công, bóc lột và áp bức. "Giáo dục của người bị áp bức" là nỗ lực của Freire để giúp những người bị áp bức chiến đấu trở lại để lấy lại nhân tính đã mất của họ và đạt được sự nhân bản hoàn toàn. Freire vạch ra các bước mà nhờ đó những người bị áp bức có thể lấy lại nhân tính của họ, bắt đầu bằng việc đạt được kiến thức về khái niệm nhân bản. Người bị áp bức chỉ dễ dàng chống lại kẻ áp bức để trở thành đối cực của những gì họ đang có. Nói cách khác, điều này chỉ khiến họ trở thành kẻ áp bức và bắt đầu lại chu kỳ. Để trở lại hoàn toàn là con người, họ phải xác định những kẻ áp bức. Họ phải xác định chúng và làm việc cùng nhau để tìm kiếm sự giải thoát. Bước tiếp theo trong quá trình giải phóng là hiểu mục tiêu của những kẻ áp bức là gì. Những người áp bức hoàn toàn theo chủ nghĩa vật chất. Họ coi con người là đồ vật và bằng cách đàn áp các cá nhân, họ có thể sở hữu những con người này. Mặc dù họ có thể không có ý thức hạ gục những người bị áp bức, nhưng họ coi trọng quyền sở hữu đối với nhân loại, về cơ bản là hạ nhân tính của bản thân. Điều quan trọng cần nhận ra là mục tiêu | wiki |
Giáo dục của Người bị Áp bức | này. Mặc dù họ có thể không có ý thức hạ gục những người bị áp bức, nhưng họ coi trọng quyền sở hữu đối với nhân loại, về cơ bản là hạ nhân tính của bản thân. Điều quan trọng cần nhận ra là mục tiêu của những người bị áp bức không chỉ là giành quyền lực. Đó là cho phép mọi cá nhân trở thành con người hoàn toàn để không có sự áp bức nào có thể tồn tại. Freire tuyên bố rằng một khi những người bị áp bức hiểu được sự áp bức của chính họ và phát hiện ra những kẻ áp bức họ, bước tiếp theo là đối thoại hoặc thảo luận với những người khác để đạt được mục tiêu nhân đạo. Freire cũng nêu bật các sự kiện khác trong cuộc hành trình này mà những người bị áp bức phải thực hiện. Có nhiều tình huống mà người bị áp bức phải cảnh giác. Ví dụ, họ phải nhận thức được những kẻ áp bức đang cố gắng giúp đỡ những người bị áp bức. Những người này được coi là hào phóng một cách sai lầm, và để giúp đỡ những người bị áp bức, trước tiên người ta phải hoàn toàn trở thành những người bị áp bức, về mặt tinh thần và môi trường. Chỉ những người bị áp bức mới có thể cho phép nhân loại trở thành con người hoàn toàn mà không có trường hợp khách quan hóa. | wiki |
Giáo dục của Người bị Áp bức | Nhận xét.
Đoàn Thanh Liêm nhận xét :Năm 1970, ấn bản tiếng Anh “The Pedagogy of the Oppressed” (Giáo dục của Người bị Áp bức) của Paulo Freire đã gây một tiếng vang lớn trong giới giáo dục và hoạt động xã hôi khắp thế giới. Sau trên 40 năm, đã có hàng triệu cuốn được phổ biến rộng rãi qua nhiều lần tái bản, và hàng mấy chục bản dịch ra các thứ tiếng khác nữa. Ông là người đã cổ võ cho ý niệm “ Conscientizacao’ nguyên văn tiếng Bồ Đào Nha, mà bây giờ đã trở thành thông dụng khắp thế giới với tiếng Anh là “Conscientisation” (= Consciousness Raising, Critical Conciousness). Ta có thể diễn tả ý niệm này là : Sự thức tỉnh Ý thức và Suy nghĩ có tính cách phê phán.
Quả thật, chủ trương giáo dục có tính chất cách mạng triệt để của ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các phong trào giáo dục và xã hội cùng khắp thế giới. Và tư tưởng triết học của ông cũng ảnh hưởng đến nhiều ngành học thuật như thần học, xã hội học, nhân chủng học, sư phạm, ngữ học thực hành và nghiên cứu văn hóa (applied linguistics & cultural studies). | wiki |
Thượng Volta thuộc Pháp | Thượng Volta thuộc Pháp
Thượng Volta () là một thuộc địa của Tây Phi thuộc Pháp được thành lập vào ngày 1 tháng 3 năm 1919, từ các vùng lãnh thổ từng là thuộc địa của Thượng Sénégal và Niger và Bờ Biển Ngà. Thuộc địa bị giải thể vào ngày 5 tháng 9 năm 1932, với các bộ phận được quản lý bởi Côte d'Ivoire, Sudan thuộc Phápư và Thuộc địa Niger.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, vào ngày 4 tháng 9 năm 1947, thuộc địa được hồi sinh như một phần của Liên minh Pháp, với các ranh giới trước đó. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1958, nó được tái lập thành Cộng hòa tự trị Thượng Volta trong Cộng đồng Pháp, và hai năm sau vào ngày 5 tháng 8 năm 1960, nó giành được độc lập hoàn toàn. Vào ngày 4 tháng 8 năm 1984, tên được đổi thành Burkina Faso.
Cái tên Thượng Volta chỉ ra rằng quốc gia này chứa phần thượng lưu của sông Volta. Con sông được chia thành ba phần, được gọi là Hắc Volta, Bạch Volta và Hồng Volta.
Lịch sử.
Cho đến thế kỷ XIX, lịch sử thượng Volta đã giúp vương quốc Mossi, rằng nó sẽ được cài đặt sau khi các bên phía bắc Ghana. Trong nhiều thế kỷ, nông dân Mossi vừa là lính vừa là nông dân và người Mossi bảo vệ niềm tin tôn giáo và cấu trúc xã hội của họ trước những nỗ lực của người Hồi giáo từ phía tây bắc để chuyển sang Hồi giáo.
Khi người Pháp đến và tuyên bố khu vực này vào năm 1896, cuộc kháng chiến của người Rêu kết thúc bằng việc chiếm được thủ đô của họ, Ouagadougou. | wiki |
Mây tầng | Mây tầng, ký hiệu khoa học St (từ tiếng Latinh "Stratus", nghĩa là tầng, lớp, lớp che phủ), là một kiểu mây thuộc về lớp có đặc trưng là tạo thành tầng nằm ngang với đế đồng nhất, ngược lại với "mây đối lưu" là các dạng mây phát triển thành dạng cao hay có chiều cao lớn hơn chiều rộng (các dạng mây đó được gọi là mây tích). Một cách cụ thể hơn, thuật ngữ "mây tầng" được dùng để chỉ các dạng mây dẹt, không có đặc trưng để phân biệt ở các cao độ nhỏ, với màu sắc dao động trong khoảng từ xám sẫm tới gần như trắng. Khái niệm "ngày đầy mây" thường dùng để chỉ bầu trời với mây tầng che lấp Mặt Trời. Các loại mây này về cơ bản là do sương mù trên mặt đất được hình thành hoặc là từ sự bốc lên của sương mù buổi sáng khi không khí lạnh di chuyển ở các cao độ nhỏ trên bề mặt khu vực. Các dạng mây này thường không đem lại giáng thủy lớn, mặc dù các dạng mưa lâm thâm như mưa phùn và tuyết rơi có thể xảy ra.
Các biến thể. | wiki |
Mây tầng | Các biến thể.
Các dạng mây tầng kèm theo là giáng thủy được biết đến như là mây vũ tầng ("Nimbostratus" hay Ns). Các dạng mây tầng ở các cao độ lớn hơn bao gồm mây trung tầng ("Altostratus" hay As) và mây ti tầng ("Cirrostratus" hay Cs). Mây ti tầng có dạng giống như dải mỏng và bao gồm các tinh thể nước đá. Mặc dù chúng có thể dày từ vài trăm tới vài nghìn mét và che kín bầu trời, nhưng do chúng là tương đối trong suốt nên người ta có thể nhìn tháy mặt trời hay Mặt Trăng và các ngôi sao xuyên qua chúng. Một đặc trưng để phát hiện mây ti tầng là mặt trời và Mặt Trăng sẽ có quầng bao quanh chúng do sự phản xạ của ánh sáng trên các tinh thể nước đá. | wiki |
Khu tự quản | Khu tự quản (tiếng Anh: "municipality", tiếng Pháp: municipalité) thông thường là một phân cấp hành chính tại đô thị có địa vị hội đồng tự quản và thường thường có quyền lực của một chính quyền tự quản hay thẩm quyền tự quản. Trong tiếng Anh, thuật từ "municipality" cũng được sử dụng để chỉ cơ quan chính quyền của một khu tự quản. Khu tự quản có thể là đô thị hay nông thôn và là địa khu dành cho mục đích tổng thể ("general-purpose district"), khác biệt với các loại địa khu dành cho mục đích đặc biệt ("special-purpose district"), ví dụ như khu học chánh là địa khu đặc biệt dành cho mục đích giáo dục, khu bưu chính là địa khu đặc biệt dành cho dịch vụ thư tín, khu quốc hội là địa khu đặc biệt dành cho mục đích bầu cử một đại biểu quốc hội. Thuật từ tiếng Anh "municipality" được lấy từ tiếng Pháp "municipalité" và tiếng Latin "municipalis".
Nguồn gốc tên gọi.
Thuật từ tiếng Anh "Municipality" được lấy từ khế ước xã hội Latin "Municipium", có nghĩa là những người nắm trọng trách nhằm ám chỉ đến các cộng đồng Latin cung cấp binh sĩ cho La Mã để đổi lấy sự hợp nhất cộng đồng của mình vào trong quốc gia La Mã (ban quyền công dân La Mã cho các cư dân) trong khi đó La Mã vẫn cho phép các cộng đồng này giữ lại chính quyền địa phương của mình (quyền tự trị giới hạn).
Tổng quan.
Thuật từ "khu tự quản" là thuật từ chung chung, và có thể mô tả bất cứ thẩm quyền chính trị nào từ một quốc gia có chủ quyền như Công quốc Monaco hay một ngôi làng nhỏ như West Hampton Dunes, New York. | wiki |
Khu tự quản | Lãnh thổ mà một khu tự quản có thẩm quyền trong đó có thể bao gồm:
Tại một số quốc gia như Phần Lan, tất cả đất đai phải thuộc một khu tự quản. Ngược lại, tại các quốc gia khác, khu tự quản chỉ bao gồm một nơi định cư đơn độc và phần còn lại trở thành phần đất chưa hợp nhất mà có thể có dân số đáng kể, ví dụ như các làng được một quận trực tiếp quản lý. Các khu tự quản có thể được chia thành một số loại phân cấp nhỏ nữa, ví dụ như các thành phố, thị trấn hay khu tự quản nông thôn có thể được chia thành các phân cấp hành chính bậc thấp hơn.
Quyền lực chính trị.
Quyền lực của các khu tự quản có tầm mức từ gần như tự trị đến hoàn toàn dưới quyền của quốc gia. Các khu tự quản có thể có quyền đánh thuế cá nhân và công ty bằng thuế lợi tức, thuế bất động sản và thuế lợi tức công ty nhưng cũng có thể nhận được nguồn quỹ đáng kể từ quốc gia.
Tại các quốc gia trên thế giới.
Tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, một khu tự quản là một phân cấp hành chính nhỏ nhất có đại biểu được bầu lên một cách dân chủ. Các khu tự quản đôi khi được gọi là "xã" (Ví dụ như "commune" của Pháp, "ayuntamiento" của Tây Ban Nha, "comune" của Ý, "comună" của România, "kommun" của Thụy Điển, "kommune" của Na Uy/Đan Mạch và "Kommune" của Đức).
Việt Nam.
Thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam được xem là một dạng khu tự quản, có địa vị ngang bằng một tỉnh. Việt Nam hiện có 5 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và Thành phố Hồ Chí Minh. | wiki |
Tứ Tử Vương | Tứ Tử Vương
Tứ Tử Vương () là một kỳ của địa cấp thị Ulanqab (Ô Lan Sát Bố), khu tự trị Nội Mông Cổ, Trung Quốc. Tên của kỳ được đặt theo bốn anh em người Mông Cổ là: Sengge (僧格, Tăng Cách), Suonuobu (索諾布, Sách Nặc Bố), Emubu (鄂木布, Ngạc Mộc Bố) và Yi'erzhamu (伊爾扎木, Y Nhĩ Trát Mộc), họ là hậu duệ của Khasar, một người anh em trai của Thành Cát Tư Hãn. Bốn người này đã lãnh đạo thị tộc của mình tham gia cùng nhà Thanh trong cuộc chinh phục Trung Nguyên và lật đổ nhà Minh. | wiki |
John Earp | John Earp
John Earp (Q1 1860 – "không rõ") là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo. Sinh ra ở Newport, Shropshire, ông từng thi đấu cho Newton Heath (hiện tại là Manchester United) từ năm 1885 đến năm 1888. Ngoài 1 lần ra sân ở Cúp FA trước Fleetwood Rangers vào tháng 10 năm 1886, ông cũng ra sân 10 trận ở Manchester Senior Cup, ghi một bàn thắng. Ông thi đấu vị trí outside right trước Fleetwood Rangers, nhưng cũng có thể thi đấu ở vị trí tiền đạo tầm xa, tiền đạo trung tâm hoặc ở vị trí wing half. | wiki |
Robertino Loreti | Robertino Loreti (sinh ngày 22 Tháng 10 năm 1947 tại Roma), còn được gọi là Roberto, Robertino, hay Robertino Loretti, là một ca sĩ Ý, được biết đến chủ yếu qua các bài hát ông đã thực hiện khi còn là một thiếu niên, với giọng soprano cao.
Thời thiếu niên.
Ông là con thứ tư trong một gia đình có tám người con. Gia đình ông thuộc loại nghèo, và khi ông được 10 tuổi, cha ông đã ngã bệnh và Robertino phụ giúp gia đình kiếm tiền bằng cách đưa bánh mì cho các nhà hàng. Ông rất thích hát những bài hát dân gian trên đường và giọng hát của ông được nhiều người chú ý. Sau khi được mời hát giúp vui cho một đám cưới trong một nhà hàng, Robertino được các nhà hàng khác mời cho các dịch vụ tương tự.
Năm 1960, khi Robertino hát tại Cafe Grand Italia, nơi diễn viên Neapolitan Totò và nhà sản xuất truyền hình Đan Mạch Volmer Sørensen, lúc đó đang đi nghỉ mát với vợ là ca sĩ Grethe Sønck chú ý. Họ đã tạo cơ hội cho Robertino được trình diễn trong những show trên đài truyền hình Đan Mạch. Robertino thu âm một album tại Copenhagen, và sau đó còn xuất bản vài album nữa và xuất hiện trong các bộ phim.
Sau đó.
Giọng hát của ông đã thay đổi, không còn như thời thiếu niên. Loreti vẫn đi lưu diễn tại châu Âu, Mỹ, Nga và biểu diễn trong các buổi hòa nhạc, nhưng không còn nổi tiếng thế giới như thời thiếu niên. | wiki |
Robertino Loreti | Giọng hát của ông đã thay đổi, không còn như thời thiếu niên. Loreti vẫn đi lưu diễn tại châu Âu, Mỹ, Nga và biểu diễn trong các buổi hòa nhạc, nhưng không còn nổi tiếng thế giới như thời thiếu niên.
Ông được cho là đặc biệt được biết nhiều ở Nga, nơi ông là bạn bè với các ca sĩ Azerbaijan Muslim Magomayev (chết năm 2008), Tamara Sinyavskaya và Joseph Kobzon. Nhà du hành vũ trụ Liên Xô Valentina Tereshkova đã yêu cầu được nghe một bản thu âm của ông trong khi đang du hành trong không gian. Nhà thơ Nga Yevgeny Yevtushenko đã sáng tác một bài thơ có tựa đề "Robertino Loreti". | wiki |
American International Group | American International Group, Inc. (AIG) là một tập đoàn tài chính và bảo hiểm đa quốc gia của Mỹ có hoạt động tại hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ. , Các công ty AIG tuyển dụng 49.600 người. Công ty hoạt động thông qua ba mảng kinh doanh cốt lõi: Bảo hiểm phi nhân thọ, Nhân thọ & Hưu trí và một công ty con độc lập hỗ trợ công nghệ. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm Bảo hiểm Thương mại, Bảo hiểm Cá nhân, các hoạt động tại Hoa Kỳ và Quốc tế. Cuộc sống & Hưu trí bao gồm Hưu trí theo nhóm, Hưu trí cá nhân, Cuộc sống và Thị trường thể chế.
AIG là nhà tài trợ chính của giải golf AIG Women's Open.
Trụ sở công ty của AIG ở Thành phố New York và công ty cũng có văn phòng trên khắp thế giới. AIG phục vụ 87% của Fortune Global 500 và 83% của Forbes 2000. AIG được xếp hạng 60 trong danh sách Fortune 500 năm 2018. Theo danh sách Forbes Global 2000 năm 2016, AIG là công ty đại chúng lớn thứ 87 trên thế giới. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2017, AIG có 65,2 tỷ USD vốn cổ đông.
Trong suốt khủng hoảng tài chính 2007–08, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã bảo lãnh cho công ty với số tiền 180 tỷ đô la và nắm quyền kiểm soát cổ phần sở hữu, với Ủy ban điều tra khủng hoảng tài chính liên quan đến sự thất bại của AIG với việc bán hàng loạt bảo hiểm không được bảo hiểm. AIG đã hoàn trả 205 tỷ USD cho chính phủ Hoa Kỳ vào năm 2012.
Tài trợ. | wiki |
American International Group | Tài trợ.
AIG là nhà tài trợ áo đấu của câu lạc bộ bóng đá Anh Manchester United F.C. từ năm 2006 đến 2010. AIG là nhà tài trợ áo đấu đầu tiên của Mỹ cho câu lạc bộ và áo đấu của AIG đã được mặc trong một trong những giai đoạn thành công nhất trong lịch sử của câu lạc bộ, trùng với đội United vĩ đại thứ ba của Ngài Alex Ferguson, đã giành được ba chức vô địch Premier League, cũng như Champions League, trong vòng bốn mùa giải.
Vào năm 2019, AIG đã ký hợp đồng 5 năm để trở thành nhà tài trợ chính của Women's British Open, hợp đồng đầu tiên của AIG trong lĩnh vực golf. Vào năm 2020, hợp đồng được gia hạn đến năm 2025 và giải vô địch được đổi tên thành AIG Women's Open, với quỹ giải thưởng golf lớn dành cho nữ lớn nhất vào năm 2021, với tổng trị giá 5,8 triệu đô la Mỹ. AIG Women's Open đã thiết lập một chuẩn mực mới vào năm 2022 là 7,3 triệu đô la cho các khoản thanh toán giải thưởng gôn vô địch lớn dành cho nữ, tăng hầu bao của giải đấu 125% kể từ năm 2018. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Liên minh phương Bắc Afghanistan, chính thức được gọi là Mặt trận Đoàn kết Hồi giáo Cứu quốc Afghanistan ( "Jabha-yi Muttahid-i Islāmi-yi Millī barā-yi Nijāt-i Afghānistān"), là một mặt trận quân sự được hình thành vào cuối năm 1996 sau khi Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan (Taliban) đánh chiếm Kabul. Mặt trận Đoàn kết được các nhà lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước Hồi giáo Afghanistan tập hợp, đặc biệt là vị Tổng thống lưu vong Burhanuddin Rabbani và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Ahmad Shah Massoud. Ban đầu Liên minh chỉ gồm chủ yếu là người Tajikistan nhưng đến năm 2000, các nhà lãnh đạo của các nhóm dân tộc khác đã gia nhập Liên minh phương Bắc như Abdul Rashid Dostum, Mohammad Mohaqiq, Abdul Qadir, Sayed Hussein Anwari và số khác.
Liên minh phương Bắc đã chiến đấu một cuộc chiến tranh phòng thủ chống lại chính phủ Taliban. Họ đã nhận được sự hỗ trợ của Iran, Nga, Ấn Độ, Tajikistan và những nước khác, trong khi Taliban thì chỉ được sự hỗ trợ của al-Qaeda và Quân đội Pakistan. Liên minh phương Bắc chủ yếu gồm sắc tộc Tajikistan, nhưng về sau còn thêm cả Uzbekistan, Hazaras và Pashtun. Chính quyền Taliban chủ yếu gồm những thành viên người Pashtun với các nhóm thiểu số khác. Sau cuộc tấn công do Mỹ dẫn đầu và thành lập chính quyền Karzai vào cuối năm 2001, Liên minh phương Bắc đã tan rã từng phần dẫn tới sự thành lập của các đảng phái chính trị khác nhau.
Chỉ huy và các phe phái. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Chỉ huy và các phe phái.
Liên minh phương Bắc được các phe phái đối lập thành lập vào cuối năm 1996 đóng vai trò như một lực lượng kháng chiến chống Taliban. Kể từ đầu năm 1999, Ahmad Shah Massoud là nhà lãnh đạo chính duy nhất có thể bảo vệ lãnh thổ của mình chống lại Taliban và như vậy vẫn là người lãnh đạo chính yếu trên thực tế về chính trị và quân sự của Liên minh được công nhận bởi các thành viên của tất cả các nhóm sắc tộc khác nhau. Massoud quyết định đường lối chính trị chính và chiến lược quân sự chung của liên minh. Một phần trong các phe phái quân sự Liên minh như Junbish-i Milli hoặc Hezb-e Wahdat thì lại không nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của Massoud mà vẫn nằm dưới quyền lãnh đạo khu vực hoặc dân tộc của họ.
Chỉ huy quân sự của Liên minh hoặc là độc lập hoặc thuộc một trong các phe phái chính trị sau đây:
Từ miền bắc Afghanistan: Bismillah Khan Mohammadi, Atta Mohammad Noor, Mohammad Daud Daud, Mohammad Fahim, Gul Haider, Mohammad Mohaqiq, Rashid Dostum, Qazi Kabir Marzban;
Chỉ huy và phó chỉ huy quân sự của Liên minh bao gồm:
Hai ứng cử viên chính trị chính trong cuộc bầu cử tổng thống Afghanistan năm 2009 đều làm việc cho Mặt trận Đoàn kết:
Lịch sử.
Bối cảnh. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Chỉ huy và phó chỉ huy quân sự của Liên minh bao gồm:
Hai ứng cử viên chính trị chính trong cuộc bầu cử tổng thống Afghanistan năm 2009 đều làm việc cho Mặt trận Đoàn kết:
Lịch sử.
Bối cảnh.
Sau sự sụp đổ của chính phủ cộng sản Najibullah do Liên Xô hậu thuẫn vào năm 1992, các đảng phái chính trị Afghanistan đã nhất trí về một nền hòa bình và thỏa thuận chia sẻ quyền lực (Hòa ước Peshawar). Hiệp định đã tạo nên Nhà nước Hồi giáo Afghanistan và bổ nhiệm một chính phủ lâm thời trong thời kỳ chuyển tiếp được tiếp nối bởi cuộc tổng tuyển cử. Theo lời Tổ chức Theo dõi Nhân quyền:
Gulbuddin Hekmatyar còn nhận được sự hỗ trợ hoạt động, tài chính và quân sự của Pakistan. Chuyên gia về Afghanistan Amin Saikal đã kết luận trong cuốn "Modern Afghanistan: A History of Struggle and Survival" (Afghanistan đương đại - Một thiên lịch sử đấu tranh và sinh tồn):
Ngoài ra, Ả Rập Xê Út và Iran – những đối thủ tranh giành quyền bá chủ trong khu vực – đã hỗ trợ lực lượng dân quân Afghanistan trở mặt đối địch với nhau. Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền thì Iran đã hậu thuẫn cho phe Hezb-i Wahdat thuộc sắc tộc Hazara phái Shia của Abdul Ali Mazari nhằm "tối đa hóa sức mạnh quân sự và ảnh hưởng của Wahdat". Ả Rập Xê Út thì ủng hộ Wahhabite Abdul Rasul Sayyaf và phe Ittihad-i Islami của ông. Một ấn phẩm của trường Đại học George Washington mô tả: | wiki |
Liên minh phương Bắc | Xung đột giữa hai lực lượng dân quân đã sớm leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn diện. Do sự khởi đầu đột ngột của chiến tranh, hoạt động của cơ quan chính phủ, các đơn vị cảnh sát hoặc một hệ thống tư pháp và trách nhiệm đối với Nhà nước Hồi giáo Afghanistan mới được tạo ra không có thời gian để hình thành. Tội ác đều có sự nhúng tay từ các cá nhân của các phe phái vũ trang khác nhau trong khi Kabul rơi vào tình trạng vô luật pháp và hỗn loạn như mô tả trong báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền và Dự án Tư pháp Afghanistan. Cũng bởi sự hỗn loạn, một số nhà lãnh đạo dần dần chỉ kiểm soát các cấp phó chỉ huy của họ trên danh nghĩa. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã viết:
Trong khi đó, miền nam Afghanistan nằm dưới sự kiểm soát của các nhà lãnh đạo địa phương không liên kết với chính quyền trung ương ở Kabul. Vào năm 1994, Taliban vốn là một phong trào bắt nguồn từ các trường tôn giáo Jamiat Ulema-e-Islam dành cho người tị nạn Afghanistan ở Pakistan, cũng đã phát triển ở Afghanistan như một lực lượng chính trị-tôn giáo. Tháng 11 năm 1994, họ nắm quyền kiểm soát thành phố miền nam Kandahar và sau đó mở rộng quyền kiểm soát của họ sang một số tỉnh ở miền nam và miền trung Afghanistan không thuộc quyền kiểm soát của chính phủ trung ương. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Đến cuối năm 1994, hầu hết các phe phái của lực lượng dân quân đã chiến đấu trong cuộc chiến giành quyền kiểm soát thủ đô Kabul đều bị các lực lượng của Bộ trưởng Quốc phòng của Nhà nước Hồi giáo Ahmad Shah Massoud đánh bại về mặt quân sự. Sự bắn phá thủ đô tạm dừng lại. Chính phủ Nhà nước Hồi giáo đã có những bước phục hồi luật pháp và trật tự trị an. Toà án bắt đầu làm việc trở lại. Massoud đã cố gắng để bắt đầu một tiến trình chính trị toàn quốc với mục tiêu củng cố quốc gia và các cuộc bầu cử dân chủ, ông cũng mời Taliban tham gia tiến trình này nhưng họ từ chối vì họ không tin vào một hệ thống dân chủ.
Taliban bắt đầu bắn phá thủ đô Kabul vào đầu năm 1995 nhưng đã bị đánh bại bởi các lực lượng của chính phủ Nhà nước Hồi giáo dưới sự chỉ huy của Ahmad Shah Massoud. Tổ chức Ân xá Quốc tế khi đề cập đến cuộc tấn công của Taliban đã viết trong một báo cáo năm 1995: | wiki |
Liên minh phương Bắc | Chiến thắng ban đầu của Taliban vào năm 1994 mà theo sau là một loạt các thất bại dẫn đến thiệt hại nặng nề khiến các nhà phân tích tin rằng phong trào Taliban đã đi vào đường cùng. Vào thời điểm đó Pakistan và Ả Rập Xê Út gia tăng đáng kể sự hỗ trợ của họ cho Taliban. Nhiều nhà phân tích như Amin Saikal mô tả Taliban như đang phát triển thành một lực lượng đại diện cho lợi ích khu vực của Pakistan. Ngày 26 tháng 9 năm 1996, khi quân Taliban được sự hỗ trợ quân sự của Pakistan và hỗ trợ tài chính của Ả Rập Xê Út đã chuẩn bị một cuộc tấn công lớn nhằm tái chiếm thủ đô Kabul, Massoud ra lệnh rút lui toàn diện khỏi thành phố. Cuối cùng Taliban chiếm được Kabul vào ngày 27 tháng 9 năm 1996 và thành lập Tiểu vương quốc Hồi giáo Afghanistan.
Mặt trận Đoàn kết hình thành. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Mặt trận Đoàn kết hình thành.
Ahmad Shah Massoud và Abdul Rashid Dostum là những kẻ thù cũ đã thành lập Mặt trận Đoàn kết (Liên minh phương Bắc) chống lại Taliban lúc này đang chuẩn bị cuộc tấn công chống lại các khu vực còn lại dưới sự kiểm soát của Massoud và những vùng dưới sự kiểm soát của Dostum. Mặt trận Đoàn kết gồm các lực lượng chủ yếu là người Tajikistan của Massoud và lực lượng người Uzbekistan của Dostum, quân đội sắc tộc Hazara do Haji Mohammad Mohaqiq lãnh đạo và quân đội sắc tộc Pashtun dưới sự lãnh đạo của các tướng lĩnh như Abdul Haq và Haji Abdul Qadir. Các chính trị gia và các nhà ngoại giao nổi tiếng của Mặt trận bao gồm Abdul Rahim Ghafoorzai, Abdullah Abdullah và Masood Khalili. Từ khi quân Taliban đánh chiếm thủ đô Kabul vào tháng 9 năm 1996 đến tháng 11 năm 2001 thì Mặt trận đã kiểm soát khoảng 30% dân số Afghanistan tại các tỉnh như Badakhshan, Kapisa, Takhar và các vùng của Parwan, Kunar, Nuristan, Laghman, Samangan, Kunduz, Ghōr và Bamyan.
Can thiệp quân sự của Pakistan.
Theo chuyên gia về Afghanistan của Pakistan Ahmed Rashid, "từ năm 1994 đến năm 1999, ước tính có khoảng 80.000 đến 100.000 người Pakistan được huấn luyện và chiến đấu tại Afghanistan" ở bên phe Taliban chống lại Liên minh phương Bắc. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Tính riêng năm 2001, theo một số nguồn tin quốc tế đã có khoảng 28.000-30.000 công dân Pakistan, 14.000-15.000 người Afghanistan theo Taliban và 2.000-3.000 chiến binh Al Qaeda đã chiến đấu chống lại lực lượng chống Taliban ở Afghanistan như một lực lượng quân sự khá mạnh lên tới 45.000 người. Tổng thống Pakistan Pervez Musharraf – sau là Tổng tham mưu trưởng quân đội – chịu trách nhiệm cho việc gửi hàng ngàn người Pakistan chiến đấu bên cạnh quân Taliban và Bin Laden chống lại các lực lượng của Ahmad Shah Massoud. Trong số khoảng 28.000 công dân Pakistan chiến đấu ở Afghanistan thì có 8.000 chiến binh được tuyển mộ từ các madrassa đã lấp đầy hàng ngũ lính chính quy của Taliban. Một tài liệu năm 1998 của Bộ Ngoại giao Mỹ xác nhận rằng "20-40 % [chính quy] lính Taliban là người Pakistan". Tài liệu này nói thêm rằng các bậc cha mẹ của những người dân Pakistan "không biết gì về sự dính líu quân sự của con em mình với Taliban cho đến khi thi thể của họ được mang về Pakistan". Theo báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ và các báo cáo của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền thì những công dân Pakistan khác chiến đấu ở Afghanistan là những binh sĩ chính quy nhất là từ Quân đoàn Biên giới mà còn từ quân đội cung cấp sự hỗ trợ chiến đấu trực tiếp. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Ngày 1 tháng 8 năm 1997, Taliban đã phát động một cuộc tấn công vào căn cứ quân sự chính Sheberghan của Abdul Rashid Dostum. Dostum đã cho biết lý do cuộc tấn công thành công là do sự tham gia của 1500 lính biệt kích Pakistan và sự yểm trợ của không quân Pakistan. Đến năm 1998, Iran cáo buộc Pakistan gửi lực lượng không quân ném bom Mazar-i-Sharif nhằm hỗ trợ quân Taliban và trực tiếp cáo buộc quân đội Pakistan vì "những tội ác chiến tranh ở Bamiyan". Cũng trong năm đó phía Nga cho biết, Pakistan chịu trách nhiệm về "sự bành trướng quân sự" của Taliban ở miền bắc Afghanistan bằng cách gửi một số lượng lớn quân đội Pakistan mà về sau bị Mặt trận Đoàn kết chống Taliban bắt làm tù binh. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Năm 2000, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã áp đặt một lệnh cấm vận vũ khí để chống lại sự hỗ trợ quân sự cho Taliban, rồi các quan chức Liên Hợp Quốc rõ ràng đã chọn Pakistan. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc ngầm chỉ trích Pakistan vì sự hỗ trợ quân sự của họ và Hội đồng Bảo an tuyên bố đó là "nỗi đau khổ tột cùng qua các báo cáo tham gia chiến đấu về phía Taliban của hàng ngàn công dân không phải Afghanistan". Vào tháng 7 năm 2001, một số nước trong đó có Hoa Kỳ đã cáo buộc Pakistan là "vi phạm lệnh trừng phạt của Liên Hợp Quốc vì viện trợ quân sự cho Taliban". Cùng năm đó, Tình báo Anh báo cáo rằng ISI đã đóng một vai trò tích cực ở một số trại huấn luyện của Al Qaeda. ISI còn giúp đỡ việc xây dựng các trại huấn luyện cho cả Taliban và Al Qaeda. Từ năm 1996 đến năm 2001, Al Qaeda của Osama Bin Laden và Ayman al-Zawahiri đã trở thành một nhà nước trong nhà nước Taliban. Bin Laden đã gửi các chiến binh Al-Qaeda gốc Ả Rập và Trung Á tham gia cuộc chiến chống lại Liên minh phương Bắc trong số đó có Lữ đoàn 055 của ông ta. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Ngay khi phe chống Taliban tiến quân đánh chiếm Kabul vào tháng 11 năm 2001, lực lượng ISI đã tổ chức hoạt động và thầm giúp lực lượng dân quân Taliban rút lui toàn diện. Trong tháng 11 năm 2001, Taliban, các chiến binh Al-Qaeda và đặc vụ ISI đã được sơ tán một cách an toàn từ Kunduz trên máy bay chở hàng của quân đội Pakistan tới các căn cứ Không quân Pakistan tại Chitral và Gilgit ở khu vực phía Bắc của Pakistan trong những cái được mệnh danh là "Cầu hàng không của Quỷ". Vai trò của quân đội Pakistan đã được các quan sát viên quốc tế cũng như của lãnh đạo chống Taliban Ahmad Shah Massoud mô tả như một vụ "xâm lược lén lút". Cuộc "xâm lược lén lút" đã chứng minh không thể đánh bại các lực lượng chống Taliban áp đảo nghiêm trọng.
Các vụ thảm sát của Taliban.
Theo một báo cáo dài 55 trang của Liên Hợp Quốc, thì trong khi Taliban cố gắng củng cố quyền kiểm soát phía bắc và tây Afghanistan đã thực hiện các vụ thảm sát có hệ thống nhằm vào dân thường. Các quan chức Liên Hợp Quốc nói rằng đã có "15 vụ thảm sát" từ năm 1996 đến 2001. Họ cũng nói rằng "chính là hệ thống ở mức độ cao và tất cả đều hướng về [Taliban] Bộ Quốc phòng hoặc là chính Mullah Omar". Cái gọi là Lữ đoàn 055 của al-Qaeda cũng chịu trách nhiệm cho hàng loạt vụ sát hại dân thường Afghanistan.<ref name="Ahmed Rashid/The Telegraph"></ref> Báo cáo của Liên Hợp Quốc trích dẫn các nhân chứng ở nhiều làng mô tả các chiến binh Ả Rập "mang dao dài dùng để rạch cổ họng và lột da người". | wiki |
Liên minh phương Bắc | Nhân tố Ahmad Shah Massoud.
Sau những trận chiến lâu đời nhất là đối với thành phố phía bắc Mazar-i-Sharif, Abdul Rashid Dostum và các lực lượng Junbish của ông cùng với quân đồng minh Hezb-e Wahdat đã bị Taliban và các đồng minh của họ đánh bại vào năm 1998. Dostum sau đó phải sống lưu vong. Ahmad Shah Massoud vẫn là lãnh đạo chống Taliban chủ yếu duy nhất bên trong Afghanistan đủ khả năng bảo vệ các vùng rộng lớn tại lãnh thổ của mình chống lại quân đội Pakistan, Taliban và Al-Qaeda.
Taliban liên tục cung cấp tiền bạc cho Massoud và hứa hẹn một vị trí quyền lực để buộc ông phải dừng cuộc kháng cự của mình. Nhưng Massoud đã từ chối. Ông giải thích trong một cuộc phỏng vấn: "Taliban có lần cử đại diện đến nói: "Hãy đến và chấp nhận chức vụ Thủ tướng và về với chúng tôi", và họ sẽ giữ chức vụ cao nhất trong cả nước là chức Tổng thống. Nhưng còn cái giá phải trả?! Sự khác biệt mà chúng tôi quan tâm đến chính là cách chúng ta suy nghĩ về nguyên tắc thực sự của xã hội và nhà nước. Chúng tôi không thể chấp nhận điều kiện thỏa hiệp của họ nếu không chúng tôi sẽ phải từ bỏ các nguyên tắc của nền dân chủ hiện đại. Chúng tôi chủ yếu chống đối hệ thống gọi là "Tiểu vương quốc Afghanistan"". "Đó phải là một nơi mà mọi người dân Afghanistan đều tìm thấy hạnh phúc của riêng mình. Và tôi nghĩ rằng đều này chỉ có thể được đảm bảo bởi nền dân chủ dựa trên sự đồng thuận". | wiki |
Liên minh phương Bắc | Massoud muốn thuyết phục Taliban tham gia vào một tiến trình chính trị hàng đầu đối với các cuộc bầu cử dân chủ trong một tương lai gần. Ông cũng nói: "Taliban không phải là một lực lượng được coi là bất khả chiến bại. Họ được tách từ những người bây giờ. Họ yếu hơn so với trong quá khứ. Chỉ có sự hỗ trợ của Pakistan, Osama bin Laden và các nhóm cực đoan khác mới giữ cho Taliban trụ được. Khi sự hỗ trợ bị ngưng lại thì họ rất khó mà tồn tại nổi". | wiki |
Liên minh phương Bắc | Vào đầu năm 2001 Liên minh phương Bắc đã triển khai một chiến lược mới là áp lực quân sự địa phương và kháng cáo chính trị toàn cầu. Sự bất bình ngày càng tăng dần để chống lại sự cai trị của Taliban từ dưới đáy xã hội Afghanistan bao gồm cả các khu vực của người Pashtun. Tổng cộng ước tính có khoảng một triệu người đã trốn khỏi Taliban. Nhiều thường dân đã bỏ chạy đến khu vực của Ahmad Shah Massoud. National Geographic đã kết luận trong tài liệu của mình "Bên trong Taliban": "Điều duy nhất cản trở các cuộc tàn sát của Taliban trong tương lai chính là Ahmad Shah Massoud". Trong khu vực dưới sự kiểm soát của Massoud đã thiết lập thể chế dân chủ và ký Tuyên bố Quyền của Phụ nữ. Đồng thời ông rất thận trọng để không lặp lại sự thất bại của chính phủ Kabul vào thập niên 1990. Ngay trong năm 1999, lãnh đạo Liên minh đã ra lệnh huấn luyện lực lượng cảnh sát đặc biệt để giữ gìn an ninh trật tự và bảo vệ dân thường trong trường hợp Mặt trận thành công. Vào đầu năm 2001, Ahmad Shah Massoud đã diễn thuyết trước Nghị viện châu Âu ở Brussels yêu cầu cộng đồng quốc tế cung cấp trợ giúp nhân đạo cho người dân Afghanistan. Ông nói rằng Taliban và Al Qaeda đã giới thiệu "một sự diễn giải sai lệch về Hồi giáo" và nếu không có sự hỗ trợ của Pakistan và Bin Laden thì Taliban sẽ không có khả năng duy trì chiến dịch quân sự của họ đến một năm. Trong chuyến viếng thăm sang châu Âu, Massoud cũng cảnh báo rằng cơ quan tình báo của ông đã thu thập được thông tin về một cuộc tấn công quy mô lớn sắp | wiki |
Liên minh phương Bắc | duy trì chiến dịch quân sự của họ đến một năm. Trong chuyến viếng thăm sang châu Âu, Massoud cũng cảnh báo rằng cơ quan tình báo của ông đã thu thập được thông tin về một cuộc tấn công quy mô lớn sắp xảy ra trên đất Mỹ. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Ngày 9 tháng 9 năm 2001, hai kẻ tấn công tự sát Ả Rập bị cáo buộc thuộc Al Qaeda, đã giả làm nhà báo và cho kích nổ một quả bom giấu trong một máy quay phim khi đang phỏng vấn Ahmed Shah Massoud tại tỉnh Takhar của Afghanistan. Tướng Massoud chết trên máy bay trực thăng khi được chở đến bệnh viện cấp cứu. Ông được chôn cất tại quê nhà của mình ở làng Bazarak trong thung lũng Panjshir. Đám tang mặc dù diễn ra trong một khu vực khá thôn quê nhưng có tới hàng trăm ngàn người tham dự và không ngừng than khóc.
Vụ ám sát Massoud được coi là có một sự liên kết mạnh mẽ đến sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 trên đất Mỹ đã giết chết gần 3.000 người và đó dường như là cuộc tấn công khủng bố mà Massoud đã cảnh báo trong bài phát biểu trước Nghị viện châu Âu vài tháng trước đó. John P. O'Neill từng là một chuyên gia chống khủng bố và trợ lý giám đốc FBI cho đến cuối năm 2001 thì về hưu, sau được đề nghị nhận vị trí giám đốc an ninh tại Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC). Ông đã làm việc tại WTC hai tuần trước ngày 11 tháng 9. Vào ngày 10 tháng 9 năm 2001, John O'Neill có nói với hai người bạn của mình rằng: "Đều do chúng ta. Và chúng ta sẽ phải gánh chịu một điều gì đó lớn lao... Một số chuyện đã xảy ra ở Afghanistan [đề cập đến vụ ám sát Massoud]. Tôi không thích cách mọi thứ đang được sắp đặt tại Afghanistan... tôi cảm nhận được một sự thay đổi và tôi nghĩ rằng mọi thứ sẽ sớm... xảy ra". John O'Neill đã thiệt mạng vào ngày 11 tháng 9 năm 2001 khi tòa tháp phía nam sụp đổ. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, quân Liên minh phương Bắc đã lật đổ chế độ Taliban ở Kabul với sự hỗ trợ của không quân Mỹ trong Chiến dịch Tự do Bền vững, sử dụng các báo cáo tình báo được cung cấp bởi Iran trong cuộc họp của Nhóm Sáu cộng Hai tại Trụ sở Liên Hợp Quốc. Vào tháng 11 và tháng 12 năm 2001, Liên minh đã giành quyền kiểm soát phần lớn đất nước và đóng một vai trò quan trọng trong việc thiết lập chính phủ lâm thời hậu Taliban của Hamid Karzai vào cuối năm 2001.
Sau sự kiện 11 tháng 9. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Sau sự kiện 11 tháng 9.
Sau vụ tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ vào năm 2001, Mặt trận đã thành công trong việc chiếm lại Kabul từ tay Taliban với sự yểm trợ của liên quân do Mỹ dẫn đầu trong chiến dịch Tự do Bền vững. Mặc dù lo ngại về sự trở lại của sự hỗn loạn tương tự như trong cuộc nội chiến 1992-1996, tất cả các nhà lãnh đạo Afghanistan đã gặp nhau tại Đức để tạo ra một chính phủ mới. Hamid Karzai được lựa chọn để lãnh đạo đất nước và hầu hết các vị trí chủ chốt đã được trao cho các thành viên người Tajikistan của Liên minh phương Bắc. Điều này tạo ra một vấn đề quốc tế lớn. Trong khi Pakistan đã luôn luôn ủng hộ nhóm dân tộc lớn của Afghanistan là người Pashtun, Ấn Độ đã nhìn thấy một cơ hội để gia tăng sức mạnh trong khu vực bằng cách nhảy vào cuộc chơi với sự ủng hộ của Liên minh phương Bắc trong những ngày đầu của cuộc chiến. Với cả hai quốc gia đang tìm cách tăng cường hoặc duy trì quyền lực trong khu vực của họ thông qua sự đối lập giữa các phe phái ở trên địa bàn, cuộc xung đột ở Afghanistan ngày càng được các nhà quan sát nhìn nhận như một miếng mồi béo bở giữa các cường quốc. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Từ năm 2002 đến năm 2004 đã chứng kiến sự yên tĩnh tương đối ở Afghanistan. Đến năm 2006 thì do sự hỗ trợ của Pakistan, sự nổi dậy của Taliban ngày càng đạt được sức mạnh. Vào năm 2010, Tổng thống Afghanistan Karzai quyết định rằng cách duy nhất để chấm dứt cuộc nổi dậy của Taliban là kêu gọi hòa bình. Tiến trình này vừa được chấp nhận và sự hỗ trợ từ tất cả các đối tác quốc tế của Afghanistan, ngoại trừ một vài nhân vật quan trọng của Liên minh phương Bắc như Abdullah Abdullah Ahmad Zia Massoud, Mohammad Mohaqiq và những người khác. Phe đối lập về sau bị phân tán thành nhiều đảng phái đã cảnh báo rằng chính sách nhân nhượng của Karzai có thể gây tổn hại đến sự phát triển chính trị và kinh tế của Afghanistan, cùng các tiến bộ đạt được trong các lĩnh vực như giáo dục và nữ quyền. Khi các nhà lãnh đạo đối lập bị NATO và chính quyền Karzai loại khỏi các cuộc đàm phán bí mật với Taliban và thuật hùng biện chính trị của Karzai đã phải điều chỉnh các yêu cầu ngày càng tăng của Taliban, các nhà lãnh đạo của Liên minh cũng tập hợp lại để phản đối sự trở lại của Taliban ở Afghanistan vào cuối năm 2011.
Cải cách.
Mặt trận Dân tộc Afghanistan được Ahmad Zia Massoud, Abdul Rashid Dostum và Mohammad Mohaqiq thành lập vào cuối năm 2011 để phản đối các cuộc đàm phán hòa bình với Taliban, thường được coi là một cải cách của cánh quân sự của Mặt trận. Trong khi đó, nhiều cánh chính trị đã hợp nhất dưới Liên minh Quốc gia Afghanistan do Abdullah Abdullah thành lập. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Cựu lãnh đạo của Cục An ninh Quốc gia (NDS), Amrullah Saleh đã lập ra một phong trào mới là Basej-i Milli với sự ủng hộ từ giới thanh niên. Nó huy động được khoảng 10.000 người trong một cuộc biểu tình chống Taliban tại thủ đô Kabul vào tháng 5 năm 2011. Người hùng Liên minh phương Bắc cũ là Mohammed Fahim, Phó Tổng thống Afghanistan vẫn còn trong một liên minh với Hamid Karzai.
Vấn đề nhân quyền (1997-2001).
Khu vực của Ahmad Shah Massoud.
Massoud kiểm soát khu vực Panjshir, một số vùng của tỉnh Parwan và Thakar. Một số vùng của Badakshan vẫn nằm dưới ảnh hưởng của ông trong khi số khác thì bị kiểm soát bởi Burhanuddin Rabbani vốn có một số tranh chấp với Massoud. Mặt khác, Badakshan còn là quê nhà của Rabbani. Massoud còn lập nên các tổ chức đã được cấu trúc thành một số ủy ban: chính trị, y tế, giáo dục và kinh tế. Phụ nữ và trẻ em trong khu vực của Massoud đều được phép làm việc và đi đến trường học, có ít nhất hai trường hợp đích thân Massoud đã can thiệp chống lại các trường hợp hôn nhân cưỡng ép. Phụ nữ cũng không phải mặc đồ burqa của Afghanistan. Bên cạnh đó thì Massoud còn tuyên bố chắc chắn rằng cả nam và nữ đều bình đẳng và nên tận hưởng những quyền như nhau, ông cũng phải đối phó với những truyền thống của Afghanistan mà ông nói sẽ cần một hoặc nhiều thế hệ nữa mới vượt qua được. Theo ý kiến của Massoud thì điều này chỉ có thể đạt được thông qua giáo dục. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Hàng trăm ngàn người Afghanistan đã bỏ chạy khỏi Taliban đến các khu vực do Massoud kiểm soát. Còn một vấn đề nhân đạo lớn nữa là không có đủ lương thực cho cả dân cư hiện có và những người di tản ở Afghanistan. Năm 2001, Massoud và một nhà báo Pháp đã mô tả tình hình cay đắng của người dân di tản và yêu cầu trợ giúp nhân đạo.
Khu vực của Abdul Rashid Dostum.
Cho đến khi Balkh bị Taliban chiếm được vào năm 1998, Abdul Rashid Dostum đã kiểm soát các tỉnh sau đây: Samangan, Balkh, Jowzjan, Faryab và Baghlan. Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã có nhiều vi phạm về luật pháp nhân đạo quốc tế được Liên minh phương Bắc cam kết có từ giai đoạn 1996-1998 khi Dostum kiểm soát hầu hết miền Bắc. | wiki |
Liên minh phương Bắc | Theo Tổ chức Theo dõi Nhân quyền vào năm 1997, khoảng 3.000 binh sĩ Taliban đã bị lực lượng Junbish của Dostum dưới sự chỉ huy của Abdul Malik Pahlawan bắt sống và hành quyết sơ sài ở quanh Mazar-i Sharif. Các vụ giết người sau khi Malik rút khỏi một liên minh ngắn với Taliban và việc bắt giữ lực lượng Taliban đang bị mắc kẹt trong thành phố. Đến khi Mỹ phát động cuộc chiến tranh chống khủng bố thì quân đội trung thành với Dostum cũng quay trở lại chiến đấu. Vào tháng 12 năm 2001, trong cuộc chiến Afghanistan, khoảng 250 đến 3.000 (tùy thuộc vào từng nguồn tài liệu) tù nhân Taliban bị bắn hoặc chết ngạt trong thùng xe tải bằng kim loại. Các tù nhân đã thiệt mạng trong khi được chuyển từ Kunduz tới Sheberghan. Sự cố này được gọi là cuộc thảm sát Dasht-i-Leili và đã bị Dostum bác bỏ cáo buộc này vào năm 2009.
Dostum thuộc về những người chỉ huy tự làm theo ý mình về mặt luật pháp thường hà khắc. Tổ chức Quan sát Nhân quyền đã phát hành các tài liệu cáo buộc tội phạm phổ biến rộng rãi nhằm mục tiêu chống lại dân thường. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã yêu cầu can ngăn tích cực và từ chối ủng hộ bất kỳ cách nào cho bất kỳ nhóm hoặc liên minh bao gồm các viên chỉ huy với một hồ sơ vi phạm nghiêm trọng các tiêu chuẩn pháp luật nhân đạo quốc tế, nhất là cái tên Abdul Rashid Dostum; Haji Muhammad Muhaqqiq, một chỉ huy cấp cao của Hezb-i Wahdat; Abdul Rasul Sayyaf, lãnh đạo của nhóm Ittihad-i Islami xưa kia và Abdul Malik Pahlawan, một cựu chỉ huy cấp cao của Junbish. | wiki |
Girls_ Generation-TTS | Girls' Generation-TTS (Hangul: 소녀시대-태티서), còn được biết đến với các tên gọi TTS hoặc TaeTiSeo) là nhóm nhỏ chính thức đầu tiên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation. Được SM Entertainment thành lập vào năm 2012, nhóm gồm ba thành viên gồm Taeyeon, Tiffany và Seohyun. Nhóm đã phát hành ba mini-album: "Twinkle" (2012), "Holler" (2014) và "Dear Santa" (2015).
Lịch sử.
Trước khi thông báo của nhóm vào tháng 4 năm 2012, cả ba thành viên của Girls' Generation đã cùng làm MC cho chương trình ca nhạc của Hàn Quốc là Music Core từ tháng 2 năm ngoái, Tiffany cũng từng là MC trong chương trình này từ năm 2009.Tháng 4/2013 do vướng lịch hoạt động ở Nhật nên TTS đã phải ngừng làm MC cho chương trình ca nhạc này | wiki |
Girls_ Generation-TTS | Ngày 19 Tháng 4 năm 2012, SM Entertainment chính thức công bố nhóm phụ này, nêu rõ bài phát biểu họ rằng nhóm phụ này có thể thu hút người hâm mộ trên tất cả các khía cạnh âm nhạc, các màn trình diễn và phong cách thời trang. Ngoài ra họ còn tiết lộ ý định có khả năng trong tương lai sẽ có sự thay đổi thành viên để tạo thêm các nhóm nhỏ khác mới. Tên nhóm "TaeTiSeo" đặt theo viết tắt ba âm tiết đầu các thành viên trong nhóm là Taeyeon, Tiffany, và Seohyun. Tên này có các chữ "T" và "S", có âm thanh riêng biệt, cho mọi người cảm nhận âm cảm mạnh mẽ của nhóm và cũng cho phép những người hâm mộ nhận ra các thành viên ngay lập tức. Nhóm nhỏ xuất hiện với sự khác biệt so với nhóm chính, với sự tập trung chuyển hướng tới giọng hát, chứ không phải là các vũ đạo đồng bộ nhóm như trong Girls' Generation, cũng như lựa chọn thời trang độc đáo hơn.
2012: Ra mắt với Twinkle. | wiki |
Girls_ Generation-TTS | 2012: Ra mắt với Twinkle.
EP đầu tay của nhóm, Twinkle đã được phát hành vào giữa đêm (giờ Hàn Quốc) vào ngày 29 tháng 4 năm 2012 tại iTunes Store trên toàn thế giới. MV ra mắt một ngày sau đó đã chạm mốc 10 triệu lượt xem trên YouTube ngay trong tuần đầu tiên. Mini-album cùng tên được phát hành dưới dạng nhạc số vào ngày 30 tháng 4 và dưới dạng album vật lý vào ngày 02 tháng 5. Album cũng như ca khúc chủ đề ngay sau khi phát hành đã triệt hạ các bảng xếp hạng lớn nhỏ tại Hàn Quốc, cũng như đạt được thứ hạng rất cao trên bảng xếp hạng iTunes Album của các nước như Mỹ, Nhật Bản, Canada, Úc, Anh, Tây Ban Nha... Ngày 03 tháng 5, TTS bắt đầu quảng bá album trên các show âm nhạc tuần. Họ là nhóm nhỏ đầu tiên giành "triple crown" trên các show âm nhạc Hàn Quốc, vững vàng với vị trí số 1 xuyên suốt 3 tuần quảng bá. Cùng lúc đó, "Holler" trở thành album có vị trí cao nhất từ trước đến nay của một nghệ sĩ Hàn Quốc trên U.S Itunes và Billboard charts, hạ cánh tại vị trí 126 trên bảng xếp hạng Billboard 200 (kỉ lục này đã bị phá). Ca khúc có hơn 2.520.485 lượt download trong tháng bảy tại Hàn Quốc, đồng thời album cũng bán được hơn 144.000 bản trong nước và 28.000 bản ở nước ngoài.
2014: Holler. | wiki |
Girls_ Generation-TTS | Sau màn trình diễn tại Blue One Dream Festival vào tháng bảy, nhóm thông báo sẽ quay trở lại với mini-album thứ hai sau hơn 2 năm vắng bóng. Album được phát hành dưới dạng nhạc số vào ngày 16 tháng 9 và dưới dạng album vật lý vào ngày 18 tháng 9. Ngay khi vừa ra mắt, "Holler" đã chiếm vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng âm nhạc của Hàn Quốc và Châu Á, chen chân vào Billboard World Albums. Thành tích này giúp TTS trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc thứ ba và là nghệ sĩ nữ đầu tiên có nhiều hơn một lần No. 1 tại bảng xếp hạng uy tín này. Lần đầu tiên học giành vị trí số 1 là với mini-album đầu tay "Holler". Trong cuộc phỏng vấn với Billboard, ba cô nàng chia sẻ, "Chúng tôi rất vui khi thực hiện album này bởi các thành viên đều tự chọn lựa ca khúc để đưa vào. Chúng tôi đã cùng ngồi với ê kíp sản xuất và họ đưa ra một loạt các ca khúc, sau đó mọi người thi nhau chọn “Không… tôi muốn bài này! Chúng tôi muốn nó!”. Từ video cho tới cách thể hiện các ca khúc đều mang đậm dấu ấn cá nhân, vì thế thật vui khi có thể mang đến một khía cạnh âm nhạc khác của nhóm mà các bạn chưa biết. Tôi nghĩ tất cả các ca khúc của SNSD đều được đầu tư hơn trước, dễ thương và giàu năng lượng hơn. Âm nhạc của chúng tôi luôn được trau chuốt kỹ càng, sâu sắc và nhiều tầng lớp hơn." Song song với quá trình quảng bá ca khúc, học đã cùng nhau xuất hiện trong show thực tế The TaeTiSeo. Chương trình làm nổi bật lên những khía cạnh khác nhau của Taeyeon, Tiffany, Seohyun, tiết lộ cuộc sống hàng ngày và thói quen của nhóm | wiki |
Girls_ Generation-TTS | học đã cùng nhau xuất hiện trong show thực tế The TaeTiSeo. Chương trình làm nổi bật lên những khía cạnh khác nhau của Taeyeon, Tiffany, Seohyun, tiết lộ cuộc sống hàng ngày và thói quen của nhóm mỗi khi rảnh rỗi. Một số phân đoạn hậu trường MV "Holler" cũng được hé lộ thông qua chương trình. | wiki |
Girls_ Generation-TTS | 2015: Dear Santa.
Sau màn thành công hoành tráng của Girls' Generation với 3 ca khúc Party, Lion Heart và You Think, TTS thông báo sẽ comeback với album Dear Santa và ca khúc chủ đề cùng tên. MV Dear Santa đạt cột mốc 1 triệu lượt xem sau 1 ngày ra mắt. Nhóm cũng đã tung ra phiên bản tiếng Anh cho MV và nhận được sự ủng hộ của nhiều người. Album Dear Santa sau khi phát hành đạt vị trí thứ hai của bảng xếp hạng Gaon Albums (Hàn Quốc) và được bán với hơn 60,456 bản cùng ngày. Seohyun viết lời cho "Dear Santa". Với mong muốn đưa giáo dục âm nhạc vào các trường học ở Châu Á, TTS đã giành một phần doanh thu bán album cho một tổ chức từ thiện mang tên "SMile for U", một chiến dịch của SM Entertainment và UNICEF.
2017: Tạm dừng hoạt động - Hướng đi riêng của từng thành viên.
Nhóm tạm dừng hoạt động vào năm 2017 sau khi hai thành viên Tiffany và Seohyun rời công ty SM Entertainment. Taeyeon sẽ tiếp tục quảng bá với tư cách thành viên của Girls' Generation, Tiffany gia nhập công ty Paradigm Talent còn Seohyun sẽ tập trung sự nghiệp diễn xuất. Ngoài ra vào ngày 14 tháng 3 năm 2018, Tiffany ra mắt video cover bài hát OST "Remember Me" của tác phẩm điện ảnh nổi tiếng: Coco (2017) | wiki |
Hiệp hội Phát triển Quốc tế | Hiệp hội Phát triển Quốc tế
Hiệp hội Phát triển Quốc tế, viết tắt theo tiếng Anh là IDA (International Development Association), theo tiếng Pháp là AID (Association internationale de développement), là một "tổ chức phi chính phủ phi lợi nhuận quốc tế" hoạt động trong lĩnh vực cung cấp hỗ trợ tài chính cho các quốc gia nghèo nhất thế giới, và các quốc gia đang phát triển có độ tín nhiệm thấp.
Hiệp hội Phát triển Quốc tế được thành lập năm 1960. Hiệp hội Phát triển Quốc tế có trụ sở tại Washington, D.C., .
IDA là thành viên quốc gia của Nhóm Ngân hàng Thế giới. | wiki |
Touria Chaoui | Touria Chaoui
Touria Chaoui (tiếng ả rập: ثريا الشاوي; Ngày 14 tháng 12 năm 1936, Fes, Maroc–Ngày 1 tháng 3 năm 1956
) là nữ phi công Ma-rốc đầu tiên. Cô là phi công Ả Rập thứ hai sau Lotfia Elnadi, một người Ai Cập.
Cuộc đời.
Chaoui sinh ngày 14 tháng 12 năm 1936, cha cô, Abdelwahed Chaoui, một giám đốc nhà hát, mẹ cô, Zina, cả hai đều là người Maroc. Cô có một người anh trai, tên Salah Chaoui là một nghệ sĩ nổi tiếng định cư ở Vichy, Pháp. Năm 1948, cả gia đình Touria chuyển từ Fes đến Casablanca để bắt đầu một cuộc sống mới.
Sự nghiệp.
Cha của Touria ghi danh cô
vào một trường học hàng không có trụ sở tại Tit Mellil, Ma-rốc năm 1950. Trường hàng không dành riêng cho lực lượng Pháp chiếm đóng Ma-rốc, rất ít có cơ hội cho người gốc Ma-rốc, đặc biệt phụ nữ. Việc ghi danh của cô đã bị nhà trường phản đối và ngăn cản cô tham gia vào chương trình hàng không. Vì luật pháp không ngăn cấm, nhà trường miễn cưỡng chấp nhận đơn của cô với hy vọng cô sẽ sớm từ bỏ
Bất chấp hoàn cảnh, sau một năm quyết tâm học tập, Touria nhận được chứng chỉ hàng không ở độ tuổi 15.
Chết.
Touria Chaoui chết ngày 1 tháng 3 năm 1956 ở độ tuổi 19 khi bắt đầu chuyến bay bằng phi cơ riêng. Nguyên nhân cái chết vẫn còn là một bí ẩn. | wiki |
Công đồng Ephesus | Công đồng Êphêsô là công đồng chung thứ ba của Kitô giáo.
Vào thế kỷ thứ 5 Nestorio, giáo chủ Constantinopolis chủ trương rằng: ""Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa Giêsu, nên không phải là Mẹ Thiên Chúa". Công đồng được hoàng đế Theodosius II triệu tập vào năm 431 để giải quyết cuộc tranh luật.
Cyrillô, giáo chủ thành Alexandria chủ toạ công đồng gồm khoảng 250 Giám mục Đông phương, một Giám mục Tây phương và một phó tế thành Carthage cùng với ba đặc sứ của Giáo hoàng Cêlestinô I. Mặc dù có sự phản kháng của 68 Giám mục ủng hộ lập trường của Nestorio và sự ngăn cản của đại diện hoàng đế, công đồng vẫn khai mạc ngày 22 tháng 6 năm 431.Công đồng xác định Chúa Giêsu có hai bản tính nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là Thiên Chúa. Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu nên mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa.
Bối cảnh.
Chính trị.
Thời kỳ này giáo chủ của Alexandria và Constantinopolis thường đối lập nhau.
Giám mục xứ Ai Cập được nhiều người tôn sùng như là: "Giáo hoàng thành Alexandria"". Vốn có uy thế từ lâu và một nguồn tài chính dồi dào, uy thế của giáo chủ Alexandria rất lớn cả hoàng đế cũng phải khiêng nể. Ngoài ra còn có cả một đạo binh lớn gồm các "khổ tu sĩ trên sa mạc" cùng những nhà hộ giáo.
Còn Giám mục Constantinopoli lại thường là những nhà giảng thuyết lừng danh, được chính quyền bao gồm cả hoàng đế kính nể, và dành cho nhiều quyền lợi. | wiki |
Công đồng Ephesus | Còn Giám mục Constantinopoli lại thường là những nhà giảng thuyết lừng danh, được chính quyền bao gồm cả hoàng đế kính nể, và dành cho nhiều quyền lợi.
Đứng giữa Constantinopoli và Alexandria là Giám mục thành Antiokia và các Giám mục xứ Syria, Pont và Tiểu Á. Còn Rôma lúc này đang nằm trong đế quốc Tây phương thường không rành các tác phẩm thần học bằng tiếng Hy Lạp của Đông phương. Giám mục ở Rôma cũng có nhiều liên hệ với Alexandria hơn là với Constantinopoli, trong khi nhiều Giám mục ở Constantinopoli muốn xóa bỏ quyền thừa kế thiêng liêng của "Roma đệ nhất".
Thần học.
Sau khi những tranh luận về Chúa Ba Ngôi kết thúc ở Công đồng Constantinopolis I. Các tranh luận lại nổ ra xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể, việc kết hợp giữa thiên tính Ngôi Lời và con người Đức Giêsu. Ngôi Lời vĩnh cửu còn Đức Giêsu được sinh ra, chịu chết.
Do đó nổi lên hai khuynh hướng thần học. Tại Alexandria: người ta khởi từ Ngôi Lời, nhấn mạnh sự duy nhất nơi Đức Kitô. Đức Kitô là Ngôi Lời mang xác phàm, đó là điều kiện để con người được thần hóa (lược đồ Ngôi Lời - Xác). Tại Antiokia: người ta nhấn mạnh về hai phương diện nơi Đức Kitô, khởi từ hai bản tính để đi đến thống nhất. Họ cố bảo vệ trọn vẹn nhân tính Đức Giêsu (lược đồ Ngôi Lời - Người). | wiki |
Công đồng Ephesus | Hai quan điểm trên đưa đến cuộc tranh luận giữa Cyrillo Giám mục Alexandria và Nestorio Giám mục của Constantinopoli. Nestorio chủ trương Chúa Kitô (s. bởi bà Maria) chỉ là một người được phúc tiền định mặc Thiên tính trở nên "Đền thờ" của Ngôi Lời (2 ngôi vị). Khoảng năm 424, Nestorio cấm các tín hữu khẩn cầu Đức Maria như Théotokos, nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Theo ông, Kinh Thánh không có hạn từ này và Đức Maria chỉ là Mẹ của nhân vật Giêsu.
Ngược lại, Cyrillo muốn bảo vệ sự duy nhất nơi Đức Kitô. Ông bênh vực Đức Kitô gần như chỉ có một bản tính. Cyrillo liên lạc với Giáo hoàng Cêlestinô I kết án Nestorio. Ông yêu cầu Nestorio ký vào bản văn xác định nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời và Con người kết hợp thành một. Còn Nestorio liền nhờ bạn hữu ở Antiokia là các Giám mục Gioan và Theodoret tố cáo Cyrillo theo lạc thuyết Appolinarius.
Công đồng.
Triệu tập và chủ tọa.
Hoàng đế Theodosius II triệu tập Công đồng để giải quyết cuộc tranh luận. Thời gian và địa điểm được ấn định vào tháng 6 năm 431 tại Êphêsô. Ông yêu cầu các tỉnh đều cử đại biểu. Thánh Augustino cũng được mời, nhưng qua đời trước khi đến công đồng.
Ngay sau Lễ phục sinh, Nestorio đã đến địa điểm họp cùng với đông đảo dân chúng, tại đây ông gặp gỡ nhiều Giám mục khác để tranh thủ sự ủng hộ. Còn Cyrillo thì đến khoảng Lễ hiện xuống (40 ngày say) mới đến. Juvénal, Giám mục Giêrusalem đến sau Lễ Hiện xuống năm ngày. Giám mục Antiokia là Gioan cố tình trì hoãn chuyến đi. | wiki |
Công đồng Ephesus | Cyrillo được Giám mục Rôma ủy quyền chủ tọa công đồng, cùng với 50 Giám mục vùng Ai Cập, 110 vị ở Palestina và Tiểu Á, đã quyết định khai mạc công đồng khi các Giám mục vùng Antiokia và Syria chưa kịp đến, mặc cho đại diện của hoàng đế và 60 Giám mục còn lại yêu cầu hoãn cuộc họp.
Nội dung.
Mở đầu cuộc tranh luận, Cyrillo dùng lời lẽ mạnh mẽ để làm rối trí đối thủ Nestorio. Nestorio nói với Cyrillo: "Tôi không thể gọi con người đã từng là đứa trẻ hai ba tháng là Thiên Chúa, vì vậy tôi vô tội về máu của ngài, từ nay tôi không họp chung với ngài nữa".
Công đồng chia làm hai phe. Nestorio họp riêng với các Giám mục theo khuynh hướng của ông.
Các Giám mục còn lại tiếp tục họp công đồng với Cyrillo và đòi Nestorio phải ra tòa xét xử. Nestorio trì hoãn không đến. Cyrillo và các vị khác xem xét các bài giảng của Nestorio và đưa ra phán quyết là chúng có nội dung nghịch đạo và chống báng Chúa Kitô. Ngay lập tức nhóm của Cyrillo tuyên bố cách chức Nestorio vắng mặt, cùng 12 mệnh đề bị kết án: "Vì Chúa Giêsu Kitô bị Nestôriô xỉ nhục, Thánh Công Đồng này đã tuyên bố Nestôriô bị loại trừ khỏi chức phẩm Giám mục và khỏi mọi hiệp thông linh mục" . | wiki |
Công đồng Ephesus | Đồng thời các nghị phụ công nhận từ ngữ Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) là chính đáng: "Nếu ai không tuyên xưng Emmanuel là Thiên Chúa thật, và do đó Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ sinh ra xác phàm của Ngôi Lời nhập thể, thì mắc vạ tuyệt thông". Công Đồng lên án những ai muốn tách rời, phân chia Đức Kitô, chỉ coi con người của Ngài mới sinh ra, mới chịu chết cho chúng ta, còn chính Ngài là Con Thiên Chúa thì không. Như vậy, chỉ có một Thiên Chúa và một con người kề sát nhau, chứ không phải là một Đấng duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Con của Đức Mẹ.
Quyết định của công đồng được đưa ra nhanh đến độ các đại diện của Roma không kịp tới, tuy các vị này đến sau đã chấp nhận việc làm của công đồng. Riêng các nghị phụ xứ Syria khi tới nơi đã phản đối việc cách chức Nestorius, phủ nhận lối trình bày của Cyrillô, cho rằng có những từ ngữ quá đáng hoặc không chỉnh.
Ngược lại các Giám mục thuộc phe Nestorio trong phiên họp riêng cũng tuyên bố kết án Cyrillo và Giám mục Êpheso là Memmon. Khi đó Giám mục Gioan thành Antiokia mới đến dự công đồng. Ông trách Cyrillo đã gây nên xáo trộn vì hấp tấp và tuyên bố cách chức Cyrillo. Đối lại, Cyrillo và Giám mục Juvénal cũng tuyên bố cách chức Gioan.
Cuộc hỗn độn khiến cho người ta không rõ ai trong các Giám mục ai không bị kết án nữa. Đại diện của hoàng đế liền ra lệnh bắt cả hai, Cyrillo trốn kịp, được dân Alexandria tiếp đón. Còn Nestorio bị lưu đày và qua đời tại Lybia.
Tác động. | wiki |
Công đồng Ephesus | Tác động.
Công đồng Êphêsô bênh vực Đức Kitô duy nhất. Không còn ai tranh cãi về "Mẹ Thiên Chúa". Dân chúng biểu lộ niềm hân hoan và chúc mừng Công đồng bằng cuộc rước đuốc vĩ đại đêm 22 tháng 6 tung hô Mẹ Thiên Chúa. Kinh: "Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội" đã được soạn ra trong dịp này. Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đã đặt nền tảng cho việc tôn sùng Đức Maria ở cả Đông và Tây phương.
Tuy vậy, các Giám mục Tiểu Á không chấp nhận lối trình bày của Cyrillo và cho rằng nhiều từ ngữ chưa chỉnh. Năm 433, do tác động của Giám mục Gioan thành Antiokia, một công thức mới được đưa ra: "Có sự hợp nhất của hai bản tính (...) và vì sự hợp nhất này, chúng tôi tuyên xưng Đức Nữ Trinh là Mẹ Thiên Chúa". Công thức này sau đó được Cyrillo chấp nhận và Giáo hoàng Xíttô II phê chuẩn. | wiki |
Operation Greenhouse | Operation Greenhouse là chuỗi chiến dịch nhằm thử nghiệm vũ khí hạt nhân thứ 5 của Mỹ, và là lần thử nghiệm thứ 2 trong năm 1951, lần đầu tiên thử nghiệm các nguyên lý cơ bản cho việc phát triển vũ khí nhiệt hạch. Được tiến hành tại Khu vực thử nghiệm hạt nhân Thái Bình Dương, trên Đảo san hô vòng Enewetak, vũ khí hạt nhân theo đó được gắn trên một tháp lớn bằng thép, nhằm mô phỏng một vụ nổ trong không trung. Lần thử nghiệm hạt nhân này diễn ra sau Operation Ranger và tiếp theo là Operation Buster-Jangle.
Operation Greenhouse là lần đầu tiên thử nghiệm thiết kế vũ khí hạt nhân mới. Thiết kế mới có kích thước, trọng lượng nhỏ hơn, và quan trọng nhất là giảm lượng vật liệu phân hạch, trong khi tăng đương lượng nổ của bom. Với việc Liên Xô thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên trước đó 1 năm rưỡi, Hoa Kỳ buộc phải phát triển thiết kế bom hạt nhân mới dù nó chưa được kiểm chứng. Do đó thành công trong cuộc thử nghiệm Operation Greenhouse là rất quan trọng, nhờ đó Mỹ có thể tiếp tục phát triển vũ khí nhiệt hạch.
Các kỹ sư đã xây một loạt các công trình bao gồm tòa nhà, bunker, nhà máy trên đảo Mujinkarikku nhằm thử nghiệm hiệu quả của vũ khí. | wiki |
Operation Greenhouse | Các kỹ sư đã xây một loạt các công trình bao gồm tòa nhà, bunker, nhà máy trên đảo Mujinkarikku nhằm thử nghiệm hiệu quả của vũ khí.
Vụ nổ hạt nhân "George" là vụ nổ hạt nhân nhiệt hạch đầu tiên trên thế giới, nó chỉ mang tính thử nghiệm, và không thể trở thành vũ khí. Nó có thiết kế dạng hình xuyến, với một lượng nhỏ đồng vị của Hydro lỏng (deuterium và tritium) đặt ở tâm. Lượng năng lượng từ phản ứng tổng hợp nhiệt hạch của quả bom không đáng kể so với năng lượng từ phản ứng phân hạch. Tuy nhiên nó đã đóng vai trò quan trọng trong Lịch sử thiết kế bom nhiệt hạch Teller–Ulam. Vụ nổ hạt nhân George đã sản sinh ra một đám mây Wilson hình chuông gần đỉnh của đám mây hình nấm.
Vụ nổ hạt nhân "George" đã trở thành tiền đề cho vụ thử bom nhiệt hạch quy mô lớn đầu tiên, "Ivy Mike", được diễn ra 1 năm sau đó, vào ngày 1/11/1952, trên Đảo san hô vòng Enewetak. | wiki |
Bidar Alam | Bidar Alam là một làng ("nagari") ở Sangir Jujuan, Nam Solok, thuộc tỉnh Tây Sumatra của Indonesia, với dân số hơn 3.000 người. Nơi đây được biết đến là trụ sở của trong một thời gian ngắn vào năm 1949.
Địa lý.
Bidar Alam nằm cách vị trí trung tâm tại Padang Aro khoảng . Nó là một trong năm làng ở Sangir Jujuan, và được chia nhỏ thành bảy "Jorong" (xóm). Nằm trong dãy núi Barisan, sông Batang Sangir chảy qua ngôi làng.
Nhân khẩu.
Bidar Alam có dân số 3.339 người vào năm 2019 theo Cục Thống kê Indonesia, chiếm 799 hộ gia đình.
Lịch sử.
Cuối năm 1948 và đầu năm 1949, Chính phủ Khẩn cấp Cộng hòa Indonesia (PDRI) chuyển vào nội địa để trốn tránh sự truy đuổi của Hà Lan, bắt đầu từ thành phố Bukittinggi, sau đó đến Payakumbuh, trước khi rời khỏi các vùng định cư đô thị. Đến ngày 9 tháng 1 năm 1949, một trong các nhóm, do người lãnh đạo PDRI Sjafruddin Prawiranegara dẫn đầu, đã đến Bidar Alam và hoãn lại kế hoạch tiến xa hơn về phía Pekanbaru do những bước tiến của Hà Lan. Cư dân địa phương thường hỗ trợ PDRI và cung cấp chỗ ở và thực phẩm cho các quan chức chính phủ. Được sự ủng hộ của Không quân Indonesia, PDRI thiết lập một trạm phát thanh lưu động tại thị trấn để liên lạc với thế giới bên ngoài. Ngôi nhà của một dân làng (ngày nay được biết với tên là Nhà Jama) được Sjafruddin sử dụng và dùng làm địa điểm in tiền tệ của PDRI. | wiki |
Bidar Alam | Sự an toàn tương đối tại ngôi làng cho phép PDRI liên lạc với các chiến binh du kích ở Java và củng cố một chính phủ lâm thời. PDRI vẫn ở Bidar Alam cho đến cuối tháng 4 năm 1949, khi họ chuyển đi một lần nữa sau tin tức về các cuộc đàm phán giữa Hà Lan và Indonesia. So với các thị trấn và làng khác mà PDRI đặt trụ sở, Bidar Alam là nơi lâu dài nhất trong vòng 3,5 tháng. Một bia tưởng niệm nhỏ trong làng kỷ niệm sự hiện diện PDRI ở đó.
Kinh tế.
Gạo, cà phê và cao su được trồng trọt khắp làng. Nó có thể đi đến những địa điểm khác trong khu và huyện bằng đường bộ, và có loạt phòng khám puskesmas duy nhất ở Sangir Jujuan. | wiki |
Văn hóa người hâm mộ ở Hàn Quốc | Tại Hàn Quốc, văn hóa người hâm mộ được hình thành trên quy mô lớn xung quanh các chủ đề về thần tượng K-pop và anime Nhật Bản. Cộng đồng những người hâm mộ này hậu thuẫn cho một thị trường rộng lớn những kỷ vật của fan hâm mộ cả chính thức lẫn không chính thức. Cộng đồng người hâm mộ ở Hàn Quốc hiện đã được nhìn nhận như một nền văn hóa chính thống chứ không còn là tiểu văn hóa nữa.
Người hâm mộ K-pop.
Văn hóa người hâm mộ chỉ đến hiện tượng những người tình nguyện lựa chọn một người nổi tiếng, một thiên anh hùng ca hay một thể loại cụ thể nào đó rồi cùng nhau tạo nên thứ văn hóa"hoan nghênh"đặc thù.
Văn hóa người hâm mộ của các thần tượng nhạc pop Hàn Quốc khởi đầu từ thập niên 1970 với các ca sĩ Nam Jin và Nahuna. Năm 1980, nam ca sĩ Cho Yong-pil xuất hiện trước công chúng khán giả, mở ra nền văn hóa fan girl (người hâm mộ nữ). Văn hóa người hâm mộ bắt đầu trở nên phổ biến trong suốt những năm đầu thập niên 1980 và tiếp tục phát triển nhanh chóng khi bước sang thập kỷ 1990 với sự nổi lên của Seo Taiji như một thần tượng tuổi teen. Cộng đồng fan nữ ngày càng nổi bật hơn trên các ấn phẩm báo chí sau khi nhóm Seo Taijiwa aideul rút lui khỏi giới giải trí vào cuối những năm 1990, và họ được mô tả là những thiếu nữ dành trọn cuộc sống hàng ngày chỉ để theo dõi, ngắm nhìn hay ngưỡng mộ một ngôi sao thần tượng. | wiki |
Văn hóa người hâm mộ ở Hàn Quốc | Khoảng năm 2000, nhiều câu lạc bộ người hâm mộ (fan club) ra đời và nền văn hóa giới trẻ của Hàn Quốc đã trở thành một chủ đề trong nghiên cứu học thuật. Nhiều người Hàn Quốc truyền thống lên tiếng phản đối cái gọi là cộng đồng người hâm mộ đầy nhiệt huyết, và những nghiên cứu sớm nhất về chủ đề này đều mang tính tiêu cực. Lý do hợp lý cho sự phổ biến này đó là, văn hóa hâm mộ thần tượng là một thứ điên cuồng, mất trí của những người trẻ nổi loạn.
Thời gian đầu, các thần tượng K-pop được quảng bá với hành động và ngoại hình trong sáng. Bằng việc cấm xăm hình, đeo khuyên tai đối với các nam thần tượng và nói không với phong cách vũ đạo khiếm nhã, táo bạo. Hình ảnh các thần tượng là chuẩn hiện đại dành cho giới trẻ Hàn Quốc và đủ ngưỡng được người lớn ủng hộ.
Cộng đồng người hâm mộ toàn cầu. | wiki |
Văn hóa người hâm mộ ở Hàn Quốc | Cộng đồng người hâm mộ toàn cầu.
Nhiều cộng đồng người hâm mộ K-pop nằm ở bên ngoài lãnh thổ Hàn Quốc như một phần của hiện tượng mang tên "làn sóng Hallyu 2.0", đặc trưng với sự mở rộng của Làn sóng Hàn Quốc vươn ra thị trường toàn cầu, đặc biệt là phương Tây, cũng như phần lớn được quy cho sự phát triển và sử dụng các phương tiện truyền thông mạng xã hội của người hâm mộ lẫn người tiêu thụ sản phẩm K-pop. Do những cách trở về mặt địa lý nên những fan thuộc về cộng đồng người hâm mộ toàn cầu quay về mạng xã hội như một nền tảng để tiêu thụ nhạc K-pop cũng như là mạng lưới để kết nối với những fan hâm mộ khác nhằm tiến tới việc tổ chức các hoạt động, phân phối các sản phẩm của fan ví dụ như: các video nhảy cover, fan fic và đặt hàng theo nhóm để mua các sản phẩm âm nhạc K-pop.
Người hâm mộ phim hoạt hình.
Comic World Seoul là một lễ hội có quy mô lớn dành cho cộng đồng người hâm mộ phim hoạt hình và được xem là một trong những hội chợ anime lớn nhất thế giới. Một số fan hâm mộ tham gia cosplay (hóa trang) trước công chúng trong tạo hình các nhân vật ưa thích của họ. Các nghệ sĩ nghiệp dư có thể trưng bày tác phẩm của mình, và người tham dự có thể gặp gỡ những diễn viên và nghệ sĩ lồng tiếng. Một lượng lớn fan hâm mộ phim hoạt hình người Hàn Quốc là xuất phát từ phim hoạt hình Nhật Bản, bởi vì nhiều thể loại của nó đáp ứng được các sở thích đa dạng của người hâm mộ. | wiki |
Sepp Blatter | Joseph S. Blatter (sinh ngày 10 tháng 3 năm 1936) là nhà quản lý bóng đá người Thụy Sĩ. Ông từng giữ chức chủ tịch FIFA thứ 8 từ năm 1998 đến 2015. Ông hiện đang bị FIFA cấm tham gia các hoạt động bóng đá trong 6 năm do liên quan đến vụ tham nhũng và rửa tiền gây rúng động dư luận bóng đá thế giới.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Blatter sinh ra ở Visp, thuộc bang Valais, Thụy Sĩ. Ông học ở trường Sion, Thụy Sĩ trước khi có bằng cử nhân kinh doanh và kinh tế từ Đại học Lausanne năm 1959.
Sự nghiệp của Blatter có một lịch sử lâu dài và đa dạng bao gồm các vị trí như là Trưởng phòng quan hệ công chúng tại Ban du lịch Valaisan thuộc quê hương Thụy Sĩ của ông, cũng như làm Tổng thư ký Liên đoàn Hockey băng Thụy Sĩ. Ông từng làm giám đốc của phòng Thể thao bấm giờ và quan hệ đối tác của công ty Longines S.A. và đã tham gia vào tổ chức Thế vận hội các năm 1972 và 1976. Đầu thập niên 1970, Blatter được bầu làm chủ tịch của World Society of Friends of Suspenders, một tổ chức cố gắng ngăn cản phụ nữ thay thế đai treo () bằng . | wiki |
Sepp Blatter | Vào mùa hè 1975, Blatter, theo sáng kiến của Horst Dassler, sau này là tổng giám đốc của Adidas, làm việc như là giám đốc của chương trình phát triển tại FIFA. Là giám đốc của FIFA, ông có văn phòng tại chi nhánh của Adidas ở Pháp và thời gian đầu cũng được Adidas trả tiền. Sau đó ông làm Tổng thư ký (1981-1998) trước khi ông được bầu làm chủ tịch FIFA vào năm 1998. Ông đã được tái bầu làm người đứng đầu FIFA vào năm 2002 và được bầu lại mà không có sự phản đối cho một nhiệm kỳ bốn năm ngày 31 tháng 5 năm 2007, mặc dù chỉ có 66 trong số 207 thành viên của FIFA đề cử ông. Sepp Blatter đã tìm cách trở thành chủ tịch FIFA trong nhiệm kỳ kế tiếp vào tháng 12 năm 2009.
Ngày 2 tháng 6 năm 2015, Sepp Blatter tuyên bố từ chức chủ tịch FIFA vì bê bối hối lộ giành quyền tổ chức World Cup, mặc dù ông vừa mới tái đắc cử nhiệm kỳ mới vào ngày 31 tháng 5.
Văn phòng kiểm sát tối cao của Thụy Sĩ tuyên bố vào ngày 25 tháng 9 năm 2015 là đang điều tra Blatter về những tội phạm trong quản lý. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2015 Sepp Blatter và các nhân viên cao cấp khác của FIFA cũng như chủ tịch UEFA, Michel Platini bị cấm các hoạt động liên quan tới bóng đá 90 ngày trong khi cuộc điều tra đang tiếp diễn. Trong tháng 2 năm 2011, Blatter đã trả cho Platini 2 triệu đồng franc Thụy Sĩ được cho là tiền công về những cố vấn từ năm 1998 cho tới 2002. | wiki |
Sepp Blatter | Hôm 24/3/2021, Liên đoàn Bóng đá thế giới (FIFA) đã cấm cựu chủ tịch FIFA Sepp Blatter tham gia bóng đá cho đến năm 2028. Cựu tổng thư ký FIFA Jerome Valcke cũng nhận lệnh cấm có thời hạn 6 năm 8 tháng. Người phát ngôn của FIFA cho biết: "Blatter và Valcke đã bị điều tra xung quanh nhiều cáo buộc khác nhau, đặc biệt là liên quan đến các khoản tiền thưởng, các khoản chi trả cho những quan chức quản lý hàng đầu của FIFA, các sửa đổi và gia hạn hợp đồng lao động khác nhau...". Trước đó vào tháng 12/2015, ông Blatter bị cấm tham gia bóng đá trong thời gian 8 năm, sau đó bản án được giảm xuống còn 6 năm. Giờ đây khi bản án chỉ còn 7 tháng nữa là kết thúc, FIFA lại quyết định bản án thứ 2 dành cho ông Blatter là cấm 6 năm 8 tháng.
Cáo buộc tấn công tình dục.
Thủ môn Hope Solo cáo buộc cựu Chủ tịch FIFA đã chạm vào vùng nhạy cảm trong khi cô đang làm nhiệm vụ dẫn chương trình.
Nhà vô địch World Cup bóng đá nữ cho biết hành động quấy rối của Sepp Blatter diễn ra ngay trước khi cô lên sân khấu giới thiệu một giải thưởng ở gala Quả Bóng Vàng 2013. | wiki |
San José de las Lajas | San José de las Lajas
San José de las Lajas là một đô thị và thành phố tỉnh lị của tỉnh Mayabeque, Cuba, một tỉnh mới được tách ra từ La Habana Province năm 2011. Nó nằm ở trung tâm phía bắc của tỉnh, có xa lộ Carretera Central chạy cắt qua.
Thành phố được thành lập năm 1778.
Thông tin nhân khẩu.
Năm 2004, đô thị San José de las Lajas có dân số 69.375 người. Diện tích là , với mật độ dân số là .
Đô thị này được chia thành các phường (barrio) Chávez, Cotilla, Ganuza, Independencia Norte, Independencia Sur, Jamaica, Jaula, Portugalete, San Andrés, Santa Bárbara và Tapaste. | wiki |
Bae Ji-won | Bae Ji-won
Bae Ji-won (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1963) là huấn luyện viên bóng đá người Hàn Quốc, hiện đang là huấn luyện viên thể lực của Viettel.
Sự nghiệp huấn luyện viên.
Bae Ji-won từng dẫn dắt Thailand Tobacco Monopoly, Phichit và một số đội trẻ. Ông từng là trợ lý huấn luyện viên cho nhiều đội bóng như Jeonbuk Hyundai Motors, Ulsan Hyundai, Busan IPark, Gangwon. Bae Ji-won cũng làm huấn luyện viên thể lực cho các đội như U-18 Bournemouth, Pohang Steelers, Kitchee, và đặc biệt là từng làm huấn luyện viên thể lực cho các trọng tài tại World Cup 2002.
Năm 2017, ông đến làm huấn luyện viên thể lực tại đội tuyển Việt Nam và rời đội vào năm 2019. Sau đó, ông sang Hồng Kông để làm huấn luyện viên thể lực cho Kitchee và Eastern.
Đầu năm 2022, ông ký hợp đồng với Viettel để làm huấn luyện viên thể lực. Đến tháng 6, ông được chọn để dẫn dắt Viettel tại AFC Cup 2022 và được bổ nhiệm chính thức sau đó ít thời gian để thay thế Trương Việt Hoàng. | wiki |
Sonnet | Xon-nê (bắt nguồn từ tiếng Pháp: "sonnet") là một hình thức thơ có nguồn gốc từ Ý; Giacomo Da Lentini được coi là người đã phát minh ra thể loại thơ này.
Từ tiếng Pháp "sonnet" có nguồn gốc từ tiếng Ý "sonetto" (từ một bài thơ Old Provençal với thể loại "sonet" có nguồn từ chữ bài hát "son", từ gốc "sonus" nghĩa là âm thanh). Đến thế kỷ thứ mười ba sonnet được chuẩn hóa thành một bài thơ mười bốn dòng với một luật gieo vần nghiêm ngặt và một cấu trúc nhất định. Các từ liên quan đến sonnet đã phát triển gắn liền với lịch sử. Nhà thơ chuyên viết sonnet đôi khi được gọi là "sonneteers", mặc dù thuật ngữ này có thể được sử dụng với nghĩa nhạo báng.
Sonnet hiện đại.
Với sự ra đời của thơ tự do, thơ sonnet được xem là hơi lỗi thời và bị quên lãng trong một thời gian dài trong một số trường học văn chương. Tuy nhiên, một số nhà thơ hiện đại, bao gồm Don Paterson, Federico García Lorca, E.E. Cummings, Joan Brossa, Paul Muldoon và Seamus Heaney tiếp tục sáng tác thơ dạng này. Elizabeth Bishop đã sáng tác ra thơ "Sonnet" đảo ngược trong các bài thơ cuối cùng của bà. Ted Berrigan viết cuốn sách "The Sonnets" là một hình thức sonnet khá lạ lẫm. Paul Muldoon thường thử nghiệm làm thơ với 14 dòng và vần điệu kiểu sonnet, mặc dù không thường xuyên theo đúng luật của loại thơ này. Sự ra đời của phong trào New Formalism tại Mỹ | wiki |
Sonnet | cũng đã góp phần vào sự quan tâm của công chúng hiện đại đến thơ sonnet, chủ yếu với word sonnet. Súc tích và trực quan, word sonnet gồm mười bốn câu thơ, với một từ mỗi dòng. Thường xuyên có ý nói xấu và hình tượng, thơ word sonnet cũng có thể nghịch ngợm và vui tươi. Nhà thơ Canada Seymour Mayne xuất bản một vài tập thơ sonnet, và là một trong những nhà cải cách chính của hình thức thơ mới này.
Sonnet từ đương đại kết hợp một biến thể của phong cách thường được coi là loại trừ lẫn nhau đến các thể loại riêng biệt, thể hiện trong tác phẩm như: An Ode to Mary. Nhà thơ đương đại Hy Lạp Yannis Livadas sáng chế ra thể loại "fusion sonnet", bao gồm 21 dòng, thực chất là biến thể của một nửa của "jazz" sonnet, kèm theo một nửa sonnet đóng vai trò một coda. Cả hai phần của bài thơ xuất hiện như một toàn thể trong một hình thức tách rời của một loạt các khổ thơ lót 3, 2, 4, 3, 4, và 5 dòng. | wiki |
Afghan Scene | Afghan Scene
Afghanistan Scene là tạp chí tiếng Anh đầu tiên của Kabul do MOBY Group ra mắt vào năm 2004. Đây là sự kết hợp chiết trung giữa bình luận, chuyện phiếm, con người, hồ sơ và đánh giá, bao gồm cuộc sống đa dạng của cộng đồng người nước ngoài và người hồi hương đang phát triển ở Afghanistan. "Afghan Scene" được xuất bản hàng tháng với đầy đủ màu sắc. Đây là tạp chí tiếng Anh phổ biến nhất ở Afghanistan, được phát hành rộng rãi trên khắp các văn phòng tổ chức phi chính phủ lớn, nhà khách, nhà hàng và doanh nghiệp.
Tạp chí "Afghanistan Scene" cung cấp thông tin cần thiết về những gì đang diễn ra ở Afghanistan và đặc biệt là ở thủ đô Kabul. "Afghan Scene" thu hút một nhóm khách mời đa dạng từ nhà báo nổi tiếng Ahmad Rashid đến các nhà văn như Frederick Forsyth. | wiki |
Sóc bay sao | Sóc bay sao
Sóc bay sao (Petaurista elegans) là loài động vật gặm nhấm thuộc họ Sóc. Loài này phân bố ở Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Nepal và Việt Nam.
Đặc Điểm.
Sóc Bay cỡ trung bình . tai màu nâu sẫm , phần dưới màu hung đen.Đầu và lưng màu nâu hay nâu hung đỏ với những vết đốm sáng không đều rải rác . Màng cánh da có lông nâu vàng trên nền đen , nền có màu lốm đốm hay vằn . Ở dưới màng da có những vết màu trắng đỏ không đều rải rác | wiki |
Kim Kyong-hui | Kim Kyong-hui (tiếng Triều Tiên: 김경희, Hán Việt: Kim Khánh Huy, sinh ngày 30 tháng 5 năm 1946) là con gái của cựu lãnh đạo của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, Kim Nhật Thành và người vợ đầu tiên của ông ta là Kim Jong-suk, em gái của cố lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-il và là cô ruột của nhà lãnh đạo Kim Jong-un. Là một thành viên quan trọng trong nhóm những cố vấn đáng tin cậy của anh trai Kim Jong-il, bà ta đã giữ chức vụ Giám đốc Ban Công nghiệp nhẹ của Triều Tiên kể từ năm 1988. Chồng của bà ta là Jang Sung-taek, người đã bị xử tử vào năm 2013 vì tội danh phản quốc và tham nhũng.
Tiểu sử.
Kim Kyong-hui sinh ra tại Bình Nhưỡng vào năm 1946, con cuối cùng của cuộc hôn nhân giữa Kim Nhật Thành và Kim Jong-suk. Sau một thời gian ngắn ở tỉnh Cát Lâm của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa do chiến tranh Triều Tiên, Kim Kyong-hui trở về Bình Nhưỡng với anh trai của mình, Kim Jong-il. Cô được đưa vào Đại học Kim Nhật Thành trong năm 1963, nghiên cứu kinh tế chính trị. Ở đây cô đã gặp Jang Sung-taek, và tiếp tục hẹn hò với anh ta sau khi ông chuyển đến Wonsan, người ta cho rằng vì gia đình Kim phản đối mối quan hệ của họ, và cả hai cuối cùng đã kết hôn vào năm 1972. Cô theo học Trường đảng cao cấp Kim Nhật Thành năm 1966 và đã đi nghiên cứu tại Đại học Tổng hợp Moskva năm 1968. | wiki |
Kim Kyong-hui | Sự nghiệp chính trị Kim Kyong-hui là bắt đầu vào năm 1971 với chức vụ trong Hội những phụ nữ Dân chủ Triều Tiên, và năm 1975, bà đã được bổ nhiệm chức phó giám đốc Ban liên lạc quốc tế của Đảng Lao động Triều Tiên, được thăng lên chức phó giám đốc thứ nhất vào năm 1976. Đó là khoảng thời gian khi CHDCND Triều Tiên đã thiết lập quan hệ ngoại giao với một số nước tư bản, như Thái Lan và Singapore, cũng như tổ chức Liên Hợp Quốc, Kim Kyong-hui giám sát việc sắp đặt các nhân viên hội đủ tiêu chuẩn chuyên môn giao trong nhiệm kỳ của mình là phó giám đốc Ban Quốc tế.
Năm 1988, bà được thăng lên vị trí ủy viên Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Triều Tiên, giám đốc của Ban Công nghiệp nhẹ. Năm 1990, bà được bầu làm Phó hội nhân dân tối cao lần đầu tiên. Vai trò của bà là đặc biệt quan trọng là lãnh đạo Ban Chính sách kiểm tra kinh tế, sau đó một lần nữa Bộ Công nghiệp nhẹ trong thời kì "hành quân khổ nạn" sau cái chết của Kim Nhật Thành. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Vạn Lý Trường Thành (), gọi tắt là Trường Thành, là tên gọi chung cho nhiều thành lũy kéo dài hàng ngàn cây số từ Đông sang Tây, được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Trung Hoa khỏi những cuộc tấn công của người Hung Nô, Mông Cổ, Đột Quyết, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. Một số đoạn tường thành được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN, sau đó được Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh nối lại và xây thêm từ năm 220 TCN và 200 TCN và hiện chỉ còn sót lại ít di tích. Vạn Lý Trường Thành nổi tiếng được tham quan nhiều hiện nay được xây dưới thời nhà Minh (1368-1644).
Các mục đích khác của Vạn Lý Trường Thành bao gồm kiểm soát biên giới, cho phép áp đặt thuế đối với hàng hóa vận chuyển theo con đường tơ lụa, quy định hoặc khuyến khích thương mại và kiểm soát xuất nhập cảnh. Hơn nữa, đặc điểm phòng thủ của Vạn Lý Trường Thành đã được tăng cường bằng việc xây dựng các tháp canh, doanh trại quân đội, trạm đóng quân, báo hiệu có giặc thông qua các phương tiện khói hoặc lửa, và thực tế là con đường của Vạn Lý Trường Thành cũng phục vụ như là một hành lang giao thông vận tải. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Một nghiên cứu khảo cổ chi tiết, sử dụng những công nghệ hiện đại, được công bố vào năm 2009 kết luận rằng Vạn Lý Trường Thành do nhà Minh xây dựng có chiều dài 8.850 km. Nó bao gồm phần bức tường dài 6.259 km, phần hào dài 359 km, và phần lá chắn tự nhiên như đồi, sông dài 2.232 km. Một nghiên cứu khảo cổ chi tiết khác vào năm 2012 kết luận Vạn Lý Trường Thành có chiều dài 21.196 km. Chiều cao trung bình tường thành là 7m so với mặt đất, mặt trên của trường thành rộng trung bình 5-6m. Vạn Lý Trường Thành bắt đầu từ Sơn Hải quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ ("đất Trung Quốc gốc") và Mãn Châu đến Lop Nur ở phần phía đông nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.
Tên gọi. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Tên gọi.
Dãy các bức tường ngày nay có tên Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc đã được gọi bằng một số tên khác nhau. Tên tiếng Anh hiện tại đã hình thành từ các tường thuật nhiệt tình về "bức tường Trung Quốc" của khách du lịch châu Âu thời đó; vào cuối thế kỷ 19 "Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc" đã trở thành tên của các bức tường này. Trong tiếng Trung Quốc, dãy tường thành này được gọi là "Cháng chéng" (長城), có nghĩa là "trường thành". Thuật ngữ này có thể được tìm thấy trong sách sử (thế kỷ thứ 1 TCN), ghi nhận những bức tường được xây dựng thời Chiến Quốc, và chủ yếu các bức tường của Tần Thủy Hoàng xây dựng. Nghĩa của nó là dài "vạn lý" (nghĩa bóng là "vô tận"), phản ánh với tên đầy đủ của nó trong thời hiện đại (萬里長城 Vạn Lý Trường Thành), cũng xuất phát từ sách sử, mặc dù dòng chữ "Vạn Lý Trường Thành" hiếm khi được sử dụng cho đến thời hiện đại. Một ví dụ hiếm hoi được Đường sử viết năm 493, khi sách trích dẫn tướng ở biên giới Tan Daoji.
Lịch sử.
Ban đầu trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc, các nước nhỏ đã độc lập xây dựng các tường thành ở phương bắc nhằm tránh giặc Hung nô tràn xuống. Cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc thì ông cũng đã liên kết các tuyến phòng thủ rời rạc của các nước thành Vạn lý trường thành. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Lý do để Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành bắt nguồn từ một câu "sấm": "Vong Tần giả, Hồ dã" "(Tần mất là do Hồ)". Tần Thủy Hoàng tưởng chữ "Hồ" là chỉ giặc Hồ phương Bắc. Dù người làm mất nhà Tần hóa ra là Thái tử "Hồ" Hợi, di sản mà hoàng đế thống nhất Trung Quốc để lại cũng đã đặt nền móng cho Vạn Lý Trường Thành sau này.
Một tường thành có tính chất phòng thủ biên giới phía bắc được xây dựng và duy trì bởi nhiều triều đại trong nhiều khoảng thời gian trong lịch sử Trung Quốc. Mục đích chính của nó là bảo vệ người Trung Quốc khỏi sự di cư của người Mông Cổ và người Thổ Nhĩ Kỳ. Có năm giai đoạn hình thành chính:
Đoạn tường thành chính đầu tiên được xây dựng dưới thời cai trị của Tần Thủy Hoàng, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tần với thời gian tồn tại ngắn ngủi. Bức tường này được hình thành bằng việc xây dựng và ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng thời Chiến Quốc. Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp canh được xây ở các khoảng cách đều nhau. Nó nằm xa hơn về phía bắc so với Vạn lý trường thành hiện tại với điểm cực đông nằm ở Bắc Triều Tiên hiện nay. Chỉ còn ít phần của nó còn sót lại - các bức ảnh cho thấy những ụ đất thấp, dài. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Triều đình bắt người dân phải làm việc để đắp thành, và các công nhân luôn bị nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp tấn công. Bởi vì có nhiều người đã chết khi xây dựng thành, nó được đặt cho cái tên khủng khiếp, "Nghĩa địa dài nhất Trái Đất". Uớc tính có đến hàng trăm ngàn người, thậm chí có thể lên tới một triệu người đã chết khi xây trường thành ở thời nhà Tần.
Ước tính 300 ngàn binh lính với vô số tội nhân, quan lại phạm lỗi, nho sĩ không tuân lệnh đốt sách... phải làm khổ sai trong miền rừng núi trùng trùng điệp điệp, mùa đông thì lạnh buốt, nước đóng băng, mùa hè thì không khí nóng như nung, mù mịt cát bụi. Trên thành cất những đồn canh, và có đường rộng chạy ngựa được giữa các đồn với nhau. Không biết bao nhiêu lời than thở, bao nhiêu nước mắt của thân nhân những người đó, không văn nhân thi sĩ nào chép lại hết được. Trong dân gian còn truyền lại nỗi khổ của nàng Mạnh Khương: "Nàng thương nhớ chồng, đi 10 ngàn dặm đường để thăm chồng bị bắt đi xây thành, đến nơi thì chồng nàng đã chết rồi. Xung quanh chỉ là rừng núi và đá. Không biết kiếm xác chồng ở đâu, nàng tuyệt vọng, khóc mấy ngày mấy đêm, khóc tới nỗi chính cái thành cũng phải mủi lòng, tự động tách ra cho nàng tìm thấy hài cốt chồng." | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán, nhà Tùy, và giai đoạn Thập Quốc xây dựng tiếp với cùng kiểu thiết kế. Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh nhiều tầng được xây cách nhau vài dặm. Các bức tường thành cũng đã bị hư hại nhiều và đã lẫn vào phong cảnh xung quanh, bị ăn mòn bởi gió và nước mưa.
Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới hơn là công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc không diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.
Vạn Lý Trường Thành ngày nay được xây ở thời nhà Minh, bắt đầu khoảng năm 1368 và kết thúc khoảng năm 1640. Ước tính có khoảng 25.000 tháp canh đã được xây dựng dọc theo bức tường. Trong một đoạn trong kinh Koran, các nhà địa lý Ả Rập cũng liên hệ Alexander đại đế với việc xây dựng tường thành. Bức tường này được xây với tầm vóc to lớn bằng những vật liệu tốt (đá cứng được dùng ở các bề mặt và ở trên đỉnh thành) hơn so với trước đó. Mục đích đầu tiên của bức tường là để ngăn bước những giống người bán du mục phía bên ngoài (như người Mông Cổ dưới sự chỉ huy của hãn vương Altan và Oirats dưới sự chỉ huy của Esen Taiji) vào cướp bóc bên trong Trung Quốc khi họ sử dụng ngựa để di chuyển; hay ngăn cản sự quay trở về của họ với những thứ cướp bóc được. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Vạn Lý Trường Thành thời nhà Minh bắt đầu từ điểm phía đông tại Sơn Hải Quan (山海关), gần Tần Hoàng Đảo, ở tỉnh Hà Bắc gần Vịnh Bột Hải. Kéo dài qua chín tỉnh và 100 huyện, 500 km cuối cùng vẫn còn nhưng đã thành những đống gạch vụn, và hiện nay nó kết thúc ở điểm cuối phía tây di tích lịch sử Gia Dục Quan (嘉峪关), nằm ở phía tây bắc tỉnh Cam Túc tại biên giới với Sa mạc Gobi và những ốc đảo của Con đường tơ lụa. Gia Dục Quan được xây để tiếp đón những nhà du hành dọc theo Con đường tơ lụa. Mặc dù Vạn Lý Trường Thành kết thúc ở Gia Dục Quan, tại đó có rất nhiều "phong hoả đài" (烽火台) trải dài về phía Gia Dục Quan dọc theo Con đường tơ lụa. Những đài quan sát đó dùng dấu hiệu bằng khói để cảnh báo có xâm lược.
Năm 1644, người Mãn vượt qua bức tường thành bằng cách thuyết phục một vị tướng quan trọng là Ngô Tam Quế mở cửa những cánh cổng Sơn Hải Quan để cho người Mãn Châu vượt qua. Truyền thuyết kể rằng quân Mãn Châu mất ba ngày mới vượt hết qua đèo. Sau khi người Mãn Châu chinh phục Trung Quốc, bức tường thành không còn giá trị chiến lược quân sự nữa, đa phần bởi vì người Mãn Châu đã mở rộng quyền kiểm soát chính trị của họ ra xa phía bắc; vì vậy giống như thời nhà Nguyên, nhà Đường, và nhà Tống thì Vạn lý Trường thành đã mất đi hoàn toàn giá trị phòng thủ quân sự cho Trung Quốc vào thời nhà Thanh. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Đoạn tường cuối cùng thời nhà Minh thực sự là một công sự quân sự về một số mặt. Tuy nhiên, các nhà sử học quân sự thường gạt bỏ giá trị thực của bức tường thành vĩ đại này. Người ta tốn cực kỳ nhiều tiền của và công sức để xây dựng, duy trì và đóng giữ. Số tiền nhà Minh chi phí vào bức tường này đáng ra có thể để chi vào cải thiện khả năng quân sự khác như mua pháo kiểu châu Âu hay súng trường. Sự thực là bức tường thành không có giá trị nhiều trong việc giúp ngăn chặn sự sụp đổ của nhà Minh.
Tình trạng. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Tình trạng.
Trong khi một số đoạn gần các trung tâm du lịch được giữ gìn và thậm chí xây dựng lại, tại hầu hết các vị trí bức tường đang bị bỏ mặc không được sửa chữa, được dùng làm chỗ chơi cho những người dân làng và là nơi khai thác đá để làm đường hay làm nhà. Các bề mặt của tường thành còn bị sơn vẽ graffiti. Nhiều phần đã bị phá hủy vì bức thành nằm chắn đường tới các địa điểm xây dựng. Các phần không bị đụng chạm đến hay được sửa chữa là gần những điểm phát triển du lịch và thường bị những người bán hàng rong và khách du lịch làm giảm giá trị. Sa mạc Gobi cũng đang tiến sát tới bức tường thành ở một số địa điểm. Một số ước tính rằng chỉ 20% bức tường thành là đang ở tình trạng tốt. Năm 2005, các bức ảnh về một bữa tiệc điên dại trên Vạn lý trường thành xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng Trung Quốc. Chúng đã gây nên sự phẫn nộ bởi vì trong những bức ảnh do người nước ngoài, và người Trung Quốc chụp, những thanh niên uống rượu bia, đi tiểu tiện, đại tiện và có những hành vi tình dục trên bức thành được chiếu ở khắp nước.
Tháng 8 năm 2012, một đoạn dài khoảng 36m của thành bị sụp đổ hoàn toàn.
Sự Công Nhận.
Bức tường thành trở thành Di sản thế giới của UNESCO vào năm 1987.
Người Trung Quốc có câu nói 不到长城非好汉, có nghĩa "Bất đáo Trường Thành phi hảo hán" đã được khắc bia tại trường thành.
Từ ngoài Trái Đất. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Người Trung Quốc có câu nói 不到长城非好汉, có nghĩa "Bất đáo Trường Thành phi hảo hán" đã được khắc bia tại trường thành.
Từ ngoài Trái Đất.
Đã có một sự tranh cãi từ lâu về việc bức tường thành sẽ thế nào nếu nhìn từ vũ trụ. Quan điểm rằng nó có thể được nhìn thấy từ vũ trụ có vẻ xuất hiện trước khi có các chuyến bay của con người vào vũ trụ.
Trong cuốn sách "Cuốn sách thứ hai về những kỳ quan" của Richard Halliburton năm 1938 có nói Vạn Lý Trường Thành là vật nhân tạo duy nhất có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, và một truyện tranh tên là "Tin hay không tin của Ripley" ở thời gian đó cũng đưa ra tuyên bố tương tự. Niềm tin này kéo dài và trở thành một truyền thuyết đô thị, thỉnh thoảng thậm chí xuất hiện cả trong những cuốn sách giáo khoa. Arthur Waldron, tác giả cuốn lịch sử Vạn Lý Trường Thành đáng tin cậy nhất trong mọi ngôn ngữ đã chỉ ra rằng sự tin tưởng vào việc Vạn Lý Trường Thành có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng cũng giống như sự phấn khích của một số người khi tin rằng có những "kênh đào" trên bề mặt Sao Hỏa vào cuối thế kỷ 19. Trên thực tế, Vạn Lý Trường Thành đơn giản là không thể nhìn thấy bằng mắt thường nếu không có công cụ hỗ trợ từ Mặt Trăng, chưa nói đến nhìn từ Sao Hỏa. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng khoảng một nghìn lần lớn hơn khoảng cách từ Trái Đất đến con tàu vũ trụ bay trên quỹ đạo gần Trái Đất. Nếu Vạn lý trường thành có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, thì sẽ dễ dàng nhìn thấy nó từ quỹ đạo gần Trái Đất. Trên thực tế, từ quỹ đạo gần Trái Đất, nó rõ ràng là hơi thấy được, và chỉ trong những điều kiện tốt. Và nó cũng không rõ rệt hơn nhiều vật thể khác do con người tạo ra. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Một nhà du hành tàu con thoi thông báo rằng "chúng tôi có thể thấy những vật nhỏ như những đường băng sân bay [nhưng] Vạn Lý Trường Thành hầu như không nhìn thấy được từ khoảng cách 180 dặm (290 km) trở lên." Nhà du hành vũ trụ William Pogue cho rằng ông đã thấy nó từ Skylab nhưng phát hiện ra rằng trên thực tế ông đang nhìn vào Đại Vận Hà gần Bắc Kinh. Ông phát hiện ra Vạn Lý Trường Thành với ống nhòm, nhưng nói rằng "nó không thể nhìn thấy được bằng mắt thường không có thiết bị hỗ trợ". Một nhà du hành trong chương trình Apollo đã nói không một cấu trúc nào của con người có thể nhìn thấy từ khoảng cách vài nghìn dặm. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Jake Garn tuyên bố có thể nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành bằng mắt thường từ trên quỹ đạo của tàu vũ trụ đầu thập kỷ 1980, nhưng tuyên bố của ông còn đang bị nhiều nhà du hành vũ trụ chuyên nghiệp khác của Mỹ phản đối. Nhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vĩ người Trung Quốc sau 21,5 giờ bay vòng quanh Trái Đất đến 14 lần, trở lại mặt đất đã xác minh trên truyền hình là không nhìn thấy được Vạn Lý Trường Thành từ không gian. Điều này dẫn đến việc Trung Quốc phải đính chính lại sách giáo khoa đã đăng thông tin này. | wiki |
Vạn Lý Trường Thành | Từ quỹ đạo Trái Đất tầm thấp nó có thể được nhìn thấy với điều kiện thời tiết tốt. Điều này giống như việc có thể thấy các đặc điểm của Mặt Trăng ở những thời điểm nhất định và không thấy chúng vào những thời điểm khác, vì sự thay đổi trong hướng ánh sáng. Vạn Lý Trường Thành chỉ rộng vài mét — kích thước tương đương với đường xa lộ và đường băng — và nó đồng màu với đất đá xung quanh.
Cựu phi hành gia Mỹ Gene Cernan đã nói: "Ở quỹ đạo Trái Đất từ 160km đến 320km, Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc có thể nhìn thấy được bằng mắt thường." Ed Lu, Sĩ quan khoa học Expedition 7 trên Trạm vũ trụ quốc tế, nói thêm rằng, "...nó khó nhìn hơn nhiều vật thể khác. Và bạn phải biết tìm nó ở đâu".
Leroy Chiao, một nhà du hành người Mỹ gốc Hoa, đã chụp một bức ảnh từ Trạm vũ trụ quốc tế có hình bức tường thành. Nó còn không rõ đến mức ông không biết có phải đã thực sự chụp được nó hay không. Dựa trên bức ảnh đó, một tờ báo nhà nước của Trung Quốc đã kết luận rằng Vạn Lý Trường Thành có thể được nhìn thấy từ vũ trụ bằng mắt thường, trong những điều kiện quan sát tốt, nếu người ta biết chính xác phải tìm ở đâu.
Ghi chú.
¹ 10.000 "lý" = 5.760 km.
Tài liệu.
ISBN 978-0-330-42241-3; ISBN 0-330-42241-3. | wiki |
Eviota eyreae | Eviota eyreae
Eviota eyreae, tên thông thường là Eyre's dwarfgoby, là một loài cá biển thuộc chi "Eviota" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2016.
Từ nguyên.
Loài cá này được đặt theo tên của Janet V. Eyre, người đã chụp ảnh và thu thập mẫu vật của loài cá này.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
"E. eyreae" hiện chỉ được biết đến ở vùng biển ngoài khơi đảo Vatu-i-ra (Fiji). Mẫu vật duy nhất của "E. eyreae" được thu thập ở độ sâu khoảng 3 m.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở "E. eyreae" là 1,08 cm. Đầu và thân trong mờ, màu vàng lục, có các vệt đốm màu đỏ gạch. Đồng tử đen, mống mắt màu vàng với các vạch đỏ bao quanh đồng tử. Cả hàm trên và dưới có màu đỏ. Nắp mang có một vệt đỏ lớn. Gốc vây ngực có hai đốm đỏ, ngăn cách bởi một vạch sáng màu. Có 3 đốm lớn màu đỏ ở hai bên bụng. Các gai và tia vây lưng có màu đỏ; các vây khác trong suốt.
Số gai ở vây lưng: 7; Số tia vây ở vây lưng: 7; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số tia vây ở vây ngực: 16. | wiki |
Đường Nhất Quân | Đường Nhất Quân (; sinh tháng 3 năm 1961), người Hán, chính khách nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX, hiện là Chủ tịch Chính Hiệp Giang Tây.Ông từng là Bí thư Đảng tổ Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Quốc; Phó Bí thư Tỉnh ủy Liêu Ninh, Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Liêu Ninh. Trước khi chuyển đến tỉnh Liêu Ninh vào tháng 10 năm 2017, ông đã dành toàn bộ sự nghiệp chính trị của mình ở tỉnh Chiết Giang, từng là quyền Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Ninh Ba, Bí thư Thành ủy Ninh Ba và Phó Bí thư Tỉnh ủy Chiết Giang.
Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1985.
Tiểu sử.
Thân thế.
Đường Nhất Quân là người Hán sinh tháng 3 năm 1961, người huyện Cử, tỉnh Sơn Đông.
Giáo dục.
Tháng 9 năm 1984 đến tháng 7 năm 1986, Đường Nhất Quân theo học chuyên ngành kinh tế chính trị lớp chính quy lý luận tại Trường Đảng Tỉnh ủy Chiết Giang.
Tháng 9 năm 2003 đến tháng 7 năm 2006, ông theo học chuyên ngành quản lý kinh tế lớp nghiên cứu sinh tại chức, Học viện Hàm thụ thuộc Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Tháng 9 đến tháng 11 năm 2012, ông theo học lớp nâng cao cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh bộ tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sự nghiệp.
Chiết Giang. | wiki |
Đường Nhất Quân | Tháng 9 đến tháng 11 năm 2012, ông theo học lớp nâng cao cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh bộ tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Sự nghiệp.
Chiết Giang.
Thời trẻ, tháng 7 năm 1977, Đường Nhất Quân là thanh niên trí thức tham gia lao động đội sản xuất ở nông thôn tại các công xã Thạch Khê, huyện Thanh Điền; công xã Phú Lĩnh, huyện Lệ Thủy; công xã Liêu Hồ, huyện Vĩnh Khang (nay thuộc thành phố cấp huyện Vĩnh Khang) tỉnh Chiết Giang.
Tháng 10 năm 1980, Đường Nhất Quân về làm tư liệu viên ở Trường Đảng Địa ủy Lệ Thủy tỉnh Chiết Giang. Tháng 7 năm 1986, sau khi tốt nghiệp, Đường Nhất Quân được phân phối về làm cán sự phòng lý luận của Ban Tuyên truyền Tỉnh ủy Chiết Giang. Tháng 10 năm 1985, Đường Nhất Quân gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Tháng 7 năm 1991, ông về làm thư ký Văn phòng Tỉnh ủy Chiết Giang. Tháng 4 năm 1992, ông được thăng hàm Phó phòng, Thư ký Văn phòng Tỉnh ủy Chiết Giang. Tháng 9 năm 1993, ông được thăng hàm Trưởng phòng, Thư ký Văn phòng Tỉnh ủy Chiết Giang (trong thời gian này, Lý Trạch Dân đảm nhiệm Bí thư Tỉnh ủy Chiết Giang). | wiki |
Đường Nhất Quân | Tháng 7 năm 1997, ông được luân chuyển làm Tổng Thư ký Thành ủy Chu San. Tháng 7 năm 1999, ông được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy Chu San kiêm Tổng Thư ký Thành ủy Chu San. Tháng 4 năm 2002, ông được luân chuyển làm Tổng Thư ký Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Tỉnh ủy Chiết Giang. Tháng 6 năm 2002, ông được bổ nhiệm làm Ủy viên Ban Thường vụ Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Tỉnh ủy, Tổng Thư ký Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Tỉnh ủy Chiết Giang.
Tháng 5 năm 2005, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Ninh Ba, Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Thành ủy Ninh Ba kiêm Ủy viên Ban Thường vụ Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Tỉnh ủy, Tổng Thư ký Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Tỉnh ủy Chiết Giang. Tháng 10 năm 2005, ông thôi kiêm nhiệm chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Tỉnh ủy, Tổng Thư ký Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Tỉnh ủy Chiết Giang. Tháng 2 năm 2010, ông được bổ nhiệm làm Bí thư Ủy ban Chính trị Pháp luật Thành ủy Ninh Ba, Phó Bí thư Thành ủy Ninh Ba kiêm Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Thành ủy Ninh Ba. Tháng 4 năm 2010, ông thôi giữ chức Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Thành ủy Ninh Ba. | wiki |
Đường Nhất Quân | Tháng 2 năm 2011, ở tuổi 50, Đường Nhất Quân được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc thành phố Ninh Ba. Tháng 5 năm 2016, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó Bí thư Thành ủy Ninh Ba, quyền Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Ninh Ba kiêm Chủ tịch Chính hiệp thành phố Ninh Ba. Tháng 8 năm 2016, ông được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Chiết Giang kiêm Bí thư Thành ủy Ninh Ba, quyền Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Ninh Ba, đồng thời từ chức Chủ tịch Chính hiệp thành phố Ninh Ba. Tháng 2 năm 2017, ông thôi kiêm nhiệm chức vụ quyền Thị trưởng Chính phủ nhân dân thành phố Ninh Ba. Tháng 5 năm 2017, Đường Nhất Quân được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Chiết Giang kiêm Bí thư Thành ủy Ninh Ba.
Liêu Ninh. | wiki |
Đường Nhất Quân | Liêu Ninh.
Ngày 24 tháng 10 năm 2017, tại phiên bế mạc của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIX, ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX. Ngày 28 tháng 10 năm 2017, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định bổ nhiệm Đường Nhất Quân làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Liêu Ninh. Ngày 30 tháng 10 năm 2017, Hội nghị lần thứ 37 của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân khóa XII tỉnh Liêu Ninh quyết định bổ nhiệm ông làm Phó Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Liêu Ninh, quyền Tỉnh trưởng Chính phủ nhân dân tỉnh Liêu Ninh. Ngày 31 tháng 1 năm 2018, tại Hội nghị lần thứ nhất của Đại hội đại biểu nhân dân khóa XIII tỉnh Liêu Ninh, ông chính thức được bầu giữ chức vụ Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Liêu Ninh.
Quốc vụ viện.
Ngày 29 tháng 4 năm 2020, ông được bổ nhiệm làm Phó Bí thư Đảng ủy, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Ông miễn nhiệm công tác ở Bộ Tư pháp, thay thế bởi nữ chính trị gia Hạ Vinh, về Giang Tây nhậm chức Chủ tịch Ủy ban Giang Tây Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, chức vụ thường được đảm nhiệm trước khi nghỉ hưu. | wiki |
Tình xa | Tình xa
Tình xa (tiếng Thái: รักไร้พรมแดน) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam hợp tác với ,Thái Lan do Vũ Trường Khoa và Anuwat Thanomrod làm đạo diễn. Phim được phát sóng song song trên cả hai kênh là VTV1 và Channel 7 lần đầu vào năm 2004.
Nội dung.
"Tình xa" xoay quanh cuộc sống và tình yêu của cô diễn viên múa "lọ lem" người dân tộc Thái tên Vì Thị Sa (Hà Hương). Được cử sang Thái Lan học để nâng cao chuyên môn về múa, cô đã tình cờ gặp Đen (Atsadawut Luengsuntorn) – chàng công tử con nhà giàu, nhưng đã là khán giả thầm say mê những điệu múa của cô trong dịp anh cùng người thân đến Hà Nội du lịch. Đen từ đấy đem lòng thầm yêu Sa, một cô gái Việt bí ẩn, xinh đẹp với những điệu múa làm anh không thể rời mắt. Tuy nhiên tình cảm của hai người sớm đã gặp phải trắc trở vì có nhiều khác biệt về văn hóa, địa lý và cũng như những quan hệ tình cảm trước đó đã khiến cả hai rơi vào nguy cơ rạn nứt...
Diễn viên.
Cùng một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim.
Bài hát trong phim là ca khúc "Tình xa", lời Việt do Trương Quý Hải viết và do ca sĩ Khánh Linh thể hiện, lời Thái do Naolprang Trichit viết. | wiki |
Pomacentrus lepidogenys | Pomacentrus lepidogenys là một loài cá biển thuộc chi "Pomacentrus" trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1928.
Từ nguyên.
Từ định danh "lepidogenys" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "lepido" ("có vảy") và "genys" ("ở má"), hàm ý đề cập đến vùng trước và dưới hốc mắt của loài cá này có nhiều vảy.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
Từ tỉnh Phuket (Thái Lan), phạm vi của "P. lepidogenys" trải dài đến vùng biển các nước Đông Nam Á và mở rộng đến các đảo quốc thuộc Melanesia ở phía đông, giới hạn phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), xa về phía nam đến các rạn san hô ngoài khơi Tây Úc và rạn san hô Great Barrier. Quần thể "P. lepidogenys" trước kia tại Tonga và Fiji đã được công nhận là một loài hợp lệ là "Pomacentrus callainus".
Tại Việt Nam, loài này có mặt tại Khánh Hòa–Ninh Thuận, Phú Yên, Bình Thuận cù lao Chàm, Côn Đảo và quần đảo Trường Sa.
"P. lepidogenys" sinh sống tập trung gần những rạn san hô viền bờ hoặc trong các đầm phá ở độ sâu đến 12 m.
Mô tả.
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở "P. lepidogenys" là 9 cm. Cơ thể của "P. lepidogenys" có màu xám nhạt hoặc xanh lục nhạt, sẫm màu hơn ở lưng. Màu vàng tươi phía sau gốc vây lưng và cuống đuôi, nhạt hơn ở vây hậu môn ("P. callainus" không có màu vàng này). | wiki |
Pomacentrus lepidogenys | Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 14–15; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 14–15; Số tia vây ở vây ngực: 18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số lược mang: 20–22; Số vảy đường bên: 17–18.
Sinh thái học.
Thức ăn của "P. lepidogenys" bao gồm tảo và các loài động vật phù du. Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng. | wiki |
Jimmy Van Bramer | James G. Van Bramer (sinh ngày 19 tháng 8 năm 1969) là Phó Lãnh đạo của Hội đồng Thành phố New York. Ông là đảng viên Đảng Dân chủ và là Thành viên Hội đồng của Khu vực 26, bao gồm Astoria, Long Island City, Sunnyside, và Woodside ở Queens. Van Bramer là một người tiến bộ, là một trong số ít thành viên của Hội đồng thành phố tán thành chiến dịch của Cynthia Nixon trong cuộc bầu cử thống đốc ở New York 2018.
Đầu đời và giáo dục.
Van Bramer sinh ra và lớn lên ở quận Queens của Thành phố New York, là con của một thành viên công đoàn tích cực đã nghỉ hưu. Cha ông, William Van Bramer, là thành viên suốt đời của Printers' and Pressman's Union Local 2. Mẹ ông, Elizabeth, đã giúp đỡ gia đình bằng cách nhận nhiều công việc khác nhau trong khu phố của họ. Bà là một thành viên của Local 1893 của Hội Anh em Họa sĩ Quốc tế.
Van Bramer tốt nghiệp trường trung học William Cullen Bryant. Năm 1994, anh tốt nghiệp Đại học St. Johns.
Sự nghiệp.
Trước khi gia nhập Hội đồng Thành phố, Van Bramer từng là Giám đốc Đối ngoại của Thư viện Công cộng Queens. Với tư cách này, ông là cầu nối của thư viện giữa các thành viên cộng đồng và chính phủ. Ông từng làm phóng viên cho tờ báo cộng đồng Lesbian and Gay New York (nay là Gay City News), nơi ông chú ý đến đại dịch AIDS và tội ác thiên vị/thù hận. Ông đại diện cho khu phố của mình và Khu vực Quốc hội số 37 trong Ủy ban Dân chủ Bang New York. | wiki |
Jimmy Van Bramer | Vào tháng 9 năm 2007, anh được vinh danh là một trong "40 under 40" của "City & State" vì là một thành viên trẻ có ảnh hưởng trong chính trường Thành phố New York. Van Bramer hiện đang sống ở Sunnyside Gardens với Dan Hendrick. Họ kết hôn vào ngày 28 tháng 7 năm 2012. Van Bramer là một trong bốn thành viên LGBT công khai của Hội đồng Thành phố New York, cùng với Corey Johnson, Daniel Dromm và Carlos Menchaca. | wiki |
Polybius | Polybius
Polybius (; , "Polýbios"; - TCN) là một sử gia người Hy Lạp của thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Ông nổi tiếng với tác phẩm "Lịch sử" trong đó bao gồm chi tiết giai đoạn 264-146 TCN. Tác phẩm mô tả sự trỗi dậy của Cộng hòa La Mã với vị thế thống trị trong thế giới Địa Trung Hải cổ đại. Nó bao gồm tài khoản nhân chứng của ông về vụ vây thành Carthage và Corinth vào năm 146 TCN, và sự sáp nhập của La Mã vào lục địa Hy Lạp sau Chiến tranh Achaean.
Polybius rất quan trọng đối với việc phân tích hiến pháp hỗn hợp hoặc sự phân chia quyền lực trong chính phủ, điều này có ảnh hưởng đến "Tinh thần pháp luật" của Montesquieu và các nhà soạn thảo của Hiến pháp Hoa Kỳ. Ông cũng được ghi nhận khi chứng kiến các sự kiện mà ông đã ghi lại.
Chuyên gia hàng đầu về Polybius là F. W. Walbank (1909-2008), người trong 50 năm đã công bố các nghiên cứu liên quan đến ông, bao gồm một bài bình luận dài về tác phẩm "Lịch sử" và tiểu sử của ông. | wiki |
Vô Minh Huệ Kinh | Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經, Mumyō Ekyō, 1547-1617), thiền sư Trung Quốc, đời thứ 26 tông Tào Động, sống vào dưới thời nhà Minh. Sư là đệ tử nối pháp duy nhất của thiền sư Uẩn Không Thường Trung và từ sư xuất phát Thọ Xương pháp phái của Tông Tào Động. Từ dòng pháp này đã sản sinh ra nhiều vị thiền sư nổi trội góp phần truyền bá và phát triển Thiền tông Trung Quốc dưới thời Minh -Thanh và được truyền sang Việt Nam qua Thiền sư Thạch Liêm và Nhật Bản qua Thiền sư Tâm Việt Hưng Thù. Sư có các đệ tử nối pháp là: Bác Sơn Nguyên Lai, Hối Đài Nguyên Cảnh, Vĩnh Giác Nguyên Hiền.
Cơ duyên.
Sư họ Bùi (裴), quê ở huyện Sùng Nhân, Phủ Châu, tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Từ nhỏ đã ham thích Phật pháp và có chí hướng xuất gia, vào năm 9 tuổi sư theo trường làng học Nho Giáo.
Lớn lên sư đến yết kiến thiền sư Thường Trung ở núi Lẫm Sơn, tu tại đây 3 năm và biết được yếu chỉ của Thiền Tông.
Sau sư từ biệt thầy và đến tại Núi Nga Mi cất thảo am chuyên tâm tu tập.Một hôm sư xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục tới công án: " "vị tăng hỏi thiền sư Hưng Thiện: Thế nào là đạo thiện?. Thiền sư Hưng Thiện đáp: Núi Đại Hảo" ". Sư liền khởi nghi tình mạnh mẽ, chuyên tâm tham công án này hơn 3 năm quên cả việc ăn, ngủ.
Một hôm sư nhân đang đi trên đường vác đá thì bỗng nhiên kiến tính, liền viết kệ trình chổ ngộ của mình:"Vô thượng bồ- đề muốn hiểu sâu"
"Khai thông Đại Hảo phải mau mau"
"Đến rồi mới biết sơn là núi" | wiki |
Vô Minh Huệ Kinh | "Khai thông Đại Hảo phải mau mau"
"Đến rồi mới biết sơn là núi"
"Xoay mình vượt khỏi cửa tổ mầu"Sau đó, sư đến gặp thiền sư Uẩn Không Thường Trung và trình sở đắc của mình. Thiền sư Thường Trung đem công án, thoại đầu ra chất vấn sư đều đối đáp tinh thông không ngại. Thiền sư Thường Trung biết sư đã đại ngộ bèn ấn khả và truyền pháp cho sư nối pháp Tông Tào Động.
Hành Trạng.
Sau khi được khai ngộ, sư đi du phương khắp nơi. Đầu tiên đến yết kiến thiền sư Tình Canh Vũ Độc. Năm 27 tuổi, sư mới thọ giới cụ túc. Từ đó về sau, trong suốt 24 năm sư không xuống núi Nga Phong.
Vào năm thứ 26 (1598) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), nhận lời thỉnh cầu sư đến trú trì chùa Bảo Phương (寳方寺) trong làng, tự mình làm việc trong vòng mấy năm sau thì dựng được một ngôi điện đường mới tại đây và đông đúc khắp nơi tăng chúng đến tham học.
Sau đó, sư đi tham quan khắp chốn tùng lâm, qua Nam Hải (南海), thăm viếng thiền sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏)- vị tổ thứ 8 của Tịnh Độ Tông. Rồi đến lễ bái tháp của sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn.
Tiếp theo, sư đến thăm thiền sư Tử Bá Đạt Quán, rồi vào Ngũ Đài Sơn (五臺山) tham yết thiền sư Thoại Phong (瑞峰), sau đó sư trở về Bảo Phương Tự, bắt đầu xiển dương tông phong Tào Động tại đây và có rất nhiều người đến tham học. | wiki |
Vô Minh Huệ Kinh | Vào năm thứ 36 (1608) niên hiệu Vạn Lịch, thể theo lời thỉnh cầu của tứ chúng,sư đến trụ trì Thọ Xương Tự (壽昌寺) ở Tân Thành (新城). Mấy năm sau sư tiến hành trùng tu lại các ngôi đường vũ bị hoang phế, vẫn tiếp tục làm lao tác, chuyên tâm giáo dưỡng đồ chúng bằng kệ tụng và pháp ngữ.
Phong cách sư khá dản dị, sư theo tinh thần sinh hoạt của Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải ngày trước: "Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực " (一日不作一日不食), nghĩa là một ngày không làm, một ngày không ăn. Dù là bậc tông sư nổi tiếng trong Thiền tông và Phật Giáo nhưng hằng ngày sư vẫn cuốc đất, làm nông, tham gia nông Thiền, đề cao tinh thần sinh hoạt tự túc trong tăng đoàn.
Sư có xuất bài kệ truyền Pháp Phái:
Đến tháng 1 năm thứ 46 cùng niên hiệu trên (1617), sư bệnh nhẹ rồi gọi môn đệ lại dặn dò, cầm bút viết: " "Hôm nay chỉ dạy rõ ràng"" rồi an nhiên tọa Thiền thị tich, hưởng thọ 71 tuổi. Môn đệ trà tỳ nhục thân sư và xây tháp thờ xá-lợi tại phương trượng. Thiền sư Hám Sơn Đức Thanh soạn bài Tân Thành Thọ Xương Vô Minh Kinh Thiền Sư Tháp Minh.
Tác phẩm.
Một số tác phẩm của sư:
Vài bài Thiền kệ (thơ Thiền) của sư dùng để dạy các đệ tử còn lưu lại đến nay (Dương Đình Hỷ dịch Việt):
Bài thứ 1:
Bài thứ 2: | wiki |
Alexios IV Angelos | Alexios IV Angelos () (kh. 1182 – 8 tháng 2, 1204) là Hoàng đế Đông La Mã từ tháng 8 năm 1203 đến tháng 1 năm 1204. Ông là con trai của Hoàng đế Isaakios II Angelos và người vợ đầu tiên với cái tên Palaiologina, về sau đi tu pháp danh là Eirene. Người chú bên nội của ông chính là Hoàng đế Alexios III Angelos.
Sống lưu vong.
Thái tử Alexios bị cầm tù vào năm 1195 khi Alexios III đem quân lật đổ Isaakios II trong một cuộc binh biến. Năm 1201, hai thương nhân thành Pisa đã được phe cánh Isaakios bỏ tiền ra thuê để lén chở Alexios rời khỏi Constantinopolis tới nương náu chỗ Đế quốc La Mã Thần thánh cùng với người em rể Philipp xứ Schwaben, Vua nước Đức. | wiki |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.