title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Nuôi cá sấu | Vùng Louisiana, Mỹ là nơi sinh sống chủ yếu của loài cá sấu. Trung bình có khoảng 2 triệu con cá sấu sinh sống ở các vùng đầm lầy xung quanh khu vực này. ở Louisiana, người dân cũng tiến hành nuôi trồng với một số lượng lớn. Việc đánh bắt, giết hại và lột da cá sấu là một công việc quen thuộc của người dân ở Louisiana. cá sấu được bắt lên bờ, dùng băng dính bịt phần miệng hoặc bị bắn ngay lập tức khi mới bắt lên, sau đó, những người thợ sẽ tiến hành lột da. Phần da lột ra sẽ để riêng, cung cấp cho các cơ sở thuộc da, còn phật thịt sẽ được mang đi tiêu thụ. Ngành công nghiệp đánh bắt và nuôi trồng cá sấu ở Louisiana phát triển rất thuận lợi. Lợi nhuận thu về từ công việc này từng tăng khoảng 50 triệu USD. Nhưng khoảng thời gian gần đây, do khủng hoảng kinh tế nên phần lợi nhuận này đã bị giảm sút, ảnh hưởng khá nhiều đến cuộc sống của người dân địa phương.
Ở châu Phi, Các chương trình chăn nuôi cá sấu sông Nin để lấy da đã được thực hiện với kết quả tốt trong khu vực này và thậm chí các quốc gia có hạn ngạch cho xuất khẩu cũng dịch chuyển sang việc chăn nuôi cá sấu. Năm 1993, 80.000 cá sấu sông Nin đã được sử dụng để sản xuất da, chủ yếu từ chăn nuôi ở Zimbabwe và Nam Phi. Ngoài ra, Một số địa điểm nuôi cá sấu nổi tiếng như Puerto Princesa ở Philippines... | wiki |
Nuôi cá sấu | Ở Việt Nam, phong trào nuôi cá sấu đã phát triển khá rầm rộ ở một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh cá sấu đang được nhiều người chọn nuôi vì đây là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao và giúp nhiều người thoát nghèo. Một số liệu thống kê cho biết, tổng đàn cá sấu nuôi tại 3 tỉnh Đồng Tháp, An Giang và Long An khoảng 72.000 con, riêng tại Bạc Liêu lên đến 320.000 con và được gọi là thủ phủ của cá sấu. Đã có hàng ngàn hộ gia đình nuôi cá sấu nhưng đến nay cả nước chỉ có một vài trại nuôi cá sấu được phép xuất khẩu, đã có 125 trại hoặc hộ gia đình nuôi cá sấu đã đăng ký với chi cục kiểm lâm các địa phương. Còn số hộ gia đình nuôi cá sấu nhưng chưa đăng ký có thể lên đến hàng ngàn. Tại Thành phố Hồ Chí Minh có 53 tổ chức, cá nhân nuôi cá sấu với tổng đàn gần 173.000 con các loại trong đó có trại nuôi lên đến 20.000 con với khoảng 2.000 con đang đẻ và các trại nuôi với khoảng 30.000 con tại các xã quanh địa bàn huyện Củ Chi. Một trang trại ở Lạng Sơn có khoảng 400 con cá sấu, trong số đó 200 con có thể xuất khẩu ngoài ra cá sấu con được nuôi tại một số nơi ở Cần Thơ hoặc Sóc Trăng. | wiki |
Nuôi cá sấu | Nuôi cá sấu từng giúp nhiều hộ gia đình ở Việt Nam vươn lên khá, giàu nhưng có thời điểm cá sấu cũng đang chịu cảnh rớt giá. Nuôi cá sấu còn gặp nhiều khó khăn và bất cập do sản phẩm không có đầu ra. Cá sấu thương phẩm được xuất mạnh qua Trung Quốc theo con đường tiểu ngạch, vì người dân ở đây thích ăn thịt cá sấu còn nguyên da và đầu ra phần lớn phụ thuộc vào Trung Quốc. Một ước tính toàn tỉnh Cà Mau có khoảng 4.000 - 5.000 con cá sấu có trọng lượng từ 30 kg/con trở lên chưa bán được. Nhiều người cho rằng đây là một chiêu trò thâm độc của thương lái Trung Quốc trong việc thu mua cá sấu của người nông dân. Tại khu vực xung quanh hồ Trị An ở huyện Định Quán và huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai đang rộ lên phong trào nuôi cá sấu đến mức nuôi cá sấu dễ như nuôi heo, cá sấu đang là con cá vàng giúp người nông dân thoát nghèo.
Kỹ thuật nuôi.
Cá sấu là loài dễ nuôi, hoàn toàn sinh sản và nuôi lớn lên từ trong trại nuôi, nguồn thức ăn chủ yếu là cá biển có giá thành thấp. Đến 80% giá trị của cá sấu nằm ở bộ da, hơn 10% từ thịt, còn lại là từ xương dùng để nấu cao, ngoài ra, nuôi cá sấu còn có thể kết hợp kinh doanh du lịch. Nhiều người thiết kế hệ thống nuôi cá sấu liên hoàn, kết hợp giữa cá sấu với các vật nuôi khác như gà, ếch, lợn, cá và cây ăn quả để tự giải quyết nguồn thức ăn cho cá sấu, tăng chất lượng sản phẩm và hạn chế chi phí không cần thiết. | wiki |
Nuôi cá sấu | So với việc nuôi các con vật truyền thống lâu nay, thì cá sấu có nhiều ưu thế hơn, bởi cá sấu ít bệnh, ăn các loại thức ăn tạp, có giá thành rẻ, như cá mè, cá rô phi, cá trôi, lòng lợn, lòng bò, gà công nghiệp quá hạn sử dụng, nguồn thức ăn cho cá sấu ở miền núi cũng rất sẵn, kể cả khoai, mì, ngô hay các loài thú hoang nhỏ. Cá sấu ăn vào buổi chiều, thức ăn chủ yếu là cá rô. Nuôi cá sấu khó ở mỗi khâu chăm sóc con giống. Trong khoảng thời gian 1 năm đầu, cá cần được chăm sóc kỹ lưỡng về thức ăn (thức ăn phải được cắt nhỏ), vệ sinh chuồng trại, để ý đến sự thay đổi của thời tiết mà ngừa bệnh và trị bệnh. Khoảng 1 năm trở lên, cá phát triển nhanh chóng. Sau 20 tháng trở lên, cá đạt trọng lượng từ 15–20 kg/con, có thể xuất bán.
Vào mùa cá sấu đẻ, mỗi năm chúng chỉ tập trung đẻ một lần từ khoảng tháng 3 đến tháng 5 sẽ chấm dứt, các ổ trứng được đưa vào lò ấp công nghiệp để xử lý cho nở đồng loạt thành đàn cá sấu con đây là công đoạn khó khăn. Ngoài ra có thể gặp rủi ro khi dưỡng da cho cá sấu bởi nếu phần da bụng cá sấu bị trầy xước sẽ làm mất giá trị khi chế biến hoặc những con cá sấu trong quá trình nuôi nhốt tập thể, chúng cắn nhau bị rách, hư da.
Nguy cơ. | wiki |
Nuôi cá sấu | Nguy cơ.
Do bản chất hoang dã có tính dữ và có tính sát thương lớn nên trong suốt quá trình nuôi cá sấu phải đề phòng nguy hiểm cho con người, khi người chăn nuôi bước vào, mặc dù đứng ngoài lồng, có lưới sắt bảo vệ nhưng cũng phải né, thấy hơi người là cả đàn sạp vào cắn tới tấp, không có kỹ thuật thì nguy hiểm bình thường cá sấu chỉ ăn và ngủ, nhưng khi thấy có động tĩnh lạ hoặc bị trêu (ném, chọc, nhử đồ ăn quá lâu) thì sẽ rất nguy hiểm, chúng lao ra khỏi lớp rào thép. Ngoài ra, nguy cơ sổng chuồng của cá sấu tại các điểm nuôi là rất có khả năng xảy ra. Cá sấu sống theo bầy, một chuồng nuôi đến vài chục, thậm chí vài trăm con. Mỗi khi cho cá ăn hay vệ sinh chuồng trại, cá thường tập trung vào góc chuồng, chúng nằm chồng lên nhau và cùng bám vào lưới B40, nếu việc này lặp lại nhiều lần, lưới sẽ bị gãy, nếu người nuôi không chú ý thì cá sấu có thể thoát ra ngoài. | wiki |
Nuôi cá sấu | Ở Cà Mau, các hộ dân nuôi cá sấu đa số những hộ nuôi quy mô nhỏ, chuồng trại đều không bảo đảm an toàn. Phần lớn diện tích chỉ từ 8 – 12 m2 nhưng số lượng nuôi từ 10-20 con cá sấu, mật độ như quá dày, hạn chế sự phát triển của cá. Đối với loại cá từ 1 năm tuổi trở lên, nguy cơ chuồng trại bị vỡ rất cao. Đặc điểm của cá sấu là rất khỏe khi chuồng trại hẹp, cá sấu thường cấu xé nhau để tranh ăn rất quyết liệt. Những lúc như vậy, chuồng hay bị vỡ, ảnh hưởng tới sự an toàn của những người dân xung quanh, người nuôi cá sấu phải ý thức được đây là loài động vật hoang dã rất hung dữ, một khi cá sấu xổng chuồng thì đe dọa tới an toàn tính mạng của con người. Tại Đồng Nai có hai vụ cá sấu sổng chuồng và lọt xuống hồ Trị An khiến người dân bất an, lo lắng.
Chỉ trích.
Tổ chức quốc tế Những người tranh đấu cho sự đối xử có đạo đức với động vật (PETA) công bố cuối năm 2016 một video mô tả điều họ gọi là: "Cái giá thật của "hàng xa xỉ" làm từ da cá sấu nuôi và giết ở Việt Nam". Trong đoạn video quay vào tháng 3 và 4 năm 2016, PETA cho biết hình ảnh quay tại hai trong số các trang trại cung cấp da cá sấu cho LVHM–công ty mẹ của Loius Vuitton và một vài thương hiệu lớn khác PETA tố cáo các điều kiện xấu nuôi nhố, cho biết tại một trang trại: | wiki |
Câu lệnh trả về | Câu lệnh trả về
Trong lập trình máy tính, câu lệnh trả về (tiếng Anh: "return statement") sẽ khiến sự thực thi dừng chương trình con hiện tại và trở về lại lập tức vào thời điểm trong mã sau khi chương trình con đó được gọi, được gọi là địa chỉ trả về ("return address"). Địa chỉ trả về được lưu, thường ở trong chồng gọi của tiến trình, như là một phần của toán tử tạo lời gọi chương trình con. Trong nhiều ngôn ngữ, câu lệnh trả về cho phép hàm xác định một giá trị trả về ("return value") sẽ được truyền lại cho mã gọi hàm đó.
Tổng quan.
Trong C++, codice_1 (với codice_2 là một biểu thức) là một câu lệnh để lệnh cho hàm trả về thực thi của chương trình tới hàm gọi nó, và báo cáo giá trị của codice_2. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Kì thi trung học phổ thông quốc gia (viết tắt: kì thi THPT quốc gia hoặc THPTQG) là một sự kiện cũ của ngành giáo dục Việt Nam, được bắt đầu tổ chức vào năm 2015 và tổ chức lần cuối cùng vào năm 2019. Gộp lại từ hai kì thi là Kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông và Kì thi tuyển sinh đại học và cao đẳng, kì thi này xét cho thí sinh hai nguyện vọng: tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng, nhằm giảm bớt tình trạng luyện thi, học tủ, học lệch và giảm bớt chi phí.
Để tham dự kì thi này, thí sinh phải thi ít nhất 4 bài thi gồm 3 bài thi độc lập bắt buộc là Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ đối với học sinh THPT, 2 bài thi độc lập bắt buộc là Toán, Ngữ văn đối với học sinh GDTX và một bài thi tổ hợp: Khoa học tự nhiên (Vật lí, Hóa học, Sinh học) và Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân). Hình thức thi và lịch thi theo hướng dẫn hằng năm của Bộ Giáo dục Việt Nam. Ngày 26 tháng 2 năm 2015, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã ban hành Quy chế thi của kì thi này. Quy chế thi đã được sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn từng năm. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Kể từ năm 2020, do những tác động từ đại dịch COVID-19 đến việc dạy và học ở các nhà trường, đồng thời xuất hiện những kì thi tuyển sinh mới do các đại học, trường đại học tổ chức riêng như Đánh giá năng lực hay Đánh giá tư duy, kì thi THPT quốc gia ngừng tổ chức, thay thế là kì thi tốt nghiệp THPT được tổ chức trở lại với cách thức tổ chức gần giống với kì thi THPT quốc gia và mang mục đích chính là xét tốt nghiệp THPT. Các trường đại học vẫn có thể sử dụng kết quả thi tốt nghiệp làm căn cứ tuyển sinh đại học.
Hoàn cảnh ra đời.
Ở Việt Nam, năm 2014 về trước (trước khi hai kì thi tốt nghiệp phổ thông và tuyển sinh đại học gộp làm một), thì tình trạng luyện thi đại học, học tủ, học lệch vẫn là một vấn đề nhức nhối và rất được sự quan tâm của dư luận. Nguyên Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, Nguyễn Thiện Nhân lúc còn tại vị cũng phải nói lên rằng "Còn thi đại học, còn lò luyện thi".
Ý định tổ chức một kì thi quốc gia chung tại Việt Nam đã từng được ấp ủ và lấy ý kiến từ năm 2009 và có thể tổ chức lần đầu vào năm 2010, nhưng do chưa chuẩn bị đầy đủ nên các nhà làm giáo dục Việt Nam đành phải hoãn lại, mặc dù 90% các nước trên thế giới đã tổ chức kì thi "2 trong 1" này. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Tuy nhiên, mầm mống cho việc tổ chức một kì thi quốc gia chung tại Việt Nam lại được nhắc đến từ năm 2014, khi Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép thí sinh thi tốt nghiệp với 4 môn, trong đó Toán và Ngữ văn là 2 môn bắt buộc. Tháng 8 năm 2014, khi tổ chức xong kỳ thi đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã tổ chức lấy ý kiến dư luận về kì thi này. Sau khi được đông đảo nhân dân và dư luận ủng hộ, ngày 9 tháng 9 năm 2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam chính thức chốt phương án thi quốc gia kể từ năm 2015 và năm đầu tổ chức là từ ngày 1 tháng 7 đến 4 tháng 7 năm 2015. Quy chế của kì thi này được công bố ngày 26 tháng 2 năm 2015.
Cách thức tổ chức.
Đơn vị tổ chức thi cho thí sinh.
Là các trường Đại học, Cao đẳng, các Học viện, Cục nhà trường thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam và các sở Giáo dục và Đào tạo. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Cách thức tổ chức.
Đơn vị tổ chức thi cho thí sinh.
Là các trường Đại học, Cao đẳng, các Học viện, Cục nhà trường thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam và các sở Giáo dục và Đào tạo.
Với các thí sinh có nhu cầu vừa xét tốt nghiệp, xét tuyển sinh Đại học, Cao đẳng, hoặc chỉ có nhu cầu tuyển sinh vào các trường này, thí sinh phải thi ở cụm thi do các trường đại học chủ trì. Cụm thi này phải có ít nhất thí sinh từ hai tỉnh trở lên và phải đảm bảo điều kiện ăn ở, đi lại của thí sinh. Với các thí sinh chỉ có nhu cầu xét tốt nghiệp thì các em chỉ cần thi ở các cụm do Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì. Cục Nhà trường có quyền hạn như một Sở Giáo dục và Đào tạo. Năm 2016, mỗi tỉnh thành tổ chức một cụm thi đại học và một cụm thi tốt nghiệp. Từ năm 2017, mỗi tỉnh thành chỉ còn một cụm thi duy nhất do Sở GD&ĐT tỉnh/thành đó chủ trì có sự phối hợp của các trường đại học. Điều này tránh được việc thí sinh phải qua tỉnh khác tham gia kì thi.
Đối tượng được tham dự kì thi và trách nhiệm.
Là các thí sinh học hết chương trình Trung học phổ thông hoặc các chương trình tương đương với cấp Trung học phổ thông của Việt Nam; những người chưa có bằng tú tài hoặc những ai đã tốt nghiệp THPT có nguyện vọng tuyển sinh Đại học, Cao đẳng. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Các thí sinh chỉ được mang vào phòng thi bút viết, bút chì, compa, tẩy, thước kẻ, thước tính, máy tính bỏ túi không có chức năng soạn thảo văn bản và không có thẻ nhớ; Atlat Địa lí Việt Nam đối với môn thi Địa lí (do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành, không được đánh dấu hoặc viết thêm bất cứ nội dung gì); các loại máy ghi âm và ghi hình chỉ có chức năng ghi thông tin mà không truyền được thông tin và không nhận được tín hiệu âm thanh, hình ảnh trực tiếp nếu không có thiết bị hỗ trợ khác. Đặc biệt là càng không được mang tài liệu hay điện thoại di động vào phòng thi vì cách ra đề của kì thi này đã đổi mới nên dù có mang vào cũng không sử dụng được và nếu bị phát hiện sẽ bị đình chỉ thi.
Điểm thi và cách thức xét tốt nghiệp.
Điểm xét tốt nghiệp Trung học phổ thông là 5 điểm trở lên. Nó được tính với tổng điểm 4 môn thi, điểm trung bình cả năm lớp 12, điểm khuyến khích và điểm ưu tiên (nếu có) qua công thức: lấy tổng điểm của 4 bài thi cộng điểm khuyến khích tất cả chia 4 rồi nhân 7, rồi cộng với điểm trung bình cả năm lớp 12 nhân 3; sau đó lấy tổng trên chia 10 và cộng với điểm ưu tiên (nếu có). Điểm xét tốt nghiệp được lấy đến 2 chữ số thập phân, do phần mềm máy tính tự động thực hiện. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Bộ Giáo dục và Đào tạo độc quyền công bố điểm thi. Mỗi thí sinh được cấp 4 Giấy chứng nhận kết quả thi, bao gồm một giấy chứng nhận cho nguyện vọng 1 và ba giấy chứng nhận cho các nguyện vọng còn lại. Từ năm 2016, mỗi thí sinh chỉ được cấp một giấy chứng nhận kết quả thi với mã số xác định.
Hình thức thi.
Đề thi.
Thông thường, mỗi môn thi có đề thi chính thức và đề thi dự bị được sử dụng khi có sự cố; kèm theo hướng dẫn chấm, thang điểm, đáp án và được quản lí với độ bảo mật cao.
Đề thi phải đảm bảo phân loại trình độ của thí sinh, vừa đảm bảo đủ để thí sinh dễ tốt nghiệp trung học phổ thông vừa chọn được các em khá, giỏi vào đại học, cao đẳng. Thông thường, đề có 50% mức độ nhận biết, thông hiểu và 50% mức độ vận dụng và vận dụng cao.
Hình thức thi, cách làm bài và tổng quan đề thi.
Thông thường, các môn Toán, Ngữ văn, Lịch sử và Địa lí thi theo hình thức tự luận, các môn Vật lí Hóa học, Sinh học thi theo hình thức trắc nghiệm. Với môn Ngoại ngữ, có năm chỉ làm trắc nghiệm, có năm thêm phần tự luận (viết). Với phần tự luận, thí sinh phải làm bài vào tờ giấy thi và trắc nghiệm làm vào phiếu trả lời trắc nghiệm. Tùy từng năm mà hình thức thi có thể thay đổi.
Từ năm 2017, các bài thi Toán, Khoa học tự nhiên (Vật lí, Hóa học, Sinh học), Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân), Ngoại ngữ thi theo hình thức trắc nghiệm, môn Ngữ văn thi theo hình thức tự luận. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Bài thi Ngữ văn được chia làm hai phần. Phần Đọc hiểu cho một đoạn ngữ liệu cho sẵn yêu cầu thí sinh phải thực hiện 4 yêu cầu bên dưới, tổng 3 điểm. Phần Làm văn có 2 câu hỏi, một câu 2 điểm yêu cầu thí sinh viết một đoạn văn nghị luận về một vấn đề, thường sẽ có liên quan tới ngữ liệu trước đó, một câu 5 điểm yêu cầu thí sinh nghị luận về một vấn đề văn học.
Bài thi tổ hợp gồm 3 môn thi thành phần. Mỗi môn thi có 40 câu hỏi với 0,25 điểm một câu, thời gian làm bài là 50 phút. Các môn thi thành phần trong bài thi tổ hợp sẽ được làm liên tiếp nhau, mỗi môn cách nhau 15 phút.
Với bài thi Ngoại ngữ, thí sinh có thể lựa chọn thi một trong các môn Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Đức, Tiếng Nhật, Tiếng Nga, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Hàn.
Môn thi và cách chọn.
Năm 2015 và 2016. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Với bài thi Ngoại ngữ, thí sinh có thể lựa chọn thi một trong các môn Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Đức, Tiếng Nhật, Tiếng Nga, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Hàn.
Môn thi và cách chọn.
Năm 2015 và 2016.
Trong 2 năm đầu (chưa thi theo bài tổ hợp), thông thường môn Lí là môn có số lượng đăng kí dự thi đông nhất bởi chỉ cần thi thêm môn này, thí sinh đã có thể xét tuyển vào các khối D, A1. Hơn nữa, môn này thường là môn thi trắc nghiệm nên có thể ăn may khi gặp câu hỏi khó và dễ lấy điểm cao. Môn Sử có tình trạng ngược lại khi rất ít thí sinh chọn thi. Có những trường "trắng" học sinh thi sử. Điều này đã chứng minh cho cách dạy và học sử của các trường tại Việt Nam trong nhiều năm: Ép buộc học sinh học thuộc quá nhiều, nhớ chi tiết từng con số, sự kiện. Đó là cách chọn môn thi của hàng nghìn thí sinh miền xuôi, ở thành phố. Tuy nhiên, ở vùng núi và hải đảo có rất nhiều vùng có tỉ lệ thí sinh chọn sử rất cao còn vật lí thì ngược lại. Các môn Sinh học, Địa lí và Hóa học có thí sinh lựa chọn tương đối đồng đều. Ông Vũ Minh Quang cho rằng việc học sinh ít chọn môn Sử là thuộc trách nhiệm của người dạy.
Từ năm 2017 đến 2019. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Từ năm 2017 đến 2019.
Thí sinh phải thi 4 bài thi, gồm 3 bài thi bắt buộc là Toán, Ngữ văn và Ngoại ngữ cùng một bài tự chọn trong số các bài thi còn lại: Khoa học tự nhiên (Vật lí, Hóa học, Sinh học); Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lí, GDCD với THPT và Sử - Địa với GDTX). Để xét tuyển sinh Đại học có thể đăng kí dự thi thêm các môn phù hợp với tổ hợp khối xét tuyển. Thí sinh không được học môn Ngoại ngữ hoặc học trong điều kiện không đảm bảo chất lượng được Giám đốc sở Giáo dục và Đào tạo xem xét, quyết định cho phép thí sinh chọn môn thi thay thế môn Ngoại ngữ trong số các môn tự chọn.
Với cách chọn này, bài thi KHXH cùng môn Sử - Địa - GDCD đã lên ngôi, vượt các môn KHTN bởi chuyển sang thi theo hình thức trắc nghiệm.
Nhận xét.
Năm 2015 mới là năm đầu tiên tổ chức một kì thi quốc gia chung tại Việt Nam nhưng nó đã vấp phải nhiều ý kiến trái chiều từ các nhà làm giáo dục, các chuyên gia Việt Nam và một số giáo sư, tiến sĩ của các nước khác.
Mặt tích cực. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Mặt tích cực.
Kì thi này đã lồng ghép sự công bằng, khách quan, nghiêm túc của kì thi đại học cùng với sự nhẹ nhàng của kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông, làm cho cả hệ thống chính trị, các trường đại học và sở giáo dục đào tạo đều cùng vào cuộc tổ chức. Với việc đổi mới cách ra đề, thí sinh có thể tập trung ôn thi các môn chính để tuyển sinh đại học, hơn nữa cũng không phải học thuộc lòng, ghi nhớ máy móc ở các môn Văn, Sử, Địa. Thay vì phải nhiều lần đưa con đi quá xa để dự thi hết các kì thi, các bậc phụ huynh chỉ phải đi xa đúng một lần và giảm bớt chi phí xăng xe, đi lại. Hơn nữa cũng phần nào giảm bớt chi phí tổ chức, in ấn và tình trạng luyện thi đại học tràn lan. Đặc biệt, từ năm 2017 hầu hết các môn thi được chuẩn hóa thi theo hình thức trắc nghiệm, giúp kiểm tra được khối lượng kiến thức rộng, tránh học vẹt học tủ.
Mặt yếu kém. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Mặt yếu kém.
Kì thi này vẫn còn những tồn tại cần phải khắc phục. Trong năm 2015, nhiều thí sinh vùng núi dự thi đại học vẫn phải đi lại xa để dự thi do hình thức tổ chức theo cụm chỉ tổ chức các điểm thi ở tỉnh có trường đại học chủ trì cụm thi. Việc này cũng dẫn đến ách tắc giao thông ở các thành phố lớn. Hơn nữa, nếu có thí sinh phải thi cả tám môn thì dễ bị đuối sức, mệt mỏi ở các buổi thi cuối. Rất nhiều trường đại học thêm nhiều tổ hợp mới, làm cho cách xét điểm sàn khó khăn. Tỉ lệ tốt nghiệp năm đầu tiên tổ chức đạt gần 92% nhưng nhiều chuyên gia vẫn khẳng định chưa phản ánh đúng thực chất. Phổ điểm thì không thể hiện rõ số thí sinh bị điểm liệt, và chỉ là "một nửa sự thật" Việc có nhiều điểm liệt môn Ngoại ngữ đã được dự báo trước bởi thực tế việc học và giảng dạy ngoại ngữ ở bậc phổ thông của Việt Nam rất yếu. Ngoài ra, việc có nhiều điểm liệt đã phản ánh được thực chất thực trạng dạy và học, theo đó vẫn có nhiều học sinh lười học, tư tưởng chủ quan, ỉ lại vào những sự trợ giúp từ xung quanh; với sự phân ban, các em vẫn sẽ chỉ chú trọng những môn học mình thi. Ông Đào Trọng Thi cho rằng việc tổ chức thi tốt nghiệp riêng là không cần thiết khi mà tỉ lệ đậu tốt nghiệp quá cao. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Năm 2017 là năm đầu tiên các môn được tổ chức thi trắc nghiệm, việc xuất hiện hàng nghìn điểm 10 và điểm sàn nhiều trường (lấy kết quả thi THPT quốc gia) lên rất cao (29-30 điểm vẫn trượt đại học) khiến dư luận cho rằng đề thi trắc nghiệm quá dễ, khó phân loại học sinh và lắm rủi ro (khoanh bừa, hoặc tô phiếu TLTN chưa đúng kỹ thuật). Năm 2018, đề thi một số môn được phản ánh là quá khó, nhiều chuyên gia cũng gặp khó khăn khi giải đề, và phổ điểm một số môn thấp đặc biệt là lịch sử và ngoại ngữ. Khâu chấm thi xuất hiện tiêu cực tại một số tỉnh miền núi.
Bê bối.
Gian lận điểm thi năm 2018.
Năm 2018, kì thi xuất hiện hàng loạt sai phạm trong công tác chấm thi dẫn đến việc nâng điểm cho thí sinh trên quy mô lớn ở nhiều địa phương như Hà Giang, Sơn La và Hòa Bình. Khiến nhiều em học thật không thể vào trường. Tổng số thí sinh bị phát hiện gian lận là 222 thí sinh và đã bắt 16 nghi phạm liên quan đến vụ gian lận.
Thay đổi qua các năm.
2019.
Sau vụ gian lận thi cử năm 2018, Bộ GD và ĐT đã có những thay đổi quan trọng nhằm tránh lặp lại sai phạm nghiêm trọng này, ngoài thay đổi nội dung thi chủ yếu là nội dung học Lớp 12, đảm bảo năng lực và phù hợp cho học sinh phổ thông thì còn có nhiều thay đổi khác, cụ thể:
Ngừng tổ chức. | wiki |
Kỳ thi trung học phổ thông quốc gia | Ngừng tổ chức.
Từ năm 2020, do những tác động từ đại dịch COVID-19 đến việc dạy và học ở các trường, đồng thời xuất hiện những kì thi tuyển sinh mới do các đại học, trường đại học tổ chức riêng như Đánh giá năng lực hay Đánh giá tư duy, kì thi THPT quốc gia trở lại là kì thi tốt nghiệp THPT với cách thức tổ chức tương tự kì thi THPT quốc gia nhưng với mục đích chính là xét tốt nghiệp THPT. Các trường đại học vẫn có thể sử dụng kết quả thi tốt nghiệp làm căn cứ tuyển sinh đại học. | wiki |
Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa V | Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa V
Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa V () là Ủy ban Trung ương Đảng do Đại hội Đại biểu Toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ V bầu ra. Ủy ban Chấp hành có nhiệm kỳ từ 5/1927 đến 7/1928.
Cục Chính trị.
Hội nghị Toàn thể Trung ương khóa V lần thứ nhất đã bầu các ủy viên sau
Ủy viên Trung ương.
Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khoá V được bầu ra tại Đại hội lần thứ V gồm 47 ủy viên với 33 uỷ viên chính thức và 14 uỷ viên dự khuyết. Ủy viên Trung ương gồm các ủy viên sau: | wiki |
Gioan đảo Patmos | Gioan đảo Patmos (còn gọi là Gioan Người mặc khải hay Gioan Nhà thần học; Hy Lạp: Ἰωάννης ὁ Θεολόγος) là tên được đặt cho tác giả giả định của Sách Khải huyền, cuốn sách cuối cùng của Tân Ước. Sách Khải huyền nói rằng tác giả được gọi là Gioan và ông sống trên hòn đảo Patmos của Hy Lạp, nơi mà một số người đang lưu vong trong cuộc bức hại chống lại Cơ đốc giáo dưới thời hoàng đế La Mã Domitianus.
Theo truyền thống, tác giả của Khải huyền được coi là Gioan Tông đồ, đồng thời cũng là tác giả Phúc âm Gioan. Tuy nhiên, một số người khác thì xác định tác giả là John the Elder (Gioan Trưởng lão) và nhiều học giả hiện đại tin rằng sách đã được viết bởi một tác giả không biết rõ, người mà họ gọi là "Gioan đảo Patmos".
Tác giả Sách Khải huyền. | wiki |
Gioan đảo Patmos | Tác giả Sách Khải huyền.
Tác giả Sách Khải huyền chỉ tự gọi mình là "Gioan". Do đó theo truyền thống, người này cùng với Gioan Tông đồ và Gioan viết Phúc âm thường được cho là cùng một người. Một nhà văn trong những năm đầu thế kỷ 2, Justin Tử đạo, lần đầu tiên đánh đồng tác giả của Khải huyền với Gioan Thánh sử. Các tác giả Cơ Đốc khác, chẳng hạn như Dionysius của Alexandria và Eusebius của Caesarea, chú ý sự khác biệt về ngôn ngữ và quan điểm thần học giữa tác phẩm này và Phúc âm, làm giảm khả năng và loại trừ ý kiến Sách Khải huyền chung tác giả với Phúc âm. Giả thuyết rằng Tông đồ Gioan cũng là tác giả của Sách Khải huyền hiện nay đã bị bác bỏ rộng rãi trong giới học thuật hiện đại. Nhà văn Kitô giáo Papias của Hierapolis trong các tác phẩm của mình đã phân biệt giữa Tông đồ Gioan và John the Elder, người được nhiều học giả Kinh thánh cho rằng là tác giả của Khải huyền.
Đến đảo Patmos. | wiki |
Gioan đảo Patmos | Đến đảo Patmos.
Gioan được cho là bị đày đến Patmos, trải qua một thời gian khủng bố dưới sự cai trị của hoàng đế La Mã Domitian. Adele Yarbro Collins, một học giả Kinh thánh tại Trường Thần học Yale, viết:Truyền thống nói rằng Gioan đã bị trục xuất đến Patmos bởi chính quyền La Mã. Điều này là đáng tin cậy vì trục xuất là một sự trừng phạt phổ biến được sử dụng trong thời đó cho một số tội phạm. Một số những hành vi phạm tội là hành vi phép thuật và chiêm tinh học. Tiên tri được những người La Mã xem như thuộc cùng một thể loại tội phạm, cho dù đó là người ngoại đạo, người Do Thái, hay Kitô hữu. Lời tiên tri mang ý nghĩa chính trị, như thể hiện của Gioan trong Sách Khải huyền, sẽ bị coi là một mối đe dọa đối với quyền lực và trật tự chính trị La Mã. Ba trong số các hòn đảo ở Sporades là những nơi mà tội phạm chính trị bị trục xuất. (Pliny, "Lịch Sử Tự Nhiên" 4.69–70; Tacitus, "Biên niên sử" 4.30)Gioan bị trục xuất đến đảo của Hy Lạp là Patmos, nơi được cho là ông đã viết "Sách Khải huyền". Theo Tertullian (trong "The Prescription of Heretics"), Gioan đã bị trục xuất (có lẽ đến Patmos) sau khi bị bỏ vào dầu sôi ở Rome mà không bị gì, tất cả người chứng kiến việc kì diệu này đã cải đạo sang Kitô giáo ngay sau đó. Sự kiện này có lẽ xảy ra vào cuối thế kỷ thứ 1, dưới thời trị vì của hoàng đế Domitian. | wiki |
Giải vô địch bóng ném bãi biển Đông Nam Á | Giải vô địch bóng ném bãi biển Đông Nam Á
Giải vô địch bóng ném bãi biển Đông Nam Á là một giải đấu bóng ném bãi biển quốc tế được tranh tài bởi các đội tuyển quốc gia đến từ Đông Nam Á.
Lịch sử.
Giải đấu đầu tiên bao gồm hai nội dung riêng cho các đội tuyển quốc gia nam và nữ được tổ chức tại Dumaguete, Philippines tại Đại lộ Rizal. Giải đấu được tổ chức từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 11 năm 2017 , được tổ chức trong một thông báo ngắn với Thái Lan và Việt Nam được mời tham gia. Việt Nam giành cả chức vô địch nam và nữ trong giải đấu đầu tiên. | wiki |
Quái vật Fouke | Quái vật Fouke hay người lông Fouke là một sinh vật bí ẩn được mô tả dưới dạng sinh vật dạng người lưu truyền ở nước Mỹ. Bí ẩn quái thú người lông cai quản rừng xanh gây kinh hãi ở Mỹ và tạo ra những tranh cãi về thực hư về sinh vật này vẫn là một bí ẩn còn bỏ ngỏ. Từ thập niên 30 của thế kỷ XX, những câu chuyện, bằng chứng được đưa ra về một sinh vật khổng lồ chứa đựng nhiều bí ẩn ở thị trấn Fouke, Arkansas thuộc nước Mỹ hay đem lại niềm hứng thú cho các nhà khoa học. Những tưởng đây chỉ là câu chuyện vui nhưng nó đã trở thành sự thật từ thập niên 30 của thế kỷ XX.
Mô tả.
Ở Arkansas, đã từ rất lâu rồi từng lưu truyền một câu chuyện kể về một quái thú to lớn mang hình hài con người nhưng thân phủ đầy lông lá. Dân quanh vùng gọi nó là hầu thần cai quản rừng xanh, chứa đầy quyền phép. Chính bởi trọng trách nặng nề đó mà sinh vật này dữ tợn vô cùng, nó sẵn sàng tiêu diệt bất cứ ai dám xâm phạm nơi nó đang sống. Sinh vật bí ẩn này được miêu tả có ngoại hình to lớn, toàn thân lông lá, đứng trên hai chân sau, đi thẳng và có thân hình to như gấu nhưng rất nhanh nhẹn. Đây là sinh vật khổng lồ mang dáng vẻ kỳ dị, nó là con quái vật to lớn, kỳ dị ở Fouke. | wiki |
Quái vật Fouke | Trong một lần dạo chơi, cậu nhóc thấy một sinh vật trần truồng, thân hình lông lá, cao to, có tay rất dài đang uống nước trong hồ. Con vật rất nhút nhát, khi vừa thấy con người liền chạy đi mất. Một mô tả khác cho thấy nó là một sinh vật giống một con khỉ với kích thước của một con gấu. Nó có các dấu chân ba ngón trên nền đất. Bằng chứng rõ nhất về sự hiện diện của quái vật Fouke là những dấu chân kỳ lạ. Nếu nói rằng, quái vật Fouke mang hình người thì nó phải thuộc họ hàng của linh trưởng. Nhưng ở đây, nhân chứng miêu tả quái vật Fouke chỉ có ba ngón chân, khác xa với các loài thú linh trưởng hiện nay - bàn chân có 5 ngón.
Ghi nhận.
Vào một đêm năm 1932, một người dân ở thành phố Fouke, Arkanas bất ngờ nghe thấy tiếng kêu thảm thiết của gia súc trong trang trại nhà mình. Ngay lập tức, chủ trang trại chạy nhanh ra và trong đêm tối, ông lờ mờ phát hiện một con vật lông lá đang cắn vào cổ một con cừu. Thấy bị phát hiện, con quái thú kia chạy nhanh ra khỏi trang trại. Năm 1946, khi đang đi dạo gần ngoại ô thị trấn Fouke, một phụ nữ nhìn thấy một sinh vật kỳ lạ băng nhanh qua đường.
Sinh vật khổng lồ này xuất hiện quanh thị trấn Fouke. Năm 1955, tờ báo địa phương Victoria Advocate đăng tải cuộc phỏng vấn với một thợ săn trong vùng. Ông miêu tả lại cuộc chạm trán đặc biệt với nó. Ông bắn trúng vài phát đạn nhưng con vật vẫn còn đủ sức để chạy trốn vào sâu trong rừng. Trong cuốn sách The Apes Among Us còn ghi nhận sự xuất hiện của sinh vật này qua lời kể của một cậu bé. | wiki |
Quái vật Fouke | Các báo cáo này chỉ là số ít trong rất nhiều lần con người chạm trán với quái vật từ năm 1930, tuy nhiên hầu hết các nhân chứng chỉ thấy con vật ở khoảng cách xa, hay trong đêm tối. Chính vì vậy, cảnh sát bỏ qua những báo cáo kiểu này và cho rằng, đây chỉ là trò lừa đảo của một vài cá nhân mong muốn nổi tiếng. Nhưng, đến năm 1971, cảnh sát cũng phải thay đổi thái độ về con quái vật hình người ở thị trấn Fouke.
Đêm ngày 1 tháng 5 năm 1971, hai vợ chồng trẻ tuổi tên là Bobby và Elizabeth Ford gọi điện thoại cho cảnh sát báo cáo về việc bị một sinh vật lạ lao thẳng vào nhà và tấn công. Cô vợ hoảng hốt kể lại với cảnh sát, ban đầu họ nghĩ, con vật kỳ lạ kia chỉ là gấu đang tìm thức ăn ở phía ngoài khu vườn.
Nhưng không, sinh vật này đã lao vào nhà, nhấc bổng Bobby lên cao rồi ném vào tường. May mắn thay lúc đó, trong nhà có anh trai của Bobby là Don, anh ta nhanh tay vớ lấy khẩu súng và bắn vào con vật. Dù không trúng, nhưng âm thanh từ khẩu súng đã làm con vật hoảng sợ, nó nhanh chóng chạy thoát thân vào màn đêm. Tại hiện trường, cảnh sát thu về vô số dấu vết chứng thực câu chuyện kể trên. Đồ đạc trong nhà bị xáo trộn như vừa diễn ra một cuộc chiến khốc liệt, trên tường xuất hiện các vết xước. Trên nền đất ngoài vườn là những dấu chân rất to, bàn chân chỉ có ba ngón, kèm theo một ít lông thú. | wiki |
Quái vật Fouke | Bằng chứng rõ ràng nhất chính là Bobby, một thanh niên khỏe mạnh, nhưng phải nhập viện vì vết thương rất nặng trên lưng. Từ đây, hầu hết mọi người có thể tưởng tượng ra sinh vật mà họ sẽ phải đối đầu đáng sợ như thế nào. Sinh vật được phát hiện một lần nữa vào ngày 23 tháng 5 năm 1971. Lúc đó, DC Woods, Jr, Wilma Woods, RH Sedgass đang đi trên đường cao tốc, gần thị trấn Fouke. Họ bỗng thấy một con khỉ to lớn chạy nhanh qua trước mũi xe, quá hiếu kỳ, cả ba dừng xe và chạy theo vào rừng. Tuy nhiên họ không đuổi kịp, mà chỉ tìm thấy các dấu chân ba ngón trên nền đất.
Những tháng tiếp sau đó, cư dân địa phương và khách du lịch đã phát hiện thêm nhiều dấu vết của con quái vật. Dấu vết nổi tiếng nhất được tìm thấy trong một cánh đồng trồng đậu của một người dân tên Scott Keith, và đó vẫn là những dấu chân 3 ngón khổng lồ. Từ đây, bí ẩn về loài sinh vật này tạo ra một bầu không khí náo nhiệt ở thị trấn Fouke. Ngay sau khi tin tức về nó được truyền đi, có vô số người dân hiếu kì đã đổ về đây để khám phá, tìm hiểu.
Đài phát thanh trong vùng còn đưa ra tiền thưởng hậu hĩnh cho những ai chụp được hình của sinh vật kỳ lạ này. Tuy vậy, mọi bức ảnh được gửi về qua kiểm tra đều là hàng giả. Các nhân chứng nhìn thấy con vật ngày càng nhiều, nhưng đến năm 1986, thị trưởng thành phố Fouke là Virgil Roberts và cựu cảnh sát trưởng Leslie Greer đã tuyên bố, quái vật Fouke hoàn toàn là giả mạo. | wiki |
Quái vật Fouke | Dù vậy, mỗi năm, các báo cáo về quái vật Fouke vẫn đều đặn được ghi nhận. Thậm chí, rất nhiều trang web đưa tin về sinh vật này, những nhân chứng cùng người hiếu kỳ cùng nhau thảo luận sôi nổi. Người dân thị trấn Fouke đều tin con vật có thật, nhưng các nhà khoa học thì luôn hoài nghi về nó. Họ cho rằng, các bằng chứng vật lý như dấu chân, dấu móng vuốt thì rất dễ dàng tạo ra và không chứng tỏ được gì nhiều. Không ít những nhà khoa học bác bỏ sự tồn tại của quái vật Fouke và đây chỉ là trò lừa đảo.
Giả thuyết.
Với những mô tả đó đã tạo ra nhiều câu hỏi cho rằng liệu quái vật này có phải là một con Gigantopithecus còn sót lại từ thời tiền sử. Bên cạnh đó, vẫn có một số ít các nhà khoa học tin rằng quái vật Fouke có thật. Nó chính là hậu duệ của Gigantopithecus là loài vượn người khổng lồ ở Trung Quốc, Ấn Độ, tồn tại từ 5 triệu năm - 100.000 năm trước đây. Các hóa thạch chỉ ra rằng, Gigantopithecus là những loài linh trưởng lớn nhất trong lịch sử. Rất có thể, quái vật Fouke chính là một Gigantopithecus còn sót lại trên Trái đất và cần được con người bảo vệ. | wiki |
Chích đớp ruồi đầu xám | Chích đớp ruồi đầu xám
Chích đớp ruồi đầu xám ("Seicercus valentini") là một loài chim trong họ Phylloscopidae.
Loài này được tìm thấy ở Trung Quốc, Lào, Myanmar và Việt Nam. Môi trường tự nhiên của chúng là ôn đới rừng, rừng ẩm thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.
Chích đớp ruồi đầu xám trước đây được đặt trong chi "Seicercus". Một nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử được công bố vào năm 2018 cho thấy cả "Phylloscopus" và "Seicercus" đều không phải là đơn ngành. Trong lần tái tổ chức tiếp theo, hai chi được hợp nhất thành "Phylloscopus" được ưu tiên theo các quy tắc của Ủy ban Quốc tế về Danh mục Động vật học. Tên cụ thể vinh danh nhà điểu học Nga Valentin Lvovich Bianchi (1857–1920). | wiki |
Tỉnh ủy Nghệ An | Tỉnh ủy Nghệ An
Tỉnh ủy Nghệ An hay còn được gọi Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ tỉnh Nghệ An giữa hai kỳ đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An, do Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh bầu.
Tỉnh ủy Nghệ An có chức năng thi hành nghị quyết, quyết định của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Bí thư và Bộ Chính trị.
Đứng đầu Tỉnh ủy là Bí thư Tỉnh ủy và thường là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Bí thư hiện tại là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Thái Thanh Quý. | wiki |
Tiếng Mân Tuyền Chương | Tiếng Mân Tuyền Chương
Tiếng Mân Tuyền Chương (bắt nguồn từ hai thành phố Tuyền Châu và Chương Châu thuộc vùng Mân Nam ở miền đông nam tỉnh Phúc Kiến), hay còn gọi là "tiếng Đài Loan" hay "tiếng Phúc Kiến" ("Hokkien"), là một nhóm các phương ngôn có thể hiểu lẫn nhau của tiếng Trung Quốc Mân Nam, được sử dụng tại Đông Nam Trung Quốc, Đài Loan, Đông Nam Á, và bởi nhiều người Hoa hải ngoại. Xuất phát từ một phương ngữ tại miền Nam tỉnh Phúc Kiến, tiếng Mân Tuyền Chương có liên hệ gần với tiếng Triều Châu, dù giữa chúng khó có thể thông hiểu qua lại, và nó còn khác biệt nhiều hơn với tiếng Hải Nam. Các loại tiếng Mân khác và tiếng Khách Gia là những phương ngữ khác cũng được dùng tại Phúc Kiến, đa số chúng đều không thể thông hiểu qua lại được với tiếng Mân Tuyền Chương.
Trong lịch sử, tiếng Mân Tuyền Chương từng đóng vai trò là "lingua franca" trong các cộng đồng người Hoa hải ngoại tại Đông Nam Á, và ngày nay nó vẫn là phương ngữ tiếng Hán được nói phổ biến nhất trong khu vực. | wiki |
Hải đăng Sunosaki | Hải đăng Sunosaki
là một ngọn hải đăng nằm ở mũi phía nam của bán đảo Boso, thuộc thành phố Tateyama, Chiba, Nhật Bản.
Ngọn hải đăng Sunosaki bắt đầu chiếu sáng lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 12 năm 1919. giúp điều hướng cho tất cả các tàu đi qua kênh Uraga và vịnh Tokyo, cùng với Ngọn hải đăng Kannonzaki và Tsurugisaki về phía tây trên bán đảo Miura, Ngọn hải đăng Nojimazaki và Sunosaki ở phía đông trên bán đảo Boso.
Công trình là một cấu trúc hình trụ màu trắng có chiều cao 15 mét. Ngọn tháp chính và tòa nhà hỗ trợ đều được làm từ bê tông. Chiều cao tiêu cự của ánh sáng là 45 mét trên mực nước biển.
Video ca nhạc Aitakatta của nhóm AKB48 đã được quay ở đây. | wiki |
Tiền Chung Thư | Tiền Chung Thư (21 tháng 11 năm 1910 - 19 tháng 12 năm 1998) là một nhà văn Trung Quốc.
Ông nổi tiếng với tác phẩm châm biếm "Fortress Besieged". Những tiểu thuyết hiện thực của ông tạo dấu ấn bởi một lượng lớn những câu trích dẫn trong cả ngôn ngữ Trung Hoa và ngôn ngữ phương Tây (bao gồm cả Tiếng Anh, Tiếng Pháp, Tiếng Đức, Tiếng Ý, Tiếng Tây Ban Nha, và Tiếng Latinh). ông cũng có vai trò quan trọng trong việc số hóa các tác phẩm cổ Trung Hoa trong suốt cuộc đời ông.
Cuộc đời.
Thông tin về cuộc đời tuổi trẻ của ông được biết hầu hết thông qua Tiểu luận của vợ ông, bà Dương Quý Khương(Yang Jiang). Sinh ra tại Vô Tích, Tiền Chung Thư là con của trai của Tiền Cơ Bác (tiếng Trung giản thể: 钱基博,một nhà Khổng học theo phái thủ cựu. Theo truyền thống gia đình Chung Thư được nuôi dưỡng bởi người anh lớn nhất của cha mình, một người không lập gia đình. Tiễn ban đầu được đặt tên là Ngưỡng Tiên(仰先- nghĩa là tôn trọng người xưa), với tên tự là Triết Lương(哲良- nghĩa là trí tuệ và chính trực). Tuy nhiên, khi ông được 1 tuổi, theo một truyền thống được thực hiện tại nhiều vùng của Trung Quốc, ông được đưa tới một số món đồ vật trước mặt để ông bắt lấy. ông đã bắt lấy một cuốn sách. Vì vậy, Chú của ông đã đổi tên cho ông là Chung Thư, nghĩa là "yêu thích sách" và Ngưỡng Tiên trở thành tên trong nhà của ông. Tiễn là một đứa trẻ "to mồm". Cha của ông vì vậy đã đổi tên tự của ông thành Mặc Tồn, nghĩa là "Giữ im lặng", với hy vọng là ông sẽ nói ít lại.. | wiki |
Tiền Chung Thư | Cả tên tự và tên chính thức của Tiền đều dự đoán tương lai của ông. Khi mà ông vẫn "to mồm" khi đàm đạo Văn chương với bạn bè nhưng luôn giữ "im lặng" với Chính trị và các hoạt động xã hội trong suốt cuộc đời mình. Nói đúng hơn, Tiễn thật sự yêu thích sách. Khi ông còn nhỏ, Chú của Tiễn thường dẫn ông đến phòng trà suốt cả ngày. Tiễn được bỏ lại một mình để đọc những cuốn truyện cổ tích dân gian và Lịch sử và ông sẽ kể lại nó cho các anh em họ khác khi về nhà.
Khi Tiễn 10 tuổi, chú của ông chết. ông tiếp tục được nuôi dưỡng bởi một người dì góa chồng, mặc dù đời sống rất khó khăn vì gia đình người Dì này ngày càng sa sút. Dưới việc dạy dỗ của cha, ông trở nên am tường văn học cổ Trung Hoa. Tại tuổi 14, Tiễn rời nhà để học nói tiếng Anh tại một ngôi trường ở Suzhou, nơi mà ông bộc lộ năng khiếu về ngôn ngữ. | wiki |
Tiền Chung Thư | Mặc dù thi rớt môn toán học, Tiền vẫn được chấp nhận tại Khoa Ngôn ngữ nước ngoài tại Đại học Thanh hoa vì khả năng tuyệt vời trong môn tiếng Anh và tiếng Hán. Tại Đại học Thanh Hoa, Tiền nhận được sự đánh giá cao của nhiều học giả có tên tuổi, nhưng sống rất khép kín và bị bạn bè cho là kiêu ngạo; một trong số rất ít những người bạn của ông là nhà Trung Quốc học và Thuyết So sánh mới nổi Phương Chí. Tiễn thường xuyên bỏ các tiết học, thay vào đó dành nhiều thời gian tại Thư viện trường, nơi mà ông đã tự cho là "Đọc hết tất cả". ". Trong quãng thời gian ở tại trường Đại học, ông đã hình thành cho mình một thói quen thu thập những câu văn hay và ghi chú lại những điều quan trọng trong quá trình đọc. Cũng tại đây, ông gặp người vợ tương lai của mình, Dương Quý Khương, một nhà viết kịch và dịch giả thành công trong tương lai. Họ kết hôn trong năm 1935. Theo những sự kiện trong Tiểu sử vào những năm sau này của Tiễn, 2 tác phẩm Hồi kí có sự tư vấn của vợ ông. Dương Quý Khương viết "Sự "ngớ ngẩn" của Tiền có thể không xuất hiện trong những cuốn sách, nhưng chắc chắn bộc phát hướng tới nó". Giữa năm 1930, Tiễn dạy tại Đại học Kwanghua ở Thượng Hải và là thành viên sáng lập Tạp chí tiếng Anh "The China Critic". | wiki |
Tiền Chung Thư | Vào năm 1935, Tiễn nhận được học bổng "Boxer Indemnity" để có thể đi du học. Cùng với vợ mình, Tiền chọn học tại Đại học Oxford ở Anh. Sau khi dành 2 năm tại Exeter College, Oxford, ông nhận được tấm bằng Cử nhân Văn chương. Ngay sau khi có con gái đầu lòng là Tiền Viện, được sinh tại Anh vào năm 1937, ông học thêm một năm tại Đại học của Paris ở Pháp. Trong năm 1938, ông trở lại Trung Quốc và được mời làm Giảng viên chính tại trường Đại học Tsinghua, nơi này, vì ảnh hưởng của chiến tranh, đã dời đến Côn Minh(Kunming) thuộc tỉnh Vân Nam và trở thành một phần của Đại học Southwestern United..
Do tình hình không ổn định trong suốt cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và Nội chiến Trung Hoa, Tiễn không có bất kì một công việc chính thức nào. Tuy nhiên, trong những năm từ 1930 và 1940, ông đã viết hầu hết các tiểu thuyết tiếng Trung ở thể loại hiện thực, trong đó có tiểu thuyết "Fortress Besieged" và tuyển tập truyện ngắn "Human, Beast, Ghost" cũng như tuyển tập các Tiểu luận "Written in the Margins of Life". Sau khi Nhật bị thất trận, cuối những năm 1940, ông làm việc cho Thư viện trung tâm Quốc gia, chỉnh sửa các ấn phẩm bằng tiếng Anh, Philobiblon"." | wiki |
Tiền Chung Thư | Trong năm 1949, Tiễn được xếp vào hạng Giảng viên cao cấp và bắt đầu những công trình mang tính Hàn lâm tại trường Đại học ông đã từng học. 4 năm sau, Một số sự điều chỉnh hành chính đã biến đổi Tsinghua thành Học viện Khoa học và kĩ thuật và xã nhập Khoa Nghệ thuật vào Đại học bắc Kinh (PKU). Tiễn không còn phải gánh trách nhiệm dạy học nặng nề nữa mà thay vào đó có thể toàn tâm toàn ý làm việc tại Học viện nghiên cứu Văn học trực thuộc Đại học Peking. ông cũng làm việc trong một nhóm nhỏ phụ trách các bản dịch các tác phẩm văn học và Thơ của Mao trạch đông.
Trong cuộc cách Mạng văn Hóa, cũng giống như nhiều trí thức nổi bật cùng thời, Tiễn chịu nhiều hành hạ về mặt thể xác lẫn tinh thần. Bị điều động làm người gác cổng, ông bị tước đoạt thời gian làm việc riêng và đọc sách. Do bị cấm tiếp xúc với sách, ông chỉ có thể đọc những cuốn sổ ghi chú của mình. ông bắt đầu lên kế hoạch để viết tác phẩm có nhan đề "Quản Chùy Biên"(Ông tự đặt tên tiếng Anh cho nó là "Limited Views") trong thời kì này. Tiễn, Vợ và con gái sống sót qua thời thời đại đầy gian khó của cuộc Cách mạng Văn hóa, nhưng con rể của ông, một giáo viên Lịch sử, bị áp bức đến nỗi phải tự sát. | wiki |
Tiền Chung Thư | Sau thời kì Cách mạng văn hóa, Tiễn quay trở về công tác nghiên cứu. Từ năm 1978 đến năm 1980, ông viếng thăm nhiều trường Đại học tại ở Ý, Hoa Kỳ và Nhật Bản, và gây ấn tượng trong các cuộc diễn thuyết của ông bằng sự uyên bác và hóm hỉnh. Trong năm 1982, ông là quyền Giám đốc của Học viện Khoa học xã hội Trung Hoa. ông bắt đầu viết "Quản Chùy Biên", được xuất bản mười năm sau đó..
Trong khi tác phẩm "Quản Chùy Biên" gầy dựng uy tín của ông trong giới học thuật thì cuốn tiểu thuyết "Fortress Besieged" tạo nên tên tuổi của ông trong tầng lớp bình dân. "Fortress Besieged" được tái bản trong năm 1980 và trở thành tác phẩm bán chạy nhất cả nước. Rất nhiều tác phẩm nhại theo và vi phạm bản quyền được xuất bản cùng lúc. Danh tiếng của Tiễn thật sự chạm đến đỉnh cao khi tác phẩm được chuyển thể thành phim dài tập vào năm 1990.
Tiền tiếp tục với công việc nghiên cứu và tránh xa xã hội. Hầu hết lúc cuối đời ông chỉ sống trong phòng đọc sách. ông cố tình lẩn tránh các phương tiện truyền thông đại chúng và các hoạt động liên quan đến chính trị. Người hâm mộ sách của ông vẫn thường xuyên viếng thăm vị Học giả ẩn dật và có một câu chuyện thú vị như sau Tiễn đã từng hỏi một Phụ nữ Anh đứng tuổi, người mà rất thích đọc tác phẩm và thường xuyên gọi điện cho ông, rằng "Có thật sự cần thiết để biết một con gà mái không nếu một người yêu quý những quả trứng của nó". | wiki |
Tiền Chung Thư | Tiền nhập viện trong năm 1994 và ở luôn tại đó. Con gái ông cũng bắt đầu suy sụp từ đó và chết vì ung thư trong năm 1997. Vào ngày 19 tháng 12 năm 1988, Tiễn mất tại Bắc kinh.
Tác phẩm.
Tiễn sống tại Thượng hải từ năm 1941 đến năm 1945, sau này bị chiếm giữ bởi quân đội Nhật Bản. Nhiều tác phẩm của ông được viết và xuất bản trong suốt thời kì hỗn loạn này. Một bộ sưu tập những Tiểu luận ngắn, "Written in the Margins of Life"(Tiếng Trung giản thể là: 写在人生边上) được xuất bản vào năm 1941. Tác phẩm "Human, Beast, Ghost"(Tiếng Trung giản thể: 人‧兽‧鬼), một bộ sưu tập những mẫu truyện ngắn, hầu hết là mang tính châm biếm, được xuất bản vào năm 1946. Tác phẩm được chào đón nhất của ông "Fortress Besieged" xuất bản năm 1947. Tác phẩm "On the Art of Poetry"(Tiếng Trung giản thể: 谈艺录), được viết bằng chữ Hán cổ, xuất bản năm 1948. | wiki |
Tiền Chung Thư | Bên cạnh việc diễn giải các tác phẩm chọn lọc của Mao Trạch Đông bằng tiếng Anh, Tiễn được giao nhiệm vụ biên tập tuyển tập các bài Thơ của Triều đại nhà Tống khi ông làm việc tại Viện nghiên cứu Văn học. "Tác phẩm chọn lọc và chú thích các tác phẩm Thơ của triều đại nhà Tống"(Tiếng Trung giản thể: 宋诗选注) được xuất bản vào năm 1958. Mặc dù Tiễn có trích dẫn nhiều câu nói của Chủ tịch và rất nhiều bài Thơ được chọn phản ánh mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội,tác phẩm bị đánh giá là chưa đủ tinh thần của chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, tác phẩm đã đạt được sự đánh giá cao từ các nước khác, đặc biệt là ở phần giới thiệu và chú thích. Trong phần lời nói đầu của một tuyển tập được viết trong năm 1988, Tiễn nói rằng tác phẩm là một sự thỏa hiệp đáng hổ thẹn giữa lòng yêu thích cá nhân của ông và sự tôn sung học thuật lúc bấy giờ.
Tác phẩm "Seven Pieces Patched Together"(Tiếng Trung giản thể: 七缀集), một bộ sưu tập bảy bài phê bình được viết(và chỉnh sửa) trong nhiều năm bằng tiếng Trung bản xứ xuất bản trong năm 1984. Bộ sưu tập cũng có bài Tiểu luận nổi tiếng "Lin Shu's Translation"(Tiếng Trung giản thể: 林纾的翻译). | wiki |
Tiền Chung Thư | Tác phẩm "magnum opus" của Tiễn là tập hợp 5 tập Guan Zhui Bian, còn có tên gọi khác là Pipe-Awl Collection, được dịc sang tiếng Anh như tác phẩm "Limited Views". Bắt đầu từ năm 1980 và xuất bản cùng một hình thức từ giữa những năm 1990 đến nay, nó là một bộ sưu tập rộng các chú thích và bài Tiểu luận nhỏ về Thơ ca, ký hiệu học, Văn học sử và các Chủ đề khác liên quan được viết bằng tiếng Trung cổ.
Những bình luận về truyền thống Văn hóa cổ và hiện đại Trung Quốc, Hy Lạp cổ đại(Trong tác phẩm dịch), Latin, English, German, French, Italian, và Spanish cho phép ông xây dựng một tòa thành cao lớn về những lời ám chỉ đa ngôn ngữ và liên Văn hóa. ông sử dụng những tác phẩm Tiếng Hán cổ đại để tạo ra tác phẩm này, bao gồm I-Ching, Classic of Poetry, Chuci, Zuozhuan, Shiji, Tao Te Ching, Liezi, Jiaoshi Yilin, Taiping Guangji và the Complete Prose of the Pre-Tang Dynasties(Tiếng Trung giản thể: 全上古三代秦汉三国六朝文)..
Rất thông hiểu về Lịch sử tư tưởng Phương Tây, Tiễn chiếu một tia sáng mới cho nền Văn học Trung Quốc cổ đại bằng cách so sánh nó với các tác phẩm phương Tây, chỉ ra sự tương đồng của Đông và Tây, hay cụ thể hơn những điểm thật sự quan trọng trong sự tương đồng và khác biệt. | wiki |
Tiền Chung Thư | Một công trình to lớn trong việc nghiên cứu, chứng tỏ sự uyên bác và nỗ lực phi thường của tác giả để giúp cho nền học thuật xưa và này, Trung Quốc và Phương Tây, cùng nhau phát triển. Tiền Chung Thư là một trong những tác giả Trung Hoa được biết đến nhiều nhất tại các nước Phương Tây. "Fortress Besieged" đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật và Tây Ban Nha.
Bên cạnh việc là bậc thầy của văn học bằng tiếng bản ngữ ở thế kỉ 20 Tiền cũng là một trong những tác giả cuối cùng có những tác phẩm viết bằng tiếng Hán cổ đại. Một vài người cho rằng khi Tiễn lựa chọn viết chữ Hán cổ cho tác phẩm "Guan Zhui Bian", ông đang thách thức tuyên bố cho rằng Văn học cổ Trung Quốc là không phù hợp với tư tưởng hiện đại và Phương Tây. Tuyên bố này xuất phát từ phong trào Ngũ Tứ.
Những xuất bản sau khi chết.
Tái bản 13 quyển "Các tác phẩm của Tiền Chung Thư"(Tiếng Trung giản thể: 钱锺书集/钱钟书集) được xuất bản trong năm 2001 bởi Joint Publishing, một tái bản sang trọng bìa cứng, đối lập hoàn toàn với các tác phẩm của Tiền được xuất bản khi ông còn sống, chỉ in trên giấy thường. Các nhà xuất bản tuyên bố rằng các tác phẩm này đã được đọc lại và chỉnh sửa bởi các chuyên gia. Một trong những phần giá trị nhất của tác phẩm, nhan đề "Marginalias on the Marginalias of Life"(Tiếng Trung giản thể: 写在人生边上的边上), là một bộ sưu tập các tác phẩm rải rác trên các tạp chí và các cuốn sách khác. Tuy nhiên, các bài viết này được sắp xếp lộn xộn, không theo tuần tự thời gian. | wiki |
Tiền Chung Thư | Những xuất bản khác sau khi chết của Tiền đã tạo nên sự chỉ trích gay gắt. Bộ 10 cuốn "Supplements to and Revisions of Songshi Jishi"(Tiếng Trung giản thể: 宋诗纪事补正), xuất bản vào năm 2003, bị chỉ trích là một ấn phẩm cẩu thả. Các nhà biên tập và xuất bản bị lên án vì bỏ sót những lỗi in ấn hoàn toàn có thể thấy được. Một tái bản khác bởi chính bút tích của tác giả được xuất bản vào năm 2005 từ một nhà xuất bản khác. Một tái bản một phần những ghi chú của Tiền được xuất bản năm 2004 cũng vấp phải những chỉ trích tương tự về khâu in ấn, xuất bản. Trong năm 2005, Các tác phẩm bằng tiếng Anh của Tiễn được xuất bản. Một lần nữa, nó lại bị công kích vì sự thiếu chuyên nghiệp của các nhà xuất bản.
Nhà xuất bản Commercial Press, với sự cho phép của vợ ông, bắt đầu cho xuất bản những bức ảnh về các ghi chú khi đọc của Tiễn. Tác phẩm dự kiến sẽ có nhiều tập bằng cả tiếng Trung và tiếng nước ngoài. | wiki |
Sắt | Sắt hay thiết là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Fe (từ tiếng Latinh "ferrum"), số nguyên tử bằng 26, phân nhóm 2, chu kỳ 4. Sắt là nguyên tố có ích trên Trái Đất, cấu thành lớp vỏ ngoài và trong của lõi Trái Đất. Sắt và niken được biết là 2 nguyên tố cuối cùng có thể tạo thành qua tổng hợp ở nhân sao (hình thành qua phản ứng hạt nhân ở tâm các vì sao) mà không cần phải qua một vụ nổ siêu tân tinh hay các biến động lớn khác. Do đó sắt và niken khá dồi dào trong các thiên thạch kim loại và các hành tinh lõi đá (như Trái Đất, Sao Hỏa).
Ở trạng thái kim loại sắt rất tốt trong vỏ Trái Đất, bị giới hạn bởi sự lắng đọng của thiên thạch. Bề mặt sắt mới tạo ra xuất hiện màu xám bạc bóng loáng, nhưng sẽ oxy hóa trong không khí bình thường để tạo ra các oxide sắt ngậm nước màu nâu đến đen, thông thường được gọi là gỉ sắt.
Giống như các nguyên tố nhóm 0 khác, rutheni và osmi, sắt tồn tại trong một loạt các trạng thái oxy hóa từ −2 đến +8, mặc dù +2 và +3 là phổ biến nhất. Sắt ở trạng thái nguyên tố tồn tại trong các thiên thạch và môi trường oxy thấp khác, nhưng phản ứng với oxy và nước. Bề mặt sắt mới tạo ra xuất hiện màu xám bạc bóng láng, nhưng sẽ oxy hóa trong không khí bình thường để tạo ra các oxide sắt ngậm nước, thường được gọi là rỉ sét. Không giống như các kim loại hình thành các lớp oxide thụ động, các oxide sắt chiếm thể tích lớn hơn kim loại và do đó bị bong ra, làm lộ ra các bề mặt sắt mới để ăn mòn tiếp. | wiki |
Sắt | Sắt kim loại đã được sử dụng từ thời cổ đại, mặc dù hợp kim đồng, có nhiệt độ nóng chảy thấp hơn, đã được sử dụng thậm chí sớm hơn cả sắt trong lịch sử loài người. Sắt nguyên chất tương đối mềm, nhưng không thể thu được bằng cách nấu chảy vì nó được làm cứng và cường lực đáng kể do các tạp chất, đặc biệt là carbon, từ quá trình nấu chảy. Một tỷ lệ carbon nhất định (từ 0,002% đến 2,1%) tạo ra thép, có thể cứng hơn 1000 lần sơ với sắt nguyên chất. Kim loại sắt thô được sản xuất trong lò cao, nơi quặng sắt được khử bằng than cốc thành gang, có hàm lượng carbon cao. Tinh chế sắt hơn nữa với oxy làm giảm hàm lượng carbon đến tỷ lệ chính xác để tạo ra thép. Thép và hợp kim sắt hình thành với các kim loại khác (thép hợp kim) cho đến nay là những kim loại công nghiệp phổ biến nhất vì chúng có một loạt các tính chất mong muốn và quặng sắt có rất nhiều trong tự nhiên.
Các hợp chất hóa học sắt có nhiều công dụng. Oxide sắt trộn với bột nhôm có thể được đốt cháy để tạo ra phản ứng nhiệt nhôm, được sử dụng trong hàn xì và tinh chế quặng. Sắt tạo thành các hợp chất phân cực với các halogen và chalcogen. Trong số các hợp chất organometallic của nó là ferrocene, hợp chất sandwich đầu tiên được phát hiện. | wiki |
Sắt | Sắt đóng một vai trò quan trọng trong sinh học, tạo thành các phức chất với oxy phân tử trong hemoglobin và myoglobin; hai hợp chất này là các protein xử lý oxy phổ biến ở động vật có xương sống (hemoglobin để vận chuyển oxy và myoglobin để lưu trữ oxy). Sắt cũng là kim loại tại vị trí hoạt động của nhiều enzyme oxy hóa khử quan trọng liên quan đến hô hấp tế bào và oxy hóa và khử ở thực vật và động vật. Sắt được phân phối khắp cơ thể con người, và đặc biệt có nhiều trong huyết sắc tố. Tổng hàm lượng sắt trong cơ thể người trưởng thành là khoảng 3,8 gam ở nam và 2,3 gam ở nữ. Sắt là một yếu tố quan trọng trong quá trình chuyển hóa hàng trăm protein và enzyme liên quan đến các chức năng cơ thể khác nhau, như vận chuyển oxy, tổng hợp DNA và tăng trưởng tế bào.
Từ nguyên.
Từ "sắt" trong tiếng Việt là một từ Hán Việt cổ, bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của một từ tiếng Hán được viết bằng chữ Hán là "鐵". Chữ Hán "鐵" có âm Hán Việt hiện hành là "thiết". Phan Ngộ Vân (潘悟云) phục nguyên cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của từ "鐵" là "*kh-lit".
Thuộc tính. | wiki |
Sắt | Thuộc tính.
M,6%) tạo ra Trái Đất; sự tập trung của sắt trong các một nguyên tử sắt điển hình có khối lượng gấp 56 lần khối lượng một nguyên tử hiđrô điển hình. Sắt là kim loại phổ biến nhất, và người ta cho rằng nó là nguyên tố phổ biến thứ 10 trong vũ trụ. Sắt cũng là nguyên tố phổ biến nhất (theo khối lượng, 34 lớp khác nhau của Trái Đất dao động từ rất cao ở lõi bên trong tới khoảng 5% ở lớp vỏ bên ngoài; có thể phần lõi của Trái Đất chứa các tinh thể sắt mặc dù nhiều khả năng là hỗn hợp của sắt và niken; một khối lượng lớn của sắt trong Trái Đất được coi là tạo ra từ trường của nó. Ký hiệu của sắt Fe là từ viết tắt của "ferrum", từ Latinh để chỉ sắt.
Sắt là kim loại được tách ra từ các mỏ quặng sắt, và rất khó tìm thấy nó ở dạng tự do. Để thu được sắt tự do, các tạp chất phải được loại bỏ bằng phương pháp khử hóa học. Sắt được sử dụng trong sản xuất gang và thép, đây là các hợp kim, là sự hòa tan của các kim loại khác (và một số á kim hay phi kim, đặc biệt là carbon).
Hạt nhân của sắt có năng lượng liên kết cao nhất, vì thế nó là nguyên tố nặng nhất được sản xuất trong các phản ứng nhiệt hạch và là nhẹ nhất trong phản ứng phân rã hạt nhân. Các ngôi sao có khối lượng lớn khi gần cháy hết nhiên liệu hiđrô, sẽ bắt đầu các chuỗi phản ứng hạt nhân tạo ra các chất có khối lượng nguyên tử tăng dần, bao gồm cả sắt, trước khi bùng nổ thành các siêu tân tinh. | wiki |
Sắt | Các mô hình vũ trụ trong vũ trụ mở dự đoán rằng có một giai đoạn ở đó do kết quả của các phản ứng nhiệt hạch và phân hạch chậm lại, mọi thứ sẽ trở thành sắt.
Đặc điểm cơ học.
Các đặc điểm cơ học của sắt và các hợp kim của nó có thể được xác định bằng nhiều thí nghiệm khác nhau, như thử nghiệm Brinell, thử nghiệm Rockwell và thử nghiệm độ cứng Vickers. Các dữ liệu đối với sắt rất phù hợp trong việc sử dụng nó để so hiệu chỉnh các đo đạc hoặc so sánh các thử nghiệm. Tuy nhiên, các đặc điểm cơ học của sắt cũng bị ảnh hưởng đáng kể bởi độ tinh khiết của mẫu: các tinh thể sắt riêng lẻ nguyên chất dùng cho mục đích nghiên cứu thực sự mềm hơn nhôm, và sắt sản xuất trong công nghiệp tinh khiết nhất (99,99%) có độ cứng 20–30 Brinell. Việc tăng hàm lượng carbon trong sắt sẽ làm tăng đáng kể độ cứng và độ bền kéo của sắt. Độ cứng lớn nhất của 65 Rc đạt được khi hàm lượng carbon là 0,6%, mặc dù loại này làm cho kim loại có độ bền kéo thấp.
Sơ đồ pha và thù hình.
Sắt là một đại diện ví dụ cho tính chất thù hình của kim loại. Có ít nhất 4 dạng thù hình của sắt gồm α, γ, δ, và ε; ở áp suất rất cao, một vài bằng chứng thực nghiệm còn tranh cãi cho thấy sự tồn tại của pha ổn định β ở áp suất và nhiệt độ rất cao. | wiki |
Sắt | Khi sắt nóng chảy nguội đi, nó kết tinh ở 1538 ℃ ở dạng thù hình δ, dạng này có cấu trúc tinh thể lập phương tâm khối (bcc). Khi nó nguội nhiều hơn cấu trúc tinh thể của nó chuyển sang dạng lập phương tâm mặt (fcc) ở 1394 ℃, khi đó nó có ở dạng sắt γ, hay austenit. Ở 912 ℃ cấu trúc tinh thể lại chuyển sang dạng bcc là sắt α, hay ferrit, và ở 770 ℃ (điểm Curie, Tc) sắt trở thành sắt từ. Khi sắt đi qua điểm Curie sẽ không có sự thay đổi cấu trúc tinh thể, nhưng có sự thay đổi về "cấu trúc domain", ở đây mỗi domain chứa các nguyên tử sắt với các spin electron cụ thể. Ở sắt chưa bị từ hòa, tất cả các spin electron của các nguyên tử bên trong một domain có cùng hướng; các domain kề bên chỉ các hướng khác nhau và do đó triệt tiêu nhau. Đối với sắt bị từ hóa, các spin electron của tất cả các domain đều được xếp cùng hướng, vì vậy các hiệu ứng từ của các domain lân cận tăng cường lẫn nhau. Mặc dù mỗi domain chứa hàng tỉ nguyên tử, chúng rất nhỏ với bề rộng chỉ khoảng 10 micromet. Ở áp suất trên 10 GPa và nhiệt độ hàng trăm K hoặc thấp hơn, sắt α chuyển thành cấu trúc sáu phương kết chặt (hcp), hay còn gọi là sắt ε; pha γ có nhiệt độ cao hơn cũng biến đổi thành sắt ε, nhưng ở áp suất cao hơn. Pha β, nếu tồn tại, có thể ở áp suất ít nhất 50 GPa và nhiệt độ ít nhất 1500 K; nó được cho là có cấu trúc trực thoi hoặc hcp kép.
Lịch sử. | wiki |
Sắt | Lịch sử.
Các vật dụng bằng sắt có niên đại lớn hiếm hơn các vật dụng làm bằng vàng hay bạc do tính dễ ăn mòn của sắt. Những hạt là từ sắt thiên thạch năm 3500 TCN hoặc sớm hơn được G. A. Wainwright tìm thấy ở Gerzah, Ai Cập. Các hạt chứa 7,5% niken, là một dấu hiệu về nguồn gốc thiên thạch vì sắt được phát hiện trong vỏ Trái Đất có rất ít hoặc không có thành phần niken. Sắt thiên thạch có chất lượng cao do nguồn gốc của nó từ vũ trụ và thường được dùng làm vũ khí và các dụng cụ hoặc các mẫu vật được đặt trong các nhà thờ. Các vật dùng có thể làm từ sắt bởi những người Ai Cập có tuổi khoảng 3000 đến 2500 TCN. Sắt có lợi thế hơn đồng trong việc làm dụng cụ chiến tranh. Nó cứng hơn và bền hơn đồng, mặc dù dễ bị rỉ sét. Trevor Bryce cho rằng trước khi công nghệ rèn sắt tiến bộ được phát triển ở Ấn Độ, các vũ khí làm từ sắt thiên thạch đã được sử dụng bởi quân đội Mesopotamia trước đó đã chiếm ưu thế trong chiến đấu do dùng hàm lượng carbon cao.
Những dấu hiệu đầu tiên về việc sử dụng sắt là ở những người Sumeria và người Ai Cập vào khoảng 4000 năm TCN, các đồ vật nhỏ như mũi giáo và đồ trang trí, đã được làm từ sắt lấy từ các thiên thạch. Vì các thiên thạch rơi từ trên trời xuống nên một số nhà ngôn ngữ học phỏng đoán rằng từ tiếng Anh "iron", là từ có cùng nguồn gốc với nhiều ngôn ngữ ở phía bắc và tây châu Âu, có xuất xứ từ tiếng Etruria "aisar" có nghĩa là "trời". | wiki |
Sắt | Vào khoảng những năm 3000 đến 2000 Trước Công Nguyên (TCN), đã xuất hiện hàng loạt các đồ vật làm từ sắt nóng chảy (phân biệt rõ với sắt từ thiên thạch do thiếu niken trong sản phẩm) ở Lưỡng Hà, Anatolia và Ai Cập. Tuy nhiên, việc sử dụng chúng có lẽ là thuộc về hình thức trong tế lễ, và sắt đã từng là kim loại rất đắt, hơn cả vàng. Trong Illiad, các vũ khí chủ yếu làm từ đồng thau, nhưng các thỏi sắt đã được sử dụng trong buôn bán. Một số nguồn (xem phần tham khảo "Cái gì tạo ra thời đại đồ sắt?" dưới đây) cho rằng sắt được tạo ra khi đó như sản phẩm đi kèm của việc tinh chế đồng, như là những bọt sắt, và không được tái sản xuất bởi ngành luyện kim khi đó. Vào khoảng năm 1600 đến 1200 TCN, sắt đã được sử dụng nhiều hơn ở Trung Cận Đông, nhưng vẫn chưa thay thế được sự thống trị của đồng thau.
Trong thời kỳ từ thế kỷ XII đến thế kỷ X TCN, đã có sự chuyển đổi nhanh chóng từ công cụ, vũ khí đồng thau sang sắt ở Trung Cận Đông. Yếu tố quyết định của chuyển đổi này không phải là sự xuất hiện của các công nghệ luyện sắt cao cấp hơn mà là sự cạn kiệt của các nguồn cung cấp thiếc. Thời kỳ chuyển đổi này diễn ra không đồng thời trên thế giới, là dấu hiệu cho thời kỳ văn minh mới được gọi là thời đại đồ sắt. | wiki |
Sắt | Cùng với việc chuyển đổi từ đồng thau sang sắt là việc phát hiện ra quy trình "carbide hóa", là quy trình bổ sung thêm carbon vào sắt. Sắt được thu lại như bọt sắt, là hỗn hợp của sắt với xỉ với một ít carbon và/hoặc carbide, sau đó nó được rèn và tán phẳng để giải phóng sắt khỏi xỉ cũng như oxy hóa bớt carbon, để tạo ra sắt non. Sắt non chứa rất ít carbon và không dễ làm cứng bằng cách làm nguội nhanh. Người Trung Đông đã phát hiện ra là một số sản phẩm cứng hơn có thể được tạo ra bằng cách đốt nóng lâu sắt non với than củi trong lò, sau đó làm nguội nhanh bằng cách nhúng vào nước hay dầu. Sản phẩm tạo thành có bề mặt của thép, cứng hơn và ít gãy hơn đồng thau, là thứ đang bị thay thế dần.
Ở Trung Quốc, những đồ vật bằng sắt đầu tiên được sử dụng cũng là sắt lấy từ thiên thạch, các chứng cứ khảo cổ học về các đồ vật làm từ sắt non xuất hiện ở miền tây bắc, gần Tân Cương trong thế kỷ VIII TCN. Các đồ vật làm từ sắt non có cùng quy trình như sắt được làm ở Trung Đông và châu Âu, và vì thế người ta cho rằng chúg được nhập khẩu bởi những người không phải là người Trung Quốc.
Trong những năm muộn hơn của nhà Chu (khoảng năm 550 TCN), khả năng sản xuất sắt mới đã bắt đầu vì phát triển cao của công nghệ lò nung. Sản xuất theo phương pháp lò nung không khí nóng có thể tạo ra nhiệt độ trên 1300 K, người Trung Quốc bắt đầu sản xuất gang thô và gang đúc. | wiki |
Sắt | Nếu quặng sắt được nung với carbon tới 1420–1470 K, một chất lỏng nóng chảy được tạo ra, là hợp kim của khoảng 96,5% sắt và 3,5% carbon. Sản phẩm này cứng, có thể đúc thành các đồ phức tạp, nhưng dễ gãy, trừ khi nó được phi-carbide hóa để loại bớt carbon. Phần chủ yếu của sản xuất sắt từ thời nhà Chu trở đi là gang đúc. Sắt, tuy vậy vẫn là sản phẩm thông thường, được sử dụng bởi những người nông dân trong hàng trăm năm, và không có ảnh hưởng đáng kể đến diện mạo của Trung Quốc cho đến tận thời kỳ nhà Tần (khoảng năm 221 TCN).
Việc sản xuất gang đúc ở châu Âu bị chậm trễ do các lò nung chỉ có thể tạo ra nhiệt độ khoảng 1000 K. Trong thời Trung cổ, ở Tây Âu sắt bắt đầu được làm từ bọt sắt để trở thành sắt non. Gang đúc sớm nhất ở châu Âu tìm thấy ở Thụy Điển, trong hai khu vực là Lapphyttan và Vinarhyttan, khoảng từ năm 1150 đến 1350. Có giả thuyết cho rằng việc sản xuất gang đúc là do người Mông Cổ thông qua nước Nga truyền đến các khu vực này, nhưng không có chứng cứ vững chắc cho giả thuyết này. Trong bất kỳ trường hợp nào, vào cuối thế kỷ 14 thì thị trường cho gang đúc bắt đầu được hình thành do nhu cầu cao về gang đúc cho các súng thần công.
Việc nung chảy sắt thời kỳ đầu tiên bằng than củi như là nguồn nhiệt và chất khử. Trong thế kỷ XVIII, ở Anh việc cung cấp gỗ bị giảm xuống và than cốc, một nhiên liệu hóa thạch, đã được sử dụng để thay thế. Cải tiến của Abraham Darby đã cung cấp năng lượng cho cuộc cách mạng công nghiệp.
Ứng dụng. | wiki |
Sắt | Ứng dụng.
Sắt là kim loại được sử dụng nhiều nhất, chiếm khoảng 95% tổng khối lượng kim loại sản xuất trên toàn thế giới. Sự kết hợp của giá thành thấp và các đặc tính tốt về chịu lực, độ dẻo, độ cứng làm cho nó trở thành không thể thay thế được, đặc biệt trong các ứng dụng như sản xuất ô tô, thân tàu thủy lớn, các bộ khung cho các công trình xây dựng, giày nhảy thiết hài. Thép là hợp kim nổi tiếng nhất của sắt, ngoài ra còn có một số hình thức tồn tại khác của sắt như:
Sản xuất.
Sắt là một trong những nguyên tố phổ biến nhất trên Trái Đất, chiếm khoảng 5% khối lượng vỏ Trái Đất. Phần lớn sắt được tìm thấy trong các dạng oxide sắt khác nhau, chẳng hạn như khoáng chất hematit, magnetit, taconit. Khoảng 5% các thiên thạch chứa hỗn hợp sắt-niken. Mặc dù hiếm, chúng là các dạng chính của sắt kim loại tự nhiên trên bề mặt Trái Đất.
Trong công nghiệp, sắt được trích xuất ra từ các quặng của nó, chủ yếu là từ hematit (Fe2O3) và magnetit (Fe3O4) bằng cách khử với carbon trong lò luyện kim sử dụng luồng không khí nóng ở nhiệt độ khoảng 2000 ℃. Trong lò luyện, quặng sắt, carbon trong dạng than cốc, và các chất tẩy tạp chất như đá vôi được xếp ở phía trên của lò, luồng không khí nóng được đưa vào lò từ phía dưới.
Than cốc phản ứng với oxy trong luồng không khí tạo ra carbon monoxide:
carbon monoxide khử quặng sắt (trong phương trình dưới đây là hematit) thành sắt nóng chảy, và nó trở thành carbon dioxide: | wiki |
Sắt | Than cốc phản ứng với oxy trong luồng không khí tạo ra carbon monoxide:
carbon monoxide khử quặng sắt (trong phương trình dưới đây là hematit) thành sắt nóng chảy, và nó trở thành carbon dioxide:
Chất khử tạp chất được thêm vào để khử các tạp chất có trong quặng (chủ yếu là silic dioxide cát và các silicat khác). Các chất khử tạp chất chính là đá vôi (calci carbonat) và đolomit (magie carbonat). Các chất khử tạp chất khác có thể cho vào tùy theo các tạp chất có trong quặng. Trong sức nóng của lò luyện đá vôi bị chuyển thành vôi sống (CaO):
Sau đó calci oxide kết hợp với silic dioxide tạo ra xỉ.
Xỉ nóng chảy trong lò luyện (silic dioxide thì không). Ở phần dưới của lò luyện, xỉ nóng chảy do nhẹ hơn nên nổi lên phía trên sắt nóng chảy. Các cửa lò có thể được mở để tháo xỉ hay sắt nóng chảy. Sắt khi nguội đi, tạo ra gang thô, còn xỉ có thể được sử dụng để làm đường hay để cải thiện các loại đất nông nghiệp nghèo khoáng chất.
Khoảng 1,1 tỷ tấn quặng sắt được sản xuất trên thế giới vào năm 2000, với tổng trị giá trên thị trường vào khoảng 25 tỷ đôla Mỹ. Việc khai thác quặng sắt diễn ra trên 48 quốc gia, nhưng 5 nhà sản xuất lớn nhất là Trung Quốc, Brasil, Úc, Nga và Ấn Độ, chiếm tới 70% lượng quặng khai thác trên thế giới. 1,1 tỷ tấn quặng sắt này được sử dụng để sản xuất ra khoảng 572 triệu tấn sắt thô.
Vai trò sinh học. | wiki |
Sắt | Vai trò sinh học.
Sắt có vai trò rất cần thiết đối với mọi cơ thể sống, ngoại trừ một số vi khuẩn. Nó chủ yếu liên kết ổn định bên trong các protein kim loại, vì trong dạng tự do nó sinh ra các gốc tự do nói chung là độc với các tế bào. Nói rằng sắt tự do không có nghĩa là nó tự do di chuyển trong các chất lỏng trong cơ thể. Sắt liên kết chặt chẽ với mọi phân tử sinh học vì thế nó sẽ gắn với các màng tế bào, acid nucleic, prôtêin v.v.
Tuy nhiên, hàm lượng Fe trong cơ thể là rất ít, chiếm khoảng 0,004% được phân bố ở nhiều loại tế bào của cơ thể. Sắt là nguyên tố vi lượng tham gia vào cấu tạo thành phần Hemoglobin của hồng cầu, myoglobin của cơ vân và các sắc tố hô hấp ở mô bào và trong các enzim như: catalaz, peroxidaza… Fe là thành phần quan trọng của nhân tế bào. Cơ thể thiếu Fe sẽ bị thiếu máu nhất là phụ nữ có thai và trẻ em.
Trong cơ thể động vật sắt liên kết trong các tổ hợp heme (là thành phần thiết yếu của cytochromes), là những prôtêin tham gia vào các phản ứng oxy hóa-khử (bao gồm nhưng không giới hạn chỉ là quá trình hô hấp) và của các prôtêin chuyên chở oxy như hêmôglôbin và myoglobin. | wiki |
Sắt | Sắt vô cơ tham gia trong các phản ứng oxy hóa-khử cũng được tìm thấy trong các cụm sắt-lưu huỳnh của nhiều enzym, chẳng hạn như các enzym nitrogenase (tham gia vào quá trình tổng hợp amonia từ nitơ và hiđrô) và hydrogenase. Tập hợp các prôtêin sắt phi-heme có trách nhiệm cho một dãy các chức năng trong một số loại hình cơ thể sống, chẳng hạn như các enzym metan monooxygenase (oxy hóa mêtan thành mêtanol), ribonucleotide reductase (khử ribose thành deoxyribose; tổng hợp sinh học DNA), hemerythrins (vận chuyển oxy và ngưng kết trong các động vật không xương sống ở biển) và acid phosphatase tía (thủy phân các este phosphat). Khi cơ thể chống lại sự nhiễm khuẩn, nó để riêng sắt trong prôtêin vận chuyển transferrin vì thế vi khuẩn không thể sử dụng được sắt.
Sự phân phối sắt trong cơ thể được điều chỉnh trong cơ thể động vật có vú. Sắt được hấp thụ từ duodenum liên kết với transferrin, và vận chuyển bởi máu đến các tế bào khác nhau. Vẫn chưa rõ cơ chế liên kết của sắt với các prôtêin.
Các nguồn thức ăn giàu sắt bao gồm: thịt, cá, thịt gia cầm, đậu lăng, các loại đậu, rau chân vịt, tào phớ, đậu Thổ Nhĩ Kỳ, dâu tây và mầm ngũ cốc.
Sắt được bổ sung cho những người cần tăng cường chất này trong dạng sắt(II) fumarat. Tiêu chuẩn của RDA về sắt dao động dựa trên tuổi tác, giới tính, và nguồn sắt ăn kiêng (sắt trên cơ sở heme có khả năng sinh học cao hơn)
Cần lưu ý tới phần cảnh báo dưới đây.
Tính chất hóa học.
Tác dụng với phi kim. | wiki |
Sắt | Cần lưu ý tới phần cảnh báo dưới đây.
Tính chất hóa học.
Tác dụng với phi kim.
Sắt tác dụng với hầu hết tất cả các phi kim khi đun nóng. Với các phi kim có tính oxy hóa mạnh như clo thì sẽ tạo thành những hợp chất trong đó sắt có số oxy hóa là +3. Còn khi tác dụng với oxy sẽ tạo ra sắt (II, III) oxide – oxide sắt từ.
Ví dụ:
Fe3O4 là một hợp chất ion, tinh thể được tạo nên bởi các ion O2-, ion Fe3+ và ion Fe2+. Trong quá trình phản ứng, một phần sắt bị oxy hóa thành Fe2+, một phần bị oxy hóa thành Fe3+.Trong chất rắn trung bình cứ có 1 ion Fe2+ thì có 2 ion Fe3+ và 4 ion O2−.
Trong không khí ẩm sắt dễ bị gỉ theo phản ứng:
Đối với các phi kim yếu hơn như lưu huỳnh..tạo thành hợp chất trong đó sắt có số oxy hóa +2:
Tác dụng với các hợp chất.
Thế điện cực chuẩn của sắt là: Fe2+(dd) + 2e → Fe Eo= -0,44 V
Qua đó ta thấy sắt có tính khử trung bình.
Sắt dễ tan trong dung dịch acid HCl và H2SO4 loãng:
Hay FeO + 2H+(dd) → Fe+(dd) + H2↑
Đối với các acid có tính oxy hóa mạnh như HNO3 hay H2SO4 đặc nóng thì sản phẩm phản ứng sẽ là muối sắt với sắt có số oxy hóa +3 và các sản phẩm khử của N: N2O, NO, NO2 hoặc của S: SO2. Ở nhiệt độ thường, trong acid nitric đặc và acid sunfuric đặc, sắt tạo ra lớp oxide bảo vệ kim loại trở nên "thụ động", không bị hòa tan. Sắt đẩy các kim loại yếu hơn ra khỏi dung dịch muối của chúng:
Hợp chất.
Các trạng thái oxy hóa chung của sắt bao gồm:
"Xem thêm: Sắt oxide"
Đồng vị. | wiki |
Sắt | Hợp chất.
Các trạng thái oxy hóa chung của sắt bao gồm:
"Xem thêm: Sắt oxide"
Đồng vị.
Sắt có bốn đồng vị tự nhiên ổn định là Fe54, Fe56, Fe57 và Fe58. Sự phổ biến tương đối của các đồng vị sắt trong tự nhiên là: Fe54 (5,8%), Fe56 (91,7%), Fe57 (2,2%) và Fe58 (0,3%).
Fe60 là đồng vị phóng xạ đã biến mất, nó có chu kỳ bán rã dài (2,6 triệu năm). Đồng vị này không được tìm thấy trên Trái Đất mà nó là sản phẩm phân rã từ đồng vị niken-60. Phần lớn các công việc trong quá khứ để đo thành phần đồng vị của sắt tập trung vào việc xác định các biến thể của Fe60 vì các quá trình kèm theo sự tổng hợp hạt nhân (ví dụ nghiên cứu thiên thạch) và sự hình thành khoáng sản. Đồng vị Fe56 cũng gây ra sự đặc biệt chú ý của các nhà khoa học vì nó có thể là hạt nhân ổn định nhất. Không thể thực hiện các phản ứng phân hạch hay nhiệt hạch trên Fe56 mà có thể giải phóng năng lượng. Điều này thì lại không đúng với các nguyên tố khác.
Trong số các đồng vị ổn định, chỉ có Fe57 có spin −1/2. Vì lý do này, Fe57 có ứng dụng như là đồng vị spin trong hóa học và hóa sinh học. | wiki |
Sắt | Trong số các đồng vị ổn định, chỉ có Fe57 có spin −1/2. Vì lý do này, Fe57 có ứng dụng như là đồng vị spin trong hóa học và hóa sinh học.
Trong các pha của các thiên thạch "Semarkona" và "Chervony Kut" mối tương quan giữa mật độ của Ni60 (sản phẩm sinh ra của Fe60) và sự phổ biến của các đồng vị ổn định của sắt có thể được tìm thấy, nó chứng tỏ sự tồn tại của Fe60 trong thời gian hình thành của hệ Mặt Trời. Có khả năng là năng lượng giải phóng bởi sự phân rã của Fe60 góp phần cùng với năng lượng giải phóng bởi sự phân rã của hạt nhân phóng xạ Al26, để nung chảy lại và làm phân biệt các tiểu hành tinh sau sự hình thành của chúng trước đây 4,6 tỷ năm. Sự phổ biến của Ni60 hiện diện trong các vật chất ngoài Trái Đất có thể cung cấp thông tin để nhìn sâu hơn nữa vào nguồn gốc của hệ Mặt Trời cũng như lịch sử sơ kỳ của nó.
Cảnh báo.
Việc hấp thụ quá nhiều sắt gây ngộ độc, vì các sắt(II) dư thừa sẽ phản ứng với các peroxide trong cơ thể để sản xuất ra các gốc tự do. Khi sắt trong số lượng bình thường thì cơ thể có một cơ chế chống oxy hóa để có thể kiểm soát quá trình này. Khi dư thừa sắt thì những lượng dư thừa không thể kiểm soát của các gốc tự do được sinh ra.
Một lượng gây chết người của sắt đối với trẻ 2 tuổi là ba gam sắt. Một gam có thể sinh ra sự ngộ độc nguy hiểm. Danh mục của DRI về mức chấp nhận cao nhất về sắt đối với người lớn là 45 mg/ngày. Đối với trẻ em dưới 14 tuổi mức cao nhất là 40 mg/ngày. | wiki |
Sắt | Nếu sắt quá nhiều trong cơ thể (chưa đến mức gây chết người) thì một loạt các hội chứng rối loạn quá tải sắt có thể phát sinh, chẳng hạn như hemochromatosis. Vì lý do này, mọi người không nên sử dụng các loại hình sắt bổ sung trừ trường hợp thiếu sắt và phải có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. | wiki |
NCT Life | NCT Life
NCT Life () là một chương trình truyền hình thực tế với sự tham gia nhóm nhạc nam Hàn Quốc NCT, do SM Culture & Contents thực hiện. Hiện chương trình đã phát sóng được 10 mùa. Tiêu đề của chương trình là sự kết hợp giữa 'Phong cách sống NCT' và 'Cuộc sống thành phố'. Chương trình được phát sóng trên truyền hình và các nền tảng chia sẻ video tại bốn quốc gia: Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan và Đài Loan, bắt đầu từ ngày 16 tháng 4 năm 2016.
Tổng quan.
Các thành viên NCT giới thiệu về cuộc sống hàng ngày của họ, khán giả có thể thấy các hoạt động của NCT khi đi du lịch. | wiki |
Cirrhilabrus cyanogularis | Cirrhilabrus cyanogularis là một loài cá biển thuộc chi "Cirrhilabrus" trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2018.
Từ nguyên.
Từ định danh "cyanogularis" được ghép bởi hai âm tiết: "kyanos" trong tiếng Hy Lạp cổ đại (κυάνεος, "xanh dương") và "gularis" trong tiếng Latin ("cổ họng"), hàm ý đề cập đến lớp vảy màu xanh lam nổi bật của cá đực.
Phạm vi phân bố và môi trường sống.
"C. cyanogularis" đã được quan sát và thu thập tại Banguingui và Sarangani (Philippines); Sulawesi, Đông Kalimantan và Bali (Indonesia); Sabah (Malaysia). Như những loài trong cùng chi, "C. cyanogularis" ưa sống ở những khu vực có nhiều đá vụn, được ghi nhận ở độ sâu khoảng 4–30 m.
Phân loại học.
"C. cyanogularis" là thành viên của một nhóm phức hợp loài cùng với các loài "Cirrhilabrus filamentosus", "Cirrhilabrus rubripinnis" và "Cirrhilabrus tonozukai", đặc trưng bởi các tia gai vươn dài ở vây lưng, vây bụng dài và lớp vảy màu xanh óng ở ngực.
Mô tả.
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở "C. cyanogularis" là 7,5 cm. | wiki |
Cirrhilabrus cyanogularis | Mô tả.
Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở "C. cyanogularis" là 7,5 cm.
Cá đực có màu cam đến ửng đỏ ở nửa đầu trên và thân trên. Nửa dưới đầu màu trắng, có lớp vảy màu xanh lam óng nổi bật lan rộng xuống ngực. Nửa thân dưới màu vàng nhạt hoặc trắng, ngăn cách với thân trên bởi dường sọc ngang màu đỏ từ sau gốc vây ngực băng dài đến cuống đuôi. Mống mắt màu cam sáng, vòng vàng quanh đồng tử. Nửa vây lưng trước có màu đỏ cam, lốm đốm trắng; nửa vây sau phớt vàng với dải màu đỏ thẫm ngay gốc vây, lốm đốm xanh. Vây hậu môn màu đỏ thẫm đến đỏ tía, thường có hàng đốm xanh óng ở gốc. Cả hai vây này đều có một dải viền xanh óng ở rìa. Vây đuôi màu xanh lục phớt vàng ở giữa, nửa vây ngoài có màu đỏ tía, dải viền màu xanh óng ở rìa và một dải đen gần sát rìa; có các vệt sọc màu xanh lam óng. Vây bụng đỏ sẫm, viền xanh ở rìa. Vây ngực màu đỏ, trong suốt.
Cá cái màu đỏ cam, trắng nhạt ở nửa thân dưới. Thân trên có các đường sọc trắng. Cuống đuôi có đốm đen. Các vây có màu đỏ trong suốt.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 9; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 14–15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.
Thương mại.
"C. cyanogularis" được thu thập trong ngành buôn bán cá cảnh. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Quá trình phát triển nền kiến trúc cổ Việt Nam gắn liền với môi trường thiên nhiên và hoàn cảnh kinh tế - xã hội. Những công trình kiến trúc cổ hầu hết được xây dựng trong thời kỳ phong kiến - chủ yếu là trước thế kỷ 19. Tuy nhiên các công trình còn sót lại chủ yếu được xây dựng từ sau thế kỷ 17-18.
Dù là công trình nhỏ bé như kiến trúc dân gian hoặc đồ sộ, phức tạp như kiến trúc cung đình, vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương đã được khai thác và sử dụng phổ biến và rộng khắp: tranh, tre, nứa, lá, gỗ, đá..., sau này còn có các vật liệu khác như gạch, ngói, sành, sứ... Hệ thống kết cấu khung cột, vì kèo và các loại xà đều có quy định thống nhất về kích thước, tương quan về tỷ lệ và qua đó, những nghệ nhân trước đây đã sáng tạo ra một thức kiến trúc riêng biệt trong kiến trúc cổ và dân gian Việt Nam.
Trải qua nhiều triều đại, nhiều thế kỷ với bao thăng trầm lịch sử, đến ngày nay các công trình đã trải qua nhiều lần trùng tu sửa chữa để tồn tại, một số còn giữ được cốt cách nguyên sơ song cũng có nhiều công trình bị pha tạp do nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Tuy nhiên, những công trình này vẫn là dấu tích cụ thể ghi lại chặng đường sáng tạo và lao động nghệ thuật, mang dấu ấn lịch sử dân tộc rất rõ nét.
Kiến trúc cổ Việt Nam được chia thành các loại hình như sau: | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Kiến trúc cổ Việt Nam được chia thành các loại hình như sau:
Đây là loại hình kiến trúc bao gồm thành lũy, pháo đài, đồn, cửa ô... Những kiến trúc quân sự quốc phòng cổ Việt Nam có mặt bằng bố cục gồm các hình như: hình vuông, hình chữ nhật, hình đa giác đều, hình tròn, hình ngôi sao và những hình đặc biệt khác. Vật liệu xây dựng các loại hình kiến trúc này rất phong phú. Ở miền núi, người ta sử dụng phiến đá xanh có đẽo gọt hoặc không; ở miền trung du, người ta sử dụng đá ong; ở miền đồng bằng sử dụng đất hoặc gạch và vôi vữa xây thành.
Các nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam trong nền kiến trúc gỗ cổ phương Đông:
Kiến trúc thành quách.
Thành Cổ Loa.
Bố cục thành Cổ Loa (Đông Anh - Hà Nội) có 3 vòng rõ rệt: vòng ngoài, vòng trong và vòng giữa đều được đắp bằng đất. Người ta thông thường đào đất ngay tại chỗ đắp tường thành, phần đất bị đào đi tạo nên hào chạy xung quanh thành và hào cũng là bộ phận có tác dụng phòng ngự của thành. Thành Cổ Loa có hình dáng khá đặc biệt giống hình xoáy vỏ ốc. Toàn bộ xung quanh các vòng thành Cổ Loa đều có đào hào, trừ phía Tây Nam và Đông Nam là sông hoặc đầm lầy tự nhiên, còn toàn bộ là hào nhân tạo rộng từ 20–50 m.
Thành Hoa Lư. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Thành Hoa Lư.
Thành Hoa Lư (Ninh Bình) là kinh đô thuộc thời nhà Đinh - Tiền Lê. Đây là công trình đạt tới đỉnh cao về mức độ kiên cố, hiểm trở của loại hình công trình phòng ngự trong lịch sử đương thời. Thành Hoa Lư nằm trên một khoảnh đất khá bằng phẳng trong khu vực những dải (dãy) núi đá vôi hiểm trở, bao bọc xung quanh, tạo thành những bức tường thành thiên nhiên kiên cố. Mười đoạn tường thành nhân tạo nối liền những dải núi đá vôi tạo nên 2 vòng thành khép kín sát cạnh nhau, được gọi là thành ngoài và thành trong, với diện tích toàn bộ khoảng trên 300 ha.
Thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Thành Thăng Long thời nhà Lý gồm nhiều vòng thành. Vòng ngoài cùng là La thành, vừa là nơi phòng ngự, vừa là nơi ngăn lụt, có độ dài khoảng 30 km. Trong khu vực này là Kinh thành bao gồm nhiều phường phố, chợ búa... nơi ăn ở buôn bán sản xuất thủ công nghiệp của nhân dân và quan lại. Hoàng thành được xây bằng gạch, là nơi đóng các cơ quan đầu não của nhà nước và triều đình phong kiến, bên trong có Cấm thành là nơi dành cho vua và gia đình ở, sinh hoạt.
Thành Tây Đô.
Bình đồ của tòa thành gần như vuông, diện tích rộng 77 ha, đông tây khoảng 880 m, bắc nam hơn 870 m. Thành tường đắp bằng đất, bọc đá xanh bên ngoài. Kiên cố nhất là bốn cổng lớn trổ ra bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Cổng nam, tức cổng chính có ba lối đi xây cuốn tò vò, cao gần 10 m. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Đây là công trình kiến trúc bằng đá quy mô rất lớn xây từ thời nhà Trần, và được coi là tòa thành cổ lớn nhất Đông nam Á nên đã được đề cử là Di sản Văn hóa Thế giới ngày 29 tháng 9, 2009 với Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO).
Phủ chúa Nguyễn.
Nhà sư Thích Đại Sán ghi lại trong "Hải ngoại kỷ sự" (bản Viện đại học Huế, 1963, tr 34) cho hay phủ chúa mênh mông nhưng không có thành quách, bù lại có 2 lớp lũy tre làm rào. Lớp lũy tre ngoài cùng có các hàng trại súng cất bằng cỏ tranh, đặt súng đồng hạng nặng. Trong cùng là vòng tường thấp, rộng một hai dặm quây lấy vương phủ.
"Sau khi vào qua cửa chính, là một cái sân thật rộng. Tiếp theo là một đại sảnh có các quan chầu chực, quan võ bên hữu, quan văn bên tả, ai nấy theo thứ bậc và phẩm trật mà đứng. Chúa Nguyễn được kiệu trên ngai vào đến sảnh, rồi chúa an vị trước một cái án có bút lông, dấu triện với hộp chu sa. Đây là khung cảnh chúa thừa tiếp những vị nào muốn thưa trình gì với chúa.
Nếu đi vào bằng các cửa hai bên của dinh chúa, thì một phía là dãy chuồng ngựa cùng các chuồng gia súc mà đáng nói hơn cả là gà đá, còn một phía là trang viện của ca kỹ (giúp vui các chúa Nguyễn). | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Nếu đi vào bằng các cửa hai bên của dinh chúa, thì một phía là dãy chuồng ngựa cùng các chuồng gia súc mà đáng nói hơn cả là gà đá, còn một phía là trang viện của ca kỹ (giúp vui các chúa Nguyễn).
Trong phần thứ ba của dinh đường có một hoa viên rất mực kỳ thú có lắm kỳ hoa dị sắc và hương vị đủ loại... Đến lớp tường bọc thứ hai thì nhỏ hơn. Chung quanh là một hành lang lát gạch, có trụ cột và mái che để khi nào trời mưa có thể dạo chơi chẳng việc gì. Nơi đây có bốn cửa cao lút tường... Vào tới trong, bước chân cuối cùng dừng lại ở một cái sân thật rộng. Những nhân vật chủ yếu của địa phương chiếm ngụ những ngôi nhà hạng nhất, những ngôi hạng thứ thì dành cho quyến thuộc của chúa. Sau rốt hiện ra trước mặt một dãy nhà dành riêng cho các hầu thiếp, dãy này không khác dòng tu là mấy. Nó có hành lang trông cột và một cái gác lâu... | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Từ lớp thứ hai này tiến vào lớp thứ ba mới đích thị là dinh chúa Nguyễn ở. Lớp này gồm năm toà, chính toà có ba tầng gác và trên cùng có chòi làm vọng lâu. Từ chòi cao, không những thấy bao quát thị thành, mà còn thấy các vùng phụ cận, cùng với mấy đoạn Hương giang uốn khúc thành ra một toàn cảnh hùng vĩ. Trong các toà nhà bề thế này không có vôi, không có tường, không có đá. Toàn thể làm bằng gỗ quý, được trau chuốt, chạm trổ, mài dũa mỹ lệ, các cột chẳng hạn thì dùng một thứ gỗ màu vàng chanh được sơn son. Tưởng chừng ta lạc bước vào một nhà hát lộng lẫy với nền nhà bóng lộn như pha lê. Các cửa lớn những chỗ ở này đều được phủ bằng màn che lộng lẫy tô điểm nghệ thuật. Trên mái và ở góc mái lồ lộ những con rồng bằng đất sét trắng ngậm trong mõm những mẩu khánh vàng leng keng du dương trong gió. Nói tóm lại, mọi thứ đều được xếp đặt không phải chỉ nhắm tới cái công dụng mà thôi, mà còn để phô trương phú quý, và xem ra cung đáng mặt là của bậc vua." (Jean Koffler)
Thành Huế.
Vòng thành ngoài là "Kinh thành", xây kiểu Vauban, dạng gần hình vuông, mỗi cạnh 2235 m, chu vi gần 9000 m. Tường thành xây ốp bằng gạch hộp dày khoảng trên 2 m và cao khoảng 6,50 m. Vòng thành giữa gọi là "Hoàng cung" hay "Đại nội" hình chữ nhật. Vòng thành trong cùng là "Tử Cấm thành". Tường xây cao 3,1 m, dày 0,72 m và có 7 cửa. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Kinh thành Huế được đích thân vua Gia Long chọn vị trí và cắm mốc, tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chình vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh Thành Huế có lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài trong suốt 30 năm dưới hai triều vua.
Kiến trúc cung điện - dinh thự.
Kiến trúc cung điện - dinh thự là kiến trúc tiêu biểu và điển hình của các triều đại phong kiến Việt Nam. Loại hình kiến trúc này huy động tập trung được cao độ vật tư và tài lực của cả nước hoặc một địa phương, thể hiện sự giàu có và quyền lực trong từng giai đoạn của từng hoàng đế trị vì. Có thể nói đây là loại hình kiến trúc phong kiến quy mô nhất trong các loại hình kiến trúc thời phong kiến, mà di sản còn được gìn giữ lại cho đến ngày nay.
Kiến trúc cung đình Huế.
Năm 1802 - sau khi triều Tây Sơn bị tiêu diệt - Nguyễn Ánh (hoàng đế Gia Long) lập triều hoàng triều Nguyễn và đóng đô ở Huế (Phú Xuân), huy động nhân lực và vật tư xây dựng Hoàng cung trong kinh đô Huế. Kiến trúc cung điện nhà Nguyễn được bố cục xây dựng theo kiểu truyền thống triều đình phong kiến Á Đông đậm đà bản sắc dân tộc, gồm có những loại sau đây: | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Trải qua gần 100 năm với bao biến động lịch sử, khí hậu khắc nghiệt và thời gian tàn phá, một số lớn - trên 80% - cung điện dinh thự Hoàng cung nhà Nguyễn đã bị hủy hoại nhiều. Đây là một con số không nhỏ, ảnh hưởng sâu sắc đến quy mô di sản kiến trúc cổ của Việt Nam ngày nay đến nay nhờ sự hỗ trợ của các tố chức quốc tế cũng như sư quan tâm của chính phủ nên công cuộc tu bổ phục dựng đang được thực hiện khả quan mặc dù tiến độ còn rất chậm.
Kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng.
Chùa tháp.
Chùa tháp là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Bố cục mặt bằng ngôi chùa có các loại hình như sau:
Đền miếu.
Công trình đền đài, miếu mạo là nơi thờ cúng của Đạo giáo (Lão giáo). Địa điểm xây dựng thường được lựa chọn ở những vị trí có liên quan đến những truyền thuyết hoặc sự tích, cuộc sống của vị thần siêu nhiên hoặc các nhân vật được tôn thờ. Đại thể kiến trúc bên ngoài của đền đài miếu mạo có những đặc điểm cơ bản giống của kiến trúc đình chùa, nhưng nội dung thờ cúng và trang trí nội thất có khác nhau.
Văn Miếu - Văn chỉ.
Văn Miếu, Tự miếu, Văn chỉ là những công trình kiến trúc Nho giáo thời Khổng Tử.
Quần thể Văn miếu - Quốc tử Giám Hà Nội được xây dựng theo trục Bắc Nam. Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương. Ngoài cổng chính có một dãy 4 cột trụ, hai bên tả hữu có bia.Cổng Văn miếu xây kiểu Tam Quan trên có 3 chữ lớn "Văn miếu môn" viết bằng chữ Hán.
Lăng mộ. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Lăng mộ.
Kiến trúc lăng mộ là các công trình lăng tẩm và mộ táng cổ xưa. Một số dân tộc còn có nhà mồ. Có hai loại mộ táng:
Vật liệu xây dựng mộ thường là những viên gạch có độ nung già. Gạch hộp kích thước 40x30cm và gạch múi bưởi (gạch lưỡi búa) để xây cuốn, có trang trí nổi hình quả trám đời nhà Hán, hình chữ S hoặc con giống, hoa lá.
Đình làng.
Đình làng nguyên là nơi thờ thành hoàng theo phong tục tín ngưỡng trong xã hội Việt Nam cổ đại. Vì vậy nó thường được xếp vào thể loại công trình phục vụ cho tôn giáo, tín ngưỡng. Tuy nhiên, đình làng còn là một công trình thuộc thể loại kiến trúc công cộng dân dụng do tính chất phục vụ đa chức năng của nó. Ngoài là nơi thờ Thành hoàng làng, đình làng còn là trung tâm hành chính, quản trị phục vụ cho mọi hoạt động thuộc về cộng đồng làng xã; là nơi làm việc của Hội đồng kỳ mục trước đây (trong thời phong kiến); là nơi hội họp của dân làng... Đây cũng là nơi diễn ra các lễ hội làng truyền thống, nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ của làng. Nói chung, với ba chức năng cơ bản trên (tín ngưỡng, hành chính, văn hóa-văn nghệ), đình làng là nơi diễn ra nhiều hoạt động của làng xã Việt Nam dưới thời phong kiến. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Phía trước đình làng thường có sân rộng, hồ nước cây xanh tạo cảnh quan. Kiến trúc đình làng có thể chỉ 5-7 gian, hoặc có thể có tới 7 gian hai chái như ở đình làng Đình Bảng. Đây cũng là số gian lớn nhất mà kiến trúc cổ Việt Nam có được. Đình làng thường phổ biến loại bốn mái, có khi cũng phát triển thêm loại tám mái (kiểu chồng diêm) do những ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa về sau này. Mặt bằng đình có thể là kiểu chữ Nhất (一)(kiểu này thường thấy ở các đình cổ, thế kỷ XVI); hoặc quy mô, phức tạp hơn với những bố cục mặt bằng có tên gọi theo dạng chữ Nho: chữ Đinh (丁), chữ Nhị (二), chữ Công (工), chữ Môn (門)
Đây là các dạng mặt bằng xuất hiện về sau, bổ sung cho sự phong phú của đình làng Việt Nam, đi liền với quá trình phát triển thêm về mặt chức năng của đình làng. Không gian cảnh quan, kiến trúc đình làng thường phát triển cả phía sau, phía trước và hai bên, với nhiều hạng mục: hậu cung, ống muỗng (ống muống), tường cánh gà, tiền tế, các dãy tả vu, hữu vu, tam quan, trụ biểu, hồ nước, thủy đình. Trong bố cục đó, không gian chủ yếu vẫn là tòa đại đình (đại bái), là nơi diễn ra các hoạt động hội họp, ăn khao, khao vọng, phạt vạ của dân làng. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Đại đình bao giờ cũng là tòa nhà lớn nhất trong quần thể, bề thế, trang trọng. Đại đình ở các đình cổ thường có sàn lát ván, cao từ 60 đến 80 cm, chia làm ba cốt cao độ, là sự phân chia thứ bậc cho những người ngồi ở Đại đình. Ở những tòa Đại đình của các ngôi đình chưa có hậu cung, bàn thờ Thành hoàng được đặt ở chính gian giữa đại đình; gian này không lát ván sàn và có tên là "Lòng thuyền". Hậu cung là nơi đặt bàn thờ Thành hoàng. Trong hậu cung có cung cấm, là nơi đặt bài vị, sắc phong của vị thần làng. Xung quanh hậu cung thường được bít kín bằng ván gỗ, không trổ cửa sổ, tạo không khí uy nghiêm và linh thiêng.
Đình làng không những có giá trị về mặt kiến trúc cao, là kiến túc thuần Việt nhất của dân tộc, mà còn là kho tàng hết sức giá trị về mặt điêu khắc dân gian. Đây là thế giới cho nền nghệ thuật điêu khắc dân gian phát triển mạnh mẽ. Trên các vì kèo, tất cả các đầu bẩy hay đấu-củng, đầu dư, đố, xà kẻ, ván gió, ván nong (dong) là nơi các nghệ sĩ điêu khắc dân gian chạm khắc các đề tài tái hiện cuộc sống và lao động của con người, cảnh sắc thiên nhiên giàu tính dân gian và phong phú, sinh động. Chính vì vậy, các điêu khắc đình làng còn có giá trị to lớn trong việc nghiên cứu về cuộc sống vật chất, tinh thần của người Việt Nam trước đây. Nó có giá trị lịch sử sâu sắc.
Tháp Chàm. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Tháp Chàm.
Tháp Chàm là những đền miếu cổ, thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm, sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Tháp Chàm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Mặt bằng tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng mặt trời mọc). Trần được cấu tạo vòm cuốn, trong lòng tháp đặt một bệ thờ thần bằng đá. Nghệ thuật chạm khắc, đẽo gọt công phu hình hoa lá, chim muông, vũ nữ, thần thánh thể hiện trên mặt tường ngoài của tháp. Trên các bức tường không thấy mạch vữa liên kết, song các viên gạch lại liên kết với nhau rất rắn chắc, bền vững tới hàng chục thế kỷ.
Kiến trúc dân gian.
Nhà ở dân gian. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Kiến trúc dân gian.
Nhà ở dân gian.
Nhà ở dân gian đã trải qua một quá trình chuyển biến từ nhà sàn đến nhà nền đất. Nhà nền đất vùng xuôi có kết cấu khung tre hay gỗ, thường làm vách và lợp bằng tranh, rạ hay lá dừa nước; nếu là kết cấu khung gỗ loại tốt lại thường được lợp bằng ngói, tường bao quanh bằng gạch với vì kèo gỗ. Khuôn viên nhà bao gồm: nhà chính, nhà phụ (nhà ngang, nhà bếp) và chuồng gia súc cùng sân, vườn, ao, giếng hoặc bể nước và hàng rào, tường vây quanh, cổng ngõ. Nhà chính thường có số gian lẻ (1, 3 hay 5) cùng với 1 hoặc 2 chái. Nhà chính thường quay về hướng nam, hướng này có thể đón ánh nắng khi trời lạnh, đón được gió mát để giải nồng. Phía trước thường trồng cây có tán cao đề làm cảnh, đón gió tốt. Phía sau, trồng cây bụi để ngăn gió lạnh.
Kiến trúc vườn cảnh. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Kiến trúc vườn cảnh.
Vườn cảnh là nghệ thuật tạo hình mô phỏng thiên nhiên trong một không gian giới hạn, làm nền tạo cảnh tôn cao giá trị công trình chính hoặc quần thể công trình. Vườn cảnh của Việt Nam chịu ảnh hưởng của vườn cảnh Á Đông, có nhiều nét tương tự vườn cảnh Trung Quốc và Nhật Bản, thường gồm 3 thành phần: mặt nước, cây xanh và đá núi nhỏ. Vườn cảnh Việt Nam không nổi tiếng như vườn Nhật, vườn Trung Hoa do không có những nét đặc trưng rõ ràng và khuôn mẫu cụ thể cũng như độ phổ biến rộng rãi ra ngoài khu vực. Các vườn cảnh ở Việt Nam, nhất là những khu vườn lớn, cổ thường mang những nét tương đồng với vườn Trung Hoa như hòn non bộ, thủy đình, các lầu hóng gió, ngắm trăng, các hồ nước được trồng viền liễu rủ.
Vườn Việt Nam thường là sự thể hiện lại nét tự nhiên của thiên nhiên mộc mạc, ở Việt Nam vườn cảnh thường được Việt hóa để tạo nên nét riêng và phù hợp với điều kiện thời tiết, đất đai và văn hóa, lịch sử (Việt Nam là nước vùng nhiệt đới) từ đó khiến vườn Việt Nam có những đặc điểm riêng; ví dụ ở vườn Việt Nam, những yếu tố như nét dân dã và mộc mạc và bản sắc dân tộc luôn được đề cao, coi trọng và thể hiện. Đó là những nét rất gần gũi với cuộc sống thường nhật ở thôn quê Việt Nam như: cây đa bến nước, cây khế bờ ao, lũy tre, hàng rào chè tàu hay dâm bụt, cây cau vương vít bụi trầu, giếng khơi, lu nước với chiếc gáo dừa được tra chiếc cán tre xinh xắn. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Đặc biệt, trong vườn cảnh Việt Nam ở mỗi miền lại thường có những ngôi nhà mang đậm nét đặc trưng như: nhà ba gian, hai chái ở những vườn cảnh ở Bắc bộ; nhà rường trong những nhà vườn Huế; hoặc được làm đẹp bằng những kiểu nhà sàn của dân tộc thiểu số vùng cao. Ở Nam bộ trong vườn thường có thêm những cây cầu khỉ bằng tre vắt vẻo qua các mương nước như thách thức du khách đến chơi vườn. Chính vì những nét riêng này mà ở Việt Nam có nhà vườn Huế rất đặc biệt, được nhiều người biết đến.
Các vườn đẹp ở Việt Nam.
Ở Việt Nam có các khu vườn cảnh cổ đẹp, đáng chú ý như các khu nhà vườn Huế, các vườn cảnh cổ ở các lăng mộ vua chúa, Tử cấm thành các triều đại vua chúa phong kiến, vườn trong các đình, chùa cổ.
Trong nhà ở.
Trong ngôi nhà cổ truyền của Việt Nam thường có một bộ phận không thể thiếu được là mảnh vườn. Đây là nơi tăng gia và cũng có thể là nơi cải thiện môi trường sống, tạo không gian thoáng đãng cho ngôi nhà. Đặc biệt, nhà - vườn ở Huế đã trở thành một nét đặc sắc của miền Trung Việt Nam. Trong khuôn viên nhà vườn Huế có nhiều loại cây hoa màu sắc phong phú, cây cảnh tạo dáng thẩm mỹ, cây bóng mát bốn mùa, cây ăn quả mùa nào thức nấy cùng với hòn non bộ, bể cá vàng, chuồng chim cảnh khiến cho khuôn viên nhà vườn Huế là một không gian sinh động thu nhỏ, vừa có lợi ích kinh tế, vừa có hiệu quả thẩm mỹ nghệ thuật.
Trong công trình tôn giáo tín ngưỡng. | wiki |
Kiến trúc cổ Việt Nam | Trong công trình tôn giáo tín ngưỡng.
Các loại cây thường được trồng trong vườn của công trình tôn giáo tín ngưỡng là cây đa, cây si và cây đại... góp phần tạo cảnh làm nơi nghỉ ngơi cho khách thập phương đến thăm viếng và hành lễ đồng thời làm tôn giá trị nghệ thuật kiến trúc, tạo cảm giác thanh tịnh, trang nghiêm cho công trình tôn giáo. Hoa sen là loại cây quen thuộc và phổ biến trong kiến trúc Phật giáo.
Trong triều đình.
Vườn thượng uyển là vườn cảnh dành riêng cho nhà vua và hoàng gia cùng quan lại cao cấp trong triều đình phong kiến thưởng thức và du ngoạn. Cố đô Huế của triều nhà Nguyễn còn để lại những khu vườn cảnh có giá trị như: vườn Ngự uyển trong Tử Cấm Thành Huế, vườn Cơ hạ trong Hoàng thành Huế, vườn Tĩnh tâm, Dã viên nơi nuôi dã thú trong một khu vườn trên cồn cát gữa sông Hương nơi được ví như hữu Bạch hổ ở phía Tây thành phố Huế. | wiki |
Agogwe | Agogve là một sinh vật bí ẩn được cho là có hiện diện tại vùng Đông Phi ở Kenya và Uganda, nó có một số điểm tương đồng với người Almas, nhưng tầm vóc nhỏ hơn và thường được mô tả như những con khỉ Bonobo (tinh tinh lùn) đi thẳng đứng có một số nét giống con người như tay dài, thân thanh mảnh và lông màu đỏ cam. Nó còn được gọi với những cái tên như kakundakari hay kilomba hay agogure hoặc agogue.
Nhiều nhà khoa học tin rằng, sinh vật bí ẩn này là một trong những tổ tiên còn sót lại của nhân loại. Nhiều người tin rằng người Agogve là dấu tích sót còn lại của chủng tộc Australopithecus, sống ở châu Phi khoảng 4 triệu năm trước đây. Chúng đã thu hút sự chú ý quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu và thợ săn trong thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và họ cho rằng, đây chính là một trong những tổ tiên còn sót lại của nhân loại.
Địa điểm.
Người rừng tí hon Agogwe được nhìn thấy nhiều lần ở Tanzania là một quốc gia trên bờ phía Đông của châu Phi. Nó cũng đã được nhìn thấy ở Bờ Biển Ngà, nơi người bản địa gọi với cái tên là Sehite. Còn ở Zimbabwe, chúng được nhìn thấy và gọi bằng cái tên Kakundakari hoặc Kilomba. William Hitchens một nhà nghiên cứu về sư tử ở Đông Phi đã có những ghi chép đầu tiên về Agogwe vào thập niên 1900. Trong một lần đi săn, ông đã vô tình nhìn thấy sinh vật kì lạ này. Khi trở lại châu Âu, ông thuật lại toàn bộ câu chuyện với báo chí về cuộc gặp gỡ với Agogwe và thu về một số tiền lớn. | wiki |
Agogwe | Rất nhiều người cho rằng, đây chỉ là trò lừa bịp nhưng nhiều nhà thám hiểm, khoa học vẫn tin, đây là một loài vật có liên quan mật thiết tới nguồn gốc con người.Nhiều nhà nghiên cứu bắt đầu di chuyển tới Đông Phi để tìm kiếm Agogwe. Thế nhưng mọi thông tin về loài vật này đều biệt tăm, mãi cho tới năm 1938, Cuthbert Burgoyne là một nhà khoa học đã viết một bức thư gửi tới cho tạp chí London Discovery. Trong đó, ông trình bày chi tiết về cuộc gặp gỡ mà ông và vợ đã có khi đi du lịch dọc theo bờ biển châu Phi trên một chiếc thuyền chở hàng của Nhật Bản vào năm 1927.
Charles Cordier, người làm việc cho các vườn thú và viện bảo tàng đã bắt gặp một Agogwe tại nước Cộng Hòa Zaire trong cuối thập niên 1950. Khi đấy, Cordier đang đi săn và nghe thấy tiếng chiếc bẫy thòng lọng của ông rung lên. Ông tin chắc mình đã bắt được một con thú lớn, nhưng khi tới nơi, trước mắt là một sinh vật kỳ lạ, nó đã tự giải thoát để trốn mất.
Đặc điểm.
Tập hợp những miêu tả của nhiều nhân chứng, có thể thấy nó là sinh vật hình người với lớp da đầy lông lá. Agogwe là những sinh vật nhỏ nhắn, hình người, vô cùng bí ẩn. Nhưng dù với cái tên nào sinh vật này vẫn được mô tả chung với vẻ bề ngoài như một loài linh trưởng có thân hình không quá lớn, cao tầm 1m. Điều đặc biệt là chúng có thể đi bằng hai chân, dáng đứng thẳng, cơ thể lông lá, khuôn mặt rất giống người tiền cổ. Agogwe có dáng đi rất giống người dù cho thân thể toàn lông lá. | wiki |
Agogwe | William Hitchens miêu tả chúng nhìn như con người, cao khoảng 1m, toàn thân phủ lông màu vàng dày đặc, lông ở đầu màu đỏ. Sinh vật này chạy rất nhanh dù có đang vác trên người gậy gộc và đá. Có vẻ như, nó đang chuẩn bị tham gia một cuộc săn bắn. Người thổ dân đi cùng William nói rằng, đây là các Agogwe là những vị thần rừng nhỏ bé trong truyền thuyết địa phương. Những sinh vật linh thiêng này sẽ bảo vệ rừng và con người nơi đây. Điều đặc biệt là chúng không giao tiếp với nhau bằng hành động mà qua một thứ ngôn ngữ lạ kì. William quyết định đuổi theo chúng và bắn hạ, nhưng kì lạ thay, viên đạn không thể xuyên qua lớp lông dày trên người Agogwe.
Theo câu chuyện của Burgoyne, các Agogwe rất đặc biệt: Chúng tôi đã có cơ hội quan sát Agogwe ở vị trí khá gần trên một bãi biển với nhiều bụi cây mà phía trên có vài chục con khỉ đầu chó đang kiếm ăn. Bỗng nhiên từ trong bụi rậm, hai sinh vật màu nâu đỏ, nhỏ đi ra khỏi bụi cây và xua đuổi các con khỉ đầu chó. Những sinh vật này có dáng đứng thẳng, di chuyển như con người và dường như chúng đang giao tiếp với nhau bằng tiếng nói kì lạ. Sau đó, một người bạn của tôi trông thấy các sinh vật tương tự đi qua từ một bụi cây gần đó. Một thợ săn tính bắn hạ nó nhưng những người bản địa lớn tiếng ngăn cản ông ta. | wiki |
Agogwe | Theo ông Cordier nó là một sinh vật nhỏ thó có dáng giống con người và toàn thân phủ lớp lông đỏ cam. Điều thú vị, con vật không hề sợ hãi, nó trở mình, ngồi dậy, mở cái thòng lọng đang buộc vào đôi chân và chạy đi trước sự ngỡ ngàng của Cordier. Ông đã ngạc nhiên và cho rằng, đó là một sinh vật quá thông minh.
Giả thiết.
Xung quanh sự tồn tại của sinh vật này, có các giả thiết đặt ra về nguồn gốc của sinh vật bí ẩn nêu trên trong đó đáng chú ý là các loài linh trưởng lớn có hình dáng tương tự con người:
Vượn người.
Có giả thiết cho rằng Đây là tổ tiên của con người. Nhiều nhà khoa học tin rằng, Agogwe chính là các cá thể còn sót lại của Australopithecus, chi vượn người phương Nam đã tuyệt chủng. Đây là một mắt xích quan trọng chuyển từ giai đoạn vượn sang người và chúng đã tuyệt chủng cách đây ít nhất 3-4 triệu năm. Vì đang trong giai đoạn chuyển tiếp nên các Australopithecus mang những đặc điểm của cả người và vượn: có dáng đi thẳng bằng hai chân, sống dưới đất nhưng leo trèo giỏi và cơ thể nhiều lông lá. Chính vì vậy, rất có thể các Agogwe chính là những tổ tiên loài người còn may mắn sót lại và tiến hóa theo hướng khác, cơ thể thu nhỏ lại và phát triển một ngôn ngữ riêng để đối phó sự săn bắt của con người một cách dễ dàng.
Tinh tinh. | wiki |
Agogwe | Tinh tinh.
Một số khác nghiêng về giả thuyết Agogwe chính là loài vượn Bonobo nhưng đã bị đột biến gene trở thành một loài mới có màu lông đỏ cam. Đây là loài sinh vật có kiểu gene giống với kiểu gene của con người đến 98,4%. Các cuộc nghiên cứu về trí thông minh của các loài linh trưởng mới đây chỉ ra, nhóm vượn Bonobo có khả năng thực hiện các điệu bộ bằng đầu như gật, cúi, lắc để giao tiếp với đồng loại. Kích thước cơ thể của Bonobo cũng khá nhỏ, từ 1-1,2m, giống như chiều cao khiêm tốn của Agogwe trong các văn bản mô tả. Liệu rằng trong điều kiện tự nhiên, vượn Bonobo đã phát triển thành một loài mới có khả năng giao tiếp và dáng đứng thẳng như loài người. | wiki |
Nottinghamshire | Nottinghamshire
Nottinghamshire là một hạt của Anh. Nottinghamshire nằm ở đông trung bộ Anh, giáp biên giới Nam Yorkshire phía tây bắc, Lincolnshire, phía đông, Leicestershire ở phía nam, và Derbyshire về phía tây. Thủ phủ truyền thống của hạt là thành phố Nottingham, mặc dù Hội đồng quận có trụ sở tại West Bridgford trong các quận của Rushcliffe, tại một vị trí nhìn đối diện với Nottingham trên sông Trent.
Các quận, huyện của Nottinghamshire gồm có Ashfield, Bassetlaw, Broxtowe, Gedling, Mansfield, Newark và Sherwood, và Rushcliffe. Thành phố Nottingham hành chính một phần của Nottinghamshire giữa năm 1974 và 1998, nhưng bây giờ là một cơ quan đơn nhất, còn lại một phần của Nottinghamshire cho mục đích nghi lễ.
Đến năm 2006, ước tính dân số của hạt chỉ hơn 1.000.000 người. Hơn một nửa dân số của quận trong thành thị Nottingham (trong đó tiếp tục vào Derbyshire). Khu vực thành thị có dân số khoảng 650.000 người, mặc dù ít hơn một nửa sống trong ranh giới thành phố. | wiki |
Các bãi cạn Frigate Pháp | Các bãi cạn Frigate Pháp (tiếng Anh: "French Frigate Shoals"; tiếng Hawaii: "Kānemilohai") là rạn san hô vòng lớn nhất quần đảo Tây Bắc Hawaii. Nơi này nằm cách Honolulu về phía tây bắc. Tên gọi "Frigate Pháp" là để tưởng nhớ sự kiện hai tàu frigate dưới sự chỉ huy của nhà thám hiểm người Pháp Jean-François de La Pérouse "tìm ra" rạn vòng này vào năm 1786. Về mặt hành chính, khu vực này thuộc quận Honolulu, Hawaii. Cục Hoang dã và Cá Hoa Kỳ quản lý nơi này như một "field station" nằm trong Khu bảo vệ hải dương quốc gia Papahānaumokuākea.
Tên gọi.
Ngày 6 tháng 11 năm 1786, hai tàu frigate của Pháp là "Astrobale" và "Boussole" dưới sự chỉ huy của bá tước La Pérouse đã suýt bị mắc cạn tại rạn san hô vòng này nhưng đã kịp thời tránh được tai nạn. Họ gọi nó là "basse des Frégates Françaises", nghĩa là "bãi cạn Các Tàu Frigate Pháp".
Địa lý.
Các bãi cạn Frigate Pháp gồm một rạn san hô hình lưỡi liềm dài , mười hai đê cát ("đảo") và một hòn đá nổi mang tên "đỉnh nhọn La Perouse". Tổng diện tích đất của các đảo nhỏ chỉ là 248.914 m², trong khi tổng diện tích rạn san hô là hơn 938.870.690 m². Đảo Tern với diện tích có một đường băng và nơi định cư cho một số ít người. | wiki |
Các bãi cạn Frigate Pháp | Đỉnh nhọn La Perouse (tiếng Anh: "La Perouse Pinnacle", đặt theo tên của bá tước La Pérouse) là một hòn đá nổi nằm giữa rạn san hô vòng. Đây là khối đá núi lửa cổ nhất và xa xôi nhất của chuỗi đảo Hawaii. La Perouse cao và được bao quanh bởi những rạn san hô đẹp mắt. Khi nhìn từ xa, khối đá này thường bị nhầm lẫn với một con tàu do hình dáng riêng có của mình.
"Đảo" Whale-Skate (gồm hai "đảo" là Whale và Skate) là đối tượng địa lý chìm dưới biển. Các đảo này phải gánh chịu tình trạng xói mòn nghiêm trọng bắt đầu từ giữa thập niên 1960. Đến cuối thập kỉ 1990 thì đảo Whale-Skate chìm ngập hoàn toàn dưới nước.
1) Hải đảo Whale và Skate (đảo Whale-Skate) được liệt kê vào chung một lô với diện tích là 32.020 m² theo tài liệu thống kê đất đai. Tỉ lệ diện tích giữa hai đảo là 2:3.
2) Các đảo Round và Mullet được tài liệu thống kê đất đai xếp chung vào một lô có số hiệu là 1006 với tổng diện tích đạt 5540 m². Theo báo cáo năm 1971 thì mỗi đảo có diện tích lần lượt là 0,4 and 0,5 mẫu Anh (khoảng 1619 m² và 2023 m²).
3) Có thể thấy đảo Bare trên ảnh vệ tinh nhưng đảo lại không được liệt kê trong dãy điều tra ("census tract") đất đai quận Honolulu, Hawaii. Amerson Jr (1971) cho rằng đảo có diện tích là 0,1 mẫu Anh (khoảng 400 m²).
4) Theo báo cáo năm 1971 thì "đảo" Near thực chất chìm dưới biển.
Sinh thái. | wiki |
Các bãi cạn Frigate Pháp | 4) Theo báo cáo năm 1971 thì "đảo" Near thực chất chìm dưới biển.
Sinh thái.
Hệ thống rạn san hô ở các bãi cạn Frigate Pháp bao gồm 41 loài san hô cứng, bao gồm vài loài không thể tìm thấy ở các đảo chính trong quần đảo Hawaii. Ngoài ra còn có hơn 600 loài động vật không xương sống biển - trong đó có nhiều loài đặc hữu - sinh sống tại đây.
Hơn 150 loài tảo sống giữa các rạn san hô, và khu vực sát cạnh đỉnh nhọn La Perouse có những khu hệ tảo biển đặc biệt đa dạng. Điều này dẫn người ta đến một suy đoán rằng dòng chảy vào mang theo chất dinh dưỡng bổ sung - dưới dạng phân chim - là nhân tố góp phần tạo nên sự đa dạng sinh học và năng suất sinh học của tảo trong môi trường này. Vùng nước tại các rạn san hô là ngôi nhà cho rất nhiều loài cá. Loài cá đặc hữu của Hawaii là "Genicanthus personatus" cũng tương đối phổ biến tại đây. Phần lớn đồi mồi dứa của Hawaii tìm đến đây làm tổ. Các hòn đảo nhỏ trong các bãi cạn Frigate Pháp là nơi trú ẩn cho cộng đồng hải cẩu thầy tu Hawaii lớn nhất còn sống sót. | wiki |
Các bãi cạn Frigate Pháp | Các đảo tại đây cũng là các sân chim quan trọng của chim biển. 18 loài chim biển - trong đó có "Phoebastria nigripes", "Phoebastria immutabilis", "Pterodroma hypoleuca", "Bulweria bulwerii", "Puffinus pacificus", "Puffinus nativitatis", "Oceanodroma tristrami", "Onychoprion lunatus", "Procelsterna cerulea", "Anous stolidus", "Anous minutus", "Phaethon rubricauda", "Sula dactylatra", "Sula sula", "Sula leucogaster", "Fregata minor", "Onychoprion fuscatus" và "Gygis alba" - làm tổ tại nơi đây, hầu hết (16) là trên đảo Tern. Hai loài còn lại là "Procelsterna cerulea" và "Anous minutus" chỉ làm tổ trên đỉnh nhọn La Perouse. Hòn đảo cũng là nơi trú đông của vài loài chim lội.
Trong chuyến nghiên cứu vào tháng 10 năm 2006 của Cơ quan Quản trị Khí quyển và Đại dương Quốc gia Hoa Kỳ (NOAA), các nhà khoa học đã xác định thêm 100 loài chưa bao giờ thấy ở vùng này, trong đó có nhiều loài hoàn toàn mới. | wiki |
The American Sociologist | The American Sociologist
The American Sociologist là một tạp chí học thuật đựoc bình duyệt hàng quý chủ yếu tập trung vào xã hội học với sự nhấn mạnh đặc biệt vào các chủ đề liên quan đến nghề nghiệp và kỷ luật. Tạp chí được thành lập vào năm 1965 và được xuất bản bởi Hiệp hội Xã hội học Hoa Kỳ cho đến khi bị tạm đình chỉ vào năm 1982. Tạp chí tiếp tục trở lại vào năm 1987 khi nó được tiếp quản bởi Transaction Publishers. Transaction Publishers đã bán quyền xuất bản tạp chí cho Springer Science + Business Media vào năm 2007.
Tóm tắt và lập chỉ mục.
Tạp chí được tóm tắt và lập chỉ mục tại: | wiki |
Sahibabad Daulat Pur | Sahibabad Daulat Pur
Sahibabad Daulat Pur là một thị trấn thống kê ("census town") của quận North West thuộc bang Delhi, Ấn Độ.
Nhân khẩu.
Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Sahibabad Daulat Pur có dân số 35.977 người. Phái nam chiếm 57% tổng số dân và phái nữ chiếm 43%. Sahibabad Daulat Pur có tỷ lệ 52% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 61%, và tỷ lệ cho phái nữ là 40%. Tại Sahibabad Daulat Pur, 19% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. | wiki |
Internet Encyclopedia of Philosophy | Internet Encyclopedia of Philosophy viết tắt là IEP, ISSN 2161-0002 là một bách khoa toàn thư học thuật trực tuyến về triết học, các chủ đề liên quan đến triết học và các nhà triết học .
IEP kết hợp xuất bản truy cập mở với xuất bản đánh giá các bài báo gốc. Các đóng góp nói chung là theo lời mời. Các cộng tác viên được công nhận và các chuyên gia quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực của họ .
Lịch sử.
IEP được nhà triết học James Fieser lập ra vào năm 1995, hoạt động thông qua một tổ chức phi lợi nhuận với mục đích cung cấp thông tin có thể tiếp cận và học thuật về triết học . Các tổng biên tập hiện tại là các triết gia James Fieser và Bradley Dowden, với các nhân viên cũng bao gồm nhiều biên tập viên trong vùng cũng như các tình nguyện viên . Toàn bộ trang web được thiết kế lại vào mùa hè năm 2009, chuyển từ các trang HTML tĩnh sang nền tảng xuất bản nguồn mở WordPress .
Sử dụng.
"SimilarWeb" đã phân tích cho thấy rằng trang web IEP được truy cập trên toàn thế giới từ hai đến ba triệu lần mỗi tháng . Khoảng 75% sử dụng là thông qua tìm kiếm trên mạng, 18% là thông qua truy cập trực tiếp, và 5% thông qua giới thiệu, với các trang web giới thiệu bao gồm các trang web tham khảo khác và hướng dẫn về thư viện trường đại học .
Công nhận. | wiki |
Internet Encyclopedia of Philosophy | Công nhận.
IEP được Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ (American Library Association) đưa vào danh sách các trang tham khảo miễn phí tốt nhất ; được Liên đoàn các triết học Australasian ở trường học (Federation of Australasian Philosophy in Schools Associations) liệt kê như là một tài nguyên triết học trực tuyến ; được EpistemeLinks liệt kê là một trong những "nguồn lực xuất sắc" trong triết học trên Internet ; và được liệt kê như là một nguồn đáng tin cậy trong nhiều hướng dẫn triết học ở trường đại học . | wiki |
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cổ phần Cao su Chánh Tân | Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cổ phần Cao su Chánh Tân
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Cổ phần Cao su Chánh Tân (), hay còn gọi là Maxxis, là công ty lốp lớn thứ 9 trên thế giới. Công ty do tỷ phú La Kết thành lập năm 1967, tại trấn Viên Lâm, huyện Chương Hóa, Đài Loan. Hãng lốp Maxxis Tyres cùng các sản phẩm lốp của CST (Cheng Shin Tire) là chi nhánh được sở hữu 100% bởi công ty Chánh Tân.
Công ty khởi đầu là một nhà sản xuất lốp xe đạp và kể từ đó mở rộng sang các dạng lốp khác, bao gồm cả lốp dành cho các loại xe gắn động cơ. Năm 2015, Chánh Tân có doanh thu toàn cầu đạt trên 3,85 tỷ đô la Mỹ. | wiki |
Mülheim an der Mosel | Mülheim an der Mosel
Mülheim an der Mosel là một đô thị ở huyện Bernkastel-Wittlich, trong bang Rheinland-Pfalz, Đô thị Mülheim an der Mosel có diện tích 4,92 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2006 là 973 người.
Đô thị này nằm giữa khu vực trồng nho trong thung lũng sông Mosel gần Bernkastel-Kues và Đô thị đại học Trier. Mülheim nằm bên hữu ngạn sông nơi thung lũng bắt đầu mở rộng và bờ sông bằng phẳng. Đô thị này nằm ở chân núi nhỏ được trồng nho toàn bộ diện tích. Các đơn vị giáp ranh gồm Brauneberg và Lieser.
Kinh tế địa phương dựa vào nghề trồng nho, du lịch. | wiki |
Carlito syrichta | Carlito syrichta
Tarsius syrichta hay còn gọi Cu li Phi Luật Tân, là một loài động vật có vú trong họ Tarsiidae/Cu li, bộ Linh trưởng/Linh trưởng. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758.
Loài này trong tiếng địa phương gọi là "mawmag" sống chủ yếu ở đảo Luzon, Philipin.
Đặc điểm.
Đây là một trong những loài cu li nhỏ nhất. Con trưởng thành cao chỉ khoảng 85 tới 160 mm và nặng từ 80~160 gam.
Như nhiều loài cu li khác, do cấu tạo hộp sọ loài này có đôi mắt rất to so với sọ và không di chuyển mắt được. Chúng có bộ lông mỏng với chiếc đuôi ngắn.
Thường sống về đêm, rất nhút nhát, thức ăn chủ yếu của cu li là nhện, côn trùng, thằn lằn nhỏ và đôi khi
cả chim. Thiên địch của chúng là mèo và những loài chim ăn thịt lớn và gần đây là con người (thợ săn). | wiki |
Millionaire Hot Seat | Millionaire Hot Seat là một chương trình trò chơi truyền hình Úc, là một phiên bản khác của "Who Wants to Be a Millionaire?" Chương trình bắt đầu phát sóng trên Nine Network vào ngày 20 tháng 4 năm 2009. Cũng giống như phiên bản gốc của chương trình, Eddie McGuire là người dẫn chưng trình.
Đây là một trong hai phiên bản của Millionaire có mặt tại Việt Nam. Tại đây, phiên bản này có tên gọi "Ai là triệu phú - Ghế nóng", tồn tại từ 2010 đến 2011 nhằm thay thế phiên bản gốc. Tuy nhiên, sau khi xem xét ý kiến của khán giả, phiên bản gốc đã trở lại từ ngày 5 tháng 7 năm 2011.
Luật chơi.
Trong mỗi chương trình, cả 6 thí sinh tham gia đều có cơ hội được trở thành người chơi chính ngồi trên ghế nóng cùng với người dẫn chương trình.
2009 - 2016, vòng 2 từ 2017.
Có 15 câu hỏi với độ khó ngẫu nhiên. Thí sinh phải trả lời các câu hỏi một cách chính xác để có cơ hội giành lấy giá trị giải thưởng cao nhất. Khi gặp phải một câu hỏi khó, họ có một lần duy nhất được quyền "chuyển" cho thí sinh tiếp theo trả lời câu hỏi này. Người này sẽ không thể chuyển cho người chơi tiếp theo cho đến khi trả lời đúng câu hỏi. Trả lời sai một câu hỏi bất kỳ, thí sinh sẽ bị loại và ra về tay trắng, đồng thời mức tiền thưởng cao nhất sẽ bị hạ xuống một cấp. | wiki |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.