title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Bao Thanh Thiên (phim truyền hình 1993)
"Bao Thanh Thiên" sau khi công chiếu đã đạt được thành công vang dội ở nhiều nước châu Á như Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông, Indonesia, Thái Lan, Singapore và Việt Nam. Đây được coi là bộ phim truyền hình kinh điển, có sự kết hợp tuyệt vời giữa những tình tiết ly kỳ hấp dẫn với các bài học đạo đức nhân sinh sâu sắc. Bộ phim đem lại cho người xem niềm tin "Đạo Trời lồng lộng, thưa mà không lọt, công lý tất thắng gian tà": người nhân nghĩa tất được giải oan, kẻ gian ác xảo quyệt thì tất bị trừng trị. Các vai diễn Bao Công của Kim Siêu Quần, Triển Chiêu của Hà Gia Kính được coi là hình mẫu, khó có diễn viên nào có thể thay thế được. Ngoài ra, yếu tố nhạc phim và võ thuật trong phim cũng được đánh giá cao. Bộ phim đã tạo ra một cơn sốt về phim lấy đề tài điều tra phá án, sau thành công của "Bao Thanh Thiên", đã có nhiều phim truyền hình khác khai thác đề tài về Bao Công như Tân Bao Thanh Thiên, Tuổi trẻ Bao Thanh Thiên, Bao Công xuất tuần, Bao Công kỳ án và nhiều bộ phim khác có sự xuất hiện của nhân vật Bao Thanh Thiên. Nhạc chủ đề. Đầu phim. Bài nhạc chủ đề mở đầu phim do ca sĩ Hồ Qua (胡瓜) trình bày có cùng tựa đề của bộ phim. Ban đầu bản nhạc được ca sĩ Tưởng Quang Siêu (蔣光超) thể hiện từ loạt phim cùng tựa đề trước đó của hãng CTS vào năm 1974. Bản tiếng Việt với tựa đề Con đường thiên lý được ca sĩ kiêm sáng tác nhạc Nguyên Lộc dịch và thể hiện cùng nhóm nhạc K6. Cuối phim. Bản nhạc cuối phim là "Tân uyên ương hồ điệp mộng" (), do Hoàng An (黃安) sáng tác và trình bày.
wiki
Bao Thanh Thiên (phim truyền hình 1993)
Cuối phim. Bản nhạc cuối phim là "Tân uyên ương hồ điệp mộng" (), do Hoàng An (黃安) sáng tác và trình bày. Một bản nhạc kết phim khác cũng được sử dụng trong những tập cuối là "Huề thủ du nhân gian" () do Trương Chân thể hiện.
wiki
Amy Smart
Amy Smart Amy Lysle Smart (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1976) là một nữ diễn viên người Mỹ và cựu người mẫu thời trang. Smart bắt đầu sự nghiệp người mẫu của mình ở Ý và sau đó ghi danh vào trường diễn xuất. Vai diễn đầu tiên của cô trong phim là trong phim của đạo diễn Martin Kunert "Campfire Tales." Cô đã tham gia diễn xuất trong nhiều bộ phim, bao gồm "Varsity Blues" (1999), "Road Trip" (2000), "Rat Race" (2001), "The Butterfly Effect" (2004), "Just Friends" (2005), "Mirrors" (2008), và của Tyler Perry "The Single Moms Club" (2014). Tiểu sử. Smart sinh ra ở Topanga, California. Mẹ của cô, Judy Lysle (nhũ danh Carrington), làm việc tại một bảo tàng, và cha cô, John Boden Smart, là một nhân viên bán hàng. Cô học múa ba lê trong 10 năm.
wiki
Porphyrio albus
Porphyrio albus Porphyrio albus là một loài chim trong họ Rallidae. Loài gà nước đã tuyệt chủng này đã từng sinh sống trên đảo Lord Howe, phía đông Australia. Loài này được bắt gặp lần đầu tiên khi các thủy thủ đoàn của tàu Anh đến thăm hòn đảo từ năm 1788 đến năm 1790, và tất cả các tài liệu và hình ảnh minh họa đương đại đều được tạo ra trong thời gian này. Ngày nay, có hai hình mẫu còn tồn tại: hình ba chiều trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên của Vienna, và một loại khác trong Bảo tàng Thế giới của Liverpool. Mặc dù sự nhầm lẫn lịch sử đã tồn tại về nguồn gốc của các mẫu vật cũng như phân loại và giải phẫu của loài chim này, nhưng hiện nay người ta cho rằng nó là một loài đặc hữu của Đảo Lord Howe và gần giống với gà nướcđầm lầy Úc-Á. Loài gà nước này đã cư trú ở các khu vực đất thấp có cây cối rậm rạp sinh sống ở vùng đất ngập nước. Không có tài liệu ghi lại về hành vi xã hội và sinh sản của nó và hình dạng tổ, trứng và tiếng kêu của chúng. Có lẽ đây là loài không di cư.
wiki
Sylvit
Sylvit Sylvit là kali chloride (KCl) ở dạng "khoáng vật tự nhiên". Nó tạo thành các tinh thể trong khối, các phương hệ thống rất giống với muối mỏ thông thường, halit (NaCl). Trên thực tế đó là hai dạng đồng hình. Sylvit không màu đến màu trắng, pha màu vàng và đỏ do tạp chất sắt oxide. Sylvit có độ cứng Mohs là 2,5, khối lượng riêng 1,99, chỉ số khúc xạ 1,4903. Sylvit có vị mặn đắng chát khác biệt. Sylvit là một trong những khoáng vật cuối cùng kết tủa từ "dung dịch bốc hơi" (evaporite). Như vậy, nó chỉ được tìm thấy ở các khu vực nước muối rất khô. Tác dụng chính của nó là nguyên liệu cho sản xuất phân bón kali. Tên gọi của nó bắt nguồn từ tiếng Latinh "sal digestibus Sylvii" nghĩa là muối của Sylvius, đặt theo tên của François Sylvius de le Boe (1614-1672), một bác sĩ kiêm nhà hóa học ở Leyden, Hà Lan.
wiki
Tháng Mân Côi
Tháng Mân Côi Tháng Mân Côi ứng với tháng 10 hàng năm, là tháng mà hội thánh Công giáo dâng kính Đức Maria qua việc đọc kinh Mân Côi. Nguồn gốc của tháng này bắt nguồn từ lễ kính Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10, được lập để tạ ơn Đức Mẹ đã nhận lời các tín hữu cầu nguyện. Họ đã lần chuỗi mân côi, cầu nguyện cho Hội thánh Kitô giáo Âu Châu tránh khỏi cuộc xâm lăng của đế quốc Ottoman, được đánh dấu bởi cuộc chiến tại Lepanto vào năm 1571. Tháng Mân Côi chính thức hình thành vào năm 1886 do Giáo hoàng Leo XIII qua thông điệp Supremi Apostolatus. Trong thông điệp này, Giáo hoàng Leo XII viết: "Tôi xác định và truyền lệnh rằng, trong năm nay, Đại Lễ Kính Đức Trinh Nữ Rất Thánh Mân Côi sẽ được cử hành một cách long trọng ở bậc Lễ trọng trên toàn thế giới Công giáo, và từ ngày mồng 01 tháng 10 tới ngày mồng 02 tháng 11, mỗi ngày phải tổ chức đọc ít nhất năm chục Kinh Mân Côi cùng với Kinh Cầu Đức Bà tại tất cả các Giáo đường, và nếu các Đức Giám mục thấy là thích hợp và hữu ích, thì cũng làm như thế tại tất cả các ngôi Thánh Đường khác hay tại các Thánh Địa được cung hiến cho Mẹ Thiên Chúa Chí Thánh, trên toàn thế giới".
wiki
Zbigniew Kundzewicz
Zbigniew Władysław Kundzewicz (sinh ngày 4 tháng 12 năm 1950 tại Augustów, Ba Lan) là nhà thủy văn học và khí hậu học Ba Lan. Ông đồng thời là giáo sư Khoa học Trái đất, và là thành viên tương ứng của Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan và Viện hàn lâm châu Âu. Sự nghiệp giáo dục. Zbigniew Kundzewicz tốt nghiệp Khoa Điện tử tại Đại học Công nghệ Warszawa. Ông thăng hàm tiến sĩ (PhD) năm 1979, học hàm DSc năm 1985 về khoa học vật lý với chuyên ngành địa vật lý và thủy văn. Năm 1993, ông giữ chức giáo sư khoa học Trái đất. Năm 2010, ông là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan (PAS), và năm 2017 ông là thành viên của Viện Hàn lâm Châu Âu. Từ 1974 đến 1989, ông làm việc tại Viện Vật lý Địa cầu trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan. Từ năm 1990, ông làm việc tại Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan về Môi trường Nông nghiệp và Rừng ở Poznań. Ông cũng là nhân viên nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu Tác động Khí hậu Potsdam (2001-2016), một trong những trung tâm nghiên cứu biến đổi khí hậu hàng đầu thế giới. Nghiên cứu. Lĩnh vực nghiên cứu của Kundzewicz tập trung vào các hiện tượng thủy văn cực đoan như lũ lụt, đặc biệt là tác động của biến đổi khí hậu đối với tài nguyên nước. Ông là chuyên gia trong lĩnh vực này. Ông từng là chủ tịch của Ủy ban Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan về Nghiên cứu các mối đe dọa thiên tai. Từ năm 1994, ông là một trong những chuyên gia của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC).
wiki
Zbigniew Kundzewicz
Ông đã xuất bản rộng rãi hơn 550 ấn phẩm khoa học do ông là tác giả hoặc đồng tác giả. Từ tháng 4 năm 1997 đến tháng 4 năm 2015, ông là Tổng biên tập "Hydrological Sciences Journal (Tạp chí Khoa học Thủy văn)".
wiki
Geffen Records
Geffen Records là một hãng thu âm của Mỹ được thành lập bởi David Geffen và thuộc sở hữu của Universal Music Group thông qua Interscope Geffen A&M Records. Được thành lập vào năm 1980, Geffen Records là một phần của Interscope Geffen A&M từ năm 1999 và được Universal Music sử dụng như một bộ phận phân phối, phục vụ mục đích hoạt động như một nhãn hiệu hàng đầu cho nhiều bản phát hành mới kể từ năm 2003 và lần khởi động lại năm 2017 và tại đồng thời phát hành lại nhiều bản phát hành từ các hãng thu âm như Decca Records (dành riêng cho danh mục nhạc pop/rock của Mỹ), Kapp Records, DreamWorks Records, MCA Records, Uni Records, Chess Records, Almo Sounds (Gần đây, Interscope đã quản lý việc phát hành lại nhãn vào năm 2015) Dot Records, và ABC Records (chủ yếu là nhạc pop, bản ghi âm rock và R&B). Trong nhiều năm kể từ khi thành lập, hãng đã ký và phát hành các bản thu âm của nhiều nghệ sĩ lớn như Elton John, Kylie Minogue, Enya, Cher, Guns N 'Roses, Tesla, John Lennon, Joni Mitchell, Aerosmith, Neil Young, Peter Gabriel, Donna Summer, và gần đây là Nirvana, Weezer, Mary J. Blige, Blink-182, Avicii, DJ Snake, Keyshia Cole, Lifehouse, Beck, Nelly Furtado, Lil Durk, Marshmello, Rise Against, Olivia Rodrigo, Snoop Dogg, Rob Zombie, Lil Huddy và Gryffin. Lịch sử.
wiki
Geffen Records
Lịch sử. Hãng thu âm Geffen bắt đầu hoạt động vào năm 1980, được thành lập bởi doanh nhân ngành âm nhạc David Geffen người, vào đầu những năm 1970, đã thành lập Hồ sơ tị nạn. Geffen rời Asylum vào năm 1975, khi chuyển sang đóng phim và được bổ nhiệm làm phó chủ tịch của Warner Bros. Pictures. Ông bị Warner sa thải khoảng năm 1978, nhưng vẫn bị khóa hợp đồng 5 năm, điều này khiến ông không thể làm việc ở nơi khác. Khi thỏa thuận đó hết hạn, ông trở lại làm việc vào năm 1980 và trớ trêu thay, Warner Bros. Records, công ty chị em của Warner Bros. Pictures, để tạo ra Geffen Records. Warner Bros. Records đã cung cấp 100% kinh phí cho việc thành lập và hoạt động của hãng và Warner đã phân phối các bản phát hành của nó ở Bắc Mỹ, trong khi Epic Records xử lý việc phân phối ở các nơi còn lại trên thế giới cho đến năm 1985. Trong năm đó, Warner Bros. đã tiếp quản việc phân phối cho phần còn lại của thế giới. Lợi nhuận được chia 50/50 giữa Geffen Records và các nhà phân phối tương ứng.
wiki
Geffen Records
Bản hợp đồng nghệ sĩ đầu tiên của Geffen Records là siêu sao Donna Summer, người có album bán chạy vàng "The Wanderer" trở thành bản phát hành đầu tiên của hãng vào năm 1980. Sau đó hãng phát hành "Double Fantasy" của John Lennon và Yoko Ono. Hai tuần sau khi nó lọt vào bảng xếp hạng, Lennon bị sát hại ở thành phố New York. Sau đó, album đã bán được hàng triệu bản và mang lại cho Geffen album và đĩa đơn quán quân đầu tiên; quyền đối với album sau đó sẽ được EMI tiếp quản, quyền này cuối cùng đã được công ty mẹ của Geffen Universal Music tiếp nhận. Khi những năm 1980 trôi qua, Geffen sẽ tiếp tục thành công với những hoạt động như Berlin, Enya, Kylie Minogue, Quarterflash, Wang Chung, và Sammy Hagar. Hãng cũng đã ký hợp đồng với một số nghệ sĩ đã thành danh như Elton John, Irene Cara, Cher, Debbie Harry, Don Henley, Joni Mitchell, Neil Young, Peter Gabriel và Jennifer Holliday. Vào cuối thập kỷ này, công ty cũng bắt đầu tạo dựng tên tuổi của mình như một nhãn hiệu rock mới nổi nhờ thành công của Whitesnake (chỉ ở Hoa Kỳ và Canada), The Stone Roses, Guns N 'Roses, Tesla, Sonic Youth và sự trở lại của các rocker từ những năm 1970 Aerosmith. Điều này đã thúc đẩy Geffen thành lập một nhãn hiệu con, DGC Records vào năm 1990; trong đó tập trung vào progressive rock hơn và sau đó sẽ đón nhận sự xuất hiện của alternative rock - Nirvana là một ví dụ. Geffen cũng đã phân phối ngắn gọn phiên bản đầu tiên của Def American Recordings thông qua Warner Bros. từ năm 1988 đến 1990.
wiki
Geffen Records
Mua lại bởi MCA. Sau một thập kỷ hoạt động thông qua Warner, khi hợp đồng với công ty hết hạn, hãng này đã được bán cho MCA Music Entertainment (sau đó đổi tên thành Universal Music Group) vào năm 1990. Cuối cùng, thỏa thuận này đã mang về cho David Geffen một khoản tiền ước tính 800 triệu đô la Mỹ trong cổ phiếu (cho đến khi tập đoàn Nhật Bản, Matsushita Electric Industrial Co., Ltd. Mua lại MCA bằng tiền mặt vào năm 1991, đưa Geffen trở thành tỷ phú) và một hợp đồng lao động có thời hạn đến năm 1995. Sau vụ mua bán, Geffen Records hoạt động như một trong những nhãn hiệu được quản lý độc lập hàng đầu của MCA. Geffen từ chức người đứng đầu hãng vào năm 1995 để hợp tác với Jeffrey Katzenberg và Steven Spielberg để thành lập DreamWorks SKG, một đế chế đa phương tiện đầy tham vọng kinh doanh phim, truyền hình, sách và Âm nhạc. Geffen Records sẽ phân phối các bản phát hành trên công ty con DreamWorks Records của hoạt động mới. Interscope-Geffen-A & M.
wiki
Geffen Records
Interscope-Geffen-A & M. Universal Music Group mua lại PolyGram vào năm 1999, dẫn đến việc tổ chức lại các nhãn hiệu. Geffen Records, cùng với A&M Records, sau đó được hợp nhất thành Interscope Records. Mặc dù Geffen sẽ tiếp tục tồn tại như một thương hiệu, nhưng nó đã được thu nhỏ lại để phù hợp với sự mở rộng lớn hơn của Interscope. Đồng thời, việc phân phối quốc tế các bản Interscope và Geffen chuyển sang nhãn cũ của PolyGram Polydor Records, hãng đã phân phối các bản phát hành của A&M ở nước ngoài (đổi lại A&M xử lý các bản phát hành Polydor ở Hoa Kỳ). Đến năm 2000, mặc dù Geffen Records không còn hoạt động độc lập trong UMG và có vị trí phục tùng hơn sau Interscope, hãng vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh ổn định — đến nỗi trong năm 2003, UMG đã xếp hạng MCA Records thành Geffen. Mặc dù Geffen về cơ bản là một hãng nhạc pop-rock, việc hấp thụ MCA (và các danh mục phụ của nó) đã dẫn đến một danh sách đa dạng hơn; với các nghệ sĩ cũ của MCA như Mary J. Blige, The Roots, Blink-182, Rise Against và Common hiện đã được giới thiệu trên nhãn. Trong khi đó, DreamWorks Records cũng xếp hạng, với các nghệ sĩ như Nelly Furtado, Lifehouse và Rufus Wainwright cũng bị Geffen hấp thụ. Trong thời gian này, DGC Records cũng được xếp lại thành Geffen, với các nghệ sĩ được giữ lại hiện đang trực tiếp thu âm cho Geffen (DGC đã được kích hoạt lại vào năm 2007, tuy nhiên thay vào đó nó sẽ hoạt động thông qua Interscope Records).
wiki
Geffen Records
Khi những năm 2000 tiến triển, Geffen hấp thụ các nhãn MCA và DreamWorks, cùng với việc tiếp tục ký hợp đồng với các nghệ sĩ mới như Ashlee Simpson, Angels & Airwaves, Snoop Dogg và The Game, đã thúc đẩy công ty đến mức nó bắt đầu có được vị thế ngang bằng với nhãn hiệu Interscope chính, khiến một số người trong ngành suy đoán rằng nó có thể quay trở lại hoạt động như một chi nhánh được quản lý độc lập tại UMG. Tuy nhiên, vào cuối năm 2007, Geffen tiếp tục gia nhập Interscope, sa thải 60 nhân viên. Năm 2009, có thông báo rằng Geffen Records đã ký một thỏa thuận với Tòa thánh để sản xuất một album gồm các bài hát và lời cầu nguyện của Marian từ Giáo hoàng Benedict XVI. Jimmy Iovine bắt đầu mang lại dấu ấn cho Geffen vào năm 2011, chuyển trụ sở chính từ California đến Thành phố New York. Gee Roberson được bổ nhiệm làm chủ tịch. Vào tháng 3 năm 2017, Neil Jacobson được bổ nhiệm làm Chủ tịch của Geffen Records để giám sát việc ra mắt lại nhãn thông qua các bản hợp đồng mới cũng như tái tạo danh mục huyền thoại của hãng. In December 2019, Jacobson left Geffen to start Crescent Drive Productions. Vào tháng 1 năm 2020, Lee L'Heureux được bổ nhiệm làm tổng giám đốc của Geffen Records.
wiki
A.S.D. Sorrento
ASD Sorrento 1945 là một câu lạc bộ bóng đá Ý đến từ Sorrento, Ý, được thành lập với tên gọi là Sorrento Calcio vào năm 1945. Đội đã mất liên kết với FIGC, sau khi bị tòa án tuyên bố phá sản ở Torre Annunziata vào tháng 9 năm 2015. Kể từ phán quyết này, "Câu lạc bộ bóng đá Sorrento" được thành lập bởi sự sáp nhập của Atletico Sorrento 5 và Sant'Antonio Abate. Câu lạc bộ đã đăng ký lại để thi đấu tại Eccellenza Campania vào năm 2016-17. Câu lạc bộ đã dành phần lớn lịch sử của mình ở các giải đấu thấp của hệ thống bóng đá Ý. Sorrento đạt đến đỉnh cao như Serie B trong những năm đầu thập niên 1970, nơi họ ghi nhận thành tích cao nhất của họ với vị trí thứ 19 trong mùa giải 1971-72. Ngoài điều này và các chức vô địch mà họ đã giành được ở cấp độ thấp hơn, Sorrento cũng đã giành được Cup Ý Serie D. Lịch sử. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1945 và sau khi chơi các giải đấu thấp hơn, họ đã giành được quyền đăng ký vào giải đấu Promozione Campania cho mùa giải 1949-1950. Sorrento kết thúc cuối giải đấu, trong một mùa giải có các đối thủ mạnh hơn trong nước như Avellino và Casertana. Dưới cái tên Flos Carmeli; cái tên bắt nguồn từ Công giáo La Mã về Đức Trinh Nữ Maria có nghĩa là Đức tin, Tình yêu, Sự vâng lời và Dịch vụ, câu lạc bộ trở lại giải đấu trong giữa những năm 1950. Lần này vị trí của họ ổn định hơn, và họ đã có một sân vận động mới tên "Stadio Italia". Tên của câu lạc bộ Sorrentine đã được đổi lại thành Sorrento Calcio ban đầu vào năm 1957.
wiki
A.S.D. Sorrento
Vào cuối những năm 1960, Sorrento bắt đầu trở nên thành công hơn rất nhiều, họ đã có các lần thăng hạng liên tiếp. Đầu tiên, họ giành được Promozione Campania sau khi hon đối thủ ba điểm và sau đó trong mùa giải Serie D đầu tiên của họ năm 1968-69, họ là những nhà vô địch về hiệu số bàn thắng, sau khi kết thúc trận đấu với Turris tại Torre del Greco. Thành công của giải đấu những năm 1970. Đội bóng đến từ tỉnh Naples lần đầu tiên trải nghiệm bóng đá cấp độ Serie C trong mùa giải 1969-70. Sorrento đạt được vị trí thứ 4 đáng khâm phụctrên các câu lạc bộ nổi tiếng hơn như Lecce và Messina, cũng như các đối thủ trong khu vực như Salernitana và Avellino. Ở mùa giải tiếp theo, Sorrento đã tiến bộ hơn nữa và lên ngôi vô địch Serie C; chỉ cần một điểm trước Salernitana là giành danh hiệu. Với những cầu thủ như Giuseppe Bruscolotti trong đội hình, Sorrento được gia nhập Serie B cho mùa giải 1971-72. Nó được coi là một thành tựu to lớn cho phía tỉnh nhỏ để tham gia ở giải đấu cấp cao; nhiều đội mà sân thi đấu của họ có sức chứa sân vận động lớn hơn toàn bộ dân số của Sorrento. Mặc dù họ đã hoàn thành ở vị trí thứ hai từ dưới lên và đã xuống hạng vào cuối mùa giải, nhưng Sorrento đã ghi lại một số kết quả rất tốt. Ấn tượng nhất là chiến thắng 4-0 trước Brescia vào ngày 30 tháng 4 năm 1972. Họ cũng đánh bại Livorno hai lần, và Bari 1-0 trên sân khách.
wiki
A.S.D. Sorrento
Sau khi xuống hạng, Sorrento không thể trở lại, thay vào đó buộc phải chiến đấu với nó ở Serie C trong những năm 1970 kể từ đó; vị trí cao nhất mà họ có thể kết thúc một mùa giải là vị trí thứ 4 trong mùa 1975-76 bị kẹp giữa Bari và Messina. Đối với mùa giải 1978-79, hệ thống giải đấu được tổ chức lại một chút và câu lạc bộ được đưa vào Serie C2; cấp độ thứ tư của bóng đá Ý. Một vị trí á quân đã đạt được vào năm 1984-85, trong đó, Sorrento chỉ hoàn thành kém một điểm sau nhà vô địch Licata of Sicily; vị trí á quân là đủ để thăng hạng cho Sorrento lên Serie C1. Từ chối. Sorrento đã xuống hạng từ Serie C1, ở vị trí cuối bảng trong mùa giải đầu tiên của họ, trong phần còn lại của những năm 1980, Sorrento đã xuống Serie C2. Một cú trượt nữa xuất hiện vào năm 1989-90 khi họ được đưa xuống Campionato Interregionale (tương đương ngày nay là Serie D), có lẽ đây là vì lý do tài chính vì Sorrento thực sự đã kết thúc vị trí thứ 5 tại Serie C2 mùa trước. HSorrento đã bị rớt khỏi giải đấu Interregionale năm 1990, đội bóng với vị trí thứ 15, câu lạc bộ được đưa vào giải đấu Promozione Campano. Họ đã bỏ lỡ cơ hội thăng hạng lên khu vực Boscoreale, mùa giải tiếp theo, Sorrento kết thúc với tư cách là á quân của khu vực Gragnano và do đó không được thăng hạng thêm một lần nữa. Cuối cùng, ở lần thử thứ ba, Sorrento Calcio đã thăng hạng và thoát khỏi giải đấu Promozione Campano thông qua việc giành chức vô địch năm 1993. Hồi sinh: giữa những năm 1990 trở đi.
wiki
A.S.D. Sorrento
Hồi sinh: giữa những năm 1990 trở đi. Câu lạc bộ đang ở Eccellenza Campania và trải qua ba mùa giải đầu tiên của họ ở giải đấu trong 7 vị trí hàng đầu. Dưới sự huấn luyện của Amato, Sorrento đã chiến thắng và đăng quang Ecellenza năm 1997-98. Họ đã được tham gia CND (đó là tên của ngày hôm nay Serie D), Sorrento đã ổn định trong hai mùa giải đầu tiên trở lại giải đấu, kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 5 và thứ 6. 2001-02 là một cú hích trên bản đồ cho sự hồi sinh của Sorrento Calcio, họ đã hoàn thành vị trí thứ 14, cao hơn điểm của câu lạc bộ đã xuống hạng mùa đó; Internapoli. Câu lạc bộ đã xoay xở để xoay chuyển mọi thứ trong các mùa giải tiếp theo và đến năm 2005, đội bóng đã đạt được cú đúp, họ đã lên ngôi vô địch Serie D và cũng giành được Coppa Italia Serie D. Sorrento thi đấu tại Serie C2 trong mùa giải 2006-07, họ đã giành ngôi vô địch khi hơn Benevento một điểm; Francesco Ripa kết thúc với tư cách là cầu thủ ghi bàn hàng đầu của giải đấu với 23 bàn thắng. Từ 2007-08 đến 2012 và Lega Pro Prima Divisione.
wiki
A.S.D. Sorrento
Từ 2007-08 đến 2012 và Lega Pro Prima Divisione. Sorrento thi đấu ở giải hạng 3 của Ý trong mùa 2007-08 và cố gắng duy trì vị thế của mình bằng cách kết thúc ở vị trí thứ 10 cách vị trí xuống hạng 10 điểm. Vị thế của họ trong bảng đã được củng cố hơn trong mùa giải tiếp theo mặc dù chỉ hơn 1 điểm so với các vị trí xuống hạng và ở vị trí thứ 11. Vị trí này đã được cải thiện trong mùa giải 2009-10 khi đội kết thúc ở vị trí thứ 9, mặc dù một lần nữa chỉ hơn 3 điểm so với vị trí xuống hạng. Mùa này chứng kiến sự xuất hiện của Paulinho, người đã ghi 15 bàn sau 33 trận cho mượn từ Livorno, tuy nhiên, đó là mùa tiếp theo, khi anh thực sự sẽ trở thành tiêu đề và đạt được vị thế sùng bái ở Sorrento. Mùa 2010-11.
wiki
A.S.D. Sorrento
Mùa 2010-11. Vào đầu mùa giải 2010-11, Sorrento đã đứng đầu bảng Serie C1 vào tháng 11 và đối mặt với khả năng thăng hạng mạnh mẽ lên Serie B. Điều này phần lớn là do những bàn thắng được ghi bởi Paulinho Betanin, người đã xuất sắc với 24 bàn thắng (trong 29 trận) vào cuối mùa giải. Tuy nhiên, việc thăng hạng không được thực hiện và bằng cách kết thúc mùa giải ở vị trí thứ hai, Sorrento đủ điều kiện tham dự Play-offs. Betanin đã bị chấn thương trong những trận đấu cuối cùng của mùa giải và không góp mặt trong trận play-off. Đối với trận Bán kết, họ gặp Hellas Verona và không may mắn khi thua trận lượt đi 2-0 trên sân Bentegodi. Trận lượt về đã chứng kiến trận hòa 1-1 tại Stadio Italia và thua 3-1 chung cuộc, Sorrento không đủ điều kiện cho trận chung kết Play-off. Trong khi Sorrento đã không chơi đủ tốt để lọt vào trận chung kết, thì trận lượt về đã bị hủy hoại bởi những tranh cãi. Theo một tờ báo địa phương, những người hâm mộ đến Hellas Verona (một đội có liên quan mạnh mẽ đến chủ nghĩa côn đồ ở Ý) đã không tôn trọng sự im lặng của phút chốc đối với những người lính Ý thất thủ ở Afghanistan và tiến hành hô vang những lời tán tụng phân biệt chủng tộc đối với cầu thủ Niang của Senento. Sau đó, theo dõi trận đấu, như được kể lại trên tờ báo địa phương Positano, nhiều cửa hàng địa phương rõ ràng là cảnh bạo lực khi những người hâm mộ thành phố tràn lan trên đường phố. Sorrento thất bại trong nỗ lực thăng hạng serie B. Mùa 2011-12.
wiki
A.S.D. Sorrento
Mùa 2011-12. Đội đã bị trừ hai điểm khi bắt đầu tham gia vào vụ bê bối dàn xếp trận đấu liên quan đến Juve Stabia. Đây là một vấn đề riêng biệt từ vụ bê bối liên quan đến các câu lạc bộ Ý cao cấp hơn vào năm 2011. Mặc dù vậy, Sorrento đã thể hiện tốt trong phần lớn mùa giải 2011-12 và đến tháng 2 năm 2012, đứng ở vị trí thứ 5, với tiền đạo ngôi sao Ciro Ginestra dẫn đầu với 13 bàn sau 22 trận. Trận derby địa phương trên sân nhà với Avellino cũng chứng kiến sự trở lại của huyền thoại câu lạc bộ Paulinho, người đang đứng trên khán đài của trận đấu và được chào đón như một vị vua trở về bởi "tifosi". Ginestra tiếp tục ghi 21 bàn trong Lega Pro, trở thành "Capocannoniere", trong đó có hai bàn thắng trước Pro Vercelli trong trận đấu áp chót của mùa giải.
wiki
A.S.D. Sorrento
Đội đã thất bại trong năm thứ hai liên tiếp của họ để có được sự thăng hạng lên Serie B, tuy nhiên, mặc dù đã hoàn thành vị trí thứ 4 và đủ điều kiện cho vòng play-off. Họ đã thua Carpi trong trận bán kết và thua trận đầu tiên 1-0 trên sân nhà. Trận lượt về đã diễn ra tại Carpi ở Emilia Romangna vào ngày 27 tháng 5 năm 2012 và mặc dù Sorrento đã chiến thắng 1-0 (bàn thắng của Carlini), nhưng không đủ để đưa họ vào trận chung kết play-off. Vì Carpi đã hoàn thành ở vị trí cao hơn trong giải đấu so với Sorrento, họ đã được trao một vị trí trong trận chung kết và Sorrento tiếp tục tham gia Lega Pro cho một mùa giải tiếp theo. Huấn luyện viên Ruotolo bày tỏ sự hối tiếc về kết quả này và rằng Sorrento và người hâm mộ của họ xứng đáng được tốt hơn. Mùa 2012-13.
wiki
A.S.D. Sorrento
Sau đó, vào ngày 8 tháng 6 năm 2012, mười hai ngày sau thất bại ở trận play-off, thảm họa xảy ra với câu lạc bộ khi chủ tịch đương nhiệm Mario Gambardella tuyên bố quyết định từ chức với hiệu lực ngay lập tức và để câu lạc bộ được đặt vào tay Thị trưởng của thị trấn Giuseppe Cuomo. Ông trích dẫn tình hình tài chính khó khăn sau đó là lý do đằng sau quyết định từ chức của ông. Điều này đến như một cú sốc lớn đối với câu lạc bộ và do những hoàn cảnh không có kế hoạch và cực đoan này, nhiều cầu thủ (bao gồm cả Ginestra) và cả huấn luyện viên đã rời câu lạc bộ trong suốt mùa hè. Câu lạc bộ đã cố gắng duy trì hoạt động và đăng ký cho mùa 2012-13 do sự hỗ trợ tài chính của các nhà tài trợ và hướng dẫn của Cuomo, nhưng có nghi ngờ nghiêm trọng về việc câu lạc bộ có thể tiếp tục trừ khi tìm thấy chủ tịch mới hay không. Sau một vài tuần hỗn loạn, Sorrento có một chủ tịch mới, nhưng cuộc khủng hoảng đã gây ra vấn đề với họ với những người thuê ở sân Stadio Italia ở Sorrento và cho đến khi điều này có thể được giải quyết thì Sorrento Calcio sẽ phải chơi các trận đấu tại nhà của họ tại sân vận động Simonetta Lamberti của hàng xóm Pro Cavese ở Cava de 'Tirreni. Câu lạc bộ đã giới thiệu huấn luyện viên mới của mình, ông Buc Bucaro cho người hâm mộ và giới truyền thông vào ngày 21 tháng 7 năm 2012 tại khách sạn Continental ở Sorrento. Sorrento Calcio bắt đầu mùa giải của họ với trận hòa 0-0 trên sân nhà trước Gubbio. Mùa giải không thành công và Rossoneri kết thúc ở vị trí thứ 15 trong số
wiki
A.S.D. Sorrento
2012 tại khách sạn Continental ở Sorrento. Sorrento Calcio bắt đầu mùa giải của họ với trận hòa 0-0 trên sân nhà trước Gubbio. Mùa giải không thành công và Rossoneri kết thúc ở vị trí thứ 15 trong số 16 đội vào cuối mùa giải khiến họ phải chơi ở vòng play out. Sau trận đấu 2 lượt với Prato, Sorrento thua 2-1 trên tổng số và bị rớt khỏi Lega Pro Prima Divisione sang Seconda Divisione.
wiki
A.S.D. Sorrento
Sau khi họ xuống hạng từ Lega Pro, Sorrento đã chơi mùa 2013-2014 ở bảng I của Serie D. Vào tháng 6, có suy đoán rằng câu lạc bộ có thể được mua bởi chủ sở hữu một thời của Juve Stabia, Franco Giglio. Giglio thực sự sẽ mua lại câu lạc bộ, nhưng mãi đến tháng 6 năm 2015, năm sau. Vào ngày 24 tháng 7 năm 2013, Sorrento đã thuê Luca Chiappino, người từng huấn luyện đội trẻ Genoa. Mùa giải đã không bắt đầu tốt, nhưng Sorrento đã dành một chút thời gian ở nửa trên của bảng xếp hạng. Tuy nhiên, Chiappino không tồn tại được lâu, vào ngày 25 tháng 11, ông đã bị sa thải sau thất bại quyết định trước Martina Franca sau 3 chiến thắng, 3 trận hòa và 7 thất bại khiến "Rossoneri" đứng thứ tư từ dưới lên và trong khu vực xuống hạng. Câu lạc bộ sau đó đã chuyển sang Giovanni Simonelli, huấn luyện viên đã mang lại thành công cho họ chỉ một vài năm trước đó. Ông được bổ nhiệm vào ngày 27 tháng 11 năm 2013. Sau thất bại thứ 4 liên tiếp vào tháng 2 năm 2014, Simonelli cảm thấy đội xứng đáng nhận được nhiều may mắn hơn trong suốt bốn trận đấu, đặc biệt là liên quan đến các quyết định của trọng tài. Tuy nhiên, ông cho biết các cầu thủ và câu lạc bộ phải tin vào chính mình để thoát khỏi cuộc đua khó khăn này. Mặc dù đã hoàn thành thứ 9 và bỏ lỡ cơ hội thăng hạng lên Lega Pro Primera Divisione khi kém một điểm, nhưng Sorrento đã tìm thấy chính mình trong vòng play out. Trận đấu diễn ra đã chứng kiến Sorrento Calcio xuống hạng từ Lega Pro C2 / B sau trận thua tổng hợp 4-3 trước Arzanese.
wiki
A.S.D. Sorrento
Mùa 2014-15. Mùa giải 2014-2015 cũng gây thất vọng tương tự, với câu lạc bộ lơ lửng quanh khu vực xuống hạng trong phần lớn thời gian của năm. Họ đã xoay xở để kết thúc ở vị trí thứ 14 dẫn đến việc họ chơi trong trận đấu tránh xuống hạng. Họ đã gặp Battipagliese trong một trận đấu mà họ thua 2-1. Điều này dẫn đến sự xuống hạng thứ 3 liên tiếp của họ, lần này là xuống Eccellenza Campania. Về quyền sở hữu, việc mua lại on-off-on-off của Giglio cuối cùng đã hoàn thành vào tháng 6 năm 2015. Giải thích về sự chậm trễ khoảng một năm trong việc đầu tư của mình, Giglio tuyên bố rằng sự suy giảm số liệu tham dự và các vấn đề tài chính tại câu lạc bộ đã ảnh hưởng đến quyết định của ông. Mùa 2015-16. Sorrento bắt đầu mùa giải 2015/2016 ở Eccellenza Campania. Đây là một chiến dịch thực sự thảm khốc đối với "Rossoneri", đội đã kết thúc cuối bảng xếp hạng sau khi không thể thắng một trận duy nhất, hòa 5 và thua 25 đội còn lại. Mặc dù vậy, câu lạc bộ đã cố gắng đăng ký lại để tham gia Eccellenza cho mùa giải 2016-2017. Mùa 2016-17. Mario Turi được bổ nhiệm làm HLV vào đầu mùa giải và ban đầu làm rất tốt. Tuy nhiên, ông đã được thay thế vào tháng 12 năm 2016 bởi Maurizio Coppola. Tính đến ngày 24 tháng 1 năm 2017, họ ở vị trí thứ 2 và tất nhiên là cho vị trí thi đấu, đã thắng 10 trong số 17 trận đấu của họ. Danh hiệu. Serie C: 1 Serie C2: 1 Serie D: 2 Coppa Italia Serie C: 1 Coppa Italia Serie D: 1 Eccellenza Campania: 1 Promozione Campania: 2
wiki
Luz Marina Zuluaga
Luz Marina Zuluaga Luz Marina Zuluaga là một nữ hoàng sắc đẹp đến từ Colombia. Bà đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 1958 được tổ chức tại Nhà hát Thính phòng Long Beach ở Long Beach, California, Hoa Kỳ. Bà là người phụ nữ Colombia đầu tiên đăng quang danh hiệu Hoa hậu Hoàn vũ, đây cũng là lần đầu tiên Colombia cử đại diện tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ. Luz Marina Zuluaga là người phụ nữ Colombia duy nhất chiến thắng danh hiệu Hoa hậu Hoàn vũ cho tới khi Paulina Vega đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 2014
wiki
Chaetodon tricinctus
Chaetodon tricinctus là một loài cá biển thuộc chi Cá bướm (phân chi "Discochaetodon") trong họ Cá bướm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1901. Từ nguyên. Tính từ định danh "tricinctus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: tiền tố "tri" ("ba") và "cinctus" ("quấn quanh mình"), hàm ý đề cập đến ba dải đen trên cơ thể của loài cá này. Phạm vi phân bố và môi trường sống. "C. tricinctus" là loài đặc hữu của Úc, được tìm thấy dọc theo bờ đông của đảo quốc này, cũng như các rạn san hô vòng và hải đảo trên biển Tasman, gồm rạn san hô Elizabeth, rạn san hô Middleton, đảo Lord Howe và đảo Norfolk. Đây là loài cá bướm phong phú nhất ở đảo Lord Howe. Mật độ của "C. tricinctus" cao hơn 3 lần so với loài cá bướm phong phú thứ hai, là "Chaetodon melannotus". "C. tricinctus" sống tập trung ở những khu vực mà san hô phát triển phong phú trên các rạn viền bờ hay trong đầm phá, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 15 m. Mô tả. "C. tricinctus" có chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận là 15 cm. Loài này có màu trắng (phớt vàng) với hai dải đen dày ở mỗi bên thân. Đầu có một dải vàng nâu băng dọc qua mắt. Miệng có đốm cam. Gốc vây ngực có một vạch màu vàng cam băng ngang qua. Vây lưng và vây hậu môn có dải viền cam ở rìa. Vây đuôi màu cam (rìa sau trong suốt), cuống đuôi trắng. Vây ngực trong suốt. Vây bụng trắng. Số gai ở vây lưng: 12; Số tia vây ở vây lưng: 21; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.
wiki
Chaetodon tricinctus
Số gai ở vây lưng: 12; Số tia vây ở vây lưng: 21; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 17–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5. Sinh thái học. Thức ăn của "C. tricinctus" chủ yếu là động vật phù du. Tuy cũng ăn san hô (chủ yếu là san hô cứng) nhưng "C. tricinctus" không hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn thức ăn này. "C. tricinctus" có thể kết đôi với nhau hoặc hợp thành những nhóm nhỏ. Thương mại. "C. tricinctus" ít khi xuất hiện trong ngành kinh doanh cá cảnh.
wiki
Assassination Classroom
, còn được biết tới với tên tiếng Việt là Lớp học Ám sát, là một loạt manga Nhật Bản được sáng tác bởi tác giả Matsui Yūsei. Số đầu tiên của series này đăng trên tạp chí "Weekly Shounen Jump" của Nhật Bản vào tháng 7 năm 2012. Tác phẩm sớm trở nên nổi tiếng và tính tới tháng 7 năm 2016, 21 cuốn "tankõbon" đã được bán ra với khoảng 20 triệu bản. Nhà xuất bản Trẻ đã mua bản quyền và ấn hành bản dịch tiếng Việt của manga tại Việt Nam từ tháng 2 năm 2020, nhưng thay vì đặt tựa đề bằng tên tiếng Việt thì lại đặt bằng tên của bản tiếng Anh là Assassination Classroom. Nội dung.
wiki
Assassination Classroom
Nội dung. Trái đất đang đối mặt với mối nguy là một sinh vật có hình dáng giống bạch tuộc, màu vàng có sức mạnh siêu phàm và đã phá hủy 70% mặt trăng, biến mặt trăng thành hình trăng khuyết mãi mãi. Sinh vật đấy tuyên bố rằng vào tháng 3 năm sau, Trái Đất cũng sẽ bị hắn phá hủy giống như mặt trăng, nhưng hắn đã cho nhân loại một cơ hội để thay đổi số phận. Hắn đề nghị được làm thầy giáo của lớp kém nhất trường trung học Kunugigaoka, lớp 3-E (năm 3 lớp E), và sẽ dạy các học sinh ấy không chỉ các môn học bình thường mà còn dạy nghệ thuật ám sát. Chính phủ Nhật Bản đồng ý (do không thể giết được hắn và cũng vì khi học hắn dạy học, các học sinh có thể giết hắn trong phạm vi gần) và đã treo mức giá 10 tỷ yên cho học sinh nào giết được sinh vật này và "Lớp học ám sát" được bắt đầu. Tuy nhiên, nhiệm vụ trên đã sớm trở thành bất khả thi, bởi vì sinh vật đấy không chỉ có các khả năng siêu phàm như tốc độ mach 20 Mach mà còn là thầy giáo tuyệt vời nhất mà lớp 3-E từng có được. Nhân vật. Học sinh lớp 3-E. Học sinh lớp 3-A Truyền thông. Manga. Manga series của Ansatsu Kyōshitsu được đăng lần đầu trong Weekly Shõnen Jump của tác giả Shueisha vào tháng 7 năm 2012. Quyển tankōbon đầu tiên được phát hành vào tháng 11 cùng năm, với số lượng bán ban đầu gồm 300,000 bản, nhưng sau một số lần tái bản, con số này đã lên đến hơn 1,000,000 bản. Tập thứ 17 cúa series, xuất bản vào tháng 12 năm 2015, đã đạt được con số hơn 10,000,000 bản.
wiki
Assassination Classroom
Manga ăn theo:  "Korosensei !", với người viết và minh họa là Watanabe Kizuku và Aoto Jou, đã được đăng trên tạp chí "Saikyō Jump." Anime. Một tập OVA dựa trên series này được sản xuất bởi Brain's Base cho "Jump Super Anime Tour" và được chiếu tại 5 thành phố của Nhật từ 6 tháng 10 tới 24 tháng 11 năm 2013. Một series phim truyền hình dựa trên manga đã được phát sóng trên Fuji TV từ 9 tháng 1 năm 2015 và kéo dài 22 tập. Phim. Một bản Live Action của manga đã được công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 21 tháng 3 năm 2015. Phim thứ hai, "Ansatsu Kyoushitsu: Sotsugyō-hen" ("Phần tốt nghiệp") được công chiếu vào 25 tháng 3 năm 2016. Trò chơi điện tử. Tựa game đầu tiên được dựa trên manga, được phát triển bởi Bandai Namco Games và được bán ra cho máy Nintendo 3DS vào ngày 12 tháng 3 năm 2015 tại Nhật Bản. Nội dung là biến người chơi thành học sinh của lớp 3E tham gia các sự kiện ám sát trong 5 tháng (từ tháng 4 đến tháng 8).
wiki
Assassination Classroom
Tựa game thứ 2 cũng đuợc dựa trên manga do Namco Bandai Entertainment sản xuất có tên là Ansatsu Kyōshitsu: Assassin Ikusei Keikaku !! (Assassination Classroom: Dự Án Ám Sát Nâng Cấp !!) trên máy Nintendo 3DS ra mắt vào ngày 24/3/2016. Trò chơi sẽ biến người chơi thành một học sinh của lớp 3-E, nơi mà chúng ta phải đối phó với các hoạt động trong trường như tham gia các bài kiểm tra và ám sát Koro-sensei trong thời gian nhập học và tốt nghiệp. Người chơi sẽ luyện tập với Nagisa, nhận nhiệm vụ với Karma và giao tiếp với các bạn cùng lớp.. trong suốt 1 năm học để trở thành học sinh mạnh nhất của lớp 3E. Thầy Koro xuất hiện với tư cách là một nhân vật điều khiển được trong game "J-Star Victory VS", sau được phát hành toàn cầu với tên "J-Star Victory VS+".
wiki
Bánh khoai tây bào chiên
Bánh khoai tây bào chiên (tiếng Anh: "hash browns" hay "hashed browns)" là một món ăn sáng phổ biến của người Mỹ bao gồm khoai tây cắt nhỏ, thái hạt lựu, rồi chiên áp chảo; một số công thức thêm hành tây thái hạt lựu hoặc xắt nhỏ. Băm nâu lần đầu tiên xuất hiện trên thực đơn bữa sáng ở Thành phố New York vào nhữngoai tây bào chiên là món ăn sáng chủ yếu của thực khách ở Bắc Mỹ, nơi chúng thường được chiên trên bếp hoặc lò nướng thông thường lớn. Ở một số vùng của Hoa Kỳ, "bánh khoai tây bào chiên" chỉ đơn thuần là khoai tây áp chảo cắt nhỏ hoặc cắt nhỏ, trong khi khoai tây áp chảo và cắt hạt lựu được gọi là khoai tây chiên đồng quê hoặc khoai tây chiên tại nhà và được phục vụ như một món ăn phụ trong các bữa ăn khác. Bánh khoai tây bào chiên là một sản phẩm phổ biến được sản xuất hàng loạt được bán ở dạng đông lạnh, đông lạnh và dạng hút khô. Lịch sử. Ban đầu, tên đầy đủ của món ăn là "Khoai tây nâu bào chiên", trong đó, đề cập đầu tiên được biết đến là của tác giả ẩm thực người Mỹ Maria Parloa (1843–1909) trong cuốn sách "Đồng hành nhà bếp" năm 1887, nơi cô mô tả món "khoai tây bào và chiên vàng" như một hỗn hợp chiên của khoai tây luộc nguội được gấp lại "như trứng tráng" trước khi phục vụ. Tên dần dần được rút ngắn thành 'Bánh khoai tây bào chiên'. Từ nguyên học. Từ "bào" có nguồn gốc từ từ " "hacher"" trong tiếng Pháp có nghĩa là băm hoặc thái nhỏ. Điều này có nghĩa là khoai tây nâu băm được dịch theo nghĩa đen là "khoai tây cắt nhỏ và chiên". Sự chuẩn bị.
wiki
Bánh khoai tây bào chiên
Từ "bào" có nguồn gốc từ từ " "hacher"" trong tiếng Pháp có nghĩa là băm hoặc thái nhỏ. Điều này có nghĩa là khoai tây nâu băm được dịch theo nghĩa đen là "khoai tây cắt nhỏ và chiên". Sự chuẩn bị. Đầu bếp có thể chế biến món bánh khoai tây bào chiên bằng cách tạo khoai tây chín thành miếng chả trước khi chiên với hành tây (độ ẩm và tinh bột khoai tây có thể giữ chúng lại với nhau); tuy nhiên, nếu thêm chất kết dính (ví dụ như trứng hoặc dầu), chế phẩm như vậy sẽ tạo thành bánh nướng chảo khoai tây. Bánh khoai tây bào chiên đông lạnh đôi khi được làm thành dạng miếng thịt để dễ xử lý, và dạng phẳng, nhỏ gọn cũng có thể được nấu chín trong lò nướng bánh mì hoặc máy nướng bánh mì. Nếu một món khoai tây chín vàng băm kết hợp với thịt băm nhỏ, thức ăn thừa hoặc các loại rau khác, thì nó thường được gọi là "băm". Bánh khoai tây bào chiên cũng được sản xuất như một loại thực phẩm sấy khô, đôi khi được sử dụng bởi du khách du lịch bụi.
wiki
Sân bay Antalya
Sân bay Antalya Sân bay Antalya (IATA: AYT, ICAO: LTAI) là một sân bay có cự ly 13 km (8,1 dặm) về phía đông bắc của trung tâm thành phố Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ. Sân bay được vận hành trong kỳ nghỉ chính của Thổ Nhĩ Kỳ ở bờ biển Địa Trung Hải của nước này. Sân bay được xây dựng để phục vụ hàng triệu hành khách đến các bãi biển Địa Trung Hải của Thổ Nhĩ Kỳ vào mùa hè. Nó phục vụ 25 triệu lượt hành khách trong năm 2011, hơn 20 triệu trong số này là khách quốc tế. Sân bay này có hai nhà ga quốc tế và một nhà ga nội địa. Dựa trên những dự báo từ dữ liệu từ tháng cao điểm (ví dụ như tháng 8 năm 2009), hiện nay có công suất ước tính lên đến 40 triệu lượt/năm. Antalya là một trong những sân bay lớn về phía Tây Nam Thổ Nhĩ Kỳ, những sân bay khác là Bodrum và Dalaman.
wiki
Alai Ghasem
Alai Ghasem Alai Fadel Ali Hussain Ghasem (; sinh ngày 16 tháng 2 năm 2003), được biết đến với tên Alai Hussain Ghasem hoặc đơn giản hơn là Alai Ghasem, là một cầu thủ bóng đá hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ IFK Göteborg tại Allsvenskan. Sinh ra tại Thụy Điển, anh đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Iraq. Sự nghiệp thi đấu. Quốc tế. U-19 Iraq. Ghasem được sinh ra tại Göteborg, Thụy Điển, có bố là người Iraq và mẹ là người Algérie. Anh đã từng đại diện cho đội tuyển U-19 Iraq vào tháng 11 năm 2021. Đội tuyển quốc gia Iraq. Ngày 23 tháng 9 năm 2022, Alai ra mắt quốc tế cho Iraq trong trận thua trước Oman trên loại sút luân lưu tại Giải đấu quốc tế Jordan 2022. Anh được gọi triệu tập lên đội tuyển U-20 Iraq để chuẩn bị cho Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023. Danh hiệu. Iraq
wiki
Lê Uyên Phương
Lê Uyên Phương là nghệ danh chung của đôi vợ chồng nhạc sĩ Lê Minh Lập (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1941 – mất ngày 29 tháng 6 năm 1999) và ca sĩ Lê Uyên Lâm Phúc Anh (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1952). Lê Uyên Phương nổi tiếng bởi việc sáng tác và trình diễn những tình khúc ca ngợi tình yêu nồng nàn, lãng mạn tại Sài Gòn trước năm 1975. Cuộc đời. Lê Minh Lập sinh ra và lớn lên tại Đà Lạt. Cha của ông vốn họ Phan, nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ "Lê". Mẹ là Công Tôn Nữ Phương Nhi - con gái thứ chín của vua Thành Thái. Do giấy tờ bị thất lạc trong thời chiến tranh nên ông phải làm lại giấy khai sinh hai lần, nhân viên làm giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Nghệ danh Lê Uyên Phương là ông lấy chữ "Phương" trong tên mẹ, cùng với chữ "Uyên" tên người bạn gái đầu tiên mà ghép thành. Bài nhạc đầu tay “Buồn đến bao giờ” được ông sáng tác năm 1960 tại Pleiku. Lâm Phúc Anh lúc đó mới 15 tuổi, là con của một gia đình thương gia khá giả và nề nếp ở khu người Hoa ở Sài Gòn, được gia đình đưa lên Đà Lạt để học trường Tây nội trú. Nhà Lê Uyên Phương và Lâm Phúc Anh ở sát nhau - số 18 và 22 Võ Tánh, Thành phố Đà Lạt. Hai người quen rồi kết hôn vào năm 1968. Hầu hết các ca khúc của Phương từ đây về sau đều tặng vợ.
wiki
Lê Uyên Phương
Mùa xuân năm 1970, nhà thơ Đỗ Quý Toàn từ Sài Gòn lên Đà Lạt họp với anh em hướng đạo sinh. Người thân của Lê Uyên Phương cho ông Toàn nghe một băng cassette mà Lê Uyên Phương thu tại nhà. Ông Toàn giật mình nói với người thân rằng làm sao thu xếp để ông Toàn gặp Lê Uyên Phương vào ngày hôm sau. Lần gặp ấy, ông Toàn nói với anh: “Bất cứ lúc nào anh xuống Sài Gòn thì gặp tôi”. Trong kỳ nghỉ Tết, Lê Uyên Phương cùng vợ xuống Sài Gòn và gặp lại Đỗ Quý Toàn. Đỗ Quý Toàn giới thiệu Lê Uyên Phương cho nhà báo Đỗ Ngọc Yến, một người hoạt động phong trào văn nghệ sinh viên. Ông Yến tổ chức cho Lê Uyên Phương buổi biểu diễn đầu tiên tại Trường Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ. Lúc đó, có nhiều phóng viên hỏi Lê Uyên Phương là ai? Ông buột miệng chỉ vợ rồi nói: “"Đây là Lê Uyên. Còn tôi là Phương"”. Từ đó Lâm Phúc Anh gắn liền với nghệ danh Lê Uyên. Lúc hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương. Trong vòng 19 ngày, Lê Uyên Phương biểu diễn liên tục các show cho sinh viên Văn khoa, Luật khoa, Sư Phạm, Y Khoa, rồi tới Đài Truyền hình Việt Nam lẫn quán cà phê Con Nai Vàng của nhạc sĩ Cung Tiến. Nhờ vậy, Lê Uyên Phương có được hợp đồng biểu diễn tại 5 phòng trà Sài Gòn, mỗi đêm hát thù lao là 5000 đồng cho mỗi điểm biểu diễn 3 bài (lương giáo viên của anh hồi đó là 5, 6 ngàn/tháng) trong vòng bốn năm.
wiki
Lê Uyên Phương
Từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên Phương đã đem đến một luồng gió mới cho tân nhạc Việt Nam với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải và đôi khi bàng bạc, triết lý như "Bài ca hạnh ngộ", "Dạ khúc cho tình nhân", "Lời gọi chân mây", "Vũng lầy của chúng ta"... được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Mỗi ca khúc của Lê Uyên Phương đều mang cảm thức hạnh phúc lẫn chia lìa. Bởi theo Lê Uyên Phương, tình yêu của một chàng trai 27-28 tuổi mang trong mình căn bệnh quái ác không biết ra đi lúc nào, với cô gái phơi phới mới lớn như Lâm Phúc Anh, đối với ông là quá lớn. Năm 1979, hai vợ chồng Lê Uyên Phương rời Việt Nam, đến định cư tại Miền Nam California, Hoa Kỳ. Đây là nơi ra đời hai cô con gái Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Năm 1984, Lê Uyên bị trúng đạn lạc từ hai băng đảng thanh toán nhau nên phải ngừng biểu diễn trên các sân khấu ca nhạc hải ngoại. Khoảng thời gian sau tai nạn đó, cả hai lặng yên sắp xếp lại cuộc sống chứ không phải chia tay như nhiều lời đồn thổi. Mãi đến năm 1990, Lê Uyên mới trở lại sân khấu với tiết mục trong chương trình Paris By Night số 11. Lê Uyên Phương mất vì bệnh ung thư phổi ngày 29 tháng 6 năm 1999 tại bệnh viện UCI (University of California, Irvine).
wiki
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ – Bách khoa
Trường Cao đẳng Kỹ thuật – Công nghệ Bách Khoa (tên Tiếng Anh là College of Technology, tên viết tắt CTECH) Hiện trường tuyển sinh và đào tạo Hệ chính quy Cao đẳng, Trung cấp, THPT Cao đẳng 15 ngành: Ngôn ngữ Tiếng Nhật, Tin học ứng dụng phần mềm, Du lịch, Thiết kế đồ họa, Công nghệ ô tô, Chế tạo thiết bị cơ khí, Cắt gọt kim loại, Cơ điện tử, Tự động hoá, Chăm sóc sắc đẹp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Hàn Quốc, Tiếng Đức, Tiếng Anh, Điều Dưỡng. 1. Lịch sử xây dựng và phát triển Trường Cao đẳng Kỹ thuật – Công nghệ Bách Khoa được thành lập ngày 01/10/2008. Năm 2019, CTECH trở thành thành viên của Hải Phong Group – đơn vị hoạt động trong lĩnh vực: phái cử nhân lực chất lượng cao VN sang Nhật Bản; tư vấn đầu tư, tư vấn phát triển dự án, nông nghiệp công nghệ cao; chăm sóc người cao tuổi; phân phối, bảo dưỡng ô tô, và giáo dục – đào tạo. 2. Tầm nhìn CTECH cam kết mang đến cho xã hội nguồn nhân lực được đào tạo với trình độ công nghệ cao, cập nhật tiến bộ kỹ thuật, và được trang bị các kỹ năng công việc chuẩn đầu ra doanh nghiệp mong muốn, nhằm đáp ứng được nhu cầu xã hội, và xu thế hội nhập quốc tế hiện nay. 3. Triết lý giáo dục Triết lý giáo dục CTECH mong muốn trở thành ngôi trường trao cơ hội và giúp thế hệ các bạn sinh viên Việt Nam tự tin, sẵn sàng trong hành trình viết tiếp ước mơ và khẳng định giá trị bản thân.
wiki
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ – Bách khoa
Triết lý giáo dục CTECH mong muốn trở thành ngôi trường trao cơ hội và giúp thế hệ các bạn sinh viên Việt Nam tự tin, sẵn sàng trong hành trình viết tiếp ước mơ và khẳng định giá trị bản thân. Cao đẳng Kỹ thuật – Công nghệ Bách Khoa cam kết "100% sinh viên tốt nghiệp có việc làm". Vì vậy nhà trường và doanh nghiệp gắn kết chặt chẽ với nhau. Sinh viên được đào tạo theo nhu cầu công việc của doanh nghiệp trong xã hội. Sinh viên được trải nghiệm thực tế và tích lũy kinh nghiệm thông qua việc dành nhiều thời lượng thực hành tay nghề, đi thực tập tại doanh nghiệp trong và ngoài nước ngay trong quá trình học tập tại trường.   4. Ngành nghề đào tạo "Từ năm 2008 - trước năm 2019:" CTECH đào tạo hệ chính quy trình độ Cao đẳng 05 ngành: - Công nghệ kỹ thuật ô tô - Công nghệ chế tạo máy - Tin học ứng dụng - Tài chính ngân hàng - Kế toán "Từ năm 2019 đến nay:" CTECH tuyển sinh và đào tạo hệ chính quy Cao đẳng, Trung cấp, THPT Cao đẳng 15 ngành: - Ngôn ngữ Tiếng Nhật - Tin học ứng dụng phần mềm - Thiết kế đồ họa - Du lịch - Công nghệ ô tô - Chế tạo thiết bị cơ khí - Cắt gọt kim loại - Cơ điện tử - Tự động hoá - Chăm sóc sắc đẹp. - Tiếng Trung Quốc - Tiếng Hàn Quốc - Tiếng Đức - Tiếng Anh - Điều Dưỡng 5. Phương pháp đào tạo Với đội ngũ giảng viên có trình độ và mạng lưới gần 500 doanh nghiệp hợp tác trong – ngoài nước, với các bài giảng thường xuyên cập nhật.
wiki
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ – Bách khoa
- Tiếng Đức - Tiếng Anh - Điều Dưỡng 5. Phương pháp đào tạo Với đội ngũ giảng viên có trình độ và mạng lưới gần 500 doanh nghiệp hợp tác trong – ngoài nước, với các bài giảng thường xuyên cập nhật. CTECH áp dụng phương pháp đào tạo hướng tới từng sinh viên, đào tạo sinh viên theo cơ chế huấn luyện, đưa sinh viên vào một môi trường tác nghiệp, môi trường thực hành ngay từ khi bước vào trường. Trường cũng chú trọng đào tạo tác phong, thái độ theo phong cách Nhật Bản, ưu tiên rèn luyện ý thức, kỷ luật, tinh thần phấn đấu và ý chí vượt gian khó cho các sinh viên. 6. Tuyển sinh Tạo điều kiện để tất cả học sinh đã tốt nghiệp THCS, THPT, tuy học lực khác nhau những sẽ có được những cơ hội "được học tập, được phát triển và trở thành những nhân lực đủ khả năng hoàn thành xuất sắc các công việc được giao phó sau khi tốt nghiệp". Trường Cao đẳng Kỹ thuật – Công nghệ Bách Khoa (CTECH) Trụ sở: Xã Văn Bình – Huyện Thường Tín – Thành phố Hà Nội Văn phòng tuyển sinh: -     Khu vực Miền Bắc: Tầng 4, Toà nhà Hải Phong số 19, đường Trần Thủ Độ, quận Hoàng Mai, Tp Hà Nội - Khu vực Miền Trung: + Phòng A6-Giảng đường A, số 102 đường Phùng Hưng, phường Thuận Thành, Tp Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. - Khu vực Miền Nam: + Cao đẳng Nghề Cần Thơ, Số 57, đường Cách Mạng Tháng 8, phường An Thới, quận Bình Thuỷ, Tp Cần Thơ.. Website: ctech.edu.vn Hotline: 18006770
wiki
3D makeR Technologies
3D makeR Technologies 3D makeR Technologies (makeR) là nhà sản xuất máy in 3D. Dòng sản phẩm của họ bao gồm dòng máy in 3D, PEGASUS. Công ty bắt đầu như một công ty máy in mã nguồn mở. Công ty được thành lập ở khu vực giữa Barcelona và Santa Marta bởi Carlos Camargo, hiện đang là Giám đốc điều hành của công ty. Dựa theo mô hình RepRap truyền thống, các sản phẩm đầu tiên của makeR là bộ công cụ DIY với phiên bản thay thế dựa trên máy in 3D FDM mã nguồn mở Prusa i3, được gọi là Prusa Tairona. Máy in 3D makeR hiện tại được thiết kế với khung kín và kích thước tự chọn. Máy in 3D makeR tương thích với axit polylactic (PLA), acrylonitrile butadien styren (ABS), nhựa nhiệt dẻo polyurethane (TPU), polystyrene tác động cao (HIPS), rượu polyvinyl (PVA) và một số vật liệu đặc biệt cho nhu cầu công nghiệp, chẳng hạn như PLA sợi filament được trộn lẫn với các hạt kim loại thông qua các bộ phận in bằng nhựa chà nhám cung cấp ngoại hình tương tự như kim loại (thép, đồng và nhôm). Ngoài ra, máy in makeR còn có thể in bằng nylon và sợi carbon.
wiki
Đội tuyển bóng đá quốc gia Bermuda
Đội tuyển bóng đá quốc gia Bermuda Đội tuyển bóng đá quốc gia Bermuda là đội tuyển cấp quốc gia của Bermuda do Hiệp hội bóng đá Bermuda quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Bermuda là trận gặp đội tuyển ISL vào năm 1964. Thành tích tốt nhất của đội cho đến nay là tấm huy chương bạc của đại hội Thể thao liên châu Mỹ 1967. Đội đã một lần tham dự cúp Vàng CONCACAF là vào năm 2019. Tại giải năm đó, đội chỉ có 1 trận thắng trước , thua 2 trận trước và , do đó dừng bước ở vòng bảng. Đội hình. Đây là đội hình triệu tập cho vòng loại World Cup 2022 gặp và vào tháng 3 năm 2021.<br> "Số liệu thống kê tính đến ngày 25 tháng 3 năm 2021.
wiki
Giang Sung
Giang Sung (江充), tự Thứ Sai (次倩), là đại thần thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Nguyên danh tên của ông là Giang Tề (江齐), sinh sống ở nước Triệu, lúc bấy giờ nước Triệu do người anh của Hán Vũ Đế là Lưu Bành Tổ (tức là Kính Túc vương nước Triệu) cai quản. Ông vốn thông thạo y thuật, còn người em gái thì làm nghề ca vũ, phải lòng thái tử nước Triệu là Lưu Đan, nhưng bản thân ông lại gây hiềm khích với thái tử nên bị ghét bỏ phải chạy trốn đến Trường An. Sau đó ông được cử đi sứ Hung Nô, được phong lên chức Thủy Hành đô úy. Được sự tin tưởng của Vũ Đế, Giang Sung bày cách hãm hại thái tử Lưu Đan, tố cáo Lưu Đan dâm loạn. Cuối cùng Vũ Đế ép Triệu vương phế Lưu Đan và tống giam vào ngục. Về già, Hán Vũ Đế trở nên thiếu sáng suốt, do đó Giang Sung thừa cơ hội tung hoành khắp triều đình. Do có mâu thuẫn với hoàng thái tử Lưu Cứ, ông bèn lập mục tiêu hạ bệ thái tử. Ông nói với Vũ Đế rằng trong cung có cổ khí, Vũ Đế tin theo cho điều tra, kết quả Giang Sung thừa cơ hội đó ra sức vu cáo hoàng thất kể cả những người không có hiềm khích gì với ông để tỏ quyền uy. Ông vào cung hoàng hậu và thái tử, rao lên là có cổ khí. Vậy mà Vũ Đế không điều tra kĩ lại tin theo. Thái tử Lưu Cứ vừa sợ vừa giận bèn quyết tâm làm binh biến để tiêu diệt Giang Sung. Lưu Cứ sai người giả mạo sứ vua đến chỗ của Giang Sung, ra lệnh bắt ông rồi kể tội ông giữa triều, đem giết chết. Tuy nhiên vì việc này mà thái tử cũng bị liên lụy, cuối cùng cũng bị ép tự tử.
wiki
Quận Johnson, Kentucky
Quận Johnson là một quận thuộc tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Quận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở. Địa lý. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước. Thông tin nhân khẩu. Theo điều tra dân số năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận đã có dân số có 23.445 người, 9.103 hộ gia đình, và 6.863 gia đình sống trong quận hạt. Mật độ dân số là 90 trên một dặm vuông (35 / km2). Có 10.236 đơn vị nhà ở với mật độ trung bình là 39 trên một dặm vuông (15 / km2). Cơ cấu chủng tộc của dân cư sinh sống trong quận này bao gồm 98,64% người da trắng, 0,25% da đen hay Mỹ gốc Phi, 0,13% người Mỹ bản xứ, 0,29% châu Á, Thái Bình Dương 0,02%, 0,09% từ các chủng tộc khác, và 0,58% từ hai hoặc nhiều chủng tộc. 0,61% dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào. Có 9.103 hộ, trong đó 34,10% có trẻ em dưới 18 tuổi sống chung với họ, 60,50% là đôi vợ chồng sống với nhau, 11,30% có nữ hộ và không có chồng, và 24,60% là không lập gia đình. 22,30% hộ gia đình đã được tạo ra từ các cá nhân và 9,00% có người sống một mình 65 tuổi hoặc lớn tuổi hơn. Cỡ hộ trung bình là 2,52 và cỡ gia đình trung bình là 2,93.
wiki
Quận Johnson, Kentucky
Trong quận này cơ cấu độ tuổi dân cư được trải ra với 24,00% dưới độ tuổi 18, 8,80% 18-24, 28,90% 25-44, 25,70% từ 45 đến 64, và 12,60% từ 65 tuổi trở lên người. Độ tuổi trung bình là 37 năm. Đối với mỗi 100 nữ có 93,10 nam giới. Đối với mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, đã có 90,70 nam giới. Thu nhập trung bình cho một hộ gia đình trong quận đã đạt mức USD 24.911, và thu nhập trung bình cho một gia đình là USD 29.142. Phái nam có thu nhập trung bình USD 29.762 so với 20.136 USD của phái nữ. Thu nhập bình quân đầu người của dân cư quận là 14.051 USD. Có 21,70% gia đình và 26,60% dân số sống dưới mức nghèo khổ, bao gồm 35,50% những người dưới 18 tuổi và 19,30% những người trong độ tuổi từ 65 trở lên .
wiki
Hà Châu, Hà Trung
Hà Châu là một xã thuộc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Xã Hà Châu có diện tích 6,5 km², dân số năm 1999 là 5376 người, mật độ dân số đạt 827 người/km². Hà Châu là quê hương của danh tướng Trình Minh thế kỷ X, có công giúp Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Đền Trình Minh. Di tích lịch sử văn hóa Đền thờ Trình Minh tại làng Ngọc Chuế, xã Hà Châu. Đền thờ Trình Minh, là tướng nhà Đinh, một nhân vật lịch sử tài năng và mưu lược, người đã có công giúp vua Đinh Tiên Hoàng bình định xong loạn 12 sứ quân hồi thế kỷ X là di tích quan trọng trên địa bàn xã Hà Châu. Khi Lê Hoàn lên ngôi đã cho vời Trình Minh nhiều lần, nhưng do quan điểm Trung quân với nhà Đinh, ông đã cự tuyệt không ra làm quan với Triều Lê.
wiki
Hà Châu, Hà Trung
Danh nhân Trình Minh là khởi tổ của họ Trình và là người lập làng Xuyết khu (còn gọi là Kim Xuyết, Ngọc Xuyết, Ngọc Chuế) vào thời Đinh, giữa thế kỷ X. Ông sinh ngày 7 tháng 1 năm Canh Tý (940). Năm ông 20 tuổi, bố mẹ đều mất, Trình Minh phải bỏ dở việc học và đến vùng Nga Sơn lập nghiệp. Ông được họ Mai đón tiếp mời ở lại dạy con học. Ông cùng với Mai Đức Xương kết nghĩa anh em và chiêu mộ dân khắp nơi đến khai phá ruộng nương. Trình Minh đã lập ra làng Chuế Khu ở sườn phía Đông và Đông nam núi Phượng, gồm các họ Trình, Vũ, Lê, Trương… Khi Đinh Bộ Lĩnh khởi binh ở động Hoa Lư (Ninh Bình) Trình Minh dẫn đầu trai làng Chuế Khu yết kiến Đinh Bộ Lĩnh. Ông được Đinh Bộ Lĩnh cử làm mưu sĩ kiêm đẳng nhung sự. Với cương vị đó ông đã đóng góp nhiều công lao, tham gia chỉ huy nhiều trận đánh dẹp các sứ quân khác góp phần chấm dứt thời kỳ nội loạn, lập lại nền độc lập thống nhất của đất nước. năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, gọi là Đinh Tiên Hoàng, đặt tên nước là Đại Cồ Việt. Vua Đinh xét công lao của Trình Minh, phong ông là Minh Tự Khanh và cho đất Huyện Nga Sơn làm thực ấp. Đền thờ Trình Minh là một trong các di tích lịch sử trên địa bàn huyện đã bị phá hủy trong chiến tranh nhưng những đồ thờ, thần phả, thần tích có liên quan vẫn được bảo tồn cho đến ngày nay. Đền thờ Trình Minh được phục dựng lại nằm trên sườn núi Phượng, quay mặt về hướng nam. Dưới chân núi là làng Ngọc Chuế, một làng nông nghiệp độc canh cây lúa nước đã tồn tại trên 1000 năm. Tham khảo.
wiki
Hà Châu, Hà Trung
Tham khảo. Hà Châu là một vùng nông thôn nông nghiệp thuần túy. Con người nơi đây rất thân thiện và mến khách. Hoạt động du lịch nơi đây vẫn chưa phát triển. Dự tính vào năm 2019, nơi đây sẽ phát triển tiềm năng về du lịch nông thôn. Với ưu thế địa hình, khí hậu va nhiều yếu tố khác, Hà Châu sẽ sớm trở thành điểm du lịch mới.
wiki
Amelia Earhart
Amelia Earhart (IPA: /ˈɛərhɑːrt/) là người Mỹ, nổi tiếng vì là một phụ nữ đầu tiên trên Thế giới làm phi công và cũng là nữ phi công can đảm, quyết đoán đầu tiên trên Thế giới thực hiện chuyến bay một mình thành công xuyên Đại Tây Dương. Bà còn là một nhà báo, một nhà văn, nổi tiếng do kể lại những chuyến phiêu lưu của mình, đồng thời đã tích cực đấu tranh cho nữ quyền cũng như khích lệ phụ nữ tham gia mọi hoạt động xã hội. Một trong những câu nói của bà được nhiều người ưa thích nhất - khi bà được khuyên là không nên làm những việc nguy hiểm đến tính mạng - đó là câu nói: "Người ta không sợ chết như thế nào, mà phải là sống ra sao". Bà có tên đầy đủ là Amelia Mary Earhart, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1897, được cho là mất tích ngày 2 tháng 7 năm 1937 trong một tai nạn máy bay, và được Chính phủ Hoa Kỳ chính thức thông báo tử nạn ngày 5 tháng 1 năm 1939. Bà là người phụ nữ đầu tiên được nhận Distinguished Flying Cross của Hoa Kỳ, đồng thời cũng lập ra nhiều kỷ lục thế giới, tác giả của các cuốn sách về kinh nghiệm bay của mình được bán chạy nhất lúc sinh thời; bà còn đóng vai trò chủ chốt trong việc thành lập The Ninety-Nines, một tổ chức cho các phi công nữ. Earhart trở thành thành viên của khoa hàng không Đại học Purdue năm 1935 với nhiệm vụ đưa ra lời khuyên cho những phụ nữ có ước muốn trở thành phi công. Bà cũng là thành viên của National Woman's Party và là người ủng hộ việc sửa đổi về quyền bình đẳng.
wiki
Amelia Earhart
Trong một nỗ lực thực hiện chuyến bay vòng quanh Trái Đất năm 1937 trong chiếc Lockheed Model 10 Electra, Earhart đã mất tích giữa trung tâm Thái Bình Dương gần đảo Howland. Chính phủ Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc để tìm kiếm bà. Nhưng rốt cuộc, cuộc tìm kếm này đã không thành công. Sự mất tích của Earhart vãn còn là chủ đề gây tranh cãi cho đến tháng 12 năm 2010, khi một đoàn sinh viên đại học tìm thấy hài cốt của một phụ nữ trẻ trên đảo Nikumaroro (Phoenix, Kiribati). Những xét nghiệm DNA cho ra kết luận không dứt khoát để có thể kết luận đây chính là nữ phi công nổi tiếng hay không. Sách của Earhart. Earhart còn là một tác giả thành công và được biết đến rộng rãi. Bà làm việc cho tạp chí Cosmopolitan với vai trò biên tập viên mục hàng không từ năm 1928 đến 1930. Nhiều chuyên mục tạp chí, báo, các bài luận văn và đã xuất bản 2 cuốn sáng dựa vào kinh nghiệm khi là một phi công trong cuộc đời của bà:
wiki
Chi Mycoplasma
Mycoplasma là một nhóm vi khuẩn, trong đó, một số loại trong nhóm có khả năng gây bệnh ở người và động vật. Cấu tạo. Mycoplasma là vi sinh vật ngoại bào nhỏ nhất, cả về quy mô lẫn số lượng gen, và không giống như nhiều vi khuẩn khác, chúng không có thành tế bào.Đặc tính này làm cho chúng kháng tự nhiên với nhiều loại kháng sinh phổ biến như penicillin hoặc các loại kháng sinh beta-lactam khác nhắm vào thành tế bào. Chúng có thể ký sinh hoặc hoại sinh. Mycoplasma là những vi khuẩn nhỏ nhất được phát hiện. Có đường kính dao động từ 0.2- 0.8 µm, có thể tồn tại mà không cần oxy và có nhiều hình dạng khác nhau. Gây hại cho người. Mycoplasmas đã được đặt biệt danh là cỏ Crabgrass của nuôi cấy tế bào vì nhiễm trùng của chúng là dai dẳng, thường khó phát hiện và chẩn đoán, và khó chữa. Có các loại Mycoplasma gây hại cho người như: Mycoplasma pneumoniae là nguyên nhân chủ yếu gây bệnh cho người, gây ra viêm đường hô hấp hay M genitalium, các loài Ureaplasma (bao gồm U parvum và U urealyticum), và M hominis, cả hai đều là các loài cộng sinh và gây bệnh đường sinh dục tiết niệu. Các loài khác hiếm gặp hơn, bao gồm M amphoriforme, M fermentans, M penetrans, M pirum và M faucium hoặc haemotrophic mycoplasmas từ động vật truyền sang người và có liên quan đến bệnh ở người. Dấu hiệu nhận biết.. Các triệu chứng ở mức độ nhẹ và thường bắt đầu 2 đến 3 tuần sau khi nhiễm khuẩn. Các triệu chứng thường gặp có thể bao gồm: Bạn có thể gặp các triệu chứng và dấu hiệu khác không được đề cập.
wiki
Đáo hạn
Đáo hạn ("Maturity") hay ngày đáo hạn ("Maturity date") là ngày đến hạn thanh toán khoản vay (khoản nợ) hoặc công cụ tài chính khác, chẳng hạn như trái phiếu hoặc tiền gửi có kỳ hạn, tại thời điểm đó khoản tiền gốc (và tất cả các khoản lãi còn lại) đến hạn phải trả. Hầu hết các công cụ tài chính đều có ngày đáo hạn cố định là một ngày cụ thể mà công cụ đó đáo hạn (đến hạn/hết hạn). Đối với việc vay mượn hay gửi tiết kiệm đến kỳ cần thanh toán tại Ngân hàng thì ngày đáo hạn là ngày cuối cùng của tài khoản tiết kiệm được tính kể từ ngày bắt đầu làm sổ tiết kiệm tại ngân hàng. Đáo hạn ngân hàng là khi đến hạn vốn gốc, khách hàng phải hoàn trả vốn gốc đúng theo hợp đồng tín dụng (kỳ hạn vay, phân kỳ, số tiền gốc theo hợp đồng tín dụng). Khi khách hàng vay không thể trả vốn đúng hạn có thể sẽ bị giải chấp (định giá tài sản thế chấp và thanh lý tài sản theo thời hạn) và khi giải chấp, khoản nợ sẽ bị chuyển thành nợ quá hạn.
wiki
Đáo hạn
Các công cụ tài chính bao gồm các khoản cho vay có lãi suất cố định và lãi suất thay đổi (ví dụ như lãi suất thả nổi) hoặc các công cụ nợ, trong tiếng Anh thì maturity date có ý nghĩa tương tự như "ngày chuộc lỗi" ("Redemption date"). Một số công cụ tài chính không có ngày đáo hạn cố định mà tiếp tục vô thời hạn (trừ khi việc hoàn trả được thỏa thuận giữa người đi vay và người cho vay vào một thời điểm nào đó) và có thể được gọi là cổ phiếu không kỳ hạn. Một số công cụ tài chính có biên độ phạm vi ngày đáo hạn có thể diễn ra (một khoảng thời gian), và những cổ phiếu đó thường có thể được hoàn trả bất kỳ lúc nào trong phạm vi thời gian đó, do người vay lựa chọn thời điểm để trả. Đáo hạn nối tiếp là khi tất cả các trái phiếu được phát hành cùng một lúc nhưng được chia thành nhiều loại khác nhau với ngày hoàn trả khác nhau, và chúng sẽ so le với nhau.
wiki
Etelvina Villanueva y Saavedra
Etelvina Villanueva y Saavedra (1897-1969) là một nhà thơ và nhà giáo dục người Bolivia. Năm 1923, María Sánchez Bustamante đã tổ chức nhóm nữ quyền đầu tiên ở Bolivia El Ateneo Femenino với mục tiêu đạt được sự bình đẳng dân sự và chính trị cũng như thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật của họ. Thành viên của Hiến chương là các nghệ sĩ, nhà báo, giáo viên và nhà văn và bao gồm Leticia Antezana de Alberti, Elvira Benguria, Fidelia Corral de Sánchez, Marina Lijerón (người sau này sẽ kết hôn để Betachini), Julia Reyes Ortiz de Canedo, Ema Alina Palfray, Emma Pérez de Carvajal, María Josefa Saattedra, Ana Rosa Tornero de Bilbao la Vieja, Ana Rosa Vásquez và Etelvina Villanueva y Saattedra. Họ đã tổ chức tạp chí riêng của họ " "Eco Femenino" ". Từ khi thành lập, Tornero đã điều hành tạp chí in các bài viết văn học và các bài báo về nữ quyền.
wiki
Etelvina Villanueva y Saavedra
Vào những năm 1930, Villanueva y Saattedra đã thành lập một nhóm nữ quyền quan trọng khác, "Legión Femenina de Giáo dục Phổ biến de America (Legion dành cho Giáo dục Phổ biến Hoa Kỳ)". Nhóm này đã tìm cách cải thiện tình trạng của phụ nữ, bất kể tầng lớp xã hội, bằng cách ủng hộ những thay đổi trong bộ luật hợp pháp. Họ cung cấp hỗ trợ cho những người mẹ và trẻ em nghèo và được bảo vệ. Họ đã có thể làm điều này bởi vì họ lập luận rằng họ là những người mẹ tự nhiên và vì vậy đây là một hình thức làm mẹ nhưng ở cấp độ cao hơn và với một thuật ngữ mới, "làm mẹ xã hội". Thêm vào đó, tổ chức này đã cho phép phụ nữ Bolivia tham gia các cuộc tranh luận về nữ quyền trên bình diện quốc tế.
wiki
Giáo hoàng Bônifaciô IX
Bônifaciô IX (Latinh: Bonifacius IX) là vị giáo hoàng thứ 203 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1389 và ở ngôi Giáo hoàng trong 13 năm 11 tháng. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ông đắc cử Giáo hoàng ngày 2 tháng 11 năm 1389, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 9 tháng 11 năm và ngày kết thúc triều đại của ông là ngày 1 tháng 10 năm 1404. Giáo hoàng Bonifacius IX sinh tại Naples với tên thật là Pietro Tomacelli. Sau khi Giáo hoàng Urbano VI qua đời ngày 15.10.1389 tại Roma, ngày 2 tháng 11, 14 hồng y họp bầu đức hồng y Pietro Tomacelli ở tuổi 30 lên kế vị. Vấn đề ly giáo. Ông lấy hiệu là Bonifacius IX. Ông cố tìm một sự thông cảm đối với phản Giáo hoàng Clement VII đã qua đời. Lúc này ở Avignon, Clementê VII mất ngày 16.9.1394, các hồng y đã bầu hồng y Pedro de Luna, người Tây Ban Nha, làm Giáo hoàng, tức là Benedicto XIII (1394-1423). Ông là một nhân vật đạo đức, thông minh, tính tình đanh thép. Các Giáo hoàng ra vạ tuyệt thông lẫn nhau và gây cho mình. Giáo hoàng không ổn định được vấn đề ly giáo, khi Giáo hoàng giả thứ 2 là Benedicto XIII ở Avignon từ chối mọi hình thức hoà giải.
wiki
Giáo hoàng Bônifaciô IX
Các Giáo hoàng ra vạ tuyệt thông lẫn nhau và gây cho mình. Giáo hoàng không ổn định được vấn đề ly giáo, khi Giáo hoàng giả thứ 2 là Benedicto XIII ở Avignon từ chối mọi hình thức hoà giải. Giữa hoàn cảnh đó, các nhà thần học và giáo luật ở Đại học Paris đã cố gắng tìm một giải pháp trung dung để chấm dứt cuộc ly khai. Ho đưa ra ba giải pháp: 1) giải pháp "thoái vị" (Via cessionis): cả hai cùng từ chức; 2) giải pháp "hòa đàm" (Via compromissi): một trọng tài đứng ra hòa giải; 3) giải pháp "thượng hội đồng" (Via Synodi Generalis): một đại công đồng được triệu tập để giải quyết vấn đề. Giải pháp thứ nhất được xem là đem lại sự hiệp nhất nhanh nhất. Nghĩa là cả hai Giáo hoàng cùng từ chức, rồi hai Hồng y đoàn hội lại thành một hội đồng bầu cử Giáo hoàng mới. Hai bên đều đã hứa, nhưng không đi đến thực hiện, vì đức Benedict XIII không bao giờ tỏ ra thành thực từ chức; kể cả khi hai nước Pháp và Tây Ban Nha thôi ủng hộ. Tổ chức năm thánh. Giáo hoàng Bonifacius IX đã cử hành Năm Thánh thứ 3 (1390) và thứ 4 (1400). Năm thánh thứ 3 – 1390: Năm Thánh này đã được vị tiền nhiệm là Urbanô VI (1378-1389) công bố với ý định là, Năm Thánh mới sẽ cử hành cứ mỗi 33 năm, đánh dấu thời gian Chúa Giêsu sống trên thế gian. Vào dịp Năm Thánh 1390, Đền thờ Đức Bà Cả ở Rôma được ghi thêm vào danh sách các Đền thờ (Đền thờ Thánh Phêrô, Thánh Phaolô, Gioan Latêranô) khách hành hương phải kính viếng để được ơn toàn xá.
wiki
Giáo hoàng Bônifaciô IX
Năm thánh 1400 với mục đích để cho các giáo hữu đổ xô về Rôma dịp thế kỷ mới. Vào năm 1400, Giáo hội vẫn còn trong thời kỳ phân ly khi có cùng một lúc có các Giáo hoàng khác nhau cư ngụ ở Rôma và Avignon (Pháp). Giáo hữu Pháp, Tây Ban Nha và Ý ở một số nơi đã không dự hành hương Năm Thánh đến Rôma dịp này vì bị các vua chúa đang xung đột với Giáo hoàng ngăn cấm. Boniface IX đã thêm Nhà thờ Thánh Lôrensô ngoại thành, Thánh Maria ở Trastevere và Thánh Maria Rotonda vào danh sách 4 Đền thờ truyền thống (Phêrô, Phaolô, Gioan Latêranô, và Đức Bà Cả) khách hành hương phải viếng để được ơn toàn xá. Năm Thánh 1400 cũng còn khởi đầu cho ý nghĩa hành hương tạ tội. Ông thường bán các ân xá của Giáo hội với giá cao nhất để thu về một khoản tiền lớn.
wiki
Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng "(Danang Architecture University)" là một trường đại học tư thục đào tạo đa ngành theo định hướng ứng dụng nằm trong hệ thống giáo dục đại học của Nước CHXHCN Việt Nam. Các ngành nghề đào tạo. Hiện nay, Trường đang đào tạo các ngành nghề có TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC - HỆ CHÍNH QUY như sau: Các khoa đào tạo. 1. Khoa Kiến trúc: 2. Khoa Xây dựng: 3. Khoa Cầu đường: 4. Khoa Kinh tế: 5. Ngoại ngữ: 6. Khoa Công nghệ thông tin: 7. Khoa Điện: 8. Khoa Du lịch: Thông tin về sinh viên có việc làm sau khi tốt nghiệp. Theo thống kê năm 2018 về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng có việc làm sau khi tốt nghiệp, có 92,93% cựu sinh viên của trường có việc làm đúng ngành sau 6 tháng tốt nghiệp. Đây là tỷ lệ sinh viên có việc làm cao so với mặt bằng chung của cả nước. Trường đã và đang tăng cường xúc tiến các mối quan hệ với các doanh nghiệp Nhật Bản để tạo cơ hội việc làm tại nước ngoài cho sinh viên của trường. Hiện nay, có rất nhiều công ty Nhật Bản đến làm việc và đặt vấn đề tuyển dụng sinh viên của trường để sang Nhật Bản làm việc lâu dài. Việc tuyển dụng này là trực tiếp, không thông qua bất kỳ công ty môi giới việc làm nào và sinh viên của trường được bồi dưỡng MIỄN PHÍ kiến thức chuyên môn và tiếng Nhật trước khi sang Nhật Bản làm việc.
wiki
Trường Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
Các ngành nghề sẽ có số lượng tuyển dụng lớn bởi các công ty Nhật Bản trong thời gian tới là: Kỹ thuật Xây dựng Công trình Giao thông (Xây dựng cầu đường), Kỹ thuật Cơ sở Hạ tầng, Quản lý xây dựng (Quản lý dự án), Kỹ thuật xây dựng (Xây dựng dân dụng và công nghiệp), Công nghệ thông tin, Kỹ thuật Điện, điện tử, Thiết kế Đồ họa và Thiết kế Nội thất. Năm 2018, có 65 sinh viên của trường được các công ty của Nhật Bản là đối tác của trường tuyển dụng và đưa sang Nhật Bản làm việc. Số sinh viên đang học tại trường được các công ty Nhật Bản đào tạo thêm về kỹ năng làm việc và tiếng Nhật trước khi sang Nhật Bản làm việc là hơn 100 sinh viên.
wiki
Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Nam Nga
Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Nam Nga Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Nam Nga () là một cơ quan hành chính ở miền nam Nga vào năm 1918 và 1919 thực hiện các chức năng của chính phủ trong lãnh thổ do Quân đội tình nguyện Bạch vệ và Lực lượng vũ trang của Nam Nga kiểm soát. Tiền thân của Bộ Tổng tư lệnh là Hội đồng Chính trị (Политический совет; "Političeskij sovet") được thành lập vào tháng 12 năm 1917. Năm 1918, do ngày càng có nhiều lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát của Quân đội Tình nguyện, vấn đề quản lý dân sự trở nên có hậu quả hơn. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1918, Bộ Tổng tư lệnh được thành lập dưới quyền Đại tướng Mikhail Vasiliyevich Alekseyev. Các chức năng của Bộ Tổng tư lệnh đã được làm rõ vào ngày 3 tháng 10 năm 1918. Người đứng đầu Quân đội tình nguyện sẽ là chủ tịch Bộ Tổng tư lệnh sẽ làm cơ quan cố vấn cho người đứng đầu. Vào ngày 8 tháng 10 năm 1918, sau cái chết của Tướng Andreasseyev, vai trò của Lãnh tụ tối cao đã được trao cho Đại tướng Anton Denikin. Chủ tịch của bộ chỉ huy là Abram Dragomirov (tháng 10 năm 1918, tháng 9 năm 1919) và Aleksandr Lukomsky (tháng 9, tháng 12 năm 1919). Bộ Tổng tư lệnh đã bị bãi bỏ vào ngày 30 tháng 12 năm 1919 bởi Denikin và được thay thế bằng Chính phủ Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Nam Nga (Правительством при Главнокомандующем ВСЮР; "Pravitel'stvom pri Glavnokomanduyushchem VSYuR") và vào tháng 3 năm 1920, thành lập Chính phủ Nam Nga thú nhất.
wiki
Danh sách quốc gia theo GDP danh nghĩa năm 2007
Danh sách quốc gia theo GDP danh nghĩa năm 2007 Đây là danh sách các quốc gia theo GDP cho năm 2007, giá trị của tất cả sản phẩm và dịch vụ được sản xuất trong một quốc gia trong một năm, tính theo USD dựa vào tỷ giá hối đoái trên thị trường. Các giá trị hàng thứ nhất và thứ ba lấy từ nguồn Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Dữ kiện thế giới của CIA theo số liệu mới nhất về GDP ước tính năm 2007. Hàng thứ 2 là số liệu năm 2007 của Ngân hàng Thế giới (WB)
wiki
Giza
Giza Giza ( ) là thành phố lớn thứ ba ở Ai Cập. Nó nằm trên bờ phía tây của sông Nile, khoảng 20 km về phía tây nam của trung tâm Cairo. Cùng với Shubra El-Kheima, Cairo và Helwan, bốn thành phố hình thành vùng đô thị Cairo. Thành phố Giza là thủ đô của Governorate Giza, và nằm gần biên giới phía đông bắc của governorate này trong hệ tọa độ. Nó nằm ngay trên bờ của sông Nile. Dân số của thành phố là 2.681.863 người theo điều tra dân số năm 2006, trong khi governorate có 6.272.571 dân theo cuộc điều tra này. Giza là nổi tiếng nhất là vị trí của cao nguyên Giza: địa điểm của một số di tích cổ ấn tượng nhất trên thế giới, bao gồm một phức tạp của nhà xác hoàng gia Ai Cập cổ đại và cấu trúc thiêng liêng, bao gồm cả tượng Nhân sư vĩ đại, Kim tự tháp Giza, và một số kim tự tháp và đền thờ lớn khác. Tham khảo tài liệu nào ?
wiki
Danh sách loài nhện trong họ Gnaphosidae
Đây là danh sách các loài nhện Gnaphosidae. Allomicythus. "Allomicythus" Allozelotes. "Allozelotes" Amazoromus. "Amazoromus" Amusia. "Amusia" Anagraphis. "Anagraphis" Aneplasa. "Aneplasa" Anzacia. "Anzacia" Aphantaulax. "Aphantaulax" Apodrassodes. "Apodrassodes" Apodrassus. "Apodrassus" Apopyllus. "Apopyllus" Aracus. "Aracus" Asemesthes. "Asemesthes" Asiabadus. "Asiabadus" Australoechemus. "Australoechemus" Battalus. "Battalus" Benoitodes. "Benoitodes" Berinda. "Berinda" Berlandina. "Berlandina" Cabanadrassus. "Cabanadrassus" Callilepis. "Callilepis" Camillina. "Camillina" Canariognapha. "Canariognapha" Ceryerda. "Ceryerda" Cesonia. "Cesonia" Cladothela. "Cladothela" Coillina. "Coillina" Coreodrassus. "Coreodrassus" Cryptodrassus. "Cryptodrassus" Cubanopyllus. "Cubanopyllus" Diaphractus. "Diaphractus" Drassodes. "Drassodes" Drassodex. "Drassodex" Drassyllus. "Drassyllus" Echemella. "Echemella" Echemographis. "Echemographis" Echemoides. "Echemoides" Echemus. "Echemus" Eilica. "Eilica" Encoptarthria. "Encoptarthria" Epicharitus. "Epicharitus" Fedotovia. "Fedotovia" Gertschosa. "Gertschosa" Gnaphosa. "Gnaphosa" Haplodrassus. "Haplodrassus" Hemicloea. "Hemicloea" Herpyllus. "Herpyllus" Heser. "Heser" Hitobia. "Hitobia" Homoeothele. "Homoeothele" Hongkongia. "Hongkongia" Hypodrassodes. "Hypodrassodes" Ibala. "Ibala" Intruda. "Intruda" Kaitawa. "Kaitawa" Kishidaia. "Kishidaia" Ladissa. "Ladissa" Laronius. "Laronius"
wiki
Danh sách loài nhện trong họ Gnaphosidae
"Homoeothele" Hongkongia. "Hongkongia" Hypodrassodes. "Hypodrassodes" Ibala. "Ibala" Intruda. "Intruda" Kaitawa. "Kaitawa" Kishidaia. "Kishidaia" Ladissa. "Ladissa" Laronius. "Laronius" Latonigena. "Latonigena" Leptodrassex. "Leptodrassex" Leptodrassus. "Leptodrassus" Leptopilos. "Leptopilos" Litopyllus. "Litopyllus" Macarophaeus. "Macarophaeus" Matua. "Matua" Megamyrmaekion. "Megamyrmaekion" Micaria. "Micaria" Microdrassus. "Microdrassus" Microsa. "Microsa" Micythus. "Micythus" Minosia. "Minosia" Minosiella. "Minosiella" Nauhea. "Nauhea" Nodocion. "Nodocion" Nomisia. "Nomisia" Notiodrassus. "Notiodrassus" Odontodrassus. "Odontodrassus" Orodrassus. "Orodrassus" Parabonna. "Parabonna" Parasyrisca. "Parasyrisca" Phaeocedus. "Phaeocedus" Poecilochroa. "Poecilochroa" Pseudodrassus. "Pseudodrassus" Pterotricha. "Pterotricha" Pterotrichina. "Pterotrichina" Sanitubius. "Sanitubius" Scopoides. "Scopoides" Scotocesonia. "Scotocesonia" Scotognapha. "Scotognapha" Scotophaeus. "Scotophaeus" Sergiolus. "Sergiolus" Sernokorba. "Sernokorba" Setaphis. "Setaphis" Shiragaia. "Shiragaia" Sidydrassus. "Sidydrassus" Smionia. "Smionia" Sosticus. "Sosticus" Symphanodes. "Symphanodes" Synaphosus. "Synaphosus" Talanites. "Talanites" Talanitoides. "Talanitoides" Titus. "Titus" Trachyzelotes. "Trachyzelotes" Trephopoda. "Trephopoda" Trichothyse. "Trichothyse" Turkozelotes. "Turkozelotes" Urozelotes. "Urozelotes" Vectius. "Vectius" Xenoplectus.
wiki
Danh sách loài nhện trong họ Gnaphosidae
Titus. "Titus" Trachyzelotes. "Trachyzelotes" Trephopoda. "Trephopoda" Trichothyse. "Trichothyse" Turkozelotes. "Turkozelotes" Urozelotes. "Urozelotes" Vectius. "Vectius" Xenoplectus. "Xenoplectus" Xerophaeus. "Xerophaeus" Xizangia. "Xizangia" Zelanda. "Zelanda" Zelominor. "Zelominor" Zelotes. "Zelotes" Zelotibia. "Zelotibia" Zelowan. "Zelowan" Zimiromus. "Zimiromus"
wiki
Benthochascon hemingi
Benthochascon hemingi Benthochascon hemingi là loài cua dạng cua bơi duy nhất trong chi Benthochascon. Phân loại. Alcock A. & Anderson A.R.S. xếp nó trong họ Portunidae và cho rằng nó có quan hệ họ hàng gần với "Bathynectes". Ng "et al." (2008) xếp nó trong phân họ Polybiinae của họ Portunidae, nhưng Karasawa "et al." (2008) và Grave "et al." (2009) chuyển nó trong phân họ Polybiinae sang họ Carcinidae. Schubart & Reuschel (2009) xếp nó cùng "Ovalipes" sang họ Geryonidae. Các tác giả khác như Spiridinov "et al." (2014), Davie "et al." (2015b), Evans (2018) xếp nó trong phân họ Benthochasconinae của họ Geryonidae. Phân bố. Loài cua này là bản địa Ấn Độ Dương - tây Thái Bình Dương, từ biển Andaman tới Nhật Bản và New Caledonia. Sống ở độ sâu . Mẫu vật thu được ở độ sâu trong biển Andaman. Có ghi chép cho thấy bắt gặp ở độ sâu . Đặc điểm. Có 4 răng cưa ở mỗi bên của phần trước mai, trong đó răng cưa thứ 1 là lớn nhất còn răng cưa thứ 4 là lớn nhất. Chiều dài mai bằng khoảng 0,88 chiều rộng mai.
wiki
Smendes III
Smendes III (Hy Lạp hóa từ tên Ai Cập là Nesibanebdjed III) là một Đại tư tế của Amun sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông đã kế vị người anh là Iuwelot và phục vụ dưới triều đại của vua anh Takelot I. Thân thế. Smendes III là một vương tử, con trai của Pharaon Osorkon I; không rõ mẹ của ông. Smendes là em (khác mẹ) với Đại tư tế Shoshenq C, Iuwelot và với cả Pharaon Takelot I. Do Shoshenq C sớm qua đời dưới thời trị vì của vua cha nên Iuwelot tập tước Đại tư tế kế vị người anh. Iuwelot tiếp tục công việc tư tế dưới thời vua anh Takelot I và đã mất trong khoảng thời gian này. Smendes III sau đó được đưa lên làm Đại tư tế tiếp theo. Không rõ việc kế vị diễn ra sau khi Smendes III qua đời. Theo Kenneth Kitchen, Smendes III đã được Harsiese A, con trai của người anh Shoshenq C, lên kế vị chức Đại tư tế. Giả thuyết này đã bị bác bỏ bởi Karl Jansen-Winkeln vì ông này đã chứng minh rằng, Harsiese A chưa bao giờ nhận mình là Đại tư tế. Vì thế có thể Nimlot C, con trai của vua kế vị Osorkon II, tức cháu nội của vua Takelot I, mới là người tập tước Đại tư tế sau đó. Chứng thực.
wiki
Smendes III
Chứng thực. Smendes III có rất ít chứng thực liên quan đến ông. Smendes chỉ được biết đến chủ yếu trên 3 bản khắc ghi chép mực nước sông Nin tại đền Karnak (được đánh thứ tự là 17, 18 và 19); tại đó, ông được gọi là "Đại tư tế của Amun, con trai của vua Osorkon"". Bản khắc thứ 17 và 18 đánh dấu lần lượt năm trị vì thứ 8 và 14 của một vị vua, nhưng tên của vị vua đó lại không được nhắc đến; bản 19 thì đã bị mất năm trị vì, và cũng không rõ tên vua. Dựa vào những bản phù điêu nói trên, ta chắc chắn rằng, Smendes III phải là một người con của vua Osorkon I. Trước đó, bản khắc thứ 16 có nhắc đến Đại tư tế Iuwelot nhưng cũng không rõ tên vua trị vì, nhưng vị vua đó đã được xác định chính là Takelot I. Vì vậy, vị vua vô danh được nhắc trên bản khắc thứ 17, 18, 19 không ai khác ngoài Takelot I. Để lý giải cho việc này, Gerard Broekman đưa ra giả thuyết rằng, sau cái chết của Osorkon I, đã có sự tranh đoạt quyền lực giữa Takelot I, con trai ông và Harsiese A, cháu nội của ông (con của Shoshenq C) ở Thượng Ai Cập. Cả hai anh em Iuwelot và Smendes III đều không muốn tham gia vào cuộc tranh đoạt này và đã chọn cách không đề tên một vị vua nào lên các bản khắc để giữ thái độ trung lập.
wiki
Smendes III
Một bức tượng quỳ bằng đồng, hiện được trưng bày tại Bảo tàng Hoàng gia Mariemont (Morlanwelz, Bỉ), và một bảng màu đang được lưu giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan (số hiệu 47.123a–g), trên đó đều có khắc dòng chữ "Đại tư tế của Amun, Smendes". Tuy nhiên, vẫn chưa thể xác định được chủ nhân thật sự của chúng vì có đến 2 Đại tư tế đều tên Smendes (Smendes III đang được đề cập, và Smendes II thuộc Vương triều thứ 21).
wiki
Trường Quân sự Hoàng Phố
Trường Quân sự Hoàng Phố (tiếng Hán phồn thể: 黃埔軍校; tiếng Hán giản thể: 黄埔军校; bính âm: "Huángpŭ Jūnxiào"; Hán Việt: "Hoàng Phố Quân hiệu") là danh xưng thông dụng để chỉ học viện quân sự đào tạo sĩ quan lục quân của Trung Hoa Dân Quốc hoạt động từ năm 1924-1927. Cơ sở học viện được đặt tại đảo Trường Châu, khu Hoàng Phố, thành phố Quảng Châu. Đảo này còn có tên là đảo Hoàng Phố, vì vậy học viện này có tên gọi như trên. Trường Quân sự Hoàng Phố mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi với 5 khóa đào tạo, nhưng đã đào tạo ra nhiều danh nhân quân sự cho cả Quân đội Trung Hoa Dân Quốc lẫn Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Nhiều người trở thành tướng lĩnh lừng danh trong các cuộc chiến Bắc phạt, Nội chiến Trung Quốc, cũng như cùng nhau chống lại quân Nhật Bản trong Chiến tranh Trung - Nhật. Thậm chí, nhiều nhà cách mạng, tướng lĩnh của Việt Nam cũng từng học hoặc giảng dạy tại Trường quân sự Hoàng Phố. Trải qua nhiều biến động lịch sử, cơ sở trường Quân sự Hoàng Phố ngày nay chỉ còn sót lại vài di tích, được chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tôn tạo và sử dụng như một khu lưu niệm lịch sử và địa điểm tham quan du lịch tại thành phố Quảng Châu ngày nay. Lược sử. Hình thành.
wiki
Trường Quân sự Hoàng Phố
Lược sử. Hình thành. Năm 1876, Tổng đốc Lưỡng Quảng Lưu Khôn Nhất cho thành lập "Quảng Đông Tây học quán", bỏ ra 8 vạn lượng bạc để xây dựng khu vực bến tàu ở đảo Hoàng Phố để làm cơ sở cho Quảng Đông Tây học quán. Năm 1882, Quảng Đông Tây học quán đổi tên thành Quảng Đông Thực học quán. Năm 1884, Tuần phủ Sơn Tây Trương Chi Động được bổ nhiệm làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Ông đổi tên Quảng Đông Thực học quán thành Quảng Đông Bác học quán. Năm 1887, Trương Chi Động thành lập Quảng Đông Thủy lục sư học đường. Đây chính là trường đào tạo sĩ quan hiện đại đầu tiên của Trung Quốc. Năm 1912, Trung Hoa Dân quốc thành lập nhưng lại nhanh chóng rơi vào tình trạng quân phiệt cát cứ. Lực lượng cách mạng nhất là Quốc dân Đảng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, lại không có kinh nghiệm và sức mạnh quân sự thống nhất đất nước. Ý thức được sự thiếu sót này, Tôn đã nhiều lần đề nghị các nước phương Tây viện trợ và giúp đỡ về quân sự, nhưng đều bị từ chối. Tháng 12 năm 1921, một đại biểu của Quốc tế Cộng sản là Henk Sneevliet đã hội kiến với Tôn Trung Sơn, đưa ra nội dung hợp tác giữa Quốc dân Đảng và Liên Xô, trong đó có việc thành lập một học viện quân sự và thành lập quân đội cách mạng. Trung Hoa Cộng sản Đảng đã cử Lý Đại Chiêu (李大釗) tới gặp Tôn để bàn về việc mở học viện quân sự. Ngày 16 tháng 8 năm 1923, Tôn Trung Sơn phái một đảng viên trẻ là Tưởng Giới Thạch sang Liên Xô để học tập kinh nghiệm thành lập quân đội cách mạng.
wiki
Trường Quân sự Hoàng Phố
Tháng 1 năm 1924, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Quốc dân Đảng nhất trí việc Trung Hoa Dân quốc cần hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc Cộng sản Đảng, quyết định thành lập học viện sĩ quan và quân đội của đảng cách mạng. Ngay sau đó, Tôn Trung Sơn cho thành lập một ủy ban trù bị học viện sĩ quan lục quân gồm 8 người với Tưởng Giới Thạch làm Ủy viên trưởng; đồng thời quyết định xây dựng cơ sở cho học viện quân sự này trên cơ sở của Quảng Đông Thủy lục sư học đường và Lục quân Tiểu học. Nguồn tài chính cho xây dựng và hoạt động học viện được Liên Xô cung cấp. Tổ chức. Ban đầu, Tưởng Giới Thạch không nhận chức Hiệu trưởng của học viện và đề cử Liêu Trọng Khải, một nhà cách mạng Quốc dân Đảng rất có uy tín, để thay vào chức vụ đấy. Tuy nhiên Tôn đã động viên Tưởng giữ chức, đồng thời cử Liêu Trọng Khải làm Đại biểu Đảng của học viện. Ngoài ra, Tôn còn cử Lý Tế Thâm, Đặng Diễn Đạt làm chánh, phó chủ nhiệm Giáo luyện bộ; Vương Bách Linh, Diệp Kiếm Anh làm chánh, phó chủ nhiệm Giáo thụ bộ; Đới Quý Đào, Chu Ân Lai làm chánh, phó chủ nhiệm Chính trị bộ; Chu Tuấn Ngạn, Du Phi Bằng làm chánh, phó chủ nhiệm Quân nhu bộ; Tống Vinh Xương, Lý Kỳ Phương làm chánh, phó chủ nhiệm Quân y bộ; Lâm Chấn Hùng làm chủ nhiệm Quản lý bộ, Hà Ứng Khâm làm Tổng giáo quan; Trương Gia Thụy, Vương Đăng Vân làm phiên dịch Trung - Anh; cùng một số đảng viên Cộng sản phụ trách giảng dạy các môn.
wiki
Trường Quân sự Hoàng Phố
Ban đầu, trường quân sự Hoàng Phố chỉ có 1 khoa. Song mặc dù chủ yếu về bộ binh, trường vẫn đào tạo thêm các chuyên ngành về pháo binh, quân giới, thông tin liên lạc và hậu cần. Khoa chính trị được thành lập sau đó. Việc thiếu trầm trọng các giáo viên chuyên môn là vấn đề lớn nhất đối với học viện. Vì vậy, Liên Xô đã cử một số giảng viên sang công tác tại trường như A.S. Bubnov, G.I. Gilev, M.I. Dratvin, S.N. Naumov; phụ trách giảng dạy về sự phát triển tư duy quân sự trong suốt lịch sử nhân loại và sự phân chia giữa các trường phái tư tưởng quân sự phương Tây và Liên Xô. Ngoài ra còn có một số giảng viên quân sự giàu kinh nghiệm kinh qua Nội chiến Nga như I. Vasilevich, N. Korneev, M. Nefedov, F. Kotov, P. Lunev, V. Akimov, Galina Kolchugina. Đào tạo. Trong số 1.200 người dự tuyển, chủ yếu đến từ chủ yếu ở Thượng Hải và Quảng Châu, chọn lọc ra 350 học viên chính thức, 120 học viên dự bị, cộng thêm số học viên được đề cử, tổng cộng có 499 học viên trong khóa đầu tiên. Ngày 16 tháng 6, lễ khai giảng được tổ chức với sự chủ trì của Tôn Trung Sơn. Trong buổi lễ này, Hồ Hán Dân thay mặt Quốc dân Đảng đọc huấn từ của Tôn Trung Sơn, trong đó có một đoạn bắt đầu bằng câu "Tam dân chủ nghĩa..." về sau được sử dụng làm Quốc ca Trung Hoa Dân quốc. Vai trò.
wiki
Trường Quân sự Hoàng Phố
Vai trò. Trường quân sự Hoàng Phố đã cung cấp nhiều chỉ huy quân sự cho cả Quốc Dân Đảng lẫn Cộng sản Đảng. Những sĩ quan từ trường này đã giúp Tưởng Giới Thạch củng cố quyền lực của mình ở Quốc Dân Đảng. Các tướng lĩnh Quốc Dân Đảng nổi tiếng từng học ở Hoàng Phố là Trần Thành, Đỗ Duật Minh, và Hồ Tông Nam. Và khi Cộng sản Đảng thành lập các đơn vị Hồng quân đầu tiên của mình, hầu hết các chỉ huy là người học ở Trường quân sự Hoàng Phố ra, như Lâm Bưu, Từ Hướng Tiền, Tả Quyền (左權), Trần Canh (陳賡). Người Việt Nam học ở Trường. Từ khóa 4, Trường quân sự Hoàng Phố bắt đầu đào tạo cả học viên người các nước châu Á khác mà phần lớn là từ Việt Nam, trong số đó có: Ngoài ra, một số người Việt Nam cũng tham gia giảng dạy tại trường như Nguyễn Hải Thần làm giảng viên môn chính trị.
wiki
Goalball tại Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á 2023
Goalball tại Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á 2023 Goalball tại Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á 2023 được tổ chức tại Trung tâm thể thao trong nhà Morodok Techo, Phnom Penh. Kết quả. Giải đấu nam. <section begin=A /> Bảng A. <section end=A /> <section begin=A1 /> <section end=A1 /> <section begin=A2 /> <section end=A2 /> <section begin=A3 /> <section end=A3 /> <section begin=B /> Bảng B. <section end=B /> <section begin=B1 /> <section end=B1 /> <section begin=B2 /> <section end=B2 /> <section begin=B3 /> <section end=B3 /> Vòng đấu loại trực tiếp. Sơ đồ thi đấu. <section begin=knockout /><section end=knockout /> Giải đấu nữ. Vòng bảng. <section end=C /> <section begin=C1 /> <section end=C1 /> <section begin=C2 /> <section end=C2 /> <section begin=C3 /> <section end=C3 /> <section begin=C4 /> <section end=C4 /> <section begin=C5 /> <section end=C5 /> <section begin=C6 /> <section end=C6 /> <section begin=C7 /> <section end=C7 /> <section begin=C8 /> <section end=C8 /> <section begin=C9 /> <section end=C9 /> <section begin=C10 /> <section end=C10 /> Vòng đấu loại trực tiếp. Sơ đồ thi đấu. <section begin=knockout /><section end=knockout />
wiki
Ô Nhã Thúc
Hoàn Nhan Ô Nhã Thúc ( 1061–1113, cai trị 1104–1113) là tù trưởng đô bột cực liệt của bộ lạc Hoàn Nhan của người Nữ Chân. Ông có tên chữ là Mao Lộ Hoàn (毛路完), là cháu của Hoàn Nhan Ô Cốt Nãi, trưởng tử của Hoàn Nhan Hặc Lý Bát, là anh trai Kim Thái Tổ Hoàn Nhan A Cốt Đả. Ông lãnh đạo bộ lạc từ 1103-1113, được hậu thế truy phong là Khang Tông (康宗). Ô Nhã Thúc sinh vào năm 1061 và kế thừa chức tù trưởng từ thúc phụ là Hoàn Nhan Doanh Ca (完顔盈歌, sau được truy miếu hiệu Mục Tông) vào năm 1104. Mục Tông qua đời khi đang chinh phục Hạt Lãn Điện (曷懶甸, nay thuộc Hàm Kính, Bắc Triều Tiên) sau khi đã bình định lưu vực sông Đồ Môn, Ô Nhã Thúc tiếp tục đại nghiệp vào năm sau. Theo lệnh của ông, Thạch Thích Hoan (石適歡) dẫn đầu quân Nữ Chân ở lưu vực sông Đồ Môn, chinh phục người Nữ Chân tại Hạt Lãn Điện và tiến về phía nam để đuổi theo 1.800 người đã đào thoát sang Cao Ly. Cao Ly không trao trả những người này và cử Lâm Cán (林幹, Im Gan) đi chặn quân Nữ Chân. Tuy nhiên, Thạch Thích Hoan đã đánh bại Lâm Cán ở thành Định Bình (Chŏngp'yŏng) và xâm chiếm vùng biên giới đông bắc Cao Ly. Cao Ly cử Doãn Quán (尹瓘, Yun Gwan) đi đánh dẹp song lại gặp thất bại. Kết quả là Ô Nhã Thúc khuất phục được người Nữ Chân tại Hạt Lãn Điện.
wiki
Ô Nhã Thúc
Năm 1107, Cao Ly cử sứ thần Hắc Hoan Phương Thạch (黑歡方石) đến tán dương việc Hoàn Nhan Ô Nhã Thúc trở thành tù trưởng của bộ lạc Hoàn Nhan, và hứa sẽ trao trả những người Nữ Chân Hạt Lãn Điện đào thoát đến Cao Ly. Tuy nhiên, khi Hoàn Nhan A Quát (完顏阿聒) và Ô Lâm Đáp Thắng Côn (烏林答勝昆) đến Cao Ly, họ đã bị sát hại và Cao Ly phái 5 đội quân lớn do Doãn Quán chỉ huy đến Hạt Lãn Điện. Quân Cao Ly tàn phá hàng trăm trại của người Nữ Chân và cho xây chín thành ở đây. Hoàn nhan Ô Nhã Thúc đã nghĩ đến việc từ bỏ Hạt Lãn Điện, song Hoàn Nhan A Cốt Đả đã thuyết phục ông cử Hoàn Nhan Oát Tái (完顔斡賽) đi đánh Cao Ly. Oát Tái cũng cho xây chín thành đối diện với chín thành của Cao Ly. Sau một năm chiến tranh, quân Hoàn Nhan lấy được hai thành và loại bỏ quân tiếp việc của Cao Ly. Cao Ly và Nữ Chân sau đó đạt được thỏa thuận, theo đó Cao Ly rút quân khỏi khu vực. Ông cũng bình định lưu vực sông sông Tuy Phân. Sau khi mất năm 1113, người em trai là A Cốt Đả kế vị.
wiki
Helgeandsholmen
Helgeandsholmen Helgeandsholmen là một hòn đảo nhỏ ở trung tâm Stockholm, Thụy Điển. Nó nằm ở phía bắc của Stadsholmen, và phía đông của Strömsborg, mà cùng với Riddarholmen, nó tạo Gamla stan, thị trấn cũ của Stockholm. Helgeandsholmen chứa Tòa nhà Riksdag và Bảo tàng Medieval Stockholm, và được kết nối với hòn đảo lân cận thông qua ba cây cầu: Riksbron, Stallbron, và Norrbro. Khu đất ở phía đông, được gọi là Strömparterren ("Suối Parterr"), là một công viên công cộng với một nhà hàng có từ năm 1832, trong khi dãy cầu thang dẫn xuống nước có từ năm 1807-1810. Cầu cảng phía tây của tòa nhà bao quanh Tòa nhà Riksdag từng được bao quanh bởiNgân hàng Thụy Điển và được đặt tên như vậy Bankkajen ("Cầu cảng Ngân hàng"), trong khi các đường phố vào phía nam và phía bắc được gọi là Norra / Södra Helgeandstrappan ("Các cầu thang Bắc / Nam Helgeand"), tất cả các chúng được đặt tên trong năm 1925.
wiki
Lữ đoàn Không quân 918
Lữ đoàn không quân 918 là một đơn vị không quân vận tải chủ lực của Không quân Nhân dân Việt Nam, tiền thân là Trung đoàn Không quân 918. Lịch sử. Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 mở ra kỷ nguyên mới của nước Việt Nam thống nhất. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới đặt ra yêu cầu cao đối với bộ đội không quân. Ngày 5 tháng 7 năm 1975, Bộ Quốc phòng quyết định thành lập Trung đoàn không quân 918, đóng quân ở sân bay Tân Sơn Nhất, sử dụng máy bay vận tải chiến lợi phẩm làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và vận chuyển quân sự, phục vụ an ninh quốc phòng và dân sinh. Trung đoàn không quân 918 nhanh chóng tổ chức chuyển loại máy bay hệ 2, thực hiện nhiệm vụ vận chuyển quân sự Bắc - Nam. Trong cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam, Trung đoàn sử dụng rất hiệu quả máy bay và vũ khí trang bị hệ 2, tham gia chiến đấu đánh phá các tuyến phòng thủ của Khơ-me đỏ, phá hủy khối lượng lớn phương tiện chiến tranh, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm binh lính, tích cực chi viện hỏa lực cho các đơn vị bộ binh tiến công làm chủ chiến trường. Từ năm 1981 - 1984, tàn quân Fulro ở Tây Nguyên bị truy quét mạnh nên rút vào vùng rừng núi hiểm trở, lập căn cứ hoạt động, câu kết với tàn quân Khmer Đỏ phá hoại Chính quyền. Lực lượng bộ binh đã tìm mọi cách nhưng vẫn không thể truy quét tiêu diệt triệt để. Đầu tháng 3 năm 1984, Bộ Tổng tham mưu lệnh cho không quân sử dụng máy bay ném bom của trung đoàn 918 chi viện cho bộ binh quân khu 5 đánh phá căn cứ Fulro.
wiki
Lữ đoàn Không quân 918
Thời điểm đầu 1984, các phi công An-26 đã qua thực hành ném bom, có trình độ bay chiến đấu trong đội hình 6-9-12 chiếc ban ngày. Sáng ngày 9 tháng 3 năm 1984, biên đội 8 máy bay An-26 (7 chiếc mang bom trực tiếp đánh phá mục tiêu, chiếc thứ 8 chuyển tiếp liên lạc trên không) của trung đoàn 918 do trung đoàn trưởng Nguyễn Xuân Hiển trực tiếp chỉ huy đã cất cánh từ Tân Sơn Nhất đến mục tiêu, thả bom tiêu diệt căn cứ Fulro. Từ chiến thắng trận đầu của máy bay An-26, trong tháng 3 năm 1984, các biên đội An-26 của trung đoàn 918 đã đánh bom các căn cứ Fulro ở mặt trận 579, tiêu diệt sư đoàn 920 Khmer Đỏ, căn cứ đầu não của quân khu Đông bắc tại rừng núi tỉnh Kratié, tây bắc Biển Hồ, Kampong Thom... Trong suốt thời gian quân tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia, máy bay An-26 của trung đoàn 918 không chỉ chuyển quân, cứu thương, chở vũ khí, trang thiết bị... mà còn đánh bom phá MK-81 và bom bi CBU tiêu diệt nhiều căn cứ đầu não, triệt phá các nguồn dự trữ vũ khí, lương thực thực phẩm của lực lượng Khmer Đỏ.
wiki
Lữ đoàn Không quân 918
Ngày 27 tháng 4 năm 1984, trung đoàn 918 sử dụng 4 máy bay An-26 bay từ Biên Hòa thả bom, phá hủy căn cứ. Khmer Đỏ ngưng trệ một thời gian và tháng 9 năm 1985 từng bước tổ chức lại việc khai thác và xây dựng Núi Chi thành căn cứ lớn. Sáng ngày 22 tháng 9 năm 1985, biên đội 4 chiếc An-26 mang bom MK-81, bom bi CBU-49 bay theo đường Biên Hòa - Krache - Cù Lao Preng, đánh bom vào Núi Chi từ độ cao 3.500 m. Ngay sau khi An-26 đánh bom, bộ binh Quân khu 7 ồ ạt tiến công làm chủ trận địa. Suốt 10 năm (1979 - 1989) làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, Trung đoàn trực tiếp tham gia chiến đấu gần 100 trận, vận chuyển hàng vạn lượt bộ đội và hàng trăm ngàn tấn hàng quân sự ra chiến trường, đón hàng ngàn thương binh về hậu phương. Ngày 22 tháng 5 năm 2013, Đại tướng Phùng Quang Thanh - Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 1682/QĐ-BQP về việc tổ chức lại Trung đoàn không quân 918 thành Lữ đoàn không quân 918. Trang bị. Sau Chiến tranh Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam thu được số lượng tương đối lớn máy bay chiến lợi phẩm. Sau khi thành lập, trung đoàn 918 được biên chế số máy bay này, tiêu biểu là loại C-47.
wiki
Lữ đoàn Không quân 918
Sau Chiến tranh Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam thu được số lượng tương đối lớn máy bay chiến lợi phẩm. Sau khi thành lập, trung đoàn 918 được biên chế số máy bay này, tiêu biểu là loại C-47. Sau khi chiến tranh Biên giới phía Bắc bùng nổ, Chính phủ Liên Xô đã viện trợ khẩn cấp cho Quân đội nhân dân Việt Nam 1 trung đoàn máy bay vận tải quân sự An-26. Trunng đoàn được lệnh chuyển loại cấp tốc từ máy bay C-47 sang An-26. Ngày 16 tháng 4 năm 1979, đại tá Lương Hữu Sắt, phó tư lệnh về kỹ thuật – hậu cần của quân chủng không quân (sau là trung tướng, phó chủ nhiệm tổng cục kỹ thuật, Bộ quốc phòng) giao nhiệm vụ tổ chức tiếp nhận máy bay An-26 cho các đơn vị trong quân chủng và chỉ đạo Xưởng A41 (nay là nhà máy A41, cục kỹ thuật PKKQ) tổ chức đoàn cán bộ nhân viên sang Liên Xô chuyển loại quy trình bảo dưỡng kỹ thuật máy bay An-26. Đầu tháng 8 năm 1979, đoàn chuyển loại của A41 gồm 27 người sang Liên Xô. Lý thuyết học tại TP. Kirovohrad (nay là Học viện bay Kirovohrad của Đại học Hàng không Quốc gia, Ukraina), thực hành tại trường không quân Krasnodar (nay là Học viện không quân Krasnodar, Liên bang Nga).
wiki
Lữ đoàn Không quân 918
Cuối năm 1980, biên đội 2 chiếc An-26 đầu tiên mang số hiệu 210, 212 cùng đoàn chuyên gia Liên Xô có mặt tại căn cứ Tân Sơn Nhất, vừa chuyển loại phi công vừa làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy trên không. Cam kết của Chính phủ Liên Xô là viện trợ cho Việt Nam 1 trung đoàn, đủ 50 chiếc máy bay An-26 nên từ cuối năm 1979, Quân chủng Phòng không - Không quân (thời điểm đó là quân chủng không quân) đã liên tục cử các đoàn phi công, nhân viên bay sang Liên Xô học chuyển loại sử dụng máy bay An-26 trong thời gian từ 6 tháng đến 3 năm, đào tạo mới từ 4 - 5 năm. Đầu năm 1981, toàn bộ số máy bay hệ 2 (máy bay chiến lợi phẩm thu được sau ngày 30/4/1975) của trung đoàn 918 ngừng hoạt động bay vì vật tư kỹ thuật cạn kiệt, các máy bay đã quá hạn tổng kiểm nhiều lần. Đoàn phó chuyển loại hồi ấy là trung úy Nguyễn Thanh Lâm, sau trưởng thành làm đại tá – giám đốc nhà máy A41, giờ đã nghỉ hưu, kể: “Đến đầu 1980, nguồn vật tư kỹ thuật của máy bay hệ 2 (máy bay Mỹ thu được sau ngày 30/4/1975) cạn kiệt, các máy bay đã quá hạn tổng kiểm nhiều lần, trong khi nhu cầu chi viện hỏa lực của bộ đội trên chiến trường Campuchia ngày càng cao. Quá bức bách, quân chủng phải ký quyết định cho tăng hạn sử dụng 2 máy bay C-130 số 04 và 05 thêm 6 tháng”.
wiki
Lữ đoàn Không quân 918
Yêu cầu thay thế máy bay để phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia… luôn được đưa ra trong các cuộc họp của Bộ Quốc phòng. Do phía Việt Nam liên tục đốc thúc, phía Liên Xô đẩy nhanh quá trình chuyển giao An-26 sang Việt Nam để lắp ráp, bay thử và đưa vào hoạt động. Toàn bộ phi công, nhân viên bay 918 được đào tạo chuyển loại sử dụng An-26 và đến giữa năm 1981, phi đội An-26 thứ 2 về tới Việt Nam, nâng tổng số lên 20 chiếc. "“Có nhiều máy bay mới, rất phấn khởi. Ban đầu, đơn vị chỉ có 2 tổ bay làm giáo viên. Chúng tôi phải chọn một số phi công và nhân viên bay đã học tại Liên Xô (cũ) hoặc đã bay nhiều năm trên máy bay Liên Xô để đào tạo nhanh thành giáo viên An-26”", thượng tá Cự rành mạch và giải thích: "“Hồi ấy, QCPKKQ đình chỉ hoạt động của máy bay MiG-17, MiG-19 nên nhiều phi công từ các đơn vị chuyển về 918. Đến giữa 1981, đơn vị có 15 tổ bay An-26 bay, làm được nhiệm vụ chuyển quân và thả dù”". Do hoạt động bay cường độ cao, chỉ vài tháng sau khi về Việt Nam, một số máy bay An-26 đã phải vào xưởng bảo dưỡng kỹ thuật vào đầu tháng 6 năm 1981. Cũng thời gian này, trung đoàn 918 cử 99 người sang Liên Xô (cũ) đào tạo phi công và nhân viên bay An-26, khóa học 4 năm.
wiki
Lữ đoàn Không quân 918
Tháng 6 năm 1980, quân chủng giao nhiệm vụ cho A41 nghiên cứu cải tiến máy bay An-26 chuyên vận tải thành máy bay ném bom. Nhiều sáng kiến được đưa ra, cuối cùng phương án “trang bị bom MK-81, MK-82 của Mỹ lên máy bay An-26” của kỹ sư Nguyễn Hữu Sửu và trợ lý Viện Kỹ thuật không quân Nguyễn Kim Khôi được thông qua. Các phương án cải tiến được đưa ra: Lắp bom vào giá treo ngoài máy bay; lắp bom vào khoang chở hàng... Sau hơn 40 lần huấn luyện và chiến đấu, số lượng An-26 của Lữ đoàn đã hết niên hạn sử dụng. Quân chủng PKKQ đã trang bị cho Lữ đoàn những loại máy bay mới như CASA 212-400, CASA 212i, CASA C-295, An-2.
wiki
Ethel Merman
Ethel Merman Ethel Merman (16 tháng 1 năm 1908 - 15 tháng 2 năm 1984) là một nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ. Được biết đến chủ yếu vì giọng hát và vai diễn nhạc kịch,  bà được mệnh danh là "Đệ nhất phu nhân không thể tranh cãi của sân khấu nhạc kịch hài." Merman có mặt trong các vở nhạc kịch kinh điển của Broadway như "I Got Rhythm" (from "Girl Crazy"); "Everything's Coming Up Roses", "Some People", và "Rose's Turn" (from "Gypsy"—Merman đóng vai Rosetrong bản gốc 1959 do Broadway sản xuất); và trong các bài hát của Cole Porter "It's De-Lovely" (from "Red, Hot and Blue"), "Friendship" (from "DuBarry Was a Lady"), và "I Get a Kick Out of You", "You're the Top", và "Anything Goes" (from "Anything Goes"). Bài hát của Irving Berlin - "There's No Business Like Show Business", được viết riêng cho vở nhạc kịch "Annie Get Your Gun", trở thành bài hát thương hiệu của Merman.
wiki
Radon
Radon là một nguyên tố hóa học thuộc nhóm khí trơ trong bảng tuần hoàn có ký hiệu Rn và có số nguyên tử là 86. Radon là khí hiếm phóng xạ không màu, không mùi, là sản phẩm phân rã của radium. Nó là một trong những chất đặc nhất tồn tại ở dạng khí trong các điều kiện bình thường và được xem là có hại cho sức khỏe do tính phóng xạ của nó. Đồng vị bền nhất của nó là 222Rn, có chu kỳ bán rã 3,8 ngày. Do cường độ phóng xạ của nó cao nên nó chưa được nghiên cứu nhiều, chỉ có vài hợp chất được biết đến. Radon được tạo ra trong chuỗi phân rã phóng xạ bình thường của urani. Urani đã có trên Trái Đất từ lúc Trái Đất được hình thành và các đồng vị của urani có chu kỳ bán rã rất lâu (4,5 tỷ năm). Urani, radi, và radon sẽ tiếp tục có mặt trong vài triệu năm nữa với cùng nồng độ so với hiện tại. Khí radon có nguồn gốc tự nhiên có thể tích tụ trong các tòa nhà, đặc biệt trong các khu vực như gác xép và tầng hầm. Nó cũng có thể được tìm thấy trong một số suối nước nóng. Bằng chứng dịch tễ học cho thấy mối quan hệ rõ ràng giữa hít thở nồng độ radon cao với tỷ lệ mắc ung thư phổi. Do đó, radon được xem là chất gây ô nhiễm đáng kể ảnh hưởng đến chất lượng không khí trong nhà trên toàn cầu. Theo EPA, radon là chất gây ung thư phổi đứng thứ 2 sau tác hại của thuốc lá, đã gây nên 21.000 ca tử vong do ung thư phổi hàng năm ở Hoa Kỳ. Tính chất. Tính chất vật lý.
wiki
Radon
Tính chất. Tính chất vật lý. Radon là khí không màu, không mùi và không vị, và do đó không thể phát hiện chỉ bằng giác quan con người. Ở điều kiện tiêu chuẩn, radon ở dạng khí đơn nguyên tử với mật độ 9,73 kg/m³, cao khoảng 8 lần mật độ của khí quyển Trái Đất trên bề mặt đất, 1,217 kg/m³, và là một trong những khí nặng nhất ở nhiệt độ phòng và là khí hiếm nặng nhất, kể cả oganesson. Ở điều kiện tiêu chuẩn, radon là chất khí không màu nhưng khi nó bị làm lạnh bên dưới điểm đông của nó 202 K (−71 °C; −96 °F), nó là chất lân quang sáng và từ từ chuyển sang màu vàng khi nhiệt độ xuống thấp hơn nữa, và chuyển sang màu đỏ-cam khi hóa lỏng ở nhiệt độ dưới 93 K (−180,1 °C; −292,3 °F). Ở trạng thái ngưng tụ, radon cũng sôi do các bức xạ cao mà nó tạo ra. Tính chất hóa học.
wiki
Radon
Tính chất hóa học. Radon là nguyên tố hóa trị-0 thuộc nhóm khí hiếm, nên nó trơ với hầu hết các phản ứng hóa học như cháy, do lớp ngoài cùng chứa đủ 8 electron. Đặc điểm này làm cho nó có năng lượng ổn định, tối thiểu mà theo đó các electron ngoài cùng liên kết với nhau một cách chặt chẽ. Cần hơn 248 kcal/mol để tách một electron ra khỏi lớp ngoài cùng (hay còn gọi là năng lượng ion hóa cấp 1). Tuy nhiên, do xu hướng tuần hoàn, radon có ái lực electron thấp hơn các nguyên tố cùng nhóm trước nó, xenon, và do đó phản ứng mạnh hơn. Radon ít hòa tan trong nước, nhưng hòa tan nhiều hơn trong các khí hiếm nhẹ hơn. Radon hòa tan nhiều trong các dung môi hữu cơ hơn trong nước. Các nghiên cứu trước đây kết luận rằng khả năng ổn định của hydrat radon có thể giống như các hydrat của clo () hoặc sulfur dioxide (), và cao hơn đáng kể so với khả năng ổn định của hydrat hiđrô sulfide ().
wiki
Radon
Do giá cả và tính phóng xạ của nó nên có ít thí nghiệm hóa học được tiến hành với radon, và do vậy có ít các hợp chất của radon được công bố, ở dạng fluoride hay oxide. Radon có thể bị oxy hóa bởi các chất oxy hóa mạnh như , và tạo thành radon fluoride. Nó phân hủy lại thành các nguyên tố ở nhiệt độ hơn 250 °C. Hợp chất này có tính dễ bay hơi và được cho là . Như do có thời gian tồn tại của radon ngắn và tính phóng xạ của các hợp chất của nó, nó không thể được nghiên cứu chi tiết ở dạng hợp chất. Các nghiên cứu lý thuyết về phân tử này dự đoán rằng khoảng cách liên kết Rn-F là 2,08 Ǻ, và hợp chất này ổn định nhiệt động lực và bay hơi hơn các hợp chất của các chất trong nhóm trước nó . Phân tử tám mặt được dự đoán là có enthalpy tạo thành thấp hơn đifluoride. Ion [RnF]+ được cho là tào thành từ phản ứng: Các oxide radon cũng được đề cập trong một số báo cáo. Radon carbonyl RnCO được dự đoán là bền và có hình học phân tử tuyến tính. Các phân tử và RnXe được phát hiện là ổn định đáng kể bởi liên kết quỹ đạo spin. Radon được lồng bên trong fullerene đã được đề xuất làm một loại thuốc chống các khối u. Đồng vị. Radon không có các đồng vị bền, dù vậy đã có 36 đồng vị phóng xạ được nhận dạng, với khối lượng nguyên tử từ 193 đến 228. Đồng bị bền nhất là 222Rn, là sản phẩm phân rã của 226Ra, từ 238U.. Các hạt nhân con phân rã từ 222Rn cũng có đồng vị không ổn định cao218Rn.
wiki
Radon
Có 3 đồng vị radon khác có chu kỳ bán rã hơn 1 giờ: 211Rn, 210Rn và 224Rn. Đồng vị 220Rn là sản phẩm phân rã tự nhiên của đồng vị thori bền nhất (232Th), và thường được gọi là thoron. Nó có chu kỳ bán rã 55,6 giây và cũng phát xạ tia anpha. Tương tự, 219Rn được sinh ra từ đồng vị bền nhất của actini (227Ac)— được đặt tên "actinon"— và là nguồn phát ra tia anpha với chu kỳ bán rã 3,96 giây. Không có đồng vị radon này nằm trong chuỗi phân rã của neptuni(237Np).
wiki
Tỉnh ủy Yên Bái
Tỉnh ủy Yên Bái Tỉnh ủy Yên Bái hay còn được gọi Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giữa hai kỳ đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái, do Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh bầu. Tỉnh ủy Yên Bái có chức năng thi hành nghị quyết, quyết định của Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Yên Bái, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ban Bí thư và Bộ Chính trị. Đứng đầu Tỉnh ủy là Bí thư Tỉnh ủy và thường là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Bí thư hiện tại là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Đỗ Đức Duy.
wiki
Thần Nông Giá
Thần Nông Giá () là Lâm khu (tương đương với cấp huyện) duy nhất tại Trung Quốc, nằm ở phía tây bắc của tỉnh Hồ Bắc. Lâm khu không trực thuộc địa cấp thị nào của tỉnh mà trực tiếp thuộc tỉnh. Nó có diện tích và ước tính dân số năm 2007 là 74.000 người. Dân cư trong lâm khu chủ yếu là người Hán (95%), 5% còn lại chủ yếu là người Thổ Gia. Vườn quốc gia Hồ Bắc Thần Nông Giá là một phần của lâm khu này. Năm 2016, Hồ Bắc Thần Nông Giá được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Địa lý và tự nhiên. Lâm khu Thần Nông Giá được lấy tên theo khối núi Thần Nông Giá, thường được coi là đoạn phía đông và cao nhất của Dãy núi Đại Ba và nằm trong khu bảo tồn của dãy núi này. Một số ngọn núi cao nhất tại Hồ Bắc cũng nằm trên dãy núi Đại Ba đều nằm ở lâm khu. Khối núi Thần Nông Giá chia lâm khu thành hai phần: phần trung tâm và phía bắc thuộc lưu vực của Hán Thủy (một phụ lưu của Trường Giang và nhập vào dòng chính ở Vũ Hán), trong khi phần phía nam chảy ra Trường Giang một cách trực tiếp hơn qua những con suối nhỏ như suối Thần Nông.
wiki
Thần Nông Giá
Thần Nông Giá là nơi có 3183 loài thực vật có mạch bậc cao, 927 loài nấm và địa y, hơn 1800 loài cây thuốc nó được biết đến như là "vườn y học tự nhiên". Về động vật, nơi đây có 493 loài động vật có xương sống, trong đó có 75 loài thú, 308 loài chim, 40 loài bò sát, 23 loài cá, 4.143 loài côn trùng. Trong số trên có 73 loài được liệt kê trong sách đỏ Trung Quốc. Thần Nông Giá là nhà của loài Voọc mũi hếch vàng quý hiếm chỉ được tìm thấy tại một vài khu vực của Tứ Xuyên, Trùng Khánh, Thiểm Tây, Cam Túc và Hồ Bắc. Ước tính số lượng loài này trong lâm khu đã được báo cáo là tăng từ giai đoạn 1990 đến 2005 là từ 500 lên trên 1200 cá thể. Một khu vực rộng 100 km vuông được bảo vệ đặc biệt như là nhà cho loài linh trưởng nguy cấp này. Thần Nông Giá cũng là một địa điểm được quan tâm của các nhà cổ sinh vật học được mô tả như là địa điểm giàu có về các hóa thạch đứng thứ hai chỉ sau Di chỉ người Bắc Kinh tại Chu Khẩu Điếm. Hành chính.
wiki
Thần Nông Giá
Hành chính. Thần Nông Giá được coi là một lâm khu (林区) chứ không phải là quận huyện cấp thành phố, tỉnh thông thường và nó cũng chịu sự quản lý trực tiếp từ tỉnh chứ không phải địa cấp thị của Hồ Bắc. Tuy nhiên điều này không phải là duy nhất đối với Thần Nông Giá mà Hồ Bắc cũng còn có 3 thành phố cấp huyện nhưng trực thuộc tỉnh là Tiên Đào, Thiên Môn và Tiềm Giang. Lâm khu được thành lập năm 1970 từ những diện tích các huyện lân cận là Ba Đông, Hưng Sơn và Phòng. Thần Nông Giá được chia thành 5 trấn, 2 hương và 1 hương dân tộc. Trung tâm của lâm khu đặt tại trấn Tùng Bách nằm ở phía bắc của Thần Nông Giá, còn trung tâm du lịch nằm tại Mộc Ngư.
wiki
Trần Văn Khải
Trần Văn Khải (sinh ngày 15 tháng 9 năm 1975) là kiến trúc sư, doanh nhân, chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội. Ông từng là Ủy viên Đoàn Chủ tịch, Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng Ban Quản lý dự án thiết chế công đoàn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, và từng là Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn VK. Trần Văn Khải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Kiến trúc sư, Thạc sĩ Quy hoạch, Tiến sĩ Quản lý đất đai, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp từng hoạt động ở nhiều nhiều lĩnh vực, từ giáo dục, kinh doanh, rồi công tác tổ chức chính trị – xã hội trước khi tham gia Quốc hội. Xuất thân và giáo dục. Trần Văn Khải sinh ngày 15 tháng 9 năm 1975 tại xã Phan Sào Nam, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Phù Cừ, thi đại học và đỗ Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, theo học và tốt nghiệp Cử nhân Kiến trúc, học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Quy hoạch vùng và đô thị, rồi là nghiên cứu sinh và trở thành Tiến sĩ Quản lý đất đai vào tháng 4 năm 2021. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 6 tháng 4 năm 2004, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phường Liễu Giai, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Sự nghiệp.
wiki