title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Chiến dịch Tây Bắc
Trong những ngày tiếp sau, các trung đoàn 36, 74 cùng lực lượng Việt Minh tại địa phương tấn công mạnh vào các vị trí của quân Pháp. Trong vòng 10 ngày, từ 5 đến 15 tháng 11 năm 1952, chỉ riêng bên tả ngạn sông Hồng đã có 34 vị trí từ một trung đội đến một đại đội Pháp bị tiêu diệt, 16 vị trí rút chạy và 29 vị trí bị bao vây. Sáng 14 tháng 11 năm 1952, QĐNDVN đánh vào Phát Diệm, bắn chìm 3 tàu và tiêu diệt 3 đại đội đồn trú. Ngày 17 tháng 11 năm 1952, một đoàn xe của GM4 (Binh đoàn cơ động số 4) về tới Chân Mộng trên đường số 2 lọt vào trận địa phục kích, bị trung đoàn 36 tiêu diệt trên 400 lính, bắt sống 84, phá huỷ 44 xe cơ giới (có 17 xe thiết giáp), thu 1 xe tăng (xem Trận Chân Mộng-Trạm Thản ngày 17 tháng 11 năm 1952). Trong gần một tháng, QĐNDVN ở Phú Thọ đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.884 lính, trong đó bắt 173, có 100 lính Âu - Phi, phá huỷ 60 xe cơ giới, thu nhiều vũ khí. Quân Pháp tổn thất lớn và phải rút khỏi Việt Trì, kết thúc cuộc hành quân Lorraine khi chưa đạt được mục đích. Đợt 2 (từ 17 đến 22 tháng 11). Các đơn vị QĐNDVN vượt Sông Đà, tiến công hệ thống phòng ngự của Pháp trên cao nguyên Mộc Châu (xem Trận Mộc Châu, ngày 19 tháng 11 năm 1952), kết hợp vu hồi chiến dịch từ Quỳnh Nhai, chiếm Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên Phủ, buộc quân Pháp ở thị xã Sơn La rút chạy về Nà Sản.
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
Ngày 17 tháng 11, QĐNDVN vượt sông Đà, tiêu diệt vị trí Bản Hoa. Đêm tiếp theo tiêu diệt vị trí Ba Lay. Với hai trận đánh, Đại đoàn 312 tiêu diệt gọn tiểu đoàn 3 Ma-rốc và một đại đội quân Quốc gia Việt Nam. Ngày 18 tháng 12 tiêu diệt vị trí Hát Tiêu, Mường Lụm. Quân Pháp bỏ Tạ Khoa chạy về Còi Nòi. Đại đoàn 308 truy kích, quét sạch phòng tuyến quân Pháp trên bờ sông Đà. Ngày 19, đánh vào Mộc Châu, chiếm các lô cốt trận địa pháo. Quân Pháp ở Chiềng Pan, sông Con, Tạ Khoa vội vã rút chạy. Đường số 6 được khai thông, cánh cửa vào Tây Bắc với QĐNDVN được mở rộng. Ngày 18 tháng 11, quân Pháp rút khỏi Sơn La, trung đoàn 165 tiếp quản Sơn La, truy quét bắt gần 500 lính và trên 100 nhân viên của chính quyền Quốc gia Việt Nam. Trên hướng phối hợp, Ban chỉ huy mặt trận Y13 điều tiểu đoàn 910 và 542 bất ngờ tập kích Điện Biên Phủ. Quân Pháp tại đây bị bất ngờ, nhanh chóng tan rã. Lực lượng QĐNDVN tổ chức truy kích, bắt 726 lính, hầu hết thuộc tiểu đoàn Lào (58 BCL), thu 600 súng các loại.
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
Tại Tu Lệ, thiếu tá Bigeard được tin Nghĩa Lộ mất, nhận lệnh của Raoul Salan phải cùng với số tất cả các đồn xung quanh tức khắc rút lui về phía Nà Sản, là một đồn ở trên đường tỉnh lộ số 41 từ Hoà Bình lên Lai Châu và cách Sơn La 10 km về phía đông nam. Nà Sản có một sân bay lớn, máy bay Dakota có thể đáp xuống được. Ngày 21 tháng 10 năm 1952, sau một đêm cầm cự chống cuộc tấn công của QĐNDVN, Bigeard cùng các lính các đồn xung quanh tụ tập tại Tu Lệ, triệt thoái khỏi đồn. Một giờ trưa bắt đầu cuộc hành trình trực chỉ hướng tây. 3 giờ sáng ngày 22 tháng 10, tiểu đoàn quân Bigeard tới đồn Mường Chèn là một đồn nhỏ ở giữa một lòng chảo cách Tu Lệ 25 km, có một trung đội phụ lực người Thái dưới quyền thượng sĩ Peyrol trấn giữ. QĐNDVN suốt ngày đuổi theo đánh bọc hậu làm thiệt hại nhiều, nay vẫn bám sát và ẩn nấp trên những ngọn núi xung quanh. Lính của Bigeard đã kiệt sức, hết cả lương thực và đạn dược, phải dừng chân ở Mường Chèn để nghỉ, lấy lại sức và chờ máy bay thả dù tiếp tế xuống. Nửa đêm hôm đó, nhờ đóng quân ở ngoài đồn và nhờ lúc QĐNDVN đánh đồn Mường Chèn, Bigeard vội chuyển quân đi thoát. Ngày 22 tháng 10, hồi 9 giờ sáng, quân Bigeard tới được đồn Bản Y Tông, cách Mường Chèn 25 km. Tại đây Bigeard gặp được đoàn quân từ Nà Sản cùng tiểu đoàn 56 Quốc gia Việt Nam đến tiếp đón nên Bigeard an toàn rút về đến đồn Tà Bú rồi từ đó được xe cam-nhông đưa về Sơn La, Nà Sản, rồi đáp máy bay về Hà Nội. Đợt 3 (từ 30 tháng 11 đến 10 tháng 12). Trận Nà Sản.
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
Đợt 3 (từ 30 tháng 11 đến 10 tháng 12). Trận Nà Sản. Sau khi thất bại ở Nghĩa Lộ, Salan quyết định tăng cường Nà Sản để chống trả với Việt Minh trong vùng tây bắc và cũng để bảo vệ lãnh thổ người Thái từ lâu đã có những liên lạc trung thành với Pháp mà Pháp không muốn rời bỏ. Nà Sản là tên một làng Thái ở giữa một thung lũng dài 5 km, rộng 2 km, xung quanh có núi đồi cao bao bọc, cách Hà Nội 190 cây số theo đường chim bay và cách khoảng 40 phút bằng máy bay. Dân cư thưa thớt, toàn người Thái sống về nghề làm rẫy. Giữa lòng chảo có một phi đạo dài một 1 km dùng cho máy bay hai động cơ Dakota lên xuống được. Nà Sản cũng nằm trên tỉnh lộ số 41 nối liền Lai Châu, Điện Biên qua Sơn La, Mộc Châu xuống Thanh Hóa hoặc sang Hoà Bình về Hà Nội, vì vậy vị trí Nà Sản quan trọng trong việc tiếp tế bằng đường bộ cho khu vực Thái và trấn giữ vùng Thượng Lào. Đầu tháng 11 năm 1952, một cầu không vận ngày đêm hoạt động, chuyên chở các đồ tiếp tế: đạn dược, lương thực, xe ủi đất, hàng ngàn tấn dây kẽm gai và lừa ngựa từ Hà Nội lên Nà Sản (lừa ngựa để chuyên chở nước uống và tiếp tế lương thực đạn dược cho các đồn điểm tựa đóng trên núi). Hai đại đội công binh và hàng ngàn phu phen phục dịch gấp rút xây đắp các đường hầm giao thông và trú ẩn, xây cất 30 điểm tựa xung quanh lòng chảo, trên những ngọn đồi núi, để bảo vệ phi trường Nà Sản. Đại tá Jean Gilles chỉ huy 8 tiểu đoàn và 4 khẩu trọng pháo 105 ly, có nhiệm vụ bảo vệ Nà Sản.
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
QĐNDVN tiếp tục tiến công quân Pháp ở Nà Sản. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định triển khai đợt 3, Nà Sản là mục tiêu, nhưng quân Pháp thả dù thêm cho Nà Sản 2 tiểu đoàn. Cứ điểm này trở thành một cứ điểm kiên cố nằm trong cấu trúc chặt chẽ của một tập đoàn cứ điểm. Đêm 30 tháng 11 rạng ngày 1 tháng 12, QĐNDVN ồ ạt tấn công vào các điểm tựa phía đông bắc. Trung đoàn 102 cùng trung đoàn 88 của Đại đoàn 308 tiến công Pú Hồng (điểm cao 753). Sau 1 giờ 45 phút chiến đấu, QĐNDVN chiếm được điểm tựa số 24 do trung úy Pipart phụ trách với một đại đội lính Thái và lính Maroc, diệt bốn trung đội của GM1 đóng tại đây, bắt sống viên quan ba chỉ huy. Cùng đêm, tiểu đoàn 115 của trung đoàn 165 Đại đoàn 312 tiến công vị trí Bản Hời. Sau hơn một giờ chiến đấu, QĐNDVN diệt một đại đội địch. Tới gần sáng, nhờ trọng pháo và không quân yểm trợ, Gilles phản công với những đơn vị dự trữ, QĐNDVN rút lui, Gilles lấy lại được đồn. Không lâu sau trận này, ngày 23 tháng 12 năm 1952, Gilles được phong Chuẩn tướng ("général de brigade")
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
Đêm hôm sau, 11 tiểu đoàn QĐNDVN ồ ạt tấn công vào hai đồn chính bảo vệ Nà Sản. Từ 9 giờ đêm đến 7 giờ sáng, nhờ thời tiết tốt nên máy bay Pháp thả pháo sáng khắp trận địa, liên tiếp ném bom và bắn pháo liên thanh xuống vị trí QĐNDVN, đồng thời các giàn đại bác nhả đạn xung quanh đồn, ở trong đồn thì lính cố sức cầm cự, QĐNDVN thiệt hại nhiều mà không chiếm được đồn. Trung đoàn 209 đánh Bản Vây cũng không kết quả. Trời sáng, Pháp dùng máy bay oanh tạc và bắn trên 5.000 quả đạn pháo để cứu nguy cho các cứ điểm. Đến sáng, QĐNDVN rút lui. Ngày 2 tháng 12, không quân Pháp thả dù tăng cường thêm cho Nà Sản hai tiểu đoàn, quyết giữ tập đoàn cứ điểm này. Những ngày sau, QĐNDVN biết là vấp phải sức kháng cự mạnh mẽ, nếu tiếp tục tấn công thì bất lợi. Trước những khó khăn mới nảy sinh, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định kết thúc chiến dịch Tây Bắc, QĐNDVN rút lui khỏi Nà Sản không trở lại nữa. Các hướng khác. Trong khi Raoul Salan tăng cường phòng thủ Nà Sản đề phòng QĐNDVN kéo quân tới tấn công địa điểm đó, thì đêm hôm 17 tháng 11, Mộc Châu bị thất thủ. Mộc Châu là một thị trấn ở cách Nà Sản 80 km về phía Nam, nằm trên đường tỉnh số 41 từ Hoà Bình lên Sơn La, Lai Châu, trấn giữ con đường qua Xiêng Khoảng xâm nhập xứ Lào. Mộc Châu có một tiểu đoàn Maroc với quân phụ lực người Thái. Đêm 17 rạng ngày 18 tháng 11, đồn Mộc Châu bị chiếm sau nhiều đợt tấn công của QĐNDVN, quân Pháp bỏ đồn rút qua rừng về phía Sầm Nưa.
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
Ngày 30 tháng 11, đồn Điện Biên Phủ cũng bị thất thủ. Điện Biên Phủ là một thị trấn thuộc Quân khu 4 mà Bộ chỉ huy đóng ở Lai Châu, nằm gần biên giới Lào cách Lai Châu độ 90 km đường chim bay về phía tây nam và cách Sơn La cũng chừng ấy về phía tây, cách Hà Nội khoảng 300 km. Điện Biên Phủ nằm giữa một thung lũng lòng chảo dài 15 km, rộng 6 km, có một phi đạo máy bay Dakota có thể lên xuống được. Điện Biên Phủ có chừng 300 lính Thái đặt dưới quyền một viên tri châu người Mường Đèo Văn Ban, và một tiểu đoàn lính Senegal dưới quyền thiếu tá Durand. Tiểu đoàn Senegal này vừa bị tiêu diệt trong một cuộc chạm súng với QĐNDVN gần Lai Châu. Ngày 25 tháng 11, tiểu đoàn Lào do thiếu tá Sicard chỉ huy được gửi đến tăng cường. Ngày 29, QĐNDVN tấn công, tiểu đoàn Lào và lính Thái bỏ chạy về phía Mường Khoa (Lào), Điện Biên Phủ bị QĐNDVN chiếm trọn. Đứng trước hai thất bại, Mộc Châu và Điện Biên Phủ, bộ chỉ huy Pháp lo ngại QĐNDVN tấn công vào Lào, một mặt mở những cuộc hành quân phát xuất từ Nà Sản để đánh phá QĐNDVN trong việc tiếp tế và tập kích hậu quân của QĐNDVN, một mặt tăng cường Sầm Nưa là một thị trấn Lào gần Mộc Châu và Điện Biên Phủ nhất. Mặt khác vì nhu cầu nhân sự, bộ chỉ huy Pháp giao nhiều trách nhiệm cho Quân đội Quốc gia Việt Nam trong vùng đồng bằng, mở các cuộc hành quân vào căn cứ Việt Minh trong vùng Quy Nhơn để bớt áp lực cho Pleiku và tổ chức các đoàn biệt kích người Mông để phá rối QĐNDVN trong vùng Thượng Lào. Kết quả.
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
Kết quả. Bernard Fall đã viết về tình hình chiến dịch như sau: "Các sư đoàn Việt Minh ngay trước mắt người Pháp đang làm chủ trên không, đã vượt quá 180 dặm trong 6 tuần liền mà chẳng phải dùng đến một con đường bay một xe cơ giới nào... Đến ngày 10 tháng 12, người Pháp mới rút lui tương đối an toàn về sau Phòng tuyến Tassigny ở phía bắc Hà Nội nhưng cũng phải thiệt hại khá nặng về cả người và trang bị". Ngày 10 tháng 12 năm 1952, Hội nghị sơ kết chiến dịch phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận định: "Chiến dịch Thu Đông 1952 đã thành công vượt mức dự kiến." Hướng Tây Bắc, QĐNDVN đã tiêu diệt và bắt 6.029 quân Pháp và chư hầu; ngoài ra còn thu được thắng lợi quan trọng ở Phú Thọ, tiêu diệt 1.711, bắt 173. Toàn chiến dịch, QĐNDVN đã xóa bỏ và chiếm 85 vị trí, thu 3.785 súng các loại, 90 máy vô tuyến điện, 1459 dù, mở rộng kiểm soát thêm 28.000 km² với 250.000 dân trong đó có thị xã Sơn La và toàn tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản). Ở đồng bằng Liên khu 3, tiêu diệt 12 vị trí cỡ đại đội, diệt 4.031 quân Pháp và chư hầu, bắt 1.746 lính và mở rộng nhiều khu căn cứ ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng, nối liền vùng kiểm soát Tây Bắc với căn cứ địa Việt Bắc và Thượng Lào, giữ vững thế chủ động tiến công, làm thất bại âm mưu mở rộng chiếm đóng của Pháp.
wiki
Chiến dịch Tây Bắc
Tuy còn những hạn chế, nhưng chiến dịch này vẫn giành được thắng lợi lớn. Vì vậy, ngày 29 tháng 1 năm 1953, trong hội nghị tổng kết Chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi: "Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác bằng lòng các chú, lần này chưa phải hoàn toàn, nhưng hơn mọi lần trước" Về ý nghĩa Chiến dịch Tây Bắc, ngày 10 tháng 12 năm 1952, thay mặt Đảng ủy và Bộ chỉ huy chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng chiến dịch đánh giá: "Thu đông 1952 là thu đông chiến thắng Tây Bắc. Nếu nhìn rộng ra toàn chiến trường Bắc Bộ thì đó là thắng lợi lớn của ta trên con đường tiếp tục giành thế chủ động... Thắng lợi đó đã rèn luyện nhiều cho bộ đội ta về kỹ thuật, củng cố và mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường lực lượng kháng chiến của nhân dân, nâng cao lòng tin tưởng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đối với Đảng và Hồ Chủ tịch…"
wiki
Villanúa
Villanúa Villanúa là một đô thị trong tỉnh Huesca, Aragon, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số 2012 (INE), đô thị này có dân số là 475 người. Trung tâm cũ, nhà thờ San Esteban (với một hình ảnh Romanesque bằng gỗ thế kỷ 11 của Đức mẹ Đồng trinh, "Đức Mẹ các Thiên Thần"), hang Las Güixas, cầu cạn đường sắt, mộ đá, nhà thờ San Juan và bị bỏ rơilàng của Cenarbe và Aruej, với nhà thờ La Mã San Vicente (c 12), tất cả trong một môi trường xinh đẹp có sông Aragon chảy ngang qua. Thị trấn nằm trên đường cũ Aragonese hành hương đến Santiago de Compostela, Lối đi thánh St James. Lễ hội chính là ngày 08 tháng 9 (Giáng sinh của Virgin) và 26 tháng 12 (San Esteban).
wiki
Sangil-dong
Sangil-dong Sangil-dong là một "dong", phường của Gangdong-gu ở Seoul, Hàn Quốc. Lịch sử. Sangil-dong theo nghĩa đen có nghĩa là 'phần phía trên' và nằm ở vị trí địa lý cao hơn Hail-dong (hiện tại là Gangil-dong) nơi có dòng suối Genae chảy qua. Năm 1963, Sangil-dong trở thành một phần của Seoul. Cho đến đầu những năm 1980, khu phức hợp căn hộ khổng lồ có tên Godeok Jugong Apartments được xây dựng bởi Tập đoàn Nhà ở Quốc gia Hàn Quốc (hiện là Tập đoàn Nhà ở & Đất đai Hàn Quốc). Ga Sangil-dong là ga cuối phía đông của tàu điện ngầm Seoul tuyến 5 và cũng là địa điểm của trường Trung học Ngoại ngữ Hanyoung. Thông tin khu vực. Mã bưu chính hiện tại của Sangil-dong là 134-090. Trong đó 134 là cho Gangdong-gu và 090 là cho Sangil-dong. Văn phòng và tòa nhà. Samsung Engineering đã xây dựng trụ sở mới tại đây. Việc xây dựng bắt đầu vào tháng 9 năm 2009. Khu phức hợp bao gồm ba tòa nhà và có diện tích hơn 27.000 mét vuông, khiến nó trở thành khu bất động sản lớn thứ năm trong khu vực Seoul.
wiki
Amomum biphyllum
Amomum biphyllum Amomum biphyllum là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Surapon Saensouk và Piyaporn Saensouk mô tả khoa học đầu tiên năm 2014 dưới danh pháp "Elettariopsis biphylla". Phân tích phát sinh chủng loại phân tử chi "Amomum" nghĩa rộng năm 2018 của de Boer "et al." cho thấy nó thuộc về chi "Amomum" nghĩa hẹp, vì thế nó được Jana Leong-Škorničková và Kristýna Hlavatá chuyển sang chi "Amomum". Phân bố. Loài này có ở Khu bảo tồn thiên nhiên Phu Wua, huyện Bung Khla, tỉnh Bueng Kan, đông bắc Thái Lan. Đặc điểm. Loài này tương tự như "E. monophylla", nhưng khác ở chỗ có hai lá và các gân màu đỏ sẫm ở các phần của cánh giữa môi dưới, ở chiều dài của cuống lá, ở chiều cao của thân giả cũng như đỉnh của bao phấn-mào.
wiki
Nguyễn Lân Hiếu
Nguyễn Lân Hiếu (sinh ngày 14 tháng 9 năm 1972) là bác sĩ, phó giáo sư, tiến sĩ y khoa, chính trị gia người Việt Nam. Ông là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021, khóa 15 nhiệm kỳ 2021-2026. Ông ứng cử và trúng cử đại biểu quốc hội lần đầu năm 2016 ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh An Giang gồm các huyện: Châu Phú và Châu Thành, lần thứ hai năm 2021 ở tỉnh Bình Định. Ông là một chuyên gia tim mạch có tên tuổi với nhiều cống hiến trong nền Y học Việt Nam, Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Xuất thân và giáo dục. Nguyễn Lân Hiếu sinh ngày 14 tháng 9 năm 1972, quê quán tại thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Cha của Nguyễn Lân Hiếu là Nguyễn Lân Dũng, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, cũng là một đại biểu quốc hội Việt Nam mà không là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam 3 khóa 10, 11, 12 Còn mẹ ông là bà Nguyễn Kim Nữ Hiếu, Đại tá, Phó giáo sư tiến sĩ, thầy thuốc nhân dân, nguyên Phó giám đốc Bệnh viện Quân y 108.. Ông có em gái là Nguyễn Kim Nữ Thảo, theo ngành Sinh học. Nguyễn Lân Hiếu chịu nhiều ảnh hưởng từ người bác Nguyễn Lân Tuất, nghệ sĩ công huân tại Nga. Năm 1995, Nguyễn Lân Hiếu tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội. Năm 1999, Nguyễn Lân Hiếu tốt nghiệp nội trú chuyên ngành Tim mạch. Năm 2008, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Y học. Năm 2013, ông được phong học hàm Phó giáo sư. Sự nghiệp. Từ tháng 3 năm 2001, Nguyễn Lân Hiếu là cán bộ giảng dạy tại Đại học Y Hà Nội. Ông đã đào tạo nhiều bác sĩ tim mạch trong và ngoài nước.
wiki
Nguyễn Lân Hiếu
Năm 2013, ông được phong học hàm Phó giáo sư. Sự nghiệp. Từ tháng 3 năm 2001, Nguyễn Lân Hiếu là cán bộ giảng dạy tại Đại học Y Hà Nội. Ông đã đào tạo nhiều bác sĩ tim mạch trong và ngoài nước. Ngày 22 tháng 5 năm 2016, Nguyễn Lân Hiếu trúng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 tỉnh An Giang. Ông ứng cử và trúng cử đại biểu quốc hội lần đầu năm 2016 ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh An Giang gồm các huyện: Châu Phú và Châu Thành Ngày 14 tháng 7 năm 2017, Nguyễn Lân Hiếu được bổ nhiệm chức vụ Phó giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Trước khi được bổ nhiệm chức vụ này, ông là Giám đốc Trung tâm Tim mạch (Bệnh viện Đại học Y Hà Nội). Ngày 22/4/2019, PGS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến trao Quyết định số 1368/QĐ-BYT ngày 12/4/2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế bổ nhiệm chức danh Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội nhiệm kỳ 2019 - 2024 cho PGS.TS Nguyễn Lân Hiếu. Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 nhiệm kì 2016-2021. Ông được Tổng hội Y học Việt Nam để cử tham gia ứng cử ĐBQH khóa 14. Sau khi vượt qua 3 vòng hiệp thương, ông được giới thiệu về tỉnh An Giang ứng cử ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh An Giang gồm các huyện: Châu Phú và Châu Thành. Tại cuộc bầu cử ngày 22.5.2016, ông Hiếu đạt 63,62% số phiếu bầu và trúng cử. Ngày 12 tháng 6 năm 2017, ông kiến nghị phải có một kì thi chung quốc gia cho sinh viên ngành Y để kiểm soát chất lượng đầu ra của ngành này. Đề nghị lùi thông qua Luật An ninh mạng.
wiki
Nguyễn Lân Hiếu
Ngày 12 tháng 6 năm 2017, ông kiến nghị phải có một kì thi chung quốc gia cho sinh viên ngành Y để kiểm soát chất lượng đầu ra của ngành này. Đề nghị lùi thông qua Luật An ninh mạng. Về dự thảo luật An ninh mạng, trong phỏng vấn với phóng viên Hồng Nguyên của báo Sức khỏe và Đời sống đăng ngày 11/6/2018, Nguyễn Lân Hiếu cho rằng bảo đảm an ninh mạng không có nghĩa là hi sinh phát triển kinh tế và tự do của người dân, và đề nghị nên lùi việc thông qua Luật An ninh mạng một nhiệm kì để hoàn chỉnh nó. Gia đình riêng. Nguyễn Lân Hiếu có vợ sinh năm 1977 vốn là 1 tiếp viên hàng không. Theo báo chí và các phương tiện truyền thông chính thức của Việt Nam, hai người có hai con, con trai đầu và con gái thứ. 2 người gặp nhau trong thời gian học y khoa tại Pháp.
wiki
Minh Tân, Đông Hưng
Minh Tân, Đông Hưng Minh Tân là một xã thuộc huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, Việt Nam. Diện tích và dân số. Xã Minh Tân có diện tích 4,06 km². Theo Tổng điều tra dân số năm 1999, xã Minh Tân có số dân 4.868 người. Địa giới hành chính. Xã Minh Tân nằm ở phía tây của huyện Đông Hưng, thuộc hữu ngạn sông Tiên Hưng. Giao thông. Xã Minh Tân có quốc lộ 39A chạy qua. Di tích. Xã Minh Tân xưa từng là nơi diễn ra trận đánh Lục Đầu Giang chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất. Do vậy hiện còn đền thờ Vua Lê Đại Hành, là một trong 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam.
wiki
Trận công hãm Đức An
Trận công hãm Đức An (, "Đức An chi chiến") là một trận đánh công thành giữa quân nổi dậy do Lý Hoành (李橫) chỉ huy với quân triều đình nhà Tống diễn ra vào năm 1132 tại thành phủ Đức An (nay thuộc phía đông Hồ Bắc, Trung Quốc). Trận chiến được các tài liệu ghi nhận sự xuất hiện của hỏa thương, tổ tiên đầu tiên của súng cá nhân, sử dụng lần đầu trong lịch sử chiến tranh thế giới. Bối cảnh. Sau sự biến Tĩnh Khang, hai vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông cùng hầu hết hoàng gia và triều thần bị quân Kim đưa về Bắc. Các đại thần còn lại tôn hoàng tử Triệu Cấu, vừa trốn thoát được, lên ngôi hoàng đế tại phủ Ứng Thiên, sử gọi là nhà Nam Tống. Tuy nhiên, các triều thần không nhất trí, thường xuyên tranh chấp, gây bất ổn triều đình, dẫn đến binh biến Miêu, Lưu. Bên cạnh đó, quân Kim thường xuyên Nam hạ, đánh tan tác quân Tống. Triều đình nhà Tống phải nhiều lần di chuyển, liên tục rút dần về phương Nam. Sau khi chiếm được miền Bắc Trung Nguyên, năm 1130, Kim Thái Tông sắc phong cho hàng thần Lưu Dự làm "Đại Tề Hoàng đế", chia Hoàng Hà phía nam thuộc quyền thống trị của Đại Tề, lấy phủ Đại Danh làm kinh đô. Tuy nhiên, Lưu Dự kiêu sa dâm dục, phung phí vô độ, vơ vét tàn bạo, gây ra sự căm phẫn tột độ của nhân dân Nam Tống và những người dân sống dưới ách thống trị của nhà Tề. Khởi nghĩa chống Kim nổ ra liên tiếp ở lưu vực sông Hoàng Hà, quân Lưu Dự không cách nào trấn áp nổi.
wiki
Trận công hãm Đức An
Về phía Nam Tống, năm 1131, triều Tống ổn định được kinh đô mới ở phủ Lâm An. Năm 1132, một thủ lĩnh quân nổi dậy là Tang Trọng quy hàng triều đình Nam Tống, dâng thư xin hợp tác với chư tướng mà khôi phục Trung Nguyên. Tống Cao Tông nghe theo, phong Tang Trọng làm Tiết chế quân mã, chiêu mộ quân mã các châu quận để chuẩn bị khôi phục các châu đang bị Lưu Dự chiếm giữ. Tuy nhiên sau đó Tang Trọng bị Tri Dĩnh châu Hoắc Minh nghi ngờ và giết chết. Bộ tướng của Tang Trọng là Tri Đặng châu Lý Hoành nổi loạn, đuổi đánh Hoắc Minh. Quân nổi dậy nhanh chóng kiểm soát Tương Dương phủ và các châu Đặng, Tùy, Dĩnh, Trục, hội quân tiến về phủ Đức An. Trận chiến. Theo sách "Thủ thành lục" do chính tướng thủ thành Trần Quy ghi chép, Thang Châu bổ túc, Lý Hoành (hiệu là Cửu ca ca) thống lĩnh quân mã của Tương Dương phủ và các châu Đặng, Tùy, Dĩnh, cùng với bách tính của Trục châu, ước tính khoảng 5-6.000 người, cộng với binh mã bản bộ khoảng 4.000 người, tiến về thành phủ Đức An. Ngày 13 tháng Sáu (âm lịch) năm 1132, quân Lý Hoành tiến sát thành Đức An hạ trại, đóng thành 70 trại lớn nhỏ. Mỗi trại đều có vọng lâu quan sát động tĩnh trong thành, ban ngày lấy kỳ hiệu, ban đêm lấy hỏa hiệu thông tin lẫn nhau để tiếp ứng. Đại trại của Lý Hoành đóng bên ngoài Tây thành.
wiki
Trận công hãm Đức An
Rạng sáng ngày mùng 3 tháng Bảy (âl), quân Lý Hoành khởi sự công thành. Quân nổi dậy lấp hào thành, dùng các vân thê (雲梯, tức thang dài) ồ ạt công thành. Tướng thủ thành là Hán Dương quân Trấn phủ sứ Trần Quy (陳規) đốc suất quân dân trong thành ra sức chống cự. Trước đó, ông đã cho xây dựng các ụ che trên mặt thành nhằm che giấu các hoạt động phòng thủ trong thành trước sự quan sát của các vọng lâu, đồng thời che chắn cho binh sĩ trên mặt thành khỏi các cuộc tấn công bằng cung tên. Khi cuộc công thành diễn ra, Trần Quy không màng nguy hiểm, ngồi trên thành lâu chỉ huy quân dân thủ thành hiệu quả. Ông ra lệnh cho đốt cháy các đoạn hào thành, đồng thời cho các binh sĩ giữ mặt thành dùng thương dài, câu liêm ngăn không cho các vân thê áp sát mặt thành. Đến cuối ngày, quân vây thành phải tạm ngừng cuộc tấn công, bỏ lại hơn 60 bộ vân thê.
wiki
Trận công hãm Đức An
Quân vây thành đổi chiến thuật. Trong vòng 10 ngày, các thợ mộc, thợ rèn và thợ da từ các khu vực lân cận được trưng dụng để chế tạo các tháp công thành di động gọi là "thiên kiều" (天橋, "cầu trên trời"), được dùng khi công thành có thể tiếp cận vào tường thành để binh sĩ thực hiện cuộc tấn công trực tiếp ngay trên mặt thành. Ngoài ra, nhiều khí cụ công thành mới cũng được chế tạo bổ sung như vân thê, đỗng tử (洞子, xe có mái che gỗ để che đỡ cho quân công thành), tam sao đại pháo (三梢大砲, thực chất là các máy bắn đá)... Ngày 4 tháng Tám (âl), quân Lý Hoành cho tập trung khí cụ công thành ở ngoài góc Tây Nam thành, chuẩn bị tấn công. Sáng ngày 5, Lý Hoành cho quân công thành, dùng 7 cỗ máy bắn đá bắn phá mặt thành, hỗ trợ cho quân vào lấp hào thành, dùng các vân thê, thiên kiều và đỗng tử ồ ạt tấn công. Quân giữ thành sử dụng các tấm mộc che lớn để hạn chế sức bắn phá của máy bắn đá, đồng thời dùng một hỏa khí mới gọi là "trúc chế hỏa thương" (竹制火槍), còn gọi là "trường trúc can hỏa thương" (長竹竿火槍), đốt cháy các khí cụ công thành của quân nổi dậy. Tuy nhiên, trong thành cũng thiệt hại nặng nề.
wiki
Trận công hãm Đức An
Quân công thành liên tục đi vào thế bế tắc trước sự kiên cường của quân giữ thành. Thành Đức An bị vây hãm hơn 70 ngày, trong thành nội lương thảo cạn kiệt, bản thân Trần Quy cũng bị thương ở chân. Để gia tăng sĩ khí, Trần Quy đã cho xuất gia tư để chi quân lương, binh sĩ phấn chấn liều chết cùng ông thủ thành. Ngoài thành, tình hình quân nổi dậy cũng không khá hơn. Lương thảo cạn kiệt, buộc Lý Hoành phải chia bớt một bộ phận quân mã để lùng sục tìm kiếm thức ăn, làm giảm đi sức công thành.
wiki
Trận công hãm Đức An
Ngày 15 tháng Tám (âl), triều đình chiêu an Lý Hoành, gửi công văn đến các ty trấn phủ sứ của Tương Dương phủ và các châu Đặng, Tùy, Dĩnh châu thông báo sung Lý Hoành làm Tương, Đặng, Tùy, Dĩnh châu Trấn phủ sứ. Lý Hoành nhân cơ hội tìm cách rút lui trong danh dự, sai người vào thành, thông báo với Trần Quy sẽ rút quân nếu Trần Quy gửi cống nạp một kỹ nữ trong thành. Nhận ra rằng quân vây thành cũng đang ở trong một tình huống khốn đốn khi đề xuất một đề nghị kỳ quặc như vậy, Trần Quy đã từ chối đề nghị này, bất chấp sự thúc ép của các thuộc hạ. Lý Hoành đành tiếp tục ra lệnh công thành. Ngày 18, quân vây thành cho lấp các hào thành. Đến ngày 19, Lý Hoành tung quân đánh cả 4 mặt thành, trong đó tập trung hơn hơn 30 bộ thiên kiều cùng 60 bộ vân thê công thành ở hướng Tây Nam. Tuy nhiên, Trần Quy đã sử dụng trận hỏa ngưu (火牛, thực ra là các bó tre và cỏ khô, đốt cháy và ném lăn vào quân địch), tấn công vào trận của quân công thành, gây hỗn loạn. Đồng thời, ông cũng sử dụng một đội cảm tử gồm 60 binh sĩ sử dụng hỏa thương lẻn ra khỏi cửa Tây thành, đốt phá các tháp công thành. Quân vây thành tổn thất nặng nề nên Lý Hoành đành ra lệnh rút quân ngay trong đêm. Thành Đức An được giải vây. Ý nghĩa.
wiki
Trận công hãm Đức An
Ý nghĩa. Trận Đức An được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự công nhận đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng, ghi nhận sự xuất hiện loại hỏa khí cá nhân hỏa thương, tổ tiên của các loại súng cá nhân thời hiện đại. Tài liệu "Thủ thành lục" do chính tướng thủ thành Đức An là Trần Quy ghi chép và được Thang Châu bổ túc, đã ghi lại rất chi tiết trận chiến cũng như mô tả các khí cụ chiến tranh. Chính với tài liệu này, sử liệu đã ghi nhận sự xuất hiện lần đầu tiên của hỏa thương cũng như chiến thuật sơ khai của loại vũ khí này trong lịch sử chiến tranh. Sách "Thủ thành lục" chép sự xuất hiện cũng như chiến thuật sử dụng của hỏa thương như sau: Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận bước ngoặt trong lịch sử vũ khí thuốc súng khi "hỏa dược" (火藥, từ dùng trong tiếng Trung chỉ chung các loại hóa chất cháy, trong đó bao gồm thuốc súng) của các loại hỏa thương được mô tả bằng một từ mới: "hỏa pháo dược" (火炮藥, từ chuyên dùng để chỉ thuốc súng). Điều này có thể ngụ ý việc sử dụng một loạt hỏa dược mới mạnh mẽ hơn, hoặc đơn giản là một sự thừa nhận về ứng dụng quân sự chuyên biệt của thuốc súng. Peter Lorge cho rằng "bột nổ" này có thể nén lại, khiến nó khác biệt với hỏa dược thông thường. Bằng chứng về hỏa pháo dược cũng chỉ ra sự xuất hiện của chúng vào khoảng thời gian "hỏa dược" đang trong quá trình chuyển đổi, được ghi trong các sách cổ.
wiki
Trận công hãm Đức An
Vũ khí hỏa thương tiếp tục được sử dụng trong quân sự Trung Quốc vào thế kỷ thứ 12. Thậm chí chúng còn được ghi nhận sự phát triển của chúng vào năm 1163, khi tướng trấn thủ Hải Châu của nhà Tống là Ngụy Thắng (魏胜) đã chế tạo ra loại "hỏa thạch pháo" (火石砲, loại hỏa thương ngắn và lớn hơn, chế tạo bằng đồng), có khả năng bắn ra những viên đạn bằng đá. Chúng được lắp trên các chiến xa được gọi là "Như ý mã xa" (如意戰車), trong đó có hỏa pháo nhô ra khỏi lớp bảo vệ ở hai bên, dùng bảo vệ các cỗ máy bắn đá di động chuyên ném đá lửa. Với sự bành trướng của nhà Nguyên, chiến thuật sử dụng "hỏa súng" (火銃, thuật ngữ để chỉ hỏa pháo thời nhà Nguyên) lan rộng đến châu Âu, được cải tiến thành súng hỏa mai vào thế kỷ 15, từ đó hình thành các loại súng trường cá nhân hiện đại ngày nay.
wiki
URL
Uniform Resource Locator (viết tắt URL, nghĩa tiếng Việt: Hệ thống định vị tài nguyên thống nhất; được gọi một cách thông thường là một địa chỉ web ) là một tham chiếu đến tài nguyên web chỉ định vị trí của nó trên một mạng máy tính và cơ chế để truy xuất nó. URL là một loại Mã nhận dạng tài nguyên thống nhất (Uniform Resource Identifier). codice_1 là một URL, trong khi codice_2 thì không phải. Giao thức cho URL phổ biến nhất cho các trang web tham chiếu là HTTP, nhưng các giao thức khác cũng được sử dụng như FTP để truyền file, Mailto cho email, JDBC để truy cập cơ sở dữ liệu và các giao thức khác. Hầu hết các trình duyệt web hiển thị URL của một trang web phía trên trang trong một thanh địa chỉ. Một URL thông thường có thể có dạng codice_3, cho biết một giao thức (HTTP), tên máy chủ (codice_2) và tên file (codice_5). Lịch sử. Bộ định vị tài nguyên thống nhất (URL) được định nghĩa trong RFC 1738 vào năm 1994 bởi Tim Berners-Lee, nhà phát minh của World Wide Web và nhóm làm việc URI của Lực lượng đặc nhiệm kỹ thuật Internet (IETF), là kết quả của phiên hợp tác bắt đầu tại IETF Living Documents Bird of a Feather vào năm 1992. Định dạng này kết hợp hệ thống tên miền tồn tại từ trước (được tạo năm 1985) với cú pháp đường dẫn tệp, trong đó dấu gạch chéo được sử dụng để phân tách tên thư mục và tên tệp. Các quy ước đã tồn tại trong đó tên máy chủ có thể được thêm tiền tố để hoàn thành các đường dẫn tệp, trước dấu gạch chéo kép (codice_6).
wiki
URL
Berners-Lee sau đó đã bày tỏ sự hối tiếc về việc sử dụng dấu chấm để phân tách các phần của tên miền trong URI, nói rằng đáng lẽ ông đã sử dụng dấu gạch chéo trong toàn bộ địa chỉ thay cho dấu chấm, và cũng nói rằng, đưa dấu hai chấm theo thành phần đầu tiên của URI, hai dấu gạch chéo trước tên miền là không cần thiết. Bản nháp đầu tiên (1993) của HTML Specification được đề cập đến Bộ định vị tài nguyên "phổ quát". Điều này đã bị loại bỏ một thời gian giữa tháng 6 năm 1994 (RFC 1630) và tháng 10 năm 1994 (dự thảo-ietf-uri-url-08.txt). Cấu trúc. Mỗi HTTP URL đều tuân theo tiêu chuẩn cú pháp của một URI. Một URL gồm có nhiều phần được liệt kê dưới đây: Cụ thể hơn: Hiện nay trên thế giới mỗi ngày có rất nhiều tên miền ("domain") (thí dụ org) mới xuất hiện. Để có thể tìm đến một đường dẫn Internet để chỉ mục nội dung cần thiết phục vụ cho người sử dụng Internet, chúng ta có thể sử dụng các công cụ trên mạng Internet. Hiện nay các công cụ tìm kiếm trên mạng Internet ngày càng phổ biến và được sử dụng rộng rãi. Hoặc chúng ta có thể sử dụng việc tìm kiếm đến URL thích hợp thông qua danh bạ các website hay là các công cụ tìm kiếm. URL quốc tế hóa.
wiki
URL
URL quốc tế hóa. Người dùng Internet được phân phối trên toàn thế giới bằng nhiều ngôn ngữ và bảng chữ cái khác nhau và hy vọng có thể tạo URL trong bảng chữ cái địa phương của riêng họ. Mã định danh tài nguyên quốc tế hóa (IRI) là một dạng URL bao gồm các ký tự Unicode. Tất cả các trình duyệt hiện đại đều hỗ trợ IRI. Các phần của URL yêu cầu xử lý đặc biệt cho các bảng chữ cái khác nhau là tên miền và đường dẫn. Tên miền trong IRI được gọi là Tên miền Quốc tế hóa (IDN). Phần mềm web và Internet tự động chuyển đổi tên miền thành dạng chữ thập có thể sử dụng được bởi Hệ thống tên miền; ví dụ: URL tiếng Trung codice_7 trở thành codice_8. codice_9 chỉ ra rằng ký tự ban đầu của URL không phải là ký tự ASCII. Mối quan hệ giữa URL và URN, URI. Về kỹ thuật, URL là một dạng của URI, nhưng trong nhiều tài liệu kỹ thuật và các cuộc thảo luận bằng lời nói, URL thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa với URI, và điều này không bị coi là một vấn đề. URI có thể được phân loại như là nhận dạng (URL), như tên gọi (URN), hoặc là cả hai. Một Định danh tài nguyên thống nhất (Uniform Resource Name - URN) có chức năng giống như tên của một người, trong khi một Định vị tài nguyên thống nhất (Uniform Resource Locator - URL) tương tự như địa chỉ đường phố của người đó. Nói cách khác: URI xác định việc nhận dạng cho đối tượng, trong khi URN đặt tên và URL cung cấp phương pháp tìm đối tượng đó.
wiki
URL
Hệ thống mã số ISBN sử dụng để nhận dạng sách cung cấp 1 ví dụ rất cụ thể về URN. Chỉ số ISBN 0486275574 (run:isbn:0-486-27557-4) cho biết đây là một ấn bản truyện kịch Romeo và Juliet của Shakespeare. Để tìm cuốn sách này, phải cần địa chỉ cuốn sách đó chính là địa chỉ URL. Đường dẫn địa chỉ URL của cuốn sách trên hệ thống Unix sẽ có địa chỉ như là: file:///home/username/RomeoAndJuliet.pdf, đây là đường dẫn tập tin được lưu trên ổ cứng máy tính. Vì vậy URN và URL luôn có mục đích hỗ trợ & bổ sung cho nhau.
wiki
Candidatus Arthromitus
"Candidatus" Arthromitus là một nhóm vi khuẩn có hình thái khác biệt được tìm thấy hầu như chỉ có ở động vật chân đốt sống trên cạn. Chúng lần đầu tiên được phát hiện trong ruột côn trùng bởi Joseph Leidy. Mặc dù có sự tương đồng về hình thái với "Candidatus" Savagella, chúng tạo thành một dòng riêng biệt trong họ Lachnospiraceae. Lịch sử. Các tài liệu tham khảo về Arthromitus có từ năm 1849, khi chúng lần đầu tiên được quan sát bởi bác sĩ và nhà tự nhiên học nổi tiếng Joseph Leidy, người đặt tên cho các sinh vật Arthromitus (từ tiếng Hy Lạp "Arthro-", khớp + "mitos", sợi chỉ). Hình thái sợi của Arthromitus ban đầu được cho là rất độc đáo đến nỗi các sợi tương tự được quan sát thấy trong ruột động vật có xương được đặt nhầm vào phân loài Candidatus Arthromitus. Tuy nhiên, sự phát sinh gen dựa trên rRNA 16S đã tiết lộ các sợi Arthromitus, lần đầu tiên được quan sát bởi Leidy trong ruột động vật chân đốc, thuộc về một nhóm trong Lachnospiraceae, khiến chúng khá xa các sinh vật dạng sợi được quan sát trước đó từ ruột động vật. Do đó, những vi khuẩn đồng hình từ động vật có xương sống đã được chuyển đến một phân loài mới được chỉ định là Candidatus Savagella. Một bộ thí nghiệm được thiết kế kém nhằm mục đích cách ly Arthromitus khỏi ruột mối dẫn đến kết luận rằng Arthromitus trên thực tế là giai đoạn tăng trưởng của "Bacillus cereus". Phát hiện sai lầm này sau đó đã bị từ chối khi danh tính thực sự của Arthromitus được xác nhận. Phân phối.
wiki
Candidatus Arthromitus
Phân phối. Các thành viên thuộc loài Candidatus Arthromitus, đã được quan sát thấy ở nhiều loài động vật chân đốt sống trên cạn bao gồm cả rết, ấu trùng bọ cánh cứng, gián và mối, vì các dạng vi khuẩn dạng sợi thường liên quan đến thành ruột. Hình thái. Như tên cho thấy, arthromiti có thể được nhận dạng rõ ràng, đôi khi nhiều dạng sợi phân đoạn trong vật chủ côn trùng, tuy nhiên không thể loại trừ sự tồn tại của các dạng / giai đoạn không có sợi. Chúng thường được tìm thấy;à có liên quan đến các ký sinh trùng epibiont khác nhưng bản chất của tổ chức này vẫn chưa được biết. Phân loại. Các trình tự gen rRNA 16S của các arthromitus dạng sợi được chọn cho thấy chúng tạo thành một nhóm các chuỗi có nguồn gốc động vật chân đốt đa dạng nhưng có liên quan chặt chẽ trong Lachnospiraceae. Các cụm nằm gần "Clostridium piliforme". Mặc dù các thành viên của Candidatus Arthromitus có chung đặc điểm hình thái với các thành viên của Candidatus Savagella, nhưng chúng khá xa về mặt phát sinh và hình thái sợi của chúng có thể chỉ là một ví dụ về sự tiến hóa hội tụ.
wiki
Gia đình McMahon
Gia đình McMahon là một gia đình người Hoa Kỳ gốc Ireland, chủ yếu được biết đến vì sự tham gia của họ vào môn đấu vật chuyên nghiệp. Họ là những người đồng sáng lập, những chủ sở hữu và những nhà quảng bá của công ty đấu vật lớn nhất thế giới, WWE. Vince McMahon — thế hệ quảng bá đấu vật thứ ba — là giám đốc và CEO của công ty. McMahon tham gia công ty đấu vật tầm khu vực của cha ông năm 1969, và mua lại công ty này 13 năm sau. Ông đã phát triển World Wrestling Federation lúc bấy giờ từ một công ty tầm khu vực thành một công ty mang tầm thế giới. WWF, giờ gọi là WWE ra mắt công chúng năm 1999 và ngày nay các chương trình của công ty được phát sóng tại 150 quốc gia và vùng lãnh thổ và hơn 30 ngôn ngữ khác nhau. Công ty cũng phân nhánh sang sản xuất phim và — tách riêng với WWE — bóng bầu dục Mỹ, với hai giải đấu XFL. Lịch sử.
wiki
Gia đình McMahon
Lịch sử. Khởi nguồn từ Jess McMahon, một hậu duệ của người Thomond McMahon ở vùng Tây Ireland, bắt đầu tổ chức các buổi diễn đấu vật từ 1915. Ông mất năm 1954. Jess và con trai ông, Vince McMahon, Sr., sáng lập công ty Capitol Wrestling Corporation năm 1953, và công ty được đổi tên hai lần trong khoảng thời gian ông lãnh đạo (là World Wide Wrestling Federation và sau đó là World Wrestling Federation). Vince Sr. có hai người vợ, Victoria Askew và Juanita Johnston. Khi nghỉ hưu năm 1982, Vince McMahon, con trai người vợ đầu của ông, đã mua lại công ty và giờ là giám đốc kiêm giám đốc điều hành công ty, giờ được gọi là Công ty World Wrestling Entertaiment (WWE) kể từ 2002 và Alpha Entertainment, LLC kể từ 2017.
wiki
Gia đình McMahon
Vince kết hôn với Linda và có hai con, con trai Shane và con gái Stephanie. Shane cưới Marissa Mazzola, và Stephanie cưới Paul Levesque, còn được biết đến với tên võ đài Triple H. Stephanie và Paul có ba cô con gái, Aurora Rose, Murphy Claire và Vaughn Evelyn. Shane và Marissa có ba cậu con trai Declan James, Kenyon Jesse và Rogan Henry. Linda từ chức giám đốc điều hành để tranh cử vào Thượng viện Hoa Kỳ ở Connecticut. Shane cũng rời WWE vào đầu năm 2010, trở thành Giám đốc và Giám đốc điều hành của Công ty You on Demand, có trụ sở tại Thành phố New York với hoạt động kinh doanh chính tại Trung Quốc, nhưng đã trở lại WWE 2016 chủ yếu xuất hiện trên truyền thông. Vince, Stephanie và Shane là ba thành viên duy nhất của nhà McMahon làm việc cho công ty vào năm 2021, mặc dù tất cả thành viên đều nắm giữ 90% cổ phần công ty thông qua cổ phiếu loại B của WWE, mà gia đình kiểm soát hoàn toàn. Đến tháng 6 năm 2016, WWE thu về doanh thu dưới 1.38 tỷ USD. Vào tháng 12 năm 2016, Linda được Tổng thống Donald Trump đề cử làm Quản trị viên Cục quản lý Doanh nghiệp nhỏ chính phủ Hoa Kỳ, phục vụ từ 2017 đến 2019.
wiki
Minh Nhí
Minh Nhí tên thật là Trương Hùng Minh (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1964 tại thị xã Sa Đéc, tỉnh Sa Đéc - nay là thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp) là một diễn viên hài - kịch nói, diễn viên điện ảnh - truyền hình và giám khảo truyền hình nổi tiếng người Việt Nam. Anh từng 2 lần được trao giải Mai Vàng dành cho "Diễn viên kịch nói xuất sắc nhất" do báo Người Lao động tổ chức vào những năm 1998-1999. Nghệ danh Minh Nhí được ghép từ tên và chữ "Nhí" do đồng nghiệp đặt để chỉ ngoại hình và cũng là những vai diễn nhí nhảnh của anh trên sân khấu. Hiện nay, bên cạnh công việc biểu diễn, Minh Nhí còn đảm đương nhiều lĩnh vực và vị trí khác nhau như: diễn viên điện ảnh, đạo diễn sân khấu, giáo viên dạy diễn xuất, và giám đốc của công ty Hoàng Kim, một đơn vị chuyên tổ chức và dàn dựng các buổi biểu diễn nghệ thuật Tiểu sử và sự nghiệp. Minh Nhí sinh ngày 20 tháng 1 năm 1964 tại thị xã Sa Đéc, tỉnh Sa Đéc (nay là thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp), trong một gia đình có 8 người con (anh là áp út). Khi còn là học sinh, Minh Nhí học khá giỏi. Những năm cấp 2 học tại Trường Thị xã Sa Đéc, Minh Nhí đã từng được chọn đi thi học sinh giỏi văn cấp tỉnh và đoạt giải nhất khối lớp 9.
wiki
Minh Nhí
Năm 18 tuổi, anh tốt nghiệp tú tài, mặc dù có năng khiếu với môn văn và từng có ước mơ thi vào Khoa văn thuộc Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh nhưng vì trong gia đình có người làm nghề thuốc nên Minh Nhí phải theo lời cha mẹ thi vào trường đại học Y, kết quả là anh không đậu khi chỉ thiếu có nửa điểm. Đang có ý định tiếp tục ôn luyện để năm sau thi lại trường Y thì Minh Nhí đã đăng ký dự thi và trúng tuyển vào lớp đào tạo đạo diễn của Trường Nghệ thuật Sân khấu 2. Theo như Minh Nhí, ban đầu anh có ý định thi vào Khoa diễn viên nhưng lại không đủ tiêu chuẩn về ngoại hình nên đành đăng ký thi vào Khoa đạo diễn của trường. Cùng khóa học với anh có những nghệ sĩ thành danh sau này như: Lý Hải, Cát Phượng, Hữu Bình, Hoàng Sơn... Trong suốt thời gian học tập tại đây, để có tiền đóng học phí và sinh hoạt, anh đã cùng các bạn học của mình là Kim Loan, Minh Phượng, Trần Cảnh Đôn lập thành một nhóm hài mang tên "Con Nhím". Đến năm thứ 3, nhờ khả năng diễn hài cộng với ngoại hình khá đặc biệt của mình, Minh Nhí liên tiếp nhận được những lời mời đóng phim và đóng kịch, hầu hết trong số đó đều là những vai hài. Trong thời gian đầu đi biểu diễn, anh thường dùng tên đầy đủ của mình là Trương Hùng Minh nhưng sau đó đổi thành Minh Nhí, đây cũng là nghệ danh được giữ cho tới ngày nay.
wiki
Minh Nhí
Năm 1988, Minh Nhí tốt nghiệp với tấm bằng loại giỏi. Đến năm 1990, anh được các giảng viên Nguyễn Văn Phúc và Công Ninh đề cử vào vị trí phụ giảng. Một thời gian sau, anh chính thức được bổ nhiệm làm giảng viên bộ môn Biểu diễn sân khấu và nằm trong biên chế chính thức của Cao đẳng SK-ĐA Thành phố Hồ Chí Minh. Nhiều diễn viên thành danh hiện nay từng là học trò của anh như: Tiết Cương, Thúy Nga, Việt Hương, Hạnh Thúy, Cao Minh Đạt, Ngọc Trinh, Lê Quốc Nam, Quốc Thuận. Trong thời gian này, bên cạnh công việc giảng dạy, Minh Nhí cũng thường xuyên tham gia đóng phim và biểu diễn ở nhiều sân khấu kịch trong thành phố. Điển hình là Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ 5B Võ Văn Tần (Sân khấu nhỏ 5B), tên tuổi của anh cũng nhanh chóng được nhiều khán giả biết đến. Thập niên 1990, hài kịch được khán giả ưa chuộng và bắt đầu nở rộ. Năm 1994, Minh Nhí cùng nghệ sĩ Hữu Châu thành lập một nhóm hài lấy tên "Ban Song Tấu Hài", nhóm chuyên biểu diễn tại các sân khấu và tụ điểm của thành phố cũng như nhiều địa phương khác.
wiki
Minh Nhí
Năm 1998, với vai ông Tư Rơm trong vở "Cha vợ mê bóng đá" (diễn tại Nhà hát Hòa Bình), Minh Nhí đã đoạt giải Mai Vàng trong lĩnh vực hoạt động biểu diễn, đây là một giải thưởng thường niên trong lĩnh vực sân khấu và nghệ thuật do báo Người Lao động tổ chức. Đây cũng là lần đầu tiên Minh Nhí được trao giải thưởng này. Đến năm 1999, anh lại được trao giải Mai Vàng trong hạng mục Kịch nói với vai "Chổm" trong vở "Vua trả nợ" (tác giả: Mỹ Dung - đạo diễn: Đoàn Bá - Sân khấu kịch Sài Gòn) và đóng những phim ngắn của sêri phim Cổ tích Việt Nam do Hãng phim Phương Nam thực hiện.
wiki
Minh Nhí
Năm 2001, Minh Nhí cùng nghệ sĩ Quốc Thảo cộng tác với Nhà thiếu nhi Quận 1 và Quận đoàn Quận 1 thành lập một sân khấu kịch lấy tên là Sân khấu Trần Cao Vân. Theo đó, định hướng hoạt động của sân khấu này sẽ là một nơi ưu tiên cho các diễn viên trẻ thể hiện mình, và là nơi giao lưu giữa diễn viên và khán giả. Sau khi ký bản hợp đồng đầu tiên, sân khấu hoạt động được hơn 20 ngày (từ 2 tháng 9 đến 27 tháng 9 năm 2001) thì Ủy ban Nhân dân Quận 1 đã có văn bản yêu cầu ngừng mọi hoạt động của sân khấu với lý do: Nhà thiếu nhi không có chức năng và quyền hạn ký hợp đồng kinh tế. Sau nhiều lần thương thuyết, Sân khấu Trần Cao Vân đã được giữ lại với một bản hợp đồng mới. Tuy nhiên, Minh Nhí và Quốc Thảo đã không đồng ý với nhiều điều khoản của bản hợp đồng này và tuyên bố rút khỏi dự án. Sau đó, Quận đoàn Quận 1 đã quyết định thanh lý hợp đồng mà không đền bù. Thiệt hại của 2 nghệ sĩ được công bố là hơn 500 triệu đồng, riêng đối với Minh Nhí, để có tiền xây sân khấu, anh đã phải thế chấp căn nhà của mẹ và bán căn nhà của mình để trả nợ khi dự án bị vỡ. Một thời gian sau, nghệ sĩ Huỳnh Anh Tuấn đã đề nghị Minh Nhí hợp tác làm lại Sân khấu Trần Cao Vân nhưng anh đã từ chối và sang lại toàn bộ cho Huỳnh Anh Tuấn. Sân khấu này sau đổi tên thành Sân khấu kịch Idecaf và hoạt động cho đến ngày nay.
wiki
Minh Nhí
Cuối năm 2002, Minh Nhí tham gia vở cải lương ""Hương đồng gió nội" do nghệ sĩ Quốc Thảo làm đạo diễn, đây được coi như lần đầu tiên anh chính thức tham gia diễn xuất trong một vở cải lương. Vở diễn còn có sự góp mặt của Ngọc Trinh, Việt Hương, Nghệ sĩ Nhân dân Diệp Lang, Hương Lan. Trước đó, Minh Nhí đã từng tập luyện để diễn trong vở cải lương "Xóm nghèo" của Nghệ sĩ Nhân dân Hoa Hạ nhưng sau đó đã trả lại vai vì cảm thấy không đáp ứng được yêu cầu của nhân vật. Tháng 8 năm 2003, tiếp nối thành công của bộ phim điện ảnh "Gái nhảy", đạo diễn Lê Hoàng đã quyết định thực hiện phần 2 của bộ phim mang tên "Lọ Lem hè phố"", nghệ sĩ Minh Nhí được mời vào vai "má mì", một vai diễn khá nhạy cảm và có tính cách độc đáo. Vai diễn này ở phần 1 do diễn viên Anh Vũ thủ vai nhưng sang đến phần 2, nghệ sĩ này và đạo diễn Lê Hoàng đã không thống nhất được về vấn đề tiền thù lao nên Minh Nhí đã được mời thế chỗ Anh Vũ, mặc dù trước đó anh được giao vai ông bầu ca nhạc. Đây cũng là bộ phim điện ảnh đầu tiên mà Minh Nhí được tham gia diễn xuất. Sau khi công chiếu, vai diễn "má mì" của Minh Nhí trong phim bị đánh giá là mờ nhạt hơn so với Anh Vũ ở phần 1. Vụ việc lưu trú tại Mỹ quá thời hạn cho phép.
wiki
Minh Nhí
Vụ việc lưu trú tại Mỹ quá thời hạn cho phép. Ngày 18 tháng 2 năm 2004, khi đang là giảng viên - chủ nhiệm lớp Trung cấp diễn viên K25M, Minh Nhí đã làm đơn xin Khoa diễn viên và Ban giám hiệu trường Cao đẳng Sân khấu - Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh cho nghỉ phép một tháng (từ 25 tháng 2 đến 25 tháng 3 năm 2004) để sang Hoa Kỳ tham gia một chương trình giao lưu văn hóa theo lời mời của Viet Art Production. Ngày 22 tháng 2, anh đã lên máy bay sang Hoa Kỳ khi còn đang trong thời gian làm thủ tục báo cáo và xin phép các cơ quan chức năng trong nước. Theo một số tờ báo của Việt Nam, sau khi sang Hoa Kỳ, Minh Nhí đã cư trú ở nhiều nơi và cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Trong 5 tháng đầu, anh diễn phần lớn tại sòng bạc, bar, các bữa tiệc gia đình và một show diễn cùng Quốc Thảo ở San Jose vào ngày 19 tháng 5 năm 2004. Tuy nhiên, trong suốt thời gian ở đây, Minh Nhí đã không liên lạc với Ban giám hiệu trường Cao đẳng SK-ĐA Thành phố Hồ Chí Minh kể cả khi đã quá thời gian 1 tháng nghỉ phép để đi lưu diễn. Ngày 12 tháng 5 năm 2004, Ban giám hiệu trường Cao đẳng SK-ĐA Thành phố Hồ Chí Minh ra thông báo đến các phòng, khoa liên quan của trường để bổ nhiệm người thay thế và tạm dừng các chế độ hiện hưởng của Minh Nhí. Sau khi có văn bản báo cáo Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Văn hóa - Thông tin. Ngày 30 tháng 7 năm 2004, nhà trường đã ra quyết định (số 39) xét kỷ luật và buộc thôi việc đối với Minh Nhí.
wiki
Minh Nhí
Ngày 8 tháng 3 năm 2005, Minh Nhí cùng người vợ mới cưới trở về Việt Nam sau hơn một năm lưu trú tại Hoa Kỳ. Đến ngày 10 tháng 5, anh đã đến trình diện tại Phòng Quản lý nghệ thuật - Sở Văn hóa Thông tin Thành phố Hồ Chí Minh để xin được phép biểu diễn lại và gửi một bản tường trình về những hoạt động của mình trong suốt thời gian còn ở Hoa Kỳ. Mặc dù trước đó, ngay sau khi trở về, Minh Nhí đã phát biểu trên một số tờ báo rằng ngày 11 tháng 3 sẽ tham gia trong một số chương trình văn nghệ và lễ trao giải trong nước. Theo bản tường trình này thì sau khi ra nước ngoài, chương trình biểu diễn bị đình lại, Minh Nhí đã tạm thời đi biểu diễn tại một số tiểu bang của Mỹ đồng thời tham gia quay một số băng video cùng một số trung tâm ca nhạc của người Việt ở nước này. Tại đây, anh đã gặp gỡ và kết hôn với một nhân viên ngân hàng tại California - Mỹ, người phụ nữ này cũng là một khán giả hâm mộ anh. Lý giải về việc không kịp trở về trả phép đúng ngày, Minh Nhí cho biết phải ở lại Hoa Kỳ quá thời gian như vậy là để hoàn tất thủ tục kết hôn theo đúng luật pháp của nước sở tại. Trong bản tường trình gửi, anh cũng đã thừa nhận khuyết điểm và xin được tha thứ. Sau khi xem xét bản tường trình, Cục Nghệ thuật biểu diễn đã có quyết định kỷ luật đối với Minh Nhí, theo đó Cục sẽ tạm thời thu hồi giấy phép biểu diễn của anh. Trong thời gian chịu kỷ luật, Minh Nhí cũng đã từ chối lời mời sang diễn tại Australia. Một số sân khấu lớn của Thành phố như Sân khấu kịch Idecaf, Sân khấu 5B - Võ Văn
wiki
Minh Nhí
giấy phép biểu diễn của anh. Trong thời gian chịu kỷ luật, Minh Nhí cũng đã từ chối lời mời sang diễn tại Australia. Một số sân khấu lớn của Thành phố như Sân khấu kịch Idecaf, Sân khấu 5B - Võ Văn Tần, Sân khấu kịch Sài Gòn cũng đã xin ý kiến cơ quan chức năng liên quan về việc cho Minh Nhí được biểu diễn trở lại.
wiki
Minh Nhí
Tiếp tục biểu diễn. Ngày 16 tháng 9 năm 2005, sau 6 tháng chịu kỷ luật, Minh Nhí đã được Cục nghệ thuật biểu diễn cho phép tiếp tục biểu diễn trở lại. Ngay sau đó, anh đã tham gia biểu diễn trong một số vở kịch quen thuộc trước đây của mình như: ""Trùm lừa", "Bệnh sĩ", "Phép lạ", "Người tốt nhà số 5", "Tình gần", "Ả ca-ve nhà hàng Maxim"... Bên cạnh đó, Minh Nhí cũng có dự định thực hiện 2 liveshow với ý nghĩa ra mắt lại khán giả. Liveshow đầu tiên được tổ chức vào tháng 10 năm 2005 do nghệ sĩ Phước Sang thực hiện. Chương trình thứ 2 với chủ đề ngày Nhà giáo Việt Nam thực hiện vào tháng 11 cùng năm, đồng thời phối hợp cùng Sân khấu Idecaf do Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Thị Minh Ngọc và Thanh Phương viết kịch bản, Minh Nhí làm đạo diễn, Nghệ sĩ ưu tú Thành Lộc cố vấn nghệ thuật. Nhân dịp này, Minh Nhí cũng cho ra mắt một CD ca nhạc với các bài hát như: "Ngẫu hứng sông Hồng", "Chuyện hợp tan"... Album do Trung tâm Lạc Hồng sản xuất, nhạc sĩ Minh Khang hòa âm, phối khí.
wiki
Minh Nhí
Tháng 7 năm 2007, sau một thời gian tập trung vào diễn xuất, Minh Nhí đã quay trở lại với vai trò là một đạo diễn sân khấu, vở kịch mà anh dàn dựng có tên "Giết chó dạy chồng"", một kịch bản dân gian khá quen thuộc. Tham gia vở hài kịch này có các nghệ sĩ: Việt Hương, Minh Béo, Bo Bo Hoàng, Vân Anh, Lê Giang... Cùng năm 2007, để kỷ niệm 20 năm đứng trên sân khấu. Minh Nhí dự kiến sẽ thực hiện hai album DVD hài kịch và chương trình liveshow có tên "Minh Nhí lý lắc" tại Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sau đó anh đã ngừng kế hoạch thực hiện liveshow với những lý do khác nhau. Năm 2006, Minh Nhí trở lại với phim truyền hình khi tham gia diễn xuất trong bộ phim hài dài 50 tập ""Cái bóng bên chồng" của đạo diễn Xuân Phước. Phim còn có sự góp mặt của một loạt diễn viên và nghệ sĩ hài nổi tiếng như: Hữu Châu, Công Ninh, Thanh Điền, Hạnh Thúy, Hương Giang, Như Phúc, Minh Hằng, Cao Minh Đạt. Ngày 19 tháng 9 năm 2008, bộ phim truyền hình 30 tập "Ra giêng ai cưới em?" được chính thức khởi quay, phim do Hãng phim Lasta sản xuất, Xuân Phước làm đạo diễn. Nghệ sĩ Minh Nhí được mời tham gia diễn xuất trong một vai phụ của phim. "Ra giêng ai cưới em?"" được thực hiện để công chiếu mùa phim Tết Nguyên Đán 2009.
wiki
Minh Nhí
Ngày 7 tháng 5 năm 2008, tại Sân khấu ca nhạc Trống Đồng, Minh Nhí đã làm lễ ra mắt công ty "Hoàng Kim", đây là một đơn vị chuyên tổ chức và dàn dựng các buổi biểu diễn nghệ thuật do anh sáng lập và giữ vai trò giám đốc. Trước đó, Minh Nhí đã được giám đốc Sân khấu Kịch Phú Nhuận - nghệ sĩ Hồng Vân giao cho chức vụ giám đốc phụ trách về nhân sự và nghệ thuật cho sân khấu. Cuối năm 2008, Minh Nhí tham gia vào vai trò là "bầu show" của loạt chương trình biểu diễn nghệ thuật tại các tỉnh thành trong nước, đây là các chương trình có kết hợp giữa hài kịch và cải lương. Ngoài ra, anh còn là giáo viên dạy diễn xuất cho lớp đào tạo diễn viên của Lasta và Công ty đào tạo Á Châu. Tháng 5 năm 2009, Minh Nhí tham gia vào vở ""Mẹ và người tình" (trước đây có tên là "Người yêu của cha tôi""), kịch bản của Lê Chí Trung và do Minh Nhí làm đạo diễn kiêm diễn viên. Đây được coi là vở bi kịch đầu tiên do anh dàn dựng. Tháng 6 năm 2009, Minh Nhí được mời diễn xuất trong bộ phim điện ảnh thứ 2 với vai diễn "Chú Lùn thông thái" trong ""Nhật ký Bạch Tuyết", phim do đạo diễn Nguyễn Quang Dũng cộng tác cùng Hãng phim Thiên Ngân thực hiện. Nội dung phim chịu sự ảnh hưởng của "Chuyện thần tiên ở New York"", một bộ phim rất thành công của Hollywood. Phim được dự tính công chiếu vào dịp Tết nguyên đán 2010.
wiki
Gavin Arthur
Gavin Arthur (tên khai sinh Chester Alan Arthur III; sinh ngày 21 tháng 3 năm 1901 - 28 tháng 4 năm 1972) là một nhà chiêm tinh và nhà tình dục học ở San Francisco và là cháu trai của Tổng thống thứ 21 của Hoa Kỳ Chester A. Arthur. Ông được mô tả là "một người bỏ học Ivy League, một nhà hoạt động của Quân đội Cộng hòa Ailen, một diễn viên phim thực nghiệm, một lãnh đạo xã, một nhà thám hiểm vàng, một giáo viên tại San Quentin, và một nhà chiêm tinh / nhà tình dục lưỡng tính. Một nhà hoạt động vì quyền đồng tính ban đầu và là nguyên mẫu thực tế cho những người hippies. " Cuộc sống và gia đình ban đầu. Arthur được sinh ra ở Colorado Springs, Colorado vào năm 1901 với Chester Alan Arthur II và vợ ông, Myra Townsend Fithian Andrews. Anh là đứa con duy nhất của họ. Cha của Arthur có một phần sở hữu của một công ty khai thác và trang trại đã cho gia đình một cuộc sống thoải mái. Arthur học Đại học Columbia, nhưng không tốt nghiệp. Sau khi rời trường, ông kết hôn với Charlotte Wilson năm 1922; họ đã ly dị mười năm sau đó. Nhà hoạt động và nhà văn.
wiki
Gavin Arthur
Nhà hoạt động và nhà văn. Sau khi rời trường đại học, Arthur làm việc trong Phong trào Cộng hòa Ailen, sống ở New York, Pháp và Ireland. Ông đã từng bị bỏ tù ở Boston liên quan đến phong trào. Khi còn ở Châu Âu, Arthur và Charlotte đã có những vai diễn trong bộ phim tiên phong năm 1930, "Borderline," cũng có sự tham gia của Paul Robeson và HD Vào đầu những năm 1930, anh chuyển đến Pismo Beach, California và lấy tên là "Gavin" mà sẽ được biết đến trong suốt quãng đời còn lại. Trong khi đó, Arthur thành lập một công xã nghệ thuật và văn học và xuất bản một tạp chí ngắn, "Diễn đàn Dune". Năm 1934, ông gia nhập Hiệp hội không tưởng của Mỹ. Năm sau, anh kết hôn với Esther Murphy Strachey. Thoát khỏi Đảng Cộng hòa của ông nội, Arthur làm thư ký của Đảng Dân chủ California vào năm 1940 trước khi từ chức năm sau, tin rằng đảng đã phản bội các nguyên tắc của ông. Khi Thế chiến II bùng nổ, Arthur nhập ngũ vào Hải quân Hoa Kỳ. Sau chiến tranh, Arthur chuyển đến New York và đảm nhận viết một lịch sử gia đình, điều này chưa bao giờ được hoàn thành. Trở về California vào năm 1949, Arthur dạy các lớp học tại Nhà tù bang San Quentin trong vài năm và cố gắng kiếm sống như một người tìm vàng. Năm 1952, ông đã hoàn thành bằng cử nhân tại San Francisco State College. Thường xuyên thiếu tiền, Arthur bán báo trên đường phố San Francisco vào những năm 1950 và 60. Đồng thời, anh bắt đầu nổi tiếng với tư cách là một nhà chiêm tinh. Arthur và người vợ thứ hai, Esther, đã ly dị vào năm 1961.
wiki
Gavin Arthur
"Vòng tròn tình dục". Năm 1962, Arthur xuất bản "Vòng tròn tình dục," một cuốn sách phân tích tình dục của con người thông qua lăng kính chiêm tinh. Thay vì thang đo tuyến tính được phát triển bởi Alfred Kinsey, Arthur đã hình dung tình dục là một bánh xe với mười hai định hướng. Mười hai loại tương ứng với cung hoàng đạo và Arthur minh họa mỗi loại với một nguyên mẫu lịch sử ("ví dụ:" Don Juan, Sappho, Lady C). Arthur, người lưỡng tính, được cho là đã thân mật với Edward Carpenter và Neal Cassady. Arthur cũng là một người bạn của nhiều thế hệ beat, bao gồm Allen Ginsberg và Alan Watts, và hoạt động trong phong trào giải phóng đồng tính ban đầu. Arthur kết hôn lần thứ ba vào năm 1965 với Ellen Jansen. Ông đã viết một phiên bản mở rộng của "The Circle of Sex" vào năm sau. Ông đã sử dụng chiêm tinh học để xác định ngày tổ chức Human Be-In vào năm 1967. Năm 1968, ông đã tranh luận với nhà chiêm tinh đồng nghiệp Dane Rudhyar về chủ đề Thời đại Bảo Bình. Năm 1972, Arthur qua đời tại Bệnh viện Cựu chiến binh Fort Miley ở San Francisco. Không có con, ông là hậu duệ còn sống của ông nội, Tổng thống Chester A. Arthur. Các giấy tờ của ông, bao gồm nhiều giấy tờ gia đình, đã được tặng cho Thư viện Quốc hội.
wiki
Hasdrubal Barca
Hasdrubal Barca (245 TCN-207 TCN) là con trai thứ hai của Hamilcar Barca và là một tướng lĩnh Carthage trong chiến tranh Punic lần thứ hai. Ông là em trai của vị tướng nổi tiếng Hannibal Barca. Tuổi trẻ và lãnh đạo người Iberia. Có ít thông tin về cuộc sống thời trai trẻ của Hasdrubal. Hasdrubal được biết đến sớm nhất là khi người Iberia phục kích quân đội Carthage ở Acre Luce. Ông, cùng với Hannibal, anh trai của ông chạy thoát, vì Hamicar đã đánh lạc hướng người Iberia theo hướng khác và chết đuối trên sông Jucar. Không có nhiều thông tin về các hoạt động của ông trong thời gian Hadrusbal Ngay Thẳng lãnh đạo quân đội Punic ở Iberia hoặc trong các chiến dịch của Hannibal ở Iberia và cuộc vây hãm Saguntum. Hannibal khi khởi hành tới Ý vào năm 218 TCN đã để lại cho ông một lực lượng bao gồm 13.000 bộ binh, 2.550 kỵ binh và 21 voi chiến ở bán đảo Iberia. Hải quân Punic có một hạm đội gồm 50 tàu Quinquereme và 5 tàu Trireme đóng ở đó. Tuy nhiên, chỉ có 32 tàu Quinquereme đã có đủ thủy thủ khi chiến tranh Punic lần thứ hai bắt đầu.
wiki
Hasdrubal Barca
Được để lại ở Hispania khi Hannibal khởi hành đến Ý năm 218 TCN, Hasdrubal được lệnh chiến đấu với anh em Gnaeus và Publius Cornelius Scipio. Đạo quân viễn chinh này nằm dưới sự chỉ huy của Gnaeus Scipio đã gây ra sự bất ngờ dành cho người Carthage, và trước khi Hasrdrubal có thể tham gia cùng với Hanno, viên chỉ huy Carthage ở phía Bắc sông Ebro, người La Mã đã giao chiến và giành được chiến thắng trong trận Cissa, họ còn thiết lập doanh trại của mình tại Tarraco và hạm đội của họ tại Emporiae. Hasdrubal, mặc dù chỉ có trong tay 8000 binh sĩ và bị áp đảo về số lượng so với người La Mã, đã bất ngờ đột kích người La mã với bộ binh nhẹ và kị binh, ông đã gây ra thiệt hại nặng nề đối với thủy thủ đoàn của họ và làm giảm sức mạnh chiến đấu xuống còn 35 tàu. Mất mát này đã được bù đắp sau đó nhờ sự xuất hiện của một đạo quân liên minh Hy Lạp đến từ thành phố Massilia. Mùa xuân năm 217 TCN, Hasdrubal dẫn đầu một đoàn viễn chinh về phía Bắc để chống lại người La mã. Ông đã chỉ huy quân đội, trong khi phó tướng của ông chỉ huy hạm đội. Quân đội Punic và hạm đội của họ tiến quân về phía bắc kề sát nhau và hạ trại ở cửa sông Ebro. Sự bất cẩn của hạm đội Carthage đã tạo điều kiện cho Gnaeus Scipio bất ngờ tấn công và hủy diệt hạm đội của họ tại trận sông Ebro. Hasdrubal đã rút lui mà không giao chiến với quân đội La Mã. Sau đó ông đã dành toàn bộ năm 216 TCN để đàn áp các cuộc nổi dậy của những bộ lạc Iberia.
wiki
Hasdrubal Barca
Hasdrubal đã được tăng cường thêm 4000 bộ binh và 500 kị binh và nhận được mệnh lệnh của viện nguyên lão Carthage là phải hành quân đến Ý ngay trong năm đó. Ông đã để Himilco ở lại phụ trách Cartagena và hành quân tới sông Ebro, nhưng đã bị đánh bại nặng nề trong trận Dertosa vào mùa xuân năm 215 TCN. Thất bại này đã ngăn cản quân tiếp viện cho Hannibal từ cả Iberia và châu Phi tại thời điểm quan trọng của cuộc chiến tranh, lúc này Carthage đang chiếm thế thượng phong ở Ý. Người Carthage lúc này buộc phải giao chiến với người La Mã ở khu vực giữa hai con sông Ebro và Jucor. Chia quyền chỉ huy.
wiki
Hasdrubal Barca
Chia quyền chỉ huy. Thất bại này dẫn đến việc Mago Barca và Hasdrubal Gisco đến Iberia với hai đội quân để kết thúc việc nắm giữ quyền chỉ huy của gia đình Barca tại Iberia. Người Carthage đã chiến đấu để chống lại anh em Scipio và đã phải trải qua một giai đoạn tồi tệ từ năm 215 TCn đến năm 212 TCN, nhưng họ đã cố gắng để không bị mất thêm bất cứ phần lãnh thổ nào. Với sự xúi giục của người La mã,Syphax, một trong những vị vua của các bộ lạc Numidia, đã tấn công vùng lãnh thổ của người Carthage ở châu Phi vào năm 213/212 TCN. Tình hình ở bán đảo Iberia đã được kiểm soát, bởi vì Hasdrubal và quân đội Iberia của ông đã vượt biển đến châu Phi và đập tan sự đe dọa của Syphax trong một trận chiến nơi mà 30.000 người Numidia đã bị giết. Với việc đội quân được người La Mã huấn luyện của mình đã bị tan tác, Syphax bỏ trốn đến Mauritanie. Sự trợ giúp của Masinissa, một hoàng tử Numidia, là vô cùng cấp thiết trong giai đoạn này, và ông ta đã vượt biển tới bán đảo Iberia cùng Hasdrubal sau khi các cuộc chinh phục châu Phi đã kết thúc cùng với 3.000 kỵ binh Numidia.
wiki
Hasdrubal Barca
Cuối năm 212 TCN, Hasdrubal, với sự hợp tác kịp thời từ Mago Barca và Hasdrubal Gisco, đã hoàn toàn đánh bại đối thủ trong trận Thượng Baetis, tiêu diệt phần lớn quân đội La Mã ở Iberia và giết chết cả hai anh em Scipio. Carthage giành được quyền kiểm soát bán đảo Iberia đến tận sông Ebro như là kết quả của chiến thắng này. Tuy nhiên, sự thiếu hợp tác giữa các tướng lĩnh người Carthgine sau trận chiến này đã giúp cho đám tàn quân La Mã với khoảng 8.000 người triệt thoái một cách an toàn tới phía bắc của con sông Ebro. Đội quân này bằng cách nào đó đã cố gắng ngăn chặn quân đội Carthage không cho họ vượt qua được phía bắc của sông Ebro. Người La Mã đã củng cố đội quân này bằng 10.000 quân dưới quyền Cladius Nero trong năm 211 TCN và với 10.000 binh sĩ khác thuộc quyền Scipio Africanus Major vào năm 210 TCN, ông ta sau đó đã dành hẳn một năm để huấn luyện binh lính của mình và cải thiện các mối quan hệ ngoại giao. Quân đội Carthage đã phải phân tán tới các vùng đất của Iberia trong năm 209 TCN, để có thể duy trì sự kiểm soát đối với các bộ lạc Iberia, vốn là nguồn cung binh lính và lương thực cho họ. Những đạo quân Carthage sau đó lần lượt đã bị đánh bại bởi Scipio Africanus Major, ông ta đã lợi dụng sự vắng mặt của ba đạo quân chủ lực Carthage để chiếm Tân Carthago và đã đạt được những lợi thế khác. Hasdrubal đã bị đánh bại bởi Scipio tại trận Baecula, nhưng đã cố gắng để rút lui với 2 / 3 số quân còn nguyên vẹn của mình. Cuộc viễn chinh thứ hai của người Carthage ở Ý.
wiki
Hasdrubal Barca
Sau đó trong năm 209 TCN, Hasdrubal đã được triệu tập đến gia nhập với người anh cả của mình ở Ý. Ông lẩn tránh Scipio bằng cách băng qua dãy núi Pyrenees ở cực tây của nó và tìm được một con đường an toàn cho mình tới Gaul trong mùa đông năm 208. Hasdrubal đã chờ đợi cho đến khi mùa xuân năm 207 để vượt qua dãy Alps và tiến vào miền Bắc Ý. Hasdrubal đã tiến quân nhanh hơn nhiều so với anh trai của ông một phần do các công trình xây dựng bị bỏ lại phía sau bởi quân đội của Hannibal khi ông đi qua cùng một tuyến đường một thập kỷ trước đó, nhưng cũng do không còn mối đe dọa nào đến từ người Gaul mà đã từng ngăn cản Hannibal trước đó. Người Gaul giờ đây đã lo sợ và tôn trọng người Carthage, ngoài việc cho phép Hasdrubal đi qua dãy Al-pơ mà không bị quấy rầy, rất nhiều người Gaul đã nhiệt tình gia nhập vào hàng ngũ của ông. Hasdrubal, giống như người anh trai của ông, đã thành công trong việc mang theo những con voi chiến, vốn được nuôi dạy và huấn luyện ở Hispania. Sau khi đặt chân đến Ý, Hasdrubal đã muốn hội quân với người anh trai của mình ở Nam Umbria. Tuy nhiên, điều này đã không thể sảy ra. Các sứ giả của Hasdrubal sau đó đã bị bắt giữ và ông cũng đã bị chặn lại bởi hai đạo quân La Mã. Bị buộc phải chiến đấu, ông đã bị đánh bại một cách hoàn toàn trong trận sông Metaurus. Ngay bản thân Hasdrubal cũng đã ngã xuống một cách dũng cảm trong trận chiến này. Sau đó, ông đã bị chặt đầu và đầu của ông đã được nhét vào trong một cái bao tải rồi được ném vào doanh trại của người
wiki
Hasdrubal Barca
bản thân Hasdrubal cũng đã ngã xuống một cách dũng cảm trong trận chiến này. Sau đó, ông đã bị chặt đầu và đầu của ông đã được nhét vào trong một cái bao tải rồi được ném vào doanh trại của người anh trai Hannibal như là một dấu hiệu biểu hiện cho thất bại hoàn toàn của ông. Hành động này hoàn toàn trái ngược với cách đối xử của Hannibal đối với thi hài những chấp chính quan La Mã đã ngã xuống.
wiki
Bảo tàng Rừng và Gỗ ở Rogów
Bảo tàng Rừng và Gỗ ở Rogów Bảo tàng Rừng và Gỗ ở Rogów (tiếng Ba Lan: "Muzeum Lasu i Drewna w Rogowie") là một bảo tàng tọa lạc tại số 20 Phố Akademicka, làng Rogów, huyện Brzeziny, tỉnh Łódzkie, Ba Lan. Bảo tàng hoạt động trong cơ cấu tổ chức của Trung tâm Giáo dục Thiên nhiên và Rừng trực thuộc Đại học Khoa học Đời sống Warsaw. Trụ sở của Bảo tàng nằm trong khuôn viên của Trạm Thực nghiệm Rừng. Lược sử hình thành. Việc thu thập các bộ sưu tập của Bảo tàng Rừng và Gỗ ở Rogó bắt đầu từ những năm 1950 theo khởi xướng của giáo sư Franciszek Krzysik. Ban đầu, bộ sưu tập chỉ phục vụ sinh viên và giảng viên Khoa Lâm nghiệp của Đại học Khoa học Đời sống Warsaw, về sau mới bắt đầu phục vụ khách tham quan. Triển lãm. Bộ sưu tập của Bảo tàng Rừng và Gỗ ở Rogó hiện đang bao gồm các triển lãm động vật (động vật có vú, chim, côn trùng, hóa thạch, tổ), rừng và thực vật hóa thạch (cây, nấm). Trong đó, Bảo tàng có khoảng 460 mẫu vật các loài chim và động vật có vú (bao gồm một bộ sưu tập dơi phong phú) và bộ sưu tập gạc, và khoảng 350 mẫu gỗ (xyloteka) và các mẫu thực vật. Bảo tàng còn giới thiệu các loại bệnh và ký sinh trùng của cây. Bên cạnh các hoạt động triển lãm, Bảo tàng còn cung cấp các dịch vụ giáo dục. Giờ mở cửa. Bảo tàng Rừng và Gỗ ở Rogó whoạt động quanh năm, mở cửa vào các ngày làm việc (từ tháng 9 đến tháng 4), và mở cửa tất cả các ngày trong tuần và ngày lễ (từ tháng 5 đến tháng 10). Khách tham quan phải trả phí vào cửa.
wiki
Mùa cháy rừng ở Úc 2009–10
Mùa cháy rừng ở Úc 2009–10 Mùa cháy rừng tại Úc năm 2009–10 là mùa cháy rừng diễn ra chủ yếu từ tháng 6 năm 2009 đến tháng 5 năm 2010. Các sự chú ý được tăng cường cho mùa này theo đó chính quyền và chính phủ nỗ lực đề phòng bất cứ mất mát nhân mạng nào trong tương lai sau vụ Cháy rừng Thứ Bảy Đen trong mùa trước, 2008–09. Các cuộc quan sát dự báo thời tiết phạm vi dài dự báo rằng điều kiện thời tiết sẽ rất nóng, khô và nhiều gió trong những tháng hè, dẫn đến nguy cơ cao xảy ra cháy rừng. Lệnh báo động. Úc ban hành lệnh báo động ở mức "tai họa" sau khi thời tiết nóng kỷ lục và sấm chớp làm kích hỏa hơn 100 vụ cháy trên khắp cả nước. Khí hậu khô và nóng trái mùa, kết hợp với gió lớn gây nên hằng chục vụ cháy ở vùng Đông Bắc, nhiều vụ bắt lửa do sấm sét.
wiki
Alan Donnelly
Alan Donnelly (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1957) là một chính khách của Đảng Lao động Anh và cựu đoàn viên công đoàn từ Jarrow. Ông từng là thành viên của Nghị viện châu Âu (MEP) và là lãnh đạo của Đảng Lao động Nghị viện châu Âu. Donnelly lần đầu tiên được bầu vào Nghị viện châu Âu vào năm 1989, đại diện cho khu vực bầu cử Tyne and Wear. Ông đã lấy 69,3% số phiếu trong năm 1989, chiến thắng với đa số 95,780. Ông được bầu lại vào năm 1994, giành được 74,4% số phiếu. Khi các khu vực bầu cử của Nghị viện châu Âu bị bãi bỏ vào tháng 6 năm 1999 và được thay thế bằng các ghế trong khu vực gồm nhiều thành viên, Donnelly đã được chọn là ứng cử viên đầu tiên trong danh sách Lao động ở Đông Bắc và được bầu. Ông đã từ chức vào tháng 12 năm 1999, sau khi trở thành lãnh đạo của Đảng Lao động Nghị viện châu Âu kể từ năm 1997. Trước khi trở thành MEP, Donnelly làm việc cho công đoàn GMB, đầu tiên ở khu vực Đông Bắc, và sau đó là Cán bộ Tài chính Quốc gia ở London. Trong thời gian này, ông là thành viên của nhóm các công đoàn ôn hòa của tập đoàn St Ermin đã gặp trong khách sạn St Ermin để lên kế hoạch trục xuất xu hướng Dân quân khỏi Đảng Lao động. Là một MEP, sau đó ông được coi là đồng minh chủ chốt của Tony Blair và phục vụ trong Ủy ban điều hành quốc gia. Ông hiện là chủ tịch điều hành của Chiến lược có chủ quyền, một công ty về các vấn đề công cộng mà ông thành lập vào tháng 1 năm 2000. Công ty hiện có văn phòng tại Newcastle, London và Brussels.
wiki
Alan Donnelly
Ông hiện là chủ tịch điều hành của Chiến lược có chủ quyền, một công ty về các vấn đề công cộng mà ông thành lập vào tháng 1 năm 2000. Công ty hiện có văn phòng tại Newcastle, London và Brussels. Donnelly đã hợp tác chặt chẽ với Bernie Ecclestone và Max Mosley, trở thành người quản lý cuộc đua chính trong năm 2007–09. Ông cũng là chủ tịch của đảng Lao động South Shields kể từ năm 2005. Khi David Miliband từ chức khỏi ghế này vào năm 2013, chính Donnelly đã viết thư từ chức. Ông là người đồng tính công khai.
wiki
Kripparrian
Octavian Morosan (sinh ngày 30 tháng 6 năm 1987), thường được biết đến nhiều hơn với biệt danh Kripparrian, là một streamer trên kênh Twitch. Anh ấy được biết đến như là một game thủ cũng như là một streamer nổi tiếng, anh chơi các tựa game "Diablo III", "World of Warcraft" và nổi bật nhất là "", chiến thắng giải thưởng "Streamer Hearthstone được yêu thích", "Kênh stream tiếp cận được nhiều người nhất" và đứng thứ hai trong hạng mục "Kênh có lượt xem trung bình cao nhất" của Giải thưởng Stream do Blizzard tổ chức vào năm 2014. Vào tháng 6 năm 2017, anh đạt được hơn một triệu người theo dõi trên Twitch; đến tháng 7 năm 2021, con số đã lên tới hơn 1,4 triệu người theo dõi. Danh hiệu. "Diablo III". Kripparrian trở nên rất nổi tiếng khi hoàn thành được trò chơi "Diablo III" với độ khó "Inferno" (độ khó cao nhất vào thời điểm đó) cùng người bạn Krippi của mình chỉ sau 1 tháng kể từ khi trò chơi được phát hành. Thành tích này đạt được trước khi bản cập nhật 1.0.3 được tung ra với mục đích giúp trò chơi dễ hơn, và còn đáng kinh ngạc hơn là hai người chơi này thậm chí còn sử dụng cả nhân vật "Hardcore", có nghĩa là nếu nhân vật của họ chết trong game, họ sẽ mất nhân vật đó vĩnh viễn và phải chơi lại từ đầu. "World of Warcraft".
wiki
Kripparrian
"World of Warcraft". Kripparrian là một game thủ World of Warcraft trước khi bắt đầu sự nghiệp streamer. Anh được biết đến là người đầu tiên hoàn thành Thử thách Người sắt (Ironman Challenge), cũng như nằm trong danh sách người chơi Thợ săn (Hunter) DPS hàng đầu trong thời gian đó. Vào giữa năm 2010, Kripparrian gây được lượng sát thương trên giây (DPS) cao nhất đối với chất tướng Hunter trong trò chơi nổi tiếng này. "Hearthstone". Kripparrian được biết đến nhiều hơn khi anh stream trò chơi "" và tham gia vào giải đấu Innkeeper's Invitational "Hearthstone" tại BlizzCon vào năm 2013. Trong trò chơi, anh đã đạt đến "Cấp độ Huyền thoại", cấp độ xếp hạng cao nhất trong trò chơi vào tháng 8 năm 2015. Tuy nhiên, Kripparrian nổi tiếng nhất với việc chơi ở chế độ Arena trong trò chơi này với việc giành vô số chiến thắng liên tiếp bất kể bộ bài trong tay là gì. Anh chính là người đã tiên phong cho phong cách chọn bài trong chế độ Arena của Hearthstone và cũng thu hút được vô số lượt xem từ người hâm mộ nhờ sự vui tính và nỗ lực không ngừng trong trò chơi để tạo ra những bộ bài độc đáo. GamesRadar đã đưa kênh Twitch của Kripparrian vào danh sách kênh stream người dùng nên theo dõi. AmazHS, Kripparrian và Frodan cũng được lựa chọn để bình luận tại giải đấu chung kết thế giới bộ môn Hearthstone vào năm 2015.
wiki
Kripparrian
AmazHS, Kripparrian và Frodan cũng được lựa chọn để bình luận tại giải đấu chung kết thế giới bộ môn Hearthstone vào năm 2015. Stream của anh đạt được khoảng 13.000 người xem mỗi lượt đăng tải. Anh cũng có một kênh Youtube riêng với hơn 965.000 lượt theo dõi và hàng trăm nghìn lượt xem mỗi video đăng tải. Vào tháng 1 năm 2017, anh đứng đầu trong danh sách 100 người dẫn đầu chế độ Arena tại khu vực Bắc Mỹ trong trò chơi ngay trong tháng đầu tiên. Cuộc sống cá nhân. Kripparrian theo học đại học ngành Vật lý và Toán học. Sau khi bỏ học giữa chừng, anh làm nghề kỹ thuật viên máy tính trước khi bắt đầu sự nghiệp streamer. Kripparrian cho biết anh là người ăn chay. Anh kết hôn với Rania, một cô gái người Hy Lạp vào năm 2014. Hiện tại, họ đang cùng nhau chung sống tại Canada. Rania cũng rất thường xuyên stream trên kênh Twitch và đôi khi hay xuất hiện trong các video của Kripp.
wiki
Giuse Thái Bỉnh Thụy
Giuse Thái Bỉnh Thụy Giuse Thái Bỉnh Thụy (tiếng Trung: 蔡炳瑞, tiếng Anh: "Joseph Cai Bing-rui"; sinh 1966) là một giám mục người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm trách nhiệm vụ Giám mục chính tòa Giáo phận Hạ Môn, được cả Tòa Thánh lẫn chính quyền Trung Quốc thừa nhận. Tiểu sử. Giám mục Thái sinh ngày 15 tháng 9 năm 1966 tại Hạ Môn (Phúc Kiến, Trung Quốc). Năm 1985, ông vào tu viện Xà Sơn Thượng Hải tu tập. Ngày 15 tháng 8 năm 1992, ông được thụ phong chức vị linh mục. Sau khi thụ chức, ông trở về quê nhà Hạ Môn phụng vụ. Bấy giờ giáo phận Hạ Môn đang trong tình trạng trống tòa sau khi giám mục Giuse Hoàng Tử Ngọc qua đời năm 1991. Năm 1996, ông được bầu làm Giám quản giáo phận. Tháng 6 năm 2009, ông được Hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc bầu làm Giám mục Hạ Môn. Tòa Thánh sau đó cũng ra thông cáo bổ nhiệm ông làm Giám mục chính tòa Giáo phận Hạ Môn. Lễ tấn phong của ông được tổ chức vào ngày 8 tháng 5 năm 2010. Khẩu hiệu giám mục của ông là "Cộng thành nhất mục" (共成一牧).
wiki
Người Sachsen Transilvania
Người Sachsen Transilvania (; ; ) là một nhóm người thuộc sắc tộc Đức đã định cư ở Transilvania () từ thế kỷ 12 trở đi. Cuộc khai phá Transilvania của người Đức được bắt đầu bởi vua Géza II của Hungary (1141–1162). Trong nhiều thập kỷ, nhiệm vụ chính của những người định cư Đức là phải bảo vệ biên giới phía đông nam của Vương quốc Hungary. Công cuộc khai phá đó tiếp tục đến cuối thế ky thứ 13. Dù những người định cư hầu hết đến từ phía tây Đế quốc La Mã Thần thánh và chủ yếu nói phương ngữ Franconian, nhưng họ được gọi chung là người Sachsen vì người Đức đang làm việc cho văn phòng lãnh sự Hungary. Trong phần lớn lịch sử của mình, những người Sachsen này nắm giữ một địa vị được ban đặc quyền cùng với các quý tộc Hungary và người Székely Transilvania.
wiki
Người Sachsen Transilvania
Sau năm 1918, sau hiệp ước Trianon, Transilvania trở thành một phần của România, người Sachsen Transilvania, cùng những nhóm nói tiếng đức khác ở quốc gia Romania vừa được mở rộng (gồm người Banat Swabia, Sathmar Swabia, người Đức Bessarabia, người Đức Dobrudja, người Đức Bukovina) trở thành một phần của sắc tộc thiểu số Đức ở Romania. Dân số người Sachsen Transilvania đã giảm từ chiến tranh thế giới thứ II. Người Sachsen Transilvania đã bắt đầu rời khỏi Transilvania trong và sau thế chiến thứ 2, định cư đầu tiên ở Áo, đặc biệt sau đó là ở Đức. Quá trình di cư ra ngoài tiếp tục trong thời kỳ chính phủ Cộng sản nắm quyền ở Romania, và đại đa số người Sachsen Transilvania ngày nay sống ở Đức. Một phần lớn dân số người Sachsen Transilvania đượcũng cư trú ở Mỹ ngày nay, đặc biệt tại Idaho, Ohio và Colorado và ở phía nam Ontario, Canada. Rất ít người vẫn còn sống ở România, nơi mà cuộc điều tra dân số chính thức mới nhất có khoảng 60.000 người Đức được ghi nhận, con số đó cung bao gồm cả người Đức Banat Swabia và Sathmar Swabia. Những cuộc định cư thời trung cổ (Ostsiedlung).
wiki
Người Sachsen Transilvania
Những cuộc định cư thời trung cổ (Ostsiedlung). Giai đoạn đầu của cuộc định cư Đức bắt đầu vào giữa thế kỷ thứ 12 cùng những người định cư di chuyển đến nơi mà sẽ trở thành Altland hay "Hermannstadt Provinz" (Szeben)(tỉnh Sibiu), được đặt ở quanh thành phố Hermannstadt (Sibiu). Mặc dù nguyên nhân đầu tiên cho lời mời của Géza II là bảo vệ biên giới cùng với người Szekely chống lại những kẻ xâm lược, nhưng người Đức còn phải được yêu cầu thông thạo khai mỏ và những kỹ năng phát triển kinh tế của vùng này. Hầu hết những người định cư thời kỳ này đến từ Luxembourg và vùng Sông Moselle. Gai đoạn hai của cuộc định cư Đức diễn ra vào đầu thế kỷ 13 gồm những người định cư hầu hết đến từ Rhineland, những miền thấp phía nam, và vùng sông Moselle, cùng với những nhóm khác đến từ Thuringia, Bavaria, thậm chí đến từ Pháp. Một vùng định cư ở phía đông nam Transilvania được đặt trung tâm ở thành phố Nösen, thành phố Bistritz (Bistriţa) muộn hơn, nằm trên sông Somes. Vùng xung quanh được gọi là Nösnerland. Cuộc định cư được tiếp tục từ đế chế này đã mở rộng vùng định cư của người Sachsen xa hơn về phái đông. Những người định cư con cháu từ vùng Hermannstadt đã lan tỏa đến châu thổ sông Hârtibaciu ("Harbachtal") và chân núi Cibin ("Zibin") và Sebeş ("Mühlbacher"). Vùng cuối cùng, trung tâm ở Mühlbach (Sebeş) được gọi là Unterwald. Về phía bắc Hermannstadt được định cư ở vùng Weinland gần Mediasch (Mediaş).
wiki
Người Sachsen Transilvania
Năm 1211 vua András II của Hungary đã mời các hiệp sĩ Teuton đến định cư và bảo vệ Burzenland ở góc phía đông nam Transilvania. Để bảo vệ con đường núi độc đạo của dãy Carpath ("Karpaten") chống lại người Cuman, các hiệp sĩ này đã xây dựng nhiều thành trì và khu dân cư, gồm cả thành phố chính yếu Kronstadt (Braşov). Công cuộc khái hóa vùng Burzenland gồm hầu hết những người định cư từ Altland. Bị sợ hãi bởi quyền lực mở rộng nhanh chóng của các hiệp sĩ, năm 1225 Andrew II đã trục xuất dòng tu này, họ từ đó trở đi đã di chuyển đến Phổ năm 1226, dẫu vậy những người định cư vẫn ở lại Burzenland. những vùng biên giới phía đông trung cổ của vương quốc Hungary do đó được bảo vệ ở phía đông bắc bởi người Sachsen Nösnerland, ở phía đông bởi Bộ Tộc Bảo vệ Biên Giới Hungary Szekely, ở phía đông nam bởi các thành trì được xây dựng bởi các hiệp sĩ Teuton và người Sachsen Burzenland, và ở phía nam bởi người Sachsen Altland. Tổ chức thời trung cổ. Tổ chức hợp pháp.
wiki
Người Sachsen Transilvania
Tổ chức thời trung cổ. Tổ chức hợp pháp. Mặc dù các hiệp sĩ đã rời khỏi Transilvania, nhưng người định cư Sachsen vẫn ở lại, và các vua Hungary cho phép họ giữ lại những quyền lợi và nghĩa vụ được ghi trong "văn kiện Andreanum" năm 1224. văn kiện này đã ban cho cư dân Đức lãnh thổ từ Draas (Drăuşeni) đến Broos (Orăştie) cả tự trị về hành chính lẫn tôn giáo và những nghĩa vụ với các vua Hungary. Lãnh thổ được định cư bởi người Đức được bao phủ trên một diện tích khoảng 30,000 km². Trong triều đại của vua Charles I của Hungary (hầu như chắc chắn trong khoảng thời gian 1325-1329), người Sachsen được tổ chức thành các ghế Sachsen. Tổ chức tôn giáo. Cùng với dòng tu Teuton, những tổ chức tôn giáo khác quan trong cho sư phát triển của các cộng đồng Đức là những tu viện Cistercian ở Igrisch (Igriş) thuộc vùng Banat và Cârţa tại Fogarasch (Făgăraş). Tổ chức tôn giáo cổ xưa nhất của người Sachsen là Provostship ở Szeben/Hermannstadt, được thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1191. Vào những năm tháng đầu tiên của nó, nó bao gồm lãnh thổ thuộc Hermannstadt, Leschkirch (Nocrich), và Groß-Schenk (Cincu), những vùng đó được khai phá sớm nhất bởi người Đức trong khu vực. Tầng lớp được ban đặc quyền.
wiki
Người Sachsen Transilvania
Tầng lớp được ban đặc quyền. Cùng với giới quý tộc Transilvania (phần lớn là người Hungary) và Szekly, giới quý tộc người Sachsen Transilvania là những thành viên của Unio Trium Nationum, hay "Liên minh 3 dân tộc", ký năm 1438. bản hiệp ước này bảo vệ những quyền lợi chính trị cho cả ba nhóm và loại bỏ phần lớn nông dân người Romania khỏi đời sống chính trị. Trong thời kỳ Cải cách Kháng Cách, toàn bộ người Sachsen Transilvania đã cải đạo sang giáo hội Luther. Vì công quốc bán-độc lập Transilvania là một trong những thực thể nhà nước khoan dung nhất về mặt tôn giáo ở châu âu, nên người Sachsen được cho phép đi theo tôn giáo của mình. Nhà Habsburg đã thúc đẩy công giáo La Mã cho người Sachsen trong Phong trào chống cải cách, nhưng đa số vẫn theo đạo Luther.
wiki
Người Sachsen Transilvania
Cuộc chiến tranh giữa chế độ quân chủ Habsburg cùng Hungary chống lại đế chế Ottoman từ thế kỷ thứ 16 đến 18 đã làm giảm dân số của người Sachsen Transilvania. Khi công quốc Transilvania nằm dưới sự thống trị của Habsburg Áo, một giai đoạn định cư ngắn hơn được khởi đầu, điều mà đã giúp đem lại sức sống mới cho người Sachsen. Giai đoạn này gồm có những tín đồ tin lành bị lưu đày từ Thượng Áo đến Hermannstadt. Người Đức đã phụng sự với tư cách là những viên chức hành chính và những người lính, đặc biệt là trong những cuộc chiến tranh của chế độ quân chủ Habsburg chống lại người thổ nhĩ kỳ Ottoman. Hermannstadt có người Đức cư trú (ngày nay là Sibiu) là một trung tâm văn hóa quan trọng bên trong Transilvania, trong khi Kronstadt (ngày nay là Brasov) là một trung tâm chính trị thiết yếu đối với người Sachsen.
wiki
Port Pirie
Port Pirie Port Pirie là một thành phố trong bang Nam Úc, cách thủ phủ bang Adelaide 224 km (139 dặm) về phía bắc. Thành phố có dân số 13.206 người (năm 2006). Port Pirie là thành phố đông dân thứ sáu ở Nam Úc sau Adelaide, Mount Gambier, Whyalla, Murray Bridge và Port Augusta. Đây là một cảng biển nằm trên bờ biển phía đông của Vịnh Spencer, 224 km (139 dặm) về phía bắc Adelaide. Khu định cư được thành lập vào năm 1845 và có nhà máy luyện chì lớn nhất thế giới, được điều hành bởi Nyrstar. Nó cũng sản xuất tinh chế bạc, kẽm, đồng và vàng. Trước thời gian có khu định cư người châu Âu, vị trí đó trở thành cảng Pirie là nơi sinh sống của các bộ lạc bản địa của Nukunu. Vị trí được gọi là 'Tarparrie', đó là nghi ngờ có nghĩa là "rạch bùn". Người châu Âu đầu tiên nhìn thấy vị trí là Matthew Flinders năm 1802 khi ông khám phá vịnh Spencer bằng thuyền. Khám phá đất đầu tiên định cư vị trí Eyre Edward thám hiểm khám phá khu vực xung quanh Port Augusta. John Horrocks cũng phát hiện ra một đi qua dãy núi Flinders đến bờ biển, bây giờ đặt tên là đèo Horrocks. Khí hậu. Port Pirie có khí hậu bán khô hạn (phân loại khí hậu Köppen "BSh").
wiki
Thất Tịch
Thất Tịch () hay còn gọi là Tết Ngâu, Ngày Ông Ngâu Bà Ngâu, theo văn hóa phương Đông, (Châu Á), lễ được tổ chức ngày 7 tháng 7 Âm lịch, đôi khi được người phương Tây gọi là "ngày Valentine Đông Á". Lịch sử ngày này gắn bó với câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ hoặc vợ chồng Ngâu với nhiều dị bản. Theo truyền thuyết, sau một năm xa cách, cứ đến ngày này hằng năm, Ngưu Lang và Chức Nữ được gặp nhau bên cầu Ô Thước. Tại Hàn Quốc là lễ Chilseok (칠석). Nhật Bản cũng kỷ niệm lễ hội này để kỷ niệm ngày gặp gỡ của Orihime (織姫 Chức Cơ) (tức sao Chức Nữ và Hikoboshi (彦星 Ngạn Tinh) (tức sao Ngưu Lang), gọi là lễ "Tanabata" (七夕), nhưng theo dương lịch. Lễ hội ở Trung Quốc. Ngày hội truyền thống ở Trung Quốc để các thiếu nữ bài trí các vật dụng nghệ thuật tự tạo trong ngày này và ước vọng kết hôn.Ngày này còn có các tên gọi khác như: Lễ hội ở Nhật Bản. Lễ hội được cho là du nhập vào Nhật trong thế kỷ thứ 8 và phổ biến rộng từ thời kỳ Edo. Ở Nhật Bản, đặc biệt tại thành phố Sendai và Hiratsuka và vùng Tōhoku, lễ hội này còn được gọi là "Tanabata" và được tổ chức bắt đầu vào ngày 7 tháng 7 dương lịch hàng năm với nhiều hình ảnh trang hoàng được làm từ giấy, vào đêm trước, thường có bắn pháo bông tại công viên Nishi-kōen. Sau đó lễ hội tiếp tục được mở rộng ra tại nhiều vùng cho đến giữa Tháng 8.
wiki
Thất Tịch
Theo phong tục, người dân xếp hình giấy theo 7 hình thông dụng, như cánh hạc (折り鶴; Orizuru), Kimono bằng giấy (紙衣; Kamigoromo), túi xách (巾着; Kinchaku), lưới (投網; Toami), bao (くずかご; Kuzukago)... để trang trí hoặc để tặng nhau để chúc may mắn, tốt lành. Hàn Quốc. Vào ngày Chilseok(Thất tịch), người Hàn Quốc theo truyền thống tắm để có sức khỏe tốt. Ngoài ra, truyền thống ăn bánh mì bột mì và bánh mì nướng. Chilseok được biết đến là cơ hội cuối cùng để thưởng thức các món ăn làm từ lúa mì, vì những cơn gió lạnh sau Chilseok đã làm hỏng hương thơm của lúa mì. Người ta cũng thường ăn bánh kếp lúa mì gọi là miljeonbyeong (밀전병), và sirutteok, một loại bánh giầy phủ đậu đỏ. Lễ hội ở Việt Nam. Năm 1860 trở về trước, Lễ Thất tịch (七夕礼) còn gọi là tiết Tiểu Xảo (小巧節), hoặc lễ Thù Du (茱萸礼), trong dân gian còn gọi là Ngày ông Ngâu bà Ngâu. Theo sách Giá Viên thi tập (蔗園詩集) của Phạm Phú Thứ (范富庶) Nguyễn trào, tiết này xuất hiện trong dân gian và cung đình.Thù du phân thành 3 loại chính là - Ngô thù du (吳茱萸) là cây thù lù có quả tầm bóp, lồng đèn lúc non lục, chín màu cam, hoa vàng vết nâu trên cánh - Tự thù du (食茱萸) là cây sẻn gai, có quả dài tròn đỏ, hoa trắng - San thù du (山茱萸) là cây sơn thù du, có quả thù nhục đỏ nhỏ như nhót Bài trí bàn tế nhỏ vọng nguyệt, trên có bình cắm hoa thù du, bồn nhỏ có quả thù du và bính nếp, bột, bát nhỏ có nước. Các thiếu nữ luồn chỉ vào 7 cái kim rồi thả nhẹ trên nước để không chìm. Kết thúc bái tạ trước bàn tế có lư trầm hương.
wiki
Thất Tịch
Trong dân gian, tiết Tiểu Xảo là tiết nữ công gia chánh của nữ giới. Buổi đêm bài trí quả bánh trước trăng ước vọng đủ tài nội trợ, tình duyên đẹp. Trong cung, vua sẽ thiết yến Thù Du ban quả bánh cho các quan viên. Trong hậu cung cũng như vậy. Nghiên cứu làm bính tham khảo sách "nhật dụng thường đàm" (日用常談) của Phạm ĐÌnh Hổ (范廷琥) và "nữ công thắng lãm" (女工勝覧) của Lê Hữu Trác (Hải Thượng Lãn Ông 海上懶翁). Trong đó có các loại bính như Ngọc tô bính (玉酥餅), giác thử (角黍), tông bính (粽缾), quyển bính (捲餅), phấn mễ (粉米), miến phiến (麵片), Đông Dương hải thái (東洋海菜)... Thời Lê có tục bắt cung nữ bị tội ra ngoài Bắc môn thành dệt lụa, chính là lụa Trúc Bạch, vốn là ảnh hưởng bởi truyền thuyết. Các tuyệt kĩ phải thể hiện gồm luồn chỉ qua 7 cái kim, cái kim luồn lỗ vào sợi chỉ nổi trên mặt nước, hay thậm chí là thả cái kim trên chậu nước để không bị chìm. Chứng minh là nữ nhân đoan trang, hiền thục. Ngày Thất tịch hay 7/7 Âm Lịch. Truyện Ngưu Lang Chức Nữ hay truyện ông Ngâu bà Ngâu tồn tại để giải thích về hiện tượng mưa ngâu vào tháng 7 Âm lịch. Cũng từ truyện này mà người ta bắt đầu kiêng kết hôn Tháng 7 vì sợ giống như ông bà. Cầu ông bà Ngâu sự đoan trang đối với nữ, cường tráng đối với nam. Quan trọng là cầu tình duyên, thiếu nữ từ khi cập kê (15 tuổi) tới chùa rất náo nhiệt. Tuy nhiên Hỉ sự do ba mẹ quyết, không được tự do cầu. Lễ thất tịch có ở dân tộc Hoa, Tày, Mường...
wiki
Thất Tịch
Văn học Việt Nam năm 1930-1945 và trên báo Tiểu thuyết thứ Năm có nhắc đến lễ thất tịch. Đại để Truyền thống Việt Nam có Lễ Thù Du (bản địa hóa từ Lễ Thất tịch) không phải du nhập như nhiều người lầm tưởng.
wiki
Bảo tàng Thành phố ở Świętochłowice
Bảo tàng Thành phố ở Świętochłowice (tiếng Ba Lan: "Muzeum Miejskie w Świętochłowicach") là một bảo tàng tọa lạc tại Świętochłowice, Ba Lan. Phương châm hoạt động của Bảo tàng là thu thập và giới thiệu các hiện vật và kỷ vật có liên quan đến lịch sử của thành phố và Thượng Silesia. Lịch sử hình thành. Trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, hai cha con Łukasz và Stanisław Wallis trong nhiều năm đã thu thập các hiện vật có giá trị lịch sử về quá khứ của người Ba Lan ở Thượng Silesia. Sở Quận ở Świętochłowice đánh giá cao tầm quan trọng của các bộ sưu tập này nên đã khởi xướng việc thành lập Bảo tàng Quận. Thành quả là Bảo tàng Quận được thành lập vào ngày 12 tháng 3 năm 1925. Ngày 21 tháng 7 năm 1977, Phòng Khu vực Thành phố được thành lập theo khởi xướng của các thành viên của Hội những người yêu thích Świętochłowice, với sự hỗ trợ của chính quyền thành phố. Trụ sở được chọn là tòa nhà lịch sử ở số 14 Phố Dworcowa. Bốn năm sau, Phòng Khu vực Thành phố được đổi tên thành Bảo tàng Xã hội Khu vực, về sau tiếp tục được đổi thành Bảo tàng Thành phố (vào ngày 16 tháng 5 năm 1991). Năm 2012, các bộ sưu tập của Bảo tàng Thành phố được chuyển đến tòa nhà nơi trước đây từng là một bệnh xá, tọa lạc tại Phố Szpitalna. Đồng thời, theo nghị quyết của Hội đồng thành phố tại Świętochłowice ngày 18 tháng 7 năm 2012, Bảo tàng Thành phố được đổi tên thành Bảo tàng Khởi nghĩa Silesian. Tòa nhà từng là trụ sở của Bảo tàng ở số 14 Phố Dworcowa đã bị dỡ bỏ vào đầu năm 2015.
wiki
Richterit
Richterit Richterit là một khoáng vật silicat natri calci magiê thuộc nhóm amphibol. Nếu sắt thay thế magnesi trong cấu trúc khoáng vật, nó được gọi là ferrorichterit; nếu flo thay thế gốc hydroxyl, nó được gọi là fluororichterit. Các tinh thể richterit có hình lăng trụ và thon dài, hoặc lăng trụ đến sợi, hoặc tinh thể trong đá. Richterit có màu nâu, nâu xám, vàng, đỏ nâu đến đỏ hồng, hoặc lục nhạt đến lục sẫm. Richterit có mặt trong các đá vôi bị biến chất nhiệt trong đới biến chất tiếp xúc. Nó cũng là sản phẩm nhiệt dịch trong mácma mafic, và tích tụ quặng giàu mangan. Chúng được phát hiện ở Mont-Saint-Hilaire, Quebec, và Wilberforce và Tory Hill, Ontario, Canada; Långban và Pajsberg, Thụy Điển; West Kimberley, Tây Úc; Sanka, Myanmar; và, ở Hoa Kỳ, Iron Hill, Colorado; Leucite Hills, Wyoming; và Libby, Montana. Khoáng vật được đặt tên năm 1865 theo tên nhà khoáng vật học người Đức Theodore Richter (1824–1898).
wiki
Vị trí biểu kiến
Vị trí biểu kiến của một vật thể là vị trí của nó trong không gian mà người quan sát nhìn thấy. Do các hiệu ứng vật lý và hình học, nó có thể khác với vị trí "thật" hoặc "hình học". Thiên văn học. Trong thiên văn học, có sự phân biệt được thực hiện giữa "vị trí trung bình", "vị trí biểu kiến" và "vị trí địa tâm" của một vật thể. Vị trí của một ngôi sao. Vị trí trung bình của một ngôi sao (liên quan đến hệ tọa độ được thông qua của người quan sát) có thể được tính từ giá trị của nó tại một kỷ nguyên tùy ý, cùng với chuyển động thực tế của nó theo thời gian (được gọi là chuyển động riêng). Vị "trí biểu kiến" là "vị trí" của nó được nhìn thấy bởi một nhà quan sát lý thuyết ở trung tâm của Trái Đất đang chuyển động. Một số hiệu ứng khiến vị trí rõ ràng khác với vị trí trung bình: "Địa điểm biểu kiến của các ngôi sao cơ bản" là một niên giám thiên văn, được xuất bản trước một năm bởi Viện tính toán thiên văn (Đại học Heidelberg) ở Heidelberg, Đức. Nó liệt kê vị trí rõ ràng của khoảng 1000 ngôi sao cơ bản trong mỗi 10 ngày và được xuất bản dưới dạng một cuốn sách và trong một phiên bản rộng lớn hơn trên Internet. Thiên thể hệ mặt trời. Vị trí biểu kiến của một hành tinh hoặc thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời cũng bị ảnh hưởng bởi hiệu chỉnh ánh sáng-thời gian, nguyên nhân là do thời gian hữu hạn cần ánh sáng từ một thiên thể chuyển động để đến được người quan sát. Nói một cách đơn giản, người quan sát nhìn thấy thiên thể ở vị trí của nó khi ánh sáng rời khỏi nó.
wiki
Vị trí biểu kiến
Về mặt lý thuyết, hiệu chỉnh ánh sáng-thời gian cũng có thể được tính cho các thiên thể ở xa hơn, chẳng hạn như các ngôi sao, nhưng trong thực tế, nó bị bỏ qua. Chuyển động của một vật kể từ khi ánh sáng rời khỏi nó là không cần thiết bởi vì vị trí trung bình là vị trí trung bình của nơi nó xuất hiện, không phải là nơi nó từng ở. Không giống như các hành tinh, các thiên thể này về cơ bản dường như di chuyển theo đường thẳng, vì vậy để sử dụng bình thường, không cần tính toán phức tạp để tìm vị trí trung bình của chúng. Vị trí địa hình. Vị "trí" trên cùng của một cơ thể được nhìn thấy bởi một người quan sát thực tế trên Trái Đất và khác với vị trí rõ ràng là kết quả của các hiệu ứng sau:
wiki
Đà Giang, Phượng Hoàng
Đà Giang trấn () là một thị trấn cổ và là huyện lỵ của huyện Phượng Hoàng, thuộc châu tự trị Tương Tây, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Thị trấn này có diện tích với dân số 112.200 (tính đến năm 2015). Về mặt hành chính, nó chia thành 29 làng và 7 khu, trung tâm của thị trấn nằm ở Phượng Hoàng nam lộ (tiếng Trung: 凤凰南路). Thị trấn này nổi tiếng với "Phượng Hoàng cổ trấn" (nguyên văn tiếng Hán là Phượng Hoàng cổ thành; 凤凰古城), một trong những điểm du lịch được xếp hạng 4A và quan trọng nhất ở Hồ Nam. Phượng hoàng cổ trấn được liệt kê vào danh sách di sản thế giới dự kiến của UNESCO theo hạng mục di sản văn hóa vào ngày 28 tháng 3 năm 2008. Ngày nay, nơi này thu hút rất nhiều lượt khách du lịch mỗi năm. Lịch sử. Đà Giang là một thị trấn cổ của Ngũ Trại Ty thành (五寨司城), thành trì thủ phủ của Thổ ty Ngũ Trại dưới thời nhà Nguyên. Phượng Hoàng doanh được thành lập vào năm 1704 sau đó trở thành Phượng Hoàng quan sảnh vào năm 1736 trước khi trở thành Ban chỉ huy quân sự Phượng Hoàng. Đến năm 1912, thành lập huyện Phượng Hoàng và thị trấn này sau đó trở thành huyện lỵ của huyện. Năm 1942, Trấn Can trấn được đổi tên thành Đà Giang trấn, theo tên của con sông Đà Giang chảy qua. Năm 2005, thị trấn được mở rộng lên thành với 6 khu và 24 làng (tính đến năm 2011). Đến ngày 30 tháng 11 năm 2015, Quan Trang hương tiếp tục được xác nhập, nâng tổng diện tích thị trấn thành Địa lý. Thị trấn này nằm ở phía đông của huyện Phượng Hoàng. Những điểm du lịch nổi tiếng.
wiki
Đà Giang, Phượng Hoàng
Địa lý. Thị trấn này nằm ở phía đông của huyện Phượng Hoàng. Những điểm du lịch nổi tiếng. Đây là một trong những thị trấn văn hóa lịch sử nổi tiếng ở Trung Quốc với Vạn Lý Trường Thành Miêu Giang, những ngôi nhà treo leo, quần thể kiến ​​trúc cổ và hai di tích lịch sử văn hóa quốc gia là Phượng Hoàng cổ thành (凤凰古城堡) và Khu cư trú cũ của Thẩm Tòng Văn (沈从文故居) đều là những địa điểm thu hút khách du lịch.
wiki
Tiếng Nivkh
Tiếng Nivkh hoặc tiếng Gilyak (tự gọi: Нивхгу диф "Nivxgu dif") là một ngôn ngữ được sử dụng tại Priamurye (Ngoại Mãn Châu), ở lưu vực sông Amgun (một phụ lưu của sông Amur), vài nơi dọc chính sông Amur, và ở nửa bắc đảo Sakhalin. 'Gilyak' là tên gọi Mãn Châu. Những người bản ngữ của ngôn ngữ này là người Nivkh. Dân số của người Nivkh được duy trì tương đối ổn định, với 4.549 người Nivkh năm 1897, và 4.673 vào năm 1989. Tuy nhiên, số người bản ngữ tiếng Nivkh đã giảm từ 100% đến chỉ còn 23,3% trong thời gian đó, nên chỉ còn hơn 1.000 người nói tiếng Nivkh như ngôn ngữ mẹ đẻ vào năm 1989. Phân loại. Tiếng Nivkh không liên quan đến bất kỳ ngôn ngữ nào được biết tới, khiến nó trở thành một ngôn ngữ tách biệt. Để thuận tiện trong phân loại, nó được xếp vào nhóm ngôn ngữ Paleosiberia. Nhiều từ trong tiếng Nivkh mang nét tương đồng với những từ cùng nghĩa trong ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Paleosiberia, hay tiếng Ainu, tiếng Hàn Quốc, và ngữ tộc Tungus, nhưng không có sự tương ứng ngữ âm thông thường nào đã được ghi nhận để cho thấy mối quan hệ đáng kể về từ vựng giữa các ngôn ngữ này, nên bất kì sự tương đồng có lẽ hoặc do tình cờ hoặc do vay mượn.
wiki
Tiếng Nivkh
Tiếng Nivkh được đặt vào hệ ngôn ngữ Á-Âu giả thuyết của Joseph Greenberg. Michael Fortescue đề xuất vào năm 1998 rằng tiếng Nivkh có thể liên quan tới hệ ngôn ngữ Mosan, và sau đó, năm 2011, ông cho rằng tiếng Nivkh, mà ông còn gọi là "ngôn ngữ Amur tách biệt", liên quan đến hệ ngôn ngữ Chukotko-Kamchatkan, tạo nên một hệ Chukotko-Kamchatkan-Amur mới. Phương ngữ. Tiếng Nivkh được chia làm bốn phương ngữ, gồm phương ngữ Amur, Bắc Sakhalin, Nam Sakhalin, và Đông Sakhalin. Sự khác biệt từ vựng và ngữ âm giữa phương ngữ tại lưu vực sông Amur và phương ngữ tại đảo Sakhalin lớn tới mức vài nhà ngôn ngữ học phân loại chúng như hai ngôn ngữ riêng biệt thuộc hệ ngôn ngữ Nivkh nhỏ. Các nhà ngôn ngữ học khác nhận thấy sự đa dạng lớn trong tiếng Nivkh; khác biệt từ trong chính các phương ngữ Amur hay Sakhalin, khác biệt giữa từng làng, gia đình, hay thậm chí từng cá nhân. Ngữ pháp. Ngôn ngữ này có một hệ thống cách ngữ pháp phát triển, cũng như một số điểm ngữ pháp khác, nhưng lại không có giống. Cấu trúc cơ bản là chủ-tân-động ("subject–object–verb"). Tiếng Nivkh đáng chú ý với nhiều sự kết hợp từ vựng. Ví dụ, những hình vị thể hiện mối quan hệ không gian (giới từ hay hậu từ trong các ngôn ngữ khác) được gắn liền với danh từ mà chúng bổ nghĩa. Một từ duy nhất có thể bao hàm nhiều gốc từ, danh từ, hay động từ để thể hiện một nghĩa nào đó. Do đó, trong tiếng Nivkh, kết cấu của từng từ rất quan trọng trong câu. Ngữ âm. Phụ âm.
wiki
Tiếng Nivkh
Ngữ âm. Phụ âm. Những âm xát môi có thể được xác định là đôi môi hay môi-răng . Các âm xát vòm có tắc xát ở mức vào đó, như . Âm tắc không bật hơi vô thanh có thể biến thành âm tắc hữu thanh (như ). Sự phân biệt giữa âm xát ngạc mềm và lưỡi nhỏ ( và , và ) hiếm gặp trên thế giới. Nhấn âm. Âm được nhấn có thể là bất kỳ âm tiết nào, nhưng thường là âm thứ nhất; sự nhấn âm biến thiên theo phương ngữ.
wiki
Hoàng Minh Đạo
Hoàng Minh Đạo, tên thật Đào Phúc Lộc, (1923 – 1969) là một trong những nhà tình báo nổi tiếng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời chiến tranh Việt Nam. Ông phụ trách phòng Tình báo Quân ủy của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ lúc mới thành lập . Tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với sự ra đời của ngành Tình báo quân sự Việt Nam. Ông được coi là người đầu tiên xây dựng nền móng cho sự thành lập của ngành tình báo Việt Nam ngay từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ông cũng là một trong những nhân vật quan trọng sáng lập ra Ban địch tình Xứ ủy Nam Kỳ và ngành Binh vận vào thời điểm 1954 – 1955) của Cách mạng miền Nam. Tiểu sử. Hoàng Minh Đạo sinh ra trong một gia đình viên chức có truyền thống yêu nước ở thôn Vườn Trầu, xã Hải Xuân, thành phố Móng Cái (Quảng Ninh). Tên khai sinh của ông là Đào Phúc Lộc. Ông tham gia cách mạng khi còn ở tuổi thiếu niên và hi sinh khi còn khá trẻ. Ông tham gia phong trào thanh niên, học sinh yêu nước ở Hải Phòng và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939 và trở thành người giữ liên lạc của đồng chí Tô Hiệu. Năm 1940, trong một chuyến công tác, Đào Phúc Lộc bị bắt, bị kết án 2 năm tù, bị tra tấn dã man nhưng thực dân Pháp không khai thác được gì ở người thanh niên dũng cảm này. Chúng đưa ông về Móng Cái quản thúc trong thời gian 5 năm.
wiki
Hoàng Minh Đạo
Năm 1943 – 1945, với nhiệm vụ được Trung ương Đảng giao, Đào Phúc Lộc với bí danh Hoàng Minh Đạo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cho cách mạng nhiều hạt giống tốt, nhiều người trưởng thành là cán bộ nòng cốt trong quân đội và đặc biệt trong ngành tình báo từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp.   Trong thời kỳ chỉ huy và hoạt động tình báo ở miền Bắc, Đào Phúc Lộc đã xây dựng được nhiều cơ sở bí mật, nhiều cộng tác viên của mình trong nội thành Hà Nội, trong số đó có thể kể đến gia đình ba chị em ở nhà số 41 (sau đó là nhà số 36) phố Lò Sũ, Hà Nội. Người chị cả là bà Nguyễn Thị Kíu, em trai là Nguyễn Công Cầu và em gái út là Nguyễn Thị Hiền. Bà Kíu và ông Cầu là hai chủ tiệm bánh kẹo Tùng Hiên nổi tiếng ở Hà Nội và quanh vùng lúc bấy giờ. Cách mạng Tháng Tám thành công, Đào Phúc Lộc về Hà Nội nhận nhiệm vụ là Trưởng phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu khi mới 22 tuổi, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. Từ một liên lạc viên ông trở thành Trưởng phòng tình báo đầu tiên của Quân uỷ hội, ông lần lượt nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Trưởng ban quân báo Nam Bộ, Phó Ban binh vận Trung ương cục Miền Nam, Ủy viên thường vụ Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định, Bí thư Khu 5 – Bí thư phân khu I Sài Gòn - Gia Định, Chính uỷ lực lượng Biệt động Sài Gòn.
wiki
Hoàng Minh Đạo
Đêm ngày 24 rạng ngày 25 tháng 12 năm 1969, đoàn công tác của ông trên đường về họp tại trung ương Cục đã sa vào ổ phục kích của địch, ông cùng đồng đội của mình đã hy sinh trên sông Vàm Cỏ Đông. Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Văn Linh đã hai lần chỉ đạo Tư lệnh Phân khu I Tám Lê Thanh tìm kiếm thi hài của ông nhưng không có kết quả. Ngày 8 tháng 8 năm 1998, lễ truy điệu liệt sĩ Đào Phúc Lộc được tổ chức long trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện di hài của ông được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh. Gia đình. Ông lập gia đình hai lần, cả hai người vợ đều là đồng chí, đồng đội của ông. Người vợ đầu là bà Minh Phụng, một nữ chiến sĩ tình báo không may mất sớm vì căn bệnh sốt rét ác tính tại chiến khu Việt Bắc, để lại một con gái mới tròn hai tuổi. Người vợ thứ hai sau này là bà Bùi Ngọc Hường, hay còn gọi là chị Sáu Dân, Năm Ngọc, bà sinh cho ông ba người con. Nhận định. Ông Nguyễn Văn Linh, nguyên Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam đã viết về ông: "Có nhiều thời gian công tác với đồng chí Đạo tại chiến khu miền Nam, Campuchia, khu ủy Sài Gòn – Gia Định, tôi thấy: đồng chí Hoàng Minh Đạo còn có nhiều bí danh khác như Năm Thu, Năm Đời, Năm Sài Gòn – là một đồng chí trung kiên, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng phân công, tận tụy với Đảng cho tới ngày hi sinh"
wiki
Hoàng Minh Đạo
Ông Võ Văn Kiệt, nguyên Thủ tướng Chính phủ nói chuyện với Đào Thị Minh Vân, con gái Hoàng Minh Đạo: "Chú vẫn giữ những ấn tượng sâu sắc về ba cháu, một cán bộ gương mẫu và luôn hoàn thành nhiệm vụ được trao, một người đồng chí chân thành, cởi mở, lạc quan, trong gần mười năm cùng công tác ở Khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Chú mong cháu luôn cố gắng, xứng đáng với ba cháu". Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói: "Tôi rất cảm động hôm nay gặp mặt cháu Đào Thị Minh Vân, con gái đồng chí Hoàng Minh Đạo, đã được Quân ủy Trung ương cử đi làm Trưởng ban quân báo Nam Bộ từ năm 1948. Anh đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Nhớ tới anh Đạo, tôi mong rằng con và cháu của anh noi gương của ông, của cha, học tập tốt, lao động tốt, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, xứng đáng là con cháu của Bác Hồ, đáp ứng lòng mong mỏi của anh Đạo". Tái hiện cuộc đời. Văn học. Cuộc đời ông được tái hiện trong tác phẩm văn học "Chân dung một nhà tình báo" của nhà văn Hàn Song Thanh, xuất bản năm 1999. Cuốn sách ""Khúc bi tráng trên sông Vàm Cỏ" được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2008.("Chuyện chưa biết về người anh hùng"" được xuất bản lần thứ nhất vào năm 2002) Ngày 19 tháng 12 năm 2014, Đào Thị Minh Vân (con của ông Đào Phúc Lộc với người vợ quá cố Minh Phụng) ra mắt cuốn tự truyện “Không thể mồ côi”– tác phẩm hưởng ứng Cuộc thi sáng tác tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” (2012 – 2015) do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Phim.
wiki
Hoàng Minh Đạo
Phim. Cuộc đời hoạt động của ông đã được dựng thành phim vào năm 2006. Chân dung nhà tình báo, liệt sĩ anh hùng Đào Phúc Lộc qua lời kể của thân nhân, đồng đội, một số vị lãnh đạo cao cấp và nổi tiếng cùng những cuốn sách viết về cuộc đời ông đã được các nhà làm phim của Công ty nghe nhìn – Đài phát thanh truyền hình Hà Nội xây dựng thành một bộ phim dài tập. Bộ phim có tên là "Con đường sáng", nhân vật chính là Hoàng Minh Đạo do diễn viên Xuân Bắc thủ vai của đạo diễn Phạm Việt Thanh – Nguyễn Đức Việt. Bộ phim đã được khởi chiếu vào dịp tết âm lịch Mậu Tý 2008 trên kênh H của Đài phát thanh – Truyền hình Hà Nội. Vinh danh. Đào Phúc Lộc được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngày 10 tháng 8 năm 1998 và truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 1999. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... đều có những đường, phố mang tên ông. Tại Hà Nội, tên bí danh "Hoàng Minh Đạo" ông được đặt cho một con phố tại Quận Long Biên Tại Quảng Ninh, quê hương ông, tên khai sinh Đào Phúc Lộc của ông được đặt cho tuyến đường kéo dài từ đường Hùng Vương đến phố Vườn Trầu thuộc phường Trần Phú, thành phố Móng Cái. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân]] [[Thể loại:Huân chương Hồ Chí Minh]] [[Thể loại:Người Quảng Ninh]] [[Thể loại:Điệp viên Việt Nam]] [[Thể loại:Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo, Quân đội nhân dân Việt Nam]] [[Thể loại:Người họ Hoàng tại Việt Nam]]
wiki
Đại học Công nghệ Warszawa
Đại học Công nghệ Warszawa (, theo nghĩa đen, "Trường bách khoa Warszawa ") là một trong những viện công nghệ hàng đầu ở Ba Lan và là một trong những viện lớn nhất ở Trung Âu. Trường gồm 2.453 nhân lực giảng dạy, với 357 giảng viên (trong đó có 145 giáo sư). Số lượng sinh viên là 36.156 (tính đến năm 2011), chủ yếu là toàn thời gian. Trường có 19 khoa (bộ phận) bao gồm hầu hết các lĩnh vực khoa học và công nghệ. Hầu hết các khoa nằm ở Vác-sa-va, ngoại trừ một khoa ở Płock. Đại học Công nghệ Vác-sa-va có khoảng 5.000 sinh viên tốt nghiệp mỗi năm. Theo khảo sát của tờ báo "Rzeczpospono" năm 2008, các kỹ sư điều hành các công ty Ba Lan. Các công ty Công nghệ Vác-sa-va chiếm tỷ lệ cao nhất trong số các nhà quản lý và giám đốc điều hành Ba Lan. Mỗi tổng giám đốc thứ chín trong số 500 tập đoàn hàng đầu ở Ba Lan đều tốt nghiệp Đại học Công nghệ Vác-sa-va. Giáo sư Kurnik, hiệu trưởng trường, giải thích rằng trường cung cấp một cơ sở vững chắc về hiệu suất quản lý cho người học, bằng cách trang bị cho sinh viên của mình một nền giáo dục ở cấp cao nhất với sự chuẩn bị đầy đủ về các công cụ và thông tin, bao gồm cả kiến thức về ngoại ngữ. Đại học Công nghệ Vác-sa-va hình thành từ năm 1826 khi giáo dục kỹ thuật được khởi xướng tại Học viện Công nghệ Vác-sa-va. Năm 2018, tờ báo Times Greater Education xếp hạng trường đại học này thuộc phạm vi 601-800 trên toàn cầu. Lịch sử. 1826 - 1831.
wiki
Đại học Công nghệ Warszawa
Năm 2018, tờ báo Times Greater Education xếp hạng trường đại học này thuộc phạm vi 601-800 trên toàn cầu. Lịch sử. 1826 - 1831. Các trường đại học công nghệ Ba Lan bắt nguồn từ thế kỷ 18. Chúng có liên quan đến công nghệ quân sự hoặc khai thác, đòi hỏi các quy trình công nghệ phức tạp do việc khai thác các đường nối sâu hơn. Mô hình trường đại học công nghệ được thiết kế bởi người Pháp. Vào năm 1794, chính phủ Pháp thành lập Trường bách khoa Ecole ở Paris Vào đầu thế kỷ 19, các trường đại học công nghệ đã được mở tại Pra-ha (năm 1806), Viên (1815) và Karlsruhe (1824). Tại Ba Lan, trường đại học công nghệ đa ngành đầu tiên là Trường dự bị cho Viện Công nghệ, thành lập vào ngày 4 tháng 1 năm 1826. Đại học Công nghệ Vác-sa-va vẫn nuôi dưỡng truyền thống của mình. Người đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thành lập trường và viết điều lệ cho trường là Stanisław Staszic. Kajetan Garbiński, một nhà toán học và giáo sư Đại học Vác-sa-va đã lên giữ chức giám đốc. Ngôi trường này đã bị đóng cửa vào năm 1831, sau Cuộc nổi dậy tháng 11. Từ 1945 đến nay. Sau khi quân đội Đức bị đánh đuổi khỏi Vác-sa-va, các lớp học được tổ chức một cách tự phát vào ngày 22 tháng 1 năm 1945. Đến cuối năm, tất cả các khoa trước chiến tranh đã được mở lại. Những tòa nhà cũ và bị chiến tranh tàn phá được xây dựng lại nhanh chóng. Năm 1951, Đại học Công nghệ Vác-sa-va đã hợp nhất Trường Kỹ thuật của Wawelberg và Rotwand. Trung tâm nghiên cứu và học thuật ở Płock được thành lập vào năm 1967.
wiki
Đại học Công nghệ Warszawa
Trung tâm nghiên cứu và học thuật ở Płock được thành lập vào năm 1967. Năm 1945 có 2.148 sinh viên theo học tại sáu khoa (bộ phận). Đến năm 1999 đã có 22.000 sinh viên theo học tại 16 khoa. Đại học Công nghệ Vác-sa-va đã cấp hơn 104.000 bằng Cử nhân Khoa học và Thạc sĩ Kỹ sư Khoa học trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến 1998. Trong những năm qua, trường đại học này là một trung tâm khoa học quan trọng, đào tạo nhân viên học thuật cho mục đích riêng của mình và cho các trường công nghệ khác của Ba Lan. Từ năm 1945 đến năm 1998, 5.500 luận án tiến sĩ đã được viết. Có gần 1.100 luận văn đủ điều kiện cho vị trí trợ lý giáo sư. Số lượng nhân lực có trình độ học vấn cao tăng lên đáng kể. Năm 1938, trường có 98 giáo sư và phó giáo sư, cũng như 307 trợ lý giáo sư và trợ lý giảng dạy. Năm 1948, những con số này tăng lên lần lượt là 87 và 471 người. Năm 1999 có 371 giáo sư, 1.028 trợ giáo, 512 giảng viên và 341 trợ giảng. Khoa. Cơ sở Płock:
wiki
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm (chữ Hán: 新方世玉; phiên âm Quảng Đông: San Fong Sai Yuk, Quan Thoại: Xin Fang Shi Yu, tựa tiếng Anh là "Hero of the Times") của đạo diễn Viên Tái Hiển. Phim thuộc thể loại kiếm hiệp võ thuật. Bộ phim được đóng 30 tập được sản xuất năm 1999, với sự tham gia của diễn viên nổi tiếng của điện ảnh Trung Quốc là Triệu Văn Trác cùng các diễn viên Lưu Tuyết Hoa, Từ Cẩm Giang. Đây là một trong những seri phim truyền hình lấy cuộc đời và huyền thoại của nhân vật Phương Thế Ngọc làm đề tài chính. Trong phim có nhiều pha võ thuật gay cấn, những tình tiết dồn dập thu hút người xem. Tân Phương Thế Ngọc là sản phẩm hợp tác của các hãng giải trí lớn của Hồng Kông, Trung Quốc Đại Lục và Singapore. Chính vì thế điều kiện sản xuất của phim có nhiều cải thiện, phục trang bối cảnh hay phần kỹ xảo được đầu tư hơn hẳn các phim trước đây cùng về đề tại này đồng thời Tân Phương Thế Ngọc là một trong khá nhiều bộ phim khắc họa hình tượng người anh hùng trẻ tuổi Phương Thiếu Ngọc của màn ảnh Hoa ngữ. Nội dung phim. Giữa năm Ung Chính – nhà Thanh, các chí sĩ nổi dậy khắp nơi để lật đổ sự thống trị của người Mãn Thanh. Ung Chính Hoàng Đế cử đại nội cao thủ Nạp Lan Đức Cương dẫn đầu đội tổ chức giết người bí mật (Huyết Trích Tử) đến Dương Châu để tiêu diệt tổ chức Đại Minh Hội muốn phản Thanh phục Minh, phát động một trận chiến đẫm máu…
wiki
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm
Trong loạn thế này, Phương Thế Ngọc đang sống một cuộc sống thoải mái, không quan tâm đến thời cuộc đang bị xáo động. Ngày nào cũng cùng bạn thân là Nạp Lan Đức Khải tiêu dao vui vẻ. Nhưng những ngày tháng đó đã kết thúc từ khi có sự xuất hiện của Chu Lệnh Sách. Chu Lệnh Sách là anh hùng phản Thanh đang bị triều đình truy nã. Khi xưa, ông ta và vợ chồng của Miêu Thúy Hoa từng có một cuộc tình tay ba. Do Chu Lệnh Sách rất coi trọng việc phản Thanh phục Minh nên đã chấm dứt chuyện tình này. Sau đó, Miêu Thúy Hoa lấy cha của Phương Thế Ngọc là Phương Đức nhưng trong lòng của Miêu Thúy Hoa không thể quên hình bóng Chu Lệnh Sách. Phương Đức không thể quên mình là người Hán, âm thầm chống đối triều đình, ủng hộ tổ chức phản Thanh phục Minh. Không ngờ sự việc của ông ta bị bại lộ, Nạp Lan Đức Cương cho người đến bao vây nhà họ Phương, bắt Phương Đức. Phương Gia gặp nạn, mọi thứ xảy ra làm cho Phương Thế Ngọc nhìn rõ sự hiểm ác của con đường làm quan, kể cả bạn thân Tống Thiết Trụ cũng bán đứng anh ta. Rất may bên cạnh còn những người bạn thân Nạp Lan Đức Khải và hai vị hồng nhan tri kỷ Lôi Tiểu Thế và Phó Lục Cách Cách, họ sống chết có nhau, cùng hoạn nạn…
wiki
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm
Phương Thế Ngọc quyết tâm lên Thiếu Lâm Tự học võ, để hoàn thành nguyện vọng phản Thanh phục Minh của cha mình. Nhưng không may, một lần đi hành thích Ung Chính Hoàng Thượng, anh ta phát hiện Ung Chính là một ông vua tốt, rất yêu dân, không đến nỗi như lời đồn trên giang hồ nói ông ta là một vị bạo chúa. Cuối cùng, Phương Thế Ngọc và Ung Chính thề với nhau bất luận ở trong triều hoặc ở ngoài nhân gian hai người cũng quyết tâm vì nước vì dân, làm lên một sự nghiệp lớn… Nhân vật chính. Phương Thế Ngọc, quý tử của thương gia danh tiếng Phương Đức và nữ hiệp Miêu Thúy Hoa. Ngay từ nhỏ, Phương Thế Ngọc đã được mẹ - một đệ tử xuất sắc của phái Thiếu lâm tư truyền dạy các thế võ. Vốn thông minh, lanh lợi, Phương Thế Ngọc học hỏi rất nhanh, tiến bộ từng ngày. Dù có vẻ nghịch ngợm, quậy phá, song thực chất Phương Thế Ngọc là người luôn biết đúng sai, bênh vực kẻ yếu.
wiki
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm
Thời niên thiếu của anh đầy ắp những chiến công bảo vệ lẽ phải. Khi phong trào phản Thanh phục Minh được hắc bạch hộ pháp Quỷ Ảnh Tu La Châu của Đại Minh hội kêu gọi, vợ chồng Phương Đức cùng tham gia. Phương Thế Ngọc ra tay cứu người của Đại Minh, bị cuốn vào cuộc chiến giữa những người theo phái phản Thanh phục Minh với triều đình Ung Chính... Sau đó, Phương Thế Ngọc đang sống một cuộc sống thoải mái, không quan tâm đến thời cuộc đang bị xáo động. Ngày nào cũng cùng bạn thân – Nạp Lan Đức Khải tiêu dao vui vẻ. Khi biến cố xảy ra. Ở trong cảnh cuối của phim, Phương Thế Ngọc đã tha chết cho Ung Chính vì nhận thấy đây là một ông vua có năng lực, và nếu giết ông này thì nội loạn sẽ xảy ra và nhân dân vẫn là người phải trực tiếp chịu nạn. Trong phim Nạp Lan Đức Cương () xuất hiện khi được vua Ung Chính ra lệnh dẫn đầu đội tổ chức giết người bí mật đó là Huyết Trích Tử, người đến Dương Châu để tiêu diệt tổ chức Đại Minh Hội muốn phản Thanh phục Minh, phát động một trận chiến đẫm máu. Nhân vật này được xây dựng là dòng dõi người Mãn Châu với họ Nạp Lan (chữ Hán: 納蘭). Ông là anh trai của Nạp Lan Đức Khải, người đã giúp Phương Thế Ngọc trong việc giải oan cho cha.
wiki
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm
Sau này, ông bị Ung Chính thanh trừng. Những người Hán cho rằng đây là một sự trừng phạt thích đáng. Sau đó, ông là vị tướng nhà Thanh và là một trong số các thống soái của Triều đình dưới thời trị vì của Hoàng Đế Ung Chính, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy tinh binh Bát kỳ của nhà Thanh và sau đó được giao nhiệm vụ giám sát hoạt động của Thiên Địa Hội. Sau khi biết được nơi ẩn nấp của Thiên Địa Hội, Nạp Lan Đức Cương đã cho người đến bao vây nhà họ Phương để bắt bớ những người thân của Phương Thế Ngọc Trong phim là một vị quan tri phủ của nhà Thanh cai quản Dương Châu. Trước kia, ông vốn là một thương gia người Hán rất giàu có. Sau này, ông nhờ có danh tiếng trong vùng nên được vua Ung Chính nhà Thanh giao cho chức tri phủ. Ông còn là một trong hai Hộ pháp của Thiên Địa hội (Hắc Bạch hộ pháp, bao gồm ông và Yến Tử Dương). Tuy là quan văn nhưng Phương Đức rất giỏi võ và còn được mệnh danh là Thần tướng áo trắng. Ông đã từng cùng các thành viên Thiên Địa hội ám sát Khang Hy nhưng không thành công.
wiki
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm
Phương Đức là cha của Phương Thế Ngọc. Về sau, ông bị một thành viên trong Thiên Địa hội vu oan đã làm lộ bí mật của Thiên Địa hội. Để chứng minh sự trong sáng của mình, Phương Đức đã quyết định dùng gươm tự tử. Phương Thế Ngọc sau khi từ Thiếu Lâm Tự chở về Dương Châu đã được những người thân và mẹ cậu là Miêu Thuý Hoa (con gái của Miêu Hiển) báo tin cha cậu tự tử nên đã quyết định làm trong sáng vụ việc. Cậu đã được Nạp Lan Đức Khải (em trai của Nạp Lan Đức Cương) giúp đỡ tìm manh mối. Và cuối cùng, Phương Thế Ngọc đã tìm ra người phản bội trong Thiên Địa hội, giải oan cho cha. Trong phim là một thành viên trong Thiên Địa Hội. Khi còn nhỏ, Dương đã phải sống trong cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ. Ông xin vào làm trong một gánh hát có tên là Bảo Thái Bình và làm ở đó cho đến khi chết trong vai trò một ca sĩ. Ông hát rất hay, tiếng ca của ông làm cho nhiều người không hề nghi ngờ ông chính là thành viên Thiên Địa hội. Mặc dù là ca sĩ nhưng lại rất giỏi võ. Ông đã trở thành một trong hai hộ pháp của thiên địa hội(Hắc Bạch hộ pháp, gồm có ông và Phương Đức). Ông được mệnh danh là Bóng ma Tula. Ông từng tham gia vụ ám sát Khang Hy cùng với Phương Đức đã không thành công. Yến Tử Dương chết do trúng độc của một trong bốn thống lĩnh triều đình tên là U Hồng Tụ. Trong thời gian này, U Hồng Tụ đã có thai với Yến Tử Dương. Nhận xét.
wiki
Tân Phương Thế Ngọc - Anh hùng Thiếu Lâm
Nhận xét. Một số phương tiện báo giới ở Việt Nam đánh giá phim có nội dung cũ nhưng không sáo mòn, các trang phục và bối cảnh được đầu tư công phu, hầu hết các cảnh quay võ thuật trong phim đều được thực hiện ngoài trời, điều ít thấy trong phim truyền hình Hồng Kông và Singapore (Điều này đã làm các đại cảnh võ thuật của phim thuyết phục cả những người xem khó tính nhất) và đồng thời bộ phim là sự khẳng định sở trường diến xuất võ hiệp của Triệu Văn Trác và mở ra triển vọng diễn xuất của Lưu Tuyết Hoa ở dạng vai tinh nghịch, cá tính. (Xem phim bằng tiếng Hoa )
wiki
Bao Thanh Thiên (phim truyền hình 1993)
Bao Thanh Thiên(Tên tiếng Anh: Justice Pao) là loạt phim truyền hình nhiều tập Đài Loan do Đài Loan sản xuất và phát hành vào năm 1993. Lịch sử. Thuộc thể loại phim truyền hình cổ trang lấy đề tài điều tra phá án, loạt phim xoay xung quanh việc điều tra các vụ án xảy ra đời Bắc Tống được vị quan nổi tiếng là Bao Công xét xử. Trong phim, Bao Công được mô tả là "sao Văn Khúc giáng sinh", vừa có trí tuệ anh minh lại một lòng vì nước vì dân. Biểu tượng của bộ phim chính là hình ảnh Bao Công chấp pháp nghiêm minh, không nể nang thiên vị, không khiếp sợ cường quyền, đã bao phen hóa giải nỗi oan khuất và trừng trị kẻ gian ác tại công đường, được nhân dân coi là hiện thân của công lý nơi trần thế. "Đạo Trời lồng lộng, thưa mà không lọt; Vương tử phạm pháp tội như thứ dân" chính là lý tưởng cao cả của ông và các phụ tá ở phủ Khai Phong. Dàn diễn viên chính của bộ phim gồm Kim Siêu Quần vai Bao Công, Hà Gia Kính vai Triển Chiêu và Phạm Hồng Hiên trong vai Công Tôn Sách. Bản nhạc dạo đầu của phim là "Bao Thanh Thiên", kết thúc mỗi tập phim là bản "Tân uyên ương hồ điệp mộng", ngoài ra bản "Huề thủ du nhân gian" cũng được sử dụng. Bộ phim được dự kiến ​​ban đầu chỉ 15 tập. Tuy nhiên, những tập phát sóng ban đầu thu hút tỉ lệ xem đài cao. Do đó, CTS mở rộng độ dài loạt phim. Toàn bộ loạt phim truyền hình "Bao Thanh Thiên" có độ dài lên tới 236 tập với thời lượng 60 phút mỗi tập, mỗi câu chuyện về một vụ án thường diễn ra trong khoảng 4 đến 6 tập.
wiki