title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Quang Bình | Quang Bình là một huyện miền núi thuộc tỉnh Hà Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Quang Bình nằm ở phía tây nam tỉnh Hà Giang, có vị trí địa lý:
Huyện Quang Bình có diện tích 791,78 km², dân số năm 2019 là 61.711 người, mật độ dân số đạt 78 người/km².
Lịch sử.
Ngày 1 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 146/2003/NĐ-CP<ref name="146/2003/NĐ-CP">Nghị định 146/2003/NĐ-CP thành lập xã thuộc huyện Bắc Quang và thành lập huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang</ref> về việc thành lập huyện Quang Bình trên cơ sở:
Huyện Quang Bình có 77.463 ha diện tích tự nhiên và 50.886 nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã Bản Rịa, Yên Thành, Yên Bình, Bằng Lang, Xuân Giang, Nà Khương, Yên Hà, Tiên Yên, Hương Sơn, Tân Trịnh, Vĩ Thượng, Tân Bắc, Tiên Nguyên, Xuân Minh và Tân Nam.
Ngày 7 tháng 12 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết 47/NQ-CP về việc thành lập thị trấn Yên Bình (thị trấn huyện lỵ huyện Quang Bình) trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Yên Bình. Huyện Quang Bình có 1 thị trấn và 14 xã như hiện nay.<ref name="47/2010/NQ-CP"></ref>
Hành chính.
Huyện Quang Bình có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Yên Bình (huyện lỵ) và 14 xã: Bản Rịa, Bằng Lang, Hương Sơn, Nà Khương, Tân Bắc, Tân Nam, Tân Trịnh, Tiên Nguyên, Tiên Yên, Vĩ Thượng, Xuân Giang, Xuân Minh, Yên Hà, Yên Thành.
Kinh tế - xã hội. | wiki |
Quang Bình | Kinh tế - xã hội.
Huyện Quang Bình là đầu mối giao thông quan trọng phía Tây - Nam của tỉnh Hà Giang giao thương với tỉnh Lào Cai và Yên Bái. DO vậy, hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ khu trung tâm thị trấn Yên Bình luôn sôi động. Năm 2009, tổng mức luân chuyển hàng hóa dịch vụ, thương mại - du lịch của thị trấn đạt 21,2 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản lượng lương thực quy thóc năm 2009 của thị trấn đạt 244,5 tấn, bình quân lương thực đầu người 485 kg/người/năm.
Là một địa phương trẻ nhất trong tỉnh do mới được thành lập, huyện Quang Bình có diện tích tự nhiên là 77.463 ha và dân số khoảng 50.886 người. Mặc dù gần như phải gây dựng và phát triển từ đầu, song với sự nỗ lực, đoàn kết, thống nhất của Đảng bộ và nhân dân, huyện Quang Bình đã không ngừng vươn lên, đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và giữ vững an ninh, quốc phòng. | wiki |
Quang Bình | Được sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước cũng như của tỉnh Hà Giang, năm 2003, huyện đã vượt qua nhiều thách thức, khó khăn, duy trì được sự phát triển đồng đều ở các ngành, các lĩnh vực với mức tăng trưởng kinh tế đạt 11%; giá trị tổng sản phẩm xã hội đạt 165 tỷ đồng và thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 3,2 triệu đồng/năm. Trong sản xuất nông nghiệp, huyện đã khuyến khích và chỉ đạo thực hiện thâm canh, tăng vụ chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Ngoài các loại cây lương thực, thực phẩm, các địa phương trong huyện đã tích cực đa các loại cây trồng khác như: chè, cây ăn quả, măng tre Bát độ...vào sản xuất trên diện rộng. Bởi vậy, năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích canh tác không ngừng được nâng cao. Tổng sản lượng lương thực trên địa bàn đạt 24.513 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 486 kg/năm. Chăn nuôi,lâm nghiệp được chú trọng phát triển, góp phần cải thiện đời sống cho bà con nông dân. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mặc dù được quan tâm, khuyến khích phát triển nhưng chủ yếu vẫn là các cơ sở nhỏ, lẻ với giá trị sản xuất cả năm chỉ đạt khoảng 29 tỷ đồng. Đặc biệt, bằng các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước và huy động trong dân, huyện đã đầu tư trên 50 tỷ đồng vào việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng. Hệ thống điện, đường, trường, trạm đã từng bước được xây dựng khang trang, kiên cố hơn. Hoạt động thương mại, dịch vụ được mở rộng hơn thông qua mạng lưới chợ phiên và các điểm bán lẻ tới tận | wiki |
Quang Bình | Hệ thống điện, đường, trường, trạm đã từng bước được xây dựng khang trang, kiên cố hơn. Hoạt động thương mại, dịch vụ được mở rộng hơn thông qua mạng lưới chợ phiên và các điểm bán lẻ tới tận các vùng sâu, vùng xa, cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân. Bên cạnh việc phát triển kinh tế, các cấp chính quyền trong huyện cũng thường xuyên quan tâm, thúc đẩy phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội. Đời sống tinh thần, đặc biệt là dân trí và điều kiện chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được nâng lên một bước. | wiki |
Quang Bình | Năm 2004, huyện Quang Bình đề ra mục tiêu: "Phát triển kinh tế với tốc độ cao và ổn định, chuyển biến một cách mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, nâng cao giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh trên thị trường. Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đẩy mạnh áp dụng khoa học công nghệ trong hoạt động kinh tế, xã hội. Thực hiện có hiệu quả công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống cho nhân dân, giải quyết những vấn đề xã hội và giữ vững an ninh, quốc phòng". Trên cơ sở đó huyện phấn đấu đạt giá trị tổng sản phẩm tăng từ 11% trở lên, trong đó nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 5%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng tăng 37% và dịch vụ, thương mại tăng 25% trở lên. Thu nhập bình quân đầu người đạt 3,5 triệu đồng/năm; giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống còn 7%.
Với xuất phát điểm kinh tế thấp, huyện Quang Binh còn gặp khá nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, với những chính sách phát triển đúng đắn và phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn, huyện đang dần bứt lên, từng bước thoát khỏi đói nghèo, hoà nhịp cùng các địa phương trong công cuộc đổi mới và phát triển. | wiki |
Giải Wolf về Nông nghiệp | Giải Wolf về Nông nghiệp
Giải Wolf về Nông nghiệp (tiếng Anh: "Wolf Prize in Agriculture") là một trong 6 giải thưởng của Quỹ Wolf được trao hàng năm cho những đóng góp xuất sắc trong lãnh vực Nông nghiệp. Giải này được lập ra từ năm 1978. Các giải thưởng khác của Quỹ Wolf là Giải Wolf về Hóa học, Giải Wolf về Toán học, Giải Wolf về Y học, Giải Wolf Vật lý và Giải Wolf về Nghệ thuật. Giải này đôi khi được coi như tương đương với giải Nobel Nông nghiệp, mặc dù sự đánh giá như vậy cũng được gán cho Giải Lương thực thế giới ("World Food Prize"). | wiki |
Amikiri | Amikiri
Amikiri ( hay , Hán Việt: "Võng Thiết" và "Võng Tiễn", nghĩa là "Kẻ cắt lưới") là một yêu quái Nhật Bản được mô tả trong Gazu Hyakki Yagyō của Toriyama Sekien.
Mô tả về Amikiri.
"Amikiri" là những con yōkai nhỏ, giống như giáp xác giống như tôm hoặc tôm hùm. Chúng có thân hình dài, vỏ màu đỏ, phân đoạn, mỏ giống chim và hai móng vuốt giống như hình cắt kéo trên cẳng tay. Chúng bay trong không khí khi một con cá bơi trong nước, và khá nhút nhát, hiếm khi xuất hiện trước con người.
Pháp lý.
Một câu chuyện từ quận Yamagata kể về một ngư dân, một ngày nọ thấy rằng lưới đánh cá của mình đã bị cắt vụn đến mức vô giá trị. Ông nghi ngờ công việc của một "amikiri". Ngày hôm sau, anh ta đặc biệt cẩn thận giấu lưới tại nhà của mình, nơi không thể tìm thấy chúng bởi bất kỳ yokai lang thang nào. Tuy nhiên, đêm đó, "amikiri" lẻn vào phòng trong khi anh ta ngủ và cắt "kaya" (người đàn ông) trên giường. Người đàn ông tỉnh dậy với toàn bộ cơ thể bị bao phủ bởi những vết muỗi đốt đau đớn, ngứa ngáy. | wiki |
Cổ Nhuế 1 | Cổ Nhuế 1
Cổ Nhuế 1 là một phường thuộc quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Địa lý.
Phường Cổ Nhuế 1 nằm ở phía đông quận Bắc Từ Liêm, có vị trí địa lý:
Phường có diện tích 2,22 km², dân số năm 2020 là 45.274 người, mật độ dân số đạt 20.394 người/km².
Lịch sử.
Phường Cổ Nhuế 1 được thành lập vào ngày 27 tháng 12 năm 2013 trên cơ sở điều chỉnh 217,70 ha diện tích tự nhiên và 33.346 người của xã Cổ Nhuế, 3,30 ha diện tích tự nhiên và 372 người của thị trấn Cầu Diễn thuộc huyện Từ Liêm cũ.
Sau khi thành lập, phường có 221 ha diện tích tự nhiên và 33.718 người.
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1263/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2021). Theo đó, điều chỉnh 10,32 ha diện tích tự nhiên khu vực 8 tổ dân phố Bắc Nghĩa Tân do phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy quản lý hành chính (bao gồm các tổ dân phố số 25, 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32) đang thuộc địa giới hành chính của phường Cổ Nhuế 1 vào phường Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, phường Cổ Nhuế 1 có diện tích 2,22 km², dân số là 45.274 người. | wiki |
Sách giáo khoa | Sách giáo khoa
Sách giáo khoa (viết tắt là trong tiếng Việt SGK) là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với mục đích dạy và học tại trường học. Thuật ngữ sách giáo khoa còn có nghĩa mở rộng là một loại sách chuẩn cho một ngành học. Sách giáo khoa được phân loại dựa theo đối tượng sử dụng và chủ đề của sách. Việc xuất bản sách giáo khoa thường dành cho các nhà xuất bản chuyên ngành. Sách giáo khoa giúp học sinh tổng hợp, nắm rõ kiến thức cơ bản. Từ đó, phát triển tư duy, cảm nhận qua các dạng bài tập nâng cao khác.
Ngày nay, bên cạnh dạng sách in, nhiều sách giáo khoa có phiên bản sách điện tử.
Sách giáo khoa phổ thông.
Ở cấp phổ thông, sách giáo khoa là sự thể hiện những nội dung cụ thể của chương trình phổ thông. Trên thế giới, có những nước có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau được biên soạn cho cùng một môn học. Tại Việt Nam, từ năm 2002-2020 chỉ tồn tại một bộ sách giáo khoa duy nhất cho một môn học.
Kiến thức trong sách giáo khoa là một hệ thống kiến thức khoa học, chính xác, theo các cấp độ logic chặt chẽ khác nhau. Ngoài phần kiến thức, sách giáo khoa còn có phần nội dung về rèn luyện các kỹ năng. Nội dung kiến thức cũng như nội dung về rèn luyện các kỹ năng được gia công về mặt sư phạm cho phù hợp với trình độ học sinh và thời gian học tập. Logic của nội dung kiến thức và phần nội dung về rèn luyện các kỹ năng là những yếu tố chủ yếu trong việc định hướng lựa chọn phương pháp giảng dạy môn học. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Tăng áp lực nội sọ vô căn (viết tắt: TALNS vô căn), trước đây được gọi là tăng áp lực nội sọ nguyên phát, tăng áp lực nội sọ lành tính hay giả u não là tình trạng tăng áp lực nội sọ (áp lực xung quanh não) mà không tìm được nguyên nhân. Các triệu chứng chính là đau đầu, rối loạn thị lực, ù tai và đau vai, có thể gây biến chứng mất thị lực.
"Vô căn" có nghĩa là không tìm thấy nguyên nhân. Tuy vậy, thừa cân hoặc tăng cân nhanh trong thời gian ngắn, sử dụng tetracycline là những yếu tố nguy cơ gây tăng áp lực nội sọ vô căn. Chẩn đoán dựa vào triệu chứng lâm sàng, chọc dịch não tủy thấy áp lực cao và không thấy nguyên nhân cụ thể thể hiện trên chẩn đoán hình ảnh.
Trong quá trình điều trị, bệnh nhân cần có một chế độ ăn uống lành mạnh, hạn chế ăn muối và tích cực tập thể dục, có thể sử dụng bổ sung thuốc acetazolamide. Một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân cần phẫu thuật giảm áp.
Mỗi năm có khoảng 2 trên 100 000 người mắc mới. Tình trạng này thường ảnh hưởng nhất đến phụ nữ ở độ tuổi 20–50. Phụ nữ bị nhiều hơn nam giới khoảng 20 lần. Tăng áp lực nội sọ vô căn được mô tả lần đầu tiên vào năm 1897.
Triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Triệu chứng cơ năng và triệu chứng thực thể.
Triệu chứng phổ biến nhất của TALNS vô căn là nhức đầu dữ dội, xảy ra ở hầu hết (92–94%) trường hợp. Đau đầu tăng lên vào buổi sáng, đau toàn bộ vùng đầu, tính chất đau đầu là đau nhói. Đau đầu có thể kèm với buồn nôn và nôn. Cơn đau đầu có thể nặng hơn nếu có những hoạt động làm tăng áp lực nội sọ, chẳng hạn như ho, hắt hơi hoặc làm nghiệm pháp Valsava. Cơn đau có thể lan xuống cổ và vai. Nhiều người bị ù tai theo mạch đập, ù tai ở một hoặc cả hai tai (64–87%). Nhiều triệu chứng khác, chẳng hạn như dị cảm tứ chi, yếu liệt toàn thân, đau và/hoặc dị cảm ở một hoặc cả hai bên mặt, mất khứu giác và hiếm gặp hơn là thất điều (mất điều hòa vận động); nhưng các triệu chứng này không đặc hiệu cho TALNS vô căn. Trẻ em có nhiều triệu chứng không đặc hiệu cho bệnh. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Áp lực gia tăng dẫn đến chèn ép hoặc đứt dây thần kinh sọ cho phối cho mặt và cổ, hay gặp nhất là dây thần kinh giạng (thần kinh sọ VI). Dây thần kinh này chi phối vận động cho cơ thẳng ngoài (khi co thì kéo nhãn cầu ra ngoài). Do đó, những người bị liệt thần kinh giạng bị nhìn đôi theo chiều ngang, nhìn đôi trở nên trầm trọng hơn khi nhìn về phía bị liệt. Bệnh hiếm khi làm ảnh hưởng đến thần kinh vận nhãn (thần kinh sọ III) và thần kinh ròng rọc (thần kinh sọ IV); cả hai dây thần kinh III và IV đều có vai trò tạo chuyển động của nhãn cầu. Đôi khi thần kinh mặt (thần kinh sọ VII) bị ảnh hưởng, kết quả là các cơ biểu cảm nét mặt ở một hoặc cả hai bên mặt bị liệt hoàn toàn hoặc một phần.
Áp lực gia tăng dẫn đến phù gai thị, tức là phù đĩa thị giác, nơi thần kinh thị giác đi vào nhãn cầu. Biểu hiện này thực tế xảy ra trong tất cả các trường hợp TALNS vô căn, nhưng không phải ai cũng có triệu chứng. Những người gặp phải các triệu chứng thường thấy rằng họ bị "mất thị giác thoáng qua", các đợt mất thị lực xảy ra ở cả hai mắt nhưng không nhất thiết phải có thời gian mất thị lực giống nhau. Phù gai thị không được điều trị trong thời gian dài dẫn đến mất thị lực, ban đầu ở vùng ngoại vi và dần dần lan về trung tâm thị lực. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Khám thần kinh thường không phát hiện bất thường. Khám mắt bằng một thiết bị nhỏ gọi là kính soi đáy mắt hoặc chi tiết hơn với chụp ảnh màu đáy mắt ("fundus color photography") cho hình ảnh phù gai thị. Nếu có bất thường thần kinh sọ, khi khám mắt có thể phát hiện lác mắt (liệt dây thần kinh sọ III, IV và/hoặc VI) hoặc liệt thần kinh mặt (liệt dây thần kinh sọ V). Nếu phù gai thị đã có từ lâu dẫn đến hạn chế thị trường và giảm thị lực. Khám thị trường bằng chu vi kế (Humphrey) được khuyến nghị vì các phương thức khám thị trường khác kém chính xác hơn. Phù gai thị kéo dài dẫn đến teo thị giác, đặc trưng bởi hình ảnh đĩa thị nhợt nhạt và có giảm thị lực tiến triển.
Nguyên nhân.
"Vô căn" có nghĩa là không rõ nguyên nhân. Do đó, TALNS vô căn chỉ có thể được chẩn đoán nếu không có lời giải thích nào khác cho các triệu chứng trên cơ thể bệnh nhân. Áp lực nội sọ có thể tăng lên do các loại thuốc như dẫn xuất vitamin A liều cao (ví dụ isotretinoin trị mụn trứng cá), kháng sinh tetracyclin điều trị dài ngày (đối với nhiều tình trạng da) . Thuốc tránh thai nội tiết, đặc biệt là thuốc tránh thai đường uống (OCP), không có mối tương quan với TALNS. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Có nhiều bệnh gây tăng áp lực nội sọ (hầu hết là các bệnh hiếm gặp). Nếu tăng áp lực nội sọ có nguyên nhân gây ra thì được gọi là "tăng áp lực nội sọ thứ phát". Các nguyên nhân phổ biến của tăng áp lực nội sọ thứ phát bao gồm ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ), lupus ban đỏ hệ thống (SLE), bệnh thận mạn tính và bệnh Behçet.
Cơ chế.
Nguyên nhân của TALNS vô căn chưa rõ. Quy tắc Monro–Kellie phát biểu rằng áp lực nội sọ được xác định bởi nhu mô não, dịch não tủy (viết tắt là DNT) và máu bên trong xương sọ. Do đó, có ba lý thuyết giải thích tại sao áp lực có thể tăng lên trong TALNS vô căn: do tiết quá nhiều DNT, do tăng thể tích máu/nhu mô não hoặc do tắc nghẽn các tĩnh mạch dẫn máu ra khỏi não.
Giả thuyết đầu tiên là tăng tiết DNT. Tuy nhiên, không có dữ liệu thử nghiệm nào hỗ trợ vai trò của giả thuyết này trong TALNS vô căn.
Giả thuyết thứ hai cho rằng lưu lượng máu đến não hoặc thể tích nhu mô não tăng lên có thể dẫn đến TALNS. Ít bằng chứng ủng hộ cho cơ chế lưu lượng máu tăng. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu chụp mạch máu cộng hưởng từ tương phản pha ("phase contrast" "Magnetic Resonance Angiography") của Bateman "và cộng sự" đã định lượng lưu lượng máu não (CBF) "in vivo" và thấy rằng lưu lượng máu não tăng cao bất thường ở nhiều người mắc TALNS vô căn. Cả các mẫu sinh thiết và các phương pháp chẩn đoán hình ảnh não khác nhau đều cho thấy hàm lượng nước trong mô não tăng lên. Vẫn chưa rõ tại sao lại có hiện tượng này. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Giả thuyết thứ ba cho rằng việc đưa máu từ tĩnh mạch về tim bị hạn chế. Nhiều người bị TALNS vô căn bị hẹp các xoang tĩnh mạch ngang. Không rõ sự chít hẹp này là cơ chế bệnh sinh của bệnh hay là hiện tượng thứ phát. Có đề xuất cho rằng tồn tại một feedback sinh học dương tính, trong đó áp lực nội sọ tăng lên gây ra tình trạng hẹp tĩnh mạch trong các xoang ngang, dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch, làm hạt màng nhện giảm tái hấp thu DNT, hệ quả là làm tăng áp lực nội sọ.
Chẩn đoán.
Chẩn đoán dựa vào bệnh sử và khám lâm sàng. Để xác nhận chẩn đoán và loại trừ các nguyên nhân khác, cần phải làm một số xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh. Có thể phải xét nghiệm hay chẩn đoán hình ảnh kỹ càng hơn nếu biểu hiện bệnh không điển hình.
Cận lâm sàng.
Chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI), được sử dụng để loại trừ tổn thương dạng khối choán chỗ. Trong TALNS vô căn, chẩn đoán hình ảnh này thường cho kết quả bình thường. Có thể có hình ảnh não thất nhỏ hoặc hẹp, hình ảnh giãn não thất, hình ảnh biến dạng uốn ("buckling") của bao dây thần kinh thị giác và "dấu hiệu tuyến yên rỗng" (tuyến yên "phẳng đi" do tăng áp lực) và ổ Meckel giãn rộng. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Chụp tĩnh mạch đồ cộng hưởng từ ("magnetic resonance venography", viết tắt là MRV) được chỉ định trong hầu hết các trường hợp để loại trừ khả năng hẹp/tắc xoang tĩnh mạch hoặc huyết khối xoang tĩnh mạch não. Chụp Chụp tĩnh mạch đồ cộng hưởng từ ATECO có cản quang ("auto-triggered elliptic centric-ordered magnetic resonance", viết tắt là ATECO MRV) có tỷ lệ phát hiện cao các trường hợp hẹp xoang ngang bất thường. Những chỗ hẹp này có thể được xác định và đánh giá đầy đủ hơn bằng chụp tĩnh mạch não và đo áp suất não qua catheter.
Chọc dịch não tủy được chỉ định để đo áp lực mở, cũng như lấy DNT để loại trừ các chẩn đoán phân biệt khác. Nếu áp lực mở tăng, có thể hút dịch nảo tủy để giảm áp lực tạm thời. Tìm các tế bào bất thường, làm bilan nhiễm trùng, định lượng kháng thể, glucose và protein trong DNT để định hướng nguyên nhân. Theo định nghĩa, tất cả các chỉ số trên đều nằm trong giới hạn bình thường trong TALNS vô căn. Đôi khi áp lực DNT vẫn bình thường mặc dù có nhiều triệu chứng rất gợi ý cho bệnh. Nguyên nhân là bởi áp lực DNT dao động trong ngày. Nếu vẫn nghi ngờ thì có thể cần phải thực hiện theo dõi áp lực nội sọ lâu dài hơn bằng catheter áp lực.
Phân loại.
Năm 1937, Walter Dandy liệt kê các tiêu chuẩn chẩn đoán TALNS vô căn. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Phân loại.
Năm 1937, Walter Dandy liệt kê các tiêu chuẩn chẩn đoán TALNS vô căn.
Các tiêu chuẩn trên được Smith sửa đổi vào năm 1985, gọi là "tiêu chuẩn Dandy sửa đổi". Smith sử dụng phương pháp chẩn đoán hình ảnh tiên tiến hơn. Dandy đã yêu cầu chụp khí não ("Pneumoencephalography") bằng X-quang, sau này Smith đã thay thế bằng chụp cắt lớp vi tính. Trong một bài báo năm 2001, Digre và Corbett đã sửa đổi thêm các tiêu chuẩn của Dandy. Họ bổ sung thêm tiêu chuẩn rằng người đó phải tỉnh, tiếp xúc tốt, vì tình trạng hôn mê ngăn cản đánh giá thần kinh đầy đủ và đưa ra các tiêu chuẩn để loại trừ huyết khối xoang tĩnh mạch. Hơn nữa, họ đã thêm tiêu chuẩn rằng không tìm thấy bất cú nguyên nhân nào gây ra TALNS vô căn.
Trong một tổng quan năm 2002, Friedman và Jacobson đề xuất một bộ tiêu chuẩn chẩn đoán thay thế, bắt nguồn từ các tiêu chuẩn của Smith. Bộ tiêu chuẩn này yêu cầu bác sĩ chọc DNT ở tư thế bệnh nhân nằm nghiêng, vì chọc DNT khi ngồi thẳng có thể dẫn đến làm tăng áp lực nội sọ giả tạo. Friedman và Jacobson cũng không yêu cầu chụp cộng hưởng từ tĩnh mạch (MRV) cho tất cả bệnh nhân chỉ chỉ định cận lâm sàng này trong các trường hợp không điển hình.
Điều trị.
Mục tiêu trong điều trị TALNS vô căn là ngăn ngừa giảm thị lực gây mù lòa và kiểm soát triệu chứng. TALNS vô căn được điều trị chủ yếu thông qua việc giảm áp lực DNT và TALNS vô căn có thể khỏi sau điều trị ban đầu, có thể tự thuyên giảm (mặc dù vẫn có thể tái phát) hoặc có thể kéo dài mạn tính.
Chọc dịch não tủy. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Chọc dịch não tủy.
Bước đầu tiên trong kiểm soát triệu chứng là dẫn lưu DNT bằng cách chọc DNT (hay chọc dò tủy sống). Chọc DNT giúp vừa chẩn đoán (chẳng hạn như tìm các marker viêm trong nhiễm trùng DNT), vừa điều trị. Trong một số trường hợp, thủ thuật này là đủ để kiểm soát các triệu chứng và không cần điều trị thêm.
Thủ thuật trên có thể làm lại nhiều lần nếu cần thiết, nhưng ở những trường hợp này thường phải điều trị bổ sung để kiểm soát các triệu chứng và duy trì thị lực. Việc chọc DNT lặp đi lặp lại khiến bệnh nhân đau đớn và làm tăng nguy cơ gây nhiễm trùng cột sống. Đôi khi cần phải chọc DNT nhiều lần để kiểm soát áp lực nội sọ khẩn cấp nếu thị lực của bệnh nhân suy giảm nhanh chóng.
Thuốc.
Một trong những thuốc điều trị tăng áp lực nội sọ được chứng minh bằng các nghiên cứu chất lượng cao chính là acetazolamide (Diamox), hoạt động bằng cách ức chế enzyme carbonic anhydrase (CA) và làm giảm sản xuất DNT từ 6 đến 57%. Tác dụng phụ của thuốc là làm hạ kali máu, gây yếu cơ và ngứa ran ở các ngón tay. Acetazolamide không được sử dụng trong thời kỳ mang thai, vì thuốc đã được chứng minh là gây ra những bất thường về phôi thai trong các nghiên cứu trên động vật. Ngoài ra, ở người, thuốc đã được chứng minh là gây toan chuyển hóa cũng như làm rối loạn điện giải trong máu của trẻ sơ sinh. Thuốc lợi tiểu furosemide đôi khi được chỉ định để điều trị nếu bệnh nhân không dung nạp acetazolamide, nhưng thuốc này có thể ít tác dụng lên áp lực nội sọ. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Có thể sử dụng nhiều loại thuốc giảm đau để kiểm soát cơn đau đầu do tăng áp lực nội sọ. Ngoài các thuốc thông thường như paracetamol, thuốc chống trầm cảm amitriptyline liều thấp hoặc thuốc chống co giật topiramate đã được theo dõi trong nghiên cứu là có tác động bổ sung giúp giảm đau.
Việc sử dụng glucocorticoid để làm giảm áp lực nội sọ còn đang gây tranh cãi. Corticoid có thể sử dụng trong trường hợp phù nề nặng. Nếu không có phù nề thì việc sử dụng corticoid không được khuyến khích.
Đặt stent xoang tĩnh mạch.
Hẹp xoang tĩnh mạch dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch đóng một vai trò quan trọng liên quan đến tăng áp lực nội sọ. Đặt stent xoang ngang có thể giải quyết tăng áp lực tĩnh mạch, dẫn đến cải thiện tái hấp thu DNT, giảm áp lực nội sọ, điều trị phù nề và các triệu chứng khác của TALNS vô căn. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Trong một nghiên cứu đặt stent xoang ngang (TTS) trên 52 bệnh nhân TALNS vô căn được điều trị từ năm 2001 và theo dõi từ 2 tháng đến 9 năm, có 49 bệnh nhân đã được chữa khỏi tất cả các triệu chứng của bệnh. Tất cả các thủ thuật đặt stent được thực hiện dưới gây mê toàn thân vì việc sử dụng catheter để dẫn hướng trong quá trình đặt stent có thể làm bệnh nhân vô cùng đau đớn. Tất cả các bệnh nhân đều được chỉ định phác đồ kép chống kết tập tiểu cầu ("dual antiplatelet therapy", DAPT) trước khi làm thủ thuật, bao gồm aspirin (150 mg/ngày) và clopidogrel (75 mg/ngày), trong một tuần trước khi đặt stent. Sau khi đặt stent, bệnh nhân được theo dõi qua đêm trong phòng chăm sóc đặc biệt trước khi xuất viện, sau đó dùng clopidogrel trong ít nhất 3 tháng và aspirin trong ít nhất 1 năm.
Trong một phân tích hệ thống của 19 nghiên cứu với 207 ca bệnh được đặt stent xoang ngang, có 87% ca có cải thiện triệu chứng tổng thể và 90% ca điều trị khỏi phù gai thị. Biến chứng nặng chỉ xảy ra ở 3/207 người (1,4%). Trong nghiên cứu 52 ca TALNS đã được đề cập ở trên, tỷ lệ tái phát sau một lần đặt stent là 11% (6 trên 52 ca), cần phải đặt thêm stent.
Phẫu thuật. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Phẫu thuật.
Có hai phương pháp phẫu thuật chính để điều trị TALNS vô căn: "giảm áp và mở cửa sổ bao thần kinh thị giác" (một số tài liệu còn gọi là "phẫu thuật thẩm thấu ống thần kinh thị giác", "phẫu thuật giảm áp thần kinh thị giác", viết tắt là "ONSF") và "tạo" "shunt não". Phẫu thuật thường chỉ được thực hiện nếu điều trị nội khoa không thành công hoặc không đáp ứng. Lựa chọn hai phương pháp này phụ thuộc vào các vấn đề gây ra bởi TALNS vô căn. Không có phương pháp nào là hoàn hảo: cả hai đều có thể gây ra các biến chứng đáng kể và có thể thất bại trong việc kiểm soát các triệu chứng. Không có thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng nào quyết định phương pháp nào là tốt nhất.
Phẫu thuật mở cửa sổ bao thần kinh thị giác (ONSF) là phương pháp phẫu thuật mà phẫu thuật viên rạch một đường ở lớp mô liên kết của thần kinh thị giác ở phần phía sau mắt. Không rõ tại sao thao tác này giúp bảo vệ mắt tránh bị tăng áp lực, có thể do DNT di chuyển vào ổ mắt hoặc tạo ra một vùng mô sẹo làm giảm áp suất. Ít tác động làm giảm áp lực nội sọ. Hơn nữa, phương pháp này có thể dẫn đến các biến chứng như mù lòa gặp ở 1–2% ca. Do đó, phương pháp này được khuyến nghị chủ yếu ở những người có triệu chứng đau đầu nhẹ nhưng phù gai thị nặng, có nguy cơ cao mù lòa, hoặc ở những người đã trải qua điều trị không thành công bằng phương pháp tạo shunt não hoặc có chống chỉ định phẫu thuật tạo shunt não. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Phẫu thuật tạo shunt não được các bác sĩ phẫu thuật thần kinh thực hiện. Các phẫu thuật viên tạo ra một "shunt" (tạm dịch là "chuyển lưu", "dẫn lưu"), là một đường dẫn giúp DNT dẫn lưu vào một khoang trong cơ thể. Phương pháp hay sử dụng thường là tạo shunt thắt lưng–phúc mạc, nối khoang dưới nhện ở cột sống thắt lưng với ổ phúc mạc. Một van áp suất được sử dụng giúp tránh thoát dịch quá mức khi bệnh nhân đứng thẳng. Shunt thắt lưng–phúc mạc có hiệu quả trong khoảng một nửa trường hợp; những trường hợp còn lại phải phẫu thuật chỉnh lại shunt do bị tắc (thường là nhiều hơn một lần). Nếu shunt thắt lưng–phúc mạc cần chỉnh lại nhiều lần, có thể xem xét tạo "shunt" "não thất–tâm nhĩ" hoặc "shunt" "não thất–phúc mạc". Các shunt này nối từ một trong hai não thất bên, thường là bằng phẫu thuật định vị lập thể ("stereotactic surgery"), với tâm nhĩ phải của tim hoặc nối với khoang phúc mạc. Do tạo shunt não thất ít cần phải chỉnh lại hơn so với shunt thắt lưng, có thể phương pháp tạo shunt não thất này sẽ trở thành phương pháp tạo shunt đầu tay.
Ở những người béo phì, phẫu thuật giảm cân (và đặc biệt là phẫu thuật bắc cầu dạ dày giảm cân) có thể giúp giải quyết tình trạng bệnh trên 95%.
Tiên lượng.
Hiện tại chưa rõ tỷ lệ bệnh nhân mắc TALNS vô căn tự thuyên giảm và tỷ lệ bệnh nhân phát triển thành bệnh mạn tính. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Tiên lượng.
Hiện tại chưa rõ tỷ lệ bệnh nhân mắc TALNS vô căn tự thuyên giảm và tỷ lệ bệnh nhân phát triển thành bệnh mạn tính.
TALNS vô căn thường không ảnh hưởng đến tuổi thọ. Các biến chứng chính của TALNS vô căn phát sinh từ triệu chứng phù gai thị không được điều trị hoặc kháng trị. Trong nhiều nghiên cứu loạt ca bệnh cho thấy nguy cơ lâu dài về thị lực của một người TALNS vô căn được báo cáo là nằm trong khoảng từ 10 đến 25%.
Dịch tễ học.
Trung bình mỗi năm có khoảng 2 trên 100 000 người mắc mới, và có thể ở trẻ em và người lớn. Độ tuổi trung bình lúc chẩn đoán bệnh là 30. TALNS vô căn xảy ra chủ yếu ở phụ nữ, đặc biệt là ở độ tuổi từ 20 đến 45, nhóm người này bị có tần suất mắc cao gấp 4 đến 8 lần so với nam giới. Thừa cân và béo phì làm tăng nguy cơ mắc TALNS vô căn: những phụ nữ có cân nặng nặng hơn 10% khối lượng cơ thể lý tưởng có nguy cơ mắc TALNS vô căn cao gấp 13 lần và con số này sẽ là 19 lần ở những phụ nữ có cân nặng nặng hơn 20% khối lượng cơ thể lý tưởng. Ở nam giới cũng có mối tương quan trên, nhưng nguy cơ chỉ gấp 5 lần ở những người trên 20% so với trọng lượng cơ thể lý tưởng.
Mặc dù có một số báo cáo về TALNS vô căn trong gia đình, hiện tại không thấy nguyên nhân di truyền nào có liên quan TALNS vô căn. Mọi người thuộc mọi sắc tộc có thể bị TALNS vô căn. Không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh giữa trẻ trai và trẻ gái. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Từ cơ sở dữ liệu các bệnh nhân nhập viện tại Hoa Kỳ, nhu cầu can thiệp phẫu thuật thần kinh điều trị TALNS vô căn đã tăng lên rõ rệt trong khoảng thời gian từ 1988 đến 2002. Có thể một phần là do tỷ lệ béo phì ngày càng gia tăng. Sự gia tăng này cũng có thể được giải thích một phần là do phương pháp tạo shunt ngày càng ưa chuộng hơn phương pháp phẫu thuật mở cửa sổ bao thần kinh thị giác.
Lịch sử.
Bác sĩ người Đức Heinrich Quincke là người đầu tiên mô tả bệnh này vào năm 1893 dưới tên "viêm màng não huyết thanh" ("serous meningitis") Năm 1904, Bác sĩ người Đức Max Nonne đề xuất thuật ngữ "giả u não" ("pseudotumor cerebri"). Nhiều trường hợp khác cũng được ghi chép trong y văn, nhưng tăng áp lực nội sọ lại là hậu quả của các bệnh khác. Ví dụ, tràn dịch não viêm tai ("otitic hydrocephalus") do nhà thần kinh học Luân Đôn, Sir Charles Symonds báo cáo có thể là biến chứng của huyết khối xoang tĩnh mạch do viêm tai giữa. Năm 1937, bác sĩ giải phẫu thần kinh Walter Dandy tại thành phố Baltimore, Hoa Kỳ đề xuất các tiêu chuẩn chẩn đoán cho TALNS vô căn. Để điều trị bệnh, Dandy đề xuất phương pháp phẫu thuật giảm áp dưới thái dương. | wiki |
Tăng áp lực nội sọ vô căn | Thuật ngữ "lành tính" ("benign") và "giả u" ("pseudotumor") xuất phát từ thực tế là tăng áp lực nội sọ thường liên quan đến u não. Do đó, những bệnh nhân không tìm thấy khối u trong não thì được chẩn đoán là "giả u não" (một căn bệnh "bắt chước" các triệu chứng của u não). Năm 1955, bệnh này được đổi tên thành "tăng áp lực nội sọ lành tính" ("benign intracranial hypertension") để phân biệt với tăng áp lực nội sọ do các bệnh đe dọa tính mạng (chẳng hạn như ung thư); tuy nhiên, thuật ngữ này cũng được cho là gây hiểu lầm vì bất cứ căn bệnh nào có khả năng gây mù cho bệnh nhân thì không nên được coi là lành tính. Do đó, năm 1989, bệnh được đặt tên là "tăng áp lực nội sọ vô căn" (không xác định được nguyên nhân, tiếng Anh: "idiopathic intracranial hypertension").
Phẫu thuật tạo shunt được giới thiệu vào năm 1949; ban đầu sử dụng phương pháp shunt não thất–phúc mạc. Năm 1971, shunt thắt lưng–phúc mạc được báo cáo là cho kết quả tốt hơn. Các báo cáo kết quả tiêu cực khi áp dụng phương pháp shunt trong thập niên 1980 đã khiến cho phương pháp phẫu thuật mở cửa sổ thần kinh thị giác (ONSF) được ưa chuộng hơn trong giai đoạn 1988–1993. Kể từ đó, phương pháp tạo shunt chủ yếu được khuyến nghị, thỉnh thoảng có những trường hợp ngoại lệ. | wiki |
Latinh hóa ALA-LC Hoa Kỳ | Latinh hóa ALA-LC Hoa Kỳ
Latin hóa ALA-LC là một tập hợp các tiêu chuẩn cho chuyển đổi sang chữ Latin các văn bản hay tên gọi từ các hệ chữ viết phi Latin. Bộ tiêu chuẩn này do Hiệp hội Thư viện Mỹ (ALA, American Library Association) và Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (LC, Library of Congress) lập ra .
Áp dụng.
Hệ thống này được sử dụng để thể hiện thông tin thư mục của thư viện Bắc Mỹ, Thư viện Anh (từ năm 1975), và trong các ấn phẩm trên toàn thế giới nói tiếng Anh .
Quy tắc Biên mục Anh-Mỹ (AACR, Anglo-American Cataloguing Rules) đòi hỏi người biên mục Latin hóa điểm truy cập từ bản chính phi Latin . Tuy nhiên, khi MARC đã được mở rộng để cho phép các hồ sơ có chứa các ký tự Unicode, nhiều biên mục hiện nay bao gồm dữ liệu thư mục trong cả Latin và các văn tự gốc . Chuẩn "Mô tả Tài nguyên và Truy cập" (Resource Description and Access) mới xuất hiện, tiếp tục nhiều khuyến nghị của AACR nhưng đề cập đến quá trình này là "chuyển ngữ" hơn là "Latin hóa" .
Hiện nay ALA-LC có 70 bảng Latin hóa, trong số đó có: | wiki |
Bài hát Việt | Bài hát Việt là chương trình công diễn và thi các ca khúc mới dành cho các tác giả Việt Nam do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức vào năm 2005, phát sóng hàng tháng trên VTV3 vào tối Chủ nhật cuối cùng của tháng. Xuất hiện dưới hình thức một chuỗi các live show, mỗi tháng có một show giới thiệu 12 ca khúc mới (chưa từng được công bố), "Bài hát Việt" là cuộc bình chọn các ca khúc hay trong năm, tôn vinh nhạc sĩ sáng tác và khẳng định tên tuổi ca sĩ thông qua hội đồng thẩm định và khán giả.Sau đêm Gala trao giải Bài hát Việt 2015 (tổ chức vào ngày 22 tháng 1 năm 2016), ban tổ chức chương trình quyết định dừng sân chơi này, kết thúc 11 năm phát sóng của chương trình. Thay vào đó, VTV tiếp tục sản xuất thêm 2 chương trình hoàn toàn mới trong năm 2021 và 2023 là chương trình Giai điệu kết nối (VTV1) và Nghe nhạc cùng tôi (VTV3).
Đón nhận.
Ngay tại thời điểm ra đời, "Bài hát Việt" đã gây nên không ít nghi ngại từ chính những người trong giới âm nhạc, bởi những tiêu chí mà chương trình đề ra vừa cụ thể lại cũng rất trừu tượng, khó xác định và không dễ thẩm định. Chương trình ra mắt trong thời điểm nền ca khúc Việt đang trong thời kỳ khủng hoảng trầm trọng, với rất nhiều những lời ta thán từ phía công chúng và ngay chính các nhạc sĩ chuyên nghiệp. Song điều đó cũng không thể cản trở sự phấn khởi, hào hứng của những người tham gia chương trình. | wiki |
Bài hát Việt | Sau những bước đi đầu tiên, chương trình đã dần tạo được uy tín nghệ thuật, giới thiệu hàng loạt bài hát mới của những tác giả trẻ và được công chúng yêu thích. Nhiều tác phẩm mới, sắp phát hành của các nhạc sĩ, ca sĩ cũng được dành để dự thi "Bài hát Việt" nhằm mục đích tìm khán giả và tìm cơ hội tiếp thị bài hát.
Suốt 11 lần tổ chức, Bài hát Việt được đánh giá là sân chơi có chất lượng cho người sáng tác ca khúc và là một trong những chương trình quy mô, bài bản nhất được tổ chức dành riêng cho các tác giả ca khúc. Tuy vậy, sự bùng nổ các sân chơi âm nhạc khiến cho những chương trình như "Bài hát Việt" loay hoay trong việc tìm chỗ đứng thu hút khán giả, và cuối cùng dừng lại trong sự nuối tiếc của nhiều người trong nghề. | wiki |
Messier 46 | Messier 46 hay M46 còn được gọi là NGC 2437, là một cụm sao phân tán trong chòm sao Thuyền Vĩ. Nó được Charles Messier phát hiện vào năm 1771 và được John Louis Emil Dreyer mô tả là "rất sáng, rất nhiều và rất lớn". M46 cách hệ Mặt Trời khoảng 4.920 năm ánh sáng. Người ta ước tính có khoảng 500 ngôi sao trong cụm sao này với khối lượng tổng cộng là 453 và nó được cho là có độ tuổi khoảng 251,2 triệu năm.
Cụm sao này có bán kính thủy triều và bán kính phần lõi là . Nó có độ mở rộng không gian trong vùng hồng ngoại lớn hơn so với trong vùng ánh sáng khả kiến, cho thấy cụm sao này đang trải qua một vài sự chia tách khối lượng, với các ngôi sao mờ nhạt hơn (đỏ hơn) di chuyển sang vùng quầng. Các ngôi sao mờ hơn kéo dài về phía nam và phía tây có thể tạo thành một đuôi thủy triều do tương tác trong quá khứ.
Tinh vân hành tinh NGC 2438 dường như nằm trong cụm này, gần rìa phía bắc của nó (vết nhòe mờ nhạt ở giữa phần trên cùng của hình), nhưng rất có thể không liên quan vì nó không chia sẻ vận tốc xuyên tâm của cụm sao này. Nó là một ví dụ về một cặp chồng lên nhau, có thể tương tự như NGC 2818. Mặt khác, ngôi sao chiếu sáng của tinh vân Hồ Lô lưỡng cực chia sẻ vận tốc xuyên tâm và chuyển động riêng của Messier 46, và ở cùng một khoảng cách, do đó nhiều khả năng nó là một thành viên của cụm sao phân tán này. | wiki |
Shimura Ken | (20 tháng 2 năm 1950 - 29 tháng 3 năm 2020) là một diễn viên hài Nhật Bản. Ông được mệnh danh là "Vua hài kịch" của Nhật Bản.
Xuất thân.
Shimura Ken có tên khai sinh là , sinh ngày 20 tháng 2 năm 1950, tại Higashimurayama, Tokyo, Nhật Bản. Ông từng tốt nghiệp Đại học Hosei với chuyên ngành giáo dưỡng trước khi bước chân vào sự nghiệp diễn xuất.
Sự nghiệp.
Ông trở nên nổi tiếng khi tham gia cùng với Masashi Tashiro, Nobuyoshi Kuwano đóng trong loạt chương trình truyền hình "Shimura Ken no Bakatono-sama" mà ở Việt Nam quen gọi thông tục là "Hài Nhật Bản". Vai diễn "Bakatono-sama" của Shimuara khá nổi bật trong hài kịch Nhật Bản, châm biếm những hành vi xã hội hiện đại (một chủ tịch công ty, một chính khách, một gia trưởng, một hiệu trưởng, một thủ lĩnh băng đảng yakuza) đến hình ảnh của một lãnh chúa khờ khạo, sống trong thời xa xưa của Nhật Bản. Một vai diễn phổ biến của Shimura trong show "Henna Oji-san" (Ông già quái đản) với thể hiện một người đàn ông hay đùa cợt với các cô gái. Sau khi bị bắt gặp cho trò đùa của mình, nhân vật thường xuyên kết thúc thêm với một bài hát 'Sou desu. Watashi wa Henna Oji-san desu'.
Shimura cũng nổi tiếng trong show "Hachiji Da Yo! Zen'in Shugo!" với nhóm hài The Drifters và "Fun TV with Kato-chan and Ken-chan" với Cha Kato, một cựu thành viên của The Drifters.
Đời tư. | wiki |
Shimura Ken | Shimura cũng nổi tiếng trong show "Hachiji Da Yo! Zen'in Shugo!" với nhóm hài The Drifters và "Fun TV with Kato-chan and Ken-chan" với Cha Kato, một cựu thành viên của The Drifters.
Đời tư.
Cho đến thời điểm hiện tại, Shimura vẫn sống độc thân và chưa một lần kết hôn nào. Mặc dù vậy, ông nổi tiếng đào hoa và nhiều lần bị đồn đãi về chuyện tình cảm. Danh sách người tình của ông có từ người mẫu, ca sỹ, diễn viên, người dẫn chương trình, hay thậm chí cả gái quán bar. Ông từng được cho là muốn kết hôn với Mihiro, một cựu AV joyū nổi tiếng. Một trong những bạn diễn trẻ lâu năm của ông là Yuka (tên thật là Okabe Hiroko, 岡部広子), cũng là một cựu thần tượng áo tắm có tiếng, cũng bị đồn đoán là từng có quan hệ tình cảm với ông.
Qua đời.
Theo trang tin NHK, Shimura Ken, người nhập viện vì dương tính với virus SARS-CoV-2 qua đời tại một bệnh viện ở Tokyo trong đêm 29 tháng 3 năm 2020, hưởng thọ 70 tuổi.
Shimura Ken là người nổi tiếng của Nhật Bản đầu tiên qua đời vì mắc Covid-19. Trước đó cũng có thông tin ông đang trong tình trạng nguy kịch. Shimura Ken nhập viên ở Tokyo vào rạng sáng 25 tháng 3 sau khi nhận kết quả xét nghiệm dương tính với virus SAR-CoV-2 vào ngày hôm 23 tháng 3 năm 2020, sau khi xuất hiện các triệu chứng mệt mỏi, sốt, ho.
Cùng với đó, những năm gần đây sức khỏe Ken Shimura không tốt. Ông vừa phẫu thuật Polyp đại trực tràng vào hồi đầu năm 2020. Năm 2018, ông phải cấp cứu vì bệnh gan. Hiện chưa rõ Shimura đã lây bệnh COVID-19 từ đâu. | wiki |
Brennero | Brennero
Brenner tiếng Ý: "Brennero"; tiếng Latin: "Brennus") là một đô thị ở tỉnh Bolzano-Bozen trong vùng Trentino-Alto Adige/Südtirol, đông bắc Italia.
Địa lý.
Brenner nằm khoảng 110 km về phía đông bắc của thành phố Trento và khoảng 60 km về phía bắc của thành phố Bolzano, ở biên giới với Áo. Cuối phía nam là đèo Brenner.
Brenner giáp các đô thị: Pfitsch, Ratschings, Sterzing, Gries am Brenner (Áo), Gschnitz (Áo), Neustift im Stubaital (Áo) và Obernberg am Brenner (Áo).
Các đơn vị cấp dưới (frazioni).
Đô thị Brenner có các "frazioni" (xã) hay Terme di Brennero (Brennerbad), Colle Isarco (Gossensaß), Fleres (Pflersch) và Ponticolo (Pontigl). | wiki |
Ngu Hỉ | Ngu Hỉ (虞喜; đỉnh cao sự nghiệp: 307–345), tên chữ là Trọng Ninh (仲 寧), là một nhà thiên văn học và nhà văn đời nhà Tấn (266–420) của Trung Quốc. Ông được biết đến nhiều nhất nhờ phát hiện ra hiện tượng tuế sai của điểm phân, hoàn toàn độc lập với phát hiện tương tự của nhà thiên văn Hy Lạp cổ đại Hipparchus diễn ra trước đó. Ông cũng đề xuất rằng Trái đất có thể có hình cầu thay vì phẳng và hình vuông, rất lâu trước khi quan niệm này được chấp nhận rộng rãi trong giới khoa học Trung Hoa nhờ những chuyến du hành vòng quanh thế giới bằng đường hàng hải của người châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 20, đặc biệt là lần ghé thăm triều đình ở kinh đô Bắc Kinh vào thế kỷ 17.
Thân thế và sự nghiệp quan trường.
Cuộc đời và sự nghiệp của Ngu Hỉ được kể lại ở phần tiểu sử của ông trong "Tấn Thư", sách chính sử của triều Tấn. Ông sinh ra ở Cối Kê (ngày nay là Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc). Cha của ông, Ngu Sát (虞 察), là một chỉ huy quân sự và em trai của ông là Ngu Dự (虞 預; năm 307–329), cũng là một học giả và nhà văn. Suốt triều Tấn Mẫn Đế (r. 313-317) ông đảm nhiệm một chức vụ thấp dưới quyền của trưởng quận Cối Kê. Sau đó, ông đã từ chối một loạt tiến cử và thăng chức, bao gồm cả vị trí giảng dạy tại trường Thái học vào năm 325, lần bổ nhiệm vào triều đình vào năm 333, và chức vụ tán kị thường thị vào năm 335.
Tác phẩm. | wiki |
Ngu Hỉ | Tác phẩm.
Vào năm 336, Ngu Hỉ viết tác phẩm "An Thiên Luận" (安 天 論). Trong đó, ông mô tả hiện tượng tuế sai của các điểm phân (tức là tuế sai trục). Ông quan sát thấy vị trí của Mặt Trời ngày đông chí trong thời gian năm mươi năm đã lệch đi một độ so với vị trí của các ngôi sao. Đây cũng là điều nhà thiên văn Hy Lạp cổ đại Hipparchus (khoảng 190–120 TCN) khám ra trước đó. Hipparchus phát hiện ra rằng kết quả đo đạc chuyển động của Mặt Trời trên đường Hoàng đạo so với điểm xuân phân, hay vị trí tương đối của Mặt Trời so với các vì sao, không bằng nhau.
Ngu Hỉ đã viết một bài phân tích thuyết bầu trời "hỗn thiên" (渾天), trong đó cho rằng các tầng trời xung quanh Trái Đất là vô tận và bất động. Ông đề xuất ý tưởng rằng rằng hình dạng của Trái Đất hoặc là hình vuông hoặc là hình tròn, nhưng phải tương ứng với hình dạng của các tầng trời bao quanh nó. "Thuyết hỗn thiên", từng được đề cập bởi nhà thiên văn học thời Tây Hán Lạc Hạ Hoành (140–104 TCN) và được mô tả đầy đủ bởi nhà bác học, chính khách thời Đông Hán Trương Hành (78–139), khẳng định rằng các tầng trời là hình cầu và Trái đất giống như một lòng đỏ trứng ở trung tâm của nó. Ý tưởng của Ngu Hỉ về sự vô hạn của không gian bên ngoài dường như lặp lại ý tưởng của Trương Hành về không gian vô tận, thậm chí cả bên ngoài thiên cầu. | wiki |
Ngu Hỉ | Mặc dù khoa học chính thống của Trung Quốc trước khi chịu ảnh hưởng của châu Âu vào thế kỷ 17 phỏng đoán rằng Trái Đất phẳng và hình vuông, nhưng vẫn có một số học giả, chẳng hạn như nhà toán học thời Tống, Lý Dã (李冶, 1192–1279), đưa ra ý tưởng rằng nó có hình cầu giống như các tầng trời. Việc chấp nhận một Trái Đất hình cầu có thể được thấy trong chuyên luận địa lý và thiên văn "Cách Trí Thảo" (格致草) được viết vào năm 1648 bởi Hùng Minh Ngộ (熊 明 遇). Chuyên luận này bác bỏ lý thuyết Trái Đất vuông và, với ảnh hưởng rõ ràng của châu Âu, giải thích rằng các con tàu có khả năng đi vòng quanh địa cầu. Tuy nhiên, chuyên luận lại giải thích quan niệm này bằng cách sử dụng các cụm từ cổ điển của Trung Quốc, chẳng hạn như Trái Đất tròn như một viên đạn nỏ, cụm từ mà Trương Hành trước đây đã sử dụng để mô tả hình dạng của cả Mặt Trời và Mặt Trăng.
Tuy nhiên, cuối cùng, chính các nhà truyền giáo Dòng Tên châu Âu ở Trung Quốc vào thế kỷ 17 đã bác bỏ lý thuyết về Trái Đất phẳng của người Trung Quốc, thuyết phục người Trung Quốc áp dụng thuyết Trái Đất hình cầu được khởi xướng bởi các nhà khoa học Hy Lạp cổ đại Anaxagoras (khoảng 500–428 TCN), Philolaus. (khoảng 470–385), Aristotle (384–322 TCN), và Eratosthenes (khoảng 276–195 trước Công nguyên). | wiki |
Ngu Hỉ | Ngu Hỉ còn được biết đến với những bình luận về các tác phẩm kinh điển của Trung Quốc. Các bình luận và ghi chép của ông hầu hết đã bị thất lạc trước thời nhà Đường, nhưng các phân đoạn được trích trong các văn bản khác đã được học giả Mã Quốc Hàn (馬國翰, 1794–1857) thời nhà Thanh thu thập trong một bản tóm tắt. | wiki |
Gà Ixworth | Gà Ixworth
Gà Ixworth là giống gà trắng của Anh. Nó được đặt tên cho làng Ixworth ở Suffolk, nơi nó được tạo ra vào năm 1932. Nó được nhân giống như giống thịt chất lượng cao phát triển nhanh với khả năng đẻ trứng hợp lý.
Lịch sử.
Gà Ixworth được tạo ra vào năm 1932 bởi Reginald Appleyard, người cũng đã tạo ra giống vịt bạc Appleyard, tại trang trại gia cầm của ông ở làng Ixworth ở Suffolk. Nó được lai tạo từ gà Sussex trắng, gà Minorca trắng, gà Orpington trắng, gà Jubilee, gà Cornish và gà Ấn Độ trắng, với mục đích tạo ra một giống đa mục đích, một giống gà thịt chất lượng cao đang phát triển nhanh với khả năng đẻ trứng hợp lý. Một giống gà bantam Ixworth được tạo ra vào năm 1938; Appleyard nghĩ rằng nó tốt hơn so với giống gà có kích thước chuẩn.
Vào những năm 1970, gà Ixworth gần như biến mất; nó đã dần dần được hồi phục. Đây là một giống hiếm: trong năm 2008 nó được liệt kê là "Danh mục 2: nguy cơ tuyệt chủng" bởi Quỹ Tín thác Sinh tồn Hiếm, vào năm 2014 đã nằm trong danh sách các giống gia cầm bản địa có nguy cơ bị rủi ro.
Đặc điểm.
Bộ lông của Ixworth có màu trắng tuyền. Mào là loại hạt đậu; mào, mặt, dái tai có màu đỏ rực rỡ. Đôi mắt sáng màu cam hoặc đỏ. Mỏ, chân, cẳng chân, da và thịt đều có màu trắng. Trong một nghiên cứu so sánh được tiến hành tại Viện Roslin, gà mái Ixworth đạt trọng lượng sống là 4,03 kg lúc 55 tuần, và đẻ trung bình 0,74 quả trứng mỗi ngày, với trọng lượng trứng trung bình là 63,6 g.. Thịt gà này có giá rất cao.. | wiki |
Cúp bóng đá Macedonia 2008–09 | Cúp bóng đá Macedonia 2008–09
Cúp bóng đá Macedonia 2008–09 là mùa giải thứ 17 của giải đấu bóng đá loại trực tiếp ở Cộng hòa Macedonia. FK Rabotnički bảo vệ thành công chức vô địch với lần thứ 2 đoạt cúp.
Vòng Một.
Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 21 tháng 6 năm 2008 ở Skopje. Các trận đấu diễn ra vào ngày 17 tháng 9 năm 2008.
Vòng Hai.
Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 22 tháng 9 năm 2008 ở Skopje. Các trận lượt đi diễn ra vào ngày 22 tháng 10 năm 2008 và lượt về vào ngày 29 và 30 tháng 10 năm 2008.
Tứ kết.
Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 6 tháng 11 năm 2008 ở Skopje. Các trận lượt đi diễn ra vào ngày 26 tháng 11 năm 2008 và lượt về vào ngày 7 và 10 tháng 12 năm 2008.
Bán kết.
Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 25 tháng 12 năm 2008 ở Skopje. Các trận lượt đi diễn ra vào ngày 8 tháng 4 năm 2009 và lượt về vào ngày 6 tháng 5 năm 2009.
Lượt về.
"Rabotnički thắng 3–2 sau 2 lượt trận."
"Makedonija thắng 2–1 sau 2 lượt trận." | wiki |
Jahangirpur | Jahangirpur
Jahangirpur là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Gautam Buddha Nagar thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
Địa lý.
Jahangirpur có vị trí Nó có độ cao trung bình là 196 mét (643 feet).
Nhân khẩu.
Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Jahangirpur có dân số 9522 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Jahangirpur có tỷ lệ 47% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 58%, và tỷ lệ cho phái nữ là 36%. Tại Jahangirpur, 18% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. | wiki |
Nokia X2-00 | Nokia X2-00
Nokia X2 là dòng điện thoại nghe nhạc phổ thông của tập đoàn Nokia hướng vào đối tượng chủ yếu là sinh viên, học sinh những người có thu nhập thấp mà vẫn muốn có một chiếc điện thoại có đầy đủ những tính năng như nghe nhạc, chụp hình, nghe đài FM... nokia X2 có thiết kế dang thanh truyền thống, hai bên sườn là khe cắm thẻ nhớ, nút điều chỉnh âm lượng, nút điều hướng cho tính năng nghe nhạc, phím chụp ảnh... Mặt sau của X2 gồm camera và loa ngoài (4 loa). Đèn flash của X2 có thể sử dụng thay cho một chiếc đèn pin... Điều đáng tiếc là Nokia X2 không có 3G.
Tổng quan.
Xem video mp4,3GP,H264
Bộ nhớ trong 48MB, hỗ trợ thẻ nhớ ngoài 16GB
Jack cắm micro USB 2.0
FM radio với ăng ten trong không cần gắn tai phone
jack âm thanh 3.5mm
Kích thước: 111 x 47 x 13,3 mm
Trọng lượng cả pin: 82g
Pin BL-4C 860 mAh Li-Ion | wiki |
Amphotericin B | Amphotericin B
Amphotericin B là một loại thuốc kháng nấm được sử dụng cho nhiễm nấm nghiêm trọng và bệnh bạch cầu. Các bệnh nhiễm nấm mà thuốc được sử dụng để điều trị bao gồm bệnh nhiễm nấm aspergillosis, bệnh nhiễm nấm blastomycosis, bệnh nhiễm nấm candida, bệnh nhiễm nấm coccidioidomycosis và bệnh nhiễm nấm cryptococcus. Đối với một số loại phơi nhiễm khác, chúng được sử dụng kết hợp với flucytosine. Chúng thường được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm vào tĩnh mạch.
Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm phản ứng sốt, ớn lạnh và đau đầu ngay sau khi dùng thuốc, cũng như các vấn đề về thận. Các triệu chứng dị ứng bao gồm sốc phản vệ có thể xảy ra. Các tác dụng phụ nghiêm trọng khác bao gồm hạ kali máu và viêm tim. Chúng có vẻ tương đối an toàn trong thai kỳ. Có một công thức lipid mang ít nguy cơ tác dụng phụ hơn. Amphotericin B nằm trong lớp polyene của thuốc kháng nấm và hoạt động một phần bằng cách can thiệp vào màng tế bào của nấm.
Amphotericin B ban đầu được phân lập từ chủng "Streptomyces nodosus" vào năm 1955. Nó nằm trong danh sách các thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, tức là nhóm các loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần thiết trong một hệ thống y tế. Chúng có sẵn dưới dạng thuốc gốc. Chi phí ở các nước đang phát triển cho một đợt điều trị vào năm 2010 là từ 162 đến 229 USD. | wiki |
Gà lôi lam mào đen | Gà lôi lam mào đen
Gà lôi lam mào đen (danh pháp hai phần: Lophura × imperialis) là một loại gà lôi thuộc họ Trĩ, bộ Gà, có màu lam thẫm, cỡ trung bình, thân dài đến khoảng 75 cm, đầu trụi lông với da đỏ, mào lam, chân đỏ thẫm, và bộ lông bóng. Con mái màu nâu với mào lông ngắn dựng đứng, đuôi và lông cánh sơ cấp màu đen.
Được Delacour & Jabouille mô tả năm 1924 từ mẫu một đôi chim bị bắt thu được tại Việt Nam. Tuy nhiên tần suất bắt gặp là rất thấp. Nó được tái phát hiện năm 1990, khi một con trống choai bị một người nông dân thu hái mây bẫy được. Một con trống choai khác bị bắt vào tháng 2 năm 2000. Đến gần đây, qua xét nghiệm DNA, người ta đã xác định được nó là con lai nguồn gốc tự nhiên của gà lôi trắng ("L. nycthemera") với gà lôi lam mào trắng ("L. edwardsi") hoặc gà lôi lam đuôi trắng ("L. hatinhensis") chứ không phải là một loài thực sự. Vì vậy nó đã bị BirdLife và IUCN đưa ra khỏi danh sách loài bị đe dọa.
Gà lôi lam mào đen được tìm thấy trong các cánh rừng của Việt Nam và Lào. Nó trông tương tự như một loài chim bí ẩn khác của Việt Nam là gà lôi lam đuôi trắng, nhưng to hơn về kích thước, có đuôi dài hơn, mào và các lông đuôi màu lam sẫm toàn bộ trong khi gà lôi lam đuôi trắng có mào và các lông đuôi trung tâm màu trắng. | wiki |
Đèn pha | Đèn pha là một thiết bị chiếu sáng được dùng chủ yếu trên các phương tiện cơ giới như xe ôtô, xe máy v.v. Đèn pha tạo ra luồng sáng mạnh và tập trung, chiếu ngang mặt đường và có khả năng chiếu sáng khoảng 100m trở lên. Hầu hết đèn pha đều sử dụng bóng đèn sợi hoặc bóng đèn halogen, có công suất 25-35 W đối với xe máy và 55-60 W đối với xe ôtô.
Đèn pha có thể được dùng kết hợp với đèn cốt (chiếu sáng gần) trong cùng một chóa đèn của xe cơ giới, hoặc lắp bổ sung để tạo ra khả năng chiếu sáng tối ưu.
Đèn pha led ra đời.
Hiện nay khi công nghệ LED phát triển thì đèn pha led ra đời, kết hợp giữa chức năng, kiểu dáng giản đơn, tính thẩm mỹ đèn pha led chính là phạm vi toàn diện của ánh đèn chiếu rọi chiếu sáng cho kiến trúc ngoài trời. Sản phẩm chính hãng của hai thương hiệu nổi tiếng về chiếu sáng là Duhal, Philips, Rạng Đông. Được thiết kế để cung cấp những hiệu ứng ánh sáng tối ưu từ luồng sáng mạnh đến hiệu ứng điểm nhấn tinh tế hơn. Thiết kế khe chuẩn trực quang học độc đáo mang đến hiệu suất ánh sáng đồng nhất và đảm bảo sự phối trộn màu sắc tuyệt nhất. Các loại đèn pha thường được sử dụng là đèn pha led 100 w, đèn pha led 50 w cao nhất có thể nên tới 200 w, so với đèn pha thường thì đèn pha công nghệ LED tiết kiệm năng lượng hơn nhiều lần, trước kia người dùng thường sử dụng đèn Halogen nhưng hiện nay phần lớn các gia đình, hộ kinh doanh đang dần chuyển sang đèn công nghệ led | wiki |
Đèn pha | Điểm nổi bật nữa là thiết kế theo phương pháp đúc khuôn đồng bộ với thân đèn khép kín đạt chuẩn IP65 (đảm bảo chống lại côn trùng, và bụi bẩn hoàn toàn; chống lại sự xâm nhập của nước vòi phun áp lục lớn ở tất cả mọi hướng)
Tuổi thọ cao 20.000 tới 50,000 giờ sử dụng lâu dài và bền vững mà các loại đèn pha truyền thống không đáp ứng được, thông thường những loại đèn pha halogen hay sợi đốt tuổi thọ chỉ 1000 tới 4000 giờ do đó chi phí thay thế rất tốn kén, nhưng cái lợi là chi phí đầu tư ban đầu sẽ thấp hơn rất nhiều khi ta sử dụng đèn pha led
Đặc điểm cấu tạo của đèn pha.
- Do công suất đèn lớn nên khi sử dụng sẽ tỏa ra nhiệt độ cao, do đó cần tản nhiệt của đèn cũng phải lớn và tiết diện rộng. Vì thế đèn thường làm bằng nhôm phía đui đèn được khía nhiều rảnh giúp giảm nhiệt nhanh như hình bên cạnh | wiki |
The Essential Michael Jackson | The Essential Michael Jackson
The Essential Michael Jackson là một album tuyển tập hit của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Michael Jackson, phát hành ngày 19 tháng 7 năm 2005, bởi tổ chức danh mục âm nhạc Legacy Recordings của Sony Music, như là một phần của chuỗi album "The Essential". Đây là tập hợp 2 đĩa gồm 38 bản hit trong sự nghiệp của Jackson, từ những ngày tháng tại hãng Motown Records với The Jackson 5 vào cuối thập niên 1960 đến đĩa đơn năm 2001 "You Rock My World".
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2008, "The Essential Michael Jackson 3.0" đã được phát hành tại Hoa Kỳ dưới hình thức phiên bản giới hạn, bổ sung thêm 7 bài hát được thực hiện bởi Jackson. Một phiên bản khác với tiêu đề mới "The Hits" đã được lên kế hoạch phát hành tại Vương quốc Anh vào ngày 6 tháng 7 năm 2009, nhưng bị hủy bỏ sau cái chết của Jackson. Tính đến năm 2013, album đã nhận được chứng nhận 3 đĩa bạch kim tại Hoa Kỳ.
Danh sách bài hát.
Toàn bộ các bài hát do Michael Jackson viết lời, ngoại trừ một số chú thích.
Đĩa bổ sung bản giới hạn 3.0.
Toàn bộ các bài hát do Michael Jackson viết lời, ngoại trừ một số chú thích.
Bản tại Nhật.
Toàn bộ các bài hát do Michael Jackson viết lời, ngoại trừ một số chú thích.
Bản nhạc số Studio Masters (24bit/96kHz) trên Qobuz.com.
Toàn bộ các bài hát do Michael Jackson viết lời, ngoại trừ một số chú thích. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, còn gọi là Lăng Hồ Chủ tịch, Lăng Bác, là nơi gìn giữ di hài Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lăng được chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh từng chủ trì các cuộc gặp mặt quan trọng.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975, gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét, chiều rộng 41,2 mét lớp dưới tạo dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết cấu trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu thang. Bên ngoài lăng được ốp bằng đá granite xám, bên trong làm bằng đá xám và đỏ đã được đánh bóng. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông bằng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: "CHỦ TỊCH HỒ-CHÍ-MINH" bằng đá hồng màu mận chín. Xung quanh lăng là các khu vườn nơi hơn 250 loài thực vật được trồng từ khắp mọi miền của Việt Nam.
Trong di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn được hỏa táng và đặt tro tại ba miền đất nước. Tuy nhiên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa III, với lý do tuân theo nguyện vọng và tình cảm của nhân dân, quyết định giữ gìn lâu dài thi hài chủ tịch Hồ Chí Minh để sau này người dân cả nước, nhất là người dân miền Nam, khách quốc tế có thể tới viếng.
Xây dựng lăng.
Ướp thi hài. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Xây dựng lăng.
Ướp thi hài.
Năm 1969, ngay trước khi Hồ Chí Minh qua đời, một chuyên viên Liên Xô đã bí mật đến Hà Nội để cố vấn các chuyên gia Việt Nam về công nghệ ướp xác. Tháng 3 năm sau, một nhóm chuyên viên người Việt đến Moskva để tham khảo thêm và báo cáo về tình hình nắm giữ công nghệ này. Lúc này, đây là đề tài nhạy cảm trong các nhà lãnh đạo Đảng vì theo di chúc Hồ Chí Minh có nguyện vọng được hỏa táng. Tuy nhiên, Lê Duẩn đã từng đề nghị Hồ Chí Minh nên cho bảo quản thi hài lâu dài để đồng bào miền Nam và cả nước được đến thăm, nghe vậy Hồ Chí Minh không nói gì. Ngay vào thời điểm ông mất, Bộ Chính trị vẫn chưa có quyết định cuối cùng về việc này.
Theo báo chí trong nước, trong lễ truy điệu, đến dự có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô do chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Aleksey Kosygin dẫn đầu đến viếng. Hơn 1 giờ sáng, sau cuộc họp Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Lê Duẩn đến nhà khách của Chính phủ và nói với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô:
Lê Duẩn đã đề nghị cho chuyên gia Liên Xô sang gấp để bảo quản thi hài. Chủ tịch đoàn Liên Xô cứng rắn nói rằng phải đưa thi hài sang Liên Xô. Lúc đó, Lê Duẩn đã khóc và bác bỏ: "Không thể được, theo phong tục Việt Nam, Người phải ở lại với đồng bào chúng tôi!". Ông nói:
Chủ tịch đoàn lập tức điện về Liên Xô, xin ý kiến và đã đồng ý cử ngay chuyên gia sang Việt Nam giúp bảo quản thi hài. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Chủ tịch đoàn lập tức điện về Liên Xô, xin ý kiến và đã đồng ý cử ngay chuyên gia sang Việt Nam giúp bảo quản thi hài.
Theo tiết lộ gần 50 năm sau của Giáo sư Viện sĩ Yuri Lopukhin, thì đoàn chuyên gia Liên Xô đã qua trước đó mấy ngày. Ngày 28 tháng 8 năm 1969, khi bệnh tình của chủ tịch Hồ Chí Minh trở nên rất nặng, Giáo sư Viện sĩ Yuri Lopukhin, cựu Hiệu trưởng Trường Đại học Y khoa Moscow số 2 và 4 chuyên gia Liên Xô khác từ Viện Lăng Lenin đã được mời sang Hà Nội. Việc ướp thi hài của Hồ Chí Minh được thực hiện vào bảy ngày sau đó tại Viện Quân y 108 ở Hà Nội, khi ông qua đời. Tính từ năm 1969 đến 2014, đã có 82 chuyên gia y tế Liên Xô (sau này là Nga) qua giúp Việt Nam trong việc này.
Thiết kế lăng.
Sau Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, "Ban phụ trách quy hoạch A", trong đó có các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Quốc Hoàn, Phùng Thế Tài, bắt đầu nghiên cứu quy hoạch xây dựng Lăng Hồ Chủ tịch. Tháng 1 năm 1970, Chính phủ Liên Xô cử một đoàn cán bộ sang Việt Nam bàn về thiết kế và thông báo sẽ giúp đỡ kỹ thuật trong thiết kế, xây dựng và trang bị cho Lăng. Các chuyên gia Liên Xô chuẩn bị 5 phương án về bố trí cụm tổng thể của Lăng. Sau thời gian ngắn, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua "Dự thảo nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh" do các chuyên gia Liên Xô và Việt Nam đưa ra. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Tin tức về việc xây dựng Lăng Hồ Chí Minh được lan truyền trong nhân dân, nhiều người Việt Nam ở cả hai miền Nam, Bắc và Việt kiều ở nước ngoài gửi thư về đóng góp ý kiến. Theo nguyện vọng của nhân dân, Bộ Chính trị quyết định lùi việc duyệt bản thiết kế sơ bộ đã được thông qua. Một đợt sáng tác mẫu thiết kế Lăng được tổ chức, các mẫu được trưng bày và lấy ý kiến của nhân dân. Trong khoảng thời gian từ tháng 5/1970 tới 8/1970, có 200 phương án thiết kế được gửi đến, trong đó có 24 phương án được chọn lựa và đem trưng bày tại Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Sơn La và Nghệ An. 745.487 lượt người đã tới thăm và 34.022 người tham gia ý kiến.
Kết thúc đợt triển lãm và lấy ý kiến, bản "thiết kế sơ bộ" tổng hợp các ý kiến của nhân dân được mang sang Liên Xô. Sau 3 tuần làm việc, phương án thiết kế sơ bộ của Việt Nam được Liên Xô chấp nhận.
Lăng được thiết kế để có độ bền vững cao, chống được bom đạn và động đất cường độ 7 richter. Ngoài ra còn có công trình bảo vệ đặc biệt chống lụt phòng khi Hà Nội bị vỡ đê. Kính quan tài phải chịu được xung lực cơ học lớn. Lăng còn được thiết kế thêm "buồng đặc biệt" để có thể giữ thi hài tại chỗ trong trường hợp có chiến tranh.
Việc thiết kế hết 2 năm.
Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Lăng được chính thức khởi công xây dựng vào ngày 2 tháng 9 năm 1973. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Vật liệu xây dựng được mang về từ nhiều miền trên cả nước. Cát được lấy từ các con suối thuộc Xã Kim Tiến, Huyện Kim Bôi, Tỉnh Hòa Bình do người dân tộc Mường đem về; đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương, Chiêm Hoá, Ngòi Thìa, Tuyên Quang...; đá chọn xây lăng từ khắp các nơi: đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa (Chùa Thầy), đá đỏ núi Non Nước...; đá dăm được đưa từ mỏ đá Hoàng Thi (Thác Bà, Yên Bái), còn cát lấy từ Thanh Xuyên (Thái Nguyên). Nhân dân dọc dãy Trường Sơn còn gửi ra 16 loại gỗ quý. Các loài cây từ khắp các miền được mang về đây như: cây chò nâu ở Đền Hùng, hoa ban ở Điện Biên-Lai Châu, tre từ Cao Bằng... Thanh thiếu niên còn tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá, nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô đảm nhiệm. Liên Xô cũng gửi hai vạn tấm đá hoa cương và cẩm thạch mài nhẵn để trang trí cho Lăng.
Về thi hài của Hồ Chí Minh, thì theo tiết lộ của Lý Chí Thỏa, bác sĩ riêng của Mao Trạch Đông thì khi Mao Trạch Đông mất năm 1976, vì lúc đó quan hệ Trung Quốc với Liên Xô đang xấu nên thay vì qua Liên Xô tham khảo cách giữ thi hài, họ gửi hai người đến Hà Nội để học hỏi cách bảo quản thi hài, theo cách bảo quản thi hài Hồ Chí Minh tại Lăng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chuyến đi không kết quả vì Việt Nam từ chối chia sẻ kinh nghiệm và còn không cho các nhà khoa học Trung Quốc xem thi hài Hồ Chí Minh.
Miêu tả. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Miêu tả.
Trên đỉnh lăng là hàng chữ Chủ tịch Hồ Chí Minh ghép bằng đá ngọc màu đỏ thẫm của Cao Bằng. Cửa lăng làm từ các cây gỗ quý từ Tây Nguyên. Tiền sảnh ốp đá hoa cương vân đỏ hồng, làm nền cho dòng chữ "Không có gì quý hơn Độc lập Tự do" và chữ ký của Hồ Chí Minh được dát bằng vàng. 200 bộ cửa trong Lăng được làm từ các loại gỗ quý do nhân dân Nam Bộ, Tây Nguyên, Quảng Nam - Đà Nẵng, và bộ đội Trường Sơn gửi ra, và do các nghệ nhân nghề mộc của Nam Hà, Hà Bắc, và Nghệ An thực hiện. Bãi cỏ trước lăng gồm 18000 m2 cỏ gừng, một loại cỏ bản địa ở miền Nam do nghệ nhân Nguyễn Văn Hoà trồng. Cánh cửa vào phòng đặt thi hài do hai cha con nghệ nhân ở làng Gia Hòa đóng. Hai bên cửa chính là hai cây hoa đại. Phía trước và phía sau lăng trồng 79 cây vạn tuế tượng trưng cho số tuổi 79 của Hồ Chủ tịch. Hai bên phía nam và bắc của lăng là hai rặng tre, loại cây biểu tượng cho nước Việt Nam. Trước cửa lăng luôn có hai người lính đứng gác, 1 giờ đổi gác một lần.
Chính giữa lăng là phòng đặt thi hài ốp đá cẩm thạch Hà Tây. Trên tường có 2 lá quốc kỳ và đảng kỳ lớn, ghép từ 4.000 miếng đá hồng ngọc Thanh Hóa, hình búa liềm và sao vàng được ghép bằng đá cẩm vân màu vàng sáng. Thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt trong hòm kính. Qua lớp kính trong suốt, thi hài Hồ Chí Minh nằm trong bộ quần áo ka ki bạc màu, dưới chân có đặt một đôi dép cao su. Trong những dịp có người viếng lăng, sẽ có bốn người lính đứng gác. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Chiếc hòm kính đặt thi hài là một công trình kỹ thuật và nghệ thuật do những người thợ bậc thầy của hai nước Việt - Xô chế tác. Giường được chế tác bằng đồng, có dải hoa văn bông sen được cách điệu, ba mặt giường lắp kính có độ chịu xung lực cao. Nóc giường bằng kim loại, có hệ thống chiếu sáng và hệ thống điều hòa tự động. Giường được đặt trên bệ đá, có hệ thống thang máy tự động.
Lăng có hình vuông, mỗi cạnh 30 m, cửa quay sang phía Đông, hai phía Nam và Bắc có hai lễ đài dài 65 m dành cho khách trong những dịp lễ lớn. Trước lăng là Quảng trường Ba Đình với một đường dành cho lễ diễu binh, duyệt binh, và một thảm cỏ dài 380 m chia thành 210 ô vuông cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Trước mặt lăng là cột cờ, Lễ thượng cờ được bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng (mùa nóng); 6 giờ 30 phút sáng (mùa lạnh) và Lễ hạ cờ diễn ra lúc 9 giờ tối hàng ngày. Thẳng tiếp qua sân cỏ là đường Bắc Sơn, có trồng hoa hồng đỏ và hoa đào. Tận cùng đường Bắc Sơn là đài Liệt sĩ. Bên phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Hồ Chí Minh. Tại đây có Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, ngôi nhà sàn Hồ Chí Minh. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thường có nhiều đoàn khách ở các tỉnh thành phố và nước ngoài đến thăm viếng.
Hoạt động.
Mỗi tuần có hơn 15.000 người đến viếng thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều cá nhân và đoàn thể đến viếng lăng vào các ngày lễ, các ngày kỷ niệm quan trọng của Việt Nam. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Hoạt động.
Mỗi tuần có hơn 15.000 người đến viếng thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều cá nhân và đoàn thể đến viếng lăng vào các ngày lễ, các ngày kỷ niệm quan trọng của Việt Nam.
Lăng không thu phí vào cửa và khách viếng thăm buộc phải tuân theo những yêu cầu như ăn mặc chỉnh tề, không đem máy ảnh, điện thoại di động có chức năng quay phim, chụp ảnh, tắt điện thoại, không mang đồ ăn thức uống và giữ trật tự trong lăng...
Tính đến năm 2012, đã có gần 50 triệu lượt người vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó hơn 8 triệu khách quốc tế. Đối với khách tham quan ở xa, việc tổ chức nhà nghỉ trọ được thực hiện chu đáo, tận tình. Việc ăn phụ, giải khát, chống rét, phục vụ thương binh nặng và người già yếu đến viếng đều được nghiên cứu tổ chức chu đáo. Công tác đón tiếp khách được cải tiến, như cải tạo các nhà chờ thành hai khu vực khang trang, để trước khi vào viếng, khách có thể tạm dừng chân, ngắm những cây hoa, cây cảnh, xem những bộ phim tư liệu. Đối với các đoàn thương binh bị cụt chân, những chiến sĩ tiêu binh luôn chuẩn bị sẵn xe đẩy đặc biệt để phục vụ. Trong phòng viếng chia làm 2 hàng, hàng phía trong gần nơi đặt thi hài hơn được dành riêng cho trẻ em. | wiki |
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh | Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cửa 5 ngày/tuần, vào các buổi sáng thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Bảy và Chủ nhật. Mùa nóng (từ 1/4 đến 31/10): Từ 7h30 đến 10h30; mùa lạnh (từ 1/11 đến 31/3 năm sau): Từ 8h00 đến 11h00; ngày lễ, thứ Bảy, Chủ nhật mở cửa thêm 30 phút. Hàng năm, Lăng đóng cửa để làm nhiệm vụ tu bổ định kỳ (Năm 2023: Từ ngày 12/6 đến hết ngày 14/8/2023, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tạm ngừng tổ chức lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh để làm công tác bảo dưỡng, tu bổ định kỳ năm 2023.). Ngày 19/5, 2/9 và Mồng 1 Tết Nguyên đán nếu trùng vào Thứ Hai hoặc Thứ Sáu, vẫn tổ chức lễ viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ban Quản lý.
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam có chức năng chỉ đạo, phối hợp các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc giữ gìn nguyên vẹn, lâu dài và bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư lệnh Bộ Tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm chức vụ Trưởng ban quản lý Lăng. | wiki |
Khangal | Khangal
Khangal (tiếng Mông Cổ: Хангал) là một sum của tỉnh Bulgan ở miền bắc Mông Cổ. Vào năm 2009, dân số của sum là 4.700 người.
Địa lý.
Sum có diện tích khoảng 1.600 km. Trung tâm sum, Surt, nằm cách tỉnh lỵ Bulgan 125 km và thủ đô Ulaanbaatar 416 km. Khu dân cư kiểu đô thị Khyalganat nằm cách trung tâm sum khoảng 25 km (16 mi) về phía bắc.
Khí hậu.
Khangal có khí hậu cận Bắc Cực. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở khu vực này là 1 °C. Tháng ấm nhất là tháng 7, khi nhiệt độ trung bình là 20 °C và lạnh nhất là tháng 1, với -20 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 469 mm. Tháng nhiều mưa nhất là tháng 8, với lượng mưa trung bình 107 mm và khô nhất là tháng 2, với lượng mưa 2 mm.
Kinh tế.
Sum có một trường học, bệnh viện, khu dịch vụ và xưởng. | wiki |
Corylus cornuta | Corylus cornuta
Corylus cornuta là một loài thực vật có hoa trong họ Betulaceae. Loài này được Marshall mô tả khoa học đầu tiên năm 1785.
Được tìm thấy ở hầu hết Bắc Mỹ, từ Nam Canada Nam đến Georgia và California. Nó phát triển trong rừng khô và các rìa rừng và có thể đạt cao 4-8 mét (13–26 ft) với thân cây dày 10–25 cm (3.9-9.8 in) dày với vỏ cây xám mịn. Lá có hình tròn, tròn hai răng, dài 5–11 cm (2.0-4.3 in) và dài 3–8 cm (1.2-3.1 in) rộng, có lông dưới. Hoa như đuôi cáo hình thành vào mùa thu và thụ phấn vào mùa xuân tiếp theo. | wiki |
Turner Broadcasting System | Turner Broadcasting System, Inc là một công ty truyền hình và tập đoàn truyền thông của Mỹ, một phần của WarnerMedia thuộc AT&T. Được thành lập bởi Ted Turner và có trụ sở tại Atlanta, Georgia, công ty đã sáp nhập với Time Warner vào ngày 10 tháng 10 năm 1996. Trong số các tài sản chính của nó có tên TBS,TNT, CNN, Turner Classic Movies, Cartoon Network và Adult Swim,và TruTV. Nó cũng được cấp phép hoặc có quyền sở hữu trong các phiên bản quốc tế của các tài sản này. Trụ sở chính của Turner được đặt tại cả Trung tâm CNN ở Khu thương mại Atlanta và khuôn viên Phát thanh Turner ngoài Techwood Drive ở Midtown Atlanta, nơi cũng có Turner Studios.
Công ty được biết đến với nhiều phát minh tiên phong tại Mỹ truyền hình đa kênh, bao gồm uplink của vệ tinh của địa phương Atlanta trạm độc lập WTCG kênh 17 là một trong những "quốc gia đầu tiên superstations", và thành lập của CNN -the 24 giờ đầu tiên kênh tin tức. | wiki |
Turner Broadcasting System | Vào ngày 14 tháng 6 năm 2018, Time Warner đã được công ty viễn thông AT & T mua lại và đổi tên thành WarnerMedia. Vào ngày 4 tháng 3 năm 2019, AT & T đã công bố một cuộc cải tổ lớn của WarnerMedia, giải thể hiệu quả Turner như một đơn vị kinh doanh, bằng cách phân tán một số tài sản của mình thành hai bộ phận mới của Warner WarnerMedia Entertainment (bao gồm các kênh truyền hình cáp giải trí của Turner và HBO, nhưng không bao gồm TCM) WarnerMedia News & Sports (CNN, Turner Sports và các mạng thể thao khu vực AT&T SportsNet), và loại bỏ thương hiệu Turner liên quan đến các mạng này.
Mặc dù đã giải thể với tư cách là một đơn vị kinh doanh, không rõ liệu thực thể công ty Turner đã hoặc sẽ bị giải thể, trái ngược với hoạt động trên danh nghĩa là một công ty con duy nhất của WarnerMedia.
Lịch sử.
Lịch sử khởi đầu.
Hệ thống phát thanh Turner truy tìm nguồn gốc của nó cho một công ty biển quảng cáo ở Savannah được mua bởi Robert Edward Turner II vào cuối những năm 1940.Turner phát triển kinh doanh, sau này được gọi là Công ty quảng cáo Turner.Con trai của Robert Edward Turner, Ted Turner, thừa kế công ty khi Turner lớn tuổi qua đời năm 1963. Sau khi tiếp quản công ty, Ted Turner mở rộng kinh doanh sang đài phát thanh và truyền hình.
Hệ thống phát thanh truyền hình Turner như một thực thể chính thức được hợp nhất tại Georgia vào tháng 5 năm 1965.
Thập niên 1970. | wiki |
Turner Broadcasting System | Hệ thống phát thanh truyền hình Turner như một thực thể chính thức được hợp nhất tại Georgia vào tháng 5 năm 1965.
Thập niên 1970.
Năm 1970, Ted Turner đã mua WJRJ-Atlanta, Kênh 17, một trạm nhỏ, tần số siêu cao (UHF) và đổi tên thành WTCG, cho công ty mẹ Turner Communications Group.Trong tháng 12 năm 1976, WTCG khởi nguồn khái niệm "siêu trạm", truyền qua vệ tinh tới các hệ thống cáp.
Vào ngày 17 tháng 12 năm 1976 lúc 1:00 chiều, tín hiệu của Kênh 17 của WTCG được truyền qua vệ tinh tới bốn hệ thống cáp của nó ở Grand Island, Nebraska; Tin tức Newport, Virginia; Troy, Alabama; và Newton, Kansas. Tất cả bốn hệ thống cáp bắt đầu nhận được bộ phim "Deep Waters" năm 1948 của Dana Andrew - Cesar Romero. Bộ phim đã bắt đầu 30 phút trước đó. WTCG đã đi từ một đài truyền hình nhỏ đến một mạng truyền hình lớn mà mỗi một trong số 24.000 hộ gia đình ngoài 675.000 ở Atlanta đang nhận được bờ biển. WTCG trở thành cái gọi là Superstationvà tạo tiền lệ cho truyền hình cáp cơ bản ngày nay.
HBO đã đi truyền dẫn vệ tinh để phân phối tín hiệu trên toàn quốc vào năm 1975, nhưng đó là dịch vụ mà các thuê bao cáp được thực hiện để trả thêm tiền để nhận. Sự đổi mới của Ted Turner báo hiệu sự khởi đầu của cuộc cách mạng cáp cơ bản.
Năm 1979, công ty đổi tên thành Turner Broadcasting System, Inc. (TBS, Inc.) và các thư gọi của kênh giải trí chính của nó thành WTBS.
Thập niên 1980. | wiki |
Turner Broadcasting System | Năm 1979, công ty đổi tên thành Turner Broadcasting System, Inc. (TBS, Inc.) và các thư gọi của kênh giải trí chính của nó thành WTBS.
Thập niên 1980.
Vào ngày 1 tháng 6 năm 1980, Mạng Tin tức Cáp (CNN) đã được ra mắt lúc 5:00 chiều EDT trở thành kênh truyền hình cáp tin tức 24 giờ đầu tiên.Người chồng và người vợ đội của Dave Walker và Lois Hart tin tức neo đầu tiên bản tin, Burt Reinhardt sau đó giám đốc điều hành Phó chủ tịch của CNN, thuê hầu hết 200 nhân viên & 25 nhân viên đầu tiên của kênh bao gồm Bernard Shaw, của mạng đầu tiên neo tin tức.
Năm 1981, Hệ thống phát thanh Turner mua lại Brut Productions từ Faberge Inc.
Năm 1984, Turner khởi xướng Kênh âm nhạc cáp, cuộc thi của anh cho MTV của WASEC. Kênh này tồn tại trong thời gian ngắn nhưng đã giúp ảnh hưởng đến định dạng ban đầu của VH1. | wiki |
Turner Broadcasting System | Năm 1984, Turner khởi xướng Kênh âm nhạc cáp, cuộc thi của anh cho MTV của WASEC. Kênh này tồn tại trong thời gian ngắn nhưng đã giúp ảnh hưởng đến định dạng ban đầu của VH1.
Năm 1986, sau khi thất bại trong việc mua lại CBS, Turner đã mua hãng phim MGM / UAEntertainment Co. từ Kirk Kerkorian với giá 1,5 tỷ USD. Sau khi mua lại, Turner có một khoản nợ khổng lồ và bán một phần của việc mua lại. MGM / UA Entertainment đã được bán lại cho Kirk Kerkorian. Các lô MGM / UA Studio ở Culver City đã được bán cho Lorimar / Telepictures. Turner giữ thư viện phim và truyền hình trước tháng 5 năm 1986 của MGM cũng như thư viện Associated Artists Productions (trước năm 1950)Thư viện phim của Warner Bros. và Fleischer Studios/Phim hoạt hình nổi tiếng Studios "Popeye" ban đầu được phát hành bởi Paramount Pictures) và quyền phân phối của Hoa Kỳ / Canada cho thư viện RKO Pictures. Turner Entertainment Co. được thành lập vào ngày 4 tháng 8 năm 1986.
Vào ngày 3 tháng 10 năm 1988, công ty đã ra mắt Turner Network tivi (TNT).
Thập niên 1990.
Turner mở rộng sự hiện diện của mình trong sản xuất và phân phối phim, đầu tiên với việc mua hãng phim hoạt hình Hanna-Barbera năm 1991.[10] Vào ngày 22 tháng 12 năm 1993, Turner mua lại Castle Rock Entertainment. Turner đã mua New Line Cinema một tháng sau đó.
Turner ra mắt Cartoon Network vào ngày 1 tháng 10 năm 1992, sau đó là Phim cổ điển Turner (TCM) vào ngày 14 tháng 4 năm 1994. | wiki |
Turner Broadcasting System | Turner ra mắt Cartoon Network vào ngày 1 tháng 10 năm 1992, sau đó là Phim cổ điển Turner (TCM) vào ngày 14 tháng 4 năm 1994.
Vào ngày 10 tháng 10 năm 1996, Turner sáp nhập với Time Warner, một công ty được thành lập vào năm 1990 bởi sự hợp nhất của Time Inc. và Warner Communications.Thông qua việc sáp nhập này, Warner Bros đã lấy lại quyền đối với thư viện trước năm 1950, trong khi Turner có quyền truy cập vào thư viện sau năm 1950 của công ty và các tài sản khác. Công ty cũng trở thành công ty con của Time Warner kể từ khi mua lại.
Những năm 2000.
Năm 2003, Philip I. Kent kế nhiệm Jamie Kellner làm chủ tịch. Nhiệm vụ vận hành cho WB đã được Time Warner chuyển từ Warner Bros. sang Turner Broadcasting trong năm 2001, trong khi Kellner là chủ tịch, nhưng đã được trả lại cho Warner Bros. vào năm 2003 với sự ra đi của Kellner.
Vào ngày 23 tháng 2 năm 2006, công ty đã đồng ý bán kênh giải trí khu vực Turner Southcho Fox Entertainment Group.[16] Fox nắm quyền kiểm soát kênh vào ngày 1 tháng 5 và vào ngày 13 tháng 10 đã gọi lại là SportSouth- trùng hợp, tên cũ của Fox Sports South khi Turner sở hữu kênh này hợp tác với Liberty Media từ năm 1990 đến 1996.
Vào tháng 5 năm 2006, Time Warner, công ty sở hữu 50% của Court TV từ năm 1998, đã mua 50% còn lại từ Liberty Media và bắt đầu điều hành kênh này như một phần của Turner Broadcasting. Kênh đã được khởi chạy lại là TruTV vào ngày 1 tháng 1 năm 2008. | wiki |
Turner Broadcasting System | Cũng trong tháng 5 năm 2006, Ted Turner đã tham dự cuộc họp cuối cùng với tư cách là thành viên hội đồng quản trị của Time Warner và chính thức chia tay công ty.
Vào ngày 5 tháng 10 năm 2007, Hệ thống phát thanh truyền hình Turner đã hoàn tất việc mua lại Mạng truyền hình trả tiền tương tác Claxson ở Mỹ La-tin.
Năm 2010.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2010, Turner Broadcasting đã kiểm soát hoàn toàn Chilevisión, một kênh truyền hình thuộc sở hữu của Tổng thống Chile Sebastián Piñera.
Vào ngày 8 tháng 9 năm 2011, Turner Broadcasting System đã mua LazyTown Entertainment, nhà sản xuất của bộ phim truyền hình "LazyTown."
Vào ngày 1 tháng 1 năm 2014, John K. Martin đã thành công Phil Kent với tư cách là chủ tịch và CEO của Turner Broadcasting.
Vào tháng 8 năm 2014, "The Wrap" đã báo cáo rằng Turner đang chuẩn bị mua lại 550 nhân viên như một phần trong kế hoạch tái cấu trúc công ty vào năm 2015. Hiệu suất xếp hạng của CNN và HLN được trích dẫn là một yếu tố, trong khi "CBSSports.com" báo cáo rằng phí bản quyền tăng Turner trả cho các chương trình phát sóng NBA của mình trên TNT cũng có thể là một yếu tố.Báo cáo thêm vào tháng 10 năm 2014 rằng công ty đã lên kế hoạch giảm 10% lực lượng lao động (1.485 người) thông qua việc sa thải trên một loạt các đơn vị bao gồm cả các vị trí công ty. | wiki |
Turner Broadcasting System | Vào ngày 14 tháng 8 năm 2015, thông báo rằng Turner Broadcasting đã mua phần lớn cổ phần của iStreamPlanet, một công ty dịch vụ truyền phát video có trụ sở tại Las Vegas, trong nỗ lực thúc đẩy lập trình vượt trội và chuyển cơ sở hạ tầng công nghệ cốt lõi của mình sang đám mây. iStreamPlanet là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Major League Soccer Advanced Media. Thỏa thuận được báo cáo là trong khu phố trị giá 200 triệu đô la.[26] Vào tháng 10 năm 2015, Turner đã ra mắt một mạng lưới video trực tuyến có tên Great Big Story.
Vào tháng 4 năm 2017, để đẩy nhanh việc bán Time Warner cho AT & T bằng cách loại bỏ các tài sản được cấp phép của FCC, WPCH-TV đã được bán cho Meredith Corporation, công ty đã điều hành WPCH từ năm 2011 với tư cách là chị em với đài địa phương WGCL -TV.Turner Podcast Network được thành lập trong Turner Content Distribution vào tháng 6 năm 2017 với Tyler Moody được bổ nhiệm làm tổng giám đốc và phó chủ tịch của đơn vị.
Vào ngày 22 tháng 3 năm 2018, Six Flags và Riverside Group đã công bố hợp tác với Turner Châu Á Thái Bình Dương để mang các điểm tham quan dựa trên Tuzki và các IP thuộc sở hữu Turner khác đến các công viên chủ đề của nó ở Trung Quốc. | wiki |
Turner Broadcasting System | Vào ngày 15 tháng 6 năm 2018, thông báo rằng John Martin sẽ rời khỏi vị trí CEO sau khi mua lại Time Warner của AT & T, sau này sẽ được đổi tên thành WarnerMedia sau khi việc mua lại hoàn tất.Đến tháng 9, AT & T đã chuyển kênh Đối tượng của mình, một nhóm các mạng thể thao khu vực cộng với các cổ phần trong Mạng Game Show và Mạng MLBsang Turner từ AT & T Communications.
Vào tháng 12 năm 2018, Turner Broadcasting đã bán bản quyền cho thương hiệu và thư viện lập trình của mạng truyền hình cáp không còn tồn tại Court TV (được gọi lại là TruTV năm 2008) cho Katz, với kế hoạch ra mắt lại dưới dạng mạng kỹ thuật số không dây vào tháng 5 năm 2019.
Giải thể. | wiki |
Turner Broadcasting System | Giải thể.
Vào ngày 4 tháng 3 năm 2019, AT & T đã công bố tổ chức lại chính các tài sản phát sóng của mình để giải thể hiệu quả Hệ thống phát thanh truyền hình Turner. Tài sản của nó sẽ được phân tán trên nhiều đơn vị của WarnerMedia, bao gồm WarnerMedia Entertainment và WarnerMedia News & Sports mới thành lập. WarnerMedia Entertainment sẽ bao gồm HBO, TBS, TNT, TruTV và một dịch vụ video trực tiếp cho người tiêu dùng sắp tới (do cựu giám đốc giải trí NBC Robert Greenblatt dẫn đầu), trong khi WarnerMedia News & Sports sẽ bao gồm CNN, Turner Sports và AT & T Mạng lưới khu vực SportsNet (sẽ được lãnh đạo bởi chủ tịch CNN Worldwide Jeff Zucker). Cartoon Network, Adult Swim, Boomerang và Turner Phim cổ điển sẽ được chuyển đến dưới sự giải trí của Warner Bros. thông qua đơn vị kinh doanh mới "Global Kids & Young Adult".[35] Mặc dù AT & T không chỉ định bất kỳ thời gian biểu nào cho các thay đổi, WarnerMedia đã bắt đầu xóa các tham chiếu đến Turner Broadcasting trong thông tin liên lạc của công ty, với các thông cáo báo chí coi các mạng của nó là "bộ phận của WarnerMedia". | wiki |
Vùng hải ngoại | Vùng hải ngoại
Vùng hải ngoại () là một quyết định gần đây trao cho các tỉnh hải ngoại có quyền hạn tương đương như của các vùng ở Lãnh thổ chính quốc Pháp. Các vùng đã có những quyền hạn này kể từ năm 1982, khi chính sách phân cấp quản lý của Pháp quyết định họ được bầu ra Hội đồng Vùng cùng với các vùng khác. Chỉ đến khi có các thay đổi hiến pháp năm 2003 thì các khu vực này hiện nay mới được gọi là vùng hải ngoại, thực sự là từ ngữ mới của Hiến pháp không nhằm ưu tiên cho một trong hai tỉnh hải ngoại hoặc vùng hải ngoại, mặc dù vậy từ vùng hải ngoại hầu như không được sử dụng trên phương tiện truyền thông Pháp.
Các vùng hải ngoại:
Saint Pierre và Miquelon đã từng là một tỉnh hải ngoại, nhưng bị hạ cấp thành một cộng đồng hải ngoại vào năm 1985, trước khi thành lập vùng hải ngoại. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Bùng phát đại dịch COVID-19 được xác nhận đã lan sang Bắc Mỹ bắt đầu tại Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 2020. Tất cả các ca nhiễm được xác nhận trên toàn quốc gia Bắc Mỹ sau khi Saint Kitts và Nevis xác nhận ca nhiễm đầu tiên vào ngày 25 tháng 3 và tất cả các vùng lãnh thổ ở Bắc Mỹ sau khi Bonaire xác nhận ca nhiễm đầu tiên ngày 16 tháng 4 năm 2020. Tính đến ngày 31 tháng 7 năm 2023, ba quốc gia có số ca mắc COVID-19 cũng như số ca tử vong cao nhất là Hoa Kỳ, México và Canada.
Tính đến ngày 31 tháng 7 năm 2023, Hoa Kỳ trở thành quốc gia có số ca mắc COVID-19 cao nhất với hơn 107 triệu ca và cũng là quốc gia có số ca tử vong nhiều nhất với hơn 1,1 triệu ca.
Các trường hợp được xác nhận.
Đếm các trường hợp là tùy thuộc vào số lượng người được thử nghiệm.
Antigua và Barbuda.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận đã lan sang Antigua và Barbuda vào ngày 13 tháng 3 năm 2020.
Tính đến ngày 4 tháng 5 năm 2021, Antigua và Barbuda đã ghi nhận 1,232 ca mắc, trong đó có 32 ca tử vong và 1,014 ca hồi phục.
Bahamas.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận đã lan sang Bahamas vào ngày 15 tháng 3 năm 2020 với thông báo ít nhất một trường hợp.
Đến 4 tháng 5 năm 2021, nước này đã thông báo 10,576 ca mắc, 210 ca tử vong và 9,579 ca hồi phục.
Barbados.
Barbados công bố hai trường hợp nhiễm đầu tiên ở nước này vào ngày 17 tháng 3 và tuyên bố tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng vào ngày 26 tháng 3.
Belize.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận đã lan sang Belize vào ngày 19 tháng 3 năm 2020. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Belize.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận đã lan sang Belize vào ngày 19 tháng 3 năm 2020.
Lãnh thổ hải ngoại của Anh.
Anguilla.
Hai trường hợp đầu tiên nhiễm virus được xác nhận ngày 26 tháng 3. Vào ngày 26 tháng 4, tất cả bệnh nhân đều hồi phục.
Bermuda.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Bermuda, lãnh thổ hải ngoại của Anh vào ngày 18 tháng 3.
Quần đảo Cayman.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Quần đảo Cayman ngày 12 tháng 3.
Montserrat.
Trường hợp đầu tiên của lãnh thổ đã được xác nhận vào ngày 17 tháng 3. Các trường học đã bị đóng cửa và các cuộc tụ họp công cộng bị cấm như một biện pháp phòng ngừa.
Quần đảo Turks và Caicos.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang nước này ngày 23 tháng 3.
Quần đảo Virgin thuộc Anh.
Vào ngày 25 tháng 3, hai trường hợp đầu tiên được xác nhận.
Canada. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Quần đảo Turks và Caicos.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang nước này ngày 23 tháng 3.
Quần đảo Virgin thuộc Anh.
Vào ngày 25 tháng 3, hai trường hợp đầu tiên được xác nhận.
Canada.
Trường hợp đầu tiên của COVID-19 ở Canada được xác nhận vào ngày 25 tháng 1 năm 2020, khi một người đàn ông trở về Toronto sau khi đi du lịch ở Vũ Hán, Trung Quốc và hai ngày sau đó, xét nghiệm dương tính với bệnh COVID-19, do SARS-CoV-2 gây ra. , đã có 198 trường hợp coronavirus được báo cáo ở Canada với 1 trường hợp tử vong ở 7 tỉnh và 2 trường hợp đã được báo cáo về các hành khách đã đi trên Grand Princess: Ontario (79 trường hợp), British Columbia (64 trường hợp, 1 người chết), Alberta (29 trường hợp), Quebec (20 trường hợp), Manitoba (4 trường hợp), Saskatchewan (2 trường hợp), New Brunswick (1 trường hợp) và Grand Princess (2 trường hợp). Hầu hết tất cả các trường hợp có lịch sử du lịch gần đây đến một quốc gia có số lượng đáng kể các trường hợp coronavirus. Trong số những trường hợp này, mười một (sáu ở BC, năm ở Ontario) đã hồi phục.
Kể từ ngày 11 tháng 3 năm 2020, Cơ quan Y tế Công cộng Canada đã đánh giá nguy cơ sức khỏe cộng đồng của đại dịch là "thấp đối với dân số nói chung", nhưng có nguy cơ cao hơn đối với những người trên 65 tuổi hoặc với các điều kiện cơ bản. Vào ngày 13 tháng 3 năm 2020, Chính phủ Canada đã ban hành một tư vấn du lịch chính thức chống lại bất kỳ chuyến đi không cần thiết nào bên ngoài đất nước cho đến khi có thông báo mới.
Costa Rica. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Costa Rica.
Vào ngày 6 tháng 3, trường hợp đầu tiên ở Costa Rica đã được xác nhận, đây cũng là trường hợp đầu tiên như vậy ở Trung Mỹ.
Cuba.
Vào ngày 11 tháng 3, những trường hợp đầu tiên ở Cuba đã được xác nhận.
Lãnh thổ hải ngoại của Hà Lan.
Aruba.
Vào ngày 13 tháng 3 năm 2020, Thủ tướng Evelyn Wever-Croes đã công bố hai ca nhiễm coronavirus trên đảo.
Do đó, quốc gia này hạn chế nhập cảnh tất cả các chuyến bay và tàu thuyền đến từ châu Âu, bắt đầu từ ngày 15 tháng 3 và có hiệu lực đến ngày 31 tháng 3 - ngoại trừ những công dân Aruban. Họ cũng đình chỉ các lớp học công lập và tư thục trong tuần 16 tháng 3, cũng như tất cả các cuộc tụ họp công cộng quy mô lớn.
Curaçao.
Đại dịch COVID-19 2019-2020 được ghi nhận lần đầu tiên tại Curacao ngày 13 tháng 3. Trường hợp này là một người đàn ông 68 tuổi đang nghỉ dưỡng ở Hà Lan.
Sint Maarten.
Tính đến ngày 18 tháng 3, đã có một trường hợp được xác nhận tại Sint Maarten. Các trường học đóng cửa trong hai tuần.
Caribe thuộc Hà Lan.
Hai ca nhiễm đầu tiên tại Sint Eustatius được xác nhận ngày 1 tháng 4. Các kết quả xét nghiệm vào tháng 3 trước đó là âm tính. Các trường học tạm thời đóng cửa trên đảo. Hầu hết khách du lịch quốc tế hiện cũng bị cấm vào lãnh thổ.
Vào ngày 12 tháng 4, trường hợp nhiễm đầu tiên được xác nhận tại Saba. Các trường học, quán bar và các dịch vụ không thiết yếu bị đóng cửa. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Vào ngày 12 tháng 4, trường hợp nhiễm đầu tiên được xác nhận tại Saba. Các trường học, quán bar và các dịch vụ không thiết yếu bị đóng cửa.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 2020, Edison Rijna, Đảo Governor của Bonaire công bố trường hợp nhiễm COVID-19 đầu tiên trên đảo. Đảo này sau đó đóng cửa khách du lịch quốc tế. Đến ngày 28 tháng 4, tất cả các ca nhiễm đã phục hồi.
Dominica.
Vào ngày 22 tháng 3, trường hợp đầu tiên của COVID-19 đã được xác nhận trên đảo Dominica. Đó là một người phụ nữ gần đây đã trở về từ Vương quốc Anh.
Cộng hòa Dominica.
Vào ngày 1 tháng 3, trường hợp đầu tiên ở Cộng hòa Dominica đã được xác nhận, đây cũng là trường hợp đầu tiên ở vùng biển Caribbean.
El Salvador.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang El Salvador vào ngày 18 tháng 3 năm 2020.
Greenland (Đan Mạch).
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Greenland - lãnh thổ tự trị của Vương quốc Đan Mạch - vào tháng 3 năm 2020. Đã có 11 trường hợp được xác nhận, nhưng không cần nhập viện. Người bị nhiễm cuối cùng đã hồi phục vào ngày 8 tháng 4 và không có ca nhiễm mới nào ở Greenland nữa. Tính đến ngày 19 tháng 4, không có ca nhiễm mới tại Greenland trong hai tuần.
Lãnh thổ hải ngoại của Pháp. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Lãnh thổ hải ngoại của Pháp.
Hai trường hợp nhiễm virus corona đã được xác nhận vào ngày 1 tháng 3 trong tập thể Saint Martin của Pháp, đã đi từ Pháp qua Dutch Sint Maarten và tập thể Saint Barthélemy của Pháp, nơi họ lây nhiễm cho con trai họ là cư dân. Sau đó, họ quay trở lại Sint Maarten và được phát hiện tại sân bay và chuyển đến bệnh viện Saint Martin của Pháp để cách ly. Theo báo cáo tình hình của Bộ Y tế Pháp, tính đến ngày 6 tháng 3, đã có hai trường hợp được xác nhận ở Martinique, hai ở Saint Martin và một ở Saint Barthélemy.
Guadeloupe.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang vùng lãnh thổ hải ngoại Pháp và Vùng Guadeloupe vào ngày 12 tháng 3 năm 2020.
Martinique.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Vùng Martinique vào ngày 5 tháng 3 năm 2020.
Saint Barthélémy.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Saint Barthélemy ở nước ngoài vào ngày 1 tháng 3 năm 2020. Trường hợp hồi phục cuối cùng vào ngày 31 tháng 3. Vào ngày 21 tháng 4, ca nhiễm cuối cùng đã hồi phục.
Saint Martin.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Saint-Martin từ nước ngoài vào ngày 1 tháng 3 năm 2020.
Saint Pierre và Miquelon.
Đại dịch COVID-19 lan sang Saint-Pierre và Miquelon vào ngày 5 tháng 4 năm 2020.
Grenada.
Vào ngày 22 tháng 3, trường hợp đầu tiên ở nước này đã được xác nhận.
Guatemala.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Guatemala vào ngày 13 tháng 3 năm 2020.
Haiti.
Vào ngày 19 tháng 3, hai trường hợp đầu tiên ở nước này đã được xác nhận.
Honduras. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Guatemala.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận lan sang Guatemala vào ngày 13 tháng 3 năm 2020.
Haiti.
Vào ngày 19 tháng 3, hai trường hợp đầu tiên ở nước này đã được xác nhận.
Honduras.
Vào ngày 10 tháng 3, hai trường hợp đầu tiên ở Honduras đã được xác nhận.
Jamaica.
Chính phủ đã công bố lệnh cấm du lịch giữa Trung Quốc và Jamaica. Tất cả những người vào Jamaica từ Trung Quốc sẽ bị cách ly ngay lập tức trong ít nhất 14 ngày và bất cứ ai được phép hạ cánh và có các triệu chứng của virus sẽ bị cách ly ngay lập tức. Để tuân thủ chính sách mới, 19 công dân Trung Quốc đến sân bay quốc tế Norman Manley vào tối ngày 31 tháng 1 đã bị từ chối nhập cảnh, cách ly và đưa chuyến bay trở về Trung Quốc vào ngày 1 tháng Hai.
Vào ngày 10 tháng 3, Bộ Y tế và Sức khỏe (MoHW) đã xác nhận trường hợp đầu tiên ở Jamaica, một bệnh nhân nữ đến từ Vương quốc Anh vào ngày 4 tháng 3. Bộ trưởng y tế báo cáo rằng cô đã bị cô lập kể từ ngày 9 tháng 3 sau khi có các triệu chứng về đường hô hấp. Sau khi cập nhật, lệnh cấm du lịch được áp dụng đã bao gồm Pháp, Đức và Tây Ban Nha.
Vào ngày 11 tháng 3, bộ trưởng y tế nước này đã xác nhận "virus corona nhập khẩu" thứ hai "trường hợp.
México. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Vào ngày 11 tháng 3, bộ trưởng y tế nước này đã xác nhận "virus corona nhập khẩu" thứ hai "trường hợp.
México.
Vào ngày 28 tháng 2, México đã xác nhận ba trường hợp đầu tiên. Vào ngày 1 tháng 3, một trường hợp thứ năm đã được công bố tại Chiapas. Ca tử vong đầu tiên vì coronavirus của nước này được xác nhận vào ngày 18 tháng 3. Hầu hết tất cả các bang đã xác nhận ít nhất một ca nhiễm. Mexico bước vào Giai đoạn 2 trong 3 giai đoạn, cho thấy sự lây lan trong cộng đồng, vào ngày 24 tháng 3. México có 292 trường hợp từ ngoài, 70 ca liên quan tới bên ngoài và năm ca không liên quan.
Nicaragua.
Đại dịch COVID-19 đã lan sang Nicaragua khi trường hợp đầu tiên, một công dân Nicaragua trở về nước.
Panama.
Chính phủ Panama đã tăng cường các biện pháp kiểm soát và sàng lọc vệ sinh tại tất cả các cảng xâm nhập, để ngăn chặn sự lây lan của virus, phân lập và kiểm tra các trường hợp tiềm ẩn.
Vào ngày 9 tháng 3, Bộ Y tế (MINSA) đã công bố trường hợp coronavirus đầu tiên của Panama, một phụ nữ Panama ở độ tuổi 40 đã trở về từ Tây Ban Nha.
Vào ngày hôm sau, MINSA đã công bố thêm bảy trường hợp COVID-19 và một trường hợp tử vong liên quan đến coronavirus.
Saint Kitts và Nevis.
Vào ngày 25 tháng 3, hai ca nhiễm đầu tiên của nước này được xác nhận. Đây cũng là quốc gia châu Mỹ cuối cùng có ca nhiễm bệnh.
Saint Lucia. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Saint Kitts và Nevis.
Vào ngày 25 tháng 3, hai ca nhiễm đầu tiên của nước này được xác nhận. Đây cũng là quốc gia châu Mỹ cuối cùng có ca nhiễm bệnh.
Saint Lucia.
Đại dịch COVID-19 được xác nhận đã lan sang Saint Lucia vào ngày 13 tháng 3 năm 2020. Vào ngày 22 tháng 4, nó công bố rằng mọi ca nhiễm đã hồi phục. Vào ngày 28 tháng 4, hai ca nhiễm mới được xác nhận.
Saint Vincent và Grenadines.
Vào ngày 11 tháng 3, Saint Vincent và Grenadines đã xác nhận trường hợp đầu tiên.
Trinidad và Tobago.
Vào ngày 12 tháng 3, Trinidad và Tobago đã xác nhận trường hợp đầu tiên của COVID-19. Đó là một người đàn ông 52 tuổi, gần đây đã đến Thụy Sĩ. Anh ta đã tự cô lập trước khi bắt đầu trải qua các triệu chứng của COVID-19.
Hoa Kỳ.
Vào ngày 21 tháng 1, Hoa Kỳ đã xác nhận trường hợp đầu tiên, một người đàn ông 35 tuổi sống ở Hạt Snohomish, Washington đã đi từ Vũ Hán đến Sân bay Quốc tế Seattle Seattle Tacoma vào ngày 15 tháng 1.
Vào ngày 27 tháng 2, CDC đã báo cáo một trường hợp ở California có thể là trường hợp lây truyền cộng đồng đầu tiên ở Hoa Kỳ.
Vào ngày 29 tháng 2, các quan chức của Tiểu bang Washington đã xác nhận cái chết đầu tiên được báo cáo là do virus corona ở Mỹ. Vào ngày 9 tháng 3, Hoa Kỳ vẫn còn hạn chế trong khả năng kiểm tra người mắc bệnh.
Đến ngày 11 tháng 3, Hoa Kỳ đã thử nghiệm ít nhất 10.000 người. Đến cuối tháng, hơn 1.000.000 người được thử nghiệm. Tuy vậy, các chuyên gia y tế tuyên bố mức độ thử nghiệm này vẫn chưa đủ. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Đến ngày 11 tháng 3, Hoa Kỳ đã thử nghiệm ít nhất 10.000 người. Đến cuối tháng, hơn 1.000.000 người được thử nghiệm. Tuy vậy, các chuyên gia y tế tuyên bố mức độ thử nghiệm này vẫn chưa đủ.
Vào ngày 18 tháng 3, hai người tại Quần đảo Virgin thuộc Mỹ đã thử nghiệm dương tính với virus này.
Vào ngày 19 tháng 3, Puerto Rico đã có năm trường hợp được xác nhận. Vào ngày 17 tháng 3, thống đốc Wanda Vázquez Garced tuyên bố khóa 24/7, với những người chỉ được phép rời khỏi nhà để lấy thức ăn, gas hoặc thuốc.
Vào ngày 26 tháng 3, Hoa Kỳ đã vượt Trung Quốc và Ý là quốc gia có nhiều ca nhiễm COVID-19 nhất, trên 82.000. Các thanh tra viên y tế của chính phủ liên bang Mỹ khảo sát 323 bệnh nhân vào cuối tháng 3, báo cáo "sự thiếu hụt nghiêm trọng" trong cung cấp xét nghiệm, "sự thiếu hụt trên diện rộng" của thiết bị bảo vệ cá nhân (PPE) và các nguồn lực căng thẳng khác do thời gian nằm viện kéo dài trong khi chờ kết quả xét nghiệm.
Vào ngày 11 tháng 4, Hoa Kỳ vượt Ý là quốc gia có nhiều ca tử vong nhất được xác nhận vì coronavirus, với tổng số hơn 20.000. Hoa Kỳ cũng là nước đầu tiên ghi nhận 2.000 ca tử vong trong một ngày. Wyoming trở thành tiểu bang thứ 50 ban hành tình trạng khẩn cấp. | wiki |
Đại dịch COVID-19 tại Bắc Mỹ | Đến ngày 20 tháng 4, chính phủ liên bang tuyên bố họ đang tiến hành 150.000 lượt test nhanh mỗi ngày và tuyên bố rằng con số này sẽ đủ để cho phép các trường học và doanh nghiệp mở cửa trở lại. Các chuyên gia y tế ước tính rằng cần 500.000 đến 1.000.000 lượt test mỗi ngày để theo dõi đúng sự lây lan virus corona, để tránh một làn sóng nhiễm mới. | wiki |
Giải vô địch bóng đá U-16 Đông Nam Á | Giải vô địch bóng đá U-16 Đông Nam Á
Giải vô địch bóng đá U-16 Đông Nam Á () là một giải đấu bóng đá quốc tế thường niên được tổ chức bởi các đội tuyển quốc gia thành viên Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF) và đôi khi có các đội tuyển khách mời từ khu vực châu Á. Giải đấu ban đầu được tổ chức cho lứa tuổi U-17 và từng mang tên gọi là Giải vô địch bóng đá U-17 Đông Nam Á () trước năm 2008. Tuy vậy, thể theo việc Liên đoàn bóng đá châu Á đổi lại tên gọi các giải trẻ châu lục để phù hợp với quy ước đặt tên của FIFA và cũng để phản ánh lứa tuổi của các cầu thủ tại giải đấu, Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á đã thay đổi tên gọi của giải. Giải được tổ chức lần đầu vào năm 2002 và được tổ chức lại vào năm 2005. Kể từ năm 2005, giải được tổ chức hàng năm liên tiếp. | wiki |
Định luật Boyle-Mariotte | Định luật Boyle-Mariotte, đôi khi được gọi là Định luật Boyle hay Định luật Mariotte (đặc biệt là ở Pháp), là một định luật về khí lý tưởng, mô tả hiện tượng áp suất khối khí tăng khi thể tích khối khí giảm. Một phát biểu hiện đại của định luật Boyle-Mariotte là:
Áp suất tuyệt đối gây ra bởi một khối lượng khí lý tưởng đã cho thì tỉ lệ nghịch với thể tích mà nó chiếm giữ nếu nhiệt độ và lượng khí là không đổi trong một hệ thống kín.
Về mặt toán học, định luật Boyle-Mariotte có thể biểu diễn như sau:
hay
với:
Phương trình chỉ ra rằng, một khối khí xác định khi ở một nhiệt độ xác định thì tích của áp suất và thể tích là một hằng số. Như vậy, có thể sử dụng phương trình để so sánh khối khí trong các điều kiện khác nhau:
formula_4
Phương trình cho thấy, khi thể tích tăng thì áp suất giảm theo tỷ lệ, và ngược lại, khi thể tích giảm thì áp suất tăng theo tỷ lệ. Định luật được đặt tên theo nhà vật lý, nhà hóa học Robert Boyle, ông đã công bố định luật năm 1662. Nhà vật lý người Pháp Edme Mariotte cũng công bố độc lập một định luật tương tự vào năm 1679, vì vậy định luật còn được gọi là định luật Mariotte hay định luật Boyle-Mariotte.
Lịch sử.
Từ năm 1659, Robert Boyle đã tiến hành nhiều thí nghiệm về tính chất của chất khí, qua đó ông đã phát hiện ra ở nhiệt độ không đổi thì áp suất và thể tích tỉ lệ thuận nghịch đảo với nhau và công bố nó vào năm 1662.p = const.1/V (V = const.1/p) hay pV = const | wiki |
Alicia Penalba | Alicia Penalba (7 tháng 8 năm 1913 - 4 tháng 11 năm 1982) là một nhà điêu khắc, nhà thiết kế thảm và thợ dệt người Argentina.
Tiểu sử.
Penalba được sinh ra ở San Pedro, tỉnh Buenos Aires vào năm 1913.
Ban đầu, bà tìm kiếm một sự nghiệp trong vẽ và hội họa. Tuy nhiên, vào năm 1950, trong thời gian ở Paris, bà quyết định dấn thân hoàn toàn vào nghệ thuật điêu khắc. Penalba chuyên về các mô hình sản phẩm thẳng đứng và lấy cảm hứng từ các nhà điêu khắc đồng nghiệp Etienne Martin và Etienne Hajdu. Các tác phẩm của bà là một phần của phong trào nghệ thuật trừu tượng không tượng hình và gắn liền với tác phẩm của Martin, Hajdu, François Stahly, Karl-Jean Longuet, Simone Boisecq và Marta Colvin, người đã tổ chức một cuộc đổi mới của hình thức điêu khắc từ năm 1950.
Đến thập niên 1960., tác phẩm nghệ thuật của bà hơi thay đổi về phía tác phẩm điêu khắc theo hướng chiều ngang hơn. Trong khi bà ấy tạo ra nhiều tác phẩm điêu khắc đủ hình dạng và kích cỡ, bà nổi tiếng với những tác phẩm hoành tráng có thể tìm thấy trên khắp thế giới. Bức tượng của cô, The Great Double (Le Grand Double; 1962 đấu1964) được đưa vào vườn điêu khắc của Bảo tàng Kröller-Müller ở Otterlo, Hà Lan, trong khi phiên bản năm 1972 của bà được trưng bày bên ngoài tòa nhà MGIC ở Milwaukee, Wisconsin, Hoa Kỳ.
Bà qua đời ở Paris năm 1982.
Giải thưởng.
Giải thưởng, Quỹ Calouste Gulbenkian, Paris, Pháp (1974)
Giải đặc biệt, Triển lãm quốc tế về điêu khắc hiện đại đầu tiên của Nhật Bản, Ninotaira, Nhật Bản (1969) | wiki |
Alicia Penalba | Giải thưởng.
Giải thưởng, Quỹ Calouste Gulbenkian, Paris, Pháp (1974)
Giải đặc biệt, Triển lãm quốc tế về điêu khắc hiện đại đầu tiên của Nhật Bản, Ninotaira, Nhật Bản (1969)
Giải thưởng điêu khắc quốc tế, Sáu năm một lần, São Paulo, Brazil (1961) | wiki |
Take-Two Interactive | Take-Two Interactive Software, Inc. là một công ty holding trong lĩnh vực trò chơi điện tử của Mỹ có trụ sở tại thành phố New York và do Ryan Brant thành lập vào tháng 9 năm 1993.
Công ty sở hữu hai nhãn xuất bản lớn là Rockstar Games và 2K, vận hành các xưởng phát triển trò chơi nội bộ. Gần đây, Take-Two đã tạo ra nhãn hiệu Private Division để hỗ trợ xuất bản từ các nhà phát triển độc lập và gần đây đã công bố một xưởng nội bộ mới cho hãng có tên là Intercept Games. Công ty đã mua lại các nhà phát triển Socialpoint, Playdots và Nordeus để tự tạo dựng chỗ đứng trên thị trường trò chơi di động. Công ty cũng sở hữu 50% tổ chức esports chuyên nghiệp NBA 2K League. Danh mục đầu tư kết hợp của Take-Two bao gồm các nhượng quyền thương mại như "BioShock" , "Borderlands", "Grand Theft Auto", "NBA 2K" và "Red Dead" trong số những loạt khác.
Tính đến tháng 3 năm 2018, đây là công ty trò chơi đại chúng lớn thứ ba ở châu Mỹ và châu Âu sau Activision Blizzard và Electronic Arts, với mức vốn hóa thị trường ước tính 13 tỷ USD.
Lịch sử.
1993-2000: Hình thành và tăng trưởng ban đầu. | wiki |
Take-Two Interactive | Lịch sử.
1993-2000: Hình thành và tăng trưởng ban đầu.
Take-Two Interactive do Ryan Ashley Brant, con trai của Peter Brant, đồng sở hữu tạp chí "Interview". Brant từng làm việc cho cha mình về các vấn đề kinh doanh cho "Interview", ông muốn đi con đường riêng, và quyết định thành lập một công ty xuất bản trò chơi video. Brant nói "Tôi muốn tham gia vào một doanh nghiệp nơi tôi có thể huy động vốn khi còn trẻ. Trong công nghệ, mọi người mong đợi bạn là một người trẻ hơn." Khoản tài trợ ban đầu được huy động từ các nhà đầu tư gia đình và tư nhân để ra mắt công ty. Take-Two thành lập tại Delaware vào ngày 30 tháng 9 năm 1993, với Brant (lúc đó 21 tuổi) là giám đốc điều hành (Giám đốc điều hành). Công việc kinh doanh được thành lập với sự hỗ trợ của John Antinori và Mark Seremet. Seremet sold his stake in the company in 1998. Ngay từ sớm, Take-Two đã có một địa điểm ở Latrobe, Pennsylvania. Đến tháng 6 năm 1994, công ty đã mua lại và tiếp nhận InterOptica, một nhà xuất bản phần mềm thuộc sở hữu của Wan Chai và đứng đầu là Catherine Winchester (sau này là Heald); người sau trở thành chủ tịch đầu tiên của Take-Two. Cuối tháng đó, Take-Two đã ký một thỏa thuận với GameTek để nhà phát hành này phân phối năm trò chơi của Take-Two trên toàn thế giới. | wiki |
Take-Two Interactive | Bắt đầu với "Star Crusader" vào năm 1993, Take-Two đã tìm thấy thành công lớn đầu tiên của mình trong các trò chơi bao gồm video chuyển động đầy đủ với các diễn viên nổi tiếng thực hiện các phần, sau thành công mà Mechadeus có được qua "The Daedalus Encounter" với sự tham gia của Tia Carrere. Take-Two đã thuê Dennis Hopper, trong số những người khác, đóng vai chính trong "" (1994), bán ra hơn 300.000 bản trong năm sau và tạo ra lợi nhuận cho công ty. Tiếp theo là "Ripper" (1996), trong đó của ngân sách 2,5 triệu USD đã được sử dụng để thuê các diễn viên như Christopher Walken, Karen Allen và Burgess Meredith. Thành công của cả hai trò chơi này, cũng như các tựa trước đó, đã dẫn đến một thỏa thuận xuất bản giữa Take-Two và Acclaim Entertainment để xuất bản các tựa game của Take-Two, cũng như có quyền phân phối ở nước ngoài. Take-Two cũng bảo đảm giấy phép với Sony Computer Entertainment để xuất bản trên dòng máy chơi game PlayStation.
Tháng 2 năm 1995, GameTek mua lại cổ phần của Take-Two, điều chỉnh xưởng bằng chính Alternative Reality Technologies của mình. Đến tháng 7 năm 1995, Take-Two đã thành lập trụ sở chính tại khu vực Silicon Alley của Thành phố New York. Take-Two mở rộng địa điểm tại Latrobe và vào tháng 9 năm 1996, tiếp quản tầng hai của tòa nhà văn phòng, nơi này đang được Chi hội Chestnut Ridge của Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ thuê.
2001–2006: Tiếp tục mua lại và điều tra quy định. | wiki |
Take-Two Interactive | 2001–2006: Tiếp tục mua lại và điều tra quy định.
Tháng 2 năm 2001, Brant từ chức Giám đốc điều hành của Take-Two để giữ chức vụ chủ tịch, thay thế vai trò cũ của Sumner. Vào khoảng thời gian này, công ty có 658 nhân viên. Với Rockstar, Take-Two đầu tư vào sự phát triển của các phần tiếp theo của "Grand Theft Auto", gồm "Grand Theft Auto 2" (1999), và "Grand Theft Auto III" (2001) cùng với các phần tiếp theo, ' (2002) và ' (2004). Đến năm 2003, Take-Two đã đạt doanh thu vượt 1 tỷ đô la Mỹ. Năm 2004, Take-Two đã trả 22,3 triệu đô la Mỹ cho Infogrames để có bản quyền của loạt Civilization. Công ty cũng đã lên kế hoạch mua lại Vivendi Universal Games với giá 1 tỷ đô la Mỹ. | wiki |
Take-Two Interactive | Vấn đề rắc rối hơn nữa của Take-Two trong giai đoạn này là những lời chỉ trích và các hành động pháp lý đối với bản mod "Hot Coffee," một bản sửa đổi do người dùng thực hiện đối với "Grand Theft Auto: San Andreas" đã mở khóa một cảnh đồ họa gợi dục ẩn được tích hợp vào trò chơi, với các chính trị gia có liên quan và người tiêu dùng cho biết cảnh này đã tin tưởng vào xếp hạng nội dung ESRB của trò chơi. Các hành động chống lại Take-Two bao gồm một cuộc điều tra của Ủy ban Thương mại Liên bang về quảng cáo lừa đảo, mà Take-Two và Rockstar đã giải quyết vào năm 2006 về tiền phạt cho bất kỳ vi phạm nào trong tương lai về xếp hạng nội dung. Take-Two đã hoàn tất vụ dàn xếp trị giá 20,1 triệu đô la Mỹ liên quan đến các vụ kiện tập thể được đệ trình vào năm 2005 về bản mod "Hot Coffee", cũng như vụ kiện tập thể do các cổ đông đưa ra về các lựa chọn gian lận lùi ngày, vào tháng 9 năm 2009.
2007-2008: Tiếp quản cổ đông và cố gắng mua lại. | wiki |
Take-Two Interactive | 2007-2008: Tiếp quản cổ đông và cố gắng mua lại.
Một vụ hỏa hoạn đã làm hư hại một phần tòa nhà trụ sở Take-Two ở New York vào năm 2006. Đầu tháng 1 năm 2007, Take-Two đã chuyển trụ sở của 2K đến Novato, California với diện tích 65.000 feet vuông tại Hamilton Landing, một công viên văn phòng có thay thế các cấu trúc nhà chứa máy bay cũ từ Hamilton Army Airfield. Cuối năm đó vào tháng 9, Take-Two đã thiết lập quan hệ đối tác với Nickelodeon và ra mắt một nhãn mới, 2K Play, được thiết kế để xuất bản các tựa game thân thiện với gia đình cùng với các nhãn phụ 2K Games và 2K Sports, tiếp nhận các nhiệm vụ xuất bản còn lại của nhãn Global Star. Tháng 12 năm 2007, Take-Two thành lập 2K Marin (đặt theo tên của Marin County, nơi có Novato) và mở rộng sự hiện diện tại Hamilton Landing.
2008–2018: Tiếp tục tăng trưởng.
Tháng 9 năm 2008, Take-Two đã thiết lập một thỏa thuận gia công với Ditan Distribution LLC, vào thời điểm đó thuộc sở hữu của Cinram, một nhà sản xuất phương tiện quang học của Canada. Thông qua thỏa thuận, Take-Two đã giảm tải tất cả các nhiệm vụ phân phối từ Jack of All Games cho Ditan, đồng thời thiết lập phương tiện để Jack of All Games cấp phép và phân phối các tựa game của bên thứ ba. Sau đó, vào tháng 12 năm 2009, Take-Two bán Jack of All Games cho Synnex với giá khoảng 43 triệu đô la Mỹ, rời bỏ thị trường phân phối và chỉ tập trung vào phát triển và xuất bản.
2019 – nay: Mở rộng xưởng. | wiki |
Take-Two Interactive | 2019 – nay: Mở rộng xưởng.
Tháng 2 năm 2019, Take-Two thành lập một xưởng còn chưa được đặt tên, dưới thương hiệu 2K, ở khu vực Thung lũng Silicon của Khu vực Vịnh San Francisco. Xưởng do Michael Condrey, trước đây của Sledgehammer Games và Visceral Games, và đang thực hiện một dự án không thông báo. Một năm sau, có thông báo rằng xưởng sẽ chính thức được đặt tên là 31st Union, rằng hãng đang mở xưởng thứ hai ở Tây Ban Nha và đang tập trung vào "một IP mới đầy tham vọng và cảm hứng".
Take-Two Interactive đã công bố ý định mua lại nhà phát triển di động Zynga vào tháng 1 năm 2022, trong một thỏa thuận tiền và cổ phiếu trị giá 12,7 tỷ đô la, trong đó Take-Two sẽ mua lại tất cả cổ phiếu đang lưu hành của Zynga với giá 9,86 đô la mỗi người. Thỏa thuận dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 6. Take-Two nói rằng việc mua lại sẽ giúp tăng cường sự hiện diện của họ trong thị trường trò chơi di động, nói rằng "Chúng tôi nhận thấy tiềm năng to lớn nhưng chưa được khai thác trong việc đưa các thuộc tính PC và console nổi tiếng của Take-Two lên thiết bị di động, một sáng kiến ưu tiên được thúc đẩy bởi việc bổ sung nhóm phát triển, phát hành và hoạt động trực tiếp hàng đầu của Zynga."
Cơ cấu công ty. | wiki |
Take-Two Interactive | Cơ cấu công ty.
Take-Two đã tự thoái vốn khỏi các hoạt động sản xuất và phân phối cũ để chuyển sang phát hành kỹ thuật số và bán lẻ của bên thứ ba. Kể từ năm 2016, khoảng một nửa doanh thu của công ty là từ phân phối kỹ thuật số, từ việc bán trò chơi kỹ thuật số thông qua máy tính cá nhân hoặc máy console hoặc thông qua kiếm tiền từ game trên máy tính, console và các tựa game di động
Các khoản nắm giữ khác.
Take-Two chia đều quyền kiểm soát NBA 2K League, một giải đấu thể thao điện tử dựa trên loạt "NBA 2K", cùng với National Basketball Association.
Công ty có lợi ích thiểu số không được tiết lộ trong Scopely. Trước đó, họ đã nắm giữ 19,9% lãi suất trong Bungie, sau đó nó đã chuyển giao cho Microsoft Game Studios khi mua lại vào tháng 6 năm 2000, đổi lại nhận được quyền sở hữu với "Myth" và "Oni,"IP và giấy phép sử dụng công cụ "Halo" để sản xuất hai trò chơi mới. Take-Two cũng có 2,3% lãi suất trong Twitch, sau khi Amazon mua lại dịch vụ vào năm 2014, nhận từ đợt giảm giá.
Tranh tụng. | wiki |
Take-Two Interactive | Tranh tụng.
Take-Two đã sử dụng các khiếu nại nhãn hiệu pha loãng để ngăn các nhà phát hành và phát triển khác đăng ký các nhãn hiệu tương tựvới nhãn hiệu của chính Take-Two, chẳng hạn như chặn đăng ký nhãn hiệu liên quan đến "rockstar", "bully", "2K" và chữ cái viết hoa "R". Nhà phát hành đã đệ đơn tranh chấp chống lại Hazelight Studios để chặn nỗ lực đăng ký nhãn hiệu"It Takes Two", do tên của nó giống với Take-Two. Hazelight buộc phải từ bỏ đơn đăng ký nhãn hiệu, khiến việc quảng bá trò chơi trở nên khó khăn hơn.
Take-Two cũng đã tích cực ngăn chặn việc phát hành bản mod của" Grand Theft Auto". Vì một số bản mod này đã sử dụng nội dung từ trò chơi gốc và đưa ra lý do hợp lệ cho Take-Two để bảo vệ bản quyền, các bản mod khác mà Take-Two được đưa vào tầm ngắm là những bản được tạo ra từ kỹ thuật đảo ngược hợp pháp của trò chơi, khiến Take-Two đưa ra nhiều tuyên bố gây tranh cãi. Take-Two đã làm rõ rằng họ thấy không có vấn đề gì với các bản mod dành cho các trò chơi đơn nếu chúng được tạo ra một cách hợp pháp, nhưng sẽ có hành động chống lại các loại mod khác. | wiki |
Ngô Xuân Lịch | Ngô Xuân Lịch (sinh năm 1954) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tướng và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Hà Nam. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh Việt Nam. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương.
Thân thế.
Ông sinh ngày 20 tháng 4 năm 1954, quê tại phố Lương Xá, phường Yên Bắc, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Gia đình.
Cả gia đình chỉ có ông theo con đường binh nghiệp. Bố ông làm công tác chính quyền tại thị xã Duy Tiên, có 5 lần sinh nở nhưng chỉ có anh trai thứ 2 (Ngô Văn Vĩnh - ông có con trai là Ngô Quốc Bảo, sinh năm 1982, hiện là Chính ủy Bộ CHQS tỉnh Hà Nam; em thứ là Ngô Mạnh Linh, hiện là chủ tịch TCT XNK Vạn Xuân) và ông thứ 4 (Ngô Xuân Lịch) là nuôi được. Còn anh cả, anh ba và em út đều mất sớm.
Giáo dục:
Binh nghiệp.
Ông nhập ngũ vào giai đoạn cuối Chiến tranh Việt Nam và được biên chế vào Sư đoàn 308, Quân đội nhân dân Việt Nam (còn gọi là Đoàn Quân Tiên Phong) Quân đoàn 1. Sau đó, ông cùng đơn vị tham chiến trong chiến dịch Hồ Chí Minh sau đó là Chiến tranh biên giới Tây Nam, đi lên từ chiến sĩ lên chức vụ Chính trị viên Tiểu đoàn.
Tháng 1/1972 – 7/1973: Chiến sĩ, Tiểu đội phó, Tiểu đoàn 14 Sư đoàn 308.
Tháng 8/1973 – 10/1974: Tiểu đội trưởng, Tiểu đoàn 14, Trung đoàn 55, Sư đoàn 341, Quân khu 4. | wiki |
Ngô Xuân Lịch | Tháng 1/1972 – 7/1973: Chiến sĩ, Tiểu đội phó, Tiểu đoàn 14 Sư đoàn 308.
Tháng 8/1973 – 10/1974: Tiểu đội trưởng, Tiểu đoàn 14, Trung đoàn 55, Sư đoàn 341, Quân khu 4.
Tháng 11/1974 – 10/1978: Trung đội trưởng, Chính trị viên phó, Chính trị viên Đại đội, Đảng ủy viên Đảng ủy Tiểu đoàn 14, Trung đoàn 55, Sư đoàn 341, Quân khu 4.
Tháng 11/1978 – 3/1981: Trợ lý Tổ chức, Phòng Chính trị, Sư đoàn 341, Quân khu 4.
Tháng 4/1981 – 8/1982: Thượng úy, Học viên Trung cấp Trường Quân chính, Quân khu 4. Học viên Trường Văn hoá Quân đội.
Tháng 9/1982 – 7/1985: Học viên Học viện Chính trị - Quân sự.
Tháng 8/1985 – 7/1987: Phó Chủ nhiệm Chính trị, Phó Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn, Trung đoàn 667, Trung đoàn 779, Sư đoàn 346, Quân đoàn 26, Quân khu 1. Đảng ủy viên Đảng ủy Quân sự tỉnh Cao Bằng.
Tháng 8/1987 – 01/1988: Bí thư Đảng ủy Trung đoàn, Chính ủy Trung đoàn 462, Sư đoàn 392, Quân khu 1.
Tháng 2/1988 – 8/1994: Trợ lý Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị. Học viên Học viện Quốc phòng Việt Nam.
Tháng 9/1994 – 10/2000: Phó phòng, Trưởng phòng Công tác Chính trị rồi Cục phó Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị. Học viên hoàn thiện cử nhân tại Học viện Chính trị - Quân sự (1995 – 1996).
Tháng 11/2000 – 4/2003: Phó Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị.
Tháng 5/2003 – 11/2004: Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 3.
Tháng 12/2004 – 3/2006: Bí thư Đảng ủy, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 3. | wiki |
Ngô Xuân Lịch | Tháng 5/2003 – 11/2004: Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu 3.
Tháng 12/2004 – 3/2006: Bí thư Đảng ủy, Phó Tư lệnh về Chính trị Quân khu 3.
Tháng 4/2006 – 11/2007: Ủy viên Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Quân khu 3. Học lớp nghiên cứu cán bộ cao cấp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2006).
Tháng 12/2007 – 01/2011: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Tháng 1/2011 – 02/2011: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương.
Tháng 2/2011 – 4/2016: Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương. Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Ngày 9 tháng 4 năm 2016: Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIII, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ngày 28/7/2016: Tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIV, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ngày 07 tháng 4 năm 2021, Tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, được Quốc hội phê chuẩn, Chủ tịch nước miễn nhiệm chức danh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhiệm kỳ (2016 – 2021) theo đề nghị của Thủ tướng Phạm Minh Chính.
Sự nghiệp chính trị.
Hoạt động trong Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Ngày vào Đảng: 4 tháng 8 năm 1973. Ngày chính thức: 4 tháng 8 năm 1974.
- Ủy viên Trung ương Đảng khoá X, XI, XII.
- Bí thư Trung ương Đảng khóa XI.
- Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII.
Đại biểu Quốc hội Việt Nam nhiệm kì 2011-2016. | wiki |
Ngô Xuân Lịch | - Ủy viên Trung ương Đảng khoá X, XI, XII.
- Bí thư Trung ương Đảng khóa XI.
- Ủy viên Bộ Chính trị khóa XII.
Đại biểu Quốc hội Việt Nam nhiệm kì 2011-2016.
Năm 2011, ông trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII nhiệm kì 2011-2016 ở đơn vị bầu cử số 2 tỉnh Bình Phước, gồm Thị xã Đồng Xoài, thị xã Phước Long, huyện Bù Gia Mập, huyện Bù Đốp và huyện Bù Đăng đạt tỷ lệ 79,21% số phiếu hợp lệ.
Đại biểu Quốc hội Việt Nam nhiệm kì 2016-2021.
Ngày 22 tháng 5 năm 2016, ông trúng cử đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV nhiệm kì 2016-2021 ở đơn vị bầu cử số 2 ở tỉnh Hà Nam, gồm các huyện: Kim Bảng, Duy Tiên và Lý Nhân, được 311.918 phiếu, đạt tỷ lệ 95,87% số phiếu hợp lệ. | wiki |
Sergey Vitalyevich Bezrukov | Sergey Vitalyevich Bezrukov
Sergey Vitalyevich Bezrukov (tiếng Nga: "Сергей Витальевич Безруков", sinh ngày 18 tháng 10 năm 1973) là một diễn viên người Nga, hoạt động trong lĩnh vực sân khấu và điện ảnh, đôi khi anh cũng được biết đến với vai trò một ca sĩ. Anh hiện đang làm việc tại Tabakov Studio (nhà hát của Oleg Tabakov).
Sự nghiệp.
Sergey Bezrukov là con trai của nam diễn viên Vitali Bezrukov. Anh tốt nghiệp Nhà hát Nghệ thuật Moscow và có màn ra mắt trong phim điện ảnh Nocturne for Drum and Motorcycle. Từ năm 1994 anh tham gia nhiều vai diễn góp mặt trong nhiều bộ phim lớn nhỏ khác nhau. Có thể kể tới như Ivan Brilling trong Azazel, Kappel trong Admiral, Vladimir Vysotsky trong Vysotsky Thank You for Being Alive, Sergei Yesenin trong Yesenin, và gần đây nhất là Sumarokov trong "High Security Vacation". Anh cũng được nhiều người biết đến tư cách là một diễn viên lồng tiếng. Trong suốt những năm 2000, Sergey Bezrukov đã khắc họa nhiều nhân vật lịch sử của Nga, đặc biệt là Alexander Pushkin. | wiki |
Holocaust ở Albania | Holocaust ở Albania bao gồm các tội ác đối với người Do Thái ở Đại Albania bởi các lực lượng cộng tác Đức, Ý và Albania trong khi Albania nằm dưới sự chiếm đóng của Ý và Đức trong Thế chiến II. Trong suốt cuộc chiến, gần 2.000 người Do Thái tìm nơi ẩn náu ở Albania cũ. Hầu hết những người tị nạn Do Thái này được người dân địa phương đối xử tốt, mặc dù thực tế là Albania cũ bị phát xít Ý chiếm đóng, và sau đó là Đức Quốc xã. Người Albani thường che chở cho những người tị nạn Do Thái ở các ngôi làng miền núi và vận chuyển họ đến các cảng biển Adriatic từ đó họ trốn sang Ý. Những người Do Thái khác tham gia các phong trào kháng chiến trong cả nước.
Đối với 500 người Do Thái sống ở Kosovo, trải nghiệm này hoàn toàn khác biệt và khoảng 40% không sống sót sau chiến tranh. Với sự đầu hàng của Ý vào tháng 9 năm 1943, Đức chiếm Greater Albania. Năm 1944, một phân vùng Albania của "Waffen-SS" được thành lập, với việc bắt giữ và bàn giao cho người Đức thêm 281 người Do Thái khỏi Kosovo, những người này sau đó bị trục xuất đến trại tập trung Bergen-Belsen, nơi nhiều người đã bị giết. Cuối năm 1944, người Đức bị đuổi ra khỏi Albania và đất nước này trở thành một quốc gia cộng sản dưới sự lãnh đạo của Enver Hoxha. Cùng thời gian đó, các lực lượng phe Trục ở các khu vực thôn tính của Albania ở Kosovo và phía tây Macedonia đã bị quân khởi nghĩa Nam Tư đánh bại, những người này sau đó tái nhập các khu vực này vào Nam Tư. | wiki |
Holocaust ở Albania | Khoảng 600 người Do Thái đã bị giết ở Đại Albania trong Holocaust. Ở Albania cũ, năm người Do Thái trong cùng một gia đình đã bị giết bởi người Đức, và họ là những người Do Thái bản địa duy nhất bị giết ở đó trong suốt cuộc chiến. Albania bản địa ra khỏi cuộc chiến với dân số người Do Thái lớn hơn mười một lần so với lúc ban đầu, khoảng 1.800 người. Hầu hết trong số này sau đó di cư sang Israel. Hàng trăm người ở lại Albania cho đến khi Cộng sản sụp đổ vào đầu những năm 1990 trước khi làm điều tương tự. Không có sự đồng thuận về mặt học thuật về lý do tại sao tỷ lệ sống sót của người Do Thái ở Albania theo cách khác biệt rất lớn so với ở Kosovo. Một số học giả đã lập luận rằng bộ luật danh dự truyền thống được gọi là "besa", một phần quan trọng của văn hóa Albania, đã đóng một vai trò. Các học giả khác cho rằng nguyên nhân là sự khoan dung tương đối của chính quyền nghề nghiệp Ý, việc Đức không tìm kiếm người Do Thái ở Albania - đúng như ở các nước khác, cũng như sự nghi ngờ của người nước ngoài ở Kosovo Albani. Tính đến năm 2018, 75 công dân của Albania đã được Yad Vashem công nhận là người dân ngoại công chính. | wiki |
Thịt voi | Thịt voi đề cập đến phần thịt và các phần cơ thể có thể ăn được khác của con voi. Được tiêu thụ chủ yếu ở các quốc gia châu Phi như một loại thực phẩm tuy không thực sự thông dụng, chủ yếu trong những giai đoạn người dân gặp khó khăn (khi gặp hạn hán hay chiến tranh), thịt loài vật này cũng được sử dụng ở một số nước châu Á dưới phương diện món ăn đặc sản hay trong các bài thuốc.
Trong lịch sử.
Với khối lượng cơ thể khổng lồ của mình, voi có nhiều thịt để cung cấp cho cồng đồng ăn thịt. Thịt voi, với tư cách là một nguồn thực phẩm cho cả người và động vật đã được sử dụng xuyên suốt trường kỳ thời gian. Đầu thời kỳ đồ đá cũ, khoảng 120.000 TCN, các xã hội châu Phi đang trong giai đoạn săn bắt và hái lượm được cho là đã thành thạo trong việc săn voi để lấy thịt. Một mẫu vật của loài voi đã tuyệt chủng là Palaeoloxodon antiquus được phát hiện ở thung lũng Ebbsfleet, gần Swanscombe: bộ xương 400.000 năm tuổi, được tìm thấy với các công cụ bằng đá nằm rải rác xung quanh, cho thấy con voi đã bị xẻ thịt bởi một bộ lạc của người tiền sử có tại thời điểm, được gọi là Homo heidelbergensis. | wiki |
Thịt voi | Các nhà khảo cổ cũng thường thấy xương voi ma mút và xương loài voi khác tại các địa điểm đồ đá cũ ở Levant phía tây nam châu Á với đặc điểm là đã bị đập vỡ để lấy tủy. Có nơi người ta đã phát hiện ra ba chiếc rìu cắm gần xác một con voi với ngà bị cắt xẻ. Vết tích ở Israel chứng tỏ người cố đại từ 500 nghìn năm trước đã sử dụng những công cụ bằng đá để xẻ thịt voi lấy mỡ, gân và tủy. Những công cụ bằng đá có niên đại nửa triệu năm tuổi đã được khai quật ở Israel, chúng có vết tích chất béo của voi bám vào, cho thấy con người cổ đại đã từng sử dụng các công cụ để xẻ thịt những động vật cỡ lớn. | wiki |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.