title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Trần Văn Khải | Sự nghiệp.
Tháng 9 năm 1998, sau khi tốt nghiệp trường Kiến trúc Hà Nội, Trần Văn Khải được tuyển dụng vào trường, là Kiến trúc sư, chuyên viên tư vấn xây dựng, thiết kế công trình của Văn phòng tư vấn Xây dựng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, Bộ Xây dựng. Ông công tác liên tục 5 năm cho đến tháng 4 năm 2003 thì được điều chuyển làm Xưởng trưởng Xưởng Thiết kế số 5, 195 Lê Duẩn – một đơn vị của Văn phòng. Ở đơn vị này 1 năm, vào tháng 4 năm 2004, Trần Văn Khải bắt đầu công tác ở Tổng công ty Than Việt Nam, nay là Tập đoàn Công nghiệp Than Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin), ban đầu là Trưởng phòng Tư vấn Đầu tư – Xây dựng của Công ty Đầu tư, Thương mại và Dịch vụ, sang tháng 1 năm 2005, ông là Phó Giám đốc Ban Quản lý và phát triển các dự án của Công ty Đầu tư, Thương mại và Dịch vụ tại thành phố Nha Trang, sau đó 2 tháng thì trở lại và là Phó Giám đốc Ban Quản lý và phát triển các dự án Công ty cổ phần Đầu tư, Thương mại và Dịch vụ. Tháng 11 năm 2005, ông là Giám đốc chi nhánh Công ty cổ phần Đầu tư, Thương mại và Dịch vụ tại tỉnh Gia Lai, kiêm Trưởng ban Quản lý dự án chi nhánh Gia Lai của Vinacomin. Tháng 11 năm 2007, ông rời Vinacomin, tới Công ty cổ phần Phát triển Tập đoàn VK làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, giữ cương vị này 8 năm. | wiki |
Trần Văn Khải | Tháng 5 năm 2015, Trần Văn Khải trở lại Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, là Giảng viên hợp đồng tập sự Bộ môn quản lý đất đai và Nhà ở thuộc Khoa Quản lý đô thị, rồi Giảng viên về Thị trường bất động sản. Sang tháng 6 năm 2016, ông là Bí thư Chi bộ, Viện trưởng Viện Đào tạo và Ứng dụng khoa học công nghệ thuộc Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Tháng 6 năm 2017, ông được điều chuyển làm Cán bộ Ban Tài chính, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, rồi Bí thư Chi bộ, Trưởng Ban Quản lý dự án thiết chế công đoàn từ tháng 8 cùng năm. Vào tháng 1 năm 2018, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Tổng Liên đoàn Lao động, tiếp tục là Trưởng Ban Quản lý dự án thiết chế công đoàn cho đến tháng 9 thì giữ thêm cương vị Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn. Năm 2021, Trần Văn Khải được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội từ Hà Nam, thuộc đơn vị bầu cử số 1 gồm thành phố Phủ Lý, huyện Thanh Liêm, Bình Lục, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 90,11%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội. | wiki |
Across the Rhine | Across the Rhine
Across the Rhine (tạm dịch: "Băng qua sông Rhine") là một game thuộc thể loại trò chơi chiến tranh được hãng MPS Labs phát triển và MicroProse phát hành vào năm 1995.
Lối chơi.
"Across the Rhine" có lối chơi dạng trò chơi chiến tranh kèm thêm yếu tố thời gian thực. Game mô phỏng cuộc giao tranh nảy lửa giữa quân đội Mỹ và Đức Quốc Xã trong Thế chiến II.
Bình phẩm.
Trong tạp chí game "Computer Games Strategy Plus", Mike Robel cảm nhận rằng "Across the Rhine" là một tựa game chưa hoàn thiện nhưng đầy hứng thú, với kiểu "đường cong học tập "quá sức" phóng đại". Viết bài cho tạp chí "Computer Game Review", Frank Snyder đã mệnh danh game này là "một trò chơi mô phỏng xe tăng đầy ấn tượng chắc chắn sẽ làm hài lòng những người hâm mộ dạng game mô phỏng chiến lược". Tasos Kaiafas của tạp chí trông kém tích cực hơn, phần lớn chỉ trích gay gắt tựa game này. | wiki |
Giovanni Trapattoni | Giovanni Trapattoni (, sinh ngày 17 tháng 3 năm 1939, thường được gọi là "Trap" hoặc "Il Trap", là một cựu cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Ý, ông được xem là một trong những huấn luyện viên thành công công nhất trong lịch sử Serie A. Khi còn là cầu thủ ông từng là thành viên của đội tuyển Ý tham dự World Cup 1962.
Trapattoni từng là huấn luyện viên của Cộng hoà Ireland, dẫn dắt đội bóng vượt qua vòng loại EURO 2012 sau khi thất bại đáng tiếc ở vòng loại World Cup 2010 (thua trong trận play-off với đội tuyển Pháp bởi một bàn thắng được ghi sau pha chơi bóng bằng tay của Thierry Henry). Trapattoni cũng từng dẫn dắt đội bóng quê nhà Ý ở World Cup 2002 (giải đấu mà Ý bị loại sau thất bại ở vòng 2 trước đồng chủ nhà Hàn Quốc và Euro 2004 (bị loại dù cùng được 5 điểm như Đan Mạch và Thụy Điển nhưng thua kém hệ số đối đầu trực tiếp sau trận hoà 2-2 đầy tranh cãi giữa hai đội này ở lượt đấu cuối). Trapattoni cũng từng dẫn dắt nhiều câu lạc bộ ở châu Âu và cùng với Juventus ông là huấn luyện viên duy nhất từng giành tất cả các danh hiệu cấp câu lạc bộ ở châu Âu và trên thế giới . | wiki |
Giovanni Trapattoni | Là một trong những huấn luyện viên nổi tiếng nhất lịch sử bóng đá, Trapattoni là một trong 5 huấn luyện viên, cùng với Ernst Happel, José Mourinho,Bela Guttmann và Tomislav Ivić đã giành chức vô địch quốc gia ở 4 đất nước khác nhau (10 lần). Cùng với Udo Lattek, ông là một trong hai huấn luyện viên duy nhất sưu tập đủ bộ 3 cúp châu Âu . Ông cũng là huấn luyện viên duy nhất giành chiến thắng ở tất cả các giải đấu cúp châu Âu và thế giới, đồng thời là người giành nhiều cúp UEFA nhất (3 lần).
Danh hiệu.
Trapattoni là một trong 5 huấn luyện viên (cùng với Ernst Happel, José Mourinho, Bela Guttmann, và Tomislav Ivic) đã giành chức vô địch quốc gia ở 4 đất nước khác nhau (10 lần): Ý, Đức, Bồ Đào Nha và Áo . Ông cũng là huấn luyện viên có nhiều danh hiệu quốc tế thứ 4 trên thế giới (đứng thứ 2 ở châu Âu) với 7 chiến thắng trong 8 trận chung kết, sau Carlos Bianchi, Alex Ferguson, và Manuel José de Jesus - đều có 8 danh hiệu. Trapattoni, cùng với Alex Ferguson là hai huấn luyện viên thành công nhất ở cúp châu Âu với 6 danh hiệu. Cùng với Udo Lattek, ông là một trong hai huấn luyện viên duy nhất sưu tập đủ bộ 3 cúp châu Âu . Ông cũng là huấn luyện viên duy nhất giành chiến thắng ở tất cả các giải đấu cúp châu Âu và thế giới, đồng thời là người dành nhiều cúp UEFA nhất (3 lần). | wiki |
Đầu tư trái ngược | Trong tài chính, một nhà đầu tư trái ngược là một người cố gắng thu lợi nhuận bằng cách đầu tư khác với lẽ thường, khi ý kiến đồng thuận dường như là sai.
Một nhà đầu tư trái ngược cho rằng hành vi đám đông nhất định trong các nhà đầu tư có thể dẫn đến việc định giá sai có thể lợi dụng được trong thị trường chứng khoán. Ví dụ, tình trạng bi quan phổ biến rộng rãi về một cổ phiếu có thể dẫn đến một mức giá quá thấp tới mức nó phóng đại các rủi ro của công ty, và giảm bớt triển vọng của nó trong việc trở lại khả năng sinh lời. Xác định và mua các cổ phiếu nguy nan như vậy, và bán chúng sau khi các công ty phục hồi, có thể dẫn đến lợi nhuận trên mức trung bình. Ngược lại, tình trạng lạc quan rộng rãi có thể dẫn đến việc định giá cao không hợp lý mà cuối cùng sẽ dẫn đến những vụ rớt giá, khi những kỳ vọng cao không đạt kết quả. Tránh (hoặc bán khống) các khoản đầu tư thổi phồng quá mức như thế làm giảm nguy cơ của những vụ rớt giá như vậy. Những nguyên tắc chung này có thể áp dụng ở bất kỳ đâu, cho dù vụ đầu tư đang xem xét là một loại cổ phiếu cụ thể, một lĩnh vực công nghiệp, hay toàn bộ một thị trường hoặc một lớp tài sản nào khác. | wiki |
Đầu tư trái ngược | Một số nhà đầu tư trái ngược có cái nhìn thị trường gấu lâu dài, trong khi phần lớn các nhà đầu tư đặt cược vào thị trường bò. Tuy nhiên, một nhà đầu tư trái ngược không nhất thiết phải có cái nhìn tiêu cực về thị trường chứng khoán nói chung, cũng không phải anh ta phải tin rằng nó luôn luôn được định giá quá cao, hoặc là suy xét thông thường luôn luôn là sai. Thay vì thế, nhà đầu tư trái ngược luôn tìm kiếm các cơ hội để mua hoặc bán các khoản đầu tư cụ thể khi phần lớn các nhà đầu tư dường như đang làm ngược lại, đến mức mà sự đầu tư đó đã trở nên bị định giá sai. Trong khi các ứng cử viên "mua" nhiều hơn có khả năng được xác định khi thị trường suy giảm (và ngược lại), thì những cơ hội như vậy có thể xảy ra trong các thời kỳ khi toàn thị trường nói chung tăng hoặc giảm.
Sự tương đồng với đầu tư giá trị. | wiki |
Đầu tư trái ngược | Sự tương đồng với đầu tư giá trị.
Đầu tư trái ngược liên quan đến đầu tư giá trị ở chỗ đầu tư trái ngược cũng tìm kiếm các khoản đầu tư bị định giá sai và mua những khoản đầu tư nào dường như bị định giá thấp bởi thị trường. Một số nhà đầu tư giá trị nổi tiếng như John Neff đã từng đặt câu hỏi liệu có cái gọi là "trái ngược" hay không, nhìn nhận nó như là đồng nghĩa về bản chất với đầu tư giá trị. Một sự khác biệt có thể là một cổ phiếu có giá trị, trong lý thuyết tài chính, có thể được xác định bởi các số liệu tài chính như giá trị sổ sách hay P/E. Một nhà đầu tư trái ngược có thể nhìn vào những số liệu này, nhưng cũng có thể quan tâm đến các biện pháp "cảm tính" liên quan đến cổ phiếu đó trong số các nhà đầu tư khác, chẳng hạn như thông tin phân tích về bên bán và các dự báo thu nhập, khối lượng giao dịch, và bình luận của phương tiện truyền thông về công ty và triển vọng kinh doanh của nó.
Trong ví dụ về một cổ phiếu đã rớt giá do bi quan quá mức, có thể thấy những điểm tương đồng với "biên độ an toàn" mà nhà đầu tư giá trị Benjamin Graham đã tìm kiếm khi mua các cổ phiếu - về bản chất - có thể mua cổ phiếu với giá giảm đến giá trị nội tại của chúng. Có thể cho rằng, biên độ an toàn có nhiều khả năng tồn tại khi một cổ phiếu đã giảm rất nhiều, và đó là loại rớt giá thường đi kèm với tin tức tiêu cực và tình trạng bi quan chung. | wiki |
Đầu tư trái ngược | Cùng với điều này, mặc dù nguy hiểm hơn, là bán khống các cổ phiếu được định giá quá cao. Điều này đòi hỏi các "túi tiền to" do một chứng khoán được định giá quá cao có thể tiếp tục tăng, do sự lạc quan, trong một thời gian. Cuối cùng, người bán khống tin rằng, cổ phiếu này sẽ 'sụp đổ và bốc cháy'.
Ví dụ về đầu tư trái ngược.
Các chỉ số trái ngược thường được sử dụng cho tâm lý nhà đầu tư là chỉ số biến động (cũng được gọi không chính thức là "chỉ số sợ hãi"), như VIX, mà bằng cách theo dõi giá của các quyền chọn tài chính, đưa ra một con số đo lường cách các tác nhân thị trường này gây bi quan hay lạc quan nói chung. Một con số thấp trong chỉ số này cho thấy một triển vọng lạc quan hay tự tin nhà đầu tư hiện hành cho tương lai, trong khi một con số lớn cho thấy một triển vọng bi quan. Bằng cách so sánh VIX với các chỉ số cổ phiếu chính trong một khoảng thời gian dài, rõ ràng là các đỉnh trong chỉ số này nói chung là thể hiện những cơ hội mua tốt. | wiki |
Đầu tư trái ngược | Một ví dụ khác của một chiến lược trái ngược đơn giản là Chó của chỉ số Dow. Khi mua các cổ phiếu trong chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones có cổ tức tương đối cao nhất, một nhà đầu tư thường mua một số công ty "nguy nan" trong số 30 cổ phiếu loại đó. Những "Chó" này có lợi tức cao không phải vì cổ tức đã được tăng lên, mà vì giá cổ phiếu của chúng giảm. Công ty đang gặp khó khăn, hoặc chỉ đơn giản là ở một điểm thấp trong chu kỳ kinh doanh của họ. Bằng cách liên tục mua những cổ phiếu như vậy, và bán chúng khi chúng không còn đáp ứng các tiêu chí, nhà đầu tư "Chó" đang mua một cách có hệ thống những cổ phiếu ít được yêu thích nhất của chỉ số Dow 30, và bán chúng khi chúng trở nên được yêu thích một lần nữa.
Khi bong bóng Dot com bắt đầu xẹp, một nhà đầu tư có thể được hưởng lợi bằng cách tránh các cổ phiếu công nghệ đã từng là đối tượng chú ý của hầu hết các nhà đầu tư. Các lớp tài sản như cổ phiếu giá trị và các tín thác đầu tư bất động sản đã phần lớn bị bỏ qua bởi các báo chí tài chính vào thời điểm đó, mặc dù định giá thấp lịch sử của chúng, và nhiều quỹ tương hỗ trong những hạng mục này đã bị mất tài sản. Các khoản đầu tư này trải nghiệm các đợt tăng mạnh giữa những đợt rớt giá lớn trong thị trường chứng khoán Mỹ nói chung khi bong bóng vỡ ra.
Quan hệ với tài chính hành vi. | wiki |
Đầu tư trái ngược | Quan hệ với tài chính hành vi.
Các nhà đầu tư trái ngược đang cố gắng khai thác một số nguyên tắc của tài chính hành vi, và có sự chồng lấn đáng kể giữa các lĩnh vực này. Ví dụ, các nghiên cứu về tài chính hành vi đã chứng minh rằng các nhà đầu tư như một nhóm có khuynh hướng đánh giá nặng các xu hướng gần đây khi dự đoán tương lai; một cổ phiếu kém hoàn hảo sẽ vẫn xấu, và một cổ phiếu mạnh mẽ sẽ vẫn mạnh mẽ. Điều này thêm sự tin cậy cho niềm tin của các nhà đầu tư trái ngược rằng các khoản đầu tư có thể giảm "quá chậm" trong các thời kỳ tin tức tiêu cực, do những giả định không chính xác của các nhà đầu tư khác, liên quan đến triển vọng dài hạn đối với công ty này. | wiki |
Động vật ăn chất nhầy | Động vật ăn chất nhầy
Tham khảo.
Động vật ăn chất nhầy hay còn gọi là Mucophagy (có nghĩa là "ăn chất nhầy") là các loài động vật tồn tại được thông qua việc cho ăn bằng chất nhầy hay chất dịch tiết ra của cá hoặc động vật không xương. Nó cũng có thể liên tưởng đến việc ăn chất nhầy hoặc chất nhầy khô các loài linh trưởng (chẳng hạn như hành vi liếm nước mũi hoặc ăn cứt mũi của con người). Có các loại ký sinh trùng mycophagous, chẳng hạn như một số rận biển mà tự gắn mình vào các phân khúc mang cá để ăn chất nhầy của chúng, nhìn chung đây là các dạng cộng sinh. Các đại thực bào có thể phục vụ như là chất tẩy rửa các loài động vật khác. | wiki |
Callithrix jacchus | Callithrix jacchus
Callithrix jacchus là một loài động vật có vú trong họ Cebidae, bộ Linh trưởng. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758.
Ban đầu loài này sinh sống ở bờ biển đông bắc Brazil, ở các bang Piaui, Paraiba, Ceará, Rio Grande do Norte, Pernambuco, Alagoas và Bahia. Thông qua việc thả (cả cố ý và không chủ ý) các cá thể bị nuôi nhốt, loài này đã mở rộng phạm vi kể từ những năm 1920 đến Đông Nam Brazil (lần đầu tiên nhìn thấy chúng trong tự nhiên ở Rio de Janeiro là vào năm 1929), nơi chúng trở thành một loài xâm lấn, làm dấy lên lo ngại về di truyền sự ô nhiễm của các loài tương tự, chẳng hạn như "Callithrix aurita", và ăn thịt chim yến và trứng.
Trình tự toàn bộ bộ gen của một con cái loài này được công bố vào ngày 20 tháng 7 năm 2014. Loài này trở thành Khỉ thế giới mới đầu tiên được giải trình tự bộ gen. | wiki |
Đa Minh Đinh Đức Mậu | Đa Minh Đinh Đức Mậu
Đa Minh Đinh Đức Mậu là một linh mục tử vì đạo, được Giáo hội Công giáo Rôma tôn phong Hiển Thánh vào năm 1988.
Ông sinh năm 1794 tại làng Phú Nhai, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc giáo xứ Phú Nhai, xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, thuộc Giáo phận Bùi Chu). Năm 1829, sau khi được thụ phong linh mục, ông cùng với 10 anh em đồng môn xin gia nhập và tuyên khấn dòng Đa Minh. Ông phục vụ các xứ đạo Trung Linh, Phú Nhai và Kiên Lao. Ngày 27 tháng 8 năm 1858, ông bị bắt cùng với một số tín hữu tại làng Kẻ Diền, Thái Bình, sau đó, bị giải về Hưng Yên. Ngày 5 tháng 11 năm 1858, ông bị xử trảm tại Hưng Yên, được mai táng tại nhà thờ giáo xứ Mai Linh, Nam Định. | wiki |
Sầm Sơn | Sầm Sơn là một thành phố ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Thành phố Sầm Sơn được thành lập vào năm 2017 trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sầm Sơn theo Nghị quyết số 368/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Thành phố hiện là đô thị loại III và là một địa điểm du lịch biển nổi tiếng tại Việt Nam.
Địa lý.
Thành phố Sầm Sơn cách trung tâm thành phố Thanh Hóa 16 km về phía đông, cách thủ đô Hà Nội 176 km về phía đông nam, có vị trí địa lý:
Thành phố Sầm Sơn có diện tích tự nhiên 44,94 km². Sầm Sơn là thành phố có diện tích nhỏ nhất cả nước, dân số năm 2019 là 108.320 người, mật độ dân số đạt 2.430 người/km². Dân cư Sầm Sơn chủ yếu là người Kinh. Sầm Sơn nằm trên vùng đồng bằng phù sa, độ cao dưới 50 mét.
Khoảng cách từ bãi biển Sầm Sơn tới các điểm du lịch biển lân cận khác như sau:
Lịch sử.
Trước thế kỷ 20, Sầm Sơn chưa xuất hiện trên bản đồ địa lý Việt Nam, vùng đất này thuộc huyện Quảng Xương và chỉ có dãy núi Gầm án ngữ phía nam vùng đất mà ngư dân đi biển quen gọi là Mũi Gầm, sau dần dần đổi thành núi Sầm (Sầm Sơn), địa danh này cũng còn được gọi là núi Trường Lệ (làng chân núi này cũng gọi là Làng Núi hay làng Trường Lệ). Từ năm 1907, người Pháp đã nhận thấy và bắt đầu khai thác giá trị du lịch của bãi biển Sầm Sơn để xây dựng thành nơi nghỉ mát phục vụ người Pháp và vua quan triều Nguyễn. Đây là thời điểm đánh dấu sự ra đời của du lịch Sầm Sơn. | wiki |
Sầm Sơn | Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (ngày 7 tháng 5 năm 1954), cảng Lạch Hới xã Quảng Tiến (nay là phường Quảng Tiến), Sầm Sơn được giao nhiệm vụ là điểm tập kết đón người dân, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam tập kết ra Bắc (ngoài ra còn tập kết ở Cửa Hội, Nghệ An). Ngày 28 tháng 10 năm 2014, tại phường Quảng Tiến, thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã tổ chức lễ kỷ niệm 60 năm sự kiện này.
Trước Cách mạng tháng Tám (năm 1945), vùng đất Sầm Sơn thuộc tổng Giặc Thượng, sau đổi là Kính Thượng, rồi Cung Thượng, tổng này gồm các xã:
Sau Cách mạng tháng Tám, vùng đất Sầm Sơn được đặt tên mới là xã Lương Niệm, thuộc huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
Tháng 6 năm 1946, xã Lương Niệm được chia làm 2 xã: Sầm Sơn và Bắc Sơn. Xã Sầm Sơn gồm làng Núi (Sầm Thôn) và làng Giữa (Lương Trung); xã Bắc Sơn gồm làng Trấp, làng Hới, làng Trung, làng Triều, làng Vạn, làng Bến.
Tháng 11 năm 1947, sáp nhập 2 xã Sầm Sơn và Bắc Sơn thành xã Quảng Tiến thuộc huyện Quảng Xương.
Tháng 6 năm 1954, xã Quảng Tiến được chia thành 4 xã: Quảng Tiến, Quảng Cư, Quảng Tường và Quảng Sơn.
Ngày 19 tháng 4 năm 1963, Hội đồng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Quyết định số 50/CP thành lập thị trấn Sầm Sơn bao gồm khu nghỉ mát Sầm Sơn và xã Quảng Sơn.
Thị xã Sầm Sơn chính thức được thành lập ngày 18 tháng 12 năm 1981 theo Quyết định số 157-HĐBT trên cơ sở tách thị trấn Sầm Sơn và 3 xã: Quảng Tường, Quảng Cư, Quảng Tiến và xóm Vinh Sơn (xã Quảng Vinh) thuộc huyện Quảng Xương. | wiki |
Sầm Sơn | Ngày 29 tháng 9 năm 1983, thành lập 2 phường: Bắc Sơn và Trường Sơn trên cơ sở giải thể thị trấn Sầm Sơn.
Ngày 6 tháng 12 năm 1995, chuyển xã Quảng Tường thành phường Trung Sơn.
Ngày 8 tháng 12 năm 2009, chuyển xã Quảng Tiến thành phường Quảng Tiến.
Từ đó, thị xã Sầm Sơn có 4 phường và 1 xã.
Ngày 23 tháng 4 năm 2012, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 378/QĐ-BXD công nhận thị xã Sầm Sơn là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 935/NQ-UBTVQH13. Theo đó, mở rộng địa giới hành chính thị xã Sầm Sơn trên cơ sở sáp nhập 6 xã: Quảng Châu, Quảng Thọ, Quảng Vinh, Quảng Minh, Quảng Hùng, Quảng Đại thuộc huyện Quảng Xương. Thị xã Sầm Sơn có 4 phường và 7 xã.
Ngày 27 tháng 2 năm 2017, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã có Quyết định số 105/QĐ-BXD công nhận thị xã Sầm Sơn mở rộng là đô thị loại III.
Ngày 19 tháng 4 năm 2017, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 368/NQ-UBTVQH14. Theo đó:
Sau khi thành lập, thành phố Sầm Sơn có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 8 phường và 3 xã như hiện nay.
Hành chính.
Thành phố Sầm Sơn có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 8 phường: Bắc Sơn, Quảng Châu, Quảng Cư, Quảng Thọ, Quảng Tiến, Quảng Vinh, Trung Sơn, Trường Sơn và 3 xã: Quảng Đại, Quảng Hùng, Quảng Minh.
Du lịch. | wiki |
Sầm Sơn | Du lịch.
Trong những năm đầu của thế kỷ 20, Thành phố Sầm Sơn không những được quan chức người Pháp biết đến mà còn có vua quan nhà Nguyễn và khách du lịch biết đến như một nơi nghỉ dưỡng lý tưởng với những bãi cát trắng mịn dài hơn 10 km, sóng đánh mạnh. Đây là một vùng trời nước mênh mông, nhiều hải sản quý và đặc biệt có dãy núi Trường Lệ với các thắng tích như hòn Trống Mái, chùa Cô Tiên, đền Độc Cước, chùa Khải Nam, rừng thông...
Năm 1981, Sầm Sơn chỉ có gần 10 khách sạn, nhà nghỉ của các bộ, ngành. Cho đến năm 2022; Sầm Sơn có hơn 700 khách sạn, nhà nghỉ với hơn 20.000 phòng tiêu chuẩn.
Năm 2016; lượng khách du lịch đến Sầm Sơn tăng đột biến, đạt 4,1 triệu lượt khách, vượt 9,3% so kế hoạch cả năm, tăng 11% so với cùng kỳ, doanh thu đạt 2.855 tỷ đồng, vượt 17% kế hoạch, tăng 24% so vơi cùng kỳ. Kinh tế du lịch phát triển mạnh, góp phần đưa tốc độ phát triển kinh tế của thành phố tăng khá, đạt 17,3%, tăng 0,8% so kế hoạch.
Năm 2017, quần thể du lịch nghỉ dưỡng FLC được khánh thành đã thay đổi diện mạo của bãi biển Sầm Sơn. Dự án có quy mô 300ha với tổng mức đầu tư hơn 12.000 tỉ đồng gồm các khách sạn 5 sao, sân golf, khu nghỉ dưỡng, bể bơi nước mặn...
Năm 2022, Phát biểu tại hội nghị, ông Lê Văn Tú - Chủ tịch UBND thành phố Sầm Sơn cho biết: Tính đến tháng 10 năm 2022, Sầm Sơn đón được 6.848.880 lượt khách, gấp 4,4 lần so với cùng kỳ năm 2021, bằng 195,7 % kế hoạch năm. | wiki |
Sầm Sơn | Hiện nay dự án Quảng trường Biển - Tổ hợp đô thị du lịch, sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí cao cấp Sầm Sơn của tập đoàn Sungroup đã được khởi công xây dựng nhằm mục tiêu đưa Sầm Sơn trở thành trung tâm kinh tế động lực, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đầu tư kết cấu hạ tầng, đô thị, phát triển du lịch trở thành trụ cột tăng trưởng của tỉnh Thanh Hóa; đồng thời, tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng du lịch, hạ tầng đô thị, tạo nền tảng vững chắc để sớm đưa thành phố Sầm Sơn trở thành đô thị du lịch trọng điểm của cả nước. Các sản phẩm của Sun Group sẽ góp phần thay đổi diện mạo ngành du lịch, giúp thu hút thêm dòng khách hạng sang, khách quốc tế đến với thành phố biển Sầm Sơn, kiến tạo một hệ sinh thái đẳng cấp bao gồm các dự án tầm cỡ để qua đó cải thiện môi trường đầu tư, tạo động lực thu hút thêm các Tập đoàn lớn trong và ngoài nước đến đầu tư kinh doanh, đóng góp cho quá trình phát triển kinh tế xã hội, tạo thêm nhiều công ăn việc làm với thu nhập ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân Sầm Sơn nói riêng, Thanh Hóa nói chung.
Địa điểm tham quan.
Khu di tích Núi Trường Lệ. | wiki |
Sầm Sơn | Địa điểm tham quan.
Khu di tích Núi Trường Lệ.
Núi Trường Lệ, còn được gọi là Sầm Sơn hay Núi Sầm, là dãy núi thấp nằm ven biển phía nam thành phố Sầm Sơn. Dãy núi này hiện được bao phủ bởi một diện tích rừng đặc dụng, được đánh giá là có cảnh quan thiên nhiên đẹp và là khu vực đa dạng về sinh học. Núi Trường Lệ gồm có 16 ngọn trên diện tích 150 ha, trong đó đỉnh cao nhất là Hòn Kèo chỉ cao 84,7 m so với mực nước biển.
Năm 1962, khu vực Sầm Sơn gồm núi Trường Lệ, hòn Trống Mái, đền Độc Cước, đền Cô Tiên và đền Tô Hiến Thành được công nhận là di tích cấp quốc gia. Đến năm 2019, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt đối với Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Sầm Sơn.
Nhà thờ Sầm Sơn.
Nhà thờ Sầm Sơn tọa lạc tại số 121 Nguyễn Du, nhà thờ Sầm Sơn không chỉ là nơi hành lễ của giáo dân, nơi cầu an của các ngư dân theo đạo mà còn là một di tích lịch sử quan trọng của thành phố Sầm Sơn. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1920, theo kiến trúc Pháp giữa một không gian mở có khuôn viên rộng và nhiều cây xanh, mang đến cảm giác linh thiêng và lại rất thanh tịnh, yên bình. | wiki |
Sân vận động Paycor | Sân vận động Paycor
Sân vận động Paycor () là một sân vận động bóng bầu dục ngoài trời ở Cincinnati, Ohio. Đây là sân nhà của Cincinnati Bengals của National Football League và được khánh thành vào ngày 19 tháng 8 năm 2000. Ban đầu được gọi Sân vận động Paul Brown theo tên người thành lập Bengals, Paul Brown, sân vận động nằm trên khu đất rộng khoảng và có sức chứa 65.515 chỗ ngồi. Sân vận động Paycor có biệt danh là "The Jungle", ám chỉ không chỉ môi trường sống tự nhiên cùng tên của hổ Bengal mà còn là bài hát "Welcome to the Jungle" của Guns N' Roses, bài hát không chính thức của đội. | wiki |
Dân số thế giới | Trong nhân khẩu học, dân số thế giới là tổng số người hiện đang sống trên Trái Đất, và chính thức dân số thế giới cán mốc 8 tỷ người tính đến ngày 15 tháng 11 năm 2022.
Theo dự đoán của tổ chức Liên Hiệp Quốc, dân số toàn cầu sẽ đạt 9 tỉ vào năm 2037.
Loài người thời tiền sử và lịch sử loài người mất hơn 5 triệu năm để đạt đến dân số 1 tỷ người và chỉ cần thêm 200 năm để phát triển thành 7 tỷ người. | wiki |
Dân số thế giới | Loài người thời tiền sử và lịch sử loài người mất hơn 5 triệu năm để đạt đến dân số 1 tỷ người và chỉ cần thêm 200 năm để phát triển thành 7 tỷ người.
Dân số thế giới đang trải qua sự tăng trưởng liên tục kể từ sau Nạn đói lớn 1315–1317 và sự kết thúc của Cái Chết Đen vào năm 1350, khi dân số thời điểm đó là gần 370 triệu người. Tốc độ tăng trưởng dân số toàn cầu cao nhất, với sự tăng trưởng hơn 1,8% mỗi năm, xảy ra giữa năm 1955 và 1975đạt đỉnh 2,1% giữa năm 1965 và 1970. Tốc độ tăng trưởng giảm còn 1,2% giữa năm 2010 và 2015 và ước tính sẽ tiếp tục giảm trong suốt thế kỷ 21. Dân số thế giới vẫn đang tiếp tục tăng, nhưng khó có thể dự đoán chắc chắn sự thay đổi về lâu dài của nó do sự biến động của tỷ lệ sinh và tử. Vụ Liên Hiệp Quốc về vấn đề Kinh tế và Xã hội ước tính dân số thế giới sẽ đạt 9–10 tỷ người đến năm 2050, và ước tính với khoảng tin cậy 80% dân số thế giới sẽ đạt 10–12 tỷ người vào cuối thế kỷ 21. Những nhà nhân khẩu học khác dự đoán dân số thế giới sẽ bắt đầu giảm trong nửa sau thế kỷ 21. Một ước tính phổ biến về dân số bền vững của Trái Đất là 8 tỷ người tính đến năm 2012. Với dân số thế giới đạt 7,8 tỷ người và sự phỏng đoán tốc độ tăng trưởng dân số hiện nay, Trái Đất sẽ lâm vào quá tải dân số cho đến năm 2050 hoặc sớm hơn nữa. | wiki |
Dân số thế giới | Sinh suất đạt cao nhất trong những năm 1980 vào khoảng 139 triệu người, và đến năm 2011 được kỳ vọng sẽ ở mức bền vững cơ bản 135 triệu người, trong khi đó tử suất đạt 56 triệu người hàng năm và được kỳ vọng sẽ tăng thành 80 triệu người mỗi năm cho đến năm 2040. Độ tuổi trung bình của dân số thế giới được ước tính là 30.4 năm trong năm 2018.
Dân số theo khu vực.
Loài người cứ trú lâu dài quy mô lớn trên sáu trong bảy lục địa của Trái Đất. Châu Á là lục địa đông dân nhất, với hơn 4,64 tỷ người sinh sống chiếm 60% dân số thế giới. Hai quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc và Ấn Độ, tổng cộng chiếm 36% dân số thế giới. Châu Phi là lục địa đông dân thứ hai, với khoảng 1,34 tỷ người, hay 17% dân số thế giới. 747 triệu người sinh sống tại châu Âu chiếm 10% dân số thế giới tính đến năm 2020, trong khi khu vực Mỹ Latinh và Caribe là nhà của khoảng 653 triệu người (8%). Bắc Mỹ, bao gồm chủ yếu là Hoa Kỳ và Canada, có dân số vào khoảng 368 triệu người (5%), và châu Đại Dương, khu vực có dân số thấp nhất, có khoảng 42 triệu người sinh sống (0,5%). Châu Nam Cực có một dân số nhỏ, biến động liên tục với khoảng 1200 người làm việc tại các trạm nghiên cứu.
Nhân khẩu thế giới. | wiki |
Dân số thế giới | Nhân khẩu thế giới.
Đến năm 2012, tỷ lệ giới tính loài người trên toàn cầu xấp xỉ 1,01 nam với 1 nữ. Số lượng nam giới lớn hơn có thể là do sự bất cân bằng giới rõ rệt của dân số Trung Quốc và Ấn Độ. Xấp xỉ 26,3% dân số thế giới dưới 15 tuổi, trong khi 65,9% có độ tuổi 15–64 và 7,9% trên 65 tuổi. Độ tuổi trung bình toàn cầu ước tính là 29,7 tuổi năm 2014, và được kỳ vọng sẽ tăng lên 37,9 tuổi cho đến năm 2050.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, tuổi thọ trung bình toàn cầu là 71,4 tuổi tính đến năm 2015, với nữ giới sống trung bình 74 và nam giới xấp xỉ 69 năm. Năm 2010, tổng tỷ suất sinh toàn cầu được ước tính khoảng 2,52 trẻ mỗi người phụ nữ. Tháng 6 năm 2012, những nhà nghiên cứu của Anh tính toán tổng khối lượng của loài người sống trên Trái Đất là xấp xỉ 287 triệu tấn, với người bình thường nặng trung bình .
CIA ước tính tổng sản lượng thế giới danh nghĩa nằm ở ngưỡng US$74,31 nghìn tỷ, với thu nhập bình quân đầu người hàng năm toàn cầu vào khoảng US$10.500. Khoảng 1,29 tỷ người (18,4% dân số thế giới) đang ở trong tình trạng nghèo cùng cực, sống bằng ít hơn US$1,25 mỗi ngày; xấp xỉ 870 triệu người (12,3%) thiếu dinh dưỡng. 83% dân số trên 15 tuổi được coi là biết chữ. Tháng 6 năm 2014, có khoảng 3,03 tỷ người dùng Internet trên toàn cầu, chiếm 42,3% dân số thế giới. | wiki |
Dân số thế giới | Người Hán là nhóm sắc tộc đông dân nhất trên thế giới, chiếm hơn 19% dân số toàn cầu tính đến năm 2011. Ngôn ngữ mẹ đẻ được nói nhiều nhất trên thế giới là tiếng Quan Thoại (được nói bởi 12,4% dân số thế giới), tiếng Tây Ban Nha (4,9%), tiếng Anh (4,8%), tiếng Ả-rập (3,3%) và tiếng Hindi (2,7%). Tôn giáo lớn nhất trên thế giới là Kitô giáo, số người theo tôn giáo này chiếm 31,4% dân số toàn cầu; Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ hai, chiếm 24,1%, và Ấn Độ giáo đứng thứ ba, với 13,8%. Năm 2005, khoảng 16% dân số thế giới được báo cáo là không tôn giáo.
Dân số lớn nhất theo quốc gia.
Mười quốc gia có dân số lớn nhất.
Xấp xỉ 4,45 tỷ người sống tại mười quốc gia trên, đại diện cho khoảng 57% dân số thế giới tính đến tháng 9 năm 2020.
Quốc gia có mật độ dân số cao nhất.
Bảng dưới đây là danh sách những quốc gia có mật độ dân số cao nhất, cả giá trị tuyệt đối lẫn so với dân số của họ.
Ước lượng toán học. | wiki |
Dân số thế giới | Quốc gia có mật độ dân số cao nhất.
Bảng dưới đây là danh sách những quốc gia có mật độ dân số cao nhất, cả giá trị tuyệt đối lẫn so với dân số của họ.
Ước lượng toán học.
Năm 1975, Sebastian von Hoerner đề xuất một công thức tính sự tăng trưởng dân số thể hiện sự tăng trưởng với dân số vô hạn vào năm 2025. Sự tăng trưởng hyperbol của dân số thế giới được quan sát cho đến những năm 1970, sau đó được tương quan với phiên bản phản hồi dương phi tuyến tính bậc hai giữa sự tăng trưởng dân số và sự phát triển công nghệ. Phản hồi này có thể được mô tả như sau: công nghệ tiên tiến → tăng sức chứa con người của môi trường → tăng trưởng dân số → càng có thêm nhiều người → càng có thêm nhiều nhà phát minh tiềm năng → tăng tốc độ phát triển công nghệ → sức chứa con người của môi trường tăng càng nhanh → dân số tăng nhanh hơn → số nhà nhà phát minh tiềm năng ngày càng tăng nhanh → phát triển công nghệ ngày càng nhanh → và cứ như vậy. Sự chuyển đổi từ tăng trưởng hyperbol sang phiên bản tăng trưởng chậm hơn có liên quan đến chuyển đổi nhân khẩu học.
Theo nhà nhân khẩu học người Nga Sergey Kapitsa, dân số thế giới tăng trưởng giữa năm 67,000 TCN và năm 1965 theo công thức sau:
trong đó
Số năm để dân số thế giới gấp đôi. | wiki |
Dân số thế giới | Theo nhà nhân khẩu học người Nga Sergey Kapitsa, dân số thế giới tăng trưởng giữa năm 67,000 TCN và năm 1965 theo công thức sau:
trong đó
Số năm để dân số thế giới gấp đôi.
Theo sự nội suy và ngoại suy tuyến tính của sự ước lượng dân số của UNDESA, dân số thế giới đã, và sẽ gấp đôi, vào những năm được liệt kê ở bảng dưới (với hai điểm bắt đầu). Trong suốt thiên niên kỷ 2, lần gấp đôi sau chỉ tốn một nửa thời gian so với lần gần nhất trước đó, giống với mô hình tăng trưởng hyperbol đã được nhắc đến bên trên. Tuy nhiên, sau năm 2024, việc dân số thế giới gấp đôi khó có thể xảy ra một lần sau đó nữa trong thế kỷ 21.
Tổng số người đang và từng tồn tại.
Ước tính tổng số người từng tồn tại trên Trái Đất vào khoảng 100 tỷ người. Con số này chỉ có giá trị xấp xỉ; vì ngay cả dân số thế giới hiện tại con đang không chắc chắn từ 3% đến 5%. Kapitza (1996) ước tính khoảng 80 đến 150 tỷ người. Haub (1995) chuẩn bị một mô hình khác, được cập nhật vào năm 2002 và 2011; mô hình năm 2011 ước tính xấp xỉ 107 tỷ người. Haub mô tả mô hình này là một sự ước lượng yêu cầu "lựa chọn quy mô dân số cho mỗi thời điểm khác nhau từ thời cổ đại đến hiện tại và áp dụng sinh suất giả định cho từng thời kỳ". | wiki |
Dân số thế giới | Dữ liệu dân số đáng tin chỉ mới tồn tại trong hai đến ba thế kỷ vừa qua. Cho đến cuối thế kỷ 18, có rất ít chính phủ thực hiện những cuộc điều tra dân số chính xác. Trong những cố gắng điều tra dân số ban đầu, ví dụ như tại Ai Cập cổ đại và Đế quốc Ba Tư, mục tiêu chỉ là đếm một lượng nhỏ dân số để phục vụ cho việc đóng thuế và thực hiện nghĩa vụ quân sự. Do đó có sai số đáng kể khi ước tính dân số toàn cầu thời cổ đại. Tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh thời tiền hiện đại là một yếu tố quan trọng khác để có thể ước tính như vậy; những tỷ lệ này rất khó được xác định ở thời cổ đại do thiếu các ghi chép chính xác. Haub (1995) ước tính rằng khoảng 40% những người đã từng tồn tại không sống sót sau sinh nhật đầu tiên của họ. Haub cũng tuyên bố rằng "tuổi thọ trung bình khi sinh có lẽ chỉ khoảng mười tuổi trong phần lớn lịch sử loài người", và không nên bị nhầm lẫn với tuổi thọ trung bình khi đến tuổi trưởng thành. Tuổi thọ trung bình khi đến tuổi trưởng thành phụ thuộc vào giai đoạn, địa điểm và vị thế xã hội, các tính toán xác định vào khoảng 30 tuổi trở lên. | wiki |
Đối tượng tự do | Đối tượng tự do
Trong toán học, một đối tượng tự do là một khái niệm cơ bản của đại số trừu tượng.
Định nghĩa.
Đặt ("C","F") là một phạm trù cụ thể (nghĩa là là một hàm tử chung thủy), và đặt "X" là một tập hợp (được gọi là "cơ sở"), một đối tượng và một đơn ánh (còn được gọi là "chèn chính tắc"). Chúng ta nói rằng "A" là một đối tượng tự do trên "X" (đối với "i") khi và chỉ khi nó thỏa mãn tính chất phổ quát sau:
Theo cách này, hàm tử gán đối tượng tự do "A" cho tập "X" là một adjoint trái của hàm tử quên. | wiki |
Maryamin, Homs | Maryamin (, cũng đánh vần Mariamin hoặc Merawaii) là một ngôi làng ở miền trung Syria, một phần hành chính của Tỉnh Homs bắt đầu từ năm 2008 sau khi là một phần của Tỉnh Hama, nằm ở Homs Gap phía tây nam Hama. Các địa phương gần đó bao gồm Aqrab, Nisaf và Baarin ở phía bắc, Kafr Kamrah và Mashta al-Helu ở phía tây, Shin, al-Shinyah và al-Qabu ở phía nam, và Taldou và Tell Dahab ở phía đông. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria, Maryamin có dân số 4.174 trong cuộc điều tra dân số năm 2004. Cư dân của nó chủ yếu là Alawites.
Lịch sử.
Maryamin được cho là nằm trên địa điểm của một thị trấn được thành lập bởi Ramses II của Vương quốc Ai Cập mới.
Maryamin, hay "Mariamme" cổ đại, đã được Pliny the Elder nhắc đến và trong các danh sách cuối La Mã. Thị trấn có khả năng là thủ đô của bộ lạc Mariamnitai, nhưng rất ít đề cập đến thị trấn La Mã còn tồn tại. Giáo hội Công giáo La Mã vẫn duy trì một "Giám mục Mariamme ". Một bức tranh khảm quan trọng vào cuối thế kỷ từ thời Byzantine đã được phát hiện trong tàn tích của một biệt thự ở Maryamin năm 1960. Bức tranh khảm có diện tích 20 mét vuông và mô tả sáu nữ nhạc sĩ chơi nhạc cụ. Các mô tả là một trong số ít các hiện vật đưa ra một dấu hiệu về cách sử dụng nhạc cụ organ trong thời kỳ cổ đại. Bức tranh hiện đang được trưng bày tại bảo tàng khu vực của Hama.
Nhà địa lý người Syria Yaqut al-Hamawi lưu ý rằng Maryamin là "một trong những ngôi làng của Hims " khi ông đến thăm vào năm 1225, dưới thời cai trị của Ayyubid. | wiki |
Maryamin, Homs | Nhà địa lý người Syria Yaqut al-Hamawi lưu ý rằng Maryamin là "một trong những ngôi làng của Hims " khi ông đến thăm vào năm 1225, dưới thời cai trị của Ayyubid.
Năm 1929 Maryamin và một số làng Alawite khác ở quận Masyaf đã được chuyển đến Nhà nước Alawite sau khi đàm phán với chủ nhà của họ. Đất canh tác của làng được phân phối giữa những người nông dân làm việc cho họ. Đầu những năm 1960 Maryamin có dân số 600 người. Đó là một trung tâm trồng nho và chứa một số lò xo.
Tham khảo.
Ghi chú Tài liệu tham khảo | wiki |
ZH-29 | ZH-29 là loại súng trường bán tự động được phát triển bởi Václav Holek tại nhà máy sản xuất vũ khí Ceska Zbroevka ở Tiệp Khắc vào những năm 1920. Loại súng này được phát triển theo đơn đặt hàng của Trung Hoa Dân Quốc. Đến những năm 1930 thì một mẫu sử dụng đạn 7×51mm đã được thử nghiệm tại Hoa Kỳ để so sánh với súng trường Pedersen và Garand nhưng thấy là không đạt yêu cầu. Nó cũng được yêu cầu phát triển các mẫu để sử dụng các loại đạn khác như 7×57mm Mauser và 7.62×63mm. ZH-29 được sản xuất một cách giới hạn từ năm 1929 đến năm 1938. Việc sản xuất loại súng này hoàn toàn bị ngừng lại và không được tiếp tục khi Đức Quốc xã chiếm được Tiệp Khắc. Súng được làm khá tinh xảo nhưng lại khá đắt và khá nhạy cảm với các môi trường khắc nghiệt.
Thiết kế.
ZH-29 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén và sử dụng hộp đạn để nạp đạn. Súng làm mát bằng không khí và để tăng khả năng tản nhiệt nòng súng được gắn một bộ phận bằng nhôm khắc rãnh nó sẽ hoạt động giống như một hệ thống gom và tản nhiệt. Ống trích khí nằm phía dưới nòng súng và được lớp ốp lót tay bao bọc. Nút khóa an toàn nằm phía bên phải súng phía trên vòng bảo vệ cò súng. Thoi nạp đạn sẽ chèn nghiên chống vào một khe phía bên trái trong thân súng để khóa cố định. | wiki |
ZH-29 | Hệ thống nhắm cơ bản của súng là điểm ruồi. Hộp đạn rời của súng có thể chứa 5, 10 đến 15 viên. Thoi nạp đạn sẽ được giữ ở phía sau nếu hộp đạn không còn đạn. Sau khi nạp đạn dù bằng cách thay hộp đạn mới hay nạp trực tiếp vào hộp đạn đang gắn sẵn bằng kẹp thì chỉ việc bóp cò để thoi nạp đạn trở về chỗ cũ và bóp tiếp lần thứ hai để khai hỏa. | wiki |
Jordanita graeca | Jordanita graeca
Jordanita graeca là một loài bướm đêm thuộc họ Zygaenidae. Loài này có ở miền nam Slovakia qua Hungary, bán đảo Balkan, Rhodes và Cộng hòa Síp tới miền nam Nga, Ukraina, Nam Kavkaz, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và miền bắc Iraq.
Chiều dài cánh trước khoảng 7,5-12,5 mm đối với con đực và 7–12 mm đối với con cái. Cá thể trưởng thành mọc cánh từ tháng 5 tới tháng 7.
Ấu trùng các loài "graeca" ăn "Centaurea melitensis" và "Cirsium creticum", trong khi ấu trùng các loài "sultana" ăn "Centaurea solstitialis", "Centaurea salonitana", "Carduus arabicus", "Carduus uncinatus", "Jurinea sordida" và "Xeranthemum annuum". Qua trình nhộng hóa diễn ra trong kén nằm trong lớp đất bên dưới cây chủ. | wiki |
Khóa Velcro | Khóa Velcro
Dây khóa Velcro bao gồm 2 dải băng, một dải chứa hàng nghìn cái móc li ti, dải còn lại thì sở hữu hàng nghìn những vòng tròn cũng nhỏ không kém. Khi ghép hai dải băng này lại, móc sẽ gắn vào vòng tạo ra cơ chế giữ lại hết sức chắc chắn nhưng vẫn rất dễ gỡ ra khi cần thiết.
Dây khóa Velcro ban đầu được hình thành vào năm 1941 bởi kỹ sư người Thụy Sĩ George de Mestral.
Năm 1948, một kĩ sư người Thụy Sĩ George de Mestral., cũng là một nhà leo núi nghiệp dư, đang đi xuyên qua một khu rừng với chú chó của mình. Khi về đến nhà, ông để ý đến những hạt cây bị móc vào quần áo và tự hỏi rằng liệu một cơ chế tương tự có thể được dùng cho mục đích thương mai hay không. Thế là ông nghiên cứu một hạt cây dưới kính hiển vi rồi phát hiện ra rằng bên trên bề mặt của nó có rất nhiều cái móc nhỏ xíu. Chính những cái móc này đã giúp hạt bám vào vải cũng như các loại lông khác. Sau hơn 8 năm tìm tìm nghiên cứu và làm việc, ông đã tạo ra một thứ mà ngày nay được gọi là Velcro. Thuật ngữ này xuất phát từ chữ "Velvet" (nhung) và "Crochet" (móc). | wiki |
Phân cấp hành chính Pakistan | Phân cấp hành chính Pakistan
Hệ thống hành chính địa phương của Cộng hòa Hồi giáo Pakistan bao gồm 5 cấp.
Cấp thứ nhất.
Nước này chia thành 4 tỉnh, một lãnh thổ liên bang làm thủ đô. Ngoài ra, có 2 khu vực ở Kashmir là Azad Kashmir và Gilgit-Baltistan mà Pakistan tuyên bố chủ quyền cũng thuộc cấp hành chính địa phương thứ nhất.
Cấp thứ hai.
Các tỉnh của Pakistan lại chia thành các vùng. Cấp vùng từng bị bãi bỏ vào năm 2000, nhưng được khôi phục vào năm 2008. Sau đây là danh sách các vùng của mỗi tỉnh.
<br> | wiki |
Zdenko Hans Skraup | Zdenko Hans Skraup
Zdenko Hans Skraup (3.3.1850 – 10.9.1910) là nhà hóa học người Tiệp Khắc/Áo, đã phát hiện ra phản ứng Skraup, việc tổng hợp lần đầu quinoline.
Cuộc đời và Sự nghiệp.
Skraup sinh tại Praha, học tại trường Oberrealschule từ năm 1860 tới năm 1866 rồi theo học Đại học Kỹ thuật Praha từ năm 1866 tới 1871.
Sau khi làm phụ tá cho Heinrich Ludwig Buff gần một năm, ông chuyển sang làm việc ở một nhà máy làm đồ gốm sứ, rồi đổi sang làm ở xưởng đúc tiền ở Viên năm 1873.
Năm 1873, ông trở thành phụ tá của Rochleder, mặc dù được thăng chức trong việc làm cũ. Rochleder từ trần năm sau (1874) và Skraup vẫn tiếp tục làm việc với các người kế vị của Rochleder là Franz Schneider và Adolf Lieben.
Ông đậu bằng tiến sĩ ở Đại học Gießen ngày 17.3.1875, và hoàn tất habilitation ở Đại học Wien năm 1879. Nhưng bằng tiến sĩ của ông do một trường đại học Đức cấp, nên ông phải chờ tới năm 1881 mới được bổ nhiệm làm giáo sư ở Học viện Thương mại Wien.
Năm 1886 ông đổi sang Đại học Graz, rồi sang Đại học Wien năm 1906.
Ông từ trần ngày 10.9.1910 tại Wien. | wiki |
Hotu Matuʻa | Hotu Matu'a theo truyền thuyết là người định cư đầu tiên và là "ariki mau" ("thủ lĩnh tối cao" hay "vua") của đảo Phục Sinh. Hotu Matu'a và nhóm người đi cùng ông trên hai chiếc xuồng (hay một chiếc xuồng hai đáy) là những người Polynesia từ vùng đất huyền thoại Hiva (có lẽ là quần đảo Marquesas). Họ đã đổ bộ vào vùng bãi biển Anakena và đã tỏa ra sinh sống trên khắp đảo này, con cháu của họ đã phân chia thành các thị tộc, và họ đều nhận mình là hậu duệ của các con trai ông. Nhiều thế hệ đã sống trên 1.000 năm tại vùng đảo quê hương của họ trong sự cô lập với thế giới bên ngoài tại rìa phía nam của tam giác Polynesia.
Lịch sử.
Những người Polynesia đầu tiên tới Rapa Nui (sau này đổi tên thành đảo Phục Sinh) trong giai đoạn khoảng từ năm 300 tới năm 800. Đây là yếu tố chung trong những câu truyện kể truyền miệng rút ra được từ các truyền thuyết của người dân trên đảo. Các phân tích ngôn ngữ, DNA, phấn hoa tất cả đều chỏ tới sự định cư đầu tiên của người Polynesia đã diễn ra vào khoảng thời gian đó, nhưng những chi tiết khác lại không thể kiểm chứng. Trong khoảng thời gian này người Polynesia đã xâm chiếm các hòn đảo xuyên qua những khoảng cách rộng mênh mông của Thái Bình Dương. "Hotu Matu'a" đã dẫn nhóm người của ông từ Hiva; phân tích ngôn ngữ so sánh tiếng Rapanui với các ngôn ngữ Polynesia khác gợi ý rằng vùng đất đó là quần đảo Marquesas.
Truyền thuyết. | wiki |
Hotu Matuʻa | Truyền thuyết.
Người ta kể rằng Hau-Maka có một giấc mơ trong đó linh hồn ông đã chu du tới một đất nước xa xôi để giúp vua "Hotu Matu'a" tìm kiếm một vùng đất mới. Trong giấc mơ, linh hồn ông đã du hành tới "Mata ki te rangi" (Đôi mắt ngắm nhìn bầu trời). Hòn đảo cũng được gọi là "Te pito o te henua", nghĩa là "trung tâm thế giới". Cả hai tên gọi của hòn đảo này nói chung được coi là đảo Phục Sinh.
Khi Hau-Maka tỉnh dậy, ông kể điều này với nhà vua. Khi đó nhà vua ra lệnh cho 7 người du hành từ Hiva tới hòn đảo để thăm dò. Sau khi tìm ra vùng đất họ đã quay trở lại Hiva. Nhà vua cùng các thần dân đã du hành tới hòn đảo mới này.
Các giả thuyết và mâu thuẫn.
Tuʻu ko Iho.
Sự tương tự của tên gọi với tên vị thần sáng lập Mangareva là "Atu Motua" ("Ông tổ") làm cho một số sử gia đặt nghi vấn cho rằng Hotu Matuʻa được thêm vào thần thoại đảo Phục Sinh chỉ trong thập niên 1860, cùng với khi chấp nhận tiếng Mangareva. Người sáng lập "thật sự" có lẽ là "Tuʻu ko Iho", người chỉ là nhân vật phụ trong các truyền thuyết nghiêng về phía Hotu Matuʻa.
Niên đại của những cuộc định cư đầu tiên. | wiki |
Hotu Matuʻa | Niên đại của những cuộc định cư đầu tiên.
Có sự không chắc chắn đáng kể liên quan tới độ chính xác của truyền thuyết này cũng như niên đại của sự định cư. Các tài liệu đã xuất bản gợi ý rằng hòn đảo có người ở từ khoảng năm 300-400, hay khoảng vào thời gian có những cư dân đầu tiên tại Hawaii. Một số nhà khoa học cho rằng đảo Phục Sinh đã không có người ở mãi cho tới tận khoảng năm 700-800. Khoảng niên đại này dựa trên các tính toán ngôn ngữ niên đại học và dựa vào 3 niên đại cacbon phóng xạ từ các mẫu than củi dường như đã được tạo ra từ các hoạt động chặt phá rừng, trong khi một ngiên cứu gần đây, với các niên đại cacbon phóng xạ từ những gì được cho là các vật liệu có rất sớm, chứng minh rằng hòn đảo chỉ có người tới ở từ khoảng năm 1200. Điều này dường như được hỗ trợ bởi thông tin gần đây về chặt phá rừng trên đảo có lẽ cũng đã bắt đầu vào cùng khoảng thời gian này. Bất kỳ hoạt động sớm hơn nào của con người dường như là có ảnh hưởng không đáng kể hoặc nhỏ.
Nam Mỹ hay Polynesia. | wiki |
Hotu Matuʻa | Nam Mỹ hay Polynesia.
Nhà dân tộc học Na Uy Thor Heyerdahl đã chỉ ra nhiều nét tương đồng văn hóa giữa đảo Phục Sinh và các nền văn hóa thổ dân Nam Mỹ mà ông cho rằng có thể phát sinh từ một số người định cư đến từ phía lục địa. Theo những truyền thuyết địa phương, một nhóm người không rõ nhưng có tai dài, gọi là "hanau eepe" đã tới hòn đảo chỉ một thời gian ngắn sau người Polynesia, đem theo kỹ nghệ chạm khắc đá và cố gắng nô dịch hóa người Polynesia bản xứ. Một số phiên bản sớm hơn của truyền thuyết lại coi "hanau epe" như là các cư dân gốc còn người Polynesia là người di cư đến muộn hơn từ Oparo. Những ngờ vực của đôi bên đã biến thành vụ va chạm dữ dội, "hanau eepe" đã bị lật đổ và trừ khử, chỉ còn một người sống sót. Miêu tả đầu tiên về nhân khẩu học trên đảo của Jacob Roggeveen năm 1722 vẫn cho rằng dân cư trên đảo bao gồm 2 nhóm dân tộc khác biệt, một rõ ràng là người Polynesia còn nhóm kia là "người da trắng" với các dái tai dài tới mức họ có thể buộc chúng vào phía sau cổ. Roggeveen cũng lưu ý rằng một số người dân trên đảo "có vóc người to lớn". Một người Tây Ban Nha khi tới đảo này năm 1770 cũng đã chứng kiến tầm vóc cao lớn của người dân trên đảo, khi ông đo được họ cao từ 196 tới 199 cm. | wiki |
Hotu Matuʻa | Một thực tế là khoai lang, một loại lương thực cơ bản của người Polynesia, và một vài loại cây trồng khác - tới 12 loại tại đảo Phục Sinh - có nguồn gốc Nam Mỹ chỉ ra rằng có thể đã từng có sự tiếp xúc nào đó trong quá khứ giữa hai nền văn hóa. Hoặc là người Polynesia đã du hành tới Nam Mỹ "và" quay trở về, hoặc là các loại bè mảng bằng gỗ balsa ("Ochroma pyramidale") của người Anh điêng đã trôi dạt tới Polynesia, có lẽ là do không thể quay trở về vì các kỹ năng hàng hải kém phát triển hơn của họ hay do thuyền bè dễ vỡ, hoặc là do cả hai điều này. Các mối liên hệ gốc gác Polynesia tại Nam Mỹ được ghi nhận trong thổ dân Anh điêng Mapuche ở trung và nam Chile. Tên gọi gốc Polynesia cho một hòn đảo nhỏ là Sala y Gómez ("Manu Motu Motiro Hiva", "Đảo chim trên đường tới miền đất xa xăm") ở "phía đông" đảo Phục Sinh cũng được nhìn nhận như là gợi ý cho rằng Nam Mỹ đã từng được biết đến trước khi có các tiếp xúc với người châu Âu. Điều làm phức tạp thêm tình hình là ở chỗ từ "Hiva" ("vùng đất xa xăm") cũng là tên gọi của vùng đất quê hương theo truyền thuyết của người dân trên đảo. Sự khẳng định không thể giải thích được về nguồn gốc phương đông đối với những cư dân đầu tiên đã từng được nhiều người dân trên đảo nhất trí trong những miêu tả đầu tiên. | wiki |
Hotu Matuʻa | Khảo cổ học chính thống hoài nghi về bất kỳ ảnh hưởng phi Polynesia nào đối với giai đoạn tiền sử của hòn đảo, mặc dù các cuộc thảo luận này mang tính chất chính trị. Phân tích trình tự DNA đối với các cư dân hiện tại đang sinh sống trên đảo Phục Sinh (một công cụ không có vào thời Heyerdahl) đưa ra chứng cứ mạnh mẽ nghiêng về phía nguồn gốc Polynesia. Tuy nhiên, do chỉ có rất ít cư dân đảo đã sống sót qua những cuộc vây bắt nô lệ trong thế kỷ 19, bệnh dịch và trục xuất (có lẽ chỉ 0,25% của dân số khi đông nhất), nên chứng cứ này phụ thuộc vào việc những người sống sót đại diện cho bao nhiêu phần trăm dân số nói chung của Rapanui. | wiki |
Bộ Cau | Bộ Cau
Bộ Cau (danh pháp khoa học: Arecales) là một bộ trong thực vật có hoa. Bộ này được công nhận rộng rãi chỉ trong vài chục năm gần đây; cho đến trước đó, tên gọi được chấp nhận cho bộ bao gồm các loài thực vật trong bộ Cau mới đặt ra này là Principes.
Hệ thống APG II năm 2003 cũng như Hệ thống APG III năm 2009 công nhận bộ này và đặt nó trong nhánh Thài lài (commelinids) của thực vật một lá mầm và sử dụng định nghĩa sau:
Định nghĩa này là không thay đổi so với hệ thống APG năm 1998, mặc dù khi đó người ta dùng từ "commelinoids" thay vì commelinids. Theo Website của nhóm APG thì bộ này chứa 188 chi với khoảng 2.600 loài. Hệ thống APG IV năm 2016 bổ sung họ Dasypogonaceae vào bộ này.
Hệ thống Cronquist năm 1981 cũng tương tự ở cấp độ họ và bộ, nhưng đặt bộ này trong phân lớp Arecidae của lớp Liliopsida.
Hệ thống Thorne (1992) và hệ thống Dahlgren tương tự như vậy nhưng đặt bộ này vào siêu bộ Arecanae trong phân lớp Liliidae (= thực vật một lá mầm).
Phát sinh chủng loài.
Cây phát sinh chủng loài của bộ Cau so với các bộ thực vật một lá mầm khác trong nhánh Thài lài lấy theo APG III. | wiki |
Kính an toàn | Kính an toàn là loại kính đảm bảo an toàn cho người sử dụng cả khi vỡ. Kính dán an toàn bao gồm việc kết hợp hai hay nhiều tấm kính được gắn kết với nhau bằng lớp lót dẻo, bền đặc biệt PVB - Poly Vinyl Butylen dạng film. Lớp lót này thể hiện tính an toàn ưu việt của kính dán an toàn, có độ bền dẻo và bám dính tuyệt đối. Khi vỡ, do chịu tác động mạnh, kính sẽ bám vào lớp film PVB và thường đứng nguyên trong khung, giảm thiểu tối đa nguy cơ bị thương do cạnh kính sắc rơi xuống hay bắn tung toé. Kính dán an toàn có khả năng chống sự thâm nhập của người hay sự tác động từ bên ngoài và bao gồm nhiều ưu điểm vượt trội khác.
"Độ an toàn": Tăng tối đa độ an toàn, khi vỡ các mảnh kính vẫn bám chặt vào lớp film PVB và thường đứng nguyên trong khung, không gây nguy hại đến con người và tài sản, giảm hiện tượng đâm xuyên, tránh được việc con người và đồ vật bị rơi qua cửa sổ các toà nhà cao tầng.
Độ an ninh: Kính dán an toàn có xu hướng chịu được tác động lớn. Trong các kết cấu nhiều lớp, kính dán an toàn có khả năng chống được đạn (Kính dán chống đạn), vật nặng hay những vụ nổ nhỏ. Trong hầu hết các trường hợp, kính dán an toàn chịu được nhiều cú va đập mạnh trên cùng một điểm, nhằm chống đột nhập vào bên trong (Kính dán chống đột nhập).
"Độ bền cao": Kính dán an toàn đặc biệt bền về màu sắc và chất lượng. Sẵn sàng đối chọi với điều kiện thời tiết thiên nhiên khắc nghiệt và bền bỉ với các công trình hiện đại có giá trị sử dụng lâu dài. | wiki |
Kính an toàn | "Khả năng cách âm": Tính năng giảm âm của lớp film PVB đã khiến kính dán an toàn có khả năng cách âm, ngăn chặn tiếng ồn ngoài ý muốn từ các loại phương tiện giao thông và các loại tiếng ồn không mong muốn khác.
Điều khiển năng lượng mặt trời: Với việc lựa chọn các loại film PVB và kính có các gam màu khác nhau, kính dán an toàn có thể làm giảm cường độ ánh sáng, giảm việc truyền tải năng lượng Mặt trời, nhằm giảm việc dùng máy điều hòa nhiệt độ và luôn đảm bảo điều kiện sống tốt nhất.
"Ngăn tia cực tím": Kính dán an toàn có khả năng ngăn chặn được tới 99% tia cực tím của ánh nắng Mặt trời, bảo vệ con người, vật dụng, vật trưng bày và hàng hoá.
"Hạn chế rủi ro không chống lại thiên tai": Kính dán an toàn có thể đóng vai trò ngăn ngừa thương vong hay thiệt hại cho con người và tài sản khi xảy ra bão, động đất hay các vụ nổ. Kính có xu hướng giữ nguyên trong khung khi chịu tác động.
"Mặt Phẳng lý tưởng": Khi kết hợp dán ghép kính nổi phẳng với lớp màng film PVB tạo ra những sản phẩm kính dán với độ phẳng lý tưởng,mang đến cho người sử dụng hình ảnh trung thực khi nhìn thấu qua.
"Sự thay thế hoàn hảo": Với nhiều đặc tính vượt trội và có tính thẩm mỹ cao, sử dụng kính dán an toàn là một xu hướng tất yếu trong cuộc sống hiện đại, dần thay thế hoàn toàn các ô cửa sử dụng các loại song sắt kém thẩm mỹ. Hơn nữa với không gian mở rộng hơn,không hạn chế tối đa việc bám bụi, vì thế, công việc vệ sinh cửa không bao giờ đơn giản hơn. | wiki |
Kính an toàn | "Đa dạng trong thiết kế kiến trúc": Kính dán an toàn có thể được ghép từ các loại kính có độ dày khác nhau, kích cỡ khác nhau, màu sắc khác nhau, đặc tính khác nhau (kính cường lực, kính phản quang, kính hạn chế nhiệt...) và các loại film có độ dày, màu sắc đa dạng, thỏa mãn mọi yêu cầu khắt khe trong sử dụng kính kiến trúc.
Thông số kỹ thuật của sản phẩm kính dán an toàn.
Độ dày tấm kính tiêu chuẩn
3 mm - 19 mm
Độ dày lớp film PVB tiêu chuẩn
0,38 mm;0,76 mm;1,52 mm;3,04 mm
Độ dày kính dán tối đa sau khi dán
80 mm
Màu sắc của lớp film PVB tiêu chuẩn
Không màu, xanh dương, xanh lục, màu đồng, màu xám, trắng mờ và trắng sữa (có sẵn các màu và các kiểu đặc biệt theo các loại lớp lót VANCEVA)
Màu sắc của tấm kính nổi tiêu chuẩn
Không màu, xanh dương, xanh dương nhạt, xanh lục, màu đồng, màu xám, màu xanh đen.
Kích thước tối đa
2.500 mm(rộng) x 6.000 mm(dài)
Kích thước tối thiểu
100 mm(rộng) x 300 mm(dài)
Kính an toàn có ba loại cơ bản là kính dán và kính tôi.
Kính an toàn loại này được ứng dụng nhiều trong kiến trúc, giao thông, nội thất và nhiều lĩnh vực khác nữa.
Nhược điểm của kính an toàn.
Kính an toàn có một số điểm hạn chế và tuỳ thuộc vào độ phù hợp về khí hậu, địa hình và một số nhược điểm sau:
Ứng dụng kính an toàn trong đời sống.
Kính an toàn là loại kính phổ biến hiện nay thích hợp với nhiều mục đích đặc biệt trong ngành xây dựng, kiến thiết nội ngoại thất, giao thông . Một số công trình phổ biến sử dụng kính an toàn : | wiki |
Danh sách cầu thủ nước ngoài ghi bàn tại giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam | Danh sách cầu thủ nước ngoài ghi bàn tại giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
Đây là danh sách cầu thủ nước ngoài ghi bàn tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam (V.League 1).
Một cầu thủ nằm trong danh sách dưới đây phải thoải mãn cả hai điều kiện:
Các câu lạc bộ được liệt kê là những đội bóng mà cầu thủ đã ghi ít nhất một bàn thắng tại V.League 1. Các cầu thủ đã ghi bàn cho Xi măng Xuân Thành Sài Gòn mùa 2013 và Ninh Bình mùa 2014 sẽ không được liệt kê ở danh sách này.
In đậm chỉ ra những cầu thủ đã ghi ít nhất 1 bàn thắng ở V.League mùa giải hiện tại (2023) và vẫn đang thi đấu tại câu lạc bộ mà họ đã ghi bàn. Điều này không bao gồm các cầu thủ hiện tại nhưng chưa ghi được bàn thắng nào ở mùa giải hiện tại. | wiki |
Tehuacán | Tehuacán () là thành phố lớn thứ hai ở bang Puebla của Mexico, nép mình trong Thung lũng Đông Nam của Tehuacán, giáp với các bang Oaxaca và Veracruz. Cuộc điều tra dân số năm 2010 đã báo cáo dân số 248.716 người trong thành phố và 274.906 ở vùng đô thị Tehuacán xung quanh, trong đó nó phục vụ như là thủ phủ. Đô thị này có diện tích 390,36 km² (150,72 sq mi).
Văn hóa.
Ban đầu là một khu định cư người Mỹ bản địa, nó đã chính thức trở thành một thành phố ở Viceroyalty của Tân Tây Ban Nha vào năm 1660.
Tehuacan được biết đến với việc tổ chức nhiều lễ hội đa dạng để kỷ niệm truyền thống và trang phục kiếm được qua nhiều năm từ những người bản địa cổ đại. Một trong những lễ hội được công nhận nhất trong 15 năm qua là Festival Internacional de Tehuacán 1660, nơi tổ chức kỷ niệm văn hóa nghệ thuật của thành phố.
Vào cuối thế kỷ XIX, thành phố này nổi tiếng với suối khoáng. Trên thực tế, Peñafiel (nay thuộc sở hữu của Cadbury Schweppes), một nhà sản xuất nước giải khát nổi tiếng, chiết xuất nước từ các giếng này để sử dụng trong các sản phẩm của họ. Tehuacán cũng có một nhóm các nhà sản xuất gia cầm quan trọng, làm cho thành phố và môi trường xung quanh trở thành một trong những vùng sản xuất trứng quan trọng nhất ở Mexico.
Kinh tế. | wiki |
Tehuacán | Kinh tế.
Hoạt động kinh tế chính trong thung lũng Tehuacán là sản xuất gia cầm. Đô thị này là nhà sản xuất trứng gà lớn thứ hai trong cả nước với hơn 25 triệu lớp được nuôi cùng với việc sản xuất thịt gà thịt. Các công ty thống trị ngành công nghiệp bao gồm El Calvario, ông Egg, Huevo Tehuacán, PATSA và IMSA.
Sau khi hiệp định NAFTA được ký kết, Tehuacán đã nhìn thấy các maquiladora dệt được thiết lập trong thành phố và các khu vực xung quanh. Các nhà máy dệt này chủ yếu tập hợp quần jean màu xanh để xuất khẩu sang các công ty như The Gap, Guess, Old Navy, và JC Penney. Ở độ cao của maquila (viết tắt của maquiladora) bùng nổ, đã có một số ước tính hơn 700 maquilas trong thị trấn, bao gồm cả những người đã hoạt động từ nhà, thường là bí mật. Trong khi tình trạng này tạo ra một thất nghiệp tiêu cực (không thất nghiệp) và maquilas tìm kiếm công nhân như xa như Orizaba và Córdoba ở bang Veracruz lân cận, nó cũng tạo ra một cơn ác mộng đô thị và môi trường. Trong một thập kỷ, Tehuacán đã đi từ một thị trấn 150.000 người đến thành phố 360.000 người. Mặc dù nhiều maquilas đã đóng cửa ngày hôm nay, trong năm 2007 vẫn còn hơn 700 người trong số họ được tìm thấy ở Tehuacán.
Địa lý. | wiki |
Tehuacán | Địa lý.
Tehuacán nằm ở phía đông nam của Mexico. Các thành phố biên giới phía Bắc là Tepanco de López, Santiago Miahuatlán, Vicente Guerrero y Nicolás Bravo; Đông Vicente Guerrero, San Antonio Cañada y Ajalpan; Nam San Gabriel Chilac, Zapotitlán, San Antonio Texcala y Altepexi; và Tây Zapotitlán, San Martín Atexcal, Juan N. Méndez y Tepanco de López.
Thành phố Tehuacan có dân số 248.716 người với thời tiết địa lý là 19 độ C hầu hết trong năm. Tehuacan là một lãnh thổ quan trọng được gọi là Thung lũng Tehuacan với hệ sinh thái đa dạng.
Một yếu tố địa lý quan trọng khác cần xem xét về khu vực Oaxaca và thung lũng Tehuacan là khu vực kinh tế nơi có thành phố. Tehucan được bao quanh bởi Neovolcanic Axis bao gồm các bang Nayarit, Jalisco, Colima, Michoacán, Guanajuato, Querétaro, México, Hidalgo, Morelos, Tlaxcala, Puebla và Veracruz. Trục này kết nối các núi lửa hoạt động chính của vùng và do hoạt động núi lửa này, thành phố trình bày các chuyển động liên tục của Trái đất, đặc biệt trong mùa hè và mùa xuân.
Thung lũng Tehuacan có sự đa dạng cao về các loài động vật và thực vật, đặc biệt là Tehuacan-Cuicatlán Khu dự trữ sinh quyển nằm cách Tehuacan 30 phút về phía tây nam, thuộc thành phố và bảo vệ 200 loài Cactus, hầu hết trong số chúng đều có nguy cơ tuyệt chủng..
Du lịch. | wiki |
Tehuacán | Du lịch.
Tehuacan cung cấp một sự đa dạng của các điểm tham quan, từ các hoạt động bên ngoài đến những địa điểm lịch sử và bảo tàng mà giữ nhiều năm lịch sử không chỉ từ khu vực mà từ thời cổ đại và thành lập Cộng hòa Mexico.
Những nơi phổ biến nhất để ghé thăm là:
Peñafiel và Garci Crespo Natural Springs Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico Phòng trưng bày ngầm các cơ sở sản xuất cho nước khoáng nổi tiếng được gọi là "Agua Tehuacan". Đây là một phần của quá trình tự nhiên do tuyết tan chảy từ các núi lửa có chứa hàm lượng khoáng chất cao, khiến nó trở nên sôi sục.
Ex-Convent of San Francisco Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico là một tu viện tu viện thế kỷ 16 được sử dụng làm ngôi nhà của một trong những trường học mới nhất của tiếng Latinh ở Tây Ban Nha mới. Kiến trúc và lịch sử in trên bức tường của nó vẽ cho thấy sự chuyển đổi từ một thời gian của lịch sử khác.
Museum of Mineralogy Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico là một bảo tàng có bộ sưu tập riêng từ Don Seferino Romero, một trong những công nhận số liệu của thành phố Tehucan tặng những tác phẩm nghệ thuật và khoa học quan trọng như moonstones, hóa thạch khoáng vật và thiên thạch như quà và những người khác tìm thấy trong khu vực thung lũng Tehucan trong nhiều lần khám phá khác nhau. | wiki |
Tehuacán | Cactus Vườn Bách thảo nằm cách thành phố 30 phút về phía nam của Thung lũng Tehucan và nó bảo tồn hơn 200 loài cây xương rồng trong tất cả các khu vực, làm cho nó trở thành hệ sinh thái đa dạng lớn nhất trên thế giới. Các điểm tham quan du lịch ở TehuacánPuebla Mexico
Khảo cổ học.
Sự chuyển đổi từ săn bắn du mục và tập hợp sang một cách sống nông nghiệp ổn định ở thung lũng Tehuacan đã là chủ đề của nghiên cứu sâu rộng.
Nhà khảo cổ học Richard MacNeish cùng các cộng sự đã tiến hành một dự án trinh sát và khai quật quy mô lớn ở Tehuacán, được thực hiện từ năm 1960 đến 1965. MacNeish và nhóm của ông đã thử nghiệm 15 hang động, sau đó tập trung vào 6 tên là El Riego, Tecorral, San Marcos, Purrón, Abejas và Coxcatlán.
Các kết quả đã được xuất bản trong một loạt năm tập được chỉnh sửa, và thu hút nhiều sự chú ý.
"MacNeish phát hiện ra rằng một khu phức hợp cuối cùng của những cái bát bằng đá được theo sau là gốm đầu tiên của Mexico. Được đặt tên cho Hang Purrón, nơi chúng xuất hiện lần đầu, những đơn sắc gốm sứ Mexico giống như (và cùng tồn tại một thời gian ngắn) những cái bát đã."
Thuần hóa ngô.
Về mặt lịch sử, Thung lũng Tehuacán rất quan trọng đối với toàn bộ Mexico, vì các hình thức cổ xưa nhất của ngô đã được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở đây. | wiki |
Tehuacán | Thuần hóa ngô.
Về mặt lịch sử, Thung lũng Tehuacán rất quan trọng đối với toàn bộ Mexico, vì các hình thức cổ xưa nhất của ngô đã được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở đây.
Theo MacNeish (MacNeish, 1981, 1985), Thung lũng Tehuacán là nơi đầu tiên ngô được nhân loại thuần hóa. Ông đã đi đến kết luận này khi ông tìm thấy hơn 10.000 teosinte cobs trong những gì bây giờ được gọi là Coxcatlan Cave. Thứ mà anh ta tìm thấy thực ra nằm giữa ngô và teosinte - bánh ngô có kích thước bằng một bộ lọc thuốc lá.
Sau đó, vào năm 1989, tác phẩm của ông đã được đánh giá lại và xác nhận.Zea mays mẫu từ Cueva San Marcos và từ Cueva Coxcatlan trong khu phố Tehuacan đã được thử nghiệm. Những ngày lâu đời nhất là 4700 BP (chưa được hiệu chỉnh) hoặc 3600 trước Công nguyên (hiệu chuẩn).
Các địa điểm này nằm trong thung lũng Sông Balsas, nơi tiếp tục hạ lưu vào trạng thái Guerrero. Ngoài ra còn có những địa điểm ngô rất sớm ở đó, gần đây đã thu hút sự chú ý.
Bằng chứng gần đây ủng hộ thung lũng sông Balsas là nơi đầu tiên trên thế giới nơi ngô được thuần hóa lần đầu tiên khoảng 9000 năm trước.
Cái gọi là "Balsas teosinte", bây giờ được coi là loài tiền nhiệm trực tiếp của ngô, phát triển chủ yếu ở phần giữa của thung lũng Balsas tại thời điểm này. Trong quá khứ, nó có thể đã phát triển ở các phần khác của thung lũng này, tùy thuộc vào nghiên cứu cổ khí hậu học. | wiki |
Dibai | Dibai
Dibai là một thành phố và là nơi đặt ban đô thị ("municipal board") của quận Bulandshahr thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ.
Địa lý.
Dibai có vị trí Nó có độ cao trung bình là 184 mét (603 feet).
Nhân khẩu.
Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Dibai có dân số 34.853 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Dibai có tỷ lệ 50% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 58%, và tỷ lệ cho phái nữ là 41%. Tại Dibai, 16% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. | wiki |
Sân bay Eindhoven | Sân bay Eindhoven
Sân bay Eindhoven là một sân bay khu vực gần Eindhoven, Hà Lan. Năm 2007, sân bay này phục vụ 1,5 triệu lượt khách, là sân bay lớn thứ hai của Hà Lan (so với mức 48 triệu lượt khách của sân bay Schiphol).
Đây là một sân bay hỗn hợp quân sự và dân sự. Từ đệ nhất thế chiến đến mấy năm trước, sân bay này vẫn được gọi là Welschap.
Trong đệ nhị thế chiến, sân bay này bị bom oanh tạc nặng. Ngày 15 tháng 7 năm 1995, một chiếcC-130 Hercules rơi ở sân bay này làm cho 34 người thiết mạng.
Liên kết ngoài. | wiki |
Nắp ấm lông | Nắp ấm lông
Nắp ấm lông (danh pháp khoa học: Nepenthes villosa), là một loài nắp ấm nhiệt đới đặc hữu của núi Kinabalu và núi Tambuyukon cận kề ở phía đông bắc Borneo. Nó phát triển ở khu vực có độ cao hơn bất kỳ loài nắp ấm Borneo nào khác, ở khu vực có độ cao trên 3.200 m. "N. villosa" có đặc trưng là có lông măng phát triển cao và phức tạp, điều này phân biệt nó với các loài có quan hệ họ hàng gần là "N. edwardsiana" và "N. macrophylla".
"Nepenthes villosa" được Joseph Dalton Hooker chính thức miêu tả năm 1852. Mô tả về loài này đã được xuất bản trong Icones plantarum và kèm theo hình minh họa.
Loài này lần đầu tiên được Hugh Low thu thập vào năm 1858, khi ông lần thứ hai trèo lên núi Kinabalu cùng với Spenser St John. | wiki |
Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2022 | Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2022
Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2022 là cuộc thi tìm kiếm Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam lần thứ 5, được tổ chức vào tối ngày 25 tháng 6 năm 2022 tại Trung tâm Hội chợ và Triển lãm Sài Gòn, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là lần đầu tiên cuộc thi được tổ chức ngoài Nha Trang, Khánh Hòa. Cuộc thi năm nay có chủ đề là ""Vinawoman - Bản lĩnh Việt Nam"." Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019 - Nguyễn Trần Khánh Vân đến từ Thành phố Hồ Chí Minh đã trao lại vương miện cho người kế nhiệm là cô Nguyễn Thị Ngọc Châu đến từ Tây Ninh. Đêm chung kết có sự tham dự của 3 khách mời, giám khảo đặc biệt là Hoa hậu Hoàn vũ 2005 Natalie Glebova đến từ Canada, Hoa hậu Hoàn vũ 2018 Catriona Gray đến từ Philippines và Hoa hậu Hoàn vũ 2021 Harnaaz Sandhu đến từ Ấn Độ. Đây là năm cuối cùng cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam tìm đại diện Việt Nam tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ.
Thay đổi format.
Năm 2022, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam đã thông báo thay đổi một số bộ phận trong format, bao gồm:
Các giải thưởng phụ.
Giải thưởng phụ chính thức.
Người đẹp được yêu thích nhất.
"Đây là giải thưởng thí sinh có lượt bình chọn cao nhất trên hệ thống bình chọn trực tuyến BVote (Nhà tài trợ)." | wiki |
Chân Ca | Chân Ca
Chân Ca Hoàng hậu (tiếng Trung: 真哥皇后; tiếng Mông Cổ: "Жэнгэ хатан"; ? - 1327) là chính thất Hoàng hậu của Nguyên Vũ Tông, Hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời.
Hoàng hậu thuộc bộ lạc Hoằng Cát Lạt thị của Mông Cổ. Phụ thân bà là Bengbula, tổ phụ của bà là Tuolian.
Sử sách không ghi năm sinh và năm bà kết hôn với Nguyên Vũ Tông. Tuy nhiên bà được ghi nhận sống qua 5 đời Hoàng đế nhà Nguyên (từ Nguyên Thành Tông đến Nguyên Tấn Tông). Thời gian tại ngôi Hoàng hậu của bà khá ngắn (1310 - 1311). Ngoài bà, Vũ Tông còn lập Tốc Ca Thất Lý, em họ bà làm Hoàng hậu. Theo lệ hậu cung nhà Nguyên, có thể có hơn một Hoàng hậu đồng tại vị, song chỉ có Hoàng hậu nhận sách bảo mới được xem là Chính thất của Hoàng đế, vì vậy Chân Ca là Chính hậu duy nhất của Vũ Tông bấy giờ.
Tháng 1 năm 1311, Vũ Tông đột ngột qua đời, em trai ông là Hoàng thái đệ Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt lên ngôi. Chân Ca là hoàng tẩu nên không tôn Hoàng thái hậu, nhưng bà không con nên xuất gia đi tu vào năm 1313.
Năm Thái Định thứ 3 1327, Chân Ca hoàng hậu qua đời. Nguyên Tấn Tông, tức Thái Định Đế truy thụy cho bà là Tuyên Từ Huệ Thánh hoàng hậu (宣慈惠圣皇后). | wiki |
Khâm Châu | Khâm Châu
Khâm Châu (钦州市) là một địa cấp thị thuộc tỉnh Quảng Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Khâm Châu nằm bên vịnh Bắc Bộ. Khâm Châu có dân số 3,1 triệu người, diện tích 10.843 kilômét vuông. Khâm Châu trước đây thuộc tỉnh Quảng Đông.
Địa lý.
Khâm Châu nằm ở phía nam Quảng Tây, trên vùng bờ biển thuộc vịnh Bắc Bộ. Phía bắc tiếp giáp với địa cấp thị Nam Ninh, phía tây tiếp giáp địa cấp thị Phòng Thành Cảng, phía đông tiếp giáp địa cấp thị Ngọc Lâm, phía đông bắc tiếp giáp Quý Cảng, phía đông nam giáp Bắc Hải. Nằm trong khoảng từ 20°54′ tới 22°41′ vĩ bắc, 107°27′ tới 109°56′ kinh đông. Đường bờ biển dài 311,44 km. Phía đông bắc và tây bắc có 2 dãy núi là Lục Vạn Đại Sơn và Thập Vạn Đại Sơn, với độ cao đều trên 1.000 m. Là hải cảng chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu cho vùng duyên hải tây nam Trung Quốc.
Phân chia hành chính.
Về mặt hành chính, địa cấp thị Khâm Châu được chia thành các đơn vị cấp huyện sau: | wiki |
Ludacris | Christopher Brian Bridges (sinh ngày 11 tháng 9 năm 1977) với nghệ danh Ludacris, là một rapper và diễn viên người Mỹ. Cùng với người quản lý của mình, Chaka Zulu, Ludacris là người đồng sáng lập của Disturbing tha Peace, một chi nhánh phân phối của Def Jam Recordings. Trong sự nghiệp của mình, Ludacris đã giành được Screen Actors Guild, Critic's Choice, Grammy...
Thời niên thiếu.
Ludacris sinh tại Champagne, Illinois, là người con duy nhất của Roberta Shields và Wayne Brian Bridges. Bài hát rap đầu tiên của anh được sáng tác khi anh chín tuổi, lúc đó gia đình anh đã chuyển đến Atlanta và gia nhập một nhóm rap nghiệp dư ba năm sau đó. Anh đã học trường trung học Banneker ở Atlanta, Georgia. Từ năm 1998 đến năm 1999, Ludacris nghiên cứu sâu vào âm nhạc ở đại học bang Georgia. Tháng 2 năm 2007, ba ông mất vì căn bệnh ung thư..
Sự nghiệp âm nhạc.
Trở thành DJ, hợp tác với Timbaland
Ludacris bắt đầu thực tập và trở thành một DJ tại "Atlanta Hot 97.5" (bây giờ có tên là "Hot 107.9) với nghệ danh là "Chris Lova Lova".
Ludacris hợp tác với Timbaland trong ca khúc "Phat Rabbit" (thuộc album Tim's Bio: Life From Da Bassment). Ca khúc này đã thống trị nhiều bảng xếp hạng ở các nước.
Album Back For The First Time (2000) | wiki |
Ludacris | Album Back For The First Time (2000)
Ludacris phát hành album đầu tay "Back For The First Time" vào tháng 10 năm 2000, được thực hiện bởi sự trợ giúp của Sessy Melia. Album này đạt vị trí thứ 4 trong Billboard Hot 200 của Mỹ, Một số đĩa đơn như là "Southern Hospitality" và "What's Your Fantasy". Ludacris đã có cuộc phỏng vấn trên MTV cùng với 4-Ize, I-20, Shawnna, Mục sư Troy, Timbaland, Trina, Foxy Brown, UGK, và những người khác. Ludacris đã nêu trong cuộc phỏng vấn ông đã đặt nghệ danh của mình dựa trên "tính cách phân chia" của ông rằng ông coi là "vô lý"và "lố bịch" ("ridiculous" và "ludicrous".
Word Of Mouf (2001)
Album tiếp theo của ông là "Word Of Mouf", được phát hành vào cuối năm 2001. Single "Rollout (My Business)" đã nhận được đề cử cho Video Music Awards 2002. Những single tiếp theo là "Saturday (Oooh Oooh)" hợp tác với Sleepy Brown, "Move Bitch" hợp tác với I-20 và Mystikal, "Area Codes" hợp tác với "Nate Dogg".
Chicken-N-Beer (2003)
Mùa xuân năm 2003, Ludacris trở lại với single "Act A Fool", là nhạc phim "2 Fast 2 Furious". Vào khoảng thời gian đó, ông phát hành single đầu tiên "P-Poppin" (viết tắt của "Pussy Popping"). Tất cả những single mới của ông không được sự ủng hộ của thính giả như những single trước. "Chicken-N-Beer" được phát hành rộng rãi, nhưng số lượng album bán ra đã giảm nhanh chóng vì không có đĩa đơn nào phổ biến. Ông đã hợp tác với Playaz Circle, Chingy, Snoop Dogg, 8Ball & MJG, Lil 'Flip, I-20, Lil Fate, và Shawnna. | wiki |
Ludacris | Mùa thu năm 2003, số lượng album đã tăng trở lại nhờ single "Stand Up" (hợp tác với Shawnna), và đồng thời là nhạc phim cho một bộ phim dành cho giới trẻ có tên là "You Got Served". "Stand Up" được rapper nổi tiếng Kanye West tài trợ, và là một trong những single hit nhất trong sự nghiệp của ông. Ludacris đã bị kiện bởi một nhóm gọi là New Jersey IOF người tuyên bố rằng "Stand Up" được sử dụng một cái móc từ một trong những bài hát của họ, nhưng vào tháng 6 năm 2006, một ban giám khảo thấy rằng bài hát không vi phạm quyền tác giả. "Tôi hy vọng các nguyên đơn của họ được hưởng 15 phút của sự nổi tiếng," Ludacris cho biết sau khi bản án.
Ludacris nhận được giải Grammy đầu tiên nhờ ca khúc "Yeah!" của Usher (hợp tác với Lil Jon và Ludacris).
The Red Light District (2004) | wiki |
Ludacris | Ludacris nhận được giải Grammy đầu tiên nhờ ca khúc "Yeah!" của Usher (hợp tác với Lil Jon và Ludacris).
The Red Light District (2004)
Sohail Khalid đã tài trợ cho Ludacris album này. Album này có sự góp mặt của một số nghệ sĩ nổi tiếng như T.I, Lil Flip, Bun B... Alubm đã được đặt ở vị trí số chín trong các album được mong đợi nhất của năm 2006. The Red Light District phát hành 2 phiên bản là album chính và album bổ sung. Các album bổ sung đã được phát hành vào ngày 26 tháng 9 năm 2006. Ở album chính, ông đã hợp tác với Pharrell Williams, R. Kelly, Young Jeezy, Mary J. Blige, Mob Field, Bobby Valentino, Pimp C, C Murder-, và Beanie Sigel. Đĩa đơn đầu tiên, "Money Maker", hợp tác với Pharrell Williams, được phát hành đến các đại lý phát thanh Mỹ vào ngày 17 Tháng 7, 2006. Đĩa đơn thứ hai của ông, "Grew Up A Screw Up", hợp tác với Young Jeezy, xua tan những tin đồn rằng hai người đang hoặc đã từng tranh chấp. Single thứ ba của ông, "Runaway Love", sớm đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot Rap Tracks và chiến thắng một đề cử của giải thưởng BET. Album của ông đạt đến số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với số lượng bán 309.000 trong tuần đầu tiên. Với việc phát hành album này, Ludacris đánh dấu một sự thay đổi trong phong cách trong sự nghiệp của mình. Để quảng bá cho album, Ludacris trở lại Saturday Night Live (như cả chủ nhà và khách âm nhạc) trên 18 Tháng 11, 2006.
Theater Of The Mind (2008) | wiki |
Ludacris | Theater Of The Mind (2008)
Theater Of Mind, phát hành vào ngày 24 Tháng Mười Một năm 2008, và trong năm 2008 Tháng tư, các single "Let's Stay Together" xuất hiện trên xxlmag.com; được cho là từ các album mới Một bài hát gọi là "Pinky Shinin" đã được dự kiến sẽ có trong album, nhưng nó đã bị bỏ. Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Complex ông nói rằng Chris Brown, Lil Wayne, Rick Ross, TI, Plies, T-Pain, Jay-Z, Nas và The Game sẽ có trong album. Album này đứng vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 213.493 được bán đầu tiên trong tuần. Album được phát hành cùng ngày với 808s của Kanye West & Heartbreak. Đĩa đơn đầu "What Them Girls Like" (hợp tác với Chris Brown và Sean Garett). Đĩa đơn thứ hai, "One More Drink", hợp tác T-Pain, đạt vị trí # 24 trên Billboard 100 của ông. Địa đơn là "Nasty Girl", hợp tác với Plies. Ông khẳng định một "phần tiếp theo" có tiêu đề Ludaversal do được phát hành vào năm 2011.
Battle Of The Sexes | wiki |
Ludacris | Battle Of The Sexes
Album phòng thu thứ 7 được phát hành ngày 09 tháng 3 năm 2010, với single đầu tiên là "Everybody Drunk" hợp tác với Lil Scrappy và Shawnna. Việc chính thức phát hành đĩa đơn đầu tiên từ "Battle Of The Sexes" là "How Low", được phát hành vào ngày 08 Tháng 12 năm 2009. Single tiếp theo là "My Chick Bad" (hợp tác với Nicki Minaj) phát hành vào ngày 23 Tháng 2 năm 2010. Đĩa đơn thứ ba là "Sex Room", vươn lên hạng 69 trên bảng xếp hạng Billboard 100. Battle Of The Sexes vào bảng xếp hạng ở vị trí số 1, với 137.000 doanh số bán hàng trong tuần đầu tiên. Album này hiện đang được chứng nhận vàng. [16]
[Sửa] Ludaversal (2012)
Vào ngày 15 tháng 8 năm 2010, Ludacris tweeted rằng ông hiện đang trở lại trong phòng thu với The Neptunes làm việc trong album studio thứ tám của ông, Ludaversal, "phần tiếp theo" của album "Theater Of Mind".
Bảng xếp hạng Billboard
Ludacris có đến 22 đĩa đơn lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100.
Vị trí cao nhất: 21
Vị trí cao nhất: 24
Vị trí cao nhất: 23
Vị trí cao nhất: 22
Vị trí cao nhất: 17
Vị trí cao nhất: 10
Vị trí cao nhất: 1
Vị trí cao nhất: 32
Vị trí cao nhất: 94
Vị trí cao nhất: 1
Vị trí cao nhất: 2
Vị trí cao nhất: 6
Vị trí cao nhất: 6
Vị trí cao nhất: 9
Vị trí cao nhất: 11
Vị trí cao nhất: 13
Vị trí cao nhất: 19
Vị trí cao nhất: 24
Vị trí cao nhất: 33
Vị trí cao nhất: 39
Vị trí cao nhất: 65
Vị trí cao nhất: 69 | wiki |
Danh sách hoàng đế La Mã | Danh hiệu ‘"Hoàng đế La Mã"’ được các nhà sử học về sau dùng để gọi người đứng đầu nhà nước La Mã trong thời kỳ đế quốc. Đế quốc La Mã phát triển từ nền Cộng hòa La Mã, sau khi nó từng bước thống trị toàn bộ bờ biển Địa Trung Hải, có điểm đặc trưng là quyền lực tập trung vào một cá nhân, thay vì "Viện nguyên lão và toàn thể công dân La Mã".
Augustus, người được công nhận rộng rãi là hoàng đế La Mã đầu tiên, lên cầm quyền sau một cuộc chiến đẫm máu và trong một thời kỳ mà nhiều người dân La Mã còn giữ ý niệm mạnh mẽ về nền Cộng hòa, đã cẩn thận duy trì lớp vỏ Cộng hòa cho nền cai trị của mình (từ năm 27 tr.CN). Ông không đặt ra một danh hiệu mới, mà tập trung quyền lực vào một chức vụ tồn tại từ trước mà nay ông thâu tóm, ‘’ Princeps Senatus’’ (người đứng đầu Viện nguyên lão). Thể chế chính quyền này, tồn tại gần 300 năm, được gọi là ‘‘Chế độ Nguyên thủ’’ (Principate).
Về mặt từ nguyên, từ '’ Hoàng đế’’ trong các ngôn ngữ châu Âu xuất phát từ tiếng Latin ‘’Imperator’’, một danh hiệu dành cho người đứng đầu quân đội. Trong thời kỳ đầu của đế chế, Nguyên thủ không đương nhiên có được danh hiệu này mà phải được phong sau một thành tích quân sự. Tuy nhiên trong thời hiện đại nó được dùng một cách không phân biệt mọi nhà cai trị của đế quốc La Mã trong các giai đoạn khác nhau, với hàm ý nhấn mạnh liên hệ mạnh mẽ giữa nền cai trị và quân đội đế chế. | wiki |
Danh sách hoàng đế La Mã | Cuối thế kỷ thứ 3 (sau CN), lên cầm quyền sau một thời kỳ nội chiến và bạo loạn kéo dài, Diocletianus đã chính thức hóa và thêm thắt vào danh hiệu hoàng đế bằng cách thiết lập sự tập trung quyền lực rõ ràng hơn vào cá nhân hoàng đế hay đặt ra tiếng tôn xưng ‘'Dominus Noster'’ (Chúa tể của chúng ta). Điều này đã khởi đầu cho thời kì gọi là "Chế độ Quân chủ" (Dominate).
Từ Diocletianus về sau, thường tồn tại những hoàng đế cai trị đồng thời trong quá trình phân rã đế quốc (có lúc lên tới 4 hoàng đế chia nhau cai trị các phần lãnh thổ La Mã). Từ sau cái chết của Theodosius I năm 395, La Mã có thể xem như được chia tách làm hai thể chế: Đế quốc Tây La Mã và Đế quốc Đông La Mã . Tuy nhiên về mặt hiến pháp chúng không thực sự tách biệt và trong khi miền Tây ngày càng mất ổn định thì các hoàng đế ở Constantinopolis thường áp đặt quyền lực mình lên nửa Tây đế quốc. Đế quốc Tây La Mã suy sụp vào thế kỷ thứ V, hoàng đế cuối cùng đã thoái vị vào năm 476 trong khi đế quốc Đông La Mã phát triền thành Đế quốc Byzantine còn tồn tại được tới năm 1453. Tuy sự kế vị trong hoàng tộc là không đứt đoạn ở Byzantine và bản thân các hoàng cũng như những người đương thời coi họ là những người kế thừa Đế quốc La Mã cổ đại, sự thay đổi tính chất của đế quốc Byzantine như một nền quân chủ phong kiến phương Đông khiến cho danh sách này chỉ dừng lại ở các vị vua triều đại Justinian.
"Để xem danh sách đầy đủ các Hoàng đế Byzantine, xem: Danh sách Hoàng đế Đông La Mã" | wiki |
Danh sách hoàng đế La Mã | "Để xem danh sách đầy đủ các Hoàng đế Byzantine, xem: Danh sách Hoàng đế Đông La Mã"
Như vậy, danh hiệu ‘’Hoàng đế La Mã’’ là không nhất quán như danh hiệu ‘’hoàng đế’’ ở Trung Quốc hay Việt Nam. Trong nhiều trường hợp, việc xác định một người có là hoàng đế ‘’hợp pháp’’ (tiếng Anh: ‘’legitimate’’) hay không là rất khó khăn. Danh sách dưới đây được lập dựa trên nguyên tắc "hoàng đế hợp pháp" phải thỏa mãn một trong các điều kiện:
Từ sau khi đế quốc phân chia vào năm 395, hoàng đế hợp pháp là người cai trị một phần đế quốc (Đông hoặc Tây) mà không bị tranh cãi. Riêng với đế quốc Tây La Mã, có những giai đoạn để trống ngôi hoàng đế và do sự mất mát sử liệu về giai đoạn sau 455 (khi đế quốc được coi là sụp đổ), tất cả hoàng đế giai đoạn sau đó đều được liệt kê, dù thông thường Romulus Augustus thường được coi là Hoàng đế La Mã cuối cùng (thoái vị vào năm 476). Các chi tiết tranh cãi về vị vua nào là cuối cùng của đế quốc Tây La Mã được liệt kê trong danh sách này.
Niên biểu.
Niên biểu chỉ ra tuổi thọ niên dại của các hoàng đế La Mã | wiki |
Vũ Hồng Luyến | Vũ Hồng Luyến (sinh ngày 29 tháng 3 năm 1983) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Bí thư Tỉnh đoàn Hưng Yên, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Hưng Yên.
Vũ Hồng Luyến là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Luật, Cử nhân Tổ chức hành chính, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp đều tham gia công tác thanh niên ở quê nhà Hưng Yên.
Xuất thân và giáo dục.
Vũ Hồng Luyến sinh ngày 29 tháng 3 năm 1983 tại phường Phan Đình Phùng, thị xã Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Bà lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Mỹ Hào, theo học đại học ở Hà Nội và có hai bằng cử nhân gồm Cử nhân Luật, và Cử nhân Tổ chức hành chính. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 29 tháng 3 năm 1983, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị tập trung từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 12 năm 2016 ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện bà thường trú ở xã Hồng Tiến, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Sự nghiệp. | wiki |
Vũ Hồng Luyến | Sự nghiệp.
Tháng 6 năm 2005, sau khi tốt nghiệp đại học, Vũ Hồng Luyến trở về Hưng Yên, tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, bắt đầu là nhân viên hợp đồng tại Ban Thanh thiếu nhi trường học của Tỉnh đoàn Hưng Yên. Đến tháng 2 năm 2008, bà được tuyển dụng công chức, là chuyên viên Phòng Phương pháp công tác Đội Nhà thiếu nhi tỉnh Hưng Yên, rồi chuyển vị trí làm Chuyên viên Ban Thanh thiếu nhi trường học Tỉnh đoàn từ tháng 3 cùng năm. Tháng 10 năm 2010, bà nhậm chức Phó Trưởng Ban Thanh thiếu nhi trường học Tỉnh đoàn, đến tháng 1 năm 2012 thì chuyển chức làm Phó Trưởng Ban Tổ chức – Kiểm tra Tỉnh đoàn, và đồng thời là Bí thư chi đoàn Tỉnh đoàn Hưng Yên, rồi được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn từ tháng 12 cùng năm. Tháng 3 năm 2017, bà được giao nhiệm vụ phụ trách Ban Tổ chức – Kiểm tra Tỉnh đoàn, được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh đoàn từ tháng 8 năm 2017, thăng chức Trưởng Ban Tổ chức – Kiểm tra Tỉnh đoàn, và là Chủ tịch Công đoàn cơ sở Tỉnh đoàn thanh niên. Tháng 11 năm 2017, bà nhậm chức Phó Bí thư Tỉnh đoàn Hưng Yên, kiêm Chủ tịch Hội đồng Đội tỉnh, Chủ tịch Hội Sinh viên Việt Nam tỉnh. | wiki |
Vũ Hồng Luyến | Tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025, Vũ Hồng Luyến được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, rồi được bầu làm Bí thư Tỉnh đoàn Hưng Yên, đồng thời là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Hưng Yên, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ đầu năm 2021. Năm 2021, với sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, bà tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội từ Hưng Yên, thuộc đơn vị bầu cử số 2 gồm huyện Tiên Lữ, Phù Cừ, Ân Thi, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 87,01%. Trong nhiệm kỳ này, bà là Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội. | wiki |
Đinh Thị Trà Giang | Đinh Thị Trà Giang (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1992) là một vận động viên bóng chuyền của đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Việt Nam.
Tiểu sử.
Trà Giang quê ở Lạng Sơn (nguyên quán Xã Yên Phụ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), là con duy nhất trong gia đình có bố làm giáo viên, mẹ làm nội trợ và Trà Giang đã được thừa hưởng chiều cao của bố (bố Giang cao 1m83). Khi mới học đến lớp 7, Giang đã cao 1m69. Giang được người anh họ làm ở nhà thi đấu Gia Lâm gợi ý theo bóng chuyền vì khi đó, Sở thể dục thể thao Hà Nội đang tuyển vận động viên cho đội bóng chuyền trẻ, dù chưa biết gì về môn thể thao này, nhưng thấy thuận tai, Giang liền về xin phép gia đình cho tập thử.
Chỉ vài tháng sau, Giang chính thức chuyển học, xuống Hà Nội tập bóng chuyền. Sau hơn 2 năm tập luyện, từ 1m69, Giang tăng vọt lên 1m78, chiều cao tương đối tốt đối với một vận động viên bóng chuyền.
Năm 2007, đội bóng chuyền VietsovPetro được thành lập, quy tụ nhiều ngôi sao bóng chuyền Việt. Nhận thấy đây là mỗi trường có thể phát triển tài năng hơn nữa, mọi chế độ đãi ngộ đều tốt, Giang đã xin khoác áo cho VietsovPetro.
Trong màu áo VietsovPetro, Trà Giang đã từng bộc lộ triển vọng ở giải vô địch quốc gia nhưng cô chỉ tiến bộ vượt bậc khi được chọn vào đội tuyển quốc gia từ năm 2009. | wiki |
Đinh Thị Trà Giang | Trong màu áo VietsovPetro, Trà Giang đã từng bộc lộ triển vọng ở giải vô địch quốc gia nhưng cô chỉ tiến bộ vượt bậc khi được chọn vào đội tuyển quốc gia từ năm 2009.
Năm 2009, Trà Giang từng được nhận giải chắn bóng xuất sắc trong màu áo câu lạc bộ ở Cúp truyền hình Đắk Lắk. Năm 2011 Giang lại vinh dự nhận danh hiệu giải trẻ triển vọng Cúp Lienvietpostbank. Ở VTV Cup 2012, trước khi giải diễn ra, Giang thậm chí còn được nhiều fan hâm mộ cho vào danh sách các ứng viên sáng giá cho vị trí hoa khôi của giải, nhưng sau đó danh hiệu này đã thuộc về cầu thủ đến từ Nhật Bản. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Nguyễn Phan Long (1889 – 1960) là một nhà báo, nhà hoạt động chính trị Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Ông từng được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ tướng đầu tiên của chính phủ Quốc gia Việt Nam kiêm Tổng trưởng Nội vụ trong một thời gian ngắn (chưa đầy 4 tháng).
Thân thế và khởi sự với nghề giáo.
Ông sinh năm 1889, trong một gia đình điền chủ lớn lâu đời ở Nam Kỳ, trú quán lâu năm tại Sài Gòn. Thuở nhỏ, ông học tại trường Albert Sarraut Hà Nội, sau đó du học Pháp. Trong những năm cuối cùng của thế kỷ 19, ông cùng với Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo và một số trí thức người Việt quốc tịch Pháp tập hợp thành một nhóm sinh hoạt chính trị, với mục đích can thiệp với chính quyền thực dân nhằm ban hành các đạo luật hoặc quy chế cho dân bản xứ tầng lớp trên ở Đông Dương có quyền tham chính và được hưởng các quyền lợi ngang với người Pháp.
Sau khi về nước, ông khởi đầu với nghề dạy học và mở trường trung học Nguyễn Phan Long nổi tiếng dạy hay thời bấy giờ.
Bước vào nghề báo và hoạt động chính trị. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Sau khi về nước, ông khởi đầu với nghề dạy học và mở trường trung học Nguyễn Phan Long nổi tiếng dạy hay thời bấy giờ.
Bước vào nghề báo và hoạt động chính trị.
Từ năm 1917, ông bắt đầu tham gia cộng tác với tờ "La Tribune Indigène" (Diễn đàn bản xứ) của Nguyễn Phú Khai và Bùi Quang Chiêu. Năm 1919, Bùi Quang Chiêu tập hợp các bạn đồng chí để thành lập Đảng Lập hiến Đông Dương (tiếng Pháp: "Parti Constitutionaliste Indochinois"), với mục tiêu đấu tranh cho quyền tham chính của dân bản xứ ở Nam Kỳ. Đảng Lập Hiến được đăng ký thành lập năm 1923 ở Pháp nhưng hầu hết các thành viên của nó đều ở Nam Kỳ, tuy không có tổ chức chặt chẽ và phát triển rộng rãi, nhưng cũng có thể xem là có tiếng vang ở Nam Kỳ.
Tờ "La Tribune Indigène" từ đó trở thành phương tiện phát ngôn của đảng Lập Hiến. Do lập trường đấu tranh cho quyền lợi của dân bản xứ tầng lớp trên, chính quyền thực dân Pháp cách tất cả các khoản tài trợ cho "La Tribune Indigène". Năm 1920, tờ "L’Echo annamite" (Tiếng vọng An Nam) được chính quyền thực dân Pháp cho phép xuất bản và Nguyễn Phan Long được cử làm chủ bút. Tuy nhiên, khuynh hướng của "L’Echo annamite" dưới ảnh hưởng của Nguyễn Phan Long cũng nhanh chóng chuyển hướng tán thành đảng Lập Hiến. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Năm 1924, ông cùng Nguyễn Tấn Dược soạn ra tài liệu "Khảo cứu về giao ước chuyển nhượng quyền vận tải lúa, gạo, cám và bắp trong thương khẩu Sài Gòn - Chợ Lớn" nhằm phản đối việc chuyển nhượng quyền vận tải lúa, gạo, cám và bắp cho ở thương khẩu Sài Gòn - Chợ Lớn cho nhóm tư bản mà Nguyễn Phan Long gọi là "hội Candelier". Đây là một tài liệu quan trọng đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi thương mãi của người bản xứ.
Tháng 1 năm 1925, đảng Lập Hiến chính thức tuyên cáo hoạt động và nhanh chóng thu hút được sự chú ý của quần chúng mà cao điểm là cuộc tiếp đón Bùi Quang Chiêu tại Sài Gòn năm 1926. Chính vì vậy, tờ "La Tribune Indochinoise" (Diễn đàn Đông Dương) ra đời để cổ súy cho chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề. Nguyễn Phan Long được cử làm chú bút của tờ báo. Năm 1928, một phiên bản tiếng Việt của tờ "La Tribune Indochinoise" là tờ "Đuốc Nhà Nam" ra đời. Nguyễn Phan Long kiêm luôn chức chủ bút của "Đuốc Nhà Nam". Thời gian này, ông cũng bắt đầu tham gia hoạt động chính trường, ứng cử và được bầu vào chức Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Nổi tiếng với khả năng thông thạo tiếng Pháp và sự hiểu biết về văn học Pháp, Nguyễn Phan Long đã có những đóng góp nhất định cho nền báo chí Việt Nam nói chung và Nam Kỳ đầu thế kỷ 20 nói riêng. Những cuộc bút chiến của Nguyễn Phan Long (tờ Đuốc Nhà Nam) và Phan Khôi (tờ Trung Lập) năm về trách nhiệm của người làm chính trị trước thời cuộc và vận mệnh người dân đã không chỉ thu hút sự quan tâm về phương diện thông tin mà còn là tiêu biểu của sự phát triển về học thuật của báo chí Nam Kỳ. Cuộc bút chiến kết thúc với lời xin lỗi và đề nghị chấm dứt tranh cãi đăng trên Đuốc Nhà Nam cũng được xem như là tiêu biểu của tinh thần khách quan học thuật, không tị hiềm cá nhân của Nguyễn Phan Long.
Ông còn là một nhà văn, với các tác phẩm chính bằng tiếng Pháp của ông là: "Cannibale par persuasion", "Le Roman de Mademoiselle Lys" (Chuyện đời cô Huệ). Thêm vào đó, ông viết một số sách nghiên cứu và giới thiệu về ẩm thực truyền thống.
Về phương diện chính trị, Nguyễn Phan Long cũng có một số đóng góp nhất định. Năm 1927, ông cùng với các chí sĩ Phan Văn Trường, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Vũ Đình Dy vận động chính phủ Pháp bãi bỏ điều kiện Pháp tịch cho những học sinh muốn sang Pháp du học. Chính nhờ việc này, số lượng học sinh người Việt sang Pháp du học bắt đầu tăng lên, một số không nhỏ trong số đấy về sau trở thành nòng cốt của lực lượng trí thức đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam sau này.
Nguyễn Phan Long và đạo Cao Đài. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Nguyễn Phan Long và đạo Cao Đài.
Do chủ trương Pháp-Việt Đề huề, thỏa hiệp với thực dân Pháp nhằm giành quyền lợi về kinh tế, chính trị cho dân bản xứ tầng lớp trên, thiếu hẳn sự ủng hộ của đông đảo quần chúng và không có thực lực, đảng Lập Hiến nhanh chóng bị chính quyền chi phối. Năm 1930, đảng Lập Hiến ngừng hoạt động một cách lặng lẽ.
Mặc dù vậy, với quá trình hoạt động của mình, Nguyễn Phan Long vẫn là một nhà hoạt động chính trị xã hội có uy tín thời bấy giờ. Năm 1936, ông tham gia phong trào Đông Dương đại hội vận động dân chủ. Tuy nhiên, phong trào bị Pháp khủng bố trắng, ông bị cô lập một thời gian.
Ông bắt đầu chuyển hướng cổ súy nhiệt thành cho tinh thần của đạo Cao Đài trong nhiều bài báo của mình. Thậm chí, trong năm 1936, ông còn giữ chức vụ Tổng trưởng Liên Hòa Tổng hội, một tổ chức nỗ lực thống nhất tổ chức giáo hội toàn đạo Cao Đài nhưng bất thành. Tuy nhiên, ông không phải là tín đồ Cao Đài. Dù vậy, tên ông đã được nhắc đến trong quyển "Nhân vật Cao Đài giáo - quyển thứ nhất" của Đồng Tân, xuất bản năm 2006 ở Ôxtrâylia, trong đó viết về 33 nhân vật của Cao Đài giáo, cùng với một số người như Ngô Minh Chiêu, Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc… Thậm chí, Huỳnh Tâm, tác giả quyển "Cao Đài dưới chế độ Cộng sản Việt Nam" còn khẳng định ""Việt Minh đã nắm được những chuyên viên tôn giáo … như Nguyễn Phan Long, Cao Triều Phát và một số chi phái làm cộng sự viên cho Việt Minh…".
Những hoạt động cuối đời. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Những hoạt động cuối đời.
May mắn hơn số phận bi thảm của người bạn Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long không bị Việt Minh thủ tiêu khi Việt Minh nắm quyền tại miền Nam. Tuy nhiên, sự thất bại của đảng Lập Hiến cũng làm cho ông dần hiểu rõ hơn về bộ mặt thật của chính quyền thuộc địa. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ năm 1945, ông tiếp nhận và cải tổ lại tờ "L’Echo annamite" thành tờ "L’Echo du Vietnam" (Tiếng vọng Việt Nam), chủ trương chống ly khai. Chính vì xu hướng mới này, ông từng bị các nhân vật phân ly trong chính phủ Nam Kì tự trị kỳ thị, trấn áp một thời gian.
Tuy nhiên, cuối cùng thì "Giải pháp Bảo Đại" cũng ra đời, về danh nghĩa thống nhất một nước Việt Nam với Quốc trưởng Bảo Đại. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ Bảo Đại được thành lập, trong đó Quốc trưởng Bảo Đại kiêm nhiệm Thủ tướng của Quốc gia Việt Nam, Trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. Nguyễn Phan Long được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Ngoại giao. Ngày 21 tháng 1 năm 1950, Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ của Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ 3 tháng sau, ngày 27 tháng 4 năm 1950, ông phải từ chức dưới áp lực của Phủ Cao ủy Pháp vì cho rằng ông có quá nhiều tư tưởng Quốc gia độc lập và tỏ ra thân Mỹ..
Sau khi từ chức, ông tiếp tục trở lại sống bằng nghề dạy học và viết báo. Từ đó, ông sống thầm lặng trong cảnh nghèo "xơ xác", rồi qua đời tại nhà riêng ở Sài Gòn ngày 16 tháng 7 năm 1960, thọ 71 tuổi . | wiki |
Nguyễn Phan Long | Vị trí trong làng báo Nam Kỳ.
Đánh giá.
Trong số những tờ báo nêu trên, Nguyễn Phan Long từng là chủ bút của 3 tờ "a Tribune Indochinoise", "L’Echo annamite" và "Đuốc Nhà Nam". Nhưng hai tờ báo mà ông có ảnh hưởng lớn hơn là "L’Echo annamite" và Đuốc Nhà Nam, trong đó, ông phụ trách mục Chính trị (Directeur politique) và kinh tế, thương mại. Cả hai đã đấu tranh, trong điều kiện kiểm duyệt gắt gao của chính quyền thuộc địa và sở báo chí Nam Kỳ, nhằm bảo vệ quyền lợi của dân bản xứ.
Nguyễn Phan Long thông thạo tiếng Pháp, viết, sáng tác bằng tiếng Pháp rất giỏi. Nhà báo Phan Khôi đánh giá ông là "người làm báo Tây có tiếng nhứt xứ nầy hơn mười năm nay" (từ năm 1920 đến 1930). Tuy nhiên, những bài báo bằng tiếng Việt của ông đăng trên tờ Đuốc Nhà Nam thì cũng nhận được nhiều khen ngợi như: "xưa nay ông Long chưa hề viết bài bằng tiếng mẹ đẻ, bây giờ ông bắt đầu viết trong tờ báo của ông. Phần nhiều nhà tây học viết quốc ngữ ít sành! Vậy mà ông viết được; mấy bài lúc mới ra, bài nào cũng nghe xuôi, đáng cho vào hạng khá". Đây là trường hợp rất hiếm thời bấy giờ, vì đa phần các nhà báo Tây học lúc đó, viết bằng tiếng Pháp thì rất giỏi nhưng viết bằng tiếng Việt lại không tốt bằng. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Trong suốt cuộc đời làm báo của Nguyễn Phan Long, có thể thấy rõ ông truyền bá tư tưởng đấu tranh ôn hòa, thỏa hiệp với thực dân để giành quyền lợi về kinh tế cho người Việt, chủ trương dành độc lập dân tộc thông qua việc duy tân, du nhập văn hóa phương Tây. Ông cùng với các thành viên Lập Hiến đã xây dựng hình thức đấu tranh qua báo chí, nghị trường, thỉnh nguyện thư với chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương về những vấn đề đảm bảo quyền lợi của dân An Nam trong các lĩnh vực như: giáo dục, tòng quân, báo chí, tín ngưỡng, thuế khoá, xã hội, nông nghiệp...
Nhà báo Phan Khôi đã viết: "Ban đầu lấy làm lạ, sau rồi thấy ra có lẽ lắm, có lẽ là Đuốc nhà Nam không dính dấp gì với đảng Lập hiến thiệt chẳng chơi. Bởi vì "Đuốc nhà Nam" bấy giờ nhiều bài kịch liệt, có bài muốn phản đối hẳn với cái chủ nghĩa lập hiến. Thứ nhứt là có đôi bài công kích mấy ông điền chủ dữ lắm, chúng tôi thấy vậy phải hỏi nhau rằng sao mấy ông điền chủ lại bằng lòng bỏ tiền ra để mua lấy sự công kích mình". Bản thân "Đuốc Nhà Nam" cũng viết rõ: "Chú trọng về giới nông dân, lao động cốt rọi các tia sáng cho anh em bước tới để ngày sau tất cả thôn quê đều làm đèn điện như ở bên Nga", thậm chí còn dám lên án chế độ thực dân Pháp: "nói cho đích đáng thì chủ nghĩa thực dân là nguyên do của những cuộc chiến tranh, là cái tánh háo thắng, háo tiêu diệt các nước". | wiki |
Nguyễn Phan Long | Tuy nhiên, là một trí thức Tây học có trình độ cao và được xã hội trọng vọng, cũng như các thành viên Lập Hiến khác, Nguyễn Phan Long thường tỏ rõ thái độ nghi ngờ nhận thức chính trị của tầng lớp bình dân. Ông viết: "Tôi dám chắc rằng trong đám dân biểu tình, ngoài mấy anh đầu đảng ra không nói, còn mấy người sau đều là đám dân ngu khờ khạo bị chúng cám dỗ hết thảy. Thiệt vậy, theo người ở Hốc Môn nói với tôi, có nhiều người ở trong làng xưa nay là dân nghèo khù khờ ngu dại thế mà bị Cộng sản đến diễn thuyết, nói những lời dưới đất trên trời, làm cho những người ấy hóa ra những người biểu tình rất hăng hái!". Ông cho rằng, việc chính trị chỉ dành riêng cho những người thuộc tầng lớp trí thức tài giỏi và giàu có như ông, không phải là việc của đám "dân ngu khờ khạo". | wiki |
Nguyễn Phan Long | Thái độ không tin tưởng vào sức mạnh đông đảo quần chúng đã làm đảng Lập Hiến nhanh chóng thất bại. Các thành viên nó dù có uy tín bởi trình độ văn hoá và địa vị xã hội nhưng do thiếu hậu thuẫn của quần chúng nên trở thành những chính khách mờ nhạt. Nguyễn Phan Long cũng không ngoại lệ. Họ đấu tranh với chính quyền thực dân để mở rộng quyền tự trị của người Việt, mở rộng tự do - dân chủ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội Việt Nam theo hướng phương Tây hoá. Con đường của Nguyễn Phan Long và đảng Lập Hiến là con đường ôn hoà, bất bạo động theo chủ trương giành lại quyền tự quyết dân tộc từ từ bằng sự thoả hiệp, đối thoại với chính quyền bảo hộ Pháp. Sự phát triển kinh tế, văn hoá, cùng ý thức dân tộc ngày càng cao của người Việt là cơ sở để gây áp lực khiến người Pháp phải chấp nhận nhượng bộ. Đó là con đường nhiều chính trị gia tại các nước thuộc địa khác đã đi theo. | wiki |
Nguyễn Phan Long | Có thể nói, tên tuổi Nguyễn Phan Long rất được trọng vọng trong làng báo đầu thế kỷ 20, qua đề cập của một số nhà báo thời đó như Phan Khôi, Vũ Bằng. Vũ Bằng viết: ""Về sau này, tôi lại nghe thấy có người làm một câu thơ mà đuổi được giặc, làm báo như hạng Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, viết một bài, Tây sợ "chết cha chết mẹ", phải mua chuộc hàng ngàn, hàng vạn mà chưa chắc đã êm... Mê quá."". Thế nhưng, cũng khá giống với Lê Văn Trương, cây bút nổi tiếng trong làng văn, làng báo Việt Nam thời kỳ bấy giờ, Nguyễn Phan Long tuy từng có nhiều tác phẩm ấn tượng, được người cùng thời ngợi khen, nhưng vì lý do chính trị nên trong một thời gian dài không được nhắc đến cũng giống các tên tuổi lớn khác như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim... | wiki |
Viêm da | Viêm da
Viêm da là tình trạng viêm nhiễm nông ở da, đặc trưng mô học là phù thượng bì và lâm sàng là mụn nước (khi cấp tính), hồng ban bờ kém, phù, xuất tiết, đóng sừng, tróc vảy, thường kèm đau, và lichen hoá do gãi hay chà.
Hiện vẫn còn bất đồng về tên gọi "viêm da" và "eczema". Thông thường eczema dùng để chỉ viêm da mụn nước, nhưng một số người lại giới hạn eczema vào viêm da mạn tính. Một số cũng dùng từ viêm da để chỉ viêm da xốp do có đặc điểm mô học là hiện tượng xốp hoá (phù nội thượng bì).
Bệnh viêm da dị ứng.
Viêm da dị ứng là viêm da do tiếp xúc với chất gây kích ứng như: hóa chất, bụi ô nhiễm,xi măng gây bệnh đặc thù là dị ứng xi măng | wiki |
Phản ứng acid-base | Phản ứng acid-base
Một phản ứng acid–base là một phản ứng hóa học xảy ra giữa một acid và một base. Nhiều mô hình cho một định nghĩa rõ ràng về cách hoạt động của phản ứng hóa học và ứng dụng của chúng trong việc giải quyết những vấn đề có liên quan; những mô hình này được gọi là thuyết acid-base, ví dụ như là thuyết acid-base Brønsted–Lowry. Tầm quan trọng của chúng hiện rõ trong việc phân tích các phản ứng acid–base với dạng khí và dạng lỏng, hoặc là để phân biệt tính acid hay là tính base yếu hơn. Những định nghĩa này được đề ra lần đầu tiên bởi nhà hóa học người Pháp Antoine Lavoisier, vào khoảng năm 1776. | wiki |
Wareru | Wareru (, ; 1253–1307) là người sáng lập Vương quốc Ramanya tại Hạ Miến ngày nay. Vương quốc được gọi phổ biến hơn là Vương quốc Hanthawady Pegu (Bago), hoặc chỉ là Pegu dù kinh đô đầu tiên của vương quốc là Martaban (Mottama). Nhờ sử dụng các kỹ năng ngoại giao và quân sự, ông lập ra một vương quốc cho người Mon tại Hạ Miến sau khi Đế quốc Pagan sụp đổ vào năm 1287. Wareru trên danh nghĩa là chư hầu của bố vợ-Quốc vương Ram Khamhaeng của Sukhothai (thuộc Thái Lan ngày nay), và chư hầu của nhà Nguyên. Ông đẩy lui thành công các cuộc tấn công của ba anh em thủ lĩnh người Shan xứ Myinsaing (thuộc miền trung Myanmar ngày nay) vào năm 1287 và 1294.
Wareru bị các cháu ngoại của mình ám sát vào năm 1307, người kế vị ông là em trai Hkun Law. Thành tựu lớn nhất trong thời gian ông trị vì là bổ nhiệm một ủy ban để biên soạn bộ luật sớm nhất còn giữ được của Myanmar; và thành lập vương quốc thịnh vượng gần hai thế kỷ rưỡi của người Mon.
Tên gọi.
Tên tiếng Môn của ông là Magadu (, , ), còn tước hiệu tiếng Shan được ghi là Wa Row (IPA: ; , , ), là nguồn gốc của tên Wareru.
Tên của ông cũng được ghi trong tiếng Thái là Chao Farua (, "Chúa Farua", ) hoặc Phrachao Farua (พระเจ้าฟ้ารั่ว, "Thánh chủ Farua", ). Các văn kiện lịch sử Thái Lan ghi rằng Quốc vương Ram Khamhaeng ban cho ông tên Farua, theo nghĩa đen là "thiên đường lọt xuống", vì ông có công lao lớn.
Cuộc sống đầu đời. | wiki |
Wareru | Cuộc sống đầu đời.
Magadu sinh ra gần Thaton, có cha là người Shan và mẹ là người Mon. Ông là con cả, có ít nhất hai em trai và một em gái. Khi còn trẻ, Magadu là một thương nhân qua lại giữa Martaban và Sukhothai. Trong thập niên 1270, ông phục vụ cho Quốc vương Sukhothai Ram Khamhaeng (trị vì 1278–1298) trong chuồng voi rồi thăng tiến thành người chỉ huy cận vệ cung điện. Năm 1280, ông bỏ trốn cùng con gái của quốc vương là Me Nang Soy Da (, ; "Quý cô Soidao"), và thoát khỏi Sukhothai cùng vài chục tuỳ tòng.
Vương lên nắm quyền (1281–1287).
Trở lại Martaban, Wareru có mưu đồ đoạt quyền thống đốc tại đây. Theo các biên niên sử Miến Điện, Wareru được cho là yêu cầu người em gái xinh đẹp Hnin U Yaing chọn nơi tắm tại một khúc sông để Thống đốc Aleimma có thể trông thấy. Aleimma hỏi cưới cô, và tại lễ kết hôn Wareru giết vị thống đốc này và trở thành lãnh chúa xứ Martaban. Năm khởi nghĩa là 1281 theo ghi chép tiếng Môn song là năm 1286 theo các ghi chép tiếng Miến. Dù sao đi nữa, vương triều Pagan khi đó phải bận tâm trước các cuộc xâm chiếm của người Mông Cổ, nên không thể thực hiện hành động thực tế nào. | wiki |
Wareru | Năm 1287, quân Mông Cổ chiếm được Pagan, và quyền lực trung ương sụp đổ trên khắp vương quốc. Nhiều thống đốc công khai khởi nghĩa, đặc biệt là những người tại khu vực hẻo lánh của vương quốc vốn đã cai trị giống như độc lập. Wareru trên lý thuyết đã khởi nghĩa từ năm 1281 (hoặc là 1286) vì chiếm xứ Martaban bằng cách giết thống đốc do triều đình Pagan bổ nhiệm. Wareru lập liên minh với thống đốc của Pegu (Bago) là Tarabya, họ cưới con gái của nhau. Hai lực lượng miền nam này cùng nhau đánh bại quân miền bắc dưới quyền Yazathingyan, là người về sau trở thành đồng sáng lập Vương quốc Myinsaing, và tiếp tục chinh phục toàn bộ Hạ Miến. Sau đó hai thủ lĩnh này bất hoà, và Tarabya bị bắt giữ và hành quyết trong một cuộc giao tranh. Wareru xưng vương vào ngày 4 tháng 4 năm 1287 theo ghi chép tiếng Mon (hoặc 18 tháng 1 năm 1288 theo ghi chép tiếng Miến).
Trị vì (1287–1307).
Wareru vốn mang một nửa huyết thống người Shan, ông nỗ lực trở thành một người kế nghiệp thích hợp các quốc vương người Mon từng cai trị Hạ Miến trước khi khu vực bị sáp nhập vào Pagan. Ông tuyên bố vương quốc của mình là Ramanna (đất của người Mon) với Martaban là thủ đô. Mặc dù ông vừa đánh bại quân miền bắc, và Pagan đã ngừng tồn tại, song trong thời gian trị vì còn lại Wareru vẫn lo ngại về các cuộc xâm chiếm từ phía bắc. | wiki |
Wareru | Nhằm chuẩn bị, ông đảm bảo hậu phương của vương quốc bằng cách gửi cống nạp chính thức cho cha vợ là Ram Khamhaeng. Năm 1293, ông nhận được từ Sukhothai công nhận hoàng gia lẫn quà tặng là một con voi trắng. Tin tức về việc quy phục này kích động phản ứng từ ba anh em thủ lĩnh của Myinsaing, họ phái 8.000 quân đi đánh Martaban vào cuối năm 1293. Nhờ căn cứ được đảm bảo, Wareru đẩy lui thành công quân xâm lược vào đầu năm 1294, và không còn tấn công trong thời gian trị vì còn lại của ông. Mặc dù trên danh nghĩa là một chư hầu của Sukhothai, Wareru cũng lo ngại về ý định của Sukhothai đối với duyên hải Tenasserim. Để củng cố vị thế, vào năm 1298 ông thỉnh cầu và nhận được công nhận từ nhà Nguyên với vị thế là chư hầu trực tiếp, cho dù Sukhothai cũng là một chư hầu của nhà Nguyên.
Tháng 1 năm 1307, Wareru bị các cháu ngoại là con của Tarabya ám sát. Người kế thừa vương vị là em trai Hkun Law.
Di sản. | wiki |
Wareru | Tháng 1 năm 1307, Wareru bị các cháu ngoại là con của Tarabya ám sát. Người kế thừa vương vị là em trai Hkun Law.
Di sản.
Với năng lực ngoại giao và danh tiếng là chiến binh ngoan cường, quốc vương sáng lập thành công một vương quốc thống nhất tại Hạ Miến tồn tại trong hai thế kỷ rưỡi. Tuy thế, ông bị dân chúng nhìn nhận là một người Shan tiếm quyền nhiều hơn, họ phấn khởi khi ông bị giết. Wareru chịu trách nhiệm về Dhammathat, (còn gọi là Bộ luật Wareru), sách luật sớm nhất còn tồn tại của Myanmar. Wareru xem xét cải tiến sách luật của Pagan do Shin Dhammavilsa biên soạn, và bổ nhiệm một uỷ ban hoàng gia để biên soạn một luận án luật mới hoàn thiện hơn, Ủy ban tạo ra Bộ luật Wareru, tạo cơ sở của luật tục Myanmar. Giáo sư Robert Lingat bày tỏ rằng Ayudhya là vương quốc Đông Nam Á duy nhất phát triển một bộ luật dân sự, và rằng điều này là kết quả của một loạt công trình mang tên Dhammasattha do những người Mon theo Phật giáo biên soạn, một trong số các văn kiện có ảnh hưởng nhất là đóng góp của Wareru. | wiki |
Giải Primetime Emmy lần thứ 66 | Giải Primetime Emmy lần thứ 66
Giải Primetime Emmy lần thứ 66 nhằm vinh danh các chương trình truyền hình xuất sắc ở trong và ngoài Mỹ từ 1 tháng 6 năm 2013 đến 31 tháng 5 năm 2014 của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Truyền hình. Buổi lễ trao giải được tổ chức vào thứ Hai 25 tháng 8 năm 2014 tại Nhà hát Nokia, Los Angeles, California và được phát sóng trên kênh truyền hình của Mỹ NBC. Diễn viên hài và kiêm chủ talk show hài "Late Night" "S"eth Meyers là người chủ trì buổi lễ này lần đầu tiên.
Lịch trình của buổi lễ dược dời lại vào cuối tuần sau 16 tháng 8, ngày tổ chức Giải Nghệ thuật Sáng tạo lần thứ 66.
Breaking Bad trở thành phim chiến thắng nhiều nhất đêm với 5 giải, trong đó đây là lần thứ hai liên tiếp phim thắng giải Emmy cho Phim chính kịch hay nhất. Modern Family đã giành giải Emmy thứ 5 liên tiếp cho hạng mục Phim hài hay nhất, bằng với kỷ lục Frasier cho hạng mục này trước đây. The Amazing Race đã đoạt giải Emmy cho Chương trình truyền hình thực tế hay nhất lần thứ mười. Các chiến thắng khác bao gồm Sherlock: "His Last Vow" (3 chiến thắng), Fargo và American Horror Story: Coven (mỗi phim 2 giải).
Các đề cử đã được công bố vào 10 tháng 7 năm 2014.
Nội dung thắng giải.
Tên phim và người chiến thắng được in đậm. | wiki |
Aliso Viejo, California | Aliso Viejo là một thành phố ở Đồi San Joaquin, miền Nam quận Cam, California. Nó có dân số 47.823 người theo cuộc điều tra dân số năm 2010, tăng từ 40166 so với điều tra dân số năm 2000. Nó đã trở thành thành phố thứ 34 quận Cam vào ngày 01 tháng 7 năm 2001, thành phố duy nhất tại quận Cam được hợp nhất từ năm 2000. Nó được bao bọc bởi các thành phố Laguna Beach ở phía tây và tây nam, Laguna Hills ở phía đông, Laguna Niguel về phía đông nam, và Laguna Woods về phía bắc.
Aliso Viejo đã là một cộng đồng chưa hợp nhất từ năm 1979, và được hợp nhất thành một thành phố trong năm 2001 do những nỗ lực của Ủy ban Aliso Viejo Cityhood 2000, đơn vị có trách nhiệm giới thiệu một sáng kiến trên lá phiếu cho năm 2001 cuộc bầu cử đặc biệt. Số người bỏ phiếu thông qua các sáng kiến với 93,3% ủng hộ thành lập đơn vị hợp nhất. Carmen Vali-Cave, người đồng sáng lập và là chủ tịch của Ủy ban, đã trở thành thị trưởng đầu tiên mới của thành phố.
Con dấu của thành phố ở Aliso Viejo đã được thông qua vào năm 2001 tại thành lập công ty. Con dấu có các núi, một chiếc thuyền, một cái cây, và nhiều tòa nhà. Ngoài ra, con dấu có khẩu hiệu "Kể từ năm 2001", trong lễ kỷ niệm ngày thành lập của thành phố. | wiki |
Aliso Viejo, California | Aliso Viejo nằm ở tọa độ 33°34'30 "N 117 ° 43'32" W (33,575096, -117,725431) trong Đồi San Joaquin của Quận Cam. Theo Cục điều tra dân số, thành phố có tổng diện tích 7,5 dặm vuông (19 km2), tất cả trong số đó là diện tích đất đai. Aliso Viejo là một trong một số thành phố giáp Aliso và Công viên Vùng Wood Canyons. Aliso Creek là một phần của ranh giới của thành phố với Laguna Niguel ở phía nam, và rạch Wood Canyon là một phần của ranh giới phía tây của thành phố. Phần lớn các thành phố nằm trên sườn phía đông của đồi San Joaquin, đó là một dãy núi ven biển kéo dài khoảng 15 dặm (24 km) dọc theo bờ biển Thái Bình Dương. | wiki |
Wargame đại chiến lược | Wargame đại chiến lược (tiếng Anh: "Grand strategy wargame") là thể loại wargame chỉ tập trung vào phần đại chiến lược nghĩa là chiến lược quân sự ở cấp độ hoạt động và sử dụng toàn bộ nguồn tài nguyên của một quốc gia hoặc cả một đế chế.
Đặc điểm.
Wargame đại chiến lược thường tập trung vào một cuộc chiến tranh hoặc một loạt các cuộc chiến trong một khoảng thời gian dài. Các đơn vị cá nhân, thậm chí quân đội có thể không được đại diện, thay vào đó, sự chú ý được dành cho các hoạt động chiến tranh. Tất cả nguồn lực của các quốc gia tham gia có thể được huy động như là một phần của một cuộc chiến lâu dài. Sự mô phỏng thường liên quan đến cuộc xung đột chính trị và kinh tế cũng như quân sự. Cái kết xa nhất của việc này là phân nhánh của trò chơi chiến lược trong đó người chơi sẽ nắm lấy vai trò của chính quyền toàn bộ một quốc gia và không có khả năng tiến hành chiến tranh chẳng hạn như trong trò "". | wiki |
Wargame đại chiến lược | Ví dụ về các tựa game đại chiến lược nơi mà chiến thuật quân sự được trừu tượng hóa cao hoặc loại bỏ hoàn toàn bao gồm các board game như "Risk" và "Diplomacy". Một ví dụ khác trông thực tế hơn là "Axis & Allies", mặc dù trong đó yếu tố quân sự vẫn còn rất trừu tượng. Những game như "Rise and Decline of the Third Reich", "Empires in Arms" và "Empires of the Middle Ages" đều là những wargame thực sự, mang ý nghĩa là các đơn vị quân đội đại diện đặc trưng và tham chiến trực tiếp dựa trên các thuộc tính quân sự cụ thể. Loạt game "Hearts of Iron" hoặc "Hegemony" là một ví dụ của những trò chơi trên máy tính thuộc loại này.
Cách chơi và chức năng.
Trò chơi sử dụng kỹ thuật và các tính năng khác nhau để mô phỏng các mặt chiến lược quân sự quốc gia. Một số game mô phỏng sản xuất công nghiệp tài nguyên và các đơn vị quân đội. Số khác có thể cho phép thực hiện các bước ngoại giao và liên minh khác nhau.
Ví dụ tựa game "Axis & Allies" sử dụng "giá" cho các đơn vị sản xuất, bao gồm một số lượng các đơn vị sản xuất được phân bổ mỗi lượt, và được dùng để "trả tiền" cho mỗi đơn vị được sản xuất. Một số game cho phép các quốc gia khác nhau sản xuất các đơn vị vào một mức tỷ lệ, tương ứng với lịch sử kinh tế và công nghiệp thế giới thực của họ.
Lợi ích học thuật.
Vì những game như vậy đã vượt ra ngoài giới hạn chiến tranh đơn giản chỉ xử lý về các vấn đề kinh tế, địa lý, lịch sử và chính trị đặc biệt mang tính hữu ích trong giáo dục và nghiên cứu các vấn đề quốc tế. | wiki |
Nuôi cá sấu | Nuôi cá sấu hay mô hình trang trại cá sấu là việc thực hành chăn nuôi để khai thác, sử dụng các nguyên liệu, sản phẩm của cá sấu như da cá sấu, thịt cá sấu và các sản phẩm khác hoặc cung cấp để dùng cho mục đích câu cá sấu giải trí, trong đó da cá sấu là mặt hàng thượng hạng cho công nghiệp thuộc da và thời trang. Việc chăn nuôi cá sấu thường thông qua một cơ sở cho chăn nuôi theo hình thức trang trại và thường được bảo vệ an toàn nghiêm ngặt vì cá sấu là loài vật nuôi hung dữ, nếu sơ suất không an toàn thì đã có nhiều vụ cá sấu xổng chuồng, gây nguy hiểm cho cộng đồng.
Lịch sử.
Mặc dù không thực sự thuần hóa, nhưng cá sấu đã được nuôi trong các trang trại ít nhất là từ đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, đại đa số các doanh nghiệp đầu là các trang trại chủ yếu là để nhốt giữ cá sấu và cá sấu như một điểm thu hút khách du lịch thông qua hoạt động tham quan và câu cá sấu giải trí. Cá sấu Mỹ được đặt dưới sự bảo hộ chính thức vào năm 1967 cho nên cá sấu nuôi cho da trở thành lựa chọn khả thi nhất cho việc sản xuất thuộc da (ngoài săn bắn bất hợp pháp). Chủ yếu là tập trung ở Mỹ, phía Nam tiểu bang Louisiana, Florida và Georgia, việc thực hành nhanh chóng lan sang các quốc gia khác. Các cá thể cá sấu sông Nin được tìm thấy trong trang trại trên khắp châu Phi và cá sấu nước mặn được nuôi tại Úc và các khu vực khác. Các loại cá sấu Caiman thường có kích thước nhỏ thường không đủ giá trị thị trường để nuôi trong trang trại. | wiki |
Nuôi cá sấu | Cá sấu và cá sấu nuôi đầu tiên phát triển từ nhu cầu về da, người ta có thể thu về hàng trăm đô la trên một mảnh da. Nhưng cá sấu bắt đầu được bán ra sau đó và vận chuyển trên toàn thế giới với các thị trường quen thuộc với thịt cá sấu. Ẩm thực Trung Quốc dựa trên y học cổ truyền Trung Quốc cho rằng thịt cá sấu là một loại thực phẩm chữa bệnh cho cảm lạnh và phòng chống ung thư, mặc dù không có bằng chứng khoa học để chứng minh điều này.
Trên thế giới.
Cá sấu trong thiên nhiên được bảo vệ ở một số nơi trên thế giới, nhưng chúng cũng được chăn nuôi vì mục đích thương mại, và da của chúng được thuộc làm da cá sấu có chất lượng cao để sản xuất túi, ủng, cặp v.v, trong khi thịt cá sấu được coi là đặc sản đối với những người sành ăn. Các loài có giá trị thương mại chủ yếu là cá sấu nước mặn và cá sấu sông Nin, trong khi con lai của cá sấu nước mặn và cá sấu Xiêm cũng được chăn nuôi trong các trang trại ở châu Á. Việc chăn nuôi đã làm tăng số lượng cá sấu nước mặn ở Úc, do trứng thông thường được thu hoạch từ tự nhiên, vì thế những chủ sở hữu đất đai có động cơ thúc đẩy để bảo tồn môi trường sống của cá sấu. | wiki |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.