title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Alexios IV Angelos
Dựa theo nguồn tư liệu đương thời của Robert xứ Clari kể lại trong lúc Alexios sống tại triều đình của Schwaben thì đó cũng là lúc ông được tiếp kiến Hầu tước Bonifacius xứ Montferrat, anh em họ của Philipp, người được chọn làm tổng chỉ huy cuộc Thập tự chinh thứ tư, nhưng đã tạm thời rời khỏi hàng ngũ Thập tự quân trong suốt thời gian diễn ra cuộc vây hãm Zara để đến viếng thăm Philipp. Bonifacius và Alexios được cho là đã thảo luận về việc chuyển hướng cuộc thập tự chinh sang Constantinopolis nhằm tạo cơ hội giúp đỡ Alexios phục hồi ngôi vị của phụ hoàng. Montferrat bèn trở lại nắm quyền chỉ huy Thập tự quân trong lúc lực lượng này đang trú đông tại Zara và sau đó tiếp nhận lời thỉnh cầu tăng viện thêm 10.000 quân Đông La Mã trợ giúp cho Thập tự quân từ phái đoàn của Alexios, duy trì 500 hiệp sĩ đóng tại Đất Thánh, điều động hải quân Đông La Mã (20 tàu chiến) dùng để chuyên chở Thập tự quân sang Ai Cập, cũng như số tiền để trả hết món nợ mà Thập tự quân đã vay của nước Cộng hòa Venezia lên đến khoảng 200.000 đồng bạc. Thêm vào đó, ông hứa sẽ đưa Giáo hội Chính thống Hy Lạp thuộc quyền Giáo hoàng. Người Venezia và hầu hết các nhà lãnh đạo đều ra sức ủng hộ kế hoạch này tuy nhiên một số khác thì không và có những người thoái thác, như trường hợp Simon xứ Montfort. Năm 1202 hạm đội Thập tự quân cập bến Constantinopolis. Alexios cho dàn quân nhằm hư trương thanh thế bên ngoài khu vực tường thành, nhưng đa phần dân chúng đều tỏ ra thờ ơ, xét về vị thế của Alexios III, dù là một
wiki
Alexios IV Angelos
Thập tự quân cập bến Constantinopolis. Alexios cho dàn quân nhằm hư trương thanh thế bên ngoài khu vực tường thành, nhưng đa phần dân chúng đều tỏ ra thờ ơ, xét về vị thế của Alexios III, dù là một kẻ tiếm ngôi và vị vua bất hợp pháp trong con mắt của người phương Tây, thì ông lại là một vị hoàng đế rất được lòng dân Đông La Mã.
wiki
Alexios IV Angelos
Lên ngôi Hoàng đế. Ngày 18 tháng 7 năm 1203, Thập tự quân đã quyết định tấn công thành phố, Alexios III vô cùng hoảng sợ đã vội vã trốn sang xứ Thracia. Sáng hôm sau Thập tự quân rất ngạc nhiên khi thấy rằng cư dân thủ đô đã thả Isaakios II ra khỏi chốn lao tù và tôn ông làm hoàng đế, bất chấp thực tế là ông đã bị làm cho mù mắt khó mà cầm quyền nổi. Thập tự quân không thể chấp nhận điều này và buộc Isaakios II phải tấn phong Alexios IV làm đồng hoàng đế vào ngày 1 tháng 8. Bất chấp những lời hứa hẹn lớn lao của Alexios, Isaakios, người có kinh nghiệm và thực tế hơn trong số hai cha con, biết rằng quốc khố triều đình không bao giờ có thể trả nổi món nợ của Thập tự quân. Alexios dường như không nắm rõ được nguồn tài chính của đế chế đã sụt giảm bao nhiêu trong năm mươi năm qua. Alexios tìm đủ mọi cách để nâng cao một nửa số tiền như đã hứa (100.000 đồng bạc), bằng cách vơ vét tiền bạc từ các nhà thờ và tịch thu tài sản những phe phái chống đối mình. Rồi sau đó cố gắng tiêu diệt nốt tàn quân của Alexios III, vẫn còn đang nắm quyền kiểm soát xứ Thracia. Vụ cướp bóc một vài thị trấn Thracia đã giúp cho tình hình của Alexios được cải thiện đôi chút, nhưng trong khi đó, sự thù hận giữa lực lượng Thập tự quân bướng bỉnh và cư dân thủ đô Constantinopolis ngày càng gia tăng.
wiki
Alexios IV Angelos
Vào tháng 12 năm 1203, bạo lực đã bùng phát giữa dân chúng Constantinopolis và Thập tự quân. Đám đông trong cơn giận dữ đã xông ra bắt giữ và chém giết không nương tay bất cứ người nước ngoài nào mà họ bắt gặp ngoài đường, Thập tự quân cảm thấy rằng Alexios đã không giữ đúng lời hứa của mình. Alexios cứ một mực từ chối yêu cầu của họ, với câu nói, ""Tôi sẽ không làm gì nhiều hơn tôi đã làm." Trong khi mối quan hệ với Thập tự quân đang ngày càng xấu đi, hai cha con Alexios bị dân gốc Hy Lạp oán hận vô cùng. Mù lòa và gần như không có quyền lực nào trong tay, Isaakios II lại không muốn chia sẻ ngôi vị với con trai mình; ông bèn tung tin đồn về hành vi tình dục kỳ quặc của Alexios, buộc tội con mình kết thân với "những kẻ trụy lạc". Nhà biên niên sử Niketas Choniates đã bác bỏ Alexios là "trẻ con"" và chỉ trích mối quan hệ thân mật với Thập tự quân và lối sống xa hoa của ông. Vào đầu tháng 1 năm 1204, Alexios IV đã quyết định đánh trả lại Thập tự quân bằng cách điều động 17 chiếc thuyền chất đầy các chất dễ cháy và nhắm thẳng vào đội tàu Venezia, nhưng nỗ lực này đã chuốc lấy thảm bại. Bị phế truất và sát hại.
wiki
Alexios IV Angelos
Bị phế truất và sát hại. Vào cuối tháng 1 năm 1204, dân chúng kinh thành Constantinopolis đã dấy loạn và cố gắng tôn phò một vị hoàng đế đối địch tại Hagia Sophia. Alexios IV đã nỗ lực đạt cho bằng được sự hòa giải với Thập tự quân, liền giao phó cho vị sủng thần chống phương Tây là Alexios Doukas "Murzuphlus" thực hiện sứ mệnh giành lại sự ủng hộ của Thập tự quân. Tuy vậy, Alexios Doukas đã sai người bắt giam cả hai cha con Alexios IV vào đêm ngày 27–28 tháng 1 năm 1204. Isaakios II qua đời ngay sau đó, có thể là do tuổi già sức yếu hoặc bị đầu độc, riêng Alexios IV thì bị bóp cổ chết vào ngày 8 tháng 2. Alexios Doukas được tôn lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Alexios V. Trong suốt thời kỳ trị vì ngắn ngủi của Alexios IV, triều đình đã để mất các vùng lãnh thổ dọc bờ Biển Đen vào tay Đế quốc Trebizond. Ảnh hưởng văn hóa. Alexios IV được nhắc đến trong tập "Map of the Seven Knights" (Tấm bản đồ Bảy hiệp sĩ) của mùa thứ 5 trong loạt phim truyền hình "Grimm". Phim nói về ông như là một người thuộc phe Thập tự quân.
wiki
Điều khiển bền vững
Điều khiển bền vững là một nhánh của lý thuyết điều khiển tự động với cách tiếp cận thiết kế bộ điều khiển một cách rõ ràng để giải quyết sự không chắc chắn. Các phương pháp điều khiển bền vững được thiết kế cho các hệ thống có hàm mô tả chính xác nhưng các thông số không chắc chắn hoặc bị nhiễu trong một số tập hợp (thường là compact). Các phương pháp điều khiển bền vững nhằm đạt được hiệu suất mạnh mẽ và/hoặc tính ổn định với sự hiện diện của các sai số của mô hình giới hạn. Các phương pháp đầu tiên của Bode và những người khác là khá bền vững; các phương pháp không gian trạng thái được phát minh vào những năm 1960 và 1970 đôi khi được phát hiện là thiếu bền vững, thúc đẩy nghiên cứu để cải thiện chúng. Đây là khởi đầu của lý thuyết Điều Khiển Bền Vững, được hình thành trong những năm 1980 và 1990 và vẫn còn hoạt động cho tới ngày hôm nay. Ngược lại với luật điều khiển thích nghi, luật điều khiển bền vững tĩnh; chứ không phải là thích nghi với các phép đo của các biến, bộ điều khiển được thiết kế để làm việc với giả định rằng các biến nhất định sẽ không xác định nhưng bị chặn trong một biên nào đó. Khi nào một phương pháp điều khiển được cho là bền vững?
wiki
Điều khiển bền vững
Khi nào một phương pháp điều khiển được cho là bền vững? Một cách dễ hiểu, một bộ điều khiển được thiết kế cho một tập hợp các thông số riêng được cho là bền vững nếu nó cũng hoạt động tốt dưới một tập hợp giả định khác. Phản hồi độ lợi cao được là một ví dụ đơn giản của phương pháp điều khiển bền vững; với độ lợi đủ cao, ảnh hưởng của bất kỳ biến số nào cũng sẽ không đáng kể. Từ quan điểm hàm truyền vòng kín, độ lợi vòng hở cao mở dẫn đến loại bỏ nhiễu đáng kể theo quan điểm của tham số hệ thống không ổn định. Trở ngại chính để đạt được độ lợi cao là sự cần thiết để duy trì sự ổn định hệ thống vòng kín. Việc tạo vòng điều khiển cho phép thao tác vòng kín ổn định có thể là một thách thức kỹ thuật. Các hệ thống điều khiển bền vững thường kết hợp các topo tiên tiến trong đó bao gồm nhiều vòng phản hồi và đường nuôi tiến. Các luật điều khiển có thể được đại diện bởi các hàm truyền bậc cao để thực hiện đồng thời việc loại bỏ nhiễu mong muốn cùng vận hành vòng kín bền vững. Phản hồi độ lợi cao là nguyên lý cho phép các mô hình đơn giản của bộ khuếch đại thuật toán và transistor lưỡng cực thoái hóa cực phát (emitter) sẽ được sử dụng trong các cài đặt khác nhau. Ý tưởng này đã được giải thích rõ bởi Bode và Black vào năm 1927. Lý thuyết hiện đại của điều khiển bền vững. Lý thuyết về điều khiển bền vững bắt đầu vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 và sớm phát triển một số kỹ thuật để đối phó với sự bất định của hệ thống giới hạn.
wiki
Điều khiển bền vững
Lý thuyết về điều khiển bền vững bắt đầu vào cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 và sớm phát triển một số kỹ thuật để đối phó với sự bất định của hệ thống giới hạn. Có lẽ ví dụ quan trọng nhất của một kỹ thuật điều khiển bền vững là H-infinity loop-shaping, được phát triển bởi Duncan McFarlane và Keith Glover của Đại học Cambridge; Phương pháp này giảm thiểu độ nhạy của một hệ thống thông qua phổ tần số của nó, và điều này đảm bảo rằng hệ thống sẽ không đi chệch đáng kể khỏi quỹ đạo dự kiến ​​khi có nhiễu xâm nhập vào hệ thống. Một khu vực mới nổi của kiểm soát mạnh mẽ từ điểm áp dụng xem được trượt Chế độ điều khiển (SMC), mà là một biến thể của kiểm soát cấu trúc biến (VSS). Các đặc tính mạnh mẽ của SMC đối với sự không chắc chắn phù hợp cũng như sự đơn giản trong thiết kế với thu hút một loạt các ứng dụng. Một ví dụ khác là loop transfer recovery (LQG / LTR), đã được phát triển để khắc phục những vấn đề thiết thực của điều khiển LQG. Các kỹ thuật điều khiển bền vững khác bao gồm Lý thuyết Phản hồi Định lượng  (QFT=Quantitative Feedback Theory), điều khiển dựa trên tính thụ động, các bộ điều khiển dựa trên Lyapunov.v.v.
wiki
Điều khiển bền vững
Các kỹ thuật điều khiển bền vững khác bao gồm Lý thuyết Phản hồi Định lượng  (QFT=Quantitative Feedback Theory), điều khiển dựa trên tính thụ động, các bộ điều khiển dựa trên Lyapunov.v.v. Khi hệ thống có những hành vi thay đổi đáng kể trong điều kiện hoạt động bình thường, có thể phát sinh nhiều luật điều khiển để giải quyết. Mỗi luật điều khiển riêng biệt giải quyết một chế độ hành vi của hệ thống cụ thể. Lấy ví dụ là ổ đĩa cứng của máy tính. Các chế độ điều khiển bền vững riêng biệt được thiết kế để giải quyết vấn đề hoạt động giao cắt của đầu từ được nhanh chóng, được gọi là tìm kiếm, một hoạt động chuyển tiếp khi đầu từ tiếp cận đích tới của nó, và một chế độ bám theo vết trong thời gian ổ đĩa thực hiện hoạt động truy cập dữ liệu của nó. Một trong những thách thức đó là thiết kế một hệ thống điều khiển mà giải quyết được các chế độ vận hành đa dạng của những hệ thống này và cho phép chuyển đổi dễ dàng từ chế độ này sang chế độ kế tiếp càng nhanh càng tốt. Những máy móc như vậy thúc đẩy hệ thống điều khiển tổng hợp là một phần mở rộng của ý tưởng lập kế hoạch độ lợi trong đó toàn bộ chiến lược điều khiển thay đổi dựa trên những thay đổi trong hành vi của hệ thống.
wiki
Hạn hán
Hạn hán là một thời gian kéo dài nhiều tháng hay nhiều năm khi một khu vực trải qua sự thiếu nước. Thông thường, điều này xảy ra khi khu vực đó luôn nhận được lượng mưa dưới mức trung bình. Hạn hán có thể tác động đáng kể lên hệ sinh thái và nông nghiệp của vùng bị ảnh hưởng. Mặc dù hạn hán có thể kéo dài nhiều năm, nhưng một trận hạn hán dữ dội ngắn hạn cũng có thể gây ra thiệt hại đáng kể và gây tổn hại nền kinh tế địa phương. Tên gọi. Tiếng Trung là "can hạn" hay "hạn" "(âm Hán-Việt)" nghĩa là "khô hạn" hay "hạn". Như vậy thuật ngữ "hạn" tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Hán, nên nói "hạn" hay "hạn hán" đều như nhau. Nguyên nhân. Nguyên nhân gây ra hạn hán có nhiều song tập trung chủ yếu là 2 nguyên nhân chính: Nguyên nhân khách quan. Do khí hậu thời tiết bất thường gây nên lượng mưa thường xuyên ít ỏi hoặc nhất thời thiếu hụt. Nguyên nhân chủ quan. Do con người gây ra: Phân loại. Theo tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) hạn hán được phân ra bốn loại: hạn khí tượng, hạn nông nghiệp, hạn thủy văn và hạn kinh tế xã hội. Hạn khí tượng. Thiếu hụt nước trong cán cân lượng mưa, lượng bốc hơi, nhất là trong trường hợp liên tục mất mưa. Ở đây lượng mưa tiêu biểu cho phần thu và lượng bốc hơi tiêu biểu cho phần chi của cán cân nước. Do lượng bốc hơi đồng biến với cường độ bức xạ, nhiệt độ, tốc độ gió và nghịch biến với độ ẩm nên hạn hán gia tăng khi nắng nhiều, nhiệt độ cao, gió mạnh, thời tiết khô ráo. Hạn nông nghiệp.
wiki
Hạn hán
Hạn nông nghiệp. Thiếu hụt mưa dẫn tới mất cân bằng giữa hàm lượng nước thực tế trong đất và nhu cầu nước của cây trồng. Hạn nông nghiệp thực chất là hạn sinh lý được xác định bởi điều kiện nước thích nghi hoặc không thích nghi của cây trồng, hệ canh tác nông nghiệp, thảm thực vật tự nhiên... Ngoài lượng mưa ra, hạn nông nghiệp liên quan với nhiều điều kiện tự nhiên (địa hình, đất...) và điều kiện xã hội (tưới, chế độ canh tác...). Hạn thủy văn. Dòng chảy sông suối thấp hơn trung bình nhiều năm rõ rệt và mực nước trong các tầng chứa nước dưới đất hạ thấp. Ngoài lượng mưa ra, hạn thủy văn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác: dòng chảy mặt, nước ngầm tầng nông, nước ngầm tầng sâu... Hạn kinh tế xã hội. Nước không đủ cung cấp cho nhu cầu của các hoạt động kinh tế xã hội. Đặc biệt là cho nhu cầu nước sinh hoạt, sản xuất của con người Tác động. Hiện tượng toàn cầu này có tác động lớn đối với nông nghiệp. Liên Hợp Quốc ước tính rằng m"ột phần lớn diện tích đất đai màu mỡ của Ukraina bị mất mỗi năm vì hạn hán, phá rừng, và bất ổn khí hậu. Hạn hán kéo dài từ lâu đã nguyên nhân chính cho việc di cư hàng loạt và đóng một vai trò quan trọng trong lượng di cư hiện nay, cũng như các cuộc khủng hoảng nhân đạo khác đang diễn ra trong khu vực Sừng châu Phi và Sahel. Ở Việt Nam. Hạn hán có tác động to lớn đến môi trường, kinh tế, chính trị xã hội và sức khoẻ con người. Hạn hán là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, bệnh tật thậm chí là chiến tranh do xung đột nguồn nước.
wiki
Hạn hán
Hạn hán có tác động to lớn đến môi trường, kinh tế, chính trị xã hội và sức khoẻ con người. Hạn hán là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, bệnh tật thậm chí là chiến tranh do xung đột nguồn nước. Hạn hán tác động đến môi trường như huỷ hoại các loài thực vật, các loài động vật, quần cư hoang dã, làm giảm chất lượng không khí, nước, làm cháy rừng, xói lở đất. Các tác động này có thể kéo dài và không khôi phục được. Hạn hán tác động đến kinh tế xã hội như giảm năng suất cây trồng, giảm diện tích gieo trồng, giảm sản lượng cây trồng, chủ yếu là sản lượng cây lương thực. Tăng chi phí sản xuất nông nghiệp, giảm thu nhập của lao động nông nghiệp, tăng giá thành và giá cả các lương thực. Giảm tổng giá trị sản phẩm chăn nuôi. Các nhà máy thủy điện gặp nhiều khó khăn trong quá trình vận hành. Ở Việt Nam, hạn hán xảy ra ở vùng này hay vùng khác với mức độ và thời gian khác nhau, gây ra những thiệt hại to lớn đối với kinh tế-xã hội, đặc biệt là nguồn nước và sản xuất nông nghiệp. Cháy rừng. Khi một đốm lửa nhỏ phát ra, nó sẽ nhanh chóng thiêu rụi toàn bộ khu rừng nhờ những đám lá cây khô cong.
wiki
Di dân Việt Nam sau 1975
Di dân Việt Nam sau năm 1975 là một sự kiện trong lịch sử Việt Nam hiện đại, là hệ quả của cuộc Chiến tranh Việt Nam, chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc. Những người di dân này rời Việt Nam và đã tạo ra nhiều cộng đồng người Việt hải ngoại ở các nước họ đến, đặc biệt là Mỹ và các nước tư bản. Phần lớn di dân sau năm 1975 là người Hoa vì những lý do kinh tế lẫn chính trị ở thời kỳ đó. Cuộc di dân này có thể được phân thành ba giai đoạn với ba khái niệm: "tị nạn" sau chiến tranh là dòng người đi ra khỏi lãnh thổ Việt Nam xung quanh trước và sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975; "vượt biên" là dòng người tiếp tục rời Việt Nam bất hợp pháp bằng đường biển hoặc đường bộ trong những năm sau đó; và dòng người rời Việt Nam theo Chương trình Ra đi có Trật tự (chỉ dành cho người đến Hoa Kỳ). Dù không có định nghĩa rõ ràng nào về khoảng thời gian của cuộc di dân sau 1975 nhưng có thể nói, kể từ sau mốc sự kiện bình thường hóa quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam (1995) và khi Chương trình Ra đi có Trật tự kết thúc thì việc người Việt Nam rời nước này đến sinh sống tại Hoa Kỳ hay một quốc gia nào khác trên thế giới từ đây được coi là vì lí do kinh tế (chẳng hạn xuất khẩu lao động) hoặc là nhập cư đơn thuần. Về sau cũng có các trường hợp người rời Việt Nam vì lí do chính trị nhưng thường không được xem là di dân Việt Nam sau năm 1975. Di dân Việt Nam ra hải ngoại.
wiki
Di dân Việt Nam sau 1975
Di dân Việt Nam ra hải ngoại. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày Việt Nam Cộng hòa sụp đổ, chiến tranh Việt Nam chấm dứt. Sau đó là hai đợt di dân lớn từ Việt Nam đến Hoa Kỳ và các nước phương Tây. Hơn 125.000 người Việt Nam đến Hoa Kỳ vào cuối xuân 1975 vì sợ chính quyền mới trả thù . Ngoài ra khoảng 20.000 người đến Châu Âu và các nước khác. Năm 1977 bắt đầu đợt thứ hai khi phong trào vượt biển xảy ra. Làn sóng di dân này kéo dài cho đến giữa thập niên 1980, chủ yếu là người Hoa vì lo sợ chiến tranh biên giới, vấn đề kinh tế khó khăn tại Việt Nam và các thông tin bên ngoài nước. Số người di cư ra nước ngoài sau 30/4/1975. 1. Tháng 6-1975 đến 1979: 311.400 đi đường biển. Đường bộ có 14.600 qua ngả Campuchia, Thái Lan. Tổng cộng 326.000. 2. 1980 đến 1984: 242.000 thuyền nhân và 11.000 người đi đường bộ. Tổng cộng đợt 2 là 253.100. 3. 1985 đến 1989: 186.500 thuyền nhân và đường bộ 10.500. Tổng cộng 197.000. 4. 1990 đến 1995: 56.400 thuyền nhân và đường bộ 6.700. Tổng cộng 63.100. Cộng chung 4 đợt ghi nhận được 796.300 thuyền nhân và 42.900 đi đường bộ. Tổng kết từ cuối năm 1975 đến năm 1995 trải qua 20 năm đã có 839.200 người rời bỏ Việt Nam ra nước khác. Con số những người chết trên biển và núi rừng biên giới Thái Lan – Campuchia thì không thống kê được Người định cư tại các trại tị nạn. Tổng cộng thống kê ghi được trong suốt 20 năm từ 1975 đến 1995 các trại tị nạn Đông Nam Á đã tiếp nhận và chuyển tiếp định cư các con số như sau:
wiki
Di dân Việt Nam sau 1975
Người định cư tại các trại tị nạn. Tổng cộng thống kê ghi được trong suốt 20 năm từ 1975 đến 1995 các trại tị nạn Đông Nam Á đã tiếp nhận và chuyển tiếp định cư các con số như sau: Tổng cộng cũng là con số 839.200 người của 4 đợt kể trên. Định cư tại các quốc gia. Tổng cộng tính đến 1995 quốc tế đã nhận tổng số 754.800 người Chương trình Ra đi có trật tự. Kể từ 1990 đến nay, các chương trình đoàn tụ, đón cựu binh, con lai, tái định cư, tị nạn tình nguyện trở về đã đưa vào Mỹ và nhiều nước phương Tây các đợt di dân mới. Những người này không qua các trại tị nạn Đông Nam Á. Riêng tại Hoa Kỳ, con số này tính đến 2005 lên đến 700.000 người và cộng với đợt di tản 1975 (130.000) và thuyền nhân (424.600). Theo thống kê dân số năm 2000, hiện đang có 1.223.736 người Mỹ gốc Việt. Họ là người gốc Á lớn thứ năm sau các nhóm di dân Trung Hoa, Philippines, Ấn Độ và Hàn Quốc.
wiki
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
là loạt light novel được viết bởi Inoue Kenji và minh họa bởi Haga Yui. Light novel được phát hành thẳng thành các tập chứ không phát hành trên tạp chí, Enterbrain đã phát hành tập tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 đến ngày 30 tháng 11 năm 2013 với nhãn "Famitsu Bunko". Tại Việt Nam, Light novel được cấp phép bản quyền cho IPM và phát hành dưới tựa đề Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi. Loạt tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành manga với ba loạt. Loạt thứ nhất có cùng tên với tiểu thuyết do Mattaku Mosuke minh họa và đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Loạt thứ hai có tựa "Baka to Test to Shōkanjū ja" cũng đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ năm 2009. Loạt thứ ba có tựa "Baka to Test to Shōkanjū Spinout! Sore ga Bokura no Nichijō" do namo thực hiện và đăng trên tạp chí "Famitsu Comic Clear". Silver Link cũng đã thực hiện chuyển thể anime của tiểu thuyết và phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 07 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 2010 với 13 tập. Hai tập OVA có tựa "Baka to Test to Shoukanjuu ~Matsuri~" đã được phát hành sau đó trong tháng 2 và 3 năm 2011. Bộ anime thứ hai có tựa "Baka to Test to Shōkanjū Ni!" cũng đã được thực hiện và phát sóng từ ngày 08 tháng 7 đến ngày 30 tháng 9 năm 2011 cũng với 13 tập. Tổng quan. Sơ lược cốt truyện.
wiki
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
Tổng quan. Sơ lược cốt truyện. Cốt truyện xoay quanh nhân vật Yoshii Akihisa và những người bạn của cậu. Akihisa rất ngốc nhưng lại nhập học tại học viện Fumizuki- nơi mà điểm số là tất cả. Đạt được thành tích tốt sẽ được học trong một môi trường với các trang thiết bị hiện đại. Ngược lại, nếu thành tích quá kém thì sẽ phải học trong một môi trường với các trang thiết bị tồi tàn, kém chất lượng. Tại ngôi trường này, còn có một điểm đặc biệt là các học viên có thể triệu tập linh thú của mình, linh thú sở hữu sức mạnh và sức chịu đựng dựa trên điểm số mà các học viên đạt được. Các lớp có thể thách đấu và chiến đấu với nhau bằng linh thú, nếu lớp kém hơn thắng lớp giỏi hơn thì lớp kém hơn nhận được trang thiết bị tương đương với lớp bị thua. Ngược lại, lớp bị thua sẽ phải đổi lấy trang thiết bị của lớp kém như là một hình phạt. Akihisa học tại lớp F- nơi mà tập hợp những học sinh yếu kém nhất và cũng không kém phần lập dị. Vì một lý do khá là "đen tối", Akihisa phát động đấu linh thú giữa các lớp để giành được trang thiết bị học tập tối ưu hơn. Truyền thông. Light novel.
wiki
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
Truyền thông. Light novel. Loạt light novel "Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi" này được viết bởi Inoue Kenji và minh họa bởi Haga Yui. Loạt tiểu thuyết này được phát hành thẳng thành các tập chứ không phát hành trên tạp chí, Enterbrain đã phát hành tập tập đầu tiên vào ngày 29 tháng 1 năm 2007 và tập cuối vào ngày 30 tháng 3 năm 2015 với nhãn "Famitsu Bunko" loạt tiểu thuyết có tổng cộng 18 tập với 12 tập mang cốt truyện chính và 6 tập ngoại truyện (3.5, 6.5, 7.5, 9.5,10.5 và 12.5). Sharp Point Press đã đăng ký để phát hành loạt tiểu thuyết này tại Đài Loan. Còn ở Việt Nam được IPM mua bản quyền và đã phát hành 11 tập và 5 ngoại truyện. Manga. Loạt tiểu thuyết cũng được chuyển thể thành manga với ba loạt. Loạt thứ nhất có cùng tên với tiểu thuyết do Mattaku Mosuke minh họa và đăng trên tạp chí dành cho shōnen là Shōnen Ace của Kadokawa Shoten từ ngày 25 tháng 4 năm 2009. Các chương sau đó được tập hợp lại và phát hành thành các tankōbon, tính đến ngày 26 tháng 7 năm 2014 có đã có 11 tập được phát hành. Kadokawa Media đã đăng ký bản quyền để phát hành tại Đài Loan.
wiki
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
Loạt thứ hai có tựa "Baka to Test to Shōkanjū Dya" (バカとテストと召喚獣ぢゃ) do KOIZUMI thực hiện cũng đăng trên tạp chí Shōnen Ace từ ngày 26 tháng 12 năm 2009 đến ngày 26 tháng 11 năm 2013. Loạt manga này mang phong cách 4 hình và là ngoại truyện với cốt truyện chính. Các chương sau đó đã được tập hợp lại và phát hành thành 4 tankōbon. JManga đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của loạt manga này để tiến hành phân phối trực tuyến tại thị trường Bắc Mỹ. Loạt thứ ba có tựa "Baka to Test to Shōkanjū Spinout! Sore ga Bokura no Nichijō" (バカとテストと召喚獣 SPINOUT! それが僕らの日常。) do namo thực hiện và cũng là ngoại truyện, loạt manga đã đăng trực tuyến trên trang mạng "Famitsu Comic Clear" của Enterbrain từ ngày 30 tháng 10 năm 2009 đến ngày 22 tháng 6 năm 2012. Enterbrain sau đó cũng tập hợp các chương lại và phát hành thành 6 tankōbon. Sharp Point Press đã đăng ký bản quyền để phát hành tại Đài Loan. Drama CD. Geneon Entertaiment đã phát hành hai drama CD trước khi các bộ anime được thực hiện. Một phát hành vào ngày 23 tháng 5 và một vào ngày 19 tháng 12 năm 2008. Vì loạt drama CD này được thực hiện trước khi các bộ anime thực hiện nên diễn viên lồng tiếng cho các nhân vật khác với anime. Anime.
wiki
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
Anime. Silver Link đã chuyển thể loạt tiểu thuyết thành anime với sự đạo diễn của Ōnuma Shin và đã phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 07 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 2010 với 13 tập. Kênh Animax Asia đã phát sóng bộ anime này trên hệ thống của mình tại Đông Nam Á và Nam Á. Funimation Entertainment đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để phát trực tuyến trên hệ thống của mình cũng như phân phối tại thị trường Bắc Mỹ, Madman Entertainment phân phối tại Úc và New Zealand và Proware Multimedia International đăng ký phân phối tại Đài Loan. Hai tập OVA có tựa "Baka to Test to Shōkanjū ~Matsuri~" (バカとテストと召喚獣 ~祭~) đã được phát hành dưới phiên bản DVD/BD vào ngày 23 tháng 2 và ngày 23 tháng 3 năm 2011. Kênh Animax Asia cũng đã phát sóng bộ anime này trên hệ thống của mình tại Đông Nam Á và Nam Á. Funimation Entertainment đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để tiến hành phân phối tại thị trường Bắc Mỹ, Madman Entertainment phân phối tại Úc và New Zealand còn Proware Multimedia International tiếp tục đăng ký phân phối tại Đài Loan.
wiki
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
Silver Link cũng đã thực hiện bộ anime thứ hai có tựa "Baka to Test to Shōkanjū Ni!" (バカとテストと召喚獣にっ!) và phát sóng từ ngày 08 tháng 7 đến ngày 30 tháng 9 năm 2011 cũng với 13 tập. Kênh Animax Asia đã phát sóng bộ anime này trên hệ thống của mình tại Đông Nam Á và Nam Á. Funimation Entertainment cũng đã đăng ký bản quyền phiên bản tiếng Anh của bộ anime để tiến hành phân phối tại thị trường Bắc Mỹ, Manga Entertainment thì đăng ký bản quyền để phát hành tại vương quốc Anh và Madman Entertainment tiến hành phân phối tại Úc và New Zealand. Âm nhạc. Baka to Test to Shōkanjū. Bộ anime đầu có ba bài hát chủ đề, một mở đầu và hai kết thúc. Bài hát mở đầu là bài "Perfect-area complete!" do Asō Natsuko trình bày, đĩa đơn chứa bài hát này đã được phát hành vào ngày 27 tháng 1 năm 2010. Bài hát kết thúc đầu của là bài "Baka・Go・Home" (バカ・ゴー・ホーム) do milktub trình bày được dùng cho hầu hết các tập của bộ anime, đĩa đơn chứa bài hát này được phát hành vào ngày 10 tháng 2 năm 2010. Bài hát kết thúc thứ hai được dùng từ tập 7 đến tập 9 có tựa "Hare Tokidoki Egao" (晴れときどき笑顔) do Harada Hitomi, Mizuhashi Kaori, Katou Emiri và Isomura Tomomi trình bày, bài hát này đã được phát hành trong album chứa các bản nhạc dùng trong bộ anime vào ngày 24 tháng 3 năm 2010. Có hai album chứa các bài hát do các nhân vật trình bày đã được phát hành, một có tựa "Character Song Mini Album" phát hành vào ngày 24 tháng 2 năm 2010 và một có tựa "Washi to Song to Engeki Tamashii" phát hành vào ngày 06 tháng 3 năm 2010.
wiki
Lũ ngốc, bài thi và linh thú triệu hồi
Baka to Test to Shoukanjū ~Matsuri~. Hai tập OVA có hai bài hát chủ đề, một mở đầu và một kết thúc. Bài hát mở đầu có là bài "Renai Kōjō Committee" (恋愛向上committee) do Asō Natsuko trình bày, bài hát kết thúc là bài "Getsuyō wa Kirai" (月曜はキライ) do milktub trình bày, hai đĩa đơn chứa hai bài hát này đã được phát hành vào ngày 09 tháng 3 năm 2011. Baka to Test to Shōkanjū Ni! Bộ anime thứ hai có hai bài hát chủ đề, một mở đầu và một kết thúc. Bài hát mở đầu có tên "Kimi+Nazo+Watashi de JUMP!!" (君+謎+私でJUMP!!) do Larval Stage Plannning trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 27 tháng 7 năm 2011 với hai phiên bản giới hạn và bình thường, phiên bản giới hạn có đính kèm một đĩa chứa đoạn phim trình bày nhạc phẩm. Bài hát kết thúc có tên "Eureka Baby" (エウレカベイビー) do Asō Natsuko trình bày, đĩa đơn chứa bài hát đã phát hành vào ngày 20 tháng 7 năm 2011. Album chứa các bản nhạc dùng trong bộ anime đã phát hành vào ngày 10 tháng 10 năm 2011. Ngoài ra còn có 2 đĩa đơn và 2 album chứa các bài hát do các nhân vật trình cũng như một đĩa đơn chứa bài hát phụ của bộ anime cũng đã phát hành.
wiki
Uma Blasini
Wilmadilis Blasini Pérez (sinh ngày 04 tháng 3 năm 1982 tại Ponce), nổi tiếng với nghệ danh Uma Blasini, là một người Puerto Rico giữ danh hiệu cuộc thi sắc đẹp Puerto Rico và là người đại diện cho Puerto Rico tại Miss Universe 2007 cuộc thi sắc đẹp. Những năm đầu. Blasini sinh ngày 4 tháng 3 năm 1982 tại Ponce, Puerto Rico và lớn lên ở Guayanilla. Nghề nghiệp. Là một người đã vượt qua căn bệnh ung thư tuyến giáp, Blasini đã tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Puerto Rico năm 2005, đại diện cho San Juan, và đạt vị trí Á hậu 3. Hai năm sau, cô tiếp tục tham gia cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Puerto Rico một lần nữa, đại diện cho thành phố quê hương Guayanilla. Lần này cô đã giành vương miện và trở thành tân Hoa hậu Hoàn vũ Puerto Rico 2007. Cô được trao vương miện bởi Zuleyka Rivera, người giữ danh hiệu Hoa hậu Hoàn vũ Puerto Rico 2006 trước khi cô đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ 2006. Sau đó, Uma đã tới México để thi đấu tại Hoa hậu Hoàn vũ năm 2007. Cô đã thất bại tại cuộc thi, được chiến thắng bởi Riyo Mori, Hoa hậu Nhật Bản. Cô cũng đại diện cho Puerto Rico tại Miss Continente Americano 2007 tại Ecuador, nơi cô lọt vào Top 6, và tại cuộc thi Hoa hậu Du lịch Nữ hoàng Quốc tế 2007 tại Trung Quốc, nơi cô đã giành giải Áo dài đẹp nhất. Cao nhất. Blasini giữ kỷ lục Hoa hậu cao nhất Puerto Rico với chiều cao 6 ft 2 in (1,88 m). Cuộc sống cá nhân. Năm 2012, Blasini đã kết hôn với người bạn trai lâu năm Abel Misla. Cũng trong năm đó, họ chào đón đứa con đầu lòng, Fabian Esteban.
wiki
Uma Blasini
Cuộc sống cá nhân. Năm 2012, Blasini đã kết hôn với người bạn trai lâu năm Abel Misla. Cũng trong năm đó, họ chào đón đứa con đầu lòng, Fabian Esteban. Photofake của Maria Putina. Báo Daily Mirror của Anh đã đăng một bài viết gây tranh cãi của PHIL BOOTH có tên "Maria Putin: Mọi điều bạn cần biết về con gái của Vladimir Putin khi cô trốn khỏi nhà Hà Lan" (ngày 25 tháng 7 năm 2014) về cô con gái lớn nhất của Vladimir Putin và bí mật của cô cuộc sống ở Hà Lan. Phiên bản trực tuyến của bài viết đó có thể được tìm thấy ở đây: https://www.mirror.co.uk/news/world-news/maria-putin-everything-you-need-3912791 Bài báo tạo ra khá nhiều cảm giác và tin tức gây bão trên phương tiện thông tin đại chúng Nga nhưng không có yêu cầu pháp lý nào từ Liên bang Nga đối với tờ báo được đưa ra. Bức ảnh đầu tiên trong bài viết giả vờ đại diện cho Maria Putina () nhưng đó là Uma Blasini. Cô cũng không thực hiện bất kỳ hành động pháp lý chống lại tờ báo. Daily Mirror hay/và tác giả không bao giờ cố gắng đưa ra bất kỳ lời bào chữa nào cho việc sử dụng ảnh Uma Blasini (hoặc những bức ảnh tiếp theo cho thấy Darja Zakharova cùng với Putin và vợ trong cuộc bầu cử năm 2008 ở Moscow ).
wiki
Ngultrum Bhutan
Ngultrum (tiếng Dzongkha: ; IPA: , phát âm gần giống "nguy-tam", ký hiệu: Nu., mã giao dịch quốc tế: BTN) là đơn vị tiền tệ của Vương quốc Bhutan. Tên của tiền tệ này bao gồm hai từ "ngul" có nghĩa là "bạc" và "trum" có nghĩa là "tiền kim loại". Một đồng ngultrum được chia nhỏ thành 100 chhetrum (tiếng Dzongkha: ; IPA: , phát âm gần giống "che-tam"). Cục Quản lý tiền tệ Hoàng gia Bhutan, với vai trò là ngân hàng trung ương của nước này, chịu trách nhiệm in và đúc các mệnh giá tiền ngultrum. Hiện nay tỷ giá của đồng ngultrum Bhutan được cố định ngang giá vào đồng rupi Ấn Độ. Lịch sử. Trước đây, các đồng tiền kim loại lưu hành tại Bhutan có xuất xứ từ một xưởng đúc tiền tại Koch Bihar, một vùng do Bhutan bảo hộ và sau đó bị Công ty Đông Ấn Anh chinh phục. Bắt đầu từ năm 1789, Vương quốc Bhutan phát hành các đồng "chhetram", phần lớn có mệnh giá rupi. Thời kỳ này tại Bhutan chỉ sử dụng các đồng xu dập bằng búa với chất liệu bạc hoặc đồng. Đến năm 1929 thì thay bằng tiền xu rupi chất liệu bạc và tiền xu 1 paisa (năm 1931) chất liệu đồng với phương pháp đúc hiện đại hơn. Vào năm 1950, đồng rupi chất liệu niken được đưa vào lưu thông. Năm 1957, Bhutan đưa vào sử dụng tiền xu "naya paisa" ("paisa" mới), bên cạnh tiền kim loại do xưởng đúc Koch Bihar sản xuất. Các mệnh giá lưu hành năm 1966 bao gồm 25 naya paisa, 50 naya paisa và 1 rupi, được đúc bằng đồng trắng.
wiki
Ngultrum Bhutan
Khi nền kinh tế của Bhutan bắt đầu khởi sắc vào đầu thập niên 1960, quá trình tiền tệ hóa diễn ra vào năm 1968 đã dẫn đến sự thành lập của Ngân hàng Bhutan. Cuộc cải cách tiền tệ năm 1974 đưa vào lưu hành đồng tiền mới - đồng ngultram, với tỷ lệ 100 đồng chhetram đổi lấy 1 đồng ngultram và có tỷ giá được neo cố định vào đồng rupi Ấn Độ. Thuật ngữ "ngultram" được cấu thành bởi hai từ: từ "ngul" trong tiếng Dzongkha nghĩa là "bạc" còn từ "tram" được mượn từ tiếng Hindi và có nghĩa là "tiền". Năm 1974, Bộ Tài chính Bhutan bắt đầu phát hành giấy bạc các mệnh giá 1 ngultram, 5 ngultram, 10 ngultram và 100 ngultram. Năm 1982, Cục Quản lý tiền tệ Hoàng gia Bhutan được thành lập với tư cách là một ngân hàng trung ương và chịu trách nhiệm in, đúc tiền thay cho Bộ Tài chính từ năm 1983. Tiền kim loại. Năm 1974, các đồng 5 chhetram, 10 chhetram chất liệu nhôm, đồng 20 chhetram chất liệu đồng nhôm và các đồng 25 chhetram và 1 chhetram chất liệu đồng trắng được đưa vào sử dụng. Trong đó, đồng 5 chhetram có hình vuông và đồng 10 chhetram có hình lượn sóng. Các đồng tiền mới phát hành năm 1979 gồm có đồng 5 chhetram, 10 chhetram chất liệu đồng điếu, đồng 25 chhetram, 50 chhetram, 1 ngultram và 3 ngultram chất liệu đồng trắng. Đồng 25 chhetram chất liệu đồng nhôm cũng được phát hành vào năm 1979. Các đồng 5 chhetram và 10 chhetram gần như biến mất khỏi lưu thông. Hiện nay, đồng xu các mệnh giá 20 chhetram, 25 chhetram, 50 chhetram và 1 ngultram vẫn còn được sử dụng.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Dưới đây là danh sách các nhân vật trong bộ phim hoạt hình của Disney Channel, Gravity Falls. Danh sách sẽ bao gồm cả quái vật và các nhân vật chưa từng xuất hiện nhưng được nhắc đến. Nhân vật chính. Dipper Pines. "Bài chi tiết: Dipper Pines" Dipper Pines (phiên âm: Đíp-pơ Pai-nơ-xơ) (tên thật là Mason Pines), (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1999, 5 phút sau Mabel Pines) là một cậu bé 13 tuổi thông minh, tò mò và rất thích phiêu lưu, dù hơi nhút nhát và thường bị trêu chọc. Dipper được bố mẹ gửi đến Gravity Falls cùng người chị Mabel. Dipper đã vô tình phát hiện ra một quyển sách có bàn tay 6 ngón và con số 3 ở giữa, ghi lại những điều huyền bí tại Gravity Falls trong lúc cậu đang đóng biển quảng cáo cho ông bác Stan của mình. Dipper có làn da trắng, cùng mái tóc rối và chiếc mũi nhỏ có màu đậm hơn. Cậu thường mặc một chiếc áo gi lê màu xanh dương, chiếc áo phông màu cam đỏ, chiếc quần xám và đôi giày đen. Cậu đội một chiếc mũ có hình cây thông màu xanh dương, và mang một đôi tất trắng. Cậu còn có một vết bớt hình chòm sao Đại Hùng trên đầu, đây cũng là lý do mà cậu có biệt danh Dipper. Dipper rất thân với chị mình, Mabel. Cậu không chỉ coi Mabel là chị mình, mà còn là một đồng minh thân cận. Dipper có đại diện là cây thông trong cung hoàng đạo Gravity Falls, khá trùng hợp khi trong hầu hết phim, cậu luôn đeo một chiếc mũ có hình cây thông trên đó. Mabel Pines. "Bài chi tiết: Mabel Pines"
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Mabel Pines. "Bài chi tiết: Mabel Pines" Mabel Pines (phiên âm: Mây-bô Pai-nơ-xơ) (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1999, 5 phút trước Dipper Pines) là một cô bé 13 tuổi ngây thơ, lạc quan và khá hoạt bát. Mabel được bố mẹ gửi đến Gravity Falls cùng người em trai song sinh Dipper. Cô luôn tin tưởng tất cả mọi người, nhưng cũng dễ bị tổn thương bởi những lời nói của người khác. Mabel có nước da trắng, chiều cao tương đương với Dipper. Cô có mái tóc màu nâu xoã dài được uốn xoăn ở dưới. Mabel có đeo niềng răng từ khi còn nhỏ, và luôn mặc áo len. Theo thống kê, cô có tới 107 chiếc áo len khác nhau. Cô có đại diện là sao băng trong cung hoàng đạo Gravity Falls. Stanley Pines. Stanley Pines (phiên âm: Sten-li Pai-nơ-xơ) (thường được gọi là Stan, sinh ngày 15/6) là ông bác của cặp song sinh Dipper và Mabel. Ông là người quản lý của Lều bí ẩn, nơi ông trưng bày những thứ kì lạ tại đây và cả những thứ không có thật do ông tạo ra để lừa du khách. Stan có khuôn mặt vuông cùng làn da trắng, nhăn nheo. Mắt ông bị đục thuỷ tinh thể, mũi ông có màu cam đỏ và có hình gần giống quả lê. Stan thường đeo một chiếc mũ tarboosh màu đỏ cùng hình lưỡi liềm trên đó. Ông có mái tóc nâu đã bạc trắng và một chiếc kính vuông viền dày.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Khi còn nhỏ, ông đã từng rất thân với Stanford, cho đến một lần, ông đã vô tình làm hỏng cỗ máy của Stanford được chuẩn bị cho bài thuyết trình vào đại học, và ông đã bị đuổi khỏi nhà. Stanley đã bôn ba khắp nước Mỹ, làm nhiều công việc nhưng đều thất bại, vào tù ra tội không ít lần. Sau đó, ông đã được người anh song sinh Stanford Pines mời đến Lều bí ẩn (lúc đó là nơi ở và nghiên cứu những hiện tượng siêu nhiên của Stanford). Stanley đã vô tình đẩy anh mình vào cánh cổng không gian, và ông đã luôn cố cứu anh mình trong suốt 30 năm, theo như chỉ dẫn của cuốn Journal 1 mà Stanford đã đưa cho ông. Stanley có biểu tượng là hình lưỡi liềm trong cung hoàng đạo Gravity Falls, khá trùng hợp là trong suốt phim, ông thường đeo một chiếc mũ có hình lưỡi liềm trên đó. Soos Ramirez. Jesus Alzamirano Ramirez (phiên âm: Giê-su An-da-mi-ra-nô Ra-mi-rét-dơ) (biệt danh là Soos) (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1990) là một nhân viên tại Lều bí ẩn. Soos có thân hình cao lớn, chắc chắn, làn da trắng và hàm răng khểnh. Anh mặc môt chiếc áo xanh lá đậm có một dấu chấm hỏi lớn ở giữa áo, chiếc quần short nâu, đeo tất trắng và mang giày đen. Ngoài ra, anh còn có một mái tóc ngắn thường được che bởi chiếc mũ lưỡi trai. Theo tác giả, anh được lấy ý tưởng từ Jesús Chambrot, một bạn học của tác giả hồi đại học.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Soos bắt đầu làm việc tại Lều bí ẩn khi anh 12 tuổi. Anh là một nhân viên vô cùng chăm chỉ, khi đã làm việc suốt 10 năm liên tiếp, cho đến tập 5 phần 2, "Soos and The Real Girl", khi anh đã lỡ mất một buổi làm vì đã chơi trò chơi Romance Academy 7 suốt 13 giờ. Soos không có ấn tượng tốt với bố mình, vì bố anh chưa bao giờ quan tâm đến anh, và chẳng bao giờ gặp anh cả, kể cả vào sinh nhật. Soos có biểu tượng là hình dấu chấm hỏi trong cung hoàng đạo Gravity Falls. Wendy Corduroy. Wendy Blerble Corduroy (phiên âm: Quen-đi Blớb-bô Cô-đu-roi) (sinh năm 1997) là một nhân viên tại Lều bí ẩn. Wendy khá cao vì cả nhà đều là thợ rừng. Cô có thân hình gầy gò, mắt xanh, làn da trắng, mái tóc đỏ và có vài chấm tàn nhang trên mặt. Wendy thường mặc một chiếc áo kẻ caro, quần jean xanh, mang một đôi ủng dính bùn và đội một chiếc mũ thợ rừng. Wendy sống với 3 anh em trai và bố của cô. Wendy có biểu tượng là túi đá trong cung hoàng đạo Gravity Falls, nói lên tính cách mạnh mẽ của cô. Trong tập 8 mùa 2, Blendin's Game, ta biết được rằng Wendy đã kết bạn với Tambry từ khi còn nhỏ. Trong tập 10 mùa 2, Northwest Mansion Mystery, ta còn biết thêm rằng tổ tiên của Wendy là ông Archibald Corduroy đã chết do bị rìu đập trúng đầu khi đang cố vào được dinh thự nhà Northwest, và ông đã nguyền rủa rằng 150 năm sau, ông sẽ trở lại. Ford Pines.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Ford Pines. Stanford Filbrick Pines (phiên âm: Sten-pho Phiu-bríc Pai-nơ-xơ) (thường được gọi là Ford, sinh ngày 15/6) là một nhà khoa học, tác giả của cả 3 cuốn Journal trong phim. Ông là người chủ cũ của Lều bí ẩn, nơi ông nghiên cứu những bí ẩn thực sự của thị trấn Gravity Falls. Ngoại hình của Ford gần giống với Stan, nhưng có dáng vẻ gầy hơn và có râu thưa hơn. Đồng thời, ông cũng có bàn tay sáu ngón. Ngoài ra, tóc của ông cũng được vuốt lên. Ford mặc một chiếc áo khoác màu nâu, áo cổ lọ đỏ, quần dài đen và ủng. Ngoài ra, ông cũng đeo kính.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Khi còn nhỏ, ông rất thân với Stanley. Cho đến khi Stanley làm hỏng cỗ máy của ông được chuẩn bị cho bài thuyết trình vào đại học, hai anh em đã xảy ra xích mích, và bố ông đã đuổi Stanley ra khỏi nhà. Ford sau đó quyết định học tại một trường đại học bình thường, và tốt nghiệp chỉ sau 3 năm học. Tại đây, ông đã kết bạn với Fiddleford McGucket, người là trợ lý của ông trong việc nghiên cứu sau này. Sau khi được tài trợ 100.000 đô la Mỹ, ông đã quyết định đến Gravity Falls để nghiên cứu những điều siêu nhiên tại đó. Ông đã viết những nghiên cứu của mình vào các cuốn Journal, xây dựng một boong-ke dưới lòng đất để thực hiện những thí nghiệm với các sinh vật ông nghiên cứu, và cùng người bạn McGucket xây dựng một cánh cổng không gian để đưa một sinh vật hình tam giác đến Trái Đất. Tuy nhiên, nhận ra sự nguy hiểm của hắn, Ford đã tắt nguồn cánh cổng và giấu hai cuốn Journal 2 và 3. Đồng thời, ông cũng mời người em Stanley đến Lều bí ẩn, tuy nhiên cả hai lại xảy ra xích mích, và Stanley đã vô tình đẩy Ford vào trong cánh cổng không gian. Trong suốt 30 năm, Ford đã sống trong nhiều chiều không gian khác nhau, và đã suýt tiêu diệt được Bill Cipher, nhưng đúng lúc đó thì ông lại bị dịch chuyển về Trái Đất. Ford có biểu tượng là bàn tay sáu ngón trong cung hoàng đạo Gravity Falls. Bill Cipher.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Ford có biểu tượng là bàn tay sáu ngón trong cung hoàng đạo Gravity Falls. Bill Cipher. Bill Cipher (phiên âm: Biu Xai-phơ) là nhân vật phản diện chính của phim. Hắn là một con quỷ hình tam giác, sống ở Hành tinh ác mộng (Nightmare Realm) và thâm nhập vào thế giới của chúng ta qua đường ý thức. Bill Cipher có hình tam giác, cùng với con mắt ở giữa, được lấy ý tưởng từ Thiên Nhãn. Hắn đội một chiếc mũ phớt đen và nơ đen. Khi nói chuyện, người hắn sẽ nhấp nháy lên, và khi ăn hoặc uống, hắn sẽ dùng mắt mình thay thế cho miệng.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Bill sinh ra từ hàng nghìn tỷ năm trước. Hắn sinh ra ở một hành tinh phẳng, nơi mọi thứ đều phẳng. Hắn đã huỷ diệt nơi này, phá huỷ mọi thứ, kể cả bố mẹ hắn. Bill sau đó chiếm một chiều không gian là Chiều không gian Ác mộng, tuy nhiên nơi này cũng sụp đổ do không có luật lệ. Bill đã nghe được một lời tiên tri rằng, hắn sẽ kiểm soát chiều không gian thứ 3, cho nên hắn đã bắt đầu đến tương tác với con người. Nhưng do không có hình dáng cụ thể, hắn chỉ có thể tiếp cận con người dưới dạng ý thức. Và rồi, hắn đến Gravity Falls, Oregon, nơi lúc đó chỉ có những người da đỏ sinh sống. Hắn đã nhờ Modoc, một thủ lĩnh da đỏ xây dựng cho hắn một cánh cổng không gian. Tuy nhiên, Modoc đã biết đươc mình đang bị lợi dụng, và ông đã tự thiêu. Cuối cùng, những người thổ dân đã tìm được cách tiêu diệt Bill Cipher, bằng cách vẽ một vòng tròn có mười biểu tượng và tìm những người phù hợp để đứng lên đó. Ngoài ra, họ còn tìm được câu thần chú triệu hồi Bill, và cảnh báo không được đọc nó. Đến khi Stanford Pines đến đây, ông đã triệu hồi Bill khi tìm thấy những hình vẽ trong hang đá, và Bill đã dụ dỗ ông xây một cánh cổng không gian. Ông đã xây nó cùng người bạn của ông, McGucket, tuy nhiên McGucket đã thấy Bill cho những con quái vật ăn bộ xương của Bill, và ông đã bỏ dự án. Ford sau đó tắt cánh cổng khi biết Bill lạm dụng mình, và giấu những cuốn Journal đi.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Ở tập 17 mùa 2, Dipper and Mabel vs. The Future, Bill đã dụ dỗ Mabel đưa cho hắn vết nứt không gian khi đang nhập vào Blendin Blandin. Hắn đã phá vỡ vết nứt, đưa những con quái vât từ hành tinh hắn đến, gây ra hỗn loạn trong thị trấn. Hắn nhốt Mabel vào trong một quả cầu, và xây dựng một pháo đài lớn. Bill còn biến những người dân, trong đó có cả Ford thành tượng, và đốt cả 3 cuốn Journal. Ở tập cuối, Bill đã bị tiêu diệt khi Stanford và Stanley đã tráo đổi quần áo cho nhau, và để Bill nhập vào tâm trí của Stanley để lấy cách lan truyền sự hỗn loạn trên toàn thế giới, vì nơi này bị một tấm màn vô hình chặn lại. Hắn đã bị Stanley tiêu diệt từ bên trong, trong khi Ford sử dụng súng xoá trí nhớ tiêu diệt từ bên ngoài. Trước khi chết, hắn nói một câu nói đã được giải mã bằng cách tua ngược: Nhân vật phụ. Waddles. Waddles (phiên âm: Quát-đô) là chú lợn mà Mabel đã thắng trong hội chợ. Waddles nặng 15 pound (khoảng 6kg) và có màu hồng. Waddles có một chấm đen ở mắt trái, có đốm trên người, đuôi cong và móng xám. Waddles được Mabel thắng trong hội chợ, và cả hai rất thân với nhau. Pacifica Northwest. Pacifica Elise Northwest (phiên âm: Pa-xi-phi-ca E-li-dơ Nót-quét) là cô gái nổi tiếng nhất tại Gravity Falls, và là hậu duệ của Nathaniel Northwest, người được cho là người sáng lập thị trấn Gravity Falls.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Pacifica có làn da trắng, mái tóc vàng dài và có hình chuông trên đỉnh. Cô thường mặc một chiếc áo khoác tím, váy hồng, quần dài đen, ủng và đeo bông tai. Đồng thời, Pacifica cũng trang điểm và đánh phấn mắt. Pacifica xuất hiện lần đầu trong tập 7 mùa 1, Double Dipper, khi cô tham dự bữa tiệc tại Lều bí ẩn. Cô đã đấu hát karaoke với Mabel, và đã giành chiến thắng bằng cách gian lận. Trong suốt mùa 1 và nữa đầu mùa 2, Pacifica khá ghét Mabel, tuy nhiên sau tập 10 mùa 2, Northwest Mansion Mystery, Pacifica cũng đã thân hơn với hai chị em Mabel và Dipper. Cô cũng góp mặt trong cuộc chiến chống Bill Cipher ở những tập cuối. Pacifica có biểu tượng là hình lạc đà không bướu trong cung hoàng đạo Gravity Falls. Grenda Grendinator. Grenda Grendinator (phiên âm: Gren-đa Gren-đi-na-tơ) (sinh năm 2000-2001) là một cô bé sống tại Gravity Falls. Cô là bạn thân của Mabel và Candy. Grenda có da trắng và thân hình khá to lớn. Cô có mái tóc nâu buộc đuôi ngựa. Grenda mặc một chiếc áo hồng có chữ "COOL" ở giữa, chiếc quần đùi màu tím, đeo tất trắng và mang giày thể thao màu hồng và tím. Ngoài ra, cô cũng có giọng nói rất trầm. Grenda là bạn của Candy từ trước đây. Trong tập 7 mùa 1, Double Dipper, cô đã kết thân với Mabel trong buổi tiệc tại Lều bí ẩn. Ở tập 10 mùa 2, Northwest Mansion Mystery, cô đã gây được ấn tượng với Marius, một công tước được mời đến tại bữa tiệc ở dinh thự nhà Northwest. Ở đoạn kết của tập cuối, ta thấy Grenda đã trở thành người yêu của Marius. Candy Chiu.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Candy Chiu. Candy Chiu (phiên âm: Ken-đi Chiu) (sinh năm 1999-2000) là một cô bé sống tại Gravity Falls. Cô là bạn thân của Mabel và Grenda. Candy có mái tóc thẳng, xoã xuống lưng. Cô đeo kính tròn, mặc áo màu xanh ngọc bích rằn, một chiếc váy tím, tất trắng và giày đen. Candy cũng có lúm đồng tiền trên má và đeo khuyên tai. Candy là bạn thân của Grenda từ nhỏ. Trong tập 7 mùa 1, Double Dipper, cô đã kết thân với Mabel trong buổi tiệc tại Lều bí ẩn. Ở tập 10 mùa 2, Northwest Mansion Mystery, cô đã cùng Mabel cố gây được ấn tượng với Marius, một công tước trẻ được mời đến tại bữa tiệc ở dinh thự nhà Northwest để dự tiệc, nhưng thất bại. Trong khi đó, Grenda đã phát hiện điều này và đã trả thù họ bằng cách gây ấn tượng với Marius một cách thô thiển, nhưng Marius đã ấn tượng với Grenda. Trong tập 17 phần 2, Dipper and Mabel vs. The Future, Candy nói rằng mình sẽ được gửi vào trại hè âm nhạc. Trong 3 tập Weirdmageddon, cô cũng tham gia vào đội chiến đấu chống Bill Cipher của Grunkle Stan. Gideon Gleeful. Gideon Charles Gleeful (phiên âm: Ghi-đê-ôn Sác-lơ Gli-phô) (sinh vào hè 2002) là một cư dân của thị trấn Gravity Falls. Gideon là một nhà ngoại cảm, và là đối thủ cạnh tranh với Lều bí ẩn. Gideon có thân hình thấp bé, mập mạp và có mái tóc trắng lớn và bồng bềnh. Cậu mặc một bộ vest màu xanh dương nhạt, áo trong đen và cà vạt trắng. Ngoài ra, Gideon còn đeo khuy mang hình Quốc kỳ Mỹ.
wiki
Danh sách nhân vật trong Gravity Falls
Gideon có thân hình thấp bé, mập mạp và có mái tóc trắng lớn và bồng bềnh. Cậu mặc một bộ vest màu xanh dương nhạt, áo trong đen và cà vạt trắng. Ngoài ra, Gideon còn đeo khuy mang hình Quốc kỳ Mỹ. Gideon là một kẻ xảo quyệt và ma mãnh. Cậu cũng có thể bị vấn đề về tâm thần, khi bố mẹ cậu đều bị xoá trí nhớ. Gideon xuất hiện lần đầu vào tập 4 mùa 1, với tư cách là một nhà ngoại cảm. Cậu đã nảy sinh tình cảm với Mabel, tuy nhiên Dipper đã ngăn cản cô bé, và Gideon đã bị Mabel chia tay sau khi cậu cố giết Dipper. Gideon cố gắng giành lấy Mabel trong những tập sau mùa 1, tuy nhiên sau đó Gideon đã bị bắt khi cậu đã bị phát hiện là đã lén theo dõi tất cả người dân tại Gravity Falls. Ở cuối phim, cậu đã hiểu ra được mình không thể ép Mabel yêu mình, và cậu cũng đã cố trở thành một đứa trẻ bình thường. Gideon có biểu tượng là ngôi sao năm cánh với con mắt ở giữa trong cung hoàng đạo Gravity Falls. Bà của Soos. Soos có một người bà không rõ tên. Trong suốt cả series, bà được gọi là Abuelita, nghĩa là bà trong tiếng Tây Ban Nha, được gọi theo cách thân mật.
wiki
Đền Karnak
Quần thể đền Karnak, thường gọi tắt là đền Karnak, là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của những ngôi đền, những bức tượng khổng lồ, những sảnh thờ và những tòa tháp. Trước đây có tên gọi là "Ipet-isut" (tạm dịch: "Nơi được chọn"). Việc xây dựng khu đền bắt đầu từ triều đại của vua Senusret I (Trung vương quốc). Mãi cho đến khi Ai Cập bị người Hy Lạp xâm lược thì ngôi đền vẫn được trùng tu và được xây dựng thêm. Ngày nay, quần thể đền Karnak nằm tọa lạc tại El-Karnak, thuộc tỉnh Luxor, cách Luxor 2,5 km về phía bắc. Thành phố cổ Thebes và các di tích khảo cổ tại đó đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1979. Tổng quan. Trước thời kỳ Vương triều thứ 11, không có nhiều công trình được xây dựng tại vùng đất Thebes này, có chăng là những ngôi đền thuộc cỡ nhỏ và không mấy quan trọng dành để thờ thần Montu, vị thần chiến tranh của Thebes và nữ thần nguyên thủy Mut. Dưới triều đại thứ 11, Amun trở thành vị thần bảo hộ của Thebes thay cho Montu, dần dần kết hợp với vị thần mặt trời Ra, trở thành bộ đôi vị thần tối cao Amun-Ra. Nữ thần Mut trở thành vợ của Amun, thần mặt trăng Khonsu là con của hai người, được xem là "Bộ ba Theban". Karnak từ đó trở thành vùng đất linh thiêng của các vị thần.
wiki
Đền Karnak
Một ngôi đền nhỏ xây theo hình bát giác là công trình được xây dựng sớm nhất có nhắc đến tên Amun-Ra. Ngôi đền này được xây dựng dưới thời vương triều thứ 11. Nhà nguyện trắng của vua Senusret I và khu đền thờ Amun-Ra (1 trong 4 phần chính của quần thể đền Karnak) là những dấu tích sớm nhất của đền Karnak. Đền thờ thần Mặt trời Ra luôn được ánh nắng chiếu rọi kể cả vào tiết đông chí. Lịch sử. Các triều đại của thời kỳ Tân vương quốc đã cho mở rộng ngôi đền thành một trung tâm tôn giáo lớn bởi sự thịnh vượng của Ai Cập cổ đại lúc bấy giờ. Vương triều thứ 18. Sự mở rộng ngôi đền được diễn ra trong suốt vương triều này. Amenhotep I đã cho xây dựng một nhà nguyện dành cho thần Amun bằng đá thạch cao tuyết hoa và một cổng đá vôi cao 20 cubit (gần 9m) ở phía nam của Karnak. Thutmosis I cho xây dựng tháp môn thứ tư, thứ năm và một bức tường vây quanh chúng. Ở giữa đó, ông cho xây một đại sảnh với các cột làm bằng gỗ tuyết tùng. Cũng như cha mình, Thutmosis II cũng cho dựng một cổng đá vôi và một ngay trước tháp môn thứ tư, nhưng cổng đá lại chưa được hoàn thiện. Amenhotep II lại cho phá hủy cái cổng này và thay vào đó là cho dựng tháp môn thứ 3.
wiki
Đền Karnak
Nữ hoàng Hatshepsut, cũng như cha và chồng bà, cũng cho người xây dựng những công trình tưởng niệm tại đây. Bà đã cho dựng hai cột tháp tưởng niệm, một tháp bị đổ, được cho là cao nhất thời đó và đã cho trùng tu lại đền thờ Mut vốn bị phá hủy bởi những người Hyksos. Một Nhà nguyện đỏ và 2 cột tháp cũng được xây dựng để kỷ niệm năm thứ 16 làm vua của Hatshepsut. Một cột tháp đã bị vỡ, hiện còn nằm tại Aswan, gọi là Tháp chưa hoàn thành. Thutmosis III, con trai của Thutmosis II, đã cho xây dựng Đại sảnh lễ hội, được cho là "huy hoàng, lộng lẫy nhất trong những công trình tưởng niệm". Ông cũng cho xây thêm tháp môn thứ bảy (giữa tháp môn thứ tư và năm) và tháp môn thứ sáu (bị phá hủy bởi Akhenaten, Tutankhamun cho phục dựng lại), tiếp tục hoàn thành tháp môn thứ tám (còn dở dang dưới triều Hatshepsut) cùng nhiều công trình nhỏ khác. Tháp môn thứ sáu đã bị Horemheb chiếm đoạt bằng cách khắc hình ảnh và ghi tên của ông lên đó. Các nhà nghiên cứu cho rằng, Thutmosis III cũng đã cho hủy hoại nhiều di tích của Hatshepsut, người mẹ kế của ông, do bà đã nắm quyền điều hành trong những năm đầu cai trị của ông.
wiki
Đền Karnak
Sau một thời gian bị bỏ hoang dưới triều đại Amarna của vua Akhenaten, người theo chủ nghĩa "độc thần", chỉ thờ duy nhất thần mặt trời Aten, việc tu bổ và xây dựng Karnak lại được thực hiện dưới thời Tutankhamun và Horemheb. Horemheb đã dựng tháp môn thứ hai, thứ chín và thứ mười. Tòa tháp thứ hai được xây vào những năm trị vì gần cuối của ông, về sau Ramesses I và II lần lượt chiếm giữ, đề tên mình vào đó. Riêng tòa tháp thứ mười, ông đã dùng những viên gạch từ đống đổ nát của ngôi đền Amenhotep IV để xây dựng nên nó. Vương triều thứ 19. Hai cha con Seti I và Ramesses II là người đã cho khởi công xây dựng Đại sảnh Hypostyle với 134 cột đá trên diện tích 5.000 m². Đây là công trình nổi bật nhất của quần thể đền Karnak. Merneptah đã cho khắc một bài văn xuôi ("Bản khắc lớn Karnak") trên bức tường phía đông của sảnh Cachette kỷ niệm chiến thắng của ông với đám hải nhân. Đây là bản khắc dài nhất còn sót lại nhưng đã bị mất khoảng 1/3 nội dung. Con trai ông, Seti II đã cho dựng thêm hai cột tháp trước tháp môn thứ hai và xây thêm một nhà nguyện 3 cửa bằng sa thạch để thờ bộ ba Amun - Mut - Khonsu. Vương triều thứ 20. Sức mạnh của đế quốc Ai Cập suy giảm đã kéo theo việc xây dựng ít lại những công trình tại Thebes. Đền thờ thần Khonsu lại được xây dựng dưới thời Ramesses III và IV. Các đời vua sau cũng chỉ tập trung vào việc tu sửa và xây thêm những kiến trúc tại đền Khonsu. Thời kỳ Chuyển tiếp thứ ba.
wiki
Đền Karnak
Thời kỳ Chuyển tiếp thứ ba. Các vua thời này hầu như không có đóng góp gì nhiều cho Karnak, nhưng những Thầy tư tế cấp cao của Amun vẫn tiếp tục sửa sang lại ngôi đền của Khonsu, điển hình là Herihor và Pinedjem I. Vua người Libya, Shoshenq I đã cho kỷ niệm các cuộc chinh phạt và các chiến dịch quân sự của mình bằng cách xây dựng cổng Bubastite ở giữa tháp môn thứ hai và đền thờ Ramesses III. Taharqa là vị vua duy nhất xây dựng thêm nhiều công trình lớn tại Karnak, được gọi là "Những công trình lớn của Taharqa", nằm giữa tháp môn thứ nhất và thứ hai. Thời kỳ Hậu nguyên. Sự thay đổi cuối cùng của kiến trúc quần thể Karnak là bổ sung thên tháp môn thứ nhất và xây thêm những bức tường bao quanh toàn bộ Karnak, đều được vua Nectanebo I của triều đại thứ 30. Tuy nhiên tháp môn thứ nhất vẫn chưa được xây xong. Từ năm 323 TCN trở về sau, đền Karnak gần như rơi vào tình trạng bỏ hoang. Các khu vực chính. Đền Amun-Re.
wiki
Đền Karnak
Các khu vực chính. Đền Amun-Re. Đây là khu vực rộng lớn nhất trong khu phức hợp đền Karnak, được dành để thờ bộ đôi vị thần quan trọng Amun và Ra. Khu vực này chiếm khoảng 250.000 m². Những cái cột khổng lồ bằng sa thạch này, nguyên liệu của chúng được lấy từ vùng Gebel Silsila cách đó 100 dặm về phía nam sông Nile. Một bút tháp cao khoảng 29m (trước đây là 32.18m), nặng khoảng 330 tấn, được xem là cao và nặng trong tất cả các cột tháp tại đây, là tháp Lateran của Thutmose III, hiện đang ở Rome, thủ đô của Ý. Nhiều phần trong ngôi đền không cho phép du khách tham quan vì nơi đó đang được khai quật hoặc đang phục hồi, điển hình là ba tháp môn thứ 8, 9, 10. Những công trình và di tích trong khu vực này bao gồm: Nhiều đền thờ nhỏ hơn cũng nằm trong khu vực: Ngoài ra còn một khu bảo tàng ngoài trời là nơi tái thiết những di tích đã bị phá hủy hoặc bị chôn vùi trước đây: Đền Mut. Thutmose II và III là người đã cho xây dựng khu đền này. Khu vực này chiếm khoảng 90.000 m², nằm ở phía nam của quần thể Karnak. Có ít nhất 6 ngôi đền được tìm thấy tại đây. Đền Montu. Đền thờ dành riêng cho thần chiến tranh Montu, nằm phía bắc khu đền Amun-Ra, chiếm khoảng 20.000 m². Sau khi Amun trở thành vua của các vị thần, thần tối cao của Ai Cập, Montu được Amun và Mut nhận làm con nuôi. Hầu hết các di tích ở đây đều bị hư hỏng khá nặng, vì thế ngôi đền này không mở cửa cho du khách tham quan. Nectanebo I đã cho dựng một bức tường thành bao quanh cả khu đền bằng gạch bùn. Đền Amenhotep IV.
wiki
Đền Karnak
Đền Amenhotep IV. Amenhotep IV hay Akhenaton, vị vua theo "thuyết độc thần", cũng đã dựng cho mình một ngôi đền lớn bên trong phạm vi của phía đông Karnak, bên ngoài tường thành của khu vực Amun-Re. Ngôi đền đã bị phá hủy gần như là hoàn toàn bởi các vua đời sau. Việc xác định bài trí của ngôi đền gần như là không thể, một số ít tòa nhà nhỏ vẫn còn sót lại.
wiki
Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus
12 vị thần là những vị thần chính trong điện thờ của người Hy Lạp, cai trị trên đỉnh Olympus. Các vị thần đỉnh Olympus giành quyền thống trị sau khi Zeus lãnh đạo các vị thần giành chiến thắng trong trận chiến với các Titan. Tài liệu cổ xưa nhất về các nghi thức tôn giáo với các vị thần được tìm thấy trong các bài thơ Homer ca tụng Hermes. Sự sùng bái mười hai vị thần đỉnh Olympus của người Hy Lạp có thể bắt nguồn từ thế kỷ thứ VI TCN ở thành Athens và gần như không có tiền lệ vào thời kỳ văn hóa Mycenae. Việc thờ phụng mười hai vị thần Olympus thường được xác định bắt đầu vào thời gian Pesistratos lên nhiếp chính ở thành Athens, vào năm 522/521 TCN. Hệ thống cổ điển của mười hai vị thần trên đỉnh Olympus bao gồm các vị thần: Hades (tiếng La Mã: Pluto) thường không nằm trong danh sách này. Ông không có vị trí trong thần điện bởi ông dành hầu hết thời gian dưới âm phủ, vương quốc của ông. Hệ thống La Mã tương ứng của Ennius đặt tên La Mã tương đương cho những vị thần Hy Lạp, nhưng thay thế Dionysus (Bacchus) bằng Hestia (Vesta) vì thế danh sách có sáu nam thần và sáu nữ thần. Herodotus đưa vào danh sách của ông các vị thần sau: Zeus, Hera, Poseidon, Hermes, Athena, Apollo, Alpheus, Cronus, Rhea và các nữ thần Charites. Herodotus cũng đề cập đến Heracles trong danh sách. Lucian cũng kể đến Heracles Asclepius là thành viên của mười hai vị thần, tuy nhiên không giải thích hai vị thần nào đã phải nhường vị trí cho họ.
wiki
Mười hai vị thần trên đỉnh Olympus
Herodotus cũng đề cập đến Heracles trong danh sách. Lucian cũng kể đến Heracles Asclepius là thành viên của mười hai vị thần, tuy nhiên không giải thích hai vị thần nào đã phải nhường vị trí cho họ. Ở đảo Kos, Heracles và Dionysus được đưa vào danh sách, Ares và Hephaestus thì không. Hebe, Helios, Eros (Cupid), Selene và Persephone cũng là những vị thần quan trọng đôi khi được kể vào nhóm mười hai vị thần. Eros thường được miêu tả cùng với mười hai bị thần kia, đặc biệt với mẹ là Aphrodite, nhưng hiếm khi được công nhận là một trong số các vị thần trên đỉnh Olympus. Plato đã liên hệ mười hai vị thần đỉnh Olympus với mười hai tháng trong năm, và đề nghị tháng cuối cùng đặc biệt vinh dự dành riêng cho Hades và những linh hồn đã chết, ám chỉ ông tính Hades là một trong số mười hai vị thần. Hades dần bị rút tên ra khỏi nhóm này vì liên quan đến âm phủ. Trong "Phaedrus" Plato xếp mười hai vị thần tương ứng với các cung Hoàng đạo và loại bỏ Hestia ra khỏi sự sắp xếp đó. Danh sách các vị thần trên đỉnh Olympus. Các kiểu xác định khác. Các vị thần sau cũng đôi khi được nhắc đến trong mười hai vị thần đỉnh Olympus Những nhân vật gần gũi với các vị thần Olympus. Các nam thần, nữ thần và á thần sau thường không được tính là thần trên đỉnh Olympus, dù vậy cũng khá gần gũi với họ.
wiki
Ngữ pháp tiếng Thái
Tiếng Thái là một ngôn ngữ đơn lập, tương tự nhiều ngôn ngữ khác ở Đông Nam Á và Đông Á. Giống như những ngôn ngữ khác trong khu vực, ngữ pháp tiếng Thái theo cấu trúc thứ tự chủ ngữ-động từ-tân ngữ, yếu tố chính-yếu tố bổ nghĩa ("head-initial"), và có một hệ thống lượng từ để đếm danh từ. Thứ tự từ cơ bản trong tiếng Thái thường theo quy tắc với mọi câu đều có cấu trúc "chủ ngữ-động từ-tân ngữ" giống như tiếng Việt và tiếng Anh. Động từ. Động từ trong tiếng Thái không bị biến đổi để chỉ thì, số lượng... như tiếng Anh, do đó không có dạng số nhiều của động từ. Cũng không có việc phải chia động từ cho ngôi ngữ pháp. Không có từ hay yếu tố ngữ pháp trong tiếng Thái chỉ dạng hoàn thành hay không hoàn thành của động từ. Thì quá khứ được biểu thị bằng việc thêm vào một từ chỉ thời gian riêng biệt. Khi một động từ được lặp lại, hành động mà động từ đó thể hiện được nhấn mạnh. Danh từ. Danh từ trong tiếng Thái không có giống ngữ pháp như tiếng Pháp. Tiếng Thái không có dạng số nhiều liên quan của danh từ. Trong việc xây dựng một cụm danh từ, "và" khác với "với". Một số danh từ nhất định lặp lại để tạo dạng số nhiều, ví dụ เด็ก "dek" (đứa trẻ) được lặp lại là เด็ก ๆ "dek dek" để chỉ một nhóm những đứa trẻ. Tính từ và trạng từ.
wiki
Ngữ pháp tiếng Thái
Tính từ và trạng từ. Không có sự khác biệt về hình thái giữa danh từ và trạng từ trong tiếng Thái. Nhiều từ có chứng năng của cả hai. Tính từ có thể đóng vai trò theo hai cách khác nhau. Chúng có thể là một thuộc ngữ ("attributive"), đóng vai trò để bổ nghĩa danh từ để hình thành cụm danh từ. Trong trường hợp này chúng ở trước danh từ chúng bổ nghĩa. Tính từ có thể đóng vai trò bổ nghĩa cho vị ngữ. Mạo từ. Trong tiếng Thái không có mạo từ như "the" hay "a" trong tiếng Anh. Sở hữu cách. Sở hữu cách trong tiếng Thái được thể hiện bằng các thêm từ "khong" trước danh từ hay đại từ, nhưng nó thường bị bỏ qua. Dạng cách. Tiếng Thái không sở hữu các yếu tố đánh dấu hình thái của dạng cách ("case").
wiki
Ceneselli
Ceneselli Ceneselli là một đô thị ở tỉnh Rovigo ở vùng Veneto của Ý, có khoảng cách khoảng 90 km về phía tây nam của Venezia và khoảng 35 km về phía tây của Rovigo. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 1.853 người và diện tích là 28,6 km². Đô thị Ceneselli có các "frazioni" (các đơn vị cấp dưới, chủ yếu là các làng) Albera, Ca'Bernini, Ca'Bonafini, Ca'Pasqualini, Case Chilanti, Cavaliera, Facchina, Granarone, La Campagnina, La Chiesolina, La Gatta, và Vaccara. Ceneselli giáp các đô thị: Calto, Castelmassa, Castelnovo Bariano, Giacciano con Baruchella, Salara, Trecenta.
wiki
Mèo Síp
Mèo Síp được phân thành hai phân loài là Mèo Aphrodite Giant và Mèo Saint Helen. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2012, loài mèo Aphrodite đã trở thành một giống mèo được công nhận đầy đủ bởi Liên đoàn Mèo Thế giới. Thời kỳ có ảnh hưởng lớn nhất đối với sự phát triển của mèo Síp xảy ra vào năm 328 sau Công nguyên khi hai thuyền chở mèo được gửi đến hòn đảo này từ Ai Cập và Palestine bởi Thánh Helena. Điều này đã được thực hiện để chống lại sự phá hoại của rắn trên đảo sau một nạn hạn hán kéo dài 37 năm. Những con mèo đã có thể sinh sản trong 12 thế kỷ và ít bị ảnh hưởng từ bên ngoài; điều này đã dẫn đến một giống mèo độc đáo, mạnh mẽ và cực kỳ khỏe mạnh. Lịch sử. Theo nghiên cứu được tiến hành bởi J.-D. Vigne, et al. ví dụ lâu đời nhất của một con mèo thuần hóa có thể được tìm thấy ở Síp. Lịch sử ghi nhận Mèo Síp bắt đầu khoảng 9500 năm trước và được đưa vào phạm vi công cộng như là kết quả của việc khám phá khảo cổ về mèo thuần hóa được một nhà khảo cổ học người Pháp, Giáo sư Jean Guillain, năm 2004, nghiên cứu. Các nhà khảo cổ đang làm việc tại địa điểm đồ đá mới của Shillourokambos, nghiên cứu cẩn thận những phần còn lại của một con mèo được chôn cất cẩn thận bên cạnh con người và các đồ tạo tác trang trí. "Kiểm tra cho thấy một cái hố nhỏ hoặc huyệt mộ đã được cố tình đào ra và xác con mèo được đặt trong đó, sau đó hố này nhanh chóng được lấp lại." Bộ xương mèo này có niên đại trước các mô tả của Ai Cập từ 4.000 năm trở lên.
wiki
Mèo Síp
Giống mèo Síp gắn liên với các tu viện đặc biệt tên là "Thánh Nicôla của Mèo" (tiếng Hy Lạp Άγιος Νικόλαος των Γατών), được thành lập vào thế kỷ thứ tư sau Công nguyên. Nó nằm gần làng Akrotiri. Theo truyền thuyết Byzantine, Thánh Helen đã cho nhập khẩu hàng trăm con mèo từ Ai Cập hoặc Palestine vào thế kỷ thứ tư để khống chế loài rắn độc đã xâm nhập vào tu viện. Tu viện có hai chuông, một để gọi mèo cho bữa ăn và người kia nhằm điều động mèo đến các cánh đồng để săn rắn. Tuy số lượng mèo của tu viện trong một lần bị giảm sút nhưng hiện đã tăng lên trở lại nhờ các nữ tu thường trú. Giorgos Seferis đã viết về mèo Síp trong bài thơ của ông: "Những con mèo của Thánh Nicôla" được dịch sang Tiếng Anh bởi Edmund Keely và Philip Sherrard vào năm 1995.
wiki
Vườn quốc gia Jostedalsbreen
Vườn quốc gia Jostedalsbreen Vườn quốc gia Jostedalsbreen là một vườn quốc gia ở Na Uy nằm trên khu vực sông băng lớn nhất ở lục địa châu Âu, Jostedalsbreen. Jostedalsbreen có diện tích 487 km², nằm ở các đô thị Luster, Balestrand, Jølster và Stryn (ở hạt Sogn og Fjordane). Đỉnh cao nhất ở khu vực là Lodalskåpa với độ cao 2.083 mét. Sông băng nằm ở khu vực có độ cao nhất, Brenibba, nằm ở độ cao 2.018 mét trên mực nước biển còn điểm cao nhất là 350 m trên mực nước biển. Có 3 viện bảo tàng và cũng là trung tâm phục vụ du khách: Breheimsenteret ở Jostedal, Jostedalsbreen nasjonalparksenter ở Oppstryn (Stryn) và Norsk bremuseum ở Fjærland.
wiki
Terbi
Terbi (tên La tinh: terbium), còn gọi là tecbi, là một nguyên tố hóa học với ký hiệu Tb và số nguyên tử 65. Terbi không được tìm thấy trong tự nhiên ở dạng nguyên chất, nhưng nó có trong nhiều loại khoáng vật, bao gồm cerit, gadolinit, monazit, xenotim và euxenit. Đặc trưng. Vật lý. Nó là một kim loại đất hiếm màu trắng bạc, mềm, dẻo, dễ uốn, đủ để cắt bằng dao. Nó ổn định vừa phải trong không khí (không bị xỉn sau 19 tháng ở nhiệt độ phòng) và 2 thù hình tinh thể tồn tại, với nhiệt độ chuyển dạng là 1.289 °C. Cation terbi (III) là các chất huỳnh quang rực rỡ, có màu vàng chanh tươi, là kết quả của vạch bức xạ xanh lục mạnh kết hợp với các vạch khác trong phổ màu đỏ và cam. Biến thể yttrofluorit của khoáng vật fluorit có được huỳnh quang màu vàng kem một phần là do terbi. Nguyên tố này dễ bị oxy hóa và vì thế được sử dụng ở dạng nguyên chất chỉ với mục đích nghiên cứu. Ví dụ, các nguyên tử Tb riêng lẻ đã được cô lập bằng cách cấy chúng vào các phân tử fulleren. Terbi có trật tự sắt từ đơn giản ở nhiệt độ dưới 219 K. Trên 219 K, nó chuyển sang trạng thái phản sắt từ xoắn ốc trong đó mọi mômen nguyên tử trong một lớp mặt phẳng cơ sở cụ thể là song song, và định hướng ở một góc cố định với các mômen của các lớp cận kề. Tính chất phản sắt từ bất thường này chuyển thành trạng thái thuận từ không trật tự ở nhiệt độ 230 K. Hóa học.
wiki
Terbi
Hóa học. Trạng thái hóa trị phổ biến nhất của terbi là +3, như trong terbi(III) oxit (Tb2O3). Trạng thái +4 được biết đến trong TbO2 và TbF4. Terbi dễ dàng cháy tạo ra hỗn hợp của các oxit hóa trị 3 và 4: Trong dung dịch, terbi chỉ tạo ra các ion hóa trị 3. Terbi có độ âm điện thấp và phản ứng chậm với nước lạnh nhưng khá nhanh với nước nóng để tạo ra hydroxide terbi: Terbi kim loại phản ứng với mọi halogen: Terbi hòa tan dễ dàng trong axit sulfuric loãng để tạo ra các dung dịch chứa các ion Tb(III) màu hồng nhạt, tồn tại như là các phức hợp [Tb(H2O)9]3+: Hợp chất. Terbi kết hợp với nitơ, cacbon, lưu huỳnh, phosphor, bo, selen, silic và asen ở nhiệt độ cao, tạo thành các hợp chất hóa trị hai khác nhau như TbH2, TbH3, TbB2, Tb2S3, TbSe, TbTe và TbN. Trong các hợp chất này, Tb chủ yếu thể hiện hóa trị +3 và đôi khi là +2. Các halide terbi(II) thu được bằng cách ủ các halide Tb(III) với sự có mặt của Tb kim loại trong thùng chứa bằng tantan. Terbi cũng có thể tạo ra sesquichloride , là chất có thể khử tiếp thành TbCl bằng cách ủ ở 800 °C. Terbi(I) chloride tạo thành các viên nhỏ với cấu trúc tạo lớp giống như than chì. Các hợp chất khác còn có: Terbi(IV) fluoride là tác nhân flo hóa mạnh, giải phóng ra flo nguyên tử tương đối tinh khiết khi bị nung nóng chứ không phải hỗn hợp của hơi flo giải phóng ra từ CoF3 hay CeF4. Đồng vị.
wiki
Terbi
Terbi(IV) fluoride là tác nhân flo hóa mạnh, giải phóng ra flo nguyên tử tương đối tinh khiết khi bị nung nóng chứ không phải hỗn hợp của hơi flo giải phóng ra từ CoF3 hay CeF4. Đồng vị. Terbi nguồn gốc tự nhiên chỉ bao gồm 1 đồng vị ổn định là Tb159. Ngoài ra, 33 đồng vị phóng xạ cũng đã được miêu tả đặc trưng, với ổn định nhất là Tb158 có chu kỳ bán rã là 180 năm, Tb157Tb có chu kỳ bán rã 71 năm và Tb160 có chu kỳ bán rã 72,3 ngày. Tất cả các đồng vị còn lại đều là đồng vị phóng xạ với chu kỳ bán rã nhỏ hơn 6,907 ngày, và phần lớn có chu kỳ bán rã không quá 24 giây. Nguyên tố này ũng có 18 trạng thái giả ổn định, với ổn định nhất là Tb156m1 (t½ 24,4 giờ), Tb154m2 (t½ 22,7 giờ) và Tb154m1 (t½ 9,4 giờ). Phương thức phân rã chủ yếu trước đồng vị phổ biến nhất, Tb159, là bắt điện tử, còn phương thức phân rã chủ yếu sau đồng vị phổ biến nhất là phân rã beta trừ. Sản phẩm phân rã chủ yếu trước đồng vị phổ biến nhất là các đồng vị của Gd (gadolini), còn sản phẩm phân rã chủ yếu sau đồng vị phổ biến nhất là các đồng vị của Dy (dysprosi). Lịch sử. Terbi được nhà hóa học người Thụy Điển là Carl Gustaf Mosander phát hiện năm 1843, ông đã phát hiện nó như là tạp chất trong ytri(III) oxit, Y2O3, và đặt tên cho nó theo làng Ytterby ở Thụy Điển. Nó đã không được cô lập ở dạng tinh khiết mãi cho tới phát minh ra kỹ thuật trao đổi ion gần đây.
wiki
Terbi
Ban đầu Mosander phân chia "ytria" thành ba phân đoạn, "terbia" là phân đoạn có màu hồng (do nguyên tố hiện nay gọi là erbi), và "erbia" là phân đoạn về thực chất là không màu trong dung dịch, nhưng tạo ra oxit màu nâu. Các công nhân khi đó rất khó quan sát phân đoạn sau, nhưng phân đoạn màu hồng thì không thể bỏ sót. Các tranh cãi quay qua quay lại về việc "erbia" có tồn tại hay không. Trong sự lộn xộn đó, các tên gọi ban đầu đã bị đảo lại, và sự tráo đổi các tên gọi bị làm rối lên. Hiện nay, người ta cho rằng những công nhân này đã dùng các sunfat kép của natri và kali để loại bỏ "ceria" ra khỏi "ytria", vô tình làm mất hàm lượng terbi trong của hệ thống trong kết tủa chứa ceria. Trong bất kỳ trường hợp nào, chất hiện nay gọi là terbi chỉ chiếm khoảng 1% của ytria ban đầu, nhưng như thế đã là đủ để truyền màu hơi vàng cho oxit. Vì thế, terbi chỉ là thành phần thiểu số trong phân đoạn terbia ban đầu, với thành phần chủ yếu là các họ hàng gần của nó như gadolini và dysprosi. Sau này, khi các nguyên tố đất hiếm khác được tách ra khỏi hỗn hợp này, bất kỳ phân đoạn nào tạo ra oxit màu nâu đều giữ tên gọi terbia, cho tới khi cuối cùng nó là tinh khiết. Các nhà nghiên cứu trong thế kỷ 19 không có được ích lợi gì từ công nghệ huỳnh quang, mà bằng cách đó việc quan sát huỳnh quang tươi màu có thể làm cho việc theo dõi dấu vết của nguyên tố này trong hỗn hợp trở nên dễ dàng hơn. Phổ biến.
wiki
Terbi
Phổ biến. Terbi không được tìm thấy ở dạng tự do trong tự nhiên, nhưng nó có trong nhiều khoáng vật, như cerit, gadolinit, monazit ((Ce,La,Th,Nd,Y)PO4, chứa tới 0,03% terbi), xenotim (YPO4) và euxenit ((Y,Ca,Er,La,Ce,U,Th)(Nb,Ta,Ti)2O6, chứa tới trên 1% terbi). Mật độ phổ biến trong lớp vỏ Trái Đất là khoảng 1,2 mg/kg. Các nguồn thương mại giàu terbi nhất hiện tại là lớp đất sét ion hấp phụ ở miền nam Trung Quốc. Các mẫu chứa nhiều ytri từ lớp đất sét này chứa khoảng 2/3 là ytri(III) oxit (theo trọng lượng) và khoảng 1% terbia. Tuy nhiên, các lượng nhỏ cũng có trong bastnasit và monazit, và khi chúng được chế biến bằng chiết dung dịch để phục hồi các kim loại nặng trong nhóm Lanthan dưới dạng "cô đặc samari-europi-gadolini" thì hàm lượng terbi của quặng còn lại trong đó. Do một lượng lớn bastnasit được chế biến, một tỷ lệ đáng kể (tương đối so với đất sét giàu ion hấp phụ) nhu cầu về terbi trên thế giới có nguồn gốc từ bastnasit. Sản xuất.
wiki
Terbi
Sản xuất. Các khoáng vật chứa terbi thô nghiền nát được xử lý bằng axit sulfuric đặc nóng để tạo ra sunfat hòa tan trong nước của các kim loại đất hiếm. Nước lọc có tính axít được trung hòa một phần bằng NaOH tới khi pH đạt giá trị 3-4. Thori kết tủa khỏi dung dịch dưới dạng hydroxide và bị loại bỏ. Sau đó dung dịch được xử lý bằng amoni oxalat để chuyển đổi các kim loại đất hiếm thành các dạng oxalat không hòa tan của chúng. Các oxalat được chuyển hóa thành các oxit nhờ ủ. Các oxit được hòa tan trong axit nitric để tiếp tục loại bỏ một trong các thành phần chính là xeri, do oxit của nó không hòa tan trong HNO3. Terbi được tách ra ở dạng muối kép với amoni nitrat bởi sự kết tinh. Phương thức hiệu quả nhất để tách các muối terbi ra khỏi dung dịch muối của các kim loại đất hiếm khác là trao đổi ion. Trong phương thức này, các ion kim loại đất hiếm được hấp thụ thành nhựa trao đổi ion thích hợp bằng trao đổi với các ion hydroni, amoni hay đồng có trong nhựa. Các ion đất hiếm sau đó được rửa sạch có chọn lọc bằng các tác nhân tạo phức chất thích hợp. Giống như các kim loại đất hiếm khác, terbi kim loại được sản xuất bằng cách khử chloride hay fluoride khan bằng calci kim loại. Các tạp chất calci và tantan có thể loại bỏ bằng tái nóng chảy trong chân không, chưng cất, tạo hỗn hống hay nung chảy theo khu vực. Ứng dụng.
wiki
Terbi
Ứng dụng. Terbi được sử dụng làm tác nhân kích thích cho calci fluoride, calci tungstat và stronti molybdat, các vật liệu được sử dụng trong các thiết bị trạng thái rắn, và như là tác nhân ổn định tinh thể của các tế bào nhiên liệu khi phải làm việc ở nhiệt độ cao, cùng với ZrO2. Terbi cũng được sử dụng trong các hợp kim và trong sản xuất các thiết bị điện tử. Là một thành phần của Terfenol-D, terbi được sử dụng trong các thiết bị truyền động, trong các hệ thống định vị thủy âm và cảm biến của hải quân, trong thiết bị SoundBug (ứng dụng thương mại đầu tiên của nó) cũng như trong các thiết bị cơ-từ khác. Terfenol-D là hợp kim giãn nở hay co ngót trong từ trường. Nó có độ từ giảo cao nhất trong số tất cả các hợp kim đã biết. Terbi(III) oxit được sử dụng trong các chất lân quang màu xanh lục trong các đèn huỳnh quang và các ống TV màu. Các chất lân quang "xanh lục" terbi (phát màu vàng chanh tươi) được kết hợp với các chất lân quang màu xanh lam của europi hóa trị 2 và các chất lân quang màu đỏ của europi hóa trị 3 để tạo ra công nghệ chiếu sáng "ba màu". Chiếu sáng ba màu cung cấp lượng sáng cao hơn khi xét cùng một lượng điện năng đầu vào so với các đèn nóng sáng. Đây cũng là lĩnh vực tiêu thụ terbi nhiều nhất trên thế giới. Borat terbi natri được sử dụng trong các thiết bị trạng thái rắn. Huỳnh quang tươi màu cho phép sử dụng terbi làm mẫu thăm dò trong hóa sinh học, trong đó nó là gần giống như calci về hành vi. Phòng ngừa.
wiki
Terbi
Phòng ngừa. Giống như các nguyên tố trong nhóm Lanthan khác, các hợp chất của terbi có độc tính từ nhẹ tới vừa phải, mặc dù mức độ độc của chúng vẫn chưa được kiểm tra chi tiết. Terbi không có vai trò sinh học nào đã biết.
wiki
Oskar Pastior
Oskar Pastior (20.10.1927 – 4.10.2006) là nhà thơ và dịch giả người Đức gốc România. Ông là thành viên người Đức duy nhất của Oulipo. Cuộc đời và sự nghiệp. Sinh trong một gia đình người Sachsen Transilvania ở Sibiu (Hermannstadt), ông bị đày tới Trại cải tạo lao động của Liên Xô năm 1945 bởi Lực lượng Xô Viết chiếm đóng Romania. Oskar Pastior thuộc thành phần 100.000 thành viên của Rumäniendeutsche, những người bị đày ải như người Đức lao động cưỡng bách ở Liên Xô trong tháng 1 năm 1945, mà phần lớn những người sống sót đã được phóng thích trong các năm 1948/49. Ông trở lại Romania năm 1949, và học ngành Đức học ở Đại học Bucharest từ năm 1955. Sau khi tốt nghiệp, ông làm việc cho ban tiếng Đức của Công ty Truyền thanh Romania. Năm 1964, ông xuất bản tuyển tập thơ đầu tiên của mình tên là "Offne Worte". Sau khi bị Securitate giám sát trong 4 năm, Pastior trở thành người chỉ điểm cho Securitate năm 1961 với bí danh là "Otto Stein". cho tới năm 1968, khi ông được một học bổng sang học ở Vienne (Áo) và lìa bỏ chế độ Cộng sản Romania. Vụ làm chỉ điểm mãi tới năm 2010 mới được biết đến, 4 năm sau khi ông qua đời. Pastior di chuyển sang Đức, ban đầu sống ở München, sau đó ở Tây Berlin cho tới cuối đời. Ông nổi tiếng về những bản dịch văn học Romania sang tiếng Đức (trong số đó có các tác phẩm của Tudor Arghezi, George Coşbuc, Tristan Tzara, Gellu Naum, Marin Sorescu, và Urmuz).
wiki
Oskar Pastior
Năm 2009 quyển tiểu thuyết "Everything I Possess I Carry With Me" của nhà văn đoạt giải Nobel Herta Müller, dựa trên những kinh nghiệm thời trẻ của Pastior khi bị đày tới Trại cải tạo lao động của Liên Xô. Ban đầu, Pastior và Müller đã có kế hoạch viết chung một quyển sách về những kinh nghiệm của ông ở Trại cải tạo lao động của Liên Xô, nhưng năm 2006 thì Pastior từ trần. Oskar Pastior qua đời ngày 4.10.2006 tại Frankfurt am Main Giải thưởng mang tên Pastior. Theo di chúc của ông, hiện nay "Quỹ Oskar Pastior" đã lập ra "Giải Oskar Pastior" dành cho những tác giả văn học thực nghiệm với khoản tiền thưởng là 40.000 euro. Giải bắt đầu được trao từ năm 2010 trong một buổi lễ trao giải tổ chức ở Tòa thị chính thành phố Berlin ngày 28.5.2010 cho Oswald Egger.
wiki
Thái Bình mại ca giả
Thái Bình mại ca giả Thái Bình mại ca giả (chữ Hán: 太平賣歌者, nghĩa là "người hát rong ở Thái Bình") là bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du trong tập Bắc hành tạp lục viết khi đi sứ Trung Quốc. Hoàn cảnh sáng tác. Năm 1813, Nguyễn Du được thăng chức Học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi tuế cống Trung Quốc. Trên đường đi, ông đã tận mắt chứng kiến cảnh quan lại quyền quý thì cơm canh, thịt cá thừa mứa ăn không hết, đem đổ xuống sông, trong khi người nghèo đói ca hát đến sùi bọt mép thì chỉ được mấy đồng kẽm, khiến cho nhà thơ đau lòng phải thốt lên:
wiki
Điền Dự
Điền Dự (chữ Hán: 田豫);(170-253)là tướng nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Dưới quyền Công Tôn Toản. Điền Dự có tên tự là Quốc Nhượng, người huyện Ung Nô quận Ngư Dương (thuộc U châu). Lúc Lưu Bị đến nương nhờ Công Tôn Toản (193) thì Điền Dự còn nhỏ tuổi, tự đến nương nhờ chỗ Lưu Bị, được Lưu Bị rất coi trọng. Lúc Bị làm Thứ sử Dự Châu (195), Điền Dự vì mẹ già mà xin về. Lưu Bị khóc lóc cùng chia tay, tỏ ý luyến tiếc ông. Khi trở lại, Điền Dự làm thuộc hạ của Công Tôn Toản. Toản sai Điền Dự làm huyện lệnh huyện Đông Châu. Tướng của Toản là Vương Môn phản Toản, giúp Viên Thiệu đem hơn vạn quân đến đánh. Quân sợ, muốn hàng, Dự lên mặt thành bảo Môn nói: Vương Môn hổ thẹn mà rút quân. Công Tôn Toản dẫu biết ông có mưu lược nhưng lại không trọng dụng. Công Tôn Toản bị Viên Thiệu đánh bại và tự sát (199). Tướng cũ của Lưu Ngu (Thứ sử U châu, người bị Toản giết năm 193) là Tiên Vu Phụ được người trong quận bầu chọn, coi việc quan Thái thú, vốn thích tài năng của ông, bèn dùng làm Trưởng sử. Bấy giờ hào kiệt cùng nổi dậy, Tiên Vu Phụ chẳng biết theo về ai, Điền Dự bảo Phụ: Tiên Vu Phụ theo kế của Điền Dự, bèn bến quy phục Tào Tháo và được phong thưởng. Phục vụ Tào Ngụy. Thời Tào Tháo. Tào Tháo gọi Điền Dự đến làm Thừa tướng Quân mưu duyện, làm huyện lệnh các huyện Dĩnh Âm, Lang Lăng, sau đó chuyển làm Thái thú Dặc Dương, các chỗ ông đến nhậm chức đều được sửa trị.
wiki
Điền Dự
Thời Tào Tháo. Tào Tháo gọi Điền Dự đến làm Thừa tướng Quân mưu duyện, làm huyện lệnh các huyện Dĩnh Âm, Lang Lăng, sau đó chuyển làm Thái thú Dặc Dương, các chỗ ông đến nhậm chức đều được sửa trị. Người Hồ phía bắc vào đánh Đại quận. Con Tào Tháo là Tào Chương được lệnh đi đánh, lấy Điền Dự làm tướng, đem quân đến phía bắc huyện Dịch. Người Hồ ém quân kị chặn đánh, quân sĩ Tào rối loạn, chẳng biết làm sao. Điền Dự dựa vào thế đất, đem quân về lập thế trận vòng tròn, đặt cung nỏ dày đặc ở trong trận, làm nghi binh để che giấu chỗ kém của mình. Quân Hồ không tiến được, tan chạy. Quân Tào đuổi đánh, đại thắng, cuối cùng đi đến bình Đại Quận. Ông chuyển làm Thái thú Nam Dương. Lúc trước, người trong quận là Hầu Âm nổi dậy chống lại, tụ tập mấy nghìn người trong núi làm bọn cướp, gây hại lớn cho quận. Thái thú lúc trước bắt được phe đảng và hơn năm trăm người của họ, dâng tấu xin xử tội chết. Điền Dự đến gặp hết những người tù, an ủi, mở con đường tự sửa mới cho họ, cùng lúc cởi trói ra mà sai khiến. Những người bị tội tù đều cúi đầu, xin tự chuộc tội, liền tự bảo nhau, các nhóm cướp sớm tan rã, trong quận được yên ổn. Việc đó tâu lên, Tào Tháo khen ngợi ông. Thời Tào Phi.
wiki
Điền Dự
Đầu thời Văn Đế Tào Phi, người Địch phía bắc mạnh mẽ, xâm nhiễu biên ải phía bắc. Tào Phi bèn sai Điền Dự lĩnh chức Trì tiết Hộ Ô Hoàn Hiệu úy, cùng Khiên Chiêu, Giải Tuấn cùng làm Hộ Tiên Ti Hiệu úy. Từ huyện Cao Liễu đến phía đông, từ chỗ của người Uế Mạch về phía tây, mấy chục bộ lạc Tỉ Năng, Di Gia, Tố Lợi người Tiên Ti cắt đất chiếm giữ, đều có chia ranh giới, lại cùng thề ước, đều không muốn đem ngựa trao đổi với Trung Quốc. Điền Dự cho rằng người Di Địch hợp làm một thì không lợi của Trung Quốc, bèn li gián họ trước, khiến cho họ tự thù ghét, đánh giết lẫn nhau. Bộ lạc Tố Lợi làm trái lời thề, đem nghìn con ngựa trao cho quan quân, bị bộ lạc Tỉ Năng đánh, xin cứu với Điền Dự. Điền Dự lo họ tự hợp lại với nhau, sẽ gây hại nhiều thêm, bèn cứu kẻ thiện, đánh kẻ ác, tỏ ân tín với người Địch, tự đem quân tinh nhuệ đi sâu vào trại giặc, người Hồ đông nhiều, đem quân vây trước sau, chặn ngang đường về. Điền Dự bèn tiến quân, lập đồn trại cách giặc hơn mười dặm, tụ nhiều phân trâu ngựa khô lại mà đốt, rồi từ đường khác dẫn quân đi. Người Hồ thấy khói lửa không dứt, cho rằng Điền Dự vẫn ở đó, bèn bỏ đi, được mấy chục dặm mới biết, lại đuổi theo Điền Dự đến Mã Thành, vây đến mười vòng, Điền Dự phòng giữ nghiêm ngặt, sai quan Tư mã dựng cờ tinh, đánh gõ trống, đem quân bộ kị ra từ cửa nam, người Hồ đều dõi mắt đến đuổi theo. Điền Dự đem quân tinh nhuệ ra từ cửa bắc, đánh trống hò reo mà ra, hai đầu cùng ập đến, ra chỗ giặc không ngờ, quân địch rối loạn, đều tự dẫn dắt ngựa mà
wiki
Điền Dự
cửa nam, người Hồ đều dõi mắt đến đuổi theo. Điền Dự đem quân tinh nhuệ ra từ cửa bắc, đánh trống hò reo mà ra, hai đầu cùng ập đến, ra chỗ giặc không ngờ, quân địch rối loạn, đều tự dẫn dắt ngựa mà chạy, đuổi đánh đến hơn hai mươi dặm, thây chết đầy đất.
wiki
Điền Dự
Vua của người Ô Hoàn là Cốt Tiến ương ngạnh không thần phục, Điền Dự ra biên ải xem xét, tự đem hơn trăm quân kị thuộc hạ vào trại, Tiến đón bái, bèn sai tả hữu chém Tiến, kể rõ tội lỗi của hắn để ban lệnh cho quân dân, quân dân đều sợ hãi không dám động đậy, lại lấy em của Tiến thay Tiến. Từ đấy, người Hồ vỡ mật, oai lừng sa mạc. Bọn giặc trên núi là Cao Ngải có mấy nghìn người cướp bóc, gây hại ở miền U châu và Ký châu, do đó Dự dụ bộ lạc Tố Lợi người Tiên Ti chém Ngải, đưa đầu đến kinh đô. Tào Phi phong Điền Dự làm Trường Lạc Đình Hầu. Thời Tào Duệ. Điền Dự làm Hộ Ô Hoàn Hiệu úy được 9 năm, ngăn ngừa người Di Địch, thường bẻ gãy ra mà chiếm lấy, chia rẽ những thủ lĩnh có thế lực. Như những kẻ trốn tránh gian xảo giúp người Hồ tính kế gây việc không có lợi cho quan quân, Điền Dự đều quấy phá chia rẽ, khiến cho mưu ác xấu của họ không thành, những bộ lạc tụ họp không được yên ổn. Việc chưa xong, bè đảng của Thứ sử U Châu là Vương Hùng muốn Hùng lĩnh chức Ô Hoàn Hiệu úy, phá kế của quấy biên của Điền Dự, gây khó cho triều đình Tào Ngụy. Vì vậy Tào Duệ nghe lời gièm, bèn chuyển Dự làm Thái thú Nhữ Nam, thêm chức Điển Di Tướng quân.
wiki
Điền Dự
Năm 233, Công Tôn Uyên đem quận Liêu Đông chống lại Tào Ngụy. Ngụy Minh Đế muốn đánh Uyên nhưng khó chọn người, Trung lĩnh quân Dương Kị tiến cử ông. Minh Đế bèn sai Dự giữ chức cũ, đô đốc các quân của vùng Thanh châu, cầm cờ tiết đến đánh Uyên. Gặp lúc quân Đông Ngô sai sứ đến liên kết với Uyên. Minh Đế cho là quân địch đông nhiều, lại đã vượt biển, hạ chiếu Điền Dự phải bãi binh. Điền Dự tính thuyền giặc sẽ quay về, cuối năm gió to, tất sợ trôi dạt, mà đi về phía đông lại không có bờ, phải đến Thành Sơn. Thành Sơn không phải là chỗ chứa thuyền, phải men theo bờ biển, xem xét thế đất và các núi đảo, ngăn chặn nơi hiểm yếu, bày binh đóng giữ. Điền Dự tự vào Thành Sơn, trèo lên đài Hán Vũ mà trông. Khi quân Ngô trở về, quả đúng gặp gió to, thuyền đều va vào núi đá chìm nghỉm, sóng xô ngập bờ, không có chiếc thuyền nào được thoát, rút cuộc bắt hết quân địch. Lúc đầu, các tướng đều cười Điền Dự đợi quân địch ở chỗ trống vắng, đến lúc phá được địch, mới chịu cùng mưu tính, xin vào biển vớt lấy thuyền trôi. Điền Dự sợ quân Ngô thế cùng liều chết mà đánh, đều không nghe. Lúc trước, Điền Dự làm Thái thú, đô đốc các quân của Thanh Châu, Thanh Châu Thứ sử Trình Nhất trong lòng không phục, lúc có việc quân, nhiều lần làm sai lầm. Nhất biết Minh Đế thích ngọc châu, bèn ngầm dâng biểu gièm pha ông rằng: “Dự dẫu có công đánh trận nhưng hiệu lệnh buông trễ, bắt được đồ khí giới vàng ngọc rất nhiều mà lại chia ra, đều không nạp vào sở quan”. Do đó Điền Dự không được xét công.
wiki
Điền Dự
Sau đó, Tôn Quyền đem mười vạn quân đánh Tân Thành (quận Hợp Phì), Chinh đông tướng quân Mãn Sủng muốn đem các quân đến cứu. Điền Dự bàn rằng: Ngụy Minh Đế theo kế ấy, quả nhiên quân Ngô rút chạy. Thời Tào Phương. Đầu năm 240, ông chuyển làm Sứ trì tiết, Hộ Hung Nô Trung lang tướng, thêm chức Chấn uy Tướng quân, lĩnh chức Thứ sử Tinh Châu. Người Hồ ngoài biên giới nghe uy danh của ông, cùng nhau đến cống nạp. Biên giới yên tĩnh, trăm họ nhờ ơn ấy. Triều đình gọi ông về làm Vệ úy, ông thường xin nhường chức. Thái bảo Tư Mã Ý cho rằng ông là người cứng cỏi, hạ chiếu dụ không nghe. Điền Dự gửi thư đáp nói: Rồi ông lại cố xưng bệnh nặng và được phong làm Thái trung Đại phu, ăn lộc quan Khanh. Điền Dự từ quan về nhà, trú ở huyện Ngụy. Gặp lúc quận Nhữ Nam sai Kiện Bộ đi đánh phương bắc, cảm kích ân đức của Dự, qua bái tạ ông. Điền Dự bèn giết gà nấu cơm, đi tiễn đến đầu bờ ruộng. Kiện Bộ thương ông nghèo khổ, khóc lóc mà đi, trở về được quan dân khen ngợi. Người quận Nhữ Nam góp mấy nghìn đồng tiền, sai người đến tặng Điền Dự nhưng ông không lấy một thứ gì. Khi ông sắp mất, có dặn vợ con phải táng ông ở bên cạnh mộ Tây Môn Báo. Vợ ông hỏi vì sao, ông đáp: "“Việc mà Báo làm giống ngang với ta vậy, cho nên lúc chết vẫn có linh, tất làm bạn với ta”". Vợ con ông nghe theo. Người quận Nhữ Nam nghe tin ông mất, bùi ngùi, rồi vẽ tranh hình ông, lại làm bia khắc công. Ông mất năm 82 tuổi, không rõ năm nào. Ông hoạt động trong khoảng 50 năm. Con ông là Điền Bành Tổ nối tự.
wiki
Điền Dự
Ông mất năm 82 tuổi, không rõ năm nào. Ông hoạt động trong khoảng 50 năm. Con ông là Điền Bành Tổ nối tự. Năm 254, Tào Phương hạ chiếu khen thưởng, ban tiền gạo cho gia đình ông. Dù có nhiều công lao với Tào Ngụy và từng có thời gian theo Lưu Bị nhưng Điền Dự không được La Quán Trung nhắc đến trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa. Đánh giá. Điền Dự trong sạch tiết kiệm, có ban thưởng đều chia cho tướng sĩ. Mỗi khi người Hồ, người Địch tặng riêng, ông đều cất vào sở quan, không giấu ở nhà riêng; nhà thường nghèo túng. Nhiều người khen tiết tháo cao đẹp của ông. Trong sách Tam Quốc chí, Trần Thọ ca ngợi ông là người "nhàn nhã thanh bạch, mưu lược sáng suốt mà tinh tường".
wiki
Bộ chỉ huy tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh
Bộ chỉ huy tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh (tiếng Anh: "Supreme Headquarters Allied Expeditionary Force" - SHAEF ; ) là cơ quan chỉ huy các lực lượng Đồng minh ở Tây Bắc châu Âu, từ cuối năm 1943 cho đến khi Thế chiến thứ hai kết thúc. Đại tướng Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower là Chỉ huy trưởng của SHAEF trong suốt thời gian tồn tại của nó. Về bản chất, vai trò này có chung nhiệm vụ với Bộ tư lệnh tối cao quân Đồng Minh tại châu Âu và Bộ tư lệnh tối cao quân Đồng Minh tại Đại Tây Dương, tuy nhiên chúng là những cơ quan khác nhau. Lịch sử trong Thế chiến thứ hai.
wiki
Bộ chỉ huy tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh
Lịch sử trong Thế chiến thứ hai. Eisenhower được chuyển từ vai trò chỉ huy trưởng Chiến trường Tác chiến Địa Trung Hải sang chỉ huy trưởng SHAEF, được thành lập tại Trại Griffiss, Bushy Park, Teddington, London, từ tháng 12 năm 1943; trụ sở tại một con phố liền kề tên là Shaef Way, và một cổng vào công viên được gọi là Shaef Gate, vẫn còn cho đến ngày nay. Southwick House được sử dụng làm trụ sở thay thế gần Portsmouth. Các nhân viên của nó đã lên kế hoạch phác thảo cho Chiến dịch Overlord do Trung tướng Sir Frederick E. Morgan, Tham mưu trưởng cho Tư lệnh tối cao quân Đồng Minh ("Chief of Staff to the Supreme Allied Commander" - COSSAC), và Thiếu tướng Ray Barker, lập ra. Morgan, người đã được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng vào giữa tháng 3 năm 1943, bắt đầu lên kế hoạch cho cuộc đổ bộ vào châu Âu trước khi Eisenhower được bổ nhiệm và đưa kế hoạch này thành phiên bản cuối cùng, được thực hiện vào ngày 6 tháng 6 năm 1944. Quá trình đó được định hình bởi Eisenhower và chỉ huy lực lượng trên bộ, Đại tướng Sir Bernard Law Montgomery, trong phần đầu của cuộc đổ bộ.
wiki
Bộ chỉ huy tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh
Chỉ huy sở của SHAEF vẫn ở lại Anh cho đến khi quân Đồng Minh đổ bộ thành công vào nước Pháp. Tại thời điểm đó, Montgomery không còn chỉ huy trưởng các lực lượng trên bộ nhưng tiếp tục làm Tổng tư lệnh Cụm tập đoàn quân 21 của Anh (21 AG) phụ trách cánh phía đông của đầu cầu Normandy. Cụm tập đoàn quân 12 của Mỹ (12 AG) do Trung tướng Omar Bradley chỉ huy phụ trách cánh phía tây của đầu cầu. Khi cuộc đột phá vào Normandy diễn ra, quân Đồng minh tiến hành cuộc tiến công vào miền nam nước Pháp vào ngày 15 tháng 8 năm 1944 với Cụm tập đoàn quân 6 của Mỹ (6 AG) dưới sự chỉ huy của Trung tướng Jacob L. Devers. Trong chiến dịch này, 6 AG nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ chỉ huy Lực lượng Đồng minh ("Allied Forces Headquarters" - AFHQ) thuộc Chiến trường Tác chiến Địa Trung Hải, nhưng sau một tháng quyền chỉ huy được chuyển cho SHAEF. Vào thời điểm này, ba cụm tập đoàn quân đã giữ các hướng tiến công trên Mặt trận phía Tây cho đến khi kết thúc chiến tranh — 21 AG của Anh ở phía Bắc, 12 AG của Mỹ ở Trung tâm và 6 AG ở phía Nam. Đến tháng 12 năm 1944, SHAEF đã dời chỉ huy sở về Khách sạn Trianon Palace ở Versailles, Pháp. Vào tháng 2 năm 1945, nó chuyển đến Reims và vào ngày 26 tháng 5 năm 1945, SHAEF chuyển đến Frankfurt. Lực lượng thuộc quyền.
wiki
Bộ chỉ huy tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh
Lực lượng thuộc quyền. SHAEF chỉ huy số lượng biên chế đơn vị lớn nhất từng tham gia vào một chiến dịch ở Mặt trận phía Tây, với các đơn vị của Mỹ, Pháp Tự do, lực lượng Lục quân Anh và Canada. Nó chỉ huy tất cả các lực lượng đổ bộ đường không của Đồng minh với tư cách là một Tập đoàn quân Dù, cũng như ba cụm tập đoàn quân, với tổng cộng tám tập đoàn quân dã chiến; SHAEF cũng đã giữ quyền chỉ huy một lực lượng hải quân đáng kể trong Chiến dịch Neptune, giai đoạn tấn công Overlord, và hai lực lượng không quân chiến thuật: Không lực 9 Hoa Kỳ và Không lực 2 Chiến thuật RAF. Lực lượng máy bay ném bom chiến lược của Đồng minh tại Anh cũng được đặt dưới sự chỉ huy của SHAEF trong Chiến dịch Neptune. Chỉ huy và tham mưu cao cấp. Các trưởng ban Các phái bộ. Sau khi Đức đầu hàng, SHAEF được giải thể vào ngày 14 tháng 7 năm 1945.
wiki
World Scholar_s Cup
World Scholar's Cup World Scholar's Cup (viết tắt: WSC) là một chương trình học tập theo đội quốc tế với các thí sinh tham gia từ hơn 65 quốc gia. Cuộc thi được thành lập bởi DemiDec, đặc biệt là Daniel Berdichevsky, vào năm 2006. Tổ chức World Scholar's Cup đã tuyên bố rằng mục đích của nó là thu hút học sinh quan tâm đến việc học ngoài chương trình học điển hình và tập trung vào việc đưa sinh viên từ các nền văn hóa khác nhau đến thảo luận các vấn đề và ý tưởng liên quan đến hiện tại.
wiki
Bảo tàng Tổng giáo phận ở Gniezno
Bảo tàng Tổng giáo phận ở Gniezno Bảo tàng Tổng giáo phận ở Gniezno (tiếng Ba Lan: "Muzeum Archidiecezjalne w Gnieźnie") là một bảo tàng tọa lạc tại số 2 phố Kolegiaty, ở thành phố Gniezno, miền trung Ba Lan. Hoạt động của bảo tàng tập trung vào việc bảo tồn và trưng bày các bộ sưu tập của nhà thờ Đức Trinh Nữ Maria Hồn xác lên trời ở Gniezno. Tòa nhà bên cạnh nhà thờ đã được cải tạo lại để làm nơi trưng bày của bảo tàng. Lịch sử. Bảo tàng Tổng giáo phận ở Gniezno được thành lập vào năm 1989, theo quyết định của Giám mục Gniezno lúc bấy giờ là Józef Glemp. Bảo tàng chính thức mở cửa cho công chúng tham quan vào ngày 22 tháng 5 năm 1991. Bộ sưu tập. Các bộ sưu tập của bảo tàng bao gồm các di tích tôn giáo thuộc Tổng giáo phận Gniezno. Ngoài các bộ sưu tập của nhà thờ, bảo tàng còn sở hữu bộ sưu tập các tác phẩm điêu khắc linh thiêng, chén thánh, vải phụng vụ, huy chương, tiền xu, hay kỷ vật của các Tổng giám mục tiền nhiệm. Linh mục Bolesław Dzierwa là giám đốc bảo tàng và cũng là người quản lý đầu tiên của các bộ sưu tập này.
wiki
Isaac Hutchinson
Isaac Hutchinson Isaac Hutchinson (sinh ngày 10 tháng 4 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Southend United. Tuổi thơ và cuộc sống cá nhân. Sinh ra ở Eastbourne, Hutchinson học tại trường Cavendish. Sự nghiệp. Hutchinson khởi đầu sự nghiệp với Ratton Rangers. Sau 8 năm với Brighton & Hove Albion, Hutchinson gia nhập Southend United vào mùa hè năm 2018, theo dạng thử việc. Anh có màn ra mắt vào ngày 4 tháng 9 năm 2018 ở EFL Trophy, ghi một bàn thắng. Anh lần đầu thi đấu ở Football League vào ngày 15 tháng 12 năm 2018.
wiki
Tuy Ninh, Thiệu Dương
Tuy Ninh, Thiệu Dương Tuy Ninh (chữ Hán giản thể: 绥宁县, Hán Việt: "Tuy Ninh huyện") là một huyện thuộc địa cấp thị Thiệu Dương, tỉnh Hồ Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tuy Ninh nằm ở phía tây của Hồ Nam. Huyện này có diện tích 2899 km2, dân số năm 2004 là 348.700 người. GDP của huyện Tuy Ninh năm 2004 à 2,08 tỷ nhân dân tệ, chính quyền đóng ở trấn Trường Phố. Huyện Tuy Ninh có mã số bưu chính 4226xx, mã vùng điện thoại là 0739. Phía bắc huyện này là dãy núi Tuyết Phong, phía nam là núi Đại Nam. Các ngọn núi chủ yếu ở huyện này có Cao Đỉnh Sơn, Ngưu Pha Đầu, Kê Công Pha và Thầnh Pha Sơn.
wiki
Ga công viên trường đua ngựa Seoul
Ga công viên trường đua ngựa Seoul Ga công viên trường đua ngựa Seoul là ga trên tuyến 4 của Tàu điện ngầm Seoul. Đúng với cái tên, nó nằm gần Trường đua Seoul, một trường đua ngựa. Nó thu hút một số lượng người lớn, đặc biệt vào cuối tuần khi hàng ngàn người dân Seoul đổ xô về trường đua để đặt cược ngựa mà họ yêu thích. Điều này thể hiện rõ sự khác biệt giữa hành khách ngày thường và ngày cuối tuần sử dụng nhà ga này. Công viên sân gôn giải trí cũng có thể truy cập thông qua Ga công viên trường đua ngựa Seoul.
wiki
Quản Long
Quản Long là một địa danh hành chính cũ cấp quận thời Việt Nam Cộng hòa. Nơi đây từng là thị xã tỉnh lỵ của tỉnh An Xuyên. Địa bàn Quản Long tương ứng một phần với thành phố Cà Mau ngày nay. Lịch sử. Địa danh Quản Long bắt nguồn từ địa danh tổng Quản Long, huyện Long Xuyên, phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn. Thời Pháp thuộc, tổng Quản Long thuộc quận Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu. Quận lỵ Cà Mau đặt tại làng An Xuyên thuộc tổng Quản Long. Khi chính thể Việt Nam Cộng hòa thành lập, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 32/NV<ref name=32/NV>Sắc lệnh số 32/VN</ref> ngày 9 tháng 3 năm 1956, thành lập tỉnh Cà Mau, tỉnh lỵ nằm trong địa bàn xã An Xuyên, tổng Quản Long, quận Châu Thành. Chỉ 7 tháng sau, ngày 22 tháng 10 năm 1956, Sắc lệnh số 143/VN<ref name=143/VN>Sắc lệnh số 143/VN</ref> "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam" được ban hành. Theo đó tỉnh Cà Mau được đặt lại tên mới là tỉnh An Xuyên, còn tỉnh lỵ đổi tên là Quản Long. Từ đó, Quản Long trở thành địa danh hành chính cấp quận của Việt Nam Cộng hòa cho đến năm 1975. Quận Quản Long khi mới thành lập gồm 4 xã: Tân Xuyên, Tân Lộc, Hòa Thành, Định Thành. Trong đó, xã Tân Xuyên đóng hai vai trò là quận lỵ quận Quản Long và là tỉnh lỵ tỉnh An Xuyên.
wiki
Quản Long
Quận Quản Long khi mới thành lập gồm 4 xã: Tân Xuyên, Tân Lộc, Hòa Thành, Định Thành. Trong đó, xã Tân Xuyên đóng hai vai trò là quận lỵ quận Quản Long và là tỉnh lỵ tỉnh An Xuyên. Chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không thừa nhận phân giới hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Địa bàn quận Quản Long theo quản lý hành chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tương ứng với địa bàn của thị xã Cà Mau và huyện Châu Thành, thuộc tỉnh Cà Mau. Địa bàn thị xã Cà Mau tương ứng với địa bàn xã Tân Xuyên. Địa bàn huyện Châu Thành, gồm 6 xã Hoà Thành, Định Thành, Thạnh Phú, Lợi An, An Xuyên, Tân Thành và thị trấn Tắc Vân; tương ứng hầu hết với phần còn lại của quận Quản Long.
wiki
Vũ Văn Hư Trung
Vũ Văn Hư Trung 宇文虚中 (1079-1146) là nhà thơ, nhà ngoại giao, gián điệp thời Tống;Kim, tự là Thúc Thông 叔通, biệt hiệu Long Khê 龙溪. Người Hoa Dương, Thành Đô (nay là Thành Đô, Tây Xuyên). Ông đỗ Tiến sĩ năm thứ 3 (1109) đời Tống Huy Tông Bắc Tống và làm quan đến Đại học sĩ Tư Chính Điện. Sau khi nhà Tống rời khỏi phía Nam, ông nhận chức Hoàng môn thị lang. Đến niên hiệu Kiến Viêm năm thứ hai (1128) đời Tống Cao Tông, Vũ Văn Hư Trung đi sứ sang Kim, và bị vua Kim Thái Tông nước Kim giam lỏng. Sau khi được trả tự do, ông làm quan nước Kim là Lễ bộ Thượng thư rồi Hàn lâm học sĩ, phong làm Khai quốc công quận Hà Nội và được tôn làm "Quốc sư". Tuy nhiên ông là gián điệp của vua Tống Cao Tông, sang nước Kim là để tìm cách cứu hai vua Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông về, đồng thời báo cáo mọi thông tin của nước Kim cho nhà Tống biết. Năm 1140 Nhạc Phi bắc phạt nước Kim, vây Ngột Truật ở Biện Kinh, có sai người đi liên hệ với Hư Trung (hiện đang làm Quốc sư ở nước Kim), nhờ Hư Trung chuẩn bị làm binh biến tiêu diệt vua Kim Hi Tông ở kinh đô nước Kim để Ngột Truật phải bỏ Biện Kinh chạy về bắc, rồi Nhạc Phi sẽ chặn đánh giữa đường tiêu diệt Ngột Truật. Vũ Văn Hư Trung nghe theo Nhạc Phi, chuẩn bị ngày giờ khởi sự. Tuy nhiên, gián điệp của nước Kim đang ở nhà Tống là Tần Cối gièm pha khiến vua Tống Cao Tông gọi Nhạc Phi về. Hư Trung ở kinh đô nước Kim cũng phải dừng kế hoạch làm binh tiêu diệt vua Kim Hi Tông.
wiki
Vũ Văn Hư Trung
Năm thứ sáu (1146) niên hiệu Hoàng Thống nhà Kim, Hư Trung bí mật âm mưu chính biến để mang Tống Khâm Tông Triệu Hằng trở về Nam. Sự việc thất bại, vua Tống Cao Tông nghe theo Tần Cối mang cả nhà Hư Trung dâng cho nước Kim. Kết cục cả nhà ông bị nước Kim giết.  Tác phẩm của Vũ Văn Hư Trung thời ông còn ở Nam Tống số lượng không nhiều. Nhưng ngược lại, trong thời gian bị giam lỏng ở Nước Kim tác phẩm của ông vô cùng phong phú và chan chứa tinh thần yêu nước. Thơ ông hiện còn khoảng 50 bài và có một số bài từ (2 bài) thể hiện nỗi nhớ cố quốc khôn nguôi.
wiki
Satsuma
Satsuma hay cam ngọt Ôn Châu (Citrus unshiu) là một loại cây ăn quả đột biến thuộc chi Cam chanh có nguồn gốc từ Nhật Bản hoặc Trung Quốc và đã du nhập vào châu Âu. Ở Nhật Bản, tên của nó là "cam ngọt" (mikan) hay "cam ngọt Ôn Châu" (unshū mikan, 温州蜜柑, "Ôn Châu mật cam"). Ở Trung Hoa, tên của loại cam này cũng là "Cam ngọt Ôn Châu" (Wēnzhōu Mìgān, 温州蜜柑, "Ôn Châu mật cam"). Loại quả này còn được gọi là "quýt không hạt" (无核桔, "wúhé jú", "vô hạch kết"). Còn người Triều Tiên lại gọi loại quả này là "quýt" (橘, 귤, "kyul"). Tên gọi. Cái tên "cam ngọt Ôn Châu" liên quan tới thành phố Ôn Châu thuộc tỉnh Chiết Giang, CHND Trung Hoa. Đây là địa phương nổi tiếng về ngành trồng các loại cam và chanh. Thật ra loại cam ngọt Ôn Châu cũng đã được trồng ở Nhật Bản từ thời cổ, và các giống cam ngọt Ôn Châu trồng hiện nay ở Trung Quốc đều có nguồn gốc từ Nhật Bản.Quýt clementine không phải là quả cùng thứ với satsuma. Đặc điểm.
wiki
Satsuma
Đặc điểm. Quả của loài cây này có vị ngọt và không có hạt, có kích thước to hơn quýt ("Citrus reticulata") và nhỏ hơn cam. Một trong những đặc điểm của satsuma là vỏ quả rất mỏng, nhìn giống như da và có nhiều chấm nhỏ cùng với nhiều tuyến tinh dầu nằm xung quanh quả; điều này khiến quả rất dễ được bóc vỏ so với các loại quả khác thuộc chi Cam chanh. Thịt quả cũng rất dễ bị tổn thương trước những va đập mạnh - ví dụ như việc chuyên chở, mang vác không cẩn thận gây ra rơi rớt, va đập. Có điều là do có vỏ không kín khít với thịt quả nên những tổn thương ấy khó lộ ra ngoài và vì vậy khó có thể bị phát hiện bằng mắt thường. Vì vậy các nhà vườn thường ví satsuma là loại quả có chất lượng thất thường do lớp vỏ đã ngăn cản việc đánh giá chất lượng quả qua bề ngoài của nó. Lịch sử. Nguồn gốc của loài cây ăn quả này là từ Nhật Bản. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng loại quả này có nguồn gốc từ Trung Quốc và được trồng cách đây 2400 năm. Các giống cam ngọt Ôn Châu ở Trung Quốc hiện nay đều có nguồn gốc từ Nhật Bản; cụ thể là vào năm 1916, một số giống cây này đã được du nhập vào tỉnh Ôn Châu. Các giống cam ngọt ấy cùng với những giống cây mới phát triển từ nó trở thành loại cây ăn quả chủ lực trong các vườn cây trái Ôn Châu. Trung tâm của nghề trồng cam ngọt Ôn Châu nằm ở trấn Wushan thuộc quận Âu Hải của Ôn Châu. Du nhập vào phương Tây.
wiki
Satsuma
Du nhập vào phương Tây. Loại cây ăn quả này được du nhập từ châu Á vào Phó vương quốc Tân Tây Ban Nha bởi các giáo sĩ Dòng Tên. Những vườn cam đầu tiên được dòng Tên tạo nên ở xứ đạo Plaquemines, Louisiana hiện nay vẫn còn tồn tại.
wiki
Satsuma
Loại quả này trở nên phổ biến hơn ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ thứ 19. Trong năm 1876 vợ của một nhân viên tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Nhật Bản đã đem một lượng cam ngọt Ôn Châu từ tỉnh Satsuma, Kyūshū về Hoa Kỳ; vì vậy tên của loại quả này được gọi là "cam Satsuma" mặc dù nguồn gốc thật sự của nó không phải ở địa phương ấy. Các thành phố mang tên Satsuma ở Alabama, Florida, Texas và Louisiana được đặt theo tên của cam ngọt Ôn Châu. Từ năm 1920 trở đi hạt Jackson tại doi đất Florida bắt đầu mang danh hiệu "Thủ đô cam Satsuma của thế giới." Tuy nhiên nền công nghiệp thương mại đã bị suy sụp nghiêm trọng sau khi một đợt giá rét khủng khiếp quét sang Hoa Kỳ vào cuối thập niên 1930. Sau đó cam ngọt Ôn Châu đã được trồng tại những vùng có khí hậu lạnh hơn vì giống cây này chịu rét tốt (một cây cam trưởng thành có thể chịu được nhiệt độ âm 9,5 độ bách phân (15 độ F) trong vòng vài giờ) và nhiệt độ thấp cũng làm vị ngọt của quả trở nên đậm đà hơn. Độ chịu rét của nó chỉ thua cây kim quất mà thôi. Cam ngọt Ôn Châu có ít gai và điều này cũng làm một điểm khiến nó được các nhà vườn ưa thích. Nếu gieo trồng bằng hạt thì sau 8 năm cây sẽ bắt đầu cho quả; các nhà vườn cũng thường ghép cành cam ngọt Ôn châu vào các cây bố thuộc Chi cam chanh hoặc họ Cửu lý hương khác - trong đó chỉ hay cam ba lá là loại cây bố thông dụng nhất. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Chi Cam chanh|U]] [[Thể loại:Cây thuốc]] [[Thể loại:Trái cây có nguồn gốc Châu Á]] [[Thể loại:Cây thuốc châu Á]] [[Thể loại:Giống cây trồng]]
wiki
Máté Pátkai
Máté Pátkai Máté Pátkai (sinh 6 tháng 3 năm 1988 ở Budapest) là một cầu thủ bóng đá Hungary hiện tại thi đấu cho Videoton FC. Sự nghiệp câu lạc bộ. MTK Budapest. Pátkai khởi đầu sự nghiệp câu lạc bộ ở MTK Budapest FC, ghi được 15 bàn sau 101 trận. Győr. Pátkai được mua bởi Győri ETO FC năm 2012. Thống kê câu lạc bộ. "Cập nhật theo các trận đấu đã diễn ra tính đến ngày 10 tháng 11 năm 2019." Sự nghiệp quốc tế. Ngày 16 tháng 10 năm 2012 Hungary phản công để đánh bại Thổ Nhĩ Kỳ trên sân nhà với tỉ số 3-1. Pátkai được thay bởi Elek vào khoảng nghỉ giữa trận.
wiki
Agnieszka Grochowska
Agnieszka Grochowska Agnieszka Grochowska (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1979) là một diễn viên người Ba Lan. Tiểu sử. Grochowska sinh ra tại Warsaw. Cô tốt nghiệp Học viện nghệ thuật sân khấu quốc gia vào năm 2002. Vào năm 2003, cô bắt đầu làm việc tại Nhà hát Studio ở Warsaw. Grochowska giành được giải thưởng Shooting Stars Award vào năm 2007. Với vai diễn trong bộ phim chính kịch "Shameless" (2012), cô nhận được Giải thưởng điện ảnh Ba Lan ở hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Bên cạnh đó, các vai diễn trong các tác phẩm "The Welts" (2004), "In Darkness" (2011) và "Walesa. Man of Hope" (2013) mang về cho cô thêm ba đề cử khác. Các vai diễn ấn tượng khác nằm trong các bộ phim "Upperdog" (2009), "Trzy minuty. 21:37" (2011) và "Obce niebo" (2015). Cô cũng được đề cử cho Giải thưởng Kanon tại Liên hoan phim quốc tế Kosmorama ở Trondheim. Grochowska được chính phủ Ba Lan trao tặng Chữ thập Vàng và Huy chương Đồng Gloria Artis cho những cống hiến về văn hoá. Cô đã kết hôn với đạo diễn Dariusz Gajewski vào tháng 7 năm 2004. Cặp đôi có hai cậu con trai: Władysław (sinh năm 2012), và Henryk (sinh năm 2016).
wiki
Công đồng Chalcedon
Công Đồng Calcêđônia đã đưa ra một định nghĩa quan trọng có tính cách quyết định cho việc trình bày đức tin về tín điều Nhập thể của Chúa Giêsu. Công đồng khẳng định Đức Giêsu Kitô có hai bản tính, nhân tính và thiên tính, hai bản tính này kết hiệp trong cùng một chủ thể có ngôi vị là Thiên Chúa Ngôi Lời. Về thần tính, Ngôi Lời Chúa Con được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời; còn về nhân tính và trong thời gian, ngài được thụ thai và sinh hạ bởi Maria. Bối cảnh. Nhiều Giám mục không đồng ý với tuyên tín của Công đồng Êphêsô về thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu. Do đó, năm 433, Giám mục Gioan thành Antiokia đưa ra một công thức mới được đưa ra: "Có sự hợp nhất của hai bản tính (...)". Công thức này sau đó được Cyrillo chấp nhận và Giáo hoàng Xíttô II phê chuẩn. Thế nhưng vẫn có một số người không tán thành. Theodoret miền Syria luôn bảo vệ hai bản tính của Đức Kitô, không nói gì đến việc "kết hợp mà không lẫn lộn". Còn viện phụ Eutykes ở Constantinople, cho rằng thiên tính bao trùm nhân tính đến độ chỉ còn thiên tính, đây gọi là Nhất tính thuyết ("Monophysitism"). Ban đầu đây chỉ là một cao trào nhằm tiêu diệt mọi vết tích của Nestorius, bằng việc cách chức nhiều Giám mục xứ Syria có cảm tình với người đã bị Công đồng Êphêsô lên án. Tuy nhiên Giám mục Constantinopolis là Flavianô liền tổ chức một công đồng kết án Eutykes. Tuyên bố phạt vạ tuyệt thông ông này. Vạ này đến sau được Giáo hoàng Lêô I y nhận, khiến vấn đề trở thành lớn. Hội nghị ở Êphêsô.
wiki
Công đồng Chalcedon
Hội nghị ở Êphêsô. Hoàng đế Theodose II bạn của Eutykes liền mời tất cả những Giám mục ủng hộ ông này về dự một hội nghị được tổ chức ở Êphêsô. Hội nghị được đặt dưới quyền chủ tọa của Giám mục Alexandria là Dioscorus, ông này cũng ủng hộ quan điểm của Eutykes. Giáo hoàng Lêô I có cử ba đại diện và gửi thư tỏ lập trường, nhưng Dioscorus không cho đọc lá thư đó. Ông còn yêu cầu Giám mục Eusebius thành Dorylea (Phrygia) người tố cáo Eutykes, phải ra khỏi công đồng, viện lẽ nguyên cáo không được ngồi tòa xét xử. Giành được ưu thế nên Eutykes được tự do bào chữa và chỉ phải ký nhận Kinh Tin Kính Nicea sau đó ông được tha vạ. Ngược lại, Giám mục nào nói Đức Kitô hai bản tính thì đều bị truất chức. Ngay sau đó, quân lính của triều đình được mời đến để "đánh chết những kẻ phân biệt hai bản tính". Flavianô bị đánh trọng thương rồi chết. Giám mục Theodoret báo tin cho Rôma, giáo hoàng Lêô liền lên tiếng phản bác hội nghị Êphêsô. Các sử giả công giáo thường gọi hội nghị này là "mẻ cướp Êphêsô". Mặc dù bị phản bác nhưng học thuyết Eutykes vẫn được công khai tuyên truyền cho đến hoàng đế Theodose II qua đời. Công đồng. Sau khi lên ngôi, tân hoàng đế Marcianus lại ủng hộ lập trường của Rôma. Marcianus quyết định triệu tập một công đồng ở Calcedonia và yêu cầu giáo hoàng đến chủ tọa nhưng Lêô I không thể đi được vì lúc này người Hung Nô đã xâm lăng đất Ý. Nhưng ông cử các đặc sứ gồm 3 Giám mục và 2 linh mục đến chủ tọa công đồng. Nội dung.
wiki
Công đồng Chalcedon
Nội dung. Giám mục Dioscorus đến tham dự công đồng và đề nghị kết án Giám mục Rôma. Nhưng ông bị tố cáo về tội lộng hành và bị công đồng tuyên bố cách chức và lưu đày. Chức vụ của Flavianô được phục hồi. Những người tham gia vào "mẻ cướp Êphêsô" đều bị áp dụng kỷ luật. Về Giáo lý, Bản tuyên tín Nicea-Constantinopoli và thư của giáo hoàng Lêô được đem ra đọc. Các nghị phụ đã đồng thanh tung hô: "Đây là đức tin các Giáo phụ, đức tin các Tông đồ. Tất cả chúng tôi đều tin như vậy... Phêrô đã nói qua miệng Lêô". Công đồng tuyên bố: Về tổ chức giáo hội, công đồng công nhận khoản luật của Công đồng Constantinopolis về các đặc ân dành cho Giáo hội rất thánh ở Constantinople là Rôma mới. Bởi thành phố này có sự hiện của hoàng đế, của thượng viện, và thừa hưởng cùng những đặc quyền như cố đô Rôma; Do đó, thành phố này đóng vai trò quan trọng trong các việc của Giáo hội, chỉ sau Rôma... Hậu công đồng. Nhiều Giám mục Hy Lạp, Syria, Palestin, Ai Cập không chịu ký nhận công thức do Công đồng Calcedonia. Các Giám mục này cho rằng: nếu chấp nhận công thức của Calcedonia; tức là đi ngược với Công đồng Êphêsô, và nhượng bộ Nestorius; nhất là không thể dung hòa được với giáo lý của Cyrillô.
wiki
Công đồng Chalcedon
Giáo chủ thành Alexandria là Timotheus Aelurius, người kế vị Dioscorus đã công khai chống đối công đồng. Cuộc chống đối này kéo dài gần nửa thế kỷ với các giáo chủ nối tiếp. Các đan sĩ, những người có nhiều ảnh hưởng trong quần chúng, kéo nhau theo bè Nhất tính thuyết, làm Giám mục Acacius thành Constantinopoli nghiêng theo. Năm 484, hoàng đế Zenon ban hành chiếu chỉ Henotikos nhằm dung hòa hai bên, bằng một công thức "trung lập" làm ngơ đi tuyên tín của Calcedonia. Tuy nhiên công thức này đã bị Giáo hoàng Fêlix III phản đối và chính thức lên án.
wiki
Cuộc vây hãm Saguntum
Trận Saguntum là một trận chiến diễn ra từ năm 219 TCN tới 218 TCN giữa Carthage và người Saguntine. Trận đánh này chủ yếu được nhớ đến ngày hôm nay là vì nó khơi mào cho một trong những cuộc chiến tranh quan trọng nhất của thế giới cổ đại, Chiến tranh Punic lần thứ hai. Kế hoạch của Hannibal.
wiki
Cuộc vây hãm Saguntum
Kế hoạch của Hannibal. Sau khi Hannibal nắm quyền chỉ huy tối cao của quân đội ở bán đảo Iberia (năm 221 TCN) ở tuổi chỉ 26, ông đã dành hai năm tiếp theo để chuẩn bị và hoàn thành kế hoạch của mình nhằm bảo đảm quyền lực ở Địa Trung Hải. Người La Mã đã không làm gì mặc dù họ đã nhận được cảnh báo về sự chuẩn bị của Hannibal. Họ chưa tìm hiểu được tài năng và quyết tâm của con người mà họ phải đối phó. Người La Mã nghĩ rằng họ có thể đánh bại người thanh niên trẻ Carthage bất cứ khi nào họ muốn. Người La Mã thậm chí bỏ qua Hannibal mà chuyển sự chú ý vào người Ilyria lúc này đã bắt đầu nổi dậy. Người La Mã thậm chí không phản ứng khi nhận tin rằng Hanniabl đang vây hãm Saguntum ở Đông Nam bán đảo Iberia. Họ đã bất mãn khi mà Hannibal đã phá vỡ các hiệp ước thiết lập sau Chiến tranh Punic lần thứ nhất. Việc chiếm Saguntum là cần thiết cho Hannibal trong kế hoạch tổng thể của mình. Thành phố là một trong những sự củng cố vững chắc cho khu vực và sẽ nghèo nàn khi để lại cho kẻ thù của mình. Hanniabl còn cho phép cướp bóc để giữ cho quân đội được vui vẻ (chủ yếu là lính đánh thuê từ Bắc Phi, bán đảo Iberia và Gaul). Và tiền từ thành phố cũng có thể được chi tiêu vào việc giữ cho chính trị của Carthage không đi xuống. Cuộc vây hãm.
wiki
Cuộc vây hãm Saguntum
Cuộc vây hãm. Trong cuộc tấn công của Hannibal vào Saguntum, ông đã nhận một số thất bại vì sự vững chắc của các cứ điểm được xây dựng bên ngoài và sự ngoan cường của người Saguntum, nhưng quân đội của ông đã tấn công ồ ạt và phá hủy các cứ điểm phòng thủ bên ngoài của thành phố cùng một lúc. Người Saguntum quay sang Roma xin sự trợ giúp, nhưng không có đội quân nào được gửi đến. Năm 218 TCN sau tám tháng của cuộc vây hãm, người Saguntum cuối cuối cũng bị đánh bại. Hannibal bây giờ đã có một cơ sở mà từ đó ông có thể cung cấp cho quân đội của ông với thực phẩm và quân nhu. Đây là một trong những sai lầm ngớ ngẩn đầu tiên của người La Mã được thực hiện trong Chiến tranh Punic lần thứ hai: nếu họ gửi quân trợ giúp Saguntum chống lại Hannibal thay vì chiến đấu chống lại người Ilyria khởi nghĩa, họ có thể củng cố thành phố và ngăn Hannibal vượt qua dãy Pyrenee. Kết quả.
wiki
Cuộc vây hãm Saguntum
Kết quả. Sau cuộc vây hãm, Hannibal đã cố gắng để đạt được sự hỗ trợ của viện nguyên lão Carthage. Viện nguyên lão (vốn được lãnh đạo bởi phe thân La Mã của Hanno Vĩ đại) đã không đồng ý với phương án tiến hành chiến tranh của Hannibal và cũng không bao giờ hỗ trợ tuyệt đối cho ông khi ông chỉ còn có cách thành Roma có 5 dặm. Tuy nhiên Hannibal đã có thể đạt được sự hỗ trợ giới hạn mà ông ta được phép để chuyển tới Carthaginio Nova. Tại đây, ông đã tập hợp những người lính của ông và tuyên bố về kế hoạch táo bạo của mình. Một thời gian ngắn sau đó, Hannibal đã thực hiện một cuộc hành hương tôn giáo trước khi bắt đầu hành quân về phía dãy núi Pyrenee, dãy An pơ, và Roma. Các giai đoạn tiếp theo của cuộc chiến được đánh dấu bằng chiến thắng bất ngờ của người Carthage ở Trebia, hồ Trasimene, và có lẽ đáng chú ý nhất là trong trận Cannae.
wiki
Hungry Tree
Hungry Tree (tạm dịch: "Cây đói") là một cái cây nằm trong khuôn viên Đại học King's Inns ở Dublin, Cộng hòa Ireland. Thuộc loại cây "Platanus" × "acerifolia", nó được biết đến khi "ăn" một phần băng ghế công viên gần đó. Cây đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch và thường xuyên được chụp lại ảnh. Hungry Tree cũng là chủ đề của một chiến dịch tổ chức bởi chính trị gia Đảng Xanh Ciarán Cuffe nhằm đảm bảo việc bảo tồn cây. Mô tả. Cây nằm ngay bên trong cổng phía nam của khuôn viên Đại học King's Inns trên Đồi Hiến pháp ở Dublin. Hungry Tree thuộc loại cây "Platanus × hispanica" và từng được trồng rộng rãi ở Dublin vào thế kỷ 19. Nó được ước tính có tuổi đời từ 80 đến 120 năm tuổi. Cái cây, được mô tả như một mẫu vật "có vẻ ngoài tầm thường", cao và chu vi . Cây được trồng ngay cạnh một băng ghế bằng gang có niên đại từ đầu những năm 1800. Qua nhiều thập kỷ, cây đã phát triển đủ để che bóng cái ghế. Cây được cho là "ăn" băng ghế theo chính tên gọi của nó. Các khu vực của King's Inns mở cửa cho công chúng từ 7 giờ sáng đến 7 giờ 30 phút tối hàng ngày và cây đã trở thành một điểm thu hút khách du lịch. Cây cũng xuất hiện trong nhiều bức ảnh chụp và là ảnh bìa của cuốn sách hướng dẫn du lịch "Secret Dublin – an unusual guide" và cuốn sách năm 1981 của nghệ sĩ Robert Ballagh "Dublin". Chiến dịch bảo tồn.
wiki