id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19836323
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Binh%20bi%E1%BA%BFn%20Kerensky%20%E2%80%93%20Krasnov
|
Binh biến Kerensky – Krasnov
|
Binh biến Kerensky – Krasnov là âm mưu của Aleksandr Kerensky nhằm đảo ngược Cách mạng Tháng Mười và giành lại chính quyền từ tay Đảng Bolshevik mà trước đó đã lật đổ ông ta ở Petrograd. Sự kiện này xảy ra vào giữa .
Sau Cách mạng Tháng Mười, Kerensky tẩu thoát khỏi Petrograd, thành phố mà đã thất thủ trước lực lượng Xô viết Petrograd do Đảng Bolshevik lãnh đạo, và nướng náu ở Pskov, sở chỉ huy Phương diện quân Bắc. Tại đây, với sự giúp đỡ của Tướng Pyotr Krasnov, Kerensky đã chiêu mộ thành công 700 lính Cossack hòng tái chiếm thủ đô. Ở Petrograd, những thành phần thù địch Cách mạng Tháng Mười cũng đã mưu toan nổi dậy, dự định phối hợp với kế hoạch tiến quân về thủ đô của Kerensky.
Phe Xô viết nhanh chóng thiết lập phòng tuyến trên các ngọn đồi nằm về phía nam thành phố và đợi chờ cuộc tiến công sắp tới của Kerensky. Đụng độ trên Cao điểm Pulkovo đã kết thúc với cuộc triệt thoái của lực lượng Cossack và sự thất bại của binh biến Junker; Kerensky tháo chạy sau cuộc đàm phán giữa hai bên tham chiến vì ông ta lo sợ bị binh sĩ bán đứng và giao nộp cho phe Xô viết.
Bối cảnh
Sau khi tẩu thoát khỏi Petrograd trong Cách mạng Tháng Mười, Aleksandr Kerensky lên đường tìm kiếm binh lính ủng hộ ông chiếm lại thủ đô và không gặp may cho tới khi dừng chân tại Pskov vào 9 giờ sáng . Tại thị trấn Gatchina trước đó, Kerensky đã suýt bị bắt bởi binh sĩ đồn trú thân Bolshevik.
Pskov bấy giờ là bản doanh của Phương diện quân Bắc dưới quyền Tướng Cheremisov. Tại đây, Kerensky gặp Tướng Pyotr Krasnov, tư lệnh Quân đoàn Kỵ binh 3, người mà trước đó từng tham gia chính biến Kornilov. Kerensky và Krasnov hiệp thương với nhau, tính đem quân về tái chiếm thủ đô mặc cho sự ngờ vực của chính ủy về lòng trung thành của một số binh sĩ thù Kerensky. Krasnov, vốn là người bảo hoàng và không có thiện cảm với Kerensky, vẫn tin tưởng rằng đông đảo binh sĩ của ông sẽ ủng hộ Kerensky chống lại Đảng Bolshevik.
Tham khảo
Thư mục
Cuộc nổi dậy chống Bolshevik
Xung đột năm 1917
Sự kiện vào tháng 11 năm 1917
Nga năm 1917
|
19836333
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Cam%20L%E1%BB%93
|
Nước Cam Lồ
|
Nước Cam Lồ (chữ Phạn: अमृत, Amṛta; chữ Hán: 甘露; bính âm: gānlù) là một từ tiếng Phạn có nghĩa là "bất tử" là một khái niệm trung tâm trong tôn giáo Ấn Độ và thường được nhắc đến trong các thư tịch cổ Ấn Độ như một thứ thuốc trường sinh. Lần xuất hiện đầu tiên của nó là trong Rigveda, nơi nó được coi là một trong một số từ đồng nghĩa với nước thánh Soma vốn là thức uống của thiên thần Deva. Nước Cam Lồ (Amrita) đóng một vai trò quan trọng được ghi nhận trong Samudra manthan (truyền thuyết Khuấy động biển sữa) và là nguyên nhân dẫn đến xung đột giữa các vị thần và Asura nhằm tranh giành nước Cam Lồ (Amrita) ngõ hầu để có được sự bất tử.
Amrita có ý nghĩa khác nhau trong các tôn giáo Ấn Độ khác nhau. Từ Amrit cũng là tên gọi chung của người theo đạo Sikh và Hindu, trong khi dạng nữ tính của nó là Amritā. Amrita có cùng nguồn gốc và có nhiều điểm tương đồng với Ambrosia; cả hai đều có nguồn gốc từ một thần thoại Ấn-Âu nguyên thủy. Amrta mà nghĩa gốc là bất tử. Amrta là hình thức tỉnh lược của Amrta-rasa có nghĩa là trường sinh tửu hay bất tử lộ có nghĩa là rượu trường sinh. Trong thần thoại Ấn Độ thì Amrta là một thứ rượu sữa có quyền năng kỳ bí được tạo ra khi các vị thần hoặc các con quỷ đánh cho biển sữa dậy lên (truyền thuyết Khuấy động biển sữa/Samudra manthan). Amrta thường được so sánh với chất Ambrosia (Ambroisie) là thức ăn của các vị thần trong thần thoại Hy Lạp.
Trong Phật giáo
Trong kinh điển Phật giáo hay trong văn hòa thờ cúng đạo Phật co hình tượng Bồ Tát Quan Thế Âm tay trái cầm bình ngọc Thanh tịnh chứa bình nước Cam Lồ, tay phải cầm nhành Thùy Dương Liễu (nhành dương liễu), dùng nhành nhành dương liễu phẩy nước phổ độ chúng sinh trần thế. Cam Lồ là âm xưa của Cam Lộ theo nghĩa đen thì cam là mật ngọt còn lộ là sương nghĩa là một thứ “sương mật làm mát dịu lòng người”. Trong Phật giáo thì thứ dung dịch Amrta gọi là A-Mật-Rị-Đa (阿密哩多), A-Mật-Lật-Đa (阿蜜㗚哆) ý dịch là bất tử (不死) hay Bất tử dịch (不死液, mật bất tử) hay Thiên tửu (天酒, rượu trời) là loại thuốc huyền diệu bất tử, rượu linh trên trời. Đức Phật được gọi là "Amata Santam" trong Kinh điển Pali. Trong Kinh Amata, Đức Phật khuyên các tu sĩ nên an trú với bốn Satipaṭṭhana: "Này các tỳ khưu, hãy an trụ với tâm an trụ vững chắc trong bốn niệm xứ này. Đừng để cái bất tử bị lạc vào các vị". Phật giáo Trung Quốc mô tả Amrita (甘露/gānlù/Cam Lồ) là thứ thánh thủy gia trì được tạo ra nhờ công đức trì chú.
Trong kinh Phệ Đà (Veda) có nói rằng rượu Tô-Ma là loại mà các vị thần thường hay uống, khi uống nó vào có thể không già, không chết, vị của nó ngọt như mật, cho nên gọi là Cam Lồ. Người ta còn lấy Cam Lồ để ví cho pháp vị nhiệm mầu của Phật pháp, có thể trưởng dưỡng thân tâm của chúng sanh. Trong Mật giáo gọi nước quán đảnh của hai bộ Bất Nhị Chơn Ngôn là Bất tử Cam Lồ (不死甘露). Trong Chú Duy Ma Kinh (注維摩經, Taishō 38, 395) quyển 7 có đoạn rằng: “Chư Thiên dĩ chủng chủng danh dược trữ hải trung, dĩ bảo sơn ma chi, linh thành cam lồ, thực chi đắc tiên, danh bất tử dược (諸天以種種名藥著海中、以寳山摩之、令成甘露、食之得仙、名不死藥, Các vị trời dùng nhiều loại thuốc hay đỗ vào trung biển, lấy núi báu mài với thuốc ấy, khiến thành Cam Lồ, ăn nó vào thành tiên, gọi là thuốc bất tử”), hay “Thiên thực vi Cam Lồ vị dã, thực chi trường thọ, toại hiệu vi bất tử thực dã" (天食爲甘露味也、食之長壽、遂號爲不死食也, Thức ăn của trời có vị Cam Lồ, ăn vào thì sống lâu, ấy mới gọi là thức ăn bất tử)”.
Trong Vô Lượng Thọ Kinh (Taishō 12, 271) quyển thượng cũng có cho biết rằng: “Bát công đức thủy, trạm nhiên doanh mãn, thanh tịnh hương khiết, vị như Cam Lồ (八功德水、湛然盈滿、清淨香潔、味如甘露, Nước có tám thứ công đức vốn vắng lặng, đầy đủ, trong sạch, thơm tinh khiết, mùi vị của nó như Cam Lồ)”. Tại Giang Thiên Thiền Tự (江天禪寺) ở Trấn Giang, Giang Tô thuộc Trung Quốc có hai câu đối tương truyền do vua Mãn Thanh Càn Long ban tặng là: “Cam Lồ thường lưu công đức hải, hương vân diêu ánh Phổ Đà Sơn (甘露常流功德海、香雲遙映普陀山, Cam Lồ thường chảy công đức biển, mây hương xa sáng Phổ Đà Sơn)”. Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毘尼日用切要, Taishō No. 1115) quyển 1 có bài kệ Tẩy Bát (洗鉢, Rửa chén) có liên quan đến Cam Lồ như: “Dĩ thử tẩy bát thủy, như thiên Cam Lồ vị, thí dữ chư quỷ thần, tất giai hoạch bão mãn. Án, ma-hưu-ra-tất-tá-ha (以此洗鉢水、如天甘露味、施與諸鬼神、悉皆獲飽滿、唵、摩休囉悉莎訶, lấy nước rửa bát này, như vị Cam Lồ trời, ban cho các quỷ thần, tất đều được no đủ. Án, ma-hưu ra-tất-tá-ha).”
Chú thích
Liên kết ngoài
Ayurvedic Rasayana – Amrit
Immortal Boons of Amrit and Five Kakars
Depictions in stone at Angkor Wat and Angkor Thom (Cambodia) of how the gods dredged amrit from the bottom of the ocean
https://web.archive.org/web/20110110035820/http://earthrites.org/magazine_article_crowley.htm
https://web.archive.org/web/20110707061343/http://www.20kweb.com/etymology_dictionary_A/origin_of_the_word_ambrosia.htm
Phật giáo
|
19836336
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ATP%20Finals%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
|
ATP Finals 2023 - Đơn
|
Novak Djokovic là đương kim vô địch.
Hạt giống
Thay thế
Kết quả
Chung kết
Bảng Xanh
† Theo quy định của ATP, trận đấu Tsitsipas bỏ cuộc trước Rune được tính là một trận thua trắng 2 set trong việc xác định xếp hạng vòng bảng.
Bảng Đỏ
Tiêu chí xếp hạng: 1. Số trận thắng; 2. Số trận; 3. Trong 2 tay vợt đồng hạng, kết quả đối đầu; 4. Trong 3 tay vợt đồng hạng, tỉ lệ % set thắng, sau đó tỉ lệ % game thắng; 5. Xếp hạng ATP.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Xếp hạng vòng bảng
Kết quả đơn
Đơn
|
19836339
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ATP%20Finals%202023%20-%20%C4%90%C3%B4i
|
ATP Finals 2023 - Đôi
|
Rajeev Ram và Joe Salisbury là đương kim vô địch.
Hạt giống
Thay thế
Kết quả
Chung kết
Bảng Xanh
Bảng Đỏ
Tiêu chí xếp hạng: 1. Số trận thắng; 2. Số trận; 3. Trong 2 tay vợt đồng hạng, kết quả đối đầu; 4. Trong 3 tay vợt đồng hạng, tỉ lệ % set thắng, sau đó tỉ lệ % game thắng; 5. Xếp hạng ATP.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Xếp hạng vòng bảng
Kết quả đôi
Đôi
|
19836342
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sony%20Pictures%20Imageworks
|
Sony Pictures Imageworks
|
Sony Pictures Imageworks Inc. là một xưởng phim hoạt hình máy tính và hiệu ứng hình ảnh của Canada có trụ sở chính tại Vancouver, British Columbia và Montréal, Québec, cùng một văn phòng thuộc Sony Pictures Studios ở Thành phố Culver, California. Sony Pictures Imageworks là một đơn vị của Sony Pictures Motion Picture Group trực thuộc Sony Pictures Entertainment. Công ty đã được Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ công nhận giải Oscar cho tác phẩm Người Nhện 2 và phim ngắn hoạt hình máy tính The ChubbChubbs!, cũng như nhận được nhiều đề cử cho các tác phẩm khác của hãng. Sony Pictures Imageworks đã đảm nhận phần hiệu ứng hình ảnh cho nhiều bộ phim; trong đó có Cá mập siêu bạo chúa, Đặc vụ áo đen: Sứ mệnh toàn cầu và Người Nhện xa nhà. Hãng cũng cung cấp dịch vụ cho một số bộ phim của đạo diễn Robert Zemeckis, bao gồm Contact, Cast Away, The Polar Express và Beowulf.
Kể từ khi thành lập công ty chị em Sony Pictures Animation vào năm 2002, Sony Pictures Imageworks đã tiếp tục sản xuất hoạt hình cho gần như tất cả các bộ phim của Sony Pictures Animation, bao gồm Mùa săn, Surf's Up, Người Nhện: Vũ trụ mới, và các phim thuộc thương hiệu Cơn mưa thịt viên, Xì Trum và Khách sạn huyền bí, cùng với phim hoạt hình cho các hãng phim khác như Giáng sinh phiêu lưu ký cho Aardman Animations (đồng sản xuất với SPA), Tiểu đội cò bay và Chân Nhỏ, bạn ở đâu? cho Warner Animation Group, Phim Angry Birds và Phim Angry Birds 2 cho Rovio Animation (đồng sản xuất với SPA và Rovio), Vươn tới cung trăng cho Netflix và Pearl Studio, và Quái vật biển khơi cho Netflix Animation.
Lịch sử
Sony Pictures Imageworks được thành lập vào năm 1992 với năm nhân viên sử dụng máy tính để lên kế hoạch cho những cảnh phim phức tạp trong những tác phẩm người đóng. Nằm trong tòa nhà TriStar trước đây, tác phẩm đầu tiên của họ là bản hình ảnh hóa trước cho bộ phim Striking Distance năm 1993. Để lấp đầy khoảng trống giữa các đầu việc VFX, Sony Pictures Imageworks quyết định tham gia vào lĩnh vực kinh doanh hoạt hình vốn đem lại lợi nhuận cao hơn. Nỗ lực hoạt họa độc lập đầu tiên của hãng là phim ngắn The ChubbChubbs! do Eric Armstrong đạo diễn. Năm 2002, tác phẩm này đoạt giải Oscar cho Phim hoạt hình ngắn xuất sắc nhất. Early Bloomer, phát hành năm 2003, là phim ngắn thứ hai của công ty và ban đầu được thực hiện như một bài tập viết kịch bản phân cảnh. Sony Pictures Imageworks hoàn thành dự án phim điện ảnh hoạt hình đầu tiên vào năm 2006 với tác phẩm Mùa săn – trong đó phần sản xuất được thực hiện bởi công ty chị em Sony Pictures Animation.
Năm 2007, Sony Pictures Imageworks mua lại xưởng kỹ xảo FrameFlow của Ấn Độ để tận dụng chi phí lao động thấp hơn. Xưởng này sau đó được đổi tên thành Imageworks India, một cơ sở hiện đại được mở tại Chennai một năm sau đó. Để thúc đẩy việc miễn giảm thuế tại New Mexico cũng như tận dụng nguồn nhân tài, một cơ sở sản xuất vệ tinh đã được mở vào năm 2007 tại Albuquerque, trở thành cơ sở sản xuất hậu kỳ lớn nhất ở bang này. Năm 2010, Sony Pictures Imageworks mở một xưởng sản xuất ở Vancouver, British Columbia để tận dụng nguồn nhân tài địa phương và các ưu đãi cho sản xuất điện ảnh từ chính phủ. Hai năm sau, hãng phim đã tăng gấp đôi cơ sở vật chất ở Vancouver. Đồng thời, xưởng phim Albuquerque bị đóng cửa do trợ cấp của New Mexico giảm và khó thu hút các nghệ sĩ chuyển đến đó.
Đầu năm 2014, như một phần trong động thái cắt giảm chi phí của Sony, SPI đã chuyển một phần đội ngũ công nghệ của hãng từ trụ sở chính ở Thành phố Culver đến Vancouver. Đến tháng 5 năm 2014, toàn bộ trụ sở chính và hoạt động sản xuất đã được chuyển đến Vancouver, chỉ còn lại một văn phòng nhỏ ở Thành phố Culver. Đồng thời, SPI đóng cửa xưởng phim ở Ấn Độ, sa thải khoảng 100 nhân sự. Một năm sau, hơn 700 nghệ sĩ chuyển đến trụ sở mới rộng 74.000 foot vuông ở Vancouver.
Xem thêm
Sony Pictures Animation
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công ty có trụ sở tại Thành phố Culver, California
Công ty có trụ sở tại Vancouver
Xưởng phim hoạt hình Mỹ
Công ty truyền thông đại chúng thành lập năm 1992
Xưởng phim hoạt hình Canada
Hoạt hình máy tính
Sony Pictures Entertainment
Công ty con của Sony
Công ty hiệu ứng hình ảnh
Phim và người giành giải Oscar cho hiệu ứng hình ảnh xuất sắc nhất
|
19836350
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tina%20Datta
|
Tina Datta
|
Tina Datta (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1991 tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ) là một nữ diễn viên và người mẫu tham gia các bộ phim truyền hình bằng tiếng Hindi. Cô được biết đến qua vai diễn Ichcha trong bộ phim Con của người hầu gái và giúp cô nhận về giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại lễ trao giải thưởng của Hiệp hội Nhà sản xuất Hoa Kỳ. Cô cũng tham gia mùa thứ 7 của chương trình Fear Factor: Khatron Ke Khiladi và mùa thứ 16 của chương trình Bigg Boss.
Tiểu sử và đời tư
Tina Datta sinh ngày 27 tháng 11 năm 1991 tại Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ có cha là Madhumita Datta và mẹ là Tapan Datta. Ngoài ra, cô còn có một người anh trai tên là Debraj Datta.
Cô cũng là người đam mê bộ môn yoga và pilates. Trong thời gian Ấn Độ phong tỏa do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, cô quyết định chuyển sang tập yoga. Ngoài ra, cô còn thành thạo múa cột và kickboxing.
Sự nghiệp
Những vai diễn đầu tay (1996–2008)
Tina Datta có vai chính đầu tay từ lúc lên 5 tuổi khi cô tham gia bộ phim Sister Nivedita. Vài năm sau, cô có vai chính đầu tay với tư cách là một diễn viên nhí khi cô tham gia bộ phim bằng tiếng Bengal mang tên Pita Maata Santan. Cô từng đóng một số bộ phim truyền hình bằng tiếng Bengal, trong đó có bộ phim Khela. Cô từng tham gia bộ phim Chokher Bali của đạo diễn Rituparno Ghosh và đóng chung với Aishwarya Rai. Cô cũng từng vào vai diễn Lalita thời trẻ trong bộ phim điện ảnh Parineeta. Để vào vai diễn trong bộ phim này, cô từng đi thử vai ở Kolkata và được đạo diễn Pradeep Sarkar đánh giá là phù hợp với vai diễn này. Năm 2008, cô vào vai Kumkum Roy Choudhary trong bộ phim thần thoại bằng tiếng Bengal mang tên Durga.
Đỉnh cao trong sự nghiệp và sự ghi nhận trong diễn xuất (2009–2021)
Từ năm 2009 đến năm 2015, cô vào vai Ichcha Bundela và Meethi Bundela, đóng chung với Nandish Sandhu và Mrunal Jain trong bộ phim Con của người hầu gái. Diễn xuất của cô trong phim được hoan nghênh rộng rãi và đã giúp cô mang về Giải thưởng Nữ diễn viên xuất sắc nhất phim truyện truyền hình tại Giải thưởng của Hiệp hội Nhà sản xuất Hoa Kỳ.
Năm 2016, cô tham gia mùa thứ 7 của chương trình truyền hình thực tế Fear Factor: Khatron Ke Khiladi và kết thúc ở vị trí thứ 12. Từ năm 2017 đến năm 2018, cô vào vai nữ thần Dhamini trong bộ phim thần thoại Karmaphal Daata Shani. Từ năm 2018 đến năm 2019, cô vào vai Jhanvi Mourya và Kundani Roy trong bộ phim lãng mạn huyền bí mang tên Daayan.
Năm 2020, cô vào vai Ketki Maheshwari trong bộ phim chiếu mạng thuộc thể loại hình sự mang tên Naxalbari và đóng chung với Rajeev Khandelwal. Tạp chí Indian Today đã nhận xét rằng: "Tina Datta đã mang một luồng gió mới vào nhân vật Ketki, một dịch giả làm việc cho các cơ quan chính phủ". Vai diễn này đã giúp cô giành được giải thưởng Diễn viên có vai chính đầu tay xuất sắc nhất phim chiếu mạng của Giải thưởng Danh vọng Toàn cầu. Năm 2021, cô tham gia bộ phim ca nhạc đầu tay qua bài hát bằng tiếng Bengal mang tên Durga Maa Elo Re qua phần trình bày của Mika Singh.
Bigg Boss và một số công việc khác (2022–nay)
Từ năm 2022 đến năm 2023, cô tham gia mùa thứ 16 của chương trình truyền hình thực tế Bigg Boss trên kênh Colors TV. Cô kết thúc chương trình với vị trí thứ 8 sau 119 ngày ở trong ngôi nhà chung của chương trình. Cô cũng là thí sinh được trả lương cao thứ nhì trong chương trình. Năm 2023, cô vào vai Surili Ahuja Banerjee trong bộ phim Hum Rahe Na Rahe Hum phát sóng trên kênh Sony TV và đóng chung với Jay Bhanushali.
Sự nổi tiếng trong giới truyền thông
Tina Datta từng được tạp chí The Times of India xếp hạng thứ 19 trong Danh sách những người phụ nữ được khao khát nhất vào năm 2019.
Vào năm 2023, cô là người mẫu trình diễn cho Shivayu tại Tuần lễ thời trang cao cấp Jaipur và Eunoia và cũng tham gia Tuần lễ thời trang Pune Times.
Danh sách tác phẩm
Phim điện ảnh
Phim truyền hình
Với tư cách là khách mời
Phim chiếu mạng
Phim ca nhạc
Giải thưởng và đề cử
Xem thêm
Rashami Desai
Nandish Sandhu
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1991
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên điện ảnh Ấn Độ
Nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ
Nữ diễn viên Ấn Độ thế kỷ 21
|
19836359
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20h%E1%BA%ADu%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%202024
|
Hoa hậu Quốc tế 2024
|
Hoa hậu Quốc tế 2024 là cuộc thi Hoa hậu Quốc tế lần thứ 62, được tổ chức vào ngày 12 tháng 11 năm 2024 tại Tokyo, Nhật Bản. Hoa hậu Quốc tế 2023 Andrea Rubio đến từ Venezuela sẽ trao lại vương miện cho người kế nhiệm vào cuối đêm chung kết.
Kết quả
Xếp hạng
§: Thí sinh được vào thẳng Top 15 nhờ bình chọn trực tuyến.
Các Hoa hậu Châu lục
Các giải thưởng đặc biệt
Thí sinh tham gia
8 thí sinh đã được xác nhận:
Các cuộc thi quốc gia
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
19836371
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%91c%20th%C3%A1nh
|
Cốc thánh
|
Cốc thánh (tiếng Anh: Chalice, tiếng La-tinh: Calix, vay mượn từ tiếng Hy Lạp là: κύλιξ, kylix nghĩa là cốc) hay còn gọi là ly bầu (Goblet) là một chiếc cốc có chân dùng để đựng đồ uống, thường là rượu. Trong thực hành tôn giáo, cốc thánh hay ly thánh thường được dùng để uống trong buổi Thánh lễ hoặc có thể mang một ý nghĩa tượng trưng nhất định. Khi khai mạc các buổi thờ phượng theo thuyết Nhất vị luận, nhiều giáo đoàn thắp ngọn lửa bên trong ly thánh. Chén thánh lửa là biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất của dòng Nhất vị luận và các hiệp hội của dòng thuyết này. Cốc thánh là biểu tượng của sự tranh đấu tự do tôn giáo khỏi sự áp đặt giáo lý dưới hệ thống cấp bậc; ngọn lửa được hiểu như một đài tưởng niệm những người đã hy sinh mạng sống của mình vì tự do tôn giáo trong suốt lịch sử, chiếc cốc rực lửa giống như một cây thánh giá, tượng trưng cho nguồn gốc Cơ Đốc giáo. Theo truyền thống Kitô giáo, thì cốc thánh là chiếc bình cốc mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong Bữa Tiệc Ly để rót rượu. Các văn bản Tân Ước không đề cập đến chiếc cốc ngoại trừ trong bối cảnh Bữa Tiệc Ly.
Vào thời La Mã cổ đại thì cốc có đế chân (calix) là một bình uống nước bao gồm một cái bát cố định trên một giá đỡ và được sử dụng phổ biến trong các bữa tiệc. Trong Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương, Chính thống giáo Cổ Đông phương, Anh giáo, Giáo hội Luther và một số giáo phái Cơ Đốc giáo khác, thì ly thánh là một chiếc cốc đứng dùng để đựng rượu bí tích trong Thánh Thể (còn được gọi là Bữa tối của Chúa hoặc Rước lễ). Cốc thánh thường được làm bằng kim loại quý, và đôi khi chúng được tráng men và đính đồ trang sức, đá quý. Chiếc cốc vàng tượng trưng cho gia đình và truyền thống. Cốc thánh được coi là một trong những vật linh thiêng nhất trong việc thờ phượng phụng vụ của Cơ đốc giáo và nó thường được làm phép trước khi sử dụng. Trong Giáo hội Công giáo La Mã và một số Giáo hội Công giáo Anh, theo phong tục, một chén thánh được thánh hiến bằng cách được xức dầu cùng với dầu thánh hiến, và việc thánh hiến này chỉ có thể được thực hiện dưới tay giám mục hoặc tu viện trưởng (chỉ được sử dụng trong tu viện của chính mình cai quản).
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
"Chalice" article from the Catholic Encyclopedia
Stem glass classification
Thánh lễ
Đồ dùng
Cơ Đốc giáo
|
19836381
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20hoang%20m%E1%BA%A1c%20l%E1%BA%A1nh%20gi%C3%A1%20c%E1%BB%A7a%20Turan
|
Các hoang mạc lạnh giá của Turan
|
Các hoang mạc lạnh giá của Turan là di sản xuyên quốc gia ở khu vực lịch sử Turan thuộc ba quốc gia Kazakhstan, Turkmenistan, Uzbekistan được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2023. Nó trải dài từ Biển Caspi ở phía tây cho đến các dãy núi cao của Trung Á ở phía đông. Di sản này bao gồm 14 địa điểm riêng lẻ nằm trong các khu vực được bảo vệ.
Đặc trưng của khu vực này là sự biến động nhiệt độ khắc nghiệt, với mùa đông cực kỳ lạnh giá và mùa hè rất nóng. Sự biến động của gió, lượng mưa, mạch nước ngầm và nhiệt độ đã tạo ra nhiều loại hoang mạc khác nhau: từ các hoang mạc cát, đất sét, thạch cao và đá cũng như các chảo muối. Trong môi trường khắc nghiệt nhưng một hệ động thực vật đa dạng đã phát triển và thích nghi qua quá trình tiến hóa để thích ứng với điều kiện khí hậu. Các hoang mạc là nơi sinh trưởng của nhiều loài thực vật đặc hữu, nhiều loài côn trùng, bò sát, lưỡng cư và chim sinh sản. Chúng cũng là nơi dừng chân quan trọng của các loài chim di cư. Các hoang mạc của Turan cũng là nơi trú ẩn của các loài động vật có vú có nguy cơ tuyệt chủng như linh dương bướu giáp, linh dương Saiga và cừu núi Trung Á, báo tuyết, inh cẩu vằn, và kền kền Ai Cập. Các khu rừng cây Saxaul trong khu vực là nơi hấp thụ khí cacbonic quan trọng có ý nghĩa toàn cầu. Đây cũng là nơi diễn ra quá trình diễn thế sinh thái khi có hoang mạc trẻ nhất thế giới, sa mạc Aralkum xuất hiện từ năm 1960 trên khu vực đáy biển từng là biển Aral.
Danh sách
Dưới đây là 14 phần tạo thành di sản thế giới Các hoang mạc lạnh giá của Turan:
Kazhakstan
Đông Altyn-Emel, Vườn quốc gia Altyn-Emel
Trung Altyn-Emel, Vườn quốc gia Altyn-Emel
Tây Altyn-Emel, Vườn quốc gia Altyn-Emel
Đảo Barsa-Kelmes, Khu bảo tồn thiên nhiên Barsa-Kelmes
Đảo Kaskakulan, Khu bảo tồn thiên nhiên Barsa-Kelmes.
Turkmenistan
Khu bảo tồn thiên nhiên Bereketli Garagum
Khu bảo tồn thiên nhiên Gaplaňgyr
Khu dự trữ sinh quyển Repetek, Đông Karakum
Yeradzhi, Đông Karakum
Uzbekistan
Saigachy, Bắc Ustyurt
Saigachy-Beleuli, Bắc Ustyurt
Saigachy-Duana, Bắc Ustyurt
Saigachy-Zhideyli, Bắc Ustyurt
Nam Ustyurt
Tham khảo
Di sản thế giới tại Kazakhstan
Di sản thế giới tại Turkmenistan
Di sản thế giới tại Uzbekistan
|
19836388
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C6%B0%E1%BB%A3u%20b%C3%AD%20t%C3%ADch
|
Rượu bí tích
|
Rượu bí tích (Sacramental wine) hay rượu hiệp lễ hoặc rượu thánh hiến là rượu thu được từ nho và dùng để cử hành Bí tích Thánh Thể (còn được gọi là Bữa Tiệc Ly hoặc Tiệc Thánh, cùng với các tên khác). Rượu bí tích thường được uống sau khi ăn xong bánh Thánh trong một buỗi lễ Thánh. Vốn dĩ tục uống rượu nho là phổ biến ở vùng Địa Trung Hải thời cổ đại, nghi lễ dâng rượu cúng này cũng mang nhiều ý nghĩa biểu tượng, chẳng hạn như sự mầu nhiệm về bản tính nhân loại và tính thánh thiêng của Chúa Kitô, sự hiệp nhất của Chúa với Giáo hội, và máu của Chúa và nước dịch thân thể chảy từ cạnh mạng sườn Chúa Kitô khi Chúa bị một tên lính La Mã thọc sườn chết. Trong Nghi thức Byzantine của Giáo hội Chính thống Đông phương và một số Giáo hội Công giáo Đông phương, phương pháp thông thường là dùng thìa đưa cho người nhấp một ngụm rượu thánh cùng với một phần bánh thánh đã được truyền phép để trong chén Thánh.
Rượu được sử dụng trong các lễ kỷ niệm sớm nhất của Bữa tối của Chúa. Sứ đồ Phao-lô viết trong 1 Cô-rinh-tô 10:16: "Chén chúc lành mà chúng ta chúc tụng không phải là sự hiệp thông của máu Chúa Kitô hay sao? Và cái bánh chúng ta bẻ chẳng phải là dự phần vào Mình Chúa hay sao? Vì chúng ta tuy nhiều nhưng chỉ là một tấm bánh, một thân thể, tất cả đều cùng chia một tấm bánh Thánh". Trong thời kỳ Giáo hội sơ khai, cả giáo sĩ và giáo dân đều nhận rượu thánh hiến bằng cách uống từ chén thánh, sau khi nhận một phần bánh thánh hiến. Do nhiều yếu tố, bao gồm cả khó khăn trong việc lấy rượu vang ở các quốc gia Bắc Âu (nơi có khí hậu không phù hợp với nghề trồng nho), việc uống rượu từ chén thánh phần lớn bị hạn chế ở phương Tây đối với linh mục đang cử hành, trong khi những người khác chỉ rước lễ dưới hình bánh. Điều này cũng làm giảm tầm quan trọng mang tính biểu tượng của việc chọn loại rượu vang đỏ. Phần lớn các nhà thờ phụng vụ, chẳng hạn như Nhà thờ Công giáo và Nhà thờ Chính thống Đông phương đều yêu cầu rượu bí tích phải là rượu nho nguyên chất. Các nhà thờ Cơ đốc giáo khác, chẳng hạn như Nhà thờ Giám lý, không chấp nhận việc uống rượu và thay thế nước ép nho bằng rượu vang. Trong Kitô giáo phương Tây, rượu vang trắng đôi khi cũng được sử dụng mà thực tế là để tránh vết bẩn trên khăn trải bàn thờ.
Chú thích
Thánh lễ
Rượu vang
Thực vật trong văn hóa
|
19836389
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Moctezuma%20de%20Tultengo
|
Công tước xứ Moctezuma de Tultengo
|
Công tước xứ Moctezuma de Tultengo (tiếng Tây Ban Nha: Duque de Moctezuma de Tultengo) là tước hiệu cha truyền con nối của giới quý tộc Tây Ban Nha được nắm giữ bởi dòng dõi hậu duệ của Hoàng đế Moctezuma II (Tlatoani thứ 9, hoặc người cai trị Tenochtitlan), thông qua con trai của ông là Pedro de Moctezuma Tlacahuepan (ông là em trai cùng cha khác mẹ của Isabel Moctezuma). Kể từ năm 1766, tước hiệu này gắn liền với Grandeza de España, là một vinh dự cao nhất trong giới quý tộc Tây Ban Nha.
Con trai thứ 2 của Diego Luis, bá tước thứ 3 xứ Moctezuma là José Sarmiento de Valladares từng giữ chức Phó vương Tân Tây Ban Nha từ năm 1696 đến 1701, và được phong Công tước xứ Atrisco.
Lịch sử
Tước hiệu ban đầu là Bá tước xứ Moctezuma, được Vua Felipe IV của Tây Ban Nha trao cho Pedro Tesifón Moctezuma de la Cueva, Tử tước xứ Ilucán thứ nhất, Lãnh chúa xứ Tula và Peza, một Hiệp sĩ dòng Santiago và là chắc trai của Hoàng đế Aztec Moctezuma II thông qua con trai ông là Pedro de Moctezuma Tlacahuepan và cháu trai Diego Luis Moctezuma (Ihuitl Temoc), cha của Pedro Tesifón Moctezuma de la Cueva, người đã đến Tây Ban Nha. Carlos II của Tây Ban Nha sau đó đã trao cho người thứ hai tước hiệu de Tultengo, ám chỉ một thị trấn ở bang Hidalgo của Mexico ngày nay, một phần tài sản thừa kế của con trai Moctezuma là Pedro. Tất cả những người nắm giữ tước vị tiếp theo từ 1635-1865 đều sử dụng tước hiệu "Bá tước xứ Moctezuma de Tultengo" cho đến khi de Tultengo được thăng cấp Công tước. Tước hiệu Công tước xứ Moctezuma (không bao gồm 'de Tultengo') được trao cho Antonio María Marcilla de Teruel-Moctezuma y Navarro, Bá tước thứ 14 xứ Moctezuma de Tultengo và Hầu tước thứ 11 xứ Tenebrón vào ngày 11 tháng 10 năm 1865 bởi Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha.
Người giữ tước hiệu hiện tại là Juan José Marcilla de Teruel-Moctezuma y Valcárcel, Công tước thứ 6 xứ Moctezuma de Tultengo. Cha của ông đã đảm nhận tước hiệu này và được vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha phong lại tước vị de Tultengo vào năm 1992.
Tham khảo
Thư mục
GONZÁLEZ ACOSTA, Alejandro. “Los herederos de Moctezuma”. Boletín Millares Carlo. ISSN 0211-2140, Nº. 20, 2001. Págs. 151-158.
ÁLVAREZ NOGAL, Carlos. “El Conde de Moctezuma en el Reino de Granada.” El reino de Granada y el Nuevo Mundo. V Congreso Internacional de Historia de América, mayo de 1992, Vol. 2, 1994. . Págs. 105-116.
Công tước xứ Moctezuma de Tultengo
Công tước Tây Ban Nha
Gia tộc Moctezuma
Grandee Tây Ban Nha
|
19836400
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20d%E1%BB%B1%20sinh
|
Ngày dự sinh
|
Ngày dự sinh hay ngày dự kiến sinh (tiếng Anh: estimated date of delivery (EDD), expected date of confinement, estimated due date hay due date) là một thuật ngữ mô tả ngày sinh con dự kiến của phụ nữ mang thai. Thai kỳ bình thường kéo dài từ 38 đến 42 tuần. Khoảng 4% trẻ được sinh đúng vào ngày dự sinh.
Phương pháp ước tính
Việc ước tính ngày dự sinh về cơ bản tuân theo hai bước:
Xác định thời điểm gốc của tuổi thai. Thời điểm bắt đầu là kỳ kinh nguyệt bình thường cuối cùng của người đó hoặc thời gian tương ứng được ước tính bằng phương pháp chính xác hơn (nếu có). Những phương pháp như vậy cộng thêm 14 ngày vào khoảng thời gian kể từ khi thụ tinh (có thể thực hiện được trong thụ tinh trong ống nghiệm) hoặc bằng siêu âm sản phụ khoa.
Cộng tuổi thai ước tính lúc sinh vào thời điểm trên. Thời điểm sinh con trung bình xảy ra ở tuổi thai 280 ngày (40 tuần),do đó thường được sử dụng làm ước tính tiêu chuẩn cho từng lần mang thai. Tuy nhiên, thời lượng thay thế cũng như các phương pháp cá nhân hóa hơn cũng đã được đề xuất.
Ước tính tuổi thai
Theo Trường Cao đẳng Sản phụ khoa Hoa Kỳ, các phương pháp chính để tính tuổi thai là:
Tính trực tiếp số ngày kể từ ngày bắt đầu kỳ kinh cuối cùng (KCC).
Siêu âm sản phụ khoa sớm, so sánh kích thước của phôi hoặc bào thai với kích thước của người mang thai tham chiếu đã biết tuổi thai (chẳng hạn như được tính từ kỳ kinh nguyệt cuối cùng) và sử dụng tuổi thai trung bình của các phôi hoặc bào thai khác có cùng kích thước. Nếu tuổi thai được tính từ lần siêu âm sớm trái ngược với tuổi thai được tính trực tiếp từ kỳ kinh cuối cùng, thì đó vẫn là tuổi thai được tính từ siêu âm sớm cho phần còn lại của thai kỳ.
Với trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm, số ngày tính từ khi lấy noãn hoặc ủ đồng thời và cộng thêm 14 ngày.
Siêu âm trong ba tháng đầu thường được coi là cách chính xác nhất để đo tuổi thai.
Ước tính tuổi thai lúc sinh
Thời điểm sinh con trung bình xảy ra ở tuổi thai 280 ngày (40 tuần), do đó nó thường được sử dụng làm ước tính tiêu chuẩn cho từng lần mang thai. Tuy nhiên, thời lượng thay thế cũng như các phương pháp cá nhân hóa hơn cũng đã được đề xuất. Trong mọi trường hợp, có sự khác biệt đáng kể giữa từng người mang thai.
Chênh lệch
Vì những khoảng thời gian mang thai này chỉ là ước tính trung bình nên sẽ hữu ích nếu coi thời gian sinh con là một khoảng ngày thay vì là một "ngày dự sinh" duy nhất. Giá trị trung vị chỉ đơn thuần là một hướng dẫn cho ngày mà một nửa số ca sinh sớm hơn và một nửa số ca sinh muộn hơn. Các ca sinh hiếm khi xảy ra vào ngày dự sinh, mà tập trung vào khoảng ngày dự sinh. Một nghiên cứu về các trường hợp sinh một con thành công ở Hoa Kỳ đã đưa ra kết quả rằng thời điểm sinh con có độ lệch chuẩn là 14 ngày khi tuổi thai được ước tính bằng siêu âm ba tháng đầu, và là 16 ngày khi ước tính trực tiếp theo kỳ kinh nguyệt cuối cùng.
Quy tắc Naegele
Quy tắc Naegele (tiếng Anh: Naegele's rule) là một cách tiêu chuẩn để tính ngày dự sinh khi giả sử tuổi thai là 280 ngày lúc sinh con. Quy tắc này ước tính ngày dự sinh bằng cách cộng thêm một năm, trừ đi ba tháng và cộng thêm bảy ngày vào thời gian gốc của tuổi thai. Kết quả tính ra là khoảng 280 ngày (40 tuần) kể từ khi bắt đầu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Một phương pháp khác là cộng thêm 9 tháng 7 ngày vào ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng.
Quy tắc Naegele được đặt theo tên Franz Karl Naegele, bác sĩ sản khoa người Đức, người đã nghĩ ra quy tắc này. Naegele sinh ngày 12 tháng 7 năm 1778 tại Düsseldorf, Đức. Năm 1806, Naegele trở thành giáo sư bình thường và giám đốc bệnh viện ở Heidelberg. Cuốn Lehrbuch der Geburtshilfe của ông, xuất bản năm 1830 dành cho các nữ hộ sinh, đã có 14 lần xuất bản thành công.
Dưới đây là công thức tính Ngày dự sinh ước tính bằng quy tắc Naegele:
KCC + 7 ngày + 9 tháng dương lịch = Ngày dự sinh
Ví dụ:
KCC = 8 tháng 5 năm 2020
+1 năm = ngày 8 tháng 5 năm 2021
−3 tháng = 8 tháng 2 năm 2021
+7 ngày = 15 tháng 2 năm 2021
280 ngày kể từ KCC được xác định bằng cách kiểm tra ngày trong tuần của kỳ kinh nguyệt cuối cùng và có điều chỉnh ngày tính toán để trùng với ngày trong tuần. Như ở ví dụ trên, ngày 8 tháng 5 năm 2020 là thứ Sáu. Ngày tính toán theo công thức (15 tháng 2) là thứ Hai. Khi điều chỉnh sang thứ Sáu gần nhất sẽ là ngày 12 tháng 2, tức là đúng 280 ngày từ ngày 8 tháng 5. Phương pháp tính toán này không phải lúc nào cũng cho kết quả là 280 ngày, vì không phải tất cả các tháng theo lịch đều có cùng độ dài. Ngoài ra, nó không tính đến năm nhuận.
Ứng dụng di động
Các ứng dụng trên thiết bị di động về cơ bản luôn đưa ra các ước tính nhất quán so với nhau và chính xác cho năm nhuận, trong khi bánh xe thai kỳ làm bằng giấy có thể chênh lệch 7 ngày và thường không chính xác cho năm nhuận.
Các thời lượng đề xuất khác
276 ngày cho cả tuổi thai ước tính bằng siêu âm và ước tính theo ngày bắt đầu kỳ kinh cuối cùng, theo một nghiên cứu ở Hoa Kỳ trên 1867 ca sinh đơn thành công.
281 ngày sau KCC với độ lệch chuẩn là 13 ngày, kết quả của một nghiên cứu dựa trên dân số với 427.581 ca sinh đơn ở Thụy Điển.
281 ngày sau KCC với bà mẹ sinh lần đầu và 280 ngày đối với tất cả những người khác là mức trung bình do một nghiên cứu của Mỹ phát hiện năm 1995, trên 1.970 ca sinh tự nhiên. Độ lệch chuẩn là 7–9 ngày.
282 ngày sau KCC được khuyến nghị cho những trường hợp KCC là yếu tố duy nhất được biết đến, trong một nghiên cứu dựa trên 17.450 bệnh nhân kết hợp kỹ thuật đo KCC và siêu âm.
Trung bình là 288 ngày (274 ngày kể từ ngày rụng trứng) đối với bà mẹ sinh lần đầu và 283 ngày (269 ngày kể từ ngày rụng trứng) đối với bà mẹ sinh lần hai trở đi, theo một nghiên cứu năm 1990 trên 114 người da trắng được chăm sóc tư nhân, mang thai không biến chứng và chuyển dạ tự nhiên. Các nhà nghiên cứu gợi ý rằng việc loại trừ các trường hợp mang thai có biến chứng (thường dẫn đến sinh non) sẽ có thời gian dài hơn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Pregnancy Due Date Calculator tại BabyCenter.com
Pregnancy Calendar and Due Date Calculator tại American Pregnancy Association
OB Wheel: Pregnancy Calculator - Máy tính tuổi thai đa năng có thể sử dụng ngoại tuyến. Có sẵn dưới dạng ứng dụng web và ứng dụng Android.
Mang thai
Sản khoa
Siêu âm y khoa
Phương trình
Quy tắc ngón cái
|
19836402
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rosario%20Nadal
|
Rosario Nadal
|
María del Rosario Nadal y Fuster de Puigdórfila (sinh ngày 22 tháng 10 năm 1968), còn được gọi là Thân vương phi xứ Preslav, bà là một nhà tư vấn, giám đốc nghệ thuật và cựu người mẫu người Tây Ban Nha. Từng là nàng thơ của Valentino, bà làm cố vấn độc lập cho các nhà sưu tập nghệ thuật tư nhân và giữ chức phó giám đốc của Colección Jumex. Bà là thành viên cấp cao của Gia đình hoàng gia Bulgaria với tư cách là người vợ của Kyril, Thân vương xứ Preslav, người mà bà đã ly thân vào năm 2009.
Rosario là thành viên của gia đình Bá tước xứ Olocau, thuộc giới quý tộc Tây Ban Nha lâu đời ở Palma de Mallorca, và họ là hậu duệ của hoàng đế Aztec Moctezuma II thông qua con gái của ông là Isabel Moctezuma.
Tham khảo
Sinh năm 1968
Nhân vật còn sống
Chuyên gia tư vấn
Vương tộc Sakskoburggotski (Bulgaria)
Nàng thơ
Hoàng tức và Vương tức
Nữ người mẫu Tây Ban Nha
|
19836408
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brachypterois
|
Brachypterois
|
Brachypterois là một chi cá biển thuộc phân họ Scorpaeninae trong họ Cá mù làn. Chi này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1938 bởi Henry Weed Fowler.
Từ nguyên
Tên chi được ghép bởi brakhús (βραχύς trong tiếng Hy Lạp cổ đại, nghĩa là “thấp, ngắn”) và Pterois (một chi cá mù làn), hàm ý đề cập đến các loài trong chi này giống với Pterois nhưng có gai vây lưng ngắn hơn.
Phân loại
Chi Brachypterois được H. W. Fowler lập ra khi ông mô tả B. serrulifer lần đầu vào năm 1938, khi đó là loài duy nhất trong chi này. Trước đó, được Richardson đã mô tả Sebastes serrulatus vào năm 1846. Loài này được chuyển sang chi Brachypterois (tức B. serrulata), và một số nhà ngư học sau này đã hạ B. serrulifer xuống làm đồng nghĩa của B. serrulata. Tuy nhiên, một nghiên cứu thực địa khảo sát các mẫu vật thuộc Brachypterois trên khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương được xuất bản vào năm 2013 đã chỉ ra tính hợp lệ của B. serrulifer và B. serrulata, đồng thời xuất hiện thêm một loài mới trong chi này.
Các loài
Brachypterois curvispina
Brachypterois serrulata
Brachypterois serrulifer
Tham khảo
Họ Cá mù làn
|
19836409
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onkar%20Singh%20Kalkat
|
Onkar Singh Kalkat
|
Thiếu tướng Onkar Singh Kalkat, PVSM, (1917 hoặc 1918 – 3 tháng 12 năm 2004) là một sĩ quan Ấn Độ phục vụ trong Quân đội Ấn Độ thuộc Anh và sau đó là Quân đội Ấn Độ. Ngay sau khi Ấn Độ bị chia cắt vào năm 1947, ông tình cờ phát hiện ra kế hoạch cho Chiến dịch Gulmarg của Pakistan nhằm tấn công phiên quốc Kashmir, hai tháng trước khi chiến dịch bắt đầu. Mặc dù đã báo cáo thông tin với chính quyền Ấn Độ nhưng ông vẫn không được coi trọng. Các quan chức cấp cao của Ấn Độ, bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ lúc bấy giờ là Sardar Baldev Singh, Chuẩn tướng Kalwant Singh và DGMO, Đại tá P. N. Thapar, đã đồng lõa trong việc trì hoãn việc hành động với thông tin của Kalkat. Lời kể của Kalkat cũng cho thấy sự thông đồng của một số quan chức Anh trong cuộc xâm lược Kashmir năm 1947.
Đầu đời
Onkar Singh Kalkat là nghiên cứu sinh sau đại học về kinh tế tại Đại học Delhi.
Binh nghiệp
Ông gia nhập Quân đội Ấn Độ thuộc Anh ở tuổi 24 và theo học tại Trường Cao đẳng Tham mưu Quân chủng Quốc phòng. Ông đã tham gia các chiến dịch ở cả Đông Bắc Ấn Độ lẫn Miến Điện trong khoảng thời gian từ 1938–45, cũng như ở Jammu và Kashmir vào năm 1947 và sau đó là năm 1971, khi ông là chỉ huy của Sư đoàn bộ binh số 14, chỉ huy việc tái chiếm 32 đồn bốt từ tay người Pakistan. Sau đó, ông làm việc với tư cách người hướng dẫn rồi lên Chỉ huy tại Trường Cao đẳng Chiến đấu, Mhow. Ông quyết định nghỉ hưu tự nguyện ở tuổi 54 vào năm 1972. Trong hai năm sau khi nghỉ hưu, ông là Giám đốc Tình báo Quân sự trong Ban Thư ký Nội các, Chính phủ Ấn Độ, làm việc trong Ban Nghiên cứu và Phân tích (R&AW).
Kế hoạch xâm lược của Pakistan
Vào thời điểm Ấn Độ bị chia cắt, Kalkat là Thiếu tướng Lữ đoàn của Lữ đoàn biên giới Bannu, thuộc Pakistan ngày nay, dưới sự chỉ huy của Chuẩn tướng C. P. Murry, một sĩ quan người Anh; họ là những người đang chờ đợi để quay trở lại Ấn Độ và Anh. Sau đó vào tháng 8 năm 1947, Kalkat tình cờ biết được thông tin liên quan đến cuộc xâm lược Kashmir của Pakistan mang tên Chiến dịch Gulmarg, sẽ bắt đầu vào tháng 10. Kalkat được ủy quyền mở thư cho Chuẩn tướng CP Murry khi ông vắng mặt. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1947, Kalkat mở một lá thư như vậy từ Tướng Frank Walter Messervy và thấy bản đính kèm kế hoạch cho Chiến dịch Gulmarg.
Kalkat đã thông báo cho Chuẩn tướng Murry về bức thư, người này lại bảo ông không được nói cho ai biết về thông tin ở Pakistan vì nó có thể khiến ông bị sát hại. Tuy nhiên, ngay sau đó, Kalkat bị Quân đội Pakistan quản thúc tại gia vì nghi ngờ có chuyện gì đó. Kalkat trốn thoát khỏi những kẻ bắt giữ, rời khỏi Mir Ali Mirali, đến Ambala ở Punjab thuộc Ấn Độ và vào ngày 18 tháng 10 năm 1947, ông đi đến Delhi trên một chuyến tàu chở hàng. Ngày hôm sau, ông gặp các quan chức quân sự cấp cao bao gồm Chuẩn tướng Kalwant Singh, Đại tá P. N. Thapar (lúc đó là Giám đốc Tác chiến Quân sự) và Bộ trưởng Quốc phòng Sardar Baldev Singh, kể họ nghe những gì ông biết về cuộc tấn công sắp xảy ra. Nhưng không ai coi Thiếu tướng Kalkat đủ nghiêm túc để hành động và "ban giám đốc tình báo do người Anh điều hành không để ý đến điều đó". Vào thời điểm đó, "cuộc xâm lược sắp xảy ra" đã được báo cáo từ nhiều nơi.
Trước khi rời Pakistan, Thiếu tướng Kalkat, với sự giúp đỡ của những người bạn Hồi giáo và Quận ủy quận Mianwali, đã đưa gia đình rời khỏi Pakistan và đến Ấn Độ. Trong khi Thiếu tướng Kalkat đang tìm kiếm gia đình ở Đông Punjab thì Chiến dịch Gulmarg bắt đầu. Khi đó, chính quyền Ấn Độ đã nhận ra sai lầm của mình. Thiếu tướng Kalkat được truy tìm ngay trong ngày 24 tháng 10. Ông được đưa đến gặp Thủ tướng Nehru, và thủ tướng đã hét vào mặt mọi người vì không coi trọng một sĩ quan ở vị trí có trách nhiệm:
Năm 1983, Kalkat viết cuốn sách có tựa đề Far-flung Frontiers (: Những vùng biên cương xa xôi), trong đó ông mô tả những trải nghiệm của mình. Lời tựa của cuốn sách được viết bởi Thống chế Sam Manekshaw, khi đó là Chuẩn tướng, người đồng ý với lời kể của Kalkat. Cuốn tự truyện này đã được coi là một trong những tự truyện quân sự "có ý nghĩa" nhất được viết ở Ấn Độ, "xét về giá trị quân sự và phạm vi mà nó bao trùm".
Xem thêm
G. K. Reddy
Ghi chú
Tham khảo
Đọc thêm
"There was enough evidence about Tribal Raid" (23 November 2010) Kashmir Sentinel
Sĩ quan quân đội Ấn Độ
Người nhận Huân chương Param Vishisht Seva
Người Ấn Độ theo đạo Sikh
Chỉ huy Trường Cao đẳng Chiến tranh Quân đội, Mhow
Cựu sinh viên Trường Tham mưu Quân chủng Quốc phòng
Sinh năm 1917
Sinh năm 1918
Mất năm 2004
|
19836414
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Siaka%20Stevens
|
Siaka Stevens
|
Siaka Probyn Stevens (24 tháng 8 năm 1905 – 29 tháng 5 năm 1988) là nhà lãnh đạo Sierra Leone năm 1967-1985, trong đó giữ chức Thủ tướng năm 1967-1971 và là Tổng thống năm 1971-1985. Sự lãnh đạo của Stevens nổi bật với kiểu cha truyền con nối cùng sự bê tha, củng cố quyền lực bằng tham nhũng và bóc lột.
Stevens và Đảng Đại hội toàn dân (APC) giành chiến thắng trong tổng tuyển cử Sierra Leone năm 1967 sít sao trước Thủ tướng đương nhiệm Sir Albert Margai của Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP). Tháng 4 năm 1971, Stevens biến Sierra Leone thành nước cộng hòa và trở thành tổng thống một ngày sau khi hiến pháp được Quốc hội Sierra Leone phê chuẩn. Dù thường được coi là tổng thống Sierra Leone đầu tiên, nhưng Tổng thống hợp hiến đầu tiên chính là chánh án Christopher Okoro Cole chỉ sau một ngày tuyên thệ đã từ chức mở đường cho Stevens.
Stevens từng là Chủ tịch Tổ chức châu Phi Thống nhất (OAU) từ ngày 1 tháng 7 năm 1980 đến ngày 24 tháng 6 năm 1981, và đi tiên phong trong việc thành lập Liên minh sông Mano bao gồm Sierra Leone, Liberia và Guinée trong mối quan tâm chung về kinh tế.
Ngày 28 tháng 11 năm 1985. Stevens nghỉ hưu khi hết nhiệm kỳ. Sau khi gây áp lực loại bỏ những nhân vật tiềm năng khác, ông chọn Chỉ huy Quân lực Sierra Leone Thiếu tướng Joseph Saidu Momoh kế nhiệm mình. Ông qua đời ngày 29 tháng 5 năm 1988 tại Freetown.
Thuở thiếu thời
Siaka Probyn Stevens sinh ngày 24 tháng 8 năm 1905 tại Moyamba, Quận Moyamba, Tỉnh Nam của Sierra Leone thuộc Anh với cha là người Limba còn mẹ thuộc tộc Mende. Stevens chủ yếu lớn lên tại Freetown. Học xong tiểu học, Stevens học trung học tại Học viện Albert ở Freetown, rồi gia nhập cảnh sát. Năm 1923-1930, ông được thăng Trung sĩ hạng nhất và Huấn luyện viên súng trường.
Năm 1931-1946, Stevens làm việc xây dựng tuyến đường sắt của Công ty Phát triển Sierra Leone (DELCO), nối Cảng Pepel với các mỏ quặng sắt tại Marampa.
Năm 1943, ông đồng sáng lập Liên đoàn Công nhân Mỏ Thống nhất. Đến năm 1946, ông vào Hội đồng Bảo hộ để đại diện cho quyền lợi của công nhân.
Năm 1947, Stevens học quan hệ lao động tại Cao đẳng Ruskin.
Sự nghiệp chính trị
Năm 1951, Stevens đồng sáng lập Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP) và được bầu vào Hội đồng Lập pháp.
Bất đồng với ban lãnh đạo SLPP, Stevens từ bỏ và đồng sáng lập Đảng Nhân dân Quốc gia (PNP) để giữ chức tổng thư ký và phó lãnh đạo đầu tiên. Năm 1959, ông đến Luân Đôn tham gia đàm phán độc lập. Sau đó, Stevens phát động Phong trào bầu cử trước độc lập (EBIM).
Thủ tướng
Trong bầu cử ngày 17 tháng 3 năm 1967, APC giành chiến thắng sít sao. Stevens được làm Thủ tướng nhưng bị bắt chỉ vài phút sau khi nhậm chức khi nổ ra đảo chính quân sự.
Ngày 26 tháng 4 năm 1968, sau thời gian ngắn quân đội nắm quyền, Stevens tái đảm Thủ tướng. Ngày 20 tháng 4 năm 1971, Hạ viện phê chuẩn hiến pháp cộng hòa. Chánh án Christopher Okoro Cole trở thành toàn quyền lâm thời cuối tháng 3 trong giai đoạn chấm dứt nền quân chủ. Ngày 19 tháng 4 khi nền cộng hòa chính thức ra đời, Cole trở thành tổng thống trong hai ngày rồi từ chức để Stevens thế chỗ nắm quyền hành pháp và lập pháp.
Tổng thống
Năm 1973, cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên theo hiến pháp mới được tổ chức. Bạo lực đã làm hỏng tiến trình bầu cử cũng như SLPP tẩy chay và trao tất cả 85 ghế Hạ viện cho APC. Tháng 3 năm 1976, Stevens được bầu lại làm Tổng thống mà không bị Hạ viện phản đối. Sorie Ibrahim Koroma làm phó tổng thống trong suốt giai đoạn Stevens nắm quyền.
Cho đến hết thập niên 1970, Stevens tiếp tục củng cố quyền lực, đỉnh điểm là trưng cầu dân ý năm 1978 về hiến pháp mới nhằm tạo ra chế độ độc đảng cho APC, dù cho đã như vậy từ khi bắt đầu nền cộng hòa. Ngày 12 tháng 6 ghi nhận 97,1% cử tri bỏ phiếu cho hiến pháp độc đảng mới, số liệu cao đến mức khó tin cho thấy chỉ có thể là gian lận. Các quan sát đồng thuận rằng chính phủ đã thao túng kết quả. Ngay cả những khu vực mà SLPP chiếm ưu thế mà tỷ lệ ủng hộ độc đảng vẫn rất cao.
Sau bầu cử, tất cả thành viên phe đối lập trong Hạ viện buộc phải tham gia APC của Stevens nếu không sẽ mất ghế. Hai năm sau khi được bầu lại với nhiệm kỳ 5 năm, Stevens tuyên thệ thêm nhiệm kỳ 7 năm. Ông còn được biết đến với cái tên Pa Shaki (Cha già dân tộc).
Tổng thống Stevens giữ chức Chủ tịch Tổ chức châu Phi Thống nhất (OAU) từ ngày 1 tháng 7 năm 1980 đến ngày 24 tháng 6 năm 1981. Ông cũng thiết kế và thành lập Liên minh sông Mano gồm Sierra Leone, Liberia và Guinée về vấn đề kinh tế. Stevens kiêm thêm Bộ trưởng Bộ Tài chính từ tháng 12 năm 1981 đến đầu năm 1982.
Chế độ Stevens đầy tham nhũng và áp bức. Nhiều đối thủ một số từng là cộng sự thân cận đã bị bỏ tù và giết hại. Đơn vị An ninh Nội bộ được thành lập để trở thành biệt đội tử thần của Stevens. Stevens thể hiện tinh thần độc tài sâu sắc, thường xuyên ban bố trình trạng khẩn cấp và hành quyết nhiều kẻ thù chính trị.
Stevens cũng hết sức sai lầm trong quản lý kinh tế. Ông và thân tín ăn cướp tài nguyên đất nước đến mức không thể cung cấp một cách cơ bản cho người dân. Hệ thống giáo dục coi như không có. Dù đã nghỉ hưu khi Nội chiến Sierra Leone nổ ra năm 1991, nhưng chính do các tác động của các chính sách chính trị, xã hội và kinh tế của Stevens đã góp phần vào nguyên nhân chiến tranh.
Đối ngoại
Siaka Stevens đã tiếp cận các nước cộng sản như Bắc Triều Tiên, Cuba và Trung Quốc, khiến phương Tây cảnh giác. Tuy vậy, ông thân thiện với Anh trong nhiều vấn đề chính sách đối ngoại. Stevens giám sát quá trình chuyển đổi Sierra Leone từ chế độ Quân chủ lập hiến với Nữ hoàng Elizabeth II là Nữ hoàng Sierra Leone sang hình thức chính phủ cộng hòa. Ông vẫn luôn "thẳng thắn ủng hộ Anh" và không ủng hộ bất cứ hình thức thù địch nào đối với Vương quốc Anh hay hoàng gia. Stevens cho biết ở ngoài châu Phi, Anh sẽ vẫn là người bạn tốt nhất và chân thành nhất của Sierra Leone. Ông tự hào về vai trò tích cực Anh trong lịch sử Sierra Leone. Tên đệm của ông là "Probyn" lấy theo thống đốc Anh Leslie Probyn cai trị Sierra Leone năm 1904 -1910.
Cuối đời
Ngày 28 tháng 11 năm 1985, Stevens mãn nhiệm nghỉ hưu. Ngày 29 tháng 5 năm 1988, Stevens qua đời tại Freetown.
Chú thích
Thư mục
Reno, William. Corruption and State Politics in Sierra Leone (New York: Cambridge University Press), 1995.
Forna Aminata. The Devil That Danced on the Water (London: Flamingo), 2003
Tuchscherer, Konrad. "Siaka Probyn Stevens", Encyclopedia of Modern Dictators, ed. by Frank J. Coppa (New York: Peter Lang), 2006, pp. 292–295.
Tuchscherer, Konrad. "Siaka Probyn Stevens: Reflection on a Sierra Leonean Leader", Awoko (Freetown, Sierra Leone), 25 August 2003, p. 5.
Tuchscherer, Konrad. "Reflection on African Leadership: Siaka Probyn Stevens", Daily Observer (Banjul, The Gambia), 29 August 2003, p. 6.
Kpana, Kaslow (2005). Oral Traditions and Political History in Sierra Leone, Masakia: Bandala Press
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Tiểu sử Siaka Stevens
Tổng thống Sierra Leone
Mất năm 1988
Sinh năm 1905
|
19836416
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20Y%C5%ABbari
|
Sông Yūbari
|
là sông thuộc huyện Yūbari, Hokkaidō, Nhật Bản.
Tham khảo
|
19836417
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20b%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20thi%C3%AAn%20nhi%C3%AAn%20Bereketli%20Garagum
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Bereketli Garagum
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Bereketli Garagum () là khu bảo tồn thiên nhiên (Zapovednik) nằm ở phía nam hoang mạc Karakum, tỉnh Ahal, Turkmenistan. Được thành lập vào năm 2013, nó có diện tích 87.000 hecta với mục đích nhằm cải thiện hơn nữa việc bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái độc đáo và tài nguyên thiên nhiên của hoang mạc Karakum. Khu bảo tồn đã được UNESCO công nhận từ năm 2023 như là một phần của Di sản thế giới Các hoang mạc lạnh giá của Turan.
Tổ chức Sáng kiến Hoang mạc Trung Á đang thực hiện một dự án nhằm mở rộng ranh giới của khu bảo tồn, nhằm cung cấp điều kiện sống tốt hơn cho các loài động vật móng guốc hoang dã di cư ra ngoài khu bảo tồn đến những hồ tưới tiêu.
Tham khảo
Di sản thế giới tại Turkmenistan
Bereketli Garagum
|
19836420
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20b%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20thi%C3%AAn%20nhi%C3%AAn%20Gapla%C5%88gyr
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Gaplaňgyr
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Gaplaňgyr hay Kaplankyr là một khu bảo tồn thiên nhiên (zapovednik) nằm ở tỉnh Daşoguz, phía bắc Turkmenistan. Được thành lập vào năm 1979 với diện tích 2822 km², đây là nơi bảo vệ và phục hồi hệ động thực vật bản địa của Turkmenistan. Khu vực nằm trên Cao nguyên Gaplaňgyr ở mũi phía nam của Cao nguyên Ustyurt gần biên giới với Kazakhstan và Uzbekistan.
Mô tả
Khu bảo tồn có 26 loài động vật có vú, 147 loài chim và 918 loài thực vật bậc cao. Các loài đáng chú ý gồm Linh dương gazelle, cừu núi Ustyurt, lửng mật, và đặc biệt là quần thể linh dương Saiga di cư đến đây vào mùa đông.
Khu bảo tồn thiên nhiên Gaplaňgyr bao gồm hai khu bảo tồn nhỏ hơn là Sarygamyş và Şasenem. Sarygamyş được thành lập vào năm 1980 bảo tồn hệ sinh thái ven hồ Sarygamysh, nơi bảo vệ các loài chim di trú và sinh sản của linh dương. Şasenem được thành lập vào năm 1984 là nơi trú ẩn và sinh sản quan trọng của loài lừa hoang Turkmenia.
Tham khảo
National Program for the Protection of the Environment, Ashgabat, 2002, pp. 149–151
Di sản thế giới tại Turkmenistan
Gaplaňgyr
|
19836422
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng%20th%E1%BB%B1c%20v%E1%BA%ADt%20trong%20%C4%91%E1%BB%9Di%20s%E1%BB%91ng%20v%C4%83n%20h%C3%B3a
|
Hình tượng thực vật trong đời sống văn hóa
|
Hình tượng thực vật trong đời sống và văn hóa của con người đóng nhiều vai trò quan trọng trong suốt thời kỳ lịch sử tồn tại của loài người. Việc sử dụng các loài thực vật của con người bao gồm cả những ứng dụng thiết yếu, căn bản cho đời sống của con người như làm thực phẩm, quần áo, thuốc men và những ứng dụng mang tính biểu tượng như trong nghệ thuật, thần thoại và văn học. Việc cung cấp nguồn lương thực thiết yếu thông qua nông nghiệp là nền tảng của nền văn minh (chẵng hạn như nền văn minh lúa nước và nền văn minh lúa khô). Nghiên cứu về việc sử dụng thực vật của người bản địa là thực vật học dân tộc, trong khi thực vật học kinh tế tập trung vào các giống cây trồng hiện đại.
Thực vật được sử dụng trong y học (thảo mộc), cung cấp nhiều loại thảo dược từ xa xưa cho đến nay để cứu sống biết bao nhiêu sinh mạng của con người và là nguyên liệu cho nhiều sản phẩm công nghiệp bao gồm đồ gỗ và giấy cũng như nhiều loại hóa chất để phục vụ cho cuộc sống ngày càng tiện nghi của con người. Thực vật mang lại niềm vui cho hàng triệu người thông qua việc làm vườn, nghệ thuật cắm hoa (với thông điệp về ngôn ngữ của các loài hoa), trồng cây kiểng. Trong nghệ thuật, thần thoại, tôn giáo, văn học và điện ảnh, thực vật đóng vai trò quan trọng, tượng trưng cho các chủ đề như khả năng sinh sản, phát triển, sự thuần khiết và tái sinh là những chủ đề của văn hóa. Trong kiến trúc và nghệ thuật trang trí, thực vật cung cấp nhiều chủ đề, chẳng hạn như hoa văn theo phong cách Ả Rập Hồi giáo và các hình thức hoa Acanthus được chạm khắc trên các đầu cột theo trật tự cổ điển của Corinth.
Trong đời sống
Con người phụ thuộc vào thực vật, cây cối để lấy thức ăn, trực tiếp hoặc làm thức ăn cho súc vật, ngay từ thời xa xưa, với hình thái săn bắt và hái lượm thì những sản vật từ thực vật (trái cây, quả mọng, lá, rễ, củ quả, hạt) đã nuôi sống những người tiền sử. Nông nghiệp với ngành trồng trọt liên quan đến việc sản xuất cây lương thực và có đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của các nền văn minh thế giới. Nông nghiệp bao gồm nông học cho cây trồng, làm vườn trong rau và vườn cây ăn trái, và lâm nghiệp lấy gỗ. Khoảng 7.000 loài thực vật đã được dùng làm thực phẩm, mặc dù hầu hết thực phẩm ngày nay chỉ có nguồn gốc từ 30 loài. Các cây lương thực chính bao gồm ngũ cốc như gạo và lúa mì, các loại rễ và củ có tinh bột như sắn và khoai tây, và các sản vật khác như các loại đậu (chẳng hạn như đậu ván và đậu đỏ) được gọi chung là hoa màu, hoa lợi. Dầu thực vật như dầu ô liu cung cấp lipid, trong khi trái cây và rau đóng góp vitamin và khoáng chất vào chế độ ăn của con người, chưa kể đến là sữa thực vật. Cây trồng làm cây công nghiệp là nguồn cung cấp nhiều loại sản phẩm được sử dụng trong sản xuất, đôi khi với cường độ cao đến mức có nguy cơ gây hại cho môi trường. Hàng trăm loại thuốc có nguồn gốc từ thực vật, cả hai loại thuốc truyền thống được sử dụng trong thảo dược. Độc dược từ thực vật bao gồm atropine, ricin, Conium và curare, mặc dù nhiều loại trong số này cũng có công dụng làm thuốc.
Trong văn hóa
Trong văn hóa, các loài thực vật chiếm lĩnh vị trí quan trọng. Cây lúa nước là cây lương thực chính của nhiều cư dân và hình thành nên cả một nền văn minh lúa nước, cây lúa mì hình thành nên cả nền văn hóa của các nước châu Âu, Trung Đông, Trung Á, chúng được tôn vinh đến mức khi mà sản phẩm của chúng sẽ làm ra bánh Thánh được xem là mình Chúa trong Cơ Đốc giáo, rồi nghi thức bánh mì và muối là một nghi thức trọng thị trong văn hóa Nga. Lúa gạo và lúa mì cũng như ngũ cốc còn cho ra sản phẩm rượu và bia và đã ăn sâu trong văn hóa, cũng cách tương tự vậy, thực vật cho ra sản phẩm thuốc lá, ma túy mà con người mãi bị cột trói khó cai được. Cây bắp (ngô) và khoai tây góp phần tạo dựng nên nền văn minh của người da đỏ ở châu Mỹ và nay chúng cũng phổ biến trên khắp thế giới. Quả táo là trái cây được tiêu thụ nhiều, chúng ảnh hưởng trong văn hóa với biểu tượng quả táo. Những trái nho cho ra rượu vang và được xem là máu của Chúa thông qua nghi thức dâng rượu bí tích. Thời hiện đại ngày nay, cà phê cho ra các sản phẩm của nó cung cấp cho con người và hình thành nên cả phong cách văn hóa cà phê thời hiện đại.
Các loài cây cối nổi bật trong thần thoại, tôn giáo vì tượng trưng cho khả năng sinh sản, sinh sôi, bất tử (cây sự sống) và tái sinh, điều huyền diệu (cây thiêng, cây ước nguyện). Trong thần thoại Latvia, Austras koks là một cái cây mọc từ lúc Mặt trời hiện trên bầu trời, cây Yggdrasil là Cây thế giới của Thần thoại Bắc Âu mà thần Odin được treo trên đó. Thần thoại Hy Lạp đề cập đến nhiều loại cây và hoa chẵng hạn như cây Lotus có quả gây buồn ngủ dễ chịu, trong khi thảo mộc Moly là một loại thảo dược thần kỳ được Homer nhắc đến trong Odyssey với rễ đen và hoa trắng, biểu tượng nổi tiếng còn là Vòng nguyệt quế. Tabernanthe iboga được sử dụng làm chất gây ảo giác ở Gabon trong các nghi lễ nhập môn. Cây ma thuật còn xuất hiện trong thần thoại Serbia với loại cây raskovnik ví như chìa khóa vạn năng. Trong biểu tượng Phật giáo, cả hoa sen và Cội Bồ-đề đều có ý nghĩa quan trọng. Hoa sen là một trong Ashtamangala (gồm cả Phật giáo, Jainism và Ấn Độ giáo), đại diện cho sự thanh tịnh của cơ thể, lời nói và tâm trí, trôi nổi trên vùng nước bùn của chấp trước và ham muốn dục vọng. Cây bồ đề là cây thiêng mà Đức Phật đã đạt được sự giác ngộ dưới gốc cây Bồ đề.
Chú thích
Thực vật trong văn hóa
Sinh học và văn hóa
Cây trong thần thoại
Thực vật dân tộc học
|
19836423
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Catalunya%202022
|
Chặng đua MotoGP Catalunya 2022
|
Chặng đua MotoGP Catalunya 2022 là chặng đua thứ 9 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 03/06/2022 đến ngày 05/06/2022 ở trường đua Catalunya, Tây Ban Nha. Tay đua giành chiến thắng là Fabio Quartararo của đội đua Yamaha.
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19836436
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Grandee
|
Grandee
|
Grandee (tiếng Tây Ban Nha: Grande de España) là một tước hiệu quý tộc chính thức được phong cho một số quý tộc Tây Ban Nha. Những người nắm giữ phẩm giá này được hưởng những đặc quyền tương tự như của quý tộc Pháp trong Ancien Régime, mặc dù ở cả hai quốc gia Tây Ban Nhà và Pháp, họ đều không có vai trò chính trị hiến pháp quan trọng mà Viện Quý tộc trao cho Đẳng cấp quý tộc Anh, Đẳng cấp quý tộc Đại Anh và Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh. Tuy nhiên, một "Grandee Tây Ban Nha" được hưởng những đặc quyền xã hội lớn hơn so với những quyền lực tương tự khác ở châu Âu.
Ngoại trừ Công tước xứ Fernandina, tất cả các Công tước Tây Ban Nha đều tự động được gắn vào Grandeeship, tuy nhiên chỉ có một số hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước và lãnh chúa nhận được vinh dự này. Một quý tộc có thể là Grandee của Tây Ban Nha nhiều lần, vì các Grandeeship được gắn liền, ngoại trừ một số trường hợp, với một tước hiệu chứ không phải một cá nhân. Những Grandee như vậy với nhiều hơn một tước hiệu, đáng chú ý bao gồm Nữ công tước xứ Medinaceli hiện tại và Công tước xứ Alba, lần lượt là Grandee 10 và 9 lần. Tất cả con trai và con gái của Infante cũng là Grandee.
Theo Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1876, có hiệu lực đầy đủ cho đến năm 1923, các Grandee của Tây Ban Nha cũng có thể là thượng nghị sĩ por derecho propio ("theo quyền riêng của họ"), cùng với các tổng giám mục và các cấp bậc quân sự hàng đầu.
Tính đến năm 2018, Grandeeship có tổng cộng 417 trong số 2.942 tước hiệu còn tồn tại ở Tây Ban Nha (khoảng 14%) trong đó có 153 Công tước, 142 Hầu tước, 108 Bá tước, 2 Tử tước, 2 Nam tước, 3 Lãnh chúa và 7 Đại quý tộc cha truyền con nối không có tước hiệu kèm theo. tàu Grandeeship. Mặc dù mất đặc quyền pháp lý cuối cùng vào năm 1984, khi quyền sở hữu hộ chiếu ngoại giao và quyền miễn trừ bị thu hồi đối với tất cả các Grandees của Tây Ban Nha, họ vẫn được hưởng một số đặc quyền nghi lễ nhất định. Tất cả các Grandee đều có quyền được bảo vệ trước sự hiện diện của Vua Tây Ban Nha, cũng như được ông gọi là primo (anh em họ), một đặc quyền bắt nguồn từ thế kỷ XVI, khi hầu hết các Grandee đều là họ hàng gần của quân chủ.
Bên ngoài Tây Ban Nha, thuật ngữ này có thể đề cập đến những người khác có vị trí cao quý, có thể so sánh được, gần đồng nghĩa với ông trùm; trước đây là một cấp bậc quý tộc cao (đặc biệt là khi nó mang lại một ghế trong quốc hội cho người nắm giữ). Bằng cách mở rộng, thuật ngữ này có thể đề cập một cách không chính thức đến bất kỳ cá nhân quan trọng nào có địa vị cao, đặc biệt là những người giàu có, cư trú lâu năm trong một khu vực. Ở Vương quốc Anh, thuật ngữ này hiện đang được sử dụng một cách không chính thức đối với các thành viên có ảnh hưởng và lâu năm của Đảng Bảo thủ, Công Đảng Anh và Đảng Dân chủ Tự do, và có ý nghĩa cụ thể hơn trong quá khứ.
Tham khảo
Thư mục
Công tước
Grandee Tây Ban Nha
Quý tộc
|
19836439
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Alba
|
Công tước xứ Alba
|
Công tước xứ Alba de Tormes (tiếng Tây Ban Nha: Duque de Alba de Tormes), thường được gọi là Công tước xứ Alba, là một tước hiệu của giới quý tộc Tây Ban Nha đi kèm với phẩm giá của Grandee Tây Ban Nha. Năm 1472, tước hiệu Bá tước Alba de Tormes, do García Álvarez de Toledo kế thừa, được Vua Henry IV của Castile nâng lên thành Công tước xứ Alba de Tormes.
Từ năm 1802, tước vị Công tước xứ Alba được thừa kế bởi Carlos Miguel Fitz-James Stuart, theo quyền của mẹ là María Cayetana de Silva, Nữ công tước thứ 13 xứ Alba. Cha của ông là Jacobo Fitz-James Stuart, Công tước thứ 5 xứ Liria và Jérica, có tổ tiên trực hệ là James FitzJames, Công tước thứ nhất xứ Berwick, vốn là con hoang hoàng gia của vua Charles II của Anh.
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
House of Alba Foundation
Origins of the House of Alba
Công tước xứ Alba
Nhà Alba
Grandee Tây Ban Nha
Công tước Tây Ban Nha
Danh sách công tước
Danh sách quý tộc Tây Ban Nha
Tước hiệu quý tộc Tây Ban Nha
|
19836443
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Victoria%20von%20Hohenlohe-Langenburg
|
Victoria von Hohenlohe-Langenburg
|
Nữ thân vương Victoria Elisabeth von Hohenlohe-Langenburg, Nữ công tước thứ 20 xứ Medinaceli, GE (sinh ngày 17 tháng 3 năm 1997) là một nữ quý tộc Tây Ban Nha. Nắm giữ 43 tước hiệu được công nhận chính thức trong giới quý tộc Tây Ban Nha, hiện cô là quý tộc sở hữu nhiều tước hiệu nhất trên thế giới, trong đó có 10 tước hiệu thuộc Grandee Tây Ban Nha. Người giữ kỷ lục này trước đó là Cayetana Fitz-James Stuart, Nữ công tước thứ 18 xứ Alba (1926-2014), với hơn 50 tước hiệu quý tộc, trong đó có 14 tước hiệu gắn liền với Grandee, theo Sách Kỷ lục Guinness, bà là quý tộc có nhiều tước hiệu nhất trên thế giới.
Là thành viên của Nhà Hohenlohe, cô là con lớn của Thân vương Marco xứ Hohenlohe-Langenburg, Công tước xứ Medinaceli thứ 19. Em trai của cô là Thân vương Alexander Gonzalo xứ Hohenlohe-Langenburg, là Công tước xư Ciudad Real thứ 14, Hầu tước xứ Navahermosa thứ 13, và là người đứng đầu của Hoàng gia Hohenlohe-Langenburg.
Tiểu sử
Cô sinh ra ở Málaga vào ngày 17 tháng 3 năm 1997, là con đầu lòng của Sandra Schmidt-Polex, một người Đức, và Thân vương Marco xứ Hohenlohe-Langenburg, một quý tộc Tây Ban Nha gốc Đức. Victoria nói được 3 thứ tiếng và lớn lên ở Munich, Đức, trước khi chuyển đến Madrid để học quan hệ quốc tế tại Đại học IE.
Bà nội của cô là Ana Luisa de Medina, Nữ hầu tước xứ Navahermosa, Nữ bá tước xứ Ofalia, qua đời năm 2012. Victoria kế thừa tước vị bá tước của bà ngoại vào năm 2016, trong khi em trai cô thừa kế tước vị còn lại.
Sau cái chết của cha cô vào năm 2016 (người đứng đầu gia tộc Medinaceli từ năm 2014), cô trở thành người thừa kế 42 tước vị quý tộc liên quan đến Nhà Medinaceli. Từ năm 2017, bà đã được Bộ Tư pháp Tây Ban Nha xác nhận là người nắm giữ 5 công tước, 15 hầu tước, 18 bá tước (với một adelantazgo) và 4 tử tước. Với 43 tước hiệu, cô là quý tộc có nhiều danh hiệu nhất ở Tây Ban Nha và trên thế giới. Cô ấy nắm giữ 10 grandeeship.
Hôn nhân và hậu duệ
Cô đính hôn vào tháng 5 năm 2023 với bạn trai Maxime Corneille Iribarren, người gốc Argentina và Pháp. Đám cưới của họ diễn ra vào ngày 14 tháng 10 năm 2023 tại Nhà thờ San Miguel (Jerez de la Frontera).
Tước hiệu
Công tước
Nữ Công tước thứ 20 xứ Medinaceli, với Grandeeship
Nữ Công tước thứ 17 xứ Alcalá de los Gazules, với Grandeeship
Nữ Công tước thứ 15 xứ Camiña, với Grandeeship
Nữ Công tước thứ 5 xứ Denia, với Grandeeship
Nữ Công tước thứ 5 xứ Tarifa, with Grandeeship
Hầu tước
Nữ Hầu tước thứ 15 xứ Aytona, với Grandeeship
Nữ Hầu tước thứ 18 xứ Camarasa, với Grandeeship
Nữ Hầu tước thứ 12 xứ la Torrecilla, với Grandeeship
Nữ Hầu tước thứ 18 xứ Priego, với Grandeeship
Nữ Hầu tước thứ 15 xứ Cilleruelo
Nữ Hầu tước thứ 10 xứ San Miguel das Penas y la Mota
Nữ Hầu tước thứ 15 xứ Alcalá de la Alameda
Nữ Hầu tước thứ 17 xứ Comares
Nữ Hầu tước thứ 20 xứ Denia
Nữ Hầu tước thứ 18 xứ las Navas
Nữ Hầu tước thứ 15 xứ Malagón
Nữ Hầu tước thứ 16 xứ Montalbán
Nữ Hầu tước thứ 20 xứ Tarifa
Nữ Hầu tước thứ 16 xứ Villafranca
Nữ Hầu tước thứ 13 xứ Vila Real
Bá tước
Nữ Bá tước thứ 19 xứ Santa Gadea, với Grandeeship
Nữ Bá tước thứ 11 xứ Ofalia
Nữ Bá tước thứ 5 xứ San Martín de Hoyos
Nữ Bá tước thứ 20 xứ Alcoutim
Nữ Bá tước thứ 16 xứ Amarante
Nữ Bá tước thứ 13 xứ Castrogeriz
Nữ Bá tước thứ 23 xứ Ossona
Nữ Bá tước thứ 26 xứ Prades
Nữ Bá tước thứ 20 xứ del Risco
Nữ Bá tước thứ 14 xứ Aramayona
Nữ Bá tước thứ 25 xứ Buendía
Nữ Bá tước thứ 20 xứ Castellar
Nữ Bá tước thứ 21 xứ Cocentaina
Nữ Bá tước thứ 20 xứ Medellín
Nữ Bá tước thứ 21 xứ los Molares, và Adelantada mayor xứ Andalusia
Nữ Bá tước thứ 14 xứ Moriana del Río
Nữ Bá tước thứ 18 xứ Valenza y Valladares
Nữ Bá tước thứ 15 xứ Villalonso
Tử tước
Nữ Tử tước thứ 47 xứ Bas
Nữ Tử tước thứ 45 xứ Cabrera
Nữ Tử tước thứ 13 xứ Linares
Nữ Tử tước thứ 43 xứ Villamur
Tổ tiên
Tham khảo
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Công tước xứ Medinaceli
Người Tây Ban Nha gốc Đức
Grandee Tây Ban Nha
Gia tộc Hohenlohe-Langenburg
Nhà Medinaceli
Thân vương nữ Hohenlohe-Langenburg
Hầu tước xứ Aitona
Tử tước xứ Bas
|
19836446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hohenlohe-Langenburg
|
Hohenlohe-Langenburg
|
Hohenlohe-Langenburg () là một Bá quốc của Đức và sau này là Thân vương quốc trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Nó nằm ở phía Đông Bắc bang Baden-Württemberg, Đức hiện nay, xung quanh Langenburg. Kể từ thời trung cổ, nhà nước nhỏ bé này được cai trị bởi triều đại Hohenlohe, và kể từ năm 1764, bá tước được nâng lên địa vị Thân vương đế chế La Mã Thần thánh, cho đến năm 1806. Gia tộc Hohenlohe-Langenburg vẫn sở hữu Lâu đài Langenburg cho đến ngày nay.
Thân vương nữ Victoria Elisabeth, con trưởng của Thân vương Marco xứ Hohenlohe-Langenburg hiện đang nắm giữ 43 tước vị ở Tây Ban Nha và là quý tộc sở hữu nhiều tước vị nhất thế giới. Vì theo luật Salic của Đức, tước vị chỉ được kế thừa bởi nam giới nên tước Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg và quyền đứng đầu vương tộc Hohenlohe thuộc về em trai của Victoria Elisabeth là Alexander Gonzalo xứ Hohenlohe-Langenburg, hiện cũng đang giữ tước hiệu Công tước xứ Ciudad Real thứ 14 của Tây Ban Nha.
Hậu duệ của các bá tước và thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg có mối quan hệ huyết thống với nhiều vương tộc cai trị ở khắp châu Âu. Trong đó vị bá tước đầu tiên của xứ Hohenlohe-Langenburg là Philip Ernest là con trai của Wolfgang, Bá tước xứ Hohenlohe-Weikersheim và vợ Magdalena xứ Nassau-Dillenburg, em gái của Willem I xứ Oranje - người sáng lập Vương tộc Oranje-Nassau, tổ tiên của các vị quân chủ Hà Lan hiện tại; Vương hậu Adelheid của Anh là vợ của Vua William IV của Anh có thân mẫu là một Thân vương nữ của Hohenlohe; Ernst I, Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg kết hôn với Feodora xứ Leiningen, chị cùng mẹ khác cha với Nữ vương Victoria của Anh; Ernst II, Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg kết hôn với Thân vương nữ Alexandra xứ Sachsen-Coburg và Gotha, cháu gái của Nữ vương Victoria; Gottfried, Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg, kết hôn với Vương tôn nữ Margarita của Hy Lạp và Đan Mạch, cô là con gái lớn của Andreas của Hy Lạp và Đan Mạch và vợ ông là Alice xứ Battenberg, đồng thời là em gái của Philip, Công tước xứ Edinburgh, chồng của Nữ vương Elizabeth II của Anh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
European Heraldry page
Bá quốc Thánh chế La Mã
Vương tộc Hohenlohe-Langenburg
Khởi đầu năm 1610 ở châu Âu
|
19836454
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marco%20de%20Hohenlohe-Langenburg
|
Marco de Hohenlohe-Langenburg
|
Marco de Hohenlohe-Langenburg, Công tước thứ 19 xứ Medinaceli (; ; 8 tháng 3 năm 1962 – 19 tháng 8 năm 2016) là một quý tộc Tây Ban Nha gốc Đức, thông qua mẹ của mình là Ana Luisa de Medina y Fernández de Córdoba, ông đã thừa kế rất nhiều tước hiệu quý tộc ở Tây Ban Nha, trong đó có Công tước xứ Medinaceli, thông qua bố của mình là Max von Hohenlohe, ông kế thừa tước vị Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg ở Đức và người đứng đầu Vương tộc Hohenlohe.
Con gái cả của ông là Victoria von Hohenlohe-Langenburg hiện giữ 43 tước vị quý tộc ở Tây Ban Nha, trong đó có 10 tước hiệu gắn liền với Grandee và cô là quý tộc giữ nhiều tước hiệu nhất trên thế giới hiện nay. Theo luật Salic thì nữ giới không được tiếp nhận quyền kế vị nên tước hiệu Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg ở Đức đã được trao cho em trai của Victoria là Alexander Gonzalo, người này đồng thời cũng là Công tước xứ Ciudad Real thứ 14 và Hầu tước Navahermosa thứ 13 ở Tây Ban Nha.
Tham khảo
Sinh năm 1962
Mất năm 2016
Công tước xứ Medinaceli
Công tước Tây Ban Nha
Grandee Tây Ban Nha
Gia tộc Hohenlohe-Langenburg
Thân vương xứ Hohenlohe-Langenburg
Quý tộc từ Madrid
Người Tây Ban Nha gốc Đức
|
19836458
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%AF%20ph%C3%A1p%20ti%E1%BA%BFng%20Hungary
|
Ngữ pháp tiếng Hungary
|
Ngữ pháp tiếng Hungary là tập hợp các quy tắc sử dụng của tiếng Hungary, một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ural được nói chủ yếu ở Hungary và các nước lân cận.
Nhìn chung, tiếng Hungary là một ngôn ngữ chắp dính, trong đó các yếu tố ngữ nghĩa và ngữ pháp được điều chỉnh chủ yếu bằng hệ thống phụ tố mà ở đây chủ yếu là hậu tố thay vì bằng các hình vị biệt lập. Các phụ tố này đều tuân theo các quy tắc hài hòa nguyên âm nghiêm ngặt.
Động từ chia theo tính xác định, thì, trạng, ngôi và số. Danh từ có thể biến tố theo 18 cách, mỗi cách nói chung tương ứng với một giới từ trong các ngôn ngữ đơn lập.
Tiếng Hungary là một ngôn ngữ đề-thuyết, tức là trật tự từ chủ yếu phụ thuộc vào việc đâu là thông tin chính, thông tin phụ, thông tin đã biết và thông tin chưa biết, thay vì phụ thuộc vào quan hệ ngữ pháp/ngữ nghĩa giữa chúng.
Trật tự từ
Câu thông thường có trật tự từ chủ-động-tân, tuy nhiên nhiều khi người nói có thể lược chủ ngữ không quan trọng mà câu vẫn đúng ngữ pháp. Trong một câu, thông tin được nhấn mạnh là thông tin (một từ hoặc một danh ngữ) đứng ngay trước động từ đã chia. Có bốn thành phần trong một câu: chủ đề (còn gọi là đề), thông tin chính (còn gọi là thuyết), động từ và phần còn lại. Trong đó, phần thuyết chỉ có thể chứa một danh từ hoặc một danh ngữ.
Chức năng nhấn mạnh
Sử dụng các trật tự từ khác nhau để biểu đạt cùng một ý có thể thể hiện các sắc thái nhấn mạnh khác nhau. Ví dụ như câu János tegnap elvitt két könyvet Péternek. (Hôm qua János đã mang hai quyển sách tới cho Péter) dùng các từ/ngữ là János ("János", cách chủ ngữ), tegnap ("hôm qua"), elvitt ("mang", thì quá khứ), két könyvet ("hai quyển sách", cách tân ngữ trực tiếp) và Péternek ("Péter", cách tân ngữ gián tiếp):
Lưu ý rằng khi phần thuyết có trong câu mà động từ (elvitt) là động từ có tiền tố thì tiền tố phải tách ra đặt sau đuôi động từ (vitt el). Làm như vậy để phân biệt khi chỉ có một danh ngữ đứng trước động từ: danh ngữ đó là đề khi động từ không tách và là thuyết khi động từ bị tách.
Hình thái học
Tiếng Hungary là một ngôn ngữ chắp dính; thông tin ngữ pháp chủ yếu được truyền đạt bằng hậu tố: "trên bàn" = asztalon, "lúc 5 giờ" = öt órakor. Cá biệt có một tiền tố, đó là leg- chỉ so sánh hơn nhất.
Hậu tố chỉ người
Hài hoà nguyên âm ở hậu tố
Hình thái tiếng Hungary nói chung đều tuân theo nguyên tắc hài hoà nguyên âm, trong đó chủ yếu là phân biệt giữa hệ thống nguyên âm trước và sau; một số hậu tố đặc biệt còn có phân biệt giữa nguyên âm trước tròn môi và trước không tròn môi. Điều này có nghĩa là mỗi hậu tố sẽ có nhiều dạng khác nhau, các dạng này đều có cùng thành phần phụ âm nhưng thành phần nguyên âm thì khác nhau và mỗi từ chỉ được gắn với một trong các dạng này tuỳ theo thành phần nguyên âm của từ đó là gì.
Lưu ý rằng khi thêm hậu tố, phải kéo dài nguyên âm a và e ở đuôi của thân từ cũng như o và ö ở đuôi của thân từ mượn nếu có: alma → almát, mese → mesét, pianó → pianót, Malmö → Malmőt. Các nguyên âm ngắn i, u và ü không phải kéo dài: ami → amit, kapu → kaput, menü → menüt.
Các nguyên âm có cùng độ mở và độ dài nhưng khác biệt về độ sâu hoặc độ tròn môi thì được coi là song song. Mỗi cặp hay bộ ba nguyên âm song song thường sẽ làm phát sinh hai hay ba dạng hậu tố khác nhau, trong đó mỗi dạng chứa một nguyên âm trong cặp/bộ ba:
Chú ý rằng i không xuất hiện trong bảng này, bởi i không chịu ảnh hưởng của hài hoà nguyên âm và có thể đi với cả nguyên âm trước lẫn sau mặc dù i là nguyên âm trước.
Danh ngữ
Giới từ
Tính từ và trạng từ
Động từ
Các cách dùng ngôn ngữ khác
Dự án Ngôn ngữ
Tiếng Hungary
|
19836575
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishiokoppe%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Nishiokoppe, Hokkaidō
|
là một ngôi làng thuộc huyện Monbetsu, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 1.053 người và mật độ dân số là 3,4 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 308,12 km2.
Tham khảo
Làng của Hokkaidō
|
19836591
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dino%20Baggio
|
Dino Baggio
|
Dino Baggio (sinh ngày 24 tháng 7 năm 1971) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự.
Trong suốt sự nghiệp của mình, anh đã chơi cho một số câu lạc bộ Ý và giành được UEFA Cup 3 lần, hai lần cùng Parma và một lần cùng Juventus. Anh cũng có một thời gian thi đấu ở Anh với Blackburn Rovers. Ở cấp độ quốc tế, anh đã có 60 lần khoác áo đội tuyển Ý từ năm 1991 đến 1999, ghi được 7 bàn thắng và là thành viên của đội tuyển đã vào đến trận chung kết World Cup 1994; sau đó anh cũng đại diện cho Ý tham dự Euro 1996 và World Cup 1998.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp ban đầu
Baggio gia nhập hệ thống đào tạo trẻ của Torino khi mới 13 tuổi và ra mắt Serie A ở tuổi 19. Anh trở thành thành viên thường xuyên của đội hình xuất phát và nổi lên như một tiền vệ phòng ngự ngoan cường, chăm chỉ, ổn định và đa năng. Tại Torino, anh đã giành chức vô địch Serie B 1989–90, tiếp theo là Mitropa Cup 1991. Anh được cho mượn đến Inter Milan ở tuổi 20 vào năm 1991 cho mùa giải 1991–92, ra sân 27 lần và ghi được 1 bàn thắng.
Vươn lên đỉnh cao: Juventus
Vào cuối mùa giải 1991–92, Juventus đã mua tiền vệ trẻ đầy triển vọng này với giá 10 tỷ Lire Ý, và trong thời gian thi đấu cho câu lạc bộ, Dino Baggio đã chơi cùng với người đồng đội không liên quan Roberto Baggio trong hai mùa giải, hình thành một tình bạn đáng chú ý; Dino thường được gọi là "Baggio 2" hoặc "Baggio khác" trong những năm đầu sự nghiệp, để phân biệt hai cầu thủ, vì anh trẻ hơn và ban đầu ít được biết đến hơn. Tuy nhiên, vì Dino Baggio trước đây đã chơi cho Torino, đối thủ cùng thành phố, nên người hâm mộ Juventus ban đầu không hài lòng với thương vụ này. Tuy nhiên, lối chơi chắc chắn và ổn định của anh đã sớm chinh phục họ, và anh nhanh chóng trở thành trụ cột ở hàng tiền vệ của Juventus, giành chức vô địch UEFA Cup vào năm 1993, ghi được 3 bàn thắng qua 2 lượt trận chung kết; một trong những bàn thắng của anh đến ở trận lượt đi, trong khi hai bàn thắng còn lại đến ở trận lượt về. Anh cũng giúp Juventus đứng thứ 2 ở Serie A trong mùa giải 1993–94.
Thành công trong nước và quốc tế: Parma
Sau những màn trình diễn của Baggio tại World Cup 1994 và cùng Juventus, Parma đã cố gắng chiêu mộ tiền vệ này. Baggio ban đầu từ chối lời đề nghị của Parma, tuyên bố ý định ở lại Juventus. Vào thời điểm đó, Juventus sẵn sàng đề nghị Parma một tiền đạo trẻ tên là Alessandro Del Piero thay vì Baggio, để giữ lại tiền vệ phòng ngự của họ; Parma đã chấp nhận lời đề nghị, nhưng trước khi thương vụ được hoàn tất, Dino Baggio đã thay đổi suy nghĩ và quyết định chuyển đến Parma. Del Piero ở lại Juventus, và mùa giải sau đó, anh đã có một bước đột phá với câu lạc bộ, sau này trở thành huyền thoại của câu lạc bộ.
Baggio chuyển đến Parma vào đầu mùa giải 1994–95 với giá 14 tỷ Lire. Trong mùa giải đầu tiên với câu lạc bộ mới dưới thời Nevio Scala, anh đã ngay lập tức giành được UEFA Cup, lần thứ hai trong sự nghiệp, ghi một bàn thắng ở mỗi lượt trận chung kết năm 1995 gặp lại đội bóng cũ Juventus, nâng tổng số bàn thắng của anh ở trận chung kết UEFA Cup lên 5 bàn. Anh cũng vào đến trận chung kết Coppa Italia mùa giải đó, nhưng thua chính đội bóng cũ của mình, đồng thời cũng suýt chút nữa giành được chức vô địch Serie A trước đội bóng cũ, một lần nữa, kết thúc mùa giải ở vị trí thứ 3. Mặc dù gặt hái được thành công ở châu Âu dưới thời Malesani, nhưng Parma đã không thể giành chức vô địch Serie A trong những năm này, với thành tích tốt nhất của họ là ở mùa giải 1996–97, khi họ xếp thứ 2 dưới thời HLV Carlo Ancelotti.
Trong trận đấu thuộc UEFA Cup 1998–99, Baggio đã bị thương ở đầu do một con dao được ném bởi một người hâm mộ Wisła Kraków ở Kraków, khiến Wisła bị cấm tham dự cúp châu Âu trong một năm. Anh ấy đã tiếp tục giành chức vô địch UEFA Cup thứ ba của mình trong mùa giải đó, trước Olympique Marseille, cũng vô địch Coppa Italia trước Fiorentina, theo sau là Supercoppa Italiana 1999 trước nhà vô địch Serie A 1998–99 Milan.
Baggio ở lại Parma cho đến cuối mùa giải 1999–2000, giúp câu lạc bộ cán đích ở vị trí thứ 4 và suýt chút nữa giành được một suất tham dự UEFA Champions League sau thất bại ở vòng play-off trước Inter. Trong mùa giải cuối cùng của anh ấy với câu lạc bộ, anh ấy cũng trở nên nổi tiếng vì một sự cố đặc biệt trong trận đấu trên sân nhà gặp lại đội bóng cũ Juventus vào ngày 9 tháng 1 năm 2000. Baggio đã phạm lỗi với Gianluca Zambrotta và trọng tài Stefano Farina đã rút thẻ đỏ trực tiếp gây tranh cãi đối với anh. Để phản đối, Baggio đã làm "dấu hiệu tiền nong" về phía trọng tài và sau đó nhổ nước bọt xuống đất gần Farina. Baggio đã bị chỉ trích vì hành vi của mình và bị cấm thi đấu hai trận, ngoài việc bị câu lạc bộ phạt 20 triệu lire, vì hành động này. Anh cũng bị Luciano Nizzola, chủ tịch FIGC vào thời điểm đó, ngăn không cho tham gia trận giao hữu của Ý với Thụy Điển vào ngày 23 tháng 2 năm 2000.
Sự nghiệp sau này
Tháng 10 năm 2000, Baggio được bán cho Lazio, nhà vô địch Serie A mới đăng quang, với giá 10 tỷ lire Ý, cùng với Nestor Sensini. Roberto Baggio gia nhập Lazio vào tháng 10 năm 2000, sau khi đội bóng giành chức vô địch Serie A. Tuy nhiên, anh ấy không được sử dụng nhiều trong hai mùa giải đầu tiên của mình ở Lazio, và câu lạc bộ cũng không giành được bất kỳ danh hiệu nào. Vào đầu mùa giải 2003–04, Baggio đã đàm phán với Wolverhampton Wanderers về một hợp đồng cho mượn, nhưng các cuộc đàm phán đã thất bại. Sau đó, anh ấy đã đến thử việc với Blackburn Rovers và được câu lạc bộ này ký hợp đồng cho mượn trong một mùa giải vào tháng 9 năm 2003. Anh ra mắt câu lạc bộ với tư cách là cầu thủ dự bị trong trận thua 3-1 trên sân nhà trước Liverpool ở Premier League vào ngày 13 tháng 9, trong khi trận đá chính đầu tiên của anh ấy cho đội bóng diễn ra vào ngày 24 tháng 9, trong trận thua 3-1 trên sân khách trước Gençlerbirliği, ở vòng đầu tiên của UEFA Cup; tháng sau, đội bóng bị loại khỏi giải đấu sau trận hòa 1-1 ở lượt về, trong trận đấu đó Baggio đã vào sân thay người, thay thế cho đồng hương Corrado Grabbi. Huấn luyện viên của Baggio tại Blackburn, Graeme Souness, đã sử dụng anh ở vị trí tiền đạo trong một số trận đấu, tuy nhiên, điều này đã ảnh hưởng tiêu cực đến phong độ của anh. Baggio đã có tổng cộng 9 lần ra sân cho câu lạc bộ, ghi được 1 bàn thắng ở giải đấu trong trận thua 2-1 trước Leeds United. Do phong độ tệ hại trong nửa đầu mùa giải, Souness đã cố gắng để Baggio trở về Ý theo hợp đồng cho mượn đến Ancona, đội bóng mới thăng hạng Serie A vào tháng 1 năm 2004, nhưng cầu thủ này đã từ chối thỏa thuận ban đầu. Sau đó, Lazio đã cho anh ấy mượn đến Ancona. Anh ấy đã có 15 lần ra sân và ghi được 2 bàn thắng, nhưng Ancona đã xếp cuối bảng. Anh ấy vẫn ở lại Lazio trong mùa giải 2004–05, nhưng không có một lần ra sân nào cho câu lạc bộ trong mùa giải đó. Anh ấy đã giải nghệ vào năm 2005 sau một thời gian ngắn chơi cho Triestina, một đội bóng ở Serie B, khi mới 34 tuổi. Vào tháng 2 năm 2008, người ta thông báo rằng Dino Baggio đã quyết định trở lại từ việc giải nghệ và gia nhập câu lạc bộ Terza Categoria Tombolo - một đội bóng gần quê nhà của anh ấy, được huấn luyện bởi huấn luyện viên đầu tiên của anh ấy, Cesare Crivellaro.
Sự nghiệp quốc tế
Ở cấp độ trẻ quốc tế, Baggio đã giành chức vô địch U-21 châu Âu 1992 cùng đội tuyển Azzurrini, và trong cùng năm, anh đã tham dự Thế vận hội Mùa hè 1992 ở Barcelona cùng đội tuyển U-23 Ý, dưới sự dẫn dắt của HLV Cesare Maldini. Baggio đã ra mắt đội tuyển Ý cấp cao dưới thời HLV Arrigo Sacchi, vào ngày 21 tháng 12 năm 1991, khi mới 20 tuổi, trong trận thắng 2-0 trước Síp, tại Foggia. Anh ra sân trong trận đấu này cùng với người đồng đội mới ra mắt Demetrio Albertini, người sẽ sát cánh cùng Baggio ở hàng tiền vệ của Ý trong suốt những năm 1990. Vào ngày 24 tháng 2, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Ý, tại Oporto, trong trận đấu với Bồ Đào Nha.
Trong chiến dịch vòng loại FIFA World Cup 1994, Baggio đã ghi bàn thắng quyết định vào lưới Bồ Đào Nha, giúp Ý giành vé dự giải đấu. Nhờ đó, anh được HLV Arrigo Sacchi gọi vào đội tuyển Ý tham dự World Cup 1994. Trong kỳ World Cup đầu tiên của mình, anh đã kết hợp với người đồng đội không phải họ hàng Roberto Baggio để giúp Ý lọt vào chung kết World Cup 1994, ghi những bàn thắng quyết định, nhưng cuối cùng đã thất bại trước Brazil trên chấm phạt đền. Dino đã ghi hai bàn thắng trong giải đấu: bàn đầu tiên là cú đánh đầu quyết định mang về chiến thắng, được kiến tạo bởi Giuseppe Signori, trong chiến thắng 1-0 của Ý ở vòng đầu tiên trước Na Uy, và bàn thứ hai là bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2-1 trước Tây Ban Nha ở tứ kết, đến từ một cú sút xa được kiến tạo bởi Roberto Donadoni. Trong trận chung kết, anh bắt đầu trận đấu ở vị trí tiền vệ cùng với Albertini trong sơ đồ 4-4-2 của đội, nhưng sau đó đã bị Alberigo Evani thay ra ở hiệp phụ; sau khi hòa 0-0, trận đấu đã đi đến loạt sút luân lưu và Brazil đã giành chiến thắng, với việc Roberto Baggio, người đồng đội cùng tên của Dino, đã sút hỏng quả phạt đền quyết định. Theo FIFA.com, sự thiếu hụt các pha tấn công trong trận đấu một phần là do màn trình diễn ấn tượng ở vị trí tiền vệ phòng ngự của Dino Baggio cho Ý, và Dunga và Mauro Silva cho Brazil.
Baggio tiếp tục thi đấu cho Ý trong các giải đấu khác trong suốt những năm 1990, chẳng hạn như Euro 1996. Baggio cũng ra sân trong mọi trận đấu cho Ý tại World Cup 1998 dưới thời Cesare Maldini. Ban đầu Baggio có tên trong danh sách 26 cầu thủ tạm thời của Dino Zoff cho Euro 2000 nhưng sau đó lại không có tên trong danh sách cuối cùng. Anh có trận đấu cuối cùng cho Ý vào ngày 13 tháng 11 năm 1999, trong trận thua 3-1 trên sân nhà trước Bỉ trong một trận giao hữu quốc tế.
Baggio đã có 60 lần khoác áo và ghi 7 bàn thắng cho đội tuyển quốc gia Ý từ năm 1991 đến 1999. Anh được người hâm mộ Ý nhớ đến là một cầu thủ quốc tế đáng chú ý của thập niên 90 nhờ màn trình diễn tại World Cup, và vì anh đã có thể giành được vị trí tiền vệ chính thức trước nhiều cầu thủ tài năng khác đang ở đỉnh cao phong độ, chẳng hạn như Roberto Di Matteo, Antonio Conte, Roberto Mancini và Gianfranco Zola.
Phong cách chơi
Baggio là một tiền vệ phòng ngự đa năng và năng động, với khả năng tắc bóng, tốc độ và khả năng chọn vị trí tuyệt vời; Anh cũng được trời phú cho kỹ thuật vững chắc, tầm nhìn tốt và khả năng phân phối bóng đáng tin cậy, giúp anh có thể đóng góp cho hàng tấn công của đội mình.
Baggio được coi là một trong những cầu thủ Ý vĩ đại nhất của thế hệ anh ấy, và là một trong những tiền vệ nhất quán nhất ở Serie A trong những năm 90. Dù chủ yếu hoạt động ở vị trí tiền vệ phòng ngự, nhưng Baggio vẫn có thể đóng góp cho mặt trận tấn công và ghi bàn nhờ khả năng sút xa, đánh đầu và chọn vị trí tốt; Ngoài ra, anh ấy còn có khả năng ghi bàn từ những cú sút xa mạnh mẽ và chính xác, nhờ khả năng dứt điểm của mình, đặc biệt là từ ngoài vòng cấm. Vì có khả năng ghi bàn, anh ấy đôi khi được huấn luyện viên Souness triển khai chơi ở vị trí tiền đạo trong thời gian ở Blackburn.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh sách tỷ số và kết quả với tổng số bàn thắng của Ý được liệt kê đầu tiên, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Baggio.
Danh hiệu
Torino
Serie B: 1989–90
Cúp Mitropa: 1991
Juventus
Cúp UEFA: 1992–93
Parma
Coppa Italia: 1998–99
Siêu cúp bóng đá Ý: 1999
Cúp UEFA: 1994–95, 1998–99
U-21 Ý
Giải vô địch U21 châu Âu: 1992
Ý
Á quân Giải vô địch bóng đá thế giới: 1994
Chú thích
Liên kết ngoài
National Stats. at FIGC
Profile at Italia1910.com
Sinh 1971
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Juventus
Cầu thủ bóng đá Inter Milan
Sinh năm 1971
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1994
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1998
Cầu thủ bóng đá A.C. Ancona
Cầu thủ bóng đá Blackburn Rovers F.C.
Cầu thủ bóng đá nam Ý ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Ý
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Ý
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Ý
Cầu thủ bóng đá Parma Calcio 1913
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá S.S. Lazio
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Serie B
Cầu thủ bóng đá Torino F.C.
Cầu thủ vô địch UEFA Europa League
|
19836593
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Morgan%20%28game%20th%E1%BB%A7%29
|
Morgan (game thủ)
|
Park Ru-han (; sinh ngày 26 tháng 9 năm 2001), hay Morgan (), là một tuyển thủ Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí đường trên cho đội tuyển OKSavingsBank BRION.
Tiểu sử
Park Gi-tae (, là tên trước đây của Morgan) sinh ngày 26 tháng 9 năm 2001 tại Hàn Quốc. Anh bắt đầu sự nghiệp thi đấu Liên Minh Huyền Thoại với đội trẻ Joy Dream của JD Gaming vào ngày 26 tháng 2 năm 2019.
Khoảng tháng 12 năm 2022, anh chính thức đổi tên thành Park Ru-han.
Trong thời gian thi đấu, anh được các khán giả đặt cho biệt danh là "Ngài", hay "Lord". Ban đầu biệt danh này có ý chế giễu, nhưng theo thời gian tài năng của anh dần được công nhận và biệt danh này lại trở thành lời tán dương. Anh cũng nổi tiếng với vị tướng Renekton khi là một người chơi thể hiện rất tốt với con bài này.
Morgan từng sang Việt Nam theo lời mời của Tổng cục du lịch Hàn Quốc. Anh đại diện cho gian hàng của Hàn Quốc tại hội chợ ITE HCMC 2023 và đã thu hút sự quan tâm của nhiều người hâm mộ Việt Nam.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Ngày 26 tháng 2 năm 2019, Morgan gia nhập đội trẻ Joy Dream của JD Gaming và đã có trận ra mắt trước đối thủ là Lingan E-sports vào hai ngày sau đó. Anh từng có thời điểm được đôn lên đội chính để tham dự NEST 2019 cũng như LPL Mùa hè 2019.
Ngày 16 tháng 12 năm 2019, Morgan chuyển sang thi đấu cho Team WE. Tuy nhiên, anh lại không đạt được thành công ở đội tuyển này.
Ngày 23 tháng 11 năm 2020, anh về lại Hàn Quốc để gia nhập Hanwha Life Esports. Morgan đã giành được tấm vé tham dự Chung kết thế giới năm ấy sau khi đánh bại Nongshim 3-0 ở vòng loại khu vực. Anh đã gặp lại đối thủ ở LCK là T1 và phải ra về sau thất bại 3 ván không gỡ ở tứ kết.
Ngày 1 tháng 12 năm 2021, anh gia nhập Fredit BRION (hiện là OKSavingsBank BRION hay OK BRION). Tuy có thành tích không tốt với đội tuyển mới, anh lại thu hút được nhiều người hâm mộ khi trở thành đề tài bàn tán mỗi khi BRION thi đấu.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Trước khi thi đấu chuyên nghiệp, Morgan từng tham dự IeSF Esports World Championship 2018, một giải đấu thể thao điện tử quy mô toàn cầu do IESF tổ chức. Anh đại diện cho Hàn Quốc và đã giành được chức vô địch sau khi đánh bại Ma Cao 3-0 ở trận chung kết.
Tổng quan sự nghiệp
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Thành tích
Cấp đội tuyển quốc gia
Vô địch IESF World Esports Championship: 2018
Tham khảo
Vận động viên thể thao điện tử
Tuyển thủ chuyên nghiệp Liên Minh Huyền Thoại
Người chơi trò chơi Hàn Quốc
Sinh năm 2001
Nhân vật còn sống
|
19836599
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2n%20%C4%90%C3%B4i
|
Hòn Đôi
|
Hòn Đôi hay còn gọi là hòn Đồi, hay hòn Đầu, là một hòn đảo nhỏ gần bờ biển thuộc xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đây là vị trí Điểm A7 của Đường cơ sở trên biển của Việt Nam. Phía tây của đảo là Mũi Đôi cực đông trên đất liền của Việt Nam.
Tự nhiên
Đảo cách đất liền tại vị trí ngay Mũi Đôi (thuộc bán đảo Hòn Gốm) khoảng 500 m. Diện tích đảo gần 20 ha (0,195 km2), độ cao lớn nhất 309 m. Tên gọi hòn Đồi là do đảo có nhiều đồi mồi. Môi trường tự nhiên trên đảo hoang sơ gần như nguyên vẹn, bề mặt đảo đầy các khối đá xen lẫn cây bụi. Đảo là nơi rất nhiều chim yến trú ngụ.
Trên đỉnh cao nhất của đảo đặt Cột mốc A7 và mốc tọa độ, hai cột cách nhau 20 m.
Lịch sử
Năm 2005, Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ban hành Quyết định số 13 xếp hạng Mũi Đôi - Hòn Đôi là danh lam thắng cảnh quốc gia.
Vào năm 2014, chính quyền tỉnh Khánh Hòa kêu gọi doanh nghiệp du lịch đầu tư vào Mũi Đôi - Hòn Đầu, khai thác du lịch, tổ chức tham quan, dã ngoại.
Đến năm 2019, việc du lịch diễn ra tự phát thiếu đảm bảo an toàn, xảy ra nhiều vụ tai nạn nên Bộ đội biên phòng khu vực lại có văn bản đề nghị hạn chế hoạt động du lịch tại đây. Vụ nghiêm trọng nhất xảy ra vào ngày 22 tháng 9 từ một đoàn sinh viên vừa tốt nghiệp gồm 16 người đến đây tắm biển, 2 trong số đó thiệt mạng và thi thể được tìm thấy vài ngày sau đó.
Hiện tại, đảo được Công ty Yến sào Khánh Hòa quản lý để khai thác nguồn lợi yến sào. Đảo là một địa điểm hạn chế đối với khách du lịch.
Tham khảo
Sách
Đảo Việt Nam
Điểm chuẩn tính Đường cơ sở Việt Nam
|
19836604
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u%20Langley
|
Trung tâm nghiên cứu Langley
|
Langley Research Center (LaRC hay NASA Langley), Hampton, Virginia gần Chesapeake Bay đối diện với Căn cứ không quân Langley, là một trong những trung tâm nghiên cứu lâu đời nhất của NASA. LaRC tập trung vào nghiên cứu chủ yếu là về vấn đề khí động học nhưng nó cũng đồng thời đảm nhận việc thử nghiệm các phần mềm bay, ví dụ như phần mềm của module Apollo Lunar . Ngài ra, Trung tâm nghiên cứu Langley còn là nơi lên kế hoạch và thiết kế sơ bộ các tàu không gian. Langley cũng từng được cân nhắc để trở thành trung tâm điều hành các chuyến bay có người lái trước khi trung tâm này được lựa chọn xây dựng ở Houston, Texas.
LaRC được National Advisory Committee for Aeronautics (NACA) thành lập từ năm 1917, 2 phần 3 tổng số chương trình nghiên cứu được dành cho vấn đề về hàng không, còn lại là các dự án không gian. Các nhà nghiên cứu tại LaRC được phép sử dụng hơn 40 đường hầm gió để nghiên cứu và cải thiện các vấn đề liên quan đến máy bay như cải thiện độ an toàn, hiệu suất, tính hiệu quả của các chuyến bay. Từ năm 1958 đến 1963, khi NASA (chính là hậu thân của NACA) bắt đầu chương trình Mercury, LaRC đã tham gia chương trình với vai trò là trụ sở của Space Task Group.
Vào tháng Chín năm 2019, ngay sau khi Clayton P. Turner đã được chỉ định làm giám đốc của Trung tâm NASA Langley.
Xem thêm
Aerospace engineering
NASA field centers and other facilities
TsAGI Trung tâm nghiên cứu khí động học Trung ương của Nga
Tham khảo
Liên kết ngoài
Langley Research Center website
Langley Archives Collection at Cultural Resources Geographical Information Systems (CRGIS), NASA
James R. Hansen: Spaceflight Revolution: NASA Langley Research Center from Sputnik to Apollo (NASA SP-4308, 1995)
Crafting Flight: Aircraft Pioneers and the Contributions of the Men and Women of NASA Langley Research Center (NASA SP-2003-4316)
Engineer in Charge: A History of the Langley Aeronautical Laboratory,1917–1958 (NASA SP-4305, 1987)
Journey in Aeronautical Research: a Career at NASA-Langley Research Center, Monographs in Aerospace History No. 12
Historic American Engineering Record documentation (all located in Hampton, Independent City, VA):
|
19836613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91ua%20%C3%B4%20t%C3%B4%20C%C3%B4ng%20th%E1%BB%A9c%201%20Las%20Vegas%202023
|
Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas 2023
|
Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas 2023 (tên chính thức là Formula 1 Heineken Silver Las Vegas Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 18 tháng 11 năm 2023 tại trường đua Las Vegas ở Paradise, Nevada, Hoa Kỳ, và là chặng đua thứ 21 và áp chót của giải đua xe Công thức 1 2023. Ngoài ra, chặng đua này cũng là phiên bản đầu tiên của giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas.
Bối cảnh
Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas 2023 sẽ là chặng đua Công thức 1 đầu tiên ở Las Vegas kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Caesars Palace 1982. Chặng đua này sẽ diễn ra xung quanh Dải Las Vegas trên một trường đua đường phố hoàn toàn mới. Đây sẽ là chặng đua thứ ba và cuối cùng ở Hoa Kỳ diễn ra vào năm 2023 sau giải đua ô tô Công thức 1 Miami và giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ. Năm 2023 sẽ là năm đầu tiên kể từ năm 1982 ba chặng đua được tổ chức tại Hoa Kỳ trong một mùa giải Công thức 1. Chặng đua sẽ bắt đầu lúc 22:00 giờ địa phương (UTC−8) vào thứ Bảy, ngày 18 tháng 11 năm 2023, nghĩa là chặng đua này sẽ là chặng đua Công thức 1 đầu tiên được tổ chức vào thứ Bảy kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Nam Phi 1985.
Đây cũng sẽ là chặng đua Công thức 1 thứ 1100.
Các đội đua Red Bull Racing, AlphaTauri, Alfa Romeo, Williams, Alpine và Ferrari sẽ tham gia chặng đua này với màu sơn được thiết kế đặc biệt trên những xe đua của họ.
Bảng xếp hạng trước cuộc đua
Sau giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (258 điểm) và Lewis Hamilton (226 điểm) với 524 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (382 điểm) và Ferrari (362 điểm) với 782 điểm.
Lựa chọn bộ lốp
Nhà cung cấp lốp xe Pirelli sẽ cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.
Tường thuật
Buổi tập
Buổi tập đầu tiên bị hủy sau 10 phút vì Carlos Sainz Jr. dừng lại trên đường đua do va vào một nắp hố ga trên bề mặt đường đua. Charles Leclerc đứng đầu buổi tập rút ngắn trước Nico Hülkenberg và Kevin Magnussen với thời gian nhanh nhất là 1:40,909 phút. Sau khi va vào nắp hố ga đó, gầm xe của Sainz cũng như của Esteban Ocon bị hư hại nặng. Hơn nữa, thành phần chứa năng lượng trong chiếc xe của Sainz bị hỏng khiến anh phải sử dụng kho năng lượng thứ ba sau khi đã sử dụng hai kho được cho phép. Điều này dẫn đến việc Sainz bị tụt mười vị trí cho cuộc đua.
Buổi tập thứ hai được kéo dài từ 60 lên 90 phút và bị trì hoãn hai tiếng rưỡi so với thời gian dự kiến để khắc phục các vấn đề tại buổi tập đầu tiên. Leclerc đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:35,265 phút trước Sainz và Fernando Alonso.
Buổi tập thứ ba và cuối cùng bị hủy trước ba phút cuối cùng do Alexander Albon đứng giữ đường do va chạm với rào chắn. Sau khi buổi tập này kết thúc, George Russell đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:34,093 phút trước Oscar Piastri và Logan Sargeant.
Vòng phân hạng
Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Leclerc là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, cả hai tay đua McLaren, Ocon, Chu Quán Vũ và Yuki Tsunoda bị loại.
Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Leclerc là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Lewis Hamilton, Sergio Pérez, Nico Hülkenberg, Lance Stroll và Daniel Ricciardo bị loại.
Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Leclerc giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:32,726 phút trước Sainz Jr. và Max Verstappen. Đó là vị trí pole thứ 23 trong sự nghiệp của Leclerc và cũng là vị trí pole đầu tiên của anh tại giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas.
Sau khi vòng phân hạng kết thúc, Sainz Jr. bị tụt mười vị trí do sử dụng thành phần chứa năng lượng thứ ba và Stroll bị tụt năm vị trí do vượt trong giai đoạn cờ vàng trong buổi tập thứ ba.
Cuộc đua
Leclerc và Verstappen xuất phát cuộc đua ở hàng xuất phát đầu tiên. Tại vòng đua đầu tiên của cuộc đua, Verstappen ép Leclerc văng rời khỏi đường đua và nhận một án phạt 5 giây vì hành động này. Lando Norris mất lái tại vòng đua thứ ba và chiếc xe của anh văng ra khỏi đường đua khiến anh phải bỏ cuộc. Vụ va chạm này đã kích hoạt giai đoạn xe an toàn. Sau vụ va chạm này, Norris đã đến Trung tâm Y tế Đại học Nam Nevada để kiểm tra phòng ngừa và được xuất viện cùng ngày. Leclerc đã vượt qua Verstappen trên đường đua trước khi Verstappen đọ sức và thực hiện án phạt. Mặc dù Leclerc đã kéo dài thời gian sử dụng bộ lốp đầu tiên của mình, anh chỉ đua được vài vòng trước khi một giai đoạn xe an toàn xuất hiện do một sự cố giữa Russell và Verstappen làm rơi các mảnh vỡ trên đường đua. Chiếc xe an toàn cho phép cả hai tay đua Red Bull và phần lớn phần còn lại của đoàn đua vào làn pit mà không mất thời gian đáng kể. Tại những vòng đua tiếp theo, cả Verstappen lẫn Leclerc đã tranh giành vị trí dẫn đầu trong suốt cuộc đua cùng với Pérez.
Verstappen giành chiến thắng trước Leclerc và Pérez sau khi cuộc đua kết thúc. Leclerc về đích ở vị trí thứ hai sau khi vượt qua Pé Hơn nữa, đây cũng chính là chiến thắng đầu tiên của anh tại giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Ocon, Stroll, Sainz Jr., Hamilton, Russell, Alonso và Piastri. Sau khi cuộc đua kết thúc, Russell về đích ở vị trí thứ 4 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 8 sau khi nhận một án phạt 5 giây vì gây ra vụ va chạm với Verstappen.
Kết quả
Vòng phân hạng
Chú thích
– Carlos Sainz Jr. bị tụt mười vị trí do sử dụng thành phần chứa năng lượng thứ ba.
– Lance Stroll bị tụt năm vị trí do vượt trong giai đoạn cờ vàng trong buổi tập thứ ba.
Cuộc đua
Chú thích
– Bao gồm một điểm cho vòng đua nhanh nhất.
– George Russell về đích ở vị trí thứ 4 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 8 sau khi nhận một án phạt 5 giây vì gây ra vụ va chạm với Max Verstappen.
– Yuki Tsunoda và Nico Hülkenberg được xếp hạng vì đã hoàn thành hơn 90% của chiều dài tổng cộng của cuộc đua.
Bảng xếp hạng sau cuộc đua
Bảng xếp hạng các tay đua
Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này.
Các tay đua/đội đua được in đậm và đánh dấu hoa thị là nhà vô địch Giải đua xe Công thức 1 2023.
Bảng xếp hạng các đội đua
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chặng đua Công thức 1 năm 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas
|
19836619
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2n%20H%E1%BA%A3i
|
Hòn Hải
|
Hòn Hải là một đảo đá nhỏ xa bờ thuộc quyền quản lý của huyện đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận. Đây là vị trí Điểm A6 của Đường cơ sở trên biển của Việt Nam. Hòn Hải là điểm xa nhất của đường viền nội thủy của Việt Nam ở vùng nam Biển Đông. Đảo và toàn bộ quần đảo Phú Quý cũng là vị trí chiến lược về mặt quốc phòng của Việt Nam.
Mô tả
Hòn Hải còn gọi là hòn Khám, hay tên gọi khác là hòn Hài, do hình dáng giống chiếc hài. Trên hải đồ quốc tế là Poulo Sapate (Sapata, Sepate). Đảo cách đảo Phú Quý 60 km về phía đông nam, cách Hòn Đồ Lớn 21 km về phía đông. Hòn Hải dài khoảng 130 m, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 60 m, điểm cao nhất là 113 m so với mực nước biển. Đảo hình thành từ dung nham phun trào của núi lửa hàng triệu năm trước, có địa mạo dốc thẳng đứng cả bốn mặt, phần chân đảo phía tây có một vị trí bằng phẳng rộng khoảng 16 m. Trên đảo không cây cối, không nước ngọt, chỉ có một lớp cỏ phủ xanh bề mặt. Đảo là nơi các loài chim biển trú ngụ và sinh sản, như nhạn, hải âu, bồ nông, mòng biển,...chim tập trung nhiều nhất vào tháng 7. Cách chân đảo 15 m, biển đạt độ sâu 40 m và sâu dần khi ra xa.
Lịch sử
Năm 1999, Bộ Quốc phòng giao Bộ Tư lệnh công binh khảo sát và xây dựng hạ tầng trên đảo Hòn Hải. Việc xây dựng được thực thi bởi Đoàn công tác của công binh, Đoàn đo đạc biên vẽ hải đồ và nghiên cứu biển thuộc Quân chủng Hải quân.
Tháng 3 năm 2002, các công trình cơ sở hạ tầng trên đảo được bắt đầu xây dựng. Cuối năm 2004, trạm hải đăng Hòn Hải xây xong và được chuyển giao cho Công ty bảo đảm Hàng hải khu vực III, nay là Tổng công ty bảo đảm an toàn Hàng hải Nam Trung Bộ thuộc Bộ Giao thông Vận tải quản lý và vận hành. Tháng 5 năm 2005, việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đảo hoàn tất. Trên đảo có 2 ngôi mộ gió của 2 người lính đã thiệt mạng trong quá trình xây dựng.
Năm 2012, trạm tiếp sóng của Viettel được xây dựng, các thiết bị chạy bằng dàn pin năng lượng Mặt trời.
Vào tháng 6 năm 2017, bia đánh dấu chủ quyền Cột mốc A6 được xây dựng.
Hải đăng Hòn Hải
Hải đăng Hòn Hải cao 10,4 m từ chân tới đỉnh, nằm trên vị trí cao nhất của đảo, 113 m so với mực nước biển. Ngọn hải đăng này có vai trò giúp tàu thuyền trong khu vực biển rộng lớn của Bình Thuận hoạt động. Nó giúp định hướng và xác định vị trí với tầm nhận diện địa lý là 26,5 hải lý vào ban ngày, và tầm chiếu sáng là 24,5 hải lý vào ban đêm.
Tham khảo
Sách
Đọc thêm
Địa chất Hòn Hải:
Liên kết ngoài
Đảo Việt Nam
Điểm chuẩn tính Đường cơ sở Việt Nam
|
19836634
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Conqueror
|
Conqueror
|
" Conqueror " là đĩa đơn thứ tám do Aurora phát hành và là đĩa đơn thứ năm trong album All My Demons Greeting Me as a Friend. Bài hát được viết bởi Aurora, Geir Luedy, Odd Martin Skålnes và Magnus Skylstad và được sản xuất bởi Skålnes, Skylstad và Jeremy Wheatley. Ngày 15/1/2016 bài hát chính thức được phát hành trên toàn thế giới.
Bối cảnh và bài hát
"Conqueror" là một bài hát Scandipop, synth-pop, và electropop với " nhịp trống lạch cạch xây dựng nên một đoạn điệp khúc hưng phấn". Aurora viết bài hát này vào năm 2013 cùng với một số thành viên trong ban nhạc của cô.
Cô nói: "Bài hát này khá kỳ lạ. Nó có sự tương phản quan trọng với tất cả các bài hát khác trong album của tôi - nó thực sự có một chút vui vẻ! Tôi đã viết nó cùng với một số thành viên ban nhạc của mình vào năm 2013 một lần. Nó chỉ để cho vui thôi, chúng tôi thậm chí còn không biết liệu có điều gì tốt đẹp sẽ xảy ra hay không!"
"'Conqueror' nói về một thế giới [mà] gần như đang sụp đổ xung quanh bạn và bạn đang tìm kiếm một kẻ chinh phục để cứu mình. Nhưng bạn đang tìm kiếm kẻ chinh phục ở một người khác, điều mà tôi nghĩ là [điều gì đó] bạn không nên làm vậy. Trước tiên, bạn nên tìm ra kẻ chinh phục trong chính mình và trở thành anh hùng của chính mình. Nếu bạn đứng vững thì bạn sẽ trụ được lâu hơn một chút."
Trong bộ phim tài liệu Once Aurora, cô bày tỏ sự không thích bài hát do nó mang hơi hướng nhạc pop quá mức. Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn năm 2021 với NME, cô ấy nói: "Bây giờ tôi thích bài hát hơn nhưng đã không phát trực tiếp nó trong 5 năm. Tôi đã dừng lại sau năm 2016 và nói, 'Tôi sẽ không bao giờ biểu diễn trực tiếp nó nữa. để chơi lại bài hát này – không bao giờ!'" Cô ấy nói, "Khi tôi bắt đầu lưu diễn trở lại, tôi sẽ bắt đầu chơi lại bài hát đó - bởi vì nó rất thú vị. Tôi chỉ cần nghỉ hát 5 năm thôi."
Video âm nhạc
Video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 16 tháng 2 năm 2016. Video do Kenny McCracken đạo diễn.
Biểu đồ
Tham khảo
Đĩa đơn năm 2016
Bài hát năm 2016
Bài hát synthpop
|
19836648
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20Olympus
|
Tân Olympus
|
Tân Olympus (tiếng Ý: Nuovo Olimpo) là một bộ phim thuộc thể loại chính kịch lãng mạn năm 2023 được đạo diễn bởi Ferzan Özpetek. Bộ phim này kể về một cặp người đồng tính nam gặp và yêu nhau từ cuối thập niên 1970 ở thủ đô Roma nhưng lại đường đột bị chia cắt vì sự cố không ngờ được. Bộ phim được công chiếu tại lễ hội phim Roma vào ngày 22 tháng 10 năm 2023 và được phát hành trên nền tảng phát video trực tuyến Netflix vào ngày 1 tháng 11 năm 2023.
Cốt truyện
Bối cảnh phim bắt đầu từ năm 1978 và đó cũng là thời điểm còn đang diễn ra Những năm lãnh đạo ở nước Ý. Có một sinh viên ngành y rụt rè tên Pietro đến xem phim tại rạp chiếu phim Tân Olympus (Nuovo Olimpo) do một người phụ nữ tên Titti quản lý và nơi này còn được những người đồng tính nam sử dụng để làm tụ điểm đi tuần tình dục. Tại đó, anh gặp được một cậu sinh viên học đạo diễn phim tên Enea và hai người nhanh chóng đem lòng yêu nhau từ đó. Enea mời Pietro vào trong nhà vệ sinh để quan hệ tình dục nhưng Pietro lúc đó vẫn còn do dự. Do vậy, Enea kể cho bạn cậu và người tình tên Alice về chuyện đôi bên gặp nhau và cô đưa cho cậu chìa khoá vào căn hộ không có người ở của bà cô. Sang ngày hôm sau, Pietro và Enea gặp nhau ở rạp chiếu phim rồi bọn họ rủ nhau đi quan hệ tình dục tại căn hộ. Họ dành trọn một đêm bên nhau, vun đắp tình cảm cho đôi bên ngày càng sâu đậm hơn và tiếp tục hẹn gặp nhau ở Tân Olympus vào ngày mai. Pietro có bảo Enea rằng anh đã đặt bàn cho họ ở một nhà hàng kiểu trattoria, nhưng trước tiên anh muốn đi thăm mẹ tại bệnh viện trước. Trong lúc Pietro đi vắng thì có một cuộc biểu tình chống lại chế độ phát xít một cách ngang ngược và hung hăng đang diễn ra bên ngoài rạp chiếu phim. Titti giúp Enea thoát khỏi rạp chiếu phim và kế đến là Enea đi tìm kiếm Pietro, nhưng bất thành. Chính vì cả hai người quên cho số điện thoại hay địa chỉ nhà riêng nên bọn họ chịu cảnh mất liên lạc đối phương.
Mười năm sau, vào năm 1988, Enea trở thành đạo diễn nổi tiếng với bộ phim gần đây nhất, bộ phim đó được dựa trên mối tình lãng mạn ngắn ngủi của cậu với Pietro. Trong cùng thời điểm đó, Pietro đã kết hôn với một người đàn bà tên Giulia. Anh và Giulia đến xem phim của Enea và từ đấy anh nhận ra có gì đó tương đồng giữa bộ phim với chính cuộc tình trước đó của anh. Đương nhiên, Giulia cũng trở nên khó hiểu và bắt đầu hoài nghi về phản ứng kỳ lạ của ông chồng mình. Pietro quay trở lại Tân Olympus, nơi ấy không còn được Titti quản lý nữa và cũng đã biến thành một rạp chiếu phim người lớn. Tại đây, anh gặp được Ernesto và cũng là người mà Pietro đã từng gặp từ mười năm trước. Ernesto bảo anh rằng Enea giờ đây đã là một đạo diễn nổi tiếng. Tại một bữa tiệc, Enea gặp một người đàn ông tên Antonio và họ ngay lập tức có tình cảm với nhau.
Năm 1993, trong lúc đang trên chuyến tàu đi đến lễ hội phim, Enea, Antonio và Alice đã bất ngờ trước tờ báo công bố rằng Federico Fellini đã qua đời. Riêng Enea thì đã sững sốt hơn vì cậu vô tình chứng kiến được Pietro và Giulia đang ngồi ở con tàu đối diện từ bên ngoài cửa sổ. Tuy nhiên, con tàu đối diện kia đã rời đi và Pietro thậm chí còn chưa kịp nhìn thấy Enea, ngoại trừ cô vợ Giulia của anh. Pietro khi ấy đã là một bác sĩ nhãn khoa tình cờ xem được buổi phỏng vấn tại lễ hội phim của Enea được chiếu trên tivi ở bệnh viện của anh. Trong lúc đang đi siêu thị mua sắm, Enea gặp lại và hỏi thăm Titti. Bà đã thắc mắc Enea tại sao lại không bao giờ chịu quay trở về rạp chiếu phim và báo cho Enea biết rằng Pietro đã để lại cho cậu một phong thư. Tuy trong bức thư đó có số điện thoại của Pietro nhưng khi Enea gọi điện lại thì không được. Tiếp đến là cảnh bộ phim mà Pietro và Enea đã từng xem cùng nhau tại Tân Olympus đang được công chiếu trên truyền hình, trùng hợp là cả hai người khi ấy cũng đang xem với bạn đời của đôi bên và mỗi người đều đang nhớ tới nhau. Pietro quyết định đi sang Roma để tìm gặp Enea tại một cuộc họp báo. Đến lúc Enea được hỏi về chuyện đạo diễn người Ý đầu tiên công khai xu hướng tính dục thì cậu đã bàn bạc về điều đó, đồng thời tuyên bố Antonio là tình yêu của cả đời mình. Pietro từ đó thất vọng và bỏ đi, nhưng anh không biết rằng Enea vẫn còn đang rung động trước tờ thư ngày xưa và nỗi nhớ nhung đến anh.
Cuối cùng là vào năm 2015, Enea khi đó đã đạo diễn đến bộ phim thứ mười bốn. Tại trường quay thì cậu đã gặp sự cố đạo cụ khiến cho bột thuỷ tinh bay vào mắt, đành phải đi cấp cứu nhanh chóng. Duyên thay, cuộc phẫu thuật của Enea lại được chính tay của Pietro đảm nhiệm và anh cũng kinh ngạc khi cuối cùng cũng tận mặt gặp lại Enea sau gần bốn mươi năm xa cách. Phẫu thuật đã thành công và Enea đành phải băng bó vùng mắt của mình trong vòng một tuần lễ để hồi phục. Trong lúc trò chuyện qua lại với đội ngũ điều trị, Enea đã nhận ra được giọng nói của Pietro và năn nỉ anh đến căn hộ của cậu, mà vốn dĩ căn hộ ấy thuộc về người bà của Alice. Họ trao đổi lời nói qua lại, nhưng Pietro đã rời đi trước lúc Enea gỡ băng vùng mắt. Giulia đã trở thành người hâm mộ của Enea đã mời đạo diễn thần tượng của cô đến nhà mình và người chồng Pietro. Enea đã đến và ngạc nhiên trong lòng khi biết được điều cậu nghi ngờ là đúng, vị bác sĩ nhãn khoa mà mình nói chuyện bữa trước không xa lạ gì hơn chính là Pietro. Giulia lúc đó cũng đã chứng minh được chuyện mờ ám của ông chồng mình, sau khi thấy hai người mải mê nhìn nhau không chịu rời. Cô đau khổ sau bữa tối khi biết Pietro chưa bao giờ chịu nhìn mình bằng cách ấy, cái cách mà chồng cô nhìn lấy Enea. Cô đã thúc ép anh đi gặp Enea và anh làm theo, đuổi kịp Enea đang đi bộ trên phố. Pietro yêu cầu với Enea rằng đừng bao giờ quên kỷ niệm của cả hai, Enea đồng ý và mỗi người đã chính thức rời xa nhau theo lối đi riêng.
Diễn viên
Damiano Gavino trong vai Enea Monte
Andrea Di Luigi trong vai Pietro Gherardi
Luisa Ranieri trong vai Titti
Greta Scarano trong vai Giulia
Aurora Giovinazzo trong vai Alice
Alvise Rigo trong vai Antonio
Giancarlo Commare trong vai Ernesto "Molotov"
Sản xuất
Bộ phim được quay hoàn toàn ở thủ đô Roma, tập trung tại quận 3 và Monte Sacro. Quá trình ghi chụp bắt đầu vào tháng 11 năm 2022.
Phát hành
Bộ phim được công chiếu tại lễ hội phim thủ đô Roma vào ngày 22 tháng 10 năm 2023. Nó được phát hành trên nền tảng Netflix vào ngày 1 tháng 11.
Đoạn trailer nhá hàng cho bộ phim được công chiếu trong đêm đầu tiên tại Sanremo Music Festival 2023. Trailer chính thức được ra mắt vào ngày 19 tháng 9 năm 2023.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tân Olympus trên Netflix
Tân Olympus trên IMDb
Phim Ý
Phim Ý thập niên 2020
Phim tiếng Ý
Phim tiếng Ý thập niên 2020
Phim năm 2023
Phim liên quan đến LGBT năm 2023
Phim chính kịch lãng mạn năm 2023
Phim chính kịch lãng mạn thập niên 2020
Phim đạo diễn bởi Ferzan Özpetek
Phim lấy bối cảnh năm 1978
Phim lấy bối cảnh năm 1988
Phim lấy bối cảnh năm 1993
Phim lấy bối cảnh năm 2015
Phim lấy bối cảnh ở Rome
Phim lấy bối cảnh ở thập niên 1970s
Phim quay ở Roma
Phim liên quan đến đồng tính nam
Phim gốc Netflix tiếng Ý
Phim liên quan đến LGBT của Ý
Phim chính kịch lãng mạn Ý
Phim chính kịch liên quan đến LGBT
Phim người song tính luyến ai nam
Phim lấy bối cảnh ở thập niên 1970
|
19836649
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Space%20Task%20Group
|
Space Task Group
|
Space Task Group là tên một nhóm các kỹ sư của NASA được thành lập từ năm 1958 có nhiệm vụ quản lý chương trình vũ trụ có người lái của Mỹ. Đứng đầu nhóm khoa học là Robert Gilruth với trụ sở đặt tại Trung tâm nghiên cứu Langley, Hampton, Virginia. STG tham gia điều hành chương trình Mercury và các chương trình vũ trụ sau đó. Năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đặt ra mục tiêu cho chương trình Apollo sẽ đưa người Mỹ đầu tiên đặt chân lên Mặt trăng và quay trở về Trái Đất, NASA đã quyết định thành lập một tổ chức lớn hơn và thành lập cơ sở mới dành cho các hoạt động của Task Group, và nó đã được chuyển đến Trung tâm bay có người lái (nay là Trung tâm vũ trụ Lyndon B. Johnson), Houston, Texas.
Tham khảo
Citations
Bibliography
Liên kết ngoài
Space Task Group Organizational Charts
NASA groups, organizations, and centers
Project Mercury
1958 establishments in the United States
|
19836654
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%E1%BB%ABng%20tr%C3%A0m%20T%C3%A2n%20Tuy%E1%BA%BFn
|
Rừng tràm Tân Tuyến
|
Rừng tràm Tân Tuyến là khu rừng tràm ngập nước ở xã Tân Tuyến, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Tên đầy đủ là Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Tân Tuyến. Trong khu rừng ngập nước này có hệ thống cầu ván gỗ để đi lại, với tổng chiều dài lên đến 5.000 m.
Vị trí
Rừng tràm Tân Tuyến thuộc địa bàn xã Tân Tuyến, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang, phía Đông giáp ấp Tân An, ấp Tân Đức và kênh 10, phía Tây giáp tiểu khu 30C thuộc ấp Tân Đức, phía Nam giáp kênh 4, phía Bắc giáp Tỉnh lộ 943 và kênh Huệ Đức.
Tự nhiên
Rừng có diện tích 256,39 ha (2,56 km2), được chỉ định là rừng đặc dụng. Địa hình trũng thấp, thổ nhưỡng là đất chua phèn, kém dinh dưỡng, mức độ chua phèn trung bình, về mặt cơ giới là đất thịt pha sét, hàm lượng mùn trung bình. Về thủy văn, kênh rạch chằng chịt khắp khu rừng ngập nước. Môi trường sinh thái của rừng chịu tác động mạnh của lũ từ sông Mê Kông, qua đó rừng nhận nhiều phù sa bồi đắp, độ pH từ 4,5-5,5. Khu rừng là vùng ngập nước với rừng tràm, trảng cỏ, đầm lầy. Theo chức năng, rừng phân làm 3 phân khu:
Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 81,85 ha.
Phân khu phục hồi sinh thái: 94,06 ha.
Phân khu dịch vụ-hành chính: 80,48 ha
Thực vật gồm 7 quần xã ưu thế tràm, sen, súng, năng ống, cỏ ống, mồm móc, sậy. Cây tràm là loài cây thân gỗ nhiều nhất, diện tích tràm trồng là 7,88 ha, tràm tái sinh là 74,14 ha, trảng cỏ ngập nước theo mùa là 169,73 ha, bờ kênh 4,64 ha.
Thực vật có 154 loài thuộc 122 chi, 52 họ của 2 ngành thực vật bậc cao có mạch là dương xỉ (polypodiophyta hay polypodiopsida) và ngọc lan (magnoliophyta). Trong số các loài có 1 loài là cà na (elaeocarpus hygrophilus) nằm trong Sách đỏ Việt Nam (2007) ở mức "sẽ nguy cấp".
Động vật có 63 loài chim nước, trong đó có loài chim quý hiếm sẻ đồng ngực vàng (emberiza aureola); 82 loài cá thuộc 26 họ và 9 bộ, cá hô (catlocarpio siamensis) và cá trà sóc (probarbus jullieni) là các loài quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam (2007) và Sách đỏ IUCN (2014).
Khu rừng được phân là Khu A, một khu vực rộng hơn được phân là khu B có diện tích 1400 ha, là thao trường diễn tập quân sự của tỉnh An Giang.
Lịch sử
Năm 2011, UBND tỉnh An Giang ban hành quyết định phê duyệt đề án du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí tại rừng tràm Tân Tuyến.
Ngày 6 tháng 11 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành Công văn 1545/TTg-NN xác lập khu rừng tràm Tân Tuyến là khu bảo vệ cảnh quan và bổ sung vào quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng Việt Nam.
Ngày 2 tháng 3 năm 2020, UBND tỉnh An Giang ban hành Quyết định 418/QĐ-UBND phê duyệt thành lập Khu bảo vệ cảnh quan rừng tràm Tân Tuyến.
Ngày 30 tháng 12 năm 2022, UBND tỉnh An Giang thống nhất nội dung trình của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn An Giang phối hợp với Trung tâm Truyền thông Tài nguyên và môi trường (thuộc Bộ Tài nguyên và môi trường) tổ chức trồng rừng đặc dụng tại rừng tràm Tân Tuyến. Theo đó, các đơn vị sẽ tiến hành trồng 5 ha tràm nội với mật độ 20.000 cây/ha.
Tham khảo
Rừng Việt Nam
An Giang
|
19836655
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF%20vi%E1%BA%BFt%20s%C3%B4ng%20%E1%BA%A4n
|
Chữ viết sông Ấn
|
Chữ viết sông Ấn, còn được gọi là chữ Harappa, là một tập hợp các ký tự được tạo ra bởi nền văn minh lưu vực sông Ấn. Hầu hết các bản khắc chứa các ký tự này đều cực kỳ ngắn, gây khó khăn trong việc phản xét liệu các ký tự này có cấu thành một hệ thống chữ viết dùng để ghi chép (các) ngôn ngữ vẫn chưa được xác định của nền văn minh lưu vực sông Ấn hay không. Dù có nhiều cố gắng, 'chữ viết' này chưa được giải mã, nhưng các nỗ lực vẫn đang tiếp diễn. Không có bản chữ khắc song ngữ nào được nhận dạng để giúp giải mã chữ viết, cho thấy không có thay đổi đáng kể theo thời gian. Tuy nhiên, một số cú pháp (nếu đó là những gì có thể được gọi) thay đổi tùy theo vị trí.
Ẩn phẩm đầu tiên của một con dấu với các ký tự Harappa là vào năm 1875, trong một bức vẽ của Alexander Cunningham. Đến năm 1992, ước tính có khoảng 4.000 đồ vật được khắc đã được tìm thấy, một số ở xa như Lưỡng Hà, do mối quan hệ sông Ấn–Lưỡng Hà cổ, với hơn 400 ký tự riêng biệt đại diện trên các dòng chữ khắc xác định.
Một số học giả, chẳng hạn như G. R. Hunter, S. R. Rao, John Newberry, và Krishna Rao đã lập luận rằng chữ Brahmi có mối liên hệ nào đó với hệ thống sông Ấn. Raymond Allchin phần nào đã hỗ trợ một cách thân trọng khả năng chữ Brahmi ảnh hưởng bởi chữ viết sông Ấn. Một khả năng khác cho sự tiếp nối của truyền thống lưu vực sông Ấn là nằm trong các ký tự phun sơn văn hóa cư thạch tại phía Nam và Trung Ấn Độ (và Sri Lanka), có thể không tạo thành một hệ thống chữ viết ngôn ngữ nhưng có thể có một số điểm trùng lặp với kho ký tự sông Ấn. Các nhà ngôn ngữ học chẳng hạn như Iravatham Mahadevan, Kamil Zvelebil, và Asko Parpola lập luận rằng chữ viết có một mối quan hệ với một ngôn ngữ Dravida.
Đặc điểm
Phần lớn các ký tự là tượng hình, mô tả các đồ vật tìm thấy trong thế giới cổ đại nói chung, tìm thấy trong văn hóa Harappa địa phương, hoặc có nguồn gốc từ thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, các ký tự trừu tượng cũng được xác định. Một số ký tự là ký tự ghép giữa các ký tự tượng hình, trong khi các ký tự khác không được biết là xảy ra một cách đơn lập, được biết đến chỉ xảy ra như là thành phần của các ký tự phức tạp hơn. Một số ký tự giống như dấu vạch và thường được hiểu là các số sớm.
Unicode
Các ký tự sông Ấn gán mã ISO 15924 là "Inds". Michael Everson đã gửi một đề xuất hoàn chỉnh về việc mã hóa chữ viết trong mặt phẳng đa ngôn ngữ bổ sung của Unicode vào năm 1999, nhưng đề xuất này chưa được chấp thuận bởi Ban kỹ thuật Unicode. Tính đến tháng 2 năm 2022, Script Encoding Initiative vẫn liệt kê đề xuất trong danh sách các tập lệnh chưa được mã hóa chính thức trong Tiêu chuẩn Unicode (và ISO/IEC 10646).
Phông chữ sông ấn là một phông chữ Private Use Areas (PUA) giống như chữ viết sông Ấn. Phông chữ này được thiết kế dựa trên một ngữ liệu biên soạn bởi nhà Sindh học Asko Parpola trong cuốn Deciphering the Indus Script của ông. Amar Fayaz Buriro, một kỹ sư ngôn ngữ, và Shabir Kumbhar, một nhà thiết kế phông chữ, được giao nhiệm vụ bởi Quỹ quốc gia dành cho Mohenjo-daro để thiết kế phông chữ này, và họ đã trình bày tại một hội nghị quốc tế về Mohenjo-daro và nền văn học lưu vực sông Ấn vào ngày 8 tháng 2 năm 2017.
Xem thêm
Ghi chú
Tham khảo
Works cited
Đọc thêm
Adapted from an address given at the inaugural function of the Indus Research Centre at the Roja Muthiah Research Library, Chennai, on 25 January 2007.
Liên kết ngoài
How come we can't decipher the Indus script?
Articles by Steve Farmer, including essays about the Indus script
Indus script at Omniglot.com
Hệ thống chữ viết Thời đồ đồng
Văn hóa lưu vực sông Ấn
Lịch sử ngôn ngữ học Ấn Độ
Lịch sử ngôn ngữ học Pakistan
Hệ chữ viết lỗi thời
Tiền chữ viết
Phát minh của nền văn minh lưu vực sông Ấn
Phát minh của Ấn Độ
Hệ chữ viết từ phải sang trái
Hệ chữ viết chưa được giải mã
Hệ chữ viết châu Á
Hệ thống chữ viết không có ranh giới từ
|
19836656
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Imakane%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Imakane, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Setana, phó tỉnh Hiyama, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 5.072 người và mật độ dân số là 8,9 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 568,14 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20H%C3%B2a%20gi%E1%BA%A3i%20D%C3%A2n%20t%E1%BB%99c
|
Hội đồng Hòa giải Dân tộc
|
Hội đồng Hòa giải Dân tộc () là tổ chức của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên với mục đích tạo điều kiện cho các chuyến thăm từ Hàn Quốc tới Bắc Triều Tiên. Được thành lập vào ngày 8 tháng 6 năm 1998, chủ tịch là Kim Yong-dae. Chuyến thăm đầu tiên do cơ quan này tổ chức là chuyến thăm năm 2001 tới Núi Kumgang kỷ niệm hội nghị thượng đỉnh Liên Triều năm 2000. Hầu hết các chuyến thăm văn hóa, chính trị và tôn giáo từ Hàn Quốc đều thông qua Hội đồng Hòa giải Dân tộc. Tổ chức này đôi khi được trích dẫn trong các bản tin chính thức của Thông tấn xã Trung ương Triều Tiên.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chính phủ Bắc Triều Tiên
|
19836661
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shiribeshi%20%28ph%C3%B3%20t%E1%BB%89nh%29
|
Shiribeshi (phó tỉnh)
|
là phó tỉnh của Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính phó tỉnh là 87.589 người và mật độ dân số là 20 người/km2. Tổng diện tích phó tỉnh là 4305,82 km2.
Hành chính
Tham khảo
Phó tỉnh của Hokkaidō
|
19836664
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2y%20c%E1%BB%91i%20trong%20th%E1%BA%A7n%20tho%E1%BA%A1i
|
Cây cối trong thần thoại
|
Cây cối trong thần thoại (Trees in mythology) có ý nghĩa quan trọng trong nhiều truyền thuyết, thần thoại và huyền kỳ trên toàn thế giới, đồng thời cây cối (chỉ về thực vật thân gỗ) mang những ý nghĩa sâu sắc và thiêng liêng qua nhiều thời đại lịch sử. Con người quan sát sự sinh trưởng và chết đi của cây, cũng như cảnh héo hon, rơi rụng và sự hồi sinh tán lá hàng năm của cây cối nên người ta thường coi chúng là biểu tượng cho sự sinh sôi, nảy nở, sự chết và sự tái sinh, đâm chồi nảy lộc. Rừng thường xanh, phần lớn vẫn xanh mướt trong suốt các chu kỳ này, đôi khi được coi là biểu tượng của sự vĩnh cửu, sự bất tử hoặc khả năng sinh sản, từ lẽ đó, con người thời nguyên thủy đã có tục thờ cây cối như là một tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Hình tượng Cây sự sống hay cây thế giới xuất hiện trong nhiều thần thoại như là một thế giới vũ trụ thu nhỏ.
Những minh chứng này bao gồm cây đa (banyan) và cây vả thiêng liêng (Ficus religiosa) trong Ấn Độ giáo, Phật giáo và Kỳ Na giáo, cây biết điều thiện và ác của Do Thái giáo và Kitô giáo. Trong tín ngưỡng dân gian và văn hóa dân gian, cây cối thường được cho là nơi cư ngụ của thần cây, nữ thần cây, thần rừng, sơn thần trong những khu rừng thiêng hay trên núi thiêng. Trong thần thoại và ngoại giáo Đức và thần thoại Đức thì nhũng khóm cây thiêng liêng cũng như Đa thần Celtic dường như đều liên quan đến việc thực hành tín ngưỡng ở khu rừng thiêng, đặc biệt là lùm cây sồi. Tử thu Ai Cập đề cập đến loại cây Ficus sycomorus như một phần của khung cảnh nơi linh hồn của người đã khuất tìm thấy nơi an nghỉ hạnh phúc. Sự hiện diện của cây cối trong thần thoại đôi khi liên quan đến khái niệm cây thiêng và khu rừng thiêng. Cây cối là một thuộc tính của nguyên mẫu locus amoenus.
Các loại cây
Ở nhiều nơi trên thế giới, du khách có phong tục treo đồ vật lên cây để thiết lập một mối quan hệ nào đó giữa họ và cây nguyện ước. Trên khắp Châu Âu, cây cối được biết đến là địa điểm hành hương, đi lại theo nghi lễ và là nơi cầu nguyện theo lễ Cơ Đốc giáo. Vòng hoa, ruy băng hoặc giẻ rách được treo để cầu may, niềm tin này hướng đến sự chữa lành hoặc hoặc đơn thuần là ước muốn. Ở Nam Mỹ, Darwin đã ghi nhận lại sự việc một cái cây được tôn vinh bằng nhiều lễ vật (giẻ lau, thịt, xì gà, v.v.); người ta làm lễ cúng cho nó và hiến tế ngựa. Cái cây thế giới với cành vươn lên trời và rễ cắm sâu vào lòng đất, có thể thấy tồn tại trong ba thế giới - mối liên kết giữa trời, đất và âm phủ, thống nhất trên và dưới. Cây thiêng vĩ đại này như một axis mundi, hỗ trợ hoặc nâng đỡ vũ trụ và nuôi dưỡng mối liên kết giữa trời, đất và thế giới ngầm.
Trong thần thoại châu Âu, ví dụ nổi tiếng nhất là cái cây Yggdrasil từ thần thoại Bắc Âu. Ngoài ra, còn nhiều cây thiêng khác như Cây sự sống trong Kinh Thánh, Cây Giáng Sinh trong Cơ Đốc giáo, cây Lotus trong thần thoại Hy Lạp, Cội Bồ-đề trong Phật giáo. Ở Trung Quốc có truyền thuyết về cây tiền tài, cây Phù Tang. Ở Việt Nam có truyền thống dựng cây nêu ngày Tết theo truyền thuyết thì cây nêu này sẽ chống lại quỹ dữ, trong lịch sử có cây Chiên Đàn tán rộng là nơi trú ẩn của Quỷ Xương Cuồng. Một số nơi có truyền thuyết về cây ăn thịt người đặc biệt là truyền thuyết đi đường của những thổ dân da đen sống trong những khu rừng rậm và đầm lầy nước đen, cây ăn thịt người là một đặc sản của Madagascar và được người dân bộ tộc Mkodo ở đây tôn thờ như một linh vật đặc biệt.
Chú thích
Tham khảo
Becker, Lore (2002). Die Mythologie der Bäume, Papyrus 1-2.
Brosse, Jaques (1989). Mythologie des arbres, .
Forlong, James (1883). Rivers of Life, London & Edinburgh. Vol I chapter 2 Tree Worship.
Forsyth, James (1992). A History of the Peoples of Siberia: Russia's North Asian Colony 1581-1990. Cambridge University Press. .
Gollwitzer, Gerda (1984). Botschaft der Bäume, DuMont Buchverlag Köln.
Malla, Bansi Lal (2000). Trees in Indian Art, Mythology, and Folklore, .
Ziffer, Irit. "WESTERN ASIATIC TREE-GODDESSES". In: Ägypten Und Levante [Egypt and the Levant] 20 (2010): 411-30. Accessed May 8, 2021. http://www.jstor.org/stable/23789949.
Cây trong thần thoại
Thực vật trong văn hóa
Nguyên mẫu thần thoại
Trải nghiệm và hành vi tôn giáo
|
19836665
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%95%20phi%E1%BA%BFu%20meme
|
Cổ phiếu meme
|
Cổ phiếu meme (tiếng Anh: Meme stock) là cổ phiếu được các nhà đầu tư bán lẻ ưa chuộng trên phương tiện truyền thông mạng xã hội. Mức độ phổ biến của cổ phiếu meme nói chung dựa trên các meme Internet được chia sẻ giữa các bên giao dịch trên các nền tảng như r/wallstreetbets của Reddit. Những người đầu tư vào những cổ phiếu này thường là những nhà đầu tư trẻ và thiếu kinh nghiệm. Do sự phổ biến của chúng, cổ phiếu meme thường giao dịch ở mức giá cao hơn giá trị ước tính dựa trên phân tích cơ bản, và được biết đến là có tính đầu cơ cực cao và dễ biến động.
Xem thêm
Đầu cơ trong ngày
Dogecoin
Meme Man
YOLO
Tham khảo
Lịch sử kinh tế thập niên 2020
Văn hóa Internet
Hiện tượng Internet
Reddit
Truyền thông xã hội
|
19836666
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shintotsukawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Shintotsukawa, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kabato, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.484 người và mật độ dân số là 13 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 495,62 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836668
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oracle%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Oracle (định hướng)
|
Oracle hoặc The Oracle có thể là:
Máy tính
Oracle Corporation, một công ty công nghệ máy tính đa quốc gia của Mỹ
Oracle Database, một hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu
ORACLE (máy tính), một máy tính đời đầu
Oracle machine, hay oracle, trong lý thuyết độ phức tạp và lý thuyết tính toán
Blockchain oracle, dịch vụ kết nối các contract thông minh với thế giới bên ngoài
Địa điểm
Oracle, Arizona, Hoa Kỳ
Oracle (trại tế bần), ở Reading, Anh
Nhà thi đấu Oracle, nay là Nhà thi đấu Oakland, ở Oakland, California, Hoa Kỳ
The Oracle, Queensland, Úc, một dự án phát triển căn hộ cao cấp
The Oracle, Reading, Anh, một trung tâm mua sắm
Xem thêm
Auricle (định hướng)
|
19836676
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20%C4%90%E1%BB%A9c%202022
|
Chặng đua MotoGP Đức 2022
|
Chặng đua MotoGP Đức 2022 là chặng đua thứ 10 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 17/06/2022 đến ngày 19/06/2022 ở trường đua Sachsenring, Đức. Tay đua giành chiến thắng là Fabio Quartararo của đội đua Yamaha.
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19836677
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Indya%20Moore
|
Indya Moore
|
Indya Adrianna Moore là một người mẫu, diễn viên, và là một nhà hoạt động người Mỹ. Họ được biết đến nhiều nhất qua vai diễn Angel Evangelista trong loạt phim truyền hình FX Pose. Moore sinh ra ở The Bronx, Thành phố New York vào năm 1995. Họ bắt đầu làm người mẫu từ khi còn ở tuổi thiếu niên và xuất hiện trong các chiến dịch cho các thương hiệu như Gucci, Christian Dior và GQ. Năm 2019, Moore trở thành người chuyển giới đầu tiên xuất hiện trên trang bìa tạp chí Elle. Tạp chí Time vinh danh họ một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới năm 2019. Moore là người chuyển giới, người phi nhi nguyên giới và dùng đại từ nhân xưng they/them (họ) và she/her (cô ấy).
Tháng 12 năm 2018, Indya Moore công khai là một người đa ái.
Đời sống
Xuất thân
Indya Moore sinh ra với giới tính chỉ định là nam, lớn lên ở quận The Bronx, New York, là người có gốc Haiti, Dominica, và Puerto Rico. Mẹ của Moore là một điều dưỡng, thường xuyên phải chăm sóc quá nhiều bệnh nhân chuyển giới bị người đời xa lánh, kỳ thị. Bà lo lắng rằng nếu để con mình sống như một người chuyển giới thì sẽ phải chịu đựng những đau khổ như những bệnh nhân mà bà đã gặp. Năm 14 tuổi, Moore đã bỏ nhà tìm đến hệ thống chăm sóc thay thế vì sự kỳ thị chuyển giới đến từ cha mẹ. Moore kể lại vào giai đoạn này, họ đã lưu lạc khắp cả năm quận của thành phố New York, qua nhiều khu nhà ở tập thể và ra toà cũng không ít lần.
Moore từng được một người phụ nữ chuyển giới nhận nuôi và dạy họ sử dụng hormone như cách tiếp cận gần hơn với bản dạng giới của mình. Cho tới một ngày nọ, người mẹ nuôi ngừng cung cấp hormone và họ đã phải tìm cách mua trên mạng. Một người lạ đã nhắn tin qua Facebook và nói rằng muốn giúp Moore kiếm tiền để có thể trở thành "phụ nữ thực sự". Moore đã chấp nhận lời đề nghị và vô hình trung vướng vào nhóm buôn bán tình dục, khi đó bản thân Moore cũng không hiểu mại dâm là gì và bản thân cũng bị hành hạ thể xác nhiều.
Moore bỏ học vào năm lớp 10 và bắt đầu con đường người mẫu từ năm 15 tuổi.
Sự nghiệp
Giai đoạn đầu
Moore trở thành người mẫu ở tuổi 15 và bắt đầu chụp hình cho Dior và Gucci, bất chấp việc ban đầu ngành thời trang coi họ là một lựa chọn mạo hiểm.
Mặc dù Moore đang có những hợp đồng làm người mẫu nhưng họ ngày càng không hài lòng với ngành thời trang và sự chú trọng của nó vào hình ảnh cơ thể. Moore gặp Jose Gutierez Xtravaganza, một nghệ sĩ ballroom, khi đang đóng quần chúng cho bộ phim truyền hình The Get Down. Người này đã khuyến khích họ theo đuổi diễn xuất và gửi Moore tới thử vai cho bộ phim độc lập Saturday Church. Moore được nhận vai nhân vật Dijon và phim được trình chiếu tại Liên hoan phim Tribeca.
Đầu năm 2017, Moore sải bước trên sàn của Tuần lễ Thời trang New York và chụp ảnh cho tạp chí Vogue España. Năm đó, Moore xuất hiện trong video âm nhạc của Katy Perry cho đĩa đơn Swish Swish và biểu diễn trực tiếp với Katy Perry trong một tập của Saturday Night Live vào ngày 20 tháng 5 năm 2017, nơi họ được ghi nhận là một thành viên của Nhà Xtravaganza.
Loạt phim truyền hình Pose
Cuối năm 2017, Moore được chọn tham gia Pose, loạt phim truyền hình FX của Ryan Murphy về văn hóa ballroom trong thành phố New York vào cuối những năm 1980. Moore vào vai Angel Evangelista, một người lao động tình dục chuyển giới nữ, gia nhập Nhà Evangelista sau khi rời khỏi Nhà Abundance cùng với người bạn Blanca của cô, do Michaela Jaé Rodriguez thể hiện. Khi làm việc ở bến tàu, cô gặp Stan, một yuppie do Evan Peters thủ vai, và trở thành tình nhân của anh ta.
Loạt phim được khởi chiếu vào ngày 3 tháng 6 năm 2018. Mùa đầu tiên quy tụ dàn diễn viên chuyển giới nhiều nhất từ trước đến nay cho một loạt phim mạng có kịch bản với hơn 50 nhân vật chuyển giới. Indya Moore tiếp tục đảm nhận vai diễn này trong 2 mùa tiếp theo của loạt phim.
Những dự án theo sau
Năm 2018, Moore ký hợp đồng với IMG Models và William Morris Endeavour (WME). Moore là hợp đồng đầu tiên của WME được ký kết với một diễn viên chuyển giới. Moore cũng thành lập công ty sản xuất Beetlefruit Media, nơi cung cấp nền tảng cho những câu chuyện cho các nhóm người bị tước quyền bầu cử.
Moore đã xuất hiện trong video âm nhạc Don't Pull Away năm 2017 của J.View và trong video Saint năm 2018 của Blood Orange.
Vào tháng 5 năm 2019, Moore trở thành người chuyển giới đầu tiên được xuất hiện trên trang bìa tạp chí Elle phiên bản Hoa Kỳ.
Vào tháng 12 năm 2019, Moore thử sức với vai trò lồng tiếng cho nhân vật Shep trong loạt phim hoạt hình Steven Universe Future. Nhân vật này cũng là người phi nhị nguyên và là người tình của nhân vật Sadie Miller.
Moore đã được chọn tham gia bộ phim kinh dị tâm lý Escape Room: Tourathon of Champions, phần tiếp theo của bộ phim Escape Room năm 2019. Phim được phát hành vào ngày 16 tháng 7 năm 2021.
Moore còn lồng tiếng cho nhân vật Brooklyn, một trong những bạn cùng lớp của Lunella, trong Moon Girl và Devil Dinosaur.
Vào tháng 6 năm 2020, để vinh danh kỷ niệm 50 năm cuộc diễu hành Tự hào LGBTQ đầu tiên, Queerty đã nêu tên họ trong số 50 anh hùng "tiên phong quốc gia hướng tới bình đẳng, chấp nhận và nhân phẩm cho tất cả mọi người".
Phim đã tham gia
Phim
Truyền hình
Ghi chú
Chú thích
Sinh năm 1995
Nhân vật còn sống
Diễn viên Mỹ thế kỷ 21
Diễn viên truyền hình Mỹ
Người phi nhị nguyên giới
Người chuyển giới
Người chuyển giới phi nhị nguyên giới
|
19836684
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20t%C3%ACnh%20c%E1%BB%A7a%20ch%E1%BB%93ng%20t%C3%B4i
|
Người tình của chồng tôi
|
Người tình của chồng tôi có thể là:
Người tình của chồng tôi, phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2007.
Người tình của chồng tôi, phim truyền hình Philippines ra mắt năm 2013.
|
19836686
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Have%20Dash
|
Have Dash
|
Have Dash là một chương trình phát triển tên lửa không đối không tàng hình của Không quân Mỹ. Mặc dù tên lửa Have Dash II dường như đã được thử nghiệm, nhưng kết quả của chương trình vẫn không được tiết lộ, và tên lửa không được đưa vào sản xuất quy mô lớn.
Have Dash I
Have Dash I là một chương trình bí mật nhằm phát triển tên lửa không đối không dành cho máy bay tàng hình. Thiết kế sơ bộ được thực hiện bởi Phòng thí nghiệm phát triển vũ khí của Không quân Mỹ từ năm 1985 đến năm 1988 tuy nhiên không phát triển đến mức sản phẩm thử nghiệm.
Have Dash II
Have Dash II, là một nỗ lực để phát triển một loại tên lửa không đối không tàng hình, được trang bị trên các máy bay đang phát triển trong chương trình Advanced Tactical Fighter – YF-22 và YF-23 – và để thay thế tên lửa AIM-120 AMRAAM.
Have Dash II có thiết kế thân composite,mặt cắt tên lửa dạng hình thang, làm giảm diện tích phản xạ radar và giảm sự gia nhiệt trong khi bay siêu thanh ở tốc độ Mach 5. Hình dạng thân tên lửa cũng giúp nó có thể chứa trong khoang vũ khí chìm của máy bay, và bổ sung thêm lực nâng giúp tên lửa có khả năng thao diễn tốt hơn.
Nguyên mẫu tên lửa sử dụng động cơ nhiên liệu rắn Mk58 của Rocketdyne, cũng chính là loại sử dụng trên tên lửa AIM-7 Sparrow. Khi đi đến giai đoạn chế tạo hàng loạt, tên lửa được dự kiến sẽ trang bị động cơ ramjet, và có khả năng định vị dựa trên vệ tinh trên toàn hành trình bay, ở pha cuối sẽ sử dụng đầu dò hồng ngoại và đầu dò radar chủ động.
Việc thử nghiệm tên lửa dự kiến sẽ diễn ra vào năm 1992; dường như các thử nghiệm đã được tiến hành, với việc tên lửa được cân nhắc thử nghiệm sâu hơn đối với các ý tưởng thiết kế cải tiến. Tuy nhiên, các thử nghiệm về loại tên lửa này vẫn là bí mật và không có báo cáo nào về chương trình phát triển tên lửa tiếp th.
Tham khảo
Notes
Bibliography
|
19836703
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20Mohawk
|
Sông Mohawk
|
Sông Mohawk () là một con sông dài ở tiểu bang New York, Hoa Kỳ. Đây là nhánh lớn nhất của sông Hudson.
Sông New York
|
19836709
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kaminokuni%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Kaminokuni, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Hiyama, phó tỉnh Hiyama, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.306 người và mật độ dân số là 7,9 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 547,58 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836712
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%BD%20t%E1%BB%99c%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
Quý tộc Tây Ban Nha
|
Quý tộc Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Nobiliarios de España) là những người sở hữu danh hiệu quý tộc được Bộ Tư pháp Tây Ban Nha xác nhận, cũng như những cá nhân được bổ nhiệm vào một trong ba cấp bậc hiệp sĩ cao nhất của vương quốc, bao gồm: Huân chương Lông cừu vàng, Huân chương Carlos III và Huân chương Công giáo Isabel. Một số quý tộc sở hữu nhiều tước hiệu khác nhau có thể được thừa kế hoặc không, nhưng việc tạo ra và công nhận các tước hiệu về mặt pháp lý là đặc quyền của Vua Tây Ban Nha.
Nhiều tước hiệu và gia đình cao quý vẫn tồn tại đã truyền lại tước vị đó từ xa xưa. Một số gia đình quý tộc sử dụng trợ từ "de" cao quý trước tên gia đình của họ, mặc dù điều này nổi bật hơn trước thế kỷ XX. Trong thời kỳ cai trị của Generalísimo Francisco Franco, một số tước hiệu cha truyền con nối mới đã được phong cho các cá nhân và các tước hiệu do những người tuyên bố ngai vàng của Castilla phong đã chính thức được công nhận.
Bất chấp việc Juan Carlos I lên ngôi Tây Ban Nha vào năm 1975 và phục vị Vương tộc Bourbon. Triều đình hoàng gia gồm các quý tộc nắm giữ các chức vụ và chức vụ trực thuộc Gia đình Hoàng gia vẫn chưa được khôi phục. Những người có quyền sở hữu tước hiệu quý tộc phải chịu thuế, trong khi dưới thời Ancien Régime của Tây Ban Nha (cho đến năm 1923) họ được miễn thuế. Vua Juan Carlos tiếp tục phong tước hiệu cho các công dân có thành tích trong các hoạt động công ích, nỗ lực nghệ thuật, thành tích cá nhân, hoạt động từ thiện, v.v. được coi là đã mang lại lợi ích cho đất nước Tây Ban Nha.
Các quý tộc ở Tây Ban Nha được phân cấp tước hiệu tương tự như Quý tộc Anh, Hà Lan, Thụy Điển, Bỉ hiện nay, hay giới quý tộc trước đây ở Đức, Ý, Bồ Đào Nha, gồm 5 cấp bậc chính thức: Công tước, Hầu tước, Bá tước, Tử tước và Nam tước, ngoài ra, ở Tây Ban Nha còn có thêm 2 bậc xếp dưới Nam tước, đó là señor và Hidalgo. Các triều đại Tây Ban Nha còn công nhận một tầng lớp cao quý khác là quý tộc, họ gồm những gia tộc giàu có với sức ảnh hưởng lâu đời, những người này được gọi là quý tộc không tước phong.
Những quý tộc cao cấp nhất ở Tây Ban Nha được đính kèm tước hiệu Grandee (tiếng Tây Ban Nha: Grande de España), tính đến năm 2018, chỉ có 417 trên 2.942 tước hiệu ở Tây Ban Nha được gắn với Grandee.
Chú thích
Tham khảo
Atienza, Julio de. Nobiliario Español: Diccionario Heráldico de Apellidos Españoles y de Títulos Nobiliarios. Madrid: Aguilar, 1948.
Figueroa y Melgar, Alfonso de. Estudio Histórico Sobre Algunas Familias Españolas. 6v. in 12 parts. Madrid: Editions Dawson & Fry, 1965.
Noble Titles in Spain and Spanish Grandees
Nobility & Grandee Titles in Spain (Ministry of Justice)
Quý tộc Tây Ban Nha
Grandee Tây Ban Nha
Quý tộc châu Âu
|
19836720
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20H%E1%BA%A1ng%20Nh%C3%AC%20Qu%E1%BB%91c%20gia%201997
|
Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 1997
|
Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 1997 là mùa giải đầu tiên của Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam tổ chức và quản lý. Giải đấu là sự thay thế cho Giải bóng đá A1 toàn quốc với tư cách là giải thi đấu bóng đá cấp câu lạc bộ cao thứ 2 trong hệ thống các giải bóng đá Việt Nam (giải đấu cao nhất là Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia được đổi tên từ Giải bóng đá Các đội mạnh Toàn quốc). Giải khởi tranh vào tháng 4 và kết thúc vào ngày 26 tháng 9 năm 1997.
Vòng loại
Bảng A (Khu vực miền Bắc)
Các trận đấu vòng loại thuộc bảng A đã diễn ra đến ngày 1 tháng 6 năm 1997. Nam Định và Thanh Hóa là các đội đã vượt qua vòng loại.
Bảng B (Khu vực miền Trung và Tây Nguyên)
Các trận đấu vòng loại thuộc bảng B đã diễn ra đến ngày 1 tháng 6 năm 1997. Bình Định, Đà Nẵng và Cấp nước Đà Nẵng là các đội đã vượt qua vòng loại.
Bảng C (Khu vực miền Nam)
Các trận đấu vòng loại thuộc bảng C đã diễn ra từ tháng 4 đến ngày 25 tháng 5 năm 1997. 18 đội được chia thành hai nhóm A và B, chọn 4 đội đứng đầu 2 nhóm vào vòng chung kết.
Quân khu 7, Cao su Đồng Nai (nhóm A) và Tiền Giang, Kiên Giang (nhóm B) là các đội đã vượt qua vòng loại.
Vòng chung kết
Vòng chung kết diễn ra từ ngày 31 tháng 8 đến ngày 14 tháng 9 năm 1997. 9 đội tham dự được chia thành 3 nhóm, thi đấu vòng tròn một lượt theo quy định không có trận hòa; nếu hòa sẽ tiến hành đá thêm hai hiệp phụ (có áp dụng luật bàn thắng vàng) và loạt sút luân lưu để xác định đội thắng. Ba đội đứng đầu ba bảng cùng một đội nhì bảng có thành tích tốt nhất giành quyền vào bán kết.
Vòng bảng
Nhóm A
Các trận đấu của nhóm A diễn ra tại sân vận động Chi Lăng, thành phố Đà Nẵng.
Nhóm B
Các trận đấu của nhóm B diễn ra tại sân vận động Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Nhóm C
Các trận đấu của nhóm C diễn ra tại sân vận động Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Xếp hạng các đội đứng thứ hai
Chỉ một đội nhì bảng giành quyền vào bán kết.
Vòng đấu loại trực tiếp
Hai đội thắng trong hai trận bán kết sẽ trực tiếp giành quyền lên thi đấu tại Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia 1998. Tất cả các trận đấu của giai đoạn này diễn ra trên sân vận động Tự Do, Huế.
Bán kết
Chung kết
Xem thêm
Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia 1997
Giải bóng đá Cúp Quốc gia 1997
Tham khảo
Bóng đá Việt Nam năm 1997
Giải bóng đá hạng nhì quốc gia Việt Nam
|
19836721
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Christopher%20Okoro%20Cole
|
Christopher Okoro Cole
|
Christopher Elnathan Okoro Cole, CMG OBE (17 tháng 4 năm 1921 – 1990) là chính khách Sierra Leone. Ông giữ chức Toàn quyền và Tổng thống Sierra Leone trong vòng 1 ngày năm 1971. Năm 1965, Cole nhận Huân chương Đế quốc Anh (OBE) và được giới thiệu nhận Huân chương Thánh Michael và Thánh George năm 1973.
Sự nghiệp
Năm 1970, Cole trở thành Chánh án Sierra Leone.
Đầu năm 1971, Sierra Leone diễn ra quá trình thay đổi hiến pháp để bãi bỏ chế độ quân chủ đồng thời xác định Thủ tướng Siaka Stevens sẽ trở thành Tổng thống. Cole nhậm chức Toàn quyền lâm thời ngày 31 tháng 3 rồi đã giữ chức quyền tổng thống trong hai ngày. Sau đó, ông trở lại làm Chánh án Tối cao cho đến năm 1978.
Đời tư
Cole nghỉ hưu năm 1978. Ông đã kết hôn và có bốn người con.
Chú thích
Thư mục
Tổng thống Sierra Leone
Chính khách Sierra Leone
Mất năm 1990
Sinh năm 1921
|
19836726
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rolls-Royce%20Cullinan
|
Rolls-Royce Cullinan
|
Rolls-Royce Cullinan là một mẫu SUV hạng sang cỡ lớn được sản xuất bởi Rolls-Royce Motor Cars, đồng thời cũng là chiếc xe đầu tiên sử dụng hệ dẫn động bốn bánh của hãng. Tên gọi của xe được đặt theo Kim cương Cullinan, viên kim cương thô lớn nhất từng được phát hiện trên thế giới.
Cullinan được định vị nằm trên dòng Ghost và tầm dưới Phantom trong dải sản phẩm Rolls-Royce, với mức giá khởi điểm tại Hoa Kỳ rơi vào khoảng 325.000 USD (255.000 bảng Anh). Xe được ra mắt vào tháng 5 năm 2018 tại sự kiện Concorso d'Eleganza Villa d'Este ở Ý. Đối với thị trường Hoa Kỳ, Cullinan không được miễn Đạo luật Thuế Năng lượng vì nó được đưa vào phân khúc station wagon thay vì SUV.
Tổng quan
Vào năm 2015, rộ lên thông tin cho rằng một mẫu xe mới đang được phát triển và dự kiến mang tên gọi Cullinan. Nguyên nhân chính bắt nguồn từ việc hãng Rolls-Royce muốn cạnh tranh với các đối thủ Bentley và Lamborghini, vốn đã đánh chiếm thị trường SUV từ trước lần lượt với các mẫu Bentayga và Urus. Tại Triển lãm Ô tô Quốc tế Frankfurt 2015, Giám đốc điều hành Torsten Müller-Ötvös cho biết chiếc SUV này sẽ được ra mắt vào năm 2018 và có mặt trên thị trường vào năm 2019.
Cái tên "Cullinan" đã được Rolls-Royce chính thức xác nhận vào ngày 13 tháng 2 năm 2018. Nó được lấy cảm hứng từ Cullinan, viên kim cương lớn nhất từng được tìm thấy với khối lượng 3106 carat. Đây cũng chính là mẫu SUV đầu tiên của hãng.
Theo chiến lược điện hóa của BMW AG, Rolls-Royce cùng nhiều hãng xe khác, các mẫu xe sử dụng động cơ đốt trong dự kiến sẽ dừng sản xuất vào năm 2030 và thay thế hoàn toàn bằng xe điện.
Đến năm 2019, Rolls-Royce Motor Cars tuyên bố rằng mặc dù đã đẩy mạnh sản xuất và tuyển thêm nhân viên, thế nhưng họ vẫn không có đủ nguồn cung để đáp ứng nhu cầu cho những khách hàng trung thành hoặc khách hàng nữ giới và trẻ tuổi.
Thiết kế và thử nghiệm
Thiết kế
Phần lớn thiết kế ngoại thất của Cullinan đều vay mượn từ Rolls-Royce Phantom thế hệ thứ 8, với điểm nhấn gồm lưới tản nhiệt hình đền Parthenon đặc trưng, cụm đèn pha thông minh sử dụng công nghệ laser cùng hai khe hút gió.
Phần nội thất của Cullinan được chế tác tinh xảo từ những chất liệu cao cấp. Ghế ngồi bọc bằng những tấm da bò, được hãng chọn lựa kỹ lưỡng và xử lý bởi các nghệ nhân có tay nghề cao. Gỗ Veneer được chọn làm chất liệu chế tác ở một số chi tiết taplo, tappi cửa. Ngoài ra, xe còn được trang bị nhiều trang bị đặc biệt, nổi bật là hệ thống âm thanh Rolls-Royce Bespoke 18 loa. Khoanh hành lý của xe có thể được sử dụng để phục vụ cho mục đích cắm trại, với những chiếc ghế da được bố trí phía sau. Bên cạnh đó, đây cũng là chiếc Rolls-Royce duy nhất có vách kính ngăn giữa khoang hành lý và khoang hành khách, giúp phân tách hoàn toàn không gian cabin và khoang chứa đồ.
Cullinan có nhiều chế độ lái khác nhau, trong đó off-road giúp cho chiếc xe mở mô men xoắn ở mức cực đại. Xe còn có hệ thống treo có thể tăng chiều cao thêm 40 mm khi đang ở chế độ off-road.
Giai đoạn thử nghiệm
Giai đoạn thử nghiệm của Cullinan được cho là đã tiến hành vào ngày 2 tháng 1 năm 2016, kể từ đó nó đã được bắt gặp nhiều lần khi đang chạy thử trên môi trường băng tuyết.
Những thử nghiệm cuối cùng của xe được thực hiện vào năm 2018 trên nhiều dạng địa hình khác nhau, với sự cộng tác từ kênh truyền hình National Geographic.
Thông số kỹ thuật và hiệu suất
Nền tảng
Cullinan sử dụng hệ khung gầm không gian Architecture of Luxury được làm hoàn toàn bằng nhôm, vốn xuất hiện lần đầu trên mẫu Phantom VIII. Với vật liệu này, xe sẽ tăng khả năng cách âm cũng như độ cộng hưởng bên trong cabin xe.
Hệ thống treo
Cullinan sử dụng trục bánh trước kiểu tay đòn kép, trong khi trục bánh sau có dạng 5 nhánh liên kết. Đồng thời, nó còn được trang bị hệ thống treo khí nén tự động thực hiện hàng triệu phép tính trong mỗi giây nhằm thay đổi hệ thống cân bằng điện tử điều chỉnh giảm xóc. Xe cũng được trang bị các thanh cân bằng chống lật chủ động được kích hoạt bằng điện.
Với hệ thống camera âm thanh nổi được tích hợp vào kính lái, Cullinan có thể quét mặt đường và địa hình phía trước, từ đó điều chỉnh hệ thống treo một cách chủ động nhằm cải thiện chất lượng lái. Với tên gọi "The Flagbearer", nó có thể hoạt động khi xe chạy ở tốc độ lên tới . Michael Snell, Giám đốc Marketing khu vực Châu Mỹ của Rolls-Royce Motor Cars cho biết: "Kể cả khi những cải tiến mới được bổ sung trên hệ thống treo và dẫn động của Cullinan, thế nhưng trải nghiệm lái vẫn không bị ảnh hưởng vì chiếc xe vẫn giữ được tính năng "Magic Carpet Ride" trứ danh khi vận hành trên mọi địa hình".
Tương tự như chiếc Phantom VIII, Cullinan sử dụng hệ thống lái bốn bánh để cải thiện cả khả năng cơ động ở tốc độ thấp lẫn độ ổn định ở tốc độ cao hơn.
Hệ dẫn động
Cullinan được trang bị duy nhất động cơ tăng áp kép V12 6,75 lít, cùng với hộp số tự động 8 cấp 8HP ZF. Hệ dẫn động mà Cullinan sử dụng là loại dẫn động bốn bánh toàn thời gian.
Phiên bản
Cullinan Black Badge
Black Badge là phiên bản đặc biệt của Cullinan với hiệu suất ấn tượng hơn. Ngoại thất của xe phủ bởi tông màu đen chủ đạo (bao gồm cả logo Spirit of Ecstasy), trong khi phần nội thất chứa các vật liệu được dệt từ sợi carbon. Loại da sử dụng trên xe có màu đen, còn đường coachline bên ngoài thì được sơn trùng theo màu ngoại thất.
Xem thêm
Bentley Bentayga
Mercedes-Maybach GLS 600
Lamborghini Urus
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website toàn cầu
Rolls-Royce Motor Cars PressClub
Ô tô thập niên 2020
Xe phân loại theo nhãn hiệu
Xe đầu bảng
Xe thể thao đa dụng Crossover
|
19836727
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tea%20Seiha
|
Tea Seiha
|
Tea Seiha (; sinh ngày 31 tháng 8 năm 1980) là một chính trị gia và đại tướng người Campuchia, ông hiện là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông trước đây là thống đốc tỉnh Siem Reap từ năm 2018. Ông là con trai của cựu Bộ trưởng Quốc phòng Tea Banh.
Chú thích
Chính khách Campuchia thế kỷ 21
Bộ trưởng Campuchia
Tướng lĩnh Campuchia
Quân nhân Campuchia
Thị trưởng Campuchia
|
19836742
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Banja%20Tejan-Sie
|
Banja Tejan-Sie
|
Sir Banja Tejan-Sie (7 tháng 8 năm 1917 – 8 tháng 8 năm 2000) là Toàn quyền Sierra Leone và là một trong những người sáng lập Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP). Ông được Nữ hoàng phong tước hiệp sĩ với Huân chương cao quý nhất - Đại thập tự huân chương Thánh Michael và Thánh George, GCMG.
Năm 1967, Sierra Leone bị đảo chính quân sự lật đổ, lập ra Hội đồng Cải chánh Quốc gia. Tejan-Sie trở thành Chánh án Tối cao Pháp viện cho đến năm 1968. Khi khôi phục được quyền kiểm soát dân sự, ông được bổ nhiệm làm Toàn quyền. Năm 1971, khi Sierra Leone trở thành nước Cộng hòa, Tejan-Sie phải sống lưu vong ở Anh cho đến cuối đời.
Chú thích
Liên kết ngoài
https://www.theguardian.com/news/2000/sep/12/guardianobituaries1
Tiểu sử Đảng Nhân dân Sierra Leone của Tejan-Sie
Hồ sơ của các nhà lãnh đạo Độc lập Sierra Leonean
Cựu sinh viên Trường Kinh tế Luân Đôn
Mất năm 2000
Sinh năm 1917
|
19836757
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/John%20Amadu%20Bangura
|
John Amadu Bangura
|
John Amadu Bangura, CBE (8 tháng 3 năm 1930 – 29 tháng 3 năm 1970) là Chuẩn tướng Sierra Leone, từng giữ chức Tham mưu trưởng Quân lực Sierra Leone năm 1968-1970. Trước đó vào năm 1967, ông là Đại sứ Sierra Leone tại Hoa Kỳ. Ông là quyền Toàn quyền Sierra Leone từ ngày 18 tháng 4 năm 1968 đến ngày 22 tháng 4 năm 1968. Ông đã lãnh đạo đảo chính năm 1968 tái lập thành công chế độ dân sự ở Sierra Leone.
Năm 1970, thủ tướng Siaka Stevens cho bắt giữ Bangura và buộc tội âm mưu chống đối. Bangura bị kết án tử hình vì tội phản quốc.
Dù cho thực tế chính Bangura đã đưa Stevens lên nắm quyền sau đảo chính năm 1968, nhưng đề nghị khoan hồng của ông đã bị bác bỏ.
Ngày 29 tháng 3 năm 1970, nơi xử tử, Bangura khóc vì không tin nổi và từ chối lên giá treo cổ. Ông bị đánh đến chết và xác bị đổ axit đậm đặc lên.
Để ngăn dân chúng coi Bangura là người tử đạo, Stevens không cho tiết lộ nơi chôn cất rồi lát đường Kissy lên trên.
Chú thích
Thư mục
Sinh viên tốt nghiệp Học viện Quân sự Hoàng gia Sandhurst
Sinh năm 1930
Mất năm 1970
Quân nhân Sierra Leone
Chính khách Sierra Leone
|
19836767
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Patrick%20Conteh
|
Patrick Conteh
|
Patrick Conteh (? - ?) là chính khách và sĩ quan quân đội Sierra Leone. Từ 18 đến 26 tháng 4 năm 1968, ông là người đứng đầu Sierra Leone trong tư cách Chủ tịch Phong trào Cách mạng Chống tham nhũng.
Trong phong trào này, ông liên kết với John Amadu Bangura thực hiện đảo chính lật đổ Andrew Terence Juxon-Smith với lời hứa khôi phục chế độ dân sự. Ngày 18 tháng 4 năm 1968, Conteh trên danh nghĩa đứng đầu đất nước, rồi chuyển lại cho Bangura. Ngày 22 tháng 4, chức vụ Toàn quyền được chuyển giao cho Banja Tejan-Sie. Ngày 26 tháng 4, Conteh trao quyền cho Thủ tướng Siaka Stevens. Không có thông tin gì về Conteh sau đó.
Chú thích
Sinh thế kỷ 20
Quân nhân Sierra Leone
Tổng thống Sierra Leone
|
19836772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Station%20F
|
Station F
|
Station F là vườn ươm doanh nghiệp dành cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, nằm ở quận 13 của Paris. Nó được biết đến là cơ sở khởi nghiệp lớn nhất thế giới.
Nằm trong một kho hàng hóa đường sắt trước đây được gọi là la Halle Freyssinet (do đó có chữ "F" ở ga F). Cơ sở rộng 34.000 m2 (370.000 sq ft) được Tổng thống Emmanuel Macron chính thức khai trương vào tháng 6 năm 2017 và cung cấp chỗ ở văn phòng cho tối đa 1.000 công ty khởi nghiệp và công ty đang ở giai đoạn đầu cũng như cho các đối tác doanh nghiệp như Facebook, Microsoft và Naver.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Station F
Kinh doanh
Công ty khởi nghiệp
Paris
Vườn ươm doanh nghiệp ở Pháp
|
19836783
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20Giao%20th%C3%B4ng%20V%E1%BA%ADn%20t%E1%BA%A3i%20%28Indonesia%29
|
Bộ Giao thông Vận tải (Indonesia)
|
Bộ Giao thông Vận tải () là một cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm quản lý và điều hành giao thông ở Indonesia. Bộ được đặt tại Jakarta.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ministry of Transportation official site
Bộ chính phủ của Indonesia
|
19836798
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oshima%20%28ph%C3%B3%20t%E1%BB%89nh%29
|
Oshima (phó tỉnh)
|
là phó tỉnh của Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính phó tỉnh là 84.772 người và mật độ dân số là 22 người/km2. Tổng diện tích phó tỉnh là 3936,32 km2.
Hành chính
Tham khảo
Phó tỉnh của Hokkaidō
|
19836810
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Keke%20Geladze
|
Keke Geladze
|
Ekaterine "Keke" Giorgis asuli Geladze (1856/1858 – 4 tháng 6 năm 1937) là thân mẫu của Iosif Stalin.
Sinh ra trong một gia đình nông nô ở Gori, Gruzia ngày nay, Geladze kết hôn với thợ vá giày Besarion Jughashvili và có với ông ba đứa con; chỉ duy nhất đứa út, Ioseb, sống tới tuổi trưởng thành. Jughashvili về sau bỏ Geladze, để vợ nuôi dạy con một mình. Vì là người sùng đạo, Geladze mong muốn Ioseb trở thành mục sư, theo đó làm nghề may vá ở Gori để trang trải tiền ăn học cho con trai. Bà định cư ở Gori từ lúc Ioseb theo học Chủng viện Tâm linh Tbilisi tới tận khi ông trở thành lãnh tụ Liên Xô dưới cái tên Iosif Stalin. Những năm về già, Geladze chuyển tới sống ở Tbilisi, thủ phủ Gruzia Xô viết. Tuy Stalin thường viết thư gửi mẹ, ông hiếm khi về thăm bà, với lần cuối là vào năm 1935. Geladze qua đời vào năm 1937 và được chôn cất tại Lăng danh nhân Mtatsminda, Tbilisi.
Thiếu thời
Geladze sinh năm 1856 hoặc 1858 trong một gia đình nông nô theo Kitô giáo Chính thống Gruzia ở Gambareuli, gần Gori. Cha bà, Giorgi (hoặc Glakha) Geladze, thân phận vốn là nông nô của Thái tử Ivane Amilakhvari, từng làm thợ hồ hoặc thợ gốm để kiếm sống. Giorgi mất quanh thời điểm con gái mình chào đời; thân mẫu Melania cố gắng cho Geladze được học đọc và viết, điều mà khá xa xỉ đối với nữ giới thời bấy giờ. Ngoài ra, Geladze còn có hai người anh trai là Giorgi (Gio) và Sandala. Melania cũng qua đời ít lâu sau và những đứa trẻ mồ côi được một người cậu phía ngoại cưu mang đưa về Gori vào năm 1864, thời điểm mà tầng lớp nông nô ở Kavkaz được giải phóng theo chiếu chỉ của Sa hoàng (họ được trả tự do vào năm 1861).
Kết hôn và làm mẹ
Thời thiếu nữ, Geladze được miêu tả là "một cô gái da tàn nhang với mái tóc nâu vàng rất hấp dẫn," từng có lần khoe khoang với bạn bè rằng mình "là một cô gái xinh đẹp và được các chàng trai mong mỏi." Geladze lọt vào mắt xanh của Besarion Jughashvili, một anh thợ vá giày địa phương, và hai người họ kết hôn vào năm 1872 hoặc 1874, khi bà mới 16 tuổi. Họ có với nhau ba đứa con, đều là trai, nhưng hai đứa đầu, Mikheil (14–21 tháng 2 năm 1875) và Giorgi (24 tháng 12 năm 1876 – 19 tháng 6 năm 1877), bị chết yểu. Đứa con út, Ioseb, chào đời ngày 6 tháng 12 năm 1878. Trước lúc sinh Ioseb, Geladze đã trở nên sùng đạo, thề nguyện sẽ hành hương đến một nhà thờ ở Geri nếu đứa trẻ đương mang sống sót bình an, lời thề mà bà và Jughashvili đều giữ.
Cuộc đời về sau
Trong thời gian Ioseb sinh hoạt ở Tiflis, Geladze vẫn lưu trú tại quê nhà Gori. Rời khỏi Chủng viện vào năm 1899, Ioseb bắt đầu hoạt động cách mạng, lấy bí danh là Iosif Stalin. Ông gặp Geladze lần cuối ở Gori vào năm 1904, sau khi trốn án lưu đày ở Siberia. Bà không nghe thấy tin tức nào nữa từ con trai trong vòng 10 năm tiếp theo, tận khi Cách mạng Nga nổ ra vào năm 1917. Năm 1922, Geladze chuyển tới sống ở Tiflis theo lời khuyên của chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia, sở dĩ vì họ cảm thấy thân mẫu của một nhà lãnh đạo Đảng Bolshevik cần được đãi ngộ tử tế. Họ cấp cho bà một phòng ngủ trong cung điện cũ của Phó vương Kavkaz, và nơi đây cũng được lấy làm trụ sở của Hội đồng Dân ủy địa phương. Lavrentiy Beria, một đồng minh thân cận của Stalin, là người được phân công chăm sóc Geladze; bên cạnh đó, vợ ông ta là Nino cũng thường xuyên qua thăm hỏi sức khỏe. Có thói quen mặc đồ đen ngụ ý mình góa chồng, Geladze thường đi dạo quanh các khu trợ ở Tbilisi dưới con mắt sát sao của lực lượng NKVD do Beria kiểm soát.
Stalin hiếm khi về thăm mẹ khi ông lên nắm quyền: trong cuộc phỏng vấn với H. R. Knickerbocker của tờ New York Evening Post vào năm 1930, Geladze nói rằng Stalin mới chỉ về thăm bà hai dịp vào năm 1921 và 1926, và bà cũng mới chỉ lên Moksva có một lần nhưng "không thích nơi đó." Hai mẹ con giữ liên lạc với nhau bằng thư tín, song tần suất trao đổi giảm dần sau vụ tự vẫn của người vợ hai của Stalin, Nadezhda Alliluyeva, vào năm 1932. Hiện chỉ có 18 bức thư Stalin gửi mẹ được lưu trữ và duy nhất một bức thư Geladze gửi con trai còn tồn tại. Con cái Stalin đã có dịp về thăm bà nội chúng vào năm 1935; do rào cản ngôn ngữ giữa hai thế hệ, Vasily và Svetlana không hiểu tiếng Gruzia còn Geledze không hiểu tiếng Nga, nên anh trai cùng cha khác mẹ Yakov phải phiên dịch hội thoại.
Hay tin thân mẫu ngã bệnh, Stalin về thăm bà lần cuối vào ngày 17 tháng 10 năm 1935. Theo hồi ký chưa được công bố của bác sĩ riêng của Geladze, trong một cuộc hội thoại giữa hai người, Stalin đã nói rằng: "Mẹ ơi, mẹ có nhớ Sa hoàng của chúng ta không? Con giờ đây cũng giống Sa hoàng rồi đó," rồi Geladze trả lời: "Con làm linh mục thì tốt hơn đấy." Cũng theo nguồn này, Stalin hỏi tiếp rằng: "Tại sao mẹ cứ muốn con trở thành linh mục vậy?", và Geledze đáp: "Ta thấy họ làm việc ít mà lại sống đủ đầy. Họ cũng được người đời kính trọng. Vậy nên ta nghĩ rằng sẽ không có công việc nào phù hợp hơn cho một người đàn ông, và ta sẽ cảm thấy tự hào khi được làm mẹ của một linh mục. Nhưng ta cũng phải thú nhận, ngay cả điều đó ta cũng đã đoán sai." Ba ngày sau, Geladze được phỏng vấn bởi tờ Pravda rồi đăng thành bài trong số ra ngày 23 tháng 10, về sau còn đi kèm với một bài kể chi tiết chuyến viếng thăm của Stalin trong số ra ngày 27 tháng 10. Tuy không có phản ứng gì với số thứ nhất, Stalin lại tỏ ra không hài lòng với số thứ hai.
Geladze qua đời vào ngày 4 tháng 6 năm 1937; nguyên nhân cái chết được cho là suy tim. Bận bịu với cuộc Đại Thanh trừng cán bộ cộng sản và hàng ngũ sĩ quan Hồng quân, cụ thể là với việc bắt giữ và tra hỏi Mikhail Tukhachevsky, Stalin không dự đám tang mẹ. Beria được cử đi thay thế, với vòng hoa ghi dòng chữ "Gửi mẹ kính yêu, từ con trai của mẹ Iosif Jughashvili (Stalin)" trong cả hai thứ tiếng Gruzia và Nga. Stalin yêu cầu chôn cất mẹ tại Lăng danh nhân Mtatsminda nhìn bao quát Tbilisi, nơi yên nghỉ của rất nhiều danh nhân lịch sử Gruzia. Trong những năm gần đây, đã có bàn tán về việc cải táng thi hài Geladze về quê nhà ở Gori; theo đó, Phó Thị trưởng Tbilisi đã phát biểu vào năm 2017 rằng "không có chỗ cho mẹ của Stalin ở Mtatsminda", tuy nhiên thì phương án đó vẫn chưa được thực thi và mộ phần của Geladze vẫn là một trong những điểm tham quan hút khách nhất của toàn bộ quần thể Lăng.
Phụ chú
Tham khảo
Thư mục
Sinh thập niên 1850
Mất năm 1937
Người viết hồi ký nữ
|
19836812
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert%20Gilruth
|
Robert Gilruth
|
Robert Rowe Gilruth (8/10/1913 – 17/8/2000) là một kỹ sư không gian và nhà tiên phong trong lĩnh vực thám hiểm vũ trụ người Mỹ, người đảm nhiệm vai trò là giám đốc đầu tiên của trung tâm điều hành các chuyến bay vũ trụ có người lái của NASA, về sau đổi tên thành Lyndon B. Johnson Space Center.
Ông làm việc tại National Advisory Committee for Aeronautics (NACA) từ năm 1937 đến năm 1958 và hậu thân sau đó của ns là NASA, cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1973. Ông đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm khởi đầu trong lĩnh vực các chuyến bay siêu âm và máy bay - tên lửa, và sau đó là tham gia các chương trình bay vào vũ trụ có người lái, bao gồm chương trình Mercury, Gemini, và Apollo.
References
External links
Requirements for satisfactory flying qualities of airplanes, 1943 NACA report by Robert Gilruth
Dr. Robert Gilruth, 1986 interview transcript from the National Air and Space Museum
Dr. Robert R. Gilruth, 2000 tribute at NASA's Human Space Flight website
Robert R. Gilruth 1913–2000, 2003 memoir at the National Academy of Sciences, written by NASA flight director Christopher Kraft
From Minnesota to the moon, 2013 Star Tribune article by Cirrus Aircraft co-founder Dale Klapmeier honoring Gilruth's legacy
|
19836818
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20TT%20Assen%202022
|
Chặng đua TT Assen 2022
|
Chặng đua TT Assen 2022 còn được gọi là chặng đua TT Hà Lan 2022 là chặng đua thứ 11 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 24/06/2022 đến ngày 26/06/2022 ở trường đua TT Assen, Hà Lan. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse.
Kết quả thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19836820
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andrew%20Juxon-Smith
|
Andrew Juxon-Smith
|
Andrew Terence Juxon-Smith (30 tháng 11 năm 1931 – 1996) là chuẩn tướng quân đội và chính khách người Creole ở Sierra Leone. Từ ngày 27 tháng 3 năm 1967 đến ngày 18 tháng 4 năm 1968, ông là Chủ tịch Hội đồng Cải chánh Quốc gia và quyền Toàn quyền, tương đương với người đứng đầu Sierra Leonea. Ông còn là Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tháng 4 năm 1968, John Amadu Bangura tổ chức lật đổ ông và trao quyền cho Siaka Stevens. Về sau, Juxon-Smith chuyển đến Hoa Kỳ và qua đời tại Stapleton, New York.
Cuộc đời của Juxon-Smith là chủ đề của phim tài liệu ngắn A Forgotten Past do Andreas Hadjipateras đạo diễn năm 2018.
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
Lịch sử Sierra Leone
Quân nhân Sierra Leone
Chính khách Sierra Leone
Sinh viên tốt nghiệp Học viện Quân sự Hoàng gia Sandhurst
Mất năm 1996
Sinh năm 1931
|
19836837
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20m%E1%BA%A3nh%20gh%C3%A9p%20c%E1%BA%A3m%20x%C3%BAc%202
|
Những mảnh ghép cảm xúc 2
|
Những mảnh ghép cảm xúc 2 (tên tiếng Anh: Inside Out 2) là bộ phim hoạt hình máy tính thuộc thể loại phim dành cho tuổi mới lớn của Hoa Kỳ ra mắt năm 2024 được sản xuất bởi Pixar Animation Studios và phân phối bởi Walt Disney Studios Motion Pictures. Đây là phần hậu truyện của bộ phim Những mảnh ghép cảm xúc (2015) và đồng thời cũng là bộ phim đạo diễn đầu tay của Kelsey Mann, được sản xuất bởi Mark Nielsen với kịch bản do Meg LeFauve chấp bút. Phim còn có sự tham gia lồng tiếng trở lại của Amy Poehler, Phyllis Smith và Lewis Black trong các vai diễn cũ, bên cạnh những cái tên mới như Tony Hale, Liza Lapira và Maya Hawke.
Những mảnh ghép cảm xúc 2 được công bố lần đầu vào tháng 9 năm 2022 tại sự kiện D23 Expo, với sự tham gia của Mann, Nielsen và LeFauve lần lượt trong các vai trò đạo diễn, sản xuất và biên kịch, trong khi Poehler cũng tiết lộ rằng cô cũng sẽ trở lại với vai diễn cũ của mình. Phần phim này sẽ sử dụng ý tưởng "từ 5 đến 27 cảm xúc" của Pete Docter trong phần phim đầu để Mann giới thiệu nó trong quá trình sản xuất nhằm tận dụng để xây dựng một thế giới "trung thực".
Những mảnh ghép cảm xúc 2 được dự kiến sẽ công chiếu tại các rạp phim Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6, 2024.
Tiền đề
Lồng tiếng
Amy Poehler lồng tiếng vai Vui Vẻ
Phyllis Smith lồng tiếng vai Buồn Bã
Lewis Black lồng tiếng vai Giận Dữ
Tony Hale lồng tiếng vai Sợ Hãi (được lồng tiếng bởi Bill Hader trong phần phim đầu)
Liza Lapira lồng tiếng vai Chán Ghét (được lồng tiếng bởi Mindy Kalingtrong phần phim đầu)
Maya Hawke lồng tiếng vai Lo Âu
Ayo Edebiri lồng tiếng vai Ganh Tị
Adèle Exarchopoulos lồng tiếng vai Chán Nản
Paul Walter Hauser lồng tiếng vai Xấu Hổ
Sản xuất
Phát triển
Đạo diễn của Những mảnh ghép cảm xúc (2015), Pete Docter đã nảy mầm những ý tưởng cho phần tiếp theo của bộ phim trong khi các đề cử của phần phim gốc được công bố tại Giải Oscar lần thứ 88 vào tháng 1, 2016. Pixar cũng chính thức xác nhận về việc phát triển phần phim hậu truyện này trong khuôn khổ của sự kiện D23 Expo vào tháng 9 năm 2022 bằng việc Amy Poehler tiến lên sân khấu để thảo luận về bộ phim bên cạnh Docter. Kelsey Mann sau đó cũng thông báo sẽ ngồi vào vị trí đạo diễn của phim (và đây cũng trở thành bộ phim điện ảnh dài đầu tiên của anh sau bộ phim ngắn Party Central năm 2013) với Mark Nielsen sẽ đảm nhận vai trò sản xuất, trong khi Meg LeFauve được xác nhận sẽ trở lại vai trò biên kịch của phim từ phần phim đầu. Để xây dựng một thế giới "trung thực", Mann đã sử dụng ý tưởng "từ 5 đến 27 cảm xúc" trong phần phim đầu của Docter để giới thiệu nó trong quá trình sản xuất.
Tuyển vai
Poehler đã chấp nhận hợp đồng giá trị 5 triệu Đô la Mỹ kèm theo những khoản lợi nhuận thưởng béo bở để trở lại với vai diễn Vui Vẻ của mình. Sau những bất đồng về tiền lương, Mindy Kaling và Bill Hader đã từ chối trở lại vai diễn của họ từ phần phim trước là Chán Ghét và Sợ Hãi; họ và phần còn lại của các diễn viên trở lại từ phần đầu được cho là đã được đề nghị mức lương 100,000 Đô la Mỹ mỗi người, tương đương với 2% lương của Poehler. Vào ngày 9 tháng 11, 2023, một phân đoạn teaser trailer quảng cáo ngắn được công chiếu đã xác nhận rằng Tony Hale và Liza Lapira sẽ thay thế Hader và Kaling lần lượt trong hai vai diễn là Sợ Hãi và Chán Ghét, trong khi Maya Hawke sẽ tham gia lồng tiếng một vai diễn cảm xúc mới đó là Lo Âu.
Phát hành
Những mảnh ghép cảm xúc 2 được dự kiến sẽ công chiếu tại các rạp Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6, 2024.
Quảng bá
Một đoạn teaser trailer ngắn cũng như áp phích của phim đã được công bố vào ngày 9 tháng 11 năm 2023. James Withbrook từ tờ Gizmodo và Rotem Rusak của trang Inverse đã nhấn mạnh về sự xuất hiện của ba cảm xúc khác trong áp phích bao gồm: Xấu Hổ, Chán Nản và Ghen Tỵ. Đoạn quảng cáo đã đạt được cột mốc 157 triệu lượt xem trong 24 giờ đầu ở tất cả các nền tảng phương tiện truyền thông mạng xã hội—bao gồm 78 triệu lượt xem từ TikTok— và chính thức trở thành đoạn phim hoạt hình quảng cáo được xem nhiều nhất trong lịch sử của Disney.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim hoạt hình
Phim hoạt hình máy tính
Phim Mỹ
Phim tiếng Anh
Phim năm 2024
Phim hậu truyện
Phim tuổi mới lớn
Phim thập niên 2020
Phim hoạt hình Mỹ
Phim hoạt hình năm 2024
Phim hoạt hình tuổi mới lớn
Phim hoạt hình thập niên 2020
Phim hoạt hình máy tính Mỹ
Phim hoạt hình máy tính năm 2024
Phim hoạt hình máy tính thập niên 2020
Phim hoạt hình máy tính tuổi mới lớn
Phim Mỹ năm 2024
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim hậu truyện Mỹ
Phim tuổi mới lớn Mỹ
Phim hậu truyện năm 2024
Phim hậu truyện thập niên 2020
Phim hoạt hình Mỹ năm 2024
Phim hoạt hình Mỹ thập niên 2020
Phim hoạt hình máy tính Mỹ năm 2024
Phim hoạt hình máy tính Mỹ thập niên 2020
Pixar
Phim được đạo diễn bởi Kelsey Mann
Walt Disney Pictures
Walt Disney Pictures films
Phim đạo diễn đầu tay
Nhân cách hóa
Phim với kịch bản của Meg LeFauve
|
19836838
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fukushima%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Fukushima, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Matsumae, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 3.794 người và mật độ dân số là 20 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 187,23 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836844
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albert%20Polge
|
Albert Polge
|
Albert Polge (1909–?) là một cựu cầu thủ bóng đá người Pháp gốc Việt. Ông được xem là người gốc Việt đầu tiên thi đấu tại Giải Bóng đá Vô địch Quốc gia Pháp và Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp.
Tiểu sử
Albert Polge sinh ngày 29 tháng 11 năm 1909 tại Hòn Gai, Liên bang Đông Dương. Cha ông là con lai Pháp-Việt, mẹ ông là người Việt, quê ở Hà Đông. Thuở nhỏ, ông được mẹ đặt tên là Kinh.
Ông sinh sống và đi học ở Quảng Ninh đến năm 10 tuổi thì mẹ mất, ông phải theo cha sang quê hương của ông nội là thành phố Nimes. Năm 1928, ông theo học tại trường Cao đẳng Kỹ nghệ tại Aix-en-Provence. Ông tốt nghiệp với tấm bằng kỹ sư.
Sự nghiệp
Polge thường xuyên chơi bóng tại trường học và sớm bộc lộ năng khiếu của mình. Ấn tượng với tài năng của ông, một tuyển trạch viên của SC Nimes đã ngỏ ý mời ông về thử việc và kí hợp đồng chuyên nghiệp, lúc đó Polge chỉ mới 19 tuổi. Ông được đôn lên đội một vào mùa giải 1930-1931 và thi đấu tại Ligue 1 từ năm 1932 đến năm 1934.
Năm 1933, Polge được triệu tập vào Đội tuyển quốc gia Pháp và thi đấu 3 trận giao hữu với xứ Wales, Bỉ và Tiệp Khắc. Ông không ghi được bàn nào nhưng có 1 đường kiến tạo trong trận hoà 1-1 với xứ Wales.
Năm 1934, Albert Polge chuyển qua AS Saint-Étienne và thi đấu tại giải hạng 2 của bóng đá Pháp lúc bấy giờ. Theo số liệu thống kê còn được lưu trữ, ông ra sân 56 trận và ghi 18 bàn trong 2 mùa thi đấu tại đây.
Sau hai mùa giải tại Saint-Étienne, ông tiếp tục chơi bóng nghiệp dư ở Paris (US Métro và RC Paris), nơi ông làm việc cho Paris Métro.
Cuộc đời
Trong cuộc phỏng vấn với tờ Công luận báo vào năm 1937, Polge đã bày tỏ ước muốn được trở về quê hương Việt Nam:Tôi là người Việt Nam, tôi vẫn ước mong được trở qua thăm những chỗ hồi nhỏ kỷ niệm của tôi, và nếu có một ê-kíp đá banh nào ở Pháp qua Đông Dương, tôi sẽ chẳng để lỡ cơ hội đi cho biết trình độ banh tròn ở Á Đông.Trong sự kiện giải phóng Nimes năm 1944, Albert Polge cùng vợ là Marcelle Polge bị buộc tội cộng tác với Đức Quốc xã để chống lại nước Pháp. Phiên toà được diễn ra ngày 23 tháng 9 năm 1944, Marcelle bị tuyên án tử, Albert Polge bị tuyên là gián điệp dù ông đã phủ nhận mối quan hệ của mình với Gestapo. Năm 1951, Polge được ân xá. Tờ La Gazette provençale ngày 8 tháng 5 năm 1951 cho biết ông đã chơi một trận bóng giao hữu vào năm 1951 tại Avignon.
Xem thêm
Danh sách cầu thủ bóng đá Việt Nam sinh ra ở nước ngoài
Tham khảo
Cầu thủ bóng đá
Người Pháp gốc Việt
Cầu thủ bóng đá AS Saint-Étienne
Vận động viên gốc Việt
Người Quảng Ninh
|
19836845
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Besarion%20Jughashvili
|
Besarion Jughashvili
|
Besarion Ivanes dze Jughashvili ( – 25 tháng 8 năm 1909) là thân phụ của Iosif Stalin.
Sinh thành trong một gia đình nông nô ở Didi Lilo, Gruzia, ông chuyển tới Tbilisi từ khi còn rất bé và hành nghề đóng giày trong một công xưởng để kiếm sống. Jughashvili được mời mở một tiệm giày riêng ở Gori, nơi ông kết hôn với Ekaterine Geladze và có với bà ba đứa con; trong đó chỉ đứa út, Ioseb, sống đến tuổi trường thành. Từng được coi là một người đàn ông "khôn khéo và kiêu hãnh", tiệm của Jughashvili không may phá sản và ông bắt đầu nghiện rượu nặng, về sau bỏ nhà ra đi và trở lại Tbilisi vào năm 1884 để tiếp tục đóng giày cho công xưởng cũ. Không có nhiều thông tin về quãng đời từ đó trở đi của Jughashvili, chỉ biết ông qua đời vào năm 1909 vì bệnh xơ gan.
Gia cảnh và cuộc đời kỳ thủy
Có rất ít thông tin về gia đình của Besarion Jughashvili. Ông nội Besarion, Zaza Jughashvili (sinh ), đã chứng kiến cuộc nổi dậy Mtiuleti 1804 chống Nga tại miền đông Gruzia (Kartli-Kakheti), khu vực mới nằm dưới ách đô hộ của Đế quốc Nga kể từ năm 1801. Zaza có lẽ gốc gác là người Ossetia; hai nhà sử học Simon Sebag Montefiore và Ronald Grigor Suny đều cho rằng nguyên quán của vị này là Geri, gần Nam Ossetia hiện đại, tuy không có bằng chứng vững chãi ủng hộ điều này. Zaza sống sót qua cuộc biến loạn và tản cư tới Didi Lilo, một ngôi làng cách thủ phủ Tiflis (nay là Tbilisi) . Ông làm nông nô cho Hoàng thân Badur Machabeli, trông nom vườn nho của vị này. Tại đây, ông đẻ một đứa con tên là Vano, sau Vano đẻ thêm cho ông hai người cháu là Giorgi và Besarion (sinh ra k. 1850). Vano mất khi còn khá trẻ, có lẽ trước thời điểm sinh nhật lần thứ 50. Con trai ông, Giorgi, làm chủ một tửu quán nhưng không may bị thổ phỉ giết.
Không còn người thân, Jughashvili chuyển lên Tiflis và làm thuê cho xưởng đóng giày G. G. Adelkhanov. Tuy không được học hành tử tế, Jughashvili biết đọc, khá bất thường khi so với công nhân Gruzia đương thời, ngoài ra còn biết nhiều ngôn ngữ: rất có thể ông đã học tiếng Armenia, tiếng Azerbaijan và tiếng Nga tại Tiflis, bên cạnh tiếng Gruzia mẹ đẻ. Khoảng năm 1870 ông được mời đi Gori, cách Tiflis khoảng , và làm giày cho binh lính Nga đóng tại đó. Gori là một thị trấn nhỏ với khoảng 7.000 cư dân, phần lớn là dân Armenia, cùng một lượng lớn dân Gruzia, cũng như một bộ phận dân Nga, Abkhaz và Ossetia. Năm 1871, Gori nổi lên như một thị trấn tối quan trọng sau khi tuyến đường sắt Ngoại Kavkaz thông với Tiflis và Poti, một cảng thị xuất khẩu dầu lớn.
Quãng đời tại Gori
Jughashvili lập một tiệm đóng giày trong Khu người Nga tại Gori, gần doanh trại đóng quân. Năm 1872 hoặc 1874, ông cưới cô thôn nữ Ekaterine (Keke) Geladze khi đó tầm 16 tuổi. Keke, "một cô gái da tàn nhang với mái tóc nâu vàng rất hấp dẫn," xuất thân từ ngôi làng Gambareuli gần Gori, di cư tới đây từ thuở ấu thơ sau khi thân phụ mất. Họ có với nhau ba đứa con, đều là trai, song hai đứa đầu, Mikheil (sinh 14 tháng 2 năm 1875) và Giorgi (sinh 24 tháng 12 năm 1876), lần lượt chết yểu. Con trai thứ ba và cuối cùng, Ioseb, chào đời ngày 6 tháng 12 năm 1878.
Suny viết rằng, sau cái chết của Mikheil, Jughashvili bắt đầu nghiện rượu nặng và tình trạng này càng trở nên trầm trọng hơn sau cái chết của Giorgi, đẩy hôn nhân vợ chồng đến bờ tan vỡ. Kotkin cũng gợi ý rằng các lời đồn về sự bất thủy chung của Keke đã khiến ông rất đau lòng, đặc biệt là sau khi Ioseb chào đời. Tuy nhiên, Kotkin nhận định rằng "Keke có lẳng lơ hoặc huống hồ là chung chạ hay không thì không rõ," và rằng "ta thiếu thốn bằng chứng vững chãi về các mối quan hệ bất chính khả dĩ của người mẹ tương lai của Stalin," và cho rằng Jughashvili có lẽ là người bố thật.
Tiệm của Jughashvili ban đầu khá thành công; ông thuê tới 10 thợ bạn và thợ học nghề lúc làm ăn khấm khá. Gia đình họ nhờ đó mà có mức sống khá giả; một người thợ học nghề về sau kể lại rằng anh ta thường xuyên trông thấy bơ trong nhà họ, một cao lương mỹ vị mà không phải người Gruzia nào lúc bấy giờ cũng được thưởng thức (song Kotkin lại viết rằng gia đình họ sống đơn sơ hơn, dùng bữa với các món Gruzia truyền thống như lobio, lavash, và badrijani nigvzit). Tuy nhiên, tình trạng nghiện rượu của Jughashvili, trầm trọng thêm bởi tục trả rượu thay tiền của dân buôn Gruzia, đã gây phương hại đến đời sống gia đình và sự nghiệp của ông. Isaac Deutscher cho rằng Jughashvili cảm thấy tự ti khi không "làm chủ được chính mình" như kỳ vọng và điều này có lẽ đã khiến ông tìm tới rượu để giải sầu. Robert Service cũng phảng phất ý tưởng tương tự, cho rằng do không thích ứng được với thị trường giày châu Âu thời thượng lúc bấy giờ và tiếp tục đóng giày Gruzia truyền thống, cộng thêm đồn đại về quan hệ bất chính của vợ, đã khiến Jughashvili cảm thấy bất lực. Thường những lúc say xỉn, Jughashvili trở nên bạo lực, rồi đánh Keke (người cũng hay đánh trả) và Ioseb. Hai vợ chồng có lúc mâu thuẫn nơi chốn công cộng và Jughashvili bị miệng tiếng đặt biệt danh là "Beso Điên." Sự nghiệp làm ăn của Jughashvili do vậy bị ảnh hưởng nặng nề và ông rốt cuộc sạt nghiệp. Gia đình họ mất nhà và phải tá túc chỗ người quen, di chuyển liên tiếp tới chín địa chỉ khác nhau trong vài năm tới.
Cuộc đời về sau và cái chết
Năm 1884, Jughashvili rời bỏ gia đình và chuyển lên Tiflis. Ông làm việc lại trong công xưởng Adelkhanov, thường xuyên gửi tiền về cho Keke, cầu mong hòa giải xung đột nhưng mọi nỗ lực làm vậy đều bất thành.
Jughashvili đã rất tức giận khi Keke cho Ioseb lên trường, sở dĩ vì ông muốn con trai nối nghiệp mình và trở thành một thợ đóng giày. Năm 1890, Ioseb bị đâm trọng thương bởi một cỗ xe ngựa phaeton. Jughashvili quay về Gori để đưa con trai lên Tiflis chữa bệnh. Sau khi Ioseb hồi phục, Jughashvili sắp xếp cho cậu thực tập đóng giày ở xưởng Adelkhanov. Keke quyết liệt phản đối điều này và sử dụng các mối quan hệ trong giáo hội để bắt Ioseb về Gori, tiếp tục tu dưỡng nghiệp linh mục. Sự biến này cũng đánh dấu lần tiếp xúc trực tiếp cuối cùng giữa Jughasvhili với con trai hoặc vợ, vì ngay sau đó ông bắt đầu hạn chế liên lạc và cắt hỗ trợ tài chính cho hai mẹ con.
Ít lâu sau khi Ioseb rời Tiflis, Jughashvili dường như không làm việc cho xưởng Adelkhanov nữa. Ông đóng giày một thời gian cho một quầy hàng tại khu chợ phiên Armenia ở Tiflis và không có nhiều thông tin về các hoạt động sau đó của ông. Ông vẫn giữ liên lạc với Ioseb, thỉnh thoảng gửi cho cậu các đôi giày do ông làm thủ công. Jughashvili còn có một vai trò cuối cùng trong cuộc đời của con trai: vào tháng 1 năm 1900, Ioseb bị bắt giữ lần đầu tiên dựa trên cáo buộc nợ thuế nông nô của cha mình ở Didi Lilo, mặc dù Jughashvili không còn sống ở đây nữa. Không rõ vì sao Ioseb bị bắt thay vì Jughashvili, người mà vẫn đang lưu trú ở Tiflis; Kotkin cho rằng đây là nước cờ của cảnh sát nhằm cảnh cáo Stalin vì các hoạt động cách mạng của ông trong thời kỳ này.
Tháng 8 năm 1909, Jughashvili nhập viện Mikhailovsky ở Tiflis với đủ loại bệnh trong người: lao, viêm đại tràng và viêm phổi mạn tính. Ông từ trần vào ngày 12 tháng 8 năm 1909; nguyên nhân cái chết được khai là xơ gan. Chỉ duy nhất một đồng nghiệp đóng giày dự đám tang của Jughashvili và thi hài ông được an táng tại một nghĩa địa vô danh ở Telavi. Vị trí chính xác của nấm mộ không được xác định mãi tới tận năm 1972, khi nguyên Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Gruzia là Kandid Charkviani dẫn đầu nỗ lực tìm lại và đánh dấu phần mộ; tuy nhiên không rõ là hài cốt Jughashvili còn nằm bên dưới hay không. Trước đó, Charkviani đã dốc sức tìm kiếm ảnh chân dung của Jughashvili, có dịp mang hàng đống ảnh tới chỗ Stalin để ông ta nhận mặt; tuy nhiên, sau một hồi xem xét, Stalin không nhận ra ảnh nào là ảnh cha mình. Hiện chỉ có duy nhất một chân dung được cho là thuộc về Jughasvhili, song thật hay giả thì vẫn chưa thể xác định.
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Đọc thêm
Sinh thập niên 1850
Mất năm 1909
Người Nga thế kỷ 19
Người Nga thế kỷ 20
Mất thế kỷ 20 do bệnh lao
|
19836852
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leslie%20William%20Leigh
|
Leslie William Leigh
|
Leslie William Leigh (23 tháng 2 năm 1921 – 13 tháng 4 năm 1980) là sĩ quan cảnh sát Sierra Leone, được ghi nhận là Ủy viên Cảnh sát Châu Phi đầu tiên tại quốc gia này. Leigh là một trong số ít người Tây Phi tham gia Thế chiến II trong vị trí phi công máy bay ném bom của Không lực Hoàng gia Anh.
William Leigh qua đời do đau tim tại Monrovia, Liberia .
Chú thích
Tư liệu
Makers of Modern Africa: Profiles in History
Ivor Cummings, "Per ardua and Astra", West Africa, Số 3284, (30 tháng 6 năm 1980), tr. 1177–1178.
Mất năm 1980
Sinh năm 1921
|
19836857
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fukushima%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Fukushima (định hướng)
|
có thể là:
Fukushima: Một trong 47 tỉnh của Nhật Bản.
Thành phố Fukushima: thành phố và thủ phủ của tỉnh Fukushima
Nhà máy điện hạt nhân Fukushima I
Sự cố nhà máy điện Fukushima I: Tai nạn hạt nhân thảm khốc trong lịch sử Nhật Bản.
Sân bay Fukushima
Động đất Fukushima Hamadōri 2011
Động đất ngoài khơi Fukushima 2013
Động đất ngoài khơi Fukushima 2016
Động đất ngoài khơi Fukushima 2021
Động đất ngoài khơi Fukushima 2022
Fukushima: Thị trấn thuộc huyện Matsumae, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō.
Fukushima
|
19836859
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apple%20M2
|
Apple M2
|
Apple M2 series là một hệ thống trên một vi mạch (SoC) dựa trên ARM được Apple Inc. thiết kế làm bộ xử lý trung tâm (CPU) và bộ xử lý đồ họa (GPU) cho máy tính để bàn, máy tính xách tay Mac và máy tính bảng iPad Pro của hãng. Đây là thế hệ thứ hai sử dụng cấu trúc ARM dành cho máy tính Mac của Apple sau khi chuyển từ Intel Core sang Apple silicon và là dòng chip kế nhiệm Apple M1. Apple đã công bố dòng chip M2 vào ngày 6 tháng 6 năm 2022, tại WWDC, cùng với các mẫu MacBook Air và MacBook Pro 13 inch sử dụng M2. Dòng M2 được sản xuất bằng quy trình N5P "Công nghệ 5 nanomet nâng cao" của TSMC và chứa 20 tỷ bóng bán dẫn, tăng 25% so với M1. Apple tuyên bố cải tiến CPU của mình tăng 18% và cải tiến GPU lên tới 35% so với M1.
Kế tiếp M2 là các chip M2 Pro và M2 Max, dòng chip tập trung vào người dùng cùng với các tác vụ chuyên nghiệp và được ra mắt vào tháng 1 năm 2023. M2 Max là phiên bản mạnh mẽ hơn của M2 Pro, với nhiều lõi GPU và băng thông bộ nhớ hơn cũng như kích thước khuôn chip lớn hơn. Apple đã giới thiệu M2 Ultra vào tháng 6 năm 2023, là sự kết hợp hai chip M2 Max vào làm một con chip duy nhất.
Thiết kế
CPU
GPU
Bộ nhớ
M2 sử dụng LPDDR5 SDRAM 6.400 MT/s trong cấu hình bộ nhớ hợp nhất được chia sẻ bởi tất cả các thành phần của bộ xử lý. Các chip SoC và RAM được gắn với nhau theo thiết kế System-in-a-Package. Có sẵn các cấu hình 8 GB, 16 GB và 24 GB. M2 có bus bộ nhớ 128 bit với băng thông và M2 Pro, M2 Max và M2 Ultra có tốc độ lần lượt khoảng , và .
Tính năng khác
Sản phẩm sử dụng dòng Apple M2
M2
MacBook Air (13-inch, M2, 2022)
MacBook Air (15-inch, M2, 2023)
MacBook Pro (13-inch, M2, 2022)
iPad Pro (11-inch, thế hệ thứ 4) (2022)
iPad Pro (12.9-inch, thế hệ thứ 6) (2022)
Mac Mini (2023)
Vision Pro (2024)
M2 Pro
MacBook Pro (14-inch và 16-inch, 2023)
Mac Mini (2023)
M2 Max
MacBook Pro (14-inch và 16-inch, 2023)
Mac Studio (2023)
M2 Ultra
Mac Studio (2023)
Mac Pro (2023)
Các biến thể
Bảng bên dưới hiển thị các biến thể SoC khác nhau dựa trên vi kiến trúc "Avalanche" và "Blizzard".
Xem thêm
Apple silicon
Apple A15
Rosetta 2
Universal 2 binary
List of Mac models grouped by CPU type
Tham khảo
Giới thiệu liên quan đến máy tính năm 2022
Apple silicon
|
19836861
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Henry%20Josiah%20Lightfoot%20Boston
|
Henry Josiah Lightfoot Boston
|
Sir Henry Josiah Lightfoot Boston, GCMG (19 tháng 8 năm 1898 – 14 tháng 12 năm 1969) là nhà ngoại giao và chính khách Sierra Leone. Ông là Toàn quyền bản địa (người Creole) đầu tiên của quốc gia này.
Sự nghiệp
Lightfoot Boston từng là Chủ tịch Quốc hội Sierra Leone năm 1957-1962 và là Toàn quyền Sierra Leone từ ngày 7 tháng 7 năm 1962 đến ngày 26 tháng 3 năm 1967. Ông bị Chuẩn tướng Andrew Juxon-Smith đảo chính lật đổ.
Di sản
Phố Lightfoot Boston ở Freetown được đặt tên để vinh danh ông.
Hình ảnh Lightfoot Boston được khắc họa trên đồng 50 leone do Ngân hàng Sierra Leone phát hành.
Chú thích
Liên kết ngoài
Danh sách nguyên thủ quốc gia Sierra Leone
Chính khách Sierra Leone
Cựu sinh viên Đại học Luân Đôn
Mất năm 1969
Sinh năm 1898
|
19836877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Special%20atomic%20demolition%20munition
|
Special atomic demolition munition
|
Special Atomic Demolition Munition (SADM), hay còn có tên ký hiệu XM129, XM159 Atomic Demolition Charges, bom B54 là một hệ thống kích nổ vũ khí hạt nhân cá nhân mang vác (atomic demolition munition (ADM)) được triển khai bởi quân đội Mỹ từ những năm 1960s đến những năm 1980s nhưng chưa từng được sử dụng trong thực tế.
Lịch sử và thiết kế
Vào thời điểm loại vũ khí này được phát triển, quân đội Mỹ đang có trong trang bị loại vũ khí kích nổ hạt nhân Atomic Demolition Munition (ADM) là T-4 Atomic Demolition Munition. Việc triển khai loại vũ khí này đòi hỏi 4 người, mỗi người sẽ mang một thành phần của vũ khí, nặng .
Việc phát triển bắt đầu từ tháng Sáu năm 1960 và nguyên mẫu Mark 54 Mod 0 (B54-0) được đưa vào sản xuất tháng 4 năm 1963. Việc sản xuất phiên bản B54 Mod 1 SADM bắt đầu vào tháng Tám năm 1964. Vũ khí có đường kính , dài , và trọng lượng . Vũ khí bao gồm đầu đạn, ngòi nổ và hệ thống kích nổ với đồng hồ cài đặt giờ nổ, vỏ được hàn kín. Thân vũ khí được chế tạo bằng nhôm và sợi thủy tinh đúc, đồng thời có lớp cách nhiệt bằng cao su xốp giữa đầu đạn và vỏ. Đồng hồ hẹn giờ được phủ lớp tritium-phosphor hát sáng trong bóng tối. Vũ khí cũng có thể được cài đặt ở dưới mặt nước với bộ phận điều khiển gắn ngoài.
Bom B54 Mod 2 bắt đầu được sản xuất từ tháng Sáu năm 1965. Vũ khí này có kích thước tương đương với phiên bản trước đó nhưng có trọng lượng là .
Đương lượng nổ của vũ khí là khoảng từ .
Sử dụng
Trong tấn công
Vũ khí ADM có khả năng được sử dụng trong các chiến dịch phòng thủ và tấn công.
Với chiến dịch tấn công, hệ thống vũ khí ADM được mô tả là có thể sử dụng để cải thiện tình hình ở cánh và phía sau đơn vị quân phòng thủ, chuẩn bị phản công.
Sử dụng trong phòng thủ
Hướng dẫn sử dụng ADM cũng mô tả vũ khí này có khả năng sử dụng trong các chiến dịch công binh. Các mục tiêu khả dĩ là cầu, đập, kênh, đường băng, đường tay tàu hỏa, các cơ sở công nghiệp và các nhà máy điện.
Xem thêm
Green Light Teams
Đầu đạn W54
Medium Atomic Demolition Munition
Suitcase nuclear device
List of nuclear weapons
Tham khảo
Bibliography
Link ngoài
SADM Delivery by Parachutist/Swimmer (Special Atomic Demolition Munition) Film Clip (full film)
image of the SADM
Foreign Policy Article on mission types and personnel
ADM Web Page
Vũ khí hạt nhân Hoa Kỳ
Hoa Kỳ thập niên 1960
|
19836888
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ted%20Taylor%20%28nh%C3%A0%20v%E1%BA%ADt%20l%C3%BD%29
|
Ted Taylor (nhà vật lý)
|
Theodore Brewster "Ted" Taylor (1925 – 2004) la nha vật lý lý thuyết người Mỹ, ông la người đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực năng lượng hạt nhân. Ông có trình độ học vấn cao, bao gồm bằng tiến sĩ vật lý lý thuyết cua trường Cornell University. Thành tựu nổi bật nhất của ông trong lĩnh vực thiết kế vũ khí hạt nhân là những phát triển bom hạt nhân cỡ nhỏ tại Phòng thi nghiệm Los Alamos, New Mexico. Mặc dù Taylor không được biết đến nhiều trong đại chúng, nhưng ông đã thực hiện nhiều cột môc trong phát triển vũ khí nhiệt hạch, gồm có cả việc thiết kế vũ khí nhiệt hạch cỡ nhỏ nhất, mạnh nhất, và hiệu quả nhất từng được Hoa Kỳ thử nghiệm. Về sau này, sự nghiệp của ông tập trung vào năng lượng nguyên tử thay vì phát triển vũ khí nguyên tử, trong đó có những đóng góp của ông cho việc phát triển lò phản ứng hạt nhân trong Project Orion, và quan điểm chống sử dụng vũ khí hạt nhân.
Xem thêm
Alvin C. Graves
Amory Lovins
List of books about nuclear issues
List of nuclear whistleblowers
National Security Archive
Nevada Test Site
Nuclear disarmament
Nuclear weapons of the United States
Tham khảo
Đọc thêm
Nigel Calder Spaceships of the Mind, Viking Press, New York, 1978.
Robert A. Freitas Jr. and Ralph C. Merkle. Kinematic Self-Replicating Machines, 2004, 3.10
John McPhee, The Curve of Binding Energy, Ballantine, 1973, 1974. . This book about proliferation is largely an account of Taylor's ideas, including his idea that it is "easy" for rogue actors to produce nuclear bombs.
George Dyson, Project Orion: The True Story of the Atomic Spaceship, Henry Holt and Company, 2002.
Mason Willrich, Ted Taylor, Nuclear Theft: Risks and Safeguards: A Report to the Energy Policy Project of the Ford Foundation, Ballinger, 1974,
Taylor, Theodore B., Humpstone, Charles C., The Restoration of the Earth, Harper and Row, 1973
Nuclear Power and Nuclear Weapons, an anti-proliferation essay by Taylor (1996)
Oral History interview transcript with Ted Taylor on February 13 1995, American Institute of Physics, Niels Bohr Library and Archives
Liên kết ngoài
Audio Interview with Ted Taylor by Richard Rhodes, Voices of the Manhattan Project
Annotated Bibliography for Ted Taylor from the Alsos Digital Library for Nuclear Issues
American nuclear physicists
20th-century American physicists
Cornell University alumni
Freeman Dyson
Mexican people of American descent
Mexican emigrants to the United States
Energy engineers
Scientists from Mexico City
People from Wellsville, New York
United States Navy sailors
1925 births
2004 deaths
Scientists from New York (state)
|
19836895
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rashami%20Desai
|
Rashami Desai
|
Shivani Desai (sinh ngày 13 tháng 2 năm 1986 tại Nagaon, Assam, Ấn Độ), nổi tiếng với nghệ danh Rashami Desai, là một nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình người Ấn Độ tham gia các bộ phim bằng tiếng Hindi. Cô được biết đến qua vai diễn Tapasya Thakur trong bộ phim Con của người hầu gái, Shorvori Bhattacharya trong bộ phim Đẻ mướn và Shakala trong phần 4 của bộ phim Tình người kiếp rắn.
Tiểu sử
Rashami Desai, tên khai sinh là Shivani Desai, sinh ngày 13 tháng 2 năm 1986 tại Nagaon, Assam, Ấn Độ. Cô là người gốc Gurajat. Cô lớn lên ở Mumbai, học tập và làm việc tại đây. Cô có bằng tốt nghiệp ngành Du lịch và Lữ hành tại Trường Cao đẳng Thương mại và Kinh tế Narsee Monjee, Mumbai.
Sự nghiệp
Vai chính đầu tay trong bộ phim điện ảnh (2002–2006)
Rashami Desai có vai chính đầu tay trong bộ phim bằng tiếng Assam mang tên Kanyadaan vào năm 2002. Cô có tác phẩm Bollywood đầu tay trong bộ phim thuộc thể loại lãng mạn, kinh dị mang tên Yeh Lamhe Judaai Ke và đóng chung với Shah Rukh Khan cùng Raveena Tandon.
Năm 2005, cô có tác phẩm bằng tiếng Hindi đầu tay khi vào vai Naina trong bộ phim Shabnam Mausi và đóng chung với Ashutosh Rana và Vijay Raaz. Sau đó, cô nổi tiếng trong ngành công nghiệp điện ảnh bằng tiếng Bhojpur khi cô đóng nhiều vai diễn trong các bộ phim như Balma Bada Nadaan và Gabbar Singh. Năm 2005, cô vào vai chính trong bộ phim Kab Hoi Gauna Hammar, bộ phim này đã giành được Giải thưởng Quốc gia cho bộ phim điện ảnh hay nhất bằng tiếng Bhojpur.
Vai chính đầu tay trong bộ phim truyền hình và sự đột phá trong diễn xuất (2006–2008)
Cô có vai chính đầu tay trong bộ phim truyền hình khi cô vào vai Nữ hoàng Mandodari bộ phim thần thoại Ravaan và đóng chung với Jay Soni. Năm 2007, cô tham gia bộ phim bằng tiếng Anh mang tên Sambar Salsa.
Năm 2008, cô có bước đột phá lớn trong sự nghiệp khi cô vào 2 vai diễn Nikki Shrivastav và Pari Rai Choudhary trong bộ phim Pari Hoon Main. Cô cũng vào vai Priya trong bộ phim kinh dị Ssshhhh...Koi Hai và đóng chung với Manish Paul.
Thành công nhờ vai diễn trong bộ phim Con của người hầu gái (2009–2016)
Năm 2009, cô vào vai Tiến sỹ Meher Datta bộ phim Meet Mila De Rabba và đóng chung với Surilie Gautam cùng Piyush Sahdev. Cùng năm đó, cô vào vai Tapasya Thakur trong bộ phim Con của người hầu gái và đóng chung với Tina Datta và Nandish Sandhu. Vai diễn này đã giúp cô giành được Giải thưởng Truyền hình Ấn Độ cho các hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc nhất và Nữ diễn viên vào vai phản diện xuất sắc nhất.
Cô cũng là thành viên của đội "Massakalli Girls" trong mùa 2 của chương trình truyền hình thực tế Zara Nachke Dikha và giành ngôi vị quán quân của chương trình. Năm 2012, cô tham gia mùa 5 của chương trình truyền hình thực tế Jhalak Dikhhla Jaa và giành ngôi vị á quân của chương trình. Năm 2013, cô vào vai Natkhat Sali trong bộ phim hài Nautanki: The Comedy Theatre.
Năm 2014, cô vào vai hai nhân vật có niềm tin mù quáng và đại diện cho những người phụ nữ bị tra tấn trong chính gia đình của mình trong các tập phim của Savdhaan India và Đội đặc nhiệm CID.
Năm 2015, cô tham gia mùa 6 của chương trình truyền hình thực tế Fear Factor: Khatron Ke Khiladi. Cô đã bị loại ở tuần 5 của chương trình, tuy nhiên cô bất ngờ quay trở lại chương trình khi được trao một suất ưu tiên. Cô tiếp tục bị loại trước đêm chung kết của chương trình cùng với Sana Khan. Sau đó cô tham dự mùa 7 của chương trình truyền hình thực tế Nach Baliye cùng với Nandish Sandhu và giành ngôi vị á quân của chương trình. Tháng 10 năm 2015, cô vào vai một cô gái câm điếc trong MV ca nhạc Teri Ek Hassi do nam ca sĩ Jubin Nautiyal thể hiện và đóng chung với người chồng cũ Nandish Sandhu.
Năm 2016, cô vào vai phản diện Preeti trong bộ phim siêu nhiên Adhuri Kahaani Hamari. Cô cũng tham gia mùa 2 của chương trình truyền hình thực tế Box Cricket League. Cô cũng tham gia MV ca nhạc Sajna Ve do Monali Thakur, Dilip Soni thể hiện và đóng chung với Salman Yusuff Khan. Cô cũng tham gia chương trình hài thực tế Mazaak Mazaak Mein do hãng Balaji Telefilms sản xuất. Cô cũng tham gia bộ phim Rare & Dare Six-X và đóng chung với Rituparna Sengupta cùng Shweta Tiwari.
Thành công nhờ vai diễn trong bộ phim Đẻ mướn và một số vai diễn khác (2017–2020)
Năm 2017, cô vào vai Shorvari Bhanushali trong bộ phim Đẻ mướn và đóng chung với Siddharth Shukla cùng Jasmin Bhasin, được chuyển thể từ bộ phim truyền hình năm 2001 Chori Chori Chupke Chupke. Vai diễn này đã giúp cô giành được đề cử Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại lễ trao Giải Cánh hoa Vàng 2017.
Vào cùng năm đó, cô có tác phẩm bằng tiếng Gurajat đầu tay khi cô tham gia bộ phim điện ảnh thuộc thể loại lãng mạn, kinh dị mang tên Superstar và đóng chung với Dhruvin Shah.
Năm 2019, cô vào vai chính trong loạt phim hài Chalo Saaf Karein. Đây là bộ phim do Bộ Nước uống và Vệ sinh phối hợp với Doordarshan sản xuất. Cuối năm 2019, cô tham gia mùa thứ 13 của chương trình truyền hình thực tế Bigg Boss và giành ngôi vị á quân 3 chung cuộc.
Năm 2020, cô vào vai Shakala trong phần 4 của bộ phim siêu nhiên nổi tiếng Tình người kiếp rắn và đóng chung với Nia Sharma, Anita Hassanandani cùng Vijayendra Kumeria. Cô cũng vào vai Sania trong bộ phim ngắn Tamas và đóng chung với Adhvik Mahajan; tham gia chương trình truyền hình thực tế Ladies vs Gentleman do Ritesh Deshmukh và Genelia D'Souza làm người dẫn chương trình. Vào tháng 12 năm 2020, cô tham gia bộ phim ca nhạc lấy cảm hứng từ vũ đạo của Palash Muchhal mang tên Ab Kya Jaan Legi Meri do Palash Muchhal và Amit Mishra thể hiện; và đóng chung với Shaheer Sheikh và Sana Saeed.
Mở rộng chuyên môn (2021–nay)
Năm 2021, cô có vai diễn đầu tay trong bộ phim chiếu mạng khi cô tham gia bộ phim chiếu mạng hình sự Tandoor và đóng chung với Tanuj Virwani. Vào tháng 5 năm 2021, có thông báo cho rằng Rashami Desai sẽ hợp tác với nam ca sĩ Rahul Vaidya để cover bài hát. Vào tháng 9 năm 2021, cô tham gia bộ phim ca nhạc Subhan Allah của Altamash Faradi. Vào cuối năm, cô tiếp tục hợp tác với Rahul Vaidya ra mắt một bộ phim ca nhạc mang tên Zindagi Khafa Khafa. Vào tháng 11 năm 2021, cô trở lại trong mùa thứ 15 của chương trình Bigg Boss với một suất ưu tiên và giành ngôi vị á quân 5 của chương trình.
Tháng 3 năm 2022, cô tham gia 3 bộ phim ca nhạc bao gồm Qatilana, Biraj Mein Jhoom và Tere Pind. Năm 2022, cô vào vai diễn khách mời trong bộ phim Nữ thần rắn báo thù. Vào tháng 4 năm 2022, cô hợp tác với Neha Bhasin để ra mắt bộ phim ca nhạc mang tên Parwah.
Tháng 5 năm 2023, cô tham gia bộ phim bằng tiếng Hindi mang tên Mission Laila và đóng chung với Rajpal Yadav. Cô cũng tham gia bộ phim ngắn Hisaab Barabar và đóng chung với R. Madhavan. Cô cũng tham gia tác phẩm thứ hai bằng tiếng Gurajat mang tên Mom Tane Nai Samjay, đóng chung với Amar Upadhyay và được ghi hình tại Luân Đôn. Cô có vai chính đầu tay trong bộ phim hài lãng mạn bằng tiếng Punjab mang tên Chambe Di Booti và đóng chung với Nav Bajwa. Cô cũng tham gia bộ phim bằng tiếng Hindi mang tên Idiots và đóng chung với Urvashi Rautela.
Sự nổi tiếng trong giới truyền thông
Năm 2021, cô trở thành đại sứ thương hiệu của công ty JioMart. Năm 2023, cô trở thành đại sứ thương hiệu và chủ sở hữu nhãn hiệu Glamveda.
Đời tư
Ngày 12 tháng 2 năm 2011, cô kết hôn với nam diễn viên Nandish Sandhu tại Ghaziabad. Năm 2014, cả hai người ly thân và vào năm 2015, cặp đôi đệ đơn ly hôn sau gần 4 năm chung sống với nhau. Cuộc hôn nhân giữa hai người chấm dứt vào tháng 3 năm 2016.
Năm 2018, cô hẹn hò với Arhaan Khan, cả hai người đều tham dự mùa thứ 13 của chương trình Bigg Boss, Arhaan đã cầu hôn Desai và cô chấp nhận lời cầu hôn. Tuy nhiên, sau đó, Salman Khan tiết lộ Arhaan đã kết hôn trước đây và đã có một người con mà anh vẫn giữ bí mật cho Desai. Năm 2020, sau khi rời khỏi ngôi nhà chung của chương trình Bigg Boss, cô và Arhaan Khan chia tay nhau sau 2 năm hẹn hò.
Danh sách tác phẩm
Phim điện ảnh
Phim và chương trình truyền hình
Các vai diễn khách mời
Phim chiếu mạng
Phim ca nhạc
Giải thưởng và đề cử
Xem thêm
Tina Datta
Nandish Sandhu
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1986
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên điện ảnh Ấn Độ
Nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ
Nữ diễn viên Ấn Độ thế kỷ 21
Nữ diễn viên Mumbai
|
19836906
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acid%20hypophosphor%C6%A1
|
Acid hypophosphorơ
|
Acid hypophosphorơ (HPA), hay acid phosphinic, là một acid oxo của phosphor và là một chất khử mạnh có công thức phân tử H3PO2. Đây là một hợp chất có nhiệt độ nóng chảy thấp, không màu, hòa tan trong nước, dioxan và alcohol. Công thức phân tử của acid này thường được viết là H3PO2, nhưng cách viết mang tính mô tả hơn là HOP(O)H2, làm nổi bật tính monoprotic (các acid monoprotic có khả năng "tặng" một proton trong quá trình phân ly; các acid polyprotic có khả năng "tặng" nhiều proton) của nó. Muối của acid này được gọi là hypophosphit.
Tham khảo
Hợp chất hydro
Chất khử
|
19836907
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20c%C6%B0%C6%A1ng%20Golconda
|
Kim cương Golconda
|
Kim cương Golconda (tiếng Tamil: கோல்கொண்டா வைரம்; tiếng Teluru: గోల్కొండ వజ్రాలు) được khai thác ở vùng đồng bằng Godavari thuộc các bang Andhra Pradesh và Telangana, Ấn Độ ngày nay. Pháo đài Golconda ở phía Tây của thành phố Hyderabad ngày nay, là thủ phủ của Hồi quốc Golconda và trở thành một trung tâm quan trọng để nâng cao, chế biến và buôn bán kim cương. Kim cương Golconda được phân loại thuộc nhóm IIa, được hình thành từ carbon nguyên chất, không chứa nitơ và có kích thước lớn với độ trong suốt cao. Chúng thường được mô tả như những viên kim cương có chất lượng tốt nhất, khiến chúng trở nên nổi tiếng nhất trong lịch sử. Từ "Kim cương Golconda" (Golconda diamond) đã trở thành biểu tượng của những viên kim cương có chất lượng số một, không thể so sánh được.
Trong 2.000 năm, kim cương Golconda là loại kim cương tốt duy nhất được chết tác. Do khai thác quá mức trong nhiều thế kỷ, sản lượng của chúng đã cạn kiệt kể từ năm 1830, và các nhà nghiên cứu đá quý cũng như thương nhân đã phân loại kim cương Golconda là đồ cổ, hiếm và quý. Những viên kim cương Golconda nổi tiếng thế giới bao gồm Koh-i-Noor không màu, Viên kim cương Nassak, Viên kim cương Hope màu xanh, Idol's Eye, Daria-i-Noor màu hồng, Viên kim cương Regent màu trắng, Viên kim cương Dresden Green và Orlov không màu, cũng như những viên kim cương hiện đã thất lạc khác, như Viên kim cương Florentine Yellow, Akbar Shah, Nizam và Viên kim cương Great Mogul.
Ngành công nghiệp kim cương Golconda đạt đến đỉnh cao vào thế kỷ XVI-XVIII khi có 23 mỏ được khai thác, với hơn 30.000 người làm việc cùng lúc tại một mỏ, trong đó Mỏ Kollur hoạt động tích cực nhất. Sản lượng từ tất cả các mỏ ở Golconda ước tính khoảng 10.000.000 carat (2,0 tấn). Vào năm 2015, Đại học Osmania và Cơ quan Khảo sát Địa chất Ấn Độ đã hợp tác để khám phá ra các địa điểm tiềm năng mới để khai thác kim cương trong khu vực, mặc dù việc khai thác vẫn chưa bắt đầu vào năm 2022.
Một số huyền thoại văn học được lấy cảm hứng từ những viên kim cương đến từ Golconda; chúng bao gồm thung lũng kim cương của Sinbad, truyền thuyết về đá quý của Marco Polo và chủ đề của bài giảng đầy cảm hứng Acres of Diamonds của Russell Conwell. Theo truyền thuyết dân gian, một số viên kim cương Golconda bị nguyền rủa; những thứ này mang lại may mắn cho chủ nhân của chúng hoặc sở hữu sức mạnh thần bí trong khi những thứ khác được đeo như bùa hộ mệnh. Vào năm 2013, viên kim cương Princie từ Đồ trang sức của Nizam xứ Hyderabad đã được bán đấu giá và thu về 39,3 triệu USD - mức đấu giá cao nhất được ghi nhận đối với một viên Kim cương từ Golconda và đạt kỷ lục thế giới với giá 1,1 triệu USD cho mỗi carat.
Năm 2019, trong Vụ trộm Green Vault, viên kim cương trắng Dresden có nguồn gốc từ Golconda đã bị đánh cắp cùng với số trang sức ước tính tổng giá trị vào khoảng 1 tỷ euro. Tuy nhiên, trong những năm sau vụ trộm, ước tính chính xác hơn cho thấy tổng giá trị của những món đồ bị đánh cắp vào khoảng 113 triệu euro.
Sự giàu có của các nhà cai trị ở Phiên vương quốc Hyderabad dưới thời Ấn Độ thuộc Anh đều đến từ việc buôn bán kim cương ở vùng mỏ Golconda, trong đó, vị Nizam cuối cùng của Hyderabad là Mir Osman Ali Khan được Tạp chí Time ghi nhận là người giàu nhất thế giới vào năm 1937, tài sản của ông ước tính bằng 2% GDP của Hoa Kỳ vào thời điểm đó. Trong thế kỷ XVIII, Phiên vương quốc Hyderabad cũng là nhà cung cấp kim cương duy nhất cho thị trường toàn cầu.
Chú thích
Tham khảo
Đọc thêm
The Great Diamonds of the World, Their History and Romance, 1882, Edwin Streeter
Romance of the Golconda Diamonds, 1999, Omar Khalidi
Koh-i-Noor: Six myths about a priceless diamond, 2016, BBC
The Koh-i-noor Diamond, 2013, Iradj Amin
Colored Diamonds, 2006, John M. King
Some folklore and history of Diamond, 1961, S. Tolansky
Liên kết ngoài
Diamond ranking
History of Koh-i-noor
Not just the Koh-i-noor: Eight precious diamonds of Golconda which India lost
Gem-stones and their distinctive characters
Video history of the Golconda diamonds
The untold truth of the crown jewels of the United Kingdom
Kim cương Golconda
Kim cương có nguồn gốc từ Ấn Độ
Trang sức của Nizam xứ Hyderabad
Công nghiệp kim cương ở Ấn Độ
|
19836914
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Anh%202022
|
Chặng đua MotoGP Anh 2022
|
Chặng đua MotoGP Anh 2022 là chặng đua thứ 12 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 05/08/2022 đến ngày 07/08/2022 ở trường đua Silverstone, Vương quốc Anh. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19836917
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/DR
|
DR
|
DR () là tổ chức phát sóng công cộng quốc gia tại Đan Mạch. Thành lập vào ngày 1 tháng 4 năm 1925. DR là thành viên đồng sáng lập của tổ chức Liên hiệp Phát sóng châu Âu.
Tham khảo
Đài phát sóng công cộng
Truyền thông nhà nước
Truyền hình Đan Mạch
DR
|
19836918
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20M%E1%BA%A1nh%20Ng%E1%BA%A1n
|
Lý Mạnh Ngạn
|
Lý Mạnh Ngạn (; sinh ngày 12 tháng 12 năm 1966) là một chính trị gia người Đài Loan. Ông giữ quyền Thị trưởng Đài Nam từ ngày 8 tháng 9 năm 2017 đến ngày 25 tháng 12 năm 2018. Ông giữ chức Bí thư trưởng Hành chính viện từ ngày 14 tháng 1 năm 2019.
Chú thích
Thị trưởng Đài Nam
Chính khách Đài Loan
|
19836924
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Reverse%3A%201999
|
Reverse: 1999
|
Reverse: 1999 là tựa game nhập vai do hãng Bluepoch phát triển. Tựa game được phát hành chính thức vào ngày 26 tháng 10, 2023.
Cốt truyện
Reverse: 1999 lấy bối cảnh ở London vào năm 1999. Trong đêm giao thừa chuyển giao giữa hai thiên niên kỉ, một "Cơn bão" đột nhiên xuất hiện. Ngay sau đó, tất cả mọi thứ trở nên hỗn loạn, thế giới trở về thời đại cổ xưa.
Người chơi hóa thân thành nhân vật "Timekeeper", người duy nhất không bị ảnh hưởng bởi "Cơn bão". Cô đã chứng kiến sự khởi đầu và kết thúc của vô số thời đại khác nhau. Trong khi đang du hành thời gian, cô ấy đã làm quen với nhiều người bạn đến từ các mốc thời gian khác nhau và các nước khác nhau và chỉ dẫn họ cách thoát khỏi "Cơn bão".
Chiến đấu
Reverse: 1999 là game chiến đấu theo lượt dựa trên cơ chế thẻ bài. Trong khi chiến đấu, người chơi điều khiển 3 nhân vật mà mỗi nhân vật có các kỹ năng khác nhau với hai thẻ thần chú và một thẻ tuyệt kĩ. Mỗi thẻ bài có thể có từ 1 đến 3 sao, và người chơi có thể kết hợp 2 thẻ bài giống nhau để tăng số sao của thẻ bài, từ đó có sức mạnh lớn hơn.
Phát triển
Game ra mắt bản beta thứ nhất vào ngày 7 tháng 1 năm 2022. Vào ngày 10 tháng 6 năm 2022, game ra mắt bản beta lần thứ hai. Ngày 31 tháng 5 năm 2023, game được ra mắt chính thức tại Trung Quốc và vào ngày 26 tháng 10 năm 2023, game được ra mắt chính thức trên toàn thế giới.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức (Tiếng Trung)
Trang web chính thức (Tiếng Anh)
Trang web chính thức (Tiếng Nhật)
Trò chơi điện tử chiến thuật theo lượt
Trò chơi điện tử phát triển ở Trung Quốc
Trò chơi điện tử nhập vai
Trò chơi trên Android
Trò chơi trên iOS
|
19836927
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shiriuchi%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Shiriuchi, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamiiso, phó tỉnh Oshima, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.167 người và mật độ dân số là 21 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 196,67 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836929
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Simy
|
Simy
|
Simeon Tochukwu Nwankwo (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1992), hay còn được gọi đơn giản là Simy, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A.
Simy là cầu thủ bóng đá châu Phi duy nhất từng là vua phá lưới ở một giải đấu chuyên nghiệp Ý (cụ thể là Serie B mùa giải 2019–20). Với 66 bàn thắng trên mọi đấu trường, anh là cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử câu lạc bộ Crotone. Simy cũng là cầu thủ bóng đá châu Phi duy nhất, cùng với Samuel Eto'o ở mùa giải 2010–11, đã ghi được 20 bàn thắng trong một mùa giải ở Serie A, đạt được thành tích ở mùa giải 2020–21.
Sự nghiệp thi đấu
Crotone
Vào tháng 7 năm 2016, Simy đã ký hợp đồng với Crotone, tân binh của Serie A.
Anh đã ghi bảy bàn trong mùa giải 2017–18, đồng hạng với Ante Budimir để đứng thứ hai cho câu lạc bộ và chỉ kém vua phá lưới Marcello Trotta một bàn. Điều này bao gồm một cú ngả bàn đèn đáng nhớ trong trận hòa 1-1 trước Juventus vào ngày 19 tháng 4 năm 2018. Tuy vậy, Crotone bị xuống hạng vào cuối mùa.
Mặc dù câu lạc bộ đã phải vật lộn để cán đích ở vị trí thứ 12 trong lần trở lại Serie B, Simy đã có thể tìm lại phong độ của mình và có mùa giải tốt nhất kể từ khi chuyển đến Ý, đứng đầu trong đội bóng và đứng thứ sáu chung cuộc về số bàn thắng với 14 bàn. Anh đã làm tốt nhất điều này trong mùa giải 2019–20, đứng đầu Serie B với 20 bàn thắng và giúp đội của anh giành quyền trở lại giải đấu hàng đầu Ý. Simy lại tiếp tục đạt phong độ cao trong mùa giải 2020–21, ghi 20 bàn thắng ở giải quốc nội, nhưng điều này không đủ để ngăn Crotone xuống hạng sau một mùa giải duy nhất. Vào ngày 19 tháng 8 năm 2021, Simy chuyển đến Salernitana theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải.
Salernitana
Vào ngày 9 tháng 1 năm 2022, Simy được Salernitana ký hợp đồng với mức phí 3,5 triệu euro. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, anh được cho câu lạc bộ Parma tại Serie B mượn cho phần còn lại của mùa giải với một tùy chọn mua.
Cho mượn tại Benevento
Vào ngày 1 tháng 9 năm 2022, Simy chuyển đến câu lạc bộ Benevento tại Serie B lúc bấy giờ, dưới dạng cho mượn kèm theo tùy chọn mua.
Sự nghiệp quốc tế
Vào ngày 25 tháng 5 năm 2018, Simy được gọi lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria dưới thời huấn luyện viên Gernot Rohr để chuẩn bị cho Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 tại Nga. Ba ngày sau, anh có trận ra mắt quốc tế trong trận hòa 1-1 trước đội tuyển CHDC Congo. Vào tháng 6, anh có tên trong danh sách 23 cầu thủ của Nigeria tham dự World Cup. Anh ra sân lần đầu tại giải đấu trong trận gặp Croatia, nơi anh vào sân thay người ở hiệp hai khi Nigeria bị dẫn trước 2–0. Anh cũng vào sân thay người trong trận thua 2–1 trước Argentina.
Đời tư
Simy là con cả trong gia đình có ba người con. Anh trai là một nhà vật lý trị liệu, còn em gái là một y tá, và cả hai là một cặp song sinh. Simy và vợ anh theo đạo Công giáo và có một người con. Simy đã trở thành chủ đề lạm dụng chủng tộc trên mạng xã hội trong thời gian ở Crotone, bao gồm cả mong muốn rằng con trai ông 'sẽ chết vì ung thư tuyến tụy'. Về quan điểm chống phân biệt chủng tộc, thị trưởng Crotone, Vincenzo Voce, đã trao quyền công dân danh dự của thành phố cho con trai của Nwankwo vào ngày 27 tháng 3 năm 2021.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tham khảo
Liên kết ngoài
Simy trên Goalsreplay.com
Sinh năm 1992
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Nigeria
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria
Cầu thủ bóng đá nam Nigeria ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá Liga Portugal 2
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Serie B
Cầu thủ bóng đá Portimonense S.C.
Cầu thủ bóng đá Gil Vicente F.C.
Cầu thủ bóng đá F.C. Crotone
Cầu thủ bóng đá Parma Calcio 1913
Cầu thủ bóng đá Benevento Calcio
Cầu thủ bóng đá U.S. Salernitana 1919
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2018
Tín hữu Công giáo Rôma
|
19836942
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sigma%20Octantis
|
Sigma Octantis
|
Sigma Octantis, cũng được viết là σ Octantis, viết tắt là Sigma Oct hoặc σ Oct, là một ngôi sao trong chòm sao Nam Cực. Ngôi sao này tạo thành sao cực của Nam Bán cầu. Với tên chính thức là Polaris Australis (), Sigma Octantis nằm cách thiên cực nam của Nam Bán cầu hơn 1 độ một chút, nằm ở hướng gần như đối diện với Polaris trên thiên cầu.
Cách Trái Đất 294 năm ánh sáng, Sigma Octantis được phân loại là một sao gần mức khổng lồ loại F0 IV (đôi khi được phân loại là F0 III). Sigma Octantis có cấp sao biểu kiến là 5,47, nhưng hơi biến quang và được phân loại là sao biến quang Delta Scuti. Đây là ngôi sao mờ nhất được thể hiện trên quốc kỳ của bất cứ quốc gia nào có biểu trưng ngôi sao (Sigma Octantis được thể hiện trên quốc kỳ của Brasil).
Danh pháp
σ Octantis (được Latinh hóa tên gọi thành Sigma Octantis) là tên gọi của ngôi sao này theo định danh Bayer.
Là sao cực của Nam Bán cầu, tên Polaris Australis của ngôi sao này được áp dụng lần đầu tiên vào những năm 1700. Năm 2016, Liên đoàn Thiên văn Quốc tế (IAU) đã thành lập Working Group on Star Names (WGSN) để lập danh mục và tiêu chuẩn hóa tên riêng cho các ngôi sao. WGSN đã phê duyệt tên Polaris Australis cho ngôi sao này vào ngày 5 tháng 9 năm 2017 và hiện đã được đưa vào Danh sách tên sao được IAU phê duyệt (List of IAU-approved Star Names).
Đặc điểm
Với quang phổ F0 IV (đôi khi được phân loại là F0 III), Sigma Octantis dường như là một sao gần mức khổng lồ. Các mô hình tiến hóa cho rằng nó đang ở giai đoạn cuối của dãy chính với độ tuổi khoảng 900 triệu năm. Sigma Octantis đã giãn nở phần nào với bán kính bằng 4,4 bán kính Mặt Trời và phát ra lượng bức xạ điện từ gấp 44 lần Mặt Trời từ quang cầu của nó ở nhiệt độ hiệu dụng là 7.415 ± 252 K.
Sigma Octantis là một sao biến quang Delta Scuti, cấp sao của nó thay đổi khoảng 0,03 cứ sau 2,33 giờ. Sigma Octantis được cho là chỉ biến động (pulsate) ở chế độ bình thường (fundamental mode).
Sigma Octantis không có sao đồng hành nào được phát hiện.
Sao Nam Cực
Sigma Octantis là sao Nam Cực ở thời điểm hiện tại, cũng như Polaris là sao Bắc Cực ở thời điểm hiện tại. Đường di chuyển quanh thiên cực của Sigma Octantis là nhỏ hơn so với đường di chuyển của các ngôi sao ở xa thiên cực hơn. Sao càng gần thiên cực thì đường di chuyển quanh thiên cực của sao đó càng nhỏ, do đó đối với người quan sát ở Nam Bán cầu, Sigma Octantis gần như bất động và tất cả các ngôi sao khác trên bầu trời bán cầu nam dường như đều quay xung quanh nó.
Là một phần của "một nửa hình lục giác" nhỏ (small "half hexagon"), Sigma Octantis cách thiên cực nam hơn 1 độ một chút và thiên cực nam đang di chuyển ra xa nó do tiến động của điểm phân.
Với cấp sao biểu kiến là +5,47, Sigma Octantis hầu như không thể nhìn thấy bằng mắt thường, khiến nó không thể được sử dụng để định hướng, đặc biệt là khi so sánh với Polaris sáng hơn và dễ phát hiện hơn nhiều. Vì vậy, chòm sao Nam Thập Tự thường được ưu tiên sử dụng để xác định vị trí của thiên cực nam. Khi vị trí gần đúng của Sigma Octantis đã được xác định, bằng cách xác định các ngôi sao chính trong chòm sao Nam Cực hoặc sử dụng phương pháp Southern Cross, nó có thể được xác định chắc chắn bằng cách sử dụng khoảnh sao: Sigma, Chi, Tau, và Upsilon Octantis đều là các ngôi sao có cấp sao khoảng 5,6 và tạo thành hình thang đặc biệt.
Trong đo đạc thiên văn
Sigma Octantis được sử dụng làm tham chiếu để đo cấp sao của các ngôi sao ở Nam Bán cầu trong danh mục 1908 Revised Harvard Photometry. Sao Bắc Cực và Lambda Ursae Minoris được sử dụng cho các ngôi sao ở Bắc Bán cầu.
Trong văn hóa
Sigma Octantis là ngôi sao mờ nhất được thể hiện trên quốc kỳ của một quốc gia. Nó xuất hiện trên quốc kỳ của Brasil, tượng trưng cho quận liên bang Brasil.
Chú thích
Sao biến quang Delta Scuti
Sao gần mức khổng lồ nhóm F
Thiên thể Bayer
Chòm sao Nam Cực
Thiên thể HD
Thiên thể Durchmusterung
Thiên thể Hipparcos
Thiên thể HR
|
19836944
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20%C4%91%E1%BA%A5u%20lo%E1%BA%A1i%20tr%E1%BB%B1c%20ti%E1%BA%BFp%20UEFA%20Champions%20League%202023%E2%80%9324
|
Vòng đấu loại trực tiếp UEFA Champions League 2023–24
|
Vòng đấu loại trực tiếp UEFA Champions League 2023–24 bắt đầu vào ngày 13 tháng 2 với vòng 16 đội và kết thúc vào ngày 1 tháng 6 năm 2024 với trận chung kết tại Sân vận động Wembley ở London, Anh để xác định nhà vô địch của UEFA Champions League 2023–24. Có tổng cộng 16 đội thi đấu ở vòng đấu loại trực tiếp.
Thời gian là CET/CEST, do UEFA liệt kê (giờ địa phương, nếu khác nhau thì nằm trong ngoặc đơn).
Các đội lọt vào
Vòng đấu loại trực tiếp bao gồm 16 đội lọt vào với tư cách là đội nhất và nhì của mỗi bảng trong số tám bảng ở vòng bảng.
Thể thức
Mỗi cặp đấu ở vòng đấu loại trực tiếp, ngoại trừ trận chung kết, được diễn ra qua hai lượt trận với mỗi đội thi đấu một lượt tại sân nhà. Đội nào ghi được tổng số bàn thắng nhiều hơn qua hai lượt trận đi tiếp vào vòng tiếp theo. Nếu tổng tỉ số bằng nhau thì 30 phút của hiệp phụ được diễn ra (luật bàn thắng sân khách không được áp dụng). Nếu tỉ số vẫn bằng nhau tại thời điểm cuối hiệp phụ, đội thắng được quyết định bằng loạt sút luân lưu. Ở trận chung kết, nơi diễn ra một trận duy nhất, nếu tỉ số hòa sau thời gian thi đấu chính thức, hiệp phụ được diễn ra, sau đó là loạt sút luân lưu nếu tỉ số vẫn hòa.
Cơ chế của lễ bốc thăm cho mỗi vòng như sau:
Ở lễ bốc thăm cho vòng 16 đội, tám đội nhất bảng được xếp vào nhóm hạt giống và tám đội nhì bảng được xếp vào nhóm không hạt giống. Các đội hạt giống được bốc thăm để đấu với các đội không hạt giống với các đội hạt giống tổ chức trận lượt về. Các đội từ cùng bảng hoặc cùng hiệp hội không thể được bốc thăm để đấu với nhau.
Ở lễ bốc thăm cho vòng tứ kết và bán kết, không có đội hạt giống nào và các đội từ cùng bảng hoặc cùng hiệp hội có thể được bốc thăm để đấu với nhau. Do lễ bốc thăm cho vòng tứ kết và bán kết được tổ chức cùng nhau trước khi vòng tứ kết được diễn ra, danh tính của các đội thắng tứ kết không được biết tại thời điểm bốc thăm bán kết. Một lượt bốc thăm cũng được tổ chức để xác định đội thắng bán kết nào được chỉ định là đội "nhà" cho trận chung kết (vì mục đích hành chính do trận đấu được diễn ra tại một địa điểm trung lập).
Đối với vòng tứ kết và bán kết, các đội từ cùng thành phố không được xếp lịch để thi đấu tại sân nhà vào cùng ngày hoặc vào các ngày liên tiếp do công tác hậu cần và kiểm soát đám đông. Để tránh xung đột lịch thi đấu như vậy, nếu hai đội được bốc thăm để thi đấu tại sân nhà trong cùng lượt trận, thứ tự các lượt trận của cặp đấu liên quan đến đội có thứ hạng trong nước thấp hơn ở mùa giải vòng loại được đảo ngược so với lần bốc thăm ban đầu.
Nhánh đấu
Vòng 16 đội
Lễ bốc thăm cho vòng 16 đội được tổ chức vào ngày 18 tháng 12 năm 2023, lúc 12:00 CET.
Tóm tắt
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 13, 14, 20 và 21 tháng 2, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 5, 6, 12 và 13 tháng 3 năm 2024.
|}
Các trận đấu
Tổng tỷ số 1–1. Arsenal thắng 4–2 trên chấm luân lưu.
Barcelona thắng với tổng tỷ số 4–2.
Paris Saint-Germain thắng với tổng tỷ số 4–1.
Tổng tỷ số 2–2. Atlético Madrid thắng 3–2 trên chấm luân lưu.
Borussia Dortmund thắng với tổng tỷ số 3–1.
Bayern Munich thắng với tổng tỷ số 3–1.
Manchester City thắng với tổng tỷ số 6–2.
Real Madrid thắng với tổng tỷ số 2–1.
Tứ kết
Lễ bốc thăm cho vòng tứ kết được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 2024, lúc 12:00 CET.
Tóm tắt
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 9 và 10 tháng 4, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 16 và 17 tháng 4 năm 2024.
|}
Bán kết
Lễ bốc thăm cho vòng bán kết được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 2024, lúc 12:00 CET, sau khi bốc thăm tứ kết.
Tóm tắt
Các trận lượt đi được diễn ra vào ngày 30 tháng 4 và 1 tháng 5, các trận lượt về được diễn ra vào ngày 7 và 8 tháng 5 năm 2024.
|}
Chung kết
Trận chung kết được diễn ra vào ngày 1 tháng 6 năm 2024 tại Sân vận động Wembley ở London. Một lượt bốc thăm được tổ chức vào ngày 15 tháng 3 năm 2024, sau khi bốc thăm tứ kết và bán kết để xác định đội "nhà" vì mục đích hành chính.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
19836946
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81p%20ch%E1%BA%BF%20h%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng%20ph%C3%B2ng%20kh%C3%B4ng%20c%E1%BB%A7a%20%C4%91%E1%BB%91i%20ph%C6%B0%C6%A1ng
|
Áp chế hệ thống phòng không của đối phương
|
Áp chế hệ thống phòng không của đối phương (SEAD), hay đơn giản là áp chế phòng không, là các hành động quân sự nhằm áp chế hệ thống phòng không trên mặt đất của đối phương, bao gồm không chỉ tên lửa đất đối không (SAM) và pháo phòng không (AAA) mà còn cả các hệ thống liên quan đến nhau như radar cảnh báo sớm và các chức năng chỉ huy, điều khiển và liên lạc (C3), đồng thời đánh dấu các mục tiêu khác sẽ tiêu diệt bằng một cuộc không kích.
Tham khảo
Chiến lược không chiến
Chiến thuật không quân
Học thuyết quân sự
Hoạt động quân sự liên quan tới Hoa Kỳ
Không quân Hoa Kỳ
|
19836953
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%20vi%E1%BB%87n%20Th%C3%A2m%20Quy%E1%BA%BFn
|
Thư viện Thâm Quyến
|
Thư viện Thâm Quyến () là hệ thống thư viện công cộng của thành phố Thâm Quyến, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Thư viện chính là một phần trực thuộc Trung tâm Văn hóa Thâm Quyến ở quận Phúc Điền.
Thư viện chính tọa lạc trên một tòa nhà rộng trên khu đất rộng .
Lịch sử
Tiền thân là Thư viện huyện Bảo An. , có 627 thư viện công cộng ở Thâm Quyến. Cơ sở trước đó được mở vào năm 1986 tại khu vực phía tây bắc của Công viên Lychee sau khi bắt đầu xây dựng vào năm 1983.
Năm 2009, chính quyền thành phố đã cho khởi đầu chương trình nền tảng thư viện mang tên "Thành phố Thư viện".
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ Thư viện Thâm Quyến
Trang chủ Thư viện Thâm Quyến
Thư viện Quảng Đông
Giáo dục Thâm Quyến
Tòa nhà của Isozaki Arata
Thư viện công cộng Trung Quốc
Thư viện hạng nhất quốc gia Trung Quốc
|
19836966
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20vi%C3%AAn%20Tapgol
|
Công viên Tapgol
|
Công viên Tapgol (Tiếng Hàn: 탑골공원, Hanja: 塔-公園) trước đây là Công viên Pagoda, là một công viên nằm ở Jongno 2-ga, Jongno-gu, Seoul, Hàn Quốc có diện tích . Nó còn được gọi là Công viên Tapgol vì nó có một tòa tháp hình khúc xương. Công viên trước đây được gọi là Công viên Pagoda cho đến ngày 28 tháng 5 năm 1992.
Công viên Tapgol, được chỉ định là Di tích lịch sử số 354, là công viên đô thị đầu tiên của Hàn Quốc và là địa điểm diễn ra Phong trào ngày 1 tháng 3 chống lại ách thống trị của thực dân Nhật Bản vào năm 1919.
Vị trí
Ban đầu nó được gọi là Công viên Pagoda và có diện tích là 15,051 m². Ga Jongno 3(sam)-ga, nơi gặp nhau của các Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1, 3 và 5, và Ga Jonggak trên Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 ở gần đó và Trung tâm nhạc cụ Nakwon nằm gần đó. Đây là công viên đầu tiên được thành lập tại Seoul, và là công viên đầu tiên được thành lập tại Hàn Quốc dành cho người Hàn Quốc.
Mô tả
Công viên này từng là địa điểm của ngôi chùa Phật giáo Wongaksa thế kỷ 15. Từ tap nghĩa là "chùa", và công viên được đặt tên theo chùa Wongaksa, một ngôi chùa bằng đá 10 tầng (Quốc bảo số 2) nằm trong công viên. Nó đã không trở thành một công viên cho đến năm 1897, khi nó được tổ chức như một khu vườn theo đề xuất của John McLeavy Brown, một cố vấn người Ireland cho Vua Gojong.
Một trong những di tích trong công viên là Đài tưởng niệm Wongaksa được xây dựng vào năm 1471 để ghi lại ngày thành lập (ngôi chùa) Wongaksa vào năm 1465. Mặt trước là dòng chữ do Kim Suon sáng tác với lối thư pháp do Seong Im thực hiện. Ở mặt sau có dòng chữ do Seo Geo Jeong sáng tác với nét chữ thư pháp do Jeong Nam Jong thực hiện. Đế hình con rùa được làm từ đá granit và thân được cắt từ đá cẩm thạch. Tượng đài có chiều rộng 1,3 mét/4,3 feet và cao 4,9 mét/16,2 feet. Hai con rồng đan xen được chạm khắc công phu bay lên trời cầm một viên ngọc Phật giáo nằm trên đỉnh tượng đài. Tượng đài Wongaksa là Kho báu số 2.
Công viên Tapgol có ý nghĩa lịch sử quan trọng vì là nơi bắt nguồn của Phong trào ngày 1 tháng 3 năm 1919, một phần quan trọng của phong trào độc lập của Hàn Quốc và là địa điểm đầu tiên để đọc Tuyên ngôn Độc lập. Có một số bức tượng phù điêu tượng trưng cho các anh hùng dân tộc Hàn Quốc, cũng như một tượng đài về phong trào độc lập.
Thư viện
Xem thêm
Tham khảo
Quận Jongno
Công viên ở Seoul
|
19836971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nizam%20%28t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20hi%E1%BB%87u%29
|
Nizam (tước hiệu)
|
Nizam (tiếng Ả Rập: نظام / niẓām; tiếng Tamil: நிசாம்) là tước hiệu của những người cai trị Nhà nước Hyderabad và các nhà nước bán tự trị khác ở tiểu lục địa Ấn Độ.
Dưới thời Đế quốc Mogul, đây là một tước hiệu quân sự, được các hoàng đế Mogul bổ nhiệm để quản lý các lãnh thổ bán tự trị, càng về sau này các Nizam càng có nhiều quyền lực hơn và tước hiệu được kế thừa dưới hình thức cha truyền con nối, nó tương tự như chức quan Tiết độ sứ cuối thời Nhà Đường ở Trung Quốc, từ một viên tướng canh giữ những vùng trọng yếu trở thành một lãnh chúa cai quản một vùng và tước hiệu được cha truyền con nối.
Sau khi Đế chế Mogul xụp đổ, người Anh tiến hành thực dân hoá Ấn Độ và vẫn duy trì các phiên quốc do các gia tộc bản địa cai trị trước đó, trong đó phiên quốc lớn nhất là Hyderabad của Triều đại Asaf Jahi, và người cai trị của nó lấy tước hiệu là Nizam và là phiên quốc duy nhất trong 565 phiên quốc của Ấn Độ thuộc Anh sử dụng tước hiệu Nizam. Những nhà cai trị các phiên quốc ở Ấn Độ, dù lấy tước hiệu là gì, họ đều được gọi chung là thân vương hoặc hoàng thân trong tiếng Anh.
Vị Nizam cuối cùng có chủ quyền trong lịch sử Ấn Độ chính là Mir Osman Ali Khan, Nizam thứ VII của xứ Hyderabad, được xem là một trong những người giàu nhất thế giới ở mọi thời đại.
Đọc thêm
Nizam xứ Hyderabad
Tham khảo
Tước hiệu Ấn Độ
Chức danh lãnh đạo quốc gia hoặc sắc tộc
Lịch sử Ấn Độ
Tước hiệu
|
19836976
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Roberta%20c%E1%BB%A7a%20Orl%C3%A9ans
|
Roberta của Orléans
|
Roberta của Tây Ban Nha, Roberta của Orléans hay Roberta de Orleans y Borbón (tiếng Tây ban Nha: Roberta de España/Roberta de Orleans y Borbón; tiếng Pháp: Roberta d'Orléans; Madrid, ngày 12 tháng 3 năm 1890) là con gái của Antonio María của Orléans và María Eulalia của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
Roberta là con gái duy nhất và là người con cuối cùng của María Eulalia của Tây Ban Nha (con gái của Isabel II và Francisco de Asís của Tây Ban Nha) và Antonio María của Orléans (con trai của María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha và Antoine của Pháp).
Trước khi Roberta chào đời, bác dâu của Vương tôn nữ, Nhiếp chính hậu Maria Christina Henriette đã thay mặt cho con trai Alfonso XIII của Tây Ban Nha ban sắc lệnh rằng bất kỳ người con nào của María Eulalia của Tây Ban Nha đều sẽ là Infante/Infanta của Tây Ban Nha và được hưởng quyền lợi tương xứng.
Ngày 12 tháng 3 năm 1890, tại Madrid lúc 7 giờ 15 phút sáng, Roberta đã được sinh ra nhưng đã qua đời vì ngạt thở.
Hai ngày sau, Roberta được chôn cất tại Panteón de los Infantes của Tu viện El Escorial, trong phòng mộ thứ sáu thuộc lăng mộ trẻ sơ sinh với dòng văn bia sau :INFANS FEMINA, ELISABETH II, NEPOS
Gia phả
<center>
<center>
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương tộc Orléans-Borbón
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương tộc Orléans
Vương nữ
Sinh năm 1890
Mất năm 1890
|
19836977
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20del%20Pilar%20c%E1%BB%A7a%20Bayern%20v%C3%A0%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
María del Pilar của Bayern và Tây Ban Nha
|
María del Pilar của Bayern và Tây Ban Nha hay María del Pilar de Baviera y Borbón (Madrid, 15 tháng 9 năm 1912 - Madrid, 9 tháng 5 năm 1918 ) là người con út của Ferdinand của Bayern và María Teresa Isabel của Tây Ban Nha. Theo sắc lệnh của người cậu là Alfonso XII của Tây Ban Nha, María del Pilar được phong là Infanta của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
María del Pilar là người con út của Ferdinand của Bayern và María Teresa Isabel của Tây Ban Nha. Theo dòng cha, María del Pilar là cháu nội của Ludwig Ferdinand của Bavaria và María de la Paz của Tây Ban Nha, con gái của Isabel II của Tây Ban Nha; Theo dòng mẹ, María del Pilar là cháu gái của Alfonso XII của Tây Ban Nha, con trai của Isabel II, và Maria Christina Henriette của Áo. Thông qua gia phả thì cha mẹ của Pilar là chị em họ. Trước khi Vương tôn nữ chào đời, Alfonso XII đã ra sắc lệnh tuyên bố rằng các con của chị gái María Teresa sinh ra đều sẽ là Infante/Infanta của Tây Ban Nha và được hưởng các đặc quyền tương ứng.
Mẹ của María del Pilar, María Teresa đã qua đời tám ngày sau khi sinh Vương tôn nữ, giống như chị gáiMaría de las Mercedes cũng đã qua đời tám năm trước sau khi sinh. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1912, Vương tôn nữ được rửa tội cách kín đáo vì mẹ vừa qua đời. Cha mẹ đỡ đầu của Vương tôn nữ là Nhiếp chính Vương tử Leitpold của Bayern, và Aldegunde Auguste của Bayern, Thái Công tước phu nhân xứ Modena, đại diện bởi ông bà nội là Ludwig Ferdinand của Bayern và María de la Paz của Tây Ban Nha. María del Pilar chủ yếu sống trong dinh thự mà cha sở hữu ở Cuesta de la Vega, gần Cung điện Oriente ở Madrid. Vương tôn nữ có ba anh chị tên là Luis Alfonso, José Eugenio và María de las Mercedes.
Năm 1914, cha của María del Pilar tái hôn với María Luisa de Silva y Fernández de Henestrosa, người được Thái hậu Maria Christina phong thành Nữ Công tước xứ Talavera de la Reina và cùng tước hiệu Infanta vào năm 1927 nhân ngày cưới.
María del Pilar qua đời vì bệnh viêm màng não tại Madrid, vào ngày 9 tháng 5 năm 1918, khi chưa tròn sáu tuổi. Vương tôn nữ được chôn cất tại Panteón de Infantes trong Tu viện El Escorial.
Gia phả
<center>
<center>
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương nữ Bayern
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương tộc Wittelsbach
Vương nữ
Người Madrid
Sinh năm 1912
Mất năm 1918
|
19836998
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Namekata%20Hisashi
|
Namekata Hisashi
|
sinh ngày 30 tháng 12, 1973 (Chiêu Hòa thứ 48) tại TP Hirosaki, Aomori là một kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Cửu đẳng người Nhật Bản. Kể từ năm 2023, ông là một giám đốc không thường trực của Liên đoàn Shogi Nhật Bản.
Sự nghiệp
Khi còn học lớp 6 tiểu học, Namekata đã giành hạng 3 chung cuộc tại Tiểu học Danh Nhân chiến lần thứ 10. Người vô địch giải đấu đó là Nozuki Hirotaka (hiện là Bát đẳng). Ngoài ra, Kimura Kazuki (hiện là Cửu đẳng) cũng góp mặt tại vòng Tứ kết.
Để nghiên cứu Shogi, vào năm 12 tuổi, sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông đã một mình chuyển đến Tokyo. Khi học trung học cơ sở, ông thường bị chế giễu và bắt nạt do các giáo viên và các bạn ký túc xá của ông không biết về việc ông đã là thành viên của Trường đào tạo kỳ thủ. Do đó, khi còn học trung học, ông thường nói rằng "Việc bỏ học trung học có vẻ rất ngầu". Sau khi tốt nghiệp trung học, ông đã tiếp tục học trung học phổ thông ở đó, tuy nhiên ông đã bỏ học chỉ sau 3 tháng.
Vào năm 1993, khi mới 19 tuổi, ông đã thăng lên Tứ đẳng và trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Khi đó, trong một buổi phỏng vấn với giới truyền thông, Namekata đã nói rằng: "Tôi muốn đánh bại Habu và có vợ đẹp".
Sau khi lên chuyên
Ngay sau khi lên chuyên, tại giải đấu đầu tiên của mình, Long Vương chiến kỳ 7 (mùa giải 1993-94), Namekata đã chiến thắng tổ 6 và tiến vào vòng Chung kết. Mặc dù ông là đại diện của tổ 6 nhưng ông đã chiến thắng trước kỳ thủ vừa giành danh hiệu năm trước là Gōda Masataka tại tứ kết. Cũng tại đây, Namekata đã lần lượt đánh bại nhiều kỳ thủ khác cũng tranh quyền khiêu chiến Satō Yasumitsu Long Vương như Fukaura Kōichi, Moriuchi Toshiyuki, Minami Yoshikazu, và Yonenaga Kunio. Cuối cùng, đối thủ của ông tại loạt 3 ván Xác định Khiêu chiến giả là Habu Yoshiharu. Ở đó, Namekata đã chịu thất bại 0-2. Trùng hợp thay, ở kỳ đó, Habu đã giành danh hiệu Long Vương và trở thành Lục quán. Ngoài ra, tại Vương Tọa chiến kỳ 43, ông đã chiến thắng 6 ván liên tiếp để đi từ vòng Sơ loại thứ Nhất đến vòng Chung kết, nơi ông bị loại từ vòng 1.
Ở tổ 5 Long Vương chiến kỳ 8 (mùa giải 1994-95), Namekata đã một lần nữa đánh bại Gōda Masataka tại chung kết tổ để chiến thắng tổ 5 và thăng lên Ngũ đẳng do chiến thắng tổ tại Long Vương chiến 2 kỳ liên tiếp. Đây cũng là mùa giải đầu tiên mà điều kiện thăng đẳng này được áp dụng, và sau Namekata, chỉ có Kimura Kazuki được thăng đẳng theo điều kiện này. Namekata giành được 1 trận thắng tại vòng Chung kết.
Vào năm 1995, ông đã vô địch Giải Shogi nhanh dành cho các kỳ thủ mới được phát trực tiếp. Cũng trong mùa giải 1995, ông đã nhận giải Tân binh của năm tại kỳ Đại Thưởng năm đó. Ở Vương Vị chiến kỳ 37, Namekata lần đầu tiên vào đến vòng Xác định Khiêu chiến giả, tuy nhiên ông đã bị loại với thành tích 3 thắng - 2 thua.
Trong mùa giải 1996, ở Long Vương chiến kỳ 9, ông đã vượt qua trận tranh hạng 3 của tổ 4 và thăng lên tổ 3. Vào năm sau đó, ở tổ 3, ông đã chiến thắng tổ và thăng lên tổ 2 (tuy nhiên ông đã không thi đấu tốt sau đó và phải trở về tổ 3).
Ở mùa giải 1998, tại Thuận Vị chiến kỳ 57, Namekata đã toàn thắng 10 ván và thăng lên hạng C1 với vị trí thứ 1 chung cuộc. Ở Kỳ Thánh chiến kỳ 70, với 8 ván thắng liên tiếp, ông đã vào đến top 4 của vòng Chung kết. Tại Vương Vị chiến kỳ 40, ông đã lọt vào vòng Xác định Khiêu chiến giả lần thứ 2 và xếp thứ nhì Hồng tổ với thành tích 4 thắng - 1 thua và trụ lại vòng này (tuy nhiên ông đã bị loại ở kỳ sau).
Trong mùa giải 1999, Namekata đã trở lại tổ 2 tại Long Vương chiến kỳ 12, và tại kỳ 13, ông đã chiến thắng ván tranh hạng 3 và lần đầu tiên thăng lên tổ 1.
Trong mùa giải 2000, tại Thuận Vị chiến kỳ 59, ông xếp hạng 2 chung cuộc ở hạng C1 với thành tích 8 thắng - 2 thua, qua đó thăng lên hạng B2.
Tại Giải Shogi nhanh dành cho các kỳ thủ mới của mùa giải 2001, ông đã thua Fukaura Kōichi tại chung kết và về nhì.
Trong mùa giải 2003, ở hạng B2 Thuận Vị chiến kỳ 62, ông xếp thứ 2 chung cuộc với thành tích 8 thắng - 2 thua, qua đó thăng lên hạng B1. Ngoài ra, ở Tân Nhân Vương chiến kỳ 34, ông đã vào đến chung kết nhưng lại để thua Tamura Kōsuke 1-2 ở loạt 3 ván và về nhì.
Tại hạng B1 Thuận Vị chiến của mùa giải 2004, trong ván đấu trước Nakagawa Daisuke Thất đẳng, sau 2 lần bế tắc và lặp lại nước đi, Namekata và Nakagawa đã phải đấu lại 2 ván kéo dài tổng cộng 23 tiếng (từ 10 giờ sáng đến 9 giờ sáng ngày hôm sau) trong tình trạng thiếu ngủ. Sau cùng, ông đã thắng ván đó. Cùng năm đó, ông đã vào đến vòng Xác định Khiêu chiến giả của Vương Tướng chiến kỳ 55 và bị loại với thành tích 2 thắng - 4 thua. Ở Long Vương chiến kỳ 19, ông thua 2 ván liên tiếp ở tổ 1 và bị giáng xuống tổ 2.
Ở mùa giải 2006, Namekata đã về thứ 2 tại hạng B1 Thuận Vị chiến và được thăng lên hạng A vào tháng 4 năm 2007. Tuy nhiên, tại kỳ đầu tiên ở hạng A, ông đã thi đấu không tốt và về cuối với thành tích 1 thắng - 8 thua và trở lại hạng B1. Tuy nhiên, vào ngày 9 tháng 2 năm 2008, Namekata đã vô địch Cúp Asahi mở rộng mới thành lập, chức vô địch một giải đấu không danh hiệu đầu tiên của ông. Namekata đạt được thành tích này không lâu sau khi bị giáng khỏi hạng A.
Ở mùa giải 2008, tại Long Vương chiến kỳ 21, ông đã chịu 2 ván thua liên tiếp và bị giáng xuống tổ 3. Tuy nhiên, ở kỳ sau đó (kỳ 22), Namekata đã thành công thăng trở lại tổ 2.
Vào ngày 10 tháng 1 năm 2013, với chiến thắng ở vòng 11 hạng B1 Thuận Vị chiến kỳ 71, Namekata đã thành công giành suất thăng lên hạng A sớm 2 ván. Sau ván thắng trước Maruyama Tadahisa Cửu đẳng, ông đã được kỳ vọng sẽ làm nên lịch sử với thành tích 12 ván thắng liên tiếp. Tuy nhiên, ở ván cuối, ông đã phải chịu thua trước Kubo Toshiaki Cửu đẳng và kết thúc mùa Thuận Vị với thành tích 11 thắng - 1 thua.
Vào ngày 29 tháng 5 năm 2013, tại ván Xác định Khiêu chiến giả của Vương Vị chiến kỳ 54, Namekata đã vượt qua Satō Yasumitsu Cửu đẳng và đạt được ước mơ lớn nhất của ông - khiêu chiến một danh hiệu lần đầu tiên. Ông đã chịu thất bại 1-4 trước Habu Yoshiharu Vương Vị (và cũng bị loại khỏi vòng Xác định Khiêu chiến giả ở mùa giải kế tiếp).
Namekata đã kết thúc hạng A Thuận Vị chiến kỳ 73 với Thuận Vị 2 và thành tích 6 thắng - 3 thua, bằng với Watanabe Akira (Thuận Vị 3), Kubo Toshiaki (Thuận Vị 7), và Hirose Akihito (Thuận Vị 9). Ở ván cuối cùng, ông đã gặp Kubo, người vừa đánh bại Watanabe và Hirose và chiến thắng sau 150 nước đi, qua đó giúp ông giành quyền khiêu chiến Habu Yoshiharu Danh Nhân lần đầu tiên. Ông đã chịu thất bại 1-4 trong loạt tranh ngôi.
Tại Cúp NHK lần thứ 64 (mùa giải 2014), đối thủ của ông ở bán kết là Hashimoto Takanori. Khi Hashimoto phải chịu áp lực byoyomi và đang trong thế cờ bất lợi, anh đã phạm luật Hai Tốt. Khi đó, Namekata đã nhận ra điều này trước và ôm đầu bối rối, làm cho Hashimoto bất ngờ. Sau đó, ông đã thua Moriuchi Toshiyuki ở chung kết và về nhì. Tại Long Vương chiến kỳ 27, Namekata đã chiến thắng tổ 2 và trở lại tổ 1 (tuy nhiên ông chịu 2 ván thua ở mùa giải sau đó và tiếp tục bị giáng xuống tổ 2).
Tại vòng 2 của Cúp JT lần thứ 36, ván đấu giữa Namekata và Watanabe Akira vào ngày 5 tháng 9 năm 2015 đã kết thúc bằng bế tắc sau 297 nước đi, một kỷ lục mới của giải đấu này và cũng là ván đấu bế tắc đầu tiên tại Cúp JT (Namekata đã thua ván đấu lại ngay sau đó). Namekata cũng đã tiến vào vòng Xác định Khiêu chiến giả của Vương Vị chiến kỳ 57, tuy nhiên ông đã bị loại với thành tích 3 thắng - 2 thua. Ông cũng đã vào đến top 4 của giải đấu mới - Duệ Vương chiến.
Vào ngày 29 tháng 1 năm 2018, với chiến thắng trước Murayama Yasuaki Thất đẳng tại vòng Sơ loại thứ Hai của Kỳ Thánh chiến kỳ 89, ông trở thành kỳ thủ thứ 52 đạt được thành tích 600 ván thắng chính thức và nhận Giải thưởng Vinh dự Shogi.
Vào ngày 3 tháng 3 năm 2018, sau khi thua Inaba Akira Bát đẳng, ông đã bị giáng khỏi hạng A Thuận Vị chiến với thành tích 3 thắng - 7 thua sau 5 kỳ liên tiếp trụ lại đây. Tại Long Vương chiến kỳ 30, ông cũng chịu 2 thất bại và bị giáng xuống tổ 3. Tại Duệ Vương chiến kỳ 3, ông vẫn thi đấu tốt và tiến đến top 4.
Trong mùa giải 2019, tại hạng B1 Thuận Vị chiến kỳ 78, với thành tích 8 thắng - 4 thua, ông xếp thứ 3 chung cuộc và bỏ lỡ một cơ hội trở lại hạng A. Thành tích thi đấu của ông trong mùa giải sau đó bị đảo lại - ông kết thúc mùa Thuận Vị với thành tích 4 thắng - 8 thua, xếp thứ 11 chung cuộc và bị giáng xuống hạng B2.
Lối đánh
Namekata là một người chơi Cư Phi Xa nổi tiếng với lối đánh chày cối.
Đời tư
Ban đầu, Namekata là người thuận tay phải (đánh cờ bằng tay phải tại Tiểu học Danh Nhân chiến, viết và cầm đũa cũng bằng tay phải). Tuy nhiên, ông muốn trở thành người thuận tay trái và do đó bắt đầu đánh cờ bằng tay trái. Tuy nhiên, đôi khi ông không chú ý và trở về đánh cờ bằng tay phải trong khi phân tích ván đấu.
Thể loại nhạc ông ưa thích là Rock and roll, và những nghệ sĩ ông ưa thích là Thee Michelle Gun Elephant (TMGE), Nakamura Kazuyoshi, Radiohead, và Number Girl. Ông đặc biệt thích TMGE và thường đi xem những buổi hòa nhạc khi họ còn hoạt động. Khi còn trẻ, Namekata đã trả lời phỏng vấn rằng "Nếu tôi trẻ đi 4 tuổi thì tôi đã trở thành nhạc sĩ rồi".
Sau khi thăng lên Tứ đẳng, trong buổi phỏng vấn với Tuần san Shogi (số ngày 10 tháng 11 năm 1993), Namekata đã nói những điều sau về âm nhạc:
"Không có từ ngữ nào có thể mô tả sự ngu dốt của thế hệ của tôi, ví dụ như CHAGE and ASKA hay B'z. Thật khó hiểu tại sao thứ âm nhạc của họ có thể bán chạy như vậy, kể cả để lừa khán giả".
"Gu âm nhạc của tôi đã chuyển đổi rất nhiều kể từ khi tôi từ fan The Blue Hearts trở thành fan Flippers".
Ông thường ăn chậm và tốn rất nhiều thời gian để ăn. Bản thân ông cũng nói rằng "Tôi chưa từng gặp ai ăn chậm hơn tôi".
Namekata có tính tình nóng nảy, và khi thế cờ chuyển xấu, ông thường đấm chiếc túi của ông nhiều lần.
Ông có thói hay đến muộn. Vào tháng 2 năm 2003, trong ván đấu cuối cùng của Yonenaga Kunio Vĩnh thế Kỳ Thánh trước khi giải nghệ, Namekata đã đến muộn 30 phút so với thời gian bắt đầu ván đấu. Vào tháng 4 năm 2007, khi được tác giả Dan Oniroku mời đi ngắm hoa anh đào trên thuyền để chúc mừng việc ông được thăng lên Bát đẳng, ông đã đến muộn và khiến Dan hết sức bất ngờ.
Các hồi ký thi đấu của ông được xuất bản trong tạp chí "Thế giới Shogi" từ tháng 4 năm 1998 đến tháng 3 năm 1999. Ông nói chuyện với sự thẳng thắn của một người thanh niên.
Trong giới Shogi chuyên nghiệp, Namekata nổi tiếng với phong cách ăn mặc của mình. Ông đặc biệt thích mặc đồ giống nhà thiết kế Paul Smith.
Vào tháng 2 năm 2009, NXB Nippon Bungeisha đã xuất bản cuốn "Tự học! Cuốn sách giới thiệu Shogi sẽ giúp bạn mạnh hơn" (ISBN 978-4-537-20726-2) với tác giả là Namekata. Tuy nhiên, Namekata không hề tham gia viết cuốn sách này và ông đã phát hiện ra NXB đã sử dụng kỳ phổ của ông mà không có sự cho phép sau khi chất vấn, và cuốn sách bị ngừng xuất bản. Về sự việc này, Nippon Bungeisha đã đăng bài xin lỗi ở trang 18 Tuần san Shogi số ngày 2 tháng 2 năm 2011 và ở trang 215 Thế giới Shogi số tháng 3 năm 2011.
Ông kết hôn vào tháng 12 năm 2011.
Ông bắt đầu đeo kính trong loạt tranh ngôi Danh Nhân chiến năm 2015. Tuy nhiên, ông đã thua ván 1 khi đeo kính và từ ván 2 trở đi ông không đeo kính nữa.
Lịch sử thăng cấp
Thành tích chính
Khiêu chiến danh hiệu
Vương Vị: 1 lần (Kỳ 54 - mùa giải 2013)
Danh Nhân: 1 lần (Kỳ 73 - mùa giải 2015)
Vô địch giải đấu không danh hiệu
Giải Shogi nhanh dành cho các kỳ thủ mới: 1 lần (Lần thứ 14 - mùa giải 1995)
Cúp Asahi Mở rộng: 1 lần (Lần thứ 1 - mùa giải 2007)
Thăng/giáng hạng/tổ
Chi tiết về hạng/tổ của kỳ thủ vui lòng xem các bài Thuận Vị Chiến và Long Vương Chiến.
Đại Thưởng
Lần 23 (mùa giải 1995): Tân binh của năm
Lần 26 (mùa giải 1998): Tỷ lệ thắng cao nhất năm
Giải thưởng khác
Ngày 29 tháng 1 năm 2018: Giải thưởng Vinh dự Shogi (600 ván thắng)
Tham khảo
Sinh năm 1973
Người chơi shogi Nhật Bản
Nhân vật còn sống
|
19837000
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xa%20l%E1%BB%99%20Li%C3%AAn%20ti%E1%BB%83u%20bang%2040%20%E1%BB%9F%20Tennessee
|
Xa lộ Liên tiểu bang 40 ở Tennessee
|
Interstate 40 (I-40) là một phần của Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang có chiều dài từ Barstow, California, đến Wilmington, North Carolina. Xa lộ này chạy qua tiểu bang Tennessee từ tây sang đông, từ sông Mississippi tại ranh giới với Arkansas đến dãy núi Blue Ridge ở ranh giới North Carolina. Với chiều dài , phần xa lộ chạy qua Tennessee của xa lộ I-40 là phần dài nhất qua 8 tiểu bang mà xa lộ này chạy qua, và đây là xa lộ liên tiểu bang dài nhất của tiểu bang Tennessee.
I-40 chạy qua 3 thàng phố lớn nhất Tennessee Memphis, Nashville, vàd Knoxville và cung cấp đường tiếp cận cho vườn quốc gia Great Smoky Mountains, vườn quốc gia có khách tham quan nhiều nhất ở Hoa Kỳ.
Tham khảo
Hệ thống xa lộ liên tiểu bang
Giao thông Tennessee
|
19837009
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20h%E1%BA%ADu%20Ho%C3%A0n%20v%C5%A9%202024
|
Hoa hậu Hoàn vũ 2024
|
Hoa hậu Hoàn vũ 2024 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 73 được tổ chức ở Mexico. Hoa hậu Hoàn vũ 2023 Sheynnis Palacios đến từ Nicaragua sẽ trao lại vương miện cho người kế nhiệm vào cuối đêm chung kết.
Thông tin cuộc thi
Lựa chọn thí sinh
Vào tháng 9 năm 2023, trong buổi trình diễn của Tanner Fletcher tại Tuần lễ thời trang New York, Hoa hậu Hoàn vũ 2022 R'Bonney Gabriel tiết lộ rằng Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ đã đưa ra quyết định xóa bỏ giới hạn độ tuổi đối với các thí sinh trên 18 tuổi, việc này sẽ được thực hiện bắt đầu từ năm 2024. Trước sự thay đổi này, cuộc thi đã hạn chế sự tham gia của phụ nữ trong độ tuổi từ 18–28 vào năm diễn ra cuộc thi, trừ những trường hợp đặc biệt.
Thí sinh tham gia
7 thí sinh xác nhận sẽ tham gia cuộc thi:
Các cuộc thi quốc gia
Chú ý
Trở lại
Lần cuối tham gia vào năm 2019:
Lần cuối tham gia vào năm 2022:
Chỉ định
- Jia Qi được chỉ định tham dự làm đại diện tại cuộc thi năm nay. Cô đăng quang "Hoa hậu Hoàn vũ Trung Quốc 2023" và theo kế hoạch sẽ tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2023. Tuy nhiên do gặp trục trặc về thủ tục cấp visa nên cô đã bỏ lỡ nhiều hoạt động của cuộc thi và cuối cùng không thể tranh tài.
- Maya Turdalieva được chỉ định làm đại diện tại cuộc thi năm nay. Cô đăng quang "Hoa hậu Kyrgyzstan 2023" và theo kế hoạch sẽ tham dự ấn bản năm ngoái nhưng đã phải rút lui sau đó vì lý do cá nhân.
- Nominzul Zandangiin được chỉ định làm đại diện tại cuộc thi năm nay. Cô đăng quang "Hoa hậu Hoàn vũ Mông Cổ 2023" và theo kế hoạch sẽ tham dự ấn bản năm ngoái nhưng đã phải rút lui sau đó vì lý do cá nhân. Cô được thay thế bởi Á hậu 2 Hoa hậu Hoàn vũ Mông Cổ 2023 Namuunzul Batmagnai.
Ghi chú
Tham khảo
Hoa hậu Hoàn vũ
Cuộc thi sắc đẹp 2024
|
19837021
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pak%20Doo-ik
|
Pak Doo-ik
|
Pak Doo-ik (Chosungul: 박두익; Hanja: 朴斗翼; sinh ngày 17 tháng 12 năm 1936) là một cựu cầu thủ bóng đá người Triều Tiên. Ông là một trong những thành viên của đội tuyển Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới 1966 tại Anh, ghi được 1 bàn thắng, loại đội tuyển Ý tại vòng bảng.
Sự nghiệp thi đấu
Pak Doo-ik sinh ra ở Bình Nhưỡng. Ông đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1966 ở Anh, ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trước Ý trên sận vận động Ayresome Park, Middlesbrough, một trận đấu sau này được chuyển thể thành phim The Game of their Lives của đạo diễn người Anh Daniel Gordon.
Kết quả này vẫn được coi là một trong những thất bại bất ngờ từ trước đến nay của giải đấu, với việc Ý - đội đồng giữ kỷ lục hai chức vô địch thế giới lúc bấy giờ - được nhiều người kỳ vọng sẽ không gặp khó khăn gì trong việc đánh bại Triều Tiên, đội mới có lần đầu tham dự giải đấu.
Được xếp chung bảng với Ý, Chile và Liên Xô, Triều Tiên thi đấu tại Middlesbrough trong suốt giải đấu, thi đấu các trận đấu của họ trên sân vận động Ayresome Park. Sau thất bại 0-3 trước Liên Xô, màn thể hiện quả cảm và tinh thần của họ trong trận hòa 1-1 trước Chile đã chiếm được cảm tình của người dân địa phương. Chiến thắng bất ngờ của họ trước tuyển Ý hùng mạnh càng củng cố thêm sự nổi tiếng của họ trong thị trấn. Pak, phát biểu vào năm 2002 trong chuyến trở lại Middlesbrough cùng với các thành viên còn sống của đội tuyển Triều Tiên năm 1966, nhớ lại rằng "Đó là ngày tôi học được rằng bóng đá không chỉ có chiến thắng. Tôi học được rằng chơi bóng đá có thể cải thiện quan hệ ngoại giao và thúc đẩy hòa bình."
Sau chiến thắng, Pak, lúc đó là hạ sĩ trong Quân đội Nhân dân Triều Tiên, được thăng cấp trung sĩ.
Một vé xem trận đấu ban đầu được trưng bày cùng với các hiện vật lịch sử bóng đá khác ở bảo tàng FIFA World Football Museum ở Zürich.
Mặc dù Triều Tiên đã dẫn trước 3–0, nhưng cuối cùng vẫn để thua Bồ Đào Nha 3–5 trong trận tứ kết diễn ra tại sân vận động Goodison Park, họ vẫn được 3.000 người hâm mộ từ Middlesbrough đến cổ vũ. Những người này đã thực hiện cuộc hành trình từ bờ biển này sang bờ biển khác dài 150 dặm để hỗ trợ họ. Pak và các đồng đội của anh đã ghi dấu ấn tại một thị trấn, một khu vực và ghi tên mình vào văn hóa dân gian của World Cup.
Sau chức vô địch, Pak rời quân đội, giã từ bóng đá và trở thành huấn luyện viên thể dục dụng cụ. Một truyền thuyết đô thị của Ý tồn tại trên các phương tiện thông tin đại chúng cho rằng Pak là một nha sĩ, mặc dù thực tế không phải vậy.
Sân vận động Ayresome Park bị phá bỏ vào năm 1997 và một khu nhà ở được xây dựng trên địa điểm này. Để tôn vinh bàn thắng nổi tiếng, trong khu vườn phía trước của một ngôi nhà mới, người ta đã đặt vĩnh viễn các dấu giày bóng đá bằng gang trên mặt đất, tại vị trí chính xác của chân Pak Doo-ik khi ông ghi bàn vào lưới Ý bằng cú sút từ rìa vòng cấm.
Trong cuộc rước đuốc trước Thế vận hội Mùa hè 2008 ở Bình Nhưỡng, ông là người đầu tiên cầm ngọn đuốc.
Bàn thắng quốc tế
Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Bắc Triều Tiên, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Pak Doo-ik.
Tham khảo
Sinh năm 1941
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Bắc Triều Tiên
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1966
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bắc Triều Tiên
Huấn luyện viên bóng đá CHDCND Triều Tiên
Nhân vật quân sự Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
Sinh năm 1942
|
19837027
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3%20r%C3%B4ng%20ng%E1%BB%B1c
|
Thả rông ngực
|
Thả rông ngực hay còn gọi là thả rông vòng 1 là hành vi không mặc áo ngực ở phụ nữ, đó là thói quen hàng ngày hoặc là trào lưu một số giai đoạn, thả rông ngực cũng có xu hướng liên quan thời trang. Thả rông ngực ở một số nước được đề cập liên quan chủ nghĩa nữ quyền, trong Ngày Quốc tế không mặc áo ngực hành động thả rông được khuyến khích.
Từ nguyên và hành vi
Thả rông trong tiếng Việt có thể xuất phát từ thả rông, một hình thức chăn nuôi gia súc. Trâu, bò, dê cừu sẽ được người chủ chăn thả tự do ở một khu vực có cỏ. Từ ngữ thể hiện sự không ràng buộc. Thực tế, “thả rông” không phải là một từ mà là một kết hợp tự do với hai thành tố “thả” và “rông”, theo đó “thả” là động từ với một trong các nghĩa là “không giữ lại một chỗ nữa mà để cho được tự do hoạt động” (trái với "nhốt"). Còn “rông” là một tính từ, có nghĩa chỉ “tình trạng buông thả, không bị ràng buộc, có thể đi lung tung khắp nơi”.
Thả rông ngực có thể bao gồm trường hợp chung nhất là không mặc áo ngực, nghĩa là không nhất thiết phô bày hoàn toàn mà chỉ là không có lớp áo ngực bên trong trang phục, nhưng thả rông ngực cũng bao gồm ngực trần. Khi đối sánh với chủ đề về hành vi này trong Thế giới tiếng Anh thả rông ngực với trường hợp chung nhất "không áo ngực" tương ứng khái niệm bralessness, và trường hợp hẹp hơn mà nó bao gồm trong đó là "ngực trần", tương đương khái niệm toplessness.
Thả rông ngực xuất phát từ sở thích, thói quen của phụ nữ, nhiều người cảm thấy không mặc áo ngực thì thoải mái hơn.
Áo ngực hiện đại có nguồn gốc từ phương Tây, ở các nước phương Đông ngày trước phụ nữ dùng áo yếm để làm áo lót. Chúng có vai trò như áo ngực. Trong sinh hoạt hằng ngày, áo ngoài có thể cởi bỏ và phụ nữ chỉ mặc áo yếm. Cách mặc đó xem áo yếm như các kiểu áo chứ không quá mức phân định rạch ròi áo trong áo ngoài. Việc mặc áo yếm khi gặp người ngoài gia đình bị hạn chế. Do đó, khán giả thường nhầm lẫn cho rằng nữ diễn viên thả rông khi họ xem một số bộ phim cổ trang.
Các vấn đề liên quan thả rông ngực
Sức khỏe
Theo nhà khoa học thể thao Jean-Denis Rouillon, việc không mặc áo ngực giúp vú phát triển mô cơ nhiều hơn và săn chắc hơn. Núm vú của phụ nữ không mặc áo ngực cao hơn phụ nữ mặc áo ngực trung bình 7mm. Theo tiến sĩ Stafford Broumand, bác sĩ phẫu thuật tại Trung tâm Y tế Mount Sinai, Hoa Kỳ cho biết không mặc áo ngực sẽ làm tăng sản xuất collagen và độ đàn hồi, cải thiện sự phát triển ngực.
Thả rông trong nhiều hoạt động thường ngày cũng bị đánh giá có thể có hại cho ngực. Chẳng hạn dao động mạnh khi vận động, như chạy bộ. Thả rông hầu hết thời gian trong ngày mà không mặc áo ngực lâu ngày ngực sẽ bị xệ, mau lão hóa. Các ảnh hưởng nặng nề này thường xảy ra với phụ nữ có ngực to.
Nhiều chuyên gia cho rằng khi ngủ không mặc áo ngực sẽ tốt cho sức khỏe hơn. Theo bác sĩ Seth Rankin ở phòng khám London Doctors Clinic, nước Anh, giải thích việc mặc áo ngực khi ngủ hạn chế dòng chảy của bạch huyết xung quanh vú và nách, cản trở quá trình phát thải các chất độc hại khỏi cơ thể. Theo bác sĩ Rankin, giáo sư Kefah Mokbel từ Bệnh viện The Princess Grace thì việc mặc áo ngực chật khi ngủ sẽ làm giảm lưu lượng máu cùng hoạt động dẫn lưu bạch huyết từ đó có thể gây viêm mạn tính và phù.
Một cuộc khảo sát đã cho thấy 80% phụ nữ mặc áo ngực không phù hợp và có thói quen mặc chúng tới 10 tiếng/ngày. Điều này khiến nguy cơ mắc các bệnh về vú gấp đôi so với phụ nữ có thời gian mặc áo ngực trong ngày với ít giờ hơn.
Cái đẹp và khiêu gợi
Justin O'Shea, giám đốc sáng tạo của nhà tạo mẫu MyTheresa cho rằng "thả rông" sẽ làm bộc lộ cái đẹp hình thể của người phụ nữ.
Thả rông ngực trong đời sống hằng ngày được đánh giá là hành vi khêu gợi đàn ông ở nữ giới, hoặc hành vi cho thấy yếu tố ngoại tình, do đó được xem là hành vi "hư hỏng".
Các hot girl muốn đạt được mục đích nổi tiếng nhanh chóng thường dùng các yếu tố như "thả rông" trên mạng xã hội để thu hút sự chú ý. Vào năm 2013, Bà Tưng không ngần ngại lên các kênh truyền hình hay mạng xã hội trong chiếc áo mỏng không mặc áo ngực, để lộ cả núm vú hoặc kiểu áo hở hang lộ một phần ngực. Một số nghệ sĩ đã sử dụng yếu tố "thả rông" để thu hút truyền thông nhằm mục đích đánh bóng danh tiếng, như Can Lộ Lộ của showbiz Trung Quốc.
Yếu tố khêu gợi đã được lợi dụng câu khách, như một chương trình thời sự của một đài truyền hình ở Albani được dẫn chương trình bởi một nữ MC luôn thả rông ngực khi lên sóng.
Thời trang
Các người mẫu trình diễn thời trang trên sàn catwalk rất phổ biến hành vi "ngực được thả rông". Các nhà tạo mẫu thời trang cho rằng không mặc áo ngực thì sẽ không ảnh hưởng đến thiết kế của trang phục khi trình diễn, chẳng hạn tránh vết hằn quần áo. Tại một số quốc gia vẫn còn nhiều tính bảo thủ như Việt Nam việc người mẫu thả rông ngực thường bị đánh giá nặng nề. Trong các tuần lễ thời trang tại Paris năm 2015, các kiểu quần áo hở ngực trở nên phổ biến, các kiểu áo được thiết kế để làm hở ngực một phần hoặc hoàn toàn một bên. Các người mẫu nữ cho rằng không mặc áo ngực là xu hướng thời trang mới. Các kiểu quần áo có đường xẻ ngực sâu, crop top, suit không cài cúc, trang phục trong suốt là các kiểu mốt thời trang được ưa thích.
Thả rông ngực hay không mặc áo ngực sẽ thúc đẩy lĩnh vực thời trang phát triển các kiểu quần áo không cần áo ngực nhưng vẫn hỗ trợ ngực và làm đẹp cho người phụ nữ. Điều này đe dọa sự tồn tại các hãng nội y nhưng lại thúc đẩy phát triển các nhãn hàng quần áo khác. Do đó tạo ra một xu thế thời trang liên quan ngực thả rông.
Kinh doanh
Vào năm 2017, một quán nước tại Lâm Đồng đã sử dụng "thả rông ngực" thành một chiêu thức câu khách. Nhân ngày "National No Bra Day" (Ngày thế giới không mặc áo ngực) vào ngày 13 tháng 10, quán nước đã áp dụng chương trình "No bra no pay", giảm giá 100% đồ uống cho khách nữ không mặc áo ngực. Các quán nước tại Tp.Hồ Chí Minh cũng dùng cách tương tự, giảm giá 50% đồ uống cho phái nữ không mặc áo ngực khi đến quán.
Vấn đề xã hội và pháp lý
Nhiều phụ nữ cho rằng thả rông ngực là quyền cá nhân của phụ nữ, được tự do phô bày cơ thể mà không phải lo sự phán xét của người khác. Tại một số nước trên thế giới, như Việt Nam, thả ngực rông là một vấn đề tế nhị nhưng hầu như chỉ là vấn đề gia đình và xã hội thông thường. Trong thế giới phương Tây các hành vi này đã không dừng lại như một vấn đề xã hội mà đã phát triển thành các phong trào xã hội - chính trị như tự do lộ ngực, tự do núm vú và một số ngày đã trở thành sự kiện thường niên, như Go Topless Day.
Tại Mỹ vào năm 1992, chính quyền thành phố New York ở miền Đông nước này thông qua một phán quyết cho phép để ngực trần nơi công cộng miễn sao không gây rối trật tự công cộng. Sở Cảnh sát New York đã xác nhận cảnh sát không được lập biên bản hay bất kỳ hình thức trừng phạt nào liên quan việc để ngực trần. Vào tháng 7 năm 2015, tại Canada, ba phụ nữ cởi trần đạp xe đạp dạo phố đã bị cảnh sát bắt. Vào tháng 8 sau đó, hằng trăm phụ nữ của thành phố khu vực Waterloo, tỉnh Ontario đã biểu tình đòi quyền thả rông bằng việc ngực trần.
Tháng 12 năm 2012, người mẫu Võ Hoàng Yến bị Sở Văn hóa - Thể thao & Du lịch TP.HCM triệu tập vì mặc đồ thả rông ngực trong chương trình thời trang "Đam mê và hội tụ". Người mẫu này đã ăn mặc khác so với chương trình được thẩm định và được cho phép. Việc thả rông bị xem là trái với thuần phong mỹ tục Việt Nam.
Vào tháng 9 năm 2020, tại Pháp bùng nổ các cuộc tranh luận trên truyền thông và mạng xã hội về việc để ngực trần. Một số vụ xảy ra tại bãi biển và tranh cãi bắt đầu khi các phụ nữ chống đối yêu cầu che ngực của cảnh sát. Các nhà chức trách đã xác nhận rằng không có quy định nào cấm để ngực trần. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Pháp là Gérald Darmanin, đã lên tiếng trên Twitter bảo vệ quyền phụ nữ được mặc hay không mặc áo ngực tùy ý.
Trong Thế giới Hồi giáo, phụ nữ phải tuân thủ việc ăn mặc vô cùng nghiêm khắc, kín đáo, bao gồm cả khăn trùm đầu trong trang phục Hồi giáo. Điều này được xem là quy tắc xã hội, là đạo đức căn bản của mọi công dân. Vào tháng 7 năm 2019, một cô gái Iran bị bắt vì không mặc áo ngực, sau khi trình bày vấn đề sức khỏe của bản thân do bệnh u xơ nang, việc dùng thuốc khiến cô đau đớn vùng ngực. Cảnh sát bắt cô phải viết cam kết không tái phạm trước khi được thả tự do.
Tại Đức, các chủ sử dụng lao động của các công ty được phép sa thải nhân viên nữ không tuân thủ các yêu cầu về trang phục, bao gồm việc không được để ngực trần khi đi làm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Xã hội học
Vú
Nữ quyền
Xu hướng thập niên 1960
Thời trang thế kỷ 20
Tôn sùng tình dục
Đồ lót
Khoả thân
|
19837037
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tikka
|
Tikka
|
Tikka (phát âm [ ʈɪkkaː]) là một món nướng với nguyên liệu chính bao gồm thịt (không sương) hoặc khoai cắt khối, bắt nguồn từ thời Babylon. Từ 'tikka' được ghi lại từ thời Đế Quốc Mogul. Thịt/khoai ướp với da ua và nhiều gia vị rồi nướng trong lò tandoor. Món Tikka rất phổ biến khắp Ấn Độ và cả ở nhiều quốc gia như Vương Quốc Anh.
Nguồn gốc
Nguồn gốc món Tikka không rõ ràng. Công thức chung các món thịt nấu chín ướp nhiều gia vị và trộn trong nước sốt có từ năm 1700 trước Công nguyên được tìm thấy trên các bảng chữ hình nêm gần Babylon, được ghi nhận là của người Sumer. Người Mughul gọi món "thịt nấu chín không xương" là Tikka rồi sau đó du truyền tới Ấn Độ.
Tikka có nhiều biến thể khác nhau đề phục vụ tất cả thực khách mặn và chay. Món Tikka được biết là "món nướng Ấn Độ có thịt hoặc khoai cắt khối ướp với da ua và hỗn hợp nhiều gia vị".
Công thức
Tikka bao gồm thịt không xương hoặc khoai hoặc phô mai cắt khối, ướp với da ua và gia vị, xiên que rồi nướng trong lò tandoor để thức ăn nóng và khô.
Tham khảo
Món khai vị
Ẩm thực Bangladesh
Món ăn với pho mát
Ẩm thực Ấn Độ
Ẩm thực Iraq
Ẩm thực Pakistan
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.