id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19835041
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A1m%20Jang%20Bogo
|
Trạm Jang Bogo
|
Trạm Jang Bogo nằm ở vịnh Terra Nova, Nam Cực là một trạm nghiên cứu hoạt động lâu dài của Hàn Quốc. Đây là căn cứ thứ hai của sứ chưong trình nghiên cứu Nam Cực của Hàn Quốc (sau trạm King Sejong), và là căn cứ đầu tiên nằm ở lục địa Nam Cực. Trạm này được hoàn thành vào tháng 2 năm 2014, trạm này có 23 người vào mùa Đông và 62 người vào mùa Hè trong một tòa nhà rộng 4000 mét vuông với 3 cánh, và là một trong những trạm thường trực lớn nhất ở Nam Cực.
Trạm này được đặt theo tên của một nhà cai trị hàng hải thế kỷ thứ tám của Hàn Quốc, nằm ở lãnh thổ phụ thuộc Ross và gần trạm Zucchelli của Ý. Trạm được Hyundai Engineering and Construction xây dựng, với vật liệu được vận chuyển từ Busan đến Lyttelton, New Zealand để chuyển sang tàu phá băng mới của Hàn Quốc, RS Araon.
Tham khảo
Trạm nghiên cứu Nam Cực
|
19835047
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Ba%20%C4%91i%E1%BB%83m%20linh%20thi%C3%AAng
|
Địa điểm linh thiêng
|
Địa điểm linh thiêng (Sacred natural site) hay địa điểm thánh thiêng (linh địa/thánh địa) là một đặc điểm tự nhiên hoặc một vùng đất hoặc vùng nước rộng lớn có ý nghĩa tinh thần đặc biệt đối với các dân tộc và cộng đồng. Các địa điểm tự nhiên thiêng liêng bao gồm tất cả các loại đặc điểm tự nhiên bao gồm những ngọn núi thiêng, những khu rừng thiêng, vùng nước thiêng, cây cối, sông, hồ, suối thiêng, đầm phá, hang động, đảo, cù lao, chúng thường được coi là không gian thánh thiêng. Các địa điểm linh thiêng chỉ là một trong nhiều lĩnh vực tương tác với thiên nhiên của các tôn giáo, tín ngưỡng. Hầu hết nếu không phải tất cả các tôn giáo đều có thần thoại, vũ trụ học, thần học hoặc ứng xử có đạo đức liên quan đến trái đất, thiên nhiên và đất đai.
Một mối quan tâm đến các địa điểm tự nhiên thiêng liêng từ góc độ bảo tồn thiên nhiên có thể nằm ở các thành phần của sự đa dạng sinh học mà chúng hàm chứa, chẳng hạn như các loài động vật và thực vật, môi trường sống và hệ sinh thái, cũng như các động lực và chức năng sinh thái hỗ trợ cuộc sống trong và ngoài địa điểm. Sự liên kết với đa dạng sinh học có thể là bất kỳ văn hóa con người riêng biệt nào chăm sóc và coi chúng là thiêng liêng. Những dòng sông thiêng liêng là những ví dụ về địa điểm thiên nhiên thiêng liêng và sự tôn kính của họ là một hiện tượng được tìm thấy trong một số tôn giáo, đặc biệt là các tôn giáo tôn kính thiên nhiên. Ví dụ: Tôn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ của Phật giáo, Ấn Độ giáo, Đạo Kỳ Na và Đạo Sikh tôn kính và bảo tồn những khu rừng thiêng của Ấn Độ, Núi thiêng ở Ấn Độ và những dòng sông linh thiêng. Trong số những con sông thiêng liêng nhất trong Ấn Độ giáo là sông Hằng, sông Yamuna, và sông Sarasvati. Những con sông thiêng liêng khác đối với tôn giáo Ấn Độ bao gồm sông Rigvedic, sông Narmada, sông Godavari và sông Kaveri, sông Vedas và sông Gita.
Đại cương
Các địa điểm linh thiêng gắn liền với các nền văn hóa có thể có các thể chế và quy tắc gắn liền với chúng. Các tổ chức này có thể mang tính chất tôn giáo hoặc tâm linh và có thể khác biệt với các bộ phận khác của xã hội, trong khi ở một số cộng đồng người bản địa và truyền thống, các tổ chức tư tế địa điểm linh thiêng được tích hợp chặt chẽ trong xã hội với rất ít sự phân biệt giữa thiêng liêng và thế tục, tôn giáo và dân sự. Trong một số trường hợp, các địa điểm tự nhiên linh thiêng thường được điều chỉnh hoặc quy định bằng điều cấm kỵ nhằm hạn chế sự xâm nhập của các nhóm xã hội và phụ nữ bị gạt ra ngoài lề xã hội, do đó cụ thể hóa việc loại trừ các nhóm này. Từ đó, trong khi đánh giá khả năng tích hợp các hệ thống truyền thống cai quản các địa điểm tự nhiên thiêng liêng với các phương pháp bảo tồn chính thức, các bên cần chú ý đến cách thức mà sự phân tầng xã hội đóng vai trò trong cách thức hoạt động của các hệ thống truyền thống này, sao cho nhạy cảm với các vấn đề xã hội-xã hội và công bằng kinh tế.
Một số địa điểm tự nhiên thiêng liêng được kết nối với các hệ thống và thể chế văn hóa xã hội, một số phức tạp hơn những địa điểm khác và với các động lực thay đổi và tương tác văn hóa khác nhau. Nhiều địa điểm tự nhiên linh thiêng được thành lập dưới công sức của những người bản địa hoặc tín ngưỡng dân gian và tâm linh, và nhiều địa điểm sau đó đã được các tôn giáo chính thống chấp nhận hoặc đồng lựa chọn. Do đó, có một sự phân lớp và pha trộn đáng kể giữa các hệ thống tôn giáo và tâm linh hoặc tín ngưỡng khác. Trong các tôn giáo chính thống lớn hơn có thể có nhiều nhóm nhỏ tự trị hoặc bán tự trị. Trong khi 50% dân số thế giới tuyên bố thuộc về Kitô giáo hoặc Hồi giáo và nhiều người khác là Hindu hoặc Phật giáo, thì có 80% tất cả mọi người đều cho rằng một tôn giáo chính thống, một phần lớn trong số đó tiếp tục tuân theo ít nhất một số truyền thống hoặc tín ngưỡng dân gian.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sacred Natural Sites Initiative
Delos Initiative
SANASI
Sacred Land Film Project
Standing on Sacred Ground film series (2014)
Tâm linh
|
19835048
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abdukodir%20Khusanov
|
Abdukodir Khusanov
|
Abdukodir Khusanov (; sinh ngày 29 tháng 2 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Uzbekistan hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Lens tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Uzbekistan.
Sự nghiệp thi đấu
Energetik-BGU
Là một cầu thủ trẻ trưởng thành từ lò đào tạo Bunyodkor, anh thi đấu cho đội trẻ của câu lạc bộ trong nhóm lên đến 18 tuổi. Vào tháng 3 năm 2022, anh chuyển đến Energetik-BGU tại Giải bóng đá Ngoại hạng Belarus. Anh ra mắt câu lạc bộ vào ngày 19 tháng 3 năm 2022, trong trận đấu với Vitebsk, khi anh có tên trong đội hình xuất phát và chơi cả trận. Anh ghi bàn thắng đầu tiên vào ngày 2 tháng 5 năm 2022 trong trận đấu với Neman Grodno, nơi anh cũng có 2 pha kiến tạo. Trong trận đấu vào ngày 29 tháng 5 năm 2022, trước Slavia Mozyr, anh ghi bàn thắng mở tỷ số từ một quả phạt đền. Vào tháng 8 năm 2022, anh được đưa vào danh sách những cầu thủ triển vọng nhất thế giới theo Trung tâm Nghiên cứu Thể thao Quốc tế. Vào cuối mùa giải, anh đã giành được ngôi á quân cùng với đội bóng tại mùa giải 2022. Anh được vào biểu tượng của chức vô địch.
Vào tháng 12 năm 2022, Energetik-BGU đưa tin rằng cầu thủ này sẽ tiếp tục chơi ở câu lạc bộ. Trận đấu đầu tiên của mùa giải mới diễn ra vào ngày 2 tháng 4 năm 2023 với BATE Borisov. Anh lọt vào đội hình tiêu biểu của vòng 2 Giải bóng đá Ngoại hạng Belarus. Khusanov ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải mới vào ngày 23 tháng 4 năm 2023, trong trận đấu gặp Shakhtar Soligorsk. Vào tháng 4 năm 2023, anh được đưa vào danh sách những cầu thủ dưới 20 tuổi triển vọng nhất, nơi anh đứng thứ 15 trong số các hậu vệ.
RC Lens
Vào ngày 24 tháng 7 năm 2023, anh ký hợp đồng 4 năm với câu lạc bộ Lens, và do đó trở thành cầu thủ Uzbekistan đầu tiên thi đấu tại Ligue 1. Anh ra mắt câu lạc bộ vào ngày 16 tháng 9 năm 2023, trong trận thua 0-1 trước Metz.
Sự nghiệp quốc tế
Vào tháng 6 năm 2023, Khusanov nhận được cuộc gọi triệu tập lên đội tuyển Uzbekistan tham dự CAFA Nations Cup. Anh ra mắt cho đội tuyển quốc gia vào ngày 11 tháng 6 năm 2023, khi vào sân thay cho Farrukh Sayfiev ở phút thứ 83 trong chiến thắng 3-0 trước Oman.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 21 tháng 11 năm 2023.
Danh hiệu
U-20 Uzbekistan
Cúp bóng đá U-20 châu Á: 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2004
Nhân vật còn sống
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Uzbekistan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Uzbekistan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Uzbekistan
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Uzbekistan
Cầu thủ bóng đá Uzbekistan ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Belarus
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Cầu thủ bóng đá FC Energetik-BGU Minsk
Cầu thủ bóng đá RC Lens
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2023
|
19835051
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Montenegro%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i
|
Montenegro tại Thế vận hội
|
Montenegro lần đầu tiên tham dự Thế vận hội như một quốc gia độc lập vào năm 2008, tại Olympic Bắc Kinh. Trước đó, các vận động viên (VĐV) Montenegro thi đấu theo đoàn Serbia và Montenegro vào năm 2004 trước đó nữa là đoàn thể thao Nam Tư.
Ủy ban Olympic quốc gia của Montenegro là Ủy ban Olympic Montenegro. Ủy ban này được thành lập năm 2006 và được công nhận bởi Ủy ban Olympic Quốc tế năm 2007.
Quá trình tham gia
Bảng huy chương
Thế vận hội Mùa hè
Thế vận hội Mùa đông
Huy chương theo môn
Các VĐV Olympic
Thế vận hội Mùa hè
VĐV giành huy chương
Tính đến ngày 11 tháng 08 năm 2012, Montenegro giành được huy chương Olympic đầu tiên với tư cách một quốc gia độc lập, với một huy chương bạc môn bóng ném nội dung nữ.
Trước Thế vận hội năm 2012, một vài VĐV đến từ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Montenegro và Cộng hòa Montenegro cũng từng giành được huy chương Olympic ở năm môn thi đấu nhưng thuộc các đoàn Nam Tư và Serbia và Montenegro.
Xem thêm
Danh sách người cầm cờ cho đoàn Montenegro tại Thế vận hội
Montenegro tại Thế vận hội Người khuyết tật
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
19835064
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20K%E1%BB%B3%20c%E1%BA%A5m%20v%E1%BA%ADn%20Cuba
|
Hoa Kỳ cấm vận Cuba
|
Lệnh cấm Hoa Kỳ đối với Cuba hạn chế các doanh nghiệp Mĩ và các doanh nghiệp có hoạt động thương mại tại Hoa Kỳ tiến hành thương mại với các lợi ích của Cuba. Đây là lệnh cấm vận thương mại lâu dài nhất trong lịch sử hiện đại. Hoa Kỳ lần đầu tiên áp đặt lệnh cấm vận bán vũ khí cho Cuba vào ngày 14 tháng 03 năm 1958, dưới chế độ Fulgencio Batista. Một lần nữa vào ngày 19 tháng 10 năm 1960 (gần hai năm sau cuộc Cách mạng Cuba dẫn đến việc lật đổ chế độ Batista), Hoa Kỳ đặt lệnh cấm vận xuất khẩu sang Cuba ngoại trừ thực phẩm và thuốc sau khi Cuba quốc hữu hóa các nhà máy lọc dầu của Cuba do Hoa Kỳ làm chủ mà không được bồi thường. Vào ngày 07 tháng 02 năm 1962, lệnh cấm vận được mở rộng để bao gồm hầu hết các mặt hàng xuất khẩu. Lệnh cấm vận không cấm buôn bán thực phẩm và vật tư nhân đạo.
Tính đến năm 2018, lệnh cấm vận được thực thi chủ yếu thông qua 6 đạo luật gồm: Đạo luật Giao dịch với Kẻ thù (1917), Đạo luật Hỗ trợ Nước ngoài (1961), Quy định Kiểm soát Tài sản Cuba (1963), Đạo luật Dân chủ Cuba (1992), Đạo luật Helms–Burton (1996) và Đạo luật Cải cách Trừng phạt Thương mại và Tăng cường xuất khẩu (2000). Mục đích đã nêu của Đạo luật Dân chủ Cuba năm 1992 là duy trì các lệnh trừng phạt đối với Cuba miễn là chính phủ Cuba từ chối tiến tới "dân chủ hóa và tôn trọng nhân quyền hơn". Đạo luật Helms-Burton tiếp tục hạn chế công dân Hoa Kỳ kinh doanh ở hoặc với Cuba, và bắt buộc hạn chế việc cung cấp hỗ trợ công hoặc tư cho bất kỳ chính phủ kế nhiệm nào ở Havana trừ khi và cho đến khi có những tuyên bố chống lại chính phủ Cuba. Năm 1999, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton đã mở rộng lệnh cấm vận thương mại bằng cách không cho phép các công ty con nước ngoài của các công ty Hoa Kỳ buôn bán với Cuba. Năm 2000, Clinton cho phép bán thực phẩm và các hỗ trợ nhân đạo cho Cuba.
Ở Cuba, lệnh cấm vận được gọi là el bloqueo (cuộc phong tỏa), mặc dù Hoa Kỳ không có phong tỏa hải quân nào đối với đất nước này kể từ Cuộc Khủng hoảng Tên lửa Cuba năm 1962. Chính phủ Cuba thường xuyên đổ lỗi cho việc Mỹ "phong tỏa" các vấn đề kinh tế của Cuba. Hoa Kỳ đã đe dọa sẽ ngừng viện trợ tài chính cho các nước khác nếu họ buôn bán các mặt hàng phi lương thực với Cuba. Tuy nhiên, do lệnh cấm vận không được quốc tế ủng hộ phổ biến và các quốc gia khác không thuộc thẩm quyền của luật pháp Hoa Kỳ, các nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm ngăn cản các đồng minh của mình giao dịch với Cuba đã không thành công. Những nỗ lực của Hoa Kỳ để làm như vậy đã bị Đại hội đồng Liên hợp quốc lên án là một biện pháp ngoài lãnh thổ đi ngược lại "quyền bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của họ và tự do thương mại và hàng hải là điều quan trọng nhất đối với việc tiến hành các công việc quốc tế ".
Biểu quyết của Liên Hợp Quốc năm 2009
Ngày 28 tháng 10 năm 2009, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc lại biểu quyết với hầu hết các nước thành viên thúc giục Hoa Kỳ hãy bãi bỏ việc phong tỏa kinh tế chống lại Cuba từ gần nửa thế kỷ nay. Cuộc biểu quyết của Liên Hợp Quốc trở thành một nghi thức hàng năm giữa lúc có vài hòa dịu trong các quan hệ của Hoa Kỳ với hòn đảo do Đảng Cộng sản Cuba lãnh đạo.
Đại Hội đồng thông qua một nghị quyết không có hiệu lực ràng buộc - với 187 phiếu thuận, ba phiếu chống và hai nước không bỏ phiếu - cho năm thứ 18 liên tiếp, phản ánh sự chống đối của thế giới về nỗ lực từ lâu nay của Washington nhằm cô lập La Habana. Israel và đảo quốc Palau nhỏ bé ở Thái Bình Dương biểu quyết cùng với Hoa Kỳ chống lại nghị quyết, trong khi quần đảo Marshall và Micronesia không bỏ phiếu.
Lần lượt, các đại biểu trên thế giới lên tiếng chống đối vụ phong tỏa, gọi đó là một sai lầm tàn nhẫn đi ngược với luật quốc tế và chỉ thành công trong việc làm hại cho người dân thường Cuba, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Chính phủ của Tổng thống Barack Obama thực hiện vài biện pháp để giảm bớt sự thù nghịch với Cuba, mặc dù Washington vẫn không tiến tới việc bãi bỏ cấm vận mậu dịch. "Cuộc phong tỏa kinh tế đã không đáp ứng và sẽ không đáp ứng được mục tiêu của nó là khuất phục lòng yêu nước của người dân Cuba, nhưng nó gây ra những thiếu thốn, nó giới hạn tiềm năng phát triển của chúng tôi và gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế của chúng tôi," Ngoại trưởng Cuba Bruno Rodriguez nói trước Đại Hội đồng.
Obama nói rằng ông muốn thay đổi những quan hệ có tính cách thù nghịch ít lâu sau cuộc cách mạng của Fidel Castro vào năm 1959 đã lái Cuba về phía cộng sản. Fidel Castro rời khỏi chức vụ chủ tịch vào năm 2008 vì bệnh tật và được thay thế bởi người em của ông, Raul Castro. Nhưng Obama nói rằng cuộc phong tỏa từ 47 năm vẫn được duy trì cho tới khi Cuba cải thiện nhân quyền và phóng thích các tù nhân chính trị. Susan Rice, đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc, nói nghị quyết Liên Hợp Quốc không phản ánh những "thực tế hiện nay" ở Cuba. "Đã đến lúc tổ chức này công nhận tình hình hiện nay ở Cuba và khuyến khích sự tiến bộ hướng tới thay đổi thực sự," bà Rice nói trước Đại Hội đồng.
Trong một dấu hiệu cho thấy các quan hệ đang cải thiện, ông Obama bãi bỏ các giới hạn việc người Mỹ gốc Cuba di chuyển và gửi tiền tới Cuba, và khởi xướng những cuộc nói chuyện với Cuba về di trú và dịch vụ thư từ - nhằm tái lập dịch vụ bưu chính trực tiếp giữa Cuba và Hoa Kỳ đã bị đình chỉ từ tháng 08 năm 1963. "Đây là những bước quan trọng và chúng tôi hy vọng có thể là điểm khởi đầu cho việc thay đổi thêm," bà Rice nói.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Département d'État américain, section de Cuba
Histoire de l'embargo américain
L'embargo handicap et alibi
Site de l'ambassade cubaine au Liban sur le blocus
Lịch sử quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ
Quan hệ Cuba-Hoa Kỳ
Kinh tế Cuba
Cách mạng Cuba
Du lịch Cuba
Cấm vận
|
19835065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Catalina%20c%E1%BB%A7a%20Castilla%2C%20Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20x%E1%BB%A9%20Asturias
|
Catalina của Castilla, Thân vương xứ Asturias
|
Catalina của Castilla (tiếng Castilia/Tây Ban Nha: Catalina de Castilla; 5 tháng 10 năm 1422 - 17 tháng 9 năm 1424) là Thân vương xứ Asturias với tư cách là người thừa kế lâm thời của ngai vàng Castilla trong suốt cuộc đời.
Tiểu sử
Catalina sinh ngày 5 tháng 10 năm 1422 tại Illescas, Toledo, là con đầu lòng của Juan II của Castilla và María của Aragón. Catalina được đặt tên theo cô và bà nội là Catalina của Castilla, Nữ công tước Villena và Catherine của Lancaster. Ngay khi sinh ra, Catalina đã trở thành nữ thừa kế lâm thời của ngai vàng Castilla. Infanta được chính thức công nhận là người kế vị ngai vàng của Vương quốc và tuyên thệ nhậm chức Thân vương xứ Asturias vào ngày 1 tháng 1 năm 1423 bởi Quốc hội Toledo.
Tuy nhiên, Catalina không sống đủ lâu để kế vị cha trở thành Nữ vương Castilla. Vương nữ qua đời ở Madrigal de las Altas Torres vào ngày 17 tháng 9 năm 1424. Em gái của Catalina, Infanta Leonor đã thay thế chị gái trở thành Nữ Thân vương xứ Asturias. Catalina được chôn cất tại Cartuja de Miraflores, cùng với cha và mẹ kế là Isabel của Bồ Đào Nha.
Gia phả
Tham khảo
Thân vương xứ Asturias
Vương nữ Castilla
Vương tộc Trastámara
Vương nữ
Người Tây Ban Nha gốc Pháp
Người Tây Ban Nha gốc Bồ Đào Nha
Người Tây Ban Nha gốc Ý
Tín hữu Công giáo Rôma Tây Ban Nha
Sinh năm 1422
Mất năm 1424
|
19835066
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leonor%20c%E1%BB%A7a%20Castilla%2C%20Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20x%E1%BB%A9%20Asturias
|
Leonor của Castilla, Thân vương xứ Asturias
|
Leonor của Castilla (tiếng Castilia/Tây Ban Nha: Leonor de Castilla; 10 tháng 9 năm 1423 – 22 tháng 8 năm 1425) là Thân vương xứ Asturias với tư cách là người thừa kế lâm thời của Vương quyền Castilla trong một khoảng thời gian ngắn từ năm 1424 cho đến năm 1425.
Tiểu sử
Leonor là con gái thứ hai của Juan II của Castilla và María của Aragón. Chị gái của Leonor là Catalina, Nữ Thân vương xứ Asturias, qua đời bảy ngày sau sinh nhật đầu tiên của Leonor. Vì vậy, đứa trẻ một tuổi Leonor đã trở thành người thừa kế lâm thời của Castilla. Juan II đã công nhận Leonor là người kế vị vương quốc cũng như là Thân vương xứ Asturias bởi Cortes of Valladolid ngay sau đám tang của chị gái. Tân Thân vương xứ Asturias đã nhận được sự cam kết trung thành trước sự chứng kiến của Juan II tại Thành phố Burgos.
Leonor chỉ giữ tước hiệu Thân vương xứ Asturias chỉ trong hai tháng. Vào ngày 5 tháng 1 năm 1425, do sự ra đời của người em trai, Quốc vương tương lai Enrique IV của Castilla, Leonor không còn là trữ quân và chỉ còn là một Infanta . Leonor qua đời cùng năm gần tu viện Cistercian ở La Espina.
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Vương nữ Castilla
Thân vương xứ Asturias
Vương tộc Trastámara
Vương nữ
Người Tây Ban Nha gốc Pháp
Người Tây Ban Nha gốc Bồ Đào Nha
Người Tây Ban Nha gốc Ý
Tín hữu Công giáo Rôma Tây Ban Nha
Sinh năm 1423
Mất năm 1425
|
19835071
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cheonan%20City%20FC
|
Cheonan City FC
|
Cheonan City FC (tiếng Hàn: 천안 시티 FC) là một câu lạc bộ bóng đá Hàn Quốc có trụ sở tại thành phố Cheonan và tham gia thi đấu tại K League 2, hạng đấu thứ hai của bóng đá Hàn Quốc. Sân nhà của họ là sân vận động Cheonan với sức chứa 26.000 chỗ ngồi.
Lịch sử
Từ cuối thập kỷ 2010, Cheonan City FC cùng với CLB Cheongju FC đã trở thành một trong những đội bóng tham gia K3 League với nhiều hy vọng tiến lên hạng đấu chuyên nghiệp nhất, K League 2. Cheongju FC đã liên tục đối mặt với khó khăn trong việc đảm bảo nguồn tài chính ổn định để tham gia K League.
Vào tháng 6 năm 2021, Đạo luật Quản lý và Hỗ trợ Bóng đá Chuyên nghiệp cho Cheonan đã được thông qua tại Hội đồng Thành phố Cheonan. Điều này đặt ra kế hoạch cho Cheonan City FC gia nhập K League vào năm 2022 và tham gia K League 2 vào năm 2023. Theo Đạo luật này, Thành phố Cheonan đã cam kết đóng góp hàng năm 5 tỷ Won trong vòng 5 năm, tổng cộng 250 tỷ KRW, để duy trì hoạt động của đội bóng, trong đó 10 tỷ KRW được thu về từ nguồn thu chính của CLB. Lưu ý rằng số tiền 25 tỷ KRW cho mùa giải K3 League năm 2022 đã được tính vào trong số này.
Vào tháng 10 năm 2022, Kimpo FC đã thông báo kế hoạch tham gia K League 2 từ mùa giải 2022. Trong ngày 22 tháng 10 năm 2021, Cheonan City FC đã tiến hành cuộc họp hội đồng lần thứ 2 trong năm 2021 để điều chỉnh các điều khoản liên quan đến thay đổi tên, điều lệ và quy định về đội ngũ quản lý, cầu thủ và hoạt động đào tạo thanh thiếu niên của CLB, tất cả đều tuân theo các yêu cầu về giấy phép CLB K League.
Vào tháng 6 năm 2023, Cheonan City FC đã dự kiến nộp đơn tham gia K League, và vào ngày 30 tháng 6 năm 2022, họ đã nộp đơn tham gia K League cho mùa giải 2023. Vào ngày 30 tháng 8 năm 2022, việc gia nhập K League của Cheonan đã được xem là đã được quyết định, với sự chấp thuận cuối cùng dự kiến diễn ra trong cuộc họp chung vào tháng 1 năm 2023, vì giống như trường hợp của Kimpo FC, sự tham gia đã trở nên không thể tránh khỏi.
Đội hình hiện tại
Tính đến ngày 24 Tháng Bảy 2023
Liên kết ngoài
Official website
|
19835077
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2y%20thi%C3%AAng
|
Cây thiêng
|
Cây thiêng (Sacred tree) là cây được coi là có sự linh thiêng, đáng được tôn kính, sùng bái về mặt tinh thần. Những cây cối như vậy xuất hiện xuyên suốt lịch sử thế giới ở nhiều nền văn hóa khác nhau, bao gồm thần thoại Hindu cổ đại, thần thoại Hy Lạp, thần thoại Celtic và thần thoại Đức. Chúng cũng tiếp tục có ý nghĩa sâu sắc trong văn hóa đương đại ở những nơi như Nhật Bản (Shinboku), Hàn Quốc (Dangsan namu), Ấn Độ (Cội Bồ-đề) và Philippines, cùng nhiều quốc gia khác. Những cây thiêng được gọi là shinboku là một phần ăn sâu vào nền văn hóa Nhật Bản vốn luôn coi mình là sự hợp nhất với thiên nhiên thay vì tách biệt khỏi thiên nhiên do đó, họ thừa nhận sự thiêng liêng của cây cối, đá, núi non, rừng rậm và các yếu tố đã là một chủ đề tương đối ổn định trong văn hóa Nhật Bản trong hàng nghìn năm.
Dẫn luận
Tục thờ cây cối là một phần cốt lõi của các tôn giáo bao gồm các khía cạnh của thuyết vật linh là yếu tố cốt lõi trong niềm tin của những tín nhân, đó là niềm tin thân thiện với môi trường rằng cây cối, rừng, sông, núi, nguồn nước có sinh lực và cần phải được bảo tồn và sử dụng một cách bền vững. Một ví dụ về tầm quan trọng của cây thiêng trong văn hóa đô thị đương đại là cây long não 700 năm tuổi mọc ở giữa ga Kayashima. Người dân địa phương phản đối việc di chuyển cây khi nhà ga phải mở rộng nên nhà ga đã được xây dựng xung quanh nó. Cây đa thiêng (Banyan) là Quốc thụ của Ấn Độ, và Cội Bồ-đề mà người ta cho rằng Đức Phật đã thiền định ở Bồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya) cũng được tôn kính là cây linh thiêng. Cây thiêng đôi khi được trồng trong các khu rừng thiêng, trong đó cũng có thể có các loại cây khác nhau xen kẽ.
Trong Cơ Đốc giáo thì nhiều loại cây cối trong thiên nhiên và trong khu vườn thiêng được coi là thánh thiêng, chẵng hạn như cây sự sống ở vườn Địa đàng. Ngoài ra, nhiều người theo đạo Cơ Đốc cũng áp dụng tập tục tôn kính cây thường xanh trong các lễ hội mùa đông vào tháng 12. Đây là một thực tế thường thấy do người ta tin rằng cây thường xanh sống lâu và sẽ bị đốn hạ để trang trí (cây Giáng sinh). Cuối cùng tập tục này đã trở thành một phần của lễ Giáng sinh của Cơ đốc giáo. Đáng chú ý nhất là Gethsemane, địa điểm nơi Chúa Giêsu bị phản bội dưới tay của Judas Iscariot theo kinh thánh. Do đó, khu vườn đã trở thành một địa điểm hành hương. Các vị Thánh Công giáo gắn liền với những cây và địa điểm cụ thể cũng trở thành địa điểm hành hương trong Kitô giáo sơ khai.
Xem thêm
Cây ước nguyện
Cây tiền tài
Cây sự sống
Rừng thiêng
Núi thiêng
Vùng nước thiêng
Cây Giáng sinh
Cây nêu
Cây ăn thịt người
Cây di sản
Cội Bồ-đề
Nữ thần cây
Chú thích
Tham khảo
Hình ảnh
Tâm linh
Thực vật trong văn hóa
Cây trong thần thoại
|
19835099
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Argentina%202022
|
Chặng đua MotoGP Argentina 2022
|
Chặng đua MotoGP Argentina 2022 là chặng đua thứ ba của mùa giải MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 02/04/2022 đến ngày 03/04/2022 ở trường đua Termas de Rio Hondo.
Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Aleix Espargaro của đội đua Aprilia. Đây là chiến thắng thể thức MotoGP đầu tiên của Espargaro.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính MotoGP
Bảng xếp hạng MotoGP sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chặng đua MotoGP 2022
|
19835102
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/J%C5%8Dmon%20Sugi
|
Jōmon Sugi
|
là một cây liễu sam (tuyết tùng Nhật Bản) ở Yakushima, được công nhận là di sản thế giới UNESCO tại Nhật Bản. Đây là cây lâu đời nhất và lớn nhất trong số các cây liễu sam lâu đời trên đảo và được ước tính có độ tuổi từ 2.170 đến 7.200 năm tuổi. Các ước tính khác về tuổi của cây bao gồm "ít nhất 5.000 năm tuổi", "hơn 6.000 năm", hay "lên tới 7.000 năm tuổi". Tên của cây liên quan đến thời kỳ Jōmon thuộc thời tiền sử Nhật Bản.
Mô tả
Jōmon Sugi nằm ở hướng bắc đỉnh Miyanoura-dake, đỉnh cao nhất trên núi Yakushima ở độ cao . Việc phát hiện ra cây vào năm 1968 đã "châm ngòi cho những động thái bảo vệ rừng" ở Yakushima và thúc đẩy ngành du lịch của hòn đảo, lĩnh vực mà hiện nay chiếm hơn một nửa nền kinh tế của đảo.
Thông qua Đường bộ Kusugawa (phía đông Miyanoura) và Đường mòn Arakawa (bắt đầu từ Đập Arakawa) có thể đến Jōmon Sugi, nhưng cần phải mất thời gian đi bộ lên núi từ 4 đến 5 giờ từ con đường gần nhất để đến được chỗ của cây. Sau khi Yakushima được chỉ định là Di sản Thế giới vào năm 1993, chính quyền địa phương đã hạn chế quyền tiếp cận cây, và cây chỉ được nhìn qua một đài quan sát cách vị trí khoảng .
Cây có chiều cao và chu vi thân cây . Với thể tích khoảng , Jōmon Sugi là cây lá kim lớn nhất ở Nhật Bản. Quá trình xác định niên đại bằng vòng cây do các nhà khoa học Nhật Bản thực hiện trên cành cây cho thấy cái cây đã ít nhất 2.000 năm tuổi. Trong cuốn Remarkable Trees of the World (2002), nhà trồng trọt Thomas Pakenham mô tả Jōmon Sugi là "một cây khổng lồ hung dữ, mọc lên từ mặt đất xốp giống đá hơn là gỗ, cánh tay cơ bắp to lớn của nó vươn lên trên cả đám cây tuyết tùng non chằng chịt và cây long não".
Vào năm 2005, một số kẻ phá hoại đã tước một mảnh vỏ khỏi cây, có kích thước khoảng .
Vào tháng 4 năm 2009, Jōmon Sugi của Yakushima đã hợp tác với cây Tāne Mahuta của Rừng Waipoua ở New Zealand qua buổi lễ ký tên và đóng dấu quan hệ hợp tác môi trường quốc tế.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trail to Jomon cedar, Yakushima, Kagoshima-ken, image gallery
Thời kỳ Jomon
Địa lý Kagoshima
Cây cổ thụ
|
19835107
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4%20b%C3%A9%20nh%C3%ACn%20m%C6%B0a
|
Cô bé nhìn mưa
|
Cô bé nhìn mưa là cuốn sách hồi ký của Giáo sư Đặng Thị Hạnh. Cuốn sách được xuất bản lần đầu vào năm 2008, sau đó được tái bản vào năm 2021 và đựoc giải B giải thưởng sách quốc gia năm 2022.
Nội dung
Giáo sư Đặng Thị Hạnh là con gái của Giáo sư Đặng Thai Mai. "Cô bé nhìn mưa là hồi ức về cuộc sống của bà và gia đình, một gia đình trí thức lớn, trong bối cảnh những biến động của lịch sử Việt Nam gần suốt thế kỷ XX.
Cuốn sách cũng ghi lại những ký ức của Đặng Thị Hạnh về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tham khảo
Giải thưởng sách quốc gia
|
19835112
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%C3%AAn%20th%E1%BA%A7n%20Moroni
|
Thiên thần Moroni
|
Thiên thần Moroni (phát âm như là Mô-Rô-Ni) là một vị thiên thần trong Mặc Môn giáo mà Joseph Smith là người sáng lập phong trào Thánh hữu Ngày sau cho biết đã đến thăm ông ta nhiều lần, lần đầu là vào ngày 21 tháng 9 năm 1823. Theo Joseph Smith thì thiên thần Moroni đã người bảo vệ những chiếc đĩa vàng được chôn gần nhà ông Smith ở phía tây New York mà Các Thánh Hữu Ngày Sau tin rằng đó là nguồn gốc của sách Mặc Môn. Là một nhân vật quan trọng trong thần học của phong trào Thánh Hữu Ngày Sau, thiên thần Moroni nổi bật về kiến trúc và nghệ thuật. Ngoài Smith, Ba Nhân Chứng và một số nhân chứng khác cũng có lời chứng rằng họ đã nhìn thấy thiên thần Moroni trong khải tượng vào năm 1829.
Thiên thần Moroni được những tín nhân của giáo hội Các Thánh Hữu Ngày Sau cho là cùng một người với nhà tiên tri-chiến binh trong sách Mặc Môn tên là Mô Rô Ni, người cuối cùng viết lên các bảng khắc bằng vàng. Theo Sách Mặc Môn, thiên thần Moroni là một chiến binh thời tiền Colombia, người đã chôn cất các bảng khắc bằng vàng. Sau khi chết, anh trở thành thiên thần được giao nhiệm vụ hướng đạo Smith đến địa điểm được chỉ định vào những năm 1820. Theo Joseph Smith thì sau đó ông đã trả lại những tấm bảng vàng cho Moroni sau khi chúng được dịch sang tiếng Anh và tính đến năm 1838, thì thiên thần Moroni vẫn là chủ sở hữu những tấm bảng này.
Tên gọi
Có sự mâu thuẫn nhau về tên của vị thiên thần này. Ban đầu, Smith chỉ gọi là "một thiên thần" mà không xác định được tên. Vì vậy, trong một lá thư năm 1831 của Lucy Mack Smith gửi cho anh trai mình, cô ấy thảo luận về Moroni là người đã chôn những chiếc đĩa vàng, nhưng không xác định anh ta là "thánh thiên thần" vô danh đã cho Smith phương tiện để dịch những ngôn ngữ thiêng liêng từ chiếc đĩa vàng sang tiếng Anh. Trong một diễn biến lịch sử vào năm 1832, Smith nói rằng ông đã được "một thiên thần của Chúa" đến thăm, người đã đề cập đến nhà tiên tri "Moroni" trong Sách Mặc Môn là người cuối cùng khắc các tấm vàng; tuy nhiên, lời kể của Smith không cho biết liệu thiên thần có ám chỉ "chính mình" là Moroni hay không. Smith đã xác định vị thiên thần này chính là Moroni vào năm 1835, trong khi chuẩn bị ấn bản đầu tiên của Giáo Lý và Giao Ước, trong đó ông chỉ ra một số thiên thần sẽ đến thế gian sau Ngày Tái Lâm và uống rượu bí tích với chính mình và Oliver Cowdery. Trong số các thiên sứ đó, tín điều mặc khải liệt kê "Mô Rô Ni, người mà ta đã gửi đến cho ngươi để tiết lộ sách Mặc Môn, chứa đựng phúc âm trọn vẹn vĩnh viễn của ta; người mà ta đã trao cho những chìa khóa của biên sử về cây gậy của Épraim". Vào khoảng thời gian này, Cowdery đang viết lịch sử về Smith, trong đó ông xác định thiên thần là nhà tiên tri Mô Rô Ni trong sách Mặc Môn.
Miêu tả
Trong một trong những câu chuyện của Smith, ông mô tả thiên thần Moroni là một "thiên thần ánh sáng", người "mặc một chiếc áo choàng rộng có màu trắng tinh tế nhất. Đó là một màu trắng vượt xa bất cứ thứ gì trần thế mà tôi từng thấy... Bàn tay của ông để trần. Không chỉ áo choàng của Ngài cực kỳ trắng mà cả con người Ngài đều tỏa ra vầng vinh quang không thể tả được”. Theo chị gái của Smith là Katharine Smith Salisbury thì vị thiên thần này "mặc trang phục màu trắng, trắng hơn bất cứ thứ gì Joseph từng thấy trong đời và có một chiếc thắt lưng quanh eo. Anh ấy nhìn thấy bàn tay và cổ tay của mình, và chúng thuần khiết và trắng trẻo". Smith kể rằng vào đêm ngày 21 tháng 9 năm 1823, thiên thần Moroni hiện đến với ông và kể cho ông nghe về những bảng khắc bằng vàng được chôn trong một hộp đá cách nhà Smith vài dặm. Smith nói rằng chính thiên thần đó đã đến thăm anh nhiều lần trong suốt sáu năm tiếp theo, Smith cũng nói rằng thiên thần đã đến thăm ông để lấy lại các bảng khắc vàng sau khi Smith dịch xong một phần chữ viết trên các bảng khắc trong sách Mặc Môn.
Nhân chứng
Ngoài Smith, một số người khác theo đạo Mặc Môn thời kỳ đầu cho biết họ đã nhìn thấy thiên thần Moroni và làm chứng cho điều này. Ba Nhân Chứng cho biết họ đã nhìn thấy thiên thần vào năm 1829 là Oliver Cowdery, David Whitmer và Martin Harris. Những tín nhân Mặc Môn đầu tiên khác có thể đã nói rằng họ đã nhìn thấy thiên thần Moroni bao gồm những nhân vật có tên sau đây:
Hyrum Smith
Luke Johnson
Zera Pulsipher, lời chứng này còn gây ra dị nghị
W. W. Phelps;
John P. Greene và vợ của anh ta là Rhoda
John Taylor
Oliver Granger
Heber C. Kimball
Lucy Harris
Harrison Burgess
Chú thích
Tham khảo
References to Moroni2, Index, Book of Mormon (LDS edition)
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Mặc Môn giáo
|
19835114
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Life%20With%20A%20Slave%3A%20Teaching%20Feeling
|
Life With A Slave: Teaching Feeling
|
là một trò chơi visual novel người lớn do FreakilyCharming phát triển và phát hành. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của vị bác sĩ mà người chơi sẽ nhập vai với một thiếu nữ tên Sylvie.
Trò chơi từng đứng đầu bảng xếp hạng doujin trên DLsite và DMM.R18 vào năm 2015.
Tổng quan
FreakilyCharming là một nhóm cá nhân do Ray-K hay Ray-Kbys, một người Nhật sống tại Mỹ điều hành. Trong quá trình phát triển trò chơi, Ray-K đã thực hiện tất cả công việc một mình, bao gồm các bản vẽ gốc, cốt truyện và kịch bản. Đây là tựa game thứ hai của nhóm sau "Love at First Sight" (2014), một trò chơi visual novel nói về tình yêu với một nhân vật nữ một mắt. Theo hồ sơ của Ray-K, mặc dù sống ở Mỹ nhưng anh "nói tiếng Anh không tốt lắm" và phiên bản tiếng Nhật là phiên bản chính thức duy nhất mà tác giả này cung cấp.
Vào tháng 3 năm 2016, Clear Blue Communications đã phát hành vỏ gối ôm và chăn in hình nhân vật nữ chính của tác phẩm này.
Tên ban đầu của trò chơi là "奴隷との生活 -Teaching Feeling-", nhưng tên gọi đã được thay đổi ở phiên bản 4.0 phát hành vào ngày 12 tháng 1 năm 2023.
Lối chơi
Trong giai đoạn đầu, nữ chính Sylvie, một thiếu nữ với thân phận nô lệ luôn cảnh giác với nhân vật chính, một vị bác sĩ. Nhân vật chính có thể tăng mức độ yêu thích của Sylvie đối với mình bằng cách xoa đầu, mua quần áo cho cô và để cô đi cùng trong các chuyến đi. Khi mức độ yêu thích của Sylvie đạt đến một mức nhất định, nhân vật chính có thể quan hệ tình dục với cô. Mặc dù tên ban đầu của trò chơi có thể dễ gây hiểu lầm, nhưng tác phẩm này không nói về lạm dụng tình dục như ở một số nguồn tin, mà là về việc Sylvie bị chủ cũ bạo hành. Không có chi tiết nào cho thấy Sylvie đã từng quan hệ tình dục (cô ấy được miêu tả rõ ràng là một trinh nữ trong lần đầu tiên quan hệ tình dục với nhân vật chính). Do đó, trò chơi hoàn toàn xoay quanh việc phát triển tình cảm. Tùy thuộc vào tần suất quan hệ và một số điều kiện khác, Sylvie có thể chủ động yêu cầu quan hệ tình dục với nhân vật chính. Việc từ chối yêu cầu quan hệ và tiếp tục sống như hằng ngày cũng là một lựa chọn khả thi.
Không có kết thúc có hậu rõ ràng trong trò chơi, vì vậy trừ khi đạt điều kiện của bad ending (cái chết của Sylvie), người chơi có thể tiếp tục chơi. Từ khi trò chơi được phát hành, các sự kiện, trang phục và nhiều nội dung khác vẫn tiếp tục được bổ sung thông qua các bản cập nhật thực hiện bởi người sáng tạo. Tại DMM.R18, bản làm lại của phiên bản đầu tiên tên là "TeachingFeeling-Legacy" đã được phát hành vào ngày 28 tháng 10 năm 2017 nhằm kỷ niệm 2 năm phân phối trò chơi.
Cốt truyện
Một ngày nọ, Ferrum – một thương gia trung niên đáng ngờ bỗng nhiên đến nhà nhân vật chính. Ông đến để hỏi liệu có thể nhận Sylvie, một cô gái nô lệ đã bị người chủ trước đây lạm dụng nghiêm trọng hay không. Sau khi nhìn thấy những vết sẹo trên khắp cơ thể Sylvie, nhân vật chính đồng ý tiếp quản cuộc sống của Sylvie và hai người cùng nhau bắt đầu cuộc sống mới.
Lúc đầu, Sylvie cảnh giác ngay cả với nhân vật chính và không thể hiện cảm xúc của mình, nhưng khi nhân vật chính bắt đầu đối xử với cô bằng lòng trắc ẩn chứ không phải sự bạo lực như chủ nhân trước đây của cô, cô dần dần mở lòng với anh, mặc dù cô rất bối rối, và cảm xúc giữa họ trở nên phong phú hơn theo thời gian. Cuối cùng, Sylvie nói với nhân vật chính "Em muốn cảm ơn chủ nhân".
Nhân vật
Nhân vật chính
Bác sĩ ở một thị trấn nhỏ. Một người quen đã giới thiệu Sylvie với anh, đó là một thương gia được phân chia tài sản thừa kế sau cái chết của người chủ trước của cô và Sylvie thuộc phần người thương gia kia được nhận.
Sylvie
Thiếu nữ với thân phận nô lệ. Cô sống trong trại trẻ mồ côi trước khi bị người chủ cũ mua làm nô lệ. Do lối sống khắc nghiệt và thường xuyên bị chủ nhân trước bạo hành, cô đã đóng cửa trái tim mình, nhưng cô dần dần mở lòng vì cảm động trước lòng tốt của nhân vật chính.
Người chủ trước của cô đối xử với cô như nô lệ cho những sở thích tàn bạo (nhưng không liên quan đến tình dục). Vì vậy, cô vẫn là một trinh nữ khi được nhân vật chính nhận.
Ferrum
Trong quá khứ, thương gia này đã được nhân vật chính cứu sau khi ông ta bị thương và gục ngã ở ngoại ô thị trấn. Ông am hiểu về thế giới ngầm và lợi dụng cái chết của người chủ trước của Sylvie để giành được tài sản thừa kế, và Sylvie cũng là một phần của tài sản thừa kế đó.
Lúc đầu, ông tính đến việc ruồng bỏ Sylvie vì khó bán, nhưng do lương tâm nên ông đã giới thiệu cô với nhân vật chính.
Người bán hàng đáng sợ (Aurelia)
Người bán hàng duy nhất tại cửa hàng quần áo có thể ra vào trong quá trình chơi, một người phụ nữ quyến rũ nhưng mang bầu không khí bí ẩn. Không thể chịu đựng được khi nhìn thấy Sylvie đi cùng nhân vật chính trong trang phục rách rưới, cô đã dùng khả năng bán hàng của mình để một phần buộc nhân vật chính phải mua quần áo.
Mặc dù tên cô không xuất hiện trong trò chơi, nhưng chính Ray-K đã cung cấp thông tin này trên Twitter.
Người quản lý kỳ lạ (Nephy)
Người quản lý tại một nhà hàng trong thị trấn, được thêm vào ở các bản cập nhật sau này. Tùy theo tâm trạng, cô có thể làm mọi việc từ phục vụ khách đến quản lý nhà hàng.
Giống như Aurelia, tên của cô ấy không xuất hiện trong trò chơi nhưng tác giả đã tiết lộ tên cô trên Twitter.
Đánh giá
Ngay sau khi có mặt trên DLsite.com vào ngày 27 tháng 10 năm 2015 và DMM.R18 (nay là FANZA) vào ngày 29 tháng 10 năm 2015, trò chơi đã nhanh chóng được biết đến nhờ những lời truyền miệng và đứng đầu trong bảng xếp hạng tháng 10 năm 2015 của DLsite, tiếp tục đạt vị trí số 1 trong bảng xếp hạng hằng năm trên DLsite và DMM.
Trong mục "Viện nghiên cứu gal game toàn Nhật Bản" của tạp chí Weekly ASCII phát hành bởi KADOKAWA/ASCII Media Works (bản điện tử) số 1053, Teaching Feeling đã được liệt kê trong mục "trò chơi được đề xuất của tuần này" và số lượng bán ra đã tăng nhanh nhờ những lời đồn thổi ngay sau khi chuyên mục này được đăng. Để những gì mà tạp chí đang làm thêm nổi bật, bài đánh giá sau đây đã được đăng dưới tên của người phụ trách Minamida:
Vào tháng 1 năm 2016, tổng số lượt tải xuống của trò chơi trên DLsite đã vượt quá 36.000, đứng đầu trong lịch sử, đồng thời khiến thứ hạng của tất cả các tựa game đã ra mắt thay đổi lần đầu tiên sau 12 năm. Đến tháng 2 cùng năm, các trang tin tức tiếng Anh đưa tin rằng doanh thu tổng hợp trên DLsite và DMM ước tính vượt quá 100 triệu yên.
Trong số các tựa game có mặt trên DLsite, Teaching Feeling đã được chọn cho hạng mục "Doujin khiêu dâm hay nhất 2016" trên trang tin tức "UraAkiba.jp" do New Akiba Co., Ltd. điều hành.
Vào tháng 6 năm 2016, tổng doanh số trên DLsite và DMM đã vượt quá 100.000 bản. Trong bảng xếp hạng thường niên năm 2016, trò chơi được xếp hạng nhất trong hạng mục doujin của DMM và DLsite lần thứ hai liên tiếp. Vào tháng 11 năm 2023, tổng doanh số trên cả hai trang web đã vượt quá 200.000 bản.
Tranh cãi
Mặc dù phiên bản chính thức của trò chơi này chỉ có sẵn ở tiếng Nhật, vẫn có các bản vá do cộng đồng thực hiện giúp dịch nội dung trong trò chơi sang các ngôn ngữ khác. Ở Hàn Quốc, mọi hành vi phân phối các trò chơi chưa được Game Rating and Administration Committee (GRAC) xem xét đều bị cấm, nhưng một bản vá đã được dùng để dịch nội dung trò chơi sang tiếng Hàn. Các bản sao trái phép của trò chơi đã được lưu hành từ tháng 11 năm 2015.
Vào tháng 1 năm 2016, tạp chí dành cho nam giới MAXIM KOREA đã hứng chịu một loạt lời chỉ trích vì đưa tin rộng rãi về tác phẩm này. Sau đó, bộ phận biên tập của tạp chí đã phát đi thông cáo nói rằng "Các phương tiện truyền thông trực tuyến đang bóp méo các báo cáo", "Không thể chấp nhận được việc xuất bản một bài viết khiến mọi người nghĩ rằng nó chứa hình ảnh nhạy cảm của trò chơi, vốn không có trong tạp chí này (không phải là tạp chí dành cho người lớn)" trên trang web của họ. Tuy nhiên, tranh cãi ngày càng leo thang và Đội điều tra tội phạm mạng của Cơ quan cảnh sát khu vực Busan đã bắt đầu điều tra việc phân phối trò chơi vì nghi ngờ vi phạm Đạo luật bảo vệ tình dục trẻ em và thanh thiếu niên (Đạo luật Achon). MAXIM KOREA là phiên bản tiếng Hàn của tạp chí cùng tên, được nhà xuất bản Dennis Publishing ở Anh ra mắt năm 1995. Trước đó trong số tháng 9 năm 2015, ảnh bìa tạp chí là đôi chân của một người phụ nữ thò ra khỏi cốp xe ô tô cũng bị chỉ trích là làm "liên tưởng đến một vụ bắt cóc và giết người". Sự kiện này đã gây náo động, với số chữ ký trực tuyến kêu gọi thu hồi tạp chí lên tới 100.000. Khi ký ức về sự kiện này vẫn còn nguyên, dư luận đặt câu hỏi về chính sách biên tập của tạp chí khi xuất bản một bài viết giới thiệu rộng rãi về trò chơi người lớn chưa được GRAC xem xét mặc dù đây không phải là tạp chí dành cho người lớn. The Huffington Post Hàn Quốc đã phân tích rằng "việc đây không phải là tạp chí người lớn nhưng lại đăng một bài viết giới thiệu trò chơi người lớn chưa được xem xét bởi GRAC là cơ hội hoàn hảo để mọi người công kích chính sách biên tập của tạp chí".
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2016, 15 người phân phối trái phép tác phẩm này đã bị bắt vì tình nghi vi phạm Đạo luật Achon.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
奴隷との生活 -Teaching Feeling- 特設ページ - DLsite.com , tên cũ do đây là thông tin từ năm 2015
Dōjin soft
Visual novel
Trò chơi điện tử phát triển ở Mỹ
Trò chơi điện tử năm 2015
Bishōjo game
Eroge
|
19835116
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aiga%20Mizuki
|
Aiga Mizuki
|
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Bambi Promotion.
Sự nghiệp
Tháng 10/2019 cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng MOODYZ. Khẩu hiệu của cô là "Beppin Cute". Các nữ diễn viên cô yêu thích là Nanasawa Mia, Hatsukawa Minami, Hashimoto Arina, Amatsuka Moe và Asuka Kirara.
Tháng 8/2022, cô chuyển hãng phim độc quyền sang SOD Create. Cô đã trở thành nữ diễn viên tự do từ năm 2023.
Đời tư
Cô sinh ra tại tỉnh Nagano.
Sở thích và kĩ năng đặc biệt của cô là chơi dương cầm và bơi lội.
Lần đầu cô quan hệ tình dục là vào năm đầu trung học tại nhà bạn trai, một đàn anh cùng trường trung học. Cô chỉ quan hệ tình dục với 2 người trước khi ra mắt ngành.
Phần cơ thể của người cùng quan hệ tình dục mà cô yêu thích là tay và cơ hông mạnh mẽ.
Cô đã ghi phim "SAW" trong mục tác phẩm video yêu thích, tuy nhiên cô thường không thích các phim thể loại kinh dị và kinh dị tàn bạo, và chọn phim này do các yếu tố bí ẩn và tiên đoán của nó.
Tham khảo
Liên kết ngoài
(Trang web dành cho người trên 18 tuổi)
バンビプロモーション・藍芽みずき (Bambi Promotion・Aiga Mizuki)
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên SOD
Nữ diễn viên MOODYZ
|
19835121
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pussy%20%28n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20t%C4%83ng%20l%E1%BB%B1c%29
|
Pussy (nước tăng lực)
|
Pussy là nước uống tăng lực có ga được sản xuất bởi Pussy Drinks Ltd ở Anh. Đồ uống và thương hiệu này được Jonnie Shearer tạo ra vào khoảng Giáng sinh năm 2004. Vào tháng 4 năm 2013, chiến dịch quảng cáo cho Pussy đã bị Cơ quan Tiêu chuẩn Quảng cáo (Advertising Standards Authority) ở Anh cấm vì có nội dung khiêu dâm.
Thành phần
Pussy được sản xuất với thành phần nước có ga, đường, nước ép nho và hỗn hợp các loại thảo mộc cùng trái cây khác. Hàm lượng caffeine của nó đến từ guarana. Pussy được quảng cáo là "100% tự nhiên" do nó không chứa chất phụ gia nhân tạo.
Lịch sử
Shearer nảy ra ý tưởng về nước tăng lực tự nhiên sau khi ông rời trường đại học vào năm 2004. Lấy cảm hứng từ thương hiệu Virgin của Tập đoàn Virgin, Shearer quyết định đặt tên cho thức uống của mình là Pussy.
Shearer thành lập công ty vào năm 2006 và bắt đầu tiếp thị Pussy vào năm 2007. Ban đầu Shearer điều hành công ty từ phòng ngủ của mình và tự mình giao đồ uống đến các câu lạc bộ và quán bar. Đến mùa hè năm 2011, Pussy đã được bán tại 3000 cửa hàng ở Anh, bao gồm cả Tesco và Selfridges, đồng thời xuất khẩu sang 18 quốc gia, với doanh số lên tới 200.000 lon mỗi tháng. Đến tháng 4 năm 2012, doanh số bán nước tăng lực Pussy đã tăng lên 500.000 một tháng.
Ngày nay, công ty tạo ra doanh thu xấp xỉ 14,6 triệu đô la (12,0 triệu bảng Anh) và sử dụng 94 lao động.
Quảng cáo
Vào mùa đông năm 2012, Pussy Drinks Ltd bắt đầu chiến dịch quảng cáo ở Anh với hai kiểu áp phích được sử dụng trên bảng quảng cáo và xe kéo. Quảng cáo đầu tiên có từ "Pussy" bằng chữ in thường lớn phía trên cụm từ "Đồ uống nguyên chất, vấn đề là ở tâm trí của bạn." ("The drink's pure, it's your mind that's the problem.") với hình ảnh một cái lon ở bên phải. Quảng cáo thứ hai có từ "Outrageous" bằng chữ kích thước lớn phía trên cụm từ "Một loại nước tăng lực thực sự có vị ngon" ("An energy drink that actually tastes good.") với hình ảnh một cái lon ở bên trái.
Cơ quan Tiêu chuẩn Quảng cáo ASA (Advertising Standards Authority) đã nhận được 156 khiếu nại về các áp phích trong đó có sáu vấn đề được xem xét. ASA chấp nhận rằng mọi người sẽ coi từ pussy là một thuật ngữ lóng để chỉ âm hộ. ASA chỉ ra rằng Pussy Drinks Ltd đã nhận thức ý nghĩa kép và sử dụng nó trong áp phích đầu tiên, đề cập đến ý nghĩa thứ cấp không "thuần túy" và là một "vấn đề". Vì vậy, áp phích đã bị coi là khiêu dâm và xúc phạm. ASA cũng ra phán quyết rằng trẻ em lớn tuổi hơn sẽ nhận thức được ý nghĩa kép, áp phích không phù hợp để đặt ở nơi trẻ em có thể nhìn thấy. Nhiều lời phàn nàn về tấm áp phích thứ hai tương tự tấm áp phích thứ nhất rằng chúng không được phép, cũng như những lời phàn nàn rằng tấm áp phích đầu tiên xúc phạm những người theo đạo. Hai trong số các vấn đề đã được giữ nguyên và ASA đã cấm áp phích đầu tiên.
Pussy Drinks Ltd đã phản ứng bằng cách tuyên bố sử dụng Từ điển tiếng Anh Oxford (Oxford English Dictionary) của từ pussy và tên thương hiệu không bị ảnh hưởng bởi âm hộ. Họ giả vờ vô tội và đặt câu hỏi tại sao mọi người lại hiểu ý nghĩa thô tục của từ này. Họ cũng hỏi tại sao những người theo đạo lại cảm thấy bị xúc phạm trong khi người Ai Cập cổ đại tôn thờ mèo. Richard Branson so sánh việc ASA cấm áp phích quảng cáo Pussy với lệnh cấm Sex Pistols vào những năm 1970, cho rằng lệnh cấm sẽ làm tăng mức độ hiển thị và mức độ bán hàng của thương hiệu, một quá trình được gọi là hiệu ứng Streisand.
Kể từ năm 2009, Pussy đã được quảng bá bởi nhà vô địch Superbike Thế giới (World Superbike Championship) hai lần là Troy Corser. Quảng cáo đồ uống thường sẽ xuất hiện trên mũ đội đầu của ông.
Tham khảo
Nước tăng lực
Kiểm duyệt ở châu Âu
Nước uống
Tranh cãi ở châu Âu
|
19835122
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hangang-daero
|
Hangang-daero
|
Hangang-daero (Tiếng Hàn: 한강대로, Hanja: 漢江大路) là con đường 10 làn dài 4,2 km nối đầu phía bắc của cầu Hangang ở Yongsan-gu, Seoul đến Ga Seoul ở Jung-gu, Seoul.
Lịch sử
26 tháng 11 năm 1966: Đoạn giữa Ga Seoul (43-1 Dongja-dong, Jung-gu) và Cầu Hangang số 1 (65 Hangang-ro 3-ga, Yongsan-gu) được chỉ định là Hangang-ro
Năm 1981: Điểm khởi đầu của Hangang-ro được kéo dài từ ngã tư ga Yongsan đến đầu phía bắc của cầu Hangang.
Năm 1984: Điểm khởi đầu của Hangang-ro lại được kéo dài đến đầu phía nam của cầu Hangang.
Năm 2010: Tên đường được đổi thành Hangang-daero và điểm xuất phát được rút ngắn thành Giao lộ phía Bắc cầu Hangang.
Lộ trình
Hệ thống làn đường trung tâm cho xe buýt và kế hoạch xây dựng
Hiện tại, khu vực triển khai hệ thống làn đường dành riêng cho xe buýt là đoạn dài 3,5 km từ đầu phía bắc cầu Hangang đến Garwol-dong, từ đầu phía bắc cầu Hangang đến đầu phía bắc cầu Hangang (hai hướng), Ga Sinyongsan tàu điện ngầm tuyến số 4 (hai hướng), Chi nhánh KT Yongsan (hai hướng), Có các điểm dừng trung tâm như Ga Samgakji tàu điện ngầm tuyến số 4 và ga trung chuyển tuyến số 6 (cả hai hướng), Ga Đại học Nữ sinh Sookmyung tàu điện ngầm tuyến 4 (cả hai hướng), Garwol-dong (hướng cầu Hangang) và Galwol-dong (Ga Seoul) (hướng Tòa thị chính) và không có làn đường đi qua trong toàn bộ khu vực.
Cầu vượt ga Seoul đã bị phá bỏ và xây dựng lại vì lý do an toàn và được mở cửa trở lại với tên gọi Seoullo 7017 vào năm 2017. Ngoài ra, trung tâm trung chuyển xe buýt phía trước ga Seoul đã khai trương vào ngày 25 tháng 7 năm 2009. Có bốn điểm dừng làn đường trung tâm ở mỗi hướng và một điểm dừng ven đường dành cho taxi, đồng thời có lối đi nối tàu điện ngầm tuyến số 1 và số 4 ở giữa trung tâm trung chuyển.
Xem thêm
Hangangno-dong
Tham khảo
Đường ở Seoul
|
19835123
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/10%20Minutes%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20Lee%20Hyori%29
|
10 Minutes (bài hát của Lee Hyori)
|
"10 Minutes" là đĩa đơn đầu tay của ca sĩ Hàn Quốc Lee Hyori trong album phòng thu đầu tay Stylish...E, được phát hành thông qua DSP Media và CJ E&M vào ngày 13 tháng 8 năm 2003. Đây là một ca khúc hip hop và dance được viết bởi nhạc sĩ MayBee và do Kim Do-hyun phụ trách sản xuất. Sau khi phát hành, bài hát đã trở thành một hit thương mại ở Hàn Quốc, thúc đẩy nhiều xu hướng âm nhạc và thời trang vào thời điểm đó. Sự nổi tiếng của ca khúc đã kiến tạo cho cái mà giới truyền thông Hàn Quốc gọi là "Hội chứng Hyori".
Video âm nhạc đi kèm ca khúc "10 Minutes" do Seo Hyun-seung làm đạo diễn. Ban đầu MV bị SBS cấm phát sóng vì cho rằng vũ đạo quá khiêu dâm. Lee đã quảng bá bài hát qua các buổi biểu diễn trực tiếp trên nhiều chương trình âm nhạc Hàn Quốc trong suốt tháng 8 và tháng 9, bao gồm Music Camp và Inkigayo. Bài hát đã nhận được nhiều giải thưởng tại các lễ trao giải cuối năm, bao gồm Video âm nhạc được yêu thích nhất tại Liên hoan video âm nhạc Mnet 2003 và Giải thưởng Lớn tại Giải thưởng âm nhạc KBS hàng năm.
Bối cảnh
Lee nổi tiếng ở Hàn Quốc với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nữ Fin.K.L do DSP Media quản lý. Nhóm đã phát hành album phòng thu cuối cùng Eternity vào tháng 3 năm 2002; đĩa hát đạt vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng album hàng tháng của MIAK và bán được hơn 250.000 bản. Từ năm 2003, các thành viên bắt đầu tách ra hoạt động cá nhân, do đó khiến các hoạt động chung của nhóm tạm thời bị gián đoạn. Lee Hyori bắt đầu sự nghiệp solo với việc phát hành album phòng thu đầu tay Stylish...E, trong đó có đĩa đơn chính "10 Minutes".
Bài hát được MayBee sáng tác và Kim Do-hyun sản xuất. "10 Minutes" là một bản nhạc hip hop và dance truyền tải một cách trữ tình cách Lee có thể quyến rũ một người đàn ông trong mười phút.
Quảng bá
Video âm nhạc
Video âm nhạc đi kèm bài hát được đạo diễn bởi Seo Hyun-seung, người sau này trở thành giám đốc chính cho các nghệ sĩ trực thuộc YG Entertainment. Tuy nhiên sau khi phát hành MV, đài SBS đã cấm phát sóng công khai do có những động tác nhảy giống động tác tình dục, bị đánh giá là không phù hợp trên truyền hình. Một phiên bản chỉnh sửa lại của video, với các cảnh nhạy cảm bị cắt bỏ, đã sớm được gửi về nhà đài để cho lên sóng. MV bài hát vẫn được đón nhận nồng nhiệt: trong một cuộc khảo sát trên internet xếp hạng 100 video âm nhạc Hàn Quốc hay nhất do MTV Korea thực hiện vào tháng 7 năm 2004, "10 Minutes" xếp ở vị trí thứ ba.
Biểu diễn trực tiếp
Sau khi phát hành, để quảng bá "10 Minutes" và Stylish...E, Lee đã xuất hiện tại nhiều buổi hòa nhạc trực tiếp và các chương trình âm nhạc hàng tuần. Vào ngày 16 tháng 8, Lee có buổi biểu diễn đầu tiên với tư cách nghệ sĩ solo kể từ Fin.KL trình diễn tại Star Ting Concert năm 2003, tại đây cô biểu diễn "10 Minutes" và "One Two Three N'Four", bất chấp một trục trặc trong quá trình thu âm. Ngày hôm sau, cô xuất hiện lần đầu trên sóng trực tiếp, ra mắt cả hai bài hát trong chương trình âm nhạc Inkigayo; cô tiếp tục quảng bá bài hát trên các chương trình âm nhạc khác nhau trong suốt tháng 8 và tháng 9. Vào ngày 27 tháng 11, Lee biểu diễn trực tiếp bài hát tại Liên hoan video âm nhạc Mnet 2003. Tại đây cô là nghệ sĩ được đề cử nhiều nhất trong đêm. Tại Lễ hội âm nhạc Mnet Km năm 2008, Lee và nhóm nhạc nam Big Bang đã cùng nhau biểu diễn liên khúc các bài hát của họ, trong đó có các phần của "10 Minutes".
Giải thưởng
"10 Minutes" đã giành được nhiều giải thưởng, bao gồm daesang "Video âm nhạc được yêu thích nhất" tại Liên hoan video âm nhạc Mnet 2003 và Giải thưởng Lớn tại Giải thưởng âm nhạc KBS hàng năm. Ngoài ra, ca khúc còn nhận về ba giải bonsang tại KBS, Mnet và Giải Đĩa Vàng lần thứ 18.
Tác động văn hóa
Màn ra mắt solo của Lee với "10 Minutes" đã được truyền thông Hàn ghi nhận là dấu ấn cho sự chuyển đổi chính của cô sang hình ảnh khiêu gợi. The Korea Herald ghi nhận rằng ca khúc đã dẫn đến một làn sóng quan tâm được gọi là "Hội chứng Hyori", khiến cô được mệnh danh là "nữ hoàng gợi cảm của K-pop". Viết về ảnh hưởng của "Hội chứng Hyori" trong ngành giải trí, một biên tập viên của Beautytap cho biết: "những hình ảnh tán tỉnh của các nhóm nhạc nữ K-pop ngày nay phần lớn có thể được cho là do Hyori đã vượt qua các giới hạn [...] Hyori diện những bộ trang phục gợi cảm, nhảy khiêu khích trong các video của cô và dường như không ngại vượt qua giới hạn của những gì được coi là 'sự hấp dẫn giới tính có thể chấp nhận được' vào thời điểm đó ở Hàn Quốc." Một phóng viên của hãng truyền thông Star News đã viết rằng kể từ "10 Minutes" năm 2003, Lee đã tạo ra sự bùng nổ trong ngành giải trí đối với phụ nữ ở mọi lứa tuổi và trở thành người tạo ra xu hướng trong thế giới thời trang Hàn Quốc.
Xuất hiện trên trang nhất các tờ báo 891 lần kể từ sau khi phát hành "10 Minutes", Lee đã lập Kỷ lục Guinness Thế giới vào thời điểm đó về số lần xuất hiện trên trang nhất báo nhiều nhất. Năm 2007, The Korea Times đã vinh danh Lee là một trong 10 người phụ nữ có ảnh hưởng trong bối cảnh văn hóa kể từ năm 1950, cho biết "hội chứng Lee Hyori lan rộng khắp đất nước" sau khi phát hành "10 Minutes", khiến cô trở thành một biểu tượng thời trang và là nữ ca sĩ được trả lương cao nhất Hàn Quốc vào thời điểm đó. Marie Claire đã đưa bài hát này vào danh sách 35 bài hát K-pop thiết yếu của họ, viết rằng "ca khúc nổi tiếng đến mức năm 2003 được truyền thông Hàn Quốc đặt biệt danh là 'Năm của Hyori'." Trong một hội đồng gồm 35 nhà phê bình âm nhạc do Seoul Shinmun và Melon tổ chức, "10 Minutes" được xếp hạng thứ 16 trong số những bài hát K-pop hay nhất mọi thời đại. Nhà phê bình âm nhạc Subtle nói rằng bài hát đã mang lại ảnh hưởng lớn đến các thần tượng nữ, và điều này vẫn thể hiện nhiều năm sau khi bài hát ra mắt lần đầu.
Tham khảo
Bài hát năm 2003
|
19835124
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%E1%BB%ABng%20tr%C3%A0m%20M%E1%BB%B9%20Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Rừng tràm Mỹ Phước
|
Rừng tràm Mỹ Phước hay Khu bảo tồn loài – sinh cảnh rừng tràm Mỹ Phước là khu rừng có diện tích lớn nhất tỉnh Sóc Trăng. Đây là nơi duy nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long có sinh cảnh giao thoa giữa rừng tràm và rừng dừa nước. Trong khu rừng tràm này có khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng của lực lượng cách mạng Việt Nam.
Tổng quan
Rừng nằm ở xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Rừng có chiều rộng trung bình 3 km, dài nhất 10 km, diện tích bao phủ khoảng 28 km2. Rừng tràm có tuổi cây trên 70 năm và được bảo vệ nghiêm ngặt. Đến năm 2023, Sở Tài nguyên và Môi trường cùng với chính quyền địa phương tại Sóc Trăng trao đổi, thảo luận về 2 phương án phân khu chức năng, gồm:
Phương án 1: Khu bảo tồn không có vùng đệm, tổng diện tích là 375,7 ha, trong đó gồm có phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 171 ha, phân khu phục hồi sinh thái 130 ha, phân khu dịch vụ, hành chính 74,7 ha;
Phương án 2: Khu bảo tồn có vùng đệm, tổng diện tích là 1.545 ha, trong đó gồm có phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 171 ha, phân khu phục hồi sinh thái 130 ha, phân khu dịch vụ, hành chính 74,7 ha và vùng đệm 1.169,3 ha.
Sinh cảnh và sinh vật
Rừng tràm Mỹ Phước có 4 sinh cảnh:
Rừng tràm
Rừng dừa nước
Lung (nước ngọt)
Rừng đặc dụng
Thực vật có 127 loài. Động vật có 8 loài thú, 70 loài chim, 15 loài lưỡng cư và bò sát, 25 loài cá, 81 loài côn trùng,... Động vật có nhiều loài quý hiếm như: cốc đế, cầy hương, cầy giông Tây Nguyên, mèo cá và rái cá thường.
Lịch sử
Từ tháng 9 năm 1947, khu rừng đã được quân Giải phóng sử dụng làm nơi ẩn nấp, là căn cứ trong hai cuộc chiến tranh chống lại Pháp và Mỹ. Tháng 1 năm 1968, căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng từ xã Gia Hòa, huyện Mỹ Xuyên được dời về đây. Các cơ sở trải rộng hơn 100 ha với rừng cây rậm rạp và kênh rạch chằng chịt. Đây là bàn đạp tấn công quân đối phương (Mỹ và Việt Nam Cộng hòa) tại Châu Thành, Sóc Trăng, Ngã Năm, Thạnh Trị. Quân Giải phóng bị quân đối phương phong tỏa bằng 4 đồn: Cái Trầu, Mỹ Phước, Tam Sóc và Xẻo Lý. Họ thường xuyên pháo kích và oanh tạc vào đây.
Từ sau năm 1975, khu rừng đã được giao cho Lâm trường Mỹ Phước bảo vệ và khai thác. Năm 1990, hồ sơ di tích lịch sử được lập, một số biển báo, biển chỉ dẫn tại các khu căn cứ được áp dụng.
Ngày 11 tháng 6 năm 1992, Khu Căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng tại rừng tràm Mỹ Phước được Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia tại Quyết định số 734/QĐ. Được gọi là Di tích lịch sử khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng.
Năm 2019, Rừng tràm Mỹ Phước được quy hoạch thành Khu bảo tồn loài - sinh cảnh rừng tràm Mỹ Phước, 615 loài sinh vật được thống kê, nhiều hơn thống kê năm 2012 khoảng 300 loài.
Kinh tế
Rừng tràm Mỹ Phước là khu vực được người dân địa phương khai thác các loại rau xanh, như đọt choại, năng bộp, bồn bồn,...và súng lam đặc trưng (chi Súng có hoa màu lam). Rừng còn cung cấp dừa nước để làm thực phẩm, lá dừa nước để lợp nhà. Người dân cũng khai thác mật ong rừng, các loại cây thảo mộc làm thuốc. Các vùng nước cung cấp thủy sản.
Xem thêm
Di tích lịch sử khu căn cứ Tỉnh ủy Sóc Trăng
Chú thích
Liên kết ngoài
Vị trí rừng tràm Mỹ Phước trên Google Map.
Khu bảo tồn Việt Nam
Sóc Trăng
|
19835126
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C6%B0a%20Gigli
|
Cưa Gigli
|
Cưa Gigli là một loại cưa dây được bác sĩ phẫu thuật sử dụng để cắt xương. Cưa Gigli chủ yếu được sử dụng để cắt cụt chi. Xương của chi cần được cắt gọn gàng ngang mức mỏm cụt.
Bác sĩ sản khoa người Ý Leonardo Gigli là người phát minh ra loại cưa này để đơn giản hóa việc thực hiện phẫu thuật cắt xương mu (cắt xương vệ) ở những ca chuyển dạ ngừng tiến triển.
Bộ phim kinh dị Saw X (2023) có nhắc đến dụng cụ phẫu thuật này.
Tham khảo
Phát minh của Ý
Cưa
Dụng cụ chỉnh hình
|
19835130
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A5u%20tranh%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20Th%C3%A1ng%20S%C3%A1u
|
Đấu tranh Dân chủ Tháng Sáu
|
Đấu tranh Dân chủ Tháng Sáu (), còn gọi là Phong trào Dân chủ Tháng Sáu hay Khởi nghĩa Tháng Sáu, là một phong trào ủng hộ dân chủ toàn quốc tại Hàn Quốc, với các cuộc biểu tình quần chúng từ ngày 10 đến ngày 29 tháng 6 năm 1987. Các cuộc biểu tình buộc chính phủ cầm quyền phải tổ chức bầu cử tổng thống trực tiếp và tiến hành các cải cách dân chủ khác, dẫn đến việc thành lập nền Cộng hòa thứ sáu, tức chính phủ Hàn Quốc ngày nay.
Vào ngày 10 tháng 6, chế độ quân sự của Tổng thống Chun Doo-hwan tuyên bố lựa chọn Roh Tae-woo làm tổng thống tiếp theo. Việc chỉ định công khai người kế nhiệm Chun Doo-hwan được cho là sự xúc phạm cuối cùng đối với quá trình sửa đổi hiến pháp Hàn Quốc luôn bị trì hoãn, vốn dĩ sẽ cho phép bầu cử trực tiếp tổng thống. Mặc dù việc sinh viên và các nhóm khác tiến hành biểu tình nhằm áp lực lên chế độ đã diễn ra một thời gian, nhưng thông báo cuối cùng này gây ra những cuộc biểu tình lớn và có hiệu quả.
Do không muốn sử dụng bạo lực trước Thế vận hội năm 1988 tại Seoul (thu hút sự chú ý lớn trên toàn thế giới), và tin rằng Roh Tae-woo có thể giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử mang tính cạnh tranh vì có sự chia rẽ trong phe đối lập, Chun Doo-hwan và Roh Tae-woo nhanh chóng đáp ứng các yêu cầu chính là bầu cử tổng thống trực tiếp và khôi phục các quyền tự do dân sự. Mặc dù Roh Tae-woo được bầu hợp pháp làm tổng thống vào tháng 12 năm đó, việc củng cố một chế độ dân chủ tự do tại Hàn Quốc đã được tiến hành.
Bối cảnh
Bầu cử tổng thống gián tiếp
Kể từ khi Tổng thống Park Chung-hee cho thực thi Hiến pháp Yushin vào năm 1972, các tổng thống Hàn Quốc được bầu gián tiếp bởi Hội nghị Thống nhất Quốc gia, là một đại cử tri đoàn. Hệ thống này vẫn tồn tại ngay cả sau khi Park Chung-hee bị ám sát và Choi Kyu-hah lên thay thế; Choi sau đó cũng bị Chun Doo-hwan thay thế trong vòng vài tháng sau trong Cuộc đảo chính ngày 12 tháng 12. Vì đại cử tri đoàn nói chung do chính chế độ tự tay lựa chọn, nên họ không đại diện cho bất kỳ hình thức kiểm tra dân chủ nào đối với quyền lực của tổng thống.
Chun Doo-hwan tìm cách nâng cao vị thế của mình trong nước và quốc tế bằng cách tạo ra một vẻ ngoài dân chủ đại diện, ông cho tiến hành tổ chức bầu cử quốc hội vào năm 1985. Mặc dù đảng cầm quyền chỉ mất vài ghế, nhưng kết quả này là một chiến thắng lớn về mặt tinh thần cho phe đối lập, do Kim Dae-jung và Kim Young-sam lãnh đạo. Yêu cầu chính của phe đối lập là bầu cử tổng thống trực tiếp, và Chun Doo-hwan tìm cách ngăn chặn điều này bằng cách bắt đầu một chiến dịch làm chậm trễ và trì hoãn. Để đối phó với làn sóng phản đối của công chúng vào tháng 2 năm 1986, Chun Doo-hwan đồng ý cho phép quốc hội tranh luận về việc thay đổi hiến pháp. Mặc dù một ủy ban quốc hội đã tranh luận về nhiều đề xuất khác nhau trong nhiều tháng, nhưng đến ngày 13 tháng 4 năm 1987, Chun Doo-hwan đình chỉ luôn cả ủy ban này cho đến sau Thế vận hội, với lý do cần phải có "đoàn kết dân tộc" trước đại hội. Hành động này làm gia tăng tình trạng bất ổn và tình cảm chống chính phủ, đặc biệt là khi cư dân ở nhiều khu vực của Seoul như Mok-dong phải di dời để nhường chỗ cho các cơ sở hạ tầng đã được quy hoạch, nhưng Chun Doo-hwan vẫn tiếp tục chương trình của mình để đưa Roh Tae-woo làm người kế nhiệm. Trong khi đó, tình cảm chống chính phủ ngày càng gia tăng trong công chúng; một cuộc khảo sát vào tháng 5 năm 1987 về "tầng lớp trung lưu" đăng trên Hankook Ilbo cho thấy 85,7% số người được hỏi cảm thấy rằng họ "mong muốn bảo vệ nhân quyền nhiều hơn, ngay cả khi phải trả giá bằng tăng trưởng kinh tế".
Trong suốt thời kỳ này, phong trào lao động, các sinh viên đại học và các nhà thờ cụ thể đã tham gia vào một liên minh hỗ trợ lẫn nhau nhằm gây áp lực ngày càng tăng lên chế độ. Điều này đã huy động một bộ phận xã hội dân sự, cùng với phe đối lập chính trị, họ sau đó hình thành nên cốt lõi của cuộc phản kháng đại chúng trong các sự kiện có tính quyết định vào tháng 6.
Phong trào sinh viên và cái chết của Park Jong-chul
Trong thập niên 1980, nhiều nhà hoạt động sinh viên trong các trường đại học đấu tranh chống lại chế độ độc tài của Chun Doo-hwan sau khởi nghĩa Gwangju năm 1980. Chủ nghĩa cấp tiến sinh viên trở nên đặc biệt phổ biến trong những năm trước năm 1987, với 469.000 sinh viên tham gia biểu tình vào năm 1985. Vào ngày 23 tháng 5 năm 1985, sinh viên chiếm giữ trung tâm văn hóa của Dịch vụ Thông tin Hoa Kỳ (USIS) tại Seoul, yêu cầu một lời xin lỗi do cáo buộc Hoa Kỳ đồng lõa với hành động của chính phủ Hàn Quốc tại Gwangju, cũng như chấm dứt hỗ trợ cho chính phủ Chun Doo-hwan. Vụ việc và phiên tòa sau đó được giới truyền thông khắp cả nước chú ý đáng kể, cũng như có những nỗ lực bắt chước các hành động này. Ngày 3 tháng 5, các cuộc tuần hành sinh viên tại Incheon nhắm vào các văn phòng của cả Đảng Công lý Dân chủ cầm quyền cũng như phe đối lập là Đảng Dân chủ Hàn Quốc mới được chính thức công nhận, do không khí căng thẳng về lập trường thỏa hiệp của phe đối lập đối với chính phủ.
Vào ngày 13 tháng 1 năm 1987, nhà hoạt động Park Jong-chul, chủ tịch hội sinh viên khoa ngôn ngữ học của Đại học Quốc gia Seoul, bị cảnh sát bắt giữ. Trong khi bị thẩm vấn, Park từ chối thú nhận nơi ở của một trong những nhà hoạt động cùng mình. Trong quá trình thẩm vấn, chính quyền dùng kỹ thuật tấn nước để tra tấn anh, khiến anh chết do ngạt thở vào ngày 14 tháng 1. Vào ngày 7 tháng 2, các cuộc tuần hành phản đối được tổ chức để tưởng nhớ anh và xảy ra các cuộc đụng độ với cảnh sát trên khắp đất nước. Vào ngày 3 tháng 3, tức nhân dịp 49 ngày sau khi Park mất, các nhóm Phật giáo hợp tác với phe đối lập và cho phép chùa Jogyesa ở Seoul được sử dụng làm căn cứ cho các cuộc tụ họp trên toàn quốc.
Thông tin xung quanh cái chết của Park Jong-chol ban đầu bị che giấu, tuy nhiên Hiệp hội Tư pháp Linh mục Công giáo (CPAJ) tiết lộ chi tiết cho công chúng, bao gồm cả việc chính quyền cố tình che đậy vào dịp Lễ tưởng niệm các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju vào ngày 18 tháng 5, điều này càng thổi bùng thêm tình cảm của công chúng. Vào ngày 23 tháng 5, một cuộc họp của các nhóm đối lập được tổ chức, và thông báo rằng họ sẽ tổ chức các cuộc tuần hành đại chúng vào ngày 10 tháng 6. Liên minh này lấy tên là Liên minh Quốc gia vì một Hiến pháp Dân chủ, hay Guk-bon.
Cái chết của Lee Han-yeol
Vào ngày 9 tháng 6, các nhóm sinh viên trên toàn quốc xuống hiện trường và huy động tại các trường sở trên khắp cả nước để chuẩn bị cho cuộc biểu tình rầm rộ theo kế hoạch vào ngày 10 tháng 6. Vào lúc 2 giờ chiều, sinh viên Lee Han-yeol của Đại học Yonsei bị thương nặng khi một lựu đạn hơi cay xuyên qua hộp sọ của anh. Một bức ảnh được lan truyền rộng rãi ghi lại cảnh anh bị thương và được một bạn học đưa đi. Trong tình trạng nguy kịch, anh nhanh chóng trở thành một biểu tượng của các cuộc biểu tình tiếp theo trong những tuần sau đó. Cuối cùng anh qua đời vì vết thương vào ngày 5 tháng 7, sau khi chế độ đồng ý với yêu cầu của người dân. Hơn 1,6 triệu người dân tham dự tang lễ quốc gia của anh, được tổ chức vào ngày 9 tháng 7. Anh được chôn cất tại Nghĩa trang Quốc gia 18 tháng 5.
Các cuộc tuần hành chính
Hiến pháp năm 1980 giới hạn tổng thống chỉ có một nhiệm kỳ bảy năm. Mặc dù có thể gia hạn nhiệm kỳ thông qua sửa đổi hiến pháp, nhưng về mặt pháp lý thì điều đó sẽ không áp dụng cho tổng thống đương nhiệm, do vậy trên thực tế loại trừ Chun Doo-hwan khỏi chức vụ sau năm 1987. Tuy nhiên, hiến pháp vẫn trao quyền cho văn phòng tổng thống một số quyền lợi đáng kể, và hoạt động chính trị liên tục bị đàn áp.
Việc đề cử Roh Tae-woo làm người kế nhiệm Chun Doo-hwan được lên kế hoạch vào ngày 10 tháng 6, cùng ngày diễn ra các cuộc biểu tình theo lịch trình. Khi ngày đó đến gần, chính quyền thực hiện các biện pháp để trấn áp những người bất đồng chính kiến. Thủ lĩnh sinh viên Đại học Hàn Quốc Lee In-young bị bắt vào ngày 2 tháng 6. Vào ngày 8 tháng 6, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp tuyên bố phủ đầu rằng các hành động được lên kế hoạch là tụ tập bất hợp pháp, và Guk-bon là một "tổ chức lật đổ". Gần 5.000 người bất đồng chính kiến bị bắt trong các cuộc đột kích trong đêm, và 700 thủ lĩnh phe đối lập bị quản thúc tại gia. Đảng Công lý Dân chủ tập hợp tại nơi diễn ra lễ đề cử Roh Tae-woo, buổi lễ khai mạc lúc 6 giờ chiều ngày 10 tháng 6 tại sân thi đấu trong nhà Jamsil tại Seoul. Khi sinh viên đến Tòa thị chính Seoul gần đó, cảnh sát ngay lập tức bắt đầu tấn công. Bất chấp nỗ lực của cảnh sát, Cuộc biểu tình toàn quốc chống lại việc che đậy và cái chết do tra tấn của Park Jong-chul và để bãi bỏ Hiến pháp () được tổ chức thành công tại 18 thành phố trên cả nước. Các vụ đụng độ bạo lực nổ ra giữa cảnh sát và người biểu tình trên khắp Seoul. Nhiều người lái xe bày tỏ phản đối với chính phủ bằng cách bấm còi hàng loạt. Trận đấu bóng đá giữa Hàn Quốc và Ai Cập bị hủy sau khi một lượng lớn hơi cay của cảnh sát bao trùm sân thi đấu. Tổng cộng có 3.831 người bị bắt giữ.
Tối hôm đó, sinh viên tại Seoul chạy trốn cảnh sát bằng cách tiến vào Nhà thờ lớn Myeongdong, địa điểm này đã trở thành một trung tâm lớn của phe đối lập tôn giáo đối với chế độ độc tài. Sau khi không thể rời đi do bị cảnh sát phong tỏa, họ bắt đầu toạ kháng bên trong tòa nhà. Hồng y Kim Su-hwan thông báo rằng các linh mục sẵn sàng ra tiền tuyến để ngăn chặn cảnh sát xông vào tòa nhà. Nhà thờ trở thành tâm điểm và diễn đàn công cộng cho những người biểu tình, thu hút một lượng lớn sự hỗ trợ từ bên ngoài. Vào ngày 11 tháng 6, một nghìn sinh viên cố gắng vào nhà thờ để tham gia chiếm đóng nhưng bị cảnh sát chống bạo động chặn lại. Cuộc toạ kháng kết thúc vào ngày 15 tháng 6, sau khi chính phủ tuyên bố sẽ không trừng phạt những người chiếm đóng nếu họ rời khỏi nhà thờ vào ngày này. Do thành công rời khỏi tòa nhà mà không bị bắt, việc chiếm đóng được cho là một chiến thắng và khuyến khích phong trào. Cùng ngày khi cuộc toạ kháng kết thúc, ước tính có khoảng 60.000 sinh viên biểu tình tại 45 trường trên cả nước.
Các cuộc biểu tình từ ngày 10 tháng 6 trở đi khác với các cuộc biểu tình trước đó trong cùng năm do có mức độ tham gia đông đảo. Trong khi các cuộc biểu tình ban đầu do các nhóm đối lập và sinh viên thúc đẩy, thì các cuộc biểu tình tháng 6 chứng kiến sự tham gia ngày càng tăng từ các thành phần dân chúng khác, bao trùm mọi tầng lớp xã hội. Công nhân cổ cồn trắng ném cuộn giấy vệ sinh từ các văn phòng, vỗ tay và bày tỏ ủng hộ. Những nhân viên văn phòng tham gia biểu tình được mệnh danh là "lữ đoàn cà vạt" vì đồng phục công sở của họ. Các cuộc biểu tình cũng lan rộng đến các thành phố mà công chúng từng ít có bất đồng quan điểm, chẳng hạn như Daejeon.
Vào ngày 18 tháng 6, "Cuộc biểu tình toàn quốc về việc xóa bỏ lựu đạn hơi cay" () khiến 1,5 triệu người xuống đường. Viết cho New York Times, Clyde Haberman mô tả cảnh sát "[mất] quyền kiểm soát đường phố" vào ngày này. Tại Busan, trung tâm thành phố xung quanh bùng binh Seomyeon bị lấp đầy với 300.000 người biểu tình, buộc cảnh sát phải từ bỏ việc bắn hơi cay. Các cuộc biểu tình liên quan được tổ chức tại 247 địa điểm ở 16 thành phố trên toàn quốc. Đêm đó, một người biểu tình là Lee Tae-chun bị thương nặng tại Busan sau khi rơi từ cầu vượt do cảnh sát thả hơi cay vào cấu trúc này. Vào ngày 19 tháng 6, Quyền Thủ tướng Lee Han-key đe dọa "các biện pháp phi thông thường" trong một bài phát biểu trên truyền hình nếu các cuộc biểu tình không chấm dứt. Cùng ngày, Chun Doo-hwan ra lệnh huy động quân đội, nhưng lo sợ vụ thảm sát Gwangju bạo lực sẽ tái diễn nên ông hủy bỏ lệnh trong vòng vài giờ.
Vào ngày 21 tháng 6, 40 nhà lãnh đạo Guk-bon đề xuất một danh sách bốn yêu cầu lên chính phủ. Họ yêu cầu hủy bỏ biện pháp đình chỉ cải cách hiến pháp ngày 13 tháng 4, trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm, đảm bảo các quyền lợi về tự do hội họp, tuần hành, và báo chí, đồng thời chấm dứt việc cảnh sát sử dụng hơi cay. Một ngày biểu tình toàn quốc nữa sẽ được tổ chức nếu những yêu cầu này không được đáp ứng trước ngày 26 tháng 6. Khi chính phủ từ chối thỏa hiệp, Đại tuần hành hòa bình toàn quốc () được tổ chức; hơn 1 triệu người tham gia tại các thành phố trên khắp Hàn Quốc, nhiều hơn gấp ba lần số người tham gia biểu tình vào ngày 10 tháng 6. 100.000 cảnh sát chống bạo động được triển khai trên toàn quốc để chặn các điểm biểu tình, nhưng điều này không đủ để ngăn chặn các cuộc biểu tình. Gwangju chứng kiến các cuộc biểu tình lớn nhất kể từ Cuộc khởi nghĩa năm 1980, và dân thường đông áp đảo cảnh sát đến mức họ có thể thực hiện thành công các cuộc tụ họp ôn hòa tại Suwon, Mokpo và Yeosu. Vào ngày này, hơn 3.469 vụ bắt giữ được báo cáo trên toàn quốc.
Cuối cùng, Roh Tae-woo ban hành Tuyên bố 29 tháng 6, chấp nhận yêu cầu của người biểu tình bằng cách hứa sửa đổi Hiến pháp và trả tự do cho các tù nhân chính trị, bao gồm cả lãnh đạo phe đối lập Kim Dae-jung, người bị quản thúc tại gia kể từ khi ông trở về nước vào năm 1985 sau thời gian sống lưu vong. Tuyên bố này được Tổng thống Chun Doo-hwan chính thức phê chuẩn hai ngày sau đó.
Hậu quả
Cuộc đấu tranh lao động lớn năm 1987
Trước năm 1987, các phong trào lao động tại Hàn Quốc từ lâu đã đóng vai trò quan trọng trong các phong trào đối lập chống lại chế độ độc tài quân sự của đất nước. Vai trò của họ vào tháng 6 năm 1987 tiếp tục khuyến khích họ và cho phép họ củng cố vị thế của mình. Sau Cuộc nổi dậy Dân chủ Tháng Sáu, Công đoàn động cơ Hyundai được thành lập tại Ulsan vào ngày 5 tháng 7. Nhiều công nhân trên cả nước bắt đầu thành lập công đoàn và thực hiện các hành động nhằm yêu cầu các điều kiện tốt hơn bằng cách đình công. Trong vòng một năm, 4.000 công đoàn mới đại diện cho khoảng 700.000 công nhân được thành lập và số thành viên công đoàn tăng từ 1,06 triệu năm 1986 lên 1,98 triệu vào năm 1990. Công nhân Daewoo Lee Suk-kyu thiệt mạng sau khi bị đánh
bằng một hộp hơi cay vào ngày 22 tháng 8, và công nhân Hyundai chiếm giữ Tòa thị chính Ulsan vào ngày 2 tháng 9. Vào ngày 29 tháng 9, chính phủ tuyên bố sẽ thực hiện các bước để đưa người lao động thành "tầng lớp trung lưu". Tổng cộng có 3.492 vụ tranh chấp lao động được chính phủ ghi nhận trong khoảng thời gian từ ngày 29 tháng 6 đến ngày 15 tháng 9, với trung bình là 44 "hành động công nghiệp" diễn ra mỗi ngày trong giai đoạn này.
Sửa đổi Hiến pháp
Sau Tuyên bố ngày 29 tháng 6, quá trình sửa đổi hiến pháp bắt đầu một cách nghiêm túc. Vào ngày 12 tháng 10, dự luật hiến pháp được thông qua và được phê chuẩn trong trưng cầu dân ý công chúng được tổ chức vào ngày 28 tháng 10, với 94,4% phiếu bầu ủng hộ của cử tri. Hiến pháp mới chính thức có hiệu lực vào ngày 25 tháng 2 năm 1988, khi Roh Tae-woo nhậm chức tổng thống.
Hiến pháp thứ 10 tăng cường quyền công dân. Các quyền tự nhiên và pháp lý được quy định rõ ràng, bầu cử tổng thống trực tiếp được thực hiện và quyền lực của tổng thống bị giảm bớt sang cho Quốc hội Hàn Quốc.
Bầu cử dân chủ
Roh Tae-woo vẫn được đề cử làm ứng cử viên tổng thống của Đảng Công lý Dân chủ vào ngày 10 tháng 6. Roh Tae-woo có đủ sự ủng hộ hợp pháp trong cử tri Hàn Quốc để cạnh tranh trong cuộc bầu cử vào tháng 12 năm 1987. Vị thế của ông được cải thiện đáng kể do phe đối lập bị chia rẽ, như Kim Dae-jung và Kim Young-sam không thể đoàn kết, hoặc thậm chí về việc ủng hộ hệ thống bỏ phiếu hai vòng.
Hai tuần trước cuộc bầu cử tổng thống, Chuyến bay 858 của Korean Air phát nổ khi đang bay đến Bangkok. Tiết lộ về âm mưu của Triều Tiên nhằm vào chiếc máy bay, và việc một trong những đặc vụ chịu trách nhiệm về vụ tấn công là Kim Hyon-hui đến Seoul chỉ một ngày trước cuộc bầu cử đã tạo ra một môi trường có lợi cho Roh Tae-woo. Các tài liệu được giải mật sau đó xác nhận rằng chính phủ của Chun Doo-hwan đã cố tình tìm cách khai thác các sự kiện để thu lợi ích về chính trị, bao gồm cả việc đảm bảo rằng Kim Hyon-hui sẽ bị dẫn độ trước cuộc bầu cử.
Cuộc bầu cử cuối cùng diễn ra vào ngày 16 tháng 12. Roh Tae-woo được bầu làm tổng thống, nhận được 36,6% phiếu bầu, với tỷ lệ cử tri đi bầu là 89,2%. Phiếu của phe đối lập bị phân chia giữa Kim Young-nam được 28%, và Kim Dae-jung nhận được 27%. Cuộc bầu cử này đánh dấu sự khởi đầu của nền Cộng hòa thứ sáu.
Trong văn hoá đại chúng
Một phân đoạn của bộ phim Kẹo bạc hà 박하사탕 năm 1999, kể về 20 năm lịch sử Hàn Quốc, có lấy bối cảnh các sự kiện năm 1987, khi nhân vật chính đang làm cảnh sát.
Năm 2009, Choi Kyu-sok xuất bản 100°C, một tiểu thuyết đồ họa dựa trên các sự kiện của Cuộc nổi dậy tháng Sáu. Bản dịch tiếng Anh được University of Hawaii Press phát hành vào năm 2023.
Năm 2017, bộ phim 1987: When the Day Comes do Jang Joon-hwan đạo diễn đã mô tả cách thức cái chết của Park Jong-chul đã châm ngòi cho một chuỗi sự kiện dẫn đến cuộc nổi dậy quần chúng vào tháng 6.
Bộ phim truyền hình Snowdrop năm 2021, phát sóng trên JTBC, mô tả một câu chuyện hư cấu lấy bối cảnh theo Đấu tranh Tháng Sáu. Bộ phim gây ra tranh cãi lớn, bao gồm việc rút nhà tài trợ và kêu gọi hủy chiếu. Phim bị buộc tội chủ nghĩa phủ định lịch sử do nhân vật nam chính là một đặc vụ Triều Tiên đóng giả là một nhà hoạt động sinh viên; điều này đã lặp lại những cáo buộc của chính phủ Chun Doo-hwan chống lại phong trào đối lập. Phim cũng bị cáo buộc tôn vinh hành động của Cơ quan Kế hoạch An ninh Quốc gia.
Xem thêm
Cuộc nổi dậy 8888
Cách mạng 19 tháng 4
Biểu tình Dân chủ Bu-Ma
Phong trào dân chủ Gwangju
Cách mạng Quyền lực Nhân dân
Sự kiện Thiên An Môn
Mùa Xuân Seoul
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Photographs of July 9, 1987 funeral procession for Yi Han-yeol, Seoul
Lịch sử chính trị Hàn Quốc
Cách mạng thế kỷ 20
Biểu tình năm 1987
Bất tuân dân sự
Hàn Quốc thập niên 1980
|
19835137
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%A5ng%20c%E1%BB%A5%20nong%20tr%E1%BB%B1c%20tr%C3%A0ng
|
Dụng cụ nong trực tràng
|
Dụng cụ nong trực tràng, dụng cụ nong hậu môn là một thiết bị y tế tương tự như mỏ vịt (trong sản khoa) được thiết kế để mở rộng và làm thư giãn cơ thắt hậu môn ngoài và cơ thắt hậu môn trong và trực tràng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khám trực tràng hoặc làm thuyên giảm táo bón.
Dụng cụ nong trực tràng cũng được dùng làm đồ chơi tình dục.
Xem thêm
Nút hậu môn, một thiết bị y tế để điều trị đại tiện không tự chủ
Nút bịt mông, một đồ chơi tình dục tương tự dụng cụ nong hậu môn
Ống nội soi trực tràng, một thiết bị y tế được đưa vào hậu môn
Dụng cụ nong âm đạo, một thiết bị để làm giãn âm đạo
Tham khảo
Khoa tiêu hóa
Thiết bị y khoa
|
19835141
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A3o%20v%C3%A0%20%C3%A1p%20th%E1%BA%A5p%20nhi%E1%BB%87t%20%C4%91%E1%BB%9Bi%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Bão và áp thấp nhiệt đới tại Việt Nam
|
Việt Nam là một quốc gia Đông Nam Á, là quốc gia nằm ở cực Đông của lục địa Đông Nam Á. Việt Nam giáp biển Đông nên khả năng xuất hiện các xoáy thuận nhiệt đới ngày càng gia tăng. Bão nhiệt đới ở quốc gia này được coi là một phần của mùa bão khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và do đó, bão ở đây được gọi là typhoon trong tiếng Anh
Về mặt khí hậu, ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương , hầu hết các xoáy thuận nhiệt đới có xu hướng phát triển trong khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 11. Các cơn bão ảnh hưởng đến khu vực này tương đối phổ biến, hầu hết các cơn bão này xuất hiện từ giữa năm. Mùa bão nhiệt đới hoạt động mạnh nhất ở Việt Nam là năm 2017, cơ quan khí tượng theo dõi 16 cơn bão. Bài viết này bao gồm bất kỳ cơn bão nhiệt đới đáng chú ý có cường độ bất kỳ đã ảnh hưởng đến Việt Nam.
Bối cảnh
Việt Nam ghi nhận mùa bão từ đầu tháng 6 đến hết tháng 11, với trung bình mỗi năm có từ 4 đến 6 cơn bão đổ bộ vào đất nước. Bất kỳ cơn bão nhiệt đới nào ở đây đều được theo dõi và phát tin bởi Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia (NCHMF), đây là cơ quan khí tượng chính thức của quốc gia và được thành lập vào tháng 1 năm 2003. NCHMF theo dõi một cơn bão nếu nó đi vào phạm vi khu vực giám sát của cơ quan. nằm trong Biển Đông về phía tây 120°Đ và phía bắc 5°N . Bất kỳ cơn bão nào đi vào hoặc hình thành khu vực này đều được đánh số và được đặt theo thứ tự xuất hiện của nó trên biển Đông ví dụ như Bão số 1. Bão có nguồn gốc từ "暴', có nghĩa là hung dữ, bạo lực hoặc hung ác, nhưng trong tiếng Việt bản địa có nghĩa là "bão".
Một nghiên cứu để điều tra về mối tương quan giữa lượng mưa và xoáy thuận nhiệt đới trong mùa El Niño và La Niña, và cho thấy rằng có sự gia tăng lượng mưa và xoáy thuận nhiệt đới trong mùa La Niña.
Quy định về cảnh báo bão
Phát tin
Tin bão gần Biển Đông
Tin bão gần Biển Đông được ban hành khi bão hoạt động ở ngoài Biển Đông và có khả năng di chuyển vào Biển Đông trong 48 giờ tới.
Tin bão trên Biển Đông
Tin bão trên Biển Đông được ban hành khi bão hoạt động trên Biển Đông và có một trong các điều kiện sau:
Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam trên 1.000 km;
Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 500 đến 1.000 km và chưa có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới.
Tin bão gần bờ
Tin bão gần bờ được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:
Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 500 đến 1.000 km và có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới;
Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 300 đến dưới 500 km và chưa có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới.
Tin bão khẩn cấp
Tin bão khẩn cấp được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:
Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam dưới 300 km;
Vị trí tâm bão cách điểm gần nhất thuộc bờ biển đất liền Việt Nam từ 300 đến 500 km và có khả năng di chuyển về phía đất liền Việt Nam trong 48 giờ tới.
Tin bão trên đất liền
Tin bão trên đất liền được ban hành khi có một trong các điều kện sau:
Tâm bão đã đi vào đất liền Việt Nam và sức gió mạnh nhất vẫn còn từ cấp 8 trở lên;
Tâm bão đã đổ bộ vào nước khác, nhưng sức gió mạnh nhất vẫn còn từ cấp 8 trở lên và có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam trong 48 giờ tới.
Tin cuối cùng về cơn bão
Tin cuối cùng về cơn bão được ban hành khi có một trong các điều kiện sau:
Bão đã tan;
Bão đã đổ bộ vào nước khác hoặc ra khỏi lãnh thổ, không còn khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam;
Bão đã di chuyển ra ngoài Biển Đông và không có khả năng quay trở lại Biển Đông.
Thang bão
Theo Quyết định 18/2021/QĐ-TTg quy định về dự báo, cảnh báo, truyền tin thiên tai và cấp độ rủi ro thiên tai do Thủ tướng Chính phủ ban hành,:
Áp thấp nhiệt đới có sức gió cấp 6-7
Bão thường là có sức gió cấp 8-9,
Bão mạnh có sức gió cấp 10-11.
Bão rất mạnh có sức gió cấp 12-15.
Cấp 16 trở lên là siêu bão
Danh sách các cơn bão có tác động đến Việt Nam
Trước năm 1990
Một cơn bão mạnh đã tàn phá Hải Phòng năm 1881 khiến 3000 người thiệt mang
Bão Wendy với sức gió cấp 15 khiến 155 người chết tại Hải Phòng
Bão Vera năm 1983 đổ bộ vào Quảng Ninh với sức gió cấp 12-13; khiến ít nhất 3 người chết.
Bão Cecil năm 1985 đổ bộ vào Bình Trị Thiên với sức gió cấp 11-12, gây mưa lớn và lũ lụt khiến hơn 700 người chết
Bão Wayne năm 1986 đổ bộ vào Thái Bình với sức gió cấp 12, khiến hơn 490 người thiệt mạnhg
Các cơn bão Cecil, bão Dan, bão Brian năm 1989 liên tiếp đổ bộ vào miền Trung gây lũ lụt và thiệt hại nặng nề. Riêng bão Cecil đổ bộ trái mùa vào tháng 5, gây lũ lụt nghiêm trọng làm 700 người chết
Từ năm 1990-1999
Giai đoạn 2000-2009
Giai đoạn 2010-2019
Giai đoạn 2020-2029
Tài liệu
Đặc điểm Khí tượng Thủy văn 1993-2022, xem đặc điểm KTTV từ 1993-2012,năm 2004 năm 2022(sử dụng đường dẫn lưu trữ nếu liên kết không truy cập được) Các tài liệu năm 2013-2021 liên hệ Tổng cục KTTV hoặc Trung tâm DBKTTVQG.
Báo cáo của Việt Nam lên Ủy ban bão năm 2013.
Báo cáo thiệt hại các năm 2006-2020 của Tổng cục Phòng chống Thiên tai. Xem từ năm 2020-2022, 2006-2020.
Xem thêm
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương.
Tham khảo
Địa lý Việt Nam
Xoáy thuận nhiệt đới
Bão
|
19835142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%B4i%20mi%C3%AAn%20cao%20t%E1%BB%91c
|
Thôi miên cao tốc
|
Thôi miên cao tốc hay thôi miên trên đường là trạng thái thay đổi của ý thức (altered mental state, ASC), trong đó người lái ô tô có thể di chuyển một quãng đường dài, phản ứng với các sự kiện bên ngoài một cách an toàn và chính xác nhưng không nhớ mình đã làm như vậy một cách có ý thức. Ở trạng thái này, tâm trí có ý thức của người lái xe hoàn toàn tập trung vào nơi khác, trong khi dường như vẫn đang xử lý thông tin cần thiết để lái xe an toàn. Thôi miên cao tốc là biểu hiện tâm thần của quá trình tự động hóa.
Lịch sử thuật ngữ
Khái niệm này lần đầu tiên được mô tả trong một bài báo năm 1921 đề cập đến hiện tượng "thôi miên trên đường" (road hypnotism): lái xe trong trạng thái tựa như nhập định trong khi nhìn chằm chằm vào một điểm cố định. Một nghiên cứu năm 1929, Ngủ với đôi mắt mở (Sleeping with the Eyes Open) của Walter Miles, cũng đề cập đến chủ đề này, cho thấy rằng người lái xe có thể ngủ khi mắt vẫn mở và tiếp tục lái. Vào thập niên 1950, hiện tượng này đã được sử dụng để lý giải những vụ tai nạn ô tô không giải thích được. Thuật ngữ "thôi miên cao tốc" lần đầu được đề cập bởi giáo sư Griffith Wynne Williams vào năm 1963.
Khái niệm
Thôi miên xa lộ là một trạng thái hay xuất hiện trong lúc lái xe, đặc biệt là khi cảnh vật đơn điệu hoặc những con đường thường xuyên lặp đi lặp lại và quen thuộc (chẳng hạn như cảnh đường hầm hoặc đường cao tốc). Các biểu hiện cụ thể của thôi miên cao tốc là mất trí nhớ thoáng qua, thôi miên, ảo giác, giảm cảnh giác, không tập trung và ở trong trạng thái lái xe bất tỉnh. Trong trường hợp này, mặc dù người lái xe vẫn có thể duy trì trạng thái lái xe bình thường, tốc độ phản ứng sẽ chậm hơn đáng kể. Đặc biệt là trong các đường hầm và đường cao tốc, những nơi có cảnh vật đơn điệu vừa làm thôi miên cao tốc, vừa là địa điểm mà ô tô thường di chuyển với tốc độ cao. Khi tai nạn xảy ra thì thường nghiêm trọng.
Phân biệt với các khái niệm khác
Thôi miên cao tốc là một trạng thái có xu hướng xuất hiện trong một môi trường đơn điệu hoặc quen thuộc và dễ xảy ra, tăng cường, duy trì, chuyển giao và biến mất thường xuyên trong một khoảng thời gian, thôi miên cao tốc về cơ bản khác với việc mệt mỏi lái xe và mất tập trung khi lái xe:
Mệt mỏi lái xe được định nghĩa là trạng thái chuyển tiếp từ tỉnh táo sang ngủ, trong đó sự tỉnh táo, chức năng thể chất và tinh thần của người lái xe giảm do các yếu tố môi trường bên ngoài và các yếu tố sinh lý. Có thể xảy ra các triệu chứng cảm giác hoặc thể chất liên quan đến giấc ngủ, chẳng hạn như chớp mắt thường xuyên, ngáp và tư thế đầu bất thường.
Mất tập trung khi lái xe là trạng thái người lái xe chuyển sự chú ý của mình từ nhiệm vụ chính là lái xe sang các nhiệm vụ phụ không liên quan đến lái xe, gồm mất tập trung thị giác, mất tập trung nhận thức, mất tập trung thính giác và mất tập trung vận động. Cả hai hành vi lái xe bất thường nói trên đều có những điểm tương đồng với trạng thái thôi miên cao tốc, nhưng chúng khác nhau về cơ chế bên trong và biểu hiện ra bên ngoài.
So sánh các khái niệm
So với mệt mỏi lái xe, thôi miên cao tốc ít nghiêm trọng hơn và xảy ra nhiều lần trong một khoảng thời gian. Khi người lái xe ở trong trạng thái thôi miên cao tốc, họ thường không nhận thấy rằng mình đang ở trạng thái thôi miên cao tốc một cách chủ quan, tức là đang trong trạng thái lái xe vô thức. Khi người lái xe hết thôi miên cao tốc, họ chuyển sang trạng thái tỉnh táo đáng kể. Mặc dù người lái xe có thể không nhớ những gì đã xảy ra với họ khi thôi miên cao tốc, nhưng họ có một ký ức rõ ràng về việc gần đây đã trải qua trạng thái "choáng váng". Mệt mỏi lái xe thường khiến tài xế cảm thấy mệt mỏi chủ quan. Một khi xuất hiện, mệt mỏi sẽ ở trạng thái dai dẳng, và người lái xe cần có biện pháp thích hợp để khắc phục nó trước khi "sụp đổ" vì mệt.
So với việc mất tập trung khi lái xe, thôi miên cao tốc tương tự như mất tập trung nhận thức, trong đó sự chú ý của người lái xe không tập trung vào nhiệm vụ chính là lái xe. Điểm khác biệt là khi người lái xe bị thôi miên cao tốc, người đó vẫn đang thực hiện nhiệm vụ chính là lái xe. Còn trong trạng thái mất tập trung nhận thức, người lái xe đang thực hiện các hành động phụ tương ứng không liên quan gì đến việc lái xe.
Yếu tố ảnh hưởng
Tình trạng thôi miên cao tốc bị ảnh hưởng bởi chính nhiệm vụ lái xe và môi trường đường đi (quá đơn điệu, quen thuộc, nhạt nhẽo và lặp đi lặp lại), vì vậy đây là một hiện tượng đột ngột xảy ra trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên, nghiên cứu hiện nay chưa thể xác định chính xác về trạng thái thôi miên cao tốc và thiếu khung lý thuyết có giá trị và các giải pháp kỹ thuật áp dụng từ góc độ hệ thống con người - phương tiện - môi trường.
Phòng tránh
Để tránh hiện tượng như bị thôi miên này, hầu hết các cao tốc được thiết kế hạn chế tối đa các đường thẳng dài. Tại Việt Nam, Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 5729/2012 về đường cao tốc quy định không nên thiết kế các đoạn tuyến thẳng trên đường cao tốc dài quá 4 km và thay các đoạn thẳng quá dài bằng các đường vòng có góc chuyển hướng nhỏ với bán kính lớn (5-15 m) để chống đơn điệu và lóa mắt do pha đèn về ban đêm.
Tại Queensland, Úc, sau quyết định dỡ bỏ các trạm dừng chân cho tái xế chạy đường dài do các vi phạm quy định an toàn và sức khỏe, chính phủ Queensland đã lắp đặt các biển báo đố vui nhằm giúp tài xế chú ý đường đi, thảo luận cùng người trên xe và chờ biển báo tiếp theo mở gợi ý và đáp án, giảm thiểu khả năng chán nản và ngủ gật.
Xem thêm
Trí nhớ cơ bắp
Giấc ngủ ngắn
Lái xe thiếu ngủ
Dòng chảy (tâm lý học)
Tham khảo
Lái xe
|
19835147
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Integrase
|
Integrase
|
Integrase, hoặc gọi là enzym chỉnh hợp, là enzym trợ giúp virus phiên mã ngược mang DNA - thông tin di truyền của virus, chỉnh hợp vào trong DNA của túc chủ. Thông thường do virus tự thân mang vào, hơn nữa enzym chỉnh hợp không tồn tại ở tế bào túc chủ, cho nên có thể coi là một đích bắn thích hợp của thuốc kháng virus.
Tóm tắt
Các nhà nghiên cứu có thể đã tìm ra phương pháp mới để đối phó HIV, đó chính là ức chế một loại enzym HIV được gọi là enzym chỉnh hợp, nhà nghiên cứu đang thí nghiệm một loại thuốc mới, loại thuốc này có thể ức chế enzym chỉnh hợp, thông qua thí nghiệm trên thân khỉ, phát hiện loại thuốc này có thể kiểm soát được sự lây nhiễm của bệnh HIV/AIDS.
Enzym chỉnh hợp của HIV-1 là enzym thiết yếu cho quá trình nhân đôi của virus phiên mã ngược, nó thúc đẩy DNA của virus chỉnh hợp vào trong DNA nhiễm sắc thể của túc chủ để quá trình nhân đôi diễn ra nhanh hơn, nhưng mà trong tế bào con người không có chất tương tự, do đó trở thành mục tiêu giàu sức hấp dẫn và hợp lí cho việc chữa trị bệnh HIV/AIDS.
Có rất nhiều chất ức chế enzym chỉnh hợp của HIV-1 được giám định, trong đó một số hợp chất cho thấy hoạt tính ức chế có chọn lọc enzym chỉnh hợp HIV-1 và ngăn cản hoặc đứt gãy giữa chừng quá trình nhân đôi virus, và hai loại chất ức chế có ảnh hưởng nhất là hợp chất vòng thơm polyhydroxy chứa catechol và hợp chất aryl β-diketo acid được báo cáo gần đây.
Các loại hợp chất khác nhau của thuốc mới kháng HIV, bao gồm dẫn xuất Benzimidazole, Nucleoside, Polypeptide, hợp chất vòng thơm thay thế hydroxy và hợp chất diketo acid,...
Chỉnh hợp
Khái niệm
Chỉnh hợp virus (chữ Anh: viral integration), gọi tắt chỉnh hợp, là danh từ sinh học, chỉ quá trình virus đem vật liệu di truyền (DNA hoặc RNA) của bản thân nó ghép vào trong nhiễm sắc thể của tế bào túc chủ, những vật liệu di truyền này có thể dựa vào sự sao chép của tế bào túc chủ mà sao chép. Chỉnh hợp virus thường hay thông qua enzym chỉnh hợp để hoàn thành.
Phân loại
Chỉnh hợp virus có thể chia thành ba loại: chỉnh hợp cưỡng ép, chỉnh hợp ngẫu nhiên và phần tử virus nội sinh.
Chỉnh hợp cưỡng ép
Nếu chỉnh hợp virus là sự kiện cần thiết phải xảy ra trong quá trình nhân đôi virus, thì phương thức chỉnh hợp này được gọi là chỉnh hợp cưỡng ép. Virus chọn dùng phương thức chỉnh hợp này bao gồm virus thuộc họ Retroviridae (họ Virus phiên mã ngược), họ Pseudoviridae (họ Virus giả) và họ Metaviridae (họ Virus chuyển vị) cùng với một số virus thuộc họ Myoviridae (họ Thể phệ khuẩn có đuôi cơ bắp) và họ Siphoviridae (họ Thể phệ khuẩn có đuôi dài). Những virus này trong quá trình truyền nhiễm tế bào túc chủ, sự chỉnh hợp của vật liệu di truyền sẽ khiến cho bộ gen của virus vĩnh viễn ghép vào trong nhiễm sắc thể của tế bào túc chủ. Sự chỉnh hợp virus của họ Retroviridae về sau gọi là provirus (nguyên virus, en), sự chỉnh hợp virus làm truyền nhiễm tế bào sinh vật nhân sơ về sau gọi là prophage (nguyên thể phệ khuẩn, en).
Chỉnh hợp ngẫu nhiên
Chỉnh hợp ngẫu nhiên chỉ sự chỉnh hợp của virus hoàn toàn không cần thiết trong quá trình nhân đôi virus. Tuy nhiên, sau chỉnh hợp sẽ mang đến một số lợi ích cho virus hoặc tế bào túc chủ. Virus có thể tiến hành truyền nhiễm không triệu chứng (tiềm ẩn) một khoảng thời gian dài trong tế bào túc chủ, đồng thời tế bào túc chủ cũng có thể thu được một số tính trạng hữu ích. Rất nhiều độc tố vi khuẩn chính là do prophage sản sinh sau khi chỉnh hợp.
Phần tử virus nội sinh
Có một số virus thông qua cơ hội ngẫu nhiên và hiếm thấy mà chỉnh hợp vào trong nhiễm sắc thể của tế bào túc chủ, sau đó lưu tồn trong bộ gen của túc chủ sau khi đã từng trải một khoảng thời gian rất dài, gọi là virus nội sinh. Loại hình virus nội sinh đã biết bao gồm:
Virus phiên mã ngược nội sinh. Bộ gen virus sau chỉnh hợp có thể duy trì trạng thái tiềm ẩn lâu dài, nó cùng với bộ gen của túc chủ cùng nhau sao chép bị động và truyền gửi cho tế bào thế hệ sau. Việc phát sinh thay đổi điều kiện môi trường của túc chủ - tức là chỗ ở của vật chủ, có thể tái kích hoạt virus, dẫn đến sự phiên mã của virus và sản sinh virus truyền nhiễm (truyền nhiễm mang tính tăng sinh). Bộ gen virus phiên mã ngược đã chỉnh hợp vào trong gốc tế bào hoặc dòng tế bào của túc chủ được gọi là virus phiên mã ngược nội sinh. Loại truyền nhiễm virus này có khác biệt với sự truyền nhiễm virus theo chiều ngang. Virus phiên mã ngược ngoại sinh truyền nhiễm theo chiều ngang không truyền gửi đến tế bào thế hệ sau của túc chủ. Xem chi tiết Virus phiên mã ngược nội sinh.
Virus DNA chuỗi đơn nội sinh. Một số virus DNA chuỗi đơn nội sinh, ví dụ như họ Circoviridae (họ Virus vòng tròn), hoàn toàn không thể soạn mã cho integrase, nhưng đã bị phát hiện chỉnh hợp vào trong bộ gen của rất nhiều loài.
Chỉnh hợp virus RNA hiếm thấy. Virus RNA chuỗi đôi và RNA chuỗi đơn thông thường không thể chỉnh hợp vào trong bộ gen của túc chủ, nhưng trình tự gen virus thuộc họ Bornaviridae (họ Virus Borna), họ Filoviridae (họ Virus sợi tơ) và họ Totiviridae (họ Virus chỉnh thể), có thể được phát hiện trong bộ gen của nhiều loài động vật có vú.
Quá trình chỉnh hợp virus
Quá trình chỉnh hợp virus vô cùng phức tạp. Lấy virus phiên mã ngược như HIV (virus suy giảm miễn dịch ở người) làm ví dụ, quá trình chỉnh hợp có thể khái quát thành 6 bước trọng yếu:
Ở trong tế bào túc chủ, integrase kết hợp với trình tự xác định trong vùng trùng lặp đoạn cuối dài của DNA virus, sau đó còn kết hợp với nhiều loại protein của virus và protein của túc chủ hình thành phức hợp tiền chỉnh hợp (en).
Integrase cắt bỏ DNA của virus tại đoạn cuối 3', sản sinh mesosome trong đoạn cuối dính (en) làm nhô ra đầu 5'.
Phức hợp tiền chỉnh hợp thông qua phức hợp lỗ nhân mà di chuyển vào trong nhân tế bào của túc chủ.
Phức hợp tiền chỉnh hợp kết hợp DNA của túc chủ.
Integrase đem DNA của virus ghép vào trong khu vực do DNA của túc chủ chỉ định.
Sửa chữa các lỗ hổng được hình thành trong quá trình chuỗi DNA di chuyển, hoặc gọi là sửa chữa vết sứt (gap repair).
Nghiên cứu chất ức chế
Chất ức chế enzym chỉnh hợp HIV-1 do các nhà khoa học thuộc Công ty Merck & Co. khai mở phát triển, tháng 3 năm 2003 bắt đầu đi vào nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 1 ở Hoa Kì và Bỉ, đối tượng là tình nguyện viên chưa từng bị truyền nhiễm HIV. Nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 1 là giai đoạn đầu tiên nhất của thí nghiệm trên cơ thể người, mục đích chủ yếu là đánh giá tính an toàn, tính dung nạp và động lực học dược vật (mức độ chuyển hoá thuốc trong máu) của thuốc nghiên cứu. Theo tiến sĩ y học Jeffrey Chodakewitz - phó Chủ tịch Ban Nghiên cứu lâm sàng vaccine và Bệnh tật truyền nhiễm thuộc Công ty Merck & Co., Hoa Kì, nói rằng cho đến nay, có số ít tình nguyện viên khoẻ mạnh (không đến 70 người) đã tham dự nghiên cứu, họ về tổng thể dung nạp tốt đối với thuốc. Ông chú ý đến số liệu tiền lâm sàng hiện tại ủng hộ liều lượng mỗi ngày hai lần, giả sử tất cả nghiên cứu đều tiến hành thuận lợi, vẫn cần nghiên cứu thông qua lâm sàng để xác định liều lượng uống thuốc thích hợp.
Một bài nghiên cứu đăng tải trên tạp chí Science vào ngày 8 tháng 7 năm 2004 chỉ ra, báo cáo của công ty Merck nói rằng, khi khỉ bị HIV truyền nhiễm thời kì đầu dùng loại thuốc này, đã đóng vai trò bảo vệ rõ rệt đối với loài khỉ, do đó loọi thuốc này được gọi là chất ức chế enzym chỉnh hợp, thuốc cũng có hiệu quả đối với người bệnh nặng. Công ty Merck & Co. còn đang nghiên cứu một vài chất ức chế enzym chỉnh hợp, họ dùng một số tình nguyện viên tiến hành thí nghiệm, để tiện xác định loại thuốc này có an toàn không, có đủ tác dụng ức chế đối với virus lọc hay không.
Chú ý
Chú thích
Xem thêm
Liên kết ngoài
PDB-101 Molecule of the Month: 135 HIV Integrase
Integrase tại bảng chủ đề từ y học của Thư viện Y học Quốc gia Hoa Kì
Virus học
Enzyme
Enzyme virus
Vi sinh vật học
|
19835149
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i%20qu%C3%A2n%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20Tri%E1%BB%81u%20Ti%C3%AAn
|
Hải quân Nhân dân Triều Tiên
|
Hải quân Nhân dân Triều Tiên (KPANF; tiếng Triều Tiên: 조선인민군 해군; Hanja: 朝鮮人民軍 海軍; Chosŏn-inmingun Haegun) hoặc Hải quân Triều Tiên (KPN), là binh chủng hải quân của Quân đội Nhân dân Triều Tiên.
Chú thích
Liên kết ngoài
Korean People's Army Navy
US Navy Ship Classification Symbols
Military and Security Developments Involving the Democratic People's Republic of Korea 2012
“Everything You Need to Know about North Korea's Navy” National Interest
Quân đội Nhân dân Triều Tiên
Đơn vị quân sự thành lập năm 1946
|
19835162
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng%20tre%20Ph%C3%BA%20An
|
Làng tre Phú An
|
Làng tre Phú An là khu bảo tồn tre lớn nhất và đầu tiên của Việt Nam. Tên đầy đủ là Khu Bảo tàng sinh thái tre và bảo tồn thực vật Phú An.
Tổng quan
Làng tre Phú An cách TP. Hồ Chí Minh khoảng 42 km và cách TP. Thủ Dầu Một khoảng 11 km, vị trí nằm tại số 124, đường 744, xã Phú An, thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Khu bảo tồn tre có diện tích 10,0 ha, với 300 mẩu, gồm 17 giống tre, trúc, nứa, chiếm khoảng 90% giống tre Việt Nam, nhiều giống quý như phyllostachys, bambusa, teinostachyum, mai ống, vàng sọc, tre vuông, mạy muồi, luồng, vầu, trúc Cao Bằng, tre mét, hóp,...Tre tập trung thành 1.500 bụi tre.
Làng tre về chức năng được chia làm 2 khu vực: khu vực bảo tồn và khu nghiên cứu. Địa hình của khu được tạo thành gò đất đối với các giống vùng cao và thấp trũng với các giống sống ở vùng sông nước. Hệ thống nước tưới tiêu được thiết kế bởi kỹ sư người Pháp Jacques Gurgand theo phương pháp tưới nhỏ giọt.
Lịch sử
Dự án được hình thành dựa trên ý tưởng khoa học của Tiến sĩ Diệp Thị Mỹ Hạnh, giảng viên Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia TP. HCM từ năm 1999. Năm 2003, Dự án Khu bảo tàng sinh thái tre và bảo tồn thực vật Phú An (Làng tre Phú An) ra đời. Dự án là chương trình hợp tác giữa UBND tỉnh Bình Dương, vùng Rhône - Alpes (Pháp), Vườn thiên nhiên Pilat (Pháp) và Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TP. HCM. Chính quyền vùng Rhône - Alpes đã tài trợ 600.000 euro, chính quyền tỉnh Bình Dương đã cấp 10 ha đất cho bà Hạnh.
Khu được xây dựng năm 2004 và vào năm 2008 đưa vào khai thác du lịch. Năm 2016, Làng tre Phú An được công nhận là thành viên của Hiệp hội các Vườn thực vật nói tiếng Pháp. Vào tháng 9 năm 2022, Hội tre Thế giới chọn Làng tre Phú An là nơi tổ chức Hội thảo Tre thế giới lần thứ tư. Theo một thống kê tính đến năm 2021, Làng tre Phú An hàng năm đón hơn 30.000 lượt khách đến để tham quan và nghiên cứu.
Giải thưởng
Năm 2010, Làng tre Phú An nhận Giải thưởng Xích đạo (Equator Prize) của Liên hợp quốc về đa dạng sinh học, phục vụ cho phát triển cộng đồng, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Chú thích
Liên kết ngoài
Video:
Khu du lịch sinh thái
Bình Dương
|
19835163
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A2u%20B-Lynch
|
Khâu B-Lynch
|
Khâu B-Lynch hay thủ thuật B-Lynch là một dạng khâu phâu thuật trong sản khoa. Thủ thuật này được sử dụng để chèn ép tử cung khi tử cung bị đờ gây nên chảy máu sau đẻ (băng huyết sau sinh). Bác sĩ ngoại sản phụ khoa thuộc Bệnh viện Đa khoa Milton Keynes, Milton Keynes, Buckinghamshire, Anh, ông Christopher B-Lynch là người phát triển thủ thuật. Bác sĩ B-Lynch sinh năm 1947 tại Sierra Leone, tên khai sinh là Christopher Balogun-Lynch.
Thủ thuật này được mô tả lần đầu vào năm 1997, có thể ngăn chặn chảy máu sau đẻ mà không cần phẫu thuật vùng chậu và có khả năng bảo tồn cơ quan sinh dục. Đây được coi là "hình thức tiếp cận phẫu thuật tốt nhất để kiểm soát chảy mái sau đẻ do đờ tử cung vì nó giúp bảo tồn tính toàn vẹn về mặt giải phẫu của tử cung."
Trong thủ thuật này, chỉ khâu tự tiêu được sử dụng tại chỗ, không cần cắt chỉ và thường không gây ra vấn đề gì cho việc mang thai sau này.
Hiệu quả
Theo nghiên cứu hồi cứu tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội, Việt Nam (từ 2018 đến 2020) trên 78 sản phụ bị chảy máu sau đẻ sử dụng khâu B-Lynch, tỷ lệ thành công giữ được tử cung ở những bệnh nhân khâu B-Lynch đạt 97,4%, không có trường hợp nào gặp biến chứng gần sau khâu Blynch.
Tham khảo
Thủ thuật sản khoa
|
19835166
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%BFng%20th%C3%A1nh
|
Giếng thánh
|
Giếng thánh (Holy well) hay Suối thiêng (Sacred spring) là những cái giếng, dòng suối hoặc ao nước nhỏ mà được người ta tôn kính trong bối cảnh Cơ Đốc giáo hoặc Ngoại giáo (Pagan) hoặc đôi khi là cả hai. Nước thánh múc từ giếng thánh thường được cho là có khả năng chữa bệnh nhờ sự hiện diện thần thánh của thần hộ mệnh hoặc vị thánh Cơ Đốc giáo. Thường có những truyền thuyết địa phương gắn liền với các vị thánh, ví dụ như trong truyền thuyết Cơ đốc giáo, nước ở đây thường được cho là do một vị thánh hành động khiến cho nước trong nguồn chảy ra. Giếng thánh cũng thường là nơi tổ chức nghi lễ và hành hương, là nơi người ta cầu nguyện và để lại đồ cúng. Giếng thánh dưới nhiều hình thức khác nhau xuất hiện ở nhiều nền văn hóa, môi trường tôn giáo và thời kỳ lịch sử khác nhau đến mức dường như việc tôn kính nguồn nước là một bản năng phổ biến của con người.
Tổng quan
Có nhiều bằng chứng về tầm quan trọng của giếng và suối thiêng ở La Mã và thời kỳ cận La Mã, không chỉ ở các khu phức hợp đền thờ như Bath (Somerset), Chedworth (Gloucestershire) và Blunsdon Ridge (Wiltshire) có con suối chữa bệnh, nhưng có nhiều địa điểm nhỏ hơn có những cái các giếng và trục nghi lễ được dùng các nghi lễ phụ tôn giáo. Ở các vùng Celtic thì những dải vải thường được buộc vào cây ước nguyện ở cạnh giếng thánh, được gọi là giếng Clootie. Giếng Thánh Bernard tại Stockbridge gần Edinburgh đã có năm từ 1800.
Trong tiếng Anh thì thuật ngữ Haeligewielle có nguồn gốc từ một địa danh Anglo-Saxon gắn liền với các dòng suối cụ thể trong một cảnh quan việc sử dụng hiện tại của cụm từ này đã phát sinh thông qua các học giả văn hóa dân gian, các nhà nghiên cứu đồ cổ và các nhà văn khác khái quát từ những Giếng thánh thực tế đó, còn tồn tại cho đến kỷ nguyên thời hiện đại, ngoài ra thì thuật ngữ hố thánh (Holy-hole) đôi khi cũng được sử dụng. Cơ đốc giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các giếng thánh ở Châu Âu và Trung Đông. Vì chúng có mối liên hệ chặt chẽ với việc sùng bái các vị thánh, nhiều giếng ở các quốc gia chuyển đổi sang hình thức Tin lành của Cơ đốc giáo đã không còn được sử dụng, Giếng Thánh tại Walsingham (Norfolk) vốn là một yếu tố không thể thiếu trong cuộc hành hương đến đền thờ Đức Trinh Nữ Maria trong làng, đã biến mất hoàn toàn.
Chú thích
Tham khảo
Bord, J. & C. 1985. Sacred Waters. London: Granada.
Dumézil, Georges. 1970. Archaic Roman Religion, I. Transl. by Krapp P. Chicago: University of Chicago Press.
Harte, J. 2000. Holey Wells and other Holey Places. Living Spring Journal 1.
Lefèvre, Eckard. 1988. Plinius-Studien : IV : Die Naturauffassung in den Beschreibungen der Quelle am Lacus Larius (4,30), des Clitumnus (8,8) und des Lacus Vadimo (8,20). Gymnasium 95: 236–269.
Ninck, M. 1960. Die Bedeutung des Wassers im Kult und Leben der Alten. Eine symbolgeschichtliche Untersuchung. Darmstadt : Wiss. Buchgesellschaft.
Stoddart, John. 1800. Remarks on Local Scenery and Manners in Scotland. London: William Miller.
Varner, Gary R. 2009. Sacred Wells: A Study in the History, Meaning, and Mythology of Holy Wells and Waters. 2nd ed. New York: Algora Publishing. .
Wall, J. Charles. 1912. Porches & Fonts. London: Wells Gardner & Darton.
Liên kết ngoài
Cornish ancient and holy wells
Russian holy wells and sacred springs Full HD photos
Source Magazine online archive
The Living Spring Journal
The Megalithic Portal
The National Wells Index, dedicated to promoting information about and preservation of holy wells
Wells and Spas, the online discussion list for wells and spas
Xem thêm
Nước thánh
Vùng nước thiêng
Bánh thánh
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Tâm linh
|
19835177
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Denis%20Irwin
|
Denis Irwin
|
Joseph Denis Irwin (sinh ngày 31 tháng 10 năm 1965) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp và người dẫn chương trình truyền hình thể thao người Ireland.
Khi còn là cầu thủ, ông chơi ở vị trí hậu vệ cánh từ năm 1983 đến năm 2004. Irwin được biết đến nhiều nhất với thời gian dài thi đấu thành công tại Manchester United , nơi ông khẳng định mình là một trong những cầu thủ quan trọng nhất trong đội Manchester United đã giành được nhiều chức vô địch quốc nội. Ông được Alex Ferguson coi là bản hợp đồng vĩ đại nhất từ trước đến nay của ông. Trước đó trong sự nghiệp của mình, anh ấy đã chơi cho Leeds United và sau đó là Oldham Athletic , và kết thúc sự nghiệp của mình với hai năm thi đấu tại Wolverhampton Wanderers , câu lạc bộ mà ông ấy ủng hộ khi còn nhỏ.
Irwin đã khoác áo Đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Ireland 56 lần, ghi 4 bàn và góp mặt cùng đội tuyển lọt vào vòng hai (vòng 16 đội) tại FIFA World Cup 1994 . Irwin là cầu thủ bóng đá người Ireland thành công nhất trong lịch sử, kỷ lục mà anh chia sẻ với cầu thủ đồng hương của Manchester United là Roy Keane , khi đã giành được 19 danh hiệu trong sự nghiệp.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tỷ số của Cộng hòa Ireland được liệt kê đầu tiên, cột tỷ số biểu thị tỷ số sau mỗi bàn thắng của Irwin
Danh hiệu
Oldham Athletic
Football League Cup á quân: 1989–90
Manchester United
Premier League: 1992–93, 1993–94, 1995–96, 1996–97, 1998–99, 1999–2000, 2000–01
FA Cup: 1993–94, 1995–96, 1998–99; á quân: 1994–95
Football League Cup: 1991–92; á quân: 1990–91, 1993–94
FA Charity Shield: 1990 (đồng đoạt cúp), 1993, 1996, 1997
UEFA Champions League: 1998–99
European Cup Winners' Cup: 1990–91
European Super Cup: 1991
Intercontinental Cup: 1999
Wolverhampton Wanderers
Football League First Division play-offs: 2003
Tham khảo
Sinh năm 1965
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 1994
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Leeds United F.C.
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Manchester United F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Oldham Athletic A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Ireland
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Cộng hòa Ireland
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-23 quốc gia Cộng hòa Ireland
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Cộng hòa Ireland
Cầu thủ bóng đá Wolverhampton Wanderers F.C.
|
19835179
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20k%E1%BB%B3%20Uganda
|
Quốc kỳ Uganda
|
Quốc kỳ Uganda (tiếng Luganda: Bendera ya Uganda) được thông qua vào ngày 9 tháng 10 năm 1962, ngày Uganda giành được độc lập khỏi Đế quốc Anh. Lá cờ bao gồm sáu dải ngang rộng bằng nhau có thứ tự màu đen (trên cùng), vàng, đỏ, đen, vàng và đỏ. Ở giữa lá cờ có một vòng tròn màu trắng với biểu tượng quốc gia, sếu vương miện xám (Balearica regulorum), quay mặt về phía kéo cờ.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Anh sử dụng Cờ hiệu hàng hải của Anh đã xóa phù hiệu thuộc địa, theo quy định năm 1865. Buganda, vương quốc dân tộc lớn nhất ở thuộc địa Uganda, có cờ riêng. Tuy nhiên, để tránh việc thiên vị một khu vực thuộc địa hơn bất kỳ khu vực nào khác, chính quyền thuộc địa Anh đã chọn biểu tượng con sếu để sử dụng trên Cờ hiệu hàng hải và các biểu ngữ chính thức khác.
Lịch sử
Khi Đảng Dân chủ nắm quyền cai trị đất nước, họ đã đề xuất thiết kế quốc kỳ có các sọc dọc màu xanh lục-xanh lam-xanh lục, ngăn cách bằng các sọc vàng hẹp hơn và ở giữa có hình một con sếu màu vàng. Sau khi đảng này thất bại trong cuộc bầu cử quốc gia vào ngày 25 tháng 4 năm 1962, đảng mới được bầu, Đại hội Nhân dân Uganda (UPC), bác bỏ thiết kế cũ và đề xuất thiết kế khác, tức là loại hiện tại. Nó dựa trên cờ UPC, một lá cờ ba màu có các sọc ngang màu đỏ, vàng và đen. Chính quyền Anh đã chấp thuận quốc kỳ mới trước khi đất nước giành được độc lập. Lá cờ được thiết kế bởi C. Todd, Giáo sư người Mỹ thuật tại Đại học Makerere. Ông cũng thiết kế Quốc huy Uganda và nhiều biểu tượng khác mà ông đã đăng ký với Trường Cao đẳng Vũ khí ở Luân Đôn.
Các đặc điểm trên quốc kỳ Uganda
Ba màu đại diện cho các nhóm dân tộc ở châu Phi (đen), bình minh châu Phi (vàng) và tình anh em châu Phi (màu đỏ là màu của máu, qua đó tất cả người châu Phi được kết nối với nhau). Sếu vương miện xám được coi là biểu tượng vì bản chất hiền lành và cũng là huy hiệu quân sự của binh lính Uganda suốt thời kỳ cai trị của Đế quốc Anh. Chân sếu giơ lên tượng trưng cho tinh thần tiến lên phía trước của đất nước.
Các lá cờ khác
Cờ quân sự
Tham khảo
Biểu tượng quốc gia Uganda
Cờ châu Phi
Giới thiệu năm 1962
Uganda
|
19835183
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Con%20n%E1%BB%A3
|
Con nợ
|
Con nợ là một chủ thể pháp lý (người pháp lý) có nghĩa vụ phải trả tiền cho một chủ thể khác. Chủ thể này có thể là cá nhân, công ty, chính phủ, doanh nghiệp hoặc tổ chức pháp lý khác. Bên đối tác được gọi là chủ nợ. Nếu X vay tiền ngân hàng, X là bên nợ và ngân hàng là bên chủ nợ. Nếu X gửi tiền vào ngân hàng, X là bên chủ nợ và ngân hàng là bên nợ.
Không trả nợ không phải là tội phạm, trừ một số trường hợp phá sản nhất định. Bên nợ có thể chọn trả nợ theo bất kỳ thứ tự ưu tiên nào họ chọn. Tuy nhiên, nếu một người không trả nợ, họ đã vi phạm hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa họ và chủ nợ. Nói chung, hầu hết các thỏa thuận trả nợ tiêu dùng bằng miệng và văn bản đều có thể thực thi được.
Xem thêm
Vay tiền
Tín dụng đen
Ngân hàng
Tổ chức tài chính
Chú thích
Nợ
|
19835192
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%91n%20n%E1%BB%A3
|
Trốn nợ
|
Trốn nợ hay còn gọi bùng nợ, quỵt nợ là hành vi cố tình tìm cách né tránh các nỗ lực thu hồi nợ của chủ nợ. Ở mức độ cơ bản, điều này bao gồm việc từ chối trả lời điện thoại, lọc cuộc gọi hoặc bỏ qua các cuộc gọi từ chủ nợ, bỏ qua các thông báo được gửi qua thư, các thông báo nhắc nhở thanh toán hoặc thông báo về việc khởi kiện.
Ở những trường hợp phức tạp hơn, điều này bao gồm việc lừa dối chủ nợ tin rằng con nợ không cư trú tại địa điểm mà chủ nợ đang cố gắng liên hệ. Chuyển nhà mà không thông báo cho chủ nợ, thay đổi số điện thoại, địa chỉ email, hoặc sử dụng tên giả. Tẩu tán tài sản để tránh trả nợ, bán tài sản hoặc chuyển tài sản cho người khác.
Xem thêm
Con nợ
Chủ nợ
Tín dụng
Chú thích
Đòi nợ
Luật hợp đồng
Nợ
|
19835193
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%AFm%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%C4%91%C3%A1
|
Tắm nước đá
|
Tắm nước đá (Ice bath) hoặc đôi khi gọi là Ngâm nước lạnh (Cold-water immersion) hoặc Trị liệu bằng nước lạnh (Cold therapy) là một chế độ luyện tập thường diễn ra sau một thời gian tập luyện cường độ cao trong thể thao theo phương pháp này thì người ta sẽ ngâm một phần đáng kể thân thể trong bồn tắm nước đá, hay nước băng giá (gọi là tắm băng) hoặc nước đá trong một khoảng thời gian giới hạn. Mặc dù nó ngày càng trở nên phổ biến và được các vận động viên ở nhiều môn thể thao khác nhau chấp nhận nhưng phương pháp này đang gây tranh cãi bởi nó có nguy cơ gây ra hạ thân nhiệt, có khả năng bị sốc dẫn đến đột tử. Tắm nước đá tồn tại như một hoạt động bên ngoài thế giới thể thao và tập thể dục.
Đại cương
Nhiều vận động viên đã ngâm mình trong nước lạnh sau khi tập luyện cường độ cao với niềm tin rằng nó giúp cơ thể mau phục hồi, tuy nhiên, các quá trình vật lý bên trong thân thể vẫn chưa được hiểu rõ và vẫn khó nắm bắt, bằng chứng ủng hộ việc ngâm mình trong nước lạnh như một phần của chế độ luyện tập thể thao vẫn chưa có kết luận thuyết phục với một số nghiên cứu cho thấy một số lợi ích nhẹ như giảm tổn thương và khó chịu ở cơ và giảm bớt chứng đau nhức cơ bắp khởi phát muộn với các nghiên cứu khác cho thấy rằng ngâm mình trong nước lạnh có thể làm chậm sự phát triển của cơ bắp và cản trở chế độ tập luyện tổng quát. Năm 2014 rộ lên phong trào thử thách Dội nước đá lên đầu (Ice Bucket Challenge).
Tắm đá có nguồn gốc trước đây được sử dụng để chống lại sự tiếp xúc với nhiệt độ cực cao ở một số nền văn hóa như người Maya ở Yucatan đã sử dụng phương pháp “tắm nước đá [và] tắm nước đá” như một “phương pháp điều trị say nắng”, sắc dân này phân loại các đối tượng và quá trình trong cuộc sống của họ có liên quan đến sức khỏe là “nóng” và “lạnh” và luôn cố gắng cân bằng cả hai. Trong bối cảnh này, sự cần thiết và số liệu thống kê về việc tắm nước đá không còn phù hợp nữa, vì việc thực hành này đúng hơn là một “sự thích nghi hành vi” đối với những người bản địa này. Mặc dù những lợi ích về mặt thể chất của việc tắm nước đá được coi là không đáng để mạo hiểm nhưng vẫn có nhiều người tin rằng việc tập luyện này cực kỳ có lợi cho sức khỏe tinh thần của một người, tắm nước đá thực sự không cần thiết nhưng có thể có tác động cực kỳ tích cực đối với một số người và không được bỏ qua như một cơ chế cải thiện sức khỏe tâm thần của một người.
Chú thích
Xem thêm
Công viên nước (Water park)
Máng trượt nước (Water slide)
Thuyền tham quan (Boatsnap)
Biển nhân tạo (Beach club)
Nhà tắm công cộng (Public bathing)
Bể bơi công cộng (Public swimming pool)
Trị liệu
|
19835203
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Advanced%20Tactical%20Fighter
|
Advanced Tactical Fighter
|
Chương trình Máy bay tiêm kích chiến thuật tiên tiến-Advanced Tactical Fighter (ATF) là một chương trình phát triển của Không quân Hoa Kỳ nhằm phát triển máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không thế hệ mới nhằm đối phó lại các tiêm kích thế hệ mới của Liên Xô là Sukhoi Su-27 và Mikoyan MiG-29 vào những năm 1980s, máy bay cảnh báo sớm Beriev A-50 (AWACS), và các hệ thống phòng không của đối phương. Lockheed và Northrop được lựa chọn để phát triển YF-22 và YF-23 vào năm 1986. Những máy bay này được đánh giá vào năm 1991 và thiết kế của Lockheed đã được lựa chọn để phát triển ở mức toàn diện, và sau đó YF-22 trở thành F-22 Raptor.
Lịch sử
Bối cảnh
Vào năm 1981, Không quân Mỹ bắt đầu đưa ra yêu cầu về loại máy bay chiếm ưu thế trên không mới để thay thế cho F-15 Eagle. Tháng Năm năm 1981 bản yêu cầu thiết kế sơ bộ-request for information (RFI) cho loại máy bay tiêm kích chiến thuật tiên tiến Advanced Tactical Fighter (ATF) đã được Cơ quan hệ thống hàng không (Aeronautical Systems Division (ASD)) của Không quân Hoa Kỳ đưa ra, tiếp theo là bản yêu cầu kỹ thuật cho động cơ của máy bay thế hệ mới vào tháng Sáu. Các bản thiết kế nhanh chóng được các nhà thầu quốc phòng đưa ra. Điểm chung trong các thiết kế là tàng hình, STOL và khả năng bay hành trình siêu âm. Các nhà thiết kế hình dung ra rằng máy bay thế hệ mới sẽ kết hợp các công nghệ mới nổi là hợp kim và vật liệu composite tiên tiến, hệ thống điều khiển bay bằng dây tiên tiến, hệ thống động cơ công suất cao hơn và có công nghệ tàng hình.
Tháng Chín năm 1983, các nghiên cứu đã đưa ra bảy mẫu khung máy bay để tiếp tục đánh giá. Cuối năm 1984, yêu cầu kỹ thuật dành cho ATF đã đặt ra máy bay tiêm kích mới phải có mức trọng lượng cất cánh khoảng , bán kính thực hiện nhiệm vụ , có khả năng bay hành trình tốc độ siêu âm Mach 1,4–1,5 và có khả năng sử dụng đường băng chỉ . Yêu cầu đề xuất đối với động cơ máy bay tiên tiến (Joint Advanced Fighter Engine (JAFE))được đưa ra vào tháng 5 năm 1983. Pratt & Whitney và General Electric dành được hợp đồng phát triển động cơ mới, và nguyên mẫu đã được chế tạo vào tháng Chín năm 1983.
Request for proposals
Yêu cầu đề xuất-request for proposals (RFP) cho loại tiêm kích mới được đưa ra vào tháng Chín năm 1985. RFP sẽ có một số thay đổi sau khi đưa ra lần đầu tiên; tháng Mười hai năm 1985, các yêu cầu về khả năng tàng hình của loại máy bay mới đã tăng lên đáng kể và vào tháng 5 năm 1986, Không quân Mỹ đã thay đổi RFP để đưa ra lựa chọn cuối cùng sẽ được áp đặt lên nguyên mẫu bay thử. Ngoài ra, Hải quân Mỹ, sau khi tiến hành chương trình máy bay tiêm kích Hải quân tiên tiến-Navalized Advanced Tactical Fighter (NATF), đã đưa ra tuyên bố Hải quân Mỹ sẽ sử dụng phiên bản Hải quân của chương trình ATF để thay thế cho F-14 Tomcat. Tháng Bảy năm 1986, đề xuất thiết kế được đưa ra bởi Boeing, General Dynamics, Lockheed, Northrop, McDonnell Douglas. Hai nhà thầu Lockheed và Northrop đã được lựa chọn vào tháng Mười năm 1986 để bước vào giai đoạn trình diễn thử nghiệm trong vòng 50 tháng, kết quả là sự ra đời của hai nguyên mẫu YF-22 và YF-23. Theo thỏa thuận giữa Lockheed, General Dynamics, và Boeing, các công ty sẽ cùng nhau phát triển thiết kế máy bay mới, dù cho thiết kế của hãng nào được chọn. Northrop và McDonnell Douglas cũng đồng ý với cách làm trên.
Cả hai nhà thầu đều quan tấm đến nghiên cứu về hiệu suất và tính kinh tế trình bày chúng trong các đánh giá yêu cầu hệ thống SRR với Không quân Mỹ. Điều này giúp USAF điều chỉnh lại RFP cho phù hợp và giảm chi phí trong khi vẫn đủ đảm bảo yêu cầu vận hành đề ra. Do các trọng lượng tăng thêm gồm vòi phun lực đẩy vecto và các hệ thống liên quan trên máy bay thử nghiệm F-15 S/MTD, Không quân Mỹ đã thay đổi yêu cầu về đường băng lên và loại bỏ động cơ phụ cuối năm 1987. Ngoài ra để giảm giá thành, radar nhìn cạnh bên cũng được loại bỏ và bộ tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại (IRST) đã giảm từ mức chắc chắn trang bị thành mục tiêu trang bị Trang bị ghế phóng cũng được hạ cấp từ thiết kế mới xuống ghế phóng ACES II của McDonnell Douglas. Bất chấp những nỗ lực của các kỹ sư để hạn chế trọng lượng của máy bay, ước tính tổng trọng lượng cất cánh đã tăng từ lên , đã khiến lực đẩy động cơ phải tăng từ lên .
Hai động cơ đã được trang bị cho hai nguyên mẫu thử nghiệm tính năng: một với động cơ General Electric YF120 và chiếc còn lại sử dụng động cơ Pratt & Whitney YF119. Nguyên mẫu chiếc YF-23 thực hiện chuyến bay đầu vào ngày 27 tháng Tám năm 1990 còn nguyên mẫu YF-22 lần đầu cất cánh vào ngày 29 tháng Chín năm 1990. Các chuyến bay thử nghiệm đã được thực hiện ngay sau đó và bổ sung thêm mỗi loại một nguyên mẫu cuối tháng Mười năm 1990. Chiếc YF-23 đầu tiên trang bị động cơ của Pratt & Whitney có chuyến bay hành trình ở tốc độ siêu âm Mach 1,43 ngày 18 tháng Chín năm 1990 và chiếc YF-23 trang bị động cơ của General Electric đạt tới tốc độ Mach 1,71 vào ngày 29 tháng Mười một năm 1990. YF-22 trang bị động cơ GE đạt vận tốc hành trình siêu âm Mach 1,58. Việc bay thử nghiệm được tiếp tục cho đến tháng Mười hai năm 1990. Sau khi đã tiến hành bay thử nghiệm, các nhà thầu gửi bản đề xuất cho việc chế tạo ATF.
Lựa chọn máy bay thế hệ mới
Sau khi việc bay thử nghiệm của hai mẫu máy bay hoàn tất, Không quân Mỹ đã đưa ra quyết định sẽ lựa chọn Lockheed YF-22 cùng với động cơ Pratt & Whitney là mẫu máy bay chiến thắng trong cuộc cạnh tranh máy bay thế hệ mới, và sẽ được đưa vào phát triển và sản xuất hàng loạt vào ngày 23 tháng Tư năm 1991. Trong khi cả hai nguyên mẫu đều đạt những yêu cầu đề ra, nguyên mẫu YF-23cos mức độ tàng hình cao hơn và bay nhanh hơn nhưng YF-22 lại linh hoạt hơn.
Đội ngũ thiết kế của Lockheed đã dành được hợp đồng phát triển và chế tạo máy bay tiêm kích tàng hình thế hệ mới vào tháng Tám năm 1991 August 1991. Nguyên mẫu YF-22 đã được phát triển và trở thành F-22 Raptor, bay lần đầu vào tháng Chín năm 1997 và bắt đầu trang bị tháng Mười hai năm 2005. Thiết kế của Northrop YF-23 sau đó được công ty sửa đổi thành thiết kế máy bay ném bom, nhưng đề xuất vẫn chưa trở thành hiện thực.
See also
Have Dash
Joint Strike Fighter program
Ghi chú
References
Citations
Bibliography
Goodall, James C. "The Lockheed YF-22 and Northrop YF-23 Advanced Tactical Fighters". America's Stealth Fighters and Bombers, B-2, F-117, YF-22, and YF-23. St. Paul, Minnesota: MBI Publishing Company, 1992. .
Jenkins, Dennis R. and Tony R. Landis. Experimental & Prototype U.S. Air Force Jet Fighters. North Branch, Minnesota: Specialty Press, 2008. .
Miller, Jay. Lockheed Martin F/A-22 Raptor, Stealth Fighter. Hinckley, UK: Midland Publishing, 2005. .
Pace, Steve. F-22 Raptor. New York: McGraw-Hill, 1999. .
Sweetman, Bill. YF-22 and YF-23 Advanced Tactical Fighters. St. Paul, Minnesota: Motorbooks International Publishing, 1991. .
|
19835208
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20k%E1%BB%B3%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Trung%20Phi
|
Quốc kỳ Cộng hòa Trung Phi
|
Quốc kỳ Cộng hòa Trung Phi (; ) được chính thức phê chuẩn vào năm 1958. Thiết kế cờ giữ nguyên đến nay, với bốn sọc ngang màu xanh lam, trắng, xanh lá cây và màu vàng và một dải dọc màu đỏ. Có một ngôi sao năm cánh màu vàng ở góc trên bên trái.
Thiết kế
Thiết kế bao gồm bốn sọc ngang, một sọc dọc và một ngôi sao năm cánh màu vàng ở góc trên bên trái. Màu sắc được chọn tượng trưng cho nước Pháp (xanh dương và trắng) và châu Phi (xanh lá cây và vàng) với sọc dọc màu đỏ kết nối cả hai với hàm ý kêu gọi sự thống nhất và sự tôn trọng mà người châu Âu và châu Phi nên dành cho nhau. Ngôi sao màu vàng đại diện cho sự độc lập, cũng như là biểu tượng của tính thống nhất, tiến bộ và khoan dung của người châu Phi. Hiến pháp của Cộng hòa Trung Phi mô tả lá quốc kỳ là "bốn dải ngang có kích thước bằng nhau có màu xanh lam, trắng, xanh lá cây và vàng, được ngăn vuông góc ở giữa bằng một dải màu đỏ có kích thước tương tự, và có một ngôi sao năm cánh màu vàng ở góc trên bên trái."
Dựng hình
Màu sắc
Lịch sử
Quốc kỳ Cộng hòa Trung Phi do Barthélemy Boganda thiết kế, người sau này trở thành tổng thống đầu tiên của nước này. Ban đầu nó được dự định là lá cờ của Hợp chủng quốc Châu Phi Latinh (United States of Latin Africa), do ông đề xuất vào năm 1957. Lá cờ được Hội đồng Lập pháp Ubangi-Shari phê chuẩn vào ngày 1 tháng 12 năm 1958. Vào thời điểm nó được công bố, Boganda tuyên bố trước Hội đồng Lập pháp quốc gia rằng "Những màu sắc đó tượng trưng cho bốn vùng lãnh thổ cấu thành Châu Phi Xích Đạo thuộc Pháp, nhưng cũng là những người soi đường cho chúng tôi, Chính quốc Pháp, xuất phát từ trái tim tôi. Sọc đỏ cắt ngang bốn màu là biểu tượng cho máu của chúng tôi. Tương tự như những gì chúng tôi đã làm khi nước Pháp gặp nguy hiểm, chúng tôi cũng sẽ đổ máu vì Châu Phi và để bảo vệ Cộng hòa Trung Phi, thành viên của Cộng đồng Pháp."
Tổng thống Jean-Bédel Bokassa đã xem xét việc thay thế lá cờ vào năm 1976, sau khi ông chuyển sang Hồi giáo dưới ảnh hưởng của nhà lãnh đạo Libya Muammar Gaddafi. Đề xuất là thay đổi hoàn toàn lá cờ để làm nổi bật hình lưỡi liềm và ngôi sao. Tuy nhiên, đề xuất này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, vì vài tháng sau Đế quốc Trung Phi được thành lập dưới thời Bokassa, với tư cách là Hoàng đế Bokassa I. Ngày 4 tháng 12 cùng năm, một Hiến pháp mô tả cả biểu tượng để Hoàng đế sử dụng cho mục đích cá nhân và lá cờ hiện tại được tái sử dụng làm quốc kỳ của Đế quốc. Cờ Hoàng đế có màu xanh lục nhạt, với một con đại bàng màu vàng được đặt trên một ngôi sao vàng 20 cánh ở giữa, lấy cảm hứng từ con đại bàng trên cờ Hoàng đế Napoleon I.
Lá quốc kỳ vẫn được giữ nguyên sau khi Đế quốc Trung Phi sụp đổ.
Các lá cờ trước đây
Tham khảo
Liên kết ngoài
Flag of Central African Republic, a brief history by Flagmakers
Giới thiệu năm 1958
Biểu tượng quốc gia Cộng hòa Trung Phi
Cộng hòa Trung Phi
Cộng hòa Trung Phi
|
19835212
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A1ch%20Abraham
|
Sách Abraham
|
Sách Abraham (Book of Abraham) là văn bản tôn giáo của giáo phái Mặc Môn giáo gồm một tập hợp các tác phẩm được cho là từ một số cuộn giấy cói Ai Cập được phát hiện vào đầu thế kỷ XIX trong chuyến thám hiểm khảo cổ của Antonio Lebolo. Các thành viên của Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô (Giáo hội LDS) đã mua các cuộn giấy từ một cuộc triển lãm về xác ướp và du hành vào ngày 3 tháng 7 năm 1835, để được Joseph Smith dịch sang tiếng Anh Theo Smith, cuốn sách này là "bản dịch của một số ghi chép cổ... có ý là tác phẩm của Abraham khi ông ở Ai Cập, được gọi là Sách của Abraham, do chính tay ông viết trên giấy cói". Smith cho biết cuộn giấy cói này mô tả cuộc sống ban đầu của Abraham (vị tổ phụ của người Do Thái và người Ả rập) và chuyến du hành của ông đến Canaan và Ai Cập cũng như tầm nhìn của ông về vũ trụ và sự sáng tạo ra vũ trụ.
Các tín nhân của Hội Thánh Hữu Ngày Sau tin rằng tác phẩm này là kinh thánh được thần linh soi dẫn, được xuất bản như một phần của cuốn Trân châu Vô giá (Pearl of Great Price) từ năm 1880. Do đó, cuốn Sách Abraham tạo thành nền tảng giáo lý cho Giáo hội LDS và các giáo phái theo trào lưu chính thống Mặc Môn giáo, mặc dù các nhóm khác, chẳng hạn như Cộng đồng của Chúa Kitô không coi đó là một văn bản thánh thư có ngôn ngữ thiêng liêng. Cuốn sách chứa đựng một số học thuyết độc nhất của đạo Mặc Môn chẳng hạn như ý tưởng rằng Chúa đã tổ chức ra các yếu tố vĩnh cửu để tạo ra vũ trụ (thay vì tạo ra nó từ hư vô - Creatio ex nihilo), tiềm năng tôn vinh loài người, tiền kiếp về sự tồn tại trước khi chết, đẳng cấp thứ nhất và thứ hai, và sự đa dạng của các vị thần.
Cuốn sách Abraham bằng giấy cói này được cho là đã bị thất lạc trong trận hỏa hoạn lớn ở Chicago năm 1871. Tuy nhiên, vào năm 1966, một số mảnh giấy cói đã được tìm thấy trong kho lưu trữ của Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York và trong kho lưu trữ của Giáo hội LDS. Hiện nay chúng được gọi là Giấy cói Joseph Smith. Sau khi được các nhà Ai Cập học chuyên nghiệp kiểm tra (kể cả những văn bản Mặc Môn và những nơi khác), những mẩu giấy này được xác định là một văn tự biên chép về tang lễ của người Ai Cập, bao gồm ghi chép về hơi thở của Hôr (كتاب التنفس) và "Quyển sách của cái chết" (gọi là Tử thư Ai Cập), cùng những văn bản khác. Mặc dù một số nhà biện hộ Mặc Môn bảo vệ tính xác thực của Sách Áp-ra-ham, nhưng không có học giả nào khác coi đó là một văn bản cổ xưa. Sau này nhiều nhà nghiên cứu đã đặt nghi vấn về tính xác thực của văn bản này và việc biên dịch có chủ ý của Joseph Smith.
Biên dịch
Hệ thống chữ viết Ai Cập cổ đại từng là chủ đề hấp dẫn trong nhiều thế kỷ, thu hút sự chú ý của các học giả muốn tìm hiểu các ký hiệu. Khi Bia đá Rosetta một di tích cổ được phát hiện vào năm 1799, có cùng thông điệp được viết bằng tiếng Ai Cập cổ đại và bảng chữ cái Hy Lạp, cho phép hiểu biết toàn diện lần đầu tiên về người Ai Cập cổ đại trong thời hiện đại. Tuy nhiên, vào thời điểm Smith bắt đầu nỗ lực thì tấm bia đá Rosetta vẫn chưa được hiểu đầy đủ. Phải đến những năm 1850 mới có sự đồng thuận rộng rãi về mặt học thuật về cách dịch chữ viết Ai Cập cổ đại. Từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1835, Smith bắt đầu "dịch bảng chữ cái sang Sách của Áp-ra-ham và sắp xếp ngữ pháp của ngôn ngữ Ai Cập như người xưa đã thực hành" Khi làm vậy, Smith đã hợp tác chặt chẽ với Cowdery và Phelps..
Kết quả của nỗ lực dịch thuật này là một bộ sưu tập các tài liệu và bản thảo mà ngày nay được gọi là các giấy tờ của người Ai Cập ở Kirtland. Một trong những bản thảo này là một cuốn sách đóng bìa có tựa đề đơn giản là "Ngữ pháp & A[l]phabet của Ngôn ngữ Ai Cập", trong đó có những diễn giải của Smith về các chữ tượng hình Ai Cập. Phần đầu tiên của cuốn sách tập trung gần như hoàn toàn vào việc giải mã các ký tự Ai Cập và phần thứ hai đề cập đến một dạng thiên văn học được cho là do người Ai Cập cổ đại thực hiện. Phần lớn nội dung trong cuốn sách không phải do Smith viết mà là do một người ghi chép ghi lại những gì Smith đã nói. Bản thảo "Bảng chữ cái tiếng Ai Cập" đặc biệt quan trọng vì nó minh họa cách Smith cố gắng dịch giấy cói. Đầu tiên, các ký tự trên giấy cói được phiên âm sang phía bên trái của cuốn sách. Tiếp theo, một giả thuyết về âm thanh của các biểu tượng đã được nghĩ ra. Cuối cùng, một cách giải thích bằng tiếng Anh của biểu tượng đã được nêu lên. Bản dịch giấy cói tiếp theo của Smith có dạng năm "cấp độ" giải thích, mỗi cấp độ đại diện cho một cấp độ giải thích sâu sắc hơn và phức tạp hơn.
Khi dịch cuốn sách, Smith đã viết chính tả, còn Phelps, Warren Parrish và Frederick G. Williams đóng vai trò là người ghi chép. Những lời kể của nhân chứng về cách dịch giấy cói rất ít và mơ hồ. Warren Parish, người thư ký biên chép của Joseph Smith vào thời điểm dịch thuật đã viết vào năm 1838 sau khi ông rời giáo hội: "Tôi đã ở bên cạnh ông ấy và viết ra bản dịch chữ tượng hình Ai Cập [sic] như ông ấy tuyên bố đã nhận được nó từ nguồn cảm hứng trực tiếp từ Thiên đường". Wilford Woodruff và Parley P. Pratt đã tiết lộ trực tiếp rằng Urim và Thummim đã được sử dụng làm công cụ để dịch cuốn sách này. Một người không phải là thành viên của giáo hội đã nhìn thấy các xác ướp ở Kirtland đã nói về tình trạng của giấy cói và quá trình dịch thuật: Những hồ sơ này đã bị xé ra do được lấy ra khỏi cuộn thuốc ướp xác chứa chúng, và một số phần đã bị mất hoàn toàn nhưng Smith phải dịch toàn bộ bằng nguồn cảm hứng thiêng liêng, và những gì đã bị mất mát, giống như giấc mơ của Nebuchadnezzar, cũng có thể được giải thích như những gì đã bị mất sẽ được bảo tồn.
Nội dung
Sách Áp-ra-ham kể câu chuyện về cuộc đời của Áp-ra-ham, du hành đến Ca-na-an và Ai Cập, cũng như khải tượng mà ông nhận được liên quan đến vũ trụ, một sự tồn tại trước khi chết và sự sáng tạo thế giới. Mặc dù bối cảnh nước Mỹ thế kỷ XIX xung quanh bản dịch giấy cói của Smith đầy rẫy tính chất Ai Cập, bản thân Sách Áp-ra-ham không hàm chứa những từ ngữ phổ biến gắn liền với Ai Cập cổ đại, chẳng hạn như xác ướp hoặc kim tự tháp và nội dung của nó thay vào đó "phát triển từ Kinh thánh". Gần một nửa nội dung trong Sách Áp-ra-ham cho thấy sự phụ thuộc vào Sách Sáng thế Phiên bản vua James. Smith giải thích những điểm tương đồng bằng cách lập luận rằng khi Moses viết Sáng thế ký, ông đã sử dụng Sách Áp-ra-ham làm hướng dẫn, tóm tắt và cô đọng ở những chỗ ông thấy phù hợp. Như vậy, vì Môi-se đang nhớ lại cuộc đời của Áp-ra-ham nên phiên bản của ông ở ngôi thứ ba, trong khi Sách Áp-ra-ham, được viết bởi tác giả chính của nó, được sáng tác ở ngôi thứ nhất (tương tự như cuốn sách Nê Phi thứ nhất do chính Nê Phi là tác giả thuật lại).
Chỉ trích
Kể từ khi được xuất bản vào năm 1842, Sách Áp-ra-ham đã là nguồn gây tranh cãi. Các nhà Ai Cập học không theo đạo Mặc Môn, bắt đầu từ cuối thế kỷ XIX đã không đồng ý với lời giải thích của Joseph Smith về các bản văn. Họ cũng khẳng định rằng những phần giấy cói bị hư hỏng đã được tái tạo lại không chính xác. Năm 1912, cuốn sách Joseph Smith, Jr., As a Translator được xuất bản, chứa đựng những lời bác bỏ các bản dịch của Smith. Những người phản bác bao gồm Archibald Sayce, Flinders Petrie, James Henry Breasted, Arthur Cruttenden Mace, John Punnett Peters, C. Mercer, Eduard Meyer và Friedrich Wilhelm von Bissing. Cuộc tranh cãi ngày càng gia tăng vào cuối những năm 1960 khi các phần của cuộn giấy cói Joseph Smith được tìm thấy. Bản dịch giấy cói của cả các nhà Ai Cập học Mặc Môn và không theo Mặc Môn không khớp với văn bản của Sách Áp-ra-ham như được Joseph Smith dịch có chủ đích. Thật vậy, văn bản được phiên âm từ giấy cói và bản sao được phục hồi được xuất bản trong Sách Áp-ra-ham không có tài liệu tham khảo trực tiếp nào về lịch sử hoặc văn bản về Áp-ra-ham và tên của Áp-ra-ham không xuất hiện ở bất cứ đâu trong giấy cói hoặc bản tái tạo.
Edward Ashment lưu ý rằng: Dấu hiệu mà Smith đồng nhất với Abraham [...] không gì khác hơn là phiên bản chữ tượng của [...] chữ 'w' trong tiếng Ai Cập. Nó không có mối quan hệ về mặt ngữ âm hoặc ngữ nghĩa với Smith's] 'À-broam. Nhà Ai Cập học tại Đại học Chicago Robert K.Ritner đã kết luận vào năm 2014 rằng nguồn gốc của Sách Áp-ra-ham bị Joseph Smith hiểu sai và dịch sai và những giấy cói khác là những tài liệu tang lễ phổ biến của người Ai Cập như Quyển sách của cái chết. Các bản thảo gốc của Sách Áp-ra-ham đã được Jerald Tanner quay vi phim (chiếu chi tiết) vào năm 1966, cho thấy các phần của Giấy cói Joseph Smith và các bản dịch có mục đích của chúng thành Sách Áp-ra-ham. Ritner kết luận, trái ngược với quan điểm của LDS, do các vi phim được xuất bản trước khi phát hiện lại cuộn giấy cói Joseph Smith, rằng không đúng khi nói rằng không có lời kể nhân chứng nào về bản dịch còn sót lại, rằng Sách Áp-ra-ham là "được xác nhận là một phát minh có lẽ có ý nghĩa tốt nhưng sai lầm của Joseph Smith" và "mặc dù nó không xác thực như một câu chuyện lịch sử chân thực, Sách Áp-ra-ham vẫn là một bằng chứng có giá trị về lịch sử tôn giáo thời kỳ đầu của Hoa Kỳ và việc sử dụng các văn bản cổ như nguồn thông tin đức tin và suy đoán tôn giáo hiện đại".
Xem thêm
Sách Nê Phi thứ nhất
Sách An Ma
Lời Thông sáng
Chú thích
Tham khảo
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Liên kết ngoài
Translation and Historicity of the Book of Abraham, from the LDS Church website
The Pearl of Great Price (containing the Book of Abraham), from the LDS Church website
Book of Abraham manuscript materials from The Joseph Smith Papers
Mặc Môn giáo
Văn bản tôn giáo
|
19835218
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Nepal%202023
|
Động đất Nepal 2023
|
Động đất Nepal 2023 () là trận động đất xảy ra vào lúc 23:47 (theo giờ địa phương), ngày 3 tháng 11 năm 2023. Trận động đất có cường độ 5,7 hoặc 6.4 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 16,5 km. Hậu quả trận động đất đã làm 153 người chết và 391 người bị thương.
Tham khảo
Động đất năm 2023
Động đất tại Ấn Độ
Động đất tại Nepal
|
19835233
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minakami%2C%20Gunma
|
Minakami, Gunma
|
là thị trấn thuộc huyện Tone, tỉnh Gunma. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2023, dân số ước tính thị trấn là 17.195 người và mật độ dân số là 22 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 781,08 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Khí hậu
Thị trấn Minakami có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen: Dfa) với mùa hạ ấm áp và mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình là 6,8°C. Lượng mưa trung bình là 1.864 mm. Nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 8 với nhiệt độ là 18,6°C và thấp nhất vào tháng 1 với nhiệt độ -5,2°C.
Nhân khẩu
Dân số
Theo dữ liệu điều tra dân số Nhật Bản, dân số thị trấn Minakami giảm dần kể từ năm 1970.
Tham khảo
Thị trấn của Gunma
|
19835240
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Americas%202022
|
Chặng đua MotoGP Americas 2022
|
Chặng đua MotoGP Americas 2022 là chặng đua thứ tư của mùa giải MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 8/4/2022 đến ngày 10/4/2022 ở trường đua COTA, Texas, Mỹ. Tay đua giành chiến thắng là Enea Bastianini của đội đua Gresini Racing.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19835244
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n%202%E2%80%932%20Iraq%20%28V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%201994%29
|
Nhật Bản 2–2 Iraq (Vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1994)
|
Articles with short description
Short description is different from Wikidata
Trận đấu giữa hai đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản và Iraq, nằm trong khuôn khổ lượt trận cuối cùng của vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1994 khu vực châu Á, đã diễn ra vào ngày 28 tháng 10 năm 1993 trên sân vận động Al-Ahly ở thủ đô Doha, Qatar. Trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 2–2 cho cả hai đội.
Trước trận đấu, Nhật Bản đang dẫn đầu trong số 6 đội tuyển tham dự và nắm nhiều lợi thế trong cuộc chạy đua giành vé tới World Cup. Một chiến thắng ở lượt trận cuối cùng sẽ giúp cho Nhật Bản giành quyền tham dự giải đấu lần đầu tiên trong lịch sử, và họ đã ở rất gần với mục tiêu đó khi dẫn trước đối thủ 2–1 cho đến phút thứ 90 của trận đấu. Tuy nhiên, bàn thắng ngay phút bù giờ đầu tiên của Iraq đã làm tiêu tan mọi hy vọng của các "Chiến binh Samurai Xanh", khiến họ bị đẩy xuống vị trí thứ ba trong bảng đấu và để mất vé tham dự World Cup vào tay đối thủ truyền kiếp Hàn Quốc.
Việc không thể vượt qua vòng loại World Cup cùng với những diễn biến kịch tính trên sân đã gây ra sự thất vọng lớn cho người hâm mộ Nhật Bản. Kể từ khi bóng đá Nhật Bản bắt đầu có những thay đổi vượt bậc, nhất là từ sau chức vô địch Asian Cup 1992 trên sân nhà, đội tuyển quốc gia nước này chưa bao giờ tiến gần đến World Cup như tại thời điểm ấy. Mặc dù sau đó Nhật Bản đã lọt vào đến bảy vòng chung kết World Cup liên tiếp (trong đó có một lần đồng đăng cai), trận đấu ở Doha vẫn còn được nhắc đến như một ký ức cay đắng không thể quên trong lịch sử bóng đá Nhật Bản. Trong khi người Nhật gọi trận đấu này là "Bi kịch ở Doha" (, ) thì đối với Hàn Quốc, vì đội tuyển bóng đá quốc gia của nước này chỉ có thể vượt qua vòng loại vào phút cuối, đây được coi là một "Phép màu ở Doha" (_, ). Cho đến nay, đây là lần cuối cùng Nhật Bản không vượt qua vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới.
Trước trận đấu
Sáu đội tuyển (Nhật Bản, Hàn Quốc, Ả Rập Xê Út, Iraq, Iran và CHDCND Triều Tiên) tranh tài ở vòng loại cuối cùng của khu vực châu Á để tranh hai suất tham dự World Cup 1994 tại Hoa Kỳ. Các đội thi đấu với nhau theo thể thức vòng tròn một lượt tại Doha (Qatar) trong các ngày từ 15 đến 28 tháng 10 năm 1993. Vào thời điểm đó, mỗi trận thắng chỉ được tính 2 điểm, trận hòa tính 1 điểm và trận thua không có điểm. Sau bốn lượt đấu, bảng xếp hạng tạm thời như sau:
Nhật Bản khởi đầu chiến dịch không thực sự tốt khi hòa trận đầu tiên không bàn thắng trước Ả Rập Xê Út và thua trận thứ hai 1–2 trước Iran, rơi xuống nhóm cuối bảng vào thời điểm này. Sau đó, các nhà đương kim vô địch châu Á đã có chiến thắng đầu tiên trước Triều Tiên với tỷ số 3–0. Đến lượt trận thứ tư, Nhật Bản đã giành chiến thắng tối thiểu trước Hàn Quốc nhờ bàn thắng duy nhất của Kazuyoshi Miura để vượt mặt chính đối thủ và giành ngôi đầu bảng.
Ở chiều ngược lại, Iraq đã để thua ngược Triều Tiên 2–3 trong trận mở màn, với việc một cầu thủ của họ bị đuổi khỏi sân; sau trận đấu, Hiệp hội bóng đá Iraq đã thay huấn luyện viên. Trong trận đấu thứ hai với Hàn Quốc, dưới sự dẫn dắt của Ammo Baba, họ đã dẫn trước ở phút 86 và hòa 2–2. Đội tiếp tục thắng Iran 2–1 ở trận thứ ba và hòa 1–1 trước Ả Rập Xê Út ở trận thứ tư.
Dù khoảng cách giữa vị trí thứ 1 và thứ 5 chỉ là 1 điểm và chỉ có Triều Tiên đã chắc chắn bị loại, nhưng Nhật Bản vẫn có thể giành quyền vào vòng chung kết nếu giành chiến thắng mà không cần quan tâm các kết quả khác. Trên lý thuyết, Nhật Bản vẫn sẽ vượt qua vòng loại nếu như kết thúc với một trận hòa trong khi Hàn Quốc hoặc Ả Rập Xê Út không thể thắng ở trận đấu cuối và Iran không đánh bại Ả Rập Xê Út với cách biệt quá 4 bàn.
Trận đấu
Tóm tắt
Trận đấu được tổ chức vào ngày 28 tháng 10 năm 1993, cùng thời điểm diễn ra hai trận đấu còn lại của lượt trận thứ năm tại các địa điểm khác ở Doha (Hàn Quốc gặp Triều Tiên và Ả Rập Xê Út gặp Iran).
Nhật Bản mở tỷ số nhờ bàn thắng của Kazuyoshi Miura, nhưng Radhi Shenaishil của Iraq đã ghi bàn gỡ hòa ngay trước khi hiệp một kết thúc. Nhật Bản sau đó lại vươn lên dẫn trước do công của Masashi Nakayama. Tỷ số 2–1 được giữ nguyên khi trận đấu bước sang phút thứ 90.
Các trận đấu khác đã kết thúc sớm vào trước đó, với việc Hàn Quốc đánh bại Triều Tiên 3–0 và Ả Rập Xê Út đánh bại Iran 4–3. Điều này có nghĩa là Nhật Bản sẽ phải giữ vững tỷ số nếu muốn được tham dự World Cup, trong khi các kết quả tổng hợp sẽ loại đội tuyển Hàn Quốc. Tuy nhiên, ngay khi trận đấu mới bước vào thời gian bù giờ, Jaffar Omran đã ghi bàn từ một quả phạt góc, ấn định tỷ số 2–2. Trọng tài thổi còi kết thúc trận đấu ngay sau đó, loại cả hai đội.
Chi tiết
Kết quả
Sau lượt trận cuối cùng, xếp hạng chung cuộc của các đội như sau:
Ả Rập Xê Út giành vị trí dẫn đầu với chiến thắng 4–3 trước Iran. Nhật Bản và Hàn Quốc đồng điểm, nhưng với hiệu số bàn thắng bại tốt hơn sau chiến thắng 3 bàn trước Triều Tiên, Hàn Quốc đã xếp trên.
Hàn Quốc đã hòa trong các trận đấu trước đó với Iraq (2–2) và Ả Rập Xê Út (1–1) và thua một trận trước chính đối thủ cạnh tranh trực tiếp Nhật Bản (0–1). Nếu Nhật Bản thắng trận này trước Iraq, Hàn Quốc sẽ bị loại ngay cả khi đã giành chiến thắng trước Triều Tiên. Nhưng với việc Nhật Bản và Iraq hòa nhau ở phút cuối, Hàn Quốc đã vượt qua vòng loại và trận đấu được truyền thông Hàn Quốc gọi là một "phép màu".
Huấn luyện viên người Hà Lan Hans Ooft đã bị sa thải vài tuần sau trận đấu. việc bị loại khỏi giải đấu đã chấm dứt khát vọng vô địch World Cup của phần lớn đội bóng, trong đó có những cái tên nổi bật như tiền vệ Ruy Ramos và tiền đạo Kazuyoshi Miura (vua phá lưới vòng loại FIFA World Cup 1994). Chỉ có hai cầu thủ Nhật Bản xuất hiện trong trận đấu, Nakayama và Masami Ihara, tiếp tục góp mặt trong đội hình tham dự World Cup 1998.
Sau trận đấu
Sau khi bỏ lỡ giải đấu năm 1994, Nhật Bản cuối cùng đã có thể vượt qua vòng loại của World Cup 1998, trước khi đăng cai World Cup 2002 cùng với Hàn Quốc. Hàn Quốc đã đánh bại Bồ Đào Nha, Ý và Tây Ban Nha một cách ngoạn mục và kết thúc ở vị trí thứ 4 chung cuộc trong khi Nhật Bản bị loại ở vòng 16 đội. Đây là lần đầu tiên cả hai đội lọt vào vòng loại trực tiếp.
Họ cũng đủ điều kiện tham dự mọi kỳ FIFA World Cup kể từ đó, lọt vào vòng 16 đội trong ba kỳ: năm 2010, 2018 và 2022 . Trong những lần đó, Nhật Bản đều bị loại một cách đầy kịch tính. Họ thua Paraguay vào năm 2010 trong loạt sút luân lưu, và sau đó thua Bỉ với tỷ số 3–2 vào năm 2018 khi để thủng lưới ở phút bù giờ thứ tư dù dẫn trước 2–0 cho đến phút 69. Năm 2022, Nhật Bản lại bị loại ở vòng 16 đội, lần này dẫn trước đối thủ Croatia nhưng lại rơi vào loạt sút luân lưu sau khi hòa 1–1.
Đối với Iraq, thất bại này chỉ là một phần của cơn khát World Cup lớn hơn nhiều. So với thành công ngày càng tăng bên phía Nhật Bản, Iraq đã nhiều lần bỏ lỡ cơ hội giành quyền tham dự World Cup; họ mới chỉ có một lần vượt qua vòng loại năm 1986 . Ngoài ra, xung đột đảng phái và bất ổn nội bộ đã ngăn Iraq đạt được vị thế cao hơn trong nền bóng đá châu Á. Cũng kể từ trận đấu đó, Iraq chưa bao giờ đánh bại Nhật Bản trong một trận đấu dù là giao hữu hay các giải đấu lớn kể từ năm 1982, lần cuối cùng họ giành chiến thắng. Iraq cũng trải qua chuỗi trận thua Nhật Bản sau trận đấu này, bắt đầu bằng thất bại 1–4 ở Cúp bóng đá châu Á 2000 (là trận thắng đầu tiên của Nhật Bản trước Iraq), và chấm dứt khi Iraq cầm hòa Nhật Bản 1-1 năm 2017.
Nhật Bản ở vòng loại tại địa điểm trung lập
Bắt đầu từ vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998, AFC sử dụng thể thức thi đấu vòng tròn tính điểm sân nhà và sân khách cho vòng loại cuối cùng, thay cho thể thức một địa điểm vào năm 1993. Tuy nhiên, trong hai chiến dịch vòng loại World Cup kế tiếp, Nhật Bản đã quyết định số phận của mình trong các trận đấu tại sân trung lập.
Năm 1997, Nhật Bản và Iran đứng thứ hai trong các bảng đấu vòng loại của World Cup 1998 và gặp nhau trong trận tranh hạng ba vào ngày 16 tháng 11 năm 1997 tại Johor Bahru, Malaysia. Trận đấu sẽ quyết định suất dự World Cup thứ ba và cuối cùng cho các đội châu Á và đội thua sẽ gặp đại diện của châu Đại Dương là Australia trong hai lượt trận play-off. Không giống như trận đấu bốn năm trước, Nhật Bản tụt lại phía sau trong hiệp hai, nhưng ghi bàn gỡ hòa muộn và cuối cùng giành chiến thắng 3–2 bằng bàn thắng vàng trong hiệp phụ, qua đó giành được tấm vé đến Pháp. Trận đấu này đã được biết đến với cái tên trong mối liên kết với Bi kịch ở Doha.
Vào ngày 8 tháng 6 năm 2005, Nhật Bản đánh bại Triều Tiên 2–0 để giành quyền tham dự World Cup 2006 tại Đức. Mặc dù trận đấu này được tính là trận đấu trên sân nhà của Triều Tiên nhưng nó đã được chuyển đến Băng Cốc, Thái Lan và được tổ chức trên sân không khán giả như một hình phạt cho hành vi bạo lực của cổ động viên trong một trận đấu trước đó được tổ chức ở Bình Nhưỡng.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web bóng đá Iraq
Lịch sử đội tuyển quốc gia Iraq
Đau đớn giữa màn kịch ở Doha trên FIFA .com
The Rising Sun Soccer News: Lịch sử đội tuyển quốc gia Nhật Bản: The Oft Era
Hàn Quốc tại giải vô địch bóng đá thế giới 1994
Quan hệ Hàn Quốc-Nhật Bản
Trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Nhật Bản
Bóng đá châu Á năm 1993
Bài viết có văn bản tiếng Nhật
Bài viết có văn bản tiếng Triều Tiên
|
19835252
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0i%20B%E1%BA%AFc%20Trung%20Hoa%20t%E1%BA%A1i%20Th%E1%BA%BF%20v%E1%BA%ADn%20h%E1%BB%99i
|
Đài Bắc Trung Hoa tại Thế vận hội
|
Đài Loan, tên chính thức là Trung Hoa Dân Quốc (THDQ), thi đấu với tên gọi "Đài Bắc Trung Hoa" (TPE) tại Thế vận hội kể từ năm 1984. Các vận động viên (VĐV) thi đấu dưới lá Hiệu kỳ Đài Bắc Trung Hoa thay vì cờ của THDQ; và trong bất kỳ lễ trao huy chương nào, Quốc kỳ ca của THDQ được xướng lên thay cho Quốc ca của THDQ.
Các VĐV Đài Loan đã giành được huy chương Olympic đầu tiên vào năm 1960 và huy chương vàng đầu tiên vào năm 2004, đồng thời đoạt được nhiều huy chương nhất tại đại hội năm 2020.
Quá trình tham gia
Bảng huy chương
Thế vận hội Mùa hè
Thế vận hội Mùa đông
Huy chương theo môn Mùa hè
VĐV giành huy chương
Quá trình được công nhận tại Thế vận hội
Các thông tin được trình bày sau đây liên quan đến các tên gọi khác nhau và các sự kiện chính liên quan đến việc công nhận đoàn thể thao THDQ (ROC):
1922 - Liên đoàn Điền kinh Nghiệp dư Quốc gia Trung Quốc được Ủy ban Olympic quốc tế (IOC) công nhận là Ủy ban Olympic quốc gia tại Trung Quốc.
1932 – THDQ lần đầu tiên tham dự Thế vận hội với tư cách là Trung Quốc.
1949 - Liên đoàn Điền kinh Nghiệp dư Quốc gia Trung Quốc chuyển đến Đài Loan.
1952 – Đoàn THDQ rút khỏi Thế vận hội tại Helsinki vì IOC cho phép Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) tham gia.
1954 – IOC thông qua nghị quyết chính thức công nhận Ủy ban Olympic Trung Quốc của CHND Trung Hoa.
1956 – THDQ tham dự Thế vận hội tại Melbourne với tư cách là chính THDQ. CHND Trung Hoa rút khỏi Thế vận hội để phản đối việc hai Ủy ban Olympic Trung Quốc có tên trong danh sách ủy ban thành viên của IOC.
1958 – CHND Trung Hoa rút khỏi phong trào Olympic và tất cả các liên đoàn quản lý các môn thể thao Olympic. Giáo sư Đổng Thủ Nghĩa, thành viên IOC của CHND Trung Hoa từ chức.
1959 – IOC thông báo với THDQ rằng THDQ không kiểm soát các vấn đề thể thao ở Trung Quốc đại lục, các quy định xác định rằng THDQ sẽ không còn được công nhận bằng tên gọi "Ủy ban Olympic Trung Quốc". Tất cả các hoạt động dưới một tên khác sẽ được xem xét.
1960 – Ủy ban đại diện THDQ được đổi tên thành "Ủy ban Olympic THDQ" và được công nhận.
1963 – IOC công nhận tên gọi "Đài Loan" và NOC nước này được phép sử dụng tên viết tắt "ROC" trên các trang phục/đồng phục thể thao.
1968 – IOC đồng ý đổi tên đoàn Đài Loan thành THDQ sau Thế vận hội năm 1968 và cho phép đoàn tham gia dưới tên gọi đó.
1976 - THDQ không được phép tham gia Thế vận hội Mùa hè tại Montreal, khi nước này cương quyết lấy tên THDQ, bởi vì nước chủ nhà, Canada, công nhận CHND Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc.
1979 – IOC công nhận Ủy ban Olympic Trung Quốc là đại diện chính thức của Trung Quốc. Quyết định của IOC được đưa ra sau một cuộc bỏ phiếu qua đường bưu điện của 89 thành viên. Theo quyết định của IOC, ủy ban Olympic của THDQ sẽ đổi tên thành "Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa" và không được phép sử dụng quốc ca hoặc cờ THDQ.
1980 - THDQ tẩy chay Thế vận hội Mùa đông tại Lake Placid và Thế vận hội Mùa hè ở Moskva do quyết định của IOC buộc nước này sử dụng tên Đài Bắc Trung Hoa trong các sự kiện thể thao quốc tế.
1981 - Một thỏa thuận được ký kết tại Lausanne bởi Juan Antonio Samaranch, Chủ tịch IOC và Thẩm Gia Minh, Chủ tịch Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa (CTOC). Thỏa thuận nêu rõ tên, cờ và biểu tượng của CTOC.
1984 - Đài Bắc Trung Hoa lần đầu tiên thi đấu dưới tên gọi mới ở Thế vận hội Mùa đông tại Sarajevo.
Xem thêm
Danh sách người cầm cờ cho đoàn Đài Bắc Trung Hoa tại Thế vận hội
Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa
Cờ Olympic Đài Bắc Trung Hoa
Đài Bắc Trung Hoa tại Đại hội Thể thao châu Á
Trung Hoa Dân Quốc tại Thế vận hội
Đài Bắc Trung Hoa tại Thế vận hội Người khuyết tật
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vận động viên Thế vận hội của Đài Loan
Bài viết có nguồn tham khảo tiếng Trung Quốc (zh)
|
19835259
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20Ph%E1%BB%A7%20M%E1%BA%ADt
|
Hoàng Phủ Mật
|
Hoàng Phủ Mật (; 215 – 282), tự là Sĩ An (士安), tên hồi nhỏ là Hoàng Phủ Tịnh (皇甫靜) là học giả, thầy thuốc, ẩn sĩ sống vào thời Tam Quốc và Tây Tấn trong lịch sử Trung Quốc.
Cuộc đời
Hoàng Phủ Mật quê ở huyện Triều Na, quận An Định, Ung Châu, là chắt của danh tướng Hoàng Phủ Tung thời Đông Hán. Ông nội là Hoàng Phủ Thúc Hiến (皇甫叔獻), làm Huyện lệnh Bá Lăng, còn cha là Hoàng Phủ Thúc Hầu (皇甫叔侯), được cử Hiếu liêm. Hoàng Phủ Mật thuở nhỏ mất mẹ, được quá kế cho chú ruột làm con thừa tự, nên phải chuyển đến sống ở huyện Tân An.
Cho đến năm hai mươi tuổi, sử sách ghi rằng Hoàng Phủ Mật không thích học tập, suốt ngày lêu lổng, hít hàn thực tán, bị mọi người cho là mắc bệnh. Người thím họ Nhâm lấy Hiếu kinh và tích khuyên nhủ, từ ấy Mật mới tỉnh ngộ, từ bỏ thói xấu, ngày đêm đọc sách. Nhà Mật nghèo khó, phải tự mình ra đồng, dù thế vẫn luôn mang theo sách để đọc, nhờ đó mà tổng kết được kiến thức của trăm nhà, kể cả khi mắc bệnh thấp khớp thì tay vẫn không rời sách. Nhiều người khuyên Mật tu dưỡng danh vọng, mở rộng quan hệ, từ đó kiếm lấy công danh phú quý, nhưng Mật khẳng khái phản bác, chỉ vùi đầu vào sách vở đến mức quên ăn quên tắm, bị người đương thời gọi là Thư dâm (書淫; con nghiện sách). Năm 248, Hoàng Phủ Mật từng mơ thấy Đại tướng quân Tào Sảng bị tru di.
Năm 40 tuổi, con ruột của người chú đã thành niên, mẹ kế đã qua đời, Mật bị trả về dòng cũ, một mình về quê tiếp tục nghiên cứu. Thái thú Ngụy quận cử Mật làm Hiếu liêm, mời làm Thượng kế duyện, bị Mật từ chối. Năm 263, Tướng quốc Tư Mã Chiêu trưng tịch Mật vào phủ, cũng bị từ chối. Tấn Vũ đế lên ngôi, nhiều lần muốn mời Mật vào triều mà không được. Hoàng Phủ Mật dâng biểu lên Vũ đế hỏi mượn sách, Vũ đế cho cả một xe sách đến, Mật dù có bệnh nhưng vẫn nghiền ngẫm từng câu chữ. Dù vậy, đến năm Hàm Ninh (275–280), Tấn Vũ đế dùng các chức Thái tử Trung thứ tử, Nghị lang, Trước tác lang để vời, Tư Lệ Hiệu úy Lưu Nghị lại vời làm Công tào, nhưng chung quy vẫn bị từ chối.
Năm 282, Hoàng Phủ Mật mất ở quê nhà, thọ 68 tuổi. Trong các học trò của Hoàng Phủ Mật có , Trương Quỹ, Ngưu Tống (牛綜), Tịch Thuần (席純) làm quan cho nhà Tấn, đều để lại tiếng tốt.
Tác phẩm
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Hoàng Phủ Mật là ba danh tác y học Tố vấn, Châm kinh (針經) tức Linh khu kinh, Minh đường khổng huyết châm cứu trị yếu (明堂孔穴針灸治要), về sau được tổng hợp thành tác phẩm Hoàng Đế tam bộ châm cứu giáp ất kinh (黃帝三部鍼灸甲乙經) gồm 10 quyển, đến thời Nam Bắc triều được biên tập lại thành 12 quyển.
Ngoài ra Hoàng Phủ Mật còn viết tiểu thuyết Huyền Yến xuân thu (玄晏春秋), nay đã thất truyền, các tác phẩm sử học Đế vương thế kỷ, Cao sĩ truyện, Dật sĩ truyện (逸士傳), Liệt nữ truyện, Niên lịch (年历),... được đánh giá cao khi đã bổ sung nhiều tư liệu quý giá.
Trong văn hóa
Năm 2014, bộ phim phát sóng, với diễn viên Trần Hạo Dân vào vai Hoàng Phủ Mật.
Tham khảo
Lưu Nghĩa Khánh, Thế thuyết tân ngữ.
Phòng Huyền Linh, Tấn thư.
Ghi chú
Chú thích
Người Ninh Hạ
Người Hà Nam (Trung Quốc)
Người Tào Ngụy
Người nhà Tấn
Ẩn sĩ Trung Hoa
Nhà sử học Trung Quốc
Thầy thuốc Trung Quốc
Nhà văn Trung Quốc thời Tây Tấn
|
19835263
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ai%20C%E1%BA%ADp%20c%E1%BB%95%20%C4%91%E1%BA%A1i%20d%C6%B0%E1%BB%9Bi%20g%C3%B3c%20nh%C3%ACn%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20T%C3%A2y
|
Ai Cập cổ đại dưới góc nhìn phương Tây
|
Ai Cập cổ đại dưới góc nhìn của thế giới phương Tây (Ancient Egypt in the Western imagination) là một hình ảnh huyền bí thông qua truyền thống văn hóa Hy Lạp và Do Thái. Đất nước Ai Cập vốn đã cổ xưa đối với người ngoài, và ý tưởng về Ai Cập ít nhất vẫn tiếp tục có ảnh hưởng trong lịch sử tư tưởng như chính bản thân Ai Cập xét ở góc độ lịch sử thực tế. Tất cả văn hóa Ai Cập đã được trao truyền sang văn hóa La Mã và văn hóa châu Âu hậu La Mã thông qua lăng kính của các quan niệm Hy Lạp hóa về nó, cho đến khi Jean-François Champollion giải mã chữ tượng hình Ai Cập vào những năm 1820 khiến các văn tự Ai Cập trở nên dễ đọc để cuối cùng cho phép hiểu Ai Cập là chính bản thân người Ai Cập họ đã hiểu điều đó.
Sau thời cổ đại, hình ảnh Cựu Ước về Ai Cập là vùng đất nô lệ của người Do Thái chiếm ưu thế và hình tượng "Pharaoh" trở thành từ đồng nghĩa với chế độ chuyên quyền và áp bức trong thế kỷ XIX. Tuy nhiên, tư duy Khai sáng và những khám phá thuộc địa vào cuối thế kỷ XVIII đã làm mới mối quan tâm đến Ai Cập cổ đại vừa là hình mẫu vừa là sự thay thế độc lạ cho văn hóa phương Tây, đặc biệt là nguồn gốc của trường phái Lãng tử Romantic trong kiến trúc cổ điển hóa. Mặc dù sự chiếm đóng của thực dân phương Tây đến Ai Cập đã phá hủy một phần quan trọng các di sản lịch sử quốc gia, nhưng vẫn có một số người ngoại quốc đã để lại những dấu ấn tích cực hơn. Lấy ví dụ như Napoleon, ông đã chỉnh lý lại những nghiên cứu hàng đầu về Ai Cập học khi ông mua chúng từ khoảng 150 nhà khoa học và họa sĩ để học hỏi cùng với tài liệu lịch sử tự nhiên về Ai Cập, được phát hành trong chuỗi ấn phẩm Description de l'Égypte (Diện mạo Ai Cập).
Văn hóa và các công trình kiến trúc của Ai Cập cổ đại đã để lại một di sản lâu dài cho thế giới, như sự thờ cúng nữ thần Isis đã trở nên phổ biến vào thời đế quốc La Mã, các cột tháp tưởng niệm và các di tích khác đã được vận chuyển đến Rome. Người La Mã cũng nhập khẩu vật liệu xây dựng từ Ai Cập để xây dựng nên các kiến trúc mang phong cách Ai Cập. Những nhà sử học đầu tiên như Herodotus, Strabo và Diodorus Siculus đều nghiên cứu và viết các tác phẩm về vùng đất, mà người La Mã coi là một vùng đất huyền bí. Trong suốt thời Trung Cổ và Phục Hưng, nền văn hóa đa thần của người Ai Cập vốn đã suy tàn sau khi Kitô giáo nổi lên và sau này là Hồi giáo, lại luôn nhận được sự quan tâm trong các tác phẩm của các học giả thời Trung Cổ như Dhul-Nun al-Misri và al-Maqrizi. Trong các thế kỷ XVII và XVIII, khách bộ hành và khách du lịch châu Âu đã mang về các cổ vật và viết nên những câu truyện ngắn về các cuộc hành trình của họ, điều này đã tạo nên một làn sóng Egyptomania trên khắp châu Âu. Làn sóng mới này khiến cho các nhà sưu tập đổ xô đến Ai Cập, họ đã mua, chiếm đoạt và được tặng nhiều cổ vật quan trọng.
Thời Cổ đại
Trong tác phẩm Lịch sử-Quyển II, nhà sử học Herodotus đã đưa ra một mô tả chi tiết nếu có màu sắc và giàu trí tưởng tượng có chọn lọc về Ai Cập cổ đại. Ông ca ngợi việc nông dân bảo tồn lịch sử thông qua truyền khẩu và lòng mộ đạo của người Ai Cập. Ông liệt kê nhiều loài động vật mà Ai Cập là quê hương của chúng, bao gồm phượng hoàng và Con rắn có lông, đồng thời đưa ra những mô tả không chính xác về hà mã và rắn có sừng. Herodotus khá chỉ trích những câu chuyện mà ông nghe được từ các thầy tế (II,123), nhưng sau này Diodorus Siculus, người đã đến thăm Ai Cập thời Hy Lạp hóa vào thế kỷ 1 trước Công nguyên, đã ghi nhận những gì ông được các linh mục kể: rằng nhiều người Hy Lạp nổi tiếng với các triết gia đã nghiên cứu ở Ai Cập.
Cả Plutarch và Diogenes Laërtius (thế kỷ thứ III) đều đề cập rằng Thales đã học ở Ai Cập, trong khi không có thông tin thực sự nào được biết về Thales từ thời của ông. Iamblichus của Chalcis vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên bẩm báo rằng Pythagoras đã học ở Ai Cập trong 22 năm. Từ những thư tịch cổ điển đã phát triển như vậy, một Ai Cập huyền thoại nổi lên như quê hương của Tôn giáo, Trí tuệ, Triết học và Khoa học. Đối với người La Mã, một Ai Cập đã bị lôi kéo vào lĩnh vực kinh tế và chính trị của La Mã vẫn là nguồn gốc của những điều huyền diệu với hệ động vật độc lạ của sông Nile được thể hiện trong Bức khảm sông Nile của Palestrina nổi tiếng, và các biểu tượng La Mã hóa đã được phát triển cho "Bộ ba Alexander" gồm Isis, những người đã phát triển một lượng người theo La Mã rộng rãi, Harpocrates, "thần im lặng", và chủ nghĩa đồng bộ của Ptolemaic của Serapis.
Trong Kinh thánh
Ai Cập đã được nhắc đến 611 lần trong Kinh Thánh từ và . Thông qua Thánh kinh Bản Bảy Mươi, qua đó hầu hết những người theo đạo Cơ đốc đều biết đến Kinh thánh tiếng Do Thái, được ủy quyền ở Alexandria, nó được ghi nhớ, với sự tô điểm rằng mặc dù bảy mươi học giả đã thiết lập để nghiên cứu các văn tự này một cách độc lập, nhưng một cách kỳ diệu là mỗi người đã đến được đích với cùng một bản dịch.
Họa phẩm về Moses ở Ai Cập
Thời Trung Cổ
Sau cuộc chinh phục của người Hồi giáo ở Ai Cập vào thế kỷ thứ VII thì phương Tây đã mất liên lạc trực tiếp với Ai Cập và văn hóa của nước này. Ở thời Trung cổ Châu Âu, Ai Cập được miêu tả chủ yếu bằng hình ảnh minh họa và giải thích các câu chuyện trong Kinh thánh. Những hình minh họa này thường khá huyền ảo, vì hình tượng và phong cách của nghệ thuật Ai Cập cổ đại, kiến trúc Ai Cập cổ đại và trang phục phần lớn chưa được biết đến ở phương Tây. Bối cảnh đầy kịch tính của Sự kiện tìm thấy Moses, Ôn dịch ở Ai Cập, Sự chia cắt Biển Đỏ và câu chuyện về Joseph ở Ai Cập, và từ Tân Ước với sự kiện trốn sang Ai Cập thường được tìm thấy trong bản thảo thời Trung cổ. Kinh thánh thông diễn học có bản chất chủ yếu là thần học và ít liên quan đến việc điều tra lịch sử. Trong suốt thời Trung cổ, "Mummia" nếu là hàng thật, được làm bằng cách đập xác ướp, là sản phẩm tiêu chuẩn của các cửa hàng bàu thuốc.
Trong thời kỳ Phục hưng học giả Dòng Tên người Đức Athanasius Kircher đã đưa ra một "giải mã" mang tính ngụ ngôn về chữ tượng hình mà qua đó Ai Cập được coi là nguồn gốc của thuyết thần bí hoặc huyền bí trí tuệ. Trong giới giả kim, uy tín của "người Ai Cập" ngày càng tăng. Tuy nhiên, một số học giả vẫn hoài nghi vào thế kỷ 16, Isaac Casaubon đã xác định rằng Corpus Hermeticum của Hermes Trismegistus vĩ đại thực ra là một tác phẩm của Hy Lạp vào khoảng thế kỷ thứ 4 CN (mặc dù tác phẩm của Casaubon là cũng bị Ralph Cudworth chỉ trích).
Họa phẩm tìm thấy Moses
Thời cận đại
Đầu thế kỷ XVIII, tác giả Jean Terrasson đã viết tác phẩm Cuộc đời của Sethos là một tác phẩm hư cấu, đưa ra ý niệm về những bí ẩn của Ai Cập. Hòa trong bầu không khí quan tâm đến cổ vật, nhiều người nảy sinh cảm giác rằng kiến thức cổ xưa bằng cách nào đó đã được thể hiện trong các di tích và truyền thuyết của Ai Cập. Hình ảnh Ai Cập đã tràn ngập Hội Tam điểm của Châu Âu vào thời đó và hình ảnh của nó, chẳng hạn như con mắt trên kim tự tháp. Đồng thời, Đại ấn Hoa Kỳ (1782) cũng xuất hiện trên Tiền giấy 1 đô la Mỹ cũng có hình ảnh Kim tự tháp Ai Cập với con mắt Thiên Nhãn mà thuyết âm mưu cho rằng có liên hệ đến hội kín bí ẩn Illuminati.
Có những tài liệu tham khảo về người Ai Cập trong tác phẩm có chủ đề Tam điểm như Die Zauberflöte (The Magic Flute, 1791) của Mozart), và cuốn "Thamos" còn dang dỡ chưa hoàn thành trước đó của ông. Sự hồi sinh của sự tò mò về thế giới Cổ đại, được nhìn thấy qua các tài liệu viết, đã thúc đẩy việc xuất bản một bộ sưu tập các văn bản Hy Lạp được tập hợp trong Hậu Cổ đại, được xuất bản dưới dạng kho tác phẩm của Hermes Trismegistus. Nhưng những tàn tích đổ nát đôi khi xuất hiện trong các bức tranh của tập phim Nghỉ ngơi trên chuyến bay đến Ai Cập luôn mang đặc điểm của người La Mã. Cùng với chủ nghĩa lịch sử là những hư cấu đầu tiên lấy bối cảnh ở Ai Cập của trí tưởng tượng. Đại văn hào William Shakespeare với các tác phẩm Antony và Cleopatra lấy bối cảnh một phần ở Alexandria, nhưng các nhân vật chính của nó đều cao quý và phổ quát và Shakespeare không quan tâm đến việc gợi lên bản sắc địa phương.
Thế kỷ XIX
Cơ sở lý luận cho trường phái "Egyptomania" dựa trên một khái niệm tương tự: Người phương Tây nhìn theo các họa tiết Ai Cập cổ đại vì bản thân Ai Cập cổ đại về bản chất đã rất lôi cuốn. Người Ai Cập từng coi tôn giáo và chính phủ của họ là vĩnh cửu, họ được ủng hộ trong suy nghĩ này bởi khía cạnh lâu dài của các di tích công cộng vĩ đại tồn tại mãi mãi và dường như chống lại tác động của thời gian. Các nhà lập pháp của họ đã đánh giá rằng ấn tượng đạo đức này sẽ góp phần vào sự ổn định của đế chế của họ.
Văn hóa Chủ nghĩa lãng mạn bao trùm mọi địa phương một cách kỳ lạ, và sự trỗi dậy của nó trong trí tưởng tượng đại chúng trùng hợp với chiến dịch thất bại ở Ai Cập của Napoleon và sự khởi đầu của Ai Cập học hiện đại, bắt đầu rất giống một doanh nghiệp cạnh tranh giữa Anh và Pháp. Thomas Rowlandson đã châm biếm cơn sốt Ai Cập cổ đại sau cuộc xâm lược của Napoléon vào Ai Cập năm 1806. Một "Trận chiến sông Nile" hiện đại khó có thể không khơi dậy sự tò mò mới về Ai Cập ngoài nhân vật nữ hoàng Cleopatra. Cùng lúc đó, lá bài Tarot đã được một người Pháp Antoine Court de Gebelin làm cho chú ý đến châu Âu như một chìa khóa được cho là chìa khóa cho kiến thức huyền bí về Ai Cập. Tất cả điều này đã làm nảy sinh ra "Ai Cập" và bài tarot huyền bí.
Một Ai Cập huyền thoại này rất khó khăn, nhưng không phải là không thể hòa hợp với giải mã chữ tượng hình năm 1824 của Jean-François Champollion. Những dòng chữ mà một thế kỷ trước được cho là chứa đựng trí tuệ huyền bí, hóa ra không gì khác hơn là tên và tước hiệu hoàng gia, các nghi thức tang lễ, những câu chuyện khoe khoang về các chiến dịch quân sự, mặc dù vẫn còn một phần mù mờ có thể phù hợp với tầm nhìn thần bí. Sự bùng nổ kiến thức mới về tôn giáo, trí tuệ và triết học thực tế của Ai Cập đã được hiểu rộng rãi là phơi bày hình ảnh thần thoại về Ai Cập như một ảo ảnh do trí tưởng tượng của người Hy Lạp và người phương Tây tạo ra. Trong nghệ thuật, sự phát triển của Chủ nghĩa phương Đông và khả năng du hành ngày càng tăng đã tạo ra một số lượng lớn các bức vẽ với mức độ chính xác khác nhau. Vào cuối thế kỷ XIX, phong cách trang trí kỳ lạ và được nghiên cứu kỹ lưỡng thường chiếm ưu thế trong việc mô tả cả phong cảnh và hình người, dù cổ xưa hay hiện đại.
Ở cấp độ phổ biến nhất của thế kỷ XIX là toàn bộ Ai Cập cổ đại đã bị thu gọn trong trí tưởng tượng của người châu Âu thành những chủ đề như sông Nile, Kim tự tháp Ai Cập và Nhân sư Ai Cập trong bối cảnh cát sa mạc bao la, được đặc trưng ở cấp độ văn học hơn trong tác phẩm "Ozymandias" (1818) của nhà thơ người Anh Percy Bysshe Shelley. Kiến trúc Phục hưng Ai Cập đã mở rộng kho tàng thiết kế cổ điển được khám phá của trường phái Tân cổ điển và mở rộng vốn từ vựng về trang trí có thể được sử dụng. Sự nổi tiếng về tục sùng bái người chết của dân Ai Cập đã truyền cảm hứng cho các chủ đề Phục hưng của người Ai Cập lần đầu tiên được sử dụng ở Nghĩa trang Highgate, một nghĩa trang gần Luân Đôn được mở cửa vào năm 1839 do một công ty do nhà thiết kế-doanh nhân Stephen Geary (1797–1854) thành lập, các đặc điểm kiến trúc của nó, bao gồm Hầm mộ Gothic cũng như Đại lộ Ai Cập, một lần nữa đã được công chúng chú ý hơn nữa do công của James Stevens Curl
Ai Cập cổ đại đã là nguồn cảm hứng và bối cảnh cho tác phẩm opera trang nghiêm của nhà soạn nhạc người Ý Giuseppe Verdi năm 1871 có tựa đề Aida và được ủy quyền cho Khedive Âu hóa để ra mắt lần đầu vào Cairo. Năm 1895, nhà văn Ba Lan là Bolesław Prus đã hoàn thành tiểu thuyết lịch sử duy nhất của mình, Pharaoh, một nghiên cứu về cơ chế của quyền lực chính trị được mô tả trong bối cảnh sụp đổ của Vương triều thứ Hai Mươi của Ai Cập và Tân Vương quốc Ai Cập. Đồng thời, đây là một trong những tác phẩm tái hiện văn học hấp dẫn nhất về cuộc sống ở mọi cấp độ của xã hội Ai Cập cổ đại. Năm 1966, cuốn tiểu thuyết được chuyển thể thành phim truyện của Ba Lan.
Họa phẩm về Ai Cập
Thế kỷ XX
Năm 1912, với việc phát hiện một tảng đá vôi được sơn màu được bảo quản tốt Bức tượng bán thân Nefertiti được khai quật từ xưởng điêu khắc của nó gần thành phố hoàng gia Amarna đã làm dấy lên sự quan tâm đến Ai Cập cổ đại. Bức tượng bán thân này hiện đang ở Bảo tàng Ai Cập của Berlin, trở nên nổi tiếng qua phương tiện nhiếp ảnh và là một trong những tác phẩm điêu khắc Ai Cập cổ đại được sao chép nhiều nhất, với đặc điểm nổi bật của hoàng hậu Nefertiti có ảnh hưởng đáng chú ý đến nghệ thuật điêu khắc mới về tiêu chuẩn lý tưởng về vẻ đẹp phụ nữ trong thế kỷ XX. Việc phát hiện ra ngôi mộ còn nguyên vẹn của Pharaoh Tutankhamun vào năm 1922 đã làm sống lại mối quan tâm của công chúng đối với Ai Cập cổ đại, những hiện vật từ kho báu của ngôi mộ đã ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng bao gồm cả thời trang và thiết kế Art-Deco.
Khám phá này cũng dẫn đến ý tưởng và được quảng bá từ những tờ báo lá cải về một Lời nguyền của các Pharaoh được cho là đã dẫn đến cái chết sớm của những người bước vào lăng mộ. Những tuyên bố này đã bị Howard Carter bác bỏ, ông gọi chúng là sự mê tín ngu ngốc và tommy-rot. Một nghiên cứu gần đây hơn của James Randi cho thấy các thành viên đoàn thám hiểm bước vào lăng mộ đã chết ở độ tuổi trung bình là 73, cao hơn một chút so với tuổi thọ của tầng lớp xã hội của họ vào thời điểm đó. Ý tưởng về "lời nguyền của xác ướp" đã truyền cảm hứng cho các bộ phim như The Mummy với sự tham gia của Boris Karloff đã phổ biến ý tưởng về các xác ướp Ai Cập cổ đại hồi sinh thành quái vật. Truyện ngắn năm 1924 của Agatha Christie có tựa đề Cuộc phiêu lưu vào lăng mộ Ai Cập của thám tự Poirot cũng đề cập đến những cái chết bí ẩn trong một cuộc khai quật.
Mô tả của Hollywood về Ai Cập cổ đại là tác nhân chính tạo nên hình ảnh Ai Cập giả tưởng trong văn hóa hiện đại. Cảnh tượng điện ảnh của Ai Cập lên đến đỉnh điểm trong các phân cảnh Cecil B. deMille với bộ phim The Ten Commandments (1956) và Jeanne Crain thủ vai Nefertiti trong bộ phim "Queen of the Nile" (Nữ hoàng sông Nin) của Cinecittà Ý sản xuất năm 1961 và sụp đổ với sự thất bại của Richard Burton và Elizabeth Taylor trong Cleopatra (1963). Năm 1978, Pharaoh Ai Cập Tutankhamun được tưởng nhớ trong bài hát "King Tut" của diễn viên hài người Mỹ Steve Martin và vào năm 1986, các tư thế trong một số tác phẩm tranh tường của Ai Cập đã được gợi lên trong bài hát "Dạo bước cùng người Ai Cập" của The Bangles. Bảo tàng Nghệ thuật Thủ đô đã phục hồi Đền Dendur trong khu vực trưng bày riêng của mình vào năm 1978. Năm 1989, Bảo tàng Louvre đã xây dựng kim tự tháp bằng kính của riêng mình và vào năm 1993, tại Thung lũng Las Vegas với Khách sạn Luxor của Las Vegas đã khai trương với ngôi mộ bản sao của Tutankhamun. Một loạt tiểu thuyết bán chạy nhất của tác giả và nhà Ai Cập học người Pháp Christian Jacq được lấy cảm hứng từ cuộc đời của Pharaoh Ramses II ("Đại đế").
Nữ hoàng Ai Cập
Nữ hoàng Ai Cập (mặc đồ Âu)
Bên cạnh đó, sự vĩ đại khó tin của hệ thống các Kim tự tháp Ai Cập cổ đại đã khiến người phương Tây nảy sinh ra giả thuyết về việc Kim tự tháp chính là công trình của người ngoài hành tinh. Tác giả Von Däniken cho biết rằng Ai Cập cổ đại với các công trình kiến trúc vĩ đại của phức hợp kim tự tháp Giza như Đại kim tự tháp Giza và Đại Nhân sư Giza, đã trở thành một công trình "tuyệt vời, được làm sẵn" mà nền văn minh này sản sinh ra một cách đột ngột và không có sự chuyển đổi và phát triển. Những người ủng hộ thuyết phi hành gia cổ đại cho rằng những địa điểm như kim tự tháp Giza thay vào đó được xây dựng do người ngoài hành tinh. Tuy nhiên, bằng chứng khảo cổ học không chỉ chứng minh quỹ đạo văn hóa lâu dài của Ai Cập thời tiền sử mà còn chứng minh quá trình phát triển mà người Ai Cập cổ đại đã trải qua.
Những ngôi mộ của người Ai Cập bắt đầu bằng việc những người lãnh đạo quan trọng của các ngôi làng được chôn cất trong nền đá và được bao phủ bằng những ụ đất. Cuối cùng, các Pharaoh đầu tiên có những ngôi mộ được bao phủ bởi các cấu trúc hình vuông, gạch bùn, một tầng được gọi là mastabas và kim tự tháp bậc được phát triển từ nhiều mastabas được xếp chồng lên nhau trong một cấu trúc. Điều này dẫn đến việc xây dựng Kim tự tháp bậc thang của pharaoh Djoser tại Saqqara, được biết đến từ các ghi chép là được xây dựng dưới bàn tay của những kiến trúc sư và cố vấn Ai Cập cổ đại Imhotep. Chính pharaoh Sneferu là người đã chuyển kim tự tháp của mình từ dạng bậc thang thành kim tự tháp thực sự giống như các kim tự tháp nổi tiếng ở Giza. Một tư liệu giấy cói giống như nhật ký được lưu giữ từ một quan chức tên là thanh tra Merer cũng đã được phát hiện có ghi chép về việc xây dựng Đại Kim Tự Tháp.
Thế kỷ XXI
Loạt phim ngắn của HBO có tựa đề Rome có một số tập lấy bối cảnh ở Ai Cập Hy Lạp-La Mã. Những công trình tái tạo trung thực của một triều đình Ai Cập cổ đại (trái ngược với nền văn hóa Hy Lạp hóa đúng đắn về mặt lịch sử) được xây dựng trong studio Cinecittà ở Rome. Bộ truyện mô tả những câu chuyện được dàn dựng hóa về mối quan hệ giữa Cleopatra, Ptolemy XIII, Julius Caesar và Mark Antony. Cleopatra do Lyndsey Marshal thủ vai và phần lớn phần thứ hai được dành riêng cho các sự kiện dẫn đến vụ tự sát nổi tiếng của Cleopatra và người tình của bà là Mark Antony vào năm 30 trước Công nguyên. La Reine Soleil là một bộ phim hoạt hình năm 2007 của Philippe Leclerc, có các nhân vật Akhenaten, Tutankhaten (sau này là Tutankhamun), Akhesa (Ankhesenepaten, sau này là Ankhesenamun), Nefertiti và Horemheb trong một cuộc đấu tranh phức tạp giữa các tư tế của Amun chống lại thuyết độc thần không khoan dung của Akhenaten.
Ca sĩ người Mỹ Katy Perry phát hành bài hát Dark Horse vào năm 2013 và cốt truyện của video âm nhạc cho bài hát đã được thiết lập từ Memphis cổ đại. Video có nhiều biểu tượng Ai Cập cổ đại và nhiều chi tiết trong đó chính xác về mặt lịch sử mặc dù không được tham khảo bất kỳ các nhà Ai Cập học nào trong quá trình sản xuất video. Kiểu trang điểm ngọc lam mà Katy Perry mặc trong video có lẽ đã được sử dụng ở Ai Cập cổ đại, chiếc váy cô mặc có kiểu dáng tương tự như trang phục Graeco-La Mã được mặc bởi các quý tộc như Cleopatra, video có tính năng Con mắt của Horus một biểu tượng quyền năng ở Ai Cập cổ đại và những bức tranh đằng sau ngai vàng mà Katy Perry ngồi trên dường như được tạo ra dựa trên những ví dụ có thật từ các ngôi mộ Ai Cập cổ đại. Album năm 2017, ambum 20s A Difficult Age của nghệ sĩ thu âm Marcus Orelias, một trong những bài hát có tựa đề "Aset" (cách viết ban đầu của tên "Isis"). Video âm nhạc do đạo diễn Luis Montoya chỉ đạo có chữ tượng hình của Isis trong thẻ bài.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Assmann, Jan, Moses the Egyptian: The Memory of Egypt in Western Monotheism, Cambridge, Massachusetts, Harvard University Press, 1997, .
Breasted, James Henry, A History of Egypt from the Earliest Times to the Persian Conquest, with Illustrations and Maps, New York, Bantam Books, 1967.
Curl, James Stevens, The Egyptian Revival, revised and enlarged edition, New York, Routledge, 2005, (paperback), (hardback).
Herodotus, The Histories, Newly translated and with an Introduction by Aubrey de Sélincourt, Harmondsworth, Penguin Books, 1965.
Liên kết ngoài
Aegyptiaca - Journal of the History of Reception of Ancient Egypt
Ai Cập
Chủ đề trong văn hóa đại chúng
|
19835265
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trivante%20Stewart
|
Trivante Stewart
|
Trivante Vicent Stewart (sinh ngày 22 tháng 3 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Jamaica hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Jamaica.
Sự nghiệp thi đấu
Nghiệp dư
Stewart bắt đầu sự nghiệp của mình với DB Basovak ở quê hương Spanish Town, trước khi tiếp tục chơi bóng tại Trường Trung học Innswood và Trường Trung học Charlie Smith, trường mà anh thi đấu tại Manning Cup.
Chuyên nghiệp
UWI, Molynes United và Mount Pleasant
Anh bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với UWI, trước khi chuyển đến Molynes United vào năm 2022. Giữa mùa giải 2022, anh chuyển đến Mount Pleasant, nơi anh phát triển mạnh mẽ, ghi 5 bàn trong 4 trận đầu tiên cho câu lạc bộ.
Salernitana
Vào ngày 17 tháng 8 năm 2023, Stewart chính thức gia nhập câu lạc bộ Salernitana theo bản hợp đồng kéo dài 3 năm, kèm theo một lựa chọn bổ sung. Anh trở thành cầu thủ Jamaica thứ ba từng chơi ở Serie A, đồng thời là người đầu tiên tham gia giải đấu này từ giải quốc nội.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 2023, Trivante có trận ra mắt cho Salernitana, khi vào sân thay người ở phút 79 trong trận gặp Inter Milan. Tuy vậy, Salernitana để thua 0-4, khi một mình Lautaro Martínez lập một cú poker sau khi vào sân thay người.
Quốc tế
Màn trình diễn của anh tại JPL đã giúp anh được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Jamaica.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
.
Quốc tế
Danh hiệu
Mount Pleasant
Vô địch Giải Ngoại hạng Jamaica: 2022–23
Tham khảo
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Jamaica
Cầu thủ bóng đá nam Jamaica
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Jamaica
Cầu thủ bóng đá nam Jamaica ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ Giải Ngoại hạng Jamaica
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá UWI F.C.
Cầu thủ bóng đá Molynes United F.C.
Cầu thủ Học viện bóng đá Mount Pleasant
Cầu thủ bóng đá U.S. Salernitana 1919
|
19835266
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Ba%20l%C3%BD%20Sao%20H%E1%BB%8Fa
|
Địa lý Sao Hỏa
|
Địa lý Sao Hỏa là một lĩnh vực con của khoa học hành tinh, chuyên phân định và mô tả đặc điểm địa lý của các vùng của Sao Hỏa. Địa lý Sao Hỏa giống địa lý tự nhiên ở Trái Đất, chủ yếu nghiên cứu về sự phân bố các đặc điểm tự nhiên của Sao Hỏa và lập bản đồ chúng. Bản đồ chi tiết gần đây nhất về Sao Hỏa được NASA công bố vào ngày 16 tháng 4 năm 2023.
Lịch sử
Những quan sát chi tiết đầu tiên về Sao Hỏa được thực hiện bằng kính thiên văn ở Trái Đất. Những lần quan sát thường được thực hiện khi Sao Hỏa đạt vị trí xung đối, khi hành tinh này ở gần Trái Đất nhất và do đó chúng ta có thể nhìn thấy nó dễ nhất. Đáng chú ý hơn, Sao Hỏa sẽ đạt vị trí xung đối cận nhật (gần Trái Đất nhất và gần Mặt Trời nhất) vào khoảng 16 năm một lần.
Tháng 9 năm 1877, Sao Hỏa đạt vị trí xung đối với Trái Đất vào ngày 5 tháng 9, nhà thiên văn học người Ý Giovanni Schiaparelli công bố bản đồ chi tiết đầu tiên về Sao Hỏa. Bản đồ này gây chú ý vì có các đặc điểm mà ông gọi là canali ("con kênh"), sau này các nhà khoa học chứng minh được đó là ảo ảnh quang học. Những canali này được miêu tả là những đường thẳng chạy dài trên bề mặt Sao Hỏa, ông đặt tên cho chúng theo những con sông nổi tiếng trên Trái Đất. Thuật ngữ của ông thường bị dịch sai thành canal (kênh đào), và do đó đã gây ra những tranh cãi về kênh đào ở Sao Hỏa.
Sau những quan sát đầu tiên này, người ta tin rằng từ lâu Sao Hỏa đã có biển và thảm thực vật lớn. Mãi cho đến khi chương trình Mariner của NASA đưa tàu vũ trụ ghé thăm hành tinh này vào những năm 1960, chúng ta mới biết rằng sự thật không phải như vậy. Nhiều bản đồ Sao Hỏa được công bố bằng dữ liệu thu thập được từ các chương trình này, nhưng phải đến khi chương trình Mars Global Surveyor bắt đầu vào năm 1996 và kết thúc vào cuối năm 2006 thì chúng ta mới có được tấm bản đồ hoàn chỉnh và cực kỳ chi tiết.
Lập bản đồ Sao Hỏa
Bản đồ học là môn nghệ thuật, khoa học và công nghệ của việc lập bản đồ. Ở Trái Đất, chúng ta có nhiều kỹ thuật để chuyển đổi bề mặt cong 2D thành mặt phẳng 2D, tạo điều kiện cho việc lập bản đồ. Để tạo điều kiện thuận lợi như vậy cho Sao Hỏa, các phép chiếu, hệ tọa độ, và mốc đo lường cần phải thiết lập. Hiện nay, Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ xác lập 30 tứ giác cho bề mặt Sao Hỏa, được trình bày bên dưới đây.
Độ cao 0
Ở Trái Đất, mốc độ cao bằng 0 dựa trên mực nước biển (geoid). Tuy nhiên, vì Sao Hỏa không có đại dương và do đó không có mực nước biển, nên rất thuận tiện để xác định mốc độ cao bằng 0 tùy ý để lập bản đồ bề mặt, mốc này được gọi là areoid.
Mốc độ cao của Sao Hỏa ban đầu được xác định theo áp suất khí quyển không đổi. Từ sứ mệnh Mariner 9 cho đến năm 2001, áp suất này được chọn là 610,5 Pa (6,105 mbar), trên cơ sở rằng dưới áp suất này, nước lỏng không bao giờ có thể ổn định (tức là điểm ba của nước ở áp suất này). Giá trị này chỉ bằng 0,6% áp suất ở mực nước biển của Trái Đất. Lưu ý rằng việc lựa chọn giá trị này không có nghĩa là nước ở dạng lỏng tồn tại dưới độ cao này, chỉ là nó có thể có nhiệt độ vượt quá 273,16 K (0,01 độ C, 32,018 độ F).
Năm 2001, dữ liệu của Mars Orbiter Laser Altimeter (tạm dịch: Thiết bị đo độ cao bằng laser từ quỹ đạo Sao Hỏa) đã đặt một quy ước mới về mốc độ cao bằng 0, được định nghĩa là bề mặt đẳng thế có giá trị trung bình tại xích đạo bằng bán kính trung bình của hành tinh.
Kinh tuyến gốc
Đường xích đạo của Sao Hỏa được xác định bởi trục quay của nó, nhưng vị trí kinh tuyến gốc của hành tinh này được xác định theo quy ước như kinh tuyến gốc của Trái Đất, bằng cách chọn một điểm tùy ý mà các nhà thiên văn học sau này đều đồng thuận. Các nhà thiên văn học người Đức, Wilhelm Beer và Johann Heinrich Mädler đã chọn một đặc điểm hình tròn nhỏ ở Sinus Meridiani ("Vịnh Kinh tuyến") làm điểm tham chiếu khi họ tạo ra bản đồ có hệ thống đầu tiên về các đặc điểm của Sao Hỏa vào năm 1830–1832. Năm 1877, nhà thiên văn học người Ý Giovanni Schiaparelli chấp nhận đề xuất kia khi ông bắt đầu nghiên cứu lập bản đồ Sao Hỏa của riêng mình. Năm 1909, những người tạo ra lịch thiên văn quyết định thay vì không xét đến đường tưởng tượng này thì họ chấp nhận nó, rồi đưa vào bản đồ sao và các bản hướng dẫn quan sát bầu trời lúc đó.
Năm 1972, sau khi tàu vũ trụ Mariner chụp nhiều hình ảnh mênh mông của Sao Hỏa, nhóm trắc địa và lập bản đồ của sứ mệnh Mariner 9 đề xuất lấy kinh tuyến gốc là đường đi qua tâm của hố va chạm nhỏ tên là Airy-0 có đường kính khoảng 500 m, nằm ở Sinus Meridiani, chạy dọc theo đường kinh tuyến đề xuất của Beer và Mädler, do đó xác định được kinh độ 0,0° với sai số 0,001°.
Khi các kỹ thuật đo phóng xạ giúp đo đạc và định vị các vật thể trên bề mặt Sao Hỏa chính xác hơn, tâm của một hố va chạm rộng 500 m được coi là không đủ chính xác để có một phép đo chính xác. Do đó, Hiệp hội Thiên văn Quốc tế đề xuất đặt kinh độ của tàu đổ bộ Viking 1 – nơi có dữ liệu theo dõi bằng phép đo phóng xạ – là kinh độ chuẩn 47,95137° Tây. Định nghĩa này giúp củng cố vị trí tâm của hố va chạm Airy-0 ở đúng kinh độ 0.
Địa hình
Xét trên toàn bộ hành tinh, địa hình của Sao Hỏa thay đổi đáng kể và không có một kiểu địa hình đặc trưng nào nổi bật hơn cả. Tuy vậy, địa hình của Sao Hỏa chia thành hai kiểu địa hình khác nhau rất đáng chú ý: các vùng đồng bằng phía bắc bị san phẳng bởi dòng chảy dung nham, ngược lại với các vùng cao nguyên phía nam với đầy những hố va chạm. Do đó, bề mặt Sao Hỏa khi nhìn từ Trái Đất được chia thành hai khu vực tương phản nhau. Các đồng bằng nhạt màu hơn bị bụi, cát giàu oxit sắt bao phủ, tạo nên màu đỏ đặc trưng và từng được xem là các phần "lục địa", nổi bật có Arabia Terra (vùng đất cao Arabia) hay Amazonis Planitia (đồng bằng Amazonis). Trong khi đó, những vùng tối hơn thường được xem là biển nên có tên là Mare Erythraeum (biển Erythraean), Mare Sirenum (biển Sirenum) và Aurorae Sinus (vịnh Aurorae). Vùng tối lớn nhất nhìn thấy được từ Trái Đất là Syrtis Major Planum (cao nguyên Syrtis Major).
Núi lửa Olympus Mons cao 22 km so với vùng đồng bằng núi lửa xung quanh và là ngọn núi cao nhất từng được biết đến trên bất kỳ hành tinh nào trong Hệ Mặt Trời. Ngọn núi này nằm trong một vùng cao địa rộng lớn tên là Tharsis, nơi đây còn có nhiều ngọn núi lửa lớn khác.
Vùng Tharsis của Sao Hỏa còn có hệ thống hẻm núi lớn nhất Hệ Mặt Trời là Valles Marineris (Thung lũng Mariner, đặt theo tên chương trình Mariner) dài 4.000 km và sâu 7 km. Sao Hỏa có rất nhiều hố va chạm, lớn nhất trong số này là đồng bằng Hellas.
Sao Hỏa có hai chỏm băng vĩnh viễn ở cực, chỏm phía Bắc nằm ở Planum Boreum và chỏm phía Nam ở Planum Australe.
Sự chênh lệch giữa điểm cao nhất và điểm thấp nhất của Sao Hỏa là gần 30 km (từ đỉnh Olympus Mons ở độ cao 21,2 km đến hố va chạm Badwater ở đáy đồng bằng Hellas thấp hơn 8,2 km so với mốc chuẩn). Để so sánh, sự chênh lệch giữa điểm cao nhất và điểm thấp nhất của Trái Đất (đỉnh Everest và rãnh Mariana) chỉ là 19,7 km. So sánh theo tỷ lệ với bán kính khác nhau của hai hành tinh, ta thấy Sao Hỏa gồ ghề hơn Trái Đất gần gấp ba lần.
Hiệp hội Thiên văn Quốc tế chịu trách nhiệm đặt tên cho các đặc điểm tự nhiên của Sao Hỏa.
Sự phân đôi địa hình
Khi quan sát địa hình Sao Hỏa, ta sẽ thấy sự phân đôi giữa bán cầu Bắc và Nam. Trong khi Bán cầu Bắc bằng phẳng, có ít hố va chạm và nằm dưới mức độ cao bằng 0; thì Bán cầu Nam là vùng núi và cao nguyên, hầu hết có độ cao trên 0. Hai bán cầu có độ cao chênh nhau từ 1 km đến 3 km.
Ranh giới ngăn cách hai khu vực này được các nhà địa chất quan tâm rất nhiều. Tại đây có kiểu địa hình gồ ghề rất đặc trưng. Kiểu địa hình này có các núi mặt bàn, núi đỉnh tròn, thung lũng nền phẳng có tường thẳng đứng cao khoảng hơn một km. Xung quanh các ngọn núi là những dốc đá thoải, dưới chân dốc có rất nhiều đất đá vụn, cho thấy đó có thể từng là những dòng sông băng.
Các đặc điểm thú vị khác có thể kể đến như những thung lũng sông lớn và những kênh nước cũng gây ra sự chia đôi địa hình này.Các vùng đất thấp phía Bắc chiếm khoảng một phần ba bề mặt Sao Hỏa và vùng này tương đối bằng phẳng, thỉnh thoảng có các hố va chạm. Hai phần ba bề mặt còn lại của Sao Hỏa là vùng cao nguyên phía Nam. Sự khác biệt về độ cao giữa các bán cầu là rất lớn. Do mật độ của những hố va chạm, các nhà khoa học tin rằng bán cầu Nam có tuổi đời lâu hơn so với vùng đồng bằng phía Bắc. Phần lớn vùng cao nguyên phía Nam bị thiên thạch va chạm có niên đại từ kỷ nguyên Noachian.
Nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích sự khác biệt này của hai bán cầu. Ba giả thuyết được chấp nhận phổ biến nhất là một vụ va chạm lớn, nhiều vụ va chạm, và các quá trình nội sinh như đối lưu lớp phủ. Cả hai giả thuyết về va chạm đều nói về các quá trình có thể xảy ra trước khi thiên thạch ngừng tấn công vào hành tinh này, ngụ ý rằng sự phân đôi địa hình Sao Hỏa có nguồn gốc từ rất sớm trong lịch sử của hành tinh.
Giả thuyết về vụ va chạm lớn được đề xuất vào đầu thập niên 1980, lúc ấy khiến nhiều người hoài nghi do hình dạng không hướng tâm (hình elip) của khu vực va chạm. Tuy nhiên, một nghiên cứu năm 2008 đã củng cố giả thuyết này. Nhóm nghiên cứu dùng dữ liệu địa chất và tìm thấy bằng chứng của một vật thể lớn đã va vào Sao Hỏa ở góc xấp xỉ 45 độ. Bằng chứng này bổ sung các phân tích về tính chất hóa học của đá trên Sao Hỏa, về sự trồi lên của vật chất ở lớp phủ sau vụ va chạm.
Đặt tên
Đặt tên trong quá khứ
Johann Heinrich Mädler và Wilhelm Beer lập bản đồ Mặt Trăng từ những năm 1830, và họ cũng là những nhà địa lý Sao Hỏa đầu tiên. Họ bắt đầu xác lập một lần và mãi mãi hầu hết các đặc điểm của Sao Hỏa và xác định chu kỳ quay của hành tinh. Năm 1840, Mädler tổng hợp dữ liệu của 10 năm quan sát và vẽ được bản đồ Sao Hỏa đầu tiên trên thế giới. Thay vì đặt tên cho các đặc điểm địa lý trên bản đồ, Beer và Mädler chỉ đơn giản đặt tên cho chúng bằng các chữ cái; Vịnh Meridian (Sinus Meridiani) được gọi là "a".
Trong khoảng 20 năm tiếp theo khi các thiết bị được cải tiến và số lượng người quan sát cũng tăng lên, nhiều đặc điểm khác nhau của Sao Hỏa đã được đặt tên. Solis Lacus được gọi là "Oculus" (Con mắt) và Syrtis Major thường được gọi là "Biển đồng hồ cát" hay "Bọ cạp". Năm 1858, nhà thiên văn học Dòng Tên Angelo Secchi đặt tên cho Syrtis Major là "Atlantic Canale" (Kênh Đại Tây Dương). Secchi nhìn nhận khu vực này "dường như đóng vai trò của Đại Tây Dương trên Trái Đất khi ngăn cách Cựu Thế giới với Tân Thế giới", đây là lần đầu tiên từ canale của tiếng Ý được đặt cho Sao Hỏa.
Năm 1867, Richard Anthony Proctor vẽ bản đồ Sao Hỏa. Ông dựa trên những bản vẽ trước đó của linh mục William Rutter Dawes vào năm 1865 và biến tác phẩm của mình thành bức vẽ đẹp nhất lúc bấy giờ. Proctor giải thích hệ thống tên gọi của mình: "Tôi đặt tên các đặc điểm địa lý của Sao Hỏa theo tên những nhà quan sát đã nghiên cứu các đặc điểm địa lý đó." Dưới đây là một số tên được ông đặt cho, cùng với những cái tên do Schiaparelli đặt trong bản đồ Sao Hỏa xuất bản từ năm 1877 đến năm 1886 của ông. Tên do Schiaparelli đặt thường được sử dụng và là những cái tên được sử dụng đến ngày nay.
Cách đặt tên của Proctor thường bị chỉ trích, chủ yếu vì ông vinh danh quá nhiều các nhà thiên văn học người Anh, cũng như vì ông đặt một tên nhiều hơn một lần. Cá biệt, cái tên Dawes xuất hiện đến 6 lần (Đại dương Dawes, Lục địa Dawes, Biển Dawes, Eo biển Dawes, Đảo Dawes và Vịnh Dawes Forked). Mặc dù vậy, những cái tên này vẫn là nền tảng để các nhà thiên văn học sau này đặt tên tốt hơn dựa vào đặc điểm địa lý.
Đặt tên ở hiện tại
Ngày nay, tên các đặc điểm địa lý của Sao Hỏa có nguồn gốc từ nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhưng tên của các đặc điểm lớn chủ yếu bắt nguồn từ các bản đồ Sao Hỏa do nhà thiên văn học người Ý Giovanni Schiaparelli lập vào năm 1886. Schiaparelli đặt tên cho các đặc điểm lớn của Sao Hỏa chủ yếu bằng tên lấy từ thần thoại Hy Lạp và thỉnh thoảng là từ Kinh thánh. Nhiều đặc điểm lớn của Sao Hỏa vẫn giữ lại tên cũ nhưng được thay đổi tên của kiểu địa hình để phù hợp với các kiến thức mới, chẳng hạn Nix Olympica (vùng tuyết Olympus) được đổi thành Olympus Mons (núi Olympus).
Các hố va chạm lớn trên Sao Hỏa được đặt theo tên các nhà khoa học và nhà văn khoa học viễn tưởng có sức ảnh hưởng; những hố nhỏ hơn được đặt tên theo các thị trấn, thành phố của Trái Đất.
Nhiều dạng địa hình khác nhau do Mars Exploration Rovers khám phá được đặt tên tạm hoặc tên định danh để xác định chúng trong khi chương trình diễn ra.
Xem thêm
Địa chất Sao Hỏa
Khí quyển Sao Hỏa
Thăm dò Sao Hỏa
Danh sách cao địa của Sao Hỏa
Danh sách vùng đất của Sao Hỏa
Danh sách tứ giác của Sao Hỏa
Danh sách địa hình hỗn loạn của Sao Hỏa
Chú thích
Liên kết ngoài
Google Mars (tiếng Anh) – Bản đồ Google dành cho Sao Hỏa, có liệt kê rất nhiều đặc điểm trên bề mặt của Sao Hỏa
Mars/themis Maps (tiếng Anh) – Đại học bang Arizona
MEC-1 Prototype (tiếng Anh)
Lịch sử Sao Hỏa (tiếng Anh)
Bản đồ Sao Hỏa 3D (tiếng Anh)
Khoảng cách và độ cao hiện tại của các đặc điểm của Sao Hỏa (tiếng Anh) – NASA
Nguồn gốc tên các hố va chạm của Sao Hỏa (tiếng Anh)
Bản đồ tương tác 3D của Sao Hỏa (tiếng Anh) – CTX
Địa lý Sao Hỏa
Sao Hỏa
|
19835267
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marie%20Luise%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
|
Marie Luise của Phổ
|
Marie Luise của Phổ, thường gọi là Luise của Phổ (tiếng Đức: Marie Luise Anna von Preußen; 1 tháng 3 năm 1829, Berlin – 10 tháng 5 năm 1901, Frankfurt am Main) là Vương tôn nữ Phổ thuộc Vương tộc Hohenzollern và là cháu gái của Frederick William III của Phổ.
Những năm đầu đời
Maria Luise Anna là người con thứ hai và là con gái lớn của Vương tử Carl của Phổ và Đại Công nữ Marie xứ Sachsen-Weimar-Eisenach. Ông nội của Luise là Friedrich Wilhelm III của Phổ.
Hôn nhân
Đã có những cuộc đàm phán thất bại về cuộc hôn nhân giữa Marie Luise và Karl XV của Thụy Điển. Vào ngày 27 tháng 6 năm 1854, Luise kết hôn với Alexis I xứ Hessen-Philippsthal-Barchfeld tại Cung điện Charlottenburg. Cuộc hôn nhân không có con và kết thúc bằng cuộc ly hôn vào ngày 6 tháng 3 năm 1861.
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Vương nữ
Sinh năm 1829
Mất năm 1901
|
19835268
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Anna%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
|
Maria Anna của Phổ
|
Maria Anna Friederike của Phổ, thường gọi là Anna của Phổ (tiếng Đức: Maria Anna Friederike von Preußen; 17 tháng 5 năm 1836 – 12 tháng 6 năm 1918) là Vương tôn nữ Phổ thuộc Vương tộc Hohenzollern và là cháu gái của Friedrich Wilhelm III của Phổ.
Những năm đầu đời
Maria Anna Friederike là người con út trong ba người con của Vương tử Carl của Phổ và Đại Công nữ Marie xứ Sachsen-Weimar-Eisenach.
Là một Vương tôn nữ trẻ đẹp, Maria Anna là đối tượng được nhiều người chú ý trong triều đình. Vào mùa đông năm 1852, Hoàng đế trẻ Franz Joseph I của Áo đã gặp Anna ở Berlin và đã đem lòng yêu cũng như muốn cầu hôn Anna. Mẹ của Franz Joseph I, Đại vương công phu nhân Sophie của Áo, đã viết thư cho chị gái Vương hậu Elisabeth của Phổ đề cập đến "niềm hạnh phúc đến với con trai em như một giấc mơ thoáng qua và để lại ấn tượng sâu đậm trong trái tim nó - và than ôi - mạnh mẽ và sâu sắc hơn nhiều so với những gì em đã nghĩ". Tuy nhiên, vào thời điểm đó Anna đã đính hôn, và điều phức tạp hơn là các chính khách Phổ phản đối mạnh mẽ việc liên minh với Áo. Mẹ của Franz Joseph I đã hỏi rằng "liệu có hy vọng nào rằng cuộc hôn nhân buồn bã mà họ đang áp đặt lên thiếu nữ Anna quyến rũ này và đẩy Anna vào cảnh không còn chút triển vọng hạnh phúc nào có thể bị ngăn cản hay không," nhưng vô ích.
Hôn nhân và hậu duệ
Ngày 26 tháng 5 năm 1853, Anna kết hôn với Friedrich Wilhelm xứ Hesse-Kassel tại Cung điện Charlottenburg ở Berlin. Anna là vợ thứ hai của Friedrich Wilhelm, người chín năm trước đã trải qua cái chết đau thương vì sinh nở của người vợ đầu dấu yêu là Aleksandra Nikolayevna của Nga. Friedrich Wilhelm không bao giờ vượt qua được mất mát này, diễn ra chưa đầy một năm sau đám cưới của Friedrich Wilhelm với Aleksandra. Quả như Sophie dự đoán, Friedrich và Anna có mối quan hệ hòa nhã nhưng lại xa cách về mặt tình cảm. Dù vậy, hai vợ chồng có với nhau sáu người con:
Friedrich Wilhelm III xứ Hessen (1854–1888); không kết hôn, qua đời trên biển trong chuyến hành trình từ Batavia tới Singapore.
Elisabeth Alexandra xứ Hessen (1861–1955); kết hôn với Thân vương thế tử Leopold xứ Anhalt và có hậu duệ.
Alexander Friedrich I xứ Hessen (1863–1945); kết hôn với Nam tước Gisela Stockhorner von Starheim, con gái của Otto, Nam tước Stockhorner von Starheim và Emilie Susanne Hildegard, Nữ Nam tước von Wolzogen -Neuhaus và có hậu duệ.
Friedrich Karl I xứ Hessen, Quốc vương Phần Lan (1868–1940); kết hôn với Margarethe của Phổ và có hậu duệ.
Marie Polyxene xứ Hessen (1872–1882); chết năm 10 tuổi vì bệnh viêm tủy xương.
Sybille Margarethe xứ Hessen (1877–1925); kết hôn với Nam tước Friedrich Alexander Henry Robert Carl Albert von Vincke (ly hôn năm 1923).
Đánh giá
Con gái của Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh là Victoria, Vương nữ Vương thất, người đã kết hôn với anh họ của Anna là Friderich, Hoàng đế tương lai của Đức, đã viết về Anna như sau:
Ở một khía cạnh khác, Anna là một người phụ nữ rất thông tuệ, từng chủ trì một hội trường cung đình gồm các nghệ sĩ và nhạc sĩ xuất sắc, bao gồm Johannes Brahms, Clara Schumann, Anton Rubinstein và Julius Stockhausen. Anna cũng là một nghệ sĩ piano được đào tạo bài bản với khả năng tuyệt vời dưới sự dạy bảo của Theodor Kullak. Brahms đã dành tặng bản Ngũ tấu piano của mình cho Anna vào năm 1865.
Năm 1901, Maria Anna đã cải đạo sang Công giáo, điều này dẫn đến những rắc rối về chính trị. Anna còn là nhân vật của một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của Franz Xaver Winterhalter, trong đó Vương tôn nữ mặc một chiếc váy dài bằng vải tuyn trên lụa hồng.
Góa phụ và cải đạo sang Công giáo
Vương tôn nữ Maria Anna lần lượt phải chịu nhiều biến cố trong cuộc sống khiến cho Anna hướng lòng nhiều hơn đến tôn giáo. Năm 1882, cô con gái 10 tuổi Marie Polyxene của Anna qua đời vì bị viêm tủy xương; năm 1884, chồng của Anna qua đời vì mộ căn bệnh dạ dày nghiêm trọng; năm 1886, người con rể Leopold xứ Anhalt qua đời và vào năm 1888, người con trai cả Friedrich Wilhelm qua đời trong một chuyến đi biển từ Batavia đến Singapore.
Qua đời và an táng
Maria Anna dành những năm cuối đời tại Frankfurt và qua đời tại đây vào ngày 12 tháng 6 năm 1918 khi đã 82 tuổi. Giáo hoàng Biển Đức XV đã ban lời chúc lành cho Anna. Ngày 17 tháng 6, Maria Anna được an táng tại Nhà thờ Thánh Anton, nơi mà Vương tôn nữ đã quyên góp ủng hộ và là nơi Anna thường đến cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ. Giám mục Limburg là Augustinus Kilian đã cử hành lễ cầu siêu cho Anna. Buổi lễ có sự góp mặt của Nữ vương Wilhelmina của Hà Lan và nhiều thành viên của các vương thất khác nhau. Quan tài của Anna được đưa đến Fulda bằng tàu hỏa và Vương tôn nữ được chôn cất ở Thánh đường Fulda theo yêu cầu của Anna, trước Bàn thờ Thánh Anna, gần mộ của Thánh Boniface. Dòng chữ Latin trên mộ phần của Anna ghi rằng:
Huân chương
Kingdom of Prussia: Dame của Huân chương Luise, Đẳng thứ 1
: Dame của Huân chương Sư tử Vàng, 1 tháng 1 năm 1883
: Dame thứ 795 của Huân chương Vương hậu María Luisa -
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Landgravine Anna of Hesse 1836-1918. Stations in the life of a Hessian princess. Catalog for the exhibition. Museum Schloss Fasanerie June 16 – October 14, 2018. Imhof, Petersberg 2018. ISBN 978-3-7319-0750-3 và ISBN 978-3-9816021-5-9.
Katharina Bechler: Notes on the room decoration of Philippsruhe Palace from the modernization phase 1875–1880, pp. 198–219.
Christoph Heinemann: Anna of Hesse and the Hünfelder Bonifatiuskloster. A look into the monastery chronicle, pp. 142–153.
Christine Klössel: Third Phase of Life, Conversion and Death, pp. 126–137.
Christine Klössel: Family life - mother's happiness and mother's suffering, pp. 66-85.
Christine Klössel: Childhood, Love and Marriage, pp. 8–19.
Christine Klössel: Landgrave couple without land, pp. 48–59.
Christine Klössel: Elixir of Life Music, pp. 110–121.
Kapistran Romeis: Princess Anna of Prussia, Landgravine of Hesse - Her way to the Catholic Church. Herder, Freiburg, 1925.
John Röhl: Emperor, court and state - Wilhelm II and German politics. Beck, Munich 2002, ISBN 978-3-406-49405-5, tr. 106.
Liên kết ngoài
Anna of Prussia . In: Kulturring.org
Hessen, Anna Landgräfin von. Hessische Biografie. In: Landdesgeschichtliches Informationssystem Hessen (LAGIS). (Stand 27 November 2019).
Anna, Landgräfin von Hessen, geb. Prinzessin von Preußen | Frankfurter Personenlexikon, Frankfurter Personenlexikon
Vương nữ Phổ
Vương tộc Hohenzollern
Vương nữ
Người Berlin
Mất năm 1918
Sinh năm 1836
Bài viết có văn bản tiếng Đức
|
19835269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kristen%20Ghodsee
|
Kristen Ghodsee
|
Kristen Rogheh Ghodsee (sinh ngày 26 tháng 4 năm 1970) là một nhà dân tộc chí người Mỹ giữ học hàm Giáo sư Khoa Nghiên cứu Đông Âu và Nga tại Đại học Pennsylvania. Bà được biết đến chủ yếu vì các công trình liên quan đến Bulgaria hậu cộng sản, cũng như các đóng góp cho ngành nghiên cứu giới tính hậu xã hội chủ nghĩa.
Đóng góp học thuật
Hoài niệm đỏ, nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, và chủ nghĩa tân tự do
Năm 2004, Ghodsee xuất bản một trong những bài luận đầu tiên phân tích về bình diện giới tính của hiện tượng hoài niệm cộng sản ở Đông Âu. Ngay từ những năm 1990, rất nhiều học giả đã để ý đến hiện tượng Ostalgie ở Đông Đức và cái mà gọi là hoài niệm Nam Tư ở những quốc gia hậu thân của CHXHCN Nam Tư. Các công trình sớm về nỗi hoài niệm cộng sản tập trung vào các bình diện tiêu dùng và coi đó là giai đoạn cần thiết để dân chúng Đông Âu hậu cộng sản vượt qua quá khứ của đất nước họ. Trái lại, khái niệm "hoài niệm đỏ" của Ghodsee cân nhắc về vấn đề những người đàn ông và phụ nữ đã đương đầu thế nào với sự mất mát các lợi thế vật chất mà họ được hưởng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Thay vì nuối tiếc những kỷ niệm cũ, hoài niệm đỏ tạo thành cơ sở của một phê phán về các biến động chính trị và kinh tế đặc trưng của thời kỳ hậu xã hội chủ nghĩa.
Theo Ghodsee, Tổ chức Tưởng niệm Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản là một tổ chức bảo thủ chống cộng, luôn tìm cách quy chụp chủ nghĩa cộng sản với các vụ giết hại, chẳng hạn như việc họ dựng các biển quảng cáo ở Quảng trường Thời đại với các khẩu hiệu tuyên truyền như "100 năm, 100 triệu người bị giết" và "Chủ nghĩa Cộng sản giết người." Ghodsee cho rằng tổ chức này, cùng nhiều tổ chức bảo thủ khác ở Đông Âu, tìm mọi cách để thể chế hóa trình thuật "Nạn nhân của Chủ nghĩa Cộng sản" như một lý thuyết diệt chủng kép, hay nói cách khác là sự đánh đồng giữa Holocaust của Đức Quốc xã (dựa trên chủng tộc) và các cuộc bức hại dưới chế độ cộng sản (dựa trên giai cấp). Ghodsee lập luận rằng con số 100 triệu hoàn toàn vô lý vì họ trích dẫn nó từ tác phẩm Sách đen chủ nghĩa cộng sản của Stéphane Courtois. Bà cũng cho rằng nỗ lực tẩy trắng lịch sử cộng sản của các tổ chức bảo thủ chống cộng đang được tăng cường, nhất là vào thời điểm khủng hoảng tài chính 2007–08, và đây có thể coi là một phản ứng của giới tinh hoa kinh tế chính trị nhằm chống lại sự trỗi dậy của cánh tả trong bối cảnh bất bình đẳng kinh tế lên cao ở cả phương Đông lẫn phương Tây như là hậu quả của chủ nghĩa tư bản tân tự do. Ghodsee cho rằng các thành tựu giáo dục, nữ quyền và an ninh xã hội dưới các chế độ cộng sản thường bị ém đi, theo đó các diễn ngôn liên quan đến chủ nghĩa cộng sản thường bị định hướng sang các tội ác của Stalin và thuyết diệt chủng kép.
Xem thêm
Chủ nghĩa chống chống-cộng
Vai trò giới tính ở các nước Trung và Đông Âu hậu cộng sản
Tham khảo
Sinh năm 1970
Người Mỹ gốc Iran
Người Mỹ gốc Puerto Rico
Cựu sinh viên Đại học California tại Berkeley
Nhân vật còn sống
|
19835270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MadLife
|
MadLife
|
Hong Min-gi (; sinh ngày 5 tháng 10 năm 1992), còn được gọi là MadLife (), là một streamer, bình luận viên và cựu tuyển thủ Liên Minh Huyền Thoại chuyên nghiệp người Hàn Quốc. Trong khoảng thời gian còn thi đấu, MadLife đã nổi danh toàn cầu với hai vị tướng Thresh, Blitzcrank và được xem là "một trong những người chơi hỗ trợ xuất sắc nhất thế giới". Anh còn là á quân Chung kết thế giới mùa 2 trong màu áo Azubu Frost.
Sự nghiệp thi đấu
MadLife bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp từ mùa 2 khi anh chơi cho MiG Frost, một đội tuyển ở Hàn Quốc. Đội sau đó đã đổi sang nhà tài trợ mới là Azubu vào giữa năm 2012 và đổi tên thành Azubu Frost. MadLife cùng đồng đội đã giành được tấm vé vào chơi Chung kết thế giới năm 2012 sau khi toàn thắng 3 ván trước CLG Europe. Azubu Frost sau đó đã tiến được đến trận chung kết và để thua trước đối thủ là Taipei Assassins, kết thúc giải đấu ở vị trí á quân.MadLife đã ở lại Azubu Frost sau mùa 2 và tiếp tục chơi cho các đội kế thừa của nó sau này. Anh đã thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế qua màn thể hiện hai vị tướng Thresh và Blitzcrank ở CJ Entus. Năm 2016, MadLife thông báo chia tay Hàn Quốc để ký hợp đồng với một đội challenger ở Bắc Mỹ là Gold Coin United. Tuy vậy, anh đã không thể bay sang Hoa Kỳ trong vài tuần đầu của giải đấu do vấn đề visa. Sau hai thất bại liên tiếp để giành vé chơi tại LCS NA, MadLife đã rời Gold Coin United vào tháng 11 năm 2017. Khi về lại Hàn Quốc vào đầu năm 2018, anh đã nhận được nhiều lời đề nghị từ các đội quốc nội cũng như Trung Quốc, Châu Âu và Thổ Nhĩ Kỳ. Anh đã từ chối tất cả và thay vào đó tập trung vào sự nghiệp streamer của mình. MadLife sau đó đã thông báo từ giã sự nghiệp thi đấu vào ngày 19 tháng 6 năm 2018.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Người từ Gwangju
Vận động viên thể thao điện tử
Tuyển thủ chuyên nghiệp Liên Minh Huyền Thoại
Người chơi trò chơi Hàn Quốc
Sinh năm 1992
Nhân vật còn sống
|
19835274
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20cao%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20c%E1%BB%A7a%20Sao%20H%E1%BB%8Fa
|
Danh sách cao địa của Sao Hỏa
|
Danh sách dưới đây liệt kê các khu vực của Sao Hỏa được đặt tên là Terra (số nhiều: Terrae). Hầu hết chúng là các khu vực rộng lớn có thể nằm ở khu vực có cao độ lớn, bề mặt gồ ghề, thường có các kênh nước, hố va chạm và địa hình hỗn loạn. Trong tiếng Việt, terra được dịch là cao địa để phân biệt với planitia được dịch là bình nguyên và planum được dịch là cao nguyên.
Xem thêm
Danh sách vùng đất của Sao Hỏa
Danh sách địa hình hỗn loạn của Sao Hỏa
Danh sách tứ giác của Sao Hỏa
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cơ sở dữ liệu các đặc điểm địa lý của Sao Hỏa (tiếng Anh) – MIT phát hành năm 2000
Google Mars (tiếng Anh) – Bản đồ Google dành cho Sao Hỏa, có liệt kê rất nhiều đặc điểm trên bề mặt của Sao Hỏa
Cao địa Sao Hỏa
Địa lý Sao Hỏa
|
19835275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20v%C3%B9ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20c%E1%BB%A7a%20Sao%20H%E1%BB%8Fa
|
Danh sách vùng đất của Sao Hỏa
|
Danh sách dưới đây liệt kê các vùng đất của Sao Hỏa theo quy tắc đặt tên của Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU). Các vùng đất này có thể là planitia hoặc planum tùy thuộc vào độ cao. Trong tiếng Việt, planitia được dịch là bình nguyên (vùng đất thấp) và planum được dịch là cao nguyên (vùng đất cao), phân biệt với terra được dịch là cao địa (vùng đất rộng lớn ở trên cao).
Planitia
Planitia (số nhiều: planitiae) trong tiếng Latin có nghĩa là đồng bằng. Theo thuật ngữ miêu tả của IAU thì đây là những đồng bằng ở thấp.
Planum
Planum (số nhiều: plana) trong tiếng Latin có nghĩa là cao nguyên. Theo thuật ngữ miêu tả của IAU thì đây là những cao nguyên và những đồng bằng ở cao.
Chú thích
Xem thêm
Danh sách cao địa của Sao Hỏa
Danh sách địa hình hỗn loạn của Sao Hỏa
Danh sách tứ giác của Sao Hỏa
Liên kết ngoài
Cơ sở dữ liệu các đặc điểm địa lý của Sao Hỏa (tiếng Anh) – MIT phát hành năm 2000
Google Mars (tiếng Anh) – Bản đồ Google dành cho Sao Hỏa, có liệt kê rất nhiều đặc điểm trên bề mặt của Sao Hỏa
Vùng đất Sao Hỏa
Địa lý Sao Hỏa
Cao nguyên Sao Hỏa
Bình nguyên Sao Hỏa
|
19835284
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%A6y%20ban%20An%20to%C3%A0n%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Trung%20%C6%B0%C6%A1ng
|
Ủy ban An toàn Quốc gia Trung ương
|
Ủy ban An toàn Quốc gia Trung ương (CNSC; ) là một ủy ban của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chịu trách nhiệm về công tác và điều phối an ninh quốc gia.
Chú thích
|
19835286
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87u%20%E1%BB%A9ng%20Matilda
|
Hiệu ứng Matilda
|
Hiệu ứng Matilda là một hiện tượng phân biệt đối xử giới trong công tác khoa học, trong đó những đóng góp của phụ nữ trong khoa học bị đánh giá thấp hoặc được quy cho nam giới. Khái niệm được lấy tên theo Matilda Joslyn Gage (1826 – 1898), một nhà hoạt động đòi quyền bầu cử cho phụ nữ và theo chủ nghĩa bãi nô. Bà là người đầu tiên mô tả hiện tượng này trong tiểu luận Women as Inventor (xuất bản lần đầu dưới dạng truyền đơn vào năm 1870 và in lại trên tạp chí American North Review vào năm 1883). Thuật ngữ Hiệu ứng Matilda – Matilda effect được nhà sử học khoa học Margaret W. Rossiter tạo ra trong một nghiên cứu xuất bản vào năm 1993.
Hiệu ứng Matilda là mặt trái của Hiệu ứng Matthew, một hiện tượng khi một nhà khoa học lỗi lạc thường nhận được nhiều công lao hơn một nhà nghiên cứu tương đối ít tên tuổi, kể cả khi công trình của họ có điểm tương đồng.
Lịch sử
Năm 1969, lúc Margaret Rossiter 24 tuổi, khi đó còn là một học viên sau đại học ngành lịch sử khoa học tại Yale, đã nhận ra rằng các nhà khoa học nữ thường bị gạt ra ngoài lề và những đóng góp của họ không được đánh giá cao như những đồng nghiệp nam. Trong một buổi trò chuyện giữa một nhóm giáo sư và sinh viên, Rossiter đã hỏi các giáo sư rằng liệu đã từng có nhà khoa học nữ nào chưa. Câu trả lời rất rõ ràng: "Không. Không bao giờ. Không có." và thậm chí họ còn cho rằng Marie Curie, người hai lần đoạt giải Nobel, chỉ là trợ lý cho chồng bà. Rossiter đã không nói gì, bà cho rằng đề tài này với họ sẽ không có sự chấp nhận. Về sau Margaret Rossiter đã dành một thập kỷ thu thập tư liệu và cho ra mắt công trình khoa học Women Scientists in America, Struggles and Strategies to 1940 (1982), "khai quật" lại những cuộc đời bị chôn vùi của nhiều nhà khoa học nữ đi trước. Đây là tác phẩm được cho là một nỗ lực tiên phong và đồng thời có tính cách mạng cho việc ghi nhận sự hiện diện của những tri thức nữ trong quá khứ và tương lai.
Trong bài báo The Matthew/Matilda Effect in Science (1993), Rossiter giải thích lý do chọn cái tên Matilda cho hiện tượng nhức nhối này vì Matilda Gage là người đã nhận thức được, cũng như lên án, khuynh hướng đàn ông cấm phụ nữ gặt hái thành quả từ công sức khó nhọc của chính họ, và trên thực tế nhận thấy rằng phụ nữ làm càng nhiều thì đàn ông xung quanh người phụ nữ càng được hưởng lợi và người phụ nữ càng ít được công nhận." Và bà Matilda cho tới ngày nay (tức thời điểm xuất bản) vẫn chưa được biết đến, thế nên chính bà là sự hiện thân thích hợp cho hiện tượng này.
Vào ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại Đại học Toulouse của Pháp, một con hẻm Matilda được khánh thành với phương châm "vì vị trí xứng đáng của phụ nữ trong khoa học".
Hiệp hội các nhà nghiên cứu và công nghệ phụ nữ Tây Ban Nha (AMIT) đã tạo ra một phong trào mang tên "#NomoreMatildas" để tôn vinh Matilda Joslyn Gage. Mục tiêu của chiến dịch là thúc đẩy số lượng phụ nữ tham gia khoa học ngay từ khi còn nhỏ, xóa bỏ những định kiến giới.
Khảo sát
Từ việc phân tích hơn một nghìn ấn phẩm khoa học từ năm 1991 đến năm 2005, Silvia Knobloch-Westerwick và Carroll J. Glynn đã chứng minh rằng các nhà khoa học nam thường xuyên trích dẫn các xuất bản của tác giả nam hơn các xuất bản của tác giả nữ.
Năm 2012, hai nhà nghiên nữ cứu từ Đại học Radboud Nijmegen, Marieke van den Brink và Yvonne Benschop, đã chỉ ra rằng ở Hà Lan giới tính của ứng viên cho vị trí giảng dạy ảnh hưởng đến đánh giá lên họ. Các trường hợp tương tự được mô tả trong một nghiên cứu của Ý cũng được chứng thực bởi các nghiên cứu ở Tây Ban Nha. Mặt khác, một số nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt giữa số trích dẫn và ảnh hưởng của các bài báo của tác giả nam và của tác giả nữ.
Fabienne Crettaz von Roten, một nhà nghiên cứu nữ khác người Thuỵ Sĩ, chỉ ra rằng các bên truyền thông đại chúng mời những nhà khoa học nam lên sóng thường xuyên hơn so với những đồng nghiệp nữ của họ.
Theo Lincoln và cộng sự trong một nghiên cứu năm 2012 ở Hoa Kỳ, "mặc dù nhìn chung sự phân biệt giới tính công khai đang tiếp tục giảm trong xã hội Mỹ", "phụ nữ vẫn tiếp tục gặp thiệt thòi trong việc nhận các trao giải và giải thưởng khoa học, đặc biệt là cho công tác nghiên cứu."
Quan điểm chuyên gia
Theo chia sẻ kinh nghiệm của PGS.TS Nguyễn Phương Thảo (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bệnh truyền nhiễm, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) năm 2023, bên cạnh lý do "xây tổ ấm", "vị trí đòi hỏi sức khoẻ", định kiến "phụ nữ tham vọng", thì chính sách, đãi ngộ thấp ở nữ giới so với đồng nghiệp nam chính là rào cản lớn nhất cho họ khi hoạt động khoa học và công nghệ. Dù phụ nữ có công tác khoa học, giảng dạy, hướng dẫn nhiều không kém đồng nghiệp nam, nhưng họ vẫn có những thiệt thòi trên nhiều phương diện, đặc biệt là tư cách tác giả chính, lương bổng, thu nhập. Ở nữ giới nói chung và nhà khoa học nữ nói riêng thường cảm thấy bị đối xử bất công, coi thường và không được tôn trọng trong công việc.
Ví dụ điển hình
Những trường hợp nổi tiếng về phụ nữ chịu ảnh hưởng của hiệu ứng Matilda trong lịch sử khoa học
Theano (Theano xứ Crotone, thế kỷ 6 TCN) – nhà triết học đời đầu làm trong lĩnh vực toán học, nhưng hầu hết công trình của bà bị lu mờ hoặc gán cho Pythagoras (nhiều nguồn khác nhau cho rằng ông có thể là chồng, cha hoặc giáo viên của bà.)
Trotula (Trota xứ Salerno, giữa thế kỷ 11 và 12) – bác sĩ người Ý nổi tiếng với nhiều phương thức chữa trị những căn bệnh của nữ giới; những công trình của chính bà sau khi bà qua đời đều được cho là của các tác giả nam. Sự thù địch dành cho những người phụ nữ làm công việc dạy học và chữa bệnh thời ấy đã dẫn đến việc phủ nhận sự tồn tại của bà. Lúc đầu, công trình của bà bị gán là của chồng và con trai, cũng hành nghề y. Nhưng một vị tu sĩ thời đó cho rằng một người có nhiều thành tựu như này ắt hẳn là một người đàn ông, nên tu sĩ đã viết sai tên bà theo một bài chuyên luận của bà – Trotula, vì từ này có hình vị giống đực trong tiếng Latin. Vào thế kỷ 20, sử gia y học người Đức, Karl Sudhoff, với ý định nâng cao vị thế chuyên môn của mình, đã hạ Trotula (tức Trota) xuống hàng bà đỡ, với lý do sai lầm rằng các chuyên luận này quan trọng đến mức ắt phải được viết bởi một bác sĩ nam. Cuốn Từ điển Tiểu sử Khoa học đã không nhắc đến tên bà.
Jeanne Baret (1740–1807) – nhà thực vật học người Pháp, người phụ nữ đầu tiên hoàn thành hành trình đi vòng quanh địa cầu. Dưới danh nghĩa trợ thủ và cộng sự của nhà thực vật học Philibert Commerson, bà đã cải trang thành đàn ông, gia nhập cuộc viễn chinh của nhà thám hiểm Louis-Antoine de Bougainville. Họ đã thu thập những mẫu vật đầu tiên của hoa giấy (Bougainvillea). Hầu hết các khám phá về thực vật học đều được cho là của riêng Commerson, tên của ông được đặt cho khoảng một trăm loài. Mãi tới rất lâu sau đó tận năm 2012, bà Beret mới được vinh danh lấy tên cho một loài hoa – Solanum baretiae.
Nettie Stevens (1861–1912) – người phát hiện ra cơ sở quyết định giới tính theo nhiễm sắc thể XY. Những nghiên cứu mang tính quyết định của bà lên sâu bột lần đầu chỉ ra rằng giới tính của một sinh vật được xác định bởi nhiễm sắc thể của nó chứ không phải bởi các yếu tố môi trường hay gì khác. Phát hiện vô cùng ảnh hưởng này của Stevens đã tạo ra bước chuyển cho giới khoa học đi tới một dòng nghiên cứu mới: Xác định giới tính bằng nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, Thomas Hunt Morgan, một nhà di truyền học nổi tiếng vào thời điểm đó, được số đông công nhận là người có phát hiện này. Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu trong lĩnh vực di truyền học, những đóng góp của Stevens cho công trình của Morgan thường bị bỏ qua.
Mary Whiton Calkins (1863–1930) nhà tâm lý học của Đại học Harvard đã phát hiện ra rằng các kích thích kết hợp với các kích thích sống động khác sẽ được ghi nhớ dễ dàng hơn và thời gian tiếp xúc tăng lên sẽ cải thiện khả năng ghi nhớ. Những khám phá này và phương pháp liên quan sau đó đã được Georg Elias Müller và Edward B. Titchener sử dụng mà không ghi công Calkins.
Gerty Cori (1896–1957) – Nhà hóa sinh đoạt giải Nobel, từng làm trợ lý cho chồng nhiều năm dù có trình độ ngang nhau cho vị trí giáo sư đại học.
Rosalind Franklin (1920–1958) – nhà hóa lý người Anh, đã thu được bức ảnh đầu tiên về DNA bằng phương pháp nhiễu xạ tia X (bức ảnh 51). Bức ảnh này, cũng như công trình nghiên cứu mà bà có được mà chính bà không hề hay biết, đã cho phép các nhà nghiên cứu James Dewey Watson và Francis Crick chứng minh cấu trúc xoắn kép của phân tử DNA, đem đến cho hai người cùng Maurice Wilkins giải Nobel năm 1962 mà không nhắc đến tên hay trích dẫn cũng như nhận thức được vai trò của người đồng nghiệp nữ.
Marthe Gautier (1925–2022) – nữ bác sĩ người Pháp, đã góp phần khám phá ra tam bội nhiễm sắc thể 21 vào năm 1958 tại Bệnh viện Trousseau, Paris. Một thực tập sinh của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp, Jérôme Lejeune, đã tự nhận khám phá này tại một hội nghị ở Montreal năm 1959 và được giải thưởng Kennedy. Quỹ Jérôme-Lejeune của Pháp tranh cãi gay gắt và bác bỏ sự đóng góp của Gautier. Năm 2009, Marthe Gautier nhận được giải thưởng lớn của Liên đoàn Di truyền học con người Pháp cho phát hiện của mình. Năm 2014, Ủy ban đạo đức của Viện Nghiên cứu Y học và Sức khỏe Quốc gia của Pháp công nhận vai trò của Marthe Gautier trong việc phát hiện ra hội chứng Down.
Marian Diamond (1926–2017) – làm việc tại Đại học California, Berkeley, đã phát hiện hiện tượng tính dẻo của não, điều này trái ngược với giáo điều thần kinh học trước đây. Năm 1964, Khi bài báo tầm cỡ của bà sắp được xuất bản, bà phát hiện ra rằng tên của hai đồng tác giả phụ, David Krech và Mark Rosenzweig, đã được đặt trước tên bà (thêm cả việc tên bà cũng được đặt trong ngoặc đơn). Bà kháng nghị rằng bà đã thực hiện những công việc thiết yếu được mô tả trong bài báo và tên của bà sau đó được đặt ở vị trí đầu tiên (không có dấu ngoặc đơn).
Harriet Zuckerman (sinh 1937) – cung cấp dữ liệu cốt lõi cho khái niệm nổi tiếng của chồng bà R.K. Merton về hiệu ứng Matthew. Trong lần xuất bản đầu tiên năm 1968 về khái niệm này, vai trò của bà bị giảm xuống thành một loạt chú thích cuối thay vì đồng tác giả, điều mà sau này Merton thừa nhận là một sai sót trong các phiên bản tiếp theo của bài báo.
Lập trình viên của dự án ENIAC (cống hiến năm 1946) – nhiều phụ nữ đã có những đóng góp đáng kể cho dự án, bao gồm Adele Goldstine, Kay McNulty, Betty Jennings, Betty Snyder, Marlyn Wescoff, Fran Bilas và Ruth Lichterman, nhưng lịch sử của ENIAC thường không đề cập đến những đóng góp này và nhiều lúc chỉ nói về những thành tựu về phần cứng thay vì thành tựu phần mềm.
Những trường hợp nổi tiếng về các nhà khoa học nam được ưu ái hơn các nhà khoa học nữ cho giải thưởng Nobel
Năm 1934, giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học được trao cho George Whipple, George Richards Minot và William P. Murphy. Họ cảm thấy rằng đồng nghiệp nữ của họ, Frieda Robscheit-Robbins, bị loại ra vì lý do giới tính của bà. Tuy nhiên, Whipple đã chia sẻ số tiền thưởng với bà vì ông cảm thấy bà cũng xứng đáng nhận giải Nobel, vì bà là đồng tác giả của hầu hết các xuất bản của Whipple.
Năm 1944, giải Nobel Hóa học được trao cho một mình Otto Hahn. Lise Meitner đã làm việc với Hahn và đã đặt nền tảng lý thuyết cho phản ứng phân hạch hạt nhân (bà là người đặt ra thuật ngữ "phân hạch hạt nhân"). Meitner không được Hội đồng Giải thưởng Nobel công nhận, một phần do giới tính của bà và một phần do căn tính Do Thái của bà bị đàn áp ở Đức Quốc xã. Bà bị vướng Luật phục hồi Nghề dịch vụ Dân sự, cấm người Do Thái nắm giữ các chức vụ liên quan đến chính phủ, kể cả trong lĩnh vực nghiên cứu. Ban đầu, quốc tịch Áo đã bảo vệ bà khỏi bị đàn áp, nhưng cô đã trốn khỏi Đức sau sự kiện Hitler sáp nhập Áo vào năm 1938.
Năm 1950, Cecil Powell nhận giải Nobel Vật lý cho sự phát triển phương pháp hình ảnh trong nghiên cứu quá trình hạt nhân và kết quả là phát hiện ra pion (pi-meson). Marietta Blau đã đi trước trong lĩnh vực này, Erwin Schrödinger đã đề cử bà cho giải thưởng cùng với Hertha Wambacher, nhưng cả hai đều bị loại.
Năm 1956, hai nhà vật lý người Mỹ Tsung-Dao Lee và Chen Ning Yang, nghi ngờ một loại hạt mới được phát hiện có tên kaon vi phạm các lý thuyết về định luật chẵn lẻ. Nhà vật lý Chien-Shiung Wu đã làm việc với một nhóm tại Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ Quốc gia để xác nhận lý thuyết của Lee và Yang bằng thực nghiệm. Sau nhiều tháng thử nghiệm, Chien-Shiung Wu đưa ra kết luận, hạt nhân tinh thể coban phát ra electron ở một bên nhưng không phát ra bên kia, do đó bà đã chứng minh định luật bảo toàn tính chẵn lẻ lúc bấy giờ hoàn toàn sai. Giải Nobel Vật lý năm 1957 được trao cho các nhà vật lý nam còn bà Wu thì bị loại. Bà là người đầu tiên nhận được giải Wolf Vật lý năm 1978, ghi nhận công trình của mình.
Năm 1958, Joshua Lederberg nhận giải Nobel về Sinh lý học hoặc Y học cùng George Beadle và Edward Tatum. Nhà vi sinh vật học Joshua Lederberg và người vợ Esther Lederberg, một nhà vi sinh vật học người Mỹ và là người tiên phong lớn trong di truyền học vi khuẩn, đã phát triển ra phương pháp cấy đóng dấu, cấy truyền khuẩn lạc từ đĩa petri này sang đĩa petri khác. Trước khi có phương pháp này, các nhà khoa học phải sử dụng một công cụ giống như cây tăm để di chuyển từng lạc khuẩn, khá tốn thời gian. Joshua và Esther qua phương pháp này đã cho ra một công trình mang tính bước ngoặt, chứng minh rằng đột biến xảy ra ngẫu nhiên trong quá trình tiến hóa chứ không phải vì đột biến mang tính cần thiết (đây là đề tài đang được tranh cãi vào thời điểm đó). Phương pháp này đã được áp dụng rộng rãi cho tới ngày này. Phương pháp cũng chứng minh rằng tình trạng kháng kháng sinh đã hiện điện sẵn ở các lạc khuẩn chứ không phải như nhiều nhà khoa học tin rằng chỉ phát triển khi tiếp xúc với kháng sinh. Công trình đã đem về cho Joshua Lederberg giải Nobel. Joshua đã có công nhận vợ mình trong bài diễn thuyết Nobel, nói rằng ông "đã rất vui khi được đồng hành bên những vị đồng nghiệp, trên hết chính là vợ tôi." Nhưng chỉ là một thoáng như vậy, và sau khi họ về đến nhà, ông được mời làm trưởng khoa di truyền học ở Stanford, còn bà Esther thì được mời làm cộng tác nghiên cứu ở một khoa khác. Kỷ nguyên của "cặp vợ chồng khoa học" từ đó đã đến hồi kết. Về sau, không rõ nguyên nhân gì, năm 1966, cả hai đã ly hôn. Năm 1989, bà gặp được một kỹ sư mới đến Stanford tên là Matthew Simon và kết hôn năm 1993, khi ấy bà đã 70 tuổi. Từ khi Esther Lederberg qua đời vào năm 2006, Simon đã dành nhiều thời gian làm một trang web tưởng niệm để tôn vinh bà. Trang web liệt kê đầy đủ những bức ảnh, bài báo, những khám phá của bà, thậm chí cả những sở thích riêng và hoạt động ngoại khoá. Đây như một lời khẳng định của Simon cùng với những người khác tin rằng Esther Lederberg đã bị lu mờ và đánh giá thấp vì bà là phụ nữ.
Vào cuối những năm 1960, Jocelyn Bell (sinh 1943) đã phát hiện ra tín hiệu vô tuyến từ sao xung (pulsa). Với khám phá này, vào năm 1974, giải Nobel Vật lý đã được trao cho giảng viên hướng dẫn của bà là Antony Hewish và Martin Ryle, xướng tên Hewish và Ryle vì công trình tiên phong của họ trong vật lý thiên văn vô tuyến. Vào thời điểm phát kiến, Jocelyn Bell đang là một nghiên cứu sinh. Hai năm đầu tại Cambridge, bà dành thời gian hỗ trợ xây dựng kính viễn vọng vô tuyến 81,5 megahertz dùng để theo dõi các chuẩn tinh (quasar). Kính viễn vọng đi vào hoạt động vào năm 1967, công việc của Jocelyn Bell là vận hành kính thiên văn và phân tích hơn 120 mét giấy biểu đồ do kính thiên văn tạo ra bốn ngày một lần. Sau vài tuần phân tích, Bell nhận thấy một số tín hiệu bất thường trên giấy biểu đồ. Những tín hiệu này được tạo ra bởi một nguồn vô tuyến quá nhanh và đều để xem như một chuẩn tinh. Mặc dù nguồn tín hiệu chỉ chiếm khoảng 2,5 cm trên 121,8 mét giấy biểu đồ nhưng Jocelyn Bell đã nhận ra tính quan trọng của nó. Bà đã phát hiện ra bằng chứng đầu tiên về sự tồn tại một sao xung, là một trong những phát hiện thiên văn quan trọng nhất của thế kỷ 20 – sao xung còn có thể được xem như công cụ mạnh mẽ để kiểm tra vật lý, thăm dò không-thời gian và đi sâu các vùng tối của vũ trụ. Vào tháng 2 năm 1968, bài báo về phát hiện này được công bố trên tạp chí Nature, một trong những tạp chí khoa học được đánh giá cao nhất. Tên của Hewish được đặt đầu tiên trong bài nghiên cứu, tên của Bell đứng thứ hai, khi ấy bà 24 tuổi. Trong khi bài nghiên cứu đã tạo ra một lượng thông tin lớn thu hút các nhà nghiên cứu, thì tại các cuộc phỏng vấn, các nhà báo thường yêu cầu Hewish giải thích ý nghĩa khoa học của phát hiện này, sau đó quay sang Bell hỏi cho có lệ. Các phóng viên muốn biết kích thước vòng một của bà và bà có bao nhiêu bạn trai. Một nhiếp ảnh gia còn nhờ bà cởi thêm một chiếc cúc trên áo. Phát kiến của Jocelyn Bell là một phần trong luận án của bà, năm 1974, bà đã lấy được học vị Tiến sĩ, cùng năm đó giải Nobel Vật lý đã không nhắc tới tên bà. Bell luôn nói rằng bà rất vui vì các ngôi sao của bà đã khiến Hội đồng Nobel nhìn ra rằng vật lý thiên văn cũng là một ngành vật lý hàng đầu bởi trước đó chưa có giải Nobel Vật lý nào được trao cho người theo lĩnh vực này. Bà không hề cay cú, bà nhận ra rằng xét cho cùng, bà chỉ là một sinh viên vào thời điểm phát kiến ấy. Dù vậy, nhiều nhà nghiên cứu khác coi việc loại bỏ bà khỏi giải Nobel là một sự bất công.
Xem thêm
Lịch sử Khoa học
Lịch sử Công nghệ
Hiệu ứng Matthew
Phụ nữ trong khoa học
Dòng thời gian phụ nữ trong khoa học
Phân biệt giới tính trong giới học thuật
Kỳ thị nữ giới
Danh sách người đoạt giải Nobel Vật lý
Danh sách phụ nữ đoạt giải Nobel
Ngày Ada Lovelace
Nữ quyền
Liên kết ngoài
Trang web của dự án #NomoreMatildas
Nghiên cứu cho thấy bài báo của các nhà khoa học nữ ít được trích dẫn hơn của đồng nghiệp nam
Tham khảo
Phụ nữ trong khoa học
Kỳ thị giới tính
Định kiến giới tính
Chủ nghĩa nữ giới
Nữ giới
Nữ giới trong khoa học và công nghệ
Nghiên cứu về giới
|
19835287
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pempheris%20oualensis
|
Pempheris oualensis
|
Pempheris oualensis là một loài cá biển thuộc chi Pempheris trong họ Cá bánh lái. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1831.
Từ nguyên
Từ định danh oualensis được đặt theo tên gọi của đảo Oulan, nay gọi là Kosrae, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis: hậu tố Latinh biểu thị nơi chốn).
Phân bố
P. oualensis có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, được ghi nhận từ biển Đỏ dọc theo Đông Phi trải dài đến về phía đông đến quần đảo Line, quần đảo Marquises và đảo Ducie, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ogasawara và quần đảo Ryukyu, giới hạn phía nam đến Nam Phi, Úc (gồm cả đảo Lord Howe) và đảo Rapa Iti.
P. oualensis cũng được ghi nhận dọc theo vùng biển Việt Nam, như cù lao Chàm (Quảng Nam), đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), Ninh Thuận, hòn Cau (Bình Thuận), cũng bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
P. oualensis sống trong các đầm phá nước trong và trên rạn san hô ngoài khơi, khá phổ biến dọc theo mào rạn, độ sâu đến ít nhất là 36 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở P. oualensis là 22 cm.
Số gai ở vây lưng: 6; Số tia vây ở vây lưng: 9–10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 36–45; Số tia vây ngực: 16–19.
Tham khảo
O
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Malaysia
Cá Việt Nam
Động vật được mô tả năm 1831
|
19835290
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/KHB
|
KHB
|
KHB hay là mạng truyền hình địa phương Nhật Bản có trụ sở tại thành phố Sendai, tỉnh Miyagi. Thành lập vào ngày 30 tháng 10 năm 1974. KHB là thành viên liên kết với mạng truyền hình All-Nippon News Network.
Tham khảo
|
19835291
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matilda%20Joslyn%20Gage
|
Matilda Joslyn Gage
|
Matilda Joslyn Gage (nhũ danh Joslyn; 24 tháng 3 năm 1826 – 18 tháng 3 năm 1898) là một nhà văn và nhà hoạt động xã hội người Mỹ. Bà chủ yếu được biết đến nhờ những đóng góp cho quyền bầu cử của phụ nữ ở Hoa Kỳ, quyền của người Mỹ bản địa, chủ nghĩa bãi nô (chấm dứt chế độ nô lệ) và tư tưởng tự do trong tín ngưỡng và tôn giáo. Tên của bà được đặt cho hiệu ứng Matilda, mô tả xu hướng từ chối công nhận hoặc đánh giá thấp những đóng góp của phụ nữ trong khoa học. Bà đã ảnh hưởng đến con rể L. Frank Baum, tác giả cuốn Phù thủy xứ Oz.
Bà là diễn giả trẻ nhất tại Công ước Quốc gia về Quyền Phụ nữ năm 1852, được tổ chức tại Syracuse, New York. Bà là một công dân và một diễn giả không biết mệt mỏi, đồng thời đã đóng góp nhiều bài báo cho báo chí, được coi là "một trong những nhà văn khoa học, dũng cảm và logic nhất trong thời đại của bà". Cùng với Susan B Anthony và Elizabeth Cady Stanton, Gage đã giúp thành lập Hiệp hội quyền bầu cử Phụ nữ Quốc gia (National Woman Suffrage Association) vào năm 1869. Trong thời gian 1878–1881, bà xuất bản và biên tập tờ National Citizen, một tờ báo đề cao sự nghiệp của phụ nữ. Cùng với Elizabeth Cady Stanton và Susan B. Anthony, bà đã đi đầu trong phong trào đấu tranh vì quyền bầu cử trong nhiều năm và cộng tác với họ để viết Lịch sử về quyền bầu cử của phụ nữ (1881–1887). Bà là tác giả của cuốn Giáo lý về Quyền của Phụ nữ (1868); Người phụ nữ là nhà phát minh (1870); Ai đã lên kế hoạch cho Chiến dịch Tennessee (1880); và Phụ nữ, Giáo hội và Nhà nước (1893).
Trong nhiều năm, bà đã liên kết với Hiệp hội quyền bầu cử phụ nữ quốc gia, nhưng khi quan điểm của bà về quyền bầu cử và nữ quyền trở nên quá cấp tiến đối với nhiều thành viên, bà đã thành lập Liên minh Tự do Quốc gia của Phụ nữ, với mục tiêu là: Khẳng định quyền tự nhiên của phụ nữ để tự quản; chỉ ra nguyên nhân chậm trễ trong việc ghi nhận yêu cầu của mình; bảo vệ các nguyên tắc tự do dân sự và tôn giáo; khơi dậy dư luận về nguy cơ hợp nhất giữa nhà thờ và nhà nước thông qua việc sửa đổi hiến pháp, đồng thời tố cáo học thuyết về sự thấp kém của phụ nữ. Bà giữ chức chủ tịch của liên minh này từ khi thành lập vào năm 1890 cho đến khi qua đời ở Chicago vào năm 1898.
Tham khảo
Thư mục
Corey, M. E. (2003). Matilda Joslyn Gage: A Nineteenth-Century Women's Rights Historian Looks at Witchcraft. OAH Magazine of History, 17(4), 51–59, Matilda Joslyn Gage: A Nineteenth-Century Women's Rights Historian Looks at Witchcraft
Dail, Chrystyna. (2020). When for 'Witches' We Read 'Women': Advocacy and Ageism in Nineteenth-Century Salem Witchcraft Plays. Theatre History Studies, 39(1), 70–88., When for “Witches” We Read “Women”: Advocacy and Ageism in Nineteenth-Century Salem Witchcraft Plays.
Fenton, Z.E. (2010). No Witch Is a Bad Witch: A Commentary on the Erasure of Matilda Joslyn Gage. Southern California Interdisciplinary Law Journal 20 (1), 21–38, .
Gage, M.J. (1980). Woman, Church and State: The Original Exposé of Male Collaboration Against the Female Sex. Persephone.
Hwang, Helen Hye-Sook (2020). "Rediscovering Matilda Joslyn Gage as the Pioneering Anti-Colonialist Feminist Thinker." Return to Mago E-Magazine.
Zwissler, Laurel. (2016). Witches' Tears: Spiritual Feminism, Epistemology, and Witch Hunt Horror Stories. Pomegranate: The International Journal of Pagan Studies, 18(2), 2016, 176–204, https://doi.org/10.1558/pome.v18i2.29886.
Liên kết ngoài
The Matilda Joslyn Gage Foundation
Will of Matilda Joslyn Gage
Matilda Joslyn Gage papers, 1840-1974. Schlesinger Library, Radcliffe Institute, Harvard University.
Sinh năm 1826
Mất năm 1898
Người Mỹ theo chủ nghĩa nữ giới
Người ủng hộ quyền bầu cử ở Mỹ
Nhà thần học Mỹ
Nhà hoạt động nữ quyền người Mỹ
|
19835293
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20Linh%20th%C3%A1nh%20m%E1%BA%ABu
|
Kim Linh thánh mẫu
|
Kim Linh thánh mẫu (Tiếng Trung Giản Thể: 金灵圣母; Tiếng Trung Phồn Thể: 金靈聖母; Bính Âm Hán Ngữ: Jīnlíng Shèngmǔ; là 'Thánh mẫu (của) Kim Linh') là một nhân vật trong tiểu thuyết Trung Quốc thế kỷ 16 Phong Thần Diễn Nghĩa còn được gọi là Lễ Tấn Phong Của Các Vị Thần.
Truyền Thuyết
Trong Phong Thần Diễn Nghĩa , Kim Linh thánh mẫu là một trong bốn đệ tử chính của Thông Thiên Giáo Chủ , được cho là mạnh mẽ hơn mười hai vị kim tiên bất tử của Xiển Giáo. Kim Linh thánh mẫu có hai đệ tử: Văn Trọng và Dư Nguyên .
Trong Trận chiến tại Vạn Tiên Trận, cô đã đánh chết Công chúa Long Cát và Hồng Cẩm , đồng thời 1 mình đối đầu với ba vị đại tiên của Xiển Giáo : Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn , Phổ Hiền Chân Nhân và Từ Hàng Đạo Nhân . Mặc dù cô đã giành chiến thắng trong trận chiến chống lại 3 đại tiên, nhưng cuối cùng cô lại phải chịu chết dưới tay của Nhiên Đăng Đạo Nhân đánh lén với Xâu Chuỗi Định Hải Châu.
Bà được bổ nhiệm làm Thần của Bảng Phong Thần, người đứng đầu Ðẩu Bộ Chánh Thần (紫薇之尊), người có 84.000 ngôi sao và linh hồn dưới sự chỉ huy của cô. Địa vị của cô ấy rất quan trọng và có địa vị cao trên thiên đàng. Cô phụ trách Đẩu Bộ, cư trú tại vùng Đẩu Bộ và giữ vị trí cao nhất trong những nơi ở Chu Thiên. Trong những giáo lý bí truyền của Đạo giáo, cô ấy được coi là giống như phật Doumu .
Thờ cúng
Kim Linh thánh mẫu là một trong những vị thần chính ở làng Lang Phường ở Hải Đông . Cô được tôn sùng là nữ thần sinh sản trong ngôi làng này và trang phục của cô được trang trí bằng vô số nhân vật. Các học giả coi những nhân vật này là biểu tượng rõ ràng về khả năng sinh sản, biểu thị lời cầu nguyện của cộng đồng cho cuộc sống sung túc, thịnh vượng.
|
19835294
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ginevra%20de%27%20Benci
|
Ginevra de' Benci
|
Ginevra de' Benci là một bức tranh chân dung của Leonardo da Vinci vẽ Ginevra de' Benci - một nhà quý tộc Florentine thế kỷ 15. Đây là một trong bốn bức chân dung phụ nữ của Leonardo, bên cạnh Mona Lisa, chân dung Người đàn bà và con chồn, và La belle ferronnière. Hiện tại, bức tranh đang được trưng bày tại Phòng trưng bày Nghệ thuật Quốc gia ở Washington, D.C. Hoa Kỳ; đây là bức tranh duy nhất của Leonardo được trưng bày và lưu trữ ở Châu Mỹ.
Tham khảo
Tranh vẽ năm 1476
Tranh của Leonardo da Vinci
|
19835300
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L.%20Frank%20Baum
|
L. Frank Baum
|
Lyman Frank Baum (; 15 tháng 5 năm 1856 – 6 tháng 5 năm 1919) là một tác giả nổi tiếng người Mỹ với những tác phẩm khoa học giả tưởng dành cho trẻ em, nổi tiếng nhất là tác phẩm Phù thủy xứ Oz. Ngoài 14 cuốn sách của xứ Oz, Baum còn viết 41 cuốn tiểu thuyết khác (không bao gồm 4 cuốn tiểu thuyết thất lạc, chưa được xuất bản), 83 truyện ngắn, hơn 200 bài thơ và ít nhất 42 kịch bản. Ông đã nỗ lực rất nhiều để đưa tác phẩm của mình lên sân khấu và màn ảnh; bản chuyển thể năm 1939 của cuốn sách đầu tiên của xứ Oz đã trở thành một bước ngoặt của điện ảnh thế kỷ XX.
Sinh ra và lớn lên ở ngoại ô thành phố New York, Baum chuyển về miền Tây sau một thời gian không thành công với tư cách là nhà sản xuất và nhà viết kịch sân khấu. Ông và vợ mở một cửa hàng ở Nam Dakota, bản thân ông thì trở thành biên tập và xuất bản một tờ báo. Sau đó, họ chuyển đến Chicago, nơi ông làm phóng viên báo và xuất bản văn học thiếu nhi, ra mắt cuốn sách xứ Oz đầu tiên vào năm 1900. Trong khi tiếp tục viết lách, trong số các dự án cuối cùng của mình, ông đã tìm cách thành lập một xưởng phim tập trung vào sản xuất phim thiếu nhi ở Los Angeles, California.
Các tác phẩm của ông đã dự đoán trước những ứng dụng phổ biến sau này như tivi, thực tế tăng cường, máy tính xách tay (The Master Key), điện thoại không dây (Tik-Tok xứ Oz), phụ nữ làm các công việc có tính rủi ro cao và nặng nhọc (Sách Chim xanh), và sự phổ biến của quảng cáo quần áo (Các cháu gái của dì Jane tại nơi làm việc).
Mẹ vợ của ông là nhà hoạt động xã hội người Mỹ Matilda Joslyn Gage, và tư tưởng của bà được cho là đã ảnh hưởng đến ông khá nhiều.
Chú thích
Tham khảo
Algeo, John. "A Notable Theosophist: L. Frank Baum. " American Theosophist, Vol. 74 (August–September 1986), pp. 270–3.
Attebery, Brian. The Fantasy Tradition in American Literature. Bloomington, IN, Indiana University Press, 1980.
Baum, Frank Joslyn, and Russell P. Macfall. To Please a Child. Chicago, Reilly & Lee, 1961.
Baum, L. Frank. The Annotated Wizard of Oz. Edited with an Introduction and Notes by Michael Patrick Hearn. New York, Clarkson N. Potter, 1973. Revised 2000. New York, W.W. Norton, 2000.
Ford, Alla T. The High-Jinks of L. Frank Baum. Hong Kong, Ford Press, 1969.
Ford, Alla T. The Musical Fantasies of L. Frank Baum. Lake Worth, FL, Ford Press, 1969.
Gardner, Martin, and Russel B. Nye. The Wizard of Oz and Who He Was. East Lansing, MI, Michigan State University Press, 1957. Revised 1994.
Hearn, Michael Patrick. The Critical Heritage Edition of the Wizard of Oz. New York, Schocken, 1986.
Koupal, Nancy Tystad. Baum's Road to Oz: The Dakota Years. Pierre, SD, South Dakota State Historical Society, 2000.
Koupal, Nancy Tystad. Our Landlady. Lawrence, KS, University of Nebraska Press, 1986.
Parker, David B. The Rise and Fall of The Wonderful Wizard of Oz as a "Parable on Populism" Journal of the Georgia Association of Historians, vol. 15 (1994), pp. 49–63.
Reneau, Reneau H. "Misanthropology: A Florilegium of Bahumbuggery" Inglewood, CA, donlazaro translations, 2004, pp. 155–164
Reneau, Reneau H. "A Newer Testament: Misanthropology Unleashed" Inglewood, CA, donlazaro translations, 2008, pp. 129–147
Riley, Michael O. Oz and Beyond: The Fantasy World of L. Frank Baum. Lawrence, KS, University of Kansas Press, 1997.
Rogers, Katharine M. L. Frank Baum, Creator of Oz: A Biography. New York, St. Martin's Press, 2002.
Sale, Roger. Fairy Tales and After: From Snow White to E. B. White. Cambridge, MA, Harvard University press, 1978.
Schwartz, Evan I. Finding Oz: How L. Frank Baum Discovered the Great American Story. New York, Houghton Mifflin Harcourt, 2009
Wagner, Sally Roesch. The Wonderful Mother of Oz. Fayetteville, NY: The Matilda Joslyn Gage Foundation, 2003.
Wilgus, Neal. "Classic American Fairy Tales: The Fantasies of L. Frank Baum" in Darrell Schweitzer (ed) Discovering Classic Fantasy Fiction, Gillette NJ: Wildside Press, 1996, pp. 113–121.
Đọc thêm
Liên kết ngoài
The Complete Oz Works
L. Frank Baum Papers at Syracuse University
Bibliography (Baum and Oz)
The International Wizard of Oz Club, Inc.
Wonderful Wizard of Oz Website
Copyright Registration Application from Claimant L. Frank Baum for The wonderful Wizard of Oz From the Collections at the Library of Congress
Finding aid to Roland Orvil Baughman collection about L. Frank Baum at Columbia University, Rare Book & Manuscript Library
Gia tộc Baum
Sinh năm 1856
Mất năm 1919
Nam diễn viên sân khấu Mỹ
Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 19
Tiểu thuyết gia Mỹ thế kỷ 20
Tiểu thuyết gia Mỹ thế kỷ 19
Người Mỹ gốc Anh
Nhà sản xuất phim Mỹ
Người Mỹ gốc Đức
Người Mỹ gốc Scotland-Ireland
Nam giới theo chủ nghĩa nữ giới
|
19835311
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Palestine
|
Thủ tướng Nhà nước Palestine
|
Thủ tướng Nhà nước Palestine (tiếng Ả Rập: رئيس وزراء دولة فلسطين), là người đứng đầu Chính phủ Nhà nước Palestine, một quốc gia không được công nhận rộng rãi ở Tây Á. Thủ tướng Nhà nước Palestine được bổ nhiệm bởi Tổng thống Nhà nước Palestine.
Hiện nay, người đang giữ chức vụ Thủ tướng Nhà nước Palestine là ông Mohammad Shtayyeh, một chuyên gia kinh tế và thành viên Ban chấp hành trung ương đảng Fatah.
Quyền hạn
Theo Hiến pháp Palestine năm 2003, quyền hạn của Thủ tướng Nhà nước Palestine bao gồm:
1. Chủ trì các cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng Palestine và đề xuất các chính sách, chiến lược, kế hoạch và dự án quốc gia.
2. Giám sát việc thực hiện các quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và các nghị quyết của Hội đồng Quốc gia Palestine.
3. Đề xuất các bộ trưởng và các cơ quan ngang bộ cho Tổng thống để bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm.
4. Ký các hiệp định quốc tế và các văn bản pháp lý khác theo sự ủy quyền của Tổng thống.
5. Báo cáo về hoạt động của chính phủ trước Hội đồng Quốc gia Palestine và Hội đồng Lập pháp Palestine.
Tham khảo
|
19835318
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81o%20t%E1%BA%AFm%20trong%20v%C4%83n%20h%C3%B3a%20%C4%91%E1%BA%A1i%20ch%C3%BAng
|
Áo tắm trong văn hóa đại chúng
|
Áo tắm trong văn hóa đại chúng (Bikini in popular culture) đề cập đến hình ảnh của Bikini trong văn hóa đại chúng trên toàn cầu. Bộ đồ tắm Bikini hiện đại xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1946 và kể từ đó nó đã trở thành một phần của văn hóa đại chúng ngày nay. Đây là một trong những bộ áo tắm dành cho phụ nữ được ăn mặc rộng rãi nhất, được sử dụng để bơi lội và ăn bận trong nhiều bối cảnh khác. Ngày nay, bikini xuất hiện trong các cuộc thi sắc đẹp, phim ảnh, tạp chí, âm nhạc, văn học, truyện tranh, trò chơi điện tử và các loại hình giải trí khác. Bất chấp việc có nhiều trang phục hở hang quyến rũ hơn, việc làm người mẫu bikini vẫn được ưa chuộng và vẫn có thể gây ra nhiều tranh cãi. Việc miêu tả bikini trong văn hóa đại chúng ở một mức độ rộng lớn đã khiến xã hội phương Tây chấp nhận nó nói chung. Năm 1960, bài hát nhạc pop "Itsy Bitsy Teenie Weenie Yellow Polkadot Bikini" của Brian Hyland đã truyền cảm hứng cho làn sóng mua sắm bikini.
Bộ bikini trắng được Ursula Andress mặc khi vào vai Honey Ryder trong bộ phim James Bond năm 1962 có tựa đề Dr. No được coi là một trong những người mặc bikini nổi tiếng nhất mọi thời đại. Đến năm 1963 thì bộ phim Beach Party với sự tham gia của Annette Funicello và Frankie Avalon đã dẫn đầu một làn sóng phim đưa bikini trở thành biểu tượng của văn hóa đại chúng. Tạp chí Playboy lần đầu tiên xuất hiện hình bikini trên trang bìa vào năm 1962. Tạp chí thể thao Sports Illustrated Sweater Issue ra mắt hai năm sau đó. Sự nổi tiếng ngày càng tăng này còn nhờ sự xuất hiện của nó trong các bộ phim đương đại như How to Stuff a Wild Bikini có sự góp mặt của Annette Funicello và One Million Years B.C. - Một triệu năm trước Công nguyên (1966) có sự góp mặt của Raquel Welch. Bộ bikini lông thú của Raquel Welch trong phim One Million Years B.C. đã trở thành khoảnh khắc nổi tiếng trong lịch sử điện ảnh. Các minh tinh Hollywood như Marilyn Monroe, Jayne Mansfield, Gina Lollobrigida và Jane Russell càng giúp cho bikini ngày càng trở nên phổ cập. Các áp phích ghim của Monroe và Mansfield, Hayworth, Bardot và Raquel Welch được phân phối trên khắp toàn cầu đã góp phần đáng kể vào sự phổ biến của bikini trong xã hội.
Cuộc thi sắc đẹp
Những cuộc thi áo tắm là một hình thức giải trí dành cho người lớn trong đó những nữ thí sinh cạnh tranh phô diễn với nhau trong trang phục bikini với tư cách là cuộc thi sắc đẹp (phần thi áo tắm) và những cuộc thi này có thể diễn ra trong các quán bar, hộp đêm, vũ trường, câu lạc bộ thoát y, trên bãi biển và tại các cuộc thi sắc đẹp, cũng như trong thời gian tạm dừng các trận đấu quyền anh hoặc đấu vật và tại các đợt triển lãm ô tô. Các cuộc thi thể hình cũng có thể có các phần thi bikini. Việc phụ nữ mặc bikini tại các cuộc thi áo tắm ngày càng trở nên phổ biến hơn. Các cuộc thi bikini cũng có thể diễn ra qua Internet từ những phụ nữ gửi ảnh mình mặc bikini. Các cuộc thi bikini có thể được tổ chức hoặc tài trợ bởi các công ty liên quan nhằm mục đích tiếp thị hoặc nhằm tìm kiếm và thu hút tài năng mới để quảng bá sản phẩm của họ.
Một số thí sinh thi bikini phẫu thuật thẩm mỹ nâng ngực, nâng môi. Các cuộc thi bikini vẫn có thể gây tranh cãi ở một số nơi trên thế giới. Khi Mariyah Moten tham gia cuộc thi Hoa hậu Bikini hoàn vũ ở Bắc Hải, Trung Quốc năm 2006 cô là cô gái Pakistan đầu tiên tham gia cuộc thi bikini gây ra sự phẫn nộ ở quê nhà. Cô cũng trở thành người tham gia được chụp ảnh nhiều nhất trong cuộc thi và giành danh hiệu Người đẹp nhất trong Truyền thông/Hoa hậu báo chí. Một năm sau cô là Á hậu 2 trong cuộc thi Hoa hậu Quốc tế Châu Á và Hoa hậu Thế giới Châu Á và được xuất hiện trên trang bìa cuốn lịch Những cô gái Nam Á gợi cảm (Sexy South Asian Girls) năm 2007.
Trong phim ảnh
Loạt phim "kinh điển" được American International Pictures (AIP) sản xuất và lần lượt được nhiều hãng phim khác phóng tác. AIP đã sản xuất một loạt bảy bộ phim về bãi biển như Beach Party (1963), Muscle Beach Party (1963), Bikini Beach (1964), Pajama Party (1964), Beach Blanket Bingo (1965), How to Stuff a Wild Bikini (1965), and The Ghost in the Invisible Bikini (1966). Một tập phim năm 2001 của loạt phim truyền hình Sabrina – Cô phù thủy nhỏ ("Beach Blanket Bizarro") thì Avalon và Funicello đóng vai chính trong Back to the Beach vào năm 1987 của hãng Paramount Pictures đã thể hiện vai trò ban đầu và sự nghiệp tiếp theo của họ. Kelly Killoren Bensimon đã viết trong The Bikini Book rằng: "Tất cả thực sự là về Annette Funicello. Nếu cô gái nhà bên cạnh muốn mặc bikini thì mọi người đều muốn mặc bikini. Chúng tôi không muốn trở thành một Bond girl xấu. Tất cả chúng tôi đều thực sự muốn trở thành một cô gái tốt". Tuy nhiên, khi Annette Funicello được chọn tham gia bộ phim bãi biển đầu tiên của cô ấy là Beach Party (1963) thì Walt Disney đã giữ hợp đồng với cô ấy nhất quyết yêu cầu cô ấy chỉ mặc đồ tắm khiêm tốn và che rốn để giữ gìn tính cách trong lành của mình, mặc dù cô là người duy nhất trong số rất nhiều phụ nữ trẻ trong phim không để lộ rốn.
Trong bộ phim năm 1962 có tựa đề Dr. No, Cô nàng tóc vàng (Bond girl) do Ursula Andress thủ vai xuất hiện từ biển với bộ Bikini trắng của Ursula Andress được coi là một trong những cảnh đáng nhớ nhất trong loạt phim điệp viên Anh. Bộ bikini trắng đó được mô tả là "thời khắc quyết định quá trình tự do hóa chủ nghĩa khêu gợi trên màn ảnh của những năm sáu mươi". Nó được coi là một trong những bộ bikini quan trọng nhất trong lịch sử khi doanh số bán bộ bikini hai mảnh tăng vọt sau sự xuất hiện của Andress trong Dr. NO. Kênh 4 tuyên bố đây là khoảnh khắc bikini đỉnh cao trong lịch sử điện ảnh Kênh Virgin Media xếp thứ chín trong top 10 và đứng đầu trong Bond girl, The Herald (Glasgow) đánh giá cảnh này là hay nhất từ trước đến nay dựa trên một cuộc thăm dò. Đài BBC nhận xét tằng "Phong cách mang tính biểu tượng đến mức nó được lặp lại 40 năm sau bởi Halle Berry trong bộ phim điệp viên Bond Die Another Day (Hẹn chết vào ngày khác)". Trong một cuộc khảo sát với 1000 phụ nữ nhân kỷ niệm 60 năm bikini, Andress trong bộ bikini trắng được bình chọn là "Nữ thần bikini tối thượng".
Nữ diễn viên Raquel Welch khi vào vai nữ chính đã mặc bộ bikini lông thú trong phim One Million Years B.C. (1966) đã khiến cô ấy trở thành một cô gái nổi bật ngay lập tức. Welch được giới thiệu trong quảng cáo của studio là "người mặc bộ bikini đầu tiên của nhân loại" và bộ bikini sau đó được mô tả là "diện mạo dứt khoát của những năm 1960". Cô ấy đã được quảng bá một cách chiến lược để nâng cao giá trị của bộ phim bằng cách lặp lại mình mẫu "Raquel Welch trong bộ bikini lông thú" năm lần trong đoạn giới thiệu, khiến nó trở thành lý do để xem phim. Vai diễn mặc bikini lông thú của cô đã đưa Raquel Welch trở thành biểu tượng thời trang và bức ảnh cô mặc bikini đã trở thành áp phích quảng cáo pinup bán chạy nhất. Một tác giả cho biết: “Mặc dù trong phim chỉ có ba câu thoại nhưng vóc dáng quyến rũ trong bộ bikini lông thú đã khiến cô trở thành ngôi sao và là cô gái trong mơ của hàng triệu khán giả trẻ”.
Trong bộ phim năm 1983 có tựa đề Return of the Jedi, nữ chính Công chúa Leia (do Carrie Fisher thủ vai) mặc bộ bikini kim loại vốn là trang phục nữ nô lệ thường được các fan nữ bắt chước tại các hội nghị Chiến tranh giữa các vì sao. Bộ bikini dây kim loại bao gồm một chiếc áo yếm có hoa văn bằng đồng với đường viền cổ cong, khoét sâu được buộc chặt phía sau cổ và lưng bằng dây. Phần dưới của quần lót có các tấm đồng ở háng phía trước và phía sau được che một phần bằng lụa đỏ khố. Leia đi bốt da cao, buộc tóc để buộc bím tóc đuôi ngựa của cô xõa qua vai phải, hai chiếc vòng tay và một chiếc khăn quấn tay hình con rắn. Cô ấy cũng đeo một sợi dây chuyền và cổ áo (BDSM) mà sẽ trói cô ấy kiểu Bondage (BDSM) với kẻ bắt giữ cô ấy là Jabba the Hutt thứ mà cô ấy đã dùng để giết anh ta. Bộ trang phục được làm bằng đồng thau và gây khó chịu đến mức nữ diễn viên Carrie Fisher đã mô tả nó là "thứ mà các siêu mẫu cuối cùng sẽ mặc trong vòng địa ngục thứ bảy". Trang phục nữ nô lệ Leia đã được nâng lên thành biểu tượng văn hóa đại chúng, tạo ra nhiều trò giả mạo và nhại lại (bao gồm cả tập Những người bạn, "The One with the Princess Leia Fantasy").
Trong ấn phẩm
Kể từ năm 1964 khi tạp chí Sports Illustrated đã xuất bản số áo tắm hàng năm có hình người mẫu thời trang mặc bikini trên trang bìa và trong phần hình ảnh (Photo-essay) các vấn đề đã trở thành một biểu tượng văn hóa. Đối với số đầu tiên Số báo áo tắm minh họa thể thao, biên tập viên tạp chí Andre Laguerre đã nhờ phóng viên thời trang Jule Campbell giúp tìm người mẫu Cô ấy đã tìm thấy người mẫu thời trang gốc Berlin Babette March và giới thiệu cô ấy trên trang bìa, mặc bộ bikini màu trắng bơi lội cưỡi trên những con sóng ở Cozumel, Mexico. "Vấn đề áo tắm" hàng năm có sự góp mặt của những người mẫu thời trang mặc đồ bơi ở những địa phương xa lạ. Sự hòa nhập được coi là tiêu chuẩn để chấm điểm các siêu mẫu. Năm 2006, tạp chí Maxim đã tung ra bộ bikini Polyvinyl chloridel-mesh rộng 33m trong sa mạc phía nam Nevada, Hoa Kỳ có Eva Longoria từ chương trình Những bà nội trợ kiểu Mỹ (Desperate Housewives) mà tuyên bố rằng nó có thể được nhìn thấy từ ngoài không gian.
Trong truyện tranh
Hầu hết các nghệ sĩ đều miêu tả Red Sonja, một nhân vật Truyện tranh Marvel được Roy Thomas và Barry Windsor-Smith tạo ra thường xuyên lui tới với truyện Conan the Barbarian và được xếp hạng đầu tiên trong danh sách "100 phụ nữ quyến rũ nhất trong truyện tranh" của Comics Buyer's Guide mặc một bộ trang phục áo giáp vảy ngắn củn cỡn giống bikini, thường đi bốt và đeo găng tay. Ghita của Alizarr là một nhân vật khác được Frank Thorne tạo ra sau khi anh ấy ngừng làm dự án Red Sonja của Marvel Comics, được thu hút cả trong và vẻ bề ngoài của cô ấy với bộ bikini bọc thép trong tiểu thuyết đồ họa "chỉ dành cho người lớn" có tên Ghita of Alizarr Eros Comix được xuất bản.
Darna, một nhân vật được nhà văn Mars Ravelo và nghệ sĩ Nestor Redondo tạo ra cho nhà xuất bản Filipino Comics Mango Comics, luôn mặc một biến thể cổ điển của cô ấy trang phục bikini màu đỏ với một ngôi sao vàng trên mỗi chiếc mũ yếm. Rulah, Jungle Goddess, một nhân vật truyện tranh được Matt Baker thiết kế cho Fox Feature Syndicate, mặc một bộ bikini làm từ da của một con hươu cao cổ đã chết. Kiani, một nhân vật phụ của Fathom, một bộ truyện tranh do họa sĩ Michael Turner tạo ra cho Aspen Comics theo truyền thống được xem chỉ mặc bộ bikini có trang trí bằng rạn san hô.
Tác giả và họa sĩ truyện tranh Mike Grell đã thiết kế nhân vật Shadow Lass trong bộ truyện Legion of Heroes (Binh đoàn Lê dương của những Anh hùng) mặc một bộ bikini đen bóng làm trang phục cho DC Comics. Trong thời gian mình làm lãnh đạo, một nhân vật khác của Legion là Saturn Girl đã mặc một bộ bikini màu hồng làm trang phục của mình và cô ấy tiếp tục mặc trang phục này cho đến năm 1982. Nhà văn-nghệ sĩ Budd Root đã tạo ra Cavewoman cho Basement Comics một hình tượng khêu gợi Cô gái rừng rậm với đôi chân trần trong bộ bikini da rắn.
Sách vở
Có nhiều cuốn sách phi hư cấu có chủ đề về bikini, chẳng hạn như:
The Bikini: A Cultural History của Patrik Alac
The Bikini Book của Kelly Killoren Bensimon
Hướng dẫn về cơ thể bikini bao gồm:
The Bikini Body Motivation & Habits Guide của Kayla Itsines
The Bikini Body của Kayla Itsines
The Bikini Boss Complete Transformation Program của Theresa DePasquale.
Ngoài ra còn có những tác phẩm hư cấu như:
Bikini Planet by David S. Garnett
Bikini Season by Sheila Roberts
When Bad Things Happen in Good Bikinis của Helen Bailey
The Bikini Diaries của Lacey Alexander
Ghost in the Polka Dot Bikini của Sue Ann Jaffarian
Bikinis in Paradise của Kathi Daley
Death by Bikini của Linda Gerber
Giải trí
Khi Jayne Mansfield và chồng cô ấy Miklós Hargitay đi lưu diễn cho các buổi biểu diễn trên sân khấu, báo chí viết rằng Mansfield đã thuyết phục người dân nông thôn rằng cô ấy sở hữu nhiều bikini hơn bất kỳ ai. Kathryn Wexler của thời báo The Miami Herald đã viết: "Ban đầu như chúng ta biết, có Jayne Mansfield. Ở đây, cô ấy mặc bộ bikini họa tiết da báo hoặc sọc, hít thở không khí để khoe cơ thể nổi bật của mình như một tài sản". Bộ bikini da báo của cô ấy vẫn là một trong những mẫu thời trang đầu tiên. Nữ diễn viên/người mẫu Phoebe Price mặc bộ bikini nữ nô lệ của Công chúa Leia tại San Diego Comic-Con International năm 2010. Liana K, người đồng chủ trì người Canada của Ed & Red's Night Party và người hóa trang cosplay nổi tiếng đã ra mắt trong trang phục Công chúa Trang phục nữ nô lệ của Leia sự kiện Calgary Comic & Entertainment Expo 2008.
Tại Việt Nam, hãng hàng không VietJetAir đã tổ chức cuộc thi bikini trên chuyến bay đầu tiên vào tháng 12 năm 2011, và khi một video về màn trình diễn trở thành hit trên YouTube, hãng hàng không này đã bị Cục Hàng không Dân dụng nước này phạt vào tháng 8 năm 2012 cho quy định hàng không địa phương. Go-go Dances biểu diễn như một vũ công theo điệu nhạc nhanh, tràn đầy năng lượng, phổ biến được thuê để giải trí cho đám đông ở những nơi như quán bar, hộp đêm và vũ trường theo cách kích thích tình dục trong khi mặc rất ít quần áo, thường là bikini. Bikini bar tương tự như các cơ sở go-go bar (một loại Câu lạc bộ giải trí, vũ trường, hộp đêm) và múa thoát y ngoại trừ vú và vùng sinh dục của người biểu diễn nữ hoặc các vũ công thoát y thường được che chắn trong suốt thời gian họ biểu diễn. "Twin Peaks" là một chuỗi quán bar thể thao và nhà hàng (nhà hàng vú) có trụ sở tại Dallas, Texas, được biết đến với việc các nữ tiếp viên mặc đồng phục hở hang như Cleavaage và midriff để lộ áo kẻ sọc đỏ (đôi khi là bikini đen) và quần đùi ngắn bằng kaki.
Chú thích
Bikini
Áo tắm
Chủ đề trong văn hóa đại chúng
|
19835342
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A7n%20Minh%20V%C6%B0%C6%A1ng%20th%C3%A1i%20h%E1%BA%ADu
|
Thần Minh Vương thái hậu
|
Thần Minh Vương hậu (Hanja:神明王后; 900– 951), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ của Cao Ly Thái Tổ, mẹ ruột của Cao Ly Định Tông, Cao Ly Quang Tông. Bà là vương hậu thứ 3 của Cao Ly Thái Tổ và là vương thái hậu đầu tiên của Cao Ly.
Văn hóa đại chúng
Phim truyền hình Taejo Wang Geon được diễn bởi Jeon Mi-seon trong năm 2000-2002 trên kênh KBS1.
Phim truyền hình The Dawn of the Empire được diễn bởi Jung Young-sook trong năm 2002–2003 trên kênh KBS
Phim truyền hình Shine or Go Crazy được diễn bởi Ji Soo-won năm 2015 trên kênh MBC.
Phim truyền hình Moon Lovers: Scarlet Heart Ryeo được diễn bởi Park Ji-young trong 2016 trên kênh SBC.
Xem thêm
Queen Sinmyeong on Goryeosa .
Queen Sinmyeong on Encykorea .
신명왕후 on Doosan Encyclopedia .
Chú thích
Người Triều Tiên
Vương hậu Triều Tiên
|
19835346
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%AFa%20h%E1%BB%AFu%20c%C6%A1
|
Sữa hữu cơ
|
Sữa hữu cơ (Organic milk) là thuật ngữ dùng để chỉ một số sản phẩm sữa được chăn nuôi gia súc lấy sữa theo phương pháp nông nghiệp hữu cơ. Về mặt tổng quát pháp lý, việc sử dụng thuật ngữ "hữu cơ" hoặc tương đương như "sinh học" hoặc "sinh thái" trên bất kỳ sản phẩm nào đều do cơ quan quản lý thực phẩm quy định. Nhìn chung, các quy định này quy định rằng vật nuôi phải được phép chăn thả, được cho ăn thức ăn gia súc hoặc thức ăn hỗn hợp được chứng nhận hữu cơ, không được điều trị bằng hầu hết các loại thuốc (bao gồm hormone tăng trưởng bò) và nói chung phải được đối xử nhân đạo với động vật. Có nhiều trở ngại trong việc đưa ra kết luận chắc chắn về lợi ích về an toàn thực phẩm hoặc an toàn về sức khỏe có thể có được từ việc tiêu thụ sữa hữu cơ hoặc sữa thông thường, bao gồm cả việc thiếu các nghiên cứu lâm sàng dài hạn.
Tổng quát
Các nghiên cứu hiện có đã đưa ra những kết luận trái ngược nhau về sự khác biệt tuyệt đối về hàm lượng chất dinh dưỡng giữa sữa hữu cơ và sữa được sản xuất thông thường, chẳng hạn như hàm lượng protein hoặc axit béo. Sức thuyết phục của bằng chứng sẵn có không ủng hộ quan điểm rằng có bất kỳ ý nghĩa lâm sàng liên quan nào giữa sữa hữu cơ và sữa được sản xuất thông thường, về mặt dinh dưỡng hoặc độ an toàn. Về hương vị thì có một đánh giá lưu ý rằng một số người tiêu dùng thích hương vị của sữa hữu cơ, trong khi những người khác thì không, và cho rằng lượng xử lý nhiệt có thể là một yếu tố quan trọng trong việc xác định hương vị của sữa. Một số phương pháp xử lý nhất định, chẳng hạn như xử lý siêu nhiệt được các nhà sản xuất sữa sử dụng, có thể mang lại cho sản phẩm sữa này hương hạt dẻ nhè nhẹ. Nhìn chung, kết quả thử nghiệm hương vị là "không rõ ràng" về việc sữa hữu cơ hay sữa thông thường được ưa chuộng hơn.
Đối với kiến thức khoa học về lợi ích sức khỏe và an toàn từ chế độ ăn thực phẩm hữu cơ, một số yếu tố hạn chế khả năng khi nói rằng chế độ ăn như vậy có lợi hoặc có hại cho sức khỏe. Phân tích tổng hợp năm 2012 lưu ý rằng "chưa có nghiên cứu dài hạn nào về kết quả sức khỏe của người dân chủ yếu tiêu thụ thực phẩm hữu cơ so với thực phẩm được sản xuất thông thường để kiểm soát các yếu tố kinh tế xã hội; những nghiên cứu như vậy sẽ rất tốn kém khi thực hiện". Một phân tích tổng hợp năm 2009 đã lưu ý rằng có rất ít nghiên cứu xem xét kết quả trực tiếp về sức khỏe con người. Những khó khăn trong việc đo lường chính xác và có ý nghĩa sự khác biệt về mặt hóa học giữa sữa hữu cơ và sữa thông thường khiến việc ngoại suy các khuyến nghị về sức khỏe chỉ dựa trên phân tích hóa học trở nên khó khăn. Các tác giả của phân tích tổng hợp năm 2012 cuối cùng đã kết luận rằng đánh giá "đã xác định được bằng chứng hạn chế về tính ưu việt của thực phẩm hữu cơ. Bằng chứng không cho thấy lợi ích sức khỏe rõ rệt từ việc tiêu thụ thực phẩm hữu cơ so với thực phẩm thông thường".
Chú thích
Chế phẩm sữa
|
19835349
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%B1c%20ph%E1%BA%A9m%20t%E1%BB%B1%20nhi%C3%AAn
|
Thực phẩm tự nhiên
|
Thực phẩm tự nhiên (Natural food) hay còn gọi là thực phẩm hoàn toàn tự nhiên (All-natural food) là các thuật ngữ trong quá trình dán nhãn thực phẩm và hoạt động tiếp thị với nhiều định nghĩa, thường ám chỉ các loại thực phẩm không phải được sản xuất bằng cách chế biến theo kiểu công nghiệp. Ở một số quốc gia như Vương quốc Anh, thuật ngữ "tự nhiên" được định nghĩa và quản lý, ở những nước khác, chẳng hạn như Hoa Kỳ, thuật ngữ tự nhiên không được áp dụng cho nhãn thực phẩm, mặc dù Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ có quy định về việc ghi nhãn hữu cơ. Thuật ngữ này được cho là để mô tả các loại thực phẩm có thành phần bên trong thực phẩm chưa qua chế biến.
Trong khi hầu hết các loại thực phẩm đều có nguồn gốc từ các sản phẩm tự nhiên của thực vật và động vật thì thực phẩm tự nhiên thường được coi là thực phẩm không đã chế biến hoặc không chứa bất kỳ phụ gia thực phẩm nào hoặc không chứa các chất phụ gia cụ thể như hormone, chất kháng sinh, chất làm ngọt, chất tạo màu, chất bảo quản, phụ gia hoặc hương liệu ban đầu không có trong thực phẩm. Trên thực tế, có khá nhiều người (63%) khi được khảo sát đã thể hiện sự ưa thích đối với các sản phẩm được dán nhãn "tự nhiên" so với các sản phẩm không có nhãn hiệu, dựa trên niềm tin chung (86% người tiêu dùng được thăm dò) rằng thuật ngữ "tự nhiên" chỉ ra rằng thực phẩm không chứa bất kỳ thành phần nhân tạo nào. Thuật ngữ này bị sử dụng sai mục đích trên nhãn mác và trong các quảng cáo. Quy tắc Codex Alimentarius của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) không công nhận thuật ngữ thực phẩm tự nhiên nhưng có tiêu chuẩn cho thực phẩm hữu cơ.
Chú thích
Xem thêm
Thực phẩm hữu cơ
Thực phẩm biến đổi gen
Siêu thực phẩm
Thức ăn nhanh
Thức ăn rác
Thực phẩm bẩn
Thực phẩm chế biến sẵn
Thực phẩm
|
19835355
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A5u%20tr%C3%AD
|
Đấu trí
|
Đấu trí có thể là:
Đấu trí, phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2022, lấy cảm hứng từ vụ án sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á.
Đấu trí, phim truyền hình Hồng Kông ra mắt năm 2008, và có tên gọi khác là Tình Hiệp Đạo.
Đấu trí, chương trình truyền hình phát sóng trên VTV3 vào năm 2007.
|
19835363
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ABn%20ma%20thu%E1%BA%ADt
|
Nhẫn ma thuật
|
Nhẫn ma thuật (Magic ring) là một món đồ trang sức thần thoại, dân gian hoặc hư cấu, thường là chiếc nhẫn đeo trên ngón tay, được cho là có đặc tính huyền diệu hoặc sức mạnh siêu nhiên. Chiếc nhẫn ma thuật xuất hiện thường xuyên trong truyện giả tưởng và cổ tích. Những chiếc nhẫn ma thuật được tìm thấy trong văn hóa dân gian của mọi quốc gia nơi có thói quen đeo nhẫn. Một số chiếc nhẫn ma thuật có thể ban cho người đeo nhiều khả năng khác nhau bao gồm khả năng tàng hình và sự hộ mệnh bất tử. Những người khác có thể ban những điều ước hoặc bùa chú như tình yêu và hạnh phúc không bao giờ kết thúc. Những câu chuyện ban đầu về những chiếc nhẫn ma thuật có từ thời cổ đại. Triết gia Plato trong cuốn sách thứ hai của Nền Cộng hòa, kể một câu chuyện về Ring of Gyges được ban phép tàng hình cho chủ nhân của nó.
Đôi khi, những chiếc nhẫn ma thuật có thể bị nguyền rủa, chẳng hạn như chiếc nhẫn thần thoại được Sigurð thâu thập từ kho báu của con rồng Fáfnir trong thần thoại Bắc Âu hoặc chiếc nhẫn hư cấu xuất hiện trong loạt phim Chúa tể của những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings: The Rings of Power). Tuy nhiên, thường xuyên hơn, chúng được coi là năng lượng tốt hoặc như một công cụ trung lập có giá trị phụ thuộc vào người đeo. Nhẫn đeo trên tay là một sự lựa chọn thuận tiện cho một vật phẩm ma thuật, nó là vật trang trí, đặc biệt và thường độc đáo, một vật phẩm thường được đeo, có hình dạng thường có đặc tính thần bí (hình tròn), có thể mang một viên đá bị mê hoặc và thường được đeo. trên một ngón tay, có thể dễ dàng chiếu vào mục tiêu. James George Frazer trong một nghiên cứu về ma thuật và mê tín trong tác phẩm The Golden Bough đã suy đoán về tác dụng mà những chiếc nhẫn có thể mang lại trong "tâm trí nguyên thủy", như một vật phẩm ngăn chặn linh hồn rời khỏi trái đất và cơ thể và ngăn chặn ma quỷ xâm nhập do đó, một chiếc nhẫn ma thuật có thể mang lại sự bất tử bằng cách ngăn chặn sự ra đi của linh hồn và ngăn cản sự xâm nhập của bất kỳ phép thuật có hại nào có thể nhắm vào người đeo.
Chú thích
Thần thoại
Nhẫn
|
19835365
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Haruna%20Hana
|
Haruna Hana
|
là một nữ diễn viên khiêu dâm và cựu thần tượng áo tắm người Nhật Bản.
Sự nghiệp
Vào khoảng năm hai cấp hai, ngực của cô bắt đầu phát triển cũng như chiều cao. Cỡ ngực tại thời điểm này của cô là khoảng Cup C-D. Sau khi làm lễ tân tại một nhà khách, cô đã tham gia ngành giải trí vào khoảng tháng 12/2008 do người quen giới thiệu. Sau đó, cô đã tham gia Giải thưởng Thần tượng áo tắm Nhật Bản lần thứ hai, và từ tháng 12/2009 đến tháng 5/2010, cô đã xuất hiện với tư cách là người mẫu số 4 trong dự án hàng loạt "Lớp học Yoga áo tắm dành cho nhân viên văn phòng" của Gekkan Charger.
1/7/2010, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng MUTEKI, và sau đó cô đã chuyển sang hãng phim S1 vào tháng 12. Tháng 4/2012, cô trở thành thành viên nhóm Ebisu Muscats của TV Tokyo. Cô đã đeo kính trong lần xuất hiện đầu tiên, tuy nhiên đã không đeo chúng kể từ đó. Vào tháng 9/2014, cô đã chuyển hãng phim sang Tameike Gorō. 20/11/2016, của hàng trực tuyến của nhãn hiệu "Runawer" do cô làm chủ sẽ được mở.
Trong thời gian làm thần tượng áo tắm, và từ khi ra mắt ngành phim khiêu dâm đến khi hoạt động độc lập, cô được biết đến nhờ ngực lớn và đường cong trên thân hình, tuy nhiên kể từ những năm 2020, khi cô bắt đầu xuất hiện nhiều hơn trong các phim với vai phụ nữ già dặn, cô bắt đầu thể hiện thân hình mập mạp, hoang dã và bộ ngực săn chắc của mình.
Đời tư
Sở thích của cô là ngủ và nấu ăn.
Khả năng đặc biệt của cô là có thể ngủ ở bất cứ đâu (khoảng 9 tiếng). Cô không thích buổi sáng.
Khi mới ra mắt, cô đã làm thần tượng áo tắm, tuy nhiên mục đích ban đầu của cô khi tham gia công ti chủ quản là trở thành nữ diễn viên khiêu dâm. Cô đã tiếp tục làm điều này trong khoảng 3 năm trước khi trở nên nổi tiếng, tuy nhiên cô sau đó đã trả lời phỏng vấn rằng cô đã nghĩ rằng đóng phim khiêu dâm sẽ dễ hơn và muốn chuyển sang đóng phim khiêu dâm càng sớm càng tốt. Ngoài ra, kể từ khi tham gia công ti chủ quản mà không nghĩ đến tương la phía trước, cô chưa từng xem phim khiêu dâm.
Các món ăn cô yêu thích là omurice, sushi, thịt nướng và các đồ ngọt vị sô cô la. Các món cô ghét là cà rốt, đậu Hà Lan, trái cây khô và matcha.
Tháng 1/2021, cô đã xếp thứ 3 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm ngực lớn (năm 2021) tổ chức bởi kênh truyền thông khiêu dâm MANGO của GeoTV.
Các nhóm thần tượng
Topping☆Girls 2.0 (Nhóm đại diện hình ảnh cho Daitsukemenhaku)
Ebisu Muscats
Tham khảo
Liên kết ngoài
- Trang web chính thức
『はなはなブログ』("Hanahana Blog") - Blog chính thức (15/11/2008 - )
Sinh năm 1988
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
MUTEKI
Nữ diễn viên S1
Nữ diễn viên E-BODY
|
19835368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paratha
|
Paratha
|
Paratha (tiếng Ấn Độ: पर, hoặc परा+स्थः, hay स्थित) là một loại bánh mì dẹt có nguồn gốc từ Nam Á, loại bánh mì này có nguồn gốc lâu đời theo những thư tịch ghi chép sớm nhất về Paratha được đề cập trong văn tự tiếng Phạn đầu thời trung cổ từ Karnataka, Ấn Độ sau đó phổ biến khắp các quốc gia hiện đại Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan, Nepal, Bangladesh, Maldives, Afghanistan, Myanmar, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Mauritius, Fiji, Guyana , Suriname và Trinidad và Tobago trong đó lúa mì là loại lương thực truyền thống chủ yếu. Công thức chế biến các loại lúa mì nhồi khác nhau (được mô tả là Paratha) được nhắc đến trong Manasollasa - một bộ bách khoa toàn thư tiếng Phạn do Someshvara III biên soạn vào thế kỷ XII.
Bánh mì Paratha là sự kết hợp của các từ parat và atta, nghĩa đen là các lớp bột đã nấu chín. Các cách viết và tên thay thế bao gồm parantha, parauntha, prontha, parontay, paronthi (trong tiếng Punjabi), porota (trong trong tiếng Bengali), paratha (trong trong tiếng Odia, Urdu , Hindi), porotta (trong tiếng Malayalam, trông tiếng Tamil), palata (trong tiếng Miến Điện), porotha (bằng trong tiếng Assamese), forota (bằng tiếng Sylheti), farata (ở Mauritius và Maldives), prata (ở Đông Nam Á), paratha, roti (ở Khối thịnh vượng chung Caribe) và Roti Canai ở Malaysia. Tác giả O'Brien (2003) cho rằng sẽ không đúng khi nói rằng Paratha là từ trong tiếng Punjabi đã được phổ biến ở Delhi sau sự phân chia Ấn Độ năm 1947 vì thuật ngữ Punjabi đã phổ biến ở Delhi trước đó.
Đặc điểm
Paratha là một trong những loại bánh mì dẹt không men phổ biến nhất ở tiểu lục địa Ấn Độ, nó được làm bằng bột nguyên cám nghiền mịn (atta) từ bột lúa mì và/hoặc bột mì trắng (Maida), đôi khi với trứng hoặc ghee. Bánh mì Paratha thông thường dày hơn và chắc hơn so với chapati/roti vì chúng được xếp lớp bằng cách phủ một lớp bơ sữa trâu hoặc dầu và gấp lại nhiều lần, giống như phương pháp được sử dụng cho bánh phồng hoặc bánh mì, với bột nhiều lớp và kết quả là có độ đặc sệt. Paratha có thể nhồi nhiều loại nguyên liệu và được chế biến theo nhiều kiểu chế biến khác nhau, theo truyền thống tùy thuộc vào vùng xuất xứ và có thể không xài kỹ thuật gấp bột. Để đạt được kiểu bột nhiều lớp cho các món paratha đơn giản, tồn tại một số kỹ thuật truyền thống khác nhau thì phải phết dầu lên chiếc bánh đã cán mỏng, gấp qua lại như quạt giấy và cuộn dải thành hình tròn trước khi cán phẳng, đem nướng trên tava và/hoặc chiên sơ. Một phương pháp khác là cắt một hình tròn bột từ tâm đến chu vi dọc theo bán kính của nó, bôi dầu vào bột và bắt đầu cán từ mép cắt để tạo thành hình nón, sau đó ép thành hình đĩa và cán mỏng. Phương pháp bôi dầu và gấp bột nhiều lần như trong bánh phồng của phương Tây cũng thường có cách làm kiểu này, và phương pháp này được kết hợp với các kiểu gấp tạo ra các hình dạng truyền thống của những chiếc Paratha đã hoàn thành.
Hình ảnh
Chú thích
Ẩm thực Ấn Độ
Bánh mì
|
19835376
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hidaka%20%28ph%C3%B3%20t%E1%BB%89nh%29
|
Hidaka (phó tỉnh)
|
là phó tỉnh của Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của phó tỉnh là 63,372 người và mật độ dân số là 13 người/km2. Tổng diện tích phó tỉnh là 4811,91 km2.
Hành chính
Tham khảo
Phó tỉnh của Hokkaidō
|
19835456
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hero%20MotoCorp
|
Hero MotoCorp
|
Hero MotoCorp là một công ty đa quốc gia của Ấn Độ hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các loại xe máy và xe tay ga có trụ sở chính tại New Dehli. Công ty hiện là một trong những nhà sản xuất xe hai bánh lớn nhất trên thế giới và chiếm khoảng 46% thị phần trong ngành công nghiệp sản xuất xe hai bánh của Ấn Độ. , giá trị vốn hóa thị trường của công ty đạt 59,600 karor.
Lịch sử
Hero Honda được thành lập vào năm 1984 sau sự hợp tác liên doanh giữa Hero Cycle của Ấn Độ và Honda của Nhật Bản. Vào tháng 6 năm 2012, Hero MotoCorp đã phê duyệt đề xuất sáp nhập chi nhánh của Hero Investment Pvt. Ltd. vào nhà sản xuất ô tô. Quyết định này được đưa ra khoảng 18 tháng sau khi công ty tách khỏi Hero Honda.
Các vốn đầu tư cổ phiếu
Vào tháng 7 năm 2013, Hero MotoCorp đã mua lại 49.2% cổ phần của Erik Buell Racing, một công ty sản xuất mô tô thể thao có trụ sở chính tại East Troy, Wisconsin, Hoa Kỳ.
Người lao động
Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2014, công ty có khoảng 6,782 người lao động (trong đó số lao động là nữ chiếm tỷ lệ khoảng 1.1%). Tại thời điểm đó, công ty có khoảng 13.800 nhân viên tạm thời. Tỷ lệ nhân viên nghỉ việc của công ty đạt 5.1% trong báo cáo tài chính các năm 2012–2013.
Giải thưởng
Xếp hạng thứ 108 trong danh sách 200 doanh nghiệp được kính trọng nhất thế giới do Forbes bình chọn.
Báo cáo về niềm tin với thương hiệu do tạp chí Trust Research Advisory công bố, công ty xếp ở vị trí thứ 7 trong số những thương hiệu được tin dùng nhất tại Ấn Độ.
Tham khảo
|
19835477
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%E1%BB%A9%20gi%C3%A1c%20c%E1%BB%A7a%20Sao%20H%E1%BB%8Fa
|
Danh sách tứ giác của Sao Hỏa
|
Bề mặt của Sao Hỏa được Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) chia thành 30 tứ giác. Mỗi tứ giác là một vùng có phạm vi vĩ độ và kinh độ được xác định. Các tứ giác được đặt tên theo các đặc điểm địa hình albedo nổi bật tại tứ giác tương ứng, được đánh số từ 1 đến 30 với tiền tố "MC" ("Mars Chart") chạy theo chiều từ bắc xuống nam và từ tây sang đông.
Các tứ giác có hình chữ nhật trên bản đồ phép chiếu hình trụ, nhưng vì bề mặt của Sao Hỏa cong theo hình cầu của hành tinh, nên hình dạng của các tứ giác trong thực tế là hình tứ giác Saccheri. 16 tứ giác ở xích đạo là nhỏ nhất với diện tích bề mặt mỗi phần là 4.500.000 km2, trong khi 12 tứ giác ở vĩ độ trung bình có diện tích 4.900.000 km2. Hai tứ giác ở cực là lớn nhất với diện tích bề mặt là 6.800.000 km2.
Lịch sử
Năm 1972, chương trình Mariner 9 của NASA gửi về hàng ngàn bức ảnh, chụp bao phủ hơn 80% bề mặt Sao Hỏa. Năm đó và năm tiếp theo, Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA đã hợp tác với chương trình nghiên cứu địa chất thiên văn của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ (USGS) để tổng hợp ảnh chụp của Mariner thành bản đồ chi tiết đầu tiên về Sao Hỏa. Để tổ chức và chia nhỏ công việc này, USGS đã chia bề mặt hành tinh thành 30 tứ giác, mỗi tứ giác được đặt tên theo đặc điểm địa hình albedo nổi bật tại khu vực tương ứng, và giao các nhà địa chất tại USGS và các trường đại học ở Mỹ để lập bản đồ và nghiên cứu từng tứ giác đó.
Các chương trình thăm dò Sao Hỏa sau này tạo ra nhiều bản đồ ngày càng chính xác, Liên đoàn Thiên văn Quốc tế đặt tên cho các tứ giác này theo những đặc điểm bề mặt và địa chất tương ứng. Những cái tên này cũng được lấy từ các đặc điểm địa hình albedo nổi bật, do vậy đôi khi trùng với tên các tứ giác do USGS đặt.
Các tứ giác
Các bản đồ dưới đây được dựng từ dữ liệu của Mars Orbiter Laser Altimeter (tạm dịch: Thiết bị đo độ cao bằng laser từ quỹ đạo Sao Hỏa) của tàu Mars Global Surveyor. Các vùng màu đỏ là vùng cao hơn so với các vùng màu xanh. Bản đồ các tứ giác ở xích đạo dùng phép chiếu Mercator, bản đồ các tứ giác ở vĩ độ trung bình dùng phép chiếu hình nón đồng góc Lambert, bản đồ các tứ giác ở hai cực dùng phép chiếu lập thể cực.
Xem thêm
Địa lý Sao Hỏa
Địa chất Sao Hỏa
Khí quyển Sao Hỏa
Thăm dò Sao Hỏa
Danh sách cao địa của Sao Hỏa
Danh sách vùng đất của Sao Hỏa
Danh sách địa hình hỗn loạn của Sao Hỏa
Chú thích
Liên kết ngoài
Google Mars (tiếng Anh) – Bản đồ Google dành cho Sao Hỏa, có liệt kê rất nhiều đặc điểm trên bề mặt của Sao Hỏa
Mars/themis Maps (tiếng Anh) – Đại học bang Arizona
MEC-1 Prototype (tiếng Anh)
Lịch sử Sao Hỏa (tiếng Anh)
Bản đồ Sao Hỏa 3D (tiếng Anh)
Khoảng cách và độ cao hiện tại của các đặc điểm của Sao Hỏa (tiếng Anh) – NASA
Nguồn gốc tên các hố va chạm của Sao Hỏa (tiếng Anh)
Bản đồ tương tác 3D của Sao Hỏa (tiếng Anh) – CTX
Đặc điểm bề mặt của Sao Hỏa theo tứ giác
|
19835486
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Elisabeth%20c%E1%BB%A7a%20Sachsen
|
Elisabeth của Sachsen
|
Elisabeth của Sachsen (tiếng Đức: Elisabeth von Sachsen; 4 tháng 2 năm 1830 – 14 tháng 8 năm 1912) là Vương nữ Sachsen và là vợ của Ferdinando của Sardegna, con trai thứ hai của Quốc vương Carlo Alberto I của Sardegna. Elisabeth còn là mẹ của Vương hậu Margherita của Ý.
Thân thế
Elisabeth sinh vào ngày 22 tháng 4 năm 1830 ở Dresden, thủ đô của Vương quốc Sachsen, là con gái thứ hai và là người con thứ ba của Johann I của Sachsen và Amalie Auguste của Bayern. Thông qua cha, Elisabeth là cháu nội của Maximilian Maria của Sachsen và Carolina xứ Parma. Thông qua mẹ, Elisabeth là cháu ngoại của Maximilian I của Bayern và Karoline xứ Baden.
Hôn nhân và hậu duệ
Ngày 22 tháng 4 năm 1850, Elisabeth kết hôn Vương tử Ferdinando của Sardegna, Công tước thứ 1 xứ Genova, con trai thứ hai của Carl Alberto I của Sardegna và Maria Theresia Franziska của Áo tại Nhà thờ Dresden. Cuộc hôn nhân của Elisabeth và Ferdinando là một cuộc hôn nhân sắp đặt và được cho là không có tình yêu.
Hai vợ chồng có hai người con:
Ngày 10 tháng 2 năm 1855, Ferdinando qua đời ở Torino, khiến cho Elisabeth trở thành góa phụ ở độ tuổi 25.
Trước khi năm ở góa thứ hai kết thúc, Elisabeth đã tái hôn vào ngày 4 tháng 10 năm 1856 với người hầu phòng Niccolò Bernoud, Hầu tước xứ Rapallo. Hai người kết hôn bí mật trước khi Elisabeth kết thúc thời gian để tang. Hành động này đã khiến anh chồng của Elisabeth là Vittorio Emanuele II của Ý tức giận đến mức ra lệnh trục xuất Elisabeth và không cho phép Elisabeth gặp hai đứa con của mình. Tuy nhiên, sau đó ba mẹ con đã được đoàn tụ.
Năm 1882, người chồng thứ hai của Elisabeth tự sát. Trước đó đã có những lời đàm tiếu trong triều đình thường ám chỉ rằng cuộc hôn nhân của hai người không hạnh phúc, và việc Niccolò Bernoud tự sát đã châm thêm dầu cho những lời đồn này. Elisabeth không có con từ cuộc hôn nhân thứ hai.
Qua đời
Elisabeth gặp phải một cơn xuất huyết vào năm 1910, khiến sức khỏe của Elisabeth nhanh chóng suy giảm. Ngày 14 tháng 8 năm 1912, Elisabeth qua đời tại Piemonte thuộc Vương quốc Ý.
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Sachsen
Vương tộc Wettin
Vương nữ
Sinh năm 1830
Mất năm 1912
|
19835487
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anna%20Maria%20c%E1%BB%A7a%20Sachsen
|
Anna Maria của Sachsen
|
Anna Maria của Sachsen (Tên đầy đủ: Anna Maria Maximiliane Stephania Karoline Johanna Luisa Xaveria Nepomucena Aloysia Benedicta von Sachsen; sinh ngày 4 tháng 1 năm 1836 tại Dresden, Vương quốc Sachsen; mất ngày 10 tháng 2 năm 1859 tại Napoli, Vương quốc Hai Sicilie) là con thứ bảy và là con gái lớn thứ tư của Johann I của Sachsen và Amalie Auguste của Bayern và là em gái của Albert I của Sachsen và Georg của Sachsen. Anna Maria qua đời không lâu trước khi chồng có thể kế vị cha trở thành Đại công tước xứ Toscana.
Thân thế
Maria Anna sinh vào ngày 4 tháng 1 năm 1836 ở Dresden, thủ đô của Vương quốc Sachsen, là con gái thứ tư và là người con thứ bảy của Johann I của Sachsen và Amalie Auguste của Bayern. Thông qua cha, Elisabeth là cháu nội của Maximilian Maria của Sachsen và Carolina xứ Parma. Thông qua mẹ, Elisabeth là cháu ngoại của Maximilian I của Bayern và Karoline xứ Baden.
Hôn nhân và hậu duệ
Anna Maria kết hôn với Ferdinando của Áo (Ferdinando IV xứ Toscana tương lai), con trai cả của Leopoldo II xứ Toscana và Maria Antonia của Hai Sicilie, vào ngày 24 tháng 11 năm 1856 tại Dresden. Anna Maria và Ferdinando có với nhau hai con:
Maria Antonietta Leopolda Annunziata Anna Amalia Giuseppa Giovanna Immacolata Tecla, Nữ Đại vương công Áo (tiếng Đức Maria Antonia Leopoldine Annunziata Anna Amalia Josepha Johanna Immaculata Thekla) (Firenze, 10 tháng 1 năm 1858 – Cannes, 13 tháng 4 năm 1883).
Con gái chết lưu (sinh và mất năm 1859).
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Sachsen
Vương tộc Wettin
Vương nữ
Sinh năm 1836
Mất năm 1859
Sản phụ tử vong
|
19835494
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apple%20M3
|
Apple M3
|
Apple M3 series là một hệ thống trên một vi mạch (SoC) dựa trên ARM được Apple Inc. thiết kế làm bộ xử lý trung tâm (CPU) và bộ xử lý đồ họa (GPU) cho máy tính để bàn và máy tính xách tay Mac của hãng. Đây là thế hệ thứ ba sử dụng cấu trúc ARM dành cho máy tính Mac của Apple sau khi chuyển từ Intel Core sang Apple silicon và là dòng chip kế nhiệm Apple M2. Apple đã công bố M3 vào ngày 30 tháng 10 năm 2023, tại sự kiện trực tuyến Nhanh dựng tóc gáy (Scary Fast) theo chủ đề Halloween, cùng với các mẫu iMac và MacBook Pro sử dụng M3.
Thiết kế
Dòng M3 là thiết kế 3 nm đầu tiên của Apple dành cho máy tính để bàn và máy tính xách tay. Nó được sản xuất bởi TSMC.
CPU
M3: CPU 8 nhân với 4 lõi hiệu năng và 4 lõi hiệu suất
M3 Pro: CPU 11 hoặc 12 lõi với 5 hoặc 6 lõi hiệu năng và 6 lõi hiệu suất
M3 Max: CPU 14 hoặc 16 lõi với 10 hoặc 12 lõi hiệu năng và 4 lõi hiệu suất
GPU
GPU được thiết kế lại bao gồm các tính năng như Bộ nhớ đệm động, dò tia tốc độ cao bằng phần cứng và Đổ bóng dạng lưới.
Công nghệ Bộ nhớ đệm động phân bổ bộ nhớ cục bộ theo thời gian thực. Không giống như các phương pháp thông thường, Bộ nhớ đệm động đảm bảo rằng chỉ sử dụng lượng bộ nhớ chính xác cần thiết cho một tác vụ, từ đó tối ưu hóa việc sử dụng bộ nhớ và có khả năng nâng cao hiệu năng cũng như hiệu suất. Điều này đặc biệt có lợi cho các tác vụ đòi hỏi nhiều đến đồ họa, trong đó việc phân bổ bộ nhớ động có thể rất quan trọng.
Bộ nhớ
Kiến trúc bộ nhớ hợp nhất của M3 có RAM lên tới 24 GB, M3 Pro lên tới 36 GB và M3 Max lên tới 128 GB. Giống như thế hệ M2, SoC M3 sử dụng SDRAM LPDDR5 6.400 MT/s. Giống như các SoC dòng M trước đây, nó đóng vai trò vừa là RAM vừa là RAM video.
M3 Pro và M3 Max 14 nhân có băng thông bộ nhớ thấp hơn lần lượt là M1/M2 Pro và M1/M2 Max. M3 Pro có bus bộ nhớ 192 bit trong đó M1 và M2 Pro có bus 256 bit, dẫn đến băng thông chỉ 150 GB/giây so với 200 GB/giây của các dòng tiền nhiệm. M3 Max 14 nhân có băng thông 300 GB/giây so với 400 GB/giây cho tất cả các mẫu M1 và M2 Max, trong khi đó M3 Max 16 nhân có cùng mức băng thông 400 GB/giây như các mẫu M1 và M2 Max trước đó.
Các tính năng khác
Video
Chip M3 series hỗ trợ giải mã AV1.
AI
Apple đặc biệt nhắm đến mục tiêu khối lượng công việc và phát triển của AI, cả với Neural Engine và với bộ nhớ tối đa tăng lên (128 GB) của M3 Max, cho phép các mô hình AI có số lượng tham số cao.
Sản phẩm sử dụng dòng Apple M3
M3
MacBook Pro (14-inch, 2023)
iMac (24-inch, M3, 2023)
M3 Pro
MacBook Pro (14-inch and 16-inch, 2023)
M3 Max
MacBook Pro (14-inch and 16-inch, 2023)
Các biến thể
Bảng dưới đây hiển thị các biến thể SoC khác nhau.
Xem thêm
Apple silicon
Ghi chú
Tham khảo
Giới thiệu liên quan đến máy tính năm 2023
Apple silicon
|
19835517
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Avacha%20%28v%E1%BB%8Bnh%20ven%20b%E1%BB%9D%29
|
Vịnh Avacha (vịnh ven bờ)
|
Vịnh Avacha () là một vịnh ven bờ ở Thái Bình Dương nằm tại bờ đông nam của bán đảo Kamchatka. Vịnh có chiều dài 24 km, chiều rộng 3 km với độ sâu tối đa là 26 m.
Sông Avacha chảy vào vịnh này. Trên bờ vịnh là thành phố cảng Petropavlovsk-Kamchatsky và thị trấn đã đóng cửa tên Vilyuchinsk. Vịnh Avacha là cửa ngõ giao thông chính của vùng Kamchatka. Vịnh bị đóng băng vào mùa đông.
Vịnh được phát hiện lần đầu tiên bởi nhà hàng hải người Đan Mạch là Vitus Bering vào năm 1729. Nó được khảo sát và lập bản đồ bởi thuyền trưởng Mikhail Tebenkov của hải quân hoàng gia Nga vào thập niên 1830.
Vịnh Avacha là nơi diễn ra vụ các sinh vật ở vùng đáy nước chết hàng loạt vào tháng 9–tháng 10 năm 2020.
Mô tả
Vịnh Avacha là một trong những vịnh lớn nhất thế giới. Nó có thể chứa vừa bất kỳ con tàu nào trên Trái Đất. Vịnh này nằm bên trong một vịnh lớn hơn là vịnh biển Avacha. Tổng diện tích của vịnh là 215 km². Các con sông chính chảy vào vịnh là sông Avacha và sông Paratunka. Đây là nơi đóng quân của hạm đội Thái Bình Dương Nga.
Xem thêm
Tri Brata – "Ba anh em", một cảnh quan nổi tiếng trong vịnh
Tham khảo
Vịnh Nga
|
19835536
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Olympic-ro
|
Olympic-ro
|
Olympic-ro (Tiếng Hàn: 올림픽로, Hanja: 올림픽路) là con đường nối Khu liên hợp thể thao Seoul ở Jamsil 2-dong, Songpa-gu, Seoul đến Di tích khu dân cư thời tiền sử ở Amsa 2-dong, Gangdong-gu. Từ Khu liên hợp thể thao Seoul đến Giao lộ Seonsa, nó tương ứng với Tuyến đường thành phố Seoul số 90.
Lịch sử
7 tháng 11 năm 1984: Jamsil-ro được đổi thành Olympic-ro (Khu liên hợp thể thao Seoul - Ga Mongchontoseong hiện tại, 3,9 km).
29 tháng 5 năm 1986: Điểm cuối được kéo dài từ ga Mongchontoseong hiện tại đến Giao lộ Pungnap (5,2 km).
10 tháng 7 năm 2009: Pungnap-ro (Giao lộ Pungnap - Ga Cheonho, 1,2 km) và Seonsa-ro (Ga Cheonho - Di tích khu dân cư thời tiền sử, 3,1 km) được hợp nhất và điểm cuối được mở rộng đến Di tích khu dân cư thời tiền sử Amsa-dong (9,5km).
17 tháng 4 năm 2020: Phá dỡ ngã tư ga Cheonho và đường hầm Cheonho
Các điểm dừng chính
Songpa-gu, Seoul
Khu liên hợp thể thao Seoul, Ga liên hợp thể thao - Ga Jamsilsaenae, Trung tâm cộng đồng Jamsil 2-dong - Lotte World - Ga Jamsil - Văn phòng Songpa-gu - Ga Mongchontoseong - Cầu Seongnae - Đầu phía nam cầu Olympic - Giao lộ Pungnap - Ga văn phòng Gangdong-gu - Trường trung học nữ sinh Yeongpa (Trường trung học nữ sinh Youngpa) - Ngã tư ga Cheonho
Gangdong-gu
Đầu phía nam cầu Gwangjin - Công viên Cheonho-dong - Ga Amsa - Giao lộ Seonsa - Trường tiểu học Seoul Seonsa - Di tích khu dân cư thời tiền sử Amsa-dong
Tham khảo
Đường ở Seoul
|
19835537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20gi%C3%A0nh%20%C4%91%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp%20Venezuela
|
Chiến tranh giành độc lập Venezuela
|
Chiến tranh giành độc lập Venezuela (, 1810–1823) là một trong những cuộc Chiến tranh giành độc lập châu Mỹ Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ XIX, khi các phong trào độc lập ở Nam Mỹ tiến hành một cuộc nội chiến đòi ly khai và chống lại sự thống nhất khỏi Đế chế Tây Ban Nha, hành động táo bạo sau những rắc rối của Tây Ban Nha trong Chiến tranh Napoleon.
Bối cảnh
Khủng hoàng Tây Ban Nha
Tháng 7 năm 1807, Pháp tuyên chiến với Bồ Đào Nha nhằm trừng phạt các hành động được xem là chống lại Pháp: mở cửa giao thương với Anh, cho Hải quân Anh sử dụng cảng Lisbon, từ chối tham gia liên minh Lục địa. Vua Carlos IV Tây Ban Nha và Hoàng đế Napoléon Bonaparte Pháp đã bí mật ký Hiệp ước Fontainebleau ngày 27 tháng 10 năm 1807, nhằm phân chia lãnh thổ Bồ Đào Nha. Theo Hiệp ước, quân đội Pháp sẽ đưa quân đi qua lãnh thổ Tây Ban Nha để tiến đánh Bồ Đào Nha. Ngày 30 tháng 11 năm 1807, quân Pháp chiếm được Lisbon, Hoàng gia Bồ Đào Nha trốn thoát sang thuộc địa Brazil. Bồ Đào Nha chính thức bị chia làm 3 phần cho Pháp, Tây Ban Nha và Công quốc Parma.
Đầu năm 1808, các sư đoàn Pháp tiến quân chiếm đóng một số thành phố dọc biên giới Pháp-Tây Ban Nha của Tây Ban Nha. Tây Ban Nha yêu cầu giải thích nhưng với kết quả bế tắc đã rút quân của mình từ Bồ Đào Nha về nước. Tháng 3 năm 1808, Sự kiện Aranjuez nổ ra giữa phe ủng hộ Manuel de Godoy và phe nổi loạn ủng hộ Fernando, kết quả phe ủng hộ Fernando giành chiến thắng buộc Thủ tướng Godoy từ chức và Vua Carlos IV thoái vị đồng thời đưa Fernando VII lên ngôi. Napoléon vờ giải quyết sự xung đột bằng cách đưa quân vào Madrid trên danh nghĩa trung gian và mời vua Carlos IV và vua Fernando VII đến Bayonne, Pháp. Tại đây Napoléon đã buộc cả hai phải từ bỏ ngai vàng và trao lại cho chính mình, sau đó phong anh trai mình là Joseph I làm vua Tây Ban Nha.
Để chống đối lại sự cai trị của người Pháp, một số chính quyền (junta) các tỉnh đã kêu gọi thành lập chính quyền trung ương. Sau các cuộc đàm phám giữa Hội đồng Castile và chính quyền, vốn ban đầu ủng hộ Joseph I, đã thành lập Hội đồng chính quyền và Trung ương Tối cao Tây Ban Nha và Ấn Độ () ngày 25 tháng 9 năm 1808, tuyên thệ trung thành với ngôi vua Fernando VII. Từ cuối năm 1809, trước những thất bại nặng nề trên mặt trận quân sự, Hội đồng chính quyền và Trung ương Tối cao tuyến bố giải thể ngày 29 tháng 1 năm 1810 và thành lập Hội đồng Nhiếp chính Tây Ban Nha và Ấn Độ.
Cách mạng năm 1810
Khủng hoảng chính trị ở chính mẫu quốc đã tạo ra khoảng trống quyền lực ở các thuộc địa Châu Mỹ của Tây Ban Nha. Đã có nhiều âm mưu thiết lập chính quyền tự trị thuộc địa riêng, nhưng Hội đồng Chính quyền và Trung ương Tối cao vẫn là cơ quan duy trì quyền hợp pháp.
Sau những thất bại quân sự trước quân Pháp năm 1810, đã có một số tin đồn về việc Tây Ban Nha đã thất trận lan truyền tới các thuộc địa. Hầu hết người Châu Mỹ gốc Tây Ban Nha không có lý do gì để công nhận một chính quyền yếu kém đang bị người Pháp đe dọa chiếm giữ bất cứ lúc nào, và nỗ lực thành lập các chính quyền địa phương để bảo vệ nền độc lập khỏi Pháp. Tối ngày 18 tháng 4 năm 1810, cabildo (hội đồng hành chính thuộc địa) bao gồm chủ yếu là các mantuano (tầng lớp thượng lưu tại địa phương) đã triệu tập một cuộc họp bất thường để thảo luận về tình hình Caracas với Thống đốc Venezuela Vicente Emparan. Cabildo đề xuất thành lập mội hội đồng quản lý địa phương độc lập khỏi Hội đồng Nhiếp chính, Emparan đã từ chối đề xuất. Ngày 19 tháng 4, cabildo đã kích động dân chúng phế truất Emparan và các chức sắc hoàng gia khác, đồng thời cũng thành lập Hội đồng Duy trì Tối cao Ngôi vua Fernando VII (còn được gọi Hội đồng Tối cao Caracas).
Ngày 20 tháng 4, hai đồng Chủ tịch (alcalde) Hội đồng Tối cao Caracas là José de las Llamozas và Martín Tovar Ponte đã gửi tuyên bố tới các tỉnh khác trong Venezuela, tuyên bố báo cáo về cách mạng và khuyến khích các tỉnh khác tham gia vào Hội đồng. Tất cả các tỉnh đều tham gia, ngoại trừ các tỉnh Coro (trước thuộc tỉnh Venezuela tự tách ra tuyên bố trung thành Ngôi vua), tỉnh Maracaibo và Guayana, những tỉnh này tuyên bố trung thành với Hội đồng Nhiếp chính.
Thành lập Đệ nhất Cộng hòa
Mặc dù mục tiêu chính thức Hội đồng Tối cao Caracas là bảo vệ lãnh thổ khỏi một cuộc xâm lược có thể xảy ra từ Pháp, ban đầu Hội đồng Tối cao ủng hộ "Ngôi vua Fernando VII", nhưng sau đó một số thành viên nhem nhóm ý tưởng biến Venezuela hoàn toàn độc lập, Francisco de Miranda, một người Venezuela xa xứ lâu năm, và Simón Bolívar, một quý tộc địa phương trẻ tuổi. Để biến ý tưởng thành hiện thực, Hội đồng Tối cao Caracas cử các đại diện ngoại giao đến Hoa Kỳ và Vương quốc Anh, thành lập các chức vụ nhà nước và kêu gọi bầu cử quốc hội. Ngoài ra, Hội đồng còn thực hiện các biện pháp mang tính cách mạng khác, chẳng hạn như đại biểu người gốc châu Phi, bãi bỏ buôn bán nô lệ (nhưng không phải chế độ nô lệ), và tự do báo chí và thương mại.
Vào ngày 2 tháng 3 năm 1811, Đại hội đồng Venezuela (Quốc hội) được thành lập, thay thế Hội đồng Tối cao Caracas. Vào ngày 5 tháng 7 cùng năm, Quốc hội phê chuẩn nền độc lập với 43 phiếu ủng hộ và 1 phiếu chống, tuyên ngôn độc lập chính thức được thông qua, bắt đầu nền Cộng hòa đầu tiên.
Các chiến dịch quân sự nhằm đưa các tỉnh trung thành Hội đồng Nhiếp chính diễn ra:
Chiến dịch Coro
Chiến dịch diễn ra từ tháng 10 năm 1810 đến tháng 5 năm 1811, quân viễn chính Caracas do Francisco Rodríguez del Toro chỉ huy dẫn khoảng gần 5000 quân tiến vào Coro. Phe Bảo hoàng do Fernando Miyares và José Ceballos chỉ huy, lần lượt là thống đốc Coro và Maracaibo, có khoảng 2000 quân.
Phe Ái quốc lần lượt giành chiến thắng sau một loạt các Trận Aguanegra (4/11), Pedregal (14/11), Aribanaches (15/11) và vào ngày 28 tháng 11 quân Caracas tấn công Coro. Vào ngày 30 tháng 11, Trận Sabaneta bắt đầu, phe Ái quốc giành chiến thắng, và Trận Guedequis, nơi Fernando Miyares giành chiến thắng. Quân Caracas đang tiến hành chiến dịch rất thuận lợi cho đến khi có tin quân tiếp viện từ Maracaibo đang đến. Trước nguy cơ bị bao vây, Francisco Rodríguez del Toro đã rút lui.
Chiến dịch Valencia
Ngay sau khi tuyên ngôn độc lập ở Caracas được lan tới thành phố Valencia, người dân trong thành phố đã tuyên bố nổi dậy và chiếm doanh trại chống lại Phe Ái quốc. Phe Ái quốc đã cử một quân đoàn viễn chinh do Francisco Rodríguez del Toro chỉ huy nhưng đã phải dừng bước sau khi gặp phải kháng cự ở Mariara. Francisco de Miranda được cử thay thế Toro làm chỉ huy quân viễn chinh. Miranda tiến quân vòng quanh Hồ Valenica và sau nhiều trận đánh, đã đến được thành phố Valencia. Được phòng thủ vững chắc, thành phố đã chống lại nhiều cuộc tấn công từ phe Ái quốc nhưng cuối cùng đã đầu hàng vào ngày 13 tháng 8.
Chiến dịch Guayana
Sau khi tỉnh Guayana, cũng như tỉnh Coro, không công nhận Hội đồng Tối cao Caracas, một đội quân khoảng 2,000 người từ Caracas và các tỉnh được cử đến tỉnh Guayana để chiếm và đánh bại lực lượng bảo hoàng. Sau một số trận đánh giành chiến thắng từ hải quân cộng hòa và đặt thành phố Angostura vào vòng vây, nhưng việc hải quân cộng hòa bị phá hủy nặng nề trong Trận hải chiến Sorondo (26/03/1812) buộc quân cộng hòa phải vượt sông Orinoco rút lui và kết thúc chiến dịch.
Chiến dịch Monteverde
Domingo Monteverde, Đề đốc Venezuela, bắt đầu cuộc tái chiếm Venezuela bằng việc đổ bộ 150 người vào thành phố Coro. Tại đó, Monteverde đã gia tăng hàng ngũ bằng cách bổ sung những người trong thành phố ủng hộ bảo hoàng, chống cộng hòa và trung thành với Ngôi vua. Từ Coro, Monteverde hành quân cùng 400 người đến Siquisique, nơi ông tập hợp lực lượng với những người theo ủng hộ bảo hoàng là Juan de los Reyes Vargas và Andrés Torellas. Ngày 7 tháng 4 năm 1812, Monteverde chiếm Barquisimeto mà không gặp phải sự kháng cự nào, và vào ngày 25 tháng 4 ông đã có mặt ở San Carlos. Monteverde đối đầu với Francisco de Miranda trên đèo La Cabrera, nơi giao tranh ác liệt không vượt qua được cho đến khi ông vượt qua được thung lũng Aragua. Miranda rút lui về La Victoria, một thành phố được Miranda củng cố để tạo ra một hệ thống phòng thủ phù hợp chống lại quân Monteverde, người đã hai lần tấn công thành phố này nhưng không thành công. Sau khi Puerto Cabello (dưới sự chỉ huy của Simón Bolívar) rơi vào tay phe bảo hoàng, các cuộc đào ngũ liên tục và những thất bại nặng nề trước quân Monteverde, Miranda buộc phải ký một Văn kiện đầu hàng ở San Mateo vào ngày 25 tháng 7 năm 1812, chấm dứt Đệ nhất Cộng hòa Venezuela.
Đệ nhị Cộng hòa
Tuyên ngôn Cartagena
Với sự sụp đổ Đệ nhất Cộng hòa trước quân đội Monteverde, Simón Bolívar sống lưu vong, tới Curaçao và sau đó từ đó đến Các tỉnh thống nhất Tân Granada, nơi đã tuyên bố độc lập khỏi Tây Ban Nha khi đó.
Tại Cartagena, Bolívar viết một bản tuyên ngôn có tựa đề Hồi ký gửi tới các công dân Tân Granada bởi một người gốc Caracas, trong đó Bolívar tóm tắt những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại nền Cộng hòa thứ nhất, tình hình mà người Mỹ gốc Tây Ban Nha đang gặp phải và đưa ra quan điểm của ổng về tương lai khu vực.
Sau khi viết tuyên ngôn, Bolivar đã yêu cầu Đại hội Tân Granada cho ông gia nhập quân đội và được thăng cấp Chuẩn tướng, được giao một đơn vị đồn trú mà ông sẽ thực hiện Chiến dịch Thần diệu.
Chiến dịch phía Đông
Santiago Mariño cùng với 45 người sống lưu vong ở Trinidad đã gặp nhau vào ngày 11 tháng 1 năm 1813, trên đảo Chacachacare để xác định các bước tiếp theo cho tương lai Venezuela. Tại đây tất cả ký ban hành Đạo luật Chacachacare, trong đó chỉ định Santiago Mariño làm chỉ huy quân viễn chinh nhằm tái lập nền cộng hòa. Sau đó các thành viên đoàn viễn chinh lên đường đến Guiria, thực hiện chiến dịch phía Đông.
Nhóm viễn chinh chia làm hai nhóm: nhóm thứ nhất do Mariño chỉ huy và nhóm thứ hai do José Francisco Bermúdez chỉ huy. Ngày 13 tháng năm 1813, quân Mariño tấn công kiểu biệt kích vào Güiria,
Đội quân của Mariño tấn công Güiria vào ngày 13 tháng 1 bằng một cuộc tấn công kiểu biệt kích, quân Bermúdez đi theo hướng Cumaná và chiếm Irapa trên đường đi vào ngày 15 tháng 1. Francisco Cerveriz cố gắng tái chiếm Irapa nhưng bị đánh bại và rút lui về Yaguaraparo. Anh trai của Bermúdez, José Bernardo, dẫn đầu một đội quân về phía nam chiếm Maturín vào ngày 2 tháng 2.
Sau khi biết tin, Monteverde bắt đầu từ La Guaira với khoảng 550 người tiến về phía đông. Vào ngày 25 tháng 5, ông cố gắng chiếm Maturín nhưng bị Manuel Piar đánh bại trong Trận Alto de Los Godos. Đây là một trong những nỗ lực phe bảo hoàng nhằm chiếm lấy Venezuela và điều đáng chú ý là có sự tham gia phụ nữ trong trận chiến, chẳng hạn như Juana Ramírez "La Avanzadora".
Sau nhiều nỗ lực không thành công, Monteverde giao các hoạt động ở phía đông cho Chuẩn tướng Juan Manuel Cajigal và tiến về Caracas qua Barcelona để cố gắng ngăn chặn bước tiến quân Bolivar ở phía tây. Vào ngày 3 tháng 8, Mariño tiến vào Cumaná và vào ngày 19 tới Barcelona.
Chiến dịch Thần diệu
Chiến dịch Thần diệu do Simón Bolívar chỉ huy, ông đã dẫn quân từ Tân Granada tái chiếm Venezuela.
Trận Cucuta
Vào ngày 8 tháng 1 năm 1813, Bolívar chiếm thành phố Ocaña (thành phố quan trọng thứ hai ở Norte de Santander, sau Cúcuta) sau khi để lại một lối đi tự do ở Magdalena Medio, nhờ đó tạo ra một con đường đi lại giữa Bogotá và Cartagena.
Vào ngày 16 tháng 2, Bolívar lên đường đến Cúcuta vì lực lượng bảo hoàng do Ramón Correa chỉ huy truy kích. Trên đường đến Cúcuta, Bolívar đã đánh bại một lực lượng bảo hoàng đang chặn tại La Aguada. Vào ngày 28 tháng 2, tại Cúcuta đã nổ ra trận đánh giữa tướng Correa và Bolívar, trận chiến kéo dài trong 4 tiếng, quân bảo hoàng bị thiệt hại và phải rút lui. Thành phố Cúcuta được trao quyền độc lập khỏi quân bảo hoàng.
Bolívar đã yêu cầu sự giúp đỡ từ chính quyền Tân Granada thông qua Tuyên ngôn Cartagena, tuyên ngôn được chấp thuận ông được thực hiện những hành động quân sự tại Tân Granada.
Trận Agua Obispo
Ngay sau khi nhận được sự ủy quyền từ chính quyền Tân Granada, vào ngày 14 tháng 5 năm 1813, Bolívar bắt đầu tiến quân về Venezuela. Đoàn viễn chinh gồm hai sư đoàn, Đại tá Atanasio Girardot chỉ huy đội tiên phong và Đại tá José Félix Ribas chỉ huy đội hậu cần. Các lực lượng này hành quân dọc theo tuyến đường San Cristóbal - La Grita - Mérida - Trujillo.
Sau đó, trước khi chỉ huy quân bảo hoàng Manuel Cañas rút lui về Carache, Girardot cùng đội quân tiên phong tiến vào Carache vào buổi chiều ngày 17 tháng 6. Vào buổi tối, chỉ huy quân bảo hoàng từ bỏ phòng tuyến mà mình chiếm giữ và đưa quân lên điểm cao Agua de Obispos. Vào ngày 18 tháng 6, cuộc đối đầu giữa lực lượng Girardot và Cañas đã diễn ra, kết quả quân Girardot đã giành chiến thắng và loại bỏ những đội quân có thể cản trở bước tiến quân Bolivar, đang ở tại thành phố Trujillo ngày 14 tháng 6. Tại Trujillo, Bolivar ra lệnh cho Ribas hành quân càng nhanh càng tốt từ Mérida về phía Boconó, với mục đích tạo yếu tố bất ngờ. Trong khi đó Girardot được lệnh rút lui về Trujillo.
Trận Niquitao
Vào rạng sáng ngày 2 tháng 7 năm 1813, tại vùng đất hoang Niquitao (Boconó, Bang Trujillo) lực lượng Ái quốc tiếp cận quân Tây Ban Nha. Lúc 9 giờ sáng José Félix Ribas chỉ huy lực lượng Ái quốc tại đây, quan sát trang thiết bị phòng thủ quân Tây Ban Nha, xây dựng kế hoạch tác chiến. Khi gần đến gần quân Tây Ban Nha, Ribas ra lệnh cho binh lính ở trung quân, do Thiếu tá Rafael Urdaneta chỉ huy, nổ súng vào các vị trí quân Tây Ban Nha. Kết hợp với lệnh này, cánh phải đội trưởng José María Ortega thực hiện cuộc tấn công vào cánh trái quân Tây Ban Nha.
Cuộc tấn công khiến phe bảo hoàng phải rút khỏi phòng tuyến và chuyển sang một phòng tuyến quan trọng hơn. Cuộc tấn công quân Ái quốc tiếp tục trong ba giờ nữa nhưng không có kết quả rõ ràng ngoài việc chiếm một số vị trí không quan trọng. Bất ngờ Ribas ra lệnh cho kỵ binh hành quân tấn công hậu quân Tây Ban Nha.
Quân Tây Ban Nha bị đánh bại, bỏ chạy tán loạn. Lực lượng Ái quốc đã bắt 445 người quân bảo hoàng làm tù binh, thu được 450 khẩu súng trường, 60 thanh kiếm, 160 phát đại bác và một lượng lớn đạn dược. Tây Ban Nha thất bại nặng nề đến mức chủ huy bảo hoàng José Marti phải trốn thoát với sáu lính đồng hành. Đây là trận chiến đầu tiên mà đại tá Ribas giành chiến thắng. Sau trận chiến này, lực lượng Ái quốc tiếp tục hành quân tiến về đô thành Caracas.
Trận Los Horcones
Trận chiến nổ ra ngày 22 tháng 7 năm 1813 giữa phe Ái quốc do José Félix Ribas và Jacinto Lara chỉ huy đã đánh bại phe Bảo hoàng do Francisco Oberto chỉ huy. Oberto đã lựa chọn đồng bằng Los Horcones (bang Lara ngày nay) chiếm các vị trí quan trọng chờ quân Ribas. Đây là một trận chiến nhanh chóng và quyết tâm, khiến Ribas trở thành bậc thầy về pháo binh và giành chiến thắng với vọn vẻn hơn 500 quân. Quân Oberto với quân số đông hơn gấp đôi bị đánh bại, phe Ái quốc thu giữ được nhiều vũ khi trang thiết bị, bắt sống hơn 300 tù binh.
Trận Caracas
Với việc khải hoàn tiến vào Caracas vào ngày 6 tháng 8 năm 1813, phe Ái quốc đã hoàn thành Chiến dịch Thần diệu sau khi giành được những chiến thắng vĩ đại trước phe bảo hoàng, Bolívar được tuyên bố là Anh hùng giải phóng Venezuela và nền Cộng hòa thứ hai được khôi phục. Tuy nhiên việc giải phóng hoàn toàn Venezuela mới chỉ là bước đầu.
Thành lập Đệ nhị Cộng hòa
Ngay sau khi tiến vào Caracas, vào ngày 7 tháng 8 năm 1813, Bolívar tuyên bố thành lập nên Cộng hòa thứ hai. Tuyên bố này diễn ra sau sự thất bại phe bảo hoàng do Domingo Monteverde chỉ huy trước Bolívar trong Chiến dịch Thần diệu ở phía tây và Santiago Mariño trong chiến dịch phía đông. Tuy nền Cộng hòa được tái lập nhưng vẫn còn những nhóm thân bảo hoàng rải rác khắp Venezuela. Theo ước tính chính thức từ những người cách mạng vào ngày 11 tháng 1 năm 1814, có 2,200 người thân bảo hoàng ở tỉnh Coro do Carlos Miguel Salomón lãnh đạo, 500 người ở San Felipe do José de Milliet lãnh đạo, 1,500 người ở Apure dp José Antonio Yáñez và Sebastián de la Calzada lãnh đạo, và 2,000 ở Calabozo do José Tomás Boves lãnh đạo, ngoài ra còn các thành phố Maracaibo và Puerto Cabello. Điều kỳ lạ là Boves và Yáñez chưa bao giờ hợp lực. Rõ ràng, mỗi bên đều thích hoạt động độc lập: Boves ở vùng đồng bằng Calabozo (tỉnh Caracas) và Yáñez ở tỉnh Barinas.
Nền cộng hòa kết thúc vào năm 1814, sau một loạt thất bại dưới tay José Tomás Boves.
Cuộc hành quân miền Trung, miền Tây Venezuela và miền nam Caracas
Bolivar một lần nữa mở các cuộc hành quân chống lại các cuộc tấn công quân Tây Ban Nha vốn đang lan rộng ra khắp đất nước. Từ Caracas, ông cử trung tá Tomás Montilla đến vùng đồng bằng Calabozo đang bị quân Tây Ban Nha do José Tomás Boves chiếm đóng và Vicente Campo Elías áp sát thung lũng Tuy để bình định nơi có một cuộc nổi dậy phe bảo hoàng đang diễn ra.
Ngày 21 tháng 9 năm 1813, Boves đã đánh bại đội quân tiền phương của Montilla trong cuộc bao vây Santa Catalina và tiến vào Calabozo mà không gặp phải sự phản kháng nào. Tại thung lũng Tuy, Elías đến Ocumare del Tuy vào ngày 26 tháng 8 và trong một thời gian ngắn đã bình định được khu vực, sau đó Elías đưa quân trở về về Caracas. Tại đô thành, Elías nhận được lệnh đến Calabozo để hỗ trợ Montilla, kết quả đánh bại Boves ở Mosquiteros vào ngày 14 tháng 10. Boves trốn thoát cùng Francisco Morales và chỉ 17 người đi theo.
Bolivar đến Valencia cùng với đội quân Rafael Urdaneta, nơi ông tập trung quân và chia chúng thành 3 đội hình: đội hình đầu tiên do Garcia de Sena chỉ huy đến Barquisimeto chống lại Reyes Vargas người da đỏ, đội hình thứ hai do Atanasio Girardot chỉ huy đến Puerto Cabello bằng đường qua Aguas Calientes và đội hình thứ ba do Rafael Urdaneta cũng đến Puerto Cabello nhưng bằng đường qua San Esteban. Sena giành chiến thắng Reyes Vargas ở Cerritos Blancos trong khi ở Puerto Cabello thì Urdaneta và Girardot chiếm các pháo đài Vigía Alta và Vigía Baja cũng như thị trấn xung quanh.
Monteverde nhận được quân tiếp viện từ Tây Ban Nha và mở cuộc tấn công vào Valencia. Bolívar chuẩn bị quân chặn đánh Monteverde ở Naguanagua; vào ngày 30 tháng 9, Bolívar đánh bại Monteverde trong trận Bárbula và một lần nữa ngày 3 tháng 10 trong trận Las Trincheras. Monteverde, bị thương nặng và quân đội bị tiêu diệt, buộc rút lui về Puerto Cabello; Bolívar quay trở lại Caracas sau khi chỉ đạo Urdaneta chống lại Coro.
Các cuộc hành quân Bolívar tại miền Tây
Chuẩn tướng José Ceballos rời Coro vào ngày 23 tháng 9 để nhận quân tiếp viện, bổ sung thêm 1300 người. Sự di chuyển này khiến cuộc tấn công của Urdaneta, đang ở Galemotal chờ quân tiếp viện, không có tác dụng. Bolívar đưa đến đây một tiểu đoàn và hai đại đội đến từ ngày 7 đến ngày 8 tháng 11.
Ceballos tấn công thành công Barquisimeto vào ngày 10 tháng 11, trong khi Đại tá Salomón rời Puerto Cabello và tiến về Valencia qua Vigirima-Guacara nhưng bị đẩy lùi sau một trận giao tranh kéo dài vào các ngày 23, 24 và 25 tháng 11 và quay trở lại Puerto Cabello. Chiến thắng đã giúp Bolívar khai thông con đường di chuyển đến San Carlos, nơi ông tập trung quân và tổ chức quân đội thành 4 sư đoàn.
Bolívar tiến về Araure với một đội quân 5,000 người, trong thành phố có Ceballos đến từ Barquisimeto và Yanez đến từ Apure. Vào ngày 5 tháng 12, Bolívar đánh bại họ trong trận Araure sau đó ông quay trở lại Caracas.
Chiến dịch Barinas
Sau chiến thắng tại Araure, Urdaneta rời Guanare và García de Sena đến Barinas. Từ đó, Tướng Urdaneta tiếp tục hành quân về phía Barquisimeto theo hướng Coro, để bình định tỉnh Coro. Vào ngày 15 tháng 1 năm 1814, ông đánh bại Reyes Vargas người da đỏ ở Baragua sau một trận chiến ngắn nhưng ông phải quay trở lại Barinas để giúp García de Sena đang bị Yáñez, Puy và Remigio Ramos bao vây. Urdaneta không đến kịp nên García de Sena đã bỏ Barinas. Khi Barinas bị mất, Urdaneta quay sang Ospino, sau đã củng cố và đưa Đại tá José María Rodríguez làm chỉ huy chiến trường trong khi ông đến Barquisimeto để tìm quân tiếp viện. Khi ở Barquisimeto, Urdaneta cử tiểu đoàn "Valencia" đến Ospino vào ngày 2 tháng 2, vào thời điểm Yáñez đang bao vây trận chiến. Trận chiến ngay lập tức nổ ra, phe bảo hoàng bị đánh bại và Yáñez bị giết.
Vicente Campo Elías chống lại José Tomás Boves tấn công
Trong khi Bolivar đánh bại Jose Ceballos tại Araure (ngày 5 tháng 12), Jose Tomás Boves tiến về Calabozo và trong cuộc vây hãm San Marcos đã đánh bại Đại tá Pedro Aldao vào ngày 8 tháng 12 năm 1813. Phe Ái quốc rút lui về Flores. Vicente Campo Elias ở San Juan de los Morros với 1,500 lính bộ binh, 300 kỵ binh và 2 khẩu pháo, và khi biết được bước tiến quân Boves, Elias rút lui đến khe núi La Puerta, gần San Juan de los Morros. Vào ngày 3 tháng 2 năm 1814, Boves tấn công và đánh bại phe Ái quốc. Elias, cùng với tàn quân rút lui về La Cabrera.
José Tomás Boves tiến vào thung lũng Tuy và Aragua=
Boves thoát khỏi mọi sự kháng cự, nhờ chiến thắng tại La Puerta (ngày 3 tháng 2), Boves phân bổ lực lượng thành 3 đội hình: đội hình đầu tiên (Francisco Tomás Morales), hành quân đến Caracas qua La Victoria; đội thứ hai (Francisco Rosete), cũng lấy Caracas làm mục tiêu và sẽ hành quân qua thung lũng Tuy; đội hình thứ ba là lực lượng dự bị ở Villa de Cura, dưới sự chỉ huy Boves. Những cuộc hành quân này dẫn tới Tướng José Félix Ribas cũng thực hiện hành quân chống lại Boves ở La Victoria, Charallave và Ocumare; và Tướng Simón Bolívar ở San Mateo. Ribas được huy động từ Caracas với một đội quân khoảng 1,500 người và đồng thời đã tổ chức phòng thủ ở La Victoria. Vào ngày 12 tháng 2, đội hình Morales tấn công quân Ribas, cuộc tấn công đã bị đẩy lùi và gần như bị tiêu diệt sau sự kháng cự phe Ái quốc. Ribas quay trở lại Caracas và từ đó hành quân đến thung lũng Tuy, nơi ông đánh bại quân Rosete trong các trận chiến Charallave (20 tháng 2) và Ocumare (20 tháng 3). Đồng thời với những trận đánh này, Bolívar đã đẩy lui thành công Boves trước các vị trí gần San Mateo (28/2 và 25/3).
Quân đội miền Đông hỗ trợ Quân đội Simón Bolívar
Quân đội miền Đông (4,300 người) bắt đầu hành quân về phía trung tâm Venezuela từ ngày 17 đến ngày 26 tháng 1 năm 1814. Quân đội được tổ chức thành 4 đội hình: bên phải, đại tá Manuel Valdés; ở giữa là đại tá José Francisco Bermúdez; bên trái, đại tá Agustín Arrioja; dự bị, trung tá Manuel Isava; và một lữ đoàn pháo binh. Vào ngày 23 tháng 3, những đội quân này tập trung tại Camatagua, sau khi giành chiến thắng ở Cabruta, Tucupido, Agua Negra, các thị trấn Orituco và những nơi khác. Vào ngày 27, Santiago Mariño tiếp tục cuộc hành quân đến phòng tuyến được hình thành bởi khe núi Bocachica, nơi ông chiếm giữ các vị trí. Tại đây, ông bị quân José Tomás Boves, đến từ Villa de Cura, tấn công. Phe Ái quốc giành chiên thắng. Chỉ huy phe Bảo hoàng, bị truy đuổi bởi một đội quân do Bolívar cử đến, đã rút lui qua Güigüe về phía Valencia và từ đó hướng tới vùng đồng bằng Calabozo, qua Tocuyito và El Pao.
Rafael Urdaneta chống lại José Ceballos ở Barquisimeto
Sau trận Ospino (ngày 2 tháng 2 năm 1814), Urdaneta quay trở lại Barquisimeto, sẵn sàng tăng cường lực lượng cho cuộc tái chiếm Barinas, nhưng ông phải hủy bỏ do phải cử khoảng 700 người đến San Mateo theo yêu cầu của Bolivar. Urdaneta vẫn ở Barquisimeto với khoảng 650 người, trong đó ông phải tham chiến chống lại quân đội Chuẩn tướng José Ceballos, đang đe dọa chiếm Carora và Đại tá Sebastián de la Calzada đang chiếm Guanare. Ceballos tiến quân về phía Barquisimeto, trong khi Calzada tiến về phía San Carlos. Urdaneta cố gắng kháng cự ở Barquisimeto, nhưng bị lực lượng phe Bảo hoàng vượt trội tấn công trực diện, ông phải rút lui về phía San Carlos và sau đó đến Valencia, nơi ông nhận được lệnh bảo vệ vị trí. Vào ngày 28 tháng 3, quân Ceballos và quân Calzada xuất hiện trước Valencia, với 4,000 người và bao vây thành phố, cuộc bao vây duy trì cho đến ngày 3 tháng 4, khi tàn quân Boves đến sau khi trốn thoát khỏi Bocachica và thông báo cho Ceballos về trận chiến mà mình phải hứng chịu bởi Bolivar. Ceballos rút lui về San Carlos và Boves về Calabozo. Chiều cùng ngày, Bolivar và Montilla tiến vào Valencia cùng một số quân.
Trận Arao
Tại Valencia, Bolivar tổ chức một sư đoàn gồm 2.800 người và do Tướng Santiago Mariño chỉ huy; Mariño đã đưa quân đến El Tinaco, theo dõi Ceballos đang ở San Carlos. Cùng lúc đó Bolivar lên đường đến Puerto Cabello cùng với 2 tiểu đoàn. Từ Tinaco, Mariño tiếp tục đến San Carlos, nhưng trước khi đến thành phố này, vào ngày 16 tháng 4, Mariño chạm trán với quân Ceballos, cả hai bên đã triển khai trận chiến ở thảo nguyên Arao (Trận Arao). Sau trận chiến, Ceballos đánh bại Mariño, phe Bảo hoàng giành chiến thắng. Vào ngày 19 tháng 4, khi Bolivar chuẩn bị mở cuộc tấn công vào Puerto Cabello, ông nhận được tin Mariño thất bại nên rút lui về Valencia, nơi ông tập trung quân lại.
Chiến dịch Carabobo thứ nhất
Thống chế Juan Manuel Cajigal, được bổ nhiệm làm Đề đốc Venezuela, ông rời Coro với một đoàn quân hướng về Valencia. Kế hoạch của ông là tiếp tục phòng thủ, chờ đợi quân José Tomás Boves xuất hiện, ở thung lũng Aragua. Ngày 16 tháng 5 Bolivar rời Valencia với 4 sư đoàn (Jose Francisco Bermudez, Manuel Valdes, Florence Palacios và Leandro Palacios); vào ngày 17 tháng 5, quân hai bên quan sát thấy nhau và chuẩn bị hình thành trận chiến. Quân cộng hòa tiến hành tấn công nhưng Cajigal né tránh. Vào ngày 20 tháng 5, chỉ huy phe bảo hoàng rút lui về hướng San Carlos. Bolivar quay trở lại Valencia, để chuẩn bị tấn công quân Boves, nhưng được thông báo rằng Cajigal đã đảm nhận các vị trí ở thảo nguyên Carabobo, ông quyết định tiếp tục các hoạt động chống lại chỉ huy phe bảo hoàng này. Vào ngày 26, Bolivar rời Valencia với 5 sư đoàn (Bermudez, Valdés, Florencio Palacios, Diego Jalon và Leandro Palacios), với tất cả kỵ binh sẵn có, pháo binh do Đại tá Antonio Freites chỉ huy. Vào ngày 28 tháng 5, quân cộng hòa (5,000 người) tấn công phe bảo hoàng (6,000 người) và gây thất bại nặng nề cho phe bảo hoàng. Tướng Rafael Urdaneta chịu trách nhiệm truy kích tàn quân bảo hoàng. Bolivar quay trở lại Valencia cùng với đội hình còn lại.
José Tomás Boves chuẩn bị tấn công
Từ thảo nguyên Carabobo, Santiago Mariño hành quân đến thung lũng Aragua và từ đó đến Villa de Cura, để đối đầu với Boves, ông có khoảng 3000 người. Từ Villa de Cura ông tiếp tục đến La Puerta, nơi ông chiếm các vị trí vào ngày 14 tháng 6 (1814). Vào ngày 15 Bolivar đến và vài giờ sau, vị trí này bị Boves tấn công với 3,800 quân chia thành 3 đội hình. Sau 2 giờ chiến đấu, các vị trí này bị phe Bảo hoàng chiếm (Trận La Puerta lần thứ hai). Quân Ái quốc tổn thất nặng nề, khoảng 4,000 quân thương vong. Bolivar phải rút lui về La Victoria và từ đó tới Caracas. Về phần mình, Boves đến Valencia, thành phố mà ông đã bao vây và sau khi chiếm được, ông hành quân đến Caracas.
Cuộc hành quân Miền Đông
Sau trận La Puerta lần thứ hai, với tổn thất nặng nề, Bolívar không thể đối mặt với bất kỳ cuộc tấn công nào của quân Boves, ông cho rút quân vào ngày 7 tháng 7 năm 1814 đến khu vực Miền Đông (Di tản về phía Đông), theo sau là một đội quân bảo hoàng do Chuẩn tướng Morales chỉ huy truy đuổi. Sau 23 ngày hành quân, Bolívar đến Barcelona và từ đó đi đến thị trấn Aragua de Barcelona, nơi ông bị quân Morales đánh bại vào ngày 17 tháng 8 (Trận Aragua de Barcelona. Trận chiến này là trận đầu tiên trong một loạt trận chiến, qua đó phe bảo hoàng đã tiêu diệt tất cả sức mạnh chiến đấu phe Ái quốc và bằng cách này phe bảo hoàng đã tái lập quyền kiểm soát chính trị và quân sự Venezuela, quyết định sự sụp đổ nền Cộng hòa thứ hai. Cuộc hành quân phía đông lên đến đỉnh điểm là trận Úrica (ngày 5 tháng 12 năm 1814), mặc dù quân bảo hoàng giành chiến thắng nhưng Boves bỏ mạng, và trận Maturín lần thứ năm (ngày 11 tháng 12 năm 1814) trận phe bảo hoàng cũng chiến thắng.
Rafael Urdaneta rút lui
Urdaneta đang truy đuổi những kẻ bại trận và trên đường đi, ông phải thu thập gia súc và kiếm nguồn cung cấp cho quân đội. Urdaneta đang ở Barquisimeto khi biết về Bolivar thất bại tại La Puerta, Valencia thất thủ và cuộc di cư về phía Đông. Không thể đến trợ giúp Bolivar, ông quyết định rút lui về Tân Granada, qua dãy Andes, quân Sebastian de la Calzada thực hiện một chiến dịch truy đuổi liên tục quân Urdaneta. Vào cuối tháng 9 năm 1814, Urdaneta cùng quân của mình đến thành phố Cúcuta.
Cộng hòa thứ hai sụp đổ
Nền Cộng hòa thứ hai bắt đầu suy tàn sau những cuộc giao tranh không ngừng và sự mất đoàn kết giữa các hạt nhân cộng hòa ở Caracas và Cumaná. Sau thất bại trong Trận Maturín lần thứ năm theo đó phe Ái quốc bị đánh bại, được coi là sự kết thúc Đệ nhị Cộng hòa Venezuela.
Giai đoạn giữa hai nền Cộng hòa
Lịch sử Venezuela
Đế quốc Tây Ban Nha thế kỷ 19
Chiến tranh liên quan tới Tây Ban Nha
Chiến tranh liên quan tới Colombia
Chiến tranh liên quan tới Venezuela
|
19835539
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erimo%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Erimo, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Horoizumi, phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.374 người và mật độ dân số là 15 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 283,93 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835549
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20k%E1%BB%B7%20nguy%C3%AAn%20c%E1%BB%A7a%20Taylor%20Swift
|
Những kỷ nguyên của Taylor Swift
|
Những kỷ nguyên của Taylor Swift (tiếng Anh: Taylor Swift: The Eras Tour) là một bộ phim hòa nhạc năm 2023 được sản xuất bởi ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift. Do Sam Wrench đạo diễn, bộ phim ghi lại The Eras Tour, chuyến lưu diễn hòa nhạc mà Swift tổ chức vào năm 2023 và 2024. Để phát hành bộ phim, Swift đã đạt được một thỏa thuận phân phối chưa từng có tiền lệ với AMC Theatres và Cinemark Theatres sau khi việc thương lượng với các hãng phim lớn bất thành.
Những kỷ nguyên của Taylor Swift được ghi hình vào tháng 8 năm 2023 tại ba buổi diễn của The Eras Tour ở Sân vận động SoFi, Inglewood, California với kinh phí 10–20 triệu đô-la Mỹ sau khi việc sản xuất bộ phim được SAG-AFTRA chấp thuận trong bối cảnh cuộc đình công năm 2023 của hiệp hội này. Taylor Swift công bố việc phát hành bộ phim vào cuối tháng 8, gây bất ngờ cho các hãng phim và khiến một số bộ phim vốn được lên lịch khởi chiếu vào hoặc gần ngày 13 tháng 10 thay đổi ngày phát hành. Chiến lược phân phối chưa từng có tiền lệ của bộ phim đã trở thành một chủ đề tranh luận trong giới truyền thông; nhiều nhà báo và người làm trong ngành đã khen ngợi việc Taylor Swift bỏ qua các hãng phim để trực tiếp hợp tác với các rạp, và nhận xét rằng bộ phim đi ngược lại với mô hình phát hành phim "nhà sản xuất–nhà phân phối–hãng chiếu phim" truyền thống.
Những kỷ nguyên của Taylor Swift được công chiếu tại The Grove, Los Angeles vào ngày 11 tháng 10 năm 2023, và được phát hành tại các rạp trên toàn thế giới vào ngày 13 tháng 10. Bộ phim đã phá kỷ lục doanh thu đặt trước vé trong ngày đầu tiên tại Mỹ với con số 37 triệu đô-la, và đạt tổng doanh thu đặt trước vé là hơn 100 triệu đô-la Mỹ trên toàn thế giới. Những kỷ nguyên của Taylor Swift là bộ phim hòa nhạc có doanh thu cao nhất mọi thời đại, với doanh thu hơn 231 triệu đô-la Mỹ. Bộ phim cũng được giới phê bình đánh giá cao.
Nội dung
Những kỷ nguyên của Taylor Swift là phiên bản điện ảnh của The Eras Tour, chuyến lưu diễn hòa nhạc thứ sáu của ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift. Bao gồm 10 phần khác nhau đại diện cho 10 kỷ nguyên trong sự nghiệp âm nhạc của Swift, bộ phim ghi lại màn trình diễn của hầu hết các bài hát mà Swift đã biểu diễn trong The Eras Tour, trừ một số bài hát được lược bỏ để gói gọn buổi hòa nhạc dài ba tiếng rưỡi vào một bộ phim có thời lượng ngắn gọn hơn.
Danh sách bài hát
Act I – Lover
"Miss Americana & the Heartbreak Prince"
"Cruel Summer"
"The Man"
"You Need to Calm Down"
"Lover"
Act II – Fearless
"Fearless"
"You Belong with Me"
"Love Story"
Act III – Evermore
"Willow"
"Marjorie"
"Champagne Problems"
"Tolerate It"
Act IV – Reputation
"...Ready for It?"
"Delicate"
"Don't Blame Me"
"Look What You Made Me Do"
Act V – Speak Now
"Enchanted"
Act VI – Red
"22"
"We Are Never Ever Getting Back Together"
"I Knew You Were Trouble"
"All Too Well (10 Minute Version)"
Act VII – Folklore
"The 1"
"Betty"
"The Last Great American Dynasty"
"August"
"Illicit Affairs"
"My Tears Ricochet"
Act VIII – 1989
"Style"
"Blank Space"
"Shake It Off"
"Bad Blood"
Act IX – Acoustic set
"Our Song" (bài hát bất ngờ biểu diễn bằng guitar)
"You're on Your Own, Kid" (bài hát bất ngờ biểu diễn bằng piano)
Act X – Midnights
"Lavender Haze"
"Anti-Hero"
"Midnight Rain"
"Vigilante Shit"
"Bejeweled"
"Mastermind"
"Karma"
Phân phối và bán vé
Bố mẹ của Swift đã đính thân thỏa thuận bản phác thảo các điều khoản với Adam Aron, CEO của AMC Theatres. Tại Mỹ, AMC đồng ý đóng vai trò vừa là nhà phân phối, vừa là hãng chiếu phim cho Những kỷ nguyên của Taylor Swift, một nước đi chưa từng có tiền lệ trong lịch sử ngành công nghiệp điện ảnh Mỹ. Hãng cũng đồng ý là sẽ chiếu ít nhất bốn suất mỗi ngày từ thứ Năm đến Chủ Nhật hàng tuần trong suốt khoảng thời gian phim được chiếu rạp. Giá vé của các suất chiếu tiêu chuẩn được định sẵn là 19,89 đô-la cho người lớn, xuất phát từ tên album thu âm lại sắp phát hành của Swift là 1989 (Taylor's Version), và 13,13 đô-la cho trẻ em và người cao tuổi, có lẽ xuất phát từ con số may mắn của Swift, đó là 13. Bộ phim cũng được phát hành ở các định dạng IMAX và Dolby Cinema. Lường trước được nhu cầu mua vé cao mà bộ phim sẽ nhận được sau vụ tranh cãi liên quan đến Ticketmaster, AMC đã nâng cấp hệ thống bán vé của mình để đáp ứng lượng truy cập cao gấp năm lần ban đầu, đồng thời tạm dừng bán vé hầu hết các bộ phim khác đang được chiếu. Mặc dù vậy, ứng dụng di động của AMC vẫn gặp sự cố ngay sau khi vé được mở bán, và khách hàng phải xếp hàng để truy cập trang web của hãng. Chỉ trong vài giờ, doanh thu vé đặt trước của bộ phim vượt mốc 10 triệu đô-la, một thành tích được các nhà phân tích doanh thu phòng vé so sánh với các bộ phim của Marvel. Lượng tìm kiếm từ khóa "AMC" trên mạng Internet tăng gấp hơn 100 lần, và giá cổ phiếu của AMC thì tăng 9,2%. Theo Bloomberg News, tin tức về thành tích bán vé của bộ phim đã "làm tăng giá cổ phiếu ở cả hai bờ Đại Tây Dương".
Theo một số nguồn tin, các điều khoản liên quan đến việc phân phối bộ phim được quyết định bởi Swift thay vì AMC. Mô hình giá cố định và việc không áp dụng các chương trình khách hàng thân thiết được xem là rất không chính thống và vi phạm các chuẩn mực của ngành. Không hãng chiếu phim hay nhà phân phối nào khác ngoài AMC và Cinemark biết đến kế hoạch phát hành bộ phim cho đến khi Swift đưa ra thông báo; việc này đã gây bức xúc cho các nhà lãnh đạo bởi các hãng phân phối được kỳ vọng là sẽ thông báo cho nhau biết lịch phát hành của mình trên tinh thần thiện chí. Theo Insider, vì Sắc lệnh Paramount "đã hết hiệu lực vào năm 2020", thỏa thuận phân phối này là hoàn toàn hợp pháp. Theo nhà báo Matthew Belloni của Puck, Swift và bố mẹ cô đã quyết định đàm phán trực tiếp với Aron và Cinemark sau khi bị quá trình thương lượng với các hãng phim lớn "gây thất vọng". Theo thỏa thuận này, 43% lợi nhuận phòng vé sẽ thuộc về các rạp, còn Swift và bộ phận phân phối của AMC sẽ chia nhau 57% còn lại. Ngoài ra, các rạp sẽ được chiếu bộ phim trong khoảng thời gian tối đa là 26 tuần, mặc dù Swift vẫn được bán quyền phát sóng cho các dịch vụ phát video trực tuyến sau khi bộ phim chiếu rạp được 13 tuần. Theo tờ Financial Times, Trafalgar Releasing chịu trách nhiệm phân phối bộ phim ở thị trường quốc tế và đang tiến hành đàm phán để phát hành bộ phim tại Trung Quốc. The Hollywood Reporter đưa tin vào cuối tháng 10 rằng "gần như dịch vụ phát video trực tuyến lớn nào" cũng đang cố gắng giành được quyền phát sóng Những kỷ nguyên của Taylor Swift sau khi phim dừng chiếu tại rạp.
Ảnh hưởng
Nhiều bộ phim đã thay đổi ngày phát hành để tránh phải cạnh tranh với Những kỷ nguyên của Taylor Swift. Sau khi bộ phim được công bố, hashtag "#Exorswift" trở thành xu hướng trên các mạng xã hội, bởi lúc đó Những kỷ nguyên của Taylor Swift có cùng ngày phát hành với Quỷ ám: Tín đồ, một bộ phim kinh dị siêu nhiên, giống như điều đã xảy ra trong hiện tượng "Barbenheimer" xuất phát từ hai bộ phim Barbie (2023) và Oppenheimer (2023) hồi đầu năm. Universal Pictures và Blumhouse Productions đã dời ngày phát hành của Quỷ ám: Tín đồ, ban đầu vào thứ Sáu ngày 13, lên sớm hơn một tuần, một quyết định được IndieWire phỏng đoán là đã rất tốn kém khi xét đến chiến dịch quảng bá đắt đỏ của Quỷ ám: Tín đồ. Paramount Pictures và Apple Studios cũng đã hủy kế hoạch chiếu sớm bộ phim Vầng trăng máu của đạo diễn Martin Scorsese trong hai tuần trước khi bộ phim được phát hành rộng rãi vào ngày 20 tháng 10.
Doanh thu
, Những kỷ nguyên của Taylor Swift đã đạt tổng doanh thu toàn cầu là 219,2 triệu đô-la, bao gồm 165,9 triệu đô-la tại Mỹ và Canada và 53,3 triệu đô-la tại các vùng lãnh thổ khác.
Tại Mỹ, Những kỷ nguyên của Taylor Swift đạt doanh thu 2,8 triệu đô-la từ các suất chiếu sớm vào ngày thứ Năm ở 2.700 rạp. Trong ngày đầu tiên, bộ phim đạt doanh thu 39 triệu đô-la (bao gồm cả các suất chiếu sớm), thành tích cao thứ hai từ trước đến nay đối với một bộ phim được phát hành vào tháng 10, chỉ thua Joker (2019) 300.000 đô-la, và thành tích cao nhất đối với một bộ phim hòa nhạc. Trong tuần đầu tiên, bộ phim đạt doanh thu 92,8 triệu đô-la, thành tích cao thứ hai mọi thời đại đối với một bộ phim được phát hành vào tháng 10, sau Joker (96,2 triệu). Đây cũng là thành tích doanh thu trong dịp cuối tuần đầu tiên cao nhất từ trước đến nay đối với một bộ phim hòa nhạc, đồng thời bộ phim cũng vượt qua Justin Bieber: Never Say Never (73 triệu đô-la) để trở thành bộ phim hòa nhạc có doanh thu cao nhất mọi thời đại tại Mỹ; 26% doanh thu đến từ các suất chiếu IMAX, và 60% doanh thu đến từ các vé được đặt trước. Hệ thống rạp của AMC chiếm 40,5% doanh thu, so với con số trung bình là 22-25%. Trong dịp cuối tuần thứ hai, Những kỷ nguyên của Taylor Swift vượt qua bộ phim Vầng trăng máu vừa được phát hành để tiếp tục chiếm vị trí thứ nhất với doanh thu 33,2 triệu đô-la và trở thành bộ phim hòa nhạc đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng doanh thu phòng vé trong hai tuần liên tiếp. Bộ phim lần lượt đạt doanh thu 15,4 triệu đô-la và 13,5 đô-la trong các dịp cuối tuần thứ ba và thứ tư, và cả hai lần đều xếp vị trí thứ hai sau Năm đêm kinh hoàng.
Ở các rạp quốc tế, Những kỷ nguyên của Taylor Swift đạt doanh thu 30,7 triệu đô-la trong tuần đầu tiên, nâng tổng doanh thu tuần đầu tiên của bộ phim lên con số 123,5 triệu đô-la. Bộ phim đứng đầu bảng xếp hạng doanh thu phòng vé tại Vương quốc Anh và Ireland với thành tích là 1 triệu bảng Anh. Tại Ấn Độ, bộ phim bán được hơn 85.000 vé trong tuần đầu tiên—phá kỷ lục đối với phim hòa nhạc ở quốc gia này.
Ghi chú
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim năm 2023
Phim Mỹ thập niên 2020
Phim tiếng Anh thập niên 2020
Phim tài liệu Mỹ
Phim ca nhạc Mỹ
Phim hòa nhạc
Chuyến lưu diễn hòa nhạc của Taylor Swift
|
19835554
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81o%20ng%E1%BB%B1c%20c%C3%B3%20g%E1%BB%8Dng
|
Áo ngực có gọng
|
Áo ngực có gọng (, , hoặc ) là một loại áo lót sử dụng một vành mỏng hình bán nguyệt bằng vật liệu cứng, được lắp bên trong vải áo lót để giúp nâng, tách, định hình và nâng đỡ ngực của người phụ nữ. Gọng có thể được làm bằng kim loại, nhựa hoặc nhựa cây. Nó được may thành khung bao bọc ngực và nằm dưới mỗi cúp áo, từ giữa rốn đến phần dưới nách người mặc. Nhiều thiết kế áo lót khác nhau kết hợp gọng, bao gồm áo ngực có gọng, áo ngực demi, áo ngực cho con bú và các mặt hàng quần áo khác có tích hợp áo ngực, chẳng hạn như áo top, váy và đồ bơi.
Khái niệm về 'gọng' có thể bắt nguồn từ một bằng sáng chế vào năm 1893. Sáng chế đó mô tả một thiết bị nâng đỡ ngực sử dụng một vành cứng phía dưới ngực để tạo nên sự ổn định. Áo ngực có gọng hiện đại được thiết kế vào những năm 1930 và trở nên phổ biến rộng rãi vào những năm 1950. Tính đến năm 2005, áo ngực có gọng là phân khúc lớn nhất và phát triển nhanh nhất trên thị trường áo ngực. Áo ngực không có gọng được gọi là áo ngực cúp mềm.
Áo ngực có gọng đôi khi gây nên tình trạng đau ngực, viêm tuyến vú và dị ứng kim loại. Trong một số trường hợp hiếm hoi, phụ nữ mặc áo ngực có gọng phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn khi áo ngực của họ kích hoạt máy dò kim loại tại các trạm kiểm soát an ninh ở sân bay hoặc nhà tù. Một số trường hợp đã được ghi nhận về việc gọng áo làm chệch hướng một viên đạn hoặc làm chệch hướng vũ khí khác găm vào ngực người phụ nữ.
Lịch sử
Kiểu áo tiền thân của áo ngực có gọng xuất hiện ít nhất vào khoảng năm 1893, khi một người dân New York tên là Marie Tucek được cấp bằng sáng chế "gọng nâng ngực" (). Gọng nâng ngực được mô tả là một sản phẩm sửa đổi của áo ngực và rất giống với một chiếc áo lót nâng ngực hiện nay. Nó bao gồm một gọng kim loại, bìa cứng hoặc vật liệu cứng khác được tạo hình vừa khít với phần bên dưới bộ ngực, theo đường viền của ngực. Phần vật liệu cứng được bọc lại bằng lụa, vải hoặc vật liệu áo khác, và được may rộng ra lên phía bên trên gọng nâng ngực để tạo thành một chiếc túi mang cho mỗi bên ngực. Gọng nâng uốn cong quanh thân kéo dài đến gần nách, được giữ cố định và điều chỉnh sao cho vừa khít dây đeo vai vắt ngang lưng, tạo thành hình chữ X. Gọng được nối lại với nhau bằng chốt móc và mắt (móc cài áo lót).
Bắt đầu từ thập niên 1930, áo ngực có gọng nổi lên và thịnh hành ở Hoa Kỳ. Helene Pons đã được cấp bằng sáng chế vào năm 1931 cho thiết kế áo lót tích hợp một "vành rộng có đầu mở" () nằm phẳng phiu trên ngực, bao quanh phần thân dưới và hai bên của mỗi bầu vú. Năm 1932, một bằng sáng chế có một vành nhỏ hình chữ U được sử dụng giữa hai bầu ngực để giữ hai bầu ngực tách rời nhau. Năm 1938, một bằng sáng chế được cấp cho Pauline Boris về một "gọng nâng ngực", sử dụng các vành bao quanh hoàn toàn mỗi bên ngực. Năm 1940, Walter Emmett Williams được cấp bằng sáng chế cho một khung dây, có hình dạng giống như mạng nhện, nâng ngực bằng cách bao quanh và che phủ từng bên ngực. Mặc dù sự phát triển của áo ngực có gọng bắt đầu từ những năm 1930, mãi cho đến thập niên 1950 sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc và kim loại được sử dụng trong đời sống thông thường thì nó mới được phổ biến rộng rãi.
Vào thập niên 1940, Howard Hughes đã thiết kế một chiếc áo lót có gọng cho Jane Russell để làm nổi bật bộ ngực của cô trong bộ phim The Outlaw. Theo Russell, thiết bị "lố bịch" này gây đau đớn nên cô đã âm thầm mặc áo lót của bản thân trong suốt bộ phim. Chiếc áo lót do Howard Hughes thiết kế hiện đang trưng bày trong bảo tàng Hollywood.
Với sự phổ biến và sử dụng rộng rãi của áo ngực có gọng bắt đầu từ thập niên 1950, gọng đã được tích hợp vào nhiều thiết kế áo ngực và áo ngực có gọng được tích hợp vào các mặt hàng quần áo khác. Đến năm 1990, Norma Kamali đã tích hợp áo lót có gọng vào cả đồ bơi một mảnh và hai mảnh (bikini). Scott Lucretia đã được cấp bằng sáng chế cho một kiểu áo ngực có gọng lót vào năm 1989.
Tại Vương quốc Anh, áo ngực có gọng chiếm 60% thị trường áo ngực ở vào năm 2000 và 70% vào năm 2005. Năm 2001, tại Mỹ, 500 triệu chiếc áo ngực đã được bán ra, trong đó khoảng 70% (350 triệu) là áo ngực có gọng. Cho đến năm 2005, áo ngực có gọng là phân khúc phát triển nhanh nhất trên thị trường áo ngực.
Cấu trúc
Áo ngực có gọng được thiết kế với một "gọng dưới", "gọng áo ngực" hay "gọng" hình bán nguyệt được gắn vào viền dây bao quanh đáy và hai bên của mỗi cúp áo ngực. Một đầu hoặc một phần đầu của gọng áo nằm ở sát phần phía trước, ngay giữa áo ngực, đầu còn lại nằm sát lỗ khoét tay áo. Gọng có thể được làm bằng kim loại hoặc nhựa đúc; hầu hết là kim loại. Gọng nhựa chiếm thị phần rất nhỏ trên thị trường vì nó không cung cấp khả năng nâng đỡ ngực và không có độ cứng tương tự như gọng kim loại. Gọng kim loại là một vành kim loại mỏng, thường được bọc nylon ở cả hai đầu. Kim loại được dùng làm vành bao gồm thép và niken titan, một hợp kim có khả năng ghi nhớ hình dạng (). Theo nhà sản xuất gọng áo S & S Industries ở New York, nơi cung cấp gọng cho các nhà sản xuất áo ngực như Bali, Playtex, Vanity Fair, Victoria's Secret, Warner's và các nhãn hiệu áo ngực khác, khoảng 70% phụ nữ mặc áo ngực có gọng thép.
Do gọng áo có thể làm rách vải nên hầu hết phụ nữ đều giặt áo ngực có gọng bằng tay hoặc giặt bằng máy theo chế độ giặt nhẹ nhàng. Túi giặt áo ngực, thường là túi lưới có khóa kéo, cũng được dùng để bảo vệ áo ngực và ngăn gọng áo ngực tách ra khỏi áo ngực trong quá trình giặt bằng máy.
Bằng sáng chế thế kỷ 21
Năm 2002, S & S Industries đã được cấp bằng sáng chế cho thiết kế gọng bao gồm một vành nhựa cong có lò xo ở một hoặc cả hai đầu. Lò xo được thiết kế để giữ cho gọng không tuột khỏi áo ngực. Năm 2008, Scott Dutton ở xứ Wales đã phát minh ra "Bra Angel", một thiết bị đơn giản để chỉnh lại áo ngực khi gọng tuột ra khỏi viền áo. Đây là một cái vòng chụp nhựa một đầu dùng đeo lên cổ, một đầu có ngạnh vừa khít với phần cuối của gọng áo, sau đó nhét chúng trở lại vào áo ngực trong khi vẫn giữ cố định gọng bằng ngạnh.
Sức khỏe
Áo ngực có gọng có thể chà xát và véo ngực, gây kích ứng da và đau ngực, dây áo ngực bị mòn có thể lòi ra khỏi vải và làm xước hoặc cắt da. Khi vải của áo ngực bị tưa để lộ phần gọng, da tiếp xúc với niken và các kim loại khác từ gọng có thể gây viêm da tiếp xúc ở một số phụ nữ.
Ảnh hưởng đến tiết sữa
Áo ngực có gọng giống như các loại quần áo bó sát khác, chúng có thể góp phần gây tắc ống dẫn sữa ở người đang cho con bú. Kích cỡ bộ ngực dao động khi mang thai gây ra một vấn đề khác. Do áo lót có gọng rất cứng nên chúng không dễ dàng thích ứng với sự thay đổi về kích thước ngực, nên một chiếc áo ngực không vừa vặn sẽ không nâng đỡ ngực đúng cách, thậm chí có thể gây khó chịu cũng như đau đớn. Trong vài ngày sau khi phẫu thuật cắt bỏ vú, hoặc trong thời gian vú còn mềm nhũn, phụ nữ được khuyên không nên mặc áo lót có gọng.
Sử dụng như máy khử rung tim
Việc sử dụng máy khử rung tim ngoài tự động trên bệnh nhân mặc áo ngực có gọng kim loại có thể gây bỏng, do đó người sử dụng máy trước tiên phải cởi áo ngực bệnh nhân. Trong mùa giải năm 2007 của chương trình truyền hình MythBusters, họ đã thử nghiệm khả năng bị bỏng do sử dụng máy khử rung tim trên một bệnh nhân đang mặc áo ngực có gọng và kết luận rằng mặc dù việc bỏng có thể xảy ra nhưng trừ khi dây kim loại bị lộ ra ngoài và bàn là phẳng của máy khử rung tim đặt quá gần với nó.
Bệnh nhiệt đới
Một báo cáo y tế đã ghi nhận rằng việc mặc áo ngực có gọng ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là Đông Phi, có thể dẫn đến bệnh Myosis ở vú do ruồi Tumbu (Cordylobia anthropophaga) gây ra. Trứng và ấu trùng của loài ruồi này bám vào quần áo, đặc biệt là dọc theo chiều dài gọng kim loại của áo ngực có gọng, và chúng chỉ có thể bị tiêu diệt bằng cách dùng nhiệt bàn ủi. Người ta hầu như không thể ủi được áo ngực có gọng truyền thống để đạt được nhiệt lượng cần thiết nhằm tiêu diệt ấu trùng bám dọc theo gọng áo.
Vấn đề pháp lý
Cục Quản lý An ninh Vận tải Hoa Kỳ (TSA) khuyến cáo phụ nữ không nên mặc áo ngực có gọng vì chúng có thể kích hoạt máy dò kim loại. Hầu hết hành khách nữ mặc áo ngực có gọng đều không gặp phải bất kỳ vấn đề gì, điều này phụ thuộc vào chất liệu gọng áo của người mặc.
An ninh giao thông
Vào Chủ nhật ngày 24 tháng 8 năm 2008, nhà làm phim Nancy Kates đã kích hoạt máy dò kim loại trong quá trình kiểm tra an ninh. Cô phản đối khi người đại diện cố gắng vỗ nhẹ vào ngực cô. Cô cho biết cô đã nói với người đại diện: "'Ông không thể coi tôi như một ả tội phạm chỉ vì tôi mặc áo lót được." ("'You can't treat me as a criminal for wearing a bra.") Một giám sát viên của TSA đã nói với cô rằng cô phải chấp nhận khám xét trong phòng riêng hoặc không được bay. Kates đề nghị cởi bỏ áo ngực ra và TSA đã chấp nhận. Cô vào nhà vệ sinh, cởi áo ngực rồi bước vào sân bay trong tình trạng không mặc áo ngực để kiểm tra an ninh. Cô cho biết một người giám sát đã nói với cô rằng áo ngực có gọng là nguyên nhân hàng đầu khiến máy dò kim loại báo động sai.
Vào tháng 8 năm 2010, Cathy Bossi – người sống sót sau căn bệnh ung thư, vốn là một tiếp viên hàng không đang làm nhiệm vụ của US Airways đi qua khu vực kiểm tra an ninh tại Sân bay quốc tế Charlotte Douglas trên đường tới chuyến bay tiếp theo của cô ấy. Do có liên quan đến yếu tố bức xạ nên cô miễn cưỡng đi qua máy quét toàn thân. Cô nói: "Nhân viên an ninh TSA bảo tôi đặt giấy ID (giấy tờ tùy thân) lên phía sau lưng của tôi", "Khi tôi ra khỏi khu vực máy quét, người đại diện của họ nói rằng do vấn đề giấy ID nên tôi phải đến khu vực kiểm tra cá nhân." Thời gian kiểm tra đó cô mô tả lại rằng đó là một cuộc khám xét có tính "hung hăng", nhân viên kiểm tra an ninh đã buộc cô phải tháo rời và cho họ xem bộ ngực giả của cô. Hành động của các đặc vụ này đã vi phạm nguyên tắc của TSA, trong đó nêu rõ rằng các đặc vụ không cần chạm vào hoặc kiểm tra bộ phận giả đã được phẫu thuật cắt bỏ vú.
Vào tháng 10 năm 2010, một nhân viên của CNN là Rosemary Fitzpatrick đã bị khám xét cá nhân sau khi chiếc áo ngực có gọng của cô kích hoạt máy dò kim loại. Nhân viên an ninh TSA đã áp dụng một phương pháp "kiểm tra trượt tay" ("hand-sliding inspection"), trong đó người này "lướt tay quanh ngực, trên bụng, mông và đùi trong, và thậm chí chạm vào những vùng kín nhất của cô." Fitzpatrick cho biết cô đã khóc khi trải qua quá trình đó. "Tôi cảm thấy bất lực, tôi cảm thấy bị xâm phạm và bị sỉ nhục."
Để phản hồi các vấn nạn này, Triumph International, một công ty Thụy Sĩ, đã tung ra "Frequent Flyer Bra" ("Áo ngực bay thường xuyên") vào cuối năm 2001. Chiếc áo ngực này sử dụng móc cài không phải kim loại và dây gọng làm bằng nhựa thay vì kim loại để đảm bảo không kích hoạt máy dò kim loại. Loại áo ngực này không phân phối ở Hoa Kỳ. Đến năm 2004, một phát ngôn viên của Canada đặt câu hỏi không biết liệu chúng có còn được sản xuất hay không.
Quy định tại cơ sở cải tạo
Một số cơ sở cải tạo tù nhân, như Nhà tù Bang San Quentin, yêu cầu người thăm viếng tù nhân phải tháo áo ngực và gỡ gọng áo hoặc tạm thời sử dụng áo ngực cúp mềm do tổ chức cung cấp trước khi được phép vào thăm tù nhân. Điều này dẫn đến kết quả những người thăm tù nhân có thể bối rối và sửng sốt. Các cơ sở khác yêu cầu phụ nữ cởi áo ngực có gọng trong nhà vệ sinh, đi qua máy dò kim loại và quay lại nhà vệ sinh để mặc lại áo ngực.
Vào tháng 6 năm 2010, luật sư Britney Horstman đã bị cấm đến thăm thân chủ của cô tại Trung tâm giam giữ Liên bang ở Miami, Florida khi chiếc áo ngực có gọng của cô kích hoạt máy dò kim loại. Mặc dù cô đã nhắc nhở những người bảo vệ về một bản ghi nhớ của trung tâm giam giữ cho phép các nữ luật sư mặc áo ngực có gọng khi đến thăm tù nhân thân chủ, nhưng các bảo vệ đã từ chối cho cô vào. Bản ghi nhớ đó tồn tại là kết quả của một thỏa thuận được thương lượng bởi Văn phòng Luật sư công Liên bang, cơ quan đại diện cho các tù nhân bị giam giữ tại nhà tù này trước khi xét xử. Thỏa thuận đó cho phép nữ luật sư vào thăm tù nhân nếu áo ngực có gọng của nữ luật sư đó bị máy dò kim loại phát hiện. Horstman cởi áo ngực trong nhà vệ sinh và quay lại trạm kiểm soát an ninh trong tình trạng không mặc áo ngực, nhưng sau đó lại bị từ chối vì không đáp ứng quy định về trang phục của cơ sở. Horstman trước đó đã mặc áo ngực có gọng vào nhà tù mà không gặp vấn đề gì. Sau đó, quản giáo Linda McGrew hứa rằng vụ việc sẽ không xảy ra lần nữa.
Tai nạn và tấn công
Gọng áo ngực trong một số trường hợp đã giúp làm chệch hướng đạn hoặc các vật thể khác, cứu sống người mặc chúng.
Năm 1996, một cô gái bị đâm vào lan can, theo nhân viên bệnh viện thì gọng áo ngực có lẽ đã cứu sống cô gái đó bằng cách làm chệch hướng của vật có mũi nhọn đâm vào vùng tim của cô. Đã có nhiều trường hợp đạn bắn ra bị làm chệch hướng bởi gọng áo ngực phụ nữ, hoặc làm chuyển hướng vị trí viên đạn khỏi tim, nhờ vậy giúp họ không bị tổn hại hoàn toàn. Vào năm 2004, một sự cố như vậy xảy ra khi một thành viên của Ghetto Boys bắn phát súng trúng vào gọng kim loại hẹp trong áo ngực của Helen Kelly, kết quả là viên đạn bay lạc chệch khỏi tim cô. Năm 2008, trong một vụ cướp, một nạn nhân nữ đã thoát chết dù bị kẻ tấn công đâm vào ngực do con dao của hắn bị mắc vào gọng áo ngực của nạn nhân.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thời trang thập niên 1950
Thời trang thế kỷ 20
Thời trang
Thời trang nữ
Vú
|
19835556
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Horoizumi%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Horoizumi, Hokkaidō
|
là một huyện thuộc phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2023, dân số của huyện là 4.212 người và mật độ dân số là 15 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 284 km2.
Hành chính
Tham khảo
Huyện của Hokkaidō
|
19835560
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Cma%2C%20Aomori
|
Ōma, Aomori
|
là thị trấn thuộc huyện Shimokita, tỉnh Aomori. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.718 người và mật độ dân số là 91 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 52,10 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Aomori
Mutsu
Sai
Kazamaura
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Aomori
|
19835571
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gibraltar%20Chronicle
|
Gibraltar Chronicle
|
Gibraltar Chronicle là một tờ báo quốc gia được xuất bản ở Gibraltar từ năm 1801. Nó trở thành nhật báo vào năm 1821. Đây là tờ nhật báo lâu đời nhất ở Gibraltar và là tờ báo tiếng Anh lâu đời thứ hai trên thế giới được in liên tục. Các văn phòng biên tập của nó ở Watergate House, và các tác phẩm in ấn ở khu công nghiệp New Harbors.
Chú thích và Tham khảo
Liên kết ngoài
The Gibraltar Chronicle official website
Ấn phẩm thành lập năm 1801
Báo chí tiếng Anh xuất bản ở châu Âu
Báo chí xuất bản ở Gibraltar
Gibraltar
|
19835573
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2y%20S%C6%A1n%20Hi%E1%BB%87p%20Kh%C3%A1ch
|
Tây Sơn Hiệp Khách
|
Tây Sơn Hiệp Khách là một bộ phim kiếm hiệp 35mm Việt Nam năm 1991 của đạo diễn Lê Hoàng Hoa với nghệ danh Khôi Nguyên, chuyển thể từ tiểu thuyết võ thuật Ngọc Trản Thần Công (玉盞神功) năm 1990 của Lê Hoàng Khải.
Nội dung
Tập 1: Tây Sơn Hiệp khách
Tập 2: Ngọc Trản Thần Công
Sản xuất
Phim được quay tại Bình Định năm 1991.
Trong phim vận dụng khá nhiều yếu tố của võ Bình Định, tiêu biểu là bài quyền Ngọc trản ngân đài
Kịch bản: Lê Hoàng Khái
Kịch bản phân cảnh: Lê Hoàng Hoa
Âm nhạc: Diệp Minh Tuyền
Họa sĩ: Phạm Nguyên Cẩn
Quay phim: Nguyễn Hòe
Chủ nhiệm: Mai Tân Long
Trang phục: Tiệm may Cố Đô
Diễn viên
Tập 1
Lý Hùng
Diễm Hương
Mộng Vân
Hương Giang
Ngọc Hiệp
Lê Cung Bắc
Trần Minh Dậu
Phạm Đức Long
Trần Công Tuấn
Trần Thanh Trúc
Ngọc Đặng
Hoàng Phúc
Thanh Mai
Trần Quang Hiếu
Tư Lê
Đại Đức Giác Huệ Viên
Hoàng Triều
Nguyễn Lượng
Trần Công Thiện
Bình Minh
Lâm Thế Thành
Huyền Linh
Nhật Minh
Văn Thành
Thu Hương
Thanh Thủy
Trần Lộc
Hoàng Ngân
Mã Trung
Văn Ngà
Văn Mến
Thành Lũy
Anh Triều
Lê Công Thế
Thu Vân
Sĩ Hùng
Thanh Hùng
Văn Thành
Khôn Hải
Thanh Tài
Bá Lộc
Thanh Linh
Công Thành
Lê Tuấn
Tập 2
Lê Tuấn Anh
Việt Trinh
Mỹ Duyên
Lý Minh
Lê Ngân
Trọng Hải
Thạch Ngà
Thạch Hùng
Hắc Hổ
Quang Hiếu
Trần Long
Mạc Can
Lê Hải
Nguyễn Khôi
Tiến Dũng
Lê Đạt
Trung Nam
Bảo Hạnh
Thụy Giao
Hải Diễm
Văn Bình
Ngọc Ái
Đình Lan
Thành Tài
Công Duẩn
Thái Hoàng
Thanh Long
Hữu Thuận
Minh Thiên
Xuân Bình
Quang Thái
Lê Cương
Lê Dũng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Những phim cổ trang ấn tượng nhất màn ảnh Việt
Lê Hoàng Hoa
Phim võ hiệp
Phim năm 1991
|
19835588
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Palestine
|
Chính phủ Nhà nước Palestine
|
Chính phủ Nhà nước Palestine (tiếng Ả Rập: حكومة دولة فلسطين), là cơ quan thực hiện quyền hành pháp của Nhà nước Palestine, một quốc gia có chủ quyền về mặt pháp lý tại khu vực Trung Đông. Đứng đầu chính phủ là Thủ tướng Nhà nước Palestine.
Tham khảo
Chính phủ Nhà nước Palestine
|
19835591
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Raszyn%20%281809%29
|
Trận Raszyn (1809)
|
Trận Raszyn (tiếng Ba Lan: Bitwa pod Raszynem) diễn ra vào ngày 19 tháng 4 năm 1809 giữa quân đội của Đế quốc Áo dưới sự chỉ huy của Đại công tước Ferdinand Karl Joseph của Áo-Este và quân đội Công quốc Warszawa được chỉ huy bởi Józef Antoni Poniatowski, như một phần của Chiến tranh Liên minh thứ Năm trong Chiến tranh Napoléon. Trận chiến không mang tính quyết định nhưng nó đã giúp quân Áo đạt được mục tiêu bằng cách chiếm được thủ đô Warsaw của Ba Lan.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
The Battle of Raszyn, 1809
https://twojahistoria.pl/2019/05/14/bitwa-pod-raszynem-to-zwyciestwo-nad-wojskami-zaborcy-przywrocilo-polakom-wiare-we-wlasne-sily/
Xung đột năm 1809
Trận chiến của Liên minh thứ năm
Trận đánh liên quan tới Áo
Đế quốc Áo năm 1809
Lịch sử Warszawa
|
19835593
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hanamigawa%2C%20Chiba
|
Hanamigawa, Chiba
|
là quận thuộc thành phố Chiba, tỉnh Chiba, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của quận là 177.328 người và mật độ dân số là 5.200 người/km2. Tổng diện tích của quận là 34,24 km2.
Tham khảo
Quận của Chiba (thành phố)
|
19835615
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%AF%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20c%C6%B0%E1%BB%9Bp
|
Nữ tướng cướp
|
Nữ tướng cướp (tựa tiếng Anh: Gangsta Girls) là bộ phim điện ảnh chính kịch của Việt Nam sản xuất năm 2004, do Hãng phim Thiên Ngân sản xuất, được đạo diễn kiêm biên kịch bởi Lê Hoàng, diễn viên chính Mỹ Duyên, Bằng Lăng. Đây là bộ phim điện ảnh đầu tiên của ca sĩ Lam Trường.
Nội dung
Hai chị em Thu và Hồng là nữ giang hồ lừa đảo chuyên nghiệp, họ thường lừa gạt tình và tiền của đàn ông. Mọi chuyện thay đổi khi hai cô bắt cóc Hùng, một ông chủ giàu có, để tống tiền. Nhưng trong thời gian giam giữ, giữa Thu và Hùng phát sinh sự đồng cảm, Thu lại có tình cảm với Hùng. Cô trái lệnh của Hồng, khi chặt ngón tay của mình thay vì của Hùng.
Sau phi vụ, Hồng cuỗm hết phần của Thu và bỏ trốn. Hồng chưa kịp cao chạy xa bay đã bị một tên lừa đảo khác hãm hiếp và cướp sạch tiền. Hồng quay về tìm Thu. Trong lúc gọi điện chào tạm biệt Hùng, Thu bị nạn nhân ở đầu phim phát giác và báo công an. Khi công an truy vết đến được khách sạn nơi Thu và Hồng lẩn trốn, Hồng uống thuốc độc tự sát. Thu và Hùng sau này đến với nhau.
Phân vai
Lam Trường vai Hùng
Mỹ Duyên vai Thu
Bằng Lăng vai Hồng
Minh Anh vai Tên cướp / Hoàng
Lương Mạnh Hải vai Nạn nhân 1
Đỗ Trung Quân vai Nạn nhân 2
Phương Trinh vai Bé gái bán hoa
Sản xuất
Nữ tướng cướp có kinh phí hơn 2 tỉ đồng, với mức cát-xê dành cho đạo diễn (Lê Hoàng) là 150 triệu đồng. Nữ tướng cướp dự định được bấm máy từ ngày 1 tháng 6 năm 2004 sau đó thay đổi lịch đến ngày 5 tháng 9 năm 2004, quay tại phim trường Hãng phim trẻ. Ban đầu, có tin đồn ca sĩ Phương Thanh sẽ đảm nhận vai nữ chính. Kịch bản ban đầu có 4 vai nữ chính. Cuối cùng trong số 40 diễn viên tham gia casting, diễn viên Mỹ Duyên và người mẫu Bằng Lăng đã được chọn cho hai nhân vật chính.
Bộ phim đã hoàn tất các cảnh quay cuối cùng tại Mũi Né, vào tháng 10 năm 2004.
Âm nhạc
Phần nhạc phim do nhạc sĩ Đức Trí đảm nhận biên soạn với cát-xê 100 triệu VNĐ, mức chi phí kỷ lục cho khâu âm nhạc của điện ảnh Việt Nam cho đến khi bị Giải cứu thần chết phá vỡ. Ca khúc nhạc phim "Ước mơ trong đời" do Hồ Quỳnh Hương và "Tựa như ánh sao" do Phan Đinh Tùng thể hiện.
Quay phim
Hình ảnh trong phim do nhà quay phim Đinh Anh Dũng thực hiện dù trước đấy ông được biết đến với vai trò quay các MV. Ngay từ những ngày đầu bấm máy, Lê Hoàng và Đinh Anh Dũng đã hài lòng với các thước phim của mình, đó là cảnh nhân vật Hùng tỉnh dậy và nhận ra mình bị bắt cóc. Lê Hoàng cho rằng Nữ tướng cướp là bộ phim được làm theo kiểu "không giống ai, không giống với bất kỳ phim nào và mang phong cách của một mình Lê Hoàng [ông]".
Phát hành
Bộ phim được công chiếu vào dịp Tết Nguyên đán 2005. Trong tháng 5 năm 2005, Hãng phim Thiên Ngân tiếp tục trình chiếu Nữ tướng cướp dưới hình thức khuyến mãi cho khán giả, người mua vé sẽ nhận được phiếu rút thăm với cơ may nhận được chuyến đi Hollywood.
Ngày 3 tháng 5 năm 2005, Hãng phim Thiên Ngân đã phát hành VCD và DVD phim Nữ tướng cướp. Riêng bản DVD có kèm phụ đề tiếng Anh và tiếng Việt, cùng với trailer, poster độc quyền và MV hai ca khúc chủ đề phim do ca sĩ Hồ Quỳnh Hương, Phan Đinh Tùng thể hiện. DVD này được thực hiện tại Hồng Kông và Singapore theo tiêu chuẩn quốc tế với hệ NTSC phù hợp mọi vùng trên thế giới.
Bộ phim bị nhận xét là có nhiều điểm ngây ngô, vô lý nhưng khả năng diễn xuất của hai nữ chính, của nam phụ và cả phần âm nhạc đã cứu vớt cả bộ phim.
Trong tuần đầu ra rạp, bộ phim đã sinh lời cho nhà sản xuất khi thu về hơn 3 tỉ đồng, giá vé của bộ phim thời điểm đó rơi vào khoảng 20.000 đến 30.000 VNĐ.
Giải thưởng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim do Lê Hoàng đạo diễn
Phim năm 2004
Phim Việt Nam thập niên 2000
Phim của Galaxy Studio
|
19835616
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yoav%20Gallant
|
Yoav Gallant
|
Yoav Gallant (; sinh ngày 8 tháng 11 năm 1958) là chính khách người Israel. Trước đây, ông đã từng giữ chức vụ bộ trưởng xây dựng, bộ trưởng Bộ giáo dục. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm bộ trưởng bộ Quốc phòng Israel kể từ năm 2022.
Tham khảo
|
19835626
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kaga%2C%20Okayama
|
Kaga, Okayama
|
là huyện thuộc tỉnh Okayama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020 dân số của huyện là 10.886 người và mật độ dân số là 40 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 268.8 km2.
Tham khảo
{[Okayama}}
Huyện của Okayama
|
19835628
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%AAnh%209%20%28Israel%29
|
Kênh 9 (Israel)
|
Kênh 9 (, ; trước đây là Israel Plus ()) là kênh truyền hình tiếng Nga tại Israel. Phát sóng lần đầu vào ngày 12 tháng 11 năm 2002.
Tham khảo
Đài truyền hình Isarel
Khởi đầu năm 2002 ở Israel
|
19835629
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/The%20Amazing%20Digital%20Circus
|
The Amazing Digital Circus
|
The Amazing Digital Circus (còn gọi là Amazing Digital Circus hoặc TADC) (tạm dịch: Rạp xiếc kỹ thuật số kỳ diệu) là một bộ phim hoạt hình được sản xuất bởi Gooseworx và phát hành bởi Glitch Productions . Phim đã được đăng tập thử nghiệm trên YouTube vào ngày 13/10/2023 trên kênh YouTube của nhà phát hành Glitch Productions. Tập thử nghiệm của phim đã đạt hơn 100 triệu lượt xem chỉ sau 1 tháng và đang tiếp tục gia tăng.
Một cô gái 25 tuổi bị mắc kẹt vào thế giới kỹ thuật số sau khi vô tình đeo một chiếc kính thực tế ảo. Cô bị đưa đến một rạp xiếc kỳ lạ, nơi có những sinh vật kỳ lạ trong rạp xiếc - đúng hơn là những người cũng đã bị mắc kẹt trong thế giới ảo này. Do đã bị quên tên, cô được Caine, chủ của rạp xiếc đặt tên là Pomni. Sau đó, Pomni cùng những người khác đã trải qua một thử thách, đúng hơn là một trò chơi của Caine để giúp mọi người tránh trở nên mất trí…
Sản xuất
The Amazing Digital Circus có nguồn gốc từ một trong ba quảng cáo chiêu hàng được trình bày cho Glitch Productions bởi nhà làm phim hoạt hình YouTube Gooseworx, người mà công ty đã liên hệ để tạo ra một chương trình thí điểm sau thành công của bộ phim hoạt hình ngắn Little Runmo của Gooseworx. Nguồn cảm hứng cho chương trình bao gồm truyện ngắn I Have No Mouth, I Must Scream và loạt phim hoạt hình CGI của Nhật Bản Popee the Performer.
Phong cách nghệ thuật của chương trình được lấy cảm hứng từ CGI và trò chơi máy tính từ những năm 1990 và đầu những năm 2000, với sản phẩm cuối cùng được Gooseworx mô tả là "phiên bản nhuốm màu hoa hồng (Rosy retrospection: hồi tưởng lạc quan)" của hoạt hình 3D thời kỳ đầu. Quá trình tiền sản xuất bắt đầu vào giữa năm 2022 và hoàn chỉnh vào cuối năm đó. Các nhân vật được tạo mô hình và hoạt hình trong Maya, sau đó các mô hình và hoạt ảnh được xuất sang Unreal Engine để hiển thị lần cuối.
Jasmine Yang, tổng giám đốc của Glitch Productions, cho biết không có kế hoạch đưa bộ phim lên các nền tảng phát trực tuyến ngoài YouTube. Trong một bài đăng kỷ niệm tập thử nghiệm đạt 100 triệu lượt xem, Glitch xác nhận việc sản xuất các tập ngoài thử nghiệm.
Nhân vật
Pomni (lồng tiếng bởi Lizzie Freeman): là nhân vật chính của bộ phim. Cô là một cô gái 25 tuổi. Pomni bị đưa đến thế giới kỹ thuật số sau khi vô tình đeo một chiếc kính thực tế ảo kỳ lạ. Cô được đặt tên lại là Pomni. Sau đó, Pomni cùng những người khác đã trải qua một thử thách của Caine, chủ rạp xiếc, hay đúng hơn là một trò chơi. Pomni nhìn chung thân hình gầy gò, làn da trắng hoàn toàn, có hai lúm đồng tiền trên má và có mái tóc màu nâu đen. Cô mặc trang phục của một chú hề, với chiếc áo liền quần màu đỏ và xanh, cùng một chiếc mũ hề cùng màu. Mắt của cô cũng thường cùng màu như trang phục nhưng cũng có thể thay đổi tùy theo tâm trạng. Pomni có tính cách khá rụt rè và cũng có thể bị trầm cảm.
Caine (lồng tiếng bởi Alex Rochon): là chủ của rạp xiếc. Ông thực ra là một thực thể trí tuệ nhân tạo có khuôn mặt là một hàm răng với hai con mắt khác màu. Caine đội một chiếc mũ phớt với chiếc áo vest màu đỏ, nơ đen, chiếc áo trắng, quần đen và có găng tay trắng thường cầm một cây gậy. Caine có một trợ lý là Bubble. Ông hơi hành hạ và bóc lột các nhân vật trong rạp xiếc bằng cách cho họ chơi các trò chơi khá nguy hiểm, nhưng ông cũng không cố ý làm vậy với bọn họ.
Bubble (lồng tiếng bởi Gooseworx): là trợ lý của Caine. Cậu là một thực thể trí tuệ nhân tạo như Caine dưới dạng một bong bóng xà phòng có mắt; răng và lưỡi.
Jax (lồng tiếng bởi Michael Kovach) là một thanh niên 22 tuổi. Cậu bị đưa đến thế giới kỹ thuật số và có dạng là một chú thỏ màu tím với chiếc tạp dề đỏ. Jax có tính cách khá ngạo mạn, vô cùng tinh quái, luôn thoải mái và vui vẻ bất kể khi có chuyện gì xảy ra. Cậu cũng thường trêu chọc mọi người trong rạp xiếc. Theo tiết lộ của tác giả trong chương trình GLITCHX 2023, Jax từng được thiết kế là nữ.
Ragatha (lồng tiếng bởi Amanda Hufford) là một cô gái 30 tuổi. Cô là một con búp bê vải với tóc đỏ, mắt phải làm từ cúc và mặc váy tím. Cô khá lạc quan với tất cả mọi người, và cô luôn cố gắng giữ cho mình tránh hoảng loạn. Theo tiết lộ của tác giả trong chương trình GLITCHX 2023, tên gốc của Ragatha là Emmy.
Zooble (lồng tiếng bởi Ashley Nichols): là một nhân vật có đầu hình tam giác, cùng phần thân rất kỳ lạ, với tay chân, cơ thể đều khác nhau hoàn toàn. Zooble khá khó tính và khó chịu khi có thứ gì trái ý mình. Theo tiết lộ của tác giả, cơ thể của Zooble sẽ luôn thay đổi qua từng tập.
Gangle (lồng tiếng bởi Marissa Lenti) là một cô gái 26 tuổi, có cơ thể là một cuốn ruy băng đỏ với chiếc mặt nạ bày tỏ cảm xúc. Cô có tâm lý bị khủng hoảng rất nặng. Gangle được tiết lộ là chỉ có hai chiếc mặt nạ là vui và buồn để bày tỏ cảm xúc.
Kinger (lồng tiếng bởi Sean Chiplock) là một người đàn ông có cơ thể là một quân Vua trắng trong cờ vua được làm bằng gỗ với chiếc áo choàng ngoài màu tím. Ông được tiết lộ là người đã ở rạp xiếc lâu nhất trong tập thử nghiệm, và theo tiết lộ của tác giả thì ông đã 48 tuổi.
Kaufmo là một chú hề có khuôn mặt trắng, không có mũi, miệng đỏ và mặc một bộ đồ hề. Cậu rất thích làm mọi người vui vẻ và khá khó chịu khi ai đó không cười khi cậu đùa. Tuy nhiên, do quá lo nghĩ về việc thoát khỏi thế giới kỹ thuật số, cậu đã bị trừu tượng hóa và trở thành một thực thể tấn công người khác. Kaufmo đã bị Caine đưa xuống hố, nơi cũng đã có những người bị trừu tượng hóa.
Nữ hoàng Gloink (lồng tiếng bởi Elsie Lovelock): là nhân vật phản diện nhỏ trong tập đầu tiên. Cô là người cai trị loài côn trùng Gloink. Cô có ngoại hình khổng lồ giống như con sâu màu đỏ với những đốm màu vàng và hai sọc xanh, các sọc chạy dọc theo chiều dài cơ thể của cô ấy và tạo ra hai lỗ giống như dây kéo, một lỗ là miệng và lỗ còn lại có thể dùng để thải chất thải ra ngoài (nó giống cái miệng hơn). Cô coi thường các loài khác ngoài đồng loại Gloink của mình. Mong muốn duy nhất mà cô ấp ủ là ý chí bất diệt - sinh sản càng nhiều càng tốt, để giữ cho dòng máu Gloink tồn tại.
Đón nhận
The pilot (tên tập đầu tiên) của The Amazing Digital Circus đã trở thành một video lan truyền trên YouTube, thu hút hơn 100 triệu lượt xem trong một tháng và thu được hơn bốn triệu lượt thích. Bộ phim được các nhà phê bình khen ngợi về chất lượng hoạt hình và chiều sâu của các nhân vật: Jamie Lang của Cartoon Brew đã mô tả những câu chuyện cười trong bộ phim là "có tính thời gian hoàn hảo theo từng khung hình", với khiếu hài hước "trưởng thành". Phần hoạt hình được Justin Guerrero khen ngợi là "tuyệt vời và giàu cảm xúc"; Lang cũng khen ngợi nó vì tính thẩm mỹ cổ điển đầy màu sắc. Jade King của TheGamer khen ngợi nó vì đã tạo ra "sự mở rộng các nhân vật sâu sắc hơn mức mà một tập phim có thể gợi lên"; ông nhận xét về việc đưa nó vào văn hóa internet với việc tạo ra các tác phẩm nghệ thuật và meme dành cho người hâm mộ The Amazing Digital Circus, cho rằng nó có khả năng trở nên phổ biến hơn khi phát hành các tập tiếp theo.
Xem thêm
Trailer của phim
Tập thử nghiệm của phim
|
19835650
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20c%E1%BB%A5c%20T%C3%AAn%20l%E1%BB%ADa
|
Tổng cục Tên lửa
|
Tổng cục Tên lửa () là đơn vị đặc biệt của Triều Tiên giám sát việc phát triển tên lửa cho Quân đội Nhân dân Triều Tiên (KPA).
Chú thích
Quân đội Nhân dân Triều Tiên
|
19835657
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Antonia%20Josepha%20c%E1%BB%A7a%20%C3%81o
|
Maria Antonia Josepha của Áo
|
Maria Antonia Josepha Benedicta Rosalia Petronella của Áo (tiếng Đức: Maria Antonia Josepha von Österreich; tiếng Tây Ban Nha: María Antonia Josefa de Austria; tiếng Anh: Maria Antonia Josepha of Austria; 18 tháng 1 năm 1669 – 24 tháng 12 năm 1692) là Tuyển hầu phu nhân xứ Bayern với tư cách là vợ của Maximilian II Emanuel xứ Bayern. Maria Antonia là con gái lớn và là đứa con duy nhất sống sót của Leopold I của Thánh chế La Mã và người vợ đầu tiên Margarita Teresa của Tây Ban Nha. Maria Antonia Josepha trở thành người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha của người cậu Carlos II của Tây Ban Nha từ năm 1673 cho đến khi qua đời.
Những năm đầu đời
Maria Antonia Josepha của Áo sinh ngày 18 tháng 1 năm 1669 tại Viên, Đại công quốc Áo, Đế chế La Mã Thần thánh. Maria Antonia là người con thứ hai của Leopold I của Thánh chế La Mã và Margarita Teresa của Tây Ban Nha. Người anh duy nhất của Maria Antonia đã qua đời khi Hoàng nữ được sinh ra. Maria Antonia còn có 2 người em cùng mẹ đã qua đời từ khi còn nhỏ và 12 người em khác mẹ, trong đó có 8 người sống đến tuổi trưởng thành.
Maria Antonia có hệ số cận huyết cao nhất trong Vương tộc Habsburg là 0,3053: cha của Maria Antonia là cậu của Margarita Teresa, mẹ của Hoàng nữ và ông bà ngoại của Maria Antonia cũng là bác bên ngoại và cháu gái.
Từ khi còn nhỏ, Maria Antonia đã là một người thông minh và có học thức và có chung niềm đam mê âm nhạc như cha mẹ của mình.
Quốc vương Habsburg cuối cùng của Tây Ban Nha là Carlos II không có con do bị dị tật và bệnh tật nghiêm trọng. Theo luật kế vị ở Tây Ban Nha, Maria Antonia sẽ có quyền thừa kế ngai vàng nếu Nữ Đại vương công sống đủ lâu vì Maria Antonia Josepha là người con duy nhất còn sống của Hoàng hậu Margarita Teresa, chị gái của Carlos II. Trong thời thơ ấu của Hoàng nữ, đã có quyết định rằng Maria Antonia sẽ kết hôn với Carlos II nhưng kế hoạch không thành công do hoàn cảnh chính trị.
Do đó, Maria Antonia Josepha trở thành ứng cử viên để kết hôn với Vittorio Amadeo II của Sardegna, Công tước xứ Savoia nhưng những dự định này cũng không thành.
Tuyển hầu phu nhân xứ Bayern
Ngày 15 tháng 7 năm 1865, tại Viên, Maria Antonia kết hôn với Maximilian II Emanuel xứ Bayern. Cuộc hôn nhân với một nữ thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, đối với Thái hậu Maria Anna của Tây Ban Nha, đã đưa Vương tộc Wittelsbach ở Bayern đến gần với ngai vàng Tây Ban Nha hôn nhánh Habsburg cai trị Áo. Sự trung thành với Vương triều Tây Ban Nha của Maria Anna hướng về hậu duệ của con gái Margarita Teresa là Maria Antonia cùng gia đình của cháu ngoại. Điều này khiến cho Maria Anna ở thế đối nghịch với em trai Leopold I, người mong muốn con trai của mình được kế vị ngai vàng hơn. Bản thân Maximilian kết hôn với Maria Antonia với hy vọng có thể có được ngai vàng Tây Ban Nha thông qua quyền kế vị của Maria Antonia. Cuộc hôn nhân của hai người rất không hạnh phúc, vì Maximilian có tính hướng ngoại trong khi Maria Antonia là người hướng nội và nghiêm tú cũng như là cả hai có rất ít điểm chung. Maria Antonia được cho là đã rất phiền lòng vì sự không chung thủy của Maximilian II. Khi Maximilian II được bổ nhiệm làm thống đốc của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha và rời đến Bruxelles cùng với tình nhân là Nữ bá tước xứ Canozza, Maria Antonia đã đến gặp cha ở Viên để sinh con, và nhiều người cho rằng Bà Tuyển hầu không có ý định quay lại với Maximilian. Maria Antonia qua đời năm 1962 vì bị nhiễm trùng hậu sản sau khi sinh người con trai là Joseph Ferdinand xứ Bayern.
Theo ý nguyện trước lúc lâm chung, Maria Antonia Josepha đã từ bỏ quyền thừa kế của mình và hậu duệ đối với Vương quyền Tây Ban Nha, nhằm ngăn chặn chồng mình có được ngai vàng Tây Ban Nha và tuyên bố rằng tài sản của mình sẽ được kế thừa bởi con trai, và nếu con trai qua đời thì tài sản sẽ được thừa kế bởi Hoàng đế Leopold I và người thân của Maria Antonia. Dù đã từ bỏ quyền thừa kế của con trai, Joseph Ferdinand vẫn là người thừa kế lâm thời của Vương quyền Tây Ban Nha cho đến khi qua đời.
Hậu duệ
Leopold Ferdinand xứ Bayern (22 tháng 5 năm 1689) qua đời khi mới sinh.
Anton xứ Bayern (19 tháng 11 năm 1690) qua đời khi mới sinh.
Joseph Ferdinand xứ Bayern (28 tháng 10 năm 1692 – 6 tháng 2 năm 1699), qua đời khi còn nhỏ.
Gia phả
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Friedrich Weissensteiner: Liebeshimmel und Ehehöllen - Heyne Taschenbuchverlag 1999 -
Hoàng nữ Áo
Vương nữ Hungary
Vương nữ Bohemia
Vương tộc Habsburg
Hoàng nữ
Vương nữ
Tuyển hầu phu nhân xứ Bayern
Vương tộc Wittelsbach
Sinh năm 1669
Mất năm 1692
Người Áo thế kỷ 17
Bài Wikipedia trích dẫn từ Encyclopaedia Britannica 1911 với dẫn chiếu từ Wikisource
Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
Sản phụ tử vong
|
19835658
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Magdalena%20Josepha%20c%E1%BB%A7a%20%C3%81o
|
Maria Magdalena Josepha của Áo
|
Maria Magdalena của Áo (tên đầy đủ: Maria Magdalena Josepha Antonia Gabriela ; 26 tháng 3 năm 1689 – 1 tháng 5 năm 1743) là thống đốc xứ Tirol và là con gái của Leopold I của Thánh chế La Mã và người vợ thứ ba Eleonore Magdalene xứ Pfalz.
Tiểu sử
Maria Magdalena sinh ra tại Cung điện Hofburg ở Viên, là người con thứ chín của Leopold I của Thánh chế La Mã và Eleonore Magdalene xứ Pfalz. Không lâu trước Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đã có nghi vấn về việc tân vương Felipe V của Tây Ban Nha sẽ kết hôn với Nữ Đại vương công, nhưng Louis XIV của Pháp đã phản đối cuộc hôn nhân vì lý do chính trị, và lý do chính thức được đưa ra là: không có Nữ Đại vương công nào khiến cháu trai của Quốc vương Pháp ứng ý. Năm 1708, chị gái của Maria Magdalena là Maria Anna kết hôn với João V của Bồ Đào Nha; kế hoạch cho sự kết hợp thứ hai giữa Áo và Bồ Đào Nha đã được thảo luận khi Maria Magdalena được ngỏ ý trở thành vợ của Vương tử Francisco của Bồ Đào Nha, Công tước xứ Beja, em trai của João V. Các cuộc thảo luận đã thất bại trong giai đoạn đầu và do đó, cả Maria Magdalena và Francisco đều qua đời mà không lập gia đình. Một lần nữa sau chiến tranh, câu hỏi về việc Maria Magdalena có trở thành Vương hậu Tây Ban Nha để thay thế Luisa Maria của Savoia đã qua đời đã được đặt ra. Tuy nhiên, dự định này đã không thành vì Felipe V đã tái hôn với Elisabetta Farnese.
Sau khi những dự tính hỏi cưới Maria Magdalena không thành, Nữ Đại vương công sống đời ẩn dật, không lập gia đình và qua đời mà không có con cháu. Maria Magdalena có mối quan hệ thân thiết với cháu gái Maria Theresia, con gái của anh trai là Hoàng đế Karl VI và cũng như với em gái của Maria Theresia là Maria Anna. Maria Magdalena qua đời vì bệnh viêm phổi ở tuổi 54 và được chôn cất tại Hầm mộ Hoàng gia ở Viên.
Gia phả
Tham khảo
Hoàng nữ Áo
Vương nữ Hungary
Vương nữ Bohemia
Vương tộc Habsburg
Hoàng nữ
Vương nữ
Sinh năm 1689
Mất năm 1743
Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
|
19835660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha%202022
|
Chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha 2022
|
Chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha 2022 là chặng đua thứ 5 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 22/04/2022 đến ngày 24/04/2022 ở trường đua Algarve, Bồ Đào Nha. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Fabio Quartararo của đội đua Yamaha.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19835662
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8D%20%28Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o%29
|
Thọ (Phật giáo)
|
Trong Phật giáo, Vedanā (tiếng Pali, Sanskit: वेदना, tiếng Việt: thọ) là một thuật ngữ cổ đại, được dịch theo ý nghĩa truyền thống là "cảm xúc" hoặc là "cảm giác". Một cách tổng quát, cảm thọ ám chỉ cho các cảm giác dễ chịu, cảm giác không dễ chịu, và cảm giác trung tính. Những cảm giác trên xuất hiện khi mà các cơ quan cảm thọ của chúng ta có sự tương tác với các đối tượng của các giác quan cùng với thức tương ứng.
Cảm thọ được xác định trong phương pháp giảng dạy của Đức Phật như sau:
Một trong bảy tâm sở biến hành trong Vi Diệu Pháp/ A Tỳ Đàm của hệ phái Thượng Tọa Bộ.
Một trong năm tâm sở biến hành trong Vi Diệu Pháp/ A Tỳ Đàm của hệ phái Đại Thừa.
Một trong mười hai liên kiết trong học thuyết Duyên Khởi (trong cả truyền thống Thượng Tọa Bộ và Đại Thừa).
Một trong các ngũ uẩn (trong cả truyền thống Thượng Tọa Bộ và Đại Thừa).
Một trong các đối tượng để quán sát nằm trong phương pháp thực hành về bốn nền tảng của chánh định.
Trong ngữ cảnh của mười hai liên kết trong Duyên Khởi, sự tham ái và sự giữ chặt đối với các cảm thọ sẽ dẫn đến sự đau khổ. Một cách tương hỗ nhau, sự nhận thức một cách tập trung và sự thấu hiểu một cách xuyên suốt về cảm thọ có thể dẫn đến sự giác ngộ và sự chấm dứt các nguyên nhân gây ra sự đau khổ.
Các định nghĩa về thọ
Hệ phái Thượng Tọa Bộ (Theravada)
Tỳ kheo Bodhi nói rằng:
Cảm thọ là một loại tâm sở mà nó cảm nhận đối tượng. Đó là một kiểu thuộc về cảm xúc mà trong đó đối tượng được trải nghiệm. Trong tiếng Pali, từ vedanā (thọ) không biểu hiện cảm xúc (là cái thể hiện một hiện tượng phức tạp bao gồm nhiều tâm sở khác nhau xuất hiện một cách đồng thời), nhưng biểu hiện cái đặc tính cơ bản, đơn giản nhất thuộc về cảm xúc đối với một trải nghiệm, nghĩa là - hoặc là tính dễ chịu, tính đau đớn, hoặc là tính trung tính...
Còn Nina van Gorkom nói rằng:
When we study the Abhidhamma we learn that 'vedanā' is not the same as what we mean by feeling in conventional language. Feeling is nāma, it experiences something. Feeling never arises alone; it accompanies citta and other cetasikas and it is conditioned by them. Thus, feeling is a conditioned nāma. Citta does not feel, it cognizes the object and vedanā feels...
All feelings have the function of experiencing the taste, the flavour of an object (Atthasālinī, I, Part IV, Chapter I, 109). The Atthasālinī uses a simile in order to illustrate that feeling experiences the taste of an object and that citta and the other cetasikas which arise together with feeling experience the taste only partially. A cook who has prepared a meal for the king merely tests the food and then offers it to the king who enjoys the taste of it:
...and the king, being lord, expert, and master, eats whatever he likes, even so the mere testing of the food by the cook is like the partial enjoyment of the object by the remaining dhammas (the citta and the other cetasikas), and as the cook tests a portion of the food, so the remaining dhammas enjoy a portion of the object, and as the king, being lord, expert and master, eats the meal according to his pleasure, so feeling, being lord, expert and master, enjoys the taste of the object, and therefore it is said that enjoyment or experience is its function.
Thus, all feelings have in common that they experience the 'taste' of an object. Citta and the other accompanying cetasikas also experience the object, but feeling experiences it in its own characteristic way.
Mahayana
The Abhidharma-samuccaya states:
What is the absolutely specific characteristic of vedana? It is to experience. That is to say, in any experience, what we experience is the individual maturation of any positive or negative action as its final result.
Mipham Rinpoche states:
Sensations are defined as impressions.
The aggregate of sensations can be divided into three: pleasant, painful, and neutral. Alternatively, there are five: pleasure and mental pleasure, pain and mental pain, and neutral sensation.
In terms of support, there are six sensations resulting from contact...
Alexander Berzin describes this mental factors as feeling (tshor-ba, Skt. vedanā) some level of happiness. He states:
When we hear the word “feeling” in a Buddhist context, it’s only referring to this: feeling some level of happy or unhappy, somewhere on the spectrum. So, on the basis of pleasant contacting awareness—it comes easily to mind—we feel happy. Happiness is: we would like it to continue. And, on the basis of unpleasant contacting awareness—it doesn’t come easily to the mind, we basically want to get rid of it—we feel unhappiness. “Unhappiness” is the same word as “suffering” (mi-bde-ba, Skt. duhkha). Unhappiness is: I don’t want to continue this; I want to be parted from this.
And neutral contacting awareness. We feel neutral about it—neither want to continue it nor to discontinue it...
Relation to "emotions"
Vedanā is the distinct valence or "hedonic tone" of emotional psychology, neurologically identified and isolated.
Contemporary teachers Bhikkhu Bodhi and Chögyam Trungpa Rinpoche clarify the relationship between vedanā (often translated as "feelings") and Western notions of "emotions."
Bhikkhu Bodhi writes:
"The Pali word vedanā does not signify emotion (which appears to be a complex phenomenon involving a variety of concomitant mental factors), but the bare affective quality of an experience, which may be either pleasant, painful or neutral."
Chögyam Trungpa Rinpoche writes:
"In case [i.e. within the Buddhist teachings] 'feeling' is not quite our ordinary notion of feeling. It is not the feeling we take so seriously as, for instance, when we say, 'He hurt my feelings.' This kind of feeling that we take so seriously belongs to the fourth and fifth skandhas of concept and consciousness."
Attributes
In general, the Pali canon describes vedanā in terms of three "modes" and six "classes." Some discourses discuss alternate enumerations including up to 108 kinds.
Three modes, six classes
Throughout canonical discourses (Sutta Pitaka), the Buddha teaches that there are three modes of vedanā:
pleasant (sukhā)
unpleasant (dukkhā)
neither pleasant nor unpleasant (adukkham-asukhā, "ambivalent", sometimes referred to as "neutral" in translation)
Elsewhere in the Pali canon it is stated that there are six classes of vedanā, corresponding to sensations arising from contact (Skt: sparśa; Pali: phassa) between an internal sense organ (āyatana; that is, the eye, ear, nose, tongue, body or mind), an external sense object and the associated consciousness (Skt.: vijnana; Pali: viññāna). (See Figure 1.) In other words:
feeling arising from the contact of eye, visible form and eye-consciousness
feeling arising from the contact of ear, sound and ear-consciousness
feeling arising from the contact of nose, smell and nose-consciousness
feeling arising from the contact of tongue, taste and tongue-consciousness
feeling arising from the contact of body, touch and body-consciousness
feeling arising from the contact of mind (mano), thoughts (dhamma) and mind-consciousness
Two, three, five, six, 18, 36, 108 kinds
In a few discourses, a multitude of kinds of vedana are alluded to ranging from two to 108, as follows:
two kinds of feeling: physical and mental
three kinds: pleasant, painful, neutral
five kinds: physical pleasant, physical painful, mental pleasant, mental painful, equanimous
six kinds: one for each sense faculty (eye, ear, nose, tongue, body, mind)
18 kinds: explorations of the aforementioned three mental kinds of feelings (mental pleasant, mental painful, equanimous) each in terms of each of the aforementioned six sense faculties
36 kinds: the aforementioned 18 kinds of feeling for the householder and the aforementioned 18 kinds for the renunciate
108 kinds: the aforementioned 36 kinds for the past, for the present and for the future
In the wider Pali literature, of the above enumerations, the post-canonical Visuddhimagga highlights the five types of vedanā: physical pleasure (sukha); physical displeasure (dukkha); mental happiness (somanassa); mental unhappiness (domanassa); and, equanimity (upekkhā).
Canonical frameworks
Vedanā is a pivotal phenomenon in the following frequently identified frameworks of the Pali canon:
the "five aggregates"
the twelve conditions of "dependent origination"
the four "foundations of mindfulness"
Mental aggregate
Vedanā is one of the five aggregates (Skt.: skandha; Pali: khandha) of clinging (Skt., Pali: upādāna; see Figure 2 to the right). In the canon, as indicated above, feeling arises from the contact of a sense organ, sense object and consciousness.
Central condition
In the Chain of Conditioned Arising (Skt: pratītyasamutpāda; Pali: ), the Buddha explains that:
vedanā arises with contact (phassa) as its condition
vedanā acts as a condition for craving (Pali: ; Skt.: ).
In the post-canonical 5th-century Visuddhimagga, feeling (vedana) is identified as simultaneously and inseparably arising from consciousness (viññāṇa) and the mind-and-body (nāmarūpa). On the other hand, while this text identifies feeling as decisive to craving and its mental sequelae leading to suffering, the conditional relationship between feeling and craving is not identified as simultaneous nor as being karmically necessary.
Mindfulness base
Throughout the canon, there are references to the four "foundations of mindfulness" (satipaṭṭhāna): the body (kāya), feelings (vedanā), mind states (citta) and mental experiences (dhammā). These four foundations are recognized among the seven sets of qualities conducive to enlightenment (bodhipakkhiyādhammā). The use of vedanā and the other satipaṭṭhāna in Buddhist meditation practices can be found in the Satipaṭṭhāna Sutta and the Ānāpānasati Sutta.
Wisdom practices
Each mode of vedanā is accompanied by its corresponding underlying tendency or obsession (anusaya). The underlying tendency for pleasant vedanā is the tendency toward lust, for unpleasant, the tendency toward aversion, and for neither pleasant nor unpleasant, the tendency toward ignorance.
In the Canon it is stated that meditating with concentration (samādhi) on vedanā can lead to deep mindfulness (sati) and clear comprehension () (see Table to the right). With this development, one can experience directly within oneself the reality of impermanence (anicca) and the nature of attachment (upādāna). This in turn can ultimately lead to liberation of the mind (nibbāna).
Các bản dịch tương đương
Một số bản dịch cho thuật ngữ Vedana bao gồm:
Feeling (Nina van Gorkom, Bhikkhu Bodhi, Alexander Berzin)
Feeling some level of happiness (Alexander Berzin)
Feeling-tone (Herbert Guenther)
Sensation (Erik Kunsang)
Xem thêm
Affect (psychology)
(Skt.; Pali: ) - six sense bases
(Pali; Skt.: ) - foundations of mindfulness
Skandha (Skt.; Pali: khandha) - aggregates
Valence (psychology)
Chú thích
Nguồn tham khảo
Berzin, Alexander (2006), Primary Minds and the 51 Mental Factors
Bodhi, Bhikkhu (ed.) (2000). A Comprehensive Manual of Abhidhamma: The Abhidhammattha Sangaha of Ācariya Anuruddha. Seattle, WA: BPS Pariyatti Editions. .
Bhikkhu Bodhi (2003), A Comprehensive Manual of Abhidhamma, Pariyatti Publishing
Dalai Lama (1992). The Meaning of Life, translated and edited by Jeffrey Hopkins, Boston: Wisdom.
Guenther, Herbert V. & Leslie S. Kawamura (1975), Mind in Buddhist Psychology: A Translation of Ye-shes rgyal-mtshan's "The Necklace of Clear Understanding" Dharma Publishing. Kindle Edition.
Kunsang, Erik Pema (translator) (2004). Gateway to Knowledge, Vol. 1. North Atlantic Books.
Nina van Gorkom (2010), Cetasikas, Zolag
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (1997). Paticca-samuppada-vibhanga Sutta: Analysis of Dependent Co-arising, Access to Insight
Hamilton, Sue (2001). Identity and Experience: The Constitution of the Human Being according to Early Buddhism. Oxford: Luzac Oriental. .
Nyanaponika Thera (trans.) (1983). Datthabba Sutta: To Be Known (SN 36.5). Retrieved 2007-06-08 from "Access to Insight" at: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn36/sn36.005.nypo.html.
Nyanaponika Thera & Bhikkhu Bodhi (trans.) (1999). Numerical Discourses of the Buddha: An Anthology of Suttas from the Anguttara Nikaya. Kandy, Sri Lanka: Buddhist Publication Society. .
Rhys Davids, T.W. & William Stede (eds.) (1921-5). The Pali Text Society’s Pali–English Dictionary. Chipstead: Pali Text Society. A general on-line search engine for the PED is available at http://dsal.uchicago.edu/dictionaries/pali/.
Sri Lanka Buddha Jayanti Tipitaka Series (SLTP) (n.d.). (AN AN 4.1.5.1, in Pali). Retrieved 2007-06-08 from "MettaNet-Lanka" at: http://www.metta.lk/tipitaka/2Sutta-Pitaka/4Anguttara-Nikaya/Anguttara2/4-catukkanipata/005-rohitassavaggo-p.html.
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (1997a). Samadhi Sutta: Concentration (AN 4.41). Retrieved on 2007-06-08 from "Access to Insight" at: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/an/an04/an04.041.than.html.
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (1997b). Sattatthana Sutta: Seven Bases (SN 22.57). Retrieved 2007-06-08 from "Access to Insight" at: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.057.than.html.
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (1998). Chachakka Sutta: The Six Sextets (MN 148). Retrieved 2007-06-08 from "Access to Insight" at: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.148.than.html.
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (2004). Vedana Sutta: Feeling (SN 25.5). Retrieved 2007-06-08 from "Access to Insight" at: http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn25/sn25.005.than.html.
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (2005a). Atthasata Sutta: The One-hundred-and-eight Exposition (SN 36.22). Retrieved 2008-03-31 from "Access to Insight" at http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn36/sn36.022.than.html.
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (2005b). Bahuvedaniya Sutta: Many Things to be Experienced (MN 59). Retrieved 2008-03-31 from "Access to Insight" at http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.059.than.html.
Thanissaro Bhikkhu (trans.) (2005c). Pañcakanga Sutta: With Pañcakanga (SN 36.19). Retrieved 2008-03-31 from "Access to Insight" at http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn36/sn36.019.than.html.
Trungpa, Chögyam (2001). Glimpses of Abhidharma. Boston: Shambhala. .
Upalavanna, Sister (n.d.). – Developments of concentration (AN AN 4.5.1). Retrieved 2007-06-08 from "MettaNet-Lanka" at: http://www.metta.lk/tipitaka/2Sutta-Pitaka/4Anguttara-Nikaya/Anguttara2/4-catukkanipata/005-rohitassavaggo-e.html.
Liên kết ngoài
Nyanaponika Thera (ed., trans.) (1983). Contemplation of Feeling: The Discourse-Grouping on the Feelings (Vedana-Samyutta) (The Wheel, No. 303/304). Kandy, Sri Lanka: Buddhist Publication Society. Transcribed by Joe Crea (1995). Retrieved 2007-06-08 from "Access to Insight" at: http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/nyanaponika/wheel303.html.
Buddhist meditation
Twelve nidānas
Mental factors in Buddhism
Sanskrit words and phrases
Pali words and phrases
|
19835663
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/TVR
|
TVR
|
TVR () là tổ chức phát sóng công cộng quốc gia thuộc sở hữu của chính phủ România. Thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 1956. Tổng giám đốc và chủ tịch hiện tại là Dan Turturică.
Tham khảo
Khởi đầu năm 1956 ở România
|
19835684
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B9ng%20S%C4%A9%20T%E1%BA%A5n
|
Phùng Sĩ Tấn
|
Phùng Sĩ Tấn (sinh năm 1966) là một tướng lĩnh trong Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm Thượng tướng. Ông hiện là Bí thư Đảng ủy Bộ tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Phùng Sĩ Tấn sinh ngày 25 tháng 8 năm 1966 tại phường Hùng Vương, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.
Từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 9 năm 2013, ông là Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316. Giai đoạn 2013 - 2015, ông là Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phúc. Tháng 6 năm 2015, ông là Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2. Từ tháng 8 năm 2016, ông phụ trách Tư lệnh Quân khu 2 và trở thành Tư lệnh Quân khu 2 vào cuối năm 2016. Tháng 9 năm 2019, ông được bổ nhiệm là Phó tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Lịch sử thụ phong quân hàm
Tham khảo
Người Phú Thọ
Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam
Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
Sinh năm 1966
Nhân vật còn sống
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.