id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19835696
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Northrop%20Corporation
|
Northrop Corporation
|
Northrop Corporation là một tập đoàn sản xuất máy bay của Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1939 cho đến khi sáp nhập với Grumman tạo thành Northrop Grumman năm 1994. Công ty nổi tiếng với thiết kế cánh bay, được áp dụng trong máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit.
Lịch sử ra đời
Jack Northrop thành lập ba công ty mang tên mình. Công ty đầu tiên là Avion Corporation thành lập năm 1928, sau đó được United Aircraft and Transport Corporation mua lại và đổi tên thành "Northrop Aircraft Corporation" (sau đó trở thành một phần của Boeing). Công ty chuyển đến hoạt động ở Kansas từ năm 1931, do đó Jack, cùng với Donald Douglas, thành lập "Northrop Corporation" tại El Segundo, California, và đã cho ra đời nhiều mẫu máy bay thành công như máy bay chở khách Northrop Gamma và Northrop Delta. Tuy nhiên, tình hình nhân công khó khăn đã dẫn đến tập đoàn bị phá sản vào năm 1937, và nhà máy sản xuất trở thành Bộ phận El Segundo trực thuộc Douglas Aircraft Company.
Northrop cố gắng theo đuổi việc thành lập công ty của riêng mình, năm 1939 ông đã thành lập "Northrop Corporation" gần Hawthorne, California. Tập đoàn nằm trong 100 công ty của Hoa Kỳ có tổng giá trị gói thầu vũ khí lớn nhất trong chiến tranh thế giới 2. Trong đó, tập đoàn đã phát triển và chế tạo máy bay ném bom ban đêm P-61 Black Widow, máy bay ném bom thử nghiệm cánh bay B-35 và YB-49, máy bay đánh chặn F-89 Scorpion, tên lửa hành trình liên lục địa SM-62 Snark, và máy bay phản lực chiến đấu F-5 Freedom Fighter (và cả phiên bản huấn luyện là chiếc T-38 Talon rất thành công).
Máy bay tiêm kích F-5 là một mẫu máy bay rất thành công đến mức Northrop đã dành phần lớn những năm 1970s và 1980s để nỗ lực phát triển thêm với một mẫu thiết kế hạng nhẹ tương tự. Đầu tiên là chiếc N-300, với việc trang bị động cơ mới khỏe hơn nhiều và đưa cánh lên vị trí cao hơn giúp tăng dự trữ vũ khí và do đó tăng cường hỏa lực cho máy bay. Chiến đấu cơ N-300 là sự phát triển xa hơn của chiếc P-530 với việc trang bị động cơ lớn hơn, bổ sung thêm một lượng nhỏ "đường vòng" (turbofan) để cải thiện khả năng làm lạnh khí và cho phép khoang động cơ nhẹ hơn, cũng như bổ sung thêm bề mặt cánh. Mẫu P-530 đồng thời cũng được trang bị radar và các hệ thống khác tối quan trọng cho một mẫu tiêm kích hiện đại. Khi chương trình máy bay tiêm kích hạng nhẹ được đưa ra, chiếc P-530 đã bị loại bỏ phần lớn trang bị và trở thành mẫu máy bay P-600, cuối cùng dẫn đến sự ra đời của YF-17 Cobra, mà đã bị thất bại trong cuộc cạnh tranh với General Dynamics F-16 Fighting Falcon.
Tuy nhiên, McDonnell Douglas đã giúp sửa đổi YF-17 Cobra và phát triển nó thành McDonnell Douglas F/A-18 Hornet để trở thành máy bay tiêm kích hạng nhẹ cho Hải quân Mỹ. Northrop dự định sẽ bán phiên bản thông thường F-18L, nhưng phiên bản F-18A vẫn có lượng bán hàng lớn hơn, đã dẫn đến cuộc kiện cáo dài giữa hai công ty. Northrop tiếp tục chế tạo nhiều khung thân của F-18 và các hệ thống khác sau thời gian này, nhưng đồng thời cũng quay trở về với thiết kế nguyên bản của chiếc F-5 cùng với động cơ mới, từ đó phát triển thành chiếc F-20 Tigershark như là một loại máy bay giá rẻ. Mẫu máy bay này thu hút ít sự chú ý trên thị trường, và dự án sau đó đã bị hủy bỏ.
Dựa trên kinh nghiệm với thiết kế cánh bay, công ty đã phát triển mẫu máy bay ném bom tàng hình B-2 Spirit những năm 1990s.
Năm 1994, do mất hợp đồng chế tạo Advanced Tactical Fighter vào tay Lockheed Corporation và bị loại khỏi chương trình Joint Strike Fighter competition, công ty đã tiến hành mua lại công ty Grumman và thành lập Northrop Grumman.
Các mẫu máy bay của công ty
Các chương trình phát triển
Northrop N-1 (USAAC flying wing bomber)
Northrop N-4 (USAAF pursuit)
Northrop N-5 (USAAF pursuit)
Northrop N-6 (Navy fighter design)
Northrop N-15 (2-engine cargo plane)
Northrop N-31 (flying wing bomber project)
Northrop N-34 (nuclear-powered flying wing bomber design)
Northrop N-55 (patrol aircraft)
Northrop N-59 (carrier-based bomber)
Northrop N-60 (ASW aircraft; lost to Grumman S-2 Tracker)
Northrop N-63 (rival tailsitting VTOL design to Lockheed XFV-1 and Convair XFY-1)
Northrop N-65 (interceptor for WS-201 program)
Northrop N-74 (tactical transport)
Northrop N-94 (Navy fighter competitor design to Vought F8U Crusader)
Northrop N-102 Fang
Northrop N-103 (all-weather interceptor)
Northrop N-132 (strategic fighter)
Northrop N-144 (long-range interceptor)
Northrop N-155 (target-towing aircraft)
Northrop N-285 (USN advanced jet trainer; lost to T-45 Goshawk)
Northrop N-321/P610 (Light-Weight Fighter)
Unmanned aerial vehicles
Northrop AQM-35
Northrop AQM-38
Northrop BQM-74 Chukar
Missiles
GAM-67 Crossbow
Northrop JB-1 Bat
SM-62 Snark
Xem thêm
Northrop Grumman
Tham khảo
Defunct aircraft engine manufacturers of the United States
Defunct technology companies based in California
Manufacturing companies based in Greater Los Angeles
Technology companies based in Greater Los Angeles
Companies based in Los Angeles County, California
Hawthorne, California
American companies established in 1930
Electronics companies established in 1930
Manufacturing companies established in 1930
Technology companies established in 1930
Manufacturing companies disestablished in 1994
Technology companies disestablished in 1994
1930 establishments in California
1994 disestablishments in California
Defunct companies based in Greater Los Angeles
American companies disestablished in 1994
Defunct manufacturing companies based in California
|
19835721
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20N%C3%AA%20Phi
|
Người Nê Phi
|
Theo sách Mặc Môn thì người Nê Phi (Nephites) là một trong bốn nhóm người đã định cư ở châu Mỹ cổ đại cùng với người Lamanites (người La Man), Jaredites (người Gia Rết) và Mulekites (người Mơ Léc). Thuật ngữ người Nê Phi được sử dụng xuyên suốt trong sách Mặc Môn để tả về các truyền thống tôn giáo, chính trị và văn hóa của nhóm người định cư. Dân Nê Phi được mô tả là một nhóm người có nguồn gốc từ hoặc có liên hệ với Nê Phi là con trai của tiên tri Lê Hi (Lehi) người đã rời Jerusalem theo sự thúc gọi của Đức Chúa Trời vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên đến xứ Phong Phú và cùng gia đình ông di cư đến Tây Bán Cầu và đến châu Mỹ vào khoảng năm 589 trước Công nguyên. Sách Mặc Môn chép rằng người Nê Phi ban đầu là những người công bình nhưng cuối cùng "đã rơi vào trạng thái vô tín và vô cùng độc ác" và bị dân La Man (Lamanite) tuyệt diệt vào khoảng năm 385 sau Công nguyên.
Sự tồn tại của người Nê Phi là một phần của hệ thống tín ngưỡng Mặc Môn giáo. Một số học giả của Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô (Giáo hội LDS) tuyên bố rằng tổ tiên của người Nê Phi đã định cư ở đâu đó ở Trung Mỹ ngày nay sau khi họ rời Jerusalem. Hệ thống tổ chức của Mặc Môn là Quỹ Nghiên cứu Cổ đại và Nghiên cứu Mặc Môn (Foundation for Ancient Research and Mormon Studies-FARMS), một bộ phận của Đại học Brigham Young thuộc sở hữu và điều hành từ Giáo Hội Các Thánh Hữu Ngày Sau Của Chúa Giê Su Ky Tô đã thực hiện nghiên cứu khảo cổ học sâu rộng trong khu vực và các ấn phẩm về chủ đề này cũng như các vấn đề khác, các chủ đề về lịch sử được FARMS phát hành các ấn phẩm thường xuyên về cùng chủ đề để minh chứng và biện luận cho các luận thuyết về lịch sử châu Mỹ trong sách Mặc Môn.
Sách Mặc Môn
Theo sách Mặc Môn tại phần Sách Nê Phi thứ nhất về Truyện ký về Lê Hi và vợ ông là Sa Ri A cùng bốn người con trai của ông có tên như sau (bắt đầu từ người con trưởng): La Man, Lê Mu Ên, Sam, và Nê Phi. Chúa báo trước cho Lê Hi biết ông phải rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem vì ông đã tiên tri cho dân chúng biết về sự bất chính của họ và họ tìm cách trừ diệt mạng sống của ông. Ông cùng gia đình hành trình ba ngày trong vùng hoang dã và trú tạm tại xứ Phong Phú. Nê Phi đem các anh mình trở lại xứ Giê Ru Sa Lem để tìm biên sử của người Do Thái. Truyện ký về những nỗi thống khổ của họ. Họ lấy các con gái của Ích Ma Ên làm vợ. Họ đem gia đình đi vào vùng hoang dã. Những sự đau đớn và những nỗi thống khổ của họ trong vùng hoang dã. Lộ trình của họ đưa họ đến bên bờ đại dương. Họ đặt tên nơi ấy là xứ Phong Phú.
Các chương 1–2 kể về Am Ma Rôn, một vị tiên tri của dân Nê Phi, căn dặn Mặc Môn lúc nào và phải đi đâu để lấy các bảng khắc. Ngoài ra, các trận chiến lớn cũng bắt đầu, và Ba Người Nê Phi bị cất đi khỏi vì sự tà ác của dân chúng. Các chương 3–4 kể về Mặc Môn kêu gọi dân chúng hối cải, nhưng họ không còn chút tình cảm nào, và chưa từng có một sự tà ác lớn lao như vậy trước kia trong dân Y Sơ Ra Ên. Các chương 5–6 ghi lại những trận chiến cuối cùng giữa dân Nê Phi và dân La Man. Mặc Môn bị giết chết cùng với hầu hết dân tộc Nê Phi. Trong Chương 7, trước khi ông qua đời, Mặc Môn kêu gọi dân chúng—lúc đó và trong tương lai—phải hối cải. Các chương 8–9 ghi chép rằng cuối cùng chỉ có con trai của Mặc Môn là Mô Rô Ni còn sống sót.
Trong Sách Mặc Môn, vị tiên tri và nhà truyền giáo vĩ đại người Nê Phi. Con trai lớn của Hê La Man (HLMan 3:21). Được chỉ định làm trưởng phán quan (HLMan 3:37), Ông và em ông là Lê Hi đã cải đạo nhiều người La Man về với phúc âm (HLMan 5:18–19). Một vị tiên tri người Nê Phi, là tướng nguyên soái, và người lưu giữ biên sử trong Sách Mặc Môn. Ông sống vào khoảng năm 311–385 sau T.C. (MMôn 1:2, 6; 6:5–6; 8:2–3). Ông là một vị lãnh đạo quân sự trong hầu hết cuộc đời của ông, bắt đầu khi ông mới 15 tuổi (MMôn 2:1–2; 3:8–12; 5:1; 8:2–3). Am Ma Rôn căn dặn Mặc Môn phải tự chuẩn bị để nhận lấy các biên sử và đảm trách việc lưu giữ (MMôn 1:2–5; 2:17–18). Sau khi ghi chép lịch sử của đời ông, Mặc Môn đã tóm lược các bảng khắc lớn của Nê Phi lên trên các bảng khắc của Mặc Môn. Về sau ông đã giao biên sử thiêng liêng này cho con trai của ông là Mô Rô Ni. Các bảng khắc này là một phần của biên sử mà Joseph Smith đã phiên dịch ra Sách Mặc Môn.
Theo khoa học
Cả Viện Smithsonian và Hiệp hội Địa lý Quốc gia đã đưa ra tuyên bố rằng họ không thấy bằng chứng nào chứng minh sách Mặc Môn là một tài liệu lịch sử. Năm 1996, Viện Smithsonian đã đưa ra một tuyên bố nhằm giải quyết những tuyên bố được đưa ra trong sách Mặc Môn bằng cách tuyên bố rằng cuốn sách này chủ yếu là một văn bản tôn giáo và các nhà khảo cổ học cộng tác với Viện Smithsonian nhận thấy "không có mối liên hệ trực tiếp nào giữa khảo cổ học của Tân Thế giới và chủ đề này" như những câu chuyện trong cuốn sách. Tuyên bố năm 1996 của Viện Smithsonian còn nói thêm rằng có bằng chứng di truyền cho thấy Người Mỹ bản địa có quan hệ gần gũi với các dân tộc ở Châu Á và bằng chứng khảo cổ học đó cho thấy rằng người Mỹ bản địa đã di cư từ Châu Á qua một cây cầu đất bắc qua eo biển Bering vào thời tiền sử. Tuyên bố nói rằng không có bằng chứng đáng tin cậy nào về mối liên hệ giữa các dân tộc Ai Cập cổ đại hoặc người Do Thái và những dân tộc bản địa ở Tân Thế giới, như được kể ra trong những lời văn của Sách Mặc Môn. Tuyên bố được đưa ra để đáp lại những báo cáo cho rằng Viện Smithsonian đã được sử dụng nhận định không đúng cách để tạo tín nhiệm cho những tuyên bố của những người muốn ủng hộ các sự kiện diễn ra theo sách Mặc Môn.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
How Many Nephites?: The Book of Mormon at the Bar of Demography by James E. Smith
Mặc Môn giáo
|
19835723
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kume%2C%20Okayama
|
Kume, Okayama
|
là huyện thuộc tỉnh Okayama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của huyện là 17.583 người và mật độ dân số là 57 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 310,8 km2
Tham khảo
Huyện của Okayama
|
19835726
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20th%E1%BA%A3m%20s%C3%A1t%20chu%E1%BB%99t%20%E1%BB%9F%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i
|
Đại thảm sát chuột ở Hà Nội
|
Cuộc đại thảm sát chuột ở Hà Nội (Chữ Nôm: 局摻刹𤝞於河內; tiếng Pháp: Massacre des rats de Hanoï) diễn ra vào năm 1902, ở Hà Nội khi chính quyền Pháp cố gắng kiểm soát số lượng chuột trong thành phố bằng cách săn tìm chúng. Vì họ cảm thấy mình chưa đạt được đủ chỉ tiêu và do các cuộc đình công nên họ đã lập ra một chương trình tiền thưởng, trả phần thưởng 1 cent cho mỗi con chuột giết được. Để nhận tiền thưởng, mọi người cần phải cung cấp cái đuôi bị cắt ra từ một con chuột. Tuy nhiên, các quan chức bắt đầu chú ý đến chuột không đuôi ở Hà Nội. Những người bắt chuột ở Việt Nam đã bắt, cắt đuôi rồi thả lại chuột xuống cống để tạo ra nhiều chuột hơn.
Cuộc đại thảm sát chuột ở Hà Nội xảy ra giữa cuộc đại dịch hạch thứ ba, chỉ vài năm sau khi bác sĩ và nhà vi khuẩn học người Thụy Sĩ gốc Pháp Alexandre Yersin phát hiện mối quan hệ giữa sự lây lan của đại dịch với loài gặm nhấm.
Ngày nay, sự kiện này thường được dùng làm ví dụ cho sự khuyến khích sai ngược (Perverse incentive), thường được gọi là Hiệu ứng Rắn hổ mang (Cobra Effect). Nhà sử học hậu thế người Mỹ Michael G. Vann cho rằng ví dụ về rắn hổ mang ở Raj thuộc Anh không thể chứng minh được, nhưng trường hợp chuột ở Việt Nam có thể chứng minh được, nên thuật ngữ này nên được đổi thành Hiệu ứng chuột (Rat Effect).
Bối cảnh
Kế hoạch của Pháp ở Hà Nội
Pháp chính thức nắm quyền kiểm soát và chiếm đóng Hà Nội vào năm 1882, sau khi Hòa ước Giáp Tuất năm 1874 sụp đổ. Tuy nhiên, khu vực Bắc Kỳ vẫn chưa được bình định hoàn toàn cho đến tận cuối năm 1896. Pháp xâm lược Đông Dương (nay là Việt Nam, Campuchia và Lào) trong nhiều giai đoạn để có thể tiếp cận cửa sau với sự giàu có của Trung Quốc thông qua thị trường của nó. Đặc biệt, Pháp đã tìm thấy một tuyến đường sông dẫn đến tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, vào thời điểm đó được gọi là "El Dorado bằng lụa thay vì vàng".
Trước khi thành lập chính quyền bảo hộ Bắc Kỳ của Pháp, thành phố Hà Nội là một tổ hợp gồm 36 phố phường, mỗi khu phố lại có một nghề thủ công cụ thể, cũng như một số đền chùa trải khắp khu định cư. Hơn nữa, thành phố Hà Nội còn sở hữu một hệ thống thành quách và pháo đài được xây dựng vào năm 1803 (một năm sau khi hoàng đế Gia Long thành lập triều Nguyễn) với sự hỗ trợ của các kỹ sư quân sự người Pháp được đào tạo tại Vauban. Tuy nhiên, Pháp coi Hà Nội là một tổ hợp làng quê bẩn thỉu, tồi tàn, xiêu vẹo. Vì vậy, họ đã tìm cách biến nó thành một thành phố kiểu Pháp, xứng đáng là trụ sở của một trong những thuộc địa của Đế quốc thực dân Pháp. Quá trình này bắt đầu với sự xuất hiện của các nhà thống sứ người Pháp vào những năm 1880, cụ thể là Paul Bert vào năm 1886, thực sự đã khởi đầu cho quá trình "Pháp hóa" (Francization) thành phố. Các khu vực rộng lớn của Hà Nội, bao gồm hầu hết thành cổ và nhiều đền chùa, đã bị phá bỏ để nhường chỗ cho các tòa nhà mới kiểu Pháp sẽ trở thành cốt lõi của thành phố mới. Đáng chú ý nhất trong số những công trình xây dựng mới này là Nhà thờ Lớn Hà Nội và Nhà thương Đồn Thủy.
Năm 1897, Paul Doumer được bổ nhiệm làm Toàn quyền Đông Dương sau một thời gian ngắn giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính Pháp (1895–1896), khi ông cố gắng áp dụng thuế thu nhập nhưng không thành công. Dưới sự lãnh đạo của ông, Hà Nội cũ được thay một bộ mặt mới hoàn toàn, và quá trình chuyển đổi diễn ra hết sức nhanh chóng. Khi Doumer lên kế hoạch biến Hà Nội thành thủ đô mới của Liên bang Đông Dương, ông nhấn mạnh rằng thành phố này cũng phải đáp ứng được bộ mặt đó. Để thực hiện kế hoạch, một dinh thự mới làm nơi ở của Toàn quyền Đông Dương đã được xây dựng (nay là Phủ Chủ tịch). Phần lớn Hà Nội đã được giải tỏa để nhường chỗ cho nội thành kiểu Pháp mới với những đại lộ rộng rãi rợp bóng cây, những biệt thự kiểu Pháp và những khu vườn được chăm sóc cẩn thận. Khu vực mới này được gọi là "Khu phố Pháp" (Quartier Européen, nay là quận Ba Đình), bởi một số du khách mô tả nó là "một Paris ở bên kia thế giới". Khu vực này của thành phố tương phản rõ rệt với "Khu phố bản địa" (Quartier indigène) chật chội, chật hẹp và hỗn loạn, là nơi cư trú của cả người An Nam bản địa và người Hán.
Năm 1902, thủ đô của Liên bang Đông Dương được chuyển từ Sài Gòn, Nam Kỳ (nay là Thành phố Hồ Chí Minh) ra Hà Nội, và được giữ nguyên như vậy cho đến năm 1945. Khi Paul Doumer đến Hà Nội, ông đã triển khai một số dự án cơ sở hạ tầng lớn, chẳng hạn như cầu Paul Doumer (nay là Cầu Long Biên) bắc qua sông Hồng rộng , và Grand Palais d'Expositions được xây dựng cho Triển lãm Hà Nội năm 1903. Mục đích của những hoạt động này là biến Hà Nội thành nơi thể hiện sứ mệnh văn minh hóa của Pháp ở Đông Dương và cung cấp cho thành phố mạng lưới điện đầu tiên ở châu Á.
Nhiệm vụ y tế công cộng của Pháp và hệ thống xử lý nước thải
Trong số các dự án lớn theo lệnh của Paul Doumer có dự án xây dựng một hệ thống thoát nước ngầm khổng lồ, vừa là biểu tượng cho sự hiện đại của Pháp, vừa giữ cho "Khu phố Pháp" sạch chất thải của con người. Vì nhà vệ sinh được coi là "dấu hiệu của nền văn minh" nên Doumer muốn có nhà vệ sinh có thể xả nước trong mọi cung điện của Pháp. Vào thời điểm Paul Doumer rời đi vào tháng 3 năm 1902, hơn 19 km đường cống đã được xây dựng bên dưới Hà Nội, phần lớn tập trung bên dưới "Khu phố Pháp". Một phần nhỏ hơn của hệ thống thoát nước cũng được xây bên dưới "Khu phố bản địa" của thành phố. Hệ thống thoát nước mới đã giúp chống lại bệnh tả, một căn bệnh do lực lượng viễn chinh Pháp mang từ Algérie sang Hà Nội.
Hệ thống nước thải lớn mới này cũng kéo theo một vấn đề mới mà người Pháp chưa lường trước được, đó là chuột. Trong cống, chuột không có thiên địch tự nhiên nào, và khi đói chúng có thể dễ dàng đột nhập thẳng vào những căn hộ sang trọng nhất thành phố qua "đường cao tốc" ẩn sâu dưới bước chân con người. Điều này gây ra mối lo ngại lớn cho người Pháp cả vì lý do vệ sinh và sự bùng phát của bệnh dịch hạch thể hạch (hay "Cái Chết Đen"). Chỉ vài năm trước đó, tức năm 1894, nhà vi khuẩn học Alexandre Yersin phát hiện ra vi khuẩn Yersinia pestis, và đồng nghiệp của ông là Paul-Louis Simond phát hiện mối liên hệ giữa loài vi khuẩn này với bọ chét tìm thấy trên gặm nhấm. Vì những hiểu biết mới về cách chuột gây ra bệnh dịch hạch, thực dân Pháp trở nên rất quan tâm đến tình hình và nhanh chóng muốn khắc phục tình trạng này.
Đại dịch đương thời
Đại dịch hạch thứ ba bắt đầu vào năm 1855 tại Vân Nam, Trung Quốc, khoảng thời nhà Thanh. Đợt dịch hạch này lan đến tất cả các lục địa có người sinh sống, và cuối cùng giết chết hơn 12 triệu người ở Ấn Độ và Trung Quốc (và có lẽ hơn 15 triệu người trên toàn thế giới). Trong đó, ít nhất 10 triệu người Ấn Độ thiệt mạng, khiến nó trở thành một trong những đại dịch nguy hiểm nhất trong lịch sử.
Năm 1898, Paul-Louis Simond ở thành phố Karachi, Sind, Ấn Độ. Tại đây, mặc dù nguồn lực hạn chế, ông vẫn có thể chứng minh rằng bọ chét truyền vi khuẩn Yersinia pestis, tác nhân gây bệnh dịch hạch thể hạch, từ chuột sang chuột và từ chuột sang người.
Đại dịch hạch lần thứ ba xảy ra cùng thời điểm với lúc Pháp cải tạo Hà Nội. Từ Vân Nam, nó lan tới Quảng Châu và sau đó đến Hồng Kông. Bệnh dịch hạch sau đó lan từ Hồng Kông đến Raj thuộc Anh. Quân đội Hoa Kỳ đã đưa nó đến Manila trong cuộc xâm lược Philippines, một phần ở chiến trường châu Á của Chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha. Năm 1899, nó tấn công Cộng hòa Hawaii, và chính quyền thành phố Honolulu (thủ đô) quyết định thiêu hủy Phố người Hoa. Trước khi bệnh dịch hạch tràn vào thành phố San Francisco của Hoa Kỳ, chính quyền thành phố đã quyết định ban hành chính sách phong tỏa Phố người Hoa. Trong quá trình cách ly, chính quyền thành phố đã thảo luận về việc ban hành "Giải pháp Honolulu" để ngăn chặn căn bệnh này ảnh hưởng đến phần còn lại của thành phố.
Tình hình toàn cầu trở nên nghiêm trọng đối với Hà Nội khi người Pháp báo cáo về sự xâm nhập của chuột ở Khu phố Pháp. Chuột nâu ở Hà Nội có vẻ như đến từ các tàu Trung Quốc, nơi đại dịch bắt đầu. Loài chuột xâm lấn này nhanh chóng phát hiện ra rằng hệ thống cống rãnh mới là một hệ sinh thái lý tưởng và nhanh chóng chiếm lĩnh cơ sở hạ tầng đô thị của Hà Nội. Nhiều báo cáo cho thấy người dân đã phát hiện chuột trèo lên đường ống thoát nước và sau đó thậm chí ra khỏi nhà vệ sinh trong những ngôi nhà Pháp. Nỗi lo sợ về những con mèo mang bệnh dịch do ăn chuột đã tạo ra sự hoảng loạn trong giới y tế, buộc họ phải chấm dứt sự lây nhiễm của chuột trước khi thành phố "vỡ trận".
Chính sách
Nhu cầu lụa suy yếu khi Pháp hoàn thành tuyến đường sắt giữa Côn Minh, Vân Nam và Hà Nội, nhưng lại mở ra một thị trường mới cho thuốc phiện. Vân Nam là vùng sản xuất thuốc phiện lớn, và Pháp muốn tận dụng tuyến Vân Nam – Hải Phòng để cung hàng cho tô giới Pháp ở Thượng Hải. Paul Paul Doumer biến Liên bang Đông Dương thành một "quốc gia ma túy" (narco-state) và nâng doanh thu của Đông Dương từ liên tục thua lỗ lên có lãi. Nhưng điều này cũng làm cho thuộc địa này phụ thuộc kinh tế lẫn nhau với Đế quốc Trung Hoa. Theo đó, hàng hóa Trung Quốc, thương nhân Trung Quốc và người lao động Trung Quốc trở thành "máu sống" của Liên bang Đông Dương. Do Liên bang quá phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, thực dân Pháp thường tuyên bố rằng cả họ và người bản xứ đều không chịu trách nhiệm về nó vì người Trung Quốc đã kiểm soát có hiệu quả mọi chuyện, trong khi những người khác gọi người Trung Quốc theo một cách tiêu cực là "người Do Thái ở châu Á".
Suốt thời Đệ Nhị Đế chế Pháp của Napoléon III, Pháp là một quốc gia kỹ trị độc tài. Nhưng sau khi Đệ Nhị Đế chế sụp đổ, Đệ Tam Cộng hòa mới đi theo chủ nghĩa tiến bộ, và các nhà kỹ trị, vốn có quyền tự do kiểm soát trong Đế chế, đã thất vọng trước những ràng buộc dân chủ mới đặt ra cho họ. Nhiều nhà kỹ trị trong số này đã bị Đế quốc thực dân Pháp lôi kéo và cho phép họ có thể tham gia vào các thử nghiệm xã hội rộng rãi mà không sợ bị phản đối hoặc dư luận tiêu cực, bởi họ có thể sử dụng quân đội để thực thi chính sách của mình. Ở Hà Nội, điều này dẫn tới một sự đổi mới toàn diện của thành phố dựa trên sự hiện đại của Pháp.
"Khu phố Pháp" nằm ngay cạnh 36 phố phường Hà Nội. Mà trong quan điểm của Pháp, 36 phố phường là nơi cũ kỹ và bẩn thỉu. "Khu phố bản địa" có nhiều ao hồ, đường đi chủ yếu là đường đất, khi trời mưa thì lầy lội, nhà cửa tồi tàn, hầu hết là lợp tranh. Ngược lại, "Khu phố Pháp" có đường rộng, cây xanh và những biệt thự rộng lớn màu trắng. Khoảng 90% dân số Hà Nội sống ở "Khu phố bản địa" chỉ chiếm 1/3 diện tích bề mặt, trong khi "Khu phố Pháp" và một quận hành chính và quân sự ở phía tây chỉ có 10% dân số thành phố, nhưng lại chiếm tới 2/3 diện tích. Điều này biến Hà Nội trở thành một "thành phố kép thuộc địa" điển hình, nơi tầng lớp thượng lưu thuộc địa được hưởng lối sống sang trọng rộng rãi, trong khi người dân bản địa thuộc địa lại sống trong các khu ổ chuột chật chội có từ trước khi bị thuộc địa hóa.
Trong thời kỳ đầu Pháp cai trị Liên bang Đông Dương, các quan chức thuộc địa hầu như không biết gì về những căn bệnh nhiệt đới mà họ sắp gặp phải. Khi dịch bệnh đậu mùa, tiêu chảy, bệnh Dengue, giang mai,... bùng phát, họ chẳng thể làm gì khác ngoài dựng lên rào cản giữa họ và người bản xứ. Người Pháp coi đế quốc thực dân của họ là Sứ mệnh khai hóa văn minh và coi việc cải tạo đô thị Hà Nội là một hành động để "chống lại dịch bệnh".
Trong những năm 1890, Hà Nội được trang bị hệ thống thoát nước hiện đại sử dụng công nghệ mới nhất và có hệ thống nước ngọt riêng. Việc tiếp cận các nguồn tài nguyên này được phân chia khá chặt chẽ giữa các chủng tộc, vì hệ thống chỉ phục vụ các khu vực người da trắng, trong khi rất ít người châu Á thực sự được tiếp cận những lợi ích từ cơ sở hạ tầng đô thị mới của thành phố. Trong khi các biệt thự kiểu Pháp mới xây có cả hệ thống nước sinh hoạt và nhà vệ sinh xả nước hiện đại, hầu hết cư dân người Việt và người Hoa trong thành phố cư trú trong "Khu phố bản địa" phải lấy nước từ các đài phun nước công cộng. Chất thải của con người thường thấy trong các đài phun nước công cộng này được những người thu gom đất đêm loại bỏ trước bình minh. Thay vì hệ thống cống rãnh phù hợp, "Khu phố bản địa" chỉ có hệ thống ống máng.
Ngày 8 tháng 1 năm 1902, Yersin được Toàn quyền Đông Dương, tổng thống tương lai của Pháp, Paul Doumer, bổ nhiệm làm Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao đẳng Y khoa Đông Dương. Yersin, cũng như một số chuyên gia y tế khác ở Hà Nội, lo ngại về bệnh dịch hạch đến từ miền nam Trung Quốc trên các tuyến tàu hơi nước mới được thành lập.
Vì nguồn gốc của bệnh dịch hạch là ở Vân Nam, người Pháp đã phỉ báng Trung Quốc và người Trung Quốc.
Kế hoạch ban đầu
Khi bắt đầu chiến dịch vào tháng 4 năm 1902, Toàn quyền Đông Dương đã thuê những người Việt Nam chuyên bắt chuột. Những người này sẽ xuống cống để săn chuột và được trả tiền cho mỗi con chuột mà họ diệt được.
Vào tuần cuối cùng của tháng 4, có tin những người bắt chuột đã giết được 7.985 con chuột. Các "sát thủ" tiếp tục tích lũy kinh nghiệm trong tháng 5, đẩy số chuột chết lên đến hơn 4.000 con mỗi ngày. Đến cuối tháng 5, con số thậm chí còn cao hơn. Chỉ riêng trong ngày 30 tháng 5, họ báo cáo đã giết được 15.041 con chuột. Vào tháng 6, số lượng chuột giết hàng ngày lên tới 10.000, đỉnh điểm là ngày 21 tháng 6 với 20.112 con. Sự thành công của những người bắt chuột chuyên nghiệp này ngay lập tức giúp giảm số ca tử vong do các bệnh do gặm nhấm gây ra. Mặc dù báo cáo cho thấy số lượng chuột bị giết rất cao, người Pháp nhận ra rằng các dịch vụ kiểm soát sinh vật gây hại chuyên nghiệp không làm giảm số lượng chuột vì chuột có thể sinh sản nhanh chóng, vì vậy họ đã tìm kiếm các biện pháp thay thế để thử và giảm bớt số lượng chuột trong thành phố.
Những người được thuê để săn chuột trong cống bắt đầu không hài lòng với tình cảnh của họ. Họ thấy môi trường làm việc phức tạp và nguy hiểm của mình bị bao phủ bởi đủ loại rác thải, phân người, ô uế và phải đối phó với những động vật nguy hiểm như rắn và rết, trong khi tiền công lại quá thấp so với công sức họ đã bỏ ra. Tháng 7 năm 1902, Tiến sĩ Serez báo cáo với cấp trên rằng ông đang gặp rắc rối với người dân địa phương trong chiến dịch diệt chuột, khi họ bắt đầu đình công yêu cầu tăng lương. Theo VNEconomics, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn tuyên bố rằng vào năm 1904, chính quyền đã tăng hoa hồng cho mỗi con chuột bị giết lên 4 xu. Nguyễn Văn Tuấn ghi chú thêm rằng trong chiến dịch, tổng cộng 55.000.000 con chuột được báo cáo là đã bị thủ tiêu.
Trong khi Đế quốc thực dân Pháp tự coi mình là một chính quyền kỹ trị hiện đại và quản lý các thuộc địa của mình dựa trên việc lưu trữ hồ sơ và thống kê cứng nhắc cũng như một kho dữ liệu khổng lồ, dữ liệu do các nhà kỹ trị thu thập thường không đáng tin cậy. Tất cả dữ liệu do người Pháp thu thập từ số liệu dân số của thành phố, số ca bệnh dịch hạch cho đến số chuột chết hàng ngày chỉ là những dự đoán tốt nhất. Vì vậy, số lượng chuột bị giết được báo cáo có thể không phản ánh số lượng chuột thực tế bị giết.
Vì "Khu phố Pháp" thường được coi là "khu vực văn minh của Hà Nội" với các khu dân cư sạch sẽ, cuộc săn lùng này cũng gây ra những tác động xã hội tiêu cực đối với cư dân ở đây. Theo báo cáo của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương ngày 9 tháng 6, cư dân Pháp liên tục gặp phải những kẻ bắt chuột bản địa chui lên từ vô số hố ga ở "Khu phố Pháp", trên người phủ đầy rác rưởi. Ngoài ra, việc những người này mang theo hàng trăm xác chuột chết đẫm máu và bốc mùi hôi thối khiến nhiều người dân lên tiếng phàn nàn về hoạt động này.
Kế hoạch B
Khi chính quyền Pháp nhận thấy rằng quá trình tiêu diệt chuột diễn ra không đủ nhanh, họ chuyển sang Kế hoạch B và kêu gọi tất cả người dân tham gia diệt chuột. Phần thưởng được đưa ra là 1 xu cho mỗi con chuột. Dân thường chỉ phải nộp cái đuôi chuột cho văn phòng thành phố vì Pháp không muốn bị quá tải bởi xác chuột. Pháp cho rằng đây là một ý tưởng hay vì họ đã có chính sách khuyến khích tinh thần khởi nghiệp ở Việt Nam. Ban đầu, kế hoạch mới dường như có hiệu quả bởi đuôi chuột liên tục được chuyển về. Nhưng sau đó, một hậu quả không lường trước đã xuất hiện. Những người Việt được thuê để giết chuột sớm nhận ra rằng việc săn chuột lại ít có khả năng nhận được phần thưởng trong tương lai. Suy cho cùng, họ cần lũ chuột sinh sản nhiều chuột có đuôi hơn vì chúng sẽ trở thành nguồn thu nhập trong tương lai.
Người Pháp nhanh chóng phát hiện những con chuột không đuôi còn sống chạy loanh quanh. Những người săn chuột đã cắt bỏ đuôi của chúng rồi thả chúng trốn thoát để chúng có thể sinh sản và tạo ra nhiều con chuột có đuôi hơn, để rồi sau đó lặp lại quá trình này. Hơn nữa, cũng có thông tin cho rằng một số người Việt Nam cố tình buôn lậu chuột từ nước ngoài vào thành phố. "Giọt nước tràn ly" khi các thanh tra y tế Pháp phát hiện những trang trại nuôi chuột mọc lên ở ngoại ô Hà Nội. Việc nuôi chuột lấy đuôi biến nơi đây thành một "nhà máy sinh đuôi". Vì các chính sách của Pháp đã không đạt được mục tiêu, mà trên thực tế còn khiến vấn đề chuột trở nên tồi tệ hơn ở Hà Nội, họ đã hủy bỏ chương trình tiền thưởng.
Hậu quả
Sau khi chiến dịch kết thúc thất bại, lũ chuột giờ đây đông đảo hơn bao giờ hết, tiếp tục nô đùa bên dưới thành phố và người Pháp đành cam chịu sống chung với chúng.
Cựu Toàn quyền Paul Doumer muốn tổ chức Triển lãm Hà Nội (triển lãm quốc tế về thuộc địa) như một dịp để phô trương Hà Nội là một thành phố văn minh và vệ sinh, coi đây là một thắng lợi của chính phủ Pháp. Triển lãm Hà Nội kéo dài từ năm 1902 đến năm 1903, và trong thời gian diễn ra, hàng hóa từ khắp nơi trên thế giới đổ về Hà Nội. Điều này làm tăng thêm gánh nặng bệnh tật cho Hà Nội, vì chuột ngoại lai mang mầm bệnh di chuyển cùng với hàng hóa. Đến năm 1903, có 159 người nhiễm bệnh dịch hạch, trong đó có 110 người chết. Phần lớn nạn nhân là người Việt bản địa, chỉ có 6 thực dân Pháp nhiễm bệnh, trong đó 2 người đã tử vong. Một trong những nguyên nhân khiến số người Việt Nam tử vong cao hơn là vì họ giữ bí mật về người nhà bị bệnh, vì họ sợ nếu chính quyền biết được sẽ đến kiểm tra, can thiệp.
Bệnh dịch hạch tiếp tục lan rộng trong những năm tiếp theo. Năm 1906, một trận dịch bùng phát ở Bắc Kỳ đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế khu vực. Do tác động của suy thoái kinh tế do dịch bệnh, rất nhiều người dân vùng nông thôn Bắc Kỳ đã di cư ra Hà Nội, nơi họ trở thành người ăn xin vô gia cư. Trong những năm 1906–1908, các quan chức y tế Pháp ghi nhận chính thức 263 trường hợp tử vong do bệnh dịch hạch. Do đó, chính quyền đã quyết định thực hiện các biện pháp chống dịch khác và kiểm soát vệ sinh chặt chẽ hơn tại 36 phố phường của "Khu phố bản địa". Chính quyền Pháp nhận ra rằng họ chỉ có thể ngăn chặn đại dịch thông qua các biện pháp y tế công cộng mạnh tay và thường mang tính xâm lấn nhằm ngăn chặn nó lây lan thêm, sau khi dịch đã được xác định. Các biện pháp này bao gồm cách ly người bệnh trong các nhà nghỉ, thiêu hủy đồ đạc và thường là nhà của những người bị phát hiện nhiễm bệnh, đồng thời tịch thu xác chết. Những biện pháp chặt chẽ hơn này đã thành công trong việc giảm sự lan rộng bệnh dịch trong thành phố. Người Pháp tiếp tục thực thi các biện pháp này sau đại dịch, vì người bản xứ không có thói quen vệ sinh cá nhân mà người Pháp mong muốn họ có được. Điều này phản ánh nền chính trị chủng tộc vào thời đó, vì thái độ tương tự tồn tại ở những nơi như Cộng hòa Nam Phi, Ấn Độ, Hoa Kỳ và Hồng Kông. Tuy nhiên, những biện pháp này không được phổ biến lắm, mà còn khiến người dân địa phương tức giận.
Năm 1998, chính quyền Việt Nam quyết định đóng cửa các nhà hàng bán thịt mèo, được quảng cáo là "thịt tiểu hổ", vì họ cho rằng nếu số lượng mèo giảm, chuột sẽ xâm chiếm ruộng lúa. Điều này thể hiện tâm lý tương tự như người Pháp gần một thế kỷ trước đó.
Tham khảo
Nguồn
Logan, William Stewart. Hanoi, Biography of a City, Seattle, Washington: University of Washington Press, 2000.
Vann, Michael G.: The Great Hanoi Rat Hunt: Empire, Disease And Modernity In French Colonial Vietnam, Oxford University Press, 2018.
Lịch sử Hà Nội
Việt Nam thập niên 1900
Liên bang Đông Dương
Kiểm soát loài gây hại
Y tế Việt Nam
|
19835727
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20Ho%C3%A0i%20B%E1%BA%AFc
|
Lê Hoài Bắc
|
Lê Hoài Bắc (sinh ngày 21 tháng 3 năm 1963) là một Giáo sư, Tiến sĩ ngành Công nghệ thông tin chuyên nghiên cứu về các lĩnh vực như máy học, trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu. Không chỉ là tác giả của nhiều bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí, kỷ yếu khoa học trong và ngoài nước, ông còn là tác giả của nhiều cuốn sách giáo trình cho ngành công nghệ thông tin. Ông được bổ nhiệm chức danh Giáo sư vào năm 2019 và được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 2020.
Cuộc đời
Lê Hoài Bắc sinh ngày 21 tháng 3 năm 1963, quê quán tại xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1984, ông bắt đầu công việc giảng dạy tại khoa Toán, Trường Đại học Quy Nhơn. Sau khi hoàn thành bằng Đại học chuyên ngành Toán học tại Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn, ông chuyển công tác vào thành phố Hồ Chí Minh và tiếp tục giảng dạy tại Trường Đại học Tổng hợp vào năm 1991. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu, ông đã hoàn thành bằng Thạc sĩ chuyên ngành Tin học tại Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội vào tháng 3 năm 1993. Năm 1996, ông chuyển công tác sang khoa Công nghệ thông tin của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian công tác, ông đã tiếp tục nghiên cứu và bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ ngành Toán học, chuyên ngành Đảm bảo toán học cho máy tính và hệ thống tính toán vào tháng 6 năm 2000. Đến nay, ông đã là Trưởng bộ môn Khoa học máy tính, Phó Trưởng khoa Công nghệ Thông tin của trường.
Năm 2017, 8 hội đồng khoa học ngành trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật được thành lập bao gồm: Toán học, Khoa học thông tin và Máy tính, Vật lý, Hóa học, các Khoa học Trái Đất và môi trường, Sinh học và Nông nghiệp, Cơ học, Y sinh – Dược học. Trong đó Giáo sư, Tiến sĩ Lê Hoài Bắc là 1 trong 9 thành viên của Hội đồng Khoa học ngành Khoa học thông tin và Máy tính. Năm 2020, ông được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Cũng trong năm này, thành phố Hồ Chí Minh ra mắt Hội đồng tư vấn chương trình ứng dụng trí tuệ nhân tạo, giáo sư Lê Hoài Bắc là 1 trong 18 thành viên của hội đồng. Ông hiện là thành viên hội đồng giáo sư ngành Công nghệ thông tin, cũng là một trong 10 giáo sư đầu tiên của ngành.
Tác phẩm
Nghiên cứu khoa học
Tiêu biểu
Đạt giải thưởng
Sách
Thành tựu
Danh hiệu
Phó Giáo sư (2005)
Nhà giáo Ưu tú (2012)
Giáo sư (2019)
Nhà giáo Nhân dân (2020)
Là thành viên của các tổ chức học thuật:
Hội đồng đánh giá của Tạp chí quốc tế về Trí tuệ ứng dụng (International Journal of Applied Intelligence).
Hội đồng Khoa học ngành Khoa học thông tin và Máy tính của Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Hội đồng tư vấn chương trình ứng dụng trí tuệ nhân tạo của thành phố Hồ Chí Minh.
Hội đồng Giáo sư Nhà nước ngành Công nghệ thông tin.
Huân chương, khen thưởng
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (2005)
Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2005)
Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Khuyến học (Ban chấp hành trung ương Hội Khuyến học Việt Nam, 2014)
Huân chương Lao động hạng Nhì (2017)
Giải thưởng
Chú thích
Tham khảo
Người Quảng Ngãi
Nhà giáo Nhân dân
Giáo sư Việt Nam
Tiến sĩ Công nghệ thông tin Việt Nam
Ủy viên Hội đồng Giáo sư Nhà nước Việt Nam nhiệm kì 2018–2023
Giảng viên đại học tại Việt Nam
|
19835734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/George%20Somers
|
George Somers
|
George Somers (24 tháng 4 năm 1554 – 9 tháng 11 năm 1610) là một truyền trưởng của đội tàu tư nhân, đô đốc hải quân và là anh hùng của Hải quân Hoàng gia Anh, được phong tước hiệp sĩ vì thành tích của mình và là Đô đốc của Công ty Virginia ở Luân Đôn. Ông đã đạt được danh tiếng khi tham gia đoàn thám hiểm do Ngài Amyas Preston dẫn đầu đã cướp bóc Caracas và Santa Ana de Coro vào năm 1595, trong Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha (1585–1604) không được tuyên bố. Ngày nay ông được nhớ đến với tư cách là người sáng lập thuộc địa Bermuda của Anh, nơi này còn được gọi là Quần đảo Somers.
Sự nghiệp
Somers sinh ra ở Lyme Regis, Dorset vào năm 1554, là con trai của John Somers và vợ. Ngay từ khi còn trẻ, ông đã trở thành một thủy thủ nổi tiếng lành nghề và sở hữu ít nhất một con tàu, Julian, có cảng quê hương là Lyme Regis. Chuyến phiêu lưu đầu tiên của Somers là chỉ huy con tàu Flibcote, cùng với ba tàu khác trong Chiến tranh Anh-Tây Ban Nha (1585–1604) không được công bố, trong một cuộc đột kích vào Tây Ban Nha; ông đã mang về nhà những chiến lợi phẩm trị giá hơn 8.000 bảng Anh.
Tham khảo
Thư mục
Dwyer, Jack. 2009. Dorset Pioneers, The History Press
Glover, Lorri and Daniel Blake Smith. The Shipwreck That Saved Jamestown: The Sea Venture Castaways and the Fate of America, New York: Henry Holt & Co., 2008
Mayden, David. 1998. Wars of the Americas: A Chronology of Armed Conflict in the New World, 1492 to the Present. Editorial ABC-CLIO.
Raine, David. Sir George Somers: A Man and his Times
Sinh năm 1554
Mất năm 1610
Người Anh thế kỷ 16
Người Anh thế kỷ 17
Hiệp sĩ Bachelor
Đô đốc Hải quân Hoàng gia
|
19835740
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mukawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Mukawa, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Yūfutsu, phó tỉnh Iburi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.651 người và mật độ dân số là 46 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 166,43 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835749
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minh%20T%C3%A2m%20%28ngh%E1%BB%87%20s%C4%A9%29
|
Minh Tâm (nghệ sĩ)
|
Minh Tâm có tên đầy đủ Nguyễn Minh Tâm (1931 – 2019) là nam nghệ sĩ thiết kế âm thanh, tiếng động của điện ảnh Việt Nam, ông tham gia sản xuất hơn 2000 tác phẩm từ điện ảnh, phim dài tập đến các phim tài liệu; ông cũng tham gia đóng vai quần chúng trong một vài bộ phim. Ông được mệnh danh là "ông vua tiếng động" đất Bắc.
Tiểu sử
Minh Tâm có tên đầy đủ là Nguyễn Minh Tâm, sinh ngày 7 tháng 4 năm 1931 trong một gia đình tiểu thương tại Trát Cầu, Thường Tín, Hà Nội.
Sự nghiệp
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, sau khi hoàn thành trách nhiệm và nghĩa vụ của lần đi bầu cử đầu tiên, ông đã sáng tác ca khúc "Đuốc gươm thiêng". Minh Tâm đã đưa ca khúc đến chỗ Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền và cổ động Trần Huy Liệu để giới thiệu bài hát. Ngay sau đó Minh Tâm được yêu cầu cùng dàn nhạc của nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên tập ngay để hát chào mừng Quốc hội. Buổi biểu diễn được tổ chức tại khu Đông Dương học xá – Đại học Bách khoa. Tại đây Minh Tâm được gặp trực tiếp Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Minh Tâm sau này nhập ngũ vào Trung đoàn 52, tham gia mặt trận Tây Tiến trong Chiến tranh Đông Dương, rồi cùng đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản Thủ đô năm 1954. Thời kỳ công tác tại Xưởng phim truyện Việt Nam, ban đầu ông là diễn viên lồng tiếng, cho đến khi Xưởng phim thiếu người làm tiếng động, ông được nhắm phụ trách công việc này. Sau thời gian học nghề từ nghệ sĩ Ngô Nam, năm 1970, Minh Tâm chính thức làm bắt đầu với công việc tạo tiếng động. Ông tham gia tạo tiếng động cho bộ phim đầu tiên của điện ảnh Việt Nam Chung một dòng sông và các phim điện ảnh Việt Nam kinh điển khác như Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Đêm hội Long Trì, Đến hẹn lại lên... Minh Tâm đã được gọi là "Vua tiếng động", ngoài việc có quá ít người theo đuổi lĩnh vực này, còn bởi ông là người đam mê và rất sáng tạo.
Không được học trường lớp bài bản, ông một mình trong buồng tối tự hình dung, mày mò và tìm cách tạo ra những âm thanh sao cho khớp với hình trên phim nhất. Thời gian đầu, ông căng thẳng đến mức cảm thấy bị ức chế.
Từ những năm 1990, khi Minh Tâm về hưu cũng là thời điểm phim truyền hình nở rộ, ông bắt đầu biên soạn tài liệu về lồng tiếng, tiếng động cho phim. Ông giảng dạy nghệ thuật làm tiếng động cho các Đài Truyền hình trong nước, Nguyễn Mạnh Kiên và NSƯT Minh Thu là hai học trò xuất sắc của ông. Sau khi về hưu, nghệ sĩ Minh Tâm vẫn tiếp tục tạo tiếng động cho nhiều bộ phim khác cho đến khoảng năm 2011. Tính đến năm 2001, ông đã tạo tiếng động cho hơn 2000 tác phẩm.
Qua đời và di sản
Nghệ sĩ Minh Tâm qua đời ngày 5 tháng 11 năm 2019 vì tuổi cao sức yếu. Cô con gái của ông – nghệ sĩ Minh Thu sau này đã theo nghề tiếng động vì ngưỡng mộ bố. Ban đầu ông không đồng ý để con nối nghiệp mình vì lo con gái theo nghề này sẽ vất vả. Nhưng đến năm 1985, khi sang Liên Xô làm tiếng động cho bộ phim Tọa độ chết do Samven Gasparov đạo diễn, nghệ sĩ Minh Tâm chứng kiến bộ phim có tới 4 người phụ nữ tham gia làm tiếng động, ông thay đổi định kiến, đồng ý để cô con gái mình theo nghề.
Ngày 1 tháng 11 năm 1991, ông viết lá thư 3 trang gửi lên Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin, lúc đó là ông Trần Hoàn. Trong thư ông đề nghị nên cho thành lập khoa “Nghệ thuật âm thanh” trong trường đại học Sân khấu điện ảnh. Cùng ngày, ông nhận được công văn thông báo đã chuyển thư của ông cho Cục Điện ảnh xem xét. Qua 3 đời cục trưởng nhưng chưa ai quan tâm tới những đề xuất của “ông vua tiếng động”.
Tác phẩm
Nghệ sĩ Minh Tâm tham gia tạo âm thanh / tiếng động cho hơn 2000 tác phẩm thuộc nhiều định dạng khác nhau: phim điện ảnh, phim dài tập, phim tài liệu...
Tham khảo
Sinh năm 1931
Mất năm 2019
Người Hà Nội
|
19835753
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%C3%A2n%20ch%C6%B0%C6%A1ng%20Qu%E1%BB%91c%20quang
|
Huân chương Quốc quang
|
Huân chương Quốc quang () là huân chương quân sự cao nhất của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc, quân đội Đài Loan. Huân chương được thành lập vào ngày 8 tháng 11 năm 1937.
Chú thích
Quân đội Trung Hoa Dân Quốc
|
19835760
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20La%20Man
|
Người La Man
|
Người La Man (Lamanites) là một trong bốn dân tộc cổ xưa cùng với dân Gia Rết (Jaredites), Mơ Lếch (Mulekites) và người Nê Phi (Nephites) được mô tả là đã định cư ở châu Mỹ cổ đại (xứ Phong Phú) vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Điều này đã được ghi chép theo sách Mặc Môn, một văn bản thiêng liêng của phong trào Thánh Hữu Ngày Sau. Dân La Man cũng đóng một vai trò trong những lời tiên tri và mặc khải của Giáo Lý và Giao Ước, một văn bản thiêng liêng khác trong phong trào Thánh Hữu Ngày Sau. Trong câu chuyện của sách Mặc Môn, dân La Man bắt đầu là đối thủ tàn ác của dân Nê Phi công chính hơn, nhưng khi nền văn minh Nê Phi trở nên suy đồi, nó mất đi ân huệ thiêng liêng và bị dân La Man tuyệt diệt. Các tín nhân Thánh Hữu Ngày Sau trong lịch sử đã liên hệ người La Man với các nền văn hóa Người Mỹ bản địa ngày nay.
Ngày nay, nhiều tín nhân Thánh Hữu Ngày sau vẫn coi người Polynesia và người bản địa ở Châu Mỹ khác là người La Man. Một bài báo trên tạp chí Giáo hội năm 1971 tuyên bố rằng người La Man bao gồm người da đỏ ở khắp châu Mỹ cũng như cư dân các đảo ở Thái Bình Dương. Phần giới thiệu không chính thống về ấn bản Sách Mặc Môn của Giáo hội LDS năm 1981 nói rằng "người La Man là tổ tiên chính của người Mỹ da đỏ". Cách diễn đạt đã được thay đổi trong ấn bản Doubleday năm 2006 và các ấn bản tiếp theo do Giáo hội LDS xuất bản, chỉ nói rõ rằng người La Man "là một trong những tổ tiên của người Mỹ da đỏ". Trong Sách Mặc Môn, người Lan Man được mô tả là có làn "da đen" để phân biệt họ với người Nê Phi. Sự thay đổi màu da này thường được nhắc đến cùng với lời nguyền của Chúa đối với con cháu của La Man vì sự độc ác và sa đọa của họ.
Dẫn luận
Theo Sách Mặc Môn thì có một nhóm các hộ gia đình của Lê Hi (Lehi), được mô tả là một nhà tiên tri Do Thái giàu có; gia đình Ishmael và Zoram đã di cư từ Trung Đông đến Châu Mỹ (xứ Phong Phú) bằng thuyền vượt biển vào khoảng năm 600 trước Công Nguyên. Một thời gian sau khi Lê-hi chết ở châu Mỹ, con trai của Lê Hi là Nê Phi lo ngại rằng các anh của ông là Laman và Lê Mu Ên đang âm mưu giết ông và vì vậy ông đã âm mưu giết cả gia đình ông và những người theo ông rời đi và đi vào vùng hoang dã. Những người đi theo Nê Phi tự gọi mình là "người Nê Phi" và gọi những người khác là "dân La Man" lấy theo tên La Man là người anh cả của Nê Phi. Sau khi hai nhóm tách ra khỏi nhau, dân La Man phản loạn đã bị nguyền rủa và "bị khai trừ khỏi sự hiện diện của Chúa". Sau khi hai nhóm gây chiến trong nhiều thế kỷ, câu chuyện kể rằng Chúa Giê Su Ky Tô đã hiện đến với dân Nê Phi và dân La Man ngay chính hơn, là những người mà đến lúc đó đã cải đạo với số lượng lớn sang sự công chính trước mặt Chúa.
Ngay sau chuyến viếng thăm của Chúa Giê Su thì dân La Man và dân Nê Phi đã hợp nhất thành một quốc gia và cùng tồn tại trong hòa bình trong suốt hai thế kỷ. Sách Mặc Môn kể lại thêm: "Không có kẻ cướp hay kẻ giết người, cũng không có người La Man, cũng không có bất kỳ người thuộc tầng lớp nào; nhưng họ là một, con cái của Đấng Ky Tô, và những người thừa kế vương quốc của Thượng Đế". Tuy nhiên, đến 84 năm sau khi Đấng Christ giáng lâm thì đã có "một bộ phận nhỏ dân chúng đã phản nghịch giáo hội" lại bắt đầu tự gọi mình là người La Man. Những người ở lại một lần nữa được xác định là người Nê Phi, nhưng cả hai nhóm đều được cho là đã rơi vào tình trạng bội giáo. Sách Mặc Môn kể lại một loạt trận chiến lớn trong hai thế kỷ, kết thúc bằng sự kiện dân La Man tuyệt diệt dân Nê Phi.
Về mặt lịch sử, người Mặc Môn đã xác định người La Man chính là tổ tiên của người da đỏ Bắc Mỹ. Một số ấn phẩm của giáo phái lớn nhất trong phong trào Thánh Hữu Ngày Sau-The Church of Jesus Christ of Latter-day Saints (Giáo hội LDS) đã chấp nhận quan điểm này. Những người Mặc Môn thời kỳ đầu mong đợi một số lượng lớn người da đỏ Mỹ bản địa cải đạo sẽ đổ về Zion. Sau khi điều này không xảy ra, khái niệm người La Man bắt đầu mở rộng để chỉ về tất cả người dân bản địa châu Mỹ, rồi sau khi một số lượng lớn người Polynesia cải đạo, khái niệm này đã mở rộng để bao hàm cả những người Polynesia. Lời tường thuật trong kinh thánh về Hagoth đã được sử dụng để biện minh cho mối liên hệ này. Sự tồn tại của một quốc gia La Man không nhận được sự đồng trợ nào từ khoa học chính thống hoặc khảo cổ học. Các nghiên cứu di truyền chỉ ra rằng người Mỹ bản địa có liên quan đến những giống dân hiện tại ở Mông Cổ, Siberia và vùng lân cận ở Viễn Đông, còn và người Polynesia thì lại đến từ Đông Nam Á. Có ý kiến coi người La Man là một bộ tộc nhỏ trong số nhiều bộ tộc ở Châu Mỹ cổ đại, phần còn lại không được thảo luận trong sách Mặc Môn; hoặc một bộ tộc kết hôn với người Mỹ bản địa; hoặc một bộ tộc có nguồn gốc từ những người châu Á hiện đại từ tổ tiên du mục chung nhưng đã tách ra trước khi Lê Hi rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
Những ghi chép
Một vị tiên tri người La Man trong Sách Mặc Môn được Chúa sai đi thuyết giảng và cảnh cáo dân Nê Phi ngay trước khi Đấng Cứu Rỗi giáng sinh. Sa Mu Ên nói tiên tri về những điềm triệu liên quan đến sự giáng sinh và cái chết của Chúa Giê Su Ky Tô và về sự hủy diệt của dân Nê Phi (HLMan 13–16). Dân La Man tuân giữ các giáo lệnh của Thượng Đế. Họ trở nên ngay chính hơn dân Nê Phi. Sa Mu Ên bắt đầu giảng dạy dân La Man. Ông không bao giờ được nghe nói đến nữa giữa dân Nê Phi. Các con trai của Mô Si A giảng dạy phúc âm cho dân La Man. Hàng ngàn người dân La Man hối cải và gia nhập giáo hội (An Ma 23:4–5). Những người dân La Man mà gia nhập giáo hội tự gọi mình là dân An Ti-Nê Phi-Lê Hi, hay dân của Am Môn. Họ là những người dân tốt và siêng năng (An Ma 23:17–18; An Ma 27:26). Dòng dõi của Nê Phi (dân Nê Phi) và dòng dõi của các anh của ông (dân La Man) trở thành hai dân tộc văn minh (Нифайн үр удам (Нифайчууд) болон ах нарынх нь үр удам (Леменчүүд) агуу үндэстэн болов).
Những người dân La Man mà không hối cải tức giận dân của Am Môn và chuẩn bị đánh họ (An Ma 24:1–2). Dân của Am Môn biết rằng những người dân La Man tà ác sẽ đến giết họ nhưng quyết định không đánh trả lại. Họ hối cải việc giết người (An Ma 24:5–6). Họ chôn sâu vũ khí trong lòng đất và hứa với Thượng Đế rằng họ sẽ không bao giờ giết người nữa (An Ma 24:17–18). Khi dân La Man tà ác đến và bắt đầu chém giết họ, họ cúi đầu xuống đất và cầu nguyện (An Ma 24:21). Khi thấy rằng dân của Am Môn không chống trả lại, nhiều người dân La Man tà ác ngừng chém giết họ (An Ma 24:23–24). Dân La Man hối hận vì đã giết người. Họ liệng khí giới mình xuống và gia nhập với dân Am Môn. Họ không tranh chiến nữa (An Ma 24:24–27). Nhiều người dân La Man nữa đến giết dân của Am Môn. Họ vẫn không chống trả và nhiều người đã bị giết chết (An Ma 27:2–3).
Theo Hê La Man 4–6 Một đạo quân Nê Phi ly khai và dân La Man đánh chiếm tất cả các vùng đất phía nam của dân Nê Phi, kể cả Gia Ra Hem La. Dân Nê Phi trở nên yếu đuối vì sự tà ác của họ. Nê Phi trao ghế xét xử cho Kê Giô Ram. Nê Phi và Lê Hi nhớ những lời của cha họ, Hê La Man, và họ hiến thân mình cho việc thuyết giảng phúc âm. Nhiều người ly khai đã hối cải và trở lại với dân Nê Phi. Sau khi Chúa bảo vệ Nê Phi và Lê Hi trong tù một cách kỳ diệu, đa số dân La Man được cải đạo và trả lại những vùng đất mà họ đã chiếm đóng cho dân Nê Phi. Trong một thời kỳ thịnh vượng, bọn cướp Ga Đi An Tôn gia tăng gấp bội. Nhiều người dân Nê Phi tham gia vào sự tà ác của chúng, dẫn đến sự thối nát của chính quyền Nê Phi. Hê La Man 13–16 Sa Mu Ên người La Man cảnh báo dân Nê Phi phải hối cải, nói tiên tri về cuộc hủy diệt cuối cùng của họ và báo trước điềm triệu kèm theo sự giáng sinh và cái chết của Chúa Giê Su Ky Tô. Những ai tin lời của ông đều chịu phép báp têm. Tuy nhiên, đa số dân chúng khước từ Sa Mu Ên và gạt bỏ những điềm triệu cũng như những điều kỳ diệu đã được ban cho.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Gordon C. Thomasson, "Lamanites", Neal A. Maxwell Institute for Religious Scholarship, byu.org
Sidney B. Sperry, "An Answer to Budvarson's Criticisms of the Book of Mormon", Chapter XXIV (addressing the converted Lamanites' skin turning white), shields-research.org
Foundation for Apologetic Information and Research (FAIR), "Topical Guide: DNA and the Book of Mormon", fairlds.org
Michael R. Ash, "Who Are the Lamanites", fairlds.org
"A White Pure and Delightsome People", Salt Lake City Messenger, Oct. 1981, utlm.org
LDS General Authorities on Native Americans from Mormonthink.com
Mặc Môn giáo
|
19835769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0ng%20c%E1%BA%A7u%20d%C3%A2n%20%C3%BD%20ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20Nga%201993
|
Trưng cầu dân ý chính phủ Nga 1993
|
Một cuộc trưng cầu dân ý gồm bốn phần đã được tổ chức tại Nga vào ngày 25 tháng 4 năm 1993. Cử tri được hỏi về mức độ tín nhiệm đối với Tổng thống Boris Yeltsin, sự ủng hộ đối với các chính sách kinh tế xã hội của chính phủ và bầu cử sớm cho cả tổng thống và nghị viện. Cuộc trưng cầu dân ý được khởi xướng bởi Đại hội Đại biểu Nhân dân, trong đó quy định rằng Yeltsin sẽ cần phải có được 50% cử tri, thay vì 50% số phiếu hợp lệ.
Ba trong số bốn câu hỏi - tín nhiệm đối với Yeltsin, ủng hộ các chính sách kinh tế xã hội của chính phủ và bầu cử sớm cho Đại hội Đại biểu Nhân dân - đã được đa số cử tri tham gia chấp thuận, trong khi cử tri bác bỏ đề xuất tổ chức bầu cử tổng thống sớm. Tuy nhiên, đề xuất bầu cử sớm cho Đại hội đại biểu nhân dân đã thất bại do số cử tri tối thiểu cần thiết là 50% tổng số cử tri đã đăng ký không thỏa mãn.
Câu hỏi
Bốn câu hỏi là:
Bạn có tin tưởng vào Tổng thống Liên bang Nga, Boris N. Yeltsin?
Bạn có ủng hộ chính sách kinh tế và xã hội đã được thực hiện từ năm 1992 bởi Tổng thống và Chính phủ Liên bang Nga không?
Có nên tổ chức cuộc bầu cử sớm cho Tổng thống Liên bang Nga?
Có nên tổ chức bầu cử sớm cho các Đại biểu Nhân dân Liên bang Nga?
Kết quả
Tham khảo
Trưng cầu dân ý chính phủ
Trưng cầu dân ý của chính phủ
Nga, chính phủ
Khủng hoảng hiến pháp Nga 1993
Trưng cầu dân ý chính phủ
Trưng cầu dân ý ở Nga
|
19835770
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shinhidaka%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Shinhidaka, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Hidaka, phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 21.517 người và mật độ dân số là 19 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 1147,75 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Biratori%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Biratori, Hokkaidō
|
() là thị trấn thuộc huyện Saru, phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.776 người và mật độ dân số là 6,4 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 743,16 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835773
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Gangneung
|
Ga Gangneung
|
Ga Gangneung (Tiếng Hàn: 강릉역, Hanja: 江陵驛) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeonggang nằm ở Gyo-dong, Gangneung-si, Gangwon-do.
Vào ngày 15 tháng 9 năm 2014, hoạt động kinh doanh đã bị đình chỉ do việc xây dựng ngầm khu vực trung tâm thành phố Gangneung sau khi xây dựng Tuyến Gyeonggang, nhưng hoạt động kinh doanh đã tiếp tục trở lại khi khai trương Tuyến Gangneung KTX vào ngày 22 tháng 12 năm 2017 và tuyến tàu Yeongdong Mugunghwa tạm thời dừng ở ga Jeongdongjin và cũng hoạt động trở lại vào ngày 18 tháng 7 năm 2018. Việc xử lý hàng hóa được chuyển đến Ga Anin và Ga Okgye. Nó chịu trách nhiệm về điểm dừng bắt đầu và kết thúc của chuyến tàu Mugunghwa khởi hành từ Cheongnyangni, Dongdaegu, Bujeon và Busan, nhưng vì chuyến tàu được rút ngắn đến ga Donghae từ ngày 2 tháng 3 năm 2020 nên giờ đây nó sẽ chuyển sang tàu đưa đón Mugunghwa và Nuri giữa Donghae và Gangneung và dừng ở Nuri. Tuyến Donghae Bukbu dự kiến sẽ được kéo dài từ ga này vào tháng 12 năm 2027.
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Bưu điện Gangneung
Trường trung học Gangneung Myeongryun
Trường trung học nữ sinh Gangneung
Trường tiểu học Gyodong
Gangneung Hyanggyo
Chợ Dongbu
Dịch vụ Hưu trí Quốc gia Chi nhánh Gangneung
Chi nhánh Y tế Công cộng Thành phố Dongbu
Trung tâm phúc lợi hành chính Okcheon-dong
Trung tâm phúc lợi hành chính Gyo2-dong
Sân vận động Gangneung (Sân nhà của Gangwon FC ở giải bóng đá chuyên nghiệp K-League 1), (Sân nhà của đội bóng Gangneung City Hall ở giải bóng đá chuyên nghiệp K-League 3)
Hình ảnh
Ga kế cận
Liên kết ngoài
Cyber station information from Korail
Gangneung
|
19835775
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Gia%20R%E1%BA%BFt
|
Người Gia Rết
|
Người Gia Rết (Jaredites) là một trong bốn dân tộc cùng với người Nê Phi, người La Man (Lamanites) và người Mu-Lếc (Mulekites) mà những tín nhân của Mặc Môn giáo (Giáo hội Thánh Hữu Ngày sau) tin rằng đã định cư ở châu Mỹ cổ đại. Sách Mặc Môn (chủ yếu là Sách Ê The/Book of Ether) mô tả dân Gia Rết là hậu duệ của Gia Rết (Jared) và anh trai ông, những người sống vào thời con người ta xây Tháp Babel. Theo Sách Mặc Môn thì họ vượt đại dương trên những chiếc thuyền độc đáo và xây dựng một nền văn minh cổ xưa ở Mỹ. Việc sách Ether đề cập đến "dải đất hẹp" đã khiến một số người kết luận rằng nền văn minh này có thể kéo dài từ Trung Tây Hoa Kỳ đến miền Đông Hoa Kỳ như New York, nơi hóa thạch của voi ma mút cổ đại đã được phát hiện rất nhiều và nhiều loài vật khác. Các tài liệu của người Mỹ bản địa mô tả Niagara là dải đất hẹp dịch theo nghĩa đen là "cái cổ". Những người khác tranh luận về một vị trí vẫn ở phía bắc nhưng gần "dẻo đất" hơn ở Trung Mỹ hoặc Mexico. Khảo cổ học chính thống không tìm thấy bằng chứng nào về sự tồn tại của người Gia Rết hoặc bất kỳ nhóm nào trong ba nhóm còn lại ở châu Mỹ.
Dẫn luận
Ngoài Sách Ê The, thì cách Mặc Môn kể rằng Coriantumr đã được Mulekites tìm thấy. Dân Nê Phi sau đó chạm trán với dân Mulek (Mơ-Lếch) và dạy họ ngôn ngữ Nê Phi. Những người Mulekite nói với họ rằng Coriantumr (Cô-ri-an-tum-rơ) đã chết khoảng chín tháng sau khi anh ta đến sống với họ. Nhà tiên tri người Nê Phi, Vua Mosiah I đã có thể dịch một tảng đá lớn có khắc những câu chuyện về Cô Ri An Tum Rơ (Coriantumr). Một biên sử khác trên hai mươi bốn bảng khắc, được người dân của Vua Limhi phát hiện và được Vua Nê Phi Mosiah II phiên dịch. Một bản tường thuật tóm tắt về các biên sử của dân Gia Rết sau này được Mô Rô Ni đưa vào làm Sách Ê The theo Sách Mặc Môn. Theo Sách Mặc Môn, dân Gia Rết là hậu duệ của Jared (Gia-rết), anh trai ông, gia đình trực hệ và bạn bè của họ (Joseph Smith sau này xác định anh trai của Jared là Mahonri Moriancumer).
Vào thời điểm loài người xây Tháp Babel, khi ngôn ngữ của tất cả các quốc gia bị lộn tùng phèo, Chúa đã làm theo mong muốn của Jared để cho ngôn ngữ của tộc người của Jared không hề bị thay đổi. Người dân cũng được ban tặng một vùng đất hứa. Chúa đã hướng dẫn dân chúng băng qua vùng hoang dã và cuối cùng được hướng dẫn vượt biển trên những chiếc “thuyền” làm bằng những cái bình đã được niêm phong, kín nước và có thể bị sóng cuốn đi mà không bị chìm, dưỡng khí được lấy từ bên ngoài tàu khi cần thiết, trong suốt hành trình thì họ cũng mang theo thú vật và thức ăn. Hải trình chuyến đi kỳ diệu được ghi nhận là 344 ngày. Trong số những thứ khác mà họ mang theo trong chuyến hành trình của mình có ong mật, ngoài ra, họ còn mang theo hạt giống.
Sách Mặc Môn
Sách Mặc Môn kể rằng ông Gia Rết này đã đi với anh mình và gia đình họ, cùng vài người khác nữa và gia đình họ ra khỏi ngọn tháp vĩ đại vào lúc Chúa làm lộn xộn tiếng nói của dân chúng, anh của Gia Rết cầu xin Chúa, và Chúa động lòng thương hại Gia Rết vậy nên không làm lộn xộn tiếng nói của Gia Rết. Gia Rết lại bảo anh mình rằng: Anh hãy đi cầu vấn Chúa xem Ngài có đuổi chúng ta ra khỏi xứ này không? Và nếu Ngài sẽ đuổi chúng ta ra khỏi xứ này, thì kêu cầu Ngài xem chúng ta phải đi về đâu. Và biết đâu Chúa chẳng đưa chúng ta đến một vùng đất chọn lọc hơn hết thảy mọi vùng đất khác trên thế gian này? Và nếu điều ấy sẽ như vậy, thì chúng ta hãy trung thành với Chúa, để chúng ta có thể nhận đất ấy làm đất thừa hưởng. Và chuyện rằng anh của Gia Rết kêu cầu Chúa đúng theo những lời do miệng Gia Rết nói ra.
Chúa nghe lời kêu cầu của anh của Gia Rết, và động lòng thương hại ông và phán bảo rằng: "Hãy đi gom góp các đàn gia súc của ngươi lại, cả con đực lẫn con cái, đủ loại; và luôn cả các hạt giống trồng dưới đất, đủ loại; cùng gia đình ngươi, em ngươi là Gia Rết và gia đình hắn, và luôn cả bạn bè ngươi, gia đình họ; và bạn bè của Gia Rết và gia đình họ; Và khi làm xong việc này, ngươi hãy đi dẫn đầu và đưa họ đến thung lũng ở hướng bắc. Và nơi đó ta sẽ gặp ngươi, và ta sẽ đi trước dẫn đường cho ngươi tới một vùng đất chọn lọc hơn hết thảy mọi vùng đất khác trên thế gian này. Và ở đấy ta sẽ ban phước cho ngươi và cho dòng dõi của ngươi, và ta sẽ gây dựng từ dòng dõi của ngươi, dòng dõi của em ngươi, và dòng dõi của những người đi theo ngươi thành một dân tộc vĩ đại. Và sau này sẽ không có một dân tộc nào vĩ đại hơn dân mà ta sẽ gây dựng lên từ dòng dõi của ngươi, trên khắp mặt đất này. Và đó là việc ta sẽ làm cho ngươi vì ngươi đã cầu khẩn ta trong bấy lâu nay". Dân Gia Rết chuẩn bị cuộc hành trình đến đất hứa. Đó là một vùng đất chọn lọc, là nơi con người phải phục vụ Đấng Ky Tô.
Chúa nói chuyện với anh của Gia Rết trong ba tiếng đồng hồ. Họ đóng thuyền—Chúa bảo anh của Gia Rết đề nghị cách làm cho các chiếc thuyền có ánh sáng. Và chuyện rằng, Gia Rết cùng với anh mình, và gia đình họ, cùng bạn bè của anh em Gia Rết và gia đình họ đi xuống thung lũng hướng bắc (và tên của thung lũng này là Nim Rốt, gọi theo tên người thợ săn cường tráng), cùng với các đàn gia súc mà họ đã gom góp lại, cả con đực lẫn con cái, đủ loại. Và họ còn giăng bẫy để bắt chim trời; và họ cũng làm một cái bình để đựng các loại cá đem theo. Và họ cũng đem theo những con Đe Sê Rét (deseret), tức là một loài ong mật; như vậy là họ đem theo các đàn ong, và đủ mọi thứ khác có trên mặt đất, cùng đủ các loại hạt giống. Và chuyện rằng, khi họ đã xuống tới thung lũng Nim Rốt, Chúa giáng xuống nói chuyện với anh của Gia Rết. Ngài ở trong một đám mây, và anh của Gia Rết không trông thấy Ngài.
Và Chúa phán rằng: Ngươi hãy đi đóng những chiếc thuyền theo như kiểu mà từ trước tới nay ngươi vẫn thường làm, anh của Gia Rết và nhóm người của ông ta bắt tay vào việc. Họ cùng nhau đóng những chiếc thuyền theo kiểu họ đã làm theo lời chỉ dẫn của Chúa. Những chiếc thuyền ấy nhỏ và nhẹ trên mặt nước, nó nhẹ nhàng như một con chim trên mặt nước. Và những chiếc thuyền ấy được đóng theo một cách thức mà nó rất khít khao, đến độ nó có thể chứa đựng được nước, chẳng khác chi một cái đĩa; và đáy thuyền cũng rất kín, chẳng khác chi một cái đĩa, và hai bên mạn thuyền cũng kín như một cái đĩa; còn mũi thuyền thì nhọn; và mui thuyền cũng đóng khít khao như một cái đĩa; và chiều dài của thuyền bằng chiều dài một thân cây; và cửa thuyền, khi đóng lại thì kín mít như một cái đĩa. Và chuyện rằng, anh của Gia Rết kêu cầu Chúa mà rằng: Hỡi Chúa, con đã hoàn thành công việc Ngài truyền lệnh cho con. Con đã đóng xong những chiếc thuyền theo như Ngài đã chỉ dẫn con. Và này, thưa Chúa, trong thuyền không có ánh sáng, vậy chúng con biết làm sao mà lái? Và hơn nữa chúng con sẽ chết vì trong thuyền chúng con không thể thở được, trừ phần không khí có sẵn trong thuyền; vậy nên chúng con sẽ phải chết.
Và Chúa phán cùng anh của Gia Rết rằng: Này, ngươi hãy khoét một cái lỗ ở trên mui thuyền và ở dưới đáy thuyền; và khi nào thiếu không khí thở ngươi hãy mở cái lỗ đó ra để cho không khí lọt vào, và nếu nước tràn vào các ngươi, này, các ngươi hãy đóng cái lỗ đó lại để khỏi bị chết vì nước ngập. Và chuyện rằng, anh của Gia Rết đã làm như vậy, theo như Chúa đã truyền lệnh. Rồi ông lại kêu cầu Chúa nữa mà rằng: Thưa Chúa, này, con đã làm đúng theo như Ngài đã truyền lệnh cho con. Con đã sửa soạn sẵn sàng thuyền cho dân con, nhưng này, trong thuyền không có ánh sáng. Này, thưa Chúa, Ngài chịu để cho chúng con phải vượt biển cả trong bóng tối sao?. Và Chúa phán cùng anh của Gia Rết rằng: Ngươi muốn ta làm gì cho các ngươi có ánh sáng trong thuyền? Vì này, các ngươi không thể làm cửa sổ được, vì như vậy cửa sổ sẽ bị vỡ ra từng mảnh; và các ngươi cũng không thể đem lửa theo được, vì các ngươi không thể đi bằng ánh sáng của lửa được.
Chúa truyền lệnh cho họ phải đi vào vùng hoang dã, phải, vào vùng chưa bao giờ có người đặt chân tới. Và chuyện rằng, Chúa đi trước dẫn đường cho họ, và nói chuyện với họ khi Ngài đứng trong đám mây, và chỉ đường cho họ biết phải đi về lối nào, họ đã hành trình trong vùng hoang dã và đã đóng những chiếc thuyền, trên những thuyền đó họ đã vượt qua nhiều mặt nước, và họ luôn luôn được bàn tay của Chúa chỉ dẫn. Và Chúa không muốn họ dừng lại trong vùng hoang dã bên kia bờ biển, mà Ngài muốn họ vẫn tiếp tục đi mãi cho tới đất hứa, là vùng đất chọn lọc hơn hết thảy mọi vùng đất khác, đó là vùng đất Đức Chúa Trời đã dành cho dân tộc ngay chính. Và trong cơn thịnh nộ, Ngài đã thề với anh của Gia Rết rằng, từ nay cho đến mãi mãi về sau, bất cứ ai chiếm hữu đất hứa này đều phải phục vụ Ngài là Thượng Đế chân thật và duy nhất, bằng không họ sẽ bị quét sạch khi cơn thịnh nộ tràn đầy của Ngài đổ lên họ.
Anh của Gia Rết (bấy giờ số thuyền đóng xong là tám chiếc) đi lên ngọn núi mà họ gọi là Se Lem, vì nó quá cao. Ông nấu chảy một tảng đá và đúc ra mười sáu viên đá nhỏ. Những viên đá này trắng và trong ngần như thủy tinh. Rồi ông cầm những viên đá ấy đi lên đỉnh núi mà kêu cầu Chúa. Sau khi Chúa sửa soạn xong những viên đá do anh của Gia Rết đem lên núi, anh của Gia Rết đã xuống núi và đem những viên đá ấy để trong các chiếc thuyền đóng xong. Mỗi mũi thuyền một viên đá. Và này, các viên đá ấy chiếu sáng trong thuyền. Và như vậy là Chúa đã khiến cho những viên đá ấy chiếu lên trong bóng tối để đem ánh sáng lại cho đàn ông, đàn bà và trẻ con, ngõ hầu họ khỏi phải vượt qua biển cả trong bóng tối. Sau khi họ sửa soạn xong tất cả các loại thực phẩm để có thể sống được trên mặt biển, và luôn cả thực phẩm cho các đàn gia súc và các bầy thú của họ và bất cứ loại súc vật hay chim muông nào mà họ có thể mang theo được—và chuyện rằng, sau khi đã làm xong các việc này, họ bèn lên thuyền hay tàu rồi tiến ra khơi, và phó mặc mạng sống mình cho Chúa, Thượng Đế của họ.
Đức Chúa Trời khiến cho một trận cuồng phong nổi lên trên mặt biển, và thổi về hướng đất hứa, như vậy là họ bị sóng vỗ và gió đưa đi, có nhiều lần họ bị chìm sâu dưới lòng biển vì những đợt sóng cao như núi chụp lên thuyền họ, và cả các trận bão tố khủng khiếp do các cuồng phong gây nên, những khi họ bị chìm sâu xuống lòng biển, thì nước biển chẳng làm hại họ được, vì thuyền của họ đóng kín mít như một cái dĩa, và nó kín mít chẳng khác chi chiếc tàu của Nô Ê ngày xưa vậy nên, mỗi khi họ bị nước bao phủ thì họ lại khẩn cầu Chúa, và Ngài lại đem họ lên mặt nước trở lại, khi họ lênh đênh trên mặt biển thì gió không ngớt thổi họ hướng về đất hứa, và cứ thế họ được gió thổi đưa đi, và cứ thế họ trôi giạt đi; và không một con thủy quái nào làm vỡ thuyền họ được, ngay cả cá voi cũng không làm hại họ được; và họ luôn luôn có ánh sáng, dù khi thuyền ở trên mặt nước hay ở dưới mặt nước. Và cứ thế họ trôi giạt đi ròng rã ba trăm bốn mươi bốn ngày trên mặt biển. Và họ đến được bờ biển đất hứa. Và khi vừa đặt chân lên bờ biển đất hứa, họ liền cúi rạp sát mặt đất, và biết hạ mình trước mặt Chúa, và rơi lụy vì sung sướng trước mặt Chúa, họ tiến lên mặt đất và bắt đầu canh tác đất đai.
Những nhiên cứu
Việc vượt đại dương không được nêu rõ trong Sách Mặc Môn. Hugh Nibley trong tác phẩm There were Jaredites và The World of the Jaredites lập luận cho rằng vùng biển này chính là Thái Bình Dương nhưng Milton R. Hunter lại lập luận cho rằng vùng biển này chính là Đại Tây Dương. Vị trí của nền văn minh Jared cũng không được chỉ rõ trong sách Mặc Môn ngoại trừ việc nó nằm ở phía bắc của một vùng đất hẹp ở nơi được người Nê Phi gọi là "Vùng đất phía Bắc". Vị trí ở Tân Thế giới của dân Gia Rết và dân Nê Phi là một chủ đề gây bất đồng giữa Người Mặc Môn, và Joseph Smith cho biết rằng dân Gia Rết đã đến “vùng đất bên hồ của Châu Mỹ”.
Một số tín nhân đầu tiên của Giáo hội Thánh Hữu Ngày Sau, bao gồm cả Sứ Đồ Parley P. Pratt tin rằng dân Gia Rết là hậu duệ của Ham dựa trên nguồn gốc của nhóm dân sống gần Tháp Babel và cuộc di cư ban đầu vào thung lũng Nimrod, khu vực gắn liền với con cháu của Ham. Một số tín hữu Mặc Môn đã nghiên cứu và đã tranh luận về những điểm tương đồng đáng kể giữa dân Gia Rết và người Olmec, một học giả khẳng định rằng những ghi chép của người Aztec của một nhà sử học người Mỹ bản địa cổ đại là Fernando de Alva Cortés Ixtlilxochitl đã viết về một nhóm người đến từ tòa tháp lớn đến Mesoamerica. Ixtlilxochitl viết rằng người dân sống ở một khu vực ở phía bắc của vùng đất, dọc theo Bờ biển vùng Vịnh Mexico. Các nhà nghiên cứu LDS khác, chẳng hạn như W. Vincent Coon, chỉ ra những truyền thuyết bản địa và cho rằng những người nhập cư sớm nhất đến Trung Mỹ đã di cư bằng đường bộ và thuyền từ "Bắc Mỹ". Phyllis Carol Olive so sánh nền văn minh Jaredite với các nền văn hóa cổ xưa của vùng Ngũ Đại Hồ (Great Lakes).
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Jaredite chronology
Mặc Môn giáo
|
19835779
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%E1%BA%BFn%20Gangneung%20KTX
|
Tuyến Gangneung KTX
|
Tuyến Gangneung KTX (Tiếng Hàn: 강릉선 KTX, Hanja: 江陵線 KTX) là hệ thống vận hành của Đường sắt cao tốc Hàn Quốc kết nối Ga Seoul hoặc Ga Cheongnyangni ở Seoul đến Ga Gangneung ở Gangneung-si, Gangwon-do hoặc Ga Donghae ở Donghae-si.
Lịch sử
22 tháng 12 năm 2017: Bắt đầu hoạt động với việc khai trương Tuyến Gyeonggang
16 tháng 4 năm 2018: Đổi tên từ Tuyến Gyeonggang thành Tuyến Gangneung
2 tháng 3 năm 2020: Với việc hoàn thành Tuyến Gangneung Samgak, một hệ thống dịch vụ mới hướng tới Ga Donghae qua Jeongdongjin đã được thành lập.
1 tháng 8 năm 2021: Tất cả các đoàn tàu được thay thế bằng KTX-Eum
31 tháng 3 năm 2022: Tuyến Gangneung KTX-Eum mở rộng hoạt động đến Ga Haengsin mỗi ngày một lần (chỉ Ga Gangneung)
31 tháng 7 năm 2022: Các điểm dừng bổ sung tại Ga Deokso trên một số chuyến tàu chỉ bắt đầu vào cuối tuần
Ga
Đặc trưng
Đoạn nối Ga Seowonju trên Tuyến Jungang và Ga Gangneung trên Tuyến Yeongdong là tuyến bán tốc độ cao, vận hành với tốc độ 250 km/h cho các hoạt động KTX .
Không giống như các hệ thống dịch vụ Tuyến Taebaek và Tuyến Yeongdong hiện tại sử dụng Ga Cheongnyangni làm ga đầu tiên và cuối cùng, hệ thống dịch vụ này sử dụng Ga Seoul làm ga đầu tiên và cuối cùng. Một số chuyến tàu đã rút ngắn thời gian chạy đến và khởi hành từ Ga Cheongnyangni.
Trong Thế vận hội mùa đông 2018, KTX đã hoạt động 51 lần một chiều và mất 1 giờ 37 phút từ Ga Nhà ga 2 Sân bay Quốc tế Incheon đến Ga Jinbu.
Đoạn dài 75,5km, chiếm 62,5% tổng đoạn là đoạn đường hầm. Trong số các đoạn đường hầm, Đường hầm Daegwallyeong là đường hầm dài thứ hai ở Hàn Quốc với chiều dài 21,755km, được thông xe vào ngày 30/11/2015 .
Màu nâu đã được áp dụng cho các biển thông tin hành khách tại năm nhà ga, ngoại trừ Ga Gangneung, với họa tiết rừng và lá.
Trong Thế vận hội mùa đông 2018, nó được kết nối với KTX từ Sân bay Quốc tế Incheon và trở thành phương tiện di chuyển cho khách du lịch Olympic.
Khu vực lợi ích KTX được mở rộng đến khu vực Yeongdong ở Gangwon-do. Năm 2020, Jeongdongjin và thành phố Donghae cũng được đưa vào.
Xem thêm
Tuyến Gyeonggang
Tham khảo
Liên kết
Tàu tốc hành Hàn Quốc
Tuyến Korail
Tuyến đường sắt ở Hàn Quốc
|
19835800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hidaka%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Hidaka, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Saru, phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 11.279 người và mật độ dân số là 11 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 992,67 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835805
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Niikappu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Niikappu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Niikappu, phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 5.309 người và mật độ dân số là 9,1 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 585,88 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835824
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1nh%20Giuse%20Cupertino
|
Thánh Giuse Cupertino
|
Giuseppe Desa còn được biết đến với tên Thánh Giuse Cupertino (tiếng Anh: Joseph of Cupertino, tiếng Ý: Giuseppe da Copertino; 17 tháng 6 năm 1603 – 18 tháng 9 năm 1663) là một linh mục, nhà thần bí và tu sĩ Công giáo người Ý dòng Anh Em Hèn Mọn Viện Tu (tiếng Anh: The Order of Friars Minor Conventual, viết tắt: O.F.M.Conv.). Ông được Giáo hội Công giáo Roma tôn kính là một vị thánh, lễ kính vào ngày 18 tháng 9 hàng năm.
Ông được biết đến là một người trì độn và đãng trí, khả năng học tập yếu kém và bị người khác khinh miệt. Sau một thời gian sống với các tu sĩ dòng Anh Em Hèn Mọn, làm công việc chăn nuôi gia súc cho nhà dòng, ông đã được gia nhập dòng Viện Tu (một nhánh của dòng Phan Sinh) vì đã gây ấn tượng với các tu sĩ với lối sống khiêm nhường và thánh thiện. Ông được học tập để trở thành một linh mục dù việc học đối với ông thật khó khăn. Nhiều kỳ ngộ kì diệu đã xảy đến giúp cho ông vượt qua các kì thi. Năm 1628, ông được thụ phong linh mục.
Ông nổi tiếng với phép lạ bay lơ lửng trên không lúc cầu nguyện và thường trải qua trạng thái xuất thần trong suốt cuộc đời. Trong cuộc điều tra để lập hồ sơ phong thánh, người ta ghi nhận có đến 70 lần ông bay bổng trên không.
Xem thêm
Ông Thánh bất đắc dĩ (tiếng Anh: The Reluctant Saint) (phim)
Chú thích
Sinh năm 1603
Mất năm 1663
Đấng đáng kính
|
19835833
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Topmodell%20%28Hungary%29%2C%20M%C3%B9a%201
|
Topmodell (Hungary), Mùa 1
|
Topmodell là mùa đầu tiên của Topmodell được dựa trên America's Next Top Model của Tyra Banks. Chương trình được chiếu trên Viasat 3 từ tháng 10 tới tháng 12 năm 2006.
Siêu mẫu Vámosi Viktória là host của chương trình, nhưng đã rời đi trước chung kết do mâu thuẫn với các nhà sản xuất. Chính vì thế vào đêm chung kết cô được thay thế bởi siêu mẫu Epres Panni.
Trong mùa giải này, khán giả sẽ có cơ hội bỏ phiếu cho một trong 10 cô gái đã bị loại trước đó để được quay lại cho đêm chung kết sau mỗi tập phát sóng. Sau khi top 3 là Rónaszéki Anna, Lattmann Judit & Nagy Réka được lựa chọn, khán giả đã chọn người bị loại ở tập 8 Papp Valentina quay trở lại cuộc thi.
Điểm đến quốc tế của mùa này là Frankfurt, Johannesburg, Cape Town và Maputo dành cho top 6.
Người chiến thắng trong cuộc thi là Nagy Réka, 18 tuổi từ Eger. Với các giải thưởng, cô giành được:
Một hợp đồng người mẫu với Metropolitan Models ở Paris trong 3 năm
1 hợp đồng quảng cáo cho Max Factor trong 1 năm trị giá 1.000.000Ft
Chiến dịch quảng cáo cho Jana Mineral Water
1 năm sử dụng sản phẩm của Wella
1 chiếc Lancia Ypsilon
Các thí sinh
(Độ tuổi tính từ ngày dự thi)
Các tập
Tập 1
Khởi chiếu:
Từ 1000 cô gái đăng kí dự thi, 30 thí sinh bán kết từ khắp cả nước được đưa đến khách sạn Hilton ở Budapest để bắt đầu cuộc thi. Họ đã có một buổi phỏng vấn với ban giám khảo cùng với những giám khảo khách mời là Szabó Patrícia & Tűzes Tamás. Sau đó, Patrícia đã công bố tên của 13 cô gái được chọn và sẽ bước vào cuộc thi.
Khách mời đặc biệt: Varga Ágota, Kajdi Csaba, Szabó Patrícia, Tűzes Tamás, Jeff Marano, Justin Miccoli, Carlos Steil
Tập 2
Khởi chiếu:
13 cô gái được di chuyển tới căn hộ của mình ở Újbuda. Ngày hôm sau, họ đã bị những người bộ đội đánh thức dậy sớm và đưa tới một trại quân đội cho một buổi huấn luyện thể lực heo kiểu quân đội. Sau đó, họ được đưa tới một nhà kho cho một buổi tập catwalk, trước khi phải tự thay đồ và trang điểm cho thử thách trình diễn thời trang trước những đại đội lính.
Sau đó, họ được đưa tới Flashback Photo Studio cho buổi chụp hình đầu tiên trong áo trắng và quần jean cho ảnh mở đầu của chương trình. Quay về căn hộ, Viktória đến gặp họ tại căn hộ để thông báo rằng Angéla & Valentina đã chiến thắng thử thách vừa rồi và họ chọn Judit để cùng nhận thưởng là một buổi mua sắm trang sức. Vào buổi đánh giá đầu tiên có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Kajdi Csaba, Judit là người được gọi tên đầu tiên còn Mónika là thí sinh đầu tiên bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Bémer Miklós
Khách mời đặc biệt: Kajdi Csaba
Tập 3
Khởi chiếu:
12 cô gái còn lại đã được đánh thức dậy sớm cho một buổi tập thể dục tại trường dạy bơi Újbuda Úszásoktatás, trước khi có thử thách bơi lội và Judit giành chiến thắng thử thách. Sau đó, họ đã có một buổi học catwalk với Eli van Poeyer và một chuyên gia thời trang và một buổi nói chuyện về ngành thời trang. Họ sau đó đã có buổi chụp hình tiếp theo theo phong cách Điệp viên 007, họ sẽ phải hóa thân thành những cô gái phụ tá với vũ khí trong khi bộ đôi diễn xiếc Rippel Feri & Rippel Viktor sẽ phun sơn lên toàn thân họ. Quay về căn hộ, 4 người mẫu nam đến căn hộ của họ cho một bữa tiệc qua đêm.
Ngày hôm sau, Viktória đến gặp Judit tại căn hộ cho phần thưởng do chiến thắng thử thách hôm qua và cô chọn Annamária & Fruzsina để cùng nhận thưởng là một buổi lái tàu lượn. Quay về căn hộ, các cô gái đã được yêu cầu phải tự làm tóc, trang điểm và tự thiết kế và phối đồ cho mình trong 20 phút. Vào buổi đánh giá, Anna là người được gọi tên đầu tiên còn Annamária là thí sinh tiếp theo bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Brémer Miklós
Khách mời đặc biệt: Eli van Poeyer, Rippel Feri, Rippel Viktor, Tóth Ferenc
Tập 4
Khởi chiếu:
11 cô gái còn lại được đưa đến tiệm salon Hairclub của Herczeg Csaba & Tűzes Tamás để nhận diện mạo mới của mình. Sau đó, họ đã có một buổi học catwalk dưới sự hướng dẫn của Seres Éva.
Ngày hôm sau, họ được đưa tới một tòa lâu đài cho buổi chụp hình tiếp theo khi họ sẽ thân mật với một người mẫu nam khỏa thân phần trên. Sau đó, họ được đưa đến một bãi biển ở Siófok cho một buổi trình diễn thời trang ngẫu hứng cho một lễ hội âm nhạc. Quay về căn hộ, các cô gái đã được yêu cầu phải ăn mặc như đang chuẩn bị cho một cuộc hẹn hò. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Rikk Ágnes, Judit là người được gọi tên đầu tiên còn Xénia là thí sinh tiếp theo bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Bémer Miklós
Khách mời đặc biệt: Herczeg Csaba, Tüzes Tamás, Rikk Ágnes, Seres Éva
Tập 5
Khởi chiếu:
10 cô gái còn lại đã có một buổi học thể dục nhịp điệu và thể lực dưới sự hướng dẫn của Czanik Balázs. Sau đó, họ đã có một buổi học ứng xử với người mẫu Tornóczky Anita, trước khi được đưa tới một buổi sự kiện của Red Bull trên bến cảng Belgrád cho buổi chụp hình tiếp theo quyến rũ trong đồ lót trước những người đi đường. Các cô gái sau đó đã có bữa tối trong nhà hàng và tận hưởng xem pháo hoa Ngày lễ Thánh Stephen ở Hungary, trước khi một cơn bão lớn xuất hiện khiến toàn bộ phải sơ tán.
Ngày hôm sau, họ đã có một buổi khám răng từ bác sĩ nha khoa Balsai Tamás. Sau đó, họ đã có một buổi trình diễn thời trang sưu tập Thu-Đông 2006-2007 của Tóth Bori. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Szabó Patrícia, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Eszter là thí sinh tiếp theo bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Bémer Miklós
Khách mời đặc biệt: Czanik Balázs, Tornóczky Anita, Tüzes Tamás, Herczeg Csaba, Seres Éva, Tóth Bori, Balsai Tamás, Szabó Patrícia
Tập 6
Khởi chiếu:
9 cô gái còn lại đã có một buổi sáng thư giãn trong thẩm mỹ viện của Sulyok Róbert. Sau đó, họ đã có buổi chụp hình chân dung vẻ đẹp thể hiện cảm xúc cùng với trang sức. Họ sau đó đã có một buổi tối khiêu vũ trong hộp đêm.
Ngày hôm sau, họ đã có một bài kiểm tra IQ từ Mensa HungarIQa và Angéla & Judit là 2 người có kết quả cao nhất. Sau đó, họ đã có một buổi học catwalk với stylish Eli van Poeyer, trước khi cùng với Viktória chia thành 2 đội cho một trận đấu Bóng rổ. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Eli van Poeyer, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Anita là thí sinh tiếp theo bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Szipál Martin
Khách mời đặc biệt: Sulyok Róbert, Eli van Poeyer
Tập 7
Khởi chiếu:
8 cô gái còn lại đã có một buổi học đấm bốc với huấn luyện viên Szasó Pál và Anna & Réka là người thể hiện tốt nhất nên họ chọn Titanilla để cùng nhận thưởng là một bữa trưa tại một cửa hàng Sô-cô-la. Quay về căn hộ, họ đã dọn dẹp nhà cửa trước khi chuyên gia trang điểm Rikk Ági đến gặp họ cùng với 8 hộp trang điểm cho một buổi học trang điểm, trước khi họ có thử thách trang điểm trong 10 phút trong khi ngồi bên trong chiếc xe đang đi tới Balatonfüred và được đánh giá bởi chuyên gia trang điểm Illés Alexandra sau khi đến nơi. Các cô gái sau đó đã có buổi chụp hình tiếp theo du ngoạn trên thuyền ngay giữa hồ Balaton. Sau đó, từng người một đã có một buổi chụp hình chân dung mà không biết rằng đây sẽ là ảnh hộ chiếu của họ cho điểm đến quốc tế sắp tới.
Ngày hôm sau, họ đã có một buổi học chèo thuyền dưới sự hướng dẫn của Kolonics György & Horváth Péter. Quay về căn hộ, các cô gái đã được phép gọi điện về nhà. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Maróy Krisztina, Titanilla là người được gọi tên đầu tiên còn Kata là thí sinh tiếp theo bị loại.
Khách mời đặc biệt: Szasó Pál, Rikk Ági, Illés Alexandra, Kolonics György, Horváth Péter, Maróy Krisztina
Tập 8Khởi chiếu:
7 cô gái còn lại đã có một buổi nói chuyện với nhà tâm lý học Végh József. Sau đó, Fruzsina nhận được bất ngờ khi gia đình cô đến thăm và tổ chức sinh nhật cho mình. Ngày hôm sau, họ đã có một cuộc gặp với bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Mihály Sashegyi để thắc mắc về cơ thể mình. Sau đó, họ được đưa tới một khu rừng cho buổi chụp hình tiếp theo theo phong cách bảy tội lỗi chết người, trong khi phải tạo dáng bên trong một chiếc quan tài đặt dưới lòng đất.
Ngày tiếp theo, họ đã có một lớp học diễn xuất với diễn viên Bicskey Lukács, Vào buổi đánh giá, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Valentina là thí sinh tiếp theo bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Tombor Zoltán
Khách mời đặc biệt: Végh József, Sashegyi Mihály, Bicskey Lukács
Tập 9
Khởi chiếu:
6 cô gái còn lại háo hức thu dọn đồ đạc khi biết rằng họ sẽ được bay tới nước ngoài. Ngày hôm sau, họ đã đến Sân bay quốc tế Ferenc Liszt Budapest từ sáng sớm và bay tới Frankfurt. Sau khi tới nơi, họ đã có một buổi casting tại 2 nơi: quản lí người mẫu East-West Models và một cửa hàng thời trang. Ngày tiếp theo, họ đã có một buổi tham quan thành phố, trước khi quay lại Sân bay quốc tế Frankfurt và nhận được bất ngờ là họ sẽ bay tới Johannesburg. Sau khi tới nơi, các cô gái đã tham quan thành phố và di chuyển vào khu nghỉ dưỡng của mình, trước khi Angéla, Anna & Fruzsina được chọn để quay quảng cáo cho khu nghỉ dưỡng họ ở.
Ngày hôm sau, họ đã có một buổi tham quan trong vườn quốc gia Kruger. Sau đó, họ đã được biết rằng mình sẽ được tới Maputo và đã có một buổi thử đồ của nhà thiết kế Marinella Bononcini sau khi tới nơi. Ngày kế tiếp, họ được đưa tới một bãi biển cho buổi chụp hình tiếp theo trong thiết kế của Marinella Bononcini. Sau đó, họ quay về Johannesburg và nhận được một tin nhắn từ Viktoria và ban giám khảo thông qua màn hình. Kết quả là Viktoria thông báo rằng là sẽ không có ai bị loại lần này.
Khách mời đặc biệt: Carlos Steil, Jeff Marano, Marinella Bononcini
Tập 10Khởi chiếu:
6 cô gái còn lại được bay tới Cape Town và đã có một buổi casting với Justin Miccoli từ 3D Model Agency. Sau đó, họ đã có một buổi tối cuối cùng ở thành phố trước khi quay về Budapest vào ngày mai. Ngày tiếp theo, họ đã có buổi chụp hình chân dung hóa thân thành một quý bà sang trọng cùng với những con vật như chim, bò sát hay với nhện.
Ngày hôm sau, nhà báo Győrik Ferenc ngay lập tức phỏng vấn các cô gái khi họ vừa mới thức dậy. Sau đó, họ đã có một buổi thử trang phục của nhà thiết kế Tamás Náray và ông không hài lòng với bất kỳ cô gái nào. Quay về căn hộ, các cô gái được yêu cầu phải phối đồ và trang điểm lẫn nhau. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Petra Bezzeg, Judit là người được gọi tên đầu tiên còn Angéla là thí sinh tiếp theo bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Pál Nánási
Khách mời đặc biệt: Justin Miccoli, Győrik Ferenc, Tamás Náray, Petra Bezzeg
Tập 11
Khởi chiếu:
5 cô gái còn lại được đưa tới một ngôi nhà hoang cho buổi chụp hình tiếp theo hóa thân thành người có siêu năng lực. Sau đó, họ đã chia nhau ra khi Anna, Fruzsina & Judit có một buổi thư giãn trong thẩm mỹ viện của Sulyok Róbert còn Réka & Titanilla có một buổi chăm sóc da từ Kati Kalcsú. Quay về căn hộ, Anna nhận được bất ngờ khi bạn trai cô đến thăm, trước khi các cô gái đã có một buổi tối trong quán bar.
Ngày hôm sau, họ đã được thư giãn tại một tiệm spa, trước khi có buổi chụp hình thứ hai và họ đã bộc lộ những cảm xúc khác nhau một cách tự nhiên trong bức ảnh chân dung trắng đen. Vào buổi đánh giá có sự xuất hiện giám khảo khách mời là Rakk Ágnes và Szabó Patrícia, Réka là người được gọi tên đầu tiên còn Titanilla là thí sinh tiếp theo bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Ávéd István, Dobos Tomás
Khách mời đặc biệt: Sulyok Róbert, Kalcsú Kati, Rakk Ágnes, Szabó Patrícia
Tập 12Khởi chiếu:
4 cô gái còn lại đã có buổi chụp hình cho trang biên tập của tạp chí Maxima. Ngày hôm sau, họ đã cùng Viktória đi xem một buổi trình diễn thời trang của nhà thiết kế Tamás Náray. Ngày tiếp theo, họ được đưa tới quán bar Buddha Beach và gặp lại 9 cô gái bị loại trước đó cho một buổi họp báo về chương trình, khi họ sẽ được các nhà báo chụp hình và kết thúc bằng một buổi trình diễn thời trang cho Philip Russel. Sau đó, họ đã có một bữa tối với 2 siêu mẫu Cseh Myra và Epres Panni.
Ngày hôm sau, các cô gái được đưa đến một khu mua sắm cho buổi chụp hình cuối cùng hóa thân thành những người mẹ thời trang cùng với con của mình. Vào buổi đánh giá, Anna là người được gọi tên đầu tiên còn Fruzsina là thí sinh cuối cùng bị loại.
Nhiếp ảnh gia: Bémer Miklós
Khách mời đặc biệt: Akovács Éva, Haberland Attila, Cseh Myra, Epres Panni
Tập 13
Khởi chiếu:
Vào đêm chung kết được truyền hình trực tiếp, 10 thí sinh bị loại trước đó đã mở đầu chương trình bằng buổi trình diễn thời trang trong áo trắng và quần jean. Sau 11 tuần bỏ phiếu cho 10 cô gái bị loại trước đó của khán giả, Valentina là người sẽ được thi đấu cùng với top 3 trong đêm chung kết với 18% tổng số phiếu bầu. Sau đó, video về cuộc sống của 3 cô gái chung cuộc được trình chiếu, cùng với sự xuất hiện của 4 cô gái chung cuộc.
Top 4 sau đó đã có buổi trình diễn thời trang trong đồ bó và kết quả là Judit là người đầu tiên bị loại. Top 3 sau đó thi đấu tiếp bằng buổi trình diễn thời trang trong đồ lót và cánh thiên thần lấy cảm hứng từ Victoria's Secret và buổi trình diễn thời trang trong váy cưới với chú rể nhí, và kết quả là Valentina đã bị loại phần thi này. Anna và Réka đã có một buổi trình diễn thời trang cuối cùng trong trang phục dạo phố với việc dắt chó đi dạo cùng với tất cả các cô gái bị loại trong váy đen và mắt kính đen. Cuối cùng, Réka chính là quán quân của cuộc thi.
Khách mời đặc biệt: Winkler Róbert, Bazsó Gábor, Epres Panni, Szabó Patrícia, Már Róbert, Kalcsú Kati, Sulyok Róbert, Sashegyi Mihály, Rikk Ágnes, Hámori Barbara, Cseh Myra
Thứ tự gọi tên
Thí sinh bị loại
Thí sinh chiến thắng cuộc thi
Tập 1 là tập casting. Các cô gái sẽ được lần lượt gọi tên để biết được mình sẽ được tham gia vào cuộc thi hay không.
Trong tập 9, không có ai bị loại.
Trong tập 13, Valentina có số phiếu khán giả bình chọn cao nhất nên được quay lại cuộc thi.
Buổi chụp hình
Tập 2: Ảnh chân dung và toàn thân mở đầu chương trình
Tập 3: Body painting cùng vũ khí
Tập 4: Khoảnh khắc thân mật với người mẫu nam
Tập 5: Đồ lót gợi cảm trên đường phố
Tập 6: Ảnh chân dung vẻ đẹp với trang sức
Tập 7: Tạo dáng trên du thuyền
Tập 8: Bảy tội lỗi chết người
Tập 9: Catalog ở bãi biển
Tập 10: Ảnh chân dung vẻ đẹp với động vật hoang dã
Tập 11: Siêu năng lực; Ảnh chân dung biểu cảm
Tập 12: Người mẹ thời trang với con
Tham khảo
Top Model
|
19835835
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samani%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Samani, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Samani, phó tỉnh Hidaka, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.043 người và mật độ dân số là 11 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 364,33 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835838
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A9p
|
Nhép
|
Nhép có thể dùng để chỉ:
Từ chỉ một người ít tuổi một cách khinh bỉ
Nhép môi
Tên của một chất của bộ bài Tây: Nhép (chất)
|
19835841
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%A1ch%20s%E1%BA%A1n%20Excalibur
|
Khách sạn Excalibur
|
Khách sạn và sòng bạc Excalibur là một khách sạn sòng bạc nằm trên Dải Las Vegas ở Paradise, Nevada, Hoa Kỳ. Nó được xây dựng vào năm 1990 và thuộc sở hữu của Vici Properties và được điều hành bởi MGM Resorts International. Các tiện nghi của khách sạn bao gồm sòng bạc rộng 92.389 foot vuông (8.583,2 mét vuông), khách sạn 28 tầng với 3.981 phòng và nhiều nhà hàng khác nhau.
Khu nghỉ dưỡng trị giá 290 triệu đô la được phát triển bởi Circus Circus Enterprises. Chủ đề lâu đài được hình thành bởi người sáng lập công ty William Bennett, và khu nghỉ dưỡng được thiết kế bởi Veldon Simpson. Bennett và nhóm thiết kế đã đi du lịch đến các lâu đài khắp châu Âu để tìm cảm hứng. Việc xây dựng bắt đầu vào tháng 10 năm 1988 và khu nghỉ dưỡng được khai trương vào ngày 19 tháng 6 năm 1990. Đây là khách sạn lớn nhất thế giới cho đến khi MGM Grand gần đó khai trương vào năm 1993.
Lịch sử
Khu nghỉ dưỡng Excalibur chiếm diện tích khoảng 50 mẫu Anh (20 ha), nằm dọc theo Dải Las Vegas tại góc tây nam của giao lộ Tropicana - Las Vegas Boulevard. Khu đất này từng được đề xuất là địa điểm của Xanadu, một khu nghỉ dưỡng 1.730 phòng được công bố vào năm 1975. Xanadu không bao giờ được xây dựng, vì các nhà phát triển của nó không thể bảo đảm một thỏa thuận với quận về cơ sở hạ tầng cống rãnh.
Circus Circus Enterprises đã mua mảnh đất trống vào tháng 5 năm 1988, và một tháng sau đó đã công bố kế hoạch xây dựng một khu nghỉ dưỡng theo chủ đề lâu đài trên mảnh đất này. Công ty đã tổ chức một cuộc thi quốc tế để xác định tên của khu nghỉ dưỡng mới. Hơn 180.000 bài dự thi đã được gửi về, và cái tên chiến thắng, "Excalibur", đã được chọn trong hơn 33.000 tên. Nó được đặt theo tên thanh kiếm Excalibur thần thoại của Vua Arthur.
Lễ khởi công xây dựng Excalibur diễn ra vào ngày 7 tháng 10 năm 1988. Marnell Corrao Associates là tổng thầu xây dựng. Khu nghỉ dưỡng trị giá 290 triệu đô la đã khai trương vào ngày 19 tháng 6 năm 1990, đón tiếp 30.000 du khách vào ngày đầu tiên hoạt động. Excalibur là một trong những khu nghỉ dưỡng giải trí lớn mới được mở trên Strip, tiếp tục xu hướng bắt đầu từ Mirage vào năm 1989.
Vào ngày 21 tháng 3 năm 2003, Josh Ford đến từ Los Angeles đã trúng giải Jackpot Megabucks lớn nhất cho đến nay với số tiền 39,7 triệu đô la Mỹ tại Excalibur.
Circus Circus Enterprises đã trở thành Mandalay Resort Group vào năm 1999, và quyền sở hữu Excalibur đã được chuyển cho MGM Mirage vào năm 2005, sau khi công ty này mua lại công ty. Chủ sở hữu mới của khu nghỉ dưỡng sau đó được đổi tên thành MGM Resorts International vào năm 2010. Quyền sở hữu Excalibur, cùng với nhiều tài sản MGM khác, đã được chuyển cho MGM Growth Properties vào năm 2016, trong khi MGM Resorts tiếp tục vận hành nó theo thỏa thuận thuê. Vici Properties đã mua lại MGM Growth, bao gồm Excalibur, vào năm 2022.
Thiết kế
Chủ đề lâu đài thời trung cổ được hình thành bởi người sáng lập Circus Circus William Bennett, và khu nghỉ dưỡng do Veldon Simpson thiết kế. Bennett đã nghiên cứu các bản vẽ lâu đài cổ và ông cùng Simpson đã đến thăm các địa điểm lâu đài ở Anh và Đức để lấy cảm hứng thiết kế. Thiết kế Excalibur của Simpson đặc biệt được lấy cảm hứng từ Lâu đài Neuschwanstein ở Đức. Các chuyên gia về nhãn hiệu đã được thuê để tránh sao chép các thiết kế lâu đài tại Disneyland và Disney World. Kiến trúc thời trung cổ của Excalibur bao gồm các tháp pháo bằng đá, hào nước và cầu rút.
Tập đoàn Yates-Silverman đã chịu trách nhiệm thiết kế nội thất của khách sạn Excalibur. Tập đoàn đã tiến hành nghiên cứu thư viện về các lâu đài và cũng đến thăm các tòa nhà như vậy ở châu Âu, ngoài các xưởng phim. Theo Michael Erickson, giám đốc thiết kế tại Yates-Silverman: "Về cơ bản, chúng tôi đang tìm kiếm cùng một cấp độ thiết kế mà bạn có thể tìm thấy trong phim. Nếu bạn thiết kế các phòng theo cách chúng thực sự trông giống như trong thời kỳ truyền thống, chúng sẽ tối tăm, ảm đạm và bẩn thỉu. Bạn phải lãng mạn hóa nó một chút và thực hiện một cách tiếp cận sân khấu hơn."
Đặc điểm
Khách sạn Excalibur có 3.981 phòng, được phân bổ trên bốn tòa tháp 28 tầng được xây dựng theo hình vuông. Khu nghỉ dưỡng ban đầu được khai trương với 4.032 phòng, trở thành khách sạn lớn nhất thế giới. Kỷ lục này đã bị đánh bại bởi việc khai trương MGM Grand, nằm đối diện Excalibur vào năm 1993. Một dự án cải tạo khách sạn bắt đầu vào năm 2006 và dự kiến hoàn thành sau bốn năm. Theo phản hồi của khách, dự án nhiều giai đoạn đã loại bỏ các yếu tố theo chủ đề lâu đài khỏi các phòng để ủng hộ một thiết kế khiêm tốn.
Sòng bạc Excalibur có diện tích 92.389 foot vuông (8.583,2 mét vuông). Sòng bạc được khai trương với 2.630 máy đánh bạc, và hơn 100 trò chơi trên bàn. Năm 2008, Excalibur đã loại bỏ các nhân viên chia bài trực tiếp và thay thế họ bằng các bàn tự động do Pokertek sản xuất, thông qua một thỏa thuận kéo dài 10 tháng. Các bàn mới chủ yếu thu hút khách hàng trả ít hơn và những người mới bắt đầu, khiến khu nghỉ dưỡng phải đưa bài poker trực tiếp trở lại, được những người chơi có kinh nghiệm và những người sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn ưa chuộng.
Khi khai trương, Bennett đã mô tả Excalibur là một nâng cấp từ khu nghỉ dưỡng Circus Circus ở Las Vegas, trong khi vẫn nhắm mục tiêu đến cùng một nhóm nhân khẩu gia đình. Những điểm thu hút thân thiện với gia đình bao gồm một khu trò chơi điện tử, một khu chợ trung tâm theo chủ đề thời trung cổ trong nhà và các trò chơi mô phỏng chuyển động diễn ra trong hai nhà hát, mỗi nhà hát có sức chứa 48 người.
Phía nam của Excalibur là hai tài sản khác của MGM, Luxor và Mandalay Bay. Ba khu nghỉ dưỡng này được kết nối với nhau qua hệ thống xe điện Mandalay Bay. Trong ba khu nghỉ dưỡng này, Excalibur được coi là khu nghỉ dưỡng ngân sách thấp hơn.
Nhà hàng
Khi khai trương, Excalibur có 17 nhà hàng. Năm 1997, khu nghỉ dưỡng đã thêm Steakhouse at Camelot, sau này sẽ trở thành người chiến thắng giải thưởng Zagat. Vào thời điểm đó, nó cũng bao gồm buffet lớn thứ hai ở Las Vegas, có sức chứa hơn 1.300 người. Năm 1998, Excalibur đã công bố hợp tác với World Championship Wrestling để mở một nhà hàng theo chủ đề đấu vật tại khu nghỉ dưỡng. WCW Nitro Grill trị giá 2 triệu đô la đã mở cửa vào tháng 5 năm 1999 và hoạt động trong 16 tháng, có sự xuất hiện thường xuyên của các đô vật chuyên nghiệp trong thời gian đó.
Vào năm 2007, Dick's Last Resort đã mở một địa điểm rộng 11.000 foot vuông (1.000 m2) tại Excalibur. Nhóm nhạc Lynyrd Skynyrd cũng sẽ cấp phép sử dụng tên của mình cho một nhà hàng mới tại khu nghỉ dưỡng. Lynyrd Skynyrd BBQ & Beer đã khai trương vào tháng 12 năm 2011, cùng với American Burger Works, cả hai đều do cùng một công ty quản lý. Hai nhà hàng đã hoạt động trong chín tháng, cuối cùng đóng cửa do các vấn đề tài chính.
Buca di Beppo đã khai trương tại Excalibur vào năm 2011. Một năm sau, khu nghỉ dưỡng đã ra mắt khu ẩm thực Castle Walk, nơi giới thiệu một số quán ăn không có mặt trên Strip. Với diện tích 20.000 foot vuông (1.900 m2), đây là một trong những khu ẩm thực lớn nhất trên Strip. Vì Excalibur có thỏa thuận độc quyền với Pepsi nên khu ẩm thực có một trong số ít cửa hàng McDonald's trên thế giới bán loại đồ uống nhẹ này thay vì đối thủ cạnh tranh Coca-Cola. McDonald's cuối cùng đã đóng cửa vào năm 2016.
Johnny Rockets đã khai trương vào năm 2014, chiếm không gian trước đây do American Burger Works sử dụng. Cũng trong năm đó, khu nghỉ dưỡng đã hoàn thành việc cải tạo quầy buffet trị giá 6 triệu đô la, có sức chứa 610 người. Fatburger đã khai trương địa điểm đầu tiên trên Strip vào năm 2022, tại Excalibur.
Giải trí trực tiếp
Các chương trình thời trung cổ
Kể từ khi khai trương, Excalibur đã có hai chương trình theo chủ đề thời trung cổ, cả hai đều diễn ra trong nhà hát ăn tối 900 chỗ ngồi. Đấu kiếm là một phần đặc trưng của cả hai chương trình. Các buổi biểu diễn diễn ra trong một đấu trường bằng đất, và các bữa ăn được phục vụ theo phong cách thời trung cổ, không có dụng cụ ăn uống.
Chương trình gốc, King Arthur's Tournament, có sự tham gia của 45 diễn viên và 15 con ngựa khi ra mắt. Chương trình đã đóng cửa vào tháng 1 năm 1999, sau khoảng 5.600 buổi biểu diễn. Nó được thay thế một tháng sau bởi một phiên bản được cải tiến được gọi là Tournament of Kings. Hơn 2 triệu đô la đã được chi để nâng cấp chương trình và cải tạo đấu trường. Cả hai chương trình đều được tạo ra bởi nhà sản xuất người Pháp Peter Jackson, người đã qua đời ngay trước khi Tournament of Kings ra mắt. Con trai của ông, Patrick Jackson, đã tiếp quản vị trí sản xuất.
Tournament of Kings kết hợp các hiệu ứng pháo hoa và các pha nguy hiểm khác nhau, bao gồm đấu kiếm. Tính đến năm 2008, dàn diễn viên bao gồm tối đa 38 người và 11 con ngựa. Chương trình có tổng cộng 30 con ngựa, được nuôi trong một cơ sở có điều hòa không khí phía sau khu nghỉ dưỡng. Tính đến năm 2010, đây là chương trình duy nhất ở Las Vegas có sự tham gia của ngựa. King Arthur's Tournament có sự tham gia của những người cưỡi ngựa nữ, mặc dù phải đến năm 2014, Tournament of Kings mới giới thiệu người cưỡi ngựa nữ đầu tiên của mình.
Tournament of Kings là chương trình ăn tối được nhiều gia đình yêu thích. Đây là chương trình ăn tối kéo dài nhất ở Dải Las Vegas, và cũng là một trong những chương trình lâu đời nhất nói chung. Excalibur là nhà nhập khẩu Cornish game hen lớn nhất trên thế giới, đã phục vụ 6,7 triệu con gà con qua chương trình từ khi mở cửa ban đầu vào năm 1990 đến năm 2018.
Dragon show
Vào năm 1993, khu nghỉ dưỡng đã ra mắt một con rồng hoạt hình ba tầng. Buổi biểu diễn diễn ra ở lối vào hào nước và được biểu diễn hàng giờ mỗi đêm. Con rồng phun lửa được tạo ra bởi công ty AVG Inc của Alvaro Villa, và phải mất chín tháng để xây dựng. Trước đó, người ta đã từng xem xét một con rồng sáu tầng. Các hiệu ứng rồng và Merlin nói chung được coi là không ấn tượng. Vào năm 2002 và 2003, độc giả của Las Vegas Review-Journal đã bình chọn chương trình là điểm thu hút tệ nhất của thành phố. Chương trình kết thúc vào khoảng năm 2003, mặc dù con rồng vẫn còn nguyên vẹn, ẩn bên dưới cây cầu kéo.
Các chương trình khác
Thunder from Down Under đã khai trương tại khu nghỉ dưỡng vào tháng 7 năm 2002 và là buổi biểu diễn nam tính dài nhất ở Las Vegas. Kể từ năm 2011, địa điểm Thunder from Down Under cũng đã đăng cai tổ chức The Australian Bee Gees Show , một sự tri ân dành cho nhóm nhạc Bee Gees đầu tiên. Địa điểm ban đầu có thể chứa 375 người. Nó đã được cải tạo vào năm 2019 và được đặt tên là Thunderland Showroom, với sức chứa được mở rộng lên 425 người. Ảo thuật gia Hans Klok bắt đầu biểu diễn trong không gian đó vào cuối năm đó, chia sẻ nó với Thunder from Down Under và chương trình Bee Gees. Giữa đại dịch COVID-19, Klok đã rời khỏi khu nghỉ dưỡng vào năm 2020, vì anh cảm thấy rằng các hạn chế liên quan đến đại dịch sẽ cản trở doanh thu. Ảo thuật gia Mac King đã thay thế vị trí của anh vào năm 2021, đóng vai chính trong một chương trình ảo thuật hài hước.
Các chương trình khác tại khu nghỉ mát bao gồm Royal Lipizzaner Stallions, một nhóm ngựa Lipizzaner đã thực hiện nhiều động tác khác nhau cho khán giả trong những năm 1990. Catch a Rising Star, một chuỗi câu lạc bộ hài kịch, đã mở một địa điểm tại Excalibur vào năm 2001, hoạt động ở đó trong gần ba năm. Câu lạc bộ được bổ sung để đáp ứng phản hồi của khách. Louie Anderson cũng đã thực hiện các hành động hài kịch trong phòng trưng bày của khu nghỉ mát, bắt đầu từ năm 2006. Anh đã giải trí ở đó cho đến năm 2010.
Fuerza Bruta, một chương trình có sự tham gia của các nghệ sĩ xiếc, đã khai mạc vào tháng 3 năm 2019. Nó được thực hiện trong một lều dựng tại chỗ rộng 3.800 foot vuông (350 mét vuông), với sức chứa đứng là 950 người. Chương trình được ký cho một đợt chạy sáu tháng, nhưng đã kết thúc một tháng sau khi ra mắt, do doanh thu bán vé kém; mỗi buổi biểu diễn chỉ có trung bình 50 khách.
Trong văn hóa đại chúng
Vào năm 2003 và 2004, Excalibur đã được sử dụng làm địa điểm quay cho chương trình truyền hình Fear Factor. Trò chơi điện tử Grand Theft Auto: San Andreas năm 2004 có các khu nghỉ dưỡng hư cấu dựa trên những khu nghỉ dưỡng nằm dọc theo Strip, bao gồm một khu nghỉ dưỡng theo chủ đề lâu đài được mô phỏng theo Excalibur.
Chú thích
Liên kết ngoài
Official website
"Roy Vegas" - photos showing the Dick's Last Resort promotion that replaced Merlin
Dải Las Vegas
Khách sạn sòng bạc
|
19835856
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BA%ABu%20nhi%C3%AAn%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Ngẫu nhiên (định hướng)
|
Ngẫu nhiên thường được hiểu là thiếu một khuôn mẫu hay khả năng dự báo trong các sự kiện.
Khái niệm “ngẫu nhiên” còn được sử dụng để đề cập:
Tùy ý
Tùy cơ
Ngẫu nhiên trong triết học Mác – Lenin
Biến ngẫu nhiên
|
19835864
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20tham%20d%E1%BB%B1%20Gi%E1%BA%A3i%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20b%C3%B3ng%20n%C3%A9m%20nam%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202023
|
Danh sách cầu thủ tham dự Giải vô địch bóng ném nam thế giới 2023
|
Tại Giải vô địch bóng ném nam thế giới 2023, các đội phải đăng ký tối thiểu là 18 cầu thủ, trong đó có 2 thủ môn.
Tuổi, câu lạc bộ, số trận đấu và số bàn thắng sẽ được cập nhật cho đến ngày 11 tháng 1 năm 2023.
Bảng A
Tây Ban Nha
22 cầu thủ được triệu tây vào ngày 12 tháng 12 năm 2022. Danh sách giảm xuống còn 19 cầu thủ vào ngày 30 tháng 12 năm 2022.
Head coach: Jordi Ribera
Montenegro
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 31 tháng 12 năm 2020.
Huấn luyện viên trưởng: Zoran Roganović
Chile
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 27 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Aitor Etxaburu
Iran
23 cầu thủ được triệu tập vào ngày 22 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Veselin Vujović
Bảng B
Pháp
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 30 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu. Danh sách được công bố vào ngày 11 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Guillaume Gille
Ba Lan
22 cầu thủ được triệu tập vào ngày 22 tháng 12 năm 2022. Danh sách cuối cùng được công bố vào ngày 7 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Patryk Rombel
Ả Rập Xê Út
21 cầu thủ được triệu tập vào ngày 27 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Jan Pytlick
Slovenia
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 10 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Uroš Zorman
Bảng C
Thụy Điển
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 13 tháng 12 năm 2022. Vào ngày 30 tháng 12, Karl Wallinius đã bỏ lỡ giải đấu sau một chấn thương ở đầu gối và anh được thay thế bởi Olle Forsell Schefvert.
Huấn luyện viên trưởng: Glenn Solberg
Brasil
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 21 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Marcus Oliveira
Cabo Verde
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 15 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Ljubomir Obradović
Uruguay
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 31 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Nicolás Guerra
Bảng D
Iceland
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 23 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Guðmundur Guðmundsson
Bồ Đào Nha
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 2 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Paulo Pereira
Hungary
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 5 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Chema Rodríguez
Hàn Quốc
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 25 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Rolando Freitas
Bảng E
Đức
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 23 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Alfreð Gíslason
Qatar
23 cầu thủ được triệu tập vào ngày 1 tháng 8 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Valero Rivera López
Serbia
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 30 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Toni Gerona
Algérie
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 2 tháng 1 năm 2023 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Rabah Gherbi
Bảng F
Na Uy
20 cầu thủ được triệu tập vào ngày 12 tháng 12 năm 2023. Danh sách rút gọn được công bố vào ngày 13 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Jonas Wille
Bắc Macedonia
23 cầu thủ được triệu tập vào ngày 14 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Kiril Lazarov
Argentina
19 cầu thủ được triệu tập vào ngày 1 tháng 1 năm 2023 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Guillermo Milano
Hà Lan
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 12 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Staffan Olsson
Bảng G
Ai Cập
Huấn luyện viên trưởng: Roberto García Parrondo
Croatia
21 cầu thủ được triệu tập vào ngày 30 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Hrvoje Horvat
Maroc
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 28 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Noureddine Bouhaddioui
Hoa Kỳ
24 cầu thủ được triệu tập vào ngày 5 tháng 1 năm 2023 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Robert Hedin
Bảng H
Đan Mạch
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 19 tháng 12 năm 2022. Vào ngày 16 tháng 1 năm 2023, Michael Damgaard gia nhập đội tuyển. 7 ngày sau, Niclas Kirkeløkke chính thức gia nhập vào đội tuyển.
Huấn luyện viên trưởng: Nikolaj Jacobsen
Bỉ
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 15 tháng 12 năm 2022.
Huấn luyện viên trưởng: Yérime Sylla
Bahrain
24 cầu thủ được triệu tập vào ngày 31 tháng 12 năm 2022 để chuẩn bị cho giải đấu.
Huấn luyện viên trưởng: Aron Kristjánsson
Tunisia
Danh sách các cầu thủ được công bố vào ngày 9 tháng 1 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Patrick Cazal
Tham khảo
Giải vô địch bóng ném nam thế giới 2023
|
19835875
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha%202022
|
Chặng đua MotoGP Tây Ban Nha 2022
|
Chặng đua MotoGP Tây Ban Nha 2022 là chặng đua thứ 6 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 29/04/2022 đến ngày 01/05/2022 ở trường đua Jerez, Tây Ban Nha. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19835877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hiyama%20%28ph%C3%B3%20t%E1%BB%89nh%29
|
Hiyama (phó tỉnh)
|
là phó tỉnh của Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của phó tỉnh là 33.609 người và mật độ dân số là 13 người/km2. Tổng diện tích phó tỉnh là 2.629,88 km2.
Hành chính
Tham khảo
Phó tỉnh của Hokkaidō
|
19835885
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20l%E1%BB%85%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20%28Tr%C3%B9ng%20Kh%C3%A1nh%29
|
Đại lễ đường Nhân dân (Trùng Khánh)
|
Đại lễ đường Nhân dân Trùng Khánh () nằm ở thành phố Trùng Khánh, Trung Quốc, là một hội trường lớn dành cho các hội nghị chính trị và sự kiện văn hóa. Hội trường nằm ở quận Du Trung và là một trong những biểu tượng kiến trúc của Trùng Khánh. Vẻ ngoài giống với Đền Thiên Đàn ở Bắc Kinh.
Chú thích
Liên kết ngoài
Khởi đầu năm 1954 ở Trung Quốc
Công trình xây dựng hoàn thành năm 1954
Công trình xây dựng Trùng Khánh
Kiến trúc vòm
|
19835887
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/To%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20Ph%E1%BA%A7n%20Lan
|
Toàn quyền Phần Lan
|
Toàn quyền Phần Lan (; ; ) là người đứng đầu điều hành đất nước và thống lĩnh quân đội của Phần Lan thuộc Thụy Điển (không liên tục) từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 18 và của Đại công quốc Phần Lan tự trị (liên tục) từ năm 1809 đến năm 1917.
Phần Lan thuộc Thụy Điển
Từ cuối thế kỷ 16, sau khi bãi bỏ Công quốc Phần Lan cùng các đặc quyền phong kiến có liên quan, quốc vương Thụy Điển thỉnh thoảng ban phần lớn hoặc toàn cõi Phần Lan cho một quan Toàn quyền. Vị này được bổ nhiệm cách đặc biệt và giải quyết các vấn đề của Phần Lan ít nhiều theo phán đoán tốt nhất của mình. Nổi tiếng nhất trong số các quan Toàn quyền Phần Lan thuộc Thụy Điển là bá tước Per Brahe. Thời kỳ ông làm quan Toàn quyền được người Phần Lan nhắc đến cách ví von là “thời còn bá tước” () khi có chuyện gì tốt đẹp xảy ra vào đúng thời điểm.
Danh sách quan Toàn quyền Phần Lan thuộc Thụy Điển
Xem thêm
Đại công quốc Phần Lan
Công tước Phần Lan
Quốc hội Phần Lan (1809 – 1906)
Danh sách Toàn quyền các lãnh địa Thụy Điển
Quân chủ Phần Lan
Công sứ kiêm Quốc vụ khanh Phần Lan
Danh sách quân chủ Phần Lan
Toàn quyền Phần Lan
Tổng đốc Đại công quốc Phần Lan
Lịch sử chính trị Phần Lan
Danh sách viên chức chính quyền Phần Lan
Khởi đầu năm 1595 ở châu Âu
Khởi đầu thế kỷ 16 ở Phần Lan
|
19835895
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp%20Nh%C3%A0%20vua%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha%202023%E2%80%9324
|
Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 2023–24
|
Cúp Nhà vua Tây Ban Nha 2023–24 (tiếng Tây Ban Nha: Copa del Rey) là giải đấu thứ 122 của Copa del Rey (bao gồm cả 2 mùa giải có hai phiên bản đối thủ được chơi). Đội vô địch sẽ được đảm bảo một suất tham dự vòng đấu UEFA Europa League 2024–25. Cả đội vô địch và á quân sẽ đủ điều kiện tham dự Siêu cúp Tây Ban Nha 2024–25 gồm 4 đội.
Real Madrid là đương kim vô địch sau khi đánh bại Osasuna ở trận chung kết mùa giải trước, nhưng ở mùa này đã bị loại tại vòng 16 đội sau trận thua Atlético Madrid. Trận chung kết năm nay sẽ được tổ chức tại sân vận động La Cartuja ở Sevilla vào ngày 6 tháng 4 năm 2024.
Trên khắp Tây Ban Nha, thời gian thi đấu tính đến ngày 28 tháng 10 năm 2023 và từ ngày 27 tháng 3 năm 2024 là giờ mùa hè Trung Âu CEST (UTC+2). Thời gian vào những ngày tạm thời ("mùa đông") là CET (UTC+1, giờ chuẩn Trung Âu). Các trận đấu diễn ra ở Quần đảo Canary sử dụng múi giờ Tây Âu WET (UTC±00:00).
Lịch trình và thể thức
Vào mùa hè năm 2023, RFEF công bố lịch thi đấu và xác nhận thể thức của mùa giải trước sẽ vẫn được giữ nguyên.
Ghi chú
Các trận đấu với tỷ số hòa sau hai hiệp chính sẽ thi đấu hiệp phụ, nếu vẫn hòa thì sẽ quyết định bằng loạt sút luân lưu.
Các đội đủ điều kiện
Các đội sau đây đủ điều kiện tham gia giải đấu. Các đội dự bị không được phép tham gia.
Notes
Vòng sơ loại
Lễ bốc thăm diễn ra vào ngày 27 tháng 9 năm 2023. Hai mươi đội tham gia được chia thành bốn nhóm dựa trên tiêu chí khoảng cách địa lý. Tổng cộng có 10 trận đấu diễn ra vào ngày 11 và 12 tháng 10 năm 2023.
Các trận đấu
---
---
---
---
---
---
---
---
---
Vòng đầu tiên
Sơ lược
Vòng đầu tiên được thi đấu bởi 110 trong số 115 đội đủ điều kiện (trừ 4 đội tham dự Supercopa de España 2023–24 và nhà vô địch Primera RFEF). 10 đội chiến thắng ở vòng sơ loại trước thi đấu với 10 đội từ La Liga. 4 đội vào bán kết Copa Federación thi đấu với 4 đội còn lại ở La Liga, và 2 đội cuối cùng ở La Liga thi đấu với 2 đội đến từ Tercera RFEF. 6 đội cuối cùng của Tercera RFEF thi đấu với 6 đội từ Segunda División. 14 đội cuối cùng ở Segunda División thi đấu với 14 đội từ Segunda RFEF. Sau đó, 18 đội từ Segunda RFEF thi đấu với 18 đội từ Primera RFEF. Cuối cùng, 2 đội ở Segunda RFEF thi đấu với nhau.
Tổng cộng có 55 trận đấu được diễn ra từ ngày 31 tháng 10 đến ngày 2 tháng 11 năm 2023, có hai trận đấu bị hoãn phải thi đấu vào ngày 8 và 14 tháng 11.
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 17 tháng 10 năm 2023. Các đội được chia thành bảy nhóm:
Các trận đấu
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
Notes
Vòng hai
Vòng thứ hai sẽ có 56 đội thi đấu, nhà vô địch Primera RFEF bước vào vòng này. 3 đội Tercera RFEF thi đấu với 3 đội đến từ La Liga. 11 đội Segunda RFEF thi đấu với 11 đội đến từ La Liga, và đội cuối cùng ở La Liga thi đấu với 1 đội đến từ Primera RFEF. 9 đội cuối cùng của Primera RFEF thi đấu với 9 đội từ Segunda División. Cuối cùng, 8 đội từ Segunda División thi đấu với nhau.
Tổng cộng có 28 trận đấu sẽ diễn ra từ ngày 22 tháng 11 đến ngày 7 tháng 12.
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 15 tháng 11 năm 2023. Các đội được chia thành 5 nhóm:
Các trận đấu
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
Notes
Sơ đồ
Vòng 32
Lễ bốc thăm sẽ được tổ chức vào ngày 12 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở RFEF ở Las Rozas. Bốn đội tham dự Supercopa de España 2023–24 sẽ được bốc thăm cùng với các đội từ hạng thấp nhất. Các đội còn lại từ hạng thấp nhất sẽ gặp các đội còn lại của La Liga. Các trận đấu sẽ diễn ra trên sân của các đội có thứ hạng thấp hơn. Tổng cộng có 16 trận đấu sẽ diễn ra vào ngày 6 và 7 tháng 1 năm 2024.
Các trận đấu
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
---
Ghi chú
Vòng 16
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 8 tháng 1 năm 2024 tại trụ sở RFEF ở Las Rozas. Các đội được phân thành ba nhóm dựa trên hạng đấu của họ trong mùa giải 2023–24. Các trận đấu sẽ diễn ra trên sân của các đội có hạng thấp hơn, nếu hạng bằng nhau thì đội xếp trước sẽ thi đấu trên sân nhà.
Tổng cộng có 8 trận đấu sẽ diễn ra vào các ngày 16, 17 và 18 tháng 1 năm 2024.
Các trận đấu
---
---
---
---
---
---
---
Tứ kết
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 19 tháng 1 năm 2024, 13:00 UTC+1 CET, tại trụ sở RFEF ở Las Rozas. Vì không có đội nào thuộc các hạng dưới nên đội chủ nhà được xác định bằng kết quả bốc thăm may mắn.
Tổng cộng có 4 trận đấu sẽ diễn ra vào tháng 1 năm 2024.
Các trận đấu
---
---
---
Bán kết
Lễ bốc thăm vòng bán kết được tổ chức vào ngày 26 tháng 1 năm 2024, 13:00 UTC+1 CET, tại trụ sở RFEF ở Las Rozas.
Các trận lượt đi sẽ diễn ra vào ngày 6 và 7 tháng 2, còn các trận lượt về sẽ diễn ra vào ngày 27 và 29 tháng 2 năm 2024.
Tóm tắt
|}
Các trận đấu
Tổng tỷ số là 1–1. Mallorca thắng luân lưu 5–4.
Athletic Bilbao thắng chung cuộc 4–0.
Chung kết
Thống kê
Các câu lạc bộ in đậm vẫn còn đang thi đấu tại giải.
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
19835904
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%9Di%20Th%C3%B4ng%20s%C3%A1ng
|
Lời Thông sáng
|
Lời Thông sáng (Word of Wisdom) là tên gọi thông thường của một tiết thứ 1833 trong cuốn Giáo Lý và Giao Ước vốn là một cuốn sách được nhiều giáo hội trong phong trào Thánh hữu Ngày sau coi là một văn bản thiêng liêng. Phần này xác định niềm tin về một số loại ma túy nhất định mà các tín nhân Mặc Môn giáo phải kiêng kị, các thành phần dinh dưỡng nói chung và lời khuyên nên ăn thịt một cách không quá độ. Sách Giáo Lý và Giao Ước cũng đưa ra những lời hứa cho những người tuân theo sự hướng dẫn của Lời Thông sáng này. Lời Thông sáng nghiêm cấm rõ ràng việc dùng rượu, thuốc lá, trà và cà phê (với trà và cà phê được dán nhãn là "đồ uống nóng") và sử dụng ma túy để giải trí, đồng thời khuyến khích các tín nhân thực hành chế độ ăn lành mạnh như ăn uống bổ dưỡng, ăn thịt không quá độ, tập thể dục thường xuyên, vệ sinh cá nhân đúng cách và nghỉ ngơi đầy đủ. Việc tuân thủ Lời Thông sáng là cần thiết trong Giáo hội LDS để trở thành tín nhân Mặc Môn và tham gia vào các công việc khác nhau của nhà thờ Mặc Môn.
Sách Mặc Môn
Luật sức khỏe được Chúa mặc khải vì lợi ích thể chất và thuộc linh của các Thánh hữu (GLGƯ 89). Luật pháp này đã trở nên thường được gọi là Lời Thông sáng. Chúa luôn dạy bảo các tín đồ của Ngài về các nguyên tắc sức khỏe. Chúa đã mặc khải cho Joseph Smith biết loại thực phẩm nào nên ăn và loại nào nên tránh, cùng với lời hứa về những phước lành vật chất và thuộc linh cho những ai biết tuân theo Lời Thông sáng
Chớ nên uống rượu hay là uống vật chi có tánh say (LVKý 10:9).
Rượu khiến người ta nhạo báng, đồ uống say làm cho hỗn hào (CNgôn 20:1).
Những tay ghiền rượu cho rượu mạnh là cay đắng (ÊSai 24:9).
Đa Ni Ên quyết định không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống (ĐNÊn 1:8).
Kẻ say sưa chẳng hưởng được nước Đức Chúa Trời đâu (CRTô 6:10, GLTi 5:21).
Kẻ nào cấm ăn thịt, bảo rằng loài người không được ăn thịt, tức là kẻ đó không do Thượng Đế lập ra (GLGƯ 49:18–21).
Tất cả mọi vật có trên thế gian là để con người sử dụng bằng một cách có suy tính, không quá độ (GLGƯ 59:20).
Chúa khuyên bảo các Thánh Hữu không nên dùng rượu nho, rượu mạnh, thuốc lá hay các thức uống nóng (GLGƯ 89:1–9).
Thảo mộc, trái cây, thịt và ngũ cốc được tạo ra cho loài người và súc vật dùng (GLGƯ 89:10–17).
Sự tuân theo Lời Thông sáng mang lại những phước lành vật chất và thuộc linh (GLGƯ 89:18–21).
Dẫn luận
Các nhà lãnh đạo Giáo hội LDS dạy rằng việc dùng bất kỳ loại rượu nào, kể cả bia đều vi phạm Lời Thông sáng, tuy nhiên, rượu vang đã được sử dụng trong phép bí tích (được xem là rượu bí tích), và "đồ uống nhẹ" (bia) ban đầu được cho phép. Trong Giáo hội LDS, các tín nhân không được phép hút thuốc lá dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả hút thuốc, nhai thuốc hoặc sử dụng thuốc lá điện tử. Điều này cũng áp dụng cho bất kỳ việc sử dụng các chất nicotine dưới bất kỳ hình thức nào. Giáo hội LDS cấm trà và cà phê, như được giải thích từ việc đề cập đến đồ uống nóng trong kinh thánh, người ta cũng dạy rằng đồ uống nóng hay không không quan trọng. Nhìn chung, người ta cho rằng không có lệnh cấm uống trà thảo mộc, cà phê thay thế như Pero và Postum, sô cô la nóng, đồ uống từ mạch nha như Ovaltine và Milo hoặc nước nóng.
Đồ uống nóng được làm rõ trong sổ tay của Giáo hội LDS: Cách giải thích chính thức duy nhất về "đồ uống nóng" (GLGƯ 89:9) trong Lời Thông sáng là lời tuyên bố của các nhà lãnh đạo Giáo hội thời kỳ đầu rằng thuật ngữ "đồ uống nóng" có nghĩa là trà và cà phê. Vào năm 1842, anh trai của Smith Hyrum, Phụ Tá Chủ Tịch của Giáo Hội và tộc trưởng chủ tọa của Giáo Hội, đã đưa ra một cách giải thích về quy định của Lời Thông Sáng về việc cấm "đồ uống nóng": Và một lần nữa "đồ uống nóng không dành cho cơ thể hay cái bụng; có nhiều người thắc mắc điều này có nghĩa là gì; cho dù nó có đề cập đến trà, cà phê hay không. Tôi nói nó đề cập đến trà và cà phê. Theo một cuốn sách được viết bởi nhà truyền giáo và nhà thánh ca LDS Joel H. Johnson vào năm 1881, Joseph Smith đã chia sẻ cách giải thích của Hyrum: Tôi hiểu rằng một số người đang bào chữa cho việc sử dụng trà và cà phê, bởi vì Chúa chỉ nói "đồ uống nóng" trong sự mặc khải của Lời Thông sáng. Trà và cà phê là những gì Chúa muốn nói khi Ngài đã nói "đồ uống nóng".
Xem thêm
Sách Nê Phi thứ nhất
Sách An Ma
Sách Abraham
Chú thích
Tham khảo
.
.
.
; reprinted in .
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Liên kết ngoài
Getting into the Meat of the Word of Wisdom
Mặc Môn giáo
Chế độ ăn tôn giáo
Luật tôn giáo
|
19835905
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vladimir%20Natanovich%20Gelfand
|
Vladimir Natanovich Gelfand
|
Vladimir Natanovich Gelfand (tiếng Nga: Влади́мир Ната́нович Ге́льфанд), (1 tháng 3 năm 1923 — 25 tháng 11 năm 1983). Nhà văn Liên Xô , người viết Nhật Ký, Sĩ quan quân đội, và người lính, gốc Ukraina.
Vladimir Gelfand là tác giả đầu tiên và duy nhất của cuốn nhật ký quân sự của một sĩ quan Hồng quân (1941 – 1946), xuất bản ở Đức bằng tiếng Đức.
Tác phẩm
2002, Đức, Tagebuch 1941—1946 (ISBN 3-87989-360-8)
2005, Đức, Deutschland Tagebuch 1945—1946 (ISBN 3-351-02596-3)
2006, Thụy Điển, Tysk dagbok 1945—46 (ISBN 91-88858-21-9)
2008, Đức, Deutschland Tagebuch 1945—1946 (ISBN 3-7466-8155-3)
2012, Thụy Điển, Tysk dagbok 1945—46 (ISBN 9789186437831)
2015, Nga, Дневник 1941—1946 (ISBN 978-5-8243-1983-5); (ISBN 978-5-9953-0395-4)
2016, Nga, Дневник 1941—1946 (ISBN 978-5-8243-2023-7); (ISBN 978-5-9953-0437-1)
Liên kết ngoài
Vladimir Gelfand *
BBC News Lính Liên Xô 'hãm hiếp phụ nữ Đức' *
Nhà văn Liên Xô
Nhật ký
Người viết nhật ký
Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô
Người Do Thái
Sinh năm 1923
Mất năm 1983
|
19835922
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Primavera%20%28Botticelli%29
|
Primavera (Botticelli)
|
Mùa Xuân ( ), là một bức tranh lớn được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 1470 - 1480 của họa sĩ thời Phục Hưng Ý - Sandro Botticelli. Nó được mô tả là "một trong những bức tranh được viết nhiều và gây tranh cãi nhất trên thế giới", và cũng là "một trong những bức tranh nổi tiếng nhất trong nghệ thuật phương Tây". Từ năm 1919, bức tranh là một phần trong bộ sưu tập của bảo tàng Uffizi ở Florence, Ý.
Tham khảo
|
19835924
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1%20ra%20%C4%91%E1%BB%9Di%20c%E1%BB%A7a%20th%E1%BA%A7n%20V%E1%BB%87%20N%E1%BB%AF%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Sự ra đời của thần Vệ Nữ (định hướng)
|
Sự ra đời của thần Vệ Nữ có thể là:
Thần thoại
Sự ra đời của thần Vệ Nữ (thần thoại), thần thoại kể về sự ra đời của Venus, nữ thần đại diện cho tình yêu và sắc đẹp
Hội họa
Sự ra đời của thần Vệ Nữ, tranh của Sandro Botticelli
Sự ra đời của thần Vệ nữ, tranh của Jean-Honoré Fragonard
|
19835925
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u%20Qu%C3%BD%20An
|
Lưu Quý An
|
Lưu Quý An (21 tháng 2 năm 1940 – 19 tháng 11 năm 1953) là một liệt sĩ thiếu niên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Anh được mệnh danh là "Kim Đồng của tỉnh Vĩnh Phúc", là một trong số ít các thiếu niên được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Cuộc đời
Lưu Quý An sinh ngày 21 tháng 2 năm 1940 tại xã Tiền Phong, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (hiện nay đã sát nhập vào thành phố Hà Nội), trong một gia đình nghèo khó có 7 người con. Vì hoàn cảnh gia đình, Lưu Quý An phải đi làm con nuôi cho gia đình bà Nguyễn Thị Từ, một gia đình có truyền thống tham gia cách mạng. Từ năm 10 tuổi, anh đã cùng chị gái là Lưu Thị Màu và anh rể Ngô Văn Lợi tham gia vào các hoạt động đào hầm ngầm, nuôi giấu cán bộ cách mạng. Anh gia nhập đội du kích của xã, tham gia vào cuộc chiến tranh Đông Dương chống lại thực dân Pháp. Trở thành đội viên trẻ tuổi nhất trong đội, Lưu Quý An được tin tưởng giao nhiệm vụ liên lạc cho bộ đội địa phương. Trong hai năm 1952–1953, Lưu Quý An liên tục tham gia vào các trận chống càn của quân dân địa phương, lập được nhiều thành tích.
Ngày 19 tháng 11 năm 1953, quân đội Pháp huy động một tiểu đoàn bộ binh có xe tăng hộ tống hướng từ xã Phúc Yên tiến về hướng xã Tiền Phong để tiến hành một trận càn. Lưu Quý An được giao nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh từ cấp trên đến các mặt trận. Trên đường thực hiện nhiệm vụ, Lưu Quý An bị bắn gãy một cánh tay. Mặc dù bị thương, anh vẫn cố dùng lựu đạn kìm chân quân Pháp để các du kích rút ra khỏi vòng vây, tổ chức phản công. Sau khi bị khép vòng vây, cắt đứt mọi đường lui, Lưu Quý An đã dùng quả lựu đạn cuối cùng để diệt 3 người lính Âu–Phi, và bị quân Pháp xả súng vào người. Anh hy sinh khi chỉ mới 13 tuổi.
Sau khi hy sinh, Lưu Quý An được truy tặng Huy chương Kháng chiến hạng Nhất và được Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tặng thẻ Đoàn viên danh dự. Tháng 7 năm 1965, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh khi về thăm xã Tiền Phong đã viết vào cuốn sổ lưu niệm dòng chữ "Chúng ta tự hào về những thành tích kháng chiến của nhân dân xã Tiền Phong anh hùng và Lưu Quý An đúng là một Kim Đồng của tỉnh Vĩnh Phúc". Ngày 31 tháng 7 năm 1998, Lưu Quý An được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Hiện nay, tên anh được đặt cho một trường tiểu học tại thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, được đặt cho một số con phố ở tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Lào Cai.
Thành tựu
Huy chương Kháng chiến hạng Nhất.
Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tham khảo
Nguồn
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Người Vĩnh Phúc
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
|
19835926
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Assabu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Assabu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Hiyama, phó tỉnh Hiyama, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 3.592 người và mật độ dân số là 7,8 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 460,58 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835933
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A9c%20c%E1%BA%A3m%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20%C4%91%E1%BA%B3ng
|
Phức cảm thượng đẳng
|
Phức cảm thượng đẳng hay phức cảm vượt trội () là một thuật ngữ được chuyên gia tâm thần học Alfred Adler (1870-1937) đặt ra vào đầu những năm 1900 như một phần của trường phái tâm lý học cá nhân của ông.
Phức cảm thượng đẳng là một cơ chế phòng vệ phát triển theo thời gian với mục đích giúp một cá nhân vượt qua cảm giác thấp kém. Những người mang phức cảm này thường tỏ ra kiêu kỳ, ngạo mạn và coi thường người khác. Họ còn có thể có thái độ hống hách, ra oai hay thậm chí hung hăng với người khác.
Trong cách sử dụng hằng ngày, thuật ngữ "phức cảm thượng đẳng" được dùng để chỉ sự đánh giá quá cao về bản thân.
Alfred Adler
Alfred Adler là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ phức cảm thượng đẳng. Ông cho rằng phức cảm thượng đẳng về cơ bản bắt nguồn từ nhu cầu vượt qua cảm giác thấp kém tiềm ẩn: phức cảm tự ti. Qua các công trình nghiên cứu của mình, Adler kết hợp các biểu hiện của phức cảm thượng đẳng và phức cảm tự ti như một cặp nguyên nhân và kết quả. Các tác phẩm của ông về chủ đề này gồm Understanding Human Nature (1927), và Superiority and Social Interest: A Collection of Later Writings, một bộ sưu tập 21 bài luận của Adler được xuất bản vào năm 1964, sau khi ông qua đời.
Adler phân biệt giữa sự cố gắng bình thường để đạt được điều gì đó với những phức cảm thượng đẳng, trong đó phức cảm thượng đẳng là những nỗ lực để bù đắp cảm giác tự ti. Ông đề cập rằng những người có phức cảm tự ti phát triển phức cảm thượng đẳng để vượt qua những trở ngại do phức cảm tự ti mang lại, chủ yếu bằng cách thổi phồng sự quan trọng của bản thân trong ý thức bằng một cách nào đó. Những mơ tưởng về chủ nghĩa anh hùng và giả định sai lầm về sự thành công đã giúp Adler khám phá ra bản chất của những nỗ lực như vậy.
Khi Adler cân nhắc những gì ông đề cập trong tác phẩm của mình về việc cố gắng vươn lên về tính thượng đẳng hay vượt trội liệu có phải là một bản chất chung của con người, ông cho rằng những người có sức khoẻ tâm thần bình thường không cố gắng để thể hiện sự vượt trội của mình cho người khác xem, mà để đạt được tham vọng và sự thành công cá nhân qua công việc. Ngược lại, những người có phức cảm thượng đẳng thực sự bị mê hoặc bởi những hoang tưởng tự cao và ước mơ về uy thế bất biến.
Những cách hiểu khác
Mặt khác, một phiên bản của Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders (Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê Các Rối loạn Tâm thần), được xuất bản khoảng hai mươi năm sau tác phẩm của Alfred Adler, không đồng ý rằng phức cảm thượng đẳng (có tên chính thức là hoang tưởng tự cao trong DSM IV) chỉ bắt nguồn từ tác động của phức cảm tự ti. The DSM IV cho biết nguyên nhân thứ hai của rối loạn hoang tưởng này có thể xuất phát từ những cảm xúc cường điệu.
Ada Kahn đã lập luận rằng phức cảm thượng đẳng và phức cảm tự ti không thể cùng tồn tại trong cùng một cá nhân, vì một người có phức cảm thượng đẳng thực sự tin rằng họ vượt trội hơn người khác. Bà cho rằng, trong khi phức cảm tự ti có thể biểu hiện qua các hành vi nhằm chứng tỏ rằng bản thân vượt trội, như sở hữu tài sản vật chất có giá trị hoặc ám ảnh với hư danh hay ngoại hình để che đậy cảm giác trống rỗng, người mắc phải phức cảm thượng đẳng không nhất thiết phải quan tâm đến hình ảnh của họ hay hư danh. Bởi vì họ có sẵn cảm giác vượt trội, họ thường không lo nghĩ về việc chứng minh sự vượt trội của mình với người khác.
Vera Hoorens đề cập rằng những người thể hiện phức cảm thượng đẳng tự cho hình ảnh bản thân là vượt trội. Trong khi những người có phức cảm tự ti thường thể hiện bản thân mình ở trạng thái tốt nhất có thể, những người có phức cảm thượng đẳng thậm chí có thể không cố gắng làm cho bản thân trở nên tốt đẹp, hoặc thể hiện sự vượt trội của họ với người khác. Họ có thể nói như họ biết tất cả và tốt hơn người khác, nhưng sau cùng họ không quan tâm liệu người khác có nghĩ vậy hay không, giống như thiên kiến nhận thức được biết đến với tên ảo tưởng thượng đẳng. Do đó, những người xung quanh có thể nhìn nhận họ một cách tiêu cực, vì họ không quan tâm đến ý kiến của người khác về bản thân mình. Những người khác có thể không phân biệt được giữa những người có sự tự nhận thức thấp về bản thân mình và quan tâm sâu sắc đến ý kiến của người khác với những người có phức cảm thượng đẳng thực sự, họ cảm thấy vượt trội và có sự tự trọng cao, và hoàn toàn không quan tâm đến ý kiến của người khác.
Ví dụ trong văn hoá đại chúng
Được thúc đẩy bởi mong muốn đạt được thành tựu để bù đắp cho dòng dõi thấp kém và tầm vóc nhỏ bé của mình, Picasso đã được mô tả bởi người đồng hành cũ của mình, Fernande Olivier, như là một người có phức cảm thượng đẳng: "Anh ấy nói rằng chỉ có những điều mà anh cảm thấy vượt trội mới có thể chạm đến mình".
Việc Beethoven tỏ ra cao quý là kết quả của phức cảm thượng đẳng; nhưng đó cũng là động lực tạo nên những thành tựu âm nhạc phi thường của ông. Ernst Bloch đã nói về những tuyên bố cao ngạo của người nhạc sĩ trẻ, "Những giả định này là cần thiết để giúp ông trở thành Beethoven".
Xem thêm
Tham khảo
Tâm lý học
Tâm lý học Adler
Phức cảm (tâm lý học)
Ái kỷ
Trạng thái tinh thần
|
19835938
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20bay%20Okushiri
|
Sân bay Okushiri
|
là sân bay nằm trên đảo Okushiri, thuộc thị trấn Okushiri, Hokkaidō, Nhật Bản.
Tham khảo
Sân bay Hokkaidō
|
19835944
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20Amalia%20c%E1%BB%A7a%20Orl%C3%A9ans
|
María Amalia của Orléans
|
María Amalia của Tây Ban Nha, María Amalia của Orléans hay María Amalia de Orleans y Borbón (tên đầy đủ: María Amalia Luisa Enriqueta tháng 8 năm 1851 – 9 tháng 11 năm 1870) là Infanta của Tây Ban Nha, con gái của Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier và María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. María Amalia là cháu nội của Louis Philippe I của Pháp và là cháu ngoại của Fernando VII của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
Gia đình
María Amalia là người con thứ hai của Antoine của Pháp, Công tước xứ Montpensier và María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha. Cha của María Amalia là con trai út của Louis Philippe I của Pháp và Maria Amalia của Napoli và Sicilia, còn mẹ của María Amalia là con gái út của Fernando VII của Tây Ban Nha và Maria Cristina của Hai Sicilie. Vương tôn nữ có chín anh chị em nhưng chỉ có bốn người sống đến tuổi trưởng thành. Trước khi Vương tôn nữ chào đời, Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha, đã ban sắc lệnh rằng cấc con của em gái María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha sẽ được phong là Infante của Tây Ban Nha.
Cuộc sống
Sau Cuộc Cách mạng Pháp năm 1848 đã lật đổ ông nội của Vương tôn nữ là Louis-Philippe I của Pháp, cha mẹ của María Amelia đã định cư ở Sevilla.
María Amalia sinh ngày 28 tháng 8 năm 1851 tại Cung điện San Telmo. Trước khi chào đời, bác gái của María Amalia là Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha đã ra sắc lệnh rằng các con của em gái María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha, bất kể là con trai hay con gái thì đều sẽ được ban tước hiệu Infante của Tây Ban Nha. Vào cuối tháng 9 năm 1851, María Amalia được tham dự một buổi lễ tôn giáo chính thức với sự tham gia của cha mẹ cùng các nhà chức trách chính trị và tôn giáo trong thành phố.
Giống như các anh chị em, María Amalia được giáo dục tại Cung điện San Telmo. Vương tôn nữ cũng có những chuyến đi đến Vương quốc Anh và Pháp trong khoảng thời gian này. María Amalia dành phần lớn cuộc đời mình trong cung điện của gia đình, thích chơi piano và cũng như hội họa, một thiên phú của Vương tôn nữ.
Sau cuộc Cách mạng Vinh quang năm 1868, María Amalia cùng gia đình chuyển đến Lisboa, nơi cha của Vương tôn nữ có mối quan hệ thân thiết với Vương thất Bồ Đào Nha. Đã có dự tính về một cuộc hôn nhân giữa María Amalia và Augusto của Bồ Đào Nha nhưng không thành. Nguyên nhân được cho là vì María Amalia đã yêu người anh họ Ferdinand của Orleans, Công tước xứ Alençon, nhưng cuối cùng Vương tôn nữ cũng không kết hôn với Ferdinand.
Sau khi phải sống lưu vong ở Lisboa, gia đình của María Amalia phải chuyển đến Pháp và định cư tại Château de Randan ở Auvergne. Gia đình của Vương tôn nữ trở lại Tây Ban Nha vào năm 1870 và định cư ở Sevilla.
Không lâu sau khi trở về Tây Ban Nha, María Amalia bị ốm nặng. Ngày 9 tháng 11 năm 1870, Vương tôn nữ qua đời tại Cung điện San Telmo ở tuổi 19 và được chôn cất tại Tu viện Vương thất San Lorenzo de El Escorial.
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương tộc Orléans-Borbón
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương thất Tây Ban Nha
Vương nữ Pháp (Orléans)
Vương nữ Pháp
Vương tộc Orléans
Vương nữ
Sinh năm 1851
Mất năm 1870
|
19835945
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20Cristina%20c%E1%BB%A7a%20Orl%C3%A9ans
|
María Cristina của Orléans
|
María Cristina của Tây Ban Nha, María Cristina của Orléans hay María Isabel de Orleans y Borbón (tên đầy đủ: María Cristina Francisca de Paula Antonieta ; 29 tháng 10 năm 1852 – 28 tháng 4 năm 1879) là con gái của Antoine của Orléans, Công tước xứ Montpensier, con trai của Louis Philippe I của Pháp, và María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha, con gái út của Fernando VII của Tây Ban Nha. María Cristina lớn lên ở Sevilla và vì có quan hệ gần gũi với Vương thất Tây Ban Nha, María Cristina các anh chị em đã được phong tặng tước hiệu hiệu Infante và Infanta của Tây Ban Nha. María Cristina qua đời ở tuổi 26 vì bệnh lao.
Tiểu sử
María Cristina sinh ra ở Sevilla, một thành phố mà cha mẹ của Vương tôn nữ buộc phải sống để tránh xa mọi âm mưu trong triều đình của Isabel II của Tây Ban Nha, chị gái của mẹ Vương tôn nữ. María Cristina là con gái thứ ba trong mười người con của Antoine của Pháp mà María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha nhưng trong số họ chỉ có bốn người sống qua thời thơ ấu, ngoài Maria Cristina là: María Isabel, María Amalia, María de las Mercedes và Antonio María. Vương tôn nữ được rửa tội và đặt tên là María Cristina Francisca de Paula Antonietta, theo tên của hai người cha mẹ đỡ đầu là Francisco de Paula của Tây Ban Nha, Công tước xứ Cadiz (ông chú) và Maria Cristina của Hai Sicilie (bà ngoại).
Năm 1878, em gái kém tám tuổi của María Cristina là María de las Mercedes của Tây Ban Nha kết hôn với người anh họ Alfonso XII của Tây Ban Nha. Cuộc hôn nhân giữa Mercedes và Alfonso XII là vì tình yêu chứ không mang tính chính trị được tôn vinh vì tình yêu chứ không phải vì lý do chính trị, sẽ giúp hàn gắn khoảng cách cá nhân giữa Isabel II và em gái María Luisa Fernanda, mẹ của Cristina. Hạnh phúc của hai vợ chồng và của cả gia đình tan vỡ chỉ sau một khoảng thời gian ngắn khi Mercedes qua đời vì bệnh sốt phát ban.
Cái chết của Vương hậu đã khiến Vương thất chìm trong nỗi đau buồn sâu sắc; Alfonso XII đặc biệt đau lòng khi trở thành quan phu ở độ tuổi 20 tuổi, nhưng vì không có người thừa kế nên Quốc vương sớm phải tái hôn. Alfonso XII đã ngỏ ý hỏi cưới với María Cristina và Vương tôn nữ đã đồng ý, nhưng sau đó Cristina mắc phải bệnh lao và qua đời ở độ tuổi 26 vào ngày 28 tháng 4 năm 1879 tại Sevilla. Chỉ bốn tháng sau đó, chị họ của María Cristina là María del Pilar của Tây Ban Nha cũng qua đời. Vương tôn nữ được chôn cất tại Panteón de los Infantes thuộc Tu viện San Lorenzo của El Escorial . Alfonso XII sau đó tái hôn vào ngày 28 tháng 11 cùng năm với Maria Christina Henriette của Áo và có ba đứa con với Nữ Đại vương công là María de las Mercedes, được đặt theo tên của chị gái của María Cristina, María Teresa Isabel, và Alfonso XIII, Quốc vương Tây Ban Nha.
Gia phả
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ficha genealógica de la Infanta María Cristina:
El País, edición del 19 de mayo de 2004:
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương tộc Orléans-Borbón
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương thất Tây Ban Nha
Vương nữ Pháp (Orléans)
Vương nữ Pháp
Vương tộc Orléans
Vương nữ
Sinh năm 1852
Mất năm 1879
Mất thế kỷ 19 do bệnh lao
|
19835955
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abdul%20Rahman%20Arif
|
Abdul Rahman Arif
|
'Abd ul-Ralam Mohammed 'Arif Aljumaily () (14 tháng 4 năm 1916 - 24 tháng 8 năm 2007) Tổng thống thứ ba của Cộng hòa Iraq. Ông giữ chức tổng thống từ ngày 16 tháng 4 năm 1966 đến ngày 17 tháng 7 năm 1968.
Sự nghiệp
Sau khi anh trai ông, Tổng thống Abdul Salam Arif, thiệt mạng trong một vụ tai nạn trực thăng, Hội đồng Chủ quyền đã chọn ông làm Tổng thống nước Cộng hòa. Ông trở thành tổng thống thứ ba của Iraq và là tổng thống thứ ba sau khi tuyên bố thành lập nền cộng hòa.
Ông bị buộc từ chức trong cuộc đảo chính do Đảng Ba'ath lãnh đạo tháng 7 năm 1968. Đổi lại, ông yêu cầu đảm bảo an toàn cho ông và con trai ông, một sĩ quan quân đội.
Cái chết
Tổng thống Abdul Rahman qua đời lúc 5 giờ sáng thứ Sáu, ngày 24 tháng 8 năm 2007 tại thủ đô Amman của Jordan, nơi ông cư trú vào năm 2004. Ông được chôn cất tại Nghĩa trang Liệt sĩ Quân đội Iraq ở thành phố Mafraq, nơi một lễ chôn cất ông đã được tổ chức để phù hợp với vị trí cựu tổng thống của Cộng hòa Iraq.
Chú thích
Tham khảo
Tổng thống Iraq
Sinh năm 1916
Mất năm 2007
Thủ tướng Iraq
|
19835966
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Setana%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Setana, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kudō, phó tỉnh Hiyama, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.398 người và mật độ dân số là 12 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 638,67 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19835973
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brachypterois%20serrulata
|
Brachypterois serrulata
|
Brachypterois serrulata là một loài cá biển thuộc chi Brachypterois trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1846.
Từ nguyên
Từ định danh serrulata là giảm nghĩa của serra, trong tiếng Latinh có nghĩa là “cái cưa”, ở đây mang nghĩa là “răng cưa nhỏ”, hàm ý đề cập đến đỉnh đầu của loài cá này có các gai nhỏ và mảnh thay vì các hàng gai lớn hay thấy ở các loài Sebastes khác (chi gốc của loài này ở thời điểm đó).
Phân bố
B. serrulata trước đây được cho là có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, nhưng qua nghiên cứu thực địa và kiểm tra các mẫu vật thì loài này chỉ có phạm vi giới hạn ở Tây Bắc Thái Bình Dương, từ tỉnh Kōchi phía nam Nhật Bản trải dài đến Biển Đông, xa nhất ở phía nam đến quần đảo Natuna, phía tây đến vịnh Thái Lan (nhầm lẫn với Brachypterois serrulifer).
Ngoài vịnh Nha Trang, B. serrulata còn được ghi nhận tại vịnh Hạ Long và cửa Đại (sông Thu Bồn) trong vùng biển Việt Nam.
B. serrulata ưa sống trên nền đáy bùn hoặc cát, được tìm thấy ở độ sâu khoảng 40–100 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở B. serrulata là 15 cm.
Thường không có gai ở sống giữa bên của hàm trên, có khi xuất hiện 1–3 gai ở cá lớn (> 8 cm). Đầu và thân màu hồng nhạt đến nâu đỏ, lưng sẫm màu hơn. Một đốm đen lớn cỡ ổ mắt trên nắp mang. Có 5 dải màu đỏ sẫm đến đen trên đầu, 5 dải sọc dọc màu đen hoặc sẫm mờ ở hai bên thân. Vây lưng có một đốm lớn màu đỏ sẫm đến đen lan rộng từ khoảng giữa gai thứ 6 và 9; khoảng 4–5 hàng chấm đỏ trên phần tia mềm. Vây hậu môn có khoảng 6–8 đường chấm đỏ sẫm. Vây ngực sẫm màu hơn ở phần biên, với khoảng 6–10 sọc mảnh màu đỏ sẫm. Vây bụng có khoảng 6–7 sọc mảnh màu đỏ sẫm đến đen. Màng vây đuôi trong mờ với dải viền rìa đỏ sẫm (hơi dày hơn ở cá thể nhỏ) với rất nhiều chấm nhỏ (khoảng 60–110) màu đỏ sẫm, kể cả trên tia vây đuôi. Mắt màu vàng óng; mống mắt xanh lam đậm.
Ở B. serrulata, cá đực thường có số gai nhiều hơn trên các bờ hàm dưới, và ngạnh sau tuyến lệ phát triển hơn. Nhiều khả năng hai loài Brachypterois còn lại cũng mang các đặc điểm dị hình giới tính tương tự như B. serrulata. Ngoài ra, mẫu vật B. serrulata thu thập từ quần đảo Natuna và vịnh Thái Lan có chiều dài đầu cũng như chiều dài của mỗi tia dài nhất ở các vây đều lớn hơn so với mẫu vật từ các vị trí còn lại. Vì không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào khác nên đây được coi là các biến thể địa lý của B. serrulata.
Số gai ở vây lưng: 12–14; Số tia vây ở vây lưng: 9–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 4–6; Số tia vây ngực: 14–16.
Sinh thái
Một nghiên cứu phân tích chất trong dạ dày cho thấy B. serrulata ăn các loài tôm và cua nhỏ. Mùa sinh sản diễn ra trong khoảng tháng 7 đến tháng 9.
Tham khảo
S
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Trung Quốc
Cá Đài Loan
Cá Thái Lan
Cá Việt Nam
Cá Malaysia
Động vật được mô tả năm 1846
|
19835975
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20V%C4%83n%20M%E1%BA%A1nh
|
Dương Văn Mạnh
|
Dương Văn Mạnh (1930 – Tháng 4 năm 1946) là một liệt sĩ thiếu niên trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp của Việt Nam. Anh là một trong số ít các thiếu niên được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Cuộc đời
Dương Văn Mạnh sinh năm 1930 tại ấp Tây, xã Long Phước, thị xã Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi hoàn thành bậc tiểu học ở quê nhà, anh lên Sài Gòn theo học trường trung học Lê Bá Cang. Tại trường, anh đã được kết nạp vào tổ chức thanh niên tiền phong. Năm 14 tuổi, Dương Văn Mạnh đã trở thành một liên lạc viên đảm nhiệm việc liên lạc giữa cơ sở cách mạng ở Sài Gòn và Bà Rịa. Sau ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp chiếm đóng Sài Gòn - Gia Định, đàn áp các phong trào cách mạng của học sinh, sinh viên, Dương Văn Mạnh trở lại Bà Rịa và tiếp tục hoạt động trong đội ngũ du kích xã. Thời gian này, anh thường xuyên tổ chức, tham gia các chương trình văn nghệ tuyên truyền, phong trào bình dân học vụ.
Tháng 2 năm 1946, quân Pháp tái chiếm Bà Rịa, dùng lực lượng bộ binh kết hợp với cơ giới để đánh chiếm các khu vực Long Phước, Long Điền, Đất Đỏ. Ngày 9 tháng 3 năm 1946, Đội du kích Quang Trung (tiền thân của lực lượng vũ trang tỉnh sau này) được thành lập tại xã Long Phước, trong đó Dương Văn Mạnh mới 16 tuổi là thành viên trẻ tuổi nhất. Một tháng sau khi thành lập, đội được chia thành hai tiểu đội, phân biệt đóng tại Long Phước và Long Tân. Dương Văn Mạnh đảm nhiệm việc liên lạc của đội.
Trong một lần thực hiện nhiệm vụ giao thư của đội trưởng đội du kích là Hoàng Tiêu cho tiểu đội đang đóng ở xã Long Phước, Dương Văn Mạnh bị hai người lính Lê dương phục kích bắt được. Không chỉ thành công tiêu hủy bức thư trước khi bị phát hiện, anh còn vững vàng chống chọi các cuộc tra tấn, tra khảo của quân lính sau khi bị bắt về đòn. Tra tấn liên tiếp nhiều ngày nhưng không thể khuất phục người cách mạng nhỏ tuổi, quân Lê dương duyết định xử bắn anh ngay sau trận tra tấn dã man cuối cùng. Khi ấy anh chỉ vừa 16 tuổi.
Ngày 23 tháng 7 năm 1997, Dương Văn Mạnh được nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Ngày nay, tên anh được dùng để đặt cho một trường trung học cơ sở và một công viên ở Bà Rịa – Vũng Tàu.
Tham khảo
Nguồn
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
Người Bà Rịa – Vũng Tàu
|
19835981
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%ADch%20%C4%91%E1%BB%99ng
|
Kích động
|
Kích động tâm lý
Kích động khủng bố
Xem thêm
Kích thích (định hướng)
|
19835983
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%ADch%20th%C3%ADch%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Kích thích (định hướng)
|
Kích thích, khuyến khích phát triển hoặc nguyên nhân của hoạt động nói chung
Kích thích (kinh tế học)
Kích thích (sinh lý học)
Kích thích (tâm lý học)
Xem thêm
Kích động
|
19835991
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Microsoft%20Solitaire
|
Microsoft Solitaire
|
Microsoft Solitaire là một trò chơi máy tính có trong hệ điều hành Windows, dựa trên trò chơi bài cùng tên, còn được gọi là Klondike. Phiên bản gốc được lập trình bởi Wes Cherry và các lá bài được thiết kế bởi Susan Kare.
Lịch sử
Microsoft đã đưa trò chơi này vào dòng sản phẩm Windows của họ kể từ Windows 3.0, bắt đầu từ năm 1990. Trò chơi được phát triển vào mùa hè năm 1988 bởi thực tập sinh Wes Cherry. Bộ bài được thiết kế bởi Susan Kare, người tiên phong của Macintosh. Phiên bản của Cherry bao gồm một boss key có thể chuyển trò chơi sang bảng tính Microsoft Excel giả, nhưng sau đó đã bị xóa khỏi bản phát hành cuối cùng.
Microsoft dự định Solitaire "làm dịu những người bị hệ điều hành đe dọa" và vào thời điểm mà nhiều người dùng vẫn chưa quen với giao diện đồ họa người dùng, nó tỏ ra hữu ích trong việc giúp họ làm quen với việc sử dụng chuột, chẳng hạn như thao tác kéo và thả, kỹ thuật cần thiết để di chuyển lá bài.
Theo thống kê của Microsoft, Solitaire là một trong ba chương trình Windows được sử dụng nhiều nhất và FreeCell đứng thứ bảy, trước Microsoft Word và Microsoft Excel. Năng suất kinh doanh bị giảm do nhân viên chơi Solitaire đã trở thành mối lo ngại chung kể từ khi nó trở thành tiêu chuẩn trên Microsoft Windows.
Vào tháng 10 năm 2012, cùng với việc phát hành hệ điều hành Windows 8, Microsoft đã phát hành phiên bản Solitaire mới có tên Microsoft Solitaire Collection. Phiên bản này, trò chơi được thiết kế bởi Microsoft Studios, với thiết kế hình ảnh do William Bredbeck chỉ đạo và Arkadium phát triển, được hỗ trợ quảng cáo và giới thiệu nhiều tính năng mới cho trò chơi. Giống như bản phát hành ban đầu của trò chơi, William Bredbeck được trích dẫn nói "Một trong những mục đích của thiết kế lại là giới thiệu cho người dùng những thay đổi mới được tích hợp trong hệ điều hành Windows 8 mới". Thiết kế này vẫn được sử dụng cho đến Windows 11.
Microsoft Solitaire đã kỷ niệm 25 năm ra mắt vào ngày 18 tháng 5 năm 2015. Để kỷ niệm sự kiện này, Microsoft đã tổ chức giải đấu Solitaire trong khuôn viên Microsoft và phát sóng sự kiện chính trên Twitch.
Năm 2019, Bảo tàng Trò chơi Quốc gia Strong đã đưa Microsoft Solitaire vào Đại sảnh Danh vọng Trò chơi Điện tử Thế giới.
Theo Microsoft, vào dịp kỷ niệm 30 năm ra mắt vào năm 2020, ước tính trò chơi vẫn có 35 triệu người chơi hoạt động hàng tháng và hơn 100 triệu lượt chơi hàng ngày.
Đặc trưng
Khi thắng cuộc, các lá bài sẽ rơi ra khỏi từng chồng và bật ra khỏi màn hình. Màn hình "chiến thắng" này được coi là một yếu tố nguyên mẫu sẽ trở nên phổ biến trong các trò chơi thông thường, so với việc sử dụng "Ode to Joy" để chiến thắng một cấp độ Peggle và khiến Solitaire trở thành một trong những trò chơi điện tử thông thường đầu tiên như vậy.
Kể từ Windows 3.0, Solitaire cho phép chọn thiết kế ở mặt sau của các lá bài, chọn rút một hoặc ba lá bài từ bộ bài cùng một lúc, chuyển đổi giữa tính điểm Vegas và tính điểm Tiêu chuẩn, đồng thời vô hiệu hóa hoàn toàn việc tính điểm. Trò chơi cũng có thể được tính giờ để có thêm điểm nếu trò chơi thắng. Có một mánh gian lận sẽ cho phép rút từng lá bài một khi 'rút ba' được đặt.
Trong Windows 2000 và các phiên bản Solitaire mới hơn, việc nhấp chuột phải vào không gian mở sẽ tự động di chuyển các thẻ có sẵn đến bốn nền ở góc trên bên phải, như trong FreeCell. Nếu con trỏ chuột ở trên một lá bài, một cú nhấp chuột phải sẽ chỉ di chuyển lá bài đó về nền của nó, miễn là đó là một nước đi có thể thực hiện được. Nhấp đúp chuột trái cũng sẽ di chuyển thẻ về nền phù hợp.
Cho đến phiên bản Windows XP, mặt sau của lá bài là tác phẩm gốc do Susan Kare thiết kế và nhiều mặt sau là hoạt ảnh.
Phiên bản Windows Vista và Windows 7 của trò chơi lưu số liệu thống kê về số ván đã chơi, tỉ lệ phần trăm thắng và chuỗi thắng, đồng thời cho phép người dùng lưu các trò chơi chưa hoàn thành và chọn các thiết kế lá bài gồm nhiều kiểu khác nhau.
Trên Windows 8, Windows 10, Windows 11, Windows Phone, Android và iOS, trò chơi được phát hành dưới tên Microsoft Solitaire Collection, trong đó ngoài Klondike còn có bốn chế độ trò chơi khác là Spider, FreeCell (cả hai chế độ này trước đây đã được giới thiệu trong các phiên bản Windows như Microsoft Spider Solitaire và Microsoft FreeCell), Pyramid và TriPeaks (cả hai đều trước đây là một phần của loạt Microsoft Entertainment Pack, trước đây có tên Tut's Tomb).
Xem thêm
Danh sách các trò chơi có trong Windows
Tham khảo
1990 video games
Casual games
Discontinued Windows components
Microsoft games
Patience video games
Simple packers
Video games developed in the United States
Windows games
Windows Phone games
World Video Game Hall of Fame
de:Klondike (Solitaire)
|
19835994
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%9D%20Nhi
|
Ý Nhi
|
Ý Nhi có thể là:
Huỳnh Trần Ý Nhi (2002): Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2023
Hoàng Thị Ý Nhi (1944): Nữ nhà thơ Việt Nam
Lê Ý Nhi (1960): Nữ diễn viên lồng tiếng Việt Nam.
Xem thêm
|
19836003
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20K%E1%BA%BF%20v%E1%BB%8B%20Ba%20Lan
|
Chiến tranh Kế vị Ba Lan
|
Chiến tranh Kế vị Ba Lan (tiếng Ba Lan: Wojna o sukcesję polską; tiếng Anh: War of the Polish Succession; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội chiến Ba Lan tranh giành quyền kế vị ngai vàng sau sự qua đời của Vua August II, mà các cường quốc châu Âu khác đã thúc đẩy và mở rộng cuộc xung đột để theo đuổi quyền lợi quốc gia của riêng họ. Vương quốc Pháp và Tây Ban Nha, hai cường quốc đều nằm dưới vương quyền Nhà Bourbon, đã cố gắng kiểm tra sức mạnh của Quân chủ Habsburg ở Tây Âu, Vương quốc Phổ cũng vậy, trong khi Tuyển hầu xứ Sachsen và Đế quốc Nga huy động để hỗ trợ người chiến thắng cuối cùng. Cuộc giao tranh ở Ba Lan dẫn đến việc Augustus III lên ngôi vua, được Nga và Sachsen ủng hộ, ngoài ra còn được Habsburg ủng hộ về mặt chính trị.
Các chiến dịch quân sự và trận đánh lớn của cuộc chiến xảy ra bên ngoài Ba Lan. Quân Bourbon, được hỗ trợ bởi Charles Emmanuel III của Sardinia, đã tiến đánh các lãnh thổ Habsburg bị cô lập. Tại Rheinland, Pháp đã chiếm thành công Công quốc Lorraine, và ở Bán đảo Ý thì Tây Ban Nha giành lại quyền kiểm soát các Vương quốc Napoli và Vương quốc Sicilia đã mất trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, trong khi việc giành được lãnh thổ ở miền Bắc Bán đảo Ý bị hạn chế mặc dù có chiến dịch đẫm máu. Việc Vương quốc Đại Anh không sẵn lòng hỗ trợ Quân chủ Habsburg, điều này chứng tỏ sự yếu kém của Liên minh Anh-Áo.
Mặc dù đạt được hòa bình sơ bộ vào năm 1735, chiến tranh chính thức kết thúc với Hiệp ước Viên (1738), trong đó Augustus III được xác nhận là vua Ba Lan và đối thủ của ông là cựu vương Stanisław Leszczyński được trao Công quốc Lorraine và Công quốc Bar, khi đó cả hai đều là thái ấp của Đế quốc La Mã Thần thánh. Francis Stephen, Công tước xứ Lorraine, được trao Đại công quốc Toscana để đền bù cho việc từ bỏ lãnh thổ Lorraine. Công quốc Parma rơi vào tay của người Habsburg, trong khi Charles của Parma chiếm lấy vương miện của 2 vương quốc Napoli và Sicilia. Hầu hết các lãnh thổ giành được đều thuộc về người Nhà Bourbon, vì các Công quốc Lorraine và Bar từ chỗ là thái ấp của Đế chế La Mã Thần thánh trở thành thái ấp của Vương quốc Pháp, trong khi người Bourbon Tây Ban Nha giành được hai vương quốc Napoli và Sicilia ở Nam Bán đảo Ý. Về phần mình, Nhà Habsburg đã nhận lại được hai công quốc Ý, mặc dù Parma sẽ sớm quay trở lại quyền kiểm soát của Bourbon. Toscana sẽ do Habsburg nắm giữ cho đến thời Napoléon.
Chiến tranh tỏ ra là một thảm họa đối với nền độc lập của Ba Lan, đồng thời tái khẳng định rằng các vấn đề của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, bao gồm cả việc bầu chọn Nhà vua, sẽ do các cường quốc khác của Châu Âu kiểm soát. Sau August III, sẽ chỉ còn một vị vua nữa của Ba Lan là Stanisław August Poniatowski, bản thân là bù nhìn của người Nga, và cuối cùng Ba Lan sẽ bị các nước láng giềng chia cắt và không còn tồn tại như một quốc gia có chủ quyền vào cuối thế kỷ XVIII. Ba Lan cũng từ bỏ các yêu sách đối với Livonia và từ bỏ kiểm soát trực tiếp Công quốc Courland và Semigallia, mặc dù vẫn là một thái ấp của Ba Lan nhưng không được sáp nhập vào Ba Lan và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Nga và chỉ kết thúc với sự sụp đổ của Đế quốc Nga vào năm 1917.
Bối cảnh
Sau cái chết của Sigismund II Augustus vào năm 1572, Vua Ba Lan đã được bầu chọn bởi Szlachta, một cơ quan gồm có giới quý tộc Ba Lan, trong một cuộc bầu cử được gọi đặc biệt là Sejm. Quyền lực hoàng gia ngày càng bị hạn chế bởi Sejm, cơ quan lập pháp của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva. Đổi lại, Sejm thường bị tê liệt bởi Liberum Veto, quyền của bất kỳ thành viên nào trong việc ngăn chặn các quyết định của nó. Các nước láng giềng của Ba Lan thường ảnh hưởng đến Sejm và đến đầu thế kỷ XVIII, hệ thống dân chủ đã suy yêu.
Năm 1697, Augustus II lên ngôi vua, được Áo và Nga hậu thuẫn. Bị Stanisław Leszczyński phế truất vào năm 1705, bốn năm sau ông quay trở lại và Stanisław trốn sang Pháp, nơi con gái ông là Maria Leszczyńska kết hôn với Vua Louis XV vào năm 1725. Augustus đã thất bại trong nỗ lực giành lại vương miện Ba Lan cho con trai ông là Augustus III, dẫn đến một cuộc tranh giành ngai vàng khi ông qua đời năm 1733. Trong Hiệp ước Ba đại bàng đen bí mật năm 1732, Nga, Áo và Phổ đã đồng ý phản đối cuộc bầu cử của Stanislaus hoặc Augustus III và thay vào đó ủng hộ Manuel của Bồ Đào Nha.
Tranh chấp xảy ra cùng lúc với sự tan rã của Liên minh Anh-Pháp, vốn đã thống trị châu Âu từ năm 1714. Thỏa thuận tại Utrecht nhằm đảm bảo Pháp và Tây Ban Nha vẫn tách biệt, có nghĩa là bất chấp mối quan hệ huyết thống chặt chẽ giữa Vua Louis XV của Pháp và chú Felipe V của Tây Ban Nha, hai nước là đối thủ trong Chiến của Liên minh Bộ tứ năm 1718 đến 1720. Khi Hồng y Fleury trở thành Thủ tướng Pháp vào năm 1726, ông đã tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ hơn với Tây Ban Nha, nhờ sự ra đời của Vương tử Louis, Dauphin của Pháp vào năm 1729, điều này dường như đảm bảo rằng 2 quốc gia Pháp và Tây Ban Nha vẫn sẽ vẫn tách biệt dù đều được cai trị bởi người Nhà Bourbon.
Fleury ủng hộ Stanisław, hy vọng làm suy yếu Áo và bảo vệ Công quốc Lorraine, một lãnh thổ chiến lược bị Pháp chiếm đóng trong phần lớn thế kỷ trước. Công tước hiện tại là Francis Stephen dự kiến sẽ kết hôn với người thừa kế của Hoàng đế Karl VI của Thánh chế La Mã là Maria Theresia, khiến người Pháp cảm thấy nguy hiểm. Đồng thời, Felipe V của Tây Ban Nha muốn giành lại các lãnh thổ ở Bán đảo Ý đã được nhượng cho Áo vào năm 1714, dẫn đến Pacte de Famille năm 1733 giữa Pháp và Tây Ban Nha.
Cái chết của Augustus II
Augustus II qua đời vào ngày 1 tháng 2 năm 1733. Trong suốt mùa xuân và mùa hè năm 1733, Vương quốc Pháp bắt đầu xây dựng lực lượng dọc theo biên giới phía Bắc và phía Đông của mình, trong khi Hoàng đế của Thánh chế La Mã tập trung quân đội ở biên giới Ba Lan, giảm bớt các đồn trú ở Công quốc Milan. Trong khi Thân vương Eugene xứ Savoy đã khuyến nghị với hoàng đế một kế hoạch hiếu chiến hơn nhầm chống lại các hành động tiềm tàng của Pháp ở thung lũng Rhein và miền Bắc Bán đảo Ý.
Hầu tước de Monti, đại sứ Pháp tại Warsaw, đã thuyết phục 2 gia tộc đối địch Potocki và Czartoryski đoàn kết lại đứng đằng sau để ủng hộ Stanisław. Teodor Andrzej Potocki, Giáo trưởng Ba Lan và interrex sau cái chết của Augustus, đã thực hiện một cuộc triệu tập vào tháng 3 năm 1733. Các đại biểu tham dự đã thông qua một nghị quyết cấm người nước ngoài ứng cử để vào vị trí vua Ba Lan; điều này rõ ràng sẽ loại trừ cả Emmanuel của Bồ Đào Nha và con trai của Augustus II là Frederick August II, Tuyển hầu xứ Sachsen.
Frederick August đã đàm phán các thỏa thuận với Áo và Nga vào tháng 7 năm 1733. Để đổi lấy sự hỗ trợ của Nga, ông đồng ý từ bỏ mọi yêu sách còn lại của Ba Lan đối với Livonia, và hứa với Nữ hoàng Anna của Nga về việc lựa chọn người kế vị Công quốc Courland và Semigallia, một thái ấp của Ba Lan (trong đó bà từng là nữ công tước đất này trước khi lên ngôi Nữ hoàng Nga), nếu không thì sẽ nằm dưới sự cai trị trực tiếp của Ba Lan sau cái chết của công tước hiện tại là Ferdinand Kettler, người không để lại người thừa kế. Với Hoàng đế La Mã Thần thánh, ông hứa sẽ công nhận Lệnh trừng phạt thực dụng năm 1713, một tài liệu được thiết kế để đảm bảo quyền thừa kế ngai vàng của Áo cho Maria Theresia, con cả của Karl VI.
Vào tháng 8, giới quý tộc Ba Lan đã tập trung cho cuộc bầu cử Sejm. Vào ngày 11 tháng 8, 30.000 quân Nga dưới sự chỉ huy của Thống chế Peter Lacy đã tiến vào Ba Lan nhằm gây ảnh hưởng đến quyết định của Sejm. Vào ngày 4 tháng 9, Pháp công khai tuyên bố ủng hộ Leszczyński, người được bầu làm vua bởi một Sejm gồm 12.000 đại biểu vào ngày 12 tháng 9. Một nhóm quý tộc, dẫn đầu bởi các quý tộc người Litva trong đó có Công tước Michał Serwacy Wiśniowiecki (cựu đại tể tướng Litva được Augustus II đề cử), vượt sông Vistula dưới sự bảo vệ của quân Nga. Nhóm này, với số lượng khoảng 3.000 người, đã bầu Frederick August II làm Vua Ba Lan với vương hiệu Augustus III vào ngày 5 tháng 10. Mặc dù thực tế rằng nhóm này chỉ là thiểu số, Nga và Áo, có ý định duy trì ảnh hưởng của họ ở Ba Lan, nên đã công nhận Augustus là vua.
Vào ngày 10 tháng 10, Pháp tuyên chiến với Áo và Sachsen. Vua Louis XV sau đó được chú của ông là Vua Felipe V của Tây Ban Nha hỗ trợ, với hy vọng đảm bảo các lãnh thổ ở Ý cho các con trai của mình với người vợ thứ hai là Elisabeth Farnese. Cụ thể, ông hy vọng có thể bảo đảm Công quốc Mantua cho con trai lớn là Vương tử Don Carlos, người đã là Công tước xứ Parma và có kỳ vọng về Đại công quốc Toscana, cũng như Vương quốc Napoli và Sicilia cho con trai nhỏ là Vương tử Don Felipe. Hai vị vua Bourbon cũng nhận được sự hỗ trợ quân sự từ Charles Emmanuel III của Sardinia, cũng hy vọng đảm bảo lợi ích từ các Công quốc Milan và Mantua của Áo.
Tham khảo
Nguồn
Navarro i Soriano, Ferran (2019). Harca, harca, harca! Músiques per a la recreació històrica de la Guerra de Successió (1794-1715). Editorial DENES. .
Liên kết ngoài
The war of the Polish succession by Vajiravudh, King of Siam, 1901
Another German source
Chiến tranh Kế vị Ba Lan
Xung đột thập niên 1730
Xung đột thế kỷ 18
Chiến tranh liên quan tới đế quốc La Mã Thần thánh
Chiến tranh thời cận đại
Chiến tranh Ba Lan-Nga
Đế quốc La Mã Thần thánh thập niên 1730
|
19836059
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sorachi%20%28ph%C3%B3%20t%E1%BB%89nh%29
|
Sorachi (phó tỉnh)
|
là phó tỉnh của Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 65.614 người và mật độ dân số là 10 người/km2. Tổng diện tích phó tỉnh là 6558,22 km2.
Hành chính
Thành phố
Thị trấn
Tham khảo
Phó tỉnh của Hokkaidō
|
19836065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%8B%20th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20h%E1%BA%A5p%20d%E1%BA%ABn
|
Dị thường hấp dẫn
|
Trong vật lý lý thuyết, dị thường hấp dẫn là một ví dụ về dị thường gauge: đây là một hiệu ứng trong cơ học lượng tử—thường là one-loop diagram—làm mất hiệu lực (invalidate) general covariance của một thuyết của thuyết tương đối rộng kết hợp với một số lĩnh vực khác.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hấp dẫn lượng tử
|
19836073
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2n%20%C4%90%C3%A1%20L%E1%BA%BB
|
Hòn Đá Lẻ
|
Hòn Đá Lẻ là một hòn đảo nhỏ nằm trong quần đảo Hòn Khoai, thuộc xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Đây là vị trí Điểm A2 của Đường cơ sở trên biển của Việt Nam. Tọa độ Hòn Đá Lẻ là 08˚22'8" vĩ độ Bắc - 104˚52'4" kinh độ Đông. Hòn Đá Lẻ cũng được một số tài liệu ghi nhận là điểm cực nam của Việt Nam, nhưng điểm cực nam tính trên thông số vĩ độ chính xác thì đảo An Bang mới chính là điểm cực nam.
Tự nhiên
Vị trí Hòn Đá Lẻ cách đảo Hòn Khoai 7,7 km về phía đông nam. Đảo chỉ là một cụm đá đen trơ trọi dài khoảng 125 m, rộng nhất 34 m và cao nhất khoảng 7 m. Địa hình lỏm chỏm với nhiều ao nước, chúng ngập khi thủy triều lên. Phần tây nam của đảo cao nhất, phần đông bắc thì trũng. Chân các vách đá bám đầy sò biển. Xung quanh đảo là các rạn san hô, loài cua đá là loài chủ yếu sống trên đảo, đảo cũng là nơi nhiều loài chim biển trú ngụ.
Quản lý
Đây là đảo quân sự, do đồn biên phòng 700 – Hòn Khoai quản lý. Đảo là khu vực hạn chế, chỉ có ngư dân địa phương mới được phép tiếp cận, thường họ đánh bắt cá tại vùng nước xung quanh và neo thuyền khi có gió bão. Toàn cảnh hòn đảo nằm trong tầm quan sát của hệ thống radar của trạm radar 595, Trung đoàn 551, Vùng 5 Hải quân. Trạm đóng trên điểm cao nhất của Hòn Khoai.
Cho đến tháng 5 năm 2023, Hòn Đá Lẻ không có cột mốc bia chủ quyền và mốc tọa độ quốc gia. Công trình chỉ bắt đầu xây dựng vào cuối tháng 5, sau vài tháng đã hoàn thành. Sau khi công trình cột mốc bia chủ quyền và mốc tọa độ quốc gia xây xong, vào ngày 28 tháng 10 năm 2023, đoàn công tác Tỉnh ủy, UBND tỉnh Cà Mau gồm Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh là Nguyễn Tiến Hải và Phó chủ tịch UBND tỉnh là Lâm Văn Bi cùng nhiều lãnh đạo các địa phương, đơn vị ra đảo để chào cờ.
Tham khảo
Sách
Quần đảo Hòn Khoai
Đảo Việt Nam
Điểm chuẩn tính Đường cơ sở Việt Nam
|
19836078
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Parrot%20Security%20OS
|
Parrot Security OS
|
Parrot OS là một bản phân phối Linux dựa trên Debian tập trung vào bảo mật, quyền riêng tư và lập trình.
Lõi
Parrot dựa trên Debian nhánh "ổn định" với nhân Linux 6.1. Nó tuân theo một mô hình phát triển "Rolling release".
Môi trường desktop mặc định là MATE và trình quản lý hiển thị là LightDM.
Hệ thống được chứng nhận để chạy trên các thiết bị có RAM tối thiểu là 256 MB và phù hợp với cả kiến trúc bộ xử lý 32-bit (i386) và 64-bit (X86-64). Hơn nữa, dự án có sẵn cho kiến trúc ARMv7 (Cấu trúc ARM).
Vào tháng 6 năm 2017, nhóm Parrot thông báo họ đang xem xét thay đổi từ Debian sang Devuan, chủ yếu là do vấn đề với systemd.
Kể từ ngày 21 tháng 1 năm 2019, nhóm Parrot đã bắt đầu ngừng phát triển ISO 32-bit (i386) của họ.
Vào tháng 8 năm 2020, Parrot OS chính thức hỗ trợ môi trường destkop Xfce.
Phiên bản
Parrot có nhiều phiên bản dựa trên Debian, với nhiều môi trường desktop khác nhau.
Home Edition
Parrot OS Home Edition là phiên bản cơ sở của Parrot được thiết kế để sử dụng hàng ngày và hướng đến những người dùng thông thường cần một hệ thống "nhẹ" trên máy tính xách tay hoặc máy trạm của họ.
Việc phân phối rất hữu ích cho công việc hàng ngày. Parrot OS Home Edition cũng bao gồm các chương trình trò chuyện riêng tư với mọi người, mã hóa tài liệu hoặc duyệt Internet ẩn danh. Hệ thống này cũng có thể được sử dụng làm điểm khởi đầu để xây dựng một hệ thống với bộ công cụ bảo mật tùy chỉnh.
Security Edition
Parrot OS Security Edition được thiết kế để kiểm tra thâm nhập, đánh giá và giảm thiểu lỗ hổng, pháp y máy tính và duyệt web ẩn danh.
Parrot ARM
Parrot ARM là bản phát hành Parrot nhẹ dành cho các hệ thống embedded. Nó hiện có sẵn cho các thiết bị Raspberry Pi.
Parrot Architect & IoT
Parrot Architect & IoT không được cài đặt sẵn. Cài đặt bất kỳ phần mềm và môi trường desktop nào với phiên bản này.
Công cụ Parrot OS
Có nhiều công cụ trong Parrot OS được thiết kế đặc biệt cho các nhà nghiên cứu bảo mật và có liên quan đến kiểm tra thâm nhập. Một vài trong số chúng được liệt kê dưới đây, bạn có thể tìm thấy nhiều hơn trên trang web chính thức.
Onion Share
Onion Share là một tiện ích mã nguồn mở có thể được sử dụng để chia sẻ các tệp có kích thước bất kỳ qua mạng Tor một cách an toàn và ẩn danh. Sau đó, Onion Share tạo một URL ngẫu nhiên dài mà người nhận có thể sử dụng để tải tệp xuống qua mạng Tor bằng trình duyệt Tor.
AnonSurf
AnonSurf là một tiện ích giúp giao tiếp của hệ điều hành đi qua Tor hoặc các mạng ẩn danh khác. Theo Parrot, AnonSurf bảo mật trình duyệt web của bạn và ẩn danh IP của bạn.
Xem thêm
BackBox
BlackArch
Devuan
Kali Linux
Thám tử máy tính
Tails
Whonix
Quyền riêng tư trên Internet
Signal
Ghi chú
Liên kết ngoài
Official Website
Blog & Release Notes
DistroWatch
Debian Derivatives Census
|
19836082
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Ph%C3%A1p%202022
|
Chặng đua MotoGP Pháp 2022
|
Chặng đua MotoGP Pháp 2022 là chặng đua thứ 7 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 13/05/2022 đến ngày 15/05/2022 ở trường đua Bugatti. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Enea Bastianini của đội đua Gresini.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặngnn đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19836094
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ahmed%20Hassan%20al-Bakr
|
Ahmed Hassan al-Bakr
|
Ahmed Hassan al-Bakr () (1 tháng 7 năm 1914 - 4 tháng 10 năm 1982) Ông là tổng thống thứ tư của Cộng hòa Iraq từ ngày 17 tháng 7 năm 1968 đến ngày 16 tháng 7 năm 1979. Ông là thành viên lãnh đạo của Đảng Baath. Ông cũng từng giữ chức Thủ tướng Iraq trong thời gian từ ngày 8 tháng 2 năm 1963 đến ngày 18 tháng 11 năm 1963.
Al-Bakr xuất hiện lần đầu tiên sau Cách mạng 14 tháng 7 lật đổ chế độ quân chủ. Sau đó, Al-Bakr trở thành người đứng đầu bộ phận quân sự của chi nhánh Đảng Ba'ath ở Iraq. Thông qua văn phòng này, ông đã tuyển dụng các thành viên cho Đảng Baath. Cho đến khi Thủ tướng Abdul Karim Qasim bị lật đổ trong cuộc đảo chính tháng Hai; Al-Bakr được bổ nhiệm làm Thủ tướng, sau đó là Phó Tổng thống Iraq trong chính phủ liên minh. Chính phủ đầu tiên của ông tồn tại chưa đầy một năm và bị lật đổ vào tháng 11 năm 1963.
Al-Bakr trở lại nắm quyền trong một cuộc đảo chính quân sự do phe Baathist lãnh đạo, do Ahmed Hassan Al-Bakr lãnh đạo, vào ngày 17 tháng 7 năm 1968, đưa ông lên làm tổng thống của nước cộng hòa. al-Bakr dần mất quyền lực vào tay Saddam vào những năm 1970, khi Saddam củng cố vị trí của mình trong đảng và nhà nước thông qua các cơ quan an ninh. Năm 1979, Al-Bakr từ chức mọi chức vụ công. Ông mất năm 1982 vì những lý do không được công bố.
Xem thêm
Iraq (1968–2003)
Saddam Hussein
Chú thích
Tham khảo
|
19836097
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Muhammad%20Najib%20ar-Ruba%27i
|
Muhammad Najib ar-Ruba'i
|
Muhammad Najib Ar-Ruba'i () (Cũng đánh vần là Al-Rubai) (1904–1965) là tổng thống đầu tiên của Iraq (Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền), từ ngày 14 tháng 7 năm 1958 đến ngày 8 tháng 2 năm 1963. Cùng với Abd al-Karim Qasim, ông là một trong những người lãnh đạo Cách mạng 14 tháng 7 lật đổ chế độ quân chủ Iraq.
Trong khi Qasim trở thành thủ tướng và nắm giữ phần lớn quyền lực thì Ar-Ruba'i được bầu làm nguyên thủ quốc gia với chức danh Chủ tịch Hội đồng Chủ quyền.
Năm 1963, chính phủ bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính khác do Abd as-Salam Arif lãnh đạo. Ar-Ruba'i đã phải rút lui khỏi chính trường. Ông mất năm 1965.
Tham khảo
|
19836098
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gisela%20c%E1%BB%A7a%20%C3%81o
|
Gisela của Áo
|
Gisela của Áo (tiếng Đức: Gisela von Österreich; 12 tháng 7 năm 1856 – 27 tháng 7 năm 1932) là con gái của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern và là Vương phi Bayern thông qua hôn nhân với Leopold của Bayern.
Tiểu sử
Hoàng nữ sinh vào ngày 12 tháng 7 năm 1856, là người con thứ hai của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern và được đặt tên là Gisella Louise Marie, trong đó cái tên Gisella được đặt theo tên của Gisela xứ Bayern, Vương hậu Hungary và là vợ của István I, Quốc vương Công giáo đầu tiên của Hungary. Mẹ đỡ đầu của Gisela là bà ngoại Ludovika Wilhelmine của Bayern, đại diện bởi bà nội là Sophie Friederike của Bayern. Dù được đặt tên là Gisella, nhưng Nữ Đại vương công thường chỉ viết tên mình với một chữ L. Giống như chị gái là Sophie Friederike và em trai là Thái tử Rudolf, Gisela được nuôi dưỡng bởi bà nội của là Sophie Friderike của Bayern. Với bản tính điềm tĩnh giống bố, Gisela luôn giữ thái độ dè dặt với mẹ. Gisela có một mối quan hệ rất thân thiết với em trai và việc tự tử của Rudolf đã ảnh hưởng rất nhiều đến Hoàng nữ.
Hoàng đế Franz Joseph I có thói quen thu thập một số vật dụng cá nhân của gia đình, chẳng hạn như đôi giày đầu tiên mà mỗi đứa con của của Hoàng đế từng mang. Trong số những vật kỷ niệm này có một bài thơ do Gisela khi còn nhỏ viết cho Franz Joeph I vào một dịp Giáng sinh; bài thơ được cho là vật quý giá nhất trong bộ sưu tập. Gisela cũng thường vẽ tranh trong những năm cuối đời.
Hôn nhân và gia đình
Ngày 20 tháng 4 năm 1873, ở tuổi 16, Gisela kết hôn với Leopold của Bayern ở Viên. Leopold là con trai của Vương tử Nhiếp chính Luitpold của Bayern và Auguste Ferdinande của Áo, do đó Leopold là anh họ của Gisela . Leopold ban đầu phải lòng Amalie xứ Sachsen-Coburg và Gotha, người mà em trai của Hoàng hậu Elisabeth, Maximilian Emanuel xứ Bayern dự định kết hôn. Do đó, Hoàng hậu đã sắp xếp một cuộc gặp gỡ giữa Leopold và Gisela tại Cung điện Gödöllő, và Lepold biết rằng bản thân không thể từ chối lời đề nghị của Elisabeth.
Theo một bức thư gửi mẹ được viết năm 1872, Hoàng đế Franz Josesh I mong muốn một cuộc hôn nhân giữa con gái và Vương tôn họ Wittelsbach, vì lúc đó có rất ít Vương tử Công giáo. Có vẻ như Franz Joseph I cảm thấy phải đảm bảo ứng cử viên khả thi duy nhất mà Hoàng đế có thể giao phó Gisela (người mà anh ấy gọi là "cô gái yêu dấu của chúng tôi" trong các nghi thức đám cưới) để chăm sóc. Leopold đã nhận được số tiền hồi môn khổng lồ lên tới nửa triệu đồng guilders..
Mẹ của Gisela vẫn vắng mặt trong lễ mừng đám cưới. Đôi vợ chồng trẻ được gia đình chồng chào đón tại München và sống tại dinh thự Palais Leopold ở Schwabing. Palais được đổi tên thành Giselastraße để vinh danh Gisela vào năm 1873.
Hậu duệ
Một năm sau đám cưới, Gisela hạ sinh đứa con đầu lòng và Hoàng hậu Elisabeth cũng có mặt trong lễ rửa tội. Gisela và Leopold có tổng cộng bốn người con:
Elisabeth Marie của Bayern (1874–1957), kết hôn với Bá tước Otto Ludwig Philipp xứ Seefried và Buttenheim.
Auguste Maria Luise của Bayern (1875–1964), kết hôn với Joseph August của Áo.
Georg của Bayern (1880–1943), kết hôn vớiIsabella của Áo.
Konrad Lutipold của Bayern (1883–1969), kết hôn với Bona Margherita của Savoia-Genova.
Công việc từ thiện và Thế chiến thứ nhất
Đặc biệt là sau cái chết của em trai là Thái tử Rudolf, Gisela đã tích cực tham gia vào nhiều vấn đề xã hội và chính trị, thành lập các tổ chức từ thiện để hỗ trợ người nghèo, người mù và người điếc và đóng vai trò tích cực trong các tổ chức này. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nữ Đại vương công đã điều hành một bệnh viện quân đội ở Palais của mình trong khi chồng là Leopold đảm nhiệm vị trí nguyên soái ở mặt trận phía đông. Năm 1918, khi Cách mạng Đức nổ ra, nhiều người trong gia đình của Gisela đã chạy trốn khỏi thành phố, nhưng Gisela vẫn ở lại và tham gia cuộc bầu cử năm 1919 cho Quốc hội Weimar, nơi phụ nữ trên 20 tuổi lần đầu tiên được phép bỏ phiếu.
Gisela được quý trọng đến mức thường được biết đến với cái tên Thiên thần tốt lành từ Viên. Hoàng nữ là người bảo trợ cho Giselabahn (một tàu hỏa chạy từ Salzburg đến Tirol), tàu hơi nước có mái chèo vẫn đang hoạt động tên Gisela trên Hồ Traunsee và Trường cấp hai Gisela Gymnasium ở München.
Thời kỳ góa phụ và qua đời
Gisela và chồng tổ chức lễ kỷ niệm đám cưới vàng vào năm 1923. Leopold qua đời năm 1930 và Gisela cũng qua đời sau đó 2 năm ở tuổi 76 tại München vào ngày 27 tháng 7 năm 1932. Gisela được chôn cất bên cạnh Leopold tại Colombarium ở Nhà thờ Thánh Michael , München.
Huân chương
Gisela đã nhận được các huân chương sau:
:
Dame của Huân chương Starry Cross.
Grand Cross của Huân chương Elisabeth, 1898.
:
Dame của Huân chương Therese
Dame của Huân chương Thánh Elisabeth
: Dame của Huân chương Thánh Isabel
Tây Ban Nha: Dame thứ 601 của Huân chương Vương hậu María Luisa, 29 tháng 1 năm 1863
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Leopold Prinz von Bayern: Lebenserinnerungen
Martha Schad: Kaiserin Elisabeth und ihre Töchter, Piper 2006
Friedrich Weissensteiner: Liebeshimmel und Ehehöllen, Heyne 2000
“Giselaner”. web.archive.org
“Hochadel in Deutschland (généalogie)”. Geneanet
“BLKÖ:Habsburg, Gisela Louise Maria – Wikisource”. de.wikisource.org
Liên kết ngoài
Empress Elisabeth and her Family Magazine
Hoàng nữ Áo
Vương nữ Hungary
Vương nữ Bohemia
Vương tộc Habsburg-Lothringen
Vương tộc Habsburg
Hoàng nữ
Vương nữ
Vương tức Bayern
Vương tộc Wittelsbach
Người Áo thế kỷ 19
Sinh năm 1856
Mất năm 1932
|
19836099
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marie%20Valerie%20c%E1%BB%A7a%20%C3%81o
|
Marie Valerie của Áo
|
Marie Valerie của Áo (tiếng Đức: Marie Valerie von Österreich; 22 tháng 4 năm 1868 – 6 tháng 9 năm 1924) là con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ Đại vương công thường được gọi là Valerie.
Ngày 31 tháng 7 năm 1890, Marie Valerie kết hôn với Franz Salvator của Áo; cuộc hôn nhân đã gây ra rạn nứt giữa Hoàng nữ và các anh chị vì lẽ ra cuộc hôn nhân của hai vợ chồng phải mang lại lợi ích chính trị, trong khi Marie Valerie, với sự cho phép của Hoàng hậu Elisabeth, lại kết hôn vì tình yêu.
Những năm đầu đời
Marie Valerie Mathilde Amalie sinh ngày 22 tháng 4 năm 1868 tại Buda, Hungary, là người con út của Franz Joseph I của Áo và Elisabeth xứ Bayern. Nữ Đại vương hai người chị gái là Sophie Friederike và Gisela và một anh trai là Rudolf. Người chị cả của Marie Valerie, Sophie Friederike đã qua đời khi Hoàng nữ được sinh ra. Elisabeth đặc biệt gắn bó với Valerie, người được sinh ra mười năm kể từ đứa con thứ ba của cặp vợ chồng chào đời, và là người con duy nhất Elisabeth được phép tự nuôi nấng trong khi ba người con lớn đã bị tách khỏi mẹ từ bé và được bà nội là Sophie Friederike của Bayern nuôi dưỡng. Bà Đại vương công Sophie đã viết thư cho mẹ của Elisabeth cũng như là em gái là Ludovika Wilhelmine của Bayern rằng "Sisi hoàn toàn đắm chìm bởi tình yêu và sự quan tâm mà con bé dành cho thiên thần nhỏ quá đỗi đáng yêu này".
Marie Valerie là người con cưng của Elisabeth và bị một số cận thần gọi một cách chua chát là "die Einzige" ("người duy nhất") vì Elisabeth dành sự quan tâm đến Hoàng nữ hơn các anh chị. Valerie yêu mẹ nhưng theo nhật ký của Nữ Đại vương công thì Marie Valerie thường cảm thấy xấu hổ và choáng ngợp trước sự quan tâm đặc biệt của Elisabeth đối với mình, đặc biệt là khi Hoàng nữ là người khiêm tốn và thực tế.
Một biệt danh khác của Valerie là "đứa trẻ Hungary", vì sự ra đời của Hoàng nữ là sự nhượng bộ của Elisabeth, người không thích sự thân mật thể xác và mang thai, để đổi lấy sự hòa hảo của Franz Joseph I với Hungary, phần lãnh thổ mà Hoàng hậu yêu mến nhất của Đế quốc Áo. Tiến trình này lên đến đỉnh điểm khi hai vợ chồng cùng đăng quang tại Buda vào ngày 8 tháng 6 năm 1867 với tư cách là Quốc vương và Vương hậu Hungary và Marie Valerie được sinh ra khoảng hơn chín tháng sau đó.
Elisabeth cố tình chọn Hungary làm nơi chào đời của con gái; không có đứa trẻ vương thất nào được sinh ra ở Hungary trong nhiều thế kỷ qua. Nếu Valerie là con trai thì sẽ được là Stephan theo tên của István I, Quốc vương và Thánh bảo trợ của Hungary. Theo nhà sử học Brigitte Hamann, nếu một con trai được hạ sinh bởi Vương hậu Hungary trong lâu đài ở Budapest sẽ làm tăng khả năng một ngày nào đó đứa trẻ đó sẽ trở thành Quốc vương Hungary và tách Hungary ra khỏi đế quốc Áo. Do đó, triều đình Viên đã vô cùng nhẹ nhõm khi Valerie là con gái.
Những tin đồn ác ý bắt đầu lan truyền rằng Valerie thực chất là con gái của Gyula Andrássy, thủ tướng Hungary và là bạn của Hoàng hậu Elisabeth. Những điều này kéo dài suốt tuổi thơ của Valerie và khiến Nữ Đại vương công tổn thương sâu sắc. Tuy nhiên, về ngoại hình thì Valerie giống Franz Joseph I hơn bất kỳ anh chị nào của mình, thậm chí sự giống nhau còn rõ ràng hơn khi Valerie trưởng thành, do đó những lời đồn cũng không còn nữa. Do những lời đồn này, Valerie có sự ác cảm suốt đời đối với bất cứ điều gì liên quan đến Hungary và càng trở nên trầm trọng hơn khi Elisabeth nhất quyết chỉ nói chuyện với con gái bằng tiếng Hungary. Marie Valerie rất vui vẻ khi được phép nói tiếng Đức với cha, người mà Nữ Đại vương công kính trọng. Ngoài ra, Marie Valerie còn thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Ý. Hoàng nữ thích viết kịch và làm thơ, đồng thời là một nghệ sĩ nghiệp dư tài năng, đặc biệt thích vẽ hoa. Valerie là người ủng hộ nhiệt thành cho nhà hát Burgtheater ở Viên và thường cố gắng tham dự các buổi biểu diễn ở đây nhiều nhất có thể.
Hôn nhân
Tại Bad Ischl vào ngày 31 tháng 7 năm 1890, Valerie kết hôn với người em họ là Franz Salvator. Hai người gặp gỡ nhau vào năm 1886 tại một vũ hội, nhưng Valerie đã đợi vài năm để chắc chắn rằng tình cảm của mình dành cho Franz Salvator đủ mạnh mẽ để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Nhiều người trong triều đình hy vọng rằng Hoàng nữ sẽ kết hôn với một người như Thái tử Sachsen, Thái tử Bồ Đào Nha hay Vương tôn Alfons của Bayern khi Valerie tán tỉnh Alfons. Tuy nhiên, Hoàng hậu Elisabeth tuyên bố rằng Valerie sẽ được phép kết hôn ngay cả với một người quét ống khói nếu Valerie mong muốn (một điều trái ngược với hai người con Gisela và Rudolf khi cả hai đều phải kết hôn vì lợi ích của hoàng triều). Valerie đã chọn Franz Salvator, một vị Đại vương công Áo thuộc nhánh Toscana của Hoàng thất Áo, người không có nhiều tài sản, và Elisabeth, như đã hứa, ủng hộ quyết định của của cô con gái cưng. Điều này đã gây ra rạn nứt sâu sắc giữa Valerie và các anh chị trong một thời gian, nhưng cuối cùng Rudolf đã hòa giải với em gái khi Valerie và Franz đính hôn vào Giáng sinh năm 1888. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Valerie và vợ của Rudolf là Stéphanie của Bỉ vẫn lạnh nhạt ngay cả sau Rudolf qua đời.
Nghi lễ từ bỏ quyền thừa kế của Marie Valerie đối với ngai vàng Áo, một điều cần thiết để cuộc hôn nhân được tiến hành, diễn ra vào ngày 16 tháng 7 năm 1890 tại Hermesvilla. Đám cưới hoành tráng của cặp đôi trẻ diễn ra tại nhà thờ giáo xứ Bad Ischl vào ngày 31 tháng 7. Buổi lễ được tiến hành bởi Giám mục Linz, Franz Maria Doppelbauer. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng mới cưới hưởng tuần trăng mật ở Ý, Thụy Sĩ và Bayern.
Con cái
Marie Valerie và Franz Salvator có 10 người con:
Cuộc sống sau này
Lúc đầu, Valerie và Franz sống tại Schloss Lichtenegg. Ngày 11 tháng 6 năm 1895, cặp đôi đã mua Lâu đài Wallsee trên sông Danube từ Alfred xứ Sachsen-Coburg và Gotha và đã cải tạo hoàn toàn lâu đài. Khi việc cải tạo hoàn tất, một buổi lễ đánh dấu việc hai vợ chồng chuyển đến cung điện mới được tổ chức vào ngày 4 tháng 9 năm 1897. Đã có một lễ mừng lớn cho sự kiện này ở Wallsee do sự yêu mến mà Valerie có được ở nơi đây.
Marie Valarie được biết đến cũng như được mến mộ vì sự hào phóng của mình đối với các nỗ lực từ thiện ở địa phương. Năm 1900, Hoàng nữ trở thành người bảo trợ của Hội Chữ thập đỏ, nơi Valerie thành lập các bệnh viện và quyên góp được số tiền đáng kể; Marie Valerie cũng là người bảo trợ của bảy tổ chức từ thiện khác nhau. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Nữ Đại vương công đã tạo ra một doanh trại y tế ngay trong lâu đài và giúp chăm sóc những người bị thương. Marie Valerie còn là một người Công giáo sùng đạo và dành nhiều thời gian ủng hộ các tổ chức từ thiện tôn giáo và được mọi người biết đến với biệt danh "Thiên thần xứ Waldsee".
Valerie bị ảnh hưởng nặng nề bởi vụ tự sát của anh trai Rudolf vào ngày 30 tháng 1 năm 1889 và vụ ám sát mẹ vào tháng 9 năm 1898. Marie và chị gái Gisela là chỗ dựa tinh thần chính cho cha họ sau những thảm kịch này. Cùng với những thị tùng của Elisabeth, Valerie cũng sắp xếp di sản văn học và thư từ của mẹ. Trong nhật ký của mình, Valerie ghi nhận rằng sự lạnh nhạt của cha mẹ chỉ được cải thiện trong vài năm cuối đời của Elisabeth. Valerie cũng cảm thấy rằng việc chăm sóc người cha già của mình, Hoàng đế Franz Joseph I, là một "khổ ải".
Mặc dù cuộc hôn nhân của Valerie và Franz lúc đầu rất hòa hợp nhưng dần dần phai nhạt theo năm tháng. Franz Salvator có rất nhiều mối tình ngoài luồng, trong đó là với vũ công Stephanie Richter, người sau này được mệnh danh là "Thân vương phi điệp viên của Hitler" vì các hoạt động gián điệp trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Năm 1914, Stephanie sinh cho Franz một đứa con trai tên Franz Joseph và được Franz Salvator thừa nhận là của mình khi Valerie vẫn còn sống. Valerie đối mặt với những chuyện này một cách kiên cường và chỉ bày tỏ trong nhật ký của mình.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, Valerie chính thức công nhận sự kết thúc của chế độ quân chủ Habsburg và ký các văn bản từ bỏ mọi quyền thừa kế đối với bản thân và con cháu của mình, do đó Valerie được phép giữ lại nhà cửa và tài sản của mình.
Qua đời
Marie Valerie qua đời tại Lâu đài Wallsee vào ngày 6 tháng 9 năm 1924 vì lymphoma. Không lâu trước khi qua đời, chị gái Gisela của Valerie đã viết trong một lá thư rằng: "Ta phải nói thêm rằng ta đã nhìn thấy Valerie - hoàn toàn tỉnh táo, hoàn toàn nhận thức được tình trạng của con bé và rất nhiệt thành chấp nhận, thậm chí vui vẻ chờ đợi sự ra đi sắp xảy đến với con bé, đến nỗi ta tin rằng sẽ có một sự hồi phục bất ngờ sẽ khiến cho em ta thất vọng." Marie Valerie được chôn cất trong hầm mộ phía sau bàn thờ cao tại nhà thờ giáo xứ ở Sindelburg, Áo. Hàng ngàn người đã theo sau quan tài cho tới khi đến nơi an nghỉ của Hoàng nữ.
Ngày 28 tháng 4 năm 1934, mười năm sau khi của Valerie qua đời, Franz tái hôn với Freiin (tước hiệu tương ứng với Nam tước) Melanie von Riesenfels. Đây là một cuộc hôn nhân bất đăng đối; đám cưới diễn ra ở Viên. Cặp đôi gặp nhau sau cái chết của Valerie tại nhà của Melanie, Cung điện Seisenegg, nơi Melanie sống cùng hai chị gái Maria Anna và Johanna. Sau đám cưới, cặp đôi sống tại Seisenegg.
Franz Salvator qua đời vào ngày 20 tháng 4 năm 1939 tại Viên.
Cây cầu Mária Valéria nối thị trấn Esztergom của Hungary và thị trấn Štúrovo (bấy giờ tên là Parkány) của Slovakia qua sông Danube được khánh thành vào năm 1895, được đặt theo tên của Marie Valerie.
Huân chương
Marie Valerie nhận được những huân chương sau:
:
Dame của Huân chương Starry Cross
Grand Cross của Huân chương Elisabeth, năm 1898
:
Dame của Huân chương Thánh Elisabeth
:
Dame của Huân chương Thánh Isabel
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Liên kết ngoài
The Hungarian Princess: Marie Valerie
Hoàng nữ Áo
Vương nữ Hungary
Vương nữ Bohemia
Vương tộc Habsburg
Vương tộc Habsburg-Lothringen
Hoàng nữ
Vương nữ
Người Áo-Hung
Người Áo thế kỷ 19
Sinh năm 1868
Mất năm 1924
|
19836104
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20Ch%E1%BB%89%20huy%20C%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng
|
Hội đồng Chỉ huy Cách mạng
|
Hội đồng Chỉ huy Cách mạng () Đây là cơ quan ra quyết định cuối cùng ở Iraq nằm dưới sự cai trị của Đảng Ba'ath. Ông thực thi quyền lập pháp và hành pháp trong nước, và tổng thống và phó tổng thống được lựa chọn bởi đa số 2/3 số thành viên Hội đồng. Hội đồng này được thành lập sau cuộc đảo chính quân sự ngày 17 tháng 7 năm 1968.
Chủ tịch đầu tiên của nó là Ahmed Hassan al-Bakr từ năm 1968 đến năm 1979, khi cấp phó của ông, Saddam Hussein, đảm nhận chức chủ tịch Hội đồng cho đến năm 2003. Chủ tịch của nó giữ chức vụ Tổng thống Cộng hòa Iraq.
Trong thời gian làm tổng thống, Saddam Hussein là Chủ tịch Hội đồng Chỉ huy Cách mạng, Thủ tướng và Tổng thống nước Cộng hòa. Cho đến khi hội đồng bị giải tán vào năm 2003 khi chế độ Baathist sụp đổ.
Xem thêm
Iraq (1968–2003)
Chú thích
Tham khảo
|
19836106
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A7n%20chi%E1%BA%BFn%20tranh
|
Thần chiến tranh
|
Thần chiến tranh có thể là:
Mars (thần thoại)
Ares
Athena (thần thoại)
|
19836122
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%81u%20kho%E1%BA%A3n%20cho%20ph%C3%A9p
|
Điều khoản cho phép
|
Điều khoản cho phép (Enabling clause) được thông qua vào năm 1979, như một phần của Vòng đàm phán Tokyo thuộc Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), nhằm cho phép các ưu đãi thương mại nhắm vào các nước đang phát triển và các nước kém phát triển nhất, nếu không sẽ vi phạm Điều I của GATT. Mục 2(a) cung cấp cơ sở pháp lý để gia hạn Hệ thống ưu đãi tổng quát (GSP) vượt quá 10 năm ban đầu. Trên thực tế, nó đã mang lại hiệu lực vĩnh viễn cho GSP. Điều khoản cho phép cho phép các nước phát triển phân biệt giữa các loại đối tác thương mại khác nhau (đặc biệt là giữa các nước phát triển, đang phát triển và kém phát triển nhất), nếu không sẽ vi phạm Điều I của GATT quy định rằng không có bên ký kết GATT nào phải bị đối xử tệ hơn bất kỳ bên nào khác (điều này được gọi là nguyên tắc đối xử tối huệ quốc). Về cơ bản, điều này cho phép các nước phát triển dành ưu đãi cho các nước nghèo hơn, đặc biệt là các nước kém phát triển nhất. Mục 2(c) cho phép các nước đang phát triển tham gia vào các hiệp định thương mại ưu đãi không đáp ứng các tiêu chí nghiêm ngặt được nêu trong Điều XXIV của GATT đối với các hiệp định thương mại tự do khu vực. Nó cho phép các nước đang phát triển tham gia vào các hiệp định có thể không có đi có lại] hoặc chỉ bao gồm một phạm vi sản phẩm rất hạn chế (nếu không sẽ vi phạm GATT).
Liên kết ngoài
Văn bản pháp lý của điều khoản cho phép
|
19836124
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A1ng%20tr%C6%B0%E1%BB%A3t%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Máng trượt nước
|
Máng trượt nước (Water slide) hay còn gọi là đường trượt nước, hay cầu trượt nước là loại cầu trượt được thiết kế để sử dụng giải trí trong các công viên nước. Các đường trượt khác nhau về phương pháp sử dụng và kích thước. Một số máng trượt yêu cầu người chơi phải ngồi trực tiếp trên cầu trượt hoặc trên một tấm bè hoặc ống được thiết kế để chơi trò chơi. Một máng trượt nước điển hình sử dụng hệ thống máy bơm để bơm nước lên trên, sau đó nước sẽ chảy xối xả xuống bề mặt. Nước làm giảm ma sát nên các thanh trượt di chuyển xuống cầu trượt rất nhanh tạo cảm giác thích thú. Các đường trượt nước chạy vào bể bơi (thường gọi là bể ngâm) hoặc một đường trượt dài. Nhân viên cứu hộ thường túc trực ở phía trên và phía dưới cầu trượt để nếu người chơi bị thương thì họ sẽ được xử lý và điều trị ngay lập tức.
Đường trượt nước dài nhất thế giới được lắp đặt tạm thời ở Waimauku, New Zealand vào tháng 2 năm 2013, công trình này được thiết kế xây dựng với tổng chiều dài đạt 650m, trong đó có 550m hoạt động bình thường. Những người thiết kế nó tuyên bố người nắm giữ kỷ lục trước đó có chiều dài chỉ đạt đến 350m. Sau đó, máng trượt này được chuyển đến Công viên hành động ở Vernon, New Jersey. Đường trượt nước tại Buena Vista Lodge ở Costa Rica là một đường trượt nước dài 400m trong đó người chơi ngồi trực tiếp trên đường trượt, với một ống bên trong bao quanh phần thân trên để đảm bảo an toàn. Tàu lượn nước dài nhất dành cho nhiều người là ở Mammoth at Holiday World với chiều dài 1763 bộ tại Holiday World ở Santa Claus, Indiana. "The Longest" là đường trượt nước cố định bằng ống dành cho một hành khách nằm ở Selangor, Malaysia, du khách đến điểm tham quan bằng hệ thống cáp treo và đi xuống cầu trượt trong khoảng 4 phút trong khi di chuyển qua 1111m qua khu rừng tuyệt đẹp.
Hình ảnh
Chú thích
Xem thêm
Ván cầu (Springboard)
Công viên nước (Water park)
Thuyền tham quan (Boatsnap)
Biển nhân tạo (Beach club)
Tắm nước đá (Ice hole bathing)
Nhà tắm công cộng (Public bathing)
Bể bơi công cộng (Public swimming pool)
Giải trí
Công viên nước
|
19836127
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carlo%20Emanuele%20III%20c%E1%BB%A7a%20Sardegna
|
Carlo Emanuele III của Sardegna
|
Carlo Emanuele III của Sardegna (tiếng Ý: Carlo Emanuele III; tiếng La Tinh: Carolus Emmanuel III; 27 tháng 4 năm 1701 – 20 tháng 2 năm 1773) là Công tước xứ Savoia, Vua của Sardinia và là người cai trị các Nhà nước Savoyard từ ngày 3 tháng 9 năm 1730 cho đến khi ông qua đời vào năm 1773. Ông là ông nội của ba vị vua chính thống cuối cùng của Sardinia.
Mẹ của ông là Anne Marie d'Orléans, một quận chúa của Pháp, con gái của Công tước Philippe và Henrietta của Anh, cặp đôi này đã kiến tạo ra Vương tộc Orléans, có nghĩa là thông qua mẹ mình, Carlo gọi vua Louis XIII của Pháp và Vua Charles I của Anh là ông cố ngoại.
Tham khảo
Thư mục
Vương tử Sardegna
Vương tử Savoia
Vương tộc Savoia
Vương tử
Sinh năm 1701
Mất năm 1773
Quý tộc từ Turin
Vua tuyên bố của Jerusalem
Công tước xứ Aosta
Thân vương xứ Piemonte
|
19836128
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Windows%20Home%20Server
|
Windows Home Server
|
Windows Home Server (tên mã Quattro) là một hệ điều hành máy chủ gia đình của Microsoft. Hệ điều hành này được Bill Gates công bố vào ngày 7 tháng 1 năm 2007 tại Hội chợ Điện tử Tiêu dùng, sẵn sàng để giao hàng vào ngày 16 tháng 7 năm 2007 và phát hành chính thức vào ngày 4 tháng 11 năm 2007.
Tham khảo
Microsoft Windows
Windows NT
|
19836130
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%B1%20c%C3%A2n%20b%E1%BA%B1ng%20y%E1%BA%BFu%20t%E1%BB%91%20S%E1%BA%A3n%20xu%E1%BA%A5t%20-%20Gi%C3%A1%20c%E1%BA%A3
|
Sự cân bằng yếu tố Sản xuất - Giá cả
|
Sự cân bằng yếu tố Sản xuất - Giá cả hay Điều hòa giá cả yếu tố sản xuất là một lý thuyết kinh tế được Paul A. Samuelson (1948) đưa ra, cho rằng giá cả của các yếu tố sản xuất giống nhau, chẳng hạn như mức lương hoặc tiền thuê vốn, sẽ được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia do thương mại quốc tế hàng hóa. Lý thuyết này giả định rằng có hai loại hàng hóa và hai yếu tố sản xuất, chẳng hạn như vốn và lao động. Các giả định quan trọng khác của lý thuyết là mỗi quốc gia đều phải đối mặt với cùng mức giá hàng hóa, do thương mại hàng hóa tự do, sử dụng cùng một công nghệ để sản xuất và sản xuất cả hai loại hàng hóa. Điều quan trọng là những giả định này dẫn đến việc giá cả yếu tố được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia mà không cần di chuyển yếu tố, chẳng hạn như di cư lao động hoặc dòng vốn.
Một tóm tắt đơn giản về lý thuyết này là khi giá cả của hàng hóa đầu ra được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia khi họ chuyển sang thương mại tự do, thì giá cả của các yếu tố (vốn và lao động) cũng sẽ được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia.
Yếu tố nào nhận được giá thấp nhất trước khi hai quốc gia tích hợp kinh tế và thực sự trở thành một thị trường sẽ có xu hướng trở nên đắt hơn so với các yếu tố khác trong nền kinh tế, trong khi những yếu tố có giá cao nhất sẽ có xu hướng trở nên rẻ hơn.
Trong một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, lợi nhuận cho một yếu tố sản xuất phụ thuộc vào giá trị của năng suất biên của nó. Năng suất biên của một yếu tố, như lao động, phụ thuộc vào lượng lao động đang được sử dụng cũng như lượng vốn. Khi lượng lao động tăng trong một ngành, năng suất biên của lao động sẽ giảm. Khi lượng vốn tăng, năng suất biên của lao động sẽ tăng. Cuối cùng, giá trị của năng suất phụ thuộc vào giá đầu ra của hàng hóa trên thị trường.
Một ví dụ thường được trích dẫn về điều hòa giá cả yếu tố là tiền lương. Khi hai quốc gia ký kết hiệp định thương mại tự do, mức lương cho các công việc tương tự ở cả hai quốc gia có xu hướng gần ngang bằng nhau.
Kết quả này lần đầu tiên được chứng minh bằng toán học như một kết quả của các giả định của mô hình Heckscher–Ohlin.
Nói một cách đơn giản, lý thuyết cho rằng khi giá cả của hàng hóa đầu ra được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia khi họ chuyển sang thương mại tự do, thì giá cả của các yếu tố đầu vào (vốn và lao động) cũng sẽ được điều hòa ngang bằng giữa các quốc gia.
Lý thuyết này được Abba Lerner khám phá độc lập vào năm 1933 nhưng được công bố muộn hơn vào năm 1952. "Biểu đồ Lerner" vẫn là một công cụ phân tích quan trọng trong giảng dạy lý thuyết thương mại quốc tế.
Tham khảo
|
19836133
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Joseph%20Saidu%20Momoh
|
Joseph Saidu Momoh
|
Joseph Saidu Momoh, OOR, OBE (26 tháng 1 năm 1937 - 3 tháng 8 năm 2003) là thiếu tướng quân đội và chính trị gia Sierra Leone, từng đảm nhiệm ghế Tổng thống thứ hai trong lịch sử quốc gia này từ tháng 11 năm 1985 đến 29 tháng 4 năm 1992.
Momoh là người Limba và hoạt động dân sự một thời gian ngắn trước khi tòng quân năm 1956. Sau khi Siaka Stevens lên nắm quyền, Momoh được giữ chức chỉ huy năm 1971, thăng thiếu tướng năm 1983 và trở thành tổng thư ký Đảng Đại hội toàn dân là đảng hợp pháp duy nhất tại Sierra Leone năm 1985.
Cuối năm 1985, Stevens nghỉ hưu, Momoh là ứng viên duy nhất và đắc cử tổng thống. Ông thừa hưởng nền kinh tế đang sa sút và đã có những cải thiện đáng kể trong việc chống tham nhũng. Về đối ngoại, Momoh đặt quan hệ tích cực với Hoa Kỳ và Anh. Năm 1991, nhóm phiến quân Mặt trận Liên minh Cách mạng (RUF) kích động nội chiến để lật đổ Momoh. Cuối năm 1991, ông đưa ra hiến pháp mới cho phép đa đảng. Năm 1992, Valentine Strasser lãnh đạo đảo chính lật đổ ông. Momoh chạy sang lưu vong tại Guinée và qua đời vào năm 2003, một năm sau khi kết thúc nội chiến.
Đầu đời
Joseph Saidu Momoh sinh ngày 26 tháng 1 năm 1937 trong một gia đình người Limba theo Cơ Đốc giáo tại Binkolo, Quận Bombali, Tỉnh Bắc của Sierra Leone thuộc Anh. Đầu thập niên 1940, gia đình chuyển đến Freetown, rồi sống ở Wilberforce.
Năm 1951-1955, Momoh theo học Đại học Giám lý Tây Phi. Là người khỏe mạnh, ông rất thích chơi thể thao như quần vợt, bóng rổ và bóng chuyền. Ông từng thi đấu bóng đá cho Young Stars FC tại Makeni và Blackpool FC.
Ông cũng hoàn thành chương trình tại Trường Thư ký Chính phủ, Viện Kỹ thuật.
Sự nghiệp
Hoạt động dân sự
Năm 1956, Momoh làm thư ký cấp ba trong cơ quan dân sự Sierra Leone cho đến năm 1958 thì nghỉ để nhập ngũ.
Binh nghiệp
Năm 1958, Momoh khởi đầu binh nghiệp là binh nhì Lực lượng Biên phòng Hoàng gia Tây Phi (RWAFF). Ông được đào luyện tại Trường Đào tạo Sĩ quan Chính quy ở Ghana và Học viện Huấn luyện Quân sự Nigeria. Sau đó, Momoh đến Anh học tại Trường Bộ binh ở Hythe và Trường Sĩ quan Mons ở Aldershot.
Năm 1963, Momoh được thăng thiếu úy Quân lực Hoàng gia Sierra Leone, rồi lên thiếu tá chỉ huy Trại Moa, Kailahun.
Năm 1969, Momoh thăng trung tá, chỉ huy Tiểu đoàn 1. Năm 1970, ông mang quân hàm Đại tá.
Năm 1971, sau khi Chuẩn tướng John Amadu Bangura đảo chính bất thành, tổng thống Siaka Stevens bổ nhiệm Momoh làm tư lệnh phó rồi chính thức làm tư lệnh vào tháng 11.
Năm 1974, Momoh là Quốc vụ khanh nội các. Năm 1983, ông được thăng thiếu tướng.
Tổng thống Sierra Leone
Năm 1985, Momoh là tổng thư ký lãnh đạo Đảng Đại hội toàn dân (APC). Ông là ứng viên duy nhất trong trưng cầu dân ý bầu tổng thống ngày 8 tháng 10 và đắc cử tổng thống. Ông là tổng thống thứ hai của Sierra Leone từ 28 tháng 11 năm 1985 đến 29 tháng 4 năm 1992.
Thừa hưởng hệ thống tham nhũng tràn lan, Momoh đã có những bước tiến lớn để khắc phục loại bỏ. Các nhà quan sát quốc tế đánh giá nỗ lực của ông coi như thành công. Điều này giúp ông hình thành quan hệ tốt đẹp với Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Tổng thống Mỹ Ronald Reagan, góp phần đưa Sierra Leone thoát khỏi tình trạng bất ổn đã diễn ra phần lớn thập niên 1970 và 1980. Cả hai nhà lãnh đạo đều tăng cường viện trợ và hợp tác với chính quyền Momoh suốt năm 1987 và đầu năm 1988.
Vụ xét xử phản quốc năm 1987
Ngày 23 tháng 3 năm 1987, sau khi đột kích một căn hộ ở Freetown và phát hiện kho vũ khí có cả súng phóng tên lửa, cảnh sát báo cáo về một nhóm đang âm mưu ám sát Momoh và tiến hành đảo chính.
Tổng thanh tra Cảnh sát Sierra Leone James Bambay Kamara lập tức lệnh bắt giữ Phó Tổng thống thứ nhất Francis Minah, G.M.T. Kaikai, Jamil Sahid Mohamed và 15 đối tượng khác.
Minah là bạn thân của Momoh nhưng tổng thống không muốn phản đối Karama nên không can thiệp vào vụ này.
Tháng 10 năm 1987, sau phiên tòa xử tội phản quốc kéo dài 5 tháng, bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết có tội. Cựu Phó Tổng thống thứ nhất và 17 người khác bị kết tội phản quốc chịu án tử hình. Jamil Sahid Mohamed trốn sang Liban lưu vong. Chính Momoh ký lệnh hành quyết. Một nhóm quan sát viên quốc tế từ Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Algérie và Hàn Quốc đều đồng tình với bản án cho rằng không có động cơ chính trị bên trong.
Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991
Dưới sự lãnh đạo của Momoh, Sierra Leone gia nhập liên minh các nước phản đối Saddam Hussein chiếm Kuwait.
Tập đoàn SCIPA
Năm 1989, Nir Guaz của Tập đoàn khoáng sản SCIPA, Israel đến Sierra Leone. Momoh ưu ái cho SCIPA khi họ đưa ra các khoản vay và tạo điều kiện cho Sierra Leone tham gia đàm phán với Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Đêm Giáng sinh năm 1989, Momoh cho bắt giữ Guaz, buộc tội phá hoại kinh tế và trục xuất khỏi Sierra Leone.{
Tháng 9 năm 1991, Nội chiến Sierra Leone bùng nổ, Momoh đưa ra hiến pháp mới hủy bỏ chế độ độc đảng từ năm 1978 để thiết lập nền dân chủ đa đảng, đồng thời đóng vai trò lớn xóa bỏ chủ nghĩa bộ tộc cục bộ.Thủ tướng Anh John Major và Tổng thống Mỹ George HW Bush lên tiếng chúc mừng và tuyên bố đây là "những bước quan trọng hướng tới dân chủ hóa" và "các bước tiến thiết yếu". Momoh cho biết John Major là "người bạn thực sự của Sierra Leone" còn gọi George HW Bush là một "nhà lãnh đạo vĩ đại của thế giới".
Đảo chính quân sự
Ngày 29 tháng 4 năm 1992, binh lính dưới quyền Đại úy Valentine Strasser thông báo đảo chính quân sự trên đài phát thanh. Momoh trốn sang Guinée xin tị nạn chính trị.
Lưu vong và qua đời
Tổng thống Guinée Lansana Conté cho Momoh tị nạn chính trị. Ông sống trong một biệt thự tại Nongo Tadi, Conakry đến khi qua đời ngày 2 tháng 8 năm 2003, thọ 66 tuổi.
Huân chương
Năm 1971, Momoh nhận Huân chương Đế quốc Anh. Năm 1974, tổng thống Siaka Stevens trao tặng Huân chương Rokel cho Momoh.
Sierra Leone: Huân chương Roke (1974)
Anh: Huân chương Đế quốc Anh (1971)
Tham khảo
Thư mục
Reno, William. Corruption and State Politics in Sierra Leone (New York: Cambridge University Press), 1995.
Tuchscherer, Konrad. “Joseph Saidu Momoh: A Legacy of Missed Opportunity,” Awoko (Freetown, Sierra Leone), 25 July 2003, p. 7.
Tuchscherer, Konrad. “Joseph Saidu Momoh: Human Rights,” Daily Observer (Banjul, The Gambia), 14 August 2003, p. 12.
Liên kết ngoài
Tin tức Momoh được trả tự do, IRIN tháng 11 năm 1999
Quân nhân Sierra Leone
Tổng thống Sierra Leone
Mất năm 2003
Sinh năm 1937
|
19836141
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matteo%20Lovato
|
Matteo Lovato
|
Matteo Lovato (sinh ngày 14 tháng 2 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu sự nghiệp
Lovato trải qua những năm đầu ở đội trẻ của Padova trước khi chuyển đến đội U-17 của Genoa ở tuổi 16, nơi anh ra sân 18 lần và ghi được hai bàn thắng. Tuy nhiên, Lovato không tham gia đội Primavera của Genoa; anh trở lại Padova theo dạng cho mượn vào tháng 1 năm 2018.
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2019, Lovato có trận ra mắt Serie C cho Padova dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Salvatore Sullo, với tư cách là cầu thủ đá chính trong chiến thắng 3–1 trên sân khách trước Virtus Verona. Anh sẽ ở lại câu lạc bộ trong nửa đầu mùa giải 2019–20 và có 18 lần ra sân trên mọi đấu trường.
Hellas Verona
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2020, Hellas Verona thông báo mua lại Lovato với mức phí được báo cáo là €500.000. Anh có trận ra mắt Serie A cho câu lạc bộ vào ngày 18 tháng 7 năm 2020 dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Ivan Jurić khi vào sân thay người cho Koray Günter trong trận hòa 1-1 trên sân nhà trước Atalanta.
Mùa giải tiếp theo, Lovato được tung vào đội hình xuất phát sau khi Marash Kumbulla rời đội bóng. Anh đã ra sân tổng cộng 24 lần cho Verona, giúp câu lạc bộ cán đích ở vị trí thứ 10.
Atalanta
Vào ngày 31 tháng 7 năm 2021, Lovato ký bản hợp đồng thời hạn 4 năm với câu lạc bộ Atalanta, với mức phí được báo cáo là 8 triệu euro cộng với 3 triệu euro tiền thưởng.
Cho mượn tại Cagliari
Vào ngày 3 tháng 1 năm 2022, Lovato gia nhập Cagliari dưới dạng cho mượn đến cuối mùa giải 2021–22.
Salernitana
Lovato gia nhập câu lạc bộ Salernitana tại Serie A vào ngày 6 tháng 7 năm 2022 theo bản hợp đồng 5 năm, như một phần của thỏa thuận Éderson chuyển sang câu lạc bộ khác.
Sự nghiệp quốc tế
Vào ngày 12 tháng 11 năm 2020, Lovato ra mắt quốc tế cho đội tuyển U-21 Ý, khi ra sân ngay từ đấu trong trận thắng 2–1 trước Iceland tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2021 diễn ra ở Reykjavík.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Ý
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ý
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Ý
Hậu vệ bóng đá
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá Calcio Padova
Cầu thủ bóng đá Hellas Verona F.C.
Cầu thủ bóng đá Atalanta B.C.
Cầu thủ bóng đá Cagliari Calcio
Cầu thủ bóng đá U.S. Salernitana 1919
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Serie C
|
19836142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chippubetsu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Chippubetsu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Uryū, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.329 người và mật độ dân số là 49 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 47,26 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836143
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/James%20Fitz-James%20Stuart%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20th%E1%BB%A9%202%20x%E1%BB%A9%20Berwick
|
James Fitz-James Stuart, Công tước thứ 2 xứ Berwick
|
James Francis (Jacobo Francisco) Fitz-James Stuart, Công tước thứ 2 xứ Berwick, Công tước thứ 2 xứ Liria và Xérica (Saint-Germain-en-Laye, Vương quốc Pháp, ngày 21 tháng 10 năm 1696 – Napoli, Ý, ngày 2 tháng 6 năm 1738) là một người theo chủ nghĩa Jacobite và là một quý tộc Anh và quý tộc Tây Ban Nha. Cha của ông là James FitzJames, Công tước thứ nhất xứ Berwick, con hoang hoàng gia của Vua James II, vì thế, trên thực tế, James Francis là đời thứ 2 thuộc hoàng tộc Nhà Stuart cai trị Vương quốc Anh, Ireland và Scotland. Ông gọi hai Nữ vương Mary II của Anh và Anne I của Anh là cô.
Ông thừa kế các tước hiệu trong giới quý tộc Jacobite và Tây Ban Nha sau cái chết của cha ông trong trận chiến năm 1734 tại Philippsburg, trong Chiến tranh Kế vị Ba Lan. Ông cũng là Công tước xứ Veragua và xứ la Vega và là Hầu tước của bốn tước hiệu khác sau cuộc hôn nhân với nữ thừa kế Tây Ban Nha vào năm 1716. Tước hiệu đầy đủ của ông là Công tước thứ 2 xứ Berwick, Bá tước thứ 2 xứ Tinmouth, Nam tước Bosworth thứ 2, Công tước thứ 2 xứ Liria và Xerica, Grandee của Tây Ban Nha hạng nhất (từ 1716), Hiệp sĩ của Huân chương Lông cừu vàng (từ ngày 29 tháng 9 năm 1714), đồng thời là người nắm giữ một số tước hiệu bá tước khác.
Tham khảo
A. Paz y Meliá. Conquista de Nápoles y Sicilia y relación de Moscovia, por el Duque de Berwick. Precede una noticia de la vida y escritos del autor por A. Paz y Meliá. 468 pages, Madrid (1890). Imprenta y Fundición de M.Tello. Impresor de Cámara de S. M.
Duque de Liria y Jérica, Diario de Viaje a Moscovia, edit. by Á.L. Encinas, I. Arranz, M. Rodríguez, , Ed. Miraguano, April 2008.
http://indigo.ie/~wildgees/honora3.htm
http://www.tcd.ie/CISS/mmspain.php
Research Group on Irish and Spanish Military Migration to Spain by Professor Ciaran Brady, Dr. Declan Downey and Dr. Oscar Morales e-mail at TCD (Trinity College Dublin, Ireland). February 2008.
Sinh năm 1696
Mất năm 1738
Công tước xứ Berwick
Công tước Tây Ban Nha
Công tước Anh
Grandee Tây Ban Nha
Jacobite
Vương tộc Stuart
Hiệp sĩ Garter
Người được nhận Huân chương lông cừu vàng Tây Ban Nha
Tướng Tây Ban Nha
Người nhận Huân chương Đại bàng trắng (Ba Lan)
|
19836144
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3n%20s%E1%BA%AFc%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c
|
Bản sắc dân tộc
|
Bản sắc dân tộc (National identity) là bản sắc hoặc ý thức bản thân của một cá nhân thuộc về một hoặc nhiều nhà nước hoặc một hoặc nhiều quốc gia, dân tộc. Đó là ý thức về "một quốc gia như một tổng thể gắn kết, hiển hiện qua những truyền thống, văn hóa và ngôn ngữ đặc biệt". Bản sắc dân tộc có thể đề cập đến cảm giác chủ quan mà một người chia sẻ với một nhóm người về một quốc gia, bất kể tình trạng công dân hợp pháp của một người. Bản sắc dân tộc được nhìn dưới góc độ tâm lý học là "nhận thức về sự khác biệt", là "cảm giác và sự thừa nhận về 'chúng tôi' và 'họ". Bản sắc dân tộc cũng bao gồm yếu tố dân số nói chung và cộng đồng hải ngoại của các quốc gia và xã hội đa sắc tộc có ý thức chung về bản sắc chung giống hệt với bản sắc của một quốc gia trong khi được tạo thành từ một số nhóm dân tộc cấu phần.
Với tư cách là một hiện tượng tập thể, bản sắc dân tộc có thể nảy sinh như là kết quả trực tiếp của sự hiện diện của các yếu tố từ "điểm chung" (thống nhất trong đa dạng) trong đời sống hàng ngày của người dân như biểu tượng dân tộc, ngôn ngữ, lịch sử dân tộc, ý thức dân tộc và các hiện vật văn hóa. Theo luật pháp quốc tế, thuật ngữ bản sắc dân tộc, liên quan đến các quốc gia, có thể hoán đổi với thuật ngữ bản sắc quốc gia hoặc bản sắc chủ quyền quốc gia đó. Bản sắc của một quốc gia theo định nghĩa có liên quan đến tên Hiến pháp của quốc gia được sử dụng làm nhận dạng pháp lý trong quan hệ quốc tế và là một yếu tố thiết yếu của tư cách pháp nhân quốc tế của quốc gia đó.
Bản sắc chủ quyền của quốc gia cũng đại diện cho mẫu số chung để xác định văn hóa hoặc bản sắc văn hóa quốc gia và theo Luật quốc tế, bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài vào bản sắc văn hóa hoặc tín ngưỡng văn hóa và truyền thống dường như đều không được chấp nhận. Bất kỳ sự tước đoạt hoặc can thiệp, đồng hóa bên ngoài nào đối với bản sắc văn hóa dân tộc đều có vẻ vi phạm các quyền cơ bản của con người. Sự thể hiện bản sắc dân tộc của một người được nhìn dưới góc độ tích cực là lòng yêu nước được đặc trưng bằng niềm tự hào dân tộc và cảm xúc tích cực về tình yêu quê hương đất nước. Biểu hiện cực đoan của bản sắc dân tộc là chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến chủ nghĩa Sô vanh, ám chỉ niềm tin vững chắc vào tính ưu việt của đất nước và lòng trung thành tột độ đối với đất nước của mình.
Chú thích
Tham khảo
Dân tộc
|
19836146
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dragon%20Ball%20Super%3A%20Super%20Hero
|
Dragon Ball Super: Super Hero
|
Dragon Ball Super: Super Hero(ドラゴンボー スーパーヒーロー, Hepburn: Doragon Bōru Sūpā Sūpā Hīrō) là một bộ phim điện ảnh anime đề tài viễn tưởng và phiêu lưu võ thuật của
Nhật Bản năm 2022.đạo diễn bởi Tetsuro Kodama và kịch bản được viết bởi Toriyama Akira - tác giả Dragon Ball. Đây là bộ phim hoạt hình bộ phim thứ 22,của movie Dragon Ball. bộ phim thứ tư được sản xuất với sự tham gia trực tiếp của Toriyama, là bộ phim mang thương hiệu Dragon Ball Super và là bộ phim đầu tiên được sản xuất chủ yếu bằng công nghệ hoạt hình 3D..
Nội dung phim bắt đầu khi thủ lĩnh Đội Quân Ruy Băng Đỏ là Magenta (Volcano Ōta) – con trai của Commander Red – chiêu mộ tiến sĩ Hedo (Miyu Irino) để âm mưu chống lại nhóm của Goku (Masako Nozawa). Chúng tạo ra hai Android mới là Gamma 1 (Hiroshi Kamiya) và Gamma 2 (Mamoru Miyano) và lên kế hoạch tấn công Piccolo (Toshio Furukawa) lẫn Gohan (Masako Nozawa).
Do không thể liên hệ với Goku (Masako Nozawa) và Vegeta (Ryō Horikawa) vốn đang luyện tập trên hành tinh của Beerus (Kōichi Yamadera), Piccolo và Gohan buộc phải tự mình giải quyết vấn đề. Thế nhưng, đối thủ của họ không chỉ là Gamma 1 và Gamma 2 mà còn là một thế lực khác để chờ thời cơ trỗi dậy.
Nhân vật - phân vai
|
19836148
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Berwick
|
Công tước xứ Berwick
|
Công tước xứ Berwick (/ˈbɛrɪk/) (tiếng Anh: Duke of Berwick; tiếng Tây Ban Nha: Duque de Berwick) là một tước hiệu được tạo ra trong Đẳng cấp quý tộc Anh vào ngày 19 tháng 3 năm 1687 và được trao cho James FitzJames, con trai ngoài giá thú của Vua James II và Arabella Churchill. Tên của tước hiệu đề cập đến thị trấn Berwick-upon-Tweed ở Anh, gần biên giới với Scotland.
Các tước vị Nam tước Bosworth và Bá tước xứ Tinmouth được tạo ra cùng lúc và chúng là tước hiệu phụ. Vì là người theo phái Jacobite nên Công tước thứ nhất đã không nhận được Lệnh triệu tập để đảm nhận vị trí của mình trong Viện Quý tộc sau năm 1695, và do đó, tước hiệu này từ lâu đã được coi là không hoạt động. Tuy nhiên, vì việc tạo ra nó không được coi là một phần của quý tộc Jacobite bất hợp pháp và không có Lệnh bổ nhiệm nào được Quốc hội ban hành cho Công tước (mặc dù nó dành cho chính Công tước), danh hiệu này vẫn được một số người coi là tồn tại về mặt lý thuyết, mặc dù không hoạt động trong Đẳng cấp quý tộc Anh và có thể được những người thừa kế hợp pháp là nam giới yêu cầu được khôi phục.
Kể từ ngày 13 tháng 12 năm 1707, khi Felipe V của Tây Ban Nha xác nhận tước hiệu ở đất nước của mình và phong tước Grandee cho Công tước thứ nhất xứ Berwick, công tước cũng là tước hiệu thuộc giới quý tộc Tây Ban Nha. Tuy nhiên, không giống như tước vị ở Anh, tước hiệu Tây Ban Nha tuân theo quy tắc về quyền thừa kế tuyệt đối, cho phép phụ nữ kế vị nếu là con đầu lòng. Do đó, sau cái chết của Công tước Berwick thứ 10 vào tháng 9 năm 1953, người chỉ có một cô con gái, quyền kế vị đã chia thành hai dòng riêng biệt.
Tại thời điểm này, tước vị Anh được kế thừa bởi cháu trai của Công tước thứ 10, Don Fernando Fitz-James Stuart y Saavedra, Công tước thứ 19 xứ Peñaranda (1922–1971), và sau đó là con trai của Fernando Don Jacobo Fitz-James Stuart y Gómez, Công tước thứ 20 xứ Peñaranda (sinh năm 1947), người trở thành Công tước xứ Berwick thứ 12 vào năm 1971. Người thừa kế của Công tước là em trai của Công tước thứ 12 Don Luis Fitz-James Stuart y Gómez, Hầu tước thứ 14 xứ Valderrábano (sinh năm 1950). Theo luật ở Vương quốc Anh về quyền thừa kế nam giới, vì Jacobo và anh trai Luis không có con trai, nên người ta cho rằng tước hiệu quý tộc ở Anh đã bị bãi bỏ.
Ngược lại, vào năm 1953, tước hiệu Tây Ban Nha được kế thừa bởi con gái duy nhất của Công tước thứ 10 là Doña Cayetana Fitz-James Stuart, Nữ công tước thứ 18 xứ Alba (1926-2014), người vốn là Nữ công tước thứ 11 xứ Berwick. Khi bà qua đời vào năm 2014, con trai bà là Don Carlos Fitz-James Stuart, Công tước thứ 19 xứ Alba (sinh năm 1948) đã kế vị tước hiệu. Người thừa kế rõ ràng của công tước là con trai cả của ông là Don Fernando Fitz-James Stuart, Công tước thứ 17 xứ Huéscar (sinh năm 1990).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hernando Fitzjames-Stuart in Spanish
Berwick-upon-Tweed
Công tước Tây Ban Nha
Công tước Anh
Đẳng cấp quý tộc Anh
Công tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh
Công tước xứ Berwick
|
19836150
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jacobo%20Fitz-James%20Stuart%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20th%E1%BB%A9%2017%20x%E1%BB%A9%20Alba
|
Jacobo Fitz-James Stuart, Công tước thứ 17 xứ Alba
|
Jacobo Fitz-James Stuart y Falcó, Công tước thứ 17 xứ Alba, Công tước thứ 10 xứ Berwick, GE (17 tháng 10 năm 1878 – 24 tháng 9 năm 1953) là một quý tộc, nhà ngoại giao, chính trị gia, nhà sưu tập nghệ thuật người Tây Ban Nha, và từng là vận động viên đại diện cho Tây Ban Nha tại Thế vận hội Olympic và đạt huy chương bạc. Ông là một trong những quý tộc quan trọng nhất trong thời đại của mình và nắm giữ nhiều tước hiệu quý tộc khác nhau, bao gồm công tước xứ Alba de Tormes và Berwick, Bá tước xứ Lemos, Lerín, Montijo và Hầu tước xứ Carpio. Ông được trao Huân chương Lông cừu vàng của Tây Ban Nha vào năm 1926.
Jacobo là bá tước đời thứ 10 của xứ Berwick, một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh được lập ra để trao cho người con hoang hoàng gia của Vua James II là James FitzJames, có nghĩa là Jacobo là hậu duệ trực hệ của Vương tộc Stuart. Ông không có con trai và chỉ có một người con gái duy nhất, vì thế, theo luật của Vương quốc Anh tước hiệu Công tước xứ Berwick thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh sẽ bị thu hồi, trong khi đó, theo luật của Tây Ban Nha, nữ giới có thể kế thừa các tước hiệu quý tộc Tây Ban Nha.
Ông là bạn thân và họ hàng của Vương thất Anh, vì thế ông là một trong những khách mời chính trong đám cưới của Nữ vương Elizabeth II vào năm 1947.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1878
Mất năm 1953
Nhà sưu tầm nghệ thuật thế kỷ 20
Công tước xứ Montoro
Công tước xứ Huéscar
Hầu tước Tây Ban Nha
Hầu tước xứ Carpio
Bá tước Tây Ban Nha
Tử tước Tây Ban Nha
Ngoại trưởng Tây Ban Nha
Công tước xứ Berwick
Công tước Anh
Công tước thuộc Đẳng cấp Quý tộc Anh
Người được nhận Huân chương lông cừu vàng Tây Ban Nha
Grandee Tây Ban Nha
Người Tây Ban Nha gốc Anh
Vương tộc Stuart
Người chống cộng Tây Ban Nha
Cựu học sinh Eton College
Cựu học sinh Beaumont College
Quý tộc Tây Ban Nha
|
19836152
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hasbulla
|
Hasbulla
|
Hasbulla Magomedovich Magomedov (sinh ngày 7 tháng 7 năm 2002), được biết đến dưới tên Hasbik, là một nhân vật truyền thông xã hội người Nga. Anh bị chậm phát triển do thiếu hụt hormone tăng trưởng và có chiều cao là 102 cm. Hasbulla trở nên nổi tiếng từ năm 2021 nhờ một video trên TikTok lan truyền, từ đó đã hợp tác với những ngôi sao MMA và các nhân vật nổi tiếng như Khabib Nurmagomedov, Islam Makhachev, Alexander Volkanovski, Dana White, Mark Wahlberg, Shaquille O'Neal và Nelk Boys.
Tham Khảo
|
19836156
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Isabel%20Moctezuma
|
Isabel Moctezuma
|
Doña Isabel Moctezuma (tên khai sinh: Tecuichpoch Ichcaxochitzin; 1509/1510 – 1550/1551) là con gái của Hoàng đế Aztec Moctezuma II. Bà là vợ của Atlixcatzin, một tlacateccatl, sau trở thành vợ của các hoàng đế Aztec là Cuitláhuac và Cuauhtémoc, và cũng là Hoàng hậu cuối cùng của Aztec. Sau khi Tây Ban Nha chinh phục Đế quốc Aztec, Doña Isabel được công nhận là người thừa kế hợp pháp của cựu hoàng đế Moctezuma và trở thành một trong những quý tộc Mexico bản địa được cấp quy chế encomienda. Trong số người thân của cô có thể kể đến người em gái cùng cha khác mẹ Marina (hoặc Leonor) Moctezuma, và Juan Sánchez, một thống đốc bản địa ở Oaxaca.
Doña Isabel đã kết hôn với một tlacateccatl, hai hoàng đế Aztec và ba người Tây Ban Nha, và trở thành goá phụ 5 lần. Bà có một cô con gái ngoài giá thú mà bà từ chối thừa nhận, đó là Leonor Cortés Moctezuma, với một Chinh phục tướng quân là Hernán Cortés. Các con trai của Doña Isabel đã thành lập một dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha.
Tước hiệu Công tước xứ Moctezuma de Tultengo trong giới quý tộc Tây Ban Nha vẫn còn tồn tại đến tận ngày nay là hậu duệ của em trai bà. Người ta ước tính rằng, chỉ tính riêng ở Tây Ban Nha, Isabel có 2000 con cháu.
Gia đình và những cuộc hôn nhân sớm
Mẹ của Doña Isabel là Công chúa Teotlalco và tên khai sinh của bà là Tecuich(po)tzin, được dịch là "con gái của lãnh chúa" ở Nahuatl. Teotlalco là vợ chính thất của Moctezuma và do đó, trong số các con gái của Moctezuma, Tecuichpotzin có vị trí ưu tiên. Khi còn nhỏ, Tecuichpotzin đã kết hôn với Atlixcatzin, người qua đời vào năm 1520. Sau khi cha cô bị giết bởi chính người dân của ông (hoặc người Tây Ban Nha), cô nhanh chóng kết hôn với người chú của mình là Cuitláhuac, người trở thành hoàng đế sau cái chết của Moctezuma. Cuitláhuac chết vì bệnh đậu mùa chỉ sau 80 ngày cai trị. Cuauhtémoc trở thành hoàng đế và kết hôn với Tecuichpotzin. Cô chỉ khoảng 11 hoặc 12 tuổi vào thời điểm kết hôn lần thứ 3.
Doña Isabel và cuộc chinh phục Tenochtitlan
Hernán Cortés và những người Tây Ban Nha khác tiến vào Tenochtitlan vào ngày 8 tháng 11 năm 1519. Trong vài tháng, họ sống trong cung điện của Moctezuma. Vào một thời điểm nào đó trong thời gian lưu trú ở đó, họ đã bắt hoàng đế làm con tin. Người Aztec nổi dậy và trục xuất Cortés cùng quân đội của ông ta khỏi Tenochtitlan (La Noche Triste, ngày 30 tháng 6 năm 1520). Tuy nhiên, Tecuichpotzin đã bị người Tây Ban Nha bỏ lại ở thành phố. Các nhà lãnh đạo Aztec nhanh chóng gả cô cho Cuitláhuac, hoàng đế mới, và sau khi ông qua đời vì bệnh đậu mùa, cô đã được gả cho Cuauhtémoc.
Cortés quay trở lại vào năm 1521 cùng với một nhóm lớn người Tây Ban Nha và đồng minh người da đỏ, hầu hết đến từ Tlaxcala, để tấn công Tenochtitlan. Người Aztec, với quân số và tinh thần suy kiệt do dịch bệnh đậu mùa, đã bị đánh bại. Cuauhtémoc và triều đình của ông đã cố gắng chạy trốn khỏi Tenochtitlan bằng thuyền, nhưng họ đã bị người Tây Ban Nha bắt giữ. Khi đầu hàng, Cuauhtémoc yêu cầu người Tây Ban Nha tôn trọng các phu nhân trong triều đình của ông, trong đó có người vợ trẻ Tecuichpotzin.
Năm 1525, Cortés xử tử Cuauhtemoc và Tecuichpotzin góa chồng lần thứ ba.
Cải đạo sang Cơ đốc giáo và liên minh triều đại đến Tây Ban Nha
Cortés coi Tecuichpotzin như một biểu tượng cho điều mà ông muốn miêu tả là sự liên tục cai trị giữa người Aztec và người Tây Ban Nha. Cô được hướng dẫn về Cơ đốc giáo, cải sang đạo này, có lẽ là vào năm 1526, và được rửa tội với tên thánh là Isabel, cái tên mà sau này cô được biết đến. Mọi dấu hiệu đều cho thấy Doña Isabel, cựu công chúa Aztec Tecuichpotzin, rất sùng bái tôn giáo mới của mình. Cô hào phóng quyên góp cho các tu sĩ dòng Augustinô, đến mức người ta yêu cầu cô dừng lại. Việc giáo dục của Isabel với tư cách là một Cơ đốc nhân không bao gồm việc dạy cô đọc và cô vẫn mù chữ.<ref>Kalyuta, Anastasya. "The Household and Estate of a Mexica Lord: 'Información de Doña Isabel de Moctezuma' http://www.famsi.org/reports/06045/06045Kalyuta01.pdf, accessed December 30, 2010</ref>
Cortés đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Doña Isabel với người đồng nghiệp thân thiết của ông là Alonso de Grado vào tháng 6 năm 1526. Một phần của cuộc hôn nhân này là việc trao đặc quyền encomienda cho Doña Isabel. Encomienda bao gồm thành phố Tacuba (khoảng 8 km2 hoặc 5 dặm vuông) về phía Tây Tenochtitlan (nay gọi là Thành phố México) và là encomienda lớn nhất ở Thung lũng Mexico, một dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng mà Cortés dành cho Isabel. Encomienda của Doña Isabel đã tồn tại trong nhiều thế kỷ. Chính phủ Tây Ban Nha và sau đó là Mexico đã trả chủ quyền sở hữu dưới hình thức trợ cấp cho con cháu của Doña Isabel cho đến năm 1933 và Bá tước xứ Miravalle, hậu duệ của Moctezuma, vẫn còn tồn tại ở Tây Ban Nha.
Về chế độ nô lệ
Sự phản đối chế độ nô lệ của cô gần đây đã trở thành một chủ đề được quan tâm. Bản thân Isabel là một chủ nô nổi tiếng, như truyền thống của dòng dõi cô, nhưng cô đã giải phóng tất cả nô lệ của mình trước khi qua đời.
Vào tháng 7 năm 1526, Cortés trao cho Alonso de Grado, chồng của Isabel, vị trí "Visitador Real" - một kiểm toán viên lưu động có thẩm quyền thực thi quyền tư pháp và hành pháp nhân danh vương quyền - của Tân Tây Ban Nha. De Grado được giao nhiệm vụ cụ thể là đến thăm tất cả các thành phố và làng mạc, để "tìm hiểu về quá trình Cơ đốc hóa và đảm bảo rằng các luật đối xử tốt với người da đỏ - Luật Burgos - đều được tôn trọng. Ông ta phải truy tố và trừng phạt chế độ nô lệ bất hợp pháp. Ông ta tập trung vào việc nô lệ bất hợp pháp người bản xứ, cũng như các tranh chấp giữa các công chức Tây Ban Nha và chính quyền địa phương - bản xứ, và ông có thẻ bắt giam bất kỳ người Tây Ban Nha nào phản đối mình". Alonso qua đời khi đang thực hiện nhiệm vụ này.
Isabel có mối liên hệ chặt chẽ với luật mới thông qua chồng cô. Người ta cho rằng ban đầu bà không hài lòng với những nỗ lực của người Tây Ban Nha nhằm áp đặt các giới hạn trong quyền sở hữu và đối xử với nô lệ. Bất chấp việc cơ quan luật pháp ngày càng cố gắng hạn chế hoặc dập tắt chế độ nô lệ bản địa ở Tân Tây Ban Nha mà chồng bà bị buộc tội thi hành. Với tư cách là quý tộc bản địa, bà có đặc quyền giữ lại những nô lệ mà bà sở hữu trước cuộc chinh phục và đối xử với họ "theo cách của mình". bà thậm chí còn bị hạn chế quyền lực trong việc điều chỉnh các quy tắc ở vùng đất theo đặc quyền encomienda của mình. Bà đã sử dụng đặc quyền này và sở hữu một số lượng lớn nô lệ bản địa trong suốt cuộc đời mình. Tuy nhiên, đến cuối đời, bà đã giải phóng tất cả họ, bà cũng đảm bảo rằng họ được cung cấp phương tiện để sinh sống khi được tự do, điều này đã được ghi rõ trong di chúc.
Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi quan điểm này là không chắc chắn, nhưng đã đặt cơ sở cho việc miêu tả gần đây về bà như một "nhà hoạt động" chống chế độ nô lệ và là người mẹ của nền độc lập bản địa trong một số lĩnh vực tư tưởng. "Tôi muốn, và tôi ra lệnh, và đó là ý chí của tôi, rằng tất cả nô lệ của tôi, đàn ông và phụ nữ người châu Mỹ bản địa, sinh ra từ vùng đất này, những người mà Juan Cano, chồng tôi và tôi coi là của riêng mình, trong phạm vi quyền của tôi đối với họ, sẽ thoát khỏi thân phận làm nô lệ, và với tư cách là những người tự do, họ sẽ làm những gì họ muốn, vì tôi không coi họ là nô lệ; vì vậy nếu họ là (nô lệ), tôi sẽ và ra lệnh cho họ được tự do".
Cortés và hai cuộc hôn nhân cuối
Doña Isabel được mô tả là "một phụ nữ rất xinh đẹp đối với một người bản địa". Người chồng thứ tư của bà, Alonso de Grado, sớm qua đời và lúc đó Isabel chỉ mới khoảng 17 tuổi, góa bụa lần thứ tư. Cortés đưa cô về nhà mình và cô nhanh chóng có thai. Sau đó ông ta nhanh chóng gả cô cho một cộng sự khác của mình là Pedro Gallego de Andrade, và đứa trẻ được đặt tên là Leonor Cortés Moctezuma chào đời vài tháng sau đó (Isabel cũng có một người em cùng cha khác mẹ tên là Marina hoặc Leonor Moctezuma). Theo các nguồn tin của Tây Ban Nha, bà từ chối nhận đứa trẻ và được giao cho Juan Gutiérrez de Altamirano, một cộng sự thân cận khác của Cortés, chăm sóc. Tuy nhiên, Cortés đã chấp nhận đứa trẻ là con của mình và đảm bảo rằng cô bé được nuôi dưỡng tốt và nhận được tài sản thừa kế từ tài sản của ông và Doña Isabel. Cuộc hôn nhân của Isabel với Gallego sinh ra một đứa con trai, đó là Juan de Andrade Gallego Moctezuma, sinh năm 1530. Tuy nhiên, Gallego qua đời ngay sau đó. Năm 1532, bà kết hôn với người chồng thứ 6 là Juan Cano de Saavedra, người có ba con trai và hai con gái: Pedro, Gonzalo, Juan, Isabel và Catalina Cano de Moctezuma. Isabel và Catalina trở thành nữ tu tại tu viện đầu tiên ở châu Mỹ, El Convento de la Conception de la Madre de Dios. Cả hai cô con gái đều được giáo dục tốt, có lẽ cả hai con trai của bà cũng vậy.
Qua đời và thừa kế
Doña Isabel qua đời vào năm 1550 hoặc 1551. Tài sản của bà để lại là rất lớn, không chỉ bao gồm lãnh địa thuộc đặc quyền encomienda'' mà còn cả tài sản cá nhân mà bà có được trong các cuộc hôn nhân với 3 người chồng Tây Ban Nha. Trước những cuộc hôn nhân đó, bà từng là một công chúa Aztec không sở hữu gì ngoại trừ cái địa vị hoàng gia nổi bật của mình. bà quyết định trả tự do cho những nô lệ da đỏ của mình, 1/5 tài sản được trao cho Giáo hội Công giáo, và tất cả các khoản nợ tồn đọng của bà, bao gồm cả tiền lương nợ người hầu, phải được thanh toán. Bà đã mua đồ trang sức và những món đồ xa xỉ khác và yêu cầu tặng nhiều món đồ này cho con gái mình, đồng thời bán tài sản còn lại và một phần ba số tiền thu được sẽ thuộc về con gái bà. Theo nguyện vọng trước khi qua đời, 20% tài sản của bà sẽ được Cortés trao cho Leonor, đứa con ngoài giá thú của bà. Đây rõ ràng là của hồi môn vì Leonor đã kết hôn hoặc sắp kết hôn với Juan de Tolosa ở Zacatecas.
Isabel để lại phần lớn số đất đai thuộc đặc quyền encomienda của mình cho người con trai cả, Juan de Andrade, nhưng việc thừa kế encomienda của ông đã bị tranh chấp bởi người chồng cuối của bà là Juan Cano, và Diego Arias de Sotelo, con rể của Leonor (Mariana) Moctezuma, người mà ông ấy tuyên bố là người thừa kế thực sự của Moctezuma. Kết quả sau nhiều năm kiện tụng là yêu sách của Arias de Sotelo đã bị bác bỏ, và đất Tacuba bị chia đôi giữa Cano và Andrade.
Các hậu duệ hiện tại
Dòng dõi quý tộc Tây Ban Nha có nguồn gốc từ Isabel đến từ con trai của bà là Juan de Andrade. Các con trai của bà, Pedro và Gonzalo Cano, đã trở thành những công dân nổi tiếng của Thành phố México. Con trai của bà, Juan Cano Moctezuma, kết hôn với một gia đình nổi tiếng ở Cáceres, Tây Ban Nha, nơi Palacio de Toledo-Moctezuma vẫn còn tồn tại. Người chồng cuối cùng của Isabel là Juan Cano, qua đời ở Seville vào năm 1572. Dòng dõi mestizo bắt nguồn từ Isabel và chị gái của bà đã lan rộng ra giới quý tộc Tây Ban Nha. Vì giới quý tộc bản địa đã cải đạo được người Tây Ban Nha coi là quý tộc Tây Ban Nha nên dòng máu của giới quý tộc Aztec rất được tôn trọng và có cơ hôn phối với các dòng dõi của quý tộc Tây Ban Nha. Con cháu của Isabel và Leonor nhanh chóng kết hôn với những gia đình quan trọng nhất của Extremadura, một trong những khu vực giàu có nhất của Tây Ban Nha vào thời điểm đó. Người ta ước tính rằng Isabel có 2000 hậu duệ ngày nay chỉ riêng ở Tây Ban Nha. Những tuyên bố về quyền quý tộc của bá tước xứ Miravalle, bá tước xứ La Enrejada, công tước xứ Ahumada, công tước xứ Abrantes, và công tước xứ Monctezuma đến trực tiếp từ bà và em gái bà. Isabel là tổ tiên của Rosario Nadal, vợ của Kyril, Thân vương xứ Preslav, Carlos Fitz-James Stuart, Công tước thứ 19 xứ Alba, Marie-Liesse Claude Anne Rolande de Rohan-Chabot, vợ của Henri, Bá tước xứ Paris và Ignacio de Medina y Fernández de Córdoba, Công tước xứ Segorbe thứ 19, chồng của Công chúa Maria da Glória, Công tước phu nhân xứ Segorbe, vợ cũ của Alexander, Thái tử Nam Tư.
Tầm quan trọng
Người ta biết rất ít về Doña Isabel, ngoài một số sự thật về cuộc đời bà. Isabel dường như đã thực hiện thành công quá trình chuyển đổi từ công chúa Aztec sang doña Tây Ban Nha. Con cháu của bà là ví dụ nổi bật nhất về khái niệm Mestizo - sự kết hợp giữa tổ tiên người Tây Ban Nha và người Mexico bản địa - điều đó sẽ là đặc trưng cho tương lai của Mexico. Người Tây Ban Nha mong muốn khắc sâu vào tâm trí người dân bản địa "định hướng kinh tế, tôn giáo và văn hóa của Tây Ban Nha." Isabel, dù là do tự nguyện hay ép buộc, thì cũng đã là một thành công lớn đầu tiên trong quá trình đồng hóa của người Tây Ban Nha và người Mexico bản địa.
Tham khảo
Xem thêm
Sinh năm 1509
Mất năm 1550
Gia tộc Moctezuma
México thuộc địa
Chuyển sang Công giáo La Mã
Encomenderos
Người bản địa châu Mỹ thế kỷ 16
Hoàng nữ
Quý tộc Aztec
|
19836179
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%201961
|
Bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa 1961
|
Bầu cử tổng thống được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 9 tháng 4 năm 1961. Kết quả là chiến thắng thuộc về Ngô Đình Diệm với 89% phiếu bầu.
Kết quả
Tham khảo
Bầu cử tại Việt Nam
Bầu cử tại Việt Nam Cộng hòa
Việt Nam Cộng hòa năm 1961
Bầu cử năm 1961 ở châu Á
Sự kiện tháng 4 năm 1961 ở châu Á
Bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa
|
19836180
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20t%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%201971
|
Bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa 1971
|
Bầu cử tổng thống được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 2 tháng 10 năm 1971. Sau khi hai ứng cử viên đối lập Dương Văn Minh và Nguyễn Cao Kỳ từ bỏ việc tranh cử, Tổng thống đương nhiệm Nguyễn Văn Thiệu là ứng cử viên duy nhất, nhận được 100% phiếu bầu. Chiến thắng của Thiệu trong cuộc bầu cử này chính thức đánh dấu nhiệm kỳ thứ hai của ông. Đây là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa.
Kết quả
Tham khảo
Bầu cử tại Việt Nam
Bầu cử tại Việt Nam Cộng hòa
Bầu cử một ứng cử viên
Bầu cử năm 1971 ở châu Á
Việt Nam Cộng hòa năm 1971
Bầu cử tổng thống Việt Nam Cộng hòa
|
19836181
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20Thu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20Nam%20K%E1%BB%B3%201935
|
Bầu cử Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ 1935
|
Bầu cử Hội đồng Thuộc địa được tổ chức tại Nam Kỳ vào ngày 3 tháng 3 năm 1935.
Hệ thống bầu cử
24 thành viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ bao gồm 10 thành viên do công dân Pháp bầu ra, 10 thành viên do người Việt Nam được xếp vào diện Pháp tịch bầu ra, 2 người do Phòng Thương mại và 2 người do Phòng Nông nghiệp bầu ra.
Kết quả
Trong số cử tri Việt Nam, nhóm La Lutte nhận được 17% số phiếu bầu, dù họ không giành được ghế nào.
Tham khảo
Bầu cử tại Việt Nam
Việt Nam năm 1935
Liên bang Đông Dương
Sự kiện tháng 3 năm 1935
Bầu cử năm 1935 ở châu Á
Liên bang Đông Dương thập niên 1930
|
19836182
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20Thu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20Nam%20K%E1%BB%B3%201939
|
Bầu cử Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ 1939
|
Bầu cử Hội đồng Thuộc địa được tổ chức tại Nam Kỳ vào ngày 16 tháng 4 năm 1939.
Hệ thống bầu cử
24 thành viên Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ bao gồm 10 thành viên do công dân Pháp bầu ra, 10 thành viên do người Việt Nam được xếp vào diện Pháp tịch bầu ra, 2 người do Phòng Thương mại và 2 người do Phòng Nông nghiệp bầu ra.
Kết quả
Trong số cử tri Việt Nam, ba ứng cử viên theo chủ nghĩa Trotsky gồm Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch và Phan Văn Hùm nhận được khoảng 80% phiếu bầu; Đảng Lập hiến thân Pháp nhận được 15% phiếu bầu và các ứng cử viên theo chủ nghĩa Stalin được 1% phiếu bầu.
Hậu quả
Sự thất bại của chủ nghĩa Stalin dẫn đến Đảng Cộng sản Đông Dương bị chia rẽ, Dương Bạch Mai tiếp tục lãnh đạo phe chính thức của đảng và Nguyễn Văn Tạo hướng tới ly khai.
Tham khảo
Việt Nam năm 1939
Bầu cử tại Việt Nam
Liên bang Đông Dương
Bầu cử năm 1939 ở châu Á
Liên bang Đông Dương thập niên 1930
|
19836199
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lee%20Eun-saem
|
Lee Eun-saem
|
Lee Eun-saem là một nữ diễn viên người Hàn Quốc. Cô được biết đến qua các vai diễn trong Viền đỏ trên tay áo, Phép màu đã cho ta gặp nhau, Người cha tồi, Black Dog: Being A Teacher, Ngôi trường xác sống. Cô còn góp mặt trong các bộ phim điện ảnh như Chứng nhân hoàn hảo, Cảnh sát tập sự, Trùm, Cớm và Ác quỷ và The Fault Is Not Yours.
Danh sách phim và chương trình truyền hình
Phim điện ảnh
Phim truyền hình
Chương trình chiếu mạng
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Người Gyeonggi
Nữ diễn viên Hàn Quốc thế kỷ 21
Nữ diễn viên truyền hình Hàn Quốc
Nữ diễn viên điện ảnh Hàn Quốc
Nữ diễn viên chương trình chiếu mạng Hàn Quốc
|
19836211
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20quan%20%C4%90%C3%A1%20phi%E1%BA%BFn%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20B%E1%BA%AFc%20Wales
|
Cảnh quan Đá phiến của Tây Bắc Wales
|
Cảnh quan Đá phiến của Tây Bắc Wales là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2021. Nó minh họa sự thay đổi mà ngành công nghiệp khai thác đá phiến mang lại trong cảnh quan nông thôn truyền thống ở khu vực núi và thung lũng của Snowdonia. Di sản này trải dài từ đỉnh núi đến bờ biển, tận dụng và vượt qua các thách thức nhờ các quy trình công nghiệp quy mô lớn do các chủ đất và nhà đầu tư vốn thực hiện, định hình lại cảnh quan nông nghiệp thành một trung tâm công nghiệp sản xuất đá phiến trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp (1780-1914).
Di sản bao gồm 6 thành phần là các mỏ đá và khu mỏ còn sót lại, các địa điểm khảo cổ liên quan đến chế biến công nghiệp đá phiến, các khu định cư lịch sử, bao gồm cả khu dân cư, di tích, các khu vườn lịch sử, nhà nông thôn, bến cảng cũng như hệ thống đường sắt và đường bộ và các thành tố khác có liên quan còn sót lại. Di sản này có ý nghĩa quốc tế không chỉ đối với việc xuất khẩu đá phiến mà còn xuất khẩu công nghệ và công nhân lành nghề từ những năm 1780 đến đầu thế kỷ 20. Nó trở thành thành hình mẫu cho các mỏ đá phiến khác ở các nơi khác trên thế giới và là một ví dụ quan trọng, đáng chú ý về sự trao đổi vật liệu, công nghệ và giá trị con người.
Các thành phần chính của Di sản thế giới Cảnh quan Đá phiến của Tây Bắc Wales bao gồm:
Mỏ đá Penrhyn, thung lũng Ogwen đến cảng Penrhyn
Cảnh quan đá phiến Dinorwic
Cảnh quan mỏ đá phiến ở Thung lũng Nantlle
Mỏ đá phiến, đường sắt và nhà máy Gorseddau và Hoàng tử xứ Wales
Ffestiniog: Mỏ đá phiến, mỏ đá, thành phố đá phiến và tuyến đường sắt đến Porthmadog
Mỏ đá Bryn Eglwys, làng Abergynolwyn và tuyến đường sắt Talyllyn
Hình ảnh
Tham khảo
Công nghiệp đá phiến tại Wales
Di sản thế giới tại Vương quốc Liên hiệp Anh
|
19836212
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hokury%C5%AB%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Hokuryū, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Uryū, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 1.724 người và mật độ dân số là 11 người/km2.
Tổng diện tích thị trấn là 158,82 km2
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836218
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20ph%C3%A1o%20%C4%91%C3%A0i%20v%C3%B2ng%20tr%C3%B2n%20th%E1%BB%9Di%20k%E1%BB%B3%20Viking
|
Các pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking
|
Các pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking hay các pháo đài kiểu Trelleborg là dạng thành lũy vòng tròn có thiết kế đặc biệt được xây dựng ở Scandinavia trong Thời đại Viking. Các pháo đài có hình tròn với bốn cổng và đường đi tại bốn hướng.
Hiện tại có 7 pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking được biết đến nằm tại Đan Mạch và Scania, Thụy Điển. Nhiều trong số chúng có từ thời kỳ trị vì của Harald Blåtand của Đan Mạch (khoảng năm 980). Mục đích chính xác của chúng hiện vẫn còn đang là chủ đề tranh luận.
Tên nguyên
Loại công sự này lần đầu được phát hiện tại Trelleborg ở phía tây thị trấn Slagelse trên đảo Sjælland, được khai quật vào những năm 1936–1941. Theo truyền thống, cái tên trelleborg được dịch và giải thích là "một pháo đài được xây dựng bởi nô lệ" vì trong tiếng Bắc Âu cổ thrall có nghĩa là nô lệ (ngày nay là Træl trong tiếng Đan Mạch và träl trong tiếng Thụy Điển]]) và borg có nghĩa là pháo đài hoặc thành phố. Từ trel cũng là một cách giải thích hợp lý và liên quan đến các cọc gỗ, bao phủ cả hai mặt của bức tường tròn bảo vệ.
Lịch sử
Khoảng năm 974, vua Viking Đan Mạch Harald Bluetooth đã mất quyền kiểm soát Danevirke và một phần Nam Jutland vào tay người Saxon. Toàn bộ tổ hợp công sự, cầu và đường xây dựng vào khoảng năm 980 được một số người cho là công trình của Harald và là một phần của hệ thống phòng thủ lớn hơn nhiều. Các công sự có thiết kế tương tự cùng thời kỳ đã được tìm thấy xung quanh các thị trấn cổ khác ở Scandinavia, chẳng hạn như ở Aarhus nhưng chúng không có hình tròn hoàn hảo của các pháo đài vòng tròn độc lập. Hầu hết các pháo đài đều có niên đại từ thời trị vì của Harald Bluetooth, kéo dài từ khoảng năm 958 cho đến 986. Tuy nhiên, pháo đài ở Borgeby đã có niên đại khoảng năm 1000, mặc dù ngày tháng chính xác vẫn chưa được xác định, nhưng có thể nó cũng được xây dựng như một phần trong nỗ lực củng cố công sự của ông.
Tuy nhiên, mục đích chính xác của pháo đài vẫn chưa được biết. Một số nhà sử học cho rằng chúng hoạt động như doanh trại quân đội hoặc nơi huấn luyện của Svend Tveskæg. Nhưng nhiều khả năng chúng được dự định làm thành trì phòng thủ dọc theo các điểm thương mại chiến lược hoặc như là tiền đồn hành chính của quốc gia mới hình thành. Søren Sindbæk đã đưa ra giả thuyết rằng, các pháo đài cho phép người dân địa phương trú ẩn trong các thành lũy để chống lại kẻ thù trong khi chờ đợi sự hỗ trợ từ các lực lượng thiện chiến từ xa; điều này có nghĩa là các pháo đài đã giúp Harald Bluetooth kiểm soát lãnh thổ rộng lớn và gửi quân đội của ông đến mà không lo chúng sẽ bị chinh phục hoặc cướp bóc. Những người khác tranh luận về việc liệu pháo đài là công trình phòng thủ, thành trì quân sự hay chủ yếu phục vụ như doanh trại, cũng như ý nghĩa về kinh tế, tôn giáo và biểu tượng của nó.
Nhiều pháo đài đã bị bỏ hoang vào cuối Thời đại Viking trong khi số khác được bao bọc bởi các khu định cư khác, chẳng hạn như Nonnebakken hiện nằm bên dưới Odense và Trelleborgen thuộc thành phố Trelleborg của Thụy Điển, số khác dần rơi vào quên lãng. Việc tái khám phá những địa điểm này bắt đầu vào những năm 1930 với việc khai quật Trelleborg ở Đan Mạch. Kể từ đó, tổng cộng bảy địa điểm đã được chính thức công nhận là pháo đài vòng tròn của người Viking. Địa điểm thứ 8 có thể là tại Helsingborg đã được đề xuất vào năm 2009 sau các cuộc khai quật khảo cổ từ năm 1987. Pháo đài vòng tròn Helsingborg có thể là pháo đài lớn nhất trong số đó, với đường kính 270 mét. Một địa điểm khác ở Rygge cũng được đề xuất nhưng chưa được xác nhận.
Năm 2023, 5 pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking của Đan Mạch đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.
Danh sách
Đã được xác thực''
'
Aggersborg gần Aggersund, Đan Mạch.
Borrering gần Køge, Đan Mạch.
Fyrkat gần Hobro, Đan Mạch.
Nonnebakken tại Odense, Đan Mạch.
Trelleborg gần Slagelse, Đan Mạch.
Bắc Borgeby của Lund tại Scania, Thụy Điển.
Trelleborgen tại Trelleborg, Scania, Thụy Điển.Có khả năng'''
Helsingborg tại Scania, Thụy Điển.
Rygge tại Østfold, Na Uy.
Hình ảnh
Tham khảo
Di sản thế giới tại Đan Mạch
Pháo đài Đan Mạch
Pháo đài vòng tròn thời kỳ Viking
|
19836222
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kamisunagawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Kamisunagawa, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Sorachi, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.841 người và mật độ dân số là 17 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 39,91 km2
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836234
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/How%20the%20Snake%20Lost%20Its%20Legs
|
How the Snake Lost Its Legs
|
How the Snake Lost Its Legs: Curious Tales from the Frontier of Evo-Devo là một cuốn sách năm 2014 về sinh học phát triển tiến hóa của Lewis I. Held, Jr.. Tựa đề quyển sách có mục đích bày tỏ sự kính trọng đối với cuốn sách Just So Stories của Rudyard Kipling. Tuy nhiên, những "câu chuyện" này hoàn toàn mang tính khoa học, giải thích quá trình phát triển của hàng loạt đặc điểm của động vật một cách chi tiết ở cấp độ phân tử. Cuốn sách được các nhà sinh vật học khác ngưỡng mộ vì tính chính xác và dễ tiếp cận.
Bối cảnh
Lewis Irving Held, Jr. là giáo sư sinh học phát triển tại Đại học Công nghệ Texas. Phòng thí nghiệm của ông được biết đến với nghiên cứu về công trình hình thành mô hình phôi ruồi giấm. Các cuốn sách của ông về sinh học phát triển tiến hóa (SHPTTH) bao gồm Imaginal Discs: The Genetic and Cellular Logic of Pattern Formation (2002), Quirks of Human Anatomy: An Evo-Devo Look at the Human Body (2009) và Deep Homology? Uncanny Similarities of Humans and Flies Uncovered by Evo-Devo (2017). Theo quan điểm của Held, Quirks, Snake và Deep Homology tạo thành một bộ ba ấn bản về SHPTTH.
Nội dung
How the Snake Lost Its Legs có vẻ được tổ chức thành sáu chương, nhưng thực tế là thành ba phần. Chương đầu tiên có mục đích giới thiệu và tổng quan. Bốn chương tiếp theo truyền tải cái mà Held gọi là "các khía cạnh sâu sắc hơn của SHPTTH" với "nhiều sự thật rùng rợn" để nhai đi nhai lại và "nhiều bài học khó" để tiêu hóa. Chương thứ sáu cung cấp một "món ăn ngon hơn" ("tastier treats").
Chương đầu tiên giới thiệu về "động vật đối xứng hai bên đầu tiên", nhánh urbilaterian sống cách đây khoảng 600 triệu năm. Held gọi phát hiện về cơ thể của mọi động vật đối xứng đều hai bên được định hình bởi cùng một bộ gen, là "khám phá vĩ đại nhất của SHPTTH". Nhóm động vật đó bao gồm giun tròn, giun đốt, thân mềm và da gai, cũng như các ngành khác. Ông giải thích, bằng các sơ đồ chi tiết về sự phát triển của động vật chân khớp và có dây sống kèm một văn bản ngắn gọn, được trích dẫn phong phú nhưng mang tính đàm thoại, về cách tạo ra sự đối xứng đó.
Bốn chương tiếp theo là về ruồi, bướm ngày, rắn và báo săn. Mỗi phần bao gồm ba đến tám phần được đặt tên theo phong cách Just So Stories của Rudyard Kipling, với các tiêu đề như "How the butterfly got its spots" (Làm sao mà con bướm có đốm) hay "How the snake elongated its body" (Làm thế nào con rắn kéo dài cơ thể của nó). Dù vậy, có một số phần sử dụng câu hỏi "Why?" thay vì "How?", như là "Why the fly twirls his penis" (Vì sao con ruồi lại xoay dương vật) (nó quay trong quá trình phát triển phôi dưới sự kiểm soát của các gen khác nhau). Trong các chương này, Held giải thích cơ chế SHPTTH, hoàn chỉnh với các giải thích về cách thức những gen như hox, hedgehog và engrailed tác động đến hình thành cơ thể.
Phần thứ ba là chương duy nhất truyền tải nội dung "An evo-devo bestiary" (Bản tóm tắt SHPTTH), một danh sách dài các câu chuyện, chẳng hạn như "How the turtle got its shell", "How the vampire bat reinvented running", "How the quetzal got its crest" (Làm thế nào con nuốc có mào) và "How the firefly got its flashlight". Đây chỉ là những cái tên Just So, vì mỗi mẩu câu hỏi đều được kèm trích dẫn đáng tin cậy với nghiên cứu gần đấy, chứ không phải ý tưởng hay thay đổi của tác giả. Bởi đến thời điểm này, người đọc đã được giới thiệu các yếu tố cốt lõi của bộ gen SHPTTH (Evo-devo gene toolkit), vậy nên Held trình bày mỗi phần ngắn gọn, 50 câu chuyện trong 32 trang và mang tính kỹ thuật tối thiểu: ông thảo luận về những gì hệ thống SHPTTH đạt được trong cấu trúc, cơ quan, sinh thái học và hành vi của mỗi loài động vật.
Văn bản chính có kèm bảng chú giải thuật ngữ chính xác và chỉ mục kỹ lưỡng. Các thuật ngữ được in đậm trong văn bản như một tính năng hữu ích. Trong khi đó, bảng thuật ngữ, giống như văn bản chính, được trích dẫn cho các tài liệu nghiên cứu chính làm cơ sở cho cuốn sách. Do đó, cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan rộng rãi về SHPTTH, kèm theo hướng dẫn về cách đọc sâu hơn về bất kỳ khía cạnh nào đã được lựa chọn.
Xuất bản
Cuốn sách được Nhà xuất bản Đại học Cambridge xuất bản dưới dạng bìa mềm vào năm 2014 (). Văn bản chính dài 148 trang, bảng thuật ngữ SHPTTH dài 8 trang và hơn 2500 tài liệu tham khảo chiếm 122 trang.
Cuốn sách được minh họa bằng sơ đồ đơn sắc, hình vẽ và ảnh trong văn bản và 8 trang ảnh màu. Held đã vẽ các sơ đồ và hình vẽ.
Đón nhận
Nhà phân loại học Marc Srour viết rằng Held phải được khen ngợi vì không đơn giản hóa quá mức SHPTTH, bởi, "Kết hợp nghiên cứu di truyền và phát triển chính xác với hệ thống phát sinh chủng loại và suy luận tương đồng có thể hiểu là việc đơn giản hóa toàn bộ vấn đề cho độc giả bình dân, và việc này cực kỳ khó khăn." Srour đặt cuốn sách ngang hàng với cuốn Endless Forms Most Beautiful của Stephen Jay Gould và Sean B. Carroll như một cách giới thiệu SHPTTH. Ông viết rằng Held đã "cung cấp cho chúng ta cái nhìn sâu sắc, dễ đọc về SHPTTH và tất cả các câu hỏi mà nó có thể trả lời, từ quan trọng, đến hấp dẫn, đến những sự thật kỳ lạ/thú vị mà bạn có thể đọc lại bất cứ khi nào bạn đang ở quán rượu. Những người không phải là nhà sinh học và người bình thường có thể tiếp thu được, và cuốn sách hữu ích cho giáo viên, sinh viên đại học và... nhà nghiên cứu."
Nhà sinh học tiến hóa Larry Flammer "cảnh báo" người đọc rằng khi họ nhìn vào những bức tranh hoặc nghiên cứu sơ đồ của Held, they, họ "sẽ bị thu hút bởi những chú thích ngập cả trang và cũng có thể bị thu hút bởi nỗ lực thực sự hiểu chuyện gì đang xảy ra. Các sơ đồ thực sự giúp ích rất nhiều để làm được điều này." Flammer cũng lưu ý rằng nhiều "điểm mấu chốt của quá trình tiến hóa, sâu sắc hơn chỉ là chọn lọc tự nhiên" được trình bày trong cuốn sách, tiết lộ "chính xác cơ chế di truyền/sinh lý nào đang được chọn lọc ".
Nhà sinh học phân tử Arnaud Martin nhận xét rằng, "Khi còn nhỏ, tất cả chúng ta đều đặt câu hỏi "Làm thế nào" và "Tại sao" về các đặc điểm của động vật, và nếu bạn đang đọc điều này thì thực tế rất có thể tính tò mò tương tự vẫn còn đang cháy bỏng trong bạn. Giọng điệu của How the Snake Lost its Legs bắt nguồn từ cuốn Just So Stories nổi tiếng của Rudyard Kipling bằng cách kích thích sự tò mò với công thức How the leopard/elephant/camel got its spots/trunk/hump. Khả năng lôi cuốn trí tưởng tượng của người đọc của Held được sánh ngang với sự tinh quái trong những câu chuyện pourquoi của Kipling". Nhưng người đọc "cũng được khuyến khích ngoại suy từ những nguyên tắc chung bằng cách liên tục nhắc nhở rằng động vật sử dụng một bộ gen phát triển được bảo toàn để xây dựng cơ thể của chúng." Martin nhận thấy SHPTTH hấp dẫn, "vốn dĩ đầy màu sắc và được đặt đúng chỗ để hoàn thành mục tiêu kép của huyền thoại nguồn gốc (etiological myths): giải thích nguồn gốc và nguyên nhân, đồng thời khuấy động trí tưởng tượng và sự kính sợ. Nhìn chung, tác phẩm mới nhất của Lewis Held Jr. rất phù hợp với vị trí đó và tỏa sáng, nhờ khả năng mở rộng các khái niệm thiết yếu và công việc thực nghiệm với đủ khả năng hùng biện mạnh mẽ. Hầu hết độc giả có nền tảng mỏng về sinh học có thể tiếp cận được", mặc dù không phù hợp với "lớp [đại học] như Quirks of Human Anatomy của Held".
Xem thêm
Endless Forms Most Beautiful (Sean B. Carroll, 2005)
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn
Sách sinh học
Sách phi hư cấu năm 2014
Văn học sinh học tiến hóa
Sinh học phát triển
|
19836236
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Okhotsk%20%28ph%C3%B3%20t%E1%BB%89nh%29
|
Okhotsk (phó tỉnh)
|
là một phó tỉnh của Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2023, dân số ước tính của phó tỉnh là 262.387 người và mật độ dân số là 25 người/km2. Tổng diện tích phó tỉnh là 10690,09 km2.
Hành chính
Tham khảo
Phó tỉnh của Hokkaidō
Khởi đầu năm 2010 ở Nhật Bản
|
19836237
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cao%20%C4%91%E1%BA%B3ng%20n%E1%BB%AF%20sinh
|
Cao đẳng nữ sinh
|
Cao đẳng nữ sinh (Women's college) trong giáo dục bậc đại học là các cơ sở đào tạo và cấp bằng đại học, cử nhân (thường là các trường cao đẳng nghệ thuật tự do và giáo dục các môn khai phóng) nơi số lượng sinh viên chỉ bao gồm hoặc hầu như chỉ có các bạn nữ. Một số trường cao đẳng nữ sinh nhận sinh viên nam vào các trường theo các chương trình đào tạo sau đại học hoặc với số lượng nhỏ hơn vào các chương trình đại học, nhưng tất cả đều phục vụ chủ yếu là dành cho sinh viên nữ. Trường cao đẳng dành cho nữ sinh sẽ cung cấp chương trình giảng dạy độc quyền hoặc chủ yếu, trong khi trường thục nữ dành cho các em cháu nữ hoặc nữ sinh và các chương trình của trường thục nữ tập trung vào việc dạy cho phụ nữ trẻ những cách ứng xử xã hội, tập trung vào các nét công dung, phép xã giao, lễ nghi, nghi thức, phép tắc văn hóa của tầng lớp thượng lưu như một sự chuẩn bị cho việc bước vào xã hội.
Đại cương
Thuật ngữ trường thục nữ đôi khi được sử dụng hoặc sử dụng sai mục đích để mô tả một số trường cao đẳng dành cho nữ. Ở các trường thục nữ thì học thuật nếu được giảng dạy là thứ yếu, với các môn học tập thứ cấp, có thể bao gồm một khóa học chuyên sâu hoặc chương trình một năm. Một số trường cao đẳng này có thể đã bắt đầu như những trường đang hoàn thiện nhưng đã tự chuyển đổi thành các tổ chức học thuật nghệ thuật tự do nghiêm ngặt, chẳng hạn như Finch College. Tương tự như vậy, trường trung học mang tên Trường Nữ sinh Porter được thành lập với tên gọi Trường Nữ sinh Porter dành cho các Thiếu nữ vào năm 1843, bây giờ nó nhấn mạnh vào một chương trình giảng dạy học thuật. Một trường đại học dành cho nữ chưa bao giờ tự mô tả mình là trường thục nữ hay trường dạy cư xử có thể mắc phải sự hiểu sai.
Trong suốt lịch sử 114 năm của trường đại học nữ Sweet Briar, sinh viên và cựu sinh viên đã phản đối việc gọi đây là trường học thục nữ. Tuy nhiên, đặc điểm của trường học kết thúc vẫn tồn tại và có thể góp phần làm giảm số lượng tuyển sinh, eo hẹp tài chính và trường này gần như phải đóng cửa vào năm 2015. Sự liên thông liên tục của các trường cao đẳng nữ sinh đã bị đặt câu hỏi. Trong khi cách đây 50 năm có 240 trường cao đẳng nữ ở Hoa Kỳ thì hiện nay chỉ còn lại khoảng 40 trường. Theo lời của một giáo viên tại Trường Cao đẳng Radcliffe College (một trường cao đẳng nữ đã sáp nhập với Đại học Harvard): "Nếu các trường cao đẳng nữ sinh trở nên không cần thiết, nếu các trường cao đẳng nữ sinh trở nên không còn phù hợp, thì đó là một dấu hiệu cho sự thành công của [nữ giới] chúng tôi".
Trong lịch sử thì Mary Astell ủng hộ quan điểm cho rằng phụ nữ cũng có lý trí như nam giới và xứng đáng được giáo dục. Được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1694 bài viết Đề xuất nghiêm túc dành cho các quý cô vì sự tiến bộ của lợi ích thực sự và lớn nhất của họ trình bày một kế hoạch cho một trường đại học toàn nữ, nơi phụ nữ có thể theo đuổi một cuộc sống trí tuệ. Trường đại học đầu tiên hiện thực hóa một phần kế hoạch của Astell là Whitelands College, một trường cao đẳng đào tạo giáo viên nữ được thành lập vào năm 1841 bởi Hiệp hội Quốc gia của Giáo hội Anh và từ năm 2004 là một phần của Đại học Roehampton. Tiếp theo Whitelands là hai trường cao đẳng ở Luân Đôn là Queen's College vào năm 1848 và Bedford College vào năm 1849. Queen's College phát triển thành trường công lập dành cho nữ sinh và Bedford College trở thành một phần của Đại học Luân Đôn trước khi sáp nhập với một trường cao đẳng nữ khác. Trường cao đẳng nữ đầu tiên ở Cambridge, Girton, mở cửa vào năm 1869 ban đầu ở Hitchin, tuyên bố là trường cao đẳng nội trú đầu tiên ở Anh cung cấp giáo dục cấp bằng cho nữ giới Somerville và Lady Margaret Hall ở Oxford mở cửa vào năm 1879.
Các ngôi trường
Dưới đây là danh sách các trường cao đẳng nữ sinh bao gồm nhưng không đầy đủ các trường được lập ra trước đây, mà nay đã bị sát nhập (hiện tại và lịch sử):
Trường cao đẳng nữ sinh Kansai ((関西女子短期大学/Kansai Joshi Tanki Daigaku) của Nhật Bản
Trường Trung học và Cao đẳng Nữ sinh Fuji ( (藤女子中学校・高等学校/Fujijoshi chūgakkō kōtō gakkō/Đằng nữ tử trung học hiệu cao đẳng học hiệu) của Nhật Bản
Trường cao đẳng Kacho (華頂短期大学, Kachō tanki daigaku) là một trường tư thục dành cho nữ sinh ở Kyoto, Kyoto, Nhật Bản, được thành lập vào năm 1953
Đại học Nữ sinh Ewha hay Viện Đại học Nữ sinh Ewha hay là Đại học Nữ sinh Hoa Lê (tiếng Anh: Ewha Womans University, tiếng Hàn: 이화여자대학교, chữ Hán: 梨花女子大學校 Lê hoa nữ tử đại học hiệu)
Đại học Silla (Cao đẳng Nữ sinh Pusan) của Hàn Quốc
Trường Cao đẳng Nữ sinh Neve Yerushalayim do Rachel Chalkowski (רחל שלקובסקי) sáng lập
Học viện Phụ nữ Việt Nam (tên gọi cũ là Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương hay Trường Phụ vận Trung ương) thuộc loại hình trường đại học công lập
Trường Trung học phổ thông Hai Bà Trưng, Huế còn gọi là Cao đẳng tiểu học Đồng Khánh hay trường nữ sinh Đồng Khánh
Trường Cao đẳng Sư phạm Đà Lạt (trước kia là Trường Grand Lycée Yersin) có khóa đào tạo cho các nữ sinh sư phạm
Miriam College (trường cao đẳng ở Phi Luật Tân, thành lập vào năm 1926 ở thành phố Quezon)
Philippine Women's University của Phi Luật Tân
St. Paul University Manila (trường cao đẳng ở Phi Luật Tân, thành lập năm 1912)
St. Scholastica's College Manila (ngôi trường được thành lập năm 1906, lấy theo tên thánh Scholastica)
Lady Irwin College, New Delhi (trường cao đẳng ở Ấn Độ, thành lập năm 1932)
Đại học Phụ nữ Á châu (Asian University for Women), Chittagong, Bangladesh (thành lập năm 2008)
Dubai Women's College (Cao đẳng nữ sinh Dubai) nay là Higher Colleges of Technology (كليّات التقنيّة العليا) của Dubai thuộc UAE
Effat University (Đại học Effat/ جامعة عفّت) của Saudi Arabia
Al-Zahra University (Đại học Al-Zahra/دانشگاه الزهرا, Dāneshgāh-e Alzahrā) của Iran
Murray Edwards College của Anh quốc (hiện hành)
Newnham College của Anh quốc (hiện đang tồn tại)
Lucy Cavendish College
Bedford College của Anh Quốc (thành lập từ năm 1849) nay thuộc University of London
Girton College
Lady Margaret Hall
Royal Holloway
Hughes Hall
Somerville College là một trường đại học cấu thành của Đại học Oxford ở Anh. Từ năm 1875, viện đại học thông qua bản quy chế cho phép thu nhận nữ sinh viên cấp cử nhân.
Đại học St. Andrews (University of St Andrews) với khoa Lady Literate in Arts, là đại học lâu đời nhất Scotland, nằm trong nhóm 20 viện đại học hàng đầu thế giới về các ngành khai phóng và nhân văn theo xếp hạng của Times Higher Education
St Aidan's College
St Anne's College
St Hilda's College
St Hild's College
St Hugh's College
St Mary's College (Trường Cao đẳng Thánh Mary)
Trevelyan College
Westfield College
Queen Elizabeth College
Hillcroft College
Bishop Otter College, nay là Đại học Chichester (University of Chichester)
Digby Stuart College
Froebel College
Girton College, Cambridge
Whitelands College, Roehampton University (lập năm 1841)
Southlands College
Edinburgh School of Medicine for Women, Edinburgh (đóng cửa năm 1898)
Edinburgh College of Medicine for Women, Edinburgh (1889)
Brescia University College là cơ sở giáo dục dành cho nữ cấp đại học duy nhất của Canada. Trường Brescia liên kết và tọa lạc trong khuôn viên của Đại học Western Ontario ở London, Ontario
Mount Saint Vincent University (trong Danh sách trường đại học ở Canada)
Ewart College, Toronto (trong Danh sách trường đại học ở Canada)
Alabama Central Female College, Tuscaloosa
Alabama Conference Female College, Tuskegee.
Athens Female Academy, Athens (thành lập năm 1822).
Auburn (Masonic) Female College, Auburn (mở cửa 1852–1870)
Auburn Female Institute, Auburn (mở cửa 1892–1908)
Barber Memorial College, Anniston, Alabama
Florence Synodical Female College, Florence, Alabama (mở cửa 1855–1893).
Huntsville Female College, Huntsville, Alabama (mở cửa 1851–1895)
Judson College, Marion (mở cửa 1838–2021)
University of Montevallo, Montevallo (trước đây gọi là Trường Nữ công Alabama)
University of West Alabama, Livingston
Crescent College and Conservatory, Eureka Springs, Arkansas
Galloway Female College, Searcy
Dominican University of California, San Rafael
Holy Names University, Oakland
Los Angeles Pacific College, East Los Angeles, California
Marymount College of Los Angeles, Los Angeles
Mills College, Oakland
Mount St. Mary's University, Los Angeles
Napa Ladies' Seminary
Notre Dame de Namur University, Belmont
Pitzer College, Claremont
Presentation College, Los Gatos
St. Joseph College, Orange
San Diego College for Women, San Diego
San Francisco College for Women, San Francisco
Scripps College, Claremont
Colorado Women's College, Denver
Loretto Heights College, Denver
Colorado Women's College Collaboratory, Denver
Albertus Magnus College, New Haven
Annhurst College, South Woodstock
Connecticut College, New London
Diocesan Sisters College, Bloomfield
Hartford College for Women, Hartford
Hartford Female Seminary, Hartford
Litchfield Female Academy, Litchfield
Maplewood Music Seminary, East Haddam
Mount Sacred Heart College, Hamden
University of Saint Joseph, West Hartford
Mount Vernon College for Women, Georgetown
Trinity Washington University, Washington
Washington College of Law at American University, Tenleytown (mặc dù dạy cho sinh viên nữ và ban đầu chỉ dành cho phái nữ, nhưng nam giới lần đầu tiên được nhận vào học vào năm 1897)
Dunbarton College of the Holy Cross, Washington, D.C.
Barry University, Miami Shores
Bethune-Cookman University, Daytona Beach
Florida State University, Tallahassee
Lynn University, Boca Raton
Saint Joseph College of Florida, Jensen Beach
Agnes Scott College, Decatur
Americus Female College, Americus (đóng cửa vào năm 1879)
Andrew College, Cuthbert
Bethel Female College, Cuthbert
Brenau University, Gainesville
Chappell College for Women (còn gọi là Cao đẳng Chappell), Columbus (đã đóng cửa)
Cox College, LaGrange và sau đó là College Park (đóng cửa năm 1934)
Georgia College & State University, Milledgeville
Griffin Female College, Griffin (mở cửa vào năm 1848)
Hamilton Female College, Hamilton (đóng năm 1870)
Houston Female College, Perry (đóng cửa vào năm 1896)
LaGrange College, LaGrange
Madison Collegiate Institute and Methodist Female College, Madison (đóng cửa vào năm 1880)
Monroe Female Seminary (sáng lập năm 1829).
Shorter University, Rome
Sparta Female Seminary (sáng lập năm 1829).
Spelman College, Atlanta
Talbotton Female Seminary (sáng lập năm 1829).
Tift College, Forsyth (sát nhập với Mercer University vào năm 1986 và chấm dứt tồn tại năm 1987)
Valdosta State University, Valdosta (đồng lập từ năm 1950)
Wesleyan College, Macon
Aurora University, Aurora
Barat College of the Sacred Heart, Lake Forest
Dominican University, River Forest
Evanston College for Ladies, Evanston
Lexington College, Chicago
MacMurray College, Jacksonville
Monticello College, Godfrey
Mundelein College, Chicago
North-Western Female College, thành lập năm 1855, sát nhập với Evanston College for Ladies và Northwestern University năm 1873
Rockford University, Rockford, IL
Saint Xavier University, Chicago
Shimer College, Chicago
University of St. Francis, Joliet
Coates College for Women, Terre Haute
Long College for Women, Hanover
Marian University, Indianapolis
Moravian Seminary for Young Ladies, Hope, Indiana
Saint Mary's College, Notre Dame
Saint Mary-of-the-Woods College, St. Mary's
University of Saint Francis, Fort Wayne
Briar Cliff University, Sioux City
Clarke University (nay đã được tái cơ cấu)
Decorah College for Women, Decorah
Marycrest International University, Davenport
Mount Mercy University, Cedar Rapids
Ottumwa Heights College, Ottumwa
Newman University, Wichita
Mount St. Scholastica College, Atchison
Oswego College for Young Ladies, Oswego
University of Saint Mary, Leavenworth
Vail College, Topeka
Green River Academy
Beaumont College, Kentucky
Bethel College, Russellville
Brescia University, Owensboro
Caldwell Female College, Danville, Kentucky
Campbell–Hagerman College, Lexington
Cedar Bluff College, Woodburn
Clinton College, Clinton
Elizabethtown Female Academy, Elizabethtown.
Georgetown Female College, Georgetown
Hamilton College, Lexington
John Lyle's Female Seminary (thành lập năm 1806).
Kentucky College for Young Ladies, Pewee Valley
Kentucky College for Women, Danville, Lexington, Kentucky
Logan Female College, Russellville
Lynnland Female Institute hay Lynnland Female College, Glendale, Kentucky bắt đầu năm 1867
Midway University, Midway
Millersburg Female College
Nazareth Academy, Nelson County
Pleasant J. Potter College, Bowling Green
Sayre Female Institute được kiến trúc sư Major Thomas Lewinski thiết kế nên, Lexington.
Spalding College, Louisville — lập năm 1920 do các Sơ thuộc Dòng Chị em Thương khó Nazareth, hiện nay là Spalding University.
St. Catharine College, Springfield (đóng cửa năm 2016)
Stanford Female College, Stanford, được thành lập vào năm 1871 do một công ty chứng khoán đầu tư, sau đó đã đóng cửa vào năm 1872
Ursuline College, Louisville (sát nhập với Bellarmine College vào năm 1968)
Villa Madonna College, Covington, thành lập năm 1921 do các Sơ thuộc Dòng Chị em Benedictine xứ Covington, hiện hành lấy tên là Thomas More University vào năm 2018.
College of the Sacred Heart, Grand Coteau (đóng cửa năm 1956, xem Academy of the Sacred Heart)
Dodd College, Shreveport (đóng cửa năm 1942)
H. Sophie Newcomb Memorial College, New Orleans (ngừng hoạt động theo quyết định của Tulane University năm 2006)
Keachi Female College, Keachi, ở Desoto Parish (đóng cửa năm 1912)
Mansfield Female College, Mansfield (sát nhập với Centenary College of Louisiana năm 1930)
University of Holy Cross, New Orleans, (đồng sáng lập năm 1967 với Our Lady of Holy Cross College cho đến năm 2016)
St. Mary's Dominican College, New Orleans (đóng cửa năm 1984)
Xavier University of Louisiana, New Orleans
Saint Joseph's College of Maine, Standish (đồng sáng lập kể từ năm 1970)
Baltimore Female College, Baltimore, tọa lạc tại St. Paul Street
Cambridge Female Academy (thành lập năm 1830).
Goucher College, Towson, (kể từ năm 1910), trước đó là "Women's College of Baltimore", tọa lạc tại St. Paul Street
Hood College, Frederick, (tiền thân là "Woman's College of Frederick") (thành lập năm 1893, đồng tái lập năm 2002)
Maryland College for Women, Lutherville (đóng cửa năm 1952)
Mount Saint Agnes College, Mount Washington, Baltimore (đóng cửa năm 1971 sau đó sát nhập với Loyola University Maryland)
Mount Washington Female College, Mount Washington, Baltimore (đóng cửa năm 1861)
St. Mary's Female Seminary Junior College, St. Mary's County, ở St. Mary's City sau một giai đoạn lịch sử thì đổi tên thành St. Mary's College of Maryland và nay nằm trong liên hiệp University System of Maryland
Notre Dame of Maryland University, Baltimore
Patapsco Female Institute, Ellicott City, ở Howard County (thành lập năm 1837, đóng cửa năm 1891)
Saint Joseph College, Emmitsburg (đóng cửa năm 1973 để sát nhập vào Mount Saint Mary's University)
Stevenson University, Stevenson
Woman's Medical College of Baltimore, Baltimore (đóng cửa năm 1910)
Anna Maria College, Paxton
Aquinas College, Milton và Newton (đóng cửa năm 2000)
Bard College at Simon's Rock, Great Barrington (đồng lập kể từ năm 1970)
Bay Path University, Longmeadow
Bradford College, Haverhill (fthành lập năm 1803, đồng lập kể từ năm 1971; đóng cửa năm 2000)
Cardinal Cushing College, Brookline (đóng cửa năm 1972)
Elms College, Chicopee (đồng lập kể từ năm 1998)
Emmanuel College, Boston (đồng lập kể từ năm 2001)
Endicott College, Beverly (đồng lập kể từ năm 1994)
Garland Junior College, Boston (merged into Simmons University in 1976)
Ipswich Female Seminary, Ipswich (đóng cửa năm 1878)
Jackson College for Women, Medford (trường đại học phối thuộc của Tufts University; sát nhập với School of Arts & Sciences vào năm 1980)
Lasell University, Newton (đồng lập kể từ năm 1997; mang danh Lasell College cho tới năm 2019)
Lesley College, Cambridge (là một chương trình cao đẳng của Lesley University; đồng lập kể từ năm 2005)
Mount Holyoke College, South Hadley
Mount Ida College, Newton (đồng lập kể từ năm 1972; đóng cửa năm 2018 bởi University of Massachusetts tại Amherst as Mount Ida Campus of UMass Amherst)
New England Female Medical College, Boston (sát nhập với Boston University School of Medicine năm 1874)
New England School of Law, Boston (đồng lập kể từ năm 1938)
Newton College of the Sacred Heart, Newton Centre (sát nhập với Boston College năm 1974)
Oread Institute, Worcester (đóng cửa năm 1934)
Pine Manor College, Chestnut Hill (đồng lập kể từ năm 2014; nay thuộc Boston University năm 2020)
Radcliffe College, Cambridge (đóng cửa năm 1999, nay thuộc Harvard University)
Regis College, Weston (đồng lập kể từ năm 2007)
Simmons University, Boston (Mặc dù trường có các chương trình trực tuyến dành cho tất cả mọi người và đã mở các chương trình sau đại học cho nam sinh, nhưng chương trình đại học ban ngày của trường vẫn chỉ dành cho nữ sinh).
Smith College', Northampton
Wellesley College, Wellesley
Wheaton College (đồng lập kể từ năm 1987)
Wheelock College, Boston (đồng lập kể từ năm 1967; sát nhập với Boston University năm 2018)
Aquinas College, Grand Rapids, Michigan (đồng lập kể từ năm 1931)
Madonna University, Livonia (đồng lập kể từ năm 1972)
Marygrove College, Detroit (đóng cửa năm 2019)
Mercy College of Detroit, Detroit (ngày đồng lập không rõ nhưng sau đó đã sát nhập với University of Detroit Mercy năm 1990)
Michigan Female College, Lansing (bắt đầu từ năm 1855).
Michigan Female Seminary, Kalamazoo (bắt đầu năm 1865).
Siena Heights University, Adrian (đồng lập kể từ năm 1969)
Young Ladies Seminary and Collegiate Institute, Monroe
College of Saint Benedict, St. Joseph
College of St. Scholastica, Duluth (đồng lập kể từ năm 1969)
St. Catherine University, Saint Paul
College of Saint Teresa, Winona (đóng cửa năm 1989)
Lea College, Albert Lea (đóng cửa năm 1973)
Saint Mary's Junior College, Minneapolis (sát nhập với St. Catherine University vào năm 1985)
All Saints' College (Vicksburg), Vicksburg (đóng cửa năm 2006)
Blue Mountain Christian University, Blue Mountain
Chickasaw Female College, Pontotoc (đóng cửa năm 1936)
Corona College, Corinth (đóng cửa năm 1862)
Elizabeth Female Academy, Washington (đóng cửa năm 1845)
Hillman College, Clinton (sát nhập với Mississippi College năm 1942)
Mary Holmes College, West Point (đóng cửa năm 2003)
Meridian Female College (đóng cửa năm 1904)
Mississippi University for Women, Columbus (đồng sáng lập từ năm 1982)
Mount Hermon Female Seminary, Clinton (đóng cửa năm 1924)
Port Gibson Female College, Port Gibson (đóng cửa năm 1928)
Sharon Female College, Sharon (đóng cửa năm 1873)
Union Female College, Oxford
Whitworth College, Brookhaven (đóng cửa năm 1980)
William Carey University, Hattiesburg (đồng sáng lập từ năm 1954)
Avila University, Kansas City (đồng lập kể từ năm 1969)
Baird College, Clinton (đóng cửa năm 1898)
Carlton College, Springfield (đóng cửa năm 1861)
Central Female College, Lexington (đóng cửa năm 1924)
Clinton College, Clinton (đóng cửa năm 1904)
Cottey College, Nevada
Columbia College (Missouri), Columbia (đồng sáng lập kể từ 1969)
Forest Park College, St. Louis (đóng cửa năm 1925)
Hardin College and Conservatory of Music, Mexico (đóng cửa năm 1931)
Howard–Payne Junior College, Fayette (đóng cửa năm 1927)
Independence College, Independence (đóng cửa năm 1898)
Kansas City Ladies College, Independence (đóng cửa năm 1905)
Lindenwood University, St. Charles (đồng sáng lập từ năm 1969)
Madame Perdreville's School for Girls (thành lập từ năm 1818).
Marillac College, St. Louis (đóng cửa năm 1974)
Maryville University, Town and Country (đồng lập kể từ năm 1968)
Notre Dame College, St. Louis (đóng cửa năm 1977)
Patee Female College, St. Joseph (đóng cửa năm 1868)
St. Joseph Female College, St. Joseph (đóng cửa năm 1881)
St. Louis Female Academy (thành lập năm 1823).
Stephens College, Columbia
Synodical College, Fulton (đóng cửa năm 1928)
Webster University, Webster Groves (đồng sáng lập kể từ 1962)
William Woods University, Fulton (đồng lập kể từ năm 1997)
Woman's Medical College of St. Louis, St. Louis (đóng cửa năm 1896)
Clarkson College, Omaha (đồng lập kể từ những năm 1970)
College of Saint Mary, Omaha
Servite College, Omaha (đồng thành lập từ những năm 1990)
Miss Catherine Fiske's Young Ladies Seminary ở Keene (thành lập năm 1814).
Colby–Sawyer College, New London (women's college from 1928 to 1990; co-ed since 1991)
Mount Saint Mary College, Hooksett (đóng cửa năm 1978)
Notre Dame College, Manchester (đóng cửa năm 2002; chương trình giảng dạy được chuyển qua Southern New Hampshire University).
Pierce College for Women, Concord (đóng cửa năm 1972)
Rivier University, Nashua (đồng lập kể từ năm 1991)
Assumption College for Sisters, Denville
Bordentown Female College, Bordentown (đóng cửa năm 1893)
Caldwell University, Caldwell (đồng lập kể từ năm 1985)
Centenary University, Hackettstown (đồng lập kể từ năm 1988)
St. Elizabeth University, Morristown (đồng lập kể từ năm 2015)
Douglass College (Rutgers University), New Brunswick (a residential college since 2007)
Englewood Cliffs College, Englewood Cliffs (đóng cửa năm 1974)
Evelyn College for Women, Princeton University, Princeton (đóng cửa năm 1897)
Felician University, Lodi and Rutherford (đồng lập kể từ năm 1986)
Georgian Court University, Lakewood (đồng lập kể từ năm 2013)
Adelphi University, Garden City (là loại hình trường cao đẳng nữ sinh từ năm 1912 tới năm 1946)
Barleywood Female University, Rochester (đóng cửa năm 1853)
Barnard College, Manhattan (liên hiệp với Columbia University nhưng vẫn có tư cách độc lập)
Bennett College, Millbrook (đóng cửa năm 1978)
Briarcliff College, Briarcliff Manor (đóng cửa năm 1977)
Cazenovia College, Cazenovia (đồng lập kể từ các năm 1961-1982; đóng cửa năm 2023)
Chamberlain Institute and Female College, Randolph
College of Mount Saint Vincent, Riverdale (đồng lập kể từ năm 1974)
College of New Rochelle, New Rochelle (đồng lập kể từ năm 2016; sát nhập vào Mercy College năm 2019)
College of St. Rose, Albany (đồng sáng lập kể từ năm 1969)
Daemen University, Amherst (cho tới năm 2022)
Dominican University, Orangeburg (đồng sáng lập năm 1967, mang danh Dominican College cho tới năm 2022)
D'Youville University, Buffalo (đồng sáng lập năm 1971; mang danh D'Youville College cho tới 2022)
Elmira College, Elmira (đồng lập kể từ năm 1969)
Finch College, Manhattan (đóng cửa năm 1976)
Hunter College, Manhattan (đồng lập kể từ năm 1964)
Ingham University, Le Roy (đóng cửa năm 1892)
Keuka College, Keuka Park (đồng lập kể từ năm 1985)
Ladycliff College, Highland Falls, New York (đóng cửa năm 1980)
LIM College, Manhattan (đồng lập kể từ năm 1972)
Kirkland College, Clinton (sát nhập với Hamilton College năm 1978)
Manhattanville College, Purchase (đồng lập kể từ năm 1969)
Marymount College, Tarrytown (đóng cửa năm 2007 theo quyết định của Fordham University)
Marymount Manhattan College, Manhattan (đồng lập kể từ năm 1970)
Mercy University, Dobbs Ferry (đồng lập kể từ những năm 1970; mang danh Mercy College cho tới năm 2023)
Molloy University, Rockville Centre (đồng lập kể từ năm 1982; mang danh Molloy College cho tới năm 2022)
Mount Saint Mary College, Newburgh (đồng lập kể từ năm 1968)
Nazareth University, Pittsford (đồng sáng lập những năm 1970, mang danh Nazareth College cho đến năm 2023)
New York Medical College for Women, Manhattan (đóng cửa năm 1918)
Notre Dame College, Staten Island (merged with St. John's University in 1971)
Russell Sage College, Troy (đồng lập năm 2020 sau đóng sát nhập với Sage College of Albany)
Rutgers Female College, Manhattan (1838-1894)
Sarah Lawrence College, Yonkers (đồng lập kể từ năm 1968)
Skidmore College, Saratoga Springs (đồng lập kể từ năm 1971)
Stern College for Women, Manhattan (là cao đẳng của trường Yeshiva University)
St. Joseph's University, Brooklyn, New York (đồng lập kể từ năm 1970; mang danh St. Joseph's College cho tới năm 2022)
Trocaire College, Buffalo (đồng lập kể từ năm 1972)
Vassar College, Poughkeepsie (co-ed since 1969)
Villa Maria College, Buffalo (đồng lập kể từ năm 1968)
Wells College, Aurora (đồng lập kể từ năm 2005)
William Smith College, Geneva (trường đại học phối hợp của Hobart and William Smith Colleges)
Asheville Female College, Asheville
Barber–Scotia College, Concord (đồng lập từ năm 1954)
Bennett College, Greensboro
Chowan University, Murfreesboro (đồng lập kể từ năm 1931)
Concord Female Seminary, Statesville
East Carolina University, Greenville (không có sinh viên nam từ năm 1932; chính thức thành lập vào năm 1947)
Flora MacDonald College, Red Springs (sát nhập với Presbyterian Junior College năm 1958 từ St. Andrews University)
Greensboro College, Greensboro (đồng lập kể từ năm1954)
Judson College, Hendersonville (mở cửa năm 1882–92)
Lees-McRae College, Banner Elk (đồng lập kể từ năm 1931)
Linwood Female College, gần Gastonia (đồng lập kể từ năm 1915, đóng cửa năm 1921)
Louisburg College, Louisburg (co-ed since 1931)
Mecklenburg Female College, Mecklenburg.
Meredith College, Raleigh
Montreat College, Montreat (là loại hình cao đẵng nữ sinh giai đoạn 1945–1959)
Queens University of Charlotte, Charlotte (đồng lập kể từ năm 1987)
Salem College, Winston-Salem
University of North Carolina at Greensboro, Greensboro (đồng lập kể từ năm 1963)
Wesleyan Female College, Murfreesboro (đóng cửa năm 1893).
William Peace University, Raleigh
University of Mary, Bismarck
Cincinnati Wesleyan Female Seminary, Cincinnati
Edgecliff College, Cincinnati (đồng lập kể từ năm 1970; sát nhập với Xavier University năm 1980)
Hillsboro Female College, Hillsboro
Lake Erie College, Painesville (đồng lập kể từ năm 1985)
Lourdes University, Sylvania (đồng lập kể từ năm 1975; mang danh Lourdes College cho tới năm 2011)
Mount St. Joseph University, Cincinnati (đồng lập kể từ năm 1986; mang danh College of Mount St. Joseph cho tới năm 2014)
Notre Dame College, South Euclid (đồng lập kể từ năm 2001)
Ohio Dominican University, Columbus (đồng lập kể từ năm 1964)
Ohio Female College, Cincinnati (đóng cửa năm 1873)
Ohio Wesleyan Female College, Delaware (đóng cửa năm 1877; sát nhập với Ohio Wesleyan University)
Oxford Female Institute, Oxford, (sát nhập với Miami University)
Shepardson College for Women, Granville, Ohio (sát nhập với Denison University năm 1900)
Steubenville Female Seminary, Steubenville (khai trương năm 1829–1898)
Ursuline College, Pepper Pike
Western College for Women, Oxford (đóng cửa năm 1974; sát nhập với Miami University)
Oklahoma College for Women (đồng lập từ năm 1965; hiện nay mang tên là University of Science and Arts of Oklahoma)
Marylhurst University, Marylhurst (đóng cửa năm 2018)
Mount Angel College, Mount Angel (đóng cửa năm 1972)
Alvernia University, Reading (đồng lập kể từ năm 1971)
Arcadia University, Glenside (đồng lập kể từ năm 1972)
Bryn Mawr College, Bryn Mawr
Cabrini University, Radnor (đồng lập kể từ năm 1980)
Carlow University, Pittsburgh (đồng lập kể từ năm 1945, vẫn tiếp tục cung cấp các dịch vụ giáo dục cho nữ sinh)
Cedar Crest College, Allentown
Chatham University, Pittsburgh (đồng lập kể từ năm 2014)
Chestnut Hill College, Philadelphia (đồng lập kể từ năm 2003)
Gwynedd Mercy University, Gwynedd Valley (đồng lập kể từ năm 1966)
Holy Family University, Philadelphia (đồng lập kể từ năm 1970-71)
Harcum College, Bryn Mawr (đồng lập kể từ năm 2003)
Immaculata University, Malvern (đồng lập kể từ năm 2005)
La Roche University, McCandless (đồng lập kể từ năm 1970)
Margaret Morrison Carnegie College, Pittsburgh (đóng cửa theo quyết định của Carnegie Mellon University năm 1973)
Marywood University, Scranton (đồng lập kể từ năm 1989)
Mercyhurst University, Erie (đồng lập kể từ năm 1969)
Misericordia University, Dallas (đồng lập kể từ những năm 1970)
Moore College of Art and Design, Philadelphia
Moravian University, Bethlehem (sáng lập năm 1742, đồng lập kể từ năm 1954; mang danh Moravian College cho tới năm 2021)
Mount Aloysius College, Cresson (đồng lập kể từ năm 1968)
Neumann University, Aston (đồng lập kể từ năm 1980)
Pittsburgh Female College, Pittsburgh (đóng cửa năm 1896)
Rosemont College, Rosemont (đồng lập kể từ năm 2009)
Seton Hill University, Greensburg (đồng lập kể từ năm 2002)
Susquehanna Female College, Selinsgrove (đóng cửa năm 1872, các sinh viên được chuyển sang Missionary Institute of the Evangelical Lutheran Church, bây giờ là Susquehanna University)
Villa Maria College, Erie (sát nhập với Gannon University vào năm 1989)
Wilson College, Chambersburg (đồng lập kể từ năm 2013)
Woman's Medical College of Pennsylvania, Philadelphia (đồng lập kể từ năm 1970, bây giờ là Drexel University's College of Medicine)
Pembroke College, Providence (trước đây là của Brown University, sát nhập hoàn toàn vào năm 1971)
Salve Regina University, Newport (trước đây là Salve Regina College; đồng lập kể từ năm 1973)
Anderson University, Anderson (đồng lập kể từ năm 1930)
Chicora College for Women, Columbia (sát nhập với trường Queens College of Charlotte vào năm 1930)
Coker University, Hartsville (đồng lập kể từ năm 1969; mang danh Coker College cho tới năm 2019)
Columbia College, Columbia (đồng lập kể từ năm 2021)
Columbia Female College, Columbia (đóng cửa năm 1888)
Converse University, Spartanburg (đồng lập kể từ năm 2020; tên gọi Converse College từ năm 2021)
Due West Female College, Due West (sát nhập với Erskine College năm 1927; đóng cửa năm 1928)
Greenville (Baptist) Female College;, Greenville (trước là tên Greenville Female College, sau có tên là Greenville Woman's College; sát nhập với Furman University năm 1938, nhưng vẫn giữ cho tới năm 1961)
Johnson Female University, Anderson (khai trương từ năm 1856 tới 1863)
Lander University, Greenwood (đồng lập kể từ năm 1943; mang danh Williamston Female College mãi sau đó)
Laurensville Female College, Laurens (ngày đóng cửa chưa rõ)
Limestone University, Gaffney (đồng lập kể từ năm 1970; mang danh Limestone College kể từ năm 2020)
Old Cokesbury and Masonic Female College and Conference School, Cokesbury (giáo dục cho nữ sinh giai đoạn 1854–1874; nam sinh giai đoạn 1876-1882 trước khi trở thành trường công lập vào năm 1918; đóng cửa năm 1954)
Orangeburg Female College, Orangeburg (chưa rõ ngày đóng cửa)
Reidville Female College, Reidville (chưa rõ ngày đóng cửa)
South Carolina Female Collegiate Institute, Barhamville ở Columbia (đóng cửa năm 1867)
Spartanburg Female College, Spartanburg (đóng cửa năm 1871)
Summerland College for Women, Batesburg (đóng cửa năm 1930)
Walhalla Female College, Walhalla (đóng cửa năm 1885)
Winthrop University, Rock Hill (đồng lập kể từ năm 1974)
Yorkville Female College, York (đóng cửa năm 1880)
Mount Marty University, Yankton (đồng lập kể từ năm 1969, mang danh Mount Marty College đến năm 2020)
Presentation College, Aberdeen (đóng cửa sau năm 2023)
Aquinas College, Nashville (đồng lập kể từ năm 1962)
Belmont University, Nashville (đồng lập kể từ năm 1951)
Brinckley Female College, Memphis
Cumberland Female College, McMinnville (khai trương và hoạt động trong giai đoạn năm 1850–1892).
East Tennessee Female Institute, Knoxville
Martin Female College, Pulaski – Thành lập năm 1870; trở thành Martin College năm 1908, sau đó bán cho hệ thống University of Tennessee năm 2021 và nay là cấu phần của University of Tennessee Southern.
Mary Sharp College, Winchester (mở cửa từ năm 1851 đến 1896)
Moses Fisk's Female Academy (thành lập năm 1806)
Lambuth University, Jackson (đóng cửa năm 2011)
Newman College for Women, Jefferson City (sát nhập với Carson-Newman College năm 1888)
Soule College for Women, Murfreesboro (đóng cửa vào năm 1855)
Tennessee College for Women, Murfreesboro (sát nhập với Cumberland University năm 1946)
Ward–Belmont College, Nashville (đóng cửa năm 1950)
Carr–Burdette College, Sherman (đóng cửa năm 1929)
Chappell Hill Female College, Chappell Hill (đóng cửa năm 1912)
Charnwood Institute, Tyler (đồng lập kể từ năm 1865 tới 1874. Dành cho nữ sinh từ 1874 tới 1882)
Eastern Texas Female College, Tyler (trở thành Charnwood Institute năm 1865)
Hillyer Female College, Goliad (trở thành Paine Female Institute năm 1852)
Kidd-Key College, Sherman (đóng cửa năm 1935)
Mary Allen Seminary, Crockett (đóng cửa năm 1972)
Mary Connor Female College, Paris
University of Mary Hardin–Baylor, Belton (đồng lập kể từ năm 1971, nguồn gốc là từ một khóa dạy nữ sinh của trường Baylor University)
Our Lady of the Lake University, San Antonio (đồng lập kể từ năm 1969)
University of the Incarnate Word, San Antonio và Alamo Heights (tên cũ là Incarnate Word School; trở thành College and Academy of the Incarnate Word năm 1909; đồng lập kể từ năm 1970, nay được biết là University of the Incarnate Word kể từ năm 1996)
University of San Antonio, San Antonio (đóng cửa năm 1942)
Texas Woman's University, Denton, Dallas and Houston (đồng lập kể từ năm 1994)
Tillotson College, Austin (cao đẳng nữ sinh từ giai đoạn năm 1926 tới năm 1935)
Waco Female College, Waco (đóng cửa năm 1895)
College of Saint Mary-of-the-Wasatch, Salt Lake City (đóng cửa năm 1969)
Bennington College, Bennington (đồng lập kể từ năm 1969)
College of St. Joseph, Rutland (đóng cửa năm 2019)
Green Mountain College, Poultney (đóng cửa năm 2019)
Trinity College of Vermont, Burlington (đóng cửa năm 2000)
Averett University, Danville (đồng lập kể từ năm 1969)
Blackstone College, Blackstone (đóng cửa năm 1950)
Chesapeake Female College, Hampton (mở cửa năm 1854–1861).
Elizabeth College, Salem (đóng cửa năm 1922)
Hartshorn Memorial College, Richmond (sát nhập với Virginia Union University năm 1932)
Hollins University, Roanoke
Longwood University, Farmville (đồng lập kể từ năm 1976)
Madison College, Harrisonburg (đồng lập trên thực tế kể từ năm 1946, chính thức thành lập kể từ năm 1966; mang danh hiện hành là James Madison University từ năm 1976)
Marion College, Marion (đóng cửa năm 1967)
Martha Washington College, Abingdon (đóng cửa năm 1931)
Mary Baldwin University, Staunton (đồng lập kể từ năm 2017)
Marymount University, Arlington (đồng lập kể từ năm 1986)
Radford University, Radford (đồng lập kể từ năm 1972)
Randolph-Macon Woman's College, Lynchburg (đồng lập kể từ năm 2007 nay thay tên thành Randolph College)
Roanoke Women's College, lập ra năm 1912, sát nhập với Elizabeth College năm 1915, hiện nay gần Roanoke College.
Southern Virginia University, Buena Vista (đồng lập kể từ năm 1994)
Stratford College, Danville (đóng cửa năm 1974)
Sullins College, Bristol (đóng cửa năm 1976)
Sweet Briar College, Sweet Briar (hầu như đã đóng cửa vào năm 2015 nhưng nay vẫn mở lại)
University of Mary Washington, Fredericksburg (đồng lập kể từ năm 1970)
Virginia Intermont College, Bristol, Virginia (đóng cửa năm 2014)
Westhampton College, Richmond (trước đây là một khóa cao đẳng của University of Richmond)
Forest Ridge Junior College, Seattle (đóng cửa năm 1957)
Fort Wright College, Toppenish (đóng cửa năm 1980; sau đó chuyển qua cho Heritage University)
Alderson Academy, Alderson (sát nhập với Broaddus College năm 1932 để trở thành Alderson–Broaddus College; tên gọi hiện hành là Alderson Broaddus University từ năm 2013).
Broaddus College, Clarksburg and Philippi (bắt đầu từ 1894, sát nhập với Alderson Academy để trở thành Alderson–Broaddus College).
Greenbrier College, Lewisburg (đóng cửa năm 1972).
Alverno College, Milwaukee
Cardinal Stritch University, Milwaukee (đóng cửa năm 2023)
Dominican College of Racine, Racine (đóng cửa năm1974)
Edgewood College, Madison (đồng lập kể từ năm 1970)
Holy Family College, Manitowoc (đóng cửa năm 2020)
Marian University, Fond du Lac (đồng lập kể từ năm 1970)
Milwaukee-Downer College, Milwaukee (sát nhập với Lawrence College năm 1964)
Mount Mary University, Milwaukee
Sinsinawa Mound College, Sinsinawa
Viterbo University, La Crosse (đồng thành lập từ năm 1970)
Liên hiệp các trường cao đẳng nữ sinh (Women's College Coalition) tại Mỹ được thành lập vào năm 1972 và tự nhận là một "hiệp hội các trường cao đẳng và đại học dành cho nữ sinh theo chương trình hai và bốn năm, mô hình đối tác công và tư, liên kết tôn giáo và thế tục", các thành viên của Liên hiệp với các trường cao đẳng, đại học dành cho nữ sinh gồm:
Agnes Scott College
Alverno College
Barnard College
Bay Path College
Bennett College for Women
Brenau University
Bryn Mawr College
Cedar Crest College
College of Saint Benedict
College of Saint Mary
Cottey College
Hollins University
Mary Baldwin University
Meredith College
Mills College
Moore College of Art and Design
Mount Holyoke College
Mount St. Mary's College
Mount Saint Vincent University (Canada)
Notre Dame of Maryland University
Russell Sage College của The Sage Colleges
Saint Mary's College
Salem College
Scripps College
Simmons College
Smith College
Spelman College
St. Catherine University
Stephens College
Sweet Briar College
Trinity Washington University
Wellesley College
Wesleyan College
Texas Woman's University đây là các cơ sở giáo dục tập trung vào nữ giới
Brescia University College đây là các cơ sở giáo dục tập trung vào nữ giới (Canada)
Xem thêm
Thể thao sinh viên
Thể thao nữ
Bình đẳng giới
Chú thích
Tham khảo
Creighton, Joanne V. A Tradition of Their Own: Or, If a Woman Can Now Be President of Harvard, Why Do We Still Need Women’s Colleges?.
Harwarth, Irene B. "A Closer Look at Women's Colleges." National Institute on Postsecondary Education, Libraries, and Lifelong Learning, Office of Educational Research and Improvement, U.S. Department of Education, 1999.
---, Mindi Maline and Elizabeth DeBra. "Women's Colleges in the United States: History, Issues, and Challenges: Executive Summary." U.S. Department of Education National Institute on Postsecondary Education, Libraries, and Lifelong Learning.
Indiana University Center for Postsecondary Research (IUCPR). "New study finds women’s colleges are better equipped to help their students."
Horowitz, Helen Lefkowitz. Alma Mater: Design and Experience in the Women's Colleges from Their Nineteenth-Century Beginnings to the 1930s, Amherst: University of Massachusetts Press, 1993 (2nd edition).
Rosenberg, Rosalind. "The Limits of Access: The History Of Coeducation in America." In Women and Higher Education: Essays from the Mount Holyoke College Sesquicentennial Symposia. Ed. John Mack Faragher and Florence Howe. New York: Norton, 1988.
Eisenmann, Linda. Historical Dictionary of Women's Education in the United States (1998) online
Eisenmann, Linda. "Reconsidering a Classic: Assessing the History of Women's Higher Education a Dozen Years after Barbara Solomon." Harvard Educational Review, 67 (Winter 1997): 689–717.
Gordon, Lynn D. Gender and Higher Education in the Progressive Era (1990).
Guy-Sheftall, Beverly. "Black Women and Higher Education: Spelman and Bennett Colleges Revisited." The Journal of Negro Education, Vol. 51, No. 3, The Impact of Black Women in Education: An Historical Overview (Summer, 1982), pp. 278–287.
Harwarth, Irene B. "A Closer Look at Women's Colleges." National Institute on Postsecondary Education, Libraries, and Lifelong Learning, Office of Educational Research and Improvement, U.S. Department of Education, 1999.
---, Mindi Maline and Elizabeth DeBra. "Women's Colleges in the United States: History, Issues, and Challenges: Executive Summary." U.S. Department of Education National Institute on Postsecondary Education, Libraries, and Lifelong Learning.
Horowitz, Helen Lefkowitz. Alma Mater: Design and Experience in the Women's Colleges from Their Nineteenth-Century Beginnings to the 1930s, Amherst: University of Massachusetts Press, 1993 (2nd edition).
Lasser, Carol, ed. Educating Men and Women Together: Coeducation in a Changing World (1987).
McClelland, Averil Evans. The education of women in the United States: A guide to theory, teaching, and research (Routledge, 2014).
Muhlenfeld, Elisabeth and Nancy Gray. "Women's colleges must be an option." The Roanoke Times, September 14, 2006.
Oates, Mary J., ed. Higher Education for Catholic Women: An Historical Anthology (Garland, 1987).
Rosenberg, Rosalind. "The Limits of Access: The History Of Coeducation in America." In Women and Higher Education: Essays from the Mount Holyoke College Sesquicentennial Symposia. Ed. John Mack Faragher and Florence Howe. New York: Norton, 1988.
Seller, Maxine Schwartz, ed. Women Educators in the United States, 1820–1993: A BioBibliographic Sourcebook (Greenwood Press, 1994).
Sicherman, Barbara, and Carol Hurd Green, eds. Notable American Women: The Modern Period (4 vol. Belknap Press, 1980).
Solomon, Barbara Miller. In the Company of Educated Women: A History of Women and Higher Education in America (1985).
Woody, Thomas. A History of Women's Education in the United States (2 vols.; 1929).
Liên kết ngoài
Hands off women's colleges, say Oxbridge students
What are Girls Colleges made of? - Deepti Priya Mehrotra, boloji.com
When women don't talk ... - Jaya Indiresan, The Hindu Business Line
Women's College Leaders From Around the Globe Meet to Discuss "Women's Hopes and Dreams"
US News&World Report Rankings
Giáo dục
Trường đại học và cao đẳng nữ
Nữ giới và giáo dục
|
19836238
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20%C3%9D%202022
|
Chặng đua MotoGP Ý 2022
|
Chặng đua MotoGP Ý 2022 là chặng đua thứ 8 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 27/05/2022 đến ngày 29/05/2022 ở trường đua Mugello, Ý. Tay đua giành chiến thắng là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Chú thích:
– Jorge Martín bị phạt 3 bậc xuất phát
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19836240
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ATP%20Finals%202023
|
ATP Finals 2023
|
ATP Finals 2023 (còn được biết đến với Nitto ATP Finals 2023 vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nam thi đấu trên mặt sân cứng trong nhà tại Pala Alpitour ở Turin, Ý, từ ngày 12 đến ngày 19 tháng 11 năm 2023. Đây là giải đấu kết thúc mùa giải dành cho các tay vợt đơn và đội đôi có thứ hạng cao nhất trong ATP Tour 2023.
Đây là lần thứ 54 giải đấu được tổ chức (49 ở nội dung đôi), và là lần thứ ba Turin đăng cai giải đấu cuối năm ATP Tour.
Thể thức
Vòng bảng ATP Finals thi đấu vòng tròn tính điểm, với 8 tay vợt/đội được chia thành 2 bảng, mỗi bảng 4 tay vợt/đội thi đấu với 3 tay vợt/đội khác trong bảng. 8 hạt giống được sắp xếp theo Bảng xếp hạng Pepperstone ATP và Bảng xếp hạng Đội đôi ATP vào Thứ Hai sau giải đấu ATP Tour cuối cùng trong năm. Tất cả các trận đấu đơn, bao gồm cả trận chung kết, diễn ra theo thể thức đánh ba thắng hai với loạt tie-breaks (7 điểm) được áp dụng ở mọi set bao gồm cả set ba. Tất cả các trận đấu đôi thi đấu 2 set (không điểm ad) và một loạt Tie-break (10 điểm).
Khi quyết định vị trí trong một bảng, các tiêu chí sau được áp dụng, theo thứ tự:
Số trận thắng nhiều nhất.
Số trận đã thi đấu (ví dụ, thành tích 2–1 hơn thành tích 2–0).
Kết quả đối đầu giữa các tay vợt/đội đồng hạng.
Tỉ lệ % set thắng cao nhất.
Tỉ lệ % game thắng cao nhất.
Xếp hạng ATP sau giải đấu ATP Tour cuối cùng trong năm.
Tiêu chí 4–6 chỉ được áp dụng trong trường hợp 3 tay vợt đồng hạng; nếu một trong những tiêu chí này quyết định được tay vợt thắng và tay vợt thua, 2 tay vợt còn lại được xếp hạng theo kết quả đối đầu.
2 vị trí đầu mỗi bảng vào vòng bán kết, với tay vợt/đội đứng nhất mỗi bảng thi đấu với tay vợt/đội đứng nhì ở bảng khác. Tay vợt/đội thắng ở vòng bán kết sau đó vào trận chung kết.
Vòng loại
Đơn
8 tay vợt tham dự giải đấu, với 2 tay vợt thay thế. Các tay vợt có suất tham dự theo thứ tự ưu tiên sau:
Đầu tiên, 7 tay vợt hàng đầu trong ATP Race to Turin sau tuần cuối của ATP Tour vào ngày 11 tháng 11 năm 2023
Thứ 2, có hai nhà vô địch giải Grand Slam 2023 xếp hạng từ 8–20, theo thứ tự xếp hạng
Thứ 3, tay vợt xếp thứ 8 trên bảng xếp hạng ATP
Trong trường hợp có tổng số hơn 8 tay vợt, tay vợt thấp hơn trong thứ tự lựa chọn là tay vợt thay thế. Nếu cần thay thế thêm, các tay vợt sẽ được lựa chọn bởi ATP.
Bảng xếp hạng tạm thời được công bố hàng tuần với tên ATP Race to Turin, trùng với bảng xếp hạng ATP kéo dài 52 tuần vào ngày lựa chọn. Điểm từ các giải Grand Slam, ATP Tour, United Cup, ATP Challenger Tour và ITF Tour. Các tay vợt có tổng số điểm từ 19 giải đấu, thường bao gồm:
4 giải Grand Slam
8 giải ATP Masters 1000
Kết quả tốt nhất từ bất kỳ 7 giải đấu khác có tính điểm xếp hạng (Monte-Carlo Masters, United Cup, ATP 500, ATP 250, Challenger, ITF)
Tay vợt có thể thay thế tối đa kết quả 3 giải Masters 1000 bằng thành tích tốt hơn từ ATP 500 hoặc ATP 250
Đôi
8 đội tham dự giải đấu, với một đội thay thế. 8 đội tham dự có suất theo thứ tự ưu tiên như nội dung đơn. Đội thay thế được tham dự cho bất kỳ đội không được chấp nhận theo thứ tự lựa chọn, sau đó đội không được chấp nhận có xếp hạng cao nhất, và sau đó đội được chọn bởi ATP. Điểm được tính trong các giải đấu tương tư như nội dung đơn. Tuy nhiên, đối với các đội Đôi không có giải đấu cam kết, vì vậy các đội dựa trên kết quả của bất kỳ 19 giải đấu có điểm cao nhất trong ATP Tour.
Bảng
Đơn
Nội dung đơn của giải đấu năm 2023 có ba tay vợt số 1, ba nhà vô địch và hai nhà á quân Grand Slam. 8 tay vợt được chia thành 2 bảng.
Đôi
Nội dung đôi của giải đấu năm 2023 có sáu nhà vô địch Grand Slam, sáu tay vợt số 1 và 1 đội á quân Grand Slam. 8 đội được chia thành 2 bảng.
Các tay vợt giành quyền tham dự
Đơn
Đôi
Điểm xếp hạng
Thành tích đối đầu
Dưới đây là thành tích đối đầu của các tay vợt trước khi tham dự giải đấu.
Đơn
Đôi
Nhà vô địch
Đơn
Novak Djokovic đánh bại Jannik Sinner, 6–3, 6–3
Đôi
Rajeev Ram / Joe Salisbury đánh bại Marcel Granollers / Horacio Zeballos, 6–3, 6–4
Xem thêm
Bảng xếp hạng ATP
ATP Tour 2023
WTA Finals 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin giải đấu ATP
Finals
2023
ATP Finals 2023
Giải đấu thể thao Torino
ATP Finals
|
19836261
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brachypterois%20serrulifer
|
Brachypterois serrulifer
|
Brachypterois serrulifer là một loài cá biển thuộc chi Brachypterois trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1938.
Từ nguyên
Từ định danh serrulifer được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: serrula (“răng cưa”) và fero (“mang theo”), hàm ý đề cập đến những hàng gai nhỏ trên đỉnh đầu của loài cá này, đặc trưng của chi cá mù làn này.
Phân bố
B. serrulifer trước đây được cho là đồng nghĩa của Brachypterois serrulata, nhưng sau này đã được tách thành một loại hợp lệ. B. serrulata thực sự chỉ giới hạn ở Tây Bắc Thái Bình Dương.
B. serrulifer có phân bố rộng khắp Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ và vịnh Ba Tư về phía đông đến Philippines và biển Timor, ngược lên phía bắc đến tỉnh Kōchi (Nam Nhật Bản), xa nhất ở phía nam đến Madagascar và Bắc Úc, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 360 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở B. serrulifer là 15,5 cm.
Có gai ở sống giữa bên của hàm trên ở cá thể trên 6 cm. Đầu và thân màu nâu phớt hồng, lưng sẫm màu hơn. Một đốm đen lớn cỡ ổ mắt trên nắp mang. Có 5 dải màu nâu đỏ đến nâu trên đầu, 5 dải sọc dọc màu tương tự hoặc sẫm mờ ở hai bên thân. Vây lưng có một đốm lớn màu đỏ sẫm đến nâu lan rộng từ khoảng giữa gai thứ 6 và 9; khoảng 4–5 hàng chấm đỏ trên phần tia mềm. Vây hậu môn có khoảng 5 đường chấm đỏ sẫm. Vây ngực màu nâu sẫm, với khoảng 6–8 sọc mảnh màu đỏ sẫm. Vây bụng sẫm hơn ở rìa, cũng có khoảng 5–8 sọc mảnh, đỏ sẫm. Màng vây đuôi trong mờ với dải viền rìa đỏ sẫm (hơi dày hơn ở cá thể nhỏ) với khoảng 20–60 chấm nhỏ màu đỏ sẫm hoặc nâu, kể cả trên tia vây đuôi. Mắt màu vàng óng; mống mắt xanh lam đậm.
Các mẫu vật được thu thập từ Ấn Độ Dương có số lượng đốm trên vây đuôi tương đối ít hơn nhưng lại có kích thước lớn hơn so với các mẫu vật ở Thái Bình Dương. Vì không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào giữa hai quần thể này nên đây được coi là các biến thể địa lý của B. serrulifer. Ở B. serrulata, cá đực thường có số gai nhiều hơn trên các bờ hàm dưới, và ngạnh sau tuyến lệ phát triển hơn. B. serrulifer nhiều khả năng cũng có các đặc điểm dị hình giới tính tương tự như vậy.
Số gai ở vây lưng: 12–13; Số tia vây ở vây lưng: 9–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 4–5; Số tia vây ngực: 15–17.
Sinh thái
Một nghiên cứu phân tích chất trong dạ dày cho thấy B. serrulifer ăn các loài tôm và cá nhỏ.
Một báo cáo về sinh học sinh sản của B. serrulata tại bờ biển Visakhapatnam (bờ đông Ấn Độ) có lẽ là nhầm lẫn với B. serrulifer, do chưa có ghi nhận của B. serrulata tại Ấn. Theo đó, B. serrulifer sinh sản quanh năm, nhưng đạt đỉnh điểm vào tháng 1 và tháng 2. Thuần thục sinh dục được ước tính là 10,8 cm (chiều dài tổng) đối với cá cái.
Tham khảo
S
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Ả Rập
Cá Oman
Cá Madagascar
Cá Ấn Độ
Cá Myanmar
Cá Thái Lan
Cá Malaysia
Cá Philippines
Cá Đài Loan
Cá Nhật Bản
Động vật được mô tả năm 1938
Nhóm loài do Henry Weed Fowler đặt tên
|
19836263
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90ua%20r%C3%B9a
|
Đua rùa
|
Đua rùa (Turtle racing) là một trò chơi trong đó những người tham gia thường đặt những con rùa vào giữa vòng tròn và quan sát chúng đi vòng quanh cho đến khi một trong số chúng vượt ra khỏi vòng tròn. Ban đầu được phổ biến như một trò chơi trẻ em tại các hội chợ và buổi dã ngoại của quận ở miền Trung Hoa Kỳ, kể từ đó nó đã phát triển về phạm vi và mức độ phổ biến và các biến thể khác của sự kiện đã được tổ chức. Rùa thường được phân biệt bằng số được sơn hoặc dán trên mai rùa. Nhiều tổ chức tranh đấu cho quyền động vật cho rằng đây là hành vi tàn ác với động vật. PETA đưa ra yêu cầu giải pháp thay thế là trò đua vịt cao su để không gây ra tính tàn ác từ những cuộc đua này.
Có một số biến thể của môn đua rùa. Trong khi cuộc đua rùa thường diễn ra trên đất liền, cuộc đua rùa đôi khi cũng diễn ra trong hồ bơi. Một số cuộc đua bắt đầu bằng việc rùa đua từ vị trí xuất phát và kết thúc khi chúng về đích được chỉ định. Các cuộc đua ngoài trời thỉnh thoảng bắt đầu rùa ở một nơi đầy nắng gần khu vực bóng mát và rùa tự nhiên chạy vào chỗ có bóng râm. Các cuộc đua khác bắt đầu bằng việc tất cả các chú rùa được đặt vào giữa một vòng tròn lớn, người đầu tiên vượt ra ngoài vòng tròn được coi là con chiến thắng. Trong một số trường hợp, một chiếc nắp lớn được đặt lên trên những con rùa trước cuộc đua và cuộc đua bắt đầu khi nhấc chiếc nắp ra. Một số sự kiện khác thì người ta dùng rùa giả thay cho rùa sống. Rùa giả được thả nổi từ điểm xuất phát ở hạ lưu hoặc xuống một dãy cầu thang để đến điểm vạch đích kết thúc.
Chú thích
Trò chơi
Rùa
|
19836264
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kuriyama%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Kuriyama, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Yūbari, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 11.272 người và mật độ dân số là 55 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 203,84 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19836265
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Andreas%20Jungdal
|
Andreas Jungdal
|
Andreas Kristoffer Jungdal (sinh ngày 22 tháng 2 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đan Mạch hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Cremonese tại Serie B. Sinh ra tại Singapore, anh thi đấu cho các đội trẻ của Đan Mạch.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu sự nghiệp
Jungdal được sinh ra ở Singapore, nơi cha anh làm việc cho Tập đoàn Lego. Gia đình anh trở về Đan Mạch và anh bắt đầu chơi bóng khi mới 5 tuổi cho Skibet IF ở Vejle, trước khi gia nhập câu lạc bộ chính của thị trấn, Vejle Boldklub vào năm 2013.
AC Milan
Vào ngày 16 tháng 7 năm 2019, Jungdal gia nhập đội trẻ của A.C. Milan. Anh có tên trong danh sách thi đấu của đội một lần đầu tiên vào ngày 26 tháng 10 năm 2020 với tư cách là cầu thủ dự bị trong trận hòa 3–3 trên sân nhà trước Roma tại Serie A. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2021, anh gia hạn hợp đồng với Milan đến năm 2024. Vào cuối năm 2021, anh phải ngồi ngoài vì bệnh thận, nhưng đã bình phục hoàn toàn vào đầu năm 2022.
Cho mượn tại Rheindorf Altach
Ngày 10 tháng 1 năm 2023, anh gia nhập câu lạc bộ Rheindorf Altach tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo theo dạng cho mượn có thời hạn 6 tháng đến cuối mùa giải, kèm theo tùy chọn ký hợp đồng vĩnh viễn.
Cremonese
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, Jungdal ký hợp đồng với câu lạc bộ mới xuống hạng Serie B, Cremonese theo dạng chuyển nhượng tự do. Anh ra mắt cho đội bóng vào ngày 31 tháng 10, trong chiến thắng 2-1 trước Cittadella tại Coppa Italia.
Phong cách thi đấu
Jungdal được miêu tả là một thủ môn "bùng nổ" với khả năng phát động tốt từ phía sau. Anh đã được giới truyền thông so sánh đồng đội Mike Maignan về phong cách chơi bóng.
Sự nghiệp quốc tế
Jungdal có thể đại diện cho cả Singapore lẫn Đan Mạch vì đó là nơi anh được sinh ra và cha mẹ anh đều đến từ đó. Năm 2018, anh được triệu tập lên đội tuyển U-17 Đan Mạch.
Danh hiệu
A.C. Milan
Serie A: 2021–22
Tham khảo
Sinh năm 2002
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Đan Mạch
Cầu thủ bóng đá Đan Mạch ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Áo
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đan Mạch
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đan Mạch
Người Singapore gốc Đan Mạch
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá A.C. Milan
Cầu thủ bóng đá SC Rheindorf Altach
Cầu thủ bóng đá U.S. Cremonese
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Áo
Cầu thủ bóng đá nam Đan Mạch
|
19836292
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dragon%20Ball%20GT
|
Dragon Ball GT
|
Dragon Ball GT (Tiếng Nhật:ドラゴンボール GT ,Hepburn: Doragon Bōru Jī Tī ) là loạt anime truyền hình của Nhật Bản được phát trên đài truyền hình Fuji TV vào ngày 2 tháng 2 năm 1996 và tiếp tục phát đến ngày 19 tháng 11 năm 1997. Gồm 64 tập,là một phần ngoại truyện được nhường quyền từ tác phẩm Dragon Ball của Toriyama Akira. phần cốt truyện và nhân vật được thực hiện bởi Toriyama nhưng chỉ ở một số tập,phần lớp các tập đều là do Nhóm người trong tập thể Toei Animation làm ra,không giống như Dragon Ball và Dragon Ball Z , Dragon Ball GT không chuyển thể từ manga mà là phần phim độc quyền nối Tiếp cốt truyện của Dragon Ball Z .Dragon Ball GT lấy bối cảnh sau 10 năm sau khi Goku nhận Uub tức hiện thân con người của Majin Buu làm học trò của mình, Goku bị biến trở thành một đứa trẻ bởi đại vương Pilaf và tham gia vào cuộc hành trình tìm kiếm ngọc rồng khắp vũ trụ nhằm trở lại hình dáng ban đầu.
Cốt truyện
Mùa 1: Black Star Dragon Ball Saga (1-16)
Đã năm năm trôi qua kể từ khi Goku tham gia hành trình huấn luyện cùng Uub. Khi Uub, lúc này 15 tuổi, đang trải qua kỳ thi cuối cùng trong quá trình đào tạo sau khi nhận được lời dạy của Goku, nhóm của Pilaf biết được sự tồn tại của một viên ngọc rồng mới và bước vào ngôi đền. Shenron khổng lồ xuất hiện từ "Viên ngọc rồng tối thượng" màu đen và đúng lúc tưởng chừng như tham vọng của băng đảng Pilaf sẽ thành hiện thực thì Goku xuất hiện, còn Shenron, người hiểu nhầm lời của Pilaf, đã biến Goku thành một đứa trẻ. Hơn nữa, những viên ngọc rồng tối thượng đã đáp ứng mong muốn của họ sẽ bay vào không gian, nhưng hóa ra nếu chúng không được thu thập và quay trở lại vị trí ban đầu trong vòng một năm, Trái đất sẽ nổ tung. Goku khởi hành vào không gian cùng Pan và Trunks để thu thập các viên ngọc rồng.
Mùa 2: Baby Saga (17-40)
Goku và những người bạn cố gắng thoát khỏi sự tấn công dữ dội của Tướng Rild, người điều khiển M2, nhưng Trunks tiết lộ tham vọng mới của mình. Đó là sự tồn tại của một "đứa bé" được tạo ra bởi Tiến sĩ Mu, nhà khoa học vĩ đại nhất vũ trụ. Mặc dù anh đã có thể chống lại chúng một lần nhưng anh không may trốn thoát do các tế bào Tufuru chiếm hữu Mu. Baby xuất hiện trên Trái đất và lần lượt chiếm lấy cơ thể của Gohan, Goten và Vegeta, tẩy não tất cả người Trái đất và bạn bè ngoại trừ Goku, Pan, Mr. Satan , Buu và Uub, và cuộc trả thù của anh ta chống lại người Saiyan Goku cuối cùng đã trở lại Trái đất, nhưng ngay cả Super Saiyan 3 cũng không thể sánh được với Super Baby, người đã hấp thụ sức mạnh Saiyan. Baby đánh cắp viên ngọc rồng tối thượng từ Goku và những người bạn của anh ấy rồi sử dụng nó để hồi sinh Hành tinh Tsufuru. Tức giận vì điều này, Uub trở thành Super Uub, người đồng hóa với ông Buu (trước đây là Majin Buu), và phản công bằng một tia sáng chết người. Trong khi đó, Goku trốn thoát khỏi Không gian Sugoroku, tái sinh chiếc đuôi của mình ở Vương quốc Kaioshin và đứng trên Hành tinh Tsufuru. Anh ta từng mất lý trí và biến thành một con vượn lớn và nổi cơn thịnh nộ, nhưng khi bị Pan ngăn lại, anh ta biến thành Super Saiyan 4. Baby cũng trở thành một con vượn lớn và đối đầu với Goku. Trong lúc đó, anh chia sẻ sức mạnh Saiyan của mình với Gohan và những người bạn của anh, những người đã lấy lại được sự tỉnh táo và áp đảo Great Ape Baby. Anh ta trở thành một chàng trai trẻ và đẩy lùi Baby đang chạy trốn bằng làn sóng Kamehameha gấp 10 lần. Tuy nhiên, do những viên ngọc rồng tối thượng đã được Baby sử dụng và rải rác khắp vũ trụ nên số phận Trái đất phát nổ là điều không thể tránh khỏi. Goku trở thành Super Saiyan 4 và sử dụng dịch chuyển tức thời để di chuyển mọi sinh vật trên Trái đất đến Hành tinh Tsufuru, nhưng Piccolo đã cung cấp cho Goku đủ năng lượng để dịch chuyển tức thời một lần nữa, chia sẻ số phận của mình với Trái đất và viên ngọc rồng tối thượng là... Nó trở thành một hòn đá . Sau đó, Trái đất được hồi sinh và hòa bình được lập lại nhờ các viên ngọc rồng từ Hành tinh Namek.
Mùa 3: Super Android 17 Saga (41-47)
Hòa bình trở lại trong một thời gian ngắn, nhưng ở sâu trong địa ngục, nhà khoa học vĩ đại nhất Trái đất, Tiến sĩ Gero và Muu hợp tác để âm mưu trả thù Goku bằng Android 17 . Do phản ứng cộng hưởng giữa "Số 17 mới" được hoàn thành với sự hợp tác của Gero và Mu và Số 17 của thế giới này, thế giới bên kia (địa ngục) và thế giới này (thế giới này) được kết nối với nhau, và Những kẻ thù mạnh mẽ và những kẻ phản diện từng bị Goku và những người khác đánh bại đều được hồi sinh. Goku tiến vào Địa ngục nơi Cell và Frieza đang chờ đợi, nhưng hóa ra đó lại là một cái bẫy do Gero và những người khác giăng ra. Trong khi đó, ở thế giới nơi Trunks, Vegeta và các chiến binh khác đối đầu với những kẻ phản diện của Địa ngục, hai người 17 tuổi kết hợp để tạo ra Android tối thượng, Super 17, người lần lượt đánh bại các chiến binh của thế giới này. Goku chiến đấu chống lại Cell và Frieza nhưng không thể trốn thoát và với sự giúp đỡ của Piccolo và Dende, anh quay trở lại thế giới này và đối đầu với Siêu số 17. Ngay cả Super Saiyan 4 cũng không thể sánh được với Super No. 17, người hấp thụ năng lượng và tăng sức mạnh cho bản thân, nhưng Super Saiyan 4 đã chiến đấu trở lại để trả thù cho Krillin. Goku sau đó phát hiện ra rằng mình không có khả năng tự vệ khi hấp thụ năng lượng và đánh bại Siêu số 17 bằng một loạt đòn tấn công của Ryuken và Kamehameha.
Mùa 4: Shadow Dragon Saga (48-64)
Những viên ngọc rồng mà Goku và những người bạn thu thập được để đối phó với số 17 sau chiến tranh đã có một vết nứt. Khi anh cố gắng gọi Shenron trong lúc đang lo lắng, "Rồng khói đen" độc ác xuất hiện cùng với tiếng ầm ầm. Rồng Khói Đen phớt lờ mong muốn của Goku và chia thành bảy "con rồng ác" sống rải rác khắp thế giới. Goku và những người bạn của mình tìm ra nhiều điểm yếu khác nhau trước con rồng độc ác, kẻ thao túng các thế lực tự nhiên như lửa, gió và điện, đồng thời cố gắng tiêu diệt toàn bộ thế giới bằng năng lượng tiêu cực và đánh bại chúng lần lượt. Sau trận chiến khốc liệt với Ichisei Ryu, kẻ âm mưu hủy diệt Trái đất, Goku và những người bạn của mình phải phó mặc cho sức mạnh to lớn của Super Issei Ryu, kẻ đã bắt được sáu viên ngọc rồng. Ngay khi tình hình có vẻ như đang rơi vào tình thế tuyệt vọng, Goku, người được cho là đã chết, đứng dậy và năng lượng từ khắp vũ trụ tập trung xung quanh anh ta. Super Ultra Genkidama đã hoàn thành đã tiêu diệt Issei Ryu trong chớp mắt. Khi hòa bình trở lại và những người bạn của Goku chạy đến chỗ anh ta, người đã cạn kiệt sức mạnh, Shenron đột nhiên xuất hiện từ những viên ngọc rồng được hồi sinh và nói với mọi người, ``Chúng ta không thể để họ sử dụng những viên ngọc rồng nữa.'' Goku, người sống sót nhờ sức mạnh của Shenron, đã thực hiện ước nguyện cuối cùng của mình là hồi sinh mọi người, sau đó Shenron rời đi trước mặt mọi người cùng với Goku trên tàu.
Tổng quan
</center>
Danh sách tập
Mùa 1: Black Star Dragon Ball Saga (1-16)
Mùa 2: Baby Saga (17-40)
Mùa 3: Super Android 17 Saga (41-47)
Mùa 4: Shadow Dragon Saga (48-64)
Liên kết ngoài
Funimation's Dragon Ball GT site
Dragon Ball anime
1997 Japanese television series endings
Anime và manga phiêu lưu
Animated television series about children
Anime dài tập dựa trên manga
Anime và manga hài
Crunchyroll anime
Thay đổi kích cỡ trong tác phẩm giả tưởng
Fuji TV original programming
Japanese mythology in anime and manga
Anime Madman Entertainment
Anime và manga võ thuật
Martial arts television series
Sequel television series
Nhượng quyền thương mại Shueisha
Television series set on fictional planets
Television shows adapted into video games
Toei Animation television
Toonami
|
19836300
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng%20qu%E1%BA%A3%20t%C3%A1o
|
Biểu tượng quả táo
|
Biểu tượng quả táo (ở đây là quả táo tây hay quả bôm) xuất hiện trong nhiều truyền thống tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống, chúng thường được coi là một loại trái cây thần bí hoặc trái cấm. Một trong những vấn đề về việc xác định trái táo trong tôn giáo, thần thoại và truyện dân gian là vào cuối thế kỷ XVII, cụm từ "quả táo" đã được sử dụng như một thuật ngữ chung cho tất cả các loại trái cây trừ quả mọng, nhưng bao gồm cả quả hạch. Thuật ngữ này thậm chí có thể được mở rộng cho cả cây mật ong (Cecidia), vì chúng được cho là có nguồn gốc thực vật (táo sồi), khi cà chua được du nhập vào châu Âu, chúng được gọi là "táo tình yêu". Trong một tác phẩm tiếng Anh cổ, dưa chuột được gọi là Eorþæppla (nghĩa đen là "táo đất"), giống như trong tiếng Pháp, tiếng Hà Lan, tiếng Do Thái, tiếng Afrikaans, tiếng Ba Tư và tiếng Đức Thụy Sĩ cũng như một số phương ngữ tiếng Đức khác, các từ dành cho khoai tây có nghĩa là "đất"-táo".
Trong một số ngôn ngữ, cam được gọi là "táo vàng" hoặc "táo Trung Quốc". Datura được gọi là "táo gai". Các học giả Robert Gordon Wasson, Carl Ruck và Clark Heinrich viết rằng quả táo thần thoại là một sự thay thế mang tính biểu tượng cho nấm Amanita muscaria (hoặc nấm bay) có nguồn gốc từ thực vật. Mối liên hệ của nó với kiến thức là sự ám chỉ đến các trạng thái mặc khải được mô tả từ một số pháp sư và người sử dụng nấm ảo giác Đôi khi các nghệ sĩ sẽ sử dụng quả táo, cũng như các biểu tượng tôn giáo khác, cho dù nhằm mục đích mỉa mai hay như một yếu tố cổ điển của từ vựng biểu tượng. Vì vậy, nghệ thuật thế tục cũng sử dụng quả táo làm biểu tượng của tình yêu và tình dục. Nó thường là một thuộc tính liên quan đến những vị thần sao Kim người được cho là đang nắm giữ quả táo kỳ diệu này.
Trong tôn giáo
Mặc dù trái cấm trong Vườn Địa Đàng (Vườn Eden) trong Sách Sáng Thế không được xác định một cách cụ thể, nhưng truyền thống đại chúng của Cơ Đốc giáo cho rằng quả táo tây chính là trái cấm mà Eva đã dụ dỗ Adam cùng xơi với cô ta. Nguồn gốc nhận dạng rộng rãi một loại trái cây chưa được biết đến ở Trung Đông vào thời Kinh thánh đã được tìm thấy qua sự nhầm lẫn giữa các từ tiếng Latinh mālum (quả táo) và mălum (quả ác quỷ), các từ này được viết theo kiểu thông thường là malum (quả táo). Cái cây mọc ra trái cấm được gọi là "cây biết điều thiện và điều ác" trong Sáng thế ký 2:17 và trong tiếng Latinh "thiện và ác" có nghĩa là bonum et malum (vô tình nhầm lẫn thành cây táo).
Các họa sĩ trong thời kỳ Phục Hưng có thể đã bị ảnh hưởng từ câu chuyện về những quả táo vàng trong vườn Hesperides. Kết quả là trong câu chuyện của Adam và Eve, quả táo trở thành biểu tượng cho tri thức, sự bất tử, sự cám dỗ, sự sa ngã của con người vào tội lỗi và chính tội lỗi. Thanh quản trong cổ họng của con người đã được gọi là "quả táo của Adam" vì một quan niệm cho rằng nó được tạo ra bởi miếng trái cấm còn lại kẹt trong cổ họng của Adam. Quả táo là biểu tượng của sự quyến rũ thể xác tình dục, chúng đã được sử dụng để ám chỉ tình dục của con người có thể theo một cách mỉa mai (ăn trái cấm). Ở châu Âu đã có nhiều bức họa phẩm về quả táo, trong đó hình ảnh quả táo được đồng nhất hoặc thể hiện là trái cấm trong bối cảnh Vườn địa đàng nơi Adam và Eva đang khỏa thân ăn táo, thấp thoáng có con rắn độc xảo quyệt xúi bẩy điều xấu này.
Trong thần thoại
Hy Lạp
Trong thần thoại Hy Lạp, câu chuyện mười hai kỳ công của Heracles kể rằng anh hùng Hy Lạp Heracles (Héc-quyn) được ra lệnh đi đến Khu vườn của Hesperides để hái những quả táo vàng trên Cây Sự sống mọc giữa vườn. Trong thần thoại Hy Lạp, nữ thần Atalanta đã chạy thi trong một cuộc đua trước tất cả những người cầu hôn mình, nhằm cố gắng né tránh việc kết hôn. Cô ấy đánh bại tất cả trừ Hippomenes (còn được gọi là Melanion, một cái tên có thể bắt nguồn từ melon – "dưa", từ tiếng Hy Lạp cho cả "táo" và trái cây nói chung) anh ta đã đánh bại cô ấy bằng sự xảo quyệt chứ không phải tốc độ. Hippomenes biết rằng mình không thể chiến thắng trong một cuộc đua công bằng nên đã sử dụng ba quả táo vàng (quà tặng của nữ thần tình yêu Aphrodite) để đánh lạc hướng Atalanta. Phải mất cả ba quả táo và cả tốc độ của mình, nhưng Hippomenes cuối cùng đã thành công, anh giành chiến thắng trong cuộc đua và cưới được Atalanta.
Câu chuyện khác về Nữ thần bất hòa của Hy Lạp là Eris, trở nên bất bình sau khi cô không được mời đến đám cưới của Peleus với Thetis Để trả đũa, bà ta ném một quả táo vàng Bất hòa có khắc chữ Kallisti (Καλλίστη/Kalliste, đôi khi được phiên âm là Kallisti, nghĩa là "Dành cho người đẹp nhất") vào tiệc cưới. Ba nữ thần giành quả táo là Hera, Athena, và Aphrodite, cuối cùng thì Paris của thành Troia đã được chấm để chọn người nhận quả táo. Sau khi Paris bị cả Hera và Athena mua chuộc, Aphrodite đã cám dỗ anh ta với người phụ nữ xinh đẹp nhất thế giới là Helen của Sparta. Paris đã trao tặng quả táo cho Aphrodite, do đó gián tiếp gây ra Chiến tranh thành Troia. Do đó, ở Hy Lạp cổ đại, quả táo được coi là vật linh thiêng của thần Aphrodite. Ném một quả táo vào ai đó là để tuyên bố một cách tượng trưng tình yêu của một người, và tương tự, nắm bắt quả táo là để thể hiện một cách tượng trưng sự chấp nhận của một người đối với tình yêu đó. Một bài thơ được cho là của Platon có nội dung sau:
Bắc Âu
Trong thần thoại Bắc Âu, nữ thần Iðunn được miêu tả trong sách giáo khoa cổ Prose Edda (được viết vào thế kỷ 13 bởi tác giả Snorri Sturluson) là người cung cấp những quả táo cho các vị thần mang lại cho họ sự trẻ trung vĩnh cửu. Học giả người Anh H. R. Ellis Davidson liên hệ quả táo với các hoạt động tôn giáo trong Pagan giáo Đức mà từ đó Pagan giáo Bắc Âu phát triển. Bà cho biết những xô đựng táo đã được tìm thấy trong khu chôn cất thuyền Oseberg ở Na Uy, trái cây và quả hạch (Iðunn từng được mô tả biến thành một loại hạt trong Skáldskaparmál) đã được tìm thấy trong những ngôi mộ xưa nhất của người German ở Anh và các nơi khác trên lục địa châu Âu, chúng có thể mang một ý nghĩa tượng trưng, và ở tây nam nước Anh các loại hạt được xem là biểu tượng sinh nở
Ellis Davidson ghi nhận mối liên hệ giữa táo và Vanir, một bộ tộc thần tiên trong thần thoại Bắc Âu có liên quan đến khả năng sinh sản, trong đó dẫn một ví dụ về Skírnir, sứ giả của thần Freyr, đã ban cho nàng Gerðr xinh đẹp 11 "quả táo vàng" để tán tỉnh nàng giúp thần. Nội dung này nằm trong Khổ 19 và 20 của Skírnismál. Davidson cũng lưu ý thêm về mối liên hệ giữa khả năng sinh sản và những quả táo trong thần thoại Bắc Âu trong chương 2 của Völsunga saga: sau khi vua Rerir cầu nguyện Odin để có con, nữ hoàng các vị thần Frigg đã gửi cho ông một quả táo, sứ giả của Frigg (trong lốt một con quạ) thả quả táo vào lòng ông khi ông đang ngồi trên đỉnh gò đất của một ngôi mộ. Việc ăn táo của vợ Rerir dẫn đến việc mang thai sáu năm và sinh (bằng mổ đẻ) ra một đứa con trai – anh hùng Völsung.
Hơn nữa, Ellis Davidson cho biết cụm từ khá khó hiểu mang tên Táo của Hel được sử dụng trong một bài thơ có từ thế kỷ 11 của skald (nhà thơ của thơ truyền thống Bắc Âu) là Thorbiorn Brúnarson. Bà nói rằng điều này có thể ngụ ý rằng quả táo được Brúnarson coi là thức ăn của người chết. Hơn nữa, Ellis Davidson ghi rằng nữ thần Nehalennia của Đức đôi khi được miêu tả với những quả táo và những điều tương tự khác thường thấy trong những câu chuyện cổ của người Ireland. Davidson khẳng định trong khi việc trồng táo ở Bắc Âu kéo dài ít nhất là từ thời Đế chế La Mã và việc trồng đã du nhập đến châu Âu từ Cận Đông, các giống táo bản địa mọc ở Bắc Âu đều nhỏ và có vị đắng. Davidson kết luận rằng trong diện mạo Iðunn "chúng ta phải có một hình ảnh phản chiếu lờ mờ của một biểu tượng cũ: đó là nữ thần hộ mệnh của trái cây ban sự sống của thế giới bên kia".
Trong văn hóa
Phương Tây
Trong câu chuyện cổ tích Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn có chi tiết về quả táo bị tẩm độc, Theo học giới, các biểu tượng trọng yếu trong truyện Công chúa Bạch Tuyết lần lượt là quả táo độc, khi mà mụ gì ghẻ mưu hại màng Bạch Tuyết lần chót, bà ta đóng giả làm một mụ nhà quê. Mụ tặng cho Bạch Tuyết một quả táo đỏ au, nàng vừa cắn miếng đã lịm đi. Các chú lùn về thì không kịp nữa. Câu tục ngữ "Một quả táo mỗi ngày giúp tránh xa bác sĩ", đề cập đến những lợi ích sức khỏe được cho là nhờ ăn quả này, câu tục ngữ này đã bắt nguồn từ xứ Wales vào thế kỷ 19, nơi cụm từ ban đầu là "Ăn một quả táo khi đi ngủ, và bạn sẽ khiến cho bác sĩ không kiếm được bánh mì của mình". Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cụm từ phát triển thành "một quả táo mỗi ngày, không cần trả tiền bác sĩ" và "một quả táo mỗi ngày sẽ đuổi bác sĩ đi"; cụm từ thường được sử dụng hiện nay được ghi lại lần đầu tiên vào năm 1922.
Đại chúng
Logo đầu tiên của Apple Inc. được Ron Wayne thiết kế miêu tả cảnh nhà bác học Isaac Newton ngồi dưới gốc cây táo, logo này gần như ngay lập tức được thay thế bằng "Rainbow Apple" (quả táo cầu vòng) của Rob Janoff là hình bóng một quả táo màu cầu vồng quen thuộc hiện nay với một vết cắn nham nhở Vào ngày 27 tháng 8 năm 1999, Apple chính thức loại bỏ tông màu cầu vồng và bắt đầu sử dụng các logo đơn sắc gần như giống hệt về hình dạng với phiên bản cầu vồng trước đó. Câu khẩu hiệu đầu tiên của Apple, "Byte into an Apple" (Cắn một quả táo), được ra đời vào cuối những năm 1970.. Buổi trình diễn thời trang Pucca Xuân/Hè 2011 được lấy cảm hứng từ nàng Bạch Tuyết và người mẹ kế độc ác của nàng, Nữ hoàng. Người mẫu mở màn, Stella Maxwell, mặc đồ Lolita-esque Bạch Tuyết thời hiện đại trong bộ áo hoody, váy ngắn và giày cao gót. Do đi đôi giày cao chót vót, cô đã bị ngã trên sàn catwalk và làm rơi quả táo đỏ đang mang theo..
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Xem thêm
Trái cấm
Cây Giáng sinh
Hoa sen (Phật giáo)
Cội Bồ-đề
Thực vật trong văn hóa
Táo tây
Thần thoại so sánh
|
19836303
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brachypterois%20curvispina
|
Brachypterois curvispina
|
Brachypterois curvispina là một loài cá biển thuộc chi Brachypterois trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2013.
Từ nguyên
Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: curvus (“cong”) và spina (“gai, ngạnh”), hàm ý đề cập đến ngạnh sau tuyến lệ uốn cong lên trên ở cá trưởng thành của loài này.
Phân bố
B. curvispina hiện chỉ được biết đến ở bờ biển phía bắc và đông bắc của bang Queensland (Úc), từ eo biển Torres về phía nam đến rạn san hô Swain và quần đảo Capricorn, được thu thập ở độ sâu 32–130 m.
Ghi nhận của B. curvispina tại bờ biển Visakhapatnam (phía đông Ấn Độ) là nhầm lẫn với Brachypterois serrulifer.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở B. curvispina là 12,6 cm.
Ngạnh sau tuyến lệ uốn cong lên trên ở cá thể trưởng thành. Đầu và thân màu đỏ, lưng sẫm màu hơn. Một đốm đen lớn cỡ ổ mắt trên nắp mang. Có 5 dải màu nâu đỏ trên đầu, 5 dải sọc dọc màu nâu ở hai bên thân. Có nhiều chấm đỏ trên phần tia mềm tạo thành hàng. Vây hậu môn có khoảng 6 hàng chấm đỏ tương tự. Vây ngực sẫm nâu, với khoảng 6 hàng chấm màu trắng kem trên các tia. Vây bụng trắng hồng, có khoảng 8 dải nâu sẫm. Màng vây đuôi trong mờ, với khoảng 60 chấm nhỏ màu đỏ sẫm trên các tia. Mắt màu vàng sẫm; mống mắt đen.
Số gai ở vây lưng: 13–14; Số tia vây ở vây lưng: 8–11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5; Số tia vây ngực: 14–16.
Tham khảo
C
Cá Thái Bình Dương
Cá Úc
Động vật được mô tả năm 2013
|
19836305
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20b%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20thi%C3%AAn%20nhi%C3%AAn%20Barsa-Kelmes
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Barsa-Kelmes
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Barsa-Kelmes (, Barsakelmes memlekettık tabiği qoryğy) là khu bảo tồn thiên nhiên nằm trên đảo Barsa-Kelmes của biển Aral, tỉnh Kyzylorda, Kazakhstan.
Được thành lập vào năm 1939, khu bảo tồn này có diện tích khoảng 300 km2 là nơi sinh trưởng của 250 loài thực vật, 56 loài động vật và 203 loài chim. Một số trong đó là loài có nguy cơ tuyệt chủng và quý hiếm như lừa hoang Turkmenia, linh dương bướu giáp, cáo corsac, sói Á Âu.
Tham khảo
Liên kết ngoài
a Kazakhstani tourist site, from which the original text of this article was lifted
Photo gallery 1
Photo gallery 2
Чернобров В. А. Остров Барсакельмес
Barsa-Kelmes
Barsa-Kelmes
Biển Aral
Tỉnh Kyzylorda
|
19836318
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20K%E1%BB%B5%20Nam
|
Đại học Kỵ Nam
|
Đại học Kỵ Nam (JNU, ) là một trường đại học nghiên cứu công lập tại Quảng Châu, Trung Quốc. "Kỵ Nam" có nghĩa là "hướng về phía nam", cho thấy sứ mệnh ban đầu của trường đại học là truyền bá việc học và văn hóa Trung Quốc từ Bắc vào Nam khi trường được thành lập vào năm 1906 tại Nam Kinh. Đây là trường đại học đầu tiên của Trung Quốc tuyển dụng sinh viên nước ngoài và là một trong những trường đại học có số lượng sinh viên quốc tế lớn nhất tại Trung Quốc.
Chú thích
Liên kết ngoài
Jinan University Official website
Jinan University Official website
Jinan University International School website
Đại học Kỵ Nam
Khởi đầu năm 1906 ở Trung Quốc
Khởi đầu năm 1958 ở Trung Quốc
|
19836320
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/I%20Went%20Too%20Far
|
I Went Too Far
|
"I Went Too Far" là đĩa đơn thứ mười do Aurora phát hành và là đĩa đơn thứ sáu trong album All My Demons Greeting Me as a Friend. Bài hát được viết bởi Aurora, Odd Martin Skålnes và Magnus Skylstad và được sản xuất bởi Magnus Skylstad, Odd Martin Skålnes và Jeremy Wheatley. Ngày 5 tháng 7 năm 2016 bài hát chính thức được phát hành trên toàn thế giới. Bản phối lại bài hát của DJ người Mỹ MK được phát hành vào ngày 15 tháng 7 năm 2016.
Bối cảnh và bài hát
Bài hát được mô tả là một bài hát mang hơi hướng disco pop và synth-pop. Aurora bắt đầu viết bài hát này khi cô lên chín. Cô giải thích với The 405 : "Đó là một lời nhắc nhở về tầm quan trọng của việc không hy sinh bản thân vì tình yêu của người khác. Có quá nhiều người có xu hướng duy trì các mối quan hệ mà họ phải chịu đựng sự lạm dụng bằng lời nói và thể xác. Đó là một vấn đề rất lớn cần được nhận thức."
Trong một cuộc phỏng vấn với BBC Radio 1, cô nói: "Đôi khi chúng ta đi quá xa để có được sự chấp thuận và tình yêu của người khác, khi chúng ta thực sự chỉ nên học cách yêu bản thân mình và thế là đủ."
"Khi tôi 9 tuổi, tôi đã viết phần lớn bài hát này. Tôi đã chứng kiến một người dũng cảm và tốt bụng không đòi hỏi sự tôn trọng và tình yêu mà họ đáng được có.
Lớn lên, tôi nhận ra những điều này xảy ra xung quanh chúng ta. Và chúng ta cần học cách đối xử tốt với bản thân và yêu cầu được đối xử đúng mực. Tất cả chúng ta đều có cơ hội leo lên bậc thang."
Video âm nhạc
Video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 5 tháng 7 năm 2016. Video do Arni & Kinski làm đạo diễn và được quay ở Iceland.
Danh sách đoạn nhạc
Tải xuống kỹ thuật số
"I Went Too Far" – 3:27
Tải xuống kỹ thuật số - MK Remix (Phiên bản Radio)
"I Went Too Far (MK Remix)" – 3:57
Tải xuống kỹ thuật số - MK Remix (Phiên bản mở rộng)
"I Went Too Far (MK Extended Remix)" – 5:22
Ghi công và đóng góp
Phần ghi công được phỏng theo album của bài hát.
Ghi âm và quản lí
Thu âm tại Lydriket (Bergen, Na Uy), The Engine Room (London, Anh) và Angel Recording Studios (London, Anh)
Hỗn hợp tại Lydriket và Phòng máy
Mastered tại Abbey Road Studios (London, Anh)
Được xuất bản bởi Nhà xuất bản Ultra Music , Nhà xuất bản Universal Music , Công ty phân phối giải trí
Đóng góp
Aurora Aksnes – hát, piano
Odd Martin Skålnes – tổng hợp, lập trình
Magnus Åserud Skylstad – trống và bộ gõ
Pete Davis – bàn phím và lập trình
Biểu đồ
Tham khảo
Đĩa đơn năm 2016
Bài hát năm 2016
Bài hát synthpop
|
19836321
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Altyn-Emel
|
Vườn quốc gia Altyn-Emel
|
Vườn quốc gia Altyn-Emel (, Altynemel saiabağy ; , Altyn-Emel' Natsional'nyy Park) là một vườn quốc gia ở Almaty, Kazakhstan. Được thành lập vào năm 1996 với diện tích khoảng , vườn quốc gia này nằm giữa khu vực sông Ili và dãy núi Aktau, gần hồ chứa Kapchagay với địa hình chủ yếu là sa mạc và núi đá lởm chởm.
Mô tả
Vườn quốc gia nằm trong thung lũng sông Ili được thành lập vào ngày 10 tháng 4 năm 1996 nhằm bảo tồn sinh thái tự nhiên cũng như các di tích khảo cổ và lịch sử nơi đây.
Nó bao gồm hai phần chính: đồng bằng tiếp giáp bờ phải sông Ili và các ngọn núi của dãy Dzungarian Alatau, Altyn-Emel. Trên vùng đồng bằng còn có nhiều khối núi nhỏ. Trên lãnh thổ của vườn quốc gia, các trầm tích thuộc kỷ Than đá cách đây 300 triệu năm và kỷ Permi đã được xác định, trong khi các trầm tích cổ xưa nhất được xác định là kỷ Silur. Những ngọn núi của công viên chủ yếu được tạo thành từ đá Đại Cổ sinh có niên đại từ 200 đến 400 triệu năm tuổi.
Nằm trong vườn quốc gia là khu Nghĩa địa Besshatyr là một di tích lịch sử của người Saka. Các gò mộ có niên đại từ thời đồ sắt (thế kỷ 7-6 trước Công nguyên) và được xây dựng bởi những người du mục trên thảo nguyên Trung Á. Các đồ vật được tìm thấy trong các ngôi mộ bao gồm đồ trang trí mạ vàng, đồ trang sức và đồ dùng bằng vàng, vũ khí và áo giáp.
Một đặc điểm nổi bật khác của khu vực là dãy núi Aktau là nó còn được gọi là "núi mặt trăng" do màu sắc đặc biệt của nó.
Khí hậu và hệ sinh thái
Khí hậu của vườn quốc gia là Khí hậu lục địa ẩm theo Phân loại khí hậu Köppen. Khí hậu này được đặc trưng bởi sự chênh lệch nhiệt độ theo mùa lớn và mùa hè ấm áp (ít nhất bốn tháng trong năm có nhiệt độ trung bình trên , nhưng không có tháng nào có nhiệt độ trung bình trên ). Nó nằm trong vùng sinh thái thảo nguyên khô hạn đồi thấp dưới chân núi Thiên Sơn.
Động thực vật
Vườn quốc gia là nơi bảo tồn các loài động thực vật quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Hệ thực vật của nó bao gồm 1.800 loài thực vật, trong đó có 69 loài quý hiếm. Ngoài ra, 56 loài động vật trong vườn quốc gia được coi là quý hiếm, bao gồm cừu Argali, lừa hoang Mông Cổ, linh dương bướu giáp. Không tính côn trùng và cá, ít nhất 260 loài động vật sinh sống ở Altyn-Emel. Có những loài lưỡng cư có nguy cơ tuyệt chủng bao gồm cóc Mông Cổ, hạc đen, đại bàng hoàng đế phương Đông.
Trong số 78 loài động vật có vú, có 11 loài được ghi vào Sách đỏ Kazakhstan, đáng chú ý có chồn sồi, chồn hôi châu Âu, rái cá, mèo manul, lừa hoang, linh dương, dơi muỗi phương Đông, hươu Đại Hạ, linh miêu, gấu nâu Thiên Sơn. Thực vật đáng chú ý có thể kể đến táo dại Tân Cương.
Tham khảo
Di sản thế giới tại Kazakhstan
Altyn-Emel
Danh sách di sản thế giới dự kiến
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.