id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19837744
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%ADnh%20hi%E1%BB%83n%20vi%20d%E1%BA%ADp%20t%E1%BA%AFt%20c%C6%B0%E1%BB%A1ng%20b%E1%BB%A9c
|
Kính hiển vi dập tắt cưỡng bức
|
Kính hiển vi dập tắt cưỡng bức (Stimulated emission depletion microscopy, STED microscopy) là một phương pháp tạo ảnh hiển vi siêu phân giải, dựa trên kỹ thuật kính hiển vi đồng tiêu huỳnh quang với việc sử dụng hai xung ánh sáng laser với một xung kích thích phân tử phát quang, trong khi xung còn lại dập tắt trạng thái kích thích của phân tử phát quang bằng cách bắt nó phát xạ cưỡng bức. Cách thức này cho phép tạo ra hình ảnh siêu phân giải bằng cách vô hiệu hóa có chọn lọc các diện tích phát huỳnh quang, giảm thiểu diện tích chiếu sáng tại tiêu điểm, và do đó tăng cường độ phân giải, vượt qua giới hạn phân giải của các thiết bị sử dụng sóng ánh sáng.
STED được phát triển bởi Stefan W. Hell và Jan Wichmann vào năm 1994, và lần đầu tiên được chứng minh bằng thực nghiệm bởi Hell và Thomas Klar vào năm 1999 với độ phân giải 35 nm. Stefan Hell đã được trao giải Nobel Hóa học năm 2014 cho sự phát triển của thiết bị này. Trên thực tế, ý tưởng về STED đã được V.A. Okhonin (Viện Lý sinh, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Chi nhánh Siberia, Krasnoyarsk) đưa ra từ năm 1986 với một phát minh sáng chế được đăng ký ở Liên Xô. Khi xây dựng STED vào năm 1994, Hell và Wichmann đã hoàn toàn không biết tới bằng phát minh của Okhonin.
Nguyên lý
Trong các thiết bị hiển vi quang học sử dụng ánh sáng và thấu kính, độ phân giải của ảnh ghi nhận được bị giới hạn bởi giới hạn nhiễu xạ do Ernst Abbe xác định vào năm 1873:
Trong đó, là bước sóng, là số khẩu độ được xác định bởi tích chiết suất của môi trường và sin của góc ánh sáng tới thấu kính ().
Các thiết bị kính hiển vi đồng tiêu quét huỳnh quang cũng không nằm ngoài giới hạn này khi ảnh tạo ra từ các ánh sáng huỳnh quang phát ra từ mẫu vật khi có ánh sáng kích thích cũng có tính chất này.
Để vượt qua giới hạn này, STED xử dụng hai xung ánh sáng (laser), với một xung (có bước sóng ngắn) sẽ kích thích mẫu vật, còn xung thứ hai (được làm chậm hơn xung đầu tiên một khoảng thời gian nhất định) sẽ có tác dụng dập tắt các cường độ phát xạ nền xung quanh điểm phát huỳnh quang, từ đó tạo ra một điểm phát huỳnh quang có kích thước nhỏ hơn.
Quá trình vật lý trong thiết bị STED
Một thiết bị STED được xây dựng dựa trên kinh hiển vi đồng tiêu quét huỳnh quang, tức là dùng một chùm sáng laser có bước sóng ngắn quét trên mẫu vật và ghi nhận ánh sáng huỳnh quang phát ra từ mẫu (được nhuộm) để tạo ảnh. Điểm khác biệt lớn nhất so với kính hiển vi đồng tiêu huỳnh quang là sự có mặt của xung laser thứ hai (xung dập tắt - STED).
Xung STED có bước sóng dài hơn được đồng bộ với xung kích thích, tức là làm trễ pha so với xung kích thích, bằng một đĩa làm trễ pha. Xung thứ hai có tác dụng làm "đông cứng" các phân tử huỳnh quang (dập tắt sự phát xạ) ở rìa ngoài của chùm tia kích thích, ngoại trừ các phân tử nằm ở vùng trung tâm. Vì thế, kích thước khu vực phát huỳnh quang sẽ trở nên nhỏ hơn và tạo nên độ phân giải vượt qua giới hạn nhiễu xạ của Abbe.
Trong trường hợp này, giới hạn phân giải mới của thiết bị sẽ là giới hạn Abbe mở rộng:
Trong đó, là cường độ của hốc phát xạ quang học, là cường độ của bức xạ cưỡng bức, và tỉ số hai cường độ này là hệ số bão hòa. Theo công thức này, giới hạn phân giải mới sẽ có độ lớn nhỏ hơn so với giới hạn nhiễu xạ Abbe.
Ứng dụng
Với độ phân giải vượt trội so với các thiết bị hiển vi quang học truyền thống, STED là thiết bị được ứng dụng mạnh mẽ trong các nghiên cứu về y, sinh học, tương tự như việc sử dụng các kính hiển vi đồng tiêu huỳnh quang. Các thiết bị STED thương phẩm có thể cho độ phân giải xung quanh 50 nm.
Xem thêm
Kính hiển vi đồng tiêu
Kính hiển vi huỳnh quang
Hiển vi siêu phân giải
Tài liệu tham khảo
Kính hiển vi
Hiển vi siêu phân giải
Sơ khai
Nhiễu xạ
Dụng cụ thí nghiệm
|
19837745
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3m%20s%C3%A1t%20nh%E1%BA%A1c%20h%E1%BB%99i%20Re%27im
|
Thảm sát nhạc hội Re'im
|
Ngày 07 tháng 10 năm 2023, nhóm thánh chiến Hồi Giáo Hamas phát động một cuộc xâm lược vào Israel từ Dải Gaza, giết hại 364 thường dân, làm bị thương một số lượng lớn thường dân khác, và bắt ít nhất 40 con tin tại đại nhạc hội ngoài trời "Supernova Sukkot Gathering", khi đám đông đang mừng Lễ Lều Tạm gần khu vực Re'im. Vụ giết người hàng loạt này là một phần của chuỗi tấn công của Hamas vào ngày 07 tháng 10, bao gồm các vụ tấn công vào dân thường Israel tại Netiv HaAsara, Be'eri, Kfar Aza, Nir Oz, Holit, và là nguyên nhân của cuộc chiến tranh 2023 giữa Israel và Hamas.
Khoảng 6 giờ 30 phút sáng, người dân Israel nhìn thấy tên lửa lao tới từ phía Gaza. Vào khoảng 7 giờ sáng, còi báo không kích rền vang, dòng người dự lễ hội nhận ra rằng họ phải nhanh chóng tìm gấp nơi trú ẩn. Sau đó, các tay súng Hamas tràn vào khu vực trên các xe mô tô, xe bán tải và dù lượn gắn động cơ. Các tay súng này bao vây khu vực lễ hội và xả súng thẳng vào người dân dự lễ, kể cả những người tại đó lẫn những người xung quanh cố chạy khỏi vụ tấn công. Những người may mắn trốn thoát sau đó cũng bị truy lùng và giết hại trong các hầm trú bom, bụi cây, hoặc tòa nhà gần đó. Những ai chạy ra được đường lớn cũng bị kẹt lại vì Hamas cũng xả súng vào các phương tiện di chuyển trên đường gây kẹt xe diện rộng. Những người bị thương trên đường không chạy được phải bò lết ra khỏi đám xả súng sau đó cũng bị các tay súng Hamas truy diệt.
Các chi tiết về vị trí giam giữ và tình trạng của các con tin vẫn chưa được công bố ra công chúng. Vụ thảm sát tại Re'im là vụ tấn công khủng bố lớn nhất, và cũng là vụ giết hại nhiều thường dân nhất trong lịch sử Israel.
Các hoạt động lễ hội trước vụ thảm sát
Supernova Sukkot Gathering là một lễ hội âm nhạc dài một tuần lễ bắt đầu vào ngày 6 tháng 10 năm 2023, được tổ chức bởi Nova (còn được gọi là Tribe of Nova).. Nhạc hội này lẽ ra có thể diễn ra an toàn ở phía Nam Israel, nhưng sau đó ban tổ chức gặp vấn đề về khâu chuẩn bị nên chỉ hai ngày trước cuộc thảm sát, họ quyết định dời vị trí tổ chức về phía tây sa mạc Negev, khoảng 5 km tính từ biên giới Gaza-Israel, gần Re'im. Lịch trình của nhạc hội trùng với hai ngày lễ lớn của người Do Thái là Lễ Trại Tạm và Lễ Mừng Kinh Thánh Torah.
Có khoảng 3500 người Israel khắp nơi đổ về lễ hội với mục đích tôn vinh "tình bạn, tình yêu và tự do vô tận", đa số họ có tuổi đời từ 20-40. Trước số lượng người lớn như vậy, cảnh sát địa phương đã được điều động tới để cùng lực lượng bảo vệ đảm bảo an ninh.
Cuộc tấn công của Hamas
Đại nhạc hội là một trong những mục tiêu đầu tiên của các tay súng Hamas vào sáng mồng 7 tháng 10 năm 2023. Các lực lượng điều tra của Israel nhận định rằng Hamas không hề có ý định tấn công đại nhạc hội từ trước, mà chỉ là tấn công ngẫu nhiên vì thấy đông người, bởi vì nhạc hội này theo kế hoạch ban đầu chỉ kéo dài tới thứ Sáu ngày 6 tháng 10, và việc ban tổ chức quyết định mở thêm một ngày thứ Bảy (7 tháng 10) chỉ được thông cáo báo chí vào tứ Tư tuần trước diễn ra sự kiện. Một chứng nhân cho biết sau khi cắt đường dây điện, một nhóm khoảng 50 tay súng Hamas ào đến trên các xe van và bắn liên tục vào mọi hướng, sau đó khoảng 6 giờ 30, một vài tay súng khác bay tới bằng dù lượn và cũng bắt đầu xả súng.
Đám đông lập tức nhận ra mối nguy, họ hoảng loạn chạy trốn, Hamas không buông tha và tiếp tục truy đuổi họ bằng xe jeep, một số tay súng khác chặn đường ngăn không cho đám đông trốn chạy. Địa hình xung quanh nhạc hội quá trống trải và ít nơi để trú ẩn, dân thường bất lực chạy trốn vào các bụi cây ven đường, nhưng sau đó Hamas cũng truy lùng tới cùng và tàn sát họ. Trong số đó chỉ số ít người may mắn thoát chết sau khi trốn vào các tòa nhà. Vụ thảm sát diễn ra giữa tiếng rền còi báo động không kích, vì lực lượng Hamas ở Gaza lúc đó cũng đồng thời phóng hàng trăm tên lửa vào Israel. Xe cộ cháy nổ khắp mọi nơi trên đường.
Trong số những người dự nhạc hội bị Hamas bắt, những người may mắn sống được thì bị bắt về Gaza làm con tin. Hamas đã tung video về cảnh bắt con tin lên mạng xã hội. Trong số đó có cả những người nước ngoài mang quốc tịch Đức, Anh, Brazil...
Không chỉ dừng ở thảm sát, các tay súng Hamas còn hãm hiếp, sau đó giết luôn các nữ du khách đến đại nhạc hội. Thậm chí có người còn bị hãm hiếp tập thể. Người đó sau đó cũng bị giết. Theo báo Haaretz, các nhân viên cơ quan ứng cứu ZAKA đã thấy nhiều phụ nữ ở hiện trường bị Hamas lột hết áo quần, cắt bỏ bộ phận sinh dục, số khác thì bị xích phần thân dưới.
Thiệt hại về nhân mạng
Các hình ảnh chụp được từ hiện trường vụ thảm sát cho thấy hàng chục thi thể nằm lại trên hiện trường, một vài trong số đó đã bị Hamas thiêu. Cơ quan hỗ trợ cấp cứu tình nguyện ZAKA của Israel cho biết họ đếm được ít nhất 260 thi thể nằm la liệt trong khuôn viên nhạc hội.
Vào ngày 17 tháng 11, cảnh sát địa phương đưa ra con số cuối cùng là 364 người bị giết hại, trong đó có 17 cảnh sát. Ban tổ chức nhạc hội cũng đều đã chết trong cuộc thảm sát này. Ngoài ra, 40 người đã bị bắt cóc mang qua Gaza.
Các cuộc điều tra
Ngày 14 tháng 10, 2023, chính phủ Đức xác nhận 8 công dân của họ đang bị giam giữ tại Gaza và mở một cuộc điều tra với đối tượng chủ thể là các tay súng Hamas, với các tội danh "hoạt động cho tổ chức khủng bố nước ngoài, bắt giữ con tin và giết người".
Theo các báo cáo công chúng vào ngày 17 tháng 11, cảnh sát sau khi điều tra và thẩm vấn, xác nhận là Hamas không tổ chức cuộc thảm sát từ đầu, mà chỉ vô tình đi ngang qua và nổ súng.
Phản ứng và dư luận
Hamas lúc đầu thông báo là những tay súng của tổ chức này giết thường dân vì nghĩ các nạn nhân là "những người lính Israel", nhưng sau đó Hamas thay đổi thái độ và đổ lỗi cho người dân Gaza, rằng vụ thảm sát là do thường dân Gaza gây ra sau khi Hamas chiếm được khu vực. Sau đó, Hamas lại đổi ý và tuyên bố rằng không có cuộc thảm sát nào diễn ra ở nhạc hội trên.
Về phía chính quyền Palestine (PA), chính quyền này đã gửi điện tới các chính phủ khác, và cả Liên Hợp Quốc để phủ nhận việc Hamas đã thảm sát dân thường Israel. Chính quyền Palestine tuyên bố rằng chính các máy bay trực thăng của Israel đã đánh bom thường dân của họ.
Phẫn nộ trước cuộc thảm sát, Israel tuyên chiến chính thức với Hamas, cuộc chiến bắt đầu bằng Chiến dịch Gươm Sắt.
Tham khảo
|
19837754
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kawakita%20Mayuko
|
Kawakita Mayuko
|
là một nữ diễn viên, người mẫu người Nhật Bản/Mỹ, được biết đến với vai diễn Rena trong Fashion Story: Model, chương trình truyền hình Hirunandesu! trên Nippon Television, và Sekai no Hatemade Itte Q!. Cô là người chiến thắng năm 2003 của Cuộc thi Japan Bishōjo Contest, một cuộc thi sắc đẹp do Oscar Promotion tổ chức.
Xuất hiện
Truyền hình
Sekaigumi TV (Fuji TV, 2005-2006), Mayu
Gakkō ja Oshierarenai! Tập 2 (NTV, 2008)
Orthros no Inu (TBS, 2009), Shiho Aoi
Bikōjō Keikaku: Suzuki Rinko, 20-sai (KTV, 2010), Rinko Suzuki
Best Friend (NHK 1seg2, 2010)
Don Quixote (NTV, 2011), Eri
Thumbs up! (BS Fuji, 2011), Reiko
Mōsō Sousa: Kuwagata Kōichi Junkyōju no Stylish na Seikatsu (TV Asahi, 2012), Mizuho Yamamoto
Sprout (NTV, 2012), Kiyoka Taniyama
Tokusō Shirei! Aichi Police (Nagoya Broadcasting Network, 2012-2013), chỉ huy đơn vị điều tra đặc biệt của Cảnh sát tỉnh Aichi
Mistake! Tập 2 (Fuji TV, 2013)
Mission: English Eiken Daisakusen (BS Fuji, 2013-2014), Mari Riviere
Power Game (NHK BS Premium, 2013), Aya Koike
Hakuba no Ōji Sama Junai Tekireiki (YTV, 2013), Kaori Higashiyama
Kurokōchi (TBS, 2013), Tenten
Yae's Sakura Tập 43, Tập 44 (NHK, 2013), Umeko Tsuda
Mission: English Eiken Daisakusen Mùa 2 (BS Fuji, 2014), Mari Riviere
Shiratori Reiko de Gozaimasu! (tvk, 2016), Reiko Shiratori
Who Is Princess? (2021), Chính cô (tập 8)
Phim chiếu mạng
Atelier (2015), Yuri Kōno
Phim
Hitori Kakurenbo Gekijōban (2009), Ritsuko Uno
Professor Layton and the Eternal Diva (2009), Hall announcement
Fashion Story: Model (2012), Rena
Kū no Kyōkai (2013), Yūko Sawamura
Taka no Tsume Go: Utsukushiki Elleair Shōshū Plus (2013), Okitemasu Yorunī
Kumiko, the Treasure Hunter (2014), Kanazaki
Shiratori Reiko de Gozaimasu! The Movie (2016), Reiko Shiratori
Thám tử lừng danh Conan: Cú đấm Sapphire xanh (2019), Rechel Cheong (lồng tiếng)
Đời tư
Vào tháng 1 năm 2022, Kawakita kết hôn với một người không phải người nổi tiếng, tên không được tiết lộ. Cô thông báo trên trang cá nhân rằng cô đã sinh con gái đầu lòng vào ngày 12 tháng 4 năm 2023.
Thư mục
Sách
Kokuminteki Bishōjo: Dai 9-kai Zennihon Kokuminteki Bishōjo Contest (Koudansha, Tháng 10 năm 2003)
Tạp chí
Pretty Style, Shogakukan 2002-2011, như người mẫu độc quyền 2008-2011
ViVi, Koudansha 1983-, là người mẫu độc quyền kể từ năm 2012
Tham khảo
Liên kết ngoài
(be amie - Oscar Promotion Official SNS)
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1991
Nữ diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21
Nữ diễn viên đến từ thành phố New York
Nữ người mẫu Nhật Bản
Nữ diễn viên truyền hình Nhật Bản
Người Manhattan
|
19837758
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20s%C4%A9%20Kerry
|
Hiệp sĩ Kerry
|
Hiệp sĩ Kerry (tiếng Ireland: Ridire Chiarraí), còn được gọi là Hiệp sĩ xanh, là một trong ba hiệp sĩ cha truyền con nối Norman ở Ireland, tất cả đều tồn tại ở Ireland từ thời phong kiến. Hai dòng hiệp sĩ còn lại là Hiệp sĩ trắng (họ cố định là Fitzgibbon), không hoạt động từ thế kỷ XIX, và Hiệp sĩ Glin (Hiệp sĩ đen), không hoạt động từ năm 2011. Cả ba đều thuộc về triều đại FitzGerald thường được gọi là Geraldines, được tạo ra bởi Bá tước xứ Desmond trao cho bà con của họ.
Maurice Buidhe FitzJohn, Hiệp sĩ thứ nhất của Kerry, là con trai ngoài giá thú của John FitzGerald, Nam tước Desmond thứ nhất (mất năm 1261 trong Trận Callann), con trai của Thomas FitzMaurice, Lãnh chúa OConnello, con trai của Maurice FitzGerald, Lãnh chúa của Lanstephan, con trai của Vương nữ Nest Ferch Rhys xứ Deheubarth và Gerald de Windsor.
Tham khảo
(List of Knights). PUBLIC RECORD OFFICE of NORTHERN IRELAND. The FitzGerald (Knights of Kerry) Papers (MIC/639 and T/3075).
(Other Knighthoods). BURKE'S PEERAGE & GENTRY'S A TO Z GUIDE .
Hiệp sĩ
Hiệp sĩ Ireland
Triều đại FitzGerald
Hiệp sĩ hạt Kerry
|
19837769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20San%20Marino%202022
|
Chặng đua MotoGP San Marino 2022
|
Chặng đua MotoGP San Marino 2022 là chặng đua thứ 14 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra ở trường đua Misano, Italia từ ngày 02/09/2022 đến ngày 04/09/2022. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse.
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19837770
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Raytheon%20Missiles%20%26%20Defense
|
Raytheon Missiles & Defense
|
Raytheon Missiles & Defense (RMD) là một trong số công ty thành viên của Tập đoàn công nghệ Raytheon. Công ty có trụ sở đặt tại Tucson, Arizona, chủ tịch hiện tại là Wes Kremer. Các mảng kinh doanh của công ty bao gồm sản xuất các thiết bị quân sự công nghệ cao, bao gồm hệ thống phòng không, tên lửa, vũ khí chính xác, radar cũng như hệ thống chỉ huy và quản lý chiến trường.
Các sản phẩm
Các sản phẩm của công ty bao gồm:
Active Denial System vũ khí phi sát thương sóng mm
AGM-65 Maverick tên lửa không đối đất
AGM-88 HARM tên lửa không đối đất
AGM-129 ACM tên lửa không đối đất
AGM-154 Joint Standoff Weapon bom dẫn đường
AGM-176 Griffin tên lửa không đối đất
AIM-7 Sparrow tên lửa không đối không
RIM-7 Sea Sparrow tên lửa đất đối không trên tàu
AIM-9 Sidewinder tên lửa không đối không
AIM-54 Phoenix tên lửa không đối không
AIM-120 AMRAAM tên lửa không đối không
AN/SPY-6 Radar cảnh báo máy bay và tên lửa trên tàu chiến
AN/TPY-2 radar cho hệ thống phòng thủ tên lửa THAAD
AN/AQS20C
AN/ASQ-235 Hệ thống vô hiệu hóa mìn từ trên máy bay Airborne Mine Neutralization System (AMNS)
BGM-71 TOW tên lửa chống tăng
BGM-109 Tomahawk tên lửa hành trình
Coyote hệ thống máy bay không người lái
David's Sling tên lửa phòng không/tên lửa chống tên lửa đạn đạo (liên kết với Rafael Advanced Defense Systems)
Đạn có điều khiển tăng tầm
Hệ thống chống tên lửa đạn đạo Exoatmospheric Kill Vehicle
FGM-148 Javelin anti-tank missile
FIM-92 Stinger person-portable air defense system surface-to-air missile
M982 Excalibur guided artillery round
MIM-23 Hawk surface-to-air missile
MIM-104 Patriot surface-to-air missile
Paveway laser-guided bomb
Phalanx CIWS naval anti-missile defense system
RIM-116 Rolling Airframe Missile naval surface-to-air missile
RIM-162 Evolved Sea Sparrow Missile naval surface-to-air missile
Standard Missile family of naval missiles
RIM-66 Standard
RIM-67 Standard
RIM-161 Standard Missile 3
RIM-174 Standard ERAM
SAM-N-2 Lark
|
19837773
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Aragon%202022
|
Chặng đua MotoGP Aragon 2022
|
Chặng đua MotoGP Aragon 2022 là chặng đua thứ 15 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 16/09/2022 đến ngày 18/09/2022 ở trường đua Aragon Motorland, Tây Ban Nha. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Enea Bastianini của đội đua Gresini Racing.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19837778
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A5p%20l%C3%A9n%20d%C6%B0%E1%BB%9Bi%20v%C3%A1y
|
Chụp lén dưới váy
|
Chụp lén dưới váy (tiếng Anh: Upskirt, upskirting hay upskirt photography) là hành vi chụp những bức ảnh chụp lén dưới váy hoặc vải quấn của một người, chụp ảnh vùng háng, đồ lót và đôi khi là cơ quan sinh dục. "Upskirt" là một bức ảnh, video hoặc hình minh họa kết hợp một bức ảnh như vậy, mặc dù có thể được sử dụng để chỉ bộ phận ở bên trong váy, thuật ngữ này thường chỉ đến phần bên dưới váy, và trong tình trạng người bị chụp đang mặc váy hớ hênh.
Hành vi chụp ảnh này được coi là một hình thức ái vật hoặc thị dâm và có bản chất tương tự như các ảnh chụp nhìn soi mói thân thể người khác. Vấn đề đạo đức và pháp lý liên quan đến chụp ảnh lén dưới váy là một trong những yêu cầu hợp lý về quyền riêng tư, bao gồm quyền riêng tư ở nơi công cộng. Ở một số quốc gia, việc chụp lén dưới váy mà không có sự cho phép là một hành vi phạm tội hình sự.
Tham khảo
Thuật ngữ khiêu dâm
Tôn sùng tình dục
Lạm dụng tình dục
|
19837782
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20Ng%C3%B4%20%C4%90%E1%BB%93ng
|
Sông Ngô Đồng
|
Sông Ngô Đồng có thể chỉ một trong số các con sông sau đây:
Sông Ngô Đồng (Nam Định): còn được gọi là sông Sò, một sông nhánh của sông Hồng đổ ra biển Đông tại cửa Hà Lạn
Sông Ngô Đồng (Tràng An): con sông thuộc vùng núi đá vôi Tràng An
|
19837784
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%20Th%E1%BA%A3o
|
Vi Thảo
|
Vi Thảo tên đầy đủ là Đặng Trần Vi Thảo, là nữ ca sĩ nhạc nhẹ Việt Nam, cô được biết đến khi là thí sinh cuộc thi Sao Mai điểm hẹn mùa đầu tiên.
Tiểu sử
Đặng Trần Vi Thảo sinh ngày 17 tháng 10 năm 1981 tại Nam Phước, Duy Xuyên, Quảng Nam, là chị cả trong gia đình. Vi Thảo kết hôn với Hoàng Vũ, một bầu show, họ có một con trai nhưng cuộc hôn nhân chỉ kéo dài hai năm vì Hoàng Vũ có những bê bối tình cảm.
Sự nghiệp
Từ khi học cấp 3, tài năng ca hát của Vi Thảo được bộc lộ khi cô hát Bài ca không quên trước toàn trường. Vi Thảo bắt đầu được biết đến tại Quảng Nam khi liên tục giành được giải thưởng như Huy chương vàng Liên hoan Tiếng hát Học sinh, sinh viên Quảng Nam 1997, Huy chương bạc Giọng hát hay Đà Nẵng 1998, Huy chương vàng Liên hoan Tiếng hát miền Trung và Tây Nguyên 1998. Dù gia đình mong muốn cô thi vào Đại học Khoa học xã hội và nhân văn nhưng năm 1999, Vi Thảo thi đậu khóa Opera của Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, lúc này cô đã có khoảng 15 giải thưởng, một tháng sau khi nhập học, cô đăng ký thi Tiếng hát Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và đoạt giải 4. Sau cuộc thi, Vi Thảo ký hợp đồng biểu diễn dài 2 năm với Đoàn nghệ thuật Quân khu 7. Năm 2001, cuộc thi Tiếng hát Truyền hình đổi tên thành Sao Mai, Vi Thảo tiếp tục đăng ký thi và lầm nhẵ đạt hạng 4. Cô tốt nghiệp Nhạc viện năm 2002. Trong năm 2002, Vi Thảo cùng Đoàn nghệ thuật Quân khu 7 biểu diễn phục vụ cho sư đoàn 5 ở Tây Ninh; Vi Thảo đã tham dự Liên hoan Tiếng hát Truyền hình Tây Ninh và đoạt giải Nhất. Với kết quả này, Vi Thảo là thí sinh đại diện của tỉnh Tây Ninh dự thi vòng chung kết Sao Mai 2003. Vi Thảo và Ngọc Khuê là hai thí sinh của Sao Mai 2003 được đặc cách vào vòng chung kết Sao Mai điểm hẹn 2004.
Sau cuộc thi Sao Mai, Vi Thảo theo đuổi dòng nhạc tiền chiến và cho ra mắt album đầu tay Yêu và mơ năm 2006.
Tháng năm 6 2012, Vi Thảo tiếp tục sự nghiệqua dòng nhạc bolero với album Vol.2 Tàu đêm năm cũ. Album nhanh chóng bị thu hồi vì có các ca khúc chưa được cấp phép lưu hành và phổ biến tại Việt Nam là Tàu đêm năm cũ và Hoa nở về đêm. Album do Bến Thành Audio sản xuất, Nhà xuất bản Âm nhạc cấp phép và Phương Nam Phim phát hành. Trước đó, giữa năm 2011, Bến Thành Audio đã trình Cục Nghệ thuật Biểu diễn kiểm duyệt và được thông qua vào tháng 11 năm 2011, nhưng khi phát hành một số cơ quan chức năng không đồng thuận khiến album buộc phải bị thu hồi. Sau sự việc này, Vi Tháo vẫn tiếp tục cho album tiếp theo.
Tháng 8 năm 2015, Vi Thảo phát hành album Vol.3 – Chuyến tàu hoàng hôn, trong đó ca khúc Chuyến tàu hoàng hôn được Vi Thảo xin cấp phép từ năm 2012, nhưng mất 3 năm mới được thông qua. Năm 2017, Vi Thảo tham gia gameshow Tình Bolero hoan ca và giành giải 3 cùng Quang Minh. Vi Thảo và một số lượng khán giả đã bất bình với kết quả này, cô tuyên bố về sau sẽ không tham gia bất cứ gameshow nào.
Tác phẩm
Giải thưởng
Liên kết ngoài
Tham khảo
Người họ Đặng ở Việt Nam
Nữ ca sĩ Việt Nam
|
19837785
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uchida%20Rio
|
Uchida Rio
|
là một nữ diễn viên và thần tượng áo tắm người Nhật Bản có liên kết với LesPros Entertainment. Cô được biết đến nhiều nhất với vai Kiriko Shijima, nữ anh hùng chính của bộ phim Kamen Rider Drive trong loạt phim Kamen Rider.
Tiểu sử
Uchida debut vào tháng 4 năm 2010. Vào tháng 6 năm 2010, cô được chọn tham gia NTV Transgenic 2010. Vào tháng 9 năm 2010, Uchida là thành viên của đơn vị văn phòng không được chứng nhận BLTravel Fan Event Bust Tour của Beautiful Lady & Television's được thành lập sau LesPros Entertainment. Vào ngày 27 tháng 11 năm 2013, cô được chọn làm thành viên tuyển chọn của văn phòng LesPros Entertainment đã chứng nhận sự kiện Vol.1 sẽ được tổ chức vào ngày 25 tháng 1 năm 2014. Vào ngày 21 tháng 3 năm 2014, Uchida được chọn vào thành viên chính thức tốt nghiệp khóa một của khóa học công ty rạp hát Matsumoto Kazumi. Từ tháng 10 năm 2014, cô đóng vai chính trong bộ phim tokusatsu Kamen Rider Drive của TV Asahi với vai nữ chính, Kiriko Shijima.
Diễn xuất
Phim truyền hình
Phim điện ảnh
Giải thưởng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin trên LesPros Entertainment
Sinh năm 1991
Nhân vật còn sống
Người mẫu áo tắm Nhật Bản
Nữ người mẫu Nhật Bản
Nữ diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21
|
19837788
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A1m%20Vostok
|
Trạm Vostok
|
Trạm Vostok (tiếng Nga: ста́нцияВосто́к, phát âm là [ˈstant͡sɨjə vɐˈstok], có nghĩa là "Trạm phía Đông") là một trạm nghiên cứu của Nga ở vùng đất Princess Elizabeth Land, Nam Cực. Được thành lập bởi Liên Xô vào năm 1957, trạm nằm ở Cực lạnh phía nam, với nhiệt độ tự nhiên được đo thấp nhất trên Trái đất là −89.2 °C (−128,6 °F). Nghiên cứu bao gồm khoan lõi băng và từ kế. Vostok (tiếng Nga đại diện cho 'phía đông') được đặt theo tên của Vostok, con tàu dẫn đầu của Đoàn thám hiểm Nam Cực đầu tiên của Nga do Fabian von Bellingshausen chỉ huy.
Mô tả
Trạm nghiên cứu Vostok có cự ly khoảng 1301 km từ cực nam địa lý, ở giữa tấm băng Nam Cực.
Vostok tọa lạc gần phía nam cực bất khả tiếp cận và cực địa từ trường, khiến nó trở thành một trong những nơi tối ưu để quan sát những thay đổi trong từ trường của Trái đất. Các nghiên cứu khác bao do nhật xạ, địa vật lý, y học và khí hậu học.
Trạm nằm độ cao 3488 m trên mực nước biển và là một trong những trạm nghiên cứu được thành lập biệt lập nhất trên lục địa Nam Cực. Trạm được cung cấp từ trạm Mirny trên bờ biển Nam Cực. Trạm thường tiếp đón 30 nhà khoa học và kỹ sư vào mùa hè. Vào mùa đông, số lượng giảm xuống còn 15 người.
Tham khảo
Trạm nghiên cứu Nam Cực
|
19837805
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20H%C3%B3a
|
Sông Hóa
|
Sông Hóa có thể chỉ một trong số các con sông sau đây:
Sông Hóa (Hải Phòng – Thái Bình): con sông nối sông Luộc với sông Thái Bình
Sông Hóa (Lạng Sơn – Bắc Giang): một phụ lưu của sông Thuơng
|
19837808
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3%20thuy%E1%BA%BFt%20Oppermann
|
Giả thuyết Oppermann
|
Giả thuyết Oppermann là bài toán chưa giải trong toán học về sự phân phối của các số nguyên tố. Nó có quan hệ gần gũi nhưng mạnh hơn giả thuyết Legendre, giả thuyết Andrica, và giả thuyết Brocard. Nó được đặt tên theo nhà toán học Đan Mạch Ludvig Oppermann, người đề xuất nó trong bài giảng chưa xuất bản trong tháng 3 năm 1877.
Phát biểu
Giả thuyết phát biểu rằng, cho mọi số nguyên x > 1, tồn tại ít nhất một số nguyên tố nằm giữa
x(x − 1) và x2,
và một số nguyên tố khác nằm giữa
x2 và x(x + 1).
Sử dụng hàm đếm số nguyên tố, ta cũng có thể phát biểu rằng giá trị hàm tại từng điểm mút của khoảng phải khác nhau Nghĩa là:
π(x2 − x) < π(x2) < π(x2 + x) for x > 1
trong đó π(x) đếm số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng x.
Hệ quả
Nếu giả thuyết, thì khoảng cách giữa hai số nguyên tố sẽ có cấp
.
Điều này có nghĩa rằng sẽ có ít nhất hai số nguyên tố nằm giữa x2 và (x + 1)2 (một trong khoảng x2 tới x(x + 1) và cái còn lại trong khoảng x(x + 1) tới (x + 1)2), mạnh hơn giả thuyết Legendre rằng có ít nhất một số nguyên tố trong khoảng này. Bởi có ít nhất một số không phải nguyên tố giữa hai số nguyên tố lẻ nên đồng thời cũng suy ra giả thuyết Brocard rằng có ít nhất bốn số nguyên tố nằm giữa bình phương của hai số nguyên tố lẻ. Đồng thời, nó cũng suy ra rằng khoảng cách lớn nhất có thể giữa hai số nguyên tố liên tiếp phải tỷ lệ với hai lần của bình phương của hai số đó, giống với phát biểu của giả thuyết Andrica.
Giả thuyết cũng đồng thời sẽ chỉ ra rằng sẽ có ít nhất một số nguyên tố nằm trong mỗi góc quay một phần tử của đường xoắn Ulam.
Trạng thái
Kể cả khi x bé, số số nguyên tố trong các khoảng của giá thuyết vẫn lớn hơn 1, cho thấy khả năng cao rằng giả thuyết đúng. Tuy nhiên, , giả thuyết Oppermann vẫn chưa được chứng minh.
Xem thêm
Định đề Bertrand
Giả thuyết Firoozbakht
Định lý số nguyên tố
Tham khảo
Giả thuyết về số nguyên tố
Vấn đề mở trong lý thuyết số
Phỏng đoán về số nguyên tố
|
19837833
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Biei%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Biei, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 9.668 người và mật độ dân số là 14 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 677,16 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19837840
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/AIM-54%20Phoenix
|
AIM-54 Phoenix
|
AIM-54 Phoenix là một loại tên lửa không đối không tầm xa, dẫn đường bằng radar của quân đội Mỹ, nó được mang trên máy bay tiêm kích hạng nặng Grumman F-14 Tomcat theo chùm 6 tên lửa.
Tên lửa Phoenix là loại tên lửa không đối không tầm xa duy nhất của Mỹ. Sự kết hợp của tên lửa AIM-54 và hệ thống điều khiển radar AN/AWG-9 trên F-14 Tomcat khiến nó trở thành tên lửa đầu tiên có khả năng tấn công tự động nhiều mục tiêu. Khi phóng tên lửa, phi công sử dụng tên hiệu "Fox Three".
Tên lửa AIM-54 cùng với F-14 Tomcat được Iran và Hải quân Hoa Kỳ sử dụng. Quân đội Mỹ đã ngừng sử dụng AIM-54 Phoenix từ năm 2004 và F-14 từ năm 2006. Chúng được thay thế bởi tên lửa không đối không AIM-120 AMRAAM, trang bị trên F/A-18 Hornet và F/A-18E/F Super Hornet với AIM-120D, phải đến phiên bản mới nhất của tên lửa AMRAAM mới đạt đến tầm bắn tối đa của Phoenix.
Tên lửa AIM-54 đã được sử dụng 62 lần trong không chiến, tất cả là từ Không quân Iran trong chiến tranh Iran-Iraq. Sau khi F-14 bị rút khỏi trang bị của Hải quân Mỹ, AIM-54 chỉ còn trong biên chế của Không quân Iran.
Phát triển
Bối cảnh
Từ năm 1951, Hải quân Mỹ đã phải nghĩ cách đối phó với nguy cơ từ máy bay ném bom Tupolev Tu-4K 'Bull' có khả năng mang tên lửa chống tàu hoặc bom hạt nhân.
Cuối cùng, trong giai đoạn đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh, nỗi lo sợ của Hải quân Mỹ đã được nhân lên gấp bội do sự xuất hiện các phi đội máy bay ném bom Tu-16 Badger và Tu-22M Backfire được trang bị tên lửa hành trình tầm xa, bay bám mặt biển, tốc độ cao, mang được đầu đạn hạt nhân và có khả năng chống lại các biện pháp đối phó điện tử. Những tên lửa này có khả năng tấn công bão hòa hệ thống phòng thủ của hạm đội Hải quân Hoa Kỳ và đe dọa các nhóm tàu sân bay.
Hải quân Hoa Kỳ khi đó cần một máy bay đánh chặn có phạm vi hoạt động xa, thời gian trên không lớn để bảo vệ các nhóm tác chiến tàu sân bay. Douglas F6D Missileer được Douglas đề xuất cho vai trò này và đánh chặn các mối đe dọa từ xa khỏi hạm đội tàu sân bay. Vũ khí đánh chặn dự kiến sẽ là Bendix AAM-N-10 Eagle, một oại tên lửa không đối không có tầm bắn xa chưa từng có khi so sánh với AIM-7 Sparrow. Tên lửa sẽ hoạt động ựa trên radar Westinghouse AN/APQ-81. Dự án tên lửa tuy nhiên đã bị hủy bỏ vào tháng Mười hai năm 1960.
AIM-54
Đầu những năm 1960, Hải quân Hoa Kỳ đã tiếp tục nỗ lực tìm giải pháp phòng thủ mới với việc sử dụng F-111B, cùng với đó là phải thiết kế một loại tên lửa mới. Cùng lúc đó, USAF đã Hủy bỏ dự án chế tạo máy bay đánh chặn tốc độ cao cất cánh từ mặt đất North American XF-108 Rapier và Lockheed YF-12, và bỏ dở dự án phát triển tên lửa AIM-47 Falcon khi ấy đang trong giai đoạn phát triển đến mức tương đối hoàn thiện, chỉ thiếu đi nền tảng phóng hiệu quả.
Tên lửa AIM-54 Phoenix, vốn được phát triển dành cho phi đội F-111B, có khung thân với bốn cánh vây hình chữ thập, là phiên bản thu nhỏ của AIM-47.
Chương trình F-111B bị hủy bỏ vào năm 1968. Hệ thống vũ khí là tên lửa AIM-54, cùng với radar AWG-9, đã được tích hợp sang dự án máy bay đánh chặn mới của Hải quân Mỹ, dự án VFX, mà sau này là máy bay tiêm kích hạng nặng F-14 Tomcat.
AIM-54 Phoenix cũng được sử dụng trên máy bay ném bom Avro Vulcan của Không quân Hoàng gia Anh. Việc này dẫn đến sửa đổi lớn đối với hệ thống radar của Vulcan.
Vào năm 1977, các tên lửa Phoenix đã được nâng cấp đáng kể lên phiên bản AIM-54C, giúp đối phó tốt hơn với các mối đe dọa tiềm tàng từ máy bay chiến đấu chống tàu và tên lửa hành trình chống tàu, nâng cấp khả năng lập trình lại bộ nhớ.
Sử dụng trong chiến đấu và so sánh với các hệ thống vũ khí khác
Tổ hợp vũ khí AIM-54/AWG-9 có khả năng theo dõi nhiều mục tiêu đồng thời (tới 24 mục tiêu) và phóng đồng thời tới 6 đạn tên lửa, tên lửa với khối lượng được trang bị đầu đạn thông thường.
Khi trang bị đủ 6 tên lửa AIM-54 lên F-14 sẽ đi kèm với các ray phóng tên lửa nặng hơn , gấp hai lần trọng lượng của tên lửa Sparrows, vượt quá tải trọng quay về cho phép (cũng sẽ bao gồm lượng nhiên liệu đủ cho quá trình cơ động). Do đó, việc mang sáu tên lửa Phoenix đồng nghĩa với cần phải bỏ ít nhất một vài tên lửa Phoenix nếu không được sử dụng. Trang bị thường thấy nhất là hai tên lửa Phoenix kế hợp với ba tên lửa AIM-7 Sparrow và hai tên lửa AIM-9 Sidewinder.
Hầu hết các máy bay khác của quân đội Mỹ đều sử dụng tên lửa tầm trung dẫn đường bằng radar bán chủ động AIM-7 Sparrow nhỏ hơn. Dẫn đường bằng radar bán chủ động đồng nghĩa với máy bay sẽ không thể tìm kiếm mục tiêu khác khi phải liên tục chiếu sáng mục tiêu cho tên lửa Sparrow, dẫn đến làm giảm khả năng nhận biết tình huống.
Radar của F-14 Tomcat có khả năng theo dõi tới 24 mục tiêu trong chế độ vừa bám mục tiêu vừa quét mục tiêu khác (track-while-scan), với radar AWG-9 có khả năng chọn ra sáu mục tiêu nguy hiểm nhất cho tên lửa. Phi công hoặc sĩ quan đánh chặn radar (radar intercept officer (RIO)) sẽ phóng tên lửa sau khi các thông số đánh chặn cho phép. Phi công phóng tên lửa nhưng radar sẽ vẫn tiếp tục tìm kiếm mục tiêu mới, dẫn đến duy tri nhận thức tình huống về không gian chiến đấu.
F-14 có khả năng chia sẻ thông tin với máy bay cảnh báo sớm E-2C Hawkeye qua đường kết nối Link 4. Hệ thống trao đổi dữ liệu Link 4A được giới thiệu trong chiến dịch Lá chắn sa mạc năm 1990, cho phép F-14 có khả năng liên kết dữ liệu với các máy bay chiến đấu khác, nâng cao hơn nữa khả năng nhận thức chiến trường. Phiên bản F-14D còn đi vào trang bị với JTIDS giúp phi công nhận thức tình huống tốt hơn nữa.
Chế độ dẫn đường
Tên lửa Phoenix có nhiều chế độ dẫn đường và nó đạt được tầm bay xa bằng cách cập nhật giữa hành trình từ radar AWG-9 trên F-14A/B radar (Radar APG-71 trên F-14D) khi nó bay hành trình ở độ cao và ở tốc độ gần Mach 5. Tên lửa bay hành trình ở độ cao này nhằm tối đa hóa tầm hoạt động do lực cản không khí giảm. Khi cách mục tiêu khoảng , nó sẽ bật radar của mình để tự dẫn đường ở pha cuối. Phạm vi giao chiến tối thiển là khoảng ; ở cự ly này, việc chiếu rọi bằng radar trên tên lửa sẽ bắt đầu ngay khi phóng tên lửa.
Các phiên bản
Nguyên mẫu của tên lửa Phoenix, đi vào trang bị trong Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1974, và cũng được xuất khẩu sang Iran trước khi cuộc khủng hoảng con tin Iran diễn ra năm 1979.
Phiên bản rút gọn của AIM-54A.
Phiên bản nâng cấp duy nhất được đưa vào sản xuất, sử dụng linh kiện điện tử kỹ thuật số thay cho linh kiện điện tử analog trên AIM-54A. Phiên bản này có khả năng tốt hơn trong việc đối phó với các mục tiêu bay thấp như tên lửa chống tàu. Phiên bản này thay thế cho AIM-54A, bắt đầu từ năm 1986.
AIM-54B Phiên bản đối đất.
Tên lửa của Iran phát triển dựa trên AIM-54, Iran đã giới thiệu nó trong cuộc duyệt binh tháng Chín năm 2013. Tháng Bảy năm 2018, theo như báo cáo của Jane, Iran đã bắt đầu đi vào chế tạo số lượng lớn tên lửa Fakour-90.
Vận hành
Hiện tại
– Islamic Republic of Iran Air Force
Đã loại biên
– United States Navy: Loại biên từ năm 2004
Đặc tính kỹ thuật
Đặc tính kỹ thuật của tên lửa:
Phân loại: tên lửa tầm xa, phóng từ trên không, tên lửa không đối không
Nhà thầu: Hughes Aircraft Company và Raytheon Corporation
Giá thành: khoảng 477.000 đô la Mỹ mỗi tên lửa
Động cơ: động cơ nhiên liệu rắn của Hercules Incorporated
Chiều dài:
Trọng lượng:
Đường kính:
Sải cánh:
Tầm bắn: hơn (tầm bắn chính xác không được tiết lộ)
Tốc độ: 3,000+ mph (4,680+ km/h)
Hệ thống dẫn đường: dẫn đường bằng radar bán chủ động/chủ động
Đầu đạn: proximity fuze, nổ mạnh
Trọng lượng đầu đạn:
Thời gian đưa vào triển khai: 1974
Thời gian loại biên (Hải quân Mỹ): 30 tháng Chín năm 2004
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài
NASA Dryden Flight Research Center – Phoenix Missile Hypersonic Testbed
Cold War air-to-air missiles of the United States
Raytheon Company products
Military equipment introduced in the 1970s
|
19837846
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Naie%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Naie, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Sorachi, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 5.120 và mật độ dân số là 58 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 88,05 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19837863
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%83n%20Kh%C3%A1nh%20v%C6%B0%C6%A1ng
|
Hiển Khánh vương
|
Hiển Khánh Vương () là cha của Lý Thái Tổ. Có rất ít thông tin về ông, vì ông không không được ghi chép nhiều trong lịch sử. Ngay cả tên thật của ông vẫn còn là một bí ẩn.
Tiểu sử
Dòng dõi họ nội của Lý Thái Tổ không được ghi chép lại trong chính sử của Việt Nam, chỉ biết cha ông là người gốc Phúc Kiến. Mộng Khê bút đàm của Thẩm Quát cũng ghi lại rằng Lý Thái Tổ vốn là người gốc Phúc Kiến.
Theo truyền thuyết, Lý Thái Tổ không có cha. Mẹ ông là người họ Phạm, mang thai và sau đó sinh Lý Thái Tổ tại chùa Cổ Pháp. Lý Khánh Văn (李慶文), là vị sư trụ trì chùa, đã nhận nuôi ông và đặt tên là Lý Công Uẩn.
Sau khi Lý Công Uẩn trở thành vua, ông đã truy tôn cha mình là Hiển Khánh vương (顯慶王).
Nghiên cứu hiện đại
Nhà sử học Trung Quốc Lý Thái Sơn (李泰山) đã phát hiện ra một ghi chép trong gia phả của gia tộc họ Lý ở An Hải, Phúc Kiến về cha của Lý Công Uẩn là Lý Thuần An (, 9 tháng 10 năm 921 – 29 tháng 11 năm 999). Các tư liệu lịch sử đều không thống nhất trong việc liệu mẹ của Lý Công Uẩn là Phạm Thị Ngà đã sinh ông ở Phúc Kiến hay Giao Chỉ.
Lý Thuần An được cho là con trai cả trong gia đình có hai anh em trai. Bố của ông là Lý Tung. Sau khi Lý Tung bị vu oan và bị xử tử vào năm 948 dưới thời nhà Hậu Hán, Lý Thuần An đã trốn tới Tuyền Châu và chịu sự quản thúc của Lưu Tùng Hiệu.
Ông sau đó tới sống tại trấn An Hải, Tuyền Châu và giữ chức thuỷ lục chuyển vận sứ (水陸轉運使). Một thời gian sau, ông từ chức, và tới Giao Chỉ (ngày nay là Việt Nam), Chăm Pa và Đế quốc Khmer bằng đường biển để buôn bán. Ông có một vài người con, trong đó có Lý Công Uẩn, sau này trở thành hoàng đế sáng lập của nhà Lý.
Gia đình
Vợ: Phạm thị (Minh Đức Thái hậu)
Con: Vũ Uy vương, Lý Công Uẩn, Dực Thánh vương
Xem thêm
Lý Thái Tổ
Vạn Hạnh
Tham khảo
Người không xác định
Người Việt Nam thế kỷ 10
Người Việt Nam thế kỷ 11
Người Bắc Ninh
Năm sinh không rõ
|
19837877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91ua%20%C3%B4%20t%C3%B4%20C%C3%B4ng%20th%E1%BB%A9c%201%20Abu%20Dhabi%202023
|
Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2023
|
Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2023 (tên chính thức là Formula 1 Etihad Airways Abu Dhabi Grand Prix 2023) là một chặng đua Công thức 1 dự kiến được tổ chức vào ngày 26 tháng 11 năm 2023 tại trường đua Yas Marina, Abu Dhabi, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và là chặng đua thứ 22 và cuối cùng của giải đua xe Công thức 1 2023.
Bối cảnh
Bảng xếp hạng trước cuộc đua
Sau giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (273 điểm) và Lewis Hamilton (232 điểm) với 549 điểm. Red Bull Racing dẫn đầu bảng xếp hạng các đội đua trước Mercedes (392 điểm) và Ferrari (388 điểm) với 822 điểm.
Lựa chọn bộ lốp
Nhà cung cấp lốp xe Pirelli sẽ cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.
Tường thuật
Buổi tập
Trong buổi tập đầu tiên, chín đội sẽ thay thế một trong những tay đua chính của đội với một tay đua dự bị của đội: Théo Pourchaire sẽ thay thế Chu Quán Vũ tại Alfa Romeo, Jack Doohan thay thế Esteban Ocon tại Alpine, Felipe Drugovich thay thế Fernando Alonso tại Aston Martin, Robert Shwartzman thay thế Charles Leclerc tại Ferrari, Oliver Bearman thay thế Nico Hülkenberg tại Haas, Pato O'Ward thay thế Lando Norris tại McLaren, Frederik Vesti thay thế Lewis Hamilton tại Mercedes, Jake Dennis và Isack Hadjar thay thế Max Verstappen và Sergio Pérez tại Red Bull Racing và Zak O'Sullivan thay thế Alexander Albon tại Williams. Ngoài ra, đây sẽ là lần đầu tiên Dennis và O'Sullivan tham gia một buổi tập Công thức 1. Sau khi buổi tập đầu tiên kết thúc, George Russell đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:26,072 phút trước Drugovich và Daniel Ricciardo.
Trong buổi tập thứ hai, Leclerc đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:24,809 phút trước Norris và Verstappen.
Trong buổi tập thứ ba, Russell đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:24,418 phút trước Norris và Piastri.
Vòng phân hạng
Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, Carlos Sainz Jr., cả hai tay đua Alfa Romeo và Logan Sargeant bị loại.
Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Verstappen là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Hamilton, Ocon, Lance Stroll, Albon và Ricciardo bị loại.
Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Verstappen giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:23,445 phút trước Leclerc và Piastri.
Cuộc đua
Sau khi bắt đầu cuộc đua, Leclerc đã thách thức Verstappen để giành vị trí dẫn đầu tại khúc cua đầu tiên, nhưng Verstappen cuối cùng vẫn giữ được vị trí đầu tiên của mình. Verstappen từ từ tạo ra khoảng cách giữa mình và Leclerc khiến Leclerc phải cầm chân cả hai tay đua McLaren ở phía sau. Sau đó trong cuộc đua, tất cả các tay đua xuất phát với bộ lốp trung bình đều vào làn pit để đổi lốp ngoại trừ Yuki Tsunoda, người đã dẫn đầu cuộc đua một vài vòng cho đến vào làn pit ở vòng đua thứ 23. Russell tiếp tục giữ vững vị trí thứ ba sau Leclerc. Trong mười vòng đua cuối cùng, Pérez đấu với Lando Norris để giành vị trí thứ tư. Cả hai đã va chạm với nhau và Pérez sau đó nhận một án phạt năm giây vì gây ra vụ va chạm này.
Leclerc đang chạy thoải mái ở vị trí thứ hai nhưng vị trí thứ ba của Russell và vị trí thứ chín của Lewis Hamilton đủ để giúp Mercedes dẫn trước Ferrari ba điểm trên bảng xếp hạng các đội đua. Mặc dù Carlos Sainz đang chạy ở vị trí thứ 10 vào thời điểm đó, nhưng anh ấy chỉ đổi lốp một lần và cuối cùng, anh sẽ đổi lốp một lần nữa khiến anh văng ra ngoài các vị trí tính điểm. Khi cuộc đua sắp kết thúc, Pérez đã vượt qua Russell nhưng Russell tiếp tục duy trì khoảng cách dưới năm giây để giữ vị trí thứ ba sau khi án phạt của Pérez được áp dụng. Leclerc cố tình giảm tốc để Pérez vượt qua và cuối cùng để về đích ở vị trí thứ hai, cùng với hy vọng đẩy Russell khỏi vị trí thứ ba. Tuy nhiên, Russell vẫn cố gắng bám sát Leclerc đủ gần và chính thức về đích ở vị trí thứ ba sau khi án phạt của Pérez được áp dụng.
Cuối cùng thì Verstappen giành chiến thắng cuộc đua này trước Leclerc và Russell. Mặc dù Pérez về đích ở vị trí thứ hai, anh bị tụt xuống vị trí thứ tư vì án phạt năm giây sau vụ va chạm với Norris. Các tay đua còn lại ghi điểm tại cuộc đua này là Pérez, Norris, Piastri, Alonso, Tsunoda, Hamilton và Stroll.
Kết quả
Vòng phân hạng
Chú thích
– Logan Sargeant không lập được thời gian tại vòng phân hạng. Anh được phép tham gia cuộc đua sau khi ban quản lý đồng ý.
Cuộc đua
Chú thích
– Bao gồm một điểm cho vòng đua nhanh nhất.
– Sergio Pérez về đích ở vị trí thứ 2 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 4 sau khi nhận một án phạt 5 giây vì gây ra vụ va chạm với Lando Norris.
– Carlos Sainz Jr. được xếp hạng vì đã hoàn thành hơn 90% của chiều dài tổng cộng của cuộc đua.
Bảng xếp hạng sau cuộc đua
Bảng xếp hạng các tay đua
Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này.
Các tay đua/đội đua được in đậm và đánh dấu hoa thị là nhà vô địch Giải đua xe Công thức 1 2023.
Bảng xếp hạng các đội đua
Tham khảo
Liên kết ngoài
Chặng đua Công thức 1 năm 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi
|
19837878
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shalwar%20kameez
|
Shalwar kameez
|
Shalwar kameez hay Salwar kameez (phiên âm tiếng Việt: San-va ca-mi) là một loại trang phục kết hợp truyền thống được mặc bởi phụ nữ và ở một số vùng được nam giới mặc, ở Nam Á và Trung Á.
Mô tả
Shalwar là loại quần rộng rãi giống như đồ ngủ. Chân rộng ở phía trên và hẹp ở mắt cá chân. Kameez là một chiếc áo sơ mi hoặc áo dài, thường có cổ kiểu phương Tây; tuy nhiên, đối với trang phục dành cho nữ, thuật ngữ này hiện được áp dụng một cách lỏng lẻo cho kurta không cổ hoặc có cổ đứng. Kameez cũng có thể được mặc cùng với đồ ngủ để tạo sự thoải mái hoặc thời trang. Một số kiểu kameez có đường may bên hông (được gọi là chaak), để hở bên dưới vòng eo, giúp người mặc tự do di chuyển hơn.
Chú thích
Xem thêm
Áo dài
Dhoti
Dupatta
Kurta
Sari
Trang phục Trung Á
Váy bút chì
Trang phục Afghanistan
Trang phục Ấn Độ
Trang phục Pakistan
Quần
Văn hóa Bangladesh
Văn hóa Ấn Độ
|
19837879
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marchantia%20quadrata
|
Marchantia quadrata
|
Marchantia quadrata là một loài Rêu trong họ Marchantiaceae. Loài này được Scop. mô tả khoa học đầu tiên năm 1772.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Marchantia
Thực vật được mô tả năm 1838
|
19837904
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BA%ABn%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20b%E1%BA%B1ng%20radar%20ch%E1%BB%A7%20%C4%91%E1%BB%99ng
|
Dẫn đường bằng radar chủ động
|
Active radar homing (ARH) hay còn gọi là Dẫn đường bằng radar chủ động là một phương pháp điều khiển tên lửa mà tên lửa bản thân nó có lắp bộ phận phát/thu tín hiệu radar (đối lập với dẫn đường bằng radar bán chủ động, mà chỉ có bộ phận thu tín hiệu và các thiết bị điện tử cần thiết để tìm và theo dõi mục tiêu tự động. Mã hiệu của NATO cho loại tên lửa này khi phóng là fox three.
Ưu điểm
Tên lửa mang đầu dò radar chủ động có hai ưu điểm chính:
Tên lửa bắt bám mục tiêu sẽ ngày càng tốt hơn khi tên lửa bay ngày càng gần đến mục tiêu, do đó việc bắt bám mục tiêu của tên lửa sẽ có độ chính xác cao hơn và có khả năng đối phó với nhiễu điện tử của đối phương. Tên lửa mang đầu dò radar chủ động có khả năng tiêu diệt mục tiêu lớn hơn, cùng với việc tên lửa áp dụng phương pháp điều khiển track-via-missile.
Do tên lửa hoạt động hoàn toàn độc lập ở pha cuối, máy bay mẹ không cần phải bật radar của mình trong pha cuối của tên lửa, và có thể bắt đầu tấn công mục tiêu mới. Đây còn gọi là tính năng Bắn và quên, có độ vượt trội về chiến thuật trong tác chiến không đối không.
Nhược điểm
Bởi phần lớn các loại tên lửa sử dụng động cơ rocket vốn không có khả năng tạo ra điện. Điều này có nghĩa là tên lửa đầu dò radar chủ động phải dựa trên nguồn điện từ pin cho bộ phát/thu tín hiệu radar, giới hạn nghiêm trọng năng lượng của tên lửa.
Tên lửa dẫn đường bằng radar chủ động sẽ đắt hơn đáng kể so với tên lửa dẫn đường bằng radar bán chủ động do radar phức tạp.
Dẫn đường radar bị động
Nhiều tên lửa có dẫn đường radar bị động có thêm khả năng sau: nếu như mục tiêu sử dụng nhiễu noise, tên lửa sẽ được dẫn đường đến mục tiêu bằng cách hướng thẳng vào nguồn phát nhiễu một cách bị động (home-on-jam).
Hoạt động
Tên lửa dẫn đường bằng radar chủ động thường sử dụng thêm nhiều phương pháp dẫn đường khác. Trong pha cuối tiếp cận mục tiêu tên lửa sử dụng đầu dẫn đường bằng radar chủ động do bộ phận thu/phát tín hiệu radar phải đủ nhỏ để lắp vừa trong tên lửa và radar được cấp điện từ pin, do đó, có ERP thấp, tầm của tên lửa bị giới hạn. Để khắc phục điều này, phần lớn các tên lửa sử dụng kết hợp điều khiển bằng lệnh với hệ thống định vị tuyến tính (inertial navigation system-INS) giúp tên lửa bay vào tiếp cận mục tiêu đủ gần để có thể tự phát hiện và bắt mục tiêu. Do đó tên lửa cần phải cập nhật dữ liệu dẫn đường cập nhật thông qua datalink từ máy bay mẹ cho đến khi tiếp cận được mục tiêu, trong trường hợp mục tiêu liên tục cơ động, tên lửa có khả năng bay đến vị trí đã định nhưng mục tiêu đã không còn ở vị trí đó. Đôi khi nền tảng phóng (đặc biệt là từ máy bay tiêm kích) sẽ gặp nguy hiểm khi phải giữ liên tục điều khiển tên lửa cho đến khi nó có thể tự hoạt động. Có thể sử dụng một máy bay khác dẫn đường cho tên lửa tiếp cận mục tiêu thay vì máy bay mang phóng tên lửa, ví dụ như sử dụng máy bay chiến đấu khác hoặc có thể là máy bay cảnh báo sớm.
Phần lớn các tên lửa chống tàu sử dụng dẫn đường bằng radar chủ động giai đoạn cuối.
Các tên lửa ARH chống mục tiêu mặt đất hoặc mặt biển sử dụng dẫn đường sóng milimet.
Một số loại tên lửa
Brazil
Tên lửa chống tàu MANSUP
Trung Quốc
DF-21
DF-25
DF-26
HN-2000
Tên lửa không đối không PL-12 và SD-10 (phiên bản xuất khẩu cho Pakistan)
Tên lửa không đối không PL-15
Tên lửa phòng không HQ-9
Châu Âu
Tên lửa không đối không Meteor (Với sự hợp tác giữa Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương Quốc Anh)
MBDA Future Cruise/Anti-Ship Weapon (Pháp, Anh)
CAMM (dòng tên lửa)
Aster (dòng tên lửa)
Pháp
MBDA Tên lửa chống tàu Exocet
Tên lửa không đối không và đất đối không MICA (missile)
Đức
Tên lửa chống tàu EADS AS.34 Kormoran
Ấn Độ
Astra BVRAAM
Iran
Tên lửa chống tàu Noor/Ghader
Tên lửa đất đối không Taer 2
Israel
Arrow (Israeli missile)
David's Sling
Derby (missile)
Python (missile)
Nhật
Type 80 Air-to-Ship Missile
Type 81 Surface-to-air Missile (SAM-1C only)
Type 88 Surface-to-Ship Missile
Type 90 Ship-to-Ship Missile
Type 91 Air-to-Ship Missile
Type 99 Tên lửa không đối không (Mitsubishi AAM-4, AAM-4Kai)
Type 03 Medium-Range Surface-to-Air Missile
Type 11 Surface-to-air Missile
Nga
Tên lửa không đối không tầm xa R-172 (NPO Novator và DRDO hợp tác phát triển)
Tên lửa không đối không tầm trung Vympel NPO R-27 (AA-10 Alamo) (Phiên bản R-27EA)
Tên lửa không đối không tầm xa Vympel NPO R-37 (AA-13 Arrow)
Tên lửa không đối không tầm xa Vympel NPO R-33 (AA-9 Amos)
Tên lửa không đối không tầm trung Vympel NPO R-77 (AA-12 Adder)
Tên lửa không đối đất Tactical Missiles Corporation Kh-31 (AS-17 Krypton) (phiên bản Kh-31A)
Tên lửa không đối đất Raduga Kh-15 (AS-16 Kickback) (Kh-15S)
Tên lửa không đối đất Raduga Kh-59 (AS-13 Kingbolt) (Kh-59MK)
Tên lửa không đối đất Tactical Missiles Corporation Kh-25 (AS-10 Karen) (Kh-25MA)
Tên lửa chống tàu Raduga KSR-5 (AS-6 Kingfish)
Tên lửa chống tàu Raduga KSR-2 (AS-5 Kelt
Tên lửa chống tàu Raduga Kh-22 (AS-4 Kitchen)
Tên lửa chống tàu NPO Mashinostroyeniya P-500 Bazalt (SS-N-12 Sandbox)
Tên lửa chống tàu NPO Mashinostroyeniya P-700 Granit (SS-N-19 Shipwreck)
Tên lửa chống tàu Raduga P-270 Moskit (SS-N-22 Sunburn)
Tên lửa chống tàu Tactical Missiles Corporation Kh-35 (SS-N-25 Switchblade)
Tên lửa chống tàu NPO Mashinostroyeniya P-800 Oniks (SS-N-26)
Tên lửa chống tàu NPO Novator 3M-54 Klub (SS-N-27 Sizzler)
Tên lửa phòng không tầm xa S-400 (phiên bản 40N6E, 9M96E2, 9M96E và 9M96)
Nam Phi
R-Darter
Thụy Điển
Saab Bofors Dynamics RBS-15 Tên lửa chống tàu
Đài Loan
Sky Sword II Tên lửa không đối không
Hsiung Feng I
Hsiung Feng II
Hsiung Feng IIE
Hsiung Feng III
Sky Spear
Wan Chien
Yun Feng
United States
Boeing Harpoon
Hughes Aircraft Company AIM-47 Falcon
Lockheed Martin AGM-114L Hellfire Longbow air-to-surface missile
Lockheed Martin MIM-104 Patriot (MIM-104F PAC-3)
Martin Marietta Pershing II
Raytheon AIM-54 Phoenix
Raytheon AIM-120 AMRAAM
Raytheon GBU-53/B
Raytheon RIM-174 Standard ERAM (Standard Missile 6)
Raytheon AGM-88 HARM (phiên bản E và G).
Tham khảo
Missile guidance
|
19837905
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n%202022
|
Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2022
|
Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2022 là chặng đua thứ 16 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 23/09/2022 đến ngày 25/09/2022 ở trường đua Motegi, Nhật Bản. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Jack Miller của đội đua Ducati Corse.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Chú thích:
– Aleix Espargaró giành được vị trí xuất phát thứ 6 nhưng do phải thay xe nên phải xuất phát từ đường pit. Ô xuất phát thứ 6 bị bỏ trống.
Bảng xếp hạng tổng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19837914
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Th%C3%A1i%20Lan%202022
|
Chặng đua MotoGP Thái Lan 2022
|
Chặng đua MotoGP Thái Lan 2022 là chặng đua thứ 17 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 30/09/2022 đến ngày 02/10/2022 ở trường đua Chang, Thái Lan. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Miguel Oliveira của đội đua Red Bull KTM.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng tổng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19837915
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A1ng%20Truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%20To%C3%A0n%20c%E1%BA%A7u%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
|
Mạng Truyền hình Toàn cầu Trung Quốc
|
Mạng Truyền hình Toàn cầu Trung Quốc (CGTN) là một trong ba nhánh của Tổng đài Phát thanh Truyền hình Trung ương do nhà nước quản lý và bộ phận quốc tế của Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV). Có trụ sở tại Bắc Kinh, CGTN phát sóng tin tức với nhiều ngôn ngữ. CGTN nằm dưới sự quản lý của Bộ Tuyên truyền Trung ương thuộc Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Các cơ quan truyền thông, các nhóm vận động nhà báo và những người khác đã cáo buộc CGTN thay mặt chính phủ Trung Quốc phát sóng tuyên truyền và phản thông tin cùng những lời bức cung.
Chú thích
Liên kết ngoài
Khởi đầu năm 2016 ở Trung Quốc
Đài truyền hình tiếng Anh
Khởi đầu năm 1997 ở Trung Quốc
Đài truyền hình Hà Lan
Mạng Truyền hình Toàn cầu Trung Quốc
|
19837924
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Track-via-missile
|
Track-via-missile
|
Track-via-missile hay TVM là phương pháp dẫn đường cho tên lửa kết hợp cả phương pháp dẫn đường bằng radar bán chủ động (SARH) và dẫn đường qua lệnh vô tuyến. Điều này giúp tránh gặp vấn đề đối với độ chính xác ở giai đoạn cuối thường gặp ở tên lửa điều khiển qua vô tuyến, đặc biệt khi dẫn đường cho tên lửa ở tầm xa. Nó được sử dụng trong đa số tên lửa Đất đối không tầm xa bao gồm cả MIM-104 Patriot.
Diễn giải
Dẫn đường theo lệnh điều khiển có ưu điểm là hầu hết các thiết bị điều khiển tên lửa đều nằm ở bệ phóng tên lửa, nơi mà kích thước và trọng lượng đều không quan trọng. Trong những hệ thống này, radar đảm nhận nhiệm vụ dẫn đường cho tên lửa nằm ở dưới mặt đất/trên tàu mà không có một hệ thống dẫn đường độc lập. Thông thường hai radar sẽ được sử dụng, một sử dụng để theo dõi mục tiêu và radar còn lại được sử dụng để theo dõi tên lửa, do đó chúng được điều khiển một cách độc lập và tách biệt với nhau. Một máy tính sau đó có nhiệm vụ tính toán vị trí và tốc độ của mục tiêu và tên lửa đánh chặn và tính toán điểm đánh chặn. Một máy tính khác sẽ tính toán dữ liệu điều khiển đầu vào để điều khiển tên lửa bay tới điểm đánh chặn và gửi các tín hiệu hiệu chỉnh đường bay cho tên lửa thông qua tín hiệu bức xạ vô tuyến, hệ thống cũng sử dụng radar theo dõi tên lửa làm radar truyền tín hiệu vô tuyến.
Do hệ thống có kết cấu chế tạo đơn giản, nên nó được sử dụng trên đa số các tên lửa đất đối không thời kỳ đầu. Tuy nhiên nó có những điểm hạn chế lớn, nhất là ở tên lửa có tầm bắn xa. Tín hiệu bức xạ sẽ tỏa rộng ra theo khoảng cách từ đài radar, tương tự như ánh sáng từ đèn flash, thông thường góc tỏa là 5 độ. Nghĩa là ở khoảng cách xa, vị trí mục tiêu sẽ giới hạn trong một khu vực rộng tới vài km. Một vài kỹ thuật mã hóa tín hiệu có thể làm hẹp tia bức xạ radar xuống còn góc tỏa là 0,1 độ, nhưng ở tầm xa, thì độ chính xác vẫn chỉ đạt đến vài trăm mét. Do có độ chính xác không cao nên tên lửa phòng không tầm xa đời đầu như MIM-14 Nike Hercules phải sử dụng đầu đạn rất lớn hoặc đầu đạn hạt nhân để đảm bảo tiêu diệt mục tiêu.
Vấn đề này có thể tránh được trong phương pháp dẫn đường radar bán chủ động (SARH). Trong các hệ thống tên lửa dẫn đường bằng pp SARH, trạm radar mặt đất vẫn sẽ luôn rọi mục tiêu bằng sóng bức xạ, nhưng tên lửa sẽ thu những tín hiệu phản xạ từ mục tiêu. Bức xạ phản xạ từ mục tiêu có dạng giống như hình côn, nhưng xuất phát từ mục tiêu. Bộ thu tín hiệu trên tên lửa sẽ dựa vào tín hiệu bức xạ này để lái tên lửa vào mục tiêu, cường độ tín hiệu càng mạnh khi càng gần mục tiêu nên sẽ càng chính xác khi tên lửa bay gần về mục tiêu. Có một vài vấn đề nhỏ khiến cho tên lửa chỉ có độ chính xác lớn nhất (đối với các thế hệ tên lửa SARH thế hệ đầu) là vài chục mét, nhưng độ chính xác của tên lửa sẽ không phụ thuộc vào khoảng cách đến mục tiêu. Đồng nghĩa với tên lửa mang đầu dò radar bán chủ động sẽ có kích thước đầu đạn bé hơn nhiều trong khi độ hiệu quả vẫn tương đương, nhưng tên lửa cũng sẽ đắt hơn do phải bổ sung các thiết bị điện tử.
Nhược điểm của phương pháp SARH là tín hiệu từ trạm radar mặt đất phải chứa một số mã hóa bổ sung để tên lửa có thể xác định được hướng của mục tiêu trong tín hiệu hình nón mà nó thu được. Để khắc phục điều này thì tên lửa sẽ sử dụng radar chiếu xạ mục tiêu riêng biệt.
Trong cả hai trường hợp, tên lửa phòng không cần tách biệt mỗi radar điều khiển một tên lửa, nghĩa là hệ thống sẽ chỉ có thể điều khiển được số tên lửa đồng thời bằng với số lượng radar điều khiển. Trong môi trường phóng nhiều tên lửa phòng không cùng lúc, đặc biệt là tàu chiến đối mặt với đòn tấn công đồng thời từ nhiều tên lửa chống tàu, có thể khiến hệ thống phòng không bị quá tải. Về lý thuyết, tên lửa có thể được bổ sung các thiết bị điện tử để cho phép nó tiếp tục bắt bám tín hiệu gián đoạn và do đó cho phép một đài radar duy nhất có thể điều khiển được nhiều tên lửa, nhưng các thiết bị điện tử những năm 1950 và 1960 đảm nhận được điều này rất đắt đỏ và cồng kềnh, thậm chí hệ thống điều khiển thường thiếu đi khả năng này. Đây là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng nhất là đối với Hải quân Mỹ và Hải quân Hoàng gia Anh.
Track-via-missile kết hợp cả hai khái niệm này để loại bỏ nhược điểm của chúng. Giống như trong SARH, bộ thu được đặt trên tên lửa và độ chính xác càng tăng lên khi nó tiếp cận mục tiêu. Thay vì xử lý tín hiệu cục bộ, tín hiệu sẽ được phát lại trên tần số khác và được thu nhận bởi bộ thu tín hiệu trên bệ phóng. Bệ phóng sau đó sẽ so sánh tín hiệu nó gửi đi với tín hiệu nhận lại từ tên lửa, và qua so sánh sẽ tính được vị trí tương đối của mục tiêu so với tên lửa. Nhưng vì trạm radar mặt đất biết vị trí thô của mục tiêu, và chi tiết của tín hiệu ban đầu nó gửi đi, nên nó không cần tín hiệu phải liên tục và do đó không yêu cầu một radar chiếu xạ riêng. Sau khi tính toán, những cập nhật về vị trí sẽ được gửi lên tên lửa và điều khiển tên lửa nhờ data link.
TVM đã giải quyết bài toán độ chính xác cho tên lửa dẫn đường bằng lệnh điều khiển radio, nhưng không giải quyết được bài toán bắt buộc phải có đài radar riêng. Về lý thuyết, tên lửa có thể được bổ sung các thiết bị điện tử để cho phép nó tiếp tục bắt bám tín hiệu gián đoạn và do đó cho phép một đài radar duy nhất có thể điều khiển được nhiều tên lửa, nhưng các thiết bị điện tử những năm 1950 và 1960 đảm nhận được điều này rất đắt đỏ và cồng kềnh. Việc tập trung chúng tại bệ phóng khiến dễ xử lý vấn đề hơn, đặc biệt là sau khi transistor cấp độ quân sự ra đời vào cuối những năm 1950. Điều này dẫn đến Hải quân Mỹ phát triển tên lửa RIM-50 Typhon cùng với bạn đồng hành là radar AN/SPG-59, là một radar PESA có khả năng điều khiển một loạt phóng tên lửa cùng lúc. Các vấn đề trong quá trình phát triển đã dẫn đến việc chương trình bị hủy bỏ.
Một ưu điểm khác của dẫn đường track-via-missile là không cần radar theo dõi mục tiêu, không cần dấu hiệu nhận biết mục tiêu nào đang bị theo dõi. Điều này giúp đơn giản hóa nhiệm vụ của các bộ thu cảnh báo sớm radar vốn chỉ báo mục tiêu nguy hiểm từ đó đưa ra biện pháp đánh trả, nhưng trong trường hợp của TVM tín hiệu radar tím kiếm là tất cả những gì mà ta cần và nó không thay đổi khi tên lửa được phóng đi.
Ưu điểm
Không giống như tên lửa dẫn đường bằng radar chủ động, tên lửa sẽ không bị phát hiện bởi máy bay đối phương do bản thân tên lửa không phát ra bức xạ nhằm vào máy bay mục tiêu. Bản thân mục tiêu vẫn sẽ biết và đưa ra cảnh báo phi công về việc nó đang được radar phòng không từ bệ phóng dưới mặt đất chiếu xạ, nhưng nó sẽ không biết chắc chắn rằng đang có tên lửa tới hây không. Trên các radar mảng pha hiện đại, có chùm tia hẹp và búp sóng phụ thấp khiến cho máy bay đối phương càng khó phát hiện ra hơn.
Không giống như tên lửa dẫn đường bằng radar bán chủ động, các thiết bị điện tử cần thiết để tính toán và dẫn đường cho tên lửa không cần phải được tích hợp vào tên lửa giúp giảm độ phức tạp, trọng lượng và chi phí của chúng. Cũng có thể tăng độ chính xác cho tên lửa bằng cách bổ sung các thuật toán đánh chặn phức tạp hơn. Hơn nữa, kíp điều khiển có thể hiệu chỉnh lại đường bay của tên lửa trong suốt quá trình đánh chặn cả ở giai đoạn dẫn đường cuối cùng.
Không giống như tên lửa dẫn đường bằng lệnh vô tuyến, do máy thu radar của tên lửa ở vị trí gần với mục tiêu hơn nhiều so với trạm trên mặt đất nên thông tin theo dõi mục tiêu chính xác hơn. Việc gây nhiễu và giả mạo tín hiệu cũng trở nên khó khăn hơn.
Trạm radar điều khiển dưới mặt đất cũng có thể sẽ tiếp nhận bức xạ radar phản xạ từ mục tiêu và kết hợp hai nguồn thông tin để tạo ra lộ trình đánh chặn. Điều này giúp tăng khả năng đối phó với đối kháng điện tử ECM.
Nhược điểm
TVM cũng có một số nhược điểm. Ví dụ là liên kết dữ liệu có thể bị kẹt. Ngoài ra, TVM đòi hỏi đài radar trên mặt đất phải hoạt động liên tục dẫn đến chúng dễ trở thành mục tiêu của tên lửa chống radar. Một nhược điểm khác so với dẫn đường bằng radar chủ động là tên lửa TVM phải dựa vào radar mặt đất để điều khiển, vì vậy nếu mục tiêu tạo được chướng ngại giữa tên lửa và radar mặt đất (ví dụ như một ngọn đồi) hoặc mục tiêu bay vượt ra khỏi phạm vi theo dõi của radar thì tên lửa sẽ không thể phát hiện bức xạ từ mục tiêu do đó không thể tiếp tục đánh chặn mục tiêu.
Ví dụ
Hầu hết các loại tên lửa phòng không tầm xa hiện nay đều sử dụng kỹ thuật track-via-missile như:
Hệ thống phòng không HQ-9 tầm trung, tên lửa dẫn đường radar bán chủ động.
Hệ thống phòng không MIM-104 Patriot
Tham khảo
Missile guidance
|
19837934
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/HEC%20Paris%20Innovation%20%26%20Entrepreneurship%20Center
|
HEC Paris Innovation & Entrepreneurship Center
|
HEC Paris Innovation & Entrepreneurship Center là một trung tâm được thành lập để thúc đẩy Đổi mới và Khởi nghiệp tại HEC Paris.
Chi tiết
Trung tâm là một phần của Station F và nằm ở cả Paris và Jouy-en-Josas. Khoảng 500 sinh viên đang theo học các lớp học với ba bằng cấp (Master of Science X-HEC Entrepreneurs ; Master of Science in Innovation and Entrepreneurship và Executive Master of Science in Innovation an Entrepreneurship) trong năm học. Trung tâm làm việc với Institut polytechnique de Paris (cụ thể hơn là Trường Bách khoa Paris) và Coursera. Các khóa học được giảng dạy tại trung tâm bao gồm Sáng tạo, Doanh nhân toàn cầu, Tiếp thị Doanh nhân, Sáng tạo doanh nghiệp mới, Tài chính mạo hiểm, Bán hàng doanh nghiệp và Doanh nhân xã hội.
Trung tâm có một số chương trình dành cho sinh viên đại học và sau đại học cũng như dành cho giảng viên để thúc đẩy khái niệm khởi nghiệp. Một số sáng kiến mà trung tâm khởi động đã nâng cao nhận thức về tinh thần kinh doanh và đổi mới trong cả cộng đồng Jouy-en-Josas và trên toàn quốc.
Sự kiện và hoạt động
Accélérateur ESS
Post incubation
HECTAR Accelerator L'Oréal Beauty Tech
Meta X L'Oréal Accelerator Icade startup studio
Incubateur HEC Paris
Data for Managers
HEC Startup Launchpad HEC Challenge +
HEC Challenge + Afrique
Igniting Innovation
CDL - Creative Destruction Lab
HEC Stand Up
MOOCs
Entrepreneurship & Digital Innovation
HEC–TUM Summer Program
Startup Sprint
Tham khảo
Đại học Paris
Đại học Île-de-France
Trường lớn Pháp
ParisTech
Đổi mới
Khởi đầu năm 2007 ở Pháp
|
19837950
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20Thunderstorm
|
Chiến dịch Thunderstorm
|
Chiến dịch Thunderstorm là mật danh cho hoạt động của Quân đội Singapore nhằm ngăn chặn dân tị nạn chạy trốn khỏi Việt Nam Cộng hòa sau khi Sài Gòn thất thủ năm 1975. Hoàng Căn Thành đảm nhận việc giám sát chiến dịch này.
Bối cảnh
Sau khi Sài Gòn thất thủ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, một số lượng lớn người dân miền Nam Việt Nam bắt đầu chạy trốn khỏi nước mình vì sợ bị đàn áp làm dấy lên làn sóng thuyền nhân Việt Nam.
Ngày 2 tháng 5 năm 1975, làn sóng tị nạn đầu tiên gồm 300 người đến vùng biển Singapore trên tàu Trường Hải. Tổng cộng có tới 8.355 người tị nạn được cho là đã vào vùng biển Singapore trong thời gian này cho đến ngày 14 tháng 5 năm 1975.
Trong lúc đấy, Chiến dịch Thunderstorm được MINDEF triển khai, khiến Singapore trở thành một trong những quốc gia đầu tiên ngăn chặn người tị nạn vào bờ biển của mình. Chiến dịch này có sự tham gia của Không quân Cộng hòa Singapore, Hải quân Cộng hòa Singapore, Quân đội Singapore và Cảnh sát Bảo vệ Bờ biển lúc bấy giờ (nay là Cảnh sát biển Singapore) cũng như nhiều cơ quan và cơ quan chính phủ khác nhau.
Mục tiêu
Mục tiêu chính của chiến dịch này là ngăn chặn, cách ly và phòng ngừa người tị nạn tiến vào và lưu trú tại Singapore.
Thi hành
Hải quân Cộng hòa Singapore và Cảnh sát biển Singapore được giao nhiệm vụ ngăn chặn và giam giữ tất cả các tàu tị nạn vừa đặt chân đến Singapore. Những khu vực kiểm dịch đã được thiết lập dọc theo các bãi biển của Marine Parade và Bệnh viện dã chiến SAF được triển khai đến Bedok Jetty nhằm cung cấp dịch vụ sơ cứu và các dịch vụ y tế thiết yếu khác.
Hải quân bèn cử toán kỹ thuật viên và kỹ sư đến kiểm tra và sửa chữa đoàn tàu tị nạn. Thực phẩm, nước uống, dầu đốt và các vật dụng khác được cung cấp để đảm bảo tàu khởi hành. Một số vũ khí cũng bị tịch thu từ các thuyền tị nạn.
Tham khảo
Quân sự Singapore
Người tị nạn Việt Nam
|
19837951
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20New%20Arrivals
|
Chiến dịch New Arrivals
|
Chiến dịch New Arrivals (29 tháng 4 – 16 tháng 9 năm 1975) là công cuộc tái định cư 130.000 người tị nạn Việt Nam từ các khu vực tổ chức trên quần đảo Thái Bình Dương đến Hoa Kỳ.
Sau cuộc di tản của người dân Việt Nam Cộng hòa trong ngày Sài Gòn thất thủ, Chiến dịch New Life và Babylift vào cuối thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, dân tị nạn được chuyển đến Hoa Kỳ để bắt đầu quá trình hòa nhập và tái định cư vào xã hội Mỹ. 251 chuyến bay C-141 và C-130 cùng 349 chuyến bay thương mại đã vận chuyển dân tị nạn đến các trại trên khắp nước Mỹ.
Các trại này bao gồm Trại Pendleton, California (mở cửa ngày 29 tháng 4), Fort Chaffee, Arkansas (mở cửa ngày 2 tháng 5), Căn cứ Không quân Eglin, Florida (mở cửa ngày 4 tháng 5) và Fort Indiantown Gap, Pennsylvania (mở cửa ngày 28 tháng 5). Chiến dịch này đã giúp di dời, hỗ trợ và che chở dân tị nạn cho đến khi các cơ quan dân sự có thể tái định cư họ.
Xem thêm
Chiến dịch Babylift
Chiến dịch New Life
Chiến dịch Frequent Wind
Tham khảo
Nhập cư vào Hoa Kỳ
Người tị nạn Việt Nam
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ thế kỷ 20
Hoạt động quân sự phi chiến đấu liên quan đến Hoa Kỳ
|
19837958
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Didier%20Lamkel%20Z%C3%A9
|
Didier Lamkel Zé
|
Didier Lamkel Zé (sinh ngày 17 tháng 9 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Cameroon hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Metz tại Ligue 1, theo dạng cho mượn từ Hatayspor tại Süper Lig.
Sự nghiệp thi đấu
Chamois Niortais
Sau khi gia nhập học viện của câu lạc bộ Lille từ câu lạc bộ L'École de Football Brasseries du Cameroun (EFBC) tại quê nhà, Lamkel Zé thăng tiến qua các đội trẻ của mình. Vào mùa hè năm 2016, anh chuyển đến Chamois Niortais và kết thúc ở đội 1. Lamkel Zé ra mắt tại Ligue 2 vào ngày 29 tháng 7 năm 2016, trong trận hòa 0–0 trước RC Lens, khi vào sân thay cho Romain Grange ở những phút cuối trận. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho riêng mình ở tuần kế tiếp, bàn gỡ hòa trong trận hòa 1-1 với Stade Lavallois.
Royal Antwerp
Vào ngày 24 tháng 7 năm 2018, Lamkel Zé gia nhập câu lạc bộ Antwerp tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ theo bản hợp đồng bốn năm với tùy chọn năm thứ 5.
Vào tháng 12 năm 2020, Lamkel Zé được cho là sẽ chuyển đến câu lạc bộ Panathinaikos tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp để tái hợp với huấn luyện viên László Bölöni. Không nhận được sự đồng ý từ câu lạc bộ, vào đầu tháng 1 năm 2021, Lamkel Zé đến sân tập của đội bóng trong áo đấu của Anderlecht, kình địch của Antwerp. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2021, sau sự phẫn nộ của người hâm mộ, Lamkel Zé đã đích thân xin lỗi trên trang Twitter chính thức của Antwerp.
Cho mượn tại Dunajská Streda
Vào ngày 6 tháng 9 năm 2021, Lamkel Zé ký hợp đồng cho mượn một năm với câu lạc bộ Dunajská Streda tại Giải vô địch quốc gia Slovakia.
Cho mượn tại Khimki
Vào ngày 7 tháng 2 năm 2022, Lamkel Zé gia nhập câu lạc bộ Khimki tại Giải bóng đá Ngoại hạng Nga theo dạng cho mượn. Tuy nhiên, hợp đồng cho mượn bị chấm dứt sớm do Nga xâm lược Ukraina.
Cho mượn tại Metz
Theo các quy định đặc biệt do FIFA đưa ra do chiến tranh, các cầu thủ người nước ngoài đang thi đấu tại Nga được phép ký hợp đồng ngắn hạn với các câu lạc bộ khác sau khi kỳ chuyển nhượng kết thúc. Vì vậy, ngày 1 tháng 4 năm 2022, Lamkel Zé chuyển đến Metz dưới dạng cho mượn theo những điều kiện đó.
Kortrijk
Vào ngày 23 tháng 8 năm 2022, Lamkel Zé ký hợp đồng 3 năm với câu lạc bộ Kortrijk.
Hatayspor
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2023, anh ký bản hợp đồng kéo dài 2 năm với câu lạc bộ Hatayspor tại Süper Lig.
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
Antwerp
Cúp bóng đá Bỉ: 2019–20
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1996
Nhân vật còn sống
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Cameroon
Cầu thủ bóng đá Cameroon ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Chamois Niortais F.C.
Cầu thủ bóng đá FC DAC 1904 Dunajská Streda
Cầu thủ bóng đá FC Khimki
Cầu thủ bóng đá FC Metz
Cầu thủ bóng đá Hatayspor
Cầu thủ bóng đá K.V. Kortrijk
Cầu thủ bóng đá Lille OSC
Cầu thủ bóng đá Royal Antwerp F.C.
Cầu thủ bóng đá Wydad AC
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Ligue 2
Cầu thủ Giải vô địch quốc gia Slovakia
Cầu thủ Giải bóng đá ngoại hạng Nga
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Botola
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thổ Nhĩ Kỳ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Nga
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Slovakia
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Maroc
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Cameroon
Cầu thủ bóng đá nam Cameroon
Tiền vệ bóng đá nam
|
19837963
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Charles%20Seeberger
|
Charles Seeberger
|
Charles D. Seeberger (14 tháng 5 năm 1857 – 13 tháng 9 năm 1931) là nhà phát minh người Mỹ. Năm 1899, ông gia nhập Công ty Thang máy Otis. Sự hợp tác giữa Seeberger và Otis đã giúp sản xuất ra loại thang cuốn kiểu bậc thang đầu tiên được sử dụng cho mục đích công cộng và đem ra lắp đặt tại Triển lãm Paris năm 1900, giúp phát minh này giành được giải nhất. Seeberger cuối cùng đành phải bán quyền sáng chế của mình cho hãng Otis vào năm 1910.
Liên kết ngoài
Tiểu sử Charles Seeberger tại Đại sảnh Danh vọng Nhà phát minh Quốc gia
Sinh năm 1857
Mất năm 1931
Otis Worldwide
Nhà phát minh Mỹ
Người Oskaloosa, Iowa
Nhà phát minh Mỹ thế kỷ 20
|
19837964
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Charles%20Sanna
|
Charles Sanna
|
Charles Sanna (9 tháng 11 năm 1917, Philadelphia – 13 tháng 3 năm 2019, Madison, Wisconsin) là nhà phát minh người Mỹ nổi tiếng nhờ phát minh ra loại sô-cô-la nóng ăn liền mang tên Swiss Miss.
Tham khảo
Sinh năm 1917
Mất năm 2019
Nhà phát minh Mỹ
Người thọ bách niên Mỹ
Người thọ bách niên nam
Nhà phát minh Mỹ thế kỷ 20
Người Menomonie, Wisconsin
|
19837965
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20%C3%9Ac%202022
|
Chặng đua MotoGP Úc 2022
|
Chặng đua MotoGP Úc 2022 là chặng đua thứ 18 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 14/10/2022 đến ngày 16/10/2022 ở trường đua Phillip Island, Úc. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Alex Rins của đội đua Suzuki.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19837967
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bifuka%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Bifuka, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Nakagawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.145 người và mật độ dân số là 6,2 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 672,14 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Phó tỉnh Kamikawa
Nayoro
Otoineppu
Nakagawa
Horokanai
Phó tỉnh Okhotsk
Ōmu
Phó tỉnh Sōya
Esashi
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19837993
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%9Bp%20%28l%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20t%E1%BA%ADp%20h%E1%BB%A3p%29
|
Lớp (lý thuyết tập hợp)
|
Trong lý thuyết tập hợp và các ứng dụng của nó quanh toán học, lớp là họ của các tập (và đôi khi trên cả các đối tượng toán học khác) và được định nghĩa rõ ràng bằng một tính chất mà tất cả các phần tử của nó đều có. Lớp hoạt động giống họ tập hợp nhưng được định nghĩa khác đi để tránh nghịch lý Russell (xem ). Định nghĩa chuẩn xác của "lớp" phụ thuộc vào ngữ cảnh của nền tảng. Khi làm việc với lý thuyết tập hợp Zermelo–Fraenkel, thuật ngữ của lớp không có hình thức, trong khi trong các lý thuyết tập hợp khác, chẳng hạn như trong lý thuyết tập hợp von Neumann–Bernays–Gödel, có tiên đề của "lớp chân chính", tức là các thực thể không phải phần tử của những thực thể khác.
Lớp mà không phải tập hợp (chưa có hình thức trong Zermelo–Fraenkel) được gọi là lớp chân chính, và lớp đồng thời là tập hợp đôi khi được gọi là lớp nhỏ (hay lớp bé). Ví dụ chẳng hạn, lớp tất cả số thứ tự, và lớp tất cả các tập hợp là lớp chân chính trong nhiều hệ hình thức.
Trong lý thuyết tập hợp của Quine, thuật ngữ "lớp sơ đẳng" được dùng thay vì "lớp chân chính" để nhấn mạnh rằng trong hệ thống mà ông đang xét, một số lớp không thể là phần tử, và do đó là phần tử cuối trong bất kỳ xích liên thuộc mà chúng thuộc về.
Ngoài lý thuyết tập hợp, từ "lớp" đôi khi được dùng cùng nghĩa với "tập hợp". Cách dùng này bắt nguồn từ giai đoạn lịch sử mà các lớp và các tập hợp chưa được phân biệt như trong ngày nay. Nhiều thảo luận về "lớp" trong thế kỷ 19 và trước đó thực ra đang nhắc tới tập hợp, hoặc do không xét tới việc một số lớp có thể không phải là tập hợp,
Các ví dụ
Họ tất cả các cấu trúc đại số của một kiểu cho trước thường sẽ là lớp chân chính. Các ví dụ bao gồm lớp của tất cả các nhóm, lớp của tất cả các không gian vectơ, và nhiều ví dụ khác. Trong lý thuyết phạm trù, một phạm trù mà các vật lập thành lớp chân chính (hay có họ các cấu xạ lập thành lớp chân chính) được gọi là phạm trù lớn.
Số surreal là lớp chân chính của các đối tượng sở hữu tính chất của trường.
Trong lý thuyết tập hợp, nhiều họ tập hợp được phát hiện là lớp chân chính. Các ví dụ bao gồm lớp các tập hợp, lớp các số thứ tự và lớp các số lực lượng.
Một cách để chứng minh lớp là lớp chân chính đó là đặt nó trong song ánh với lớp tất cả các số thứ tự. Phương pháp này được sử dụng trong bài chứng minh không có dàn tự do đầy đủ trên ba hay nhiều hơn số phần tử sinh.
Các nghịch lý
Các nghịch lý trong lý thuyết tập hợp có thể giả thích bằng cách giả dụng ngầm nhưng mâu thuẫn rằng "tất cả các lớp đều là tập hợp". Với nền tảng vững chắc, các nghịch lý thay vì đó gợi ý rằng có các bài chứng minh rằng một số lớp là lớp chân chính (tức chúng không phải tập hợp). Ví dụ, nghịch lý Russell đề xuất chứng minh lớp tất cả các tập hợp không chứa chính nó là lớp chân chính, nghịch lý Burali-Forti thì cho rằng lớp tất cả các số thứ tự là lớp chân chính. Các nghịch lý không xuất hiện với lớp vì không có lớp chứa lớp. Bởi ngược lại, chẳng hạn ta có thể định nghĩa lớp của các lớp không chứa chính nó, dẫn đến nghịch lý Russell cho các lớp. Mặt khác, một kết tụ (conglomerate), có thể chứa các lớp chân chính, song lý thuyết của các kết tụ vẫn còn chưa được xác định tốt.
Lớp trong lý thuyết tập hợp hình thức
Lý thuyết tập hợp ZF không hình thức hoá thuật ngữ lớp, nên mỗi công thức chứa lớp phải được rút gọn cú pháp về công thức không chứa lớp. Ví dụ, ta có thể rút gọn câu thành . Về ngữ pháp, trong ngôn ngữ meta, các lớp có thể mô tả là các lớp tương đương của công thức logic: Nếu là cấu trúc diễn giải ZF, thì ngôn ngữ đối tượng "công thức xây dựng lớp" được diễn giải trong bằng họ các phần tử trong miền của sao cho thoả mãn; do đó lớp có thể coi là tập tất cả các vị từ tương đương với (bao gồm cả ). Cụ thể, ta có thể đồng nhất "lớp tất cả các tập hợp" với tập tất cả các vị từ tương đương với
Bởi lớp không có hình thức trong ZF, các tiên đề của ZF không áp dụng trực tiếp cho lớp. Tuy nhiên, nếu giả định trước số thứ tự không đạt được thì tập các hạng nhỏ hơn lập thành mô hình của ZF (tức vũ trụ Grothendieck), và các tập con của nó có thể coi là "lớp".
Trong ZF, khái niệm của hàm số có thể tổng quát hoá cho các lớp. Hàm của lớp không phải hàm số như thông thường, bởi nó không phải tập hợp;thay vì đó, nó là công thức với tính chất cho bất kỳ tập , không có nhiều hơn một tập hợp sao cho cặp thoả mãn Ví dụ, hàm lớp ánh xạ các tập hợp sang kế tiếp của nó có thể biểu diễn bằng công thức Ý cặp được sắp thoả mãn có thể thay bằng
Một hướng tiếp cận khác lấy từ các tiên đề von Neumann–Bernays–Gödel (NBG); lớp được coi là các vật cơ bản trong lý thuyết này, và tập hợp được định nghĩa là lớp là phần tử của một số lớp khác.Tuy nhiên, tiên đề tồn tại lớp trong NBG được giới hạn sao cho chúng chỉ định lượng trên các tập hợp, thay vì trên toàn bộ các lớp. Điều này dẫn tới NBG là mở rộng bảo toàn của ZF.
Lý thuyết Morse–Kelley cũng coi lớp là các vật cơ bản như NBG, nhưng cho phép định lượng trên các lớp chân chính trong tiên đề tồn tại lớp. Điều này khiến cho MK mạnh hơn nghiêm ngặt so với NBG và ZF.
Trong các lý thuyết tập hợp khác, chẳng hạn như nền tảng mới hay lý thuyết của các nửa tập hợp, khái niệm "lớp chân chính" vẫn có ý nghĩa (không phải mọi lớp là tập hợp) nhưng tiêu chuẩn để là tập hợp chưa được đóng khi xét tập con. Lấy ví dụ như các lý thuyết tập hợp đi kèm tập phổ dụng có lớp chân chính là lớp con của tập hợp.
Chú thích
Tham khảo
Raymond M. Smullyan, Melvin Fitting, 2010, Set Theory And The Continuum Problem. Dover Publications .
Monk Donald J., 1969, Introduction to Set Theory. McGraw-Hill Book Co. .
Liên kết ngoài
Lý thuyết tập hợp
|
19837995
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93%20T%C5%8Dfutsu
|
Hồ Tōfutsu
|
là hồ thuộc thành phố Abashiri và thị trấn Koshimizu, Hokkaidō, Nhật Bản.
Tham khảo
Đầm phá tại Nhật Bản
Vùng đất Ramsar ở Nhật Bản
|
19837998
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Malaysia%202022
|
Chặng đua MotoGP Malaysia 2022
|
Chặng đua MotoGP Malaysia 2022 là chặng đua thứ 19 của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 21/10/2022 đến ngày 23/10/2022 ở trường đua Sepang, Malaysia. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19838017
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Valencia%202022
|
Chặng đua MotoGP Valencia 2022
|
Chặng đua MotoGP Valencia 2022 là chặng đua thứ 20, cũng là chặng đua cuối cùng của mùa giải đua xe MotoGP 2022. Chặng đua diễn ra từ ngày 04/11/2022 đến ngày 06/11/2022 ở trường đua Ricardo Tormo, Tây Ban Nha. Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Alex Rins của đội đua Suzuki.
Francesco Bagnaia chính thức đoạt chức vô địch mùa giải đua xe MotoGP 2022 sau khi về đích ở vị trí thứ 9.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng chung cuộc
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2022
|
19838018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Konno%20Ayuri
|
Konno Ayuri
|
là một cựu nữ diễn viên Nhật Bản được biết đến với vai Amy Yuzuki/Kyoryu Pink trong loạt phim Super Sentai Zyuden Sentai Kyoryuger năm 2013. Tháng 7/2018, cô tuyên bố giã từ sự nghiệp diễn xuất để theo đuổi cơ hội ngoài làng giải trí.
Ayuri tạm thời trở lại trong tập 32 (8/10/2023) và tập 33 (15/10/2023) của series Ohsama Sentai King-Ohger để kỷ niệm 10 năm của Kyoryuger.
Chú thích
Sinh năm 1997
Nữ diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21
Nhân vật còn sống
|
19838024
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Kala%C5%A1ma
|
Tiếng Kalašma
|
Tiếng Kalašma là một ngôn ngữ đã thất truyền thuộc ngữ tộc Tiểu Á. Ngôn ngữ này được sử dụng vào cuối thời đại đồ đồng ở Kalašma, một khu vực nằm trên rìa phía Tây Bắc của Đế quốc Hitti (thuộc khu vực xung quanh tỉnh Bolu của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Julius-Maximilians-Universität Würzburg đã công bố các phát hiện về tiếng Kalašma vào năm 2023 dựa trên phiến đất sét khai quật tại Hattusa (hiện nằm trong kho lưu trữ Bogazköy). Phần giới thiệu bằng tiếng Hitti của ngôn ngữ này mô tả nó như "ngôn ngữ của vùng đất Kalašma". Vào thời điểm công bố, các văn bản trên phiến đá vẫn chưa được giải mã. Phân loại nhóm ngôn ngữ của tiếng Kalašma vẫn chưa rõ ràng, có thể thuộc nhóm Luwi. Bản dịch của các văn bản sẽ được công bố khi quá trình giải mã hoàn tất (Dự kiến vào năm 2024).
Tham khảo
Ngữ tộc Tiểu Á
Ngôn ngữ không còn ở châu Á
|
19838028
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Desmond
|
Bá tước xứ Desmond
|
Bá tước xứ Desmond (tiếng Ireland: Iarla Dheasumhan có nghĩa là Bá tước xứ Nam Munster) là một tước hiệu trong Đẳng cấp quý tộc Ireland đã được tạo ra 4 lần kể từ năm 1329. Tước hiệu này lần đầu tiên được trao cho Maurice FitzGerald, Nam tước Desmond thứ 4, một lãnh chúa Hiberno-Norman ở Tây Nam Ireland và nó được con cháu của ông nắm giữ cho đến năm 1583 khi họ nổi dậy chống lại Vương quyền Anh trong Cuộc nổi dậy Desmond. Sau hai lần tái lập tước hiệu này trong thời gian ngắn vào đầu những năm 1600, tước hiệu Bá tước xứ Desmond đã được gia tộc Feilding ở Warwickshire, Anh nắm giữ từ năm 1628. Người nắm giữ hiện tại là Alexander Feilding, Bá tước thứ 12 xứ Denbigh và Bá tước thứ 11 xứ Desmond (tạo ra lần thứ 4).
Chú thích
Tham khảo
– Dacre to Dysart
Bá tước trong Đẳng cấp quý tộc Ireland
Bá tước Ireland
Gia tộc Feilding
Triều đại FitzGerald
Đẳng cấp quý tộc Ireland
|
19838034
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Daehak-ro
|
Daehak-ro
|
Daehak-ro (Tiếng Hàn: 대학로, Hanja: 大學路) là con đường nối 82-1 Jongno 5-ga (Giao lộ Jongno 5-ga), Jongno-gu, Seoul đến 56 Hyehwa-dong (Vòng xoay Hyehwa-dong). Nó còn dùng để chỉ những con phố sinh hoạt văn hóa nghệ thuật ở khu vực xung quanh. Đoạn từ Nút giao thông Jongno 5-ga đến Nút giao Ihwa có 4 làn xe, đoạn từ Nút giao thông Ihwa đến Vòng xoay Hyehwa-dong có 6 làn xe ở cả hai hướng. Nó được đặt tên như vậy vì trước đây trường Cao đẳng Nghệ thuật Tự do của Đại học Quốc gia Seoul nằm trên con đường này.
Lịch sử
26 tháng 11 năm 1966: Đoạn từ 'Ssanglim-dong (106 Ssanglim-dong, Jung-gu) đến Vòng xoay Hyehwa-dong (132 Hyehwa-dong, Jongno-gu)' được đặt tên là Daehak-ro
Năm 1981: Mở rộng điểm xuất phát ra phía trước công viên Jangchungdan
7 tháng 11 năm 1984: Đoạn giữa Jongno 5-ga và Công viên Jangchungdan được tách thành Trung tâm Huấn luyện.
22 tháng 6 năm 2003: Đoạn giữa Nút giao thông Jongno 5-ga và Ihwa được chuyển thành đường một chiều hướng về Hyehwa-dong, và đoạn giữa Nút giao thông Ihwa và Vòng quay Hyehwa-dong được chuyển thành làn đường riêng biệt
Năm 2009: Chuyển đổi đoạn giao lộ Jongno 5-ga đến Ewha thành làn đường khác biệt
22 tháng 4 năm 2010: Thông báo địa chỉ tên đường Jongno-gu
Các điểm dừng chính
Seoul
Jongno-gu (Jongno 5-ga - Hyoje-dong - Yeonji-dong - Yeongeon-dong - Dongsung-dong - Myeongryun 4-ga - Hyehwa-dong)
Lộ trình
Thành phố Seoul được nêu chỉ nhằm mục đích quản lý .
Mùa xanh nhạt (■): Đoạn Tuyến đường thành phố Seoul số 29
Các tuyến đường phụ
● : Áp dụng cho tất cả các phần
▲ : Áp dụng cho một số phần
✖ : Không áp dụng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Daehak-ro (Seoul) (Seoul)
Đường ở Seoul
Phường của Jongno-gu
Phường của quận Seodaemun
|
19838046
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kato%20Svanidze
|
Kato Svanidze
|
Ekaterine "Kato" Svimonis asuli Svanidze (2 tháng 4 năm 1885 – 22 tháng 11 năm 1907) là vợ đầu của Iosif Vissarionovich Stalin và mẹ đẻ của đứa con trai trưởng Iakob Jughashvili của ông.
Nguyên quán ở Racha, miền tây Gruzia, Svanidze chuyển lên Tiflis cùng với anh chị em trong nhà và làm nghề may vá ở đây. Em trai cô, Aleksandre, là một người thân tín của Stalin, khi đó vẫn đang dùng cái tên khai sinh Ioseb Jughashvili. Năm 1905, Aleksandre làm mối cho Svanidze và Stalin; vào năm 1906, hai người làm đám cưới. Cô sinh đứa con đầu lòng Iakob cho Stalin một vài tháng sau và cặp vợ chồng chuyển tới Baku để tránh các vụ bắt bớ của chính quyền Sa hoàng. Svanidze không may ngã bệnh do thời tiết nơi đây và phải trở về Tiflis vào năm 1907, song qua đời ít lâu sau vì typhus hoặc lao phổi. Cái chết của cô đã tác động rất lớn đến Stalin, người mà vốn rất quan tâm đến vợ. Ông bỏ mặc Iakob cho gia đình bên ngoại nuôi nấng và hiếm khi về thăm con, dốc hết tâm lực cho cách mạng.
Gia quyến Svanidze
Ekaterine Svanidze sinh ra ở Baji, một ngôi làng nhỏ tại Racha, Gruzia, khi đó thuộc Tỉnh Kutais bên trong Đế quốc Nga. Cha cô là Svimon, một công nhân đường sắt và địa chủ; mẹ cô là Sepora, hậu duệ của một gia đình tiểu quý tộc Gruzia. Cô lớn lên cùng người chị gái Aleksandra (Sashiko; k. 1878–1936), cô em gái Maria (Mariko; 1888–1942), và cậu em trai Aleksandre (Alyosha; 1886–1941).
Thiếu thời ở Tiflis
Trong khi bố mẹ họ chuyển đi Kutaisi, bốn chị em nhà Svanidze chuyển lên Tiflis (nay là Tbilisi) và sống chung trong một căn nhà trên Quảng trường Erivan (nay là Quảng trường Tự do) phía sau trụ sở Quân khu Nam Kavkaz. Alyosha là thành viên chi nhánh Gruzia của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (Bolshevik) và là thân tín của Ioseb Jughashvili (sau này lấy tên Iosif Stalin). Ba chị em nhà Svanidze làm thuê cho một thủ công xưởng thuộc sở hữu của thợ may người Pháp, Bà Hervieu. Tại đây, họ may vá quân trang phục cho giới sĩ quan quân đội và các phu nhân của họ. Người chị cả Sashiko về sau cưới Mikheil Monaselidze, một đảng viên Bolshevik khác, quen Jughashvili từ hồi còn học ở Chủng viện Tâm linh Tbilisi.
Năm 1905, Alyosha mời Jughashvili về sống chung cùng ba chị gái và anh rể của ông. Vì thủ công xưởng thường được ghé thăm bởi khách hàng thượng lưu của ba chị em Svanidze, cộng với vị trí trung tâm của nó trong thủ phủ, nơi đây lý tưởng để trốn tránh cảnh sát. Monaselidze sau này kể lại: "Chỗ chúng tới vượt trên sự nghi ngờ của cảnh sát. Trong khi những anh bạn của tôi đang làm những việc phi pháp trong một căn phòng nào đó, thì vợ tôi đang ướm thử quần áo cho các bà phu nhân tướng quân ở phòng bên." Nhiều khả năng Jughashvili mới gặp gỡ Svanidze tại thời điểm này, song cũng có thể là trước đó vì ông cũng từng lẩn trốn trong nhà bố mẹ cô.
Jughashvili không lâu sau nảy sinh tình cảm với Svanidze; ông về sau có kể cho con gái khác mẹ Svetlana rằng, Svanidze "rất ngọt ngào và xinh đẹp: cô ấy làm tan chảy trái tim ta." Theo Iremashvili, bản thân Svanidze "ngước nhìn [Jughashvili] 'như một á thần' nhưng cô hiểu anh ta. Cô bị hút hồn bởi [Jughashvili], và mê hoặc trước những ý tưởng của anh ta." Theo bình chú của Montefiore, Svanidze là một người phụ nữ rất có học thức và năng lực. Trên thực tế, cô tham gia chủ động vào phong trào Bolshevik, tổ chức gây quỹ cho Đảng Dân chủ Xã hội và cứu giúp các nhà cách mạng bị thương.
Hôn nhân
Mùa hè năm 1906, Svanidze và Jughashvili quyết định tiến tới hôn sự. Lúc bấy giờ, cô mới mang thai được ít lâu; không rõ Svanidze có biết mình bụng mang dạ chửa từ trước hay không, tuy nhiên thì nhà sử học Stephen Kotkin cho rằng đây là lý do hai người muốn đám cưới. Giống thân mẫu Jughashvili, Keke Geladze, Svanidze rất sùng đạo và muốn tổ chức đám cưới theo nghi lễ tôn giáo trong nhà thờ; Jughashvili đồng ý mặc dù bản thân vô thần. Việc tìm kiếm một linh mục cử hành lễ cưới gặp nhiều trở ngại, sở dĩ vì Jughashvili sử dụng giấy tờ mạo danh "Galiashvili". Monaselidze rốt cuộc tìm được một linh mục tên là Kita Tkhinvaleli, kỳ thủy cũng là bạn của Jughashvili tại Chủng viện. Tuy nhiên, Tkhinvaleli chỉ đồng ý nếu làm vào buổi đêm. Lễ cưới theo đó được khai mạc vào lúc 2 giờ đêm ngày 16 tháng 7 năm 1906 trong một nhà thờ kế bên nơi ở của Svanidze.
Bữa đêm nhẹ được tổ chức để thiết đãi mười vị khách dự tiệc; tiền bối Bolshevik của Jughashvili, Mikhail Grigoryevich Tskhakaya, có mặt tại đây và đảm nhận danh hiệu tamada của bữa tiệc (người nâng cốc chúc rượu trong các buổi lễ ở Gruzia). Jughashvili không mời mẹ đến và cũng chẳng báo trước cho bà về hôn sự. Sau đám cưới, một sĩ quan cảnh sát có ghé vào ngôi nhà nhưng nhanh chóng rời đi sau khi được Jughashvili hối lộ.
Mặc dù luật pháp quy định phải khai nhận hôn phối trên hộ chiếu nội địa, Svanidze không tuân thủ, bề ngoài là để bảo vệ Jughashvili, người mà đang nằm trong diện theo dõi của Okhrana, lực lượng cảnh sát mật của Sa hoàng. Cô tiếp tục hỗ trợ các hoạt động của Đảng Bolshevik, tiếp nhận một liên lạc viên từ Moskva vào tháng 11 năm 1906. Người này hóa ra là điệp viên hai mang của chính quyền và sau khi hắn ta rời đi, Svanidze và anh họ của cô, Spiridon Dvali, bị bắt giữ vào ngày 13 tháng 11. Svanidze bị cầm cố cùng Dvali với tội danh âm mưu chế tạo bom, lĩnh án tử. Sau sáu tuần tù ngục, Svanidze được phóng thích vì lý do sức khỏe (mang thai bốn tháng) và nhờ sự giúp đỡ của các khách hàng thượng lưu của Sashiko; Dvali cũng nhận ân giảm. Tuy nhiên, Svandize không được phép về nhà mà phải tá túc nhà cảnh sát trưởng hai tháng. Jughashvili thỉnh thoảng thăm cô trong khoảng thời gian này vì viên sĩ quan không biết mặt ông.
Ngày 18 tháng 3 năm 1907, Svanidze sinh Iakob trong sự có mặt của Jughashvili và bà Geledze. Jughashvili tiếp tục hoạt động cách mạng sau khi Yakov chào đời, hiếm khi chơi đùa với con và gọi nó bằng biệt danh thân mật là "Patsan" (nhóc con). Vài tháng sau, Jughashvili tham gia vào vụ cướp nhà băng Tiflis trứ danh. Gia đình Jughashvili do vậy phải chuyển tới Baku để tránh bị bắt. Họ thuê một "căn nhà Tartar với cái trần thấp nằm trên bán đảo Bailov" ngoại ô gần bờ biển. Svanidze cố gắng kiếm việc, nhưng vì phải trông con nhỏ nên chuyện này coi như không thành.
Ngã bệnh và qua đời
Jughashvili thường xuyên vắng nhà, để Svanidze một mình ở chốn đất khách quê người. Căng thẳng vì lo nghĩ cho chồng, cũng như từ sự cô đơn và khí hậu ấm nồm, đã ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của Svanidze. Gia đình khuyên cô quay về Racha, nơi khí hậu ôn hòa hơn, để giữ sức và ở cạnh người thân, nhưng cô nhất quyết không chịu bỏ chồng. Tới tháng 10, tình trạng sức khỏe của Svanidze đã càng trở xấu; Jughashvili lo đến độ phải đưa vợ về Tiflis, nhưng ông nhanh chóng phải quay lại Baku. Trên chuyến hành trình dài 13 tiếng đồng hồ về Gruzia, Svanidze uống phải nước bẩn và có lẽ bị nhiễm typhus. Tại Tiflis, cô biểu hiện chứng xuất huyết đường ruột. Jughashvili có về thăm vợ một lần, nhưng chỉ ba tuần sau khi ông rời Tiflis thì vào ngày 22 tháng 11 năm 1907, Svanidze qua đời.
Cái chết của Svanidze được thông cáo trên tờ Tsqaro (წყარო, "Nguồn cội"), và một tang lễ đã được cử hành vào lúc 9 giờ sáng ngày 25 tháng 11 tại cùng nhà thờ nơi cô kết hôn với Jughashvili. Svanidze sau đó được chôn cất tại một nghĩa trang ở quận Kukia của Tiflis. Theo đảng viên Menshevik người Gruzia Ioseb Iremashvili, Jughashvili đã rất quẫn trí trước cái chết của vợ, và có lẽ đã nói tại tang lễ rằng: "Sinh vật này làm nhu mềm trái tim sỏi đá của tôi. Cô ấy đã chết và theo đó chết hết những tình cảm còn lại trong tôi cho nhân loại." Jughashvili về sau cũng từng nói với một người bạn gái rằng, ông "tràn ngập khổ đau đến nỗi các đồng chí [của ông] đã phải tước súng [của ông] đi." Trong lúc phủ cát lên quách, Jughashvili được cho là đã gieo thân mình xuống mộ, nhưng bị những người quanh đó kéo lên. Tuy vậy, Jughashvili không thể nán lại do đang bị truy dấu bởi mật vụ Okhrana. Ông nhanh chóng rời Tiflis và quay lại Baku, bỏ mặc đứa con Iakob 8 tháng tuổi cho họ hàng bên ngoại nuôi. Jughashvili sẽ không trở về thăm con trong nhiều năm tới.
Những sự kiện về sau
Iakob dành 14 năm tuổi thơ dưới sự che chở của nhà Svanidze. Cậu được đưa lên Moskva vào năm 1921 để sống với cha. Đây là một trải nghiệm khó khăn đối với Iakob chỉ biết nói tiếng Gruzia mà không hiểu tiếng Nga, thêm vào đó thì người cha cũng không quan tâm mấy đến cậu. Các thành viên khác trong gia đình Svanidze cũng chuyển lên Moskva, và Jughashvili, bấy giờ đã lấy tên Iosif Stalin, cũng thi thoảng ghé thăm họ.
Alyosha Svanidze, em trai Ekaterine, cưới nữ ca sĩ opera Maria Anisimovna Korona và thăng tiến trong hàng ngũ Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Mariko Svanidze, em gái Ekaterine, cũng chuyển lên Moskva sống và làm thư ký cho Abel Enukidze. Năm 1937, trong cuộc Đại Thanh trừng, Mariko bị bắt giữ cùng với Enukidze, người mà lĩnh án tử hình không lâu sau. Năm 1938, Stalin hạ lệnh bắt giữ Alyosha và vợ ông. Alyosha bị ép phải khai nhận là gián điệp của Đức nhưng ngoan cố chối bỏ. Ông bị tử hình vào năm 1941, trong khi Mariko và Maria bị xử bắn vào năm 1942. Người chị cả của Kato là Sashiko đã qua đời vì ung thư trước cuộc Đại Thanh trừng nên không gặp kết cục như những người em. Con trai của Alyosha và Maria, Ivan Svanidze, về sau cưới con gái duy nhất của Stalin, Svetlana Alliluyeva. Ivan đâm đơn ly hôn vợ vào năm 1959.
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Sinh năm 1885
Mất năm 1907
Mất thế kỷ 20 do bệnh lao
|
19838056
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jean-Clair%20Todibo
|
Jean-Clair Todibo
|
Jean-Clair Dimitri Roger Todibo (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Nice tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Toulouse
Todibo gia nhập Toulouse vào năm 2016 từ FC Les Lilas. Anh ra mắt tại Ligue 1 vào ngày 19 tháng 8 năm 2018 trước đối thủ Bordeaux tại trận Derby de la Garonne và chơi 89 phút trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà. Vào ngày 1 tháng 9, anh bị đuổi khỏi sân ở phút thứ 26 trong chiến thắng 2-1 trước Guingamp. Anh chơi 10 trận cho câu lạc bộ và ghi một bàn trong suốt mùa giải 2018-19, ghi bàn gỡ hòa muộn vào ngày 30 tháng 9 trong trận hòa 1-1 trước Rennes.
Barcelona
Vào ngày 8 tháng 1 năm 2019, Todibo đã đạt được thỏa thuận với Barcelona. Theo đó, anh gia nhập đội theo dạng chuyển nhượng tự do vào tháng 7 năm 2019 khi hợp đồng của anh với Toulouse sắp hết hạn. Tuy nhiên, đội bóng Tây Ban Nha đã thúc đẩy vụ chuyển nhượng này và anh gia nhập câu lạc bộ vào ngày 31 tháng 1 năm 2019. Anh trở thành cầu thủ Pháp thứ 22 ký hợp đồng với Barcelona và được trao chiếc áo số 6.
Schalke 04 (mượn)
Vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, Todibo được câu lạc bộ Bundesliga Schalke 04 mượn đến cuối mùa giải với tùy chọn mua với giá 25 triệu euro cộng thêm 5 triệu euro cho các chi phí phụ. Vào tháng 3, Todibo được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Schalke do người hâm mộ bình chọn.
Benfica (mượn)
Vào ngày 5 tháng 10 năm 2020, Todibo gia nhập câu lạc bộ Primeira Liga Benfica theo dạng cho mượn một năm với tùy chọn mua với giá 20 triệu euro.
Nice
Vào ngày 1 tháng 2 năm 2021, Todibo quay trở lại Ligue 1 để gia nhập câu lạc bộ Nice theo dạng cho mượn với tùy chọn mua sau khi hợp đồng cho mượn của anh bị Barcelona và Benfica chấm dứt. Vào ngày 27 tháng 6, câu lạc bộ đã thực hiện thương vụ này vĩnh viễn khi họ trả 8,5 triệu euro đi kèm với 7 triệu euro biến phí cho Barcelona. Barcelona cũng bảo lưu quyền hưởng một tỷ lệ phần trăm trong số tiền bán anh trong tương lai.
Vào ngày 18 tháng 9 năm 2022, anh bị đuổi khỏi sân trong trận đấu với Angers sau chín giây và anh chính thức lập kỷ lục thời gian nhận thẻ đỏ nhanh nhất trong lịch sử Ligue 1.
Sự nghiệp quốc tế
Todibo có trận ra mắt quốc tế cho đội U-20 Pháp vào ngày 16 tháng 11 năm 2018 trong trận hòa giao hữu 1-1 với Thụy Sĩ ở Cartagena, Tây Ban Nha.
Vào tháng 3 năm 2023, anh lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển quốc gia Pháp để tham dự các trận đấu vòng loại UEFA Euro 2024 với Hà Lan và Cộng hòa Ireland.
Todibo ra mắt tuyển Pháp trong trận giao hữu trước Đức vào ngày 12 tháng 9 năm 2023. Anh ra mắt cho Pháp tại một giải đấu tại trận chiến thắng kỷ lục 14–0 của Pháp trước Gibraltar vào ngày 18 tháng 11.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Barcelona
La Liga: 2018–19
Nice
Á quân Coupe de France: 2021–22
Tham khảo
Liên kết ngoài
Jean-Clair Todibo tại OGC Nice
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Người Pháp
Người Guyane thuộc Pháp
Người Cayenne
Cầu thủ bóng đá Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ bóng đá Guyane thuộc Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Guyane thuộc Pháp
Trung vệ bóng đá
Trung vệ bóng đá nam
Hậu vệ bóng đá
Hậu vệ bóng đá nam
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Championnat National
Cầu thủ bóng đá Championnat National 3
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá FC Les Lilas
Cầu thủ bóng đá Toulouse FC
Cầu thủ bóng đá Barcelona
Cầu thủ bóng đá FC Schalke 04
Cầu thủ bóng đá Benfica
Cầu thủ bóng đá OGC Nice
Cầu thủ bóng đá Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha
|
19838057
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dawid%20Jung
|
Dawid Jung
|
Dawid Jung (sinh ngày 17 tháng 1 năm 1980 tại Kłecko) - một ca sĩ opera Ba Lan, nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình văn học và sân khấu, nhà xuất bản, nhà nghiên cứu và sáng tạo văn hóa, nhà sử học, nhân viên bảo tàng, nhà thiết kế các tuyến văn hóa.
Ông là giám đốc Bảo tàng Đại lý Organs Ba Lan và là biên tập viên chính của tạp chí văn hóa toàn quốc: "Zeszyty Poetyckie". Đã nhận được nhiều giải thưởng và phần thưởng quốc gia uy tín như: Huy chương Juliusz Słowacki (2009), Huy chương Nghệ thuật Trẻ (người đoạt giải đầu tiên trong lĩnh vực văn học là Stanisław Barańczak) (2014), Huy chương Thiên niên kỷ Hội nghị Gniezno (2014), Giải Thưởng Nhà báo Trẻ (được trao bởi Hội Nhà báo Ba Lan) (2016),, Giải thưởng Magellan (2016), Giải thưởng Bolesław Leśmian (2017), Huân chương danh dự "Dành cho Văn hóa Ba Lan" (2018), Giải thưởng Văn học và Lịch sử Identitas (2019), Huy chương Thiếu niên Lạc quan (2019), Huy chương "Người Bảo trợ của Di sản Quốc gia" (2020), Huân chương Thánh Gioan Phaolô II (2021), Huân chương Sĩ quan (Hạng I) của Huy chương Đen Ba Lan (2021), Huy chương Thế kỷ của Độc lập Thu được (2022), Huân chương "Đặc biệt cho Hội Nhà văn Ba Lan" (2023) và những giải thưởng khác.
Từ năm 2023, ông là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Ba Lan tại Poznań
Văn xuôi
312685 powodów (2006)
Wierszopisowie Kłecka w latach 1590–1623. Przyczynki do historii kultury staropolskiej (2012)
Gdańskie hymny Jakuba Gembickiego (2014)
Poemat o mówieniu prawdy (2014)
Glosy (2017)
Polska, ulubiona masochistka Europy (2017)
Karaoke (2018)
Legendy królewskiego miasta. Z przekazów ustnych zebrał i opracował Dawid Jung (2018)
#SPAM (2020)
Ostatni rybałci polszczyzny. Poeci ludowi XIX wieku związani z Ełkiem (2020)
To je wiôldżé. Antologia poetów kaszubskich okresu międzywojennego (2020)
Legendy zamku ełckiego (2021)
Szlak. Znani Nieznani (2021)
Szczecińskie legendy (2023)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ
Dawid Jung
Sinh năm 1980
Nhân vật còn sống
|
19838065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Higashikagura%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Higashikagura, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 8.314 người và mật độ dân số là 34 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 247,3 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838071
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83u%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c%20Ph%E1%BA%A7n%20Lan
|
Biểu tượng dân tộc Phần Lan
|
Biểu tượng dân tộc Phần Lan bao gồm các hình tượng từ thiên nhiên và các danh nhân người Phần thường được gắn liền với bản sắc dân tộc Phần Lan, trong số đó nổi tiếng nhất là quốc kỳ Phần Lan và con sư tử với dáng đứng uy hiếp theo quốc huy Phần Lan.
Biểu tượng dân tộc
Biểu tượng dân tộc có nguồn gốc thiên nhiên
Danh nhân quốc gia
Xem thêm
Finlandia
Björneborgarnas marsch (Hành khúc Lữ đoàn Pori)
Sisu
Văn hóa dân gian Phần Lan
Danh lam thắng cảnh quốc gia Phần Lan
Tham khảo
Biểu tượng quốc gia Phần Lan
|
19838075
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aleix%20Espargar%C3%B3
|
Aleix Espargaró
|
Aleix Espargaro (sinh ngày 30 tháng 7 năm 1989) là một tay đua mô tô người Tây Ban Nha. Aleix Espargaro đã từng nhiều lần giành chiến thắng thể thức đua xe MotoGP. Năm 2024 anh thi đấu MotoGP cho đội đua Aprilia Racing.
Aleix Espargaro có một người em trai từng thi đấu MotoGP là Pol Espargaro.
Sự nghiệp
Aleix Espargaro thi đấu chuyên nghiệp từ năm 2004 và chuyển lên thi đấu MotoGP từ năm 2009. Nhưng phải đến năm 2022 Aleix Espargaro mới giành được chiến thắng MotoGP đầu tiên trong sự nghiệp, ở chặng đua MotoGP Argentina 2022. Đó cũng là chiến thắng MotoGP đầu tiên của đội đua Aprilia. Mùa giải MotoGP 2022 cũng là mùa giải mà Aleix Espargaro giành được kết quả tốt nhất trong sự nghiệp với vị trí thứ 4 chung cuộc.
Năm 2023 Aleix Espargaro tiếp tục thi đấu cho đội đua Aprilia. Anh giành thêm 2 chiến thắng nữa ở các chặng đua ở Anh và Catalunya.
Thống kê thành tích
Theo năm
Theo giải đua
Kết quả chi tiết
(Chú thích) (Chữ in đậm nghĩa là tay đua giành được pole, chữ in nghiêng nghĩa là tay đua giành được fastest lap)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin Aleix Espargaro trên trang chủ MotoGP
Sinh năm 1989
Nhân vật còn sống
Tay đua MotoGP
|
19838078
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alpha%20Diounkou
|
Alpha Diounkou
|
Alpha Richard Diounkou Tecagne (sinh ngày 10 tháng 10 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Larnaca, theo dạng cho mượn từ Granada tại La Liga.
Sự nghiệp thi đấu
Granada
Diounkou bắt đầu chơi bóng ở học viện trẻ của Son Cladera lúc 6 tuổi, trước khi chuyển đến học viện của Mallorca ở tuổi 14. Anh chuyển đến học viện Manchester City vào tháng 1 năm 2016. Anh được đôn lên đội dự bị của đội bóng, trước khi chuyển đến Granada vào ngày 31 tháng 8 năm 2021. Anh gia nhập câu lạc bộ San Fernando dưới dạng cho mượn trong nửa đầu mùa giải 2021–22. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2022, anh gia nhập Barcelona B cho phần còn lại của mùa giải.
Cho mượn tại Larnaca
Vào ngày 1 tháng 9 năm 2023, Diounkou được cho mượn tại câu lạc bộ Larnaca trong một năm.
Sự nghiệp quốc tế
Diounkou sinh ra ở Sénégal và chuyển đến Tây Ban Nha khi còn trẻ. Anh đại diện cho đội tuyển U-17 Tây Ban Nha tại Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2018. Anh chuyển sang đại diện cho U-20 Sénégal tại Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2019. Diounkou được triệu tập lên đội tuyển Sénégal vào tháng 5 năm 2022 để chuẩn bị cho các trận đấu tại Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2023.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2001
Nhân vật còn sống
Hậu vệ bóng đá
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá AEK Larnaca FC
Cầu thủ bóng đá FC Barcelona Atlètic
Cầu thủ bóng đá Granada CF
Cầu thủ bóng đá San Fernando CD
Cầu thủ bóng đá Primera Federación
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Sénégal
Cầu thủ bóng đá nam Sénégal ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Sénégal
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Síp
|
19838083
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A0n%20th%E1%BA%AFng%20%C4%91%E1%BA%B9p%20nh%E1%BA%A5t%20th%C3%A1ng%20Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Bàn thắng đẹp nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam
|
Bàn thắng đẹp nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam là giải thưởng bóng đá được trao cho những cầu thủ đã ghi bàn thắng đẹp nhất trong mỗi tháng của mùa giải tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam. Người chiến thắng được quyết định thông qua sự bình chọn của ban tổ chức giải và của các phóng viên đại diện cho các cơ quan báo chí, truyền thông. Trong giai đoạn 2006 đến 2021, giải thưởng được xác định dựa trên kết quả bầu chọn của khán giả qua tin nhắn điện thoại hoặc bình chọn trực tuyến.
Giải thưởng được giới thiệu lần đầu vào mùa giải 1999–2000, nằm trong hệ thống các giải thưởng bầu chọn hàng tháng của Liên đoàn bóng đá Việt Nam (cùng với các giải thưởng khác cho thủ môn, hậu vệ, cầu thủ và huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng) tại hai giải đấu là giải vô địch quốc gia và Cúp Quốc gia. Trong những mùa giải từ 2003 đến 2005, giải thưởng này không nằm trong hệ thống các giải thưởng tháng; riêng mùa giải 2007 không tổ chức trao các giải thưởng tháng. Kể từ mùa giải 2023, giải thưởng Bàn thắng đẹp nhất tháng được tài trợ bởi tập đoàn Casper Việt Nam.
Danh sách đoạt giải
Trong 3 mùa giải đầu tiên, do giải thưởng Bàn thắng đẹp nhất tháng được xét chung với giải Cúp Quốc gia, nên chỉ có giải thưởng của những tháng diễn ra trong thời gian giải vô địch quốc gia được tổ chức được đưa vào danh sách này. Danh sách cũng bao gồm các giải thưởng của mùa giải 2021 bị hủy bỏ giữa chừng.
Thống kê
Theo cầu thủ
Theo quốc tịch
Theo câu lạc bộ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bóng đá Việt Nam
|
19838084
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAt%20giao%20th%C3%B4ng%20kh%C3%A1c%20m%E1%BB%A9c
|
Nút giao thông khác mức
|
Nút giao thông khác mức (tiếng Anh: interchange) trong giao thông đường bộ là một loại nút giao thông sử dụng phân mức để dòng lưu thông trên đường này không xung đột trực tiếp với dòng lưu thông trên đường khác. Trong thiết kế nút giao khác mức, các loại cầu vượt, các đường nhánh chuyển làn hay được sử dụng.
Có các loại nút giao thông khác mức bốn chiều, ba chiều, hai chiều và một chiều.
Thuật ngữ
Nút giao đường cao tốc
Một loại nút giao thông nối một đường cao tốc với một công trình khác, với các đường khác hoặc với một trạm dừng nghỉ đường cao tốc. Các nút giao thông thường (nhưng không phải luôn luôn) được đánh số theo thứ tự hoặc theo khoảng cách từ một điểm cuối của tuyến đường ("điểm bắt đầu" của tuyến đường).
Hiệp hội Quan chức Giao thông và Xa lộ Tiểu bang Mỹ (AASHTO) định nghĩa nút giao thông là "một hệ thống đường kết nối với nhau kết hợp với một hoặc nhiều tầng cung cấp sự di chuyển của giao thông giữa hai hoặc nhiều đường hoặc đường cao tốc ở các cấp độ khác nhau."
Nút giao hệ thống
Một nút giao kết nối nhiều đường cao tốc.
Nút giao dịch vụ
Một nút giao kết nối đường chính với đường cấp thấp hơn, chẳng hạn như đường trục chính hoặc đường gom.
Đường chính là đường cao tốc trong nút giao thông dịch vụ, trong khi đường giao nhau là đường cấp thấp hơn thường bao gồm các nút giao thông đồng mức hoặc bùng binh, có thể vượt qua hoặc bên dưới đường chính.
Nút giao hoàn thiện
Một nút giao mà tất cả các hướng di chuyển có thể có giữa các đường cao tốc có thể được thực hiện.
Nút giao chưa hoàn thiện
Một giao lộ thiếu ít nhất một hướng di chuyển giữa các đường cao tốc.
Đường nối
Một đoạn đường ngắn cho phép các phương tiện đi vào hoặc ra khỏi đường cao tốc.
Phương tiện đi vào đang đi vào đường cao tốc qua đoạn đường nối vào hoặc đoạn đường vào, trong khi phương tiện đi ra đang rời khỏi đường cao tốc thông qua đoạn đường nối ngoài hoặc đoạn đường ra.
Đường nối định hướng
Một đoạn đường cong về hướng di chuyển mong muốn; tức là đoạn đường rẽ trái đi ra từ phía bên trái của đường (lối ra bên trái).
Đường nối bán định hướng
Đoạn đường nối thoát ra theo hướng ngược lại với hướng di chuyển mong muốn, sau đó rẽ về hướng mong muốn. Hầu hết các chuyển động rẽ trái được cung cấp bởi đoạn đường nối bán định hướng đi ra bên phải, thay vì đi ra từ bên trái.
Đan xen
Một tình huống không mong muốn khi giao thông vào và ra khỏi đường cao tốc phải băng qua đường trong một khoảng cách giới hạn.
Lịch sử
Khái niệm đường cao tốc có kiểm soát ra vào được phát triển vào những năm 1920 và 1930 ở Ý, Đức, Hoa Kỳ và Canada. Ban đầu, những con đường này có nút giao cùng mức dọc theo chiều dài của chúng. Các nút giao thông đã được phát triển để cung cấp khả năng tiếp cận giữa các đường cao tốc mới này và các đường phố có lượng người qua lại đông đúc. Đường Bronx River Parkway và Long Island Motor Parkway là những con đường đầu tiên có đường được phân mức. Kỹ sư Arthur Hale của bang Maryland đã nộp bằng sáng chế cho thiết kế nút giao thông dạng hoa thị vào ngày 24 tháng 5 năm 1915, mặc dù công trình đường bộ mang tính khái niệm chưa được thực hiện cho đến khi một nút giao thông dạng hoa thị được mở vào ngày 15 tháng 12 năm 1929 tại Woodbridge, New Jersey, nối liền Tuyến đường New Jersey 25 và Tuyến đường New Jersey 4 (nay là Tuyến Hoa Kỳ 1/9 và Tuyến New Jersey 35). Nó được thiết kế bởi công ty kỹ thuật Rudolph và Delano ở Philadelphia, dựa trên thiết kế được đăng trên một tạp chí của Argentina.
Nút giao hệ thống
Nút giao thông lập thể bốn hướng
Dạng hoa thị
Dạng vòng xoay
Dạng kết hợp hoa thị và vòng xoay
Tham khảo
"Nút giao thông" của tác giả Nguyễn Xuân Vinh do nhà xuất bản giao thông vận tải xuất bản năm 1999.
"Nút giao thông trên đường ô tô" của đồng tác giả Đồng Bá Chương và Nguyễn Quang Đạo do nhà xuất bản giáo dục xuất bản năm 2000.
Nút giao thông
Cầu
Hạ tầng đường bộ
Trục giao thông
|
19838089
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MICA%20%28t%C3%AAn%20l%E1%BB%ADa%29
|
MICA (tên lửa)
|
MICA, viết tắt của Missile d'Interception, de Combat et d'Auto-défense () là một loại tên lửa không đối không tầm ngắn/trung hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết của quân đội Pháp do MBDA sản xuất. Nó được thiết kế phóng từ cả trên không và từ các ống phóng tên lửa thẳng đứng trên tàu chiến. Tên lửa được trang bị động cơ điều khiển vectơ lực đẩy. Tên lửa được phát triển từ năm 1982 bởi Matra. Đưa vào thử nghiệm lần đầu từ năm 1991, tên lửa được đưa vào trang bị đầy đủ năm 1996 để trang bị trên máy bay tiêm kích Dassault Rafale và Mirage 2000. Nó được phát triển và thay thế cho tên lửa Super 530 trong vai trò đánh chặn và tên lửa Magic II trong không chiến quần vòng.
Vào ngày 11 tháng 6 năm 2007, một tên lửa MICA được phóng từ máy bay tiêm kích Rafale đã thể hiện thành công khả năng bay qua vai của mình bằng cách tiêu diệt mục tiêu phía sau máy bay phóng. Mục tiêu được chỉ định bởi một máy bay khác và tọa độ được truyền đi bởi Link 16.
Đặc tính kỹ thuật
Có hai phiên bản tên lửa MICA; MICA RF có đầu dò radar chủ động trong khi phiên bản MICA IR có đầu dò hồng ngoại. Cả hai đầu dò đều được thiết kế để đối phó với ra các biện pháp đối phó như pháo sáng gây nhiễu và mồi nhử. Bộ điều khiển vectơ lực đẩy được trang bị cho động cơ tên lửa giúp tăng tính linh hoạt của tên lửa. Tên lửa có khả năng khóa sau khi phóng (LOAL), nghĩa là nó có khả năng tấn công các mục tiêu bên ngoài trường nhìn của đầu dò tên lửa. Được trang bị trên Rafale, MICA IR có thể cung cấp hình ảnh hồng ngoại cho hệ thống xử lý dữ liệu trung tâm, do đó nó có thể hoạt động như một cảm biến bổ sung.
MICA cũng được triển khai từ bệ phóng mặt đất, như là một tên lửa đất đối không tầm ngắn, phiên bản này có tên gọi VL MICA. Tên lửa được phóng từ ống phóng hộp đặt trên xe tải, và phiên bản Hải quân, VL MICA-M, được phóng đi từ giếng phóng thẳng đứng.
Các tàu hộ tống không đủ lớn để trang bị hệ thống tên lửa Aster lớn và đắt tiền là những khách hàng tiềm năng nhất của VL MICA-M.
Tên lửa VL MICA có tầm hoạt động được quảng cáo là 20 km. Từ 0 đến 7 km MICA có khả năng cơ động là 50 g, tuy nhiên khi bay được 12 km thì khả năng cơ động này giảm xuống còn 30 g do tên lửa bị mất năng lượng.
Các phiên bản
MICA RF hay EM (électromagnétique)
MICA IR (tên lửa mang đầu dò hồng ngoại)
VL MICA RF/EM
VL MICA IR
VL MICA-M RF/EM
VL MICA-M IR
A3SM . tên lửa phóng từ tàu ngầm, được trang bị trên tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng nguyên tử lớp Barracuda.
MICA NG . Thế hệ tiếp theo của MICA được thiết kế để tấn công mục tiêu tàng hình, với độ nhạy của cảm biến được cải thiện đáng kể. Đầu dò radar sử dụng radar mảng pha quét điện tử chủ động AESA.
Các nước vận hành
Phiên bản không đối không
Không quân Ai Cập: MICA EM/IR trang bị trên máy bay Rafale, cơ số 150 tên lửa.
French Air and Space Force: sử dụng trên Mirage 2000-5, Mirage 2000D RMV và Rafale aircraft.
Hải quân Pháp: sử dụng trên máy bay tiêm kích Rafale M và tàu ngầm lớp Barracuda.
Hellenic Air Force: MICA EM/IR sử dụng trên Mirage 2000 và Rafale
100 tên lửa mua từ năm 2000 (nhận hàng năm 2003-04)
100 tên lửa mua năm 2003
Không quân Ấn Độ: 200 tên lửa MICA-IR và 1000 tên lửa MICA-RF được tích hợp trên Mirage-2000 và Rafale. Không quân Ấn Độ đã thử nghiệm thành công phóng tên lửa MICA từ máy bay tiêm kích Sukhoi Su-30MKI.
Royal Moroccan Air Force, 150 tên lửa đặt hàng từ năm 2005
Qatar Emiri Air Force, 100 tên lửa MICA-EM đặt hàng từ năm 1994, hơn 150 tên lửa MICA-IR và 150 tên lửa MICA-EM đặt mua năm 2015
Không quân Trung hoa Dân quốc: 960 tên lửa đi kèm với máy bay Mirage 2000-5 của Không quân Đài Loan. Viện Khoa học và Công nghệ Trung Sơn đã được giao nhiệm vụ cải tiến tên lửa từ năm 2016.
United Arab Emirates Air Force: đặt hàng 500 tên lửa cho Mirage 2000 vào năm 1998
Phiên bản đất đối không
Botswana Ground Force: có 1 khẩu đội tên lửa VL MICA được mua từ năm 2016, cùng với 50 tên lửa.
Georgian Air Force: VL MICA đi kèm với hệ thống radar Ground Master 200 và 400 từ công ty Thales Raytheon Systems.
Royal Moroccan Army: 4 khẩu đội VL MICA.,200 tên lửa mua từ năm 2020
Royal Army of Oman VL MICA (đặt hàng từ năm 2009, chuyển giao từ năm 2012 cùng với 50 tên lửa)
Saudi Arabia National Guard Air Defence: VL-MICA., 5 khẩu đội đặt hàng từ 2013 với 250 tên lửa.
Royal Thai Army: 1 khẩu đội VL MICA, 50 tên lửa mua từ 2016
Phiên bản trang bị cho tàu chiến
,
VL MICA-M trang bị trên 4 tàu hộ tống lớp Gowind (16 VLS), 75 tên lửa.
VL-MICA-M trang bị trên 4 tàu hộ tống MEKO-A200-EN mỗi tàu trang bị 32 × VLS cho MBDA MICA-NG cùng với 200 tên lửa.
75 tên lửa được mua thêm.
Indian Navy: trang bị trên tàu ngầm lớp Kalvari.
Indonesian Navy:
Royal Moroccan Navy:
Royal Navy of Oman
Qatari Emiri Navy,
Saudi Arabia Navy:
Republic of Singapore Navy
United Arab Emirates Navy
Xem thêm
Air-to-air missile
List of missiles
A-Darter
AIM-120 AMRAAM
AIM-132 ASRAAM
Astra (missile)
CAMM
Derby (missile)
HİSAR
IRIS-T
PL-10
QRSAM
R-27
R-73
R-Darter
Umkhonto
Tham khảo
Liên kết ngoài
.
MICA
MICA
20th-century surface-to-air missiles
Military equipment introduced in the 1990s
Fire-and-forget weapons
Matra
|
19838096
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20%E1%BA%A4t%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Tiểu Ất (định hướng)
|
Tiểu Ất (chữ Hán: 小乙) có thể là:
Tiểu Ất Yến Thanh, nhân vật hư cấu trong Thủy hử của Thi Nại Am
Tiểu Ất, vua Trung Quốc thời nhà Thương
Xem thêm
Hỗn Thế Ma Vương
Thác Tháp Thiên Vương
Bạch Y Tú Sỹ
Tiểu Bá Vương
Thần Toán Tử
Bắc Hiệp
Mỹ Nhiêm Công
Tiểu Toàn Phong
Biệt hiệu
|
19838107
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20Th%E1%BB%A7ng
|
Núi Thủng
|
Núi Thủng (tiếng Tày: Phja Piót) là một ngọn núi nhỏ ở Cao Bằng, nằm trong Công viên địa chất Non nước Cao Bằng. Ngọn núi này có một cái hang lớn tên là Phia Lông xuyên qua thân núi, khiến cho ánh sáng Mặt trời khi chiếu vào núi từ bên kia có thể thấy được khi nhìn ở vị trí đối diện. Do đó, nó còn được gọi là núi Mắt Thần. Trong tiếng Tày, tên núi Phja Piót nghĩa là "cái núi bị thủng một lỗ, dùi xuyên qua như để gió lùa thông thống bên nọ sang bên kia".
Mô tả
Núi Thủng nằm tại xóm Bản Danh, xã Quốc Toản, huyện Quảng Hoà. Núi nằm về phía bắc Thành phố Cao Bằng. Theo đường Quốc lộ 3 khoảng 20 km đến đèo Mã Phục, sau đó rẽ vào Tỉnh lộ 205, chạy khoảng 10 km theo tỉnh lộ này rồi nối tiếp một con đường nhỏ hơn là đến núi Thủng. Núi nằm trong quần thể danh lam thắng cảnh hồ Thang Hen, một quần thể 36 hồ nước liên thông nhau, đan xen với núi. Quần thể chủ yếu thuộc xã Cao Chương, huyện Trùng Khánh và xã Quốc Toản, huyện Quảng Hòa. Núi Thủng còn có các tên gọi khác là Mắt Thần Núi, núi Mắt Thần, núi Mắt Rồng.
Núi Thủng là ngọn núi đá vôi cao khoảng 100 m, nằm giữa một thung lũng cạnh hồ Nậm Trá. Hang xuyên qua lòng núi chỗ rộng nhất có đường kính là 50 m, cao 45 m. Bao phủ núi là rừng cây, nghiến là loài cây phổ biến trong lòng hang núi. Mưa trên vùng núi kéo dài từ tháng 4 đến tháng 8. Đặc điểm thủy lưu khu vực là các dòng chảy bề mặt là các con suối và các dòng chảy ngầm, nước có thể dâng và rút rất nhanh.
Lịch sử
Theo các nhà địa chất, núi là một hang khô, có tuổi hình thành hơn 300 triệu năm trước. Sau đó, do vận động kiến tạo mà hang được nâng lên. Các vận động này cũng nâng các khu vực xung quanh tạo thành các khối núi dạng tháp và dạng nón đan xen các hồ nước ở độ cao chung 650–700 m.
Núi Thủng nằm trong một khu vực núi-hồ Thang Hen vào năm 2016 được Viện Khoa học Địa chất Khoáng sản thuộc Bộ Tài nguyên Môi trường đánh giá "di sản địa chất có giá trị và ý nghĩa quốc tế". Do 36 hồ nước trong khu vực có cơ chế "khi đầy khi vơi", là hiện tượng hiếm gặp ở các vùng karst trên thế giới.
Núi đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng Danh lam thắng cảnh quốc gia theo Quyết định số 1988/QĐ-BVHTTDL ngày 29/6/2021.
Dân cư
Dân địa phương là người Tày, họ sống ở xóm Bản Danh gần núi. Khu định cư này đã có từ rất xa xưa. Đời sống người dân chủ yếu bằng nông nghiệp và buôn bán khoai lang, bắp, rau củ, cá tươi,...Thung lũng xung quanh núi là đồng cỏ được dân địa phương chăn thả gia súc, gồm trâu, bò, ngựa. Vào mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 8, lòng hồ Nậm Trá nước dồi dào, mặt nước có thể rộng lên đến 15 ha, người dân địa phương dùng bè mảng, thuyền nan ra hồ giăng lưới đánh bắt cá. Họ cũng chuyên chở khách du lịch "phượt" để lấy tiền công, cũng như buôn bán hàng hóa cho khách.
Các núi thủng khác
Núi Thủng không phải là ngọn núi duy nhất trong khu vực có dạng thủng xuyên qua núi, còn nhiều ngọn núi khác trong cùng khu vực có tình trạng địa chất và hình dạng tương tự. Tuy nhiên đến nay chúng vẫn chưa được khám phá đầy đủ.
Chú thích
Sách
Liên kết ngoài
Núi
Cao Bằng
|
19838126
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20L%E1%BA%ADp%20hi%E1%BA%BFn%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%201956
|
Bầu cử Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa 1956
|
Bầu cử Quốc hội Lập hiến được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 4 tháng 3 năm 1956. Tổng cộng có 431 ứng cử viên tranh cử 123 ghế từ tất cả 5 chính đảng thân chính phủ đã đăng ký, trong đó 11 người được bầu là phái độc lập thân chính phủ. Edward Miller lưu ý rằng cuộc bầu cử tương đối tự do và công bằng so với cuộc trưng cầu dân ý Quốc gia Việt Nam năm 1955, vì các ứng cử viên độc lập và đối lập được phép tranh cử các ghế và mở những cuộc vận động đối lập. Tuy vậy, tài liệu tranh cử phải được sàng lọc và chính phủ được phép đình chỉ các ứng cử viên này do họ có mối liên hệ với Việt Minh và những nhóm nổi dậy khác. Hai dân biểu không được đảm nhận chức trách do vi phạm bầu cử, khiến tổng số dân biểu trúng cử là 121 người. Ngày 26 tháng 10 năm 1956, cơ quan này được chuyển đổi thành Quốc hội sau khi bản hiến pháp mới có hiệu lực.
Kết quả
Tham khảo
Bầu cử tại Việt Nam
Bầu cử năm 1956 ở châu Á
Việt Nam Cộng hòa năm 1956
Bầu cử tại Việt Nam Cộng hòa
|
19838127
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20L%E1%BA%ADp%20hi%E1%BA%BFn%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%201966
|
Bầu cử Quốc hội Lập hiến Việt Nam Cộng hòa 1966
|
Bầu cử Quốc hội Lập hiến được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 11 tháng 9 năm 1966. Tổng cộng có 532 ứng cử viên tranh cử 117 ghế. Quốc hội đã soạn thảo và phê chuẩn bản hiến pháp mới sẽ được ban hành vào năm sau.
Hệ thống bầu cử
Hệ thống bầu cử sử dụng 44 tỉnh miền Nam Việt Nam làm đơn vị bầu cử. Mỗi tỉnh là một đơn vị bầu cử, ngoại trừ thủ đô Sài Gòn được chia thành ba đơn vị bầu cử và tỉnh Gia Định được chia thành hai đơn vị bầu cử. Tỉnh nào bầu nhiều hơn một thành viên sử dụng cơ chế đại diện tỷ lệ với số ghế được phân bổ theo phương pháp d'Hondt, trong lúc những tỉnh chỉ bầu một thành viên thì áp dụng cơ chế bầu cử theo đa số.
Kết quả
Tham khảo
Bầu cử tại Việt Nam
Bầu cử năm 1966 ở châu Á
Việt Nam Cộng hòa năm 1966
Bầu cử tại Việt Nam Cộng hòa
|
19838128
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%201959
|
Bầu cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa 1959
|
Bầu cử Quốc hội được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 30 tháng 8 năm 1959, mang lại chiến thắng áp đảo cho Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính thể miền Nam. Chế độ này đã giành được tất cả, trừ hai trong số 123 ghế trong Quốc hội, do 5 chính đảng thân chính phủ và các ứng cử viên độc lập thân chính phủ nắm giữ. Cuộc bầu cử cho phép tự do hóa phần nào về quyền tự do ngôn luận, nhưng chế độ Diệm vẫn tiếp tục duy trì sự kiểm soát chặt chẽ đối với quá trình bầu cử. Bất chấp những nỗ lực đáng kể trong việc ngăn chặn một số ít ứng cử viên đối lập ra ứng cử trong cuộc bầu cử thông qua việc sử dụng binh sĩ quân đội đến nhét đầy thùng phiếu để ủng hộ các ứng cử viên thân chính phủ, hai ứng cử viên độc lập của phe đối lập đã đắc cử – Phan Quang Đán và Phan Khắc Sửu. Tuy nhiên, trong phiên khai mạc Quốc hội đầu tiên, Đán và một đại biểu độc lập khác là Nguyễn Trân không được phép tham dự và bị bắt và buộc tội gian lận bầu cử. Cuộc bầu cử này nói chung theo một báo cáo năm 1966 của CIA mô tả là "bẩn thỉu và gian lận công khai nhất" trong tất cả các cuộc bầu cử ở Việt Nam Cộng hòa.
Bối cảnh
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị với Diệm nên tổ chức hội nghị tham vấn trước bầu cử. Việc này được thực hiện vào tháng 5 và tháng 6 năm 1956, tháng 7 năm 1957, tháng 5 năm 1958 và một lần nữa vào tháng 7 năm 1959. Lời đề nghị về cuộc đàm phán giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, trên cơ sở "tổng tuyển cử tự do bằng lối bỏ phiếu kín". Tất cả những lời đề nghị như vậy đều bị bác bỏ. Diệm từ chối tổ chức cuộc bầu cử theo Điều 7 của Tuyên bố Hiệp định Genève, vì Quốc gia Việt Nam trước đây chưa ký kết Hiệp định Genève – do đó không tuân theo bất kỳ thỏa thuận nào cả. Mỹ hoàn toàn ủng hộ ông. Kết quả của việc từ chối đó, Thượng nghị sĩ Mỹ Ernest Gruening, trong một bài phát biểu trước Thượng viện Hoa Kỳ vào ngày 9 tháng 4 năm 1965 đã nói "Cuộc nội chiến này đã bắt đầu... khi chế độ của Diệm—theo sự thúc giục của chúng ta—từ chối thực hiện điều khoản trong Hiệp định Genève để tổ chức bầu cử thống nhất đất nước Việt Nam".
Kết quả
Hậu quả
Phan Quang Đán được coi là một người theo chủ nghĩa dân tộc chống cộng, một trong những nhân vật chính trị có năng lực nhất trong nước, và được bầu với tỷ lệ 6-1 so với ứng cử viên chính phủ của Diệm. Điều này xảy ra bất chấp 8.000 binh sĩ Lục quân Việt Nam Cộng hòa được chở từ ngoài khu vực bầu cử đến bỏ phiếu.
Bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ đại sứ quán Mỹ và Anh, Diệm vẫn kiên quyết rằng Đán sẽ không thể ngồi vào ghế của mình. Khi Quốc hội khai mạc, Đán đã phải đối mặt với cảnh sát và bị bắt giữ khi ông định rời phòng khám của mình để tới tham dự phiên họp. Đán bị buộc tội gian lận bầu cử với lý do được cho là đã cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế miễn phí hòng lôi kéo cử tri ủng hộ mình. Ông cũng chỉ ra rằng nếu đúng như vậy thì ông sẽ tranh cử ở khu vực bầu cử nơi ông hành nghề, nhằm tối đa hóa số lượng bệnh nhân đến chỗ bỏ phiếu của mình.
Tham khảo
Bầu cử tại Việt Nam
Bầu cử tại Việt Nam Cộng hòa
Bầu cử năm 1959 ở châu Á
Gian lận bầu cử ở Việt Nam
Việt Nam Cộng hòa năm 1959
|
19838129
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%201963
|
Bầu cử Quốc hội Việt Nam Cộng hòa 1963
|
Bầu cử Quốc hội được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 27 tháng 9 năm 1963. Chế độ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã giành được tất cả trừ ba trong số 123 ghế trong Quốc hội. Việt Nam Dân chủ Xã hội Đảng và Đại Việt Tiến bộ Đảng đối lập giành được ba ghế. Vì cuộc bầu cử diễn ra trong thời kỳ khủng hoảng Phật giáo, chính phủ đã cho phép các thành phần đối lập tham gia bầu cử như một trong những nhượng bộ đối với giới lãnh đạo cuộc biểu tình của Phật giáo. Tuy nhiên, do cuộc đảo chính năm 1963, Quốc hội không thể triệu tập phiên khai mạc đầu tiên và bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng giải tán vào ngày 3 tháng 11 năm 1963.
Kết quả
Tham khảo
Bầu cử tại Việt Nam
Bầu cử tại Việt Nam Cộng hòa
Bầu cử năm 1963 ở châu Á
Việt Nam Cộng hòa năm 1963
|
19838134
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Higashikawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Higashikawa, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 8.314 người và mật độ dân số là 34 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 247,06 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838147
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Horokanai%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Horokanai, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Uryū, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 1.370 người và mật độ dân số là 1,8 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 767.03 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838150
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%C5%ABbetsu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Yūbetsu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Monbetsu, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 8.270 người và mật độ dân số là 16 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 505,74 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838152
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Luca%20Marini
|
Luca Marini
|
Luca Marini (sinh năm 1997) là một tay đua mô tô người Ý. Luca Marini từng đoạt danh hiệu Á quân giải đua xe Moto2 năm 2020 và nhiều lần lên podium thể thức MotoGP. Năm 2023 Marini thi đấu MotoGP cho đội đua VR46.
Luca Marini là em trai cùng mẹ khác cha của Valentino Rossi.
Sự nghiệp
Trước năm 2016, Luca Marini tham gia các giải đua trẻ và tham gia đặc cách một vài chặng đua của giải Moto3 và Moto2 nhưng thành tích không quá nổi bật.
Moto2 (2016-2020)
Luca Marini chính thức thi đấu chuyên nghiệp từ năm 2016 ở giải đua xe Moto2. Kết quả thi đấu của Marini được cải thiện rõ rệt qua mỗi năm. Năm 2018, Marini giành được chiến thắng thể thức Moto2 đầu tiên ở chặng đua Malaysia.
Năm 2020, Marini lọt vào nhóm tay đua có thể cạnh tranh danh hiệu vô địch, có thời điểm dẫn đầu bảng tổng sắp. Tuy nhiên ở những chặng đua cuối cùng, Marini lại không có kết quả tốt, để mất chức vô địch vào tay Enea Bastianini.
MotoGP (2021-nay)
Năm 2021 Luca Marini và Enea Bastianini đều được lên thi đấu thể thức MotoGP và trở thành đồng đội của nhau ở đội đua Avintia Racing. Đây là mùa giải mà Marini thi đấu ổn định, hoàn thành tất cả chặng đua nhưng không có được nhiều kết quả đột phá như đồng đội Bastianini. Đây cũng là mùa giải MotoGP duy nhất mà Marini được thi đấu với người anh trai cùng mẹ khác cha Valentino Rossi, người sẽ giải nghệ sau khi mùa giải 2021 kết thúc.
Năm 2022, Valentino Rossi đăng ký cho đội đua VR46 của anh tham gia MotoGP. Luca Marini và Marco Bezzecchi trở thành hai tay đua chính của đội. Ở chặng đua MotoGP Americas 2023 Luca Marini có lần đầu tiên lên podium thể thức MotoGP. Trước đó ở chặng đua Argentina thì Marini cũng có lần đầu tiên đoạt huy chương đồng ở cuộc đua Sprint race.
Thống kê
Theo năm
Theo thể thức
Kết quả chi tiết
(Ghi chú) (Tên chặng đua được in đậm có nghĩa là tay đua giành được pole ở chặng đua đó. Tên chặng đua được in nghiêng có nghĩa là tay đua giành được fastest lap ở chặng đua đó)
Mùa giải đang diễn ra.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin Luca Marini trên trang chủ MotoGP
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Tay đua MotoGP
|
19838155
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20H%C3%A0ng%20h%E1%BA%A3i%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
|
Ngày Hàng hải Trung Quốc
|
Ngày Hàng hải Trung Quốc () được tổ chức vào ngày 11 tháng 7 năm 2005 đánh dấu chuyến hành trình đầu tiên của Trịnh Hòa. Ngày này đánh dấu kỷ niệm 600 năm hành trình vượt biển của Trịnh Hòa, nhà hàng hải thời Minh (1368–1644) đã thực hiện bảy chuyến thám hiểm hòng thể hiện sức mạnh của Trung Quốc với phần còn lại của thế giới, dưới quyền chỉ huy của Vĩnh Lạc Đế. Những chuyến đi này nhằm mục đích chứng minh cho người dân Trung Quốc thấy rằng kẻ soán vị Chu Đệ mới xứng đáng với ngôi hoàng đế và thần linh đã trao Thiên mệnh cho ông ta. Việc tổ chức lễ kỷ niệm này nhằm tôn vinh cam kết của Trung Quốc đối với Tổ chức Hàng hải Quốc tế mà nước này là thành viên.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Văn hóa hàng hải
Ngày lễ Trung Quốc
Chuyến đi tìm kho báu
Sự kiện mùa hè ở Trung Quốc
Khởi đầu năm 2005 ở Trung Quốc
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Bảy
|
19838163
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%97i%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20%C4%91%E1%BB%81u%20c%C3%B3%20nh%E1%BB%AFng%20b%C3%AD%20m%E1%BA%ADt
|
Mỗi người đều có những bí mật
|
Mỗi người đều có những bí mật (Tiếng Hàn Quốc: 누구나 비밀은 있다; RR: Nuguna bimireun itda) là một phim điện ảnh Hàn Quốc thuộc thể loại hài lãng mạn. Các diễn viên thủ vai chính là Lee Byung-hun, Choi Ji-woo, Kim Hyo-jin và Chu Sang-mi. Phim được phân loại thuộc thể loại dành cho người trên 18 tuổi vì có một số cảnh làm tình. Phim lọt vào một số đề cử giải thưởng như giải Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh năm 2004, Giải thưởng Điện ảnh Hàn Quốc năm 2004,.. với doanh thu gần 5 triệu USD ở các phòng vé Nhật Bản.
Nội dung
Phim mở đầu với cảnh Han Mi-yeong (Kim Hyo-jin thủ vai) chia tay bạn trai của mình vì cho rằng anh này quá nhàm chán. Han Mi-yeong sau đó gặp Choi Su-Hyeon (Lee Byung-hun đóng) trong một buổi biểu diễn và nhanh chóng si mê Su-Hyeon vì cách tán tỉnh đầy lãng mạn của anh này.
Mi-yeong đưa Su-Hyeon về ra mắt gia đình mình và anh anh chóng được cả gia đình Mi-yeong quý mến. Song song với cuộc tình với Mi-yeong, Su-Hyeon đã bí mật quyến rũ cả hai người chị khác của cô là Han Seon-yeong (do Choi Ji-woo đóng vai), người lúc này là một "con mọt sách" đang theo học thạc sĩ ở một trường đại học, và Han Ji-yeong (Chu sang-mi đóng vai), chị cả của Mi-yeong, một phụ nữ đã có chồng nhưng thiếu thốn tình dục vì chồng bỏ bê.
Phim chia thành ba phân cảnh mô tả cách Choi Su-hyeon lần lượt tán tỉnh ba chị em Mi-yeong nhưng chính là cùng một khoảng thời gian. Đoạn kết phim Choi Su-hyeon và Han Mi-yeong kết hôn (trong sự chấp nhận của hai cô chị), nhưng ngay khi đám cưới được diễn ra, Mi-yeong dùng dằng định hủy hôn vì day dứt trong thời gian cặp kè với Su-hyeon, cô đã có lần cắm sừng anh, qua đêm với người yêu cũ. Su-hyeon tỏ ra cao thượng chấp nhận việc này với cô vì với anh mọi người trong đời đều có những bí mật riêng.
Diễn viên
Lee Byung-hun vai Choi Su-hyeon
Choi Ji-woo vai Han Seon-yeong (cô chị thứ hai)
Chu Sang-mi vai Han Ji-yeong (chị cả)
Kim Hyo-jin vai Han Mi-yeong (em gái thứ ba)
Sunwoo Yong-nyeo vai mẹ ba chị em
Kim Hye-gon vai chồng của Ji-yeong
Jeon Jae-hyeong vai Han Dae-yeong - em trai út của gia đình
Tak Jae-hoon vai Sang-il, bạn trai cũ của Mi-yeong
Giải thưởng và bình chọn
Giải thưởng điện ảnh Rồng Xanh 2004:
Diễn viên phụ xuất sắc: Chu sang-mi
Diễn viên mới xuất sắc: Kim Hyo-jin
Giải thường Điện ảnh Hàn Quốc 2004
Giải Grand Bell Awards năm 2005
Liên kết ngoài
Everybody Has Secrets trên IMDb
Tham khảo
Phim về gian dâm
Phim hài lãng mạn Hàn Quốc
|
19838165
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rolex%20Shanghai%20Masters%202023%20-%20%C4%90%C6%A1n
|
Rolex Shanghai Masters 2023 - Đơn
|
Hubert Hurkacz là nhà vô địch, đánh bại Andrey Rublev trong trận chung kết, 6–3, 3–6, 7–6(10–8). Đây là danh hiệu đơn Masters 1000 thứ 2 của Hurkacz.
Daniil Medvedev là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 3 trước Sebastian Korda.
Hạt giống
Tất cả các hạt giống được miễn vào vòng 2.
Kết quả
Chung kết
Nửa trên
Nhánh 1
Nhánh 2
Nhánh 3
Nhánh 4
Nửa dưới
Nhánh 5
Nhánh 6
Nhánh 7
Nhánh 8
Vòng loại
Hạt giống
Vượt qua vòng loại
Kết quả vòng loại
Vòng loại thứ 1
Vòng loại thứ 2
Vòng loại thứ 3
Vòng loại thứ 4
Vòng loại thứ 5
Vòng loại thứ 6
Vòng loại thứ 7
Vòng loại thứ 8
Vòng loại thứ 9
Vòng loại thứ 10
Vòng loại thứ 11
Vòng loại thứ 12
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kết quả vòng đấu chính
Kết quả vòng loại
Rolex Shanghai Masters - Đơn
Rolex Shanghai Masters 2023
|
19838236
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/AAM-N-10%20Eagle
|
AAM-N-10 Eagle
|
AAM-N-10 Eagle là một tên lửa không đối không tầm xa do Bendix Corporation phát triển cho Hải quân Hoa Kỳ. Tên lửa được dự kiến trang bị cho máy bay tiêm kích Douglas F6D Missileer trên tàu sân bay Mỹ. Chương trình phát triển đã bị hủy bỏ trước khi đến giai đoạn thử nghiệm nhưng các bài học thu được trong quá trình phát triển tên lửa này đã được sử dụng để phát triển tên lửa tầm xa AIM-54 Phoenix.
Giai đoạn thiết kế và phát triển ban đầu
Việc phát triển tên lửa AAM-N-10 được bắt đầu vào năm 1957 với khái niệm máy bay phòng thủ trên hạm tàu của Hải quân Mỹ: đó là máy bay chiến đấu đánh chặn cận âm, hoạt động lâu dài, trang bị radar mạnh và có tên lửa có tầm bắn rất xa, có khả năng bắn hạ máy bay đối phương ở cự ly cách xa tàu sân bay nhất có thể. Vào năm 1958, công ty Douglas Aircraft được trao hợp đồng phát triển máy bay đánh chặn F6D-1, còn công ty Bendix Corporation nhận hợp đồng phát triển tên lửa AAM-N-10 Eagle.
Eagle có thiết kế thông thường giống với các loại tên lửa không đối không hạng nặng vào thời điểm đó, với aspect ratio rất nhỏ, cánh gần như có dạng tam giác với sải cánh chạy dọc chiều dài thân tên lửa dài , và có tầng đẩy khởi tốc có thể tháo rời cho phép tên lửa tăng tốc đột ngột khi rời bệ phóng. Khung tên lửa được chế tạo theo hợp đồng giữa Bendix và Grumman Aircraft; Aerojet trở thành nhà thầu phụ để chế tạo động cơ tên lửa AAM-N-10. Tầng đẩy khởi tốc sẽ cung cấp lực đẩy giúp tên lửa tăng tốc lên tốc độ hành trình Mach 3,5; sau đó động cơ chính của tên lửa sẽ tăng tốc dần tên lửa lên tốc độ bay hành trình Mach 4,5. Tên lửa mang đầu đạn nổ mạnh tiêu chuẩn và có thể trang bị đầu đạn hạt nhân W42 (vốn được trang bị cho tên lửa phòng không MIM-23 HAWK).
Tên lửa Eagle sử dụng dẫn đường bằng lệnh vô tuyến điện ở pha giữa, với tín hiệu từ máy bay được truyền đến tên lửa để giúp tên lửa đi đúng hướng. Khi đến gần mục tiêu, tên lửa chuyển sang chế độ dẫn đường bằng radar chủ động, radar trang bị trên tên lửa này được chế tạo dựa trên radar AN/DPN-53 trang bị trên tên lửa phòng không CIM-10 Bomarc, do có sự tương tự về cấu hình bay đánh chặn mục tiêu. Tên lửa có khả năng tấn công từ cự ly tới ; radar AN/APQ-81 chỉ có tầm phát hiện mục tiêu , tuy nhiên máy bay tiêm kích có thể được máy bay cảnh báo sớm trên không hướng dẫn tới mục tiêu, phóng tên lửa đến khu vực mục tiêu, nhiệm vụ điều khiển tên lửa ở pha cuối sẽ do hệ thống dẫn đường thứ cấp home-on-jam đảm nhiệm.
Vào năm 1960, một máy bay cường kích hạng trung Douglas A3D Skywarrior đã được sửa đổi để trở thành nền tảng thử nghiệm cho radar APQ-81 và tên lửa AAM-N-10, máy bay sau khi sửa đổi có một chiếc mũi lớn để chứa radar, dẫn đến biệt danh của nó là "Snoopy". Tuy nhiên do lo ngại về vấn đề chi phí và về tính khả thi của khái niệm máy bay tiêm kích phòng thủ hạm đội, chương trình phát triển tên lửa Eagle đã bị hủy bỏ vào tháng 12 năm 1961, trước khi bất kỳ mẫu thử nào được chế tạo. Dù bị hủy bỏ, nhưng chương trình phát triển tên lửa Eagle đã giúp các kỹ sư tích lũy kinh nghiệm để phát triển tên lửa AAM-N-11 (sau này là AIM-54) Phoenix, được trang bị trên máy bay tiêm kích General Dynamics–Grumman F-111B và Grumman F-14 Tomcat.
Tham khảo
Citations
Bibliography
Air-to-air missiles of the United States
Abandoned military rocket and missile projects of the United States
Bendix Corporation
|
19838266
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anatoliy%20Volodymyrovych%20Trubin
|
Anatoliy Volodymyrovych Trubin
|
Anatoliy Volodymyrovych Trubin (; sinh ngày 1 tháng 8 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ukraina hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Benfica tại Primeira Liga và Đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Shakhtar Donetsk
Trubin sinh ra ở Donetsk và bắt đầu sự nghiệp cầu thủ trẻ của mình tại Azovstal-2 Mariupol.
Anh gia nhập học viện của Shakhtar Donetsk vào năm 2014. Vào tháng 2 năm 2019, anh bắt đầu tập luyện cùng đội một và được gọi lên đội hình ra sân chính của Shakhtar tại trận đấu UEFA Europa League gặp Eintracht Frankfurt. Anh ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 26 tháng 5 và giữ sạch lưới trong chiến thắng 4–0 trước Mariupol tại trận này.
Trubin đã có bước đột phá trong mùa giải 2020–21 sau khi anh thay thế huyền thoại câu lạc bộ Andriy Pyatov trong đội hình ra sân. Anh ra sân 30 lần trong mùa giải này. Đồng thời, anh cũng ra mắt tại Champions League tại trận chiến thắng 3–2 trên sân khách trước Real Madrid vào ngày 21 tháng 10 năm 2020 cùng với hai trận giữ sạch lưới trước Inter Milan. Hơn nữa, anh được người hâm mộ Shakthar công nhận là cầu thủ xuất sắc nhất của Shakhtar mùa giải này.
Vào ngày 23 tháng 2 năm 2023, Trubin được mệnh danh là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu sau khi anh thực hiện ba pha cứu thua trong loạt sút luân lưu để giúp Shakhtar tiến tới vòng 16 trong trận lượt về vòng play-off UEFA Europa League sau khi Shakhtar hòa 3–3 với Rennes. Anh ra sân 28 tại giải vô địch quốc gia và giữ sạch lưới 14 lần để giúp Shakhtar giành chức vô địch.
Vào tháng 7 năm 2023, khi hợp đồng của Trubin với Shakhtar chỉ còn một năm, Shakhtar đã đàm phán với Inter Milan về khả năng chuyển nhượng anh để thay thế André Onana, người vừa rời Inter để chuyển sang Manchester United. Tuy nhiên, cuộc đàm phán giữa hai câu lạc bộ đã đổ vỡ sau khi Inter không đáp ứng được mức giá mà Shakhtar yêu cầu. Trong khi đó, Trubin công khai yêu cầu rời câu lạc bộ. Ngay sau đó, Benfica bày tỏ sự quan tâm đến việc có được sự phục vụ của Trubin khi hai câu lạc bộ tiến hành đàm phán.
Benfica
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2023, Trubin gia nhập câu lạc bộ Primeira Liga Benfica sau khi ký hợp đồng có thời hạn đến năm 2028 với một vụ chuyển nhượng trị giá 10 triệu euro cộng với 1 triệu euro tùy theo mục tiêu, với Shakhtar Donetsk cũng được hưởng 40% lợi nhuận bán trong tương lai.
Tại những trận đầu tiên của mùa giải, Trubin vẫn là phương án dự phòng cho Samuel Soares, người đã thay thế vị trí của Odysseas Vlachodimos sau khi Vlachodimos rời câu lạc bộ và chuyển đến Nottingham Forest. Trubin ra mắt vào ngày 16 tháng 9 tại Primeira Liga tại trận chiến thắng 2-1 trên sân khách trước Vizela. Sau trận đấu, huấn luyện viện của đội, Roger Schmidt, nói rằng ông đã cho Soares chơi một vài trận trong khi Trubin thích nghi với đội và có được sự tự tin.
Sự nghiệp quốc tế
Trubin từng thi đấu cho các đội tuyển bóng đá trẻ Ukraine ở các cấp độ U-16, U-17, U-18, U-19 và U-21 với tổng số 31 lần ra sân. Anh được Andrey Shevchenko triệu tập vào đội tuyển quốc gia vào ngày 5 tháng 3 năm 2021 để tham dự vòng loại FIFA World Cup 2022 gặp Pháp, Phần Lan và Kazakhstan.
Anh ra mắt đội tuyển quốc gia vào ngày 31 tháng 3 trong trận đấu vòng loại World Cup gặp Kazakhstan. Trubin được đưa vào đội tuyển tham dự Euro 2020. Sau khi kết thúc với tư cách là một trong những đội đứng thứ ba có thành tích tốt nhất, Ukraine cuối cùng đã bị Anh loại ở tứ kết vào ngày 3 tháng 7 sau khi thất bại 0-4 tại Sân vận động Olimpico ở Rome.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Shakhtar Donetsk
Giải bóng đá Ngoại hạng Ukraina: 2018–19, 2019–20, 2022–23
Cúp bóng đá Ukraina: 2018–19
Cá nhân
Giải bóng đá Ngoại hạng Ukraina - Thủ môn của năm: 2021–22, 2022–23
Đội hình xuất sắc nhất UEFA Champions League: 2020
Đội tuyển bóng đá nam (U-20) trẻ thế giới nam IFFHS: 2021
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2001
Nhân vật còn sống
Người Ukraina
Người Donetsk
Cầu thủ bóng đá Ukraina
Cầu thủ bóng đá nam Ukraina
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Ukraina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ukraina
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Ukraina
Cầu thủ bóng đá Ukrainian Premier League
Cầu thủ bóng đá Primeira Liga
Cầu thủ bóng đá Shakhtar Donetsk
Cầu thủ bóng đá Benfica
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020
Cầu thủ bóng đá Ukraina ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha
|
19838279
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Iburi%20%28ph%C3%B3%20t%E1%BB%89nh%29
|
Iburi (phó tỉnh)
|
là phó tỉnh của Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính phó tỉnh là 50.641 người và mật dộ dân số là 21,12 km2. Tổng diện tích phó tỉnh là 2.398 km2.
Hành chính
Tham khảo
Phó tỉnh của Hokkaidō
|
19838280
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fabio%20Di%20Giannantonio
|
Fabio Di Giannantonio
|
Fabio Di Giannantonio (sinh năm 1998) là một tay đua mô tô người Ý. Fabio Di Giannantonio từng giành chức Á quân giải đua xe Moto3 năm 2018 và từng giành chiến thắng chặng ở giải đua xe MotoGP. Năm 2023 Fabio Di Giannantonio thi đấu MotoGP cho đội đua Gresini Racing.
Sự nghiệp
Moto3 và Moto2
Trong khoảng thời gian thi đấu Moto3 (2015-2018), Fabio Di Giannantonio giành được 2 chiến thắng chặng. Kết quả tốt nhất là chức Á quân mùa giải 2018, sau Jorge Martin.
Từ năm 2019 đến 2021, Fabio Di Giannantonio chuyển lên thi đấu thể thức Moto2, anh giành được 1 chiến thắng chặng nữa ở chặng đua Jerez 2021.
MotoGP (2022-nay)
Năm 2022, Fabio Di Giannantonio được đội đua Gresini đăng ký thi đấu thể thức MotoGP. Anh bất ngờ giành được vị trí xuất phát đầu tiên ở chặng đua sân nhà Italia.
Năm 2023, Fabio Di Giannantonio lần đầu lên podium MotoGP ở chặng đua GP Úc, sau đó tiếp tục có lần đầu tiên chiến thắng đua chính MotoGP ở chặng đua Qatar.
Thống kê thành tích
Theo năm
Theo thể thức
Kết quả chi tiết
(Ghi chú) (Tên chặng đua được in đậm có nghĩa là tay đua giành được pole ở chặng đua đó. Tên chặng đua được in nghiêng có nghĩa là tay đua giành được fastest lap ở chặng đua đó)
Mùa giải đang diễn ra.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin Fabio di Giannantonio trên trang chủ MotoGP
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Tay đua MotoGP
|
19838286
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Petr%20Fiala
|
Petr Fiala
|
Petr Fiala (; sinh ngày 1 tháng 9 năm 1964) là một chính trị gia và nhà khoa học chính trị người Séc, là thủ tướng Cộng hòa Séc kể từ tháng 11 năm 2021 và lãnh đạo của Đảng Dân chủ Công dân (ODS ) kể từ năm 2014. Trước đây ông từng giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Thanh niên và Thể thao từ năm 2012 đến năm 2013. Trước khi tham gia chính trị, ông là hiệu trưởng của Đại học Masaryk.
Ông là một người có quan điểm bảo thủ, ông có quan điểm hoài nghi châu Âu nhẹ, và nói rằng ông phản đối "chủ nghĩa cực đoan chính trị" và "chủ nghĩa dân túy". Ông phản đối hôn nhân đồng giới như ông đã nói trong cuốn sách của mình. Nhiều công ty có trụ sở tại Séc đã yêu cầu Fiala chấp thuận hôn nhân LGBT.
Tham khảo
Thủ tướng Cộng hòa Séc
cs:Petr Fiala
|
19838287
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marco%20Bezzecchi
|
Marco Bezzecchi
|
Marco Bezzecchi (sinh năm 1998) là một tay đua mô tô chuyên nghiệp người Ý. Marco Bezzecchi từng nhiều lần chiến thắng chặng đua MotoGP.
Năm 2024, Bezzecchi thi đấu MotoGP cho đội đua VR46.
Sự nghiệp
Moto2 và Moto3
Trong quãng thời gian thi đấu Moto3 (2015-2018), thành tích tốt nhất của Marco Bezzecchi là vị trí thứ 3 chung cuộc ở mùa giải Moto3 2018. Mùa giải này anh giành được 3 chiến thắng chặng ở Argentina, Áo và Nhật Bản.
Từ năm 2019 đến năm 2021 Marco Bezzecchi thi đấu ở giải đua xe Moto2. Năm 2020 anh gia nhập đội đua VR46 và giành được chiến thắng Moto2 đầu tiên ở chặng đua Styria sau khi Jorge Martin bị phạt lỗi chạy ra ngoài đường đua. Năm 2022 Bezzecchi xếp thứ 3 toàn mùa giải, anh giành thêm một chiến thắng nữa ở Styria.
MotoGP (2022-nay)
Năm 2022, đội đua VR46 đăng ký tham gia MotoGP, đã chọn Marco Bezzecchi và Luca Marini làm hai tay đua chính thức. Ở chặng đua TT Assen 2022, Bezzecchi trở thành tay đua mang về podium MotoGP đầu tiên cho đội đua VR46. Đến chặng đua Thái Lan, Bezzecchi xuất sắc giành được vị trí xuất phát đầu tiên ở cuộc đua chính.
Năm 2023 Marco Bezzecchi là một trong những bất ngờ lớn nhất của mùa giải. Sau khi lên podium ở chặng đua mở màn ở Bồ Đào Nha, thì ở chặng đua thứ hai của mùa giải ở Argentina, Bezzecchi đã có lần đầu tiên trong sự nghiệp giành chiến thắng thể thức MotoGP. Đây cũng là chiến thắng MotoGP đầu tiên của đội đua VR46.
Thống kê thành tích
Theo năm
Theo giải đua
Chi tiết
(Ghi chú) (Chữ in đậm nghĩa là tay đua giành được pole, chữ in nghiêng nghĩa là tay đua giành được fastest lap)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin Marco Bezzecchi trên trang chủ MotoGP
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Tay đua MotoGP
|
19838288
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shin%20Won-sik
|
Shin Won-sik
|
Shin Won-sik (tiếng Triều Tiên: 신원식, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1958) là một trung tướng lục quân Hàn Quốc và cựu Phó Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Ông hiện giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong nội các của Tổng thống Yoon Suk-yeol, kể từ ngày 7 tháng 10 năm 2023.
Chú thích
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hàn Quốc
|
19838290
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kamifurano%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Kamifurano, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Sorachi, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 10.348 người và mật độ dân số là 44 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 237,18 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838297
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Solange%20Dekker
|
Solange Dekker
|
Solange Dekker (sinh ngày 15 tháng 3 năm 1996) là một hoa hậu, người mẫu chuyển giới người Hà Lan, cô đã chiến thắng cuộc thi Hoa hậu Chuyển giới Hà Lan 2023 và đã đăng quang Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2023. Cô là người Hà Lan đầu tiên đăng quang và cũng là đại diện đầu tiên đến từ Châu Âu chiến thắng cuộc thi.
Sự nghiệp
Cô chiến thắng cuộc thi Hoa hậu Chuyển giới Hà Lan 2023 và đại diện đầu tiên của Hà Lan đến với đấu trường sắc đẹp Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế.
Solange Dekker bắt đầu sự nghiệp thi hoa hậu khi tham gia cuộc thi Miss Trans Star International 2019 được tổ chức tại Barcelona , Tây Ban Nha. Sự quyết tâm và trí tuệ của cô đã đưa cô trở thành một trong những người lọt vào vòng chung kết cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Hà Lan và nhận được giải thưởng Người đẹp Truyền thông. Cô cũng từng tham gia cuộc thi Hoa hậu Sắc đẹp Noord Holland, một cuộc thi khu vực được tổ chức trên toàn quốc.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nữ người mẫu Hà Lan
Người chuyển giới nữ
|
19838300
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Genesis%20GV80
|
Genesis GV80
|
Genesis GV80 () là một mẫu SUV crossover hạng sang cỡ trung được sản xuất bởi Genesis, thương hiệu con thuộc tập đoàn Hyundai. Với tên mã JX1, đây là mẫu SUV đầu tiên của hãng nhằm cạnh tranh với các đối thủ cùng phân khúc đến từ châu Âu.
Tổng quan
Mang tên mã JX1, những hình ảnh đầu tiên của GV80 đã rò rỉ ra bên ngoài vào tháng 10 năm 2019, sau đó xe chính thức ra mắt vào tháng giêng năm sau với tư cách là mẫu SUV đầu tiên của thương hiệu Genesis. Đây là nỗ lực hợp tác giữa các đội ngũ thiết kế của Genesis ở Hàn Quốc, Châu Âu và Hoa Kỳ. GV80 sử dụng hệ dẫn động cầu sau kiểu mới, đồng thời các chi tiết trên thân xe như cửa, cửa hậu và mui đều được làm từ nhôm nhẹ. Xe nổi bật với lưới tản nhiệt lớn dạng năm cạnh, có bốn đèn pha dẹt nằm ngang. Hãng xe Hàn cho biết, thiết kế phần đầu xe được lấy cảm hứng từ chính logo của hãng.
Về mặt tiện nghi, GV80 được trang bị Ga tự động thông minh sử dụng định vị (ASCC), Hỗ trợ đỗ xe thông minh từ xa, chìa khóa kỹ thuật số NFC, camera quan sát xung quanh (AVM), bộ mâm 22 inch, ghế bọc da Nappa với họa tiết quả trám, màn hình thông tin giải trí 14,5 inch tích hợp công nghệ nhận dạng chữ viết tay và dẫn đường thực tế ảo, 21 hệ thống loa Lexicon, rèm cửa chỉnh điện cũng như hàng ghế thứ hai và thứ ba do người lái điều khiển. Hệ thống an toàn của xe gồm có 10 túi khí, Hỗ trợ chống va chạm phía trước, Hỗ trợ đỗ xe an toàn, Tính năng cảnh báo tài xế tập trung, Tránh va chạm trong vùng điểm mù, Hệ thống đèn pha tự động và Hỗ trợ giữ làn đường (LKAS).
GV80 được cung cấp ba tùy chọn động cơ khác nhau, đầu tiên là động cơ tăng áp 2.5 lít sản sinh công suất , tiếp theo là tăng áp 3.5 lít cho ra công suất , cuối cùng là loại tăng áp diesel 3.0 lít có công suất , chỉ được phân phối tại một số thị trường nhất định.
Lượng phát thải khuyến nghị của xe là khoảng , và lần lượt đối với các tùy chọn động cơ xăng 2.5 L, xăng 3.5 L và diesel 3.0 L. Mục tiêu của châu Âu đối với lượng phát thải trên các dòng xe con dự định đạt mức vào năm 2020. Mức tiêu thụ nguyên liệu kết hợp của GV80 rơi vào khoảng từ (xăng 2.5 L), (xăng 2.5 L), và (diesel).
GV80 Concept
Những nét phát thảo đầu tiên về GV80 đã được thể hiện qua bản concept cùng tên trình làng tại Triển lãm Ô tô Quốc tế New York vào năm 2017. GV80 Concept là dự án đầu tiên mà thiết kế trưởng Luc Donckerwolke thực hiện tại Genesis sau khi ông rời khỏi Bentley. Bản concept này được trang bị hệ dẫn động điện và sử dụng pin nhiên liệu để vận hành. Vào năm 2021, Hyundai đã cho hoãn lại những dự án phát triển xe chạy hydro.
Bản nâng cấp 2023
Bản nâng cấp của GV80 được giới thiệu vào ngày 27 tháng 9 năm 2023 và bắt đầu mở bán tại Hàn Quốc vào ngày 11 tháng 10 năm 2023. Những chi tiết trên xe như đèn pha, lưới tản nhiệt, mâm xe, hệ thống điều hòa và bảng điều khiển trung tâm đều được thiết kế lại. Màn hình OLED 27 inch đời mới thay thế cho cụm đồng hồ 12,3 inch và màn hình thông tin giải trí 14,5 inch trên đời cũ, đồng thời còn có màn hình cảm ứng kép 14,6 inch đặt ở hàng ghế sau. Hệ thống âm thanh trên xe cũng được đổi từ Lexicon sang Bang & Olufsen.
GV80 Coupe
GV80 Coupe ra mắt thế giới vào ngày 27 tháng 9 năm 2023 và mở bán tại Hàn Quốc vào ngày 11 tháng 10 năm 2023. Mẫu xe này thừa hưởng những đặc điểm từ bản nâng cấp của chiếc GV80, trong đó có những thay đổi nổi bật như phần mái theo phong cách coupe, cản trước và lưới tản nhiệt được thiết kế lại, vô lăng theo kiểu phẳng đáy cũng như các chi tiết trang trí nội thất làm từ sợi carbon. GV80 Coupe cũng có thể nhận được cấu hình động cơ tăng áp 3.5 lít sản sinh công suất cao hơn do bổ sung thêm hệ thống siêu nạp điện 48V.
Thị trường
Hàn Quốc
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2021, GV80 chính thức lộ diện với sự thay đổi về đời phiên bản. GV80 2022 bổ sung thêm cấu hình 6 chỗ ngồi với ghế độc lập ở hàng ghế thứ hai. Bên cạnh đó, Genesis cũng nâng cấp kẹp phanh monoblock bánh trước đối với tùy chọn động cơ xăng 2.5 turbo và diesel 3.0. Ngoài ra, hãng còn bổ sung thêm kẹp phanh màu đồng cho bản máy xăng 3.5 turbo.
Ngoài các thay đổi trên, xe còn được bổ sung thêm màu nội thất và ngoại thất mới. Về ngoại thất, GV80 có thêm màu sơn Mauna Red và Barossa Burgundy (mờ hoặc bóng). Còn với phần nội thất, xe có thêm tuỳ chọn hai màu Urban Brown và Vanilla Beige.
Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, GV80 được ra mắt vào tháng 11 năm 2020. Mẫu xe sử dụng hệ dẫn động cầu sau dành cho các mức tùy chọn Standard, Advanced và Prestige, đồng thời trang bị động cơ tăng áp 2.5 lít. Bên cạnh đó, hãng xe cũng cung cấp hệ dẫn động bốn bánh với động cơ tăng áp kép 3.5 lít có sẵn trên các tùy chọn AWD Standard, AWD Advanced, AWD Advanced+ và AWD Prestige.
Hệ truyền động
Triệu hồi
Vào tháng 6 năm 2020, Hyundai Motor đã tạm ngưng việc giao các mẫu GV80 chạy diesel vì có vấn đề về rung lắc động cơ do tích tụ carbon. Vào tháng 9 năm 2020, tập đoàn tiếp tục triệu hồi 8.783 chiếc GV80 vì lỗi chết máy. Kể từ khi mẫu xe này ra mắt vào tháng 1 thì đã có 8 đợt triệu hồi được thực hiện, 4 trong số đó liên quan đến động cơ. Tháng 4 năm 2021, một đợt triệu hồi khác được áp dụng đối với hai mẫu xe G80 và GV80 tại Hoa Kỳ do nguy cơ rò rỉ nhiên liệu.
Doanh số
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ô tô thập niên 2020
Xe phân loại theo nhãn hiệu
Xe thể thao đa dụng Crossover
Xe thể thao đa dụng cỡ trung
|
19838306
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A3o%20Sanba%20%282023%29
|
Bão Sanba (2023)
|
Bão Sanba (Sanba: tên quốc tế, tên tại Việt Nam: bão số 5, số hiệu JTWC: 16W) là một cơn bão nhiệt đới yếu nhưng gây ra những tác động đáng kể cho Việt Nam và Trung Quốc. Đây là cơn bão thứ 16 trong mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương năm 2023 và là cơn bão thứ năm trên biển Đông trong năm. Tiền thân của bão là một vùng áp thấp hình thành vào ngày 13 tháng 10, nối với một dải hội tụ nhiệt đới cùng với các hình thế khí tượng khác đã gây ra tác động đáng kể cho Việt Nam như đợt mưa lớn trên diện rộng tại miền Trung Việt Nam, khiến lần đầu tiên Việt Nam ban hành cảnh báo rủi ro thiên tai cấp 4 và gây mưa giông gió mạnh trên biển làm chìm 2 tàu đánh bắt thuỷ hải sản, khiến 3 người chết và 13 người mất tích. Vùng áp thấp đó đã mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới vào ngày 17 tháng 10 và mạnh lên thành bão Sanba vào ngày hôm sau trên vùng biển phía Đông của Việt Nam. Bão sau đó tiếp tục di chuyển sâu hơn vào vịnh Bắc Bộ và ảnh hưởng đến Trung Quốc. Tại Trung Quốc mưa rất to, lũ lụt, ngập úng và gió mạnh đã được ghi nhận tại nhiều nơi. Bão khiến 4 người chết và gây ra thiệt hại tài sản gần 800 triệu USD tại Trung Quốc. Bão tan hoàn toàn vào tối ngày 20 tháng 10 do không khí lạnh kèm theo các điều kiện bất lợi khác.
Lịch sử khí tượng
Vào ngày 13 tháng 10, vùng áp thấp hình thành ở biển Đông phía tây Philippines, được nối với một dải hội tụ nhiệt đới. Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp thuộc Hoa Kì (JTWC) ban hành Cảnh báo Hình thành Xoáy thuận nhiệt đới (TCFA) lúc 22:00 UTC (05:00 giờ Việt Nam) về vùng áp thấp, gán số hiệu 99W khi hệ thống di chuyển đến vùng biển gần bờ biển Việt Nam, phân tích hệ thống nằm trong môi trường thuận lợi như nhiệt độ nước biển ấm (28-29 oC), dòng phân kì hướng cực mạnh, đứt gió vừa phải. Sáng ngày 17, Cục Khí tượng Nhật Bản (JMA) cho biết áp thấp mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới. Chỉ khoảng vài giờ sau, cơ quan khí tượng của Việt Nam là Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia (NCHMF) cho biết vùng áp thấp đã mạnh lên thành áp thấp nhiệt đới, cho biết rằng nó đang ở trên vùng biển phía Tây Nam quần đảo Hoàng Sa. JTWC và NMC (Trung tâm Khí tượng Quốc gia - một cơ quan khí tượng của Trung Quốc) cũng nâng cấp hệ thống lên thành áp thấp nhiệt đới vào chiều tối cùng ngày, JTWC gán cho hệ thống số hiệu 16W. Hình ảnh vệ tinh hồng ngoại mô tả một CDO (vùng mây dày đặc ở trung tâm) đang che khuất sự lưu thông của áp thấp nhiệt đới có tổ chức kém. Trưa ngày 18, NCHMF nâng cấp áp thấp nhiệt đới thành bão, gọi là bão số 5, ước tính rằng sức gió mạnh nhất vùng gần tâm bão mạnh cấp 8 khi nó đang ở trên khu vực biển Quảng Trị-Quảng Nam, dự báo bão sẽ di chuyển về phía Bắc và hướng đến vịnh Bắc Bộ. Chiều ngày 18, JMA cũng nâng cấp áp thấp nhiệt đới thành bão nhiệt đới, đặt tên là Sanba, dự báo rằng bão sẽ di chuyển lên phía Bắc trong một vài ngày tới tương tự như NCHMF. JTWC và NMC cũng ước tính rằng hệ thống mạnh lên thành bão nhiệt đới vào cùng thời gian đó. Một dòng phân kì mạnh mẽ ở phía Nam bắt đầu ảnh hưởng đáng kể đến cơn bão sau khi các đám mây ở tầng trên và tầng giữa bị tách rời. Bão đổ bộ vào đảo Hải Nam vào trưa ngày 19 tháng 10, NMC khi đó ước tính bão có sức gió cấp 8. Sanba tăng tốc độ di chuyển theo hướng Bắc Đông Bắc và di chuyển sâu hơn vào vịnh Bắc Bộ, bão đã tận dụng điều kiện môi trường khá thuận lợi với nhiệt độ nước biển ấm, các đỉnh mây đã nhô cao rải rác theo hướng xuyên tâm. Vào khoảng tối ngày 19 đến rạng sáng ngày 20, khi bão đi sâu vào vịnh Bắc Bộ và tiến gần đến bờ biển tỉnh Quảng Tây, NCHMF phân tích rằng bão mạnh lên cấp 8-9 giật cấp 11 và dự báo bão di chuyển theo hướng Bắc sau đó đổi hướng di chuyển về phía Nam, còn NMC phân tích rằng bão mạnh lên thành bão cấp 10. Hệ thống bắt đầu đổi hướng về hướng nam và suy yếu dần từ ngày 20 do điều kiện không thuận lợi như tương tác với đất liền, không khí lạnh, khô và gió đứt mạnh. NCHMF và JTWC cho biết bão đã suy yếu thành áp thấp nhiệt đới lúc trưa chiều ngày 20. Vài giờ sau đó, NMC cũng cho rằng bão suy yếu thành áp thấp nhiệt đới. JMA cũng hạ cấp hệ thống thành áp thấp nhiệt đới vào tối cùng ngày và ngừng đưa ra khuyến cáo về hệ thống. Đêm ngày 20 tháng 10, NCHMF phát tin cuối cùng về hệ thống cho biết áp thấp nhiệt đới suy yếu thành vùng áp thấp, gần như cùng lúc NMC đưa ra thông điệp cuối cùng và dừng đánh số hệ thống.Áp thấp tiếp tục suy yếu và tan biến, JTWC ban hành bản tin cảnh báo cuối cùng lúc rạng sáng ngày 21 tháng 10.
Chuẩn bị và ảnh hưởng
Việt Nam
Tiền thân của bão Sanba là vùng áp thấp nối với dải hội tụ nhiệt đới gây mưa giông, lốc xoáy và sóng mạnh trên biển Đông làm chìm 2 tàu Việt Nam đánh bắt hải sản ở phía Bắc Đông Bắc của quần đảo Trường Sa. Sau khi 2 vụ chìm tàu cá xảy ra, lực lượng tìm kiếm cứu nạn đã được huy động để tìm kiếm các nạn nhân của 2 vụ chìm tàu. Lực lượng tìm kiếm đã dừng việc tìm kiếm nạn nhân vào ngày 23 tháng 10. Có tổng cộng 3 người thiệt mạng và 13 người mất tích. Tổ hợp trên cùng với không khí lạnh và gió Đông từ biển thổi vào cũng gây mưa to trên đất liền miền Trung Việt Nam, nhiều nơi ghi nhận lượng mưa từ 120-175 mm trong 8 giờ. Cảnh báo rủi ro thiên tai cấp 4 đã được ban hành đối với Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng, đây lần đầu tiên Việt Nam cảnh báo rủi ro thiên tại cấp 4 do mưa lớn. Sau khi vùng áp thấp nhiệt đới mạnh lên thành bão, NCHMF đã phát "tin bão khẩn cấp" do có những lo ngại về việc bão sẽ tác động đến đất liền, nhưng sau đó cảnh báo khẩn cấp đã được huỷ khi cơn bão bắt đầu suy yếu và không còn khả năng tác động đáng kể đến Việt Nam. Ảnh hưởng của bão tại các vùng phía Bắc nói chung không đáng chú ý, chỉ có đảo Bạch Long Vĩ đã ghi nhận gió mạnh cấp 6.
Trung Quốc
Tại Hải Nam, vào ngày 18 tháng 10 thành phố Tam Á phát cảnh báo ứng phó khẩn cấp cấp III về phòng chống lũ lụt và gió, các trường mẫu giáo, nhà trẻ trong thành phố tạm dừng hoạt động nửa ngày vào chiều cùng ngày, việc tham quan danh lam thắng cảnh cũng bị dừng lại. Thành phố Hải Khẩu đã đưa ra biện pháp ứng phó khẩn cấp cấp độ IV để phòng chống lũ lụt và gió. Vào lúc 17:30 giờ địa phương, Tổng cục Quốc phòng tỉnh Hải Nam đã nâng cấp mức độ ứng phó khẩn cấp phòng chống lũ lụt từ cấp độ IV lên cấp độ III. Cảng biển Hải Khẩu, cảng Xiuying và cảng đường sắt phía Nam tạm dừng khai thác từ lúc 4 giờ ngày 19 tháng 10 và dự kiến việc tạm dừng sẽ tiếp tục cho đến ngày 20 tháng 10. Nhiều nơi trên đảo chịu những cơn gió giật mạnh phổ biến từ cấp 7-9, gió giật mạnh 31 m/s (cấp 11) ở một hòn đảo nhỏ ngoài khơi. Lượng mưa trong 4 ngày tại đảo Hải Nam phổ biến từ 100–300 mm, cao nhất là 333,2 mm được ghi nhận tại một địa điểm thuộc thành phố Vạn Ninh.
Ở Quảng Tây, vào ngày 18 tháng 10, Trụ sở Phòng chống lũ lụt và cứu trợ hạn hán Quảng Tây đã phát động ứng phó khẩn cấp cấp IV về phòng chống lũ lụt và bão. Trên đất liền và vùng biển ngoài khơi Quảng Tây (nằm trong vịnh Bắc Bộ) đã ghi nhận một số nơi có lượng mưa từ 400–600 mm, có nơi cao hơn nữa và gió mạnh trên cấp 8. Một cơn gió mạnh trung bình 33,3 m/s (cấp 12) đã được ghi nhận tại một giàn khoan dầu không rõ độ cao ở ngoài khơi, thuộc Khu điều hành Dầu khí Uy Châu. Tại thị trấn Kiều Cảng thuộc quận Ngân Hải, thành phố Bắc Hải, trạm khí tượng Yaping ghi nhận lượng mưa trong 24h lên tới 780,3 mm, một kỉ lục tại Quảng Tây. Ảnh hưởng từ mưa lớn khiến nhiều đoạn đường ở nhiều nơi bị ngập úng khiến nhiều người bị mắc kẹt và có nhiều chiến dịch cứu hộ giải cứu người mắc kẹt. Một xe cơ giới được tài xế điều khiển ở một thị trấn thuộc huyện Bác Bạch bị mắc kẹt khi đi qua cây cầu bị ngập sâu hơn 30 cm, có 4 người trong xe và đã được giải cứu. Một ngôi làng ở huyện Bác Bạch bị cô lập, bị cắt nguồn nước sạch và cắt điện, lực lượng cứu hộ cùng các thiết bị cần thiết đã tiếp cận và cung cấp những nhu yếu phẩm cần thiết cho hơn 100 hộ gia đình bị mắc kẹt. Hơn 30 người bị mắc kẹt dọc đường ở huyện Lục Xuyên cũng được giải cứu. Ngoài ra, do ảnh hưởng của bão ở vùng biển ngoài khơi, một tàu chở hàng Trung Quốc gặp nguy hiểm tại vùng biển vịnh Bắc Bộ, phía Tây đảo Vi Châu, con tàu cùng với 5 thuyền viên đã được giải cứu khỏi nguy hiểm.
Còn tại Quảng Đông, cấp độ báo động ứng phó khẩn cấp và kiểm soát lũ lụt ở thành phố Trạm Giang, tỉnh Quảng Đông được nâng lên cấp II, ở Mậu Danh được nâng lên cấp III. Do ảnh hưởng của bão, nhiều nơi tại Trạm Giang và Mậu Danh đã hứng chịu những cơn mưa lớn, trung bình các địa điểm lượng mưa trên 200 mm trong 24 giờ, có nơi lên tới hơn 400 mm trong 24 giờ. Lượng mưa trong 1 giờ cao nhất ghi nhận tại Mậu Danh lên tới lên tới 158,5 mm tại một địa điểm thuộc quận Mậu Nam, là giá trị kỉ lục lịch sử của thành phố này. Các trường học ở quận Xích Khảm, Hà Sơn, Ma Chương, Pha Đầu và một số nơi khác của thành phố Trạm Giang đã cho học sinh nghỉ học vào ngày 19 tháng 10. Thành phố Mậu Danh cũng đã yêu cầu các trường học, nhà trẻ ở một số nơi tạm dừng hoạt động. Một số con đường ở thành phố Trạm Giang bị ngập nặng, nhiều người già và trẻ em bị mắc kẹt. Lũ lụt và mực nước vượt mức cảnh báo cũng xảy ra ở thượng nguồn sông La Định và một số đoạn sông khác. Hồ chứa Cao Châu đã tiến hành xả lũ do mực nước tại hồ chứa cao vượt giới hạn cho phép.
Tại Hồng Kông và Ma Cao, do ảnh hưởng của Sanba (kể cả tiền thân của bão), kết hợp với gió mùa Đông Bắc, hai đặc khu này có mưa ở mức vừa phải, có gió mạnh và thời tiết mát mẻ.
Thống kê tại toàn vùng bị ảnh hưởng do bão, có 4 người chết, hơn 2 triệu người bị ảnh hưởng, hơn 300 ngôi nhà bị sập, diện tích hoa màu bị thiệt hại là 138.700 ha, tổng thiệt hại tài sản lên tới 5,82 tỷ Nhân dân tệ (798 triệu USD).
Xem thêm
Bão Nangka (2020).
Bão Sontinh (2018).
Bão Mangkhut (2013).
Bão Sơn Tinh (2012).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trung tâm Dự báo Khí tượng Thuỷ văn Quốc gia.
Thông tin chung về bão Sanba từ Digital Typhoon.
Tin tức bão Sanba trên Google.
Bão tại Việt Nam
Bão tại Trung Quốc
|
19838314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tosanoides%20annepatrice
|
Tosanoides annepatrice
|
Tosanoides annepatrice là một loài cá biển thuộc chi Tosanoides trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2018.
Từ nguyên
Từ định danh được đặt theo tên của bà Anne Patrice Greene, là mẹ của tác giả thứ hai Brian D. Greene, người đã thu thập tất cả các mẫu vật của loài cá này, cũng như để ghi nhận sự hỗ trợ và động viên mà bà đã dành cho hành trình khám phá các rạn san hô sâu ở Micronesia của con trai mình.
Phân bố và môi trường sống
T. annepatrice mới chỉ được ghi nhận ở quốc đảo Palau và đảo Pohnpei (Liên bang Micronesia), nhưng có lẽ sẽ được tìm thấy trên khắp Micronesia.
T. annepatrice được quan sát và thu thập dọc theo các rạn san hô dốc ở độ sâu khoảng 115–150 m.
Mô tả
Tổng chiều dài cơ thể lớn nhất đươc ghi nhận ở T. annepatrice là 10,4 cm (chiều dàu chuẩn của mẫu vật này là gần 6,9 cm).
Cá đực: đầu và thân màu đỏ hồng, bụng vàng tươi. Đầu có thêm 4 sọc chéo màu vàng tươi, riêng sọc thứ ba nối tiếp với sọc đỏ tươi trên thân có viền màu cánh sen, trở lại màu vàng ở giữa gốc vây đuôi. Vây lưng có dải vàng rất dày ở giữa, bao quanh với viền màu cánh sen. Vây hậu môn có màu vàng ở trước, chuyển sang màu cánh sen ở sau. Vây bụng màu vàng, ngoại trừ hai tia cuối màu cánh sen. Mắt màu hồng tím với một vòng vàng quanh đồng tử.
Cá cái và cá con: màu vàng với các vệt gợn sóng màu đỏ gần như thẳng đứng dọc theo mép vảy cá. Vây hậu môn màu cánh sen ở trước, chuyển sang màu tím ở sau, có vệt màu vàng lục giữa vây. Vây bụng màu cánh sen.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16–17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 33–34.
Sinh thái
Qua khảo sát thực địa, hầu hết các cá thể T. annepatrice sống thành nhóm hậu cung gồm một con đực với một vài con cái và con non.
Tham khảo
A
Cá Thái Bình Dương
Cá Palau
Động vật Micronesia
Động vật được mô tả năm 2018
|
19838317
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Atsuma%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Atsuma, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Yūfutsu, phó tỉnh Iburi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.432 người và mật độ dân số là 11 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 404,56 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838323
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yuni%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Yuni, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Yūbari, phó tỉnh Sorachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.822 người và mật độ dân số là 36 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 133,86 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838325
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cymothoe
|
Cymothoe
|
Cymothoe là một chi bướm thuộc phân họ Limenitidinae. Chi này phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi, nơi các loài được tìm thấy chủ yếu trong môi trường sống trong rừng, chủ yếu ở rừng Guinea ở Tây Phi và rừng Congo.
Mô tả
Đây là những loài bướm có kích thước từ trung bình đến lớn (sải cánh 40–70 mm) thường có màu sắc khá sặc sỡ. Các loài trong chi này có nhiều màu sắc và hoa văn khác nhau. Trong số đáng chú ý nhất là một số loài có mặt trên có màu đỏ tươi hoặc cam. Một nhóm khác phần lớn có màu vàng nhạt; một số khác có màu vàng son đậm và nâu sô-cô-la hoặc trắng tinh.
Sinh học
Ấu trùng ăn nhiều loại cây bụi và cây khác nhau. Các chi cây chủ được ghi nhận bao gồm Rawsonia và Kiggelaria (Achariaceae), Fernandoa và Kigelia (Bignoniaceae), Vismia (Hypericaceae), Dovyalis (Salicaceae) và Rinorea (Violaceae). Những con trưởng thành dành phần lớn thời gian trong tán cây nhưng cũng tìm kiếm những điểm có ánh nắng giữa các cây và ăn thực vật mục nát trên nền rừng.
Phân loại
Các loai trong chi này biểu hiện sự lưỡng hình giới tính. Các cá thể cũng có thể khác nhau trong cùng một loài, đặc biệt là con cái. Ví dụ, con cái của C. caenis rất đa dạng đến mức các nhà phân loại đã mô tả 20 dạng loài khác nhau dựa trên sự khác biệt của chúng.
Chi chị em là Harma. Loài điển hình của chi này là Cymothoe althea.
Nhóm loài
Xác định các nhóm loài là một cách thuận tiện để phân chia các chi được xác định rõ ràng với một số lượng lớn các loài được công nhận. Các loài Cymothoe được sắp xếp thành các tập hợp được gọi là "nhóm loài" nhưng (không phải siêu loài mà là một sự phân loại theo ngoại hình không chính thức). Đây có thể là hoặc không thể là các nhánh. Khi các nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử tiếp tục, các dòng dõi đủ khác biệt để đảm bảo một mức độ công nhận chính thức nào đó trở nên rõ ràng và các nhóm mới được đề xuất, nhưng việc xếp hạng nhất quán vẫn là một vấn đề.
Các loài
Có khoảng 75 loài được biết đến.
Được liệt kê theo thứ tự bảng chữ cái trong các nhóm loài:
Nhóm loài oemilius
Cymothoe oemilius (Doumet, 1859)
Nhóm loài hyarbita
Cymothoe hyarbita (Hewitson, [1866])
Cymothoe reinholdi (Plötz, 1880)
Nhóm loài lucasi
Cymothoe egesta (Cramer, 1775)
Cymothoe lucasii (Doumet, 1859)
Cymothoe megaesta Staudinger, 1889
Cymothoe owassae Schultze, 1916
Nhóm loài không xác định
Cymothoe orphnina Karsch, 1894
Nhóm loài lurida
Cymothoe colmanti Aurivillius, 1898
Cymothoe hypatha (Hewitson, 1866)
Cymothoe lurida (Butler, 1871)
Nhóm loài không xác định
Cymothoe cyclades (Ward, 1871)
Cymothoe fontainei Overlaet, 1952
Cymothoe heliada (Hewitson, 1874)
Cymothoe herminia Grose-Smith, 1887
Cymothoe hesiodina Schultze, 1908
Cymothoe hesiodotus Staudinger, 1889
Cymothoe howarthi Rydon, 1981
Cymothoe isiro Rydon, 1981
Cymothoe ochreata Grose-Smith, 1890
Cymothoe sassiana Schouteden, 1912
Cymothoe weymeri Suffert, 1904
Nhóm loài fumana
Cymothoe fumana (Westwood, 1850)
Cymothoe haynae Dewitz, 1886
Nhóm loài không xác định
Cymothoe althea (Cramer, [1776])
Cymothoe amenides (Hewitson, 1874)
Cymothoe capella (Ward, 1871)
Cymothoe caprina Aurivillius, 1897
Cymothoe consanguis Aurivillius, 1896
Cymothoe coranus (Grose-Smith, 1889)
Cymothoe eris Aurivillius, 1896
Nhóm loài caenis
Cymothoe alcimeda (Godart, [1824])
Cymothoe alticola Libert & Collins, 1997
Cymothoe caenis (Drury, [1773])
Cymothoe jodutta (Westwood, 1850)
Cymothoe teita van Someren, 1939
Nhóm loài không xác định
Cymothoe adela Staudinger, 1889
Cymothoe altisidora (Hewitson, 1869)
Cymothoe amaniensis Rydon, 1980
Cymothoe angulifascia Aurivillius, 1897
Cymothoe aubergeri Plantrou, 1977
Cymothoe aurivillii Staudinger, 1899
Cymothoe beckeri (Herrich-Schäffer, [1853])
Cymothoe collarti Overlaet, 1942
Cymothoe collinsi Rydon, 1980
Cymothoe cottrelli Rydon, 1980
Cymothoe dujardini Viette, 1971
Cymothoe indamora Hewitson, 1866
Cymothoe lambertoni Oberthür, 1923
Cymothoe magambae Rydon, 1980
Cymothoe melanjae Bethune-Baker, 1926
Cymothoe vumbui Bethune-Baker, 1926
Cymothoe zenkeri Richelmann, 1913
Cymothoe zombana Bethune-Baker, 1926
Nhóm loài sangaris
Cymothoe anitorgis (Hewitson, 1874)
Cymothoe aramis (Hewitson, 1865)
Cymothoe coccinata (Hewitson, 1874)
Cymothoe euthalioides Kirby, 1889
Cymothoe harmilla (Hewitson, 1874)
Cymothoe hobarti Butler, 1900
Cymothoe magnus Joicey & Talbot, 1928
Cymothoe ogova (Plötz, 1880)
Cymothoe sangaris (Godart, 1824)
Nhóm loài không xác định
Cymothoe arcuata Overlaet, 1945
Cymothoe crocea Schultze, 1917
Cymothoe distincta Overlaet, 1944
Cymothoe excelsa Neustetter, 1912
Cymothoe haimodia (Grose-Smith, 1887)
Cymothoe hartigi Belcastro, 1990
Cymothoe mabillei Overlaet, 1944
Cymothoe meridionalis Overlaet, 1944
Cymothoe preussi Staudinger, 1889
Cymothoe radialis Gaede, 1916
Cymothoe rebeli Neustetter, 1912
Cymothoe reginaeelisabethae Holland, 1920
Tham khảo
Liên kết ngoài
Seitz, A. Die Gross-Schmetterlinge der Erde 13: Die Afrikanischen Tagfalter. Plate XIII 34 et seq.
Cymothoe types hình ảnh từ Bảo tàng Hoàng gia Trung Phi
Images representing Cymothoe at EOL
Images representing Cymothoe tại Hiệp hội Mã vạch Sự sống
Cymothoe
Limenitidinae
|
19838332
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matsui%20Kazumi
|
Matsui Kazumi
|
(sinh ngày 8 tháng 1 năm 1953) là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thị trưởng thành phố Hiroshima kể từ ngày 10 tháng 4 năm 2011.
Tham khảo
Sinh năm 1953
Cựu sinh viên Đại học Kyōto
|
19838339
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mariner%201
|
Mariner 1
|
Mariner 1, được chế tạo để thực hiện chuyến flyby Sao Kim đầu tiên thực hiện bởi Mỹ, là tàu vũ trụ đầu tiên trong chương trình Mariner liên hành tinh của NASA. Được phát triển bởi Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực và ra mắt vào mùa hè năm 1962, thiết kế của Mariner 1 (và Mariner 2) được dựa trên tàu thăm dò Mặt Trăng Ranger. Mariner 1 đã thực hiện một loạt thí nghiệm nhằm xác định nhiệt độ của Sao Kim cũng như đo từ trường và đo các hạt tích điện ở gần Sao Kim và ở không gian liên hành tinh.
Mariner 1 được phóng vào ngày 22 tháng 7 năm 1962 bằng tên lửa Atlas-Agena từ Cape Canaveral's Pad 12. Ngay sau khi cất cánh, lỗi liên lạc giữa tên lửa và hệ thống dẫn đường trên mặt đất đã khiến tên lửa chệch hướng.
Xem thêm
Chương trình Mariner
Tham khảo
Liên kết ngoài
NASA's article about the Mariner I.
Mariner 1 Mission Profile bởi NASA's Solar System Exploration.
RISKS Digest detail about the Mariner I failure.
Lỗi phần mềm
Vụ phóng vệ tinh thất bại
Chương trình Mariner
Tàu vũ trụ đến Sao Kim
|
19838350
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Planum%20Australe
|
Planum Australe
|
Planum Australe (Latin: "đồng bằng phía nam") là đồng bằng cực nam của Sao Hỏa. Nó kéo dài ở phía nam khoảng 75°N và tập trung ở . Địa chất của khu vực này dự tính được khám phá bởi cuộc thám hiểm Mars Polar Lander - một sứ mệnh thất bại của NASA, tàu đã mất liên lạc khi đi vào bầu khí quyển Sao Hỏa.
Vào tháng 7 năm 2018, các nhà khoa học đã báo cáo phát hiện về một hồ nước lỏng dưới băng trên Sao Hỏa dựa trên các nghiên cứu radar MARSIS, hồ nằm bên dưới chỏm băng cực nam và kéo dài sang một bên khoảng , đây là khu vực có nước ổn định đầu tiên được biết đến trên hành tinh này.
Chỏm băng
Một phần Planum Australe được bao phủ bởi chỏm băng vùng cực vĩnh cửu bao gồm nước đóng băng và carbon dioxide dày khoảng 3 km. Một lớp băng theo mùa hình thành bên trên lớp băng vĩnh cửu trong mùa đông trên Sao Hỏa, kéo dài từ 60°N về phía nam. Vào mùa đông, nó dày khoảng 1 mét. Có thể diện tích chỏm băng này sẽ bị thu hẹp lại do biến đổi khí hậu. Tuy vậy những tuyên bố về sự nóng lên toàn cầu trên toàn Sao Hỏa dựa trên hình ảnh lại bỏ qua dữ liệu nhiệt độ và bộ dữ liệu toàn cầu của hành tinh này. Dữ liệu từ tàu vũ trụ và dữ liệu vi sóng cho thấy nhiệt độ trung bình toàn cầu cao nhất là ổn định, và có thể đang nguội đi.
Năm 1966, Leighton và Murray đề xuất rằng vùng cực của Sao Hỏa cung cấp lượng CO2 lớn hơn nhiều so với trữ lượng trong bầu khí quyển. Tuy nhiên hiện nay người ta cho rằng cả hai vùng cực đều được cấu tạo chủ yếu từ nước đóng băng. Cả hai cực đều có lớp phủ CO2 theo mùa mỏng, trong khi cực nam có lớp phủ CO2 tồn dư vĩnh cửu, dày khoảng 8 đến 10 mét nằm trên mặt nước đóng băng. Kết luận rằng phần lớn băng là nước dựa vào lập luận rằng CO2 không đủ chắc về mặt cơ học để làm cho chỏm băng dày 3 km ổn định trong thời gian dài. Bằng chứng gần đây từ radar xuyên băng SHARAD đã cho thấy lượng băng CO2 khổng lồ dưới bề mặt xấp xỉ bằng 80% khí quyển hiện tại, hay 4–5 mbar, được lưu trữ ở Planum Australe.
Dữ liệu từ Mars Express của ESA cho thấy chỏm băng có ba phần chính. Phần phản chiếu mạnh nhất của chỏm băng chiếm khoảng 85% băng khô và 15% băng nước. Phần thứ hai, nơi chỏm băng tạo thành những sườn dốc ở vùng rìa với đồng bằng xung quanh, hầu như chỉ có băng nước. Cuối cùng, chỏm băng được bao quanh bởi các tầng đất đóng băng vĩnh cửu kéo dài hàng chục km tính từ các vách đá về phía bắc.
Trung tâm của chỏm băng vĩnh cửu không nằm ở vĩ độ 90°N chính xác của cực nam mà nằm lệch sang khoảng 150 km về phía bắc. Sự hiện diện của hai hố va chạm lớn ở bán cầu tây – Hellas Planitia và Argyre Planitia – tạo ra một khu vực áp suất thấp bất động trên chỏm băng vĩnh cửu. Thời tiết điển hình tại đây là kiểu thời tiết tạo ra tuyết trắng mịn có suất phản chiếu cao. Điều này trái ngược với băng đen hình thành ở phần phía đông của vùng cực, nơi có ít tuyết.
Đặc điểm
Planum Australe chia thành hai tiểu vùng riêng biệt – Australe Lingula và Promethei Lingula. Chúng bị chia cắt bởi các hẻm núi Promethei Chasma, Ultimum Chasma, Chasma Australe và Australe Sulci. Có giả thuyết cho rằng những hẻm núi này được tạo ra bởi gió katabatic. Miệng hố va chạm lớn nhất ở Planum Australe là McMurdo.
Mạch nước phun trên Sao Hỏa
Quá trình đóng băng và tan băng theo mùa ở chỏm băng phía nam dẫn đến sự hình thành các kênh xuyên tâm giống như mạng nhện được ánh sáng mặt trời phản chiếu trên lớp băng dày 1 mét. Về sau, CO2 thăng hoa (và có thể cả nước) làm tăng áp suất bên trong chúng, tạo ra các vụ phun trào giống như mạch nước phun của chất lỏng lạnh thường trộn lẫn với cát hoặc bùn bazan sẫm màu. Quá trình này diễn ra nhanh chóng, được quan sát thấy xảy ra trong khoảng thời gian vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng, một tốc độ tăng trưởng khá bất thường về mặt địa chất – đặc biệt là đối với Sao Hỏa. Tàu đổ bộ Mars Geyser Hopper thực hiện một sứ mệnh tìm hiểu sẽ điều tra các mạch nước phun của Sao Hỏa.
Hồ nước mặn
Vào tháng 9 năm 2020, các nhà khoa học xác nhận sự tồn tại của một số hồ nước mặn lớn dưới lớp băng ở vùng cực nam của Sao Hỏa. Theo một trong những nhà nghiên cứu cho biết, "Chúng tôi đã xác định được cùng một khối nước [như đã đề xuất trước đó trong phát hiện sơ bộ ban đầu], nhưng chúng tôi cũng tìm thấy ba khối nước khác xung quanh khối nước chính... Đó là một hệ thống phức tạp."
Xem thêm
Khí hậu Sao Hỏa
Danh sách vùng đất của Sao Hỏa
Planum Boreum
Chú thích
Liên kết ngoài
Accumulation and erosion of south polar layered deposits in the Promethei Lingula region, Planum Australe, Mars
Planum Australe on Google Mars.
Stratigraphy and Topography of McMurdo Crater area, Planum Australe, Mars
Topographic maps of the Martian South Pole
USGS map of Planum Australe
Sao Hỏa
|
19838365
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Planum%20Boreum
|
Planum Boreum
|
Planum Boreum (Latin: "đồng bằng phía bắc") là đồng bằng cực bắc trên Sao Hỏa. Nó mở rộng về phía bắc từ khoảng vĩ độ 80°B và tập trung ở . Bao quanh đồng bằng vùng cực cao là một đồng bằng đất thấp bằng phẳng và không có gì đặc biệt chiếm ưu thế ở bán cầu bắc tên là Vastitas Borealis, kéo dài khoảng 1500 km về phía nam.
Đặc điểm
Đặc điểm chính của Planum Boreum là một khe nứt, hay hẻm núi kích thước lớn có tên là Chasma Boreale nằm ở ngay chỏm băng vùng cực. Nó rộng tới và có các vách đá cao tới . Trong khi đó, hẻm núi Grand Canyon có độ sâu khoảng ở một số vị trí và dài nhưng chỉ rộng tối đa . Chasma Boreale cắt xuyên qua các trầm tích và băng ở vùng cực, tương tự lớp băng hiện diện ở Greenland.
Planum Boreum tiếp giáp với Vastitas Borealis ở phía tây Chasma Boreale, tại một vách đá không đồng đều có tên Rupes Tenuis. Vách đá này đạt độ cao lên tới 1 km. Ở những nơi khác, chỗ tiếp giáp là một tập hợp các mesas (núi biệt lập có đỉnh bằng phẳng) và máng.
Planum Boreum được bao quanh bởi những cánh đồng cồn cát rộng lớn trải dài từ 75°B đến 85°B. Những cánh đồng cồn cát này được đặt tên là Olympia Undae, Abalos Undae, Siton Undae và Hyperboreae Undae. Olympia Undae là lớn nhất, có vĩ độ từ 100°Đ đến 240°Đ. Abalos Undae bao phủ từ 261°Đ đến 280°Đ và Hyperboreale Undae trải dài từ 311°Đ đến 341°Đ.
Chỏm băng
Planum Boreum là nơi có chỏm băng vĩnh cửu bao gồm chủ yếu là băng nước (với lớp băng carbon dioxide dày 1 m trong mùa đông). Nó có thể tích 1,2 triệu km3 và có diện tích gấp 1,5 lần diện tích của Texas. Nó có bán kính 600 km. Độ sâu tối đa của chỏm địa hình là 3 km.
Các rãnh xoắn ốc ở chỏm băng được hình thành bởi gió katabatic cuốn bay lớp băng bề mặt bị xói mòn từ các phía đối diện với xích đạo của các rãnh băng, chúng có thể được hỗ trợ bởi quá trình thăng hoa, sau đó được tái lắng đọng trên các sườn dốc hướng về cực lạnh hơn. Các máng địa hình gần như vuông góc với hướng gió, và bị dịch chuyển bởi hiệu ứng Coriolis dẫn đến dạng xoắn ốc. Theo thời gian, các máng dần dần dịch chuyển về phía cực; các máng trung tâm đã dịch chuyển khoảng 65 km trong 2 triệu năm qua. Chasma Boreale với đặc điểm giống như hẻm núi có tuổi đời lâu hơn so với các máng và ngược lại được xếp song song với hướng gió.
Thành phần ở lớp bề mặt của chỏm băng phía bắc vào giữa mùa xuân (sau khi tích tụ băng khô theo mùa trong mùa đông) đã được nghiên cứu từ quỹ đạo. Các mép ngoài của chỏm băng bị nhiễm bụi (0,15% trọng lượng) và chúng chủ yếu là nước đá. Khi di chuyển về phía cực, hàm lượng băng trên bề mặt giảm đi và được thay thế bằng băng khô. Độ tinh khiết của băng cũng tăng lên. Ở địa điểm cực, băng theo mùa trên bề mặt chủ yếu bao gồm băng khô nguyên chất với hàm lượng bụi ít và 30 phần triệu nước đá.
Tàu đổ bộ Phoenix được phóng vào năm 2007 đã đến Sao Hỏa vào tháng 5 năm 2008 và hạ cánh thành công xuống vùng Vastitas Borealis của hành tinh này vào ngày 25 tháng 5 năm 2008. Chỏm cực bắc của Sao Hỏa đã được Geoffrey A. Landis đề xuất làm địa điểm hạ cánh cho chuyến thám hiểm Sao Hỏa của con người.
Hiện tượng tái diễn
Tuyết lở
Vào tháng 2 năm 2008, HiRISE đã ghi lại được bốn trận tuyết lở đang diễn ra ở một vách đá cao . Đám mây vật chất mịn có chiều ngang và kéo dài tính từ chân vách đá. Các lớp màu đỏ được biết đến là đá giàu nước đá trong khi các lớp màu trắng là sương giá carbon dioxide theo mùa. Vụ lở được cho là bắt nguồn từ lớp đỏ nằm trên cùng. Các quan sát tiếp theo được lên kế hoạch để mô tả bản chất của các mảnh vụn sạt lở.
Đám mây hình khuyên lặp lại
Một đám mây hình bánh rán cỡ lớn xuất hiện ở vùng cực Bắc của Sao Hỏa vào cùng thời điểm mỗi Năm Sao Hỏa và có cùng kích thước. Nó hình thành vào buổi sáng, tiêu tan vào buổi chiều. Đường kính ngoài của đám mây là khoảng và vùng mắt đám mây là . Đám mây được cho là bao gồm nước-băng, nên nó có màu trắng, không giống như những cơn bão bụi thông thường hơn.
Đám mây trông giống như một cơn bão xoáy, tương tự như bão cuồng phong, nhưng nó không quay. Đám mây xuất hiện vào mùa hè phía bắc và ở vĩ độ cao. Điều này theo suy đoán là do điều kiện khí hậu độc đáo gần cực bắc. Những cơn bão giống lốc xoáy lần đầu tiên được phát hiện trong chương trình lập bản đồ quỹ đạo của tàu Viking, nhưng đám mây hình khuyên phía bắc lớn hơn gần ba lần. Đám mây cũng đã được phát hiện bởi nhiều tàu thăm dò và kính viễn vọng khác nhau, bao gồm cả Hubble và Mars Global Surveyor.
Khi Kính viễn vọng Không gian Hubble quan sát đám mây này vào năm 1999, người ta cho rằng nó là một cơn bão xoáy. Đường kính được đo là khoảng , và có một "mắt" với đường kính .
Xem thêm
Abalos Mensa
Aspledon Undae
Planum Australe
Chú thích
Liên kết ngoài
Fly over the Chasma Boreale at Martian north pole – nhờ sự hỗ trợ của Mars Express
Geologic Map of the Northern Plains of Mars
HiRISE image of Martian landslides
HiRISE image of permanent ice mound separated from cap
Nhiều hình ảnh khác nhau của HiRISE về chỏm băng cực bắc:
Sao Hỏa
|
19838367
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Teyonah%20Parris
|
Teyonah Parris
|
Teyonah Parris ( ; sinh ngày 22 tháng 9 năm 1987) là nữ diễn viên người Mỹ, sau khi tốt nghiệp trường âm nhạc Juilliard, cô bắt đầu tham gia diễn xuất từ năm 2010. Những vai diễn nổi bật đầu tiên của cô là Dawn Chambers trong phim truyền hình Mad Men (2012–2015, đài AMC) và vai chính trong phim điện ảnh Dear White People (2014). Sau đó, Parris tiếp tục tham gia các phim khác như Empire (2014), Chi-Raq (2015) và If Beale Street Could Talk (2018).
Năm 2021, Parris thủ vai chính trong phim kinh dị Candyman và vai siêu anh hùng Monica Rambeau trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel.
Sự nghiệp
Năm 2010, Teyonah có vai diễn truyền hình đầu tay với một vai khách mời trong phim The Good Wife. Năm 2012, cô thủ vai phụ Dawn Chambers trong sê-ri Mad Men của đài AMC.
Nữ diễn viên được biết tới nhiều hơn khi tham gia phim điện ảnh Dear White People năm 2014, cùng năm, cô đóng vai chính trong sê-ri truyền hình Survivor's Remorse. Năm 2015, Parris tham gia phim chính kịch Chi-Raq của đạo diễn Spike Lee và giành được một đề cử giải NAACP (giải nghệ thuật do Hiệp hội Quốc gia vì Sự Tiến bộ của Người Da màu Hoa Kỳ tổ chức) ở hạng mục Nữ diễn viên điện ảnh xuất sắc cho phim này.
Đời tư
Tháng 9 năm 2022, Parris và chồng cô là James cho biết cả hai sắp có con. Họ sinh con gái đầu lòng đầu năm 2023.
Danh sách phim
Điện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1987
Nữ diễn viên Mỹ gốc Phi
Nữ diễn viên South Carolina
Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên truyền hình Mỹ
Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ
|
19838372
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2n%20L%E1%BA%A1p%20phong%20th%E1%BB%95%20k%C3%BD
|
Chân Lạp phong thổ ký
|
Chân Lạp phong thổ ký (), tức Ký sự về Campuchia: Địa lý và Con người, là một quyển sách viết vào thời nhà Nguyên bởi Chu Đạt Quan (周達觀), người đã ghé thăm Đế quốc Angkor năm 1296-1297. Ký sự này của Chu Đạt Quan là một sử liệu vô cùng quý giá vì nó là tư liệu duy nhất còn sót lại mà trong đó người ta ghi lại cuộc sống thường ngày ở Đế quốc Khmer. Tư liệu tương tự chỉ còn được tìm thấy trên các bức tường của ngôi đền Angkor Wat.
Nguyên tác tại Trung Quốc
Cuốn sách của Chu Đạt Quan kể về Campuchia. Ông đã đến thăm đất nước này với tư cách là thành viên của phái đoàn ngoại giao chính thức do Temür Khan (tức Nguyên Thành Tông) cử đến vào năm 1296 để ban hành một sắc lệnh của triều đình. Không rõ khi nào nó được hoàn thành, nhưng nó được viết trong vòng 15 năm sau khi Chu trở về Trung Quốc vào năm 1297. Tuy nhiên, tác phẩm còn tồn tại đến ngày nay được cho là một phiên bản rút gọn, có lẽ chỉ chiếm khoảng một phần ba kích thước ban đầu. Một người mê sách ở thế kỷ 17, Tiền Tằng (Qian Zeng 錢曾), đã ghi nhận sự tồn tại của hai phiên bản của tác phẩm, một phiên bản thời nhà Nguyên, phiên bản còn lại nằm trong tuyển tập thời nhà Minh có tên là Cổ Kim Thuyết Hải (古今說海, Gu Jin Shuo Hai ). Phiên bản nhà Minh được mô tả là "lộn xộn và lung tung, thiếu sáu hoặc bảy trên mười phần, hầu như không cấu thành một cuốn sách". Bản gốc của triều đại nhà Nguyên không còn tồn tại, và các phiên bản còn sót lại dường như chủ yếu dựa trên phiên bản rút gọn của nhà Minh.
Nội dung từ cuốn sách đã được sưu tầm trong nhiều tuyển tập khác. Các đoạn trích được đưa ra trong một tuyển tập dài Thuyết Phu (說郛, Shuo fu), trong phiên bản thứ hai được xuất bản vào đầu triều đại nhà Thanh. Văn bản bị cắt bớt cũng được đưa ra trong Cổ Kim Dật Sử (古今逸史, Gu jin yi shi ) từ triều đại nhà Minh, và văn bản tương tự này đã được sử dụng trong các bộ sưu tập khác. Phiên bản tiếng Trung hiện đại chính của cuốn sách là phiên bản có chú thích, được nhà khảo cổ Xia Nai (Hạ Nại) biên soạn từ các biến thể của văn bản được tìm thấy trong 13 lần xuất bản, hoàn thành năm 1980 và xuất bản năm 2000.
Tác phẩm được viết bằng Văn ngôn; tuy nhiên, đôi khi có những từ và cấu trúc câu dường như bị ảnh hưởng bởi phương ngữ Ôn Châu của Chu Đạt Quan.
Các bản dịch
Ký sự của Chu lần đầu tiên được dịch sang tiếng Pháp vào năm 1819 bởi Jean-Pierre Abel-Rémusat nhưng nó không có nhiều tác động. Nội dung của cuốn sách được tìm thấy trong tuyển tập Cổ Kim Thuyết Hải sau đó được Paul Pelliot dịch lại sang tiếng Pháp vào năm 1902, và bản dịch này sau đó được Pelliot sửa đổi một phần và tái bản sau khi di cảo vào năm 1951. Tuy nhiên, Pelliot đã chết trước khi ông có thể hoàn thành những ghi chú toàn diện mà ông đã lên kế hoạch cho tập ký sự của Chu. Bản dịch của Pelliot được đánh giá cao và nó là nền tảng cho nhiều bản dịch sau này sang các ngôn ngữ khác, chẳng hạn như bản dịch tiếng Anh của J. Gilman d'Arcy Paul năm 1967 và Michael Smithies năm 2001.
Năm 1971, nó được dịch sang tiếng Khmer bởi Ly Theam Teng .
Tại Việt Nam, năm 1973, tác giả Lê Hương xuất bản sách Chân Lạp phong thổ ký tại Sài Gòn qua nhà xuất bản Kỷ Nguyên Mới. Lê Hương cho biết ông dịch thẳng từ bản gốc văn ngôn và có tham khảo bản của Pelliot.
Ngoài ra còn có bản dịch tiếng Thái cuốn Chân Lạp phong thổ ký của Chaloem Yongbunkiat năm 1967, được Matichon Press tái bản năm 2014.
Năm 2007, nhà ngôn ngữ học Hán ngữ Peter Harris, thành viên cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược New Zealand, đã hoàn thành bản dịch trực tiếp đầu tiên từ tiếng Trung văn ngôn sang tiếng Anh hiện đại, sửa nhiều lỗi trong các bản dịch tiếng Anh trước đó, với tựa đề mới A Record of Cambodia: the Land and Its People . Harris đã làm việc ở Campuchia trong nhiều năm và đưa vào những bức ảnh và bản đồ hiện đại liên quan trực tiếp đến lời kể ban đầu của Chu.
Nội dung
Cuốn sách mô tả về thành phố Yasodharapura, tức thủ đô Angkor của Đế quốc Khmer, cũng như cuộc sống và nghi thức hàng ngày trong cung điện. Nó mô tả các phong tục và tập tục tôn giáo khác nhau của đất nước, vai trò của phụ nữ và nô lệ, thương mại và cuộc sống thành thị, nông nghiệp và các khía cạnh khác của xã hội ở Angkor, cũng như sự hiện diện của người Trung Quốc ở Campuchia và cuộc chiến với người Xiêm. Ngoài ra còn có các mô tả về hệ thực vật và động vật của khu vực, thực phẩm cũng như những câu chuyện khác thường.
Những mô tả trong cuốn sách nhìn chung được coi là chính xác, nhưng cũng có những sai sót, ví dụ như những người sùng đạo Hindu ở địa phương đã bị Chu mô tả sai theo thuật ngữ Trung Quốc là Nho giáo hoặc Đạo giáo, và các phép đo chiều dài và khoảng cách được sử dụng thường ít chính xác.
Cung điện (宫室):
Nhà ở của người Khmer:
Lễ xuất cung của vua Indravarman III:
Trang phục của nhà vua:
Trang phục của người dân:
Về sản xuất tơ lụa:
Về xử án:
Về quân đội:
Về phụ nữ Angkor:
Về thuộc quận (các đơn vị hành chính):
Học giả Hứa Triệu Lâm (許肇琳) cho rằng quận Trĩ Côn (雉棍) chính là một cách ghi âm khác của Sài Gòn (西貢 Tây Cống) bên cạnh các chữ Sài Côn (柴棍 - theo kiểu Việt Nam), Đề Ngạn (堤岸 - theo kiểu Quảng Đông), Trạch Côn (宅棍 - theo kiểu Triều Châu, Phúc Kiến).
Lịch
Lời kể của Chu rất hữu ích trong việc xác định rằng tháng 1 theo lịch Khmer là "kia-to", gọi là Karttika. Không có văn khắc Khmer nào sử dụng cách đánh số tháng, nhưng trong ba hệ thống được sử dụng sau này ở Thái Lan, Karttika được gọi là tháng 1 ở một số vùng của Lanna và đôi khi cũng được đánh số như vậy ở Lào. Mặt khác, năm mới theo thiên văn bắt đầu vào tháng 6 (Caitra). Phương trình này được xác nhận khi Chu Đạt Quan nói rằng ông không hiểu tại sao họ chỉ xen kẽ vào tháng 9. Trên thang đo đang được sử dụng ở đây, tháng thứ 9 là Ashadha, tháng nhuận duy nhất ở Thái Lan và Lào . (Ashadha được biết đến nhiều hơn với cái tên 'tháng 8' vì đó là ngày tương đương ở miền Nam (Bangkok).
Việc sử dụng Ashadha ở Campuchia làm tháng nhuận duy nhất không được chứng thực một cách an toàn cho đến những năm 1620 sau Công Nguyên khi một năm (Saka 1539; IMA số 9) được cho là có Ashadha thứ 2 khi hệ thống cũ không có thêm một tháng trong năm đó. Các bản khắc từ năm 1296 đến năm 1617 sau Công nguyên rất chắp vá, nhưng những bản ghi còn tồn tại từ phần đầu tiên của khoảng thời gian này dường như ủng hộ hệ thống tính toán cũ hơn, cho thấy rằng những người cung cấp thông tin cho Chu Daguan vào thời điểm ông đến thăm chỉ là thiểu số.
Chú thích cuối trang
Liên kết ngoài
Bản văn ngôn trên wikisource: 真臘風土記
Book review by Cambodia Daily: A Record of Cambodia - The Land and its People, 2007 edition
Book review by Siam Society - A Record of Cambodia - The Land and its People, 2007 edition
Book review by New Zealand Journal of Asian Studies: A Record of Cambodia - The Land and its People, 2007 edition
Smithsonian Magazine - Passing Notes
Smithsonian Magazine - Jewel of the Jungle
“Trấn Tây phong thổ ký”: The Customs of Cambodia, Chinese Southern Diaspora Studies Volume 1, 2007
Văn học nhà Nguyên
Văn bản cổ điển Trung Quốc
Bài viết có chữ Hán phồn thể
|
19838382
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tosanoides%20aphrodite
|
Tosanoides aphrodite
|
Tosanoides aphrodite là một loài cá biển thuộc chi Tosanoides trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2018.
Từ nguyên
Từ định danh được đặt theo tên của Aphrodite, nữ thần tình yêu và sắc đẹp của Hy Lạp cổ đại, vì kiểu hình của loài cá này đã thu hút các nhà ngư học, cũng như vẻ đẹp của Aphrodite đã mê hoặc các vị thần Hy Lạp.
Phân bố và môi trường sống
T. aphrodite mới chỉ được biết đến ở quần đảo São Pedro và São Paulo (ngoài khơi Brasil), cũng là loài Tosanoides đầu tiên được ghi nhận ở Đại Tây Dương.
T. aphrodite được phát hiện ở độ sâu từ 100 đến 130 m khi các tác giả lặn có máy thở, và một quan sát duy nhất ở độ sâu 260 m từ tàu lặn.
Mô tả
Tổng chiều dài cơ thể lớn nhất đươc ghi nhận ở T. aphrodite là 8,7 cm (chiều dàu chuẩn của mẫu vật này là gần 6 cm).
Cá đực: đầu và thân màu đỏ hồng, sẫm hơn ở lưng, bụng trắng. Hai sọc vàng tươi và hồng cánh sen xen kẽ từ đầu kéo dài đến cuống đuôi, đứt đoạn thành hàng các đốm ở thân sau. Mắt vàng có viền trên và dưới màu hồng tươi. Mõm và vùng trước mắt có màu vàng tươi với một sọc mỏng màu hồng kéo dài ngược lên đến gần gốc vây lưng. Vảy cá ở phần dưới đầu và thân dưới có viền vàng óng. Vây lưng và vây hậu môn vàng, có viền màu hồng tía. Vây bụng vàng, viền trước màu hồng. Vây đuôi lõm sâu, màu vàng ở trước (kèm các vệt hồng tím) và hồng ở sau, tia sợi ở thùy trên và dưới màu vàng. Vây ngực màu vàng, trong mờ.
Cá cái và cá con: màu đỏ cam, sẫm hơn ở lưng. Sọc mỏng ở mõm có màu đỏ kéo dài ngược lên đến gần gốc vây lưng. Cũng có hai sọc vàng và đỏ xen kẽ kéo dài từ đầu đến cuống đuôi. Mắt vàng lục có viền trên và dưới màu tím. Vảy cá trên thân có màu đỏ. Vây lưng chủ yếu có màu vàng, các tia màu cam với đốm màu đỏ sẫm bao phủ 3 gai lưng đầu tiên. Vây hậu môn cũng màu vàng với các tia màu cam, có thêm viền cam bao quanh. Vây bụng màu vàng với viền trước màu đỏ tía. Vây đuôi màu vàng với viền màu hồng cam, có các sọc thẳng hình mắt xích. Vây ngực màu cam, trong mờ.
Số gai ở vây lưng: 10 (gai cuối dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 15–16 (tia thứ 7 dài nhất); Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8 (tia thứ 7 dài nhất); Số tia vây ngực: 14–15; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 32–35.
Sinh thái
Qua khảo sát thực địa, T. aphrodite sinh sống trong các kẽ hở trên các rạn đá.
Tham khảo
A
Cá Đại Tây Dương
Cá Brasil
Động vật được mô tả năm 2018
|
19838400
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tosanoides%20bennetti
|
Tosanoides bennetti
|
Tosanoides bennetti là một loài cá biển thuộc chi Tosanoides trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2019.
Từ nguyên
Từ định danh được đặt theo tên của Timothy Bennett (sinh năm 1960), thợ lặn người Úc và nhà sưu tập cá cảnh biển, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này.
Phân bố
T. bennetti mới chỉ được biết đến ở phía tây bắc rạn san hô Holmes trên biển San Hô (cách Cairns khoảng 220 km về phía đông), được tìm thấy trên rạn san hô ở độ sâu đến 150 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở T. bennetti là 5 cm.
Cá đực: màu hồng tía với 4 dải sọc xiên màu vàng trên đầu và thân, riêng 2 dải giữa là các vệt đốm lớn ghép lại. Vây lưng có dải vàng ở giữa, dọc theo chiều dài vây, bao quanh bởi dải màu hồng tía ở rìa và gốc vây. Phần vây gần rìa của vây hậu môn và vây bụng có màu vàng, còn lại màu hồng tía như thân. Vây đuôi cũng màu hồng tía với một đốm lớn màu vàng ở ngay trung tâm của thùy dưới.
Cá cái: màu hồng tía, chuyển sang màu vàng nhạt hơn ở thân sau, cuống đuôi và phần lớn vây đuôi. Có một sọc vàng băng ngang các gai vây hậu môn. Vây bụng màu vàng với mép trước màu hồng. Vây lưng cũng màu hồng tía, có một đốm màu nâu vàng bao phủ 3 gai đầu tiên.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 12–14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 29–33.
Tham khảo
Xem thêm
B
Cá Thái Bình Dương
Động vật được mô tả năm 2019
|
19838401
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Raphael%20Dwamena
|
Raphael Dwamena
|
Raphael Dwamena (12 tháng 9 năm 1995 – 11 tháng 11 năm 2023) là một cố cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ghana thi đấu ở vị trí tiền đạo.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Đầu sự nghiệp
Sinh ra ở Nkawkaw, Dwamena thi đấu và tập luyện với Red Bull Ghana tại Giải đấu Quốc tế ở Croix, Pháp. Năm 2013, Dwamena giúp đội U-17 giành huy chương bạc và được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất giải đấu. Trước khi trở về Ghana, Dwamena và đồng đội của anh, David Atanga, lần đầu đến Áo để thử việc tại Red Bull Salzburg.
Dwamena gia nhập đội trẻ Salzburg vào tháng 1 năm 2014, và ngay lập tức trở thành cầu thủ chủ chốt của đội U-18. Trong một giải đấu vào tháng 6, anh đã ghi bảy bàn sau bốn trận. Dù Salzburg chỉ về đích ở vị trí thứ ba nhưng anh đã giành được Chiếc giày vàng.
FC Liefering
Vào tháng 7 năm 2014, Dwamena được thăng hạng lên FC Liefering. Anh ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 18 tháng 7 ở phút thứ 82 trong chiến thắng 3–0 trước Hartberg và được thay ra cho Nikola Dovedan. Anh là một trong sáu cầu thủ Liefering ra mắt chuyên nghiệp vào ngày hôm đó. Anh đã chơi thêm một trận nữa trong mùa giải đó.
Trong mùa giải 2015–16, Dwamena có trận đá chính đầu tiên cho Liefering vào ngày 21 tháng 8 trong trận gặp Wiener Neustadt. Anh đã chơi 90 phút thay cho Smail Prevljak. Vào ngày 18 tháng 9, trong trận đá chính thứ năm liên tiếp, anh đã ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên trong chiến thắng 4–1 trước Austria Klagenfurt.
Austria Lustenau
Dwamena đã có nửa mùa giải thành công với Austria Lustenau sau khi ghi 18 bàn sau 20 trận trước khi chuyển đến FC Zürich.
FC Zürich
Raphael Dwamena hoàn tất vụ chuyển nhượng đến FC Zürich vào ngày 27 tháng 1 năm 2017. Anh đã tạo ra tầm ảnh hưởng tại đội bóng mới bằng việc ghi 12 bàn sau 18 trận và đồng thời giúp Zürich thăng hạng lên Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ.
Trong trận ra mắt giải đấu, Dwamena đã ghi hai bàn vào lưới Grasshoppers.
Vào ngày 21 tháng 8 năm 2017, Zürich đã đồng ý mức phí với câu lạc bộ Brighton & Hove Albion tại Premier League cho vụ chuyển nhượng của Dwamena. Anh chuẩn bị gia nhập Brighton với điều kiện phải vượt qua cuộc kiểm tra y tế, xin giấy phép lao động và giấy phép quốc tế. Thế nhưng, thỏa thuận này thất bại sau khi Dwamena không vượt qua cuộc kiểm tra y tế do bệnh tim.
Levante và cho mượn tại Zaragoza
Vào ngày 7 tháng 8 năm 2018, Dwamena ký hợp đồng 4 năm với Levante UD tại La Liga. Ngày 16 tháng 7 sau đó, anh được cho mượn tại Real Zaragoza trong vòng một năm.
Vào tháng 10 năm 2019, sau khi tiến hành các cuộc kiểm tra về tình trạng tim của anh, các bác sĩ đã khuyến nghị anh nên giải nghệ bóng đá. Anh quay trở lại với máy khử rung tim cấy ghép vào tháng 1 năm 2020.
Vejle
Vào ngày 20 tháng 8 năm 2020, Dwamena chuyển đến Vejle Boldklub tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Đan Mạch. Anh đã ghi bàn trong trận ra mắt ở Superliga khi Vejle thua 4–2 trước AGF. Anh đã bị rút khỏi các hoạt động của đội bóng sau khi phát hiện các biến chứng về bệnh tim của anh trước trận gặp AaB. Vào thời điểm đó, anh đã có 5 lần ra sân cho câu lạc bộ và ghi hai bàn.
Do tình trạng tim và một số tình trạng đáng lo ngại, Vejle xác nhận vào ngày 26 tháng 10 năm 2020 rằng anh không thể thi đấu trong một thời gian. Vào tháng 11 năm 2020, giám đốc thể thao của câu lạc bộ tuyên bố rằng Dwamena đã chơi trận cuối cùng cho câu lạc bộ.
Quay trở lại Áo
Vào ngày 25 tháng 6 năm 2021, Dwamena trở lại Áo và ký hợp đồng hai năm với Blau-Weiß Linz. Vào ngày 28 tháng 10 năm 2021, anh ngã gục trên sân trong trận đấu ở Cúp bóng đá Áo với TSV Hartberg. Anh đã hồi phục trong bệnh viện và sự nghiệp của anh ở Áo kết thúc.
BSC Old Boys
Vào tháng 9 năm 2022, Dwamena trở lại bóng đá bằng việc ký hợp đồng với đội hạng năm Thụy Sĩ, BSC Old Boys. Vào ngày 3 tháng 9 năm 2022, anh ghi bàn trong trận ra mắt, chiến thắng 2-1 trước FC Regensdorf.
Egnatia
Vào tháng 12 năm 2022, Dwamena gia nhập Egnatia Rrogozhinë với tư cách là cầu thủ tự do. Anh đã ký hợp đồng một năm rưỡi và sau đó được gia hạn thành 2 năm. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2023, Dwamena ghi hai bàn thắng đầu tiên ở các giải đấu châu Âu, ghi một cú đúp cho Egnatia trong trận hòa 4-4 với FC Ararat-Armenia tại UEFA Europa Conference League.
Sự nghiệp quốc tế
Dwamena không chơi cho các đội tuyển trẻ quốc gia Ghana. Anh được gọi vào đội tuyển quốc gia trong danh sách sơ bộ 30 cầu thủ tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2017 nhưng đã bị loại khỏi đội hình 23 cầu thủ.
Dwamena ra mắt quốc tế vào ngày 11 tháng 6 năm 2017, trong trận đấu tại vòng loại Cúp bóng đá châu Phi gặp Ethiopia, nơi anh ghi một cú đúp để đánh dấu kỷ nguyên mới của các cầu thủ trẻ được đưa lên đội tuyển quốc gia.
Đời tư
Dwamena được chẩn đoán mắc chứng rối loạn nhịp thất vào năm 2017. Vào tháng 1 năm 2020, khi còn thi đấu cho Levante UD, anh đã được cấy máy khử rung tim cấy ghép (ICD) thông qua phẫu thuật, giúp câu lạc bộ của anh có thể theo dõi trái tim của anh trong các trận đấu. Vào tháng 10 năm 2020, ICD cho thấy những giá trị được coi là quá cao và kết quả là câu lạc bộ của anh vào thời điểm đó, Vejle Boldklub, đã rút anh khỏi các hoạt động của đội.
Vào tháng 10 năm 2021, trong trận đấu giữa Blau-Weiss Linz với Hartberg tại Cúp bóng đá Áo, Dwamena ngã gục trên sân do bị sốc bởi ICD và nhanh chóng ổn định.
Qua đời
Vào ngày 11 tháng 11 năm 2023, Dwamena bị ngừng tim và ngã gục trên sân ở phút thứ 23 của trận đấu tại vòng 13 giữa Egnatia và Partizani tại Kategoria Superiore. Anh sau đó qua đời trên đường đến Bệnh viện Kavajë, ở tuổi 28. Tất cả các sự kiện thể thao ở Albania đều bị hoãn hoặc hủy sau cái chết của anh. Bác sĩ tim mạch của anh tiết lộ rằng ông đã quyết định loại bỏ ICD một năm trước.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tỷ lệ và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Ghana, cột điểm cho điểm biết sau mỗi bàn thắng của Dwamena.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
FC Zürich
Giải bóng đá hạng hai quốc gia Thụy Sĩ: 2016–17
Cúp bóng đá Thụy Sĩ: 2017–18
KF Egnatia
Cúp bóng đá Albania: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1995
Mất năm 2023
Cầu thủ bóng đá Ghana
Cầu thủ bóng đá nam Ghana
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá FC Liefering
Cầu thủ bóng đá SC Austria Lustenau
Cầu thủ bóng đá FC Zürich
Cầu thủ bóng đá Levante UD
Cầu thủ bóng đá Real Zaragoza
Cầu thủ bóng đá Vejle Boldklub
Cầu thủ FC Blau-Weiß Linz
Cầu thủ bóng đá BSC Old Boys
Cầu thủ bóng đá KF Egnatia
Cầu thủ bóng đá 2. Liga (Áo)
Cầu thủ bóng đá Swiss Challenge League
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Danish Superliga
Cầu thủ bóng đá 2. Liga Interregional
Cầu thủ bóng đá Kategoria Superiore
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Ghana
Cầu thủ bóng đá Ghana ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Áo
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thụy Sĩ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đan Mạch
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Albania
|
19838404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%A1i%20gi%C3%A0%20x%C3%AC%20tin
|
Gái già xì tin
|
Gái già xì tin là một bộ phim truyền hình nhiều tập sản xuất bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam) do Trần Quang Vinh làm đạo diễn. Phim được sản xuất năm 2013, gồm 20 tập, bắt đầu phát sóng từ ngày 8 tháng 12 năm 2013 trên VTV6. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nguyễn Thu Thủy.
Nội dung
Gái già xì tin xoay quanh nhân vật Dương (do Phương Oanh đóng vai), một phóng viên bị coi là ế chồng luôn bị bố mẹ tìm mọi cách mai mối để lấy chồng. Cô được tổng biên tập tờ báo nơi cô làm việc giới thiệu làm quen với Định (Chí Nhân đóng vai), một kỹ sư xây dựng, người mà cô đã vô tình có ấn tượng mạnh khi tiếp xúc ở một resort mà anh thiết kế trước đó. Tình cờ, hai người lại là hàng xóm trong khu chung cư mà Dương đang sống với hai cửa nhà cạnh nhau. Cũng vì thế Dương cũng vô tình làm quen với Quân (do Anh Dũng đóng), người được biết tới là cháu gọi Định bằng chú. Quân là một anh chàng con nhà giàu ham chơi bi-a và luôn bám theo chòng ghẹo Dương, gọi cô là "nhái bén".
Rồi Dương và Định yêu nhau, trong khi Quân cũng thầm yêu Dương nhưng không thể ngỏ lời vì không tranh chấp với chú mình, nhưng cũng vì thế mà Dương vô tình vướng vào những rắc rối từ thù hận bên trong gia đình Định - Quân. Định có mâu thuẫn lớn với cha đẻ mình, ông Vũ (do NSUT Trần Đức đóng vài), một chủ thầu xây dựng lớn vì những bí mật xấu xa mà ông từng làm trước đây. Anh trai của Định từng kết hôn với Diễm (do NSND Minh Hòa đóng vai), nhưng đã bị chính bố chồng mình, ông Vũ cưỡng hiếp và sinh ra Quân. Bí mật bị vỡ lở, anh trai Định đã đau khổ và chết vì tai nạn, còn Định ghê tởm cha mình và ly khai khỏi gia đình. Quân lớn lên không biết điều này và luôn gọi ông Vũ là ông nội.
Ông Vũ đã dùng mọi thủ đoạn để ép Định quay trở lại công ty gia đình nhằm tiếp quản cơ nghiệp của ông, nhưng Diễm không tán thành tạo nên mâu thuẫn lớn. Tranh cãi giữa ba người, ông Vũ, Diễm và Định khiến Quân biết được bí mật về thân thế mình. Anh đã đau khổ lao vào rượu chè và được Dương cố gắng kéo anh trở lại. Định nhầm tưởng Dương cũng yêu Quân, và mặc cảm tội lỗi vì mình làm lộ bí mật cuộc đời của em mình (Quân), anh chia tay Dương để hai người đến với nhau dù anh và Dương đã chuẩn bị đính hôn. Tuy nhiên, dự định này của Định không thành và Quân và Định sau đó đều bỏ đi nước ngoài làm việc.
Dương đau khổ vì mối tình tan vỡ, nhưng sau đó vài năm lại vô tình cứu ông Vũ bị đột quỵ giữa đường. Cô đã tìm cách liên lạc với cả hai anh em Quân, Định và kéo họ quay trở lại Hà Nội vì ông Vũ có nguy cơ mất. Hai anh em trở lại, lần đầu nhận nhau là anh em, cùng làm rõ chuyện tư tình với Dương ngày xưa khiến Định hối hận trở lại xin lỗi Dương và xin được nối lại tình cảm. Kết phim, cả hai anh em đều tha thứ cho ông Vũ, Định và Dương cũng đến với nhau và làm đám cưới.
Diễn viên
Diễn viên chính
Phương Oanh: vai Duơng
Chí Nhân: vai Định
Anh Dũng: vai Quân
Trần Đức: vai ông Vũ (bố đẻ Quân và Định)
Minh Hòa: vai bà Diễm, vợ của anh trai Định, mẹ của Quân
Diễn viên phụ
Đức Trung: ông Thụ (bác của Dương), sếp công ty của Định
Huyền Thanh: mẹ Dương
Bình Trọng: Bổn, bảo vệ chung cư
Uy Linh: Tân, tổng biên tập báo nơi Dương làm việc
Viết Thái: Minh, người theo đuổi Dương
....
Ca khúc trong phim
Bài hát trong phim là ca khúc "Sẽ nói yêu anh" do ca sĩ Trần Nhật Thủy thể hiện.
Tham khảo
Chương trình truyền hình nhiều tập của VFC
|
19838407
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Akiba%20Tadatoshi
|
Akiba Tadatoshi
|
(sinh ngày 3 tháng 11 năm 1942) là chính khách người Nhật Bản. Trước đây, ông đã từng giữ chức vụ làm thị trưởng thành phố Hiroshima từ ngày 23 tháng 2 năm 1999 đến ngày 7 tháng 4 năm 2011.
Tham khảo
Cựu sinh viên Đại học Tokyo
Sinh năm 1942
|
19838413
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bell%20Aircraft
|
Bell Aircraft
|
Bell Aircraft Corporation là một nhà sản xuất máy bay của Hoa Kỳ, đã từng chế tạo nhiều loại máy bay chiến đấu trong Chiến tranh thế giới 2, nổi tiếng nhất là chiếc Bell X-1, máy bay đầu tiên vượt qua rào cản âm thanh. Công ty cũng phát triển và sản xuất nhiều trực thăng quân sự và dân sự. Bell cũng phát triển hệ thống Reaction Control System cho tàu không gian trong Chương trình Mercury, máy bay North American X-15, và Bell Rocket Belt. Công ty đã được Textron mua lại vào năm 1960, và tiếp tục tồn tại dưới tên gọi Bell Textron.
Bibliography
August A. Cenkner Jr.: Aerospace Technologies of Bell Aircraft Company : A Pictorial History (1935–1985)
External links
|
19838415
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20Tr%C3%A1i%20%C4%90%E1%BA%A5t%20m%E1%BB%89m%20c%C6%B0%E1%BB%9Di
|
Ngày Trái Đất mỉm cười
|
Ngày Trái Đất mỉm cười (tiếng Anh: The Day the Earth Smiled) là một bức ảnh tổng hợp được chụp bởi tàu Cassini vào ngày 19 tháng 7 năm 2013. Trong thời gian xảy ra thiên thực, con tàu đã chụp lại bức ảnh về Sao Thổ và các vành đai của nó cũng như Trái Đất và Mặt Trăng như những đốm xanh mờ xa xôi. Tàu Cassini đã hai lần chụp những bức ảnh tương tự như vậy (vào năm 2006 và 2012) trong chín lần bay quanh quỹ đạo Sao Thổ trước đây. Tên gọi bức ảnh cũng đề cập đến các hoạt động liên quan đến sự kiện cũng như bức ảnh ghép được tạo nên từ nó.
Được tạo ra bởi nhà khoa học hành tinh Carolyn Porco, lãnh đạo đội hình ảnh của Cassini, bức ảnh mang hàm ý kêu gọi mọi người trên thế giới hãy suy ngẫm về vị trí của loài người trong vũ trụ để biết trân quý sự sống trên Trái Đất và, vào thời điểm bức ảnh được chụp, để nhìn lên và mỉm cười trong niềm tôn vinh.
Bức mosaic cuối cùng được chụp vào ngày 19 tháng 7 và được xử lý tại Phòng Thí nghiệm Trung tâm Hình ảnh Cassini cho các Hoạt động (CICLOPS). Ngày 12 tháng 11 năm 2023, nó được phát hành ra công chúng. Bức ảnh gồm có Trái Đất, Sao Hỏa, Sao Kim và nhiều vệ tinh của Sao Thổ. Một bức ảnh có độ phân giải cao hơn, mô tả Trái Đất và Mặt Trăng như những đốm sáng xa xôi, được chụp bởi camera góc hẹp của Cassini và được phát hành không lâu sau đó.
Sự kiện
Tàu thăm dò Cassini đã chụp các bức ảnh về Trái Đất và Mặt Trăng ở khoảng cách hơn một tỉ km vào lúc 21:27 UTC ngày 19 tháng 7 năm 2013. Một số hoạt động đã được lên kế hoạch để chúc mừng dịp này:
Một website đã được thiết lập làm cổng thông tin cho các hoạt động liên quan vào ngày 19 tháng 7. Tại đó, Porco kêu gọi thế giới hãy tôn vinh sự sống trên hành tinh Trái Đất cũng như các thành tựu của nhân loại trong công cuộc khám phá Hệ Mặt Trời.
Tổ chức Nhà thiên văn học không biên giới cũng phối hợp tổ chức các sự kiện quốc tế.
NASA đi đầu với sự kiện "Vẫy chào Sao Thổ" nhằm "giúp mọi người nhận thức được bức chân dung liên hành tinh lịch sử khi nó được chụp".
Công ty của Porco là Diamond Sky Productions đã tổ chức một cuộc thi mang tên "Message to the Milky Way" ("Thông điệp tới dải Ngân Hà"). Mọi người có thể nộp một bức ảnh kĩ thuật số được chụp vào ngày 19 tháng 7 và/hoặc một tác phẩm âm nhạc. Tác phẩm đoạt giải sẽ được gửi đi như một thông điệp tới người ngoài hành tinh, "đến dải Ngân Hà từ Đài thiên văn Arecibo ở Puerto Rico".
Kết quả
Những bức ảnh thô từ Cassini đã đến được Trái Đất không lâu sau sự kiện. Một số tấm ảnh đã được xử lý (một tấm ảnh độ phân giải cao chụp Trái Đất và Mặt Trăng cùng một phần nhỏ chụp Trái Đất của bức ảnh ghép hoàn thiện) và phát hành ra công chúng chỉ một vài ngày sau đó.
Việc xử lý bức ảnh ghép hoàn chỉnh diễn ra tại CICLOPS dưới sự chỉ đạo của Porco trong khoảng hai tháng. Trong vòng 4 giờ, Cassini đã phải chụp một khung cảnh rộng . Con tàu đã chụp tổng cộng 323 bức, 141 bức trong số đó được dùng trong bức ảnh ghép. NASA tiết lộ rằng việc tổng hợp ảnh này đã đánh dấu lần đầu tiên bốn hành tinh – Sao Thổ, Trái Đất, Sao Hỏa và Sao Kim – được chụp xuất hiện cùng nhau trong phổ ánh sáng nhìn thấy được bởi tàu Cassini. Đây cũng là lần đầu tiên nhân loại biết trước bức ảnh của họ sẽ được chụp từ vùng ngoài của Hệ Mặt Trời.
Việc NASA chính thức phát hành bức ảnh ghép hoàn chỉnh Ngày Trái Đất mỉm cười vào ngày 12 tháng 11 năm 2013 đã gây nên tiếng vang trên các cơ quan truyền thông khắp thế giới. Bức ảnh đã xuất hiện trên trang nhất của Thời báo New York vào ngày hôm sau. Những nhân vật của công chúng như nhà sản xuất truyền thông Seth MacFarlane cũng ca ngợi tấm ảnh. Bức ảnh ghép còn được giới thiệu bởi Porco, và dành tặng cho nhà thiên văn học quá cố Carl Sagan, tại một buổi lễ ở Thư viện Quốc hội để vinh danh việc nhận được các bài viết của ông. Trong cùng ngày, bức ảnh tổng hợp từ các tấm hình chụp bởi 1600 người nhằm hưởng ứng chiến dịch "Vẫy chào Sao Thổ" của NASA cũng được giới thiệu cho công chúng.
Xem thêm
Viên bi xanh
Earth Anthem
Ngày Trái Đất
Earthrise
Đốm Xanh Mờ
Chân dung gia đình Hệ Mặt Trời
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức của Ngày Trái Đất Mỉm Cười
Những tấm ảnh thô
Sự kiện thiên văn học
Không gian năm 2013
Sao Thổ
Tác phẩm năm 2013
Cassini–Huygens
|
19838491
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/YBS
|
YBS
|
(viêt tắt: YBS) là mạng truyền hình địa phương Nhật Bản có trụ sở tại thành phố Kōfu, tỉnh Yamanashi. Thành lập vào ngày 25 tháng 3 năm 1954. YBS là thành viên liên kết với mạng truyền hình Nippon News Network.
Tham khảo
Mạng truyền hình Nhật Bản
|
19838494
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Xu%C3%A2n%20Hi%E1%BB%87p
|
Nguyễn Xuân Hiệp
|
Nguyễn Xuân Hiệp có thể là:
Nguyễn Xuân Hiệp (đạo diễn): là một đạo diễn người Việt Nam, anh được biết đến với vai trò đạo diễn các bộ phim Cây nước mắt, Lời nguyền và Phía sau bóng tối, ...
Nguyễn Xuân Hiệp (diễn viên): là một diễn viên người Việt Nam. Đã tham gia các bộ phim "Bão ngầm", "Câu chuyện cuối mùa thu", ...
|
19838495
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20bi%E1%BB%83n%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
|
Cảnh sát biển Trung Quốc
|
Cảnh sát biển Trung Quốc (CCG; ), gọi tắt là Hải cảnh (海警), là một nhánh an ninh hàng hải, tìm kiếm cứu nạn và thực thi pháp luật của Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Nhân dân Trung Quốc. Đây hiện là lực lượng cảnh sát biển lớn nhất thế giới.
Chú thích
Liên kết ngoài
Quân sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Nhân dân Trung Quốc
Tuần duyên
|
19838500
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tosanoides%20flavofasciatus
|
Tosanoides flavofasciatus
|
Tosanoides flavofasciatus là một loài cá biển thuộc chi Tosanoides trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1980.
Từ nguyên
Từ định danh được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: flavus ("màu vàng") và fasciatus ("có dải"), hàm ý đề cập đến các vệt sọc màu vàng trên cơ thể và vây ở cả hai giới của loài cá này.
Phân bố
T. flavofasciatus được ghi nhận ở ngoài khơi phía nam Nhật Bản (từ vịnh Sagami và bán đảo Izu đến tỉnh Wakayama), và từ đảo Izu Ōshima đến đảo Chichi-jima (quần đảo Ogasawara); xa hơn ở phía nam, loài này còn được tìm thấy ở sống núi ngầm gần Tonga (tọa độ ) và Palau.
T. flavofasciatus được tìm thấy trên các rạn đá viền bờ và sống núi đại dương, độ sâu được ghi nhận trong khoảng 33–157 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở T. flavofasciatus là 8,4 cm.
Cá đực: màu hồng với 4 sọc ngang màu vàng kéo dài từ đầu đến thân sau (sọc thứ 4 băng ngang mắt). Có một đốm đỏ ở phía sau rìa trên của nắp mang. Vây lưng, vây hậu môn, vây bụng và thùy dưới của vây đuôi có một dải sọc vàng. Vây ngực trong suốt.
Cá cái: màu đỏ cam, mỗi vảy cá có một đốm vàng (trừ bụng). Một sọc xiên màu vàng từ chóp mõm băng qua mắt đến gốc vây ngực. Vây lưng màu đỏ có các đốm vàng, nửa sau của vây lưng mềm màu vàng nhạt. Vây hậu môn màu hồng có dải vàng gần rìa. Thùy trên của vây đuôi đỏ nhạt, thùy dưới vàng nhạt. Vây bụng màu hồng, có dải vàng. Vây ngực màu hồng, trong mờ.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 13; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 31–32.
Thương mại
T. flavofasciatus là một thành phần trong ngành buôn bán cá cảnh biển. T. flavofasciatus lần đầu tiên được xuất khẩu và rao bán ở Hoa Kỳ vào năm 2021 với mức giá lên đến 10.000 USD một con.
Tham khảo
F
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Palau
Động vật được mô tả năm 1980
|
19838520
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Northwest%20Staging%20Route
|
Northwest Staging Route
|
Northwest Staging Route hay Tuyến đường vận chuyển tiếp tế Tây Bắc, bao gồm một mạng lưới các đường băng, sân bay, trạm phát sóng được xây dựng tại Alberta, British Columbia, Yukon và Alaska trong World War II. Nó được kéo dài tới Liên Bang Xô Viết với cái tên ALSIB (tuyến vận tải đường không ALaska-SIBerian).
Khởi nguyên
Tuyến đường vận tải được bắt đầu xây dựng từ năm 1942 do nhiều nguyên nhân. Ban đầu, nhóm huấn luyện số 517 Không quân vận tải Lục quân Hoa Kỳ (sau chuyển thành Bộ chỉ huy Không quân vận tải) đặt tại sân bay Gore Field (Great Falls Municipal Airport) được lệnh tổ chức một tuyến đường vận tải đường không để viện trợ cho Liên Xô theo tuyến đường bay qua Bắc Canada, Alaska và eo biển Bering để tới Siberia, từ đó tới Mặt trận phía Đông. Ủy ban quốc phòng liên chính phủ Mỹ-Canada đã quyết định xây dựng một chuỗi các sân bay bằng chi phí của Canada giữa thành phố Edmonton và biên giới Alaska-Yukon. Cuối năm 1941, chính phủ Canada đã hoàn thành các bãi đáp máy bay thô sơ.
Sau khi chiến tranh nổ ra, các tuyến liên lạc bằng đường biển giữa Mỹ và Alaska bị đe dọa nghiêm trọng và cần phải có các tuyến đường khác. Chuỗi các sân bay được thành lập qua vùng Đài nguyên và rừng rậm ở Tây Bắc Canada đã trở thành một nơi có thể đặt tuyến đường bay xuyên qua và gần như bất khả xâm phạm trước các cuộc tấn công. Nhờ tuyến đường này, Hoa Kỳ sẽ có lợi khi đây sẽ trở thành đường vận chuyển nhu yếu phẩm đến các tiền đồn tại Alaska. Đổi lại, quân đội Mỹ bắt đầu xây dựng Đường cao tốc Alaska.
Tuy nhiên việc hỗ trợ Lend-Lease Liên Xô không thể chờ đợi đường cao tốc Alaska được hoàn thành. Trong khi tuyến đường viện trợ qua vùng Caribbean đến Brazil, Nigeria, Egypt và Iran không thể thực hiện được, cũng như việc máy bay không thể bay qua Greenland và Iceland. Do đó cần phải có một tuyến đường vận tải bằng đường hàng không, và sân bay cần được xây dựng.
Phần lớn mọi người không biết tới về đường bay lớn từ Hoa Kỳ đến Alaska qua Canada. Các sân bay đã được xây dựng hoặc nâng cấp cứ mỗi kể từ Edmonton, Alberta đến Fairbanks, Alaska Đường cao tốc Alaska, về cơ bản, đã nối các sân bay với nhau. Edmonton trở thành nơi đặt đại bản doan của Không đoàn vận tải Alaska.
Máy bay từ Edmonton, Alberta sẽ được đưa đến sân bay Ladd Field, gần Fairbanks, Alaska tại đây các máy bay do Mỹ viện trợ sẽ được bàn giao cho phi công người Liên Xô. Marks Army Airfield, gần Nome, Alaska có vị trí gần Nga hơn 500 dặm nhưng đã bị loại do Mỹ lo ngại nó sẽ trở thành mục tiêu cho máy bay Nhật. Một tuyến đường bắt nguồn từ Căn cứ không quân Great Falls, Montana, nơi các máy bay viện trợ được chuyển từ nhà máy sản xuất tại Nam California.
Một tuyến đường khác được thành lập bắt đầu từ Minneapolis, Minnesota, tại đây, sân bay Wold-Chamberlain sẽ sử dụng như là một trạm trung chuyển giữa máy bay sản xuất tại Trung tây nước Mỹ và Đông Bắc nước Mỹ. Tuyến Minneapolis-Edmonton, được sử dụng làm tuyến đường vận chuyển cho đến năm 1943, các hoạt động từ tuyến này được chuyển sang Great Falls.
Loại máy bay chiến đấu được viện trợ
Có ba loại máy bay chiến đấu chính được Hoa Kỳ viện trợ cho Liên Xô theo chương trình Lend-Lease. Máy bay chiến đấu được viện trợ là loại Bell P-39 Airacobras, sau đó là phiên bản nâng cấp Bell P-63 Kingcobra, là những loại máy bay ưa thích của Không quân Liên Xô, với rất nhiều chiến công. Phần lớn máy bay P-39 được vận chuyển đến Liên Xô là phiên bản Q. Các máy bay ném bom được viện trợ bao gồm máy bay ném bom hạng nhẹ Douglas A-20 Havoc và hạng trung North American B-25 Mitchell. Các máy bay vận tải như Douglas C-47 Skytrain, cũng được viện trợ với số lượng lớn.
Máy bay chiến đấu do hãng Bell sản xuất và máy bay ném bom B-25 Mitchells được chuyển đến Ladd qua tuyến đường bay qua Minneapolis; máy bay C-47 và A-20 thì được chuyển giao qua tuyến Great Falls. Một số loại máy bay khác như máy bay huấn luyện North American AT-6 Texan , North American Curtiss P-40 Warhawk, ba chiếc Republic P-47 Thunderbolts và một chiếc Curtiss C-46 Commando cũng được chuyển giao cho Nga. Máy bay có kèm hướng dẫn vận hành và bảo trì bằng tiếng Nga, cũng như được sơn quốc huy của Không quân Liên Xô.
Người Nga thiết lập trung tâm chỉ huy tại sân bay Ladd Field và Nome, tại đây các phi công Liên Xô được huấn luyện để có thể vận hành máy bay và bay chúng về Krasnoyarsk tại Siberia và nhiều sân bay khác tại miền Tây nước Nga. Nhóm phi hành đoàn Liên Xô đầu tiên đến sân bay Nome ngày 14/8/1942. Từ đây họ tiếp tục bay đến sân bay Ladd Field. Cùng với phi công là cả thợ máy và nhân viên dân sự từ Ủy ban mua sắm quốc phòng. Phần lớn các thành viên phi hành đoàn tập trung tại sân bay Ladd, nhóm thứ hai tại sân bay Marks Field. Những máy bay đầu tiên được cung cấp cho Liên Xô là lô gồm mười hai chiếc A-20 Havocs, bay đến sân bay Ladd ngày 3 tháng 9 năm 1942. Những phi công Nga sau năm ngày huấn luyện trên máy bay đã cất cánh từ Nome và bắt đầu hành trình dài đến tiền tuyến Mặt trận phía Đông.
Ban đầu USAAF đảm nhiệm vai trò huấn luyện vận hành và sửa chữa máy bay viện trợ trong chương trình Lend-Lease. Sau đó, sau khi có kinh nghiệm vận hành và sửa chữa, người Nga đảm nhận công việc này. Nga cũng kiểm tra tỉ mỉ từng máy bay và loại bỏ những máy bay dù là có vấn đề nào nhỏ nhất. USAAF sau đó sẽ có vai trò sửa chữa những máy bay bị lỗi.
Ngoài lề
Tuyến đường vận tải ALSIB và Northwest Staging Route đồng thời cũng là tuyến đường ngoại giao giữa Washington, D.C. và Moscow. Các nhà ngoại giao, chính khách cấp cao và nhiều quan chức chính phủ đã sử dụng tuyến đường bay này trong chiến tranh. Tổng thống Roosevelt đã định tổ chức cuộc gặp thượng đỉnh với Stalin tại Fairbanks vào năm 1944, nhưng địa điểm gặp gỡ đã được chuyển đến Yalta, Liên Xô. Đây cũng là tuyến đường mà Nga sử dụng để di chuyển các nhân viên tình váo và các thông tin tình báo được thu thập từ Hoa Kỳ.
Các phi công Liên Xô tham gia nhiệm vụ chuyển máy bay viện trợ về nước là những phi công giàu kinh nghiệm, với việc nhận nhiệm vụ vận chuyển máy bay được họ coi là quãng thời gian nghỉ ngơi sau quãng thời gian chiến đấu.
Kết thúc
Sau khi chiến tranh tại Thái Bình Dương kết thúc, mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô dần kết thúc, và hai nước chuẩn bị bước và chiến tranh Lạnh, người Nga rởi khỏi Fairbanks sau khi Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vào tháng Chín năm 1945.
Trong số 7.983 máy bay bay về Nga chỉ có 133 chiếc bị mất do thời tiết và lỗi của phi công. Mười ba phi công Liên Xô hi sinh đã được chôn cất tại nghĩa trang Fort Richardson.
Các sân bay
Các sân bay chính được in đậm
Xem thêm
North Atlantic air ferry route in World War II
South Atlantic air ferry route in World War II
South Pacific air ferry route in World War II
West Coast Wing (Air Transport Command route to Alaska)
Crimson Route
Tham khảo
Notes
Bibliography
Carter, John D. "The Air Transport Command, The Army Air Forces in World War II, vol. 7" in Craven, Wesley Frank and James Lea Cate, eds. Services Around the World. Washington, D.C.: Office of Air Force History, 1983.
Chloe, John Hale. Top Cover for America: The Air Force in Alaska, 1920-1983. Missoula, Montana: Pictorial Histories Publishing Company, 1984. .
Cohen, Stan B. The Forgotten War: A Pictorial History of World War II in Alaska and Northwestern Canada, Volume 1. Missoula, Montana: Pictorial Histories Publishing Co., Inc., 1981. .
Cohen, Stan B. The Forgotten War: A Pictorial History of World War II in Alaska and Northwestern Canada, Volume 2. Missoula, Montana: Pictorial Histories Publishing Co., Inc., 1989. .
Cohen, Stan B. The Forgotten War: A Pictorial History of World War II in Alaska and Northwestern Canada, Volume 3. Missoula, Montana: Pictorial Histories Publishing Co., Inc., 1992. .
Conn, Stetson and Byron Fairchild. "The United States and Canada: Elements of Wartime Collaboration, The Western Hemisphere - The Framework of Hemisphere Defense, Chapter XV." United States Army in World War II. Washington, D.C.: United States Army Center of Military History, 1989.
Hays, Otis Jr. The Alaska-Siberia Connection: The World War II Air Route (Williams-Ford Texas A&M University Military History Series). College Station, Texas: Tamu Press, 1996. .
Mueller, Robert. Air Force Bases Volume I, Active Air Force Bases Within the United States of America on 17 September 1982. Washington, D.C.: Office of Air Force History, 1989.
Smith, Blake. Warplanes to Alaska. Surrey, British Columbia: Hancock House Pub Ltd., 1998. .
Smith, Blake. Wings Over the Wilderness: They Flew the Trail of '42. Surrey, British Columbia: Hancock House Pub Ltd., 2008. .
Liên kết ngoài
Yukon Archives page
Allies and Lend-Lease Museum, Moscow
Sân bay tại Alaska
Sân bay tại British Columbia
Sân bay Canada
Hàng không ở Alaska
Quan hệ Hoa Kỳ-Liên Xô
Giao thông British Comlumbia
|
19838529
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%E1%BB%ABng%20tr%C3%A0m%20T%C3%A2n%20L%E1%BA%ADp
|
Rừng tràm Tân Lập
|
Rừng tràm Tân Lập là khu vực rừng tràm ngập nước nằm tại xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An. Khu vực đã được sử dụng khai thác du lịch với tên gọi Khu du lịch sinh thái làng nổi Tân Lập hay ngắn gọn là Làng nổi Tân Lập.
Vị trí và tự nhiên
Rừng tràm Tân Lập nằm ở trung tâm vùng Đồng Tháp Mười, thuộc địa phận xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An. Vị trí cách thị xã Kiến Tường 8 km về phía đông nam; cách thành phố Tân An hơn 50 km về phía tây bắc chạy theo đường Quốc lộ 62, và gần 40 km theo đường chim bay; cách thành phố Hồ Chí Minh 100 km; cách biên giới với Campuchia 15km. Rừng nằm ngay một bên của Quốc lộ 62, có sông Vàm Cỏ Tây chảy qua.
Với diện tích 135,0 ha (1,35 km2) và 500 ha vùng đệm, toàn bộ khu rừng là vùng ngập nước với cảnh quan tự nhiên, bao gồm rừng tràm nguyên sinh, sen – súng, lục bình, và có giống lúa ma điển hình của khu vực. Rừng Tân Lập là nơi quy tụ, trú ngụ của một lượng lớn chim, cò, nhiều loài cá và bò sát. Rạch Rừng xuyên qua khu rừng.
Rừng được phân thành nhiều khu chức năng với tổng diện tích khoảng 5 ha: trung tâm giáo dục môi trường, khu bảo tồn tự nhiên, khu di trú động vật hoang dã, khu lâm viên, khu nhà nổi trên cọc, khu công viên, khu bến thuyền,... Trong rừng có "Đảo thuần dưỡng chim" tập trung hàng ngàn giống chim, cò.
Lịch sử và hoạt động du lịch
Năm 2003, khu du lịch sinh thái Làng nổi Tân Lập bắt đầu được đầu tư với kinh phí 96 tỉ VND, và được Tổng cục Du lịch giới thiệu, quảng bá, dự kiến 80.000 du khách nội địa và hơn 10.000 du khách quốc tế mỗi năm. Năm 2007, khu được giao cho Sở Thương mại – Du lịch Long An quản lý. Năm 2008, doanh thu trong năm là 2.784.000 đồng, mỗi tháng thu về có 232.000 đồng. Năm 2013, khu được chính quyền giao cho Trung tâm Xúc tiến du lịch, Sở Văn hóa–Thể thao và Du lịch tỉnh. Năm 2014, doanh thu là 24.139.107 đồng, tương đương mỗi tháng thu về khoảng 2 triệu đồng. Trước tình hình du lịch ảm đạm, báo Lao động đã gọi tình trạng này là "100 tỉ đồng trôi theo làng nổi". Sau đó, khu được giao cho Công ty TNHH Bất động sản Trần Thái.
Năm 2016, chính quyền địa phương giao rừng cho Công ty du lịch Tháp Mười. Khu du lịch sinh thái làng nổi Tân Lập đưa vào hoạt động vào năm 2017, Khu du lịch được đầu tư bởi Công ty du lịch Tháp Mười với số vốn đầu tư gần 325 tỷ VND. Giữa rừng là một khách sạn 8 tầng.
Hoạt động du lịch gồm tham quan xuyên rừng trên các tuyến đường đan với bề ngang 1 m dài 5 km, có thuyền kéo cáp dưới nước với tổng chiều dài 3 km. Ngoài ra, khách du lịch có thể chèo thuyền trên các con rạch để tham quan và quan sát từ tháp quan sát cao 38 m. Ngó sen và mật ong rừng được xem là những đặc sản tại đây mà khách được đem về.
Tham khảo
Sách
Liên kết ngoài
Rừng Việt Nam
Long An
Du lịch Long An
|
19838533
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Zubovskaya
|
Vịnh Zubovskaya
|
Vịnh Zubovskaya () là một vịnh nằm trên bờ biển phía bắc của bán đảo Rybachy, và bờ biển phía đông bắc của bán đảo Kola, tỉnh Murmansk, Nga. Vịnh Zubovskaya nằm trong biển Barents và được đặt giống với tên của Zubovka, một ngôi làng không có người sinh sống.
Tham khảo
Vịnh biển Barents
Vịnh tỉnh Murmansk
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.