id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19838534
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jan%20Zubowski
|
Jan Zubowski
|
Jan Kazimierz Zubowski (sinh ngày 8 tháng 11 năm 1957) là chính khách người Ba Lan. Ngày 19 tháng 10 năm 2005, ông được bầu vào Hạ viện Ba Lan với tư cách là ứng cử viên của đảng Luật pháp và Công lý. Ông cũng từng giữ chức vụ làm thị trưởng thành phố Głogów nhiệm kỳ 2006-2014.
Tham khảo
Sinh năm 1957
Nhân vật còn sống
Người Oława
Người Głogów
Chính khách Luật pháp và Công lý
|
19838550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Qatar%202023
|
Chặng đua MotoGP Qatar 2023
|
Chặng đua MotoGP Qatar 2023 là chặng đua thứ 19 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 17/11/2023 đến ngày 19/11/2023 ở trường đua Losail, Qatar.
Tay đua giành chiến thắng thể thức MotoGP là Fabio Di Giannantonio của đội đua Gresini Racing. Đây cũng là chiến thắng thể thức MotoGP đầu tiên của Di Giannantonio. Tay đua giành chiến thắng cuộc đua Sprint race là Jorge Martin của đội đua Pramac.
Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 437 điểm.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả Sprint race
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Miguel Oliveira chấn thương ở cuộc đua Sprint race nên không tham gia cuộc đua chính.
Bảng xếp hạng tổng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
19838563
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20200m%20Nam
|
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – 200m Nam
|
Nội dung thi đấu thuyền rồng 200m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2023.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Đội hình thi đấu
Kết quả
Heats
Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Bán kết (BK)
Heat 1
Heat 2
Bán kết
Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Chung kết nhỏ (MF)
Bán kết 1
Bán kết 2
Chung kết
Trận chung kết nhỏ
Trận chung kết
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
200m Nam
|
19838571
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%E1%BB%A9%20Phong%20Ph%C3%BA
|
Xứ Phong Phú
|
Xứ Phong Phú (Bountiful) là tên của hai địa điểm được mô tả trong Sách Mặc Môn vốn là một câu chuyện tôn giáo do Joseph Smith viết vào năm 1829. Vị trí đầu tiên tọa lạc tại Cựu Thế giới, gần Jerusalem và vị trí thứ hai được nằm ở đâu đó tại Châu Mỹ. Trong khi các học giả thế tục và không thuộc LDS coi Sách Mặc Môn là một tác phẩm hư cấu, thì Các Thánh Hữu Ngày Sau xem cuốn sách này như một biên niên sử về người Mỹ bản địa. Theo đó, một số học giả trong Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô đã cố gắng tích hợp các đoạn văn trong thánh thư sách Mặc Môn liên quan đến xứ Phong Phú với các địa điểm thực tế ở Cựu Thế giới và Tân Thế giới. Các tài liệu tham khảo Sách Mặc Môn đã truyền cảm hứng cho những người định cư Mormon đặt tên Bountiful (xứ Phong Phú) cho hai thị trấn là Bountiful, Utah và Bountiful, British Columbia.
Địa điểm
Trong Sách Nê Phi thứ nhất (Nephi.1) của Sách Mặc Môn, thì Xứ Phong Phú được mô tả là một vùng đất tươi tốt trên bờ biển chứa "nhiều trái cây và cả mật ong rừng" nơi mà ông Lê Hi và nhóm của ông ta tạm ổn định cuộc sống trước khi đóng tàu vượt biển. Sau khi đóng xong con tàu thì nhóm của Lê Hi khởi hành từ xứ Phong Phú và đi đến Châu Mỹ (cũng là một xứ Phong Phú khác). Sách Nê Phi thứ nhất kể rằng: "Và rồi chúng tôi đến được một vùng đất mà chúng tôi gọi là Phong Phú, vì chỗ ấy có nhiều trái cây và nhiều mật; và tất cả những vật này đã được Chúa chuẩn bị sẵn để chúng tôi khỏi chết. Và chúng tôi trông thấy biển, và chúng tôi gọi biển ấy là Y Rê An Tum (Irreantum), có nghĩa là nhiều mặt nước. Chúng tôi dựng lều cạnh bờ biển; và mặc dầu đã trải qua nhiều khổ cực và gian truân, chúng tôi rất vui sướng khi được đến bên bờ biển; và chúng tôi gọi chỗ ấy là Phong Phú, vì có nhiều trái cây. Sau khi Nê Phi, ở tại đất Phong Phú được nhiều ngày, thì tiếng nói của Chúa lại đến". Thời xa xưa, biển Ả Rập được gọi bằng tên Latin là Mare Erythraeum. Nhà nghiên cứu LDS là Lynn M. Hilton chỉ ra điểm giống nhau giữa từ Irreantum và Erythraeum ..
Nhiều học giả và nhà nghiên cứu LDS tin rằng vị trí của xứ Phong Phú có thể tương quan với bất kỳ địa điểm nào trên Oman tại bờ biển phía nam Dhofar trên bán đảo Ả Rập. Những địa điểm đã được rà soát, so sánh, đối chiếu, đánh giá là Wadi Hajr (Yemen), Wadi Masilah (Yemen), Dhalqut (Oman), Rakhyut (Oman), Salalah (Oman), Khor Rori/Wadi Darbat (Oman) và Wadi Sayq/Kohr Kharfot (Oman). Để phù hợp với những đặc điểm được kể ra trong Sách Mặc Môn, Aston gợi ý rằng có 12 yêu cầu khác nhau mà một ứng cử viên khả thi cho việc chỉ định vị trí xứ Phong Phú phải đáp ứng gồm:
Vị trí của vùng đất này phải nằm gần về phía đông của Nahom
Bờ biển phải có thể tiếp cận được từ trong sa mạc đi ra
Cả khu vực chung quanh và vị trí mà người Lê Hi đóng trại đều phải có thổ nhưỡng phì nhiêu màu mỡ và có khả năng trồng trọt
Đó phải là một vị trí ven biển
Vùng đất đó phải rất màu mỡ, có “nhiều trái cây và cả mật ong rừng” và ít thú săn.
Nơi đó có lượng gỗ dồi dào trong vùng đủ để đóng những con tàu vượt đại châu
Chỗ này phải sẵn có nguồn nước ngọt quanh năm
Một ngọn núi phải ở gần đó để giải thích cho chi tiết Nê Phi ám chỉ việc lên núi để "thường xuyên cầu nguyện"
Có những vách đá nhìn ra biển để giải thích cho việc hai ông anh trai của Nê Phi cố gắng ném anh ta "xuống vực sâu"
Phải có quặng và đá lửa để tạo lửa và chế tạo công cụ đóng tàu
Không có dân cư sinh sống vào thời điểm nhóm người của Lê Hi đến đó
Phải có gió mạnh và dòng hải lưu có khả năng đưa tàu ra biển
Sau khi tìm hiểu và đánh giá mọi địa điểm trên bờ biển phía nam Ả Rập có thể đủ tiêu chuẩn gọi là xứ Phong Phú trong truyền thuyết thì Aston kết luận rằng tất cả các địa điểm đều không có khả năng đáp ứng mọi yêu cầu này, ngoại trừ Wadi Sayq/Khor Kharfot. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu khác không đồng ý với quan điểm này và ủng hộ vị trí của Khor Rori cách Salalah khoảng 40 km về phía đông những lập luận và minh chứng rằng trong cùng vùng Salalah với một số địa điểm khác, khả năng sử dụng địa điểm này của Nê Phi có trước những phát hiện khảo cổ sớm nhất về địa điểm này, ngược lại, thì với Kohr Kharfot không thể tiếp cận được, nhiều nhà nghiên cứu LDS hiện cho rằng Khor Rori đáp ứng tốt hơn tất cả 12 điểm chính mà Aston và những người khác đã giải quyết cũng như các khía cạnh bổ sung mà họ không giải quyết được yêu cầu.
Sách Mặc Môn đề cập đến một thành phố trên lục địa Châu Mỹ có tên là xứ Phong Phú. Trong cuốn sách này thì nó có ý nghĩa quan trọng vì là nơi Chúa Giêsu được cho là đã đến thăm những người trong nền văn minh theo lời kể trong sách Mặc Môn sau khi ông sống lại. Giống như hầu hết các địa điểm trong Sách Mặc Môn, các học giả thế tục coi xứ Phong Phú Tân Thế giới là hư cấu. Nhà khảo cổ học LDS là John Sorenson tin rằng nó đã tồn tại ở bang Tabasco của Mexico ngày nay. Một quan điểm khác cho rằng xứ Phong Phú ở Bắc Mỹ, trong cái được gọi là lý thuyết vùng đất trung tâm, Nê Phi và hậu thế của ông đã tự lập ở khu vực Iowa, với thành phố chính của họ tên là Zarahemla, được cho là Montrose, Iowa, ngay phía tây qua sông Mississippi từ Nauvoo, Illinois. Những tín nhân mặc môn LDS khác cho rằng vùng đất Tân Thế giới và thành phố Phong Phú không thể ở quá xa vị trí của vùng đất Cumorah được đưa ra trong kinh thánh LDS. Cách giải thích này hiểu rằng Cumorah trong Sách Mặc Môn giống hệt với Cumorah được đề cập trong sách Giáo Lý và Giao Ước.
Chú thích
Tham khảo
.
.
.
.
.
.
.
Liên kết ngoài
Nephis Bountiful in Arabia: The Book of Mormon (YouTube)
Mặc Môn giáo
|
19838586
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Groupement%20de%20Recherche%20et%20d%E2%80%99Etudes%20en%20Gestion%20%C3%A0%20HEC%20Paris
|
Groupement de Recherche et d’Etudes en Gestion à HEC Paris
|
Groupement de Recherche et d’Etudes en Gestion à HEC Paris (GREGHEC) là một viện hợp tác nghiên cứu được thành lập bởi CNRS và HEC Paris nằm trong khuôn viên HEC ở Jouy-en-Josas.
GREGHEC là một trong những viện hợp tác nghiên cứu lớn nhất trong lĩnh vực kinh tế và quản lý ở Pháp.
Chi tiết
Viện là một phần của Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp và HEC Paris nằm tại Jouy-en-Josas. Khoảng 60 sinh viên đang theo học tại các lớp hệ tiến sĩ. Viện bao gồm 120 khoa. Nghiên cứu của viện chủ yếu tập trung vào kinh tế và khoa học quản lý.
Trung tâm có một số chương trình dành cho sinh viên đại học và sau đại học cũng như dành cho giảng viên để giảng dạy các khái niệm về kinh tế. Một số sáng kiến mà trung tâm khởi xướng đã nâng cao nhận thức về kinh tế và quản lý tại Pháp.
Tham khảo
Đại học Paris
Đại học Île-de-France
Trường lớn Pháp
ParisTech
Đổi mới
Khởi đầu năm 2006 ở Pháp
|
19838612
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Infante%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
Infante của Tây Ban Nha
|
Infante/Infanta của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Infante/Infanta de España) là một tước hiệu được ban cho các con của Quân chủ Tây Ban Nha cũng như cho con cái của người thừa kế ngai vàng là Thân vương xứ Asturias. Đi cùng với tước hiệu Infante danh cho Vương tử và Infanta dành cho Vương nữ là kính xưng bậc Royal Highness (Vương thân Điện hạ).
Khác với các chế độ quân chủ châu Âu khác, ở Tây Ban Nha chỉ có người thừa kế được gọi là Prince/Princess (với ý nghĩa là (Nữ) Thân vương) và được phong tước hiệu Thân vương xứ Asturias và các tước hiệu truyền thống khác của người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha. Các Vương tử Vương nữ khác của Quốc vương Tây Ban Nha, cũng như là các con của Thân vương xứ Asturias, theo truyền thống sẽ được hưởng tước hiệu Infante/Infanta của Tây Ban Nha.
Trong số các đặc quyền, các Infante và Infanta có quyền được chôn cất tại Pantéon de Infantes ở El Escorial. Theo luật hiện nay, những người con của các Infante và Infanta sẽ được hưởng kính xưng The Most Excellent (excelentísimo/a señor(a)) và được liệt vào bậc Grandeza của Tây Ban Nha.
Phối ngẫu của hai Vương nữ Margarita và Cristina ( Carlos Zurita y Delgado và Iñaki Urdangarín Liebaert) không được phong là Infante nhưng được hưởng kính xưng The Most Excellent. Ngoài ra, Carlos Zurita được sử dụng tước hiệu Công tước phu quân xứ Soria miễn là Carlos là phối ngẫu của Margarita hoặc vẫn duy trì tình trạng quan phu.
Bên cạnh đó, luật pháp Tây Ban Nha cho phép QUân chủ Tây Ban Nha phong tước hiệu Infante thông qua Sắc lệnh Vương thất nếu họ được coi là xứng đáng. Những trường hợp này sẽ được gọi là Infante de gracia (Infante bởi ân điển). Một trường hợp được ân phong là Carlos de Borbón-Dos Sicilias y Borbón-Parma, Công tước xứ Calabria, người đòi ngai vàng Hai Sicilie và là anh họ của Quốc vương Juan Carlos I của Tây Ban Nha.
Lịch sử
Trong các chế độ quân chủ Tây Ban Nha thời trung cổ, cho dù là Castilla, León, Navarra hay Aragón, tất cả con trai và con gái của các quốc vương, kể cả con đầu lòng, đều chỉ là Infante. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 14, Quốc vương Juan I của Castilla, con trai và người kế vị của Enrique II của Castilla, khi cho con trai đầu lòng là Enrique – Enrique III tương lai – kết hôn với Catherine của Lancaster, cháu ngoại của Pedro I của Castilla đã bị truất ngôi và bị giết chết, đã tạo ra tước hiệu Thân vương xứ Asturias cho hai vợ chồng. Tước hiệu này sau đó được truyền lại cho những người thừa kế kế tiếp, bất kể là nam hay nữ. Khi sinh ra, các con đầu lòng của các vị quân chủ đều là Infante và Infanta như các em của mình, nhưng khi được tuyên bố là người thừa kế trước Quốc hội, những người này sẽ trở thành Thân vương xứ Asturias.
Điều tương tự cũng xảy ra ở Navarra, khi Carlos III phong cho cháu trai mình là Vương tôn Carlos, con trai của con gái Blanca và Chuan II của Aragón tương lai tước hiệu Thân vương xứ Viana, với quan điểm rằng tước hiệu này nên được phong cho trữ quân của Vương quyền Navarra. Nhưng khi Navarra bị chinh phục bởi Ferrando II của Aragón vào năm 1512, danh hiệu dành cho trữ quân Navarra cũng được ban cho trữ quân Castilla và Aragón, thậm chí còn cho rằng gia đình Albret bị lưu đày vẫn tiếp tục sử dụng danh hiệu này cho những người thừa kế của họ.
Quy định
Tước hiệu Infante và Infanta được quy định bởi Sắc lệnh Vương thất 1368/1987, ngày 6 tháng 11, về chế độ định danh hiệu, kính xưng và phẩm hạnh của Vương thất và nhiếp chính như sau:
Các Infante hiện tại của Tây Ban Nha
Hiện tại chỉ có các Infanta, tức là các Vương nữ. Infante cuối cùng là Carlos María của Tây Ban Nha, Công tước xứ Calabria. Theo luật pháp Tây Ban Nha, Infante của Tây Ban Nha là:
Sofía de Borbón y Ortiz, con gái út của Felipe VI của Tây Ban Nha.
Elena de Borbón y de Grecia, Công tước xứ Lugo, con gái đầu lòng của Vua Juan Carlos I của Tây Ban Nha và là chị gái của Felipe VI.
Cristina de Borbón y de Grecia, con gái út của Juan Carlos I của Tây Ban Nha và là chị gái của Felipe VI.
Margarita de Borbón y Borbón, Công tước xứ Soria và Hernani, con gái út của Juan của Tây Ban Nha, Bá tước xứ Barcelona và là cô của Felipe VI.
Ghi chú
Tham khảo
Vương thất Tây Ban Nha
|
19838613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tosanoides%20filamentosus
|
Tosanoides filamentosus
|
Tosanoides filamentosus là một loài cá biển thuộc chi Tosanoides trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1953.
Từ nguyên
Tính từ định danh filamentosus trong tiếng Latinh mang nghĩa là "có dạng sợi", hàm ý đề cập đến các tia sợi vươn dài ở vây hậu môn và/hoặc ở hai thùy vây đuôi của loài cá này.
Phân bố
T. filamentosus là một loài đặc hữu của vùng biển ngoài khơi phía nam Nhật Bản.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở T. filamentosus là 10 cm.
Phân loại
Theo cây phát sinh chủng loại học của Pyle và cộng sự (2018), Tosanoides annepatrice có quan hệ gần hơn với T. filamentosus dựa trên việc phân tích chuỗi mã vạch DNA ty thể ở hai loài.
Tham khảo
F
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Động vật được mô tả năm 1953
|
19838614
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Malaysia%202023
|
Chặng đua MotoGP Malaysia 2023
|
Chặng đua MotoGP Malaysia 2023 là chặng đua thứ 18 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 10/11/2023 đến ngày 12/11/2023 ở trường đua Sepang, Malaysia.
Tay đua giành chiến thắng đua chính thể thức MotoGP là Enea Bastianini của đội đua Ducati Corse. Tay đua giành chiến thắng cuộc đua Sprint race là Alex Marquez của đội đua Gresini Racing.
Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 412 điểm.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả Sprint race
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng tổng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
19838617
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wojciech%20Zubowski
|
Wojciech Zubowski
|
Wojciech Zubowski (sinh ngày 12 tháng 11 năm 1979) là một chính khách Ba Lan. Ông lần đầu được bầu làm nghị sĩ Hạ viện Ba Lan vào năm 2011 tại khu vực bầu cử Legnica và tái đắc cử chức vụ này vào năm 2015. Năm 2019, ông tiếp tục được bầu làm nghị sĩ của Hạ viện, khóa 9. Ông là đảng viên của đảng Luật pháp và Công lý.
Ông sinh ra ở Wrocław, Ba Lan.
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1979
Chính khách Wrocław
Chính khách Ba Lan thế kỷ 21
Nghị sĩ Sejm Ba Lan 2011–2015
Nghị sĩ Sejm Ba Lan 2015–2019
Nghị sĩ Sejm Ba Lan 2019–2023
Chính khách Luật pháp và Tư pháp
Nghị sĩ Sejm Ba Lan 2023–2027
Chính khách Luật pháp và Công lý
|
19838621
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kamikawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Kamikawa, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 3.500 người và mật độ dân số là 3,3 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 1.049,24 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838622
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acid%20linoleic
|
Acid linoleic
|
Acid linoleic là một hợp chất hữu cơ có công thức hóa học . Cả hai nhóm anken đều là đồng phân cis-trans. Loại acid béo thỉnh thoảng được ký hiệu là 18:2 (n-6) hoặc 18:2 cis-9,12. Muối hay ester tạo thành từ acid này được gọi là linoleate.
Acid linoleic là một acid béo omega-6 không bão hòa đa, có dạng chất lỏng không màu, hầu như không tan trong nước nhưng hòa tan trong nhiều dung môi hữu cơ. Nó thường xuất hiện trong tự nhiên dưới dạng triglyceride (ester của glycerin) chứ không phải là acid béo tự do. Đây là một trong hai axit béo thiết yếu đối với con người và là loại cần thiết nhất vì cơ thể phải sử dụng nó làm cơ sở để tạo ra các axit béo khác. Con người phải bổ sung acid linoleic thông qua ăn uống.
Từ "linoleic" có nguồn gốc từ tiếng Latinh linum "flax" + oleum "dầu", phản ánh thực tế rằng nó lần đầu tiên được phân lập từ dầu hạt lanh.
Lịch sử
Năm 1844, F. Sacc, khi này đang làm việc cho phòng thí nghiệm của Justus von Liebig, đã phân lập được acid linoleic từ dầu hạt lanh. Năm 1886, K. Peters xác định được sự tồn tại của hai liên kết đôi. Năm 1930, G. O. Burr và cộng sự phát hiện vai trò thiết yếu của loại axit béo này trong chế độ ăn uống của con người. Năm 1939, T.P. Hilditch và cộng sự xác định đươc cấu trúc hóa học. Năm 1950, R. A. Raphael và F. Sondheimer tổng hợp được axit béo này.
Lợi ích đối với sức khỏe
Tiêu thụ acid linoleic có liên quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, tiểu đường và tử vong sớm. Có bằng chứng thuyết phục cho thấy việc tăng lượng axit linoleic hấp thụ sẽ làm giảm tổng lượng cholesterol trong máu và lipoprotein mật độ thấp.
Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ huyên mọi người nên thay thế chất béo bão hòa bằng acid linoleic để giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Nguồn cung cấp
Acid linoleic có nhiều trong dầu nghệ tây và dầu ngô, chiếm hơn một nửa thành phần của các loại này tính theo khối lượng. Dầu đậu nành, dầu mè và hạnh nhân chứa một lượng trung bình acid linoleic.
Chú thích
Liên kết ngoài
Linoleic acid MS Spectrum
Fatty Acids: Methylene-Interrupted Double Bonds, AOCS Lipid Library
Chất ức chế 5α-Reductase
Chất ức chế aromatase
Acid béo thiết yếu
Chất dinh dưỡng thiết yếu
Acid béo
|
19838625
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tosanoides%20obama
|
Tosanoides obama
|
Tosanoides obama là một loài cá biển thuộc chi Tosanoides trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2016.
Từ nguyên
Từ định danh được đặt theo tên của Barack Obama, Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, nhằm ghi nhận những nỗ lực của ông trong công cuộc bảo tồn môi trường sống, đặc biệt là quyết định mở rộng Tượng đài hải dương quốc gia Papahānaumokuākea của ông vài tuần sau khi phát hiện ra loài cá mới này.
Phân bố
T. obama chỉ được quan sát và thu thập ở độ sâu 90–92 m tại rạn san hô vòng Kure và Pearl và Hermes, do đó được coi là loài đặc hữu của Tây Bắc Hawaii.
R. M. Gooding đã liệt kê một cá thể Tosanoides filamentosus được kéo lưới ở độ sâu 256–311 m vào khoảng năm 1975–1979 tại núi ngầm Hancock (cách Kure ~360 km về phía tây bắc). Do cá thể này không được lưu giữ nên không thể xác định được đó có phải là T. filamentosus không hay là một cá thể T. obama.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở T. obama là 4,3 cm (với tổng chiều dài là gần 6,2 cm).
Cá đực: màu hồng, sẫm hơn ở phần lưng và nhạt dần về phía bụng. Mõm và ngược lên mắt màu vàng tươi, với một dải mỏng màu vàng kéo dài ra hai bên gáy. Một dải tương tự kéo dài từ sau mắt băng qua gần hết nắp mang, dải thứ hai từ hàm dưới ngược lên hàm trên, băng qua mắt và nắp mang đến gốc vây ngực. Vây lưng màu hồng, viền màu cánh sen ở rìa, có một đốm tròn lớn ở cuối, bao quanh bởi vệt màu hồng tím ánh xanh lam. Vây hậu môn và vây bụng màu hồng tím. Vây đuôi màu vàng, trong mờ, nhạt hơn với viền màu hồng tím dọc theo rìa của cả hai thùy.
Cá cái và cá con: màu hồng phớt vàng, nhạt hơn ở ngực và bụng. Vây lưng màu hồng vàng, không có đốm như cá đực, nhưng có lốm đốm các vệt hồng sẫm, viền màu cánh sen ở rìa. Vây hậu môn và vây bụng màu vàng, hồng hơn ở gai vây bụng. Vây đuôi như cá đực.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ngực: 14; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 33–34.
Phân loại
Theo cây phát sinh chủng loại học của Pyle và cộng sự (2018), T. obama có quan hệ gần hơn với Tosanoides flavofasciatus dựa trên việc phân tích chuỗi mã vạch DNA ty thể ở hai loài.
Sinh thái
Qua khảo sát thực địa, T. obama sống theo cặp đực-cái hoặc nhóm hậu cung.
Tham khảo
O
Cá Thái Bình Dương
Cá Hawaii
Động vật được mô tả năm 2016
|
19838644
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BA%A7u%20ng%C3%B4
|
Dầu ngô
|
Dầu ngô hay dầu bắp () là một loại dầu được chiết xuất từ mầm của cây ngô. Công năng chính của loại dầu này là dùng trong nấu ăn nhờ điểm khói cao khiến đây là một loại dầu rán có giá trị. Đây cũng là nguyên liệu chính để sản xuất một vài loại bơ thực vật. Thường thì dầu ngô rẻ tiền hơn hầu hết các loại dầu thực vật còn lại.
Dầu ngô cũng có thể dùng làm diesel sinh học. Trong công nghiệp, dầu này còn được dùng để sản xuất xà phòng, sơn, tẩy chì, chất chống bám bẩn cho các bề mặt kim loại, mực, công nghiệp dệt, nitroglycerin và cả thuốc trừ sâu. Ngành dược phẩm thỉnh thoảng dùng dầu ngô làm chất mang cho các phân tử thuốc.
Thành phần
Acid béo bão hòa: 80% acid palmitic (acid béo C16:0), 14% acid stearic (C18:0) và 3% acid arachidic (C20:0).
Acid béo không bão hòa đơn: Hơn 99% là acid oleic (C18:1 cis-9)
Acid béo không bão hòa đa: 98% là acid linoleic (C18:2 n-6).
Sản lượng
Tham khảo
Đọc thêm
doi 10.1080/07315724.1990.10720403
Liên kết ngoài
The Maize Page
Dầu ăn
Dầu thực vật
Sản phẩm từ ngô
|
19838650
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BA%A7u%20%C4%91%E1%BA%ADu%20n%C3%A0nh
|
Dầu đậu nành
|
Dầu đậu nành hay dầu đậu tương () là một loại dầu thực vật được chiết xuất từ hạt của cây đậu tương/đậu nành (Glycine max). Đây là một trong những loại dầu ăn phổ dụng nhất thế giới và là loại dầu thực vật phổ biến thứ hai toàn cầu. Trong công nghiệp, dầu đậu nành còn được dùng làm nền cho mực và sơn dầu.
Thành phần
Dầu đậu nành chỉ chứa một lượng nhỏ acid cacboxylic béo (khoảng 0,3% khối lượng trong dầu thô và 0,03% trong dầu tinh chế). Thay vào đó, nó chứa este. Sau đây, các thuật ngữ "acid béo" và "acid" là đề cập đến este chứ không phải acid cacboxylic.
Trong 100 g dầu đậu nành có 16 g chất béo bão hòa, 23 g chất béo không bão hòa đơn và 58 g chất béo không bão hòa đa. Các acid béo không bão hòa đa chính trong dầu đậu nành là acid α-linolenic (C-18:3), chiếm 7-10%, và acid linoleic (C-18:2), chiếm 51%; cùng với acid béo không bão hòa đơn là acid oleic (C-18:1), chiếm 23%. Dầu đậu nành còn chứa các acid béo bão hòa là acid stearic (C-18:0), 4% và acid palmitic (C-16:0), 10%.
Tỷ lệ cao hàm lượng acid béo không bão hòa đa dễ bị oxy hóa chính là mặt hạn chế của dầu đậu nành cho một số mục đích sử dụng nhất định, chẳng hạn như khi dùng làm dầu ăn. Ba công ty gồm Monsanto, DuPont/Bunge Global và Asoyia vào năm 2004 đã giới thiệu loại dầu đậu nành chứa hàm lượng linolenic thấp, tên thương mại là Roundup Ready. Kỹ thuật hydro hóa dầu ăn cũng có thể được sử dụng để giảm độ không bão hòa trong acid linolenic. Sản phẩm thu được từ quá trình này được gọi là dầu đậu nành hydro hóa. Nếu quá trình hydro hóa chỉ diễn ra một phần thì dầu có thể chứa một lượng nhỏ chất béo trans.
Chất béo trans cũng thường được đưa vào trong quá trình khử mùi dầu thông thường, mà theo một đánh giá vào năm 2005 thì hàm lượng chất béo trans chiếm 0,4 đến 2,1% trong dầu đã khử mùi.
Sản lượng
Đậu nành/Đậu tương được người Trung Quốc trồng từ cuối đời nhà Thương, khoảng năm 1000 trước Công nguyên. Sách Kinh Thi có một số thi phẩm nhắc đến đậu nành. Ngày nay, Trung Quốc vẫn là nước sản xuất dầu đậu nành nhiều nhất toàn cầu.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sản phẩm từ đậu tương
Phát minh của Trung Quốc
Thực phẩm gốc đậu tương
Dầu thực vật
|
19838658
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng%20chi%E1%BA%BFu%20%C4%90%E1%BB%8Bnh%20Y%C3%AAn
|
Làng chiếu Định Yên
|
Làng chiếu Định Yên là một làng nghề truyền thống chuyên sản xuất các loại chiếu bằng sợi lác tọa lạc tại xã Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Nghề dệt chiếu tại làng chiếu Định Yên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2013.
Lịch sử hình thành
Tên làng Định Yên (Chữ Hán: 定安) được đặt theo tên một người đàn ông tên Phan Văn An, là người khai khẩn đầu tiên của làng và được phối thờ trong đình thần làng chiếu Định Yên. Để tránh kỵ húy, người dân không gọi làng là Định An mà là Định Yên và dùng cho tới giờ. Trong chữ Hán, hai chữ An và Yên đều được dùng cùng chữ 安. Trong làng có 7 ấp gồm: An Bình, An Hòa, An Khương, An Lạc, An Lợi, An Ninh, An Phong; về sau một số ấp được tách ra lập một làng mới kế cận là làng Định An.
Về nghề dệt chiếu, các tài liệu lưu trữ ghi nhận rằng nghề chiếu tại làng chiếu Định Yên đã hình thành từ trên 100 năm trước, có nguồn gốc từ đồng bằng ven biển Bắc Bộ (Thái Bình, Nam Định). Khi vào phương Nam, lưu dân đã mang theo nghề dệt chiếu truyền thống của cha ông. Cụ thể người đầu tiên mang nghề dệt chiếu vào Định Yên là ai thì không được ghi lại.
Với địa thế nằm cạnh sông Hậu, vùng Định Yên có nhiều cồn, bãi bồi phù sa để phát triển tốt các loại nguyên liệu là cây bố và cây lác để làm ra sản phẩm. Làng chiếu Định Yên ban đầu dệt chiếu bằng tay, sử dụng các dụng cụ đơn giản với nguồn nguyên liệu ban đầu trồng ở gần làng nhưng về sau là thu mua từ khắp các tỉnh lân cận. Làng Định Yên bán chiếu cho các thương nhân địa phương hoặc đưa ra các chợ gần đó để trao đổi chiếu với các sản phẩm khác.
Về sau, làng chiếu Định Yên ngày càng phát triển và đông dân hơn, các cơ sở làm chiếu cũng cũng áp dụng máy móc để năng suất và tiết kiệm thời gian, chi phí. Làng chiếu Định Yên cũng mở rộng thị trường, bán chiếu đi khắp cả Việt Nam và xuất khẩu chiếu sang các nước khác, như là Campuchia. Việc buôn bán nguyên liệu và thành phẩm này chủ yếu dựa trên mô hình mua đi bán lại với các thương nhân địa phương khác, ở khu vực Bến Lác Định Yên và chợ chiếu Định Yên hay còn được gọi là chợ ma Định Yên, do hoạt động bán chiếu thường diễn ra lúc trời chưa sáng.
Hiện nay, theo số liệu 2023, làng chiếu Định Yên có khoảng 431 hộ dân theo nghề dệt chiếu. Mỗi năm, làng chiếu Định Yên sản xuất ra khoảng 1,3 triệu sản phẩm chiếu, có doanh số khoảng 80 tỷ đồng. Hiện quy mô sản xuất chiếu không chỉ nằm ở làng Định Yên, mà còn ở cả làng Định An kế cận.
Nghề dệt chiếu tại Định Yên
Nghề dệt chiếu ở Định Yên ngành nghề rất nổi tiếng, nên trong ca dao ở đây đã có câu:
Định Yên có vựa chiếu to,
Có chồng xứ Định (Yên) khỏi lo chiếu nằm.
Hoạt động dệt chiếu
Đầu tiên người dân lựa chọn nguyên liệu chính để dệt chiếu là cây bố và lác, cùng các loại phẩm màu tự nhiên hoặc hóa học. Nguyên liệu này ban đầu có rất nhiều ở địa phương do địa hình dọc sông Hậu có nhiều gò, đất trống. Về sau phần lớn nguyên liệu được trồng hay nhập từ các vùng khác.
Sau khi sơ chế, đóng thành từng bó, người thợ sẽ nhuộm màu thủ công cho sợi lác sao cho màu sắc đạt như mong muốn. Sau khi nhuộm, sợi lác sẽ được đem phơi dưới ánh nắng mặt trời. Nếu phơi đủ nắng, sợi lác sẽ không còn bị ẩm ướt hay quá khô.
Mỗi gia đình ở Định Yên ít nhất có một máy làm chiếu, nhà nào sản xuất lớn thì có tới mười mấy máy. Thông thường, 1 chiếc chiếu 1,2m sẽ cần 1,5kg lác thô. Một khung dệt thủ công phải có 2 người thợ, mỗi ngày dệt được trung bình 4 chiếc chiếu. Các loại chiếu thành phẩm thường thấy ở làng Định Yên gồm: chiếu vảy ốc, chiếu bông in, chiếu bông dệt, chiếu con cờ, chiếu cổ, chiếu trắng... được sử dụng trong cả sinh hoạt hằng ngày lẫn trong việc cúng kiếng. Chiếu Định Yên là một trong nhiều loại chiếu lác có tiếng ở miền Nam Việt Nam, ngang với chiếu Năm Căn (Cà Mau) và chiếu Tà Niên (Rạch Giá, Kiên Giang).
Chợ ma Định Yên
Việc giao dịch chiếu thành phẩm chủ yếu ở khu vực chợ ma Định Yên, còn được gọi là chợ chợ âm phủ, nằm ở khu vực chợ chiếu Định Yên và Bến Lác Định Yên (hiện nằm ở ấp An Lợi B, xã Định Yên, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Đây là một chợ đêm độc đáo, hoạt động trong khoảng 2 tiếng mỗi đêm.
Người dân thường mang chiếu và các đồ dùng mua bán từ nhà đi bộ hoặc chèo thuyền đến chợ để mua bán nguyên liệu và sản phẩm chiếu. Vì thời xưa giao thông khó khăn và việc vận chuyển phụ thuộc nhiều vào thủy triều lên (thường là khuya hôm trước đến ban sáng hôm sau); muốn mua bán được hàng thì nhà chiếu và nhà buôn phải đi từ rất sớm để kịp phiên chợ và con nước. Lâu dần, hoạt động đó hình thành thói quen họp chợ giao dịch ngay khi trời chưa sáng nên gọi là chợ ma hay chợ âm phủ. Trên đường đến chợ, họ thắp đèn dầu hay đuốc lá dừa để thắp sáng.
Chợ chiếu Định Yên không chỉ là nơi mua bán sản phẩm chiếu, mà còn là nơi tập trung tàu thuyền từ các địa phương lân cận như như Sa Đéc hay Vĩnh Long, vận chuyển những nguyên liệu phục vụ sản xuất chiếu như bố lác, phẩm màu. Hiện tại chợ chủ yếu hoạt động vào ban ngày, hoạt động chợ ma chỉ chủ yếu được tái hiện vào các dịp lễ hội do chính quyền địa phương tổ chức.
Ảnh hưởng
Nghề dệt chiếu ở Định Yên ban đầu là một ngành nghề mang lại công ăn việc làm và thu nhập cho mỗi hộ gia đình. Ngoài ra, nghề dệt chiếu còn là nét văn hóa đặc sắc có giá trị cao quý và đặc thù cho địa phương. Năm 2013, làng chính thức được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Tham khảo
Làng nghề Việt Nam
Đồng Tháp
Đồng bằng sông Cửu Long
Di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam
Xã Đồng Tháp
Đồ thủ công mỹ nghệ
|
19838667
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20Hi
|
Lê Hi
|
Lê Hi hay Lehi là một nhà tiên tri sống ở Giê Ru Sa Lem (Jerusalem) dưới thời trị vì của vua Sê Đê Kia/Zedekiah (khoảng năm 600 trước Công nguyên) trong mô tả trong sách Mặc Môn. Theo ghi chép trong các Thánh thư của Mặc Môn giáo thì Lê Hi chính là cha của Nê Phi (Nephi) là tổ tiên của người Nê Phi, Lê Hi cũng là cha của La Man là tổ tiên của người La Man, đây là những dân tộc sinh sống ở châu Mỹ thời Cổ đại theo sách Mặc Môn, như thế, ông Lê Hi đóng vai trò là Tổ phụ của người Mỹ bản địa. Ông cũng được tên cho một thành phố ngày nay Lehi, Utah. Trong văn hóa đại chúng, hình ảnh của Lê Hi cũng đã được miêu tả đang thuyết giảng cho người dân Jerusalem kêu gọi họ mau rời khỏi thành phố, và cảnh ông chào đón các con trai của ông trở về từ Jerusalem, cảnh ông tìm thấy la bàn Liahona, cũng như những lần chiêm bao và khải tượng khác trong suốt cuộc hành trình đã được các nghệ sĩ như Walter Rane, James C. Christensen, Minerva Teichert, J. Kirk Richards, và nhiều tác giả khác khắc họa.
Trong Nê Phi thứ nhất (Nephi 1) cuốn đầu tiên của Sách Mặc Môn bắt đầu với một vị tiên tri Lê Hi. Ông cảnh cáo những người tà ác ở Giê Ru Sa Lem phải hối cải, nhưng họ không nghe. Chúa phán bảo Lê Hi phải mang gia đình ông, gồm vợ ông là Sa Ri A và các con trai của ông gồm La Man, Lê Mu Ên, Sam và Nê Phi tiến vào vùng hoang dã. Sau đó, Lê Hi sai các con trai của mình trở lại để lấy thánh thư được viết trên các bảng khắc bằng đồng. Các bảng khắc này ghi lại lịch sử của các tổ tiên của họ và những điều khác mà Chúa đã phán bảo họ viết xuống. Lê Hi gìn giữ cẩn thận các bảng khắc và cũng viết thêm lên trên các bảng khắc bằng kim loại những điều đã xảy ra cho gia đình họ. Chúa ban cho Lê Hi một cái la bàn gọi là Liahona để hướng dẫn gia đình ông ngang qua vùng hoang dã đến miền đất hứa. Lê Hi và gia đình ông đi đến vùng đất hứa mà họ gọi là xứ Phong Phú trên chiếc tàu họ đã đóng. Sau khi Lê Hi và Nê Phi qua đời, những hậu nhân đã biên chép những điều giảng dạy và sự kiện lên trên các bảng khắc.
Câu chuyện
Truyện ký về Lê Hi và vợ ông là Sa Ri A cùng bốn người con trai của ông có tên La Man, Lê Mu Ên, Sam, và Nê Phi. Chúa báo trước cho Lê Hi biết ông phải rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem vì ông đã tiên tri cho dân chúng biết về sự bất chính của họ và họ tìm cách tiêu diệt mạng sống của ông. Ông cùng gia đình hành trình ba ngày trong vùng hoang dã. Truyện ký đã về những nỗi thống khổ của họ khi đem gia đình đi vào vùng hoang dã, với những sự đau đớn và những nỗi thống khổ trong vùng hoang dã. Lộ trình của họ, chuyện họ đến bên bờ đại dương, đặt tên nơi ấy là xứ Phong Phú và vượt đại dương đến đất hứa. Thiên ký thuật Nê Phi thứ nhất viết theo truyện ký của Nê Phi người đã ghi chép biên sử. Nê Phi có thể đã nhận ra những điểm tương đồng giữa cuộc di cư của người Y-sơ-ra-ên và cuộc hành trình của gia đình ông và phản ánh nhận thức đó khi ông viết lịch sử của mình. Khi các con cái của ông biết và hiểu Môi Se với tư cách là vị tiên tri và người lãnh đạo của Cuộc Xuất Hành khỏi Ai Cập, Lê Hi có thể đã sử dụng sự so sánh với Môi Se để giúp họ hiểu được tầm quan trọng của Chúa đối với gia đình họ và những giáo lệnh mà ông đã yêu cầu họ tuân theo. Họ nhận được các giáo lệnh, được Chúa hướng dẫn và được dẫn đến vùng đất hứa.
Lê Hi tiên đoán dân Do Thái sẽ bị những người Ba Bi Lôn bắt tù đày. Ông nói trước dân Do Thái về sự hiện đến của Đấng Mê Si là Đấng Cứu Rỗi/Đấng Cứu Chuộc. Lê Hi còn nói về sự xuất hiện của một vị sẽ làm phép báp têm bằng nước cho Đấng Chiên Con của Thượng Đế (Vị Nam Tử của Chúa Cha) tại Bê Tha Ba Ra, bên kia sông Giô Đanh. Lê Hi nói về cái chết và sự phục sinh của Đấng Mê Si. Ông so sánh sự phân tán và sự quy tụ của Y Sơ Ra Ên với cây ô liu, về ân tứ Đức Thánh Linh và sự ngay chính. Và sau khi làm phép báp têm cho Đấng Mê Si bằng nước xong, vị ấy sẽ thừa nhận và làm chứng rằng, mình đã làm phép báp têm cho Chiên Con của Thượng Đế là Đấng sẽ cất bỏ tội lỗi của thế gian. Dòng dõi của Lê Hi sẽ tiếp nhận phúc âm từ Dân Ngoại vào những ngày sau. Sách Mặc Môn có kể về chuyển Lê Hi nằm mơ trông thấy một khải tượng về cây sự sống. Ông ăn trái của cây ấy và mong muốn gia đình mình cũng được ăn trái cây ấy. Ông trông thấy một thanh sắt, một con đường chật và hẹp và một đám sương mù tối đen che kín dân chúng. Sau khi ông đã nói hết những lời diễn tả về giấc mơ hay khải tượng của ông, ông đã thuyết giảng và tiên tri nhiều điều, ông bèn khuyên bảo tùy tòng tuân giữ những lệnh truyền của Chúa.
Khải tượng
Vào đầu năm thứ nhất của triều đại Sê Đê Kia, vua Giu Đa thì Lê Hi đã sống tại Giê Ru Sa Lem, chính trong năm này có nhiều vị tiên tri đến và nói những lời tiên tri cho dân chúng biết rằng họ phải hối cải, bằng không thì thành phố Giê Ru Sa Lem vĩ đại ắt sẽ bị hủy diệt. Một lần khi đang cầu nguyện thì Lê Hi trông thấy trong khải tượng một cột lửa và được đọc sách tiên tri, tiên báo sự hiện đến của Đấng Mê Si và tiên tri về sự hủy diệt Giê Ru Sa Lem. cụ thể là lúc Lê Hi đi ra ngoài cầu nguyện Chúa, cầu nguyện hết tấm lòng thành của mình cho dân ông. Lúc ông cầu nguyện Chúa thì một cột lửa xuất hiện trên phiến đá trước mặt ông, và ông được nghe thấy rất nhiều chuyện và cũng chính vì những điều nghe thấy đó mà ông đã kinh hãi và run sợ vô cùng. Ông trở về nhà riêng tại Giê Ru Sa Lem và ông nằm vật xuống giường, tâm thần chan hòa Thánh Linh cùng những điều ông vừa mục kích.
Và trong khi tâm thần chan hòa Thánh Linh như vậy, ông được đưa vào trong một khải tượng đến độ trông thấy được các tầng trời mở ra, và ông nghĩ là ông đã thấy được Thượng Đế đang ngự trên ngai vàng và nhóm thiên thần bao quanh và đang trong trạng thái ca hát và suy tôn Thượng Đế, ông trông thấy có một vị bước xuống khỏi giữa tầng trời, và ông nhận thấy vầng hào quang của vị đó chói sáng hơn cả ánh sáng mặt trời vào lúc giữa trưa. Và ông còn trông thấy có mười hai vị khác đi theo, và hào quang của các vị này cũng chói sáng hơn cả ánh sáng của các vì sao trên vòm trời. Và tất cả các vị ấy đi xuống và tiến tới mặt đất, và vị đi đầu tiên đến đứng trước mặt ông Lê Hi trao cho ông một cuốn sách và bảo ông hãy đọc, khi ông đọc sách ấy, ông được đầy dẫy Thánh Linh của Chúa. Ông đọc rằng: "Khốn thay, khốn thay cho Giê Ru Sa Lem, vì ta đã thấy những điều khả ố của mi! rằng thành phố này sẽ bị hủy diệt, và dân cư ngụ trong ấy cũng vậy, nhiều người sẽ bị chết bởi gươm đao, và nhiều người khác sẽ bị bắt đày qua Ba Bi Lôn".
Sau khi Chúa cho Lê Hi trông thấy những điều kỳ diệu về sự tàn phá của Giê Ru Sa Lem, thì ông đã đi đến giữa đám đông dân chúng, rồi bắt đầu nói tiên tri và rao truyền cho họ những điều ông đã được nghe thấy. Nhưng người Do Thái đã chế nhạo ông vì những điều mà ông đã làm chứng về họ vì quả thật ông đã làm chứng về sự độc ác và những điều khả ố của họ, ông còn làm chứng rằng, những điều ông nghe thấy và luôn cả những điều ông đọc được trong sách, biểu lộ rõ ràng sự hiện đến của Đấng Mê Si, và luôn cả sự cứu chuộc thế gian. Rồi khi những người Do Thái nghe những điều này họ trở nên tức giận với ông như trước kia họ đã từng tức giận các vị tiên tri thời xưa, là những người mà họ đã từng xua đuổi, ném đá và sát hại, nay họ cũng tìm kiếm mạng sống của ông để họ có thể lấy mạng sống ấy. Ông sợ quá phải bàn mưu cùng gia đình đào tẩu để tránh khỏi kiếp nạn do vạ miệng này.
Xuất hành
Lê Hi dẫn gia đình đi vào vùng hoang dã gần Biển Đỏ. Họ bỏ lại tài sản của họ. Lê Hi dâng lễ vật hy sinh lên Chúa và dạy bảo các con trai của mình biết tuân giữ các lệnh truyền. La Man và Lê Mu Ên ca thán cha mình. Lê Hi đi vào vùng hoang dã, ông bỏ lại nhà cửa và đất thừa hưởng, cùng vàng bạc và các vật quý báu, và ông chẳng đem theo thứ gì ngoài gia đình mình, và lương thực, cùng các lều vải, rồi ra đi vào vùng hoang dã. Ông đi xuống cạnh vùng ranh giới gần ven Biển Đỏ, sau đó ông hành trình trong vùng hoang dã dọc theo vùng ranh giới gần ven Biển Đỏ hơn và ông đã hành trình trong vùng hoang dã cùng với gia đình gồm Sa Ri A, các La Man, Lê Mu Ên, và Sam. Sau khi ông đã hành trình được ba ngày trong vùng hoang dã, ông dựng lều trong thung lũng bên bờ một dòng sông có nước, ông lập một bàn thờ bằng đá, và dâng lễ vật lên Chúa và tạ ơn Chúa. Ông đặt tên cho sông ấy là La Man. Sông này chảy về Biển Đỏ và thung lũng này nằm ở vùng ranh giới gần cửa sông và được đặt tên là Lê Mu Ên.
La Man và Lê Mu Ên có tính ương ngạnh; vì này, họ ca thán cha mình nhiều điều vì ông là người trông thấy các khải tượng và ông đã dẫn họ rời khỏi xứ Giê Ru Sa Lem, bỏ lại đất đai thừa hưởng, và vàng bạc cùng các vật quý báu để vào chết trong chốn hoang dã này. Họ bảo rằng, ông đã làm vậy vì những sự tưởng tượng điên rồ của lòng ông. Họ cũng không tin rằng, Giê Ru Sa Lem lại có thể bị hủy diệt được. Lê Hi đã nói với họ trong thung lũng Lê Mu Ên, bằng một giọng đầy uy lực, nhờ ông được đầy dẫy Thánh Linh, đến nỗi toàn thân họ run lên trước mặt ông, và ông đã khuất phục được họ, khiến họ không thốt lên được lời nào chống đối ông nữa vậy nên họ đã làm theo lời ông truyền dạy. Khi xuất hành tạm trú thì Lê Hi trú trong một lều vải, trong Kinh Thánh, “tạm trú” (sojourn) gắn liền với sự nô lệ hoặc sống dưới sự bảo vệ của người khác.
Các con trai của Lê Hi trở về Giê Ru Sa Lem để lấy các bảng khắc bằng đồng. Bà Sa Ri A oán trách ông Lê Hi thì hai người vui mừng khi thấy các con trai mình trở về. Họ dâng của lễ hy sinh. Các bảng khắc bằng đồng chứa đựng các văn tập của Môi Se và các vị tiên tri. Các bảng khắc cho thấy Lê Hi thuộc con cháu Giô Sép. Lê Hi nói tiên tri về dòng dõi của ông và sự bảo tồn các bảng khắc. Lê Hi, đã khám phá ra gia phả của tổ phụ ông. Khi ông xem thấy tất cả những điều này, ông được đầy dẫy Thánh Linh, rồi bắt đầu nói tiên tri về dòng dõi của ông rằng những bảng khắc bằng đồng này sẽ được gửi đi khắp các quốc gia, sắc tộc, sắc ngữ, và dân tộc thuộc dòng dõi của ông, những bảng khắc bằng đồng này sẽ không bao giờ bị tiêu hủy; và cũng không bao giờ bị phai mờ vì thời gian. Các con trai của Lê Hi trở về Giê Ru Sa Lem và chiêu phục được Ích Ma Ên và gia đình của ông đi theo họ trong cuộc hành trình. Lê Hi và nhóm người của ông dâng lễ vật hy sinh và của lễ thiêu.
Cây sự sống
Lê Hi cho biết ông đã mục kích một khải tượng, trong giấc mộng chiêm bao, ông trông thấy một vùng hoang dã âm u tiêu điều, thấy một người đàn ông, vị ấy mặc một cái áo trắng và nhận thấy mình đang đi theo trong một vùng đất hoang âm u tiêu điều trong bóng tối mịt mù nhiều giờ, sau khi cầu nguyện Chúa thì thấy một cánh đồng bát ngát bao la, thấy một cây có trái hấp dẫn làm người ta cảm thấy vui sướng, ông liền bước đến hái một trái ăn, trái cây ấy có một hương vị ngọt ngào hơn hết tất cả những trái cây khác mà đã từng nếm, trái ấy có một màu trắng toát, trắng hơn hết tất cả những màu trắng đã được trông thấy từ trước tới giờ. Khi ăn trái cây ấy, nó làm cho tâm hồn chan hòa một niềm hân hoan cực độ, ông muốn cho cả gia đình mình cũng được nếm trái ấy vì biết rằng đó là một thứ trái cây chấp dẫn hơn hết mọi thứ trái cây khác.
Ông thấy một dòng sông có nước chảy xuôi gần bên cây vừa ăn trái, đầu sông cách đó không xa, ở ngay đầu sông thấy Sa Ri A, cùng Sam và Nê Phi đứng ở đó và không biết phải đi đâu, ông ra dấu cho họ và cũng gọi to lên, bảo họ lại và ăn trái cây ấy, đó là trái hấp dẫn hơn hết thảy mọi trái khác, họ đi đến với cha và cũng ăn trái cây ấy. Ông thấy một thanh sắt chạy dài dọc theo bờ sông đến gốc cây cạnh chỗ đang đứng, còn thấy một con đường chật và hẹp chạy xuôi theo thanh sắt đến ngay gốc cây cạnh chỗ đang đứng, và nó còn chạy qua đầu sông đến một cánh đồng bát ngát bao la, rộng như cả một thế giới. Ông còn thấy những đám đông không kể xiết, trong số ấy có nhiều người đang cố sức tiến tới để đi tới con đường dẫn đến cây, họ tiến vào và bắt đầu đi trên con đường dẫn đến cây ấy, có một đám sương mù tối đen nổi lên, tối đen vô cùng đến đỗi những người mới bắt đầu đi vào con đường ấy phải lạc lối khiến họ đi lang thang rồi lạc mất luôn.
Còn nhiều người khác đang cố sức tiến tới, họ đến nắm đầu thanh sắt rồi liền bám chặt thanh sắt và cố sức tiến qua đám sương mù tối đen, cho tới khi họ đến được bên cây và ăn trái cây ấy. Và sau khi ăn trái cây ấy xong, họ đưa mắt nhìn quanh, hình như lấy làm hổ thẹn, phía bên kia sông có một tòa nhà rộng lớn vĩ đại đứng lơ lửng như ở trên không cao khỏi mặt đất, trong đó đầy nghẹt những người, cả già trẻ lẫn nam nữ, và lối ăn mặc của họ rất sang trọng, và họ có hành động chế giễu và chỉ trỏ những người vừa đến và đang ăn trái cây ấy. Và sau khi đã nếm trái cây ấy, họ lấy làm hổ thẹn vì thấy những người kia đang chế nhạo mình, và họ đi cạc vào những lối cấm rồi lạc mất luôn, ông thấy các đám đông khác đang cố sức tiến tới trước, và họ đến nắm đầu thanh sắt rồi cố sức tiến tới trước, tay luôn luôn giữ chặt thanh sắt cho tới khi họ đến được bên cây thì rạp mình xuống và ăn trái cây ấy, ông còn trông thấy các đám đông khác đang dò dẫm lần mò đi về phía tòa nhà rộng lớn vĩ đại kia, nhiều người bị chết chìm dưới đáy của dòng sông, và nhiều người khác thì bị xa lạc khỏi tầm mắt, họ đi lang thang trong những con đường xa lạ.
Và đông đảo thay nhóm người vào được trong tòa nhà kỳ lạ ấy, và khi vào trong tòa nhà rồi, họ liền lấy tay chỉ trỏ khinh miệt những người khác đang ăn trái cây, tất cả những ai lưu ý đến họ đều sa ngã và lạc lối. Những khải tượng trên được giải thích là xem dòng suối có nước dơ bẩn đã thấy, ngay cả con sông đã nói tới thì đáy sâu của dòng sông đó tức là đáy sâu của ngục giới, đám sương mù tối đen là những cám dỗ của quỷ dữ, làm mù quáng và khiến lòng dạ con cái loài người chai đá, cùng dẫn dắt họ đi vào những con đường rộng, để họ phải bị diệt vong và lạc lối, tòa nhà rộng lớn vĩ đại trông thấy là những ảo ảnh hão huyền và lòng kiêu căng của con cái loài người, và vực thẳm vĩ đại kinh hồn chia cách họ, cây sắt tức là tiếng nói công lý của Thượng Đế Vĩnh Cửu, và Đấng Mê Si là Chiên Con của Thượng Đế mà Đức Thánh Linh làm chứng từ buổi sáng thế cho đến bây giờ.
Bình luận về câu chuyện giấc mơ của Lê Hi này thì Corbin T. Volluz là một luật sư Thánh hữu Ngày sau, phản ánh niềm tin chung của các tín nhân rằng khải tượng là "một trong những phần phong phú nhất, linh hoạt nhất và có ảnh hưởng sâu rộng nhất của lời tiên tri mang tính biểu tượng có trong các tác phẩm tiêu chuẩn thánh thư". Câu chuyện về khải tượng đã được các thành viên của Giáo hội LDS biết đến nhiều và được trích dẫn rộng rãi. “Roi sắt” được nhắc đến cụ thể thường đề cập đến kinh thánh hoặc lời của Chúa, nhằm truyền đạt tầm quan trọng của việc tuân theo lời dạy của Chúa. Trong cuốn sách "Câu chuyện về Sách Mặc Môn" (xuất bản năm 1888), biện giả George Reynolds đã giải thích các trang 2-3 của Codex Boturini chính là đại diện cho giấc mơ của Lê Hi. Theo cách giải thích này, trong nhóm năm người gần cái cây nhất, ba người là Sariah, Sam và Nê Phi đang ăn trái của nó, còn hai người còn lại là Laman và Lemuel từ chối ăn. Xa hơn về phía bên phải, cái chết của Ishmael được mô tả. Ngược lại, cách giải thích chính thống của giới học thuật cho rằng con người và cái cây gãy được minh họa trong các trang này thể hiện sự chia rẽ giữa người Mexico với người Aztec. Nhân vật ngay bên phải thân cây là vị thần Aztec Huitzilopochtli.
Chú thích
Tham khảo
.
.
John A. Tvedtnes, “The Influence of Lehi's Admonitions on the Teachings of His Son Jacob,” Journal of Book of Mormon Studies 3/2 (1994): 34-48.
Noel B. Reynolds, “Lehi as Moses,” Journal of Book of Mormon Studies 9/2 (2000): 26-35.
Liên kết ngoài
Online Version of the Book of Mormon, published by The Church of Jesus Christ of Latter Day Saints
Book of Mormon video of the Tree of life vision produced by the LDS Church
Mặc Môn giáo
|
19838671
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samuel%20Iling-Junior
|
Samuel Iling-Junior
|
Samuel Iling-Junior (sinh ngày 4 tháng 10 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Juventus tại .
Danh hiệu
U19 Anh
Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu: 2022
Juventus Next Gen
Coppa Italia Serie C Á quân:
Tham khảo
Liên kết ngoài
Samuel Iling-Junior trên trang web của Juventus FC
Samuel Iling
Cầu thủ bóng đá Serie C
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Juventus
Cầu thủ bóng đá Chelsea F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2003
|
19838674
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20Yongbi
|
Cầu Yongbi
|
Cầu Yongbi (Tiếng Hàn: 용비교, Hanja: 龍飛橋) là cây cầu nối Geumho-dong 4-ga và Seongsu-dong 1-ga, Seongdong-gu, Seoul.
Tên của cây cầu, "Yongbi"(龍飛) có nghĩa là sự thăng thiên của rồng lên trời. Nó bắt nguồn từ việc mặt dưới của cây cầu tạo thành một khúc cạn và được cho là nơi rồng bay lên trời vào năm quá khứ. Nó mới được khai trương vào ngày 31 tháng 7 năm 2003 và với việc đóng cửa Cầu vượt Cheonggye, nó đóng vai trò là đường vòng được sử dụng để đi từ phía đông bắc Seoul đến trung tâm thành phố. Ngoài ra, nó nằm ở phía bên phải cầu Seongsu từ nhánh Eungbong-dong nên được kết nối với Seobinggo-ro và Ichon-ro. Ngoài ra, nó cho phép chuyển từ Đường cao tốc Dongbu từ Taereung đến Jamsil đến Cầu Seongsu và cũng cho phép chuyển sang Cầu Hannam, Cầu Banpo và Cầu Dongjak, những nơi không thể đi thẳng từ Gangbyeonbuk-ro tới Ilsan.
Lịch sử
1 tháng 1 năm 1971: Bắt đầu thu phí
1 tháng 5 năm 1975: Tăng và thay đổi mức phí
16 tháng 7 năm 1976: Phí cầu đường được tăng và thay đổi, thời gian thu phí được rút ngắn từ 31/12/1983 xuống 31/12/1977
30 tháng 12 năm 1977: Thời hạn thu phí được chuyển từ 31/12/1977 sang 31/12/1983
Chú thíc
Công trình xây dựng quận Seongdong
Giao thông Seoul
Cầu tại Hàn Quốc
|
19838702
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BA%A3i%20t%C6%B0%E1%BB%A3ng
|
Khải tượng
|
Khải tượng (Vision) hay Sự hiện thấy (tiếng Do Thái: Châzôwn; tiếng Hy Lạp: őραμα, Horama) là điều gì đó được nhìn thấy trong giấc mơ, chiêm bao, mộng mị, khi có hiện tượng xuất thần, xuất hồn hoặc lên đồng đặc biệt là vẻ ngoài siêu nhiên thường truyền tải một sứ điệp mặc khải. Những khải tượng thường rõ ràng hơn giấc mơ, nhưng theo truyền thống thì ít hàm ý tâm lý hơn. Những hình ảnh được cho là xuất phát từ truyền thống tâm linh và có thể cung cấp một lăng kính nhìn vào bản chất và thực tế của con người. Những lời tiên tri hay Dự ngôn thường gắn liền với những khải tượng.
Phân loại
Theo Công giáo thì khải tượng hay sự hiện thấy có nghĩa là sự nhìn thấy và nghe thấy những điều Chúa bày tỏ (Mặc khải) cho con người khi người đó đang trong tình trạng tỉnh thức. Evelyn Underhill phân biệt và phân loại ba loại khải tượng:
Trí tuệ huyền cơ: Công giáo định nghĩa đây là kiến thức siêu nhiên trong đó tâm trí nhận được sự nắm bắt phi thường về một số sự thật được tiết lộ mà không cần sự trợ giúp và các nhà thần bí mô tả chúng là trực giác để lại ấn tượng sâu sắc
Tưởng tượng: Thánh nữ Công giáo Têrêsa thành Ávila cắt nghĩa là một khải tượng mà không có gì được nhìn thấy hoặc nghe thấy bằng các giác quan nhìn hoặc nghe, nhưng lại nhận được ấn tượng tương tự điều đó sẽ được các giác quan tạo ra dựa trên trí tưởng tượng nếu chúng cảm nhận được một đối tượng thực tế nào đó. Niels Christian Hvidt gọi chúng là những hình ảnh được nhận biết thông qua các cơ chế của tâm lý con người, được tạo thành từ những thứ mà linh hồn có được khi tiếp xúc với thực tế.
Vật chất: Một biểu hiện siêu nhiên của một vật thể trước con mắt của cơ thể. Nó có thể diễn ra theo hai cách hoặc là một hình ảnh thực sự hiện diện đập vào võng mạc và ở đó quyết định hiện tượng vật lý của thị giác, hoặc một tác nhân vượt trội hơn con người trực tiếp điều chỉnh cơ quan thị giác và tạo ra trong hỗn hợp một cảm giác tương đương với cảm giác mà bên ngoài đối tượng sẽ sản sinh. Underhill gọi loại khải tượng này là "không khác gì sự thể hiện ra bên ngoài một cách không kiểm soát được của những ký ức, suy nghĩ hoặc trực giác hướng nội".
Mặc Môn giáo
Trong Mặc Môn giáo ở Sách Mặc Môn bắt đầu với một vị tiên tri Lê Hi. Một lần khi đang cầu nguyện thì Lê Hi trông thấy trong khải tượng một cột lửa và được đọc sách tiên tri, tiên báo sự hiện đến của Đấng Mê Si và tiên tri về sự hủy diệt Giê Ru Sa Lem. Và trong khi tâm thần chan hòa Thánh Linh như vậy, ông được đưa vào trong một khải tượng đến độ trông thấy được các tầng trời mở ra, và ông nghĩ là ông đã thấy được Thượng Đế đang ngự trên ngai vàng và nhóm thiên thần bao quanh và đang trong trạng thái ca hát và suy tôn Thượng Đế, ông trông thấy có một vị bước xuống khỏi giữa tầng trời, và ông nhận thấy vầng hào quang của vị đó chói sáng hơn cả ánh sáng mặt trời vào lúc giữa trưa. Và ông còn trông thấy có mười hai vị khác đi theo, và hào quang của các vị này cũng chói sáng hơn cả ánh sáng của các vì sao trên vòm trời. Và tất cả các vị ấy đi xuống và tiến tới mặt đất, và vị đi đầu tiên đến đứng trước mặt ông Lê Hi trao cho ông một cuốn sách và bảo ông hãy đọc, khi ông đọc sách ấy, ông được đầy dẫy Thánh Linh của Chúa.
Sau này, Lê Hi cho biết ông đã mục kích một khải tượng, trong giấc mộng chiêm bao, ông trông thấy một vùng hoang dã âm u tiêu điều trong bóng tối mịt mù, một cánh đồng bát ngát bao la, thấy một cây có trái hấp dẫn làm người ta cảm thấy vui sướng, ông liền bước đến hái một trái ăn, trái cây ấy có một hương vị ngọt ngào hơn hết tất cả những trái cây khác mà đã từng nếm, trái ấy có một màu trắng toát, trắng hơn hết tất cả những màu trắng đã được trông thấy từ trước tới giờ. Khi ăn trái cây ấy, nó làm cho tâm hồn chan hòa một niềm hân hoan cực độ. Những khải tượng trên được giải thích là xem dòng suối có nước dơ bẩn, ngay cả con sông đã nói tới thì đáy sâu của dòng sông đó tức là đáy sâu của ngục giới, đám sương mù tối đen là những cám dỗ của quỷ dữ, làm mù quáng và khiến lòng dạ con cái loài người chai đá, cùng dẫn dắt họ đi vào những con đường rộng, để họ phải bị diệt vong và lạc lối, tòa nhà rộng lớn vĩ đại trông thấy là những ảo ảnh hão huyền và lòng kiêu căng của con cái loài người, và vực thẳm vĩ đại kinh hồn chia cách họ, cây sắt tức là tiếng nói công lý của Thượng Đế Vĩnh Cửu và Đấng Mê Si là Chiên Con của Thượng Đế, Đức Thánh Linh.
Chú thích
Xem thêm
Thuyết thần bí Merkabah
Bốn hình hài
Quái thú Khải Huyền
Lê Hi
Thần bí
Tâm linh
|
19838704
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Minh%20Quang%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
|
Nguyễn Minh Quang (cầu thủ bóng đá)
|
Nguyễn Minh Quang (sinh ngày 3 tháng 2 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh hoặc tiền đạo cắm cho câu lạc bộ SHB Đà Nẵng và đội tuyển U-23 Việt Nam.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Minh Quang bắt đầu chơi bóng từ khi còn trẻ. Năm 2012, tại giải bóng đá U-11 tổ chức ở quê nhà Hà Tĩnh, Minh Quang bộc lộ tiềm năng của mình và được gia nhập đội trẻ Hà Tĩnh ngay sau đó. Anh rời Hà Tĩnh sau 10 năm mà không có trận đấu nào ở đội một do thiếu kỹ năng theo nhận xét của các huấn luyện viên.
Năm 2022, Minh Quang gia nhập câu lạc bộ Bình Thuận ở giải hạng Nhì theo dạng cho mượn và cùng đội bóng giành quyền thăng hạng V.League 2. Mùa giải 2023, Minh Quang ghi 8 bàn sau 11 trận ở giải hạng Nhất, giúp đội bóng trụ hạng thành công, đồng thời lọt vào danh sách những cầu thủ ghi bàn tốt nhất giải đấu.
Tháng 9 năm 2023, Minh Quang gia nhập SHB Đà Nẵng với bản hợp đồng có thời hạn 2 năm.
Sự nghiệp quốc tế
Minh Quang được triệu tập vào đội tuyển U-23 Việt Nam dự giải U23 Đông Nam Á 2023. Anh ghi bàn trong trận mở màn gặp Lào và được vinh danh "Cầu thủ xuất sắc nhất trận".
Danh hiệu
U-23 Việt Nam
Giải vô địch bóng đá U-23 Đông Nam Á:
Vô địch (1): 2023
Tham khảo
Cầu thủ bóng đá Việt Nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2001
Tiền đạo bóng đá nam
Người Hà Tĩnh
Cầu thủ giải bóng đá hạng nhất quốc gia Việt Nam
Cầu thủ bóng đá nam Việt Nam
|
19838706
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20v%E1%BB%87%20r%E1%BB%ABng
|
Bảo vệ rừng
|
Bảo vệ rừng (Forest protection) là một ngành lâm nghiệp liên quan đến việc bảo tồn rừng hoặc cải thiện rừng cũng như phòng ngừa và kiểm soát thiệt hại đối với rừng do các nguyên nhân tự nhiên hoặc do con người gây ra như cháy rừng, loài gây hại và các điều kiện khí hậu bất lợi từ sự nóng lên toàn cầu và biến đổi khí hậu. Công tác bảo vệ rừng cũng có địa vị pháp lý và thay vì chỉ bảo vệ khỏi những kẻ phá hoại rừng, nó được coi là rộng hơn và bao gồm cả bệnh lý rừng. Do sự nhấn mạnh khác nhau nên tồn tại các phương pháp bảo vệ rừng khác nhau. Ở các nước nói tiếng Đức, việc bảo vệ rừng sẽ tập trung vào các yếu tố sinh học và phi sinh học không liên quan đến tội phạm. Một khu rừng được bảo vệ không giống như một rừng phòng hộ. Những thuật ngữ này có thể gây ra một số nhầm lẫn trong tiếng Anh, mặc dù chúng rõ ràng hơn ở các ngôn ngữ khác. Các hình thức lạm dụng do con người gây ra mà hoạt động bảo vệ rừng tìm cách ngăn chặn, giảm thiểu bao gồm:
Việc thâm canh không bền vững và khai thác gỗ bừa bãi
Ô nhiễm ở những vùng đất rừng
Tốc độ đô thị hóa do bùng nổ dân số và kết quả là mở rộng đô thị
Một số phương pháp bảo vệ rừng ít thành công hơn đã được thử nghiệm, chẳng hạn như buôn bán gỗ có chứng chỉ với hình thức là Chứng nhận bảo vệ rừng FSC (Forest Stewardship Council) là chứng nhận được dùng cho các nhà quản lý rừng hay những nhà sản xuất các sản phẩm từ rừng đảm bảo được tiêu chí về phát triển bền vững, cân bằng được các giá trị bảo vệ môi trường (rừng) với lợi ích xã hội của các bên liên quan (nhà sản xuất, xã hội và người dân địa phương). Đây chính là ví dụ của một chương trình chứng nhận thị trường. Bảo vệ một phần đất nhỏ trong một khu rừng lớn hơn cũng có thể có giá trị hạn chế ví dụ như rừng nhiệt đới có thể chết nếu chúng giảm kích thước, vì chúng phụ thuộc vào vi khí hậu ẩm mà chúng tạo ra. Có một bài báo xuất sắc trên tạp chí National Geographic số tháng 10 liên quan đến rừng gỗ đỏ ở California và nỗ lực của họ trong việc duy trì rừng và rừng nhiệt đới.
Hiệu quả
Có nhiều tranh cãi về tính hiệu quả của các phương pháp bảo vệ rừng. Việc thực thi pháp luật liên quan đến đất rừng được mua còn yếu hoặc không tồn tại ở hầu hết các nơi trên thế giới. Ở Nam Mỹ quê hương của cánh rừng nhiệt đới rộng lớn thì công tác này ngày càng nguy hiểm, các quan chức của Brazilian Cơ quan Môi trường Quốc gia (IBAMA) gần đây đã bị bắn khi đang thực hiện nhiệm vụ thường lệ. Ở Việt Nam, công tác bảo vệ rừng được đánh giá là yếu kém, dù chính quyền nước này cũng bày đặt thông qua Luật Bảo vệ và phát triển rừng 2004 nhưng chỉ dừng ở mức hô hào khẩu hiệu, thực tế thì nạn phá rừng ở Việt Nam diễn ra với tốc độ chóng mặt, sự táo tợn của lâm tặc với sự tiếp tay của Kiểm lâm Việt Nam và sự bao che dung dưỡng có tổ chức của các quan chức tham nhũng ở Việt Nam từ trung ương đến địa phương. Một hình thức bảo vệ rừng đơn giản là nhà nước hoặc các tổ chức bảo tồn thu hồi đất để bảo đảm đất hoặc để tái trồng rừng/trồng rừng. Nó cũng có thể có nghĩa là quản lý rừng hoặc chỉ định các khu vực như hồ chứa tự nhiên được dự định để lại cho chính họ. Tuy nhiên, việc chỉ mua một mảnh đất không ngăn được việc nó bị người khác sử dụng cho mục đích săn trộm và khai thác gỗ trái phép.
Một cách tốt hơn để bảo vệ rừng, đặc biệt là rừng già ở vùng sâu vùng xa, là lấy một phần rừng để sinh sống và giám sát đất đã mua. Ngay cả ở Hoa Kỳ, những biện pháp này đôi khi không đủ vì hiện tượng đốt phá có thể đốt cháy một khu rừng thành bình địa, để lại những khu vực bị cháy có thể sử dụng vào mục đích khác. Theo nghịch lý bảo vệ rừng các khu vực được bảo vệ như các khu định cư nông thôn gần các khu bảo tồn tăng trưởng với tốc độ gấp đôi so với những nơi khác. IUCN thực hiện các giao thức như vậy để bảo vệ hơn 670 vùng sinh thái với 46% vùng sinh thái có tỷ lệ rừng bảo vệ dưới 10%. Điều đó có nghĩa là những khu vực này không được giám sát như bình thường và biện pháp bảo vệ không được kích hoạt. Xem xét việc bảo vệ rừng trong các khu vực ưu tiên toàn cầu là không đạt yêu cầu. Một ví dụ được đưa ra là mức bảo vệ trung bình là 8,4% tại các điểm nóng đa dạng sinh học. Các kết quả có tính phù hợp về mặt chính sách đối với mục tiêu của Công ước về Đa dạng sinh học, được xác nhận lại vào năm 2008, nhằm bảo tồn một cách hiệu quả "ít nhất 10% mỗi loại rừng trên thế giới".
Chú thích
Liên kết ngoài
Forests in danger *Roadmap to Recovery: The World's Last Intact Forest Landscapes *Global Forest Resources Assessment 2005
CoolForests.org - Conservation Cools the Planet
Xem thêm
Bảo tồn thiên nhiên
Phá rừng
Cháy rừng
Lâm tặc
Kiểm lâm
Rừng già
Rừng phòng hộ
Rừng rậm
Rừng
Bảo tồn thiên nhiên
|
19838715
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Davy%20Rouyard
|
Davy Rouyard
|
Davy Rouyard (sinh ngày 17 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Guadeloupe hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Bordeaux tại Ligue 2, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Guadeloupe.
Sự nghiệp thi đấu
Bordeaux
Rouyard gia nhập học viện trẻ của Bordeaux vào năm 2014. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2021, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng, có thời hạn đến tháng 6 năm 2025. Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Bordeaux trong trận thua 3–0 tại Cúp bóng đá Pháp trước Brest vào ngày 2 tháng 1 năm 2022.
Sự nghiệp quốc tế
Rouyard chọn thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Guadeloupe vào tháng 6 năm 2022.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1999
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ bóng đá Guadeloupe
Cầu thủ bóng đá Guadeloupe ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Nhân vật còn sống
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá FC Girondins de Bordeaux
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Ligue 2
Cầu thủ bóng đá Championnat National 3
Cầu thủ bóng đá Championnat National
Cầu thủ Cúp Vàng CONCACAF 2023
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Guadeloupe
|
19838716
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20%C4%90%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp%20Ph%E1%BA%A7n%20Lan
|
Ngày Độc lập Phần Lan
|
Ngày Độc lập Phần Lan (; ) là ngày lễ và ngày treo cờ chính thức của Phần Lan, diễn ra vào ngày 7 tháng 10 hằng năm, kỷ niệm ngày Phần Lan tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Nga sau khi chính phủ Bolshevik lên nắm chính quyền vào cuối năm 1917.
Lịch sử
Hoạt động kỷ niệm
Trong những thập kỷ đầu tiên sau khi giành được độc lập, người Phần Lan kỷ niệm ngày Độc lập thông qua các buổi diễn thuyết mang tính yêu nước và tham dự các thánh lễ đặc biệt tại nhà thờ. Tuy nhiên, không khí ngày Độc lập đã trở nên sống động hơn kể từ thập niên 1970. Các cửa hiệu trang trí cửa sổ với tông màu của lá quốc kỳ, và các tiệm bánh thì cho ra những sản phẩm bánh ngọt được phủ một lớp đường cô màu xanh lam và trắng.
Các gia đình Phần Lan có truyền thống đốt hai ngọn nến bên mỗi một chiếc cửa số của nhà mình vào ngày này. Đây là một truyền thống bắt nguồn từ thập niên 1920, khi mà người Phần Lan thường thắp những cây nến bên cửa sổ vào ngày sinh nhật của thi hào Johan Ludvig Runeberg để thể hiện tâm tình phản kháng thầm lặng chống lại sự đô hộ của Đế quốc Nga. Người ta còn tin rằng việc thắp hai ngọn nến từng được dùng để báo hiệu cho những thanh niên người Phần Lan đang trên đường sang Thụy Điển và Đức để được đào tạo thành lính jäger biết rằng ngôi nhà ấy sẵn lòng che chở cho họ và giúp họ thoát khỏi tay mắt của chính phủ Nga.
Lễ hội cấp nhà nước
Lễ thượng cờ trên đồi Tähtitorninmäki tại thành phố Helsinki là hoạt động chính thức để khai mạc ngày lễ Độc lập Phần Lan. Sau đó, các giáo sĩ tại nhà thờ chính tòa Helsinki sẽ dâng một thánh lễ và các quan chức sẽ đi viếng thăm đài tưởng niệm chiến sĩ hy sinh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Hằng năm vào ngày này cũng diễn ra cuộc duyệt binh thường niên của Các lực vũ trang Phần Lan. Đây là một trong những sự kiện nổi bật của lễ Độc lập và được tường thuật trực tiếp trên truyền hình.
Năm 1955, đài truyền hình YLE đã phát sóng lần đầu bộ phim Người lính vô danh () được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của tác giả Väinö Linna. Phiên bản 1955 được chiếu đi chiếu lại nhiều lần (trước năm 2000) và đều đặn hàng năm từ năm 2000. Bên cạnh đó, phiên bản 1985 được phát một lần vào năm 1997 và phiên bản 2017 được chiếu lần đầu vào năm 2021.
Lễ rước đuốc truyền thống của các bạn sinh viên được tổ chức hằng năm kể từ năm 1951. Hoạt động này thường diễn ra tại những huyện hay thành phố có viện đại học. Trong khuôn khổ của buổi lễ này, các bạn sinh viên cũng đặt vòng hoa tưởng niệm tại các nghĩa trang liệt sĩ.
Vào buổi tối của ngày lễ, tại Dinh Tổng thống sẽ diễn ra tiệc chiêu đãi nhân Ngày Độc lập với gần 2.000 vị khách mời, còn được gọi với cái tên khác là Dạ tiệc tại Dinh Tổng thống ( hoặc ). Đây là một sự kiện rất được công chúng ưa thích và đón nhận trên truyền hình toàn quốc. Dạ tiệc tại Dinh Tổng thống lần đầu tiên được khởi xướng vào năm 1919 và diễn ra hầu như là hằng năm kể từ đó.
Phân đoạn truyền hình được yêu thích nhất trong tiệc chiêu đãi nhân Ngày Độc lập Phần Lan là khi các quan khách tiến vào phía trong Dinh Tổng thống, bao gồm những vị khách được mời tham dự thường niên: những cá nhân được tưởng thưởng Huân chương Thánh giá Mannerheim (tiến vào trước tiên), sau đó đến các thành viên Chính phủ và nghị sĩ Quốc hội Phần Lan, các vị tổng giám mục, thẩm phán, sĩ quan quân đội và cảnh sát cấp cao, cùng nhiều nhà ngoại giao và quan chức cao cấp khác. Nhóm khách thứ hai là những cá nhân được đích thân Tổng thống Cộng hòa lựa chọn: họ thường là những người trong ngành giải trí; các nhà hoạt động; vận động viên thể thao – nói chung là những người được biết đến nhiều trong năm qua. Những vị khách cuối cùng tiến vào dinh luôn luôn là những vị cựu Tổng thống Cộng hòa còn sống.
Xem thêm
Lịch sử Phần Lan
Niên biểu độc lập Phần Lan (1917–1920)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Người dân Phần Lan ăn mừng Quốc khánh vào tháng 12 hằng năm tại trang web thisisFINLAND
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười Hai
Thành lập năm 1917 ở Phần Lan
Ngày Độc lập
Ngày lễ Phần Lan
Ngày treo cờ tại Phần Lan
|
19838722
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A5c%20h%E1%BB%93i%20r%E1%BB%ABng
|
Phục hồi rừng
|
Phục hồi rừng (Forest restoration) được định nghĩa là “các hành động nhằm thiết lập lại các quá trình sinh thái, giúp đẩy nhanh quá trình phục hồi cấu trúc rừng, chức năng sinh thái và mức độ đa dạng sinh học theo hướng điển hình của cực đỉnh diễn thế sinh thái”, tức là giai đoạn cuối của diễn thế rừng tự nhiên. Đây quá trình thay đổi có trật tự trong một cộng đồng, quần xã (thực vật, động vật) do sinh vật gây ra sự biến dạng của môi trường và kết thúc ở một hệ thống ổn định hoặc trạng thái cực đỉnh (Climax). Rừng cao điểm (Climax forests) là hệ sinh thái rừng tương đối ổn định đã phát triển sinh khối tối đa, độ phức tạp về cấu trúc và sự đa dạng loài có thể trong giới hạn do khí hậu và đất đai tạo ra và không bị con người tiếp tục làm xáo trộn. Do đó, rừng cao điểm là hệ sinh thái mục tiêu, xác định mục đích cuối cùng của việc phục hồi rừng gắn với bảo vệ rừng. Sự phục hồi rừng tích cực đã được chứng minh là có thể đẩy nhanh quá trình thu hồi, hấp thụ lượng carbon của các khu rừng nhiệt đới do con người biến đổi lên tới 50%.
Đại cương
Phục hồi rừng có thể chỉ bao gồm việc bảo vệ thảm thực vật còn sót lại (phòng chống cháy rừng, đuổi các đàn gia súc chăn thả quá mức) hoặc các biện pháp can thiệp tích cực hơn để đẩy nhanh quá trình tái sinh tự nhiên, cũng như trồng cây và/hoặc gieo hạt các loài đặc trưng của hệ sinh thái mục tiêu. Các loài cây được trồng hoặc được khuyến khích trồng là những loài điển hình hoặc mang lại chức năng sinh thái quan trọng trong hệ sinh thái mục tiêu. Vì khí hậu là yếu tố chính quyết định thành phần rừng cao điểm nên biến đổi khí hậu toàn cầu có thể dẫn đến thay đổi mục tiêu phục hồi. Ngoài ra, phải tính đến các tác động tiềm ẩn của biến đổi khí hậu đối với các mục tiêu phục hồi, vì những thay đổi về mô hình nhiệt độ và lượng mưa có thể làm thay đổi thành phần và phân bố của các khu rừng cao điểm (cực đỉnh). Phục hồi rừng là một hình thức tái trồng rừng chuyên biệt, nhưng nó khác với trồng cây thông thường ở chỗ mục tiêu chính của nó là phục hồi đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.
Phục hồi rừng và cảnh quan (FLR) được định nghĩa là một quá trình nhằm lấy lại chức năng sinh thái và nâng cao phúc lợi của con người khi rừng bị tàn phá hoặc cảnh quan bị suy thoái. FLR được phát triển nhằm ứng phó với tình trạng suy thoái rừng và mất mát, thiệt hại rừng và mất đất ngày càng tăng, dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học và dịch vụ hệ sinh thái. FLR hiệu quả sẽ hỗ trợ đạt được Mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals). Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái của Liên hợp quốc (2021–2030) mang đến cơ hội khôi phục hàng trăm triệu ha rừng bị suy thoái và các hệ sinh thái khác. Thập kỷ phục hồi hệ sinh thái của Liên hợp quốc 2021–2030 đã được công bố vào tháng 3 năm 2019 nhằm mục đích đẩy nhanh hành động phục hồi hệ sinh thái trên toàn thế giới. Phục hồi hệ sinh thái thành công đòi hỏi sự hiểu biết cơ bản về đặc điểm sinh thái của các loài thành phần, cùng với kiến thức về cách chúng tập hợp, tương tác và hoạt động như một cộng đồng.
Phục hồi rừng là một quá trình toàn diện, phụ thuộc vào sự hợp tác giữa nhiều bên liên quan bao gồm cộng đồng dân cư địa phương, cư dân bản xứ, các quan chức chính quyền, chính phủ, tổ chức phi chính phủ (NGO), các nhà khoa học và nhà tài trợ. Thành công về mặt sinh thái của công tác này được đo lường bằng sự gia tăng đa dạng sinh học, tăng sinh khối, năng suất sơ cấp, chất hữu cơ trong đất và khả năng giữ nước, cũng như sự trở lại của các loài quý hiếm và loài chủ chốt đặc trưng của hệ sinh thái mục tiêu. Tuy nhiên, theo FAO, các hoạt động phục hồi phải đối mặt với các rào cản kinh tế, từ việc thiếu nguồn tài trợ quy mô lớn thay mặt chính phủ, cho đến nguồn lực và năng lực kỹ thuật hạn chế của các hộ sản xuất nhỏ lẻ. Các chỉ số thành công về kinh tế bao gồm giá trị của lâm sản và dịch vụ sinh thái được tạo ra (ví dụ như bảo vệ rừng đầu nguồn, lưu trữ carbon), cuối cùng góp phần xóa đói, giảm nghèo. Chi trả cho các dịch vụ sinh thái (PES) và khai thác lâm sản (đi mót, nhặt nhạnh các lâm thổ sản) có thể tạo động lực mạnh mẽ cho người dân địa phương thực hiện các dự án phục hồi rừng vì lợi ích của cộng đồng cũng như lợi ích thiết thân của họ.
Chú thích
Liên kết ngoài
The Global Partnership on Forest and Landscape Restoration - More information on global initiatives to restore forest ecosystems
Issuance Of Eco-Restoration License
Collaborative Forest Landscape Restoration Program, United States Forest Service, Washington, DC
Forest and Landscape Restoration Project, World Resources Institute, Washington, DC
The Forest and Landscape Restoration Mechanism
Bảo tồn thiên nhiên
Rừng
|
19838723
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Th%C3%A1i%20Lan%202023
|
Chặng đua MotoGP Thái Lan 2023
|
Chặng đua MotoGP Thái Lan 2023 là chặng đua thứ 17 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 27/10/2023 đến ngày 29/10/2023 ở trường đua Chang, Thái Lan.
Jorge Martin của đội đua Pramac Racing là tay đua giành chiến thắng cả cuộc đua chính thức và cuộc đua Sprint race của thể thức MotoGP. Sau chặng đua Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 389 điểm.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả Sprint race
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
19838734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minamifurano%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Minamifurano, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Sorachi, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.376 người và mật độ dân số là 3,6 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 665,52 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838741
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20Seung-kyum
|
Kim Seung-kyum
|
Kim Seung-kyum (; sinh ngày 12 tháng 4 năm 1963), là một đại tướng Lục quân Hàn Quốc, ông giữ chức Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (JCS) từ ngày 5 tháng 7 năm 2022. Trước khi trở thành Chủ tịch JCS, ông là Phó chỉ huy Bộ Tư lệnh Liên hợp Hàn Quốc–Mỹ.
Đầu đời
Kim Seung-kyum sinh ngày 12 tháng 4 năm 1963 tại Seocheon, tỉnh Nam Chungcheong, trong một gia đình có truyền thống quân sự. Cha ông là trung tá trong quân dự bị. Ông tốt nghiệp trường trung học Osan, ở Seoul. Ông vào Học viện Quân sự Hàn Quốc năm 1982 và tốt nghiệp khóa học năm 1986.
Chú thích
Người Chungcheong Nam
|
19838746
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%8CT24
|
ČT24
|
ČT24 là kênh truyền hình tin tức thuộc sở hữu của Česká televize. Phát sóng lần đầu vào ngày 2 tháng 5 năm 2002.
Tham khảo
Kênh truyền hình tin tức 24/7
Česká televize
|
19838749
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Francesco%20Camarda
|
Francesco Camarda
|
Francesco Camarda (sinh ngày 10 tháng 3 năm 2008) là một tài năng trẻ trong làng bóng đá Ý, hiện đang góp mặt trong đội hình của đội bóng nổi tiếng AC Milan ở giải Serie A.
Đầu đời
Camarda được sinh ra tại Milan, Italy. Như một đứa trẻ, cậu cũng thể hiện sự quan tâm đối với môn kickboxing.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Camarda bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình tại Afforese, một trường đào tạo bóng đá ở Milan. Trong thời gian ở Afforese, anh được huấn luyện tại học viện danh tiếng của AC Milan, trước khi chính thức gia nhập đội bóng này vào năm 2015, chỉ sau hơn một năm với Afforese. Trong buổi tập đầu tiên với AC Milan, anh bắt đầu với vai trò là một hậu vệ. Tuy nhiên, sau những pha đi bóng mê đắm và những bàn thắng ấn tượng, anh nhanh chóng được chuyển lên đá ở vị trí tiền đạo.
Trong thời gian ở học viện AC Milan, Camarda đã khẳng định bản thân là một chân sút xuất sắc; tại một giải đấu dành cho đội dưới 9 tuổi ở Vienna, Áo, anh bị thay ra do chấn thương khi đội của anh đang đối mặt với đối thủ mạnh Bayern Munich và đang thua 2–0. Anh đã yêu cầu HLV để được trở lại sân và tiếp tục ghi hai bàn thắng và kiến tạo một pha làm bàn trong chiến thắng cuối cùng 3–2. Đây là một khoảnh khắc quan trọng, đánh dấu sự kiên trì và kỹ thuật xuất sắc của Camarda.Sự xuất sắc của anh không giảm sút khi anh tiến bộ qua học viện, vàanh đã ghi được 22 bàn trong 24 trận cho đội U15 của AC Milan, dẫn dắt họ đến danh hiệu Scudetto U15.
Cuối cùng, những chiến tích ghi bàn xuất sắc của anh đã thu hút sự chú ý của truyền thông quốc tế, và anh đã được ca ngợi vì đã ghi được 485 bàn trong chỉ 89 trận cho học viện AC Milan, với một trung bình 5,45 bàn mỗi trận..Anh được thử nghiệm cùng đội U19 của AC Milan khi mới 14 tuổi, và đã ghi được hai bàn trong một trận giao hữu giành chiến thắng của đội trước đội Eccellenza Solbiatese.
Camarda đã có trận ra mắt tại UEFA Youth League vào ngày 19 tháng 9 năm 2023 trong trận đấu với Newcastle United, nơi anh ghi được hai bàn thắng trong chiến thắng 4–0. Những bàn thắng này đã khiến Camarda trở thành cầu thủ thứ hai trong lịch sử giải đấu ghi được cú đúp và cầu thủ ghi bàn trẻ nhất từng có của Italia ở tuổi 15, 193 ngày, phá vỡ kỷ lục của Fabrizio Caligara là 16 tuổi, 189 ngày.
Vào tháng 11 năm 2023, do khủng hoảng chấn thương, HLV AC Milan Stefano Pioli đã gọi Camarda vào đội hình chính cho trận Serie A gặp Fiorentina vào ngày 25 tháng 11 năm 2023; để làm điều này, câu lạc bộ đã phải yêu cầu sự cho phép đặc biệt từ Liên đoàn Bóng đá Italia, vì cầu thủ dưới 16 tuổi thông thường không được phép tham gia vào đội hình chính của một đội bóng Italia. Anh được thay vào sân vào phút thứ 83, từ đó trở thành cầu thủ Serie A trẻ nhất từng có ở tuổi 15, 8 tháng và 15 ngày.
Tham Khảo
Liên Kết ngoài
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Ý
Cầu thủ bóng đá A.C. Milan
Tiền đạo bóng đá nam
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2008
Nguồn CS1 tiếng Ý (it)
|
19838750
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20500m%20Nam
|
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – 500m Nam
|
Nội dung thi đấu thuyền rồng 500m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức vào ngày 5 tháng 10 năm 2023.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Đội hình thi đấu
Kết quả
Heats
Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Bán kết (BK)
Heat 1
Heat 2
Bán kết
Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Chung kết nhỏ (MF)
Bán kết 1
Bán kết 2
Chung kết
Trận chung kết nhỏ
Trận chung kết
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
500m Nam
|
19838754
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20r%E1%BB%ABng%20nhi%E1%BB%87t%20%C4%91%E1%BB%9Bi
|
Bảo tồn rừng nhiệt đới
|
Bảo tồn rừng nhiệt đới (Tropical rainforest conservation) là các biện pháp bảo tồn rừng và bảo vệ rừng đối với các khu rừng nhiệt đới mà trọng tâm ưu tiên là rừng mưa nhiệt đới, bao gồm du lịch sinh thái và các biện pháp phục hồi rừng. Hoạt động tái trồng rừng và khôi phục rừng là những biện pháp phổ biến ở một số khu vực nhất định nhằm cố gắng tăng mật độ rừng nhiệt đới. Thông qua việc tương tác và giao tiếp với người dân địa phương sống trong và xung quanh rừng nhiệt đới, các nhà bảo tồn có thể tìm hiểu thêm về những gì có thể cho phép họ tập trung nỗ lực tốt nhất cho công tác bảo tồn. Điều bắt buộc đối với sự sống trên trái đất là phải bảo tồn rừng nhiệt đới vì cây cối lấy carbon dioxide để cung cấp dưỡng khí oxy nên rừng nhiệt đới chính là lá phổ xanh cho sự sống của hành tinh này. Khoảng một phần tư lượng khí thải nhà kính trên thế giới gia tăng đến từ nạn phá rừng và phá hủy rừng nhiệt đới.
Rừng mưa nhiệt đới có tầm quan trọng toàn cầu đối với tính bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học là lá phổi xanh của sự sống trên trái đất và thực tế thì lá phổi xanh này bị đe đọa với tốc độ phá rừng đáng chóng mặt. Mặc dù chúng có thể khác nhau về vị trí và các loài thực vật và động vật sinh sống, nhưng chúng vẫn có tầm quan trọng trên toàn thế giới vì sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ hệ sinh thái. Điều quan trọng là phải xem xét các loài khác nhau và đa dạng sinh học tồn tại ở các loại rừng nhiệt đới khác nhau để thực hiện chính xác các phương pháp bảo tồn. Các nỗ lực nhằm bảo vệ và bảo tồn môi trường sống trong rừng mưa nhiệt đới rất đa dạng và lan rộng nhanh tạo nên phong trào toàn cầu về bảo vệ rừng vì tương lai con em trên hành tinh. Theo Nghị định thư Kyoto, các quốc gia phải giảm 5% lượng khí thải carbon dioxide so với mức năm 1990 trước năm 2012. Các quốc gia có thể đáp ứng mức cắt giảm khí thải bắt buộc bằng cách bù đắp một số lượng khí thải đó theo cách khác là thông qua việc bảo tồn hoặc trồng lại rừng nhiệt đới nên các quốc gia có thể nhận được tài trợ tín dụng từ các định chế tài chính.
Đại cương
Việc bảo tồn rừng mưa nhiệt đới bao gồm từ việc bảo tồn môi trường sống chặt chẽ đến việc tìm kiếm những phương pháp quản lý hiệu qua cho những người sống trong các rừng mưa nhiệt đới. Chính sách thế giới cũng đưa vào một chương trình hỗ trợ thị trường gọi là Reducing Emissions from Deforestation và Forest Degradation (REDD) cho các công ty và chính quyền để giảm lượng cacbon thải ra thông qua sự đầu tư tài chính và việc bảo tồn rừng mưa. Barnens Regnskog (rừng nhiệt đới của trẻ em) là một tổ chức phi lợi nhuận của Thụy Điển được thành lập vào năm 1987, dành riêng cho việc huy động vốn để bảo tồn rừng nhiệt đới. Tổ chức từ thiện này hỗ trợ các dự án bảo tồn tại Thái Lan, Guatemala, Belize, Costa Rica và Ecuador và đã góp phần giữ gìn 450 km² rừng nhiệt đới. Hoạt động gây quỹ đã được thực hiện ở Thụy Điển cũng như Đức và Hoa Kỳ.
Du lịch sinh thái đang thực hiện các chuyến tham quan đến một khu vực cụ thể nhằm nỗ lực giáo dục công chúng về những môi trường thường bị đe dọa. Đó là một thực tiễn đại diện cho một giải pháp cấp thiết để cứu môi trường sống đang bị đe dọa. Khách du lịch và hướng dẫn viên du lịch thường quyên góp hào phóng cho các nỗ lực bảo tồn ở những khu vực họ ghé thăm, giúp ích rất nhiều cho việc bảo tồn rừng nhiệt đới Amazon. Các chuyên gia đang thảo luận liên tục và thường xuyên với các nhà bảo tồn, các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia và lãnh đạo địa phương về du lịch sinh thái và tác động của nó đối với các hệ sinh thái xung quanh. Du lịch sinh thái có thể góp phần bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học ở các khu rừng nhiệt đới.
Rừng mưa Amazon ở Nam Mỹ là một trong những khu rừng nhiệt đới lớn nhất và dày đặc nhất thế giới. Rừng mưa nhiệt đới đang biến mất trên khắp thế giới và ở mức báo động ở Brazil. Kể từ những năm 1980, hơn 153.000 dặm vuông rừng nhiệt đới Amazon đã trở thành nạn nhân của nạn phá rừng. Brazil đã giúp đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trên toàn cầu về cung cấp sản phẩm đậu nành và thịt bò với vùng đất mới được giải phóng mặt bằng. Vùng Amazon dễ dàng tạo thành một trong những khu bảo tồn sinh thái lớn nhất và đa dạng sinh học nhất thế giới, từng là lưu vực rất đa dạng, tươi tốt, hiện đã bị phát quang ở nhiều khu vực để làm ruộng đậu nành và trang trại chăn nuôi gia súc. Khí nhà kính, phần lớn là do tốc độ phá hủy rừng nhiệt đới ở mức đáng báo động, là một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra biến đổi khí hậu ở khu vực Amazon.
Hoạt động phá rừng ở một mức độ nào đó đã bị chậm lại nhờ thực hiện các quy định sử dụng đất chặt chẽ hơn và tạo ra khu vực được bảo vệ. Chính phủ Brazil cũng hỗ trợ lập kế hoạch kinh tế và xã hội tốt hơn cho các khu vực cụ thể có những điểm tương đồng đáng kể với các chính sách quốc gia. Chỉ riêng trong năm 2009, Brazil đã thừa nhận một vấn đề và chấp nhận thách thức đặt ra là giảm 36–38% lượng khí thải carbon vào năm 2020 trong nỗ lực giảm lượng khí thải vào không khí. Một số công ty trên toàn thế giới đã tuyên bố công khai rằng họ từ chối mua các sản phẩm có nguồn gốc từ các khu vực rừng nhiệt đới mới được phát quang gần đây. Thịt bò thường đến từ các trang trại nằm trên vùng đất trước đây là rừng nhiệt đới. Điều quan trọng là phải bảo tồn rừng nhiệt đới vì nhiều tài nguyên cho những thứ chúng ta sử dụng hàng ngày đều đến từ rừng nhiệt đới, bao gồm cả cao su làm lốp xe và các loại gia vị như quế và nhiều mặt hàng thông dụng khác.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Rừng
Bảo tồn thiên nhiên
Bảo tồn rừng
Rừng mưa
Rừng lá rộng ẩm nhiệt đới và cận nhiệt đới
Rừng mưa nhiệt đới
|
19838763
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fulk%20Al%20Salamah%20%28du%20thuy%E1%BB%81n%202016%29
|
Fulk Al Salamah (du thuyền 2016)
|
Fulk Al Salamah ("Con tàu hòa bình") là một chiếc siêu du thuyền hiện phục vụ trong Hải đội Du thuyền Hoàng gia Oman kể từ khi hoàn thành vào năm 2016. Với chiều dài , Fulk Al Salamah là du thuyền dài thứ hai thế giới tính đến năm 2022.
Tham khảo
Thuyền đóng tại Genoa
Du thuyền có động cơ
Tàu thủy năm 2016
|
19838765
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%8Cesk%C3%A1%20televize
|
Česká televize
|
Česká televize (viết tắt: ČT) là tổ chức phát sóng công cộng quốc gia thuộc sở hữu của chính phủ Cộng hòa Séc. Thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1992. Tổng giám đốc hiện tại là Jan Souček.
Tham khảo
Sách
Đài phát sóng công cộng
Česká televize
|
19838767
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tosanoides
|
Tosanoides
|
Tosanoides obama là một chi cá biển thuộc phân họ Anthiadinae trong họ Cá mú. Chi này được lập ra vào năm 1953.
Từ nguyên
Tên chi được ghép từ Tosana (một chi khác trong phân họ Anthiadinae) và hậu tố –oides ("giống với" trong tiếng Latinh), hàm ý so sánh Tosanoides có gai vây lưng thứ nhất dài nhất, thay vì thứ ba như Tosana, và đường bên uốn cong rõ rệt ngay dưới tia vây lưng mềm cuối cùng.
Các loài
Có 6 loài được ghi nhận trong chi này tính đến hiện tại:
Tosanoides annepatrice
Tosanoides aphrodite
Tosanoides bennetti
Tosanoides filamentosus
Tosanoides flavofasciatus
Tosanoides obama
Phân bố
Trong 6 loài thì chỉ có T. aphrodite được phát hiện ở Đại Tây Dương, còn lại đều được tìm thấy ở Tây Thái Bình Dương.
Hình thái
Cả 6 loài đều là những loài dị hình giới tính.
Tham khảo
Anthiinae
|
19838772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20t%E1%BB%8B%20n%E1%BA%A1n%20Palestine
|
Người tị nạn Palestine
|
Người tị nạn Palestine (Palestinian refugees) là công dân của nhà nước Palestine và con cháu của họ, những người Palestin (người Pa-le-xtin) khổ hạnh đã chạy trốn hoặc bị Israel cưỡng bức trục xuất khỏi đất nước Palestine của họ trong suốt cuộc Chiến tranh Palestine 1947–1949 (với sự kiện trục xuất và đào tẩu của người Palestine 1948) và Chiến tranh sáu ngày (dẫn đến cuộc di cư của người Palestine năm 1967). Hầu hết những người tị nạn Palestine sống tập trung chen chúc trong 68 trại tị nạn Palestine trên khắp Jordan, Lebanon, Syria, Bờ Tây và Dải Gaza. Sự tị nạn của người Palestin xuất phát từ chủ nghĩa phục quốc Do Thái (chủ nghĩa Xi-ôn) trong lịch sử Do Thái khi người Do Thái lưu vong đã tập hợp với sự hậu thuẫn của Mỹ và phương Tây để chiếm lấy và định cư trên lãnh thổ từng là nơi sinh sống của người Palestine trong lịch sử để thành lập nhà nước Israel vào năm 1948. Năm 2019, ước tính hơn 5,6 triệu người tị nạn Palestine đã được đăng ký với Liên Hợp quốc xem xét.
Tổng quan
Năm 1949, Cơ quan Cứu trợ và Việc làm của Liên hợp quốc dành cho Người tị nạn Palestine ở Cận Đông (UNRWA) đã định nghĩa người tị nạn Palestine là để chỉ những người tị nạn Palestine ban đầu cũng như hậu duệ của họ. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của UNRWA chỉ giới hạn đối với những người tị nạn Palestine cư trú tại các khu vực hoạt động của UNRWA tại Lãnh thổ Palestine, Lebanon, Jordan và Syria. Tính đến năm 2019, có hơn 5,6 triệu người Palestine đã đăng ký tị nạn với UNRWA, trong đó hơn 1,5 triệu người sống trong các trại do UNRWA điều hành. Tính đến tháng 1 năm 2015, Dải Gaza có diện tích 365 km2 đã có 8 trại tị nạn UNRWA với 560.964 người tị nạn Palestine và tổng cộng 1.276.929 người tị nạn đã đăng ký được ví von thành nhà tù ngoài trời lớn nhất.
Thuật ngữ người tị nạn Palestine không bao gồm người Palestine di tản trong nước, những người đã trở thành công dân Israel hoặc người Do Thái Palestine phải di dời. Theo một số ước tính, có tới 1.050.000–1.380.000 người những người xuất thân từ những người phải di dời ở Palestine bắt buộc không được đăng ký theo quy định của UNRWA hoặc UNHCR. Trong Chiến tranh Palestine 1948, khoảng 700.000 người Ả Rập Palestine hoặc 85% tổng dân số ở vùng đã trở thành Israel chạy trốn hoặc bị trục xuất khỏi nhà của họ, đến Bờ Tây của Jordan, Dải Gaza và tới các quốc gia Lebanon, Cộng hòa Syria và Jordan.
Họ và con cháu của họ, những người cũng có quyền đăng ký, được UNWRA hỗ trợ trong 59 trại đã đăng ký, 10 trại trong số đó được thành lập sau Chiến tranh sáu ngày năm 1967 để đối phó với làn sóng người Palestine di dời mới. Người tị nạn Palestine cũng là nhóm người tị nạn bất ổn lâu đời nhất trên thế giới, họ nằm dưới sự quản lý liên tục của các quốc gia Ả Rập sau cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, những nhóm người tị nạn ở Bờ Tây dưới sự quản lý của Israel kể từ Chiến tranh Sáu ngày và chính quyền Palestine kể từ năm 1994, và những người sống ở Dải Gaza thì do Phong trào Kháng chiến Hồi giáo (Hamas) quản lý kể từ năm 2007. Ngày nay, số lượng người tị nạn lớn nhất, hơn 2.000.000 người sống ở Jordan, nơi mà đến năm 2009 đã có hơn 90% người tị nạn Palestine đã đăng ký UNWRA đã có đầy đủ quyền công dân. Con số này hầu như chỉ bao gồm những người Palestine gốc Bờ Tây.
Tuy nhiên, kể từ tháng 12 năm 2021, những người Palestine có nguồn gốc từ Dải Gaza cũng vẫn bị giữ trong tình trạng lấp lửng về mặt pháp lý. Vào năm 2021, chính trị gia Jordan là Jawad Anani ước tính rằng khoảng 50% dân số Jordan có nguồn gốc Bờ Tây–Palestine. Khoảng 2.000.000 người tị nạn khác sống ở Bờ Tây và Dải Gaza, dưới sự chiếm đóng và phong tỏa của Israel. Khoảng 500.000 người tị nạn sống ở mỗi nước Syria và Lebanon, mặc dù trong những hoàn cảnh rất khác nhau. Trong khi những người tị nạn Palestine ở Syria vẫn duy trì tình trạng không quốc tịch, Chính phủ Syria đã trao cho họ những quyền kinh tế và xã hội tương tự như công dân Syria họ cũng được nhập ngũ vào Lực lượng vũ trang Syria mặc dù không phải là công dân Syria.
Quyền công dân hoặc nơi cư trú hợp pháp ở một số quốc gia sở tại bị từ chối, đáng chú ý nhất là đối với người tị nạn Palestine ở Lebanon, nơi mà việc tiếp nhận người Palestine sẽ làm đảo lộn sự cân bằng mong manh. Đối với bản thân những người tị nạn, những tình huống này có nghĩa là họ bị giảm bớt các quyền: không có quyền bầu cử, quyền sở hữu bị hạn chế và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội, cùng nhiều thứ khác. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thảo luận về báo cáo của Bernadotte và thông qua một nghị quyết có nêu "rằng những người tị nạn mong muốn trở về nhà của họ và sống hòa bình với hàng xóm của họ phải được phép làm như vậy vào ngày sớm nhất có thể" và cũng vào ngày 11 tháng 12 năm 1948, Đại hội đồng Liên hợp quốc (UNGA) đã thông qua Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc số 194 khẳng định quyền trở về của người Palestine về cư trú tại quê nhà của họ trên mảnh đất Palestine.
Thống kê
Sự gia tăng của số lượng tị nạn Palestine được thể hiện dưới đây:
Số người tị nạn Palestine sống trong khu vực hoạt động đã đăng ký của UNWRA được trình bày dưới đây, gồm cả những người sống trong trại tị nạn và những người sống bên ngoài trại tị nạn:
Bảng dưới đây cho thấy số lượng người tị nạn đã đăng ký, những người đã đăng ký khác và những người tị nạn cư trú trong các trại vào năm 2018. Định nghĩa của UNRWA về Những người đã đăng ký khác đề cập đến "những người, tại thời điểm đăng ký ban đầu không đáp ứng tất cả các tiêu chí về người tị nạn Palestine của UNRWA, nhưng được xác định là đã phải chịu mất mát và/hoặc khó khăn đáng kể vì những lý do liên quan đến cuộc xung đột năm 1948 ở Palestine", họ cũng bao gồm những người thuộc vào gia đình của những người đã đăng ký khác:
Chú thích
Tham khảo
Esber, Rosemarie M. (2008) Under the Cover of War: the Zionist Expulsion of the Palestinians. Arabicus Books & Media
Gelber, Yoav (2006). Palestine 1948. Sussex Academic Press. .
Gerson, Allan (1978). Israel, the West Bank and International Law. Routledge.
McDowall, David (1989). Palestine and Israel: The Uprising and Beyond. I.B.Tauris. .
Morris, Benny (2003). The Birth of the Palestinian Refugee Problem Revisited. Cambridge: Cambridge University Press.
Morris, Benny, 1948: A History of the First Arab-Israeli War, (2009) Yale University Press.
Reiter, Yitzhak, National Minority, Regional Majority: Palestinian Arabs Versus Jews in Israel (Syracuse Studies on Peace and Conflict Resolution), (2009) Syracuse Univ Press (Sd).
Pappe, Ilan (2006). The Ethnic Cleansing of Palestine, London and New York: Oneworld, 2006.
Segev, Tom (2007) 1967 Israel, The War and the Year that Transformed the Middle East Little Brown
Seliktar, Ofira (2002). Divided We Stand: American Jews, Israel, and the Peace Process. Praeger/Greenwood.
Tovy, Jacob (2014). Israel and the Palestinian Refugee Issue: The Formulation of a Policy, 1948–1956. Routledge.
Liên kết ngoài
UNRWA Palestinian refugee statistics
Google map of 58 UNRWA camps with descriptions and photos
UN refugee agency unveils Palestinian archive
Xem thêm
Người tị nạn
Người Palestin
Người Philistin
Người Rohingya
Người Digan
Người Do Thái
Palestine
|
19838783
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakagawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Nakagawa, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Nakagawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 1.528 người và mật độ dân số là 2,6 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 594,87 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838791
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20%C3%9Ac%202023
|
Chặng đua MotoGP Úc 2023
|
Chặng đua MotoGP Úc 2023 là chặng đua thứ 16 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 20/10/2023 đến ngày 22/10/2023 ở trường đua Phillip Island, Úc.
Do thời tiết xấu nên cuộc đua Sprint race đã bị hủy. Cuộc đua chính thể thức MotoGP được dời sang ngày thứ Bảy, người giành được chiến thắng là Johann Zarco của đội đua Pramac Ducati. Đây là chiến thắng thể thức MotoGP đầu tiên trong sự nghiệp của Johann Zarco.
Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 366 điểm.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Álex Rins bị đau chân trái đã quyết định rút tên khỏi danh sách thi đấu.
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
19838795
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Otoineppu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Otoineppu, Hokkaidō
|
là một ngôi làng thuộc huyện Nakagawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 706 người và mật độ dân số là 2,6 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 275,64 km2.
Tham khảo
Làng của Hokkaidō
|
19838798
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0i%20Ph%C3%A1t%20thanh%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20Slovakia
|
Đài Phát thanh Quốc tế Slovakia
|
Đài Phát thanh Quốc tế Slovakia (; viết tắt: RSI) là đài phát thanh thuộc sở hữu của Đài Phát thanh – Truyền hình Slovakia. Phát sóng lần đầu vào ngày 4 tháng 1 năm 1993. RSI phát sóng bằng sáu ngôn ngữ gồm tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Tây Ban Nha và Slovak.
Tham khảo
Mạng phát thanh
Khởi đầu năm 1993 ở Slovakia
|
19838803
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt%20to%C3%A0n%20th%E1%BA%A7n
|
Thuyết toàn thần
|
Thuyết toàn thần (Panentheism, tiếng Hy Lạp: πᾶνἐν) là niềm tin rằng thần thánh giao cắt mọi phần của vũ trụ và quyền năng thần thánh cũng vượt ra ngoài không gian và thời gian và đó là uy quyền tối hậu. Thuật ngữ Thuyết toàn thần được triết gia người Đức Karl Krause đặt ra vào năm 1828 để phân biệt các ý tưởng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770–1831) và Friedrich Wilhelm Joseph Schelling (1775–1854) về mối quan hệ giữa Chúa và vũ trụ từ thuyết phiếm thần của Baruch Spinoza, sau khi xem lại kinh điển Ấn Độ giáo. Không giống như thuyết phiếm thần, cho rằng thần thánh và vũ trụ là giống hệt nhau, thuyết toàn thần duy trì sự phân biệt bản thể học giữa thần thánh và phi thần thánh và tầm quan trọng của cả hai.
Dẫn luận
Trong thuyết toàn thần, thì tinh thần phổ quát hiện diện ở khắp mọi nơi, đồng thời mang tính "sự siêu việt" khi tất cả mọi thứ được tạo ra. Trong khi thuyết phiếm thần khẳng định rằng "tất cả là Chúa" thì thuyết phiếm thần cũng cho rằng Chúa vĩ đại hơn vũ trụ. Một số phiên bản của thuyết toàn thần cho rằng vũ trụ không gì khác hơn là sự biểu hiện của Chúa hay Thượng đế hay Đấng chí tôn, Đấng tối cao. Ngoài ra, một số hình thức cho thấy vũ trụ được chứa đựng trong Chúa/Đấng Tối cao giống như trong khái niệm Kabbalah của Tzimtzum. Phần lớn triết lý Hindu mang đặc trưng của cả thuyết toàn thần và thuyết phiếm thần.
Baruch Spinoza sau đó tuyên bố rằng "Bất cứ điều gì có đều ở trong Chúa, và không có Chúa thì không gì có thể tồn tại hoặc được hình thành". "Những thứ riêng lẻ không là gì ngoài sự sửa đổi các thuộc tính của Chúa, hoặc các phương thức mà các thuộc tính của Chúa được thể hiện một cách cố định và rõ ràng". Mặc dù Spinoza được gọi là "nhà tiên tri" và "hoàng tử" của thuyết phiếm thần, trong một lá thư gửi Henry Oldenburg Spinoza nói rằng: "Đối với quan điểm của một số người rằng tôi đồng nhất thần thánh với thiên nhiên (được coi là một loại khối lượng hoặc vật chất hữu hình), họ khá là nhầm rồi". Đối với Spinoza, vũ trụ (vũ trụ) của chúng ta là một chế độ có hai thuộc tính Suy nghĩ và Mở rộng.
Chúa có vô số thuộc tính khác không có trong thế giới của chúng ta. Theo triết gia người Đức Karl Jaspers, khi Spinoza viết "Deus sive Natura" (Chúa hay Tự nhiên), Spinoza không có ý nói rằng Chúa và Tự nhiên là những thuật ngữ có thể hoán đổi cho nhau, mà đúng hơn là sự siêu việt của Chúa đã được chứng thực bởi vô số thuộc tính của Ngài , và hai thuộc tính được con người biết đến, đó là Tư tưởng và Mở rộng, biểu thị sự nội tại của Chúa. Hơn nữa, Martial Guéroult đề xuất thuật ngữ "thuyết toàn thần", thay vì "thuyết phiếm thần" để mô tả quan điểm của Spinoza về mối quan hệ giữa Chúa và thế giới. Thế giới không phải là Chúa, nhưng theo nghĩa mạnh mẽ, nó ở "trong" Chúa. Tuy nhiên, triết gia người Mỹ và người theo thuyết phiếm thần tự cho mình là Charles Hartshorne gọi triết học của Spinoza là "thuyết phiếm thần cổ điển" và phân biệt triết học của Spinoza với thuyết phiếm thần.
Hiện tượng
Nhận thức về hình ảnh tôn giáo trong các hiện tượng tự nhiên khi người ta nhận thấy mọi người cảm nhận được các hình ảnh có tâm linh hoặc chủ đề hoặc nội dung tôn giáo dưới hình dạng của các hiện tượng tự nhiên. Các hình ảnh được cảm nhận, cho dù là hình ảnh thánh hay có thể là khuôn mặt của các nhân vật tôn giáo nổi tiếng hoặc sự biểu hiện của các biểu tượng tâm linh trong môi trường tự nhiên, hữu cơ hoặc các hiện tượng tự nhiên. Sự xuất hiện hoặc sự kiện của nhận thức có thể thoáng qua hoặc thoáng qua hoặc có thể lâu dài hơn. Hiện tượng này dường như tiếp cận một phổ quát văn hóa và thường có thể đi kèm với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, thuyết vật linh và Bái vật giáo, cùng với các hệ thống tín ngưỡng chính thức hoặc có tổ chức hơn.
Trong truyền thống Cơ đốc giáo, nhiều trường hợp được báo cáo liên quan đến hình ảnh của Chúa Giê-su hoặc các nhân vật Cơ đốc giáo khác được nhìn thấy. Hiện tượng ban đầu thuộc loại này là Acheiropoieta: hình ảnh của các biểu tượng Kitô giáo lớn như Chúa Giêsu và Đức Trinh Nữ Maria được cho là được tạo ra bằng các phương tiện siêu nhiên. Từ Acheropite xuất phát từ tiếng Hy Lạp ἀχειροποίητος, có nghĩa là "không được tạo ra bởi bàn tay con người", và thuật ngữ này lần đầu tiên được áp dụng cho Tấm vải liệm Turin và Tấm màn che Veronica. Sau đó, thuật ngữ này được áp dụng rộng rãi hơn cho Simulacrum có tính chất tôn giáo hoặc tâm linh xảy ra trong các hiện tượng tự nhiên, đặc biệt là những hiện tượng được các tín đồ coi là có nguồn gốc kỳ bí huyền diệu. Về mặt khoa học, những hình ảnh kiểu như vậy thường được mô tả là một dạng Pareidolia. Đây là một nhận thức sai lầm về hình ảnh do những gì được lý thuyết là tâm trí con người quá nhạy cảm với các mẫu nhận thức, đặc biệt là mô hình khuôn mặt con người, trong các hiện tượng ngẫu nhiên khác.
Chú thích
Tham khảo
Ankur Barua, "God's Body at Work: Rāmānuja and Panentheism," in: International Journal of Hindu Studies, 14.1 (2010), pp. 1–30.
Philip Clayton and Arthur Peacock (eds.), In Whom We Live and Move and Have Our Being; Panentheistic Reflections on God's Presence in a Scientific World, Eerdmans (2004)
Bangert, B.C. (2006). Consenting to God and nature: Toward a theocentric, naturalistic, theological ethics, Princeton theological monograph ser. 55, Pickwick Publications, Eugene.
Cooper, John W. (2006). Panentheism: The Other God of the Philosophers, Baker Academic
Davis, Andrew M. and Philip Clayton (eds.) (2018). How I Found God in Everyone and Everywhere, Monkfish Book Publishing
Thomas Jay Oord (2010). The Nature of Love: A Theology .
Joseph Bracken, "Panentheism in the context of the theology and science dialogue", in: Open Theology, 1 (2014), 1–11 (online).
Liên kết ngoài
Dr. Jay McDaniel on Panentheism
Biblical Panentheism: The “Everywhere-ness” of God—God in all things, by Jon Zuck
John Polkinghorne on Panentheism
The Bible, Spiritual authority and Inspiration – Lecture by Tom Wright at Spiritual Minded
Tôn giáo
Kabbalah
|
19838807
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20borbonius
|
Odontanthias borbonius
|
Odontanthias borbonius là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828.
Từ nguyên
Hậu tố –ius trong tiếng Latinh có nghĩa là "thuộc về", hàm ý đề cập đến vị trí mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập, đảo Borbon, tên gọi ban đầu của đảo Réunion.
Phân bố
O. borbonius có phân bố trải rộng trên vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (trừ phần lớn khu vực Trung và Đông Ấn Độ Dương), từ Đông Phi, cũng như Madagascar và các đảo quốc xung quanh, trải dài về phía đông đến Guam và Papua New Guinea, ngược lên phía bắc đến miền nam Nhật Bản (bao gồm cả quần đảo Ogasawara), xa nhất ở phía nam đến Nam Phi.
O. borbonius được tìm thấy trong khoảng độ sâu từ 70 đến 300 m, và cá đực đơn độc thường được bắt gặp trong và gần hang của cá vây tay.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở O. borbonius là 15 cm. O. borbonius có màu đỏ hồng với 9–11 đốm lớn màu vàng nâu ở hai bên thân. Đầu có một dải màu vàng tươi nằm dưới mắt, từ chóp mõm kéo dài đến gốc vây ngực, cũng có một số vệt vàng nâu trên trán và sau mắt. Các vây có màu vàng, trừ chóp gai vây lưng, gai vây hậu môn và gai vây bụng có màu hồng tím. Mống mắt vàng.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8; Số tia vây ngực: 16–18; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 39–43.
Thương mại
O. borbonius phổ biến trong ngành buôn bán cá cảnh, đôi khi được bày bán trong các chợ cá.
Tham khảo
Xem thêm
B
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Tanzania
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Madagascar
Cá Réunion
Cá Mauritius
Cá Nhật Bản
Cá Palau
Cá Papua New Guinea
Động vật được mô tả năm 1828
|
19838808
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi
|
Tôn giáo thế giới
|
Tôn giáo thế giới (World religions) hay Tôn giáo toàn cầu là một phạm trù được sử dụng trong ngành nghiên cứu tôn giáo để phân định (ít nhất năm tôn giáo và trong một số trường hợp nhiều hơn) các tôn giáo được coi là đặc biệt lớn, phổ biến rộng rãi trên phạm vi quốc tế hoặc có ảnh hưởng trong sự phát triển của xã hội phương Tây. Các tôn giáo hoàn vũ thế giới bao gồm Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo luôn được đưa vào danh sách, được gọi là Ngũ Đại giáo (Big Five), trong đó, các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham và các giáo phái của nó có số lượng tín đồ đông đảo nhất. Một số học giả cũng bao gồm các tôn giáo khác, chẳng hạn như Mani giáo (Minh giáo), Đạo Sikh, Bahá'í giáo (Đức tin Bà-hai), hoặc Hỏa giáo (Bái hỏa giáo) cũng được xếp vào nhóm tôn giáo thế giới. Phạm trù Tôn giáo thế giới thường được đặt cạnh các phạm trù khác, chẳng hạn như tôn giáo bản địa (tín ngưỡng dân gian), tôn giáo thời tiền sử và các phong trào tôn giáo mới cũng được các học giả sử dụng trong lĩnh vực nghiên cứu này.
Dẫn luận
Mô hình tôn giáo thế giới được phát triển ở Vương quốc Anh trong những năm 1960, nơi nó được các học giả hiện tượng học như Ninian Smart làm tiên phong. Phạm trù này được thiết kế để mở rộng việc nghiên cứu tôn giáo ra khỏi sự ảnh hưởng nặng nề vào Cơ đốc giáo bằng cách tính đến các truyền thống tôn giáo lớn khác trên khắp thế giới. Mô hình này thường được các giảng viên sử dụng để hướng dẫn sinh viên đại học nghiên cứu về tôn giáo và cũng là khuôn khổ được các giáo viên phổ thông ở Vương quốc Anh và các quốc gia khác sử dụng. Sự nhấn mạnh của mô hình này vào việc xem các phong trào tôn giáo này như những thực thể riêng biệt và loại trừ lẫn nhau cũng đã có tác động rộng hơn đến việc phân loại tôn giáo—ví dụ như trong các cuộc điều tra dân số—ở cả các nước phương Tây và các nơi khác. Học giả tôn giáo Graham Harvey đã lưu ý rằng các nhóm được xếp vào các danh mục như "tôn giáo bản địa" được nhiều học giả đối xử ít nghiêm túc hơn so với "tôn giáo thế giới" "Các tôn giáo bản địa nên nhận được sự đối xử tôn trọng tương tự như cách được coi là phù hợp với Tôn giáo toàn cầu lớn hơn.
Kể từ cuối thế kỷ 20, mô hình này đã phải đối mặt với sự chỉ trích của các học giả tôn giáo như Jonathan Z. Smith, một số người trong số họ đã lập luận ủng hộ việc từ bỏ nó. Các nhà phê bình cho rằng mô hình tôn giáo thế giới là không phù hợp vì nó lấy hình thức Tin lành của Cơ đốc giáo làm hình mẫu cho những gì cấu thành nên "tôn giáo", rằng nó gắn liền với các diễn ngôn về tính hiện đại, bao gồm cả các mối quan hệ quyền lực hiện đại; rằng nó khuyến khích sự hiểu biết không phê phán về tôn giáo; và nó đưa ra đánh giá có giá trị về việc tôn giáo nào nên được coi là "chính". Những người khác lập luận rằng nó vẫn hữu ích trong lớp học, miễn là học sinh được biết rằng đó là một phạm trù được xã hội xây dựng. học giả tôn giáo gồm Christopher R. Cotter và David G. Robertson đã mô tả "Mô hình tôn giáo thế giới" là "một cách suy nghĩ cụ thể về các tôn giáo, tổ chức chúng thành một tập hợp các truyền thống riêng biệt với một quan điểm được cho là toàn cầu. Cotter và Robertson lưu ý rằng lịch sử của mô hình tôn giáo thế giới "gắn bó mật thiết" với lịch sử nghiên cứu tôn giáo như một môn học thuật. Nó xuất hiện từ bên trong cách tiếp cận hiện tượng học tôn giáo vốn nhấn mạnh vào việc mô tả hơn là phân tích phê phán.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
James Cox on "The World Religions Paradigm" at The Religious Studies Project
"After the World Religions Paradigm...?" at The Religious Studies Project
Tôn giáo
Tín ngưỡng, truyền thống và phong trào tôn giáo
Nghiên cứu tôn giáo
|
19838822
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/AAM-N-5%20Meteor
|
AAM-N-5 Meteor
|
AAM-N-5 Meteor là tên lửa không đối không thuộc thế hệ đầu tiên của Hải quâ Hoa Kỳ, do Học viện công nghệ Massachusetts và công ty Bell Aircraft phát triển. Ban đầu, các kỹ sư đã phát triển cả hai phiên bản là phóng từ máy bay và phóng từ tàu chiến. Các phiên bản được phóng từ máy bay trên tàu sân bay đã đi đến giai đoạn bay thử nghiệm trước khi dự án này bị hủy bỏ.
Vào năm 1950, Hải quân Hoàng gia Anh cũng bày tỏ quan tâm tới việc biến Meteor thành một tên lửa tầm ngắn để bảo vệ tàu chống lại bom lượn và các loại vũ khí tương tự. Họ đã nghiên cứu nó trong dự án Popsy. Khi Hải quân Hoa Kỳ không còn theo đuổi phiên bản phóng từ tàu chiến, dự án Mospy cũng bị dừng lại.
Tham khảo
Citations
Bibliography
AAM-N-005
Abandoned military rocket and missile projects of the United States
Weapons and ammunition introduced in 1948
|
19838829
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Curtin
|
Đại học Curtin
|
Đại học Curtin, trước đây gọi là Đại học Công nghệ Curtin và Học viện Công nghệ Tây Úc (WAIT), là một trường đại học công lập của Úc có trụ sở tại Bentley, Perth, Tây Úc. Được đặt theo tên của cựu thủ tướng Úc John Curtin, đây là trường đại học lớn nhất ở Tây Úc, với sinh viên.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Curtin Alumni
Curtin University, Dubai campus
Curtin University, Malaysia campus
Curtin University, Singapore campus
Khởi đầu năm 1986 ở Úc
Khởi đầu năm 1966 ở Úc
|
19838830
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8B%20th%E1%BA%A7n%20th%E1%BB%9Di%20ti%E1%BA%BFt
|
Vị thần thời tiết
|
Vị thần thời tiết (Weather god) là một vị thần thánh/nữ thần trong thần thoại gắn liền với các hiện tượng thời tiết như sấm sét (Lôi điện thần), chớp giật, mưa (vũ thần), gió (phong thần), lốc xoáy, vòi rồng, bão (tật phong thần), giông tố, tuyết (tuyết thần/雪神). Những vị thần cai quản thời tiết thường xuất hiện trong các tôn giáo đa thần gắn với tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, thuyết vật linh (vạn vật hữu linh) đặc biệt là trong các tôn giáo Ấn-Âu cổ đại. Thần bão thường được coi là người cầm được dòng sấm sét và/hoặc tia chớp, tên của một số vị thần sét thực sự có nghĩa đen là "sấm sét". Trong số các ví dụ hiện được liệt kê, các vị thần theo chủ đề bão tố thường được mô tả là nam giới vì có yếu tố mạnh bạo, nhưng cả nam và nữ hoặc các vị thần mưa, gió hoặc thời tiết khác đều được nhắc đến.
Chư vị thần
Châu Âu
Shurdh là vị thần thời tiết và bão
I Verbti là vị thần thời tiết và bão
Bangpūtys là vị thần bão biển
Perkūnas là vị thần sấm, thần mưa, thần núi, thần cây sồi, là đầy tới của thần sáng thế Dievas.
Perun là vị thần sấm và thần tia chớp
Taranis là vị thần Celtic đại diện cho sấm sét, thường được miêu tả bằng một bánh xe cũng như một tia sét
Freyr là vị thần nông nghiệp, y học, thần sinh sản, ánh nắng mặt trời, mùa hè, sự phì nhiêu và vị thần mưa của người Bắc Âu
Thần Thor là vị thần sấm sét, thần bảo vệ, thần sức mạnh. Ngoài ra, Thunor và Donar, phiên bản Anglo-Saxon và Nhật Nhĩ Man lục địa tương ứng của ông ta. Tất cả đều bắt nguồn từ tiếng Đức *Thunraz với nhánh ngôn ngữ này của người Ấn-Âu.
Aeolus là vị thần gió trong thần thoại Hy Lạp
Anemoi là vị thần gió trong thần thoại Hy Lạp
Thần Dớt/Zeus là vị thần thần thời tiết và bầu trời và vua của các vị thần
Tempestas là Nữ thần bão La Mã hoặc thời tiết thất thường.
Châu Á
Tamar là nữ thần trinh nữ kiểm soát thời tiết.
Tarḫunz là vị thần bão
Teshub là vị thần bão
Theispas hay Teisheba là vị thần bão và thần chiến tranh
Vayu là vị thần gió trong Ấn Độ giáo
Nerik là Thần thời tiết Hittite được thờ ở làng Nerik
Zippalanda là Thần thời tiết Hittite được thờ ở làng Zippalanda
Thần sét Indra (Lôi Điện thần) là vị Thần thời tiết, Bão tố, Bầu trời, thần Sét và thần Sấm sét. Còn được gọi là Vua của các vị thần trong Ấn Độ giáo.
Mariamman là vị thần mưa trong thần thoại Ấn Độ
Rudra là vị thần gió, bão và săn bắn; khía cạnh hủy diệt của Shiva
Vayu-Vata là Nhị vị lưỡng thần của người Iran, đầu tiên là thần gió, giống như thần Vayu của đạo Hindu.
Küdryrchö Jumo vị thần bão tố
Ukko là vị thần sấm sét và thần thu hoạch và vua của các vị thần trong thần thoại Phần Lan.
Điện Mẫu, Lôi Công (Lôi Chấn Tử) và Văn Trọng là các vị thần sấm sét (Lôi điện thần) trong thần thoại Trung Quốc.
Phong Bá (Phong Bá Phương Thiên Quân), Phong Bà Bà và Han Zixian là các vị thần gió (Phong thần) trong thần thoại Trung Quốc
Vân Thống Sư (雲中子/Yúnzhōngzǐ) vị bậc thầy của mây
Vũ Sư (雨師; giản thể: 雨师; bính âm: Yǔ Shī) là vị thần mưa trong thần thoại Trung Hoa
Long Vương cũng là vị thần làm ra mưa trong thần thoại Trung Hoa
Oden là vị thần Bugkalot cai quản việc tạo mưa
Apo Tudo là vị thần mưa Ilocano
Anitun Tauo là vị nữ thần gió và mưa
Anitun Tabu là vị nữ thần gió và mưa
Bulan-hari là vị thần gọi mưa, sau kết hôn với thần Bitu-in
Santonilyo là vị thần đem lại những cơn mưa trên biển
Diwata Kat Sidpan là vị thần Tagbanwa sống ở Sidpan; cai quản những cơn mưa
Diwata Kat Libatan là vị thần Tagbanwa gọi là Babatan; cai quản những cơn mưa
Diwata na Magbabaya còn gọi là Magbabaya, vị thần tối cao Bukidnon tốt bụng và người lập kế hoạch tối cao trông giống đàn ông; tạo ra trái đất và tám yếu tố đầu tiên, đó là đồng, vàng, tiền xu, đá, mây, mưa, sắt và nước; bằng cách sử dụng các yếu tố, ông cũng tạo ra biển, bầu trời, mặt trăng và các vì sao; còn được gọi là vị thần thuần khiết, người muốn tất cả mọi thứ; một trong ba vị thần sống ở vương quốc có tên là Banting
Anit, còn được gọi là Anitan; người bảo vệ sấm sét Manobo
Inaiyau là vị thần bão Manobo
Tagbanua là vị thần mưa Manobo
Umouiri là vị thần mây Manobo
Libtakan là vị thần bình minh, hoàng hôn và thời tiết của Manobo
Fūjin là vị thần gió Nhật Bản
Raijin là thần sấm sét và bão tố của Nhật Bản
Susanoo thần bão tố và biển cả của Nhật Bản
Thần Gió là vị phong thần Việt Nam
Pháp Vân là vị thần mây
Pháp Vũ là vị thần mưa
Pháp Lôi là vị thần sấm
Pháp Điện là vị thần sét
Thiên Lôi là vị thần sấm sét của Việt Nam
Trung Đông
Ba'al là vị thần Canaanit tượng trừng cho sinh sản, thời tiết và chiến tranh.
Hadad là vị thần Canaanit và Carthaginia đại diện cho bão tố, khả năng sinh sản và thần chiến tranh. Được xác định là tên thật của Baʿal tại Ugarit.
Yahweh (Gia-hô-vê hay Gia Vệ) là vị thần Israel tượng trưng cho bão tố và thần chiến tranh, đã được gộp chung với thần El, Ba'al và Asherah thành Yahwism.
Horus là vị thần Ai Cập cổ đại tượng trưng cho mưa bão, thời tiết, bầu trời và chiến tranh. Gắn liền với mặt trời, vương quyền và quả báo, vị thần này được nhân cách hóa bằng vị Pharaoh.
Thần Set là vị thần Ai Cập cổ đại tượng trưng cho sự hỗn loạn và thần bão tố, là ác quỷ và chúa tể sa mạc.
Enlil là vị thần gắn liền với gió, không khí, đất và bão
Adad là thần thời tiết Lưỡng Hà
Manzat là nữ thần cầu vồng
Shala là vợ của Adad và là nữ thần mưa
Wer là một vị thần thời tiết được tôn thờ ở miền bắc Lưỡng Hà và ở Syria
Tarḫunna là thần bão của người Hittite.
Châu Phi
Umvelinqangi là vị thần sấm trong thần thoại Zulu
Mbaba Mwana Waresa là vị nữ thần mưa trong thần thoại Zulu
Oya là vị thần gió, bão tố và lốc xoáy trong tôn giáo Yoruba
Bunzi là vị nữ thần mưa trong tín ngưỡng Kongo.
Châu Mỹ
Apocatequil vị Thần sét thời tiền Inca, ngày và điều tốt lành. Biến thể khu vực của thần Illapa
Chaac vị thần mưa của người Maya tưng tự vị thần Aztec là Tlaloc.
Coatrisquie là nữ thần mưa, người hầu của Guabancex và là bạn đồng hành của thần sấm sét Guatauva.
Cocijo là vị thần sét
Ehecatl là vị thần gió Aztec
Guabancex trong thần thoại Taíno là nữ thần bão tố; Đức bà của gió, người cũng gây ra động đất và các thảm họa thiên nhiên khác
Guatauva trong thần thoại Taíno là vị thần sấm sét cũng là người chịu trách nhiệm tụ họp các vị thần bão khác
Huari là vị Thần nước, mưa, sét, nông nghiệp và chiến tranh thời tiền Inca. Sau một thời gian, ông được xác định là vị thần khổng lồ của chiến tranh, mặt trời, nước và nông nghiệp.
Huracán trong văn hóa của người người K'iche là vị thần thời tiết, gió, bão và lửa.
Illapa là vị thần Inca là thần sét, sấm sét, mưa và chiến tranh. Ông được coi là một trong những vị thần Inca quan trọng và quyền năng nhất.
Juracán là vị thần của sự hỗn loạn và rối loạn được cho là kiểm soát thời tiết, đặc biệt là bão
K'awiil là vị thần sét của người Maya
Kon là vị thần gió và mưa. Kon cũng là thần sáng tạo của người Inca .
Pacha Kamaq hay Pachakamaq là vị thần động đất, lửa, mây và bầu trời. Thường được mô tả là bản phát hành lại của Wiracocha. Ông là một trong những vị thần Inca quan trọng nhất, đồng thời ông được coi là vị thần sáng tạo ra vũ trụ và là người điều khiển sự cân bằng của thế giới.
Paryaqaqa là vị thần nước thời tiền Inca, mưa xối xả, bão và sét. Biến thể khu vực của thần Illapa.
Q'uq'umatz là vị thần gió và mưa, còn được gọi là Kukulkan, tương đương với sinh vật thần thoại của người Aztec là Quetzalcoatl
Tezcatlipoca là vị thần Aztec về bão và gió đêm
Tlaloc là vị thần mưa và động đất. Tương đương với vị thần của người Maya là Chaac.
Tohil là vị thần mưa, mặt trời và lửa
Tupã là vị thần sấm sét và ánh sáng, người tạo ra vũ trụ.
Viracocha hay Wiracocha là vị thần của mọi thứ thời tiền Inca. Người sáng tạo tuyệt đối của toàn bộ Vũ trụ, cũng như mọi thứ tồn tại. Được coi là cha của tất cả các vị thần Inca và vị thần tối cao của quần thể Inca. Wiracocha gắn liền với mặt trời, tia chớp và bão tố.
Yana Raman là vị Thần sét thời tiền Inca. Được coi là người sáng tạo bởi nhóm dân tộc Yaros hoặc Llacuaces. Biến thể khu vực của thần Illapa.
Yopaat là một vị thần bão Maya thời Cổ điển.
Châu Úc
Baiame là vị thần bầu trời và vị thần sáng tạo của miền đông nam nước Úc
Julunggul là nữ thần rắn cầu vồng, người giám sát việc bắt đầu bước vào tuổi trưởng thành của các cậu bé trai.
Tāwhirimātea vị thần bão tố Maori
Chú thích
Holtom, D. C. "The Storm God Theme in Japanese Mythology." Sociologus, Neue Folge / New Series, 6, no. 1 (1956): 44-56. https://www.jstor.org/stable/43643852.
Thần bầu trời và thời tiết
Thần thánh
|
19838832
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Koshimizu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Koshimizu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Shari, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.623 người và mật độ dân số là 16 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 287,04 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838835
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20Tisch%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20New%20York
|
Trường Nghệ thuật Tisch của Đại học New York
|
Trường Nghệ thuật Tisch của Đại học New York (thường được gọi là Tisch) là trường giáo dục chuyên ngành biểu diễn, điện ảnh và nghệ thuật truyền thông trực thuộc Đại học New York.
Được thành lập vào ngày 17 tháng 8 năm 1965, Tisch là cơ sở đào tạo nghệ sĩ, học giả nghệ thuật và nhà làm phim. Trường được chia thành ba Viện: Nghệ thuật biểu diễn, Truyền thông mới nổi và Điện ảnh & Truyền hình. Nhiều chuyên ngành đại học và sau đại học dành cho sinh viên, bao gồm: diễn xuất, khiêu vũ, kịch, nghiên cứu biểu diễn, thiết kế sân khấu và điện ảnh, viết nhạc kịch, nhiếp ảnh, sản xuất nhạc, thiết kế và phát triển trò chơi cũng như nghiên cứu điện ảnh và truyền hình.
Tham khảo
Liên kết ngoài
2017 Wasserman Awards Winners
Studios & Professional Training
Clive Davis Institute of Recorded Music
ITP: Tisch School of the Arts at NYU
Guide to Majors At NYU: Photography & Imaging
Văn hóa Manhattan
Trường thuộc Đại học New York
Khởi đầu năm 1965 ở thành phố New York
Trường nghệ thuật ở Thành phố New York
Trường Nghệ thuật Tisch
Broadway (Manhattan)
Trường kịch ở Hoa Kỳ
Cơ sở giáo dục thành lập năm 1965
Trường điện ảnh ở New York (tiểu bang)
Trường Đại học New York
Giáo dục nghệ thuật biểu diễn ở thành phố New York
Trường đại học và cao đẳng ở Manhattan
|
19838842
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Seacat%20%28t%C3%AAn%20l%E1%BB%ADa%29
|
Seacat (tên lửa)
|
Seacat là một loại tên lửa phòng không hạm tàu do Anh phát triển để thay thế cho pháo phòng không Bofors cỡ nòng 40 mm trên tàu chiến Hải quân nước này. Đây là loại tên lửa phòng không đầu tiên trên thế giới được trang bị trên hạm tàu, và được thiết kế để thay thế cho khẩu pháo phòng không Bofor trên các tàu chiến mà yêu cầu sửa đổi tàu ít nhất có thể, đồng thời có khả năng sử dụng chung với hệ thống điều khiển hỏa lực sẵn có. Một hệ thống phòng không tương tự sử dụng trên mặt đất cũng được phát triển với tên gọi là Tigercat.
Ban đầu phiên bản GWS.20 phải điều khiển thủ công, do thời gian phát triển và triển khai quá gấp gáp. Một vài phiên bản nâng cấp đã được tiến hành; phiên bản GWS.21 bổ sung radar điều khiển hỏa lực để sử dụng vào ban đêm và trong thời tiết xấu, phiên bản GWS.22 bổ sung chế độ điều khiển tự động SACLOS, và phiên bản cuối cùng GWS.24 có khả năng giao chiến với mục tiêu hoàn toàn tự động. Phiên bản Tigercat đã được đưa vào trang bị trong một thời gian ngắn trước khi Anh đưa vào vận hành tên lửa phòng không Rapier. Trong khi tên lửa phòng không hạm tàu Seacat được trang bị trong biên chế trong khoảng thời gian dài hơn, trước khi bị thay thế bằng tên lửa Sea Wolf cùng với các hệ thống phòng thủ tầm gần hiện đại hơn.
Seacat và Tigercat đều là những mẫu thiết kế thành công trên thị trường quốc tế và một số hệ thống vẫn còn hiện đang được sử dụng.
Lịch sử
Seacat bắt đầu từ các thí nghiệm của công ty Short Brothers nhằm biến tên lửa chống tăng Malkara sang điều khiển vô tuyến tầm ngắn. Điều này dẫn đến những sửa đổi lớn hơn, và cuối cùng nó mang tên là Seacat.
Do được phát triển dựa trên vũ khí chống tăng, nên tên lửa Seacat có kích thước nhỏ và tốc độ bay hạn chế, chỉ dưới tốc độ âm thanh. Các kỹ sư cho rằng nó sẽ hữu hiệu trong việc chống lại các máy bay phản lực thế hệ một và thế hệ hai của những năm 1950, tương tự như Hawker Sea Hawk, mà pháo phòng không từ thời thế chiến hai như Bofors 40mm /L60 guns khó có thể đánh chặn thành công.
Cái tên Seacat được đưa ra trước công chúng lần đầu vào tháng Tư năm 1958 khi Shorts được trao hợp đồng phát triển loại tên lửa đối không tầm gần. Hải quân Anh đã chấp nhận Seacat như một hệ thống phòng không điểm, để thay thế pháo 40/L60 hoặc loại pháo mới hơn khi đó là Bofors 40mm /L70 với đạn pháo trang bị ngòi nổ cận đích. Hệ thống tên lửa cũng sẽ có thể đối đầu với các tên lửa hành trình chống tàu bay chậm, cỡ lớn như Styx, đang được triển khai bởi khối Hiệp ước Warsaw và một số nước đồng minh của Liên Xô. Nó cũng có tác dụng như là một vũ khí để tấn công các tàu thương mại hạng nhẹ và tàu sân bay tấn công nhanh.
Tên lửa được trình diễn trong triển lãm hàng không Farnborough năm 1959. Lần thử nghiệm đầu tiên của tên lửa là phóng từ tàu khu trục năm 1961. Tên lửa Seacat là tên lửa có điều khiển phóng từ tàu chiến đầu tiên của Hải quân Vương quốc Anh. Sau đó nó được trang bị cho Hải quân Thụy Điển.
Thiết kế
Tên lửa Seacat có kích thước nhỏ, bay cận âm, có hai tầng đẩy nhiên liệu rắn. Tên lửa điều khiển bằng bốn cánh lái quét về phía sau, và ổn định bởi bốn vây đuôi nhỏ. Tên lửa được điều khiển bằng lệnh theo đường ngắm command line-of-sight (CLOS) thông qua đường truyền radio, theo đó sĩ quan điều khiển sẽ gửi tín hiệu điều khiển thông qua bệ điều khiển từ xa, sao cho tên lửa và mục tiêu cùng nằm trong khe ngắm. Ở một khía cạnh nào đó, nó không khác gì một tên lửa cận âm không điều khiển trong giai đoạn vừa rời bệ phóng. Bệ điều khiển sẽ mất khoảng 7 giây hay sau khi tên lửa bay được quãng đường để xác định và khóa mục tiêu bằng radar và kính ngắm quang học, dẫn đến việc nó không phù hợp cho vai trò phòng không tầm gần.
Seacat được đặt trên bệ phóng bốn đạn chạy bằng điện, nhỏ hơn so với các bệ phóng kiểu Mark 5 Twin Bofors và STAAG cũ. Bệ phóng cũng nhẹ hơn, dễ bảo trì và dễ sử dụng hơn.
Các phiên bản
Ban đầu tất cả các tên lửa Seacat đều sử dụng bệ phóng kiêm huấn luyện gồm 4 quả đạn, nặng , nhưng cũng có bệ phóng 3 đạn được phát triển với khối lượng nặng . Cả hai loại đều được nạp đạn thủ công và có ăng ten để điều khiển tên lửa bằng vô tuyến. Tất cả những gì cần thiết để trang bị tên lửa trên tàu chiến là lắp đặt bệ phóng, trang bị dẫn đường và các hệ thống xử lý. Seacat được Hải quân NATO và khối Thịnh vượng chung sử dụng và được xuất khẩu ra các nước khác. Nó cũng được tích hợp với nhiều hệ thống dẫn đường khác như hệ thống HSA của Hà Lan.
GWS-20
Viết tắt của - "Guided Weapon System 20" - là nguyên mẫu của tên lửa Seacat. Mục tiêu được tìm kiếm bằng mắt thường với tên lửa được điều khiển thông qua đường truyền vô tuyến, sĩ quan điều khiển điều khiển tên lửa bằng lệnh thông qua cần gạt joystick. Người điều khiển quan sát tên lửa thông qua pháo sáng ở đuôi tên lửa..
GWS-21
GWS-21 là phiên bản Seacat trang bị thêm hệ thống điều khiển hỏa lực tầm gần Close Range Blind Fire (CRBFD) với radar Type 262. Hệ thống này được trang bị trên tàu frigate Type 81, bốn tàu lớp Battle, loạt bốn tàu đầu tiên của lớp County, tàuHMNZS Otago và HMNZS Taranaki, và tàu sân bay HMS Eagle.
GWS-22
GWS-22 là hệ thống Seacat được hỗ trợ bằng hệ thống điều khiển hỏa lực MRS-3 với radar Type 904 và có khả năng ACLOS (Automatic, Command Line-Of-Sight) Seacat.
GWS-24
Phiên bản cuối cùng của tên lửa Seacat dành cho Hải quân, phiên bản này sử dụng hệ thống điều khiển Alenia Orion RTN-10X của Ý, với radar Type 912 và được triển khai trên tàu Frigate Type 21.
Tigercat
Là phiên bản trên đất liền của tên lửa Seacat.
Hellcat
"Hellcat", là phiển bản không đối đất trang bị trên trực thăng Westland Wasp hay Westland Wessex HU.5 giúp chúng đối phó lại với các cuộc tấn công nhanh hoặc mục tiêu mặt nước tốc độ cao, được đưa ra vào cuối những năm 1960. Hai tên lửa được treo trên giá phóng trên trực thăng, với kính ngắm quang học được gắn trên trần cabin. Tên lửa không được bán cho nước ngoài.
Tên lửa mục tiêu
"Seacat Target"" là mục tiêu bay sử dụng Seacat, sử dụng để luyện tập các tình huống tấn công bằng tên lửa. Được giới thiệu vào năm 1986, thay cho đầu nổ, nó được trang bị đầu mục tiêu đặc biệt. Tên lửa có khả năng phóng từ bệ phóng tên lửa Seacat.
Các nước vận hành
Lục quân Argentina: Bốn bệ phóng tên lửa được thu giữ trong chiến tranh Falklands.
Hải quân Argentina: Hai bệ phóng tên lửa Seacat trên tàu tuần dương năm 1967
Lính thủy đánh bộ Argentina: Ba bệ phóng tên lửa Tigercat của lính thủy đánh bộ Argentina đã bị thu trong xung đột Falklands. Sau thay bằng RBS 70.
Hải quân Hoàng gia Úc
Brazilian Navy
Chilean Navy
Indian Army – Tigercat
Indian Navy – Seacat
Imperial Iranian Air Force – Tigercat
Islamic Republic of Iran Army – Tigercat
Islamic Republic of Iran Navy – Seacat
Royal Jordanian Land Force – Tigercat
Libyan Navy
Royal Malaysian Navy
Royal New Zealand Navy
Royal Netherlands Navy
Nigerian Navy
Pakistan Navy Tàu khu trục Type 21
Military of Qatar – Tigercat
South African Air Force – Tigercat, nội địa hóa dưới cái tên 'Hilda'
Swedish Navy – tàu khu trục
Royal Thai Navy
Royal Air Force – Tigercat
Royal Navy – Seacat
Navy of Venezuela
Army of Zimbabwe – Tigercat
Xem thêm
Ghi chú
Tham khảo
Sources
Naval Armament, Doug Richardson, Jane's Publishing, 1981,
5th Infantry Brigade in the Falklands, Nicholas Van der Bijl, David Aldea, Leo Cooper, 2003,
74 Days: An Islander's Diary of the Falklands Occupation, John Smith, Century, 1984,
Liên kết ngoài
Footage of test firings of Seacat, 1959
Naval surface-to-air missiles
Surface-to-air missiles of the United Kingdom
Naval weapons of the United Kingdom
Military equipment introduced in the 1960s
Short Brothers missiles
|
19838845
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Back%20Home%20Tour
|
Back Home Tour
|
Back Home Tour là chuyến lưu diễn nhằm quảng bá cho album Back Home (2007) của ban nhạc nam Ireland Westlife. Chuyến lưu diễn đi qua Vương quốc Anh, Ireland và New Zealand.
Setlist
"Hit You with the Real Thing"
"World of Our Own"
"Something Right"
"What Makes a Man"
"Uptown Girl" (với mở đầu acapella)
"The Easy Way"
"If I Let You Go" (có các đoạn từ "Where Is the Love?")
"Mandy"
Liên khúc:
"SexyBack"
"Blame It on the Boogie"
"Get Down on It"
"I'm Your Man"
"Let Me Entertain You"
"I'm Already There"
Liên khúc:
"Unbreakable"
"Queen of My Heart"
"Fool Again"
"Catch My Breath"
"Home"
"Us Against The World"
"Swear It Again"
"Flying Without Wings"
Thêm
"When You're Looking Like That""You Raise Me Up" (có các đoạn từ "My Heart Will Go On")
Ghi chú:
My Love được biểu diễn vào ngày 25 tháng 2 tại Belfast.
Các chương trình bị huỷ bỏ
Một tờ báo ở Na Uy vào ngày 26 tháng 2 có đưa tin buổi biểu diễn của nhóm ở Na Uy ngày 26 tháng 5 đã bị huỷ bỏ do sức ép thời gian và vấn đề đi lại. Tiếp sau đó là những chuyến lưu diễn 25 tháng 5 ở Đan Mạch, 28 tháng 8 ở Đức và 29 tháng 5 ở Hà Lan cũng đã bị huỷ bỏ. Cả hai show diễn ở Nottingham và Cardiff ngày 19 & 20 tháng 5 đã lần lượt bị huỷ bỏ do Shane and Nicky bị ốm và phải nghỉ ngơi theo lời khuyên của bác sĩ.
DVD hòa nhạc trực tiếp
Danh sách track
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Westlife
B
B
B
|
19838852
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mathys%20Tel
|
Mathys Tel
|
Mathys Henri Tel (sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Bayern Munich tại Bundesliga.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp ban đầu
Tel bắt đầu sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp của anh tại JS Villiers-le-Bel vào năm 2012. Năm 2016, anh chuyển đến đội trẻ của Paris FC, nơi anh chỉ chơi được một năm. Sau đó, anh còn ký hợp đồng ba năm với hai câu lạc bộ nghiệp dư AS Jeunesse Aubervilliers và Montrouge FC 92.
Rennes
Tel gia nhập Rennes vào năm 2020. Anh ra mắt cho đội vào ngày 15 tháng 8 năm 2021 tại trận hòa 1–1 trước Brest sau khi anh ấy vào sân thay Benjamin Bourigeaud ở phút 85. Cũng tại trận này, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân trong một trận đấu chính thức cho Rennes ở độ tuổi 16 tuổi 110 ngày. Kỷ lục trước đó đã được nắm giữ bởi Eduardo Camavinga. Anh ra mắt đấu trường châu Âu vào tháng sau tại vòng bảng UEFA Europa Conference League trong trận sân nhà 2–2 trước Tottenham Hotspur. Tại trận này, anh vào sân thay cho Serhou Guirassy ở phút 90.
Bayern Munich
2022–2023: Mùa giải đầu tiên
Vào ngày 26 tháng 7 năm 2022, Tel ký hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Bayern Munich tại Bundesliga. Bayern đã trả cho Rennes phí chuyển nhượng 20 triệu Euro bao gồm cả 8,5 triệu Euro phụ phí cho vụ chuyển nhượng này. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2022, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Bayern tại trận chiến thắng 5–0 trước Viktoria Köln tại DFB-Pokal. Đồng thời, anh trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất cho câu lạc bộ tại một trận đấu khi mới 17 tuổi 126 ngày. Anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Bundesliga tại trận hòa 2–2 trước Stuttgart vào ngày 10 tháng 9 năm 2022 và anh đồng thời cũng trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất cho câu lạc bộ tại Bundesliga.
2023–2024
Vào ngày 2 tháng 9 năm 2023, anh ghi bàn thắng muộn tại chiến thắng 2-1 trên sân khách trước Borussia Mönchengladbach để giúp Bayern chấm dứt chuỗi 5 trận không thắng trước Borussia Mönchenladbach. Vào ngày 20 tháng 9, anh ghi bàn thắng đầu tiên ở Champions League ở phút bù giờ thứ 2 để ấn định chiến thắng 4–3 trước Manchester United. Vào ngày 3 tháng 10, anh ghi bàn ấn định tỷ số 2–1 để giúp Bayern giành chiến thắng trên sân khách trước Copenhagen trong trận đấu thứ hai liên tiếp trong mùa giải tại Champions League.
Sự nghiệp quốc tế
Tel là tuyển thủ trẻ Pháp, đặc biệt là cho đội tuyển U-18 quốc gia Pháp kể từ tháng 9 năm 2021, nơi anh đã chứng tỏ mình là một cầu thủ có khả năng ghi nhiều bàn thắng.
Vào tháng 5 năm 2022, anh được triệu tập vào đội tuyển U-17 quốc gia Pháp tham dự Giải vô địch U-17 châu Âu 2022 ở Israel. Anh thường xuyên có mặt tại đội hình xuất phát trong suốt giải đấu này và giữ chức vụ đội trưởng ba lần. Anh nổi bật khi ghi ba bàn ở vòng bảng, một bàn vào lưới Ba Lan và một cú đúp vào lưới Bulgaria. Pháp lọt vào chung kết sau khi giành chiến thắng tại loạt sút luân lưu với Bồ Đào Nha với tỷ số 2–2 sau hiệp phụ. Vào ngày 1 tháng 6 năm 2022, anh đã giành chức vô địch Giải vô địch U-17 châu Âu 2022 cùng đội U-17 Pháp sau khi đánh bại Hà Lan với tỷ số 2–1.
Vào tháng 5 năm 2023, Bayern Munich đã không cho phép anh tham dự FIFA U-20 World Cup 2023 cùng đội tuyển U-20 quốc gia Pháp.
Phong cách chơi bóng
Tel bắt đầu sự nghiệp của mình ở vị trí trung vệ và thể hiện sự linh hoạt đáng chú ý từ rất sớm. Được trang bị khả năng kỹ thuật vượt trội, cường độ thi đấu và sự nhanh nhẹn, Tel có khả năng vượt trội ở hầu hết mọi vị trí trên sân. Đáng chú ý, trong những trận đấu đầu tiên cho cả Rennes và các đội trẻ quốc gia, anh đã thể hiện sự thành thạo ở vị trí tiền vệ cánh, tiền đạo trung tâm và tiền vệ tấn công.
Tài trợ
Tel được Nike tài trợ kể từ lúc 14 tuổi. Hợp đồng của anh yêu cầu anh phải chơi và tập luyện với trang phục của Nike để có thể nhận được tới 10.000 euro mỗi năm miễn phí. Sau khi ngừng sử dụng quần áo thương hiệu Nike vào mùa hè năm 2023, Tel tiếp tục sử dụng chúng cho đến giữa năm 2024 theo hợp đồng.
Đời tư
Tel sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005 tại Sarcelles, Pháp. Anh là người theo đạo Thiên chúa giáo gốc Guadeloupe.
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Bayern Munich
Bundesliga: 2022–23
Quốc tế
Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu: 2022
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mathys Tel tại FC Bayern München
Sinh năm 2005
Nhân vật còn sống
Người Pháp
Người Guadelope
Người Pháp gốc Guadelope
Cầu thủ bóng đá Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Tiền đạo bóng đá
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-18 quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-19 quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá Championnat National 3
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Paris FC
Cầu thủ bóng đá Stade Rennais F.C.
Cầu thủ bóng đá Bayern München
Cầu thủ bóng đá Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức
|
19838857
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%95ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20c%C3%B4ng%20ch%C3%BAa%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Khổng tước công chúa (định hướng)
|
Khổng tước công chúa có thể là:
Khổng tước công chúa, một câu chuyện dân gian
Khổng tước công chúa (phim), tên một bộ phim
Khổng tước công chúa, tên một nhân vật trong Tây du ký của Ngô Thừa Ân
|
19838858
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0i%20Ph%C3%A1t%20thanh%20%E2%80%93%20Truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%20Slovakia
|
Đài Phát thanh – Truyền hình Slovakia
|
Đài Phát thanh – Truyền hình Slovakia ( ; viết tắt: RTVS) là tổ chức phát sóng công cộng quốc gia thuộc sở hữu của chính phủ Slovakia. Thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2011. Tổng giám đốc hiện tại của RTVS là Ľuboš Machaj.
Tham khảo
Đài phát sóng công cộng
Khởi đầu năm 2011 ở Slovakia
|
19838869
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shimokawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Shimokawa, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 3.126 người và mật độ dân số là 4,9 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 644,20 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838879
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Juliet%20%28v%E1%BB%87%20tinh%29
|
Juliet (vệ tinh)
|
Juliet là một vệ tinh vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện từ các bức ảnh chụp bởi tàu Voyager 2 vào ngày 3 tháng 11 năm 1986 và được đặt cho một danh xưng tạm thời là S/1986 U 2. Tên gọi Juliet bắt nguồn từ nhân vật nữ chính trong vở Romeo và Juliet của William Shakespeare. Nó còn có tên định danh là Uranus XI.
Juliet nằm trong nhóm vệ tinh Portia, gồm có Bianca, Cressida, Desdemona, Portia, Rosalind, Cupid, Belinda và Perdita. Các vệ tinh này có quỹ đạo và tính chất trắc quang tương tự nhau. Ngoài những đặc điểm như quỹ đạo, bán kính 53 km và suất phản chiếu hình học là 0,08, hầu như con người không còn biết gì về vệ tinh này.
Trong các bức ảnh chụp của Voyager 2, Juliet xuất hiện như một vật thể thuôn dài với trục chính hướng về phía Sao Thiên Vương. Tỷ lệ trục của hình dạng phỏng cầu dài của Juliet là 0,5 ± 0,3, một giá trị tương đối lớn. Bề mặt của nó có màu xám.
Juliet có thể va chạm với vệ tinh Desdemona trong vòng 100 triệu năm tới.
Xem thêm
Vệ tinh của Sao Thiên Vương
Tham khảo
Chú thích
Trích dẫn
Liên kết ngoài
Hồ sơ Juliet bởi NASA Solar System Exploration
Vệ tinh của Sao Thiên Vương
Thiên thể phát hiện năm 1986
Romeo và Juliet
|
19838880
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Valencia%202023
|
Chặng đua MotoGP Valencia 2023
|
Chặng đua MotoGP Valencia 2023 là chặng đua thứ 20, cũng là chặng đua cuối cùng của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 24/11/2023 đến ngày 26/11/2023 ở trường đua Ricardo Tormo, Tây Ban Nha.
Tay đua chiến thắng cuộc đua Sprint race là Jorge Martin của đội đua Pramac. Tay đua chiến thắng cuộc đua chính thể thức MotoGP là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse. Bagnaia cũng chính thức lên ngôi vô địch mùa giải MotoGP 2023.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả Sprint race
Joan Mir bị chấn thương cổ sau phiên chạy FP1 nên rút tên khỏi danh sách thi đấu.
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
*Fabio Di Giannantonio bị phạt 3 giây lỗi áp suất bánh xe không đúng quy định.
Bảng xếp hạng chung cuộc
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
19838890
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lost%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20Linkin%20Park%29
|
Lost (bài hát của Linkin Park)
|
"Lost" là bài hát của ban nhạc rock Mỹ is a song by American Linkin Park. Ban đầu bài hát được thu âm cho album phòng thu thứ hai của nhóm, Meteora (2003), sau đó được phát hành chính thức vào ngày 10 tháng 2, 2023, như đĩa đơn mở đường cho album phát hành lại kỉ niệm 20 năm.
Danh sách track
Nhân sự
Linkin Park
Chester Bennington – giọng chính
Mike Shinoda – giọng hát, keyboard, sampler
Brad Delson – guitar
Joe Hahn – turntable, sample
Rob Bourdon – trống
Dave Farrell – guitar bass
Bảng xếp hạng
Bảng xếp hạng hàng tuần
Chú thích
Bài hát năm 2002
Đĩa đơn năm 2023
Ballad thập niên 2020
Bài hát của Linkin Park
Bài hát phát hành sau khi mất
Bài hát sáng tác bởi Mike Shinoda
Đĩa đơn của Warner Bros. Records
|
19838891
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fighting%20Myself
|
Fighting Myself
|
"Fighting Myself" là bài hát của ban nhạc Mỹ Linkin Park. Ban đầu bài hát được thu âm cho album phòng thu thứ hai của nhóm, Meteora (2003), sau đó chính thức phát hành vào ngày 24 tháng 3, 2023, như đĩa đơn thứ hai từ album phát hành lại kỷ niệm 20 năm.
Nhân sự
Linkin Park
Chester Bennington – giọng chính
Mike Shinoda – giọng rap, sampler
Brad Delson – guitar
Joe Hahn – turntable, sample
Rob Bourdon – trống
Dave Farrell – guitar bass
Bảng xếp hạng
Bảng xếp hạng hàng tuần
Chú thích
Bài hát năm 2002
Đĩa đơn năm 2023
Ballad thập niên 2020
Bài hát của Linkin Park
Bài hát phát hành sau khi mất
Bài hát sáng tác bởi Mike Shinoda
Đĩa đơn của Warner Bros. Records
|
19838899
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gate.io
|
Gate.io
|
Được thành lập vào năm 2013, Gate.io là một nền tảng blockchain và sàn giao dịch tiền điện tử toàn cầu. Được xếp hạng trong top 10 thế giới về khối lượng giao dịch, theo báo cáo của Reuters.
Lịch sử
2013
Gate.io được thành lập bởi Tiến sĩ Lin Han vào tháng 4 năm 2013. Vào tháng 9 năm 2017, do các hạn chế pháp lý của chính phủ Trung Quốc đối với tiền điện tử, Gate.io đã chuyển hoạt động kinh doanh ra nước ngoài và dần dần phục vụ thị trường toàn cầu.
2019-2021
Gate.io Live là một nền tảng phát sóng trực tiếp thuộc sở hữu của Gate.io, được ra mắt vào ngày 14 tháng 10 năm 2019. Đây là nền tảng để Gate.io tương tác với người dùng trong thời gian thực. Người dùng có thể bình luận, đặt câu hỏi và tham gia các hoạt động phát sóng trực tiếp đầy màu sắc trên Gate.io Live. Tính năng chia đôi màn hình của nó cho phép người dùng giao dịch trong khi xem chương trình phát sóng trực tiếp.
Năm 2019, Gate.io đã ra mắt quỹ Gate SAFU, đóng vai trò là quỹ bảo hiểm của nền tảng nhằm cung cấp an toàn bảo đảm cho tài sản của người dùng.
Gate.io đã phát hành Cơ chế bằng chứng dự trữ vào năm 2020, một phương pháp chứng minh kỹ thuật cho phép người dùng kiểm tra số tiền gửi mà họ nắm giữ trên nền tảng, bao gồm tổng tài sản của họ trên nền tảng. Phương pháp này là sự kết hợp giữa các thuật toán toán học và kiểm toán tài chính dựa trên thuật toán chống hacker.
Gate.io đã vượt qua bài kiểm tra khối lượng giao dịch đáng tin cậy của Coin Metrics vào tháng 7 năm 2020. Phạm vi kiểm tra bao gồm phân tích tương quan khối lượng giao dịch, phân tích lưu lượng truy cập mạng và phân tích tính năng định tính.
Để có được chứng chỉ CER, Gate.io đã hợp tác với Hacken vào năm 2020 để tăng cường hơn nữa cơ chế bảo mật và tối ưu hóa hoạt động vận hành của công ty, bao gồm tăng cường chương trình săn lỗi nhận thưởng và kiểm tra thử nghiệm xâm nhập.
Tháng 8 năm 2020, Gate.io đứng đầu về điểm số an ninh mạng CER.live, một nền tảng chứng nhận và xếp hạng an ninh mạng xác minh số dư và trách nhiệm pháp lý của các sàn giao dịch tiền điện tử trên toàn thế giới.
Gate Ventures là bộ phận đầu tư mạo hiểm của Gate.io, được thành lập vào tháng 9 năm 2021. Gate Ventures tập trung vào các khoản đầu tư giai đoạn đầu vào cơ sở hạ tầng, hệ sinh thái và ứng dụng phi tập trung, đồng thời hỗ trợ các công ty khởi nghiệp về tài chính, nguồn lực vận hành và chuyên môn trong ngành. Gate Ventures đã ra mắt quỹ trị giá 100 triệu USD để tài trợ cho các dự án trong ngành.
Gate Ventures đã ra mắt thêm quỹ khác trị giá 200 triệu USD vào tháng 11 năm 2022 để hỗ trợ nhiều giao thức layer 1 và layer 2 thay thế.
Tháng 1 năm 2021, Gate.io đã ra mắt Gate Labs, một công cụ tăng tốc khởi nghiệp, nhằm cung cấp cho các doanh nhân sự hỗ trợ trong ngành, các biện pháp thực hành tốt nhất và hỗ trợ nguồn lực.
2022-2023
Năm 2022, Gate.io đã ra mắt nền tảng học tập đầu tư tiền điện tử - Gate Learn.
Tháng 10 năm 2022, Gate.io và Thành phố Busan cùng nhau thành lập và quản lý Sàn giao dịch tài sản kỹ thuật số Busan.
Tháng 12 năm 2022, Gate.io cũng cam kết 100 triệu USD thông qua quỹ Gate SAFU để hỗ trợ sự phát triển của ngành tiền điện tử.
Gate Group đã hợp tác với Visa để ra mắt thẻ tín dụng tiền điện tử tại một số quốc gia được chọn trong Khu vực Kinh tế Châu Âu vào tháng 3 năm 2023.
Năm 2023, Gate.io đã hợp tác với Coinfirm. Coinfirm là một nền tảng chống rửa tiền (AML) theo thời gian thực và chống lại nền tảng tài trợ khủng bố (CFT) cho tài sản kỹ thuật số và không gian tiền điện tử.
Tháng 8 năm 2023, Gate.io một lần nữa hợp tác với Hacken nhằm mục đích kiểm tra các hợp đồng thông minh trong Gate Web3 và hệ sinh thái phi tập trung rộng hơn của nó. Bản chất của sự hợp tác chuyên sâu lần này với Hacken là thông qua bên thứ ba để tiến hành kiểm tra hợp đồng thông minh và tạo báo cáo nhằm tăng cường phát hiện và sửa chữa lỗ hổng, từ đó cải thiện hơn nữa tính bảo mật của hệ thống và tài sản Gate.io.
Tình trạng pháp lý
Gate.io là nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo và sàn giao dịch tiền điện tử được công nhận trên toàn cầu và là một trong những sàn giao dịch trực thuộc Gate Group. Gate Group chỉ cung cấp dịch vụ cho một số quốc gia và khu vực nhất định. Đã được cấp phép bởi chính quyền của các quốc gia và khu vực sau và có thể cung cấp hợp pháp nhiều loại dịch vụ tiền mã hóa phù hợp với các thị trường khác nhau.
Châu Âu
Gate Group được cấp phép và đăng ký ở một số nước châu Âu, bao gồm: Giấy phép Tài sản tài chính ảo (VFA) loại 4 ở Malta để thực hiện các dịch vụ giám sát và giao dịch tài sản ảo; đăng ký với tư cách là Nhà cung cấp dịch vụ tài sản ảo (VASP) ở Litva; và đăng ký tổ chức từ thiện ở Gibraltar.
Gate.io đã nhận được giấy phép dịch vụ tiền điện tử ở Litva vào tháng 9 năm 2022.
Trung Đông
Để mở rộng sang thị trường Trung Đông, Gate Group đã nhận được giấy phép từ Trung tâm Trao đổi Hàng hóa Đa ngành Dubai (DMCC) để tiến hành giao dịch độc quyền các sản phẩm tiền điện tử tại Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE). Vào tháng 11 năm 2022, Gate Turkey được thành lập để tập trung phục vụ thị trường Thổ Nhĩ Kỳ.
Châu Á
Năm 2022, Hippo Financial Services Limited, một công ty con của Gate Group, đã nhận được giấy phép Nhà cung cấp dịch vụ công ty và ủy thác (TCSP) của Hồng Kông. Sau đó, Gate.HK chính thức được thành lập vào tháng 5 năm 2023.
Sản phẩm
Gate.io là một sàn giao dịch tiền điện tử tập trung cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ tài sản kỹ thuật số, bao gồm giao dịch giao ngay và ký quỹ, giao dịch hợp đồng tương lai vĩnh cửu, quyền chọn và dịch vụ giao dịch NFT. Theo Bloomberg, sàn giao dịch của Gate.io có tổng tài sản là 1,88 tỷ USD tính đến tháng 5 năm 2023.
Giao dịch
Gate.io cung cấp giao dịch giao ngay, giao dịch ký quỹ, thanh toán push và dịch vụ chuyển đổi giữa các loại tiền tệ khác nhau, cũng như các sản phẩm như hợp đồng tương lai vĩnh cửu và hợp đồng giao chuyển, quyền chọn và CBBC. Ngoài ra còn có chức năng sao chép giao dịch phù hợp cho người mới sử dụng tiền điện tử, tức là người dùng mới có thể tự động sao chép chiến lược giao dịch của các nhà giao dịch có kinh nghiệm phong phú để tăng tỷ lệ chiến thắng trong giao dịch của mình.
Sản phẩm và dịch vụ
Ngoài các dịch vụ tài chính, Gate.io còn ra mắt GateChain, một hệ sinh thái phi tập trung để lưu trữ, phát hành và giao dịch tài sản kỹ thuật số, cũng như Gate Ventures, Gate Grants, Gate Labs, Gate NFT, Wallet S2, MiniApp và GameFi Center. Vào tháng 8 năm 2019, Gate.io đã ra mắt GateToken (GT) trên mạng chính GateChain, sau đó đồng thời phát hành Whitepaper giao thức blockchain HipoSwap vào ngày 14 tháng 9 năm 2020. Vào nửa cuối năm 2021, mạng chính GateChain đã công bố hỗ trợ chính thức cho Máy ảo Ethereum (EVM).
GateToken (GT)
GateToken (GT) là token gốc của chuỗi công khai GateChain, được ra mắt vào tháng 8 năm 2019. Nó có thể được sử dụng để thanh toán phí gas cho các giao dịch diễn ra trên mạng.
Hệ sinh thái Web3
Gate đã tạo ra một hệ sinh thái Web3 hoàn chỉnh, bao gồm DEX thị trường giao ngay, bộ định tuyến đa chuỗi để trao đổi mã thông báo, thế chấp và lợi nhuận, thị trường NFT và ví Gate. Ví Gate là một ví tổng hợp đa chuỗi, không giám sát, phi tập trung, để người dùng quản lý tài sản trên các chuỗi khác nhau.
Tháng 11 năm 2022, Gate.io đã ra mắt giải pháp thanh toán dựa trên tiền điện tử - Gate Pay. Gate Pay cho phép người dùng mua sản phẩm một cách an toàn bằng cách sử dụng tiền điện tử, thúc đẩy hơn việc áp dụng và phổ biến tiền điện tử và Web 3.0.
Tham khảo
|
19838900
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Takasu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Takasu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6,567 người và mật độ dân số là 47 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 139,44 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838903
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A0ng%20H%E1%BB%9Bi
|
Làng Hới
|
Làng Hới (tên chính thức Hải Triều, tên cũ Hải Hồ, Hải Thị, đôi khi được gọi là làng chiếu Tân Lễ) là một làng nghề truyền thống dệt chiếu cói nằm ở Tân Lễ, Hưng Hà, Thái Bình, Việt Nam. Với vị trí nằm gần ngã ba sông nhiều bãi bồi dễ tiếp cận nguồn cói và đay, nghề dệt chiếu làng Hới xuất hiện sớm nhất vào thời Tiền Lê–Lý, sau phát triển mạnh từ thời trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (1457–1531, nhà Hậu Lê) và trở thành một trong các làng dệt chiếu có tên tuổi nhất ở đồng bằng sông Hồng.
Lịch sử
Là một làng cổ có lịch sử hình thành từ lâu đời, ít nhất là từ thời Tiền Lê, làng Hới đã trải qua nhiều giai đoạn hành chính khác nhau:
Từ thời Lê sơ, làng thuộc huyện Ngự Thiên, phủ Tân Hưng (sau đổi thành "Tiên Hưng" vì kỵ húy vua Lê Kính Tông).
Thời Nguyễn mạt–Pháp thuộc, làng thuộc xã Hải An, tổng Tang Giá (huyện cũ Quỳnh Côi).
Hiện nay, làng là một phần của thôn thôn Hải Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Chữ Hới và chữ Hải trong tiếng Hán đều dùng cùng một chữ 海 khi viết, nên đa số các tên khác của làng Hới đều có chữ Hải: Hải Hồ, Hải Thị và hiện tại là Hải Triều.
Làng Hới nằm ở vị trí gần ngã ba sông, nơi sông Hồng có chi lưu là sông Luộc. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì gọi là sông Nông Kỳ, một trong ba kỳ quan của trấn Sơn Nam thời xưa. Với vị trí thuận lợi trồng nguyên liệu và giao thương, người dân nơi đây đã sớm học được nghề dệt chiếu và phát triển thành làng nghề truyền thống. Từ thế kỷ thứ 15, với việc học hỏi nghề dệt chiếu từ Trung Quốc của trạng nguyên Phạm Đôn Lễ, nghề dệt chiếu ở làng Hới phát triển mạnh và thành một trong những sản phẩm thủ công nổi tiếng của đồng bằng sông Hồng.
Về sau, khu vực huyện Hưng Nhân xung quanh làng Hới đã trở thành một vùng dệt chiếu đông đúc có lên tới 20 làng chuyên dệt chiếu. Sách Đại Nam nhất thống chí của nhà Nguyễn có ghi nhận rằng "Chiếu trơn xã Thanh Triều, Hải Triều (làng Hới)
huyện Hưng Nhân sản xuất tốt hơn cả", và ở thế kỷ 18 thương gia nhà Thanh (Trung Quốc) đã qua vùng chiếu làng Hới thu gom chiếu rất nhiều. Năm đầu thế kỷ 19, qua tay các thương gia người Hoa, chiếu cói làng Hới đã được đưa đi Hương Cảng (Hồng Kông) và một số nước châu Âu.
Đến thời Pháp thuộc, nhiều người nước ngoài, trong đó đặc biệt là người Hoa, tìm đến khu vực Tân Lễ và lân đầu tư mở xưởng chiếu cùng với người Việt; sản phẩm làm ra đem về bán ở Trung Quốc. Chiếu xuất đi Trung Quốc thời kì này là chiếu cuộn dài hẹp có độ dài tới 35m. Thời kỳ này các xưởng chiếu do người Hoa quản lý đã thu hút từ 500–700 lao động và sản lượng chiếu dệt ra dao động từ 5.000 cuộn khi ít nhất, lên tới 24.000 cuộn (tương đương 84.000m) khi nhiều nhất. Tuy thời kỳ này nhiều làng cùng làm chiếu, nhưng làng Hới vẫn có tiếng nhất trong khu vực sản xuất chiếu ở Thái Bình.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, các xưởng dệt chiếu của người nước ngoài ngưng sản xuất, nghề dệt chiếu tại làng Hới vẫn tiếp tục phát triển do chiếu vẫn là sản phẩm tiêu dùng không thể thiếu của người Việt thời kỳ này. Làng Hới trải qua một thời kỳ suy thoái ở thời kỳ bao cấp những năm 1955–1985, khi này các thợ dệt chiếu Hới sản xuất chiếu theo mô hình hợp tác xã. Do chính sách sản xuất theo chỉ tiêu kế hoạch được giao tập trung chủ yếu vào số lượng nên chất lượng của chiếu Hới thời kỳ này đã giảm sút đáng kể.
Từ 1986–1990, theo chính sách kinh tế chung thay đổi ở thời kỳ Đổi Mới, nghề chiếu ở làng Hới đã được tái thiết lập và đã trở nên phát triển và mở rộng hơn so với trước đây. Từ thời gian này, không những làng Hới, mà cả các làng khác trong xã Tân Lễ cũng đã trở nên thịnh vượng hơn nhờ vào nghề dệt chiếu.
Đến năm 2010, tại làng Hới nói riêng và khu vực sản xuất chiếu lân cận nói chung, giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, cư dân của làng Hới và toàn xã Tân Lễ chủ yếu sống nhờ vào nghề dệt chiếu. Thông thường, trong một năm, các nhà nghề chiếu chỉ tập trung sản xuất với cường độ cao trong khoảng 8 tháng, các còn lại được dành cho việc sản xuất nông nghiệp. Do đó, nhiều hộ gia đình trong xã vẫn nhận ruộng để trồng lúa, nhưng phần lớn họ thuê lao động từ những người không theo nghề chiếu hoặc từ nơi khác.
Năm 2011, toàn vùng huyện Hưng Hà (gồm làng Hới) sản xuất được khoảng 5,4 triệu chiếu chiếu với khoảng 21 làng nghề dệt chiếu được chính quyền sở tại công nhận. Riêng xã Tân Lễ, trong số 3.500 hộ gia đình toàn xã có tới 80% số hộ sở hữu xưởng sản xuất chiếu với 10/14 thôn là làng nghề dệt chiếu, tổng tiêu thụ mỗi năm là 8.000 tấn cói. Đến năm 2023, số hộ làm chiếu trong cả xã Tân Lễ là 29 hộ với 90 máy dệt chiếu cói, thu hút 420 lao động, 8 cơ sở dệt chiếu nylon với 310 máy, tạo việc làm cho trên 1000 người trong xã và từ địa phương khác đến.
Nghề dệt chiếu làng Hới
Làng Hới có nghề dệt chiếu ở làng Hới nổi tiếng đã đi vào văn học dân gian với các câu vè:
Chiếu Hới, vải Bơn, lụa Mẹo.
Ăn cơm Hom.
Nằm giường Hòm.
Đắp chiếu Hới.
Sơ lược phát triển
Với vị trí thuận lợi trồng nguyên liệu và giao thương, người dân nơi đây đã sớm học được nghề dệt chiếu và phát triển thành làng nghề truyền thống, thuyết nói là từ thời Tiền Lê–Lý. Tuy nhiên, ban đầu làng chỉ dệt chiếu bằng phương pháp thủ công dệt bàn dệt đứng, không có ngựa đỡ sợi, cách dệt đơn giản nên sản phẩm không được đẹp và bền.
Bước ngoặt quan trọng đưa nghề dệt chiếu Hới lên một tầm cao mới là vào thế kỷ 15 khi Phạm Đôn Lễ, người làng Hới, đỗ khoa thi trạng nguyên năm 1481 thời vua Lê Thánh Tông, sau được cử đi sứ nhà Minh (Trung Quốc). Tại Ngọc Hà, châu Quế Lâm, Quảng Tây; ông Lễ đã tiếp thu và học hỏi thêm những kỹ thuật dệt chiếu nằm tiên tiến hơn. Sau khi về nước, Phạm Đôn Lễ đã tích cực chia sẻ, truyền dạy và cải tạo quy trình dệt chiếu dân chiếu làng Hới: từ kỹ thuật dệt đứng, làng chuyển sang kỹ thuật dệt nằm, có ngựa đỡ sợi. Do công lao này, ông Lễ còn được gọi là Trạng Chiếu và tôn vinh thờ cúng như tổ nghề trong làng, và làng Hới cũng là làng nghề chiếu duy nhất có tổ nghề ở Việt Nam.
Từ thời kỳ này, kỹ thuật dệt chiếu của người dân Hới có bước tiến triển lớn. Sản phẩm chiếu ra đời từ đây đẹp và bền hơn rất nhiều, đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng và ngày càng được ưa chuộng. Nghề dệt chiếu truyền thống của làng Hới từ đó có dịp phát triển mạnh mẽ, làm nên tên tuổi và trở thành một trong những mặt hàng thủ công chuộng dùng trong nhiều lĩnh vực từ sinh hoạt bình thường đến cung đình, lễ hội trong cả nước cho đến ngày nay.
Hoạt động dệt chiếu
Cói và sợi đay là hai nguyên liệu chính để làm chiếu Hới, đây là hai loại cây rất dễ trồng ở những vùng gần sông nước, nơi có nhiều phù sa bồi đắp. Làng Hới nằm giữa hai con sông lớn là sông Hồng và sông Luộc, là khu vực thổ nhưỡng tốt để trồng những loại cây này, đồng thời vị trí này cũng là tiền đề thuận lợi trong việc giao thương mua bán các loại nguyên liệu, phẩm màu dệt chiếu khác. Nguồn cói ở đây trước được trồng chủ yếu tại địa phương, mua từ vùng Thanh Hóa hoặc các huyện lỵ trồng cói lân cận. Hiện tại do nhiều khu vực truyền thống trồng cói đã không còn, cói dùng trong hoạt động sản xuất đang được thu gom từ những vùng xa hơn như là miền Nam Việt Nam.
Sau khi thu hoạch hoặc mua về, cói sẽ được chuyển đến quy trình sản xuất chiếu. Để tạo ra một chiếc chiếu hoàn chỉnh, cói phải đi qua nhiều bước, bao gồm việc gặt cói và dựa vào loại chiếu cần tạo, sợi cói và sợi đay sẽ được nhuộm màu phù hợp hoặc để cói trắng, sau đó cói sẽ được phơi khô, làm sạch và tuyển lựa rồi tiến hành se sợi trước khi mang đi dệt. Kỹ thuật se sợi đay và cói của làng Hới được đánh giá rất cao, ít có nơi nào khác có thể theo kịp về chất lượng.
Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu là công đoạn dệt chiếu. Công cụ thủ công để dệt chiếu chính là khung dệt bao gồm sáu phần liên kết với nhau thông qua những đường trân. Cọc nêm (hay còn gọi trụ đứng hoặc nọc) nối với đòn ngang để treo sợi dọc; đòn ém (hay đòn giàn, đòn ngang, suốt ngang) để kéo căng sợi dọc từ đòn bên này qua khung sang đòn bên kia; đòn kê (hay ngựa gỗ nằm đỡ sợi) có chiều dài bằng rộng chiếu, đặt cố định đỡ sợi dọc và khung dạo không chạm đất. Khung dạo là bộ phận quan trọng nhất, làm từ gỗ dày 5–6 cm, dài bằng chiều rộng chiếu. Khung này tạo mặt sợi dọc và chia đôi sợi khi khung ở tư thế sấp, ngửa để đưa sợi ngang vào và siết chặt; cây văng que (cây chuồi sợi, que chao) là một thoi dài khoảng 2 mét, đầu nhọn để quấn sợi dùng để luồn sợi dệt. Ngoài ra còn có xơ dầu làm từ sợi đay, dùng để bôi dầu lên sợi cho trơn và không đứt khi dệt.
Trước khi dệt, thợ dệt phải rũ cói, đảo cói và mắc sợi đay lên khung tạo thành mặt. Khi dệt cần hai người, một xếp cói và một dệt, có thể thay đổi vị trí. Hai người phải phối hợp nhịp nhàng: khi người dệt điều chỉnh cây về ngửa thì người xếp xếp phần gốc cọng, và ngược lại khi cây ở tư thế sấp thì xếp phần ngọn cọng. Hai người làm như vậy cho đến hoàn thành chiếc chiếu. Đó là quy trình cơ bản cho chiếu trơn thông thường. Với mỗi loại chiếu khác nhau thì kỹ thuật dệt và chuẩn bị nguyên liệu khác nhau. Với dệt máy công nghiệp, có thể chỉ cần một người đứng máy dệt duy nhất, nhưng vẫn đầy đủ các khâu và các công cụ như dệt tay vậy.
Chiếu cói sau khi đã được dệt xong theo đúng kích thước, sẽ được người thợ cẩn thận cắt bỏ những sợi cói dư thừa, phơi nắng sau đó buộc chặt (hoặc may viền) để đảm bảo độ bền. Tại thời điểm này, chiếu có thể được đưa ra thị trường hoặc được mang đi vẽ hoặc in màu để tăng thêm vẻ đẹp.
Chiếu Hới có sự đa dạng về loại hình, bao gồm chiếu cài hoa, chiếu trơn, chiếu sợi xe, trong số đó một số trở thành loại hình chiếu riêng biệt có tên riêng như chiếu Gon, chiếu Nảy. Ngoài ra, các nghệ nhân dệt chiếu nhiều kinh nghiệm nhất thường có thể dệt ra nhiều mẫu hoa văn khác nhau, từ hoa, chữ thọ, chữ lồng đến các họa tiết và hình thù phức tạp khác.
Chiếu làng Hới nổi tiếng lúc mới mua sợi mịn trắng ngà, dễ nhìn, hương thơm từ cây cói cùng với kỹ thuật làm biên chiếu riêng biệt so với các làng khác và ngoài để nằm, ngồi còn có thể dùng đắp giữ ấm được. Khi sử dụng trong thời gian dài, chiếu chuyển sang màu vàng, độ mềm mại tốt, dễ làm sạch, thoáng đãng, nước thoát nhanh, khô nhanh. Nghề dệt chiếu ở làng Hới ban đầu là dệt thủ công với công suất khoảng 1 đến 2 chiếu với hai thợ trong vòng 1 ngày; còn hiện nay có thể tăng lên tới 40 chiếu một ngày dưới sự hỗ trợ của các loại máy móc cơ khí dệt chiếu.
Hoạt động giao thương chiếu và lễ hội
Từ xưa, việc giao thương chiếu của làng Hới chủ yếu qua các chợ ở gần làng. Tại đây, chiếu được thu gom và đi tiêu thụ khắp cả nước. Tương truyền chiếu làng Hới cũng từng là vật phẩm tiến vua khi xưa.
Việc mua chiếu Hới ở chợ đã trở thành một nét văn hóa dân gian ở địa phương. Tiêu biểu là hội chiếu làng Hới diễn ra định lệ ngày mồng 6 (ngày này được cho là ngày mất của Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ) đến mùng 9 tháng giêng âm lịch. Dịp này, làng tổ chức lễ hội với nhiều hoạt động, trong đó quan trọng có lễ tế Tổ nghề và có cuộc thi dệt chiếu giữa các giáp trong sân đình. Giải thưởng không chỉ là điềm may đầu năm mà còn là tiếng tăm về tài nghệ của từng phường, ảnh hưởng đến uy tín làm nghề. Đầu mùa xuân, du khách thường mua chiếu như một phong tục cầu may, và làng tổ chức lễ hội với phiên chợ chiếu xuân sau Tết Nguyên Đán.
Đến thời Pháp thuộc, việc giao thương được mở rộng hơn, chính quyền khi này cho mở những trung tâm dệt chiếu và thu gom chiếu thành phẩm ở những khu vực lân cận Luật Trung (Kiến Xương), Diêm Điền (Thái Thụy) để đưa đi Hồng Kông hoặc châu Âu. Hiện tại, việc trao đổi chiếu vẫn diễn ra ở các chợ hoặc thông qua các đại lý nguyên liệu kiêm tiêu thụ, như thống kê năm 2016, khu vực có 6 đại lý chính đảm nhiệm việc cung cấp nguyên liệu và mua lại sản phẩm. Hầu hết chiếu được các đại lý thu mua và phân phối đến nhiều vùng khác trên cả Việt Nam, hay xuất khẩu đi Lào, Campuchia, Thái Lan,... còn số lượng chiếu được tiêu thụ trực tiếp tại địa phương không nhiều. Theo thống kê năm 2023, tổng thu nhập từ nghề chiếu ở khu vực xã Tân Lễ (gồm làng Hới) ước đạt 572 tỷ đồng/năm, thu nhập đầu người bình quân từ 72 đến 96 triệu đồng một năm.
Nhân vật nổi tiếng
Nguyễn Thị Lộ (1400 (?)–1442), nữ quan triều Hậu Lê, vợ lẽ Nguyễn Trãi, liên quan đến vụ án Lệ Chi viên.
Phạm Đôn Lễ (1457–1531), trạng nguyên đỗ đầu tam khoa triều vua Lê Thánh Tông, làm chức quan đến chức thượng thư có công lớn trong triều đình và giúp dân làng phát triển nghề dệt chiếu. Danh gọi Tam Nguyên Đôn Lễ hay Trạng Chiếu.
Đặng Ất (1494–?), đỗ tiến sĩ năm Quang Thiệu thứ 3 (vua Lê Chiêu Tông, 1518), làm đến chức Giám sát Ngự sử. Sau nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê sơ, ông không phục vụ tân triều nên bị vua Mạc Thái Tổ giết.
Di sản
Thống kê đầu thập niên 1930, làng có hai đình, một miếu và một chùa.
Đình Thần làng thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng phối thờ Phúc Thần–Tổ nghề chiếu là ông Phạm Đôn Lễ.
Miếu thờ bà Nguyễn Thị Lộ, đối diện với đình làng.
Chùa Hới.
Chú thích
Thái Bình
Làng cổ Việt Nam
Làng nghề Việt Nam
Địa danh cổ Việt Nam
Đồ thủ công mỹ nghệ
|
19838910
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakafurano%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Nakafurano, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Sorachi, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.733 người và mật độ dân số là người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 108,70 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838911
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Indonesia%202023
|
Chặng đua MotoGP Indonesia 2023
|
Chặng đua MotoGP Indonesia 2023 là chặng đua thứ 15 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 13/10/2023 đến ngày 15/10/2023 ở trường đua Mandalika, Indonesia.
Jorge Martin của đội đua Pramac Racing chiến thắng cuộc đua Sprint race để vươn lên dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 328 điểm. Nhưng một ngày sau đó Martin lại để ngã xe trong cuộc đua chính, còn Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse giành được chiến thắng và giành lại ngôi đầu bảng với 346 điểm.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả Sprint race
Álex Márquez bị chấn thương nên rút tên khỏi danh sách thi đấu.
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
19838922
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20fuscipinnis
|
Odontanthias fuscipinnis
|
Odontanthias fuscipinnis là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1901.
Từ nguyên
Từ định danh fuscipinnis được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: fuscus ("sẫm màu") và pinnis ("vây"), hàm ý đề cập đến màu sẫm ở phần gốc vây lưng và gốc vây đuôi của loài cá này.
Phân bố
O. fuscipinnis là loài đặc hữu của quần đảo Hawaii và cả đảo Johnston không xa đó. O. fuscipinnis thường xuất hiện trên nền đáy cứng có hang hốc, có thể được tìm thấy trong khoảng độ sâu từ 43 đến 260 m.
Mô tả
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở O. fuscipinnis là 24 cm. Cá có màu vàng cam với các vệt màu cánh sen trên đầu và ngực. Gốc vây lưng và vây đuôi có màu đen. Vây hậu môn, gai vây bụng và hai thùy đuôi có viền màu hồng tím. Vây ngực màu cam. Vây đuôi xẻ thùy, không thon nhọn về hai đầu mà bo tròn như mái chèo.
Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ ba dài nhất); Số tia vây ở vây lưng: 17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số vảy đường bên: 42–47.
Thương mại
O. fuscipinnis được đánh bắt trong ngành kinh doanh cá cảnh, đôi khi cũng được bán trong các chợ cá ở Honolulu. Chúng sống tốt trong môi trường bể cá mặc dù môi trường sống tự nhiên là vùng nước sâu.
Tham khảo
F
Cá Thái Bình Dương
Cá Hawaii
Động vật được mô tả năm 1901
|
19838924
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wassamu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Wassamu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 3.192 người và mật độ dân số là 14 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 224,83 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838938
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pippu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Pippu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 3.520 người và mật độ dân số là 40 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 87,29 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838954
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20m%E1%BB%99%20t%C3%A1ng%20Gi%C3%A0%20Da
|
Các mộ táng Già Da
|
Các mộ táng Già Da () là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm 7 khu phức hợp lăng mộ của liên minh Già Da phát triển ở phần phía nam của Bán đảo Triều Tiên có niên đại từ thế kỷ 1 đến cuối thế kỷ 6. Thông qua sự phân bố địa lý và đặc điểm cảnh quan, loại hình chôn cất và đồ chôn cất cùng, các mộ táng chứng thực hệ thống chính trị đặc biệt của liên minh Già Da, trong đó các chính thể tồn tại bình đẳng tự trị trong khi chia sẻ những điểm chung về văn hóa. Sự ra đời của hình thức lăng mộ mới có sự phân cấp phản ánh những thay đổi về cấu trúc mà xã hội Già Da đã trải qua trong suốt lịch sử.
Bảy mộ táng là nơi chôn cất các nhà lãnh đạo cao nhất của bảy chính thể Già Da phát triển độc lập tại các địa điểm khác nhau trên khắp phần phía nam của Bán đảo Triều Tiên. Chúng đều nằm trên địa hình cao ở trung tâm của một chính thể là nơi tập trung nhiều mộ táng được xây dựng trong một thời gian dài. Sự phân bố rải rác của các cụm lăng mộ hoành tráng và phức tạp như nhau, biểu hiện của hoạt động chọn lựa và xây dựng các lăng mộ của những người có địa vị cao, chứng tỏ sự tồn tại của nhiều chính thể tự trị và quyền lực ngang nhau dưới ảnh hưởng của cùng một nền văn hóa.
Danh sách
Tham khảo
Di sản thế giới tại Hàn Quốc
Già Da
Địa điểm khảo cổ Hàn Quốc
|
19838957
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minna%21%20Esper%20Dayo%21
|
Minna! Esper Dayo!
|
Minna! Esper Dayo! (tiếng Nhật: みんな!エスパーだよ!; tiếng Anh: The Virgin Psychics) là bộ phim khoa học viễn tưởng hài kịch Nhật Bản của đạo diễn Sion Sono sản xuất năm 2015. Đây là phiên bản chuyển thể thứ ba của loạt seinen manga All Esper Dayo! được viết và minh họa bởi Kiminori Wakasugi, tiếp nối một bộ phim truyền hình dài tập năm 2013 và một bộ phim truyền hình đặc biệt đầu năm 2015. Phim được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 4 tháng 9 năm 2015.
Trong phim này Elaiza Ikeda thay thế Kaho trong vai Miyuki Hirano.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim năm 2015
Phim Nhật Bản thập niên 2010
|
19838959
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2u%20chuy%E1%BB%87n%20v%E1%BB%81%20Libido%20huy%E1%BB%81n%20tho%E1%BA%A1i
|
Câu chuyện về Libido huyền thoại
|
Câu chuyện về Libido huyền thoại (tiếng Hàn: 가루지기; Romaja quốc ngữ: Garujigi; tiếng Anh: A Tale of Legendary Libido) là một bộ phim hài Hàn Quốc của đạo diễn và nhà viết kịch bản Shin Han-sol sản xuất năm 2008, với sự tham gia của Bong Tae-gyu, Kim Shin-ah và Oh Dal-su được phát hành vào ngày 30 tháng 4 năm 2008.
Chú thích
Liên kết ngoài
Phim năm 2008
Phim Hàn Quốc
|
19838964
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lipase%20l%C6%B0%E1%BB%A1i
|
Lipase lưỡi
|
Lipase lưỡi (lingual lipase) là một enzyme tiêu hóa thuộc họ triacylglycerol lipase, EC 3.1.1.3. Enzyme này sử dụng bộ ba xúc tác gồm aspartate, histidine và serine để thủy phân triglyceride chuỗi vừa và dài. Lipase lưỡi, như tên gọi, được tuyến dưới lưỡi và tuyến mang tai tiết ra trong khoang miệng cùng với nước bọt để xúc tác phản ứng tiêu hóa lipid đầu tiên. Nhờ một số đặc điểm độc nhất của lipase lưỡi, cụ thể là khả năng hoạt động không cần sự hỗ trợ của muối mật và pH hoạt động tối đa thấp (4.5-5.4) nên hoạt động của lipase lưỡi kéo dài đến tận khoang dạ dày. Enzyme này được điều khiển bởi hệ thần kinh tự chủ.
Lipase lưỡi chịu trách nhiệm cho 30% chất béo được thủy phân trong 20 phút đầu tiên thức ăn được ăn.
Lipase lưỡi và lipase dạ dày là hai lipase acid. Loại lipase còn lại - lipase tụy - là lipase kiềm. Lipase acid có đóng góp ít hơn vào quá trình tiêu hóa lipid vì chỉ có thể cắt một acid béo khỏi mỗi phân tử chất béo (tức chỉ có thể tạo diglyceride).
Tham khảo
EC 3.1.1
|
19838970
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%89douard%20Ren%C3%A9%20de%20Laboulaye
|
Édouard René de Laboulaye
|
Édouard René Lefèbvre de Laboulaye (; 18 tháng 1 năm 1811 – 25 tháng 5 năm 1883) là một luật gia, nhà thơ, tác giả và nhà hoạt động chống chế độ nô lệ người Pháp. Ông là người đã đề xuất ý tưởng về một bức tượng do nhân dân Pháp làm để dành tặng cho Hoa Kỳ, dẫn tới kết quả là Tượng Nữ thần Tự do ở Cảng New York.
Tham khảo
Thư mục
(short biography of life and works)
Liên kết ngoài
The Statue of Liberty Laboulaye brought to NYC
Chính khách từ Paris
Mất năm 1883
Sinh năm 1811
|
19838971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khedive
|
Khedive
|
Khedive ( ; ; ) là một danh hiệu danh dự có nguồn gốc từ Ba Tư, được sử dụng cho các Sultan và đại tể tướng của Đế quốc Ottoman, nổi tiếng nhất là dành cho phó vương Ai Cập giai đoạn từ 1805 đến 1914.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Etymonline
Chức vụ trong chính quyền đơn vị hành chính cấp một
Chính phủ Đế quốc Ottoman
Nhà Muhammad Ali
Phó vương Ai Cập
|
19838983
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ned%20Vizzini
|
Ned Vizzini
|
{{Infobox writer|name=Ned Price Vizzini|image=Ned Vizzini.jpg|imagesize=240 px|caption=Ned Vizzini năm 2010|pseudonym=|birth_name=Edison Price Vizzini|birth_date=|birth_place=Thành phố New York, Hoa Kỳ|death_date=|death_place=Thành phố New York, Hoa Kỳ|occupation=Tác giảBiên kịch truyền hình|education=Trường Trung học Stuyvesant|alma_mater=Hunter College|period=1996–2013|genre=Young adult (YA)|subject=|movement=|notableworks={{plainlist|
Be More Chill
It's Kind of a Funny Story
House of Secrets}}|website=https://www.nedvizzini.com/|spouse=Sabra Kyong Embury|children=Felix|bút danh=Ned Vizzini|thân nhân=Emma Price Vizzini (mẹ)
Frank Vizzini (cha)
Eleonora (chị/em gái)
Daniel (anh/em trai)}}Ned Price Vizzini (4 tháng 4 năm 1981 – 19 tháng 12 năm 2013) là một nhà văn người Mỹ. Anh là tác giả của bốn tác phẩm young adult, trong đó có It's Kind of a Funny Story, được Đài phát thanh Công cộng Quốc gia (NPR) xếp thứ 56 trong "100 Tiểu thuyết Tuổi teen Hay nhất". Cuốn sách còn được cải biên thành tác phẩm phim cùng tên.
Vizzini đã nhảy từ mái nhà tự sát vào mùa đông năm 2013, ở tuổi 32.
Xuất thân
Vizzini lớn lên chủ yếu ở khu Park Slope của Brooklyn ở Thành phố New York. Anh theo học tại trường trung học Stuyvesant ở Manhattan, tốt nghiệp năm 1999. Tên khai sinh của anh là Edison Price Vizzini, nhưng mẹ anh thường gọi anh với cái tên Ned và những người khác cũng bắt chước gọi theo. Cho đến năm 1986, có quá nhiều người sử dụng cái tên này khiến giấy tờ trên trường lẫn lộn, anh đã chính thức đổi pháp lý tên của mình thành Ned Price Vizzini.
Các nhân vật và tình huống trong tác phẩm của Vizzini được cho là dựa trên quãng thời gian anh ở Stuyvesant.
Sự nghiệp
Xuất bản đầu tiên của Vizzini là truyện ngắn "Horrible Mention" gửi cho tuần báo New York Press năm 1996. Anh đóng góp cho tờ báo với tư cách là một cây bút tự do, anh viết về mọi thứ, từ những kỳ nghỉ gia đình cho đến việc say xỉn trên đường phố với những đứa trẻ khác. Thành công trong công việc của Vizzini đã giúp anh nhận được lời mời đóng góp một bài báo tập trung vào thanh thiếu niên cho tạp chí The New York Times Magazine.
Tháng 5 năm 1998, bài viết ngắn Teen Angst? Nah! của Vizzini xuất hiện trên tờ The New York Times. Tiếp nối theo đó, một số loạt bài viêt trên New York Press của anh đã trở thành nội dung cốt lõi cho cuốn sách đầu tay Teen Angst? Naaah... một xuất bản hồi ký viết về thời niên thiếu. Đây là một tuyển tập truyện ngắn, hầu hết đều được đăng trước đó trên New York Press và The New York Times Magazine. Cuốn sách được chia nhỏ theo các năm từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông và trở về sau.
Năm 2004, cuốn tiểu thuyết đầu tiên Be More Chill được xuất bản. Một bài đánh giá trên tờ New York Times Book Review cho rằng Be More Chill, kể về một học sinh trung học tên Jeremy Heere, bị tiêm một viên thuốc siêu máy tính vào não khiến anh ấy trở nên ngầu, "chính xác đến mức nó phải kèm theo một lời cảnh báo," nói thêm rằng "Nếu không vì hài hước đến thế, cuốn tiểu thuyết đầu tay [của Vizzini] có thể sẽ quá đau đớn để đọc."Be More Chill về sau được cải biên thành nhạc kịch vào năm 2015, nhạc và lời do Joe Iconis sáng tác và mở màn tại Nhà hát Two River ở New Jersey. Ba năm sau, bản off-Broadway được khai mạc tại Nhà hát Signature ở New York, nối tiếp là một bản Broadway ra mắt vào tháng 2 năm sau đó.
Năm 2006, cuốn tiểu thuyết thứ hai It's Kind of a Funny Story của Vizzini được xuất bản. Tác phẩm dựa trên năm ngày lưu trú nhà tâm thần của Bệnh viện Methodist ở Brooklyn. Cuốn sách kể về nhân vật Craig Gilner mười lăm tuổi chiến đấu với chứng trầm cảm muốn tự tử, khi bước vào viện tâm thần, cậu gặp gỡ những người khác đang đấu tranh với các vấn đề sức khỏe tâm thần tương tự và cậu bắt đầu cảm thấy như mình không còn đơn độc. Một bài đánh giá của Los Angeles Times gọi cuốn tiểu thuyết là "ấn tượng", ghi chép rằng "Cảm giác về nhịp văn, cấu trúc và nhân vật của Vizzini rất trọn vẹn, và ngôn ngữ đời thường của anh ấy rất chuẩn xác, đồng thời nắm bắt được chứng hoang tưởng và sự tiêu cực ám ảnh của bệnh trầm cảm cũng như sự sự tò mò về tình dục của tuổi mới lớn."
Năm 2012, cuốn tiểu thuyết thứ ba The Other Normals của Vizzini được xuất bản. Viết theo dòng văn "viễn tưởng alternative", tác phẩm nói về một thiếu niên rơi vào một thế giới giả tưởng vốn là nền tảng của trò chơi nhập vai yêu thích của cậu ấy. Một bài đánh giá trên The Austin American-Statesman cho hay, "Sự thông minh sắc sảo từ các tác phẩm trước đó của tác giả Ned Vizzini cũng được hiện diện rõ trong này."
Cùng với Nick Antosca, Vizzini đã viết kịch bản cho hai tập của phim truyền hình siêu nhiên Teen Wolf mùa 2012 trên kênh MTV. Vizzini và Antosca từng làm biên tập cốt truyện cho bộ phim truyền hình dài tập Last Resort năm 2013 của ABC. Cả hai có tên trong danh sách cuối phim của tập phim "Nuke It Out" với vai trò biên kịch.
Năm 2013, Vizzini và nhà làm phim Chris Columbus xuất bản cuốn tiểu thuyết House of Secrets, tác phẩm đầu tiên trong bộ sách giả tưởng cho lứa tuổi thiếu nhi. Cuốn sách ra mắt trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và giữ nguyên vị trí đó trong bốn tuần. Entertainment Weekly đã đánh giá cuốn sách ở mức A−.
Nhiều bài tham luận và phê bình của Ned Vizzini đã được lên The New York Times, The Los Angeles Review of Books, và Salon.
Vizzini đã đi phát biểu tại nhiều trường học và thư viện trên khắp thế giới, nói về sức khỏe tâm thần, sáng tác và chỉ dạy cho những học sinh cách có thể dùng con chữ như một liều thuốc tâm thần. Anh đã từng phát biểu tại UCLA; Dalton; Thư viện Công cộng Brooklyn, New York và Chicago; Đại học Tiểu bang Murray; Đại học New York; Hội đồng giáo viên Ngữ văn Anh Toàn quốc; và sự kiện Master's Tea của Yale.
Từ năm 2006 đến 2012, Vizzini đã đứng ra tổ chức một lớp giao lưu viết sáng tác cho thanh thiếu niên địa phương. Các buổi giao lưu được tổ chức hàng tháng tại hiệu sách Barnes & Noble ở Park Slope. Những bạn trẻ tham dự có cơ hội được xuất bản tác phẩm của mình trên blog của nhóm, "Give Us Money".
Qua đời
Ngày 19 tháng 12 năm 2013, tại Brooklyn, New York, Ned Vizzini đã tự sát ở độ tuổi 32, để lại người vợ Sabra và một người con trai. Văn phòng giám định của thành phố New York cho biết anh có nhiều chấn thương do va đập mạnh. Người anh trai Daniel nói với phóng viên rằng Vazzini đã nhảy từ nóc nhà nơi cha mẹ họ sinh sống. Người thân nói rằng Vazzini đã chiến đấu với căn bệnh trầm cảm trong một thời gian dài.
Danh mục tác phẩm
Teen Angst? Naaah... (2000)
Be More Chill (2004)
It's Kind of a Funny Story (2006)
Một Câu Chuyện Chán Đời Buồn Cười (2014), bản dịch tiếng Việt của Dương Ngọc Lâm, do Alphabooks & Nhà xuất bản Lao Động phát hành
The Other Normals (2012)
House of Secrets (2013)
House of Secrets: Battle of the Beasts'' (2014)
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang blog của Ned Vizzini, trên Livejournal
Sinh 1981
Tự tử năm 2013
Nhà văn trẻ em Mỹ
Nhà văn Mỹ
Nhà văn Mỹ thế kỷ 21
Tiểu thuyết gia Mỹ
Tiểu thuyết gia Mỹ thế kỷ 21
Nhà văn tự sát
Sinh năm 1981
Mất năm 2013
Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 21
Nam tiểu thuyết gia Mỹ
Nhà văn Brooklyn
|
19838990
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C5%8Dma%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Tōma, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.319 người và mật độ dân số là 31 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 204,95 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19838991
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Short%20Brothers
|
Short Brothers
|
Short Brothers plc, thường hay gọi tắt là Shorts hay Short, là một công ty Hàng không vũ trụ có trụ sở đặt tại Belfast, Bắc Ireland. Shorts được thành lập vào năm 1908 tại London, và là công ty đầu tiên trên thế giới chế tạo động cơ máy bay. Công ty nổi tiếng với thiết kế Thủy phi cơ vào những năm 1950.
Năm 1943, Shorts được quốc hữu hóa và sau đó được tư nhân hóa, vào năm 1948 công ty dời trụ sở đến Belfast. Vào những năm 1960s, Shorts chủ yếu chế tạo động cơ Động cơ tuốc bin cánh quạt máy bay chở khách, các bộ phận chính trong hàng không vũ trụ, và chế tạo tên lửa cho Quân đội Anh.
Shorts thuộc quyền sở hữu của Chính phủ Anh trước khi được Bombardier mua lại vào năm 1989, hiện nay Shorts là doanh nghiệp lớn nhất của Bắc Ai Len. Tháng Mười một năm 2020, Bombardier đã bán Short Brothers tại Belfast cho Spirit AeroSystems.
Công ty tập trung chế tạo các sản phẩm bao gồm các bộ phận của máy bay, động cơ và hệ thống điều khiển bay cho công ty mẹ là Bombardier Aerospace, và cho Boeing, Rolls-Royce Deutschland, General Electric và Pratt & Whitney.
Lịch sử
Những năm đầu
Short Brothers được thành lập vào năm 1897, khi Eustace Short (1875 – 1932) mua một khinh khí cầu chứa đầy khí than đã qua sử dụng cùng anh trai Oswald, công ty mới thành lập phát triển và sản xuất khinh khí cầu. Năm 1900, hai anh em Short và Oswald đã thăm triển lẵm 1900 Paris Exposition ('Hội chợ quốc tế'), và hai ông đã chiêm ngưỡng khinh khí cầu của Édouard Surcouf (Société Astra), người đã phát triển lý thuyết để chế tạo khinh khí cầu hình tròn.
Năm 1902, hai anh em bắt đầu bán khí cầu. Công ty sản xuất khí cầu được đặt tại Hove, Sussex. Năm 1903, khi Horace rời đi cùng với Charles Parsons để phát triển động cơ tuốc bin hơi nước, Eustace và Oswald đã tiến hành chuyển cơ sở của mình đến London và sau đó đến Battersea, nằm cạnh nhà máy khí đốt Battersea.
Năm 1905, công ty dành được hợp đồng cung cấp ba khinh khí cầu cho Quân đội Ấn Độ thuộc Anh. Chất lượng khinh khí cầu của công ty đã gây ấn tượng với Đại tá James Templer, người đứng đầu Nhà máy chế tạo khinh khí cầu Hoàng gia, người đã giới thiệu Short và Oswald với Charles Rolls, người sáng lập công ty Rolls Royce. Rolls đã ủy quyền cho hai anh em nhà Short chế tạo một khinh khí cầu cỡ lớn để tham gia giải khinh khí cầu Gordon Bennett năm 1906. Qua đó, công ty nhận nhiều đơn đặt hàng chế tạo khinh khí cầu hơn sau khi tham gia Câu lạc bộ hàng không Vương quốc Anh.
Năm 1908, khi nghe tin về buổi trình diễn của mẫu máy bay do anh em nhà Wight chế tạo tại Le Mans, Pháp, Oswald Short đã nói với Eustace, "Đây là dấu chấm hết của thời đại khinh khí cầu; chúng ta cần bắt đầu chế tạo máy bay, và chúng ta không thể làm điều đó nếu thiếu Horace!" Oswald đã thuyết phục thành công Horace để rời bỏ công việc cùng Parsons, và vào tháng Mười một năm 1908, họ đã đăng ký thương hiệu dưới cái tên Short Brothers. Cuối năm 1908, Horace bắt đầu làm việc trên hai bản thiết kế, đầu năm 1909, việc chế tạo máy bay của McClean được bắt đầu, tháng 3 năm 1909 nó được trưng bày tại triển lãm Hàng không Anh tổ chức tại Olympia. Trong khi đó, hai anh em nhà Short đã dành được quyền chế tạo các bản sao thiết kế của Wright tại Anh.
Tháng Hai năm 1909, công ty Shorts bắt đầu mở thêm một xưởng mới tại Leysdown, gần Shellbeach trên đảo Sheppy. Nơi này đã được Câu lạc bộ Hàng không mua lại để sử dụng làm sân bay, cùng với Trang viên Manor ("Muswell Manor"), về sau đã trở thành hội quán của Câu lạc bộ. Ngay lập tức việc chế tạo sáu chiếc máy bay đầu tiên được tiến hành, đánh dấu lần đầu tiên có một công ty trên thế giới thực hiện được đơn hàng lớn như vậy. Tại đây, chiếc Dunne D.5 - loại máy bay đầu tiên không có cánh đuôi cũng được chế tạo theo hợp đồng. Năm 1910 câu lạc bộ Royal Aero Club cùng với Short Brothers đã chuyển đến khu đất rộng hơn và ít đầm lầy tại Eastchurch, cách trụ sở cũ 2,5 dặm (4 km).
Năm 1911, Shorts đã chế tạo mẫu máy bay hai động cơ rất thành công là Triple Twin. Việc chế tạo máy bay thủy phi cơ được bắt đầu với mẫu Short S.26.
Xem thêm
Aerospace industry in the United Kingdom
Canadair
de Havilland Canada
Learjet
Bombardier Aerospace
Oswald Short
Ghi chú
Tham khảo
Barnes, C.H. (1989 revisions by James, Derek N.) Shorts Aircraft since 1900. Putnam. 1967, 1989 (revised).
Jackson, A.J. British Civil Aircraft since 1919, Volume 3. Putnam. 1973.
Liên kết ngoài
Building Britain's WW1 flying boat fleet
Grave of Horace Short; findagrave
Grave of Albert Eustace Short; findagrave
Members of the Early Birds of Aviation
Bombardier Aerospace
Companies formerly listed on the London Stock Exchange
Aerospace companies of Northern Ireland
Defence companies of the United Kingdom
Aircraft manufacturers of the United Kingdom
Companies based in Belfast
1908 establishments in England
Manufacturing companies established in 1908
British companies established in 1908
1936 establishments in Northern Ireland
Khởi đầu năm 1908 ở Anh
|
19838992
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n%202023
|
Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2023
|
Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2023 là chặng đua thứ 14 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 29/09/2023 đến ngày 01/10/2023 ở trường đua Motegi, Nhật Bản.
Jorge Martin của đội đua Pramac Racing đã giành chiến thắng cả hai cuộc đua Sprint race và đua chính của thể thức MotoGP. Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 319 điểm.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả Sprint race
Álex Rins bị chấn thương chân trái nên quyết định rút lui sau phiên chạy FP1, được thay thế bằng Stefan Bradl.
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Do thời tiết xấu nên cuộc đua chính đã kết thúc sớm ở vòng đua 12.
Johann Zarco để ngã xe đúng vào thời điểm trọng tài vẫn cờ đỏ, đã trở về pitlane không đúng quy định nên không được tính kết quả.
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
19839003
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abira%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Abira, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Yūfutsu, phó tỉnh Iburi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.340 người và mật độ dân số là người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 237,13 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19839007
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9%20Duy%20Hoa
|
Vũ Duy Hoa
|
Vũ Duy Hoa (; sinh tháng 9 năm 1956) là một nhà sinh lý học tế bào, sinh học phân tử và chính trị gia người Trung Quốc, ông hiện giữ chức chủ tịch Học xã Cửu Tam và là Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc. Ông là viện sĩ của Viện Khoa học Trung Quốc.
Tiểu sử
Vào ngày 7 tháng 12 năm 2020, theo Sắc lệnh hành pháp 13936, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với 14 Phó Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ, bao gồm Vũ Duy Hoa, vì "làm suy yếu quyền tự trị của Hồng Kông và hạn chế quyền tự do ngôn luận hoặc hội nghị".
Chú thích
Sinh năm 1956
Nhân vật còn sống
Viện sĩ Viện Khoa học Trung Quốc
Cựu sinh viên Đại học Sơn Tây
|
19839011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Th%E1%BB%8B%20H%E1%BB%93ng%20L%E1%BB%87
|
Phạm Thị Hồng Lệ
|
Phạm Thị Hồng Lệ (sinh năm 1998) là một vận động viên điền kinh chuyên nghiệp người Việt Nam. Cô đang là tuyển thủ của đội tuyển điền kinh quốc gia Việt Nam, từng giành huy chương vàng Sea Games.
Sở trường của Phạm Thị Hồng Lệ là các cự ly trung bình (5km, 10km) và dài (marathon).
Thành tích nổi bật
Sea Games
Ở Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019, Phạm Thị Hồng Lệ thi đấu cự ly marathon, cô đã bị ngất xỉu sau khi nỗ lực cán đích ở vị trí thứ ba.
Ở Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021, Phạm Thị Hồng Lệ quyết định không thi đấu cự ly marathon để tập trung cho cự ly 10.000m. Chiến thuật này đã phát huy hiệu quả giúp cho cô giành được tấm huy chương vàng tại SEA Games đầu tiên trong sự nghiệp.
Giải đấu khác
Ở các giải đấu cấp quốc gia, Phạm Thị Hồng Lệ thi đấu cho đoàn thể thao Bình Định.
Cô từng nhiều lần tham gia và đạt thành tích cao ở các giải marathon quy mô lớn ở Việt Nam như VnExpress Marathon hay Tiền Phong Marathon.
Tham khảo
Nữ vận động viên điền kinh Việt Nam
Nữ vận động viên chạy đường trường Việt Nam
Người Bình Định
Người họ Phạm tại Việt Nam
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
|
19839013
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20wassi
|
Odontanthias wassi
|
Odontanthias wassi là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2006.
Từ nguyên
Từ định danh wassi được đặt theo tên của Richard C. Wass (s. 1942), nhân viên kiểm ngư Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này và tặng lại cho Bảo tàng Bishop (Honolulu).
Phân bố
O. wassi mới chỉ được biết đến ở ngoài khơi cụm đảo Ofu-Olosega (Samoa thuộc Mỹ), được thu thập ở độ sâu khoảng 100 m. Theo trang Fishes of Australia thì loài này đã được phát hiện tại đảo san hô Holmes ở trên biển San Hô (Úc).
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở O. wassi là 12,3 cm. Cá có phần thân trước phía trên gốc vây ngực là màu vàng, bụng và thân sau chủ yếu là màu hồng. Đầu có các vệt sọc vàng và hồng. Vây lưng màu vàng với dải viền rìa màu hồng tím. Vây đuôi xẻ thuỳ, hơi bo tròn ở đầu, có màu hồng tím với một dải vàng dọc theo mỗi thùy. Vây bụng và vây hậu môn màu vàng, có viền tím. Mắt vàng tươi, có viền tím ở trên và dưới.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16 (tia thứ hai vươn dài nhất); Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số tia vây ở vây ngực: 17; Số vảy đường bên: 42.
Tham khảo
Xem thêm
W
Cá Thái Bình Dương
Động vật Samoa thuộc Mỹ
Động vật được mô tả năm 2006
|
19839037
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stephen%20P.%20Synnott
|
Stephen P. Synnott
|
Stephen P. Synnott (sinh năm 1946) là một nhà thiên văn học người Mỹ và là nhà khoa học của chương trình Voyager làm việc tại Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực. Ông còn là một chuyên gia về kỹ thuật dẫn đường quang học của tàu vũ trụ. Ông có công trong việc phát hiện một số vệ tinh tự nhiên của các hành tinh nằm ở vòng ngoài của Hệ Mặt Trời như Metis, Puck, Larissa (phát hiện lại), Cressida, Thebe và Proteus.
Vinh danh
Tiểu hành tinh 6154 Stevesynnott, khám phá bởi Henry E. Holt vào năm 1990, được đặt theo tên của Synnott để vinh danh ông. Tên gọi này đã được thông qua và công bố bởi Trung tâm Hành tinh vi hình vào ngày 1 tháng 6 năm 1996 ().
Tham khảo
Sinh năm 1946
Nhà thiên văn học Mỹ
Nhà khoa học hành tinh
Nhân vật còn sống
Nhà thiên văn học Hoa Kỳ
|
19839040
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20hoan%20phim%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20l%E1%BA%A7n%20th%E1%BB%A9%2023
|
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23
|
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23 là một sự kiện do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng tổ chức từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 25 tháng 11 năm 2023, với chủ đề "Xây dựng công nghiệp điện ảnh Việt Nam giàu bản sắc dân tộc, hiện đại và nhân văn". Với 147 bộ phim tham dự, Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23 có số lượng phim tham dự nhiều nhất từ trước tới nay. Hội đồng tuyển chọn đã chọn được 147 bộ phim, gồm 91 bộ phim dự thi, 56 bộ phim trong chương trình toàn cảnh.
Đêm khai mạc Liên hoan phim diễn ra tại Quảng trường Lâm Viên, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và lễ bế mạc tổ chức tại Nhà hát Opera House, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Ban giám khảo
Danh sách Ban giám khảo bao gồm:
Phim truyện điện ảnh
Ông Đào Bá Sơn (đạo diễn, NSND) - Chủ tịch Ban giám khảo
Ông Trần Quốc Dũng (nhà quay phim, NSND) - Uỷ viên
Bà Phạm Nhuệ Giang (đạo diễn, NSND) - Uỷ viên
Bà Phạm Thị Phong Điệp (nhà văn, nhà báo) - Uỷ viên
Ông Trần Mạnh Hùng (nhạc sĩ) - Uỷ viên
Ông Trịnh Đình Lê Minh (đạo diễn) - Uỷ viên
Ông Trần Quang Minh (hoạ sĩ, Tiến sĩ) - Uỷ viên
Bà Nguyễn Như Quỳnh (diễn viên, NSND) - Uỷ viên
Ông Nguyễn Chánh Trực (Charlie Nguyễn) (nhà biên kịch, nhà sản xuất) - Uỷ viên
Phim tài liệu và khoa học
Ông Nguyễn Lương Đức (đạo diễn, NSND) - Chủ tịch Ban giám khảo
Ông Trần Tuấn Hiệp (đạo diễn) - Uỷ viên
Bà Đặng Thái Huyền (đạo diễn, Thượng tá) - Uỷ viên
Bà Ngô Ngọc Ngũ Long (nhà báo, nhà lý luận phê bình) - Uỷ viên
Ông Phạm Huy Quang (nhà quay phim, Tiến sĩ nghệ thuật) - Uỷ viên
Ông Đinh Trọng Tuấn (nhà báo) - Uỷ viên
Ông Tạ Quỳnh Tư (đạo diễn) - Uỷ viên
Phim hoạt hình
Ông Đỗ Lệnh Hùng Tú (hoạ sĩ, Phó giáo sư, Tiến sĩ nghệ thuật) - Chủ tịch Ban giám khảo
Bà Lý Thu Hà (hoạ sĩ, đạo diễn, NSƯT) - Uỷ viên
Ông Phạm Sông Đông (nhà biên kịch) - Uỷ viên
Ông Nguyễn Ngọc Tuấn (hoạ sĩ, Thạc sĩ) - Uỷ viên
Ông Phạm Quang Vinh (hoạ sĩ) - Uỷ viên
Danh sách phim tham gia
Phim dự thi
Phim truyện điện ảnh
Phim tài liệu
Phim khoa học
Phim hoạt hình
Phim tham dự chương trình toàn cảnh
Phim truyện điện ảnh
Phim tài liệu
Phim khoa học
Phim hoạt hình
Đoạt giải và đề cử
Phim truyện điện ảnh
Phim tài liệu
Phim khoa học
Phim hoạt hình
Phim nhận được nhiều chiến thắng và đề cử
Tham khảo
Việt Nam năm 2023
Liên hoan phim Việt Nam
|
19839041
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BA%A7u%20ri%C3%AAng%20Mon%20Thong
|
Sầu riêng Mon Thong
|
Sầu riêng Mon Thong hay Monthong là giống sầu riêng thuộc loài Durio zibethinus trong chi Durio. Tên và mã số của giống là D159, tên trong tiếng Thái là หมอนทอง – Mon Thong nghĩa là Chiếc gối vàng. Giống có nguồn gốc từ Thái Lan và hiện là giống sầu riêng được trồng phổ biến nhất tại nhiều nước châu Á. Người Việt Nam thường đọc là Mõm thon, Mon thon.
Phân loại
Sầu riêng Mon Thong là một giống trồng thuộc loài D. zibethinus, thuộc phân loài Palatadurio của chi Durio.
Trồng trọt
Phân bố
Đây là một trong 3 giống sầu riêng trồng cho mục đích thương mại phổ biến nhất tại Thái Lan bao gồm Xà Ni, Kan Yao và Mon Thong. Mon Thong và Xà Ni chiếm đến 90% diện tích trồng sầu riêng tại Thái Lan. Vùng Nonthaburi là vùng đất trồng sầu riêng Mon Thong nổi tiếng nhất Thái Lan.
Tại Việt Nam, Mon Thong, Ri6 và Cơm vàng hạt lép là ba giống phổ biến nhất. Mon Thong được trồng ở các tỉnh miền Tây Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,...trồng ở các tỉnh miền Đông Bình Dương, Bình Phước. Cho đến 2023, diện tích trồng sầu riêng ở Việt Nam là 131.000 ha, trong đó tốc độ trồng nhanh nhất là ở Tây Nguyên, hiện tại đã chiếm gần 70.000 ha. Giống sầu riêng Mon Thong chiếm 50% diện tích trồng, giống Ri6 cũng có diện tích gần tương đương, cả hai là các giống sầu riêng trồng nhiều nhất Việt Nam. Tại Tiền Giang, diện tích sầu riêng là 17.000 ha, tập trung ở Thị xã Cai Lậy, huyện Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành.
Trồng cây
Đối với giống sầu riêng Mon Thong có thể trồng bằng phương pháp chiết ghép. Điểm yếu của Mon Thong là cây trồng không có khả năng kháng các bệnh như thối rễ, thối thân, ung thư thân, trong đó cây dễ bị thối các phần trên thân và chảy mạch nhựa, hay còn gọi là xì mủ, nguyên dân do nấm Phytophthora palmivora gây ra. Cây sẽ chết khi tình trạng chuyển biến nghiêm trọng.
Hoa
Hoa của Mon Thong có khả năng sống sót tương đối cao, khoảng 90%, cao hơn giống sầu riêng Kradumthong (Kradoomthong), chỉ khoảng 83%, nhưng thấp hơn giống Xà Ni, 94% và Kan Yao 96%. Các thay đổi thời tiết mạnh như mưa, sương và nhiệt độ dưới 18°C sẽ làm hỏng khả năng tồn tại của phấn hoa. Mon Thong giống như một số giống sầu riêng chẳng hạn như giống Kob và giống E - Nak, chúng mất nhiều thời gian, thường là 120 đến 140 ngày để trái phát triển đầy đủ từ khi đậu quả thành công. Trong khi đó, các giống Kan Yao, Chompoose, Tongyoichat mất 105 đến 120 ngày; các giống Kradoomthong, Xà Ni, Luang, Khcow Sa-ard chỉ mất 95 đến 105 ngày.
Quả
Cây trồng đến năm thứ 4 hoặc thứ 5 là đã có thể bắt đầu thu hoạch quả mùa đầu tiên. Sầu riêng Xà Ni có thời gian chín quả sớm hơn Mon Thong, quả khi chín có màu vàng đậm và có mùi nồng hơn Mon Thong. Tuy nhiên, quả của Mon Thong có thịt quả chứa hàm lượng polyphenol cao hơn các giống sầu riêng khác, trong khi các giống có hàm lượng polyphenol từ 21,44 đến 374,30 mg thì Mon Thong có hàm lượng cao nhất 374,30 mg cho mỗi 100 g thịt quả tươi. Quả có cân nặng trung bình 2,5 đến 3 kg. Thịt quả của Mon Thong ngọt, giòn, thơm và mùi không hăng quá mức.
Thu hoạch và bảo quản
Trong ba giống Xà Ni, Kan Yao và Mon Thong thì Mon Thong là giống được nông dân chuộng trồng hơn, sau đó là đến giống Xà Ni. Do Mon Thong có nhiều lợi ích, quả thơm bùi, hạt nhỏ và bảo quản được lâu hơn. Ngoài ra, thời gian thu hoạch có thể kéo dài. Điều này có lợi cho việc chờ và nắm bắt giá cả thị trường. Nó đã được xử lý để có thêm mùa vụ nghịch quả. Mon Thong được thu hoạch khi quả chín 75-85%, rồi được xử lý sau thu hoạch bằng ethephon hoặc methylcyclopropene, sau đó bảo quản ở nhiệt độ thấp. Nhiệt độ bảo quản là 14°C khi cần bảo quản 20 ngày, 20°C khi bảo quản 10-15 ngày, 25°C khi cần bảo quản 7 ngày và 30°C khi cần bảo quản 4-5 ngày.
Lịch sử
Vùng Nonthaburi- vùng đất trồng sầu riêng Mon Thong nổi tiếng nhất ghi nhận giống cây được trồng ở đây lần đầu vào năm 1983. Một thông tin về giống trồng này cho biết tại miền Nam Thái Lan vào năm 1992 có 1 triệu cây Mon Thong.
Mon Thong đã được đăng ký Chỉ dẫn địa lý (GI) với Cục Sở hữu trí tuệ Thái Lan ngày 21 tháng 02 năm 2011.
Vào năm 2022, nghành sầu riêng Thái Lan cho ra mắt sầu riêng Pak Chong-Khao Yai, một giống thuộc dòng sầu riêng Mon Thong ở tỉnh Nakhon Ratchasima phía đông bắc Thái Lan. Giống con này cho quả có thịt không mùi, thành quả giống cây trồng này nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường tiêu thụ của thực khách không thích mùi quá nồng.
Thương mại
Mon Thong được ưa chuộng do thịt quả dày, béo ngậy, vị ngọt nhẹ, mùi tương đối vừa phải và hạt nhỏ. Quả có thể dùng ăn tươi hoặc chế biến thịt quả thành các thành phẩm khác. Theo tiêu chuẩn xuất khẩu của Thái Lan, một quả sầu riêng Xà Ni hàng loại I phải nặng từ 2-3 kg, Kan Yao và Mon Thong thì tiêu chuẩn cao hơn, một quả tươi hàng loại I phải nặng từ 3 đến 4,5 kg mới được xuất khẩu. Mon Thong được đánh giá cao nhất trên thị trường, và được ưa chuộng tại nhiều nước, đặc biệt được ưa chuộng tại thị trường Trung Quốc. Năm 2021, Thái Lan xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc hơn 800.000 tấn sầu riêng, đạt giá trị 3,1 tỷ USD.
Nông dân Việt Nam ưa chuộng trồng Mon Thong hơn Ri6 dù chất lượng gần như nhau nhưng do trọng lượng quả nặng hơn nên có lợi về thương mại. Sầu riêng Mon Thong là mặt hàng sầu riêng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Trung Quốc, đem đến giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, việc xuất khẩu thường xuyên biến động chủ yếu do việc đóng cửa khẩu của Trung Quốc. Điều này dẫn đến giá cả lên xuống mạnh và ngành sản xuất liên tục thăng trầm. Vào khoảng tháng 11 năm 2022, giá sầu riêng Mon Thong là gần 100.000 VND/kg. Đến tháng 4 năm 2023, giá chung tụt xuống chạm mức 85.000 VND/kg, Hàng loại 1 giá từ 120.000 tụt xuống 95.000 trong thời gian chỉ có 2 tuần. So với tháng 2 năm 2023, giá giảm gần 50%.
Năm 2022, Thái Lan xuất khẩu sang Trung Quốc 825.000 tấn sầu riêng, chiếm 94,55% sầu riêng nhập vào Trung Quốc, và đạt trị giá 4,03 tỷ USD. Tuy nhiên, thị trường thương mại của sầu riêng cũng bắt đầu có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa nhiều nước Đông Nam Á. Hàng các nước đều hướng đến Trung Quốc. Việc xuất khẩu của Thái Lan đang dần bị đe dọa bởi sự cạnh tranh từ Việt Nam và Philippine. Giá sầu riêng giữa các nước biến động không ngừng, đồng thời cũng có sự biến động của sản lượng.
Xem thêm
Sầu riêng Musang King -giống hàng đầu Malaysia
Sầu riêng Petruk -giống hàng đầu Indonesia
Sầu riêng Ri6 -giống hàng đầu Việt Nam
Sầu riêng Mon Thong lá nhỏ hay sầu riêng Dona cơm vàng hạt lép
Dâu tằm Mon Thong
Xoài Mon Thong
Ghi chú
Chú thích
Sách tiếng Anh
Sách tiếng Indonesia
Sách và tạp chí tiếng Thái
Sách tiếng Việt
Giống sầu riêng
Giống cây thực phẩm
Cây Thái Lan
|
19839043
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%87%20binh%20Qu%C3%BD%20t%E1%BB%99c
|
Vệ binh Quý tộc
|
Vệ binh Quý tộc (tiếng Ý: Guardia Nobile) là một trong những đơn vị cận vệ phục vụ Giáo hoàng, và là một phần của quân đội ở Thành Vatican. Nó được thành lập bởi Giáo hoàng Pius VII vào năm 1801 với tư cách là một trung đoàn kỵ binh hạng nặng, và bị Giáo hoàng Paul VI bãi bỏ vào năm 1970 sau Công đồng Vaticanô II. Được coi là đội cận vệ riêng của Giáo hoàng, đơn vị này cung cấp một đoàn hộ tống cho Giáo hoàng khi ông di chuyển quanh Rome trên xe ngựa của mình và bố trí lính gác bên ngoài các nơi cư trú của ông trong các cung điện của Giáo hoàng. Các lính canh cũng sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt trong Lãnh thổ Giáo hoàng theo lệnh của Giáo hoàng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của họ là hộ tống Đức Piô VII tới Paris dự Lễ đăng quang của Napoléon và Joséphine vào năm 1804.
Lịch sử
Năm 1801, một cuộc vận động đã bắt đầu ở Rome trong giới quý tộc để thành lập Đội vệ binh cho Giáo hoàng, và một địa chỉ đã được gửi đến Giáo hoàng Plus VII để cung cấp dịch vụ một cách miễn phí. Để đáp lại, Đội cận vệ Quý tộc được thành lập vào ngày 11 tháng 5 năm 1801.
Riêng với tư cách là vệ binh cung điện, Đội cận vệ Quý tộc không tham gia nghĩa vụ quân sự hoặc chiến đấu tích cực trong một số chiến dịch quân sự hướng đến Lãnh địa Giáo hoàng từ năm 1801 đến năm 1870. Với sự thống nhất của Bán đảo Ý và việc bãi bỏ Lãnh địa Giáo hoàng vào năm 1870, Đội cận vệ Quý tộc hạn chế hoạt động của mình trong các tòa nhà và khuôn viên của đồi Vatican. Mặc dù trên danh nghĩa vẫn là một đơn vị kỵ binh, đơn vị này có rất ít cơ hội triển khai trên lưng ngựa trong phạm vi giới hạn của Vatican, mặc dù hai người lính cưỡi ngựa sẽ đi cùng xe ngựa của Giáo hoàng khi Giáo hoàng được chở quanh các khu vườn ở Vatican. Năm 1904, dịch vụ cưỡi ngựa bị bãi bỏ hoàn toàn và những con ngựa cuối cùng đã được bán hết. Ban đầu được trang bị súng carbine, súng lục và kiếm, sau năm 1870, lính canh chỉ mang theo một thanh kiếm.
Các thành viên đội vệ binh luôn là tình nguyện viên và không được trả lương cho sự phục vụ của họ, mặc dù họ nhận được trợ cấp cho đồng phục của mình. Những tân binh được tuyển chọn từ các gia đình quý tộc ở Rome, mặc dù trong thế kỷ XX, các yêu cầu trên thực tế đã được nới lỏng để cho phép giới quý tộc từ các vùng khác của Ý gia nhập đội vệ binh. Những người lính canh được cho là sẽ nắm giữ những danh hiệu có niên đại ít nhất 100 năm. Người chỉ huy quân đoàn được gọi là Đại úy. Quyền chỉ huy được truyền lại trong gia tộc Barberini và gia tộc Altieri, nhưng sau đó được truyền cho gia tộc Rospigliosi.
Sau năm 1870, Đội cận vệ Quý tộc giảm số lượng xuống dưới 70 người, chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ nghi lễ với tư cách là đội cận vệ danh dự. Các vệ binh thường xuất hiện trước công chúng nhiều nhất khi Giáo hoàng chủ trì các nghi lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Khi giáo hoàng được khiêng trong sedia gestatoria, các Vệ binh Quý tộc đi dọc theo ghế Giáo hoàng. Trong những giờ dành riêng cho buổi tiếp kiến Giáo hoàng, lính canh cũng đứng ở tiền sảnh của các căn phòng của Giáo hoàng và, trong những dịp trang trọng, họ cũng đứng ở hai bên ngai vàng của Giáo hoàng. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đội cận vệ Quý tộc đã chia sẻ trách nhiệm với Đội cận vệ Thụy Sĩ về vấn đề an ninh cá nhân của Giáo hoàng Pius XII. Lần đầu tiên kể từ năm 1870, súng lục được cấp cho nhân viên trực ban. Trong suốt cuộc chiến, các Vệ binh Quý tộc canh gác bên ngoài căn hộ của Giáo hoàng cả ngày lẫn đêm và lính canh đi theo Đức Pius XII khi ngài đi dạo hàng ngày trong Vườn Vatican.
Đội cận vệ Quý tộc đã bị Giáo hoàng Paul VI bãi bỏ vào năm 1970 như một phần của cuộc cải cách Giáo hội sau Công đồng Vatican II. Hình ảnh tinh hoa của một đoàn nghi lễ đặc quyền được coi là không còn thiện cảm với một thời đại đơn giản và hòa nhập hơn. Cuộc tiếp kiến chia tay theo kế hoạch của các vệ binh với Giáo hoàng đã không diễn ra và tài sản của đơn vị đã bị Văn phòng Quốc vụ Giáo hoàng trưng dụng trong thời gian ngắn. Các cựu thành viên của Đội cận vệ Quý tộc có một hiệp hội cựu chiến binh, "La Compagnia delle Lance Spezzate" (The Company of the Broken Lances).
Tham khảo
Quân đội củ Lãnh địa Giáo hoàng
Quân đội của Thành Vatican
Cựu trung đoàn cận vệ
Thành Vatican
|
19839048
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kenbuchi%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Kenbuchi, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikawa, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.926 người và mật độ dân số là 22 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 131,20 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19839050
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shimukappu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Shimukappu, Hokkaidō
|
là một ngôi làng thuộc huyện huyện Yūfutsu, phó tỉnh Kamikawa, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 1.306 người và mật độ dân số là 2,3 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 571,31 km2.
Tham khảo
Làng của Hokkaidō
|
19839057
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kuroiwa%20Y%C5%ABji
|
Kuroiwa Yūji
|
là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Kanagawa kể từ ngày 23 tháng 4 năm 2011.
Chú thích
Liên kết ngoài
Người Kobe
Chính khách từ Hyōgo
Cựu sinh viên Đại học Waseda
|
19839069
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20caudicinctus
|
Odontanthias caudicinctus
|
Odontanthias caudicinctus là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1986.
Từ nguyên
Từ định danh caudicinctus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: caudi ("đuôi") và cinctus ("thắt lưng"), hàm ý có lẽ đề cập đến vạch nâu sẫm bao quanh cuống đuôi và gốc vây đuôi của cá đực.
Phân bố
O. caudicinctus mới chỉ được biết đến ở bờ biển Kenya và ngoài khơi tỉnh Đông Cape (Nam Phi), được thu thập ở độ sâu khoảng 100–300 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở O. caudicinctus là 10 cm.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8.
Tham khảo
C
Cá Ấn Độ Dương
Cá Kenya
Cá Nam Phi
Động vật được mô tả năm 1986
|
19839076
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20U-21%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202000
|
Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2000
|
Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2000, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia - Cúp báo Thanh Niên 2000, là mùa giải thứ tư của Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) phối hợp với báo Thanh Niên tổ chức. Vòng chung kết của giải diễn ra trên sân vận động Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 2000.
Đương kim vô địch U-21 Thể Công không tham dự giải lần này và được thay thế bằng đội U-21 Hải Phòng. Đội U-21 Sông Lam Nghệ An giành chức vô địch sau khi thắng U-21 Gạch Đồng Tâm Long An 3-2 trong trận chung kết.
Vòng loại
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Bảng C diễn ra từ ngày 13 đến 27 tháng 5 năm 2000 tại 3 sân Long An, Kiên Giang và Tiền Giang. 16 đội chia thành 4 nhóm, thi đấu vòng tròn một lượt; 4 đội đứng đầu mỗi nhóm sẽ tranh 3 vé vào vòng chung kết.
Vòng chung kết
Vòng bảng
Bảng A
Bảng B
Vòng đấu loại trực tiếp
Bán kết
Tranh hạng ba
Chung kết
Tham khảo
Liên kết ngoài
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá U21 Quốc gia Việt Nam
Bóng đá Việt Nam năm 2000
|
19839078
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20Gi%C3%A1c%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Đại Giác (định hướng)
|
Đại giác là một loài lan trong chi Lan hoàng thảo.
Đại Giác hoặc Đại giác cũng có thể là:
Chùa Đại Giác, một ngôi chùa nằm ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Việt Nam
Sao Đại Giác, một ngôi sao trong chòm sao Mục Phu
Đại Giác Ngộ Tự, một tổ hợp đền chùa Phật giáo ở Bodh Gaya
|
19839100
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C5%8Dyako%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Tōyako, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Abuta, phó tỉnh Iburi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 8.442 người và mật độ dân số là 47 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 180,54 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19839102
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Yeosu%E2%80%93EXPO
|
Ga Yeosu–EXPO
|
Ga Yeosu–EXPO (Tiếng Hàn: 여수엑스포, Hanja: 麗水엑스포驛) là ga đường sắt và ga cuối trên Tuyến Jeolla ở Deokchung-dong, Yeosu-si, Jeollanam-do. Có một Depot Yeosu gần đó. KTX, SRT, ITX-Saemaeul, ITX-Maum, Mugunghwa-ho và Tàu biển Namhae dừng ở đây và các chuyến tàu của Tuyến Jeolla hoạt động tại ga này là điểm xuất phát và kết thúc. Nó được đăng ký là YeosuEXPO (Tiếng Anh: Yeosu–EXPO) trong mạng máy tính của Tổng công ty Đường sắt Hàn Quốc và là Expo trong Hệ thống thông tin hậu cần đường sắt. Cùng với dự án điện khí hóa đường đôi Tuyến Jeolla, nhà ga đã được chuyển về phía bắc của địa điểm hiện tại vào ngày 23 tháng 12 năm 2009 và địa điểm Ga Yeosu hiện tại đã bị phá bỏ và sử dụng làm địa điểm tổ chức Triển lãm Thế giới 2012. Ga Yeosu cũ cũng là địa điểm quay bộ phim ‘Vinh quang gia tộc’. Tất cả các đoạn từ ga này đến Ga Iksan đều ở trên mặt đất. KTX khai thác một chuyến tàu vào đêm khuya. KTX-Sancheon có hai chuyến tàu đỗ vào đêm khuya. ITX-Saemaeul vận hành một chuyến tàu vào đêm khuya. Có 6 chuyến tàu trên chuyến tàu Mugunghwa-ho vào đêm khuya.
Lịch sử
25 tháng 10 năm 1930: Khai trương với tên gọi Ga không người lái Ga Yeosu
15 tháng 8 năm 1945: Ga cảng Yeosu bị bãi bỏ. Dịch vụ vận tải bị đình chỉ với Nhật Bản
1 tháng 9 năm 1971: Chỉ định trạm chở hàng antraxit
12 tháng 6 năm 1980: Khởi công xây dựng nhà ga mới
27 tháng 12 năm 1980: Hoàn thành xây dựng nhà ga mới
1 tháng 5 năm 2006: Ngừng xử lý hàng hóa
31 tháng 10 năm 2009: Việc xử lý hàng hóa chấm dứt.
23 tháng 12 năm 2009: Di dời ga (Gonghwa-dong → Deokchung-dong)
1 tháng 10 năm 2011: Thay đổi tên ga (Ga Yeosu → Ga Yeosu Expo)
5 tháng 10 năm 2011: Khai trương KTX
27 tháng 9 năm 2013: Khai trương Tàu biển Namhae
1 tháng 6 năm 2014: Khai trương ITX-Saemaeul
9 tháng 12 năm 2016: Khai trương Nuriro
30 tháng 6 năm 2018: Kết thúc dịch vụ Nuriro
1 tháng 9 năm 2023: SRT (2 chuyến khứ hồi mỗi ngày), Khai trương ITX-Maum
Bố trí ga
Thư viện
Ga kế cận
Hầu hết các chuyến tàu chạy qua ga này đều bắt đầu từ Ga Yongsan và Ga Iksan. Nó hoạt động 4 lần một ngày đến Ga Haengsin.
Xem thêm
Expo 2012
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cyber station information từ Korail
Yeosu
Yeosu
Yeosu
|
19839106
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/New%20York%20World
|
New York World
|
New York World là một tờ báo được xuất bản ở thành phố New York trong giai đoạn từ năm 1860 đến năm 1931. Tờ báo này đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử báo chí Mỹ với tư cách là kênh phát ngôn hàng đầu của Đảng Dân chủ. Nó được bán lại vào năm 1931 và sáp nhập vào New York World-Telegram.
Tham khảo
Thư mục
Baker, Kevin. "The World on Sunday: Graphic Art in Joseph Pulitzer's Newspaper (1898-1911)." Wilson Quarterly 29.4 (2005): 116.
Brian, Denis. Pulitzer: A Life. (Wiley, 2001). 438 pp. popular history.
Dorwart, Jeffrey M. "James Creelman, the 'New York World' and the Port Arthur Massacre" Journalism Quarterly 50.4 (Winter 1973): 697+.
Heaton, John Langdon. The story of a page; thirty years of public service and public discussion in the editorial columns of the New York World (1913) online
Juergens, George. Joseph Pulitzer and the New York World (1966), scholarly; online free to borrow
Rutenbeck, Jeffrey. "The Stagnation and Decline of Partisan Journalism in Late Nineteenth-Century America: Changes in the New York World, 1860–76." American Journalism 10.1-2 (1993): 38–60.
Steele, Janet E. "The 19th Century World Versus the Sun: Promoting Consumption (Rather than the Working Man)." Journalism Quarterly 67.3 (1990): 592–600.
Swanberg, W.A. Pulitzer. New York; Charles A. Scribner & Sons, 1967, popular history.
Whitelaw, Nancy. Joseph Pulitzer: And the New York World (1999) 120pp; for high school audience. online free
Liên kết ngoại
Original New York World articles tại Nellie Bly Online
Slate article about the World Magazines graphic design
New York World of the Columbia School of Journalism
New York World
Tờ báo không còn tồn tại xuất bản ở Thành phố New York
Tờ báo đoạt giải Pulitzer
Tờ báo thành lập năm 1860
Báo chí Dân chủ (Hoa Kỳ)
Khởi đầu năm 1860 ở New York (tiểu bang)
Chấm dứt năm 1931 ở New York (tiểu bang)
Báo hàng ngày xuất bản ở thành phố New York
|
19839107
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Niyodogawa%2C%20K%C5%8Dchi
|
Niyodogawa, Kōchi
|
là thị trấn thuộc huyện Agawa, tỉnh Kōchi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.827 người và mật độ dân số là 14 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 333 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Kōchi
Ochi
Tsuno
Ino
Ehime
Kumakōgen
Tham khảo
Thị trấn của Kōchi
|
19839115
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C6%B0%20t%E1%BB%AD%20Belfort
|
Sư tử Belfort
|
Bức tượng Sư tử Belfort là một công trình điêu khắc ở Belfort, Pháp. Được hoàn thành năm 1880, đây là sản phẩm của Frédéric Auguste Bartholdi, nhà điêu khắc Tượng Nữ thần Tự do.
Tổng quan
Hoàn thành vào năm 1880, bức tượng được làm hoàn toàn bằng đá sa thạch đỏ. Các phần của tượng được điêu khắc riêng lẻ, sau đó được chuyển đến vách đá bên dưới lâu đài Belfort để lắp ráp. Với chiều dài 22 mét và chiều cao 11 mét, công trình khổng lồ này là điểm nhấn cho cảnh quan địa phương.
Thư viện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tượng khổng lồ
Tác phẩm điêu khắc ngoài trời ở Pháp
Tượng sư tử
Công trình xây dựng ở Belfort
Di tích và đài tưởng niệm trên núi
Tác phẩm điêu khắc năm 1880
Di tích và đài tưởng niệm ở Pháp
Tượng đá ở Pháp
Tác phẩm điêu khắc bằng sa thạch
Tác phẩm điêu khắc của Frédéric Auguste Bartholdi
|
19839118
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rauenberg%2C%20Kraichgau
|
Rauenberg, Kraichgau
|
Rauenberg là một thị trấn thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg 15 km về phía nam.
Tham khảo
Rhein-Neckar (huyện)
|
19839119
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sch%C3%B6nau%20%28Odenwald%29
|
Schönau (Odenwald)
|
Schönau là một đô thị thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm bên dãy núi Odenwald, cách Heidelberg 10 km về phía đông bắc.
Lịch sử
Tham khảo
|
19839121
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Schriesheim
|
Schriesheim
|
Schriesheim (Nam Franconia: Schriese) là một thị trấn nằm ở Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức.
Chính quyền
Tham khảo
Liên kết ngoài
Schriesheim, Germany, celebrates the grape, article in Stars and Stripes
Baden
Địa điểm Holocaust ở Đức
Rhein-Neckar (huyện)
|
19839123
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Waibstadt
|
Waibstadt
|
Waibstadt () là một thị trấn nằm ở huyện Rhein-Neckar-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Offizielle Internet công cụ
Offizielle Internetpräsenz des Ortsteils Daisbach
Rhein-Neckar (huyện)
|
19839124
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Walldorf
|
Walldorf
|
Walldorf (; Nam Franconia: Walldoaf) là một thị trấn nằm ở huyện Rhein-Neckar-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ chính thức
Baden
Rhein-Neckar (huyện)
|
19839130
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BA%B7ng%20%C4%91ua%20MotoGP%20%E1%BA%A4n%20%C4%90%E1%BB%99%202023
|
Chặng đua MotoGP Ấn Độ 2023
|
Chặng đua MotoGP Ấn Độ 2023 là chặng đua thứ 13 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 22/09/2023 đến ngày 24/09/2023 ở trường đua Buddh, Ấn Độ. Đây cũng là lần đầu tiên Ấn Độ tổ chức một chặng đua MotoGP.
Jorge Martin của đội đua Pramac Racing đã giành chiến thắng cuộc đua Sprint race, còn Marco Bezzecchi của đội đua VR46 giành chiến thắng đua chính thể thức MotoGP. Ở cuộc đua chính thì Francesco Bagnaia phải bỏ cuộc nhưng anh vẫn dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 292 điểm.
Kết quả phân hạng thể thức MotoGP
Kết quả Sprint race
Álex Márquez bị chấn thương ở phiên phân hạng nên rút tên khỏi danh sách thi đấu.
Kết quả đua chính thể thức MotoGP
Luca Marini bị chấn thương ở cuộc đua Sprint race nên không tham gia cuộc đua chính.
Bảng xếp hạng sau chặng đua
Bảng xếp hạng tay đua
Bảng xếp hạng xưởng đua
Bảng xếp hạng đội đua
Tham khảo
Chặng đua MotoGP 2023
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.