filename
stringlengths 1
96
| chunk_index
int64 0
400
| content
stringlengths 200
1k
|
---|---|---|
thủ dầu một | 6 | == Lịch sử ==
Trước năm 1954, thị trấn này là tỉnh lỵ tỉnh Thủ Dầu Một. Dân số vào thập niên 1930 là 6.700.
Năm 1954 - 1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh thành Bình Dương và tỉnh lỵ mang tên Phú Cường.
Tháng 2 năm 1976, thị xã Thủ Dầu Một được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Sông Bé (do hợp nhất 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long), gồm 3 phường: Chánh Nghĩa, Hiệp Thạnh, Phú Cường và 2 xã: Chánh Mỹ, Phú Thọ.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, chuyển 5 xã: Định Hòa, Phú Hòa, Phú Mỹ, Tân An, Tương Bình Hiệp thuộc huyện Châu Thành vừa giải thể về thị xã Thủ Dầu Một quản lý..
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Bình Dương từ tỉnh Sông Bé, thị xã Thủ Dầu Một trở lại là tỉnh lị tỉnh Bình Dương..
Ngày 28 tháng 5 năm 1997, chuyển 2 xã Phú Thọ và Phú Hòa thành 2 phường có tên tương ứng..
Ngày 10 tháng 12 năm 2003, chia phường Phú Hòa thành 2 phường: Phú Hòa và Phú Lợi; thành lập xã Hiệp An.. |
thủ dầu một | 7 | Ngày 28 tháng 5 năm 1997, chuyển 2 xã Phú Thọ và Phú Hòa thành 2 phường có tên tương ứng..
Ngày 10 tháng 12 năm 2003, chia phường Phú Hòa thành 2 phường: Phú Hòa và Phú Lợi; thành lập xã Hiệp An..
Ngày 23 tháng 1 năm 2007, Bộ Xây dựng ra Quyết định công nhận thị xã Thủ Dầu Một là đô thị loại 3.
Ngày 9 tháng 6 năm 2008, chuyển 3 xã Hiệp An, Định Hòa, Phú Mỹ thành 3 phường có tên tương ứng..
Ngày 11 tháng 8 năm 2009, thị xã Thủ Dầu Một được mở rộng thêm trên cơ sở sáp nhập 1.079,15 ha diện tích tự nhiên và 1.487 nhân khẩu của xã Hòa Lợi thuộc huyện Bến Cát; 988 ha diện tích tự nhiên và 3.469 nhân khẩu của xã Phú Chánh; 795,77 ha diện tích tự nhiên và 1.417 nhân khẩu của xã Tân Vĩnh Hiệp; 229,63 ha diện tích tự nhiên và 452 nhân khẩu của xã Tân Hiệp thuộc huyện Tân Uyên; thành lập 2 phường Hòa Phú và Phú Tân..
Ngày 2 tháng 5 năm 2012, thị xã Thủ Dầu Một chính thức trở thành thành phố thuộc tỉnh Bình Dương, đồng thời chính thức hoạt động vào ngày 1 tháng 7 năm 2012. |
thủ dầu một | 8 | Ngày 2 tháng 5 năm 2012, thị xã Thủ Dầu Một chính thức trở thành thành phố thuộc tỉnh Bình Dương, đồng thời chính thức hoạt động vào ngày 1 tháng 7 năm 2012.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành nghị quyết 136/NQ-CP thành lập ba phường Chánh Mỹ, Tương Bình Hiệp và Tân An thuộc thành phố trên cơ sở các xã có tên tương ứng.
Ngày 8 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1120/QĐ-TTg công nhận thành phố Thủ Dầu Một là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bình Dương. |
thủ dầu một | 9 | == Ẩm thực ==
Một vài điểm ẩm thực nổi tiếng:
Bánh bèo Mỹ Liên, đường Thích Quảng Đức, P. Phú Cường, Tp. Thủ Dầu Một.
Bánh canh Tuyết - giò heo, đường Thích Quảng Đức, P. Phú Cường, Tp. Thủ Dầu Một.
Hưng Phát Mì gia, đường CMT8 P. Phú Cường, Tp. Thủ Dầu Một.
Khu ăn uống chợ Thủ Dầu Một.
Đậu hũ Phớ đường Thích Quảng Đức
Mì Bà Hơ
== Định hướng phát triển đô thị ==
Với vị thế là một đô thị trung tâm của Bình Dương và là một trong những đô thị lớn của khu vực Đông Nam Bộ thành phố Thủ Dầu Một trong những năm gần đây có tốc độ phát triển kinh tế xã hội và phát triển đô thị rất nhanh. Đến giữa năm 2014 Thủ Dầu Một đã được công nhận là đô thị loại II. Đến đầu năm 2015 Thủ Dầu Một đã đạt nhiều tiêu chí đô thị loại I, phấn đấu đến năm 2017 thành phố sẽ được công nhận là đô thị loại I.
Hiện nay trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Đông Đô Đại Phố, khu đô thị Hiệp Thành III, khu đô thị Phú Hòa, khu đô thị Thành phố mới Bình Dương... |
cảng sài gòn | 0 | Cảng Sài Gòn, hay Cảng thành phố Hồ Chí Minh, là một hệ thống các cảng biển tại Thành phố Hồ Chí Minh đóng vai trò là cửa ngõ của miền Nam (bao gồm cả Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) trong các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Năm 2006, tổng khối lượng hàng hóa thông qua cảng là 35 triệu tấn.
Cụm cảng Sài Gòn bao gồm các khu bến cảng:
Các khu bến cảng tổng hợp và cảng công te nơ, gồm:
Cảng Hiệp Phước trên sông Soài Rạp: hiện tại có thể tiếp nhận tàu trọng tải đến 20 nghìn DWT, theo quy hoạch sẽ có thể tiếp nhận tàu đến 80 nghìn DWT vào năm 2020,
Cát Lái trên sông Đồng Nai: có thể tiếp nhận tàu đến 30 nghìn DWT
Các khu bến cảng tổng hợp địa phương và chuyên dùng trên sông Sài Gòn, Nhà Bè có thể tiếp nhận tàu từ 10 nghìn đến 30 nghìn DWT, gồm:Tân Cảng,
Bến Nghé,
Khánh Hội,
Nhà Rồng,
Tân Thuận. |
cảng sài gòn | 1 | Các khu bến cảng tổng hợp địa phương và chuyên dùng trên sông Sài Gòn, Nhà Bè có thể tiếp nhận tàu từ 10 nghìn đến 30 nghìn DWT, gồm:Tân Cảng,
Bến Nghé,
Khánh Hội,
Nhà Rồng,
Tân Thuận.
Chính phủ Việt Nam đã có kế hoạch xây dựng thêm khu bến Cần Giuộc, Gò Công trên sông Soài Rạp thuộc địa phận Long An và Tiền Giang làm khu bến vệ tinh cho các khu bến chính trong cảng Sài Gòn.
Năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt di dời, chuyển đổi công năng các cảng trong hệ thống cảng Sài Gòn ra ngoại thành, cụ thể sẽ là công năng cảng vận tải hàng hóa của các cảng Nhà Rồng, Khánh Hội, Tân Thuận sẽ dời ra cảng Hiệp Phước ở Nhà Bè, của các cảng còn lại như Tân Cảng sẽ dời đến cảng Cát Lái (Quận 2), nhà máy đóng tàu Ba Son ở Quận 1 cũng sẽ di dời. Các khu bến tàu hiện tại chủ yếu sẽ phục vụ vận tải hành khách với năng lực đón nhận tàu tới 60 nghìn GRT vào năm 2015.
== Lịch sử thành lập == |
cảng sài gòn | 2 | Cảng Sài Gòn được thành lập vào ngày 22 tháng 2 năm 1860 dưới thời thuộc địa Pháp với tên gọi Thương Cảng Sài Gòn. Cảng nằm dọc theo sông Sài Gòn, cách biển 45 dặm (83 km) với tổng diện tích 3.860.000 m2 vào gồm 5 khu vực:
Khu vực Hàm Nghi: 4 km dọc bờ phải sông Sài gòn với 3 cầu tàu cho tàu nội địa.
Khu vực Nhà Rồng (vị trì cũ): dọc sông Tàu Hủ với 3 cầu tàu cho tàu nước ngoài.
Khu vực Khánh Hội: dài 1.25 km với 11 cầu tàu cho tàu nước ngoài.
Khu vực Chợ Cá: 3 cầu tàu và 2 bến.
Đến năm 1939, Sài Gòn trở thành cảng đứng hàng thứ 7 trong số các thương cảng của Đế quốc Pháp, vận chuyển 3.000.000 tấn trong đó 2.000 tấn xuất-nhập hàng hóa tàu biển thuộc mọi quốc tịch.
Vào giữa thập niên 1960 dưới thời Việt Nam Cộng hòa kho Cảng Sài Gòn có diện tích 73.799m² với năng suất chứa 45.000 tấn hàng hóa. |
cảng sài gòn | 3 | Vào giữa thập niên 1960 dưới thời Việt Nam Cộng hòa kho Cảng Sài Gòn có diện tích 73.799m² với năng suất chứa 45.000 tấn hàng hóa.
Từ ngày 25 tháng 7 năm 1975, Thương Cảng Sài Gòn đổi tên mới là Cảng Sài Gòn theo quyết định của Tổng cục trưởng Tổng cục đường biển. Cảng Sài Gòn có tổng diện tích là 475.000 m2, 3 bến xếp dỡ với chiều dài cầu tàu:
Bến Nhà Rồng (428 m)
Bến Khánh Hội (1,264 m)
Bến Tân Thuận (866.5 m)
và nhiều phao buộc neo dọc hai bên bờ sông.
Qua nhiều giai đoạn phát triển, ngày nay, Cảng Sài Gòn là một cảng quốc tế, cảng chính của miền Nam Việt Nam. Tổng diện tích mặt bằng là 570.000 m² gồm 5 bến cảng (Nhà Rồng, Khánh Hội, Tân Thuận I, Tân Thuận II và Cần Thơ) với 2.830 m cầu tàu, 250.000 m² bãi, và 80.000 m² kho hàng. Mới đây, Cảng Sài Gòn đã thực hiện thành công dịch vụ trung chuyển container, mở đường cho giai đoạn phát triển mới của ngành Hàng hải Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. |
cảng sài gòn | 4 | Ngày 16/5/2009, Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu chuyến di dời các cảng trong hệ thống cảng Sài Gòn ra cảng Hiệp Phước (Nhà Bè) và sau đó sẽ hình thành nên 1 Khu đô thị cảng Hiệp Phước hiện đại. Ngoài ra cũng trong tháng 5/2009, Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu nạo vét luồng Soài Rạp (trong hệ thống sông Đồng Nai) sâu đến 9m trong năm 2010 để khi cảng Hiệp Phước đưa vào hoạt động sẽ có thể đón các tàu 50.000 tấn (DWT) và sau 2010 sẽ nạo vét sâu đến hơn 12m để có thể đón các tàu 70.000 tấn (DWT) qua đó có thể nâng công suất của cảng Hiệp Phước lên đến 250 triệu tấn/1 năm. Dự kiến đây sẽ là khu cảng hiện đại nhất Việt Nam cùng với cảng Cát Lái và Cái Mép-Thị Vải. |
cảng sài gòn | 5 | == Nhiệm vụ ==
Phát triển bền vững như Cảng hàng đầu của đất nước, cửa ngõ hàng hải chính của nước Việt Nam đi đến các nước trong khu vực và trên thế giới.
== Mục tiêu ==
Cải tiến các tiêu chuẩn dịch vụ so với các cảng khác trong khu vực
Phát triển và khai thác cảng nước sâu như là Cảng chiến lược quốc gia ở miền Nam Việt Nam
== Quan hệ quốc tế ==
Thành viên của Hiệp hội Cảng biển Quốc tế (IAPH).
Thành viên của Hiệp hội Cảng biển Việt Nam (VPA)
Thành viên chính của VPA tham gia vào các hoạt động của Hiệp hội Cảng biển ASEAN (APA).
Các Cảng kết nghĩa: Trạm Giang (Trung Quốc), Osaka (Nhật Bản), Los Angeles (Hoa Kỳ). |
cảng sài gòn | 6 | == Truyền thống của Cảng Sài Gòn ==
Với lịch sử phát triển lâu dài, Cảng Sài Gòn đã khẳng định được truyền thống hoạt động và cống hiến tốt đẹp của mình vì lợi ích của khách hàng và từ đó góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
Với nhiệm vụ xuất sắc và sự cống hiến hiệu quả của Cảng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, Cảng Sài Gòn đã được Chính phủ tặng Danh hiệu Anh hùng Lao động.
Ngày 5 tháng 6 được chọn làm ngày truyền thống của Cảng Sài Gòn. Ngày này được chọn để tưởng nhớ ngày Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911 tại Bến Nhà Rồng.
== Tham khảo ==
Choinski, Walter Frank. Country Study: Republic of Vietnam. Washington, DC: The Military Asistance Institute, 1965.
Quyết định số 2190/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2009 của Chính phủ Việt Nam về việc phê duyệt quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. |
ký hiệu hóa học | 0 | Ký hiệu hóa học là ký hiệu quốc tế của một nguyên tố theo IUPAC. Những ký hiệu này được là viết tắt của tên nguyên tố theo tiếng La Tinh hay Hy Lạp. Một số nguyên tố được lấy tên theo các nhà khoa học phát hiện ra nó hay để ghi nhận sự cống hiến của họ cho khoa học và cho nhân loại.
Nếu ký hiệu gồm 2 chữ cái thì chữ đầu tiên được viết hoa, chữ còn lại viết thường.
Ví dụ:
H: tiếng La tinh Hydrogenium (tạo nước)
Ac: tiếng Hy Lạp Aktína (phóng xạ)
Es: lấy tên theo Albert Einstein
Cm: lấy tên theo Marie Curie
Chú ý: Co và CO là ký hiệu cho những chất khác nhau, Co là ký hiệu nguyên tố coban trong khi CO là hợp chất giữa cacbon và ôxy: mônôxít cacbon
== Xem thêm ==
Tên các nguyên tố
Bảng tuần hoàn
== Tham khảo == |
người | 0 | Loài người (theo phân loại học là Homo sapiens, tiếng La-tinh nghĩa là "người thông thái" hay "người thông minh", nên cũng được dịch sang tiếng Việt là trí nhân) là loài duy nhất còn sống của tông Hominini, thuộc lớp động vật có vú. Con người là một loài sinh vật có bộ não tiến hóa rất cao cho phép thực hiện các suy luận trừu tượng, ngôn ngữ và xem xét nội tâm. Điều trên kết hợp với một cơ thể đứng thẳng cho phép giải phóng hai chi trước khỏi việc di chuyển và được dùng vào việc cầm nắm, cho phép con người dùng nhiều công cụ hơn tất cả những loài khác. |
người | 1 | Cũng như những loài linh trưởng khác, con người là một sinh vật xã hội, sống bầy đàn, có sự phân thứ bậc nhất định xác định từ cọ xát và truyền thống. Hơn thế nữa, con người cũng rất thành thạo việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, để biểu lộ những ý kiến riêng của mình và trao đổi thông tin. Con người tạo ra những xã hội phức tạp trong đó có những nhóm hỗ trợ nhau và đối nghịch nhau ở từng mức độ, có thể từ những cá nhân trong gia đình cho đến những quốc gia rộng lớn. Giao tiếp xã hội giữa con người và con người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên những nền tảng của xã hội loài người. Con người cũng rất chú ý đến cái đẹp và thẩm mỹ, cùng với nhu cầu muốn bày tỏ mình, đã tạo nên những sự đổi với về văn hóa như nghệ thuật, văn chương và âm nhạc. |
người | 2 | Con người cũng được chú ý ở bản năng muốn tìm hiểu mọi thứ và điều khiển tự nhiên xung quanh, tìm hiểu những lời giải thích hợp lý cho những hiện tượng thiên nhiên qua khoa học, tôn giáo, tâm lý và thần thoại. Bản năng tò mò đó đã giúp con người tạo ra những công cụ và học được những kĩ năng mới. Trong giới tự nhiên, con người là loài duy nhất có thể tạo ra lửa, nấu thức ăn, tự may quần áo, và sử dụng các công nghệ kỹ thuật trong đời sống. |
người | 3 | == Thuật ngữ ==
Trong tiếng Việt, một người đàn ông nhỏ tuổi thường được gọi là "cậu bé", người đàn ông trưởng thành là "ông", "anh",... trong khi một người phụ nữ nhỏ tuổi được gọi là "cô bé" và một phụ nữ trưởng thành là "bà", "chị",...
== Sinh lý học == |
người | 4 | Hình dạng con người về căn bản rất khác nhau. Mặc dầu phần lớn được quy định bởi các gene, môi trường xung quanh vẫn có một ảnh hưởng rất lớn đến hình dáng như chế độ ăn uống và luyện tập. Một người Việt Nam có chiều cao trung bình của nữ là 1,53 m và nam là 1,64 m trong khi một người Bắc Mỹ lại có chiều cao ở nữ là 1,62 m và ở nam là 1,75 m |
người | 5 | Con người cũng là một động vật hoàn toàn di chuyển bằng hai chân sau, vì vậy, hai chi trước (được gọi là tay) có thể tự do linh động và dùng vào những việc như cầm nắm một vật, được hỗ trợ bằng ngón tay cái. Tuy nhiên, cấu trúc bộ xương con người vẫn chưa hoàn toàn sẵn sàng cho việc giải phóng bằng hai tay, điều này khiến xương sống của con người cong lại thành dạng hình chữ S và tạo nên những khó khăn lúc về già. Mặc dù con người có vẻ như không có nhiều lông so với những loài linh trưởng khác nhưng con người lại có rất nhiều lông mọc ở phía trên đầu (còn gọi là tóc), dưới nách và xung quanh cơ quan sinh dục hơn cả loài tinh tinh. Điều khác biệt chính đó là lông của con người ngắn hơn và có ít màu sắc hơn, vì vậy khó thấy hơn. |
người | 6 | Màu tóc của con người và màu da được quyết định bởi sự hiện diện của các sắc tố có tên là melanin. Da của con người có thể có màu nâu đậm cho đến màu hồng, và tóc của con người có thể có màu vàng, màu nâu, cho đến đỏ. Một số khoa học gia cho rằng sự thay đổi màu da sang một màu tối là một cách của con người nhằm chống lại các tia cực tím vì melanin là một chất chống tia cực tím hiệu quả. Màu da của con người phần lớn là do các điều kiện địa lý xác định, và có sự liên quan đến cường độ và thời gian tiếp xúc với tia cực tím. Da con người sẽ có xu hướng đen đi (rám nắng) để phản ứng với tia cực tím. |
người | 7 | Một người bình thường cần ngủ ít nhất là trong khoảng 7 đến 8 tiếng đối với người lớn và 9 đến 10 tiếng đối với trẻ em, và những người già chỉ ngủ khoảng 6 đến 7 tiếng một ngày. Những ảnh hưởng không tốt sẽ xảy ra nếu không ngủ đủ giấc. Ví dụ, một người lớn nếu bị giảm thời gian ngủ xuống còn 4 tiếng một ngày sẽ cho thấy những bất thường liên quan đến mặt sinh lý và tâm thần, bao gồm mệt mỏi, cáu gắt, khó chịu. Trong xã hội hiện đại, có xu hướng người ta ngày càng ngủ ít hơn dẫn đến một "hội chứng mất ngủ" |
người | 8 | == Di truyền học ==
Con người là một động vật có cấu tạo tế bào đầy đủ. Mỗi tế bào người có 23 cặp nhiễm sắc thể, trong đó có 22 cặp nhiễm sắc thể thường và 1 cặp nhiễm sắc thể giới tính. Cũng giống như các động vật sinh sản hữu tính khác, thế hệ mới hình thành từ sự thụ tinh của tế bào sinh sản là trứng và tinh trùng, tạo ra hợp tử. Khi thụ tinh thì hợp tử thừa kế tế bào chất và các bào quan từ tế bào trứng của mẹ, trong đó có ADN ty thể hay mtDNA. Tinh trùng chỉ góp vào ADN nhiễm sắc thể, và bỏ lại các bào quan,... bên ngoài hợp tử. Khi đó mỗi người nhận được 23 nhiễm sắc thể từ cha và 23 nhiễm sắc thể từ mẹ, tạo thành 23 cặp. Riêng cặp nhiễm sắc thể giới tính ở nam là XY và ở nữ là XX, do đó, nhiễm sắc thể Y ở nam chỉ được nhận từ cha. Sự kết hợp của cặp nhiễm sắc thể giới tính X và Y cũng khác với ở cặp nhiễm sắc thể thường, là có vùng không tái tổ hợp (NRY) và chỉ tồn tại ở nhiễm sắc thể Y (hay Y-ADN). |
người | 9 | Đặc tính vùng không tái tổ hợp của nhiễm sắc thể Y chỉ truyền theo bố, được sử dụng để xác định phả hệ theo bố cho các cá thể đực. Đặc tính ADN ty thể chỉ truyền theo mẹ được sử dụng để xác định phả hệ theo mẹ cho các cá thể cái. Những nghiên cứu về Y-ADN và mtDNA hiện có vai trò đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu sự tiến hóa và phát tán của các quần thể người và của loài người nói chung.
Khoa học ngày nay cho thấy con người có trung bình 20.000-25.000 gene và có 98,4% số gene giống với loài động vật gần con người nhất: tinh tinh. Giống như những loài có vú khác, con người có hệ thống xác định giới tính XY, vì vậy, phụ nữ sẽ có nhiễm sắc thể giới tính là XX và đàn ông là XY. Nhiễm sắc thể X lớn hơn và mang nhiều gene hơn nhiễm sắc thể Y, do đó, nhiều bệnh di truyền liên quan đến nhiễm sắc thể X như bệnh máu không đông, ảnh hưởng nhiều đến đàn ông hơn. |
người | 11 | Vòng đời sinh học của con người bắt đầu từ khi nhau thai hình thành. Qua quá trình thụ tinh (ở con người là thụ tinh trong), một con người mới hình thành. Trứng thường được thụ tinh trong cơ thể phụ nữ cùng với tinh trùng của đàn ông qua quá trình giao hợp, hay như một trong những tiến bộ khoa học gần đây là quá trình thụ tinh trong ống nghiệm cũng thường được sử dụng. Trứng đã được thụ tinh phân chia liên tục trong tử cung người phụ nữ và trở thành một bào thai. Sau một khoảng thời gian kéo dài khoảng 38 tuần, bào thai đó sẽ dần dần phát triển trở thành một con người thực thụ. Vào thời điểm được sinh ra, bào thai phát triển đầy đủ sẽ ra khỏi cơ thể người phụ nữ và bắt đầu tự hít thở, và được gọi là "trẻ sơ sinh". Vào thời điểm này, hầu hết những xã hội hiện đại đều công nhận đứa bé ấy là một người và được bảo vệ trước pháp luật, tuy nhiên một số khác thừa nhận quyền con người của đứa bé khi nó còn là một đứa bé trong tử cung người mẹ. |
người | 12 | So với những loài động vật khác, việc sinh nở của con người phức tạp hơn hẳn, được coi là hệ quả của sự gia tăng kích thước hộp sọ. Những cơn đau kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ hay hơn thế nữa không hiếm, và cũng có thể dẫn đến chấn thương hay cả cái chết đến cho đứa bé hay người mẹ. Mặc dù khả năng đó đã giảm đi rất nhiều trong thế kỉ 20 và 21 trong những nước phát triển vì sự phát triển những kĩ thuật hỗ trợ sinh sản mới. Sinh sản tự nhiên, tuy có độ nguy hiểm rất cao, nhưng cũng rất phổ biến trong những vùng chưa phát triển trên thế giới. |
người | 13 | Con người sau khi được mang thai khoảng 9 tháng thì có cân nặng khoảng 3–4 kg và cao 50–60 cm. Sau đó, chúng tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo và đạt đến sự phát triển sinh dục nhất định. Trẻ em gái thường tiếp tục phát triển đến năm 18 tuổi, trong khi trẻ em trai lại tiếp tục phát triển đến năm 21 tuổi. Cuộc sống của một người có thể được chia thành những giai đoạn quan trọng sau: sơ sinh, thiếu nhi, dậy thì, thanh niên, trưởng thành và già. Tuy nhiên, độ dài của những giai đoạn trên luôn không rõ ràng, nhất là giai đoạn cuối. |
người | 14 | Có những ý kiến khác nhau về tuổi thọ trên Trái Đất. Ở những nước đã phát triển, người ta ngày càng già đi, với độ tuổi trung bình ở mức xấp xỉ 40 tuổi (cao nhất là ở Monaco với mức 45,1 tuổi), nhưng ở những nước thuộc thế giới thứ ba thì độ tuổi trung bình lại là 15-20 tuổi (thấp nhất là ở Uganda với mức 14,8 năm). Tuổi thọ trung bình của con người được ước tính là 77,2 vào năm 2001 ở Hoa Kỳ. Tuổi thọ trung bình ở Singapore là 84,29 năm ở nữ và 78,96 năm đối với nam, trong khi ở Botswana, do dịch bệnh AIDS đang hoành hành tại đây cho nên tuổi thọ chỉ ở mức 30,99 năm với nam và 30,53 năm đối với nữ. Cứ năm người châu Âu thì sẽ có một người sống thọ nhưng phải 20 người châu Phi thì mới có một người sống được hơn 60 tuổi. |
người | 15 | Số người có tuổi thọ trên 100 trên thế giới được Liên Hiệp Quốc ước tính là khoảng 210.000 vào năm 2002.. Tuổi thọ lớn nhất ở con người là khoảng 120 năm (cụ Jeanne Calment đã sống được 122 năm 164 ngày). Trên toàn thế giới, cứ 81 người đàn ông có tuổi thọ trên 60 tuổi thì có 100 phụ nữ như thế. Và trong số những người thọ nhất thì tỉ lệ đó là 53 nam: 100 nữ.
Một câu hỏi khác là khi nào con người bắt đầu nhận thức và nó sẽ trở nên như thế nào sau khi chết vẫn còn đang được tranh cãi. Nỗi lo sợ cái chết khiến hầu hết loài người cảm thấy bất an và lo sợ. Những lễ chôn cất thường được tổ chức rất trọng thể trong xã hội loài người thể hiện một lòng tin về sự sống sau cái chết hay sự bất tử. |
người | 16 | == Chủng tộc ==
Con người thường tự phân loại họ thành những chủng tộc khác nhau, mặc dù những bằng chứng khoa học chứng minh về chủng tộc còn gây nhiều tranh cãi. Con người thường phân loại chủng tộc dựa vào tổ tiên hay đặc điểm sinh học, đặc biệt là màu da và những đặc điểm khác trên mặt; ngoài ra còn có các đặc điểm khác như ngôn ngữ, văn hóa và quốc gia mà họ đang sinh sống. Sự hình thành các chủng tộc có thể dẫn đến các cách hành xử khác nhau và những sự phân biệt khác nhau đối với người từ chủng tộc khác, dẫn đến thuyết phân biệt chủng tộc. Do đó, một số xã hội đặt nặng những định kiến của mình về những xã hội khác, trong khi một số khác lại không.
== Tiến hóa == |
người | 17 | Nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người cũng là nghiên cứu sự phát triển của chi Homo, nhưng đôi khi nó cũng có liên quan đến những sinh vật khác thuộc họ Hominidae hay phân họ Homininae. "Con người hiện đại được giới khoa học cho vào phân loài Homo sapiens sapiens, và là một mở rộng của loài Homo sapiens. Ngoài ra, trong loài Homo sapiens còn có một phân loài khác ngày nay đã tuyệt chủng mang tên Homo sapiens idaltu (nghĩa là "người thông minh ra đời trước"). |
người | 18 | Loài mang quan hệ gần nhất đối với Homo sapiens là loài tinh tinh và loài tinh tinh lùn. So sánh các sơ đồ gen cho kết quả là "sau 6,5 triệu năm tiến hóa theo những con đường khác nhau, sự khác nhau giữa tinh tinh và con người gấp 10 lần sự khác nhau giữa hai người không có quan hệ gì với nhau nhưng vẫn nhỏ hơn 10 lần so với một con chuột bạch và một con chuột thường". Tuy nhiên trên thực tế, số gen con người giống tinh tinh đến 96%. Người ta cho rằng con đường tiến hóa giữa con người đã đi theo một hướng khác với tinh tinh vào khoảng 5 triệu năm trong khi đối với khỉ đột là 8 triệu năm. Tuy nhiên, một hộp sọ của loài linh trưởng Sahelanthropus tchadensis được cho là khoảng 7 triệu năm tuổi, có thể nó của một tổ tiên xa hơn của chúng ta. |
người | 19 | Có hai lý thuyết khoa học về sự hình thành nguồn gốc con người hiện đại. Tất cả đều có liên quan đến quan hệ giữa con người và những loài linh trưởng khác. Thuyết một nguồn gốc từ châu Phi cho rằng tất cả loài người hiện đại đều tiến hóa ở châu Phi và về sau, con người sinh sản nhanh lấn chiếm các loài linh trưởng khác trên tất cả mọi nơi trên thế giới. Thuyết nguồn gốc đa vùng cho rằng sự tiến hóa của loài người diễn ra riêng lẻ ở những quần thể Homo erectus tại các vùng khác nhau.
Những nhà di truyền học Lynn Jorde và Henry Harpending của trường đại học Utah đã cho rằng sự khác biệt ADN của hai người vẫn còn rất nhỏ so với ở loài khác, và trong suốt thế Pleistocen, số lượng con người bị giảm xuống rất nhiều, chỉ còn khoảng 10.000 cặp dẫn đến một số lượng rất nhỏ gen được di truyền. Một số nguyên nhân khác cho vấn đề này cũng đã được nêu ra, trong đó nổi bật nhất là thuyết thảm họa Toba. |
người | 20 | Sự tiến hóa của con người được đánh dầu bằng những dấu hiệu sinh học khác nhau, bao gồm sự phát triển của hộp sọ và cả bộ não lên đến mức 1.400 cm³; về thể tích, cao hơn gấp đôi tinh tinh hay khỉ đột. Những phần của bộ não con người cũng phát triển khác so với các loài linh trưởng khác cho phép xuất hiện thêm phần ngôn ngữ. Những nhà khoa học đang tranh luận về sự quan trọng của cấu trúc bộ não trên cả kích thước bộ não. Một trong những tiến hóa lớn là số răng nanh giảm, hình thành những di chuyển bằng hai chân, sự hình thành của dây thanh và hộp âm giúp phát triển tiếng nói. Ngành nhân loại học vẫn còn nhiều tranh cãi về những tiến hóa và vai trò của chúng thực sự trên một con người hiện đại. |
người | 22 | Các nhà nhân chủng học hiện đại đang chấp nhận rộng rãi rằng loài Homo sapiens được hình thành ở những đồng cỏ châu Phi khoảng 200.000 đến 250.000 năm về trước, là hậu duệ của loài Homo erectus, tiếp tục mở rộng lãnh địa cư trú và rồi thống trị lục địa Á-Âu và khu vực Thái Bình Dương vào khoảng 40.000 năm về trước, cuối cùng là châu Mỹ vào 10.000 năm trước, tức là theo thuyết một nguồn gốc từ châu Phi. Chúng thay thế loài Homo neanderthalensis và loài Homo floresinesis vốn cũng là những hậu duệ khác của loài Homo erectus (chúng đã phát triển khắp lục địa Á-Âu vào hơn 2 triệu năm trước) do có sức sinh sản tốt hơn và tìm kiếm thức ăn tốt hơn. |
người | 23 | Những người thượng cổ thường kiếm sống bằng cách săn bắt-hái lượm, một lối sống rất phù hợp với những vùng đồng cỏ châu Phi. Một số nhóm người về sau bắt đầu sống lối sống du mục và thường hay bắt thú vật để nuôi lấy thịt. Về sau nữa, khi lối sống định cư phát triển thì nền nông nghiệp cũng ra đời. Những khu vực định cư chính của con người phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước, vào lối sống, vào tài nguyên thiên nhiên (như đất đai có phù hợp để gieo trồng hay không, có nhiều cỏ để chăn nuôi hay không, có nhiều thú để săn bắt hay không). Tuy nhiên, con người lại có khả năng thay đổi nơi cư trú của họ bằng các phương tiện vận chuyển khác nhau. Do đó, sự thay đổi môi trường là nhân tố chủ yếu khiến con người thay đổi nơi cư sinh sống. |
người | 24 | Khoa học kĩ thuật đã cho phép con người thống trị tất cả những lục địa và sinh tồn ở bất cứ thời tiết. Trong những thập niên gần đây, con người đã thám hiểm Nam Cực, dưới biển sâu và ngay cả không gian vũ trụ, mặc dù cư trú lâu dài ở những vùng như thế là chưa hoàn toàn có thể. Với dân số khoảng 6 tỉ người, con người là loài đông nhất trong số những loài động vật có vú. Phần lớn người (61%) sống ở châu Á, phần còn lại chia đều cho châu Mỹ (14%), châu Phi (13%) và châu Âu (12%). châu Đại Dương chiếm 0,5% (xem thêm danh sách các quốc gia theo dân số và danh sách các quốc gia theo mật độ dân số). |
người | 25 | Sự tồn tại của con người ở những vùng vốn có điều kiện khắc nghiệt đối với cuộc sống như Nam Cực hay ngoài không gian rất hạn chế về mặt thời gian và chỉ tồn tại ở những lĩnh vực thám hiểm, nghiên cứu khoa học, quân sự và công nghiệp. Nhất là sự sống trên không gian vũ trụ, trong quá khứ và hiện tại, chưa có quá 13 người từng sống trên không gian cùng lúc. Giữa năm 1969 và 1972, chỉ có 2 người bước đi cùng lúc trên Mặt Trăng. Đến năm 2006, chưa có một thiên thể tự nhiên nào khác có bước chân của con người ngoại trừ Mặt Trăng mặc dù luôn có con người hiện diện trên trạm không gian quốc tế từ ngày 31 tháng 10 năm 2000. Từ năm 1800 đến 2000, dân số con người đã tăng lên 6 lần: từ 1 tỉ lên 5 tỉ. Vào năm 2004, khoảng 2,5 tỉ trên 6,3 tỉ người (39.7%) sống trong những vùng nông thôn, và con số này sẽ tăng mạnh trong thế kỉ 21. Vấn đề mà những người trong những đô thị lớn đang gặp phải là ô nhiễm, tội ác và nghèo đói, nhất là ở trung tâm và những khu vực vùng ven. |
người | 27 | Sự cần thiết phải nạp vào cơ thể thường xuyên một lượng thức ăn và nước uống thể hiện một phần văn hóa loài người, và dẫn đến một ngành khoa học thức ăn. Khi không tìm kiếm đủ thức ăn sẽ dẫn đến tình trạng đói và không tìm kiếm đủ nước uống sẽ dẫn đến tình trạng khát. Cả đói và khát đều có thể dẫn đến cái chết nếu không được giải quyết kịp thời. Bình thường, một người có thể sống được từ 2 đến 8 tuần không cần thức ăn, chỉ dựa vào lượng mỡ dự trữ trong cơ thể, nhưng chỉ tối đa 3 đến 4 ngày không có nước. Trong xã hội hiện đại, hiện tượng béo phì đang tăng nhanh trong dân số đến mức có thể gọi đó là một dịch bệnh, gây những vấn đề lớn đến sức khỏe của con người và gây giảm tuổi thọ ở những nước phát triển và ngay cả ở những nước đang phát triển. Trung tâm điều khiển dịch bệnh quốc gia Hoa Kỳ cho thấy 32% người lớn trên 20 tuổi là béo phì, trong số 66.5% người thừa cân. Béo phì được tin là do một số nguyên nhân khác nhau gây ra mà một trong số đó là ăn quá nhiều. |
người | 28 | Người là một loài ăn tạp, nghĩa là một loài có thể ăn cả động vật và cả thực vật. Loài người cổ Homo sapiens là những thợ săn- người hái lượm và đó là cách chính để tìm kiếm thức ăn, kết hợp giữa việc hái những loài thực vật mọc quanh, nấm, trái cây và lao vào cuộc chơi đi săn hay bị săn. Một số người hiện đại chọn con đường ăn chay vì những lý do khác nhau. Họ từ chối ăn thịt vì những lý do tôn giáo, đạo đức, và sức khỏe. Người ta tin rằng loài người đã biết dùng lửa để chuẩn bị thức ăn và bắt đầu ăn thức ăn chín từ khi họ hoàn toàn tách ra khỏi loài Homo erectus hay có thể sớm hơn. |
người | 29 | Khoảng 10.000 năm trước, con người bắt đầu phát triển nông nghiệp, bắt đầu thay đổi gần như hoàn toàn những gì con người đã ăn trước đây. Điều này dẫn đến việc gia tăng dân số, sự hình thành những thành phố lớn và cùng với sự gia tăng mật độ dân số cũng là sự gia tăng các bệnh truyền nhiễm. Các loại thức ăn được chế biến và dùng như thế nào cũng rất khác nhau tùy theo thời gian, vị trí và nền văn hóa. Thế kỉ 18 đến 20 đã tạo ra những phát minh rất lớn về chế biến, bảo quản, lưu trữ và vận chuyển thức ăn. Ngày nay, hầu hết bất cứ nơi nào trên thế giới người ta không chỉ có thể thưởng thức những món ăn truyền thống của nước họ mà còn từ nhiều nước khác nhau. |
người | 31 | Bộ não của con người là trung tâm của những phản xạ của con người, điều khiển hầu hết những hoạt động của con người. Bộ não điều khiển những phản xạ không điều kiện như điều khiển nhịp tim, tiêu hóa thức ăn,... và cả những phản xạ có điều kiện có ý thức như suy nghĩ, suy luận, lý luận, trừu tượng. Bộ não con người được cho là trung tâm của những hành động có ý thức bậc cao và "thông minh" hơn những loài khác. Trong khi ở những loài động vật khác thì việc sử dụng công cụ gần như là một bản năng, hay cũng chỉ là một sự bắt chước thì kĩ thuật ở con người thì hoàn toàn phức tạp hơn, luôn bao gồm những cải tiến. Ngay cả những công cụ trong xã hội cổ của loài người cũng vô cùng hiện đại hơn bất cứ những công cụ do các loài động vật khác sử dụng. |
người | 32 | Khả năng suy luận trừu tượng của con người có thể là duy nhất trong giới động vật. Con người là một trong số 6 loài vượt qua bài kiểm tra gương (nhận ra bản thân ở trong gương); trong khi 5 loài còn lại là tinh tinh, tinh tinh lùn, khỉ không đuôi, cá heo và bồ câu. Tuy nhiên, những người dưới 2 tuổi hầu hết đều không vượt qua bài kiểm tra gương như trên.. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng đây là cách phân loại riêng của loài người nhằm thể hiện rằng con người có ý thức về bản thân, trên thực tế nó kiểm tra trí nhớ + thị giác mà thôi. Các loài khác nhau đều có cách này hoặc cách khác để giao tiếp với nhau, và có thể có ý thức ở mức độ nào đó mà loài người vẫn chưa hiểu hết được. Cuộc tranh luận về ý thức của loài người là duy nhất hay không đến nay vẫn còn chưa xác định bằng chứng rõ rệt. Một số nhà sinh học cho rằng loài người chỉ là một trong số hàng triệu phiên bản nhánh tiến hóa trong chủng loài trên Trái Đất và vẫn có thể có khiếm khuyết buộc phải tiến hóa thích nghi, hoặc |
người | 33 | rệt. Một số nhà sinh học cho rằng loài người chỉ là một trong số hàng triệu phiên bản nhánh tiến hóa trong chủng loài trên Trái Đất và vẫn có thể có khiếm khuyết buộc phải tiến hóa thích nghi, hoặc bị tuyệt chủng như bất kỳ loài vật nào trên thế giới. Rằng lịch sử con người trải qua chỉ chừng 5 -10 triệu năm trong khi có những chủng loài khác đã tồn tại qua những đoạn thăng trầm nhất của lịch sử Trái Đất như loài gián, loài cá mập,... từ rất lâu trước khi con người tồn tại. Vì vậy còn quá sớm để nghĩ rằng ý thức của loài người là tiến bộ nhất, nói như tiến hóa "tồn tại, thích nghi được mới là kẻ mạnh. Phát triển vượt bậc, nhưng không thích nghi thay đổi sẽ bị tự tiêu diệt". |
người | 34 | Bộ não con người cảm nhận thế giới qua các giác quan, và mỗi người bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những kinh nghiệm của họ, dẫn đến nhận thức sự hiện hữu của bản thân và thời gian. Một số nhà khoa học thậm chí còn cho rằng con người không hề có ý nghĩ, mà nó chỉ là kết quả của một số quá trình cảm nhận từ bên trong hay từ bên ngoài, giống như những phần mềm đang chạy song song trên máy tính. Con người đã nghiên cứu rất nhiều về ảnh hưởng của trí tuệ và bộ não, bằng chứng là sự ra đời những môn học như thần kinh học để nghiên cứu những vấn đề về hệ thần kinh, tâm lý học để nghiên cứu những khía cạnh biểu hiện về hình thức bên ngoài, và đôi khi có thể kể thêm môn thần kinh học, một môn học tìm cách chữa những chứng bệnh có liên quan đến những hành vi cư xử bất thường. Môn tâm lý học không quan tâm chú trọng nhiều đến cấu trúc bộ não mà chỉ chú ý nhiều đến quá trình xử lý thông tin của bộ não. Trong thời đại ngày nay, nhờ vào những cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ về cấu trúc bộ não con người |
người | 35 | tâm chú trọng nhiều đến cấu trúc bộ não mà chỉ chú ý nhiều đến quá trình xử lý thông tin của bộ não. Trong thời đại ngày nay, nhờ vào những cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ về cấu trúc bộ não con người đã giúp cho con người phát triển những ngành khoa học đầy triển vọng khác như trí thông minh nhân tạo,... |
người | 36 | Quá trình suy nghĩ của con người là trung tâm của ngành tâm lý học và những ngành khác có liên quan. Ngành tâm lý học nhận thức nghiên cứu về sự nhận thức của con người, quá trình mà con người suy nghĩ để dẫn đến một hành vi nào đó. Những khía cạnh khác như cảm giác, khả năng học hỏi, giải quyết vấn đề, trí nhớ, sự tập trung, ngôn ngữ và cả cảm xúc cũng được nghiên cứu rất kĩ càng. Những tiến bộ trong ngành tâm lý học nhận thức được áp dụng rất rộng rãi trong những lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Với mục tiêu chính là nghiên cứu sự hình thành tâm lý của con người trong cả cuộc đời, ngành tâm lý học phát triển tìm hiểu cách mà con người hiểu được và phản ứng lại với thế giới xung quanh và sự thay đổi khả năng đó theo thời gian. Ngành này cũng tập trung nhiều đến vấn đề trí thông minh, tính xã hội, sự đạo đức, nhân đạo của một người. Ngành tâm lý học xã hội tìm cách liên kết xã hội học với tâm lý học bằng cách cùng nhau chia sẻ những sự tương đồng và nguồn gốc của những hành vi của |
người | 37 | tính xã hội, sự đạo đức, nhân đạo của một người. Ngành tâm lý học xã hội tìm cách liên kết xã hội học với tâm lý học bằng cách cùng nhau chia sẻ những sự tương đồng và nguồn gốc của những hành vi của con người trong xã hội và cũng nhấn mạnh về vấn đề giao tiếp của con người. Ngoài ra còn có môn tâm lý học tiến hóa để nghiên cứu về hành vi của tất cả con người và loài vật |
người | 38 | == Tham khảo ==
== Liên kết ngoài ==
Con người tại Từ điển bách khoa Việt Nam
Homo sapiens tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
Người tại Encyclopedia of Life
Người tại trang Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học quốc gia Hoa Kỳ (NCBI).
Người 180092 tại Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS).
Linnaeus (1758). “Homo sapiens”. Sách đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2012. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.
Con người và Thiên nhiên
== Xem thêm ==
Lịch sử loài người
Nhân quyền |
thành phố méxico | 0 | Thành phố México (tiếng Tây Ban Nha: Ciudad de México) hay Đặc khu Liên bang (Distrito Federal), là thủ đô của México. Thành phố này cũng là đô thị lớn nhất México cũng như tại châu Mỹ và là trung tâm của một vùng đô thị lớn thứ ba thế giới về quy mô dân số, sau vùng đô thị Seoul và Tokyo. Đây là một thực thể liên bang của México và không thuộc bất kỳ bang nào trong tổng số 31 bang của đất nước. Thành phố México là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng nhất của đất nước.
Thành phố México là một thành phố toàn cầu . Đây là một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất tại Bắc Mỹ. Thành phố nằm trên Thung lũng México, một thung lũng lớn trên một cao nguyên ở trung tâm của đất nước México với độ cao trung bình 2.240 mét (7350 ft).
== Lịch sử ==
=== Thời kỳ Aztec === |
thành phố méxico | 1 | Thành phố mà nay là thủ đô của đất nước México vốn được thành lập bởi những người da đỏ Mexica, hay còn gọi là người Aztec. Thành phố Mexica cổ nay được đề cập đến là Tenochtitlan. Mexica là một nơi cuối cùng của những người nói tiếng Nahuatl, những người đã di cư đến sau sự sụp đổ của Đế chế Toltec. Sự hiện diện của họ đã gặp phải sự chống đối của những cư dân bảm địa trong thung lũng, nhưng người Mexica đã thành lập dược một thành phố trên một hòn đảo nhỏ ở phần phía tây của hồ Texcoco. Bản thân người Mexica có hẳn một câu truyện về cách mà thành phố của họ được xây dựng, sau khi dược Đấng tối cao Huitzilopochtli dẫn đường đến hòn đảo. Theo câu truyện, đấng tối cao đã cho biết quê hương mới của họ bằng một tín hiệu, một con đại bàng đã đậu trên một cây xương rồng với một con rắn trên mỏ của nó. Giữa các năm 1325 và 1521, Tenochtitlan đã phát triển cả về kích cỡ cũng như thực lực, cuối cùng đã chi phối các thành bang khác quanh hồ Texcoco, và tại Thung lũng México. Khi người Tây Ban |
thành phố méxico | 2 | của nó. Giữa các năm 1325 và 1521, Tenochtitlan đã phát triển cả về kích cỡ cũng như thực lực, cuối cùng đã chi phối các thành bang khác quanh hồ Texcoco, và tại Thung lũng México. Khi người Tây Ban Nha đến, Đế chế Aztec đã có phạm vi vươn tới nhiều nơi ở Trung Mỹ, giáp cả vịnh México cũng như Thái Bình Dương. |
thành phố méxico | 4 | Sau khi hạ thủy ở Veracruz, Hernán Cortés đã nghe nói về một thành phố vĩ đại và cả những kình địch cũng như bất bình với thành phố này. Mặc dù Cortés đến Mexico chỉ với một đội quân nhỏ, ông ta đã có thể thuyết phục nhiều người dân bản địa cùng với ông ta tiêu diệt Tenochtitlan. Cortés đã lần đầu nhìn thấy Technochtitlan vào ngày 8/11/1519. Do mới nhìn thấy thành phố lần đầu, Cortés và những người lính của ông đã sững sờ vì vẻ đẹp và quy mô của thành phố. Những người Tây Ban Nha hành quân dọc theo bờ đất chính để vào thành phố từ phía Iztapalapa. Mặc dù Montezuma đã đi ra khỏi trung tâm Tenochtitlan để chào đón họ và trao đổi quà biếu, sự thân thiết này đã không kéo dài lâu . Cortés đã quản thúc tại gia Montezuma và hy vọng quyền lực sẽ về tay ông . Căng thẳng tăng lên cho đến đêm ngày 30/6/1520, trong cuộc chiến thường được biết đến với tên gọi là "La Noche Triste", người Aztec đã nổi dậy chống lại sự xâm phạm của người Tây Ban Nha và đã bắt giam hoặc đuổi được những người châu Âu |
thành phố méxico | 5 | 30/6/1520, trong cuộc chiến thường được biết đến với tên gọi là "La Noche Triste", người Aztec đã nổi dậy chống lại sự xâm phạm của người Tây Ban Nha và đã bắt giam hoặc đuổi được những người châu Âu và những đồng minh người Tlaxcalan của họ. Cortés tái lập lực lượng ở Tlaxcala. Người Aztec sau đó đã bầu chọn vị vua mới Cuitláhuac nhưng ông đã chết sau đó vài tháng vì bệnh đậu mùa; vị vua tiếp theo là Cuauhtémoc. Cortéc đã quyết định bao vây Tenochtitlan vào tháng 5 năm 1521. Trong ba tháng, thành phố đã phải trải qua sự thiếu thốn về lương thực, nước sạch cùng như việc lây lan bệnh đậu mùa do những người châu Âu mang đến. Cortés và những đồng minh của ông đã đưa lực lượng của họ lên phía nam của hòn đảo và chiến đấu trong thành phố trên từng con phố, từng ngôi nhà . Cuối cùng, Cuahtémoc đã đầu hàng vào tháng 8 năm 1521 |
thành phố méxico | 6 | === Tái thiết ===
Người Tây Ban Nha trên thực tế đã san bằng Tenochtitlan. Cortés đầu tiên định cư tại Coyoacán, nhưng đã quyết định xây dựng lại Aztec để xóa bỏ tất cả các dấu tích xưa. Cortés không thiết lập một lãnh thổ độc lập mà xây dựng một lãnh thổ được chế ngự do ông là lãnh đạo duy nhất, ông ta vẫn trung thành với hoàng gia Tây Ban Nha. Phó vương đầu tiên của lãnh thổ mới đã đến Thành phố México 14 năm sau đó. Vào lúc đó, thành phố đã trở lại thành một thành bang, có sức mạnh vượt ra xa ranh giới của nó Mặc dù người Tây Ban Nha duy trì các bố trí cơ bản của Tenochtitlan, họ đã xây dựng các nhà thờ Công giáo lên trên các ngôi đến Aztec và tuyên bố cung điện hoàng gia cũ là của họ . Tenochtitlan được đổi tên thành "México" cho người Tây Ban Nha dễ dàng phát âm .
=== Thành phố thuộc địa === |
thành phố méxico | 7 | Thành phố phát triển cùng với sự gia tăng dân số, ngược lại là mực nước trong hồ. Thế kỷ 16 đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của các nhà thờ, nhiều trong số chúng vẫn còn tồn tại đến ngày nay và trở thành các di tích lịch sử. Về mặt kinh tế, thành phố México trở nên phồn thịnh là nhờ vào việc giao thương. Không giống như Brasil hay Peru, Mexcio có thể dễ dàng tiếp cận với cả các nước ở Thái Bình Dương cũng như Đại Tây Dương. Mặc dù hoàng gia Tây Ban Nha đã thử chỉnh đốn hoàn toàn tất cả ngành thương nghiệp trong thành phố, nhưng việc này đã chỉ thành công một phần . Một cách mà người Tây Ban Nha đã thử kiểm soát hoàn toàn là tôn giáo, nhưng sự thành công không được trọn vẹn. Người bản địa vẫn thi hành các phong tục của mình cùng với các nghi thức của Công giáo La Mã. |
thành phố méxico | 8 | Khái niệm về tầng lớp quý tộc phát triển ở Tân Tây Ban Nha theo một cách không giống như những nới khác ở châu Mỹ. Người Tây Ban Nha đã chạm trán với một xã hội mà ở đó khái niệm về tầng lớp quý tộc đã phản ánh chính họ. Người Tây Ban Nha tôn trọng những người bản địa thuộc tầng lớp quý tộc và gia nhập nó. Các thế kỷ tiếp theo, một danh hiệu quý tộc ở Mexico không có nghĩa là có quyền lực chính trị vô cùng lớn và quyền lực của một người bị hạn chế khi sự giàu có của họ không còn . Khái niệm về quý tộc ở México nói chung không liên quan đến địa vị chính trị nhưng phần nào vẫn là một xã hội Tây Ban Nha bảo thủ, dựa trên thế lực của gia đình. Hầu hết các gia đình này chứng tỏ giá trị của mình bằng việc thử vận may ở những vùng đất bên ngoài các thành phố ở Tân Tây Ban Nha, sau đó giành những thu nhập này cho thủ đô, xây dựng những nhà thờ, làm từ thiện và xây những cung điện nguy nga. Việc say mê xây dựng ngôi nhà sang trọng nhất có thể đã lên tới đỉnh vào nửa cuối của thế kỷ 18. Nhiều |
thành phố méxico | 9 | thu nhập này cho thủ đô, xây dựng những nhà thờ, làm từ thiện và xây những cung điện nguy nga. Việc say mê xây dựng ngôi nhà sang trọng nhất có thể đã lên tới đỉnh vào nửa cuối của thế kỷ 18. Nhiều căn nhà trong số đó vẫn còn cho tới nay, khiến cho thành phố México có biệt danh là "Thành phố của những cung điện" do Alexander Von Humboldt đặt. |
thành phố méxico | 11 | México tuyên bố độc lập vào năm 1821 sau khi ông cùng nghĩa quân của mình tiến vào thành phố. Trong khi đó việc từ chức của Iturbide đã giữ cho hầu hết các công trình cổ còn lại nguyên vẹn. México sau đó đã tuyên bố là một nước cộng hòa năm 1824 với thành phố México là thủ đô quốc gia . Tình trạng bất ổn kéo dài vài thế kỷ sau đó và là kết quả của các hành động vũ lực để kiểm soát đất nước. Quận Liên Bang México được thành lập bởi chính phủ mới và được ghi vào trong Hiến pháp mới, khái niệm về một quận liên bang được phỏng theo Hiến pháp Hoa Kỳ. Trước đó, thành phố Mexcico giữ vai trò là trung tâm chính quyền đầy đủ của cả Bang México và đất nước. Texcoco và sau đó là Toluca trở thành thủ phủ của Bang México. Trong chiến tranh Hoa Kỳ-México, các lực lượng Hoa Kỳ đã hành quân tới gần thành phố sau khi chiếm được Veracruz. Cuộc xung đột lên đến đỉnh điểm với việc đột kích của lực lượng Hoa Kỳ vào Lâu đài Chapultepec ở bên trong thành phố. Hiệp ước Guadalupe Hidalgo được ký tại nơi mà |
thành phố méxico | 12 | phố sau khi chiếm được Veracruz. Cuộc xung đột lên đến đỉnh điểm với việc đột kích của lực lượng Hoa Kỳ vào Lâu đài Chapultepec ở bên trong thành phố. Hiệp ước Guadalupe Hidalgo được ký tại nơi mà nay thuộc về phía cực bắc của thành phố. Các sự kiện như Chiến tranh Cải cách đã để lại một thành phố tương đối hoàn chỉnh và thành phố tiếp tục phát triển sau đó, đặc biệt là dưới thời Tổng thống Porfirio Díaz. Trong thới kỳ này, thành phố phát triển các cơ sở hạ tầng hiện đại như đường phố, trường học, hệ thống vận tải và truyền thông. Tuy nhiên, chế độ này chỉ tập trung tài sản vào tay một số người trong khi phần còn lại trong xã hội sống trong cảnh nghèo nàn. Tình trạng này đã dẫn đến cuộc Cách mạng Mexico. Hầu hết các biểu tượng cho giai đoạn này của thành phố là La decena trágica ("10 ngày bi thương"), một cuộc đảo chính chống lại Tổng thống Francisco I. Madero và Phó Tổng thống José María Pino Suárez. Victoria Huerta, Tổng chưởng lý của Quân đội Liên bang đã nắm lấy quyền lực và bắt |
thành phố méxico | 13 | bi thương"), một cuộc đảo chính chống lại Tổng thống Francisco I. Madero và Phó Tổng thống José María Pino Suárez. Victoria Huerta, Tổng chưởng lý của Quân đội Liên bang đã nắm lấy quyền lực và bắt hai người phải viết đơn từ chức. Cả hai sau đó bị giết trên đường đến nhà tù |
thành phố méxico | 15 | Lịch sử thành phố México từ thế kỷ 20 tới nay nổi bật bởi sự phát triển nhanh chóng cũng như về môi trường và chính trị của mình. Năm 1900, dân số thành phố México chỉ là 500.000 người . Thành phố bắt đầu phát triển nhanh về hướng tây trong những năm 1950 với việc Torre Latinoamericana là tòa cao ốc đầu tiên. Thế Vận Hội năm 1968 đem lại nhiều công trình thuận lợi cho việc tổ chức các sự kiện thể thao tầm cỡ. Năm 1969, hệ thống Tàu điện ngầm được khánh thành. Dân số thành phố México bùng nổ bắt đầu từ thập niên 1960, với những khu dân cư đông đúc kéo dài từ trong ranh giới thành phố cho đến tận Bang México lân cận, đặc biệt là ở phía bắc, tây bắc và đông bắc. Từ năm 1960 đến 1980, dân số thành phố đã tăng gấp đôi lên 8.831.079. Năm 1980, một nửa số người làm trong các ngành kỹ nghệ trong cả nước sống ở thủ đô. Với sự phát triển quá nóng, chính quyền thành phố chỉ cung cấp vừa đủ các dịch vụ cho người dân. Những người dân từ các vùng nông thôn đổ về thủ đô để mong thoát khỏi cành nghèo |
thành phố méxico | 16 | nước sống ở thủ đô. Với sự phát triển quá nóng, chính quyền thành phố chỉ cung cấp vừa đủ các dịch vụ cho người dân. Những người dân từ các vùng nông thôn đổ về thủ đô để mong thoát khỏi cành nghèo nàn cũng đã góp phần làm cho tình hình thành phố thêm xấu đi. Những người này không có nhà để ở và rốt cuộc họ phải tìm đến những vùng ngoại ô và tạo nên những khu ổ chuột rộng lớn. Vấn đề ô nhiếm không khí và nguồn nước của thành phố khá trầm trọng và thành phố này đang thấp dần vì nạn khai thác nước ngầm quá mức. Tình hình ô nhiếm đã được cải thiện ở một số khu vực cùng với các dự án của chính quyền như nâng cấp các loại phương tiện và hiện đại hóa như xe máy,ôtô... nói riêng |
thành phố méxico | 18 | Các chính quyền độc đoán đã cầm quyền ở thành phố Mexico từ Cách mạng đã dần trở nên khoan dung hơn, chủ yếu vì những phát triển kinh tế từ sau Thế chiến II. Tuy nhiên nhiều vấn đề về dân sinh cũng như môi trường còn có những bất cập. Ngày 19/9/1985, thành phố México đã bị tàn phá một trận động đất mạnh 8,1 độ richter. Mặc dù mức độ phá hủy cũng như thương vong không lớn như ở một số trận động đất khác trên thế giới, nó đã chứng tỏ sự yếu kém của hệ thống chính trị một đảng. Chính quyền đã bị tê liệt vì nạn quan liêu và tham nhũng, bắt buộc những người dân bình thường không chỉ phải tạo lập và điều khiển lẫn nhau để giải thoát mình mà còn phải tự nỗ lực tái thiết những ngôi nhà bị phá hủy. Sự bất bình này cuối cùng đã dẫn đường cho Cauhtémoc Cárdenas, một thành viên của Đảng Cách mạng Dân chủ trở thành thị trưởng đầu tiên thông qua bầu cử ở thành phố México vào năm 1997. Cárdenas đã hứa hẹn một chính quyền dân chủ hơn và đảng của ông đã tuyên bố một số thắng lợi trong việc chống lại |
thành phố méxico | 19 | chủ trở thành thị trưởng đầu tiên thông qua bầu cử ở thành phố México vào năm 1997. Cárdenas đã hứa hẹn một chính quyền dân chủ hơn và đảng của ông đã tuyên bố một số thắng lợi trong việc chống lại tội phạm, ô nhiễm, và các vấn đề chính khác. |
thành phố méxico | 21 | Thành phố Mêxico nằm trên thung lũng cùng tên, đôi khi cũng được gọi là Lòng chảo Mêxico. Thung lũng này nằm trên Vành đai Núi lửa Xuyên Mêxico nằm ở các cao nguyên có độ cao lớn tại phía nam của miền trung đất nước này.. Nơi thấp nhất của thung lũng có độ cao là 2.200 mét (7.217 ft) trên mực nước biển và được bao quanh bởi các ngọn núi cũng như một số núi lửa cao trên 5000 mét . Thung lũng này không có hệ thống sông nào để có thể thoát nước chảy từ những ngọn núi xuống nên thành phố có thể bị nạn lũ lụt đe dọa. Một hệ thống thoát nước nhân tạo được thiết lập bằng cách sử dụng các con kênh và đường hầm bắt đầu vào thế kỷ 17.. Thành phố chủ yếu nằm trên Hồ Texcoco và các hoạt động địa chấn thường xuyên xảy ra tại đây. Hồ nước này bị cạn nước dần từ thế kỷ 17 và khi nó đã cạn hết, thành phố đã được xây dựng trên nó với một nền đất sét bão hòa. Nền đất mềm của thành phố là nguyên nhân gây ra nhiều vụ sập nhà và từ khoảng đầu thế kỷ 20, thành phố đã bị lún trên 9 mét ở một số khu vực. |
thành phố méxico | 22 | phố đã được xây dựng trên nó với một nền đất sét bão hòa. Nền đất mềm của thành phố là nguyên nhân gây ra nhiều vụ sập nhà và từ khoảng đầu thế kỷ 20, thành phố đã bị lún trên 9 mét ở một số khu vực. Việc sụt lún của thành phố là nguyên nhân gây ra các vấn đề về quản lý nguồn nước như nạn ngập lụt, đặc biệt là trong mùa mưa. Các khu rừng còn lại của thành phố nằm ở các phía nam của các khu Milpa Alta, Tlalpan và Xochimilco. |
thành phố méxico | 24 | Thành phố Mexico có kiểu khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới. Khu vực htấp của thung lũng nhận được ít mưa hơn so với các khu vực thượng du ở phía nam; các khu thấp là Iztapalapa, Iztacalco, Venustiano Carranza và phần phía tây của khu Gustavo A. Madero, các khu này thường khô hơn và ấm hơn phần phía nam của các khu Tlalpan và Milpa Alta, có một khu rừng thông và sồi nằm trên rặng núi Ajusco.
Nhiệt độ trung bình của thành phố dao động từ 12˚C đến 16˚C (54 đến 61˚F), phụ thuộc vào độ cao của các khu. Nhiệt độ thấp nhất thường xuất hiện vào tháng 1 và tháng hai, có thể xuống thấp đến -2 đến -5˚C (28 đến 23˚F) và thường đi cùng với tuyết rơi ở vùng phía nam Ajusco, nhiệt độ cao nhất xuất hiện vào cuối xuân và hè và có thể lên trên 32˚C (90˚F). Mưa tập trung chủ yếu vào mùa hè và có thể xuất hiện mưa đá. Trung tâm thung lũng México hiếm khi có tuyết vào mùa đông. |
thành phố méxico | 25 | Khu vực Thung lũng México nhận được một hệ thống xoáy nghịch, nghĩa là các cơ gió yếu không thể phân tán, bên ngoài lòng chảo, không khí bị ô nhiễm vì có hàng vạn cơ sở công nghiệp và hàng triệu phương tiện giao thông thuộc Vùng đô thị cũng như tại các vùng xa hơn.
Khu vực nhận được 820 milimét (32,3 inch) lượng mưa trung bình năm, tập trung từ tháng 6 đến khoảng tháng 9 hay tháng 10 với hơi ẩm nhiệt đới thổi từ biển vào, các tháng mùa khô còn lại có rất ít hoặc thậm chí không có mưa, độ ẩm tương đối thấp. Mùa khô được phận ra thành thời kỳ lạnh từ tháng 11 đến tháng 2 và thời kỳ ấm từ tháng 3 đến tháng 5. |
thành phố méxico | 27 | Đặc khu Liên bang được chia thành 16 "delegaciones" hay các khu. Mặc dù các khu này chưa đủ chức năng để tương đương với một khu đô thị tự trị, song 16 khu này có một số quyền tự trị đáng kể. Từ năm 2000, người đứng đầu các khu đã được bầu theo hình thức phổ thông đầu phiếu (trước đó do Thị trưởng Quận Liên bang bổ nhiệm). Thành phố México được định nghĩa tương đương với Đặc khu Liên bang, hầu hết các dịch vụ công của thành phố được đáp ứng bởi Chính quyền Đặc khu Liên bang chứ không phải bởi chính quyền cấp khu, điều này ngược lại với các bang khác ở México vì chính quyền các đô thị tự trị thuộc các bang là cấp chủ yếu phục vụ các dịch vụ công. 16 khu của Đặc khu Liên bang là:
Álvaro Obregón
Azcapotzalco
Benito Juárez
Coyoacán
Cuajimalpa
Cuauhtémoc
Gustavo A. Madero
Iztacalco
Iztapalapa
Magdalena Contreras
Miguel Hidalgo
Milpa Alta
Tláhuac
Tlalpan
VenustianoCarranza
Xochimilco |
thành phố méxico | 28 | Azcapotzalco
Benito Juárez
Coyoacán
Cuajimalpa
Cuauhtémoc
Gustavo A. Madero
Iztacalco
Iztapalapa
Magdalena Contreras
Miguel Hidalgo
Milpa Alta
Tláhuac
Tlalpan
VenustianoCarranza
Xochimilco
Các khu được chia tiếp thành hàng trăm colonias hay các khu phố, chính quyền đơn vị này không có quyền tự quản hay đại diện. Tên của đơn vị hành chính này có nghĩa là "thuộc địa" hay "khu kiều dân", xuất hiện từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 khi một trong những khu đô thị phát triển đầu tiên bên ngoài trung tâm thành phố là dành cho những người thực dân Pháp định cư. Một vài colonias được biết đến như: Condesa được biết đến với kiểu kiến trúc Art Deco và là một trung tâm nghệ thuật của thành phố; Santa Fe là một tring tâm thương mại và tài chính đang phát triển; Roma là một trong những khu phố cổ nhất thành phố. |
thành phố méxico | 30 | Về mặt lịch sử, từ thời Tiền Tây Ban Nha, thung lũng Anáhuac đã là một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất tại México. Khi Quận Liên bang được thành lập vào năm 1824, khu vực đô thị của thành phố México được mở rộng xấp xỉ diện tích của khu Cuauhtémoc ngày nay. Bắt đầu thế kỷ 20, quá trình đô thị hóa phát triển và những người di cư đổ về khu vực phía tây và nam của thành phố và chẳng bao lâu các đô thị nhỏ Micoac và San Ángel được sáp nhập vào thành phố. Theo thống kê năm 1921, dân số thành phố México có dưới một triệu người và trong đó 54,78% dân số thành phố tự nhận mình là người Mestizo (lai giữa người da đỏ và người Âu), 22,79% tự nhận là người Âu và 18,74% tự nhận là người da đỏ. |
thành phố méxico | 31 | Đến thập niên 1980, Quận Liên bang đã trở thành thực thể liên bang đông dân nhất México, nhưng từ sau đó dân cư thành phố đã ổn định ở mức khoảng 8,7 triệu người. Sự phát triển của thành phố đã vươn ra xa giới hạn của Quận Liên bang đến 59 đô thị tự trị của Bang México và 1 đô thị tự trị của Bang Hidalgo. Vùng đô thị México có xấp xỉ 19,8 triệu người (năm 2008), và đây là một trong những siêu đô thị đông dân nhất trên thế giới. Tuy nhiên, tốc độ tăng dân số hàng năm của Vùng đô thị Thành phố México thấp hơn nhiều sao với các khu vực đô thị lớn khác tại México, một hiện tượng được cho là bởi chính sách phi tập trung hóa. Tỷ lệ di cư thực của Quận Liên bang từ 1995 đến 2000 là gần như tương đương.
Trong khi chiếm 18,74% dân số thành phố, những người da đỏ từ những vùng khác của đất nước México đã nhập cư đến thủ đô để tìm kiếm cơ hội tốt hơn. Các dân tộc da đỏ Náhuatl, Otomí, Mixteco, Zapoteco, và Mazahua là những ngôn ngữ bản xứ có số lượng người sử dụng lớn nhất tại Thành phố Mexico |
thành phố méxico | 32 | Trên một phương diện khác, Thành phố México là nơi sinh sống của nhiều cộng đồng ngoại kiều và những người nhập cư, đáng kể nhất là từ Nam Mỹ (chủ yếu từ Argentina), và Châu Âu (chủ yếu là Tây Ban Nha và Đức) , Trung Đông (chủ yếu từ Liban và Syria. và gần đây là từ Châu Á (chủ yếu đến từ Trung Quốc và Hàn Quốc). Mặc dù không số liệu chính thức, dân số của những cộng đồng này khá đáng kể. Thành phố Mexco là thành phố có nhiều công dân Hoa Kỳ sinh sống nhất bên ngoài nước này. Một số ước tính lên tới 600.000 người, trong khi Cục thống kê Hoa Kỳ ước tính năm 1999 có trên 440.000 người Mỹ sống ở Vùng đô thị Thành phố México |
thành phố méxico | 33 | === Tôn giáo ===
Đại đa số (90,5%) cư dân của Thành phố México là tín đồ Công giáo La Mã, cao hơn bình quân cả nước cho dù đã có sự suy giảm so với những thập kỷ trước. Tuy nhiên, nhiều tôn giáo cũng như triết lý sống khác cũng tồn tại trong thành phố như các nhóm giáo phái Tin Lành hay các nhóm Do Thái giáo, Phật giáo, Hồi giáo cũng như thuyết vô thần
== Biểu tượng == |
thành phố méxico | 34 | Trung tâm Lịch sử (Centro Histórico) và "những khu vườn nổi" ở khu Xochimilco đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vào năm 1987. Các biểu tượng nổi tiếng tại Trung tâm Lịch sử bao gồm Plaza de la Constitución (Quảng trường Hiến pháp) (Zócalo), là một quảng trường chính ở khu vực trung tâm với thời kỳ xung đột giữa Nhà thờ lớn Chính quốc thời kỳ Tây Ban Nha và Cung điện Quốc gia, và Delran, một đền thờ Aztec cổ. |
thành phố méxico | 35 | Hầu hết biểu tượng được mọi người công nhận của Thành phố Mexico là Tượng Thiên thần Độc lập bằng vàng, dựa trên địa thế rộng rãi, tao nhã của Đại lộ Páeo de la Reorma, được thiết kế theo chỉ thị của Hoàng đế Maximilian của Mexico tiếp sau Đại lộ Champs-Élysées ở Paris. Đại lộ này là tuyến lộ cổ nhất Châu Mỹ trong thế kỷ 19, kết nối Cung điện Quốc gia (trụ sở chính phủ) với Lâu đài Chapultepec, dinh thự của hoàng đế. Ngày nay, đại lộ này là khu vực tài chính quan trọng và nhiều Công ty chứng khoán đặt trụ sở trên tuyến đường này. Các đại lộ quan trọng khác là Avenida de los Insurgentes, dài tới 28,8 km (17,9 mi) và là một trong những đại lộ đô thị dài nhất thế giới. |
thành phố méxico | 36 | Lâu đài Chapultepec nay là một bảo tàng trên một ngọn đồi và có thể nhìn thấy các bảo tàng, các đài tưởng niệm và sở thú quốc gia cũng như Bảo tàng Nhân loại học. Tổng cộng, thành phố có khoảng 160 bảo tàng, 100 nhà triển lãm nghệ thuật và khoảng 30 nhà hát, chúng đều duy trì được các hoạt động văn hóa trong suốt cả năm. Thành phố đứng thứ 4 về số lượng nhà ca kịch trên thế giới sau New York, Luân Đôn, và Toronto và là thành phố có nhiều bảo tàng nhất thế giới. |
thành phố méxico | 38 | Thành phố Mé xico được phục vụ bởi Sistema de Transporte Colectivo Metro, một hệ thống tàu điện ngầm dài 207 km, lớn nhất khu vực Mỹ Latinh. Đoạn đầu tiên của hệ thống bts đầu hoạt động vào năm 1969 và sau đó được mở rộng với 11 tuyến và 175 nhà ga. Một hệ thống tàu ngoại ô, được gọi là Tren Suburbano, kết nối trung tâm thương mại của thành phố tới các khu ngoại ô phía bắc. Tuyến tàu điện ngầm thứ 12 đang được xây dựng và khi hoàn thành sẽ nâng chiều dài của toàn tuyến thêm 25 km. Hệ thống tàu điện ngầm của thành phố là một trong những hệ thống vận chuyển bận rộn nhất thế giới với xấp xỉ 4,5 triệu người hàng ngày, chỉ kém các tuyến xe điện ngầm ở Moskva (7,5 triệu), Tokyo (5,9 triệu) và New York (5,1 triệu). Hệ thống giao thông công cộng này được trợ cấp với tiền vé rẻ nhất thế giới, mỗi chuyến đi chỉ phải trả 3 Peso Mexico và hành khách có thể đi đến hầu khắp các nơi trong thành phố từ 5 giờ sáng đến nửa đêm. Một vài ga tàu trưng bày những đồ khảo cổ và các kiến trúc từ thời tiền |
thành phố méxico | 39 | chuyến đi chỉ phải trả 3 Peso Mexico và hành khách có thể đi đến hầu khắp các nơi trong thành phố từ 5 giờ sáng đến nửa đêm. Một vài ga tàu trưng bày những đồ khảo cổ và các kiến trúc từ thời tiền Colombo được phát hiện trong quá trình xây dựng hệ thống tàu điện ngầm. Tuy nhiên, tàu điện ngầm không đi đến những khu vực ngoài ranh giới Đặc khu Liên bang và bởi vậy đi bằng xe bus vẫn là một lựa chọn phổ biển. Các xe bus được quản lý bởi các công ty tư nhân và được phép kéo dài lộ trình với điều kiện vẫn đảm bảo được chất lượng phục vụ. |
thành phố méxico | 40 | Chính quyền thành phố cũng điều khiển hoạt động của một mạng lưới các xe bus lớn, tương phản với các xe bus nhỏ của tư nhân (peseros), với tiền vé vượt trội so với xe điện ngầm. Ngoài ra còn có một vài tuyến xe điện và tuyến tàu hỏa Ánh sáng Xochimilco, cả hai được điều hành bởi Servicio de Transportes Eléctricos. Tuyến xe điện cuối cùng tại khu vực trung tâm đã đóng cửa năm 1979, nhưng đang có kếch hoạch tái sử dụng chúng để làm tăng thêm tính lịch sử cho khu vực trung tâm. Tuyến xe bus nhanh đầu tiên trong thành phố, Metrobús, bắt đầu hoạt động vào tháng 5 năm 2005, cùng với kỷ niệm Ngày khởi nghĩa. Một tuyến thứ hai đã được xây dựng dọc theo Eje 4 Sur, bắt đầu hoạt động vào tháng 12 năm 2008 và tuyến thứ ba được mở vào tháng 2 năm 2011. |
thành phố méxico | 41 | Sân bay Quốc tế Thành phố Mexico phục vụ giao thông bằng hàng không cho thành phố. Đây là sân bay bận rộn nhất và lớn nhất Mỹ Latinh, với các chuyến bay hàng ngày đến Bắc Mỹ, Trung Mỹ, Caribe, Nam Mỹ, Châu Âu, Châu Á cũng như các chuyến bay nội địa. Aeroméxico (Skyteam) và Mexicana (Oneworld) đặt trụ sở tại sân bay này, và cung cấp các thỏa thuận với các Hãng hàng không nước ngoài để nối chuyến đến toàn cầu. Sân bay phục vụ trên 26 triệu hành khách mỗi năm
Thành phố có 4 trạm xe bus chính (Bắc, Nam, Observatorio (Đài Thiên Văn), TAPO), là một trong những tổ hợp chuyên chở lớn nhất thế giới, xe bus đi tới nhiều thành phố khắp nước và có kết nối quốc tế. Thành phố có một ga tàu hỏa, được sử dụng cho các mục đích thương mại và công nghiệp (chuyên chở giữa các bang gần như không tồn tại ở Mexico). |
thành phố méxico | 42 | Vào cuối thập kỷ 1970 có nhiều trục đường chính đã được thiết kế lại thành "ejes viales"; đường một chiều có dung lượng lớn, có thể băng từ đầu này tới đầu bên kia của thành phố. Để giải quyết vấn đề môi trường, thành phố đã lập ra ngày không lái xe "Hoy No Circula", dựa vào số cuối của biển xe để lưu thông trong một số ngày nhất định |
thành phố méxico | 44 | Trường đại học cổ thứ nhì của Châu Mỹ, Đại học Quốc gia Tự trị Mexico (UNAM) nằm tại Thành phố Mexico. Đây là đại học lớn nhất toàn lục địa với 305.969 sinh viên đang theo học. Ba người từng được trao giải Nobel, một số doanh nhân hàng đầu Mexico và hầu hết các tổng thống Mexico ngày nay đều từng là sinh viên cũ của trường. UNAM xếp thứ 45 trong số 200 Trường Đại học Thế giới và là trường đại học nói tiếng Tây Ban Nha có thứ hạng cao nhất. Một khu các trường đại học, được gọi là Ciudad Universtaria (Thành phố đại học), đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới năm 2007.
Học viện giáo dục bậc cao lớn thứ nhì là Học viện Bách khoa Quốc gia (IPN), các cơ sở giáo dục bậc cao khác trong thành phố là Đại học Tự trị Thủ đô (UAM), ITAM, ITESM (3 khu), Universidad Panamerica (Đại học Liên Mỹ) (UP), Universidad Anáhuac, Đại học Quốc tế Liên minh (AIU), Universidad Iberoamerica, El Colegio de Mexico (Colmex), Escuela Libre de Derecho và Centro de Investigación y Docencia Económica, (CIDE). |
thành phố méxico | 45 | == Truyền thông ==
Thành phố Mexico là trung tâm của ngành công nghiệp truyền hình, âm nhạc và phim truyện của cả khu vực Mỹ Latinh. Đây cũng là trung tâm quan trọng nhất của ngành in và xuất bản Mexico. Hàng chục các tờ nhật báo được xuất bản trong thành phố, như El Universal, Excélsior, Reforma và La Jornada. Các tạp chí hàng đầu là Expansión, Proceso, Poder, hay ấn bản địa phương của tạp chí Vogue.
Hai công ty truyền thông lớn nhất trong cộng đồng các nước nói tiếng Tây Ban Nha là Televisa và TV Azteca có trụ sở tại thành phố Mexico. Các mạng truyền hình khác gồm có Canal 11, Canal 22, Cadena Tres, Teveunam và 11 kênh truyền hình miễn phí. |
thành phố méxico | 46 | Thành phố cũng là trung tâm của ngành công nghiệp quảng cáo. Hầu hết các hãng quảng cáo lớn có tầm cỡ quốc tế đều có văn phòng tại thành phố, có thể kể đến là Grey, JWT, Leo Burnett, Euro RSCG, BBDO, Ogilvy, Saatchi & Saatchi, và McCann Erickson. Nhiều hãng địa phương cũng khá thành công trong lĩnh vực này như Alazraki, Olabuenaga/Chemistri, Terán, Augusto Elías, và Clemente Cámara. |
thành phố méxico | 48 | Thành phố Mexico kihá rộng lớn và có nhiều tần lớp người tiêu dùng khác nhau, với hàng nghìn sự lựa chọn từ những thứ đồ ăn giản đơn đến những hàng hóa cấp cao. Khu vực trung tâm thương mại của thành phố được biết đến là khu bán lẻ chuyên dụng với giá cả thấp hơn. Mercado La Merced là một trong những nơi cổ nhất của thành phố và được coi là phiên bản thu nhỏ và cổ kính của Central de Abastos, nơi hàng nghìn món hàng được bán. Mercado de Jamaica đặc trưng với hoa tươi.
Calle Dolores, một khu phố tại Avenida Juárez được biết đến là một khu Phố Tàu của Thành phố Mexico. Khu phố gồm nhiều cửa hiệu bán những đồ dùng quan trọng của người Hoa với những nhà hàng bán món vịt quay Bắc Kinh. Xa ra phía ngoài, khu dân cư Zona Rosa là nơi có vài khu phố được miêu tả là Phố Hàn (Quốc). |
thành phố méxico | 49 | Có hàng trăm cửa hàng bán lẻ hiện đại khắp thành phố. Có một số trung tâm hay phố mua sắm lớn, bao gồm Phố buôn bán Santa Fé với 300 cửa hiệu, nhà hàng và rạp chiếu phim. Các nơi khác có thể kể đến là Plaza Universidad, Plaza Satélite, Galerías Insurgentes, Galerías Coapa, Parque Delta, Parque Lindavista, Pabellón Polanco, Pabellón Bosques, Mundo E, Perinorte and Plaza Lindavista. |
thành phố méxico | 51 | == Tương lai phát triển ==
Hiện tại Thành phố Mexico có trên 30 dự án xây dựng các tòa nhà siêu cao tầng trong thời gian tới. Cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế Mexico cũng như thu nhập bình quân đầu người trong nước, tầng lớp thượng lưu và trung lưu phát triển ngày càng đông. Các trung tâm mua sắm và dịch vụ cao cấp sẽ tiếp tục được xây dựng ngày một nhiều trong thập kỷ 2010-2020 khi GDP của México được một số dự báo là sẽ tăng ít nhất là gấp đôi trong giai đoạn này. Những vấn đề thách thức như quá tải dân số, ô nhiễm hay phân bổ thu nhập và chi phí sinh hoạt đắt đỏ được cho rằng vẫn là những mâu thuẫn trong xã hội khi số người thuộc tầng lớp trên trở nên đông đảo hơn. |
thành phố méxico | 52 | Hiện tại chính quyền thành phố México đang cố gắng thực hiện vài dự án không chỉ để khắc phục hậu quả của tình trạng bùng nổ dân số vào khoảng thời gian trước đây mà còn hồi sinh những di sản từ thời Tiền Colombo. Các dự án như phục hồi hoàn toàn các kim tự tháp của Teotihuacan, cải tạo có giới hạn Hồ Texcoco và hồi sinh khu vực quận Xochimilco lịch sử.
Chính quyền Thành phố México cũng đã cố gắng làm giảm việc nhập cư đến thành phố từ các khu vực nông thôn bằng những việc như tăng đầu tư, hạn chế ô nhiễm, giảm tỷ lệ tội phạm, tận dụng những dịch vụ công cộng cơ bản và di dời các cơ sở công nghiệp nặng ra xa các trung tâm dân cư. |
danh sách tổng thư ký asean | 0 | Đây là Danh sách các Tổng thư ký của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Chức vụ Tổng thư ký ASEAN là một chức vụ luân phiên giữa 10 nước thành viên và được thông qua trong Hội nghị thượng đỉnh ASEAN. Nhiệm kỳ của tổng thư ký ASEAN là 5 năm, không gia hạn và nặng tính nghi lễ và hành chính.
Tổng thư ký hiện nay là Lê Lương Minh, từng là Thứ trưởng Ngoại giao của Việt Nam, thay thế Tiến sĩ Surin Pitsuwan, từng là Bộ trưởng Ngoại giao của Thái Lan. Dự tính nhiệm kỳ của ông Minh sẽ chấm dứt vào ngày 31 tháng 12 năm 2017. Các quốc gia kế tiếp có thể cử người thay thế nhiệm vụ này là Campuchia, Brunei, Miến Điện và Lào.
Tổng thư ký phải giữ vai trò viên chức quốc tế, phải bảo đảm công việc, những lợi ích chung và bình đẳng của các nước ASEAN, không phải là đại diện riêng của quốc gia mình. |
danh sách tổng thư ký asean | 1 | Tổng thư ký phải giữ vai trò viên chức quốc tế, phải bảo đảm công việc, những lợi ích chung và bình đẳng của các nước ASEAN, không phải là đại diện riêng của quốc gia mình.
Ban Thư ký ASEAN bao gồm 1 Tổng thư ký và 4 Phó Tổng thư ký, trong đó có 2 vị Phó Tổng thư ký luân phiên và 2 Phó Tổng thư ký tự ứng cử và được bầu chọn, và các Phó Tổng thư ký không được cùng quốc gia với vị Tổng thư ký và không được có 2 Phó Tổng thư ký cùng quốc gia,. |
danh sách tổng thư ký asean | 2 | == Xem thêm ==
Chủ tịch luân phiên ASEAN
== Tham khảo ==
Hình ảnh các vị Tổng thư ký ASEAN
“Secretary-General of ASEAN”. ASEAN Secretariat. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2011.
“Former Secretaries-General of ASEAN”. ASEAN Secretariat. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2011.
Người Việt làm Tổng thư ký ASEAN, BBC 16/1/2012 |
axit clohydric | 0 | Axit clohydric (bắt nguồn từ tiếng Pháp acide chlorhydrique) hay axit muriatic là một axit vô cơ mạnh, tạo ra từ sự hòa tan của khí hydro clorua (HCl) trong nước. Ban đầu axit này được sản xuất từ axit sunfuric và muối ăn vào thời Phục Hưng, thậm chí từ thời Trung Cổ, sau đó được các nhà hóa học Glauber, Priestley và Davy sử dụng trong các nghiên cứu khoa học của họ. Axit clohydric được tìm thấy trong dịch vị, và cũng là một trong những yếu tố gây bệnh loét dạ dày khi hệ thống tự bảo vệ của dạ dày hoạt động không hiệu quả. |
axit clohydric | 1 | Axit clohydric đậm đặc nhất có nồng độ tối đa là 40%. Ở dạng đậm đặc axit này có thể tạo thành các sương mù axit, chúng đều có khả năng ăn mòn các mô con người, gây tổn thương cơ quan hô hấp, mắt, da và ruột. Ở dạng loãng, axit clohydric cũng được sử dụng làm chất vệ sinh, lau chùi nhà cửa, sản xuất gelatin và các phụ gia thực phẩm, tẩy gỉ, và xử lý da. Axit clohydric dạng hỗn hợp đẳng phí (gần 20,2%) có thể được dùng như một tiêu chuẩn cơ bản trong phân tích định lượng.
Axit clohydric được sản xuất với quy mô lớn vào cách mạng công nghiệp thế kỷ 18, chủ yếu được sử dụng trong ngành công nghiệp hóa chất để sản xuất nhựa PVC, và các sản phẩm trung gian như MDI/TDI để tạo ra polyuretan. Có khoảng 20 triệu tấn axit clohydric được sản xuất hàng năm. |
axit clohydric | 2 | == Từ nguyên ==
Axit clohydric được các nhà giả kim thuật châu Âu gọi là dung dịch muối (spirits of salt) hay acidum salis (axit muối). Cả hai tên vẫn còn đang sử dụng, đặc biệt là trong các ngôn ngữ ngoài tiếng Anh như tiếng Đức: Salzsäure và tiếng Hà Lan: Zoutzuur. Khí HCl được gọi là khí axit biển (marine acid air). Tên cũ là axit muriatic (muriatic acid) có cùng nguồn gốc (muriatic nghĩa là "liên quan đến nước muối hay muối"), và tên gọi này thỉnh thoảng vẫn còn được sử dụng.
== Lịch sử == |
axit clohydric | 3 | Không có nhiều tài liệu rõ ràng cho thấy axit clohydric được điều chế vào thời kỳ Trung cổ. Có vẻ như nguồn đầu tiên đề cập đến việc điều chế vào thế kỷ 15 và 16, nhưng vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Một số tác giả vẫn giữ quan điểm rằng axit này được Basil Valentine, thầy tu dòng Be-ne-dict Đức, phát hiện vào thế kỷ 15, bằng cách nung muối ăn (NaCl) và axit sunfuric (H2SO4) lục. Nước cường toan, một hỗn hợp giữa axit nitric và axit clohydric đã được mô tả bởi nhà giả kim thuật châu Âu thế kỷ 13 Pseudo-Geber (Paul of Taranto).
Vào thế kỷ 17, Johann Rudolf Glauber ở Karlstadt am Main, Đức, đã sử dụng muối ăn và axit sunfuric để điều chế natri sunfat Na2SO4 bằng phản ứng Mannheim giải phóng khí hiđro clorua. Joseph Priestley ở Leeds, Anh đã tạo ra hiđro chlorua tinh khiết năm 1772, và vào năm 1818 Humphry Davy ở Penzance, Anh đã chứng minh rằng thành phần hóa học bao gồm hiđro và clo. Phản ứng Mannheim được mô tả như sau:
2 NaCl + H2SO4 → Na2SO4 + 2 HCl |
axit clohydric | 4 | 2 NaCl + H2SO4 → Na2SO4 + 2 HCl
Trong suốt thời kỳ cách mạng công nghiệp ở châu Âu, nhu cầu kiềm tăng, một phương pháp điều chế công nghiệp do Nicolas Leblanc (ở Issoundun, France) đề xuất đã cho phép sản suất natri cacbonat (NaCO3 - tro soda) với số lượng lớn và giá rẻ. Theo công nghệ Leblanc, muối ăn được chuyển thành tro soda từ axit sunfuric và than, đồng thời giải phóng hiđro clorua. Trước khi có đạo luật Alkali 1863 ở Anh và các chính sách tương tự ở các quốc gia khác, lượng HCl dư được thải vào không khí. Sau khi thông qua đạo luật, các nhà sản xuất tro soda dùng nước để hấp thụ khí này, đồng thời sản xuất axit clohiđric theo quy mô công nghiệp. |
axit clohydric | 5 | Trong thế kỷ 20, công nghệ Leblanc được thay thế hoàn toàn bởi công nghệ Solvay không tạo ra sản phẩm axit clohiđric. Vì axit clohiđric đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nên nhu cầu thương mại cần có các phương pháp khác để sản xuất nó, một số trong các phương pháp này vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Sau năm 2000, axit clohiđric hầu hết được sản xuất bằng cách hấp thụ khí hiđro clorua từ việc sản xuất các hợp chất hữu cơ công nghiệp.
Từ năm 1988, axit clohiđric được liệt vào bảng II chất tiền chế, Công ước Liên Hợp Quốc về Chống vận chuyển trái phép ma túy và các chất hướng thần 1998 (Table II precursor under the 1988 United Nations Convention Against Illicit Traffic in Narcotic Drugs and Psychotropic Substances) do nó được sử dụng trong việc điều chế heroin, cocain, và methamphetamine. |
axit clohydric | 6 | == Tính chất ==
=== Tính chất hóa học ===
Axit clohiđric là axit một nấc, tức nó có thể phân ly cho ra một ion H+ và ion clo, Cl−. Khi hòa tan trong nước, H+ liên kết với phân tử nước tạo thành ion hydronium, H3O+:
HCl + H2O → H3O+ + Cl−
Do phân ly hoàn toàn trong nước nên axit clohiđric được xếp vào nhóm axit mạnh. Các axit monoproton có một hằng số điện ly, Ka, cho thấy mức độ phân ly của nó trong nước. Đối với các axit mạnh tương tự như HCl, thì Ka có giá trị lớn, và bên cạnh đó, cũng đã có nhiều nghiên cứu lý thuyết để xác định giá trị Ka đối với HCl. Giá trị Ka thường được tính thông qua pKa, giá trị pKa của HCl, tùy theo nguồn, dao động trong khoảng -3 đến -7, thậm chí đến -9,3. |
axit clohydric | 7 | p
K
a
=
−
log
10
K
a
{\displaystyle \ pK_{\mathrm {a} }=-\log _{10}K_{\mathrm {a} }}
Khi cho các muối clorua như NaCl vào dung dịch HCl thì chúng không ảnh hưởng đến giá trị pH, điều này cho thấy rằng ion Cl− là một gốc bazơ liên hợp cực kỳ yếu và HCl bị phân ly hoàn toàn trong dung dịch. Đối với các dung dịch axit clohiđric trung bình đến mạnh, người ta cho rằng số mol H+ bằng với số mol HCl, với độ tin cậy 4 chữ số thập phân. |
axit clohydric | 8 | Trong số sáu axit vô cơ mạnh phổ biến, axit clohiđric là một axit monoproton ít có khả năng tạo phản ứng giảm số oxy hóa. Nó là một trong những axit mạnh ít độc hại nhất khi tiếp xúc bằng tay; ngoài tính axit, nó còn bao gồm các ion clo không phản ứng và không độc hại. Các dung dịch axit clohiđric trung bình-mạnh thì khá ổn định khi lưu trữ.
Axit clohiđric thường được dùng phổ biến trong việc chuẩn độ dung dịch bazơ. Các axit chuẩn độ mạnh cho các kết quả chính xác hơn do có điểm cuối rõ ràng. Axit clohiđric dạng hỗn hợp đẳng phí (gần 20,2%) có thể được dùng như một tiêu chuẩn cơ bản trong phân tích định lượng, mặc dù nồng độ chính xác của nó phụ thuộc vào áp suất khí quyển khi điều chế nó.
Axit clohiđric thường được dùng trong việc chuẩn bị mẫu trong hóa phân tích. Axit clohiđric đặc có thể hòa tan một số kim loại, tạo ra các khí hydro và clo. Nó phản ứng với các hợp chất bazơ như canxi cacbonat hoặc đồng(II) ôxít, tạo thành các dung dịch hòa tan có thể dùng để phân tích. |
Subsets and Splits