title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Laurasiatheria | Laurasiatheria là một nhóm lớn của thú có nhau thai, được cho là có nguồn gốc từ vùng phía bắc của siêu lục địa Laurasia. Nhóm này bao gồm chuột chù, nhím gai, tê tê, dơi, cá voi, hầu hết động vật móng guốc, và thú ăn thịt.
Phân loại và phát sinh chủng loài.
Laurasiatheria được phát hiện trên cơ sở các trình tự gen tương tự chia sẻ chung của nhiều loài thú thuộc về nó; nhưng chưa có đặc trưng giải phẫu nào được tìm thấy là chung để hợp nhất các nhóm này. Laurasiatheria là một nhánh thường được thảo luận mà không có bậc phân loại Linnaeus,nhưng có một số tác giả đã từng gán cho nó các cấp phân loại như cohort, đại bộ (magnordo) hay liên bộ (superordo). Nhánh Laurasiatheria là dựa trên các phân tích trình tự DNA và có/không có dữ liệu retrotransposon. Tên gọi này xuất phát từ học thuyết cho rằng các loài thú này đã tiến hóa trên siêu lục địa Laurasia, sau khi nó tách ra khỏi Gondwana khi Pangaea tan vỡ. Nó là nhóm có quan hệ chị-em với Euarchontoglires (hay Supraprimates), và cùng nhau chúng tạo thành một nhánh gọi là Boreoeutheria.
Laurasiatheria bao gồm các đơn vị phân loại còn sinh tồn sau đây: | wiki |
Laurasiatheria | Laurasiatheria bao gồm các đơn vị phân loại còn sinh tồn sau đây:
Hiện vẫn còn tại những điều không chắc chắn về cây phát sinh chủng loài của các nhóm còn sinh tồn trong Laurasiatheria, chủ yếu liên quan tới vị trí của Chiroptera và Perissodactyla. Dựa trên nền tảng hình thái học, Chiroptera đã được phân loại trong một thời gian dài vào liên bộ Archonta (cùng với thú nhiều răng và chồn bay) cho tới khi các nghiên cứu di truyền chỉ ra mối quan hệ họ hàng gần của nó với các nhóm thú khác trong Laurasiatheria. Tuy nhiên, các nghiên cứu lại mâu thuẫn với nhau về vị trí chính xác của Chiroptera, với nó thường được liên kết gần với các nhóm như Eulipotyphla, Ferae hoặc với Perissodactyla và Ferae trong đề xuất về nhóm Pegasoferae. Nghiên cứu năm 2011 của Zhou et al. phát hiện ra rằng "cây tái tạo dựng [...] cho bộ dữ liệu 1.608-gen hỗ trợ hoàn toàn cho [...] vị trí cơ sở của Eulipotyphla và vị trí gần đỉnh hơn của Chiroptera" (xem biểu đồ nhánh dưới đây) và các tác giả kết luận rằn "Pegasoferae [...] dường như không là một nhóm tự nhiên". Nghiên cứu gần đây hơn của Nery et al., 2012 hỗ trợ cho kết luận của Zhou et al. sử dụng một tập hợp dữ liệu bộ gen lớn, đặt Eulipotyphla ở vị trí cơ sở và Chiroptera là nhóm chị-em với Cetartiodactyla, với độ hỗ trợ tối đa cho tất cả các nút trong cây phát sinh chủng loài của họ. | wiki |
Laurasiatheria | Vị trí chính xác của Perissodactyla vẫn ít chắc chắn, với một số nghiên cứu liên kết nó với Ferae trong một nhánh được đề xuất gọi là Zooamata, trong khi các nghiên cứu khác lại hợp nhất nó với Cetartiodactyla thành nhánh Euungulata, một nhánh của cái gọi là 'động vật móng guốc thật sự'; Zhou et al. tìm thấy sự hỗ trợ tốt hơn (nhưng không đầy đủ) cho xu hướng thứ hai, trong khi Nery et al. lại phát hiện thấy Perissodactyla là chị em với Carnivora.
Laurasiatheria cũng được người ta ấn định cho là bao gồm vài bộ và liên bộ đã tuyệt chủng, như: | wiki |
Vorchdorf | Vorchdorf
Vorchdorf là một đô thị ở huyện Gmunden bang Oberösterreich, nước Áo. Đô thị này có diện tích 47,7 km², dân số thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2005 là 7374 người.
Vorchdorf nằm ở vùng Traunviertel của bang Oberösterreich, cự ly khoảng 15 km về phía bắc thị xã Gmunden. Khu vực này có độ cao khoảng 414 mét trên mực nước biển (điểm cao nhất: 640 m; điểm thấp nhất: 370 m).
Đô thị Vorchdorf gồm các làng:
Adlhaming, Aggsbach, Albenedt, Berg, Bergern, Eggenberg, Eichham, Einsiedling, Falkenohren, Feldham, Fischböckau, Hötzelsdorf, Heitzing, Lederau, Moos, Mühltal, Oberhörbach, Pappelleiten, Peintal, Point, Radhaming, Schart, Seyrkam, Theuerwang, Unterhörbach, Ursprung, Vorchdorf (center), Weidach. The most populated localities are Vorchdorf (center), Fischböckau, Mühltal, Lederau và Feldham.
Đô thị Vorchdorf giáp với: Bad Wimsbach-Neydharting, Eberstalzell, Kirchham, Laakirchen, Pettenbach, Roitham, Scharnstein và Steinerkirchen. Vorchdorf giáp các huyện Wels-Land và Kirchdorf. | wiki |
Ớt hiểm | Ớt hiểm, còn gọi là ớt mắt chim (tiếng Anh: "Bird's eye chili"), ớt thóc, hay ớt Thái là một giống ớt thuộc loài "Ớt cựa gà" L. trong họ Cà, thường mọc ở Đông Nam Á. Nó cũng được tìm thấy ở Ấn Độ, đặc biệt là ở Kerala, nơi nó được sử dụng trong nhiều món ăn của ẩm thực Kerala (phát âm theo tiếng Malayalam là "kanthari mulagu"- കാന്താരി മുളക്). Loại ớt này (được biết dưới cái tên කොච්චි ("kochchi") trong tiếng Sinhalese) cũng có ở các vùng nông thôn Sri Lanka, nơi nó được dùng làm loại thay thế cho ớt xanh.
Tên ớt mắt chim cũng được dùng cho loại ớt Bắc Mỹ Chiltepin, vì cả hai loại ớt đều có dạng tròn nhỏ và hạt của chúng đều được phân tán nhờ các loài chim.
Đặc điểm sinh học.
Mô tả.
Ớt hiểm là loại cây lâu năm, thân nhỏ, trái thuôn nhỏ, thường mọc thành chùm 2, 3 trái ở đốt. Trái của nhiều loại ớt hiểm thường có màu đỏ, một số loại có màu vàng, tím hoặc đen. Trái ớt hiểm rất cay. Hoa có màu trắng xanh hoặc trắng vàng.
Theo phân loại học, ớt hiểm là một giống ớt của loài "Ớt cựa gà" ("Capsicum frutescens"), nhưng ngày ngay có người phân loại chúng vào loài "Ớt kiểng" ("Capsicum chinense").
Ớt hiểm nhỏ nhưng có vị rất cay. Độ cay của nó là 100,000–225,000 đơn vị Scoville, thấp hơn độ cay của ớt Habanero.
Characteristics of the Birds Eye Chili plant
Nguồn gốc. | wiki |
Ớt hiểm | Ớt hiểm nhỏ nhưng có vị rất cay. Độ cay của nó là 100,000–225,000 đơn vị Scoville, thấp hơn độ cay của ớt Habanero.
Characteristics of the Birds Eye Chili plant
Nguồn gốc.
Tất cả các loại ớt ở khắp thế giới đều có nguồn gốc từ México, Trung Mỹ và Nam Mỹ. Ớt được đế chế Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha phổ biến khắp nơi trên con đường xây dựng nên một đế chế toàn cầu; ớt vẫn tiếp tục được trồng ở các thuộc địa của họ ở châu Á và châu Phi. Các loại ớt ở Đông Nam Á hiện nay được du nhập về trồng từ các thương nhân và thực dân Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Tên thường gọi.
Ớt hiểm được gọi với tên "cili padi" ("cili" phát âm là "chili", nghĩa là "ớt gạo") ở nhiều vùng tại Malaysia vì kích cỡ nhỏ của chúng gợi cho mọi người nghĩ đến hạt lúa vốn là loại lương thực cơ bản trong vùng. Ở miền Bắc Malaysia, ớt này có tên là "cabai burung", nghĩa là "ớt chim" vì chim rất thích ăn loại ớt này.
Cũng giống như người Malay, ở Thái, ở Indonesia, ớt này được gọi là "cabe rawit" trong tiếng Indonesia, "lombok rawit" (trong tiếng Java, "cengis" trong thổ ngữ Banyumasan), "cengek" trong tiếng Sundan; ở Thái được gọi là "phrik khi nu" (พริกขี้หนู) hay "ớt cay Thái", "ớt rồng Thái" (vì nó có dạng giống móng rồng), ở Philippines là "siling labuyo" trong filipino, "ladâ", và "boonie pepper" (tên tiếng Anh).
Công dụng.
Nấu ăn. | wiki |
Ớt hiểm | Công dụng.
Nấu ăn.
Trái của loại ớt này được dùng làm gia vị, rất phổ biến trong các nền ẩm thực Đông Nam Á. Trong ẩm thực Việt Nam, ớt hiểm được sử dụng trong các món canh, rau trộn, và các món xào. Chúng cũng được pha vào các món chấm như nước mắm, nước tương, muối hoặc ăn không như một loại rau gia vị. Chúng cũng là loại nguyên liệu chính trong món "kochchi sambal", một loại gỏi làm từ dừa nạo, các loại ớt Thái và thêm chút muối, nước chanh.
Ớt hiểm là thành phần tạo cho một số món ăn có vị cay xé lưỡi như món "Bicol express" của Philippines. Ớt này cũng được dùng với giấm. Lá ớt cũng được ăn như một món rau. ví dụ như trong món "tinola" của ẩm thực Philippines.
Trang trí.
Giống ớt hiểm đẹp nhưng ít cay hơn, gọi là "ớt chỉ thiên", thường có màu vàng, cam, và khi chín có màu đỏ. Nó là giống cơ sở để lai ra giống ớt Numex twilight, ít cay hơn, trái ban đầu màu tím để góp phần tạo màu cầu vồng, và được xếp vào chi ớt "Capsicum annuum". Giống ớt này thường mọc hoang ở những nơi như Saipan và Guam.
Làm thuốc.
Về y học, theo kinh nghiệm truyền thống, ớt hiểm được dùng để làm giảm chứng viêm khớp và bệnh thấp khớp, và cũng là thuốc chữa chứng khó tiêu, đầy hơi và đau răng.
Nó cũng có thể được sử dụng làm thuốc bôi chống muỗi hoặc có thể được pha loãng để làm thuốc trừ sâu. | wiki |
Giả Chương Kha | <ns>0</ns>
<revision>
<parentid>69567913</parentid>
<timestamp>2023-01-24T03:36:42Z</timestamp>
<contributor>
<username>Disansee</username>
</contributor>
<comment>/* Diễn viên */</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Giả Chương Kha (, sinh ngày 24 năm 1970) là một đạo diễn kiêm biên kịch phim người Trung Quốc. Ông được coi là một trong những đại diện tiêu biểu của thế hệ các nhà làm phim thứ sáu ở Trung Quốc. Năm 2006 ông giành giải Sư tử vàng tạiLiên Hoan Phim Venice cho phim "Người tốt ở đập Tam Hiệp". Năm 2010, ông được vinh danh tại Liên Hoan Phim Quốc tế Toronto là “Đạo diễn xuất sắc” toàn cầu thập niên đầu của thế kỷ 21.
Sự nghiệp.
Giả Chương Kha sinh ra ở Phần Dương, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, ông bắt đầu quan tâm đến điện ảnh vào đầu những năm 1990 sau khi gợi được cảm hứng làm phim nhờ tác phẩm "Hoàng thổ địa" của đạo diễn Trần Khải Ca. Năm 1993 ông gia nhập Học viện Điện ảnh Bắc Kinh chuyên ngành lý thuyết điện ảnh. | wiki |
Giả Chương Kha | Sau khi tốt nghiệp thay vì sản xuất phim cho chính phủ Trung Quốc, ông đã tự mình thực hiện ba bộ phim đầu tiên và đạt được thành công vang dội trong "thế giới ngầm", bộ phim điện ảnh đầu tiên của ông tên "Tiểu Vũ" kể về một tên móc tại Phần Dương quê hương của ông, bộ phim đã bị cộng đồng làm lơ nhưng lại được đánh giá cao bởi những nhà trí thức bởi tính trung thực của nó đem tới. Bộ phim được chiếu trong hạng mục không cạnh tranh tại Liên hoan phim Quốc tế Berlin lần thứ 48. Bắt đầu từ năm 2004, với bộ phim "Thế Giới", Giả Chương Kha có được sự chấp thuận chính thức từ chính phủ Trung Quốc, nhưng tính hợp pháp này không thể xóa nhòa những phê phán và định kiến đối với ông. Tác phẩm của ông thường đề cập đến những chủ đề bức bối của xã hội Trung Quốc bấy giờ, đặc biệt những người trẻ bị áp bức ở tận cùng xã hội. Năm 2006 ông giành giải Sư tử vàng tại Liên Hoan Phim Venice cho phim "Still Life" (Người tốt ở đập Tam Hiệp). Các tác phẩm sau đó của ông như "Chuyện 24 Thành Phố (2008), Chạm vào tội ác (2013), Sơn Hà Cố Nhân (2015)".. đều đạt được nhiều thành công cao tại các giải thưởng lớn trên thế giới. | wiki |
Mòng biển Saunders | Mòng biển Saunders
Mòng biển mỏ ngắn hay mòng biển Saunders (danh pháp hai phần: Chroicocephalus saundersi) là một loài mòng biển thuộc họ Laridae. Nó được tìm thấy tại Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, bán đảo Triều Tiên, Ma Cao, viễn đông của Nga, Đài Loan và Việt Nam.
Môi trường sống tự nhiên của nó là các vùng nước cửa sông và các vùng đầm lầy liên thủy triều. Giống như nhiều loài mòng biển khác, theo truyền thống nó được đặt trong chi "Larus" nhưng hiện nay được coi là thành viên duy nhất của chi Saundersilarus. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống. Một trong số ít các khu vực còn quần thể loài này với số lượng lớn là Khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Diêm Thành tại tỉnh Giang Tô với quần thể chiếm khoảng 20% tổng số lượng loài này trên toàn thế giới. | wiki |
Trùng lỗ | Trùng lỗ (foraminifera hoặc đôi khi gọi tắt là foram) là một nhóm lớn các loài sinh vật nguyên sinh amip, là một trong những nhóm loài phiêu sinh phổ biến nhất. Chúng có các chân giả hình mắc lưới, các sợi tế bào chất mịn phân nhánh và hợp lại thành một mạng lưới động lực. Đặc biệt chúng tạo ra lớp vỏ, có thể có một hoặc nhiều ngăn, một số loài tạo ra cấu trúc khá phức tạp. Các vỏ này được làm từ calci carbonat (CaCO3) hoặc các hạt trầm tích gắn kết lại. Có khoảng 275.000 loài đã được nhận dạng kể cả còn sống và hóa thạch. Chúng thường có kích thước nhỏ hơn 1 mm, nhưng cũng có loài lớn hơn, và loài lớn nhất đạt đến kích thước 20 cm.
Phân loại.
Foraminifera từng được xếp vào nhóm Protozoa, hoặc nhóm tương tự Protoctista hoặc giới Protista. Có bằng chứng thuyết phục theo phân tích phân tử thì xếp chúng vào một nhóm chính trong Protozoa gọi là Rhizaria. Trước khi phát hiện ra quan hệ tiến hóa của các loài trong giới Rhizaria, Foraminifera từng được xếp chung với các Amoeboid khác thành ngành Rhizopodea (hay Sarcodina) trong lớp Granuloreticulosa. Các phân loại dự trên hình thái hiện vẫn còn được sử dụng. | wiki |
Trùng lỗ | Vị trí phân loại của Foraminifera đã thay đổi từ khi nó được công nhận là protozoa bởi Schultze năm 1854, trước đó, hầu tác giả hết đều cho rằng nó được xếp vào đơn vị phân loại là bộ, nhưng thỉnh thoảng cũng được xem là lớp. Leoblich và Tappan (1992) xác định Foraminifera là lớp theo các phân loại trước đó của nó (là Foraminiferida) trong quyển "Treatise on Invertebrate Paleontology". Một số hệ thống phân loại xếp Foraminifera là ngành, ngang hàng với amoeboid Sarcodina mà trước đây nó là đơn vị phân loại trực thuộc.
Mặc dù vẫn chưa được chứng minh bằng các mối quan hệ hình thái, các dữ liệu phân tử đã cho thấy Foraminifera có quan hệ gần gũi với Cercozoa và trùng tia ("Radiolaria"), cả hai nhóm này cũng thuộc amip có vỏ phức tạp; 3 nhóm này hình thành nên giới Rhizaria.
Các loài còn tồn tại.
Các loài Foraminifera hiện đại chủ yếu sống ở biển, mặc dù một số loài có thể sống trong môi trường nước lợ. Chúng chủ yếu sống bám đáy, và có khoảng 40 loài đồng hình là sinh vật phù du. Tuy nhiên, số này chỉ đại diện cho một phần nhỏ trong sự đa dạng thực tế của chúng, vì nhiều loài sinh vật biến đổi gen không thể phân biệt về mặt hình thái.
Một số dạng có hình thức tảo đơn bào như endosymbiont, từ các dòng đa dạng như tảo lục, tảo đỏ, tảo vàng, tảo cát, và dinoflagellate. Một vài loài là "kleptoplastic", giữ lại lục lạp khi ăn tảo để phục vụ cho quang hợp. | wiki |
Ván hòa bất tử | Ván hòa bất tử là một ván đấu cờ vua diễn ra năm 1872 ở Viên giữa Carl Hamppe và Philipp Meitner. Khai cuộc được sử dụng trong ván là Ván cờ Viên, và diễn biến được chơi tiếp theo sau này đã được đặt tên là Phương án Hamppe–Meitner để vinh danh hai kỳ thủ. Ván đấu được chơi vào thế kỷ 19, thời kỳ của phong cách lãng mạn, trong đó sự phát triển lực lượng nhanh chóng kết hợp tấn công được xem là cách hiệu quả nhất để dẫn đến chiến thắng, kèm theo đó là sự xuất hiện của rất nhiều các phương án gambit và phản gambit, và yếu tố "vật chất" không được coi trọng (có thể hiểu là sẵn sàng hy sinh một hay nhiều quân nếu có thời cơ). Trong ván đấu này, mặc cho có một vài nước đi mà theo tiêu chuẩn ngày nay không phải là tốt nhất, nhưng nhờ những nước đi đó, cộng với những pha tấn công chớp nhoáng và những nỗ lực chống đỡ tài tình đã dẫn đến một ván cờ nổi tiếng và rất thú vị.
Cụ thể, bên Đen đã thí một số lượng quân rất lớn để buộc Vua Trắng liên tục phải di chuyển đến những vị trí nguy hiểm trong nỗ lực nhằm chiếu hết đối phương, nhưng Trắng cũng đã xử lý ngoạn mục qua đó thoát hiểm và ép hòa bởi chiếu vĩnh viễn.
Diễn biến ván đấu.
Người cầm quân Trắng: Carl Hamppe Người cầm quân Đen: Philipp Meitner Khai cuộc: Ván cờ Viên (ECO C25)
1. e4 e5 2. Mc3
2... Tc5
3. Ma4?!
3... Txf2+!?
4. Vxf2
4... Hh4+ 5. Ve3
5... Hf4+ 6. Vd3 d5 7. Vc3!
7... Hxe4 8. Vb3
8... Ma6
9. a3?!
9... Hxa4+!!
10. Vxa4 Mc5+ 11. Vb4
11... a5+ 12. Vxc5
12... Me7!
13. Tb5+ Vd8 14. Tc6!!
14... b6+
15. Vb5 Mxc6 16. Vxc6 | wiki |
Ván hòa bất tử | 4... Hh4+ 5. Ve3
5... Hf4+ 6. Vd3 d5 7. Vc3!
7... Hxe4 8. Vb3
8... Ma6
9. a3?!
9... Hxa4+!!
10. Vxa4 Mc5+ 11. Vb4
11... a5+ 12. Vxc5
12... Me7!
13. Tb5+ Vd8 14. Tc6!!
14... b6+
15. Vb5 Mxc6 16. Vxc6
16... Tb7+! 17. Vb5!
17... Ta6+ 18. Vc6
18... Tb7+ ½–½ | wiki |
Tu viện Westminster | Tu viện Westminster (tiếng Anh: "Westminster Abbey"), có tên chính thức Nhà thờ kinh sĩ đoàn Thánh Peter tại Westminster ("Collegiate Church of St Peter at Westminster"), là một nhà thờ theo kiến trúc Gothic ở Westminster, Luân Đôn, nhà thờ này nằm ở phía tây của Cung điện Westminster.
Kể từ năm 1066, Tu viện Westminster là nơi tiến hành lễ đăng quang của 39 vị quân chủ Anh. Đã có ít nhất 16 đám cưới vương thất đã được tổ chức ở tu viện kể từ năm 1100. Đây cũng là nơi chôn cất của hơn 3300 nhân vật nổi tiếng khác trong Lịch sử Anh: 18 vị quân chủ, các thủ tướng, nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, nhà khoa học, tướng lĩnh quân sự và một ngôi mộ Chiến sĩ Vô danh. Cùng với Cung điện Westminster và Nhà thờ Thánh Margaret, Tu viện Westminster đã được UNESCO xếp hạng Di sản thế giới vào năm 1987.
Lễ đăng quang. | wiki |
Tu viện Westminster | Lễ đăng quang.
Kể từ lễ đăng quang năm 1066 của Vua Harold và William I của Anh, toàn bộ các vua và nữ vương của Anh và Vương quốc Liên hiệp Anh (trừ Edward V và Edward VIII vốn không có lễ đăng quang) đều làm lễ lên ngôi tại Tu viện Westminster. Một trường hợp ngoại lệ khác là Henry III, vị vua này không thể lên ngôi ở Luân Đôn vì khi đó Louis VIII của Pháp đang chiếm giữ thành phố. Henry III làm lễ đăng quang ở Nhà thờ lớn Gloucester, một lễ đăng quang bị Giáo hoàng coi là chưa hợp lệ, vì vậy ngày 17 tháng 5 năm 1220 Henry III đã làm lễ đăng quang bổ sung ở Tu viện. Jane Grey, người vốn chỉ ngồi trên ngai vàng 9 ngày, cũng chưa từng có lễ đăng quang. Theo thông lệ, người làm lễ đăng quang tại Tu viện là Tổng giám mục Canterbury, Ngai vàng của vua Edward là chiếc ngai đã được sử dụng tại tất cả các buổi lễ kể từ năm 1308.
Nơi chôn cất.
Phần lớn các quân chủ Anh cùng gia đình được chôn cất tại Tu viện Westminster trừ Henry VIII, Charles I (được chôn cất tại Nhà nguyện St George, Windsor trong Lâu đài Windsor) cùng các thành viên Vương thất Anh kể từ sau George II. Bên cạnh đó, nhiều nhà quý tộc Anh và tăng lữ hoặc những người có liên quan tới Tu viện cũng an nghỉ tại đây, trong đó có rất nhiều nhân vật danh tiếng trong lịch sử nước Anh với danh sách cụ thể dưới đây:
Nhân vật nổi tiếng.
Hai cánh giàn hợp xướng.
Phía Bắc
Phía Nam
Các nhà nguyện.
Nhà nguyện Ambulatory
Nhà nguyện Henry VII's Lady
Rút bỏ. | wiki |
Tu viện Westminster | Nhân vật nổi tiếng.
Hai cánh giàn hợp xướng.
Phía Bắc
Phía Nam
Các nhà nguyện.
Nhà nguyện Ambulatory
Nhà nguyện Henry VII's Lady
Rút bỏ.
Những người sau đây từng được chôn cất tại Tu viện Westminster nhưng sau đó đã bị rút bỏ theo lệnh của vua Charles II:
Tháng 11 năm 1869, theo đề nghị của Trưởng tu viện Westminster và được Nữ vương Victoria phê chuẩn, nhà hoạt động từ thiện George Peabody được chôn cất tạm thời tại Tu viện nhưng sau đó hài cốt đã được đưa về chôn cất ở Salem, Massachusetts. | wiki |
Lịch sử địa chất của oxy | Trong thành phần Trái Đất lượng oxy chiếm 30,1% không đủ để oxy hóa các chất khác nên từ khi hình thành lớp vỏ rắn và khí quyển, thì bầu khí quyển của Trái Đất không có oxy tự do (O2). Đây là điều kiện tối quan trọng để sự sống ra đời, các phân tử hữu cơ sơ khai không bị oxy hóa mất .
Sự có mặt của oxy trong khí quyển như hiện nay, là quá trình dài trong lịch sử Trái Đất từ cỡ 3,5 Ga BP (tỷ năm trước) đến nay, tích lũy oxy thải ra từ quang hợp của các sinh vật có khả năng này, mà ngày nay là thảm thực vật chiếm phần chính.
Lịch sử oxy.
Khi quang hợp xuất hiện và phát triển, sinh vật prokaryote, trong đó vi khuẩn lam (Cyanobacteria) được coi là chủ đạo, thực hiện quang hợp đã cho ra O2 như một sản phẩm thải. Quá trình này đã diễn ra rất lâu trước khi oxy có thể tồn tại tự do trong khí quyển, có lẽ sớm nhất là 3,5 Ga trước đây . Ban đầu oxy sản xuất ra tan trong nước biển và bị hấp thụ nhanh chóng bởi các khoáng chất khử oxy, đặc biệt là sắt. Nó dẫn đến "rỉ sắt hàng loạt", lắng đọng dưới đáy đại dương, hình thành các thành hệ chứa khoáng vật sắt dạng dải. | wiki |
Lịch sử địa chất của oxy | Quá trình như vậy diễn ra trong quãng thời gian dài cỡ 0,6 đến 1 Ga, đến khi chất khử oxy hết thì oxy tự do bắt đầu tồn tại trong môi trường. Oxy hóa khí quyển diễn ra, như đốt carbide hydro dạng khí, sau đó là sự tích tụ oxy tự do trong khí quyển. Ban đầu oxy có trong bầu không khí với số lượng nhỏ khoảng 50 triệu năm trước khi bắt đầu sự kiện Thảm họa oxy hay "sự kiện oxy hóa lớn" (GOE, Great Oxygenation Event), sự kiện đã tiêu diệt các sinh vật yếm khí .
Với bối cảnh mức độ các sinh vật quang hợp sản sinh oxy chính hiện tại, lượng oxy hiện nay có thể được sản xuất trong vòng 2.000 năm . Khi chưa có thực vật, thì tốc độ sản sinh oxy bằng quang hợp diễn ra chậm hơn nhiều, trong thời kỳ tiền Cambri, và nồng độ của O2 đạt được ít hơn 10% của ngày nay. ồng độ và có thể thay đổi nhanh chóng. Oxy thậm chí có thể đã biến mất khỏi bầu không khí một lần nữa vào khoảng 1,9 Ga trước đây . Ban đầu dường như những biến động về nồng độ oxy ít ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống, nên không quan sát thấy tuyệt chủng hàng loạt, cho đến khi sự sống phức tạp xuất hiện vào thời kỳ đầu của kỷ Cambri, 541 Ma trước đây . | wiki |
Lịch sử địa chất của oxy | Sự hiện diện của O2 cung cấp cho sự sống những cơ hội mới. Chuyển hóa hiếu khí là hiệu quả hơn so với chuyển hóa yếm khí, và sự hiện diện của oxy chắc chắn tạo ra khả năng mới cho cuộc sống để tiến hóa. Kể từ khi bắt đầu kỷ Cambri, nồng độ oxy trong khí quyển đã dao động giữa 15% và 35% khí quyển . Mức tối đa 35% đã đạt được vào cuối kỷ Carbon (khoảng 300 Ma BP), một đỉnh cao mà nó có thể đã góp phần vào tiến hóa đến kích thước lớn của côn trùng và động vật lưỡng cư thời đó.
Ngày nay các hoạt động của con người trong việc đốt các nhiên liệu hóa thạch hay thực vật, làm tăng nồng độ tương đối của CO2 trong khí quyển và tạo ra hiệu ứng nhà kính, nhưng ảnh hưởng tới nồng độ oxy là ít có ý nghĩa vì nồng độ này lớn .
Tác động đến sự sống. | wiki |
Lịch sử địa chất của oxy | Tác động đến sự sống.
Khi oxy hiện diện nhiều trên khí quyển, sự sống đã tìm ra một cách để sống sót trong môi trường oxy bằng cách sử dụng tiềm năng phong phú của oxy trong quá trình hô hấp. Vì oxy có tiềm năng oxy hóa khử cao, nó hoạt động như một chất nhận điện tử lý tưởng để tạo ra năng lượng sau khi phân hủy chất dinh dưỡng. Oxy sớm trở nên không thể thiếu cho các hoạt động trao đổi chất. Các sinh vật cũng phải tiến hóa để chống lại các tác động của sự oxy hóa. Mặc dù các phân tích giải trình tự và phát sinh gen ước tính sự tiến hóa của các enzyme giải độc ROS tồn tại ngay cả trước khi các vi khuẩn hiếu khí ra đời, sự kiện Oxy hóa vẫn đóng vai trò là chất xúc tác để định hình sự tiến hóa của các enzyme như superoxide effutase và catalase. Các sinh vật không thể thích nghi đủ tốt với oxy vẫn còn tồn tại trong môi trường kỵ khí. | wiki |
Hương vị tình thân | Hương vị tình thân là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSƯT Nguyễn Danh Dũng làm đạo diễn. Phim được mua kịch bản chuyển thể từ bộ phim truyền hình "Vì con mà sống" của Hàn Quốc năm 2018. Phim phát sóng vào lúc 21h00 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 19 tháng 4 năm 2021 và kết thúc vào ngày 27 tháng 10 năm 2021 trên kênh VTV1.
Bộ phim gồm 2 phần phát sóng liên tiếp với tổng số tập là 136.
Nội dung. | wiki |
Hương vị tình thân | Bộ phim gồm 2 phần phát sóng liên tiếp với tổng số tập là 136.
Nội dung.
"Hương vị tình thân" là hành trình tìm về nguồn cội của Phương Nam (Phương Oanh) - một cô gái trẻ cá tính với bao ước mơ phía trước, đang yên ấm trong gia đình với bố mẹ và em gái thì bất ngờ phát hiện ra sự thật mình chỉ là con nuôi. Từ thời điểm đó, mọi biến cố đổ lên đầu cô: Ông Tuấn (NSND Công Lý), người cha nuôi luôn yêu thương Nam hết mực bất ngờ gặp tai nạn và qua đời; Bà Bích, mẹ nuôi của Nam thì vứt cô lại với một khoản nợ lớn rồi trốn chạy. Cũng cùng lúc đó, Ông Sinh (NSƯT Võ Hoài Nam), cha đẻ của Nam đã bất ngờ xuất hiện sau hơn 20 năm chịu án tù, luôn lặng lẽ âm thầm theo sau và bảo vệ Nam. Nhưng chính trong những lúc khó khăn về gia đình thì chuyện tình yêu của Nam với chàng trai tên Long (Mạnh Trường) lại nhen nhóm tuy nhiên đã vội dập tắt khi gặp phải sự phản đối của nhiều người. Những bí mật về ông Sinh sau đó được hé lộ cùng những ân oán liên quan đến gia đình Long. Trong khi đó, Khánh Thy (Thu Quỳnh) lại dành tình cảm đặc biệt cho Long và luôn tìm mọi cách để phá vỡ mối quan hệ giữa hai người...
Diễn viên.
Diễn viên phụ.
Cùng một số diễn viên khác...
Nhạc phim.
Sáng tác: Tuấn Thăng
Thể hiện: Đàm Vĩnh Hưng
Sáng tác: Trần Quang Duy
Thể hiện: Minh Vương M4U
Đón nhận. | wiki |
Hương vị tình thân | Diễn viên.
Diễn viên phụ.
Cùng một số diễn viên khác...
Nhạc phim.
Sáng tác: Tuấn Thăng
Thể hiện: Đàm Vĩnh Hưng
Sáng tác: Trần Quang Duy
Thể hiện: Minh Vương M4U
Đón nhận.
Dù có xếp hạng người xem cao tại thời điểm phát sóng, "Hương vị tình thân" đã sớm nhận phải những ý kiến trái chiều bởi việc kéo dài các tình tiết không cần thiết và chỉ tập trung vào tuyến nhân vật phụ mà không khai thác các tình tiết chính. Ngoài ra, việc thời lượng quảng cáo chiếm dung lượng phát sóng của phim quá dài đã khiến nhiều khán giả bày tỏ ý kiến bức xúc; diễn xuất của những diễn viên trong bộ phim có thời điểm cũng bị cho là "kịch" và "thiếu thuyết phục".
Thay đổi lịch phát sóng.
Tập 2 của phim dự định sẽ phát sóng vào ngày 20 tháng 4 năm 2021 nhưng do vướng phải lịch truyền hình trực tiếp lễ khai mạc "Năm Du lịch quốc gia 2021" nên sau đó đã phải lùi phát sóng xuống ngày 21 tháng 4. Cũng vào ngày 2 tháng 9 cùng năm, vì trùng với lịch truyền hình trực tiếp "Dáng hình đất nước" nên tập 98 của phim đã được lùi phát sóng xuống một ngày. | wiki |
Heterodontosauridae | Heterodontosauridae là một họ của bộ khủng long Ornithischian và có khả năng là một trong những thành viên nguyên thủy nhất của bộ này. Mặc dù hóa thạch của chúng tương đối hiếm và có số lượng nhỏ nhưng chúng sống ở khắp các châu lục ngoại trừ châu Úc và châu Nam Cực trong khoảng 100 triệu năm, từ kỉ Trias muộn đến kỷ Creta sớm (200 – 133 triệu năm trước).
Chúng là những con khủng long có chiều dài không quá 2 m (bao gồm một cái đuôi dài). Chúng được biết đến nhờ các kiểu răng đặc trưng của bộ khủng long hông chim, bao gồm răng nanh và răng má thích nghi với việc nhai, tương tự như họ khủng long mỏ vịt ở kỷ Phấn Trắng. Chúng ăn cỏ hoặc cũng có thể ăn tạp.
Mô tả.
Trong số các chi thuộc họ Heterodontosauridae, chỉ có Heterodontosaurus được biết đến với một bộ xương hoàn chỉnh. Những mảnh xương bị vỡ của Abrictosaurus cũng được biết đến nhưng chưa được mô tả đầy đủ, các chi khác của họ Heterodontosauridae chỉ được biết đến từ các mảnh hàm và răng. Chi Heterodontosaurus chỉ dài hơn 1 m, trong khi phần hóa thạch còn lại của Lycorhinus cho thấy có thể chúng dài hơn.
Chi Tianyulong từ Trung Quốc dường như bảo tồn sự tích hợp sợi đã được giải thích là một biến thể của lông động vật nguyên sinh được tìm thấy trong một số chi thuộc Theropod. Lông trên cơ thể chúng được phát hiện bao gồm một mào dọc theo đuôi.
Sọ và răng. | wiki |
Heterodontosauridae | Sọ và răng.
Cả Abrictosaurus và Heterodontosaurus đều có đôi mắt rất to. Bên dưới mắt, xương jugal chiếu sang một bên, một đặc điểm cũng có mặt trong các loài thuộc phân bộ Ceratopsia (khủng long mặt sừng). Như trong hàm của hầu hết các loài thuộc bộ Ornithischia (khủng long hông chim) thì trước rìa của xương ở mũi hàm trên không có răng và có lẽ được hỗ trợ một sừng mỏ nhưng Heterodontosauridae đã có răng ở sau phần xương đó. Một khoảng trống lơn giữa hai răng (trong tiếng Anh là diastema), đã tách những răng tiền này ra khỏi răng hàm trên (xương hàm trên chính) ở nhiều loài thuộc bộ Ornithischia, nhưng khoảng trống này được uốn cong ở họ Heterodontosauridae. Xương hàm dưới nghiêng cũng hỗ trợ một cái mỏ tương tự như cái được tìm thấy trên cặp xương sọ ở hàm trên. Heterodontosauridae được đặt tên cho kiểu động vật có nhiều hơn một kiểu răng như chúng (heterodont). Trong kỷ Jura Abrictosaurus, Heterodontosaurus và Lycorhinus, hai răng đầu tiên nhỏ và hình nón, trong khi răng thứ ba lớn hơn nhiều giống như răng nanh của động vật có vú là răng nanh (caniniform hay tusk trong tiếng Anh). Những răng nanh này có răng cưa ở cả cạnh trước và sau ở hàm của Heterodontosaurus và Lycorhinus, trong khi các răng của Abrictosaurus chỉ có phần cưa phía rìa trước. Ở Echinodon, có thể có hai răng nanh ở hàm trên, Fruitadens ở kỉ Jura muộn có thể có hai răng nanh thấp hơn trên mỗi hàm.
Bộ xương. | wiki |
Heterodontosauridae | Bộ xương.
Giải phẫu sọ của Heterodontosaurus đã được mô tả rõ ràng, chúng thường được coi là có nguồn gốc sớm nhất trong họ Heterodontosauridae. Vì vậy không thể biết có bao nhiêu đặc điểm của nó giống các loài khác. Các rãnh deltopectoral phát triển tốt của xương cánh tay và khớp khuỷu tay nổi bật (nơi bám của các cơ kéo dài cẳng tay) của xương khuỷu chỉ ra rằng chân trước cũng mạnh mẽ. Bàn tay của chúng có năm ngón. Ngón đầu tiên lớn, đầu nhọn với một móng vuốt cong xoay vào trong khi chúng nắm tay lại; Robert Bakker gọi đó là "ngón tay cái xoắn". Ngón thứ hai dài nhất, dài hơn một chút so với ngón thứ ba; cả hai ngón này cũng đều có móng vuốt. Tuy nhiên, ngón thứ bốn và năm thì không có, móng ở hai ngón này rất nhỏ và đơn giản. Ở chân sau, xương chày dài hơn 30% so với xương đùi. Điều đó cho thấy tốc độ chạy của chúng rất lớn, có thể chạy thoát kẻ thù rượt đuổi. Xương chày và xương mác được hợp nhất với mắt cá và gót chân, tạo thành kiểu xương tibiofibiotarsus giống các loài chim hiện đại. Cũng tương tự như các loài chim, mắt cá chân và xương bàn chân đã được hợp nhất để tạo thành kiểu xương tarsometatarsus (xem ảnh ở bảng thông tin). Các chân sau của chúng có bốn ngón, chỉ có thứ hai, thứ ba và thứ bốn tiếp xúc với mặt đất. Đuôi, không giống như những họ thuộc bộ Ornithischia (khủng long hông chim) khác, không có quá trình tái tạo xương và gân để duy trì một tư thế linh hoạt.
Phân bố. | wiki |
Heterodontosauridae | Phân bố.
Mặc dù ban đầu chỉ được biết đến từ kỷ Jura sớm ở miền nam châu Phi, nhưng Heterodontosauridae hiện được biết đến từ bốn lục địa. Thời kỳ đầu trong lịch sử dị hợp tử, siêu lục địa Pangea vẫn còn nguyên vẹn, cho phép họ này đạt được sự phân phối gần như trên toàn thế giới. Phần còn lại của Heterodontosauridae lâu đời nhất có thể là một mảnh hàm và răng bị cô lập từ hệ tầng Laguna Colorada của Argentina, xuất hiện từ kỉ Trias muộn. Những hóa thạch này có hình dạng tương tự như Heterodontosaurus, bao gồm một răng cưa với mặt cưa ở cả hai cạnh trước và sau, nhưng răng hàm trên cao không có cưa. Irmis et al (2007) đã đồng ý rằng hóa thạch này đại diện cho một loại dị chất, nhưng tuyên bố rằng cần có nhiều hóa thạch hơn để xác định kĩ vì mẫu vật này được bảo quản kém. Nhưng Sereno (2012) chỉ tuyên bố rằng hóa thạch đó có thể là một chi thuộc bộ Khủng long hông chim. Olsen, Kent và Whiteside (2010) đã lưu ý rằng sự xác định thời gian của hệ tầng Laguna Colorada không rõ ràng và do đó, nó không được xác định một cách thuyết phục liệu Heterodontosaurus ở kỉ Trias hay Jura. Hệ động vật dị hợp tử đa dạng nhất đến từ kỷ Jura sớm ở miền nam châu Phi, nơi tìm thấy hóa thạch của Heterodontosaurus, Abrictosaurus, Lycorhinus và Geranosaurus. | wiki |
Heterodontosauridae | Bắt đầu từ những năm 1970, rất nhiều hóa thạch được phát hiện từ hệ tầng Morrison gần Fruita, Colorado của Hoa Kỳ. Được mô tả trong bản in năm 2009, tài liệu này được đặt trong chi Fruitadens. Răng Heterodontosauridae thiếu phần cingulum cũng đã được mô tả từ sự hình thành kỷ Jura muộn và Creta sớm ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Phần còn lại của Echinodon đã được thiết kế lại vào năm 2002, cho thấy nó có thể đại diện cho một chi Heterodontosauridae thể sống sót muộn từ giai đoạn Berriasian của kỷ Phấn trắng sớm ở miền Nam nước Anh. Dianchungosaurus từ kỷ Jura sớm ở Trung Quốc không còn được coi là một chi thuộc họ Heterodontosaurus; mặc dù một dạng ở châu Á còn tồn tại muộn được biết đến (Tianyulong).
Phân loại.
Vào năm 2012, đề xuất sơ đồ sau đây cho họ Heterodontosauridae:
Cổ sinh vật học. | wiki |
Heterodontosauridae | Phân loại.
Vào năm 2012, đề xuất sơ đồ sau đây cho họ Heterodontosauridae:
Cổ sinh vật học.
Hầu hết các hóa thạch khác được tìm thấy trong các thành tạo địa chất đại diện cho môi trường khô cằn với môi trường bán khô cằn, bao gồm cả hệ tầng Thượng Elliot của Nam Phi và tầng Purbeck ở miền nam nước Anh. Một số người đã cho rằng các chi của họ Heterodontosauridae trải qua quá trình ngủ "đông" vào những khoảng thời gian khô nhất trong năm. Do thiếu răng thay thế trong hầu hết các hóa thạch, người ta đã đề xuất rằng toàn bộ bộ răng sẽ được thay thế trong thời gian ngủ này, vì dường như việc thay thế răng liên tục và lẻ tẻ một vài cái sẽ làm gián đoạn chức năng của hàm như một bề mặt nhai. Nhưng một số khác lại cho rằng đó là một sự hiểu lầm, chúng thực sự đã thay thế răng liên tục, mặc dù chậm hơn so với các loài bò sát khác, nhưng việc quét CT sọ từ một con Heterodontosaurus trưởng thành cho thấy nó không có răng thay thế.
Trong khi răng má của Heterodontosauridae thích nghi rõ ràng để nhai rễ hoặc cành cây cứng nhưng chế độ ăn uống của chúng có thể là ăn tạp. Điều này là bởi vì những chiếc răng tiền hàm rất nhọn và móng vuốt sắc, cong trên bàn chân trước, những đặc điểm đó rất dễ nhận biết là khủng long ăn thịt. Nó đã được gợi ý rằng từ lâu, chi trước mạnh mẽ của Heterodontosaurus rất hữu ích cho việc cào rách tổ côn trùng, tương tự như thú ăn kiến hiện đại. Các chi trước này cũng có thể có chức năng như các công cụ đào, chúng sẽ đào rễ cây hoặc củ để ăn. | wiki |
Heterodontosauridae | So sánh chiều dài của chân trước so với chân sau cho thấy Heterodontosaurus đã đi bằng bốn chân. Tuy nhiên, chân trước được "thiết kế" cũng để nắm và không để nâng đỡ cơ thể. Nhiều đặc điểm của chân sau, bao gồm xương chày và bàn chân dài, cũng như sự hợp nhất của phần xương tibiotarsus và tarsometatarsus, chỉ ra rằng các chi thuộc Heterodontosauridae đã được điều chỉnh để chạy nhanh trên chân sau, vì vậy không chắc là Heterodontosaurus sẽ đứng bằng bốn chân khi ăn.
Những chiếc ngà ngắn được tìm thấy trong tất cả các chi của họ này được biết đến rất giống với ngà voi được tìm thấy ở hươu xạ, lợn lòi Pecari và lợn hiện đại. Trong những loài động vật này (cũng như voi biển và voi châu Á), đây là đặc điểm giới tính. Ví dụ như ngà chỉ tìm thấy ở con đực. Các mẫu vật của Abrictosaurus không có ngà nên ban đầu được mô tả là một con cái. Mặc dù điều này vẫn có thể xảy ra, nhưng đốt sống và mặt ngắn không được sử dụng chỉ ra rằng mẫu vật này đại diện cho một động vật chưa trưởng thành, trong khi mẫu vật thứ hai, lớn hơn của Abrictosaurus rõ ràng sở hữu ngà. Do đó, có thể là ngà chỉ được tìm thấy ở con trưởng thành, chứ không phải là một đặc điểm tình dục thứ cấp của con đực. Những chiếc ngà này có thể đã được sử dụng để chiến đấu hoặc để gây ấn tượng với các thành viên cùng loài hoặc với các loài khác. Các chức năng được đề xuất khác cho ngà bao gồm phòng thủ và sử dụng trong chế độ ăn uống đôi khi ăn tạp. | wiki |
Heterodontosauridae | Năm 2005, một bộ xương hóa thạch hơn 200 triệu năm tuổi đã được phát hiện ở Nam Phi. Vào tháng 7 năm 2016, nó đã được quét bởi một nhóm các nhà nghiên cứu Nam Phi sử dụng Cơ sở bức xạ Synchrotron châu Âu; kết quả quét răng cho thấy xương vòm miệng dày chưa đến một mm. | wiki |
Lương Văn Tri | Lương Văn Tri (17/8/1910-29/9/1941) bí danh Huy còm quê quán tại Bản Hẻo, xã Mỹ Liệt, tổng Mỹ Liệt, châu Điềm He (nay thuộc thôn Bản Hẻo, xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn), sinh trưởng trong một gia đình trung nông người Tày. Ông là một nhà hoạt động cách mạng và là người có đóng góp lớn trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Hoạt động.
Ông từng cùng Hoàng Văn Thụ lập ra một nhóm thanh niên yêu nước tại thị xã Lạng Sơn vào năm 1926. Năm 1928, được kết nạp vào Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Tháng 12 năm 1929, ông được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng.
Sau khi tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) năm 1933, Lương Văn Tri được phân công về Việt Nam xây dựng phong trào cách mạng ở Cao Bằng - Lạng Sơn. Năm 1939, ông được bầu làm Xứ Ủy viên Xứ uỷ Bắc kỳ, phụ trách vấn đề quân sự. Năm 1940, ông giữ chức Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ, phụ trách liên tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn...
Sau hội nghị Trung ương lần thứ bảy (tháng 11/1940) Lương Văn Tri được cử làm chỉ huy trưởng đội du kích Bắc Sơn và khu căn cứ Cứu quốc quân Bắc Sơn - Võ Nhai.Từ sau tháng 5 năm 1941, Cứu quốc quân (một trong những lực lượng tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam) do Phùng Chí Kiên làm chỉ huy trưởng và Lương Văn Tri làm chỉ huy phó.Tháng 8 năm 1941, trên đường hành quân lên Cao Bằng, Phùng Chí Kiên hi sinh,còn Lương Văn Tri bị thực dân Pháp bắt tại Ngân Sơn (Bắc Cạn) và đã hy sinh sau đó tại nhà tù Cao Bằng ngày 29 tháng 9 năm 1941. | wiki |
Biểu thức đại số | Trong toán học, một biểu thức đại số là một biểu thức được xây dựng từ các hằng số nguyên, biến và các phép toán đại số (cộng, trừ, nhân, chia và lũy thừa với số mũ là một số hữu tỷ). Ví dụ: là biểu thức đại số. Vì căn bậc hai cũng giống như lũy thừa với số mũ , nên
cũng là một biểu thức đại số.
Ngược lại, các số siêu việt như và không phải là số đại số, vì chúng không xuất phát từ hằng số nguyên và các phép toán đại số. Thông thường, Pi được xây dựng như một mối quan hệ hình học và định nghĩa của đòi hỏi "vô số" các phép toán đại số.
Biểu thức hữu tỷ là biểu thức có thể được viết lại thành hàm phân thức bằng cách sử dụng các thuộc tính của các phép toán số học (tính chất giao hoán và tính chất kết hợp của phép cộng và phép nhân, thuộc tính phân phối và quy tắc cho các phép toán trên phân số). Nói cách khác, một biểu thức hữu tỷ là một biểu thức có thể được xây dựng từ các biến và hằng số bằng cách chỉ sử dụng bốn phép toán số học. Do vậy,
là một biểu thức hữu tỷ, trong khi
không phải là một biểu thức hữu tỷ.
Phương trình hữu tỉ là một phương trình trong đó hai phân số hữu tỉ (hoặc biểu thức hữu tỉ) có dạng
được đặt là bằng nhau. Các biểu thức này tuân theo các quy tắc tương tự như phân số. Các phương trình có thể được giải quyết bằng cách nhân chéo. Phép chia cho số 0 là không xác định, do đó, một lời giải gây ra phép chia cho số 0 bị từ chối.
Thuật ngữ.
Đại số có thuật ngữ riêng để mô tả các phần của biểu thức: | wiki |
Hang Tám Cô | Hang Tám Cô, tên chính thức là hang 8 Thanh niên xung phong, là di tích lịch sử gắn liền với việc 8 thanh niên xung phong gồm 4 nam, 4 nữ hi sinh trong chiến tranh kháng chiến chống Mỹ .
Hang Tám Cô thuộc xã Tân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, nằm trên con Đường 20 - Quyết Thắng nay là Đường tỉnh 562. Hang cách ngã tư với đường Hồ Chí Minh cỡ 3 km hướng Tây Nam .
Đường 20 – Quyết Thắng dài 125 km từ Phong Nha (Quảng Bình) đi Aky, Ta Lê đến Phulanhich (tỉnh Khammuane, Lào). Trong chiến tranh Việt Nam đây là một con đường huyết mạch chiến lược hết sức quan trọng trong công tác vận tải chi viện vào chiến trường Miền Nam. Trong cuộc chiến, quân đội Hoa Kỳ xác định đây là những điểm giao thông quan trọng, vận chuyển vũ khí, lương thực, xăng dầu... vào chiến trường miền Nam nên quân đội Hoa Kỳ đã tập trung nhiều máy bay thả bom nhằm cắt đứt tuyến đường.
Tên gọi.
Hang Tám Cô có tên gọi từ trước năm 1972. Các tài liệu, ghi chép cho biết cạnh hang động mà 8 thanh niên xung phong hy sinh có một trạm giao liên, mỗi đợt tiếp quản có tám người thay nhau. Từ lúc có 8 cô gái trẻ đến tiếp quản trạm, tính tình hiền lành, vui vẻ người dân yêu quý đặt luôn cho tên hang động này là hang Tám Cô.
Lịch sử. | wiki |
Hang Tám Cô | Lịch sử.
Thực hiện chiến dịch vận chuyển mùa khô 1970–1971, Bộ Tư lệnh Đoàn 559 quyết định tăng cường thêm lực lượng thanh niên xung phong của các tỉnh thuộc Quân khu 4 cho tuyến đường. 8 thanh niên xung phong nguyên quán huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá thuộc Đại đội 217 được Đoàn 559 bổ sung vào Đội Thanh niên xung phong 25, Ban xây dựng 67 công tác tại tuyến đường từ ngày 20/6/1971.
Ngày 7/6/1972, Đội Thanh niên xung phong 25 được tuyên dương tập thể Anh hùng Lao động với những thành tích phá bom thông tuyến, ngày đêm bám mặt đường, bảo đảm cho hàng chục ngàn xe pháo và bộ đội vượt đường an toàn chi viện cho chiến trường miền Nam trong khi quân đội Hoa Kỳ liên tục dội bom xuống khu vực. Ước tính mỗi người phải chịu đựng trên 600 quả bom cỡ lớn và hàng vạn tấn bom đạn các loại.
Ngày 14/11/1972, Đại đội Thanh niên xung phong 217 nhận được lệnh của Bộ Tư lệnh Đoàn 559: cấp tốc giải toả giao thông cho đoàn xe quân sự gồm 150 chiếc vượt qua tuyến đường chở vũ khí, hàng hoá vào miền Nam. Do tình hình trong chiến trường miền Nam mau lẹ, việc thua trận tại một số trận đánh khiến quân đội Hoa Kỳ liên tục điều không lực tấn công tuyến đường. | wiki |
Hang Tám Cô | Trong ngày máy bay Hoa Kỳ "cày xới" tuyền đường, hết lượt này đến lượt khác, khi máy bay đi đội thanh niên xung phong lại xông ra làm đường sau đó rút về hầm khi có báo động. Chiều 14/11/1972, khi việc khôi phục giao thông sắp hoàn thành thì có báo động máy bay Hoa Kỳ oanh tạc, các chiến sĩ trong đơn vị đã kịp rút về hầm trú ẩn, 8 thanh niên xung phong chỉ kịp chạy vào trú ẩn tại một hang đá lớn.
Khi hết máy bay, các tổ thanh niên xung phong lại tiếp tục lao ra mặt đường. Mọi người hoảng hốt khi một tảng đá lớn lấp kín cửa hang nơi có 8 thanh niên xung phong đang ẩn nấp. Ngay lập tức chỉ huy Đội thanh niên xung phong 25 và Binh trạm 14 đã tìm mọi biện pháp để cứu đồng đội nhưng phương tiện cứu trợ ít ỏi, thô sơ, và thời gian chiến tranh cấp bách nên không thể cứu được 8 thanh niên xung phong trong hang.
Tám thanh niên xung phong.
Theo "Thanh Niên Online", một số nhân chứng cho rằng ở Hang Tám Cô chỉ có 8 người nêu trên. Tuy nhiên, một số nhân chứng khác khẳng định ngoài 8 liệt sĩ này, còn có 5 liệt sĩ pháo binh, gồm: Mai Đức Hùng (quê Nam Định), Đinh Công Đính (Nam Định), Nguyễn Văn Quận (Tuyên Quang), Sầm Văn Mắc (Lào Cai) và Nguyễn Văn Thủy (Hà Giang). | wiki |
Hang Tám Cô | Cuối năm 2017, Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội công bố qua giám định DNA đã xác định có 3 người trong hang gồm Trần Thị Tơ (thanh niên xung phong), Nguyễn Văn Quận (pháo binh) và Sầm Văn Mắc (pháo binh). Kết quả này được xác định từ 3 trong 4 phần mộ còn lại được quy tập tại nghĩa trang Thọ Lộc, Bố Trạch (tổng số ở đây có 6 phần mộ, trong đó có 2 mộ bị bốc trộm hài cốt). Đây là những hài cốt được phát hiện năm 1998, trong khi đó 8 phần mộ liệt sĩ được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ huyện Hoằng Hóa năm 1996 không có hài cốt.
Diễn biến.
Ủy viên Thường vụ, Trưởng ban Tổ chức Đoàn thanh niên Ban 67 Mai Duy Phúc đã có mặt tại hiện trường ngay ngày hôm sau. Ông kể lại "...Lúc đó chúng tôi đưa ra các phương án khác nhau. Bắn mìn phá cửa hang thì sợ sức ép làm 8 người không sống được. Chỉ còn cách dùng xe xích móc cáp vào hòn đá chắn cửa hang để kéo ra. Trước mắt, để duy trì sự sống cho anh em trong đó, chúng tôi nấu cháo loãng, dùng ống tuy ô luồn vào kẽ hở rồi đổ cháo qua đường ống.
Khi luồn ống vào chừng 5 - 6 m, thấy ống tuy ô động đậy, anh em ghé vào nói lớn: "Trong ấy thế nào rồi?", thì có tiếng đàn ông vọng ra: "Cứu các em với!". "Suốt mấy ngày vật vã, nhưng anh em không tài nào kéo được hòn đá ra khỏi cửa hang. Đến ngày thứ 9 thì không còn nghe được tiếng kêu, chắc anh em đã hy sinh cả. Sau đó, đơn vị đã lập thủ tục để báo cáo về sự hy sinh của 8 thanh niên xung phong ra Trung ương...".
Tưởng niệm. | wiki |
Hang Tám Cô | Tưởng niệm.
Sau sự hy sinh của 8 thanh niên xung phong, Trung ương Đoàn quyết định truy tặng liệt sĩ cho 8 anh hùng.
Sau thời kỳ chiến tranh cùng nhiều biến động trong nước việc tìm hài cốt 8 liệt sĩ được nêu ra lần đầu tháng 9/1995, tại Hội nghị thanh niên xung phong tiêu biểu của tỉnh Quảng Bình.
Ngày 22/3/1996, lực lượng tìm kiếm đã nổ quả mìn đầu tiên phá hòn đá lớn chắn cửa hang. Ngày 11/5/1996, phát hiện thấy bộ hài cốt đầu tiên được xác định là của liệt sĩ Hoàng Văn Vụ và một cụm xương, tóc, răng cùng một số kỷ vật lẫn lộn. Do liệt sĩ Hoàng Văn Vụ là người Công giáo, có đeo tượng thánh giá trên cổ, khi phát hiện vẫn còn nên hài cốt của anh được để riêng. 7 tiểu sành khác tách từ cụm xương, tóc, răng, được cho là hài cốt 7 thanh niên xung phong còn lại và không xác định được cụ thể tên tuổi từng liệt sĩ.
Ngày 4/6/1996, tỉnh Quảng Bình đã làm lễ bàn giao, đưa tiễn 8 liệt sĩ về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ ở quê nhà huyện Hoằng Hóa. Cuộc tìm kiếm hài cốt liệt sĩ Hang Tám Cô kết thúc.
Tại cửa hang một nhà bia tưởng niệm được xây dựng để tri ân 8 liệt sĩ.
Năm 2010, Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân cho tập thể liệt sỹ thanh niên xung phong hi sinh tại hang Tám Cô.
Câu chuyện xung quanh. | wiki |
Hang Tám Cô | Câu chuyện xung quanh.
Do việc làm thiếu trách nhiệm trong khi tìm hài cốt liệt sĩ, nên sau khi tổ chức lễ đưa tiễn, 6 bộ hài cốt khác được tìm thấy trước sự dấu nhẹm của Sở Lao động Thương binh Xã hội về tập kết và xây mộ liệt sĩ vô danh.
Năm 2017, tỉnh ủy Quảng Bình kết luận sai phạm, nhưng sau đó rút lại kết luận. Việc đưa tiễn về Thanh Hóa ngưng lại.
Theo yêu cầu từ Bộ Lao động Thương binh Xã hội sẽ kiểm tra DNA thân nhân các liệt sĩ trùng khớp để xác định danh tính. | wiki |
Đinh Tất Miễn | Đinh Tất Miễn (1891-1939), là bí thư đầu tiên của tỉnh Ninh Bình đồng thời là lãnh đạo cách mạng được trao tặng huân chương Hồ Chí Minh.
Đinh Tất Miễn sinh ra trong một gia đình nông dân ở xóm Lầu, làng Sầy, nay thuộc xã Sơn Thành, Nho Quan, Ninh Bình. Đinh Tất Miễn rất hiếu học, khi còn nhỏ đã từng cùng với anh trai của mình là ông đồ Lộc sang Hà Nam theo học Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Cùng với việc học chữ Hán, ông còn học làm thuốc từ chính Lương Văn Thăng, người anh rể trong gia đình. Đinh Tất Miễn gia nhập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đầu tiên ở Ninh Bình.
Ngày 24/6/1929, chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Lũ Phong chuyển sang thành chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng do Lương Văn Thăng làm Bí thư, Đinh Tất Miễn được kết nạp vào và sinh hoạt tại chi bộ Lũ Phong rồi về xây dựng cơ sở Đảng ở làng Sầy. Đinh Tất Miễn đã gây dựng nên một hệ thống cơ sở vững chắc từ chính ngôi nhà của mình.
Ngày 15/8/1930, chi bộ Đảng đầu tiên của làng Sầy được thành lập dưới sự chỉ đạo của Đinh Tất Miễn. Để việc hoạt động cách mạng được thuận lợi, ông đã thôi nghề dạy học mà chuyển sang làm thầy lang. Khi đi chữa bệnh cho dân, ông thường bỏ truyền đơn lẫn vào trong thuốc nhằm tuyên truyền tư tưởng cộng sản cho cả vùng Nho Quan. | wiki |
Đinh Tất Miễn | Tháng 8/1938, Đảng bộ tỉnh Ninh Bình họp Đại hội đại biểu lần thứ nhất tại thôn Đồi Dâu (Sơn Lai, Nho Quan) với sự tham dự của đại biểu cơ sở Đảng ở các huyện Gia Viễn, Nho Quan, Gia Khánh và Yên Mô. Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 3 uỷ viên. Đồng chí Đinh Tất Miễn được bầu làm Bí thư Tỉnh uỷ.
Tháng 1-1940, Đinh Tất Miễn đã hy sinh tại nhà lao tỉnh Nam Định. Đinh Tất Miễn được Thủ tướng Chính phủ công nhận là liệt sĩ ngày 1-6-1959. Ngày 6-8-2008, Chủ tịch nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1024-QĐ/CTN truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho đồng chí Đinh Tất Miễn, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Ninh Bình.
Đinh Tất Miễn cùng với người anh rể Lương Văn Thăng và cháu là anh hùng Lương Văn Tụy đều được đặt tên cho những đường phố ở trung tâm thành phố Ninh Bình. Đường Đinh Tất Miễn nằm ở phường Đông Thành, bên đường có nhà thi đấu Ninh Bình và trụ sở tỉnh ủy Ninh Bình. | wiki |
Sân vận động Quốc tế Cairo | Sân vận động Quốc tế Cairo (), được biết với tên cũ là Sân vận động Nasser, là một sân vận động đa năng, đạt tiêu chuẩn Olympic, toàn chỗ ngồi với sức chứa 75.000 chỗ ngồi. Kiến trúc sư của sân vận động là Werner March người Đức, người đã thiết kế Sân vận động Olympic ở Berlin. Công việc giám sát kỹ thuật và xây dựng của sân vận động được thực hiện bởi ACE Moharram Bakhoum. Trước khi trở thành một sân vận động toàn chỗ ngồi, sân có khả năng chứa hơn 100.000 khán giả, đạt kỷ lục 120.000 người. Đây là cơ sở tiêu chuẩn Olympic hàng đầu, phù hợp với vai trò của Cairo, Ai Cập là trung tâm của các sự kiện trong khu vực. Đây cũng là sân vận động lớn thứ 69 trên thế giới. Nằm ở quận Nasr City; một vùng ngoại ô ở phía đông bắc Cairo, sân được hoàn thành vào năm 1960, và được khánh thành bởi Tổng thống Gamal Abdel Nasser vào ngày 23 tháng 7 cùng năm, kỷ niệm 8 năm cuộc cách mạng Ai Cập 1952. Câu lạc bộ bóng đá Zamalek SC và Al Ahly sử dụng sân vận động cho các trận đấu trên sân nhà của các đội.
Tổng quan.
Sân vận động nằm cách sân bay quốc tế Cairo khoảng 10 km về phía tây và cách trung tâm thành phố Cairo khoảng 10 km (30 phút đi xe).
Vào năm 2005, để chuẩn bị cho Cúp bóng đá châu Phi 2006, sân đã trải qua một cuộc cải tạo lớn, và đã đạt tiêu chuẩn thế giới thế kỷ 21 cùng với tất cả các cơ sở Olympic nhiều môn thể thao của nó. | wiki |
Sân vận động Quốc tế Cairo | Vào năm 2005, để chuẩn bị cho Cúp bóng đá châu Phi 2006, sân đã trải qua một cuộc cải tạo lớn, và đã đạt tiêu chuẩn thế giới thế kỷ 21 cùng với tất cả các cơ sở Olympic nhiều môn thể thao của nó.
Sân vận động Cairo được biết đến với bầu không khí cuồng nhiệt và lượng khán giả rất cao. Điều này càng trở nên rõ ràng hơn trong Cúp bóng đá châu Phi 2006, được tổ chức tại Ai Cập. Khi Ai Cập có trận đấu của đội ở Sân vận động Cairo, sân vận động gần như bị "vỡ sân". Trước khi các ghế ngồi được thêm vào tất cả các phần trong năm 2005, sân vận động nổi tiếng là nơi có thể chứa nhiều người hơn so với sức chứa cố định. Không có ghế ngồi, người hâm mộ đã có thể chen lấn nhau và ngồi trên lối đi. Vì cách bố trí chỗ ngồi trước đó, Sân vận động Quốc tế Cairo đã có thể chứa hơn 120.000 người hâm mộ cho trận chung kết Cúp bóng đá châu Phi 1986 giữa Ai Cập và Cameroon. Dưới sự cổ vũ của các cổ động viên nhà, chủ nhà Ai Cập đã đánh bại Cameroon.
Sân vận động Cairo là một biểu tượng mạnh mẽ của bóng đá Ai Cập. Gần như tất cả các trận đấu quan trọng nhất của Ai Cập được tổ chức ở đó. Sân mang một lịch sử vô cùng phong phú bao gồm nhiều khoảnh khắc bóng đá đáng nhớ, từ bàn thắng nổi tiếng của Hossam Hassan giúp Ai Cập vượt qua vòng loại để tham dự World Cup 1990, nhiều giải đấu Cúp bóng đá châu Phi bao gồm giải đấu gần đây nhất vào năm 2006 và trận derby nổi tiếng giữa Ahly và Zamalek.
Sân cũng từng là sân vận động chính của Đại hội Thể thao châu Phi 1991.
Cúp bóng đá châu Phi 2019. | wiki |
Sân vận động Quốc tế Cairo | Sân cũng từng là sân vận động chính của Đại hội Thể thao châu Phi 1991.
Cúp bóng đá châu Phi 2019.
Sân vận động là một trong những địa điểm tổ chức Cúp bóng đá châu Phi 2019.
Các trận đấu sau đây đã được tổ chức tại sân vận động trong Cúp bóng đá châu Phi 2019: | wiki |
Alicia Pietri | Alicia Pietri
Alicia Pietri Montemayor (ngày 14 tháng 10 năm 1923 - ngày 09 Tháng Hai 2011) là một nhân vật công chúng Venezuela người hai lần từng là Đệ nhất phu nhân của Venezuela (1969-1974 và 1994-1999) là vợ của Venezuela Tổng thống Rafael Caldera. Bà là người sáng lập Bảo tàng Trẻ em của Venezuela. Bà từng là chủ tịch của Tổ chức Trẻ em ở Venezuela, và cũng tham gia vào các tổ chức khác dành riêng cho việc chăm sóc trẻ em.
Cuộc sống cá nhân.
Alicia Pietri Montemayor sinh ngày 14 tháng 10 năm 1923. Chồng bà Rafael Caldera qua đời vào ngày 24 tháng 12 năm 2009, sau khi vật lộn vài năm với bệnh Parkinson. Bà qua đời ở Caracas vào ngày 9 tháng 2 năm 2011 ở tuổi 87, vì những nguyên nhân tự nhiên. | wiki |
Anjar, Liban | Anjar, Liban
Anjar ( / ALA-LC: "‘Anjar"; , có nghĩa là "dòng sông không nhất định hoặc không chảy") còn được gọi là Haoush Mousa ( / "Ḥawsh Mūsá") là một thị trấn của Liban nằm trong thung lũng Beqaa. Dân số của nó là 2.400 người bao gồm gần như toàn bộ là người Armenia. Tổng diện tích của nó là 20 kilômét vuông (7,7 dặm vuông). Vào mùa hè, dân số của thị trấn tăng lên 3.500 người khi nhiều Người di cư Armenia trở về quê hương. Trong thế giới cổ đại, nó được biết đến là Chalkis.
Lịch sử.
Nó được cho là thành lập vào triều đại Nhà Omeyyad dưới thời trị vì của Al-Walid I vào đầu thế kỷ thứ 8 như là một thành phố cung điện. Tuy nhiên, nhà sử học Jere L. Bacharach tuyên bố rằng, nó được thành lập vào thời trị vì của con trai Al-Walid I là Al-Abbas ibn al-Walid, người được cho là thành lập Anjar vào năm 714, theo biên niên sử Hy Lạp-Đông La Mã của Theophanes.
Sau khi thị trấn bị bỏ rơi trong những năm sau đó, Anjar được tái định cư vào năm 1939 với hàng ngàn người tị nạn Armenia từ khu vực Musa Dagh. Các khu phố của nó được đặt theo tên của sáu ngôi làng Musa Dagh là Haji Habibli, Kebusiyeh, Vakif, Kheder Bek, Yoghunoluk và Bitias. Quân đội Syria đã chọn Anjar là một trong những căn cứ quân sự chính trong Thung lũng Beqaa và trụ sở của cơ quan tình báo. | wiki |
Mai Thảo | Mai Thảo (1927-1998), tên thật: Nguyễn Đăng Quý, bút hiệu khác: Nguyễn Đăng; là một nhà văn hiện đại Việt Nam.
Tiểu sử.
Mai Thảo sinh ngày 8 tháng 6 năm 1927 tại chợ Cồn, thị trấn Cồn, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong gia đình giàu có nhờ buôn bán và làm ruộng. Tuy nhiên, nguyên quán của ông thì ở làng Thổ Khối, huyện Gia Lâm (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh), nay là phường Cự Khối, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Thuở nhỏ, Mai Thảo học tiểu học ở trường làng, học trung học ở Nam Định rồi lên Hà Nội tiếp tục học ở trường Đỗ Hữu Vị (sau đổi tên là trường Chu Văn An).
Năm 1945, ông theo nhà trường sơ tán lên Hưng Yên. Khi chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ năm 1946, ông theo gia đình từ Hà Nội tản cư về quê là chợ Cồn (Nam Định). Sau đó, ông rời nhà vào Thanh Hóa tham gia kháng chiến. Ông viết báo, rồi theo các đoàn văn nghệ đi khắp nơi từ Liên khu III, Liên khu IV đến chiến khu Việt Bắc. Thời kỳ này đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương ông.
Năm 1951, Mai Thảo bỏ kháng chiến về thành đi buôn. Năm 1954, ông di cư vào Nam, gia nhập làng báo. Ông viết truyện ngắn trên các báo "Dân Chủ, Lửa Việt, Người Việt,"... Trước kia, Mai Thảo làm nhiều bài thơ (có cả kịch thơ) từ năm 16, 17 tuổi, khi vào đây ông chuyên viết văn, không còn làm thơ nữa. | wiki |
Mai Thảo | Năm 1956, ông chủ trương báo "Sáng tạo", gây được tiếng vang. Năm 1956, ông chủ trương báo "Nghệ thuật", và từ 1974, ông trông nom tạp chí "Văn". Ngoài ra, ông còn tham gia chương trình văn học nghệ thuật của Đài phát thanh Sài Gòn từ 1960 đến 1975.
Ngày 4 tháng 12 năm 1977, Mai Thảo vượt biển. Sau nhiều ngày đêm trên biển, thuyền tới Pulau Besar, Mã Lai.
Đầu năm 1978, được người em bảo lãnh sang Hoa Kỳ. Ít lâu sau, ông cộng tác với tờ "Đất Mới" của Thanh Nam và một số báo khác tại hải ngoại.
Tháng 7 năm 1982, ông tái bản tạp chí "Văn", làm Chủ biên đến 1996, vì tình trạng sức khỏe trao lại cho nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Ông có bài đăng trên tạp chí Làng Văn và sách do Làng Văn xuất bản (Ngọn Hải Đăng Mù).
Nhà văn Mai Thảo mất tại Santa Ana, California (Hoa Kỳ) ngày 10 tháng 1 năm 1998.
Tác phẩm.
Tác phẩm Mai Thảo đã xuất bản: | wiki |
Quận Stephenson, Illinois | Quận Stephenson là một quận thuộc tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ.
Quận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở.
Địa lý.
Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước.
Thông tin nhân khẩu.
Theo điều tra dân số năm 2000, quận này đã có dân số 48.979 người, 19.785 hộ gia đình, và 13.473 gia đình sống trong quận hạt. Mật độ dân số là 87 người trên một dặm vuông (34/kmТВ). Có 21.713 đơn vị nhà ở với mật độ trung bình là 38 trên một dặm vuông (15/kmТВ). Thành phần chủng tộc của cư dân sinh sống trong quận gồm 89,29% người da trắng, 7,68% da đen hay Mỹ gốc Phi, 0,15% người Mỹ bản xứ, 0.68% châu Á, Thái Bình Dương 0,04%, 0,63% từ các chủng tộc khác, và 1,53% từ hai hoặc nhiều chủng tộc. 1,53% dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào. 45,0% là người gốc Đức, Mỹ 7,2%, Ailen 7,0% và 6,3% gốc Anh theo điều tra dân số năm 2000.
Có 19.785 hộ, trong đó 30,70% có trẻ em dưới 18 tuổi sống chung với họ, 55,40% là đôi vợ chồng sống với nhau, 9,50% có một chủ hộ nữ và không có chồng, và 31,90% là không lập gia đình. 27,60% hộ gia đình đã được tạo ra từ các cá nhân và 12,60% có người sống một mình65 tuổi hoặc cao hơn. Cỡ hộ trung bình là 2,43 và cỡ gia đình trung bình là 2,97. | wiki |
Quận Stephenson, Illinois | Trong quận cơ cấu độ tuổi dân cư được trải ra với 25,20% dưới độ tuổi 18, 7,60% 18-24, 27,50% 25-44, 23,30% từ 45 đến 64, và 16,40% từ 65 tuổi trở lên người. Độ tuổi trung bình là 38 năm. Đối với mỗi 100 nữ có 93,10 nam giới. Đối với mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, đã có 90,30 nam giới.
Thu nhập trung bình cho một hộ gia đình trong quận đạt mức USD 40.366, và thu nhập trung bình cho một gia đình là USD 48.510. Phái nam có thu nhập trung bình USD 36.300 so với 24.238 USD đối với phái nữ. Thu nhập bình quân đầu người là 19.794 USD. Có 6,50% gia đình và 9,00% dân số sống dưới mức nghèo khổ, bao gồm 11,60% những người dưới 18 tuổi và 8,50% của những người 65 tuổi hoặc cao hơn. | wiki |
Phương tiện xanh | Phương tiện xanh, hay phương tiện sạch, hay phương tiện thân thiện với môi trường là phương tiện đường bộ sử dụng động cơ mà ít tạo ra các tác động có hại cho môi trường hơn so với các phương tiện động cơ đốt trong truyền thống tương đương chạy bằng xăng hay dầu diesel hay sử dụng một số nhiên liệu thay thế nhất định. Hiện nay, ở một số quốc gia, thuật ngữ này được sử dụng cho bất kỳ phương tiện nào tuân theo hoặc vượt qua các tiêu chuẩn khí thải nghiêm ngặt hơn của Châu Âu (chẳng hạn như Euro6) hoặc các tiêu chuẩn phương tiện không khí thải của California (chẳng hạn như ZEV, ULEV, SULEV, PZEV), hoặc tiêu chuẩn nhiên liệu carbon thấp được ban hành ở một vài quốc gia. | wiki |
Phương tiện xanh | Phương tiện xanh có thể được cung cấp năng lượng từ các nhiên liệu thay thế và phương tiện với công nghệ tiên tiến, bao gồm xe điện hỗn hợp (lai), xe điện hỗn hợp (lai) sạc điện, xe chạy bằng pin, xe chạy bằng khí nén, bằng hydro và xe sử dụng pin nhiên liệu, xe chạy bằng ethanol, xe chạy bằng nhiên liệu linh hoạt, xe chạy bằng khí đốt tự nhiên, xe chạy bằng dầu diesel sạch và một số nguồn cũng bao gồm xe sử dụng hỗn hợp nhiên liệu diesel sinh học và nhiên liệu etanol hoặc gasohol (hỗn hượp nhiên liệu etanol phổ biến). Vào tháng 11 năm 2016, với EPA được đánh giá là tiết kiệm nhiên liệu:136 dặm một gallon xăng tương đương (mpg-e) ), Hyundai IONQ Electric 2017 đã trở thành chiếc xe được EPA chứng nhận hiệu quả nhất xét trên tất cả các loại nhiên liệu và trong tất cả các năm, vượt qua BMW i3 chạy điện hoàn toàn phiên bản năm 2014-2016.
Một số tác giả cũng tính đến các phương tiện động cơ truyền thống với khả năng tiết kiệm nhiên liệu cao, vì họ cho rằng tăng cường tiết kiệm nhiên liệu là cách tiết kiệm chi phí hiệu quả nhất để cải thiện năng suất năng lượng và giảm lượng khí thải ra carbon trong lĩnh vực giao thông trong ngắn hạn. Là một phần đóng góp vào phương tiện bền vững, những phương tiện này giảm ô nhiễm không khí và khí thải nhà kính, đồng thời góp phần vào năng lượng độc lập bằng cách giảm nhập khẩu dầu. | wiki |
Phương tiện xanh | Sự phân tích môi trường không mở rộng quá, nó chỉ là hiệu quả hoạt động và lượng khí thải. Đánh giá vòng đời (LCA) bao gồm các cân nhắc về sản phẩm và sau sử dụng. Thiết kế cradle-toc-cradle quan trọng hơn là tập trung vào một yếu tố duy nhất chẳng hạn như hiệu quả của năng lượng.
Năng lượng hiệu quả.
"Bài chi tiết: Năng lượng hiệu quả trong vận tải"
Những chiếc xe với sự sản xuất tương tự nhau về giá năng lượng có thể đang tồn tại, trong suốt vòng đời của xe (quá trình vận hành), giảm phần lớn chi phí năng lượng thông qua một vài biện pháp:
Các loại.
"Thông tin thêm: Xe chạy bằng nhiên liệu thay thế"
Phương tiện xanh bao gồm các loại phương tiện hoạt động hoàn toàn hay một phần bằng các nguồn năng lượng thay thế không phải là nhiên liệu hóa thạch hay sử dụng ít carbon hơn xăng hay dầu diesel.
Một sự lựa chọn khác là sử dụng thành phần nhiên liệu thay thế trong các phương tiện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch truyền thống, làm cho chúng hoạt động một phần dựa trên các nguồn năng lượng tái tạo. Các cách tiếp cận khác bao gồm phương tiện giao thông nhanh cá nhân, một khái niệm giao thông công cộng mà cung cấp tự động, theo yêu cầu, không dừng trên mạng lưới các hướng dẫn được xây dựng đặc biệt.
Chạy bằng điện và năng lượng pin nhiên liệu.
"Xem thêm: Xe điện và Xe lai sạc điện"
Các ví dụ về các loại xe giảm mức tiêu thụ xăng dầu bao gồm ô tô điện, xe lai sử dụng điện và ô tô chạy bằng năng lượng pin nhiên liệu hydro.. | wiki |
Phương tiện xanh | "Xem thêm: Xe điện và Xe lai sạc điện"
Các ví dụ về các loại xe giảm mức tiêu thụ xăng dầu bao gồm ô tô điện, xe lai sử dụng điện và ô tô chạy bằng năng lượng pin nhiên liệu hydro..
Ô tô điện thường đặc trưng, điển hình hơn xe chạy bằng pin nhiên liệu trên nền tảng Tank-to-wheel. Chúng có khả năng tiết kiệm nhiên liệu tốt hơn so với xe động cơ đốt trong truyền thống nhưng bị cản trở bởi phạm vi hoạt động hay khoảng cách tối đa có thể đạt được trước khi xả pin. Pin của xe điện là chi phí chính của chúng. Chúng giúp giảm từ 0% đến 99,9% lượng khí thải CO2 so với xe chạy bằng ICE (xăng, dầu diesel), tùy thuộc vào nguồn điện.
Xe điện lai.
"Xem thêm: Xe lai"
Ô tô lai có thể chạy một phần bằng nhiên liệu hóa thạch (hay nhiên liệu sinh học) và một phần chạy bằng điện hay năng lượng hydro. Hầu hết kết hợp động cơ đốt trong với động cơ điện, mặc dù các biến thể khác cũng tồn tại. Động cơ đốt trong thường là động cơ xăng hay động cơ Diesel (trong một số trường hợp hiếm hoi, động cơ Stirling thậm chí có thể được sử dụng ). Chúng đắt hơn để mua nhưng chi phí hoàn lại có thể đạt được trong khoảng thời gian khoảng 5 năm vì chúng tiết kiệm nhiên liệu tốt hơn.
Ô tô chạy bằng khí nén và các loại xe khác.
"Xem thêm: Phương tiện chạy bằng khí nén và ô tô chạy bằng khí nén"
Xe chạy bằng khí nén, xe chạy bằng năng lượng stirling, xe chạy bằng nitơ lỏng thậm chí còn ít gây ô nhiễm hơn xe chạy bằng điện, vì phương tiện này và các bộ phận của nó có thể được chế tạo thân thiện hơn với môi trường. | wiki |
Phương tiện xanh | Các cuộc đua về xe sử dụng năng lượng mặt trời được tổ chức thường xuyên nhằm thúc đẩy các phương tiện xanh và " công nghệ xanh " khác. Những chiếc xe kiểu dáng đẹp chỉ dành cho drive-only có thể di chuyển quãng đường dài ở tốc độ thuộc đường cao tốc mà chỉ sử dụng điện năng được tạo ra tức thì từ mặt trời.
Việc cải tiến ô tô truyền thống.
"Các bài báo chính: Nhiên liệu sinh học, khí nén tự nhiên, dầu diesel sạch"
"Xem thêm: Bê bối khí thải của Volkswagen"
Một phương tiện truyền thống có thể trở thành phương tiện xanh hơn với môi trường bằng cách trộn các nhiên liệu tái tạo hoặc sử dụng nhiên liệu hóa thạch ít carbon hơn. Xe ô tô chạy bằng xăng điển hình có thể chịu được tới 10% ethanol. Brazil sản xuất ô tô chạy bằng ethanol nguyên chất, mặc dù đã ngừng sản xuất. Một lựa chọn khả dụng khác là xe chạy bằng nhiên liệu linh hoạt cho phép pha trộn bất kỳ loại xăng và ethanol nào, lên đến 85% ở Bắc Mỹ và Châu Âu, lên đến 100% ở Brazil. Một lựa chọn hiện có khác là chuyển đổi một loại máy chạy bằng xăng truyền thống để cho phép sử dụng CNG thay thế. Pakistan, Argentina, Brazil, Iran, Ấn Độ, Ý và Trung Quốc có đội xe chạy bằng khí đốt tự nhiên lớn nhất trên thế giới. | wiki |
Phương tiện xanh | Các phương tiện sử dụng năng lượng diesel thường có thể chuyển hoàn toàn sang diesel sinh học, mặc dù nhiên liệu này là một dung môi rất mạnh, đôi khi có thể làm hỏng đệm kín cao su của các xe được chế tạo trước năm 1994. Tuy nhiên, phổ biến hơn là dầu diesel sinh học gây ra các vấn đề đơn giản vì nó loại bỏ tất cả phần cặn còn lại trong động cơ, làm tắc nghẽn các bộ lọc, trừ khi được cẩn thận khi chuyển từ diesel có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch bẩn sang diesel sinh học. Nó rất hiệu quả trong việc 'khử cốc' buồng đốt động cơ diesel và giữ cho chúng sạch sẽ. Dầu diesel sinh học là nhiên liệu tỏa ra khí thải thấp nhất dành cho động cơ diesel. Động cơ diesel là loại động cơ đốt trong ô tô hiệu quả nhất. Dầu diesel sinh học là loại nhiên liệu duy nhất được phép sử dụng tại một số vườn quốc gia Bắc Mỹ vì dầu tràn sẽ phân hủy hoàn toàn phẩm giá của sinh học trong vòng 21 ngày. Xe chạy bằng nhiên liệu diesel sinh học và dầu thực vật đã được tuyên bố là một trong những loại xe "xanh" nhất trong cuộc thi "Tour de Sol" của Mỹ.
Điều này gây ra nhiều vấn đề, vì nhiên liệu sinh học có thể sử dụng nguồn thực phẩm để cung cấp năng lượng cơ học cho các phương tiện giao thông. Nhiều chuyên gia cho rằng đây là nguyên nhân làm tăng giá lương thực, đặc biệt là sản xuất nhiên liệu Bio-ethanol của Mỹ đã ảnh hưởng đến giá của ngô. Để có tác động thấp đến môi trường, nhiên liệu sinh học chỉ nên được sản xuất từ các chất thải, hoặc từ các nguồn mới như tảo. | wiki |
Phương tiện xanh | Xe chạy bằng động cơ điện và năng lượng từ bàn đạp.
Nhiều công ty đang cung cấp và phát triển các loại xe từ hai, ba đến bốn bánh kết hợp với các đặc điểm của chiếc xe đạp với động cơ điện. Liên bang Mỹ, Nhà nước và pháp luật địa phương không rõ ràng và cũng không nhất quán phân loại những phương tiện như xe đạp, xe đạp điện, xe máy, xe máy điện, xe gắn máy, Quadricycle cơ giới hóa (bốn bánh) hoặc như một chiếc ô tô. Một số luật có giới hạn về tốc độ tối đa, công suất của động cơ, phạm vi, v.v. trong khi những luật khác thì không.
Khác
Phương tiện sử dụng năng lượng từ động vật.
Ngựa và xe ngựa chỉ là một loại phương tiện chở động vật. Từng là một hình thức giao thông phổ biến, nhưng bây giờ trở nên ít phổ biến hơn khi các thành phố phát triển và ô tô chiếm vị trí của chúng. Ở các thành phố đông đúc, chất thải do số lượng lớn động vật vận chuyển thải ra gây vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe. Thông thường thực phẩm được sản xuất cho chúng sử dụng máy kéo chạy bằng động cơ diesel, và do đó có một số tác động đến môi trường vì kết quả của việc sử dụng chúng.
Phương tiện chạy bằng sức người.
Phương tiện giao thông chạy bằng sức người bao gồm đi bộ, xe đạp, velomobiles, thuyền hàng, và các cách thân thiện với môi trường khác. Ngoài những lợi ích về sức khỏe mà việc tập thể dục mang lại, những phương tiện này còn thân thiện với môi trường hơn nhiều so với hầu hết các lựa chọn khác. Nhược điểm duy nhất là giới hạn tốc độ và người ta có thể đi đến bao xa trước khi bị kiệt sức. | wiki |
Phương tiện xanh | Lợi ích của việc sử dụng phương tiện xanh.
Về môi trường.
Khí thải xe cộ góp phần làm tăng nồng độ khí liên quan đến biến đổi khí hậu. Về mức độ của tầm quan trọng, các khí nhà kính chính liên quan đến vận tải đường bộ là carbon dioxide (CO 2), mêtan (CH 4) và Dinitơ monoxit (N 2 O). Giao thông đường bộ là nguồn thải ra khí nhà kính lớn thứ ba ở Anh, chiếm hơn 20% tổng lượng chất thải và chiếm 33% ở Hoa Kỳ. Trong tổng lượng khí gas thải ra tạo khí nhà kính từ giao thông vận tải, trên 85% là do thải ra CO 2 từ các phương tiện giao thông đường bộ. Lĩnh vực giao thông vận tải là nguồn gây ra khí thải nhanh nhất cho hiệu ứng nhà kính.
Về sức khỏe.
Các chất ô nhiễm từ các phương tiện xe cộ có liên quan đến sức khỏe con người bao gồm tỷ lệ mắc bệnh hô hấp, tim phổi và ung thư phổi. Một báo cáo năm 1998 ước tính rằng có đến 24.000 người chết sớm mỗi năm ở Anh do hậu quả trực tiếp của sự ô nhiễm không khí. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có tới 13.000 ca tử vong mỗi năm ở trẻ em (từ 0–4 tuổi) trên khắp châu Âu với nguyên nhân trực tiếp do ô nhiễm môi trường ở bên ngoài. Tổ chức này ước tính rằng nếu mức độ ô nhiễm trở về lại giới hạn của EU thì hơn 5.000 người trong số này có thể được cứu sống mỗi năm.
Thuộc về tiền tệ.
Các nhà khai thác về xe taxi lai ở New York cũng đã báo cáo rằng việc giảm tiêu thụ nhiên liệu giúp họ tiết kiệm hàng nghìn đô la mỗi năm.
Sự phê bình. | wiki |
Phương tiện xanh | Thuộc về tiền tệ.
Các nhà khai thác về xe taxi lai ở New York cũng đã báo cáo rằng việc giảm tiêu thụ nhiên liệu giúp họ tiết kiệm hàng nghìn đô la mỗi năm.
Sự phê bình.
Một nghiên cứu của CNW Marketing Research gợi ý rằng chi phí năng lượng tăng thêm cho việc sản xuất, vận chuyển, sự vứt bỏ và tuổi thọ ngắn của một số loại phương tiện này (đặc biệt là xe lai xăng-điện) lớn hơn bất kỳ khoản tiết kiệm năng lượng nào do họ sử dụng ít xăng dầu hơn trong tuổi thọ có ích. Thể loại của cuộc tranh cãi này là sự tranh cãi lâu dài. Các nhà phê bình của báo cáo lưu ý rằng nghiên cứu đã chia tỷ lệ tất cả chi phí nghiên cứu và phát triển của Toyota trên một số lượng tương đối nhỏ những chiếc Priuses trên đường, thay vì sử dụng chi phí gia tăng của việc chế tạo một chiếc xe; sử dụng cho suốt vòng đời của một chiếc Prius (Toyota cung cấp bảo hành đối với các thành phần lai của Prius, bao gồm cả pin), và được tính toán rằng phần lớn năng lượng từ đầu đến cuối của ô tô được sử dụng trong quá trình sản xuất xe, không phải khi nó được lái. Thanh tra về Tiêu dùng của Na Uy Bente Øverli tuyên bố rằng "Ô tô không thể làm bất cứ điều gì tốt cho môi trường ngoại trừ ít thiệt hại hơn những loại khác." Dựa trên ý kiến này, luật pháp Na Uy hạn chế nghiêm ngặt việc sử dụng " greenwashing " (quảng cáo xanh) để tiếp thị ô tô, nghiêm cấm quảng cáo một phương tiện là thân thiện với môi trường, với mức phạt lớn đối với những người vi phạm. | wiki |
Phương tiện xanh | Một số nghiên cứu cố gắng tìm cách so sánh các tác động đến môi trường của xe chạy bằng điện và xe chạy bằng xăng trong một vòng đời hoàn chỉnh, bao gồm cả quá trình sản xuất, sự vận hành và sự tháo dỡ. Nhìn chung, các kết quả khác nhau rất nhiều vì tùy thuộc vào từng khu vực được xem xét, do sự khác biệt về nguồn năng lượng để sản xuất điện mà cung cấp nhiên liệu cho xe điện. Khi chỉ xét đến lượng khí thải CO2, người ta lưu ý rằng sản xuất ô tô điện tạo ra lượng khí thải nhiều gấp đôi so với ô tô sử dụng động cơ đốt trong. Tuy nhiên, sự thải ra của CO 2 trong quá trình hoạt động lớn hơn nhiều (trung bình) so với trong quá trình sản xuất. Đối với ô tô điện, lượng khí thải gây ra trong quá trình vận hành phụ thuộc vào các nguồn năng lượng được sử dụng để sản xuất điện và do đó khác nhau rất nhiều về mặt địa lý. Các nghiên cứu cho thấy rằng khi tính đến cả sản xuất và vận hành, ô tô điện sẽ gây ra nhiều khí thải hơn ở các nền kinh tế nơi sản xuất điện không sạch, ví dụ chủ yếu là sử dụng than đá. Vì lý do này, một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc lái xe ô tô điện ở các bang miền tây Hoa Kỳ ít gây hại cho môi trường hơn so với các bang miền đông, nơi sản xuất ít điện hơn bằng cách sử dụng các nguồn sạch hơn. Tương tự, ở các quốc gia như Ấn Độ, Úc hay Trung Quốc, nơi phần lớn điện năng được sản xuất bằng cách sử dụng than, lái xe điện sẽ gây ra thiệt hại môi trường lớn hơn lái xe chạy xăng. Khi biện minh cho việc sử dụng ô tô điện thay vì ô tô sử dụng xăng, những nghiên | wiki |
Phương tiện xanh | điện năng được sản xuất bằng cách sử dụng than, lái xe điện sẽ gây ra thiệt hại môi trường lớn hơn lái xe chạy xăng. Khi biện minh cho việc sử dụng ô tô điện thay vì ô tô sử dụng xăng, những nghiên cứu kiểu này không đưa ra kết quả đủ rõ ràng. Tác động đến môi trường được tính toán dựa trên hỗn hợp nhiên liệu được sử dụng để sản xuất điện mà cung cấp năng lượng cho ô tô điện. Tuy nhiên, khi xe sử dụng gas được thay thế bằng xe điện tương đương thì phải lắp thêm nguồn điện vào mạng lưới điện. Công suất bổ sung này thường sẽ không dựa trên cùng tỷ lệ giữa các nguồn năng lượng ("sạch" so với nhiên liệu hóa thạch) hơn so với công suất hiện tại. Chỉ khi năng lực sản xuất điện bổ sung được lắp đặt để chuyển từ xăng sang xe điện chủ yếu bao gồm các nguồn sạch thì việc chuyển sang sử dụng xe điện mới có thể giảm thiểu tác hại đến môi trường. Một vấn đề phổ biến khác trong phương pháp luận được sử dụng trong các nghiên cứu về so sánh là nó chỉ tập trung vào các loại tác động môi trường cụ thể. Trong khi một số nghiên cứu chỉ tập trung vào sự thải ra của các chất ô nhiễm khí trong vòng đời hoặc chỉ phát thải khí nhà kính như CO, việc so sánh cũng cần tính đến các tác động môi trường khác như các chất ô nhiễm thải ra trong quá trình sản xuất và vận hành hay các thành phần không thể tái chế được hiệu quả. Ví dụ bao gồm việc sử dụng kim loại nhẹ hơn có hiệu suất cao, pin lithi và các kim loại hiếm hơn trong ô tô điện, tất cả đều có tác động cao đến môi trường. | wiki |
Phương tiện xanh | Một nghiên cứu cũng xem xét các yếu tố khác ngoài tiêu thụ năng lượng và thải ra lượng khí thải carbon đã gợi ý rằng không có một chiếc xe ô tô nào thân thiện với môi trường.
Việc sử dụng các phương tiện mà làm tăng sự tiết kiệm nhiên liệu thường được coi là tích cực trong thời kỳ ngắn hạn nhưng những lời chỉ trích về bất kỳ phương tiện giao thông cá nhân nào sử dụng hydrocarbon vẫn còn. Nghịch lý Jevons cho rằng các chương trình tiết kiệm năng lượng thường phản tác dụng, thậm chí làm tăng mức tiêu thụ năng lượng trong thời gian dài. Nhiều nhà nghiên cứu về môi trường tin rằng giao thông bền vững có thể đòi hỏi sự chuyển khỏi của nhiên liệu hydrocarbon, từ mô hình ô tô và đường cao tốc hiện nay của chúng ta.
Sự quảng bá trong nước và quốc tế.
Liên minh Châu Âu.
Liên minh châu Âu đang thúc đẩy việc tiếp thị ô tô xanh hơn thông qua sự kết hợp của các biện pháp ràng buộc và các biện pháp không ràng buộc. Tính đến tháng 4 năm 2010, 15 trong số 27 quốc gia là thành viên của Liên minh châu Âu cung cấp ưu đãi thuế cho các loại xe chạy bằng điện và một số phương tiện chạy bằng nhiên liệu thay thế, bao gồm tất cả các nước Tây Âu ngoại trừ Ý và Luxembourg, thêm cả Cộng hòa Séc và Romania. Các ưu đãi bao gồm giảm và miễn thuế, cũng như trả tiền thưởng cho người mua ô tô điện, xe lai sạc điện, xe điện lai và xe chạy bằng khí đốt tự nhiên.
Hoa Kỳ. | wiki |
Phương tiện xanh | Hoa Kỳ.
Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA) đang thúc đẩy việc tiếp thị những chiếc xe xanh hơn thông qua chương trình SmartWay. Ký hiệu SmartWay và SmartWay Elite có nghĩa là một chiếc xe thể hiện tốt hơn với môi trường so với các phương tiện khác. Chỉ định EPA của Hoa Kỳ này được đưa ra bằng cách tính đến điểm ô nhiễm không khí và điểm khí nhà kính của phương tiện đó. Điểm ô nhiễm không khí cao hơn cho thấy các phương tiện thải ra lượng chất ô nhiễm gây khói thấp hơn so với các phương tiện khác. Điểm khí nhà kính cao hơn cho thấy những phương tiện thải ra lượng carbon dioxide thấp hơn và có khả năng tiết kiệm nhiên liệu được cải thiện so với các phương tiện khác.
Liên minh tiếp thị xe xanh, kết hợp với Phòng thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge (ONRL), họp định kỳ và điều phối các nỗ lực tiếp thị.
Giải thưởng Bảo hiểm lũy tiến Ô tô X.
Giải thưởng bảo hiểm lũy tiến ô tô X (PIAXP) là một tập hợp các cuộc thi, chương trình và sự kiện, từ Tổ chức X PRIZE nhằm "truyền cảm hứng cho một thế hệ phương tiện siêu hiệu quả để giúp phá vỡ cơn nghiện dầu ở Mỹ và ngăn chặn tác động của biến đổi khí hậu. " Bảo hiểm lũy tiến là nhà tài trợ chính của giải thưởng, trung tâm của giải thưởng là Bộ phận cạnh tranh, trong đó số tiền 10 triệu đô la sẽ được chia cho những người chiến thắng trong ba cuộc thi. | wiki |
Phương tiện xanh | Bản chất của mỗi cuộc thi là để thiết kế, chế tạo và để đua những chiếc xe siêu hiệu quả đạt 100 MPGe (2,35 lít / 100 km) và có thể được sản xuất cho thị trường đại chúng. Trong bộ phận cạnh tranh, có hai hạng xe: trào lưu chính và thay thế. Lớp trào lưu chính có giải thưởng 5 triệu đô la. Lớp thay thế có 2 giải thưởng riêng biệt trị giá 2,5 triệu USD, một giải cho chỗ ngồi cạnh nhau và một giải cho chỗ ngồi song song.
Một số đối thủ, chẳng hạn như Aptera và Tesla, đã nhận đặt cọc mua xe 'xanh' từ khách hàng.
Bảng xếp hạng xe xanh.
Một số tạp chí về ô tô, các ấn phẩm chuyên ngành về xe cơ giới và các nhóm môi trường công bố bảng xếp hạng hàng năm hay danh sách những chiếc xe "xanh" tốt nhất của một năm nhất định. Bảng sau đây sẽ trình bày một số lựa chọn hàng đầu theo hàng năm.
Triển lãm động cơ xe điện.
Động cơ xe điện và xe xanh chuyên dụng cho thấy: | wiki |
Hầu gái rồng nhà Kobayashi | Hầu gái rồng nhà Kobayashi, hay cũng biết tới với tên gốc là một series manga Nhật được viết và vẽ minh họa bởi Coolkyoushinja. Series bắt đầu xuất bản tại tạp chí "Monthly Action "của Futabasha vào tháng 5 năm 2013. Bộ truyện được Nhà xuất bản Hải Phòng phát hành tại Việt Nam. Một bộ manga ngoại truyện bởi Mitsuhiro Kimura bắt đầu xuất bản tại "Monthly Action" vào tháng 12 năm 2016. Một series anime sản xuất bởi Kyōto Animation được lên sóng truyền hình tại Nhật từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2017. Mùa thứ hai với nhan đề "Kobayashi-san chi no maidragon S" được phát sóng từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2021.
Nội dung.
Một buổi sáng, cô lập trình viên 25 tuổi tên Kobayashi chuẩn bị đi làm như bao ngày khác, thì bắt gặp đầu của một con rồng lớn ngay trước cửa nhà. Con rồng lập tức hóa thành một cô gái nở nang, tràn đầy năng lượng trong trang phục hầu gái, tự giới thiệu mình là Tohru.
Trước đó, trong một lần đi chơi trên núi ngay hôm trước, do quá say, tính khắc kỉ của cô nhân viên văn phòng này đã chinh phục được con rồng đang nằm hấp hối đến từ thế giới khác. Không có nơi nương tựa, Kobayashi quyết định giữ lại con rồng trong nhà cô. Con rồng đó – Tohru – bắt đầu trả ơn Kobayashi bằng cách làm việc như một hầu gái riêng của cô. | wiki |
Hầu gái rồng nhà Kobayashi | Tuy nhiên, dù có năng lực tốt trong công việc nhà, cách thức quản lý nhà cửa của Tohru thường gây sợ hãi và mang lại nhiều khó khăn cho Kobayashi. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của Tohru còn thu hút thêm những thế lực khác như rồng và thần đến thế giới của Kobayashi.
Manga.
Coolkyoushinja bắt đầu xuất bản series tại tạp chí "Monthly Action" của Futabasha vào ngày 25 tháng 5 năm 2013. Seven Seas Entertainment cấp phép series ở Bắc Mĩ, và họ xuất bản tập đầu tiên vào tháng 10 năm 2016. Một manga ngoại truyện được thiết kế bởi Kimura Mitsuhiro, với tiêu đề "Kobayashi-san Chi no Maidragon: Kanna no Nichijō" (小林さんちのメイドラゴン カンナの日常 "Ngày thường của Kanna"), bắt đầu ra tại "Monthly Action" từ ngày 24 tháng 12 năm 2016. Một bộ manga ngoại truyện thứ hai có tựa đề bắt đầu được đăng trên tạp chí "Monthly Action" kể từ ngày 25 tháng 7 năm 2017. Bản manga ngoại truyện thứ ba do Utamaro minh họa được đăng trên tạp chí "Monthly Action" kể từ tháng 1 năm 2019. Một bản manga ngoại truyện thứ bốn được mình họa bởi Zamurai Nobuyoshi bắt đầu đăng trên tạp chí "Monthly Action" từ ngày 25 tháng 10 năm 2020.
Anime. | wiki |
Hầu gái rồng nhà Kobayashi | Anime.
Phần bìa bên ngoài tập 4 của truyện tiết lộ rằng một series anime trên TV được phát sóng. Anime được sản xuất bởi Kyōto Animation, đạo diễn bởi Takemoto Yasuhiro, Yamada Yuka viết lời thoại, Kadowaki Miku thiết kế nhân vật, Maruki Nobuaki làm giám đốc sản xuất phim, và âm nhạc được sáng tác bởi Itō Masumi. Anime lên sóng ở Nhật từ ngày 11 tháng 1 đến ngày 6 tháng 4 năm 2017. Crunchyroll phát series trong khi Funimation Entertainment ra bản tiếng Anh từ ngày 1 tháng 2 năm 2017. Một tập OVA sẽ được ra vào Blu-ray/DVD tập 7 vào ngày 20 tháng 9 năm 2017. Nhạc mở đầu là bởi Fhána, và nhạc kết thúc là bởi Chorogons - nhóm nhạc là các diễn viên lồng tiếng cho các nhân vật rồng nữ, gồm Kuwahara Yūki (Tohru), Naganawa Maria (Kanna), (Elma), và Takada Yūki (Lucoa). | wiki |
Hầu gái rồng nhà Kobayashi | Mùa thứ hai của anime có tựa đề là , được thông báo trong tập thứ 8 của manga vào tháng 2 năm 2019. Tuy nhiên vụ phóng hỏa xưởng phim số 1 xảy ra vào tháng 7 năm 2019 khiến Kyōto Animation bị thiệt hại nặng nề, trong số những người thiệt mạng có đạo diễn Takemoto Yasuhiro. Mọi dự án của hãng phim đều phải dừng lại vô thời hạn. Sau gần hai năm Kyōto Animation tái thiết và sản xuất trở lại, "Kobayashi-san Chi no Maidragon S" được phát sóng từ ngày 8 tháng 7 năm 2021, là bộ anime truyền hình đầu tiên do hãng phim sản xuất sau vụ phóng hỏa. Về phía ban nhân sự có Ishihara Tatsuya kế nhiệm Takemoto làm đạo diễn, những người cũ như Yamada Yuka trở lại biên soạn kịch bản, Itō Masumi tiếp tục soạn phần nhạc, Kadowaki Miku thiết kế nhân vật và Maruki Nobuaki giữ vai trò trưởng đạo diễn hoạt họa. Ca khúc mở đầu phim là tiếp tục do ban nhạc Fhána thực hiện. Ca khúc kết thúc được trình bày bởi Super Chorogons - là nhóm Chorogons được bổ sung thêm Mineuchi Tomomi (diễn viên lồng tiếng nhân vật Ilulu). | wiki |
Dê | Dê (danh pháp hai phần: "Capra hircus") là loài động vật nhai lại, chân có móng thuộc họ Bovidae. Chúng là loài gia súc, có sau chó và có lẽ cùng thời với cừu, được nuôi để lấy thịt dê, sữa dê và da dê. Đây là giống gia súc có khả năng sinh sản cao, cho nhiều thịt, mắn đẻ, và là một đối tượng của việc chăn nuôi gia súc lấy sữa. Dê sinh sống ở khắp nơi, từ những vùng nóng như châu Phi đến những vùng lạnh như châu Âu, từ vùng đồng bằng cho đến vùng đồi núi.
Ngoài ra dê còn được phân làm hai nhóm là dê hoang và dê nhà:
Đặc điểm.
Hình dáng.
Dê có một bộ lông tơ mịn bao phủ khắp người. Bộ lông có thể chỉ có một màu hoặc nhiều màu, thường là màu đen, xám, trắng, nâu... Lông dê dài ngắn tùy theo loài và tùy theo các địa điểm địa lý khác nhau mà chúng sống, ví dụ như những loài dê sống ở vùng nóng thì lông ngắn và thưa, còn những loài dê sống ở vùng lạnh thì lông dài và rậm hơn (như ở các vùng đồi núi hoặc những nơi cao hơn mực nước biển). Ở dê cả con đực và con cái có thể có sừng hoặc không có sừng. Sừng dê có nhiều hình dáng (cong ngược về phía sau, thẳng đứng, uốn cong hình trôn ốc...). Cả dê cái và dê đực đều có râu tùy loài.
Tiêu hóa. | wiki |
Dê | Tiêu hóa.
Dê thuộc loại súc vật nhai lại như trâu, bò, cừu... Bộ máy tiêu hóa của dê được cấu tạo để có thể tiêu hóa được đủ loại thức ăn khác nhau (như vỏ cây, các loại cây cằn cỗi...). Miệng của dê tuy nhỏ nhưng môi lại rất mềm nên có thể gặm được nhiều loại thức ăn (như cỏ, cành, lá, gai góc, vỏ cây...). Lưỡi dê có nhiều loại gai thịt là đầu dây thần kinh khác nhau, các gai này không những phân biệt được mùi vị mà còn có thể ước lượng được độ cứng, mềm của thức ăn.
Hàm trên không có răng cửa nhưng thay vào đó là một khối xương lớn, có thể coi như một răng cửa lớn đối diện với 8 răng cửa ở hàm dưới. Dê dùng răng cửa ở hàm dưới cắt nhỏ những đồ ăn dài và cứng (như cành, bụi cây...) bằng cách nghiến vào khối xương ở hàm trên, sau đó dùng 12 cặp răng hàm để nghiền thêm. Khi ăn, dê dùng lưỡi để vơ lấy đồ ăn. Dê không nhai kỹ mà chỉ nhai sơ qua rồi nuốt nhanh.
Dạ dày của dê là một cơ quan rất lớn, dung tích có thể lên tới 30 lít chiếm hết xoang bụng bên trái, được chia thành 4 ngăn với các chức năng riêng biệt, có thể coi như 4 dạ dày nhỏ. Bốn túi này có kích thước và công dụng khác nhau, gồm:
Thức ăn sau khi qua 4 túi của dạ dày sẽ được chuyển tới ruột non gồm các tuyến nhỏ để hấp thụ chất dinh dưỡng nuôi cơ thể, phần dư thải còn lại sẽ được tống xuống ruột già để bài tiết ra ngoài.
Sinh trưởng. | wiki |
Dê | Sinh trưởng.
Dê là loài động vật có khả năng sinh sản rất nhanh (hơn cả bò, trâu...). Đa số các loài dê đến 6-8 tháng tuổi là đến tuổi động dục. Thời gian dê mang thai khoảng 140 ngày. Chính vì tốc độ sinh sản nhanh cùng với thói quen ăn nhiều của dê mà ở có một số khuyến cáo không nên thả rông dê nhà mà không kiểm soát.
Bảng dưới đây liệt kê đặc điểm sinh trưởng của một số giống dê nhà:
Các giống dê.
Dê có nhiều loài. Một số loài được kể đến như:
Giá trị kinh tế.
Dê là loài động vật cung cấp nhiều giá trị kinh tế. Nuôi dê:
Trong văn hóa.
Trong văn hóa, dê là biểu hiện cho thói dâm đãng vì khả năng động dục của dê, cũng như tiếng kêu be, be như một tiếng cười ngặt nghẽo và dâm dật. Dê còn là vật tế thần, vật hi sinh ở cả phương Tây lẫn phương Đông. Trong văn hóa phương Đông dê là một trong 12 con giáp, đại biểu cho địa chi (Mùi), và cũng nằm trong tam sinh lục súc (三牲六畜), trong văn hóa phương Tây, dê nằm trong 12 cung Hoàng đạo với hình tượng Ma Kết, dê còn xuất hiện trong thần thoại Hy Lạp, Bắc Âu và đặc biệt là trong Kitô giáo với hình tượng con dê gánh tội (oan dương). | wiki |
Dê | Dê là một trong những thần vật được người Ai Cập sùng bái vì sự đóng góp quan trọng của dê đối với đời sống con người. Một số dân tộc khác lại dùng dê làm vật tế thần. Người Ai Cập dùng dê dâng cho các ác thần để thay thế cho con người. Vào thời cổ La Mã, trong lễ hội Lupercalia cử hành vào ngày 15 tháng Giêng đầu năm, các thầy tế dâng lên thần linh một con dê và một con chó để cầu cho mưa thuận gió hòa và mọi người được sạch tội. Da dê sau đó được chia ra từng mảnh nhỏ để các chàng trai mang trong mình như lá bùa giúp mùa màng tươi tốt. Phụ nữ La Mã cũng tìm đủ cách để chạm được tay vào miếng da dê tế thần vì họ tin tưởng rằng làm như vậy sẽ sinh nở dễ dàng hơn. Vì vậy, sau hội Lupercania, nhiều đôi trai gái nên duyên nhờ miếng da dê.
Trong Thiên Chúa Giáo, hình ảnh con chiên, con dê rất gần gũi với người Do Thái từ mấy ngàn năm nay. Đức chúa Giêsu chào đời trong máng cỏ tại một hang có nhiều dê, chiên, lừa... thở hơi ấm. Ngoài ra, hình ảnh con chiên, con dê hy sinh, nhận lãnh làm của đền tội cho dân Do Thái không một lời than van thực ra là hình ảnh của chúa Giêsu gánh nhận trên vai mọi tội lỗi của nhân loại, như lời tiên tri Isaia đã nói trước 700 năm: "Người đã gánh mọi tội ác, mọi yếu đuối trên mình". Cũng chính vì sự so sánh này mà hàng ngày các giáo dân thường cầu nguyện "Lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng tôi..." | wiki |
Dê | Theo những sách kinh thánh con dê đực thường được xem là một con vật xấu, gian tà, đối ngược với cừu, mà được cho là có phẩm chất tốt. Trong Phúc Âm Mátthêu (Matthäus|25|31), Christus đã kêu các dân tộc lại, và như một mục đồng phân biệt các con cừu và dê thành nhóm tốt và xấu. Người mục đồng tụ tập các con cừu tốt sang bên phải và các con dê xấu về bên trái. Christus ban phúc lành với tay phải cho những con được lên trên trời, trong khi bên trái là những con phải xuống địa ngục. | wiki |
Belmopan | Belmopan
Belmopan () là thủ đô của Belize. Dân số thành phố năm 2010 là 16.451 người. Belmopan là điểm dân cư lớn thứ ba tại Belize, sau Thành phố Belize và San Ignacio, nhưng là thủ đô nhỏ nhất trên châu Mỹ lục địa. Được thành lập như một cộng đồng được quy hoạch năm 1970, Belmopan là một trong các thủ đô mới nhất trên thế giới. Từ năm 2000, Belmopan là một trong hai điểm dân cư ở Belize có địa vị thành phố, cùng với Thành phố Belize.
Belmopan nằm trong huyện Cayo, ở độ cao trên mực nước biển. Belmopan được xây dựng ngay phía đông sông Belize, cách cựu thủ đô Thành phố Belize , và được lập ra sau khi bão Hattie (1961) gần như phá hủy Thành phố Belize. Chính phủ chuyển đến Belmopan năm 1970. Tòa nhà Hội đồng Quốc gia tại đây được thiết kế để gợi nhớ đến kiến trúc của một ngôi đền Maya.
Khí hậu.
Belmopan có khí hậu nhiệt đới gió mùa ("Am") theo phân loại khí hậu Köppen. | wiki |
Nậm Công | Nậm Công
Nậm Công là phụ lưu cấp 1 của sông Mã, chảy qua các huyện Sốp Cộp và Sông Mã, tỉnh Sơn La, Việt Nam .
Tỉnh lộ 105 từ thị trấn Sông Mã đến thị trấn Sốp Cộp được mở theo thung lũng của Nậm Công .
Dòng chảy.
"Nậm Công" hình thành từ hợp lưu nhiều suối ở xã Púng Bánh, ban đầu có tên "Nậm Ban" .
Suối chảy theo hướng đông nam, từ cuối xã Púng Bánh có tên "Nậm Công", chảy qua xã Dồm Cang đến thị trấn Sốp Cộp.
Tại thị trấn Sốp Cộp nó hợp lưu với các dòng Nậm Lạnh chảy từ tây nam qua xã Nậm Lạnh đến, và dòng Nậm Ca chảy từ đông nam qua xã Mường Và đến.
Từ đây Nậm Công chuyển hướng đông bắc, qua xã Huổi Một thì đổ vào sông Mã.
Thủy điện.
Thủy điện Nậm Công gồm các thủy điện nhỏ đã và đang xây dựng trên Nậm Công và phụ lưu. | wiki |
In Rainbows | In Rainbows là album phòng thu thứ bảy của ban nhạc alternative rock Anh Radiohead. Album được ban nhạc tự phát hành vào 10 tháng 10 năm 2007 dưới dạng tải kĩ thuật số thông qua mô hình cho phép khách hàng tự định giá và trả tiền, sau đó dưới dạng đĩa CD thường ở nhiều nước vào tuần cuối của năm 2007. Album được phát hành ở Bắc Mỹ vào 1 tháng 2 năm 2008 bởi TBD Records. "In Rainbows" là đĩa nhạc đầu tiên của Radiohead sau khi họ chấm dứt hợp đồng với hãng EMI và đánh dấu sự kết thúc một khoảng thời gian dài nhất giữa hai album phòng thu trong sự nghiệp của họ.
Ghi âm với nhà sản xuất Nigel Godrich, Radiohead đã thực hiện "In Rainbows" trong hơn hai năm, bắt đầu từ đầu năm 2005. Giữa quá trình thu âm, ban nhạc đã lưu diễn tại châu Âu và Bắc Mỹ trong 3 tháng vào cuối năm 2006. Các sáng tác của "In Rainbows" mang tính riêng tư hơn tất cả các album khác của Radiohead, và ca sĩ chính Thom Yorke đã mô tả hầu hết bài hát như là những phiên bản của "các ca khúc quyến rũ" của anh. Radiohead đã kết hợp một loạt các phong cách âm nhạc và nhạc cụ khác nhau, sử dụng không chỉ nhạc cụ điện tử và bộ dây, mà còn cả piano, celesta, và ondes Martenot. | wiki |
In Rainbows | Sau khi ra mắt bản bán lẻ, "In Rainbows" đã leo lên bảng xếp hạng UK Albums Chart của Anh và "Billboard" 200 của Mỹ tại vị trí quán quân; cho đến tháng 10 năm 2008, album đã bán được hơn 3 triệu bản trên toàn cầu ở cả hai định dạng kĩ thuật số và đĩa nhựa. Album đã giành được sự khen ngợi rộng rãi của giới phê bình và được xem là một trong những album xuất sắc nhất của năm 2007 trên một số tạp chí. Vào năm 2009, đĩa nhạc đã giành hai giải Grammy cho "Album alternative xuất sắc nhất" và "Album đóng gói phiên bản giới hạn đặc biệt xuất sắc nhất" (Best Special Limited Edition Package). Vào năm 2012, album được xếp thứ 336 trong danh sách "500 album xuất sắc nhất mọi thời đại" của tạp chí "Rolling Stone".
Sản xuất.
Thu âm. | wiki |
In Rainbows | Sản xuất.
Thu âm.
Sau một khoảng thời gian nghỉ ngơi khỏi công việc sáng tác và ghi âm từ năm 2004, Radiohead bắt đầu thực hiện album phòng thu thứ bảy của họ và giữa tháng 2 năm 2005. Những phiên ghi âm định kỳ được bắt đầu vào tháng 8 năm 2005, và ban nhạc thỉnh thoảng lại cập nhật thông tin cho người hâm mộ về tiến triển của họ trên một blog mới, Dead Air Space . Việc thu âm tiếp diễn cho đến đầu năm 2006, nhưng các phiên làm việc vẫn rất chậm chạp. Dựa theo lời Yorke, "chúng tôi dành rất nhiều thời gian trong phòng thu mà chẳng đi đâu cả, làm lãng phí thời gian của chúng tôi, và điều đó thực sự, thực sự rất bực mình." Việc chậm trễ được cho là do sự khó khăn để lấy lại động lực sau thời gian nghỉ của họ, và việc thiếu đi một thời hạn và một nhà sản xuất để thúc đẩy mọi thứ tiến lên. Trong những phiên thu âm tháng 2 năm 2006, họ quyết định làm việc với nhà sản xuất Mark Stent thay cho Nigel Godrich, nhà đồng sản xuất của họ trong một thời gian dài. Tay bass Colin Greenwood, khi bình luận về quyết định của họ, đã nói "Nigel và ban nhạc nay đã biết nhau quá rõ, tất cả điều đó có một chút quá an toàn." Mặc dù ban nhạc đã viết một vài ca khúc mới vào lúc đó, không có ca khúc nào trong số đó được thực hiện trong những phiên thu âm với Stent, mà kết thúc sau đó vào tháng 4 năm 2006. | wiki |
In Rainbows | Ban nhạc quyết định đi lưu diễn một lần để, giúp đem đến cho họ một mục tiêu để hướng tới. Nhận xét về sự chuẩn bị của họ cho chuyến lưu diễn, Yorke nói: "bỗng nhiên tất cả mọi người đều tự nguyện và không có ai e ngại bởi vì bạn không phải ở trong phòng thu... nó cảm giác như trở lại tuổi 16 một lần nữa." Vào tháng 5 và tháng 6 năm 2006, Radiohead đã đi lưu diễn ở các thành phố lớn của Châu Âu và Bắc Mỹ, sau đó quay trở lại châu Âu để diễn cho một vài lễ hội âm nhạc vào tháng 8. Radiohead cũng chơi nhạc ở các địa điểm nhỏ như câu lạc bộ và nhà hát trong tour diễn, điều mà họ đã làm lúc ban đầu sự nghiệp trong một vài năm. Ban nhạc cũng chơi ở các lễ hội âm nhạc lớn hơn như V, nơi họ là ngôi sao của lễ hội, và Bonnaroo, nơi họ có một buổi biểu diễn trực tiếp dài nhất trong nhiều năm với 28 bài hát. Trong những buổi trình diễn trực tiếp, ban nhạc đã đưa vào những ca khúc mà họ đang thực hiện trong phòng thu. | wiki |
In Rainbows | Sau chuyến lưu diễn, ban nhạc đã khởi động lại các phiên thu âm với Godrich vào tháng 10 năm 2006, tại Tottenham Court House ở Marlborough, Wiltshire, một ngôi nhà chất lượng kém mà được tay ghita Ed O'Brien miêu tả là "một đống quê mùa cũ kỹ... crumbling at the seams." Công việc thu âm, trái ngược với sự bế tắc trong những phiên làm việc năm 2005, đã rất hiệu quả; những phiên bản cuối cùng của "Jigsaw Falling into Place" và "Bodysnatchers" đã được ghi âm tại ngôi nhà. Yorke nói trên Dead Air Space rằng ban nhạc "hiện tại đã bắt đầu đĩa nhạc một cách thích hợp... bắt đầu đi đến được một nơi nào đó, tôi nghĩ vậy." Những phiên ghi âm khác ở Halswell House, Taunton, và Hospital Studios của Godrich ở Covent Garden, nơi ban nhạc thu bài "Videotape" và cho ra phiên bản cuối cùng của "Nude", diễn ra vào cuối tháng 12 năm 2006. Vào giữa tháng 11 năm 2007, Radiohead quay trở lại những phiên ghi âm ở phòng thu của họ ở Oxfordshire, và bắt đầu đăng ảnh, lời bài hát, video và đoạn nhạc mẫu của các ca khúc mới lên Dead Air Space. Và cuối tháng 4, Yorke phát biểu rằng Radiohead đã có một CD với những chất liệu mà đã sẵn sàng để cân nhắc. Vào tháng 6, Godrich đăng những đoạn cắt của những ca khúc đã được mix lên Dead Air Space, bao gồm "Jigsaw Falling into Place" (được biết với tên "Open Pick" trong suốt những buổi biểu diễn năm 2006), "Down Is the New Up", "Bangers + Mash", "All I Need", "Faust Arp" and "Weird Fishes/Arpeggi". Quá trình ghi âm kết thúc vào tháng 6, và Bob Ludwig đã master | wiki |
In Rainbows | trong suốt những buổi biểu diễn năm 2006), "Down Is the New Up", "Bangers + Mash", "All I Need", "Faust Arp" and "Weird Fishes/Arpeggi". Quá trình ghi âm kết thúc vào tháng 6, và Bob Ludwig đã master album vào tháng 7 năm 2007 ở Gateway Mastering, thành phố New York. | wiki |
In Rainbows | Âm nhạc và ca từ.
Album gồm nhiều ca khúc mà đã từng được ra mắt lần đầu trong tour diễn năm 2006 của Radiohead, gồm có "15 Step", "Bodysnatchers", "All I Need", "Videotape", "Arpeggi" và "Open Pick" (hai bài cuối sau đã đổi tên lần lượt thành "Weird Fishes/Arpeggi" và "Jigsaw Falling into Place"). Nhạc phẩm "Nude", được biểu diễn trực tiếp lần đầu trong tour diễn quốc tế "OK Computer", sau cùng cũng được phát hành trong "In Rainbows" với phần phối khí khác biệt. "Reckoner", được biểu diễn lần đầu năm 2001, cũng được đưa vào trong album, nhưng ở dưới dạng hoàn toàn khác; Yorke và tay ghita Jonny Greenwood đã tạo ra những chất liệu mới cho ca khúc và sau đó bỏ đi những chất liệu ban đầu.
Ở bài hát mở đầu, "15 Step", ban nhạc tranh thủ được sự giúp đỡ của một nhóm trẻ em đến từ Trường Âm nhạc và Trung tâm nghệ thuật Matrix ở Oxford. Colin Greenwood và Godrich ban đầu định ghi âm tiếng vỗ tay cho ca khúc, nhưng khi tiếng vỗ tay tỏ ra "không đủ tốt", họ quyết định ghi âm tiếng trẻ em reo hò để thay thế. "Bodysnatchers", bài hát được Yorke miêu tả là nghe như Wolfmother và "một chút giống như Neu! gặp được thể loại hippy rock tinh quái", và được ghi âm khi Yorke đang ở trong giai đoạn của "sự hưng cảm hiếu động".
Mỹ thuật. | wiki |
In Rainbows | Mỹ thuật.
Tác phẩm mỹ thuật ("artwork") của "In Rainbows" được thiết kế bởi Stanley Donwood, người đã làm việc với Yorke trong việc thiết kế bìa album của Radiohead kể từ năm 1994. Donwood cũng làm việc trong phòng thu giống như Radiohead đang thực hiện album, điều cho phép không khí của âm nhạc được truyền tải vào trong phần mỹ thuật của album, và anh có thể thường xuyên đưa lên những hình ảnh vào trong phòng thu và trên máy tính phòng thu cho ban nhạc có thể tương tác và nhận xét. Anh hàng ngày cũng đăng những hình ảnh lên trang web của ban nhạc, dù không có hình nào trong số này được sử dụng trong phần mỹ thuật cuối cùng của album. Donwood đã thử nghiệm với kĩ thuật khắc a-xít, đặt những tấm hình in trong phòng hơi a-xít để cho ra những kết quả khác nhau, và ném sáp vào tờ giấy, tạo ra những hình ảnh chịu ảnh hưởng từ những tấm hình không gian của NASA. Donwood ban đầu định khai thác về chủ đề cuộc sống ngoại ô, nhưng nhận ra nói không phù hợp với chủ đề album, vì "đó là một đĩa nhạc đầy nhục cảm và tôi muốn làm một cái gì đó hữu cơ hơn." Miêu tả về bìa album, Donwood nói: "Nó rất nhiều màu sắc — Tôi cuối cùng đã lồng vào màu sắc! Đó là một cầu vồng nhưng nó rất độc hại, nó giống như cái loại mà bạn nhìn thấy trong một vũng nước." Ban nhạc quyết định không phát hành bìa đĩa cho phiên bản định dạng số của album, và muốn giữ nó lại cho phiên bản đĩa nhựa. Phiên bản "discbox" (hộp đĩa) của album cũng có một cuốn sách nhỏ chứa những hình mỹ thuật thêm vào do Donwood sáng tạo. | wiki |
In Rainbows | Sau khi hoàn thành bản hợp đồng sáu album với EMI kể từ đĩa nhạc năm 2003 "Hail to the Thief", Radiohead nói sau khi hoàn thành "In Rainbows" rằng họ vẫn chưa quyết định cách thức phát hành chất liệu mới của họ. Có lúc, Yorke ám chỉ về khả năng phát hành đĩa đơn hoặc EPs thay vì là một album. Tuy nhiên, anh loại bỏ ý tưởng về việc chỉ phân phối qua Internet bởi anh cảm thấy một số người hâm mộ sẽ không đủ phương tiện kĩ thuật để mua album mới. Nhận xét về mối quan hệ của ban nhạc với EMI, Yorke nói, "Chúng tôi không có hợp đồng thu âm như vậy nữa... Những gì chúng tôi muốn là EMI trước đây quay trở lại, những nhà sản xuất vũ khí nhã nhặn tử tế, những người coi âm nhạc như một dự án phụ tốt đẹp, những người không quá bận tâm về các cổ đông. À vâng, không có nhiều cơ hội như thế." Ngay sau khi ban nhạc bắt đầu viết ca khúc mới cho album, Yorke nói với tạp chí "Time", "Tôi thích những người ở công ty thu âm của chúng tôi, nhưng đây chính là lúc mà bạn tự hỏi xem tại sao bất cứ ai cũng cần một cái [công ty]. Và, vâng, nó có lẽ cũng sẽ cho chúng một ít niềm vui xấu xa để nói ‘Fuck you' với cái mô hình kinh doanh mục nát này." Radiohead giữ quyền sở hữu đối với các bản ghi âm và các sáng tác của "In Rainbows". Phiên bản tải về và bản discbox của album được ban nhạc tự phát hành, trong khi với bản đĩa thông thường, ban nhạc đồng ý cấp phép quyền phát hành cho các hãng đĩa. Thỏa thuận cấp phép album đối với tất cả các bản phát hành tiếp tục được quản lý bởi nhà phát hành của ban | wiki |
In Rainbows | khi với bản đĩa thông thường, ban nhạc đồng ý cấp phép quyền phát hành cho các hãng đĩa. Thỏa thuận cấp phép album đối với tất cả các bản phát hành tiếp tục được quản lý bởi nhà phát hành của ban nhạc, Warner Chappell Music Publishing. | wiki |
In Rainbows | Định dạng và quảng bá.
Vào 2 tháng 10 năm 2007, Jonny Greenwood thông báo bằng một bài viết ngắn gọn trên Dead Air Space, "Thật tốt, album mới đã hoàn tất, và nó sẽ xuất hiện trong 10 ngày nữa... Chúng tôi gọi nó là "In Rainbows"". Radiohead phát hành album dưới dạng bản tải cho những ai đặt hàng trên trang inrainbows.com từ ngày 10 tháng 10 năm 2007. Trong bài phỏng vấn trên tạp chí "Wired", Yorke giải thích rằng "cả bốn [album] gần đây — bao gồm cả đĩa nhạc solo của tôi — đã bị rò rỉ. Cho nên ý tưởng giống như là, chúng tôi sẽ rò rỉ nó." Quản lý của Radiohead nói rằng họ sẽ không phát hành album như cách họ đã làm nếu họ không chắc chẳn rằng đĩa CD nhựa sẽ bán tốt. Viết về cách thức phát hành khá bất thường này, Jon Pareles của tờ "The New York Times" bình luận, "Đối với ngành kinh doanh thu âm đang bị nguy khốn, Radiohead đã đưa ra một thử nghiệm táo bạo nhất trong nhiều năm."
Đón nhận.
Doanh thu và xếp hạng. | wiki |
In Rainbows | Đón nhận.
Doanh thu và xếp hạng.
Vào đầu tháng 10 năm 2007, người phát ngôn của ban nhạc thông báo rằng "hầu hết mọi người [đã trả với] giá bán lẻ thông thường và gần như không có ai cố mua [bản tải xuống] với giá một penny" và hầu hết người hâm mộ đã đặt trước bản discbox. Dẫn từ một nguồn thân cận với ban nhạc, Gigwise.com thông báo vào ngày phát hành trên mạng, album đã bán được 1,2 triệu bản. Tuyên bố này, tuy nhiên, đã bị bác bỏ bởi người quản lý ban nhạc Bryce Edge rằng đã "phóng đại quá mức". Theo một thống kê trên Internet được "Record of the Day" thực hiện với 3.000 người, khoảng 1/3 những người tải xuống album đã không trả gì, và giá trung bình được trả là 4 đô la. Khi được hỏi trong bài phỏng vấn với tờ "The Observer" vào tháng 12 năm 2007 về số lượng hộp đĩa được đặt trước, những thành viên ban nhạc trả lời với các con số khác nhau, dao động từ 60.000 đến 80.000. Vào tháng 10 năm 2008, một báo cáo từ Warner Chappell tiết lệ rằng dù hầu hết mọi người không trả gì cho bản tải về, số lượng đặt trước lại đem lại nhiều lợi nhuận hơn cả tổng số tiền bán "Hail to the Thief". Báo cáo cũng khẳng định phiên bản discbox đã bán được tổng cộng 100.000 đĩa. | wiki |
In Rainbows | Doanh số tải trực tuyến và bản "discbox" không đủ điều kiện để được tính vào trong bảng xếp hạng UK Albums Chart bởi vì trang web không phải là một nhà bán kẻ đã đăng ký với bảng xếp hạng. Trong tuần phát hành bản bán lẻ đầu tiên, "In Rainbows" đã leo lên vị trí số một trên UK Album Chart, với lượng bán hàng trong tuần đầu là 44.602 bản. Album cũng lọt vào "Billboard" 200 ở vị trí số 156 do những vi phạm về "street date" (đĩa bán ra trước ngày phát hành do nhà sản xuất ấn định), nhưng sau đó đã nhảy lên vị trí quán quân vào tuần tiếp theo. Đĩa nhạc đã bán được 122.000 bản ở Mỹ trong tuần đầu tiên kể từ ngày phát hành chính thức, dựa trên thống kê của SoundScan, khiến nó album độc lập thứ 10 đạt được vị trí đứng đầu "Billboard" 200. Vào tháng 10 năm 2008, nhà phát hành của ban nhạc, Warner Chappell Music Publishing, tiết lộ rằng album đã bán được hơn 3 triệu bản (bao gồm cả doanh số bản đĩa nhựa và kỹ thuật số) tính từ ngày ra mắt bản đĩa nhựa album vào tháng 1. Phiên bản đĩa vinyl của "In Rainbows" cũng là album vinyl bán chạy nhất của năm 2008. | wiki |
In Rainbows | Các đĩa đơn từ album "Jigsaw Falling into Place", "Nude" và "Reckoner" đã được phát hành tại Anh vào đầu năm 2008; đạt được lần lượt các vị trí số 30, 21 và 74 trên UK Singles Chart. Ở Hoa Kỳ, "Nude" nhận được vị trí số 37 trên "Billboard" Hot 100, và cũng là đĩa đơn đầu tiên của Radiohead xuất hiện trên "Billboard" Pop 100 leo lên được vị trí 35. Ca khúc trong album, "Bodysnatchers" cũng đạt vị trí số 8 trên bảng xếp hạng Hot Modern Rock Tracks của Mỹ. "Jigsaw Falling into Place" có thành tích kém hơn, chỉ leo lên được số 69 khi được phát song trên các đài phát thanh chuyên về alternative rock.
Danh sách nhạc phẩm.
Đĩa tặng kèm.
The original discbox release of the album included a second disc, which contains eight additional tracks. It is 26:55 in duration. On ngày 9 tháng 6 năm 2009, Radiohead made the tracks from this disc available for download at their "w.a.s.t.e." online store, and a pressing released contains both CDs without the original box. | wiki |
Nguyễn Thị Kim Thúy | Nguyễn Thị Kim Thúy (sinh ngày 11 tháng 9 năm 1967) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 (2016-2021) thuộc đoàn đại biểu Đà Nẵng, Ủy viên Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Belarus. Bà từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, khóa 12, TP Đà Nẵng
Xuất thân.
Bà sinh ngày 11 tháng 9 năm 1967, quê quán ở xã Bình Quý, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Bà hiện cư trú ở Phòng 403, Nhà Công vụ Quốc hội, số 2 Hoàng Cầu, phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Sự nghiệp.
Ngày 27 tháng 2 năm 1998, bà gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 2007 đến năm 2011, bà là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12 thành phố Đà Nẵng (đại biểu chuyên trách địa phương), Ủy viên Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Đà Nẵng, Ủy viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố Đà Nẵng, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Đà Nẵng.
Từ năm 2011 đến năm 2016, bà là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13 thành phố Đà Nẵng (đại biểu chuyên trách trung ương), Ủy viên thường trực Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Ủy viên Ban thường trực nhóm nữ Đại biểu Quốc hội Việt Nam. | wiki |
Nguyễn Thị Kim Thúy | Từ 22 tháng 5 năm 2016 đến nay, bà là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 thành phố Đà Nẵng (Đơn vị bầu cử Số 2: Gồm các quận: Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu và các huyện: Hoàng Sa, Hòa Vang), Ủy viên Thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Phó Chủ tịch Nhóm nghị sĩ hữu nghị Việt Nam - Belarus (đại biểu chuyên trách trung ương). | wiki |
Hy Lạp tại Thế vận hội Mùa hè 1896 | Hy Lạp tại Thế vận hội Mùa hè 1896
Hy Lạp là nước chủ nhà của Thế vận hội Mùa hè 1896 tổ chức tại Athena. Số lượng thí sinh Hy Lạp thường được trích dẫn như là 169, nhưng có đến 176 người Hy Lạp thi đấu các giải trong tất cả chín bộ môn. Người Hy Lạp rất thành công và vượt xa về tổng số huy chương với 46, nhiều hơn Hoa Kỳ 26 cái. Tuy nhiên, số lần về đích hạng nhất (10) của họ lại ít hơn Hoa Kỳ (11) 1 lần. Người Hy Lạp có 172 mục trong 39 nội dung. Chỉ có 4 nội dung không có Hy Lạp-giải 400m và nhảy cao trong môn điền kinh và giải nhảy sào và xà đơn đồng đội trong môn thể dục dụng cụ. | wiki |
Khuôn Lùng | Khuôn Lùng
Khuôn Lùng là một xã thuộc huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Xã Khuôn Lùng có vị trí địa lý:
Xã Khuôn Lùng có diện tích 39,63 km², dân số năm 2019 là 2.737 người, mật độ dân số đạt 69 người/km².
Hành chính.
Xã Khuôn Lùng được chia thành 6 thôn, bản: Nà Ràng, Trung Thành, Làng Thượng, Xuân Hoà, Nậm Phang, Phiêng Lang.
Lịch sử.
Trước đây, Khuôn Lùng là một xã thuộc huyện Bắc Quang.
Ngày 18 tháng 11 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 136-HĐBT về việc điều chỉnh toàn bộ xã Khuôn Lùng thuộc huyện Bắc Quang về huyện Xín Mần quản lý. | wiki |
AirDrop | AirDrop là một dịch vụ chia sẻ tập tin của hệ điều hành iOS và macOS, được giới thiệu trong Mac OS X Lion (Mac OS X 10.7) và iOS 7, mà có thể chuyển các tập tin giữa các máy tính Mac được hỗ trợ và các thiết bị iOS bằng cách phương tiện liên lạc không dây tầm gần. Giao tiếp này diễn ra qua 'Khung hành động' và 'Khung dữ liệu' của Apple Wireless Direct Link bằng cách sử dụng địa chỉ IPv6 cục bộ thay vì địa chỉ MAC cố định của chip Wi-Fi.
Trước OS X Yosemite (OS X 10.10) và dưới OS X Lion, Mountain Lion và Mavericks (OS X 10.7–10.9, tương ứng), giao thức AirDrop trong macOS khác với giao thức AirDrop của iOS và do đó, cả hai đều không thể tương tác. OS X Yosemite trở lên hỗ trợ giao thức iOS AirDrop, được sử dụng để truyền dữ liệu giữa máy Mac và thiết bị iOS cũng như giữa hai máy tính Mac 2012 trở lên và sử dụng cả Wi-Fi và Bluetooth. Điều này đã thay thế cho giao thức AirDrop cũ (chỉ sử dụng Wi-Fi) giữa máy tính Mac 2012 trở lên (hoặc máy tính chạy OS X Lion thông qua OS X Mavericks) và một máy tính Mac khác cũng có sẵn cho đến macOS Mojave.
Apple không tiết lộ giới hạn về kích thước của tệp mà AirDrop có thể truyền.
Cài đặt.
iOS.
Trên iOS 7 trở lên, AirDrop có thể được truy cập bằng cách nhấn vào Cài đặt → Chung → AirDrop, hoặc thông qua mục Trung tâm điều khiển. Cả Wi-Fi và Bluetooth đều được tự động bật khi AirDrop được bật vì cả hai đều được sử dụng.
Các tùy chọn của AirDrop bao gồm: | wiki |
AirDrop | Các tùy chọn của AirDrop bao gồm:
Trong iOS 7 trở lên, nếu một ứng dụng triển khai hỗ trợ AirDrop, nó sẽ có tác dụng thông qua nút chia sẻ. AirDrop phải tuân theo một số hạn chế trên iOS, chẳng hạn như không thể chia sẻ nhạc hoặc video từ các ứng dụng gốc.
macOS.
Trên máy Mac chạy OS X 10.7 trở lên, AirDrop có sẵn trong thanh bên cửa sổ Finder. Trên máy Mac chạy OS X 10.8.1 trở lên, nó cũng có thể được truy cập thông qua tùy chọn menu Go → AirDrop hoặc bằng cách nhấn ++.
Bạn phải bật Wi-Fi để AirDrop nhận ra thiết bị khác. Thiết bị khác cũng phải chọn AirDrop trong thanh bên của cửa sổ Finder để có thể truyền tệp. Hơn nữa, các tệp không được tự động chấp nhận, người nhận phải chấp nhận di chuyển tệp. Điều này được thực hiện để cải thiện tính bảo mật và quyền riêng tư.
Giới hạn hệ thống.
Giữa hai thiết bị iOS.
Đang chạy iOS 7 trở lên:
AirDrop có thể được kích hoạt không chính thức trên iPad (thế hệ thứ 3). Mặc dù không được hỗ trợ theo mặc định, AirDrop có thể được kích hoạt bằng cách bẻ khóa thiết bị và cài đặt "AirDrop Enabler 7.0+" từ Cydia. Quy trình này không được Apple hỗ trợ hoặc khuyến nghị, vì tham gia vào quá trình bẻ khóa có thể gây ra sự không ổn định của phần mềm và tạo ra virus.
Giữa hai máy tính Mac.
Đang chạy Mac OS X Lion (10.7) trở lên:
Giữa một máy tính Mac và một thiết bị iOS.
Để chuyển tệp giữa máy Mac và iPhone, iPad hoặc iPod touch, bạn phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu sau: Tất cả các thiết bị iOS có AirDrop đều được hỗ trợ với iOS 8 trở lên: | wiki |
AirDrop | Để chuyển tệp giữa máy Mac và iPhone, iPad hoặc iPod touch, bạn phải đáp ứng các yêu cầu tối thiểu sau: Tất cả các thiết bị iOS có AirDrop đều được hỗ trợ với iOS 8 trở lên:
Đang chạy OS X Yosemite (10.10) trở lên:
Bluetooth và Wi-Fi phải được bật cho cả thiết bị Mac và iOS (Cả hai thiết bị không bắt buộc phải được kết nối với cùng một mạng Wi-Fi).
An toàn và sự riêng tư.
AirDrop sử dụng mã hóa TLS qua kết nối Wi-Fi do Apple tạo ra để truyền tệp. Kết nối Wi-Fi của thiết bị nguồn và thiết bị giao tiếp trực tiếp không cần sử dụng kết nối Internet hoặc Điểm truy cập Wi-Fi.
Các chi tiết kỹ thuật của AirDrop và giao thức Wi-Fi ngang hàng độc quyền được gọi là Apple Wireless Direct Link (AWDL) đã được thiết kế ngược lại và kết quả là các phiên bản mã nguồn mở được công bố là OWL và OpenDrop.
Đã có nhiều trường hợp được báo cáo trong đó người dùng thiết bị iOS có quyền riêng tư AirDrop được đặt thành "Mọi người" đã nhận được các tệp không mong muốn từ những người lạ gần đó, hiện tượng này được gọi là "cyber-flashing" (phô trương qua mạng). Người dùng có quyền kiểm soát cài đặt AirDrop của họ và giới hạn người có thể gửi tệp cho họ, với các tùy chọn "Mọi người", "Chỉ Danh bạ" hoặc "Tắt".
Trong quá trình chuyển đổi, các thiết bị trao đổi SHA-256 hiển thị đầy đủ số điện thoại và địa chỉ email của người dùng, những thứ này có thể bị những kẻ tấn công lợi dụng. | wiki |
Rễ | Rễ cây là một cơ quan sinh dưỡng của thực vật, thực hiện các chức năng chính như bám cây vào lòng đất, rễ cây hút nước và các chất khoáng, hô hấp. Ngoài ra rễ cây còn là cơ quan dự trữ các chất dinh dưỡng, là cơ quan sinh sản sinh dưỡng của thực vật. Ở thực vật có mạch, rễ là một cơ quan của thực vật thông thường nằm dưới mặt đất (khi so sánh với thân). Tuy nhiên, nó vẫn có ngoại lệ, chẳng hạn ở một số loài có rễ khí sinh (nghĩa là nó mọc trên mặt đất) hoặc thông khí (nghĩa là mọc trên mặt đất hoặc trên mặt nước). Rễ cũng đóng vai trò quan trọng trong tổng hợp cytokinin, một dạng hoóc môn tăng trưởng của thực vật, một trong các nhu cầu để phát triển các chồi và cành cây.
Phân loại.
Để phân loại rễ người ta căn cứ theo nhiều tiêu chí. Nếu trong quá trình sinh trưởng vòng đời của thực vật thì sẽ có hai loại: rễ sơ sinh và rễ thật.
Nếu phân loại vào vị trí của rễ cây thì chúng ta có thể phân loại thành ba loại chính: Rễ chính, rễ phụ, rễ bên.
Bộ rễ của thực vật sẽ được phân loại dựa theo số lượng và cấu tạo từ các rễ của cây. Thường sẽ phân loại thực vật theo hai hệ rễ:
Cấu trúc.
Rễ có 4 miền: Miền trưởng thành (dẫn truyền), miền hút (hấp thụ nước và muối khoáng hòa tan), miền sinh trưởng (làm cho rễ dài ra), miền chóp rễ (che chở cho đầu rễ).
Sự hút nước và muối khoáng của rễ. | wiki |
Rễ | Sự hút nước và muối khoáng của rễ.
Tất cả các cây đều cần nước. Cây không chỉ cần nước mà còn cần các loại muối khoáng, trong đó cần nhiều: muối đạm, muối lân, muối kali. Nhu cầu nước và muối khoáng là khác nhau đối với từng loại cây, các giai đoạn khác nhau trong chu kì sống của cây. Rễ cây hút nước và muối khoáng hoà tan chủ yếu nhờ lông hút. Nước và muối khoáng trong đất được lông hút hấp thụ chuyển qua vỏ tới mạch gỗ đi lên các bộ phận của cây.
Các yếu tố bên ngoài như thời tiết, khí hậu, các loại đất khác nhau... có ảnh hướng tới sự hút nước và muối khoáng của cây. Cần cung cấp đủ nước và muối khoáng thì cây trồng mới sinh trưởng và phát triển tốt.
Biến dạng của rễ.
Ngoài chức năng chính là bám giữ và hút dinh dưỡng, đối với nhiều loài thực vật phát triển rễ thêm những chức năng riêng để thích nghi với điều kiện sinh thái: | wiki |
Democracia Real Ya | ' (, bằng tiếng tây ban nha cho nền Dân chủ Thực sự bây GIỜ!), cũng được biết đến như ' (Nền Dân chủ thực sự đang Ở đâu?), là một cơ sở tổ chức công dân, bắt đầu vào Tháng ba năm 2011 ở Tây Ban Nha. Tổ chức này đã gây ra những phong trào chính trị Ngày 15 năm 2011 ("15M"). Cuộc biểu tình đã thu hút được sự chú ý trên toàn thế giới. Các cuộc biểu tình đã được so với những diễn biến vào tháng 5 năm 1968 tại Pháp. | wiki |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.