title
stringlengths
1
228
content
stringlengths
1
2k
source
stringclasses
4 values
Thế cờ Lucena
Thế cờ được trình bày ở trên và ở dưới (có thể tiếp tục từ hình thế đầy đủ như đã nêu hoặc vị trí quân Tốt có thể ở bất kỳ đâu từ cột b đến cột g). Mục tiêu của Trắng là phong cấp Tốt hoặc là buộc Đen phải hi sinh Xe để ngăn chặn điều đó xảy ra - cả hai diễn biến đều dẫn tới kết quả là Trắng có ưu thế vượt trội về chất và hướng thẳng tới chiến thắng. Trắng sẽ bảo vệ và đẩy Tốt đến hàng ngang thứ 7, nhưng việc phong Hậu bị ngăn cản bởi Vua Trắng nằm trên đường tiến của Tốt. Trắng muốn di chuyển Vua của mình rồi sau đó phong cấp Tốt, tuy nhiên Vua Trắng không thể di chuyển sang cột a hay cột c vì sự kiểm soát của Xe và Vua Đen, Những đặc điểm cơ bản của thế trận này là: Một cách thức tiếp cận hiển nhiên cho Trắng (trong thế cờ như hình trên) là: giờ, Đen có thể đơn giản quấy nhiễu Vua Trắng với các nước chiếu, và Trắng không tiến bộ hơn được gì: Phương pháp chiến thắng: dựng lên một cây cầu. Trong thế cờ Lucena, bên hơn Tốt có một phương pháp để chiến thắng, phương pháp này có tác dụng với bất kỳ Tốt nào trừ Tốt biên (Tốt ở cột a và h). Dù vậy, trong một vài hoàn cảnh nhất định, nó cũng phát huy tác dụng đối với Tốt biên. Với thế trận này, Trắng có thể thắng bằng cách Giờ, nếu Đen chơi một nước chờ đợi, ví dụ như mong chờ quấy nhiễu Vua Trắng với các nước chiếu như diễn biến ở trên, Trắng sẽ tiếp tục với
wiki
Thế cờ Lucena
Với thế trận này, Trắng có thể thắng bằng cách Giờ, nếu Đen chơi một nước chờ đợi, ví dụ như mong chờ quấy nhiễu Vua Trắng với các nước chiếu như diễn biến ở trên, Trắng sẽ tiếp tục với Xe Đen không thể tiếp tục chiếu Vua Trắng lâu hơn được nữa và Đen cũng không thể ngăn cản Tốt phong Hậu . Trắng che chắn Vua và Tốt của mình bằng Xe trên cùng một đường (một cột), điều này được kỳ thủ Aron Nimzowitsch mô tả như là "dựng lên một cây cầu" . Điều quan trọng là Xe Trắng đã di chuyển lên hàng thứ 4 từ ban đầu để ngăn chặn việc Đen sử dụng phương án phòng ngự tích cực nhất: chiếu liên tục Vua Trắng. Nếu Đen từ bỏ phương án này, Xe Trắng có thể xây cầu trên hàng ngang thứ 5. Trong diễn biến ở trên, sau khi nếu Đen chơi đây là một cái bẫy dành cho Trắng: nếu 6.Xd5?? (để xây cầu trên hàng ngang 5) thì sẽ 6...Xxb7! và hòa. Tuy nhiên, nếu (6.Xe4+ tiếp theo là 7.Xe8 hoặc (nếu 7...Vf7) 8.Xe5 cũng ổn) và Trắng có thể xây cầu trên hàng ngang 5 bằng cách đưa xe đến b5, Vua ở b6, và sau đó Tốt sẽ phong cấp : và Trắng thắng. Nếu Xe bên yếu (bên phòng thủ) nằm trên hàng ngang (4) mà sẽ ngăn cản Xe bên mạnh tiến tới hàng ngang quan trọng (tức là ngăn cản 2.Xd4), xem Xe và Tốt chống Xe (tàn cuộc cờ vua)#Xe bên yếu ngăn cản việc xây cầu. Đen đi trước. Nếu Đen đi trước trong thế cờ đã trình bày ban đầu, họ có thể ngăn chặn việc Xe Trắng tiến đến hàng ngang thứ 4, nhưng sau đó Trắng vẫn sẽ thắng:
wiki
Thế cờ Lucena
Đen đi trước. Nếu Đen đi trước trong thế cờ đã trình bày ban đầu, họ có thể ngăn chặn việc Xe Trắng tiến đến hàng ngang thứ 4, nhưng sau đó Trắng vẫn sẽ thắng: (Xe Đen không có khoảng cách đủ xa với Vua Trắng để có thể duy trì nước chiếu: nếu 5...Xa4+ Trắng sẽ 6.Vb5 và thắng.) Giờ Trắng thắng bằng cách chặn nước chiếu của Đen với tiếp theo là Cây cầu trên hàng ngang thứ 5. Một cây cầu cũng có thể được dựng lên trên hàng ngang thứ 5 (nhưng trên hàng ngang 4 sẽ mạnh hơn). Diễn biến chính như sau: Đe dọa phong cấp Tốt, Đen chỉ có thể ngăn chặn bằng cách chiếu. và Tốt sẽ phong cấp. Hoặc Tốt hơn là 2.Xf8 Vg7 3.Xf4!, quay trở lại cây cầu trên hàng ngang 4. và Trắng sẽ thắng (nhưng khó hơn) với dạng tàn cuộc Hậu chống Xe (xem Tàn cuộc không Tốt (cờ vua)) . Các phương án thay thế cho bên phòng thủ. Các phương án thay thế không giúp gì được cho Đen. Sau khi 1.Xd1+ Ve7 2.Xd4 như trên, tiếp đến Trắng vẫn có thể tiến hành kế hoạch như ở trên, hoặc có thể thắng đơn giản với đuổi vua Đen ra xa cho phép Tốt phong cấp (hoặc, 5.b8=H+ Xxb8 6.Xc4+ và Trắng sẽ hơn Xe.) Tốt biên. Phương pháp Lucena cũng sẽ phát huy tác dụng với Tốt biên nếu Xe Trắng ở sẵn từ đầu trên hàng ngang 4, Xe Đen không nằm kề cột với Tốt, và Trắng là người đi trước. Nếu không thì, Vua Đen cần phải bị ngăn cách 4 cột với Tốt, như hình bên. Đây không còn là thế cờ Lucena chuẩn kể từ khi Vua Đen bị ngăn cách nhiều hơn một cột. Trắng thắng như sau:
wiki
Thế cờ Lucena
Và Trắng sẽ thắng trong tàn cuộc Hậu chống Xe - lúc này thắng dễ hơn là khi Xe và Vua Đen ở gần nhau . Những thế cờ tương tự có thể dẫn đến kết quả hòa. Không phải thế cờ tương tự nào bên mạnh cũng sẽ thắng. Trong thế cờ như ở bên, Đen sẽ có được kết quả hòa vì họ có thể chiếu một cách an toàn từ bên cánh. Điều kiện cho bên yếu có thể thủ hòa thành công đó là khoảng cách giữa Xe bên yếu và Vua bên mạnh phải là ít nhất 3 cột, và Vua bên yếu phải ở một vị trí mà sao cho không ngăn cản đường chiếu; vị trí đó là nằm trong "cánh ngắn" (cánh nhỏ) của Tốt (cột chứa Tốt phân làm hai cánh, "cánh ngắn" là cánh chứa ít cột hơn . (Xem "phòng thủ cánh ngắn" tại Xe và Tốt chống Xe (tàn cuộc cờ vua) để biết thêm thông tin.) Ví dụ từ thực tiễn. Trong ván đấu giữa Rice và Ian Snape diễn ra năm 2000, Đen (Ian Snape) áp dụng quy trình như trên: Đến đây Trắng chơi khác ở trên Trắng đầu hàng, nhưng có thể thay thế bằng: và Đen thắng . Trong thế cờ được lấy từ một ván đấu diễn ra vào năm 1999 giữa Ulf Andersson và Ralf Åkesson, Trắng đổi Tốt nhằm đạt được thế cờ Lucena. và Đen đầu hàng. Trắng sẽ đạt tới thế cờ Lucena: 81...Xg1+ 82.Vf7 Xf1 83.f6 Xf2 84.Vg7 Xg2+ 85.Vf8 Xf2 86.f7 Xg2 (một thế cờ Lucena) 87.Xd4+ Vc7 (nếu 87...Ve6 sẽ 88.Ve8 và Trắng thắng) 88.Ve7 Xe2+ 89. Vf6 Xf2+ 90.Ve6 Xe2+ 91.Vf5 Xf2+ 92.Xf4, Trắng thắng. . Kết luận.
wiki
Thế cờ Lucena
Kết luận. Tàn cuộc Xe và Tốt xảy ra khá thường xuyên trong cờ vua, khoảng 8 đến 10% tổng số ván đấu dẫn về dạng cờ tàn này, . Thế cờ này rất quan trọng vì nó giúp đơn giản hóa cờ tàn. Và vì nó là một chiến thắng đã được biết đến cho bên mạnh (bên có Tốt), nên đôi khi tàn cuộc là cuộc chiến xoay quanh việc bên hơn Tốt cố gắng nhằm đạt tới thế cờ Lucena và bên yếu hơn nỗ lực để ngăn cản điều đó. Có một phương pháp thay thế để giành chiến thắng trong kiểu thế trận này mà chỉ có tác dụng với Tốt nằm từ cột c đến cột f (xem Xe và Tốt chống Xe (tàn cuộc cờ vua)). Tham khảo. Chú thích Tài liệu tham khảo
wiki
Pseudojuloides paradiseus
Pseudojuloides paradiseus Pseudojuloides paradiseus là một loài cá biển thuộc chi "Pseudojuloides" trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2020. Từ nguyên. Từ định danh của loài trong tiếng Latinh có nghĩa là "thiên đường", hàm ý đề cập đến màu sắc hấp dẫn của cá đực. Phân loại và phạm vi phân bố. Năm 2020, phạm vi phân bố của loài "Pseudojuloides elongatus" đã được xác định lại. Theo đó, quần thể trước đây được cho là "P. elongatus" ở vùng bờ biển phía nam Nhật Bản đã được công nhận là "P. paradiseus". "P. paradiseus" sống trên nền đáy đá vụn và trong các thảm cỏ biển, rong tảo ở độ sâu đến 40 m. Mô tả. "P. paradiseus" có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là gần 11,2 cm. Chúng là loài dị hình giới tính. So với "P. elongatus" và "Pseudojuloides crux", cá đực của "P. paradiseus" có màu vàng cam tươi đến màu hồng cam ("P. crux" cũng có màu vàng cam nhưng không sáng màu như "P. paradiseus"), thân trên được phủ một dải màu đen với các hàng đốm màu xanh lam óng ("P. elongatus" không có dải đen này). Cá cái có màu đỏ cam đến màu đỏ gạch (đỏ hơi nâu). Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 12; Số tia vây ở vây ngực: 12; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.
wiki
Sulu
Sulu là một tỉnh của Philippines thuộc Vùng tự trị Hồi giáo Mindanao. Tỉnh lị là Jolo. Tỉnh nằm trên phần trung tâm của Quần đảo Sulu, giữa Basilan và Tawi-Tawi. Trong lịch sử tỉnh vốn là Vương quốc Hồi giáo Sulu. Lịch sử. Hồi giáo được biết đến và ảnh hưởng đến Đông Nam Á vào khoảng năm 1138. Những người Ả Rập, người Ba Tư và nhưng người Hồi giáo khác mở đường cho việc truyền giáo, giao thương, nghiên cứu và viễn cảnh Sulu và Mindanao vào thế kỷ 12. Sau đó là sự thành lập của Vương quốc Hồi giáo Sulu có vua đầu tiên là Rajah Baguinda. Khu hành chính Mindanao và Sulu được thành lập năm 1914 và bãi bỏ vào ngày 5/2/1920. Văn phòng những người bản địa không theo Thiên Chúa giáo hoạt động vào năm 1916. Sau khi Philippines độc lập, Sulu vẫn thuộc quyền cai quản của Hoa Kỳ cho đến năm 1935 và Toàn quyền ở Manila đã thương thảo về vấn đề Sulu. Ngày nay, Sulu là một phần của Vùng tự trị Hồi giáo Mindanao Nhân khẩu. Mặc dù có sự hội nhập giữa các cộng đồng Hồi giáo và Thiên Chúa giáo, người Tausug chiếm ưu thế tại quần đảo Sulu. Người Tausug nằm trong số những người Philippines đầu tiên đi theo Hồi giáo. Kinh tế.
wiki
Sulu
Kinh tế. Nền kinh tế Sulu chủ yếu phụ thuộc vào nông nghiệp với trồng trọt và đánh bắt cá là những nguồn thu nhập chính của người dân. Đất đai màu mỡ và khí hậu lý tưởng nên có thể trồng nhiều loại cây như chuối Abacá, dừa, cam cũng như những giống trái cây ngoại nhập như sầu riêng và măng cụt. Đánh cá là ngành kinh tế quan trọng nhất vì biển Sulu là một trong những nơi giàu nguồn lợi thủy sản nhất Philippines. Tỉnh cũng có ngành nuôi ngọc trai Hành chính. Tỉnh được chia thành 19 đô thị tự trị:
wiki
Vương quốc Hồi giáo Ai Cập
Vương quốc Hồi giáo Ai Cập (; tiếng Anh: "Sultanate of Egypt") là sự bảo hộ tồn tại trong thời gian ngắn mà Vương quốc Anh áp đặt đối với Ai Cập trong khoảng thời gian từ 1914 đến 1922. Lịch sử. Việc phản đối sự can thiệp của châu Âu vào các vấn đề của Ai Cập dẫn đến sự xuất hiện của một phong trào dân tộc kết hợp và lan rộng sau sự can thiệp và chiếm đóng của quân đội Anh năm 1882. Tuy nhiên, nguyên nhân trực tiếp của những gì được người Ai Cập gọi là Cách mạng năm 1919 là những hành động của Anh trong Thế chiến thứ nhất đã gây ra nhiều khó khăn và phẫn nộ trên diện rộng. Sau chiến tranh, Ai Cập chịu ảnh hưởng của những tác động bất lợi về giá, tiền tệ và tỉ lệ thất nghiệp tăng vọt. Ngày 13 tháng 11 năm 1918 được tổ chức tại Ai Cập là ngày Yawm al Jihad (Ngày đấu tranh). Ai Cập đòi độc lập hoàn toàn với điều kiện là Anh được phép giám sát Kênh đào Suez và nợ công. Họ cũng xin phép được đến Luân Đôn để đưa vụ việc của họ ra trước Chính phủ Anh. Cùng ngày, người Ai Cập đã thành lập một phái đoàn cho mục đích này, Al Wafd al Misri (được gọi là Wafd), đứng đầu là Saad Zaghlul. Nhưng phía Anh từ chối cho phép Wafd tới Luân Đôn.
wiki
Vương quốc Hồi giáo Ai Cập
Cuộc tuần hành của phụ nữ ngày 16 tháng 3 và trước đó một ngày là cuộc biểu tình lớn nhất của Cách mạng năm 1919. Hơn 10.000 giáo viên, sinh viên, công nhân, luật sư và nhân viên chính phủ đi biểu tình tại Al Azhar và tìm đường đến Cung điện Abdin nơi họ tham gia cùng hàng ngàn người khác, họ đã phớt lờ đi những rào cản và lệnh cấm của Anh. Ngay sau đó, các cuộc biểu tình tương tự đã nổ ra ở Alexandria, Tanta, Damanhur, Al Mansurah và Al Fayyum. Đến mùa hè năm 1919, hơn 800 người Ai Cập đã bị giết chết, cũng như 31 người châu Âu và 29 lính Anh. Cách mạng Ai Cập năm 1919. Khi Cách mạng Ai Cập 1919 bắt đầu, Cheetham sớm nhận ra rằng ông bất lực trong việc ngăn chặn các cuộc biểu tình và thừa nhận rằng các vấn đề hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của ông. Tuy nhiên, chính phủ ở Luân Đôn đã ra lệnh cho ông không nhượng bộ Wafd và khôi phục trật tự, một nhiệm vụ mà ông ta không thể thực hiện được.
wiki
Vương quốc Hồi giáo Ai Cập
Luân Đôn quyết định thay thế Wingate bằng một người khác có khả năng quân sự mạnh hơn, Sir Edmund Allenby, một trong những anh hùng vĩ đại nhất của Anh trong Thế chiến I. Ông được đặt tên hiệu là ủy viên cao cấp đặc biệt (special high commissioner) và đến Ai Cập vào ngày 25 tháng 3. Ngày hôm sau, ông gặp một nhóm những người theo chủ nghĩa dân tộc Ai Cập và ulama. Sau khi thuyết phục Allenby thả các nhà lãnh đạo Wafd và cho phép họ đi đến Paris, nhóm Ai Cập đã đồng ý ký một tuyên bố kêu gọi người dân ngừng biểu tình. Allenby, người đã bị thuyết phục rằng đây là cách duy nhất để ngăn chặn cuộc nổi dậy, sau đó phải thuyết phục chính phủ Anh đồng ý. Vào ngày 7 tháng 4, Zaghlul và các đồng minh của ông đã được thả ra và lên đường đến Paris. Ai Cập Độc lập (1922). Vào ngày 28 tháng 2 năm 1922, Anh đơn phương tuyên bố quyền độc lập của Ai Cập mà không có bất kỳ cuộc đàm phán nào với Ai Cập. Bốn vấn đề là "hoàn toàn dành riêng cho sự quyết định" của Chính phủ Anh cho đến khi các thỏa thuận liên quan đến chúng có thể được đàm phán: an ninh thông tin liên lạc của Đế quốc Anh ở Ai Cập; sự bảo vệ của Ai Cập chống lại tất cả các kẻ xâm lược hoặc can thiệp nước ngoài, trực tiếp hoặc gián tiếp; bảo vệ lợi ích nước ngoài ở Ai Cập và bảo vệ người thiểu số; và Sudan.
wiki
Vương quốc Hồi giáo Ai Cập
Quốc vương Ahmad Fuad trở thành Vua Fuad I, và con trai ông, Faruk, được đặt quyền là người thừa kế. Lord Allenby vẫn còn, cho đến năm 1925, với tư cách là ủy viên cao cấp Anh. Vào ngày 19 tháng 4, một hiến pháp mới đã được phê duyệt. Cũng trong tháng đó, một đạo luật bầu cử đã được ban hành mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển chính trị của Ai Cập đó là bầu cử quốc hội.
wiki
Đại học Yangon
Đại học Yangon Đại học Yangon (tiếng Myanmar: ရန်ကုန်တက္ကသိုလ်) là một trường đại học tọa lạc tại Thị trấn Kamayut, Yangon, Myanmar. Đây là trường đại học nổi tiếng nhất của quốc gia này. Lịch sử. Được thành lập năm 1878 là chi nhánh của Đại học Calcutta, Rangoon College được người Anh giảng dạy và quản lý. Chính quyền Thực dân Anh mở trường này để quản lý giáo dục ở Miến Điện. Trường được đổi tên thành Cao đẳng Chính quyền năm 1904 và thành University College năm 1920, khi University College (secular) và Judson College (Baptist-affiliated) được sáp nhập. American Baptist Mission đã quyết định công nhận Judson College (trước đây là Baptist College) là một cơ sở giáo dục riêng biệt bên trong Đại học Rangoon. Đại học Rangoon theo mô hình của Đại học Cambridge và Đại học Oxford. Suốt thập niên 1940 đến 1950, Đại học Rangoon là trường đại học danh tiếng nhất ở Đông Nam Á và một trong những đại học hàng đầu châu Á, thu hút sinh viên của khu vực đến học.
wiki
Danh sách đĩa nhạc của Fergie
Ca sĩ người Mỹ Fergie đã phát hành album phòng thu, 17 đĩa đơn (bao gồm 7 ca khúc hát đệm), và 11 video ca nhạc. Vào năm 2005, sau khi phát hành hai album phòng thu cùng với nhóm nhạc The Black Eyed Peas, Fergie công bố rằng cô đã bắt đầu với dự án solo, và cho phát hành vào cuối năm 2006. Album ra mắt của Fergie, "The Dutchess", được phát hành vào tháng 9 năm 2006 và đứng vị trí thử 3 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200. Một năm sau, album đã giành được vị trí thứ hai. Album phát hành 4 đĩa đơn xếp vị trí top 5 ở Mỹ, khiến cho "The Dutchess" trở thành album ra mắt đầu tiên đạt được thành tích này kể từ album 'Girl You Know It's True" của Milli Vanilli. Đĩa đơn "London Bridge", "Glamorous" với Ludacris và "Big Girls Don't Cry" đạt vị trí đầu tiên tại bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 ("London Bridge" giữ vị trí đầu tiên trong vòng 3 tuần) Điều đó đã khiến Fergie trở thành nữ ca sĩ đầu tiên với 3 đĩa đơn xếp vị trí đầu tiên trong 1 album kể từ Christina Aguilera đạt được vào năm 2000. Đĩa đơn thứ hai, "Fergalicious" với will.i.am, và đĩa đơn thứ năm, "Clumsy", tuần tự đạt vị trí thứ hai và thứ tự. Đĩa đơn đã bán hơn hai triệu lượt tải xuống ở Mỹ, khiến cho "The Dutchess" album duy nhất phát hành 5 đĩa đơn làm được điều đó. Album trở thành album bán chạy thứ 3 tại Mỹ vào năm 2007, và thứ hai mươi trên toàn cầu. Album đã bán được 3,9 triệu bản ở Mỹ, và 8 triệu bản trên toàn cầu.
wiki
Danh sách đĩa nhạc của Fergie
Album phòng thu thứ hai của cô lên lịch phát hành vào năm 2017. Đĩa đơn chủ đề, "L.A. Love (La La)" được phát hành vào tháng 9 năm 2014, và được quảng bá thành công ở Anh, xếp vị trí thứ 3 UK Singles Chart. Trong lúc đó tại Mỹ, đĩa đơn xếp vị trí thứ 27 trên Hot 100 và vị trí thứ 5 trên Hot Rap Songs. Fergie tái quảng bá album phòng thu thứ hai "Double Dutchess" với phát hành 2 teaser video, "Hungry" và đĩa đơn chủ đề "M.I.L.F. $".
wiki
Họa mi mắt vàng
Họa mi mắt vàng Họa mi mắt vàng (danh pháp hai phần: Chrysomma sinense) là một loài chim thuộc họ Họa mi. Họa mi mắt vàng có một phạm vi rất lớn và là loài bản địa Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanma, Nepal, Pakistan, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam. Các môi trường sống thông thường của loài chim này là đồng cỏ trong các khu vực khô và ướt cũng như đất nông nghiệp. Chúng được tìm thấy chủ yếu ở vùng đồng bằng, nhưng có thể được tìm thấy trong các ngọn đồi thấp hơn (1200 m). Chúng không hiện diện trong khu vực rừng rậm của Tây Ghats và chỉ hiện diện trên các cạnh phía đông hoặc trong những khoảng trống chẳng hạn như tại Palghat.
wiki
Cao Văn Phường
Viện sĩ, Tiến sĩ Khoa học Cao Văn Phường (born 1940) là một nhà giáo Việt Nam. Hiện tại, ông là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Trường Đại học Bình Dương. Tiểu sử và quá trình công tác. Ông sinh ngày 22 tháng 12 năm 1940 tại Thới Bình, Cà Mau. Năm 1952, ông thoát ly gia đình tham gia quân đội và trở thành liên lạc viên của Văn phòng Bộ Tư lệnh khu 9. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc và được cho theo học tại các trường học sinh Miền Nam số 4, 9, 14, 26, bổ túc Công Nông. Năm 1961, ông được cử sang Liên Xô, theo học Đại học Tổng hợp mang tên Lênin tại Tashkent, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan (nay là Cộng hòa Uzbekistan). Năm 1967, ông tốt nghiệp đại học ngành toán cơ. Sau khi tốt nghiệp, ông về nước và được phân công làm Chuyên viên Ban cơ học, Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước. Năm 1975, ông được cử làm Nghiên cứu sinh tại Ba Lan và bảo vệ thành công luận án phó Tiến sĩ tại Viện những vấn đề cơ bản của kỹ thuật, Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan. Khi trở về nước, ông được phân công về Cần Thơ, lần lượt giữ các chức vụ Trưởng ban công thôn, Chủ nhiệm Khoa Cơ khí Nông nghiệp, Chủ nhiệm Khoa Cơ bản, Khoa Tại chức, Trường Phòng Nghiên cứu khoa học – hợp tác Quốc tế, Trưởng phòng Đào tạo sau đại học, Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Khoa học, Bí thư Đảng ủy Đại học Cần Thơ. Ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ (Tiến sĩ khoa học) tại Viện Những vấn đề cơ bản của kỹ thuật, Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan, năm 1987. Năm 1988, ông được bầu làm Thành ủy viên Thành phố Cần Thơ.
wiki
Cao Văn Phường
Từ năm 1990, ông được điều về làm Viện trưởng Viện Đào tạo Mở rộng. Ngày 15 tháng 6 năm 1990, Trường Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập trên cơ sở Viện Đào tạo Mở rộng. Ông trở thành Thành viên sáng lập và Hiệu trưởng đầu tiên của trường. Từ tháng 10 năm 1995 đến tháng 6 năm 2000, ông là Ủy viên Thường trực Hội đồng Quản trị, Đại học Mở - Bán công Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2001-2017, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Quản trị - Hiệu trưởng trường Đại học Bình Dương. Năm 2009, ông được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học kỹ sư Liên Bang Nga A.M. Prokhorov. Năm 2017 ông thôi giữ chức Hiệu trưởng Đại học Bình Dương Phó chủ Tịch Hiệp Hội Các Trường ĐH, Cao đẳng Việt Nam 7/2016. Trưởng ban Điều Hành CLB Các Trường ĐH, CĐ Ngoài Công Lập Triết lý, Quan điểm về Giáo dục. Con người sinh ra ai cũng có quyền bình đẳng tồn tại và phát triển. Vì vậy, xây dựng nền kinh tế sinh thái vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, vừa là động lực lao động sáng tạo của loài người. Mỗi con người phải tự thân phấn đấu vì sự sinh tồn của bản thân và đồng loại, vì sự phát triển bền vững của bản thân và xã hội bằng con đường lao động sáng tạo - đó là đạo lý. Muốn làm được điều đó con người phải không ngừng học hỏi thông qua giáo dục hoàn thiện đạo lý, tâm lý, pháp lý trên cơ sở không ngừng nâng cao trí tuệ, năng lực tư duy sáng tạo để lao động có hiệu quả.
wiki
Cao Văn Phường
Vì Giáo dục là của mọi người, vì mọi người, cho mọi người, mọi người được quyền bình đẳng hưởng thụ thành quả của nền giáo dục và có trách nhiệm đóng góp xây dựng, phát triển giáo dục. Giáo dục là quá trình tiến hóa (Evolution) kế thừa có chọn lọc, không phải cược cách mạng (Revolution) đột biến, hủy diệt. Công tác đào tạo của nhà trường được tổ chức trên nguyên lý giáo dục bao gồm bốn chữ H: "Học - Hỏi - Hiểu - Hành". Học là để biết cách Học như thế nào; Học để biết Hỏi; Hỏi để Học; Hỏi để Hiểu; Hiểu phải Hiểu đúng; Hiểu đúng mới Hành đúng; Hành đúng mới có hiệu quả; Hành có hiệu quả mới lo được cho bản thân, mới lo được cho gia đình, mới lo được cho xã hội, mới có điều kiện chăm sóc thiên nhiên. Nói cách khác Hành có hiệu quả con người mới hoàn thành trách nhiệm của mình đó là: "Trách nhiệm với bản thân - Trách nhiệm với gia đình - Trách nhiệm với xã hội - Trách nhiệm với thiên nhiên"
wiki
Nậm Kè
Nậm Kè Nậm Kè là xã thuộc huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, Việt Nam. Xã Nậm Kè được thành lập tháng 3 năm 2006 trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của xã Mường Toong. Năm 2006, xã Nậm Kè có 22.313,78 ha diện tích tự nhiên và 4.296 người. Năm 2009, sau khi cắt một phần diện tích và dân số để thành lập xã Pá Mỳ, xã Nậm Kè còn lại 15.392,35 ha diện tích tự nhiên và 2.861 người. Xã Nậm Kè nằm ở trung tâm của huyện Mường Nhé. Địa giới hành chính như sau:
wiki
Tư nhân hóa
Tư nhân hóa hay giải tư là một quá trình chuyển đổi sở hữu của một doanh nghiệp nhà nước sang tay tư nhân. Mục tiêu. Mục tiêu trên hết việc giải tư là để doanh sở hoạt động thêm hữu hiệu dưới cơ chế công bằng, phù hợp với thông lệ quốc tế và khai thác được tối đa khả năng hoạt động hiệu quả của cơ sở đó. Với đại đa số các cơ sở xuất phát từ công hữu, trước khi chuyển đổi bị thua lỗ triền miên, sống bằng bầu sữa nhà nước; khi chuyển đổi sang tư nhân đã lập tức hoạt động có hiệu quả; thậm chí lãi lớn. Pháp đã tiến hành tư nhân hóa hãng Air France vốn thua lỗ triền miên, Công ty Điện lực Pháp (EDF). Từ mấy năm qua Air France đã sinh lời và sáp nhập cả Hãng hàng không KLM của Hà Lan. Thông thường nhà nước là nơi lập chính sách, thi hành nó nên nhà nước không nên làm kinh doanh: vừa đá bóng thì không nên thổi còi và ngược lại. Hơn thế nữa, thực tế cho thấy nhà nước làm kinh doanh luôn kém nên vai trò đó nên chuyển cho khu vực tư nhân. Việc tư nhân hóa đã làm giảm tải mạnh mẽ áp lực về tiền mặt và chiếm dụng các tài nguyên quốc gia. Ngân sách bớt gánh nặng, trong khi lại có nguồn thu từ thuế và các khoản khác đem lại. Trong trường hợp này, có thể nói hiệu quả nhân lên nhiều lần. Các loại hình tư nhân hóa. Cách làm này thích hợp nhất cho các doanh nghiệp nhà nước cỡ vừa và nhỏ. Cách làm này là sự chuyển đổi triệt để một doanh nghiệp về mặt hình thức sở hữu. Loại hình chuyển đổi sở hữu này được vận dụng rất phổ biến ở Việt Nam.
wiki
Tư nhân hóa
Loại hình chuyển đổi sở hữu này được vận dụng rất phổ biến ở Việt Nam. Thực hiện phổ biến ở nhiều nước phát triển, đặc biệt là trong các công ty dịch vụ công ích (kiểu BBC), dịch vụ quốc gia như các ngành kinh doanh hạ tầng giao thông, điện, nước, viễn thông và có cả một số viện nghiên cứu, trường đại học, bệnh viện công lập. Lịch sử của vấn đề. Các nước theo nền kinh tế thị trường, việc tư nhân hóa các doanh nghiệp và tổ chức luôn được đặt ra lập tức khi nó hoạt động không có hiệu quả. BBC là một dẫn chứng điển hình của việc này. Lịch sử đổi mới các cơ sở kinh doanh và theo mô hình kinh doanh được bắt đầu lần đầu tiên ở các nước Trung và Đông Âu vốn theo chủ nghĩa cộng sản với nền kinh tế hầu như chỉ có công hữu. Bắt đầu từ khoảng năm 1989, các nước này trong quá trình xây dựng cơ chế kinh tế thị trường và tiến hành tư nhân hóa khá nhanh chóng. Tiếp theo, tiến trình này được thực hiện tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, do sự vận động của Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Chính Trung Quốc thực hiện việc này khá muộn. Các nguy cơ từ quá trình tư nhân hóa. Quá trình tư nhân hóa có thể nảy sinh rất nhiều nguy cơ. Việc tư nhân hóa một cách ồ ạt các công ty nhà nước ở nước Nga và các nước Đông Âu đã làm một số người vốn là vô sản đã giàu lên nhanh chóng, trở thành các tỷ phú tầm cỡ thứ giới như Khodorovsky, Roman Abramovich, Berezevsky...
wiki
Cúp C1 châu Âu 1987–88
Cúp C1 châu Âu 1987-88 là mùa thứ 33 của Cúp C1 châu Âu. Giải đấu đã chứng kiến sự lên ngôi lần đầu tiên của PSV Eindhoven khi họ đánh bại Benfica đã từng hai lần vô địch giải đấu này trong trận chung kết diễn ra ở sân vận động Neckarstadion tại Stuttgart. PSV đã trở thành đội bóng Hà Lan đầu tiên vô địch giải đấu sau 15 năm. Họ cũng lập kỷ lục khi chỉ thắng ba trận trên hành trình của mình, đặc biệt là không thắng trận nào từ vòng tứ kết trở đi. Đương kim vô địch FC Porto đã bị Real Madrid loại ngay ở vòng hai. Các câu lạc bộ của Anh bị cấm tham dự sau thảm họa Heysel năm 1985. Chính vì vậy mà Everton đã không được tham dự lần thứ hai trong vòng ba năm. Vòng 1. 1 Partizani Tirana bị UEFA loại khỏi giải đấu bởi vì họ có bốn cầu thủ bị đuổi khỏi sân trong trận lượt đi. Giai đoạn 1. "Trận đấu này thi đấu trong tình trạng không có khán giả nào vào sân do lệnh cấm từ UEFA xuất phát từ những sự cố trong trận đấu giữa Real Madrid và Bayern Munich mùa trước." Giai đoạn 2. "Neuchâtel Xamax chung cuộc thắng 6–2." "Bayern Munich chung cuộc thắng 5–0." "Real Madrid chung cuộc thắng 3–1." "Porto chung cuộc thắng 6–0." "Lillestrøm chung cuộc thắng 5–3" "Bordeaux chung cuộc thắng 4–0." "Rapid Wien chung cuộc thắng 7–0." "PSV Eindhoven chung cuộc thắng 3–2." "Steaua București chung cuộc thắng 4–2." "Omonia chung cuộc thắng 1–0." "Rangers chung cuộc thắng 2–1." "Górnik Zabrze chung cuộc thắng 3–2." "AGF Aarhus chung cuộc thắng 4–2."
wiki
Cúp C1 châu Âu 1987–88
"Steaua București chung cuộc thắng 4–2." "Omonia chung cuộc thắng 1–0." "Rangers chung cuộc thắng 2–1." "Górnik Zabrze chung cuộc thắng 3–2." "AGF Aarhus chung cuộc thắng 4–2." "Partizani đã bị loại khỏi giải đấu bởi UEFA do có bốn cầu thủ bị đuổi khỏi trận lượt đi. Benfica đủ điều vào vòng loại trực tiếp." "Sparta Prague chung cuộc thắng 10–0." "Anderlecht chung cuộc thắng 2–1." Vòng 2. Giai đoạn 1. "Trận đấu này diễn ra tại Valencia do lệnh cấm từ UEFA xuất phát từ những sự cố trong trận đấu giữa Real Madrid và Bayern Munich mùa trước." Giai đoạn 2. "Bayern Munich chung cuộc thắng 3–2." "Real Madrid chung cuộc thắng 4–2." "Bordeaux chung cuộc thắng 1–0." "PSV Eindhoven chung cuộc thắng 4–1." "Steaua București chung cuộc thắng 5–1." "Rangers chung cuộc thắng 4–2." "Benfica chung cuộc thắng 1–0." "Anderlecht chung cuộc thắng 3–1." Vòng tứ kết. Giai đoạn 1. Giai đoạn 2. "Real Madrid chung cuộc thắng 4–3." "1–1 trong hai lợt trận. PSV Eindhoven theo luật bàn thắng sân khách." "Steaua București chung cuộc thắng 3–2." "Benfica chung cuộc thắng 2–1." Bán kết. Giai đoạn 2. "1–1 sau hai lượt trận. PSV Eindhoven thắng theo luật bàn thắng sân khách." "Benfica chung cuộc thắng 2–0." Cầu thủ ghi bàn hàng đầu. Dưới đây là những cầu thủ ghi bàn hàng đầu tại Cúp C1 châu Âu 1987–88:
wiki
FTP
FTP (viết tắt của "File Transfer Protocol," dịch ra là "Giao thức truyền tập tin") thường được dùng để trao đổi tập tin qua mạng lưới truyền thông dùng giao thức TCP/IP (chẳng hạn như Internet - mạng ngoại bộ - hoặc Intranet - mạng nội bộ). Hoạt động của FTP cần có hai máy tính, một máy chủ và một máy khách). Máy chủ FTP, dùng chạy phần mềm cung cấp dịch vụ FTP, gọi là trình chủ, lắng nghe yêu cầu về dịch vụ của các máy tính khác trên mạng lưới. Máy khách chạy phần mềm FTP dành cho người sử dụng dịch vụ, gọi là trình khách, thì khởi đầu một liên kết với máy chủ. Một khi hai máy đã liên kết với nhau, máy khách có thể xử lý một số thao tác về tập tin, như tải tập tin lên máy chủ, tải tập tin từ máy chủ xuống máy của mình, đổi tên của tập tin, hoặc xóa tập tin ở máy chủ v.v. Vì giao thức FTP là một giao thức chuẩn công khai, cho nên bất cứ một công ty phần mềm nào, hay một lập trình viên nào cũng có thể viết trình chủ FTP hoặc trình khách FTP. Hầu như bất cứ một nền tảng hệ điều hành máy tính nào cũng hỗ trợ giao thức FTP. Điều này cho phép tất cả các máy tính kết nối với một mạng lưới có nền TCP/IP, xử lý tập tin trên một máy tính khác trên cùng một mạng lưới với mình, bất kể máy tính ấy dùng hệ điều hành nào (nếu các máy tính ấy đều cho phép sự truy cập của các máy tính khác, dùng giao thức FTP). Hiện nay trên thị trường có rất nhiều các trình khách và trình chủ FTP, và phần đông các trình ứng dụng này cho phép người dùng được lấy tự do, không mất tiền. Khái quát.
wiki
FTP
Khái quát. FTP thường chạy trên hai cổng, 20 và 21, và chỉ chạy riêng trên nền của TCP. Trình chủ FTP lắng nghe các yêu cầu dịch vụ từ những kết nối vào máy của các trình khách FTP, trên cổng 21. Đường kết nối trên cổng 21 này tạo nên một dòng truyền điều khiển, cho phép các dòng lệnh được chuyển qua trình chủ FTP. Để truyền tải tập tin qua lại giữa hai máy, chúng ta cần phải có một kết nối khác. Tùy thuộc vào chế độ truyền tải được sử dụng, trình khách (ở chế độ chủ động - "active mode") hoặc trình chủ (ở chế độ bị động - "passive mode") đều có thể lắng nghe yêu cầu kết nối đến từ đầu kia của mình. Trong trường hợp kết nối ở chế độ chủ động, (trình chủ kết nối với trình khách để truyền tải dữ liệu), trình chủ phải trước tiên đóng kết nối vào cổng 20, trước khi liên lạc và kết nối với trình khách. Trong chế độ bị động, hạn chế này được khắc phục, và việc đóng kết nối trước là một việc không cần phải làm. Trong khi dữ liệu được truyền tải qua dòng dữ liệu, dòng điều khiển đứng im. Tình trạng này gây ra một số vấn đề, đặc biệt khi số lượng dữ liệu đòi hỏi được truyền tải là lớn, và đường truyền tải chạy thông qua những tường lửa. Tường lửa là dụng cụ thường tự động ngắt các phiên giao dịch sau một thời gian dài im lặng. Tuy tập tin có thể được truyền tải hoàn thiện, song dòng điều khiển do bị bức tường lửa ngắt mạch truyền thông giữa quãng, gây ra báo lỗi. Mục đích của giao thức FTP. Mục đích của giao thức FTP, như được phác thảo trong bản RFC, là:
wiki
FTP
Mục đích của giao thức FTP. Mục đích của giao thức FTP, như được phác thảo trong bản RFC, là: Những vấn đề về bảo an khi dùng FTP. FTP là một phương pháp truyền tập tin có truyền thống phi bảo an (không an toàn), vì theo như bản thiết kế gốc đặc tả của FTP, không có cách nào có thể truyền tải dữ liệu dưới hình thức mật mã hóa được. Ảnh hưởng này có nghĩa là, phần lớn các cài đặt của mạng lưới truyền thông, tên người dùng, mật khẩu, dòng lệnh FTP và tập tin được truyền tải, đều có thể bị người khác trên cùng một mạng lưới, "ngửi" hoặc quan sát, dùng phần mềm phân tích giao thức ("protocol analyzer") (hoặc còn gọi là "dụng cụ ngửi dữ liệu", tiếng Anh là "sniffer"). Nên chú ý rằng đây là vấn đề thường thấy ở các giao thức của Internet được thiết kế trước khi SSL ("Secure Sockets Layer") ra đời (tạm dịch là giao thức "tầng kết nối bảo mật"), như HTTP, SMTP và Telnet. Giải pháp thường thấy, đối với vấn đề này, là dùng SFTP ("Secure Shell File Transfer Protocol" - tạm dịch là "giao thức truyền tập tin dùng trình bao bảo mật"), một giao thức dựa trên nền của SSH, hoặc trên FTPS ("FTP over SSL"). SFTP là FTP được cộng thêm chức năng mã hoá dữ liệu của SSL hoặc TLS ("Transport Layer Security" - tạm dịch là "Bảo mật tầng giao vận").. Các mã hồi âm của FTP. "Xin xem thêm: Danh sách toàn bộ các mã hồi âm của trình chủ FTP."
wiki
FTP
Các mã hồi âm của FTP. "Xin xem thêm: Danh sách toàn bộ các mã hồi âm của trình chủ FTP." Mã hồi âm của trình chủ FTP chỉ định hiện trạng của trình, sau khi đã hoạt động, bằng giá trị của con số trong vị trí của nó. Nghĩa của những con số và vị trí có thể được lược giải như sau: FTP nặc danh. Nhiều máy chủ chạy trình chủ FTP cho phép cái gọi là "FTP nặc danh". Bố trí này cho phép người dùng truy nhập vào máy chủ mà không cần có trương mục. Tên người dùng của truy cập nặc danh thường là hai chữ 'nặc danh' hoặc một chữ 'ftp' mà thôi. Trương mục này không có mật khẩu. Tuy người dùng thường bị đòi hỏi phải kèm địa chỉ thư điện tử của mình vào, thay thế cho mật khẩu, hòng giúp phần mềm xác minh người dùng, song thủ tục xác minh thường là rất sơ sài và hầu như không có - tùy thuộc vào trình chủ FTP đang được dùng và sự cài đặt của nó. Internet Gopher đã được đề nghị trở thành một hình thức thay thế của FTP nặc danh. Dạng thức của dữ liệu. Có hai chế độ được dùng để truyền tải dữ liệu qua mạng lưới truyền thông:
wiki
FTP
Dạng thức của dữ liệu. Có hai chế độ được dùng để truyền tải dữ liệu qua mạng lưới truyền thông: Hai chế độ này khác nhau trong cách chúng gửi dữ liệu. Khi một tập tin được truyền dùng chế độ ASCII, mỗi một chữ, mỗi con số, và mỗi ký tự đều được gửi trong dạng mã ASCII. Máy nhận tin lưu trữ chúng trong một tập tin văn bản thường, dưới dạng thức thích hợp (chẳng hạn, một máy dùng Unix sẽ lưu trữ nó trong dạng thức của Unix, một máy dùng Macintosh sẽ lưu trữ nó trong dạng thức của Mac). Vì thế, khi chế độ ASCII được dùng trong một cuộc truyền tải dữ liệu, phần mềm FTP sẽ tự cho rằng các dữ liệu được truyền gửi có dạng thức văn bản thường ("plain text"), và lưu trữ trên máy nhận theo dạng thức của máy. Chuyển đổi giữa các dạng thức văn bản thường bao gồm việc, thay thế mã kết dòng và mã kết tập tin, từ những mã tự được dùng ở máy nguồn, sang những mã tự được dùng ở máy đích, chẳng hạn một máy dùng hệ điều hành Windows, nhận một tập tin từ một máy dùng hệ điều hành Unix, máy dùng Windows sẽ thay thế những chữ xuống dòng ("carriage return") bằng một cặp mã, bao gồm mã xuống dòng và mã thêm hàng ("carriage return và line feed pairs"). Tốc độ truyền tải tập tin dùng mã ASCII cũng nhanh hơn một chút, vì bit ở hàng cao nhất của mỗi byte của tập tin bị bỏ.
wiki
FTP
Gửi tập tin dùng chế độ nhị phân khác với cái trên. Máy gửi tập tin gửi từng bit một sang cho máy nhận. Máy nhận lưu trữ dòng bit, y như nó đã được gửi sang. Nếu dữ liệu không phải ở dạng thức văn bản thường, thì chúng ta phải truyền tải chúng ở chế độ nhị phân, nếu không, dữ liệu sẽ bị thoái hóa, không dùng được. Theo như cài đặt sẵn, phần lớn các trình khách FTP dùng chế độ ASCII khi khởi công. Một số trình khách FTP xét nghiệm tên và nội dung của tập tin được gửi, để xác định chế độ cần phải dùng. FTP và các trình duyệt.
wiki
FTP
FTP và các trình duyệt. Đa số các trình duyệt web ("web browser") gần đây và trình quản lý tập tin ("file manager") có thể kết nối vào các máy chủ FTP, mặc dù chúng có thể còn thiếu sự hỗ trợ cho những mở rộng của giao thức, như FTPS chẳng hạn. Điều này cho phép người dùng thao tác các tập tin từ xa, thông qua kết nối FTP, dùng một giao diện quen thuộc, tương tự như giao diện trong máy của mình (ví dụ liệt kê danh sách của các tập tin của máy ở xa trông giống như phần liệt kê của máy mình, đồng thời các thao tác sao bản tập tin (copy), đổi tên, xóa, v.v.. được xử lý như là chúng ở trong máy mình vậy). Phương pháp làm là thông qua FTP URL, dùng dạng thức ftp(s)://<"địa chỉ của máy chủ FTP"> (ví dụ: ftp.gimp.org ). Tuy không cần thiết, song mật khẩu cũng có thể gửi kèm trong URL, ví dụ: ftp(s)://<"tên người dùng">:<"mật khẩu">@<"địa chỉ của máy chủ FTP">:<"số cổng">. Đa số các trình duyệt web đòi hỏi truyền tải FTP ở chế độ bị động, song không phải máy chủ FTP nào cũng thích ứng được. Một số trình duyệt web FTP trên nền SSH. "FTP trên nền của SSH" ám chỉ đến một kỹ thuật "đào hầm" cho một phiên giao dịch dùng giao thức FTP bình thường, thông qua một kết nối dùng giao thức SSH.
wiki
FTP
FTP trên nền SSH. "FTP trên nền của SSH" ám chỉ đến một kỹ thuật "đào hầm" cho một phiên giao dịch dùng giao thức FTP bình thường, thông qua một kết nối dùng giao thức SSH. Vì FTP (một giao thức khá bất thường, dựa trên nền của giao thức TCP/IP, mà hiện nay người ta vẫn còn dùng) sử dựng nhiều kết nối TCP, cho nên việc đi ngầm dưới nền của SSH là một việc khó khăn. Đối với đa số các trình khách của SSH, khi "kết nối điều hành" (kết nối khởi đầu giữa máy khách tới máy chủ, dùng cổng 21) được thiết lập, SSH chỉ có thể bảo vệ được đường kết nối này mà thôi. Khi việc truyền tải dữ liệu xảy ra, trình FTP ở một trong hai đầu, sẽ thiết lập một kết nối TCP mới ("đường dẫn dữ liệu") và kết nối này sẽ bỏ qua kết nối của SSH, làm cho nó không còn được hưởng tính bí mật ("confidentiality"), toàn vẹn ("integrity protection") của dữ liệu, hoặc những tính năng khác mà SSH có. Nếu trình khách FTP được cài đặt dùng chế độ bị động, và kết nối với một máy chủ dùng giao diện SOCKS, là giao diện mà nhiều trình khách SSH có thể dùng để tiến cử việc đi ngầm, việc dùng các đường kết nối của FTP, trên các kết nối của SSH, là một việc có thể làm được. Nếu không, các phần mềm trình khách SSH phải có kiến thức cụ thể về giao thức FTP, giám sát và viết lại các thông điệp trong kết nối điều khiển của FTP, tự động mở các đường truyền tải dữ liệu cho FTP. Phiên bản 3 của trình SSH (do công ty phần mềm Communications Security Corp. sản xuất) là một ví dụ điển hình, hỗ trợ những khả năng nói trên.
wiki
FTP
"FTP chạy trên nền SSH" còn đôi khi được gọi là FTP bảo mật ("secure FTP"). Chúng ta không nên nhầm cái này với những phương pháp bảo an FTP, như SSL/TLS hay còn gọi là FTPS. Những phương pháp để truyền tải các tập tin khác, dùng SSH, không có liên quan đến FTP, bao gồm SFTP ("SSH file transfer protocol - giao thức truyền tải tập tin dùng SSH") hoặc SCP ("Secure copy - sao chép có bảo mật") - trong cả hai cái này, toàn bộ cuộc hội thoại (xác minh người dùng và truyền tải dữ liệu) đều luôn luôn được bảo vệ bằng giao thức SSH. Các tham chiếu. Giao thức được tiêu chuẩn hoá trong RFC 0959 bởi tổ chức IETF như sau:
wiki
Lirularia canaliculata
Lirularia canaliculata Lirularia canaliculata là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Trochidae. Miêu tả. Chiều cao của chiếc vỏ nhỏ của nó là 3 mm. Nó có rốn rộng, hình lăng trụ đẹp mắt. Các chóp là hình nón lõm xuống. Nó có năm đường xoắn, hai đường đầu nhẵn, phần còn lại có rãnh xoắn ốc và phía dưới các đường khâu kênh bằng một loạt các nốt sần màu trắng, ở đây và phần đó được đánh dấu bằng màu nâu. Phần thân được bao bọc bởi những đốm màu hạt dẻ. Phần gốc của vỏ chứa một múi màu nâu tím. Rốn là phối cảnh, được kết bởi một sợi dây hơi củ. Khẩu độ là hình bán nguyệt. Phân bố. Lirularia được phân bố ở Đại Tây Dương, ngoài khơi Guinea Xích đạo và Angola.
wiki
Simon Woods
Simon Woods Simon Woods (sinh 7 tháng 1 năm 1980) là một diễn viên và biên kịch, được biết đến nhiều với vai diễn Octavian trong mùa 2 của sê-ri truyền hình Anh-Mỹ "Rome" và vai Charles Bingley trong "Pride & Prejudice" 2005. Cuộc sống cá nhân. Woods attended Eton College, then read English at Magdalen College, Oxford. Khi ở Oxford, anh trở thành bạn với Chelsea Clinton. Sau khi tốt nghiệp ở Oxford, Woods làm việc một thời gian ngắn tại "The Guardian" trước khi trở thành một diễn viên. Khi ở Oxford năm 2000, anh ấy có mối quan hệ với Rosamund Pike kéo dài hai năm. Hai người sau đó đóng vai tình nhân Jane Bennet và Charles Bingley trong "Kiêu hãnh và định kiến". Từ năm 2009, Woods có quan hệ tình cảm với Christopher Bailey, cựu giám đốc điều hành của hãng thời trang Burberry của Anh. Họ kết hôn vào năm 2012. Họ có 2 người con gái, Iris và Nell. Biên kịch. Vở kịch sân khấu "Hansard" của Woods đã được trình chiếu tại Lyttelton Theatre, London, vào tháng 9 năm 2019. Tác phẩm được đạo diễn bởi Simon Godwin.
wiki
Ragnar Lodbrok
Ragnar Lodbrok Ragnar Lodbrok hay Lothbrok (, "Ragnar Shaggy-Breeches") là một người Viking huyền thoại , một vị vua, và là một anh hùng từ thời đại Viking được miêu tả trong thơ Bắc Âu cũ và một số saga. Trong truyền thuyết, Ragnar là tai họa của nước Pháp và Anh vào thế kỷ 9 và là cha của những người con trai nổi tiếng như Ivar Không xương, Björn Ironside, Halfdan Ragnarsson, Sigurd Rắn trong Mắt và Ubba. Lịch sử. Theo truyền thuyết, Ragnar có ba người vợ là Lagertha, Þóra Borgarhjǫrtr, và Aslaug. Có hai giả thuyết khác nhau về cái chết của ông. Một là ông bị Vua Ælla của Northumbria (kẻ thù của ông) bắt giữ, và bị giết chết khi bị ném vào một hố rắn. Những người con trai của ông đã có một cuộc trả thù đẫm máu bằng việc xâm lược nước Anh với một đội quân ngoại đạo lớn. Một giả thuyết khác về cái chết của Ragnar là ông bị bệnh dịch tả và bị thương khi cố gắng xâm nhập vào Paris.
wiki
Vườn quốc gia Chikoy
Vườn quốc gia Chikoy Vườn quốc gia Chikoy () là một vườn quốc gia nằm tại Krasnochikoysky, Zabaykalsky, Nga. Được thành lập vào ngày 28 tháng 2 năm 2014, vườn quốc gia này có diện tích 6664,68 km² (666.467,73 ha) bao gồm vùng thảo nguyên phía nam Siberia, trên khu vực biên giới với Mông Cổ. Lịch sử. Vườn quốc gia này được thành lập vào ngày 28 tháng 2 năm 2014 theo nghị định của Chính phủ liên bang số 158. Nó được thành lập để bảo vệ khu vực rừng Thông Siberi và Taiga ở phía nam Siberia, cùng với các khu vực thảo nguyên núi và đồng cỏ núi cao thượng nguồn sông Chikoy. Vườn quốc gia này được thành lập trên cơ sở sáp nhập khu bảo tồn thiên nhiên Burkalsky với Khu bảo tồn Atsinsky được thành lập từ năm 1968. Mô tả. Vườn quốc gia nằm trên khu vực cao nguyên Khentei-Daurskaya, thượng nguồn sông Chikoy bao gồm đỉnh cao nhất của khu vực cao nguyên là Bystrinsky Golets (2519 mét) và hồ Shebetui. Đây là một phần của vùng sinh thái thảo nguyên rừng Dauria. Một số loài thực vật chính tại vườn quốc gia gồm Thông Siberi, Thông Scots, Thông lùn Siberi, Lãnh sam, Vân sam Siberi, Thông rụng lá, Thanh lương trà, Cơm cháy, Táo gai, Kim ngân, Loa kèn, Hành tây, Đậu, Cỏ cói, Hòa thảo và nhiều loài khác. Về động vật, vườn quốc gia có nhiều loài điển hình nam Siberi gồm Gấu nâu, Nai sừng tấm Á-Âu, Nai Mãn Châu, Hoẵng Siberia, Lợn rừng, Hươu xạ Siberia, Linh miêu, Lửng châu Âu, Chồn zibelin, Sóc bay Siberia cùng nhiều loài chim, lưỡng cư, bò sát khác.
wiki
Viễn Đông Nga
Viễn Đông Nga (; ) hay Transbaikalia là một thuật ngữ chỉ những vùng của Nga ở Viễn Đông, ví dụ, những vùng cực đông của Nga, giữa Hồ Baikal ở Trung Siberia, và Thái Bình Dương. Quận Viễn Đông Liên bang của Nga, bao phủ vùng này, không nên bị nhầm lẫn với Quận Liên bang Siberia. Thuật ngữ. Tại Nga. Tại Nga, vùng thường được gọi là "Viễn Đông", dễ gây nhầm lẫn với ý nghĩa quốc tế của Viễn Đông khi phiên dịch. Viễn Đông thường được gọi trong tiếng Nga là "Vùng châu Á Thái Bình Dương" (, viết tắt theo ), hay "Đông Á" (). Lịch sử. Buổi đầu lịch sử. Nga đã mở ra tới bờ biển Thái Bình Dương năm 1647 với việc thành lập Okhotsk, và củng cố sự kiểm soát của họ với Viễn Đông Nga vào thế kỷ 19. Lãnh thổ. Cho tới năm 2000, Viễn Đông Nga vẫn không có các biên giới được quy định chính thức. Một thuật ngữ duy nhất "Siberia và Viễn Đông" () thường được dùng để chỉ các vùng của Nga nằm ở phía đông dãy Ural mà không chỉ ra một sự phân biệt rõ ràng giữa "Siberia" và "Viễn Đông." Nhiều thực thể với cái tên "Viễn Đông" đã tồn tại ở nửa đầu thế kỷ 20, tất cả với các biên giới hoàn toàn khác biệt: Từ năm 1938 tới năm 2000, không có thực thể chính thức với cái tên này và thuật ngữ "Viễn Đông" được sử dụng một cách lỏng lẻo.
wiki
Viễn Đông Nga
Từ năm 1938 tới năm 2000, không có thực thể chính thức với cái tên này và thuật ngữ "Viễn Đông" được sử dụng một cách lỏng lẻo. Năm 2000, các thực thể liên bang của Nga được gộp vào trong các vùng liên bang, và Vùng liên bang Viễn Đông được thành lập, gồm Amur, Khu tự trị Chukotka, Tỉnh tự trị Do Thái, Kamchatka, Khu tự trị Koryak, Khabarovsk Krai, Magadan, Primorsky Krai, Cộng hoà Sakha (Yakutia), và Sakhalin. Từ năm 2000, thuật ngữ "Viễn Đông" ngày càng được dùng nhiều ở Nga để chỉ quận này, dù nó cũng thường được dùng một cách lỏng lẻo hơn. Các biên giới được xác định của quận liên bang, Viễn Đông có diện tích 6.2 triệu km² — chiếm một phần ba tổng diện tích của Nga. Nhân khẩu. Dân số. Theo cuộc Điều tra dân số năm 2002, Quận Viễn Đông Liên bang có dân số  6,692,865 người. Hầu hết số này tập trung ở các vùng phía nam. Với diện tích rất to lớn của lãnh thổ Viễn Đông Nga, 6.7 triệu người người ở đây có mật độ dân số chỉ hơn 1 người trên 1 km², khiến Viễn Đông Nga là một trong những nơi có dân cư thưa thớt nhất thế giới. Dân số Viễn Đông Nga đã suy giảm nhanh chóng từ sự sụp đổ của Liên Xô (thậm chí nhanh hơn mức trung bình của toàn nước Nga), giảm 14% trong 15 năm qua. Chính phủ Nga đã thảo luận một loạt các chương trình tái cấu trúc dân số để tránh sự dự báo dân số sẽ chỉ còn 4.5 triệu người vào năm 2015, hy vọng thu hút số dân cư Nga từ các quốc gia lân cận. Sắc tộc Nga và Ukraina chiếm đa số dân cư.
wiki
Viễn Đông Nga
Sắc tộc Nga và Ukraina chiếm đa số dân cư. 75% dân số sống tại đô thị. Các thành phố lớn nhất là (tất cả các con số đều lầy theo cuộc điều tra dân số năm 2002): Các nhóm sắc tộc truyền thống. Các nhóm sắc tộc truyền thống của Viễn Đông Nga gồm (được gộp theo nhóm ngôn ngữ):
wiki
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi (27 tháng 8 năm 1888 - 11 tháng 7 năm 1966) là một giám mục truyền giáo người Pháp, phục vụ tại Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Giám mục Tông toà Qui Nhơn (1944 - 1952) và Giám mục Tông Toà Nha Trang (1957 - 1960). Năm 1960, cùng với sự thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, ông trở thành Giám mục chính tòa đầu tiên của Giáo phận Nha Trang. Tiểu sử. Thiếu thời và tu tập. Ông sinh ngày 27 tháng 08 năm 1888 tại Notre Dame des Champs, Paris, Pháp. Ông là người con thứ 7 trong gia đình Công giáo có tám người con. Mẹ ông qua đời lúc ông mới sáu tuổi. Năm 1898, Marcel Piquet nhập học tại Tiểu chủng viện Notre Dame des Champs. Ngày 06 tháng 06 năm 1908, ông xác định rõ ràng ơn gọi truyền giáo của mình trong thỉnh nguyện thư gởi cha Giám đốc Đại chủng viện Thừa sai Bièvres khi sắp kết thúc lớp Terminal (tương đương lớp 12) như sau: Ngày 15 tháng 09 năm 1908, ông gia nhập Đại chủng viện Thừa Sai Bièvres. Thời Tiểu chủng viện cũng như Đại Chủng viện, Ban Giám đốc vẫn nhận xét ông là một con người khổ chế, sốt sắng, đức hạnh, thông minh, trung thành với bổn phận và nhiệt thành. Linh mục. Ngày 29 tháng 07 năm 1912, thầy Marcel lãnh chức linh mục và ngày 27 tháng 11 lên đường truyền giáo cho địa phận Đông Đàng Trong (Qui Nhơn), Việt Nam.
wiki
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Linh mục. Ngày 29 tháng 07 năm 1912, thầy Marcel lãnh chức linh mục và ngày 27 tháng 11 lên đường truyền giáo cho địa phận Đông Đàng Trong (Qui Nhơn), Việt Nam. Ngày 30 tháng 07 năm 1912, Tân Linh mục Marcel Piquet dâng Thánh Lễ mở tay tại“ Saint-Hippolyte” nơi người anh Linh mục Pierre của ông làm phó xứ trước khi trở thành Linh mục Chánh xứ giáo xứ Lilas. Đây cũng chính là cuộc hội ngộ cuối cùng với người cha già, các anh chị và mọi người thân yêu trong gia đình, các ân nhân và bằng hữu để lên đường truyền giáo. Ngày 29 tháng 12 năm 1912, Ông đặt chân lên miền truyền giáo Qui Nhơn và được Giám mục Grangeon, Giám mục Tông Toà Qui Nhơn, đặt tên là Lợi và được gửi đến Linh mục P. Tardieu, Linh mục sở Hội Đức, cách Qui Nhơn 90 km về phía Bắc, để học tiếng Việt và phong tục địa phương hầu dễ dàng thích nghi với môi trường mới trong công tác thừa sai. Từ năm 1913 đến năm 1915, ông là Linh mục Phó Xứ Đồng Quả. Năm 1915, ông nhập ngũ với nghiệp vụ y tá nhưng sớm giải ngũ vì lý do sức khoẻ. Tháng 09 năm 1916 ông thành Giám đốc kiêm giáo sư Triết Đại chủng viện Đại An, Qui Nhơn. Từ năm 1924 đến năm 1927, ông là Linh mục Chánh xứ Dinh Thủy, Ninh Thuận. Giáo dân vùng Ninh Thuận vẫn quen thấy ông trên cỗ xe ngựa, thường xuyên thăm viếng bệnh nhân và giáo dân.
wiki
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Từ năm 1924 đến năm 1927, ông là Linh mục Chánh xứ Dinh Thủy, Ninh Thuận. Giáo dân vùng Ninh Thuận vẫn quen thấy ông trên cỗ xe ngựa, thường xuyên thăm viếng bệnh nhân và giáo dân. Từ năm 1928 đến năm 1943, ông là Linh mục Chánh xứ Hộ Diêm, Ninh Thuận. Trong thời gian đó, ông xây dựng nhà thờ Hộ Diêm khang trang lộng lẫy theo kiến trúc gothic và xúc tiến việc khẩn hoang, xây cất các nhà thờ cho các họ đạo lân cận như: Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Phước An. Ông cũng thành lập “Hội con Đức Mẹ” và Hội này sau đó nhân rộng trong nhiều giáo xứ khác của giáo phận. Ông không chỉ chăm lo đời sống đức tin của các giáo hữu mà quan tâm cải thiện vấn đề dân sinh, tiếp tục công trình của các vị giám mục tiền nhiệm như: khai hoang lập ấp, dẫn thủy nhập điền, nâng cao mức sống người nghèo.… Hầu hết những người đến làm ăn trên vùng đất mới này lần lượt gia nhập đạo Công giáo, tạo nên những xóm đạo gần như toàn tòng (Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Tầm Chưởng). Từ năm 1941 đến năm 1943, ông là Linh mục Tổng Đại diện Giáo phận Tông tòa Qui Nhơn thay Linh mục Simon được chọn làm Giám mục Tông toà Giáo phận Kontum. Sau khi Giám mục Tardieu Phú qua đời, ông được đề cử làm Bề Trên Miền Truyền giáo Qui Nhơn Giám mục.
wiki
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Giám mục. Ngày 11 tháng 11 năm 1943, ông được bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa Giáo phận Qui Nhơn. Ngày 18 tháng 01 năm 1944, ông được tấn phong Giám mục tại nhà thờ Chính toà Qui Nhơn, do Giám mục Drapier, Khâm Sứ Toà Thánh. Trong thời gian chiến tranh ly loạn, ông vẫn thăm viếng mục vụ khắp nơi trong giáo phận. Khi chủng viện Làng Sông – Qui Nhơn không hoạt động được, ông thành lập tạm thời Chủng viện Tấn Tài (1946-1952), rồi sau đó là Chủng viện Nha Trang tại địa điểm 22 Duy Tân, Nha Trang (1952 -1958) nay là Tòa Giám mục cho chủng sinh của Nha Trang. Ngày 05 tháng 07 năm 1957, Tòa Thánh thành lập Giáo phận Tông tòa Nha Trang và cử ông làm Giám mục đầu tiên. Ngày 24 tháng 11 năm 1960, Toà Thánh thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Giáo phận Nha Trang được nâng lên thành Giáo phận Chính toà. Ngày 23 tháng 06 năm 1961, ông nhậm chức Giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang với khẩu hiệu: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến) và huy hiệu Chiên Con cầm cờ chiến thắng.
wiki
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Chín năm trong cương vị giám mục tiên khởi của Giáo phận Nha Trang, ông đã tạo lập được những cơ sở nền tảng cho sự phát triển Giáo phận. Ông di chuyển trụ sở Dòng Thánh Giuse về Nha Trang (1954), chọn Đức Maria Vô Nhiễm làm quan thầy Giáo phận, rồi năm 1958, thành lập Tiểu chủng viện Sao Biển (Bổn mạng là Sinh nhật Đức Mẹ) và thành lập Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ (bổn mạng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ). Ông cũng tạo điều kiện thuận lợi cho Dòng Chúa Cứu Thế hiện diện trên địa bàn giáo phận (1959), xây dựng Đan viện Cát Minh và mời các đan sĩ về Nha Trang (1960) làm hậu thuẫn cho công cuộc truyền giáo. Qua đời. Ngày 09 tháng 06 năm 1966, sau Lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, sức khỏe của ông cạn kiệt. Các bác sĩ Nha Trang đề nghị chuyển ông vào Bệnh viện Sài Gòn. Hai ngày sau, ông được xức dầu bệnh nhân. Ông rời bệnh viện Nha Trang, được chuyển bằng máy bay vào bệnh viện Thánh Phaolô Sài Gòn. Ngày 07 tháng 07 năm 1966, chứng bướu độc ở thận đột biến nguy kịch. Ngày 11 tháng 07 năm 1966, ông qua đời tại Sài Gòn, thọ 78 tuổi. Linh cữu ông được quàn tại Nhà thờ chính tòa Sài Gòn 3 ngày cho giáo dân Sài Gòn đến viếng. Ngày 14 tháng 07, Giám mục Angelo Palmas, Khâm sứ Toà Thánh cử hành Thánh Lễ cầu hồn.
wiki
Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi
Linh cữu ông được dời về Toà Giám mục Nha Trang để trong ba ngày cho giáo dân đến viếng. Ngày 18 tháng 07 năm 1966, Giám mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục chính tòa Giáo phận Đà Lạt chủ sự Thánh lễ an táng tại Nhà thờ chính tòa Nha Trang.. Ông được an táng trong ngôi mộ phía trước tiền đường Nhà thờ Chính Toà Nha Trang.
wiki
Johann Stamitz
Johann Stamitz Jan Václav Antonín Stamic, hay còn được biết đến với cái tên tiếng Đức Johann Wenzel Anton Stamitz, là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ violin, nhạc trưởng, nhà sư phạm người Séc. Ông là cha của Carl Stamitz và Anton Stamitz. Tiểu sử. Johann Stamitz là nghệ sĩ violin tai triều đình Mannheim, nhanh chóng nổi tiếng là người chơi đàn kỳ tài, được phong giám đốc nhạc thính phòng của triều đình. Nhờ ông, dàn nhạc triều đình nổi danh là dàn nhạc giỏi nhất thế giới. Phong cách sáng tác. Johann Stamitz có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành những dàn nhạc giao hưởng của Pháp. Nối tiếp những sáng tạo của Antonio Vivaldi, Giovanni Battista Sammartini và Niccolò Jommelli, Stamitz đã hoàn chỉnh hình thức giao hưởng cổ điển, thứ được Joseph Haydn và Wolfgang Amadeus Mozart tiếp thu sau này. Stamitz đã đưa những nhân tố của hình thức sonata cổ điển để xây dựng các chương đầu của các bản giao hưởng, đưa minuet làm chương 3, bổ sung thành phần dàn nhạc. Các sáng tác. Johann Stamitz để lại khoảng 175 tác phẩm, gồm:
wiki
Tetration
Trong toán học, tetration hoặc hyper-4 trong hyperoperation là một phép toán dựa trên phép lặp hoặc sự lặp lại của luỹ thừa, tetration được hiểu là "luỹ thừa chồng chất". Theo định nghĩa tetration là "luỹ thừa lặp" (hoặc "chồng") nên tetration là một phép toán hai ngôi được viết dưới dạng formula_1, trong đó formula_2 được gọi là "cơ số" và formula_3 là số lần formula_2 luỹ thừa lặp chính nó (hoặc số lần lặp lại của formula_2) được gọi là "chiều cao", tương tự như luỹ thừa. Như vậy, formula_1 sẽ được biến đổi thành một tháp luỹ thừa formula_7và formula_3 là số tầng luỹ thừa của formula_2 tính từ cơ số và formula_1 sẽ được đọc là "tetration bậc formula_3 của formula_2" hoặc "formula_2 tetration bậc formula_3". Tetration là phép toán bậc tiếp theo sau lũy thừa, nhưng trước pentation. Thuật ngữ "tetration" theo tiếng Anh được Reuben Louis Goodstein đặt ra từ từ tetra- nghĩa là "bốn" trong tiền tố Hy Lạp và itetration nghĩa là "sự lặp lại" để chỉ phép lặp tạm dịch là "sự lặp lại lần thứ bốn". Tetration cũng được định nghĩa đệ quy như formula_15 cho phép cố gắng mở rộng "chiều cao" của tetration thành các số không phải số tự nhiên chẳng hạn như số thực hoặc số phức. Hai phép toán nghịch đảo của tetration được gọi là siêu căn và siêu logarit, tương tự như căn bậc n và hàm logarit. Không có hàm nào trong ba hàm này là hàm số sơ cấp. Tetration được sử dụng để ký hiệu các số rất lớn. Giới thiệu.
wiki
Tetration
Tetration được sử dụng để ký hiệu các số rất lớn. Giới thiệu. Dưới đây là bốn phép toán đầu tiên, tetration được coi là phép toán thứ tư trong đó. Phép toán một ngôi successor, được định nghĩa là formula_16. Phép toán sau là sự lặp lại của phép toán liền trước đó. Lưu ý rằng các số mũ chồng nhau được tính theo quy ước từ trên xuống: formula_29 có nghĩa là formula_30 chứ không phải formula_31. Phép successor, formula_32 là phép toán cơ bản nhất; trong khi phép cộng formula_33 là một phép toán chính, đối với phép cộng các số tự nhiên, nó có thể được coi là chuỗi lặp lại các phép successor của ; phép nhân formula_34 cũng là một phép toán chính mặc dù đối với các số tự nhiên, nó có thể được coi là một chuỗi lặp lại các phép cộng của với chính nó. Luỹ thừa formula_35 có thể được coi là chuỗi lặp lại các phép nhân của với chính nó và tetration formula_36 cũng được coi như chuỗi lặp lại hay các tầng luỹ thừa chính nó được xếp chồng lên nhau. Mỗi phép toán ở trên được xác định bằng cách lặp lại phép toán liền trước đó. Tuy nhiên, không giống như các phép toán trước nó, tetration không phải là một hàm số sơ cấp.
wiki
Tetration
Tham số được gọi là cơ số, trong khi tham số trong tetration có thể được gọi là chiều cao. Trong định nghĩa ban đầu của tetration, chiều cao phải là số tự nhiên; chẳng hạn, sẽ là không đúng nếu nói "ba tetration âm năm" hoặc "bốn tetration một phần hai". Tuy nhiên, cũng giống như phép cộng, phép nhân và lũy thừa có thể được định nghĩa theo những cách cho phép mở rộng lên số thực và số phức, một số nỗ lực đã được thực hiện để tổng quát hóa tham số chiều cao của tetration thành số âm, số thực và số phức. Một trong những cách làm như vậy là sử dụng một định nghĩa đệ quy cho tetration; đối với bất kỳ số thực formula_37 và số nguyên không âm formula_38, chúng ta có thể xác định formula_39 đệ quy dưới dạng: Định nghĩa này tương đương với số lần lặp luỹ thừa cho các tham số chiều cao tự nhiên. Tuy nhiên, định nghĩa này cho phép mở rộng lên các tham số chiều cao khác chẳng hạn như formula_41, formula_42, và formula_43 - nhiều phần mở rộng trong số này là những mở rộng đang được nghiên cứu. Thuật ngữ. Có rất nhiều thuật ngữ cho tetration, mỗi thuật ngữ đều có tính logic đằng sau nó, nhưng một số thuật ngữ đã không được sử dụng phổ biến vì lý do này hay lý do khác. Dưới đây là sự so sánh của từng thuật ngữ với cơ sở lý luận và phản biện của nó. Do một phần thuật ngữ được chia sẻ và ký hiệu tượng trưng tương tự, tetration thường xuyên bị nhầm lẫn với các chức năng và biểu thức liên quan. Dưới đây là một số thuật ngữ liên quan:
wiki
Tetration
Do một phần thuật ngữ được chia sẻ và ký hiệu tượng trưng tương tự, tetration thường xuyên bị nhầm lẫn với các chức năng và biểu thức liên quan. Dưới đây là một số thuật ngữ liên quan: Trong hai biểu thức đầu tiên formula_2 là "cơ số", và các tầng giá trị formula_2 là chiều cao (thêm một tầng cho giá trị formula_47). Trong biểu thức thứ ba, formula_18 là chiều cao, nhưng mỗi tầng lại có giá trị khác nhau. Cần lưu ý khi đề cập đến số mũ lặp, vì thông thường gọi biểu thức của dạng này là luỹ thừa lặp, đó là điều mơ hồ, bởi vì điều này có thể có nghĩa là mũ lặp hoặc số mũ lặp. Kí hiệu. Có rất nhiều kiểu ký hiệu khác nhau để diễn đạt tetration. Một số ký hiệu cũng có thể được sử dụng để mô tả các hyperoperation khác, trong khi một số chỉ giới hạn ở tetration và không có phần mở rộng ngay lập tức. Một ký hiệu ở trên sử dụng ký hiệu số mũ lặp, điều này được định nghĩa chung như sau: Không có nhiều ký hiệu cho số mũ lặp, dưới đây là một vài ký hiệu được sử dụng để mô tả chỉ số lặp: Thí dụ. Bởi vì tetration có sự gia tăng nhanh chóng, hầu hết các giá trị trong bảng sau đây là quá lớn để viết bằng ký hiệu khoa học. Trong những trường hợp này, ký hiệu số mũ lặp được sử dụng để thể hiện chúng trong cơ số 10. Các giá trị chứa dấu thập phân là gần đúng. Tính chất.
wiki
Tetration
Tính chất. Tetration có những tính chất tương tự như luỹ thừa, cũng như các thuộc tính cụ thể dành riêng cho nó và bị mất hoặc thu được từ lũy thừa. Bởi vì luỹ thừa không có tính chất giao hoán, kết quả và quy tắc không có sự tương tự với tetration, các câu formula_50 and formula_51 không nhất thiết đúng với mọi trường hợp. Tuy nhiên, tetration theo một tính chất khác, trong đó formula_52. Sự thật này được thể hiện rõ nhất bằng cách sử dụng định nghĩa đệ quy. Từ thuộc tính này, một mệnh đề theo sau formula_53, cho phép chuyển đổi "b" và "c" trong các phương trình nhất định. Mệnh đề như sau: Thứ tự này rất quan trọng vì lũy thừa không có tính kết hợp, và tính toán biểu thức theo thứ tự ngược lại sẽ cho ra một kết quả khác: Tính toán biểu thức từ trái sang phải được coi là ít thú vị hơn, tính toán từ trái sang phải, mọi biểu thức formula_56 có thể được hạ xuống thành formula_57. Bởi vì điều này, các tháp phải được tính từ phải sang trái (hoặc từ trên xuống dưới). Lập trình viên máy tính nhắc đến sự lựa chọn này như kết hợp phải. Mở rộng. Tetration có thể được mở rộng theo hai cách khác nhau. Trong phương trình formula_58, cả cơ số và chiều cao có thể được khái quát bằng cách sử dụng định nghĩa và tính chất của tetration. Mặc dù cơ số và chiều cao có thể được mở rộng vượt ra ngoài các số nguyên dương đến các miền khác, kể cả formula_59, các hàm phức như formula_60, và chiều cao của vô hạn , các tính chất hạn chế hơn của tetration làm giảm khả năng mở rộng tetration.
wiki
Tetration
Mở rộng miền cho cơ số. Cơ số không. Số mũ formula_61 không được xác định nhất quán. Như vậy, các tetration formula_62 không được xác định rõ ràng bởi các công thức đưa ra trước đó. Tuy nhiên, formula_63 được xác định rõ, và tồn tại: Do đó, chúng ta có thể xác định nhất quán formula_65. Điều này tương tự như việc định nghĩa formula_66. Theo phần mở rộng này, formula_67, do đó, quy tắc formula_68 từ định nghĩa ban đầu vẫn giữ. Cơ số phức. Kể từ khi các số phức được nâng lên thành các mũ, tetration có thể được áp dụng cho "các cơ số" có dạng formula_69 (trong đó formula_2 và formula_3 là số thực). Ví dụ, trong formula_72 với formula_73, tetration đạt được bằng cách sử dụng các nhánh chính của logarit tự nhiên, sử dụng công thức Euler chúng ta được mối quan hệ: Điều này cho thấy một định nghĩa đệ quy cho formula_75 với bất kỳ formula_76: Các giá trị gần đúng sau đây có thể được lấy: Giải quyết các quan hệ nghịch đảo, như trong phần trước, mang lại formula_78 và formula_79, với các giá trị âm của cho kết quả vô hạn trên trục ảo. Vẽ sơ đồ trong mặt phẳng phức, toàn bộ chuỗi xoắn ốc đến giới hạn formula_80, mà có thể được hiểu là giá trị trong đó formula_18 là vô hạn.
wiki
Tetration
Trình tự tetration như vậy đã được nghiên cứu kể từ thời Euler, nhưng được hiểu một cách kém cỏi do hành vi hỗn loạn của chúng. Hầu hết các nghiên cứu được công bố trong lịch sử đã tập trung vào sự hội tụ của hàm số mũ lặp vô hạn. Nghiên cứu hiện tại đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự có mặt của các máy tính mạnh mẽ với fractal và phần mềm toán học tượng trưng. Phần lớn những gì được biết về tetration xuất phát từ kiến thức chung về động lực học phức tạp và nghiên cứu cụ thể về bản đồ số mũ. Phần mở rộng của miền cho các chiều cao khác nhau. Chiều cao vô hạn. Tetration có thể được mở rộng đến các chiều cao vô hạn. Tức là, đối với một số giá trị và nhất định trong formula_82, tồn tại một kết quả được xác định rõ ràng cho một vô hạn. Điều này là vì các cơ số trong một khoảng nhất định, tetration hội tụ đến một giá trị hữu hạn khi chiều cao có xu hướng tiến đến vô cùng. Ví dụ, formula_83 hội tụ tại 2, và do đó, có thể nói là bằng 2. Xu hướng tới 2 có thể được nhìn thấy bằng cách đánh giá một tháp mũ hữu hạn nhỏ: Nói chung, số mũ lặp lại vô hạn formula_85, được định nghĩa là giới hạn của formula_86 khi tiến đến vô cùng, hội tụ cho , đại khái khoảng từ 0.066 đến 1.44, một kết quả được hiển thị bởi Leonhard Euler. Giới hạn, nó nên tồn tại, là một số thực dương của phương trình . Như vậy, . Giới hạn xác định tetration vô hạn của không hội tụ cho bởi vì tối đa của là . Điều này có thể được mở rộng thành số phức với định nghĩa: Trong đó W đại diện cho hàm W Lambert.
wiki
Tetration
Điều này có thể được mở rộng thành số phức với định nghĩa: Trong đó W đại diện cho hàm W Lambert. Như giới hạn (nếu tồn tại, tức là cho ) phải thoả mãn chúng ta thấy rằng là (nhánh dưới của) hàm nghịch đảo của . Chiều cao âm. Chúng ta có thể sử dụng quy tắc đệ quy cho tetration, để chứng minh formula_89: Thay −1 cho sẽ cho Các giá trị âm nhỏ hơn không thể được xác định rõ theo cách này. Thay −2 cho k trong cùng phương trình sẽ cho mà không được xác định rõ. Họ có thể, tuy nhiên, đôi khi được coi là các bộ. Đối với formula_93, mọi định nghĩa của formula_94 đều phù hợp với quy tắc bởi vì Chiều cao thực. Tại thời điểm này không có giải pháp thông thường được chấp nhận cho vấn đề chung là mở rộng tetration thành giá trị thực và phức của . Tuy nhiên, đã có nhiều cách tiếp cận đối với vấn đề này và các cách tiếp cận khác nhau được nêu ra dưới đây. Nói chung, vấn đề là tìm kiếm — với mọi số thực — một "hàm siêu mũ" formula_97 trên số thực thỏa mãn Để tìm thêm phần mở rộng số tự nhiên, thường cần một hoặc nhiều yêu cầu bổ sung. Điều này thường là một số tập hợp sau đây: Yêu cầu thứ tư khác nhau từ tác giả đến tác giả, và giữa các cách tiếp cận. Có hai cách tiếp cận chính để mở rộng tetration lên chiều cao thực, một là dựa trên yêu cầu "thường xuyên", và một là dựa trên yêu cầu "khả vi". Hai cách tiếp cận này dường như khác nhau đến mức chúng có thể không thể đối chiếu, vì chúng tạo ra kết quả không nhất quán với nhau.
wiki
Tetration
Khi formula_106 được xác định cho một khoảng có độ dài một, toàn bộ hàm dễ dàng theo sau với tất cả . Xấp xỉ tuyến tính cho chiều cao thực. Một xấp xỉ tuyến tính (giải pháp cho yêu cầu liên tục, gần đúng với yêu cầu khả vi) được đưa ra bởi: vì thế: vân vân. Tuy nhiên, nó chỉ là khả vi, tại các giá trị nguyên của đạo hàm được nhân với formula_108. Nó liên tục được khả vi cho formula_109 khi và chỉ khi formula_110. Ví dụ, sử dụng các phương pháp này formula_111 và formula_112 Một định lý chính trong bài báo Hooshmand phát biểu: Đặt formula_113. Nếu formula_114 là liên tục và thỏa mãn các điều kiện sau: thì formula_116 được xác định duy nhất thông qua phương trình trong đó formula_121 biểu thị phần phân số của formula_122 là formula_123-hàm lặp của hàm formula_124. Bằng chứng là điều kiện thứ hai đến thứ tư ngụ ý tầm thường rằng là hàm tuyến tính trên . Phép xấp xỉ tuyến tính với hàm tetration tự nhiên formula_125 liên tục được khả vi, nhưng đạo hàm thứ hai của nó không tồn tại ở các giá trị nguyên của đối số của nó. Hooshmand đã đưa ra một định lý duy nhất cho nó, trong đó nêu rõ: Nếu formula_126 là một hàm liên tục thỏa mãn: sau đó formula_130. [Ở đây formula_130 là tên của Hooshmand cho phép tính gần đúng tuyến tính với hàm tetration tự nhiên.] Bằng chứng là giống như trước đây, phương trình đệ quy đảm bảo rằng formula_132 và sau đó điều kiện lồi ngụ ý rằng formula_116 là tuyến tính trên .
wiki
Tetration
Bằng chứng là giống như trước đây, phương trình đệ quy đảm bảo rằng formula_132 và sau đó điều kiện lồi ngụ ý rằng formula_116 là tuyến tính trên . Do đó, phép xấp xỉ tuyến tính với tetration tự nhiên là giải pháp duy nhất của phương trình formula_134 và formula_135 là hàm lồi trên . Tất cả các giải pháp đủ khả vi khác phải có điểm uốn trên khoảng . Xấp xỉ bậc cao hơn cho chiều cao thực. Ngoài các xấp xỉ tuyến tính, xấp xỉ bậc hai (theo yêu cầu khả vi) được đưa ra bởi: có thể phân biệt cho tất cả formula_103, nhưng không hai lần khả vi. Ví dụ, formula_138 Nếu formula_110 thì đây gần giống như xấp xỉ tuyến tính. Bởi vì cách tính toán, hàm này không "hủy bỏ", trái với số mũ, trong đó formula_140. Cụ thể là, Cũng như có một xấp xỉ bậc hai, xấp xỉ bậc ba và phương pháp để khái quát hóa cho xấp xỉ bậc cũng tồn tại, mặc dù chúng khó sử dụng hơn nhiều. Chiều cao phức. Hiện tại đã chứng minh rằng tồn tại một hàm duy nhất là một nghiệm của phương trình và thỏa mãn các điều kiện bổ sung mà và tiếp cận các điểm cố định của logarit (khoảng ) khi tiếp cận và là biến hình trong toàn bộ mặt phẳng phức -phức, ngoại trừ một phần của trục sô thực tại . Bằng chứng này xác nhận một phỏng đoán trước đó. Bản đồ phức của chức năng này được hiển thị trong hình bên phải. Bằng chứng cũng hoạt động cho các cơ số khác ngoài "e", miễn là cơ sở đó lớn hơn formula_142. Yêu cầu của tetration là chỉnh hình rất quan trọng cho tính độc đáo của nó. Nhiều chức năng có thể được xây dựng như
wiki
Tetration
Yêu cầu của tetration là chỉnh hình rất quan trọng cho tính độc đáo của nó. Nhiều chức năng có thể được xây dựng như trong đó và là các chuỗi thực sự phân rã đủ nhanh để cung cấp sự hội tụ của dãy liên tiếp nhau, ít nhất là ở các giá trị vừa phải của . Hàm thỏa mãn các phương trình tetration , , và nếu và tiếp cận 0 đủ nhanh nó sẽ được phân tích trên một vùng lân cận của trục số thực dương. Tuy nhiên, nếu một số phần tử của hoặc không bằng không, thì hàm có vô số các điểm kỳ dị bổ sung và đường cắt trong mặt phẳng phức, do sự tăng trưởng theo cấp số nhân của sin và cos dọc theo trục tưởng tượng. Các hệ số và càng nhỏ thì, các điểm kỳ dị này càng xa trục thực. Do đó, việc mở rộng tetration vào mặt phẳng phức là rất cần thiết cho sự độc đáo. tetration phân tích thực không phải là duy nhất. Đệ quy phi cơ bản. Tetration (bị giới hạn ở formula_144) không phải là một hàm đệ quy nguyên thủy. Người ta có thể chứng minh bằng cảm ứng rằng với mọi hàm đệ quy sơ cấp , có một hằng số sao cho Chúng ta biểu thị phía bên tay phải bởi formula_146. Giả sử ngược lại rằng tetration là đệ quy sơ cấp. formula_147 cũng là đệ quy sơ cấp. Theo bất đẳng thức trên, có một hằng số sao cho formula_148. Bằng cách để formula_149, chúng ta có formula_150, một mâu thuẫn. Phép toán nghịch đảo.
wiki
Tetration
Phép toán nghịch đảo. Lũy thừa có hai phép toán nghịch đảo: căn và logarit. Tương tự, nghịch đảo của tetration thường được gọi là "siêu căn", và "siêu logarit" (Trong thực tế, tất cả các phép toán có bậc lớn hơn hoặc bằng 3 đều có phép nghịch đảo tương tự). Ví dụ, trong hàm formula_151, hai nghịch đảo là siêu căn bậc 3 của và siêu logarit cơ số của . Siêu căn. Các siêu căn là phép toán nghịch đảo của tetration đối với cơ số: nếu formula_152, thì là siêu căn bậc của (formula_153 hoặc formula_154). Ví dụ, vì vậy 2 là siêu căn bậc 4 của 65,536. Siêu căn bậc 2. "Siêu căn bậc 2" có hai ký hiệu tương đương, formula_156 và formula_157. Nó là nghịch đảo của formula_158 và có thể được biểu diễn bằng hàm W Lambert: Hàm này cũng minh họa bản chất phản xạ của hàm căn và hàm logarit vì phương trình dưới đây chỉ đúng khi formula_160: Giống như căn bậc hai, siêu căn bậc hai của có thể không có một giải pháp duy nhất. Không giống như căn bậc hai, việc xác định số lượng siêu căn bậc hai của có thể khó khăn. Nói chung, nếu formula_162, thì có hai siêu căn bậc hai dương giữa 0 và 1, thì có một siêu căn bậc 2 dương lớn hơn 1. Nếu là số dương và nhỏ hơn formula_163 thì nó không có bất kỳ siêu căn bậc 2 thực nào, nhưng công thức đã cho ở trên mang lại vô cùng nhiều công thức phức cho bất kỳ hữu hạn nào không bằng 1. Hàm đã được sử dụng để xác định kích thước của cụm dữ liệu. Tại formula_164: formula_165 Các siêu căn khác.
wiki
Tetration
Tại formula_164: formula_165 Các siêu căn khác. Đối với mỗi số nguyên , hàm được xác định và tăng cho , và , sao cho siêu căn bậc của , formula_153, tồn tại cho . Tuy nhiên, nếu sử dụng xấp xỉ tuyến tính ở trên, thì formula_167 nếu , vì vậy formula_168 không thể tồn tại. Cũng giống như siêu căn bậc hai, thuật ngữ cho các siêu căn khác có thể dựa trên các căn thông thường:"siêu căn bậc 3" có thể được thể hiện như formula_169, "siêu căn bậc 4" có thể được thể hiện như formula_170, và "siêu căn bậc là formula_153. Lưu ý rằng formula_153 có thể không được xác định duy nhất, bởi vì có thể có nhiều hơn căn thứ . Ví dụ, có một siêu căn đơn (số thực) nếu lẻ và lên đến hai nếu chẵn. Cũng giống như việc mở rộng tetration lên chiều cao vô hạn, siêu căn có thể được mở rộng đến , được xác định rõ nếu . Lưu ý rằng formula_173 và do đó formula_174. Do đó, khi nó được xác định rõ, formula_175 và, không giống như tetration thường, là một hàm số sơ cấp. Ví dụ, formula_176. Nó xuất phát từ Định lý Schelfider Schneider siêu căn cho bất kỳ số nguyên dưformula_177ơng là số nguyên hoặc số siêu việt, và formula_178 là số nguyên hoặc không hợp lý. Vẫn còn là một câu hỏi mở cho dù các siêu căn phi lý có siêu việt trong trường hợp sau hay không. Siêu logarit. Khi định nghĩa tăng liên tục (tính bằng formula_47) của tetration, formula_180, đã được chọn, siêu logarit tương ứng formula_181 hoặc formula_182 được định nghĩa cho tất cả các số thực formula_47, và formula_184. Hàm formula_185 thỏa mãn:
wiki
Vương Trung
Vương Trung (chữ Hán: 王忠 hay 王中, bính âm: Wáng Zhōng), nguyên danh là Vượng Tể Ngoại Lan (chữ Hán: 旺济外兰, ), là con trai thứ hai của Tháp Sơn Tả Đô đốc Khắc Thập Nạp. Ông là Bối lặc đầu tiên của Cáp Đạt. Cuộc đời. Vương Trung là thứ tử của Minh triều Tháp Sơn Tả Đô đốc Khắc Thập Nạp. Những năm đầu Gia Tĩnh, Tháp Sơn Tả vệ liên tiếp phát sinh nội loạn. Trong cuộc nội loạn thứ 2, cha ông Khắc Thập Nạp, trưởng huynh của ông Triệt Triệt Mộc (彻彻木) cùng hai người con trai của ông là Uông Cổ La (汪古罗), Uông Cổ Lục (汪古六) đều bị thúc tổ Ba Đại (巴岱) giết chết., lúc ấy ông còn đang ở bên ngoài nên may mắn trốn thoát. Vì vậy ông liền dẫn một phần tộc nhân về phía Nam, đến Nam quan của Cáp Đạt hà định cư, lại tu kiến Cáp Đạt thành ở bờ Bắc, sử thường xưng "Cáp Đạt cựu thành". Từ đó về sau, Vương Trung dần dần bộc lộ tài năng. Năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540), ông hợp tác với Ngột Doãn Trụ (兀允住) cướp giết Bả Thốc Lang trung của Thiết Liệp sơn vệ, cướp đi 35 sắc thư. Không lâu sau đó, Ngột Doãn Trụ bị giết, tất cả sắc thư đều về tay Vương Trung. Ông sai người mạo danh đi cống, bị triều đình nhà Minh phát hiện, vì vậy bị cấm tham gia cống thị Năm thứ 22 (1543), nhờ có công trợ giúp triều đình nhà Minh, cung cấp tin tình báo về nội bộ Nữ Chân, ông được phong Đô đốc Thiêm sự (都督佥事), khôi phục tư cách nhập cống.
wiki
Vương Trung
Năm thứ 22 (1543), nhờ có công trợ giúp triều đình nhà Minh, cung cấp tin tình báo về nội bộ Nữ Chân, ông được phong Đô đốc Thiêm sự (都督佥事), khôi phục tư cách nhập cống. Lúc bấy giờ, tiền thân của Diệp Hách quốc, Minh triều Tháp Lỗ Mộc Vệ Đô đốc Thiêm sự Chử Khổng Cách (褚孔格) xưng hùng ở Bắc quan, thường xuyên lấy lý do bất bình vì sắc thư mà tranh giành với Cáp Đạt, lại nhiều lần liên hợp với các bộ khác, thường xuyên quấy nhiễu Minh triều, cản trở các Vệ sở khác đến cống nạp. Minh triều liền bày mưu cho Vương Trung thảo phạt Bắc quan. Vương Trung giết được Chử Khổng Cách, cướp đi sắc thư, triều đình nhà Minh cũng ban thưởng cho ông. Năm thứ 30 (1551), ông được thăng làm Đô đốc, tất cả sắc thư của các Vệ sở Hải Tây đều năm trong tay ông, vì vậy, Cáp Đạt trở thành bộ tộc thực lực hùng hậu nhất trong các bộ tộc Hải Tây Nữ Chân. Sử xưng thời kỳ cường thịnh lúc bấy giờ là Thậm chí xung quanh Mông Cổ, hay các bộ tộc Đông Hải Nữ Chân ở rất xa đều tôn Vương Trung làm thủ lĩnh, lại hằng năm cống nạp Tuy nhiên, vào năm thứ 31 (1552), bộ hạ của Vương Trung làm loạn, ông cũng bị giết trong lần phản loạn đó. Con trai ông là Bác Nhĩ Khôn vì sợ mình nhỏ tuổi không thể thống trị, liền mời Vương Đài - chất tử của Vương Trung, đã chạy trốn đến Tuy Cáp thành thuộc Tích Bá bộ trong cuộc nội loạn của Tháp Sơn - trở về kế vị Sau khi Vương Đài bình định được phản loạn, chính thức tiếp nhật Cáp Đạt quốc, xưng Vạn Hãn.
wiki
Phương ngữ Zainichi
Tiếng Triều Tiên Zainichi hay tiếng Triều Tiên Nhật Bản là phương ngữ tiếng Triều Tiên được nói bởi người Triều Tiên Zainichi (dân tộc Triều Tiên hoặc công dân Nhật Bản). Giọng này dựa trên các phương ngữ miền Nam của tiếng Hàn Quốc, vì phần lớn những người nhập cư thế hệ đầu tiên đến từ mạn nam của bán đảo Triều Tiên, bao gồm Gyeonggi, Jeolla và Jeju. Do sự tách biệt với các cộng đồng ngôn ngữ Triều Tiên khác và chịu ảnh hưởng từ tiếng Nhật, tiếng Hàn Zainichi thể hiện sự khác biệt mạnh mẽ so với tiếng Triều Tiên chuẩn của cả Bắc và Nam Triều Tiên. Ngôn ngữ của người Triều Tiên Zainichi. Phần lớn người Triều Tiên Zainichi sử dụng tiếng Nhật để nói hàng ngày. Tiếng Hàn chỉ được sử dụng trong một số bối cảnh xã hội hạn chế: đối với người nhập cư thế hệ đầu tiên, cũng như ở "trường Chosŏn", ( hoặc "Chōsen Gakkō"; , "Trường học Triều Tiên"), các trường dân tộc Bình Nhưỡng được Chongryon hỗ trợ. Vì hầu hết người Triều Tiên Zainichi học tiếng Hàn như ngôn ngữ thứ hai của họ, họ có xu hướng nói bằng giọng nói chịu ảnh hưởng nặng nề từ tiếng Nhật. Phương ngữ này được gọi là tiếng Triều Tiên Zainichi, một cái tên, ngay cả khi được sử dụng bởi chính người Triều Tiên Zainichi, thường mang một ý nghĩa kì thị. Âm vị. Nguyên âm. Trong khi tiếng Hàn chuẩn phân biệt tám nguyên âm, thì tiếng Hàn Zainichi chỉ phân biệt năm nguyên âm, như trong tiếng Nhật. Phụ âm đầu.
wiki
Phương ngữ Zainichi
Âm vị. Nguyên âm. Trong khi tiếng Hàn chuẩn phân biệt tám nguyên âm, thì tiếng Hàn Zainichi chỉ phân biệt năm nguyên âm, như trong tiếng Nhật. Phụ âm đầu. Ở vị trí âm tiết đầu, tiếng Hàn tiêu chuẩn phân biệt các phụ âm đơn giản, âm bật hơi và âm khẩn trương, chẳng hạn như , , và , trong khi tiếng Hàn Zainichi chỉ phân biệt giữa các phụ âm hữu thanh và vô thanh ( và ), như trong tiếng Nhật. Phụ âm cuối. Bảy phụ âm xuất hiện ở vị trí cuối trong âm tiết tiếng Hàn chuẩn, cụ thể là , , , , , và . Trong tiếng Hàn Zainichi, chúng cũng được phân biệt như thế. Ngữ pháp. Ngữ pháp tiếng Hàn Zainichi chịu ảnh hưởng từ tiếng Nhật. Một số tiểu tố được sử dụng khác với tiếng Hàn chuẩn. Chẳng hạn, "lái xe hơi" được thể hiện là "chareul tanda" () trong tiếng Hàn chuẩn, có thể được hiểu là "xe (đối tượng trực tiếp)-lái". Trong tiếng Hàn Zainichi, nó được thể hiện là "cha-e tanda" (; "chiếc xe- lái"), giống như tiếng Nhật Bản "Kuruma ni noru" (). Tiếng Hàn chuẩn phân biệt "hae itda" (, chỉ một trạng thái liên tục) và "hago itda" (, chỉ một hành động liên tục). Chẳng hạn, "ngồi" là "anja itda" (), không phải "ango itda" (), vì cái sau có nghĩa là "đang trong tiến trình ngồi, nhưng chưa hoàn thành hành động". Tuy nhiên, tiếng Hàn Zainichi không phân biệt hai loại này, vì tiếng Nhật cũng không; nó sử dụng "hago itda" cho cả trạng thái liên tục và hành động liên tục. Hệ thống chữ viết.
wiki
Phương ngữ Zainichi
Hệ thống chữ viết. Hầu hết từ vựng, trừ các từ cơ bản, đều được mượn từ tiếng Nhật. Tiếng Hàn Zainichi thường không được viết ra; tiếng Hàn chuẩn được sử dụng làm ngôn ngữ văn học. Ví dụ: một người đọc từ "geureona" (; "tuy nhiên") thành "gurona" ), vẫn sẽ viết nó ở dạng cũ. Tương tự, người nói tiếng Hàn chuẩn phân biệt hai tự vị "ae"và "e", mặc dù họ có thể phát âm chúng giống hệt nhau.
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
SS "Ourang Medan" hay Urang Medana là một truyền thuyết thành thị từ những năm 1940. Nó được cho là một con tàu chở hàng của Hà Lan được tìm thấy tại eo biển Malacca (thuộc vùng biển Đông Ấn Hà Lan, ngày nay thuộc Indonesia) trong trình trạng không còn bất cứ thủy thủ đoàn nào sống sót và sau đó đột ngột bốc cháy và bị đắm. Sự kiện này được cho là xảy ra vào năm 1948, 1947, hay 1940 tùy theo nguồn tin báo chí. Tuy nhiên, trên thực tế, không có ghi chép đáng tin cậy nào về một con tàu có tên là "Ourang Medan" và cũng không có tàu đắm nào được phát hiện. Đã có nhiều giả thuyết được đưa ra về câu chuyện được cho là con tàu ma này, nhưng thiếu nguồn xác thực. Nguồn tin.
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
Nguồn tin. Một báo cáo tiếng Anh về con tàu và sự kiện đã được xuất bản vào tháng 5 năm 1952 trên tờ "Proceedings of the Merchant Marine Council", ban hành bởi Tuần duyên Hoa Kỳ. Một báo cáo trước đó được xuất bản vào ngày 10 tháng 10 năm 1948 trên tờ "The Albany Times" tại Albany, New York với nguồn tham khảo là "Tuần báo Elsevier" của Hà Lan. Trong tên con tàu, từ "Ourang" (còn được viết là "Orang") là từ tiếng Mã Lai hoặc tiếng Indonesia nghĩa là "người" hay "đàn ông", còn Medan là thành phố lớn nhất trên đảo Sumatra của Indonesia, như vậy có thể được tạm dịch là "Người đến từ Medan". Tường thuật về tai nạn đắm tàu này đã xuất trên nhiều sách và tạp chí, chủ yếu là về Forteana, và trên internet. Tuy nhiên, tính chính xác thực tế và ngay cả sự tồn tại của bản thân con tàu này không được công nhận, và chi tiết về sự sản xuất và lịch sử hải trình của con tàu nếu có vẫn chưa được biết. Nhiều người đã cố gắng tìm kiếm trong các danh sách đăng kiểm chính thức và hồ sơ điều tra tai nạn hàng hải nhưng đều không thành công.
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
Câu chuyện về con tàu ma xuất hiện lần đầu trong một loạt gồm ba bài báo trên tờ báo tiếng Hà Lan-Indonesia "De locomotief: Samarangsch handels- en advertentie-blad" (3 tháng 2 năm 1948 với chỉ hai đoạn văn, 28 tháng 2 năm 1948, và 13 tháng 3 năm 1948). Tên của con tàu phát hiện ra tàu "Ourang Medan" không bao giờ được nhắc đến, nhưng địa điểm được mô tả là về phía tây nam của quần đảo Marshall. Trong bài báo thứ hai và thứ ba, người sống sót duy nhất của thủy thủ đoàn "Ourang Medan" được tìm thấy bởi một nhà truyền giáo người Ý và thổ dân trên đảo san hô Taongi của quần đảo Marshall. Anh ta, trước khi chết, thuật lại với nhà truyền giáo rằng con tàu đang chở đầy hàng hóa chất axit sunfuric đặc không được xếp đặt đảm bảo, và do đó hầu hết thủy thủ đoàn đã chết do khói độc thoát ra từ những thùng hàng bị vỡ. Theo câu chuyện này, tàu "Ourang Medan" đang trên hành trình từ một cảng nhỏ nào đó của Trung Quốc tới Costa Rica, và đang cố vận chuyển lậu tránh chính quyền. Người sống sót duy nhất này, một người Đức chưa biết tên, cuối cùng đã chết sau khi thuật lại câu chuyện của anh ta với nhà truyền giáo, và sau đó nhà truyền giáo đưa câu chuyện tới tác giả, Silvio Scherli đến từ Trieste, Ý. Tờ báo Hà Lan kết thúc câu chuyện với những lời sau:"Đây là phần cuối của câu chuyện của chúng tôi về bí ẩn của tàu "Ourang Medan". Chúng tôi phải nhắc lại rằng chúng tôi không có bất kỳ dữ liệu nào khác về 'bí ẩn của đại dương' này. Chúng tôi cũng không thể trả lời nhiều câu hỏi chưa được giải
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
về bí ẩn của tàu "Ourang Medan". Chúng tôi phải nhắc lại rằng chúng tôi không có bất kỳ dữ liệu nào khác về 'bí ẩn của đại dương' này. Chúng tôi cũng không thể trả lời nhiều câu hỏi chưa được giải đáp trong câu chuyện. Có vẻ rõ ràng toàn bộ câu chuyện này là một câu chuyện giả tưởng, một câu chuyện lãng mạn đầy ly kỳ của biển cả. Mặt khác, tác giả Silvio Scherli đảm bảo với chúng ta về tính xác thực của câu chuyện."Silvio Scherli được cho là đã viết một báo cáo trên Trieste "Export Trade" vào ngày 28 tháng 9 năm 1959.
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
Những bằng chứng mới được tìm thấy bởi The Skittish Library cho thấy đã có những tờ báo năm 1940 đưa tin về vụ việc được lấy từ Associated Press, trên các tờ báo của Anh "Daily Mirror" và "Yorkshire Evening Post". Ngoài ra, có nhiều sự sai khác trong câu chuyện: địa điểm là ở quần đảo Solomon, và các tín hiệu SOS hoàn toàn khác với những báo cáo sau đó. Câu chuyện vẫn dường như bắt nguồn từ Silvio Scherli ở Trieste. Diễn biến. Truyền thuyết thành thị về con tàu này rất khác so với những câu chuyện đầu tiên được phát hành. Theo lưu truyền phổ biến, vào khoảng tháng 6-1947 (Gaddis và một số tác giả khác ghi chú ngày gần đúng tới đầu tháng 2-1948) hai tàu Mỹ - chiếc "City of Baltimore" và "Silver Star" (của hãng Grace Lines, New York) đang chạy trong eo biển Malacca đã tiếp nhận được tín hiệu cấp cứu từ tàu "Ourang Medan" của Hà Lan, với nội dung: "SOS từ tàu "Ourang Medan" * * * tàu chúng tôi vẫn còn nổi... Tất cả chỉ huy kể cả thuyền trưởng đều đã chết trong phòng hải đồ và trên buồng lái. Có lẽ toàn bộ thủy thủ đoàn đã chết * * *." tiếp sau đó là hàng loạt các ký tự lộn xộn và các dấu chấm. Một lát sau tín hiệu được nối lại, nhưng chỉ có hai từ duy nhất rõ ràng và rừng rợn là "Tôi chết.", rồi kết thúc bằng một sự im lặng.
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
Các thủy thủ tàu "Silver Star" đã định vị và phát hiện con tàu "SS Ourang Medan" trong tình trạng không bị hư hại. Khi họ đổ bộ lên con tàu Hà Lan để tiến hành cứu hộ, họ phát hiện ra con tàu đầy những xác chết của thủy thủ đoàn nằm ngổn ngang khắp tàu. Những xác chết được tìm thấy nằm ngửa dài ra, các khuôn mặt đông cứng (và được cho là vô cùng sợ hãi) của những người đã chết hướng lên trên phía mặt trời, miệng há hốc và mắt nhìn thẳng về phía trước, giống như những bức tranh biếm họa khủng khiếp, đoàn cứu hộ còn phát hiện thấy một con chó cũng đã chết trong trạng thái nhe răng. Không một người sống sót nào được phát hiện và những xác chết không có dấu hiệu tổn thương nào trông thấy được. Ngay khi con tàu đang chuẩn bị để được kéo vào một cảng gần đó bởi tàu "Silver Star", một đám cháy đột nhiên bùng phát trong khoang chứa hàng số 4, buộc thủy thủ cứu hộ phải rút lui khỏi tàu chở hàng Hà Lan gặp nạn và do đó không thể thực hiện bất kỳ cuộc điều tra sâu hơn nào. Sau đó, tàu "SS Ourang Medan" nổ tung, bốc cháy rồi chìm rất nhanh. Sức nổ mạnh đến nỗi con tàu "bị nhấc lên khỏi mặt biển", theo tường thuật của thủy thủ tàu Mỹ. Những sự đồn đoán. Hàng hóa vật liệu nguy hiểm.
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
Những sự đồn đoán. Hàng hóa vật liệu nguy hiểm. Con tàu này gặp nạn tại eo biển Malacca, một eo biển nổi tiếng về cướp biển, nhưng con tàu Ourang Medan không nằm trong trường hợp này, đoàn cứu nạn cho biết trên tàu lúc họ đổ bộ lên dường như nguyên hiện trạng, không có mất mát gì. Bainton và những tác giả khác đặt ra giả thuyết rằng tàu "Ourang Medan" có thể đã tham gia vào hoạt động vận chuyển lậu các chất hóa học, chẳng hạn hỗn hợp kali cyanide và nitroglycerine và thậm chí là các mặt "hàng tử thần" chứa chất độc thần kinh thừa thãi sau Chiến tranh thế giới II. Theo những đồn đoán này, nước biển có thể đã thâm nhập vào kho hàng hóa của con tàu, phản ứng với hàng và làm tỏa ra các khí độc, sau đó khiến cho thủy thủ đoàn bị chết ngạt và/hoặc ngộ độc. Sau đó, nước biển có thể cũng đã phản ứng với nitroglycerin, và gây ra đám cháy và vụ nổ được báo cáo. Một giả thuyết khác đó là con tàu đang vận chuyển khí độc thần kinh mà quân đội Nhật Bản đã cất giữ ở Trung Quốc trong chiến tranh, và đang được giao lại cho quân đội Mỹ vào cuối cuộc chiến. Các tàu Mỹ không thể vận chuyển mặt hàng này bởi phải tránh để lại bằng chứng giấy tờ, do đó nó đã được giao cho một con tàu không có đăng kiểm để vận chuyển tới Mỹ hoặc một đảo nào đó ở Thái Bình Dương. Ngộ độc khí cacbon monoxit (CO).
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
Ngộ độc khí cacbon monoxit (CO). Gaddis đưa ra giả thuyết rằng một đám cháy âm ỉ không được phát hiện hay hệ thống máy đun hơi nước của con tàu gặp trục trặc có thể là nguyên nhân khiến cho con tàu bị đắm. Khí cacbon monoxit thoát ra có thể đã gây ra cái chết của toàn bộ thủy thủ đoàn, trong khi ngọn lửa dần bùng cháy ngoài tầm kiểm soát, dẫn đến sự phá hủy của con tàu. Sự hoài nghi. Một số tác giả ghi chú rằng không tìm thấy vụ việc được nhắc đến trong hồ sơ hàng hải Lloyd's Shipping Register. Ngoài ra, không có dữ liệu đăng kiểm nào cho con tàu với tên gọi "Ourang Medan" có thể được tìm thấy ở những quốc gia khác nhau, kể cả Hà Lan. Trong khi tác giả Roy Bainton khẳng định rằng sự tồn tại của tàu "Silver Star" mà theo báo cáo đã tham gia vào nỗ lực cứu hộ thất bại, đã được xác định với khả năng cao, sự thiếu thông tin hoàn toàn về chính con tàu bị chìm đã dẫn đến những sự hoài nghi về nguồn gốc và tính xác thực của lời tường thuật. Nhật trình của tàu "Silver Star" không cho thấy một ghi chép nào về một nỗ lực cứu hộ nào như vậy. Bainton và những tác giả khác đã đưa ra khả năng rằng các chi tiết trong đó có ngày tháng, địa điểm, tên của các con tàu có liên quan, và diễn biến của vụ tai nạn có thể không chính xác hoặc đã bị thổi phồng, hay rằng chính câu chuyện này có thể hoàn toàn là bịa đặt hư cấu.
wiki
Sự kiện tàu Ourang Medan
Một nhà nghiên cứu người Anh đã tìm thấy câu chuyện tương tự về tàu "Ourang Medan", xảy ra tại quần đảo Solomon, nhưng cũng có liên hệ tới Trieste, trong hai tờ báo của Anh năm 1940 (tờ "The Yorkshire Evening Post" vào ngày 21 tháng 11 năm 1940 và tờ "The Daily Mirror" vào ngày 22 tháng 11 năm 1940), cả hai đều trích dẫn cơ quan báo chí AP (The Associated Press).
wiki
Batavia, New York
Batavia, New York Batavia là một thành phố quận lỵ quận Genesee, Tây tiểu bang New York, Hoa Kỳ, nằm gần giữa quận Genesee, hoàn toàn trong thị trấn Batavia. Dân số của thành phố theo điều tra dân số năm 2000 là 16.256 người. Tên gọi Batavia từ La tinh cho các khu vực Betuwe của Hà Lan, do những người Hà Lan đã phát triển khu vực này từ sớm. Thành phố chủ nhà câu lạc bộ bóng chày Batavia Muckdogs của Penn New York-League. Họ đã giành chức vô địch năm 2008. Trong năm 2006, một tạp chí quốc gia được xếp hạng Batavia thứ ba trong số các tiểu đô thị trong Hoa Kỳ dựa trên sự phát triển kinh tế
wiki
Tháp Nakagin Capsule
Tháp Nakagin Capsule Tháp Nakagin Capsule (中銀カプセルタワー|Nakagin Kapuseru Tawā) là một tòa nhà dạng khối tháp ở Tōkyō (1971) của kiến trúc sư Nhật Bản Kurokawa. Tòa nhà nổi tiếng thế giới ở sự kết hợp những khối vuông - đơn vị ở thành một tổ hợp linh hoạt, phong phú, tạo ra một bố cục nhịp nhàng vui mắt, trông giống như một cơ thể sinh vật gồm nhiều tế bào. Những hộp nhà tiền chế - đơn vị ở, được gắn vào trụ kết cấu chính của công trình dưới dạng các "công-xon". Giống như cấu trúc các tổ ong, mỗi tế bào ở đây là một buồng có đủ tiện nghi cho sinh hoạt và làm việc cho một người như điện thoại, fax... Trên thân trụ vẫn còn nhiều buồng trống để có thể dễ dàng cấy thêm buồng khi có nhu cầu. Tham khảo. Lược sử Kiến trúc thế giới (Quyển 2) - TS.KTS. Trần Trọng Chi
wiki
Chi Cà rốt
Chi Cà rốt (danh pháp khoa học: Daucus) là một chi chứa khoảng 20-25 loài cây thân thảo trong họ Hoa tán ("Apiaceae"), với loài được biết đến nhiều nhất là cà rốt đã thuần dưỡng ("Daucus carota" phân loài "sativus"). Chúng có nguồn gốc từ khu vực Bắc Phi, Tây Nam Á và châu Âu, nhưng hiện nay được gieo trồng rộng khắp thế giới, chủ yếu là khu vực ôn đới. Đặc trưng. Các loài cà rốt là các cây thân thảo sống hai năm, ít khi một năm hay lâu năm. Thân đơn độc mọc thẳng đứng, rỗng ruột, khía dọc, phân cành, có lông mọc ngược. Các lá có cuống; mọc cách, phiến lá xẻ lông chim 2-3 lần, các chét lá nhỏ và hẹp. Các tán hoa mọc ở đầu cành hay nách lá, dạng kép lỏng lẻo; nhiều lá bắc, hình lông chim; nhiều tia, trải rộng hay cong vào sau khi nở; nhiều lá bắc con, khía răng cưa hay nguyên mép; các tán nhiều hoa. Các hoa trung tâm thường vô sinh với các cánh hoa màu tía và lớn. Các răng nhỏ của đài hoa bị teo đi hay dễ thấy. Hoa tạp tính, màu trắng hay vàng, hình tim ngược, với đỉnh cụp vào trong, các cánh bên ngoài của các hoa phía ngoài trong tán hoa lớn và tỏa ra. Gốc trụ hình nón; vòi nhụy ngắn. Quả hình elipxoit, bị nén ở phần sống lưng, chứa 2 hạt dài 3–4 mm; các gân chính hình chỉ, cứng; các gân phụ có cánh, các cánh với gai móc; các ống tinh dầu nhỏ với số lượng là 1 tại các rãnh cắt phía dưới các gân thứ cấp và 2 trên chỗ nối. Mặt hạt hơi lõm tới gần phẳng. Cuống lá noãn nguyên hay chẻ đôi ở đỉnh. Rễ củ to, dài hình cọc, màu vàng, cam, đỏ.
wiki
Quận Fallon, Montana
Quận Fallon là một quận thuộc tiểu bang Montana, Hoa Kỳ. Quận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số người. Quận lỵ đóng ở. Địa lý. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước. Thông tin nhân khẩu. Theo điều tra dân số năm 2000, quận này đã có dân số 2.837 người, 1.140 hộ gia đình, và 803 gia đình sống trong quận hạt. Mật độ dân số là 2 người trên một dặm vuông (1/km ²). Có 1.410 đơn vị nhà ở mật độ trung bình của 1 trên một dặm vuông (0/km ²). Thành phần chủng tộc của cư dân sinh sống trong quận gồm 98,59% người da trắng, 0,14% da đen hay Mỹ gốc Phi, 0,32% người Mỹ bản xứ, 0,35% châu Á, Thái Bình Dương 0,04%, 0,11% từ các chủng tộc khác, và 0,46% từ hai hoặc nhiều chủng tộc. 0,39% dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào. 39,4% là người gốc Đức, Na Uy 16,9%, 10,0% và 8,2% Ailen gốc tiếng Anh theo điều tra dân số năm 2000. 97,2% nói tiếng Anh và 1,7% tiếng Đức là ngôn ngữ đầu tiên của họ. Có 1.140 hộ, trong đó 32,10% có trẻ em dưới 18 tuổi sống chung với họ, 60,50% là đôi vợ chồng sống với nhau, 6,00% có một chủ hộ nữ và không có chồng, và 29,50% là không lập gia đình. 26,60% hộ gia đình đã được tạo ra từ các cá nhân và 13,20% có người sống một mình65 tuổi hoặc cao hơn. Cỡ hộ trung bình là 2,45 và cỡ gia đình trung bình là 2,96.
wiki
Quận Fallon, Montana
Trong quận cơ cấu độ tuổi dân cư được trải ra với 25,50% dưới độ tuổi 18, 6,20% 18-24, 25,50% 25-44, 24,80% từ 45 đến 64, và 17,90% từ 65 tuổi trở lên người. Độ tuổi trung bình là 41 năm. Đối với mỗi 100 nữ có 102,20 nam giới. Đối với mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, đã có 96,70 nam giới. Thu nhập trung bình cho một hộ gia đình trong quận đạt mức USD 29.944, và thu nhập trung bình cho một gia đình là USD 38.636. Phái nam có thu nhập trung bình USD 27.045 so với 18.077 USD đối với phái nữ. Thu nhập bình quân đầu người là 16.014 USD. Có 9,50% gia đình và 12,50% dân số sống dưới mức nghèo khổ, bao gồm 17,50% những người dưới 18 tuổi và 6,60% của những người 65 tuổi hoặc cao hơn.
wiki
Đại dịch COVID-19 tại Zimbabwe
Đại dịch COVID-19 tại Zimbabwe Bài viết này ghi lại các tác động của đại dịch COVID-19 ở Zimbabwe, và có thể không bao gồm tất cả các phản ứng và biện pháp chính hiện đại. Dòng thời gian. Zimbabwe đã thấy trường hợp nhiễm virus corona đầu tiên của mình từ một nam cư dân của Thác Victoria, người đã trở về từ Anh qua Nam Phi vào ngày 15 tháng 3. Không có trường hợp tử vong nào được báo cáo là chỉ định sai trong một số nguồn kể từ khi bệnh nhân tiếp tục tự cách ly tại nhà và có dấu hiệu phục hồi. Hai trường hợp nữa ở nước này đã được xác nhận vào ngày 21 tháng 3, cả hai trường hợp đều ở Harare. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, Zimbabwe ghi nhận 259,981 trường hợp nhiễm COVID-19 và 5,637 trường hợp tử vong. Phòng ngừa. Trước khi có bất kỳ trường hợp nào được xác nhận ở nước này, Tổng thống Emmerson Mnangagwa đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia, đưa ra các hạn chế đi lại và cấm các cuộc tụ họp lớn. Bộ trưởng Quốc phòng của nước này, Oppah Muchinguri, đã gây ra tranh cãi khi tuyên bố coronavirus có thể là một hình phạt thiêng liêng đối với các quốc gia phương Tây vì đã áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Zimbabwe.
wiki
Đèo Bà Lạch
Đèo Bà Lạch Đèo Bà Lạch là đèo trên "quốc lộ 14 cũ" ở biên giới Việt Lào tại xã A Đớt huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam . Vị trí. Đèo ở quốc lộ 14 cũ tại xã A Đớt, nơi có Cửa khẩu A Đớt, cách thị trấn A Lưới cỡ 30 km theo đường này về hướng đông nam . Quốc lộ 14 cũ được xây dựng từ thời Pháp thuộc, trong đó đoạn dài cỡ 15 km từ đèo Bà Lạch đến "đèo A Yên" xã A Nông huyện Tây Giang tỉnh Quảng Nam, nằm trên đất Lào. Trước đây giao thông đường bộ của Việt Nam qua đoạn này phải thực hiện các thủ tục qua biên giới phiền phức. Đầu những năm 2000 dự án Đường Hồ Chí Minh ở vùng này triển khai, thay thế quốc lộ 14, mở mới đường hoàn toàn trên đất Việt Nam, trong đó có "Hầm đường bộ A Roàng" . Tên đèo. Tên đèo đặt theo tên "suối Bà Lạch", còn viết là B'Lach, ở bên dốc phía Việt Nam. Suối này là một trong các dòng đầu nguồn của sông A Sáp (tức sông Sekong bên Lào). Tên suối được dùng để đặt tên "làng Bờ Lạch", hiện ở cách đèo 6 km và thuộc xã Lâm Đớt huyện A Lưới.
wiki
Sade Adeniran
Sade Adeniran Sade Adeniran là một tiểu thuyết gia người Nigeria, cuốn tiểu thuyết đầu tay Imagine This của bà đã giành được giải thưởng Nhà văn Thịnh vượng chung năm 2008 cho cuốn sách Đầu tiên Hay nhất ở châu Phi. "Imagine This "riêng tự xuất bản bởi chính tác giả. Có trụ sở tại London, bà cũng là một nhà làm phim. Tiểu sử. Sade Adeniran sinh ra ở London với cha mẹ là người Nigeria. Năm 8 tuổi bà được đưa về ngôi làng của cha mình ở Nigeria, trải qua những năm tháng sống với bà ngoại ở Idogun, bang Ondo, trước khi trở về Vương quốc Anh. Adeniran lấy được tấm bằng Truyền thông và Tiếng Anh từ Đại học Plymouth và cũng học ở Mỹ với tư cách là một sinh viên trao đổi tại Đại học Massachusetts. Bà bắt đầu sự nghiệp viết lách của mình với một vở kịch phát thanh được viết cho một dự án đại học năm cuối mang tên "Memories of a Distant Past" - Ký ức về một Miền Xa xôi; bà đã gửi "một ý tưởng bất chợt " cho BBC và đã được sản xuất trong Liên hoan "First Bite"của BBC Radio 4. Sau đó, bà đã viết các tác phẩm sân khấu khác, có tác phẩm được biểu diễn ở London tại Nhà hát Lyric, Nhà hát Bush và XRiverside Studios. Là một nhà làm phim, Adeniran hiện đang phát triển một phiên bản chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết của mình, lọt vào vòng thứ hai của phòng Lab người viết kịch bản phim Sundance, bộ phim đã giành Giải thưởng Liên hoan phim Thành thị Anh cho Tài năng kịch bản hay nhất. Dự án phim thứ hai của cô mang tên "Hành trình của mẹ".
wiki
Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội
Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội Ban Tổ chức Thành ủy Hà Nội là cơ quan tham mưu cho Thành ủy Hà Nội mà trực tiếp, thường xuyên là Thường trực Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy về công tác xây dựng Đảng thuộc lĩnh vực tổ chức, cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ, nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, tổ chức cơ sở Đảng, đảng viên của Đảng bộ thành phố Hà Nội. Ban Tổ chức còn chủ động phối hợp chỉ đạo, hướng dẫn các Tổ chức cơ sở Đảng, đoàn thể chính trị, cơ quan, đơn vị trực thuộc thành phố thực hiện các mặt công tác theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Nhiệm vụ và quyền hạn. Ban Tổ chức Thành ủy có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Tổ chức. Ban Tổ chức Thành ủy gồm: Trưởng ban Tổ chức Thành ủy hiện nay do Ủy viên Thường vụ Thành ủy Vũ Đức Bảo đảm nhiệm. Phó trưởng ban: Chánh Văn phòng:
wiki
Jean-Pierre Blanchard
Jean-Pierre Blanchard Jean-Pierre Blanchard (ngày 04 tháng 7 năm 1753 - 07 Tháng 3 năm 1809), hay còn gọi là Jean Pierre François Blanchard, là một nhà phát minh người Pháp, được người ta nhớ đến như là một nhà tiên phong trong ngành hàng không và khí cầu. 19 tháng 9 năm 1784, Jean-Pierre Blanchard trang bị một động cơ cánh quạt sức người trên một khí cầu, đây là bản ghi đầu tiên về những phương tiện tạo chuyển động được mang ở trên cao. Ngày 7 tháng 1 năm 1785, Jean-Pierre Blanchard và nhà khí tượng học người Hoa Kỳ là John Jeffries bay qua kênh Anh từ Dover đến Guînes trên một khí cầu. Năm 1793, Jean-Pierre Blanchard thực hiện chuyến bay bằng khí cầu đầu tiên tại Hoa Kỳ.
wiki
Liếm âm hộ
Liếm âm hộ hay còn gọi là vét máng là một hành vi làm tình bằng miệng được thực hiện trên cơ quan sinh dục của phụ nữ (âm vật, các bộ phận khác của âm hộ hoặc âm đạo). Âm vật là bộ phận nhạy cảm về tình dục nhất của bộ phận sinh dục nữ, sự kích thích nó có thể dẫn đến phụ nữ bị kích thích tình dục hoặc đạt cực khoái. Liếm âm hộ có thể gây kích thích tình dục cho người tham gia và có thể được một bạn tình thực hiện như khúc dạo đầu để tạo ra khoái cảm tình dục trước các hoạt động tình dục khác (như giao hợp qua âm đạo hoặc qua hậu môn) hoặc như hành động khiêu dâm và tạo cảm giác gần gũi. Giống như hầu hết các hình thức hoạt động tình dục, hành vi này có thể là một nguy cơ lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs/STDs). Tuy nhiên, nguy cơ lây truyền qua đường miệng, đặc biệt là lây truyền HIV thấp hơn đáng kể so với quan hệ tình dục qua âm đạo hoặc hậu môn. Tình dục bằng miệng thường được coi là điều cấm kỵ, nhưng hầu hết các quốc gia không có luật cấm việc này. Thông thường, các cặp đôi dị tính không coi việc liếm âm hộ làm mất trinh của một trong hai người bạn đời, trong khi các cặp đồng tính nữ thường coi nó là một hình thức mất trinh. Một số người cũng có thể có những cảm giác tiêu cực hoặc những ức chế tình dục về việc cho hoặc nhận việc liếm âm hộ hoặc có thể từ chối tham gia. Thực hiện.
wiki
Liếm âm hộ
Thực hiện. Các số liệu thống kê nói chung cho thấy 70-80% phụ nữ đòi hỏi kích thích âm vật trực tiếp thì mới đạt cực khoái. Nghiên cứu của Shere Hite về tình dục của phụ nữ nói chung cho thấy hầu hết phụ nữ đều có thể đạt được cực khoái bằng cách kích thích trực tiếp vào âm vật (bao gồm cả việc kích thích các bộ phận bên ngoài của âm hộ bên cạnh âm vật). Một người thực hiện liếm âm hộ được gọi là người cho và người kia là người nhận. Trong suốt quá trình hoạt động, người nữ nhận có thể dùng ngón tay để mở rộng môi lớn âm đạo để cho lưỡi của bạn tình kích thích âm vật tốt hơn, hoặc phụ nữ có thể vạch môi lớn ra cho bạn tình dễ dàng liếm. Việc dạng chân cũng sẽ mở rộng âm hộ để liếm thuận tiện hơn. Một số sách dạy tình dục đề nghị bắt đầu với sự kích thích nhẹ nhàng, ít tập trung hơn vào vùng âm hộ và vùng bộ phận sinh dục nói chung, với việc sử dụng đầu lưỡi, lưỡi, mũi, cằm, răng và môi để kích thích xung quanh âm vật. Chuyển động có thể chậm hoặc nhanh, thường xuyên hoặc thất thường, thô ráp hoặc mềm mại, tùy theo sở thích của hai người. Có thể dùng lưỡi thọt vào âm đạo, hoặc là nằm hẳn bên trong hoặc di chuyển qua lại. Người liếm cũng có thể tạo ra rung động kích thích bằng cách dùng miệng thổi. Liếm âm hộ có thể được kèm theo bằng việc dùng ngón tay kích thích âm đạo hoặc hậu môn, hoặc bằng cách sử dụng đồ chơi tình dục nhằm thâm nhập âm đạo, mục tiêu có thể là kích thích vùng điểm G.
wiki
Liếm âm hộ
Liếm âm hộ có thể được kèm theo bằng việc dùng ngón tay kích thích âm đạo hoặc hậu môn, hoặc bằng cách sử dụng đồ chơi tình dục nhằm thâm nhập âm đạo, mục tiêu có thể là kích thích vùng điểm G. Phụ nữ nên thực hiện vệ sinh cá nhân trước khi thực hiện quan hệ tình dục bằng miệng, vì vệ sinh kém có thể dẫn đến mùi hôi, tích tụ mồ hôi và chất cặn nhỏ (như vụn vải, nước tiểu hoặc máu kinh nguyệt) làm bạn tình có thể cảm thấy khó chịu. Một số phụ nữ cạo hoặc cắt lông mu, điều này có thể làm tăng thêm thiện cảm tình dục khi được liếm âm hộ. Việc tự liếm âm hộ được thực hiện bởi một phụ nữ trên chính họ, là có thể, nhưng chỉ dành cho những phụ nữ có khung xương linh hoạt cao, giới hạn chỉ cho những người chuyên tập uốn dẻo. Rủi ro sức khỏe. Viêm nhiễm qua đường tình dục.
wiki
Liếm âm hộ
Rủi ro sức khỏe. Viêm nhiễm qua đường tình dục. Bệnh chlamydia, bệnh nhiễm virus papilloma ở người (HPV), lậu mủ, mụn rộp, viêm gan (nhiều loại) và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs/STDs), có thể lây nhiễm thông qua tình dục bằng miệng. Bất kỳ trao đổi dịch tình dục nào với một người nhiễm HIV, virus tạo ra bệnh AIDS, đều có rủi ro lây bệnh. Tuy nhiên, nguy cơ nhiễm bệnh lây truyền qua tình dục thường được coi là thấp hơn đáng kể khi quan hệ tình dục bằng miệng so với quan hệ tình dục qua âm đạo hoặc qua hậu môn, với lây truyền HIV được coi là nguy cơ thấp nhất khi thực hiện tình dục bằng miệng. Hơn nữa, nguy cơ lây truyền HIV thông qua việc liếm âm hộ là thấp hơn so với nguy cơ liên quan đến việc liếm dương vật, quan hệ tình dục qua đường âm đạo hoặc qua đường hậu môn.
wiki
Liếm âm hộ
Có nguy cơ gia tăng nguy cơ mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục nếu người liếm âm hộ tiếp xúc với vết thương trên âm hộ của bạn tình, hoặc nếu người liếm âm hộ có vết thương hoặc vết loét trên miệng hoặc trong miệng hoặc bị chảy máu nướu răng. Đánh răng, dùng chỉ nha khoa cọ răng, súc miệng trước hoặc sau khi liếm âm hộ cũng có thể làm tăng nguy cơ lây truyền, bởi vì tất cả các hoạt động này có thể gây ra những vết xước nhỏ trong miệng. Những vết thương này, ngay cả khi chúng cực nhỏ, làm tăng khả năng mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục qua đường miệng. Sự tiếp xúc như vậy cũng có thể dẫn đến nhiều bệnh nhiễm trùng thường gặp hơn từ vi khuẩn và vi rút thông thường được tìm thấy trong và xung quanh vùng sinh dục và các dịch tiết ra từ đó. Do những yếu tố nói trên, các trang y tế khuyên nên sử dụng các phương pháp tình dục an toàn khi thực hiện liếm âm hộ hoặc được liếm trong khi làm tình với đối tác không rõ ràng về tình trạng bệnh tình dục của họ. HPV và liên hệ với việc ung thư lưỡi. Có báo cáo về sự liên hệ giữa ung thư lưỡi với những người nhiễm virus papilloma ở người. Một nghiên cứu năm 2005 cho thấy tình dục bằng miệng không có bảo vệ đối với một người bị nhiễm HPV có thể làm tăng nguy cơ ung thư lưỡi. Nghiên cứu cho thấy 36% bệnh nhân ung thư có HPV so với chỉ 1% của nhóm không HPV.
wiki
Liếm âm hộ
Một báo cáo năm 2007 cho thấy có hệ số tương quan giữa ung thư miệng và ung thư cổ họng. Người ta tin rằng điều này là do sự lây truyền của HPV, một loại virus đã được liên quan đến phần lớn các loại ung thư cổ tử cung và đã được phát hiện trong mô ung thư cổ họng trong nhiều nghiên cứu. Nghiên cứu kết luận rằng những người có từ một đến năm bạn tình đường miệng trong cuộc đời của họ có nguy cơ mắc ung thư họng gấp đôi so với những người không tham gia vào hoạt động này và những người có nhiều hơn 5 bạn tình đường miệng đã tăng nguy cơ lên tới 250 phần trăm. Quan niệm văn hóa và tôn giáo. Các quan điểm văn hóa về việc liếm âm hộ dao động từ sự ác cảm đến việc đánh giá cao. Nó đã được coi là cấm kỵ hoặc là chuyện không nên làm ở nhiều nền văn hóa và các vùng của thế giới. Trong Lão giáo ở Trung Quốc, việc liếm âm hộ được tôn sùng như là một thực hành tâm linh mà được cho là có thể nâng cao tuổi thọ. Trong văn hóa phương Tây hiện đại, việc liếm âm hộ là rất phổ biến và được thanh thiếu niên và người lớn thực hiện rộng rãi.
wiki
Liếm âm hộ
Một số người đưa ra nhiều lý do khác nhau cho sự không thích hoặc miễn cưỡng về việc liếm âm hộ của bạn tình, hoặc việc được bạn tình liếm âm hộ của mình. Một số người coi việc liếm âm hộ và các hình thức khác của tình dục bằng miệng như là điều không tự nhiên bởi vì các kiểu tình dục này không dẫn đến việc có con. Một số nền văn hóa gắn biểu tượng vào các bộ phận khác nhau của cơ thể, khiến một số người tin rằng việc liếm âm hộ là việc làm bẩn thỉu hoặc nhục nhã. Mặc dù mọi người thường cho rằng những hành vi tình dục đồng giới có liên quan tới việc liếm âm hộ đối với tất cả phụ nữ có quan hệ tình dục với phụ nữ, nhưng một số phụ nữ đồng tính nữ hay lưỡng tính không thích việc liếm âm hộ do không thích trải nghiệm này hoặc do các yếu tố tâm lý hoặc xã hội, chẳng hạn như coi việc này là không sạch sẽ. Những phụ nữ đồng tính nữ hoặc lưỡng tính khác lại tin rằng việc liếm âm hộ là điều cần thiết hoặc là hành vi tình dục đồng tính nữ chủ yếu. Các cặp đôi đồng tính nữ có khả năng coi sự không thích của người phụ nữ đối với việc liếm âm hộ là một vấn đề nhiều hơn so với các cặp vợ chồng dị tính, và thường thì họ tìm cách trị liệu tâm lý để vượt qua những ức chế tình dục liên quan đến việc này.
wiki
Liếm âm hộ
Tình dục bằng miệng cũng thường được sử dụng như một cách để bảo vệ trinh tiết, đặc biệt là trong các cặp tình dục khác giới; điều này đôi khi được gọi là "trinh tiết kỹ thuật" (bao gồm cả tình dục qua đường hậu môn, thủ dâm cho nhau và các hành vi tình dục không xâm nhập khác, nhưng loại trừ tình dục giữa dương vật và âm đạo). Khái niệm "trinh tiết kỹ thuật" hoặc kiêng cữ tình dục bằng cách thực hiện quan hệ tình dục bằng miệng đặc biệt phổ biến ở các thanh thiếu niên, những người có thể sử dụng quan hệ tình dục bằng miệng để tạo ra và duy trì sự thân mật trong khi tránh mang thai. Ngược lại, các cặp đồng tính nữ thường coi tình dục bằng miệng hoặc dùng ngón tay kích thích là sự mất trinh, mặc dù các định nghĩa về sự mất trinh cũng khác nhau giữa những người đồng tính nữ. Đạo Hindu. Nhà sử học tôn giáo Mircea Eliade nói về mong muốn vượt qua tuổi già và cái chết, và đạt được một trạng thái Niết bàn, trong việc thực hành yoga tantra của đạo Hindu. Trong yoga tantra, sự duy trì và hấp thu các chất dịch chứa sinh khí của con người cũng được nhấn mạnh và các văn bản tiếng Phạn cho rằng người nam cần hạn chế tiết tinh dịch để thoát khỏi quy luật của thời gian và cái chết. Lão giáo.
wiki
Liếm âm hộ
Lão giáo. Liếm âm hộ được đánh giá rất cao trong Lão giáo. Hành động liếm âm hộ được cho là làm gia tăng tuổi thọ; việc mất tinh dịch, dịch âm đạo và các chất lỏng trong cơ thể khác được cho là làm giảm thọ. Ngược lại, bằng việc giữ tinh dịch hoặc nuốt các chất tiết ra từ âm đạo, nam và nữ có thể bảo tồn và tăng cường khí lực của họ (bế tinh dưỡng khí). Theo Philip Rawson, những phép ẩn dụ nửa thơ mộng, nửa dược liệu này giải thích sự phổ biến của việc liếm âm hộ: "Liếm âm hộ là một phương pháp tuyệt vời để tiếp thu chất dịch mang nữ tính quý giá". Nhưng lý tưởng Đạo giáo không chỉ là về việc nam giới được làm giàu bằng dịch tiết của nữ giới; người phụ nữ cũng được hưởng lợi từ tương tác với người đàn ông, một đặc điểm đã khiến nhà tội lỗi học Kristofer Schipper tố cáo cuốn cẩm nang cổ xưa về "Nghệ thuật phòng ngủ" như một "loại ma cà rồng nam giới được tôn vinh" không thực sự hoàn toàn là Đạo giáo. Lý tưởng nhất, bằng cách trộn lẫn các chất dịch của cả nam và nữ, Đạo giáo có ý thức hòa giải các mặt đối lập và phục hồi thời điểm thần thoại tồn tại trước khi con người phân chia giới tính, thời gian nguyên thủy của "khí" thuở ban đầu.
wiki
Phép cân bằng sinh thái
Phép cân bằng sinh thái học (được gọi rộng hơn là phép cân bằng sinh học) xem xét sự cân bằng của năng lượng và các yếu tố ảnh hưởng đến hệ thống sống. Tương tự như phép cân bằng hóa học, phép cân bằng sinh thái được thành lập dựa trên những hạn chế của cân bằng khối lượng khi chúng áp dụng cho các sinh vật và sự tương tác của chúng trong các hệ sinh thái. Cụ thể, sự cân bằng năng lượng và các yếu tố ảnh hưởng như thế nào và sự cân bằng này bị ảnh hưởng bởi các sinh vật và tương tác của chúng. Các khái niệm về cân bằng hóa học sinh thái có một lịch sử lâu dài trong sinh thái học với các tham chiếu ban đầu về các hạn chế của cân bằng khối lượng được tạo ra bởi Liebig, Lotka và Redfield. Những khái niệm trước đó đã được mở rộng để liên kết rõ ràng sinh lý nguyên tố của sinh vật với các tương tác của lưới thức ăn và chức năng hệ sinh thái của chúng. Đại cương. Hầu hết các công việc trong phép cân bằng sinh thái tập trung vào giao diện giữa một sinh vật và tài nguyên của nó. Giao diện này, cho dù đó là giữa thực vật và tài nguyên dinh dưỡng của chúng hoặc động vật ăn cỏ và cỏ là lớn, thường được đặc trưng bởi sự khác biệt đáng kể trong thành phần nguyên tố của mỗi phần. Sự khác biệt, hoặc không phù hợp, giữa nhu cầu nguyên tố của sinh vật và thành phần nguyên tố của tài nguyên dẫn đến sự mất cân bằng nguyên tố. Hãy xem xét loài mối, có tỷ lệ carbon:nitơ mô (C:N) khoảng 5 đơn vị nhưng vẫn tiêu thụ gỗ với tỷ lệ C:N là 300-1000 đơn vị. Sinh trắc học sinh thái chủ yếu hỏi:
wiki
Phép cân bằng sinh thái
Mất cân bằng nguyên tố phát sinh vì một số lý do sinh lý và tiến hóa liên quan đến sự khác biệt về cấu tạo sinh học của các sinh vật, chẳng hạn như sự khác biệt về loại và số lượng đại phân tử, bào quan và mô. Các sinh vật khác nhau về tính linh hoạt của cấu tạo sinh học của chúng và do đó ở mức độ mà sinh vật có thể duy trì thành phần hóa học không đổi khi đối mặt với sự thay đổi trong tài nguyên của chúng. Biến thể trong tài nguyên có thể liên quan đến các loại tài nguyên cần thiết, tính sẵn có tương đối của chúng về thời gian và không gian và cách chúng có được. Khả năng duy trì thành phần hóa học bên trong mặc dù có những thay đổi về thành phần hóa học và tính sẵn có của tài nguyên được gọi là "cân bằng nội môi cân bằng phương pháp hóa học".
wiki
Phép cân bằng sinh thái
Giống như khái niệm sinh học chung về cân bằng nội môi, cân bằng nội môi nguyên tố đề cập đến việc duy trì thành phần nguyên tố trong một số phạm vi theo thứ tự sinh học. Các sinh vật quang dưỡng, chẳng hạn như tảo và thực vật có mạch, có thể thể hiện rất nhiều độ dẻo sinh lý trong thành phần nguyên tố và do đó có cân bằng nội môi tương đối yếu. Ngược lại, các sinh vật khác, chẳng hạn như động vật đa bào, gần với cân bằng nội môi nghiêm ngặt và chúng có thể được coi là có thành phần hóa học riêng biệt. Ví dụ, tỷ lệ carbon và phosphor trong chất hữu cơ lơ lửng trong hồ (ví dụ, tảo, vi khuẩn và mạt vụn) có thể thay đổi trong khoảng từ 100 đến 1000 trong khi tỷ lệ C:P của "Daphnia", động vật phù du giáp xác, vẫn gần như không đổi ở mức 80:1. Sự khác biệt chung về cân bằng nội môi cân bằng giữa thực vật và động vật có thể dẫn đến sự mất cân bằng nguyên tố lớn và thay đổi giữa người tiêu dùng và tài nguyên.
wiki
Phép cân bằng sinh thái
Phép cân bằng sinh thái tìm cách khám phá làm thế nào hàm lượng hóa học của sinh vật định hình hệ sinh thái của chúng. Phép cân bằng sinh thái đã được áp dụng cho các nghiên cứu về tái chế chất dinh dưỡng, cạnh tranh tài nguyên, tăng trưởng động vật và mô hình giới hạn dinh dưỡng trong toàn bộ hệ sinh thái. Tỷ lệ Redfield của các đại dương trên thế giới là một ứng dụng rất nổi tiếng của các nguyên tắc cân bằng hóa học đối với sinh thái học. Phép cân bằng sinh thái cũng xem xét các hiện tượng ở cấp độ tế bào phụ, chẳng hạn như hàm lượng P của một ribosome, cũng như các hiện tượng ở toàn bộ cấp sinh quyển, chẳng hạn như hàm lượng oxy trong khí quyển Trái đất. Cho đến nay, khung nghiên cứu về cân bằng hóa học sinh thái đã kích thích nghiên cứu trong các lĩnh vực sinh học, sinh thái, hóa sinh và sức khỏe con người, bao gồm nghiên cứu quần xã sinh học nhỏ của con người, nghiên cứu ung thư, tương tác mạng lưới thực phẩm, động lực học dân số, dịch vụ của hệ sinh thái, năng suất cây trồng nông nghiệp và dinh dưỡng ong mật.
wiki
Đèo Nóc Mò
Đèo Nóc Mò Đèo Nóc Mò là đèo trên quốc lộ 3B ở vùng đất "bản Nà Đeng" xã Cường Lợi huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. Tên gọi "Nóc Mò" theo tiếng Tày - Nùng có nghĩa là "u bò". Vị trí. Đèo ở trên quốc lộ 3B, là quốc lộ mới nâng cấp từ đường liên tỉnh, nối thị trấn Yến Lạc huyện Na Rì tới thị trấn Thất Khê huyện Tràng Định tỉnh Lạng Sơn. Đèo ở phần phía bắc xã Cường Lợi, và cách thị trấn Yến Lạc chừng 8 km hướng đông bắc. Vùng đèo Nóc Mò trước đây một thế kỷ từng là nơi có nhiều hổ báo và các thú rừng khác. Tuy nhiên ngày nay chúng đã bị săn bắt hết.
wiki
İstanbul Cup 2021
İstanbul Cup 2021 İstanbul Cup 2021 (còn được biết đến với TEB BNP Paribas Tennis Championship İstanbul vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân đất nện ngoài trời. Đây là lần thứ 14 giải İstanbul Cup được tổ chức, và là một phần của WTA International trong WTA Tour 2021. Giải đấu diễn ra tại Istanbul, Thổ Nhĩ kỳ, từ ngày 19 đến ngày 25 tháng 4 năm 2021. Nội dung đơn. Vận động viên khác. Đặc cách: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng:
wiki
Cranopsis coccifer
Cranopsis coccifer Cranopsis coccifer là một loài cóc trong họ Bufonidae. Nó được tìm thấy ở Costa Rica, El Salvador, Guatemala, Honduras, México, và Nicaragua. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, rừng ẩm đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng ngập nước hoặc lụt theo mùa, hồ nước ngọt có nước theo mùa, đầm nước ngọt có nước theo mùa, đất canh tác, vùng đồng cỏ, vườn nông thôn, các vùng đô thị, các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề, ao, ao nuôi trồng thủy sản, và kênh đào và mương rãnh. Loài này đang bị đe dọa do mất nơi sống.
wiki