id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
618
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
11
513k
14870
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Khoa%20h%E1%BB%8Dc%20v%C3%A0%20C%C3%B4ng%20ngh%E1%BB%87%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Khoa học và Công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Khoa học và Công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2000 Luật Khoa học và Công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2005 Luật Khoa học và Công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
14871
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Khoa%20h%E1%BB%8Dc%20v%C3%A0%20C%C3%B4ng%20ngh%E1%BB%87%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202000%20%28s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%202005%29
Luật Khoa học và Công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2000 (sửa đổi, bổ sung 2005)
Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững đất nước; Để phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong Hoạt động khoa học và công nghệ, Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Luật này quy định về tổ chức và hoạt động khoa học và công nghệ; Chương I:Những quy định chung Điều 1: Phạm vi điều chỉnh Luật này quy định về tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; việc tổ chức thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ. Điều 2: Giải thích từ ngữ Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 1. Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; 2. Công nghệ là tập hợp các phương pháp quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm; 3. Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và Phát triển công nghệ, Dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và các hoạt động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ; 4. Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng; 5. Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và Hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm Triển khai thực nghiệm và Sản xuất thử nghiệm; 6. Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học để làm thực nghiệm nhằm tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới; 7. Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử ở quy mô nhỏ nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống; 8. Dịch vụ khoa học và công nghệ là các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, Chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn. Điều 3: Mục tiêu của hoạt động khoa học và công nghệ Mục tiêu của hoạt động khoa học và công nghệ là xây dựng nền khoa học và Công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao trình độ quản lý; sử dụng hợp lý Tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới Việt Nam; góp phần phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Điều 4: Nhiệm vụ của hoạt động khoa họa và công nghệ Hoạt động khoa học và công nghệ có các nhiệm vụ sau đây: 1. Vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng con người mới Việt Nam; kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hóa, khoa học của thế giới; 2. Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ các công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, các phương pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp ]ý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe của nhân dân; dự báo kịp thời, phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai; 3. Tiếp thu các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra, ứng dụng có hiệu quả các công nghệ mới; tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao; phát triển nền khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển các ngành công nghiệp hiện đại; đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống. Điều 5: Nguyên tắc hoạt động khoa học và công nghệ Trong hoạt động khoa học và công nghệ, phải bảo đảm các nguyên tắc sau đây: 1. Hoạt động khoa học và công nghệ phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; 2. Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc các thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; 3. Kết hợp chặt chẽ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ với khoa học xã hội và nhân văn; gắn nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với giáo dục và đào tạo, với hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển thị trường công nghệ; 4. Phát huy khả năng lao động sáng tạo của mọi tổ chức, cá nhân; 5. Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự do sáng tạo, dân chủ, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Điều 6: Trách nhiệm của Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ 1. Nhà nước xây dựng và thực hiện các chính sách và biện pháp sau đây để phát triển khoa học và công nghệ: a) Bảo đảm để khoa học và công nghệ là căn cứ và là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; b) Đầu tư xây dựng và phát triển năng lực nội sinh, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài về khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác quốc tế, khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực khoa học và công nghệ; c) Bảo đảm sự phát triển ổn định, liên tục cho nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực khoa học, nhất là một số lĩnh vực khoa học đặc thù của Việt Nam; đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, chú trọng phát triển công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ có ý nghĩa quan trọng; d) Đẩy mạnh ứng dụng kết quả hoạt động khoa học và công nghệ; phát triển dịch vụ khoa học và công nghệ; xây dựng và phát triển thị trường công nghệ; khuyến khích hoạt động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, phổ biến tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn; tạo điều kiện thuận lợi cho các hội khoa học và công nghệ thực hiện tốt trách nhiệm của mình; đ) Khuyến khích các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tăng cường nhân lực khoa học và công nghệ và chuyển giao công nghệ về cơ sở, chú trọng địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 2. Căn cứ vào đặc thù của từng lĩnh vực khoa học và công nghệ, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng các quy định của Luật này đối với khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm bảo đảm phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học Và công nghệ. Điều 7: Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với hoạt động khoa học và công nghệ 1. Mọi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia phát triển sự nghiệp khoa học và công nghệ; phổ biến kiến thức, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ; phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất; ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vào việc phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh. 2. Các hội khoa học và công nghệ có trách nhiệm tổ chức, động viên các thành viên tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và tiến hành các hoạt động khoa học và công nghệ. Điều 8: Các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động khoa học và công nghệ Nghiêm cấm các hành vi sau đây: 1. Lợi dụng hoạt động khoa học và công nghệ để xuyên tạc, chống lại đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; 2. Lợi dụng hoạt động khoa học và công nghệ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; gây thiệt hại đến tài nguyên, môi trường, sức khỏe con người; trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc; 3. Xâm phạm Quyền sở hữu trí tuệ; chiếm đoạt, chuyển nhượng, chuyển giao bất hợp pháp kết quả khoa học và công nghệ; tiết lộ tư liệu, kết quả khoa học và công nghệ thuộc danh mục bí mật nhà nước; lừa dối, giả mạo trong hoạt động khoa học và công nghệ; 4. Cản trở hoạt động khoa học và công nghệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Chương II:Tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ Mục 1: Tổ chức khoa học và công nghệ Điều 9: Các tổ chức khoa học và công nghệ 1. Các tổ chức khoa học và công nghệ bao gồm: a) Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển); b) Trường đại học, học viện, trường cao đắng (sau đây gọi chung là trường đại học); c) Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ. 2. Căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và Kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ của từng thời kỳ, Chính phủ quy hoạch hệ thống các tổ chức khoa học và công nghệ trong cả nước để bảo đảm phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học và công nghệ, thực hiện có hiệu quả các hoạt động khoa học và công nghệ. Điều 10: Các tổ chức nghiên cứu và phát triển 1. Các tổ chức nghiên cứu và phát triển được tổ chức dưới các hình thức: viện nghiên cứu và phát triển, trung tâm nghiên cứu và phát triển, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và cơ sở nghiên cứu và phát triển khác. 2. Căn cứ vào mục tiêu, quy mô tổ chức và phạm vi hoạt động, các tổ chức nghiên cứu và phát triển được phân thành: a) Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp quốc gia; b) Tổ chức nghiên cứu và phát triển của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp bộ); tổ chức nghiên cứu và phát triển của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp tỉnh); tổ chức nghiên cứu và phát triển của cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương; c) Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở. 3. Thẩm quyền thành lập các tổ chức nghiên cứu và phát triển được quy đình như sau: a) Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp quốc gia do Chính phủ quyết định thành lập; b) Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp Bộ, cấp tỉnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập hoặc ủy quyền quyết định thành lập; tổ chức nghiên cứu và phát triển của cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương do cơ quan, tổ chức đó quyết định thành lập; c) Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Cấp nào có thẩm quyền thành lập thì cấp đó có thẩm quyền quyết định việc sáp nhập, chia, tách, giải thể, đình chỉ hoạt động của tổ chức nghiên cứu và phát triển theo quy định tại khoản này. Điều 11: Nhiệm vụ của các tổ chức nghiên cứu và phát triển 1. Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp quốc gia chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước nhằm cung cấp luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách, pháp luật; tạo ra các kết quả khoa học và công nghệ mới, có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ. 2. Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp bộ, cấp tỉnh chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành, địa phương; đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ. 3. Tổ chức nghiên cứu và phát triển của cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương quy định tại điểm b khoản 2 Điều 10 của Luật này chủ yếu thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan mình; tổ chức nghiên cứu và phát triển của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương chủ yếu thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ theo mục tiêu, điều lệ của tổ chức mình. 4. Tổ chức nghiên cứu và phát triển cấp cơ sở chủ yếu thực hiện các hoạt động khoa học và công nghệ theo mục tiêu, nhiệm vụ do tổ chức, cá nhân thành lập xác định. Điều 12: Nhiệm vụ khoa học và công nghệ của trường đại học 1. Trường đại học có nhiệm vụ tiến hành nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, kết hợp đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ khoa học và công nghệ theo quy định của Luật này, Luật giáo dục và các quy định khác của pháp luật. 2. Trường đại học thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản, nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước và nghiên cứu khoa học về giáo dục. Điều 13: Nhiệm vụ của tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ có nhiệm vụ tiến hành các hoạt động phục vụ việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến và ứng dụng tri thức khoa học và công nghệ và kinh nghiệm thực tiễn. Điều 14: Điều kiện thành lập và đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ Tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được thành lập khi có đủ các điều kiện sau đây: 1. Mục tiêu, phương hướng hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật; 2. Điều lệ tổ chức và hoạt động; 3. Nhân lực khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu theo mục tiêu, phương hướng và Điều lệ tổ chức và hoạt động. Tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ phải đăng ký hoạt động tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Điều 15: Quyền của tổ chức khoa học và công nghệ Tổ chức khoa học và công nghệ có các quyền sau đây: 1. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ đã đăng ký; ký kết hợp đồng khoa học và công nghệ; đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ; đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; 2. Thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trực thuộc theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật; 3. Hợp tác, liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ và hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật; 4. Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật; 5. Công bố kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của Luật báo chí, Luật xuất bản và các quy định khác của pháp luật; 6. Các quyền khác theo quy định của pháp luật Điều 16: Nghĩa vụ của tồ chức khoa học và công nghệ Tổ chức khoa học và công nghệ có các nghĩa vụ sau đây: 1. Thực hiện hợp đồng khoa học và công nghệ đã ký kết, nhiệm vụ khoa học và công nghệ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giao; sử dụng có hiệu quả kinh phí đầu tư phát triển khoa học và công nghệ và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước; 2. Góp phần xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước; 3. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ trong tổ chức mình; giữ bí mật khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật; 4. Thực hiện dân chủ, bình đẳng, công khai trong việc bố trí và thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; 5. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Mục 2:Quyền và nghĩa vụ của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ Điều 17: Quyền của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ có các quyền sau đây: 1. Tự mình hoặc hợp tác với tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ; ký kết hợp đồng khoa học và công nghệ; thành lập tổ chức khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực theo quy định của Chính phủ; đăng ký tham gia tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; 2. Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; bình đẳng, tự do sáng tạo trong hoạt động khoa học và công nghệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật; 3. Công bố kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của Luật báo chí, Luật xuất bản và các quy định khác của pháp luật; 4. Tham gia tổ chức khoa học và công nghệ, hội khoa học và công nghệ; tham gia hoạt động đào tạo, tư vấn, hội nghị khoa học và công nghệ; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ vào hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh; nhận tài trợ để hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật; 5. Đề xuất ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước với cơ quan có thẩm quyền; kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức khoa học và công nghệ mà mình là thành viên và tham gia giám sát việc thực hiện; 6. Các quyền khác theo quy định của pháp luật. Điều 18: Nghĩa vụ của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ có các nghĩa vụ sau đây: 1. Đóng góp trí tuệ, tài năng của mình vào sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; 2. Thực hiện hợp đồng khoa học và công nghệ đã ký kết, nhiệm vụ khoa học và công nghệ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giao; chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; 3. Giữ bí mật khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội; 4. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Chương III:Hoạt động khoa học và công nghệ Mục 1:Tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ Điều 19: Xác định các nhiệm vụ khoa học và công nghệ và phương thức thực hiện 1. Căn cứ vào chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của Nhà nước, Chính phủ xác định mục tiêu, quyết định kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ, các hướng ưu tiên và các nhiệm vụ khoa học và công nghệ chủ yếu. 2. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ và sự phân công của Chính phủ để xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ mục tiêu phát triển của ngành, lĩnh vực. 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ và sự phân cấp của Chính phủ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. 4. Ngoài các cơ quan, tổ chức quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, cơ quan, tổ chức khác căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch khoa học và công nghệ của Chính phủ và yêu cầu thực tiễn để xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ của mình. 5. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này phải được xác định trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng khoa học và công nghệ. Hội đồng khoa học và công nghệ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức các cấp quyết định thành lập, quy định nhiệm vụ và quyền hạn. Thành phần của Hội đồng bao gồm các nhà khoa học; nhà quản lý có uy tín và trình độ phù hợp với nhiệm vụ. Hội đồng phải chịu trách nhiệm về việc tư vấn của mình. 6. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước được tổ chức dưới hình thức chương trình, đề tài, dự án và các hình thức khác; được thực hiện theo phương thức tuyển chọn, giao trực tiếp, do Quỹ phát triển khoa học và công nghệ tài trợ theo quy định của Chính phủ. Điều 20: Tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ 1. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền các cấp phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng danh mục các nhiệm vụ khoa học và công nghệ được thực hiện theo phương thức tuyển chọn, bảo đảm để mọi tổ chức, cá nhân có điều kiện đăng ký, tham gia tuyển chọn. 2. Việc tuyển chọn phải bảo đảm công khai, công bằng, dân chủ, khách quan; kết quả tuyển chọn phải được công bố công khai. 3. Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp thành lập Hội đồng tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ và quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng này. Hội đồng có nhiệm vụ tư vấn và phải chịu trách nhiệm về việc tư vấn của mình. Thành viên Hội đồng phải có năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Điều 21: Nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao trực tiếp Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền lựa chọn tổ chức, cá nhân có năng lực, phẩm chất điều kiện và chuyên môn phù hợp để trực tiếp giao thực hiện những nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc thù và phải chịu trách nhiệm về việc giao nhiệm vụ của mình. Điều 22: Nhiệm vụ khoa học và công nghệ được thực hiện do Quỹ phát triển khoa học và công nghệ tài trợ Tổ chức, cá nhân có quyền đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ để Quỹ phát tnển khoa học và công nghệ xét tài trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ đó. Việc xét tài trợ được thực hiện theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ. Điều 23: Hợp đồng khoa học và công nghệ 1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ được thực hiện thông qua hợp đồng khoa học và công nghệ. 2. Các loại hợp đồng khoa học và công nghệ bao gồm: a) Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; b) Hợp đồng chuyển giao công nghệ; c) Hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ. 3. Căn cứ vào quy định của pháp luật về hợp đồng, Chính phủ quy định cụ thể các loại hợp đồng quy định tại khoản 2 Điều này. Điều 24: Đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ 1. Việc đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải căn cứ vào nội dung của hợp đồng khoa học và công nghệ, bảo đảm khách quan, chính xác trên cơ sở ý kiến tư vấn của Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp thành lập, quy định nhiệm vụ và quyền hạn. Thành phần Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành gồm các chuyên gia có năng lực và chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ. Hội đồng phải chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá, nghiệm thu của mình. 2. Kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tuy không sử dụng ngân sách nhà nước nhưng có phạm vi ứng dụng rộng rãi trong cả nước, một ngành, địa phương hoặc có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh, môi trường, sức khỏe và đời sống của nhân dân cũng phải được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền tổ chức thẩm định trước khi ứng dụng. Điều 25: Đăng ký, hiến, tặng, lưu giữ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ 1. Kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được lưu giữ tại cơ quan lưu trữ nhà nước. 2. Kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước có thể được đăng ký hoặc hiến, tặng tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được lưu giữ tại cơ quan lưu trữ nhà nước. Điều 26: Quyền sở hữu, quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ 1. Tổ chức, cá nhân đầu tư cho việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ là chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện công trình khoa học và công nghệ là tác giả của công trình đó, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng khoa học và công nghệ. 2. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền quyết định việc sử dụng, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước. 3. Chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước được sử dụng, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả đó theo quy định của pháp luật. 4. Tác giả của công trình khoa học và công nghệ được hưởng các quyền theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật. Mục 2:Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ Điều 27: Khuyến khích ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ 1 Nhà nước có chính sách, biện pháp khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân tích cực ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nhằm phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. 2. Tổ chức, cá nhân ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới quản lý kinh tế - xã hội, đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm được hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng và các ưu đãi khác. 3. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ của mình động viên các thành viên ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. 4. Nhà nước tạo điều kiện để tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để ứng dụng rộng rãi vào sản xuất và đời sống. 5. Chủ sở hữu, tác giả và người ứng dụng thành công kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được hưởng lợi ích do việc ứng dụng kết quả này vào sản xuất và đời sống theo hợp đồng khoa học và công nghệ và theo quy định của pháp luật Điều 28: Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội Nhà nước có chính sách để đẩy mạnh ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào việc xây dựng mô hình và giải pháp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế - xã hội ở mọi cấp, mọi ngành; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và con người mới Việt Nam. Điều 29: Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triền công nghệ trong doanh nghiệp Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt là ứng dụng công nghệ được tạo ra ở trong nước. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ được tạo ra ở trong nước được hưởng các ưu đãi theo quy định của Chính phủ. Điều 30: Ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong nông nghiệp và phát triển nông thôn 1. Chính phủ có chính sách ưu tiên và biện pháp thúc đẩy việc ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và phát triển nông thôn, chú trọng địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. 2. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức, cá nhân chuyển giao công nghệ, tổ chức ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học và công nghệ trong nông nghiệp và phát triển nông thôn, cung cấp các dịch vụ khoa học và công nghệ phù hợp với nhu cầu và điều kiện của nông dân. Điều 31: Dự án đầu tư, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội Việc xây dựng và thực hiện các dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế - xã hội phải có căn cứ khoa học, có hạng mục nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cần thiết và phải được thẩm định về khoa học và công nghệ theo quy định của Chính phủ. Điều 32: Phát triển công nghệ cao 1. Nhà nước có chính sách phát triển công nghệ cao, đầu tư có trọng điểm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nghiên cứu, phát triển công nghệ cao; xây dựng một số khu công nghệ cao nhằm nâng cao năng lực công nghệ và phát triển các ngành Công nghiệp công nghệ cao của đất nước. 2. Tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao và sản xuất Sản phẩm công nghệ cao được hưởng ưu đãi đặc biệt về thuế, tín dụng và các ưu đãi khác. Điều 33: Xây dựng và phát triển thị trường công nghệ Nhà nước có các chính sách và biện pháp sau đây để xây dựng và phát triển thị trường công nghệ: 1. Khuyến khích mọi hoạt động chuyển nhượng, chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi; 2. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; 3. Áp dụng các chính sách ưu đãi đối với sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm bằng công nghệ mới; sản phẩm được làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam; hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ; Thiết bị công nghệ cao nhập khẩu, xuất khẩu công nghệ; 4. Áp dụng chế độ thưởng cho tập thể lao động và cá nhân có sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và ứng dụng công nghệ mới được chuyển giao; 5. Các tổ chức khoa học và công nghệ được thành lập tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, doanh nghiệp trực thuộc; được hợp tác, liên doanh với tổ chức, cá nhân để tiến hành Hoạt động chuyển giao công nghệ. Chương IV:Các biện pháp bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ Điều 34: Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ 1. Hằng năm, Nhà nước dành một khoản ngân sách để đào tạo, đào tạo lại nhân lực về khoa học và công nghệ ở trong nước và ở nước ngoài; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, những người có trình độ cao, kỹ thuật viên lành nghề. 2. Tổ chức, cá nhân được tạo điều kiện để tự đào tạo, tham gia vào việc đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ, cử hoặc cấp học bổng cho công dân Việt Nam đi học tập, nâng cao trình độ chuyên môn ở trong nước và ở nước ngoài theo quy định của Chính phủ. Điều 35: Sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ 1. Nhà nước trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ sáng tạo và cống hiến; có chính sách và biện pháp để thu hút nhân tài vào việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước; có chính sách khuyến khích trong việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực nữ trong hoạt động khoa học và công nghệ; xây dựng các tập thể khoa học và công nghệ mạnh, đạt trình độ khu vực và quốc tế, có chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến và có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với cá nhân có công trình khoa học và công nghệ đặc biệt xuất sắc, có cống hiến lớn đối với đất nước. 2. Tổ chức, cá nhân sử dụng nhân lực khoa học và công nghệ có trách nhiệm bố trí, sử dụng đúng năng lực, sở trường và tạo điều kiện thuận lợi để họ phát huy khả năng chuyên môn vào việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. 3. Nhà nước có chính sách thỏa đáng về lương, điều kiện làm việc, chỗ ở đối với cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. 4. Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm xây dựng và thực hiện các chính sách ưu đãi đối với cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ ở cơ sở, chú trọng địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Điều 36: Chức vụ khoa học 1. Chức vụ khoa học được thực hiện thống nhất trong cả nước, gồm có trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cấp cao. Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tham gia giảng dạy, đào tạo đại học, sau đại học được xét bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư theo quy định của Luật giáo dục. 2. Những người có học vị tiến sĩ hoặc có công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ xuất sắc hoặc được các giải thưởng cao về khoa học và công nghệ được ưu tiên trong việc xét, bổ nhiệm vào chức vụ khoa học cao. Chính phủ quy định cụ thể tiêu chuẩn, thủ tục xét, bổ nhiệm chức vụ khoa học. Điều 37: Đầu tư phát triển khoa học và công nghệ 1. Đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư phát triển. Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách khoa học và công nghệ, bảo đảm tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho khoa học và công nghệ so với tổng số chi ngân sách nhà nước tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp khoa học và công nghệ. 2. Cơ quan tài chính có trách nhiệm cấp phát kinh phí khoa học và công nghệ đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tiến độ kế hoạch khoa học và công nghệ. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có trách nhiệm quản lý, sử dụng có hiệu quả phần ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ. 3. Ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ được sử dụng vào các mục đích sau: a) Thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm, nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ lợi ích chung của xã hội; b) Thực hiện nghiên cứu cơ bản có định hướng trong các lĩnh vực khoa học; c) Duy trì và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; d) Cấp cho các quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Nhà nước theo quy định tại Điều 39 và Điều 40 của Luật này; đ) Xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các tổ chức nghiên cứu và phát triển của Nhà nước; e) Trợ giúp doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu ứng dụng và phát triển công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm. 4. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư cho khoa học và công nghệ. Điều 38: Doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ 1. Doanh nghiệp được dành một phần vốn để đầu tư phát triển khoa học và công nghệ nhằm đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Vốn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được tính vào giá thành sản phẩm. 2. Doanh nghiệp được lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để chủ động đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. 3. Doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu những vấn đề khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước được xét tài trợ một phần kinh phí nghiên cứu. Điều 39: Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia 1. Chính phủ lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia để sử dụng vào các mục đích sau: a) Tài trợ cho việc thực hiện nghiên cứu cơ bản; b) Tài trợ cho các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đột xuất, mới phát sinh, có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn; các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có triển vọng nhưng có tính rủi ro; c) Cho vay với lãi suất thấp hoặc không lấy lãi để thực hiện việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất và đời sống. 2. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia được hình thành từ các nguồn: a) Vốn được cấp một lần ban đầu, vốn bổ sung được cấp tiếp hằng năm từ ngân sách nhà nước dành cho phát triển khoa học và công nghệ; b) Các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của các tổ chức, cá nhân; c) Các nguồn khác. 3. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia do Chính phủ quy định. Điều 40: Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương 1 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để phục vụ cho các yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ của mình. 2. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quy định tại khoản 1 Điều này được hình thành từ các nguồn: a) Vốn được cấp một lần ban đầu từ ngân sách nhà nước dành cho phát triển khoa học và công nghệ của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; vốn bổ sung hằng năm từ kết quả hoạt động khoa học và công nghệ; b) Các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân; c) Các nguồn khác. 3. Việc ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ quy định tại khoản 1 Điều này do Chính phủ quy định. Điều 41: Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân 1. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ là tổ chức hoạt động phi lợi nhuận để tài trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay với lãi suất thấp hoặc không lấy lãi nhằm hỗ trợ cho tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ. 2. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân được hình thành từ các nguồn: a) Vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân sáng lập không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; b) Các khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân; c) Các nguồn khác. 3. Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ quy định tại khoản 1 Điều này do tổ chức, cá nhân sáng lập quy định và phải được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Điều 42: Chính sách thuế đối với hoạt động khoa học và công nghệ 1. Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. 3. Sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm; sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam; các hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ; chuyển giao công nghệ, thiết bị công nghệ cao nhập khẩu; xuất khẩu công nghệ được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật. 4. Doanh nghiệp thực hiện đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ được hưởng các ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật. Điều 43: Chính sách tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ 1. Tổ chức, cá nhân vay vốn trung hạn, dài hạn để tiến hành hoạt động khoa học và công nghệ được hưởng lãi suất và điều kiện ưu đãi. 2. Những chương trình, đề tài, Dự án khoa học và công nghệ có yêu cầu sử dụng vốn lớn được ưu tiên xét cho sử dụng vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Chính phủ quy định cụ thể các ưu đãi về tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ. Điều 44: Cơ sở vật chất - kỹ thuật để phát triển khoa học và công nghệ Chính phủ có kế hoạch huy động các nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của các tổ chức khoa học và công nghệ quan trọng; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; đầu tư xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm; ban hành Quy chế sử dụng phòng thí nghiệm trọng điểm để thu hút các nhà khoa học đến làm việc. Điều 45: Thông tin khoa học và công nghệ Chính phủ đầu tư xây dựng hệ thống thông tin khoa học và công nghệ quốc gia hiện đại, bảo đảm thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về các thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ ở trong nước và trên thế giới; ban hành Quy chế quản lý thông tin khoa học và công nghệ; hằng năm công bố danh mục và kết quả thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong nước. Chương V:Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ Điều 46: Phát triển hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ 1. Nhà nước mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân Việt Nam hợp tác về khoa học và công nghệ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài, các tổ chức quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi. 2. Nhà nước có chính sách thu hút trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các chuyên gia giỏi của thế giới tham gia phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam. Điều 47: Khuyến khích hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ 1. Tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ của Việt Nam được nhận tài trợ, tham gia tổ chức khoa học và công nghệ, hội khoa học và công nghệ, tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị khoa học và công nghệ của tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài; hợp tác thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ của Việt Nam ở nước ngoài. 2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài được lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ; được đóng góp xây dựng các quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam quy định tại các Điều 39, 40 và 41 của Luật này. 3. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam được Nhà nước khuyến khích, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp. Chính phủ quy định cụ thể việc thực hiện Điều này. Điều 48: Tổ chức khoa học và công nghệ có vốn của nước ngoài 1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài thành lập hoặc hợp tác với tổ chức, cá nhân Việt Nam thành lập tổ chức khoa học và công nghệ tại Việt Nam được hưởng các ưu đãi về thuế, sử dụng đất và các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật. 2. Nhà nước có chính sách, biện pháp để sử dụng có hiệu quả vốn vay và viện trợ của nước ngoài đầu tư phát triển khoa học và công nghệ. Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ quy định tại Điều này. Chương VI:Quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ Điều 49: Nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ Nội dung quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ bao gồm: 1. Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, nhiệm vụ khoa học và công nghệ; 2. Ban hành và tổ chức thực hiện các Văn bản quy phạm pháp luật về khoa học và công nghệ; 3. Tổ chức bộ máy quản lý khoa học và công nghệ; 4. Tổ chức, hướng dẫn đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ; 5. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; 6. Quy định việc đánh giá, nghiệm thu, ứng dụng và công bố kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; chức vụ khoa học; giải thưởng khoa học và công nghệ và các hình thức ghi nhận công lao về khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân; 7. Tổ chức, quản lý công tác thẩm định khoa học và công nghệ; 8. Tổ chức, chỉ đạo công tác thống kê, thông tin khoa học và công nghệ; 9. Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về khoa học và công nghệ; 10. Tổ chức, quản lý hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ; 11. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công nghệ; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong hoạt động khoa học và công nghệ; xử lý các vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ. Điều 50: Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. Hằng năm, Chính phủ báo cáo với Quốc hội về việc thực hiện các chính sách, biện pháp để phát triển khoa học và công nghệ; việc sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; kết quả hoạt động khoa học và công nghệ. 2. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường chịu trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. 3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo sự phân công của Chính phủ. Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ. 4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ ở địa phương theo quy định của pháp luật. Điều 51: Thống kê khoa học và công nghệ Hệ thống tiêu chí thống kê khoa học và công nghệ được quy định thống nhất trong cả nước. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp, tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ có trách nhiệm báo cáo đầy đủ, trung thực số liệu thống kê khoa học và công nghệ cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền theo sự phân cấp của Chính phủ. Điều 52: Thanh tra khoa học và công nghệ 1. Thanh tra khoa học và công nghệ là thanh tra chuyên ngành về khoa học và công nghệ. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra khoa học và công nghệ do Chính phủ quy định. 2. Thanh tra khoa học và công nghệ có nhiệm vụ: a) Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về khoa học và công nghệ; b) Xác minh, kết luận, kiến nghị việc Giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. 3. Thanh tra khoa học và công nghệ có quyền: a) Yêu cầu đương sự, các bên có liên quan cung cấp tài liệu, chứng cứ và trả lời những vấn đề cần thiết có liên quan đến nội dung thanh tra; b) Trưng cầu giám định trong trường hợp cần thiết; c) áp dụng các biện pháp ngăn chặn và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật. 4. Đoàn thanh tra và Thanh tra viên phải chịu trách nhiệm về các kết luận, quyết định, biện pháp xử lý của mình trong quá trình thanh tra theo quy định của pháp luật. Chương VII:Khen thưởng và xử lý vi phạm Điều 53: Khen thưởng Tổ chức, cá nhân có nhiều thành tích đóng góp cho sự nghiệp khoa học và công nghệ được khen thưởng, phong, tặng các Danh hiệu vinh dự nhà nước theo quy định của pháp luật. Điều 54: Giải thưởng khoa học và công nghệ 1. Nhà nước xét, tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ cho công trình khoa học và công nghệ đặc biệt xuất sắc. 2. Nhà nước xét, tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ cho công trình khoa học và công nghệ xuất sắc. 3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xét, tặng giải thưởng về khoa học và công nghệ cho công trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ xuất sắc trong phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương. Chính phủ quy định tiêu chuẩn và thủ tục xét, tặng các giải thưởng quy định tại Điều này. Điều 55: Giải thưởng khoa học và công nghệ của tổ chức và cá nhân Tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài được đặt và tặng giải thưởng khoa học và công nghệ nhằm khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật. 2. Các doanh nghiệp được trích một phần lợi nhuận do ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ để thưởng cho tổ chức, cá nhân thực hiện thành công việc ứng dụng kết quả khoa học và công nghệ đó. 3. Tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được nhận giải thưởng do tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế tặng phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 56: Nhận danh hiệu của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế Tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được nhận danh hiệu về khoa học và công nghệ do tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế phong, tặng phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 57: Xử lý vi phạm Người nào có một trong các hành vi sau đây, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị Truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường: 1. Có một trong các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Điều 8 của Luật này; 2. Sử dụng sai mục đích ngân sách nhà nước đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; 3. Gian lận để được hưởng ưu đãi, khen thưởng trong hoạt động khoa học và công nghệ; 4. Vi phạm các quy định về tuyển chọn, giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ; thẩm định, đánh giá, nghiệm thu các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ; 5. Các hành vi khác vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ. Chương VIII:Điều khoản thi hành Điều 58: Hiệu lực thi hành Luật khoa học và công nghệ có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001. Các quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ. Điều 59: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 09 tháng 6 năm 2000. Luật pháp Việt Nam
14872
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Kinh%20doanh%20b%E1%BA%A3o%20hi%E1%BB%83m%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Kinh doanh bảo hiểm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Kinh doanh bảo hiểm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2000 Luật Kinh doanh bảo hiểm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2000 (sửa đổi, bổ sung 2010) Luật Kinh doanh bảo hiểm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2022
14873
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Kinh%20doanh%20b%E1%BA%A3o%20hi%E1%BB%83m%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202000%20%28s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%202010%29
Luật Kinh doanh bảo hiểm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2000 (sửa đổi, bổ sung 2010)
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10. Chương I:Những quy định chung Điều 1: Phạm vi điều chỉnh 1. Luật này điều chỉnh tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm, xác định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm. 2. Luật này không áp dụng đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi và các loại bảo hiểm khác do Nhà nước thực hiện không mang tính kinh doanh. Điều 2: Áp dụng Luật kinh doanh bảo hiểm, pháp luật có liên quan, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế 1. Tổ chức và hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó. 3. Các bên tham gia bảo hiểm có thể thỏa thuận áp dụng tập quán quốc tế, nếu tập quán đó không trái với pháp luật Việt Nam. Điều 3: Giải thích từ ngữ Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 1. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. 2. Kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận một khoản phí bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm khác để cam kết bồi thường cho các trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. 3. Hoạt động đại lý bảo hiểm là hoạt động giới thiệu, chào bán bảo hiểm, thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm và các công việc khác nhằm thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo ủy quyền của doanh nghiệp bảo hiểm. 4. Hoạt động môi giới bảo hiểm là việc cung cấp thông tin, tư vấn cho bên mua bảo hiểm về sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm và các công việc liên quan đến việc đàm phán, thu xếp và thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm. 5. Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. 6. Bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. 7. Người được bảo hiểm là tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng được bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng. 8. Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm con người. 9. Quyền lợi có thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. 10. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm. 11. Phí bảo hiểm là khoản tiền mà bên mua bảo hiểm phải đóng cho doanh nghiệp bảo hiểm theo thời hạn và phương thức do các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 12. Bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết. 13. Bảo hiểm sinh kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm vẫn sống đến thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 14. Bảo hiểm tử kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết trong một thời hạn nhất định, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng, nếu người được bảo hiểm chết trong thời hạn được thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 15. Bảo hiểm hỗn hợp là nghiệp vụ bảo hiểm kết hợp bảo hiểm sinh kỳ và bảo hiểm tử kỳ. 16. Bảo hiểm trọn đời là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm chết vào bất kỳ thời điểm nào trong suốt cuộc đời của người đó. 17. Bảo hiểm trả tiền định kỳ là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống đến một thời hạn nhất định; sau thời hạn đó doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm định kỳ cho người thụ hưởng theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 18. Bảo hiểm phi nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, trách nhiệm dân sự và các nghiệp vụ bảo hiểm khác không thuộc bảo hiểm nhân thọ. 19. Bảo hiểm hưu trí là nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm đạt đến độ tuổi xác định được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 20. Bảo hiểm sức khỏe là loại hình bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm bị thương tật, tai nạn, ốm đau, bệnh tật hoặc chăm sóc sức khỏe được doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 4: Bảo đảm của Nhà nước đối với kinh doanh bảo hiểm 1. Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và các tổ chức kinh doanh bảo hiểm. 2. Nhà nước đầu tư vốn và các nguồn lực khác để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh bảo hiểm phát triển, giữ vai trò chủ đạo trên thị trường bảo hiểm. 3. Nhà nước có chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam, chính sách ưu đãi đối với các nghiệp vụ bảo hiểm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là chương trình phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Điều 5: Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm Nhà nước thống nhất quản lý, có chính sách mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam và tái đầu tư lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh bảo hiểm phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam; tạo điều kiện để doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tăng cường hợp tác với nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh bảo hiểm. Điều 6: Những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm 1. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam có nhu cầu bảo hiểm được lựa chọn tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam hoặc sử dụng dịch vụ bảo hiểm qua biên giới. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm phải bảo đảm các yêu cầu về tài chính để thực hiện các cam kết của mình đối với bên mua bảo hiểm. Điều 7. Các loại nghiệp vụ bảo hiểm 1. Bảo hiểm nhân thọ bao gồm: a) Bảo hiểm trọn đời; b) Bảo hiểm sinh kỳ; c) Bảo hiểm tử kỳ; d) Bảo hiểm hỗn hợp; đ) Bảo hiểm trả tiền định kỳ; e) Bảo hiểm liên kết đầu tư; g) Bảo hiểm hưu trí. 2. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm: a) Bảo hiểm tài sản và bảo hiểm thiệt hại; b) Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường thủy nội địa, đường sắt và đường hàng không; c) Bảo hiểm hàng không; d) Bảo hiểm xe cơ giới; đ) Bảo hiểm cháy, nổ; e) Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu; g) Bảo hiểm trách nhiệm; h) Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; i) Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh; k) Bảo hiểm nông nghiệp. 3. Bảo hiểm sức khỏe bao gồm: a) Bảo hiểm tai nạn con người; b) Bảo hiểm y tế; c) Bảo hiểm chăm sóc sức khỏe. 4. Các nghiệp vụ bảo hiểm khác do Chính phủ quy định. 5. Bộ Tài chính quy định Danh mục sản phẩm bảo hiểm. Điều 8: Bảo hiểm bắt buộc 1. Bảo hiểm bắt buộc là loại bảo hiểm do pháp luật quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Bảo hiểm bắt buộc chỉ áp dụng đối với một số loại bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. 2. Bảo hiểm bắt buộc bao gồm: A) Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; B) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; C) Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; D) Bảo hiểm cháy, nổ. 3. Căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ, Chính phủ trình ủy ban thường vụ Quốc hội quy định loại bảo hiểm bắt buộc khác. Điều 9. Tái bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm có thể tái bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác, bao gồm cả doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, tổ chức nhận tái bảo hiểm nước ngoài. Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, tổ chức nhận tái bảo hiểm nước ngoài phải đạt hệ số tín nhiệm theo xếp hạng của công ty đánh giá tín nhiệm quốc tế do Bộ Tài chính quy định. Điều 10. Hợp tác, cạnh tranh và đấu thầu trong kinh doanh bảo hiểm 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được hợp tác trong việc tái bảo hiểm, đồng bảo hiểm, giám định tổn thất, giải quyết quyền lợi bảo hiểm, đề phòng và hạn chế tổn thất, phát triển nguồn nhân lực, phát triển sản phẩm bảo hiểm, đào tạo và quản lý đại lý bảo hiểm, chia sẻ thông tin để quản trị rủi ro. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm được cạnh tranh về điều kiện, phạm vi, mức trách nhiệm, mức phí, chất lượng dịch vụ, năng lực bảo hiểm và năng lực tài chính. Việc cạnh tranh phải theo quy định của pháp luật về cạnh tranh và bảo đảm an toàn tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm; mức phí bảo hiểm phải phù hợp với điều kiện, phạm vi, mức trách nhiệm bảo hiểm. 3. Dự án sử dụng vốn nhà nước, tài sản thuộc sở hữu nhà nước hoặc của doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện đấu thầu về điều kiện, phạm vi, mức trách nhiệm, mức phí, chất lượng dịch vụ, năng lực bảo hiểm và năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Việc đấu thầu phải bảo đảm công khai, minh bạch theo quy định của Luật này và pháp luật về đấu thầu. 4. Nghiêm cấm các hành vi sau đây: a) Cấu kết giữa các doanh nghiệp bảo hiểm hoặc giữa doanh nghiệp bảo hiểm với bên mua bảo hiểm nhằm phân chia thị trường bảo hiểm, khép kín dịch vụ bảo hiểm; b) Can thiệp trái pháp luật vào việc lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn chỉ định, yêu cầu, ép buộc, ngăn cản tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm; d) Thông tin, quảng cáo sai sự thật về nội dung, phạm vi hoạt động, điều kiện bảo hiểm, làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm; đ) Tranh giành khách hàng dưới các hình thức ngăn cản, lôi kéo, mua chuộc, đe dọa nhân viên hoặc khách hàng của doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm khác; e) Khuyến mại bất hợp pháp; g) Hành vi bất hợp pháp khác trong hợp tác, cạnh tranh và đấu thầu. Điều 11: Quyền tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được tham gia các tổ chức xã hội - nghề nghiệp về kinh doanh bảo hiểm nhằm mục đích phát triển thị trường bảo hiểm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của thành viên theo quy định của pháp luật. Chương II: Hợp đồng bảo hiểm Mục 1: Quy định chung về hợp đồng bảo hiểm Điều 12: Hợp đồng bảo hiểm 1. Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. 2. Các loại hợp đồng bảo hiểm bao gồm: A) Hợp đồng bảo hiểm con người; B) Hợp đồng bảo hiểm tài sản; C) Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự. 3. Hợp đồng bảo hiểm hàng hải được áp dụng theo quy định của Bộ luật hàng hải; đối với những vấn đề mà Bộ luật hàng hải không quy định thì áp dụng theo quy định của Luật này. 4. Những vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm không quy định trong Chương này được áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều 13: Nội dung của hợp đồng bảo hiểm 1. Hợp đồng bảo hiểm phải có những nội dung sau đây: A) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng; B) Đối tượng bảo hiểm; C) Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm đối với bảo hiểm tài sản; D) Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm; Đ) Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; E) Thời hạn bảo hiểm; G) Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm; H) Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; I) Các quy định giải quyết tranh chấp; K) Ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng. 2. Ngoài những nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, hợp đồng bảo hiểm có thể có các nội dung khác do các bên thỏa thuận. Điều 14: Hình thức hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định. Điều 15. Thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi có một trong những trường hợp sau đây: 1. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm; 2. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm; 3. Có bằng chứng về việc hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm. Điều 16: Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm 1. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm quy định trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không phải bồi thường hoặc không phải trả tiền bảo hiểm khi xẩy ra sự kiện bảo hiểm. 2. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm phải được quy định rõ trong hợp đồng bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích rõ cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng. 3. Không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong các trường hợp sau đây: A) Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý; B) Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm. Điều 17: Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm 1. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền: A) Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; B) Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm; C) Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều 19, khoản 2 Điều 20, khoản 2 Điều 35 và khoản 3 Điều 50 của Luật này; D) Từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; Đ) Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; E) Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm do người thứ ba gây ra đối với tài sản và trách nhiệm dân sự; G) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ: A) Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm; B) Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm; C) Trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; D) Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; Đ) Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; E) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Điều 18: Quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm 1. Bên mua bảo hiểm có quyền: A) Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm; B) Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm; C) Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 3 Điều 19, khoản 1 Điều 20 của Luật này; D) Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; Đ) Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm hoặc theo quy định của pháp luật; E) Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ: A) Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; B) Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm; C) Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm; D) Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; Đ) áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; E) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Điều 19: Trách nhiệm cung cấp thông tin 1. Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; bên mua bảo hiểm có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm. Các bên chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin đó. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm giữ bí mật về thông tin do bên mua bảo hiểm cung cấp. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây: A) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường; B) Không thực hiện các nghĩa vụ trong việc cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật này. 3. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm; doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại phát sinh cho bên mua bảo hiểm do việc cung cấp thông tin sai sự thật. Điều 20: Thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm 1. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm. 2. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm. Điều 21: Giải thích hợp đồng bảo hiểm Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm. Điều 22: Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu 1. Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu trong các trường hợp sau đây: A) Bên mua bảo hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm; B) Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm không tồn tại; C) Tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra; D) Bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm; Đ) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. 2. Việc xử lý hợp đồng bảo hiểm vô hiệu được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều 23: Chấm dứt hợp đồng bảo hiểm Ngoài các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự, hợp đồng bảo hiểm còn chấm dứt trong các trường hợp sau đây: 1. Bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm; 2. Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm hoặc không đóng phí bảo hiểm theo thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; 3. Bên mua bảo hiểm không đóng đủ phí bảo hiểm trong thời gian gia hạn đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 24: Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm 1. Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm mà bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm. 2. Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này, bên mua bảo hiểm vẫn phải đóng đủ phí bảo hiểm đến thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Quy định này không áp dụng đối với hợp đồng bảo hiểm con người. 3. Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 3 Điều 23 của Luật này, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời gian gia hạn đóng phí; bên mua bảo hiểm vẫn phải đóng phí bảo hiểm cho đến hết thời gian gia hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Quy định này không áp dụng đối với hợp đồng bảo hiểm con người. 4. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trong các trường hợp khác được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều 25: Sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo hiểm 1. Bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận sửa đổi, bổ sung phí bảo hiểm, điều kiện, điều khoản bảo hiểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 2. Mọi sửa đổi, bổ sung hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản. Điều 26: Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm 1. Bên mua bảo hiểm có thể chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 2. Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc chuyển nhượng và doanh nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận việc chuyển nhượng đó, trừ trường hợp việc chuyển nhượng được thực hiện theo tập quán quốc tế. Điều 27: Trách nhiệm trong trường hợp tái bảo hiểm 1. Doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm duy nhất đối với bên mua bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm, kể cả trong trường hợp tái bảo hiểm những trách nhiệm đã nhận bảo hiểm. 2. Doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm không được yêu cầu bên mua bảo hiểm trực tiếp đóng phí bảo hiểm cho mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. 3. Bên mua bảo hiểm không được yêu cầu doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường cho mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 28: Thời hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường 1. Thời hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo hợp đồng bảo hiểm là một năm, kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm. Thời gian xảy ra sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính vào thời hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường. 2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm chứng minh được rằng bên mua bảo hiểm không biết thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm thì thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này được tính từ ngày bên mua bảo hiểm biết việc xảy ra sự kiện bảo hiểm đó. 3. Trong trường hợp người thứ ba yêu cầu bên mua bảo hiểm bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm thì thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này được tính từ ngày người thứ ba yêu cầu. Điều 29: Thời hạn trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường theo thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm; trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường. Điều 30: Thời hiệu khởi kiện Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp. Mục 2:Hợp đồng bảo hiểm con người Điều 31: Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người 1. Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn con người. 2. Bên mua bảo hiểm chỉ có thể mua bảo hiểm cho những người sau đây: A) Bản thân bên mua bảo hiểm; B) Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm; C) Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng; D) Người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Điều 32: Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm hoặc phương thức xác định số tiền bảo hiểm được bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 33: Căn cứ trả tiền bảo hiểm tai nạn, sức khỏe con người 1. Trong bảo hiểm tai nạn con người, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng trong phạm vi số tiền bảo hiểm, căn cứ vào thương tật thực tế của người được bảo hiểm và thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 2. Trong bảo hiểm sức khỏe con người, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm trong phạm vi số tiền bảo hiểm, căn cứ vào chi phí khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi sức khỏe của người được bảo hiểm do bệnh tật hoặc tai nạn gây ra và thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 34: Thông báo tuổi trong bảo hiểm nhân thọ 1. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ thông báo chính xác tuổi của người được bảo hiểm vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm để làm cơ sở tính phí bảo hiểm. 2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm không thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm và hoàn trả số phí bảo hiểm đã đóng cho bên mua bảo hiểm sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực từ hai năm trở lên thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm. 3. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm làm giảm số phí bảo hiểm phải đóng, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền: A) Yêu cầu bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm bổ sung tương ứng với số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trong hợp đồng; B) Giảm số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng. 4. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm thông báo sai tuổi của người được bảo hiểm dẫn đến tăng số phí bảo hiểm phải đóng, nhưng tuổi đúng của người được bảo hiểm vẫn thuộc nhóm tuổi có thể được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn trả cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm vượt trội đã đóng hoặc tăng số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm tương ứng với số phí bảo hiểm đã đóng. Điều 35: Đóng phí bảo hiểm nhân thọ 1. Bên mua bảo hiểm có thể đóng phí bảo hiểm một lần hoặc nhiều lần theo thời hạn, phương thức thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 2. Trong trường hợp phí bảo hiểm được đóng nhiều lần và bên mua bảo hiểm đã đóng một hoặc một số lần phí bảo hiểm nhưng không thể đóng được các khoản phí bảo hiểm tiếp theo thì sau thời hạn 60 ngày, kể từ ngày gia hạn đóng phí, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng, bên mua bảo hiểm không có quyền đòi lại khoản phí bảo hiểm đã đóng nếu thời gian đã đóng phí bảo hiểm dưới hai năm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 3. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm từ hai năm trở lên mà doanh nghiệp bảo hiểm đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định tại khoản 2 Điều này thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. 4. Các bên có thể thỏa thuận khôi phục hiệu lực hợp đồng bảo hiểm đã bị đơn phương đình chỉ thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này trong thời hạn hai năm, kể từ ngày bị đình chỉ và bên mua bảo hiểm đã đóng số phí bảo hiểm còn thiếu. Điều 36: Không được khởi kiện đòi đóng phí bảo hiểm Trong bảo hiểm con người, nếu bên mua bảo hiểm không đóng hoặc đóng không đủ phí bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm không được khởi kiện đòi bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm. Điều 37: Không được yêu cầu người thứ ba bồi hoàn Trong trường hợp người được bảo hiểm chết, bị thương tật hoặc đau ốm do hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp của người thứ ba gây ra, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm mà không có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã trả cho người thụ hưởng. Người thứ ba phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người được bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Điều 38: Giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết 1. Khi bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của người khác thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản, trong đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và người thụ hưởng. Mọi trường hợp thay đổi người thụ hưởng phải có sự đồng ý bằng văn bản của bên mua bảo hiểm. 2. Không được giao kết hợp đồng bảo hiểm con người cho trường hợp chết của những người sau đây: A) Người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp cha, mẹ hoặc người giám hộ của người đó đồng ý bằng văn bản; B) Người đang mắc bệnh tâm thần. Điều 39: Các trường hợp không trả tiền bảo hiểm 1. Doanh nghiệp bảo hiểm không phải trả tiền bảo hiểm trong các trường hợp sau đây: A) Người được bảo hiểm chết do tự tử trong thời hạn hai năm, kể từ ngày nộp khoản phí bảo hiểm đầu tiên hoặc kể từ ngày hợp đồng bảo hiểm tiếp tục có hiệu lực; B) Người được bảo hiểm chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn do lỗi cố ý của bên mua bảo hiểm hoặc lỗi cố ý của người thụ hưởng; C) Người được bảo hiểm chết do bị thi hành án tử hình. 2. Trong trường hợp một hoặc một số người thụ hưởng cố ý gây ra cái chết hay thương tật vĩnh viễn cho người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải trả tiền bảo hiểm cho những người thụ hưởng khác theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. 3. Trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho bên mua bảo hiểm giá trị hoàn lại của hợp đồng bảo hiểm hoặc toàn bộ số phí bảo hiểm đã đóng sau khi đã trừ các chi phí hợp lý có liên quan; nếu bên mua bảo hiểm chết thì số tiền trả lại được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế. Mục 3:Hợp đồng bảo hiểm tài sản Điều 40: Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Điều 41: Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là số tiền mà bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm cho tài sản đó. Điều 42: Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị 1. Hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị là hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm cao hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không được giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị. 2. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan. Trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm. Điều 43: Hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị 1. Hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị là hợp đồng trong đó số tiền bảo hiểm thấp hơn giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. 2. Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị được giao kết, doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng. Điều 44: Hợp đồng bảo hiểm trùng 1. Hợp đồng bảo hiểm trùng là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm. 2. Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản. Điều 45: Tổn thất do hao mòn tự nhiên hoặc do bản chất vốn có của tài sản Doanh nghiệp bảo hiểm không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm bị tổn thất do hao mòn tự nhiên hoặc do bản chất vốn có của tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 46: Căn cứ bồi thường 1. Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và mức độ thiệt hại thực tế, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Chi phí để xác định giá thị trường và mức độ thiệt hại do doanh nghiệp bảo hiểm chịu. 2. Số tiền bồi thường mà doanh nghiệp bảo hiểm trả cho người được bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. 3. Ngoài số tiền bồi thường, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải trả cho người được bảo hiểm những chi phí cần thiết, hợp lý để đề phòng, hạn chế tổn thất và những chi phí phát sinh mà người được bảo hiểm phải chịu để thực hiện chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm. Điều 47: Hình thức bồi thường 1. Bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thỏa thuận một trong các hình thức bồi thường sau đây: A) Sửa chữa tài sản bị thiệt hại; B) Thay thế tài sản bị thiệt hại bằng tài sản khác; C) Trả tiền bồi thường. 2. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm không thỏa thuận được về hình thức bồi thường thì việc bồi thường sẽ được thực hiện bằng tiền. 3. Trong trường hợp bồi thường theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thu hồi tài sản bị thiệt hại sau khi đã thay thế hoặc bồi thường toàn bộ theo giá thị trường của tài sản. Điều 48: Giám định tổn thất 1. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc người được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền thực hiện việc giám định tổn thất để xác định nguyên nhân và mức độ tổn thất. Chi phí giám định tổn thất do doanh nghiệp bảo hiểm chịu. 2. Trong trường hợp các bên không thống nhất về nguyên nhân và mức độ tổn thất thì có thể trưng cầu giám định viên độc lập, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được việc trưng cầu giám định viên độc lập thì một trong các bên được yêu cầu Tòa án nơi xảy ra tổn thất hoặc nơi cư trú của người được bảo hiểm chỉ định giám định viên độc lập. Kết luận của giám định viên độc lập có giá trị bắt buộc đối với các bên. Điều 49: Trách nhiệm chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn 1. Trong trường hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm thì người được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm. 2. Trong trường hợp người được bảo hiểm từ chối chuyển quyền cho doanh nghiệp bảo hiểm, không bảo lưu hoặc từ bỏ quyền yêu cầu người thứ ba bồi thường thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền khấu trừ số tiền bồi thường tùy theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm. 3. Doanh nghiệp bảo hiểm không được yêu cầu cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người được bảo hiểm bồi hoàn khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã trả cho người được bảo hiểm, trừ trường hợp những người này cố ý gây ra tổn thất. Điều 50: Các quy định về an toàn 1. Người được bảo hiểm phải thực hiện các quy định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh lao động và những quy định khác của pháp luật có liên quan nhằm bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế rủi ro. 3. Trong trường hợp người được bảo hiểm không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền ấn định một thời hạn để người được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đó; nếu hết thời hạn này mà các biện pháp bảo đảm an toàn vẫn không được thực hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền tăng phí bảo hiểm hoặc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm. 4. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể áp dụng các biện pháp phòng ngừa để bảo đảm an toàn cho đối tượng bảo hiểm khi được sự đồng ý của bên mua bảo hiểm hoặc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều 51: Không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm Trong trường hợp xảy ra tổn thất, người được bảo hiểm không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm, trừ trường hợp pháp luật có quy định hoặc các bên có thỏa thuận khác. Mục 4:Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự Điều 52: Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo quy định của pháp luật. Điều 53: Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm 1. Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phát sinh nếu người thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường thiệt hại do lỗi của người đó gây ra cho người thứ ba trong thời hạn bảo hiểm. 2. Người thứ ba không có quyền trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Điều 54: Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là số tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 55: Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm 1. Trong phạm vi số tiền bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả cho người được bảo hiểm những khoản tiền mà theo quy định của pháp luật người được bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho người thứ ba. 2. Ngoài việc trả tiền bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải trả các chi phí liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về trách nhiệm đối với người thứ ba và lãi phải trả cho người thứ ba do người được bảo hiểm chậm trả tiền bồi thường theo chỉ dẫn của doanh nghiệp bảo hiểm. 3. Tổng số tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không vượt quá số tiền bảo hiểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. 4. Trong trường hợp người được bảo hiểm phải đóng tiền bảo lãnh hoặc ký quỹ để bảo đảm cho tài sản không bị lưu giữ hoặc để tránh việc khởi kiện tại tòa án thì theo yêu cầu của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện việc bảo lãnh hoặc ký quỹ trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Điều 56: Quyền đại diện cho người được bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền thay mặt bên mua bảo hiểm để thương lượng với người thứ ba về mức độ bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm. Điều 57: Phương thức bồi thường Theo yêu cầu của người được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có thể bồi thường trực tiếp cho người được bảo hiểm hoặc cho người thứ ba bị thiệt hại. Chương III:Doanh nghiệp bảo hiểm Mục 1:Cấp giấy phép thành lập và hoạt động Điều 58: Thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều 59. Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm Các tổ chức kinh doanh bảo hiểm bao gồm: 1. Công ty cổ phần bảo hiểm; 2. Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm; 3. Hợp tác xã bảo hiểm; 4. Tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Điều 60: Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm 1. Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm: A) Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm; B) Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất; C) Giám định tổn thất; D) Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn; Đ) Quản lý quỹ và đầu tư vốn; E) Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm không được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ, trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm sức khỏe và bảo hiểm tai nạn con người bổ trợ cho bảo hiểm nhân thọ. Điều 61: Nội dung kinh doanh tái bảo hiểm Kinh doanh tái bảo hiểm bao gồm: 1. Chuyển một phần trách nhiệm đã nhận bảo hiểm cho một hay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác; 2. Nhận bảo hiểm lại một phần hay toàn bộ trách nhiệm mà doanh nghiệp bảo hiểm khác đã nhận bảo hiểm. Điều 62: Thẩm quyền cấp giấy phép thành lập và hoạt động 1. Bộ Tài chính cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển thị trường bảo hiểm, thị trường tài chính của Việt Nam. Điều 63: Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động Các điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động bao gồm: 1. Có số vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định theo quy định của Chính phủ; 2. Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại Điều 64 của Luật này; 3. Có loại hình doanh nghiệp và điều lệ phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật; 4. Người quản trị, người điều hành có năng lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm. 5. Tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải có đủ năng lực tài chính và có bằng chứng để chứng minh nguồn tài chính hợp pháp khi tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm. Điều 64: Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động bao gồm: 1. Đơn xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động; 2. Dự thảo điều lệ doanh nghiệp; 3. Phương án hoạt động năm năm đầu, trong đó nêu rõ phương thức trích lập dự phòng nghiệp vụ, chương trình tái bảo hiểm, đầu tư vốn, hiệu quả kinh doanh, khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm và lợi ích kinh tế của việc thành lập doanh nghiệp; 4. Danh sách, lý lịch, các văn bằng chứng minh năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người quản trị, người điều hành doanh nghiệp; 5. Mức vốn góp và phương thức góp vốn, danh sách những tổ chức, cá nhân chiếm 10% số vốn điều lệ trở lên; tình hình tài chính và những thông tin khác có liên quan đến các tổ chức, cá nhân đó; 6. Quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm của loại sản phẩm bảo hiểm dự kiến tiến hành. Điều 65: Thời hạn cấp giấy phép Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động, Bộ Tài chính phải cấp hoặc từ chối cấp giấy phép. Trong trường hợp từ chối cấp giấy phép, Bộ Tài chính phải có văn bản giải thích lý do. Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Điều 66: Lệ phí cấp giấy phép Doanh nghiệp bảo hiểm được cấp giấy phép thành lập và hoạt động phải nộp lệ phí cấp giấy phép theo quy định của pháp luật. Điều 67: Công bố nội dung hoạt động Sau khi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm phải công bố nội dung hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Điều 68: Thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động 1. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động khi xảy ra một trong những trường hợp sau đây: A) Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động có thông tin cố ý làm sai sự thật; B) Sau 12 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động mà không bắt đầu hoạt động; C) Giải thể theo quy định tại Điều 82 của Luật này; D) Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, phá sản, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp; Đ) Hoạt động sai mục đích hoặc không đúng với nội dung quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động; E) Không bảo đảm các yêu cầu về tài chính để thực hiện các cam kết với bên mua bảo hiểm. 2. Trong trường hợp bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại các điểm a, b, c, đ và e khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm phải đình chỉ ngay việc giao kết hợp đồng bảo hiểm mới, nhưng vẫn có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm và phải thực hiện các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết trước ngày bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động. Trong trường hợp bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều này, quyền và nghĩa vụ của các bên được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Quyết định thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm được Bộ Tài chính công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điều 69: Những thay đổi phải được chấp thuận 1. Doanh nghiệp bảo hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản khi thay đổi một trong những nội dung sau đây: A) Tên doanh nghiệp; B) Vốn điều lệ; C) Mở hoặc chấm dứt hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện; D) Địa điểm đặt trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện; Đ) Nội dung, phạm vi và thời hạn hoạt động; E) Chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp chiếm 10% số vốn điều lệ trở lên; g) Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc), chuyên gia tính toán; h) Chia tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể, chuyển đổi hình thức doanh nghiệp, đầu tư ra nước ngoài. 2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Bộ Tài chính chấp thuận việc thay đổi theo quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm phải công bố các nội dung thay đổi đã được chấp thuận theo quy định của pháp luật. Mục 2:Tổ chức bảo hiểm tương hỗ Điều 70: Tổ chức bảo hiểm tương hỗ Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ vừa là chủ sở hữu vừa là bên mua bảo hiểm. Điều 71: Thành viên tổ chức bảo hiểm tương hỗ 1. Tổ chức, công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoạt động trong cùng một lĩnh vực, ngành nghề, có nhu cầu bảo hiểm đều có quyền tham gia thành lập tổ chức bảo hiểm tương hỗ với tư cách là thành viên sáng lập. 2. Chỉ các tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với tổ chức bảo hiểm tương hỗ mới có thể trở thành thành viên của tổ chức bảo hiểm tương hỗ. Điều 72: Giới hạn trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm tương hỗ Tổ chức bảo hiểm tương hỗ chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của tổ chức trong phạm vi tài sản của tổ chức. Điều 73: Thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của tổ chức bảo hiểm tương hỗ do Chính phủ quy định. Mục 3:Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm Điều 74: Chuyển giao hợp đồng bảo hiểm 1. Việc chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hoặc một số nghiệp vụ bảo hiểm giữa các doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện trong những trường hợp sau đây: A) Doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán; B) Doanh nghiệp bảo hiểm chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể; C) Theo thỏa thuận giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. 2. Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán, giải thể mà không thỏa thuận được việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác thì Bộ Tài chính chỉ định doanh nghiệp bảo hiểm nhận chuyển giao. Điều 75: Điều kiện chuyển giao hợp đồng bảo hiểm Việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm được thực hiện theo các điều kiện sau đây: 1. Doanh nghiệp bảo hiểm nhận chuyển giao đang kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm được chuyển giao; 2. Các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng bảo hiểm được chuyển giao không thay đổi cho đến khi hết thời hạn hợp đồng bảo hiểm; 3. Việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm phải kèm theo việc chuyển giao các quỹ và dự phòng nghiệp vụ liên quan đến toàn bộ hợp đồng bảo hiểm được chuyển giao. Điều 76: Thủ tục chuyển giao hợp đồng bảo hiểm Việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm được thực hiện theo thủ tục sau đây: 1. Doanh nghiệp bảo hiểm chuyển giao hợp đồng bảo hiểm phải có đơn đề nghị chuyển giao hợp đồng bảo hiểm gửi Bộ Tài chính nêu rõ lý do, kế hoạch chuyển giao, kèm theo hợp đồng chuyển giao. Việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm chỉ được tiến hành sau khi đã được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản; 2. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày Bộ Tài chính chấp thuận việc chuyển giao hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp chuyển giao hợp đồng bảo hiểm phải công bố về việc chuyển giao và thông báo cho bên mua bảo hiểm bằng văn bản. Mục 4:Khôi phục khả năng thanh toán, giải thể, phá sản doanh nghiệp bảo hiểm Điều 77: Khả năng thanh toán 1. Doanh nghiệp bảo hiểm phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm được coi là có đủ khả năng thanh toán khi đã trích lập đầy đủ dự phòng nghiệp vụ theo quy định tại Điều 96 của Luật này và có biên khả năng thanh toán không thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định của Chính phủ. 3. Biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm là phần chênh lệch giữa giá trị tài sản và các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp bảo hiểm. Điều 78: Báo cáo nguy cơ mất khả năng thanh toán 1. Doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán khi biên khả năng thanh toán của doanh nghiệp đó thấp hơn biên khả năng thanh toán tối thiểu theo quy định Chính phủ. 2. Trong trường hợp có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm phải báo cáo ngay Bộ Tài chính về thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và các biện pháp khắc phục. Điều 79: Trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong trường hợp có nguy cơ mất khả năng thanh toán Trong trường hợp có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện các biện pháp sau đây: 1. Lập phương án khôi phục khả năng thanh toán, củng cố tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, báo cáo Bộ Tài chính và thực hiện phương án đã được Bộ Tài chính chấp thuận; 2. Thực hiện yêu cầu của Bộ Tài chính về việc khôi phục khả năng thanh toán. Điều 80: Kiểm soát đối với doanh nghiệp bảo hiểm có nguy cơ mất khả năng thanh toán 1.Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không khôi phục được khả năng thanh toán theo phương án đã được chấp thuận, Bộ Tài chính ra quyết định thành lập Ban kiểm soát khả năng thanh toán để áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm. 2. Ban kiểm soát khả năng thanh toán có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: A) Chỉ đạo và giám sát việc triển khai thực hiện các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán theo phương án đã được chấp thuận; B) Thông báo cho các cơ quan nhà nước có liên quan về việc áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán để phối hợp thực hiện; C) Hạn chế phạm vi và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm; D) Đình chỉ những hoạt động có thể dẫn đến việc doanh nghiệp bảo hiểm mất khả năng thanh toán; Đ) Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm chuyển giao toàn bộ hợp đồng bảo hiểm của một hoặc một số nghiệp vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm khác; E) Tạm đình chỉ quyền quản trị, điều hành và yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm thay thế thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) nếu xét thấy cần thiết; G) Yêu cầu Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) miễn nhiệm, đình chỉ công tác đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật, không chấp hành phương án khôi phục khả năng thanh toán đã được chấp thuận; H) Kiến nghị với Bộ Tài chính tiếp tục hoặc chấm dứt các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán; I) Báo cáo Bộ Tài chính về việc áp dụng và kết quả của việc áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán. 3. Ban kiểm soát khả năng thanh toán phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình theo quy định của pháp luật trong quá trình áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm. 4. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu, quyết định của Ban kiểm soát khả năng thanh toán. Điều 81: Chấm dứt việc áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán 1. Việc áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán chấm dứt trong các trường hợp sau đây: A) Hết hạn áp dụng biện pháp khôi phục khả năng thanh toán; B) Hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm trở lại bình thường; C) Doanh nghiệp bảo hiểm đã được hợp nhất, sáp nhập trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp khôi phục khả năng thanh toán,; D) Doanh nghiệp bảo hiểm lâm vào tình trạng phá sản. 2. Việc chấm dứt áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán được thực hiện theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Quyết định này được thông báo cho các cơ quan có liên quan. Điều 82: Giải thể doanh nghiệp bảo hiểm 1. Doanh nghiệp bảo hiểm giải thể trong các trường hợp sau đây: A) Tự nguyện xin giải thể nếu có khả năng thanh toán các khoản nợ; B) Khi hết thời hạn hoạt động quy định trong giấy phép thành lập và hoạt động mà không có quyết định gia hạn; C) Bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động theo quy định tại các điểm a, b, đ và e khoản 1 Điều 68 của Luật này; D) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. 2. Việc giải thể doanh nghiệp bảo hiểm phải được Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản. Điều 83: Phá sản doanh nghiệp bảo hiểm Trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, sau khi áp dụng các biện pháp khôi phục khả năng thanh toán mà vẫn mất khả năng thanh toán thì việc phá sản doanh nghiệp bảo hiểm được thực hiện theo quy định của pháp luật về phá sản doanh nghiệp. Chương IV:Đại lý bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Mục 1:Đại lý bảo hiểm Điều 84: Đại lý bảo hiểm Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều 85: Nội dung hoạt động đại lý bảo hiểm Đại lý bảo hiểm có thể được doanh nghiệp bảo hiểm ủy quyền tiến hành các hoạt động sau đây: 1. Giới thiệu, chào bán bảo hiểm; 2. Thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm; 3. Thu phí bảo hiểm; 4. Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; 5. Thực hiện các hoạt động khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Điều 86: Điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm 1. Cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây: A) Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam; B) Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; c) Có Chứng chỉ đại lý bảo hiểm do cơ sở đào tạo được Bộ Tài chính chấp thuận cấp. Bộ Tài chính quy định về chương trình, nội dung, hình thức đào tạo, việc cấp Chứng chỉ đại lý bảo hiểm. 2. Tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện sau đây: A) Là tổ chức được thành lập và hoạt động hợp pháp; B) Nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm các tội theo quy định của pháp luật không được ký kết hợp đồng đại lý bảo hiểm. Điều 87: Nội dung hợp đồng đại lý bảo hiểm Hợp đồng đại lý bảo hiểm phải có các nội dung chủ yếu sau đây: 1. Tên, địa chỉ của đại lý bảo hiểm; 2. Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm; 3. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, đại lý bảo hiểm; 4. Nội dung và phạm vi hoạt động đại lý bảo hiểm; 5. Hoa hồng đại lý bảo hiểm; 6. Thời hạn hợp đồng; 7. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp. Điều 88: Trách nhiệm của đại lý bảo hiểm Trong trường hợp đại lý bảo hiểm vi phạm hợp đồng đại lý bảo hiểm, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải chịu trách nhiệm về hợp đồng bảo hiểm do đại lý bảo hiểm thu xếp giao kết; đại lý bảo hiểm có trách nhiệm bồi hoàn cho doanh nghiệp bảo hiểm các khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho người được bảo hiểm. Mục 2:Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Điều 89: Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là doanh nghiệp thực hiện hoạt động môi giới bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Điều 90: Nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm Nội dung hoạt động môi giới bảo hiểm bao gồm: 1. Cung cấp thông tin về loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm; 2. Tư vấn cho bên mua bảo hiểm trong việc đánh giá rủi ro, lựa chọn loại hình bảo hiểm, điều kiện, điều khoản, biểu phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm; 3. Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm; 4. Thực hiện các công việc khác có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm. Điều 91: Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 1. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được hưởng hoa hồng môi giới bảo hiểm. Hoa hồng môi giới bảo hiểm được tính trong phí bảo hiểm. 2. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có nghĩa vụ: A) Thực hiện việc môi giới trung thực; B) Không được tiết lộ, cung cấp thông tin làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên mua bảo hiểm; C) Bồi thường thiệt hại cho bên mua bảo hiểm do hoạt động môi giới bảo hiểm gây ra. Điều 92: Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động môi giới bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động ở Việt Nam. Điều 93: Cấp giấy phép thành lập và hoạt động Việc cấp giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thực hiện theo quy định tại Điều 62, Điều 63, các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 64 và các điều 65, 66, 67, 68 và 69 của Luật này. Chương V:Tài chính, hạch toán và báo cáo tài chính Điều 94: Vốn pháp định, vốn điều lệ 1. Chính phủ quy định mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. 2. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải luôn duy trì vốn điều lệ đã góp không thấp hơn mức vốn pháp định. Điều 95: Ký quỹ 1. Doanh nghiệp bảo hiểm phải sử dụng một phần vốn điều lệ để ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam. 2. Chính phủ quy định mức tiền ký quỹ và cách thức sử dụng tiền ký quỹ. Điều 96: Dự phòng nghiệp vụ 1. Dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết. 2. Dự phòng nghiệp vụ phải được trích lập riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phải tương ứng với phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm. 3. Bộ Tài chính quy định cụ thể về mức trích lập, phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm. Điều 97. Quỹ dự trữ và Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải lập quỹ dự trữ bắt buộc để bổ sung vốn điều lệ và bảo đảm khả năng thanh toán. Quỹ dự trữ bắt buộc được trích hàng năm theo tỷ lệ 5% lợi nhuận sau thuế. Mức tối đa của quỹ này do Chính phủ quy định. 2. Ngoài quỹ dự trữ bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều này, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có thể lập các quỹ dự trữ khác từ lợi nhuận sau thuế của năm tài chính theo quy định trong điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. 3. Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm được thành lập để bảo vệ quyền lợi của người được bảo hiểm trong trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm phá sản hoặc mất khả năng thanh toán. Nguồn để lập Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm được trích lập theo tỷ lệ phần trăm trên phí bảo hiểm áp dụng đối với tất cả hợp đồng bảo hiểm. Chính phủ quy định việc trích lập và quản lý, sử dụng Quỹ bảo vệ người được bảo hiểm. Điều 98: Đầu tư vốn 1. Việc đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm phải bảo đảm an toàn, hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu chi trả thường xuyên cho các cam kết theo hợp đồng bảo hiểm. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ được sử dụng vốn nhàn rỗi của mình để đầu tư ở Việt Nam trong các lĩnh vực sau đây: A) Mua trái phiếu Chính phủ; B) Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; C) Kinh doanh bất động sản; D) Góp vốn vào các doanh nghiệp khác; Đ) Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng; E) Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng. 3. Chính phủ quy định cụ thể danh mục đầu tư thuộc các lĩnh vực quy định tại khoản 2 Điều này và tỷ lệ vốn nhàn rỗi được phép đầu tư vào mỗi danh mục đầu tư nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp bảo hiểm luôn duy trì được khả năng thanh toán. Điều 99: Thu, chi tài chính 1. Thu, chi tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm được thực hiện theo quy định của pháp luật. 2. Bộ Tài chính hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chế độ tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Điều 100: Năm tài chính Năm tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 cùng năm dương lịch. Năm tài chính đầu tiên của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bắt đầu từ ngày được cấp giấy phép thành lập và hoạt động và kết thúc vào ngày cuối cùng của năm đó. Điều 101: Chế độ kế toán Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải thực hiện chế độ kế toán áp dụng đối với kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật về kế toán. Điều 102: Kiểm toán Báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận. Điều 103: Báo cáo tài chính 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải thực hiện chế độ báo cáo tài chính theo các quy định của pháp luật về kế toán và báo cáo hoạt động nghiệp vụ định kỳ theo quy định của Bộ Tài chính. 2. Ngoài những báo cáo định kỳ, doanh nghiệp bảo hiểm còn phải báo cáo Bộ Tài chính trong những trường hợp sau đây: A) Khi xảy ra những diễn biến không bình thường trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; B) Khi không bảo đảm các yêu cầu về tài chính theo quy định để thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm. Điều 104: Công khai báo cáo tài chính Sau khi kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải công bố các báo cáo tài chính theo quy định của pháp luật. Chương VI:Doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm vốn đầu tư nước ngoài Điều 105. Hình thức hoạt động 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức sau đây: a) Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm, công ty trách nhiệm hữu hạn môi giới bảo hiểm; b) Chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm qua biên giới theo quy định của Chính phủ. 3. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài được đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam. Văn phòng đại diện không được kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Điều 106: Điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động Các điều kiện để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: 1. Các điều kiện quy định tại Điều 63 của Luật này; 2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động hợp pháp và trong tình trạng tài chính bình thường; 3. Doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm, hoạt động môi giới bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành ở Việt Nam. Điều 107: Điều kiện để được cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam Điều kiện để được cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam bao gồm: 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài đã hoạt động năm năm trở lên; 2. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài có quan hệ hợp tác với các cơ quan, tổ chức Việt Nam. Điều 108. Thẩm quyền cấp giấy phép Bộ Tài chính cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài; giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam. Điều 109: Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động 1. Ngoài các nội dung quy định tại Điều 64 của Luật này, hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh còn bao gồm: A) Điều lệ, giấy phép thành lập và hoạt động của các bên tham gia liên doanh; B) Hợp đồng liên doanh; C) Bảng tổng kết tài sản, báo cáo tài chính hàng năm có xác nhận của tổ chức kiểm toán độc lập về tình hình hoạt động của các bên tham gia liên doanh trong ba năm gần nhất. 2. Ngoài các nội dung quy định tại Điều 64 của Luật này, hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài còn bao gồm: A) Điều lệ, giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính; B) Giấy ủy quyền cho Tổng giám đốc (Giám đốc) tại Việt Nam; C) Bảng tổng kết tài sản, báo cáo tài chính hàng năm có xác nhận của tổ chức kiểm toán độc lập về tình hình hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính trong ba năm gần nhất. Điều 110: Hồ sơ xin cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện Hồ sơ xin cấp giấy phép đặt văn phòng đại diện doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam bao gồm: 1. Đơn xin đặt văn phòng đại diện; 2. Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính; 3. Bảng tổng kết tài sản, báo cáo tài chính hàng năm có xác nhận của tổ chức kiểm toán độc lập về tình hình hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài trong ba năm gần nhất; 4. Họ, tên, lý lịch của Trưởng văn phòng đại diện tại Việt Nam; 5. Bản giới thiệu về doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài và hoạt động hợp tác với các cơ quan, tổ chức Việt Nam. Điều 111: Thời hạn cấp giấy phép, lệ phí cấp giấy phép và công bố nội dung hoạt động Thời hạn cấp giấy phép, lệ phí cấp giấy phép và công bố nội dung hoạt động đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài; văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài được thực hiện theo quy định tại các điều 65, 66 và 67 của Luật này. Điều 112: Thu hồi giấy phép 1. Ngoài các quy định tại Điều 68 của Luật này, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài có thể bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động khi doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động. 2. Văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài bị thu hồi giấy phép đặt văn phòng đại diện khi doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài nơi đóng trụ sở chính bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động. Điều 113: Những thay đổi phải được chấp thuận Những thay đổi phải được chấp thuận đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Điều 69 của Luật này. Điều 114: Nội dung hoạt động Nội dung hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài; văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Điều 115: Vốn, quỹ dự trữ và thu chi tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài 1. Chính phủ quy định mức vốn pháp định của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. 2. Việc trích lập quỹ dự trữ bắt buộc và các quỹ dự trữ khác của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Điều 97 của Luật này. 3. Thu, chi tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 116: Khả năng thanh toán, ký quỹ, dự phòng nghiệp vụ và đầu tư vốn của doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu nước ngoài 1. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài phải duy trì khả năng thanh toán theo quy định tại Điều 77 của Luật này. 2. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài phải ký quỹ, trích lập dự phòng nghiệp vụ theo quy định tại Điều 95 và Điều 96 của Luật này. 3. Doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được đầu tư vốn theo quy định tại Điều 98 của Luật này. Điều 117: Chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán và báo cáo tài chính theo quy định tại các điều 101, 102, 103 và 104 của Luật này. 2. Trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày kết thúc năm tài chính, doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài; văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài phải gửi báo cáo tài chính năm của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài cho Bộ Tài chính. Điều 118: Chuyển lợi nhuận, chuyển tài sản ra nước ngoài 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài được chuyển ra nước ngoài số lợi nhuận còn lại thuộc sở hữu của mình sau khi đã trích lập các quỹ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật Việt Nam. 2. Bên nước ngoài trong doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh được chuyển ra nước ngoài số lợi nhuận được chia sau khi doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh đã trích lập các quỹ và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật Việt Nam. 3. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài trong doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh; doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài trong doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh được chuyển ra nước ngoài số tài sản còn lại của mình sau khi đã thanh lý, kết thúc hoạt động tại Việt Nam. 4. Việc chuyển tiền và các tài sản khác ra nước ngoài quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Điều 119: Các quy định khác Chính phủ quy định cụ thể nội dung, phạm vi và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài và văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam. Chương VII:Quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm Điều 120: Nội dung quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm Nội dung quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm bao gồm: 1. Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm; xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam; 2. Cấp và thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam; 3. Ban hành, phê chuẩn, hướng dẫn thực hiện quy tắc, điều khoản, biểu phí, hoa hồng bảo hiểm; 4. Giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hoạt động nghiệp vụ, tình hình tài chính, quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro và việc chấp hành pháp luật của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm; áp dụng các biện pháp cần thiết để doanh nghiệp bảo hiểm bảo đảm các yêu cầu về tài chính và thực hiện những cam kết với bên mua bảo hiểm; 5. Tổ chức thông tin và dự báo tình hình thị trường bảo hiểm; 6. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm; 7. Chấp thuận việc doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm hoạt động ở nước ngoài; 8. Quản lý hoạt động của văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam; 9. Tổ chức việc đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý và chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm; 10. Thanh tra, kiểm tra hoạt động kinh doanh bảo hiểm; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Điều 121: Cơ quan quản lý nhà nước 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. 2. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. 3. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. 4. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại địa phương theo quy định của pháp luật. Điều 122. Thanh tra chuyên ngành kinh doanh bảo hiểm 1. Cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành kinh doanh bảo hiểm. 2. Tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành kinh doanh bảo hiểm theo quy định của Luật này và pháp luật về thanh tra.” Chương VIII:Khen thưởng và xử lý vi phạm Điều 123: Khen thưởng Tổ chức, cá nhân có thành tích trong kinh doanh bảo hiểm, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Điều 124: Các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm Các hành vi vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm bao gồm: 1. Kinh doanh bảo hiểm không có giấy phép thành lập và hoạt động hoặc không đúng với nội dung giấy phép thành lập và hoạt động; 2. Vi phạm quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, thanh tra, kiểm tra và giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; 3. Cạnh tranh bất hợp pháp; 4. Ép buộc giao kết hợp đồng bảo hiểm; 5. Vi phạm quy định về bảo hiểm bắt buộc; 6. Vi phạm nghĩa vụ giữ bí mật về thông tin có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm do bên mua bảo hiểm cung cấp; 7. Cung cấp thông tin, số liệu, báo cáo sai sự thật; 8. Kinh doanh trong điều kiện không bảo đảm yêu cầu về tài chính, vi phạm quy định về vốn pháp định, dự trữ, ký quỹ, trích lập, quản lý và sử dụng dự phòng nghiệp vụ; 9. Vi phạm quy định về đầu tư vốn; 10. Các hành vi khác vi phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm. Điều 125: Xử lý vi phạm 1. Người nào vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. 2. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định về cấp giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam, quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Điều 126: Khiếu nại, khởi kiện về quyết định xử phạt vi phạm hành chính 1. Tổ chức, cá nhân bị xử lý vi phạm hành chính có quyền khiếu nại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật. 2. Trong thời gian khiếu nại hoặc khởi kiện, tổ chức, cá nhân bị xử lý vi phạm hành chính vẫn phải thi hành quyết định xử lý vi phạm hành chính. Khi có quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thi hành theo quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án. Chương IX:Điều khoản thi hành Điều 127: Quy định đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm, văn phòng đại diện được thành lập, hoạt động; hợp đồng bảo hiểm được giao kết trước ngày Luật này có hiệu lực 1. Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đã thành lập và hoạt động theo quyết định thành lập, giấy phép thành lập, giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm; văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài đã hoạt động theo giấy phép đặt văn phòng đại diện cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành không phải thực hiện các thủ tục xin cấp lại giấy phép. 2. Các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết trước ngày Luật này có hiệu lực vẫn được tiếp tục thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng. 3. Chứng chỉ đào tạo đại lý bảo hiểm đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực vẫn có giá trị sử dụng, không phải làm thủ tục chuyển đổi thành Chứng chỉ đại lý bảo hiểm. Điều 128: Hiệu lực thi hành 1. Luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011. 2. Những quy định trước đây trái với Luật này đều bãi bỏ. Điều 129: Hướng dẫn thi hành Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2010. Luật pháp Việt Nam
14875
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Nh%C3%A0%20%E1%BB%9F%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Nhà ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Nhà ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005 Luật Nhà ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009) Luật nhà ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2014
14877
https://vi.wikisource.org/wiki/S%E1%BB%91ng%20m%C3%B2n
Sống mòn
Mục lục Phần 1 Phần 2 Phần 3 Phần 4 Phần 5 Phần 6 Phần 7 Phần 8 Phần 9 Phần 10 Phần 11 Phần 12 Phần 13 Phần 14 Phần 15 Phần 16 Phần 17 Phần 18 Phần 19 Phần 20 Văn học Việt Nam
14885
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Ph%C3%B2ng%2C%20ch%E1%BB%91ng%20b%E1%BB%87nh%20truy%E1%BB%81n%20nhi%E1%BB%85m%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2007 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi, bổ sung 2008
14889
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Ph%C3%B2ng%2C%20ch%E1%BB%91ng%20b%E1%BB%87nh%20truy%E1%BB%81n%20nhi%E1%BB%85m%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202007%20%28s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%202008%29
Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2007 (sửa đổi, bổ sung 2008)
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10; Quốc hội ban hành Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Chương I:Những quy định chung Điều 1: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng 1. Luật này quy định về phòng, chống bệnh truyền nhiễm; kiểm dịch y tế biên giới; chống dịch; các điều kiện bảo đảm cho công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm ở người. Việc phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. 2. Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt Nam. Điều 2: Giải thích từ ngữ Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 1. Bệnh truyền nhiễm là bệnh lây truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người hoặc từ động vật sang người do tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. 2. Tác nhân gây bệnh truyền nhiễm là vi rút, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm có khả năng gây bệnh truyền nhiễm. 3. Trung gian truyền bệnh là côn trùng, động vật, môi trường, thực phẩm và các vật khác mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm và có khả năng truyền bệnh. 4. Người mắc bệnh truyền nhiễm là người bị nhiễm tác nhân gây bệnh truyền nhiễm có biểu hiện triệu chứng bệnh. 5. Người mang mầm bệnh truyền nhiễm là người mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nhưng không có biểu hiện triệu chứng bệnh. 6. Người tiếp xúc là người có tiếp xúc với người mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm, trung gian truyền bệnh và có khả năng mắc bệnh. 7. Người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm là người tiếp xúc hoặc người có biểu hiện triệu chứng bệnh truyền nhiễm nhưng chưa rõ tác nhân gây bệnh. 8. Giám sát bệnh truyền nhiễm là việc thu thập thông tin liên tục, có hệ thống về tình hình, chiều hướng của bệnh truyền nhiễm, phân tích, giải thích nhằm cung cấp thông tin cho việc lập kế hoạch, triển khai và đánh giá hiệu quả các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 9. An toàn sinh học trong xét nghiệm là việc sử dụng các biện pháp để giảm thiểu hoặc loại trừ nguy cơ lây truyền tác nhân gây bệnh truyền nhiễm trong cơ sở xét nghiệm, từ cơ sở xét nghiệm ra môi trường và cộng đồng. 10. Vắc xin là chế phẩm chứa kháng nguyên tạo cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn dịch, được dùng với mục đích phòng bệnh. 11. Sinh phẩm y tế là sản phẩm có nguồn gốc sinh học được dùng để phòng bệnh, chữa bệnh và chẩn đoán bệnh cho người. 12. Tình trạng miễn dịch là mức độ đề kháng của cá nhân hoặc cộng đồng với một tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. 13. Dịch là sự xuất hiện bệnh truyền nhiễm với số người mắc bệnh vượt quá số người mắc bệnh dự tính bình thường trong một khoảng thời gian xác định ở một khu vực nhất định. 14. Vùng có dịch là khu vực được cơ quan có thẩm quyền xác định có dịch. 15. Vùng có nguy cơ dịch là khu vực lân cận với vùng có dịch hoặc xuất hiện các yếu tố gây dịch. 16. Cách ly y tế là việc tách riêng người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm hoặc vật có khả năng mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm nhằm hạn chế sự lây truyền bệnh. 17. Xử lý y tế là việc thực hiện các biện pháp sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế, cách ly y tế, tẩy uế, diệt tác nhân gây bệnh truyền nhiễm, trung gian truyền bệnh và các biện pháp y tế khác. Điều 3: Phân loại bệnh truyền nhiễm 1. Bệnh truyền nhiễm gồm các nhóm sau đây: a) Nhóm A gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A bao gồm bệnh bại liệt; bệnh cúm A-H5N1; bệnh dịch hạch; bệnh đậu mùa; bệnh sốt xuất huyết do vi rút Ê - bô - la (Ebola), Lát-sa (Lassa) hoặc Mác-bớc (Marburg); bệnh sốt Tây sông Nin (Nile); bệnh sốt vàng; bệnh tả; bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do vi rút và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới phát sinh chưa rõ tác nhân gây bệnh; b) Nhóm B gồm các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm có khả năng lây truyền nhanh và có thể gây tử vong. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B bao gồm bệnh do vi rút A-đê-nô (Adeno); bệnh do vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); bệnh bạch hầu; bệnh cúm; bệnh dại; bệnh ho gà; bệnh lao phổi; bệnh do liên cầu lợn ở người; bệnh lỵ A-míp (Amibe); bệnh lỵ trực trùng; bệnh quai bị; bệnh sốt Đăng gơ (Dengue), sốt xuất huyết Đăng gơ (Dengue); bệnh sốt rét; bệnh sốt phát ban; bệnh sởi; bệnh tay-chân-miệng; bệnh than; bệnh thủy đậu; bệnh thương hàn; bệnh uốn ván; bệnh Ru-bê-ôn (Rubeon); bệnh viêm gan vi rút; bệnh viêm màng não do não mô cầu; bệnh viêm não vi rút; bệnh xoắn khuẩn vàng da; bệnh tiêu chảy do vi rút Rô-ta (Rota); c) Nhóm C gồm các bệnh truyền nhiễm ít nguy hiểm, khả năng lây truyền không nhanh. Các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm C bao gồm bệnh do Cờ-la-my-đi-a (Chlamydia); bệnh giang mai; các bệnh do giun; bệnh lậu; bệnh mắt hột; bệnh do nấm Can-đi-đa-an-bi-căng (Candida albicans); bệnh Nô-ca-đi-a (Nocardia); bệnh phong; bệnh do vi rút Xi-tô-mê-ga-lô (Cytomegalo); bệnh do vi rút Héc-péc (Herpes); bệnh sán dây; bệnh sán lá gan; bệnh sán lá phổi; bệnh sán lá ruột; bệnh sốt mò; bệnh sốt do Rích-két-si-a (Rickettsia); bệnh sốt xuất huyết do vi rút Han-ta (Hanta); bệnh do Tờ-ri-cô-mô-nát (Trichomonas); bệnh viêm da mụn mủ truyền nhiễm; bệnh viêm họng, viêm miệng, viêm tim do vi rút Cốc-xác-ki (Coxsakie); bệnh viêm ruột do Giác-đi-a (Giardia); bệnh viêm ruột do Vi-bờ-ri-ô Pa-ra-hê-mô-ly-ti-cút (Vibrio Parahaemolyticus) và các bệnh truyền nhiễm khác. 2. Bộ trưởng Bộ Y tế quyết định điều chỉnh, bổ sung danh mục bệnh truyền nhiễm thuộc các nhóm quy định tại khoản 1 Điều này. Điều 4: Nguyên tắc phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Lấy phòng bệnh là chính trong đó thông tin, giáo dục, truyền thông, giám sát bệnh truyền nhiễm là biện pháp chủ yếu. Kết hợp các biện pháp chuyên môn kỹ thuật y tế với các biện pháp xã hội, hành chính trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 2. Thực hiện việc phối hợp liên ngành và huy động xã hội trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm; lồng ghép các hoạt động phòng, chống bệnh truyền nhiễm vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. 3. Công khai, chính xác, kịp thời thông tin về dịch. 4. Chủ động, tích cực, kịp thời, triệt để trong hoạt động phòng, chống dịch. Điều 5: Chính sách của Nhà nước về phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Ưu tiên, hỗ trợ đào tạo chuyên ngành y tế dự phòng. 2. Ưu tiên đầu tư nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, hệ thống giám sát phát hiện bệnh truyền nhiễm, nghiên cứu sản xuất vắc xin, sinh phẩm y tế. 3. Hỗ trợ, khuyến khích nghiên cứu khoa học, trao đổi và đào tạo chuyên gia, chuyển giao kỹ thuật trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 4. Hỗ trợ điều trị, chăm sóc người mắc bệnh truyền nhiễm do rủi ro nghề nghiệp và trong các trường hợp cần thiết khác. 5. Hỗ trợ thiệt hại đối với việc tiêu hủy gia súc, gia cầm mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật. 6. Huy động sự đóng góp về tài chính, kỹ thuật và nhân lực của toàn xã hội trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 7. Mở rộng hợp tác với các tổ chức quốc tế, các nước trong khu vực và trên thế giới trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Điều 6: Cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong phạm vi cả nước. 2. Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong phạm vi cả nước. 3. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 4. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo phân cấp của Chính phủ. Điều 7: Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao có trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch về phòng, chống bệnh truyền nhiễm; phối hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau khi có dịch xảy ra và tuân thủ, chấp hành sự chỉ đạo, điều hành của Ban chỉ đạo chống dịch. 2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phòng, chống bệnh truyền nhiễm; tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tại Việt Nam có trách nhiệm tham gia phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật này. Điều 8: Những hành vi bị nghiêm cấm 1. Cố ý làm lây lan tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. 2. Người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm và người mang mầm bệnh truyền nhiễm làm các công việc dễ lây truyền tác nhân gây bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật. 3. Che giấu, không khai báo hoặc khai báo không kịp thời các trường hợp mắc bệnh truyền nhiễm theo quy định của pháp luật. 4. Cố ý khai báo, thông tin sai sự thật về bệnh truyền nhiễm. 5. Phân biệt đối xử và đưa hình ảnh, thông tin tiêu cực về người mắc bệnh truyền nhiễm. 6. Không triển khai hoặc triển khai không kịp thời các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo quy định của Luật này. 7. Không chấp hành các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Chương II:Phòng bệnh truyền nhiễm Mục 1:Thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm Điều 9: Nội dung thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 2. Nguyên nhân, đường lây truyền, cách nhận biết bệnh và các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 3. Hậu quả của bệnh truyền nhiễm đối với sức khoẻ, tính mạng con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 4. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Điều 10: Đối tượng của thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Mọi người đều được tiếp cận với thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 2. Người mắc bệnh truyền nhiễm, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm, người mang mầm bệnh truyền nhiễm, những người trong gia đình họ và các đối tượng trong vùng có dịch, vùng có nguy cơ dịch được ưu tiên tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Điều 11: Yêu cầu của thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Chính xác, rõ ràng, dễ hiểu, thiết thực, kịp thời. 2. Phù hợp với đối tượng, truyền thống văn hoá, dân tộc, đạo đức xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng và phong tục tập quán. Điều 12: Trách nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 2. Bộ Y tế có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc cung cấp chính xác và kịp thời thông tin về bệnh truyền nhiễm. 3. Bộ Thông tin và Truyền thông có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan thông tin đại chúng thường xuyên thông tin, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm, lồng ghép chương trình phòng, chống bệnh truyền nhiễm với các chương trình thông tin, truyền thông khác. 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, các bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan xây dựng nội dung giáo dục phòng, chống bệnh truyền nhiễm kết hợp với các nội dung giáo dục khác. 5. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm cho nhân dân địa phương. 6. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng để thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, báo hình, báo điện tử theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông. Việc thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống bệnh truyền nhiễm trên các phương tiện thông tin đại chúng không thu phí, trừ trường hợp thực hiện theo hợp đồng riêng với chương trình, dự án hoặc do tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tài trợ. Mục 2:Vệ sinh phòng bệnh truyền nhiễm Điều 13: Vệ sinh phòng bệnh truyền nhiễm trong các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân 1. Cơ sở giáo dục phải xây dựng ở nơi cao ráo, sạch sẽ, xa nơi ô nhiễm, đủ nước sinh hoạt, công trình vệ sinh; phòng học phải thông thoáng, đủ ánh sáng; thực phẩm sử dụng trong cơ sở giáo dục phải bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn. 2. Cơ sở giáo dục có trách nhiệm giáo dục cho người học về vệ sinh phòng bệnh truyền nhiễm bao gồm vệ sinh cá nhân, vệ sinh trong sinh hoạt, lao động và vệ sinh môi trường. 3. Đơn vị y tế của cơ sở giáo dục chịu trách nhiệm tuyên truyền về vệ sinh phòng bệnh; kiểm tra, giám sát vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm và triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 4. Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh phòng bệnh trong cơ sở giáo dục quy định tại khoản 1 Điều này. Điều 14: Vệ sinh trong cung cấp nước sạch, vệ sinh nguồn nước sinh hoạt 1. Nước sạch phải bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật quốc gia theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. 2. Cơ sở cung cấp nước sạch có trách nhiệm áp dụng các biện pháp kỹ thuật, giữ gìn vệ sinh môi trường, tự kiểm tra để bảo đảm chất lượng nước sạch. 3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra chất lượng nước sạch do các cơ sở cung cấp; kiểm tra việc khám sức khỏe định kỳ cho người lao động làm việc tại các cơ sở cung cấp nước sạch. 4. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc bảo vệ, giữ gìn vệ sinh, không để ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt; tạo điều kiện cho việc cung cấp nước sạch. 5. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, giữ gìn vệ sinh, không để ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt. Điều 15: Vệ sinh trong chăn nuôi, vận chuyển, giết mổ, tiêu hủy gia súc, gia cầm và động vật khác 1. Việc chăn nuôi, vận chuyển, giết mổ, tiêu hủy gia súc, gia cầm và động vật khác phải bảo đảm vệ sinh, không gây ô nhiễm môi trường, nguồn nước sinh hoạt hoặc làm phát tán tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. 2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về thú y chịu trách nhiệm hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện các biện pháp vệ sinh trong chăn nuôi, vận chuyển, giết mổ, tiêu hủy gia súc, gia cầm và động vật khác để tránh làm lây truyền bệnh cho người. Điều 16: Vệ sinh an toàn thực phẩm 1. Tổ chức, cá nhân trồng trọt, chăn nuôi, thu hái, đánh bắt, sơ chế, chế biến, bao gói, bảo quản, vận chuyển, buôn bán thực phẩm có trách nhiệm bảo đảm cho thực phẩm không bị nhiễm tác nhân gây bệnh truyền nhiễm và thực hiện các quy định khác của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm. 2. Người tiêu dùng có quyền được cung cấp thông tin về vệ sinh an toàn thực phẩm; có trách nhiệm thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm, thực hiện đầy đủ các hướng dẫn về vệ sinh an toàn thực phẩm, khai báo ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua đường thực phẩm. 3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về vệ sinh an toàn thực phẩm có trách nhiệm hướng dẫn tổ chức, cá nhân thực hiện các biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm để phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Điều 17: Vệ sinh trong xây dựng 1. Công trình khi xây dựng phải tuân thủ các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về vệ sinh trong xây dựng theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. 2. Dự án đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị, khu dân cư tập trung, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm chỉ được xây dựng sau khi có thẩm định của cơ quan y tế có thẩm quyền về báo cáo đánh giá tác động sức khoẻ. 3. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm, các cơ sở có nguy cơ làm lây truyền tác nhân gây bệnh truyền nhiễm phải có khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư, khu bảo tồn thiên nhiên theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. 4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc bảo đảm vệ sinh trong xây dựng. Điều 18: Vệ sinh trong việc quàn, ướp, mai táng, di chuyển thi thể, hài cốt 1. Người tử vong phải được tổ chức mai táng chậm nhất là 48 giờ sau khi chết, trừ trường hợp thi thể được bảo quản theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế; đối với người mắc bệnh truyền nhiễm hoặc bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A tử vong thì thi thể phải được diệt khuẩn và tổ chức mai táng trong thời hạn 24 giờ. 2. Việc bảo quản, quàn, ướp, mai táng, di chuyển thi thể, hài cốt thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. Điều 19: Các hoạt động khác trong vệ sinh phòng bệnh truyền nhiễm 1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện biện pháp bảo đảm về vệ sinh nơi ở, nơi công cộng, nơi sản xuất, kinh doanh, phương tiện giao thông, xử lý chất thải công nghiệp, sinh hoạt và các biện pháp bảo đảm khác về vệ sinh theo quy định của pháp luật có liên quan để không làm phát sinh, lây lan bệnh truyền nhiễm. 2. Mọi người có trách nhiệm thực hiện vệ sinh cá nhân để phòng bệnh truyền nhiễm. Mục 3:Giám sát bệnh truyền nhiễm Điều 20: Hoạt động giám sát bệnh truyền nhiễm 1. Giám sát các trường hợp mắc bệnh, bị nghi ngờ mắc bệnh và mang mầm bệnh truyền nhiễm. 2. Giám sát tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. 3. Giám sát trung gian truyền bệnh. Điều 21: Nội dung giám sát bệnh truyền nhiễm 1. Giám sát các trường hợp mắc bệnh, bị nghi ngờ mắc bệnh và mang mầm bệnh truyền nhiễm bao gồm thông tin về địa điểm, thời gian, các trường hợp mắc bệnh, tử vong; tình trạng bệnh; tình trạng miễn dịch; đặc điểm chủ yếu về dân số và các thông tin cần thiết khác. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan y tế có thẩm quyền được lấy mẫu xét nghiệm ở người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm để giám sát. 2. Giám sát tác nhân gây bệnh truyền nhiễm bao gồm các thông tin liên quan về chủng loại, đặc tính sinh học và phương thức lây truyền từ nguồn truyền nhiễm. 3. Giám sát trung gian truyền bệnh bao gồm các thông tin liên quan đến số lượng, mật độ, thành phần và mức độ nhiễm tác nhân gây bệnh truyền nhiễm của trung gian truyền bệnh. Điều 22: Báo cáo giám sát bệnh truyền nhiễm 1. Báo cáo giám sát bệnh truyền nhiễm phải được gửi cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế. Nội dung báo cáo giám sát bệnh truyền nhiễm bao gồm các thông tin quy định tại Điều 21 của Luật này. 2. Báo cáo giám sát bệnh truyền nhiễm phải được thực hiện bằng văn bản; trong trường hợp khẩn cấp, có thể thực hiện việc báo cáo thông qua fax, thư điện tử, điện tín, điện thoại hoặc báo cáo trực tiếp và trong thời hạn 24 giờ phải gửi báo cáo bằng văn bản. 3. Chế độ báo cáo giám sát bệnh truyền nhiễm bao gồm: a) Báo cáo định kỳ; b) Báo cáo nhanh; c) Báo cáo đột xuất. 4. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế khi nhận được báo cáo phải xử lý thông tin và thông báo cho cơ quan gửi báo cáo. 5. Trong trường hợp xác định có dịch, cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế phải báo cáo ngay với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cấp trên và người có thẩm quyền công bố dịch. 6. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể chế độ thông tin, báo cáo bệnh truyền nhiễm. Điều 23: Trách nhiệm giám sát bệnh truyền nhiễm 1. Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo, tổ chức thực hiện giám sát bệnh truyền nhiễm tại địa phương. 2. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp trong việc chỉ đạo các cơ sở y tế giám sát bệnh truyền nhiễm. 3. Cơ sở y tế có trách nhiệm thực hiện hoạt động giám sát bệnh truyền nhiễm. Khi phát hiện môi trường có tác nhân gây bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, người bị nghi ngờ mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, người mang mầm bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A, cơ sở y tế phải thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế, triển khai vệ sinh, khử trùng, tẩy uế và các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm khác. 4. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi phát hiện bệnh hoặc dấu hiệu bệnh truyền nhiễm có trách nhiệm thông báo cho Ủy ban nhân dân, cơ quan chuyên môn y tế hoặc cơ sở y tế nơi gần nhất. 5. Trong quá trình thực hiện giám sát bệnh truyền nhiễm, cơ sở xét nghiệm có trách nhiệm thực hiện việc xét nghiệm theo yêu cầu của cơ quan y tế có thẩm quyền. 6. Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành quy định chuyên môn kỹ thuật trong giám sát bệnh truyền nhiễm. 7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, cơ quan ngang bộ khác khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thuộc phạm vi quản lý nhà nước của mình, nếu phát hiện tác nhân gây bệnh truyền nhiễm thì có trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế trong hoạt động giám sát. Mục 4:An toàn sinh học trong xét nghiệm Điều 24: Bảo đảm an toàn sinh học tại phòng xét nghiệm 1. Phòng xét nghiệm phải bảo đảm các điều kiện an toàn sinh học phù hợp với từng cấp độ và chỉ được tiến hành xét nghiệm trong phạm vi chuyên môn sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn an toàn sinh học. 2. Chính phủ quy định cụ thể về bảo đảm an toàn sinh học tại phòng xét nghiệm. Điều 25: Quản lý mẫu bệnh phẩm 1. Việc thu thập, vận chuyển, bảo quản, lưu giữ, sử dụng, nghiên cứu, trao đổi và tiêu hủy mẫu bệnh phẩm liên quan đến tác nhân gây bệnh truyền nhiễm phải tuân thủ quy định về chế độ quản lý mẫu bệnh phẩm. 2. Chỉ cơ sở có đủ điều kiện mới được bảo quản, lưu giữ, sử dụng, nghiên cứu, trao đổi và tiêu hủy mẫu bệnh phẩm của bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A. 3. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể chế độ quản lý mẫu bệnh phẩm và điều kiện của cơ sở quản lý mẫu bệnh phẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Điều 26: Bảo vệ người làm việc trong phòng xét nghiệm 1. Người làm việc trong phòng xét nghiệm tiếp xúc với tác nhân gây bệnh truyền nhiễm phải được đào tạo về kiến thức chuyên môn, kỹ năng thực hành và trang bị phòng hộ cá nhân để phòng lây nhiễm tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. 2. Người làm việc trong phòng xét nghiệm tiếp xúc với tác nhân gây bệnh truyền nhiễm phải chấp hành các quy trình chuyên môn kỹ thuật trong xét nghiệm. Mục 5:Sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế phòng bệnh Điều 27: Nguyên tắc sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế 1. Vắc xin, sinh phẩm y tế được sử dụng phải bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 36 của Luật dược. 2. Vắc xin, sinh phẩm y tế được sử dụng theo hình thức tự nguyện hoặc bắt buộc. 3. Vắc xin, sinh phẩm y tế phải được sử dụng đúng mục đích, đối tượng, thời gian, chủng loại và quy trình kỹ thuật sử dụng. 4. Vắc xin, sinh phẩm y tế phải được sử dụng tại các cơ sở y tế có đủ điều kiện. Điều 28: Sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế tự nguyện 1. Mọi người có quyền sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế để bảo vệ sức khoẻ cho mình và cho cộng đồng. 2. Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích công dân tự nguyện sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế. 3. Thầy thuốc, nhân viên y tế trực tiếp tham gia chăm sóc, điều trị cho người mắc bệnh truyền nhiễm, người làm việc trong phòng xét nghiệm tiếp xúc với tác nhân gây bệnh truyền nhiễm được sử dụng miễn phí vắc xin, sinh phẩm y tế. Điều 29: Sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế bắt buộc 1. Người có nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm tại vùng có dịch và đến vùng có dịch bắt buộc phải sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế đối với các bệnh có vắc xin, sinh phẩm y tế phòng bệnh. 2. Trẻ em, phụ nữ có thai phải sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế bắt buộc đối với các bệnh truyền nhiễm thuộc Chương trình tiêm chủng mở rộng. 3. Cha, mẹ hoặc người giám hộ của trẻ em và mọi người dân có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ sở y tế có thẩm quyền trong việc sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế bắt buộc. 4. Miễn phí sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế bắt buộc trong các trường hợp sau: a) Người có nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm tại vùng có dịch; b) Người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử đến vùng có dịch; c) Các đối tượng quy định tại khoản 2 Điều này. Điều 30: Trách nhiệm trong việc tổ chức sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế 1. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm kinh phí cho việc sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế quy định tại khoản 3 Điều 28 và khoản 4 Điều 29 của Luật này. 2. Bộ trưởng Bộ Y tế có trách nhiệm: a) Ban hành danh mục bệnh truyền nhiễm phải sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế bắt buộc quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này; b) Tổ chức triển khai Chương trình tiêm chủng mở rộng và quy định danh mục bệnh truyền nhiễm phải sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế bắt buộc, độ tuổi trẻ em thuộc đối tượng của Chương trình tiêm chủng mở rộng quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này; c) Quy định phạm vi và đối tượng phải sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế bắt buộc tuỳ theo tình hình dịch; d) Quy định việc sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế quy định tại khoản 3 Điều 27 của Luật này; điều kiện của cơ sở y tế quy định tại khoản 4 Điều 27 của Luật này; đ) Quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Hội đồng tư vấn chuyên môn để xem xét nguyên nhân khi có tai biến trong quá trình sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều này. 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) có trách nhiệm chỉ đạo việc tổ chức triển khai tiêm chủng, sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế. 4. Cơ sở y tế có trách nhiệm thực hiện việc tiêm chủng, sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế trong phạm vi chuyên môn theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế. 5. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo quản vắc xin, sinh phẩm y tế và người làm công tác tiêm chủng, sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế có lỗi trong việc sản xuất, kinh doanh, bảo quản, sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế thì phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình gây ra tai biến cho người được sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế theo quy định của pháp luật. 6. Khi thực hiện tiêm chủng mở rộng, nếu xảy ra tai biến ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe hoặc gây thiệt hại đến tính mạng của người được tiêm chủng, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại. Trường hợp xác định được lỗi thuộc về tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, bảo quản vắc xin, sinh phẩm y tế hoặc người làm công tác tiêm chủng thì tổ chức, cá nhân này phải bồi hoàn cho Nhà nước theo quy định của pháp luật. Mục 6:Phòng lây nhiễm bệnh truyền nhiễm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh Điều 31: Biện pháp phòng lây nhiễm bệnh truyền nhiễm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh 1. Cách ly người mắc bệnh truyền nhiễm. 2. Diệt khuẩn, khử trùng môi trường và xử lý chất thải tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. 3. Phòng hộ cá nhân, vệ sinh cá nhân. 4. Các biện pháp chuyên môn khác theo quy định của pháp luật. Điều 32: Trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trong phòng lây nhiễm bệnh truyền nhiễm 1. Thực hiện các biện pháp cách ly phù hợp theo từng nhóm bệnh; chăm sóc toàn diện người mắc bệnh truyền nhiễm. Trường hợp người bệnh không thực hiện yêu cầu cách ly của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cách ly theo quy định của Chính phủ. 2. Tổ chức thực hiện các biện pháp diệt khuẩn, khử trùng môi trường và xử lý chất thải tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. 3. Bảo đảm trang phục phòng hộ, điều kiện vệ sinh cá nhân cho thầy thuốc, nhân viên y tế, người bệnh và người nhà người bệnh. 4. Theo dõi sức khỏe của thầy thuốc, nhân viên y tế trực tiếp tham gia chăm sóc, điều trị người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A. 5. Thông báo thông tin liên quan đến người mắc bệnh truyền nhiễm cho cơ quan y tế dự phòng cùng cấp. 6. Thực hiện các biện pháp chuyên môn khác theo quy định của pháp luật. Điều 33: Trách nhiệm của thầy thuốc và nhân viên y tế trong phòng lây nhiễm bệnh truyền nhiễm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh 1. Thực hiện các biện pháp phòng lây nhiễm bệnh truyền nhiễm quy định tại Điều 31 của Luật này. 2. Tư vấn về các biện pháp phòng, chống bệnh truyền nhiễm cho người bệnh và người nhà người bệnh. 3. Giữ bí mật thông tin liên quan đến người bệnh. Điều 34: Trách nhiệm của người bệnh, người nhà người bệnh trong phòng lây nhiễm bệnh truyền nhiễm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh 1. Người bệnh có trách nhiệm: a) Khai báo trung thực diễn biến bệnh; b) Tuân thủ chỉ định, hướng dẫn của thầy thuốc, nhân viên y tế và nội quy, quy chế của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; c) Đối với người mắc bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A ngay sau khi xuất viện phải đăng ký theo dõi sức khỏe với y tế xã, phường, thị trấn nơi cư trú. 2. Người nhà người bệnh có trách nhiệm thực hiện chỉ định, hướng dẫn của thầy thuốc, nhân viên y tế và nội quy, quy chế của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Chương III:Kiểm dịch y tế biên giới Điều 35: Đối tượng và địa điểm kiểm dịch y tế biên giới 1. Đối tượng phải kiểm dịch y tế biên giới bao gồm: a) Người nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh Việt Nam; b) Phương tiện vận tải nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh Việt Nam; c) Hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu, quá cảnh Việt Nam; d) Thi thể, hài cốt, mẫu vi sinh y học, sản phẩm sinh học, mô, bộ phận cơ thể người vận chuyển qua biên giới Việt Nam. 2. Kiểm dịch y tế biên giới được thực hiện tại các cửa khẩu. Điều 36: Nội dung kiểm dịch y tế biên giới 1. Các đối tượng phải kiểm dịch y tế biên giới quy định tại khoản 1 Điều 35 của Luật này phải được khai báo y tế. 2. Kiểm tra y tế bao gồm kiểm tra giấy tờ liên quan đến y tế và kiểm tra thực tế. Kiểm tra thực tế được tiến hành trong trường hợp đối tượng xuất phát hoặc đi qua vùng có dịch hoặc bị nghi ngờ mắc bệnh hoặc mang tác nhân gây bệnh truyền nhiễm. 3. Xử lý y tế được thực hiện khi đã tiến hành kiểm tra y tế và phát hiện đối tượng phải kiểm dịch y tế có dấu hiệu mang mầm bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A. Trường hợp nhận được khai báo của chủ phương tiện vận tải hoặc có bằng chứng rõ ràng cho thấy trên phương tiện vận tải, người, hàng hoá có dấu hiệu mang mầm bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A thì phương tiện vận tải, người, hàng hoá trên phương tiện đó phải được cách ly để kiểm tra y tế trước khi làm thủ tục nhập cảnh, nhập khẩu, quá cảnh; nếu không thực hiện yêu cầu cách ly của tổ chức kiểm dịch y tế biên giới thì bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cách ly. 4. Giám sát bệnh truyền nhiễm được thực hiện tại khu vực cửa khẩu theo quy định tại Mục 3 Chương II của Luật này. Điều 37: Trách nhiệm trong việc thực hiện kiểm dịch y tế biên giới 1. Đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, chủ phương tiện hoặc người quản lý đối tượng quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 35 của Luật này phải thực hiện việc khai báo y tế; chấp hành các biện pháp giám sát, kiểm tra, xử lý y tế và nộp phí kiểm dịch y tế theo quy định của pháp luật. 2. Tổ chức kiểm dịch y tế biên giới có trách nhiệm tổ chức thực hiện nội dung kiểm dịch y tế quy định tại Điều 36 của Luật này và cấp giấy chứng nhận xử lý y tế. 3. Các cơ quan chức năng tại cửa khẩu có trách nhiệm phối hợp với tổ chức kiểm dịch y tế biên giới trong việc thực hiện kiểm dịch y tế biên giới. 4. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan hữu quan của các nước, các tổ chức quốc tế trong công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm tại khu vực biên giới. 5. Chính phủ quy định chi tiết về kiểm dịch y tế biên giới. Chương IV:Chống dịch Mục 1:Công bố dịch Điều 38: Nguyên tắc, thẩm quyền, thời hạn và điều kiện công bố dịch 1. Việc công bố dịch được thực hiện theo nguyên tắc sau đây: a) Mọi trường hợp có dịch đều phải được công bố; b) Việc công bố dịch và hết dịch phải công khai, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. 2. Thẩm quyền công bố dịch được quy định như sau: a) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công bố dịch theo đề nghị của Giám đốc Sở Y tế đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B và nhóm C; b) Bộ trưởng Bộ Y tế công bố dịch theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A và đối với một số bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm B khi có từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên đã công bố dịch; c) Thủ tướng Chính phủ công bố dịch theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế đối với bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A khi dịch lây lan nhanh từ tỉnh này sang tỉnh khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người. 3. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị công bố dịch, người có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều này quyết định việc công bố dịch. 4. Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể điều kiện công bố dịch. Điều 39: Nội dung công bố dịch 1. Nội dung công bố dịch gồm: a) Tên bệnh dịch; b) Thời gian, địa điểm và quy mô xảy ra dịch; c) Nguyên nhân, đường lây truyền, tính chất, mức độ nguy hiểm của dịch; d) Các biện pháp phòng, chống dịch; đ) Các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thực hiện việc tiếp nhận, điều trị người mắc bệnh truyền nhiễm. 2. Các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này phải được thông báo kịp thời cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để triển khai các biện pháp chống dịch. Điều 40: Điều kiện và thẩm quyền công bố hết dịch 1. Điều kiện để công bố hết dịch bao gồm: a) Không phát hiện thêm trường hợp mắc bệnh mới sau khoảng thời gian nhất định và đáp ứng các điều kiện khác đối với từng bệnh dịch theo quy định của Thủ tướng Chính phủ; b) Đã thực hiện các biện pháp chống dịch quy định tại Mục 3 Chương IV của Luật này. 2. Người có thẩm quyền công bố dịch có quyền công bố hết dịch theo đề nghị của cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật này. Điều 41: Đưa tin về tình hình dịch Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm đưa tin chính xác, kịp thời và trung thực về tình hình sau khi dịch đã được công bố và công bố hết dịch theo đúng nội dung do cơ quan nhà nước có thẩm quyền về y tế cung cấp. Mục 2:Ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch Điều 42: Nguyên tắc và thẩm quyền ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch 1. Việc ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch được thực hiện theo nguyên tắc sau đây: a) Khi dịch lây lan nhanh trên diện rộng, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người và kinh tế - xã hội của đất nước thì phải ban bố tình trạng khẩn cấp; b) Việc ban bố tình trạng khẩn cấp phải công khai, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. 2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết ban bố tình trạng khẩn cấp theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp ngay được thì Chủ tịch nước ra lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp. Điều 43: Nội dung ban bố tình trạng khẩn cấp khi có dịch 1. Lý do ban bố tình trạng khẩn cấp. 2. Địa bàn trong tình trạng khẩn cấp. 3. Ngày, giờ bắt đầu tình trạng khẩn cấp. 4. Thẩm quyền tổ chức thi hành nghị quyết hoặc lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp. Điều 44: Thẩm quyền bãi bỏ tình trạng khẩn cấp khi hết dịch Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết hoặc Chủ tịch nước ra lệnh bãi bỏ tình trạng khẩn cấp do mình ban bố khi dịch đã được chặn đứng hoặc dập tắt. Điều 45: Đưa tin trong tình trạng khẩn cấp về dịch 1. Thông tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân có trách nhiệm đăng ngay toàn văn nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch, các quyết định của Thủ tướng Chính phủ tổ chức thi hành nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch; đưa tin kịp thời về các biện pháp đã được áp dụng tại địa bàn có tình trạng khẩn cấp và tình hình khắc phục hậu quả dịch; đăng toàn văn nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về dịch. Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc lệnh của Chủ tịch nước ban bố hoặc bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về dịch được niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan, tổ chức và nơi công cộng. 2. Các phương tiện thông tin đại chúng khác ở trung ương và địa phương có trách nhiệm đưa tin về việc ban bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp về dịch và quá trình khắc phục hậu quả dịch. Mục 3:Các biện pháp chống dịch Điều 46: Thành lập Ban chỉ đạo chống dịch 1. Ban chỉ đạo chống dịch được thành lập ngay sau khi dịch được công bố. 2. Thành phần Ban chỉ đạo chống dịch được quy định như sau: a) Ban chỉ đạo chống dịch quốc gia gồm đại diện của cơ quan y tế, tài chính, thông tin - truyền thông, ngoại giao, quốc phòng, công an và các cơ quan liên quan khác. Căn cứ vào phạm vi địa bàn được công bố dịch và tính chất của dịch, Thủ tướng có thể tự mình hoặc chỉ định một Phó Thủ tướng hoặc Bộ trưởng Bộ Y tế làm Trưởng Ban chỉ đạo. Bộ Y tế là thường trực của Ban chỉ đạo; b) Ban chỉ đạo chống dịch cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã gồm đại diện của cơ quan y tế, tài chính, thông tin - truyền thông, quân đội, công an và các cơ quan liên quan khác. Trưởng ban chỉ đạo chống dịch là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Cơ quan y tế cùng cấp là thường trực của Ban chỉ đạo. 3. Ban chỉ đạo chống dịch có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các biện pháp chống dịch và khắc phục hậu quả của dịch, thành lập đội chống dịch cơ động để trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cấp cứu, điều trị và xử lý ổ dịch. 4. Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể về thẩm quyền thành lập, tổ chức và hoạt động của Ban chỉ đạo chống dịch các cấp. Điều 47: Khai báo, báo cáo dịch 1. Khi có dịch, người mắc bệnh dịch hoặc người phát hiện trường hợp mắc bệnh dịch hoặc nghi ngờ mắc bệnh dịch phải khai báo cho cơ quan y tế gần nhất trong thời gian 24 giờ, kể từ khi phát hiện bệnh dịch. 2. Khi phát hiện trường hợp mắc bệnh dịch hoặc nhận được khai báo bệnh dịch, cơ quan y tế phải báo cáo cho Uỷ ban nhân dân nơi xảy ra dịch và cơ sở y tế dự phòng để khẩn trương tổ chức triển khai các biện pháp chống dịch. 3. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể chế độ khai báo, báo cáo dịch. Điều 48: Tổ chức cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh Ban chỉ đạo chống dịch chỉ đạo việc áp dụng các biện pháp sau đây để tổ chức cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh cho người mắc bệnh dịch và người bị nghi ngờ mắc bệnh dịch: 1. Phân loại, sơ cứu, cấp cứu kịp thời người mắc bệnh dịch theo hướng dẫn chẩn đoán, điều trị của Bộ Y tế; 2. Huy động phương tiện, thuốc, thiết bị y tế, giường bệnh, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và bố trí cán bộ y tế chuyên môn trực 24/24 giờ để sẵn sàng cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh phục vụ chống dịch. Người mắc bệnh dịch thuộc nhóm A được khám và điều trị miễn phí; 3. Căn cứ vào tính chất, mức độ và quy mô của bệnh dịch, Ban chỉ đạo chống dịch quyết định áp dụng các biện pháp sau đây: a) Tổ chức các cơ sở điều trị tại vùng có dịch để tiếp nhận, cấp cứu người mắc bệnh dịch; b) Điều động đội chống dịch cơ động vào vùng có dịch để thực hiện việc phát hiện, cấp cứu và điều trị tại chỗ người mắc bệnh dịch; chuyển người mắc bệnh dịch về các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; c) Huy động các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tham gia cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh phục vụ chống dịch; d) Áp dụng các biện pháp cần thiết khác theo quy định của pháp luật. Điều 49: Tổ chức cách ly y tế 1. Người mắc bệnh dịch, người bị nghi ngờ mắc bệnh dịch, người mang mầm bệnh dịch, người tiếp xúc với tác nhân gây bệnh dịch thuộc nhóm A và một số bệnh thuộc nhóm B theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế phải được cách ly. 2. Hình thức cách ly bao gồm cách ly tại nhà, tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc tại các cơ sở, địa điểm khác. 3. Cơ sở y tế trong vùng có dịch chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc cách ly theo chỉ đạo của Trưởng ban chỉ đạo chống dịch. Trường hợp các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này không thực hiện yêu cầu cách ly của cơ sở y tế thì bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cách ly theo quy định của Chính phủ. Điều 50: Vệ sinh, diệt trùng, tẩy uế trong vùng có dịch 1. Các biện pháp vệ sinh, diệt trùng, tẩy uế bao gồm: a) Vệ sinh môi trường, nước, thực phẩm và vệ sinh cá nhân; b) Diệt trùng, tẩy uế khu vực được xác định hoặc nghi ngờ có tác nhân gây bệnh dịch; c) Tiêu hủy động vật, thực phẩm và các vật khác là trung gian truyền bệnh. 2. Đội chống dịch cơ động có trách nhiệm thực hiện các biện pháp vệ sinh, diệt trùng, tẩy uế theo quy trình chuyên môn ngay sau khi được Ban chỉ đạo chống dịch yêu cầu. 3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện các biện pháp vệ sinh, diệt trùng, tẩy uế theo hướng dẫn của cơ quan y tế có thẩm quyền; trường hợp không tự giác thực hiện thì cơ quan y tế có quyền áp dụng các biện pháp vệ sinh, diệt trùng, tẩy uế bắt buộc. Điều 51: Các biện pháp bảo vệ cá nhân 1. Người tham gia chống dịch và người có nguy cơ mắc bệnh dịch phải thực hiện một hoặc một số biện pháp bảo vệ cá nhân sau đây: a) Trang bị bảo vệ cá nhân; b) Sử dụng thuốc phòng bệnh; c) Sử dụng vắc xin, sinh phẩm y tế để phòng bệnh; d) Sử dụng hoá chất diệt khuẩn, hoá chất phòng trung gian truyền bệnh. 2. Nhà nước bảo đảm cho người tham gia chống dịch thực hiện các biện pháp bảo vệ cá nhân quy định tại khoản 1 Điều này. Điều 52: Các biện pháp chống dịch khác trong thời gian có dịch 1. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp chống dịch sau đây: a) Tạm đình chỉ hoạt động của cơ sở dịch vụ ăn uống công cộng có nguy cơ làm lây truyền bệnh dịch tại vùng có dịch; b) Cấm kinh doanh, sử dụng loại thực phẩm được cơ quan y tế có thẩm quyền xác định là trung gian truyền bệnh dịch; c) Hạn chế tập trung đông người hoặc tạm đình chỉ các hoạt động, dịch vụ tại nơi công cộng tại vùng có dịch. 2. Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng các biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này. Điều 53: Kiểm soát ra, vào vùng có dịch đối với bệnh dịch thuộc nhóm A 1. Các biện pháp kiểm soát ra, vào vùng có dịch đối với bệnh dịch thuộc nhóm A bao gồm: a) Hạn chế ra, vào vùng có dịch đối với người và phương tiện; trường hợp cần thiết phải kiểm tra, giám sát và xử lý y tế; b) Cấm đưa ra khỏi vùng có dịch những vật phẩm, động vật, thực vật, thực phẩm và hàng hóa khác có khả năng lây truyền bệnh dịch; c) Thực hiện các biện pháp bảo vệ cá nhân đối với người vào vùng có dịch quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật này; d) Các biện pháp cần thiết khác theo quy định của pháp luật. 2. Trưởng Ban chỉ đạo chống dịch thành lập các chốt, trạm kiểm dịch tại các đầu mối giao thông ra, vào vùng có dịch để thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 1 Điều này. Điều 54: Các biện pháp được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp về dịch 1. Việc thành lập Ban chỉ đạo chống dịch trong tình trạng khẩn cấp thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 46 của Luật này. 2. Trong trường hợp ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch, Trưởng Ban chỉ đạo có quyền: a) Huy động, trưng dụng các nguồn lực quy định tại Điều 55 của Luật này; b) Đặt biển báo hiệu, trạm gác và hướng dẫn việc đi lại tránh vùng có dịch; c) Yêu cầu kiểm tra và xử lý y tế đối với phương tiện vận tải trước khi ra khỏi vùng có dịch; d) Cấm tập trung đông người và các hoạt động khác có nguy cơ làm lây truyền bệnh dịch tại vùng có dịch; đ) Cấm người, phương tiện không có nhiệm vụ vào ổ dịch; e) Tổ chức tẩy uế, khử độc trên phạm vi rộng; g) Tiêu hủy động vật, thực phẩm và các vật khác có nguy cơ làm lây lan bệnh dịch sang người; h) Áp dụng các biện pháp khác quy định tại Mục 3 của Chương này. Điều 55. Huy động các nguồn lực cho hoạt động chống dịch 1. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm và quy mô của bệnh dịch đe dọa đến sức khỏe nhân dân, người có thẩm quyền được huy động người, huy động cơ sở vật chất, thiết bị y tế, thuốc, hóa chất, vật tư y tế, cơ sở dịch vụ công cộng, phương tiện giao thông và các nguồn lực khác để chống dịch. Các phương tiện giao thông tham gia chống dịch được ưu tiên theo pháp luật về giao thông. 2. Tài sản đã huy động nếu được hoàn trả phải được vệ sinh, diệt trùng, tẩy uế trước khi hoàn trả. 3. Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện để thực hiện các biện pháp chống dịch theo quy định của Luật này. Điều 56: Hợp tác quốc tế trong hoạt động chống dịch 1. Khi có dịch xảy ra, căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của dịch, Bộ trưởng Bộ Y tế quyết định hợp tác quốc tế về trao đổi mẫu bệnh phẩm, thông tin dịch, chuyên môn, kỹ thuật, chuyên gia, thiết bị, kinh phí trong hoạt động chống dịch. 2. Trường hợp ban bố tình trạng khẩn cấp về dịch, Thủ tướng Chính phủ kêu gọi các quốc gia, các tổ chức quốc tế hỗ trợ nguồn lực để chống dịch và phối hợp triển khai các biện pháp ngăn chặn dịch lây lan. Chương V:Các điều kiện bảo đảm để phòng, chống bệnh truyền nhiễm Điều 57: Cơ sở phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Cơ sở phòng, chống bệnh truyền nhiễm bao gồm: a) Cơ sở y tế dự phòng; b) Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm gồm có bệnh viện chuyên khoa bệnh truyền nhiễm; khoa truyền nhiễm thuộc bệnh viện đa khoa quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và các cơ sở y tế khác có nhiệm vụ khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm. 2. Bệnh viện đa khoa quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên phải thành lập khoa truyền nhiễm. 3. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định về vị trí, thiết kế, điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, thiết bị và nhân lực của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh truyền nhiễm. Điều 58: Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Nhà nước có quy hoạch, kế hoạch và ưu tiên đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng về nghiệp vụ cho người làm công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm. 2. Bộ trưởng Bộ Y tế chủ trì phối hợp với Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và thủ trưởng các cơ quan, tổ chức có liên quan tổ chức việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ cho người làm công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Điều 59: Chế độ đối với người làm công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm và người tham gia chống dịch 1. Người làm công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm được hưởng các chế độ phụ cấp nghề nghiệp và các chế độ ưu đãi khác. 2. Người tham gia chống dịch được hưởng chế độ phụ cấp chống dịch và được hưởng chế độ rủi ro nghề nghiệp khi bị lây nhiễm bệnh. 3. Trong quá trình chống dịch, khi người tham gia chống dịch dũng cảm cứu người mà bị chết hoặc bị thương thì được xem xét để công nhận là liệt sỹ hoặc thương binh, hưởng chính sách như thương binh theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng. 4. Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể các chế độ theo quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này. Điều 60: Kinh phí cho công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm 1. Kinh phí cho công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm bao gồm: a) Ngân sách nhà nước; b) Vốn viện trợ; c) Các nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật. 2. Hằng năm, Nhà nước bảo đảm đủ, kịp thời ngân sách cho các hoạt động phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Ngân sách phòng, chống bệnh truyền nhiễm không được sử dụng vào mục đích khác. Điều 61: Dự trữ quốc gia cho phòng, chống dịch 1. Nhà nước thực hiện việc dự trữ quốc gia về kinh phí, thuốc, hóa chất, thiết bị y tế để phòng, chống dịch. 2. Việc xây dựng, tổ chức, quản lý, điều hành và sử dụng dự trữ quốc gia để phòng, chống dịch được thực hiện theo quy định của pháp luật về dự trữ quốc gia. Điều 62: Quỹ hỗ trợ phòng, chống dịch 1. Quỹ hỗ trợ phòng, chống dịch được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để hỗ trợ điều trị, chăm sóc người mắc bệnh truyền nhiễm và các hoạt động phòng, chống dịch khác. 2. Nguồn tài chính của Quỹ được hình thành trên cơ sở đóng góp tự nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài. Chương VI:Điều khoản thi hành Điều 63: Hiệu lực thi hành Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2008. Điều 64: Hướng dẫn thi hành Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007. Luật pháp Việt Nam
14894
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Ph%C3%B2ng%2C%20ch%E1%BB%91ng%20ma%20tu%C3%BD%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Phòng, chống ma tuý nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Phòng, chống ma tuý nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2000 Luật sửa đổi bổ sung Luật Phòng, chống ma tuý nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2008
14899
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Ph%C3%B2ng%2C%20ch%E1%BB%91ng%20tham%20nh%C5%A9ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Phòng, chống tham nhũng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Phòng, chống tham nhũng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005 Luật sửa đổi bổ sung Luật Phòng, chống tham nhũng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2007
14916
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Thi%20%C4%91ua%2C%20Khen%20th%C6%B0%E1%BB%9Fng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Thi đua, Khen thưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Thi đua, Khen thưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2003 Luật sửa đổi bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005 Luật sửa đổi bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2009 Luật Thi đua, khen thưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2022
14920
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Thi%20%C4%91ua%2C%20Khen%20th%C6%B0%E1%BB%9Fng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202003%20%28s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%202009%29
Luật Thi đua, Khen thưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2003 (sửa đổi, bổ sung 2009)
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10; Luật này sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003. Chương I:Những quy định chung Điều 1 Luật này quy định về đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, hình thức, tiêu chuẩn, thẩm quyền và trình tự, thủ tục thi đua, khen thưởng. Điều 2 Luật này áp dụng đối với cá nhân, tập thể người Việt Nam, người Việt Nam ở nước ngoài và cá nhân, tập thể người nước ngoài. Điều 3 Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau: 1. Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 3. Danh hiệu thi đua là hình thức ghi nhận, biểu dương, tôn vinh cá nhân, tập thể có thành tích trong phong trào thi đua. Điều 4 Nhà nước thực hiện khen thưởng qua tổng kết thành tích các giai đoạn cách mạng; khen thưởng thường xuyên và đột xuất; khen thưởng theo niên hạn công tác và khen thưởng đối ngoại. Điều 5 Mục tiêu của thi đua nhằm tạo động lực động viên, lôi cuốn, khuyến khích mọi cá nhân, tập thể phát huy truyền thống yêu nước, năng động, sáng tạo vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều 6 1. Nguyên tắc thi đua gồm: A) Tự nguyện, tự giác, công khai; B) Đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển. 2. Nguyên tắc khen thưởng gồm: A) Chính xác, công khai, công bằng, kịp thời; B) Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối tượng; C) Bảo đảm thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng; D) Kết hợp chặt chẽ động viên tinh thần với khuyến khích bằng lợi ích vật chất. Điều 7 Danh hiệu thi đua gồm: 1. Danh hiệu thi đua đối với cá nhân; 2. Danh hiệu thi đua đối với tập thể; 3. Danh hiệu thi đua đối với hộ gia đình. Điều 8 Các hình thức khen thưởng gồm: 1. Huân chương; 2. Huy chương; 3. Danh hiệu vinh dự nhà nước; 4. "Giải thưởng Hồ Chí Minh", "Giải thưởng nhà nước"; 5. Kỷ niệm chương, Huy hiệu; 6. Bằng khen; 7. Giấy khen. Điều 9 Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật. Điều 10 1. Căn cứ xét tặng danh hiệu thi đua: A) Phong trào thi đua; B) Đăng ký tham gia thi đua; C) Thành tích thi đua; D) Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua. 2. Căn cứ xét khen thưởng: A) Tiêu chuẩn khen thưởng; B) Phạm vi, mức độ ảnh hưởng của thành tích; C) Trách nhiệm và hoàn cảnh cụ thể lập được thành tích. Điều 11 Nhà nước bảo đảm mọi quyền lợi về tinh thần và vật chất của cá nhân, tập thể được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Nhà nước dành ngân sách thích đáng cho công tác thi đua, khen thưởng; khuyến khích mọi cá nhân, tập thể người Việt Nam và nước ngoài tham gia đóng góp vào Quỹ thi đua, khen thưởng của Nhà nước. Điều 12 Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: 1. Tuyên truyền, động viên các thành viên của mình và tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; 2. Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua; 3. Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Điều 13 Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, nêu gương các điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, cổ động phong trào thi đua, khen thưởng. Điều 14 Nghiêm cấm các hành vi sau đây: 1. Tổ chức thi đua, khen thưởng trái với chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng thi đua, khen thưởng để vụ lợi; 2. Cản trở hoặc ép buộc tham gia các phong trào thi đua; 3. Kê khai gian dối, làm giả hồ sơ, xác nhận, đề nghị sai trong thi đua, khen thưởng; 4. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để đề nghị, quyết định khen thưởng trái pháp luật; 5. Lãng phí tài sản của Nhà nước, của tập thể trong thi đua, khen thưởng. Chương II:Tổ chức thi đua, danh hiệu và tiêu chuẩn danh hiệu thi đua Điều 15 1. Hình thức tổ chức thi đua gồm: A) Thi đua thường xuyên; B) Thi đua theo đợt. 2. Phạm vi thi đua gồm: A) Toàn quốc; B) Bộ, ban, ngành, đoàn thể, địa phương và cơ sở. Điều 16 Nội dung tổ chức phong trào thi đua gồm: 1. Xác định mục tiêu, phạm vi, đối tượng và nội dung thi đua; 2. Xác định chỉ tiêu, khẩu hiệu và thời hạn thi đua; 3. Xác định biện pháp tổ chức phong trào thi đua; 4. Phát động, chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua; 5. Sơ kết, tổng kết và khen thưởng thi đua. Điều 17 Cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động phong trào thi đua có trách nhiệm: 1. Tổ chức phong trào thi đua gắn với lao động, sản xuất, học tập, công tác và chiến đấu; 2. Tổ chức các hoạt động thiết thực nhằm động viên, khích lệ mọi người tự giác, hăng hái thi đua lao động, sản xuất, học tập, công tác, chiến đấu, cần kiệm, sáng tạo, cống hiến sức lực, trí tuệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 3. Đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện, sơ kết, tổng kết công tác thi đua; 4. Phát hiện, tuyên truyền, phổ biến để học tập và nhân rộng các gương điển hình tiên tiến; 5. Thực hiện tốt chính sách khen thưởng nhằm động viên mọi người tích cực thi đua lao động, sản xuất, học tập, công tác và chiến đấu. Điều 18 1. Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi cả nước. 2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; lãnh đạo ban, ngành, cơ quan, tổ chức ở trung ương phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong ngành và lĩnh vực do mình phụ trách. 3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi địa phương. 4. Lãnh đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động, chỉ đạo phong trào thi đua trong phạm vi cơ quan, tổ chức, đơn vị. Điều 19 Cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng có trách nhiệm: 1. Tham mưu, đề xuất chủ trương trong công tác thi đua; 2. Xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung thi đua; 3. Hướng dẫn tổ chức thi đua và kiểm tra thực hiện; 4. Tham mưu việc sơ kết, tổng kết, đề xuất khen thưởng và kiến nghị đổi mới công tác thi đua, khen thưởng. Điều 20 1. Danh hiệu thi đua đối với cá nhân gồm: A) "Chiến sĩ thi đua toàn quốc"; B) Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; C) "Chiến sĩ thi đua cơ sở"; D) "Lao động tiên tiến", "Chiến sĩ tiên tiến". 2. Danh hiệu thi đua đối với tập thể gồm: A) "Cờ thi đua của Chính phủ"; B) Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; C) "Tập thể lao động xuất sắc", "Đơn vị quyết thắng"; D) "Tập thể lao động tiên tiến", "Đơn vị tiên tiến"; Đ) Danh hiệu thi đua đối với thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương là thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hoá. 3. Danh hiệu thi đua đối với hộ gia đình là "Gia đình văn hoá". 4. Các danh hiệu thi đua được xét tặng hàng năm hoặc theo đợt. Điều 21 Danh hiệu "Chiến sĩ thi đua toàn quốc" được xét tặng cho cá nhân có thành tích tiêu biểu xuất sắc trong số những cá nhân có hai lần liên tục đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương. Điều 22 Danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương được xét tặng cho cá nhân có thành tích tiêu biểu xuất sắc trong số những cá nhân có ba lần liên tục đạt danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở". Điều 23 Danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở" được xét tặng cho cá nhân đạt các tiêu chuẩn sau: 1. Đạt các tiêu chuẩn của danh hiệu "Lao động tiên tiến" hoặc "Chiến sĩ tiên tiến"; 2. Có sáng kiến, cải tiến kỹ thuật hoặc áp dụng công nghệ mới để tăng năng suất lao động. Điều 24 1. Danh hiệu "Lao động tiên tiến" được xét tặng cho cán bộ, công chức, công nhân, viên chức đạt các tiêu chuẩn sau: A) Hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đạt năng suất và chất lượng cao; B) Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có tinh thần tự lực, tự cường; đoàn kết, tương trợ, tích cực tham gia các phong trào thi đua; C) Tích cực học tập chính trị, văn hoá, chuyên môn, nghiệp vụ; D) Có đạo đức, lối sống lành mạnh. 2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, chiến sĩ Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, chiến sĩ Công an nhân dân đạt các tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này được xét tặng danh hiệu "Chiến sĩ tiên tiến". 3. Người lao động không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà gương mẫu chấp hành tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có đạo đức, lối sống lành mạnh, đoàn kết, tương trợ, tích cực tham gia các phong trào thi đua sản xuất, hoạt động xã hội và lao động có năng suất cao thì được xét tặng danh hiệu "Lao động tiên tiến". Điều 25 "Cờ thi đua của Chính phủ" được xét tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: 1. Có thành tích, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu thi đua và nhiệm vụ được giao trong năm; là tập thể tiêu biểu xuất sắc trong toàn quốc; 2. Có nhân tố mới, mô hình mới tiêu biểu cho cả nước học tập; 3. Nội bộ đoàn kết, đi đầu trong việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác. Điều 26 Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương được xét tặng cho tập thể thuộc bộ, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đoàn thể trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt các tiêu chuẩn sau: 1. Hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu thi đua và nhiệm vụ được giao trong năm; là tập thể tiêu biểu xuất sắc của cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; 2. Có nhân tố mới, mô hình mới để các tập thể khác thuộc bộ, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đoàn thể trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương học tập; 3. Nội bộ đoàn kết, tích cực thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội khác. Điều 27 1. Danh hiệu "Tập thể lao động xuất sắc" được xét tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Sáng tạo, vượt khó hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với Nhà nước; B) Có phong trào thi đua thường xuyên, thiết thực, hiệu quả; C) Có 100% cá nhân trong tập thể hoàn thành nhiệm vụ được giao, trong đó có ít nhất 70% cá nhân đạt danh hiệu "Lao động tiên tiến"; D) Có cá nhân đạt danh hiệu "Chiến sĩ thi đua cơ sở" và không có cá nhân bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên; Đ) Nội bộ đoàn kết, gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 2. Tập thể thuộc lực lượng vũ trang nhân dân đạt các tiêu chuẩn quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều này có 100% cá nhân trong tập thể hoàn thành nhiệm vụ được giao, trong đó có ít nhất 70% cá nhân đạt danh hiệu "Chiến sĩ tiên tiến" thì được xét tặng danh hiệu "Đơn vị quyết thắng". Điều 28 1. Danh hiệu "Tập thể lao động tiên tiến" được xét tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Hoàn thành tốt nhiệm vụ và kế hoạch được giao; B) Có phong trào thi đua thường xuyên, thiết thực, có hiệu quả; C) Có trên 50% cá nhân trong tập thể đạt danh hiệu "Lao động tiên tiến" và không có cá nhân bị kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên; D) Nội bộ đoàn kết, chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. 2. Tập thể thuộc lực lượng vũ trang nhân dân đạt các tiêu chuẩn quy định tại các điểm a, b và d khoản 1 Điều này có trên 50% cá nhân trong tập thể đạt danh hiệu "Chiến sĩ tiên tiến" thì được xét tặng danh hiệu "Đơn vị tiên tiến". Điều 29 Danh hiệu "Gia đình văn hoá" ở xã, phường, thị trấn được xét tặng cho hộ gia đình đạt các tiêu chuẩn sau: 1. Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa phương nơi cư trú; 2. Gia đình hoà thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tương trợ giúp đỡ mọi người trong cộng đồng; 3. Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều 30 Danh hiệu thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hoá được xét tặng cho thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố và tương đương đạt các tiêu chuẩn sau: 1. Đời sống kinh tế ổn định và từng bước phát triển; 2. Đời sống văn hoá, tinh thần lành mạnh, phong phú; 3. Môi trường cảnh quan sạch đẹp; 4. Chấp hành tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; 5. Có tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng. Điều 31 1. Danh hiệu, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội do cơ quan trung ương của các tổ chức này quy định và được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở trung ương. 2. Danh hiệu, tiêu chuẩn danh hiệu thi đua đối với cá nhân, tập thể những người đang học tập tại nhà trường hoặc cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Chương III:Hình thức, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng Mục 1:Huân chương Điều 32 Huân chương để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có công trạng, lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 33 1. Huân chương gồm: A) "Huân chương Sao vàng"; B) "Huân chương Hồ Chí Minh"; C) "Huân chương Độc lập" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; D) "Huân chương Quân công" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; Đ) "Huân chương Lao động" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; E) "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; G) "Huân chương Chiến công" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; H) "Huân chương Đại đoàn kết dân tộc"; I) "Huân chương Dũng cảm"; K) "Huân chương Hữu nghị". 2. Hình thức các loại, hạng huân chương được phân biệt bằng màu sắc, số sao, số vạch trên dải và cuống huân chương. Điều 34 1. "Huân chương Sao vàng" là huân chương cao quý nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2. "Huân chương Sao vàng" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Có công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; B) Có công lao to lớn, đặc biệt xuất sắc đối với đất nước ở một trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, ngoại giao hoặc các lĩnh vực khác. 3. "Huân chương Sao vàng" để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 10 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình xây dựng và phát triển từ 50 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Hồ Chí Minh" phải có quá trình xây dựng và phát triển từ 45 năm trở lên. 4. Tập thể có thành tích đặc biệt xuất sắc và có quá trình xây dựng và phát triển là 20 năm kể từ khi được tặng thưởng "Huân chương Sao vàng" lần thứ nhất thì được xét tặng "Huân chương Sao vàng" lần thứ hai. Điều 35 1. "Huân chương Hồ Chí Minh" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có công lao to lớn, có nhiều thành tích xuất sắc ở một trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh, ngoại giao hoặc các lĩnh vực khác. 2. "Huân chương Hồ Chí Minh" để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình xây dựng và phát triển từ 40 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Độc lập" hạng nhất hoặc "Huân chương quân công" hạng nhất phải có quá trình xây dựng và phát triển từ 35 năm trở lên. Điều 36 1. "Huân chương Độc lập" hạng nhất để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc ở một trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, ngoại giao hoặc các lĩnh vực khác. 2. "Huân chương Độc lập" hạng nhất để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình xây dựng và phát triển từ 30 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Độc lập" hạng nhì phải có quá trình xây dựng và phát triển từ 25 năm trở lên. Điều 37 1. "Huân chương Độc lập" hạng nhì để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc ở một trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, ngoại giao hoặc các lĩnh vực khác. 2. "Huân chương Độc lập" hạng nhì để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình xây dựng và phát triển từ 25 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Độc lập" hạng ba phải có quá trình xây dựng và phát triển từ 20 năm trở lên. Điều 38 1. "Huân chương Độc lập" hạng ba để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có thành tích xuất sắc ở một trong các trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn học, nghệ thuật, khoa học, công nghệ, ngoại giao hoặc các lĩnh vực khác. 2. "Huân chương Độc lập" hạng ba để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình xây dựng và phát triển từ 20 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Lao động" hạng nhất phải có quá trình xây dựng và phát triển từ 15 năm trở lên. Điều 39 1. "Huân chương Quân công" hạng nhất để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân lập được chiến công xuất sắc, quả cảm trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân hoặc hy sinh anh dũng, có tác dụng nêu gương sáng trong toàn quốc. 2. "Huân chương Quân công" hạng nhất để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng và trưởng thành từ 30 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Quân công" hạng nhì phải có quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng và trưởng thành từ 25 năm trở lên. Điều 40 1. "Huân chương Quân công" hạng nhì để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân lập được chiến công xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân hoặc hy sinh anh dũng, có tác dụng nêu gương sáng trong lực lượng vũ trang nhân dân. 2. "Huân chương Quân công" hạng nhì để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng và trưởng thành từ 25 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Quân công" hạng ba phải có quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng và trưởng thành từ 20 năm trở lên. Điều 41 1. "Huân chương Quân công" hạng ba để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân lập được chiến công xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân hoặc hy sinh anh dũng, có tác dụng nêu gương sáng trong toàn quân khu, quân đoàn, quân binh chủng, tổng cục và tương đương. 2. "Huân chương Quân công" hạng ba để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Lập được thành tích xuất sắc liên tục từ 5 năm trở lên trước thời điểm đề nghị; nội bộ đoàn kết, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh; B) Có quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng và trưởng thành từ 20 năm trở lên; trường hợp đã được tặng thưởng "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhất hoặc "Huân chương Chiến công" hạng nhất phải có quá trình chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, xây dựng và trưởng thành từ 15 năm trở lên. Điều 42 1. "Huân chương Lao động" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có thành tích xuất sắc trong lao động, sáng tạo, xây dựng Tổ quốc. 2. "Huân chương Lao động" hạng nhất để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Lao động" hạng nhì và sau đó được tặng danh hiệu "Chiến sỹ thi đua toàn quốc"; B) Có phát minh, sáng chế, công trình khoa học hoặc tác phẩm xuất sắc cấp Nhà nước; C) Lập được thành tích đặc biệt xuất sắc đột xuất hoặc có quá trình cống hiến lâu dài trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể. 3. "Huân chương Lao động" hạng nhất để tặng cho tập thể đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Lao động" hạng nhì, 5 năm tiếp theo liên tục đạt danh hiệu "Tập thể Lao động xuất sắc" hoặc "Đơn vị quyết thắng" và có ba lần được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc hai lần được tặng "Cờ thi đua của Chính phủ"; B) Lập được thành tích đặc biệt xuất sắc đột xuất. Điều 43 1. "Huân chương Lao động" hạng nhì để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Lao động" hạng ba, sau đó có hai lần được tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc một lần được tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ"; B) Có phát minh, sáng chế, công trình khoa học hoặc tác phẩm xuất sắc cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; C) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất hoặc có quá trình cống hiến lâu dài trong các cơ quan, tổ chức, đoàn thể. 2. "Huân chương Lao động" hạng nhì để tặng cho tập thể đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Lao động" hạng ba, 5 năm tiếp theo liên tục đạt danh hiệu "Tập thể Lao động xuất sắc" hoặc "Đơn vị quyết thắng" và có hai lần được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc một lần được tặng "Cờ thi đua của Chính phủ"; B) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất. Điều 44 1. "Huân chương Lao động" hạng ba để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Có 7 năm liên tục đạt danh hiệu "Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở" và có hai lần được tặng Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc một lần được tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ"; B) Có công trình khoa học, nghệ thuật hoặc có sáng kiến, giải pháp hữu ích được Hội đồng khoa học cấp bộ đánh giá xuất sắc, được ứng dụng vào thực tiễn đem lại hiệu quả cao, thiết thực; C) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất hoặc có quá trình cống hiến lâu dài trong các cơ quan, tổ chức, đoàn thể. 2. "Huân chương Lao động" hạng ba để tặng cho tập thể đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Có 5 năm liên tục đạt danh hiệu "Tập thể Lao động xuất sắc" hoặc "Đơn vị quyết thắng" và có một lần được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc một lần được tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ"; B) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất. Điều 45 1. "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có thành tích trong huấn luyện, xây dựng lực lượng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. 2. "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhất để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhì và sau đó được tặng danh hiệu "Chiến sỹ thi đua toàn quốc"; B) Có phát minh, sáng chế, công trình khoa học hoặc tác phẩm xuất sắc cấp Nhà nước; C) Lập được thành tích đặc biệt xuất sắc đột xuất hoặc có quá trình cống hiến lâu dài trong lực lượng vũ trang nhân dân. 3. "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhất để tặng cho tập thể đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhì, 5 năm tiếp theo liên tục đạt danh hiệu "Tập thể Lao động xuất sắc" hoặc "Đơn vị quyết thắng" và có ba lần được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc hai lần được tặng "Cờ thi đua của Chính phủ"; B) Lập được thành tích đặc biệt xuất sắc đột xuất. Điều 46 1. "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhì để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng ba và sau đó có hai lần được tặng danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc một lần được tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ"; B) Có phát minh, sáng chế, công trình khoa học hoặc tác phẩm xuất sắc cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương; C) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất hoặc có quá trình cống hiến lâu dài trong lực lượng vũ trang nhân dân. 2. "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng nhì để tặng cho tập thể đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng ba, 5 năm tiếp theo liên tục đạt danh hiệu "Tập thể Lao động xuất sắc" hoặc "Đơn vị quyết thắng" và có hai lần được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc một lần được tặng "Cờ thi đua của Chính phủ"; B) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất. Điều 47 1. "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng ba để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Có 7 năm liên tục đạt danh hiệu "Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở" và có hai lần được tặng Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc một lần được tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ"; B) Có công trình khoa học, nghệ thuật hoặc có sáng kiến, giải pháp hữu ích được Hội đồng khoa học cấp bộ đánh giá xuất sắc, được ứng dụng vào thực tiễn đem lại hiệu quả cao, thiết thực; C) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất hoặc có quá trình cống hiến lâu dài trong lực lượng vũ trang nhân dân. 2. "Huân chương Bảo vệ Tổ quốc" hạng ba để tặng cho tập thể đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Có 5 năm liên tục đạt danh hiệu "Tập thể Lao động xuất sắc" hoặc "Đơn vị quyết thắng" và có một lần được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương hoặc được tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ"; B) Lập được thành tích xuất sắc đột xuất. Điều 48 1. "Huân chương Chiến công" hạng nhất để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể lập được chiến công đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. 2. "Huân chương Chiến công" hạng nhì để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể lập được chiến công xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. 3. "Huân chương Chiến công" hạng ba để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Điều 49 "Huân chương Đại đoàn kết dân tộc" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có quá trình cống hiến, có công lao to lớn, thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Điều 50 "Huân chương Dũng cảm" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có hành động dũng cảm cứu người, cứu tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Điều 51 "Huân chương Hữu nghị" để tặng hoặc truy tặng cho người nước ngoài, tặng cho tập thể người nước ngoài có những đóng góp to lớn trong xây dựng, củng cố và phát triển tình hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới. Mục 2:Huy chương Điều 52 Huy chương để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân và người nước ngoài đã có thời gian cống hiến, đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều 53 1. Huy chương gồm: A) "Huy chương Quân kỳ quyết thắng"; B) "Huy chương Vì an ninh Tổ quốc"; C) "Huy chương Chiến sĩ vẻ vang" hạng nhất, hạng nhì, hạng ba; D) "Huy chương Hữu nghị". 2. Hình thức các loại, hạng huy chương được phân biệt bằng màu sắc, số vạch trên dải và cuống huy chương. Điều 54 "Huy chương Quân kỳ quyết thắng" để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng có thời gian phục vụ liên tục trong Quân đội nhân dân từ 25 năm trở lên. Điều 55 "Huy chương Vì an ninh Tổ quốc" để tặng cho sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp có thời gian phục vụ liên tục trong Công an nhân dân từ 25 năm trở lên. Điều 56 1. "Huy chương Chiến sĩ vẻ vang" để tặng cho sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân. 2. Tiêu chuẩn xét tặng "Huy chương Chiến sĩ vẻ vang" đối với các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này như sau: A) "Huy chương Chiến sĩ vẻ vang" hạng nhất để tặng cho cá nhân có thời gian công tác từ 15 năm trở lên; B) "Huy chương Chiến sĩ vẻ vang" hạng nhì để tặng cho cá nhân có thời gian công tác từ 10 năm trở lên; c) "Huy chương Chiến sĩ vẻ vang" hạng ba để tặng cho cá nhân có thời gian công tác từ 5 năm trở lên. Điều 57 "Huy chương Hữu nghị" để tặng cho người nước ngoài có thời gian làm việc tại Việt Nam, có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Mục 3:Danh hiệu vinh dự nhà nước Điều 58 1. Danh hiệu vinh dự nhà nước để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân, tặng cho tập thể có những đóng góp đặc biệt xuất sắc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 2. Danh hiệu vinh dự nhà nước gồm: A) "Tỉnh Anh hùng", "Thành phố Anh hùng"; B) "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng"; C) "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân"; D) "Anh hùng Lao động"; Đ) "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú"; E) "Thầy thuốc nhân dân", "Thầy thuốc ưu tú"; G) "Nghệ sĩ nhân dân", "Nghệ sĩ ưu tú"; H) "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân ưu tú". Điều 58a Danh hiệu "Tỉnh Anh hùng", "Thành phố Anh hùng" để tặng cho tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đạt các tiêu chuẩn sau: 1. Có thành tích đặc biệt xuất sắc và toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục, khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; đóng góp to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 2. Năng động, sáng tạo, xứng đáng là trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, là động lực thúc đẩy sự phát triển của khu vực và cả nước trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; 3. Tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể đoàn kết, trong sạch, vững mạnh; 4. Đã được tặng thưởng danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" và danh hiệu "Anh hùng Lao động". Điều 59 Danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" để tặng hoặc truy tặng cho những Bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Việc xét tặng hoặc truy tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" thực hiện theo quy định của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Điều 60 1. Danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách mạng. 2. Danh hiệu "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân" để tặng cho tập thể có thành tích đặc biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; nội bộ đoàn kết tốt; tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Điều 61 1. Danh hiệu "Anh hùng Lao động" để tặng hoặc truy tặng cho cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng tạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có đạo đức, phẩm chất cách mạng. 2. Danh hiệu "Anh hùng Lao động" để tặng cho tập thể có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng tạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; nội bộ đoàn kết tốt, tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Điều 62 1. Đối tượng được xét tặng danh hiệu "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú" là những nhà giáo trong các nhà trường, các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và cán bộ quản lý giáo dục. 2. Danh hiệu "Nhà giáo nhân dân" được xét tặng cho đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này đạt các tiêu chuẩn sau: A) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; B) Có phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với nghề, thương yêu học trò, có tài năng sư phạm xuất sắc, có công lớn trong sự nghiệp giáo dục, có ảnh hưởng rộng rãi trong ngành và trong xã hội, được học trò, đồng nghiệp và nhân dân kính trọng; C) Có thời gian trực tiếp nuôi dạy, giảng dạy từ 20 năm trở lên; đối với cán bộ quản lý giáo dục thì phải có thời gian công tác trong ngành từ 25 năm trở lên trong đó có 15 năm trở lên trực tiếp nuôi dạy, giảng dạy. 3. Danh hiệu "Nhà giáo ưu tú" được xét tặng cho đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này đạt các tiêu chuẩn sau: A) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; B) Có phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với nghề, thương yêu học trò, có tài năng sư phạm, có công trong sự nghiệp giáo dục, được học trò, đồng nghiệp và nhân dân kính trọng; C) Có thời gian trực tiếp nuôi dạy, giảng dạy từ 15 năm trở lên; đối với cán bộ quản lý giáo dục thì phải có thời gian công tác trong ngành từ 20 năm trở lên trong đó có 10 năm trở lên trực tiếp nuôi dạy, giảng dạy. 4. Danh hiệu "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú" được xét và công bố hai năm một lần vào dịp kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Điều 63 1. Đối tượng được xét tặng danh hiệu "Thầy thuốc nhân dân", "Thầy thuốc ưu tú" gồm bác sĩ, dược sĩ, y sĩ, thầy thuốc y học dân tộc làm công tác khám chữa bệnh, sản xuất dược phẩm, nghiên cứu y dược, vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch và cán bộ quản lý y tế. 2. Danh hiệu "Thầy thuốc nhân dân" được xét tặng cho đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này đạt các tiêu chuẩn sau: A) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; B) Có phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với nghề, hết lòng thương yêu người bệnh, có tài năng và có nhiều thành tích xuất sắc trong phòng bệnh, chữa bệnh, phát triển khoa học kỹ thuật về y tế, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và nâng cao sức khoẻ của nhân dân, có ảnh hưởng rộng rãi trong nhân dân, được người bệnh và đồng nghiệp tin cậy, kính trọng; C) Có thời gian trực tiếp làm công tác chuyên môn kỹ thuật trong ngành từ 20 năm trở lên; đối với cán bộ quản lý y tế thì phải có thời gian công tác trong ngành từ 25 năm trở lên trong đó có 15 năm trở lên trực tiếp làm công tác chuyên môn kỹ thuật. 3. Danh hiệu "Thầy thuốc ưu tú" được xét tặng cho đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này đạt các tiêu chuẩn sau: A) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; B) Có phẩm chất đạo đức tốt, tận tụy với nghề, hết lòng thương yêu người bệnh, có tài năng, có nhiều thành tích xuất sắc trong nghề, được nhân dân, người bệnh và đồng nghiệp tín nhiệm; C) Có thời gian trực tiếp làm công tác chuyên môn kỹ thuật trong ngành từ 15 năm trở lên; đối với cán bộ quản lý y tế thì phải có thời gian công tác trong ngành từ 20 năm trở lên trong đó có 10 năm trở lên trực tiếp làm công tác chuyên môn kỹ thuật. 4. Danh hiệu "Thầy thuốc nhân dân", "Thầy thuốc ưu tú" được xét và công bố hai năm một lần vào dịp kỷ niệm ngày Thầy thuốc Việt Nam 27-2. Điều 64 1. Đối tượng được xét tặng danh hiệu "Nghệ sĩ nhân dân", "Nghệ sĩ ưu tú" gồm diễn viên, đạo diễn, chỉ đạo nghệ thuật, chỉ huy dàn nhạc, biên đạo, quay phim, nhạc sĩ, hoạ sĩ, phát thanh viên hoạt động trong các lĩnh vực văn hoá, nghệ thuật. 2. Danh hiệu "Nghệ sĩ nhân dân" được xét tặng cho đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này đạt các tiêu chuẩn sau: A) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; B) Có phẩm chất đạo đức tốt, có tài năng nghệ thuật xuất sắc, có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam, được đồng nghiệp và nhân dân mến mộ; C) Có thời gian hoạt động nghệ thuật từ 20 năm trở lên, riêng đối với loại hình nghệ thuật xiếc từ 15 năm trở lên; được tặng nhiều giải thưởng của các cuộc liên hoan, hội diễn nghệ thuật trong nước hoặc ngoài nước. 3. Danh hiệu "Nghệ sĩ ưu tú" được xét tặng cho đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này đạt các tiêu chuẩn sau: A) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; B) Có phẩm chất đạo đức tốt, có tài năng nghệ thuật, có tinh thần phục vụ nhân dân, được đồng nghiệp và nhân dân mến mộ; C) Có thời gian hoạt động nghệ thuật từ 15 năm trở lên, riêng đối với loại hình nghệ thuật xiếc từ 10 năm trở lên; được tặng nhiều giải thưởng của các cuộc liên hoan, hội diễn nghệ thuật trong nước hoặc ngoài nước. 4. Danh hiệu "Nghệ sĩ nhân dân", "Nghệ sĩ ưu tú" được xét và công bố hai năm một lần vào dịp Quốc khánh 2-9. Điều 65 1. Danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân ưu tú" để tặng cho cá nhân có công bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể. 2. Danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân" được xét tặng cho cá nhân đạt các tiêu chuẩn sau: a) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; b) Có phẩm chất đạo đức tốt, có tài năng đặc biệt xuất sắc; c) Có công lớn trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể; d) Được đồng nghiệp và quần chúng mến mộ, kính trọng; tiêu biểu cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể trong cả nước. 3. Danh hiệu "Nghệ nhân ưu tú" được xét tặng cho cá nhân đạt các tiêu chuẩn sau: a) Trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; b) Có phẩm chất đạo đức tốt, có tài năng xuất sắc; c) Có công trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể; d) Được đồng nghiệp, quần chúng mến mộ; tiêu biểu cho sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể của địa phương. 4. Danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân ưu tú" được xét và công bố hai năm một lần vào dịp Quốc khánh 2-9. Mục 4:"Giải thưởng Hồ Chí Minh", "Giải thưởng nhà nước" Điều 66 1. "Giải thưởng Hồ Chí Minh", "Giải thưởng nhà nước" để tặng cho tác giả của một hoặc nhiều công trình, tác phẩm đã được công bố, sử dụng kể từ ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, bao gồm: A) Công trình nghiên cứu khoa học, công nghệ, sách giáo khoa, giáo trình sử dụng trong nhà trường và các cở sở giáo dục khác; B) Tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình nghiên cứu lý luận phê bình dưới các hình thức xuất bản, kiến trúc, triển lãm, sân khấu, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, giảng dạy, đĩa hát hoặc các hình thức khác. 2. "Giải thưởng Hồ Chí Minh", "Giải thưởng nhà nước" cũng được tặng cho người nước ngoài có tác phẩm, công trình nghiên cứu về Việt Nam. Điều 67 1. "Giải thưởng Hồ Chí Minh" được xét tặng cho tác giả của một hoặc nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu khoa học, công nghệ, giáo dục và văn học, nghệ thuật đạt các tiêu chuẩn sau: A) Đặc biệt xuất sắc; B) Có giá trị rất cao về khoa học, văn học, nghệ thuật, về nội dung tư tưởng; C) Có tác dụng lớn phục vụ sự nghiệp cách mạng, có ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài trong đời sống nhân dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc dân, khoa học, công nghệ, giáo dục, văn học, nghệ thuật. 2. "Giải thưởng Hồ Chí Minh" được xét và công bố 5 năm một lần vào dịp Quốc khánh 2-9. Điều 68 1. "Giải thưởng nhà nước" được xét tặng cho tác giả của một hoặc nhiều công trình nghiên cứu khoa học, công nghệ, giáo dục, những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về khoa học, văn học, nghệ thuật, về nội dung tư tưởng, có tác dụng và ảnh hưởng lớn trong xã hội theo tiêu chuẩn sau: A) Các công trình nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ xuất sắc, có tác dụng nâng cao năng suất lao động, đem lại hiệu quả kinh tế, góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội; B) Những sách giáo khoa, giáo trình có giá trị xuất sắc và được sử dụng rộng rãi trong nhà trường và các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; C) Các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật, có tác dụng tốt trong việc giáo dục, xây dựng con người mới, nâng cao trình độ thẩm mỹ của nhân dân, góp phần đáng kể vào sự phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam. 2. "Giải thưởng nhà nước" được xét và công bố hai năm một lần vào dịp Quốc khánh 2-9. Mục 5:Kỷ niệm chương, huy hiệu Điều 69 Kỷ niệm chương hoặc Huy hiệu để tặng cho cá nhân có đóng góp vào quá trình phát triển của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Tên kỷ niệm chương, tên Huy hiệu, đối tượng và tiêu chuẩn tặng Kỷ niệm chương, Huy hiệu do bộ, ban, ngành, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội quy định. Kỷ niệm chương, Huy hiệu phải được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở trung ương. Mục 6:Bằng khen Điều 70 1. Bằng khen để tặng cho cá nhân, tập thể lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất. 2. Bằng khen gồm: A) "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ"; B) Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương. Điều 71 1. "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ" được tặng cho cá nhân đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương, đạt danh hiệu "Chiến sỹ thi đua cơ sở" liên tục từ 5 năm trở lên; B) Lập được thành tích đột xuất. 2. "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ" được tặng cho tập thể đạt một trong các tiêu chuẩn sau: A) Đã được tặng bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương, đạt danh hiệu "Tập thể lao động xuất sắc" hoặc "Đơn vị quyết thắng" liên tục từ 3 năm trở lên; B) Lập được thành tích đột xuất. Điều 72 1. Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương để tặng cho cá nhân đạt các tiêu chuẩn sau: A) Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và nghĩa vụ công dân; B) Có phẩm chất đạo đức tốt; đoàn kết, gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; C) Tích cực học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 2. Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; B) Nội bộ đoàn kết, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tích cực hưởng ứng các phong trào thi đua; C) Bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần trong tập thể; thực hành tiết kiệm; D) Thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với mọi thành viên trong tập thể; Đ) Tổ chức Đảng, đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Điều 73 Việc khen thưởng bằng hình thức bằng khen của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội do cơ quan trung ương của các tổ chức này quy định. Mục 7:Giấy khen Điều 74 1. Giấy khen để tặng cho cá nhân, tập thể lập được thành tích thường xuyên hoặc đột xuất. 2. Giấy khen gồm: A) Giấy khen của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; B) Giấy khen của Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước; C) Giấy khen của Thủ trưởng cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; D) Giấy khen của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện; Đ) Giấy khen của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã. Điều 75 1. Giấy khen để tặng cho cá nhân đạt các tiêu chuẩn sau: A) Hoàn thành tốt nhiệm vụ, nghĩa vụ công dân; B) Có phẩm chất đạo đức tốt; đoàn kết, gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; C) Thường xuyên học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 2. Giấy khen để tặng cho tập thể đạt các tiêu chuẩn sau: A) Hoàn thành tốt nhiệm vụ; B) Nội bộ đoàn kết; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức tốt các phong trào thi đua; C) Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần trong tập thể; thực hành tiết kiệm; D) Thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với mọi thành viên trong tập thể. Điều 76 1. Việc khen thưởng bằng hình thức giấy khen của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội do cơ quan trung ương của các tổ chức này quy định. 2. Việc khen thưởng bằng hình thức giấy khen đối với cá nhân, tập thể người đang học tập tại nhà trường hoặc cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. 3. Việc khen thưởng bằng hình thức giấy khen của các tổ chức khác do Chính phủ quy định. Chương IV:Thẩm quyền quyết định, trao tặng, thủ tục, hồ sơ đề nghị khen thưởng Mục 1:Thẩm quyền quyết định, trao tặng Điều 77 Chủ tịch nước quyết định tặng huân chương, huy chương, "Giải thưởng Hồ Chí Minh", "Giải thưởng nhà nước", danh hiệu vinh dự nhà nước. Điều 78 Chính phủ quyết định tặng "Cờ thi đua của Chính phủ". Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng danh hiệu "Chiến sỹ thi đua toàn quốc", "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ". Điều 79 Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo cơ quan, tổ chức ở trung ương của đoàn thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tặng bằng khen, cờ thi đua, danh hiệu "Tập thể Lao động xuất sắc", "Đơn vị quyết thắng", danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương. Điều 80 1. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức thuộc bộ, ban, ngành, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc các doanh nghiệp nhà nước; Thủ trưởng cơ quan chuyên môn và tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định tặng danh hiệu "Chiến sỹ thi đua cấp cơ sở", danh hiệu "Lao động tiên tiến", "Chiến sỹ tiên tiến", "Tập thể lao động tiên tiến", "Đơn vị tiên tiến" và giấy khen. 2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định tặng danh hiệu thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hóa. 3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã quyết định tặng giấy khen, danh hiệu "Gia đình văn hoá". Điều 81 1. Người có thẩm quyền quyết định tặng hình thức khen thưởng nào thì trực tiếp trao tặng hoặc uỷ quyền trao tặng hình thức khen thưởng đó. 2. Đại sứ hoặc người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài được uỷ quyền trao tặng các hình thức khen thưởng của Nhà nước Việt Nam cho tập thể, cá nhân ở nước sở tại. Điều 82 Việc tổ chức lễ trao tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng do Chính phủ quy định. Mục 2:Thủ tục và hồ sơ đề nghị Điều 83 1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo cơ quan trung ương của đoàn thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ để đề nghị Chủ tịch nước quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương, "Giải thưởng Hồ Chí Minh", "Giải thưởng nhà nước", danh hiệu vinh dự nhà nước. 2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, lãnh đạo cơ quan trung ương của đoàn thể, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đề nghị Chính phủ quyết định tặng "Cờ thi đua của Chính phủ"; đề nghị Thủ tướng Chính phủ quyết định tặng "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ", danh hiệu "Chiến sỹ thi đua toàn quốc". 3. Các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng khác do cấp dưới trực tiếp của người có thẩm quyền quyết định danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng đề nghị. 4. Cơ quan chức năng về thi đua, khen thưởng tiếp nhận, xem xét hồ sơ và giúp người có thẩm quyền quyết định việc khen thưởng. Điều 84 1. Hồ sơ xét danh hiệu thi đua gồm: A) Báo cáo thành tích của cá nhân, tập thể; B) Đề nghị của Hội đồng thi đua; C) Biên bản bình xét thi đua. 2. Hồ sơ đề nghị xét khen thưởng gồm: A) Bản thành tích của cá nhân hoặc tập thể được đề nghị khen thưởng; B) Văn bản đề nghị khen thưởng của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức có cá nhân, tập thể được xét khen thưởng; C) Trường hợp đề nghị khen thưởng cho cá nhân, tập thể có phát minh sáng kiến, cải tiến, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, sáng tác hoặc sáng tạo trong các lĩnh vực khác phải kèm chứng nhận của cơ quan quản lý có thẩm quyền. 3. Trường hợp đề nghị tặng huân chương, huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước, "Cờ thi đua của Chính phủ", "Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ" phải có ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước theo ngành dọc ở trung ương hoặc chính quyền địa phương. Điều 85 1. Những trường hợp có đủ các điều kiện sau đây được đề nghị khen thưởng theo thủ tục đơn giản: A) Việc khen thưởng phục vụ yêu cầu chính trị, kịp thời động viên, khích lệ quần chúng; B) Cá nhân, tập thể lập được thành tích xuất sắc đột xuất trong chiến đấu, công tác, lao động, học tập; C) Thành tích, công trạng rõ ràng. 2. Việc khen thưởng theo thủ tục đơn giản do Chính phủ quy định. Điều 86 Chính phủ quy định thủ tục, quy trình, thời gian xét đối với các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng. Chương V:Quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tập thể được khen thưởng Điều 87 Cá nhân, tập thể được khen thưởng, tuỳ từng hình thức khen thưởng, được tặng hiện vật khen thưởng và được hưởng lợi ích khác theo quy định của pháp luật. Điều 88 Cá nhân được tặng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng có quyền lưu giữ, trưng bày và sử dụng hiện vật khen thưởng. Tập thể được tặng các hình thức khen thưởng có quyền lưu giữ, trưng bày, được sử dụng biểu tượng của các hình thức khen thưởng đó trên các văn bản, tài liệu chính thức của tập thể. Điều 89 Cá nhân, tập thể được khen thưởng có nghĩa vụ bảo quản các hiện vật khen thưởng, không được cho người khác mượn để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chương VI:Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng Điều 90 Nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng bao gồm: 1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng; 2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng; 3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng; 4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng; 5. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng; 6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng; 7. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng; 8. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng. Điều 91 1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi cả nước. Cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở trung ương có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của cơ quan quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. 2. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật. 3. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong phạm vi địa phương mình theo quy định của pháp luật. Điều 92 Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quản lý thi đua, khen thưởng trong phạm vi ngành. Điều 93 Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội căn cứ vào quy định của Luật này và các văn bản khác có liên quan thực hiện quản lý thi đua, khen thưởng trong phạm vi tổ chức mình. Điều 94 Quỹ thi đua, khen thưởng được hình thành trên cơ sở ngân sách nhà nước, sự đóng góp của cá nhân, tổ chức trong nước, cá nhân, tổ chức nước ngoài và các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật. Chính phủ quy định việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ thi đua, khen thưởng. Điều 95 Chính phủ quy định mẫu, màu sắc, số sao, số vạch cho từng loại, hạng huân chương, huy chương, huy hiệu; chất liệu, kích thước, khung các loại huân chương, huy chương, cờ thi đua, bằng khen, giấy khen và các hiện vật khen thưởng khác. Chương VII:Xử lý vi phạm Điều 96 1. Người nào gian dối trong việc kê khai thành tích để được khen thưởng thì bị huỷ bỏ quyết định khen thưởng và bị thu hồi hiện vật và tiền thưởng đã nhận; tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà còn bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. 2. Cá nhân xác nhận sai sự thật hoặc làm giả hồ sơ, giấy tờ cho người khác để đề nghị khen thưởng; người lợi dụng chức vụ quyền hạn quyết định khen thưởng trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Điều 97 1. Cá nhân được tặng thưởng danh hiệu vinh dự nhà nước mà vi phạm pháp luật thì có thể bị tước danh hiệu vinh dự nhà nước đó theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. 2. Việc tước danh hiệu vinh dự nhà nước do Chủ tịch nước quyết định. Điều 98 1. Cá nhân có quyền khiếu nại, tố cáo về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Tổ chức có quyền khiếu nại về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi đua, khen thưởng theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Chương VIII:Diều khoản thi hành Điều 99 Nhà nước bảo hộ các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng đã được tặng hoặc truy tặng trước khi Luật này có hiệu lực. Điều 100 Cá nhân, tập thể người Việt Nam ở trong nước, ở nước ngoài nhận các hình thức khen thưởng của nước ngoài phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đồng ý hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Điều 101 1. Nhà nước tiếp tục xem xét và thực hiện việc khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến cho những cá nhân, gia đình, địa phương và cơ sở có công lao, thành tích. Chính phủ hướng dẫn thể thức và thời hạn kết thúc việc khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến. 2. Ngoài các hình thức khen thưởng được quy định tại Luật này, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể thực hiện các hình thức động viên phù hợp đối với cá nhân, tập thể để kịp thời nêu gương tốt trong lao động, sản xuất, công tác và động viên phong trào thi đua, phù hợp với các nguyên tắc do Luật này quy định. Điều 102 Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004. Điều 103 Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này. Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005. Luật pháp Việt Nam
14927
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20X%C3%A2y%20d%E1%BB%B1ng%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Luật Xây dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Luật Xây dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2003 Luật sửa đổi bổ sung Luật Xây dựng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2009
14929
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A1i%20%C4%91o%C3%A0n%20k%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách đại đoàn kết của Chính phủ
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ II tại Hà Nội, Sau khi nghe báo cáo về nội trị, - Tán thành chính sách đại đoàn kết của Chính phủ. - Cần nghiêm trị những phần tử chia rẽ. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14931
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20chung%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20v%C3%A0%20vi%E1%BB%87c%20th%C3%A0nh%20l%E1%BA%ADp%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20m%E1%BB%9Bi
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách chung của Chính phủ và việc thành lập Chính phủ mới
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ II tại Hà Nội, Sau khi nghe lời tuyên bố của Hồ Chủ tịch, - Tán thành chính sách chung của Chính phủ. - Nhận sự từ chức của Chính phủ. - Uỷ Cụ Hồ Chí Minh lập Chính phủ mới theo nguyên tắc đoàn kết và tập hợp nhân tài không kể đảng phái. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14932
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20ngo%E1%BA%A1i%20giao%20v%E1%BB%9Bi%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Ph%C3%A1p
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách ngoại giao với nước Pháp
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ II tại Hà Nội, Sau khi nghe báo cáo về ngoại giao, Chính sách ngoại giao với nước Pháp căn cứ trên chủ quyền của Việt Nam với lực lượng quốc dân làm hậu thuẫn, phải cương quyết để bảo toàn lãnh thổ Việt Nam. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14933
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%E1%BB%A7%20quy%E1%BB%81n%20quan%20thu%E1%BA%BF%20v%C3%A0%20ngo%E1%BA%A1i%20th%C6%B0%C6%A1ng%20c%E1%BB%A7a%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chủ quyền quan thuế và ngoại thương của nước Việt Nam
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ II tại Hà Nội, Ngày 9-11-1946 sau khi được biết rõ về những hành động trái hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và tạm ước 14-9, các nhà đại diện nước Pháp ở Hải Phòng phạm vào chủ quyền quan thuế và ngoại thương của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Sau khi nghe ông Bộ trưởng Bộ Tài chính trình bày, Yêu cầu Chính phủ phải cương quyết đối phó, buộc người Pháp phải tôn trọng chủ quyền quan thuế và ngoại thương của nước Việt Nam. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14934
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20gi%E1%BA%A5y%20b%E1%BA%A1c%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về giấy bạc Việt Nam
Xét rằng nước Việt Nam phải có một nền tài chính riêng, nghĩa là phải có tiền tệ riêng, Xét rằng hiện nay giấy bạc Việt Nam đã lưu hành ở Trung bộ và đương bắt đầu lưu hành ở Bắc bộ được dân chúng rất hoan nghênh và tín nhiệm, Quốc hội can thiệp với Chính phủ cho phát hành giấy bạc Việt Nam trong toàn nội địa Việt Nam. Sau cùng Quốc hội, toàn thể nhân dân Việt Nam cương quyết ủng hộ Chính phủ, giữ vững chủ quyền Việt Nam bằng cách tiêu dùng giấy bạc Việt Nam. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14935
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20gi%E1%BA%A5y%20b%E1%BA%A1c%20500%20%C4%91%E1%BB%93ng
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về giấy bạc 500 đồng
Chính phủ Việt Nam cương quyết can thiệp để Nha Đông Dương Ngân hàng không thể vỡ nợ dân Việt Nam về giấy bạc 500 đồng. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14936
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20hoan%20ngh%C3%AAnh%20th%C3%A1i%20%C4%91%E1%BB%99%20c%E1%BB%A7a%20c%C3%A1c%20b%C3%A1o%20ch%C3%AD%20v%C3%A0%20c%C3%A1c%20%C4%91o%C3%A0n%20th%E1%BB%83%20Nam%20b%E1%BB%99
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoan nghênh thái độ của các báo chí và các đoàn thể Nam bộ
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ II tại Hà Nội, Sau khi tiếp được: 1- Bản tuyên ngôn của các báo chí Việt Nam thống nhất xuất bản tại Nam Bộ : Sud, Justice, Kiến Thiết, Nam kỳ, Tin điện, Việt bút, Tân việt... 2- Những bức điện văn của các Đoàn thể ở Nam Bộ: - Cao đài hiệp nhất, - Liên đoàn Công giáo, - Đoàn Thanh niên, - Hội Tin lành, - Đạo Hoà hảo, - Liên đoàn Công nhân vận tải giao thông, - Giới trí thức và công chức, Quốc hội nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần đoàn kết phấn đấu để thực hiện thống nhất quốc gia và triệt để ủng hộ Chính phủ Việt Nam của các báo chí và các Đoàn thể nói trên. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14937
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20%E1%BB%A7y%20nhi%E1%BB%87m%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20v%C3%A0%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20thi%20h%C3%A0nh%20Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ủy nhiệm Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ II tại Hà Nội, Uỷ nhiệm Chính phủ và Ban Thường trực Quốc hội thi hành Hiến pháp. Trong thời kỳ chưa thi hành được thì Chính phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban hành các sắc luật. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14938
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20bi%E1%BB%83u%20d%C6%B0%C6%A1ng%20c%C3%A1c%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20%C4%91%C3%A3%20t%E1%BB%AB%20tr%E1%BA%A7n%20v%C3%AC%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa biểu dương các đại biểu Quốc hội đã từ trần vì nước
Trong 7 năm toàn quốc kháng chiến, nhiều vị đại biểu Quốc hội đã hy sinh tính mạng, nêu cao tinh thần chiến đấu với địch, tinh thần bất khuất trước kẻ địch, tinh thần tận tuỵ phục vụ nhân dân. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ III vào đầu tháng 12 năm 1953 kính cẩn nghiêng mình trước tấm gương yêu nước của các vị và tuyên bố các vị đã xứng đáng với lòng tín nhiệm của nhân dân. Quốc hội thành thực gửi lời thăm hỏi và chia buồn với gia đình các vị đại biểu đã hy sinh vì nước. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày mồng 4 tháng 12 năm 1953. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14939
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20t%C3%ADn%20nhi%E1%BB%87m%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tín nhiệm Chính phủ
Sau khi nghe Chính phủ báo cáo công tác 7 năm toàn quốc kháng chiến vừa qua; sau khi nghe Chính phủ giải đáp các câu hỏi của các đại biểu Quốc hội; sau khi xét và thông qua luật cải cách ruộng đất do Chính phủ đề ra; Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong khoá họp lần thứ 3 vào đầu tháng 12 năm 1953, hoàn toàn đồng ý đường lối chính sách của Chính phủ về quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế tài chính và văn hoá xã hội. Quốc hội trịnh trọng tuyên bố: Quốc hội hoàn toàn tín nhiệm Hồ Chủ tịch và Chính phủ. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp này 4 tháng 12 năm 1953 Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14940
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20tru%E1%BA%A5t%20quy%E1%BB%81n%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20c%E1%BB%A7a%20nh%E1%BB%AFng%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20tr%E1%BB%91n%20nhi%E1%BB%87m%20v%E1%BB%A5%20kh%C3%A1ng%20chi%E1%BA%BFn
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa truất quyền đại biểu Quốc hội của những đại biểu trốn nhiệm vụ kháng chiến
Trong 7 năm toàn quốc kháng chiến, có một số nhỏ đại biểu đã bỏ hàng ngũ kháng chiến, cam tâm làm tay sai cho giặc, phản lại quyền lợi của dân tộc; một số nhỏ khác là địa chủ phản động, cường hào gian ác, đã phạm nhiều tội ác đối với Tổ quốc, đối với kháng chiến, đối với nhân dân. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, họp khoá thứ III, trong phiên họp ngày mồng 4 tháng 12 năm 1953 tuyên bố những người ấy không xứng đáng với sự uỷ nhiệm của quốc dân nữa. Quốc hội quyết nghị chuẩn y những nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội đã tước quyền bất khả xâm phạm của những đại biểu ấy và cho phép toà án tuỳ tội trạng của họ mà xét xử và trừng trị. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày mồng 4 tháng 12 năm 1953. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14941
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20hi%E1%BB%87p%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20%C4%91%C3%ACnh%20chi%E1%BA%BFn
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề hiệp định đình chiến
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ, Sau khi nghe báo cáo thứ nhất của Tiểu ban Ngoại giao và Hiệp định đình chiến và các đại biểu Quốc hội tham luận, 1. Quốc hội nhiệt liệt hoan hô Hồ Chủ tịch, và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã lãnh đạo toàn dân kháng chiến thắng lợi, lập lại hòa bình trên toàn đất nước Việt Nam. 2. Quốc hội tỏ rõ ý chí của toàn dân kiên quyết thi hành triệt để hiệp định Giơnevơ, ủng hộ đường lối thi hành đúng đắn hiệp định Giơnevơ. 3. Quốc hội tỏ lòng căm phẫn và tố cáo trước nhân dân thế giới những tội ác của đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản hiệp định và bọn Ngô Đình Diệm phá hoại việc thi hành Hiệp định Giơnevơ, uy hiếp hòa bình ở Đông Dương, ở Đông Nam Á và thế giới. 4. Quốc hội kêu gọi toàn dân từ Bắc đến Nam đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi xung quanh Hồ Chủ tịch, kiên quyết phấn đấu cho hòa bình và thống nhất. Nghị quyết này được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 24 tháng 3 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14942
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20kinh%20t%E1%BA%BF%20t%C3%A0i%20ch%C3%ADnh%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách kinh tế tài chính của Chính phủ
Sau khi nghe báo cáo của Tiểu Ban nghiên cứu các vấn đề kinh tế tài chính của Quốc hội, Quốc hội nhận thấy: 1/ Những nhiệm vụ mà Chính phủ đã đề ra: hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục lại nền kinh tế quốc dân, làm giảm bớt khó khăn về đời sống của nhân dân phù hợp với tình hình đất nước ta, phù hợp với nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, phù hợp với công cuộc đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ của nhân dân ta. 2/ Phương châm khôi phục kinh tế: khôi phục và phát triển nông nghiệp, khôi phục công nghiệp, điều chỉnh thương nghiệp, đều hướng về phục vụ dân sinh, phục vụ cho sản xuất của nhân dân, phục vụ cho công cuộc kiến thiết nước nhà. 3/ Những chính sách lớn của Chính phủ, chính sách phát triển các ngành công thương nghiệp có lợi cho quốc kế dân sinh, chính sách lao tư, chính sách công tư đều là những biện pháp cụ thể có tác dụng thực hiện phương châm khôi phục kinh tế. - Tán thành toàn bộ chính sách kinh tế tài chính của Chính phủ, - Tán thành kế hoạch khôi phục kinh tế sau chiến tranh của Chính phủ, - Hô hào toàn dân ủng hộ cho đường lối chính sách của Chính phủ được thi hành đầy đủ mau chóng. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 25 tháng 3 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14943
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20l%E1%BA%ADp%20khu%20v%E1%BB%B1c%20t%E1%BB%B1%20tr%E1%BB%8B%20c%E1%BB%A7a%20c%C3%A1c%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c%20thi%E1%BB%83u%20s%E1%BB%91
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách lập khu vực tự trị của các dân tộc thiểu số
Quốc hội, sau khi nghe Tiểu Ban dân tộc báo cáo và các đại biểu tham luận, 1/ Hoan hô tinh thần đoàn kết sắt đá của đồng bào tất cả các dân tộc từ Bắc chí Nam; hoan hô cuộc chiến đấu anh dũng của đồng bào tất cả các dân tộc đã đưa đến kháng chiến thắng lợi; hoan hô cuộc đấu tranh mãnh liệt hiện nay của đồng bào tất cả các dân tộc để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. 2/ Thông qua chính sách khu vực tự trị của các dân tộc do Chính phủ đề ra. 3/ Thông qua chủ trương, kế hoạch lập khu tự trị Thái - Mèo ở Tây Bắc do Chính phủ đề nghị. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 25 tháng 3 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14944
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20qu%E1%BB%91c%20ph%C3%B2ng
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề quốc phòng
1- Quốc hội tuyên dương công trạng của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu anh dũng và chiến thắng oanh liệt trong cuộc kháng chiến trường kỳ, đã làm tròn nhiệm vụ đối với Tổ quốc và nhân dân, đã xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân Việt Nam. 2- Quốc hội thông qua chính sách "Củng cố quốc phòng, củng cố quân đội" do Chính phủ đề ra. 3- Kêu gọi toàn dân nhận rõ âm mưu địch, nâng cao tinh thần cảnh giác và ý chí phấn đấu, và hết sức ủng hộ chính sách "Củng cố quốc phòng, củng cố quân đội" của Chính phủ. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 26 tháng 3 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14945
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20c%E1%BA%A3i%20c%C3%A1ch%20ru%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chính sách cải cách ruộng đất
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ, Sau khi nghe Tiểu ban cải cách ruộng đất thuyết trình và các vị đại biểu Quốc hội tham luận, Quốc hội quyết nghị: 1- Tán dương những thành tích đấu tranh của nông dân và sự cố gắng của cán bộ trong các đợt phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất vừa qua. 2- Tán thành các điểm bổ sung về chính sách cải cách ruộng đất, mà Chính phủ đã đề ra trong khoá họp này. 3- Kêu gọi nông dân và tất cả các tầng lớp nhân dân ủng hộ chính sách cải cách ruộng đất của Chính phủ mà Quốc hội đã thông qua. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 26 tháng 3 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14946
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20t%C3%B4n%20gi%C3%A1o
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề tôn giáo
Sau khi nghe Tiểu Ban tôn giáo báo cáo và các đại biểu tham luận, 1/ Quốc hội nhận rằng từ ngày nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thành lập, Chính phủ đã luôn luôn thi hành chính sách đảm bảo tự do tín ngưỡng, chú trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào tôn giáo, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, kháng chiến thắng lợi. 2/ Quốc hội hoan hô lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết đấu tranh của đồng bào các tôn giáo đã hăng hái tham gia kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ tín ngưỡng và đang kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản hiệp định và bè lũ tay sai của chúng để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. 3/ Quốc hội tố cáo trước đồng bào toàn quốc và trước dư luận thế giới âm mưu và hành động độc ác của đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản hiệp định và bè lũ tay sai của chúng đã lừa phỉnh, doạ nạt, cưỡng ép một số đồng bào giáo dân ở miền Bắc di cư vào miền Nam, đầy ải đồng bào vào cảnh sống thảm khốc, trái hẳn với nhân đạo và trái với hiệp định Giơ-ne-vơ. 4/ Căn cứ vào đề nghị của Chính Phủ, Quốc Hội thông qua 6 nguyên tắc sau đây về chính sách đảm bảo tự do tín ngưỡng: 1) Mọi người công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo ở trong các cơ quan tôn giáo. Các tín đồ được tự do lễ bái. Sách báo, tài liệu về tôn giáo được xuất bản theo đúng luật lệ của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà. 2) Các nhà tu hành, các tín đồ đều được hưởng mọi quyền lợi và phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân Việt Nam. Để cho các nhà tu hành có điều kiện làm nghề tôn giáo của họ, sẽ có sự châm chước thích đáng về mặt thi hành nghĩa vụ công dân. 3) Các nhà thờ, chùa, thánh thất được tôn trọng và bảo vệ. 4) Các cơ quan giáo lý, văn hoá, xã hội, các tổ chức công thương nghiệp của các tôn giáo được pháp luật bảo hộ. 5) Khi thi hành luật cải cách ruộng đất, đối với các tôn giáo sẽ có sự chiếu cố như sau: A- Khi cải cách ruộng đất, trong số ruộng mà Chính phủ trưng thu hoặc trưng mua để chia cho nông dân, sẽ để lại cho nhà chung, nhà chùa, thánh thất một số ruộng đủ dùng vào việc thờ cúng và để dùng vào việc sinh hoạt của những người chuyên làm nghề tôn giáo. Số ruộng đó sẽ do nhân dân địa phương bình nghị và chính quyền chuẩn y. B- Những linh mục, nhà sư, chức sắc có ruộng đất cho phát canh thu tô như địa chủ không bị vạch thành phần là địa chủ, nhưng phải thi hành đúng chính sách ruộng đất của Chính phủ. 6- Những kẻ mượn danh nghĩa hoặc vin cớ tôn giáo để phá hoại hoà binh, thống nhất, độc lập và dân chủ, phá hoại đoàn kết của nhân dân, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tư tưởng của người khác, hoặc làm những việc khác trái pháp luật, sẽ bị trừng trị. 5/ Uỷ nhiệm Chính phủ căn cứ vào những nguyên tắc trên đây, ban hành những luật pháp thích hợp để thực hiện chính sách đảm bảo tự do tín ngưỡng./. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 26 tháng 3 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14947
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20ho%C3%A0n%20to%C3%A0n%20t%C3%A1n%20th%C3%A0nh%20to%C3%A0n%20b%E1%BB%99%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20v%C3%A0%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%2C%20tuy%E1%BB%87t%20%C4%91%E1%BB%91i%20t%C3%ADn%20nhi%E1%BB%87m%20v%C3%A0%20%E1%BB%A7ng%20h%E1%BB%99%20H%E1%BB%93%20Ch%E1%BB%A7%20t%E1%BB%8Bch%20v%C3%A0%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn tán thành toàn bộ chính sách và công tác của Chính phủ, tuyệt đối tín nhiệm và ủng hộ Hồ Chủ tịch và Chính phủ
Sau nghe đã nghe và thảo luận bản báo cáo về "Tình hình và công tác đã qua cùng tình hình và nhiệm vụ trước mắt" và các bản báo cáo bổ sung của Chính phủ, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà họp khoá thứ IV từ 20 tháng 3 năm 1955 đến 26 tháng 3 năm 1955 đồng thanh quyết nghị: 1- Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoàn toàn tán thành toàn bộ chính sách và công tác của Chính phủ kể từ ngày bắt đầu kháng chiến, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, đã đưa nhân dân ta đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và thắng lợi Giơ-ne-vơ và tỏ lời nhiệt liệt hoan nghênh Chính phủ đã thu được kết quả tốt đẹp trong công tác. 2- Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoàn toàn tán thành và nhất trí thông qua những chính sách và công tác trước mắt mà Chính phủ đề ra : - Đấu tranh để thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ, củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất bằng tổng tuyển cử tự do. - Ra sức củng cố miền Bắc, bằng cách đẩy mạnh và hoàn thành cải cách ruộng đất đúng theo kế hoạch, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế và văn hoá, cương quyết củng cố quốc phòng, củng cố chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà, thành lập khu Thái - Mèo tự trị, thực hiện chính sách cụ thể về tự do tín ngưỡng, tăng cường hoạt động ngoại giao. 3- Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyệt đối tín nhiệm và triệt để ủng hộ Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã điều khiển cuộc kháng chiến đến thắng lợi ngày nay. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tỏ lòng tin tưởng chắc chắn rằng dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch, Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà, cuộc đấu tranh gay go, gian khổ và phức tạp của nhân dân ta để củng cố hoà bình thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước, trước hết và căn bản là củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất bằng tổng tuyển cử tự do, chống âm mưu của đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản hiệp định và bọn Ngô Đình Diệm tay sai của chúng phá hoại hoà bình, chia cắt đất nước, nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 26 tháng 3 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14948
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20%C4%91%E1%BB%91i%20v%E1%BB%9Bi%20b%C3%A1o%20c%C3%A1o%20chung%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối với báo cáo chung của Chính phủ
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ, xét kỹ những công việc Chính phủ đã làm, đang làm và chuẩn bị làm, Quốc hội nhất trí quyết nghị: 1- Dân tộc Việt Nam về mọi mặt lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hoá là một khối thống nhất, không thể phân chia được. Lãnh thổ Việt Nam là một giải đất thống nhất, không thể chia cắt được. Việt Nam là một nước. Nhất định Việt Nam phải thống nhất. Để thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ về phần giải quyết vấn đề chính trị, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã hai lần tuyên bố sẵn sáng mở hội nghị hiệp thương với chính quyền miền Nam để bàn về tổng tuyển cử tự do trong cả nước đặng thống nhất nước nhà. Nhưng do sự xúi giục của đế quốc Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã chống lại hiệp định Giơ-ne-vơ, trốn tránh hiệp thương và tổng tuyển cử tự do. Đế quốc Mỹ đang tăng cường can thiệp vào miền Nam về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế. Chính quyền Ngô Đình Diệm ráo riết phát xít hoá bộ máy cai trị, xoá bỏ tự do dân chủ, khủng bố những người yêu chuộng hoà bình, thống nhất. Đế quốc Mỹ ráo riết tăng cường quân đội miền Nam, công nhiên chở thêm vũ khí và nhân viên quân sự vào miền Nam, kéo miền Nam vào khu vực "bảo hộ" của khối xâm lược Đông Nam á, hòng biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của Mỹ để chuẩn bị chiến tranh. Đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đang ra sức phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ một cách có hệ thống và hết sức nghiêm trọng. Nhân dân ta từ Bắc đến Nam kiên quyết đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc. Đồng bào miền Nam vững lòng tin tưởng ở tương lai của Tổ quốc đã đấu tranh vô cùng anh dũng cho hoà bình, thống nhất của nước nhà. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cực lực phản đối sự can thiệp về mọi mặt của đế quốc Mỹ vào miền Nam Việt Nam, những hành động khủng bố của chính quyền miền Nam và nhiệt liệt hoan nghênh lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoàn toàn ủng hộ đường lối của Chính phủ chủ trương kiên quyết tôn trọng và triệt để thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ, đồng thời kiên quyết đấu tranh để các bên có liên quan cũng phải thi hành đúng đắn hiệp định Giơ-ne-vơ. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhận rằng chính quyền miền Nam thừa kế nước Pháp ở miền Nam, có trách nhiệm thi hành nghiêm chỉnh mọi điều khoản của hiệp định Giơ-ne-vơ. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đòi nước Pháp phải tôn trọng chữ ký của mình và làm trọn trách nhiệm đối với hiệp định Giơ-ne-vơ không chỉ trong việc đình chỉ chiến sự mà cả trong việc giải quyết vấn đề chính trị. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đòi các nước tham gia hộinghị Giơ-ne-vơ cũng như các nước trong Uỷ ban quốc tế giám sát và kiểm soát phải bảo đảm hiệp định Giơ-ne-vơ được thi hành đầy đủ. 2- Hiện nay, tình hình chính trị và xã hội ở miền Bắc và miền Nam khác nhau. Muốn thực hiện một cách thuận lợi việc thống nhất Tổ quốc, phải chiếu cố đến lợi ích và nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân, dùng cách hiệp thương đi đến tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thực hiện thống nhất. Dựa trên bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chính phủ đã vạch rõ đường lối đại đoàn kết toàn dân để cùng nhau đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình. Cuộc tổng tuyển cử tự do để thống nhất nước nhà sẽ tiến hành trong toàn quốc theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bí mật. Mục đích của cuộc tổng tuyển cử tự do này là bầu một Quốc hội thống nhất để cử một Chính phủ liên hợp duy nhất cho toàn nước Việt Nam. Việc thành lập Chính phủ liên hợp sẽ tăng cường đoàn kết giữa các đảng phái, các tầng lớp, các dân tộc, các miền trên toàn cõi Việt Nam. Để chiếu cố tình hình khác nhau giữa hai miền, địa phương có quyền ra những luật lệ địa phương thích hợp với đặc điểm của địa phương và không trái với pháp luật chung của Nhà nước. Đường lối chủ trương trên đây của Chính phủ nhất định sẽ được nhân dân cả nước ta nhiệt liệt hoan nghênh và hăng hái thực hiện đồng thời sẽ được nhân dân thế giới nhiệt liệt đồng tình và ủng hộ. Chính phủ đã đề ra chính sách ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ ấy. 3- Để giành thắng lợi, phải ra sức củng cố miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của toàn dân. Trong một năm từ ngày hoà bình lập lại, nhân dân ta đã ra sức củng cố miền Bắc và đã thu được những thành tích khá. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần hăng hái của anh chị em công nhân, nông dân, quân đội, lao động trí óc và của mọi tầng lớp nhân dân khác. Để đẩy mạnh củng cố miền Bắc, Chính phủ đã đề ra đường lối chủ trương khôi phục kinh tế, mục đích là thực hiện chương trình hai năm khôi phục kinh tế nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, giảm bớt khó khăn của nhân dân, nâng cao dần đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân làm cơ sở cho việc củng cố miền Bắc về kinh tế, chính trị, quốc phòng, đồng thời chiếu cố miền Nam, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế có kế hoạch sau này. Nhiệm vụ chung của việc khôi phục kinh tế là dựa vào sức lực của nhân dân ta, đồng thời dựa vào sức giúp đỡ của các nước bạn -sức ta là chính- nhằm khôi phục sản xuất nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với cải cách ruộng đất; khôi phục và phát triển sản xuất thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và công nghiệp; khôi phục thương nghiệp và bình ổn vật giá; củng cố nền tài chính quốc gia; khôi phục giao thông vận tải. Để hoàn thành nhiệm vụ trên, phải sử dụng hợp lý sự giúp đỡ của các nước bạn; tăng cường tổ chức kinh tế tài chính, ra sức đào tạo cán bộ kinh tế tài chính, đẩy mạnh và hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc; phát động nhân dân thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. 4- Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoàn toàn tán thành và nhất trí thông qua những đường lối chủ trương trên đây của Chính phủ, là đường lối chủ trương đúng đắn, hợp với tình hình thế giới và hoàn cảnh chính trị của nước ta hiện nay, hợp với quyền lợi và nguyện vọng căn bản của nhân dân Việt Nam, hợp với lợi ích hoà bình thế giới. Nhân dân ta bước vào một thời kỳ đấu tranh mới, rất gay go, gian khổ, phức tạp nhưng nhân dân ta nhất định sẽ thắng lợi, cũng như chúng ta đã thắng lợi trong cuộc kháng chiến 8, 9 năm qua. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi nhân dân miền Bắc hãy ra sức đẩy mạnh củng cố miền Bắc về mọi mặt. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi đồng bào miền Nam hãy đoàn kết đấu tranh chặt chẽ và rộng rãi trong Mặt trận Tổ quốc nhằm giữ gìn quyền lợi hàng ngày của mình và giành hoà bình, thống nhất cho Tổ quốc. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam hãy đoàn kết chặt chẽ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hăng hái đấu tranh thực hiện cương lĩnh của Mặt trận, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, do đó mà hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kêu gọi nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới hãy đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam để thực hiện các quyền dân tộc của mình, đồng thời góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Dương, ở Đông Nam á và thế giới. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà triệt để tín nhiệm và ủng hộ Chính phủ do Hồ Chủ tịch lãnh đạo và tin tưởng rằng, dưới sự điều khiển của Chính phủ, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà sẽ ngày càng thêm vững mạnh, cuộc đấu tranh của nhân dân ta để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nhất định thắng lợi; nước Việt Nam sẽ trở nên một nước hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 20 tháng 9 năm 1955. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14949
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20%C4%91%E1%BA%A5u%20tranh%20th%E1%BB%B1c%20hi%E1%BB%87n%20th%E1%BB%91ng%20nh%E1%BA%A5t%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20nh%C3%A0
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà
Sau khi nghe và thảo luận bản báo cáo của Chính phủ về vấn đề đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, 1. Từ khoá họp Quốc hội lần thứ 5 đến nay; nhân dân ta từ Bắc chí Nam và kiều bào ở nước ngoài đã tăng cường đoàn kết trên cơ sở bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tiếp tục kiên quyết đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. Nhưng do âm mưu phá hoại của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước như hiệp nghị Giơ-ne-vơ quy định đã không thực hiện được đúng kỳ hạn. Trước tình hình ấy, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một lần nữa xác định lập trường của nhân dân và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là kiên quyết nêu cao ngọn cờ hoà bình thống nhất, tiếp tục đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, và nhận đó là một cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Lực lượng đoàn kết và đấu tranh của toàn dân ta từ Bắc chí Nam là lực lượng quyết định trong cuộc đấu tranh ấy. Hiệp nghị Giơ-ne-vơ là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng giúp cho ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh cho thống nhất. 2. Căn cứ nhận định trên, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhất trí tán thành chủ trương của Chính phủ tiếp tục những nhiệm vụ sau đây: - Ra sức củng cố miền Bắc về mọi mặt làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà; - Giữ vững và phát triển phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam; - Tăng cường đấu tranh ngoại giao, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân và Chính phủ các nước yêu chuộng hoà bình trên thế giới; - Trước mắt phải hết sức tăng cường cuộc đấu tranh để khôi phục và phát triển quan hệ bình thường giữa miền Bắc và miền Nam. Trong các nhiệm vụ trên đây, Quốc hội nhận định công cuộc củng cố miền Bắc có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đấu tranh thống nhất và nhấn mạnh trong khi củng cố miền Bắc cần chú trọng tranh thủ miền Nam. Quốc hội đã thảo luận về sự lãnh đạo của Chính phủ đối với công cuộc đấu tranh thống nhất trong thời gian qua và đề nghị Chính phủ chú trọng tăng cường hơn nữa việc lãnh đạo về tư tưởng cũng như về tổ chức để thúc đẩy cuộc đấu tranh tiến lên. Để đoàn kết rộng rãi toàn dân trên cơ sở bản cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoan nghênh mọi cố gắng, mọi cống hiến của tất cả những người Việt Nam yêu nước cho sự nghiệp thống nhất nước nhà; hoan nghênh mọi sự tiếp xúc, trao đổi ý kiến giữa các cá nhân, các đoàn thể ở miền Bắc, miền Nam, trong nước, ngoài nước, nhằm thống nhất hành động chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, phấn đấu cho một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. 3. Về việc thi hành hiệp nghị Giơ-ne-vơ, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một lần nữa tuyên bố lập trường của nhân dân ta là tôn trọng và tiếp tục thi hành hiệp nghị, đồng thời đòi các bên liên quan cũng phải tôn trọng và tiếp tục thi hành hiệp nghị. Quốc hội thấy cần nhắc đến sự cố gắng của Uỷ ban quốc tế giám sát và kiểm soát ở Việt Nam đối với việc củng cố hoà bình, thi hành hiệp nghị Giơ-ne-vơ trong hai năm qua. Quốc hội nhận định rằng về pháp lý, cũng như về thực tế và bằng việc làm, chính quyền miền Nam đều bị hiệp nghị Giơ-ne-vơ ràng buộc và có trách nhiệm phải tiếp tục thi hành hiệp nghị. Chính phủ Pháp là một bên ký hiệp nghị Giơ-ne-vơ có phần trách nhiệm của mình trong việc tiếp tục thi hành hiệp nghị ấy. Để thực hiện các điều khoản của hiệp nghị Giơ-ne-vơ về thống nhất Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã đồng ý thi hành những đảm bảo cần thiết cho một cuộc tổng tuyển cử thực sự tự do và dân chủ. Chỉ cần có hội nghị hiệp thương để hai bên thoả thuận với nhau về việc thực hiện nguyên tắc đó. Nhưng chính quyền miền Nam cho đến nay vẫn tiếp tục phá hoại hiệp nghị Giơ-ne-vơ, tiếp tục cự tuyệt hiệp thương với miền Bắc. Chính quyền miền Nam đã làm trái với nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta. Họ phải chịu trách nhiệm đối với nhân dân và Tổ quốc về việc kéo dài tình trạng chia cắt đất nước. 4. Cuộc đấu tranh thống nhất hiện nay mặc dù gặp nhiều khó khăn trở ngại do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai gây ra, nhưng với tinh thần đấu tranh anh dũng của đồng bào miền Nam, với sự đoàn kết nhất trí của đồng bào toàn quốc và kiều bào ở nước ngoài, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tin chắc rằng cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà nhất định sẽ giành được thắng lới cuối cùng. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14950
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20c%E1%BA%A3i%20c%C3%A1ch%20ru%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về công tác cải cách ruộng đất
Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện công tác cải cách ruộng đất, 1- Hiện nay cuộc vận động cải cách ruộng đất căn bản làm xong ở miền Bắc, nhiệm vụ phản phong ở miền Bắc đã căn bản hoàn thành. Ở miền Bắc, giai cấp địa chủ căn bản đã bị đánh đổ, chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất đã bị xoá bỏ, nông dân đã làm chủ nông thôn; nguyện vọng lâu đời của nông dân là “người cày có ruộng” đã thực hiện; trình độ giác ngộ giai cấp của nông dân lao động đã được nâng cao một phần; sức sản xuất ở nông thôn đã được giải phóng; quan hệ sản xuất ở nông thôn đã đổi mới, nhờ đó sản xuất nông nghiệp bước đầu được đẩy mạnh, đời sống nông dân bước đầu được cải thiện, mở đường cho việc phát triển công thương nghiệp và phát triển văn hoá của nước nhà. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh gian khổ, bền bỉ và anh dũng của nhân dân, của nông dân ta, kết quả của cuộc cách mạng phản đế và cách mạng phản phong, kết quả của chế độ dân chủ nhân dân của ta ở miền Bắc. Những kết quả đó chứng tỏ rằng đường lối chung của ta, luật cải cách ruộng đất và các chính sách bổ sung mà Quốc hội đã thông qua căn bản là chính xác. Nhưng cuộc vận động giảm tô và cải cách ruộng đất, nhất là trong đợt 7 và 8 giảm tô, đợt 4 và 5 cải cách ruộng đất, đã phạm nhiều sai lầm. Đó là những sai lầm nghiêm trọng, trái với một số điều đã ghi trong luật cải cách ruộng đất mà Quốc hội đã thông qua, trái với chế độ pháp trị dân chủ của Nhà nước, với chính sách của Mặt trận Tổ quốc. Những sai lầm đó không những đã hạn chế những thành tích đã thu được, mà còn gây cho ta nhiều khó khăn và những hậu quả không tốt. Trước những sai lầm nghiêm trọng nói trên, Chính phủ đã nhận trách nhiệm của mình và nghiêm chỉnh tự phê bình trước Quốc hội. Quốc hội đồng ý với sự tự phê bình của Chính phủ và việc thi hành kỷ luật đối với những người có trách nhiệm. 2- Sau khi phát hiện sai lầm, Chính phủ đã đề ra những biện pháp sửa chữa sai lầm một cách kiên quyết, khẩn trương và thận trọng, nhằm đoàn kết cán bộ, đoàn kết toàn dân, ổn định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất, hoàn thành tốt cải cách ruộng đất. Quốc hội nhận rằng những phương châm chính sách sửa sai của Chính phủ là đúng và những bước đầu của công tác sửa sai đã đưa lại kết quả tương đối tốt. Đó là do toàn thể đồng bào và cán bộ đã nêu cao tinh thần đoàn kết phấn đấu, tích cực chấp hành các chính sách của Đảng và Chính phủ, làm cho công tác sửa sai, tuy rất phức tạp đã bước đầu có kết quả, tình hình nông thôn bước đầu được ổn định. 3- Để hoàn thành tốt công tác sửa sai, Quốc hội nhận rằng Chính phủ cần tăng cường hơn nữa việc lãnh đạo công tác sửa sai. Cần kịp thời bổ sung thêm một số chính sách cụ thể về sửa sai đối với miền biển, miền núi, đối với một số các nông trường và xí nghiệp, đối với gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, gia đình quân nhân và cán bộ, đối với thương binh và bộ đội phục viên và đối với các vùng đồng bào tôn giáo. Cần chú trọng giáo dục cho cán bộ về việc nắm vững đường lối chung của Đảng và Chính phủ ở nông thôn; dựa hẳn vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên hiệp với phú nông, ngăn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy, mở đường cho địa chủ lao động cải tạo thành con người mới; về tác phong đi đúng đường lối quần chúng, dựa vào quần chúng để giải quyết mọi vấn đề đúng chính sách. Cần kết hợp công tác sửa sai với các công tác khác ở nông thôn, đặc biệt là đảm bảo sản xuất vụ chiêm kịp thời vụ và đúng kế hoạch. Cần không ngừng nâng cao cảnh giác, ngăn ngừa và kịp thời trừng trị những phần tử phản động lợi dụng khó khăn của ta để phá hoại việc sửa sai, hòng xoá bỏ thành quả của cải cách ruộng đất, chống lại lợi ích của nông dân lao động. 4- Quốc hội tin rằng đồng bào và cán bộ đoàn kết và cố gắng hơn nữa. Nhiệm vụ còn nặng, công tác còn phức tạp và khó khăn. Nhưng với truyền thống đoàn kết, tin tưởng và phấn đấu của nhân dân và cán bộ ta, nhất định chúng ta sẽ khắc phục khó khăn, phát huy thắng lợi, làm tròn nhiệm vụ, hoàn thành tốt cải cách ruộng đất, củng cố miền Bắc thêm một bước làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14951
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20kh%C3%B4i%20ph%E1%BB%A5c%20kinh%20t%E1%BA%BF
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về công tác khôi phục kinh tế
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp khóa thứ 6; Sau khi nghe và thảo luận bản báo cáo của Chính phủ về công tác khôi phục kinh tế, 1) Quốc hội xác nhận trong hoàn cảnh hết sức khó khăn và trong thời gian không đầy hai năm, Chính phủ và nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tích trong việc thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu của công cuộc khôi phục kinh tế: khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp; khôi phục và phát triển sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp; khôi phục giao thông vận tải; củng cố và phát triển đê điều và thuỷ nông; giải quyết được phần lớn nạn thất nghiệp; cung cấp hàng hoá cần thiết cho nhân dân, bình ổn giá những thứ hàng chính; củng cố và phát triển khu vực kinh tế quốc doanh; bước đầu xây dựng và phát triển khu vực kinh tế hợp tác xã. Thành tích lớn nhất là sản xuất lương thực vượt mức trước chiến tranh. Quốc hội nhận rằng những thành tích đã thu được là căn bản, chúng ta đã đạt được yêu cầu mục đích của công cuộc khôi phục kinh tế: khôi phục và phát triển sản xuất nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh, giảm bớt khó khăn của nhân dân, nâng cao một bước đời sống của nhân dân; củng cố và phát triển chế độ kinh tế dân chủ nhân dân. Những thành tích đó chứng tỏ rằng đường lối phương châm khôi phục kinh tế của Đảng và Chính phủ được Quốc hội họp khoá thứ 5 thông qua, căn bản là đúng. Những thành tích đó là kết quả của sự nỗ lực của nhân dân ta, nhất là của nhân dân lao động và sự giúp đỡ tận tâm của các nước bạn và các chuyên gia bạn. Bên cạnh những thành tích kể trên, việc lãnh đạo thi hành công cuộc khôi phục kinh tế có nhiều khuyết điểm: lãnh đạo sản xuất nông nghiệp không toàn diện; chưa chú ý đầy đủ công nghiệp nhẹ sản xuất hàng tiêu dùng; chưa sử dụng hết khả năng của thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư doanh; đánh giá không đúng nhu cầu của nhân dân, do đó không đảm bảo cung cấp hàng hoá và nguyên liệu cần thiết; còn thiếu xót trong việc chấp hành các chính sách lao động, công tư và lao tư; phạm nhiều lãng phí trong việc quản lý tài sản Nhà nước, xây dựng cơ bản, sử dụng lao động, quản lý sản xuất và kinh doanh; công tác kinh tế miền núi và việc thực hiện quan hệ kinh tế Bắc Nam chưa được chú ý đúng mức. 2) Hiện nay, nền kinh tế của ta chưa được hoàn toàn khôi phục, sản xuất tuy đã tăng nhiều, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu ngày càng phát triển của nhân dân, đời sống của nhân dân còn khó khăn. Căn cứ vào những thành tích đã đạt được, trước những khó khăn hiện tại trong nền kinh tế của ta, căn cứ vào nguyện vọng của nhân dân, Quốc hội tán thành những nhiệm vụ kinh tế của Chính phủ đề ra trong năm 1957: căn bản hoàn thành khôi phục kinh tế, củng cố và phát triển chế độ kinh tế dân chủ nhân dân. Quốc hội tán thành những phương châm của Chính phủ: phải đẩy mạnh sản xuất, lấy sản xuất làm trung tâm cho mọi công tác; đề cao tự lực cánh sinh; thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí tham ô; mọi chính sách và công tác kinh tế tài chính cần thể hiện phương châm củng cố miền Bắc, đồng thời tranh thủ miền Nam, thể hiện chính sách Mặt trận và chính sách dân tộc; phân công phối hợp chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế; đảm bảo phát triển ngày càng cân đối giữa các ngành. 3) Quốc hội tin rằng, với lòng yêu nước nồng nàn, với truyền thống đoàn kết đấu tranh anh dũng, với tinh thần tự lực cánh sinh, nhân dân ta sẽ vượt mọi khó khăn, phát huy thành tích, đẩy mạnh sản xuất tiết kiệm, hoàn thành khôi phục kinh tế trong năm 1957, nâng cao dần đời sống của nhân dân, phát triển nền kinh tế dân chủ nhân dân, tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14952
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20t%C3%A0i%20ch%C3%ADnh%20ng%C3%A2n%20s%C3%A1ch
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề tài chính ngân sách
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp khóa thứ 6; Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ về vấn đề tài chính ngân sách; 1. Quốc hội xác nhận đường lối chính sách tài chính của Chính phủ do Quốc hội đã thông qua trong khóa họp thứ 5 là đúng. Thu và chi ngân sách 1956 đã được thăng bằng, do sự cố gắng của nhân dân và cán bộ ta và do sự giúp đỡ của các nước anh em. Chính sách thuế khóa của ta căn bản là đúng nhưng trong việc chấp hành chính sách, đã có một số khuyết điểm ảnh hưởng không tốt đến sản xuất, đến đời sống của một số đồng bào, đồng thời còn để tình trạng thất thu. Số thu về xí nghiệp quốc doanh đã tăng nhiều, nhưng các xí nghiệp quốc doanh còn chưa chú ý đúng mức đến nhiệm vụ tài chính. Các tỷ lệ phân phối ngân sách là hợp lý, hợp với đường lối chính sách kiến thiết miền Bắc, giữ vững hòa bình, nhưng việc phân phối và sử dụng vốn kiến thiết cơ bản chưa thật quán triệt phương châm chú trọng sản xuất hàng tiêu dùng cho nhân dân. Quản lý tài vụ xí nghiệp và tài vụ kiến thiết cơ bản chưa được chặt chẽ, giám đốc tài chính còn lỏng lẻo, tình trạng lãng phí, tham ô, nhất là lãng phí còn nghiêm trọng. Số người trong biên chế bộ máy Nhà nước còn quá nhiều. 2. Quốc hội tán thành phương châm nhiệm vụ tài chính 1957 của Chính phủ. Trên cơ sở những thuận lợi căn bản của ta, những thành tích và kinh nghiệm của 1956, cần tiếp tục bảo đảm giữ vững thăng bằng thu và chi ngân sách, bảo đảm tích lũy hợp lý để mở rộng kiến thiết, hoàn thành khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, nâng cao dần dần mức sống của nhân dân. Cần ra sức tăng thu đồng thời đảm bảo thu đúng chính sách. Cần cải tiến công tác thu về xí nghiệp quốc doanh. Cần triệt để tiết kiệm, đặt biệt chú trọng: - Chấn chỉnh biên chế có kế hoạch để giảm bớt số người thoát ly sản xuất; - Cải tiến việc quản lý cấp phát kiến thiết cơ bản và việc quản lý tài vụ xí nghiệp, thực hiện quản lý kinh doanh theo chế độ hạch toán kinh tế; - Tăng cường giám đốc và kiểm tra tài chính, đẩy mạnh chống lãng phí, tham ô. Cần tăng cường quản lý tiền mặt, tiền hàng việc giám đốc bằng tiền các hoạt động kinh tế quốc dân. 3. Quốc hội nhận định rằng nhiệm vụ tài chính 1957 còn khó khăn nhiều, muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ tài chính 1957, cần ra sức phát huy tinh thần tự lực cánh sinh của nhân dân ta để khôi phục và phát triển kinh tế nước nhà, cần động viên toàn thể nhân dân, tất cả các cán bộ và công nhân viên phát huy truyền thống cần cù, giản dị, nỗ lực sản xuất, tăng năng suất, giảm giá thành, ra sức tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô, bảo vệ tài sản của Nhà nước, và cần động viên, giáo dục các tầng lớp nhân dân làm đầy đủ nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo đúng chính sách. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14953
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20ho%C3%A0n%20to%C3%A0n%20t%C3%ADn%20nhi%E1%BB%87m%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn tín nhiệm Chính phủ
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà họp khoá thứ VI, sau khi nghe báo cáo chính trị chung của Chính phủ và các báo cáo bổ sung, sau khi thảo luận và nghe Chính phủ trả lời các câu hỏi, đã nhất trí với Chính phủ về chủ trương và chính sách trên các vấn đề đấu tranh để thống nhất nước nhà, cải cách ruộng đất, kinh tế, tài chính, ngân sách, văn hoá xã hội, quốc phòng, dân tộc thiểu số và ngoại giao. Quốc hội nhận định rằng trong năm 1956, sự nghiệp xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, đã thu được những thành tích to lớn, mặc dầu đã có những sai lầm và khuyến điểm trên một số công tác. Quốc hội nhận định rằng nhìn chung thì thành tích là chủ yếu, là căn bản và nhất định ngày càng được phát huy thêm; sai lầm khuyết điểm là bộ phận, là tạm thời, nhất định khắc phục được và hiện đang được khắc phục. Quốc hội nhất trí quyết nghị nhiệt liệt hoan nghênh và hoàn toàn tín nhiệm Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nhân dân ta hãy tăng cường đoàn kết hơn nữa xung quanh Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch, tăng cường đoàn kết hơn nữa với các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, tích cực ủng hộ và triệt để chấp hành mọi chính sách của Đảng và Chính phủ, cùng nhau phấn đấu để giành lấy những thắng lợi mới to lớn hơn trong công cuộc xây dựng miền Bắc ngày càng vững mạnh và đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14954
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20x%C3%A2y%20d%E1%BB%B1ng%20qu%C3%A2n%20%C4%91%E1%BB%99i%2C%20c%E1%BB%A7ng%20c%E1%BB%91%20qu%E1%BB%91c%20ph%C3%B2ng
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, họp khóa thứ 6; Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ về vấn đề xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, 1. Quốc hội nhất trí tán thành toàn bộ phương châm chính sách xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng do Đảng và Chính phủ đề ra. Quốc hội nhận thấy rằng ở nước ta hoà bình đã được lập lại, nhưng hoà bình chưa được củng cố, nước ta còn tạm bị chia làm hai miền, đế quốc chủ nghĩa và bè lũ tay sai đang tiếp tục âm mưu chuẩn bị chiến tranh, phá hoại thống nhất của nước ta, phá hoại hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới. Chính sách của ta là kiên quyết đấu tranh để gìn giữ và củng cố hoà bình; việc Chính phủ ta giảm bớt quân số, phục viên 8 vạn quân là tiêu biểu cho chính sách hoà bình đó. Nhưng đồng thời chúng ta phải nâng cao chí khí chiến đấu và tinh thần cảnh giác của toàn quân và toàn dân, ra sức chăm lo tăng cường lực lượng phòng thủ đất nước. Do đó chúng ta phải ra sức củng cố quốc phòng, tích cực xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá, nhiệm vụ đó là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn dân và toàn quân ta. 2. Quốc hội nhận định rằng từ khi hoà bình lập lại trong hai năm qua nhờ sự cố gắng của toàn dân và toàn quân, công cuộc xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng đã thu được những thành tích lớn lao, quân đội ta đã tiến bộ nhiều về mọi mặt, làm tròn được nhiệm vụ bảo vệ hoà bình, bảo vệ Tổ quốc, đặt cơ sở tốt tiến dần từng bước đến chính quy hoá và hiện đại hoá. Song vừa qua nhiều địa phương chưa chú trọng củng cố dân quân đúng mức, thi hành chính sách đối với quân đội chưa đầy đủ. Vì vậy cần phải tăng cường giáo dục ý thức quốc phòng và nhiệm vụ xây dựng quân đội cho toàn dân, để toàn thể nhân dân ta tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng quân đội củng cố quốc phòng, động viên và giúp đỡ quân đội học tập và công tác, ra sức củng cố dân quân, nghiêm chỉnh chấp hành mọi chính sách của Đảng và Chính phủ đối với quân đội. 3. Quốc hội tin tưởng quân đội nhân dân của chúng ta nhất định sẽ trở nên một lực lượng ngày càng hùng mạnh, để bảo vệ công cuộc xây dựng hoà bình của nhân dân ta ở miền Bắc, làm trụ cột vững chắc cho cuộc đấu tranh để thống nhất nước nhà, góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14955
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20v%C4%83n%20h%C3%B3a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về công tác văn hóa xã hội
Sau khi nghe và thảo luận bản báo cáo của Chính phủ về công tác văn hoá xã hội, 1- Trong 2 năm qua, mặc dầu gặp nhiều khó khăn và trở ngại, công tác văn hoá xã hội đã thu được nhiều thành tích khả quan. Đời sống văn hoá của nhân dân đã được nâng cao một bước, việc học tập của nhân dân đã được phát triển mạnh; việc bảo vệ sức khoẻ của cán bộ, bộ đội và nhân dân đã có tiến bộ; việc giải quyết các tệ nạn xã hội đã thu được nhiều kết quả; những tàn tích văn hoá nô dịch đã bị quét dần; một nền đạo đức mới đang thành hình; bộ mặt văn hoá thành thị và nông thôn đang đổi mới. Tuy nhiên, một vài ngành đã phát triển quá khả năng của ta, do đó chất lượng công tác bị ảnh hưởng. 2- Quốc hội hoàn toàn tán thành phương châm và nhiệm vụ công tác văn hoá xã hội mà Đảng và Chính phủ đã đề ra cho năm 1957, và nhất trí thông qua các chủ trương công tác sau đây : A) Về văn hoá : Tiếp tục mở rộng các hoạt động văn hoá, nhằm nâng cao đời sống văn hoá vui tươi lành mạnh và trình độ văn hoá của nhân dân để phục vụ nhiệm vụ củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Tăng cường công tác xuất bản; chú trọng xây dựng cơ sở đầu tiên cho nền điện ảnh Việt Nam; phát triển vững chắc ngành sân khấu và ca vũ; lập thêm tủ sách và nhà văn hoá, câu lạc bộ ở các cơ sở và tăng cường lãnh đạo sinh hoạt văn nghệ, văn hoá của quần chúng; đẩy mạnh và lãnh đạo phong trào thể dục thể thao. Đồng thời phải nâng cao chất lượng của nền văn học, nghệ thuật; đào tạo bồi dưỡng thêm nhiều tài năng mới, chú trọng khai thác hơn nữa vốn cũ văn hoá dân tộc và tăng cường trao đổi văn hoá với các nước; học tập kinh nghiệm các nước tiên tiến. B) Về giáo dục : Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ, đặc biệt chú trọng giậy văn hoá cho các cán bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học tập trong các cơ quan, xí nghiệp, quân đội. Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tuỳ theo khả năng, và nâng cao chất lượng cấp 2 và 3, chú ý đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường số lượng và chất lượng các sách giáo khoa, ban hành chính sách cụ thể đối với các trường dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo dục miền núi, súc tiến việc nghiên cứu đặt chữ viết cho các dân tộc thiểu số, và có kế hoạch hướng dẫn các lớp vỡ lòng. Về đại học và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát triển từng bước. Tăng cường việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, ra sức bồi dưỡng và đào tạo giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải tiến chương trình. Xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc bổ túc văn hoá cho cán bộ công nông để đưa vào các trường đại học, chuyên nghiệp. C) Về y tế : Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao chất lượng các cơ sở chữa bệnh, kiện toàn việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ các cấp, cải tiến và tăng cường việc sản xuất, nhập nội thuốc và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đặc biệt chú ý công tác y tế và vệ sinh ở miền núi, công tác bảo vệ sản phụ và hài nhi. Y tế công trường, nông trường, xí nghiệp, cơ quan cần chú trọng để làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho công nhân và cán bộ, nhất là phụ nữ. Việc nghiên cứu đông y và sử dụng hợp lý, theo khả năng lực lượng đông y cũng như học tập kinh nghiệm y học tiên tiến của các nước bạn và thế giới, cần được tổ chức tích cực và chu đáo hơn, để xây dựng và phát triển nền y tế nhân dân. D) Về công tác thương binh : Phổ biến sâu rộng trong nhân dân chính sách đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ, chú ý thương binh, bệnh binh về xã, nhất là thương binh, bệnh binh miền Nam tập kết. E) Về cứu tế xã hội: Nghiên cứu kế hoạch giải quyết lâu dài nạn thiếu ăn của nhân dân các vùng úng thuỷ, đồng cao, dẻo cao, men bể; tích cực cải tạo các trẻ lưu manh, gái điếm; tìm hiểu tình hình các trẻ mồ côi do chiến tranh gây ra, để nghiên cứu cách giải quyết. 3- Để thúc đẩy công tác văn hoá xã hội tiến mạnh hơn nữa, Quốc hội nhận thấy cần phổ biến cho nhân dân và cán bộ vai trò quan trọng của công tác văn hoá, xã hội, trong sự nghiệp kiết thiết quốc gia, cần thi hành những chủ trương, đảm bảo việc đoàn kết, giáo dục, sử dụng mọi khả năng của trí thức, đãi ngộ trí thức đúng với cống hiến và tài năng. Hiện nay công tác văn hoá xã hội đã đạt được một cơ sở tương đối vững chắc. Với sức sống mạnh mẽ của nhân dân ta, với việc hoàn thành khôi phục kinh tế năm 1957, với sự cố gắng của cán bộ, Quốc hội tin tưởng rằng : công tác văn hoá xã hội sẽ góp phần đắc lực vào công cuộc củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14956
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về công tác dân tộc
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, họp khóa thứ 6; Sau khi nghe và thảo luận bản báo cáo của Chính phủ về công tác dân tộc, 1. Quốc hội nhất trí với nhận định của Chính phủ về những thành tích đã đạt được trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc hai năm qua. Hiện nay các dân tộc thiểu số đã có nhiều tiến bộ mới: đời sống của đồng bào thiểu số đã dần dần được cải thiện, tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em đã được tăng cường. Được như vậy là do đường lối chính sách của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đúng đắn, được đồng bào thiểu số nhiệt tình hưởng ứng và do tinh thần tích cực chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, đoàn kết công tác của cán bộ. Những thành tích đó là căn bản, song những thiếu sót tạm thời đã hạn chế một phần kết quả. Cần phải khắc phục khuyết điểm để phát huy thành tích. 2. Quốc hội tán thành hướng công tác sắp tới mà Chính phủ đã đề ra và nhấn mạnh về những điểm chính sau đây: A) Củng cố và phát triển các khu và châu tự trị dân tộc đã có, thành lập những khu tự trị mới ở những nơi có điều kiện, thực hiện quyền tham chính đầy đủ cho các dân tộc, nghiên cứu quy định quyền lợi tự trị về các mặt hành chính, tư pháp, kinh tế, tài chính, văn hoá, v.v... Tại những nơi không có điều kiện thành lập khu vực tự trị dân tộc, cần chú ý thi hành đúng chính sách dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng dân tộc. B) Hết sức giúp đỡ các dân tộc anh em phát triển sự nghiệp kinh tế, chính trị và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất. Trong công tác, cần chú trong điều tra nghiên cứu thận trọng, dựa trên sự tự nguyện của nhân dân, tuyệt đối không được máy móc dập khuôn nơi này sang nơi khác hoặc mệnh lệnh gò ép. C) Tăng cường công tác giáo dục cán bộ và nhân dân khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, tăng cường đoàn kết tương trợ trên tinh thần yêu nước, yêu dân tộc mình kết hợp với tinh thần quý mến các dân tộc anh em. Tích cực giải quyết mọi trở ngại cho việc đoàn kết. D) Tăng cường công tác bảo vệ trật tự an ninh và củng cố vùng biên giới bằng phương pháp tích cực giáo dục nhân dân các dân tộc đoàn kết sản xuất, đề cao cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại của địch. E) Kiện toàn các cơ quan công tác dân tộc ở trung ương và các địa phương để theo dõi tình hình công tác vùng dân tộc, kịp thời giúp Chính phủ và các cấp chính quyền đề ra những chủ trương chính sách sát hợp với tình hình đặc điểm các dân tộc, làm cho công tác thu được nhiều kết quả. G) Tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc về mặt chính trị, văn hoá, chuyên môn và kỹ thuật; thực hiện thực chức thực quyền cho cán bộ dân tộc; dần dần thực hiện dân tộc hoá cơ quan. Đối với cán bộ kinh và cán bộ nơi khác đến cần có chính sách thích đáng về mặt tinh thần và vật chất, và một chế độ công tác cụ thể đối với anh chị em. Nói chung, toàn bộ công tác cần quán triệt chính sách dân tộc và phương châm "kiên nhẫn, thận trọng, chắc chắn" chú trọng vùng cao và vùng biên giới. Sau cùng, Quốc hội xác nhận rằng công tác dân tộc rất quan trọng trong công cuộc củng cố miền Bắc, đấu tranh giành thống nhất nước nhà và có rất nhiều khó khăn. Nhưng thuận lợi căn bản là nhân dân các dân tộc rất tin tưởng vào Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Hồ Chủ tịch; cán bộ quyết tâm đoàn kết thì nhất định sẽ thu được thành tích ngày càng rực rỡ. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14957
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20ngo%E1%BA%A1i%20giao
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề ngoại giao
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, họp khóa thứ 6; Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ, 1. Quốc hội đồng ý với nhận định tình hình thế giới hiện nay trong bản báo cáo của Chính phủ và nhấn mạnh rằng do sự đoàn kết đấu tranh của các lực lượng hoà bình, tình hình thế giới đã có khuynh hướng hoà hoãn rõ rệt. Nhưng các lực lượng đế quốc đã tìm cách phá hoại khuynh hướng đó. Đế quốc chủ nghĩa đã vũ tranh xâm lược Ai Cập, đã gây phiến loạn ở Hung Ga Ri, nhưng chúng đã thất bại hoàn toàn. Tuy nhiên, chúng sẽ còn tiếp tục những hoạt động phá hoại hoà bình, nên nhân dân thế giới cần phải luôn luôn cảnh giác. 2. Quốc hội hoan nghênh những thành tích của Chính phủ đã thu được trong việc thực hiện đường lối ngoại giao. Những thành tích đó đã góp phần quan trọng vào việc củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. 3. Quốc hội tán thành chủ trương của Chính phủ nhằm: - Củng cố và phát triển hơn nữa tình hữu nghị và sự hợp tác anh em với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô và Trung Quốc, theo tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc. Quốc hội hoan nghênh bản tuyên bố của Chính phủ ngày 6 tháng 11 năm 1956 tán thành những nguyên tắc nêu lại trong các bản tuyên bố của Chính phủ Liên Xô ngày 30 tháng 10 năm 1956 và của Chính phủ Trung Quốc ngày 1 tháng 11 năm 1956. Quốc hội nhận rằng chỉ có sự hợp tác anh em với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mới bảo đảm được độc lập và phồn vinh của Tổ quốc. Nhân dân ta kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân và chính phủ công nông cách mạng Hung Ga Ri, để giữ vững và phát huy những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sự giúp đỡ của quân đội Liên Xô đối với Chính phủ và nhân dân Hung Ga Ri là hoàn toàn hợp chính nghĩa. - Mở rộng và phát triển quan hệ với các nước á phi, theo tinh thần hội nghị Băng - đung; đặc biệt chú ý phát triển hơn nữa tình hữu nghị và mối quan hệ với hai nước bạn láng giềng, Vương quốc Khơ Me và Vương quốc Lào. Nhân dân ta kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Ai Cập để bảo vệ chủ quyền của mình. Kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân An Giê Ri và cuộc đấu tranh của các dân tộc ả - rập chống chủ nghĩa Ai Xen Hao của đế quốc Mỹ đương mưu mô thay chân thực dân Anh Pháp, nô dịch nhân dân Trung Cận Đông. - Mở rộng quan hệ với nước Pháp, đồng thời đòi Chính phủ Pháp thi hành đầy đủ nhiệm vụ của Pháp đối với hiệp nghị Giơ-ne-vơ, quan hệ ngoại giao giữa nước ta và nước Pháp phải được giải quyết thích đáng trên nguyên tắc bình đẳng và có đi có lại. Chúng ta sẵn sàng đặt quan hệ với tất cả nước theo 5 nguyên tắc chung sống hoà bình. Quốc hội tin rằng toàn thể nhân dân ta sẽ kiên quyết đấu tranh để thực hiện đầy đủ đường lối đúng đắn đó, chắc chắn chúng ta đạt được nhiều thành tích lớn lao hơn nữa về mặt ngoại giao để phục vụ cho việc củng cố miền Bắc, thống nhất Tổ quốc, phục vụ cho hoà bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14958
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%20Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề sửa đổi Hiến pháp
Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Ban thường trực Quốc hội về vấn đề sửa đổi Hiến pháp, báo cáo của Tiểu ban nghiên cứu vấn đề sửa đổi Hiến pháp, Nhận định rằng: 1- Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946 đã ghi những thắng lợi vẻ vang của cuộc Cách mạng tháng Tám, đánh dấu một giai đoạn lịch sử vinh quang của dân tộc ta trên con đường cách mạng chống đế quốc và phong kiến. Hiến pháp 1946 xây dựng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là một bản hiến pháp tiến bộ, của một chế độ dân chủ thật sự. Tuy vì tình thế kháng chiến, hiến pháp chưa được ban hành, nhưng trong thực tế nó đã được dùng làm cơ sở cho các chính sách và luật pháp của Chính phủ từ đầu kháng chiến tới nay. Chính phủ ta đã luôn luôn tôn trọng và phát triển tinh thần cách mạng của bản hiến pháp. 2- Tuy nhiên, qua tám năm kháng chiến và hơn hai năm kiến thiết hoà bình, xã hội ta đã có những biến chuyển quan trọng, cách mạng đã tiến những bước lớn : ở miền Bắc, nhân dân ta đã được giải phóng hoàn toàn khỏi ách đế quốc; cải cách ruộng đất về căn bản đã hoàn thành; chúng ta đang xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội. Do sự phát triển của chế độ ta như thế, bản hiến pháp thông qua năm 1946 ngày nay cần được sửa đổi và bổ sung để phản ánh đúng thực tế xã hội ta hiện nay, ghi lấy những thắng lợi mới và nêu rõ hướng tiến lên của cách mạng, để trở nên cơ sở vững chắc hơn cho công cuộc kiến thiết củng cố miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Vì những lý do trên đây, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 1- Theo đề nghị của Ban thường trực Quốc hội, tán thành việc sửa đổi hiến pháp do Quốc hội thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946. 2- Cử Ban sửa đổi hiến pháp phụ trách việc nghiên cứu và dự thảo đề án sửa đổi hiến pháp. Đề án sửa đổi hiến pháp của Ban sẽ đem trình bày trước Quốc hội trong một khoá họp sau. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14959
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20ban%20h%C3%A0nh%20Lu%E1%BA%ADt%20C%C3%B4ng%20%C4%91o%C3%A0n
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc ban hành Luật Công đoàn
Sau khi nghe Chính phủ báo những thành tích to lớn của lao động chân tay và lao động trí óc trong kháng chiến cũng như từ khi hoà bình lập lại, Sau khi xét đề nghị của Chính phủ về sự cần thiết ban hành Luật công đoàn để khuyến khích lao động chân tay và trí óc ra sức phát huy tinh thần tích cực thi đua sản xuất và quản lý sản xuất, 1- Biểu dương những thành tích vẻ vang của lao động chân tay và trí óc đã đem tinh thần yêu nước, vượt mọi khó khăn gian khổ, thi đua phục vụ tiền tuyến trong kháng chiến, và thi đua khôi phục kinh tế, phát triển văn hoá, hoàn thành kế hoạch Nhà nước từ sau khi hoà bình lập lại. 2- Xét rằng, trong chế độ dân chủ nhân dân, giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo, cần phải định rõ địa vị của tổ chức công đoàn để giúp cho lao động chân tay và lao động trí óc có đủ điều kiện phát triển tổ chức, tăng cường mọi hoạt động, làm tròn nghĩa vụ trong công cuọc kiến thiết kinh tế, phát triển văn hoá, xây dựng miền Bắc vững manh, đẩy mạnh cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Quốc hội đồng ý với Chính phủ về sự cần thiết ban hành một đạo luật Công đoàn quy định các yêu cầu nói trên và giao Chính phủ nghiên cứu dự thảo. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14960
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20ki%E1%BB%87n%20to%C3%A0n%20t%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề kiện toàn tổ chức Quốc hội
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, họp khóa thứ 6; Sau khi nghe báo cáo và thảo luận đề nghị của Ban thường trực Quốc hội về việc kiện toàn tổ chức Quốc hội; Trong khi chờ đợi sửa đổi Hiến pháp; Để tăng cường hoạt động của Quốc hội, của Ban thường trực Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội, I- Tuyển cử bổ sung. 1. Trong năm 1957, sẽ tổ chức tuyển cử bổ sung để bầu số đại biểu thay thế các đại biểu Quốc hội đã khuyết, tại các đơn vị bầu cử ở miền Bắc. 2. Việc bầu cử sẽ tổ chức theo nguyên tắc và thể lệ hiện hành. 3. Thời gian tiến hành bầu cử sẽ do Ban thường trực Quốc hội và Chính phủ quy định. II- Mấy điều quy định về hoạt động của đại biểu Quốc hội. 1. Để hiểu rõ tình hình nhân dân đề đạt ý kiến nguyện vọng của nhân dân lên Quốc hội, các đại biểu Quốc hội phải giữ sự liên hệ với nhân dân ở địa phương đã bầu ra mình hay là ở một nơi thuận lợi với hoàn cảnh cư trú. Chính quyền các cấp có trách nhiệm giúp đỡ các đại biểu hiểu rõ tình hình nhân dân. Tuỳ theo nhu cầu công tác Ban thường trực Quốc hội tổ chức những đoàn đại biểu đi tiếp xúc với nhân dân. 2. Ban thường trực Quốc hội cần nghiên cứu một khoản phụ cấp và những quy định cần thiết cho đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ của mình. 3. Mỗi đại biểu Quốc hội có một huy hiệu, hình thức và cách sử dụng huy hiệu sẽ do Ban thường trực Quốc hội quy định. 4- Quyền bất khả xâm phạm của các đại biểu Quốc hội như đã ghi trong điều 40 Hiến pháp năm 1946 phải được bảo đảm. III- Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Thường trực Quốc hội: Giữa hai khoá họp của Quốc hội, Ban thường trực Quốc hội có nhiệm vụ và có quyền: 1. Triệu tập Quốc hội và giữ quan hệ với các đại biểu Quốc hội. 2. Biểu quyết các sắc luật do Chính phủ đề ra. Những dự thảo sắc luật của Chính phủ đưa ra trình bày trước Ban thường trực Quốc hội phải do một đại diện Chính phủ thuyết trình. Những sắc luật do Ban thường trực Quốc hội biểu quyết đều đem trình Quốc hội vào khoá họp gần nhất. Những sắc luật được Quốc hội chuẩn y trở thành những đạo luật của Nhà nước. 3. Xét và đề ra để Chính phủ sửa đổi hoặc huỷ bỏ những sắc lệnh và nghị định không phù hợp với những đạo luật và sắc luật. 4. Thảo luận với Chính phủ về việc Chính phủ cử người thay thế hoặc bổ sung các Bộ trưởng. Danh sách những Bộ trưởng được cử sẽ đưa trình Quốc hội trong khoá họp gần nhất. 5. Thoả thuận với Chính phủ về thi hành những hiệp ước ký với nước ngoài. Những hiệp ước sau khi ký và được Ban thường trực Quốc hội thoả thuận cho thi hành phải đưa trình Quốc hội trong khoá họp gần nhất. 6. Ban thường trực Quốc hội tổ chức như sau: - Tổng số uỷ viên trong Ban thường trực Quốc hội là 15 uỷ viên chính thức và 3 uỷ viên dự khuyết. - Ban thường trực Quốc hội gồm: 1 Trưởng ban, 1 Phó trưởng ban, 1 Thư ký, 12 uỷ viên thường và 3 uỷ viên dự khuyết. - Các uỷ viên trong Ban thường trực Quốc hội không giữ chức vụ trong Chính phủ. IV- Sinh hoạt của Quốc hội. Quốc hội họp thường lệ mỗi năm 2 lần, trong trường hợp cần thiết sẽ họp hội nghị bất thường. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14961
https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20v%E1%BB%81%20ch%E1%BA%BF%20%C4%91%E1%BB%99%20b%C3%A1o%20ch%C3%AD%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Luật về chế độ báo chí nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Điều 1. Quốc hội thông qua Sắc lệnh số 282-SL ngày 14 tháng 12 năm 1956 về chế độ báo chí, nguyên văn bản Sắc lệnh kèm theo dưới đây. Điều 2. Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật này. Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Chiếu sắc lệnh số 41 ngày 29 tháng 3 năm 1946 quy định chế độ báo chí; Theo đề nghị của Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp; Theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban Thường trực Quốc hội thoả thuận. Điều 1. Sắc lệnh này nhằm đảm bảo quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí và ngăn cấm những kẻ lợi dụng quyền ấy để làm phương hại đến công cuộc đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà. Điều 2. Báo chí dưới chế độ ta, bất kỳ là của một cơ quan chính quyền, đảng phái chính trị, đoàn thể nhân dân, hoặc của tư nhân cũng đều là công cụ đấu tranh của nhân dân, phải phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, ủng hộ chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà. Điều 3. Báo chí dưới chế độ ta có nghĩa vụ: A) Tuyên truyền giáo dục nhân dân, động viên tinh thần đoàn kết phấn đấu thực hiện mọi đường lối chính sách của Chính phủ, đấu tranh bảo vệ những thành quả của cách mạng, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, phát triển tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước bạn và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, phục vụ cuộc đấu tranh thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. B) Đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động và luận điệu phá hoại công cuộc xây dựng miền Bắc vững mạnh, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc, phá hoại hoà bình. Điều 4. Quyền tự do ngôn luận của nhân dân trên báo chí được bảo đảm. Tất cả các báo chí đều được hưởng quyền tự do ngôn luận. Không phải kiểm duyệt trước khi in; trong trường hợp khẩn cấp, xét cần phải tạm thời đặt kiểm duyệt, hội đồng Chính phủ sẽ quyết định. Điều 5. Báo chí có thể phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân đối với các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể nhân dân, góp ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Chính phủ. Điều 6. Quyền lợi của những người viết báo chuyên nghiệp sẽ do nghị định của Thủ tướng Chính phủ quy định. Điều 7. Để có một cơ sở cần thiết đảm bảo làm tròn trách nhiệm của báo chí, và đảm bảo cho việc hoạt động nghiệp vụ, muốn xuất bản một tờ báo, cần phải có những điều kiện sau đây: A) Tờ báo phải có những người chịu trách nhiệm chính thức: chủ nhiệm, chủ bút (hoặc là tổng biên tập viên, hoặc là thư ký toà soạn), quản lý. Những người này phải là những người có quyền công dân và không bị pháp luật đương truy tố. B) Tôn chỉ, mục đích tờ báo phải rõ ràng, phù hợp với tính chất và nghĩa vụ đã quy định ở chương I. C) Có trụ sở chính thức. Điều 8. Muốn xuất bản một tờ báo phải xin phép trước, phải làm đầy đủ những thủ tục về khai báo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp giấy phép, tờ báo mới được bắt đầu hoạt động. Báo chí nào đã được phép xuất bản mà sau đó có một sự thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích, tên báo, kỳ hạn phát hành hoặc về những người chịu trách nhiệm chính thức của tờ báo, đều phải xin phép và khai báo lại. Điều 9. Để quyền tự do ngôn luận trên báo chí được sử dụng một cách đúng đắn, báo chí phải tuân theo những điều sau đây: A) Không được tuyên truyền chống pháp luật của Nhà nước. Không được cổ động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối chính sách của Nhà nước. Không được viết bài có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân, chống lại chính quyền nhân dân, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành động có hại cho an ninh trật tự của xã hội. B) Không được tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội. C) Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhân dân các nước bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền chiến tranh. D) Không được tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những hội nghị cơ mật chưa có công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những vụ án đang điều tra chưa xét xử, những bản án mà Toà án không cho phép công bố, những tài liệu số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài chính mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa công bố. E) Không được tuyên truyền dâm ô, trụy lạc, đồi bại. Điều 10. Báo nào đăng bài vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hay một cá nhân, thì đương sự có quyền yêu cầu báo ấy cải chính hoặc đăng bài cải chính của đương sự, ngoài ra đương sự có quyền yêu cầu toà án xét xử. Điều 11. Trước khi phát hành, các báo chí phải thi hành thể lệ nộp lưu chiểu. Điều 12. Không được phát hành và in lại những báo chí mà cơ quan chính quyền đã có quyết định thu hồi. Điều 13. Báo chí nào vi phạm điều 8, sẽ bị trừng phạt: tịch thu ấn phẩm, đình bản vĩnh viễn và truy tố trước toà án, sẽ bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến năm mươi vạn đồng (500.000 đ), hoặc người có trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến một năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Báo chí nào vi phạm điều 9 hoặc điều 12 sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, tịch thu ấn phẩm, đình bản tạm thời, đình bản vĩnh viễn, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000 đ) đến một triệu đồng (1.000.000 đ), hoặc người chịu trách nhiệm bị phạt tù từ một tháng đến hai năm, hoặc cả hai hình phạt đó. Nếu xét đương sự phạm vào những luật lệ khác, toà án sẽ chiếu theo những luật lệ ấy mà trừng phạt thêm. Báo chí nào vi phạm điều 10, sẽ bị trừng phạt: tuỳ theo lỗi nặng nhẹ mà bị cảnh cáo, đình bản tạm thời, hoặc bị truy tố trước toà án, có thể bị phạt tiền từ năm vạn đồng (50.000 đ) đến hai chục vạn đồng (200.000 đ). Báo chí nào vi phạm điều 11, sẽ bị cảnh cáo hoặc tịch thu ấn phẩm. Điều 14. Trong mọi trường hợp vi phạm chủ nhiệm và chủ bút của tờ báo chịu trách nhiệm chính; quản lý và người viết bài cũng phải liên đới chịu trách nhiệm về phần của mình. Nếu in những báo chí đã có lệnh tịch thu, đình bản và những báo chí chưa có giấy phép thì chủ nhà in cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Điều 15. Các điều khoản trong sắc lệnh này áp dụng cho tất cả các ấn phẩm có tính chất báo chí, tập san viết bằng tiếng Việt, hoặc bằng tiếng nước ngoài, kể cả các hoạ báo, xuất bản đều kỳ và không đều kỳ, trên lãnh thổ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, ra từng tờ hoặc đóng thành từng tập, từng quyển, in bằng máy, bằng rô-nê-ô, in đá, in thạch, bán hoặc phát không, lưu hành ngoài nhân dân, hoặc trong từng ngành, từng tổ chức. Điều 16. Tất cả các báo chí đã xuất bản trước ngày ban hành sắc lệnh này thì không phải xin phép nữa. Những báo nào chưa làm đúng thủ tục khai báo thì nay phải khai báo lại cho đúng. Điều 17. Những luật lệ về báo chí đã ban hành từ trước đến nay trái với các điều khoản ghi trong sắc lệnh này đều bãi bỏ. Điều 18. Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định những chi tiết thi hành sắc lệnh này. Điều 19. Thủ tướng Chính phủ, các ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm thi hành sắc lệnh này. Luật Việt Nam
14962
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20chu%E1%BA%A9n%20y%20S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20001/SLt%20c%E1%BA%A5m%20ch%E1%BB%89%20m%E1%BB%8Di%20h%C3%A0nh%20%C4%91%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A7u%20c%C6%A1%20v%E1%BB%81%20kinh%20t%E1%BA%BF%2C%20sau%20khi%20s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%20v%C3%A0%20b%E1%BB%95%20sung%20%C4%90i%E1%BB%81u%203%20c%E1%BB%A7a%20S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuẩn y Sắc luật 001/SLt cấm chỉ mọi hành động đầu cơ về kinh tế, sau khi sửa đổi và bổ sung Điều 3 của Sắc luật
Sau khi nghe đại diện Chính phủ báo cáo về Sắc luật số 001/SLt ngày 19-4-1957 cấm chỉ mọi hành động đầu cơ về kinh tế; Sau khi nghe Tiểu ban sắc luật thuyết trình, Chuẩn y sắc luật số 001/SLt ngày 19-4-1957 cấm chỉ mọi hành động đầu cơ về kinh tế, sau khi sửa đổi và bổ sung điều 3 của sắc luật như sau: "Điều 3 mới : những người vi phạm luật này và những người đồng phạm, tuỳ theo tội nhẹ hay là nặng sẽ bị trừng phạt như sau: Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố cảnh cáo, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng ký kinh doanh, phạt tiền đến một triệu đồng (1.000.000đ). - Truy tố trước Toà án. Những người phạm pháp bị truy tố trước Toà án có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ) đến một trăm triệu đồng (100.000.000đ) và phạt tù từ một tháng đến năm năm hoặc một trong hai hình phạt trên. Ngoài ra, số hàng hoá phạm pháp sẽ bị tịch thu một phần hay toàn bộ, hoặc bị trưng mua”. Điều 3 được sửa đổi và bổ sung của sắc luật có hiệu lực từ ngày nghị quyết này được ban hành. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14963
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20chu%E1%BA%A9n%20y%20S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20s%E1%BB%91%20002/SLt%20ng%C3%A0y%2018%20th%C3%A1ng%206%20n%C4%83m%201957%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20nh%E1%BB%AFng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20h%E1%BB%A3p%20ph%E1%BA%A1m%20ph%C3%A1p%20qu%E1%BA%A3%20tang%20v%C3%A0%20nh%E1%BB%AFng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20h%E1%BB%A3p%20kh%E1%BA%A9n%20c%E1%BA%A5p
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuẩn y Sắc luật số 002/SLt ngày 18 tháng 6 năm 1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp
Sau khi nghe đại diện Chính phủ báo cáo về Sắc luật số 002/SLt ngày 18-6-1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp, và bổ sung điều 10 của Luật số 103-SL/L5 ngày 20 tháng 5 năm 1957 vè việc khám người phạm pháp quả tang. Sau khi nghe Tiểu ban sắc luật thuyết trình, Chuẩn y sắc luật số 002/SLt ngày 18-6-1957 quy định những trường hợp phạm pháp quả tang và những trường hợp khẩn cấp, và bổ sung điều 10 của Luật số 103-SL/L5 ngày 20 tháng 5 năm 1957 vè việc khám người phạm pháp quả tang. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14964
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20chu%E1%BA%A9n%20y%20S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20s%E1%BB%91%20003/SLt%20ng%C3%A0y%2018%20th%C3%A1ng%206%20n%C4%83m%201957%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20ch%E1%BA%BF%20%C4%91%E1%BB%99%20xu%E1%BA%A5t%20b%E1%BA%A3n
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuẩn y Sắc luật số 003/SLt ngày 18 tháng 6 năm 1957 quy định chế độ xuất bản
Sau khi nghe đại diện Chính phủ báo cáo về sắc luật số 003/SLt ngày 18 tháng 6 năm 1957 quy định chế độ xuất bản. Sau khi nghe Tiểu ban sắc luật thuyết trình, Chuẩn y sắc luật số 003/SLt ngày 18 tháng 6 năm 1957 quy định chế độ xuất bản. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14965
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20chu%E1%BA%A9n%20y%20S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20s%E1%BB%91%20004/SLt%20ng%C3%A0y%2020%20th%C3%A1ng%207%20n%C4%83m%201957%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20th%E1%BB%83%20l%E1%BB%87%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20v%C3%A0%20%E1%BB%A6y%20ban%20h%C3%A0nh%20ch%C3%ADnh%20c%C3%A1c%20c%E1%BA%A5p
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chuẩn y Sắc luật số 004/SLt ngày 20 tháng 7 năm 1957 quy định thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp
Sau khi nghe đại diện Chính phủ báo cáo về sẵc luật số 004/SLt ngày 20 tháng 7 năm 1957 quy định thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp; Sau khi nghe Tiểu ban sắc luật thuyết trình, Chuẩn y sắc luật số 004/SLt ngày 20 tháng 7 năm 1957 quy định thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp; Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14966
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20th%C3%B4ng%20qua%20t%E1%BB%95ng%20quy%E1%BA%BFt%20to%C3%A1n%20qu%E1%BB%91c%20gia%20n%C4%83m%201956%20v%C3%A0%20t%E1%BB%95ng%20d%E1%BB%B1%20to%C3%A1n%20qu%E1%BB%91c%20gia%20n%C4%83m%201957
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua tổng quyết toán quốc gia năm 1956 và tổng dự toán quốc gia năm 1957
Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ về tổng quyết toán quốc gia năm 1956 và tổng dự toán quốc gia năm 1957; Sau khi nghe Tiểu ban nghiên cứu về ngân sách thuyết trình và các vị đại biểu thảo luận, 1. Thông qua toàn bộ bản tổng quyết toán quốc gia năm 1956 với tổng số thực thu là bẩy trăm bốn mươi tư tỷ ba trăm bẩy mươi sáu triệu tám trăm chín mươi tám nghìn bốn trăm tám mươi lăm đồng (744.376.898.485 đồng), tổng số thực chi là bẩy trăm linh chín tỷ bẩy trăm bẩy mươi sáu triệu ba trăm mười bốn nghìn lẻ chín đồng (709.776.314.009 đồng) và giao Chính phủ trách nhiệm quyết toán số mười một tỷ tám trăm năm mươi sáu triệu năm mươi ba nghìn ba trăm linh năm đồng (11.856.053.305 đồng) chưa quyết toán. 2. Tổng quyết toán quốc gia năm 1957 cần được Chính phủ trình để xét duyệt sớm hơn. 3. Thông qua toàn bộ tổng dự toán quốc gia năm 1957 với tổng số dự thu là tám trăm năm mươi sáu tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu đồng (856.391.000.000 đồng), tổng số dự chi là tám trăm năm mươi sáu tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu đồng (856.391.000.000 đồng). 4. Uỷ quyền cho Chính phủ có thể căn cứ vào nguyên tắc bảo đảm thăng bằng thu chi dự toán, điều chỉnh đúng lúc những khoản thu chi nào cần phải điều chỉnh, cố gắng giảm bớt những khoản chi tiêu không cần thiết, cố gắng động viên mọi khả năng tiềm tàng trong nhân dân, cơ quan và xí nghiệp, những khoản điều chỉnh này phải báo cáo cho Ban Thường trực Quốc hội biết và báo cáo trước Quốc hội trong khóa họp gần nhất. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 18 tháng 9 năm 1957. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14967
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20k%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201957
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về kế hoạch Nhà nước năm 1957
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1957 trong 6 tháng đầu năm, Sau khi nghe bản thuyết trình của Tiểu ban nghiên cứu bản báo cáo ấy về một số vấn đề chính và sau khi Quốc hội thảo luận, 1- Quốc hội hoan nghềnh tinh thần nỗ lực lao động, tích cực công tác, chịu đựng gian khổ, tích cực vượt khó khăn của nhân dân và cán bộ cố gắng thực hiện Kế hoạch Nhà nước trong 6 tháng đầu năm 1957 đạt được những thành tích mới, đẩy mạnh thêm một bước công cuộc căn bản hoàn thành khôi phục kinh tế ở miền Bắc càng gần đi đến kết thúc thắng lợi. Đồng thời Quốc hội nhận thấy rằng tình hình thực hiện kế hoạch 6 tháng đầu năm còn nhiều khuyết điểm, những kế hoạch hàng tháng và 3 tháng chưa đảm bảo thực hiện đầy đủ về số lượng và chất lượng. 2- Quốc hội đồng ý giao cho Chính phủ xét điều chỉnh một số điểm trong kế hoạch quý 4 năm 1957 cho hợp với tình hình và theo nguyên tắc động viên tinh thần nỗ lực lao động và phấn khởi công tác của toàn thể nhân dân và cán bộ. Các cơ quan Nhà nước cần ra sức phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, kiện toàn việc lãnh đạo thực hiện kế hoạch một cách toàn diện, kiên quyết thi hành những biện pháp trước mắt đã đề ra, để đảm bảo hoàn thành kế hoạch. 3- Quốc hội kêu gọi các tầng lớp nhân dân và cán bộ tiếp tục phát huy truyền thống lao động cần cù, sinh hoạt giản dị, tăng cường đoàn kết khắc phục khó khăn, tôn trọng pháp luật Nhà nước, để căn bản hoàn thành giai đoạn khôi phục, chuẩn bị bước vào giai đoạn phát triển, đưa miền Bắc tiến đầu lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 19 tháng 9 năm 1957. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14968
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20tuy%E1%BB%83n%20c%E1%BB%AD%20b%E1%BB%95%20sung%201957
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề tuyển cử bổ sung 1957
Sau khi nghe Ban thường trực Quốc hội báo cáo việc thực hiện Nghị quyết của khoá họp Quốc hội lần thứ 6 về vấn đề tuyển cử bổ sung, Sau khi xét những lý do đã nếu ra trong bản báo cáo của Ban thường trực Quốc hội, Chấp nhận đề nghị của Ban Thường trực Quốc hội hoãn cuộc tuyển cử bổ sung nói trong Nghị quyết của Quốc hội (khoá họp thứ 6) đến sau năm 1957. Giao cho Ban Thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ nghiên cứu và quyết định thời gian cụ thể tiến hành cuộc tuyển cử bổ sung nói trên. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 19 tháng 9 năm 1957. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14969
https://vi.wikisource.org/wiki/S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20c%E1%BA%A5m%20ch%E1%BB%89%20m%E1%BB%8Di%20h%C3%A0nh%20%C4%91%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A7u%20c%C6%A1%20v%E1%BB%81%20kinh%20t%E1%BA%BF%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Sắc luật cấm chỉ mọi hành động đầu cơ về kinh tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chiếu nghị quyết ngày 24 tháng 1 năm 1957 của Quốc hội; Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ; Sau khi Ban thường trực Quốc hội biểu quyết thoả thuận. Điều 1 Để góp phần vào việc bảo đảm bình ổn vật giá, phát triển sản xuất, thực hiện kế hoạch Nhà nước, khôi phục và phát triển kinh tế quốc dân, bảo hộ và khuyến khích những người kinh doanh chính đáng, nâng cao đời sống của nhân dân, nay cấm chỉ mọi hành động đầu cơ. Điều 2 Đầu cơ là những hành động của những tổ chức hoặc cá nhân lợi dụng cơ hội khó khăn về sản xuất, phân phối, tiêu thụ hoặc tạo ra những khó khăn đó để vơ vét, cất giấu, tích trữ hàng hoá, nâng giá hàng hoá, gẵy hỗn loạn trên thị trường, hoặc dùng mọi thủ đoạn khác, nhằm trục lợi một cách không chính đáng, làm thiệt hại cho người tiêu thụ và nền kinh tế quốc dân. Điều 3 Những người vi phạm luật này và những người đồng phạm, tuỳ theo tội nhẹ hay là nặng sẽ bị trừng phạt như sau: - Uỷ ban hành chính tỉnh hay thành phố cảnh cáo, thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng ký kinh doanh, phạt tiền đến một triệu đồng (1.000.000 đ). - Truy tố trước Toà án: Những người phạm pháp bị truy tố trước Toà án và có thể bị phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ) đến một trăm triệu đồng (100.000.000 đ) và phạt tù từ một tháng đến năm năm, hoặc một trong hai hình phạt trên. Ngoài ra, số hàng hoá phạm pháp sẽ bị tịch thu một phần hay toàn bộ, hoặc bị trưng mua. Điều 4 Những người phạm pháp nếu tự giác khai báo sẽ tuỳ theo tội nặng nhẹ mà được khoan hồng một cách thích đáng. Điều 5 Những người có công giúp cơ quan có trách nhiệm khám phá ra hoặc bắt được các vụ đầu cơ sẽ được khen thưởng. Chế độ khen thưởng sẽ do nghị định Thủ tướng Chính phủ quy định. Điều 6 Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định những cơ quan nào có thẩm quyền khám xét, lập biên bản, tạm giữ, cảnh cáo, truy tố trước toà án xét xử các vụ phạm pháp quy định trong sắc luật này. Điều 7 Tất cả những luật lệ trái với luật này đều bãi bỏ. Điều 8 Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định những chi tiết sắc luật này. Sắc luật Việt Nam
14971
https://vi.wikisource.org/wiki/S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20nh%E1%BB%AFng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20h%E1%BB%A3p%20ph%E1%BA%A1m%20ph%C3%A1p%20qu%E1%BA%A3%20tang%2C%20nh%E1%BB%AFng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20h%E1%BB%A3p%20kh%E1%BA%A9n%20c%E1%BA%A5p%2C%20v%C3%A0%20nh%E1%BB%AFng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20h%E1%BB%A3p%20kh%C3%A1m%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20ph%E1%BA%A1m%20ph%C3%A1p%20qu%E1%BA%A3%20tang%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Sắc luật quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp, và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chiếu nghị quyết ngày 24 tháng 1 năm 1957 của Quốc hội; Chiếu điều 4 và điều 10 luật ngày 20 tháng 5 năm 1957 về việc đảm bảo quyền tự do thân và quyết bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân; Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ; Sau khi Ban thường trực Quốc hội biểu quyết thoả thuận, Điều 1 Để kịp thời giữ kẻ phạm pháp đã gây thiệt hại đến an toàn của Nhà nước, đến trật tự xã hội, đến tài sản của Nhà nước, đến tính mệnh tài sản của nhân dân, nay quy định những trường hợp sau đây là phạm pháp quả tang mà người công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Uỷ ban hành chính, Toà án nhân dân hoặc Đồn công an nơi gần nhất: 1- Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay. 2- Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp. 3- Đang bị giam giữ mà lẩn trốn. 4- Đang có lệnh truy nã. Điều 2 Để kịp thời ngăn ngừa những thiệt hại đến an toàn của Nhà nước, đến trật tự xã hội, đến tài sản của Nhà nước, đến tính mệnh tài sản của nhân dân, nay quy định những trường hợp khẩn cấp mà cơ quan Công an có thể bắt giữ trước khi có lệnh viết của cơ quan tư pháp từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên, hoặc của Toà án binh: 1- Có hành động chuẩn bị làm việc phạm pháp; 2- Người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xay ra vụ phạm pháp chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là kẻ phạm pháp. 3- Tìm thấy chứng cớ phạm pháp trong người hoặc tại nhà ở của người tình nghi phạm pháp. 4- Có hành động chuẩn bị trốn, hoặc đang trốn. 5- Có hành động chuẩn bị tiêu huỷ chứng cớ hoặc đang tiêu huỷ chứng cớ ; làm giả chứng cớ hoặc đang tiêu huỷ chứng cớ ; làm giả chứng cớ. Có sự thông đồng giữa những kẻ phạm pháp với nhau để trốn tránh pháp luật. 6- Căn cước, lai lịch không rõ ràng. Điều 3 Để bảo vệ cho người bắt giữ khỏi bị kẻ phạm pháp quả tang hung hãn hãm hại, nay quy định : Đối với kẻ phạm pháp quả tang là thổ phỉ, biệt kích, kẻ giết người hoặc cướp của, côn đồ hung hãn thì người công dân nào khi bắt giữ cũng có quyền khám để tước vũ khí. Điều 4 Thủ tướng Chính phủ quy định chi tiết thi hành sắc luật này. Sắc luật Việt Nam
14972
https://vi.wikisource.org/wiki/S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20v%E1%BB%81%20quy%E1%BB%81n%20t%E1%BB%B1%20do%20xu%E1%BA%A5t%20b%E1%BA%A3n%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Sắc luật về quyền tự do xuất bản nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chiếu nghị quyết ngày 24 tháng 1 năm 1957 của Quốc hội; Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ; Sau khi Ban thường trực Quốc hội biểu quyết thoả thuận, Điều 1 Quyền tự do xuất bản của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm. Tất cả các xuất bản phẩm đều không phải kiểm duyệt trước khi xuất bản, trừ trong tình thế khẩn cấp, nếu Chính phủ xét cần. Điều 2 Để bảo đảm quyền tự do xuất bản của nh ân dân và ngăn ngừa sự lợi dụng quyền tự do ấy để làm phương hại đến công cuộc đấu tranh cho hoà bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của nước nhà, nay áp dụng những điều quy định dưới đây: Điều 3 Hoạt động xuất bản bất kỳ là của một cơ quan nhà nước, chính đảng, đoàn thể nhân dân hay là của tư nhân đều không phải là một hoạt động có tính chất đơn thuần kinh doanh mà là một hoạt động văn hoá có ảnh hưởng nhiều đến việc giáo dục tư tưởng cho nhân dân, cho nên hoạt động xuất bản phải nhằm phục vụ quyền lợi của Tổ quốc, của nhân dân, xây dựng và bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân. Điều 4 Ngành xuất bản có nghĩa vụ: A) Phổ biến trong nhân dân những sáng tác văn học, nghệ thuật, những công trình nghiên cứu và truyền bá về chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân và góp phần làm cho đời sống tinh thần của nhân dân ngày thêm phong phú, góp phần xây dựng và phát triển có kế hoạch nền văn hoá nước nhà, phục vụ công cuộc xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. B) Đấu tranh chống mọi tư tưởng, hành động có tính chất phá hoại sự nghiệp củng cố miền Bắc, ngăn trở công cuộc đưa miền Bắc tiến dần từng bước lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Điều 5 Để bảo đảm cho các nhà xuất bản hoạt động theo đúng tính chất và nghĩa vụ của ngành xuất bản quy định ở chương II, mỗi nhà xuất bản phải có những điều kiện sau đây: A) Nhà xuất bản phải có những người chịu trách nhiệm chính thức: chủ nhiệm (hoặc giám đốc), quản lý và tổng biên tập. Những người này phải là những người có quyền công dân và lý lịch tư pháp trong sạch. B) Tôn chỉ, mục đích và hướng hoạt động của nhà xuất bản phải rõ ràng, phù hợp với tính chất và nghĩa vụ đã quy định ở chương II. C) Có trụ sở chính thức. Điều 6 Muốn lập một nhà xuất bản, phải xin phép trước và phải làm đẩy đủ những thủ tục do Chính phủ quy định. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép, nhà xuất bản mới được bắt đầu hoạt động. Một nhà xuất bản đã được phép thành lập mà sau đó có một sự thay đổi nào về tôn chỉ, mục đích, hướng hoạt động, tên nhà xuất bản, hoặc thay đổi người chủ nhiệm (hoặc giám đốc) thì phải xin phép lại. Nếu chỉ thay đổi trụ sở, người quản lý hoặc người tổng biên tập thì chỉ cần khai báo ngay. Điều 7 Các nhà xuất bản phải thi hành thể lệ nộp lưu chiểu do Chính phủ quy định. Điều 8 Nhà xuất bản phải ghi rõ tên trên xuất bản phẩm tên của nhà xuất bản, tên tác giả, tên nhà in, ngày in xong và số lượng phát hành. Trường hợp tái bản phai số thứ tự lần tái bản. Điều 9 Muốn xuất bản hoặc tái bản những văn kiện của chính quyền, của các chính đảng, các đoàn thể nhân dân, nhà xuất bản phải được chính quyền, chính đảng hoặc đoàn thể nhân dân hữu quan cho phép. Riền về các tác phẩm kinh điển và học thuyết Mác-Lênin và các sách giáo khoa dùng để dạy ở các trường, Bộ Văn hoá hoặc Bộ Giáo dục sẽ ấn định các loại sách mà việc xuất bản phải được Bộ Văn hoá hoặc Bộ Giáo dục cho phép. Muốn tái bản những xuất bản phẩm đã xuất bản hồi Pháp, Nhật thuộc, trong vùng tạm bị chiếm cũ, hoặc tái bản những xuất bản phẩm đã xuất bản ở miền Nam hiện này thì phải được Bộ Văn hoá xét và cho phép. Điều 10 Các nhà xuất bản không được tái bản những xuất bản phẩm đã có lệnh của chính quyền nhân dân thu hồi hoặc cấm lưu hành. Điều 11 Để quyền tự do xuất bản được sử dụng một cách đúng đắn, các nhà xuất bản phải tuân theo những điều sau đây: A) Không được tuyên truyền chống pháp luật của Nhà nước. Không được cô động nhân dân không thi hành hoặc chống lại những luật lệ và những đường lối, chính sách có tính chất chống lại chế độ dân chủ nhân dân và chính quyền nhân dân, chia rẽ nhân dân và chính quyền, nhân dân và bộ đội. Không được gây ra những dư luận hoặc những hành động có hại cho an ninh, trật tự của xã hội. B) Không được tuyên truyền phá hoại sự nghiệp củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ của nước Việt Nam, làm giảm sút tinh thần đoàn kết, ý chí phấn đấu của nhân dân và bộ đội. C) Không được tuyên truyền chia rẽ dân tộc, gây thù hằn giữa nhân dân các nước, làm tổn hại tình hữu nghị giữa nhân dân nước ta với nhận dân các nước bạn, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, không được tuyên truyền cho chủ nghĩa đế quốc, không được tuyên truyền chiến tranh. D) Không được tiết lộ bí mật quốc gia như: những bí mật quốc phòng, những hội nghị cơ mật chưa có công bố chính thức của cơ quan có trách nhiệm, những vụ án đang điều tra chưa xét xử và những bản án mà toà án không cho phép công bố, những tài liệu, số liệu và những cơ sở kiến thiết về kinh tế tài chính mà Uỷ ban kế hoạch Nhà nước hoặc các cơ quan có thẩm quyền chưa công bố v.v... Đ) Không được tuyên truyền dâm ô, truỵ lạc và đồi phong bại tục. Điều 12 Nếu một xuất bản phẩm có nội dung vu khống, xúc phạm đến danh dự của một tổ chức hoặc một cá nhân, thì đương sự có quyền yêu cầu nhà xuất bản cải chính trên báo chí; ngoài ra đương sự có quyền yêu cầu toà án xét xử. Điều 13 Nhà xuất bản và tác giả phải liên đới chịu trách nhiệm về nội dung các xuất bản phẩm đã xuất bản. Nhà xuất bản hoặc tái bản tác phẩm mà không có sự đồng ý của tác giả thì nhà xuất bản phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Điều 14 Trường hợp một tác giả muốn tự xuất bản lấy tác phẩm của mình thì tác giả đó cũng phải xin phép trước, phải có địa chỉ rõ ràng, và phải chịu trách nhiệm về tác giả xuất bản, phải tuân theo những điều quy định trong sắc luật này, trừ điều 5 và điều 6. Trường hợp một cá nhân đứng ra xuất bản một tác phẩm của người khác thì cũng coi như một nhà xuất bản và người đó phải tuân theo các điều quy định trong sắc luật này, trừ điều 5 và điều 6. Điều 15 Các tổ chức tôn giáo xuất bản những kinh bổn, sách báo có tính chất tôn giáo nói trong điều 4 của sắc lệnh số 234-SL ngày 14 tháng 6 năm 1955 về bảo đảm tự do tín ngưỡng và các loại xuất bản phẩm khác đều phải tuân theo những điều quy định trong sắc luật này. Điều 16 Nhà xuất bản hay là cá nhân xuất bản nào vi phạm điều 5, điều 6 hoặc điều 14 thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tuỳ theo trường hợp nhẹ hay là nặng mà tịch thu xuất bản phẩm, thu hồi tạm thời hay là vĩnh viễn giấy phép, hoặc truy tố trước toà án. Toà án có thể xử phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ) đến năm mười vạn đồng (500.000đ) và phạt tù những người có trách nhiệm từ một tháng đến một năm, hoặc một trong hai hình phạt đó. Nhà xuất bản hay là cá nhân xuất bản nào vi phạm điều 7, điều 8 hoặc điều 9 thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tuỳ theo trường hợp nhẹ hay là nặng mà phê bình cảnh cáo, tịch thu xuất bản phẩm hoặc thu hồi tạm thời hay là vĩnh viễn giấy phép. Nhà xuất bản hay là cá nhân xuất bản nào vi phạm điều 10 hoặc điều 11 thì cơ quan có thẩm quyền tuỳ theo trường hợp nhẹ hay là nặng mà tịch thu xuất bản phẩm, thu hồi tạm thời hay vĩnh viễn giấy phép, hoặc truy tố trước toà án. Toà án có thể xử phạt tiền từ mười vạn đồng (100.000đ) đến một triệu đồng (1.000.000đ) và phạt tù những người có trách nhiệm từ một tháng đến một năm, hoặc một trong hai hình phạt đó. Nếu xét đương sự còn phạm vào những luật lệ khác thì toà án sẽ chiếu theo những luật lệ ấy mà xử phạt thêm. Nhà xuất bản hay là cá nhân xuất bản nào vi phạm điều 12 thì cơ quan có thẩm quyền sẽ tuỳ theo trường hợp nhẹ hay là nặng mà cảnh cáo, thu hồi tạm thời giấy phép hoặc truy tố trước toà án. Toà án có thể xử phạt tiền từ năm vạn đồng (50.000đ) đến hai mươi vạn đồng (200.000đ). Ngoài ra, toà án có thể bắt bồi thường cho đương sự theo pháp luật hiện hành. Điều 17 Trong trường hợp vi phạm các điều 5, 6, 7, 8 và 9 thì chủ nhiệm (hoặc giám đốc) nhà xuất bản chịu trách nhiệm chính và quản lý cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Trong trường hợp vi phạm điêu 10 thì nhà xuất bản chịu trách nhiệm chính; nếu tác giả đã đồng tình cho tái bản thì tác giả cũng phải liên đới chịu trách nhiệm. Trong trường hợp vi phạm điều 11 thì chủ nhiệm (hoặc giám đốc) nhà xuất bản và tác giải chịu trách nhiệm chính, tổng biên tập và quản lý nhà xuất bản cung phải liên đới chịu trách nhiệm. Nếu in hoặc phát hành xuất bản phẩm đã có lệnh của chính quyền nhân dân thu hồi hoặc cấm lưu hành, nếu in hoặc phạt hành xuất bản phẩm của những nhà xuất bản chưa được phép thành lập và của những cá nhân chưa được phép xuất bản thì chủ nhà in và nhà phát hành phải liên đới chịu trách nhiệm. Điều 18 Xuất bản phẩm nói trong sắc luật này gồm các loại: sách, tập văn, thông báo, tranh, bưu ảnh, bản nhạc, đĩa hát, bản đồ, áp phích, truyền đơn, bươm bướm, bán hoặc phát không, lưu hành ngoài nhân dân hoặc trong từng ngành, từng tổ chức. Điều 19 Tất cả các nhà xuất bản đã thành lập trước ngày ban hành sắc luật này đều phải xin phép lại. Những nhà xuất bản thuộc các đoàn thể trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thuộc Nhà nước thì phải báo lại và làm cho đủ thủ tục. Điều 20 Sắc lệnh số 159-SL ngày 20 tháng 8 năm 1946 đặt ra sự kiểm duyệt các thứ ấn loát phẩm và những luật lệ khác đã ban hành từ trước tới nay, về chế độ xuất bản nếu trái với những điều khoản của sắc luật này, nay đều bãi bỏ. Điều 21 Thủ tướng Chính phủ quy định những chi tiết thi hành sắc luật này. Sắc luật Việt Nam
14973
https://vi.wikisource.org/wiki/S%E1%BA%AFc%20lu%E1%BA%ADt%20v%E1%BB%81%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20v%C3%A0%20%E1%BB%A6y%20ban%20h%C3%A0nh%20ch%C3%ADnh%20c%C3%A1c%20c%E1%BA%A5p%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Sắc luật về bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Chiếu nghị quyết ngày 24 tháng 1 năm 1957 của Quốc hội; Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ; Sau khi Ban Thường trực Quốc hội biểu quyết thoả thuận, Điều 1 Các cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp đều theo nguyên tắc bầu phiếu phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và kín. Ở các khu tự trị và miền núi, Hội đồng nhân dân cấp châu trở lên đều do Hội đồng nhân dân xã bầu ra. Điều 2 Các công dân Việt Nam, không phân biệt dân tộc, trai gái, nghề nghiệp, giầu nghèo, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử, và từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử. Công dân trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử như những công dân khác. Điều 3 Những địa chủ sau đây, tuy chưa được thay đổi thành phần, cũng được bầu cử và ứng cử: - Địa chủ kháng chiến; - Địa chủ thường được Uỷ ban Hành chính và Uỷ ban chấp hành Nông hội đề nghị cho bầu cử và ứng cử, và được Uỷ ban Hành chính tỉnh chuẩn y. Điều 4 Những người sau đây không có quyền bầu cử và ứng cử: - Người bị pháp luật hoặc Toà án tước công quyền; - Người bị bệnh điên; - Địa chủ chưa thay đổi thành phần (trừ những người đã nói ở điều 3). Điều 5 Trong mỗi khoá bầu cử hội đồng nhân dân một cấp nào, mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu. Cử tri nào muốn ứng cử chỉ được ứng cử ở một nơi. Điều 6 Cách tính số đại biểu Hội đồng nhân dân ở miền xuôi quy định như sau: 1) Hội đồng nhân dân xã và thị trấn: Xã và thị trấn từ 1.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 15 đại biểu. Xã và thị trấn trên 1.000 nhân khẩu thì ngoài số 15 đại biểu tính cho số 1.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 200 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 35 đại biểu. Đặc biệt xã trên 6.000 nhân khẩu có thể có tới 40 đại biểu 2) Hội đồng nhân dân thị xã: Thị xã từ 4.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 25 đại biểu. Thị xã trên 4.000 nhân khẩu thì ngoài số 25 đại biểu tính cho số 4.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 500 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 50 đại biểu. 3) Hội đồng nhân dân tỉnh: Tỉnh từ 250.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 50 đại biểu. Tỉnh trên 250.000 đại biểu thì ngoài số 50 đại biểu tính cho số 250.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 20.000 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 100 đại biểu. 4) Hội đồng nhân dân thành phố: Thành phố từ 60.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 50 đại biểu. Thành phố trên 60.000 nhân khẩu, thì ngoài số 50 đại biểu tính cho số 60.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 8.000 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, những tổng số không được quá 100 đại biểu. Điều 7 Cách tính số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ở các khu tự trị và ở miền núi quy định như sau: 1) Hội đồng nhân dân xã và thị trấn: - Xã vùng cao từ 3.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 9 đại biểu. Xã trên 3.000 nhân khẩu thì ngoài số 9 đại biểu tính cho số 300 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 35 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 25 đại biểu. - Xã vùng thấp và thị trấn từ 400 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 11 đại biểu. Xã và thị trấn trên 400 nhân khẩu thì ngoài số 11 đại biểu tính cho số 400 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 70 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 25 đại biểu. 2) Hội đồng nhân dân thị xã: Thị xã từ 3.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 20 đại biểu. Thị xã trên 3.000 nhân khẩu thì ngoài số 20 đại biểu tính cho số 3.000 nhân khẩu đầu tiên cứ thêm 300 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 45 đại biểu. 3) Hội đồng nhân dân tỉnh hay là châu: (Trong khu tự trị không có cấp tỉnh): - Tỉnh từ 80.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 40 đại biểu. Tỉnh trên 80.000 nhân khẩu thì ngoài số 40 đại biểu tính cho số 80.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 5.000 nhân khẩu thì thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 70 đại biểu. - Châu từ 8.000 nhân khẩu trở xuống thì bầu cử 25 đại biểu. Châu trên 8.000 nhân khẩu thì ngoài số 25 đại biểu tính cho số 8.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 800 nhân khẩu thi thêm một đại biểu, nhưng tổng số không được quá 50 đại biểu. 4) Hội đồng nhân dân khu: Tuỳ theo tình hình dân số và dân tộc ở từng nơi, từ 2.000 đến 6000 nhân khẩu thì bầu cử một đại biểu, nhưng tổng số đại biểu không được quá 150. Các tỷ lệ nói trên có thể châm trước để các dân tộc ít người có thể bầu cử đại biểu của mình vào Hội đồng nhân dân các cấp. Điều 8 Hội đồng nhân dân các cấp bầu cử theo những đơn vị sau đây: - Hội đồng nhân dân xã theo đơn vị liên xóm (thôn cũ); - Hội đồng nhân dân thị trấn theo đơn vị phố hay là liên xóm; - Hội đồng nhân dân thị xã theo đơn vị khu phố và xã (nếu có xã ngoại thị); - Hội đồng nhân dân châu theo đơn vị hành chính xã; - Hội đồng nhân dân tỉnh theo đơn vị hành chính huyện và thị xã; - Hội đồng nhân dân thành phố theo đơn vị khu phố hay là liên khu phố ở nội thành, theo đơn vị xã hay là liên xã ở ngoại thành; - Hội đồng nhân dân khu tự trị theo đơn vị hành chính châu hay là huyện và thị xã. Điều 9 Số đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân khu tự trị, tỉnh, thành phố và số đại biểu cho mỗi đơn vị do Uỷ ban Hành chính Khu tự trị, tỉnh, thành phố đề nghị, Bộ nội vụ duyệt y. Số đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân xã, thị trấn, thị xã và số đại biểu cho mỗi đơn vị do Uỷ ban Hành chính xã, thị trấn và thị xã đề nghị. Uỷ ban Hành chính tỉnh (hay là trong khu tự trị không có cấp tỉnh) duyệt y; đối với các xã ngoại thành thuộc các thành phố thì do Uỷ ban Hành chính duyệt y. Số đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân châu và số đại biểu cho mỗi đơn vị do Uỷ ban Hành chính châu đề nghị, Uỷ ban Hành chính khu tự trị duyệt y. Điều 10 Các đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân một cấp phải được Uỷ ban Hành chính cấp ấy công bố chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày bầu cử. Điều 11 Các Uỷ ban Hành chính xã, thị xã (không có khu phố), thị trấn và khu phố, có thể tuỳ theo tình trạng cư trú của nhân dân mà định ít hay nhiều khu vực bỏ phiếu. Điều 12 Các đơn vị quân đội sẽ tổ chức thành khu vực bỏ phiếu riêng. Điều 13 Danh sách cử trị do các Uỷ ban Hành chính xã, thị xã (không có khu phố), thị trấn và khu phố lập theo đơn vị xã, thị xã, thị trấn, khu phố và theo khu vực bỏ phiếu. Danh sách cử trị ở các đơn vị quân đội do các ban chỉ huy đơn vị quân đội lập cho mỗi khu vực bỏ phiếu. Trong danh sách cử tri lập cho mỗi khu vực bỏ phiếu, tên các cử tri xếp theo thứ tự A, B, C. Điều 14 Chậm nhất là bốn mươi ngày trước ngày bầu cử, danh sách cử tri phải được niêm yết tại trụ sở các Uỷ ban Hành chính hay là tại những nơi công cộng của các đơn vị bỏ phiếu hoặc khu vực bỏ phiếu. Danh sách cử tri ở các đơn vị quân đội chỉ công bố tại các khu vực bỏ phiếu của quân đội. Điều 15 Kể từ ngày niêm yết và chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử, các cử tri có quyền kiểm soát danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm hoặc thiếu xót thì gửi giấy khiếu nại đến cơ quan lập danh sách. Trong thời hạn ba ngày cơ quan lập danh sách phải giải quyết xong khiếu nại; nếu người khiếu nại chưa đồng ý về cách giải quyết đó thì có thể khiếu nại lên Toà án nhân dân huyện, châu hay là thành phố. Điều 16 Trong thời gian niêm yết danh sách cử tri, cử tri nào đổi chỗ ở đi nơi khác, có quyền xin giấy của Uỷ ban Hành chính địa phương cũ chứng thực đã xoá tên ở danh sách cử tri nơi ở cũ để được ghi vào danh sách cử tri nơi mình mới đến ở. Điều 17 Mọi sửa đổi trong danh sách cử tri phải làm xong ba ngày trước ngày bầu cử. Điều 18 Mỗi khi có cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc sẽ giới thiệu những người ứng cử. Cá nhân cũng có quyền tự ra ứng cử. Điều 19 Chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử thì Mặt trận Tổ quốc phải nộp danh sách các người được Mặt trận đề cử tại Uỷ ban Hành chính cấp Hội đồng nhân dân, kèm theo: 1) Tờ khai ứng cử của những người được giới thiệu, ghi tên, tuổi, nghề nghiệp, nguyên quán, địa chỉ, nơi ra ứng cử. 2) Giấy của Uỷ ban Hành chính địa phương chứng nhận người ứng cử có đủ điều kiện ứng cử. Chậm nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử, cá nhân tự ra ứng cử cũng phải nộp tờ khia ứng cử và giấy chứng nhận có đủ điều kiện ứng cử. Khi nhận tờ khai ứng cử Uỷ ban Hành chính phải cấp giấy biên nhận. Điều 20 Khi hết hạn khai ứng cử, Uỷ ban Hành chính nhận đơn ứng cử phải lập danh sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu. Danh sách ấy phải niêm yết ở các nơi công cộng của mỗi đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu. Ít nhất là hai mươi lăm ngày trước ngày bầu cử. Điều 21 Kể từ ngày niêm yết và chậm nhất là mười tám ngày trước ngày bầu cử có ai khiếu nại về danh sách ứng cử sẽ gửi đơn đến Hội đồng bầu cử. Hội đồng này phải xét trong thời hạn ba ngày và có quyết định cuối cùng. Điều 22 Trong phạm vi pháp luật của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, các cuộc vận động bầu cử tự do. Điều 23 Hội đồng bầu cử: Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử Hội đồng nhân dân một cấp, Uỷ ban Hành chính cấp ấy sẽ thành lập một Hội đồng bầu cử cho toàn địa phương mình gồm từ bảy đến hai mươi mốt đại biểu các giới và các đoàn thể nhân dân trong địa phương, tất cả các đại biểu ấy đều phải là người không ra ứng cử và phải biết đọc, biết viết. Hội đồng tự bầu ra một chủ tịch, một phó chủ tịch và một hay nhiều thư ký. Hội đồng bầu cử cấp khu, tỉnh, thành phố do Bộ Nội vụ công nhận. Hội đồng bầu cử các cấp khác do do Uỷ ban hành chính trên một cấp công nhận. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng bầu cử như sau: 1) Kiểm tra và đôn đốc việc thi hành luật lệ bầu cử ở địa phương; 2) Xét và giải quyết những khiếu nại về ứng cử; 3) Tiếp nhận những thẻ cử tri và phiếu bầu cử của Uỷ ban Hành chính cấp tương đương để phân phố cho các Ban bầu cử thành lập theo điều 24 dưới đây chậm nhất là mười ngày trước ngày bầu cử; 4) Kiểm soát công việc bầu cử trong lúc tiến hành bầu cử ở các phòng bỏ phiếu; 5) Tiếp nhận và kiểm soát biên bản sơ kết cuộc bầu cử do các Ban bầu cử tại các đơn vị bầu cử gửi đến, làm biên bản ghi kết quả cuộc bầu cử trong toàn địa phương; 6) Tuyên bố và niêm yết kết quả tạm thời của cuộc bầu cử; 7) Sau khi bầu cử nếu có đơn khiếu nại thì do Hội đồng bầu cử tiếp nhận, xét và đề ý kiến để cấp có thẩm quyền quyết định; 8) Chậm nhất là mười lăm ngày sau ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử phải gửi đến cấp có thẩm quyền một biên bản kèm các giấy tờ ghi các nhận xét về cuộc bầu cử hoặc góp kinh nghiệm cho các cuộc bầu cử sau. Hội đồng bầu cử không được vận động cử cho một danh sách hay là một cá nhân nào. Điều 24 Ban bầu cử: Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày bầu cử Hội đồng nhân dân một cấp, Uỷ ban Hành chính cùng cấp sẽ thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử gồm từ năm đến chín đại biểu các giới và đoàn thể nhân dân trong đơn vị bầu cử, tất cả đều là phải người không ra ứng cử và phải biết đọc, biết viết. Ban bầu cử tự bầu ra một trưởng ban, một phó ban và một hay nhiều thư ký. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban bầu cử như sau: 1) Kiểm tra và đôn đốc để kịp thời bố trí các phòng bỏ phiếu; 2) Tiếp nhận thẻ cử tri và phiếu bầu cử để phân phối cho các Tổ bầu cử thành lập theo điều 25 dưới đây, chậm nhất là bảy ngày trước ngày bầu cử; 3) Kiểm soát việc lập và niêm yết danh sách cử tri và việc niên yết danh sách ứng cử; 4) Kiểm soát công việc bầu cử trong lúc tiến hành cuộc bầu cử tại các phòng bỏ phiếu. 5) Tiếp nhận kiểm soát biên bản sơ kết cuộc bầu cử do các Tổ bầu cử gửi đến; làm biên bản ghi kết quả cuộc bầu cử trong dơn vị, để gửi lên Hội đồng bầu cử. Ban bầu cử không được vận động bầu cử cho một danh sách hay một cá nhân nào. Điều 25 Tổ bầu cử: Chậm nhất là mười ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban Hành chính xã, thị xã, (không có khu phố), thị trấn, khu phố sẽ thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một tổ bầu cử gồm từ năm đến chín dại biểu các giới và đoàn thể nhận dân. Các ban chỉ huy quân đội sẽ thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một tổ bầu cử gồm từ năm đến chín đại biểu quân đội. Các đại biểu đều phải là những người không ra ứng cử và phải biết đọc, biết viết. Tổ bầu cử bầu ra một tổ trưởng, một tổ phó và một hay nhiều thư ký. Nhiệm vụ và quyền hạn của Tổ bầu cử như sau: 1) Kiểm soát việc niêm yết danh sách cử tri và danh sách ứng cử; 2) Bố trí phòng bỏ phiếu và chuẩn bị hòm phiếu; 3) Phát thể cử tri và phiếu bầu cử cho các cử tri. Phiếu bầu phải đóng dấu của Uỷ ban Hành chính địa phương hay là của đơn vị quân đội (nếu là phiếu bầu của quân nhân); 4) Là mọi công việc để bảo đảm cuộc bầu cử tiến hành tốt và chịu trách nhiệm giữ trật tự trong phòng bỏ phiếu trong khi tiến hành bầu cử; 5) Kiểm phiếu, làm biên bản sơ kết cuộc bầu cử tại phòng bỏ phiếu để gửi lên Ban bầu cử. Tổ bầu cử không được vận động bầu cử cho một danh sách hay một cá nhận nào. Điều 26 Thẻ cử tri, phiếu bầu cử, hòm phiếu là theo mẫu thống nhất do Bộ nội vụ quy định. Điều 27 Ngày bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp phải là ngày chủ nhật hay là ngày nghỉ lễ và phải được ấn định ít nhất là hai tháng trước. Ngày đó phải ở trong khoảng thời gian từ một tháng trước đến hai tháng sau khi Hội đồng nhân dân hết nhiệm kỳ. Thủ tướng Chính phủ ấn định ngày bầu cử Hội đồng nhân dân khu tự trị, tỉnh, thành phố. Uỷ ban Hành chính khu tự trị ấn định ngày bầu cử Hội đồng nhân dân châu. Uỷ ban Hành chính tỉnh (hay là Uỷ ban Hành chính trong khu tự trị không có cấp tỉnh). Uỷ ban Hành chính thành phố, ấn định ngày bầu cử Hội đồng nhân dân xã, thị trấn và thị xã. Điều 28 Cuộc bỏ phiếu sẽ bắt đầu từ sáu giờ sáng đến tám giờ tối. Điều 29 Cử tri phải thân hành đi bầu, không được uỷ quyền cũng không được bầu bằng cách gửi thư. Điều 30 Cử tri không biết chữ hay vì tàn tật không thể tự viết phiếu được, có thể tuỳ ý chọn người viết hộ, nhưng phải tự tay mình bỏ phiếu. Chỉ trong trường hợp không thể tự mình bỏ phiếu lấy được, cử tri có thể chọn người bỏ lá phiếu vào hòm phiếu, nhưng cử tri ấy phải tận mắt thấy bỏ lá phiếu của mình vào hòm phiếu. Điều 31 Để đảm bảo nguyên tắc bỏ phiếu kín, lúc cử tri viết phiếu bầu ở hòm phiếu, thì ngoài cử tri hoặc ngoài cử tri và người viết giúp (trường hợp cử tri tàn tật hay không biết chữ) không ai được đến gần để xem, kể cả những nhân viên Tổ bầu cử. Điều 32 Nếu viết hỏng cử tri có thể đề nghị với Tổ bầu cử phát một phiếu khác. Điều 33 Riêng đối với một vài nơi nào mà trình độ văn hoá và tổ chức của nhân dân chưa cho phép tổ chức bầu cử bằng phương pháp bỏ phiếu thì có thể thay bằng một phương pháp thích hợp khác, do Uỷ ban Hành chính tỉnh (hay Uỷ ban Hành chính khu trong khu tự trị không có cấp tỉnh) định. Điều 34 Cấm tuyên truyền cổ động cho người ứng cử tại phòng bỏ phiếu. Điều 35 Ngay sau khi hết giờ bỏ phiếu, phiếu bầu phải được đếm và kiểm soát tại phòng bỏ phiếu, trước công chúng. Lúc kiểm phiếu, Tổ bầu cử phải mời hai cử tri không ra ứng cử, có mặt tại đó, chứng kiến. Điều 36 Những phiếu sau đây là không hợp lệ: A) Phiếu không có dấu của Uỷ ban Hành chính địa phương, đơn vị quân đội; B) Phiếu có chữ ký của người đi bầu hoặc người viết giúp; C) Phiếu ghi tên quá số đại biểu đi bầu; D) Phiếu trắng. Điều 37 Nếu có sự nghi ngờ nào không hợp lệ, thì Tổ trưởng Tổ bầu cử đưa ra toàn Tổ biểu quyết. Điều 38 Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản. Nếu Tổ không giải quyết được thì phải đưa lên cấp có thẩm quyền để giải quyết. Điều 39 Kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập biên bản ghi: - Tổng số cử tri; - Số cử tri đi bầu; - Số phiếu bỏ cho mỗi người ứng cử; - Số phiếu không hợp lệ. - Những khiếu nại nhận được và cách giải quyết, những khiếu bại chưa giải quyết được. Biên bản phải có chữ ký của Tổ trưởng, của thư ký và của hai cử tri được mời vào chứng kiến cuộc kiểm phiếu, phải đọc cho các cử tri có mặt tại chỗ nghe, rồi gửi đến Ban bầu cử. Điều 40 Sau khi nhận được biên bản các khu vực bỏ phiếu, Ban bầu cử làm biên bản sơ kết cuộc bầu cử tại đơn vị bầu cử. Điều 41 Trong mỗi đơn vị bầu cử phải có quá nửa số cử tri ghi trong danh sách đi bầu, thì cuộc bàu cử ở đơn vị đó mới có giá trị. Nếu không, sẽ có cuộc bầu cử lại. Điều 42 Những người ứng cử phải được quá nửa số phiếu bầu hợp lệ mới trúng cử. Điều 43 Nếu trong cuộc bầu cử lần đầu, số người trúng cử chưa đủ số đại biểu định bầu, thì sẽ tổ chức một cuộc bầu để bầu thêm cho đủ số. Điều 44 Cuộc bầu cử thứ hai (bầu lại hay bầu thêm) không phải theo những quy định trong điều 41 và 42. Điều 45 Nếu nhiều người được một số phiếu bằng nhau thì người hơn tuổi được chọn. Điều 46 Nếu có cuộc bầu lại hoặc bầu thêm để bầu cử đủ số đại biểu thì sẽ tiến hành ba tuần lễ sau cuộc bầu cử đầu tiên. Điều 47 Tổ chức bầu cử, cách bỏ phiếu, điểm phiếu, làm sơ kết, tổng kết và tuyên bố kết quả tạm thời của cuộc bầu cử lần thứ hai cũng làm như lần đầu. Điều 48 Trong các cuộc bầu lại hoặc bầu thêm thì chỉ chọn trong những người đã ứng cử những không trúng cử trong cuộc bầu lần thứ nhất. Điều 49 Việc tổng kết cuộc bầu cử sẽ do Hội đồng bầu cử mỗi cấp làm. Điều 50 Hội đồng bầu cử tuyên bố kết quả tạm thời của cuộc bầu chậm nhất là: 3 ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân xã, thị trấn và thị xã; 7 ngày đối với Hội đồng nhân dân tỉnh và thành phố; 12 ngày đối với Hội đồng nhân dân tỉnh và châu trong Khư tự trị. 15 ngày đối với Hội đồng nhân dân khu tự trị. Biên bản phải được niêm yết tại trụ sở Uỷ ban Hành chính, các trụ sở bỏ phiếu và nơi công cộng, đồng thời phải phổ biến kết quả cuộc bầu cử bằng mọi phương tiện khác. Điều 51 Sau khi tuyên bố kết quả tạm thời cuộc bầu cử, tất cả biên bản của các Tổ, Ban và Hội đồng bầu cử đều phải gửi mỗi thứ một bản: - Lên Bộ Nội vụ xét duyệt đối với cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố và khu tự trị; - Lên Uỷ ban Hành chính Khu tự trị xét duyệt đối với cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân châu, thị xã khu tự trị; - Lên Uỷ ban Hành chính tỉnh trong một Khu tự trị (hay là Uỷ ban Hành chính khu trong Khu tự trị không có cấp tỉnh) xét duyệt đối với cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã, thị trấn thuộc Khu tự trị. Điều 52 Chậm nhất là bảy ngày sau ngày tuyên bố kết quả tạm thời của cuộc bầu cử, ai có gì khiếu nại phải gửi đơn đến Hội đồng bầu cử. Điều 53 Hội đồng bầu cử phải xét ngay các đơn khiếu nại và chậm nhất là bảy ngày sau khi nhận đơn khiếu nại, phải gửi các đơn đó lên cấp nói ở điều 51 kèm theo tờ trình ý kiến của mình về các đơn khiếu nại đó. Các cấp nói ở điều 51 có quyền quyết định cuối cùng về các đơn khiếu nại. Điều 54 Chậm nhất là hai mươi ngày kể từ ngày nhận được các biên bản bầu cử. Các cấp nói ở điều 51 sẽ chính thức tuyên bố kết quả cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân. Bộ Nội vụ có thể tuyên bố huỷ bỏ cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân bất cứ cấp nào nếu xét ra cuộc bầu cử ấy không có giá trị vì có những điều không hợp pháp nghiêm trọng. Điều 55 Nếu cuộc bầu cử bị huỷ bỏ, các cấp nói ở điều 51 báo cho Uỷ ban Hành chính cấp dưới biết và ấn định ngày bầu lại. Cuộc bầu cử lại ấy cũng làm theo cách thức cuộc bầu cử lần đầu. Điều 56 Hội đồng nhân dân các cấp sẽ bầu cử Uỷ ban Hành chính sau khi cấp trên chính thức tuyên bố kết quả hợp lệ của cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân. Điều 57 Ở những cấp có Hội đồng nhân dân (xã, thị trấn, thị xã, châu, tỉnh, thành phố, Khu tự trị) Uỷ ban Hành chính cấp nào do Hội đồng nhân dân cấp ấy bầu ra. Điều 58 Những cấp không có Hội đồng nhân dân (huyện, quận, ngoại thành, khu), Uỷ ban Hành chính do Hội đồng nhân dân cấp dưới một cấp bầu ra. Việc tổ chức bầu cử Uỷ ban Hành chính mới do Uỷ ban Hành chính hết nhiệm kỳ phụ trách. Điều 59 Khi bầu Uỷ ban Hành chính, sẽ bầu toàn Uỷ ban, Uỷ ban sẽ bầu ra Chủ tịch và Phó chủ tịch. Điều 60 Trong cuộc họp bầu Uỷ ban Hành chính, ở những cấp có Hội đồng nhân dân phải có mặt ít nhất hai phần ba (2/3) tổng số hội viên Hội đồng nhân dân, thì cuộc bầu mới có giá trị. Ở những cấp không có Hội đồng nhân dân phải có quá nửa tổng số hội viên các Hội đồng nhân (cấp dưới một bậc) đi bầu thì cuộc bầu cử mới có giá trị. Nếu cuộc bầu lần thứ nhất không đủ số hội viên tối thiểu nói trên, thì phải tổ chức cuộc bầu cử lần thứ hai; lần này dù số hội viên đi bầu không đủ số tối thiểu nói trên, cũng có thể bầu Uỷ ban Hành chính được. Điều 61 Trong cuộc bầu cử Uỷ ban Hành chính các cấp, lần đầu ai được quá nửa số phiếu hợp lệ thì trúng cử; lần thứ hai ai được nhiều phiếu hơn thì trúng cử. Điều 62 Những cấp có Hội đồng nhân dân, muốn vào ứng cử Uỷ ban Hành chính cấp nào thì phải là Hội viên hội đồng nhân dân cấp ấy. Ở cấp không có Hội đồng nhân dân, ai có đủ điều kiện đã ghi ở điều 2 trên đây đều có quyền ứng cử vào Uỷ ban Hành chính. Điều 63 Uỷ ban Hành chính cấp các cấp bầu xong phải được cấp trên công nhận mới được nhận chức. - Thủ tướng Chính phủ công nhận Uỷ ban Hành chính khu, Khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương. - Bộ Nội vụ công nhân Uỷ ban Hành chính tỉnh. - Uỷ ban Hành chính khu công nhận Uỷ ban Hành chính huyện, thị xã. - Uỷ ban Hành chính Khu tự trị công nhận Uỷ ban Hành chính huyện, châu, thị xã (trong khu tự trị). - Uỷ ban Hành chính thành phố công nhận Uỷ ban Hành chính quận ngoại, xã ngoại thành. - Uỷ ban Hành chính tỉnh (hay là Uỷ ban Hành chính khu trong Khu tự trị không có cấp tỉnh) công nhận Uỷ ban Hành chính xã, thị trấn. Điều 64 Thể lệ chi tiết về bầu cử Uỷ ban Hành chính các cấp do nghị định Thủ tướng Chính phủ quy định. Điều 65 Những người dùng bạo lực, hối lộ hoặc một thủ đoạn khác để phá hoại bầu cử, hoặc cản trở công dân tự do sử dụng quyền bầu cử và ứng cử của mình có thể tuỳ theo tội nhẹ hay là nặng bị phạt tù từ một tháng đến ba năm. Điều 66 Nhân viên nào trong các Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc cố tình báo cáo số phiếu sai sự thật hoặc dùng mọi thủ đoạn khác để làm sai lạc kết quả bầu cử, có thể tuỳ theo tội nhẹ hay là nặng bị phạt tù từ một tháng đến ba năm. Điều 67 Mọi người đều có quyền tố cáo với Toà án nhân dân các hành vi phạm pháp trong lúc bầu cử. Ai cản trở hoặc trả thù người tố cáo có thể tuỳ theo tội nhẹ hay là nặng bị phạt tù từ một tháng đến ba năm. Điều 68 Việc bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Hành chính khu Hồng Quảng và khu vực Vĩnh Linh tiến hành theo thể lệ áp dụng cho các tỉnh miền xuôi nói trên đây. Điều 69 Những thể lệ đã quy định về việc bầu cử Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Hành chính trái với sắc lệnh này đều bãi bỏ. Điều 70 Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định chi tiết thi hành sắc lệnh này. Sắc luật Việt Nam
14974
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20b%C3%A1o%20c%C3%A1o%20ch%C3%ADnh%20tr%E1%BB%8B%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%201958
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về báo cáo chính trị của Chính phủ 1958
Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa họp thứ VIII, tháng 4/1958, sau khi thảo luận báo cáo chính trị của Chính phủ, nhất trí nhận định rằng: Từ sau hoà bình lập lại, 3 năm qua, đế quốc Mỹ đã tiếp tục thực hiện chính sách can thiệp trắng trợn, toàn diện và thâm độc ở miền Nam nước ta, nhằm phá hoại việc thi hành Nghị định Giơ-ne-vơ, âm mưu chia cắt đất nước ta, biến miền nam thành thuộc địa và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Sự can thiệp của đế quốc Mỹ ở miền Nam là trở lực chính của việc thực hiện thống nhất nước nhà. Nhiệm vụ của toàn dân ta là đoàn kết nhân dân cả nước và đoàn kết với nhân dân thế giới, tăng cường không ngừng lực lượng đoàn kết và đấu tranh của chúng ta, xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của toàn dân, củng cố và phát triển phong trào yêu nước ở miền Nam, đánh bại chính sách can thiệp của đế quốc Mỹ, tiến hành mạnh mẽ hơn nữa cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình, theo đúng những điều khoản của Hiệp nghị Giơ-ne-vơ. Chúng ta phải ra sức đấu tranh đòi lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, trước mắt là đòi chính quyền miền Nam phải thoả thuận cùng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng giảm quân số và thực hiện việc trao đổi buôn bán giữa hai miền, để tiến tới hiệp thương và tổng tuyển cử tự do trong cả nước. Ở miền Bắc nước ta, nhân dân ta đã hoàn thành về căn bản nhiệm vụ cải cách ruộng đất, công tác sửa sai đã làm xong và đã đem lại kết quả tốt, có tác dụng củng cố và phát huy thắng lợi của cải cách ruộng đất. Nhân dân ta đã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ căn bản của thời kỳ khôi phục, đã thu được nhiều thành tích về các mặt kinh tế và văn hoá; và nhờ đó đời sống của nhân dân đã bớt khó khăn và được cải thiện bước đầu. Những thành tích đó chứng tỏ chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ trong thời gian qua là đúng. Miền Bắc nước ta từ khi hoà bình lập lại, đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.Năm 1958 chúng ta kết thúc thời kỳ khôi phục bắt đầu phát triển kinh tế và văn hoá theo chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản và lâu dài của các tầng lớp nhân dân, phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Mỗi công dân đều cần phải nhận rõ con đường của chủ nghĩa xã hội là duy nhất đúng, ra sức nâng cao nhiệt tình yêu nước của mình, đoàn kết phấn đấu xây dựng một đời sống ngày càng tốt đẹp. Chính phủ sẽ căn cứ những nguyên tắc cuả chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam đề ra chính sách, phương pháp và nhịp độ thích hợp để phát triển chế độ dân chủ nhân dân cuả ta tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Để đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu nhất của ta là ra sức phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nươcs nông nghiệp phồn vinh, thành một nước công nghiệp xã hội chủ nghĩa tiền tiến và giầu mạnh. Nhiệm vụ trước mắt là phải phát triển hơn nữa thành phần kinh tế quốc doanh, đồng thời cải tạo xã hội chủ nghĩa nông nghiệp, thủ công nghiệp và cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư doanh, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và cồng nghiệp, cải thiện thêm một bước đời sống của nhân dân. Việc phát triển và cải tạo kinh tế theo chủ nghĩa xã hội liên quan mật thiết với nhau và phải song song tiến hành. Trong thời gian tới, phải đặc biệt coi trọng việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đó là một yêu cầu căn bản và cấp bách để phát triển kinh tế, tăng gia sản xuất. Phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh là nhằm tăng cường lực lượng đảm bảo việc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền tảng vững chắc cho kinh tế quốc dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Các cơ quan Nhà nước căn cứ vào nhiệm vụ trên đây và tình hình cụ thể, để ra các chính sách cụ thể nhằm động viên mọi lực lượng của Nhà nước và nhân dân, phát huy mặt tích cực của các thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ và thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đẩy mạnh sản xuất. Cần nhận rõ việc thực hiện nhiệm vụ trên đây là một cuộc đấu tranh cách mạng khó khăn, phức tạp, toàn thể cán bộ và nhân dân phải ra sức bền bỉ cố gắng, đồng thời cũng cần nhận rõ chúng ta có rất nhiều thuận lợi căn bản và chúng ta nhất định thắng lợi. Song song với việc phát triển và cải tạo kinh tế, phải phát triển nền văn hoá của miền Bắc theo chủ nghĩa xã hội : phải xoá bỏ nạn mù chữ, phát triển giáo dục, nâng cao trình độ văn hoá cuả nhân dân (bao gồm văn hoá các dân tộc ) phát triển công tác văn nghệ, công tác y tế, đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao; phát triển và phổ biến khoa học kỹ thuật; giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đề cao ý thức lao động, cần kiệm xây dựng nước nhà, chống mọi tư tưởng đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, cảu nhân dân, của chủ nghĩa xã hộị , chống đồi phong bại tục. Nhiệm vụ rất quan trọng là ra sức giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho cán bộ và nhân dán, cải tạo trí thức cũ và đào tạo trí thức mới, thành đội ngũ trí thức trung thành với chủ nghĩa xã hội. Cần làm cho tư tưởng của cán bộ và nhân dân chuyển biến sâu sắc theo kịp tình hình và nhiệm vụ mới, phấn khởi lao động với tinh thần thi đua yêu nước, đồng thời quán triệt và chấp hành đúng các chính sách, nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Để bảo đảm tiến hành thuận lợi các nhiệm vụ trước mắt về kinh tế và văn hoá, phải ra sức tăng cường Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên cơ sở công nông liên minh, dưới sự lãnh đạo cuả Đảng lao động Việt Nam.Phải tăng cường chuyên chính đối với kẻ thù của nhân dân, đi đôi với mở rộng sinh hoạt dân chủ trong nhân dân. Phải thực hiện đúng ngyuên tắc dân chủ tập trung, và dựa trên nguyên tắc đó mà kiện toàn bộ máy Nhà nước. Phải ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự trị an, bảo vệ công cuộc lao động hoà bình của nhân dân. Đối ngoại, nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà không ngừng thắt chặt đoàn két với các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, đoàn kết với các nước á- Phi, lập quan hệ tốt với các nước láng giềng, thực hiện chung sống hoà bình giữa các nước tích cực đấu tranh cho hoà bình và hợp tác quốc tế, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ cuả các nước, các dân tộc đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Từ 30 năm nay, nhân dân ta đã không ngừng đoàn kết, đấu tranh và chiến thắng dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng là điều kiện chủ yếu bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng. Ngày nay miền Bắc đang bước vào một giai đoạn vô cùng vĩ đại trong lịch sử của dân tộc ta. Quốc hội kêu gọi toàn thể nhân dân ta, từ Nam chí Bắc, miền đồng bằng cũng như miền núi, đồng bào trong nước cũng như kiều bào ở ngoài nước, không phân biệt dân tộc, tôn giáo,nhận rõ trách nhiệm nặng nề và vinh quang của mình, hết sức phấn khởi và tin tưởng, đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ , đấu tranh theo ngọn cờ yêu nước và chủ nghĩa xã hội, vượt mọi khó khăn trở ngại, xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh giành thống nhất nước nhà, thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 29 tháng 4 năm 1958. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14975
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20nhi%E1%BB%87m%20v%E1%BB%A5%20k%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%203%20n%C4%83m%20v%C3%A0%20k%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20kinh%20t%E1%BA%BF%20n%C4%83m%201958
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về nhiệm vụ kế hoạch 3 năm và kế hoạch phát triển kinh tế năm 1958
Sau khi nghe và thảo luận bản báo cáo của Chính phủ về nhiệm vụ kế hoạch 3 năm 1958 - 1960 và kế hoạch phát triển kinh tế năm 1958; Sau khi nghe Tiểu ban kế hoạch Nhà nước thuyết trình và các đại biểu đọc tham luận; 1/ Quốc hội xác nhận rằng trong 3 năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, của Chính phủ và Hồ Chủ Tịch, mặc dù có nhiều khó khăn, chúng ta đã căn bản hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ khôi phục kinh tế. Quốc hội xác nhận đường lối chính sách khôi phục kinh tế, bước đầu phát triển văn hoá của Đảng và Chính phủ trong 3 năm qua là đúng, nên đã đem lại nhiều thành tích căn bản và to lớn. Quốc hội biểu dương tinh thần yêu nước nồng nàn và tinh thần lao động sáng tạo, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn của các tầng lớp nhân dân thuộc các dân tộc, của anh chị em lao động chân tay và trí óc, của cán bộ và quân đội, của anh chị em miền Nam tập kết ra Bắc đã góp phần xứng đáng vào công cuộc khôi phục kinh tế, bước đầu phát triển văn hoá, do đó mà bước đầu cải thiện đời sống nhân dân. Quốc hội tỏ lòng biết ơn sâu sắc sự giúp đỡ vô tư và to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. 2/ Quốc hội xác nhận rằng miền Bắc nước ta đã chấm dứt giai đoạn khôi phục kinh tế và chuyển vào giai đoạn phát triển kinh tế và cải tạo kinh tế theo chủ nghĩa xã hội ; bước vào kế hoạch 3 năm, mở đầu một gian đoạn mới có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. 3/ Quốc hội thông qua bản kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá năm 1958. Trong khi thực hiện, Chính phủ cần phát huy mọi khả năng tiềm tàng để quyết tâm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Quốc hội kêu gọi các tầng lớp nhân dân và toàn thể cán bộ, quân đội đoàn kết sung quanh Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch, phấn khởi và tích cực lao động, ra sức thi đua tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, nâng cao năng xuất lao động, quyết tâm đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp lên một bước, tăng cường mạnh mẽ thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, bước đầu cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiếp tục phát triển văn hoá theo chủ nghĩa xã hội. Quốc hội tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ Tịch, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch năm 1958, đưa miền Bắc nước ta tiến dần lên chủ nghĩa xã hội vinh quang. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 29 tháng 4 năm 1958. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14976
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20t%C3%ACnh%20h%C3%ACnh%20th%E1%BB%B1c%20hi%E1%BB%87n%20t%E1%BB%95ng%20d%E1%BB%B1%20to%C3%A1n%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%201957%20v%C3%A0%20v%E1%BB%81%20t%E1%BB%95ng%20d%E1%BB%B1%20to%C3%A1n%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201958
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tình hình thực hiện tổng dự toán nhà nước 1957 và về tổng dự toán nhà nước năm 1958
Sau khi nghe và thảo luận bản báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện tổng dự toán nhà nước năm 1957 và dự án tổng dự toán nhà nước năm 1958; Sau khi nghe Tiểu ban Ngân sách thuyết trình và các vị đại biểu tham luận; 1. Thông qua bản báo cáo thu chi tài chính nhà nước đến ngày 31-12-1957 của Chính phủ, giao trách nhiệm cho Ban Thường trực Quốc hội xét tổng quyết toán nhà nước năm 1957 của Chính phủ và sẽ báo cáo với Quốc hội họp khóa sau. 2. Thông qua tổng dự toán nhà nước năm 1958 với tổng số dự thu là tám trăm tám mươi sáu nghìn, bảy trăm ba mươi tám triệu đồng (886.738 triệu đồng) với tổng số dự chi là tám trăm tám mươi sáu nghìn, bảy trăm ba mươi tám triệu đồng (886.738 triệu đồng) 3. Uỷ quyền cho Chính phủ có thể căn cứ vào nguyên tắc bảo đảm thăng bằng thu chi dự toán, điều chỉnh đúng lúc những khoản thu chi nào cần phải điều chỉnh, đề cao kỷ luật tài chính, cố gắng giảm bớt những khoản chi tiêu không cần thiết, cố gắng động viên những khả năng còn có thể động viên được cho dự toán nhà nước. Những khoản điều chỉnh này phải báo cáo cho Ban Thường trực Quốc hội biết. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 29 tháng 4 năm 1958. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14977
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20tuy%E1%BB%83n%20c%E1%BB%AD%20b%E1%BB%95%20sung%201958
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề tuyển cử bổ sung 1958
Sau khi nghe Ban thường trực Quốc hội báo cáo; Việc tuyển cử bổ sung theo như Nghị quyết của Quốc hội khoá họp thứ VI này tạm hoãn cho đến lực Hiến pháp sửa đổi được thông qua sẽ xét lại. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 29 tháng 4 năm 1958. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14979
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20t%C3%ACnh%20h%C3%ACnh%2C%20nhi%E1%BB%87m%20v%E1%BB%A5%20v%C3%A0%20k%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%203%20n%C4%83m%20%281958-1960%29%20ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20v%C3%A0%20c%E1%BA%A3i%20t%E1%BA%A1o%20kinh%20t%E1%BA%BF%2C%20ph%C3%A1t%20tri%E1%BB%83n%20v%C4%83n%20h%C3%B3a
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tình hình, nhiệm vụ và kế hoạch 3 năm (1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hóa
Sau khi nghe và thảo luận các bản báo cáo của Chính phủ về tình hình, nhiệm vụ và kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá, Sau khi nghe Tiểu Ban của Quốc hội nghiên cứu các báo cáo nói trên thuyết trình và nghe các đại biểu Quốc hội đọc tham luận, 1) Quốc hội hoàn toàn nhất trí với nhận định của Chính phủ về tình hình và nhiệm vụ: Trên cơ sở những thắng lợi của cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế, ở miền Bắc nước ta hiện đang có một chuyển biến cách mạng mới, một phong trào rộng rãi của các tầng lớp nhân dân thi đua yêu nước, tích cực lao động sản xuất, có nhân tố và có xu thế đi lên chủ nghĩa xã hội, cần phải hết sức phát huy đà tiến bộ mới ấy, đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời ra sức phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2) Quốc hội thông qua kế hoạch 3 năm (1958-1960) do Chính phủ đã trình bày. Cần phải đưa công cuộc phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá tiến lên theo một tốc độ nhanh và mạnh; căn bản hoàn thành cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể và thành phần kinh tế tư bản tư doanh trong thời gian từ 2 đến 3 năm tới, đồng thời ra sức mở mang xây dựng cơ bản, phát triển lực lựơng của thành phần kinh tế quốc doanh. Cần phải đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp; dựa vào sản xuất phát triển mà nâng cao thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, và tăng cường củng cố quốc phòng. Những chỉ tiêu của kế hoạch 3 năm là tích cực và vững chắc, thể hiện đúng các yêu cầu nói trên. Chính phủ cần phải hết sức tăng cường việc lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện để đảm bảo hoàn thành tốt kế hoạch. 3) Kế hoạch 3 năm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá là cương lĩnh hành động cụ thể của toàn dân ta trong những năm sắp tới để ra sức đoàn kết phấn đấu đưa miền Bắc tiến thêm một bước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Quốc hội kêu gọi các tầng lớp nhân dân, toàn thể cán bộ nhân viên và quân đội hãy ra sức nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, hăng hái chấp hành đúng đường lối chính sách của Đảng và chính phủ, phát huy truyền thống đấu tranh anh dũng và bền bỉ, nâng cao cảnh giác, đề cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà, phấn khởi thi đua yêu nước, lao động cần cù, phấn đấu gian khổ để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Quốc hội kêu gọi đồng bào miền Nam hãy ra sức đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng, đòi thực hiện các quyền tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống cùng nhân dân toàn quốc đấu tranh giành thống nhất nước nhà. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 14 tháng 12 năm 1958. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14980
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20Lu%E1%BA%ADt%20H%C3%B4n%20nh%C3%A2n%20v%C3%A0%20gia%20%C4%91%C3%ACnh
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề Luật Hôn nhân và gia đình
1) Giao cho Chính phủ nghiên cứu thảo một đạo luật về hôn nhân và gia đình, để trình Quốc hội xét trong một khoá họp gần đây. 2) Trước khi có đạo luật hoàn chỉnh, Chính phủ nên có những biện pháp thích đáng nhằm ngăn chặn những việc không hợp lý còn tồn tại trong xã hội ta về hôn nhân và gia đình. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 14 tháng 12 năm 1958. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14982
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20th%C3%A0nh%20l%E1%BA%ADp%20%C4%90o%C3%A0n%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20tham%20gia%20Li%C3%AAn%20minh%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thành lập Đoàn đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Liên minh Quốc hội
Chúng tôi 231 đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa họp tại Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 1959, Sau khi nghiên cứu Điều lệ và Quy tắc của Liên minh Quốc hội, Nhận thấy rằng mục đích tôn chỉ của Liên minh Quốc hội có lợi cho việc tăng cường hợp tác hòa bình giữa các dân tộc, củng cố và phát triển các tổ chức dân chủ, điều đó phù hợp với đường lối chính trị của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhận thấy sự tham gia của mình vào Liên minh Quốc hội có thể góp phần vào việc thực hiện mục đích tôn chỉ của Liên minh Quốc hội, 1. Tán thành bản Điều lệ của Liên minh Quốc hội. 2. Thành lập Đoàn đại biểu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Liên minh Quốc hội. 3. Cử Ban chấp hành của Đoàn gồm có: Chủ tịch: Ông Hoàng Văn Hoan Thư ký: Ông Trần Đình Tri 4. Giao cho Ban chấp hành làm những thủ tục cần thiết để gia nhập Liên minh Quốc hội. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14983
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20k%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201959
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về kế hoạch Nhà nước năm 1959
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về "Kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá năm 1959" ; Sau khi nghe Tiểu ban kế hoạch thuyết trình và các đại biểu tham luận, 1- Quốc hội nhất trí xác nhận những thành tích của nhân dân ta đã ra sức phấn đấu hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1958, năm đầu của kế hoạch 3 năm. Quốc hội biểu dương tinh thần thi đua yêu nước của các tâng lớp nhân dân, công nhân, nông dân, quân đội, lao động trí óc, đồng bào các dân tộc ít người, đồng bào miền Nam tập kết đã góp phần xứng đáng hoàn thành thắng lợi kế hoạch năm 1958. 2- Quốc hội thông qua những nhiệm vụ và chỉ tiêu chính của "Kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá năm 1959". Năm 1959 giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong kế hoạch 3 năm, là năm bản lề có tính chất quyết định trong việc hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm. Những chỉ tiêu chính và mức độ phát triển ghi trong kế hoạch chứng tỏ tính chất tích cực và vững chắc của kế hoạch năm 1959, phù hợp với yêu cầu và khả năng phát triển của miền Bắc nước ta. Trong việc chỉ đạo thực hiện, các cơ quan Nhà nước cần chú ý hơn nữa đến những biện pháp cụ thể, động viên cán bộ và nhân dân ra sức phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, quyết tâm hoàn thành kế hoach. 3- Quốc hội kêu gọi các tầng lớp nhân dân và cán bộ ra sức phấn đấu, đẩy mạnh công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp, hợp tác hoá thủ công nghiệp, đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa công thương nghiệp tư bản tư doanh, hoàn thành tốt cuộc vận động cải tiến quản lý trong các xí nghiệp quốc doanh, đẩy mạnh kiến thiết cơ bản , phát triển sản xuất về mọi mặt, ra sức thi đua yêu nước và lao động xã hội chủ nghĩa để hoàn thành thắng lợi kế hoạch 1959, chuẩn bị để hoàn thành tốt kế hoạch 3 năm, góp phần củng cố miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất Tổ quốc. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 27 tháng 5 năm 1959. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14984
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20h%E1%BB%A3p%20t%C3%A1c%20h%C3%B3a%20n%C3%B4ng%20nghi%E1%BB%87p
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp
Sau khi nghe bản báo cáo của Chính phủ về vấn đề "Kiên quyết đưa nông thôn miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hoá nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hội". Sau khi nghe bản thuyết trình của Tiểu ban nghiên cứu báo cáo của Chính phủ về vấn đề trên đây; và sau khi nghe các đại biểu phát biểu ý kiến; 1- Quốc hội nhất trí nhận định rằng : phong trào hợp tác hoá nông nghiệp hiện nay đang phát triển mạnh, nó đã trở thành một phong trào quần chúng và căn bản là tốt. 2- Quốc hội nhất trí nhận định rằng : hiện nay, hợp tác hoá nông nghiệp là khâu chính trong toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta. Nó kết hợp 3 cuộc vận động ; cải tạo quan hệ sản xuất, cải tiến kỹ thuật, phát triển sản xuất. Riêng ở miền núi thì tiến hành vận động hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ. 3- Quốc hội nhất trí tán thành những điều quy định cơ bản về mục đích yêu cầu, đường lối (giai cấp, phương châm, nguyên tắc, những chính sách cụ thể và phương pháp vận động hợp tác hoá nông nghiệp đã nổi lên trong bản báo cáo của Chính phủ. 4- Quốc hội giao trách nhiệm cho Chính phủ tăng cường lãnh đạo cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, và làm cho các cấp, các ngành, nhận thức đầy đủ ý nghĩa to lớn của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn miền Bắc nước ta hiện nay, đồng thời nhận rõ trách nhiệm của mình đối với phong trào hợp tác hoá nông nghiệp : các cấp tăng cường kiểm tra, đôn đốc, nắm vững chỉ đạo phong trào; các ngành thi hành mọi biện pháp cần thiết và nghiên cứu các chính sách cụ thể của ngành mình để kịp thời phục vụ phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đang phát triển mạnh mẽ. 5- Quốc hội nhiệt liệt hoan nghênh thắng lợi bước đầu của phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, kêu gọi anh chị em nông dân hãy đoàn kết phấn đấu, hăng hai đi theo con đường hợp tác hoá của Đảng và Chính phủ, kêu gọi toàn thể cán bộ hãy ra sức học tập và công tác, nâng cao ý thức giác ngộ xã hội chủ nghĩa và cảnh giác chính trị, nhiệt liệt ủng hộ và thiết thực tham gia phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Toàn thể các ngành các giới, toàn thể cán bộ, bộ đội và nhân dân hãy ra sức đoàn kết phấn đấu, kiên quyết đưa miền Bắc nước ta qua con đường hợp tác hoá nông nghiệp tiến lên chủ nghĩa xã hôị, góp phần củng cố miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Hợp tác hoá nông nghiệp là một cuộc cách mạng hoà bình, nhưng sâu sắc và triệt để nhất từ trước đến nay ở nông thôn nước ta; đó là một nhiệm vụ khó khăn, gian khổ, nhưng rất vè vang. Quốc hội tin rằng, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Lao động Việt Nam, của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và của Hồ Chủ tịch, với truyền thống đấu tranh anh dũng của nông dân ta và khối đoàn kết chặt chẽ của toàn dân ta, chúng ta nhất định sẽ hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ vẻ vang ấy. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 27 tháng 5 năm 1959. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14985
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20t%E1%BB%95ng%20quy%E1%BA%BFt%20to%C3%A1n%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201958%20v%C3%A0%20v%E1%BB%81%20t%E1%BB%95ng%20d%E1%BB%B1%20to%C3%A1n%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201959
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tổng quyết toán nhà nước năm 1958 và về tổng dự toán nhà nước năm 1959
Sau khi nghe và thảo luận báo cáo của Chính phủ về tổng quyết toán Nhà nước năm 1958 và tổng dự toán Nhà nước năm 1959; Sau khi nghe Tiểu ban ngân sách thuyết trình, và các vị đại biểu tham luận, 1. Quốc hội thông qua bản tổng quyết toán Nhà nước năm 1958 của Chính phủ với: - Tổng số thu là chín trăm mười một triệu, bốn trăm hai mươi hai nghìn, hai mươi lăm đồng (911.422.025đ). - Tổng số chi là tám trăm chín mươi tư triệu, chín mươi tám nghìn, bốn trăm ba mươi sáu đồng (894.098.436đ). 2. Quốc hội thông qua bản tổng dự toán Nhà nước năm 1959 với: - Tổng số dự thu là một nghìn một trăm sáu mươi mốt triệu tám trăm chín mươi mốt nghìn đồng (1.161.891.000đ). - Tổng số dự chi là một nghìn một trăm sáu mươi mốt triệu tám trăm chín mươi mốt nghìn đồng (1.161.891.000đ). 3. Quốc hội ủy quyền cho Chính phủ trong quá trình thực hiện tổng dự toán Nhà nước 1959, căn cứ vào nguyên tắc bảo đảm thăng bằng thu chi tài chính và theo phương hướng của dự toán đã được Quốc hội thông qua, mà điều chỉnh kịp thời một số khoản chi thu cần thiết phải điều chỉnh, nhằm khai thác thêm các khả năng tiềm tàng để tăng thu, cố gắng tiết kiệm chi, bảo đảm khối lượng và chất lượng công tác, đồng thời để có thêm vốn làm thêm những việc cần làm. 4. Quốc hội tin tưởng rằng nhân dân và cán bộ ta sẽ không ngừng phát huy tinh thần yêu nước và nhiệt tình xã hội chủ nghĩa, nhận rõ bản chất và nhiệm vụ tài chính Nhà nước của chế độ chúng ta, mà ra sức phấn đấu, khắc phục khó khăn, cố gắng tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chấp hành đúng đắn các chính sách và chế độ tài chính, bảo đảm hoàn thành thắng lợi dự toán tài chính Nhà nước 1959. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 27 tháng 5 năm 1959. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14986
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20d%E1%BB%B1%20lu%E1%BA%ADt%20h%C3%B4n%20nh%C3%A2n%20v%C3%A0%20gia%20%C4%91%C3%ACnh
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về dự luật hôn nhân và gia đình
Sau khi nghe Chính phủ báo cáo về dự thảo luật hôn nhân và gia đình, sau khi nghe thuyết trình và đề nghị của Tiểu ban nghiên cứu dự luật hôn nhân và gia đình, Nhận định rằng việc ban hành đạo luật hôn nhân và gia đình lúc này là cần thiết để thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân và gia đình dân chủ, tiến bộ, và xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, Nhận định rằng hôn nhân và gia đình là một vấn đề quan hệ đến nhiều mặt trong đời sống của nhân dân, cần đưa ra thảo luận rộng rãi trong nhân dân, chuẩn bị tư tưởng cho nhân dân, và chuẩn bị về mọi mặt, nhằm đảm bảo cho luật được thi hành tốt sau khi được Quốc hội thông qua, Giao Chính phủ nghiêm cứu thêm dự thảo luật hôn nhân và gia đình, đưa bản dự thảo ra nhân dân thảo luận trong thời gian sắp tới và trình Quốc hội biểu quyết trong khoá họp sau. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 27 tháng 5 năm 1959. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14987
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20b%C3%A1o%20c%C3%A1o%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20v%E1%BB%81%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20n%C4%83m%201959%20v%C3%A0%20nh%E1%BB%AFng%20ch%E1%BB%A7%20tr%C6%B0%C6%A1ng%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20l%E1%BB%9Bn%20trong%20n%C4%83m%201960
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về báo cáo của Chính phủ về công tác năm 1959 và những chủ trương công tác lớn trong năm 1960
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về công tác năm 1959 và những chủ trương công tác lớn trong năm 1960; Sau khi nghe bản thuyết trình của Tiểu ban nghiên cứu báo cáo của Chính phủ và nghe các đại biểu phát biểu ý kiến, 1- Quốc hội nhất trí thông qua báo cáo của Chính phủ về công tác năm 1959 và những chủ trương công tác lớn trong năm 1960. 2- Quốc hội nhất trí xác nhận rằng trong năm 1959 mọi mặt hoạt động của nhân dân ta đã phát triển nhanh và tiến bộ nhiều ; chúng ta đã đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển kinh tế và văn hoá, tăng cường công tác nội chính,củng cố quốc phòng, mở rộng hoạt động ngoại giao ; đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân đã được nâng cao thêm một bước; Quốc hội nhận định rằng trong 5 năm qua từ ngày hoà bình lập lại, nhân dân ta đã anh dũng phấn đầu vượt mọi khó khăn, giành được những thắng lợi to lớn và vẻ vang. Những thành tích to lớn của nhân dân ta chứng minh rõ ràng : đường lối của Đảng là đúng, sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, đứng đầu là Hồ Chủ tịch, là đúng. Đường lối đúng đắn của Đảng và sức lao động sáng tạo của nhân dân ta là mấu chốt thắng lợi của sự nghiệp xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Một nhân tố quan trọng của thắng lợi cần nhấn mạnh là sự hợp tác tương trợ ngày càng được mở rộng giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa đứng đầu là Liên Xô vĩ đại, sự giúp đỡ quý báu và vô tư của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và sự giúp đỡ tận tình của các đồng chí chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa. 3- Quốc hội nhiệt liệt biểu dương tinh thần thi đua yêu nước, nhiệt tình cách mạng, tình thần lao động cần cù và sáng tạo của cán bộ và các tầng lớp nhân dân miền xuôi cũng như miền núi, công nhân, nông dân, quân đội, lao động trí óc, thanh niên, phụ nữ, đồng bào miền Nam tập kết, đã phấn đấu anh dũng, không ngừng củng cố và xây dựng miền Bắc, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Quốc hội nhiệt liệt hoan nghênh tinh thần đấu tranh bất khuất của đồng bào miền Nam chống chính sách xâm lược của đế quốc Mỹ, chống khủng bố đàn áp, chống chia cắt đất nước, chống chuẩn bị chiến tranh, đòi thi hành hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống, đòi lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền và hoà bình thống nhất Tổ quốc. 4- Quốc hội nhận định rằng năm 1960 phải là một năm thắng lợi to lớn hơn nữa của nhân dân ta, chúng ta có nhiều thuận lợi rất căn bản nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn cần phải ra sức khắc phục. Quốc hội nhất trí tán thành những chủ trương công tác lớn do Chính phủ đề ra : ra sức củng cố và đẩy mạnh phong trào cải tạo xã hội chủ nghĩa, căn bản hoàn thành hợp tác hoá cấp thấp đối với nông nghiệp và ngư nghiệp, căn bản hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh; không ngừng tăng cường kinh tế quốc doanh, mở rộng và xúc tiến xây dựng cơ bản; ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và mọi hoạt động kinh tế tài chính khác; đẩy mạnh sự nghiệp văn hoá và giáo dục, ra sức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, đặc biệt chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề, xúc tiến công tác khoa học, tiếp tục cải thiện đời sống của các tầng lớp nhân dân; đẩy mạnh việc chấn chỉnh và kiện toàn bộ máy Nhà nước, mở rộng hoạt động ngoại giao, củng cố quốc phòng, thi hành Hiến pháp mới và tuyển cử Quốc hội; chuẩn bị bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. 5- Quốc hội kêu gọi các tầng lớp nhân dân tăng cường đoàn kết, ra sức nâng cao hơn nữa tinh thần yêu nước, nhiệt tình xã hội chủ nghĩa, và tinh thần cảnh giác cách mạng, ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh hơn nữa phong trào thi đua yếu nước, phong trào lao động xã hội chủ nghĩa cần kiệm xây dựng nước nhà để hoàn thành tố kế hoạch 3 năm, chuẩn bị thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất một cách thắng lợi, mở những triển vọng mới cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ XI nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 29 tháng 12 năm 1959. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14988
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20thi%20h%C3%A0nh%20Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thi hành Hiến pháp
1- Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà được thông qua trong kỳ họp Quốc hội lần thứ 11 sẽ do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà công bố. 2- Giao Ban Thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ tổ chức việc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá hai trong sáu tháng đầu năm 1960. 3- Giao Ban Thường trực Quốc hội chuẩn bị Luật tổ chức Quốc hội, Hội đồng Chính phủ chuẩn bị Luật tổ chức Chính phủ,Luật tổ chức Toà án nhân dân và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để trình Quốc hội thông qua trong một kỳ họp sau. 4- Giao Ban Thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ nghiên cứu và tiến hành việc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp huyện. Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họpthứ XI nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm 1959. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14989
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20k%C3%A9o%20d%C3%A0i%20nhi%E1%BB%87m%20k%E1%BB%B3%20c%E1%BB%A7a%20c%C3%A1c%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20mi%E1%BB%81n%20Nam%20trong%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo dài nhiệm kỳ của các đại biểu miền Nam trong Quốc hội
Sau khi nghe báo cáo của Tiểu ban nghiên cứu luật tuyển cử Quốc hội về vấn đề đại biểu miền Nam trong Quốc hội, Nhận định rằng: 1- Từ ngày hoà bình được lập lại, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà thể theo nguyện vọng của toàn dân từ Bắc chí Nam đã nhiều lần đề nghị với chính quyền miền Nam hiệp thương để tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước thực hiện thống nhất nước nhà như Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định. Nhưng chính quyền miền Nam thi hành chính sách của đế quốc Mỹ vẫn khăng khăng từ chối mọi đề nghị hợp tình hợp lý của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, phá hoại nghiêm trọng Hiệp định Giơ-ne-vơ, phá hoại sự nghiệp hoà bình thống nhất Tổ quốc ta, biến miền Nam thành một quốc gia riêng biệt, thực chất là một thuộc địa kiểu mới và một căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Trong khi vẫn kiên trì đấu tranh đòi thực hiện tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất nước nhà theo Hiệp nghị Giơ-ne- vơ, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã thông qua Luật tuyển cử bầu lại Quốc hội. 2- Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiêu biểu tính chất thống nhất của cả nước ta và tiêu biểu ý chí đấu tranh thống nhất của nhân dân ta từ Bắc chí Nam. Trong Quốc hội phải có những người đại diện xứng đáng cho nhân dân ở miền Nam. Các đại biểu miền Nam trong Quốc hội hiện nay được bầu ra trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến ở miền Nam, đã cùng nhân dân miền Nam đoàn kết và đấu tranh anh dũng trong kháng chiến. Từ ngày hoà bình lập lại, tập kết ra Bắc, đại biểu miền Nam tiếp tục đem nhiệt tình cách mạng để góp phần xây dựng miền Bắc, đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Tiếng nói của các đại biểu miền Nam trong Quốc hội là tiếng nói của toàn thể đồng bào miền Nam đang dương cao ngọn cờ hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Trong lúc ở miền Nam chưa thể tổ chức tuyển cử tự do như ở mièn Bắc, sự có mặt của đại biểu miền Nam trong Quốc hội có ý nghĩa tiêu biểu tính chất thống nhất của nước ta, của Quốc hội ta và ý chí của nhân dân ta kiên quyết đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước, hoà bình thống nhất nước nhà. Vì lý do trên, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Kéo dài nhiệm kỳ của các đại biểu Quốc hội đã được nhân dân miền Nam bầu ra ngày 6-1-1946 cho đến khi có nghị quyết mới. Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá thứ nhất, kỳ họp thứ XI nhất trí thông qua trong phiên họp ngày 31 tháng 12 năm 1959. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14990
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20t%C3%ACnh%20h%C3%ACnh%20ch%E1%BA%A5p%20h%C3%A0nh%20ng%C3%A2n%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201959%20v%C3%A0%20v%E1%BB%81%20d%E1%BB%B1%20%C3%A1n%20ng%C3%A2n%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201960
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tình hình chấp hành ngân sách nhà nước năm 1959 và về dự án ngân sách nhà nước năm 1960
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họp kỳ thứ 12; Sau khi nghe Chính phủ báo cáo về tình hình chấp hành ngân sách Nhà nước năm 1959 và về dự án ngân sách Nhà nước năm 1960; Sau khi nghe Tiểu ban ngân sách thuyết trình và các đại biểu tham luận, 1) Ngân sách Nhà nước năm 1959 đã thực hiện tốt. Đó là nhờ những thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong việc phát triển kinh tế và văn hóa. Quốc hội nhất trí với Chính phủ nhận định về tình hình thực hiện ngân sách năm 1959. Quốc hội hoan nghênh toàn thể nhân dân, cán bộ, công nhân viên chức, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, đã có những tiến bộ trong việc quản lý kinh tế và tài chính Nhà nước. Quốc hội giao cho Chính phủ, qua công tác quyết toán ngân sách Nhà nước năm 1959 tiếp tục nghiên cứu, phân tích, thẩm tra kỹ các khoản thu, chi để rút ra những kinh nghiệm nhằm tăng cường công tác xây dựng và quản lý ngân sách và kế hoạch Nhà nước. Chính phủ sẽ trình Quốc hội phê chuẩn quyết toán Nhà nước năm 1959. 2) Quốc hội thông qua dự án ngân sách Nhà nước năm 1960 với: - Tổng số thu là một nghìn bốn trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm linh sáu nghìn đồng (1.445.806.000 đồng). - Tổng số chi là một nghìn bốn trăm bốn mươi lăm triệu tám trăm linh sáu nghìn đồng (1.445.806.000 đồng). 3) Quốc hội giao cho Chính phủ, trong quá trình chấp hành ngân sách Nhà nước, chỉ đạo chặt chẽ việc quản lý các khoản thu, khoản chi, ra sức khai thác mọi lực lượng tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân nhằm tăng thu và triệt để tiết kiệm chi. Quốc hội ủy quyền cho Chính phủ căn cứ vào nguyên tắc đảm bảo thăng bằng thu chi tài chính Nhà nước và theo phương hướng của ngân sách đã được Quốc hội thông qua mà điều chỉnh kịp thời một số khoản thu, chi cần thiết phải điều chỉnh để hoàn thành tốt nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1960 4) Những chủ trương của Chính phủ nhằm tăng cường quản lý kinh tế và tài chính thực hành tiết kiệm là cần thiết. Cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tiết kiệm trong toàn thể cán bộ, công nhân, viên chức; đưa công tác quản lý kinh tế và tài chính vào chế độ và kỷ luật chặt chẽ; tăng cường giáo dục cho cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân ý thức làm chủ, cần kiệm xây dựng đất nước, phát huy tác dụng của mọi người trong công tác quản lý kinh tế và tài chính; tăng cường công tác kiểm tra, giám đốc thường xuyên; làm cho mọi người tích cực tham gia kiểm tra việc quản lý kinh tế và tài chính trong phạm vi cơ quan, xí nghiệp hay địa phương của mình; thực hiện nghiêm chỉnh chế độ khen thưởng và kỷ luật. 5) Quốc hội kêu gọi cán bộ, công nhân, viên chức và toàn thể nhân dân ra sức thi đua tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm, thực hiện tốt ngân sách Nhà nước năm 1960, đảm bảo hoàn thành thắng lợi kế hoạch 3 năm và thiết thực chuẩn bị cơ sở cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khóa thứ nhất, kỳ họp thứ 12, thông qua trong phiên họp ngày 15 tháng 4 năm 1960. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14991
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20k%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201960
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về kế hoạch Nhà nước năm 1960
Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, họp kỳ thứ 12; Sau khi nghe Chính phủ báo cáo về kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá năm 1960; Sau khi nghe Tiểu ban kế hoạch thuyết trình và các đại biểu tham luận. 1- Quốc hội nhất trí xác nhận rằng nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng lao động Việt Nam và của Chính phủ, đã nỗ lực phấn đấu vượt nhiều khó khăn, đạt được những thành tích to lớn trong việc hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1959; cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa thành phần kinh tế cá thể của nông dân và thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhất là phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, đã tiến hành nhanh chóng; các ngành kinh tế và văn hoá, nhất là công tác xây dựng cơ bản, sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đào tạo cán bộ, đã phát triển với một nhịp độ nhanh; phong trào chuyển biến cách mạng đang tiếp tục phát triển sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân; các mặt hoạt động đó đã đem lại những thay đổi rất trọng yếu trong đời sống xã hội và kinh tế ở miền Bắc nước ta. 2- Quốc hội thông qua những nhiệm vụ và chỉ tiêu chính của kế hoạch cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá năm 1960 đồng thời coi đó là mục tiêu phấn đấu để hoàn thành kế hoạch 3 năm. Kế hoạch Nhà nước năm 1960 giữ một vị trí hết sức quan trọng, nó vừa bảo đảm hoàn thành kế hoạch 3 năm, vừa chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm lần thứ nahát. Những nhiệm vụ và chỉ tiêu ghi trong kế hoạch 1960 đã được xây dựng với tinh thần tích cực và vững chắc, phù hợp với yêu cầu tiến nhanh, tiến mạnh trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời cũng phù hợpu với khả năng của miền Bắc nước ta; việc sửa đổi một số chỉ tiêu ghi trong kế hoạch 3 năm là cần thiết và sát với tình hình thực tế. Trong việc chỉ đạo thực hiện kế hoạch, cần quán triệt nhiệm vụ và chính sách, nắm vững biện pháp, nâng cao quyết tâm phấn đấu, phát huy mọi thuậnu lợi, khắc phục mọi khó khăn để đảm bảo thực hiện vượt mức những chỉ tiêu ghi trong kế hoạch. 3- Quốc hội biểu dương tinh thần thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội của các tầng lớp nhân dân, công nhân, nông dân, quân dội, lao động trí óc, đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào miền Nam tập kết v.v... Đã góp phần xứng đáng vào viẹc hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1959. Quốc hội kêu gọi toàn thể nhân dân và cán bộ phát huy nhiệt tình cách mạng, ra sức thi đua tăng năng suất, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sản xuất cũng như trong xây dựng và công tác để hoàn thành kế hoạch Nhà nước năm 1960, kế thúc thắng lợi kế hoạch ba năm phát triển và cải tạo kinh tế, phát triểu văn hoá, tạo điều kiện thuận lợi để bước vào kế haọch 5 năm lần thứ nhất, nhầm đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Nghị quyết này đã được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, khoá thứ nhất, kỳ họp thứ 12, thông qua trong phiên họp ngày 15 tháng 4 năm 1960. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
14994
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20%C4%91%C3%B3n%20ti%E1%BA%BFp%20kh%C3%A1ch%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ngo%C3%A0i%20v%C3%A0%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20trong%20th%E1%BB%9Di%20gian%20t%E1%BB%9Bi
Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc đón tiếp khách nước ngoài và phương hướng công tác trong thời gian tới
A- THÀNH PHẦN HỘI NGHỊ: 1. Ban Thường vụ: có mặt: Cụ Phạm Bá Trực, Phó trưởng ban Cụ Tôn Đức Thắng, Ông Dương Đức Hiếu, Thư ký Vắng mặt: Cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Ông Tôn Quang Phiệt, Phó trưởng ban Ông Nguyễn Đình Thi, thư ký. 2. Uỷ viên được mời dự: có mặt: Ông Y Ngông Niếk Đam Bà Lê Thị Xuyên. Vắng mặt: ông Trần Huy Liệu. B- THỜI GIAN: Ngày 24-9-1949, sáng từ 8 giờ 30 đến 12 giờ 15, chiều từ 14 giờ 30 đến 16 giờ 45. C- CHỦ TỊCH BUỔI HỌP: Cụ Phạm Bá Trực, Thư ký ghi chép: ông Đặng Thu, Thư ký Văn phòng Ban TTQH. D- LÝ DO: 1. Việc chính là bàn về sự đón tiếp khách ngoại quốc nếu có. 2. Nhân tiện bàn qua về công việc Ban TTQH. E- CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ: 1. Thủ tục. 2. Việc đón tiếp khách ngoại quốc. 3. Kiểm điểm và đặt chương trình làm việc của Ban TTQH. 4. Linh tinh. 5. Bế mạc. I- THỦ TỤC: - Tuyên bố - Thông qua - Bầu chủ toạ - Chào cờ II - VIỆC ĐÓN TIẾP KHÁCH NGOẠI QUỐC: 1. Trung Quốc chưa có Quốc hội và có Chính phủ. Việc đón tiếp theo đúng lễ nghi và trịnh trọng giữa Quốc hội hai nước theo như phép ngoại giao quốc tế chưa thành vấn đề. Vậy dịp này nếu có thì chỉ là nhân dân ngoại giao. 2. Vấn đề đặt ra là sẽ chỉ mời có khách của dân, của các đoàn thể. Quốc hội sẽ nên tham dự đón tiếp như thế nào ? Nguyên tắc chung là sự đón tiếp giữa hai nhân dân thân thiện nên không theo lễ nghi long trọng gì, mà chỉ tỏ ra một sự xã giao, lịch sự. Trong khi khách ngoại quốc đến thăm ta, có thể có hai trường hợp liên quan đến Quốc hội: A. Các đoàn thể trong nước làm lễ nghi đón tiếp khách có mời Quốc hội tham dự. B. Khách xin yết kiến Quốc hội. Trong trường hợp a, người được mời đến dự thường là đại biểu Quốc hội ở địa phương đó, có thể là một Uỷ viên thường trực Quốc hội. Cả hai người có dự cũng chỉ nhân danh là một nhân sĩ Quốc hội thôi, không lấy tư cách là đại diện cho Ban Thường trực Quốc hội hay cả Quốc hội. Uỷ viên Thường vụ Quốc hội hay đại biểu Quốc hội được mời sẽ tuỳ ý muốn đi dự hoặc không. Nhưng nếu Chính phủ vì lẽ riêng đón tiếp một phái đoàn nào, mà mời thì không nên không dự. Sự gặp gỡ chỉ có tính cách xã giao, thân mật, không có diễn văn trình bày, tặng phẩm gì cả (song khi dự với Chính phủ có thể có diễn văn). Trong trường hợp b, nếu quý khách xin yết kiến Chính phủ và Quốc hội thì không nên cùng với Chính phủ tiếp chung để khỏi chi phí nhiều hay cho tiện được. Thường thường các phái đoàn sẽ có đưa hành trình của họ cho chính phủ, nếu họ có xin yết kiến Quốc hội, Chính phủ tất sẽ báo cho mình rõ, và cũng sẽ đề nghị nên tiếp hoặc không nên tiếp. Mình sẽ tuỳ từng phái đoàn, nếu thấy họ có lợi cho mình thì sẽ tiếp. Một cá nhân hoặc một phóng viên báo chí xin gặp thì nhất định không tiếp. Nếu mình bằng lòng tiếp một phái đoàn nào thì làm thiếp mời họ cho có lịch sự. Đón tiếp ở một nhà riêng, nho nhỏ, sạch sẽ được trang hoàng trang nghiêm (Do công tác đội của Ban Thường vụ Quốc hội làm hoặc mướn nhà của dân chúng nếu nhà đó có đủ thuận tiện) - Sự bố trí đón tiếp như thế nào, lúc đó Ban Thường trực sẽ họp bàn cho sát. Đại khái cũng không có lễ nghi long trọng, chỉ có nói chuyện thân mật, tiệc trà... - Dù mình có mấy người tiếp nhưng cũng chỉ có một người đứng ra nhân danh Ban Thường trực Quốc hội mà tiếp chính thức thôi. - Tặng phẩm to tát chưa thành vấn đề vì để dành riêng cho Quốc hội chính thức của họ. Chỉ có thể biếu Bản Hiến pháp. Hiến pháp sẽ cho in thật đẹp, trên giấy thật tốt, giấy ta làm được mà tốt thì càng hay. Sẽ in một phần trên bằng tiếng quốc ngữ, phần sau bằng tiếng Anh (bản dịch của Nha Thông tin đã dịch). Trình bày dù thế nào cũng phải có in hình Quốc kỳ Việt nam, in mẫu hẳn hoi. In 200 (hai trăm) cuốn. Tiền sẽ lấy ở Bộ Tài chính. Việc thuê in và trình bày sẽ do ông Nguyễn Đình Thi phụ trách. - Có thể biếu khách tài liệu về Lịch sử Quốc hội Việt Nam. Nhưng tài liệu này còn phải thu thập lâu và còn làm thành bản thảo (phụ trách: Cụ Trúc và ông Hiền) để đưa nhiều người xét lại sửa chữa thêm bớt rồi mới đem in. Từ nay đến cuối năm, sẽ hợp thành tài liệu này. III- KIỂM ĐIỂM VÀ ẤN ĐỊNH CHƯƠNG TRÌNH CÔNG VIỆC CỦA BAN THƯỜNG TRỰC QUỐC HỘI 1. Kiểm điểm - Sau ngày toàn quốc kháng chiến, Ban Thường trực Quốc hội có một cuộc họp tại Hà Đông. Trong buổi họp đó, trước tình thế kháng chiến, có nhận định về đường lối, chủ trương kháng chiến và quyết định rằng: - Cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban sẽ thay mặt Ban Thường trực Quốc hội luôn luôn đi với Chính phủ theo dõi chính sách của Chính phủ cho được sát, giúp đỡ Chính phủ trong sự thi hành nhiệm vụ và giải quyết những công việc lặt vặt thường của Ban Thường trực Quốc hội ở Văn phòng. - Các vị Uỷ viên sẽ tản mạc đi các địa phương và tham dự các phái đoàn Chính phủ, động viên dân chúng tích cực kháng chiến trường kỳ, toàn dân và toàn diện. Sau khi các Uỷ viên đã làm xong công việc trên sẽ tuỳ theo khả năng, hoàn cảnh riêng mà tham gia trực tiếp vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, hoặc ở các Uỷ ban kháng chiến, hành chính, hoặc ở các các cơ quan chuyên môn hay các đoàn thể nhân dân. Hoàn cảnh nước nhà từ hồi mới kháng chiến toàn quốc đến thu đông 1947 đã không cho phép Ban Thường trực Quốc hội hội họp được vì các Uỷ viên còn đương làm công tác động viên ở các địa phương và sự tấn công khắp nơi của giặc đã không cho có sự liên lạc chặt chẽ và hội họp. Qua thu đông 1947, giặc đã suy yếu và giai đoạn thu hái của cuộc kháng chiến đã bắt đầu với Việt Bắc chiến thắng, nhưng ngay lúc bấy giờ địch còn tấn công ở một vài nơi trong nước, chưa dám cả quyết là ta đã ở giai đoạn cầm cự, cho đến khi chúng liên tiếp thất bại ở các cuộc tấn công đó, ta mới dám nhận rằng tình thế đã cho phép hội họp được rồi. Vì giai đoạn kháng chiến đã rõ rệt, vì hoàn cảnh tương đối an toàn, vì lâu không họp, đầu năm 1949, Ban Thường trực Quốc hội đã dự định một năm họp hai lần và mọi việc để trù bị một phiên họp Thường vụ Quốc hội mở rộng đã được làm thì Sơn Tây bị chiếm đóng, đường lên Việt Bắc thành ra khó khăn, nguy hiểm ? Cụ Trưởng ban Bùi Bằng Đoàn nghỉ dưỡng bệnh, hai cụ Phó trưởng ban Phạm Bá Trực và Tôn Quang Phiệt và mấy vị Uỷ viên lại ở dưới liên khu 3 và 4 không lên được. Với sự thắng lợi lớn của ta ở Đông Bắc, Tây Bắc và với cuộc tấn công Tuyên Quang của giặc tháng 5/1949 rồi chúng chiếm đóng Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Yên một hai tháng sau, hoàn cảnh lại không thuận tiện cho các cuộc hội nghị nữa. Do là về hội họp, còn đối với Chính phủ, thì lúc nào cụ Bùi Bằng Đoàn cùng ở sát cho đến tháng 9/1948. Sau ngày đó, hai cụ Phạm Bá Trực và Tôn Đức Thắng thay thế, trong khi cụ Bùi Bằng Đoàn nghỉ dưỡng bệnh. Công việc của người đại diện Ban Thường trực Quốc hội bên Chính phủ là tham dự các cuộc Hội đồng Chính phủ để hiểu biết tình hình trong, ngoài, tham gia, giúp đỡ ý kiến Chính phủ trong các công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Ngoài ra, gặp những ngày kỷ niệm của cả nước hay nhân một dịp gì đặc biệt vị đó gửi nhân dân những bản hiệu triệu có tính cách kêu gọi, khuyến khích, ngay với văn phòng, vị đó lại giải quyết những việc thường xuyên và ký các giấy tờ về tài chính. Trong Ban Thường trực Quốc hội còn có Ban kiến tại để thu thập những tài liệu, ý kiến của dân chúng về quốc kế dân sinh, do ông Trần Huy Liệu phụ trách. Ông Trần Huy Liệu hứa cuộc họp này sẽ báo cáo nhưng vì mắc bận nên ông không đến dự được. Những việc nhỏ Quốc hội can thiệp thì dân chúng gửi đến Ban Thường trực Quốc hội. Những việc này không nhiều lắm, trung bình mỗi tháng vài ba đơn. Ban Thường trực đã gửi đến Bộ Nội vụ giải quyết. Về tài liệu thì biên bản kỳ Quốc dân đại hội lần thứ hai (11/1946) bị thất lạc. Danh sách các đại biểu Quốc hội cũng không đầy đủ, nhất là danh sách về Nam bộ. Hội nghị quyết nghị sẽ cho hỏi các ông Phạm Văn Đồng, Nguyễn Đình Thi, Trần Huy Liệu về những nghị quyết trong kỳ đại hội thứ 2. Ông Dương Đức Hiền sẽ tra cứu trong báo Độc lập. 2- Chương trình công việc từ đây về sau của Ban Thường trực Quốc hội: 1. Bắt liên lạc với các uỷ viên Thường trực Quốc hội, hỏi công tác từ trước đến nay của mỗi vị. 2. Vị nào chức có công tác riêng thì trong tình thế này tạm thời để các vị tuỳ ý làm việc. Có việc gì Ban Thường trực Quốc hội cần nhớ đến sẽ giao và ban sẽ phụ cấp tiền nong, tổn phí cho đầy đủ. 3. Sự liên lạc giữa Ban Thường trực Quốc hội và các uỷ viên tuy không ấn định là phải có hàng tháng, nhưng khi có việc thì phải liên lạc. 4. Trừ những việc bí mật của nước (secrets d—Etat) còn việc gì mà Chính phủ hỏi ý kiến Thường trực Quốc hội, nếu đủ thì giờ, Ban Thường trực Quốc hội sẽ hỏi ý kiến các vị trong Ban. 5. Sự hội họp toàn Ban Thường trực Quốc hội sẽ chuẩn bị từ bây giờ, đến khi nào có hoàn cảnh thì cử Phó trưởng ban sẽ triệu tập Ban Thường trực vụ để sửa soạn cuộc họp. 6. Để ghi những công việc và hoạt động của Ban Thường trực Quốc hội từ trước đến nay để phổ biến trong dân chúng, đề nghị quyết định thu thập các tài liệu đó và sẽ viết thành cuốn sách tạm lấy nhan đề là "Quốc hội với cuộc kháng chiến". Trong cuốn đó, nêu rõ công việc của Ban, của các uỷ viên trong Ban và các đại biểu của các địa phương trong thời kỳ kháng chiến. Văn chương phải có lý luận vững chắc, đúng sự thực. Ban Thường trực Quốc hội có nhờ Bộ Nội vụ sưu tầm tài liệu về hoạt động của các đại biểu Quốc hội nhưng đến nay chưa có kết quả, cần phải giục một lần nữa. Những người phụ trách làm cuốn "Quốc hội với cuộc kháng chiến": các ông Hiền, Thi, Liệu. Công việc nên làm xong sớm càng hay và cố gắng để đến cuộc họp Ban Thường trực Quốc hội mở rộng sau này duyệt lại rồi đem in và phổ biến. 7- Nhân viên văn phòng, chưa cần thêm (hiện có 1 thư ký). IV- LINH TINH 1. Hỏi Uỷ ban kháng chiến hành chính Bắc Ninh về việc trao tặng thưởng của Ban Thường trực Quốc hội cho đội dân quân Hồng Hà (lễ nghi, kết quả và ảnh hưởng). 2. Việc giao tặng thưởng cho trung đoàn 17. Sẽ nhờ ông Nguyễn Sơn Hà ở Thái Nguyên đại diện cho Ban Thường trực Quốc hội đến giao. Cần phải cho lễ đó được trọng thể. 3. Ông Hiền đề nghị sửa lại dự án ngân sách 1950, thêm một khoản chi về ấn loát. Hội nghị không đồng ý và định rằng khi đến lúc cần sẽ tính sau. 4. Khi có việc gì của Ban Thường trực Quốc hội giao cho, các vị uỷ viên trong sự đi lại có phí tổn bao nhiêu thì sẽ làm một tờ kê gửi về Ban và Ban sẽ lấy ở Bộ Tài chính hoàn lại. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
14995
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20g%E1%BB%ADi%20%C4%91i%E1%BB%87n%20v%C4%83n%20cho%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20v%C3%A0%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20c%C3%A1c%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%C4%91%C3%A3%20c%C3%B4ng%20nh%E1%BA%ADn%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20ta%20v%C3%A0%20m%E1%BB%99t%20s%E1%BB%91%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20trong%20th%E1%BB%9Di%20gian%20t%E1%BB%9Bi
Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc gửi điện văn cho Chính phủ và Quốc hội các nước đã công nhận Chính phủ ta và một số công tác trong thời gian tới
Có các cụ: Tôn Đức Thắng, Quyền trưởng ban, Cụ: Phạm Bá Trực, Phó trưởng ban, Ông: Dương Đức Hiền, Uỷ viên quyền Tổng thư ký, Ông: Trần Huy Liệu, Uỷ viên (vắng mặt có lý do). Để thi hành những quyết nghị của Hội nghị Ban Thường trực ngày 6, 7 tháng 2 năm 1950, Ban Thường vụ đã quyết nghị những việc sau đây: 1- Thảo thêm các điện văn gửi Quốc hội và nhân dân các nước mới công nhận Chính phủ ta. Cụ Tôn Đức Thắng đề nghị gửi một điện cho nhân dân Pháp. 2- Xin Chính phủ bản thuyết trình thành văn của ông Phó thủ tướng. 3- Xin Chính phủ từ đây sẽ gửi những dự án sắc lệnh đến sớm trước khi Hội đồng Chính phủ để Ban Thường trực Quốc hội đủ thì giờ tham khảo. 4- Xin Chính phủ bản quyết nghị về hội nghị kháng chiến hành chính toàn quốc. 5- Xin Chính phủ bản sao sắc lệnh và kế hoạch tổng động viên dân lực. 6- ông Dương Đức Hiền sẽ gặp Hội đồng tư luật để nghiên cứu công việc tư luật - Hỏi thành phần ban tư luật hiện thời, - Cách làm việc, - Những kết quả. 7- Liên lạc với các đại biểu Quốc hội: - Báo cáo đều kỳ công việc của Ban Thường trực Quốc hội cho các đại biểu, - Liên lạc với các đại biểu bằng thư từ, - Các đại biểu báo cáo cho Ban Thường trực Quốc hội tình hình và nguyện vọng của nhân dân. 8- Việc họp các đại biểu hiện ở Liên khu Việt Bắc (ghi nhớ) 9- Đối với các đại biểu ở các địa phương xa (ghi nhớ) 10- Tiếp tục lấy danh sách và địa chỉ các đại biểu Quốc hội Văn phòng phụ trách. 11- Liên lạc với quốc tế: - Tổ chức phái đoàn Quốc hội đi ngoại quốc (ghi nhớ) - In Hiến pháp để làm tặng phẩm. In thêm 2.000 cuốn tiếng Việt Nam, giấy thường, khổ nhỏ để phổ biến trong nước. Văn phòng phụ trách. - Tài liệu Quốc hội và kháng chiến. Tiếp tục làm. 12- Thông tri cho hai Bộ Nội vụ và Tư pháp biết quyết định tước quyền bất khả xâm phạm của các đại biểu Quốc hội tự ý vào vùng địch. 13- Tổ chức lại văn phòng. Ông Nguyễn Tấn Gi Trọng, Chánh văn phòng sẽ phụ trách làm dự án tổ chức văn phòng và sự chi phí về vật liệu. 14- Ngân sách: Văn phòng phụ trách dự thảo. 15- Thanh toán viên: ông Nguyễn Tấn Gi Trọng. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
14997
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20%22c%E1%BB%A7ng%20c%E1%BB%91%20m%E1%BA%B7t%20tr%E1%BA%ADn%20Li%C3%AAn-Vi%E1%BB%87t%22%20trong%20cu%E1%BB%99c%20ph%C3%A1t%20%C4%91%E1%BB%99ng%20qu%E1%BA%A7n%20ch%C3%BAng%20n%C4%83m%20nay
Nghị quyết về vấn đề "củng cố mặt trận Liên-Việt" trong cuộc phát động quần chúng năm nay
Hội nghị liên tịch giữa Ban Thường trực Quốc hội và Uỷ ban Liên-Việt toàn quốc họp từ ngày 25-2 đến ngày 1-3-1953, sau khi xét bản đề án "củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất" của Ban Thường trực Mặt trận và Bản tham luận "đẩy mạnh lề lối làm việc mới của Mặt trận Liên- Việt" của Đảng dân chủ Việt Nam, nghị quyết: 1- Loại các địa chủ ngoan cố và cường hào gian ác ra khỏi các tổ chức Mặt trận. 2- Củng cố cơ sở của Mặt trận dân tộc thống nhất là khối liên minh công, nông và lao động trí óc. 3- Tích cực thực hiện đúng lề lối làm việc của Mặt trận. 4- Thực hiện phương châm củng cố Mặt trận là đoàn kết nhưng phải đấu tranh với những tư tưởng và hành động sai lầm. 5- Các cấp bộ Mặt trận, các đoàn thể và các hội viên Liên-Việt phải kết hợp các công tác trên với cuộc phát động quần chúng, thực hiện chính sách ruộng đất năm nay. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
14998
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20v%E1%BB%81%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20ph%C3%A1t%20%C4%91%E1%BB%99ng%20qu%E1%BA%A7n%20ch%C3%BAng%20th%E1%BB%B1c%20hi%E1%BB%87n%20ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20ru%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t
Nghị quyết về công tác phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất
Hội nghị liên tịch giữa Ban thường trực Quốc hội Việt Nam và Uỷ ban Liên-Việt toàn quốc họp từ ngày 25-2 đến ngày 1-3-1953; nghe báo cáo của các vị đại biểu, và sau khi đã thảo luận kỹ hoàn toàn tán thành chủ trương phóng tay phát động quần chúng nông dân thực hiện chính sách ruộng đất do Hồ Chủ tịch và Đảng lao động Việt Nam đề ra. Căn cứ vào báo cáo của Đảng lao động Việt Nam và đề nghị của Ban liên lạc nông dân toàn quốc; Hội nghị quyết nghị: 1- Lấy công tác phóng tay phát động quần chúng nông dân làm công tác trung tâm trong năm 1953, nhằm mục đích đánh đổ thế lực phản động, làm yếu thế lực phong kiến về mặt kinh tế, đập tan thế lực phong kiến về mặt chính trị, đem lại quyền lợi vật chất và giành ưu thế chính trị cho nông dân lao động ở nông thôn. 2- Thực hiện chính sách ruộng đất hiện nay: - Triệt để giảm tô (bao gồm thoái tô) thực hiện giảm tức; - Chia hẳn ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian bù nhìn cho những nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng; - Chia hết công điền, công thổ cho những nông dân không có ruộng hoặc ít ruộng; - Sử dụng hợp lý ruộng đất của những chủ ruộng hiện ở trong vùng tạm bị chiếm và của những chủ ruộng vắng mặt chưa rõ tung tích; 3- Nông hội chuẩn bị kế hoạch tiến hành cuộc phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất nói trên. 4- Đề nghị với Chính phủ thể theo nghị quyết của hội nghị, bổ sung các sắc lệnh và nghị định về chính sách ruộng đất. 5- Nhiệm vụ của các đoàn thể, các đại biểu Quốc hội và hội viên trong Mặt trận là phải chấp hành đúng những chính sách đã đề ra, phải tham gia tích cực vào phong trào phát động quần chúng, ủng hộ cuộc đấu tranh của nông dân, đem lại quyền lợi chính đáng cho nông dân. 6- Nhân cuộc phát động quần chúng này, chỉnh đốn và phát triển tổ chức của Mặt trận, đưa ra ngoài Mặt trận những phần tử phản động phá hoại và ngoan cố, thu hút những phần tử tích cực kháng chiến và chấp hành mọi chính sách của Chính phủ và Mặt trận, làm cho Mặt trận thêm vững chắc và lớn mạnh. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
14999
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20v%E1%BB%81%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20b%E1%BA%A3o%20v%E1%BB%87%20h%C3%B2a%20b%C3%ACnh%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi
Nghị quyết về công tác bảo vệ hòa bình thế giới
Hội nghị liên tịch giữa Ban Thường trực Quốc hội và Uỷ ban Liên việt toàn quốc họp từ ngày 25-2 đến 1-3-1953, Sau khi nghe báo cáo của đoàn đại biểu nhân dân Việt Nam đi dự hội nghị hoà bình châu á và Thái Bình Dương ở Bắc Kinh, và Đại hội nhân dân thế giới bảo vệ hoà bình ở Viên, nhận thấy: 1- Phong trào bảo vệ hoà bình thế giới đứng đầu có Liên Xô và Trung Quốc đã phát triển rất rộng rãi và mạnh mẽ, nhân dân toàn thế giới không phân biệt chủng tộc, tôn giáo và mầu sắc chính trị một lòng đoàn kết phản đối chiến tranh, bảo vệ hoà bình; bọn đế quốc gây chiến đứng đầu là đế quốc Mỹ, bị vạch mặt nạ và bị phản đối kịch liệt. 2- Nhân dân thế giới bảo vệ hoà bình đã nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Việt Nam và 2 dân tộc bạn Miên, Lào, đã kiên quyết đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt - Miên - Lào, đòi ngoại quốc rút ra khỏi Việt - Miên - Lào, 3 nước Việt - Miên - Lào độc lập hoàn toàn và thật sự. Lực lượng bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới đã kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc. Hội nghị liên tịch nhiệt liệt hoan nghênh tất cả các nghị quyết của Hội nghị hoà bình châu á và Thái Bình Dương và Đại hội nhân dân thế giới bảo vệ hoà bình; Hội nghị liên tịch kêu gọi các đoàn thể, các đại biểu Quốc hội và Hội viên Mặt trận hãy tích cực thực hiện nghị quyết ấy: - Bằng cách đưa các nghị quyết ấy ra tuyên truyền và giáo dục rộng rãi trong nhân dân thế giới để tăng cường đoàn kết giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới. - Bằng cách kết hợp công tác bảo vệ hoà bình với công tác kháng chiến mà Hồ Chủ tịch và Chính phủ đã nêu ra, nhất là công tác phát động quần chúng thực hiện chính sách ruộng đất năm nay. - Bằng cách đẩy mạnh cuộc kháng chiến Việt Nam hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, góp phần bảo vệ hoà bình Châu á và hoà bình thế giới. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
15000
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20H%E1%BB%99i%20ngh%E1%BB%8B%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20m%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng%20ng%C3%A0y%2028-7-1954
Nghị quyết của Hội nghị Ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở rộng ngày 28-7-1954
Hội nghị Ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở rộng đã họp vào ngày 28 tháng 7 năm 1954 để nghe báo cáo của Ban về kết quả cuộc Hội nghị Giơnevơ. Sau khi nghe báo cáo và nghiên cứu các văn bản về Hội nghị Giơnevơ và các điều khoản của bản Hiệp định đình chiến được 9 nước trong Hội nghị Giơnevơ thừa nhận. Hội nghị nhận định: 1. Hiệp định đình chiến ở toàn Đông Dương là một thắng lợi lớn của nhân dân Việt Nam ta và nhân dân Cao Miên, Lào, đồng thời là thắng lợi của phong trào hòa bình thế giới. Thắng lợi ấy là do lực lượng kháng chiến của nhân dân ta trong 8, 9 năm nay, do sự đấu tranh của nhân dân Pháp, do sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, do đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ta đã tranh đấu kiên quyết và khôn khéo và do sự giúp đỡ của hai đoàn đại biểu Liên Xô và Trung Quốc mà thu được. 2. Thắng lợi lớn này là bước đầu. Nhân dân ta còn phải đi con đường hòa bình tiếp tục đấu tranh để tiến lên nữa. Phải đề phòng bọn hiếu chiến ngăn cản việc thi hành Hiệp định đình chiến phá hoại hòa bình ở Đông Dương. Hội nghị quyết nghị: 1. Hoàn toàn tán thành đường lối chủ trương chính sách hòa bình của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tỏ lòng tín nhiệm Chính phủ và tin tưởng tuyệt đối ở sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch. 2. Kêu gọi các vị đại biểu và nhân dân trong toàn quốc nhận rõ thắng lợi ngoại giao to lớn, thi hành đúng Hiệp định đình chiến đồng thời cũng đòi Chính phủ Pháp thi hành đúng những điều đã ký kết. Nhân dân ta nhất định thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc. Đoàn kết chung quanh Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân dân ta nhất định sẽ củng cố được hòa bình, thực hiện được thống nhất, hoàn thành được độc lập và dân chủ trong toàn quốc. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
15001
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20t%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c%20v%C3%A0%20l%E1%BB%81%20l%E1%BB%91i%20l%C3%A0m%20vi%E1%BB%87c%20c%E1%BB%A7a%20ban
Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tổ chức và lề lối làm việc của ban
Để thực hiện Nghị quyết "Kiện toàn tổ chức Quốc hội" của Quốc hội trong khóa họp thứ 6, Ban Thường trực Quốc hội quyết nghị: I- Nhiệm vụ cụ thể của Ban Thường trực Quốc hội 1. Quan hệ với Chính phủ: Cần phải thực hiện đúng các nhiệm vụ đã quy định trong các điều khoản của Nghị quyết Quốc hội ngày 24-1-1957. a) Biểu quyết các sắc luật do Chính phủ đề ra. Những dự thảo sắc luật của Chính phủ đưa ra trình bày trước Ban Thường trực Quốc hội phải do một đại diện Chính phủ thuyết trình. Những sắc luật do Ban Thường trực biểu quyết, đều đem trình Quốc hội vào khóa họp gần nhất. Những sắc luật được Quốc hội chuẩn y trở thành những đạo luật của Nhà nước. b) Xét và đề ra Chính phủ sửa đổi hoặc hủy bỏ những sắc lệnh và nghị định không phù hợp với những đạo luật và sắc luật. c) Thỏa thuận với Chính phủ về việc Chính phủ cử người thay thế hoặc bổ sung các Bộ trưởng. Danh sách những Bộ trưởng được cử sẽ đưa trình Quốc hội trong khóa họp gần nhất. d) Thỏa thuận với Chính phủ về việc thi hành những hiệp ước ký với nước ngoài. Những hiệp ước sau khi ký và được Ban Thường trực Quốc hội thỏa thuận cho thi hành phải đưa trình Quốc hội trong khóa họp gần nhất. e) Phối hợp với Chính phủ tiến hành tuyển cử bổ sung ở các đơn vị bầu cử miền Bắc theo như Nghị quyết ngày 24-1-1957 của Quốc hội. Về thủ tục thực hiện các nhiệm vụ trên đây, ông ủy viên thư ký sẽ liên lạc với Văn phòng Thủ tướng phủ để có quy định cụ thể. 2. Quan hệ với các đại biểu Quốc hội: Ban Thường trực Quốc hội có nhiệm vụ: - Giữ liên lạc với các đại biểu Quốc hội để nhận các ý kiến, phản ánh tình hình và nguyện vọng của nhân dân do đại biểu gọi đến để nghiên cứu và đề ra với các cơ quan hữu quan giải quyết. Liên lạc bằng thơ từ, gửi Công báo để giúp các đại biểu theo dõi các chính sách lớn của Nhà nước. - Hiểu rõ tình hình các đại biểu Quốc hội: số lượng, lịch sử, công tác, hoạt động, thuyên chuyển v.v.. - Thi hành các quy định về quyền lợi vật chất và tinh thần của đại biểu Quốc hội. - Tổ chức các Đoàn đại biểu Quốc hội đi tiếp xúc với nhân dân mỗi khi cần thiết. 3. Quan hệ với nhân dân: Nghiên cứu và đề nghị với Chính phủ giải quyết những đơn khiếu nại, thỉnh cầu hoặc đề nghị của nhân dân gửi đến. 4. Triệu tập và tổ chức các khóa họp Quốc hội. 5. Một số công tác khác trước khóa họp thứ 7: - Giải quyết một số vấn đề về tổ chức và lề lối làm việc: + Thảo nội quy Ban Thường trực Quốc hội. + Dự thảo nội quy Quốc hội. + Chấn chỉnh Văn phòng. + Trùng tu và trang hoàng trụ sở của Ban. - Chuẩn bị và tổ chức khóa họp Quốc hội lần thứ 7 vào đầu tháng 7 năm 1957. II- Tổ chức văn phòng của Ban Thường trực Quốc hội Căn cứ vào các nhiệm vụ của Ban Thường trực Quốc hội do Nghị quyết ngày 24-1-1957 của khóa họp thứ 6 quy định và các công tác cụ thể trên đây, Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội sẽ gồm 2 bộ phận: 1. Phòng nghiên cứu chung với các nhiệm vụ: - Giữ quan hệ với các đại biểu (không kể trong các vấn đề hành chánh, tài chính do phòng văn thư, hành chánh, quản trị đảm nhiệm). - Thu nhận và nghiên cứu các đơn từ, nguyện vọng của nhân dân và để cùng ý kiến giúp ủy viên phụ trách giải quyết. - Liên lạc với Văn phòng Thủ tướng phủ và các Bộ về các vấn đề quan hệ giữa Ban Thường trực Quốc hội và Chính phủ. - Theo dõi việc thực hiện các Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội. - Chuẩn bị các khóa họp Quốc hội, các phiên họp của Ban Thường trực Quốc hội. - Liên lạc với các Tiểu ban để nắm tình hình. - Phục vụ Ban sửa đổi Hiến pháp về phương tiện làm việc. - Thu thập tài liệu để giúp Ban Thường trực Quốc hội làm báo cáo, lập chương trình công tác. - Sơ bộ nghiên cứu các công văn đến, trước khi trình bày Ban hay chuyển cho các Tiểu ban để giải quyết. - Nghiên cứu các vấn đề chung về Quốc hội: Nội quy Ban Thường trực Quốc hội, Nội quy Quốc hội. - Liên lạc với báo chí, đài phát thanh để tuyên truyền về các hoạt động của Quốc hội, của Ban Thường trực Quốc hội hoặc của các đại biểu Quốc hội. Các ủy viên thường trực có thể phân công phụ trách một hay nhiều nhiệm vụ trên đây, với một hay nhiều cán bộ giúp việc. Các ủy viên phụ trách các vấn đề sẽ chịu trách nhiệm trước Ban Thường trực Quốc hội, Văn phòng có nhiệm vụ trình bày vấn đề, chuẩn bị ý kiến. 2. Phòng Văn thư, hành chánh quản trị với các nhiệm vụ: - Giữ văn thư của Ban, lưu trữ hồ sơ, thư viện. - Tiếp phát công văn, đến và đi. - Đánh máy, in ronéo. - Giao thông, liên lạc, điện thoại thường trực… - Nhân sự cơ quan. - Ngân sách Quốc hội. - Quản lý tài sản cơ quan. - Khánh tiết, tiếp tân. - Tham gia tổ chức các khóa họp Quốc hội. Văn phòng đặt dưới sự lãnh đạo của Chánh Văn phòng do ủy viên Thư ký kiêm nhiệm và Phó Văn phòng do Ban Thường trực Quốc hội cử. III- Các tiểu ban Do yêu cầu của các công tác trước mắt như trên, và căn cứ trên Nghị quyết "Kiện toàn tổ chức" mà Quốc hội đã thông qua, Ban Thường trực Quốc hội thành lập 2 Tiểu ban trực thuộc. 1. Tiểu ban luật pháp có nhiệm vụ: - Nghiên cứu các dự thảo sắc luật do Chính phủ chuyển sang để giúp ý kiến cho Ban Thường trực Quốc hội. - Nghiên cứu các sắc lệnh, nghị định của Chính phủ ban hành từ nay về sau và đề ra cho Ban Thường trực Quốc hội xét nếu cần. 2. Tiểu ban tuyển cử bổ sung: Nhiệm vụ Tiểu ban này là phối hợp với Chính phủ để lập kế hoạch tiến hành tuyển cử bổ sung. Hai Tiểu ban này do Ban Thường trực Quốc hội cử trong các vị ủy viên nên chỉ có tính chất nội bộ, không chịu trách nhiệm trước Quốc hội. IV- Lề lối làm việc của Ban Thường trực Quốc hội Theo Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội trong phiên họp ngày 29-1-1957, Ban Thường trực Quốc hội mỗi tháng họp một phiên thường kỳ và trong những trường hợp cần thiết sẽ họp phiên bất thường. Phiên họp thường kỳ sẽ tiến hành vào ngày thứ sáu cuối cùng trong tháng. Các ủy viên thường trực phân công nghiên cứu các vấn đề và trình bày để Ban Thường trực Quốc hội thảo luận và quyết định. Các ủy viên thường trực có thể không thoát ly công tác chuyên môn của mình, trừ Trưởng ban, Phó Trưởng ban và ủy viên Thư ký thường xuyên chuyên trách công việc của Ban. Tùy theo nhu cầu công tác, Ban Thường trực Quốc hội có thể yêu cầu một hay nhiều ủy viên thoát ly công tác chuyên môn để chuyên trách công việc của Ban. - Trưởng ban phụ trách công việc chung, đại diện cho Ban trong mọi trường hợp, chủ trì các cuộc hội nghị của Ban và ký các giấy tờ quan trọng. - Phó Trưởng ban giúp Trưởng ban trong các nhiệm vụ trên và thay mặt khi Trưởng ban vắng mặt. - Ủy viên Thư ký chuẩn bị các cuộc hội nghị của Ban, giới thiệu hoặc thuyết trình các vấn đề đưa ra thảo luận, phụ trách Văn phòng và thay mặt Ban giải quyết các công việc thường trực của Ban, ký các giấy tờ hàng ngày và quản lý ngân sách Quốc hội. - Các ủy viên chuyên trách cùng với ủy viên Thư ký phân công đảm nhiệm những công tác thường trực của Ban hoặc tham gia các Tiểu ban. - Các ủy viên khác phân công phụ trách các Tiểu ban hoặc những nhiệm vụ khác do Ban quyết định. - Các ủy viên dự khuyết sinh hoạt hội nghị và nhận phân công như các ủy viên chính thức, nhưng không biểu quyết trong Hội nghị. V- Quy chế của đại biểu Quốc hội 1. Phụ cấp: Để giúp đỡ các đại biểu có thêm phương tiện làm nhiệm vụ, các đại biểu Quốc hội được hưởng một khoản phụ cấp toàn niên là ba mươi sáu vạn đồng (360.000đ). Phụ cấp này sẽ trả từng quý một vào đầu các tháng 1, 4, 7, 10 trong năm. Ngoài phụ cấp trên đây, mỗi đại biểu khi đi dự khóa họp Quốc hội được lĩnh một khoản “Hội nghị phí” bằng tiền tương đương với hội nghị phí cao nhất của Chính phủ đã quy định. 2. Đi tàu, xe: Đại biểu Quốc hội, khi đi làm nhiệm vụ ở các địa phương ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình, sẽ dùng các phương tiện giao thông thông thường (tàu hỏa, ô tô, ca nô…) tùy theo quãng đường theo hạng cao nhất. Các phí tổn về tàu xe, sẽ do Ban Thường trực Quốc hội thanh toán theo các thể lệ tài chính hiện hành. Trong trường hợp Ban Thường trực Quốc hội tổ chức những Đoàn đại biểu với những nhiệm vụ công tác nhất định, Ban Thường trực Quốc hội sẽ cung cấp phương tiện đi lại. 3. Chữa bệnh, nằm bệnh viện: Khi đau ốm cần được điều trị hoặc nằm bệnh viện, các đại biểu Quốc hội được hưởng các tiêu chuẩn về y tế (chỗ nằm, thuốc men, bồi dưỡng) tương đương với Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh; đại biểu nào giữ những chức vụ cao hơn, hưởng tiêu chuẩn đã quy định cho chức vụ ấy. 4. Các điểm trong Quy chế này sẽ thi hành bắt đầu từ 1-1-1957. 5. Huy hiệu: Về hình thức và cách sử dụng huy hiệu đã ghi trong nghị quyết của Quốc hội, cần nghiên cứu gấp để Ban Thường trực Quốc hội quyết định trong một phiên họp sau. VI- Quy chế Ủy viên Thường trực Quốc hội Các ủy viên Ban Thường trực Quốc hội chính thức và dự khuyết đều được hưởng một khoản phụ cấp hàng tháng theo các cấp bậc sau đây của tháng lương 17 bậc ngành hành chánh: Trưởng ban: bậc 2 Phó Trưởng ban: bậc 3 Ủy viên chính thức: bậc 4 Ủy viên dự khuyết: bậc 5 Các ủy viên có kiêm nhiệm một chức vụ khác có lương trong Chính phủ hay trong đoàn thể, sẽ hưởng khoản lương nào cao hơn. Về việc chữa bệnh, nằm bệnh viện, các ủy viên Ban Thường trực Quốc hội hưởng chế độ tương đương với các cấp bậc như ở trên. Vì tính chất, phạm vi và khối lượng công tác của các vị ủy viên Ban Thường trực không giống như các nhân viên Chính phủ cùng cấp bậc, nên về các phương tiện khác tạm quy định như sau: Về nhà ở: Các ủy viên thường trực, thường xuyên chuyên trách công tác của Ban Thường trực Quốc hội, sẽ được đài thọ nhà ở. Các ủy viên không chuyên trách, không hưởng tiêu chuẩn nhà cửa như nói trên. Về nhân viên phục vụ: Các ủy viên trong Ban Thường trực Quốc hội đều được đài thọ một nhân viên phục vụ có thể trả bằng tiền. Về xe ô tô: Ngoài những xe dành riêng cho Trưởng ban và Phó Trưởng ban, Ban Thường trực Quốc hội có một số xe ô tô dành cho các ủy viên trong Ban dùng để đi lại làm nhiệm vụ. Ban quy định các chi tiết về chế độ phụ cấp nhà ở, và đồ đạc, nhân viên phục vụ của ủy viên Ban Thường trực Quốc hội sẽ được nghiên cứu và đưa trình Ban thông qua trong phiên họp sau. Nghị quyết này đã được Ban Thường trực Quốc hội thông qua trong phiên họp ngày 19 tháng 2 năm 1957. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
15002
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20th%C3%A0nh%20l%E1%BA%ADp%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD
Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thành lập Hội đồng bầu cử
Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội kỳ họp thứ 11 về việc thi hành Hiến pháp; Căn cứ Điều 19 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội; Thành lập Hội đồng bầu cử gồm có các vị: 1) Cụ Tôn Đức Thắng, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 2) Ông Hoàng Văn Hoan, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. 3) Ông Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. 4) Ông Nghiêm Xuân Yêm, Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam. 5) Ông Dương Đức Hiền, Uỷ viên thường vụ Trung ương Đảng Dân chủ Việt Nam. 6) Ông Nguyễn Xiển, Tổng thư ký Đảng Xã hội Việt Nam. 7) Ông Đinh Gia Trinh, Đại biểu Đảng Xã hội Việt Nam. 8) Ông Xuân Thủy, Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 9) Ông Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. 10) Ông Trần Văn Đại, Uỷ viên Ban Liên lạc nông dân toàn quốc. 11) Bà Nguyễn Thị Thập, Hội trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. 12) Ông Vũ Quang, Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. 13) Ông Đặng Thai Mai, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. 14) Ông Trương Tấn Phát, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Luật gia Việt Nam. 15) Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. 16) Thượng tướng Chu Văn Tấn, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Trung ương. 17) Ông Y Wang, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Trung ương. 18) Linh mục Vũ Xuân Kỷ, Chủ tịch Uỷ ban Liên lạc Trung ương những người công giáo yêu Tổ quốc, yêu hòa bình. 19) Thượng tọa Thích Trí Độ, Hội trưởng Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam. 20) Bà Nguyễn An Ninh, Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. 21) Ông Phùng Bảo Thạch, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam. 22) Ông Trần Văn Lai, Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 23) Ông Nguyễn Sơn Hà, Uỷ viên Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 24) Ông Trần Duy Hưng, Chủ tịch Uỷ ban hành chính Hà Nội. 25) Ông Trần Đình Tri, Uỷ viên Thư ký Ban Thường trực Quốc hội. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
15003
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20quy%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20s%E1%BB%91%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20b%E1%BA%A7u%2C%20s%E1%BB%91%20%C4%91%C6%A1n%20v%E1%BB%8B%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20v%C3%A0%20s%E1%BB%91%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20d%C3%A2n%20t%E1%BB%99c%20thi%E1%BB%83u%20s%E1%BB%91%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20b%E1%BA%A7u%20%E1%BB%9F%20c%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20ph%C6%B0%C6%A1ng
Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam về việc quy định số đại biểu Quốc hội được bầu, số đơn vị bầu cử và số đại biểu dân tộc thiểu số được bầu ở các địa phương
Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội kỳ họp thứ 11 về việc thi hành Hiến pháp; Căn cứ Điều 12 và 14 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội; Điều 1 Quy định số đại biểu Quốc hội được bầu, số đơn vị bầu cử, số đại biểu dân tộc thiểu số được bầu ở mỗi địa phương như sau: Điều 2 Các Uỷ ban hành chính tỉnh Hải Dương, Thái Bình, Hà Đông, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, thành phố Hà Nội, căn cứ theo Điều 1 của Quyết định trên mà định việc phân chia các đơn vị bầu cử và số đại biểu Quốc hội cho mỗi đơn vị cho thích hợp với tình hình địa lý và dân số ở địa phương mình và báo cáo đến Ban Thường trực Quốc hội trước ngày 15-3-1960. Điều 3 Bản quy định này dựa vào tình hình nhân khẩu theo số liệu chính thức hiện có. Sau khi tiến hành điều tra dân số, nếu thấy số nhân khẩu tăng lên đến mức cần thiết phải tăng thêm số đại biểu thì Ban Thường trực Quốc hội sẽ xét và quyết định. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
15004
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Ban%20Th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20tr%E1%BB%B1c%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20th%C3%AAm%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20cho%20c%C3%A1c%20%C4%91%C6%A1n%20v%E1%BB%8B%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD
Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc thêm đại biểu cho các đơn vị bầu cử
Căn cứ Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội trong phiên họp ngày 2 tháng 3 năm 1960 về việc quy định số đại biểu Quốc hội được bầu, số đơn vị bầu cử và số đại biểu dân tộc thiểu số được bầu ở các địa phương; Căn cứ kết quả điều tra dân số mới đây; Điều 1 Các địa phương có tên dưới đây được bầu thêm ở mỗi nơi một đại biểu: 1- Thái Nguyên, 2- Vĩnh Phúc, 3- Kiến An, 4- Hòa Bình, 5- Hà Đông, 6- Sơn Tây, 7- Hà Nam, 8- Thanh Hóa, 9- Quảng Bình. Điều 2 Uỷ ban hành chính các địa phương kể trên cùng với các Ban bầu cử hữu quan bàn kế hoạch thi hành. Nghị quyết của Ban Thường trực Quốc hội Việt Nam
15010
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20ch%E1%BA%BF%20%C4%91%E1%BB%99%20ph%E1%BB%A5%20c%E1%BA%A5p%20v%C3%A0%20c%C3%A1c%20quy%E1%BB%81n%20l%E1%BB%A3i%20kh%C3%A1c%20c%E1%BB%A7a%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%2C%20%E1%BB%A6y%20ban%20th%C6%B0%E1%BB%9Dng%20v%E1%BB%A5%20v%C3%A0%20c%C3%A1c%20%E1%BB%A6y%20ban%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về chế độ phụ cấp và các quyền lợi khác của đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ và các Ủy ban của Quốc hội
Để tạo điều kiện thuận tiện cho các đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu của mình, Quốc hội quy định chế độ phụ cấp và các quyền lợi khác của đại biểu Quốc hội như sau: I- Đối với các đại biểu Quốc hội 1- Mỗi đại biểu Quốc hội được hưởng một khoản phụ cấp đại biểu Quốc hội hàng năm là 200 đồng. 2- Đại biểu Quốc hội đi dự hội nghị Quốc hội, trong thời gian hội nghị, được hưởng một khoản phụ cấp hội nghị ngang với chế độ phụ cấp hội nghị cao nhất của Nhà nước. 3- Đại biểu Quốc hội đi làm nhiệm vụ đại biểu sẽ sử dụng phương tiện vận tải thông thường, được ngồi hạng nhất nếu có, được quyền ưu tiên trong việc mua vé tàu hoả, ô-tô, ca-nô. Chi phí vận tải do Nhà nước đài thọ theo thể lệ hiện hành. 4- Khi đại biểu Quốc hội phải tạm thời thoát ly nơi mình làm việc thường xuyên để đi làm nhiệm vụ đại biểu, thì: - Nếu đại biểu ở trong biên chế Nhà nước thì cơ quan mà đại biểu làm việc thường xuyên vẫn đài thọ lương và phụ cấp của đại biểu trong thời gian ấy; - Nếu đại biểu làm việc ở một tổ chức không thuộc biên chế Nhà nước, và nếu bộ máy tổ chức này không có điều kiện trả lương trong thời gian đại biểu vắng mặt, thì ngân sách Nhà nước sẽ đền bù lại cho đại biểu Quốc hội bằng một khoản phụ cấp - Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ nghiên cứu chế độ và cách đền bù cho thoả đáng. 5- Khi đau ốm cần được điều trị, các đại biểu Quốc hội được hưởng chế độ cung cấp thuốc men, nằm bệnh viện theo tiêu chuẩn ấn định cho Chủ tịch Uỷ ban hành chính tỉnh. Đại biểu phụ nữ, khi sinh đẻ, được hưởng chế độ như trên. 6- Mỗi đại biểu Quốc hội được cấp Công báo nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và các tài liệu khác mà Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét cần thiết cho sự hoạt động của đại biểu. II- Đối với các thành viên của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 1- Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký và những Uỷ viên thường xuyên công tác tại cơ quan Uỷ ban thường vụ Quốc hội được hưởng chế độ lương và phụ cấp như sau: - Chủ tịch: tương đương với Thủ tướng Chính phủ. - Phó chủ tịch: tương đương với Phó thủ tướng Chính phủ. - Tổng thư ký: tương đương với Bộ trưởng. - Các Uỷ viên khác: tương đương với Thứ trưởng. 2- Những Uỷ viên của Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thường xuyên công tác tại cơ quan Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì hưởng chế độ lương và phụ cấp theo nhiệm vụ công tác chủ yếu của mình, và do cơ quan nơi mình làm việc chính đài thọ. III- Đối với các thành viên các Ủy ban của Quốc hội 1- Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm và những Uỷ viên thường xuyên công tác tại cơ quan các Uỷ ban Quốc hội thì được hưởng chế độ lương và phụ cấp tương đương với chế độ của các thành viên các Uỷ ban Nhà nước thuộc Hội đồng Chính phủ. 2- Những Uỷ viên của các Uỷ ban của Quốc hội không thường xuyên công tác tại cơ quan Uỷ ban thì hưởng chế độ lương và phụ cấp theo nhiệm vụ công tác chủ yếu của mình, và do cơ quan nơi mình làm việc chính đài thọ. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 6 tháng 7 năm 1960. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15011
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A1c%20nh%E1%BA%ADn%20t%C6%B0%20c%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20c%E1%BB%A7a%20%C4%91%E1%BA%A1i%20bi%E1%BB%83u%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%201960
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xác nhận tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội 1960
Căn cứ Điều 56 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Sau khi nghe Uỷ ban thẩm tra tư cách đại biểu của đại biểu Quốc hội khoá II báo cáo về kết quả việc thầm tra, Xác nhận tư cách đại biểu của 362 đại biểu Quốc hội được trúng cử trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá II tiến hành ngày 8 tháng 5 năm 1960 theo biên bản tổng kết ngày 27 tháng 5 năm 1960 của Hội đồng bầu cử. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15012
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20b%C3%A1o%20c%C3%A1o%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%201960
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về báo cáo của Chính phủ 1960
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ, 1- Quốc hội nhất trí tán thành và thông qua báo cáo của Chính phủ về tình hình và hoạt động sáu tháng đầu năm 1960. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã được đẩy mạnh và có những bước tiến mới, chứng tỏ trong năm nay nhân dân ta có khả năng căn bản hoàn thành hợp tác hoá nông nghiệp bậc thấp, hợp tác hoá nghề cá, căn bản hoàn thành hợp tác hoá thợ thủ công và tổ chức lại người buôn bán nhỏ, căn bản hoàn thành cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh theo hình thức công tư hợp doanh. Việc thực hiện kế hoạch Nhà nước phát triển kinh tế và văn hoá đã thu được những thành tích quan trọng : về công nghiệp đã đạt tren 50% kế hoạch cả năm, về nông nghiệp mặc dầu bị thiên tai liên tiếp nhưng nhờ sức phấn đấu của nhân dân đã hạn chế thiệt hại và đảm bảo thu hoạch không kém vụ chiêm nhiều năm trước đây, về xây dựng cơ bản đã có nhiều tiến bộ, về văn hoá đã vượt mức kế hoạch. Những thành tích ấy tạo điều kiện để hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch năm nay. 2- Quốc hội nhiệt liệt biểu dương lòng yêu nước, ý chí bất khuất, tinh thần anh dũng và bền bỉ của đồng bào miền Nam, từ sáu năm nay đã giữ vững và phát triển phong trào yêu nước, phong trào đấu tranh chống Mỹ Diệm ở miền Nam. Quốc hội tán thành Chính phủ ta luôn luôn có thái độ cộng tác với Uỷ ban quốc tế để thi hành đúng đắn Hiệp định Giờ-ne-vơ. Quốc hội nhiệt liệt hoan nghênh công cuộc đấu tranh của nhân dân ta đòi Hiệp định Giơ-ne-vơ được thi hành nghiêm chỉnh, phản đối luật 10/59, phản đối sự tồn tại trái phép của phái đoàn quân sự Mỹ ở miền Nam và việc tăng thêm nhân viên cho phái đoàn ấy. Đế quốc Mỹ và tay sai của chúng càng chồng chất tội ác đối với nhân dân ta ở miền Nam, thì nhân dân ta càng tăng cường đoàn kết, kiên quyết và bền bỉ đấu tranh chống lại chúng, không một lực lượng phản động nào có thể ngăn cản được. Quốc hội tỏ lỏng tin tưởng sắt đá rằng, dựa vào lực lượng của nhân dân cả nước ta, dựa vào sự thi hành đúng đắn Hiệp định Giơ-ne-vơ, dựa vào sự đồng tình và ủng hộ của mọi lực lược hoà bình và tiến bộ trên thế giới, cuộc đấu tranh của nhân dân ta để hoà bình thống nhất Tổ quốc nhất định sẽ thu được thắng lợi cuối cùng. 3- Quốc hội nhất trí tán thành đường lối và hoạt động ngoại giao của Chính phủ nhằm góp phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí của phe xã hội chủ nghĩa do Liên-Xô vĩ đại đứng đầu, mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước á Phi và kiến lập quan hệ với tất cả nước nước dựa trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hoà bình, nhiệt liệt ủng hộ phong trào độc lập dân tộc chống chủ nghĩa thực dân cảu các nước Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ La-tinh. Nhân dân Việt Nam ta nguyện sát cánh với nhân dân thế giới, kiên quyết tiến hành cuộc dấu tranh vĩ đại chống chủ nghĩa đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, vì sự nghiệp củng cố hoà bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ và tiến bộ xã hội. 4- Quốc hội kêu gọi các tầng lớp nhân dân miền Bắc tăng cường đoàn kết, nêu cao tinh thần phấn đấu vượt mọi khó khăn, phấn khởi lao động để xây dựng xã hội mới và đời sống mới, tích cực đẩy mạnh mọi hoạt động, đặc biệt cố gắng trong sản xuất nông nghiệp toàn điện, quyết giành thắng lợi to lớn trong vụ mùa để lấy vụ mùa bù chiêm, thúc đẩy phong trào thi đua ở cá ngành các cấp, quyết thu những thành tích tốt đẹp nhất để mừng ngày kỷ niệm 15 năm thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà và mừng Đại hội lần thứ ba của Đảng lao động Việt Nam. Nhân dân ta quyết hoàn thành thắng lợi kế hoạch Nhà nước năm 1960 và kế hoạch Nhà nước 3 năm để tạo điều kiện thuận lợi chuyển sang kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, tăng cường cùng cố miền Bắc làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 13 tháng 7 năm 1960. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15014
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%91%204-NQ/TVQH
Nghị quyết số 4-NQ/TVQH
Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Nhân dịp lễ kỷ niệm lần thứ 15 ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Căn cứ vào kết quả của chính sách giáo dục, cải tạo phạm nhân của Nhà nước; Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Đặc xá cho những phạm nhân thuộc loại hình sự thường (trừ những tội lưu manh, giết người, cướp của) đã ở tù một thời gian và đã thật sự cải tạo. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
15016
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%91%206-NQ/TVQH%20%281960%29
Nghị quyết số 6-NQ/TVQH (1960)
Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Để biểu dương thành tích kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam, nhằm phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc và động viên toàn thể nhân dân hăng hái hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới; Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, 1- Tặng thưởng Huân chương Kháng chiến, Huân chương Độc lập, Huân chương Hồ Chí Minh và Huân chương Sao vàng cho các cán bộ, công nhân, viên chức thuộc các ngành Dân, Chính từ Trung ương đến cơ sở, kể cả du kích xã và thường dân, cho các tập thể và các địa phương đã có nhiều công lao và thành tích trong kháng chiến. 2- Đặt thêm Huy chương Kháng chiến để tặng thưởng những công lao và thành tích dưới mức thưởng Huân chương Kháng chiến. 3- Phương pháp khen thưởng sẽ do Điều lệ quy định. Điều lệ khen thưởng về thành tích kháng chiến nhân dịp kỷ niệm lần thứ 15 ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Điều 1 Việc xét thưởng tổng kết giai đoạn kháng chiến cho những cán bộ, công nhân, viên chức từ trung ương đến cơ sở kể cả du kích xã sẽ căn cứ vào thành tích đã cống hiến của mỗi người thể hiện trên thời gian tham gia kháng chiến kết hợp với thời gian hoàn thành chức vụ và trên điều kiện công tác tích cực và liên tục cho đến ngày 20 tháng 7 năm 1954, không phạm sai lầm lớn kể từ ngày tham gia kháng chiến cho đến nay. Điều 2 Huân chương Kháng chiến hạng nhất tặng thưởng: - Cán bộ lãnh đạo cấp trung ương của Nhà nước và cán bộ lãnh đạo chuyên trách cấp trung ương của các đoàn thể. - Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu, khu, cán bộ cấp liên khu ủy, khu ủy đã hoàn thành tốt chức trách từ một năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên. - Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu, khu, Bí thư và Phó Bí thư các đoàn thể ở liên khu, khu đã hoàn thành tốt chức trách từ năm năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên. - Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính liên tỉnh, tỉnh, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp liên tỉnh ủy, tỉnh ủy đã hoàn thành tốt chức trách từ năm năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên. Điều 3 Huân chương Kháng chiến hạng nhì tặng thưởng: - Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính liên tỉnh, tỉnh, cán bộ cấp liên tỉnh ủy, tỉnh ủy đã hoàn thành tốt chức trách từ một năm trở lên, và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên. - Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính liên tỉnh, tỉnh, Bí thư, Phó Bí thư các đoàn thể liên tỉnh, tỉnh đã hoàn thành tốt chức trách từ năm năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên. - Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện ủy đã hoàn thành tốt chức trách từ năm năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên. Điều 4 Huân chương kháng chiến hạng ba tặng thưởng: - Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện, cán bộ cấp huyện ủy, Bí thư các đoàn thể huyện đã hoàn thành tốt chức trách từ một năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ ba năm trở lên hoặc từ hai năm trở lên nếu là ở hậu địch. - Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện đã hoàn thành tốt chức trách từ ba năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ ba năm trở lên hoặc đã hoàn thành tốt chức trách từ hai năm trở lên và đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ hai năm trở lên ở hậu địch. - Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp ủy xã, cán bộ chỉ huy trong Ban xã đội, trong Ban công an xã đã hoàn thành tốt chức trách từ năm năm trở lên, hoặc từ ba năm trở lên nếu là ở hậu địch. - Công nhân viên thuộc các ngành chính quyền và đoàn thể từ huyện trở lên đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ bảy năm trở lên hoặc từ năm năm trở lên nếu là ở hậu địch. Điều 5 Huy chương Kháng chiến hạng nhất tặng thưởng: - Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, cán bộ cấp ủy xã, cán bộ chỉ huy trong Ban xã đội, trong Ban công an xã đã hoàn thành tốt chức trách từ ba năm trở lên, hoặc từ hai năm trở lên nếu là ở hậu địch. - Uỷ viên thường vụ Ban chấp hành các đoàn thể xã, nhân viên chuyên nghiệp công tác giao thông, liên lạc và cán bộ phụ trách công tác địch vận ở xã đã hoàn thành tốt chức trách từ bốn năm trở lên hoặc từ ba năm trở lên nếu là ở hậu địch. - Công nhân viên thuộc các ngành chính quyền và đoàn thể từ huyện trở lên, đội viên thanh niên xung phong đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ năm năm trở lên, hoặc từ ba năm trở lên nếu là ở hậu địch và các đội viên du kích đã hoàn thành tốt chức trách từ năm năm trở lên hoặc từ ba năm trở lên nếu là ở hậu địch. Điều 6 Huy chương Kháng chiến hạng nhì tặng thưởng: - Uỷ viên Uỷ ban kháng chiến hành chính xã, cán bộ cấp ủy xã, cán bộ trong Ban chỉ huy xã đội, trong Ban công an xã đã hoàn thành tốt chức trách từ một năm trở lên. - Uỷ viên thường vụ Ban chấp hành các đoàn thể xã, các nhân viên chuyên nghiệp công tác giao thông liên lạc và cán bộ phụ trách công tác địch vận ở xã đã hoàn thành tốt chức trách từ hai năm trở lên, hoặc từ một năm trở lên nếu là ở hậu địch. - Công nhân viên thuộc các ngành chính quyền và đoàn thể từ huyện trở lên, đội viên thanh niên xung phong đã chuyên hoạt động phục vụ kháng chiến từ ba năm trở lên hoặc từ hai năm trở lên nếu là ở hậu địch và các đội viên du kích đã hoàn thành tốt chức trách từ ba năm trở lên hoặc từ hai năm trở lên nếu là ở hậu địch. Điều 7 Đối với các cán bộ khác thuộc các ngành, các cấp chưa nêu trong các điều nói trên thì sẽ khen thưởng theo tiêu chuẩn tương đương. Điều 8 Đối với những người đã từ trần, thì căn cứ theo tiêu chuẩn đã quy định trên đây mà truy tặng. Đối với những liệt sĩ đã hy sinh trong chiến đấu hoặc trong công tác thì căn cứ theo chức vụ lúc hy sinh mà truy tặng. Đối với những người vì công tác hoặc vì chiến đấu mà bị thương tật, tàn phế do đó phải nghỉ công tác trước ngày 20 tháng 7 năm 1954, thì căn cứ theo chức vụ lúc nghỉ công tác mà xét thưởng. Điều 9 Đối với những người đã được khen thưởng thành tích kháng chiến từ khi hòa bình lập lại, nếu thấy còn thấp thì đổi lại Huân chương hạng cao hơn, nếu đúng với tiêu chuẩn mới thì giữ y như cũ. Đối với những người đã được tặng thưởng Huân chương các loại trong thời kỳ kháng chiến về thành tích đột xuất, thì nay xét thưởng thêm về thành tích tổng kết giai đoạn kháng chiến. Điều 10 Đối với những người có những cống hiến to lớn trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, thì ngoài Huân chương và Huy chương kháng chiến, sẽ tùy từng trường hợp cụ thể mà xét định tặng thưởng các loại Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập. Điều 11 Đối với nhân dân và các tập thể, các địa phương có công trong kháng chiến sẽ tùy từng trường hợp cụ thể mà xét định tặng thưởng. Điều 12 Việc tặng thưởng các loại Huân chương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định. Việc tặng thưởng các hạng Huy chương kháng chiến do Hội đồng Chính phủ quyết định. Điều lệ này đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 9 năm 1960, để đính theo Nghị quyết số 6 ngày 29 tháng 8 năm 1960 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
15018
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%91%207-NQ/TVQH
Nghị quyết số 7-NQ/TVQH
Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và điều 30 của Luật tổ chức Quốc hội; Căn cứ vào đề nghị của ông Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc hội, a) Các ông Nguyễn Trác và Lê Giản làm Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. b) Các ông Trần Công Tường và Trần Hiệu làm Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
15019
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%91%208-NQ/TVQH
Nghị quyết số 8-NQ/TVQH
Sau khi nghe đại diện Hội đồng Chính phủ báo cáo về sự cần thiết phải mở rộng thành phố Hà Nội và về những khu vực dự kiến mở rộng; Trong khi chờ Quốc hội phê chuẩn việc phân vạch địa giới; Để Chính phủ có thể tiến hành các công tác chuẩn bị cần thiết, Thông qua về nguyên tắc, chủ trương và kế hoạch dự kiến của Hội đồng Chính phủ về việc mở rộng thành phố Hà Nội, để Chính phủ có thể bắt tay vào việc tuyên truyền giải thích trong nhân dân các thôn xã sẽ sát nhập vào Hà Nội, chuẩn bị tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ, chuẩn bị kế hoạch 5 năm và kế hoạch 1961. Về việc phân vạch địa giới, sẽ trình kỳ họp Quốc hội sắp tới xét và phê chuẩn. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
15020
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%91%2015-NQ/TVQH
Nghị quyết số 15-NQ/TVQH
Căn cứ vào Điều 4 của Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ; Căn cứ vào báo cáo của Hội đồng Chính phủ, Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ ngày 24 tháng 11 năm 1960 về việc tách Cục Thống kê Trung ương ra khỏi Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và đặt thành một cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, lấy tên là Tổng cục Thống kê. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
15021
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%91%2016-NQ/TVQH
Nghị quyết số 16-NQ/TVQH
Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Phê chuẩn các hiệp định sau đây đã được ký kết ngày 2 tháng 12 năm 1960 giữa Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng nước Cộng hòa Cuba: 1- Hiệp định đặt quan hệ ngoại giao ở cấp bậc đại sứ. 2- Hiệp định thương mại 5 năm dành cho nhau những điều khoản tối huệ quốc về thuế quan và Hiệp định thanh toán. 3- Hiệp định dài hạn về trao đổi văn hóa, khoa học và kỹ thuật. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
15022
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20s%E1%BB%91%2017-NQ/TVQH
Nghị quyết số 17-NQ/TVQH
Căn cứ vào Điều 53 của Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và điều 31 của Luật tổ chức Quốc hội; Theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Bổ nhiệm ông Phạm Thiều làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Tiệp Khắc. Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam
15023
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20b%C3%A1o%20c%C3%A1o%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%201961
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về báo cáo của Chính phủ 1961
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ ; Sau khi nghe Tiểu ban nghiên cứu báo cáo của Chính phủ thuyết trình và các đại biểu tham luận, 1- Quốc hội nhất trí xác nhận kế hoạch 3 năm (1958 - 1960) phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá đã hoàn thành thắng lợi, đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta bước vào một thời ký mới. Quốc hội tán thành những phương hướng cố gắng chủ yếu cuả Nhà nước trong thời kỳ sắp tới do Chính phủ đề ra là ra sức phát huy tác dụng của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường giúp đỡ về mọi mặt đối với hợp tác xã, cải tiến hơn nữa sự lãnh đạo kinh tế quốc doanh, phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, thực hiện từng bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội , đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về mặt văn hoá và tư tưởng. Năm 1961, năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, có ý nghĩa và vị trí rất quan trọng. Quốc hội kêu gọi nhân dân nêu cao ý thức làm chủ tinh thần cần kiệm xây dựng nước nhà, cố gắng vượt bực để đáp ứng những yêu cầu mới và những nhiệm vụ mới của sự nghiệp cách mạng, ra sức khắc phục khó khăn, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống. 2- Trong những năm qua, mậc dầu chính sách khủng bố vô cùng dã man của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, phong trào yêu nước của đồng bào ta ở miền Nam phát triển mạnh mẽ và sâu rộng. Quốc hội tán thành lập trưòng của Chính phủ kiên trì đấu tranh nhằm hoà bình thống nhất Tổ quốc theo đúng Hiệp nghị Giơ-ne-vơ. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nghiêm khắc lên án những hành động vi phạm liên tiếp và ngày càng nghiêm trọng của chính quyền miền Nam và của Chính phủ Mỹ đối với Hiệp nghị Giơ-ne-vơ. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà cho rằng Bản Cương lĩnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở tốt để chính quyền hai miền cùng nhau bàn bạc thương lượng, giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến sự nghiệp thống nhất đất nước, trước mắt là lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền. Quốc hội chân thành cảm ơn sự giúp đỡ vô cùng quý báu của Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em khác, cảm ơn sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới đối với cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà của nhân dân ta. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tin tưởng vững chắc rằng cuối cùng nhân dân ta sẽ giành được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp hoà bình thống nhất Tổ quốc. 3- Quốc hội nhất trí tán thành chính sách và toàn bộ hoạt động ngoại giao của Chính phủ trong thời gian qua. Quốc hội hài lòng nhận thấy rằng mối quan hệ và sự hợp tác anh em giữa nước ta với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản ngày càng củng cố và phát triển, góp phần vào việc tăng cường tinh thần đoàn kết nhất trí cuả phe xã hội chủ nghĩa. Quốc hội hoan nghênh việc nước ta đặt quan hệ ngoại giao và các quan hệ hữu nghị với nhiều nước trong khu vực á Phi và châu Mỹ La-tinh, tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam á. Quốc hội nhất trí tán thành đường lối của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhằm phát triển những mối quan hệ hữu nghị với Vương quốc Lào, ủng hộ nhân dân Lào anh em trong cuộc đấu tranh chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ và Chính phủ các nước tay sai, thực hiện một nước Lào thực sự hoà bình, trung lập, thống nhất. Quốc hội vô cùng căm phẫn và nghiêm khắc lên án sự xâm lược trắng trợn của đế quốc Mỹ đối với nước Cộng hoà Quy-b. Quốc hội nhiệt liệt ủng hộ cuộc chiến đấu chống xâm lược của nhân dân Quy-ba anh dũng và tin chắc rằng cuộc đấu tranh chính nghĩa ấy nhất định sẽ thắng lợi. Trước sau như một, nhân dân Việt Nam ta luôn luôn sát cánh với nhân dân toàn thế giới, kiên quyết tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, tích cực góp phần vào sự nghiệp đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân các nước. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15025
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20k%E1%BA%BF%20ho%E1%BA%A1ch%20Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201961
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về kế hoạch Nhà nước năm 1961
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế và văn hoá năm 1961, Sau khi nghe Uỷ ban Kế hoạch và ngân sách của Quốc hội thuyết trình và các đại biểu tham luận, 1- Quốc hội nhất trí nhận định rằng kế hoạch Nhà nước năm 1960 và kế hoạch 3 năm (1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế, phát triển văn hoá, đã được hoàn thành thắng lợi. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã giành được thắng lợi có ý nghĩa quyết định. Dựa trên quan hệ sản xuất ngày càng đổi mới, nền kinh tế quốc dânđã tiến những bước quan trọng; nông nghiệp và công nghiệp đều phát triển theo tốc độ cao; cơ cấu kinh tế đã có thay đổi. Đời sống nhân dân đã được cải thiện dần dần. 2- Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng lao động Việt Nam, Quốc hội nhất trí nhận định rằng bước vào năm 1961, năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta càng phát triển đặt ra cho chúng ta những yêu cầu mới, đồng thời đem lại cho chúng ta những khả năng mới to lớn hơn để giải quyết những yêu cầu mới đó. Căn cứ vào nhận định ấy, Quốc hội tán thành những phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước năm 1961, và thông qua những chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch mà Chính phủ đã trình trước Quốc hội. 3- Để đáp ứng những yêu cầu mới đã được thể hiện trong kế hoạch năm 1961, chúng ta còn phải khắc phục rất nhiều khó khăn trước mắt. Chính phủ cần phải ra sức phát huy những khả năng và thuận lợi mới, khắc phục những nhược điểm và khuyết điểm tồn tại, tăng cường và cải tiến việc tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch, nhằm động viên các tầng lớp nhân dân thi đua hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước năm 1961. Quốc hội giao cho Chính phủ, trong quá trình chỉ đạo thực hiện kế hoạch, căn cứ vào tình hình thực tế mà kịp thời điều chỉnh một số chỉ tiêu kế hoạch cần thiết phải điều chỉnh theo tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc và trên nguyên tắc giữ vững sự cân đối của kế hoạch, theo đúng phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước năm 1961 mà Quốc hội đã thông qua. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 20 tháng 4 năm 1961. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15026
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20v%E1%BA%A5n%20%C4%91%E1%BB%81%20ng%C3%A2n%20s%C3%A1ch
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề ngân sách
Sau khi nghe Báo cáo của Chính phủ về tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1959, về tình hình chấp hành ngân sách nhà nước năm 1960 và về Dự thảo ngân sách nhà nước năm 1961, Sau khi nghe Uỷ ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội thuyết trình và các đại biểu tham luận, 1. Quốc hội phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1959 với: - Tổng số thu là một nghìn hai trăm mười một triệu, năm trăm bốn mươi lăm nghìn một trăm tám mươi tư đồng (1.211.545.184 đồng). - Tổng số chi là một nghìn một trăm ba mươi tám triệu, ba trăm sáu mươi bẩy nghìn ba trăm tám mươi lăm đồng (1.138.367.385đồng). 2. Quốc hội nhất trí với Chính phủ về nhận định tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 1960: ngân sách nhà nước năm 1960 đã thực hiện được tốt. Đó là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong sự nghiệp cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa ở miền Bắc nước ta. 3. Quốc hội phê chuẩn ngân sách nhà nước năm 1961 với: - Tổng số thu là một nghìn sáu trăm chín mươi triệu đồng (1.690.000.000 đồng). - Tổng số chi là một nghìn sáu trăm chín mươi triệu đồng (1.690.000.000 đồng). 4. Trong quá trình chấp hành ngân sách nhà nước năm 1961, Chính phủ cần chỉ đạo chặt chẽ công tác thu chi, ra sức khai thác các khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế quốc dân, nhằm tăng thu và triệt để tiết kiệm chi. Quốc hội giao cho Chính phủ, trong quá trình thực hiện ngân sách, căn cứ vào tình hình thực tế mà kịp thời điều chỉnh một số khoản thu chi cần thiết phải điều chỉnh, trên nguyên tắc bảo đảm thăng bằng thu chi và theo phương hướng của ngân sách đã được Quốc hội thông qua, nhằm hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước năm 1961. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 20 tháng 4 năm 1961. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15027
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20m%E1%BB%9F%20r%E1%BB%99ng%20th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20H%C3%A0%20N%E1%BB%99i
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc mở rộng thành phố Hà Nội
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về sự cần thiết phải mở rộng thành phố Hà Nội và về những khu vực cần mở rộng, Phê chuẩn việc mở rộng thành phố Hà Nội và sát nhập vào thành phố Hà Nội những khu vực sau đây thuộc các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên : 1/ 18 xã, 6 thôn và 1 thị trấn thuộc tỉnh Hà Đông : Xã Tân Dân, xã Tân Tiến, xã Trung Kiên, xã Minh Khai, xã Trần Phú của huyện Đan Phượng; xã Hữu Hưng, xã Cương Kiên, xã Xuân Phương, thôn Tu Hoàng, thôn Miếu Nha của huyện Hoài Đức; thôn Ngọc Trục của thị xã Hoà đông; xã Thanh Liệt, xã Hoàng Liệt, xã Tam Hiệp, xã Tứ hiệp, xã Ngũ Hiệp, xã Yên Mỹ, xã Duyên Hà, xã Đại Hưng, xã Đồng Mỹ, xã Vạn Phúc, thôn Lưu Phái, thôn Triều Khúc, thôn Yên Xá, thị trấn Văn Điển của huyện Thanh Trì. 2/ 29 xã và thị trấn thuộc tỉnh Bắc Ninh : Cả huyện Gia Lâm gồn 15 xã ; xã Liên Hà, xã Vân Hà, xã Dục Tú, xã Quang Trung, xã Đông Hội, xã Mai Lâm, xã Tiền Phong, xã Đình Xuyên, xã Dương Hà, xã Ninh Hiệp, thị trấn Yên Viên của huyện Từ Sơn; xã Phù đổng, xã Trung Hưng của huyện Tiên Du xã Đức Thắng, xã Chiến Thắng của huyện Thuận Thành. 3/ 17 xã và một nửa thôn của tỉnh Vĩnh Phúc : cả huyện Đông Anh gồm 16 xã; xã Kim Chung của huyện Yên Lãng; nửa thôn Phù Lỗ đoài về phía Nam sông Cà-lồ của huyện Kim Anh. 4/ 1 xã thuộc tỉnh Hưng Yên : Xã Văn Đức của huyện Văn Giang. Quốc hội giao cho Chính phủ tiến hành những công việc cần thiết để thực hiện Nghị quyết này. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 20 tháng 4 năm 1961. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15028
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20t%E1%BB%95ng%20quy%E1%BA%BFt%20to%C3%A1n%20ng%C3%A2n%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%201960
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1960
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1960; Sau khi nghe thuyết trình của Uỷ ban kế hoạch và ngân sách của Quốc hội và tham luận của các đại biểu Quốc hội, Phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách nhà nước năm 1960: - Tổng số thu là một nghìn bốn trăm tám mươi triệu hai trăm ba mươi hai nghìn bốn trăm chín mươi năm đồng bốn hào sáu xu (1.480.232.495đ46). - Tổng số chi là một nghìn bốn trăm bảy mươi triệu chín trăm mười chín nghìn bảy trăm hai mươi mốt đồng chín xu (1.470.919.721đ09). Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 27 tháng 10 năm 1961. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15029
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20s%C3%A1p%20nh%E1%BA%ADp%20huy%E1%BB%87n%20%C4%90%C3%B4ng%20Tri%E1%BB%81u%2C%20thu%E1%BB%99c%20t%E1%BB%89nh%20H%E1%BA%A3i%20D%C6%B0%C6%A1ng%2C%20v%C3%A0o%20khu%20H%E1%BB%93ng%20Qu%E1%BA%A3ng
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc sáp nhập huyện Đông Triều, thuộc tỉnh Hải Dương, vào khu Hồng Quảng
Sau khi nghe báo cáo của Chính phủ về việc sát nhập huyện Đông Triều, thuộc tỉnh Hải Dương, vào khu Hồng Quảng; Phê chuẩn việc sát nhập huyện Đông Triều, thuộc tỉnh Hải Dương, vào khu Hồng Quảng. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 27 tháng 10 năm 1961. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15030
https://vi.wikisource.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20c%E1%BB%A7a%20Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20v%E1%BB%81%20t%C3%ACnh%20h%C3%ACnh%20th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20v%C3%A0%20c%C3%B4ng%20t%C3%A1c%20ngo%E1%BA%A1i%20giao%20c%E1%BB%A7a%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7
Nghị quyết của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về tình hình thế giới và công tác ngoại giao của Chính phủ
Sau khi nghe Chính phủ báo cáo và các đại biểu tham luận về tình hình thế giới và công tác ngoại giao của Chính phủ, Quốc hội nhất trí nhận định rằng: Tình hình thế giới hiện nay phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt giữa các lực lượng yêu chuộng hoà bình mà cột trụ là Liên Xô và các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa, chống các lực lượng phản động và gây chiến do đế quốc Mỹ cầm đầu. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đang phát triển mạnh mẽ và đã trở thành một nhân tố quyết định sự tiến triển của xã hội loài người. Sự lớn mạnh nhanh chóng của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào hoà bình và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới có một tầm quan trọng lớn lao đối với việc củng cố hoà bình và ngăn ngừa một cuộc chiến tranh thế giới mới. Liên- Xô và cả phe xã hội chủ nghĩa luôn luôn phấn đấu không mệt mỏi cho hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, cho nên được sự đồng tình và ủng hộ nhiệt liệt của toàn thể loài người tiến bộ. Chúng ta tin chắc rằng cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới cho hoà bình, độc lập dân tộc, dânchủ và chủ nghĩa xã hội, nhất định sẽ thắng lợi vẻ vang, trái lại các lực lượng gây chiến, đứng đầu là đế quốc Mỹ, ngày càng sút kém và bị cô lập, nhất định sẽ thất bại thảm hại. Đại hội lần thứ 22 của Đảng cộng sản Liên Xô là một sự kiện lịch sử vô cùng vĩ đại, vì nó sẽ thông qua cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa cộng sản đầu tiên của loài người. Bản cương lĩnh đó sẽ động viên mạnh mẽ trí tuệ, tài năng và lao động sáng tạo cuả nhân dân Liên Xô để xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên quy mô rộng lớn. Nó cổ vũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đoàn kết và đấu tranh nhằm xoá bỏ mọi áp bức và bóc lột, làm thất bại mọi âm mưu đen tối của bọn đế quốc gây chiến và đưa loài ngưòi tiến tới một tương lai sán lạn, huy hoàng : Hoà bình, lao động, tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho tất cả các dân tộc. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhiệt liệt chào mừng Đại hội lần thứ 22 của Đảng cộng sản Liên Xô, nguyện ra sức phấn đấu để tăng cường đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt Nam và Liên Xô, tăng cường đoàn kết nhất trí giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mà Liên Xô là trung tâm. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhiệt liệt hoan nghênh những đề nghị hợp tình hợp lý của Liên Xô về việc đăng ký hoà ước với nước Đức và trên cơ sở đó bình thường hoá tình hình Tây Bá Linh, biến Tây Bá-linh thành một thành phố tự do, phi quân sự . Hoà ước với nước Đức được ký kết sẽ xoá bỏ tàn tích của chiến tranh thế giới lần thứ hai và góp phần vào việc trừ bỏ nguy cơ một cuộc chiến tranh khủng khiếp cho loài người. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhiệt liệt hưởng ứng lời kêu gọi của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc, đòi ký ngay hoà ước với nước Đức và giải quyết vấn đề Tây Bá-linh, tạo điều kiện ngăn cản không để cho những lực lượng phục thù ở Tây Đức gây ra một cuộc chiến tranh mới, đồng thời tạo cơ sở vững chắc để thiết lập quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc châu Âu. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiên quyết ủng hộ những biện pháp phòng thủ thích đáng và có hiệu quả của Liên Xô và các nước tham gia hiệp ước Vác xô-vi, kể cả việc thử lại vũ khí hạt nhân, nhằm ngăn chặn âm mưu gây chiến của phe đế quốc chủ nghĩa, bảo vệ nền an ninh của phe xã hội chủ nghĩa, giữ gìn hoà bình ở châu Âu và trên toàn thế giới. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kịch liệt lên án những hoạt động điên cuồng của đế quốc Mỹ và phe lũ gây tình hình căng thẳng ở trung tâm châu Âu, ở Đông Nam châu á và nhiều nơi khác, cụ thể là ở Đức và Tây Bá-linh, ở Lào và miền Nam Việt Nam v,v.... Đế quốc Mỹ luôn luôn theo đuổi một chính sách can thiệp và xâm lược, phá hoại và lật đổ ở khắp nơi trên thế giới , đã cự tuyệt mọi đề nghị của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa về vấn đề giải trừ quân bị toàn diện và triệt để nhằm củng cố hoà bình lâu dài và hữu nghị giữa các dân tộc. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhiệt liệt ủng hộ cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Lào, của các lực lượng yêu nước của Vương quốc Lào chống sự can thiệp của đế quốc Mỹ và của một số nước trong khối xâm lược Đông Nam á. Nhân dân Việt Nam tin chắc rằng cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Lào anh em nhất định sẽ thắng lợi và đưa đến sự thành lập một Chính phủ liên hiệp do Hoàng Thân Xu-va-na Phu-ma làm Thủ tướng, thực hiện một nước Lào hoà bình, trung lập, độc lập và thống nhất. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trước sau như một kiên quyết ủng hộ chính sách hoà bình trung lập của Chính phủ Cam-pu-chia dưới sự lãnh đạo cuả Quốc trưởng Thái Tử Xi-ha-núc, một chính sách phù hợp với lợi ích của nhân dân nước Cam-pu-chia và lợi ích của hoà bình ở Đông dương và Đông Nam á. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tán thành chính sách và toàn bộ hoạt động ngoại giao của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong thời gian qua nhằm củng cố và tăng cường mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nước ta với các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Việc đoàn đại biểu Chính phủ do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm sáu nước anh em, Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, Liên Xô, Tiệp Khắc và Ba Lan, trong mùa hè năm nay là một cống hiến tốt đẹp cho tình hữu nghị và sự đoàn kết nhất trí giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiên quyết ủng hộ lập trường chính nghĩa của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc trong vấn đề giải phóng Đài Loan và đòi trả lại địa vị hợp pháp của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tại Liên hiệp quốc; kiên quyết ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Triều Tiên chống đế quốc Mỹ và tay sai để hoà bình thống nhất Triều Tiên. Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà nhiệt liệt hoan nghênh những kết quả tốt đẹp mà Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã thu được trong việc mở rộng hoạt động ngoại giao với các nước châu á, châu Phi và châu Mỹ La-tinh. Mối quan hệ hữu nghị dựa trên 5 nguyên tắc chung sống hoà bình và tinh thần Băng-đung, giữa nước ta và các nước láng giềng như Vương quốc Lào và Cam-pu-chia, các nước Đông Nam á, các nước á - Phi và châu Mỹ La-tinh, không ngừng được củng cố và phát triển. Nhân dân các nước đó ngày càng hiểu biết nước ta hơn và đồng tình với nhân dân ta trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giầu mạnh. Cuộc đi thăm các nước Châu Phi và cuộc đi thăm Quy-Ba của các đoàn đại biểu Chính phủ và đại biểu nhân dân ta đều là những dịp tốt để tỏ rõ lập trường của nước ta và nhân dân ta là triệt để ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân nước Cộng hoà Quy-Ba anh hùng và cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân An-Giê-ri, ủng hộ các cuộc đấu tranh của nhân dân Công gô, nhân dân Ang-gô-la và nhân dân các nước khác cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nghị quyết này đã được Quốc hội nhất trí thông qua ngày 27 tháng 10 năm 1961. Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam
15031
https://vi.wikisource.org/wiki/Ph%C3%A1p%20l%E1%BB%87nh%20v%E1%BB%81%20vi%E1%BB%87c%20b%E1%BA%A7u%20c%E1%BB%AD%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20c%C3%A1c%20c%E1%BA%A5p%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
Pháp lệnh về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Căn cứ vào Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; Để nhân dân sử dụng quyền làm chủ nước nhà và xây dựng cơ quan quyền lực Nhà nước của mình ở địa phương, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định thể lệ bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp như sau: Điều 1 Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Điều 2 Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ, thành phần xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, từ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và từ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Điều 3 Công dân đang ở trong quân đội có quyền bầu cử và ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp theo điều 2 của pháp lệnh này. Điều 4 Những người bị toà án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử, ứng cử và những người mất trí không có quyền bầu cử và ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Điều 5 Kinh phí về tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp do ngân sách Nhà nước chịu. Điều 6 Lúc lập danh sách cử tri, những công dân có quyền bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều được ghi tên vào danh sách cử tri ở nơi cư trú. Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri. Điều 7 Danh sách cử tri do cáC Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn, xã lập theo khu vực bỏ phiếu. Danh sách cử tri ở các đơn vị quân đội và công an nhân dân vũ trang do các ban chỉ huy đơn vị quân đội và công an nhân dân vũ trang lập cho mỗi khu vực bỏ phiếu. Điều 8 Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử, phải niêm yết danh sách cử tri tại trụ sở các Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn, xã hoặc ở những nơi công cộng của khu vực bỏ phiếu. Đồng thời phải thông báo cho nhân dân biết việc niêm yết đó để nhân dân tham gia kiểm tra danh sách. Điều 9 Khi kiểm tra danh sách cử tri, nếu thấy có sai lầm, thiếu sót thì trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày niêm yết, nhân dân có quyền khiếu nại hoặc báo cáo bằng giấy hay là bằng miệng với cơ quan lập danh sách. Cơ quan lập danh sách cử tri phải ghi vào một quyển sổ những điều khiếu nại và báo cáo. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại và báo cáo, cơ quan lập danh sách phải giải quyết. Nếu người khiếu nại hoặc báo cáo chưa đồng ý về cách giải quyết đó, thì có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân huyện, châu, thị xã, khu phố hoặc thành phố. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được khiếu, các Toà án nhân dân nói trên phải giải quyết; quyết định của Toà án nhân dân là quyết định cuối cùng. Điều 10 Từ khi công bố danh sách cử tri cho đến ngày bầu cử, nếu cử tri nào đổi nơi cư trú thì có quyền xin giấy chứng nhận của Uỷ ban hành chính nơi cư trú để được ghi tên vào danh sách cử tri và tham gia bỏ phiếu nơi cư trú mới. Khi cấp giấy chứng nhận, Uỷ ban hành chính phải ghi ngay vào danh sách cử tri bên cạnh tên người cử tri đó: "đi bỏ phiếu nơi khác". Điều 11 - Nay quy định số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp như sau: 1. Hội đồng nhân dân thị trấn và xã. Thị trấn và xã miền xuôi có từ 2.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 20 đại biểu; có trên 2.000 nhân khẩu, thì ngoài số 20 đại biểu tính cho 2.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 200 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 35 đại biểu. Thị trấn và xã miền núi và hải đảo có từ 700 nhân khẩu trở xuống bầu cử 20 đại biểu, có trên 700 nhân khẩu, thì ngoài số 20 đại biểu tính cho 700 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm từ 150 đến 200 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 35 đại biểu. Các thị trấn và xã miền xuôi và miền núi có trên 6.000 nhân khẩu thì có thể bầu tới 40 đại biểu, nhưng số đại biểu thị trấn và xã không được nhiều hơn số đại biểu Hội đồng nhân dân cấp trên trực tiếp. Các xã dưới 300 nhân khẩu có thể bầu dưới 20 đại biểu. 2. Hội đồng nhân dân khu phố. Khu phố có từ 20.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 30 đại biểu; có trên 20.000 nhân khẩu, thì ngoài số 30 đại biểu tính cho 20.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 2.500 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 50 đại biểu. 3. Hội đồng nhân dân thị xã. Thị xã có từ 10.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 30 đại biểu; có trên 10.000 nhân khẩu, thì ngoài số 30 đại biểu tính cho 10.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 1.500 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 50 đại biểu. 4. Hội đồng nhân dân huyện và châu. Huyện miền xuôi có từ 50.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 35 đại biểu; có trên 50.000 nhân khẩu, thì ngoài số 35 đại biểu tính cho 50.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 4.000 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số nói chung không quá 50 đại biểu. Châu và huyện miền núi và hải đảo có từ 10. 000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 30 đại biểu; có trên 10.000 nhân khẩu, thì ngoài số 30 đại biểu tính cho 10.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm từ 1.500 đến 20.000 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 50 đại biểu. 5. Hội đồng nhân dân tỉnh. Tỉnh miền xuôi có từ 250.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 50 đại biểu; có trên 250.000 nhân khẩu, thì ngoài số 50 đại biểu tính cho 250.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 20.000 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 120 đại biểu. Tỉnh miền núi có từ 80.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 50 đại biểu; có trên 80.000 nhân khẩu, thì ngoài số 50 đại biểu tính cho 80.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 10.000 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 120 đại biểu. 6. Hội đồng nhân dân thành phố. Thành phố có từ 60.000 nhân khẩu trở xuống bầu cử 50 đại biểu; có trên 60.000 nhân khẩu, thì ngoài số 50 đại biểu tính cho 60.000 nhân khẩu đầu tiên, cứ thêm 10.000 nhân khẩu thì được bầu thêm 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 140 đại biểu. 7. Hội đồng nhân dân khu tự trị. Khu tự trị tuỳ theo tình hình dân số và dân tộc ở từng nơi, cứ từ 2.000 đến 10.000 nhân khẩu thì bầu cử 1 đại biểu, nhưng tổng số không được quá 150 đại biểu. 8. Hội đồng nhân dân khu Hồng Quảng và khu vực Vĩnh Linh. Số đại biểu Hội đồng nhân dân khu Hồng Quảng quy định như đối với các thành phố. Số đại biểu Hội đồng nhân dân khu vực Vĩnh Linh quy định như đối với các tỉnh miền xuôi. Điều 12 Đối với các địa phương có nhiều dân tộc thiểu số sống xen kẽ, có các khu vực công nghiệp tập trung hoặc nông trường, để cho các dân tộc thiểu số và công nhân có số đại biểu thích đáng trong Hội đồng nhân dân, Chính phủ có thể châm chước các tỷ lệ nói trên trong phạm vi mức tối đa đã quy định. Điều 13 Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được bầu theo đơn vị bầu cử. Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân xã là thôn hay là liên xóm. Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn là đường phố hay là liên xóm. Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị xã là liên tiểu khu hay là liên xã (nếu có xã ngoại thị). Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khu phố là tiểu khu hay là liên tiểu khu. Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, châu là xã hay là liên xã và thị trấn. Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh là huyện, thị xã và thành phố (nếu có thành phố thuộc tỉnh). Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố là khu phố ở nội thành và huyện ở ngoại thành. Đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khu tự trị là huyện hoặc liên huyện, châu và thị xã. Trong các đơn vị nói trên, đơn vị nào được bầu từ 10 đại biểu trở lên thì có thể chia thành hai đơn vị bầu cử hoặc nhiều hơn. Điều 14 Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương, danh sách các đơn vị và số đại biểu cho mỗi đơn vị do Uỷ ban hành chính khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương đề nghị, Chính phủ duyệt y. Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh trực thuộc, khu tự trị, huyện, châu, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, thị trấn, xã, danh sách các đơn vị và số đại biểu cho mỗi đơn vị do Uỷ ban hành chính cùng cấp đề nghị, Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp duyệt y. Điều 15 Các đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào phải được Uỷ ban hành chính cấp ấy công bố chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử. Điều 16 Để nhân dân đi bỏ phiếu được thuận tiện, mỗi đơn vị bầu cử có thể chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu, mỗi khu vực bao gồm từ 500 đến 2.500 nhân khẩu. Đặc biệt ở những nơi như miền núi, hải đảo, v.v... Có những thôn, xóm cách xa nhau, thì dù số nhân khẩu chưa tới 500 người, cũng có thể thành lập một khu vực bỏ phiếu. Các bệnh viện, nhà đỡ đẻ, nhà an dưỡng, nhà nuôi người tàn tật có từ 50 cử tri trở lên, thì có thể tổ chức thành khu vực bỏ phiếu riêng. Điều 17 Việc chia khu vực bỏ phiếu do các Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn, xã định và phải được Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Điều 18 Các đơn vị quân đội và công an nhân dân vũ trang sẽ tổ chức thành khu vực bỏ phiếu riêng. Điều 19 Những tổ chức phụ trách bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở mỗi cấp gồm có: Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử. Riêng đối với việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã, thì ngoài những tổ chức nói trên, ở cấp huyện, châu, thành phố thuộc tỉnh, thị xã có thể thành lập Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã để giúp đỡ và hướng dẫn cho cuộc bầu cử ở thị trấn và xã tiến hành được tốt. Điều 20 Hội đồng bầu cử. Chậm nhất là 40 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào, thì Uỷ ban hành chính cấp ấy thành lập một Hội đồng bầu cử gồm đại biểu các chính đảng và các đoàn thể trong địa phương, để: A) Kiểm tra và đôn đốc việc thi hành luật lệ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trong địa phương; B) Xét và giải quyết những khiếu nại của nhân dân về công tác của các Ban bầu cử và Tổ bầu cử; C) Tiếp nhận đơn ứng cử, lập và niêm yết danh sách những người ứng cử, xét và giải quyết những khiếu nại về việc lập danh sách người ứng cử; D) Tiếp nhận phiếu bầu cử của Uỷ ban hành chính cùng cấp, để phân phối cho các ban bầu cử, chậm nhất là 10 ngày trước ngày bầu cử; Đ) Tiếp nhận và kiểm tra biên bản bầu cử do các Ban bầu cử gửi đến, làm biên bản ghi kết quả cuộc bầu cử trong địa phương; E) Tuyên bố kết quả cuộc bầu cử; G) Chuyển giao Uỷ ban hành chính cùng cấp biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ tài liệu về cuộc bầu cử. Hội đồng bầu cử gồm từ 7 đến 21 người. Hội đồng bầu ra một chủ tịch, một hoặc nhiều phó chủ tịch và một hoặc nhiều thư ký. Danh sách Hội đồng bầu cử cấp khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương phải được Chính phủ phê chuẩn. Danh sách Hội đồng bầu cử các cấp khác phải được Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Điều 21 Ban bầu cử. Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào, thì Uỷ ban hành chính cấp ấy thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử gồm đại biểu các chính đảng, các đoàn thể nhân dân trong địa phương, để: A) Kiểm tra và đôn đốc các Tổ bầu cử chấp hành đúng luật lệ bầu cử; B) Kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri; C) Tiếp nhận phiếu bầu cử của Hội đồng bầu cử để phân phối cho các Tổ bầu cử chậm nhất là 7 ngày trước ngày bầu cử; D) Kiểm tra và đôn đốc việc bố trí các phòng bỏ phiếu; Đ) Kiểm tra công việc bầu cử tại các phòng bỏ phiếu; E) Tiếp nhận và kiểm tra biên bản kiểm phiếu do các Tổ bầu cử gửi đến, làm biên bản ghi kết quả bầu cử trong đơn vị để gửi lên Hội đồng bầu cử. Ban bầu cử gồm từ 5 đến 15 người. Ban bầu cử bầu ra một trưởng ban, một hoặc nhiều phó ban và một hoặc nhiều thư ký. Điều 22 Tổ bầu cử. Chậm nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử, các Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn, xã thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử gồm đại biểu các đoàn thể nhân dân trong địa phương, để: A) Phụ trách công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu; B) Bố trí phòng bỏ phiếu và chuẩn bị hòm bỏ phiếu; C) Phát phiếu bầu cử có đóng dấu của Tổ bầu cử cho các cử tri; D) Bảo đảm trật tự trong phòng bỏ phiếu; Đ) Kiểm phiếu và làm biên bản kiểm phiếu để gửi lên Ban bầu cử; E) Chuyển giao biên bản kiểm phiếu và tất cả những phiếu bầu cho Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn, xã. Tổ bầu cử gồm từ 5 đến 11 người. Tổ bầu cử bầu ra một tổ trưởng, một tổ phó và một hoặc nhiều thư ký. Các đơn vị quân đội và công an nhân dân vũ trang thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử gồm từ 5 đến 9 đại biểu của quân đội hoặc của công an nhân dân vũ trang, thời hạn thành lập và nhiệm vụ quyền hạn như trên. Điều 23 Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã. Trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã, Uỷ ban hành chính huyện, châu, thành phố thuộc tỉnh, thị xã có thể thành lập Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã ở huyện, châu, thành phố thuộc tỉnh hoặc thị xã gồm đại biểu các chính đảng và các đoàn thể nhân dân trong địa phương, để: A) Hướng dẫn và kiểm tra việc thi hành luật lệ bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã trong địa phương; B) Tiếp nhận và kiểm tra biên bản bầu cử do các Hội đồng bầu cử thị trấn và xã gửi lên; C) Xét và giải quyết những khiếu nại về công tác của Hội đồng bầu cử thị trấn và xã. Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã gồm từ 7 đến 15 người. Hội đồng bầu ra một chủ tịch, một hoặc nhiều phó chủ tịch và một hoặc nhiều thư ký. Danh sách Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã phải được Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Điều 24 Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử và Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã không được vận động bầu cử cho những người ra ứng cử. Những tổ chức đó hết nhiệm vụ sau khi cuộc bầu cử kết thúc. Điều 25 Mỗi khi có cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, các chính đảng, các đoàn thể nhân dân có thể riêng biệt hoặc liên hiệp giới thiệu người ra ứng cử. Cá nhân có quyền tự ra ứng cử. Điều 26 Mỗi người ứng cử chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử. Điều 27 Người ứng cử không được tham gia vào Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử và Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã. Điều 28 Chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử, các chính đảng, các đoàn thể nhân dân giới thiệu người ra ứng cử phải nộp tại Hội đồng bầu cử: 1. Giấy giới thiệu người ứng cử; 2. Giấy chứng nhận người ứng cử có đủ điều kiện ứng cử; 3. Đơn ứng cử của những người được giới thiệu có ghi tên, tuổi, nghề nghiệp, nguyên quán, địa chỉ, nơi ra ứng cử. Chậm nhất là 25 ngày trước ngày bầu cử, cá nhân tự ra ứng cử phải nộp tại Hội đồng bầu cử đơn ứng cử và giấy chứng nhận có đủ điều kiện ứng cử. Khi nhận đơn ứng cử, Hội đồng bầu cử phải cấp giấy biên nhận. Điều 29 Khi hết hạn nộp đơn ứng cử, Hội đồng bầu cử phải lập danh sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử và công bố danh sách đó ít nhất là 20 ngày trước ngày bầu cử. Điều 30 Kể từ ngày danh sách người ứng cử được công bố, ai thấy trong danh sách có sai lầm, thiếu sót thì có quyền khiếu nại hoặc báo cáo bằng giấy hay là bằng miệng với Hội đồng bầu cử, Hội đồng bầu cử phải ghi những khiếu nại và báo cáo ấy vào một quyển sổ. Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại và báo cáo, Hội đồng bầu cử phải giải quyết; quyết định của Hội đồng bầu cử là quyết định cuối cùng. Điều 31 Các chính đảng, các đoàn thể nhân dân, cũng như mỗi công dân Việt Nam đều có quyền, trong phạm vi pháp luật, tự do cổ động bằng mít tinh, hội nghị, báo chí và mọi hình thức khác để giới thiệu người ứng cử. Người ứng cử có quyền tự do cổ động cho bản thân mình trong phạm vi pháp luật. Điều 32 Việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp phải tiến hành trong khoảng thời gian từ 2 tháng trước đến 1 tháng sau khi Hội đồng nhân dân khoá trước hết nhiệm kỳ. Điều 33 Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật hoặc ngày nghỉ, và phải được ấn định và công bố ít nhất là 60 ngày trước khi bầu cử. Chính phủ ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương và ấn định thời gian tiến hành bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khác. Căn cứ vào đó, - Uỷ ban hành chính khu tự trị Việt Bắc ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh ở khu tự trị; - Uỷ ban hành chính khu tự trị Thái - Mèo ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân châu, thị xã, thị trấn, xã ở khu tự trị; - Uỷ ban hành chính thành phố trực thuộc trung ương, Uỷ ban hành chính tỉnh ấn định ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã, khu phố, thị trấn, xã. Điều 34 Trường hợp đặc biệt không thể tiến hành bầu cử trong thời gian đã quy định ở điều 32 thì Chính phủ phải báo cáo với Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xét định. Điều 35 Trong thời hạn 15 ngày trước ngày bầu cử, Tổ bầu cử phải thường xuyên thông báo cho cử tri biết ngày bầu cử, nơi bỏ phiếu và thời gian bỏ phiếu bằng niêm yết, phát thanh và bằng mọi phương tiện thông thường của địa phương. Điều 36 Cuộc bỏ phiếu tiến hành từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối. Tuỳ tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn giờ quy định, nhưng không được kéo dài quá 10 giờ đêm. Điều 37 Cử tri phải tự mình đi bầu, không được nhờ người bầu thay, không được bầu bằng cách gửi thư. Mỗi cử tri chỉ có quyền bỏ một phiếu. Điều 38 Cử tri không biết chữ hoặc tàn tật không tự viết phiếu được, thì có thể nhờ người viết hộ, nhưng phải tự bỏ phiếu; nếu vì tàn tật mà không tự bỏ phiếu được, thì cử tri có thể nhờ người bỏ phiếu vào hòm phiếu. Cử tri ốm đau, già yếu, tàn tật, không đến phòng bỏ phiếu được, thì có thể đề nghị Tổ bầu cử mang hòm phiếu và phiếu bầu đến tận chỗ ở để bỏ phiếu. Trong trường hợp này, Tổ bầu cử có thể tổ chức hòm phiếu phụ đem đến chỗ ở của cử tri để nhận phiếu bầu. Điều 39 Lúc cử tri viết phiếu, không ai được đến gần để xem, kể cả nhân viên Tổ bầu cử. Điều 40 Nếu viết hỏng, cử tri có thể đề nghị Tổ bầu cử đổi cho một phiếu khác. Điều 41 Cấm tuyên truyền cổ động cho người ứng cử tại phòng bỏ phiếu. Điều 42 Để bảo đảm trật tự cho việc bỏ phiếu, mọi người đều phải tuân theo nội quy của phòng bỏ phiếu. Điều 43 Khi đã hết giờ bỏ phiếu mà còn một số cử tri có mặt ở phòng bỏ phiếu chưa kịp bỏ phiếu, thì cần để cho số cử tri đó bỏ phiếu xong rồi mới tuyên bố kết thúc cuộc bỏ phiếu. Điều 44 Trong ngày bầu cử, cuộc bỏ phiếu phải tiến hành liên tục. Nếu có trường hợp bất ngờ làm gián đoạn việc bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải lập tức niêm phong các giấy tờ và hòm phiếu lại rồi báo cáo cho Ban bầu cử biết, đồng thời phải khắc phục khó khăn để tiếp tục cuộc bỏ phiếu. Điều 45 Nếu vì lý do đặc biệt cần hoãn ngày bỏ phiếu, thì Tổ bầu cử phải kịp thời báo cho Ban bầu cử biết để đề nghị Hội đồng bầu cử xét định. Điều 46 Phiếu bầu phải được đếm và kiểm soát tại phòng bỏ phiếu. Lúc kiểm phiếu, Tổ bầu cử phải mời hai cử tri không ra ứng cử có mặt tại đó để chứng kiến. Người ứng cử hoặc người được uỷ nhiệm thay mặt người ứng cử và các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh được vào xem kiểm phiếu. Điều 47 Những phiếu sau đây là không hợp lệ: 1. Không phải là phiếu theo mẫu quy định do Tổ bầu cử phát; 2. Không có dấu của Tổ bầu cử; 3. Ghi tên người ứng cử quá số đại biểu được bầu. Điều 48 Trong trường hợp phiếu bầu có ghi tên một hay nhiều người không ra ứng cử, thì tên những người này không được tính. Tổ bầu cử không được xoá hoặc chữa các tên ghi trên phiếu bầu. Điều 49 Khi nghi ngờ phiếu nào không hợp lệ thì tổ trưởng Tổ bầu cử đưa ra toàn Tổ giải quyết. Điều 50 Những khiếu nại tại chỗ về việc kiểm phiếu do Tổ bầu cử tiếp nhận, giải quyết và ghi cách giải quyết vào biên bản. Nếu Tổ bầu cử không giải quyết được thì phải đưa lên Ban bầu cử để giải quyết. Điều 51 Kiểm phiếu xong, Tổ bầu cử phải lập biên bản trong đó có ghi: - Tổng số cử tri; - Số cử tri đã đi bầu; - Số phiếu hợp lệ; - Số phiếu không hợp lệ; - Số phiếu trắng; - Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử; - Những khiếu nại và cách giải quyết, những khiếu nại chưa được giải quyết. Biên bản làm thành hai bản có chữ ký của tổ trưởng, thư ký và hai cử tri được mời chứng kiến cuộc kiểm phiếu. Một bản gửi đến Ban bầu cử, một ban gửi đến Uỷ ban hành chính thị xã, khu phố, thị trấn hoặc xã. Điều 52 Sau khi nhận được biên bản của các Tổ bầu cử, Ban bầu cử kiểm tra các biên bản đó và xác định kết quả bầu cử của các khu vực bỏ phiếu thuộc đơn vị bầu cử của mình. Biên bản phải ghi rõ: - Số đại biểu Hội đồng nhân dân ấn định cho đơn vị bầu cử; - Số người ứng cử; - Tổng số cử tri trong đơn vị bầu cử; - Số cử tri đã đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri; - Số phiếu hợp lệ; - Số phiếu không hợp lệ; - Số phiếu trắng; - Số phiếu bầu cho mỗi người ứng cử; - Danh sách những người trúng cử; - Những khiếu nại do Tổ bầu cử đã giải quyết, những khiếu nại do Ban bầu cử đã giải quyết, những khiếu nại chuyển lên cấp trên để giải quyết. Biên bản làm thành hai bản có chữ ký của trưởng ban, phó trưởng ban và thư ký. Một bản gửi lên Hội đồng bầu cử, một bản gửi lên Uỷ ban hành chính cùng cấp với Ban bầu cử. Điều 53 Những người ứng cử được quá nửa số phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn thì trúng cử; nếu có nhiều người được số phiếu ngang nhau thì người nhiều tuổi hơn được trúng cử. Điều 54 Trong cuộc bầu cử đầu tiên, nếu số người trúng cử chưa đủ số đại biểu đã quy định, thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm này vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định ngày bầu thêm số đại biểu còn thiếu, chậm nhất không được quá 15 ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu thêm, cử tri chỉ chọn bầu trong số người đã ra ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu. Điều 55 Trong mỗi đơn vị bầu cử, nếu số phiếu bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách thì Ban bầu cử phải ghi rõ điểm này vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử để quyết định ngày bầu lại, chậm nhất không được quá 15 ngày sau cuộc bầu cử đầu tiên. Trong cuộc bầu cử lại, cử tri chỉ chọn bầu trong số người đã ra ứng cử kỳ đầu. Điều 56 Việc bầu lại hoặc bầu thêm vẫn theo danh sách cử tri đã được sắp xếp trong cuộc bầu cử đầu tiên và phải theo những điều đã được quy định trong pháp lệnh này. Điều 57 Sau khi nhận được biên bản của các Ban bầu cử và giải quyết những khiếu nại nếu có, Hội đồng bầu cử làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử. Hội đồng bầu cử tuyên bố kết quả cuộc bầu cử chậm nhất là: - 5 ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân thị trấn, khu phố, thị xã và xã; - 7 ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân huyện miền xuôi; - 9 ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân châu, huyện miền núi, tỉnh miền xuôi và thành phố; - 12 ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân tỉnh ở khu tự trị và ở miền núi; - 20 ngày sau ngày bầu cử đối với Hội đồng nhân dân khu tự trị. Điều 58 Biên bản tổng kết ghi rõ: - Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân; - Tổng số người ứng cử; - Tổng số cử tri; - Số cử tri đã đi bầu, số cử tri không đi bầu, tỷ lệ số cử tri đã đi bầu so với tổng số cử tri; - Số phiếu hợp lệ; - Số phiếu không hợp lệ; - Số phiếu trắng; - Danh sách những người trúng cử và số phiếu bầu cho mỗi người trúng cử; - Các việc quan trọng đã xảy ra và cách giải quyết. Biên bản làm thành hai bản có chữ ký của chủ tịch, các phó chủ tịch và thư ký của Hội đồng bầu cử; một bản gửi đến Uỷ ban hành chính cấp bầu Hội đồng nhân dân; một bản gửi lên Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp. Nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương và tỉnh trực thuộc trung ương thì gửi biên bản lên Chính phủ; nếu là cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã thì ngoài biên bản gửi lên Uỷ ban hành chính cấp trên trực tiếp, còn phải gửi một bản cho Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã. Sau khi kiểm tra biên bản của Hội đồng bầu cử thị trấn, xã và giải quyết những khiếu nại nếu có, Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã làm bản nhận xét gửi đến Uỷ ban hành chính cùng cấp kèm theo hồ sơ. Điều 59 Trong phiên họp đầu tiên, Hội đồng nhân dân cử ra Ban thẩm tra tư cách đại biểu. Căn cứ vào báo cáo của Ban thẩm tra tư cách đại biểu, Hội đồng nhân dân quyết định xác nhận tư cách đại biểu Hội đồng nhân dân cấp mình. Điều 60 Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định huỷ bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân nào có những điều không hợp pháp nghiêm trọng. Chính phủ ấn định ngày bầu cử lại Hội đồng nhân dân ấy. Điều 61 Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại đến quyền tự do bầu cử và ứng cử của công dân, thì tuỳ mức độ nặng nhẹ mà có thể bị cảnh cáo hoặc bị phạt tù, nặng nhất là 2 năm. Điều 62 Nhân viên nào trong các Hội đồng bầu cử, Ban bầu cử, Tổ bầu cử, Hội đồng giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân thị trấn và xã, và nhân viên nào trong các tổ chức chính quyền phạm tội giả mạo giấy tờ, gian lận phiếu hoặc dùng mọi thủ đoạn khác để làm sai lạc kết quả cuộc bầu cử, thì tuỳ mức độ nặng nhẹ mà có thể bị cảnh cáo hoặc bị phạt tù, nặng nhất là 3 năm. Điều 63 Mọi người đều có quyền và có bổn phận tố cáo các việc làm trái phép trong lúc bầu cử. Ai cản trở hoặc trả thù người tố cáo, thì tuỳ mức độ nặng nhẹ mà có thể bị cảnh cáo hoặc bị phạt tù, nặng nhất là 3 năm. Điều 64 Pháp lệnh này thay cho sắc luật số 004-SLt ngày 20 tháng 7 năm 1957. Pháp lệnh Việt Nam