id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19842414
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20robusta
Myripristis robusta
Myripristis robusta là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1996. Từ nguyên Tính từ định danh robusta trong tiếng Latinh nghĩa là "chắc khỏe", hàm ý đề cập đến cơ thể to chắc của loài cá này. Phạm vi phân bố và môi trường sống M. robusta có phân bố ở Tây Thái Bình Dương, được ghi nhận tại đảo Luzon (Philippines), bờ biển tỉnh Madang (Papua New Guinea), vịnh Thái Lan và đảo Iriomote-jima (Nhật Bản). Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. robusta là 22 cm. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 12–13; Số lược mang ở cung mang thứ nhất: 30–32. Tham khảo R Cá Thái Bình Dương Cá Nhật Bản Cá Philippines Cá Papua New Guinea Động vật được mô tả năm 1996
19842415
https://vi.wikipedia.org/wiki/Matsushima%2C%20Miyagi
Matsushima, Miyagi
là thị trấn thuộc huyện Miyagi, tỉnh Miyagi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 13.323 người và mật độ dân số là 250 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 53,56 km2. Tham khảo Thị trấn của Miyagi
19842422
https://vi.wikipedia.org/wiki/Akaigawa%2C%20Hokkaid%C5%8D
Akaigawa, Hokkaidō
là một ngôi làng thuộc huyện Yoichi, phó tỉnh Shiribeshi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 1.165 người và mật độ dân số là 4,2 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 280.11 km2. Tham khảo Làng của Hokkaidō
19842425
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Cita%20Broadcasting%20System
Ōita Broadcasting System
là mạng truyền hình địa phương Nhật Bản có trụ sở tại thành phố Ōita, tỉnh Ōita. Thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1953. OBS là thành viên liên kết với mạng truyền hình Japan News Network. Tham khảo Mạng truyền hình Nhật Bản Japan News Network
19842431
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20k%E1%BA%BFt%20C%C3%BAp%20Li%C3%AAn%20%C4%91o%C3%A0n%20c%C3%A1c%20ch%C3%A2u%20l%E1%BB%A5c%202003
Chung kết Cúp Liên đoàn các châu lục 2003
Chung kết Cúp Liên đoàn các châu lục 2003 là trận đấu bóng đá để tìm ra nhà vô địch của Cúp Liên đoàn các châu lục 2003. Trận đấu diễn ra trên sân vận động Stade de France, Saint-Denis, Pháp, vào ngày 29 tháng 6 năm 2003 giữa hai đội tuyển Cameroon và Pháp. Đương kim vô địch Pháp đã bảo vệ thành công danh hiệu của họ sau khi vượt qua Cameroon 1–0 sau 120 phút thi đấu bằng bàn thắng duy nhất của Thierry Henry. Cameroon mặc chiếc áo có thêu tên, ngày sinh và ngày mất của Marc-Vivien Foé để tưởng nhớ người đã đột tử ngay trên sân ở phút thứ 72 của trận bán kết gặp Colombia 3 ngày trước đó. Tại lễ trao giải, hai cầu thủ Cameroon cầm một bức ảnh khổng lồ của Foé, và một huy chương á quân được treo ở mép bức ảnh. Khi đội trưởng Marcel Desailly của đội tuyển Pháp được trao Cúp Liên đoàn các châu lục, anh đã không nâng nó lên cao mà cùng nâng với đội trưởng Cameroon Rigobert Song. Đường đến trận chung kết Chi tiết trận đấu Tham khảo Liên kết ngoài Match report Cúp Liên đoàn các châu lục 2003 2003 Bóng đá Pháp 2002–03 Bóng đá Cameroon năm 2003 Trận đấu của đội tuyển bóng đá quốc gia Cameroon
19842433
https://vi.wikipedia.org/wiki/Micah%20Hamilton
Micah Hamilton
Micah Phillipe Jude Hamilton (sinh ngày 13 tháng 11 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Manchester City tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Sự nghiệp thi đấu Manchester City Hamilton gia nhập học viện Manchester City sau khi ký hợp đồng với câu lạc bộ lần đầu tiên khi mới 9 tuổi. Vào ngày 23 tháng 9 năm 2017, khi mới 13 tuổi, Hamilton, khi đó là một cậu bé nhặt bóng, trong trận đấu trên sân nhà với Crystal Palace, huấn luyện viên Pep Guardiola nhắc nhở anh ném bóng nhanh hơn vào cuộc để giúp lối chơi của Man City nhanh hơn, không bị gián đoạn. Hamilton được thăng hạng từ đội U-18 lên U-21 vào đầu mùa giải 2023–24 và đại diện cho câu lạc bộ tại EFL Trophy vào tháng 9 năm 2023. Hamilton được đưa vào đội một Man City trong trận đấu gặp Newcastle United tại Cúp EFL vào ngày 28 tháng 9 năm 2023. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng vào ngày 14 tháng 12 năm 2023, trong trận đấu cuối cùng của Citizens' tại vòng bảng UEFA Champions League gặp Sao Đỏ Belgrade. Anh đóng góp một bàn thắng trong chiến thắng 3–2 của đội ngày hôm đó. Anh cùng với 5 cầu thủ trẻ khác của Manchester City có tên trong danh sách tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 tại Ả Rập Xê Út. Phong cách thi đấu Được giới truyền thông mô tả là một cầu thủ chạy cánh trái, anh cũng từng thi đấu ở vị trí tiền vệ trung tâm hoặc tiền vệ tấn công và cánh phải cho đội trẻ của Manchester City. Danh hiệu Manchester City FIFA Club World Cup: 2023 Tham khảo Sinh năm 2003 Nhân vật còn sống Tiền vệ bóng đá Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá nam Anh Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C. Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
19842439
https://vi.wikipedia.org/wiki/Grand%20Orient%20de%20France
Grand Orient de France
Grand Orient de France (GODF) (viết tắt GODF, được dịch là "Grand Orient of France") là tổ chức lâu đời nhất và lớn nhất trong số một số tổ chức Tam điểm có trụ sở tại Pháp và lâu đời nhất ở lục địa Châu Âu (vì nó được thành lập từ một Grand Lodge cũ của Pháp vào năm 1773 và được tiếp thu một thời gian ngắn sau đó. của cơ thể cũ hơn vào năm 1799, do đó nó có thể được thành lập vào năm 1728 hoặc 1733). Grand Orient de France thường được coi là "nhà nghỉ mẹ" của Hội Tam điểm Lục địa. Phương châm Liberté, Egalité, Fraternité được áp dụng vào năm 1848, theo các trang lịch sử và tự nguyện sáp nhập vào Cộng hòa Pháp. Tham khảo Liên kết ngoài Grand Orient de France Huyền bí Tín ngưỡng Hội Tam Điểm Chủ nghĩa bí truyền
19842441
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20200m%20Nam
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – 200m Nam
Nội dung thi đấu thuyền rồng (đua thuyền truyền thống) 200m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức vào ngày 25 tháng 8 năm 2018. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1–3 → Bán kết (BK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1–4 → Bán kết (BK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết Vòng loại: 1–3 → Chung kết (CK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết 1 Bán kết 2 Chung kết Tail race Trận tranh huy chương Liên kết ngoài Trang web chính thức Tham khảo 200m Nam
19842448
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20V%C4%83n%20D%E1%BB%B1
Bùi Văn Dự
Bùi Văn Dự (1913–1987), bí danh Nguyễn Thanh, tên thường gọi Ba Dự, Bùi Dự, là một chính trị gia Việt Nam, nguyên Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang, Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Tiền. Cuộc đời Bùi Văn Dự sinh năm 1913 ở làng Tân Thuận Ðông, quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Ðéc (nay là xã Tân Thuận Ðông, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Năm 1929, ông tham gia hoạt động đấu tranh cách mạng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tháng 11, ông hoạt động trong An Nam Cộng sản Đảng. Tháng 10 năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương chi bộ Tân Thuận Ðông. Ngày 30 tháng 4 năm 1932, ông thành lập chi bộ Cao Lãnh gồm sáu Đảng viên (Bùi Văn Dự, Kỉnh, Tuyên, Cương, Nguyễn Văn Bảy, Dình) và bắt được liên lạc với Đặc ủy Long - Châu - Rạch - Hà. Được sự đồng ý của Đặc ủy, chi bộ Cao Lãnh phát triển thành Quận ủy Cao Lãnh, vẫn do ông làm Bí thư kiêm giao thông. Tháng 11 năm 1934, ông bị thực dân Pháp bắt giữ. Sau khi ra tù, ông phụ trách Ban Cán sự Đảng Cao Miên (chưa có Xứ ủy). Tháng 6 năm 1941, Liên Tỉnh ủy Hậu Giang (miền Tây) được tái lập (gồm Bùi Văn Dự, Huỳnh Phước, Võ Hiệp Thành, Ba Lê, Tám Võ Sĩ, Nguyễn Văn Dưa, Bé) do Bùi Văn Dự làm Bí thư. Tháng 8, Xứ ủy Nam Kỳ lại bị vỡ. Đầu năm 1942, ông liên hệ với Hà Đăng Nam, Ngô Thị Huệ, Nguyễn Hồng Minh, Nguyễn Hồng Phước, Trần Phấn Đấu, Trần Trung Tam,... tìm cách khôi phục các Tỉnh ủy, Thành ủy Sài Gòn và Xứ ủy. Ở Sài Gòn, tổ chức Thành ủy mới với các Ủy viên Trần Anh Kiệt (Lê Văn Kiết), Nguyễn Công Trung, Thiện Chiếu. Thành ủy tìm cách bắt liên lạc với Đặc phái viên của Trung ương Đảng (Nguyễn Hữu Xuyến). Được vài tháng thì Liên Tỉnh ủy bị vỡ, hầu hết các cán bộ đều bị bắt, trừ Bùi Văn Dự, Nguyễn Oanh, Ngô Duy Liên,... Từ năm 1943, ông hoạt động bí mật ở Bà Quẹo (Sài Gòn), móc nối với Hoàng Tế Thế, Nguyễn Thị Thập, Lê Hữu Kiều, Hoàng Dư Khương, Lê Minh Định, Trần Văn Trà,... để xuất bản tờ báo Giải Phóng. Nhóm Giải Phóng hoạt động riêng rẽ tổ chức Thành ủy của Nguyễn Oanh cũng như Xứ ủy Nam Kỳ của Dương Quang Đông, Trần Văn Giàu (Xứ ủy Tiền Phong) và đã thành lập Xứ ủy riêng (Xứ ủy Giải Phóng). Năm 1946, Liên Tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ được thành lập do Ung Văn Khiêm làm Bí thư, ông là Thường trực kiêm phụ trách Mặt trận Việt Minh. Năm 1947, tỉnh Long Châu Tiền được thành lập, ông từng được dự định làm Bí thư Tỉnh ủy. Từ năm 1948, ông lần lượt công tác ở Ban Dân vận, Hòa Hảo vận, Tôn giáo vận, Ủy ban Kháng chiến Khu 8, Ban Kiểm tra Nam Bộ. Năm 1951, ông là Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương cục miền Nam, Phó Chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt Nam Bộ. Khi tập kết ra Bắc, ông lần lượt làm Bí thư Ðảng ủy kiêm Trưởng Ban tập kết miền Tây Nam Bộ, Vụ trưởng Vụ Chính sách tập kết (Ban Quan hệ Bắc – Nam), Ủy viên Thường trực Ban Nghiên cứu dự thảo dự án xây dựng nông trường quốc doanh và khai hoang (trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Ðảng), Vụ Trưởng Vụ Ðào tạo cán bộ miền Nam, phụ trách trường Ðảng 105, Ủy viên Thường trực, Phó Chủ nhiệm Ủy ban thống nhất Trung ương. Trong thời gian ở Hà Nội, ông và vợ sống ở nhà số 10 phố Đặng Tất. Năm 1975, ông là Phó trưởng ban Thường trực Ban xây dựng vùng kinh tế mới Trung ương. Năm 1978, ông nghỉ hưu, cùng gia đình sống tại Thủ Đức. Ông qua đời ngày 30 tháng 11 năm 1987. Khen thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất Huân chương Kháng chiến hạng Nhất Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhì Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc Huy hiệu 50 năm tuổi Ðảng Tên ông được đặt cho một con đường ở tỉnh Đồng Tháp. Tham khảo Chú thích Người Đồng Tháp Bí thư Thành ủy Sài Gòn Xứ ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ Bí thư Tỉnh ủy Long Châu Tiền Bí thư Liên Tỉnh ủy Hậu Giang Huân chương Độc lập hạng Nhất Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì Huy hiệu Thành đồng Tổ quốc Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng Cộng sản Việt Nam
19842465
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakatsugaru%20%28huy%E1%BB%87n%29
Nakatsugaru (huyện)
là huyện thuộc tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của huyện là 1.265 và mật độ dân số là 5,1 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 246 km2. Tham khảo Huyện của Aomori
19842467
https://vi.wikipedia.org/wiki/Undead%20Unluck
Undead Unluck
là bộ truyện tranh Nhật Bản do Tozuka Yoshifumi sáng tác và minh họa, được đăng dài kỳ trên tạp chí Weekly Shōnen Jump của Shueisha kể từ tháng 4 năm 2020. Các chương riêng lẻ của truyện đã được gộp chung thành chín tập tankōbon vào tháng 12 năm 2023. Bên cạnh đó, bản chuyển thể anime do hãng David Production và TMS Entertainment đồng sản xuất cũng đã lên sóng vào tháng 10 cùng năm. Nội dung Izumo Fuuko là một cô gái trẻ đã sống ẩn dật suốt 10 năm liền kể từ khi một vụ tai nạn xảy ra khiến hơn 200 người thiệt mạng, trong đó có cả cha mẹ cô. Sau khi hoàn thành xong bộ truyện tranh yêu thích, Fuuko quyết định chấm dứt đời mình. Trong suốt thời gian qua, cô luôn bị dằn vặt vì không thể chạm vào bất kỳ ai bởi thứ năng lực "Unluck" mà cô sở hữu sẽ mang lại bất hạnh cho những người tiếp xúc da thịt với mình. Tuy nhiên, Fuuko lại được một gã "bất tử" cứu sống và hắn ta mong muốn sử dụng khả năng của cô để có thể đón nhận "cái chết vĩ đại nhất". Để thuận tiện, Fuuko đặt tên cho hắn là Andy (đồng âm với "Undie") và hai người họ bắt đầu làm việc cùng nhau. Tuy nhiên, cả hai sớm nhận ra mình đang bị truy đuổi bởi một tổ chức bí ẩn có tên . Một thành viên của Union, Shen, nói với họ rằng tổ chức này có một nhóm gồm mười người sở hữu những sức mạnh vượt xa quy luật của nhân loại. Nếu gia nhập tổ chức, họ sẽ hưởng những quyền lợi riêng và không phải chịu cảnh bị săn lùng nữa. Nghe thấy thế, Andy và Fuuko quyết định tham gia để có thể giúp Andy toại nguyện trong cuộc hành trình tìm kiếm cái chết, cũng như đối mặt với vô số kẻ thù và những bí ẩn trên toàn thế giới. Tất cả những nhiệm vụ của nhóm đều được đề ra bởi một quyển sách kỳ quái có tên . Trên thế giới này tồn tại những người có khả năng phủ định mọi quy luật vốn có, được gọi là . Union là một tổ chức tập hợp những người như thế, với mục đích săn lùng các Sinh vật Bí ẩn Không xác định - hiện thân của những quy luật trên Trái đất, được Chúa tạo ra nhằm trở thành mục tiêu chỉ định trong các nhiệm vụ mà Khải huyền đưa ra, cũng như trở thành hình phạt mỗi khi chúng thất bại. Đồng thời, họ còn phải chiến đấu với những Phủ định gia chống lại Union mang tên bên cạnh các , là những kẻ được chọn để thực hiện mệnh lệnh của Chúa trời. Nhân vật Chính Fuuko Izumo Lồng tiếng bởi: Moe Kahare Fuuko Izumo (出雲 風子, Izumo Fūko) là một cô gái người Nhật 18 tuổi hợp tác với Andy. Khi còn nhỏ, khả năng Phủ định của cô đã thức tỉnh và vô tình giết chết cha mẹ mình cùng với những người khác trong một vụ tai nạn máy bay. Vì vậy, cô dần xa cách xã hội vì sợ làm hại người khác bằng khả năng của mình và định tự tử cho đến khi gặp Andy. Khả năng Phủ định của cô, "Unluck" khiến bất cứ ai chạm vào da kề da cô đều chết sau khi họ bị cô lây vận xui vào người. Sau các sự kiện ở phần Ragnarok, cô trở thành thủ lĩnh mới của Union ở vòng lặp thứ 101. Andy Lồng tiếng bởi: Yuichi Nakamura Andy (アンディ, Andi) là một tên có ý định tự tử và liều lĩnh hợp tác với Fuuko. Anh bị ám ảnh bởi việc tìm cách tự sát và quan tâm đến Fuuko vì khả năng "Unluck" của cô. Khả năng Phủ định "Undead" ngăn anh chết và anh ta có thể sử dụng khả năng tái sinh của mình để làm vô số việc, chẳng hạn như bắn ngón tay của mình như một viên đạn. Anh có một tấm thẻ gắn trên đầu, khi gỡ bỏ sẽ giải phóng nhân cách thứ hai tên là Victor. Một điều xấu hổ là quần áo của Andy bị rách ngay lập tức khi anh sử dụng Phủ định và trong tình trạng khỏa thân vì không thể tái tạo chúng, nhưng điều này đã chấm dứt khi anh thuần hóa một UMA Clothes. Sau đó được tiết lộ rằng Andy là một trong những người duy nhất biết về vòng lặp, vì sức mạnh của anh có nghĩa là mình không chết khi thế giới được thiết lập lại. Tổ chức Union Juiz d'Arc Lồng tiếng bởi: Mariya Ise Juiz d'Arc (ジュイス=ダルク, Juisu Daruku) là thủ lĩnh và là người sáng lập Union cùng với Victor. Khả năng Phủ định "Unjustice" của cô cho phép cô buộc mục tiêu thực hiện điều ngược lại với cảm giác "công lý" của họ bằng cách nhìn vào họ. Cô ấy đã chế ngự được UMA Move, phương thức vận chuyển chính của Union. Sau arc Unbelievable, cô tiết lộ rằng thế giới bị mắc kẹt trong một vòng lặp thời gian và cô lưu giữ ký ức của mình bằng cách sử dụng một cổ vật tên là "Ark", và đã sống hàng triệu năm cùng với Victor để cuối cùng họ có thể giết Chúa trời. Fuuko thay thế cô ấy làm thủ lĩnh Union trong vòng lặp cuối cùng. Shen Xiang Lồng tiếng bởi: Natsuki Hanae   Shen Xiang (シェン=シアン, Shen Shian) là một thành viên Union và là võ sĩ người Trung Quốc rất vui tươi. Khả năng Phủ định trước đây của anh ấy, "Untruth" cho phép anh khiến mục tiêu của mình làm ngược lại với những gì họ dự định, miễn là anh ấy nhìn họ bằng ít nhất một mắt và yêu thích họ. Anh cũng mang theo một vũ khí "Nyon-Kinko" hay Gậy như ý có thể kéo dài và co lại đủ lâu để tiếp cận ngoài không gian, cũng như một đám mây có thể điều khiển được tên là Kinto-Un (Cân Đẩu Vân). Sau trận chiến với sư phụ dẫn đến cái chết của anh ta, Mui đã sử dụng một cổ vật để hồi sinh anh thành một Jiangshi, mất đi khả năng Phủ định nhưng vẫn giữ được các kỹ năng võ thuật bẩm sinh. Mui Lồng tiếng bởi: Yui Ishikawa Mui (ムイ) là cấp dưới của Shen. Trước trận chiến của Union với Feng, sư phụ của Shen, cô là trợ lý của Shen. Mặc dù không có khả năng Phủ định nhưng cô ấy đã bù đắp bằng cách sử dụng Cổ vật và Võ thuật. Sau cái chết của Shen, khả năng phủ định "Untruth" của anh đã được chuyển qua cho cô. Tatiana Lồng tiếng bởi: Rie Kugimiya Tatiana (タチアナ, Tachiana) là một thành viên của Union, một bé gái người Nga rất quan tâm đến đồng đội của mình. Khi cô có được khả năng Phủ định, sức mạnh của cô đã vô tình phá hủy ngôi nhà và giết chết cha mẹ mình. Cô bé suýt bị bán ở chợ đen trước khi được Billy cứu. Cô sống trong bộ đồ robot hình cầu và khả năng Phủ định "Untouchable" của cô bé tạo ra một rào cản mạnh mẽ xung quanh mình nhưng cô luôn có một cái lỗ mở xung quanh miệng để ăn. Tatiana rất quan tâm đến đồng đội mình, đặc biệt là Billy và Gina nên cô bé rất ghét Andy khi anh giết Gina và sốc khi Billy phản bội tổ chức. Nico Vorgeil Lồng tiếng bởi: Kōji Yusa Nico Vorgeil (ニコ=フォーゲイル, Niko Fōgeiru) là một thành viên Union cũng là nhà phát minh hàng đầu của tổ chức. Khả năng Phủ định "Unforgettable" khiến anh ta không thể quên bất kỳ và tất cả thông tin, bắt đầu từ cái chết của vợ mình, khi khả năng của anh bộc lộ, dù rất nhỏ, cho nên tâm trí anh đang bị “nghiền nát bởi một đống thông tin không ngừng nghỉ”. Anh chiến đấu bằng cách sử dụng các thiết bị bay không người lái, là một quả cầu được gọi là Psycho Pod, nơi anh ta lưu trữ những ký ức không cần thiết của mình và thông tin về phong cách chiến đấu để anh có thể tái tạo chúng. Chúng cũng có thể được sử dụng làm tia laser, phương tiện di chuyển và tạo ra bản sao của con người dựa trên ký ức của Nico được gọi là "Búp bê Astral". Mico Vorgeil Lồng tiếng bởi: Miyari Nemoto Mico Vorgeil (ミコ=フォーゲイル, Miko Fōgeiru) là một nhà khoa học được Union tuyển dụng, nơi cô làm trợ lý cho Nico Vorgeil. Cô cũng là con gái của Nico và là nhà khoa học có năng lực thứ hai sau anh. Top Bull Sparx Lồng tiếng bởi: Nobuhiko Okamoto Top Bull Sparx (トップ=ブル=スパークス, Toppu Buru Supākusu) là một thanh niên 15 tuổi người Brazil nóng tính. Khả năng Phủ định "Unstoppable" của cậu ấy mang lại cho mình siêu tốc độ nếu cậu cố gắng giảm tốc độ khi đạt đến một tốc độ nhất định và cơ thể của cậu phải trải qua một sự thay đổi đáng kể về hình dạng để cậu dừng lại, chẳng hạn như bị một vết thương nặng. Trước đây, cậu là một cậu bé nghèo có ý định thua một cuộc đua để bạn bè có cuộc sống tốt hơn, tuy nhiên "Unstoppable" đã được chuyển cho cậu khi cậu chạy chậm lại, dẫn đến việc cậu giết chết hai người bạn của mình và làm bị thương người còn lại là đâm vào họ. Cậu gia nhập Union ngay sau đó. Isshin Isshin (一心) là một phụ nữ to lớn và cơ bắp trong bộ áo giáp samurai lớn. Bất cứ thứ gì cô ấy sử dụng khả năng phủ định "Unbreakable" của mình đều được tăng cường độ bền, đến mức trở nên không thể phá hủy. Tên thật của cô ấy là Haruka Yamaoka (山岡 春歌), "Isshin" là tên mà gia đình cô mang với tư cách là thợ rèn và được ban cho người tiếp theo có được khả năng này. Cô là người thứ 13 được mang cái tên này, điều này khiến cô lo lắng và sợ hãi vì không xứng đáng với danh hiệu của mình. Một điều đáng buồn là cô ấy quá lo lắng để nói chuyện và giao tiếp thông qua các dấu hiệu. Ông của cô thay thế vị trí của cô ấy trong vòng lặp cuối cùng, vì cô vẫn còn là một đứa trẻ khi Fuuko chiêu mộ. Phil Hawkins Phil Hawkins (フィル=ホーキンス, Firu Hōkinsu) là một cậu bé với cơ thể được làm từ các cổ vật. Khả năng phủ định của cậu ấy là "Unfeel", vô hiệu hóa các giác quan và cảm xúc của mình, cho phép cậu ấy sử dụng các cổ vật mà không phải chịu tác dụng phụ của chúng. Chikara Shigeno Lồng tiếng bởi: Ayumu Murase Chikara Shigeno (重野 力, Shigeno Chikara) là một Phủ định gia mới thức tỉnh và là thành viên mới gia nhập. Cậu hơi hèn nhát và luôn hoảng sợ trong những tình huống nguy hiểm, nhưng sẽ thể hiện lòng dũng cảm khi cần. Khả năng của cậu ấy là "Unmove", có khả năng đông cứng chuyển động của bất cứ thứ gì cậu nhìn miễn là bản thân cậu không di chuyển. Giống như Fuuko, cậu đã vô tình giết chết cha mẹ mình khi năng lực của cậu lần đầu bộc lộ. Gina Chamber Lồng tiếng bởi: Aoi Yūki   Gina Chamber (ジーナチェンバー, Jīna Chenbā) là cựu thành viên của Union. Cô đã là một phụ nữ lớn tuổi đến từ Nga, người đã sử dụng khả năng "Unchange" của mình để cho phép cô ấy phủ nhận bất kỳ thay đổi nào đối với những đồ vật vô tri, thứ mà cô dùng để khiến mình trông trẻ hơn bằng cách sử dụng khả năng phủ định để đóng băng lớp trang điểm trên mặt cô. Cô yêu Andy nhưng bị anh tiêu diệt để Fuuko có thể gia nhập Union và chết trong thanh thản sau khi Andy hôn cô và nói rằng cô rất xinh đẹp, ngay cả khi tuổi thật của cô đã bị tiết lộ. Khả năng của cô được thể hiện khi UMA Heat tấn công ngôi làng của cô, khiến cô có khả năng đóng băng không khí và giết chết 40.000 người do ngạt thở. Void Volks Lồng tiếng bởi: Kenji Nomura   Void Volks (ボイド=ボルクス, Boido Borukusu) là một nhà vô địch quyền anh hạng nặng và là cựu thành viên của Union. Anh ta không hề e ngại với việc giết người và tin rằng những Phủ định gia không thuộc Union là "UMA quái đản". Khả năng Phủ định của anh,"Unavoidable" vô hiệu hóa khả năng né tránh của đối thủ khi anh vào một tư thế nhất định trước khi tấn công. Trong vòng lặp ban đầu, Andy đã giết anh ta bằng viên đạn của mình khi Void không thể phá vỡ khả năng tái sinh của Andy. Anh được Fuuko chiêu mộ trong vòng lặp cuối cùng, bi kịch giết chết đối thủ cuối cùng của anh ở các vòng lặp trước đã được cô ngăn cản và tình yêu quyền anh của anh lại tiếp thêm sinh lực. Under Billy Alfred Lồng tiếng bởi: Rikiya Koyama   Billy Alfred (ビリー=アルフレッド, Birī Arufureddo) ban đầu là thành viên của Union, nhưng sau đó bị phát hiện là kẻ phản bội và là thủ lĩnh của Under. Khả năng Phủ định của anh ta được cho là "Unbelievable", cho phép anh bắn đạn theo những hướng dường như sẽ trượt mục tiêu, nhưng sẽ nảy lại để bắn trúng chúng. Khả năng Phủ định thực sự của anh lại là, "Unfair", phủ nhận sự công bằng của người dùng chỉ có một khả năng, trao cho anh ta sức mạnh để sao chép các khả năng Phủ định khác miễn là mục tiêu coi anh như kẻ thù. Kết quả là anh có quyền điều khiển một số khả năng của Phủ định gia. Rip Tristan Lồng tiếng bởi: Yuki Kaji Rip Tristan (リップ=トリスタン, Rippu Torisutan) là một sát thủ và là thành viên của Under. Khả năng Phủ định của hắn, "Unrepair", phủ nhận khả năng chữa lành mọi vết thương mà hắn ta gây ra cho những người khác. Hắn ta cũng có Cổ vật "Trảm Truy", tạo ra những lưỡi kiếm khi hắn đá và cho phép hắn bay. Hắn ta dường như chết bởi Andy, nhưng được hồi sinh trong cơ thể đứa trẻ nhờ Feng sử dụng một Cổ vật, và sau đó được Anno Un phục hồi về tuổi thật của mình. Hắn ta trước đây là một bác sĩ phẫu thuật có khả năng là người dẫn đến cái chết của người yêu hắn, Leila. Hắn và Latla tìm kiếm Ark để quay về quá khứ và cứu cô, khiến họ xung đột với Union. Latla Mirah Lồng tiếng bởi: Ikumi Hasegawa Latla Mirah (ラトラ=ミラー, Ratora Mirā) là bạn thân nhất của Rip và là một thầy bói. Khả năng Phủ định của cô, "Untrust", phủ nhận những dự đoán của cô, cho phép cô chuyển hướng các cuộc tấn công mà cô tin rằng sẽ tấn công mình và thay vào đó, điều ngược lại với bất cứ điều gì cô tin rằng sẽ xảy ra. Feng Kowloon Lồng tiếng bởi: Toshiyuki Morikawa Feng Kowloon (ファン=クーロン, Fan Kūron) là một võ sĩ người Trung Quốc luôn đội mũ trùm đầu, sau này được tiết lộ là thầy cũ của Shen. Bị ám ảnh bởi việc trở thành "kẻ mạnh nhất trong vạn vật", Feng đã nhận nuôi các đệ tử, bao gồm cả Shen và em gái của anh, nhưng lại có ý định giết họ để anh có thể mạnh mẽ hơn. Feng chịu trách nhiệm về cái chết của em gái Shen, chất xúc tác cho hành trình tìm kiếm sức mạnh của Shen. Mặc dù là một ông già khi gặp Shen nhưng ông đã khôi phục lại tuổi trẻ của mình bằng Cổ vật "Life is Strange", thứ mà ông cũng dùng để hồi sinh Rip. Khả năng của ông, "Unfade", ngăn ông già đi hoặc chết vì tuổi già. Creed Deckard Lồng tiếng bởi: Hiroki Yasumoto Creed Deckard (クリード=デッカード, Kurīdo Dekkādo) là một Phủ định gia chuyên về vũ khí. Khả năng Phủ định của hắn, "Undecrease", cho phép hắn ta bắn vũ khí và chất nổ mà không cần nạp lại, mặc dù phải sử dụng hết số đạn đã bắn để điều này hoạt động. Nếu chất nổ của hắn không phát nổ, hắn ta không thể sử dụng chúng nữa cho đến khi chúng phát nổ. Backs Lồng tiếng bởi: Hina Kino Backs (バックス, Bakkusu) là một thành viên có vẻ ngoài trẻ con, mặc trang phục thỏ, do đó cô có biệt danh là "Bunny". Khả năng phủ định của cô, "Unback", cho phép cô bẫy các đồ vật trong trứng. Sean Datz Lồng tiếng bởi: Kento Shiraishi Sean Datz (ショーン・ダッツ, Shōn Dattsu) là một diễn viên đầy tham vọng đã trở thành một tên côn đồ khi anh phát triển khả năng phủ định "Unseen" khiến anh trở nên vô hình khi nhắm mắt lại, do đó khiến cuộc sống của một diễn viên trở nên bất khả thi. Anh ta bị Rip ép buộc tuyển dụng, nhưng khi anh cố giết Fuuko, Andy đã chém anh ta làm đôi bằng chiêu thức Deadline mới của mình. Anh ấy đã được Fuuko tuyển dụng trong vòng lặp mới. Burn Lồng tiếng bởi: Ryunosuke Watanuki   Burn (バーン, Bān) là một UMA liên kết với Under. Hắn ta bị Union bắt giữ, nhưng sau đó được Billy giải thoát để đánh cắp Bàn tròn, và lúc đó giết UMA Winter theo lệnh của Billy. Đúng như tên gọi, hắn ta là một UMA khổng lồ to lớn với cơ thể luôn bốc cháy. Các nhân vật khác Akira Kuno Lồng tiếng bởi: Yumi Uchiyama (Anno Un) Akira Kuno (久能 明, Kunō Akira) là một họa sĩ manga đã vẽ To You, From Me, bộ truyện manga yêu thích của Fuuko. Anh là một phủ định gia với khả năng "Unknown", khiến toàn bộ sự tồn tại của mình không được chú ý. Anh có một cổ vật G-Pen cho phép mình biến những bức vẽ của mình thành hiện thực. Anh ta đã sử dụng cổ vật này để tạo ra một nhân cách thay thế, được gọi là "Anno Un", nhằm bỏ qua ảnh hưởng của khả năng của mình. Cổ vật này cũng cung cấp cho anh kiến ​​thức về tương lai, cho phép mình nhìn thấy những sự kiện sẽ xảy ra xung quanh Union và Under, đồng thời cho phép anh để lại gợi ý trong bộ truyện tranh của mình. Trong trận chiến với UMA Autumn, G-Pen đã bị phá hủy, khiến Akira một lần nữa không thể nhận ra, mặc dù anh hài lòng vì mình đã cứu mạng Fuuko và những người bạn mới quen của anh sẽ không bao giờ quên anh. Fuuko ngăn anh ta nhặt G-Pen ở vòng lặp cuối cùng, cho phép anh sống một cuộc sống bình thường. Clothes Lồng tiếng bởi: Jun Fukushima Clothes (クローゼス, Kurōzesu) là UMA đã được Andy thuần hóa. Hắn ta mang hình dạng quần áo tái sinh trên cơ thể Andy. Spoil Lồng tiếng bởi: Nobuo Tobita Spoil (スポイル, Supoiru) là UMA loại hiện tượng thể hiện sự mục rữa và mục nát. Hắn ta xuất hiện ở thị trấn nông thôn Longing và bắt đầu tàn phá ở đó, thu hút sự chú ý của Union và trở thành mục tiêu trong nhiệm vụ đầu tiên của Fuko và Andy, cùng với Shen. Victor Victor (ヴィクトル, Vikutōru) là nhân cách thứ hai trong Andy, đồng thời là người đồng sáng lập Union cùng với Juiz. Không giống như Andy, anh tàn nhẫn và giết người không chút thương xót. Anh có khả năng làm chủ khả năng Phủ định "Undead" tốt hơn. Anh giữ lại tất cả ký ức về tất cả các vòng lặp trước đó, vì chỉ anh ta mới có khả năng sống sót sau Ragnarok, và do đó đã sống được hàng tỷ năm. Victor yêu Juiz và tìm cách giết cô để chấm dứt nỗi đau khổ của cô. Ban đầu phản đối Fuuko và Andy, anh làm hòa với họ trong tinh thần Andy, quyết định tin vào sự tin tưởng của Juiz dành cho họ và xem quyết tâm của họ sẽ dẫn đến đâu. Apocalypse Lồng tiếng bởi: Tomokazu Sugita   Apocalypse (黙示録, Apokaripusu) là một hiện vật có tri giác được Union thu được. Đó là một cuốn sách sống nằm ở trung tâm của phòng Hội nghị bàn tròn, giao cho Union các nhiệm vụ phải hoàn thành dưới sự đe dọa của các hình phạt nhằm thúc đẩy tận thế Ragnarok. Nó có khả năng tạo ra UMA là phần thưởng hoặc hình phạt. Phương tiện truyền thông Manga Undead Unluck do tác giả sáng tác và minh họa, với một chương truyện one-shot được đăng trên tạp chí shōnen Weekly Shōnen Jump của Shueisha vào tháng 1 năm 2019. Sau đó, truyện bắt đầu được đăng dài kỳ trên ấn bản tạp chí Weekly Shōnen Jump số 8 kể từ ngày 20 tháng 1 năm 2020. Công ty Shueisha đã gộp lại các chương của Undead Unluck thành những tập riêng lẻ, trong đó tập đầu tiên xuất bản vào ngày 3 tháng 4 năm 2020. Tính đến ngày 2 tháng 2 năm 2024, đã có hai mươi tập truyện đến tay độc giả. Undead Unluck đã được công ty giải trí Mỹ Viz Media đăng nhiều kỳ trên trang web Shonen Jump. Vào tháng 10 năm 2020, Viz Media đã thông báo phát hành các ấn bản kỹ thuật số và in giấy của tác phẩm, trong đó tập đầu tiên ra mắt vào ngày 4 tháng 5 năm 2021. Danh sách tập truyện Những chương truyện chưa được đưa vào tankōbon Undead Unluck có một số chương truyện chưa được chuyển thành tankōbon. Ban đầu chúng được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Weekly Shōnen Jump và Manga Plus của Shueisha, cũng như phiên bản kỹ thuật số của công ty Viz Media. Tiểu thuyết Một cuốn tiểu thuyết có tựa đề do Hirabayashi Sawako chắp bút đã được phát hành vào ngày 3 tháng 2 2023. Nội dung tác phẩm kể về cuộc sống hằng ngày của các thành viên Union, gồm "Gina's Recollection" và "Shen's Academy Infiltration". Tokuza là người chịu trách nhiệm giám sát và vẽ minh họa cho tác phẩm. Cuốn tiểu thuyết thứ hai của cùng tác giả mang tên đã ra mắt vào ngày 4 tháng 10 năm 2023. Anime Vào tháng 8 năm 2022, một bản chuyển thể anime đã được công bố với người hâm mộ. Tác phẩm do TMS Entertainment sản xuất kiêm hoạch định và được hoạt họa bởi David Production, với khâu chỉ đạo do Yuki Yase đảm trách, Morioka Hideyuki chịu trách nhiệm thiết kế nhân vật trong khi phần nhạc phim thì thuộc về tay Suehiro Kenichiro. Tập đầu tiên của phim lên sóng vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 trên khung chương trình Super Animeism của tất cả các mạng lưới truyền hình thuộc nhà đài Nhật Bản JNN, trong đó có MBS và TBS. Thời gian phát sóng của phim dự kiến sẽ kéo dài hai quý. Ca khúc mở đầu "01" do ban nhạc Queen Bee thể hiện, trong khi bài hát cuối phim "Know Me..." thì được trình diễn bởi Kairi Yagi. Ca khúc mở đầu thứ hai mang tên do đảm trách, còn phần nhạc kết được sáng tác và thu giọng bởi Okamoto's. Tác phẩm hiện đang được phát trực tuyến trên nền tảng xem phim Hulu ở Hoa Kỳ, cũng như trên nền tảng Disney+ ở phạm vi toàn thế giới. Vào tháng 6 năm 2023, TMS Entertainment và Bang Zoom! Entertainment thông báo rằng họ sẽ tổ chức một buổi thử giọng để tuyển người lồng tiếng Anh tại hội nghị Anime Expo, diễn ra vào ngày 4 tháng 7. Phiên bản Anh ngữ của tác phẩm đã ra mắt vào ngày 13 tháng 12 cùng năm. Đón nhận Tính đến tháng 12 năm 2022, tổng cộng truyện đã có hơn 1,8 triệu bản được bán ra. Vào năm 2020, tác phẩm đã giành chiến thắng giải Next Manga Award lần thứ 6 và đứng ở vị trí số 1 với 31.685 phiếu bầu. Ngoài ra, Undead Unluck còn được xướng tên ở vị trí thứ 14 trong bảng xếp hạng manga dành cho nam giới xuất sắc nhất năm 2021, được thực hiện bởi Kono Manga ga Sugoi! của nhà xuất bản Takarajimasha. Tác phẩm cũng xếp thứ sáu trong danh sách "Truyện tranh được đề cử bởi nhân viên nhà sách toàn quốc năm 2021" trên trang web Honya Club. Cây bút Nasu Kinoko từ hãng Type-Moon đã đề xuất bộ truyện kèm theo lời bình về chiếc đai sách của tập thứ chín. Rebecca Silverman đến từ Anime News Network đã đưa ra bài đánh giá trái chiều về tập đầu tiên, trong đó viết rằng "Undead Unluck là một sự hòa quyện giữa thể loại hài hước và kinh dị mà từ đó chia độc giả ra làm hai thái cực "Tôi yêu nó" và "Tôi ghét nó". E rằng tôi thuộc loại thứ hai." Trong khi đó, Lynzee Loveridge cũng đến từ Anime News Network đã nhận định về lối viết của tác phẩm như sau: "Những pha tàn phá bừa bãi được thể hiện bằng các chi tiết minh họa đáng yêu, chẳng hạn như một đoàn tàu trật bánh hoặc những tòa nhà đổ sập xuống", nhưng lại phê bình rằng "cốt truyện của tác phẩm cứ khăng khăng đòi đóng khung cặp đôi trong một mối quan hệ tưởng chừng như có thể chuyển sang bạo lực hoặc thậm chí là cưỡng hiếp bất cứ lúc nào". Cây bút Hannah Collins của Comic Book Resources đã mô tả Undead Unluck là "một bộ truyện hài hước gàn dở đến bất ngờ", đồng thời ca ngợi nét vẽ của Tozuka cũng như lối miêu tả bạo lực đã "làm nên một số phân đoạn chiến đấu rất hấp dẫn." Tuy nhiên, Collins chỉ trích tác phẩm trong việc khắc họa mối quan hệ giữa Fuuko và Andy khi "cơ thể của Fuuko chủ yếu được sử dụng như một công cụ tình dục để Andy sờ mó và tận hưởng theo ý muốn", sau đó kết thúc bài đánh giá của mình bằng lời nhận định "tác phẩm đã giới thiệu một thế giới đủ thú vị để có thể khắc phục những sai sót trong nội dung khi câu chuyện trên đà tiến triển." Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Animeism Anime dài tập dựa trên manga Anime và manga hài David Production Shōnen manga Manga Shūeisha Anime và manga siêu nhiên Manga Viz Media Manga năm 2020 Anime truyền hình dài tập năm 2023 Anime và manga phiêu lưu
19842468
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishitsugaru%20%28huy%E1%BB%87n%29
Nishitsugaru (huyện)
là huyện thuộc tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của huyện là 16.390 và mật độ dân số là 20 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 832 km2. Tham khảo Huyện của Aomori
19842469
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20seychellensis
Myripristis seychellensis
Myripristis seychellensis là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829. Từ nguyên Từ định danh seychellensis được đặt theo tên gọi của quốc đảo Seychelles, nơi mà mẫu định danh của loài cá này được thu thập (–ensis: hậu tố chỉ nơi chốn). Phạm vi phân bố và môi trường sống M. seychellensis có phân bố giới hạn ở các đảo quốc thuộc tây nam Ấn Độ Dương, được ghi nhận ở ngoài khơi Madagascar và các đảo quốc lân cận là Seychelles, Réunion, Comoros và Mauritius (cũng gồm bãi ngầm Saya de Malha và Cargados Carajos). Phạm vi của M. seychellensis sau đó đã mở rộng đến bờ tây nam Ấn Độ, khi một mẫu vật được thu thập ngoài khơi bang Kerala. M. seychellensis sống trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 21 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. seychellensis là 23 cm. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 14–15; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 13–14; Số tia ở vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 28–30. Sinh thái M. seychellensis là loài ăn đêm, thường hay ẩn náu dưới gờ đá và trong hang hốc vào ban ngày, và thức ăn chủ yếu của chúng là động vật phù du. Tham khảo S Cá Ấn Độ Dương Cá Seychelles Cá Comoros Cá Madagascar Cá Mauritius Cá Réunion Cá Ấn Độ Động vật được mô tả năm 1829
19842475
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moon%20Woo-jin
Moon Woo-jin
Moon Woo-jin (tiếng Hàn: 문우진), sinh ngày 19 tháng 02 năm 2009, là một diễn viên Hàn Quốc. Xuất hiện lần đầu trong CF của Green Finger năm 2015, và ra mắt với tư cách một diễn viên năm 2016, đến nay Woo-jin đã xuất hiện trong nhiều dự án nổi bật như Castaway Diva (Diva của đảo hoang) 2023, The Devil Judge (Thẩm phán ác ma) 2021, Beauty Inside (Vẻ đẹp tiềm ẩn) 2018, What's Wrong with Secretary Kim? (Thư ký Kim sao thế?) 2018 ... Đặc biệt, các tác phẩm Woo-jin đóng vai chính bao gồm: Heatwave Warning/Dog Days of Summer (Mùa hè ở Daegu) 2023, MoonParkJiHo 2022, Where Would You Like to Go? 2023. Moon Woo-jin hiện đang hoạt động dưới quyền quản lý của T-One Entertainment Phim truyền hình Phim điện ảnh Phim ngắn Video âm nhạc Quảng cáo Đại sứ quảng bá Đề cử và giải thưởng Liên kết Moon Woo-jin trên Instagram Moon Woo-jin trên Naver Nguồn tham khảo Diễn viên Hàn Quốc Diễn viên nhí
19842479
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hugo%20Curioni
Hugo Curioni
Hugo Alberto Curioni (sinh ngày 11 tháng 10 năm 1946) là một cựu cầu thủ bóng đá người Argentina chơi ở vị trí tiền đạo. Trong cả sự nghiệp, ông thi đấu ở 3 quốc gia khác nhau, gồm Argentina, Pháp và México. Sự nghiệp thi đấu Argentina Curioni bắt đầu sự nghiệp chuyên nghiệp của mình với Instituto de Córdoba vào năm 1969, rồi ký hợp đồng với Boca Juniors vào năm 1970. Trong mùa giải đầu tiên, ông cùng đội bóng giành chức vô địch quốc nội và cân bằng thành tích ghi bàn của Oscar Más và Ignacio Peña tại Giải vô địch Metropolitan năm 1973. Curioni được người hâm mộ Boca ưu ái nhờ thành tích ghi bàn trong trận derby Superclásico trước đại kình địch River Plate. Ông chia sẻ kỷ lục ghi bàn trong 6 trận Superclásico liên tiếp với Paulo Valentim và ghi tổng cộng 7 bàn sau 11 trận. Pháp Curioni được câu lạc bộ Nantes ký hợp đồng và là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ ba ở mùa giải 1974–75. Vào năm 1975, Curioni chuyển đến Metz, nơi ông là vua phá lưới ở mùa giải 1975–76 và 1976–77. Sau đó, ông thi đấu cho Montpellier và Troyes. México và quay trở lại quê nhà Argentina Curioni có một thời gian thi đấu cho Toluca ở México và trở lại Argentina vào tháng 3 năm 1980 để kết thúc sự nghiệp của mình ở Gimnasia de La Plata. Danh hiệu Boca Juniors Giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina: 1970 Tham khảo Liên kết ngoài Boca Juniors profile Sinh năm 1946 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Argentina Cầu thủ bóng đá Argentina Cầu thủ bóng đá nam Argentina ở nước ngoài Tiền đạo bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Instituto Atlético Central Córdoba Cầu thủ bóng đá Boca Juniors Cầu thủ bóng đá Club de Gimnasia y Esgrima La Plata Cầu thủ bóng đá FC Nantes Cầu thủ bóng đá FC Metz Cầu thủ bóng đá Montpellier HSC Cầu thủ bóng đá ES Troyes AC Cầu thủ bóng đá Deportivo Toluca F.C. Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina Cầu thủ bóng đá Liga MX Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở México
19842537
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aigars%20Kalv%C4%ABtis
Aigars Kalvītis
Aigars Kalvītis (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1966) là doanh nhân, chính khách người Latvia. Trước đây, ông là thành viên của Đảng Nhân dân Latvia từ năm 1997 đến năm 2011, giữ chức vụ làm thủ tướng Latvia nhiệm kỳ 2004-2007. Tham khảo Nhân vật còn sống Chính khách Latvia Chính khách từ Riga Sinh năm 1966 Thủ tướng Latvia
19842538
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc
Lương Đức Phước
Lương Đức Phước (sinh ngày 28 tháng 5 năm 2002) là một vận động viên điền kinh người Việt Nam. Anh từng đoạt huy chương vàng Đại hội Thể thao Đông Nam Á ở nội dung 1500 mét. Thành tích Giải đấu quốc tế Ở Sea Games 31, Lương Đức Phước giành được tấm huy chương vàng cự ly 1.500m. Đây là chiếc huy chương vàng SEA Games đầu tiên trong sự nghiệp của Đức Phước và cũng là tấm huy chương vàng đầu tiên của một VĐV điền kinh Đồng Nai có được tại một kỳ SEA Games. Lương Đức Phước tiếp tục được triệu tập vào đội tuyển điền kinh quốc gia thi đấu Sea Games 32. Nhưng ở kỳ đại hội tại Campuchia, anh đã không thể bảo vệ được tấm huy chương vàng. Tại Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 19, Lương Đức Phước giành được quyền thi đấu lượt chạy chung kết, và xếp thứ 11 chung cuộc. Cấp độ quốc gia Ở các giải đấu cấp quốc gia, Lương Đức Phước thi đấu cho đoàn thể thao Đồng Nai. Anh đã liên tục lập cú đúp huy chương vàng cự ly 800m và 1.500m ở Đại hội thể thao toàn quốc 2022 và sau đó là giải vô địch điền kinh quốc gia năm 2023. Cuối năm 2023, Lương Đức Phước lần đầu thử sức thi đấu cự ly dài ở giải VNExpress Marathon Hải Phòng, về nhì cự ly marathon. Tham khảo Người Đồng Nai Người họ Lương tại Việt Nam Sinh năm 2002 Nhân vật còn sống Vận động viên điền kinh Việt Nam Huy chương vàng Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021
19842543
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20trachyacron
Myripristis trachyacron
Myripristis trachyacron là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1863. Từ nguyên Từ định danh trachyacron được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: trākhús (τραχύς; “thô ráp, xù xì”) và ákron (ἄκρον; “đỉnh, chóp”), hàm ý đề cập đến sọ của loài cá này có độ gồ ghề. Phân bố và môi trường sống M. trachyacron có phân bố ở khu vực Tam giác San Hô và mở rộng đến Nouvelle-Calédonie. Chúng sống trên các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 50 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. trachyacron là 20 cm. Cá có màu cam sẫm, chóp gai vây lưng có màu trắng và chóp thùy đuôi có vệt đen. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 14–15; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 11–13; Số vảy đường bên: 31–33. Sinh thái M. trachyacron thường hợp thành nhóm nhỏ, trú ẩn dưới gờ đá và trong hang hốc. Chúng ăn động vật phù du. Thương mại M. trachyacron có thể được đánh bắt trong nghề cá thủ công. Tham khảo T Cá Thái Bình Dương Cá Philippines Cá Papua New Guinea Cá Nouvelle-Calédonie Động vật quần đảo Solomon Động vật được mô tả năm 1863
19842544
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B4%20h%C3%ACnh%20l%C3%BAa%20%E2%80%93%20c%C3%A1
Mô hình lúa – cá
Mô hình lúa – cá là mô hình sản xuất kết hợp trong lĩnh vực nông nghiệp. Mô hình này kết hợp việc trồng lúa nước và nuôi cá trong đồng ruộng. Mô tả Cá được thả vào ruộng có tác dụng tận dụng môi trường nước để nuôi cá, giúp giảm sâu bệnh, tặng độ phì nhiêu đất đai và giảm phí công làm đất. Vụ mùa được chét làm thức ăn cho cá, giảm chi phí thức ăn. Mô hình được xem là đã phát triển để đáp ứng tình hình tăng giá vật tư nông nghiệp gồm phân bón, thuốc trừ sâu. Mô hình sản xuất tuần hoàn này là quan hệ cộng sinh giữa lúa và cá, tạo ra hiệu quả kép giữa chúng, và hiệu quả kép cho kinh tế lẫn môi trường. Theo cách nuôi này, cá được đánh giá ít bệnh, lớn nhanh. Cá ăn sâu bệnh hại lúa trên thân lúa, sục bùn ăn cỏ dại non, khi lúa được thu hoạch chúng sẽ ăn rơm rạ vụn và sâu bọ. Chúng ăn cả trứng ốc bươu vàng. Cá nuôi theo cách này có thể kết hợp cả thức ăn công nghiệp lẫn thức ăn tự nhiên, nguồn thức ăn tự nhiên của ruộng lúa làm cho thịt của cá ngon hơn. Phân của cá là nguồn phân hữu cơ tốt cho lúa. Do đó, sự tương hỗ này giảm thiểu sử dụng hóa chất chăm sóc lúa, tạo ra các sản phẩm an toàn và môi trường ít ô nhiễm. Mô hình này khiến cả lúa và cá đều tăng năng suất, lúa đạt 3,4 tấn/ha, cá 9,6 tấn/ha. Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đánh giá mô hình này tạo ra lợi nhuận gấp 4 lần canh tác thông thường, thúc đẩy nông dân lao động, làm giảm tình trạng ruộng bỏ hoang. Thực hiện Ruộng phải đắp thửa kín không để cá thất thoát ra ngoài, có thể đào ao rộng một bên hay xung quanh ruộng. Làm vệ sinh ao nuôi, vét hết cá tạp và địch hại của cá nuôi. Chọn giống lúa và giống cá phù hợp với nhau, liên quan tương ứng thời gian sinh trưởng. Chẳng hạn, giống lúa ST25 có thể kết hợp với cá rô đồng bản địa Việt Nam, giống lúa DT39 kết hợp với cá rô đầu nhím, giống lúa TH3-3 kết hợp cá trắm, chép, trôi, rô phi và cá mè. Tính toán số lượng cá để phân bổ chúng có mật độ phù hợp, mật độ cá rô đồng là 2 con/m2, cá trắm, chép, trôi, rô phi là 3-5 con/m2. Có hai phương pháp từ mô hình này: Mô hình cá – lúa xen canh: canh tác lúa và nuôi cá trong cùng một thời vụ, việc thu hoạch cá sẽ được thực hiện sau khi gặt lúa Mô hình cá – lúa luân canh: sau thu hoạch một vụ lúa sẽ dâng nước lên để nuôi một vụ cá Mô hình bắt đầu từ Thới Lai, Cần Thơ vào năm 1990 một cách tự phát, đến năm 1995 được nghiên cứu và phát triển. Sau đó đã lan ra áp dụng tại các tỉnh khác của miền Nam Việt Nam như Tiền Giang, Hậu Giang, Cà Mau,... Sau đó, bắt đầu áp dụng tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam như Thanh Hóa năm 2015, Tuyên Quang, Hải Dương vào năm 2018, Hải Phòng vào năm 2019, Ninh Bình vào năm 2020, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Hà Nội vào năm 2022,...Tại Thanh Hóa, cho đến năm 2021, có 8.000 ha ruộng lúa kết hợp nuôi cá. Xem thêm Mô hình lúa – cá – vịt Mô hình vườn – ao – chuồng Chú thích Liên kết ngoài Kinh tế kết hợp Nông nghiệp Ngư nghiệp
19842551
https://vi.wikipedia.org/wiki/Iori%20Himeka
Iori Himeka
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại tỉnh Shizuoka và thuộc về công ti Life Promotion. Sự nghiệp Tháng 9/2022, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của Idea Pocket. Cô đã nói lí do ra mắt ngành của mình là "Tôi đã đang lướt Twitter và đã thấy một nữ diễn viên khiêu dâm rất đáng yêu. Vì vậy tôi cũng muốn tham gia thế giới này." Mặc dù lúc đó cô biết rằng phim khiêu dâm là "về quan hệ tình dục", cô đã chưa từng thực sự xem chúng.。 Cô đã xuất hiện trên bìa tạp chí FANZA hàng tuần số đầu tiên trong tháng 6/2023 (GOT). Đời tư Điểm nổi bật của cô là bộ ngực Cup L. Ngực của cô đã có cỡ Cup F khi cô học tiểu học, tuy nhiên chúng đã bắt đầu to ra vào năm ba cấp hai, và đến khi cô học cấp ba, ngực cô đã to như hiện tại. Cô đã ghét việc không thể trông đáng yêu khi mặc đồng phụ (cô trông khá mập) và đã có phức cảm về điều này. Lần đầu cô quan hệ tình dục là vào năm đầu trung học, tại một khách sạn với một đàn anh cao và đẹp trai trong đội bóng rổ. Cô cảm thấy khá đau đớn khi quan hệ tình dục lần đầu, và cô đã nói rằng cô không thực sự thích quan hệ tại thời điểm đó. Cô đã hẹn hò với bạn trai đầu tiên trong khoảng 1 năm. Người tiếp theo cô hẹn hò là một giáo viên thể dục tại một trường trung học khác, và họ đã hẹn hò đến khi cô tốt nghiệp trung học. Sau khi tốt nghiệp trung học, cô đã làm việc tại một quán rượu. Từ khi cô bắt đầu hoạt động trong ngành phim khiêu dâm, cô đã bắt đầu nhận được những lời khen về ngực mình, nói rằng chũng là "vũ khí" của cô. Lớn lên trong một gia đình khá nghiêm khắc, từ nhỏ cô đã luôn mong muốn được chơi búp bê Sylvanian Families và chơi cùng chó Shiba Inu tại nhà bạn (do cô không được có búp bê hay chó tại nhà). Sở thích của cô là lướt mạng, nấu ăn và nghe radio còn kĩ năng đặc biệt của cô là sử dụng cơ thể dẻo dai của mình. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2002 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
19842553
https://vi.wikipedia.org/wiki/Suzumura%20Airi
Suzumura Airi
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Sau khi làm tại Lotus Group và Zeal Group, cô hiện thuộc về công ti NAX Promotion từ tháng 10/2017. Sự nghiệp Cô sinh ra tại tỉnh Kanagawa. Tháng 2/2013, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của hãng phim khiêu dâm Prestige. Trong cùng năm, cô đã xếp thứ 20 trong "Bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm hàng tháng của DMM.18, xếp thứ 1 trong "Bảng xếp hạng video 1 yên", xếp thứ 1 trong "Bảng xếp hạng Best 100 sản phẩm video hàng tuần", xếp thứ 1 trong "Bảng xếp hạng Best 100 sản phẩm video hàng tháng", xếp thứ 2 trong "Bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm Best 100 đĩa DVD cho thuê hàng tháng", và xếp thứ 1 trong "Bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm Best 100 sản phẩm video hàng tháng". Tại lễ trao giải của Giải thưởng phim người lớn DMM ngày 24/4/2014, phim của cô "Cho tôi mượn, một cô gái thực sự xinh đẹp. ACT.32" đã đạt giải Nội dung xuất sắc nhất trong hạng mục Phân phối. Mặc dù cô cũng đã đủ tiêu chí để được đề cử cho giải Nữ diễn viên xuất sắc nhất từ năm 2015, cô đã không được đề cử do mong muốn riêng. Đến năm 2015, tổng số đĩa DVD bán ra của cô là 500 nghìn, và doanh số bán đĩa DVD là khoảng 500 triệu yên. Cả hai đều là con số lớn nhất từ trước đến nay đối với hãng Prestige. Tháng 12/2020, cô xếp thứ 5 trong bảng "FLASH 2020 BEST100 diễn viên đang hoạt động gợi cảm nhất" được bầu chọn bởi độc giả. Tháng 8/2021, cô xếp thứ 6 trong "Bảng xếp hạng FLASH 2021 diễn viên nữ gợi cảm chọn bởi 300 độc giả". Trong bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA tuần ngày 25/9/2023, phim của cô "Một mình với shirōto-kun (cậu bé ngốc) cả ngày. 8 lần xuất tinh không được nghỉ giữa các hiệp. Suzumura Airi quan hệ đến giới hạn." (素人くんと丸1日2人きり。徹底的に尽くしまくって賢者タイム禁止の8発射精。限界まで搾り取る鈴村あいり。) đã vươn lên xếp thứ 3 ngay khi vừa phát hành. Trong bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA tuần ngày 11/12, phim của cô "Suzumura Airi muốn được creampie vào tử cung 4 tình huống" (子宮で欲しがる鈴村あいりの中出し懇願 4シチューエーション) đã vươn lên xếp thứ 3 ngay khi vừa phát hành. Đời tư Sở thích của cô là làm đồ ngọt. Cô có thói quen thường xuyên xin lỗi, và không giỏi chơi Pop-up Pirate (tên ở Nhật là Kurohige Kiki Ippatsu/黒ひげ危機一発). Do cô mong muốn giữ kín về cuộc sống, cô không thường xuất hiện trên các phương tiện truyền thông như TV hay các tạp chí. Tham khảo Liên kết ngoài Hồ sơ của Prestige 鈴村あいりのブログ (Blog của Suzumura Airi) (23/3/2013 - ) (đã dừng hoạt động) (tài khoản mới) (13/10/2022 - ) (8/3/2019 - ) Sinh năm 1993 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
19842554
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20%C4%91%E1%BA%A5u%20lo%E1%BA%A1i%20tr%E1%BB%B1c%20ti%E1%BA%BFp%20AFC%20Champions%20League%202023%E2%80%9324
Vòng đấu loại trực tiếp AFC Champions League 2023–24
Vòng đấu loại trực tiếp AFC Champions League 2023–24 sẽ diễn ra từ ngày 12 tháng 2 năm 2024 đến ngày 18 tháng 5 năm 2024. Sẽ có tổng cộng 16 đội tham dự vòng đấu loại trực tiếp để tìm ra nhà vô địch của AFC Champions League 2023–24. Các đội đủ điều kiện Những đội nhất bảng và 3 đội nhì bảng có thành tích tốt nhất tại vòng bảng từ mỗi khu vực sẽ giành quyền tham dự vòng 16 đội, mỗi khu vực có tám đội đủ điều kiện. Thể thức Ở vòng đấu loại trực tiếp, 16 đội sẽ thi đấu loại trực tiếp. Mỗi cặp đấu sẽ diễn ra theo thể thức hai lượt sân nhà và sân khách. Hiệp phụ và loạt sút luân lưu sẽ được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết (Quy định Điều 10.1). Luật bàn thắng sân khách đã bị AFC bãi bỏ khỏi tất cả các giải đấu cấp câu lạc bộ của AFC kể từ mùa giải 2023–24. Lễ bốc thăm cho toàn bộ vòng loại trực tiếp được tổ chức vào ngày 28 tháng 12 năm 2023, 16:00 MYT (UTC+8), tại Tòa nhà AFC ở Kuala Lumpur, Malaysia. Lịch thi đấu Dưới đây là lịch thi đấu mỗi vòng. Sơ đồ Dưới đây là sơ đồ của vòng đấu loại trực tiếp: Vòng 16 đội Tóm tắt Các đội sẽ thi đấu theo thể thức hai lượt sân nhà và sân khách. |+Tây Á |+Đông Á Khu vực Tây Á Al Ain thắng với tổng tỉ số 2–1. Al-Nassr thắng với tổng tỉ số 3–0. Al-Hilal thắng với tổng tỉ số 6–2. Al-Ittihad thắng với tổng tỉ số 2–1. Khu vực Đông Á Jeonbuk Hyundai Motors thắng với tổng tỉ số 3–1. Ulsan HD thắng với tổng tỉ số 5–1. Sơn Đông Thái Sơn thắng với tổng tỉ số 6–5. Yokohama F. Marinos thắng với tổng tỉ số 3–2. Tứ kết |+Tây Á |+Đông Á Khu vực Tây Á Tổng tỉ số sau hai lượt trận là 4–4. Al Ain thắng 3–1 trong loạt sút luân lưu. Al-Hilal thắng với tổng tỉ số 4–0. Khu vực Đông Á Ulsan HD thắng với tổng tỉ số 2–1. Yokohama F. Marinos thắng với tổng tỉ số 3–1. Bán kết |+Tây Á |+Đông Á Khu vực Tây Á Khu vực Đông Á Chung kết Xem thêm Vòng đấu loại trực tiếp Cúp AFC 2023–24 Ghi chú Tham khảo 2023 Bóng đá châu Á năm 2023
19842557
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt%20bi%E1%BA%BFn%20th%E1%BB%83
Thuyết biến thể
Thuyết biến thể (chữ La-tinh: transubstantiatio, chữ Hi Lạp: μετουσίωσις, chữ Hebrew: טרנסובסטנציאציה), hoặc gọi là biến đổi bản thể, là một trong những học thuyết bí tích của thần học Cơ Đốc giáo, cũng là một trong những giáo điều cốt lõi của Cơ Đốc giáo. Trong bữa ăn tối cuối cùng, Chúa Giê-xu chúc mừng các môn đồ bằng bánh và rượu: "Này là thân thể ta", "này là huyết ta". Theo quan điểm truyền thống của Công giáo Rôma, bản chất của bánh và rượu lúc này biến thành thịt và máu của Chúa Giê-xu, bánh và rượu xưa nay chỉ còn là ngoại hình do ngũ quan của ta cảm nhận được. Thuyết biến thể chính thức được xác nhận tại Công đồng Lateran IV vào năm 1215, nhưng về sau lại bị các nhà cải cách như John Wycliffe thách thức. Tin Lành có 3 quan điểm về lễ Tiệc Thánh: Martin Luther mặc dù tuyên bố không công nhận thuyết biến thể nhưng lại cho rằng bánh và rượu trong lễ Tiệc Thánh cũng là thịt và máu của Chúa Giê-xu, uống rượu và ăn bánh là uống máu và ăn thịt của Chúa Giê-xu; Huldrych Zwingli cho rằng lễ Tiệc Thánh chỉ đơn thuần kỉ niệm về sự chết của Chúa Giê-xu, bánh và rượu chỉ có ý nghĩa vật chất; Jean Calvin dung hoà quan điểm của Luther và Zwingli, cho rằng rượu và bánh trong lễ Tiệc Thánh vừa có ý nghĩa vật chất (ở bên ngoài), vừa có ý nghĩa thuộc linh (ở bên trong). Trong quá trình phát triển, tuy các tông phái Tin Lành còn có những quan điểm khác nhau về lễ Tiệc Thánh nhưng nhìn chung đều phủ nhận thuyết biến thể của Công giáo Rôma. Đa số tông phái Tin Lành cho rằng lễ Tiệc Thánh là kỉ niệm về sự chết của Chúa Giê-xu chuộc tội cho loài người, qua đó nhắc nhở con người sống xứng đáng với Thiên Chúa. Lễ Tiệc Thánh của Công giáo Rôma được tiến hành với nghi thức rườm rà, tín đồ chỉ được ăn bánh thánh, còn rượu thánh không được uống mà dành cho các giáo sĩ. Đạo Tin Lành thực hiện nghi lễ Tiệc Thánh đơn giản hơn, tất cả tín đồ và giáo sĩ cùng uống rượu và ăn bánh. Lễ Tiệc Thánh thường được tổ chức vào chủ nhật đầu tiên của từng tháng. Chú thích Thuật ngữ Kitô giáo Giáo lý và thần học Công giáo Thuyết Cơ Đốc
19842566
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sakurai%20Ayu
Sakurai Ayu
là một diễn viên sân khấu và cựu nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại tỉnh Miyazaki, và thuộc về công tiT-Powers. Tham khảo Sinh năm 1991 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
19842571
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1nh%20m%C3%AC%20k%E1%BA%B9p%20Bondiola
Bánh mì kẹp Bondiola
Bánh mì kẹp Bondiola hoặc bondipan là một loại bánh mì kẹp ăn kèm với những lát thịt vai lợn dày, thường được bày bán trong các quán ăn đường phố hoặc nhà hàng ở Argentina. Loại thịt sử dụng cho món ăn này chủ yếu là thịt vai lợn nướng hoặc ướp muối, được đặt trên một chiếc bánh mì brioche giòn tan. Ngoài ra, người ta cũng có thể phủ lên trên món ăn nhiều loại gia vị hoặc rau củ khác nhau. Tổng quan Bánh mì kẹp Bondiola xuất hiện rất nhiều trong thực đơn của các nhà hàng tại thủ đô Buenos Aires. Vào năm 2013, món bánh đã sánh vai với xúc xích choripán và thịt nướng parrilla về mức độ phổ biến. Bên cạnh đó, bánh còn hay được gọi bằng cái tên "bondipan". Loại thịt lợn dùng trong bánh mì kẹp thường được nướng trực tiếp trên lửa, đồng thời người dân coi đây là một món ăn đường phố. Ngoài ra, bánh còn được xem như một món ăn truyền thống với những đặc trưng như sau: những lát thịt lợn dày đặt trên một ổ bánh mì giòn và chấm cùng nước xốt chanh tỏi. Thành phần Loại thịt đặc trưng của món bánh là thịt vai lợn nướng ướp muối, được dùng làm topping cho ổ bánh mì. Bánh mì kẹp Bondiola cũng thường được phục vụ chung với nước ép chanh mát lạnh. Loại bánh này có rất nhiều biến tấu đa dạng khác nhau. Đôi khi thịt Bondiola thường được om trong bia rồi phục vụ kèm với pho mát cheddar và hành tây ướp caramel, sau đó ăn chung với bánh mì brioche. Mặt khác, người ta cũng có thể thưởng thức chung với xà lách trộn, bắp cải và salad xốt mayonnaise. Thỉnh thoảng món thịt bondiola cũng được nhồi cùng với một vài nguyên liệu khác như thịt xông khói và hành tây. Thịt Bondiola Thịt vai lợn béo ngậy được chế biến chung với các gia vị như hạt nhục đậu khấu, muối, ớt bột paprika và tiêu. Sau đó, người chế biến bọc thịt và buộc lại trong vòng 30 đến 60 ngày. Trong khoảng thời gian đó nước sẽ bốc hơi ra khỏi thịt và xảy ra quá trình lên men acid lactic. Những enzyme được giải phóng cũng mang lại hương vị thơm ngon hơn cho món ăn. Món thịt Bondiola cũng có thể được làm từ thịt đùi sau hoặc lấy trên phần cơ cổ. Quá trình ướp muối bondiola thường bao gồm công đoạn muối thịt được bọc trong bong bóng lợn hoặc cũng có thể bổ sung thêm thịt bê (bondiola di Adria) hay hun khói thịt (bondiola affumicata). Khi thịt xông khói được cho vào quá trình ướp muối, người ta sẽ gọi nó là Bondiola di Treviso. Ngoài ra, cũng có một loại thịt tương tự của Hoa Kỳ mang tên gọi thịt mông Boston. Xem thêm Danh sách bánh mì kẹp Các món ăn từ thịt lợn Tham khảo Ẩm thực Argentina Món ăn quốc gia Ẩm thực đường phố
19842574
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A5c%20an%20t%C3%A1ng%20c%E1%BA%A1nh%20nh%C3%A0%20t%E1%BA%A1i%20T%C3%A2y%20Nam%20B%E1%BB%99
Tục an táng cạnh nhà tại Tây Nam Bộ
Tục an táng cạnh nhà là tục phổ biến tại Tây Nam Bộ trong việc an táng người chết. Tại vùng này, người chết sẽ được an táng gần với căn nhà, họ sẽ được chôn bên hông, sau, trước, hoặc ngay bên trong nhà. Mồ mả cũng được đặt nằm ngoài đồng ruộng, vườn cây. Mô tả Tục này liên quan quá trình lịch sử khai khẩn đất đai ở vùng Tây Nam Bộ. Vùng này từng là vùng đất có diện tích lớn rừng rậm, đầm lầy, có nhiều thú lớn như hổ, lợn rừng. Khi người chết được chôn cất thường xảy ra tình trạng thú rừng đào xác người để ăn. Cho đến thế kỷ 20, khu vực Cà Mau vẫn còn nhiều rừng rậm, nên vẫn còn diễn ra mối đe dọa của thú dữ đào xác. Do đó, người thân chôn xác người chết cạnh nhà để trông nom. Nguyên nhân khác của tục này là do địa thế sông nước chằng chịt của vùng sông nước Tây Nam Bộ. Trong nhiều thế kỷ, cầu khỉ vẫn còn phổ biến chứ không có những cây cầu qua sông, rạch hoàn chỉnh như ngày nay. Việc mang quan tài đến nghĩa trang rất bất tiện. Đồng thời, họ quan niệm quan tài vận chuyển bằng thuyền dễ chao đảo, khi lắc lư dễ khiến thân người chết bên trong nằm lệch, sẽ khiến ảnh hưởng cuộc sống con cháu. Con cháu người đã chết sẽ rất khó làm ăn. Nguyên nhân khác bao gồm tình cảm gia đình, lũ lụt, hoặc người trước khi chết sợ con cháu bán đất nên chỉ định chôn cạnh nhà để con cháu phải gắn bó với mảnh đất gia đình. Người vùng khác của Việt Nam không có tục táng này. Người miền Bắc Việt Nam an táng người thân của họ trong các nghĩa trang. Một số trường hợp an táng gần nhà cạnh các khu dân cư xảy ra phản ứng mạnh từ người dân xung quanh. Pháp lý Tục an táng này phải tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam, phải xin phép cơ quan chức năng. Theo Điều 63 Luật Bảo vệ môi trường 2020, việc an táng phải đảm bảo vệ sinh và không gây ô nhiễm môi trường các khu vực dân cư, nguồn nước. Pháp luật Việt Nam không ngăn cản an táng tại đất đai, vườn nhà, nhưng khuyến khích an táng tại nghĩa trang. Vấn đề rộng hơn của phong tục an táng cạnh nhà là việc chôn cất trong khu dân cư. Pháp luật Việt Nam chỉ rõ là trái pháp luật nhưng chưa có quy định chế tài. Tham khảo Tập tục chôn cất Đồng bằng sông Cửu Long
19842577
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fukaura%2C%20Aomori
Fukaura, Aomori
là thị trấn thuộc huyện Nishitsugaru, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.346 người và mật độ dân số là 15 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 488,90 km2. Địa lý Đô thị lân cận Tỉnh Aomori Ajigasawa Tỉnh Akita Happō Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Aomori
19842580
https://vi.wikipedia.org/wiki/Inakadate%2C%20Aomori
Inakadate, Aomori
là một ngôi làng thuộc huyện Minamitsugaru, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 7.326 người và mật độ dân số là 330 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 22,35 km2. Địa lý Đô thị lân cận Tỉnh Aomori Hirakawa Kuroishi Hirosaki Fujisaki Tham khảo Làng của Aomori
19842583
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20h%E1%BA%ADu%20Th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%202025
Hoa hậu Thế giới 2025
Hoa hậu Thế giới 2025 là cuộc thi Hoa hậu Thế giới lần thứ 72. Hoa hậu Thế giới 2023 - Krystyna Pyszková đến từ Cộng hoà Séc sẽ trao lại vương miện cho người kế nhiệm vào cuối đêm chung kết. Thông tin cuộc thi Kết quả Thứ hạng Thí sinh tham gia 34 thí sinh xác nhận sẽ tham gia cuộc thi: Các cuộc thi quốc gia Chú ý Trở lại Lần cuối tham gia vào năm 2019: Lần cuối tham gia vào năm 2021: Tham khảo Hoa hậu Thế giới Cuộc thi sắc đẹp năm 2025
19842584
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20500m%20Nam
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – 500m Nam
Nội dung thi đấu thuyền rồng (đua thuyền truyền thống) 500m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức vào ngày 26 tháng 8 năm 2018. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1–3 → Bán kết (BK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1–4 → Bán kết (BK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết Vòng loại: 1–3 → Chung kết (CK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết 1 Bán kết 2 Chung kết Tail race Trận tranh huy chương Liên kết ngoài Trang web chính thức Tham khảo 500m Nam
19842586
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%201000m%20Nam
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – 1000m Nam
Nội dung thi đấu thuyền rồng (đua thuyền truyền thống) 1000m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức vào ngày 27 tháng 8 năm 2018. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1–3 → Bán kết (BK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1–4 → Bán kết (BK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết Vòng loại: 1–3 → Chung kết (CK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết 1 Bán kết 2 Chung kết Tail race Trận tranh huy chương Liên kết ngoài Trang web chính thức Tham khảo 1000m Nam
19842587
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apollinariya%20Alexandrovna%20Yakubova
Apollinariya Alexandrovna Yakubova
Apollinariya Alexandrovna Yakubova (họ chồng: Takhtareva; 7 tháng 10 năm 1869 — 1917) là một nhà cách mạng Marxist người Nga, một trong những thành viên sáng lập Liên đoàn đấu tranh vì sự giải phóng của giai cấp công nhân. Bên lề, bà được coi là mối tình đầu của lãnh tụ cộng sản Vladimir Ilyich Lenin. Tiểu sử Yakubova sinh năm 1869 trong một gia đình linh mục tại tỉnh Vologda, Đế quốc Nga. Cha Yakubova, vốn là người phóng khoáng và yêu chiều con gái, gửi bà tới học trường cấp ba Mariinsky địa phương. Sau khi tốt nghiệp, vào mùa thu năm 1890, bà lên Sankt-Peterburg để nhập học Khoa Toán và Vật lý của Khóa Bestuzhev dành cho nữ sinh. Trích đoạn Chị gái Lenin, Anna Ilyinichna Ulyanova, có nhắc trong hồi ký: Nhớ lại, vào cái ngày em trai tôi [Vladimir Ilyich Lenin] được phóng thích, đồng chí Yakubova đã chạy vào phòng chúng tôi với mẹ tôi và hôn cậu ấy, dở khóc dở cười. Помню, как в день освобождения брата в нашу с матерью комнату прибежала и расцеловала его, смеясь и плача одновременно, т. Якубова. Tham khảo Thư mục Sinh năm 1869 Mất năm 1917 Mất năm 1913 Người cộng sản Nga
19842588
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A1y%20bay%20h%E1%BA%A1ng%20nh%E1%BA%B9
Máy bay hạng nhẹ
Máy bay hạng nhẹ là một loại máy bay có tổng trọng lượng cất cánh tối đa từ 5.670 kg (12.500 lbs) trở xuống. Loại máy bay này thường được sử dụng làm máy bay tiện ích trong lĩnh vực thương mại để vận chuyển hàng hóa, hành khách, tham quan, chụp ảnh hoặc nhiều mục đích khác, cũng như phục vụ mục đích sử dụng cá nhân. Các ví dụ điển hình về máy bay hạng nhẹ gồm có de Havilland Canada DHC-6 Twin Otter và Beechcraft B200 Super King Air. Công dụng Máy bay hạng nhẹ có thể được dùng để khảo sát trên không, ví dụ như giám sát đường ống dầu khí, vận chuyển hàng hóa nhẹ, và chở khách. Ngoài ra, nó còn được dùng cho mục đích tiếp thị như vừa bay vừa kéo biểu ngữ, băng rôn quảng cáo, viết chữ trên không bằng cách thải khói đặc biệt, phục vụ huấn luyện bay. Phần lớn máy bay cá nhân thuộc sở hữu tư nhân là máy bay hạng nhẹ, phổ biến nhất là Cessna 172, Cirrus SR22, Robinson R44. Máy bay hạng nhẹ cỡ lớn, chẳng hạn như loại trang bị hai động cơ tua bin cánh quạt và máy bay phản lực rất nhẹ, thường được sử dụng làm máy bay thương mại. Hầu hết các thủy phi cơ có càng đáp bằng phao nổi cũng thuộc dạng máy bay hạng nhẹ. Xem thêm An toàn hàng không Máy bay thể thao hạng nhẹ Hàng không siêu nhẹ Tham khảo Khí cụ bay theo loại
19842589
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1i%20Tr%C4%83m%20%C4%90en
Phái Trăm Đen
Phái Trăm Đen (; hay ) là tên gọi một bè phái chính trị có tư tưởng phản động, trung quân, dân tộc chủ nghĩa cực đoan, nổi lên ở Đế quốc Nga đầu thế kỷ thứ 20. Những người theo phái này ủng hộ Vương tộc Romanov và chống đối những nỗ lực muốn bãi bỏ nền quân chủ chuyên chế thời bấy giờ. Phái Trăm Đen nổi tiếng với những hành động cực đoan, kích động các cuộc pogrom, tin tưởng vào chủ nghĩa dân tộc vị Nga, thù ghét ngoại tộc nhằm vào người Ukraina và người Do Thái. Tham khảo Khởi đầu năm 1905 ở Nga Tâm lý bài Ukraina Bài ngoại
19842595
https://vi.wikipedia.org/wiki/Higashid%C5%8Dri%2C%20Aomori
Higashidōri, Aomori
là một ngôi làng thuộc huyện Shimokita, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 5.955 và mật độ dân số là 20 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 295,27 km2. Địa lý Đô thị lân cận Tỉnh Aomori Mutsu Yokohama Rokkasho Khí hậu Tham khảo Làng của Aomori
19842621
https://vi.wikipedia.org/wiki/Iwate%20%28th%E1%BB%8B%20tr%E1%BA%A5n%29
Iwate (thị trấn)
là thị trấn thuộc huyện Iwate, tỉnh Iwate, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 12.285 người và mật độ dân số là 34 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 360,46 km2. Địa lý Đô thị lân cận Tỉnh Iwate Morioka Hachimantai Ichinohe Kuzumaki Tham khảo Thị trấn của Iwate
19842622
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ichinohe%2C%20Iwate
Ichinohe, Iwate
là thị trấn thuộc huyện Ninohe, tỉnh Iwate, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 11.494 người và mật độ dân số là 38 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 300,03 km2. Tham khảo Thị trấn của Iwate
19842645
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20t%E1%BA%A5n%20c%C3%B4ng
Tàu ngầm tấn công
Một Tàu ngầm tấn công (attack submarine hoặc hunter-killer submarine) là một loại tàu ngầm được thiết kế để tấn công và đánh đắm các loại tàu ngầm và tàu mặt nước đối phương. Trong biên chế của Hải quân Liên Xô và Hải quân Nga hiện nay, chúng được gọi dưới cái tên là tàu ngầm đa năng. Chúng cũng có vai trò bảo vệ tàu chiến của quân đội các nước Đồng minh và tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo. Một số tàu ngầm tấn công được trang bị thêm tên lửa hành trình phóng từ tàu ngầm, giúp tăng khả năng tấn công mục tiêu mặt đất. Các tàu ngầm tấn công có thể được trang bị động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân hoặc động cơ "truyền thống" điện diesel. Đối với Hải quân Hoa Kỳ, và tương tự như danh pháp đặt tên tàu ngầm của Hải quân NATO (STANAG 1166), thì tàu ngầm tấn công năng lượng hạt nhân còn được gọi là SSN và tàu ngầm tấn công năng lượng điện diesel được đặt tên SSK. Trong Hải quân Hoa Kỳ, SSN một cách bất thành văn, thường được đặt cho các tàu ngầm tấn công nhanh. Lịch sử ra đời Khởi nguyên Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, tàu ngầm đảm nhiệm vai trò tấn công mặt nước của các Hạm đội tàu ngầm của Hải quân Mỹ và Hải quân của một số nước Châu Âu được gọi là tàu ngầm tuần tra đại dương, tàu "type 1" hay "1st class". Bắt đầu hình thành lớp tàu ngầm tấn công Sau khi Chiến tranh thế giới 2 kết thúc, các tàu ngầm tiên tiến của Đức lúc đó, nhất là lớp Type XXI đã được các nước Đồng minh thu giữ để nghiên cứu. Việc nghiên cứu được diễn ra tại Mỹ và Liên Xô. Ban đầu tàu ngầm lớp XVII với hệ thống đẩu tuốc bin khí nhiên liệu hydrogen peroxide của kỹ sư tàu ngầm Walter thiết kế, cho phép duy trì tốc độ cao của tàu ngầm khi bơi chìm dưới mặt nước, được đánh giá là hiện đại hơn và được nhìn nhận như là công nghệ tàu ngầm tương lai. Tuy nhiên, tàu ngầm lớp Type XXI, với thiết kế streamline và có pin năng lượng dung tích lớn cho việc lặn sâu tốc độ cao, đã được phát triển đầy đủ và trở thành cơ sở cho phần lớn thiết kế tàu ngầm phi hạt nhân trên thế giới những năm 1950s. Ở Mỹ, chương trình nâng cấp Greater Underwater Propulsion Power Program (GUPPY) được tiến hành để hiện đại hóa các tàu ngầm từ thởi thế chiến Hai cùng với dòng tàu ngầm Type XXI. Đến năm 1955 Hải quân Hoa Kỳ đã sử dụng thuật ngữ 'tấn công nhanh' để ám chỉ các tàu ngầm đã được sửa đổi trong chương trình GUPPY (tàu ngầm thuộc lớp Tang và tàu ngầm USS Darter). Phân chia loại tàu ngầm tìm-diệt tàu ngầm đối phương (SSK) Người ta nhận ra rằng Liên Xô đã có được tàu ngầm Type XXI và các lớp tàu ngầm U-boat tiên tiến khác của Đức và nhanh chóng đưa chúng vào chế tạo để trang bị số lượng lớn. Năm 1948 Hải quân Mỹ đã chuẩn bị phát triển hạm đội tàu ngầm có khả năng chống lại hạm đội tàu ngầm của Liên Xô có thể lên đến hàng trăm chiếc tàu ngầm tiên tiến dự kiến sẽ triển khai năm 1960. Hai viễn cảnh đã được tính đến: một kịch bản hợp lý giả định rằng Liên Xô sẽ xây dựng được lực lượng gồm khoảng 360 tàu ngầm với lực lượng hiện có và một kịch bản xấu hơn; với dự kiến ​​Liên Xô sẽ có thể chế tạo tàu ngầm nhanh như tốc độ người Đức đã chế tạo tàu ngầm U-boat, với lực lượng 2.000 tàu ngầm. Số lượng tàu ngầm tấn công SSK dự kiến khi đó của Hoa Kỳ cho các kịch bản này là 250 cho kịch bản 1 và 970 chiếc cho kịch bản 2. Ngoài ra cũng cần bổ sung tàu ngầm đánh đất mang tên lửa hành trình, tàu ngầm mang radar. Để so sánh, tổng lực lượng tàu ngầm của Mỹ vào cuối Thế chiến thứ hai, không bao gồm các tàu ngầm huấn luyện lỗi thời, chỉ có hơn 200 chiếc. Một loại tàu ngầm nhỏ phù hợp cho sản xuất hàng loạt được thiết kế để đáp ứng yêu cầu của SSK. Điều này dẫn đến sự ra đời của ba tàu ngầm thuộc lớp K-1 (sau này được đặt tên là Barracuda), được đưa vào sử dụng năm 1951. Tải trọng , chúng nhỏ hơn đáng kể so với các tàu ngầm được sản xuất trong chiến tranh thế giới Hai với lượng giãn nước . Chúng được trang bị sonar thụ động BQR-4 gắn ở mũi tàu, nhưng chỉ có bốn ống phóng ngư lôi. Ban đầu, một sonar dạng đặt xung quanh tháp chỉ huy đã được tính đến, nhưng các thử nghiệm cho thấy sonar gắn ở mũi tàu ít bị ảnh hưởng bởi tiếng ồn của chính tàu ngầm hơn. Trong khi phát triển các tàu ngầm tấn công, người ta đã cân nhắc đến việc chuyển đổi các tàu ngầm từ thời thế chiến Hai sang làm tàu ngầm tấn công. Lớp tàu ngầm Gato vốn có tính năng kém hơn, cũng như một vài tàu ngầy lặn sâu lớp Tench và Balao được chọn để nâng cấp theo chương trình GUPPY. Bảy tàu ngầm lớp Gato đã được chuyển đổi sang tàu ngầm tấn công nhanh từ năm 1951-1953. Tàu có sonar mũi BQR-4, với bốn trong số sáu ống phóng ngư lôi được loại bỏ để tạo không gian để lắp sonar và các thiết bị điện tử. Bốn hệ thống ống phóng ngư lôi được giữ lại. Hai động cơ diesel đã được loại bỏ, và các máy móc phụ trợ được bố trí lại và được cách ly âm thanh để giảm tiếng ồn của tàu ngầm. Liên Xô mất nhiều thời gian hơn để bắt đầu chế tạo các tàu ngầm tấn công mới của mình. Đến năm 1952, chỉ có 10 chiếc được đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, việc sản xuất đã sớm được đẩy nhanh. Đến cuối năm 1960, tổng cộng 320 tàu ngầm mới của Liên Xô đã được chế tạo (rất gần với ước lượng thấp của Hải quân Hoa Kỳ năm 1948), 215 trong số đó là tàu ngầm lớp Whiskey, một phiên bản thiết kế lấy cảm hứng từ Type XXI. Đặc biệt, tám tàu ngầm trong số đó được trang bị động cơ hạt nhân. Thời kỳ hạt nhân là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên trên thế giới đi vào vận hành năm 1955; chỉ ba năm sau đó Liên Xô cũng đưa vào trang bị tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của mình là tàu ngầm Project 627 "Kit" (định danh của NATO: November). Sau khi tàu ngầm tấn công năng lượng hạt nhân được đưa vào trang bị, các tàu ngầm SSK chuyển đổi đã trở nên vô dụng khi đối mặt với nó: Khi quá trình phát triển và triển khai các tàu ngầm hạt nhân được tiến hành, vào năm 1957–59, các tàu ngầm tấn công năng lượng điện-diesel SSK của Hải quân Hoa Kỳ đã phải ngừng hoạt động hoặc được đặt tên lại và được giao lại cho các nhiệm vụ khác. Dường như nhiệm vụ chống ngầm giờ sẽ được chuyển giao lại cho tàu ngầm tấn công hạt nhân. Các công nghệ mới Các nghiên cứu được tiến hành nhanh chóng nhằm tối đa hóa tiềm năng của tàu ngầm hạt nhân cho nhiệm vụ chống ngầm ASW và các nhiệm vụ khác. Hải quân Hoa Kỳ đã phát triển một dạng thân tàu được thiết kế hợp lý hoàn toàn mới và thử nghiệm các công nghệ khác với tàu ngầm USS Albacore. Hình dạng thân tàu mới lần đầu tiên được đưa vào áp dụng cho ba tàu ngầm thông thường lớp Barbei và sáu tàu ngầm hạt nhân lớp Skipjack, khi cả hai lớp được đưa vào sử dụng bắt đầu từ năm 1959. được mệnh danh là "tàu ngầm nhanh nhất thế giới" đạt được trong các cuộc thử nghiệm, dù tốc độ thực tế của nó được giữ bí mật. Các nghiên cứu sonar cho thấy thiết kế sonar dạng cầu được gắn ở mũi tàu ngầm sẽ giúp cải thiện hiệu suất phát hiện theo ba chiều. Điều này được đề xuất bởi Project Nobska. năm 1960 và tàu ngầm lớp Thresher từ năm 1961 đã là những tàu ngầm đầu tiên được trang bị sonar mũi dạng cầu, các ngư lôi được đặt nghiêng để có chỗ cho sonar dạng cầu. Thất bại trong phát triển tàu ngầm tấn công năng lượng hạt nhân của Mỹ Tullibee là một loại tàu ngầm tấn công SSK chạy bằng năng lượng hạt nhân; rất thành công về mặt công nghệ, sử dụng hệ thống truyền động turbo điện, nó hoạt động siêu yên tĩnh. Mức giá thành quá lớn khi so với tàu ngầm lớp Thresher đã báo trước việc sẽ không khả thi nếu muốn xây dựng lực lượng tàu ngầm tấn công hạt nhân giá rẻ (một số bộ phận của lò phản ứng không thể tiếp tục thu nhỏ được nữa, bao gồm cả tấm chắn bức xạ). Điều này dẫn đến nó không có tính hiệu quả xét về chi phí, và chỉ có duy nhất một chiếc tàu ngầm được đóng. Tàu ngầm Thresher nhanh hơn và có độ lặn sâu được cải thiện, khả năng mang lượng ngư lôi gấp đôi, bao gồm cả những cải tiến về tiếng ồn, đã được đưa vào hoạt động chỉ chín tháng sau đó. Sự cố dẫn đến việc Thresher bị chìm tháng Tư năm 1963 đã mở đầu cho chương trình tái thiết kế lại tàu ngầm của Hải quân Mỹ mà sau đó được biết đến là chương trình SUBSAFE. Tuy nhiên, thiết kế của tàu ngầm Thresher vẫn tiếp tục được áp dụng trong tất cả các tàu ngầm tấn công tiếp theo của Hải quân Hoa Kỳ Các loại tàu ngầm tấn công nhanh trong biên chế Hải quân các nước vận hành . vận hành một tàu ngầm Type 209 với vai trò huấn luyện; một chiếc đã ngừng hoạt động. vận hành sáu s. vận hành hai tàu ngầm Type 035 (lớp Minh) vận hành năm tàu ngầm Type 209 và ba s. có bốn s. có hai tàu ngầm Type 209 và hai s. vận hành sáu tàu ngầm Type 093, 3 tàu ngầm type 091 lớp Hán, 17 tàu Type 039A, 13 tàu Type 039, 12 tàu ngầm lớp Kilo, 4 tàu ngầm Type 035. vận hành hai , một và một . vận hành hai tàu ngầm Type 209 và hai tàu ngầm Type 206. vận hành hai tàu ngầm Type 209. vận hành bốn tàu ngầm Type 209 và bốn s. vận hành bốn cùng hai s. vận hành sáu tàu ngầm Type 212. vận hành sáu tàu ngầm Type 209 và bốn tàu ngầm Type 214. vận hành bốn tàu ngầm Type 209, năm , và bảy s. vận hành ba và một . vận hành ba . vận hành sáu s. sở hữu bốn tàu ngầm Type 212 và bốn s. sở hữu 12 , 9 , và 2 s. vận hành 20 . vận hành , chín tàu ngầm Type 214 và 2 tàu ngầm KSS-III. vận hành hai s. vận hành một , do Ấn Độ tặng, và một tàu ngầm lớp Minh Type 035 mua từ Trung Quốc. vận hành bốn s. vận hành sáu s. vận hành năm s. vận hành sáu tàu ngầm Type 209. vận hành một . vận hành hai tàu ngầm Type 214. có một , tuy nhiên nó không hoạt động. vận hành 10 , 2 , hai và 21 trong đó có chín chiếc thuộc phiên bản cải tiến. vận hành hai và hai tất cả đều được mua từ Thụy Điển. có ba tàu ngầm Type 209. sở hưu hai s. sở hữu ba và một . sở hữu 12 tàu Type 209. sở hữu 5 và một . vận hành 26 ba và 21 s. triển khai hai tàu ngầm Type 209. vận hành sáu s. Xem thêm List of submarine classes in service List of submarine operators Tham khảo Citations Sources Link ngoài Ship types Loại tàu
19842648
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kevin%20Kern
Kevin Kern
Kevin Kern (tên khai sinh Kevin Lark Gibbs; sinh ngày 22 tháng 12 năm 1958) là một nghệ sĩ dương cầm, nhà soạn nhạc và nghệ sĩ thu âm người Mỹ. Ông thường được xem là đại diện cho thể loại nhạc new-age. Bị mất thị lực từ lúc chào đời, Kern nhận được sự hỗ trợ trong phòng thu từ các công nghệ âm nhạc của Dancing Dots và trợ năng của SONAR dành cho người mất thị lực. Tiểu sử Kern chào đời tại Detroit, Michigan. Ông được phát hiện đang chơi bản nhạc "Đêm thánh vô cùng" trên dương cầm lúc mới 18 tháng tuổi. Ông bắt đầu học chơi dương cầm thường xuyên năm lên bốn tuổi và bắt đầu viết nhạc năm tám tuổi. Năm 14 tuổi, ông trình diễn với nhóm nhạc mà mình sáng lập có tên gọi "The Well-Tempered Clavichord". Ông còn chịu ảnh hưởng lớn của nhạc jazz, ví dụ như nghệ sĩ Dave Brubeck. Mặc cho mất thị lực từ khi chào đời, ông vẫn quyết tâm trở thành một dương cầm. Kevin từng theo học Trường nhạc thuộc Đại học Michigan và học cùng với nghệ sĩ dương cầm Mischa Kottler. Sau khi lấy bằng Thạc sĩ ở Nhạc viện New England, Kern chơi nhạc ở Boston trong nhiều năm rồi chuyển đến San Francisco vào năm 1990. Tại đó, ông biểu diễn trong các nhà hàng và khách sạn cho đến khi được Terence Yallop phát hiện vào năm 1993. Năm 1996, đĩa CD ra mắt của ông mang tên In the Enchanted Garden đã trở thành hiện tượng và có mặt trên bảng xếp hạng Billboard trong 26 tuần. Ông có lần đầu tiên biểu diễn tại châu Á ở Đài Loan vào năm 2002. Ông đã phát hành mười album, tính cả một album tổng hợp và hai cuốn sách chép lời bài hát. Ông cũng phát hành một đĩa CD và sách chép lời bài hát, cũng một album nữa ở riêng châu Á. Ông có tour diễn thế giới đầu tiên vào năm 2016. Trong đó, các đêm nhạc của chuỗi Best of Kevin Kern Live — 20th Anniversary Concert được tổ chức tại The Star Theatre, Singapore (10 tháng 9) và và Phòng hòa nhạc Bentley ở Kuala Lumpur, Maylaysia (11 tháng 9). Đời tư Kevin Kern đã kết hôn với Pamela Gibbs - một cựu y tá khoa cấy ghép tim và quản lý sản xuất cho một số công ty thiết bị y tế. Theo những dòng ghi chú lót bìa album Embracing the Wind, cặp đôi kết hôn vào tháng 6 năm 2001 2001 trên đảo Maui, Hawaii, trong một buổi lễ riêng tư với sự có mặt của bạn bè và gia đình. Ca khúc "From This Day Forward" từ đĩa CD cùng tên được ông sáng tác và dành tặng cô. Cô đã được nhắc đến trong các phần ghi công album một số lần, trong đó có lần chơi sáo rainstick trong bài "Through the Veil" ở The Winding Path và phục vụ một số buổi thu tập. Sau nhiều năm sống ở San Francisco, họ chuyển đến Minneapolis, MN vào năm 2007. Di sản Nhạc của Kevin Kern được phát ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt phổ biến ở các nước châu Á, chẳng hạn như trong bộ phim truyền hình Hàn Quốc Trái tim mùa thu, tại các sự kiện như đám cưới và cả đám tang. Nhạc của ông cũng được xem là phương pháp trị liệu sức khỏe tinh thần, như ngồi thiền. Danh sách đĩa nhạc Album phòng thu Nguồn: In the Enchanted Garden (1996) Beyond the Sundial (1997) Summer Daydreams (1998) In My Life (1999) Embracing the Wind (2001) The Winding Path (2003) Imagination's Light (2005) Endless Blue Sky (2009) Enchanted Piano (2012) Christmas (2012) When I Remember (2016) Album tổng hợp More Than Words: The Best of Kevin Kern (2002) Always Near - A Romantic Collection (2014) Sách chép lời bài hát Nguồn: Kevin Kern Piano Album Songbook (2001) Through Your Eyes: Kevin Kern Collection Songbook (2002; riêng ở Nhật Bản) In the Enchanted Garden Songbook (2006) Imagination's Light Songbook (2008) Kevin Kern cũng phát hành tổng cộng 62 bản nhạc chuyển soạn độc tấu trên dương cầm tính tới nay trên trang MusicNotes.com. Chú thích Liên kết ngoài Kevin Kern trên Real Music Label Nhân vật còn sống Sinh năm 1958 Nam soạn nhạc Mỹ Nhạc sĩ khuyết tật Mỹ Nhân vật mù Mỹ Nam nhạc sĩ Mỹ thế kỷ 21 Nam nhạc sĩ Mỹ thế kỷ 20 Nghệ sĩ dương cầm Mỹ thế kỷ 20 Nghệ sĩ dương cầm Mỹ thế kỷ 21 Nhà soạn nhạc cho dương cầm Nhạc sĩ từ Michigan
19842654
https://vi.wikipedia.org/wiki/Almina%20Wombwell%2C%20B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20phu%20nh%C3%A2n%20x%E1%BB%A9%20Carnarvon
Almina Wombwell, Bá tước phu nhân xứ Carnarvon
Almina Wombwell, Bá tước phu nhân xứ Carnarvon (14 tháng 4 năm 1876 – 28 tháng 5 năm 1969), là vợ của George Herbert, Bá tước thứ 5 xứ Carnarvon, và châtelaine của Lâu đài Highclere ở Hampshire. Sau cuộc hôn nhân thứ hai, bà trở thành Mrs Almina Dennistoun, mặc dù bà tự gọi mình là Almina Carnarvon. Chính sự giàu có của bà đã tài trợ cho việc tìm kiếm lăng mộ Tutankhamun ở Ai Cập. Bà là con gái ngoài giá thú của chủ ngân hàng Alfred de Rothschild, thuộc gia tộc Rothschild, người đã cung cấp và để lại cho bà khối tài sản khổng lồ. Tham khảo Nguồn Liên kết ngoài Highclere Castle, home of the Countess. Official website Lady Almina and the Real Downton Abbey: The Lost Legacy of Highclere Castle Sinh năm 1876 Mất năm 1969 Gia tộc Herbert Gia tộc Rothschild Bá tước phu nhân Liên hiệp Anh
19842660
https://vi.wikipedia.org/wiki/EITB
EITB
EITB () là tổ chức phát sóng công cộng tại Xứ Basque. Thành lập vào ngày 20 tháng 5 năm 1982. EITB thuộc sở hữu của chính phủ cộng đồng tự trị Xứ Basque, trực thuộc Bộ Văn hóa. Tham khảo EITB Khởi đầu năm 1982 ở Tây Ban Nha Mạng truyền hình Tây Ban Nha Doanh nghiệp nhà nước Tây Ban Nha Đài phát sóng công cộng
19842661
https://vi.wikipedia.org/wiki/Athenea%20P%C3%A9rez
Athenea Pérez
Athenea Paulinha Pérez Nsué (sinh ngày 6 tháng 5 năm 1996) là người mẫu và thí sinh cuộc thi sắc đẹp người Tây Ban Nha, người đã đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Tây Ban Nha 2023. Với tư cách là đại diện của Tây Ban Nha tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2023, Pérez trở thành người phụ nữ gốc da đen đầu tiên đại diện cho đất nước tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ. Tiểu sử Hoàn cảnh gia đình Pérez sinh ra với cha là người Tây Ban Nha và mẹ là người Guinea Xích đạo. Cô là người gốc Fang và Bubi bên ngoại. Năm 4 tuổi, cô bắt đầu tập thể dục nhịp điệu. Về chủng tộc hỗn hợp của mình, Pérez đã tuyên bố, "đối với một điều gì đó công khai, tôi nghĩ đây là lần đầu tiên tôi bị tấn công vì màu da của mình. Và tôi nghĩ đó không phải vì trước đây họ không muốn tấn công tôi mà là vì điều đó lý do là trên mạng xã hội. Chúng là một phần trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta và trước đây, chúng chỉ tồn tại, nhưng chúng là sự bổ sung chứ không phải là một phần mở rộng của chúng ta. Giờ đây, việc đưa ra ý kiến ​​và giấu tay của bạn sẽ dễ dàng hơn." Pérez lần đầu tiên tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới Tây Ban Nha khi cô 17 tuổi nhưng cô không thể tiến xa hơn trong cuộc thi. Vào ngày 2 tháng 7 năm 2023, sau khi đăng quang, cô ấy đã viết trên Instagram của mình: Là người gốc Guinea Xích đạo bên mẹ và Muline bên cha cô, Pérez là đại diện đầu tiên của Tây Ban Nha đa chủng tộc, khiến cô phải đối mặt với một số lời lăng mạ phân biệt chủng tộc trên mạng xã hội. "Tôi rất buồn. Tôi bị sốc. Tôi đã sống ở đây cả đời. Tôi sinh ra ở đây. Tôi đến từ Churra và mang nửa dòng máu muleña vì cha tôi. Tôi chợt nhận ra rằng điều này đang xảy ra trong một xã hội có quá nhiều nhiều nền văn hóa, đối với tôi có nghĩa là sự giàu có. Tôi yêu thành phố của mình và tôi tự hào được đến từ Murcia", sau khi cô đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Tây Ban Nha. Giáo dục Pérez tốt nghiệp chuyên ngành Tiếp thị và Quảng cáo. Chiến thắng của cô giúp cô trở thành đại diện thứ 11 của Hoa hậu Hoàn vũ Tây Ban Nha trong lịch sử cuộc thi, trong đó có Amparo Muñoz, người chiến thắng đến từ Tây Ban Nha duy nhất năm 1974 và Carla Barber. Cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Hoàn vũ 2023 Cô đại diện cho Tây Ban Nha tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 72 được tổ chức tại El Salvador vào ngày 18 tháng 11 năm 2023. Cô đã lọt vào Top 10 chung cuộc và giành được giải thưởng "Hoa hậu thân thiện". Tham khảo Nữ giới Tây Ban Nha Nhân vật còn sống Thí sinh Hoa hậu Hoàn vũ 2023 Người đến từ Murcia Sinh năm 1999 Người từ Murcia Hoa hậu Tây Ban Nha
19842671
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nagakute%2C%20Aichi
Nagakute, Aichi
là thành phố thuộc tỉnh Aichi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thành phố là 60.162 người và mật độ dân số là 2.800 người/km2. Tổng diện tích thành phố là 21,55 km2. Tham khảo Thành phố tỉnh Aichi
19842673
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20murdjan
Myripristis murdjan
Myripristis murdjan là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1775. Từ nguyên Từ định danh murdjan bắt nguồn từ murdjân, tên thường gọi bằng tiếng Ả Rập của loài cá này. Phạm vi phân bố và môi trường sống M. murdjan có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, và bao gồm cả Biển Đỏ. Từ Đông Phi, phạm vi của chúng trải dài về phía đông đến rạn san hô vòng Midway và rạn san hô vòng Kure (Tây Bắc Hawaii) cùng đảo Wake, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), về phía nam đến Nam Phi, Úc và quần đảo Samoa. Ở Việt Nam, M. murdjan được ghi nhận từ bắc vào nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa quần đảo Trường Sa ở ngoài khơi. M. murdjan sống tập trung trên các rạn san hô, gần hang hốc hoặc trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 50 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. murdjan là 60 cm. Loài này có màu đỏ nhạt, vảy cá viền nâu đỏ. Nắp mang có màu nâu sẫm đến đen (vị trí ngang giữa mắt). Gốc vây ngực cũng có màu nâu sẫm hoặc đen. Gai vây lưng có màu đỏ nhạt ở gốc, màu đỏ tươi ở cận rìa. Rìa trước của vây lưng, vây hậu môn, vây đuôi và vây bụng có màu trắng, đôi khi có sắc tố đen nhạt ở cận rìa trắng của vây lưng và vây hậu môn. Một đốm đen mờ ở mống mắt, phía trên đồng tử, và một đốm nhỏ hơn ở dưới. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 13–15; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 11–14; Số vảy đường bên: 28–30. Sinh thái M. murdjan là loài sống về đêm, ăn các động vật phù du. Haliotrema susanae, một loài sán của họ Ancyrocephalidae, lần đầu được mô tả từ mang của M. murdjan. M. murdjan cũng là một vật chủ mới được ghi nhận của giáp xác ký sinh Cymothoa indica của họ Cymothoidae. Thương mại Phần lớn các loài Myripristis có giá trị chủ yếu trong nghề cá quy mô nhỏ ở các vùng nhiệt đới. M. murdjan không mang giá trị như một loài cá cảnh ở Hawaii nhưng lại là một loài cá cảnh thường thấy ở Ấn Độ. Tham khảo M Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá biển Đỏ Cá Ai Cập Cá Oman Cá Yemen Cá Madagascar Cá Réunion Cá Mauritius Cá Pakistan Cá Ấn Độ Cá Sri Lanka Cá Bangladesh Cá Myanmar Cá Việt Nam Cá Malaysia Cá Papua New Guinea Cá Nhật Bản Cá Hawaii Cá Nouvelle-Calédonie Động vật được mô tả năm 1775
19842676
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90an%20L%C3%AA
Đan Lê
Đan Lê (tên đầy đủ là Nguyễn Đan Lê) là nữ diễn viên, người dẫn chương trình truyền hình, cựu ca sĩ người Việt Nam. Cô được biết đến là một trong những người dẫn đầu tiên của chuyên mục Dự báo thời tiết của Đài Truyền hình Việt Nam, đồng thời là diễn viên truyền hình. Năm 2023, Đan Lê giành được giải Cánh diều cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc hạng mục phim truyền hình. Tiểu sử Đan Lê sinh ngày 6 tháng 10 năm 1983 tại Hà Nội, bố mẹ cô đã ly hôn khi cô 16 tuổi, cô từng học tại trường Tiểu học Lê Văn Tám, trường Trung học cơ sở Ngô Sĩ Liên và Trung học phổ thông Thăng Long. Sự nghiệp Âm nhạc và Truyền hình Từ năm 8 tuổi, Đan Lê đã tham gia biểu diễn văn nghệ và được biểu diễn trên sân khấu Nhà hát Tuổi trẻ với chương trình Giai điệu tuổi hồng. Đan Lê theo học khoa Báo viết của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đến gần ngày nhập trường thì cô được giáo viên tư vấn vào khoa Báo hình và cô đã nghe theo. Năm 2002, cô là thành viên nhóm nhạc Nhịp điệu, cùng nhóm tham gia chương trình VTV – Bài hát tôi yêu lần thứ 2. Từ năm 2003 đến 2004, Khi NSND Thanh Hoa tìm kiếm gương mặt ca sĩ trẻ để thành lập nhóm nhạc Ước mơ đến, Đan Lê đã có chân trong nhóm nhạc khá nổi của Hà Thành này. Khi học năm thứ hai tại Học viện, Đan Lê đăng ký dự tuyển dẫn chương trình cho chuyên mục Dự báo thời tiết của Đài Truyền hình Việt Nam, sau 1 năm sàng lọc, vượt qua hàng chục thí sinh khác cô trở thành một trong những người dẫn chơng trình đầu tiên của chuyên mục này. Đan Lê sau này được khán giả gọi với biệt danh "Cô gái thời tiết". Năm 2008, sau khi bị tung tin đồn thất thiệt, Đan Lê nghỉ việc tại VTV để chuyển sang làm việc mảng truyền hình số di động tại Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. Cũng trong năm 2008, Đan Lê phát hành album ca nhạc Đêm gồm 8 ca khúc do nhạc sĩ Tường Văn viết riêng cho cô. Điện ảnh Năm 2007, Đan Lê được mời đóng nhân vật Vân, một trong ba vai nữ chính của bộ phim điện ảnh, Em muốn làm người nổi tiếng. Nhưng vì chênh lệch tuổi tác khá xa với nhân vật nên cô từ chối, sau đó, cô được mời vào vai chính khác là Nhung khi Lý Nhã Kỳ, người đóng vai này bận lưu diễn tại nước ngoài. Vai diễn Nhung giúp cô có được đề cử cho Nữ diễn viên chính hạng mục Phim truyện điện ảnh tại Giải Cánh diều 2007. Bị tung tin thất thiệt Đầu năm 2008, cô bị tung tin thất thiệt là tham gia đóng phim người lớn của Hàn Quốc, một đoạn clip của bộ phim với nữ diễn viên có khuôn mặt khá giống Đan Lê được cư dân mạng truyền tay nhau, và trang báo Nông nghiệp Việt Nam (NNVN) đăng tải thông tin kèm hình ảnh mà không kiểm chứng. Sau đó, đoạn clip được xác nhận không phải là Đan Lê, dù vô tội, cô nghỉ không lương trong 3 tháng sau đó để kiện trang báo NNVN, kết quả trang báo này phải bồi thường 25 triệu đồng cho Đan Lê ngay tại tòa. Phim truyền hình Năm 2008, Đan Lê tham gia bộ phim lịch sử dài tập Con đường sáng. Năm 2011, Đan Lê có một vai chính trong bộ phim truyền hình dài 85 tập của Đài Truyền hình Việt Nam, Cầu vồng tình yêu. 2012, Đan Lê được chọn đóng vai chính - Ái Vân - trong bộ phim dài tập Ba đám cưới, một đời chồng do chồng cô là Khải Anh đạo diễn. Ban đầu vai diễn này được giao cho hai diễn viên khác nhưng họ vì một vài lí do mà họ lần lượt từ bỏ. Năm 2017 và 2018, cô lần nữa tham gia một số phim truyền hình do Khải Anh tham gia đạo diễn là Người phán xử, Người phán xử tiền truyện và Ngày ấy mình đã yêu. Năm 2023, Đan Lê tham gia bộ phim dài tập Anh có phải đàn ông không? của Đài Truyền hình Việt Nam và giành giải nữ diễn viên phụ xuất sắc tại Giải Cánh diều lần thứ 30 cho vai diễn Mai Ngọc trong bộ phim. Đời tư Đan Lê và Khải Anh cùng học trường THPT Thăng Long và gặp nhau trong hội văn nghệ năm 1998, hai người đã có ý định kết hôn, nhưng họ chia tay, Khải Anh sau đó đi du học. Cuối năm 2008, cô kết hôn với biên tập viên Xuân Tùng từng làm việc tại Đài Truyền hình Việt Nam - và họ ly hôn năm 2010. Năm 2011, Đan Lê kết hôn với Khải Anh. Việc cô ly hôn rồi nhanh chóng kết hôn với người yêu cũ đã trở thành đề tài khai thác của báo chí cũng như để tài bàn tán của cư dân mạng. Họ có hai con trai Khải Minh và Khải Nguyên. Tác phẩm Âm nhạc Các bộ phim Các chương trình Giải thưởng Tham khảo Sinh năm 1983 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên truyền hình Việt Nam Nữ diễn viên Việt Nam thế kỷ 21 Phim và người giành giải Cánh diều Người Hà Nội
19842682
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phaenicophilidae
Phaenicophilidae
Phaenicophilidae là một họ chim thuộc bộ Sẻ (Passeriformes). Họ này bao gồm 3 chi và 4 loài, và tất cả đều là loài đặc hữu của Hispaniola. Các loài trong họ này trước đây được xếp trong họ Thraupidae (Phaenicophilus) và Parulidae (Xenoligea, Microligea). Các loài Chú thích Bộ Sẻ Danh sách các họ chim
19842694
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kawanuma%20%28huy%E1%BB%87n%29
Kawanuma (huyện)
là huyện thuộc tỉnh Fukushima, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của huyện là 21.230 người và mật độ dân số là 75 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 283,8 km2. Tham khảo Huyện của Fukushima
19842696
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mitrospingidae
Mitrospingidae
Mitrospingidae là một họ chim thuộc bộ Sẻ (Passeriformes). Họ này bao gồm 3 chi và 4 loài. Họ này được tìm thấy ở Nam Mỹ và miền nam Trung Mỹ. Họ này được xác định vào năm 2013 và bao gồm các loài chim vốn ban đầu được xếp trong họ Thraupidae. Họ này được Hiệp hội Điểu học Hoa Kỳ thông qua trong lần bổ sung danh mục thứ 58 vào năm 2017, và được Frank Gill, Pamela Rasmussen và David Donsker duy trì trong danh sách chim của Ủy ban Các nhà điểu học Quốc tế (IOC). Phân loại Chú thích Bộ Sẻ Danh sách các họ chim
19842697
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20v%E1%BB%81%20t%E1%BB%AB%20Sao%20H%E1%BB%8Fa%20%28ti%E1%BB%83u%20thuy%E1%BA%BFt%29
Người về từ Sao Hỏa (tiểu thuyết)
"Người về từ Sao Hỏa" (tên gốc: The Martian) là một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầu tay của Andy weir mở đầu cho các tiểu thuyết sau này của ông. Tác phẩm xuất hiện lần đầu trên website của ông vào năm 2011. Vào năm 2014, tác phẩm được tái xuất bản sau khi nhóm xuất bản Crown mua quyền độc quyền xuất bản. Câu chuyện theo chân một phi hành gia người Mỹ tên là Mark Watney khi anh bị bỏ rơi trên Sao Hỏa vào năm 2035 và anh phải tự ứng biến để đối đầu với các trở ngại trên hành tinh đỏ để sống sót. Tác phẩm được chuyển thể thành phim với tên gọi giống với tiểu thuyết, bộ phim được đạo diễn bởi Ridley Scott với Matt Damon là diễn viên chính. Bộ phim được công chiếu vào tháng 10 năm 2015. Các giải thưởng và vinh danh Bộ phim này đã được chuyển thể thành hơn 45 ngôn ngữ và vài bản đã đạt được các giải thưởng quý giá. Tại lễ trao giải Hugo năm 2016, Weir thắng giải John W. Campbell cho Nhà Văn Mới Hay Nhất cho tiểu thuyết còn phiên bản kịch bản màn hình rộng cũng thắng giải cho Phim Dài Hay Nhất tại cùng một sư kiện. Solanum watneyi - một loại cà chua bụi từ Úc, được đặt theo tên của nhà thực vật học hư cấu trong truyện là Mark Watney. Tham khảo Tiểu thuyết năm 2011 Tiểu thuyết Mỹ được chuyển thể thành phim Tiểu thuyết xuất bản đầu tiên trên mạng
19842706
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20U-19%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202024
Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024
Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024 là mùa giải thứ 19 của Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. là đương kim vô địch của giải đấu sau khi đánh bại với tỷ số 1–0 trong trận chung kết năm 2023. Vòng loại Vòng loại diễn ra từ ngày 7 đến ngày 29 tháng 1 năm 2024. Các đội bóng được chia thành 7 bảng thi đấu vòng tròn một lượt; 7 đội nhất bảng cùng 5 đội nhì bảng có thành tích tốt nhất lọt vào vòng chung kết. Trong trường hợp có đội bóng thuộc địa phương đăng cai vòng chung kết không nằm trong số 12 đội này, sẽ chỉ có 4 đội xếp thứ nhì được dự vòng chung kết. Các đội vượt qua vòng loại 1 Chữ đậm là những đội vô địch năm đó. Chữ nghiêng là những đội chủ nhà năm đó. Địa điểm Thủ Dầu Một, Bình Dương là địa điểm được lựa chọn để tổ chức Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024. Sân vận động chính diễn ra các trận đấu của vòng chung kết là sân vận động Gò Đậu, cùng với hai sân phụ B và C nằm ở ngay phía sau khán đài B của sân vận động chính. Đội hình Các cầu thủ sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 2005 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008 có đủ điều kiện để tham dự giải đấu. Mỗi đội phải đăng ký một đội hình tối thiểu 18 cầu thủ và tối đa 30 cầu thủ. Trong đó, danh sách phải có tối thiểu 2 thủ môn và tối đa 1 cầu thủ nước ngoài gốc Việt Nam (Quy định mục 7.1). Bốc thăm Lễ bốc thăm chia bảng và xếp lịch thi đấu diễn ra vào lúc 15:00 ngày 19 tháng 2 năm 2024 tại sân vận động Bình Dương, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Nguyên tắc bốc thăm Đội chủ nhà mang mã số A1, thi đấu trận khai mạc; Các đội đứng đầu vòng loại được phân bố đều vào các nhóm tại vòng chung kết; Các đội cùng bảng ở vòng loại không được xếp cùng nhóm ở vòng chung kết. Thứ tự bốc thăm Đội chủ nhà Becamex Bình Dương mang mã số A1; Bốc thăm cho 6 đội , , , , , vào các bảng A, B, C gồm 5 lá thăm: 1 bảng A, 2 bảng B, 2 bảng C (đảm bảo nguyên tắc 2). Bốc thăm cho đội còn lại trong nhóm 6 đội xếp thứ nhất tại vòng loại đã bốc thăm vào bảng A hoặc B hoặc C (đảm bảo nguyên tắc 2). Bốc thăm và/hoặc xếp lần lượt cho các đội còn lại vào các bảng A, B, C (đảm bảo nguyên tắc 3). Kết quả bốc thăm (H): Chủ nhà Vòng bảng Các tiêu chí Các đội được xếp hạng theo điểm (3 điểm cho 1 trận thắng, 1 điểm cho 1 trận hòa, 0 điểm cho 1 trận thua), và nếu bằng điểm, các tiêu chí sau đây được áp dụng theo thứ tự, để xác định thứ hạng: Điểm trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Hiệu số bàn thắng thua trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Số bàn thắng ghi được trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Nếu có nhiều hơn hai đội bằng điểm, và sau khi áp dụng tất cả các tiêu chí đối đầu ở trên, một nhóm nhỏ các đội vẫn còn bằng điểm nhau, tất cả các tiêu chí đối đầu ở trên được áp dụng lại cho riêng nhóm này; Hiệu số bàn thắng thua trong tất cả các trận đấu bảng; Số bàn thắng ghi được trong tất cả các trận đấu bảng; Sút luân lưu nếu chỉ có hai đội bằng điểm và họ gặp nhau trong trận cuối cùng của bảng; Điểm thẻ phạt (thẻ vàng = –1 điểm, thẻ đỏ gián tiếp (2 thẻ vàng) = –3 điểm, thẻ đỏ trực tiếp = –3 điểm, thẻ vàng và thẻ đỏ trực tiếp = –4 điểm); Bốc thăm. Bảng A Bảng B Bảng C Xếp hạng các đội đứng thứ ba bảng đấu Vòng đấu loại trực tiếp Trong vòng đấu loại trực tiếp, loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu cần thiết. Sẽ không có hiệp phụ sau khi kết thúc 90 phút thi đấu chính thức. Sơ đồ Tứ kết Bán kết Chung kết Thống kê Vô địch Các giải thưởng Các giải thưởng sau đây đã được trao sau khi giải đấu kết thúc: Cầu thủ ghi bàn Dưới đây là danh sách những cầu thủ ghi bàn của giải đấu. Kỷ luật Một cầu thủ tự động bị treo giò trong trận đấu tiếp theo nếu phải nhận một trong các hình phạt sau: Nhận 1 thẻ đỏ (thời gian treo giò vì thẻ đỏ có thể nhiều hơn nếu là lỗi vi phạm nghiêm trọng) Nhận 2 thẻ vàng trong 2 trận đấu khác nhau; thẻ vàng bị xóa sau giai đoạn của giải mà cầu thủ đó nhận thẻ vàng (điều này không được áp dụng đến bất kỳ trận đấu quốc tế nào khác trong tương lai) Bảng xếp hạng đội tuyển giải đấu Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Liên đoàn bóng đá Việt Nam Bóng đá Việt Nam năm 2024 Giải bóng đá U19 Quốc gia Việt Nam
19842712
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BB%B6%20Thi%C3%AAn%20%C4%90%E1%BB%93%20Long%20k%C3%BD%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%201994%29
Ỷ Thiên Đồ Long ký (phim truyền hình 1994)
Ỷ thiên đồ long ký là một bộ phim truyền hình Đài Loan chuyển thể từ bộ tiểu thuyết kiếm hiệp cùng tên của nhà văn Kim Dung. Bộ phim lần đầu phát sóng trên các kênh truyền hình Đài Loan vào năm 1994. Bộ phim sử dụng nhiều bài hát nổi tiếng như Yêu giang sơn càng yêu mỹ nhân (愛江山更愛美人) hay Đao kiếm như mộng (刀劍如夢). Đặc biệt vai diễn Chu Chỉ Nhược của Châu Hải My được chính nhà văn Kim Dung đánh giá là phiên bản Chu Chỉ Nhược hoàn hảo nhất khi lột tả được nét đoan trang, hiền thục, nhưng lại có phần tà khí của nhân vật. Diễn viên Mã Cảnh Đào vai Trương Vô Kỵ Diệp Đồng vai Triệu Mẫn Châu Hải My vai Chu Chỉ Nhược Tham khảo Phim truyền hình Đài Loan
19842719
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tanguy%20Nianzou
Tanguy Nianzou
Nianzou Tanguy-Austin Kouassi (sinh ngày 7 tháng 6 năm 2002), hay còn được gọi là Tanguy Nianzou, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Sevilla tại La Liga. Đầu đời Nianzou Tanguy-Austin Kouassi sinh ngày 7 tháng 6 năm 2002 tại Paris và cha mẹ là người Bờ Biển Ngà. Sự nghiệp câu lạc bộ Paris Saint-Germain Sau khi tốt nghiệp học viện bóng đá Paris Saint-Germain (PSG), Nianzou ra mắt đội một vào ngày 7 tháng 12 năm 2019 trong chiến thắng 3–1 trước Montpellier. Vài ngày sau, anh chơi trận đầu tiên tại UEFA Champions League khi PSG giành chiến thắng 5–0 trước Galatasaray. Nianzou ghi bàn thắng đầu tiên cho PSG trong chiến thắng 3–0 tại Coupe de France trước Reims vào ngày 22 tháng 1 năm 2020. Ngoài ra, bàn thắng này cũng là bàn thắng thứ 4.000 trong lịch sử PSG. Anh ghi hai bàn thắng đầu tiên tại Ligue 1 trong trận hòa 4–4 trên sân khách trước Amiens vào ngày 15 tháng 2 năm 2020. Vào ngày 11 tháng 3, Nianzou chơi trận đấu cuối cùng cho PSG trong chiến thắng 2–0 tại UEFA Champions League trước Borussia Dortmund. Anh rời câu lạc bộ Paris sau khi hợp đồng của anh với câu lạc bộ hết hạn và sau đó, anh ký hợp đồng với Bayern Munich theo dạng chuyển nhượng tự do. Bayern Munich Vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Nianzou ký hợp đồng có thời hạn bốn năm với Bayern Munich tại Bundesliga. Anh có trận ra mắt cho Bayern Munich trong chiến thắng 3–1 trước VfB Stuttgart vào ngày 28 tháng 11. Vào ngày 12 tháng 12, Nianzou bị chấn thương cơ khiến anh phải nghỉ thi đấu một đến hai tháng. Chấn thương này kéo dài do một pha chấn thương trước đó xảy ra vào đầu mùa giải 2020–21. Anh trở lại thi đấu muộn hơn dự kiến khi anh vào sân thay người trong trận hòa 1–1 trước Union Berlin vào ngày 10 tháng 4 năm 2021. Vào ngày 19 tháng 3 năm 2022, anh ghi bàn thắng duy nhất cho câu lạc bộ trong chiến thắng 4–0 trước Union Berlin. Sevilla Vào ngày 17 tháng 8 năm 2022, Nianzou gia nhập câu lạc bộ Tây Ban Nha Sevilla theo bản hợp đồng 5 năm. Hai ngày sau, Nianzou có trận ra mắt cho Sevilla trước Real Valladolid tại La Liga. Vào ngày 11 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League trong trận hòa 1–1 trên sân khách trước Borussia Dortmund. Vào ngày 14 tháng 1 năm 2023, anh ghi bàn thắng La Liga đầu tiên trong trận thua 2-1 trên sân khách trước Girona. Sự nghiệp quốc tế Nianzou là tuyển thủ trẻ của Pháp. Anh là thành viên của Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Pháp, đội đã lọt vào bán kết Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2019 do UEFA tổ chức. Anh là cầu thủ quan trọng của Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Pháp, đội đã đứng thứ ba tại Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2019. Anh đá chính cả bảy trận cho Pháp trong giải đấu này và ghi bàn gỡ hòa trong chiến thắng 6–1 của đội mình trước Tây Ban Nha ở tứ kết. Thống kê sự nghiệp Danh hiệu Câu lạc bộ Paris Saint-Germain Ligue 1: 2019–20 Coupe de France: 2019–20 Coupe de la Ligue: 2019–20 Á quân UEFA Champions League: 2019–20 Bayern Munich Bundesliga: 2020–21, 2021–22 DFL-Supercup: 2021, 2022 Sevilla UEFA Europa League: 2022–23 UEFA-CONMEBOL Club Challenge: 2023 Quốc tế U-17 Pháp Hạng ba Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu: 2019 Cá nhân Titi d'Or: 2019 Đội hình xuất sắc nhất Giải bóng đá Maurice Revello: 2022 Tham khảo Liên kết ngoài Tanguy Nianzou tại Sevilla FC Sinh năm 2002 Nhân vật còn sống Người Pháp Người Pháp gốc Bờ Biển Ngà Người Paris Cầu thủ bóng đá Pháp Cầu thủ bóng đá nam Pháp Trung vệ bóng đá Hậu vệ bóng đá Hậu vệ bóng đá nam Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-16 quốc gia Pháp Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Pháp Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-18 quốc gia Pháp Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Pháp Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Pháp Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ bóng đá Bundesliga Cầu thủ bóng đá La Liga Cầu thủ bóng đá US Sénart-Moissy Cầu thủ bóng đá RCP Fontainebleau Cầu thủ bóng đá Paris Saint-Germain F.C. Cầu thủ bóng đá Bayern München Cầu thủ bóng đá Sevilla FC Cầu thủ bóng đá Pháp ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Đức Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha Cầu thủ vô địch UEFA Europa League
19842721
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20LGBT%20B%E1%BA%AFc%20Kinh
Trung tâm LGBT Bắc Kinh
Trung tâm LGBT Bắc Kinh ( hay còn được biết đến với tên gọi 北同文化 Bắc Đồng văn hóa) là một tổ chức phi lợi nhuận nhằm cải thiện môi trường sống cho cộng đồng LGBT tại Trung Quốc. Tổ chức này đã được thành lập vào năm 2008 cho đến khi đóng cửa vào năm 2023, tổ chức này đã cung cấp nhiều dịch như tư vấn sức khỏe tâm lý giá rẻ, danh sách các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thân thiện với cộng đồng LGBTQ+ và đường dây nóng khẩn cấp dành cho người chuyển giới. Ngoài việc vận động, tuyên truyền, trung tâm còn có các văn phòng vật lý hoạt động làm nơi gặp gỡ cộng đồng với các buổi chiếu phim và thảo luận. Lịch sử Trung tâm LGBT Bắc Kinh được thành lập vào năm 2008 như một điểm văn hóa cho các tổ chức dịch vụ LGBT khác nhau có mặt tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Trong những ngày đầu, nhiệm vụ chính của tổ chức là xây dựng các hoạt động văn hóa, nhằm giải quyết sự thiếu ổn định và thống nhất được nhận thức trong cộng đồng LGBT địa phương. Sau khi các nhà tài trợ ban đầu rời đi, Trung tâm đã có nhiều đợt tuyển dụng nhân sự mới và chuyển đổi thành một tổ chức độc lập với trọng tâm đổi mới vào việc ủng hộ quyền LGBT. Một trong những phát kiến vận động đầu tiên của trung tâm liên quan đến việc giáo dục các nhà tâm lý học ở Trung Quốc về liệu pháp chuyển đổi. Vào năm 2014, trung tâm đã giúp Yang Teng, một người đồng tính nam, chuẩn bị một vụ án chống lại một phòng khám ở Trùng Khánh đã đưa ra liệu pháp chuyển đổi bao gồm liệu pháp sốc điện và thôi miên. Vụ án đã thành công và một tòa án địa phương ở Bắc Kinh sau đó đã tuyên bố liệu pháp chuyển đổi để "chữa trị" người đồng tính là bất hợp pháp. Tuy nhiên, thực tế của việc liệu pháp chuyển đổi vẫn tồn tại ở Trung Quốc. Nhân viên của trung tâm là John Shen cùng nhiều người khác sau đó đã điều tra bí mật cho một tập phim vào năm 2018 trong chương trình Unreported World trên Channel 4, tiết lộ các bệnh viện vẫn tiếp tục điều trị liệu pháp chuyển đổi bằng sốc điện. Những nỗ lực nghiên cứu của trung tâm bao gồm việc thực hiện Cuộc khảo sát Sức khỏe Tâm lý của Nhóm giới tính và Tình dục ở Trung Quốc cũng như một cuộc khảo sát năm 2017 với Đại học Bắc Kinh về sức khỏe tâm lý của người chuyển giới Trung Quốc. Các hoạt động khác do trung tâm tổ chức đa phần nhằm thay thế các cuộc diễu hành tự hào thường xuyên bị chính quyền cấm. Một ví dụ là cuộc biểu tình chống lại kế hoạch cấm nội dung đồng tính trên Sina Weibo trong đó các tình nguyện viên đeo băng che mắt và áo phông có dòng chữ "Tôi là người đồng tính" đứng dang hai tay và chào đón cái ôm từ những người đi đường. Trung tâm cũng đã hợp tác với nhiếp ảnh gia Teo Butturini để tạo nên bức tranh chân dung theo phong cách Humans of New York của những người LGBT sống tại Trung Quốc. Đàn áp và đóng cửa Trung tâm LGBT Bắc Kinh đã phải đối mặt nhiều thách thức để duy trì hoạt động với những trở ngại xuất phát từ hạn chế tài chính cũng như áp lực từ chính trị. Các nhóm LGBTQ đã không thể đăng ký thành lập tổ chức phi chính phủ tại Trung Quốc, gây khó khăn trong việc nhận được sự cho phép để tổ chức sự kiện từ chính phủ cũng như có được tài trợ từ bên ngoài. Để khắc phục những rào cản tài chính, trung tâm đã tổ chức nhiều cuộc gây quỹ ở các quán bar địa phương hay từ sự hỗ trợ tài chính trực tiếp của Trung tâm LGBT Los Angeles ở Hoa Kỳ. Trong bối cảnh chính quyền siết chặt đối với các tổ chức có chứa tên "đồng tính", "hiệp hội" và "quyền", trung tâm đã phải đổi tên chính thức tiếng Trung của mình thành "北同文化" ("Bắc Đồng Văn Hóa", ) vào năm 2021. Trung tâm cũng đã phải đối mặt với áp lực từ các chủ văn phòng và buộc họ phải chuyển đến nhiều địa điểm khác nhau. Vào tháng 5 năm 2023, Trung tâm LGBT Bắc Kinh đã công bố trên tài khoản Weibo về việc tạm dừng hoạt động sau 15 năm, với lý do duy nhất bởi "những yếu tố ngoài tầm kiểm soát". Việc đóng cửa này đã diễn ra đột ngột trong bối cảnh một tuần sau khi trung tâm đăng tải bài viết kỷ niệm 15 năm tận tâm công việc của mình. ShanghaiPRIDE, một trong những nhóm tự hào đồng tính lâu đời nhất tại Trung Quốc và các trung tâm LGBT sinh viên ở các trường đại học trên khắp Trung Quốc cũng đã phải đối mặt với việc đóng cửa đột ngột tương tự kể từ năm 2020. Xem thêm Đồng tính luyến ái ở Trung Quốc Quyền LGBT ở Trung Quốc Tham khảo Nhân quyền tại Trung Quốc Văn hóa LGBT ở châu Á Văn hóa LGBT Trung Quốc Quyền LGBT ở Trung Quốc Tổ chức thành lập năm 2008 Tổ chức giải thể năm 2023 Khởi đầu năm 2008 ở Trung Quốc Tổ chức có trụ sở tại Bắc Kinh Chấm dứt năm 2023 ở Trung Quốc
19842730
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rolls-Royce%20Spectre
Rolls-Royce Spectre
Rolls-Royce Spectre là một mẫu xe điện hạng sang cỡ lớn được sản xuất bởi Rolls-Royce Motor Cars. Đây là mẫu ô tô chạy điện đầu tiên trong lịch sử của hãng, được xây dựng trên cùng nền tảng kiến trúc với Phantom, Ghost và Cullinan. Những đợt giao xe đầu tiên dự kiến sẽ diễn ra vào quý cuối của năm 2023. Tổng quan Rolls-Royce Spectre có phạm vi hoạt động trong thành phố là tuân theo quy chuẩn EPA, trong khi quãng đường di chuyển của xe đạt mức nếu xét theo tiêu chuẩn WLTP. Với hệ số cản chỉ ở mức 0.25, đây chính là mẫu Rolls-Royce có thiết kế mang tính khí động học cao nhất từng được chế tạo. Spectre được trang bị động cơ kép giúp sản sinh công suất và mô-men xoắn , tăng tốc từ chỉ trong vòng 4.2 giây. Phía trên phần lưới tản nhiệt của Spectre chính là biểu tượng huyền thoại Spirit of Ecstasy được thiết kế lại, với chiếc áo choàng bay phấp phới (thường bị nhiều người lầm tưởng là đôi cánh đang dang rộng) có tư thế thấp hơn, kiểu cách năng động hơn và tạo hình chân thật hơn, phát triển theo hướng tăng tính khí động học. Phiên bản mới của biểu tượng Spirit of Ecstasy có chiều cao , thấp hơn so với mẫu tiền nhiệm với thông số đạt mức . Thiết kế này đã giúp nó mang nét gần gũi hơn so với bản phát họa được họa sĩ người Anh Charles Robinson Sykes thảo ra hồi đầu thế kỷ 20. Giám đốc điều hành Torsten Müller-Ötvös cho biết, "Spirit of Ecstasy là biểu tượng nhãn hiệu xe hơi dễ nhận biết nhất trên thế giới. Tương tự như công ty và những chiếc xe hơi động cơ của hãng, biểu tượng đã thay đổi liên tục theo thời gian, nhưng vẫn giữ nguyên vẹn nguồn gốc và nguồn cảm hứng của mình". Theo hãng Rolls-Royce, biểu tượng Spirit of Ecstasy kiểu mới sẽ xuất hiện trên tất cả những mẫu xe kế nhiệm của Spectre trong tương lai. Lịch sử Vào tháng 9 năm 2021, Rolls-Royce đã thông báo về sự xuất hiện của mẫu Spectre và xác nhận rằng xe đã bắt đầu đi vào giai đoạn thử nghiệm. Ông Torsten Muller-Otvos khẳng định Spectre sẽ không kế nhiệm Wraith mà thay vào đó kế thừa tinh thần của dòng Phantom Coupe được sản xuất từ năm 2008 đến 2016. Ngày 18 tháng 10 năm 2022, hãng xe đã chính thức công bố mẫu xe chạy điện đầu tiên của mình trên các trang truyền thông. Với tên gọi mang ý nghĩa "Bóng ma", Spectre đã tiếp tục nối tiếp truyền thống lâu đời của Rolls-Royce trong việc đặt những cái tên có phần ma quái, siêu nhiên cho những sản phẩm của hãng. Tham khảo Liên kết ngoài Website chính thức Ô tô thập niên 2020 Ô tô điện Xe phân loại theo nhãn hiệu
19842735
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0ng%20c%E1%BA%A7u%20d%C3%A2n%20%C3%BD%20%C4%91%E1%BB%99c%20l%E1%BA%ADp%20Bosna%201992
Trưng cầu dân ý độc lập Bosna 1992
Một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được tổ chức tại Bosnia và Herzegovina từ ngày 29 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 1992, sau cuộc tổng tuyển cử tự do đầu tiên vào năm 1990 và tình trạng gia tăng căng thẳng sắc tộc cuối cùng dẫn đến Nam Tư tan rã. Các cử tri người Bosniak và người Croat Bosnia ủng hộ mạnh mẽ độc lập, trong khi người Serb Bosnia tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý hoặc bị nhà cầm quyền người Serb tại Bosnia ngăn cản tham gia. Tổng số cử tri đi bỏ phiếu là 63,4%, trong đó 99,7% bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Vào ngày 3 tháng 3, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Bosnia và Herzegovina Alija Izetbegović tuyên bố nền độc lập của Cộng hòa Bosnia và Herzegovina và quốc hội phê chuẩn hành động này. Bằng việc tuyên bố độc lập, Bosnia và Herzegovina rời khỏi liên minh với Serbia sau gần 74 năm. Vào ngày 6 tháng 4, Hoa Kỳ và Cộng đồng Kinh tế châu Âu công nhận Bosnia và Herzegovina là một quốc gia độc lập, và nước này được kết nạp vào Liên Hợp Quốc vào ngày 22 tháng 5. Bối cảnh Vào tháng 11 năm 1990, các cuộc bầu cử tự do lần đầu tiên được tổ chức tại Bosnia và Herzegovina, đưa ba đảng dân tộc chủ nghĩa lên nắm quyền. Đó là Đảng Hành động Dân chủ (SDA) do Alija Izetbegović lãnh đạo, Đảng Dân chủ người Serb (SDS) do Radovan Karadžić lãnh đạo, và Liên minh Dân chủ người Croat (HDZ) do Stjepan Kljuić lãnh đạo. Izetbegović được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Bosnia và Herzegovina. Jure Pelivan của HDZ được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Bosnia và Herzegovina. Momčilo Krajišnik của SDS được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Bosnia và Herzegovina. Trong suốt năm 1990, Kế hoạch RAM do một nhóm sĩ quan người Serb của Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA) và các chuyên gia từ Cục Điều hành Tâm lý của JNA phát triển nhằm tổ chức người Serb bên ngoài Serbia, củng cố quyền kiểm soát SDS và chuẩn bị vũ khí và đạn dược. Năm 1990 và 1991, người Serb tại Croatia và tại Bosnia và Herzegovina tuyên bố thành lập một số tỉnh tự trị người Serb (SAO) để sau này thống nhất chúng nhằm tạo ra một Đại Serbia. Ngay từ tháng 9 hoặc tháng 10 năm 1990, Quân đội Nhân dân Nam Tư đã bắt đầu trang bị vũ khí cho người Serb tại Bosnia và tổ chức họ thành lực lượng dân quân. Cùng năm đó, Quân đội Nhân dân Nam Tư giải giáp Lực lượng phòng thủ lãnh thổ của nước Cộng hòa Bosnia và Herzegovina (TORBiH). Đến tháng 3 năm 1991, Quân đội Nhân dân Nam Tư đã phân phối ước tính khoảng 51.900 khẩu súng cho lực lượng bán quân sự người Serb và 23.298 khẩu súng cho SDS. Trong suốt năm 1991 và đầu năm 1992, SDS tiến hành "Serb hoá" mạnh mẽ lực lượng cảnh sát nhằm tăng cường kiểm soát chính trị của người Serb. Theo Noel Malcolm, "các bước đi của Karadžić và đảng của ông ta - tuyên bố về các khu tự trị của người Serb, việc trang bị vũ khí cho người Serb, các sự cố nhỏ tại địa phương, tuyên truyền không ngừng nghỉ, yêu cầu quân đội liên bang "bảo hộ" – trùng khớp chính xác với những gì được thực hiện tại Croatia. Ít nhà quan sát nào có thể nghi ngờ rằng một kế hoạch duy nhất đang được thực hiện." Trong một phiên họp vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, trong bối cảnh được cảnh báo trước về Kế hoạch RAM, Quốc hội Bosnia thông qua "Bản ghi nhớ về chủ quyền", sử dụng một phong trào nghị viện để mở lại quốc hội sau khi Krajišnik đóng cửa cơ quan này, và sau khi các đại biểu người Serb bước ra bên ngoài. Vào ngày 24 tháng 10 năm 1991, SDS thành lập Đại hội người Serb tại Bosnia và Herzegovina và đến tháng 11 họ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc ở lại Nam Tư. Đồng thời, họ ban hành "Chỉ thị về tổ chức và hoạt động của các cơ quan của người Serb tại Bosnia và Herzegovina trong điều kiện khẩn cấp", yêu cầu các quan chức SDS thành lập các hội đồng khu tự quản người Serb và các ban tham mưu khủng hoảng, đảm bảo nguồn cung cấp cho người Serb và tạo ra các mạng lưới truyền thông rộng khắp. Vào tháng 1 năm 1992, Đại hội tuyên bố thành lập Cộng hòa người Serb tại Bosnia và Herzegovina và việc ly khai. Chính phủ Bosnia tuyên bố cuộc trưng cầu dân ý này là vi hiến và thực thể tự xưng này chỉ được Nam Tư công nhận. Công nhận Vào cuối tháng 12 năm 1991, các chính trị gia người Bosniak và Croat yêu cầu Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) công nhận Bosnia và Herzegovina cùng với Slovenia, Croatia và Macedonia là các quốc gia có chủ quyền. Ủy ban Trọng tài Badinter do EEC thành lập ban đầu từ chối công nhận Bosnia và Herzegovina vì "không có trưng cầu dân ý", trong khi xác định rằng Nam Tư đang trong quá trình giải thể và ranh giới nội bộ của các nước cộng hòa không thể thay đổi nếu không có thỏa thuận. Vào tháng 1 năm 1992, EEC ra phán quyết rằng "ý chí của người dân Bosnia Herzegovina muốn thành lập Cộng hòa Xã hội Bosnia Herzegovina với tư cách là một quốc gia có chủ quyền và độc lập không thể được cho là đã được thiết lập đầy đủ" và đề xuất "một cuộc trưng cầu dân ý của tất cả công dân của SRBH mà không có sự phân biệt"; điều này không thể được tổ chức một cách bình thường vì giới cầm quyền người Serb ngăn cản người dân của họ tham gia. Trong tháng đó, Slobodan Milošević ban hành một mệnh lệnh bí mật chuyển tất cả các sĩ quan Quân đội Nhân dân Nam Tư sinh ra tại Bosnia và Herzegovina đến Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia và đưa họ vào một đội quân người Serb Bosnia mới. Vào ngày 23 tháng 1, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng EEC João de Deus Pinheiro nói rằng EEC sẽ công nhận Bosnia và Herzegovina nếu một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được thông qua. Vào ngày 25 tháng 1, cuộc tranh luận về một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức tại Quốc hội, nó kết thúc khi các đại biểu người Serb rút lui sau khi các đại biểu người Bosniak và Croat bác bỏ một đề nghị của người Serb, đó là điều này phải được xác định bởi một Hội đồng Bình đẳng Dân tộc chưa được thành lập. Sau khi Momčilo Krajišnik cố gắng hoãn phiên họp, ông bị thay thế bằng một thành viên Đảng Hành động Dân chủ, và đề xuất tổ chức trưng cầu dân ý được thông qua trong tình trạng không có mặt Đảng Dân chủ người Serb. Cuộc trưng cầu dân ý nhằm mục đích thay đổi quy chế của Bosnia và Herzegovina từ một quốc gia của Liên bang Nam Tư thành một quốc gia có chủ quyền, điều này vi phạm Hiến pháp Nam Tư (vì Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosnia và Herzegovina không có thẩm quyền này, và vượt quá quyền hạn của họ). Theo Hiến pháp Nam Tư, việc thay đổi biên giới Nam Tư là không thể nếu không có sự đồng thuận của tất cả các nước cộng hòa. Cuộc trưng cầu dân ý cũng vi hiến theo Hiến pháp của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosnia và Herzegovina. Bản sửa đổi LXX của hiến pháp thành lập một hội đồng được giao nhiệm vụ thực thi quyền bình đẳng của các dân tộc và quốc tịch tại Bosnia và Herzegovina. Đề xuất trưng cầu dân ý về "tình trạng của Bosnia và Herzegovina" cần phải được Hội đồng này xem xét, vì cuộc trưng cầu dân ý như vậy tác động trực tiếp đến "các nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và quốc tịch". Công dân của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosnia và Herzegovina bỏ phiếu ủng hộ độc lập trong cuộc trưng cầu dân ý tổ chức vào ngày 29 tháng 2 và ngày 1 tháng 3 năm 1992. Nền độc lập được các cử tri người Bosniak (người Hồi giáo Bosnia) và người Croat Bosnia ủng hộ mạnh mẽ, trong khi phần lớn người Serb Bosnia tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý hoặc bị giới cầm quyền người Serb tại Bosnia ngăn cản việc tham gia. Theo SDS, độc lập sẽ khiến người Serb trở thành "một dân tộc thiểu số trong một nhà nước Hồi giáo". Họ sử dụng các đơn vị vũ trang không chính quy để ngăn cản việc vận chuyển các thùng phiếu, và thả truyền đơn khuyến khích tẩy chay, nhưng hàng nghìn người Serb tại các thành phố lớn vẫn bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Đã xảy ra các vụ đánh bom và xả súng trong suốt thời gian bỏ phiếu, đáng chú ý nhất là cuộc tấn công một đám cưới tại Sarajevo. Tỷ lệ cử tri đi bầu là 63,4%, trong đó 99,7% bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Tuy nhiên, cuộc trưng cầu dân ý không đạt được đa số 2/3 theo yêu cầu của hiến pháp vì chỉ có 63,4% cử tri đủ điều kiện tham gia. Vào ngày 3 tháng 3, Alija Izetbegović tuyên bố nền độc lập của Cộng hòa Bosnia và Herzegovina và quốc hội Bosnia phê chuẩn hành động của ông. Vào ngày 4 tháng 3, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ James Baker kêu gọi EEC công nhận Bosnia và Herzegovina, và vào ngày 6 tháng 3, Izetbegović yêu cầu được quốc tế công nhận. Vào ngày 10 tháng 3, một tuyên bố chung giữa Hoa Kỳ và EEC nhất trí công nhận Slovenia và Croatia. Họ cũng đồng ý rằng Macedonia và Bosnia và Herzegovina sẽ được công nhận nếu Bosnia và Herzegovina "thông qua, không chậm trễ, các thỏa thuận hiến pháp nhằm mang lại sự phát triển hòa bình và hài hòa cho nước cộng hòa này trong phạm vi biên giới hiện có của họ." Vào ngày 7 tháng 4, Hoa Kỳ và EEC công nhận Bosnia và Herzegovina là một quốc gia độc lập, và các thành viên khác trong cộng đồng quốc tế cũng công nhận nước này vào đầu tháng 4. Ngày hôm đó, các nhà lãnh đạo người Serb Bosnia tuyên bố độc lập và đổi tên thực thể tự xưng của họ thành Republika Srpska. Vào ngày 12 tháng 5, Đại hội người Serb Bosnia thông qua "Sáu mục tiêu chiến lược của quốc gia người Serb"; Radovan Karadžić nói "Mục tiêu đầu tiên là tách hai cộng đồng dân tộc - tách biệt các quốc gia, tách biệt khỏi những kẻ thù của chúng ta và những kẻ đã tận dụng mọi cơ hội, đặc biệt là trong thế kỷ này, để tấn công chúng ta, và những ai sẽ tiếp tục những hoạt động như vậy nếu chúng ta ở trong cùng một nhà nước." Vào ngày 22 tháng 5, Bosnia và Herzegovina được kết nạp vào Liên Hợp Quốc. Kết quả Hậu quả Trong vòng một tháng kể từ khi được công nhận, cuộc vây hãm Sarajevo bắt đầu, vào thời điểm đó Quân đội Republika Srpska (VRS) của người Serb Bosnia kiểm soát 70% lãnh thổ Bosnia và Herzegovina. VRS được Nam Tư hỗ trợ, còn Quân đội Bosnia được hỗ trợ từ Cộng hòa Croatia mới thành lập cũng như từ thực thể Herzeg-Bosnia. Cuộc chiến kéo dài ba năm, với tổng số thương vong là hơn 100.000 người. Các vụ thảm sát Bijeljina, Srebrenica và Markale được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và thu hút chú ý đến cuộc xung đột. Xem thêm Lịch sử Bosnia và Herzegovina Quan hệ ngoại giao của Bosnia và Herzegovina Ghi chú Tham khảo Sách Báo cáo Tin tức Bosnia và Herzegovina năm 1992 Quan hệ quốc tế năm 1992 Chiến tranh Bosnia Sự kiện tháng 3 năm 1992 ở châu Âu Lịch sử chính trị Bosna và Hercegovina Trưng cầu dân ý ở châu Âu
19842736
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BA%BFn%20bay%20251%20c%E1%BB%A7a%20Faucett%20Per%C3%BA
Chuyến bay 251 của Faucett Perú
Chuyến bay 251 của Faucett Perú sử dụng một máy bay Boeing 737-200 khai thác dịch vụ chở khách theo lịch trình Lima–Arequipa–Tacna và bị rơi vào ngày 29 tháng 2 năm 1996, khi đang hoàn thành chặng đầu tiên lúc tiếp cận Sân bay quốc tế Rodríguez Ballón. Toàn bộ 123 hành khách và phi hành đoàn trên máy bay đều thiệt mạng trong vụ tai nạn. Đây là vụ tai nạn hàng không chết chóc nhất xảy ra trên lãnh thổ Peru. Máy bay và phi hành đoàn Chiếc máy bay liên quan đến vụ tai nạn là Boeing 737-222, số đuôi OB-1451, c/n 19072, có chuyến bay đầu tiên vào ngày 21 tháng 10 năm 1968. Được trang bị động cơ Pratt & Whitney JT8D-7B, chiếc máy bay này bắt đầu hoạt động thương mại vào ngày 28 tháng 10 năm 1968, khi nó được giao mới cho United Airlines và có số đăng ký N9034UE. Khi Aloha Airlines sở hữu chiếc máy bay, nó được đăng ký lại với số N73714 vào ngày 14 tháng 6 năm 1971 cho đến cuối , khi đó nó được chuyển giao cho Air California với số đăng ký tương tự. Air California được đổi tên thành AirCal vào và máy bay được đăng ký lại thành N459AC. Sau khi sáp nhập AirCal vào American Airlines, chiếc máy bay này tiếp tục hoạt động cho hãng này cho đến khi Braniff Inc. tiếp nhận nó với cùng một số đăng ký vào ngày 2 tháng 3 năm 1989, sau đó nó được chuyển cho AL AC 2 Corp vào ngày 15 tháng 5 năm 1990. Cuối cùng, chiếc máy bay được giao cho Faucett vào ngày 15 tháng 7 năm 1991 và được đăng ký là OB-1451. Khung máy bay có tuổi hơn 27 năm vào thời điểm xảy ra tai nạn. Trong chuyến bay cuối cùng, người điều khiển máy bay là Cơ trưởng Juan Mayta Basurto và Cơ phó Julio Paz Castillo, cả hai phi công đều đủ tiêu chuẩn để lái chiếc 737. Mô tả Chuyến bay bắt đầu từ sân bay quốc tế Jorge Chávez, khi đang tiếp cận VOR/DME tới đường băng 09 của sân bay quốc tế Rodríguez Ballón, vào ban đêm, trong mưa và sương mù, có báo cáo về sấm sét trong khu vực. Tổ bay yêu cầu bật đèn của đường băng vì họ không thể nhìn thấy chúng giống như những lần tiếp cận bình thường khác, và nhận được phản hồi từ kiểm soát viên không lưu rằng đèn đang ở cường độ tối đa. Máy bay lao vào vùng đồi cao —độ cao của sân bay là —, lúc 20:25, cách đường băng khoảng và cách khoảng bên ngoài Arequipa. Phần phía sau bị gãy lìa do va chạm, còn phần thân chính tiếp tục bay qua rặng núi ban đầu và va chạm gần đỉnh của rặng núi thứ hai. Phần đuôi rơi vào một khe hở giữa hai rặng núi. Trên máy bay có 123 người, trong đó có 117 hành khách. Quốc tịch của các nạn nhân như sau: Trong số những người thiệt mạng có Juan Lorenzo de Szyszlo, người có hai quốc tịch Mỹ và Peru 36 tuổi, và là con trai thứ hai của họa sĩ nổi tiếng người Peru Fernando de Szyszlo với vợ ông là nhà thơ Blanca Varela. Lorenzo được cho là đang tới Arequipa để giám sát cuộc triển lãm tác phẩm của cha ông tại đó. Điều tra Cuộc điều tra có các đại diện từ Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia và Cục Hàng không Liên bang của Hoa Kỳ, cũng như từ Boeing và Pratt & Whitney, tất cả đều đến hiện trường vụ tai nạn vào ngày 1 tháng 3. Bộ lưu dữ liệu chuyến bay (FDR) và bộ ghi âm buồng lái (CVR) của máy bay được lấy ra từ đống đổ nát và đến ngày 5 tháng 3 chúng được gửi đến Washington D.C. để NTSB phân tích. Thông tin sớm từ báo chí tường thuật rằng FDR và CVR đã cung cấp thông tin. Tuy nhiên, trong khi FDR có thể sử dụng được thì CVR bị cháy một phần và hư hỏng một phần khi đã bị đứt băng từ ngay từ đầu, và chỉ có thể nghe thấy những giọng nói tiếng Tây Ban Nha biệt lập. Những thứ này dường như được ghi lại bên trong một nhà chứa máy bay, có thể là trong quá trình bảo trì, và do đó không có bản ghi âm giọng nói cuối cùng của tổ bay trước khi vụ tai nạn xảy ra. Hãng hàng không tuyên bố đã mua CVR vào tháng 7 năm 1995 và họ từng bảo trì nó hai lần ngay trước khi xảy ra vụ tai nạn (tháng 12 năm 1995 và tháng 2 năm 1996), tuy nhiên CVR đã không được bảo trì trong sáu năm trước đó, thể hiện ở phần đăng ký bên trong của máy bay rằng ngày mở ra cuối cùng là vào tháng 12 năm 1989. Nhóm điều tra phát hiện ra rằng phi hành đoàn đã được cấp một thiết lập máy đo độ cao khí áp lỗi thời vì bỏ qua tín hiệu ILS, khiến họ bay thấp hơn gần so với độ cao mà họ tin rằng mình đang bay. Trên thực tế, họ có ấn tượng sai lầm rằng chiếc máy bay đang bay ở độ cao , trong khi thực tế nó đang ở độ cao , khoảng bên dưới đường trượt hạ cánh. Ghi chú Tham khảo Đọc thêm Tai nạn và sự cố hàng không năm 1996 Tai nạn và sự cố liên quan đến Boeing 737 Peru
19842747
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20T%C3%ADch%20Th%E1%BA%A1ch%20S%C6%A1n%202023
Động đất Tích Thạch Sơn 2023
Động đất Tích Thạch Sơn 2023 () là trận động đất xảy ra vào lúc 23:59 (CST), ngày 18 tháng 12 năm 2023. Trận động đất có cường độ 6.2 hoặc 5.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất đã làm 151 người chết, 982 người bị thương. Tham khảo Động đất năm 2023 Động đất thập niên 2020 Động đất thế kỷ 21 Động đất tại Trung Quốc Thảm họa tại Trung Quốc năm 2023 Động đất tại Cam Túc Động đất tại Thanh Hải
19842748
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20200m%20N%E1%BB%AF
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – 200m Nữ
Nội dung thi đấu thuyền rồng (đua thuyền truyền thống) 200m nữ tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức vào ngày 25 tháng 8 năm 2018. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1–3 → Bán kết (BK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1–4 → Bán kết (BK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết Vòng loại: 1–3 → Chung kết (CK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết 1 Bán kết 2 Chung kết Tail race Trận tranh huy chương Tham khảo 200m Nữ
19842756
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%E1%BB%83n%20h%E1%BA%A7u%20x%E1%BB%A9%20W%C3%BCrttemberg
Tuyển hầu xứ Württemberg
Tuyển hầu xứ Württemberg (tiếng Đức: Kurfürstentum Württemberg) là một bang quốc tồn tại trong thời gian ngắn trong Đế chế La Mã Thần thánh ở hữu ngạn sông Rhein. Năm 1803, Đệ Nhất Tổng tài Napoléon Bonaparte đã nâng Công quốc Württemberg lên thành Tuyển hầu quốc Württemberg, hình thức lãnh địa thân vương cao nhất trong Đế chế La Mã Thần thánh. Tuy nhiên, chỉ sau đó 3 năm, vào ngày 1 tháng 1 năm 1806, vị Tuyển hầu cuối cùng là Friedrich III được phong danh hiệu Quốc vương của Württemberg, trước khi Hoàng đế cuối cùng của Thánh chế La Mã Franz II tuyên bố bãi bỏ Đế chế La Mã Thần thánh trên thực tế vào ngày 6 tháng 8 năm 1806. Vương quốc Württemberg tiếp tục tồn tại với tư cách một nhà nước độc lập và trở thành một bang quốc của Đế quốc Đức vào năm 1871, cho đến năm 1918, khi Đế quốc Đức bị bãi bỏ sau Thế chiến thứ nhất. Lịch sử Năm 1793, Công tước Württemberg Karl Eugen qua đời mà không có hậu duệ thừa kế hợp pháp. Ngôi vị công tước xứ Württemberg lần lượt được kế vị bởi 2 người em trai của ông, Ludwig Eugen (mất năm 1795), không có con, và Friedrich Eugen (mất năm 1797). Công tước Friedrich Eugen từng có thời gian phục vụ trong quân đội của Friedrich Đại đế, người mà ông có quan hệ họ hàng thông qua hôn nhân, và sau đó quản lý các điền trang của gia đình mình xung quanh Montbéliard. Ông giáo dục các con mình theo đạo Tin Lành và nói tiếng Pháp, và tất cả các thành viên của gia tộc Württemberg sau này đều là hậu duệ của ông. Trong thời gian trị vì ngắn ngủi của Friedrich Eugen, quân đội Đệ Nhất Cộng hòa Pháp đã xâm lược xứ Württemberg và buộc công tước phải rút quân khỏi liên quân Thánh chế La Mã và trả tiền bồi thường chiến phí. Mặc dù chỉ cai trị được 2 năm, Friedrich Eugen đã quản lý một cách hiệu quả để giữ được nền độc lập của công quốc. Thông qua các cuộc hôn nhân của các con mình, ông đã có những mối quan hệ đáng chú ý trên khắp châu Âu, bao gồm cả các gia đình hoàng gia Nga, Áo và Anh. Năm 1797, con trai Friedrich Eugen là Friedrich Wilhelm Karl kế thừa ngai vị Công tước Württemberg với xưng hiệu Friedrich III. Là một người sùng bái Friedrich Đại đế, Friedrich III tham gia Chiến tranh Liên minh thứ Hai chống lại Pháp bất chấp mong muốn của người dân và khi người Pháp lại xâm lược và tàn phá đất nước, ông rút lui về Erlangen, nơi ông ở lại cho đến sau khi ký kết Hiệp ước Lunéville vào ngày 9 tháng 2 năm 1801 Sau khi các cuộc đàm phán Hòa giải Đức dưới áp lực của người Pháp, được ký vào tháng 3 năm 1802, Friedrich III đã nhượng lại tài sản của mình ở tả ngạn sông Rhein cho Pháp, và nhận lại 9 thành bang đế quốc tự do, trong đó có Reutlingen và Heilbronn cùng các vùng lãnh thổ khác, tổng cộng có diện tích khoảng 850 dặm vuông và bao gồm khoảng 124.000 dân. Ông cũng nhận tước hiệu Tuyển đế hầu từ Đệ Nhât tổng tài Napoléon vào năm 1803. Sau đó, công quốc được nâng lên thành Tuyển hầu quốc Württemberg (1803–1805). Các lãnh địa mới không hợp nhất vào công quốc mà vẫn tách biệt như những lãnh địa độc lập của Tuyển hầu quốc. Chúng được biết đến với cái tên "Neuwürttemberg" (Württemberg Mới) và được công tước cai trị trực tiếp mà không cần thông qua nghị viện. Tuyển hầu quốc tiếp tục được mở rộng thông qua các hoạt động mua bán chuyển nhượng các lãnh địa mới trong giai đoạn 1803–1806 như một phần của quá trình Hòa giải Đức. Năm 1805, Württemberg đứng về phía Đệ Nhất Đế chế Pháp, và trong Hòa ước Pressburg vào tháng 12 năm 1805, Tuyển hầu quốc đã được thưởng nhiều phần lãnh thổ của Đế quốc Áo xa hơn trong Vùng đế chế Swabia và các vùng đất khác trong khu vực. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1806, Công tước Friedrich III được nâng lên hàng quốc vương và trở thành Vua của Vương quốc Württemberg, với vương hiệu Friedrich I. Sau khi tôn vương hiệu, Friedrich I đã bãi bỏ hiến pháp và thống nhất lãnh thổ Cựu và Tân Württemberg. Sau đó, ông đặt tài sản của nhà thờ dưới sự kiểm soát của nhà nước. Ông cũng gia nhập Liên bang Rhein và nhận thêm lãnh thổ. Tham khảo Tuyển hầu xứ Württemberg Tuyển hầu Thánh chế La Mã Lịch sử Württemberg
19842759
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danny%20Schechter
Danny Schechter
Daniel Isaac "Danny" Schechter(Tiếng Anh: Daniel Isaac "Danny" Schechter, 27 tháng 6 năm 1942 - 19 tháng 3 năm 2015) là một nhà báo nhân quyền người Mỹ với hơn ba mươi năm kinh nghiệm làm nhà báo, nhà bình luận và diễn giả quốc tế về các vấn đề truyền thông. Làm việc tại CNN và ABC; trong thời gian làm việc tại ABC, ông là nhà sản xuất và phóng viên điều tra của chương trình nổi tiếng nhất "20/ 20" trong tám năm Nhà báo, người đoạt hai giải Báo chí Quốc gia Giải Emmy. Ông đã được mời giảng dạy ở nhiều trường đại học và là giáo sư tại Trường Báo chí Columbia với khóa học "Báo cáo Nhân quyền". Các bài viết của ông đã được đăng trên nhiều tờ báo quan trọng hàng đầu ở Hoa Kỳ như: The Nation, Newsday, Boston Globe, Columbia Journalism Review, Detroit Free Press, Media Studies Journal và Z Magazine。 Ông từ lâu đã quan ngại về hiện tượng các tập đoàn kiểm soát truyền thông và thúc đẩy cải cách truyền thông. Ông là biên tập viên điều hành của "MediaChannel.org", trang web về các vấn đề truyền thông trực tuyến lớn nhất thế giới. Ông tổng hợp các báo cáo quan trọng từ các phương tiện truyền thông chính thống của Mỹ và chỉ trích việc tính chuyên nghiệp của phương tiện truyền thông trong việc đưa tin về các sự kiện lớn như 911 và Chiến tranh vùng Vịnh. Tiêu điểm Châu Phi Ông bắt đầu liên hệ với "Ngọn giáo của các quốc gia" châu Phi vào năm 1967, và sau đó tổ chức "Nhóm nghiên cứu châu Phi" tại Boston, Hoa Kỳ và làm việc với Đại hội toàn quốc châu Phi Đợi Tổ chức Giải phóng Nam Phi cùng hợp tác. Ông là nhà làm phim tài liệu người Mỹ duy nhất được coi là một trong những người thân của Mandela. Trong thời gian Mandela ra tù và giữ chức Tổng thống Nam Phi, Mandela coi Danny như một thành viên trong nhóm của mình. Ông đã tạo ra chương trình "Nam Phi ngay bây giờ" cho kênh "Tầm nhìn toàn cầu", được phát sóng hàng tuần trong ba năm trên truyền hình công cộng ở Hoa Kỳ và hơn 30 quốc gia. Chú thích Nhà báo Mỹ Cựu sinh viên Đại học Cornell Nhà sản xuất phim Mỹ
19842769
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tanner%20Buchanan
Tanner Buchanan
Tanner Emmanuel Buchanan (sinh ngày 8 tháng 12 năm 1998) là một diễn viên người Hoa Kỳ. Anh được biết đến với vai diễn Leo Kirkman trong bộ phim chính trị ABC Tổng thống bất đắc dĩ và Robby Keene trong loạt phim Cobra Kai của Netflix. Anh cũng được biết đến với vai diễn Cameron Kweller trong bộ phim hài lãng mạn He's All That. Tiểu sử Buchanan sinh ra ở Lima, Ohio, với Steve và Marlona Buchanan. Anh lớn lên trong một gia đình theo đạo Thiên chúa và theo học tại trường tiểu học Glandorf ở Ohio. Anh chuyển đến Los Angeles cùng gia đình vào năm 2007 để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất. Danh sách phim Tham khảo Liên kết ngoài tanner-buchanan.com Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Nam diễn viên điện ảnh Mỹ Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21 Nam diễn viên truyền hình Mỹ Nam diễn viên Ohio
19842780
https://vi.wikipedia.org/wiki/Con%20ngoan%20tr%C3%B2%20gi%E1%BB%8Fi
Con ngoan trò giỏi
Con ngoan trò giỏi ở Việt Nam, hay Cảng hài () ở Hồng Kông, là hiện tượng chỉ đến một số lượng nhỏ thanh thiếu niên, nhi đồng tại Việt Nam cũng như Hồng Kông được đánh giá là chăm ngoan, học tốt tuy nhiên lại quá phụ thuộc vào gia đình và luôn vâng lời thầy cô ở trường, trong lớp. Họ thường có kết quả học tập thuộc loại Khá - Giỏi và điểm hạnh kiểm thuộc loại Tốt, đồng thời cũng có chỉ số cảm xúc thấp và thiếu đi các kỹ năng tự làm chủ bản thân. Ở trường trong lớp, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, họ được biểu dương là tấm gương mẫu mực, là hình mẫu tốt để bạn bè đồng trang lứa noi theo. Ở khía cạnh khác, họ thường được gọi với những cái tên không chính thức như "con nhà người ta", hoặc "gà công nghiệp", một thuật ngữ ẩn dụ với nghĩa gốc chỉ đến những con gà được sinh ra và nuôi dưỡng theo quy trình công nghiệp thay vì trong môi trường tự nhiên. Về thuật ngữ "Cảng hài" (, viết tắt của "Hong Kong Kids") thì nó được ra đời vào năm 2009, xuất hiện trong cuốn sách có tựa đề Kong Kids: The Nightmares for Parents and Teachers (tạm dịch: Hiện tượng con ngoan trò giỏi ở Hồng Kông: Nỗi lo lắng của thầy cô và các bậc phụ huynh) do tờ Minh Báo ấn hành. Cuốn sách tranh luận về việc tồn tại 5 đặc điểm tiêu cực thường thấy ở những đứa trẻ sinh ra tại Hồng Kông kể từ sau thập niên 1990. Diện mạo Hiện tượng con ngoan trò giỏi chủ yếu được sinh ra trong hai thập niên 90 và 2000, thuộc các gia đình ở tầng lớp trung lưu, luôn được cha mẹ nuông chiều và thầy cô tuyên dương. Xem thêm Con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ Bố mẹ trực thăng Tự luyến Học bá (学霸) Học sinh giỏi (HSG) Giáo dục Việt Nam Giáo dục Hồng Kông NEET Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Thế nào là “Con ngoan, trò giỏi”? – Báo Cựu Chiến binh Việt Nam Xứng đáng là con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ – Báo Quân khu 2 Tuyên dương 95 học sinh 'con ngoan, trò giỏi' trong Khối Các cơ quan tỉnh – Báo Nghệ An Vượt lên nghịch cảnh, trở thành con ngoan, trò giỏi – Báo Bình Dương Xứng danh “Con ngoan trò giỏi - Cháu ngoan Bác Hồ” – Báo Bình Dương Thiếu niên nhi đồng phấn đấu rèn luyện “con ngoan trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ” – Cổng thông tin điện tử tỉnh Bình Phước Văn hóa Việt Nam Văn hóa Hồng Kông Trẻ em Việt Nam Trẻ em Hồng Kông Xã hội Việt Nam Xã hội Hồng Kông Làm cha mẹ Vấn đề xã hội tại Trung Quốc Áp lực học tập trong văn hóa Á Đông Kiểu mẫu người Á Đông
19842790
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kami%2C%20Miyagi
Kami, Miyagi
là thị trấn thuộc huyện Kami, tỉnh Miyagi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 21.943 người và mật độ dân số là 48 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 460,67 km2. Tham khảo Thị trấn của Miyagi
19842792
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%93ng%20r%E1%BB%93i%20l%E1%BA%A1i%20ch%E1%BA%B7t
Trồng rồi lại chặt
Trồng rồi lại chặt hay Trồng - chặt là hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực nông nghiệp để chỉ hành động trồng trọt một loại cây nông sản do thấy nhu cầu mua lớn, lợi nhuận cao dẫn đến nông dân chặt bỏ cây trồng hiện có. Nông dân chuyển sang trồng loại cây được xem là có kinh tế hơn. Một thời gian sau đó lại chặt bỏ diện tích cây mới trồng và lại trồng loại cây khác, trồng rồi lại chặt cứ thế lặp lại. Hiện tượng này liên quan đến nguyên lý cung - cầu trong nông nghiệp và biến động thị trường nông sản. Tình trạng Tại miền Bắc Việt Nam, ở các tỉnh Bắc Giang, Hòa Bình, Yên Bái, Phú Thọ,...diễn ra việc chặt vải thiều để trồng cây ăn quả có múi như cam, bưởi,...các loại quả như bưởi từng có giá gần 30.000 VND/kg khi hàng hóa dồn ứ giá tuột xuống chỉ còn 5.000 VND/kg dẫn đến từ 2022 bắt đầu xảy ra hiện tượng nông dân chặt cây bưởi đã trồng. Vùng trồng cam Cao Phong được biết đến rộng rãi của tỉnh Hòa Bình có diện tích 900 ha trồng cam năm 2010. Diện tích đã gia tăng lên gần 3.000 ha vào năm 2021 nhưng sau đó nông dân lại tiến hành chặt bỏ, đến 2022 diện tích chỉ còn 1.700 ha. Nông dân chuyển sang trồng chuối, mía, dứa. Tại miền Đông Nam Bộ, nông dân Đồng Nai đua nhau chặt chôm chôm tróc để trồng chôm chôm nhãn, rồi đến năm 2016 lại chặt để trồng chôm chôm Thái. Nguyên nhân là do giá cả, trong khi chôm chôm tróc chỉ có giá 5.000 - 6.000 VND/kg, chôm chôm nhãn có giá 15.000 VND/kg thì chôm chôm Thái có giá 18.000 VND/kg. Vào năm 2018 ở Trảng Bom, Đồng Nai, nhiều diện tích hồ tiêu bị chặt để trồng chuối cấy mô, do nông dân thấy giá tiêu quá thấp còn giá chuối lại quá cao. Vào năm 2022, nhiều diện tích thanh long ở Bà Rịa - Vũng Tàu bị đốn để chuyển sang cây trồng khác. Tại Bình Phước, người dân chặt điều, hồ tiêu, cao su, cà phê,...để trồng sầu riêng. Đến năm 2022, diện tích trồng sầu riêng là 4.802 ha, trong khi đó diện tích cà phê giảm 604 ha, diện tích trồng hồ tiêu giảm 1.144 ha. Tháng 9 năm 2022, sầu riêng của Việt Nam chính thức được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc dẫn đến việc chặt để trồng sầu riêng diễn ra mạnh hơn. Năm 2016, người dân ở Mang Yang và một số huyện khác ở Gia Lai, đã ồ ạt chặt cây cao su trên 10 năm tuổi và chặt cây cà phê để trồng chanh dây. Điều này do giá mủ cao su hiện tại thấp, trong khi chanh dây có giá 20.000 VND/kg. Tuy nhiên, đến 2023, giá chanh dây tuột xuống mạnh khiến người trồng bị lỗ nặng. Năm 2022, ở Bình Thuận có 2.500 ha thanh long bị chặt để chuyển sang cây trồng khác, 1.500 ha khác ngừng canh tác. Từ những năm 2010, tại các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ, như Tiền Giang, diễn ra việc phá bỏ lúa trồng mít, sau đó chặt bỏ các vườn mít để trồng sầu riêng. Một số vùng trồng trực tiếp từ lúa lên vườn sầu riêng. Năm 2012 ở Vĩnh Long, Hậu Giang, nông dân bỏ lúa trồng cam sành do họ thấy giá cam sành tăng cao. Giá lên đến 33.000 VND/kg, thậm chí vẫn có lợi nhuận nếu giá chỉ ở mức 7.000 VND/kg, vì chi phí chỉ khoảng 4.000 VND. Theo một đánh giá, một hecta lúa mang đến lợi nhuận 50 triệu VND nhưng cùng diện tích lợi nhuận trồng cam sành là 500 triệu. Tuy nhiên, đến năm 2018, nông dân lại phải chặt cam để trồng các loại cây ăn quả khác do hàng quá nhiều, giá cả không ổn định trong khi vật tư nông nghiệp lớn. Nông dân Vĩnh Long đã chuyển sang trồng mít Thái siêu sớm khi giá loại quả lên đến 50.000 VND/kg vào dịp Tết. Diện tích mít huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang tăng nhanh từ hơn 600 ha trong năm 2017 lên gần 1.000 ha trong năm 2018. Năm 2012, mặc dù sản lượng dừa của Bến Tre gia tăng nhưng Trung Quốc chỉ nhập ít hơn, giảm 70%, cùng thời điểm giá dừa toàn cầu sụt giảm, khiến nông dân ồ ạt chặt dừa, nhiều người chuyển sang trồng bưởi da xanh. Vào năm 2015 ở Hậu Giang và Sóc Trăng, giá thanh long tuột xuống chỉ còn 3.000 VND/kg, giá đu đủ là 500-1.000 VND/kg, dẫn đến nông dân chặt bỏ để trồng chanh không hạt khi giá loại quả này lên đến 20.000 VND/kg. Ở Bến Tre, vào năm 2018, nông dân chặt vườn cây măng cụt sau nhiều năm chúng có giá cao, nhưng họ không trồng lại loại cây ăn trái khác mà trồng các loại hoa kiểng và cây giống. Năm 2022, nhiều khu vực ở Long An nông dân cũng bắt đầu chặt thanh long để trồng các loại cây khác. Sầu riêng hiện đang là nông sản giá trị kinh tế cao, theo Đề án "Phát triển bền vững cây ăn quả chủ lực" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện diện tích sẽ là 75.000 ha đến năm 2030 nhưng đến năm 2022 diện tích trồng đã tăng lên đến 110.000 ha, phân bổ khắp miền Tây, miền Đông và Tây Nguyên. Điều này dẫn đến rủi ro rất lớn do vấn đề đầu ra hàng hóa. Nguyên nhân Nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến hiện tượng Trồng rồi lại chặt là từ Trung Quốc. Phần lớn nông sản Việt Nam xuất khẩu sang nước này, có thời điểm thị trường Trung Quốc nhập số lượng lớn hàng nông sản, chẳng hạn mít. Vào một số thời điểm họ không nhập hàng dẫn đến hàng hóa dồn ứ. Một nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đó là hậu quả của Đại dịch COVID-19 khiến tình trạng lỗ lã, phá sản trên diện rộng nhiều ngành nghề, bao gồm cả lĩnh vực nông nghiệp. Nông sản của nhiều nước như Thái Lan, Campuchia,... cũng cạnh tranh khốc liệt với nông sản Việt Nam để nhập vào Trung Quốc. Sự biến động thị trường tiêu thụ nông sản Trung Quốc gây ra khủng hoảng từ đó dẫn đến hiện tượng trồng - chặt, điều đó cho thấy sự phụ thuộc nặng nề của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc, thị trường xuất khẩu nông sản gần như duy nhất của Việt Nam. Năm 2016, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mang Yang Phạm Ngọc Cơ cho biết "Ngay cả cây cao su, khoai mì cũng bán sang thị trường [Trung Quốc] là chủ yếu". Một dữ liệu về thanh long, hơn 80% trong sản lượng 1,4 triệu tấn thanh long của Việt Nam được xuất sang Trung Quốc. Vấn đề lớn của hiện tượng trồng - chặt không chỉ là số lượng nông sản mà là vấn đề chất lượng. Sản phẩm không được chú trọng chất lượng dẫn đến bị ngừng xuất khẩu. Đầu năm 2023, thanh long ruột đỏ của Việt Nam xuất sang Nhật Bản bị đình chỉ. Yêu cầu chất lượng cần được đáp ứng đầy đủ, điều này minh chứng thông qua chứng nhận mã vùng nông sản xuất khẩu. Việc thiếu quản lý về giá cả gây thiệt hại nặng cho người nông dân. Tại Bến Tre, giá măng cụt mua tại vườn có thời điểm 40.000 VND/kg nhưng giá bán trôi nổi bên ngoài chỉ có 30.000 VND/kg, từ đó gây thiệt hại cho họ. Như thế, giá cả hoàn toàn chi phối hiện tượng trồng - chặt này chứ không phải sự đảm bảo của các hợp đồng thương mại. PGS.TS Nguyễn Văn Huỳnh - nguyên giảng viên khoa nông nghiệp Trường Đại học Cần Thơ đã có đánh giá người nông dân chạy theo phong trào, trồng trọt đánh liều, chỉ thấy cái lợi trong ngắn hạn. Không chỉ giá bán mà còn giá vật tư nông nghiệp quá cao, chi phí của phân bón, thuốc trừ sâu,... tăng mạnh khiến lợi nhuận không thể bù đắp, do đó dẫn đến chặt - trồng. Năm 2023, nông dân nhiều địa phương ở Bến Tre vẫn chặt bỏ bưởi da xanh dù giá nông sản loại quả này đã có dấu hiệu tăng lại. Họ chuyển sang trồng loại cây khác như dừa xiêm xanh, điều. Hiện tại thì chính quyền không thể kiểm soát nổi nông dân. Năm 2011, chính quyền Hậu Giang cố gắng tìm cách khống chế việc bỏ lúa trồng cam sành, nhưng quá muộn. Chỉ riêng xã Tân Thành thuộc Ngã Bảy đã có 1.043 ha trồng cam, trong khi lúa chỉ còn diện tích 4,4 ha. Tại xã Phú Hữu huyện Châu Thành, 400 ha bưởi năm roi chỉ còn 80 ha. Chúng cũng bị chặt để trồng cam. Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mang Yang Phạm Ngọc Cơ cho biết "Người dân thấy trồng cây gì có lợi thì họ trồng, không cản được". Năm 2023, Cục trưởng Cục Trồng trọt Nguyễn Như Cường cho biết Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay UBND cấp tỉnh không thể bắt buộc người dân, "Cơ quan nhà nước chỉ đứng trên góc độ tổng thể như thị trường trong và ngoài nước, điều kiện tự nhiên, thị trường cạnh tranh... để khuyến cáo, cảnh báo nông dân chứ không thể cấm nông dân không được trồng cây này hay phải trồng cây khác..." Trồng - chặt diễn ra không đồng bộ, "mạnh ai nấy làm", dẫn đến sản xuất manh mún, quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết, thiếu thông tin thị trường. Dẫn đến trồng rồi lại khó khăn đầu ra thị trường tiêu thụ. Các giống cây trồng mới cho ra nông sản có nhiều ưu điểm vượt trội nên nhất thời thu hút khách hàng tiêu thụ trên thị trường. Việc trồng chúng cũng có nhiều thuận lợi. Một ví dụ, chanh không hạt có nguồn gốc từ Mỹ. Quả chanh không có hạt, vỏ mỏng, nước ít chua, không có vị đắng như chanh giấy. Cây cho trái quanh năm, cây ít gai, năng suất cao, khả năng kháng bệnh tốt. Trồng sau 18 tháng là đã có thể thu hoạch. Lợi nhuận do giống cây mới mang lại rất lớn cũng khiến nông dân nhất thời chạy theo, chẳng hạn, việc trồng chanh dây ở Gia Lai trong năm 2016 được tính toán chỉ đầu tư 100 triệu VND vào 1 ha đất có thể mang về lợi nhuận 1 tỷ VND. Ông Phạm Ngọc Cơ cho biết "Rất khó thực hiện quy hoạch loại cây trồng vì phải phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ". Một nguyên nhân bất khả kháng của chặt rồi trồng là do tình trạng xâm nhập mặn khiến các vườn cây bị mất mùa hoặc chết, điều này thấy rõ tại Tiền Giang, Bến Tre. Tại xã Tam Bình, Cai Lậy, Tiền Giang, thiên tai kép gồm đợt hạn hán và nước nhiễm mặn nghiêm trọng nhất chưa từng có vào năm 2020, hơn 70 % diện tích canh tác sầu riêng bị chết, số còn lại cũng đang chết dần. Hậu quả Tình trạng trồng - chặt bắt đầu từ việc chạy theo nhu cầu thị trường, khi một loại sản phẩm nông nghiệp đang giai đoạn giá trị cao nhiều nông dân đổ xô mua cây giống về trồng. Việc trồng cây chạy theo giá cả cao và cây bị chặt khi giá cả thị trường loại nông sản đó sụt giảm. Tuy nhiên đã diễn ra hiện tượng giá cả tăng trở lại thì thị trường thiếu hàng, người nông dân thì đã chặt sạch cây trong vườn của họ. Trong năm 2022 nông dân Tiền Giang chặt mít, nhưng sang năm 2023 giá mít tăng trở lại. Tại Bến Tre, chỉ trong vài năm khó khăn, không chỉ giá dừa tuột quá thấp, thương lái cũng không mua hàng nên nhiều nông dân chặt vườn dừa của họ, đến khi giá dừa tăng mạnh trở lại thì lại không có dừa để bán. Việc giá cả không ổn định, biến động liên tục dẫn đến hệ quả là thói quen ép giá của thương lái, thu mua với giá chênh lệch lớn. Tuy chính quyền có kêu gọi và doanh nghiệp đã có tham gia giữ giá thu mua "giải cứu" nhưng không thể kéo dài quá lâu. Việc chặt rồi trồng mất rất nhiều thời gian để có thể thu hoạch lại. Chẳng hạn sầu riêng mất từ 4 đến 5 năm thì cây sầu riêng mới đủ mức trưởng thành để thu hoạch. Trong thời gian đó, người nông dân có thể sẽ không có bất kỳ khoản thu nhập nào để trang trải cuộc sống. Các vấn đề khác là kỹ thuật trồng sầu riêng khá cao, chi phí vật tư nông nghiệp rất lớn. Đồng thời rủi ro về dịch bệnh, thiên tai. Măng cụt cũng cần thời gian dài tương ứng, khoảng 5 năm mới có thể cho trái vụ mùa đầu tiên. Đối với vấn nạn của dừa ở Bến Tre vào năm 2012, nhiều ý kiến đưa ra cũng cho thấy, chặt dừa rồi phải chờ rất nhiều năm, trong thời gian đó nông dân sống bằng gì. Việc trồng lại cũng là khoản tốn kém vì đòi hỏi phải có vốn, vốn trồng lại và chi phí chăm sóc trong thời gian dài cho đến khi có thể thu hoạch. Việc giá cả bấp bênh và tổn thất từ chặt rồi trồng dẫn đến đời sống nông dân trở nên khó khăn, nhất là về y tế, giáo dục. Trong các trường hợp khác, nông dân tiến hành chặt cây trồng cũ rồi trồng cây trồng mới trên những vùng đất không phù hợp cho cây trồng mới về mặt khí hậu, thổ nhưỡng gây kém chất lượng nông sản và sản lượng thấp. Do đó, hiệu quả kinh tế thấp. Nông sản chất lượng kém xuất phát từ nông dân trồng loại cây mới mà họ không chuyên. Một ví dụ, việc trồng thanh long tại Cà Mau, người nông dân chưa làm tốt việc canh tác do không am hiểu kỹ thuật trồng, chăm sóc, chống sâu bệnh nên năng suất thấp, chất lượng quả không cao. Lợi nhuận lớn của một số nông sản không chỉ khiến người nông dân chặt bỏ cây trong vườn của họ để trồng lại mà thúc đẩy họ đi thuê thêm nhiều đất đai để trồng loại cây đang có giá trị cao. Chẳng hạn việc thuê đất trồng cam từ năm 2012 ở một số tỉnh Vĩnh Long, Hậu Giang. Khi diện tích trồng của một loại cây nông nghiệp gia tăng dẫn đến sản lượng tăng lên, cung ứng vượt nhu cầu thị trường dẫn đến hàng hóa nông sản tràn ngập và giá cả bắt đầu sụt giảm. Thương lái không thu mua hoặc thu mua với giá mua thấp, dẫn đến nông dân bị lỗ do không bù nổi chi phí vật tư nông nghiệp, gồm phân bón, thuốc trừ sâu,...và công lao động. Cuối cùng, nông dân tiến hành chặt bỏ cây trồng và bắt đầu trồng cây trồng khác khi họ thấy sản phẩm của loại cây đó đang được giá trên thị trường. Hiện tượng chạy theo cầu, cung thừa được lặp đi lặp lại dẫn đến việc trồng rồi lại chặt. Hiện tượng trồng- chặt liên tục cuối cùng đã đẩy nông dân vào khó khăn khiến nhiều người buộc phải bán đất để thanh toán nợ nần. Giải pháp Việc khuyến khích hạn chế trồng - chặt của nông dân là giải pháp đầu tiên. Võ Hữu Thoại, Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam Việt Nam đưa ra ý kiến: "Chúng tôi khuyên người dân trong quá trình trồng khi nông sản gặp giá thấp đừng vội phá bỏ, cần tìm hiểu thị trường và giảm đầu tư để hạ chi phí sản xuất, đợi giá tăng lại sẽ chăm sóc đầu tư. Như vậy sẽ giảm thiệt hại hơn so với việc vội vã chặt và đầu tư trồng mới" Năm 2012, Cục phó Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Phan Văn Dư nói về ngành dừa Bến Tre "Mặc dù giá dừa liên tục giảm từ đầu năm 2012 đến nay và đang ở mức “thấp không tưởng”, nhưng đây là chuyện nóng lạnh của thị trường. Một thời gian ngắn nữa thôi, kinh tế thế giới hồi phục thì sức tiêu thụ tăng trở lại, giá dừa sẽ tăng. Chính vì thế, người dân Bến Tre cần bình tĩnh, cố gắng chịu đựng thêm một thời gian". Nông dân cần canh tác ổn định, bền vững, tránh chạy theo trào lưu. Việc chuyển đổi cây trồng cần xem xét kỹ khả năng thích ứng thời tiết, thổ nhưỡng, như khả năng chịu phèn cao, cây giống phù hợp với địa phương. Giải pháp thứ hai là liên kết với doanh nghiệp để họ có biện pháp bao tiêu sản phẩm ổn định cho người nông dân, nông dân cần có Hợp tác xã và mô hình này sẽ liên kết với doanh nghiệp, và liên kết với quản lý của nhà nước. Việc liên kết gắn với nhiều khâu, từ cây giống, kỹ thuật canh tác, tiêu thụ, chế biến, xuất khẩu. Chính phủ xác định 4 liên kết: nhà nông, doanh nghiệp, nhà nước, nhà khoa học để nông nghiệp phát triển bền vững, hạn chế tình trạng cung vượt cầu. Giải pháp thứ ba là hình thành các vùng đã được gắn với mã số vùng trồng xuất khẩu để giữ ổn định sản lượng nông sản xuất khẩu. Khi có mã vùng trồng xuất khẩu thì thị trường nhập từ Trung Quốc mới không bấp bênh, cũng như việc quản lý của nhà nước (Việt Nam) trước các biến động thị trường nông sản mới hiệu quả. Như thế, các vấn đề chính là đầu ra tiêu thụ của nông sản, chỉ cần giải quyết vấn đề này thì hiện tượng trồng - chặt sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, đòi hỏi việc mở rộng vùng trồng được cấp mã số, cũng như đàm phán tăng số lượng hàng được xuất khẩu. Đồng thời, chất lượng hóa nông sản theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Giải pháp thứ tư là chế biến, đóng gói, đa dạng hóa sản phẩm, tránh việc phụ thuộc hình thức bán tươi nông sản. Giải pháp thứ năm là mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản sang nhiều nước, tổ chức các sự kiện festival Trái cây, chẳng hạn festival Dừa vào tháng 5 năm 2012. Giải pháp thứ sáu là kết hợp du lịch sinh thái và kết hợp sản xuất, như việc nuôi thủy sản ở các mương nước trong vườn. Chính quyền cũng đã xác định, Việt Nam cần thay đổi tư duy, từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Bên cạnh giải pháp dài hạn còn có giải pháp khẩn cấp là giải cứu nông sản. Việc chuyển sang trồng loại cây khác có nhiều khó khăn, người nông dân thiếu kinh nghiệm về loại cây trồng mới, cũng như đối mặt khó khăn chưa có kinh nghiệm tìm thị trường tiêu thụ. Điều này khiến một số nông dân có sự cẩn trọng trong quá trình chuyển đổi cây trồng, họ chặt - trồng một cách từ từ. Họ tiếp tục canh tác cây trồng hiện có, nhưng trồng xen loại cây mà họ đánh giá có giá trị cao, đang có sức hút trên thị trường tiêu thụ. Việc trồng xen từng bước một số phần đất một cách từ từ, bên cạnh đó là học hỏi và nghiên cứu kiến thức, kinh nghiệm về loại cây trồng mới. Tại Phú Tân, An Giang, khoảng 2012, nông dân được khuyến khích trồng xen cam và bưởi. Xem thêm Giải cứu nông sản Chuyển đổi sản xuất nông nghiệp Được mùa, mất giá Lấy ngắn nuôi dài Tham khảo Nông nghiệp Đường cong kinh tế Thị trường Nhu cầu
19842803
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8Fa%20thu%E1%BA%ADn%20Hoa%20K%E1%BB%B3%E2%80%93Taliban
Thỏa thuận Hoa Kỳ–Taliban
Hiệp định về mang lại hòa bình cho Afghanistan (), thường được gọi là Thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban hay Hiệp định Doha, là một hiệp định hòa bình được Hoa Kỳ và Taliban ký kết vào ngày 29 tháng 2 năm 2020 tại Doha, Qatar, nhằm chấm dứt chiến tranh 2001–2021 tại Afghanistan. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ Zalmay Khalilzad thương thảo hiệp định, và nó không liên quan đến chính phủ Afghanistan khi đó. Thỏa thuận này cũng có các phụ lục bí mật, là một trong những sự kiện quan trọng gây ra sự sụp đổ của Các lực lượng an ninh quốc gia Afghanistan (ANSF). Tuân thủ các điều kiện trong hiệp định, Hoa Kỳ giảm đáng kể số lượng các cuộc không kích của họ, khiến ANSF không còn một lợi thế quan trọng trong việc ngăn chặn Taliban. Điều này dẫn đến 'cảm giác bị bỏ rơi trong ANSF và người dân Afghanistan'. ANSF không được chuẩn bị tốt để duy trì an ninh sau khi Hoa Kỳ rút quân, điều này tạo điều kiện cho Taliban nổi dậy, cuối cùng dẫn đến việc Taliban tiếp quản Kabul vào ngày 15 tháng 8 năm 2021. Hiệp định quy định các hạn chế về chiến đấu đối với cả Hoa Kỳ và Taliban, đồng thời quy định rút toàn bộ lực lượng NATO khỏi Afghanistan để đổi lấy các cam kết chống khủng bố của Taliban. Hoa Kỳ đồng ý giai đoạn đầu sẽ giảm số lượng quân từ 13.000 xuống 8.600 trong vòng 135 ngày (tức là trước tháng 7 năm 2020), sau đó là rút quân hoàn toàn trong vòng 14 tháng (tức là trước ngày 1 tháng 5 năm 2021) nếu Taliban giữ đúng cam kết. Hoa Kỳ cũng cam kết đóng cửa 5 căn cứ quân sự trong vòng 135 ngày, và bày tỏ ý định chấm dứt trừng phạt kinh tế đối với Taliban trước ngày 27 tháng 8 năm 2020. Thỏa thuận này được Pakistan, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ hoan nghênh, và được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhất trí tán thành. Tuy nhiên, các cuộc tấn công của quân nổi dậy chống lại các lực lượng an ninh Afghanistan gia tăng sau hiệp định, khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Tuy nhiên, việc rút quân vẫn tiếp tục theo thỏa thuận. Đến tháng 1 năm 2021, chỉ còn 2.500 lính Hoa Kỳ ở lại quốc gia này, và lực lượng NATO sơ tán hoàn toàn vào cuối mùa hè cùng năm. Hoa Kỳ hoàn tất việc sơ tán toàn bộ vào ngày 30 tháng 8 năm 2021, trong khi Taliban dùng vũ lực để nắm quyền kiểm soát đất nước. Hiệp định Các cuộc đàm phán nội bộ Afghanistan dự kiến bắt đầu vào ngày 10 tháng 3 năm 2020 tại Oslo, Na Uy. Thành phần của nhóm đàm phán chính phủ Afghanistan chưa được xác định, vì kết quả của cuộc bầu cử tổng thống Afghanistan 2019 còn bị tranh chấp. Hiệp định yêu cầu chính phủ Afghanistan trả tự do cho 5.000 tù nhân Taliban trước khi bắt đầu cuộc đàm phán, trong một cuộc trao đổi tù binh để đổi lấy 1.000 binh sĩ chính phủ bị Taliban giam giữ. Các điều khoản của thỏa thuận bao gồm rút toàn bộ quân NATO khỏi Afghanistan, Taliban cam kết ngăn chặn al-Qaeda hoạt động tại các khu vực nằm dưới quyền kiểm soát của Taliban, và tổ chức các cuộc đàm phán giữa Taliban và chính phủ Afghanistan. Hoa Kỳ đồng ý đợt cắt giảm ban đầu lực lượng của mình từ 13.000 xuống 8.600 vào tháng 7 năm 2020, sau đó là rút quân hoàn toàn trong vòng 14 tháng nếu Taliban giữ đúng cam kết. Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg cam kết sẽ giảm quân số của NATO xuống còn khoảng 12.000 từ khoảng 16.000 quân. Hoa Kỳ cũng cam kết đóng cửa 5 căn cứ quân sự trong vòng 135 ngày, và bày tỏ ý định chấm dứt các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Taliban trước ngày 27 tháng 8 năm 2020. Đối thoại và đàm phán nội bộ Afghanistan Thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban kêu gọi đối thoại và đàm phán nội bộ Afghanistan về "một lệnh ngừng bắn lâu dài và toàn diện" bắt đầu vào ngày 10 tháng 3. Chính phủ Afghanistan không phải là một bên trong thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban và đến ngày 1 tháng 3, Tổng thống Afghanistan Ashraf Ghani từ chối trao đổi tù binh, nói rằng: "Chính phủ Afghanistan không đưa ra cam kết phóng thích 5.000 tù nhân Taliban. [...] Việc thả tù binh không phải là thẩm quyền của Hoa Kỳ, mà là thẩm quyền của chính phủ Afghanistan." Ghani cũng tuyên bố rằng bất kỳ cuộc trao đổi tù binh nào cũng "không thể là điều kiện tiên quyết cho các cuộc đàm phán", mà phải là một phần của cuộc đàm phán. Vào ngày 2 tháng 3, một phát ngôn viên của Taliban tuyên bố rằng họ "hoàn toàn sẵn sàng" cho các cuộc đàm phán nội bộ Afghanistan, nhưng sẽ không có cuộc đàm phán nào nếu khoảng 5.000 tù nhân của họ không được thả ra. Ông cũng nói rằng thời gian giảm bạo lực theo thỏa thuận đã kết thúc và các hoạt động chống lại lực lượng chính phủ Afghanistan có thể lại tiếp tục. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán giữa chính phủ Afghanistan và Taliban về việc thả tù nhân vẫn bắt đầu như dự kiến vào ngày 10 tháng 3 năm 2020. Trong cùng ngày, Ghani cũng ký sắc lệnh thả 1.500 tù nhân Taliban vào ngày 14 tháng 3, nhưng chỉ khi họ đồng ý ký vào cam kết cam đoan họ sẽ không quay lại chiến trường. Cùng ngày, Hoa Kỳ bắt đầu rút một số binh sĩ. Mặc dù các điều khoản của hiệp định hòa bình được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhất trí ủng hộ, các nguồn tin thân cận với Taliban, bao gồm cả người phát ngôn của Taliban Suhail Shaheen, sau đó thông báo rằng nhóm này đã bác bỏ sắc lệnh trao đổi tù nhân của Ghani và vẫn nhất quyết yêu cầu thả 5.000 tù nhân Taliban. Vào ngày 14 tháng 3 năm 2020, phát ngôn viên của Hội đồng An ninh Quốc gia là Javid Faisal tuyên bố rằng Ghani đã trì hoãn việc thả tù nhân Taliban, dẫn lý do cần phải xét lại danh sách tù nhân, do đó gây nguy hiểm cho hiệp định hòa bình giữa chính phủ Hoa Kỳ và Taliban. Ngày 27 tháng 3 năm 2020, chính phủ Afghanistan tuyên bố thành lập nhóm đàm phán gồm 21 thành viên để tham gia các cuộc đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, vào ngày 29 tháng 3, Taliban từ chối nhóm này, nói rằng "chúng tôi sẽ chỉ ngồi đàm phán với một nhóm đàm phán tuân thủ các hiệp định của chúng tôi và được thành lập theo các nguyên tắc đã đặt ra." Đến ngày 31 tháng 3 năm 2020, một phái đoàn Taliban gồm ba người đến Kabul để thảo luận về việc thả tù nhân. Họ là các đại biểu Taliban đầu tiên đến thăm Kabul kể từ năm 2001. Chính phủ Afghanistan trước đó cũng đồng ý tổ chức các cuộc đàm phán tại nhà tù Bagram. Tuy nhiên, cùng ngày, chính phủ Afghanistan thông báo rằng việc Taliban từ chối đồng ý một lệnh ngừng bắn khác và việc phái đoàn Taliban từ chối có mặt tại nhà tù vào thời gian đã định đều đã dẫn đến hoãn lại việc trao đổi tù nhân. Sau khi phái đoàn Taliban xuất hiện, một quan chức cấp cao của chính phủ Afghanistan nói với Reuters "việc thả tù nhân có thể diễn ra trong vài ngày tới nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch." Ngày 31 tháng 3 năm 2020, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc kêu gọi tất cả các bên tham chiến tuyên bố lệnh ngừng bắn để tiến trình hòa bình tiến triển hơn nữa. Vào ngày 1 tháng 4 năm 2020, có thông tin tiết lộ rằng cả Taliban và chính phủ Afghanistan trên thực tế đã tổ chức các cuộc đàm phán trực tiếp tại Kabul vào ngày hôm trước, không giống như các cuộc đàm phán hội nghị video trước đó và chúng được Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (ICRC) giám sát. Tuy nhiên, Văn phòng Hội đồng An ninh Quốc gia Afghanistan tuyên bố rằng tiến bộ duy nhất đạt được cho đến nay là "về các vấn đề kỹ thuật" và người phát ngôn của Taliban Zabihullah Mujahid sau đó tuyên bố "sẽ không có cuộc đàm phán chính trị nào ở đó." Bên ngoài cuộc đàm phán, căng thẳng giữa chính phủ Afghanistan và Taliban còn bộc lộ khi chính quyền Afghanistan đổ lỗi cho Taliban về vụ nổ ngày 1 tháng 4 năm 2020 khiến nhiều trẻ em thiệt mạng tại Helmand. Vào ngày đàm phán thứ hai, có sự thống nhất rằng vào ngày 2 tháng 4 năm 2020, có 100 tù nhân Taliban sẽ được trả tự do để đổi lấy 20 quân nhân Afghanistan. Vào ngày 7 tháng 4 năm 2020, Taliban rời khỏi các cuộc đàm phán trao đổi tù nhân, người phát ngôn của Taliban Suhail Shaheen mô tả chúng là "không có kết quả". Shaheen cũng tuyên bố trong một tweet rằng nhóm đàm phán của Taliban được triệu hồi khỏi Kabul vài giờ sau khi rời khỏi cuộc đàm phán. Taliban cũng không đảm bảo được việc thả bất kỳ ai trong số 15 chỉ huy mà họ yêu cầu trả tự do. Những tranh cãi về việc tù nhân nào được trao đổi cũng dẫn đến chậm trễ trong việc trao đổi tù nhân theo kế hoạch. Ngày hôm sau, Faisal khẳng định chỉ có 100 tù nhân Taliban sẽ được thả. Faisal sau đó tuyên bố rằng 100 tù nhân bị giam giữ tại Bagram đã được thả. Taliban từ chối xác minh những thông tin được công bố này, một phần là do việc Taliban rút khỏi Kabul đã ngăn cản "đội ngũ kỹ thuật" của họ xác minh danh tính tù nhân. Do chỉ có chính phủ Afghanistan xác định tù nhân nào được thả nên cũng không thể xác nhận liệu họ có nằm trong danh sách ưu tiên của Taliban hay không. Vào ngày 17 tháng 5 năm 2020, Ghani đã ký một thỏa thuận chia sẻ quyền lực với đối thủ Abdullah Abdullah, chấm dứt tranh chấp kéo dài về kết quả của bầu cử tổng thống Afghanistan năm 2019 và giao trách nhiệm đàm phán hòa bình cho Abdullah. Đến tháng 8 năm 2020, chính phủ Afghanistan thả 5.100 tù nhân, và Taliban thả 1.000 người. Tuy nhiên, chính phủ Afghanistan từ chối thả 400 tù nhân trong danh sách của Taliban, vì 400 người đó bị cáo buộc phạm tội nghiêm trọng. Ghani tuyên bố rằng theo hiến pháp ông không có thẩm quyền trả tự do cho những tù nhân này, vì vậy ông triệu tập "loya jirga" (hội đồng thủ lĩnh) từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 8 để thảo luận về vấn đề này. Jirga đồng ý trả tự do cho 400 tù nhân còn lại. Vào ngày 14 tháng 8 năm 2020, một trong 21 thành viên của nhóm đàm phán Afghanistan, là Fawzia Koofi và chị gái bà Maryam Koofi bị các tay súng tấn công gần Kabul. Fawzia Koofi là một nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng tại Afghanistan, là người hay lên tiếng tố cáo Taliban. Các quan chức Taliban cáo buộc chính phủ Afghanistan cố tình trì hoãn thả 100 tù nhân Taliban nhằm cản trở các cuộc đàm phán. Chính phủ Afghanistan phủ nhận những tuyên bố này, nhấn mạnh rằng tất cả tù nhân Taliban đã được trả tự do. Tính đến tháng 9 năm 2020, chính phủ Afghanistan đã trả tự do cho khoảng 5.000 tù nhân Taliban sau yêu cầu từ chính quyền Trump. Một nhóm hòa giải của chính phủ vẫn sẵn sàng tới Doha để đàm phán với Taliban, nhưng sự trì hoãn vẫn tiếp diễn. Nối lại cuộc nổi dậy Sau khi ký kết thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban vào ngày 29 tháng 2 năm 2020, các cuộc tấn công nổi dậy chống lại Lực lượng an ninh Afghanistan tăng lên. Taliban nối lại các hoạt động tấn công chống lại quân đội và cảnh sát Afghanistan vào ngày 3 tháng 3 năm 2020, tiến hành các cuộc tấn công tại các tỉnh Kunduz và Helmand. Ngày 4 tháng 3, Hoa Kỳ tiến hành không kích các tay súng Taliban tại tỉnh Helmand. Tuy nhiên, sau thỏa thuận này Hoa Kỳ đã ngừng hỗ trợ quân đội Afghanistan trong các hoạt động tấn công, buộc lực lượng này phải đảm nhiệm hầu hết các vị trí phòng thủ trên khắp đất nước. Theo thỏa thuận, máy bay quân sự Hoa Kỳ không thể tấn công các nhóm Taliban đang chờ cách đó trên 500 mét, giúp Taliban có lợi thế trong việc nhắm mục tiêu vào các đơn vị quân đội Afghanistan. Hiệp định này cũng làm trầm trọng thêm tinh thần của quân đội và cảnh sát Afghanistan, khiến họ cởi mở hơn trong việc chấp nhận thương lượng với Taliban. Do thiếu thông tin và các phụ lục bí mật trong thỏa thuận, là điều thậm chí không được chia sẻ với chính phủ Afghanistan khi đó, Taliban đã có thể tuyên truyền và đưa thông tin sai lệch về thỏa thuận, bao gồm cả việc thuyết phục cảnh sát địa phương và các đơn vị quân đội rằng Hoa Kỳ đã giao các vùng lãnh thổ cho Taliban và họ nên từ bỏ vị trí của mình. Trong 45 ngày sau hiệp định (từ 1/3 đến 15/4/2020), Taliban tiến hành hơn 4.500 cuộc tấn công tại Afghanistan, tăng hơn 70% so với cùng kỳ năm trước. Hơn 900 binh sĩ lực lượng an ninh Afghanistan thiệt mạng trong giai đoạn này, tăng so với khoảng 520 người cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, do số lượng các cuộc tấn công và không kích của lực lượng Afghanistan và Mỹ chống lại Taliban giảm đáng kể, thương vong của Taliban giảm xuống còn 610 trong cùng kỳ, giảm từ khoảng 1.660 trong cùng kỳ năm trước. Người phát ngôn của Lầu Năm Góc là Jonathan Hoffman nói rằng mặc dù Taliban ngừng tiến hành các cuộc tấn công chống lại lực lượng liên minh do Mỹ lãnh đạo tại Afghanistan, bạo lực vẫn "cao đến mức không thể chấp nhận được" và "không có lợi cho một giải pháp ngoại giao." Ông nói thêm: "Chúng tôi đã tiếp tục thực hiện các cuộc tấn công phòng thủ để giúp bảo vệ các đối tác của chúng tôi trong khu vực và chúng tôi sẽ tiếp tục làm điều đó." Vào ngày 22 tháng 6 năm 2020, Afghanistan báo cáo "tuần đẫm máu nhất trong 19 năm", trong đó 291 thành viên ANSF thiệt mạng và 550 người khác bị thương trong 422 cuộc tấn công do Taliban thực hiện. Ít nhất 42 thường dân, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em, cũng thiệt mạng và 105 người khác bị thương do Taliban trên khắp 18 tỉnh. Trong tuần, Taliban bắt cóc 60 thường dân trong tỉnh miền trung Daykundi. Lực lượng NATO rút lui Hiệp định Hoa Kỳ-Taliban cũng quy đinh việc rút khỏi Afghanistan của "tất cả các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, các đồng minh của họ, và các đối tác của Liên minh, bao gồm tất cả các nhân viên dân sự phi ngoại giao, nhà thầu an ninh tư nhân, người huấn luyện, người cố vấn và nhân viên dịch vụ hỗ trợ". Chính quyền Donald Trump đồng ý mức giảm ban đầu quân đội Mỹ ở Afghanistan từ 13.000 xuống 8.600 trong vòng 135 ngày (tức là trước tháng 7 năm 2020), sau đó là rút quân hoàn toàn trong vòng 14 tháng (tức là trước ngày 1 tháng 5 năm 2021), nếu Taliban giữ đúng cam kết của họ. Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg cam kết sẽ giảm quân số của NATO xuống còn khoảng 12.000 từ khoảng 16.000 quân. Hoa Kỳ cũng cam kết đóng cửa 5 căn cứ quân sự trong vòng 135 ngày. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2020, Hoa Kỳ bắt đầu rút một số binh sĩ. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Ủy ban Quân vụ Hạ viện Hoa Kỳ bỏ phiếu áp đảo ủng hộ việc sửa đổi Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng để hạn chế khả năng của Tổng thống Trump trong việc rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Afghanistan xuống dưới mức 8.600 đã thực hiện xong. Vào ngày 20 tháng 1 năm 2021, tại thời điểm buổi lễ nhậm chức của Joe Biden, có 2.500 lính Mỹ vẫn còn ở Afghanistan. Cố vấn an ninh quốc gia của Biden là Jake Sullivan nói rằng chính quyền sẽ xem xét lại hiệp định rút quân. Vào ngày 14 tháng 4 năm 2021, chính quyền Biden cho biết Hoa Kỳ sẽ không rút số binh sĩ còn lại trước ngày 1 tháng 5 mà sẽ rút họ trước ngày 11 tháng 9. Vào ngày 8 tháng 7, Biden chỉ định mốc rút quân của Hoa Kỳ là 31 tháng 8. Các lực lượng phương Tây khác tự đặt ra thời gian rút lui. Đức và Ý rút quân khỏi Afghanistan vào ngày 2 tháng 7 năm 2021. Úc hoàn tất việc rút quân vào ngày 15 tháng 7. Chuyến bay cuối cùng của Anh diễn ra vào ngày 28 tháng 8. Trong suốt tháng 8 năm 2021, Taliban nhanh chóng nắm quyền kiểm soát đất nước bằng vũ lực. Số lính Mỹ còn lại được rút trước ngày 30 tháng 8 năm 2021. Xem thêm Tiến trình hòa bình tại Afghanistan Hiệp định Genève (1988) Hiệp định Paris 1973 Hiệp định Hòa bình Paris 1991 Tham khảo Hoa Kỳ năm 2020 Sự kiện tháng 2 năm 2020 Hiệp ước của Afghanistan Lịch sử hiện đại Afghanistan Chiến tranh Afghanistan (2001–2021) Quan hệ Afghanistan-Hoa Kỳ Taliban Nhiệm kỳ tổng thống Donald Trump Châu Á năm 2020 Hiệp ước song phương Hiệp ước của Hoa Kỳ
19842814
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mana%20%28thu%E1%BA%ADt%20ng%E1%BB%AF%20tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%29
Mana (thuật ngữ trò chơi)
Điểm ma pháp (MP, Tiếng Anh: Magic point), thường được gọi là mana (Điểm mana, Tiếng Anh: Mana point) hoặc năng lượng trong Tiếng Việt. Mana là một thuộc tính được gán cho các nhân vật trong một trò chơi nhập vai hoặc trò chơi điện tử, tượng trưng cho khả năng sử dụng các kỹ năng đặc biệt (thường được gọi là special abilities hoặc "spells" trong Tiếng Anh). Các kỹ năng khác nhau sẽ sử dụng một lượng mana khác nhau. Khi mana của một nhân vật bị cạn kiệt, nhân vật đó sẽ không thể sử dụng kỹ năng cho đến khi một phần MP được phục hồi. Giống như máu, mana có thể được hiển thị dưới dạng giá trị số, ví dụ như "50/100". Số đầu tiên cho biết lượng MP hiện tại mà một nhân vật đang có, trong khi số thứ hai cho biết lượng MP tối đa của nhân vật. Trong các trò chơi điện tử, mana cũng có thể được hiển thị một cách trực quan như một thước đo, hay thường được gọi là thanh mana, và nó sẽ tự động giảm khi nhân vật sử dụng kỹ năng của mình. Lịch sử Hệ thống phép thuật trong các trò chơi nhập vai trên bàn, cụ thể như Dungeons & Dragons, phần lớn dựa trên các khuôn mẫu được thiết lập trong tiểu thuyết Trái Đất Hấp Hối của tác giả Jack Vance. Trong hệ thống này, nhân vật của người chơi chỉ có thể ghi nhớ một số kỹ năng phép thuật cố định trong danh sách các loại phép thuật. Khi kỹ năng phép thuật này được sử dụng một lần, nhân vật sẽ quên nó và không thể sử dụng lại. "Mana" là một từ xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Polynesia có nghĩa là một thứ gần giống với "sức mạnh siêu nhiên". Khái niệm mana được nhà truyền giáo Robert Henry Codrington giới thiệu ở Châu Âu vào năm 1891 và được phổ biến rộng rãi bởi Mircea Eliade vào những năm 1950. Nó lần đầu tiên được giới thiệu như một loại nhiên liệu ma thuật dùng để niệm phép trong truyện ngắn năm 1969, "Không Lâu Trước Khi Kết Thúc", của Larry Niven, và được phổ biến đồng thời là một phần của loạt tiểu thuyết The Magic Goes Away của tác giả. Kể từ đó, nó đã trở thành một yếu tố phổ biến trong cả trò chơi nhập vai và trò chơi điện tử. Cơ chế Vì các kỹ năng và khả năng đặc biệt thường không bị mất đi sau khi sử dụng, người thiết kế trò chơi có thể hạn chế việc sử dụng kỹ năng đó bằng cách liên kết việc sử dụng nó với mana. Điều này được thực hiện để cân bằng sao cho mỗi kỹ năng không có khả năng thi triển vô hạn với kết quả không đổi. Tùy thuộc vào trò chơi, thanh mana có thể tự hồi phục theo thời gian hoặc chỉ được hồi phục khi người chơi cho nhân vật nghỉ ngơi hoặc sử dụng vật phẩm hồi phục MP. Trong các trò chơi trực tuyến, người chơi có thể nói OOM (Hết mana, Tiếng Anh: Out Of Mana) khi họ không còn mana. Việc thông báo về trạng thái mana của bản thân đặc biệt quan trọng trong vai trò của một người chơi sử dụng nhân vật hỗ trợ hồi phục (Tiếng Anh: Healer) vì họ không thể hồi phục cho những người chơi khác trừ khi họ có mana. Trong trò chơi nhập vai, mana có thể được thay thế bằng sức mạnh tâm linh, sức mạnh ma pháp, kỹ thuật công nghệ hoặc các khái niệm khác cho phép một nhân vật gây ảnh hưởng đến thế giới trò chơi xung quanh. Mana thường bị giới hạn ở một số lớp nhân vật cụ thể, chẳng hạn như "pháp sư" hoặc "ma thuật sư", trong khi các lớp nhân vật khác phải dựa vào khả năng tấn công cận chiến hoặc bắn đạn vật lý. Các lớp nhân vật khác cũng có thể có thanh "mana" giới hạn kỹ năng của họ, mặc dù chúng thường được gọi bằng một tên khác, ví dụ như điểm cuồng nộ (Tiếng Anh: Fury) của Barbarian trong Diablo 3. Trong trò chơi điện tử, MP thường có thể được phục hồi bằng cách sử dụng các loại thuốc ma thuật hoặc có thể được tự động phục hồi theo thời gian. Một số hiệu ứng trạng thái có thể gây ảnh hưởng tạm thời đối với sự phục hồi mana cũng như đối với bộ chỉ số ban đầu của nhân vật trong trò chơi. Một số nhân vật có thể sử dụng một kỹ năng niệm chú gây ra hiệu ứng trạng thái tích cực hoặc tiêu cực lên một nhân vật khác. Trong trò chơi nhập vai Trong cả trò chơi nhập vai trên bàn và trò chơi điện tử nhập vai, mana thường được sử dụng nhiều nhất để thi triển phép thuật trong trận chiến. Tuy nhiên, mana còn có nhiều công dụng ngoài tình huống chiến đấu, chẳng hạn như sử dụng bùa yêu trên NPC để thu thập thông tin. Một số trò chơi dựa sức mạnh và lượng phép thuật của nhân vật trên chẳng hạn những chỉ số như "sự khôn ngoan" hoặc "trí tuệ". Những số liệu thống kê này được sử dụng vì chúng dễ theo dõi và phát triển trong các game nhập vai bằng giấy bút. Trong trò chơi mô phỏng thần thánh Trong godgame, sức mạnh của người chơi thường được gọi là mana và tăng trưởng cùng với số lượng và sự thịnh vượng của dân số sùng bái của người chơi. Ở đây, quy mô dân số ảnh hưởng đến lượng mana tối đa mà người chơi có và tốc độ tự hồi phục mana của họ hồi khi nó ở dưới mức tối đa đó. Sử dụng "sức mạnh thần thánh" sẽ tiêu tốn mana, nhưng những hành động như vậy là cần thiết để tăng số lượng và sự thịnh vượng của dân số. Chú thích Liên kết ngoài Máu (thuật ngữ trò chơi) Điểm kinh nghiệm (thuật ngữ trò chơi) Thuật ngữ trò chơi Thuật ngữ trò chơi điện tử Thuật ngữ trò chơi nhập vai
19842843
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20500m%20N%E1%BB%AF
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – 500m Nữ
Nội dung thi đấu thuyền rồng (đua thuyền truyền thống) 500m nữ tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức vào ngày 26 tháng 8 năm 2018. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1–3 → Bán kết (BK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1–4 → Bán kết (BK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết Vòng loại: 1–3 → Chung kết (CK), Nghỉ → Tail race (TR) Bán kết 1 Bán kết 2 Chung kết Tail race Trận tranh huy chương Liên kết ngoài Trang web chính thức Tham khảo 500m Nữ
19842848
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 được tổ chức tại Quảng Châu, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 11 năm 2010. Tất cả các nội dung đều được diễn ra tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Lịch thi đấu Danh sách huy chương Nam Nữ Bảng tổng sắp huy chương Quốc gia tham dự Tổng cộng có 407 vận động viên đến từ 11 quốc gia tranh tài bộ môn Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010: Liên kết ngoài Đại hội Thể thao châu Á 2010 Trang web chính thức Tham khảo Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 2010
19842872
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Doanh%20Giang%202014
Động đất Doanh Giang 2014
Động đất Doanh Giang 2014 () là trận động đất xảy ra vào lúc 04:49 (CST), ngày 24 tháng 5 năm 2014. Trận động đất có cường độ 5.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 12 km. Hậu quả trận động đất đã làm 15 người bị thương. Tham khảo Động đất thập niên 2010 Động đất năm 2014 Động đất tại Trung Quốc Động đất tại Vân Nam Động đất tại Myanmar Thảm họa tại Trung Quốc năm 2014
19842877
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20trong%20b%E1%BB%99%20phim%20ho%E1%BA%A1t%20h%C3%ACnh%20Amphibia
Danh sách nhân vật trong bộ phim hoạt hình Amphibia
Trang này giới thiệu những nhân vật trong bộ phim hoạt hình Amphibia của Disney Channel. Sơ lược Nhân vật chính Anne Savisa Boonchuy (phiên âm: En Sa-vi-sa Bun-choai) (lồng tiếng bởi Brenda Song) là một cô bé 13 tuổi người Mỹ gốc Thái. Vào ngày sinh nhật lần thứ 13, cô đã lấy trộm chiếc hộp nhạc bí ẩn trong một cửa hàng, khiến cô và hai người bạn Sasha và Marcy của mình bị gửi đến thế giới lưỡng cư. Cô đến Wartwood và được nhà Plantar nhận nuôi, kết bạn với một chú ếch hồng tên Sprig, em gái cậu tên Polly và người ông nội khó tính Hopadiah. Tại đâu, cô đã cố khôi phục năng lượng của chiếc hộp để đưa cô và hai người bạn về nhà. Ở cuối mùa 1, cô đã gặp mâu thuẫn với người bạn Sasha, và xảy ra đánh nhau tại địa bàn của lũ cóc, nơi ở của Sasha. Đến mùa 2, cô gặp được Marcy và yết kiến vua Andrias. Cô giải hoà với Sasha ở phần cuối. Cô cũng nhận được sức mạnh từ viên ngọc màu xanh lam do viên ngọc chưa được nạp đầy. Tuy nhiên, cô và nhà Plantar đã bị đưa về Trái Đất khi cô và những người bạn đang chiến đấu với Andrias, kẻ đã phản bội bọn họ. Khi trở về Trái Đất, cô bị các đặc vụ chính phủ nhắm đến và cô đã có lần kích hoạt sức mạnh được lấy từ viên đá màu xanh trên chiếc hộp nhạc, thứ mà cô đại diện. Cuối phim, Anne đã đánh bại Andrias, cứu được những người bạn và giải cứu thế giới khỏi cuộc xâm lăng nhưng cô đã hi sinh. Trước khi chết, cô gặp người canh gác các hòn đá và được hồi sinh khi ngừoi canh gác nhận ra sự thiếu sót trong suy nghĩ của cậu. 10 năm sau, Anne trở thành một nhà động vật học tại California, chuyên nghiên cứu về các loài lưỡng cư và bò sát. Anne đại diện cho viên ngọc màu xanh lam trên chiếc hộp nhạc. Sprig Plantar (phiên âm: Sprítgơ Pơ-lan-ta) (lồng tiếng bởi Justin Felbinger) là một cậu bé ếch màu hồng 11 tuổi sống tại Wartwood. Sprig có người em gái tên Polly và người ông Hopadiah. Bố mẹ cậu đã chết khi cậu còn nhỏ. Sprig gặp Anne khi cậu vào rừng để săn quái vật mà dân làng nói, chính là Anne. Cậu và Anne nhanh chóng trở thành bạn, và cả hai đã trải qua cuộc phiêu lưu cùng nhau. Sprig và cả nhà cậu bị đưa đến Trái Đất vào mùa 3, và đã bị chính phủ săn đuổi, và thậm chí là suýt bị bắt để làm thí nghiệm. Sau khi chiến thắng Andrias, Sprig và gia đình cậu được trở về Wartwood. Sprig viết một cuốn sách về cuộc hành trình của cậu, và ở cuối phim, cậu đã đồng ý cùng Grime, chỉ huy cũ của lũ cóc đi thám hiểm vùng đất mới. Polly Petunia Plantar (phiên âm: Pô-li Pê-tu-ni-a Pơ-lan-ta) (lồng tiếng bởi Amanda Leighton) là một cô bé nòng nọc tại Wartwood. Cô là em gái của Sprig và là cháu nội của Hopadiah. Polly là một người khá cứng rắn và hơi bạo lực. Tuy nhiên, Polly khá thông minh và luôn bảo vệ những người xung quanh. Dù vậy, ý kiến của Polly ít khi được chú ý vì cô còn nhỏ. Ít lâu sau khi đánh bại Andrias, Polly đã mọc chân và trở thành ếch. Hopadiah Plantar (hay Hop Pop) (phiên âm: Hóp-pơ-đai-ơ Pơ-lan-ta) (lồng tiếng bởi Bill Farmer) là ông của Sprig và Polly. Ông là một chú ếch màu cam. Hop Pop là một nông dân tại Wartwood. Ông là một người khá quan tâm đến hai đứa cháu và Anne. Khi còn trẻ, Hop Pop từng phiêu lưu khá nhiều nơi, mua được Bessie, chú ốc sên của nhà Plantar. Ông từng có mơ ước làm diễn viên, nhưng không thực hiện được. Sau này, ông trở thành một nông dân như cha ông của mình. Hop Pop có một người con trai, nhưng cậu và vợ của cậu (bố mẹ của Sprig và Polly) đã bị giết trong một lần Hop Pop rời khỏi Wartwood. Cuối phim, ông cưới Sylvia Sundew, một người hàng xóm của ông, và tiếp tục cuộc sống của mình. Sasha Elizabeth Waybright (phiên âm: Sa-sa Ê-li-da-bét Uây-brai) (lồng tiếng bởi Anna Akana) là bạn thân của Anne và Marcy. Cô là một cô bé người Đức hoặc người Slav. Khi nhỏ, bố mẹ Sasha ly hôn, bố cô thì đi đến nơi khác, còn mẹ cô thì lấy chồng khác. Cô đã bị đưa vào thế giới Amphibia cùng hai người bạn thân. Sasha rơi vào toà Tháp Cóc, lãnh địa của lũ cóc và bị chúng bắt làm tù binh. Tuy nhiên, trong một lần, cô đã giúp tinh thần binh lính lên cao và giúp lũ cóc đánh đuổi lũ hạc đến phá rối, nên được chỉ huy Grime, thủ lĩnh đám cóc cho làm quân sư. Ở cuối mùa 1, cô đã gặp lại Anne, nhưng lại xảy ra mâu thuẫn với người bạn thân, và kết cục là toà tháp sụp đổ. Lũ cóc phải bỏ trốn, Grime và Sasha cũng trốn và lập kế hoạch để lật đổ chính quyền Newtopia. Triều đình đã cho Yunan, một vị tướng trong triều đình xuống bắt hai người, nhưng cả hai đã thoát được. Sasha đã tiến về kinh đô với âm mưu lật đổ chính quyền, nhưng cô đã vô tình gặp lại Marcy với Anne trong một hang động và bỏ kế hoạch của mình. Cô giải hoà cùng Anne và hợp tác với hai người bạn thân để cùng trở về Trái Đất. Tuy nhiên, vua Andrias phản bội lại ba người, bắt Marcy, khiến Sasha phải rút chạy. Cô đến Wartwood, thành lập đội kháng chiến và trở thành thủ lĩnh của họ. Khi vua Andrias xâm lược Trái Đất, Sasha và những người bạn đã chiến thắng được hắn. 10 năm sau, cô trở thành một người tư vấn đồng cảnh cho trẻ em. Sasha đại diện cho viên ngọc màu đỏ trên chiếc hộp nhạc. Marcy Regina Wu (phiên âm: Ma-xi Ri-gi-na U) (lồng tiếng bởi Haley Tju) là bạn thân của Anne và Sasha. Cô là người Mỹ gốc Đài Loan. Cô là học sinh giỏi, nhưng khá vụng về. Marcy bị đưa vào thế giới Amphibia cùng Anne và Sasha. Cô đến kinh đô Newtopia, và được Olivia, cố vấn của vua Andrias dẫn về. Với sự thông minh của mình, cô trở thành cố vấn của Andrias. Cô gặp lại người bạn Anne khi Anne cùng nhà Plantar đến Newtopia, và gặp lại Sasha trong lúc đang tìm cách kích hoạt viên ngọc thứ ba. Tập " True Colors" tiết lộ rằng Marcy biết về sức mạnh của chiếc hộp nhạc trước đó. Khi biết tin bố mẹ sẽ chuyển nhà, cô sợ bị cô đơn và đã thuyết phục Anne sử dụng chiếc hộp để đưa cả ba người đến một thế giới khác với hi vọng sẽ được phiêu lưu cùng nhau. Sau khi Vua Andrias tiết lộ âm mưu của ông, Marcy cùng với những người bạn của cô giúp đánh bại đội quân của ông. Để chuộc lỗi, Marcy dùng chiếc hộp nhạc để mở cánh cổng đến Trái đất nhưng bị vua Andrias đâm sau lưng. Marcy bị vua dùng làm thân thể cho một thực thể gọi là The Core và bị đổi thành Darcy . The Core đã quyết định xâm lược Trái Đất, tuy nhiên hắn đã thất bại, và Marcy được giải cứu. Cuối phim, Marcy trở thành một hoạ sĩ Webcomic. Marcy đại diện cho viên ngọc màu xanh lá trên chiếc hộp nhạc. Nhân vật phụ Cư dân tại Wartwood Walliam Ribbiton (hoặc Wally Ribbiton) (phiên âm: Qua-li-am Ríp-pi-tơn hay Ua-li Ríp-pi-tơn) (lồng tiếng bởi James Patrick Stuart) là một cư dân tại Wartwood. Anh là một chú ếch màu xanh lam. Wally có xuất thân quý tộc trong một gia đình vô cùng giàu có, nhưng anh lại trở thành một người lang thang tại Wartwood, khi anh biết đến thị trấn này từ một chuyến công tác. Anh thường đi lang thang khắp nơi và hát hò. Wally cũng chính là người đầu tiên gặp được Anne khi đang trên đường rời khỏi quán rượu. Bessie (phiên âm: Bét-xi) (lồng tiếng bởi Dee Bradley Baker) là chú ốc sên của nhà Plantar, được Hop Pop mua về trong một buổi đấu giá. Ở cuối phim, Bessie đã có con với chú chim Joe Sparrow. Frodrick Toadstool (phiên âm: Phơ-rót-đơ-ríc Tốt-sơ-tua) (lồng tiếng bởi Stephen Root) là thị trưởng cũ của Wartwood. Ông là một chú cóc lớn màu xanh lá. Toadstool là kẻ tham lam, tàn ác và đánh thuế khá nặng với người dân. Cuối phim, ông trở thành trợ lý cho Toadie, trợ lý cũ của mình đã là thị trưởng. Toadie (phiên âm: Tâu-đi) (lồng tiếng bởi Jack McBrayer) là trợ lý của Toadstool. Ở cuối phim, cậu trở thành thị trưởng mới của Wartwood. Toadie là chú ếch thấp nhất trong cả bộ phim, nhưng thưc ra cậu khoảng 30 tuổi. Leopold Loggle (phiên âm: Li-ô-pô Lót-gô) (lồng tiếng bởi Brian Maillard) là thợ mộc tại Wartwood. Ông là một chú thằn lằn màu xanh dương. Leopold từng là một thợ rèn, trước khi một tai nạn xảy ra khi một thanh kim loại vô tình đâm vào cổ ông, khiến ông phải chuyển sang nghề mộc. Sadie Croaker (phiên âm: Sa-đi Cơ-rốt-cơ) (lồng tiếng bởi Laila Berzins) là một nông dân tại Wartwood. Bà là một chú ếch màu xanh. Sadie từng có những cuộc phiêu lưu và có kỹ năng đập nhau rất tốt, nhưng cũng khiến bà có thêm kẻ thù. Bà quản lí một trang trại ở Wartwood và có một hãng bán sữa nhỏ. Felicia Sundew (phiên âm: Phê-li-xi-a Sanh-điu) (lồng tiếng bởi Kaitlyn Robrock) là một cư dân tại Wartwood. Cô là một chú ếch màu vàng. Felicia sống với mẹ là Sylvia và con gái của mình là Ivy. Felicia cũng là chủ của một quán giải khát. Ivy Hibiscus Matcha Sundew (thường gọi là Ivy Sundew) (phiên âm: Ai-vi Hai-bít-cất Mát-cha Sanh-điu hay Ai-vi Sanh-điu) (lồng tiếng bởi Katie Crown) là con gái của Felicia. Cô khá thích việc phục kích bất ngờ người khác. Ivy là bạn với Sprig. Ivy đã thổ lộ tình cảm với Sprig ở cuối mùa 1, và cả hai cũng khá thích nhau. Sylvia Sundew (phiên âm: Siu-vi-a Sanh-điu) (lồng tiếng bởi Mona Marshall) là mẹ của Sylvia và bà của Ivy. Bà là một chú ếch màu xanh lá. Sylvia khá thích những điều kỳ lạ, quái dị. Cuối phim, bà yêu Hop Pop và tiếp tục cuộc sống của mình. Maddie Flour (phiên âm: Mét-đi Phơ-lao-ơ) (lồng tiếng bởi Jill Bartlett) là một cô bé tại Wartwood. Maddie là một chú ếch màu xanh dương. Cô sống với bố là ông Flour và có ba người em là Rosemary, Lavender và Ginger. Maddie có hứng thú với phép thuật, và cô thường sử dụng nó để giúp đỡ người khác. Stumpy Stumpson (phiên âm: Sơ-tâm-bi Sơ-tâm-pơ-sơn) (lồng tiếng bởi John DiMaggio) là một đầu bếp tại Wartwood. Ông là một chú ếch màu xanh lá lớn, với nhiều sẹo trên cánh tay và bị cụt cả hai tay. Stumpy quản lý một quán ăn tại Wartwood. Albus Duckweed (phiên âm: An-bớt Đấc-quít) (lồng tiếng bởi Kevin McDonald) là một nhà đánh giá tại Wartwood. Ông là một chú thằn lằn màu xanh lá. Albus thường viết bài đánh giá của các quán ăn cho các tờ báo. Archie (phiên âm: Ác-chi) (lồng tiếng bởi Dee Bradley Baker) là chú nhện của bà Sadie Croaker. Chuck Gardner (phiên âm: Chấc Gát-nơ) (lồng tiếng bởi Matt Braly) là một thợ làm vườn tại Wartwood. Anh là một chú ếch màu xanh. Chuck khá thích công việc của mình, đặc biệt là trồng hoa tulip. Chuck cũng là một trong những nhân vật được đạo diễn Matt Braly lồng tiếng. Frog Jordan (lồng tiếng bởi Diedrich Bader) là một vận động viên Bóng bọ, một môn thể thao gần giống với Bóng rổ. Jordan là một chú ếch màu xanh lá. Tên của anh được đặt theo vận động viên bóng rổ Michael Jordan. Ông Flour (lồng tiếng bởi Kevin Michael Richardson và Fred Tatasciore) là một đầu bếp tại Wartwood. Ông là cha của bốn người con gái là Maddie, Rosemary, Lavender và Ginger Flour. Ông hiện đang quản lý một tiệm bánh tại Wartwood. Lực lượng Cóc tại Tháp Cóc Đại úy Grimothy (thường gọi là Grime) (phiên âm: Gơ-ri-mô-thi hay Gơ-rai-mơ) (lồng tiếng bởi Troy Baker) là chỉ huy của lũ cóc tại Tháp Cóc. Ông là một chú cóc màu xanh, với sẹo ở mắt phải. Ông thường mặc một bộ giáp nâu. Grime thường khá gắt gỏng với binh lính, tuy nhiên ông chỉ muốn họ nghiêm túc hơn. Grime đã bắt được Sasha khi cô bị đưa đến đây. Tuy nhiên, ông đã nhận ra tài năng của Sasha và cho cô làm quân sư của mình. Sau mùa 1, ông và Sasha phải rút lui cùng đàn cóc. Grime đã bị triều đình đuổi bắt, và đã lên kế hoạch cho một cuộc nổi dậy chống triều đình. Tuy nhiên, sau khi Sasha gặp được hai người bạn của mình, ông đã quyết định hợp tác cùng họ. Sau khi vua Andrias phản bội lại mọi người, Grime cùng Sasha rút đến Wartwood và thành lập đội kháng chiến ở đó. Ở tập All In, ông đã bị mất một tay sau khi chiến đấu với The Core. Cuối phim, ông trở thành một quan chức của chính phủ mới. Percy (phiên âm: Pơ-xi) (lồng tiếng bởi Matt Jones) là một chú cóc màu xanh nhạt. Percy khá thích diễn hài và không thích lắm việc làm lính. Braddock (phiên âm: Bơ-rát-đóc) (lồng tiếng bởi Kristen Johnston và April Winchell) là một chú cóc màu hồng cùng mái tóc màu vàng. Braddock là bạn gái của Percy. Cô cũng có sở thích là làm vườn chứ không thích chiến đấu. Bog (phiên âm: Bót) (lồng tiếng bởi Darin De Paul) là một chú cóc màu cam. Bog đã từng được nhận nhiệm vụ thu thuế ở Wartwood. Fens (phiên âm: Phen-dơ) (lồng tiếng bởi April Winchell) là một chú cóc màu xanh với mái tóc màu rêu. Cô đã từng nhận nhiệm vụ thu thuế tại Wartwood. Mire (phiên âm: Mai-ơ) là một chú cóc màu xanh lá nhạt. Cậu thường đeo một chiếc mũ sắt che mặt. Mire cũng từng nhận nhiệm vụ thu thuế tại Wartwood. Ở cuối phim, cả ba người trên đã tham gia một nhóm gọi là "Bog & The Boys Moving & Junk Service" của Bog. Đại úy Aldo (phiên âm: An-đô) (lồng tiếng bởi Ron Cephas Jones) là tổng chỉ huy của lũ cóc tại cả ba tháp cóc. Ông là một chú cóc màu xanh dương và khá già. Đại úy Beatrix (phiên âm: Bia-trít-xơ) (lồng tiếng bởi Aisling Bea) là chị của Grime và là chỉ huy của lũ cóc tại Tháp Cóc phía tây (Grime là Tháp Cóc giáp đầm lầy Wartwood). Beatrix có màu da giống như em mình, với sẹo ở mắt trái. Đại úy Bufo (phiên âm: Biu-phô) (lồng tiếng bởi Daisuke Tsuji) là chỉ huy của Tháp Cóc phía đông. Ông có làn da xanh nhạt, mái tóc được buộc theo kiểu chonmage của Nhật, cùng bộ giáp khá giống với các samurai. Nhân vật sống ở Newtopia Andrias Leviathan (phiên âm: An-đờ-ri-át Lê-vi-a-than) (lồng tiếng bởi Keith David) là vua của xứ Amphibia. Ông là một chú thằn lằn màu xanh với thân hình lớn với bộ râu xám, với tuổi đời hơn 1000 năm nhờ việc cơ khí hóa cơ thể. Andrias từng là thái tử của vương triều Leviathan và chơi thân với hai người bạn là Leif và Barrel. Cha ông là Aldrich đã lên kế hoạch cho cuộc xâm lăng Trái Đất khi Trái Đất còn ở thời trung cổ, dựa theo kế hoạch của The Core, một thực thể với tâm trí của các vị vua nhà Leviathan và những người thông minh nhất Amphibia thời đó. Tuy nhiên, Leif đã lấy trộm Chiếc hộp tai hoạ và khiến cho kế hoạch thất bại. Sau này, khi gặp được Marcy và hai người bạn của Marcy, ông đã giúp họ tìm ba viên ngọc để kích hoạt, nhưng thực chất là để tiến hành cuộc xâm lăng Trái Đất. Sau đó, ông tiến hành cuộc xâm lăng Trái Đất nhưng thất bại. Cuối phim, vương triều Leviathan sụp đổ, cơ thể máy móc của Andrias bị hư hỏng nặng, xong ông đã nhận ra sai làm của mình và đầu hàng, đồng thời hỗ trợ Anne đánh bại The Core. Ít lâu sau Andrias cũng qua đời ở Amphibia do ông quyết định không sửa chữa cơ thể máy móc và sống những ngày cuối đời trong bình yên (dưới sự quản thúc của chính phủ mới Amphibia). Quý bà Olivia (phiên âm: Ô-li-vi-a) (lồng tiếng bởi Michelle Dockery) là trợ lý của vua Andrias. Cô là một chú thằn lằn màu xanh. Olivia đã được mẹ mình tiến cử cho vua Andrias để làm trợ lý cho Andrias. Cô là trợ lý cho Andrias cùng Yunan. Olivia cũng là người đã tiến cử Marcy cho vua Andrias. Khi vua Andrias lên kế hoạch xâm lăng Trái Đất ở đầu mùa 3, Olivia cùng Yunan đã cố cứu Marcy nhưng thất bại. Cô cùng Yunan bị thao túng nhưng được cứu bởi Anne và Marcy. Sau khi vua Andrias bị đánh bại, Olivia kết hôn với Yunan và cô cũng là thành viên của chính phủ mới của Amphibia. Yunan Longclaw (phiên âm: Du-nan Lon-cờ-lô) (thường gọi là Đại tướng Yunan) (lồng tiếng bởi Zehra Fazal) là một vị tuớng lĩnh và là trợ lý của vua Andrias cùng Olivia. Cô là một chú thằn lằn màu hồng với bộ giáp xám. Yunan cũng là tướng lĩnh trẻ nhất của quân đội triều đình. Ở mùa 2, Yunan được cử đi bắt tàn dư của lũ cóc ở Tháp Cóc gần đầm lầy Wartwood và cả Grime và Sasha, nhưng thất bại. Ở mùa 3, Yunan đã cố gắng cứu Marcy cùng Olivia nhưng thất bại và bị vua Andrias thao túng cùng Olivia. Sau khi vua Andrias bị đánh bại, Yunan kết hôn với Olivia và trở thành một thành viên của chính phủ mới của Amphibia. Khi còn làm việc cho triều đình, cô thường tự xưng tên là "Đại tướng quân Yunan, nỗi kinh hoàng của cuộc chiến Cát, kẻ đánh bại Ragnar khốn khổ, và là thằn lằn trẻ nhất trở thành Đại tướng của đội quân Newtopia." Aldrich Leviathan (phiên âm: An-đờ-rít Lê-vi-a-than) (lồng tiếng bởi William Houston) là vị cựu vương của xứ Amphibia. Ông cũng là một chú thằn lằn xanh như Andrias, con trai của ông. Trong thời kỳ trị vì của mình, ông đã từng cố lên kế hoạch xâm lăng Trái Đất nhưng thất bại. Sau khi ông mất, ông đã được nhập vào The Core. Leif (sau này là Lily Plantar) (phiên âm: Líp-phơ hay Li-li Pơ-lan-ta) (lồng tiếng bởi Cassandra Lee Morris) là một chú ếch màu hồng với mái tóc cam. Bà từng là bạn với Andrias và Barrel, và cũng là người làm vườn của triều đình. Nhờ ba viên ngọc trên chiếc hộp Tai hoạ, Leif đã thấy được tương lai đen tối của Amphibia nếu như Aldrich xâm lược Trái Đất, vì vậy bà đã trộm chiếc hộp Tai hoạ và giấu nó trên Trái Đất, đồng thời phá huỷ hầu hết các máy móc hiện đại của triều đình (Vì sự việc này mà vương Leviathan đã bắt đầu đàn áp và kỳ thị loài ếch). Bà đổi tên thành Lily Plantar, kết hôn với một nông dân địa phương và có những năm cuối đời khá yên bình. Trước khi mất, bà để lại một bức thư cho Andrias, người đã bị chấn thương tâm lý sau khi mất chiếc hộp về những gì bà đã làm trước khi mất, khuyên ông nên tha thứ cho người khác thay vì giữ mối hận trong lòng. Bức thư này được tìm thấy bởi hậu duệ của bà là Sprig Plantar sau gần 1000 năm. Bà từng đại diện cho một viên ngọc màu cam trên chiếc hộp Tai hoạ, nhưng viên ngọc đã bị thay thế bằng một chiếc lá. Bà cũng là tổ tiên của nhà Plantar, và cách Sprig và Polly khoảng 40 thế hệ, theo như gia phả đã ghi lại. Barrel (phiên âm: Ba-rô) (lồng tiếng bởi Jason Ritter) là một chú cóc màu xanh lá. Ông là bạn cũ của Andrias và Leif và là một lính gác của triều đình. Khi Leif bỏ trốn, ông đã cố bắt nhưng không được. Ông từ chức, đến nông thôn và nhận nhiệm vụ bảo vệ người dân. Barrel đã hy sinh trong một trận chiến bảo vệ người dân khỏi một con sâu Narwhal, một con quái vật lớn với sừng nhọn trên đầu. Sasha và Grime sau này đã tìm được vũ khí của Barrel là chiếc búa của ông, và Sasha và Grime đã giết chết được con sâu Narwhal bằng chiếc búa này. The Core (tạm dịch: Lõi) là một trí tuệ nhân tạo đuợc cấu tạo từ những tâm trí của những vị vua Leviathan và những người thông minh nhất Amphibia. Nó được hình thành dựa trên những nghiên cứu về thế giới khác của những người Amphibia nhờ việc di chuyển xuyên không gian bằng chiếc hộp Tai hoạ. Đây là thứ đứng sau những kế hoạch của nhà Leviathan. The Core đã từng sử dụng cơ thể của Marcy làm thân chủ của nó nhờ một chiếc mũ và lấy tên là Darcy. Trong chiến dịch xâm lược Trái Đất, Darcy đã bị đánh bại, và Anne cũng đã phá huỷ được The Core một lần và mãi mãi. Frobo (tên thật là FO-R1) (phiên âm: Phơ-rô-bô) là một robot đã vô tình được tạo ra bởi Sprig trong mùa 2 tại một nhà máy bỏ hoang. Frobo có chân tay dài, đầu tròn, mắt đỏ và phần thân xám. Frobo khá thân thiết với Polly. Cuối mùa 2, Frobo đã bị phá huỷ khi chiến đấu với Andrias. Sau đó, Polly đã cố sửa Frobo ở mùa 3 nhưng thất bại. Ở cuối phim, Frobo đã được sửa lại thành công và sống tại Wartwood cùng nhà Plantar. The Guardian (tạm dịch: Người canh gác) (lồng tiếng bởi Charlyne Yi) là một thực thể cai trị nhiều chiều không gian khác nhau. Thực thể này là thứ tạo ra ba viên ngọc trên Chiếc hộp tai hoạ. Sau khi gặp Anne, The Guardian đã truyền lại việc canh gác cho Anne và dừng hoạt động đến khi Anne mất thì sẽ tiếp tục công việc của mình. Nhân vật trên Trái Đất Bà Boonchuy (biệt danh tiếng Thái: อุม บุญช่วย, tạm dịch: Oum Boonchuy) (lồng tiếng bởi On Braly, mẹ của tác giả Matt Braly) là mẹ của Anne. Bà là một phụ nữ người Thái, khá nghiêm túc và yêu thương gia đình mình. Bà quản lý một nhà hàng Thái tên Thai Go với chồng mình. Khi Andrias xâm lược Trái Đất, bà đã tham gia lực lượng của chính phủ và đã đánh bại được Andrias. Bà cũng cố gắng bảo vệ gia đình mình và nhà Plantar. Ông Boonchuy (biệt danh tiếng Thái: ภุมระ บุญช่วย, tạm dịch: Bee Boonchuy) (lồng tiếng bởi Brian Sounalath) là bố của Anne. Ông là một người yêu thương gia đình và khá thân thiết với Anne. Tính cách của ông khá vô tư và dễ gần, khá giống với Anne. Ông cũng quản lý một nhà hàng Thái tên Thai Go với vợ mình. Ông cũng đã chấp nhận cho nhà Plantar ở lại nhà mình khi họ bị đưa đến Trái Đất. Khi Andrias xâm lược Trái Đất, ông đã tham gia lực lượng của chính phủ cùng vợ mình và đã đánh bại được Andrias. Ông cũng cố gắng bảo vệ gia đình mình và nhà Plantar cùng vợ mình. Domino là chú mèo của Anne. Domino có màu đen với chân trắng, mắt vàng và đốm trắng trên nguời. Đặc vụ X (lồng tiếng bởi RuPaul) là một đặc vụ FBI. Ông là người đã cố bắt nhà Plantar nhưng không thành công. Sau đó, ông hợp tác với nhà Boonchuy để chống lại cuộc xâm lăng của Andrias. Jenny (phiên âm: Gien-ni) là trợ lý của Đặc vụ X và là một nhân viên FBI. Tiến sĩ Frakes (phiên âm: Phơ-rếch) (lồng tiếng bởi Cree Summer) là một nhà khoa học. Bà đã cố gắng bắt nhà Plantar khi phát hiện ra họ, nhưng đã thất bại. Terri (phiên âm: Te-ri) (lồng tiếng bởi Kate Micucci) là trợ lý của tiến sĩ Frakes. Cô đã cứu thành công nhà Plantar khỏi Frakes, và đã giúp Anne xây dựng cánh cổng trở lại Amphibia. Tiến sĩ Jan (phiên âm: Gian) (lồng tiếng bởi Anika Noni Rose) là một người giám tuyển tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Los Angeles. Cô là người đầu tiên biết được nhà Plantar, sau nhà Boonchuy. Jan khá thích những giả thuyết về chiều không gian khác, và cô đã giúp Anne tìm được một số manh mối về chiếc hộp Tai hoạ. Maggie (phiên âm: Mắc-ghi) (lồng tiếng bởi Eden Riegel) là học sinh tại trường trung học Saint James. Cô khá thích trêu chọc và bắt nạt Anne cùng nhiều người khác. Gabby Williams (phiên âm: Gáp-bi Uy-li-am) (lồng tiếng bởi Jessica McKenna) là một học sinh tại trường Saint James và là bạn của Anne. Molly Jo (phiên âm: Mô-li Giô) (lồng tiếng bởi Cassie Glow) là một cô bé sống tại Los Angeles. Cô là bạn của Sprig, sau khi Sprig cứu Molly khỏi một vụ tai nạn. Tuy nhiên, sau đó Sprig đã có mâu thuẫn với Robert Otto, ông của Molly, và dẫn đến xung đột giữa hai người. Robert Otto (phiên âm: Rô-bớt Ốt-tô) (lồng tiếng bởi Brad Garrett) là ông của Molly. Ông đã khó chịu với Sprig sau khi ông đã cố ngăn chặn vụ tai nạn nhưng không thành, và Sprig lại ngăn chặn đuợc. Hai người đã có xung đột nhưng cả hai đã làm hoà nhờ Molly. Robert đã bị bắt sau đó vì vài hành vi phá hoại trong lúc xung đột với Sprig. Xem thêm Amphibia Danh sách chương trình truyền hình gốc của Disney Channel Tham khảo
19842887
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2a%20gi%E1%BA%A3i%20%C4%90%E1%BB%A9c
Hòa giải Đức
Hòa giải Đức (; ) là quá trình tái cơ cấu lãnh thổ lớn diễn ra từ năm 1802 đến năm 1814 ở các nhà nước nói tiếng Đức thuộc Đế chế La Mã Thần thánh, Liên bang Rhein và khu vực xung quanh bằng phương tiện hòa giải đại chúng và thế tục hóa của một số lượng lớn các Điền trang Đế chế. Hầu hết các Thân vương giáo hội, các thành bang đế chế tự do, các thân vương quốc thế tục và các thực thể tự trị nhỏ khác của Đế quốc La Mã Thần thánh đều mất tư cách độc lập và bị sáp nhập vào các nhà nước còn lại. Đến cuối quá trình hòa giải, số nhà nước ở Đức đã giảm từ gần 300 xuống chỉ còn 39. Theo nghĩa chặt chẽ của từ này, hòa giải bao gồm việc gộp một lãnh thổ với quyền đế chế trực tiếp (unmittelbar) vào một lãnh thổ khác, do đó trở thành trạng thái trung gian (mittelbar), trong khi để lại cho người cai trị bị phế truất các tài sản riêng của mình cùng một số đặc quyền và quyền phong kiến, chẳng hạn tước vị và quyển tư pháp thấp. Để thuận tiện, các nhà sử học sử dụng thuật ngữ hòa giải cho toàn bộ quá trình tái cơ cấu diễn ra vào thời điểm đó, cho dù các trạng thái được hòa giải có tồn tại dưới một hình thức nào đó. Quá trình thế tục hóa các nhà nước giáo hội diễn ra đồng thời với quá trình trung gian hóa các thành bang đế chế tự do và các nhà nước thế tục khác. Quá trình hòa giải đại chúng và thế tục hóa các quốc gia Đức diễn ra vào thời điểm đó không phải do người Đức khởi xướng. Nó chịu áp lực quân sự và ngoại giao không ngừng từ nước Pháp cách mạng, sau là Đệ Nhất Đế chế Pháp và Napoléon. Nó tạo ra quá trình phân phối lại tài sản và lãnh thổ rộng rãi nhất trong lịch sử Đức trước năm 1945. Bối cảnh Mặc dù hầu hết các quốc gia láng giềng đã liên kết thành các nhà nước tương đối tập trung trước thế kỷ XIX, nhưng Đức đã không đi theo con đường đó. Thay vào đó, Đế chế La Mã Thần thánh phần lớn duy trì cấu trúc chính trị thời trung cổ của mình bao gồm "các liên minh cá nhân đa ngôn ngữ gồm hàng trăm nhà nước và lãnh thổ gần như có chủ quyền, có quy mô từ đáng kể đến rất nhỏ". Từ con số gần 400, gồm 136 lãnh thổ giáo hội, 173 lãnh chúa thế tục cộng với 85 thành bang đế chế tự do – vào đêm trước cuộc Cải cách, con số này chỉ giảm xuống dưới 300 một chút vào cuối thế kỷ XVIII. Lời giải thích truyền thống cho sự phân mảnh này (Kleinstaaterei) tập trung vào việc các hoàng đế Thánh chế La Mã bị mất quyền lực dần dần bởi các Thân vương Đế chế trong thời kỳ Staufen (1138–1254), đến mức theo Hòa ước Westphalia (1648), Hoàng đế đã trở thành một người đứng đầu trong số những người ngang hàng. Trong những thập kỷ gần đây, nhiều nhà sử học vẫn khẳng định rằng sự phân mảnh của Đức - khởi đầu là một chính thể lớn trong khi các nước láng giềng bắt đầu với quy mô nhỏ - có thể bắt nguồn từ phạm vi địa lý của Đế quốc - Phần Đế quốc Đức có diện tích gấp đôi lãnh thổ do vua Pháp kiểm soát vào nửa sau thế kỷ 11 - và sức mạnh của các thân vương giáo hội và quý tộc địa phương từ rất sớm trong thời kỳ trung cổ. Ngay trong thế kỷ XII, các Thân vương thế tục và tinh thần không coi mình là cấp dưới của Hoàng đế, càng không phải là thần dân của ông, mà là những người cai trị theo quyền riêng của họ - và họ bảo vệ phạm vi thống trị đã được thiết lập của mình. Vào thời điểm Hoàng đế Frederick II qua đời vào năm 1250, đã quyết định rằng Vương quốc Đức là "một tầng lớp quý tộc có người đứng đầu theo chế độ quân chủ". Trong số các nhà nước và vùng lãnh thổ đó, các Giáo phận vương quyền là duy nhất ở Đức. Trong lịch sử, các Hoàng đế của Vương triều Otto và thời kỳ đầu của Vương triều Salic, những người bổ nhiệm các giám mục và tu viện trưởng, đã sử dụng họ làm đặc vụ của vương quyền hoàng gia - vì họ đáng tin cậy hơn các công tước mà họ bổ nhiệm và là những người thường cố gắng thiết lập các công quốc cha truyền con nối độc lập. Các hoàng đế đã mở rộng quyền lực của Giáo hội, và đặc biệt là của các giám mục, bằng việc ban tặng đất đai và vô số đặc quyền miễn trừ và bảo vệ cũng như các quyền tư pháp rộng rãi, cuối cùng hợp nhất thành một công quốc tạm thời đặc biệt: Hochstift. Giám mục người Đức đã trở thành "Thân vương của Đế chế" và là chư hầu trực tiếp của Hoàng đế cho Hochstift của mình, trong khi tiếp tục chỉ thực hiện quyền mục vụ đối với giáo phận lớn hơn của mình. Việc Hoàng đế bổ nhiệm cá nhân các giám mục đã gây ra tranh cãi về việc tấn phong vào thế kỷ XI, và sau đó, quyền kiểm soát của hoàng đế đối với việc lựa chọn và cai trị của các giám mục đã giảm đi đáng kể. Các giám mục, hiện được bầu chọn bởi các giáo đoàn có tư tưởng độc lập chứ không phải do hoàng đế hay Giáo hoàng lựa chọn, được xác nhận là lãnh chúa ngang hàng với các Thân vương thế tục. Thế tục hóa Thế tục hóa sớm Phải đối mặt với chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ của các Thân vương thế tục ngày càng hùng mạnh, địa vị của các Giám mục vương quyền càng trở nên bấp bênh theo thời gian. Trong quá trình Cải cách, một số giám mục ở phía Bắc và Đông Bắc đã bị thế tục hóa, chủ yếu phục vụ lợi ích của các Thân vương theo đạo Tin Lành. Vào cuối thế kỷ XVI, Phong trào Phản Cải cách đã cố gắng đảo ngược một số xu hướng thế tục hóa này, và câu hỏi về số phận của các vùng lãnh thổ bị thế tục hóa đã trở thành một vấn đề quan trọng trong Chiến tranh Ba mươi năm (1618–1648). Cuối cùng, Hòa ước Westphalia xác nhận việc thế tục hóa một loạt các Giáo phận vương quyền, bao gồm các tổng giám mục Bremen và Magdeburg và sáu giám mục có toàn bộ quyền lực chính trị, được giao cho Thụy Điển, Brandenburg và Mecklenburg. Mặt khác, Giáo phận vương quyền Hildesheim và Paderborn – dưới sự quản lý của đạo Tin Lành trong nhiều thập kỷ và bị bỏ rơi – đã được phục hồi và trở thành Giáo phận vương quyền. Ngoài ra, Hoà ước đã tái khẳng định một cách dứt khoát tính trực tiếp của đế quốc, và do đó, tính độc lập trên thực tế của các Giám mục vương quyền và Tu viện trưởng hoàng gia, các thành bang đế chế, các Bá tước Đế quốc, cũng như các Hiệp sĩ hoàng gia. Theo một cơ quan có thẩm quyền, 65 nhà cai trị giáo hội khi đó đã kiểm soát 1/7 tổng diện tích đất đai và khoảng 12% dân số của Đế chế, có lẽ là 3,5 triệu thần dân. Do trải nghiệm đau thương trong Chiến tranh Ba mươi năm và để tránh lặp lại thảm họa này, các nhà cai trị Đức dù lớn hay nhỏ giờ đây có xu hướng coi trọng luật pháp và các cấu trúc pháp lý hơn bao giờ hết trong lịch sử của Đế chế. Điều này giải thích phần lớn lý do tại sao các nhàn nước vừa và nhỏ, cả giáo hội và thế tục, đều có thể tồn tại và thậm chí thịnh vượng ở vùng lân cận các quốc gia hùng mạnh có quân đội thường trực như Brandenburg/Phổ, Bayẻn và Áo. Kế hoạch thế tục hóa thế kỷ XVIII Mặc dù không có quá trình thế tục hóa thực sự diễn ra trong suốt thế kỷ rưỡi sau Hòa ước Westphalia, nhưng vẫn có một lịch sử lâu dài về những tin đồn và kế hoạch nửa vời về khả năng thế tục hóa. Sự tồn tại liên tục của các Giám mục vương quyền độc lập, một hiện tượng dị thường chỉ có ở Đế quốc La Mã Thần thánh, ngày càng bị coi là lỗi thời, đặc biệt, nhưng không chỉ riêng, bởi các Thân vương theo đạo Tin Lành, những người cũng thèm muốn những vùng lãnh thổ không có khả năng tự vệ này. Do đó, các đề xuất bí mật của Vương quốc Phổ nhằm chấm dứt Chiến tranh Kế vị Áo kêu gọi tăng cường cơ sở lãnh thổ không đủ của Hoàng đế thuộc Vương tộc Wittelsbach là Karl VII thông qua việc sáp nhập một số Giáo phận vương quyền. Năm 1743, Bộ trưởng Heinrich von Podewils của Friedrich II của Phổ đã viết một bản ghi nhớ đề nghị trao cho Hoàng đế Wittelsbach các Giáo phận Passau, Augsburg và Regensburg, cũng như các thành bang hoàng gia Augsburg, Regensburg và Ulm. Friedrich II đã thêm tổng giáo phận Salzburg vào danh sách và Karl VII còn đi xa hơn khi bổ sung các tổng giáo phận Eichstätt và Freising. Kế hoạch này đã gây chấn động và phẫn nộ trong các Giám mục vương quyền, các thành bang đế quốc tự do và các điền trang nhỏ khác của đế quốc, đồng thời các giám mục đã thảo luận về việc huy động một đội quân 40.000 người để tự vệ trước Hoàng đế đang có ý định chiếm đất của giáo hội mà khi lên ngôi ông ấy đã thề là sẽ bảo vệ. Mặc dù cái chết đột ngột của Karl VII đã đặt dấu chấm hết cho âm mưu này, nhưng ý tưởng về thế tục hóa vẫn không hề phai nhạt. Nó đã được thảo luận tích cực trong Chiến tranh Bảy năm, và một lần nữa trong quá trình Hoàng đế Joseph II điều động quyền thừa kế xứ Bayern và trong kế hoạch trao đổi sau này của ông để đổi Tuyển hầu xứ Bayern lấy Hà Lan thuộc Áo, trong đó bao gồm một điều khoản bí mật về việc thế tục hóa Tổng giáo phận vương quyền Salzburg và Berchtesgaden Provostry. Tuy nhiên, không có kế hoạch nào trong số này được thực hiện bởi vì cuối cùng, các tác nhân chủ chốt đánh giá cao rằng việc thế tục hóa một Giám mục vương quyền duy nhất sẽ mở ra chiếc hộp Pandora và gây ra những tác động nghiêm trọng đến sự ổn định thể chế của Đế quốc La Mã Thần thánh. Tác động của Cách mạng Pháp Vào cuối thế kỷ XVIII, sự tồn tại liên tục của Đế chế La Mã Thần thánh, bất chấp hiến pháp đầu sỏ, không bị đe dọa nghiêm trọng từ bên trong. Cần có một yếu tố bên ngoài - Cách mạng Pháp - để làm rung chuyển nền tảng của Đế chế và đưa đến sự sụp đổ của nó. Sau khi nước Pháp Cách mạng tuyên chiến với Phổ và Áo vào tháng 4 năm 1792, quân đội của nước này đã xâm chiếm và cuối cùng củng cố quyền kiểm soát của họ đối với Hà Lan thuộc Áo và phần còn lại của tả ngạn sông Rhein vào cuối năm 1794. Đến lúc đó, các nhà lãnh đạo Pháp đã có đã quyết định ít nhiều một cách công khai để sáp nhập những vùng đất đó vào Đệ Nhất Cộng hòa Pháp ngay khi hoàn cảnh cho phép. Thuyết phục các nhà nước và Thân vương Đức có số phận sẽ mất tài sản ở phía Tây sông Rhine chấp nhận điều tương tự như việc Pháp chiếm đoạt đất Đức trên diện rộng bằng cách tự bồi thường bằng đất ở hữu ngạn đã trở thành mục tiêu thường xuyên của các nhà cách mạng Pháp và sau này là Napoléon Bonaparte. Hơn nữa, vì nước Đức Công giáo và Tin Lành ở mọi cấp độ là những kẻ thù không đội trời chung của Cộng hòa vô thần vì nhà nước thế tục đã đặt ra ngoài vòng pháp luật những ngôi nhà thờ, không được nhà nước thừa nhận nhưng thực tế lại là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến chiến tranh giữa Pháp và Đế chế La Mã Thần thánh thông qua các hành động như cho phép người tị nạn, quý tộc và thường dân Pháp lưu vong tiến hành các hoạt động phản cách mạng từ vùng đất của họ, các nhà lãnh đạo Pháp ước tính rằng cả nhà thờ và những người cai trị thế tục – nói chung là những người bị thiệt hại nhiều nhất ở bờ trái – nên bị loại trừ khỏi bất kỳ khoản bồi thường nào trong tương lai. Mặt khác, những nhà cai trị thế tục được quyền bồi thường phải được bồi thường bằng "thế tục hóa", trên thực tế việc giải thể và chiếm đoạt đất đai của nhà thờ tương tự như việc nhà nước Anh giải thể các tu viện trong thời kỳ cải cách, đất giáo hội và tài sản nằm ở hữu ngạn. Trớ trêu thay, việc giải tán và chiếm đoạt một cách dân chủ như đã tuyên bố đối với các tổ chức và tài nguyên của nhà thờ đã thanh lý một cách hiệu quả tổ chức từ thiện và an toàn xã hội duy nhất của Châu Âu. Thế tục hóa sẽ dẫn đến việc Tây Âu không có khả năng đối phó với giai đoạn thứ hai của kỷ nguyên công nghiệp và tình trạng nghèo đói hàng loạt mà nó tạo ra sẽ dẫn đến tình trạng nhập cư hàng loạt khỏi lục địa để đến thế giới mới. Hòa ước Basel của Pháp-Phổ vào tháng 4 năm 1795 đã nói đến "sự đền bù" trong trường hợp nền hòa bình chung trong tương lai với Đế quốc La Mã Thần thánh đã đầu hàng Pháp các lãnh thổ của Đức ở phía Tây sông Rhein, bao gồm cả các tỉnh của Phổ. Một công ước bí mật của Pháp-Phổ được ký vào tháng 8 năm 1796 quy định rằng khoản bồi thường như vậy sẽ thuộc về Giáo phận vương quyền Münster và Vest Recklinghausen. Ngoài ra, điều 3 quy định rằng Thân vương xứ Orange-Nassau, có quan hệ huyết thống với vua Phổ, người tích cực bảo vệ lợi ích của mình, sẽ được bồi thường bằng Giáo phận vương quyền Würzburg và Bamberg nếu ông mất quyền nắm giữ quyền sở hữu tước hiệu thế tục ở Hà Lan, điều này theo sau sự thành lập Cộng hòa Batavia do Pháp hậu thuẫn, đã trở thành lâu dài. Tương tự như vậy, các hiệp ước hòa bình mà Pháp đã ký với Công quốc Württemberg và Bá quốc Baden trong cùng tháng có chứa các điều khoản bí mật, theo đó Pháp cam kết can thiệp để được nhượng lại các lãnh thổ giáo hội cụ thể như một khoản bồi thường cho họ trong trường hợp họ bị tổn thất. Được ký kết sau những chiến thắng lớn của Pháp trước quân đội Áo, Hiệp ước Campo Formio tháng 10 năm 1797, do Tướng Napoleon Bonaparte ban hành, với điều kiện Áo sẽ được bồi thường cho sự mất mát của Hà Lan thuộc Áo và Lombardy của Áo với Venice và Dalmatia. Một điều khoản bí mật, chưa được thực hiện vào thời điểm đó, đã bổ sung thêm khoản bồi thường bổ sung cho Tổng giáo phận vương quyền Salzburg và một phần Tuyển hầu xứ Bayern. Hiệp ước cũng quy định việc tổ chức một đại hội tại Rastatt, nơi các đại biểu của Nghị viện Hoàng gia sẽ đàm phán một nền hòa bình chung với Pháp. Người ta đã dự đoán một cách rộng rãi và chính xác rằng Pháp sẽ yêu cầu nhượng lại chính thức toàn bộ bờ tây sông Rhein, rằng các thân vương thế tục bị tước đoạt sẽ được bồi thường bằng các lãnh thổ giáo hội ở phía Đông sông Rhein, và một kế hoạch bồi thường cụ thể sẽ được thảo luận và thông qua. Thật vậy, vào ngày 9 tháng 3 năm 1798, các đại biểu tại đại hội ở Rastatt đã chính thức chấp nhận hy sinh toàn bộ bờ trái sông Rhein và, vào ngày 4 tháng 4 năm 1798, đã chấp thuận việc thế tục hóa tất cả các quốc gia giáo hội ngoại trừ 3 Tuyển đế hầu giáo hội Mainz, Cologne và Trier, nơi tiếp tục tồn tại là một ranh giới đỏ tuyệt đối đối với Hoàng đế Francis II. Đại hội kéo dài đến tận năm 1799 đã thất bại trong các mục tiêu khác do sự bất đồng giữa các đại biểu về việc phân chia lại các lãnh thổ bị thế tục hóa và sự kiểm soát không đủ của Pháp đối với quá trình do cuộc tranh giành quyền lực ngày càng gia tăng ở Paris gây ra. Vào tháng 3 năm 1799, Áo liên minh với Nga, nối lại cuộc chiến chống Pháp. Một loạt thất bại quân sự và sự rút lui của Nga khỏi cuộc chiến đã buộc Áo phải tìm kiếm một hiệp định đình chiến và vào ngày 9 tháng 2 năm 1801 ký Hiệp ước Lunéville, trong đó phần lớn tái xác nhận Hiệp ước Campo Formio và các thoả thuận đặt ra tại Rastatt. Điều 7 của hiệp ước quy định rằng "theo các nguyên tắc được chính thức thiết lập tại đại hội Rastatt, đế chế sẽ buộc phải trao cho các thân vương thế tục, những người sẽ bị tước quyền sở hữu ở bờ trái sông Rhein, một khoản bồi thường, số tiền này sẽ được được lấy từ toàn bộ đế quốc, theo những thỏa thuận mà dựa trên những căn cứ này sẽ được xác định cuối cùng." Lần này, Francis II đã ký hiệp ước không chỉ thay mặt cho Áo mà còn thay mặt cho Đế chế, quốc gia đã chính thức thừa nhận mất Hà Lan thuộc Áo và tả ngạn sông Rhein. Quyết định cơ bản tháng 2 năm 1803 Quyết định cơ bản của Phái đoàn Hoàng gia (tiếng Đức: Reichsdeputationshauptschluss) ngày 25 tháng 2 năm 1803 thường được gọi là luật Hoàng gia dẫn đến việc tái cơ cấu lãnh thổ của Đế quốc bằng cách phân bổ lại các nhà nước giáo hội và các thành bang đế chế cho các điền trang đế quốc khác. Trên thực tế, cả Quyết định cơ bản và Phái đoàn Hoàng gia soạn thảo nó đều không đóng một vai trò quan trọng nào trong quá trình này vì nhiều quyết định quan trọng đã được đưa ra sau cánh cửa đóng kín ở Paris trước khi Phái đoàn bắt đầu công việc của mình. Tuy nhiên, Quyết định cơ bản là không thể thiếu vì nó mang lại sự phê chuẩn theo hiến pháp đối với việc tái cơ cấu chính trị và lãnh thổ lớn mà lẽ ra sẽ thiếu tính hợp pháp. Bối cảnh Bị thúc ép mạnh mẽ bởi Napoleon Bonaparte, hiện đang nắm quyền lãnh đạo ở Pháp với tư cách là Đệ Nhất tổng tài, Thánh chế La Mã ngay sau Hiệp ước Lunéville buộc phải nhận nhiệm vụ vạch ra một kế hoạch bồi thường dứt khoát (Entschädigungsplan). Đại hội đế chế quyết tâm giao nhiệm vụ đó cho Hoàng đế, với tư cách là toàn quyền của Đế quốc, trong khi có ý định dành quyền quyết định cuối cùng cho chính mình. Không muốn gánh chịu toàn bộ trách nhiệm về những thay đổi chắc chắn sẽ xảy ra dưới mệnh lệnh của Pháp, Hoàng đế Francis II đã từ chối. Sau nhiều tháng cân nhắc, một thỏa hiệp đã đạt được vào tháng 11 năm 1801 để giao nhiệm vụ bồi thường cho Cơ quan Hoàng gia (Reichsdeputation), với Pháp đóng vai trò 'người hòa giải'. Phái đoàn bao gồm các đại diện toàn quyền của các Tuyển đế hầu Mainz, Sachsen, Brandenburg-Phổ, Bohemia và Tuyển hầu xứ Bayern, và của Công tước xứ Württemberg, Bá tước xứ Hessen-Cassel và Grand Master của Hiệp sĩ dòng Teuton. Ngay sau Hiệp ước Lunéville, các nhà cầm quyền chủ chốt của Đức có quyền đòi bồi thường đã nhanh chóng đảm bảo khoản bồi thường trực tiếp với Pháp, và Paris nhanh chóng tràn ngập các phái viên mang theo danh sách các vùng lãnh thổ mà họ thèm muốn. Chính phủ Pháp khuyến khích phong trào này. Napoleon Bonaparte để lại chi tiết cho Ngoại trưởng Talleyrand, người nổi tiếng nhét đầy túi tiền hối lộ, tham gia với tư cách là người đồng hòa giải. Vào ngày 19 tháng 10 năm 1801, hai nước đã ký một thỏa thuận cùng hoạt động với tư cách là "các cường quốc hòa giải". Về cơ bản, Nga hoàng Alexander I, có vợ và mẹ thuộc các gia đình quý tộc ở Bá quốc Baden và Công quốc Württemberg, muốn ưu ái những người họ hàng người Đức khác nhau của mình và điều này vừa khớp với mục tiêu lâu dài của Pháp nhằm củng cố các nhà nước miền nam Baden, Württemberg, Hessen-Darmstadt và Bayern, nằm ở vị trí chiến lược giữa Pháp và Áo, kẻ thù không đội trời chung của nhau. Các cuộc thảo luận và giao dịch sôi nổi đã diễn ra không chỉ với các Quyền lực trung gian và giữa các thân vương thế tục khác nhau mà còn với cả các chính phủ khác nhau. Trong nội các Phổ, một nhóm thúc đẩy việc mở rộng về phía Tây tới Westphalia trong khi một nhóm khác ủng hộ việc mở rộng về phía Nam tới Franconia, với nhóm ủng hộ Westphalia cuối cùng đã chiếm ưu thế. Từ tháng 7 năm 1801 đến tháng 5 năm 1802, các thỏa thuận bồi thường sơ bộ đã được ký kết với Tuyển hầu xứ Bayern, Württemberg và Phổ và những thỏa thuận khác được ký kết ít chính thức hơn với Baden, Hessen-Darmstadt, Hesse-Cassel và các nhà nước cấp trung khác. Các cuộc thảo luận và giao dịch sôi nổi diễn ra đồng thời ở Regensburg, nơi Đại hội Đế chế và Cơ quan của nó đang họp. Đặc biệt, nhiều nhà cai trị cấp trung và cấp thấp thiếu ảnh hưởng ở Paris - các Công tước xứ Arenberg, Croy và Looz, Thân vương xứ Salm-Kyrburg, các Bá tước xứ Sickingen và Wartenberg, cùng những người khác - đã thử cơ hội với các nhà ngoại giao Pháp được cử đến Regensburg, người có thể đề xuất bổ sung hoặc sửa đổi kế hoạch bồi thường, nói chung là để đổi lấy hối lộ. Tuy nhiên, tất cả các khiếu nại đều đã được kiểm tra và có nỗ lực phát hiện các khiếu nại hư cấu hoặc phóng đại. Cơ quan Hoàng gia rất hiếm khi xem xét các khiếu nại, chúng gần như được tự động chuyển đến các quan chức địa phương của Pháp để quyết định hoặc chuyển đến Bộ trưởng Ngoại giao Talleyrand ở Paris. Kế hoạch bồi thường chung Một "kế hoạch bồi thường chung" kết hợp các hiệp định chính thức và không chính thức khác nhau được ký kết ở Paris được Nhà ngoại giao Talleyrand soạn thảo vào tháng 6 năm 1802, được Đế quốc Nga chấp thuận với những thay đổi nhỏ,[40] và được đệ trình gần như như một tối hậu thư cho Phái đoàn Hoàng gia khi họ được triệu tập cuối cùng tại Regensburg cho cuộc họp đầu tiên vào ngày 24 tháng 8 năm 1802. Trong phần mở đầu có nêu rằng các Quyền lực hòa giải đã buộc phải đưa ra một kế hoạch bồi thường do "những khác biệt không thể hòa giải giữa các Thân vương Đức" liên quan đến chi tiết bồi thường và sự chậm trễ của Phái đoàn Hoàng gia trong việc bắt đầu công việc của mình. Người ta nói rằng kế hoạch này "dựa trên những tính toán về tính công bằng không thể nghi ngờ" đã nỗ lực thực hiện việc bồi thường cho những tổn thất đã được thừa nhận trong khi "duy trì sự cân bằng quyền lực như trước chiến tranh giữa các nhà cai trị chủ chốt ở Đức", hai mục tiêu có phần mâu thuẫn nhau. lý do ban đầu cho việc bồi thường, vốn là để bù đắp cho lãnh thổ bị mất, đã được thay thế bằng các mục tiêu chính trị: ủng hộ những người cai trị có quyền lực hoặc có quan hệ tốt và thu hút các đồng minh tiềm năng. Vì Áo đã bị loại khỏi các cuộc thảo luận nên phái viên của họ tại Paris chỉ biết về kế hoạch này khi đọc nó trên tờ Le Moniteur Universel. Họ nhanh chóng đàm phán những sửa đổi nhằm xác nhận cả các đặc quyền của Hoàng đế Francis II và các quyền của ông với tư cách là người cai trị Áo. Gói bồi thường của Habsburg cũng được tăng cường với các giáo phận vương quyền được thế tục hóa bổ sung. Francis II có thái độ thù địch với việc thế tục hóa, nhưng khi thấy rõ rằng việc thế tục hóa gần như hoàn toàn là không thể tránh khỏi, ông đã chiến đấu hết mình như bất kỳ nhà cai trị nào khác để giành được phần chiến lợi phẩm của mình. Ông đặc biệt kiên quyết yêu cầu em trai ông là Đại công tước Ferdinand, người đã bị quân Pháp xâm lược tước đoạt quyền sở hữu [[Đại công quốc Toscana, phải được bồi thường thỏa đáng. Cơ quan Hoàng gia, ban đầu được giao phó quá trình bồi thường nhưng giờ đã bị hạ cấp xuống vai trò cấp dưới, có xu hướng bị các Quyền lực trung gian và các Quốc gia chủ chốt của Đức không xem trọng. Điều này đã được chứng minh bằng hiệp định Pháp-Phổ ngày 23 tháng 5 năm 1802, bỏ qua Phái đoàn Hoàng gia chưa được triệu tập, tuyên bố rằng cả Vua Phổ và Thân vương xứ Orange-Nassau đều có thể sở hữu các lãnh thổ được giao cho họ ngay sau khi phê chuẩn. Hai tuần sau, Nhà vua ban hành một tuyên bố liệt kê tất cả các lãnh thổ bồi thường được trao cho Phổ nhưng ông phải đợi đến tuần đầu tiên của tháng 8 năm 1802 trước khi chiếm giữ các Giáo phận vương quyền Paderborn và Hildesheim cũng như phần lãnh thổ của nó ở Münster, cũng như các lãnh thổ khác đã bị chiếm đóng được giao cho Phổ. Cùng tháng đó, quân đội Bayern tiến vào Bamberg và Würzburg một tuần sau khi Tuyển đế hầu Maximilian IV Joseph viết thư cho các Giám mục vương quyền tương ứng để thông báo về việc sắp chiếm đóng các giáo phận của họ. Trong mùa thu, Bayern, Baden, Hessen-Darmstadt, và Württemberg, và thậm chí cả Áo, tiến hành chiếm giữ các Giáo phận vương quyền, tu viện hoàng gia và các Thành bang đế chế đã được giao cho họ. Việc sáp nhập chính thức và thành lập cơ quan hành chính dân sự thường diễn ra trong vòng vài tuần. Sự vội vàng như vậy một phần là do lo ngại rằng kế hoạch tháng 6 có thể không dứt khoát và dẫn đến việc chiếm các lãnh thổ được phân bổ và đặt các nhà cai trị trước sự việc đã rồi. Tuy nhiên, chiến lược đó không phải là dễ dàng và Tuyển hầu xứ Bayern, nơi đã chiếm giữ Giám mục vương quyền Eichstätt kể từ tháng 9, đã buộc phải sơ tán nó khi hội nghị Pháp-Áo ngày 26 tháng 12 năm 1802 tái phân bổ phần lớn Eichstätt cho Quân chủ Habsburg. Về phần mình, các Thân vương cấp thấp hơn và các bá tước, với ít nhân lực và nguồn lực, thường phải đợi cho đến khi Quyết định cơ bản được ban hành trước khi họ có thể chiếm hữu các lãnh thổ - nếu có - được trao cho họ như một khoản đền bù, thường là một lãnh thổ thế tục hóa hoặc một trong những thành bang đế chế nhỏ hơn. Phê duyệt và phê chuẩn Quyết định cơ bản (Final Recess) Vào ngày 8 tháng 10 năm 1802, các Quyền lực hòa giải đã chuyển cho Nhóm kế hoạch bồi thường chung thứ hai của họ với nhiều sửa đổi phản ánh số lượng đáng kể các khiếu nại, kiến nghị và quan sát mà họ đã nhận được từ tất cả các bên. Kế hoạch thứ ba được gửi đi vào tháng 11 và kế hoạch cuối cùng vào giữa tháng 2 năm 1803. Nó làm cơ sở cho Quyết định cơ bản mà Phái đoàn đưa ra tại cuộc họp lần thứ 46 vào ngày 25 tháng 2 năm 1803. Đại hội Đế chế đã phê chuẩn nó vào ngày 24 tháng 3 và Hoàng đế đã phê chuẩn nó vào ngày 27 tháng 4. Tuy nhiên, Hoàng đế đã chính thức bảo lưu việc phân bổ lại số ghế và phiếu bầu trong Đại hội Đế chế. Trong khi ông chấp nhận Hội đồng Tuyển đế hầu gồm 10 thành viên mới, nơi lần đầu tiên có đa số là các tuyển hầu theo đạo Tin Lành, ông phản đối đa số Tin Lành mạnh mẽ trong Viện Thân vương mới (77 Lãnh đạo theo đạo Tin lành so với 53 lãnh đạo Công giáo, cộng với 4 phiếu luân phiên), theo truyền thống, ảnh hưởng của Hoàng đế được cảm nhận mạnh mẽ nhất, và thay vào đó ông đề xuất sự bình đẳng tôn giáo. Các cuộc thảo luận về vấn đề này vẫn đang tiếp diễn khi Đế quốc bị giải thể vào năm 1806. Kết quả Các Thân vương quốc Giáo hội giải thể đồng loạt Theo các điều khoản của "Quyết định cơ bản", tất cả các cơ quan Thân vương quốc Giáo hội – tổng giám mục, giám mục và tu viện vương quyền – đều bị giải thể ngoại trừ Tổng giám mục- Tuyển hầu xứ Mainz, Dòng Teuton và Dòng Malta. Tổng giám mục Karl Theodor von Dalberg của Mainz đã cứu được lãnh thổ của mình bằng cách thuyết phục Napoleon Bonaparte rằng vị trí Tổng Thủ hiến Hoàng gia của ông là điều cần thiết cho hoạt động của Đế chế. Do phần lớn lãnh thổ Tuyển đế hầu của ông, bao gồm cả thành phố Mainz, đã bị Pháp sáp nhập, tổng giáo phận được chuyển sang Regensburg và được bổ sung thêm một số tàn tích của Tuyển hầu xứ ở phía Đông sông Rhein và Wetzlar. Dalberg, người được xác nhận là Tuyển đế hầu và Tổng Thủ hiến Hoàng gia và đạt được tước hiệu mới là Giáo trưởng Đức, đã chứng tỏ là một đồng minh liên tục và hữu ích của Napoléon trong những năm tới. Ngoài ra, dưới sự nài nỉ kiên quyết của Hoàng đế, Dòng Teutonic, mà Grand Master nói chung là một đại công tước người Áo, cũng như các Hiệp sĩ của St John (Hiệp sĩ Malta), cũng được tha và các lãnh địa nhỏ rải rác của họ được tăng cường thêm một số tu viện gần đó. Mục đích ở đây là cung cấp cuộc sống cho một số trong tổng số 700 thành viên quý tộc của các giáo đoàn nhà thờ mà tài sản của họ đã bị tịch thu khi các Giáo phận vương quyền bị thế tục hóa. Một số Giáo phận vương quyền đã được chuyển giao toàn bộ cho chủ sở hữu mới trong khi những nơi khác, chẳng hạn như Münster, Trier, Cologne, Würzburg, Augsburg, Freising, Eichstätt, Passau và Constance, được phân chia giữa hai hoặc một số chủ sở hữu mới hoặc được phân bổ một số quận hoặc vùng ngoại ô cho các chủ sở hữu mới khác nhau. Tài sản đáng kể của các nhà thờ của tòa giám mục cũng bị tịch thu. Quyết định cơ bản nêu chi tiết các nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác của những người cai trị mới đối với những người cai trị cũ, các quan chức, người quản lý và các nhân viên dân sự và quân sự khác của các Thân vương quốc Giáo hội đã bị bãi bỏ. Các cựu Giám mục vương quyền và Tu viện trưởng vương quyền vẫn nhận được quyền Reichsfreiheit (Trực tiếp đế chế). Họ nắm giữ quyền lực rộng rãi, bao gồm cả quyền tài phán tư pháp trong các vấn đề dân sự và hình sự đối với người hầu của họ (điều 49). Họ giữ tước hiệu và cấp bậc Giám mục vương quyền hoặc Tu viện trưởng vương quyền suốt đời và được hưởng một số danh hiệu và đặc quyền (điều 50). Tuy nhiên, các dinh thự nguy nga của các Giám mục vương quyền, chẳng hạn như Dinh thự Würzburg và Schloss Nordkirchen, đã được chuyển cho chủ sở hữu mới và các giám mục được cấp chỗ ở khiêm tốn hơn cũng như quyền sử dụng nơi ở mùa hè. Các cựu Giám mục vương quyền, Tu viện trưởng vương quyền và các viện trưởng hoàng gia được hưởng lương hưu hàng năm lần lượt là từ 20.000 đến 60.000 gulden, 6.000 đến 12.000 gulden và 3.000 đến 6.000 gulden, tùy thuộc vào thu nhập trước đây của họ (điều 51). Trong khi quá trình thế tục hóa tước bỏ quyền lực chính trị của các Giám mục vương quyền và bãi bỏ lãnh thổ của họ, họ vẫn là giám mục và vẫn giữ quyền mục vụ bình thường đối với giáo phận, giáo xứ và giáo sĩ của mình. Một số, chẳng hạn như Giám mục Christoph Franz von Buseck xứ Bamberg, đã điều chỉnh theo hoàn cảnh khó khăn của họ và ở lại giáo phận của họ để thực hiện nhiệm vụ mục vụ; những người khác, chẳng hạn như Tổng giám mục Hieronymus von Colloredo xứ Salzburg, đã từ bỏ nhiệm vụ mục vụ của mình cho các giám mục phụ tá và đến sống ở Viên hoặc trên khu đất của gia đình họ. Sự chấm dứt tồn tại của các Thành bang đế chế tự do 51 Thành bang đế chế [chú thích 7] với tổng diện tích lãnh thổ 7.365 km2 (2.844 dặm vuông Anh) và dân số 815.000 người, tuy ít hơn so với các nhà nước giáo hội nhưng các Giám mục vương quyền từ lâu đã phẫn nộ với nền độc lập của những thành phố bị bao vây trong lãnh thổ của họ. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, họ còn mang tiếng là suy tàn và quản lý yếu kém hơn cả các nhà nước giáo hội. Một số thành bang đế chế đã được đưa vào một số kế hoạch thế tục hóa còn non trẻ của thế kỷ XVIII, chủ yếu là vì chúng tiếp giáp hoặc nằm trong một chế độ Giáo phận vương quyền được nhắm mục tiêu cho việc thế tục hóa. Trong khi các điều khoản bồi thường bí mật trong các hiệp ước năm 1796 với Phổ, Baden và Württemberg chỉ nhắm vào các lãnh thổ giáo hội, thì vào thời điểm Đại hội Rastatt khai mạc vào cuối năm 1797, đã có tin đồn lan rộng về việc giải thể ít nhất một số thành bang. Cảnh nhận được trước những tin đồn như vậy, các thành bang đế chế của Vùng đế chế Swabia, nơi tọa lạc khoảng một nửa số thành bang đế chế, đã tổ chức một hội nghị đặc biệt tại Ulm vào đầu tháng 3 năm 1798 để xem xét tình hình mà họ cảm thấy bất lực. Tuy nhiên, do ngay từ đầu người ta đã mong đợi rằng một số ít các thành bang lớn nhất và giàu có nhất sẽ duy trì được nền độc lập của mình, nên sự hòa giải được mong đợi của các thành bang đế quốc đã không thu hút được nhiều sự quan tâm của công chúng. Sự sống còn của một thành bang hoàng gia thường bị treo lơ lửng: trong khi Regensburg và Wetzlar, lần lượt là các trụ sở của Đại hội đế chế và Tòa án Cameral Hoàng gia, vẫn nằm trong danh sách ngắn các thành bang hoàng gia sẽ tồn tại trong kế hoạch bồi thường chung tháng 6 năm 1802, chúng được thế tục hóa vài tháng sau đó nhằm củng cố Thân vương quốc Aschaffenburg mới được thành lập, vốn sẽ tạo thành căn cứ lãnh thổ của Tổng giám mục von Dalberg, Tổng Thủ hiến Đế chế cuối cùng, chỉ có Hamburg, Bremen, Lübeck, Frankfurt, Augsburg và Nuremberg sống sót sau quá trình hoà giải năm 1803. Tấn công các hiệp sĩ hoàng gia và bá tước hoàng gia Sau Quyết định cơ bản, các điền trang rải rác của khoảng 300 hiệp sĩ hoàng gia tự do và 99 Bá tước hoàng gia, tổng cộng lãnh thổ có lẽ khoảng 4.500 dặm vuông, lẽ ra vẫn được giữ nguyên. Nhưng đến mùa đông năm 1803, những người cai trị Tuyển hầu xứ Bayern, Bá quốc Hessen-Kassel và Công quốc Württemberg bắt đầu chiếm hữu những vùng đất nhỏ bé này thông qua sự kết hợp giữa Sắc lệnh đầu hàng và chuyển giao (Abtretungs- und Überweisungspatenten) và lực lượng quân sự. Những người cai trị nhỏ hơn khác, chẳng hạn như Thân vương xứ Leiningen, cũng làm theo. Sau này nó được gọi là Rittersturm. Đến mùa thu năm 1803, phần lớn các điền trang của hiệp sĩ hoàng gia trên thực tế đã bị các nước láng giềng lớn hơn sáp nhập. Vào tháng 1 năm 1804, việc tịch thu bị Hoàng đế Francis II tuyên bố là bất hợp pháp. Mặc dù Hoàng đế không thể đảo ngược hiện trạng, nhưng lời đe dọa bằng vũ lực đã ngăn chặn các cuộc thôn tính tiếp theo. Tuy nhiên, bạo lực này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho các Thân vương nhỏ của Đế chế. Với việc chấm dứt quyền quản lý của đế quốc một cách hiệu quả sau Hiệp ước Pressburg năm 1805, bạo lực đối với các hiệp sĩ và bá tước hoàng gia đã lan rộng đến các Thân vương không có khả năng tự vệ, dẫn đến cuộc hòa giải lớn thứ hai vào năm 1806. Việc hòa giải chính thức của các hiệp sĩ và bá tước hoàng gia đã được hợp pháp hóa theo Điều 25 của Hiệp ước Liên bang Rhein (Rheinbundakte), trong đó trừng phạt hành động đơn phương của các lãnh thổ. Những hậu quả sâu rộng về chính trị và tôn giáo Mặc dù mục đích ban đầu là chỉ bồi thường cho những nhà cai trị thế tục bị mất lãnh thổ vào tay người Pháp, nhưng tiêu chí đó chỉ được áp dụng cho các Thân vương hay bá tước nhỏ và những nhà cai trị đôi khi chỉ nhận được một khoản tiền niên kim hoặc một khoản bồi thường lãnh thổ khiêm tốn đến mức phải tăng thêm một khoản tiền hàng năm được trả bởi các thân vương được cung cấp tốt hơn để tổng thu nhập của họ không thấp hơn thu nhập trước đây của họ. Trong trường hợp của các nhà nước lớn hơn, họ thường nhận được nhiều hơn số lãnh thổ mà họ đã mất. Karl Friedrich xứ Baden nhận được lãnh thổ nhiều gấp 7 lần số đã mất, Vương quốc Phổ nhận được gần gấp 5 lần. Tuyển hầu xứ Hannover đã giành được Giáo phận vương quyền Osnabrück, mặc dù nước này chẳng mất gì cả. Công quốc Oldenburg, có mối quan hệ huyết thống chặt chẽ với Sa hoàng Alexander I, đã nhận được một phần lãnh thổ đáng kể của Giáo phận vương quyền Münster mặc dù nó chỉ mất thu nhập từ một trạm thu phí. Áo cũng nhận được nhiều lãnh thổ mới. Ngoài ra, Quân chủ Habsburg đã bị mất 2 lãnh thổ ở Bán đảo Ý, gồm có Đại công quốc Toscana và Công quốc Modena cũng được bồi thường mặc dù lãnh thổ của họ không thuộc Đế chế La Mã Thần thánh. Tương tự như vậy, Vua Phổ đã có thể nhận được một khoản bồi thường lãnh thổ hào phóng cho Thân vương quốc Orange-Nassau có liên quan đến triều đại, người đã bị tổn thất ở Cộng hòa Hà Lan không còn tồn tại. Tổng cộng có 112 điền trang của đế chế đã biến mất. Ngoài lãnh thổ được nhượng lại cho Pháp, đất đai và tài sản của họ được phân chia cho 72 nhà cai trị có quyền được bồi thường. Kết quả của quá trình bồi thường được xác nhận bởi Quyết định cơ bản vào tháng 2 năm 1803 là sự phân phối lại tài sản rộng rãi nhất trong lịch sử nước Đức trước năm 1945. Khoảng 73.000 km2 (28.000 dặm vuông) lãnh thổ giáo hội, với khoảng 2,36 triệu dân và 12,72 triệu guilden mỗi năm doanh thu đã được chuyển giao cho những nhà cai trị mới. Vị thế của Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập ở Đức, Reichskirche, không những bị suy giảm mà còn gần như bị phá hủy. Nhà thờ mất đi vai trò hiến pháp quan trọng trong Thánh chế La Mã; hầu hết các trường đại học Công giáo đều đóng cửa, cũng như hàng trăm tu viện và cơ sở tôn giáo. Người ta nói rằng Cuộc suy thoái cuối cùng năm 1803 đã ảnh hưởng đến quyền sở hữu đất đai của Đức giống như Cách mạng đã làm với Pháp. Hòa giải từ năm 1806 Vào ngày 12 tháng 6 năm 1806, Hoàng đế Napoléon thành lập Liên bang Rhein để mở rộng và giúp bảo đảm an toàn cho biên giới phía Đông của Đệ Nhất Đế chế Pháp. Để miễn cưỡng thừa nhận việc Napoléon chia cắt lãnh thổ Thánh chế La Mã, vào ngày 6 tháng 8 năm 1806, Hoàng đế La Mã Thần thánh Francis II tuyên bố bãi bỏ Đế quốc và tuyên bố nắm giữ nhiều quyền lực nhất có thể với tư cách là người cai trị Các vương quốc Habsburg. Để nhận được sự ủng hộ từ các quốc gia Đức hùng mạnh hơn, cựu Hoàng đế La Mã Thần thánh đã chấp nhận, và Napoléon khuyến khích, sự hòa giải của các nhà nước nhỏ lân cận của họ. Hòa giải đã chuyển giao chủ quyền của hơn 100 nhà nước thế tục nhỏ cho các nước láng giềng lớn hơn, hầu hết trong số đó đã trở thành thành viên sáng lập của Liên bang để tham gia vào các cuộc sáp nhập. Giữa lần thoái vị đầu tiên của Napoléon vào năm 1814 và Trận Waterloo cũng như lần thoái vị cuối cùng của Napoléon vào năm 1815, Đại hội Viên đã được các cường quốc thắng trận triệu tập để vẽ lại biên giới châu Âu. Trong thời gian này, người ta đã quyết định rằng các công quốc hòa giải, các thành bang tự do và các quốc gia thế tục hóa sẽ không được khôi phục lãnh thổ. Thay vào đó, những người cai trị trước đây được quyền bỏ phiếu trong Đại hội đế chế sẽ được hưởng địa vị quý tộc, được coi là ngang hàng với các vị quân chủ vẫn đang trị vì và có quyền yêu cầu bồi thường cho những tổn thất của họ. Nhưng mỗi quốc gia sáp nhập được giao quyền bồi thường cho các triều đại được hòa giải, và triều đại sau không có quyền bồi thường quốc tế nếu không hài lòng với các quyết định hoàn trả của chế độ mới. Vào năm 1825 và 1829, những gia tộc từng được chỉ định là "Các nhà hòa giải" đã được chính thức hóa, theo quyết định riêng của các quốc gia cầm quyền, và không phải tất cả các gia tộc cai trị các quốc gia được hòa giải đều được công nhận như vậy. Kết quả của Đại hội Viên là chỉ còn lại 39 Nhà nước của Đức. Những nhà nước và lãnh thổ bị sáp nhập Các giáo phận và tổng giáo phận vương quyền Các tu viện và cung điện hoàng gia Các thực thể giáo hội duy nhất ở Đức không bị bãi bỏ vào năm 1803, gồm có: Hiệp sĩ Dòng Teuton (bãi bỏ năm 1810) Hiệp sĩ Dòng Thánh John (bãi bỏ năm 1806) Tổng giáo phận Regensburg (bãi bỏ năm 1805) Các Thành bang đế chế và các làng Các thành phố tự do duy nhất ở Đức không bị bãi bỏ vào năm 1803, gồm có: Augsburg (sáp nhập vào Bayern 1806) Bremen (bang)|Bremen]] (sáp nhập vào Pháp 1811, khôi phục 1814) Frankfurt (sáp nhập vào Regensburg 1806, khôi phục 1813, sáp nhập vào Phổ 1866) Làng hoàng gia Harmersbach (sáp nhập vào Baden 1806) (sáp nhập vào Pháp 1811, khôi phục 1814) Lübeck (sáp nhập vào Pháp 1811, khôi phục 1814, bãi bỏ 1937) (sáp nhập vào Bayern 1806) Các thành viên khác của Đại hội đế chế vào năm 1806 Các quốc gia làm trung gian sau năm 1806 Các nhà nước có chủ quyền được tái thành lập Sau khi bị bãi bỏ hoặc hòa giải, rất ít nhà nước được tái lập. Những lãnh thổ được tái lập bao gồm: Thành bang tự do Bremen Thành bang tự do Frankfurt Thành bang tự do Hamburg Vương quốc Hannover Tuyển hầu xứ Hessen Bá quốc Hessen-Homburg Lãnh địa In và Kniphausen Thành bang tự do Lübeck Đại công quốc Oldenburg Chú thích Tham khảo Trích dẫn Nguồn Arenberg, Jean Engelbert. The Lesser Princes of the Holy Roman Empire in the Napoleonic Era. Dissertation, Georgetown University, Washington, D.C., 1950 (later published as . Louvain: , 1951). Gollwitzer, Heinz. . Stuttgart 1957 (Göttingen 1964) Reitwiesner, William Addams. "The Meaning of the Word Mediatized". Fabianek, Paul. , 2012, Verlag BoD, . Liên kết ngoài Full text, including the preamble Report on compensations on which the Final Recess will be based Đế quốc La Mã Thần thánh thập niên 1800 Quân chủ Đức Lịch sử chính trị Đức Đế quốc La Mã Thần thánh
19842901
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20phi%20x%E1%BB%A9%20Cond%C3%A9
Thân vương phi xứ Condé
Dưới Chế độ cũ (Pháp), Gia tộc Condé được liệt vào hàng Prince du sang (Tông thất Pháp), trong đó người đứng đầu Gia tộc giữ tước hiệu Thân vương xứ Condé. Vợ của các Thân vương được gọi là Thân vương phi xứ Condé. Danh sách Xem thêm Thân vương xứ Condé Prince du sang
19842943
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20k%E1%BB%B3%20Campuchia%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7
Quốc kỳ Campuchia Dân chủ
Quốc kỳ Campuchia Dân chủ bao gồm Angkor Wat vàng trên nền đỏ. Nó được thông qua vào ngày 5 tháng 1 năm 1976 dưới thời Khmer Đỏ cai trị đất nước Campuchia. Lá cờ này giống với quốc kỳ Việt Nam. Tuy nhiên, điều bất thường là quốc kỳ của các quốc gia cộng sản không có ngôi sao màu đỏ, vàng hoặc búa liềm mang tính biểu tượng. Lịch sử Quốc kỳ Campuchia Dân chủ thay quốc kỳ Cộng hòa Khmer, trở thành lá cờ chính thức của Campuchia vào ngày 5 tháng 1 năm 1976 sau khi Khmer Đỏ lên nắm quyền ở nước này vào ngày 17 tháng 4 năm 1975. Trong thời kỳ đó, Khmer Đỏ vẫn sử dụng lá cờ cũ của Vương quốc Campuchia cũng được treo tại trụ sở Liên Hợp Quốc từ tháng 4 năm 1975 đến tháng 1 năm 1976. Lá cờ này từng bị bãi bỏ nhiều lần ở các tỉnh giáp ranh với Việt Nam của Campuchia, nhưng chính phủ mới của nước này đã tính ngày giải phóng thủ đô (7 tháng 1 năm 1979) mới là ngày chính thức hủy bỏ quốc kỳ Campuchia Dân chủ. Mặc dù quốc kỳ Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã trở thành lá cờ chính thức ở Campuchia sau khi chính phủ Khmer Đỏ lật đổ, quốc kỳ Campuchia Dân chủ vẫn được Chính phủ Liên minh Campuchia Dân chủ và Liên Hợp Quốc sử dụng. Hầu hết các quốc gia đều giữ quan hệ ngoại giao với Chính phủ Liên minh Campuchia Dân chủ vì Cộng hòa Nhân dân Campuchia không giành được sự công nhận rộng rãi của quốc tế. Biểu tượng Màu đỏ tượng trưng cho cách mạng và máu và Angkor Wat tượng trưng cho nhà nước của nhân dân, công nhân và nông dân. Tham khảo Cờ Campuchia Campuchia Dân chủ Quốc kỳ không còn tồn tại
19842944
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20k%E1%BB%B3%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Khmer
Quốc kỳ Cộng hòa Khmer
Quốc kỳ Cộng hòa Khmer (, ; ) là một trong những lá cờ lịch sử của Campuchia. Nó bao gồm một trường màu xanh lam với một vùng hình chữ nhật màu đỏ. Hình chữ nhật màu đỏ mang hình bóng Angkor Wat. Ba ngôi sao lớn màu trắng được xếp theo chiều ngang ở góc trên của trường màu xanh lam. Lịch sử Quốc kỳ Cộng hòa Khmer được chính quyền Lon Nol giới thiệu vào ngày 9 tháng 10 năm 1970 thay thế cho Quốc kỳ Hoàng gia. Nó là lá cờ chính thức của Campuchia trong gần 5 năm và được trưng bày tại Thế vận hội Mùa hè năm 1972, khi Campuchia chính thức thi đấu dưới chính phủ mới sau một thời gian dài vắng bóng. Quốc kỳ này bị hủy bỏ vào ngày 17 tháng 4 năm 1975 khi Khmer Đỏ lật đổ Cộng hòa Khmer và thành lập Campuchia Dân chủ và thay thế lá cờ bằng một lá cờ mới của riêng họ. Nơi cuối cùng lá cờ này được treo lên là vào tháng 5 năm 1975 tại khu vực sau cùng do Quân đội Quốc gia Khmer nắm giữ trên vách đá của Đền Preah Vihear ở Dãy núi Dângrêk. Mặc dù chính phủ của họ đã đầu hàng nhưng những người lính trung thành của Cộng hòa Khmer vẫn tiếp tục kiên cường giữ vững vị trí của mình trong gần một tháng sau khi Phnôm Pênh thất thủ. Cuối cùng tiền đồn đó rơi vào tay Khmer Đỏ vào ngày 22 tháng 5 năm 1975. Quốc kỳ Campuchia Dân chủ trở thành lá cờ của Campuchia sau khi chính phủ cộng hòa bị lật đổ. Sau này Quốc kỳ Cộng hòa Khmer về sau vẫn được các nhóm đối lập Campuchia lưu vong sử dụng, chẳng hạn như Đảng Quyền lực Khmer (KPP), và bởi một số chính đảng ở Campuchia, chẳng hạn như Đảng Cộng hòa Khmer (KRP), mặc dù ở quy mô nhỏ hơn nếu so sánh với quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa. Học giả Keng Vannsak nhận xét rằng theo mê tín của người Campuchia thì việc chọn ba ngôi sao cho lá cờ này là điềm gở. Đảng Tự do Campuchia (CLP), Đảng Phong trào Dân chủ Hang Dara (HDMP), Đảng Mặt trận Khmer, Đảng Cải cách Khmer, Đảng Khmer Yêu Khmer và Đảng Xã hội Công lý cũng sử dụng cờ này. Quân đội Hoàng gia Campuchia sử dụng lá cờ này làm quân kỳ. Biểu tượng Họa tiết Quốc kỳ của Cộng hòa Khmer vẫn giữ hình bóng Angkor Wat ba tháp màu trắng, cũng như màu xanh và đỏ của lá cờ hoàng gia trước đó, nhưng theo một kiểu khác. Ngôi sao Theo Điều 4 của Luật Hiến pháp Cộng hòa Khmer được Quốc hội biểu quyết ngày 7 tháng 10 năm 1970, ba ngôi sao trong vùng màu xanh tượng trưng cho những nội dung sau: Quốc gia, tôn giáo và nước Cộng hòa Campuchia Ba quyền của Nhà nước: Lập pháp, hành pháp và tư pháp Tam bảo của Phật giáo (Phật, Pháp và Tăng) Tham khảo Liên kết ngoài Áp phích yêu nước Huân huy chương Campuchia Quốc kỳ Cộng hòa Khmer (1970-1975) Các nước trên thế giới - Cộng hòa Khmer Cờ Campuchia Cộng hòa Khmer Quốc kỳ không còn tồn tại
19842992
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7c%20khu%20V%C4%A9nh%20Linh
Đặc khu Vĩnh Linh
Đặc khu Vĩnh Linh là đơn vị hành chính cấp tỉnh thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn 1954–1976.Tương đương với tỉnh Quảng Trị ngày nay. Đặc khu Vĩnh Linh nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Trị, có vị trí địa lý: Phía đông giáp biển Đông Phía tây giáp Lào Phía nam giáp tỉnh tỉnh Quảng Trị và Vĩ tuyến 17 Phía bắc giáp tỉnh Quảng Bình. Đặc khu Vĩnh Linh có diện tích 791,9 km2, dân số năm 1975 là 283.000 người. Đặc khu Vĩnh Linh có địa hình chủ yếu là đồi núi thấp, độ cao trung bình từ 50-100m so với mực nước biển. Lịch Sử Trước năm 1954, Vĩnh Linh là một huyện thuộc tỉnh Quảng Trị. Sau Hiệp định Genève, Vĩnh Linh được chia thành hai phần: phần phía bắc sông Bến Hải thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và phần phía nam sông Bến Hải thuộc Việt Nam Cộng hòa. Phần phía bắc sông Bến Hải được thành lập thành Đặc khu Vĩnh Linh, trực thuộc Chính phủ Trung ương. Đặc khu Vĩnh Linh là một trong những vùng đất ác liệt nhất trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Đặc khu Vĩnh Linh đã hứng chịu hơn 8.000 trận bom, hàng triệu tấn bom đạn của quân đội Mỹ. Tham khảo
19842995
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20C%C3%B4ng%20C%E1%BB%ABu
Trương Công Cừu
Trương Công Cừu (1 tháng 1 năm 1917 – 8 tháng 3 năm 2022) là giáo sư và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa vào cuối thời Đệ Nhất Cộng hòa. Tiểu sử Trương Công Cừu sinh năm 1917, quê quán làng Thanh Quýt, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, và là hậu duệ của Thượng thư nhà Tây Sơn Trương Công Hy. Ông là tín hữu Công giáo. Năm 1952, ông tham gia vào công tác thành lập Giáo xứ Việt Nam tại Paris cùng với Đức Cha Cao Văn Luận. Ông cũng là một trong những người sáng lập và là trưởng khoa đầu tiên của Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, giảng dạy triết học và văn học Pháp. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông giữ chức Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn hóa Xã hội. Tháng 8 năm 1963, Ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu xin từ chức do xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo, Tổng thống Ngô Đình Diệm bác bỏ việc từ chức nhưng cho phép ông nghỉ phép 3 tháng để hành hương sang Ấn Độ, và để Trương Công Cừu lên thay làm Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa, ông giữ chức Chủ tịch Việt Nam Nhân xã Cách mạng Đảng, lúc bấy giờ được coi là kế thừa của Đảng Cần lao Nhân vị thời Ngô Đình Diệm, tổ chức đảng này do đảng viên Cần lao ban đầu lãnh đạo. Năm 1973, ông bỏ trốn sang Pháp trái phép, được cho là để giúp cậu con trai 17 tuổi né tránh đi lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2022 ở Ronny-sur-Seine nước Pháp, hưởng thọ 105 tuổi. Tham khảo Liên kết ngoài Cáo phó Trương Công Cừu trên VietCatholic News Sinh năm 1917 Mất năm 2022 Họ Trương Giáo sư Việt Nam Người Quảng Nam Tín hữu Công giáo Việt Nam Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa Chính khách Việt Nam Cộng hòa
19842996
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20Ti%E1%BA%BFn%20%C4%90%E1%BA%A1t
Trương Tiến Đạt
Trương Tiến Đạt (8 tháng 12 năm 1933 – 19 tháng 7 năm 2020) là nhà báo, luật sư, thẩm phán và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng đắc cử chức Thượng nghị sĩ dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông rời quê hương tị nạn và định cư tại Mỹ, rồi về sau thành công trong nghề kinh doanh bất động sản ở tiểu bang California. Tiểu sử Trương Tiến Đạt chào đời ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại Thái Bình dưới thời Pháp thuộc. Năm 1957, ông thi đậu lấy bằng luật của Khoa Luật Viện Đại học Sài Gòn. Từ năm 1960 đến năm 1961, ông ra làm Thẩm phán, Phó Kiểm sát viên Trị an Tòa Sơ thẩm Sài Gòn. Từ năm 1961 đến năm 1962 là Chánh án Tòa Lao động Biên Hòa. Từ năm 1962 đến năm 1966 là Chánh án Tòa Sơ thẩm Trị an Rộng quyền tỉnh Bình Dương và An Xuyên. Từ năm 1966 đến năm 1967, ông đảm nhận chức vụ Tổng Thư ký Quốc hội Lập hiến. Ngày 3 tháng 9 năm 1967, ông được bầu làm Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ nhất dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa. Sau đó, lại làm tiếp Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ hai từ năm 1970 đến năm 1975. Trương Tiến Đạt từng chỉ trích gay gắt nạn tham nhũng trong nước, ông nói với tờ New York Times vào năm 1972 rằng tham nhũng đã trở thành "chính sách quốc gia". Năm 1974, ông dám đứng lên tố cáo sáu tướng lĩnh quân đội cao cấp trục lợi thông qua chiến tranh và kêu gọi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cách chức họ. Trước khi Sài Gòn thất thủ vào cuối tháng 4 năm 1975, ông kịp thời đưa gia đình mình đến nơi an toàn và trở về thành phố. Sau đó, với chiếc đồng hồ và cây bút mang theo bên mình, ông leo lên một chiếc thuyền đánh cá tiếp nhận người tị nạn, và được chuyển giao thành công cho một tàu chiến Mỹ rồi rời khỏi đất nước. Ông qua đời vào ngày 19 tháng 7 năm 2020 tại một nhà dưỡng lão ở thị trấn Woodland, quận Yolo, bang California. Tác phẩm Bản dịch cuốn Giai cấp mới của Milovan Djilas (1958) Hiến pháp chú thích (1967) Tham khảo Sinh năm 1933 Mất năm 2020 Họ Trương Người Thái Bình Luật sư Việt Nam Nhà báo Việt Nam Thẩm phán Việt Nam Người tị nạn Việt Nam Người Việt di cư tới Mỹ Tín hữu Công giáo Việt Nam Chính khách Việt Nam Cộng hòa Thượng nghị sĩ Việt Nam Cộng hòa
19843007
https://vi.wikipedia.org/wiki/Apollo%2010%20%C2%BD%3A%20Th%E1%BB%9Di%20th%C6%A1%20%E1%BA%A5u%20%E1%BB%9F%20k%E1%BB%B7%20nguy%C3%AAn%20v%C5%A9%20tr%E1%BB%A5
Apollo 10 ½: Thời thơ ấu ở kỷ nguyên vũ trụ
Apollo 10½: Thời thơ ấu ở kỷ nguyên vũ trụ (tên tiếng Anh: Apollo 10½: A Space Age Childhood) là bộ phim hoạt hình dành cho tuổi mới lớn thuộc thể loại hài chính kịch của Hoa Kỳ ra mắt năm 2022 lấy bối cảnh các sự kiện trước cuộc đổ bộ lên Mặt Trăng của con tàu Apollo 11, dựa trên thời thơ ấu của biên kịch, đạo diễn kiêm nhà sản xuất của bộ phim là Richard Linklater. Phim sẽ là hành trình theo chân một cậu học sinh lớp 4 sẽ trở thành người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng với sự tham gia lồng tiếng của dàn diễn viên bao gồm Glen Powell, Jack Black, Zachary Levi và Josh Wiggins. Thước phim gia đình Linklater, người đã từng có ý tưởng về bộ phim vào năm 2004, đã dự định sẽ tạo nên bộ phim với phiên bản người đóng nhưng sau đó đã quyết định thay đổi bộ phim đi theo lối ảnh hưởng của phong cách hoạt hình của Hoạt hình sáng Thứ Bảy (Saturday morning cartoons) bởi tính chất vui tươi của hoạt hình. Loại thước phim gia đình (Home movies) được hình thành tại vùng Houston, Texas vào thập niên 1960 cũng đã được nghiên cứu và đưa vào bộ phim. Quá trình quay phim chính của phim được bắt đầu vào tháng 2 năm 2020 tại hãng Troublemaker Studios của Robert Rodriguez ở Austin, Texas và chính thức đóng máy vào tháng 3 cùng năm. Một phần công đoạn của quá trình quay phim được thực hiện trước một màn phông xanh lớn tại Texas và phần còn lại được quay dưới dạng người đóng, được làm thành hoạt hình trong quá trình hậu kỳ bằng cách sử dụng các kỹ thuật tương tự như rotoscoping đã được sử dụng trong hai bộ phim Waking Life (2001) và A Scanner Darkly (2006). Apollo 10½ được công chiếu tại sự kiện South by Southwest vào ngày 13 tháng 3 năm 2022 và được ra mắt tại các rạp chiếu chọn lọc vào ngày 24 tháng 3 năm 2022 trước khi phát hành chính thức trên nền tảng Netflix vào ngày 1 tháng 4 cùng năm. Phim đã nhận được nhiều bình luận tích cực và sự tán thưởng về phần kịch bản, hiệu ứng cũng như những cảm giác hoài niệm mà phim mang lại. Nội dung Phim sẽ kể câu chuyện về cuộc hạ cánh đầu tiên lên Mặt Trăng vào mùa hè năm 1969 từ hai góc nhìn đan xen nhau. Nó ghi lại góc nhìn về khoảnh khắc chạm đến chiến thắng của những phi hành gia cũng như những người điều khiển sứ mệnh và của một cậu bé đầy hào hứng, đang sống gần NASA nhưng chủ yếu theo dõi mọi thứ qua TV nhưng hàng trăm triệu con người khác. Cuối cùng, bộ phim vừa sẽ tái hiện lại chính xác khoảnh khắc đặc biệt này trong lịch sử vừa sẽ là viễn cảnh tưởng tượng của một đứa trẻ về việc bị tách ra khỏi cuộc sống bình thường ở vùng ngoại ô để bí mật huấn luyện của nhiệm vụ bí mật đó là đặt chân lên Mặt Trăng. Lồng tiếng Milo Coy lồng tiếng vai Stanley lúc nhỏ Jack Black lồng tiếng vai Stanley lúc trưởng thành Glen Powell lồng tiếng vai Bostick, nhân viên chính thức của NASA Zachary Levi lồng tiếng vai Kranz, nhân viên chính thức của NASA Josh Wiggins lồng tiếng vai Steve Lee Eddy lồng tiếng vai Người mẹ Bill Wise lồng tiếng vai Người cha Natalie L'Amoreaux lồng tiếng vai Vicky Jessica Brynn Cohen lồng tiếng vai Jana Sam Chipman lồng tiếng vai Greg Danielle Guilbot lồng tiếng vai Stephanie Sản xuất Richard Linklater đã có ý tưởng về bộ phim vào năm 2004. Vào tháng 2 năm 2018, đã có thông tin về việc Richard Linklater mong muốn được chỉ đạo một bộ phim từ chính kịch bản do ông viết. Vào tháng 4, 2020, Glen Powell, Jack Black, Zachary Levi, Josh Wiggins, Milo Coy, Lee Eddy, Bill Wise, Natalie L'Amoreaux, Jessica Brynn Cohen, Sam Chipman và Danielle Guilbot được xác nhận sẽ tham gia vào dàn diễn viên lồng tiếng của phim, với Netflix sẽ là nhà phát hành của phim. Ban đầu, Richard Linklater đã dự định sẽ tạo nên bộ phim với phiên bản người đóng nhưng sau đó đã quyết định thay đổi bộ phim đi theo lối ảnh hưởng của phong cách hoạt hình của Hoạt hình sáng Thứ Bảy (Saturday morning cartoons) bởi tính chất vui tươi của hoạt hình. Loại thước phim gia đình (Home movies) được hình thành tại vùng Houston, Texas vào thập niên 1960 cũng đã được nghiên cứu và đưa vào bộ phim. Quá trình quay phim chính của phim được bắt đầu vào tháng 2 năm 2020 tại hãng Troublemaker Studios của Robert Rodriguez ở Austin, Texas và chính thức đóng máy vào tháng 3 cùng năm. Linklater đã dành phần lớn thời gian để chỉnh sửa bộ phim trong thời kỳ Đại dịch COVID-19. Bối cảnh Bộ phim lấy bối cảnh tại Houston vào thập niên 1960, trong thời kỳ Chạy đua vào không gian. Quay phim Một phần của quá trình quay phim được thực hiện tại màn phông xanh lớn nhất ở Texas, và tất cả các nhân vật không tương tác hoặc chạm vào đều được làm hoạt hình trong giai đoạn sản xuất hậu kỳ. Phần còn lại sẽ được quay dưới dạng người thật đóng nhưng sau đó cũng sẽ được làm hoạt hình hóa trong giai đoạn hậu kỳ bằng công nghệ tương tự như kỹ thuật rotoscoping đã được sử dụng trong các bộ phim của Linklater là Waking Life (2001) và A Scanner Darkly (2006). Ban đầu, phim đã bị Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh từ chối đề cử ở hạng mục Phim hoạt hình xuất sắc nhất do sử dụng phong cách hoạt hình quá cách điệu nhưng sau đó nhờ sự hỗ trợ của các đạo diễn cũng như những hoạt sĩ diễn hoạt đồng nghiệp, phim đã đảo ngược được tình thế. Phát hành Apollo 10½: Thời thơ ấu ở kỷ nguyên vũ trụ đã được công chiếu đồng thời là mở màn tại sự kiện phim ảnh South by Southwest năm 2022 vào ngày 13 tháng 3, 2022. Trong khi đó, quảng cáo chính thức của phim cũng được phát hành và thông báo ngày ra mắt của bộ phim sẽ là ngày 1 tháng 4 năm 2022 trên nền tảng Netflix. Ngoài ra, vào ngày 24 tháng 3, 2022, bộ phim cũng được phát hành tại một số rạp phim chọn lọc ở Hoa Kỳ. Tiếp nhận Hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá từ trang web Rotten Tomatoes đã đưa ra báo cáo rằng bộ phim đạt được 91% từ 142 nhận xét từ các nhà phê bình với những đánh giá tích cực, tương đương với mức đánh giá là 8/10. Các nhà phê bình đều đồng thuận cho rằng "Những hồi ức ngọt ngào từ Apollo 10½: Thời thơ ấu ở kỷ nguyên vũ trụ cho thấy Richard Linklater đã sử dụng lại những hiệu ứng hình ảnh cũng như những nguyên liệu từ chủ đề một cách đầy cảm hứng và mang tính cá nhân sâu sắc." Trên Metacritic, bộ phim có được số điểm trung bình là 79 trên 100 từ 39 lời phê bình, cho thấy "các bài đánh giá nhìn chung là tích cực". Apollo 10½ được xếp hạng 7 trong danh sách 10 phim năm 2022 của Cahiers du Cinéma. Tán thưởng Xem thêm Apollo 11 Apollo 11 trong văn hóa đại chúng Nguồn Liên kết ngoài Apollo 11 Phim năm 2022 Phim hoạt hình Phim Mỹ Phim tiếng Anh Phim thập niên 2020 Phim hài Phim chính kịch Phim hài-chính kịch Phim hoạt hình năm 2022 Phim Mỹ năm 2022 Phim tiếng Anh năm 2022 Phim hài năm 2022 Phim chính kịch năm 2022 Phim hài-chính kịch năm 2022 Phim hoạt hình Mỹ Phim chính kịch thập niên 2020 Phim hoạt hình tiếng Anh Phim hoạt hình thập niên 2020 Phim hoạt hình hài hước Phim hoạt hình chính kịch Phim hoạt hình hài-chính kịch Phim Mỹ thập niên 2020 Phim hài Mỹ Phim hài-chính kịch Mỹ Phim chính kịch Mỹ Phim hài thập niên 2020 Phim hài-chính kịch thập niên 2020 Phim tuổi mới lớn Phim tuổi mới lớn Mỹ Phim tuổi mới lớn thập niên 2020 Phim tuổi mới lớn năm 2022 Phim hài tuổi mới lớn Phim chính kịch tuổi mới lớn Phim sử dụng công nghệ rotoscoped Phim Netflix Phim hoạt hình Netflix Phim được đạo diễn bởi Richard Linklater Phim với kịch bản của Richard Linklater Phim lấy bối cảnh thập niên 1960 Phim lấy bối cảnh năm 1969 Phim về phi hành gia Phim về vũ trụ Phim về Chương trình Apollo Phim về Apollo 11
19843020
https://vi.wikipedia.org/wiki/Empoli%20F.C.
Empoli F.C.
Câu lạc bộ bóng đá Empoli, thường được gọi là Empoli, là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Empoli, Thành phố đô thị Florence. Được thành lập vào năm 1920, đội bóng là một phần của một nhóm chọn lọc các câu lạc bộ bóng đá Ý không có trụ sở tại một thành phố thủ phủ của tỉnh đã tham gia Serie A. Empoli đã dành phần lớn lịch sử của mình cho bóng đá chuyên nghiệp. Empoli đã thi đấu ở các giải đấu châu Âu một lần, trong đó họ bị loại ở vòng loại của UEFA Cup 2007–08. Lịch sử Danh hiệu Cầu thủ Đội hình hiện tại Cho mượn Ban huấn luyện Tham khảo
19843028
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20h%E1%BB%8D%20S%E1%BA%BB%20%C4%91%E1%BB%93ng
Liên họ Sẻ đồng
Liên họ Sẻ đồng (danh pháp khoa học: Emberizoidea) là một liên họ thuộc phân thứ bộ Sẻ (Passerida). Nhánh này bao gồm khoảng 892 loài đặc hữu của Tân Thế giới. Các loài thuộc liên họ này còn được gọi là New World nine-primaried oscines. Tiến hóa Nhánh này khởi nguồn sau một sự kiện hình thành loài nhanh chóng ở Bắc Mỹ, bắt nguồn từ các loài ở lục địa Á-Âu qua eo biển Bering trong suốt thế Miocen. Hai nhóm thuộc liên họ này tiếp tục đa dạng hóa hơn nữa ở vùng Tân nhiệt đới (Neotropics). Trong đó, một nhánh bao gồm một số loài đặc hữu nhỏ xuất hiện ở vùng Caribe, và một nhóm khác ở Nam Mỹ. Hai họ khác, Emberizidae (sẻ đồng) và Calcariidae, quay trở lại và phân bố phủ khắp lục địa Á-Âu. Phân loại Mối quan hệ giữa các đơn vị trong liên họ vẫn gây tranh cãi do một số chi đã được thay đổi trong nhiều nghiên cứu phát sinh gen. Sơ đồ phát sinh chủng loại bên dưới chủ yếu dựa trên phân tích công bố vào năm 2019 của Carl Oliveros và các đồng nghiệp. Nghiên cứu này coi Spindalidae và Nesospingidae đều là một phần của Phaenicophilidae, và Icteriidae là một phần của Icteridae, nhưng chúng được thể hiện là khác biệt trong cây phát sinh này. Ngoài ra, mặc dù Teretistridae hông được phân tích trong nghiên cứu này, các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng chúng có quan hệ họ hàng với Zeledoniidae. Chú thích Ghi chú Liên họ Sẻ
19843037
https://vi.wikipedia.org/wiki/EmSphere
EmSphere
EmSphere là một trung tâm thương mại ở Băng Cốc, Thái Lan mở cửa vào ngày 1 tháng 12 năm 2023. Nó là trung tâm thương mại thứ ba thuộc khu phức hợp "EM District" gần Ga Phrom Phong BTS cùng với Emporium và EmQuarter. Cả ba trung tâm thương mai được quản lý bởi The Mall Group 15 tỉ baht được đầu tư để phát triển trung tâm thương mại liền kề với Công viên Benchasiri. Nó là nơi có IKEA trong trung tâm thành phố đầu tiên của Thái Lan, the và lớn nhất thế giới đặt tại trung tâm thành phố, cũng như nhà thi đấu với 6.000 chỗ ngồi "EM Live" được tài trợ bởi UOB và quản lý bởi AEG ngoài ra còn có nhiều cửa hàng và nhà hàng. Địa điểm này trước đây từng là một khu giải trí có tên gọi là Washington Square. Tham khảo Trung tâm thương mại tại Băng Cốc Khởi đầu năm 2023 ở Thái Lan
19843051
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20Mai%20V%C3%A0ng%202023
Giải Mai Vàng 2023
Lễ trao giải Mai vàng lần thứ 29–2023 do báo Người lao động tổ chức đã diễn ra tại Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh vào lúc 20 giờ ngày 18 tháng 1 năm 2024. Chương trình được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV9. Giải thưởng và đề cử Ngoài ra, ban tổ chức đã trao giải "Mai Vàng tri ân" cho 2 nghệ sĩ có nhiều đóng góp cho sự nghiệp phát triển văn học - nghệ thuật nước nhà là đạo diễn - NSND Trần Ngọc Giàu và nhà giáo - biên đạo múa - NSND Kim Quy. Khách mời trao giải Trình diễn đặc biệt Tham khảo Giải Mai vàng Giải thưởng Việt Nam năm 2023 Giải thưởng âm nhạc năm 2023
19843053
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albert%20J.%20Dunlap
Albert J. Dunlap
Albert John Dunlap (26 tháng 7 năm 1937 – 25 tháng 1 năm 2019) là một giám đốc điều hành công ty người Mỹ. Ông được biết đến ở đỉnh cao sự nghiệp với tư cách là một chuyên gia quản lý cải tổ và thu hẹp quy mô chuyên nghiệp. Việc sa thải hàng loạt tại các công ty của ông đã mang lại cho ông biệt danh "Al Lưỡi Cưa" và "Rambo Áo Sọc", sau khi ông chụp một bức ảnh đeo đai đạn ngang ngực. Sau đó người ta phát hiện ra rằng những cuộc xoay chuyển tình thế nổi tiếng của ông ta là những vụ lừa đảo phức tạp và sự nghiệp của ông ta đã kết thúc sau khi ông ta dàn dựng một vụ bê bối kế toán lớn tại Sunbeam Products, hiện là một bộ phận của Newell Brands, khiến công ty phải phá sản. Dunlap nằm trong danh sách "CEO tồi tệ nhất mọi thời đại" do một số ấn phẩm kinh doanh công bố. Fast Company lưu ý rằng Dunlap "có thể ghi điểm ấn tượng trong danh sách kiểm tra Bệnh tâm thần doanh nghiệp" và trong một cuộc phỏng vấn, Dunlap thoải mái thừa nhận sở hữu nhiều đặc điểm của một kẻ thái nhân cách, nhưng coi chúng là những đặc điểm tích cực như khả năng lãnh đạo và tính quyết đoán. Ông là một nhà hảo tâm lớn của Đại học Bang Florida. Thời niên thiếu và học vấn Dunlap sinh ra ở Hoboken, New Jersey vào năm 1937. Ông vào West Point năm 1956 và tốt nghiệp kỹ sư năm 1960. Sau đó, ông phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ trong ba năm, đủ tiêu chuẩn trở thành lính nhảy dù và được đưa vào Lực lượng Tên lửa Hạt nhân. Đầu sự nghiệp Năm 1963, Dunlap bước vào thế giới kinh doanh tại Kimberly-Clark như một phần của hoạt động sản xuất. Ông ấy đã làm việc ở đó bốn năm trước khi được nhận vào Sterling Pulp & Paper, nơi ông ấy được giao phụ trách công việc kinh doanh do gia đình điều hành. Ông ta đã dàn dựng một vụ gian lận kế toán lớn tại Nitec, một công ty sản xuất giấy ở Thác Niagara, New York. Ông là chủ tịch công ty từ năm 1974 đến năm 1976, khi ông bị sa thải do phong cách quản lý thô lỗ của mình. Cuộc kiểm toán của Arthur Young (hiện là một phần của Ernst & Young) đã tiết lộ nhiều điểm bất thường, bao gồm hàng tồn kho tăng cao và doanh số bán hàng không tồn tại - một tình huống tương tự như các hoạt động sau này của ông tại Sunbeam. Kết quả cuối cùng là lợi nhuận 5 triệu USD của Nitec trong năm 1976 thực chất là khoản lỗ 5,5 triệu USD. Nitec đã kiện Dunlap về tội lừa đảo nhưng cuối cùng bị buộc phải phá sản. Dunlap chưa bao giờ đề cập đến Nitec trong lý lịch của mình, và vụ bê bối không được biết đến rộng rãi cho đến khi được The New York Times đưa tin sau khi tiết lộ hành vi không trung thực của ông ta tại Sunbeam. Dunlap vẫn khăng khăng mình vô tội ngay cả sau khi phó chủ tịch Nitec tuyên thệ làm chứng rằng Dunlap đã đích thân ra lệnh cho anh ta báo cáo những số liệu sai lệch. Lily Tulip Cup đã thuê ông làm chủ tịch kiêm giám đốc điều hành vào năm 1983. Năm 1985, ông được bổ sung thêm chức danh chủ tịch công ty. Từ năm 1991 đến năm 1993, ông là Giám đốc điều hành của công ty Consolidated Press Holdings (CPH) của Australia, một công ty tư nhân thuộc gia đình Packer, sau khi Kerry Packer nghỉ phép vì lý do sức khỏe. Vào thời điểm đó, CPH có danh mục đầu tư đa dạng trong lĩnh vực truyền thông và xuất bản cũng như các hoạt động hóa chất và nông nghiệp. Trong ba năm làm việc tại công ty, Dunlap đã cố vấn cho James Packer. Năm 1994, Dunlap trở thành Giám đốc điều hành của Scott Paper sau khi Philip E. Lippincott từ chức. Năm 1995, ông bán Scott Paper cho Kimberly-Clark với giá 9 tỷ USD, kiếm được 100 triệu USD từ thương vụ này thông qua quyền chọn cổ phiếu và sự đánh giá cao cổ phiếu của ông. Sunbeam Dunlap đảm nhận chức chủ tịch và CEO của Sunbeam vào năm 1996. Phương pháp của ông đã mang lại lợi nhuận kỷ lục cho Sunbeam là 189 triệu USD vào năm 1997. Dunlap đảm nhận vị trí chủ tịch và giám đốc điều hành của Sunbeam vào năm 1996. Phương pháp của ông đã mang lại lợi nhuận kỷ lục cho Sunbeam là 189 triệu USD vào năm 1997. Tuy nhiên, đến cuối năm ông vẫn không tìm được người mua. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1998, Sunbeam công bố việc mua lại nhà sản xuất dụng cụ cắm trại Coleman Company, nhà sản xuất máy pha cà phê Signature Brands (nổi tiếng với sản phẩm Mr. Coffee) và nhà sản xuất máy dò khói First Alert. Cổ phiếu của Sunbeam tăng 9% sau tin tức này; trong vòng hai ngày, nó đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại là 52 USD một cổ phiếu. Tuy nhiên, những người trong ngành tỏ ra nghi ngờ khi họ phát hiện ra một số mặt hàng theo mùa đang được bán với số lượng cao hơn bình thường vào thời điểm đó trong năm. Ví dụ, một số lượng lớn đồ nướng đã được bán trong quý 4. Hóa ra Dunlap đã bán sản phẩm cho các nhà bán lẻ với mức chiết khấu lớn. Các sản phẩm được lưu trữ trong kho của bên thứ ba để được giao sau. Chiến lược này, được gọi là "lập hoá đơn và giữ", là một phương pháp kế toán được chấp nhận miễn là doanh số bán hàng được ghi nhận sau khi giao hàng. Tuy nhiên, Dunlap đã đặt hàng ngay lập tức. Nhiều cổ đông cảm thấy họ đã bị lừa mua cổ phiếu có giá trị thấp hơn nhiều so với thực tế và họ đã đệ đơn kiện tập thể chống lại Dunlap và Sunbeam. Khi một nhà phân tích hỏi Dunlap về vấn đề này vào tháng 5 năm 1998, Dunlap được cho là đã nắm lấy vai anh ta và nói, "Đồ chó đẻ, nếu như mày muốn nhờn với tao, tao sẽ đáp trả mày gấp đôi." Vào quý 2 năm 1998, ban giám đốc Sunbeam đã điều tra các hoạt động kế toán táo bạo và chiết khấu cực đoan được thực hiện theo chỉ đạo của Dunlap. Hóa ra Dunlap đã bán cho các nhà bán lẻ nhiều hàng hóa hơn mức họ có thể xử lý. Với việc các cửa hàng chứa quá nhiều hàng một cách vô vọng, hàng tồn kho chưa bán được chất đống trong các kho của Sunbeam. Kết quả là Sunbeam phải đối mặt với khoản lỗ lên tới 60 triệu đô la trong quý 2 năm 1998. Việc Dunlap tìm kiếm người mua Sunbeam vào năm 1997 đã được sắp xếp thời gian sao cho khoản lỗ khổng lồ liên quan đến hàng tồn kho sẽ được đưa ra ánh sáng sau khi cuộc mua bán kết thúc. Kiểm soát viên của công ty cũng nói với hội đồng quản trị rằng Dunlap đã yêu cầu ông phải vượt qua các giới hạn của các nguyên tắc kế toán. Ngày 13 tháng 6 năm 1998, Dunlap bị sa thải. Theo Charles Elson, một trong số các giám đốc được Dunlap bổ nhiệm, hội đồng quản trị đã rất tức giận khi Dunlap cố gắng giải thích tình hình tài chính mờ nhạt bằng cách tuyên bố năm 1998 là một "năm chuyển tiếp". Elson đã đề nghị chấm dứt hợp đồng với Dunlap, một động thái được nhất trí thực hiện. Theo một giám đốc điều hành Sunbeam thân cận với hội đồng quản trị, các giám đốc cảm thấy rằng Dunlap đã lừa dối họ về các con số của Sunbeam và có ý định giữ lại chiếc dù vàng trị giá 35 triệu đô la của ông ta. Khi vụ lừa đảo tiếp tục bị phát hiện vào cuối năm 1998, Sunbeam đã nhiều lần bị buộc phải trình bày lại kết quả tài chính từ năm 1996. Chú thích Sinh 1937 Mất 2019 Bê bối doanh nghiệp Sinh năm 1937 Mất năm 2019 Doanh nhân Mỹ thế kỷ 20 Sĩ quan Lục quân Hoa Kỳ
19843059
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kushiro%20%28th%E1%BB%8B%20tr%E1%BA%A5n%29
Kushiro (thị trấn)
là thị trấn thuộc huyện Kushiro, phó tỉnh Kushiro, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 19.105 người và mật độ dân số là 76 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 252,57 km2. Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19843061
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fujisato%2C%20Akita
Fujisato, Akita
là thị trấn thuộc huyện Yamamoto, tỉnh Akita, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.896 người và mật độ dân số là 10 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 282,13 km2. Địa lý Đô thị lân cận Akita Noshiro Ōdate Kitaakita Happō Aomori Ajigasawa Nishimeya Tham khảo Thị trấn của Akita
19843065
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc%20vi%E1%BB%87n%20t%C3%AAn%20l%E1%BB%ADa%20chi%E1%BA%BFn%20l%C6%B0%E1%BB%A3c%20Th%C3%A1nh%20Peter
Học viện tên lửa chiến lược Thánh Peter
Học viện tên lửa chiến lược Pyotr I của Nga () là một học viện quân sự của Nga chuyên đào tạo nhân lực cho Lực lượng tên lửa chiến lược của Quân đội Nga. Từ năm 2015, Học viện được đặt tại Balashikha, Moscow Oblast. Học viện trực thuộc Tư lệnh Lực lượng Tên lửa Chiến lược. Lịch sử ra đời Lịch sử của Lực lượng Tên lửa Chiến lược (RVSN) gắn liền với lịch sử của học viện, là một trong những cơ sở giáo dục quân sự lâu đời nhất ở Nga. Cơ sở giáo dục này có lịch sử từ Trường Pháo binh của Quân đội Đế quốc Nga, được mở tại St. Petersburg theo sáng kiến ​​của Đại công tước Michael Pavlovich vào năm 1820. Năm 1845, trường được trao tặng danh hiệu kính trọng là Mikhailovsky theo tên Đại công tước. Năm 1925, trường trở thành Học viện Kỹ thuật Quân sự của Hồng quân. Năm 1934, trường mang tên Học viện pháo binh Felix Dzerzhinsky, sau bốn năm được chuyển về Moskva. Trong Chiến tranh thế giới 2, trường được chuyển đến thành phố Samarkand, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan. Tháng Tám năm 1944, Cục tên lửa đã thành lập phòng huấn luyện tên lửa để huấn luyện các kíp vận hành tên lửa. Sau đó Viện được chuyển tên thành Cục Vũ khí tên lửa trực thuộc Học viện Pháo binh. Năm 1958, nó được chuyển về lại Moskva. Tháng Ba năm 1960, học viện trở thành một phần của Lực lượng tên lửa chiến lược của Hồng quân. Nó được đổi tên hai lần dưới thời Xô Viết (Học viện kỹ thuật quân sự Dzerzhinsky năm 1963 và Học viện quân sự Dzerzhinsky năm 1972). Dưới thời Xô Viết, trụ sở của Học viện được đặt tại số 9/5 Kitayskiy Proyezd cùng khối nhà Rossiya Hotel cạnh Quảng trường đỏ, Tháng Tám năm 1997, Tổng thống Boris Yeltsin, trong một tuyên bố đã dựa trên truyền thống của quân đội Nga và dựa trên công lao của thánh Pyotr I là người đã thành lập quân đội Nga, đã đổi tên Học viện theo tên của Thánh Peter. Năm 2015, Học viện đã được bố trí lại ở thành phố Balashikha nhằm hướng tới việc mở rộng trong tương lai của Học viện. Kỷ niệm 200 năm thành lậo Học viện đánh dấu 200 năm thành lập vào tháng 12 năm 2020.. Cấu trúc Hiện tại, học viện có hơn 150 chương trình đào tạo nâng cao và chuẩn bị cho các sĩ quan phục vụ trong Lực lượng Tên lửa Chiến lược, cũng như phục vụ trong Tổng cục 12 và GRU (GU). Sinh viên của học viện sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành sĩ quan thuộc Lực lượng Tên lửa Chiến lược của Liên Xô và Nga. Học viện Lực lượng Tên lửa Chiến lược có một trung tâm đào tạo đặt tại thị trấn Balabanovo, Vùng Kaluga.. Phần thưởng Order of Lenin (1938) Order of the October Revolution (1970) Order of Suvorov (1945) Giám đốc học viện Giám đốc học viện kể tử năm 1953: Nguyên soái Georgy Odintsov (1953–1969) Đại tướng Fedor Tonkykh (1969–1985) Đại tướng Mykola Kotlovtsev (1985—1988) Đại tướng Yury Plotnikov (1989–1997) Đại tướng Mykola Solovtsov (1997–2001) Đại tướng Yury Kirilov (2001—2009) Trung tướng Vladimir Zakharov 2009—2010) Trung tướng Viktor Fedorov (2010—2016) Trung tướng Sergei Siver (2016-2019) Thiếu tướng Leonid Mikholap (interim) (2019–nay) Notable graduates Tham khảo Liên kết ngoài Official website Khởi đầu năm 1820
19843066
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C6%A1%20quan%20C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20th%E1%BB%A7%20%C4%91%C3%B4%20Seoul
Cơ quan Cảnh sát thủ đô Seoul
Cơ quan Cảnh sát thủ đô Seoul (SMPA; Tiếng Hàn: 서울지방경찰청, Hanja: 서울地方警察廳) là một tổ chức giám sát các vấn đề an ninh công cộng ở Seoul. Bản thân nó không phải là lực lượng cảnh sát độc lập mà là một trong 16 phân khu cấp tỉnh của Cơ quan Cảnh sát Quốc gia. SMPA có trụ sở chính cùng với Trụ sở Cảnh sát Quốc gia tại Seoul. Trong khi các cơ quan cảnh sát hiện đại của Seoul có thể theo dõi lịch sử của họ từ năm 1945 với việc thành lập lực lượng cảnh sát Hàn Quốc, thì Cơ quan Cảnh sát Thủ đô hiện đại ở Seoul ra đời vào ngày 1 tháng 8 năm 1991 và hiện đang quản lý hơn 10 triệu dân. Lịch sử Lực lượng cảnh sát ở Seoul là Sở cảnh sát Kyunggi-do, được thành lập vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Tiếp theo đó nhanh chóng là việc thành lập Lực lượng cảnh sát quốc gia vào ngày 21 tháng 10 và Lực lượng cảnh sát thủ đô Seoul chuyên trách hơn vào tháng 9. Ngày 17 tháng 1 năm 1946. Tổ chức này đã trải qua một loạt hoặc nhiều cải cách, bao gồm đổi tên thành Cục Cảnh sát Thủ đô vào năm 1948, thành lập Đội Cảnh sát An ninh Quốc hội năm 1951, Thành lập Quân đoàn Cảnh sát Cơ động Seoul năm 1961, Đội Cảnh sát An ninh Khu phức hợp Chính quyền Trung ương năm 1971 , nhanh chóng được gia nhập bởi Lực lượng Cảnh sát An ninh Sân bay vào năm 1973 và Lực lượng Bảo vệ Olympic vào năm 1985. Cùng với nhau, các đơn vị này trở thành Cơ quan Cảnh sát Thủ đô Seoul ngày nay vào năm 1991, với "1 Phó Tổng ủy viên, 7 phòng ban, 2 giám đốc, 17 sư đoàn [và] 7 đội kiểm soát trực tiếp." Sự kiện kể từ năm 1993 Năm 1993, SMPA được giao nhiệm vụ điều tra về mối đe dọa đánh bom có ​​thể xảy ra đối với Tổng thống Mỹ Bill Clinton, đang đến thăm, vì điều mà sau này được gọi là một vụ nổ ống dẫn khí đốt đã xảy ra tại khách sạn Grand Hyatt Seoul, nơi ông dự định ở lại. Năm 1999, các sĩ quan chống bạo động SMPA với hơi cay và vòi rồng phải đối mặt với "vài trăm" người tuần hành ủng hộ thống nhất tại Đại học Quốc gia Seoul, tuy nhiên, mặc dù ném đá vào cảnh sát nhưng không có phản ứng nào và không có vụ đụng độ nghiêm trọng nào được báo cáo. SMPA đã được giao quyền giám sát hai binh sĩ Quân đội Hoa Kỳ bị buộc tội vô ý giết chết hai cô gái tuổi teen vào năm 2002. Năm 2006, SMPA đã bắt giữ một người đào tẩu Triều Tiên và cựu vệ sĩ của Kim Jong-il, cũng như ba người khác vì buôn bán thuốc kích thích tình dục giả ở Seoul. Năm 2007, SMPA bị giám sát chặt chẽ sau khi cảnh sát trưởng Hong Young-ki từ chức sau một cáo buộc tấn công trả thù. Các cáo buộc được đưa ra rằng SMPA đã bỏ qua vụ tấn công của cảnh sát trưởng nhằm vào một trong những người đàn ông giàu nhất Hàn Quốc. Chính sách nhấn mạnh Phát triển chính sách bảo mật theo định hướng trường Bảo đảm an toàn tính mạng người dân trước tội phạm và tai nạn Thiết lập vị thế cảnh sát nhân quyền thông qua điều tra công bằng và bảo vệ những người dễ bị tổn thương trong xã hội Cung cấp dịch vụ an ninh truyền cảm hứng cho người dân bằng dịch vụ tình nguyện không giới hạn Sự hài hòa và thống nhất trong tổ chức thông qua việc cải thiện sự hài lòng trong công việc Văn phòng cảnh sát Do sự thay đổi về thẩm quyền và tên của đồn cảnh sát có hiệu lực vào tháng 3 năm 2006, các đồn cảnh sát trực thuộc như sau Gangnam Sở cảnh sát Seoul Gangnam Sở cảnh sát Seoul Suseo Seocho Sở cảnh sát Seoul Bangbae Sở cảnh sát Seoul Seocho Seongbuk Sở cảnh sát Seoul Seongbuk Sở cảnh sát Seoul Jongam Eunpyeong Sở cảnh sát Seoul Seobu Sở cảnh sát Seoul Eunpyeong Jongno Sở cảnh sát Seoul Jongno (Jongno) Sở cảnh sát Seoul Hyehwa (Jongno) Jung Sở cảnh sát Seoul Namdaemun Sở cảnh sát Seoul Jungbu Sở cảnh sát Seoul Gangdong Sở cảnh sát Seoul Gangbuk Sở cảnh sát Seoul Gangseo Sở cảnh sát Seoul Gwanak Sở cảnh sát Seoul Gwangjin Sở cảnh sát Seoul Guro Sở cảnh sát Seoul Geumcheon Sở cảnh sát Seoul Nowon Sở cảnh sát Seoul Dobong Sở cảnh sát Seoul Dongdaemun Sở cảnh sát Seoul Dongjak Sở cảnh sát Seoul Mapo Sở cảnh sát Seoul Seodaemun Sở cảnh sát Seoul Seongdong Sở cảnh sát Seoul Songpa Sở cảnh sát Seoul Yangcheon Sở cảnh sát Seoul Yeongdeungpo Sở cảnh sát Seoul Yongsan Sở cảnh sát Seoul Jungnang Thiết bị SMPA vận hành nhiều thiết bị được tiêu chuẩn hóa trong toàn bộ lực lượng Cảnh sát Quốc gia Hàn Quốc. Các khu vực đô thị đặc biệt sử dụng hệ thống Nhận dạng số phương tiện tự động, tuy nhiên hệ thống điều phối máy tính của SMPA, Hệ thống định vị phương tiện tự động và Thiết bị đầu cuối dữ liệu di động là các tính năng tiêu chuẩn trên toàn quốc, cũng như chính sách sử dụng cảnh sát vũ trang chuyên dụng thay vì cấp súng cho mỗi sĩ quan. SMPA cũng vận hành một tỷ lệ đáng kể trong số 4.891 xe cảnh sát của Lực lượng Cảnh sát Quốc gia, 1.685 xe bán tải của cảnh sát, 765 xe tải cảnh sát, 865 xe đặc nhiệm và 9.181 xe máy cảnh sát. Tuy nhiên, SMPA sử dụng một số công nghệ nhất định dành riêng cho lực lượng của mình. Với dân số đông như vậy, SMPA đã ký hợp đồng với Sepura để trang bị 5.000 bộ đàm TETRA và thiết bị liên lạc cho các sĩ quan vào tháng 7 năm 2007. Bộ đàm cầm tay Sepura SRH3800 sGPS, bộ đàm SRM3500 và SRG3500 trên xe đã được cung cấp, cùng với công nghệ mới ra mắt lần đầu tiên với SMPA. SMPA cũng sử dụng hệ thống Xác định tốc độ đường bộ để thu thập thông tin giao thông theo thời gian thực cho mạng lưới đường bộ của Seoul thông qua GPS để cung cấp cho các đơn vị đường bộ SMPA và người dân. Chỉ trích Trung tâm Thông tin Giao thông SMPA yêu cầu các nhà báo truyền hình đưa tin một sinh viên đại học dẫn đầu cuộc biểu tình dưới ánh nến là một "cuộc biểu tình bất hợp pháp" vào ngày 12 tháng 6 năm 2011. Ghi chú Liên kết ngoài Thiết bị theo dõi GPS cho xe Chính quyền Seoul
19843067
https://vi.wikipedia.org/wiki/Skipjack%20%28l%E1%BB%9Bp%20t%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%29
Skipjack (lớp tàu ngầm)
Skipjack là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng nguyên tử (SSN) của Hải quân Hoa Kỳ đi vào hoạt động năm 1959-61. Tên của lớp tàu ngầm được đặt theo tàu ngầm đầu tiên được chế tạo, . Tàu ngầm có thiết kế mới, mũi tàu dạng giọt nước và sử dụng lò phản ứng S5W. Skipjacks là lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân có tốc độ nhanh nhất của Hải quân Mỹ trước khi tàu ngầm lớp Los Angeles được đưa vào trang bị vào năm 1974. Thiết kế Thiết kế của Skipjack (project SCB 154) được dựa trên thiết kế của tàu ngầm USS Albacore. Phần thân tàu và các hệ thống bên trong tương tự như lớp tàu ngầm Barbel năng lượng điện-diesel cũng đang được chế tạo cho Hải quân Mỹ vào thời điểm đó. Thiết kế của lớp Skipjack rất khác so với các tàu ngầm lớp Skate trước đó. Không giống như tàu ngầm Skate, thiết kế mới tối ưu hóa cho tốc độ bơi dưới nước bằng cách sắp xếp hợp lý và thiết kế giống như một khinh khí cầu.Cũng giống như Albacore , tàu Skipjack sử dụng thép cường độ cao HY-80, với cường độ chịu uốn 80.000 psi (550 MPa), mặc dù điều này ban đầu không được sử dụng để tăng độ sâu lặn so với các tàu ngầm khác của Mỹ. HY-80 vẫn là thép tàu ngầm tiêu chuẩn cho đến khi tàu ngầm lớp Los Angeles ra đời. Một cải tiến khác giống lớp Barbel là sự kết hợp giữa tháp chỉ huy, phòng điều khiển và trung tâm tấn công trong một không gian. Cách bố trí tổng thể giúp việc phối hợp vũ khí và hệ thống điều khiển tàu dễ dàng hơn trong các hoạt động chiến đấu. Phần lớn sự sắp xếp bên trong tổng thể được tiếp tục trên các tàu ngầm lớp Thresher và Sturgeon tiếp theo. Năm khoang của Skipjack được gọi là Phòng Ngư lôi, Phòng Điều hành, Phòng Lò phản ứng, Phòng Máy Phụ trợ (AMS) và Phòng Động cơ. Với việc bổ sung khoang tên lửa, việc bố trí trên 41 tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) đầu tiên của Mỹ cũng tương tự. Thiết kế chủ yếu là thân đơn với thân đôi bao quanh phòng chứa ngư lôi và AMS dành cho két dằn. Thiết kế này đã được cải tiến trên những tàu ngầm Thresher và Tullibee độc ​​nhất vô nhị và các tàu ngầm tấn công tiếp theo bằng cách di dời phòng chứa ngư lôi vào khoang tác chiến thông qua các ống phóng ngư lôi có góc cạnh giữa tàu để nhường chỗ cho sonar dạng cầu lớn ở mũi tàu. Các cánh lặn đằng mũi được bố trí lại, đưa lên gắn vào cột tàu ngầm giúp giảm tiếng ồn thủy âm gần mũi sonar. Skipjack là lớp tàu ngầm đầu tiên có cánh lặn; sau đó chúng đợc sử dụng trên tàu ngầm lớp Barbel. Đặc điểm thiết kế này được áp dụng trên tất cả các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ cho đến khi lớp Los Angeles ra đời năm 1988. Skipjack cũng là lớp tàu ngầm đầu tiên sử dụng lò phản ứng S5W của Mỹ. Lò phản ứng S5W được sử dụng trên 98 tàu ngầm hạt nhân của Hoa Kỳ và tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Anh, HMS  Dreadnought, khiến nó trở thành thiết kế lò phản ứng được sử dụng nhiều nhất của Hải quân Hoa Kỳ cho đến nay. Hoạt động Skipjack được đưa vào hoạt động vào tháng 4 năm 1959. Mỗi thân tàu có giá khoảng 40 triệu USD. Skipjack được chứng nhận là "tàu ngầm nhanh nhất thế giới" sau những cuộc chạy thử nghiệm đầu tiên trên biển vào tháng 3 năm 1959, mặc dù tốc độ thực tế đạt được vẫn chưa được xác định. Skipjack vẫn là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân nhanh nhất của Mỹ cho đến khi chiếc đầu tiên thuộc lớp Los Angeles được đưa vào sử dụng vào năm 1974. Skipjack đã phục vụ trong Chiến tranh Việt Nam và phần lớn thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Các tàu ngầm lớp Skipjack đã được rút khỏi hoạt động vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, ngoại trừ chiếc USS Scorpion (SSN-589), bị chìm vào ngày 22 tháng 5 năm 1968 về phía tây nam Azores khi đang trở về sau chuyến tuần tra ở Địa Trung Hải, với toàn bộ 99 thủy thủ đoàn thiệt mạng.. Tham khảo Dọc thêm Gardiner, Robert and Chumbley, Stephen, Conway's All the World's Fighting Ships 1947-1995, London: Conway Maritime Press, 1995. . Hutchinson, Robert, Jane's Submarines, War Beneath The Waves, From 1776 To The Present Day, Harper Paperbacks, 2005. . Polmar, Norman (2004). Cold War Submarines: The Design and Construction of U.S. and Soviet Submarines, 1945-2001. Dulles: Brassey's. . Liên kết ngoài NavSource.org SSN photo gallery index On Eternal Patrol USS Scorpion page
19843075
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20S%E1%BB%9F%20H%C3%A0
Trần Sở Hà
Trần Sở Hà (; sinh ngày 9 tháng 5 năm 1978) là một diễn viên và người mẫu Đài Loan. Tiểu sử Sở Hà là con trai cả của Trần Khải Lễ , không lâu sau khi anh được sinh ra, cha mẹ anh chia tay nên anh ở với ông bà ngoại. Anh học du lịch tại Đại học Văn hóa Trung Quốc ở Đài Bắc . Dù đam mê với con đường nghệ thuật nhưng vì nhiều lý do mà Trần Sở Hà vào nghề khá trễ. Năm 27 tuổi anh mới bắt đầu đi học diễn xuất tại Bắc Ảnh và có vai diễn đầu tay. Năm 32 tuổi, anh đã nghe theo tiếng gọi của đam mê và bay từ Đài Loan sang Trung Quốc để thi vào Học viện nghệ thuật Bắc Kinh - nơi đào tạo diễn viên nổi tiếng. Vai diễn đầu tiên của anh chính là vai nam phụ trong bộ phim Kung Fu Bóng Rổ. Đây cũng chính là lúc mà Trần Sở Hà và Châu Kiệt Luân bắt đầu tình bạn khắng khít với nhau. Nhờ vào tài diễn xuất ấn tượng cũng như nhan sắc đỉnh cao, Trần Sở Hà đã nhận được lời mời vào vai nam chính trong phim Hạ Gia Tam Thiên Kim từng cực hot 1 thời. Tuy vậy, cho đến bộ phim Định Mệnh Anh Yêu Em thì cái tên của ngôi sao này mới có thể thực sự tỏa sáng dù chỉ là vai diễn phụ. Nhân vật của anh là 1 chàng trai không chỉ có vẻ ngoài hoàn hảo mà lại còn tốt bụng và rất chung tình. Từ bộ phim này, cái tên Trần Sở Hà đã khiến khán giả Trung Quốc phải ghi nhớ. Năm 2016, mỹ nam Đài Loan này bất ngờ gặp tai nạn trong khi đang tham gia 1 show truyền hình thực tế tại Trung Quốc. Anh bị gãy xương đùi và phải tạm rời xa ánh đèn sân khấu 1 thời gian để tịnh dưỡng. Mãi đến vài năm sau, Trần Sở Hà mới có thể lại tái xuất để tiếp tục theo đuổi đam mê nghệ thuật của mình. Đời tư Khi anh vừa chân ướt chân ráo bước vào giới giải trí, truyền thông Hoa ngữ đã rất tò mò về xuất thân của anh. Dù vậy mọi thứ đều là bí mật. Năm 2007, khi các tay săn ảnh đã đưa ra bằng chứng về việc anh xuất hiện tại đám tang của ông trùm xã hội đen của bang hội Trúc Liên Bang khét tiếng - Trần Khởi Lễ thì mọi người mới biết được hóa ra anh lại là "thái tử" của giới hắc đạo. Sina còn gọi anh bằng danh xưng "showbiz ai cũng sợ", và là "thái tử hắc bang" hàng thật giá thật. Đứng sau bảo vệ Trần Sở Hà là người cha và bang hội hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người. Đến khi cha qua đời, Trần Sở Hà xuất hiện tại tang lễ với nhiều người tháp tùng, từ đó mới lộ thân phận khủng. Tuy có cha là đại ca xã hội đen danh tiếng lẫy lừng nhưng Trần Sở Hà đã lựa chọn tiến vào giới diễn viên, hứa với cha mình tự thân đứng trên đôi chân của mình, tự mình giành lấy vai diễn, chuyên tâm nghe lời nhắc nhở của cha không được phép nhiễm thói đánh bạc, chơi ma túy. Điều khiến tất cả công chúng phải khâm phục là Trần Sở Hà mặc định là người thừa kế nhưng trong tang lễ của cha, anh đã chấp nhận ký tên từ bỏ quyền thừa kế khối tài sản hơn 2 tỷ Nhân Dân Tệ trong khi những người khác đều tranh giành đến sứt đầu mẻ trán. Anh lựa chọn vào showbiz, trở thành diễn viên và theo đuổi đam mê, khẳng định chỉ cần với những gì cha anh chỉ dạy cùng với khả năng của mình, anh đủ khả năng tạo ra tất cả những gì mà anh muốn. Sự nổ lực, kiên trì của Trần Sở Hà trong con đường diễn xuất ngày càng nghiêm túc hơn và được khán giả công nhận. Dù phía sau là 1 thế lực khổng lồ nhưng mỹ nam này chưa bao giờ dựa dẫm vào bất kì ai mà chỉ cố gắng đi lên bằng chính sức lực của mình. Tuy vậy, showbiz không dám đối xử tệ với anh. Ngay cả thiếu gia khét tiếng Vương Tư Thông cũng phải nhường Trần Sở Hà một bước. Sự nghiệp Sở Hà xuất hiện lần đầu tiên trong bộ phim Kungfu Bóng Rổ , nhưng được biết đến nhiều hơn với vai Dylan trong bộ phim truyền hình Đài Loan, Định mệnh anh yêu em. Anh cũng xuất hiện trong hai video âm nhạc của Châu Kiệt Luân cho các bài hát "Sứ Thanh Hoa" trong album On the Run và "Biển Hoa" của Capricorn . Sau đó, anh nổi tiếng hơn nhờ các vai diễn trong bộ phim truyền hình Hạ gia tam thiên và Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, bộ phim đã giúp anh giành được giải Nam diễn viên được yêu thích nhất tại LeTV Awards. Danh sách phim Phim truyền hình Phim điện ảnh Chương trình truyền hình MV Tham khảo Liên kết ngoài River Chen's Blog Official Agency Profile River Chen Facebook Nam diễn viên truyền hình Đài Loan Nam diễn viên điện ảnh Đài Loan Người Đài Bắc Họ Trần
19843083
https://vi.wikipedia.org/wiki/NEC%20Nijmegen
NEC Nijmegen
NEC Nijmegen (Nijmegen Eendracht Combinatie), thường được gọi là NEC (), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của hiệp hội bóng đá Hà Lan có trụ sở tại Nijmegen. Câu lạc bộ hiện đang thi đấu ở Eredivisie, giải đấu hàng đầu của bóng đá Hà Lan, sau khi thăng hạng từ Eerste Divisie 2020–21. Câu lạc bộ đã lọt vào trận chung kết KNVB Cup bốn lần - vào các năm 1973, 1983, 1994 và 2000 - nhưng chưa bao giờ giành được bất kỳ danh hiệu bạc lớn nào. Lịch sử Trang phục và màu sắc Danh hiệu Cầu thủ Đội hình hiện tại Cho mượn Ban huấn luyện Tham khảo
19843102
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20T%E1%BB%A9%20Xuy%C3%AAn%202019
Động đất Tứ Xuyên 2019
Động đất Tứ Xuyên 2019 () là trận động đất xảy ra vào lúc 22:55 (CST), ngày 17 tháng 6 năm 2019. Trận động đất có cường độ 5.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 6 km. Hậu quả trận động đất đã làm 13 người chết, hơn 200 người bị thương. Tham khảo Động đất năm 2019 Động đất tại Trung Quốc Động đất thập niên 2010 Động đất tại Tứ Xuyên Thảm họa tại Trung Quốc năm 2019
19843107
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Oklahoma%202011
Động đất Oklahoma 2011
Động đất Oklahoma 2011 () là trận động đất xảy ra vào lúc 22:53 (theo giờ địa phương), ngày 6 tháng 11 năm 2011. Trận động đất có cường độ 5.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 5,2 km. Hậu quả trận động đất đã làm hai người bị thương. Tham khảo Động đất tại Hoa Kỳ Động đất năm 2011
19843137
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Sulawesi%E2%80%93Mindanao%201913
Động đất Sulawesi–Mindanao 1913
Động đất Sulawesi–Mindanao 1913 () là trận động đất xảy ra vào lúc 16:45:45 (PST), ngày 14 tháng 3 năm 1913. Trận động đất có cường độ 7.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 15 km2. Hậu quả trận động đất đã làm 138 người thiệt mạng. Tham khảo Động đất tại Philippines Lịch sử Sarangani Siêu động đất tại Philippines Động đất năm 1913
19843145
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20t%C3%A2m%20Nghi%C3%AAn%20c%E1%BB%A9u%20Pew
Trung tâm Nghiên cứu Pew
Trung tâm Nghiên cứu Pew (tiếng Anh: Pew Research Center, thường được gọi tắt là Pew) là một viện nghiên cứu phi đảng phái Hoa Kỳ có trụ sở tại Washington, D.C. Trung tâm này cung cấp thông tin về các vấn đề xã hội, dư luận và các xu hướng nhân khẩu học đang định hình Hoa Kỳ và thế giới. Nó cũng tiến hành các cuộc thăm dò dư luận, nghiên cứu nhân khẩu học, nghiên cứu khảo sát mẫu ngẫu nhiên và khảo sát dựa trên số liệu, phân tích nội dung truyền thông và nghiên cứu các khoa học xã hội thực nghiệm khác. Trung tâm Nghiên cứu Pew không đảm nhận bất kỳ vị trí chính trị nào, và là một công ty con của The Pew Charitable Trusts. Lịch sử Năm 1990, Công ty Times Mirror thành lập Trung tâm Times Mirror về Nhân dân & Báo chí (Times Mirror Center for the People & the Press) như một dự án nghiên cứu, có nhiệm vụ tiến hành các cuộc thăm dò về chính trị và chính sách. Andrew Kohut trở thành giám đốc trung tâm vào năm 1993. Năm 1996, The Pew Charitable Trusts trở thành nhà tài trợ chính và đơn vị đổi tên thành Trung tâm Nghiên cứu Pew về Nhân dân & Báo chí. Năm 2004, quỹ tín thác thành lập Trung tâm Nghiên cứu Pew ở Washington, D.C. Năm 2013, Kohut từ chức chủ tịch và trở thành giám đốc sáng lập, và Alan Murray kế nhiệm trở thành chủ tịch thứ hai. Tháng 10 năm 2014, Michael Dimock, một người có thâm niên 14 năm làm việc tại Trung tâm tính đến thời điểm được chọn, được bổ nhiệm làm chủ tịch. Kinh phí Trung tâm Nghiên cứu Pew là một tổ chức phi lợi nhuận, được miễn thuế theo Tổ chức 501(c)(3) và là công ty con của The Pew Charitable Trusts, nhà tài trợ chính của tổ chức này. Đối với các nghiên cứu tập trung vào nhân khẩu học của các tôn giáo trên thế giới, Trung tâm Nghiên cứu Pew được Quỹ Templeton đồng tài trợ. Đề tài nghiên cứu Trung tâm nghiên cứu các lĩnh vực chủ đề sau: Chính trị và chính sách của Hoa Kỳ Quan hệ quốc tế Nhập cư và di cư Chủng tộc và sắc tộc Tôn giáo Tuổi & thế hệ Giới tính & LGBTQ Quan hệ gia đinh Kinh tế & việc làm Khoa học Internet và công nghệ Thói quen tin tức và phương tiện truyền thông Phương pháp nghiên cứu Khu vực & quốc gia Chú thích Liên kết ngoài – Trung tâm Nghiên cứu Pew của Pew Charitable Trusts Think tank có trụ sở tại Hoa Kỳ Tổ chức thành lập năm 2004 Nghiên cứu xã hội
19843148
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Mahdi
Nhà nước Mahdi
Nhà nước Mahdi (), còn được gọi là Sudan thời Mahdi hay Mahdiyya Sudan, là một nhà nước dựa trên một phong trào tôn giáo và chính trị được phát động vào năm 1881 bởi Muhammad Ahmad bin Abdullah (sau này là Muhammad al-Mahdi) chống lại Phó vương Ai Cập, quốc gia đã cai trị Sudan kể từ năm 1821. Sau bốn năm đấu tranh, quân nổi dậy Mahdi lật đổ chính quyền Ottoman-Ai Cập và thành lập chính phủ "Hồi giáo và quốc gia" của riêng họ với thủ đô tại Omdurman. Từ năm 1885, chính phủ Mahdi duy trì chủ quyền và quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ của Sudan cho đến khi bị lực lượng Anh-Ai Cập đánh bại vào năm 1898. Mohammed Ahmed al-Mahdi kêu gọi người dân Sudan tham gia vào cuộc thánh chiến mà ông tuyên bố chống lại chính quyền có trụ sở tại Khartoum do người Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ thống trị. Chính quyền Khartoum ban đầu bác bỏ cuộc cách mạng của Mahdi, nhưng ông đã đánh bại hai đoàn thám hiểm được cử đến để bắt mình trong vòng một năm. Quyền lực của Mahdi tăng lên và lời kêu gọi của ông lan rộng khắp Sudan, trong đó phong trào của ông được gọi là Ansar. Cùng thời gian đó, cuộc cách mạng 'Urabi nổ ra ở Ai Cập, khiến người Anh chiếm đóng đất nước này vào năm 1882. Anh bổ nhiệm Charles Gordon làm Toàn quyền Sudan. Nhiều tháng sau khi ông đến Khartoum và sau nhiều trận chiến, lực lượng Mahdi đã chiếm được thành phố và giết chết Gordon trong cung điện của mình. Mahdi không sống lâu sau chiến thắng này; người kế nhiệm ông là Abdallahi ibn Muhammad đã củng cố nhà nước mới, với hệ thống hành chính và tư pháp dựa trên cách giải thích luật Hồi giáo của họ. Dù chiếm một phần đáng kể dân số đất nước, những người Nubia bản địa theo Cơ đốc giáo Copt đã bị cưỡng bức chuyển sang đạo Hồi. Nền kinh tế Sudan bị hủy hoại trong Chiến tranh Mahdi và nạn đói; chiến tranh và bệnh tật đã khiến dân số Sudan giảm một nửa. Muhammad Ahmad al-Mahdi tuyên bố tất cả những người không chấp nhận ông là Mahdi đều là kẻ ngoại đạo (kafir), ra lệnh giết họ, lấy đi phụ nữ và tài sản của họ. Người Anh tái chiếm Sudan vào năm 1898, sau đó cai trị nơi này trên lý thuyết là một quốc gia chung với Ai Cập nhưng trên thực tế là một thuộc địa. Tuy nhiên, tàn dư của Nhà nước Mahdi vẫn tồn tại ở Darfur cho đến năm 1909. Lịch sử Bối cảnh Từ đầu thế kỷ 19, Ai Cập đã bắt đầu chinh phục Sudan và biến nước này thành thuộc địa của mình. Thời kỳ này được người dân địa phương gọi là Turkiyya, tức là thời kỳ cai trị "Thổ Nhĩ Kỳ" của Eyalet và sau đó là Phó vương Ai Cập. Người Ai Cập chưa bao giờ có thể chinh phục hoàn toàn khu vực này, nhưng quyền thống trị và thuế cao khiến họ không được lòng dân. Khi sự bất mãn ở Sudan ngày càng gia tăng, chính Ai Cập cũng bắt đầu rơi vào khủng hoảng. Đây là hệ quả của những thay đổi kinh tế và chính trị có sự tham gia của các cường quốc châu Âu, quan trọng nhất là Đế quốc Anh. Năm 1869, kênh đào Suez được khai trương và nhanh chóng trở thành huyết mạch kinh tế của Anh tới Ấn Độ và Viễn Đông. Để bảo vệ tuyến đường thủy này, Anh bắt đầu can thiệp sâu hơn vào các vấn đề của Ai Cập. Vào năm 1873, chính phủ Anh do đó đã ủng hộ một chương trình trong đó một ủy ban nợ Anh-Pháp đảm trách việc quản lý các vấn đề tài chính của Ai Cập. Ủy ban này cuối cùng đã buộc Khedive Ismail phải thoái vị để nhường ngôi cho người con trai được chấp nhận hơn về mặt chính trị của ông, Tawfiq (1877–1892). Sau khi Ismail bị loại bỏ vào năm 1877, người đã bổ nhiệm ông vào chức vụ này, Charles George Gordon từ chức toàn quyền Sudan vào năm 1880. Những người kế nhiệm ông thiếu sự chỉ đạo từ Cairo và lo ngại tình trạng hỗn loạn chính trị đã nhấn chìm Ai Cập. Kết quả là họ không thể tiếp tục các chính sách mà Gordon đã đưa ra. Việc buôn bán nô lệ bất hợp pháp hồi sinh, mặc dù không đủ để làm hài lòng các thương gia. Quân đội Sudan bị thiếu nguồn lực và binh lính thất nghiệp từ các đơn vị giải tán gây khó khăn cho các thị trấn đồn trú. Người thu thuế tùy tiện tăng thuế. Muhammad Ahmad Giữa bầu không khí rắc rối này, Muhammad Ahmad ibn as Sayyid Abd Allah, người kết hợp sức thu hút cá nhân với sứ mệnh tôn giáo và chính trị đã xuất hiện, quyết tâm trục xuất người Thổ Nhĩ Kỳ và khôi phục Hồi giáo trở lại sự thuần khiết ban đầu. Là con trai của một thợ đóng thuyền Dongola, Muhammad Ahmad đã trở thành đệ tử của Muhammad ash Sharif, người đứng đầu dòng Sufi Sammaniyah. Sau đó, với tư cách là một Sheikh của dòng, Muhammad Ahmad đã sống ẩn dật vài năm và nổi tiếng là một nhà thần bí và một giáo viên. Năm 1881, Muhammad Ahmad tự xưng là Mahdi ("người được mong đợi"). Một số tín đồ tận tâm nhất của ông coi ông là người được Allah truyền cảm hứng trực tiếp. Ông muốn người Hồi giáo lấy lại Kinh Qur'an và hadith làm nguồn nền tảng của đạo Hồi, tạo ra một xã hội công bằng. Cụ thể liên quan đến Sudan, ông khẳng định sự nghèo đói của nước này là một đức tính tốt và tố cáo sự giàu có và xa hoa của thế gian. Đối với Muhammad Ahmad, Ai Cập là một ví dụ về sự giàu có dẫn đến hành vi vô đạo đức. Lời kêu gọi nổi dậy của Muhammad Ahmad đã được các cộng đồng nghèo nhất dọc sông Nin hưởng ứng mạnh mẽ, vì nó kết hợp giữa chương trình nghị sự theo chủ nghĩa dân tộc, chống Ai Cập với sự chắc chắn về tôn giáo chính thống. Ngay cả sau khi Mahdi tuyên bố thánh chiến chống lại người Ai Cập, Khartoum vẫn coi ông là một kẻ cuồng tín tôn giáo. Chính phủ Ai Cập để mắt tới Mahdi hơn khi lòng nhiệt thành tôn giáo của ông chuyển sang tố cáo những người thu thuế. Để tránh bị bắt, Mahdi và một nhóm những người theo ông, được gọi là Ansar, đã thực hiện một cuộc hành quân dài đến Kurdufan, nơi ông thu hút được một số lượng lớn tân binh, đặc biệt là từ người Baggara. Từ một nơi ẩn náu trong khu vực, ông đã viết đơn kháng cáo tới các sheikh của các dòng tu và giành được sự ủng hộ tích cực hoặc sự đảm bảo trung lập từ tất cả mọi người ngoại trừ Khatmiyyah thân Ai Cập. Các thương gia và bộ lạc Ả Rập phụ thuộc vào buôn bán nô lệ cũng phản ứng, cùng với bộ lạc Beja Hadendoa, những người được đội trưởng Ansar Osman Digna tập hợp lại với Mahdi. Các cuộc tiến công Đầu năm 1882, quân Ansar được trang bị giáo và kiếm đã áp đảo lực lượng 7.000 người Ai Cập do Anh lãnh đạo cách Al Ubayyid không xa và tịch thu súng trường, súng dã chiến và đạn dược của họ. Mahdi tiếp nối chiến thắng này bằng cách bao vây và chiếm giữ Al Ubayyid sau bốn tháng. Với 30.000 người, Ansar sau đó đánh bại viện binh Ai Cập gồm 8.000 người tại Sheikan. Ở phía tây, cuộc nổi dậy của quân Mahdi có thể dựa vào các phong trào kháng chiến hiện có. Sự cai trị Darfur của Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến người dân địa phương phẫn nộ và một số phiến quân đã bắt đầu cuộc nổi dậy. Phiến quân Baggara dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh Rizeigat Madibo đã cam kết với Mahdi và bao vây Toàn quyền Darfur Rudolf Carl von Slatin, một người Áo phục vụ phó vương, tại Dara. Slatin bị bắt vào năm 1883, thúc đẩy nhiều bộ lạc Darfur tham gia cách mạng. Lực lượng Mahdi nhanh chóng nắm quyền kiểm soát phần lớn Darfur. Lúc đầu, việc thay đổi chế độ rất được hoan nghênh ở Darfur. Cuộc tiến công của Ansar và Hadendowa lan rộng ở phía đông đã gây nguy hiểm cho việc liên lạc với Ai Cập và đe dọa cắt đứt các đồn trú tại Khartoum, Kassala, Sennar, Suakin và ở phía nam. Để tránh bị lôi kéo vào một cuộc can thiệp quân sự tốn kém, chính phủ Anh đã ra lệnh rút quân Ai Cập khỏi Sudan. Vừa được tái bổ nhiệm làm toàn quyền, Gordon đã sắp xếp giám sát việc sơ tán quân đội và quan chức Ai Cập cũng như tất cả người nước ngoài khỏi Sudan. Phản ứng của Anh Sau khi đến Khartoum vào tháng 2 năm 1884, Gordon nhanh chóng nhận ra rằng ông không thể giải phóng các đồn trú. Do đó, ông kêu gọi quân tiếp viện từ Ai Cập để giải vây Khartoum. Gordon cũng đề nghị Zubayr, một kẻ thù cũ mà ông công nhận là một chỉ huy quân sự xuất sắc, nên kế nhiệm mình để trao cho những người Sudan bất mãn một nhà lãnh đạo khác ngoài Mahdi để tập hợp lại phía sau. Luân Đôn bác bỏ kế hoạch này. Khi tình hình trở nên xấu đi, Gordon lập luận rằng Sudan rất cần thiết vì an ninh của Ai Cập và để Ansar giành chiến thắng tại đây sẽ giúp phong trào lan rộng ra nơi khác. Mahdiyya Cờ Nhà nước Mahdi cùng quân đội không có cờ thống nhất nhưng vẫn sử dụng nhiều lần một số thiết kế nhất định. Hầu hết các lá cờ đều mang bốn dòng chữ tiếng Ả Rập thể hiện lòng trung thành với Thượng Đế, Muhammad và Mahdi. Các lá cờ thường có màu trắng với viền màu và văn bản với nhiều màu sắc khác nhau. Hầu hết các đơn vị quân đội đều có cờ riêng. Xem thêm Lịch sử Sudan Chiến tranh Mahdi Trên sa mạc và trong rừng thẳm Tham khảo Thư mục Đọc thêm Fadlalla, Mohamed H. Short History of Sudan, iUniverse, 30 April 2004, . Holt, P. M. "The Mahdia in the Sudan, 1881–1898" History Today (Mar 1958) 8#3 pp 187–195. Thập niên 1880 tại châu Phi Thập niên 1890 tại châu Phi Lịch sử Sudan Quốc gia Hồi giáo Chiến tranh Mahdi Khởi đầu năm 1885 Chấm dứt năm 1899 Quốc gia và vùng lãnh thổ thành lập năm 1885 Quốc gia và vùng lãnh thổ chấm dứt năm 1899 Cựu quốc gia Cựu quốc gia thần quyền Khởi đầu năm 1885 ở châu Phi
19843163
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fortuna%20Sittard
Fortuna Sittard
Fortuna Sittard (; [fɔʀˈtyːnaː ˈzɪtəʀt]) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở Sittard, Hà Lan. Câu lạc bộ hiện đang thi đấu tại Eredivisie với sân nhà là sân vận động Fortuna Sittard có sức chứa 12.500 chỗ ngồi. Câu lạc bộ được thành lập thông qua việc sáp nhập các câu lạc bộ cũ Fortuna 54 và Sittardia, được sáp nhập thành Fortuna Sittardia Combinatie vào ngày 1 tháng 7 năm 1968. Lịch sử Danh hiệu KNVB Cup Vô địch: 1956–57, 1963–64 Á quân: 1983–84, 1998–99 Eerste Divisie Vô địch: 1958–59, 1963–64, 1965–66, 1994–95 Thăng hạng: 1981–82, 2017–18 Cầu thủ Đội hình hiện tại Cho mượn Ban huấn luyện Tham khảo Liên kết ngoài Câu lạc bộ Eredivisie Câu lạc bộ bóng đá Hà Lan
19843166
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20pralinia
Myripristis pralinia
Myripristis pralinia là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829. Từ nguyên Từ định danh pralinia có thể là cách viết biến thể hoặc không chính xác của praslin, được đặt theo tên gọi của cảng Praslin (trên đảo New Britain, mặc dù Cuvier vẫn viết chính xác là Praslin), cũng là nơi thu thập mẫu định danh của loài cá này (hậu tố ía bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại là ία, cũng gần nghĩa là "thuộc về"). Phạm vi phân bố và môi trường sống M. pralinia có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Line và quần đảo Marquises (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), về phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, M. pralinia được ghi nhận tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, gần đây được biết đến ở ngoài khơi phía bờ bắc đèo Hải Vân. M. pralinia sống tập trung trên các rạn san hô, gần hang hốc hoặc dưới gờ đá, cũng như trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 50 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. pralinia là 20 cm. M. pralinia có màu đỏ tươi như nhiều loài Myripristis khác. So với Myripristis kuntee, vệt sẫm màu trên nắp mang của M. pralinia chỉ kéo dài xuống dưới ngạnh mang một chút (không dài như M. kuntee). Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 14–17; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 13–15. Sinh thái M. pralinia có thể tạo ra âm thanh nghe như tiếng lầm bầm khi chúng đang gặp nguy hiểm. Thương mại M. pralinia được khai thác làm nguồn thực phẩm ở một số quốc gia. Tham khảo P Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Mozambique Cá Kenya Cá Madagascar Cá Réunion Cá Mauritius Cá Maldives Cá Việt Nam Cá Papua New Guinea Cá Nhật Bản Cá Palau Cá Nouvelle-Calédonie Động vật được mô tả năm 1829
19843170
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20c%E1%BB%99t%20H%C3%ACnh%20th%C3%A0nh
Các cột Hình thành
Các cột Hình thành (còn được gọi là "Các ngón tay Khỉ") là một hình ảnh khí liên sao hình ngà voi và bụi được chụp bởi kính viễn vọng không gian Hubble trong tinh vân Đại Bàng, chòm sao Cự Xà, cách Trái Đất . Các ngà voi này được John Carles Duncan tìm thấy trên đĩa làm bằng kính viễn vọng 60 inch của đài thiên văn Núi Wilson vào năm 1920. Chúng được đặt tên như vậy vì khí và bụi đang trong quá trình tạo ra những ngôi sao mới, đồng thời cũng bị ăn mòn bởi ánh sáng từ những ngôi sao gần đây mới hình thành. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1995, bức ảnh này được chụp và đặt tên là một trong mười bức ảnh đẹp nhất chụp từ kính viễn vọng Hubble bởi Space.com Các nhà thiên văn chịu trách nhiệm về bức ảnh là Jeff Hester và Paul Scowen từ Đại học bang Arizona. Vào năm 2011, vùng này đã được chụp ảnh lại bởi kính thiên văn không gian Herschel của ESA (sau đó là kính Hubble với máy ảnh mới vào năm 2014, và James Webb vào năm 2022). Bức ảnh này ra mắt vào năm 2007, kính viễn vọng tia X Chandra (AXAF) đã quan sát khu vực vào năm 2011. Kính viễn vọng này không tìm thấy nhiều nguồn tia X trong các tòa tháp nhưng có thể quan sát được các nguồn ở mức năng lượng tia X khác nhau trong khu vực từ các ngôi sao trẻ.. Bức ảnh được chú ý vì tác động văn hóa toàn cầu, với National Geographic lưu ý vào kỉ niệm 20 năm thành lập là bức ảnh này đã xuất hiện trên mọi thứ, từ "áo phông đến cốc cà phê". Xem thêm Danh sách bức ảnh được coi là quan trọng nhất Tham khảo Liên kết ngoài NASA on making the infrared imaging
19843192
https://vi.wikipedia.org/wiki/Happy%20%28nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20manga%29
Happy (nhân vật manga)
là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ manga Fairy Tail và Edens Zero do Mashima Hiro sáng tạo. Cậu được miêu tả là một con mèo xanh nhân hóa đồng hành cùng các nhân vật chính trên chiếu phiêu lưu của họ, cậu thường đem đến yếu tố hài giải trí cho truyện. Trong Fairy Tail, Happy là thành viên của chủng tộc phép thuật Exceed với năng lực biến thành một chú mèo có cánh và lông màu trắng, có vai trò làm người bạn và cộng sự của Natsu Dragneel. Trong Edens Zero, nhân vật được tái dựng thành một android ngoài hành tinh và cộng sự của nhân vật nữ chính Rebecca Bluegarden, với chức năng làm cặp súng laser cho cô sử dụng. Happy đã xuất hiện trên nhiều sản phẩm truyền thông liên quan tới Fairy Tail, gồm một bản chuyển thể anime, các bộ phim chiếu rạp, OVA, light novel và trò chơi video. Người lồng tiếng Nhật cho cậu là diễn viên Kugimiya Rie, còn người lồng tiếng Anh cho cậu là Tia Ballard. Sáng tạo và xây dựng nhân vật Sau khi hoàn thành bộ truyện Rave Master, ý tưởng xây dựng Happy lúc đầu của Mashima Hiro là tạo ra một nhân vật linh vật "cực kỳ nhiều chuyện" - trái ngược với Plue (linh vật của Rave Master) - nhân vật từng làm anh gặp khó khi sáng tác vì Plue không biết nói. Ở giai đoạn tiền sáng tác Fairy Tail, Mashima vẽ một bức minh họa miêu tả hai sinh vật giống mèo (tương đồng với Happy về sau) với đôi chân của chim và đôi cánh có lông vũ. Lúc đầu Mashima định đặt tên nhân vật theo vị thần Bắc Âu Freyr, song xem đấy là "quá trớn" đối với nhân vật và điều chỉnh chút để "phù hợp hơn". Khi được hỏi về khâu sáng tạo các nhân vật, Mashima đáp rằng mỗi nhân vật thể hiện một phần tính cách của anh, khi Happy tượng trưng cho hành động khi làm biếng của anh, rồi sau thừa nhận rằng Happy dựa trên sở thích yêu mèo của mình. Sau khi giới thiệu Carla (bản thể nữ của Happy), ý định đầu tiên của Mashima dành cho Happy đã phải "điều chỉnh nhiều", từ đó truyền cảm hứng cho tác giả xây dựng một tiểu phần nhân vật cho riêng cậu ngay sau đó. Mashima cũng có nói rằng trận chiến trên không của cặp Natsu-Happy đối đầu với Cobra là "điều [anh] luôn muốn làm", bình luận rằng đây là lần đầu tiên Happy dấn thân trực tiếp vào một cảnh chiến đấu trong bộ truyện. Nói về bản chuyển thể anime của Fairy Tail, Mashima bình luận rằng anh thích thú xem Natsu và Happy "bay nhảy": "Những hiệu ứng mà tôi có thể vẽ nhằm miêu tả phép thuật trong manga có phần hạn chế, vì thế việc xem phép thuật trong anime rất là thú vị, và nó trông thật là đẹp trên màn ảnh. Nó làm tôi nhận ra các nhân vật của mình thú vị cỡ nào khi chứng kiến chúng bay nhảy." Anh coi Happy là nhân vật được thể hiện tốt nhất trên anime trong số toàn bộ các nhân vật của manga. Ito Yohei (nhà sản xuất bộ phim Gekijōban Fairy Tail: Dragon Cry) miêu tả Happy là vừa "thú vị" vừa "cực kỳ hữu dụng", vì cậu "phù hợp cả ở những cảnh dễ thương lẫn nghiêm túc." Người lồng tiếng Happy bản tiếng Nhật là Kugimiya Rie, còn người lồng tiếng Anh cho cậu là Tia Ballard. Trong khâu phát triển Edens Zero, Mashima quyết định tái sử dụng Happy thay thế cho nhân vật linh vật chính của bộ truyện là E.M. Pino; ban đầu anh định cho cô ra mắt ngay ở chương đầu tiên của bộ manga cho đến khi khâu phát triển sau đó buộc Mashima phải lùi thời điểm mà cô xuất hiện; trước khi chọn được Happy, Mashima đã vẽ nhiều ý tưởng về các nhân vật động vật khác nhau, song anh thấy nỗ lực ấy là vô ích vì thấy nhân vật nhất định phải là Happy. Ở lần tái dựng này, nhân vật có đầu đuôi màu đen (trái ngược với đầu đuôi trắng trong Fairy Tail) và đeo một cái vòng cổ có hình trái tim "" thay cho chiếc túi màu xanh lá. Kugimiya và Ballard lần lượt tái thể hiện vai diễn bằng tiếng Nhật và tiếng Anh. Xuất hiện Trong Fairy Tail Trong Fairy Tail, Happy là thành viên chuyên mỉa mai của hội pháp sư tiêu đề và là bạn đồng hành của pháp sư "Sát Long Nhân" Natsu Dragneel; sau đấy tiểu đội của họ được mở rộng với việc kết nạp nữ tân binh Lucy Heartfilia cùng hai người bạn thời thơ ấu, Gray Fullbuster và Erza Scarlet. Cậu là một sinh vật họ mèo thuộc chủng tộc có tên Exceed, sở hữu năng lực bẩm sinh là bay bằng cách mọc ra đôi cánh có lông vũ màu trắng trên lưng với phép thuật tên đồng thời tình bạn với Natsu khiến cho Happy xách Natsu trên không mà không bị say tàu xe. Trong tuyến truyện của mình (hầu hết được nêu trong một chương omake), Happy được cặp đôi Exceed gồm Lucky và Marl ấp trong một quả trứng, rồi sáu năm trước khi bộ truyện bắt đầu, Natsu tìm thấy nó và ấp nở; sự ra đời của cậu ngay lập tức làm ngưng cuộc tranh cãi giữa các thành viên trong hội về quả trứng, qua đó truyền cảm hứng Natsu đặt cái tên Happy cho cậu giống như một biểu tượng chim xanh hạnh phúc. Tiếp đó trong bộ truyện, Happy gặp một Exceed nữ tên là Carla, cô tiết lộ rằng mình và Happy xuất thân từ Edolas - thế giới song song với Earth-land (bối cảnh chính của truyện); Edolas là nơi Exceed được tôn sùng thành những sinh vật thần thánh nhờ sở hữu sức mạnh phép thuật bẩm sinh, trong khi các cư dân khác của Edolas lại không có. Happy bị sốc khi biết 100 Exceed chưa chào đời (tính cả cậu và Carla) bị chuyển đến Earth-land cùng chỉ thị cho họ tiêu diệt các Sát Long Nhân như Natsu; về sau cả hai biết được nhiệm vụ ấy thực chất là để che đậy cho nỗ lực sơ tán theo sắp xếp của Chagot (nữ chúa Exceed sở hữu năng lực linh cảm) sau khi cô dự đoán rằng vương quốc của họ sẽ bị diệt vong, và hành động giả vờ đi săn lùng Sát Long Nhân xuất phát từ viễn cảnh nhìn trước được các sự kiện trong tương lai của cô. Happy tiếp tục hỗ trợ Natsu và hội của họ xuyên suốt bộ truyện, sau cùng Happy giúp Natsu biến thành dạng người sau khi phát hiện ra cậu bạn mình là một con quỷ Etherious do hắc pháp sư Zeref tạo ra, để rồi hỗ trợ Fairy Tail và các đồng minh giăng bẫy và chung cuộc tiêu diệt được hắc long Acnologia bên trong phép phòng thủ Tiên Cầu. Ở cuối Fairy Tail, Happy cùng tiểu đội của mình thực hiện "nhiệm vụ thế kỷ" - một nhiệm vụ mà chưa ai trong hội từng hoàn thành trong vòng 100 năm qua. Trong Edens Zero Trong bối cảnh của Edens Zero, Happy là một chủng tộc mèo ngoài vũ trụ từ một hành tinh tên là Cậu là người bạn lâu năm và cộng sự của nhân vật nữ chính trong truyện, Rebecca Bluegarden; cô là người đặt tên cho cậu sau khi tìm thấy cậu lúc mồ côi. Sau khi Happy bị một tài xế say xỉn tông phải lúc Rebecca còn nhỏ, giáo sư chuyên máy móc Weisz Steiner đã hồi sinh cậu bằng cách chuyển trí thức của cậu vào cơ thể một android tân tiến. Những tính năng người máy của Happy giúp cậu tự biến mình thành một cặp súng laser để cho Rebecca sử dụng trong chiến đấu, với tên gọi có thể bắn ra những viên đạn "Ether" không gây chết người nhằm vô hiệu hóa mục tiêu; cậu có thêm một số chức năng nữa ở giai đoạn sau của bộ truyện, như chế độ súng trường tấn công, dạng lưỡi kiếm laser ở đuôi, và khẩu pháo "chế độ cận chiến" trên lưng. Happy và Rebecca cùng quản lý một tài khoản có tên "Aoneko Channel" trên nền tảng video trực tuyến , với mục tiêu đạt được một triệu người theo dõi bằng cách đăng tải video về những hành tinh khác nhau mà họ từng ghé thăm trong thời gian làm thành viên của hội mạo hiểm giả Shooting Starlight. Ngay sau khi bộ truyện bắt đầu, Happy and Rebecca gia nhập hội phi hành đoàn của tàu chiến tiêu đề Edens Zero (với thủ lĩnh là nam chính Shiki Granbell) nhằm tìm kiếm nữ thần vũ trụ Mother, qua đó đạt được mục tiêu. Đón nhận Happy đã nhận được những bình luận tích cực từ giới phê bình khi đánh giá bộ manga Fairy Tail và những sản phẩm truyền thông liên quan. Carl Kimlinger của Anime News Network (ANN) miêu tả Happy là "đứa con hoang của một chú mèo nhà hoang và một vật chơi đầu to" trong bài đánh giá tập manga đầu tiên, và gọi cậu là "một phụ tá xuất sắc" ở tập hai. Dale North của Japanator khen ngợi tính hài hước của nhân vật bằng bình luận: "Những trò đùa làm nền của Happy sẽ làm bạn cười khúc khích từ chương này qua chương khác." Ở bản chuyển thể anime, Carlo Santos của ANN xem Happy là một "trò tiêu khiển thú vị", khen ngợi vai trò phụ tá động vật của cậu là "nghe đã thấy thú vị và không hề gây phiền hà cần thiết". Cây viết thấy câu chuyện Happy chào đời trong anime thật "thú vị", song bình phẩm rằng nó "có thể được chèn vào bất kì đâu trong truyện". Kimlinger tán dương vai trò của Happy cùng với Carla trong tiểu phần Edolas, trong phần ấy vai phụ tá của họ lần lượt cho Natsu và Wendy Marvell đã được lý giải; cây viết xem đấy là "chi tiết gắn kết đầy cảm xúc của tiểu phần". Dẫu có viết rằng trong khi tình đồng đội của Happy với Natsu và Lucy thật kỳ cục, Kimlinger lại thấy "màn phối hợp kỳ quặc ấy" đại diện cho phần chính của truyện phim. Rebecca Silverman của ANN dành lời khen những khoảnh khắc người hùng của Happy và nhận thấy cậu bị các phản diện trong truyện đánh giá thấp: "Với một nhân vật chỉ làm yếu tố pha trò, đây là sự thay đổi tốt và cách hay để làm cậu ấy phù hợp hơn với vai trò nhân vật thay vì chỉ là phương tiện vận chuyển Natsu." Ở bài đánh giá bộ phim Gekijōban Fairy Tail: Dragon Cry, Robert Prentice của Three If by Space coi đoạn phim lông của Happy biến thành màu đỏ là một "chi tiết nhỏ thú vị". Độ nổi tiếng và vật phẩm thương mại Ở cuộc bình chọn độ nổi tiếng của Fairy Tail in trong số báo thứ 26 của Weekly Shōnen Magazine, Happy xếp thứ tư với tổng cộng 4238 lượt bầu chọn. Những vật phẩm thương mại dựa trên Happy đã được bày bán trên thị trường, gồm một cục ghim và vật kỷ niệm cho quán cà phê. Ghi chú Chú thích Nhân vật nam trong anime và manga Vũ khí giả tưởng Nhân vật truyện tranh giới thiệu năm 2018 Nhân vật truyền hình giới thiệu năm 2009 Nhân vật truyện tranh giới thiệu năm 2006 Android hư cấu Mèo hư cấu Nhân vật trong Fairy Tail Linh vật anime và manga
19843197
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A1y%20bay%20ti%E1%BB%87n%20%C3%ADch
Máy bay tiện ích
Máy bay tiện ích là loại máy bay hạng nhẹ đa năng hoặc trực thăng đa năng thường được sử dụng để vận chuyển người, hàng hóa hoặc các loại vật tư khác, ngoài ra còn có thể sử dụng cho những nhiệm vụ mà không cần hoặc bị thiếu máy bay chuyên dụng phù hợp. Thuật ngữ máy bay tiện ích cũng có thể đề cập đến loại máy bay được cấp chứng nhận theo quy định của Mỹ, Canada, Châu Âu hoặc Úc. Chứng nhận này gọi là Máy bay Hạng Tiện ích, cho phép thực hiện các màn nhào lộn trên không có giới hạn. Các thao tác bay được phê duyệt gồm: bay kết hợp quay đầu 180° và tăng độ cao (chandelle), bay dạng một nửa số tám (lazy eight), bay xoay tròn xoắn lò xo từ trên xuống (spin) và bay rẽ cua dốc (steep turn) với độ nghiêng hơn 60°. Xem thêm Trực thăng tiện ích Tham khảo Khí cụ bay theo loại