id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19840487
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Watari%2C%20Miyagi
|
Watari, Miyagi
|
là thị trấn thuộc huyện Watari, tỉnh Miyagi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 33.087 người và mật độ dân số là người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 73,60 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Tỉnh Miyagi
Iwanuma
Kakuda
Yamamoto
Shibata
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Miyagi
|
19840522
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3o%20Perejil
|
Đảo Perejil
|
Đảo Perejil (, hay , ), còn được gọi là Đảo Parsley, là một đảo đá nhỏ không có người ở nằm cách bờ biển Maroc . Nó được quản lý bởi Plazas de soberanía của Tây Ban Nha, hiện đang tranh chấp chủ quyền với Maroc. Đây là căn nguyên của vụ đụng độ vũ trang giữa hai nước vào năm 2002.
Tên gọi
Tên đảo trong tiếng Tây Ban Nha là Isla de Perejil có nghĩa là "Đảo Ngò tây". Tên đảo trong tiếng Berber là Tura, có nghĩa là "trống rỗng". Đảo trong tiếng Ả Rập là "Jazirat al-Ma'danus" (), dịch từ "Đảo Mùi tây".
Trong các tài liệu lịch sử của Maroc, nó chỉ được gọi là "Tura". Trong bài phát biểu trước người dân Maroc nhân kỷ niệm "Ngày lên ngai vàng" vào ngày 30 tháng 7 năm 2002, Quốc vương Maroc Mohammed VI chỉ sử dụng tên "Tura" khi ông đề cập đến đụng độ vũ trang với Tây Ban Nha trên hòn đảo này.
Địa lý
Hòn đảo này nằm cách bờ biển Maroc , cách biên giới lãnh thổ thành phố Ceuta của Tây Ban Nha , cách đất liền Tây Ban Nha . Đảo có kích thước khoảng 480 m x 480 m với diện tích 15 ha (0,15 km²). Nó có độ cao tối đa so với mực nước biển.
Xem thêm
Tây Ban Nha bảo hộ Maroc
Chú thích
Liên kết ngoài
Isla Perejil in Google Maps
Speech King Mohammed VI
Đảo Địa Trung Hải
Đảo tranh chấp
Tranh chấp lãnh thổ của Maroc
Tranh chấp lãnh thổ của Tây Ban Nha
Eo biển Gibraltar
Đảo không người ở
|
19840555
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yuka%20%28voi%20ma%20m%C3%BAt%29
|
Yuka (voi ma mút)
|
Yuka là tên đặt cho xác ướp voi ma mút được bảo quản tốt nhất từng tìm thấy. Nó được phát hiện ra bởi những thợ săn ngà địa phương tại khu vực Siberi vào tháng 8 năm 2010. Họ sau đó chuyển nó cho những nhà khoa học địa phương, trước khi được chuyển thành tiêu bản vào năm 2012. Hiện nó đang được trưng bày ở Moskva .
Khám phá
Yuka được tìm thấy ở bãi biển Oyogos Yar của eo biển Dmitry Laptev, cách xấp xỉ phía tây cửa sông Kondratievo, Siberia (72° 40′ 49.44″ N, 142° 50′ 38.35″) trong khu vực biển Laptev. Đây là một xác ướp tự nhiên của một voi ma mút cái chưa trưởng thành, nó được đặt tên theo ngôi làng Yukagir, gần nơi những thợ săn phát hiện ra. Xác ướp được phát hiện trên một vách đá ở độ cao trong một khu vực bãi cạn có vách cao .
Các vách đá ở khu vực này gồm nhiều trầm tích được hình thành từ sau Thế Late Pleistocene, bao gồm các hóa thạch tồn tại trong các lớp băng vĩnh cửu, có thể bị lộ ra khi có sạt lở. Các khối băng vĩnh cửu này được hình thành với độ ẩm thấp và nồng độ muối cao, là điều kiện hoàn hảo để bảo tồn cho các di vật. Khi thực hiện phép đo nồng độ carbon AMS-dating từ một mảnh xương sườn của Yuka cho ra kết quả nồng độ carbon phóng xạ C14 là 34,300+260/−240 14C (GrA-53289). Với hàm lượng này thì mốc thời gian được xác định tương ứng với MIS 3.
Nghiên cứu và Phân tích
Sau khi được phát hiện, Yuka được giữ bảo quản hai năm trong điều kiện tự nhiên là lớp băng vĩnh cửu ở Yukagir. Thời gian đầu xác ướp được nghiên cứu bởi hai nhà khoa học P. Lazarev và S. Grigoriev từ Bảo tàng Voi ma mút (thuộc Học viện Khoa học Sakha, Yakutsk). Về sau, hơn quanh khu vực phát hiện cũng được tìm kiếm thêm. Từ Yukagir, xác của Yuka được chuyển tới Học viện ở Yakutsk. Từ tháng 10 năm 2014, xác ướp được trưng bày ở Moskva và được coi là mẫu vật Voi ma mút Siberia được bảo quản tốt nhất từ trước tới nay.
Một nghiên cứu răng và ngà đã xác định Yuka khoảng 6-8 tuổi khi chết. Giả thiết được đặt ra là ma mút bị tấn công bởi sư tử hoặc một loài thú săn mồi khác, nhưng không tìm được đủ dấu vết xác định được là loài thú gì.
Vào tháng 3 năm 2019, một nhóm nghiên cứu của Nhật Bản, dẫn đầu bởi Kazuo Yamagata, một chuyên gia sinh học từ Đại học Kindai khi nghiên cứu Yuka đã có báo cáo về việc họ có thể mô phỏng cấu trúc tế bào cho các nghiên cứu sinh học sâu hơn .Tuy nhiên họ không kích hoạt thành công ở mức độ tế bào.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cổ sinh học
Hóa thạch
Khảo cổ học
Chi Voi ma mút
Voi nổi tiếng
Xác ướp
|
19840613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/W76
|
W76
|
W76 là một đầu đạn nhiệt hạch của Mỹ được thiết kế để sử dụng trên tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm UGM-96 Trident I và sau đó đã được sử dụng trên tên lửa UGM-133 Trident II sau khi tên lửa Trident I được loại biên. Phiên bản đầu tiên, W76 mod 0 (W76-0) được sản xuất từ năm 1978 đến năm 19987 và được thay thế bởi đầu đạn W76 mod 1 (W76-1) từ năm 2008 đến năm 2018 hoàn thành việc thay thế đầu đạn Mod 0. Năm 2018, người ta tuyên bố đầu đạn Mod 1 sẽ được chuyển đổi thành phiên bản có đương lượng nổ thấp hơn W76 mod 2 (W76-2). Phiên bản Mod 2 được triển khai cuối năm 2019.
History
Đầu đạn ban đầu được sản xuất từ năm 1978 đến 1987 và được thiết kế bởi Phòng thí nghiệm quốc gia Los Alamos. Ban đầu nó được trang bị cho SLBM Trident I, nhưng sau khi nhà máy Rocky Flats nơi sản xuất đầu đạn W88 bị đóng cửa vào năm 1989 sau khi chỉ sản xuất được 400 đầu đạn, người ta quyết định chuyển đầu đạn W76 sang sử dụng cho cả tên lửa Trident II.
Chương trình kéo dài tuổi thọ (LEP) cho 800 đầu đạn được chính phủ Mỹ phê duyệt vào năm 2000, sau đó tăng lên 2.000 đầu đạn. Mục đích của chương trình là kéo dài tuổi thọ sử dụng đầu đạn thêm 20 năm và bổ sung các tính năng an toàn mới. Việc sản xuất phiên bản W76-1 bắt đầu vào tháng 9 năm 2008 và Cơ quan An ninh Hạt nhân Quốc gia đã hoàn thành sửa đổi tất cả các đầu đạn W76-0 lên thiết kế W76-1 vào tháng 12 năm 2018.
Bản Đánh giá tình hình hạt nhân năm 2018 đã thông báo rằng một phiên bản mới, W76-2, sẽ được sản xuất. Biến thể W76-2 được mô tả là đầu đạn công suất thấp, ước tính tương đương khoảng 5-7 kiloton TNT. Cơ quan An ninh Hạt nhân Quốc gia thông báo rằng họ đã bắt đầu sản xuất W76-2 vào tháng 1 năm 2019. Khả năng vận hành ban đầu dự kiến vào quý cuối cùng của năm 2019, và việc sản xuất dự kiến sẽ kéo dài đến năm tài chính 2024 tại Nhà máy Pantex. Theo FAS, đầu đạn W76-2 lần đầu tiên được triển khai với USS Tennessee trong chuyến tuần tra hoạt động cuối năm 2019. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ xác nhận vào tháng 2 năm 2020 rằng W76-2 đã được triển khai.
Đầu đạn hiện là loại vũ khí có số lượng nhiều nhất trong kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ, thay thế đầu đạn W68 50 kt trên UGM-73 Poseidon.
Vương Quốc Anh cũng sử dụng đầu đạn W76-1 với tên gọi “Holbrook”.
Xem thêm
RSM-56 Bulava – Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm của Nga có cùng đương lượng nổ
List of nuclear weapons
Tham khảo
External links
W76 information at Nuclear Weapon Archive
W76 information at Global Security
Imminent House Vote on New Low-Yield Nuclear Weapon | Union of Concerned Scientists
|
19840625
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Belinda%20%28v%E1%BB%87%20tinh%29
|
Belinda (vệ tinh)
|
Belinda là một vệ tinh vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện từ các bức ảnh chụp bởi tàu Voyager 2 vào ngày 13 tháng 1 năm 1986 và được đặt cho một danh xưng tạm thời là S/1986 U 5. Vệ tinh này được đặt theo tên của nữ anh hùng trong bài thơ The Rape of the Lock của Alexander Pope. Nó còn có tên định danh là Uranus XIV.
Belinda nằm trong nhóm vệ tinh Portia, gồm có Bianca, Cressida, Desdemona, Portia, Juliet, Cupid, Rosalind và Perdita. Các vệ tinh này có quỹ đạo và tính chất trắc quang tương tự nhau. Ngoài những đặc điểm như quỹ đạo, bán kính 45 km và suất phản chiếu hình học là 0,08, hầu như con người không còn biết gì về vệ tinh này.
Trong các bức ảnh chụp của Voyager 2, Belinda xuất hiện như một vật thể thuôn dài với trục chính hướng về phía Sao Thiên Vương. Trục ngắn của nó có kích thước bằng 0,5 ± 0,1 lần trục dài. Bề mặt của nó có màu xám.
Belinda và Cupid nhiều khả năng sẽ là cặp vệ tinh đầu tiên trong hệ thống các vệ tinh vòng trong của Sao Thiên Vương va chạm với nhau, ước tính sau khoảng 100.000 năm tới 10 triệu năm tùy thuộc vào mật độ các vệ tinh trong nhóm Portia, do tương tác cộng hưởng với vệ tinh nhỏ hơn nhiều là Cupid.
Xem thêm
Vệ tinh của Sao Thiên Vương
Tham khảo
Chú thích
Trích dẫn
Các nguồn
Liên kết ngoài
Hồ sơ Belinda bởi NASA Solar System Exploration
Vệ tinh của Sao Thiên Vương
Thiên thể phát hiện năm 1986
Được phát hiện bởi Stephen P. Synnott
|
19840627
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moreirense%20F.C.
|
Moreirense F.C.
|
Moreirense Futebol Clube là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Bồ Đào Nha có trụ sở tại Moreira de Cónegos, thành phố Guimarães, Minho. Được thành lập vào ngày 1 tháng 11 năm 1938, đội hiện thi đấu ở Primeira Liga và có sân nhà tại Parque de Jogos Comendador Joaquim de Almeida Freitas.
Lịch sử
Danh hiệu
Cầu thủ
Đội hình hiện tại
Ban huấn luyện
Tham khảo
Liên kết ngoài
Moreirense F.C. trên Zerozero
Khởi đầu năm 1938 ở Bồ Đào Nha
Câu lạc bộ bóng đá Bồ Đào Nha
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1938
Câu lạc bộ bóng đá Liga Portugal 2
Câu lạc bộ bóng đá Primeira Liga
Moreirense F.C.
|
19840633
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C6%B0%C6%A1ng%20vong%20trong%20Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20Napol%C3%A9on
|
Thương vong trong Chiến tranh Napoléon
|
Thương vong trong các cuộc Chiến tranh Napoléon (1803–1815), trực tiếp và gián tiếp, được liệt kê dưới đây:
Những thương vong được liệt kê bao gồm cả trường hợp người chết khi chiến đấu cũng như do các nguyên nhân khác: bệnh tật như bị thương; chết đói; chết rét; chết đuối; giết nhầm; và tra tấn. Phương pháp điều trị y tế có bước tiến đáng kể vào thời điểm này. Nam tước Dominique Jean Larrey, đã sử dụng xe ngựa làm xe cứu thương để nhanh chóng đưa những thương binh ra khỏi chiến trường. Phương pháp này thành công đến mức sau đó ông được yêu cầu đảm bảo chăm sóc y tế cho 14 quân đoàn của Cộng hòa Pháp.
Pháp
306.000 quân Pháp thiệt mạng trong chiến đấu.
1.800.000 quân Pháp và đồng minh chết trong chiến đấu, bệnh tật, bị thương và mất tích
Chiến tranh bán đảo :
180.000–240.000 người chết
91.000 người thiệt mạng trong chiến đấu
Cuộc xâm lược của Nga :
334.000 người chết
100.000 người thiệt mạng (70.000 quân Pháp và 30.000 quân đồng minh)
Lực lượng liên minh
Những con số dưới đây chỉ bao gồm số người chết trong các trận đánh lớn giai đoạn từ 1803 đến 1815. Dumas đề nghị nhân tổng số trước đó với ba để bao gồm cả số ca tử vong do bệnh tật.
120.000 người Ý chết hoặc mất tích
Nga: 289.000 người thiệt mạng trong các trận đánh lớn, tổng số quân nhân thiệt mạng là ~867.000
Phổ: 134.000 người thiệt mạng trong các trận đánh lớn, tổng số quân nhân thiệt mạng là ~402.000
Áo: 376.000 người thiệt mạng trong các trận đánh lớn, tổng số quân nhân thiệt mạng là ~1.128.000
Tây Ban Nha: hơn 300.000 quân nhân thiệt mạng, tổng cộng – hơn 586.000 người thiệt mạng.
Bồ Đào Nha: lên tới 250.000 người chết hoặc mất tích.
Anh: 311.806 người chết hoặc mất tích.
Tử trận: 560.000–1.869.000
Tổng cộng: 2.380.000–5.925.084
Hải quân Hoàng gia Anh, 1804–1815:
Tử trận: 6.663
Đắm tàu, chết đuối, hỏa hoạn: 13.621
Bị thương, bệnh tật: 72.102
Tổng cộng : 92.386
Lục quân Anh, 1804–1815:
Tử trận: 25.569
Bị thương, tai nạn, bệnh tật: 193.851
Tổng cộng : 219.420
Tổng số người chết và mất tích
2.500.000 quân nhân ở Châu Âu
1.000.000 thường dân thiệt mạng ở châu Âu và các thuộc địa của Pháp ở hải ngoại.
Tổng cộng : 3.500.000 thương vong
David Gates ước tính có 5.000.000 người chết trong Chiến tranh Napoléon. Ông không nói rõ con số này bao gồm dân thường hay chỉ là quân nhân.
Chú thích
Người giới thiệu
.
. (See Matthew White.) White notes: "The era of almost continuous warfare that followed the overthrow of the French monarchy is traditionally split into three parts: The Revolution itself (including all internal conflicts) The Revolutionary Wars during which France fought international wars as a Republic" . White notes in section called "Main sequence" on another page "There's a string of authorities who seem to build their research on each other's earlier guesstimates: Sorokin, Small & Singer, Eckhardt, Levy, Rummel, the Correlates of War Project, etc. Most mainstream statistical analysis of war is based on these authorities; however, if you look at the individual authorities on the Main Sequence, you'll see that some have specific problems that carry over as they borrow from one another. See the wars in Algeria or South Africa for examples of how the Main Sequence agrees with itself and not with historians of the specific war" . White cites:
cites four sources
, cites Esdaile
Thương vong chiến tranh theo chiến tranh
Chiến tranh Napoléon
|
19840637
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0u%20ng%E1%BA%A7m%20l%E1%BB%9Bp%20Ohio
|
Tàu ngầm lớp Ohio
|
Tàu ngầm lớp Ohio là một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Hải quân Mỹ, bao gồm 14 tàu mang tên lửa liên lục địa (SSBN) và bốn tàu ngầm mang tên lửa hành trình (SSGN). Với việc có lượng choán nước 18.750 tấn khi chìm, tàu ngầm lớp Ohio là tàu ngầm lớn nhất từng được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ. Chúng là tàu ngầm lớn thứ ba trên thế giới sau tầu ngầm Lớp Typhoon của Nga (48.000 tấn) (lớp Typhoon đã dừng hoạt động từ năm 2023) và Lớp Borei (24.000 tấn). Với việc trang bị 20 tên lửa Trident II, tàu ngầm lớp Ohio có khả năng mang theo số lượng tên lửa đạn đạo tương tự như các tàu ngầm lớp Borei hoặc lớp Typhoon.
Tương tự như các lớp tàu ngầm lớp Benjamin Franklin và tàu ngầm lớp Lafayette trước đó, tàu ngầm SSBN lớp Ohio là một phần trong cây đinh ba răn đe hạt nhân của Hoa Kỳ cùng với lực lượng máy bay ném bom chiến lược và tên lửa chiến lược của Không quân Hoa Kỳ. 14 chiếc tàu ngầm SSBN có khả năng mang theo một nửa số đầu đạn thermonuclear hoạt động của Hoa Kỳ. Dù cho tên lửa Trident không định trước mục tiêu trước mỗi chuyến tuần tra, chúng có khả năng nạp thông tin mục tiêu rất nhanh chóng, từ Bộ tư lệnh Chiến lược Hoa Kỳ đặt tại Nebraska, sử dụng đường truyền radio trong đó có hệ thống liên lạc tần số thấp.
Chiếc tàu đầu tiên được đóng là . Tất cả các tàu ngầm lớp Ohio trừ chiếc , được đặt theo tên các Bang của Mỹ, một truyền thống đặt tên tương tự như các Thiết giáp hạm và Tàu tuần dương. Tàu ngầm lớp Ohio dự kiến sẽ được thay thế bởi tàu ngầm lớp Columbia từ năm 2031.
Mô tả
Tàu ngầm lớp Ohio được thiết kế để mở rộng phạm vi răn đe chiến lược. Mỗi chiếc tàu ngầm sẽ do hai kíp thủy thủ đoàn điều khiển, được gọi là Thủy thủ đoàn Xanh và Thủy thủ đoàn Vàng, mỗi đội thủy thủ sẽ phục vụ từ 70 đến 90 ngày trên biển. Để giảm thời gian tại cảng để luân chuyển và bổ sung thủy thủ đoàn, ba hầm hậu cần lớn được lắp đặt để cung cấp khả năng tiếp cận và sửa chữa đường kính lớn. Những khoang này sẽ giúp vận chuyển nhanh các pallet tiếp tế, thay thế module thiết bị, các chi tiết máy, tăng tốc độ bổ sung và bảo trì tàu ngầm. Thêm nữa, tính năng tàng hình của tàu ngầm được nâng cao rõ rệt so với các thế hệ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo trước đó, khi nó hầu như không bị phát hiện trong các cuộc thử nghiệm trên biển năm 1982.
Thiết kế của tàu ngầm cho phép nó có thể vận hành khoảng 15 năm trước khi cần đại tu lớn. Tàu ngầm hoạt động êm ái nhất ở tốc độ hành trình lớn hơn di chuyển yên tĩnh nhất ở tốc độ , mặc dù thông tin chính xác vẫn là thông tin được bảo mật. Tàu ngầm Ohio sử dụng hệ thống điều khiển bắn Mark 118 Mod 2 cho ngư lôi Mark 48, trong khi hệ thống điều khiển bắn tên lửa là Mark 98.
Tàu ngầm lớp Ohio được chế tạo với bốn khoang riêng biệt, đường kính mỗi khoang là . Các phần được sản xuất tại Nhà máy của General Dynamics Electric Boat, Quonset Point, Rhode Island, và sau đó được lắp ráp lại tại xưởng đóng tàu đặt taị Groton, Connecticut.
Hải quân Hoa Kỳ hiện có tổng cộng 18 tàu ngầm lớp Ohio, trong đó 14 tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo trong khi 4 tàu ngầm đã được chuyển đổi sang làm tàu ngầm mang tên lửa hành trình (SSGN). Các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo SSBN cung cấp khả năng răn đe hạt nhân từ dưới biển sâu. Mỗi tàu ngầm được trang bị tới 20 tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm Trident II. Mỗi tàu ngầm mang tên lửa hành trình có khả năng mang được 154 tên lửa hành trình BGM-109 Tomahawk, cộng với các tên lửa chống tàu Harpoon được phóng từ ống phóng ngư lôi.
Lịch sử
Tàu ngầm lớp Ohio được thiết kế từ những năm 1970 để có thể triển khai các tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm Trident vừa mới được thiết kế. Tám tàu lớp Ohio đầu tiên được trang bị đầu tiên với 24 tên lửa UGM-96 Trident I C4. từ chiếc tàu ngầm thứ chín trở đi được vũ trang bởi tên lửa UGM-133 Trident II lớn hơn. Tên lửa đạn đạo Trident I có khả năng mang tám đầu đạn MIRV, trong khi tên lửa Trident II có thể mang 12 đầu đạn, tổng đương lượng nổ lớn hơn Trident I và có độ chính xác cao hơn. Năm 2000, kể từ tàu ngầm Hải quân Mỹ đã chuyển tất cả các tàu ngầm mang tên lửa C4 sang sử dụng tên lửa D5. Quá trình thay thế hoàn tấn vào giữa năm 2008. Tám tàu ngầm đầu tiên lớp Ohio có cảng nhà đặt tại Căn cứ Hải quân Kitsap, Bangor, Washington, để thay thế tàu ngầm mang tên lửa Polaris A3 đã nghỉ hưu. 10 tàu ngầm còn lại đặt tại cảng Hải quân Kings bay, Georgia, thay thế cho Hạm đội tàu ngầm mang tên lửa Poseidon và Trident của Hamj đội Đại Tây Dương.
Chuyển đổi sang tàu ngầm mang tên lửa hành trình SSGN
Năm 1994, nghiên cứu Đánh giá tình hình hạt nhân đã xác định rằng, trong tổng số 18 chiếc SSBN Ohio mà Hải quân Hoa Kỳ vận hành là dư thừa, mà chỉ cần 14 chiếc là đủ cho nhu cầu chiến lược của Mỹ. Quyết định được đưa ra là chuyển đổi bốn tàu lớp Ohio thành tàu ngầm mang tên lửa hành trình SSGN có khả năng tiến hành các cuộc tấn công mặt đất thông thường và các hoạt động đặc biệt. Kết quả là, bốn tàu ngầm nhiều có tuổi đời hoạt động lâu nhất — Ohio, Michigan, Florida và Georgia — dần dần bước vào quá trình chuyển đổi vào cuối năm 2002 và được đưa trở lại hoạt động vào năm 2008. Các tàu ngầm sau khi được chuyển đổi có khả năng mang theo 154 tên lửa hành trình Tomahawk và 66 nhân viên hoạt động đặc biệt, cùng các năng lực và nâng cấp khác. Chi phí để tân trang lại bốn chiếc tàu ngầm là khoảng 1 tỷ USD (đô la 2008) mỗi tàu.
Trong quá trình sửa đổi tàu, 22 ống phóng trong tổng số 24 ống phóng tên lửa Trident II đường kính được lắp đặt cơ cấu phóng thẳng đứng cỡ lớn, trong đó một cấu hình cho phép lắp đặt mỗi ống phóng cụm bảy tên lửa hành trình Tomahawk. Theo cấu hình này, số tên lửa mà tàu ngầm lớp Ohio có thể mang theo lên tới 154 quả, tương đương với số lượng tên lửa được triển khai bởi cả một hạm đội tàu mặt nước. Ngoài ra ống phóng tên lửa Trident cũ cũng có thể dùng để phóng tên lửa hành trình siêu vượt âm thế hệ mới, và tên lửa đạn đạo tầm trung phóng từ tàu ngầm, phương tiện bay không người lái, ADM-160 MALD, cảm biến chống ngầm hoặc thu thập thông tin tình báo, và chống thủy lôi như AN/BLQ-11 Long Term Mine Reconnaissance System.
Ống phóng tên lửa có thể sử dụng làm khoang điều áp dùng cho lực lượng đặc biệt.
Giảm số lượng ống phóng tên lửa
Là một phần trong hiệp ước New START, bốn ống phóng tên lửa SSBN trên mỗi tàu ngầm đã được loại bỏ vào năm 2017.
Chi tiết tàu ngầm
Danh sách tàu ngầm lớp Ohio
Note: Boats based at Naval Base Kitsap, Washington are operated by the U.S. Pacific Fleet, while boats based at Naval Submarine Base Kings Bay, Georgia are operated by U.S. Fleet Forces Command, (formerly the U.S. Atlantic Fleet).
Thay thế
Bộ quốc phòng Hoa Kỳ cần thay thế lớp tàu Ohio đã già cỗi để duy trì khả năng răn đe chiến lược. Dự kiến tàu ngầm đầu tiên thuộc lớp Ohio SSBN sẽ được loại biên vào năm 2029. Dự kiến việc thay thế chúng sẽ tốn khoảng 4 tỉ đô la Mỹ cho mỗi tàu ngầm mới so với 2 tỉ đô la cho mỗi tàu ngầm Ohio. Hải quân Mỹ có hai phương án, phương án một là phát triển phiên bản tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Virginia Phương án hai là tàu ngầm SSBN chuyên dụng, bằng cách chế tạo mới hoặc đại tu các tàu ngầm lớp Ọhio hiện có.
Tàu ngầm SSBN thế hệ mới lớp Columbia được bắt đầu thiết kế chính thức từ ngày 14 tháng Mười hai năm 2016, với con tàu đầu tiên sẽ là . Hải quân Mỹ mong muốn sẽ có tàu ngầm mới vào năm tài chính 2021, tuy nhiên người ta dự đoán sẽ không thể kịp đưa tàu ngầm lớp Columbia vào hoạt động trước năm 2031.
Xem thêm
List of submarine classes of the United States Navy
List of submarines of the United States Navy
List of submarine classes in service
Submarines in the United States Navy
Submarine-launched ballistic missile
Ghi chú
Tham khảo
Bibliography
Đọc thêm
Liên kết ngoài
SSBN-726 Ohio-class page on Globalsecurity.org
Chonday video: The Largest Submarine in the U.S. Navy
Tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm mang tên lửa hành trình
Tàu chiến Hoa Kỳ
Tàu ngầm hạt nhân
Lớp tàu ngầm
|
19840645
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20U-21%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202003
|
Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2003
|
Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2003, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia - Cúp báo Thanh Niên 2002, là mùa giải thứ sáu của Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) phối hợp với báo Thanh Niên tổ chức.
Các đội bóng
Vòng loại
Bảng A
Các trận đấu diễn ra tại Nam Định.
Bảng B
Các trận đấu diễn ra tại sân vận động Thanh Hóa, Thanh Hóa.
Bảng C
Các trận đấu diễn ra tại sân vận động Chi Lăng, Đà Nẵng.
Bảng D
Các trận đấu diễn ra tại sân vận động Pleiku, Gia Lai.
Bảng E
Các trận đấu diễn ra tại sân vận động Gò Đậu, tỉnh Bình Dương.
Bảng F
Các trận đấu diễn ra tại Long An và Bạc Liêu.
Vòng chung kết
Bảng A
Bảng B
Vòng đấu loại trực tiếp
Bán kết
Chung kết
Các giải thưởng chung cuộc
Tham khảo
Liên kết ngoài
Liên đoàn bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá U21 Quốc gia Việt Nam
Bóng đá Việt Nam năm 2003
|
19840685
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%A1ch%20Huy%E1%BB%87n
|
Lạch Huyện
|
Lạch Huyện là vùng nước nằm giữa đảo Cát Hải và đảo Cát Bà thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Lạch này được xem là đoạn nối tiếp của sông Chanh đổ ra vịnh Bắc Bộ, ở giữa lạch có một ngọn hải đăng. Khu vực này thường bị phù sa bồi lấp nên có nơi nông nơi sâu, độ sâu lạch là 2–14 m. Cảng Lạch Huyện được đưa vào sử dụng từ năm 2018 hiện được xem là cảng nước sâu lớn nhất miền Bắc Việt Nam.
Tuyến đường tỉnh 356 nối trung tâm Hải Phòng với đảo Cát Bà vượt Lạch Huyện bằng phà với hai bến Gót (phía đảo Cát Hải) và Cái Viềng (phía đảo Cát Bà). Bên cạnh đó, vào năm 2020, Tập đoàn Sun Group đã khánh thành tuyến cáp treo 3 dây Cát Hải – Phù Long dài 3.955 m vượt Lạch Huyện, giúp rút ngắn thời gian di chuyển ra đảo Cát Bà so với đi phà.
Lịch sử
Dưới thời Pháp thuộc, chính quyền đã có kế hoạch sử dụng lạch này làm luồng tàu ra vào cảng Hải Phòng do cửa Cấm (sông Cấm) và cửa Nam Triệu (sông Bạch Đằng) bị phù sa bồi lấp phải nạo vét tốn kém. Phương án được đưa ra khi đó bao gồm: xây dựng một tuyến đê biển dài 12,6 km ở phía tây nam Lạch Huyện; nạo vét Lạch Huyện để tạo luồng lạch sâu 7,5 m, chiều rộng đáy luồng 150 m; đào kênh cắt qua bán đảo Hà Nam với chiều rộng đáy luồng 150 m. Tuy nhiên, do chi phí xây dựng quá cao, lên đến 10,4 triệu đô la nên dự án đã không khả thi đối với tình kinh tế vào thập niên 1930.
Vào thập niên 1980, chính quyền thành phố Hải Phòng đã cho đào kênh Cái Tráp cắt qua bán đảo Hà Nam, nối Lạch Huyện với cửa Nam Triệu, để tạo tuyến đường thủy ngắn hơn từ Hải Phòng đi Quảng Ninh. Tuy nhiên, kênh Cái Tráp có chiều rộng nhỏ, chỉ để đáp ứng cho các tàu thuyền và xà lan có trọng tải nhỏ nên đầu năm 2006, con kênh đào mới là kênh Hà Nam đã được đưa vào sử dụng để tạo tuyến luồng mới vào cảng Hải Phòng.
Cảng Lạch Huyện
Công trình cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, tức cảng nước sâu Lạch Huyện, được Bộ Giao thông vận tải phê duyệt vào ngày 15 tháng 3 năm 2011. Theo đó, trong giai đoạn khởi động của cảng Lạch Huyện sẽ xây dựng các hạng mục: Luồng tàu rộng 160 m, sâu 14 m cùng hệ thống đê chắn sóng, đê chắn cát bảo vệ luồng các hạng mục tôn tạo bãi, bến tàu công vụ cho đội tàu lai dắt, dịch vụ; 2 bến cảng tổng hợp, container có chiều dài 750 m được thiết kế cho cỡ tàu 5–10 vạn tấn, nạo vét và chuyển 40 triệu m³ bùn đi chỗ khác. Tuy nhiên, phương án này sau đó đã sớm vấp phải nhiều ý kiến phản đối vì vị trí cảng được xây dựng ở vùng sa bồi, chi phí nạo vét cao cũng như tác động đến môi trường khi đổ một lượng bùn thải lớn. Ông Tạ Quyết Thắng, Giám đốc Công ty TNHH Sơn Trường đề xuất phương án dịch chuyển vị trí cảng ra ngoài phía biển cách bờ khoảng 14 km, tận dụng doi cát tự nhiên để xây dựng kho bãi với diện tích khoảng gần 2.000 ha có đường giao thông kết nối nội địa chạy suốt dọc chiều dài 14 km bám dọc theo Lạch Huyện, chiều rộng kho bãi cảng là 800 m. Bộ Giao thông vận tải sau đó đã bác bỏ đề xuất này và dự án vẫn được tiến hành khởi công vào ngày 14 tháng 4 năm 2013. Ngày 13 tháng 5 năm 2018, Cảng Container Quốc tế Tân Cảng Hải Phòng (TC-HICT) chính thức khai trương. Đây là doanh nghiệp cảng đầu tiên đầu tiên khai thác bến số 1, 2 của cảng Lạch Huyện.
Chú thích
Sông tại Hải Phòng
Cửa biển Việt Nam
Cát Hải
|
19840709
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ben%20Knight%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
|
Ben Knight (cầu thủ bóng đá)
|
Benjamin Leo Knight (sinh ngày 14 tháng 6 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Manchester City tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp thi đấu
Đầu sự nghiệp
Sinh ra tại Cambridge, Knight bắt đầu sự nghiệp bóng đá của mình với đội bóng địa phương Burwell Tigers, tham gia đội U7, trước khi gia nhập Ipswich Town. Sau 8 năm gắn bó với đội bóng, Knight gia nhập Manchester City vào tháng 7 năm 2018.
Manchester City
Knight ra mắt chuyên nghiệp cho Manchester City vào ngày 7 tháng 8 năm 2021, khi vào sân thay cho Ferran Torres ở phút thứ 74 trong trận thua 0–1 trước Leicester City tại Siêu cúp Anh 2021, diễn ra trên sân vận động Sân vận động Wembley.
Cho mượn tại Crewe Alexandra
Vào ngày 16 tháng 8 năm 2021, Knight gia nhập Crewe Alexandra theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải, và ra mắt trong trận thua 1–0 trước Oxford United. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Crewe trong lần ra sân thứ 5, bàn ấn định chiến thắng 1–0 chung cuộc trước Shrewsbury Town tại EFL Trophy vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, nhưng sau đó dính chấn thương khiến anh phải nghỉ thi đấu cho đến ngày 30 tháng 10 năm 2021. Anh chơi thêm năm trận nữa, ghi một bàn, trước khi lại phải ngồi ngoài vì chấn thương chân.
Đời tư
Knight là cháu trai của cựu tuyển thủ cricket quốc tế người Anh, Nick Knight.
Thống kê sự nghiệp
Ghi chú
Tham khảo
Sinh năm 2002
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ bóng đá Ipswich Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ bóng đá Crewe Alexandra F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá English Football League
Tiền đạo bóng đá nam
|
19840718
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%91%20ga%20v%E1%BB%87%20sinh
|
Hố ga vệ sinh
|
Hố ga vệ sinh là một cái lỗ tròn, sâu dưới đất, được xây dựng bằng bê tông hoặc vật liệu khác. Hố ga thường có đường kính khoảng 0,5 - 1 mét, và được đặt cách mặt đất từ 0,5 - 1,5 mét. Nắp hố ga thường được làm bằng gang hoặc thép, có lỗ tròn ở giữa để người ta có thể xuống hố kiểm tra và sửa chữa hệ thống cống thoát nước.
Vị trí
Hố ga vệ sinh là một bộ phận quan trọng trong hệ thống thoát nước thải, có nhiệm vụ giúp lắng đọng rác thải, bùn đất, giúp dòng nước chảy thuận lợi hơn. Vị trí xây dựng hố ga cần được cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo hiệu quả hoạt động của hệ thống thoát nước thải.
Không có quy chuẩn chung về khoảng cách giữa các hố ga vệ sinh trên đường ống cống thẳng. Theo truyền thống, ở Hoa Kỳ, các hố ga thường được đặt ở mỗi giao lộ, cách nhau khoảng 300-400 feet (91-122 m). Tuy nhiên, một hướng dẫn hiện đại hơn đề xuất khoảng cách 400 feet (120 m) cho đường ống cống có đường kính nhỏ và 500 feet (150 m) cho đường ống cống chính có đường kính lớn. Khoảng cách hố ga vệ sinh ở Canada dao động từ 120 đến 150 mét, tùy đường kính đường ống. Khoảng cách tối đa giữa các cống ở Anh là 90 mét, ngoại trừ cống có đường kính lớn hơn chiều cao của con người, có thể có khoảng cách lên tới 200 mét. Ở Scotland, khoảng cách tối đa là 100 mét. ở Brazil là 120 mét, và ở Nam Phi là 150 mét.
Xây dựng
Các hố ga vệ sinh truyền thống được xây bằng gạch, có đáy bằng bê tông hình tròn. Tường gạch được xây lên từ dưới đáy, càng lên cao thì càng nhỏ dần. Gần đỉnh, tường gạch giảm nhanh chóng tạo thành hình nón. Nắp hố ga có đường kính nhỏ hơn, khớp với hình nón. Một cái thang bằng sắt được xây trên tường để thuận tiện cho việc kiểm tra và bảo trì.
Hố ga có thể được xây dựng bằng nhiều vật liệu khác nhau, từ gạch và đá truyền thống đến bê tông đúc sẵn và nhựa hiện đại. Bê tông đúc sẵn là vật liệu phổ biến nhất hiện nay, nhưng gạch và khối bê tông vẫn được sử dụng trong một số trường hợp đặc biệt. Vào thế kỷ 19, hố ga ở Mỹ được xây dựng bằng gạch và vữa hoặc đá. Vào giữa thế kỷ 20, bê tông đúc sẵn đã được giới thiệu. Vào cuối thế kỷ 20, bê tông đúc tại chỗ đã được sử dụng. Các vật liệu mới hơn như HDPE, bê tông có phụ gia chống ăn mòn và nhựa được sử dụng. Hiện nay, bê tông đúc sẵn là vật liệu phổ biến nhất cho các hố ga mới. Khi thi công hố ga vệ sinh bằng bê tông đúc sẵn, các mối nối giữa các miếng bê tông đúc sẵn phải có gioăng đệm để đảm bảo độ kín nước và chống thấm. Gioăng đệm phải tuân thủ tiêu chuẩn ASTM C478.
Nắp hố ga vệ sinh là cái đậy trên cùng của hố ga, có khung và nắp đậy. Nắp đậy được thiết kế để chịu tải trọng của xe cộ và người đi bộ. Có loại nắp dành cho xe cộ và loại nắp dành cho người đi bộ.
Phân loại theo chức năng
Hố ga giao nhau
Hố ga giao nhau là nơi hai hoặc nhiều đường ống thoát nước gặp nhau. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo dòng chảy thông suốt và tránh tình trạng tràn nước.
Hố ga thả
Nước thải là một hỗn hợp gồm chất lỏng và chất rắn. Khi dòng nước thải từ một đường ống cao hơn đổ xuống hố ga, một số chất rắn có thể không trôi xuống rãnh của hố ga và đường ống ra. Điều này có thể gây hư hỏng cho hố ga. Do đó, chênh lệch độ cao giữa các đường ống đầu vào và đường ống ra không nên quá lớn, thường được khuyến nghị là dưới 60 cm (24 inch).
Hố ga xoáy là một thiết bị thu gom nước thải có cấu tạo đặc biệt. Dòng nước từ cao chảy xuống hố ga sẽ đi vào một trục thẳng đứng có cấu trúc xoắn ốc. Dòng nước sẽ xoáy tròn theo cấu trúc xoắn ốc này và chảy xuống đáy hố ga. Trong quá trình chảy xuống, dòng nước sẽ bám vào thành ngoài của cấu trúc xoắn ốc. Sự ma sát giữa dòng nước và thành hố ga sẽ khiến năng lượng của dòng nước bị tiêu tan, dẫn đến tốc độ dòng nước được kiểm soát.
Hố ga có lối vào bên
Hố ga lối vào bên là một loại hố ga được sử dụng để thu gom nước thải từ đường ống thoát nước. Hố ga này có đặc điểm là có một đường hầm nối với đường ống thoát nước theo phương ngang. Đường hầm này cho phép công nhân vệ sinh tiếp cận đường ống thoát nước để thực hiện các công việc bảo trì, sửa chữa.
Hố ga nạo vét
Đối với những hệ thống cống lớn hơn cần được nạo vét thường xuyên bằng dụng cụ chuyên dụng, việc tiếp cận cống phải được thực hiện thông qua các hố ga có cửa mở lớn hơn để cho phép hạ thiết bị nạo vét xuống. Kích thước cửa của các hố ga nạo vét thường nằm trong khoảng từ 90 đến 120 cm. Một giải pháp thay thế việc con người xuống hố ga nạo vét để loại bỏ tắc nghẽn cống là sử dụng xe hút chân không và máy phun nước áp lực cao. Các thiết bị này có thể được vận hành từ mặt đất thông qua các hố ga có kích thước bình thường.
Hố ga xả
Ở đầu của một hệ thống cống, có thể có lưu lượng nước nhỏ không đủ để di chuyển các chất rắn trong nước thải xuống cống. Do đó, có thể cần thêm dòng chảy để xả sạch các cặn bã này. Điều này có thể được thực hiện bằng cách đặt một hố ga xả ở đầu cống.
Hố ga xả được sử dụng để chứa nước có thể được xả ra để cuốn trôi các chất rắn trong cống. Một thiết kế đơn giản là một hố ga cho phép nhân viên vệ sinh mở và đóng van từ mặt đất để thực hiện các hoạt động nạp nước và xả. Nguồn nước cho hố ga xả có thể đến từ nước sạch, nước thủy triều hoặc nước từ bể lắng của nhà máy xử lý nước thải.
Bảo trì và sự cố
Thấm và chảy vào
Thấm và chảy vào (I&I) là hiện tượng nước không phải nước thải đi vào hệ thống thoát nước. Thấm là khi nước ngầm rò rỉ vào cống qua các đường ống, khớp nối và hố ga bị hỏng. Chảy vào là khi nước mưa hoặc nước bề mặt khác chảy trực tiếp vào hệ thống thoát nước qua các lỗ thông hơi và nắp hố ga.
Kiểm tra cống và hố ga thường xuyên là biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất để giảm thiểu thấm và chảy vào. Việc kiểm tra này giúp phát hiện và sửa chữa kịp thời các hư hỏng, ngăn ngừa nước ngầm và nước mưa rò rỉ vào hệ thống thoát nước.
Khi trời mưa to, nước có thể chảy vào hệ thống cống thoát nước, khiến cống bị quá tải và tràn. Máy bơm có thể được sử dụng để hút nước ra khỏi cống, nhưng nước này cần được chứa và vận chuyển đến nhà máy xử lý nước thải để tránh ô nhiễm môi trường.
Tràn cống thoát nước vệ sinh
Tràn cống vệ sinh là hiện tượng nước thải chảy ra môi trường từ hệ thống cống thoát nước. Hố ga là nơi thường xảy ra tràn cống vệ sinh. Nguyên nhân gây tràn có thể là do nước chảy vào quá nhiều hoặc cống bị tắc.
Khi cống bị tắc, cần kiểm tra hố ga. Tắc nghẽn thường xảy ra giữa hố ga có nước tràn và hố ga tiếp theo phía hạ lưu. Bẫy cát được đặt tại cửa ra của hố ga phía hạ lưu để giữ lại mảnh vỡ trong quá trình thông tắc nghẽn. Máy phun nước hoặc máy thông cống điện được sử dụng để thông tắc nghẽn.
Chú thích
Công ty hạ tầng công cộng
Không gian trong lòng đất
Thiết bị đường phố
Nước thải
|
19840737
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20Marapi
|
Núi Marapi
|
Marapi (chữ cái Jawi: ماراڤي), hoặc núi Marapi (, , chữ cái Jawi: ڬونوواڠ ماراڤي), là một núi lửa phức hợp ở Tây Sumatra, Indonesia và là núi lửa hoạt động mạnh nhất ở Sumatra. Giống như gần như đồng âm trên Java, tên của nó có nghĩa là "Núi lửa". Độ cao của nó là 2885 m. Một số thành phố và thị trấn nằm xung quanh ngọn núi bao gồm Bukittinggi, Padang Panjang và Batusangkar. Núi lửa cũng được những người đi bộ đường dài yêu thích.
Lịch sử phun trào
Vụ phun trào năm 2023
Vào ngày 3 tháng 12 năm 2023, núi lửa này phun trào khiến 23 nhà leo núi thiệt mạng. Ba người bị thương và được cấp cứu. Tro phun lên đến độ cao 3000 mét và rơi xuống các khu vực xung quanh. Chính quyền đã công bố một khu vực cấm vào có bán kính 3 km xung quanh núi.
Tham khảo
Núi Indonesia
|
19840741
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Guayana%20Esequiba
|
Guayana Esequiba
|
Guayana Esequiba, hoặc gọi là Esequibo, Essequibo, là lãnh thổ tranh chấp nằm ở bờ tây của sông Essequibo, hiện tại do Guyana cai quản, chiếm 62% diện tích lãnh thổ Guyana, nhưng Venezuela chưa bao giờ từ bỏ yêu cầu lãnh thổ đối với khu vực này. Hai nước Guyana và Venezuela tồn tại tranh chấp lâu dài về vấn đề chủ quyền của khu vực Esequiba, khu vực tranh chấp chiếm 2/3 diện tích lãnh thổ do Guyana kiểm soát thực tế. Guyana cho rằng, biên giới giữa hai nước phải là do toà Trọng tài năm 1899 (en) xác định, nhưng Venezuela kiên quyết cho rằng, sông Essequibo phải là biên giới tự nhiên, giống như trạng thái hồi năm 1777.
Đầu thế kỉ IX, đã có người Anh-điêng định cư ở Guyana. Năm 1498, Columbus đi giữa đường đến bờ biển Guyana. Kể từ thế kỉ XVI, các thực dân như Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh và Pháp lần lượt xâm lược. Cuối thế kỉ XVI, người Hà Lan đến Guyana làm nghề mua bán thuốc nhuộm, nhựa cây và gỗ vùng nhiệt đới, năm 1616 đã thiết lập Thuộc địa Essequibo tại Guyana, năm 1621 thành lập Công ty Tây Ấn Hà Lan để tiến hành quản lí, đã khai hoang và phát triển các vườn mía, đồng thời buôn bán vận chuyển lượng lớn nô lệ người da đen.
Năm 1814, Anh Quốc đã giành được chủ quyền Guiana từ trong tay Hà Lan, sau đó đem biên giới phía tây mở rộng dần dần sang Venezuela. Đến năm 1882, Venezuela không nhịn được, yêu cầu Anh Quốc chấp nhận trọng tài, toà trọng tài phát sinh vào năm 1899. Người ta đánh giá, trọng tài lần đó khiến cho Guiana thuộc Anh đã bảo toàn vùng lãnh thổ này, nhưng đã ngăn cản nó tiếp tục xâm chiếm về phía tây. Venezuela hầu như không bằng lòng về trọng tài, một trăm năm sau nó tuyên bố trọng tài vô hiệu.
Vấn đề Esequiba đã có lịch sử hơn 200 năm, nguyên nhân cơ bản là sau khi Hà Lan cắt nhượng thuộc địa Mỹ La-tinh cho Anh Quốc theo Hiệp ước Anh - Hà Lan năm 1814 (en), người Anh Quốc đơn phương đã hoạch định đường Schomburgk, dẫn đến Anh Quốc và Guyana sau khi độc lập đã tranh cãi về bộ phận lãnh thổ này với Venezuela trong một khoảng thời gian dài, toà Trọng tài năm 1899 phán quyết 90% lãnh thổ thuộc Guiana thuộc Anh, 10% lãnh thổ thuộc Venezuela. Việc phát hiện vàng và dầu mỏ đã làm trầm trọng hơn cuộc tranh cãi về vùng lãnh thổ này, đặc biệt là những năm gần đây Guyana đem quyền khai thác mỏ dầu trên biển bán cho Hoa Kỳ.
Chú thích
Tham khảo
LaFeber, Walter. "The Background of Cleveland's Venezuelan Policy: A Reinterpretation." American Historical Review 66 (July 1961), pp. 947–967.
Schoult, Lars. A History of U.S. Policy Toward Latin America Cambridge: Harvard University Press, 1998.
U.S. Department of State, Office of the Historian, "Venezuela Boundary Dispute, 1895–1899"
Lãnh thổ tranh chấp
|
19840750
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minamitsugaru%20%28huy%E1%BB%87n%29
|
Minamitsugaru (huyện)
|
là huyện thuộc tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của huyện là 30.564 người và mật độ dân số là 140 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 223,1 km2.
Tham khảo
Huyện của Aomori
|
19840755
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/BMW%205%20Series%20%28G60%29
|
BMW 5 Series (G60)
|
Thế hệ thứ tám của dòng xe sang cỡ trung BMW 5 Series bao gồm hai mẫu BMW G60 (kiểu dáng sedan) và BMW G61 (kiểu thân station wagon, định vị trên thị trường là 'Touring'), thường được gọi chung với cái tên G60. Xe được công bố chính thức vào ngày 24 tháng 5 năm 2023, bắt đầu đi vào sản xuất tại nhà máy Dingolfing của BMW ngay trong năm với những đợt giao hàng đầu tiên dự kiến diễn ra vào khoảng tháng 10.
Một biến thể thuần điện mang tên BMW i5 đã ra mắt cùng thời điểm với bản sedan chạy xăng. Bên cạnh đó, phiên bản sedan trục cơ sở dài dành riêng cho thị trường Trung Quốc với tên mã G68 đã trình làng vào tháng 8 năm 2023 và được lắp ráp tại nhà máy Đại Đông thuộc quốc gia này. Ngoài ra, BMW cũng đã loại phiên bản fastback 6 Series Gran Turismo ra khỏi dây chuyền sản xuất.
Tổng quan
Thân xe và khung gầm
5 Series G60 sử dụng hệ khung gầm kiến trúc BMW's Cluster Architecture (CLAR), vốn là nền tảng cho tất cả các dòng BMW chạy điện hoặc dùng động cơ đốt trong. Do có gầm xe gần như phẳng lì nên hệ số cản của G60 rất thấp, cụ thể là 0,23. So với bản tiền nhiệm thì G60 có chiều dài nhỉnh hơn , rộng hơn và cao hơn , trong khi chiều dài cơ sở của xe tăng thêm khoảng để đạt mức . Qua đó, kích thước của nó thậm chí còn dài hơn cả đàn anh 7 Series đời E65 cỡ lớn.
Hệ khung gầm kiểu mới được trang bị hệ thống treo tay đòn kép phía trước có bộ giảm chấn cuộn cùng với hệ thống treo đa điểm sau kèm theo bộ giảm chấn khí, cũng như hệ thống kiểm soát hướng lực kéo hay còn được biết đến với cái tên Hạn chế trượt bánh cận truyền động. Ngoài ra, 5 Series G60 còn cung cấp những tính năng tùy chọn bao gồm Hệ thống bốn bánh dẫn hướng (Integral Active Steering) có thể quay bánh sau tới 2,5 độ, bên cạnh các thanh chống lật chủ động và bộ giảm chấn thích ứng.
Hệ truyền động
5 Series G60 cung cấp nhiều cấu hình động cơ xăng và diesel tăng áp, tất cả đều trang bị đồng bộ hệ thống hybrid nhẹ có máy phát điện khởi động 48V. Bên cạnh đó, xe còn được bổ sung thêm cấu hình lai sạc điện. Hệ thống dẫn động 4 bánh toàn thời gian BMW xDrive là trang bị tùy chọn đối với bản thông thường và có sẵn trên những bản cao cấp nhất.
Trang bị
5 Series G60 là dòng BMW đầu tiên được trang bị hệ thống thông tin giải trí iDrive phiên bản 8.5 dựa trên hệ điều hành Linux. Phần giao diện được truy cập thông qua màn hình điều khiển BMW Curved Display tích hợp màn hiển thị thông tin 310 mm (12.3 in) và hệ thống thông tin giải trí 380 mm (14.9 in) với giao diện cảm ứng kiểu mới. Hệ điều hành cũng bổ sung thêm nội dung kỹ thuật số, bao gồm nhiều tùy chọn phát video trực tuyến và một số tính năng chơi trò chơi điện tử thông qua AirConsole, ứng dụng lấy điện thoại thông minh làm bộ điều khiển chung.
Sau 7 Series thế hệ mới vừa ra mắt, 5 Series G60 là dòng xe tiếp theo được trang bị dải cảm ứng BMW Interaction Bar. Đây là một tính năng tùy chọn đối với các phiên bản thường và được lắp cố định trên mẫu chạy điện i5. Trang bị này bổ sung thêm các nút có chức năng điều chỉnh điều hòa không khí và đèn cảnh báo nguy hiểm, cùng với màn hình mỏng tích hợp công nghệ backlit chạy dọc khắp bảng điều khiển đến tận cửa trước của xe.
Về chất liệu nội thất, 5 Series G60 là mẫu xe đầu tiên của thương hiệu được thiết kế hoàn toàn thuần chay, với vật liệu Alcantara (en) dùng để bọc ghế cũng như vô lăng. Những chi tiết này cũng có sẵn trên các phiên bản trang bị gói M Sport mạnh mẽ hơn. Ghế thể thao là phụ kiện tiêu chuẩn trên hầu hết các bản 5 Series G60, trong khi ghế chỉnh đa hướng là thiết kế mặc định trên i5 M60 và có thể tùy biến trên những phiên bản khác. Ngoài ra, đây cũng là lần đầu tiên BMW 5 Series được trang bị tùy chọn cửa sổ trời toàn cảnh panorama.
Ngoài những tính năng và trang bị kể trên, BMW còn cung cấp tùy chọn hỗ trợ người lái Driving Assistant Professional trên 5 Series thế hệ mới, bao gồm các tính năng Hỗ trợ lái và kiểm soát làn đường cũng như Kiểm soát khoảng cách, đi kèm với chức năng Dừng & Đi. Hệ thống này vẫn yêu cầu người lái giữ vô lăng khi nó "điều khiển" xe, kèm theo đó là Hỗ trợ chuyển làn chủ động. Hệ thống đưa ra gợi ý về cách chuyển làn đường khi có điều kiện giao thông thuận lợi, nhưng sẽ không hoạt động cho đến khi mắt người lái nhìn vào gương bên để xác nhận thao tác gợi ý bởi hệ thống. Ngoài ra, đối với những thị trường phù hợp như Mỹ, Canada hoặc Đức thì tính năng Hỗ trợ lái xe đường cao tốc sẽ giảm bớt gánh nặng cho người lái trên các tuyến đường đôi ở tốc độ lên đến . Thao tác đỗ xe cũng có thể được tự động hóa mà không cần phải đến tay người dùng, thông qua điều khiển từ bên trong xe hoặc bằng điện thoại thông minh từ bên ngoài xe ở khoảng cách lên đến 200 mét.
Động cơ
Bảng trên không liệt kê thông số kỹ thuật của các phiên bản chạy điện. Nếu muốn xem chúng, vui lòng đi đến mục BMW i5 bên dưới.
BMW i5
BMW i5 là phiên bản chạy điện của dòng 5 Series (G60/G61), được công bố vào tháng 5 năm 2023 cùng với G60 tiêu chuẩn. Xe được đưa vào dây truyền sản xuất tại nhà máy Dingolfing bên cạnh các bản lai sạc điện và sử dụng động cơ đốt trong.
Mặc dù là xe điện nhưng phiên bản tiêu chuẩn (eDrive 40) vẫn giữ nguyên bộ lưới tản nhiệt có thanh nan đặc trưng ở mặt trước xe, khiến cho việc phân biệt nó với bản chạy động cơ đốt trong trở nên khó khăn hơn. Các gói kiểu dáng tùy chọn có thể làm cho bộ phận này của eDrive 40 trở nên mới lạ (chẳng hạn như phủ đen hoàn toàn bộ lưới, bao gồm cả phần "sườn"). Mặc dù vậy, bản cao cấp nhất là M60 lại sử dụng loại lưới tản nhiệt kiểu khác.
Một động cơ điện được phát triển kết hợp với bộ pin 84.3-kWh giúp sản sinh ra công suất và mô-men xoắn cực đại (hoặc khi kích hoạt tính năng Sport Boost và Launch Control) truyền đến các bánh sau trên bản i5 eDrive40, trong khi một động cơ điện bổ sung phía trước giúp nâng tổng công suất của i5 M60 xDrive lên đến và mô-men xoắn truyền đến tất cả các bánh (hoặc đối với chế độ Sport Boost và M Launch Control). Những động cơ này được đặt trong các trục của xe, đồng thời các trục đó cũng tích hợp hộp số 1 cấp cùng thiết bị điện tử công suất.
i5 có thể điều chỉnh Phanh tái tạo năng lượng dựa trên dung lượng pin và tình trạng giao thông, mặc dù người lái cũng có thể chọn thủ công hệ thống này ở mức thấp, trung bình hoặc cao. Chế độ Max Range mới ra mắt sẽ tối ưu hóa lượng pin còn lại bằng cách giới hạn tốc độ tối đa ở mức và tắt đi hệ thống điều hòa, sưởi và làm mát ghế, hoặc thậm chí là cả sưởi vô lăng.
Hệ thống sạc kết hợp (CCU) trên xe hỗ trợ sạc bằng điện AC với công suất 11 kW mặc định và 22 kW tùy chọn. Với trạm sạc nhanh DC, mức công suất sạc có thể lên đến 205 kW, cho phép nạp lại năng lượng từ 10 đến 80 phần trăm chỉ trong vòng 30 phút. Pin xe được lắp dưới sàn, bên trong hốc giữa và dưới hàng ghế sau. Mẫu sedan i5 có thể tích cốp đạt mức , nhỏ hơn so với 5 Series G60 thông thường.
Phiên bản
Những phiên bản ra mắt tại buổi giới thiệu bao gồm M60 AWD hiệu suất cao và eDrive40 RWD. Bên cạnh đó, một phiên bản tầm trung sử dụng hệ dẫn động AWD đã được lên kế hoạch sản xuất.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức (5 Series)
Website chính thức (i5)
BMW
Ô tô thập niên 2020
Sedan
|
19840760
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20dorsomaculatus
|
Odontanthias dorsomaculatus
|
Odontanthias dorsomaculatus là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1986.
Từ nguyên
Từ định danh dorsomaculatus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: tiền tố dorso ("ở lưng") và maculatus ("có đốm"), hàm ý đề cập đến đốm đen hình bầu dục trên màng gai thứ tư và thứ năm của vây lưng ở cá loài này, cũng như dải đen trên màng gai thứ ba.
Phân bố
O. dorsomaculatus hiện chỉ được biết đến duy nhất tại bãi ngầm Saya de Malha (phía đông bắc Madagascar), được thu thập trong khoảng độ sâu 120–190 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở O. dorsomaculatus là 13,4 cm.
Số gai ở vây lưng: 10 (gai thứ ba vươn dài nhất); Số tia ở vây lưng: 14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia ở vây bụng: 5; Số tia ở vây ngực: 19; Số vảy đường bên: 44.
Tham khảo
D
Cá Ấn Độ Dương
Cá Mauritius
Động vật được mô tả năm 1986
|
19840765
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20thi%E1%BA%BFt%20k%E1%BA%BF%20th%E1%BB%9Di%20trang
|
Nhà thiết kế thời trang
|
Nhà thiết kế thời trang () hay nhà mốt () là người làm nghề tạo mẫu, chịu trách nhiệm thiết kế mẫu trang phục (tức các dạng mẫu vải khác nhau) để hiện thực hóa một bản phác thảo thời trang hoặc bản vẽ kỹ thuật, thường là do nhà tạo mẫu thực hiện.
Trong phạm vi bài viết này cũng đề cập đến thợ cắt mẫu (quần áo, da mũ giày), tuy nhiên ở Việt Nam cụm từ "nhà tạo mẫu" thiên về làm công nghiệp nhiều hơn trong khi nhà thiết kế thời trang (nhà mốt) lại thiên về tạo nguyên mẫu nhiều hơn.
Dưới đây là một vài kỹ thuật cho phép ta chuyển từ bản vẽ thành tác phẩm:
Dựng khuôn, trong đó bao gồm việc đặt khối lượng vải lên ma-nơ-canh;
Trải trên mặt phẳng theo đó ta đối chiếu dữ liệu trên lý thuyết về cơ thể người và kiến thức về các số đo tiêu chuẩn;
Phương pháp chuyển đổi bao gồm việc sử dụng và chuyển đổi một mẫu tương tự và có sẵn về hình dạng và khối lượng của nó
Thông thường, mẫu được tạo và sửa đổi bằng phần mềm CAD.
Tại Việt Nam
Những năm gần đây, phần lớn nhà thiết kế thời trang Việt Nam chọn lối đi là dòng trang phục ứng dụng (ready-to-wear). Kiểu trang phục này thường chiếm số lượng áp đảo trong các show trình diễn. Bên cạnh các thiết kế lộng lẫy, đồ sộ về phom dáng giúp phô bày kỹ thuật cao cấp tinh xảo vẫn có mặt trong các bộ sưu tập theo mùa, thì tỷ trọng của dòng thời trang ready-to-wear vẫn chiếm vị trí chủ đạo.
Hiện tại, việc mời tài trợ cho các show diễn thời trang không phải là việc đơn giản ở trong nước. Hầu hết các nhà mốt đều phải "tự thân vận động" nhờ năng lực kinh doanh và sự ủng hộ từ các ban ngành, chính quyền nơi tổ chức buổi diễn thời trang.
Danh sách dưới đây liệt kê một số nhà thiết kế thời trang tiêu biểu ở Việt Nam:
Xem thêm
Nhà tạo mẫu
Thiết kế thời trang
Tham khảo
Công nghiệp quần áo
Nghề may mặc
|
19840769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kitatsugaru%20%28huy%E1%BB%87n%29
|
Kitatsugaru (huyện)
|
là huyện thuộc tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính của huyện là 34.431 người và mật độ dân số là 110 người/km2. Tổng diện tích của huyện là 304,6 km2.
Tham khảo
Huyện của Aomori
|
19840794
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Noheji%2C%20Aomori
|
Noheji, Aomori
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikita, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 12.374 người và mật độ dân số là 150 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 81,68 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Tỉnh Aomori
Yokohama
Tōhoku
Rokkasho
Hiranai
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Aomori
|
19840796
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Konno%20Hikaru
|
Konno Hikaru
|
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô trước đây thuộc về công ti Lotus Group Tokyo, nhưng do sự tái tổ chức của Lotus Group cô bây giờ thuộc về Funstar Promotion.
Sở thích của cô là xem anime.
Sự nghiệp・Đời tư
Cô sinh ra tại tỉnh Hokkaidō. Tháng 6/2013, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của hãng phim khiêu dâm kawaii*.
Sau khi rời kawaii*, cô đã xuất hiện trong nhiều phim với tư cách là một nữ diễn viên tự do.
Tháng 10/2019, cô được đề cử cho GeoTV×Men's Cyzo ADULT AWARD 2019 trong hạng mục Hôn & Fellatio. Cô còn có một cái tên khác là "Quái vật nụ hôn tan chảy".
4/12/2019, cô được đề cử bởi Cherry Bomb.cho giải Nữ diễn viên tại Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV! 2020.
Tháng 2/2020, cô đã nhận giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất tại "Giải thưởng Erodemy 2020" được chọn bởi nhà văn phim khiêu dâm của tạp chí Playboy hàng tuần cho vai diễn trong phim mà cô đóng chung với Sakura Mana ""Tiếp theo là đến lượt bạn đúng không?" Người lập kế hoạch đám cưới tuyệt đẹp phiên bản trả thù: Cô ấy bị cưỡng bức hiếp dâm và ép xuất tinh liên tục... Lí do thật sự." (「次は、あなたの番ですよね?」美人ウェディングプランナー復讐編 無理やり犯され、強制連続中出しされ続けた…本当の理由。).
Vào ngày 28/11 cùng năm, cô đã được đề cử bởi Chihara Junior và đã nhận giải Darake! tại sự kiện trao giải của Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV! 2020, trước đó sự kiện đã bị hoãn do sự lây lan của chủng virus corona mới.
Tháng 2/2021, cô xếp thứ 10 trong chương trình "Loạt câu hỏi cho nữ diễn viên khiêu dâm muốn nhận sô cô la của ngày Valentine!" của GeoTV.
Nhà văn phim khiêu dâm đã miêu tả cô rằng cô là một "Kho báu khiêu dâm sống quốc gia", nói rằng cô đã đủ cao và mảnh mai để trở thành người mẫu thời trang. Người ta nói rằng cô là một kho báu quốc gia không chỉ vì vẻ ngoài, mà còn vì khả năng khêu gợi mà có thể dùng trong bất kì vai nào, từ một cô gái dâm đãng đi săn đàn ông đến một cô gái M (khổ dâm) được huấn luyện để phục tùng.
Tham khảo
Liên kết ngoài
紺野ひかるのブログ (Blog của Konno Hikaru) (24/10/2013日 - )
#356 Hikaru - S-Cute
DMM AV女優名鑑 紺野ひかる (Đề mục nữ diễn viên khiêu dâm DMM Konno Hikaru)
Sinh năm 1994
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên MOODYZ
|
19840806
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Everytime%20We%20Touch%20%28b%C3%A0i%20h%C3%A1t%20c%E1%BB%A7a%20Cascada%29
|
Everytime We Touch (bài hát của Cascada)
|
"Everytime We Touch" là một bài hát của ban nhạc techno và Eurodance người Đức Cascada, nằm album đầu tay cùng tên năm 2006 của họ. Bài hát được hai DJ của ban nhạc Manian và Yanou viết lời, soạn nhạc và sản xuất. Tuy nhiên, phần viết lời/sáng tác lại ghi công credit cho Maggie Reilly, Stuart Mackilliop, và Peter Risavy, do bài hát mượn phần điệp khúc đĩa đơn cùng tên của Reilly. "Everytime We Touch" lần đầu được công ty Robbins Entertainment cho ra mắt ở Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 8 năm 2005. Sau những thành công ở Mỹ, bài hát được phát hành trên toàn thế giới một khi hợp tác với các hãng nhạc sàn như Zooland Records, All Around the World và Universal Music Group. Về phần âm nhạc, đây chính là ca khúc thuộc thể loại nhạc sàn châu Âu Eurodance được soạn bằng bộ đàn synthesizer, nhịp búa khoan và lời ca đậm chất Europop.
"Everytime We Touch" nhận được đánh giá tích cực từ phía nhà phê bình âm nhạc, đa số đều khen âm thanh dance-pop của bài hát phù hợp với thị hiếu của người Mỹ. Bài hát leo lên thứ hạng cao ở nhiều nước, trụ hạng trên hai mươi ba tuần ở nhiều quốc gia khác nhau, leo lên ngôi đầu bảng ở Ireland, Thuỵ Điển và leo lên được vị trí top 5 ở Áo, Pháp, Đức và Anh Quốc. "Everytime We Touch" còn đạt được thành công về mặt thương mại ở Hoa Kỳ, leo lên được vị trí thứ mười trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Ca khúc nhận được chứng nhận bạch kim ở Hoa Kỳ nhờ vào tổng doanh số vượt qua một triệu bản. Video âm nhạc của bài hát kể về nữ ca sĩ hát chính Natalie Horler đang cố tìm cách trò chuyện với người cô yêu trong thư viện.
Bối cảnh và phát hành
Phiên bản "Everytime We Touch" này được Manuel Reutier và Yann Pfeifer viết và soạn lời, và có mượn phần điệp khúc của phiên bản khác do Stuart MacKilliop, Maggie Reilly, và Peter Risavy viết lời và sáng tác. Reutier và Pfeifer tham gia sản xuất dưới tên DJ của họ lần lượt là DJ Manian và Yanou, và hai người họ cũng chính là hai DJ đã thành lập ban nhạc Cascada. Bài hát được thu âm và sản xuất tại các phòng thu Studio Plazmatek Cologne ở Cologne, Đức và Studio Plazmatek Erkrath ở Erkrath, Đức.
Bài hát được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 16 tháng 8 năm 2005 dưới dạng đĩa đơn maxi, và dưới dạng đĩa đơn ở Cộng hoà Séc vào ngày ngày 14 tháng 7 năm 2006. Về sau, bài hát được phát hành lên cửa hàng iTunes vào ngày 31 tháng 3 năm 2006 ở dạng đĩa đơn maxi và ở dạng kỹ thuật số vào ngày 23 tháng 10 năm 2006. Đĩa đơn maxi được phát hành có các bản phối lại của 2-4 và Rocco với Bass-T cùng với bản phối ballad của Yanou. Ở nước Áo, "Everytime We Touch" ra mắt vào ngày 4 tháng 9 năm 2006 cùng định dạng với toàn bộ chín bài hát nằm trong đĩa maxi tại Hoa Kỳ nhưng ở thứ tự khác. Ngày 22 tháng 12 năm 2006, bài hát được cho ra mắt ở Đức dưới dạng maxi.
Bài hát và các bản remix
"Everytime We Touch" là một bài hát có tiết tấu nhanh kéo dài 3 phút 16 giây thuộc thể loại Eurodance, sử dụng các nhạc cụ trống trầm, synthesizer và máy trống. Theo như phổ nhạc được Sony/ATV Music Publishing công bố trên trang Musicnotes.com, bài hát được soạn ở cung Fa thứ gồm có tổng cộng 142 nhịp mỗi phút. Giọng ca của Horler trải rộng trên một quãng tám, nốt thấp nhất là A♭3 và nốt cao nhất là B♭4. Nhiều nhà phê bình đương thời khi nhận xét "Everytime We Touch" cùng album chung tên với nó đã nhận thấy ca khúc có chất âm techno và dance-pop. Nữ giọng ca chính của nhóm nhạc Natalie Horler là người thể hiện nên bài hát này. Horler hát đoạn đầu tiên của bài hát dùng ít phần đệm ở nền. Khi đoạn điệp khúc (" 'Cause everytime we touch, I get this feeling/ And everytime we kiss, I swear I could fly") cất lên là lúc phần khí nhạc đập rộn như "búa khoan" cùng với âm đàn synthesizer "giật giật" mãnh liệt. Sau đoạn điệp khúc là phần breakdown phong cách techno tận dụng tiếng đàn phím staccato cùng với máy trống.
Các bản phối lại nằm trong đĩa đơn maxi chứa âm thanh nhạc quẩy phong cách châu Âu. Bản remix của Rocco vs. Bass-T có "một đoạn khí nhạc ngắt quãng ở giữa với một đoạn hoà tấu mẫu kỳ quặc ở một vài ô nhịp" với các đoạn giọng hát bị chia nhỏ ra từng khúc. Bản phối của Dan Winter thì có "dòng tổng hợp nhạc quẩy Euro dày đặc hơn, phần khí nhạc được kéo dài hơn" và mang ảnh hưởng của nhạc điện tử thập niên 80. Bản The Scarf! bắt đầu bài hát bằng đoạn giới thiệu breakbeat và sử dụng âm thanh phần verse được tinh chỉnh bóp méo. Bản phối lại của Verano chứa "giai điệu tổng hợp sung sức hơn trong các phần chuyển tiếp, nền nhạc bắt tai được điều khiển bằng tiếng chuông cho các đoạn vế và được nhấn nhá xuyên suốt [cả thời lượng] bằng một số cuộn trống chuyển tiếp đầy sáng tạo."
Đánh giá chuyên môn
Kurt Kirton bên trang About.com chấm bài hát ba sao rưỡi trên tổng năm sao, khen ngợi bài hát "có giai điệu đầy mạnh mẽ và lôi kéo" và tính nhất quán của các bản phối lại nằm trong đĩa đơn maxi phát hành ở Hoa Kỳ. Anh còn nhận xét thêm rằng "The Original Mix là một ca khúc dance-pop hay." Sharon Mawer viết cho All Music Guide xướng tên "Everytime We Touch" là một trong những ca khúc hay nhất nằm trong album trong bài đánh giá của cô về album cùng tên với bài hát. Ken Barnes trực thuộc USA Today ca ngợi bài hát là một "thứ pha chế cực kỳ có sức lan toả" trong bài đánh giá của anh về album cùng tên. Marc Vera phía bên Entertainment Weekly đã yêu thích bài hát, và viết rằng "Đúng thế, bài hát dù khá là chung chung, thuộc thể loại nhịp đập thình thịch, nhưng nó vẫn cực kỳ hấp dẫn dữ đấy." Kelefa Sanneh bên The New York Times nhận xét rằng bài hát "vô liêm sỉ hơn là tha thiết" và ca ngợi nó là "một bản nhạc dance-pop tràn đầy năng lượng". Chuck Taylor tán dương bài hát mang "giọng ca hay, giai điệu mê hoặc và phần sản xuất đầy năng lượng" bên trang Billboard và xác nhận rằng công thức ấy "đã làm cho bài hát trở nên khác biệt và đúng thật là như vậy khi so với các bài khác trong top 40."
Diễn biến thương mại
"Everytime We Touch" lần đầu xuất hiện ở bảng xếp hạng Billboard Hot 100 Hoa Kỳ sau gần năm tháng phát hành ở vị trí thứ 86 trong tuần ngày 17 tháng 12 năm 2005. Sang tuần kế tiếp, bài hát leo 24 bậc lên vị trí thứ 62. Một khi tụt xuống vị trí thứ năm mươi sáu sau khi tăng liên tục, bài hát đã tăng trở lại lên vị trí thứ bốn mươi chín. Bài hát tiếp tục leo lên bảng xếp hạng trong vòng sáu tuần cho đến tuần ngày 11 tháng 3 năm 2006 thì dừng chân ở vị trí cao nhất là thứ mười. "Everytime We Touch" dao động trong top 20 trong chín tuần sau khi đạt đỉnh trên bảng xếp hạng. Bài hát rời khỏi Billboard Hot 100 ở tuần ngày 22 tháng 7 năm 2006 sau khi dành ra 31 tuần trên đó và trở thành đĩa đơn trụ hạng lâu nhất của Cascada ở đấy. Bài hát đã được chứng nhận vàng vào ngày 3 tháng 5 năm 2006 với doanh số vượt quá 500.000 bản và vào ngày 2 tháng 11 năm 2006 thì đạt chứng nhận bạch kim với hơn một triệu bản được bán ra. Đến nay, bài hát đã bán được hơn 2,5 triệu lượt tải xuống và 7.000 đĩa maxi. Tại Thuỵ Điển, bài hát ra mắt trên bảng xếp hạng Singles Top 60 ở vị trí thứ 57 trong tuần ngày 11 tháng 5 năm 2006. Trong tuần ngày 7 tháng 9 năm 2006, bài hát đã đạt đến ngôi vị quán quân sau gần mười tuần nằm trong top 5. "Everytime We Touch" đã dành tổng cộng 41 tuần trên bảng xếp hạng này, được chứng nhận bạch kim kép ở Thuỵ Điển sau khi bán được 40.000 lượt tải xuống kỹ thuật số.
Bài hát đã đạt được thành công lớn trên bảng xếp hạng trên lãnh thổ Vương quốc Anh. Tại Anh Quốc, "Everytime We Touch" ra mắt trên bảng xếp hạng UK Singles Chart ở tuần ngày 30 tháng 7 năm 2006. Tuần tiếp theo, bài hát đã tăng 37 bậc từ 41 lên vị trí thứ 4. "Everytime We Touch" đạt đến vị trí cao nhất là thứ hai và tiếp tục trụ hạng trong hơn ba mươi tuần. Tại Ireland, bài hát ra mắt trên bảng xếp hạng Singles Top 50 ở vị trí thứ bảy và được xếp là bài hát có thứ hạng ra mắt cao nhất trong tuần đó. "Everytime We Touch" đã leo lên vị trí số một trong tuần thứ ba, đánh bại "Hips Don't Lie" của ca sĩ người Colombia Shakira sau khi ca khúc vừa kể đã dành chín tuần ở vị trí số một trên bảng xếp hạng. Bài hát ở đó thêm một tuần rồi bị vượt qua bởi "SexyBack" của Justin Timberlake, nhưng cũng đã chiếm lại vị trí đầu bảng từ tay Timberlake sau bốn tuần giữ vị trí thứ hai và giữ nguyên dẫn đầu đó trong ba tuần nữa.
Tại Hà Lan, "Everytime We Touch" ra mắt ở vị trí thứ 40 trong tuần ngày 16 tháng 9 năm 2006. Sau nhiều tuần dao động trong top 30, bài hát đã đạt vị trí thứ 13 trong tuần thứ sáu. Tuần kế tiếp, bài hát leo lên vị trí cao nhất ở vị trí thứ 10. Tại Pháp, "Everytime We Touch" ra mắt ở vị trí cao nhất là số hai, được xếp vào danh sách ca khúc ra mắt cao nhất trên bảng xếp hạng trong tuần ngày 28 tháng 10 năm 2006. Ca khúc đã duy trì vị trí cao nhất trong ba tuần và nằm trong top 10 trong 16 lần chạy trên bảng xếp hạng kéo dài 37 tuần của bài hát. Tại Thuỵ Sĩ, bài hát đạt vị trí thứ 22 và dao động trong top 50 với 17 trong tổng số 24 tuần trụ hạng. Tại Áo, "Everytime We Touch" trụ tổng cộng 21 tuần trên bảng xếp hạng Singles Top 75, đạt vị trí cao nhất là thứ 15. "Everytime We Touch" đã thành công về mặt thương mại trong nước. Trong tuần ngày 26 tháng 1 năm 2007, bài hát ra mắt trên bảng xếp hạng Singles Top 100 ở vị trí thứ tám. Hai tuần sau, bài hát đạt vị trí thứ năm. Ca khúc đã trụ lại tổng cộng mười chín tuần trên bảng xếp hạng, và dừng lại ở vị trí thứ chín mươi sáu trong tuần ngày 18 tháng 1 năm 2008.
Định dạng và danh sách bài hát
Đĩa đơn maxi Hoa Kỳ
"Everytime We Touch" – 3:19
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass-T remix radio edit) – 3:06
"Everytime We Touch" (Dan Winter radio edit) – 3:38
"Everytime We Touch" (Verano radio edit) – 3:23
"Everytime We Touch" (original mix) – 5:34
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass-T remix) – 5:42
"Everytime We Touch" (Dan Winter remix) – 6:37
"Everytime We Touch" (Scarf! remix) – 5:34
"Everytime We Touch" (Verano remix) – 5:50
Đĩa đơn maxi Áo
"Everytime We Touch" (Dan Winter remix) – 3:19
"Everytime We Touch" (Verano remix) – 3:06
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass T remix) – 3:25
"Everytime We Touch" (original club mix) – 3:37
"Everytime We Touch" (Scarf! remix) – 5:34
"Everytime We Touch" (Dan Winter edit) – 5:33
"Everytime We Touch" (Verano edit) – 5:42
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass T radio cut) – 5:52
"Everytime We Touch" (radio edit) – 6:35
Đĩa đơn maxi Đức
"Everytime We Touch" (radio edit) – 3:17
"Everytime We Touch" (2-4 Grooves radio mix) – 3:00
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass-T radio edit) – 3:04
"Everytime We Touch" (original club mix) – 5:31
"Everytime We Touch" (ballad version) – 3:19
"Everytime We Touch" (89ers radio edit) – 3:29
Đĩa đơn maxi Pháp
"Everytime We Touch" (radio edit) – 3:17
"Everytime We Touch" (Yanou's Candlelight mix) – 3:15
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass-T radio edit) – 3:04
"Everytime We Touch" (club mix) – 5:31
"Everytime We Touch" (2-4 Grooves Remix) – 6:15
Đĩa đơn kỹ thuật số Canada
"Everytime We Touch" – 3:16
Đĩa đơn kỹ thuật số ở Cộng hoà Séc
"Everytime We Touch" – 3:17
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass-T radio cut) – 3:04
Đĩa đơn maxi ở Anh Quốc
"Everytime We Touch" (radio edit) – 3:18
"Everytime We Touch" (Styles and Breeze mix) – 5:35
"Everytime We Touch" (Rocco vs. Bass-T remix) – 5:42
"Everytime We Touch" (Dan Winter remix) – 6:38
"Everytime We Touch" (Flip & Fill remix) – 5:45
"Everytime We Touch" (KB Project remix) – 5:31
"Everytime We Touch" (Dancing DJ's remix) – 5:29
"Everytime We Touch" (Kenny Hayes remix) – 6:05
"Everytime We Touch" (Yanou's Candlelight mix) – 3:19
"Everytime We Touch" (original club mix) – 5:30
"Everytime We Touch" (Scarf! remix) – 5:35
Bảng xếp hạng
Xếp hạng hàng tuần
Xếp hạng cuối năm
Chứng nhận
Lịch sử phát hành
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Cụ thể
Chung
Liên kết ngoài
Bài hát của Cascada
Đĩa đơn năm 2005
Đĩa đơn năm 2006
Đĩa đơn năm 2007
Đĩa đơn quán quân Irish Singles Chart
Đĩa đơn quán quân tại Thụy Điển
Bài hát năm 2005
Bài hát được viết bởi Maggie Reilly
|
19840809
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishimiya%20Yume
|
Nishimiya Yume
|
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Sau khi rời cielo, từ tháng 9/2019 cô đã thuộc về công ti LIGHT.
Sự nghiệp
19/9/2016, cô đã ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của Idea Pocket.
9/11/2021, cô được chỉ định làm "chiến binh gợi cảm" (quản lí bởi Idea Pocket) tham gia chiến dịch kỉ niệm kỉ niệm 5 năm phim thực tế ảo FANZA.
Tháng 4/2022, cô trở thành nữ diễn viên đại diện cho "Chiến dịch tuần lễ Vàng ngày Lễ tạ ơn tuyệt vời 2022" của FANZA.
Đời tư
Lần đầu cô thủ dâm là vào những năm đầu tiểu học, lần đầu cô quan hệ tình dục là vào năm đầu trung học, và lần đầu cô xuất tinh là khi học trung học.
Sở thích và kĩ năng đặc biệt của cô là mua sắm và hòa đồng với mọi người.
Cô đã miêu tả tính cách của cô là "wow" và "cảm thấy hơi ngu xuẩn". Cô đã đóng các vai như học sinh trung học tinh nghịch hay quỷ dị, và cô đã nói rằng các vai diễn này khá dễ dàng đối với cô.
Liên kết ngoài
(15/12/2018 - )
Sinh năm 1996
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên Idea Pocket
|
19840814
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Idea%20Pocket
|
Idea Pocket
|
Idea Pocket (アイデアポケット) là một nhà sản xuất phim khiêu dâm của Nhật Bản.
Tổng quan
Hãng ban đầu là một nhãn phim của hãng Attackers, tuy nhiên kể từ năm 2002 khi Attackers thuộc sở hữu của Hokuto (Outvision), nhãn phim này đã trở thành một hãng phim nội bộ độc lập do Hokuto quản lí.
Tháng 4/2005, Idea Pocket trở thành hãng phim con đầu tiên của Hokuto thực hiện cho thuê phim. Vào tháng 10, các hãng con khác của Hokuto đã tham gia loại hình cho thuệ thông qua công ti liên doanh TIS, và Idea Pocket chính là hãng tiên phong.
Loạt phim tiêu biểu của hãng là "ANGEL", loạt phim về hóa trang của các nữ diễn viên đơn lẻ phát hành trong khoảng 10 năm kể từ 1998 khi vẫn còn thuộc về Attackers, và "DIGITAL CHANNEL" bắt đầu từ năm 2004, trong đó các đạo diễn khác nhau quay các phim với các nữ diễn viên đơn lẻ không kể tình trạng độc quyền. Cả hai loạt phim có hơn 100 phim.
Từ năm 2004, Idea Pocket đã tiếp nhận các nữ diễn viên độc quyền (IP joyū), và loạt phim ra mắt ngành mới "FIRST IMPRESSION" được khởi xướng. Hơn 70 diễn viên đã ra mắt ngành với loạt phim này, bao gồm Nozomi Mayu, Mirai, Nakao Mina, Hatsumi Rion, Hoshimi Rika. Vào năm 2007, loạt phim ra mắt ngành cho hãng "FIRST IDEAPOCKET" được khởi xướng bởi một nữ diễn viên chuyển hợp đồng độc quyền từ hãng phim khác. Hơn 10 diễn viên đã ra mắt ngành với loạt phim này, bao gồm Hara Sarasa, Kuribayashi Riri, Koisaya.
Tháng 3/2011, hãng đã tổ chức dự án hợp tác thứ ba để kỉ niệm 10 năm thành lập MOODYZ.
Tháng 5/2013, hãng đã tham gia tài trợ cho Union Pro Wrestling, thành lập "Trận đấu Vô địch Thế giới Idea Pocket" (được tiếp tục đến năm 2014). Vào năm 2014, hãng tham gia tài trợ cho đấm bốc chuyên nghiệp và đã tổ chức trận đấu đầu tiên vào ngày 9/10.
Tháng 11/2020, quá trình sản xuất loạt phim "Dù người yêu đang đợi tôi ở nhà, tôi đã lỡ chuyến tàu cuối cùng và ở lại tại nhà nhân viên nữ lâu năm...Tôi thấy rất rạo rực khi thấy cô ấy không mặc quần tất và áo ngực, nên tôi đã quan hệ tình dục với cô cả đêm dài" (僕の恋人が家で待ってるのに、終電逃し先輩女子社員の家に泊まる流れに…ノーパンノーブラ部屋着に興奮した僕は一晩中ヤリまくった) được khen ngợi, và loạt phim đã khiến từ "部屋着" (đồ mặc nhà) xếp thứ 7 cho Giải thưởng Từ khóa Phim khiêu dâm 2020 của tạp chí Playboy hàng tuần.
1/1/2021, hãng đã phát hành phần mềm phát đĩa Ultra HD Blu-ray tiêu chuẩn đầu tiên của ngành, với các phim được phát hành dưới nhãn "UHD-Tissue" (Phát hành đồng thời cùng phần mềm của PREMIUM và Das!).
Tháng 8/2022, loạt phim của hãng "Chuyến công tác của tôi gặp phải mưa lớn kỉ lục và tôi bỗng dưng phải chia phòng với cấp dưới còn trinh của mình..." (出張先が記録的豪雨で童貞部下と突然相部屋に…) được đăng trong mục "Các loạt phim Teppan thời Lệnh Hòa" của tạp chí Playboy hàng tuần. Nhà văn Kurogane Arei đã khen ngợi hãng là một hãng phim có kinh nghiệm "cách tạo dựng (hình ảnh) một cô gái".
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
(2/8/2013 - )
S級No.1GIRLS (Trang Mobile)
Công ty sản xuất phim Nhật Bản
Khởi đầu năm 2002 ở Nhật Bản
|
19840818
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yokohama%2C%20Aomori
|
Yokohama, Aomori
|
là thị trấn thuộc huyện Kamikita, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.229 người và mật độ dân số là 33 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 126,38 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Tỉnh Aomori
Mutsu
Higashidōri
Noheji
Rokkasho
Tham khảo
Thị trấn của Aomori
|
19840821
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Diamond%20Rock
|
Trận Diamond Rock
|
Trận Diamond Rock diễn ra từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 2 tháng 6 năm 1805 là một phần trong Chiến tranh Napoléon, khi một đội quân Pháp-Tây Ban Nha được phái đi dưới sự chỉ huy của Đại úy Julien Cosmao để chiếm lại Diamond Rock, tại lối vào vịnh dẫn đến Fort-de-France từ tay quân Anh.
Trước đó người Pháp ở Martinique đã không thể đánh bật quân phòng thủ ra khỏi đảo đá quan trọng về mặt chiến lược, nơi cho phép quân đồn trú của Anh kiểm soát việc tiếp cận Vịnh Fort-de-France, bắn vào những con tàu cố gắng tiến vào đó bằng pháo bố trí trên vách đá. Sự xuất hiện của một hạm đội lớn Pháp-Tây Ban Nha vào tháng 5 đã thay đổi tình hình. Quân Anh do thiếu cả nước và đạn dược, cuối cùng đã thương lượng về việc giao lại đảo đá sau nhiều ngày giao tranh.
Chú thích
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Tường thuật vụ bắt giữ của đô đốc Tây Ban Nha Gravina. Được biên soạn bởi Miguel Agustin Principe, 1840 (Tiếng Tây Ban Nha)
Hải chiến liên quan tới Vương quốc Liên hiệp Anh
Xung đột năm 1805
|
19840822
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shiranuka%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Shiranuka, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Shiranuka, phó tỉnh Kushiro, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.289 người và mật độ dân số là 9,4 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 773,74 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19840823
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Cheongsan
|
Ga Cheongsan
|
Ga Cheongsan (Tiếng Hàn: 청산역, Hanja: 靑山驛) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeongwon nằm ở Choseong-ri, Cheongsan-myeon, Yeoncheon-gun, Gyeonggi-do, Hàn Quốc.
Vào ngày 15 tháng 12 năm 2006, Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 được mở rộng đến Ga Soyosan, giúp việc chuyển sang xe buýt trong khu vực Yeoncheon-gun trở nên dễ dàng hơn, dẫn đến số lượng hành khách đi tàu tại ga này giảm mạnh. Từ ngày 28 tháng 7 năm 2011, do mưa lớn, cầu đường sắt Choseong bị cuốn trôi và các hoạt động hoàn toàn bị đình chỉ. Tuy nhiên, đến ngày 21 tháng 3 năm 2012, dịch vụ tàu khách trên Tuyến Gyeongwon hoạt động trở lại và dừng 11 lần, nhưng tăng lên 17 lần vào ngày 1 tháng 7 năm 2012. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2023, khi đoạn Soyosan ~ Yeoncheon của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 khai trương, nó sẽ được di dời về phía bắc và tái sinh thành ga tàu điện ngầm. Và sau khi dự án mở rộng hoàn thành, ga Choseong-ri hiện tại dự kiến sẽ được di chuyển từ vị trí hiện tại trước Trung tâm phúc lợi hành chính Cheongsan-myeon đến gần Trường tiểu học Choseong, cách đó khoảng 1km về phía bắc. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2023, khi đoạn mở rộng Dongducheon ~ Yeoncheon của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 mở cửa, nó sẽ trở thành ga tàu điện ngầm.
Lịch sử
30 tháng 12 năm 1951: Mở cửa kinh doanh từ Choseong-ri, Cheongsan-myeon, Pocheon-gun, Gyeonggi-do đến Ga Choseong-ri.
10 tháng 9 năm 1953: Chuyển giao cho Cục Đường sắt
10 tháng 8 năm 1959: Thăng cấp thành ga thường
1 tháng 12 năm 2008: Được chỉ định làm trạm bán vé và nhà ga bán vé đường sắt bị dỡ bỏ
28 tháng 7 năm 2011: Hoạt động kinh doanh tạm dừng do mất đường ray do mưa lớn, các chuyến tàu du lịch và hàng hóa chỉ chạy đến ga này.
21 tháng 3 năm 2012: Với việc hoàn thành Cầu đường sắt Choseong, dịch vụ tàu đi lại được nối lại và số lượng chuyến tàu một chiều giảm xuống còn 6 chuyến mỗi ngày.
1 tháng 7 năm 2012: Tăng số lượng dịch vụ tàu hỏa đi lại
31 tháng 10 năm 2014: Bắt đầu xây dựng đường sắt đôi Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1
2 tháng 7 năm 2018: Các chuyến tàu đi lại chạy đến Ga Yeoncheon do công việc cải thiện đường ray trên đoạn Yeoncheon ~ Baekmagoji của Tuyến Gyeongwon.
1 tháng 4 năm 2019: Tạm dừng dịch vụ trên Tuyến Gyeongwon từ Dongducheon ~ Yeoncheon do thi công điện khí hóa. Xe buýt thay thế chạy 32 lần một ngày.
21 tháng 11 năm 2023: Tên ga đổi từ Ga Choseong-ri thành Ga Cheongsan
16 tháng 12 năm 2023: Khai trương tuyến đường sắt đôi Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Trung tâm phúc lợi hành chính Cheongsan-myeon
Suối khoáng Choseong-ri
Ga kế cận
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tập đoàn Đường sắt Hàn Quốc Ga Choseong-ri
Cheongsan
Cheongsan
Cheongsan
Cheongsan
|
19840826
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Jeongok
|
Ga Jeongok
|
Ga Jeongok (Tiếng Hàn: 전곡역, Hanja: 靑山驛) là ga đường sắt trên Tuyến Gyeongwon nằm ở Jeongok-ri, Jeongok-eup, Yeoncheon-gun, Gyeonggi-do, Hàn Quốc.
Từ ngày 28 tháng 7 năm 2011, do mưa lớn, cầu đường sắt Choseong bị cuốn trôi và các hoạt động hoàn toàn bị đình chỉ. Tuy nhiên, đến ngày 21 tháng 3 năm 2012, dịch vụ tàu khách trên Tuyến Gyeongwon hoạt động trở lại và dừng 11 lần, nhưng tăng lên 17 lần vào ngày 1 tháng 7 năm 2012. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2023, khi đoạn mở rộng Dongducheon ~ Yeoncheon của Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 mở cửa, nó sẽ trở thành ga tàu điện ngầm.
Lịch sử
25 tháng 7 năm 1912: Khai trương kinh doanh
Tháng 9 năm 1945: Do sự chia cắt giữa Bắc và Nam Triều Tiên, nó trở thành ga cực nam trên Tuyến Kyungwon của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
16 tháng 10 năm 1958: Hoàn thành xây dựng nhà ga hiện nay
28 tháng 7 năm 2011: Hoạt động kinh doanh tạm dừng do mất đường ray do mưa lớn.
21 tháng 3 năm 2012: Với việc hoàn thành Cầu đường sắt Choseong, dịch vụ tàu đi lại được nối lại và số lượng chuyến tàu một chiều giảm xuống còn 6 chuyến mỗi ngày.
1 tháng 7 năm 2012: Tăng số lượng dịch vụ tàu hỏa đi lại
31 tháng 10 năm 2014: Bắt đầu xây dựng tuyến đường sắt đôi Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1
29 tháng 5 năm 2015: Tạm dừng xử lý hàng hóa
29 tháng 8 năm 2018: Cầu đường sắt Chatancheon giữa Jeongok và Yeoncheon bị ngập do mưa lớn và hoạt động bị đình chỉ.
7 tháng 9 năm 2018: Nối lại dịch vụ giữa Jeongok ~ Yeoncheon
1 tháng 4 năm 2019: Tạm dừng hoạt động do điện khí hóa tuyến Gyeongwon. Hoạt động xe buýt thay thế 32 lần một ngày.
16 tháng 12 năm 2023: Tàu điện ngầm vùng thủ đô Seoul tuyến 1 dự kiến mở giữa Soyosan ~ Yeoncheon
Bố trí ga
Xung quanh nhà ga
Tàn tích Jeongok-ri (Địa điểm thời đồ đá cũ)
Bưu điện Jeongok
Jeongok Nonghyup (Chi nhánh Jungang)
Hợp tác xã chăn nuôi Paju Yeoncheon (Chi nhánh Jeongok)
Đồn cảnh sát Jeongok
Trung tâm phúc lợi hành chính Jeongok-eup
Ngân hàng Nonghyup Chi nhánh Yeoncheon-gun
Ga kế cận
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tập đoàn Đường sắt Hàn Quốc Ga Jeongok
Jeongok
Jeongok
Jeongok
Jeongok
|
19840831
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A0%20thi%E1%BA%BFt%20k%E1%BA%BF%20th%E1%BB%9Di%20trang
|
Danh sách nhà thiết kế thời trang
|
Dưới đây là bản danh sách các nhà thiết kế thời trang tiêu biểu được phân loại theo quốc tịch. Ở đây bao gồm cả các nhà mốt trong may đo cao cấp lẫn quần áo may sẵn.
Đối với các nhà mốt chỉ chuyên may đo cao cấp, xem danh sách nhà thiết kế thời trang tên tuổi lớn. Đối với các nhà thiết kế da giày, xem danh sách nhà thiết kế da giày trên thế giới.
Argentina
Sofia Achaval de Montaigu
Delia Cancela
Alan Faena
Franc Fernandez
Gustavo Cadile
Jazmín Chebar
Paco Jamandreu
Dalila Puzzovio
Elsa Serrano
Vanessa Seward
Aitor Throup
Pilar Zeta
Armenia
Emin Bolbolian
Kevork Shadoyan
Úc
Prue Acton
Peter Alexander
Yeojin Bae
Jenny Bannister
Nadia Bartel
Zara Bate
Lucas Bowers
Leigh Bowery
Linda Britten
Ray Brown
Sarah-Jane Clarke
Claudia Chan Shaw
Flora Cheong-Leen
Susien Chong
Christopher Chronis
Lorna Jane Clarkson
Kay Cohen
Wayne Cooper
Keri Craig-Lee
John Crittle
Liz Davenport
Rachel Dean
Collette Dinnigan
Leona Edmiston
Pip Edwards
Christopher Essex
Enid Gilchrist
Harlette De Falaise
Nicola Finetti
Camilla Freeman-Topper
Frederick Fox
Camilla Franks
Joshua Goot
Lisa Gorman
Juli Grbac
Melanie Greensmith
Alannah Hill
Elvie Hill
Jessie Hill
Lisa Ho
Jennifer Hocking
Akira Isogawa
Linda Jackson
Peter Jackson
Beril Jents
Rebecca Judd
Storm Keating
Jenny Kee
Steven Khalil
Dion Lee
Bettina Liano
Jacob Luppino
Virginia Martin
Alice McCall
Toni Matičevski
Dannii Minogue
Peter Morrissey
Ivy May Pearce
Alex Perry
Katie Perry
Anthony Pittorino
Neville Quist
Tamara Ralph
Joe Saba
Bruno Schiavi
Bob Schulz
Sheila Scotter
Dan Single
Bianca Spender
Paula Stafford
Ruth Tarvydas
Shona Joy Thatcher
Sophia Tolli
Richard Tyler
Paul Vasileff
Erica Wardle
Johanna Weigel
Bowie Wong
Lisa Xu
Carla Zampatti
Aheda Zanetti
Gary Zecevic
Áo
Werner Baldessarini
Sigmar Berg
Eva Maria Düringer Cavalli
Emilie Louise Flöge
Gertrud Höchsmann
Nina Hollein
Emma Jacobsson
Andreas Kronthaler
Helmut Lang
Michael Lanner
Birgit C. Muller
Moriz Piffl-Perčević
Ruth Rogers-Altmann
Jutta Sika
Bangladesh
Maheen Khan
Bibi Russell
Asma Sultana
Barbados
Rihanna
Belarus
Apti Eziev
Dmitry Sholokhov
Bỉ
Valentine Avoh
Maggy Baum
Dirk Bikkembergs
Veronique Branquinho
Christophe Coppens
Tim Coppens
Jules-François Crahay
Angele Delanghe
Ann Demeulemeester
Honorine Deschrijver
Désirée zu Hohenlohe-Langenburg
Cedric Jacquemyn
Martin Margiela
Bruno Pieters
Cathy Pill
Elvis Pompilio
Ann Salens
Raf Simons
Olivier Strelli
Olivier Theyskens
Kaat Tilley
Jeanne Toussaint
Kris Van Assche
Walter Van Beirendonck
Dries van Noten
Anthony Vaccarello
Édouard Vermeulen
Belize
Rebecca Stirm
Bolivia
Vanessa Alfaro
Beatriz Canedo Patiño
Monica Moss
Eliana Paco Paredes
Bosnia
Adnan Hajrulahović (Haad)
Brasil
Camila Alves
Zuzu Angel
Bruno Basso
Alexandre Birman
Georgina Brandolini d'Adda
Barbara Casasola
Igor Cavalera
Francisco Costa
Adriana Degreas
Tufi Duek
Alexandre Herchcovitch
Clodovil Hernandes
Lorenzo Merlino
Alessandra Meskita
Oskar Metsavaht
Carlos Miele
Inacio Ribeiro
Amir Slama
Iracema Trevisan
Carlos Tufvesson
Diego Vanassibara
Ocimar Versolato
Bulgaria
Myléna Atanassova
Viliana Georgieva
Kiko Kostadinov
Myanmar
Ahlatt Lumyang
Myo Minn Soe
May Myat Waso
Steven Oo
Mogok Pauk Pauk
Burundi
Cynthia Munwangari
Campuchia
Eric Raisina
Cameroon
Imane Ayissi
Mireille Nemale
Canada
Atuat Akkitirq
Marcel B. Aucoin
Susan Avingaq
Lida Baday
Brian Bailey
Christopher Bates
Tammy Beauvais
Tishynah Buffalo
Nicole Camphaug
Dean and Dan Caten
Simon Chang
Dov Charney
Edison Chen
Ian H. Cooper
Douglas Coupland
Patrick Cox
Mario Davignon
MLMA
Angela DeMontigny
Steve Dubbeldam
Ashley Ebner
John Fluevog
Sunny Fong
Ariel Garten
Dorothy Grant
Elora Hardy
Adrianne Ho
Rad Hourani
Bruno Ierullo
Aurora James
Tara Jarmon
Victoria Kakuktinniq
Lloyd Klein
Jeremy Laing
Avril Lavigne
Edeline Lee
Devon Halfnight LeFlufy
Dan Liu
Charles Lu
Linda Lundström
Margeaux
Liam Massaubi
Pat McDonagh
Joe Mimran
Paul Minichiello
Erdem Moralıoğlu
Melaw Nakehk'o
Mina Napartuk
Sid Neigum
Sage Paul
Marie-Paule Nolin
Aaju Peter
Ruth Qaulluaryuk
Richard Robinson
Arnold Scaasi
Céline Semaan Vernon
Bojana Sentaler
Kim Smiley
George Sully
Alfred Sung
Luke Tanabe
Tanya Taylor
Collin Thompson
Marion Tuu'luq
Malorie Urbanovitch
Liz Vandal
Rita Vinieris
Shannon Wilson
Adrienne Wu
Jason Wu
Chad
Benjamin Kirchhoff
Chile
Maria Cornejo
Trung Quốc
Edison Chen
Movana Chen
Betty Clemo
Guo Pei
Kenny Ho
Vivienne Hu
Ma Ke
Titi Kwan
Eddie Lau
Henry Lau
Chris Liu
Lü Yan
Masha Ma
Kevin Poon
Vivienne Poy
John Rocha
Vivienne Tam
William Tang
Oscar Udeshi
Momo Wang
Taoray Wang
Yu Feng
Lan Yu
Nellie Yu Roung Ling
Colombia
Esteban Cortázar
Silvia Tcherassi
Croatia
Boris Banović
Damir Doma
Žuži Jelinek
Olja Luetić
Mandali Mendrilla
Cuba
Fabiola Arias
Lisandra Ramos
Isabel Toledo
CH Síp
Mustafa Aslanturk
Hussein Chalayan
Nicolas Petrou
CH Séc
Zika Ascher
Sidonie Grünwald-Zerkowitz
Betty Yokova
Đan Mạch
Malene Birger
Louise Lyngh Bjerregaard
Lilly Brændgaard
Erik Brandt
Margit Brandt
Helena Christensen
Charlotte Eskildsen
Julie Fagerholt
Grethe Glad
Barbara í Gongini
Liffa Gregoriussen
Bente Hammer
Lars Hillingsø
Peter Ingwersen
Peter Jensen
Anne Sofie Madsen
Bitte Kai Rand
Louise Sandberg
Aage Thaarup
Henrik Vibskov
Ole Yde
CH Dominica
Sully Bonnelly
Monica Boyar
José Durán
Hernan Lander
Jenny Polanco
Jackie Sencion
Manuel Tarrazo
Oscar de la Renta
Ecuador
Roberto de Villacis
El Salvador
Francesca Miranda
Estonia
Diana Arno
Roberta Einer
Ethiopia
Amsale Aberra
Fikirte Addis
Mahlet Afework
Phần Lan
Antti Asplund
Sandra Hagelstam
Katriina Haikala
Riitta Immonen
Maija Isola
Samu-Jussi Koski
Teuvo Loman
Vilma Metter
Vuokko Nurmesniemi
Mert Otsamo
Sveta Planman
Saara
Pháp
A-G
Haider Ackermann
Gaby Aghion
Madame Agnès
Gérard Albouy
Mademoiselle Alexandre
Joseph Altuzarra
Jérémy Amelin
Adeline André
Christian Audigier
Augustabernard (Augusta Bernard)
Dominique Aurientis
Loris Azzaro
agnès b.
Vitaldi & Maurice Babani
Pierre Balmain
Jean Barthet
Anne Marie Beretta
Le Sieur Beaulard
Rose Bertin
Marc Bohan
Vera Borea
Coco Brandolini d'Adda
Vanessa Bruno
Marie-Louise Bruyère
Herminie Cadolle
Serge Cajfinger
Callot Soeurs
Émile Camuset
Pierre Cardin
Marie-Louise Carven
Jean-Charles de Castelbajac
Louis-Marie de Castelbajac
Coco Chanel
Christofle Charvet
Marcelle Chaumont
Louise Chéruit
Robert Clergerie
Marie-Françoise Corot
André Courrèges
Jeanne Damas
Christophe Decarnin
Zahia Dehar
Jean Dessès
Kostio de War
Rehane Yavar Dhala
Mohamed Dia
Christian Dior
Georges Doeuillet
Marcelle Dormoy
Jacques Doucet
Marie Madeleine Duchapt
Pierre-Alexis Dumas
Madame Eloffe
Benoît-Pierre Emery
Nicole Farhi
Jacques Fath
Louis Féraud
Anne Fontaine
Julien Fournié
Inès de La Fressange
Maud Frizon
Jean Paul Gaultier
Katell Gélébart
Nicolas Ghesquière
Hubert de Givenchy
Michel Goma
Madame Grès
Jacques Griffe
Jacques Guarrigue-Lefèvre
H-N
Sophie Habsburg
Pierre Hardy
Anne Valérie Hash
Daniel Hechter
Jacques Heim
Madame Herbault
Simon Porte Jacquemus
Bouchra Jarrar
Christophe Josse
Charles Jourdan
Philip Karto
Emmanuelle Khanh
Michel Klein
Romain Kremer
Bernard Lacoste
René Lacoste
Christian Lacroix
Madeleine Laferrière
Frédéric Luca Landi
Jeanne Lanvin
Ted Lapidus
Guy Laroche
Alexis Lavigne
Françoise Leclerc
Didier Lecoanet
Germaine Lecomte
Lucien Lelong
Lolita Lempicka
Hervé Leroux
Louis Hippolyte Leroy
Julie de Libran
Christian Louboutin
Serge Lutens
Alexis Mabille
Catherine Malandrino
Alain Manoukian
Isabel Marant
Léo Marciano
Maripol
Natacha Marro
Paul Mausner
Frank Mechaly
Sophie Mechaly
Rodolphe Menudier
Sébastien Meunier
Simone Mirman
Caroline Montagne Roux
Claude Montana
Gilles Montezin
Roland Mouret
Thierry Mugler
Henriette Negrin
O-Z
Andre Oliver
Mademoiselle Pagelle
Madame Palmyre
Jeanne Paquin
Jean Patou
Mr Pearl
Lucien Pellat-Finet
André Perugia
Phoebe Philo
Christine Phung
Paloma Picasso
Hervé Pierre
Robert Piguet
Octavio Pizarro
Paul Poiret
Lola Prusac
Louis Réard
Caroline Reboux
Jane Régny
Cécile Reinaud
Rose Repetto
Julia Restoin Roitfeld
Jacqueline de Ribes
Nina Ricci
Marcel Rochas
Stéphane Rolland
Michèle Rosier
Maggy Rouff
Olivier Rousteing
Francois Russo
Sonia Rykiel
Jenny Sacerdote
Hemant Sagar
Claude Saint-Cyr
Hélène de Saint Lager
Yves Saint Laurent
Jean-Louis Scherrer
Marine Serre
Maxime Simoëns
Dominique Sirop
Martine Sitbon
Hedi Slimane
Ginette Spanier
Franck Sorbier
Sophie Theallet
Éric Tibusch
Dina Tiktiner Viterbo
Dominic Toubeix
Ramdane Touhami
Emanuel Ungaro
Nadège Vanhee-Cybulski
Alexandre Vauthier
Philippe Venet
Virginie Viard
Madame Victorine
Madame Vignon
Madeleine Vionnet
Madame Virot
Roger Vivier
Louis Vuitton
Yiqing Yin
Madame Yteb
Gruzia
Ekaterine Abuladze
Anouki Areshidze
Avtandil
Bessarion
Lako Bukia
Keti Chkhikvadze
Teona Gardapkhadze
Demna Gvasalia
Ria Keburia
David Koma
Keto Mikeladze
Aka Nanitashvili
Irakli Nasidze
Tatuna Nikolaishvili
Irina Shabayeva
Tamar and Natasha Surguladze
Đức
Torsten Amft
Iris von Arnim
Barbara Becker
Gunda Beeg
Anna Ben-Yusuf
Maria Bogner
Willy Bogner, Sr.
Willy Bogner, Jr.
Hugo Boss
Gregor Clemens
Adolf Dassler
Rudolf Dassler
Barbara Engel
Susanne Erichsen
Robert Geller
Harald Glööckler
Anja Gockel
Eva Gronbach
Otto Ludwig Haas-Heye
Uli Herzner
Mafalda von Hessen
Claudia Hill
Wolfgang Joop
Heidi Klum
Guido Maria Kretschmer
Karl Lagerfeld
Frank Leder
Rolf Leeser
Sonja de Lennart
Margaretha Ley
Markus Lupfer
Georg Lux
Tomas Maier
Maria May
Michael Michalsky
Rudolph Moshammer
Anna Muthesius
Heinz Oestergaard
Leyla Piedayesh
Philipp Plein
Christian Roth
Boris Bidjan Saberi
Jil Sander
Claudia Schiffer
Wiebke Siem
Alex Stenzel
Stefan Szczesny
Gerhard Weber
Bernhard Willhelm
Tilmann Wröbel
Noah Wunsch
Ghana
Joyce Ababio
Tetteh Adzedu
Kofi Ansah
Aisha Ayensu
Kwaku Bediako
Ophelia Crossland
Cecil Duddley Mends
Kofi Okyere Darko
Kabutey and Sumaiya Dzietror
Samata Pattinson
Mabel Simpson
Abena Takyiwa
Maame Esi Acquah Taylor
Sally Torpey
Nana Kwasi Wiafe
Hy Lạp
Christos Costarellos
Kiki Divaris
Yiannis Evangelides
Celia Kritharioti
Eleni Kyriacou
Panos Papadopoulos
Sakis Rouvas
Yiannis Tseklenis
Sotirios Voulgaris
Haiti
Regine Chevallier
Azéde Jean-Pierre
Hungary
Etienne Aigner
Zoltán Herczeg
Mariska Karasz
Emeric Partos
Katalin zu Windisch-Graetz
Iceland
Guðmundur Jörundsson
Sruli Recht
Steinunn Sigurðardóttir
Ấn Độ
A-L
Anaita Shroff Adajania
Erum Ali
Muzaffar Ali
Manish Arora
Bhanu Athaiya
Varija Bajaj
Rohit Bal
Nachiket Barve
Maxima Basu
Ritu Beri
Sangeeta Boochra
Aparna Chandra
Troy Costa
Joy Crizildaa
Lalit Dalmia
Ruma Devi
Rina Dhaka
Rehane Yavar Dhala
Anita Dongre
James Ferreira
Prasantt Ghosh
Surily Goel
Masaba Gupta
Omi Gurung
Asma Hussain
Poornima Indrajith
Indrans
Dolly Jain
Madhu Jain
Payal Jain
Anand Jon
Beena Kannan
Alvira Khan Agnihotri
Gauri Khan
Naeem Khan
Sussanne Khan
Anamika Khanna
Radhika Khanna
Manoviraj Khosla
Rohit Khosla
Sandeep Khosla
Archana Kochhar
Ritu Kumar
Neeta Lulla
M-Z
Nandita Mahtani
Manish Malhotra
Asmita Marwa
Shantanu and Nikhil Mehra
Rahul Mishra
Ayushman Mitra
Anju Modi
Bibhu Mohapatra
Lucky Morani
Sabyasachi Mukherjee
Robert Naorem
Aki Narula
Shaina NC
Deepali Noor
Ruchika Pandey
Agnimitra Paul
Vikram Phadnis
Pernia Qureshi
Malvika Raj
Amritha Ram
Poornima Ramaswamy
Raghavendra Rathore
Rocky Star
Wendell Rodricks
S.B. Satheeshan
Anjana Seth
Esha Sethi Thirani
Kalpana Shah
Komal Shahani
Jishad Shamsudeen
Barkha Sharma
Sheetal Sharma
Suvigya Sharma
Reza Shariffi
Mana Shetty
Anaita Shroff Adajania
Satish Sikha
Anna Singh
Govind Kumar Singh
Leena Singh
Rajesh Pratap Singh
Sameera Saneesh
Sonakshi Sinha
Sidney Sladen
Nalini Sriram
Tarun Tahiliani
Sakhi Thomas
JJ Valaya
Anu Vardhan
Suneet Varma
Varsha Wadhwa
Maral Yazarloo
Nidhi Yasha
Indonesia
Anne Avantie
Asha Smara Darra
Ardistia Dwiasri
Sebastian Gunawan
Peggy Hartanto
Anniesa Hasibuan
Didit Hediprasetyo
Yovita Meta
Obin (Josephine Komara)
Susanna Perini
Tex Saverio
Vicky Shu
Auguste Soesastro
Heaven Tanudiredja
Iwan Tirta
Biyan Wanaatmadja
Iran
Farnaz Abdoli
Ray Aghayan
Haman Alimardani
Pegah Anvarian
Bijan (Bijan Pakzad)
Cleopatra Birrenbach
Paria Farzaneh
Mimi Fayazi
Shirin Guild
Keyvan Khosrovani
Arefeh Mansouri
Sareh Nouri
Zahra Yarahmadi
Maral Yazarloo
Mahla Zamani
Iraq
Reem Alasadi
Hana Sadiq
Tamara Salman
Salim al-Shimiri
Zeena Zaki
Ireland
Sinéad Burke
John Cavanagh
Pauline Clotworthy
Sybil Connolly
Paul Costelloe
Pat Crowley
Michael Donnellan
Irene Gilbert
Daphne Guinness
Daniel Kearns
Louise Kennedy
Lainey Keogh
Daryl Kerrigan
Orla Kiely
Richard Malone
Miriam Mone
Digby Morton
Neillí Mulcahy
Don O'Neill
Jacqueline Quinn
Simone Rocha
Ciaran Sweeney
Pauric Sweeney
Philip Treacy
Sharon Wauchob
Israel
Yigal Azrouël
Berta Balliti
Maya Bash
Lola Beer Ebner
Rinat Brodach
Ronen Chen
Inbal Dror
Adi Gil
Lea Gottlieb
Ronen Jehezkel
Hila Klein
Galia Lahav
Alon Livne
Nili Lotan
Danit Peleg
Noa Raviv
Yotam Solomon
Elie Tahari
Pnina Tornai
Ruti Zisser
Italia
A-E
Loris Abate
Edina Altara
Maria Antonelli
Giorgio Armani
Renato Balestra
Rocco Barocco
Sara Battaglia
Laura Biagiotti
Marzia Bisognin
Elvira Leonardi Bouyeure
Giuliana Camerino
Rene Caovilla
Ennio Capasa
Roberto Capucci
Domenico Caraceni
Consuelo Castiglioni
Orsola de Castro
Roberto Cavalli
Emilio Cavallini
Nino Cerruti
Marco Coretti
Corneliani
Ugo Correani
Enrico Coveri
Lydia de Crescenzo
Brunello Cucinelli
Antonio D'Amico
Alessandro Dell'Acqua
Mariano Di Vaio
Domenico Dolce
José Eisenberg
F-M
Alessandra Facchinetti
Anna Fendi
Ilaria Venturini Fendi
James Ferragamo
Salvatore Ferragamo
Wanda Ferragamo
Gianfranco Ferré
Alberta Ferretti
Marta Ferri
Elio Fiorucci
Giovanna Fontana
Graziella Fontana
Micol Fontana
Zoe Fontana
Nicola Formichetti
Mariano Fortuny
Virginia von Fürstenberg
Stefano Gabbana
Irene Galitzine
Maria Monaci Gallenga
Fernanda Gattinoni
Rosa Genoni
Giancarlo Giammetti
Frida Giannini
Romeo Gigli
Massimiliano Giornetti
Gisella Giovenco
Adriano Goldschmied
Maria Grazia Chiuri
Olga di Grésy
Aldo Gucci
Guccio Gucci
Paolo Gucci
Domitilla Harding
Rossella Jardini
Stella Jean
Max Kibardin
Marzia Kjellberg
Agostino Lanfranchi
André Laug
Angelo Litrico
Gianfranco Lotti
Bruno Magli
Mariuccia Mandelli
Achille Maramotti
Valeria Marini
Alviero Martini
Germana Marucelli
Roberto Faraone Mennella
Alessandro Michele
Angela Missoni
Margherita Missoni
Ottavio Missoni
Anna Molinari
Franco Moschino
N-Z
Massimo Osti
Cesare Paciotti
Pietro Loro Piana
Pierpaolo Piccioli
Stefano Pilati
Mario Prada
Miuccia Prada
Alby Sabrina Pretto
Emilio Pucci
Rose Repetto
Eva Rorandelli
Sergio Rossi
Renzo Rosso
Francesco Rulli
Fausto Sarli
Alessandro Sartori
Andrea Sassetti
Elsa Schiaparelli
Mila Schön
Emilio Schuberth
Francesco Smalto
Luciano Soprani
Simonetta Stefanelli
Sergio Tacchini
Jamal Taslaq
Thayaht
Anne Tirocchi
Laura Tirocchi
Riccardo Tisci
Nicola Trussardi
Valentino
Giambattista Valli
Jole Veneziani
Giancarlo Venturini
Donatella Versace
Gianni Versace
Lucila Mara de Vescovi Whitman
Fabrizio Viti
Marco Zanini
Giuseppe Zanotti
Ermenegildo Zegna
Italo Zucchelli
Bờ Biển Ngà
O'Plérou Grebet
Loza Maléombho
Nhật Bản
Sara Arai
Jun Ashida
Tae Ashida
Chiaki
Tsumori Chisato
Tsuyoshi Domoto
Limi Feu
Hiroshi Fujiwara
Sayo Hayakawa
Nobuki Hizume
Eiko Ishioka
Masato Jones
Uno Kanda
Rei Kawakubo
Kenzō
Takeo Kikuchi
Wakako Kishimoto
Kiyoharu
Mako Kojima
Satoshi Kondo
Yoshiyuki Konishi
Michiko Koshino
Mana
Eri Matsui
Meg
Akina Minami
Issey Miyake
Sarah Miyazawa LaFleur
Hanae Mori
Tomoaki Nagao
Kiyoharu Mori
Tayuka Nakanishi
Hirooko Naoto
Nigo
Jotaro Saito
Mariko Shinoda
Tadashi Shoji
Daiki Suzuki
Jun Takahashi
Toshinosuke Takegahara
Novala Takemoto
Akira Takeuchi
Junya Tashiro
Noritaka Tatehana
Kosuke Tsumura
Charles Tsunashima
Aya Ueto
Chinatsu Wakatsuki
Junya Watanabe
Naomi Watanabe
Sayoko Yamaguchi
Kansai Yamamoto
Yohji Yamamoto
Yoshiki
Sugino Yoshiko
Junko Yoshioka
Kosovo
Dejzi
Lirika Matoshi
Teuta Matoshi
Cô-oét
Ascia AKF
Nejoud Boodai
Latvia
Gints Bude
Olga Peterson
Katya Shehurina
Li-băng
Reem Acra
Huguette Caland
Georges Chakra
Sonia Fares
Nour Hage
Georges Hobeika
Nicolas Jebran
Rabih Kayrouz
Abed Mahfouz
Sandra Mansour
Zuhair Murad
Robert Abi Nader
Elie Saab
Nemer Saade
Gaby Saliba
Basil Soda
Tony Ward
Litva
Lena Himmelstein
Stanislovas Jančiukas
Zita Kreivytė
Malawi
Lily Alfonso
Lillian Koreia
Vanessa Nsona
Malaysia
Shila Amzah
Bernard Chandran
Jimmy Choo
Farah Khan
Rena Koh
Beatrice Looi
Melinda Looi
Richard Rivalee
Rupert Sanderson
Edmund Ser
Nor Aini Shariff
Zang Toi
Mali
Malamine Koné
Lamine Badian Kouyaté
Chris Seydou
Mauritius
Yuvna Kim
México
Christian Cota
Ricardo Covalin
Manuel Cuevas
Carla Fernández
Dolores Gonzales
Paola Hernandez
Eduardo Lucero
Raul Melgoza
Mario Moya
Luz Pavon
Cristina Pineda
John Saldivar
Bárbara Sánchez-Kane
José María Torre
Ximena Valero
Maroc
Alber Elbaz
Joseph Ettedgui
Paul Marciano
Nepal
Shail Upadhya
Prabal Gurung
Hà Lan
Sharon den Adel
Koos Van Den Akker
Laila Aziz
Martyn Bal
Wilbert Das
Marlies Dekkers
Dominique van Dijk
Sergio van Dijk
Pauline van Dongen
Catta Donkersloot
Lidewij Edelkoort
Kurt Elshot
Camiel Fortgens
Olcay Gulsen
Michael van der Ham
Monique van Heist
Iris van Herpen
Nick van Hofwegen
Viktor Horsting
Percy Irausquin
Ronald van der Kemp
Marijke Koger
Bas Kosters
Addy van den Krommenacker
Christian Lagerwaard
Josje Leeger
Fong Leng
Frans Molenaar
Annelies Nuy
Marvin Oduber
Sanae Orchi
Simon Posthuma
Alexander van Slobbe
Rolf Snoeren
Jan Taminiau
Josephus Thimister
Marly van der Velden
Babette Venderbos
Mart Visser
Edgar Vos
Sascha Warmenhoven
Sven Westendorp
Angelique Westerhof
New Zealand
Margo Barton
Annie Bonza
Fanny Buss
Trelise Cooper
Kristine Crabb
Liz Findlay
Judy Gao
Trish Gregory
Malcolm Harrison
Anouska Hempel
Susan Holmes
Kerrie Hughes
Emma Knuckey
Denise L'Estrange-Corbet
Candy Lane
Lindah Lepou
Vinka Lucas
Flora MacKenzie
Konstantina Moutos
Bruce Papas
Doris de Pont
Sally Ridge
Margi Robertson
Kate Sylvester
Joan Talbot
Rebecca Taylor
Karen Walker
Emilia Wickstead
Niger
Alphadi (Seidnally Sidhamed)
Nigeria
Omoyemi Akerele
Folorunsho Alakija
Asi Archibong-Arikpo
Mai Atafo
Ituen Basi
Folake Coker
Lanre da Silva
Maryam Elisha
Lisa Folawiyo
Reni Folawiyo
Yeni Kuti
Muma Gee
Dumebi Iyamah
Adejoke Lasisi
Ugo Mozie
Clement Mudiaga Enajemo
Isoken Ogiemwonyi
Mowalola Ogunlesi
Og Okonkwo
Duro Olowu
Amaka Osakwe
Yemi Osunkoya
Deola Sagoe
Sasha P
Sexy Steel
Ejiro Amos Tafiri
Shade Thomas-Fahm
Patience Torlowei
Wavy the Creator
Bắc Macedonia
Risto Bimbiloski
Nikola Eftimov
Marjan Pejoski
Na Uy
Kristian Aadnevik
Anne Helene Gjelstad
Fam Irvoll
William Duborgh Jensen
Andreas Melbostad
Gunhild Nygaard
Pontine Paus
Julie Skarland
Per Spook
Pakistan
Vaneeza Ahmad
Aijaz Aslam
Mehmood Bhatti
Zainab Chottani
Sarah Gandapur
Nadia Hussain
Junaid Jamshed
Maheen Khan
Sadaf Malaterre
Omar Mansoor
Sania Maskatiya
Deepak Perwani
Kamiar Rokni
Wardha Saleem
Shamoon Sultan
Hassan Sheheryar Yasin
Panama
Federico Visuetti
Papua New Guinea
Sarah Haoda Todd
Peru
Mocha Graña
Alessandra de Osma
Philippines
Michael Cinco
Ito Curata
Mich Dulce
Christian Espiritu
Ben Farrales
Jasper Garvida
Sassa Jimenez
Monique Lhuillier
Imelda Marcos
Lesley Mobo
Pitoy Moreno
Puey Quiñones
Andre Soriano
Rosenthal Tee
Kermit Tesoro
Mak Tumang
Ramón Valera
Ba Lan
Roma Gąsiorowska
Joanna Horodyńska
Barbara Hulanicki
Monika Jaruzelska
Michael Maximilian
Ewa Minge
Anna Potok
Henri Strzelecki
Dawid Tomaszewski
Dawid Woliński
Xymena Zaniewska-Chwedczuk
Maciej Zien
Karolina Zmarlak
Bồ Đào Nha
Paulo Almeida
Felipe Oliveira Baptista
Luís Buchinho
Fátima Lopes
Marta Marques
Isilda Pelicano
Ricardo Preto
Puerto Rico
Carlota Alfaro
Franco Lacosta
Nono Maldonado
Lisa Thon
Rumani
Ioana Ciolacu
Amina Muaddi
Dorin Negrau
Narcisa Pheres
Irina Schrotter
Joseph Seroussi
Ben Zuckerman
LB Nga
Aslan Ahmadov
Olga Bulbenkova
Erté
Angela Donhauser
Oxana Fedorova
Irina Fedotova
Sultanna Frantsuzova
Natalia Goncharova
Irina Khakamada
Nadezhda Lamanova
Katya Lee
Radmila Lolly
Ekaterina Malysheva
Leon Max
Jana Nedzvetskaya
Kira Plastinina
Alexandre Plokhov
Nicolas Putvinski
Gosha Rubchinskiy
Ulyana Sergeenko
Denis Simachev
Alexey Sorokin
Natalia Valevskaya
Helen Yarmak
Valentin Yudashkin
Vyacheslav Zaitsev
Dasha Zhukova
Ruanda
Sonia Mugabo
Ả Rập Xê Út
Adnan Akbar
Yahya Al Bishri
Amina Al Jassim
Senegal
Papis Loveday
Oumou Sy
Serbia
Mihalo Anusic
Jelena Behrend
Melina Džinović
Roksanda Ilincic
Nevena Ivanović
Ines Janković
Sara Jovanović
Sonja Jocić
Nikolija Jovanović
Jelena Karleuša
Bernat Klein
Darko Kostić
Ana Kraš
Aleksandra Lalić
Ana Ljubinković
Zvonko Marković
Marijana Matthäus
Evica Milovanov-Penezic
Boris Nikolić
Ivana Pilja
Aleksandar Protić
Ana Rajcevic
Verica Rakocević
Gorjana Reidel
Ana Šekularac
Ivana Sert
Bata Spasojević
George Styler
Singapore
Elim Chew
Ashley Isham
Hayden Ng
Benny Ong
Priscilla Shunmugam
Slovakia
Lubica Kucerova
Somalia
Iman
Nam Phi
Errol Arendz
Marc Bouwer
Gert-Johan Coetzee
Kara Janx
Abigail Keats
Thebe Magugu
Nkhensani Manganyi Nkosi
Enhle Mbali Mlotshwa
Palesa Mokubung
Mpura
Simon Rademan
Gavin Rajah
David Rosen
Albertus Swanepoel
David Tlale
Hendrik Vermeulen
Hàn Quốc
André Kim
Lie Sang-Bong
MLMA
Sang A Im-Propp
Minju Kim
Rejina Pyo
Lea Seong
Lee Young-hee
Young-mi Woo
Tây Ban Nha
Sita Abellán
Miguel Adrover
Estrella Archs
Amaya Arzuaga
Cristóbal Balenciaga
Maria Barros
Armand Basi
Elena Benarroch
Vicky Martín Berrocal
Elio Berhanyer
Manolo Blahnik
Custo Dalmau
Adolfo Domínguez
Tiziana Domínguez
Ana González
Gala Gonzalez
Pedro del Hierro
Ana Locking
Pura Lopez
Rosalía Mera
Manuel Mota
Sita Murt
Lluís Juste de Nin
Elisa Palomino
Manuel Pertegaz
Jesús del Pozo
Paco Rabanne
Ágatha Ruiz de la Prada
Andrés Sardá Sacristán
Felipe Varela
Domingo Zapata
Sri Lanka
Nayana Karunaratne
Ramzi Rahaman
Ashcharya Peiris
Ruchira Silva
Anuradha Yahampath
Thụy Điển
Valerie Aflalo
Erika Aittamaa
Efva Attling
Moki Cherry
Amanda Christensen
Malinda Damgaard
Agneta Eckemyr
Martis Karin Ersdotter
Emy Fick
Elisabeth Glantzberg
Maja Gunn
Yvette Hass
Jenny Hellström
Sighsten Herrgård
Per Holknekt
Ann-Sofie Johansson
Jonny Johansson
Katja of Sweden (Karin Hallberg)
Filippa Knutsson
Hanna Lindberg
Johan Lindeberg
Carolina Lindström
Augusta Lundin
Lars Nilsson
Gunilla Pontén
Rebecca Simonsson
Gudrun Sjödén
Bea Szenfeld
Camilla Thulin
Lars Wallin
Lars-Åke Wilhelmsson
Thụy Sĩ
Marianne Alvoni
BillyBoy*
Keren Craig
Egon von Fürstenberg
Gaby Jouval
Albert Kriemler
Stefi Talman
Syria
Rami Al Ali
Odette Barsa
Nabil El-Nayal
Đài Loan
Malan Breton
Wenlan Chia
David Chu
Apu Jan
Michelle Liu
Jolin Tsai
Wang Chen Tsai-Hsia
Tanzania
Mustafa Hassanali
Ally Rehmtullah
Thái Lan
Polpat Asavaprapha
Busardi Muntarbhorn
Tuck Muntarbhorn
Sirivannavari Nariratana
Thai Nguyen
Thakoon Panichgul
Pimdao Sukhahuta
Togo
Donaldson Sackey
Trinidad và Tobago
Anya Ayoung-Chee
Tuynidi
Azzedine Alaïa
Max Azria
Thổ Nhĩ Kỳ
Yasemin Akat
Bora Aksu
Hanife Çetiner
Ece Ege
Dilara Fındıkoğlu
Cem Hakko
Cemil İpekçi
Atıl Kutoğlu
Rifat Ozbek
Barbaros Şansal
Ece Sükan
Nur Yerlitaş
Uganda
Titus Brian Ahumuza
Santa Anzo
Stella Atal
Anita Beryl
Abbas Kaijuka
Housen Mushema
Suzan Mutesi
Sylvia Owori
Rubanda-Mayonza
Ukraina
Maryna Asauliuk
Lubov Azria
Irina Belotelkin
Victoria Gres
Vita Kin
Anna Kolomoiets
Ekaterina Kukhareva
Nadia Meiher
Sonya Monina
Serhii and Oleg Petrov
Yuliya Polishchuk
Tetyana Ramus
Vladymyr Podolyan
Mikhail Voronin
Natasha Zinko
Mariya Milovidova
CTVQ Ả Rập Thống nhất
Tamara Al-Gabbani
Rahil Hesan
Khalid bin Sultan Al Qasimi
Mona al Mansouri
Vương quốc Anh
Anh
A-C
Walé Adeyemi
Alex da Kid
Charlie Allen
Hardy Amies
Alexander Amosu
Jonathan Anderson
Murray Arbeid
Gary Aspden
Jacques Azagury
Christopher Bailey
Jon Baker
Maureen Baker
William Baker
Sheridan Barnett
Neil Barrett
Luella Bartley
John Bates
Victoria Beckham
Ruqsana Begum
Mary Ann Bell
Beatrice Bellini
Linda Bennett
Judy Bentinck
Antonio Berardi
Sara Berman
Mary Bettans
Celia Birtwell
Ozwald Boateng
David Bond
Lauren Bowker
Moya Bowler
Carlo Brandelli
Christopher Brooke
Felicity Brown
Sheilagh Brown
Thomas Burberry
Sarah Burton
Serena Bute
Kiki Byrne
Nigel Cabourn
Antonia Campbell-Hughes
Nichole de Carle
Jane Carr
Robert Cary-Williams
Charlie Casely-Hayford
Joe Casely-Hayford
Caroline Castigliano
Richard Cawley
Elspeth Champcommunal
Georgina Chapman
Caroline Charles
Sandra Choi
Alexa Chung
Lindka Cierach
Julia Clancey
Ossie Clark
Gordon Luke Clarke
Catherine Clavering
Suzanne Clements
Sue Clowes
Jasper Conran
Susannah Constantine
Maximillion Cooper
Paul Compitus
Joseph Corré
Cher Coulter
Carolyn Cowan
Charles Creed
Scott Crolla
Neisha Crosland
D-I
Wendy Dagworthy
Helen David
George Davies
Kyle De'Volle
Giles Deacon
Deborah & Clare
Cara Delevingne
Valerie Desmore
Simon Doonan
Lou Dalton
Eddy Downpatrick
Keanan Duffty
Petra Ecclestone
Victor Edelstein
Warren Edwards
Gail Elliott
Elizabeth Emanuel
Phoebe English
Matilda Etches
Chris Eubank
Clive Evans
Maxime de la Falaise
Loulou de la Falaise
Amal Fashanu
Afshin Feiz
Gifi Fields
Michael Fish
John Flett
Marion Foale
Tan France
Graham Fraser
Gina Fratini
Frederick Freed
Bella Freud
Andrea Galer
John Galliano
Kimberley Garner
Bay Garnett
Elspeth Gibson
Tom Gilbey
Darla Jane Gilroy
Molly Goddard
Georgina Godley
Robert Godley
Peter Golding
Oliver Goldsmith
Paul Gorman
Maria Grachvogel
Craig Green
Andrew Groves
Herta Groves
Lulu Guinness
Jeremy Hackett
Malcolm Hall
Olivia von Halle
Katharine Hamnett
Elizabeth Handley-Seymour
Georgia Hardinge
Norman Hartnell
Ade Hassan
Terry de Havilland
Doug Hayward
Wayne Hemingway
Scott Henshall
Jayne Hepsibah
Katie Hillier
Bobby Hillson
Anya Hindmarch
Jennifer Hocking
David Holah
James Holder
Henry Holland
Jade Holland Cooper
Simon Holloway
Emma Hope
Aisleyne Horgan-Wallace
Judy Hornby
Margaret Howell
Sophie Hulme
John Michael Ingram
Janey Ironside
J-O
Betty Jackson
Charles James
Richard James
James Jebbia
Richard Jewels
Anna Jewsbury
Kim Jones
Stephen Jones
Zoe Jordan
Mary Katrantzou
Clare Waight Keller
Angela Kelly
Sara Kelly
Lulu Kennedy
Kate Ker-Lane
Cath Kidston
Nicholas Kirkwood
Sophia Kokosalaki
Ann Margaret Lanchester
Ricki Noel Lander
Karolina Laskowska
Derek Lawlor
Kate Lechmere
Daniel Lee
Supriya Lele
Tanya Ling
Dua Lipa
Ben de Lisi
Daniel Lismore
Angus Lloyd
Pearl Lowe
Otto Lucas
Lucile
Rupert Lycett Green
M.I.A (Maya Arulpragasam)
Gerald McCann
Stella McCartney
Christopher McDonnell
Flora McLean
Alexander McQueen
Claire Malcolm
Edward Mann
Hannah Marshall
Giuseppe Gustavo 'Jo' Mattli
Nasir Mazhar
Edward Meadham
Tamara Mellon
Nadine Merabi
Douglas Millings
Deborah Milner
Johnny Moke
Edward Molyneux
Marvin Morgan
Bianca Mosca
Kate Moss
Catherine Murray di Montezemolo
Carri Munden
Trevor Myles
Christopher Nemeth
Ada Nettleship
Stella Mary Newton
Richard Nicoll
Richard Nott
Sonja Nuttall
Bruce Oldfield
Charlotte Olympia
Beatrix Ong
Kelly Osbourne
P-S
Jenny Packham
Stewart Parvin
Melissa Percy
Gladys Emma Peto
Arabella Pollen
Alice Pollock
Thea Porter
Mark Powell
Nigel Preston
Antony Price
Harvey Proctor
Gareth Pugh
Mary Quant
Richard Quinn
Christopher Raeburn
Michael Rainey
Edward Rayne
Catherine Rayner
John Redfern
John Reed-Crawford
Janet Reger
Kate Reily
Bernard Rhodes
Zandra Rhodes
John Richmond
Bunny Roger
Jeffrey Rogers
Edina Ronay
Charlotte Ronson
Martine Rose
Peter Russell
Philip Sallon
Samata
David Sassoon
Janie Schaffer
Christopher Shannon
Michael Sherard
David Shilling
Tabitha Simmons
Graham Smith
Justin Smith
Paul Smith
Richard Smith
Philip Somerville
Simon Spurr
Claire Stansfield
Tomasz Starzewski
Victor Stiebel
Stevie Stewart
Stuart Stockdale
Joanne Stoker
Helen Storey
Henri Strzelecki
Ian Stuart
Petra Stunt
Dan Sullivan
Paul Surridge
John Sutcliffe
Oliver Sykes
T-Z
Lucy Tammam
Alice Temperley
William Tempest
Karl Templer
Ian Thomas
Teddy Tinling
Karen Townshend
Dolly Tree
Rachel Trevor-Morgan
Sally Tuffin
Twiggy
Patricia Underwood
Julie Verhoeven
Stuart Vevers
Diana Vickers
Grace Wales Bonner
Catherine Walker
Magnus Walker
Amanda Wakeley
Marie Wallin
Tilly Walnes
Gok Wan
Sophia Webster
James Wedge
Hannah Weiland
Peter Werth
Kim West
Vivienne Westwood
Ashley Williams
Stephen Williams
Matthew Williamson
Louise Wilson
Trinny Woodall
Aida Woolf
Charles Frederick Worth
Rhoda Wyburn
Esme Young
Ada Zanditon
Scotland
John Boyd
Serena Bute
William Chambers
Philip Colbert
Holly Fulton
Bill Gibb
Patrick Grant
Charles Jeffrey
Pam Hogg
Christopher Kane
Michelle Mone
Jean Muir
Eunice Olumide
Ronald Paterson
Ray Petri
Jonathan Saunders
John Stephen
Douglas Stuart
Stuart Trevor
Xứ Wales
Laura Ashley
Jeff Banks
Mark Eley
David Emanuel
Timothy Everest
Kate Lambert
Julien Macdonald
Nina Morgan-Jones
Tommy Nutter
Jayne Pierson
Hoa Kỳ
0-A
50 Cent
Robert Abajian
Osceola Macarthy Adams
Adolfo
Adri
Adrian
Joseph Abboud
Virgil Abloh
Paul Abrahamian
Ray Aghayan
Yoon Ahn
Jackie Aina
Steven Alan
Larry Aldrich
Lois K. Alexander Lane
Jason Alkire
June Ambrose
Cindy Ambuehl
Marcus Amerman
Mike Amiri
Kaylin Andres
Paul Andrew
Spencer Antle
Loren Aragon
Asspizza
Lorencita Atencio
Bill Atkinson
Brian Atwood
Pegah Anvarian
Bonnie August
Kevin Aviance
Jacqueline Ayer
B
Mark Badgley
Xenobia Bailey
Louella Ballerino
Jeffrey Banks
Travis Banton
A$AP Bari
Jhane Barnes
Robin Barnes
Tuesday Bassen
Michael Bastian
Suede Baum
Kathrine Baumann
Jen Beeman
Geoffrey Beene
Bill Belew
Hunter Bell
Salehe Bembury
Zaida Ben-Yusuf
Henri Willis Bendel
Stacey Bendet
Fira Benenson
Laura Bennett
Susan Bennis
Fonzworth Bentley
Chris Benz
Robyn Berkley
JoAnn Berman
Danielle Bernstein
Drew Bernstein
James Pasqual Bettio
Jonas Bevacqua
Christopher Bevans
Beyoncé
Jeanne Bice
Ashley Biden
Stanley Blacker
Hazel Rodney Blackman
Richard Blackwell
Bob Bland
Bill Blass
Mildred Blount
Stevie Boi
Krayzie Bone
Ann Bonfoey Taylor
Waraire Boswell
Tony Bowls
Barbara Bradley Baekgaard
Rosemary Brantley
Tom Brigance
Dianne Brill
Helen Brockman
Bonnie Broel
Donald Brooks
Thom Browne
Sabrina Bryan
Dana Buchman
Sophie Buhai
Georgia Bullock Lloyd
Tory Burch
Kenny Burns
Stephen Burrows
Jon Buscemi
Lauren Bush
Ebenezer Butterick
Austin Butts
Amanda Bynes
C
Don C
Jean Cacicedo
Lillian Cahn
Miles Cahn
Joan Calabrese
Sarah Calhoun
Eva Camacho-Sánchez
Jeanne S. Campbell
Carlos Campos
Vince Camuto
Joselyn Cano
Ruth Sacks Caplin
Albert Capraro
Alex Carleton
Jack Carlson
Hattie Carnegie
Elizabeth Carpenter
Kelly Carrington
Bonnie Cashin
Cecilia Cassini
Oleg Cassini
Kristin Cavallari
Sal Cesarani
Richard Chai
Julie Chaiken
Angela Chan
Angel Chang
Alabama Chanin
Kip Chapelle
Ceil Chapman
Juli Lynne Charlot
Arielle Charnas
Willy Chavarria
Monika Chiang
Margaret Cho
Andrew Christian
Matthew Christopher
Doo-Ri Chung
Susan Cianciolo
Liz Claiborne
Claw Money
Telfar Clemens
James Clifford
Susie Coelho
Nudie Cohn
Kenneth Cole
Liz Collins
Sean Combs
Dennis Comeau
Rachel Comey
Cristi Conaway
Lauren Conrad
Mandy Coon
Jo Copeland
Calleen Cordero
Dorian Corey
Victor Costa
Michael Costello
Jeffrey Costello
Fannie Criss
Caresse Crosby
Kein Cross
Candice Cuoco
D-F
Caroline D'Amore
Lilly Daché
Laura Dahl
Phoebe Dahl
Eric Daman
Chloe Dao
Betty David
Karl Davis
Rob Davis
Vicky Davis
Daniel Day
Marisol Deluna
Ellen Louise Demorest
Jane Derby
Lyn Devon
Diana Dew
Scott Disick
Kristen Doute
Rehn Dudukgian
Haylie Duff
Hilary Duff
Charlie Dunn
Alison Eastwood
Mike Eckhaus
Marc Ecko
Alan Eckstein
Melody Ehsani
Florence Eiseman
Lauren Elaine
Perry Ellis
Ella Emhoff
Diana Eng
Kataluna Enriquez
Bonnie Erickson
Patrik Ervell
George Esquivel
Luis Estevez
Charles Evans
Lou Eyrich
Baron Von Fancy
Beatrice Farnham
Kaffe Fassett
Natalia Fedner
Beverly Feldman
Randy Fenoli
Douglas Ferguson
Abi Ferrin
Erin Fetherston
Andrew Fezza
Lupe Fiasco
Patricia Field
Phyllis Fife
Jimmie Carole Fife Stewart
Sandy Fife Wilson
Ron Finley
Renée Firestone
Eileen Fisher
Edith Flagg
Alan Flusser
Anne Fogarty
Edith Foltz
Cliff Fong
Mia Fonssagrives-Solow
Tom Ford
Roger Forsythe
Daniel Franco
Paul Frank
Diane von Fürstenberg
Talita von Fürstenberg
G-H
James Galanos
Katie Gallagher
Jeff Garner
Eric Gaskins
Kaia Gerber
Natali Germanotta
Rudi Gernreich
August Getty
Nats Getty
Mossimo Giannulli
Kayne Gillaspie
Diane Gilman
Sophie Gimbel
Jared Gold
Kimberly Goldson
Lori Goldstein
Selena Gomez
Wes Gordon
Jenny Gordy
Gary Graham
Gogo Graham
Dorothy Grant
Sandra Gray
Howard Greer
Henry Grethel
Odessa Warren Grey
Lynda Grose
Shoshanna Lonstein Gruss
Sergio Guadarrama
Mondo Guerra
Prabal Gurung
Julia Haart
Cassidy Haley
Kevan Hall
George Halley
Halston
Peggy Hamilton
Tim Hamilton
Mary Alice Haney
Antthony Mark Hankins
Susie Schmitt Hanson
Donwan Harrell
Marcy Harriell
Lorene Harrison
Johnson Hartig
Tinker Hatfield
Christina Hattler
Julie Haus
Elizabeth Hawes
Jesse Hawley
Christina Hattler
Batsheva Hay
Edith Head
Oliver Helden
Seth Aaron Henderson
Kimberly Hendrix
Eta Hentz
Gregory Herman
Stan Herman
Mila Hermanovski
Lazaro Hernandez
Tommy Hilfiger
Anne T. Hill
Sherri Hill
Nicky Hilton Rothschild
Lena Himmelstein
Susan Holmes
Joe Allen Hong
Jacob H. Horwitz
Ola Hudson
Keith Hufnagel
Merry Hull
Misa Hylton
I-K
Stacy Igel
Jenn Im
Indashio
Irene (Irene Lentz)
Connor Ives
Dee and Ricky Jackson
Janet Jackson
Marc Jacobs
Eli James
Sidney Janis
Kerby Jean-Raymond
jeffstaple
Kendall Jenner
Kylie Jenner
Jermikko
Elisa Jimenez
Daymond John
John P. John (Mr John)
Kevin Johnn
Coco Johnsen
Betsey Johnson
Teri Jon
Gretchen Jones
Kidada Jones
Lauren Jones
Victor Joris
Margaret Josephs
Christian Joy
Alexander Julian
Jessica Jung
Nik Kacy
Bill Kaiserman
Robert Kalloch
Norma Kamali
Karen Kane
Karl Kani
Jen Kao
Emily Kappes
Edmund Kara
Donna Karan
Kim Kardashian
Khloé Kardashian
Kourtney Kardashian
Herbert Kasper
Ali Kay
Elizabeth Keckley
Rod Keenan
Clinton Kelly
Patrick Kelly
Kathy Kemp
Dorit Kemsley
Omar Kiam
Christina Kim
Elaine Kim
Eugenia Kim
Alan King
Ben King
Muriel King
Joy Kingston
Alexis Kirk
Katiti Kironde
Audrey Kitching
Charles Kleibacker
Anne Klein
Calvin Klein
John Kloss
Mychael Knight
Eric de Kolb
Jonathan Koon
Solange Knowles
Tina Knowles
Ronny Kobo
Michael Kors
Reed Krakoff
Carson Kressley
Michael Kuluva
L
Pepper LaBeija
Michelle Laine
Derek Lam
Brianna Lance
Kenneth Jay Lane
Liz Lange
Kara Laricks
Raun Larose
Byron Lars
Zoe Latta
Ralph Lauren
Nicole M. LeBlanc
Heidi Lee
Helen Lee
Suzanne Lee
Larry LeGaspi
Judith Leiber
Humberto Leon
Nanette Lepore
Tina Leser
Maurice Levin
Asher Levine
Beth Levine
Larry Levine
Matt Levine
Monica Lewinsky
Monah Li
Sandy Liang
Brian Lichtenberg
Andrea Lieberman
Lil Debbie
Carol Lim
Phillip Lim
Adam Lippes
Col. Littleton
Yohanna Logan
Gene London
Don Loper
Jennifer Lopez
Oscar G. Lopez
Jerry Lorenzo
Bobby Love
Ron LoVece
Ann Lowe
Chloe Lukasiak
Parke Lutter
Jenna Lyons
M
Jack Mackenroth
Bob Mackie
Steve Madden
Leigh Magar
Edith Mahier
Mainbocher (Main Bocher)
Loza Maléombho
John Malkovich
Adrienne Maloof
Taryn Manning
Margaret Manny
Rooney Mara
Mary Jane Marcasiano
Chris March
Marjorie Bear Don't Walk
Lana Marks
Luba Marks
Paul Marlow
Deborah Marquit
Leanne Marshall
Kelli Martin
Sid Mashburn
Manny Mashouf
Saul Maslavi
Brandon Maxwell
Vera Maxwell
Claire McCardell
Jay McCarroll
Shon McCarthy
Becca McCharen-Tran
Jessica McClintock
Jack McCollough
LisaRaye McCoy
Reyn McCullough
Bradon McDonald
Mary McFadden
Arthur McGee
Hogan McLaughlin
Mark McNairy
Leah McSweeney
Nancy Melcher
Raul Melgoza
Rosie Mercado
Ashton Michael
Keith Michael
Draya Michele
Michael Michele
David Meister
Kaila Methven
Emily Miles
Sally Milgrim
Annie Jenness Miller
Nicole Miller
Nolan Miller
Romeo Miller
Rosemary Reed Miller
Savannah Miller
Sienna Miller
James Mischka
Isaac Mizrahi
Bibhu Mohapatra
Germaine Monteil
Marjorie Montgomery
Heidi Montag
Vincent Monte-Sano
Diego Montoya
Ardina Moore
Mandy Moore
Mark Mooring
Sonja Morgan
Leslie Morris
Rose Mortem
Minnie Mortimer
Tinsley Mortimer
Rebecca Moses
Lauren Moshi
Tereneh Mosley
Bethany Mota
Mario Moya
Ibtihaj Muhammad
Peter Mui
Kate and Laura Mulleavy
Malini Murjani
Anthony Muto
Paige Mycoskie
Josephine Myers-Wapp
Morton Myles
N-Q
Nas
Gela Nash-Taylor
Josie Natori
Tracy Negoshian
Lloyd Kiva New
Bernard Newman
Albert Nipon
Vanessa Noel
Ralph Lauren
Charles Nolan
Peggy Noland
Misha Nonoo
Norman Norell
Maggie Norris
Ryan Jude Novelline
Bobbie Nudie
Aubrey O'Day
Melissa Odabash
Dee Ocleppo
Jamie Okuma
Todd Oldham
Shayne Oliver
Ashley Olsen
Mary-Kate Olsen
Orry-Kelly
Virgil Ortiz
Mel Ottenberg
Jennifer Ouellette
Kimberly Ovitz
Rick Owens
Marialia Pacitto
Olivia Palermo
Gladys Parker
Molly Parnis
Russell Patterson
DJ Paul
Laura Pearson
Sylvia Pedlar
Maya Penn
Wendy Pepper
Claire Pettibone
Amanda Phelan
Elizabeth Phelps
Mary Phelps Jacob
Sarah Phillips
Henriette Simon Picker
Pictureplane
Mary Ping
Maria Pinto
Babette Pinsky
Andrea Pitter
Mimi Plange
Cecile Platovsky
Wendy Ponca
Lawren Pope
Whitney Port
Zac Posen
Clare Potter
Heron Preston
Cristiana Proietti
Prudence
J. Morgan Puett
Lilly Pulitzer
R
Max Raab
Tala Raassi
Randi Rahm
Traver Rains
Natacha Rambova
David Rappaport
Rasheeda
Emily Grace Reaves
Harris Reed
Nell Donnelly Reed
Wendi Reed
Tracy Reese
Billy Reid
Rose Marie Reid
Ben Reig
Oscar de la Renta
Edith Reuss
Jessica Rey
Donna Ricco
Santino Rice
Jessica Rich
Richie Rich
Lisa Rinna
Larry Roberts Salters
Bill Robinson
Craig Robinson
Patrick Robinson
Narciso Rodriguez
Ariana Rockefeller
Carolyne Roehm
Ciera Rogers
Ruth Rogers-Altmann
Alice Roi
Pamella Roland
William Rondina
Helen Rose
Lela Rose
Daniel Roseberry
Eva Rosencrans
Steven Rosengard
Nettie Rosenstein
Christian Francis Roth
Franklin Rowe
Cynthia Rowley
Rachel Roy
Sonja Rubin
Ralph Rucci
Clovis Ruffin
Mirela Rupic
Marty Ruza
S
Marie St John
Hailie Sahar
Cynthia Sakai
Sandra Sakata
Fernando Sánchez
Giorgio di Sant' Angelo
Carolina Santo Domingo
Behnaz Sarafpour
Ferdinando Sarmi
Kara Saun
Michele Savino
Austin Scarlett
Werner G. Scharff
Mindy Scheier
Nicole Scherzinger
Michael Schmidt
Carolyn Schnurer
Caroline Zoe Schumm
Jeremy Scott
L'Wren Scott
Veronica Scott
Jeffrey Sebelia
Selena
Wray Serna
Chloë Sevigny
Ronaldus Shamask
Geraldine M. Sherman
Eileen Shields
Jasmin Shokrian
Darcey Silva
Dexter Simmons
Diggy Simmons
Kimora Lee Simmons
Russell Simmons
Fabrice Simon
Adele Simpson
Jessica Simpson
Rubin Singer
Christian Siriano
Nikki Sixx
Elena Slivnyak
Bill Smith
LaQuan Smith
Michelle Smith
Willi Smith
Todd Snyder
Mimi So
Peter Som
Aimee Song
Luke Song
Andre Soriano
Emilio Sosa
Soulja Boy
Kate Spade
Peter Speliopoulos
Robert L. Spencer
Mary Lou Spiess
Ruth Spooner
Stephen Sprouse
Jeffree Star
George Stavropoulos
Frances Stein
Gwen Stefani
Scott Steinberg
Francesca Sterlacci
Josie Stevens
Ellen Stewart
Johan Ludwig Stifel
Steven Stolman
Kate Stoltz
Elena Stonaker
Christopher Straub
Jill Stuart
Shawn Stussy
Tara Subkoff
Anna Sui
Ivy Supersonic
Charles Suppon
Swizz Beatz
T-V
Wesley Tann
Isa Tapia
Amir Taghi
Robert Tagliapietra
Gustave Tassell
Tila Tequila
Tere Tereba
Thea Tewi
Barbara Tfank
Ouigi Theodore
threeasfour
Stephanie Thomas
Todd Thomas
Azalea Thorpe
Vicky Tiel
Monika Tilley
Susie Tompkins Buell
Robert Tonner
Marina Toybina
Pauline Trigère
Van Day Truex
Ivanka Trump
Elaine Turner
Jessie Franklin Turner
Maurice Tumarkin
David Tutera
Tyler, The Creator
Kay Unger
Zelda Wynn Valdes
Valentina
Alvin Valley
Carmen Marc Valvo
Theadora Van Runkle
Gloria Vanderbilt
John Varvatos
Joan Vass
Elena Velez
Mike Vensel
Gia Ventola
Louis Verdad
Nick Verreos
Sally Victor
Miranda Vidak
Adrienne Vittadini
Clare Vivier
Michaele Vollbracht
Voris
Daniel Vosovic
W-Z
Alexander Wang
Vera Wang
Jahleel Weaver
Jimmy Webb
Marissa Webb
Clayton and Flavie Webster
Timo Weiland
Chester Weinberg
Heidi Weisel
John Weitz
Stuart Weitzman
Clare West
Kanye West
Stephen West
Vera West
Margaret Roach Wheeler
Delina White
Carol Hannah Whitfield
Jazmin Whitley
Bill Frank Whitten
Emily Wilkens
Jeffrey Williams
Matthew Williams
Pharrell Williams
Vanessa Williams
Kevin Willis
Eva Danielle Wittels
Sherry Wolf
Kaisik Wong
Sue Wong
Margaret Wood
Nick Wooster
Sydney Wragge
Jaime Xie
Luly Yang
Bethany Yellowtail
Yeohlee
Molly Yestadt
Sean Yseult
Jean Yu
Jay Z
Zaldy
Karen Zambos
Zane One
Diva Zappa
Zarah
Paul Zastupnevich
Rachel Zoe
Zoran
Mark Zunino
Uruguay
Gabriela Hearst
Venezuela
Nicolas Felizola
Carolina Herrera
Ángel Sánchez
Việt Nam và hải ngoại
Thuy Diep
Tôn Hiếu Anh
Đặng Thị Minh Hạnh
Đinh Trường Tùng
Vũ Ngọc Tú
Công Trí
Đỗ Mạnh Cường
Nhật Dũng
Lý Quí Khánh
Zaire
Odette Krempin
Adama Ndiaye
Zimbabwe
Liam Fahy
Xem thêm
Danh sách nhà thiết kế trang sức
Danh sách người theo nghề nghiệp
Danh sách liên quan đến thiết kế
Lịch sử thời trang
Nghề nghiệp thời trang
Danh sách liên quan đến thời trang
|
19840834
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gemini%20%28m%C3%B4%20h%C3%ACnh%20ng%C3%B4n%20ng%E1%BB%AF%29
|
Gemini (mô hình ngôn ngữ)
|
Gemini là một hệ mô hình ngôn ngữ lớn đa phương thức phát hành bởi Google DeepMind, đóng vai trò là một mô hình ngôn ngữ thay thế cho LaMDA và PaLM 2. Mô hình này bao gồm Gemini Ultra, Gemini Pro, và Gemini Nano (công bố vào tháng 6 năm 2023), và được định vị là đối thủ cạnh tranh của GPT-4 của OpenAI. Nó có chatbot trí tuệ nhân tạo tạo sinh cùng tên.
Thông số kỹ thuật
Ba mô hình Gemini có điểm kiến trúc phần mềm giống nhau. Chúng là transformer chỉ bộ giải mã, với sự chỉnh sửa để cho phép đào tạo và suy luận hiệu quả cho TPU và có độ dài ngữ cảnh là 32.768 mã thông báo, chú ý đến nhiều truy vấn. Hai phiên bản của Gemini Nano (Nano-1 (1.8 tỷ tham số) và Nano-2 (3.25 tỷ tham số)) chung cất từ mô hình Gemini lớn hơn, được thiết kê để sử dụng trong các thiết bị biên chẳng hạn như điện thoại thông minh. Vì Gemini có nhiều phương thức khác nhau, mỗi cửa sổ ngữ cảnh có thể chứa nhiều dạng đầu vào. Các chế độ khác nhau có thể được xen kẽ và không cần phải trình bày theo một thứ tự cố định, cho phép trò chuyện nhiều phương thức. Hình ảnh đầu vào có thể khác độ phân giải, trong khi video được nhập dưới dạng một chuỗi hình ảnh. Âm thanh được lấy mẫu ở tần số 16 kHz và sau đó được chuyển đổi thành một chuỗi mã thông báo bởi USM. Tập dữ liệu Gemini có nhiều phương thức và nhiều ngôn ngữ, bao gồm "tài liệu web, sách, và mã, và bao gồm hình ảnh, âm thanh, và dữ liệu video".
Xem thêm
Gato – một mạng lưới thần kinh nhiều phương thức được phát hành bởi DeepMind.
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Press release via The Keyword
Announcement and demo on YouTube
White paper for 1.0 and 1.5
Phần mềm năm 2023
Chatbot
Google DeepMind
Phần mềm Google
Mô hình ngôn ngữ lớn
Tương tác đa phương thức
|
19840839
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kishi%20Aino
|
Kishi Aino
|
là một tarento, cựu nữ diễn viên khiêu dâm và cựu thần tượng áo tắm người Nhật Bản.
Sự nghiệp
Ảnh áo tắm của cô lần đầu được đăng trên tạp chí "Young Gangan" phát hành ngày 16/3/2007. Cô cũng đã phát hành 2 video hình ảnh và 1 sách ảnh. Sách ảnh này đã xếp thứ nhất trong bảng xếo hạng hàng tuần của Shosen Bookmart.
Tháng 11/2007, có nhiều lời đồn cô ra mắt ngành phim khiêu dâm, và thông báo cô ra mắt ngành phim khiêu dâm đã được thông báo chính thức trên Tokyo Sports vào ngày 12/12. Dù cô đã phủ nhận điều này vào tháng 11/2007 trên blog chính thức, cô cũng đã xác nhận sẽ ra mắt vào tháng 2/2008. Tại thời điểm đó việc cô thay đổi ngành sau 1 năm làm mẫu ảnh áo tắm là khá khác thường.
Ảnh khỏa thân lông mu của cô đã được đăng tải trên tạp chí fukurotoji FLASH số ngày 25/12/2007. Vào ngày 22/2/2008, cô đã ra mắt ngành phim khiêu dâm với tư cách là nữ diễn viên độc quyền của Japan Home Video và MAX-A với phim "Thành viên nhóm thần tượng đang hoạt động Kishi Aino ra mắt ngành" (現役アイドルユニットメンバー 希志あいのデビュー). Tiêu đè này đến ttuwf việc cô đã tham gia nhóm thần tượng "Half Moon".
1/2/2010, cô đã ra mắt tự do từ hãng Idea Pocket. Từ tháng 4, cô cũng đã xuất hiện trên loạt chương trình Onemasu bắt đầu từ "Choito Muscat!" (TV Tokyo).
2011 - Cô cùng Yokoyama Miyuki, người đã cũng xuất hiện trong các chương trình Onemasu và Kizaki Jessica hợp tác để xuất bản bài hát "Bên cạnh em" (そばにいてね/ Soba ni ite ne).
Từ ngày 5/1 đến 29/2/2012, cô đã xếp thứ 28 trong cuộc bầu cử khán giả về dự án kỉ niệm 30 năm phim khiêu dâm (AV30).
Trong chương trình ngày 7/3/2012 trưởng nhóm Ebisu Muscats thế hệ thứ hai Asami Yuma đã rời chức trưởng nhóm và cô đã được chọn làm trưởng nhóm thế hệ thứ ba theo ý kiến khảo sát nhân viên.
4/5/2015,cô thông báo sẽ nghỉ việc tại sự kiện trao giải của Giải thưởng phim người lớn DMM.R18, vào tháng 12/2015. Sự kiện cuối cùng vào tháng 12 cũng là sự kiện cuối cùng của Asami Yuma và Kasumi Kaho.
29/4/2016, cô đã tham gia buổi thứ hai của "Tiệc trình diễn Kasumi Kaho" (sự kiện đánh dấu nghỉ việc).
Sau khi nghỉ việc cô vẫn làm việc cho công ti chủ quản, và vào tháng 5/2016, cô đã nhận làm MC cho Giải thưởng phim người lớn DMM 2016 để tiếp tục đóng góp cho ngành và là lần đầu tiên cô xuất hiện trước công chúng sau 6 tháng.
Đời tư & Cuộc sống
Khi cô nói rằng sẽ ra mắt ngành phim khiêu dâm với bố mẹ, họ đã không có cái nhìn tốt về cô, tuy nhiên sau đó họ đã tha thứ và nói "Chỉ cần Aino vẫn còn là Aino mọi thứ vẫn ổn thôi". Cô đã không thể thuyết phục bố mẹ cô về ciệc này.
Lần đầu cô quan hệ tình dục là vào Giáng sinh năm nhất trung học.
Sở thích của cô là vẽ tranh sơn dầu, tắm, mua sắm và chơi Lineage II. Kĩ năng đặc biệt của cô là chơi thể dục dụng cụ.
Do tóc dài và thân hình mảnh mai, cô đã được đặt khẩu hiệu "Cô gái mảnh mai của Thời đại mới" trên "Choito Muscat!", chương trình mà cô thường xuất hiện. Do khiếu hài hước tình dục, cô cũng thường được biết đến là "Amazon trong lĩnh vực gợi dục".
Tarento Katsumata Kunikazu là mọt người hâm mộ Aino, tuy nhiên anh đã bị sốc vò lời nói mạnh bạo của cô trong chương trình Vua ngụy biện. Aino đã xin lỗi và trả lời lại rằng "Katsumata-san, lần sau hãy giải quyết bằng liếm dương vật."
Vào năm 2012, cô đã đóng giả làm con trai dưới tên Kishio-kun khi xuất hiện tại sự kiện. Do phong cách đẹp trai của cô, chương trình đã được đặt tên là "Lá thư tình của Kisshan", nhưng cô đã từ chối thế nên chương trình được gọi là Lá thư tình của Aino. Maccoi Saitō cũng đã nói rằng cô được chọn làm trưởng nhóm thứ ba của Ebisu Muscats nhờ "dựa vào tính cách".
Cô đã tham gia Buổi thử giọng cho Mecha x 2 Iketeru! phát sóng ngày 9/10/2010. Cô đã không nói gì về điều này, tuy nhiên cô có thể dễ dàng được nhận ra nhờ thẻ tên. Mặc dù cô đã suýt bị Katō Kōji đánh bại, cô đã đánh bại Katō cùng các thành viên Muscats khác theo lời Maccoi Saitō.
Cô cũng đã thành lập nhóm 3 thành viên "Hi quân đoàn" (希軍団) cùng Kizaki Jessica và Nozomi Mayu, những người cùng công ti chủ quản và cùng có chữ Hi (希) trong tên với cô. Ngoài ra, cô cũng thích kịch sân khấu và đã có kế hoạch thành lập "Kịch đoàn Kishi", tuy nhiên có vẻ chưa tìm được thành viên.
Cô đã nói rằng cô bị dị ứng trái cây, và đã liệt cô trái cây cô không ăn được là dâu tây, táo, kiwi, lê, dứa, đào và anh đào. Mặt khác, cô có thể ăn chuối, các loại cam quýt, nho, các loại dưa, dưa hấu và quả hồng.
Cô thích Yoshizawa Akiho đến mức đã đặt Akiho làm hình nền.
Cô đã từng bị nhiễm Dengue khi đóng phim tại nước ngoài.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Duo Entertainment - Công ti chủ quản
(Trang web dành cho người trên 18 tuổi)
☆★希志あいの公式ブログ★☆ ( ☆★Blog chính thức Kishi Aino★☆) - Blog chính thức (16/3/2007 - )
希志あいの☆★公式ブログ★☆ (☆★Blog chính thức★☆ Kishi Aino) - Blog chính thức (Rakuten) ( - 11/12/2009)
S1 Kishi Aino
Idea Pocket Kishi Aino
Sinh năm 1988
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên Idea Pocket
Nữ diễn viên Alice Japan
Nữ diễn viên S1
Ebisu Muscats
Nữ diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21
Thần tượng Nhật Bản
|
19840842
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Santiago%20Gim%C3%A9nez
|
Santiago Giménez
|
Santiago Tomás Giménez (; sinh ngày 18 tháng 4 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Feyenoord tại Eredivisie. Sinh ra ở Argentina, anh thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia México.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Cruz Azul
Giménez sinh ngày 18 tháng 4 năm 2001 ở Buenos Aires ở Argentina. Anh được đào tạo tại Cruz Azul ở México, nơi cha anh, Christian Giménez, từng thi đấu. Vào ngày 2 tháng 8 năm 2017, Giménez có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Cruz Azul trong trận hòa 1–1 trước Tigres UANL tại vòng bảng Copa MX. Hai năm sau, vào ngày 28 tháng 8 năm 2019, anh có trận ra mắt Liga MX trong trận thua 3–2 trước Tijuana. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Cruz Azul vào ngày 2 tháng 2 năm 2020 trong trận đấu hòa 3–3 trước Toluca sau khi ghi bàn trong vòng hai phút đầu tiên của trận đấu.
Vào tháng 8 năm 2021, Giménez được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Liga MX sau khi ghi bàn trong 4 trận đấu riêng biệt.
Feyenoord
2022–23: Mùa giải đầu tiên và nhà vô địch Eredivisie
Vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, Giménez gia nhập Feyenoord trong bản hợp đồng 4 năm.
Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Feyenoord vào ngày 27 tháng 8 sau khi ghi bàn thắng thứ hai cho câu lạc bộ trong chiến thắng 4–0 trước FC Emmen và đồng thời kiến tạo cho Jacob Rasmussen ghi bàn thắng thứ ba trong trận chiến thắng đó. Vào ngày 8 tháng 9, anh có trận ra mắt UEFA Europa League cũng trong mùa giải 2022–23 trong trận vòng bảng trước Lazio sau khi vào sân thay người ở phút 64 và ghi hai bàn trong trận thua 4–2 của Feyenoord. Vào ngày 3 tháng 11, anh ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 trong trận lượt về với Lazio ở vòng bảng Europa League sau khi vào sân thay người để giúp Feyenoord giành vị trí đầu tiên trên bảng và trực tiếp giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp.
Sau khi mùa giải đầu tiên của Giménez tại Feyenoord kết thúc, Feyenoord giành chức vô địch Eredivisie 2022–23. Anh ghi 15 bàn sau 32 trận, bao gồm cả bàn thắng thứ hai trong chiến thắng 3–0 trước Go Ahead Eagles để đảm bảo chức vô địch cho Feyenoord.
2023–24: Mùa giải thứ hai ở Hà Lan
Vào tháng 8 năm 2023, Giménez gia hạn hợp đồng với Feyenoord cho đến năm 2027.
Giménez bắt đầu mùa giải 2023–24 vào ngày 4 tháng 8 khi chơi 62 phút trong trận thua 1–0 trước PSV Eindhoven ở Siêu cúp Hà Lan. Vào ngày 20 tháng 8, Giménez ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải trong trận hòa 2–2 trước Sparta Rotterdam. Trong các trận tiếp theo, vào ngày 27 tháng 8 và ngày 3 tháng 9, Giménez ghi hai cú đúp, một trong chiến thắng 6–1 trước Almere City và một trong chiến thắng 5–1 trên sân khách trước Utrecht. Vào ngày 27 tháng 9, Giménez hoàn tất cú hat-trick trong chiến thắng 4–0 trên sân khách trước Ajax khi ghi bàn đầu tiên và thứ hai vào ngày 24 tháng 9 và ghi bàn thứ ba vào ngày 27 tháng 9 sau khi trận đấu ban đầu bị hủy vào ngày 24. Vì những thành tích đạt được vào tháng 9, anh được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Eredivisie. Tại Champions League, anh bị treo giò hai trận đầu tiên ở vòng bảng sau khi nhận thẻ đỏ trong trận gặp Roma ở trận tứ kết lượt về Europa League mùa trước. Sau đó, Giménez ra mắt Champions League vào ngày 25 tháng 10, ghi bàn thắng đầu tiên và thứ ba trong chiến thắng 3–1 trên sân nhà trước Lazio. Vào ngày 25 tháng 11, anh ghi hat-trick thứ hai trong mùa giải trong trận thắng 4–2 trận derby Rotterdam trước Excelsior tại Sân vận động Woudestein và chấm dứt cơn hạn hán ghi bàn kéo dài sáu trận của anh. Vào ngày 7 tháng 12, sau chiến thắng 3–1 của Feyenoord trước Volendam, Giménez ghi bàn thắng thứ 31 ở Eredivisie trong một năm dương lịch và vượt qua người giữ kỷ lục trước đó với 30 bàn (2009) là Luis Suárez. Với 31 bàn thắng trong năm 2023, Giménez đã lập kỷ lục về số bàn thắng ghi được ở Eredivisie trong một năm dương lịch.
Sự nghiệp quốc tế
Mặc dù có quyền lựa chọn đại diện cho Argentina, quốc gia nơi anh sinh ra, Giménez vẫn quyết định đại diện cho México sau khi nhập quốc tịch México. Anh nói rằng anh cảm thấy mình là người México hơn người Argentina vì đã sống ở México kể từ thời thơ ấu. Anh đã được triệu tập vào các đội U-15, U-18, U-20 và U-23 México. Anh có 3 lần ra sân cùng U-16 México tại International Dream Cup 2016 ở Nhật Bản.
Vào tháng 9 năm 2020, Giménez được Gerardo Martino triệu tập vào đội tuyển quốc gia cấp cao đầu tiên để tham gia trại huấn luyện. Cùng tháng đó, có thông tin cho rằng huấn luyện viên đội U-20 Argentina Fernando Batista muốn gọi anh lên tuyển.
Vào ngày 27 tháng 10 năm 2021, Giménez có trận ra mắt cho đội tuyển quốc gia México trong trận giao hữu với Ecuador. Vào ngày 8 tháng 12, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Mexico trong trận hòa 2–2 với Chile.
Vào tháng 10 năm 2022, Giménez có tên trong danh sách sơ bộ 31 người của México tham dự World Cup ở Qatar, nhưng anh không được chọn vào đội hình 26 người chính thức.
Vào ngày 16 tháng 7 năm 2023, Giménez ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết Cúp Vàng CONCACAF trước Panama để giúp Mexico giành chức vô địch lần thứ chín.
Đời tư
Santiago Giménez là con trai của cầu thủ bóng đá người Argentina Christian Giménez, người từng thi đấu cho Cruz Azul. Sinh ra ở Buenos Aires, Argentina, Giménez chuyển đến México vào lúc 3 tuổi cùng cha sau khi ông chuyển đến câu lac bộ Veracruz tại Liga MX. Ông nội của anh đến từ Paraguay và anh có nguồn gốc Ý từ phía mẹ anh. Anh là một Kitô hữu sùng đạo và được rửa tội vào tháng 1 năm 2019. Giménez đính hôn với người mẫu México Fer Serrano.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Tỷ số của México được liệt kê trước, cột tỷ số ghi tỷ số sau mỗi bàn thắng của Giménez.
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Cruz Azul
Liga MX: Guardianes 2021
Copa MX: Apertura 2018
Campeón de Campeones: 2021
Supercopa de la Liga MX: 2022
Supercopa MX: 2019
Leagues Cup: 2019
Feyenoord
Eredivisie: 2022–23
Đội tuyển quốc gia
México
Cúp Vàng CONCACAF: 2023
Cá nhân
Liga MX All-Star: 2021
Liga MX Cầu thủ của tháng: Tháng 8 năm 2021, tháng 9 năm 2021
Eredivisie Đội hình của tháng: Tháng 4 năm 2023, tháng 9 năm 2023, tháng 10 năm 2023
Eredivisie Cầu thủ của tháng: Tháng 9 năm 2023
Eredivisie Tài năng của tháng: Tháng 4 năm 2023
Giải thưởng Mark of a Fighter: Cúp Vàng CONCACAF 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2001
Nhân vật còn sống
Người México gốc Argentina
Người Argentina
Người México
Người Buenos Aires
Cầu thủ bóng đá México
Cầu thủ bóng đá nam México
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Liga MX
Cầu thủ bóng đá Eredivisie
Cầu thủ bóng đá Cruz Azul
Cầu thủ bóng đá Feyenoord Rotterdam
Cầu thủ bóng đá México ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hà Lan
Cầu thủ bóng đá nam México ở nước ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia México
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia México
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-16 quốc gia México
Cầu thủ Cúp Vàng CONCACAF 2023
|
19840866
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n%20th%C6%B0%E1%BB%9Fng%20tri%E1%BB%81u%20Nguy%E1%BB%85n
|
Tiền thưởng triều Nguyễn
|
Tiền thưởng triều Nguyễn (阮朝奖金) là những đồng tiền được các vị vua Nhà Nguyễn cho đúc và lưu trữ trong ngân khố chỉ với mục đích ban thưởng cho các quan lại, vương công quý tộc hoặc dân chúng có công lao với triều đại và đất nước trong các dịp khánh tiết của triều đình, chúng không được sử dụng trong lưu hành và trao đổi thương mại như một loại tiền tệ chính thức, ngoại trừ một số loại tiền thưởng được đúc bằng đồng.
Từ thời vua Tự Đức, đặc biệt là cuối triều Nguyễn - thời Pháp thuộc, ngoài các hạng huân chương ban thưởng như ngọc khánh, kim khánh, kim bôi và sau này là Đại Nam Long tinh... Triều đình còn ban tiền thưởng như một hình thức ghi nhận công trạng cho người có công, vì thế tiền thưởng có thể được xem là một dạng kỷ niệm chương, huân chương hay bằng khen ở cấp trung ương dành cho thần dân trong lãnh thổ của nhà nước Đại Nam và dưới thời Pháp thuộc, các vua triều Nguyễn cũng ban tặng tiền thưởng cho một số quan chức người Pháp có công trạng với triều đình. Về sau tiền thưởng còn được dùng như kim khánh, kim bội làm vật trang sức đeo cổ kèm một dải thùy anh bằng san hô, hay dải ruy băng bằng lụa màu để đeo ngực như biểu dương công trạng kèm 1 tờ lục chỉ đề rõ ngày cấp.
Tiền thưởng được đúc bằng nhiều chất liệu, quý nhất là bằng vàng, được gọi là Kim tiền, xếp thứ hai là được đúc bằng bạc, được gọi là Ngân tiền, ngoài ra còn được đúc bằng đồng, được gọi là Đồng tiền. Dưới thời Pháp thuộc, vì nguồn tài chính đã bị chính phủ thuộc địa kiểm soát nên triều đình phần lớn chỉ cho đúc tiền thưởng mạ bạc mạ vàng. Tiền thưởng triều Nguyễn dạng tròn như đồng xu chỉ mới xuất hiện dưới thời vua Minh Mạng, thời vua Gia Long chỉ có tiền thưởng dạng thỏi bạc và vàng. Việc đúc tiền thưởng dưới dạng đồng xu được xem là tiết kiệm hơn dạng thỏi vì kích thước cũng như trọng lượng nhỏ hơn, cũng mỹ thuật hơn.
Có một số ý kiến cho rằng mục đích ban đầu của vua Minh Mạng cho đúc tiền thưởng là để cạnh tranh với các xu bạc Real Tây Ban Nha (còn gọi là Mảnh tám) đang được sử dụng để thanh toán thương mại trong khu vực và cũng xuất hiện phổ biến ở Việt Nam vào thời điểm đó. Đấy cũng chính là lý do mà triều Nguyễn đã cho đúc những đồng xu bạc Phi long với vẻ bề ngoài tương tự như đồng real Tây Ban Nha, chứ trước đó lịch sử Việt Nam chưa từng ghi nhận tiền đúc bằng kim loại quý và trước đó cũng chỉ tồn tại loại tiền đúc có lỗ vuông, chứ chưa từng xuất hiện xu mặt trơn. Tác giả người Pháp Francois Joyaux ủng hộ quan điểm này, nhưng ông cũng đã cho biết rằng việc cho lưu hành xu bạc Phi long chỉ là dự định của Nhà Nguyễn, chứ trên thực tế chúng chưa từng được lưu hành như một dạng tiền tệ chính thức, dù trên xu bạc có 2 chữ "thông bảo", có nghĩa là "tiền tệ lưu hành chín thức". Schroeder xuất bản tác phẩm Etudes numismatiques sur l'Annam năm 1905, trong sách này, ông ấy gọi tiền thưởng triều Nguyễn là "huân chương".
Lịch sử
Tiền thưởng được đúc dưới dạng đồng xu tròn trong lịch sử Việt Nam trước thời Minh Mạng chỉ được đúc bằng chất liệu đồng với đường kính và trọng lượng lớn và nặng gấp 2-3 lần xu tiêu dùng với các hoạ tiết đặc biệt có lỗ vuông, đối với những người có công trạng quan trọng với triều đình sẽ được vua tặng thưởng bằng vàng thỏi hoặc bạc thỏi, còn loại tiền thưởng tròn như đồng xu, không có lỗ vuông và được đúc bằng kim loại quý như vàng hoặc bạc chỉ xuất hiện lần đầu tiên dưới triều vua Minh Mạng của Nhà Nguyễn, chứ trước đó không có. Năm 1832, vua Minh Mạng cho đúc đồng tiền thưởng bằng bạc với tên gọi là Phi long, đây là đồng tiền hoàn toàn mới đối với người Việt Nam, vì chúng được đúc bằng bạc, không có lỗ vuông ở giữa và có ghi năm đúc dưới dạng niên hiệu của nhà cai trị.
Bắt đầu từ thời vua Minh Mạng đã cho đúc tiền thưởng bằng vàng và bạc để lưu trữ trong ngân khố mà dùng dần, đến tận thời vua Duy Tân, triều đình vẫn còn ban tặng tiền thưởng Phi long được đúc dưới thời Minh Mạng. Vào năm 1885, tướng De Courcy dẫn quân lính vào thành nội lục soát kho tàng Nhà Nguyễn lấy đi 1.900 kg vàng, và 60 tấn bạc, gồm cả tiền thưởng và các thỏi vàng thỏi bạc. Từ thời vua Hàm Nghi trở về sau, triều đình Nhà Nguyễn không còn đủ lực để đúc tiền thưởng bằng kim loại quý với số lượng lớn, thay vào đó thì đúc bằng bạc mạ vàng hoặc nếu đúc bằng vàng thì với số lượng rất ít.
Bảo tàng lịch sử quốc gia hiện là đơn vị sở hữu bộ sưu tập tiền thưởng triều Nguyễn đồ sộ và đa dạng nhất về chủng loại. Nguồn gốc sưu tập hoàn toàn từ kho tàng của Cung đình Huế bàn giao cho chính quyền cách mạng sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Toàn bộ bảo vật triều Nguyễn (bao gồm cả bộ sưu tập tiền thưởng) được Bộ Tài chính Việt Nam bàn giao cho Bảo tàng Lịch sử Việt Nam vào ngày 17-12-1959. Sau đó, vì lý do an ninh, an toàn, bộ sưu tập này được Bảo tàng đóng thùng, niêm phong gửi Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Kể từ khi tiếp nhận lại từ kho Ngân hàng Nhà nước năm 2007 đến nay, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia) đã tổ chức bảo quản, kiểm kê và nghiên cứu bước đầu.
Bộ sưu tập tiền thưởng triều Nguyễn của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia thuộc các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, Đồng Khánh, Thành Thái, Khải Định, Bảo Đại là chủ yếu, còn các triều vua Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Duy Tân không thấy có trong sưu tập tiền thưởng này.
Trên phần lớn các xu tiền thưởng luôn xuất hiện từ "thông bảo" (đồng tiền lưu hành thông dụng), dưới thời Minh Mạng và Triệu Trị, những đồng tiền thưởng bằng vàng và bạc này thực ra có thể sở hữu song song chức năng tiền tệ lưu hành và cả chức năng ban thưởng như kỷ niệm chương hoặc huân chương, nhưng dần dần chức năng ban thưởng trở nên độc quyền. Điều này sẽ đặc biệt rõ ràng sau thời vua Tự Đức; do đó nhiều tác giả đã xem thuật ngữ phù hợp dành cho tiền thưởng triều nguyễn chính là huân chương hoặc Kỷ niệm chương.
Tiền thưởng xu tròn
Mặt trước xu
Đối với loại tiền thưởng hình tròn thì một mặt sẽ được đúc nổi niên hiệu của nhà vua cùng hai chữ Thông bảo (通寶). Chẳng hạn như: "Minh Mệnh thông bảo (明命通寶)", "Tự Đức thông bảo (嗣德通寶)"... Cũng có các trường hợp hai chữ Thông bảo (通寶) được thay bằng các chữ khác. Ví dụ như: Bảo Đại bảo giám (保大寶鑑),.... Ngoài ra còn có những trường hợp chữ thông (通) được thay thế bằng các chữ khác như trọng (重0), nguyên (元), hưng (興)... Nhưng các trường hợp như vậy cũng là rất hiếm trên loại hình tiền thưởng.
Đối với những xu tiền thưởng mặt trước không có trang trí hình ảnh thì sẽ đúc nổi niên hiệu của nhà vua, ở trường hợp ngược lại, nếu mặt trước có khắc linh vật thì mặt sau sẽ đúc nổi niên hiệu. Vì trên thực tế, không phải loại tiền thưởng nào cũng có hình ảnh trang trí, một số loại cả 2 mặt của xu đều là chữ Hán.
Tiền thưởng triều Nguyễn có hoa văn trang trí đa dạng, linh động và biến ảo nhất trong tất cả các triều đại của lịch sử Việt Nam. Chẳng hạn, có những đồng trang trí hoa dây, cây cỏ, Mặt trời, Mặt trăng, núi non..., lại có những đồng trang trí, khắc họa hình ảnh các con vật thiêng, như: rồng, hổ phù, long mã. Đặc biệt là dòng tiền thưởng phi long được đúc dưới thời vua Minh Mạng, với hình rồng 5 móng uốn lượn hình chữ "S" mà nhiều học giả cho rằng dường như là dấu ấn sâu đậm về hình hài đất nước Việt Nam dưới thời Nguyễn.
Mặt sau xu
Mặt sau của tiền thưởng thường được đúc nổi những mỹ từ bằng chữ Hán theo kiểu chữ Chân rõ ràng và dễ đọc, thường gồm 4 hoặc 8 chữ, gọi là mỹ hiệu. Thông điệp trên những đồng tiền này thường mang ý nghĩa tốt lành, chúc phúc cho nhà vua, cầu bình an cho đất nước, cầu được mùa, giáo dục Tam cương ngũ thường. Chẳng hạn, thời Minh Mạng có những mỹ hiệu 8 chữ như: "Hiền hiền, thân thân, lạc lạc, lợi lợi", nghĩa là hiền với người hiền, thân với người thân, vui cái vui, lợi cái lợi; "Nguyên lưu thuận quỹ, niên cốc phong đăng", nghĩa là nguồn nước thuận dòng, hằng năm được mùa; "Đắc vị, đắc danh, đắc lộc, đắc thọ", nghĩa là được địa vị, được công danh, được lộc, được sống lâu... Nội dung của nhiều đồng tiền thưởng trên thực tế không chỉ giáo dục nhân cách con người theo mô phạm đạo đức truyền thống, mà còn thiên về khía cạnh giáo dục chính trị đạo đức".
Thời vua Thành Thái có 1 đồng tiền thưởng mạ vàng có khắc thơ, với đường kính 6,5 cm và nặng 4g. Nội dung bài thơ được dịch nghĩa như sau:
Phiên âm:
Quyết ngoan thiên niên hóa,
Đăng lưu vạn thế truyền,
Thù huân chương hữu đức,
Sở bảo giả duy hiền.
Dịch nghĩa:
Ngọc ngàn năm đổi sắc,
Vàng muôn thuở truyền đời,
Đền ơn người có đức,
Quý giá nhất hiền tài.
Tiền thưởng bằng thỏi
Trên các thỏi tiền thưởng được đúc bằng vàng hoặc bạc, nội dung chữ khắc chìm hay đúc nổi là niên hiệu vua như đã nói ở trên cùng hai chữ niên tạo (年造) như "Gia Long niên tạo (嘉隆年造), "Thiệu Trị niên tạo (紹治年造)"... Và các từ chỉ địa điểm xưởng đúc tiền, trọng lượng, mệnh giá, thời gian... Ví dụ như: Trung bình (中平), giáp (甲), công (公), trung bình ngân phiến ngũ tiền (中平銀片五錢), Đinh Mùi (丁未), Sơn Tây (山 西), Bình Định (平 定).
Phân loại
Tiền thưởng được chia ra làm 3 hạng, gồm có Đại hạng nặng 1 lạng; Trung hạng nặng từ 5 tiền trở lên và Tiểu hạng nặng từ 4 tiền đến 0,5 tiền. Hoa văn đúc trên tiền thưởng rất đa dạng và mỹ thuật hơn rất nhiều so với tiền xu lưu hành ngoài thị trường.
Tỷ lệ kim loại quý
Xu bạc Phi long được đúc dưới thời Minh Mạng giai đoạn đầu (1832) có tỷ lệ bạc là 70%, kể từ năm 1834 thì tỷ lệ bạc trong xu tăng lên 80%.
Các hình thức đúc tiền thưởng
Đúc thủ công
Đúc bằng máy
Người nước ngoài đánh giá về tiền thưởng triều Nguyễn
Năm 1905, khi Schroeder xuất bản tác phẩm Etudes numismatiques sur l'Annam, từ "huy chương" được dùng để chỉ tiền thưởng:
Từ thời Minh Mạng, để động viên, khích lệ trăm quan trong một năm đã ra sức giúp vua công việc triều chính, triều đình tổ chức việc ban thưởng ngày tết điều độ hơn; trước đó, vua Minh Mạng đã ra lệnh cho phủ Tôn Nhân, bộ Lại, bộ Lễ và bộ Binh lập danh sách những người xứng đáng được thưởng. Năm Đinh Dậu (1837), để tỏ ý ơn vua rộng rãi ân trạch, vua Minh Mạng đã xuống dụ cho bách quan triều đình:
Ngoài việc dự yến, các quan lại còn được thưởng thêm tiền, tùy theo chức trách của từng người mà tiền thưởng cũng có phần khác nhau. Cụ thể là các vương tử, chư công (công tước), mỗi người được thưởng 1 đồng tiền vàng Minh Mạng khắc rồng bay, ngân tiền lớn nhỏ đều 10 đồng. Quan lại ở Kinh đô, chánh Nhất phẩm, ban tiền thưởng Phi long bằng bạc lớn nhỏ 10 đồng, tòng Nhất phẩm 9 đồng, chánh Nhị phẩm 8 đồng; tòng Nhị phẩm 6 đồng; chánh Tam phẩm 5 đồng, chánh Tứ phẩm 3 đồng, tòng Tứ phẩm 2 đồng. Các viên hành tẩu ở phủ Nội vụ tòng Ngũ phẩm trở xuống đều 1 đồng.
Tuy nhiên, các vị vua Nguyễn sau này như Hàm Nghi, Đồng Khánh, Thánh Thái, Duy Tân... việc ban tiền thưởng nhân dịp Tết được tổ chức đơn giản hơn. Thường thì vào ngày tết, các vị vua thường ban đặc ân cho quần thần và dân chúng, tỏ ý ban ơn rộng khắp, việc đãi yến linh đình đều bãi bỏ. Những người không được dự ban như lính hương binh, lính đồn điền cùng những người cố sức làm việc để chuộc tội thì thưởng cho tiền gạo lương một tháng, hay là một quan tiền.
Ban tặng cho người có công trạng đặc biệt
Tiền thưởng không chỉ được các vua dùng ban tặng cho triều thần, vương công quý tộc nhân các dịp khánh tiết, lễ tết quan trọng, tiền thưởng còn được ban cho những người có công trạng với đất nước ở bất kỳ lĩnh vực nào, từ dân sự cho đến quân sự và cũng không phân biệt đối tượng được trao, họ cũng có thể là thường dân, binh lính...
Điển hình như gia tộc họ Lê Văn ở Sơn Bình, Hương Sơn, Hà Tĩnh vẫn còn lưu giữ được 5 đồng bạc Phi long được đúc dưới thời Minh Mạng, những đồng tiền thưởng này được triều Nguyễn ban tặng cho ông Lê Văn Hoa vì đã có công cứu tế nhân dân những năm mất mùa, đói kém. Căn cứ vào gia phả họ Lê Văn (bản Hán Nôm): ông Lê Văn Hoa là một người thông minh, học giỏi nhưng không tham gia thi cử mà chỉ tập trung vào làm ăn kinh tế và khai khẩn mở mang điền trang. Được thừa kế tài sản của gia đình, lại là người giỏi sản xuất, kinh doanh nên đã trở nên giàu có. Ông Hoa còn là người có tấm lòng bác ái, thương yêu người nghèo khó nên trong những năm mất mùa, dịch bệnh hay ngày giáp hạt, dân tình đói kém, ông mở kho lương của gia đình để chẩn bần, vì thế mà tiếng thơm của ông và gia tộc Lê Văn lan truyền khắp nơi. Với những đóng góp đó, năm Tự Đức thứ 14 (1861), ông Lê Văn Hoa được triều đình ban thưởng bức đại tự "Lạc quyên nghĩa môn" và 5 đồng tiền thưởng Phi long bằng bạc được đúc dưới thời vua Minh Mạng.
Càng về sau tiền thưởng càng trở nên quan trọng, đặc biệt là dưới thời Pháp thuộc, tiền thưởng đã trở thành một dạng kỷ niệm chương hoặc huân chương, chúng được đục 2 lỗ nhỏ ở trên và dưới đồng xu để đeo dải thùy anh, hay dải ruy băng bằng lụa màu để đeo ngực như biểu dương công trạng. Những người được ban tặng tiền thưởng cũng được kèm theo 1 tờ lục chỉ đề rõ công trạng và ngày cấp. Nhiều quan chức thuộc địa người Pháp đã được các vua triều Nguyễn ban tặng tiền thưởng để ghi công trạng, điển hình như năm 1910, niên hiệu Duy Tân thứ 4, thay mặt nhà vua, Phụ chính đại thần nước Đại Nam đã ban cho Đội trưởng Xích Nặc người Pháp 1 đồng tiền thưởng Phi long hạng lớn bằng bạc cùng dải huyền bội thuỳ anh, để tưởng thưởng cho công trạng của ông này.
Chức năng tiêu dùng của tiền thưởng
Theo tác giả người Pháp Francois Joyaux thì mục đích ban đầu của triều Nguyễn cho đúc đồng bạc Phi long là để cạnh tranh với đồng Real Tây Ban Nha đang được lưu hành trong nước thông qua thương mại quốc tế. Họ cho đúc đồng Phi long bắt chước theo cả về hình dáng bên ngoài cũng như kim loại. Do đó chúng được dự định là để lưu hành. Tuy nhiên, đây là một hình thức suy luận của tác giả người nước ngoài, chứ trong các sử liệu chính thống của Nhà Nguyễn không có nội dung nào nói về điểm này. Nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam tin rằng việc đúc tiền thưởng dưới dạng xu tròn để ban thưởng cho quan lại và người có công là nhầm mục đích tiết kiệm so với việc ban thưởng bằng thỏi vàng hoặc bạc, và đương nhiên là những xu bạc không lỗ có thể là đã bắt chước đô la Tây Ban Nha đương thời, rất phổ biến ở Việt Nam, chứ trong hàng nghìn năm lịch sử Việt Nam chưa từng ghi nhận tiền xu được đúc bằng vàng hoặc bạc.
Trong quá trình thanh toán thương mại, tiền xu bằng đồng do nhà nước phát hành và cả ngoại tệ đều được sử dụng. Nhưng vàng và bạc dưới dạng thỏi và tiền thưởng dưới dạng xu tròn bằng kim loại quý trên thực tế rất ít được lưu hành mà đều được triều đình Huế lưu trữ tại kho bạc.
Những tiền thưởng được đúc bằng vàng, bạc không được lưu hành ngoài thị trường như một dạng tiền tệ chính thức, vì số lượng đúc không nhiều và cũng không được phổ biến. Tuy nhiên, các vua Nguyễn trong thời kỳ đầu, chủ yếu dưới thời vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức thường ban tiền thưởng dạng xu tròn cho các triều thần trong dịp lễ Tết nguyên đán thay cho thỏi bạc và vàng như thời Gia Long hoặc giai đoạn đầu triều đại Minh Mạng, nên có thể những xu tiền thưởng này đã được các vị quan sử dụng và tao đổi ngoài thị trường dưới dạng giao dịch kim loại quý tương tự như bạc hoặc vàng thỏi, hoặc dùng để trao đổi với các xu bạc thương mại quốc tế đương thời như đồng Đô la Tây Ban Nha hoặc 8 real Mexico rất phổ biến ở trong lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, những đồng xu bạc Phi long với Đô la thương mại Tây Ban Nha - Mexico không thể được trao đổ ngang giá, vì đồng Phi long ít hơn 2,6 gam bạc, dù trọng lượng của Phi long lớn hơn 0,2 gam.
Tuy nhiên, tiền thưởng được đúc bằng chất liệu đồng thì ngược lại, được đúc với số lượng lớn và chúng được sử dụng lưu hành chính thức. Vì thế mà trong dân gian đã dùng chúng để làm bùa may mắn và bình an. Điển hình như loại tiền thưởng bằng đồng, được đúc dưới thời vua Minh Mạng có đường kính lên đến 50 mm, đúc ra với mục đích biểu dương công đức nhà vua, tán dương triều đại. Tiền này được lưu trữ ở tất cả ngân khố ở các tỉnh và đặc biệt được trữ tại ngân khố kinh thành. Loại tiền này cũng được lưu thông và tất nhiên giá trị của chúng cao hơn những đồng tiền nhỏ. Ký hiệu tiền tệ, niên đại chế tạo, địa phương đúc đều được đúc rõ ràng trên tiền.
Tiền thưởng cuối triều Nguyễn đã được nâng tầm giá trị, chúng được xem là một dạng kỷ niệm chương, thậm chí là huân chương, được ban tặng cho người có công trạng, nên chúng thường được các gia tộc giữ lại như một dạng bảo vật của dòng họ kèm các sắc chỉ.
Văn hoá dân gian
Theo một số tài liệu đầu thế kỷ XX, có một nhóm người Việt đánh Pháp, khi ra trận họ sẽ ngậm đồng tiền thưởng Minh Mạng, vì tin rằng nhờ đó mà dao và súng sẽ không chạm đến cơ thể của mình. Ngoài ra, người ta còn dùng những đồng tiền thưởng Minh Mạng loại lớn, đường kính khoảng 35 mm làm mặt dây chuyền đeo vào cổ cho trẻ con với mục đích trừ bệnh tật, tà ma...
Quan niệm sai lầm
Một số nhà sưu tầm đã xem tiền thưởng của triều Nguyễn như là một dạng Đô la thương mại, vì một số loại tiền thưởng dưới dạng xu tròn được đúc bằng kim loại quý, đặc biệt là xu bạc Phi long của vua Minh Mạng, với các thông số gần giống như Đô la Tây Ban Nha hay Real Mexico (Xu bạc Con cò): Tỷ lệ bạc trong xu bạc Phi long 1832 là 70%, sau đó tăng lên 80% trong xu bạc năm 1834 và trọng lượng xu cũng tăng từ 25g lên 27,27g vào năm 1835.
Tuy nhiên tiền thưởng triều Nguyễn hoàn toàn không phù hợp để đưa vào tiêu chí này, vì chúng chỉ được sử dụng với mục đích ban thưởng cho quan lại và vương công quý tộc trong các dịp lễ và khánh tiết hoặc cho người có công trạng như một dạng huy chương hay kỷ niệm chương chứ không được lưu hành chính thức hay phục vụ cho việc trao đổi thương mại. Tác giả Francois Joyaux trong tác phẩm Monnaies Impériales d'Annam đã cho rằng vua Minh Mạng cho đúc đồng bạc Phi long nhầm mục đích cạnh tranh với Đô la Tây Ban Nha và dự định cho lưu hành chính thức, nhưng trên thực tế thì chúng chưa từng được phát hành chính thức bởi triều Nguyễn và chỉ được dùng dưới dạng tiền thưởng. Trong khi đó, những đồng xu tiền thưởng có mệnh giá 1 lạng thì có đường kính quá lớn, điển hình như đồng 1 lạng Thiệu Trị thông bảo - Vạn thế vĩnh lại, có đường kính lên đến 64mm, gấp 1,62 lần đường kính tiêu chuẩn của đồng đô la thương mại, một kích thước quá lớn, không phù hợp để lưu hành chính thức.
Bản thân những người có công trạng được triều đình ban tiền thưởng bằng vàng hoặc bạc cũng thường giữ chúng lại và truyền đời trong gia tộc chứ không bán đi, ngoại trừ một số trường hợp bị mất cắp hoặc các hậu duệ đời sau mang bán cho các nhà sưu tầm. Trong tác phẩm Etudes numismatiques sur l'Annam xuất bản năm 1905, tác giả Schroeder đã gọi tiền thưởng triều Nguyễn là "huân chương".
Những thông tin đặc biệt
Sau năm 1975 tại hải ngoại, nhiều chủ tiệm kim hoàn người gốc Việt tiết lộ rằng họ đã nấu chảy những đồng tiền thưởng bằng vàng được đúc dưới triều Nguyễn do người ta đem bán theo giá vàng.
Đọc thêm
Tiền tệ Việt Nam thời Nguyễn
Rồng bạc (tiền xu)
Đô la thương mại
Chú thích
Tham khảo
Di sản văn hoá vật thể (Số 1 - 54- 2016), TS. Nguyễn Đình Chiến - Trương Thắng
Quốc sử quan triều Nguyễn (2004), Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ tục biên, tập 1, 2, NXB Giáo dục.
Nguyễn Anh Huy (2007), "Khảo về tiền thông dụng thời Nguyễn", in trong Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, tập VI, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản, tr. 167 - 179.
Phạm Quốc Quân (chủ biên), Tiền kim loại Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử quốc gia. (Ngày nhận bài: 11/9/2015; Ngày phản biện đánh giá: 27/11/2015; Ngày duyệt đăng bài: 08/01/2016).
Thông tin các loại tiền tệ trong lịch sử thế giới - en.numista.com
Francois Joyaux - Monnaies Impériales d'Annam
Nhà Nguyễn
Tiền thưởng
Tiền kim loại
Danh dự
Danh hiệu Việt Nam
Quân chủ Việt Nam
|
19840898
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B4%20h%C3%ACnh%20ng%C3%B4n%20ng%E1%BB%AF
|
Mô hình ngôn ngữ
|
Một mô hình ngôn ngữ là mô hình xác suất của một ngôn ngữ tự nhiên có thể tạo ra xác suất của một chuỗi từ, dựa trên ngữ liệu văn bản trong một hoặc nhiều ngôn ngữ mà nó được đào tạo. Năm 1980, mô hình ngôn ngữ thống kê đầu tiên được đề xuất, và trong suốt thập kỷ IBM thực hiện các thử nghiệm theo phong cách 'Shannon', trong đó nhận diện các nguồn tiềm năng để cải thiện mô hình ngôn ngữ thông qua việc quan sát và phân tích khả năng của con người trong việc dự đoán hoặc sửa chữa văn bản.
Mô hình ngôn ngữ hữu ích cho nhiều tác vụ, bao gồm nhận dạng tiếng nói (giúp ngăn chặn dự đoán chuỗi có xác suất thấp (ví dụ: chuỗi không có ý nghĩa)), dịch tự động, sinh ngôn ngữ tự nhiên, nhận dạng ký tự quang học, nhận dạng chữ viết tay, và truy hồi thông tin.
Mô hình ngôn ngữ, hiện tại là hình thức tiên tiến nhất, kết hợp giữa các bộ dữ liệu lớn hơn (thường sử dụng dữ liệu từ internet công khai), mạng thần kinh truyền thẳng, và transformer. Chúng đã thay thế các mô hình dựa trên mạng thần kinh hồi quy, trước đó đã thay thế các mô hình thống kê thuần túy, như mô hình N-gram.
Chú thích
|
19840908
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20V%C4%83n%20Th%E1%BB%A7
|
Bùi Văn Thủ
|
Bùi Văn Thủ (1907–1942), bí danh Jacque (Giắc-cơ), là một nhà cách mạng Việt Nam, nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn.
Cuộc đời
Bùi Văn Thủ sinh năm 1907 ở ấp Tiền Lân, Bà Điểm (từng thuộc xã Tân Thới Nhất), quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định, có họ hàng đằng ngoại với Tổng lãnh binh Phan Công Hớn. Ban đầu, ông học ở trường tỉnh (ở Bà Điểm), rồi lên Sài Gòn học trung học, đến khi tốt nghiệp thì sang Pháp du học.
Trong thời gian ở Pháp, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và tích cực tham gia phong trào đấu tranh ở đây. Năm 1929, được Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu, ông sang Liên Xô, học tại Trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông, cùng khóa với Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Dương Bạch Mai, Nguyễn Thế Thạch,... Sau khi tốt nghiệp và trở thành một nhà lý luận Marxist tiềm năng, ông trở lại Pháp một thời gian.
Năm 1935, ngay khi mới về nước, ông được bổ sung vào Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương. Được vài tháng thì Xứ ủy bị vỡ, ông hoạt động trong Thành ủy Sài Gòn. Cuối năm 1936, ông được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Sài Gòn một thời gian ngắn thay Trương Văn Nhâm về Trà Vinh. Đầu năm 1937, Xứ ủy bầu Nguyễn Văn Nghi làm Bí thư Thành ủy, ông tiếp tục hoạt động với vai trò Xứ ủy viên kiêm Thành ủy viên. Năm 1938, dưới sự chỉ đạo của các Tổng bí thư Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Cừ, báo Dân Chúng, tờ báo đầu tiên của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời. Ông tham gia Ban biên tập cùng Lê Văn Kiệt, Dương Trí Phú, Trần Văn Kiết, Nguyễn Văn Linh, Huỳnh Văn Thanh, Hoàng Hoa Cương (Hoàng Văn Cương), Nguyễn Văn Kỉnh, Nguyễn Văn Trấn,... Bằng ngòi bút của mình, ông đã thành công trong việc truyền bá lý luận, đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương tới quần chúng nhân dân, áp đảo hoàn toàn nhóm Trotskyist.
Năm 1939, báo Dân Chúng bị đóng cửa, Ban biên tập bị chính quyền thực dân truy nã gắt gao, ông lui về hoạt động bí mật ở Gia Định và Thủ Dầu Một. Năm 1940, sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, ông bị thực dân Pháp bắt ở Thủ Dầu Một. Năm 1941, ông bị đày ra Côn Đảo cùng với em trai Bùi Văn Ngữ. Năm 1942, ông mất trong tù sau một thời gian phải chịu nhiều tra tấn.
Vinh danh
Tên của ông được đặt cho một con đường và một ngôi trường cấp hai ở quê nhà xã Bà Điểm, huyện Hóc Môn.
Tham khảo
Chú thích
Người Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà báo Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp
Bí thư Thành ủy Sài Gòn
Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ
Nhà lý luận Mác-xít
|
19840920
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salima%20Mukansanga
|
Salima Mukansanga
|
Salima Rhadia Mukansanga (sinh năm 1988 tại Rwanda) là một nữ trọng tài bóng đá người Rwanda. Cô trở thành trọng tài FIFA kể từ năm 2012. Cô cũng từng điều hành các trận đấu tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 diễn ra tại Pháp.
Tiểu sử
Salima Mukansanga sinh năm 1988 tại Rwanda. Cô ban đầu thi đấu cho bộ môn bóng rổ nhưng sau đó chuyển sang bóng đá sau khi được thông báo rằng cô còn quá trẻ để gia nhập đội tuyển bóng rổ U-17 nữ quốc gia. Cô từng đề nghị Liên đoàn bóng đá Rwanda tham gia một khóa đào tạo trọng tài sau khi học hết trung học nhưng bị liên đoàn từ chối do còn quá trẻ tuổi. Sau đó, cô được phép tham gia vào khóa học đó sau một thời gian tự tìm hiểu về luật bóng đá. Cô từng tốt nghiệp ngành điều dưỡng và hộ sinh tại Trường Đại học Gitwe.
Khi bắt đầu sự nghiệp, cô điều hành một số trận đấu bóng đá nghiệp dư dành cho nam và một số trận đấu tại giải hạng hai dành cho nữ.
Sự nghiệp
Năm 2022, cô trở thành trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử điều hành các trận đấu tại Cúp bóng đá châu Phi, cùng với dàn trọng tài nữ Fatiha Jermoumi, Bouchra Karboubi (Maroc) và Carine Atemzabon (Cameroon) điều hành tổ VAR. Cô cũng từng điều hành một số trận đấu tại Thế vận hội Mùa hè, Cúp bóng đá nữ châu Phi, Giải vô địch bóng đá nữ thế giới và CAF Women's Champions League. Vào năm 2022, cô trở thành một trong ba trọng tài nữ điều hành các trận đấu tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 diễn ra trên đất Qatar, cùng với Stéphanie Frappart (Pháp) và Yamashita Yoshimi (Nhật Bản). Cô ra mắt giải đấu với tư cách là trọng tài thứ tư trong trận đấu giữa Pháp và Úc trong khuôn khổ bảng D của giải đấu. Đây là trận đấu mà Pháp, đương kim vô địch của giải đấu, giành chiến thắng với tỷ số 4–1. Cô cũng được tạp chí BBC công nhận là một trong 100 người phụ nữ có sức ảnh hưởng lớn trên thế giới vào năm 2022.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 2023, cô tiếp tục được FIFA lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 được tổ chức tại Úc và New Zealand.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ trên worldreferee.com
Trọng tài giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Trọng tài Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023
Người Rwanda
|
19840929
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%B9a%20b%C3%A3o%20%E1%BB%9F%20ch%C3%A2u%20%C3%82u%202023-24
|
Mùa bão ở châu Âu 2023-24
|
Mùa bão ở châu Âu 2023–2024 là lần thứ chín về đặt tên bão và dự báo bão tại châu Âu theo mùa bão. Đây là mùa thứ năm mà Hà Lan sẽ tham gia, cùng với các cơ quan khí tượng của Ireland và Vương quốc Anh (Nhóm phía Tây). Tên bão của mùa mới được phát hành vào ngày 1 tháng 9 năm 2023. Các cơn bão xảy ra cho đến ngày 31 tháng 8 năm 2024 sẽ được đưa vào phần này. Các cơ quan khí tượng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ cũng sẽ cộng tác với sự tham gia của cơ quan khí tượng Luxembourg (Nhóm Tây Nam). Đây là mùa bão thứ ba mà Hy Lạp, Israel và Síp (nhóm Đông Địa Trung Hải) đặt tên cho các cơn bão ảnh hưởng đến khu vực của họ. Đây cũng là mùa bão thứ ba có sự tham gia Ý, Slovenia, Croatia, Montenegro, Bắc Macedonia và Malta (Nhóm Trung Địa Trung Hải) và sự tham gia không chính thức của nhóm Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển (Nhóm Bắc Âu).
Danh sách bão
Bão Agnes (Kilian)
Bão Babet (Viktor)
Bão Aline (Wolfgang)
Bão Bernard (Xanthos)
Bão Celine (Benj)
Bão Ciarán (Emir)
Bão Domingos (Fred)
Bão Elisa (Helmoe)
Bão Debi
Bão Frederico (Linus)
Bão Alexis
Bão Bettina (Phil)
Bão Oliver
Bão Ciro
Bão Elin
Bão Fergus (Walter)
Bão Pia (Zoltan)
Bão Gerrit (Bodo)
Bão Geraldine (Costa)
Bão Henk (Annelie)
Bão Brigitta
Bão Hipolito
Bão Irene (Gertrud)
Bão Juan
Bão Isha (Iris)
Bão Jocelyn (Jitka)
Bão Avgi
Bão Ingunn (Margrit)
Bão Karlotta (Paulina)
Bão Louis (Wencke)
Tên bão
Cụm phía Tây (Anh, Ireland và Hà Lan đặt tên)
Cụm Tây Nam (Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ và Luxembourg đặt tên)
Cụm Trung Địa Trung Hải (Ý, Slovenia, Croatia, Bosnia & Herzegovina, Montenegro, Bắc Macedonia và Malta đặt tên)
Cụm Đông Địa Trung Hải (Hi Lạp, Israel và Cộng hoà Síp đặt tên)
Cụm phía Bắc (Đan Mạch, Na Uy, Thuỵ Điển đặt tên)
Đặt tên không kèm theo danh sách.
Pia
Ingunn
Đại học Tự do Berlin (FUB) đặt tên
Cũng như PAGASA đặt tên cho các cơn bão ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, những tên được đặt bởi FUB sẽ được viết trong dấu ngoặc đơn. Đặt tên không kèm theo danh sách.
Kilian
Viktor
Wolfgang
Xanthos
Benj
Emir
Fred
Helmoe
Linus
Phil
Oliver
Vanja
Walter
Zoltan
Bodo
Tham khảo
|
19840931
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Cgawara%2C%20Miyagi
|
Ōgawara, Miyagi
|
là thị trấn thuộc huyện Shibata, tỉnh Miyagi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 23.571 người và mật độ dân số là 940 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 24,99 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Tỉnh Miyagi
Kakuda
Shiroishi
Shibata
Murata
Zaō
Tham khảo
Thị trấn của Miyagi
|
19840938
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anthias%20hensleyi
|
Anthias hensleyi
|
Anthias hensleyi là một loài cá biển thuộc chi Anthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2012.
Từ nguyên
Từ định danh hensleyi được đặt theo tên của Dannie Alan Hensley (1944–2008), trước đây từng làm việc tại Đại học Puerto Rico.
Phân loại
A. hensleyi ban đầu nằm trong chi Odontanthias, nhưng được chuyển sang chi Anthias vì loài này có một số đặc điểm như hình dạng của vây và răng lá mía giống loài Anthias hơn.
Phân bố
A. hensleyi mới chỉ được biết đến ở eo biển Mona (ngăn cách Puerto Rico và Cộng hòa Dominica), được thu thập ở độ sâu khoảng 338 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở A. hensleyi là 15,5 cm.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia ở vây lưng: 15; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia ở vây hậu môn: 7; Số tia ở vây ngực: 18; Số vảy đường bên: 33–38.
Liên kết ngoài
Tham khảo
H
Cá Đại Tây Dương
Cá Puerto Rico
Động vật được mô tả năm 2012
|
19840943
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mab%20%28v%E1%BB%87%20tinh%29
|
Mab (vệ tinh)
|
Mab, hay Uranus XXVI, là một vệ tinh vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện bởi Mark R. Showalter và Jack J. Lissauer vào năm 2003 bằng Kính viễn vọng không gian Hubble. Vệ tinh này được đặt theo tên của Nữ hoàng Mab, một nhân vật trong vở Romeo và Juliet của William Shakespeare.
Do kích thước nhỏ cùng bề mặt tối, nó đã không được phát hiện từ các bức ảnh chụp bởi Voyager 2 trong lần bay gần đến Sao Thiên Vương năm 1986. Tuy nhiên, một vệ tinh tối hơn nó là Perdita đã được tìm thấy qua các bức ảnh của Voyager năm 1997. Điều này khiến các nhà khoa học phải kiểm tra lại những bức ảnh cũ, và vệ tinh Mab đã được phát hiện.
Kích cỡ của vệ tinh này vẫn chưa được xác định. Nếu có cùng độ tối với Puck, đường kính của nó sẽ là 24 km. Ngược lại, nếu nó rực rỡ như vệ tinh lân cận là Miranda, nó có thể nhỏ hơn cả Cupid và có thể so sánh với những vệ tinh nhỏ nhất ở vòng ngoài. Một quan sát hồng ngoại được công bố năm 2023 gợi ý rằng Mab có thể chỉ rộng 6 km với bề mặt nhiều băng nước giống Miranda. Tuy nhiên, một khả năng thứ hai là nó có thể rộng 12 km với bề mặt giống vệ tinh Puck.
Mab bị nhiễu loạn nghiêm trọng. Nguồn gây nhiễu vẫn chưa được xác định, nhưng được cho là do một hay nhiều vệ tinh chuyển động gần đó gây nên.
Mab quay quanh Sao Thiên Vương ở cùng khoảng cách với vành đai μ (trước đây là R/2003 U 1), một vành đai bụi được phát hiện cùng lúc với vệ tinh này. Mab có kích thước gần như tối ưu để sản sinh bụi do các vệ tinh lớn hơn có thể tái thu thập phần bụi rơi ra và các vệ tinh nhỏ hơn lại có bề mặt quá bé để bổ sung vật chất cho vành đai thông qua va chạm với thiên thể khác trong vòng hoặc thiên thạch. Chưa vành đai nào liên quan đến Perdita và Cupid được tìm thấy, khả năng là do Belinda đã giới hạn thời gian tồn tại của bụi do các vệ tinh đó tạo ra.
Khi được phát hiện, Mab đã được đặt cho một danh xưng tạm thời là S/2003 U 1. Nó còn có tên định danh là Uranus XXVI.
Xem thêm
Vệ tinh của Sao Thiên Vương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hubble detects two large outer rings, two new moons orbiting Uranus (Được sự cho phép của tạp chí Thiên văn năm 2005)
Vệ tinh của Sao Thiên Vương
20030825
Romeo và Juliet
|
19840948
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carlton%20Morris
|
Carlton Morris
|
Carlton John Morris (sinh ngày 16 tháng 12 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Luton Town tại Premier League.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ của Carlton Morris tại trang web của Norwich City FC
Hồ sơ của Carlton Morris tại trang web Shrewsbury Town FC
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Barnsley F.C.
Cầu thủ bóng đá Milton Keynes Dons F.C.
Cầu thủ bóng đá Shrewsbury Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Rotherham United F.C.
Cầu thủ bóng đá York City F.C.
Cầu thủ bóng đá Oxford United F.C.
Cầu thủ bóng đá Norwich City F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995
|
19840949
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dan%20Potts%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%29
|
Dan Potts (cầu thủ bóng đá)
|
Daniel Potts (sinh ngày 13 tháng 4 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ trái hoặc trung vệ cho câu lạc bộ Luton Town tại .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Luton Town FC
Hồ sơ tại trang web Hiệp hội bóng đá
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C.
Cầu thủ bóng đá Colchester United F.C.
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Hoa Kỳ
Cầu thủ bóng đá nam Hoa Kỳ
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994
|
19840950
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sonny%20Bradley
|
Sonny Bradley
|
Sonny Bradley (sinh ngày 13 tháng 9 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Derby County.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Luton Town FC
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Cầu thủ bóng đá Derby County F.C.
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Plymouth Argyle F.C.
Cầu thủ bóng đá Crawley Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C.
Cầu thủ bóng đá Aldershot Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Harrogate Town A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Hull City A.F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1991
|
19840954
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cauley%20Woodrow
|
Cauley Woodrow
|
Cauley Woodrow (sinh ngày 2 tháng 12 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Luton Town tại Premier League.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Barnsley FC
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Barnsley F.C.
Cầu thủ bóng đá Bristol City F.C.
Cầu thủ bóng đá Burton Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Southend United F.C.
Cầu thủ bóng đá Fulham F.C.
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1994
|
19840958
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ino%2C%20K%C5%8Dchi
|
Ino, Kōchi
|
là thị trấn thuộc huyện Agawa, tỉnh Kōchi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 21.374 người và mật độ dân số là 45 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 470,97 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Tỉnh Kōchi
Kōnan
Tosa
Tosa
Ōkawa
Ochi
Hidaka
Niyodogawa
Tỉnh Ehime
Niihama
Saijō
Kumakōgen
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Kōchi
|
19840959
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Henri%20Lansbury
|
Henri Lansbury
|
Henri George Lansbury (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1990) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh từng thi đấu ở vị trí tiền vệ.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại Arsenal.com
Hồ sơ Henri Lansbury tại TheFA.com
Hồ sơ Henri Lansbury Trang web chính thức của PFA
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Bristol City F.C.
Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
Cầu thủ bóng đá Nottingham Forest F.C.
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Cầu thủ bóng đá Watford F.C.
Cầu thủ bóng đá Scunthorpe United F.C.
Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C.
Cầu thủ bóng đá Norwich City F.C.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1990
|
19840960
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tra%20t%E1%BA%A5n%20v%C3%A0%20thi%E1%BA%BFn%20m%E1%BB%99t%20t%C3%B9%20nh%C3%A2n%20chi%E1%BA%BFn%20tranh%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Ukraine%20%E1%BB%9F%20Pryvillia
|
Tra tấn và thiến một tù nhân chiến tranh người Ukraine ở Pryvillia
|
Tháng 7 năm 2022, một đoạn video đã được tung lên mạng ghi lại cảnh các quân nhân Nga có hành vi tra tấn, thiến và giết chết một tù binh Ukraina tại viện điều dưỡng của thành phố Pryvillia. Giữa lúc Nga xâm lược Ukraina năm 2022, đoạn video đã gây ra sự bất bình cho quốc tế và bị một số cơ quan nhân quyền lên án mạnh mẽ. Đại diện của cả Ukraina và Hoa Kỳ đều mô tả sự kiện này là một tội ác chiến tranh.
Sự xuất hiện của video
Ngày 28 tháng 7 năm 2022, một đoạn video được đăng lên một kênh Telegram ở Nga mang tên "Cargo 200, death to Ukrainians" xuất hiện cảnh một người lính Nga đang tra tấn và thiến một tù nhân chiến tranh Ukraina. Từ đầu đến cuối video, danh tính của nạn nhân không được biết rõ, tuy nhiên, video có cảnh quay chất lượng cao và toàn bộ các cảnh đều mang đậm sắc thái bạo lực cực đoan.
Phần đầu đoạn video, nạn nhân liên tục bị giẫm đạp khiến họ bất tỉnh trước khi bị một nhóm quân Nga chế nhạo, khống chế, trói và bịt miệng. Nhân vật phạm tội chính của video, có dáng người thấp, chắc nịch và đội một chiếc mũ rộng vành, tiến gần về phía nạn nhân. Người đàn ông đeo găng tay phẫu thuật xanh, cầm một chiếc dao rọc giấy và dùng nó để rạch quần nạn nhân, để lộ bộ phận sinh dục. Sau đó là cảnh nạn nhân giãy dụa và rên rỉ, nhân vật cầm dao cứa nhiều đường vào bộ phận sinh dục của nạn nhân, cuối cùng cắt rời hoàn toàn dương vật và tinh hoàn, đưa lên trước camera và ném xuống đất gần đó.
Vào ngày hôm sau, một đoạn video khác được cho là góc quay khác của sự kiện, cũng với nạn nhân và nhân vật phạm tội đó, được đăng lên các kênh của Nga. Nạn nhân nằm sấp mặt và trong trạng thái không tỉnh táo hoàn toàn, binh lính Nga tiến lại dán băng đen vào miệng tù nhân Ukraina và ném bộ phận sinh dục bị cắt rời về phía trước mặt nạn nhân. Sau đó, cả nhóm người kéo nạn nhân bằng sợi dây trói ở chân anh ta xuống hào, nhân vật phạm tội chính xuất hiện bắn một phát vào đầu nạn nhân.
Điều tra của Bellingcat
Vào ngày 5 tháng 8 năm 2022, một nhóm báo chí điều tra độc lập chuyên về xác minh thực tế và tình báo nguồn mở (OSINT) mang tên Bellingcat báo cáo rằng những video trên có định vị địa lý đến Viện điều dưỡng Pryvillia, nằm ở thành phố Pryvillia, tỉnh Luhansk, và đã thực hiện một cuộc phỏng vấn với thủ phạm qua điện thoại. Pryvillia đã bị lính Nga chiếm đóng từ đầu tháng 7 năm đó. Cuộc điều tra cũng chỉ ra rằng video không có bằng chứng giả mạo hoặc chỉnh sửa.
Phản ứng
Ukraina
Ombudsman Dmytro Lubinets đã nộp đơn lên văn phòng Tổng công tố Ukraina để điều tra các tội ác chiến tranh vi phạm Công ước Geneva. Ông cũng đã yêu cầu Ủy ban chống tra tấn của Liên hợp quốc và Ủy ban phòng chống tra tấn của châu Âu có chuyến thăm khẩn cấp tới Nga và vùng chiếm đóng Ukraina. Những hành động này nhằm mục đích thu thập bằng chứng và buộc thủ phạm phải chịu trách nhiệm.
Quốc tế
Đại diện cấp cao của EU Josep Borrell đã đưa ra một tuyên bố vào ngày 29 tháng 7 mô tả nội dung của video là "kinh hoàng" và "sự hung bạo tàn khốc". Cùng ngày, Marie Struthers, Giám đốc Tổ chức Ân xá Quốc tế tại Đông Âu và Trung Á, cho biết: "Cuộc tấn công khủng khiếp này là một ví dụ rõ ràng khác về việc lực lượng Nga hoàn toàn coi thường mạng sống và nhân phẩm con người ở Ukraina. Tất cả những nghi phạm cho trách nhiệm hình sự phải được điều tra và, nếu có đủ bằng chứng hợp lệ, sẽ bị truy tố trong các phiên tòa xét xử công bằng trước các tòa án dân sự thông thường và không cần đến hình phạt tử hình." Phái đoàn Giám sát Nhân quyền của Liên Hợp Quốc tại Ukraina (HRMMU) đã đưa ra một tuyên bố trên Facebook cho biết:
Chú thích
Tội ác chiến tranh
Người bị thiến
Tội ác chiến tranh trong trong cuộc xâm lược Ukraina của Nga năm 2022
|
19840962
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Reece%20Burke
|
Reece Burke
|
Reece Frederick James Burke (sinh ngày 2 tháng 9 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Luton Town tại .
Tham khảo
Liên kết ngoài
England profile tại The FA
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Hull City A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Bolton Wanderers F.C.
Cầu thủ bóng đá Wigan Athletic F.C.
Cầu thủ bóng đá Bradford City A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1996
|
19840964
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jordan%20Clark%20%28c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20Anh%29
|
Jordan Clark (cầu thủ bóng đá Anh)
|
Jordan Charles Clark (sinh ngày 22 tháng 9 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Luton Town.
Tham khảo
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Accrington Stanley F.C.
Cầu thủ bóng đá Shrewsbury Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Hyde United F.C.
Cầu thủ bóng đá Scunthorpe United F.C.
Cầu thủ bóng đá Chesterfield F.C.
Cầu thủ bóng đá Barnsley F.C.
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1993
|
19840967
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dion%20Pereira
|
Dion Pereira
|
Dion Enrico Pereira Greives (sinh ngày 25 tháng 3 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Sutton United tại EFL League Two theo dạng cho mượn từ câu lạc bộ Luton Town. Sinh ra ở Anh, anh thi đấu cho đội tuyển quốc gia Antigua và Barbuda.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ Dion Pereira tại tr ang web chính thức của Watford FC
Cầu thủ bóng đá Major League Soccer
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Sutton United F.C.
Cầu thủ bóng đá Bradford City A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Yeovil Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Luton Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Watford F.C.
Người Anh gốc Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Antigua và Barbuda
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999
|
19840970
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cameron%20Jerome
|
Cameron Jerome
|
Cameron Zishan Rana-Jerome (sinh ngày 14 tháng 8 năm 1986), còn được gọi là Cameron Jerome, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Bolton Wanderers tại .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá Süper Lig
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Bolton Wanderers F.C.
Cầu thủ bóng đá Milton Keynes Dons F.C.
Cầu thủ bóng đá Derby County F.C.
Cầu thủ bóng đá Norwich City F.C.
Cầu thủ bóng đá Crystal Palace F.C.
Cầu thủ bóng đá Stoke City F.C.
Cầu thủ bóng đá Birmingham City F.C.
Cầu thủ bóng đá Cardiff City F.C.
Cầu thủ bóng đá Middlesbrough F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1986
|
19840973
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heinrich%20VI%2C%20B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Gorizia
|
Heinrich VI, Bá tước xứ Gorizia
|
Heinrich VI (1376 – 1454), thành viên của Nhà Gorizia (triều đại Meinhardiner), cai trị với tư cách là Bá tước Gorizia từ năm 1385 cho đến khi qua đời. Ông cũng là hành cung bá tước xứ Carinthia (một tước hiệu cha truyền con nối), thống đốc xứ Belluno-Feltre và Landeshauptmann của Carniola. Qua cuộc hôn nhân với Elizabeth xứ Cilli, ông là anh rể của Sigismund của Luxembourg, Hoàng đế La Mã Thần thánh và Vua Hungary.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phả hệ thời Trung cổ
Mất năm 1454
Sinh năm 1376
Quý tộc Đức thế kỷ 14
Quý tộc Đức thế kỷ 15
|
19840998
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kumak%C5%8Dgen%2C%20Ehime
|
Kumakōgen, Ehime
|
là thị trấn thuộc huyện Kamiukena, tỉnh Ehime, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 7.404 người và mật độ dân số là 13 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 583,69 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Ehime
|
19841003
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20katayamai
|
Odontanthias katayamai
|
Odontanthias katayamai là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1979.
Từ nguyên
Từ định danh katayamai được đặt theo tên của Masao Katayama, nhà ngư học từ Đại học Yamaguchi, nhằm vinh danh những nghiên cứu về các loài họ cá mú tại Nhật Bản, và ông cũng nhận ra loài cá này chưa có tên khoa học.
Phân bố
O. katayamai được ghi nhận tại đảo Guam, đảo Đài Loan và từ quần đảo Ryukyu ngược lên phía bắc đến bán đảo Satsuma (thuộc tỉnh Kagoshima). O. katayamai được tìm thấy trong khoảng độ sâu từ 60 đến 300 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn lớn nhất được ghi nhận ở O. katayamai là 16,3 cm. Cá có vây đuôi màu đỏ, xẻ thùy với thùy ngắn và bo tròn ở chóp.
Số gai ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số vảy đường bên: 38–42.
Thương mại
O. katayamai đôi khi được bán trong các chợ cá ở Guam. Chúng cũng được đánh bắt trong ngành thương mại cá cảnh.
Tham khảo
K
Cá Thái Bình Dương
Cá Nhật Bản
Cá Đài Loan
Động vật Guam
Động vật được mô tả năm 1979
|
19841009
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20rhodopeplus
|
Odontanthias rhodopeplus
|
Odontanthias rhodopeplus là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1872.
Từ nguyên
Từ định danh rhodopeplus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại, rhódon (ῥόδον; "màu hồng") và peplus (πέπλος; áo choàng peplos của nữ giới Hy Lạp cổ đại), hàm ý đề cập đến màu đỏ hồng trên thân của loài cá này.
Phân bố
O. rhodopeplus được ghi nhận từ Myanmar trải dài đến đảo Sulawesi (Indonesia), xa về phía bắc đến phía nam Nhật Bản. O. rhodopeplus còn được ghi nhận tại bờ tây nam Ấn Độ, Somalia và ngoài khơi thành phố Mukalla của Yemen, cũng có thể xuất hiện tại vùng đảo Socotra.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở O. rhodopeplus là 16 cm. Gốc vây đuôi có vạch đen, thường được viền trắng.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia ở vây lưng: 12–13; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 30–33.
Tham khảo
R
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Myanmar
Động vật được mô tả năm 1872
Nhóm loài do Albert Günther đặt tên
|
19841026
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Zanskar
|
Tiếng Zanskar
|
Phương ngữ Zanskar (Zangskar, Zaskar) là một ngôn ngữ bị đe dọa thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng sử dụng chủ yếu tại vùng Zanskar thuộc quận Kargil, Ladakh, Ấn Độ và bởi các Phật tử sống tại vùng thượng lưu thuộc Lahaul, Himachal Pradesh, và Paddar, Jammu và Kashmir.
Ngôn ngữ này được chia ra thành bốn nhóm đồng nhất: Oot (Stod, Thượng Zanskar), Zhung (Gžun, Trung Zanskar), Sham (Gšam, Hạ Zanskar) và cuối cùng là Lungnak (Luŋnag).
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Endangered Languages Project Profile for Zangskari
Linguistic Map of Zangskari
|
19841036
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jerzy%20Zubrzycki
|
Jerzy Zubrzycki
|
Jerzy "George" B. Zubrzycki AO CBE MBE (12 tháng 1 năm 192020 tháng 5 năm 2009) là một nhà xã hội học người Úc gốc Ba Lan, được nhiều người coi là "cha đẻ của chủ nghĩa đa văn hóa Úc".
Jerzy sinh ra ở Kraków, Ba Lan. Ông từng gia nhập lực lượng Ba Lan Tự do tại Vương quốc Liên hiệp Anh. Ông đã được Chính phủ Vương quốc Liên hiệp Anh phong làm Thành viên của Huân chương Đế quốc Anh.
Năm 1956, ông được bổ nhiệm một chức vụ tại Đại học Quốc gia Úc ở Canberra. Ông đã làm việc tại đây cho tới khi qua đời.
Ông từng giữ chức Chủ tịch Hội đồng các Vấn đề Sắc tộc Úc 1977–81, giữ chức vụ trong Hội đồng của Viện các Vấn đề Đa văn hóa 1980–86, cũng như trong hội đồng tạm quyền của Bảo tàng Quốc gia Úc. Ông đã đi du lịch nhiều nơi cùng với các thành viên của chính phủ Fraser để giảng giải các chính sách đa văn hóa của nhà nước.
Ông là thành viên của Viện hàn lâm giáo hoàng về Khoa học xã hội, và đồng thời cũng được Ba Lan và Hoa Kỳ vinh danh.
Ông qua đời tại Canberra vào ngày 20 tháng 5 năm 2009, thọ 89 tuổi.
Danh hiệu
Năm 1967, Zubrzycki được bầu làm Hội viên của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Úc. Ông cũng được phong làm Tư lệnh của Huân chương Đế quốc Anh (CBE) vào năm 1978, vì công tác thúc đẩy chủ nghĩa đa văn hóa ở Úc, và là Sĩ quan Huân chương Úc (AO) vào năm 1984.
Thư mục
Ghi chú
Sinh năm 1920
Mất năm 2009
Nhà xã hội học Úc
Sĩ quan Huân chương Úc
Thành viên Viện hàn lâm giáo hoàng về Khoa học xã hội
Người Ba Lan di cư tới Úc
Người liên quan đến tạp chí "Kultura"
|
19841047
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Z%C3%BCb%C3%BCk
|
Zübük
|
Zübük là một bộ phim hài Thổ Nhĩ Kỳ công chiếu năm 1980 của đạo diễn Kartal Tibet. Các nhân vật trong bộ phim được sáng tạo bởi nhà văn châm biếm Aziz Nesin.
Diễn viên
Kemal Sunal - İprahim Zübükzade / Zeybekzade Kara Yusuf Efe
Nevra Serezli - Yektane
Kadir Savun - Yektane'nin Babası Muhalif Kadir Efendi
Osman Alyanak - Motelci Satılmış
Ali Şen - Sabri Ağa
Bülent Kayabaş - İri Nuri
Metin Serezli - Gazeteci Yaşar
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim hài năm 1981
Phim năm 1981
Phim dựa trên tiểu thuyết Thổ Nhĩ Kỳ
Phim hài Thổ Nhĩ Kỳ
Phim chính trị Thổ Nhĩ Kỳ
Phim quay tại Ankara
|
19841061
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/As%20the%20Gods%20Will
|
As the Gods Will
|
As the Gods Will (神さまの言うとおり, Kami-sama no Iu Tōri ) là một bộ phim kinh dị siêu nhiên Nhật Bản năm 2014 của đạo diễn Takashi Miike . Nó dựa trên phần đầu tiên của bộ truyện tranh cùng tên của Muneyuki Kaneshiro và Akeji Fujimura. Phim được phát hành trên các phương tiện truyền thông gia đình ở Hoa Kỳ bởi Funimation .
Cốt truyện
Học sinh trung học Shun Takahata dành phần lớn thời gian để chơi các trò chơi điện tử bạo lực. Một buổi sáng ở trường, cậu cũng than thở rằng cuộc sống của mình thật nhàm chán. Trong giờ học, đầu của giáo viên nổ tung trong máu và những viên bi đỏ . Từ gáy của người giáo viên hiện ra một con búp bê Daruma có tri giác . Shun, cùng với người bạn Satake và cả lớp của họ, đột nhiên thấy mình bị buộc phải tham gia vào một trò chơi chết chóc Daruma-san ga koronda , với việc các học sinh lần lượt bị giết mỗi khi họ di chuyển. Hơn nữa, trò chơi có giới hạn thời gian, tất cả mọi người đều có số phận sẽ chết nếu hết giờ. Khi con búp bê quay về phía bảng đen, anh ấy để lộ một nút trên lưng mà học sinh có thể cố gắng nhấn để kết thúc trò chơi trước khi hết giờ. Với sự giúp đỡ của Satake, Shun cố gắng chạm tới nút và nhấn nó để kết thúc trò chơi, nhưng Satake chết, tiết lộ rằng chỉ người nhấn nút mới sống.
Sau khi kết thúc trò chơi, Shun gặp người bạn Ichika Akimoto của mình và họ đi đến phòng tập thể dục của trường. Ở đó, họ bắt đầu trò chơi thứ hai, Belling the Cat , có Maneki-neko , trong đó các học sinh hóa trang thành chuột cố gắng ném một chiếc chuông vào một cái vòng gắn trên cổ của một con mèo khổng lồ đang vẫy gọi, trong khi cố gắng không để bị ăn thịt hoặc nghiền nát. Trò chơi giành chiến thắng với sự trợ giúp của Takeru Amaya, một người bạn cùng lớp gặp rắc rối, người đã đánh đập các học sinh khác, dường như thích thú với cơ hội chứng kiến rất nhiều cái chết và giết tất cả những người sống sót khác ngoài Shun và Ichika sau khi chiến thắng trò chơi. Ba người họ sau đó bị bất tỉnh do khí ngủ do con mèo thải ra. Họ thức dậy và thấy mình cùng với những học sinh khác trong một căn phòng bên trong một khối lập phương bay khổng lồ bay lơ lửng trên Tokyo , đối mặt với bài kiểm tra tiếp theo. Sau đó, tiết lộ rằng học sinh trên khắp thế giới đang phải đối mặt với các bài kiểm tra tương tự, và một số ít người sống sót đang được đưa vào bên trong các khối lập phương để tiếp tục nhiệm vụ của họ ở đó.
Trò chơi tiếp theo là Kagome Kagome , trong đó các học sinh phải bị bịt mắt và đoán xem con nào trong số bốn con búp bê gỗ Kokeshi nổi đang ở phía sau chúng trong vòng 10 giây sau khi kết thúc một bài hát ngắn. Nếu không làm như vậy, họ sẽ bị chiếu tia laser đỏ và những con búp bê sẽ sử dụng kỹ thuật điều khiển từ xa để phá hủy cơ thể của họ. Nếu người chơi đoán được ai đứng sau họ và Kokesh thua cuộc, tất cả họ sẽ phát nổ và một trong số họ sẽ đưa ra đáp án và học sinh có thể rời khỏi phòng và bước vào giai đoạn tiếp theo. Shun gặp và cứu người bạn cùng lớp cũ Shoko Takase bằng cách giành chiến thắng trong trò chơi, trong khi hai người bạn cùng phòng của họ, Taira và Taoka, bị giết, và bộ đôi đoàn tụ với Ichika và một người chơi khác, Yukio Sanada, người mà họ cứu khỏi bị giết bởi người thứ năm. Kokeshi bằng cách nắm tay họ.
Cả bốn cùng Eiji Oku và Kotaro Maeda lên cấp độ tiếp theo, nơi họ phải sử dụng chìa khóa của mình để mở khóa chiếc đầu Kokeshi khổng lồ đang mỉm cười. Amaya mang thêm ba chiếc chìa khóa nữa và giết một tù nhân mà anh ta đưa vào phòng. Bảy người sống sót sử dụng chìa khóa của họ và cái đầu khổng lồ lăn đi để đào một đường hầm dẫn vào căn phòng bên cạnh. Trong khi đó, mỗi người chơi được hiển thị trên màn hình tivi để những người khác xem. Trò chơi tiếp theo là Shirakuma , một chú gấu Bắc Cực màu trắng xuất hiện trước mặt họ trong một căn phòng đông lạnh. Các học sinh đều phải trả lời trung thực các câu hỏi của gấu trắng; nếu không, họ sẽ buộc phải chọn ra người mà họ nghi ngờ đang nói dối để bị giết. Shoko và Yukio bị giết, và Shun nhanh chóng nhận ra rằng con gấu là kẻ nói dối thực sự và màu sắc thực sự của nó là màu đen, do đó đã giành chiến thắng trong trò chơi và sống sót cùng bốn học sinh còn lại.
Trò chơi cuối cùng, do ba con búp bê Matryoshka trình bày , là trò chơi đá vào lon phải hoàn thành trước khi mặt trời lặn. Năm người còn lại mỗi người chọn một cây gậy, người lấy được cây màu đỏ sẽ đóng vai " Ác quỷ ". Ai bị “Ác quỷ” nhìn thấy mặt và gọi ra sẽ bị bắt và tống vào xà lim. Đá lon vào giữa sẽ khiến nó phát nổ, giết chết những người chơi ở gần. Takeru lấy được cây gậy màu đỏ và ngay sau đó Oku, Maeda và Ichika bị anh ta bắt được trong khi Shun tìm thấy áo giáp để che mặt khi lẩn trốn. Shun rơi xuống biển khi xích Takeru vào áo giáp. Khi Takeru cố gắng kéo bộ giáp lên để tránh bị kéo xuống, Shun trèo lên trở lại và giải thoát mình khỏi bộ giáp. Cả hai cùng chạy đua về phía chiếc lon, và Shun đã đá thành công chiếc lon trước, qua đó giành chiến thắng trong trò chơi. Búp bê Matryoshka tiết lộ rằng trên thực tế, vụ nổ là dối trá và không ai trong số chúng sẽ bị giết nếu thua trò chơi. Họ tổ chức một bữa tiệc kem, nơi họ tìm hiểu số phận của mình trên thanh gỗ và mục đích của trò chơi cuối cùng chỉ đơn giản là để giải trí. Shun và Takeru sống sót trong khi Ichika, Eiji và Kotaro bị giết bởi con búp bê Matryoshka thứ tư bằng tia laze làm chúng tan rã. Shun và Takeru xuất hiện trên đỉnh của khối lập phương, nơi họ nhìn thấy đám đông cổ vũ cho họ, trong khi Enokida Takumi, một hikikomori , người đã theo dõi họ từ phòng của mình, đi ra khỏi nhà, có thể để tìm ra danh tính thực sự của "Chúa" .
Takeru ăn mừng trong khi Shun quỳ gối tuyệt vọng vì mất đi bạn bè, nói rằng "không có Chúa". Một trong những con búp bê Matryoshka đã sửa lỗi cho anh ta và gợi ý rằng những trò chơi chết người đó sẽ dẫn họ đến với "Chúa", vì nó cho anh ta thấy một kẻ lang thang cũng là người quan sát và là "Chúa" đằng sau những trò chơi tử thần này.
Diễn xuất
Sota Fukushi vai Shun Takahata
Hirona Yamazaki vào vai Ichika Akimoto
Ryūnosuke Kamiki vào vai Takeru Amaya
Mio Yūki vai Shoko Takase
Shota Sometani vào vai Satake
Jingi Irie trong vai Eiji Oku
Ryosuke Yamamoto vào vai Mikinori Taira
Minori Hagiwara trong vai Yumi Taoka
Sasuke Otsuru vào vai Yukio Sanada
Naoto Takahashi trong vai Kotaro Maeda
Nijiro Murakami vai Haruhiko Yoshikawa
Lily Franky vai Người vô gia cư/Chúa
Nao Omori vai Takumi
Dori Sakurada vai Lớp trưởng (khách mời)
Atsuko Maeda vai Maneki-neko (lồng tiếng)
Tsutomu Yamazaki vai Gấu Bắc Cực (lồng tiếng)
Phòng vé
Phim thu về 1,5 triệu USD nội địa ở Nhật Bản trong tuần đầu tiên công chiếu vào tháng 11.
Tranh cãi
Bộ phim truyền hình K-drama kinh dị sinh tồn năm 2021 Squid Game đã bị cáo buộc đạo văn bộ phim vì cả hai đều liên quan đến trò chơi dành cho trẻ em mà hình phạt nếu thua là tử hình. Tuy nhiên, biên kịch kiêm đạo diễn Hwang Dong-hyuk khẳng định ông đã viết kịch bản của Squid Game vào năm 2009 (năm năm trước khi As the Gods Will được phát hành), nói rằng "những điểm tương đồng được chỉ ra hoàn toàn là ngẫu nhiên và không có sự sao chép nào từ cả hai bên." ."
Tham khảo
|
19841070
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1m%20t%E1%BB%AD%20l%E1%BB%ABng%20danh%20Conan%3A%20Ng%C3%B4i%20sao%205%20c%C3%A1nh%201%20tri%E1%BB%87u%20%C4%91%C3%B4
|
Thám tử lừng danh Conan: Ngôi sao 5 cánh 1 triệu đô
|
là bộ phim điện ảnh anime trinh thám năm 2024 của Nhật Bản dựa trên nguyên tác là bộ manga Thám tử lừng danh Conan của họa sĩ Aoyama Gōshō. Đây sẽ là bộ phim điện ảnh thứ 27 của loạt phim điện ảnh Thám tử lừng danh Conan, sau bộ phim điện ảnh Thám tử lừng danh Conan: Tàu ngầm sắt màu đen.
Tổng quan
Trong bộ phim Thám tử lừng danh Conan: Tàu ngầm sắt màu đen (2023), một đoạn giới thiệu về phần phim mới đã được chiếu vào cuối bộ phim, đã tiết lộ rằng hai nhân vật Kaito Kid và Hattori Heiji sẽ trở thành những nhân vật chủ chốt trong bộ phim điện ảnh tiếp theo.
Vào ngày 30 tháng 9 năm 2023, thông tin về bộ phim thứ 27 của Thám tử lừng danh Conan đã được công bố trên kênh YouTube của TohoMOVIE trong một video thuộc sự kiện 【Tuần lễ vàng 2024】.
Vào ngày 29 tháng 11 năm 2023, trên tạp chí Weekly Shōnen Sunday số đầu tiên của năm 2024 đã thông báo về việc phim sẽ chính thức ra mắt vào ngày 12 tháng 4 năm 2024 tại Nhật Bản. Và sẽ phát hành vào Việt Nam khoảng tháng 7 cùng năm. Trong cùng ngày hôm đó, tựa đề cũng như những hình ảnh chính thức đầu tiên của phim cũng đã được tác giả Aoyama Gōshō công bố, phim sẽ được đạo diễn bởi Tomoka Nagaoka với kịch bản do Takahiro Okura chấp bút cùng âm nhạc sẽ được sáng tác bởi Yūgo Kanno.
Bộ phim sẽ đánh dấu sự xuất hiện tiếp theo của nhân vật Kaito Kid sau bốn tác phẩm kể từ bộ phim Thám tử lừng danh Conan: Cú đấm Sapphire xanh (2019), lần xuất hiện thứ sáu của nhân vật Hattori Heiji kể từ bộ phim Thám tử lừng danh Conan: Bản tình ca màu đỏ thẫm (2017) và đồng thời đây cũng là lần tiếp theo cả hai nhân vật này xuất hiện cùng nhau kể từ bộ phim Thám tử lừng danh Conan: Con tàu biến mất giữa trời xanh (2010). Bên cạnh đó, phim cũng sẽ có sự tham gia lần đầu của Souji Okita (Okita Sooshi), nhân vật từ bộ manga YAIBA của Aoyama xuất hiện trong phim Thám tử lừng danh Conan.
Cốt truyện
Thông báo từ Kaito Kid đã được gửi tới phòng chứa đồ của Axie Zaibatsu ở Hakodate, Hokkaidō. Mục tiêu của Kid lần này là một thanh kiếm Nhật gắn liền với Toshizō Hijikata, phó chỉ huy của Shinsengumi sống vào cuối thời Edo. Tại sao Kid, người đang theo đuổi Big Jewel, lại nhắm đến thanh kiếm...? Trong khi đó, [[Hattori] Heiji], một thám tử đến từ phương Tây, cùng Conan và những người bạn của anh cũng đang đến thăm Hakodate để tham gia một giải đấu kiếm đạo, và vào ngày nhận được thông báo tội phạm, Heiji đã nhìn thấu lớp ngụy trang của Kid và dồn cậu ta vào góc tường...!? Cùng lúc đó, một thi thể có vết cắt hình chữ thập trên ngực được tìm thấy ở khu nhà kho Hakodate. Cuộc điều tra phát hiện ra một người đàn ông người Mỹ gốc Nhật được mệnh danh là "Thương gia tử thần", người hoạt động buôn bán vũ khí khắp châu Á. Anh ta đang tìm kiếm một kho báu được cho là đã được cất giấu ở đâu đó tại Hakodate bởi người đứng đầu đầu tiên của gia tộc Akie, người có liên quan sâu sắc đến ngành quân sự trong chiến tranh. Cũng có tin đồn rằng nó là loại vũ khí mạnh đến mức có thể thay đổi hoàn toàn cục diện cuộc chiến, tưởng chừng như Nhật Bản sẽ bị đánh bại vào thời điểm đó. Dường như có mối liên hệ nào đó giữa kho báu và thanh kiếm mà Kid đang nhắm tới, và khi Kid nhắm đến thanh kiếm thì bóng đen của một "kiếm sĩ" bí ẩn lại gần...
Nhân vật
Nhân vật chính
Edogawa Conan / Kudo Shinichi
Được lồng tiếng bởi Takayama Minami / Yamaguchi Kappei (tiếng Nhật)
Nhân vật chính của bộ phim. Ở hình dạng thật sự là cậu học sinh trung học Kudo Shinichi nổi tiếng với biệt danh "Thám tử trung học phương Đông", nhưng do tác dụng của APTX4869, một loại thuốc độc của Tổ chức Áo đen, đã khiến cơ thể của anh bị teo nhỏ như một học sinh tiểu học.
Mōri Ran
Được lồng tiếng bởi Yamazaki Wakana (tiếng Nhật)
Nhân vật nữ chính của phim. Bạn thời thơ ấu và đồng thời là bạn gái của Shinichi. Một cao thủ bộ môn Karate đã từng thắng giải đấu tại Kanto.
Mōri Kogoro
Được lồng tiếng bởi Koyama Rikiya (tiếng Nhật)
Cha của Ran và là một thám tử tư nổi tiếng với biệt danh "Mori ngủ gật". Người giám hộ của Conan. Cựu Thám tử tại Phòng Điều tra Tội phạm Cưỡng bức thuộc Sở Cảnh sát Thủ đô Tokyo
Kojima Genta
Được lồng tiếng bởi Takagi Wataru (tiếng Nhật)
Tsuburaya Mitsuhiko
Được lồng tiếng bởi Otani Ikue (tiếng Nhật)
Yoshida Ayumi
Được lồng tiếng bởi Iwai Yukiko (tiếng Nhật)
Tiến sĩ Agasa
Được lồng tiếng bởi Ogata Kenichi (tiếng Nhật)
Haibara Ai
Được lồng tiếng bởi Hayashibara Megumi (tiếng Nhật)
Thanh tra Megure
Được lồng tiếng bởi Chafurin (tiếng Nhật)
Kaito Kid / Kuroba Kaito
Được lồng tiếng bởi Yamaguchi Kappei (tiếng Nhật)
Nhân vật chủ chốt của bộ phim lần này. Một tên trộm ranh ma, khó nắm bắt, chuyên đánh cắp những viên đá quý được gọi là "Những viên ngọc lớn". Được mọi người kêu gọi là "Nhà ảo thuật dưới ánh trăng" và "Arsène Lupin của Heisei". Danh tính thực sự của anh là Kaito Kuroba, một học sinh trung học. Đối thủ của Conan và là một trong số ít người biết được danh tính thực sự của Conan.
Trong bộ phim lần này, mục tiêu của Kid sẽ không phải là "Những viên ngọc lớn" mà sẽ là thanh kiếm nhật có liên quan đến Toshizō Hijikata.
Hattori Heiji
Được lồng tiếng bởi Horikawa Ryo (tiếng Nhật)
Nhân vật chủ chốt trong bộ phim lần này. Anh nổi tiếng với biệt danh là "Thám tử trung học phương Tây", vừa là đối thủ và cũng vừa là bạn thân của Shinichi, và thường xuyên được so sánh là "Kudo của phương Đông và Hattori của phương Tây". Anh cũng là một trong số ít người biết được danh tính thực sự của Conan. Ngoài ra, Heiji còn là một bậc thầy kiếm đạo, có khả năng đánh bại mọi thành viên hùng mạnh nhất của lực lượng Cảnh sát tỉnh Osaka.
Toyama Kazuha
Được lồng tiếng bởi Miyamura Yuko (tiếng Nhật)
Nhân vật chủ chốt trong bộ phim lần này. Cô là bạn thời thơ ấu của Heiji. Cô có tình cảm với Heiji và luôn cố gắng thể hiện tình cảm của mình cho anh thấy nhưng luôn thất bại. Ngoài ra, cô cũng là bạn tốt của Ran. Kazuha là một thành viên của câu lạc bộ Aikido.
Ooka Momiji
Được lồng tiếng bởi Yukino Satsuki (tiếng Nhật)
Nhân vật chủ chốt của bộ phim lần này. Nữ sinh năm 2 của trường trung học Kyoto Senshin. Cô thường gọi Heiji là "chồng tương lai" của mình và mang theo một bức ảnh của anh xem như một tấm bùa hộ mệnh.
Muga Iori
Được lồng tiếng bởi Daisuke Ono (tiếng Nhật)
Quản gia của Gia đình Ooka. Một cựu cảnh sát.
Okita Souji
Được lồng tiếng bởi Yusa Koji (tiếng Nhật)
Bạn cùng lớp của Ooka và là thành viên của câu lạc bộ Kendo.
Quảng bá
Công bố
Ngày 29 tháng 11 năm 2023, hình ảnh teaser cũng như tiêu đề chính thức của bộ phim đã được công bố trong tạp chí Weekly Shōnen Sunday số đầu tiên của năm 2024 và cũng được đăng tải trên nền tảng Twitter, nay là X.
Vào ngày 30 tháng 11 cùng năm, video cũng như câu chuyện đặc biệt của phim cũng đã được phát hành.
Thám tử lừng danh Conan vs. Kaito Kid
『Thám tử lừng danh Conan vs. Kaito Kid』là bộ phim tổng hợp đặc biệt của bộ phim truyền hình đặc biệt dự kiến được ra mắt vào ngày 5 tháng 1, 2024. Bài hát chủ đề đầu tiên của phim sẽ mang tựa đề là 「大胆」(tạm dịch: Táo bạo) do WANDS trình bày.
Chú thích
Liên kết ngoài
- 公式サイト
Phim Nhật Bản
Phim anime năm 2024
Phim năm 2024
Phim Thám tử lừng danh Conan
TMS Entertainment
Phim hoạt hình Toho
Phim hoạt hình
Phim anime
Phim hoạt hình năm 2024
Phim anime thập niên 2020
Phim hoạt hình thập niên 2020
Phim hoạt hình Nhật Bản
Phim trinh thám
Phim trinh thám năm 2024
Phim trinh thám thập niêm 2020
Phim tiếng Nhật
Phim tiếng Nhật năm 2024
Phim tiếng Nhật thập niên 2020
Phim chưa ra mắt
|
19841086
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gradient%20m%C3%A0u
|
Gradient màu
|
Trong lĩnh vực màu sắc, một dãy màu (còn được biết đến là một bảng màu hoặc một chuỗi màu) xác định một loạt màu phụ thuộc vào vị trí, thường được sử dụng để điền màu vào một khu vực cụ thể..
Trong việc gán màu cho một tập hợp các giá trị, một dãy màu là một bảng màu liên tục, một loại sơ đồ màu. Trong đồ họa máy tính, thuật ngữ "swatch" đã trở thành thuật ngữ chỉ một bảng màu của các màu sắc đang hoạt động.
Các định nghĩa
Dãy màu là một tập hợp các màu sắc được sắp xếp theo thứ tự tuyến tính (được sắp xếp). Một bảng màu liên tục là một đường cong thông qua không gian màu.
Định nghĩa chặt chẽ
Bảng màu là một hàm kết nối một giá trị thực r với điểm c trong không gian màu.
được xác định bởi:
một không gian màu C
chuỗi các điểm lấy mẫu ngày càng tăng
một loạt các giá trị trong không gian màu
bản đồ
quy tắc nội suy các giá trị trung gian
Ở đâu:
r là số thực
là tập hợp số thực
c là một màu = điểm trong không gian màu C
Các loại
Tiêu chí phân loại:
Kích thước Rời rạc (phân loại, lược đồ màu) / Liên tục Hình dạng
Phạm vi: đầy đủ hoặc giới hạn. Ví dụ: màu pastel với phạm vi giới hạn về độ bão hòa.
Đồng nhất theo cảm giác
Thứ tự Đã được sắp xếp (tuần tự) và không được sắp xếp (categorical)
Thứ tự cảm giác
Khả năng đọc cho người mù màu hoặc người có khuyết tật màu (thân thiện với người mù màu) Không gian màu
Độ sâu màu (Dịch và viết lại, liệt kê)
Kích thước
1D
2D: Bản đồ đa biến, hai biến hoặc ba biến
3D
Đồ họa máy tính
|
19841088
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20perumali
|
Odontanthias perumali
|
Odontanthias perumali là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1976.
Từ nguyên
Từ định danh perumali được đặt theo tên của M. C. Perumal, Giám đốc Viện Điều hành Thủy sản Trung ương (Kochi, Ấn Độ), người đã cung cấp cơ sở vật chất trên con tàu Blue Fin.
Tình trạng phân loại
O. perumali ban đầu nằm trong chi Holanthias, được Manilo và Bogorodsky (2003) công nhận là loài hợp lệ, nhưng Randall và Heemstra (2006) sau đó xếp vào đồng nghĩa của Odontanthias rhodopeplus. Danh sách họ Cá mú của Parenti và Randall (2020) vẫn xem O. perumali là đồng nghĩa của O. rhodopeplus.
Ngoài sự khác biệt về hình thái và màu sắc, bảng mã vạch DNA trong nghiên cứu của Zajonz và cộng sự (2020) còn cho thấy O. perumali và O. rhodopeplus có bộ gen hoàn toàn khác nhau, góp phần khẳng định sự hợp lệ của O. perumali.
Phân bố
Mẫu định danh của O. perumali được thu thập ngoài khơi thành phố Kollam (phía tây nam Ấn Độ). Gần đây, O. perumali được tàu lưới đánh bắt ở bờ biển phía đông nam Ấn Độ (thuộc vịnh Bengal), độ sâu khoảng 80–150 m.
Mô tả
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia ở vây lưng: ?; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia ở vây ngực: 17–18; Số vảy đường bên: 30–31.
Tham khảo
P
Cá Ấn Độ Dương
Cá Ấn Độ
Động vật được mô tả năm 1976
|
19841094
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trang%20tr%C3%AD%20Gi%C3%A1ng%20Sinh
|
Trang trí Giáng Sinh
|
Trang trí Giáng Sinh (Christmas decoration) là bất kỳ kiểu trang trí nào được sử dụng trong Mùa Giáng Sinh và mùa nghỉ lễ Giáng Sinh trước và sau Lễ Giáng sinh. Màu sắc truyền thống của Giáng Sinh là màu xanh của cây thông Nô-en (cây Giáng Sinh), màu trắng như tuyết và màu đỏ của hình trái tim. Các màu sắc vàng và màu bạc cũng phổ biến, giống như các màu kim loại khác. Các hình ảnh điển hình trên đồ trang trí Giáng sinh bao gồm Chúa Giêsu Hài Đồng, Cha Giáng Sinh, ông già Nô-en (Santa Claus) và ngôi sao Bethlehem. Ở nhiều quốc gia, chẳng hạn như Thụy Điển, mọi người bắt đầu trang trí Mùa Vọng và Giáng sinh vào ngày đầu tiên của Mùa Vọng. Phụng vụ Kitô giáo được thực thành ở một số giáo xứ thông qua nghi lễ Treo cây xanh. Trong thế giới Cơ Đốc giáo phương Tây thì hai ngày truyền thống khi đồ trang trí Giáng sinh bị dẹp bỏ là Đêm thứ mười hai và nếu chúng không được gỡ xuống vào ngày đó thì nến sẽ được hạ ngay sau ngày sau sẽ kết thúc Mùa Giáng sinh-Hiển linh ở một số giáo phái Cơ Đốc. Trong lịch sử, việc dỡ bỏ đồ trang trí Giáng sinh trước Đêm thứ mười hai, cũng như để đồ trang trí ngoài Lễ nến được coi là điều không tốt.
Giới thiệu
Truyền thống trang trí cây cối đã có từ lâu vì người Celts đã thực hành trang trí một cây, biểu tượng của sự sống vào thời điểm đông chí. Tertullian đã phàn nàn vào thế kỷ thứ 2 rằng những người theo đạo Cơ đốc ở Bắc Phi đã trang trí nhà của họ bằng cây xanh, một biểu tượng ngoại giáo. Cây Giáng sinh được những tín nhân Luther ở Đức sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ XVI, với các ghi chép chỉ ra rằng cây Giáng sinh được đặt trong Nhà thờ Strasbourg vào năm 1539, dưới sự lãnh đạo của Nhà cải cách Tin lành là Martin Bucer. Tại Hoa Kỳ, những người theo đạo Tin Lành Luther ở Đức này đã mang theo cây thông Noel được trang trí; Người Moravian đã thắp những ngọn nến trên những cây đó.
Những nơi khác nhau cũng có những truyền thống và mê tín khác nhau về thời điểm và cách loại bỏ bớt đồ trang trí Giáng sinh. Ở Bắc Mỹ và Nam Mỹ, Úc và Châu Âu, truyền thống trang trí bên ngoài ngôi nhà bằng đèn và đôi khi bằng Sled, người tuyết được thắp sáng và các nhân vật Giáng sinh khác. Các thành phố cũng thường tài trợ cho việc trang trí, các biểu ngữ Giáng sinh có thể được treo trên đèn đường và cây thông Noel được đặt ở quảng trường thị trấn. Ở Anh, người ta có phong tục đốt đồ trang trí trên lò sưởi. Tuy nhiên, truyền thống này đã không còn được ưa chuộng vì những đồ trang trí có thể tái sử dụng và không thể hư hỏng được làm bằng nhựa, gỗ, thủy tinh và kim loại trở nên phổ biến hơn.
Hình ảnh
Chú thích
Trang trí Giáng Sinh
|
19841102
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aegir%20%28v%E1%BB%87%20tinh%29
|
Aegir (vệ tinh)
|
Aegir, hay Saturn XXXVI (tên gọi tạm thời là S/2004 S 10), là một vệ tinh tự nhiên của Sao Thổ. Nó được phát hiện bởi Scott S. Sheppard, David C. Jewitt, Jan Kleyna và Brian G. Marsden vào ngày 4 tháng 5 năm 2005 dựa trên các quan sát được thực hiện giữa ngày 12 tháng 12 năm 2004 và ngày 11 tháng 3 năm 2005.
Aegir có đường kính khoảng 6 km. Nó quay quanh Sao Thổ ở khoảng cách trung bình là 19.618 Mm trong 1025,908 ngày, với độ nghiêng là 167° so với mặt phẳng hoàng đạo (hay 140° so với xích đạo của Sao Thổ). Vệ tinh này chuyển động nghịch hành với độ lệch tâm là 0,252.
Tên gọi
Vệ tinh này được đặt theo tên của một người khổng lồ trong thần thoại Bắc Âu là Ægir, người có khả năng làm dịu các cơn bão, vào tháng 4 năm 2007. Ngoại hành tinh Epsilon Eridani b (AEgir) cũng được đặt theo tên của nhân vật này vào năm 2015.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website về Aegir của T. Denk
Trang về các vệ tinh mới được phát hiện của Sao Thổ của D. Jewitt
Nhóm Norse
Vệ tinh của Sao Thổ
Vệ tinh dị hình
Thiên thể phát hiện năm 2005
Được phát hiện bởi Scott S. Sheppard
|
19841108
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20xu%E1%BA%A5t%20s%E1%BA%AFc%20nh%E1%BA%A5t%20th%C3%A1ng%20Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Cầu thủ xuất sắc nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam
|
Cầu thủ xuất sắc nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam là một giải thưởng bóng đá trao cho những cầu thủ được đánh giá là xuất sắc nhất trong mỗi tháng của từng mùa giải Vô địch Quốc gia. Người chiến thắng giải thưởng này được quyết định thông qua sự kết hợp giữa các lá phiếu của các thành viên ban tổ chức giải và của phóng viên đại diện các cơ quan báo chí, truyền thông. Kể từ mùa giải 2023, giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất tháng được tài trợ bởi tập đoàn Casper Việt Nam.
Giải bóng đá Vô địch Quốc gia ra mắt vào năm 1980 trên cơ sở các giải đấu ở ba khu vực trước đó, ban đầu có tên gọi Giải bóng đá A1 toàn quốc. Tính đến năm 2023, giải đấu đã tồn tại qua 40 mùa giải (trừ các năm 1988 không tổ chức, năm 1999 chỉ có giải tập huấn và năm 2021 bị hủy bỏ) với 6 tên gọi khác nhau, và trở thành giải đấu chuyên nghiệp kể từ mùa 2000–01. Tại mùa giải 1999–2000, Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) cùng các nhà tài trợ đã giới thiệu một hệ thống các giải thưởng bầu chọn hàng tháng của VFF, với các danh hiệu dành cho cầu thủ, thủ môn, hậu vệ, huấn luyện viên xuất sắc nhất và bàn thắng đẹp nhất tháng tại hai giải vô địch quốc gia và Cúp Quốc gia. Từ đó đến nay, giải thưởng dành cho cầu thủ hay nhất tháng đã được trao trong tất cả các mùa giải, ngoại trừ các mùa 2003 (không thuộc hệ thống các giải bình chọn) và 2007 (không tổ chức trao các giải thưởng tháng). Tiền vệ Nguyễn Anh Tuấn của câu lạc bộ Đồng Tháp là người đầu tiên đoạt danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất tháng với màn thể hiện trong tháng 10 năm 1999.
Gastón Merlo là cầu thủ đoạt nhiều danh hiệu xuất sắc nhất tháng nhất với 10 lần. Mười cầu thủ đã giành giải thưởng trong các tháng liên tiếp: Amaobi Honest, Kesley Alves, Lê Công Vinh, Gastón Merlo, Gonzalo Marronkle, Nastja Čeh, Hoàng Vũ Samson, Nguyễn Văn Quyết, Nguyễn Văn Toàn và Rafaelson, trong đó chỉ có Gastón Merlo làm được điều này tới hai lần. Amaobi Honest, Gastón Merlo, Gonzalo Marronkle và Hoàng Vũ Samson là những người đã giành được ba danh hiệu của tháng trong một mùa bóng. Mười cá nhân khác đã sở hữu hai danh hiệu tháng trong cùng mùa giải: Kesley Alves, Lê Công Vinh, Jesuel Martins Trindade, Jose Emidio de Almeida, Timothy Anjembe, Nastja Čeh, Đinh Thanh Trung, Nguyễn Văn Quyết, Nguyễn Văn Toàn và Rafaelson. Timothy Anjembe đã giành giải thưởng trong màu áo ba câu lạc bộ khác nhau, trong khi Gustavo Dourado và Lê Công Vinh đoạt giải với hai câu lạc bộ chủ quản riêng biệt.
Các cầu thủ Việt Nam chiếm gần một nửa số giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất tháng đã trao, và hơn một phần ba số cầu thủ nước ngoài giành giải đến từ Brasil. Hoàng Vũ Samson là cầu thủ đầu tiên đoạt giải thưởng với hai quốc tịch khác nhau, ba lần vào các năm 2010 và 2011 là người Nigeria và bốn lần vào các năm 2014 và 2016 là người Việt Nam. Câu lạc bộ Hà Nội có nhiều giải thưởng Cầu thủ hay nhất tháng hơn bất kỳ câu lạc bộ nào khác.
Tính đến tháng 12 năm 2023, người nhận giải thưởng gần nhất là tiền đạo người Brasil Rafaelson của câu lạc bộ Thép Xanh Nam Định.
Danh sách đoạt giải
Trong ba mùa giải đầu tiên, do giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất tháng được xét chung với giải Cúp Quốc gia, nên chỉ có giải thưởng của những tháng nằm trong thời gian diễn ra giải vô địch quốc gia được đưa vào danh sách này. Danh sách cũng bao gồm các giải thưởng của mùa giải 2021 bị hủy bỏ giữa chừng.
Với giải thưởng tháng 10 năm 2020, các danh hiệu được xét trao riêng cho từng nhóm đua vô địch và tranh trụ hạng, nên có hai cầu thủ được trao giải thưởng thuộc hai nhóm khác nhau.
Chú thích vị trí thi đấu: TM – Thủ môn, HV – Hậu vệ, TV – Tiền vệ, TĐ – Tiền đạo.
Đoạt giải nhiều lần
Dưới đây là thống kê về các cầu thủ đã giành danh hiệu xuất sắc nhất tháng nhiều hơn một lần. Những cầu thủ được in đậm vẫn còn hoạt động tại V.League 1.
Thống kê đoạt giải
Theo quốc tịch
Theo vị trí thi đấu
Theo câu lạc bộ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bóng đá Việt Nam
Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
|
19841115
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%AFn%20v%C3%A0%20kh%C3%B3c
|
Bắn và khóc
|
"Bắn và khóc" () là một cách diễn đạt dùng để đề cập đến những thể loại truyền thông mô tả những người lính vật lộn với xung đột đạo đức và sự hối hận về những hành động mà họ được lệnh phải thực hiện trong thời gian tại ngũ. Thuật ngữ này thường gắn liền với một thực tiễn được quan sát thấy ở một số cựu binh sĩ của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF).
Mô tả
Gil Hochberg mô tả việc bắn và khóc giống như một người lính "xin lỗi vì tôi phải làm vậy." Kiểu xin lỗi không biết lỗi này là mô hình tự phê bình được áp dụng ở Israel trong nhiều tác phẩm văn học và điện ảnh phản ánh chính trị như “một cách duy trì hình ảnh dân tộc là trẻ trung và ngây thơ. Cùng với ý thức về thiên hướng đi ngược lại hiện thực chiến tranh, bạo lực quân sự gia tăng, chiếm đóng, xâm lược, […] cảm giác chung rằng mọi thứ đang diễn ra không ổn."
Felice Naomi Wonnenberg viết trong cuốn sách Contemporary Jewish Reality in Germany and Its Reflection in Film mô tả bắn và khóc là khi mọi người "nhận thức rõ các vấn đề bất ổn của chiến tranh nhưng vẫn tham gia vào."
Sarah Benton lập luận rằng hiện tượng bắn và khóc chỉ là một cử chỉ mang tính biểu tượng mà không có trách nhiệm thực sự. Bà chỉ trích cách làm này như một cách để những người lính thanh lọc lương tâm mà không chịu trách nhiệm cá nhân về hành động của mình hoặc tích cực nỗ lực ngăn chặn những hành vi lạm dụng trong tương lai. Theo quan điểm của bà, cách tiếp cận này không giải quyết được nguyên nhân gốc rễ của hành vi không phù hợp và không đưa ra giải pháp thực tế nào để giải quyết những bất công hoặc truy tố thủ phạm.
Karen Grumberg lưu ý rằng "người lính theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, một người có ý thức, kinh ghét bạo lực nhưng nhận ra rằng mình phải hành động bạo lực để tồn tại; tình thế tiến thoái lưỡng nan khiến anh ta vừa khóc vừa bóp cò. Trong thâm tâm, anh ta tuyệt vọng trước bạo lực mà anh ta cảm thấy buộc phải thực hiện theo cách này bởi vì anh ta sợ sự băng hoại đạo đức của mình."
Amir Vodka đã viết "Cụm từ thường mô tả IDF dưới góc độ phê phán, như một kẻ gây tổn thương cho những người lính trẻ, tuy nhiên bản thân thể loại này thường bị chỉ trích vì biến những kẻ tấn công thành nạn nhân và theo một nghĩa nào đó cho phép tiếp tục chiến tranh dưới vỏ bọc tự nạn nhân hóa."
Các phương tiện truyền thông
Văn học
Si’ah Lohamim (Fighters’ Discourse) (1968)
Phim
Shoot and Cry (1988)
Time for Cherries (1991)
Beaufort (2007)
Waltz with Bashir (2008)
Lebanon (2009)
Truyền hình
Fauda (2015–20)
Xem thêm
Nước mắt cá sấu
Tâm lý học quân sự
Phim chiến tranh
Điện ảnh Israel
Liên kết ngoài
The Israeli Filmmakers Who Shoot and Cry trên diễn đàn Hyperallergic
Chú thích
Từ ngữ Do Thái
Văn hóa Israel
Thuật ngữ văn học
Thuật ngữ nghệ thuật
|
19841116
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4%20Tr%E1%BB%8Dng%20Hoa
|
Ngô Trọng Hoa
|
Ngô Trọng Hoa (; ; 27 tháng 7 năm 1917 – 19 tháng 9 năm 1992) là một nhà vật lý người Trung Quốc. Ông là nhà nghiên cứu thuộc Ủy ban Cố vấn Hàng không Quốc gia Hoa Kỳ (NACA), giáo sư tại Đại học Thanh Hoa và giữ chức giám đốc sáng lập của Viện Nhiệt động lực học Kỹ thuật thuộc Viện Khoa học Trung Quốc (CAS). Ông là người tiên phong nghiên cứu về thuyết chung của dòng ba chiều đối với đầu máy turbo - được ứng dụng rộng rãi trong các mẫu thiết kế động cơ máy bay. Ngô và vợ ông, bà Lý Mẫn Hoa đều là viện sĩ tại CAS.
Sinh ra ở Thượng Hải, con đường học đại học của Ngô tại Đại học Thanh Hoa bị gián đoạn bởi Chiến tranh Trung-Nhật. Ông tốt nghiệp Đại học Liên hợp quốc gia Tây Nam lâm thời và được trao suất Học bổng bảo lãnh Nghĩa Hòa Đoàn để theo học tại Viện Công nghệ Massachusetts ở Hoa Kỳ. Sau khi lấy bằng Ph.D., ông gia nhập NACA (tổ chức tiền thân của NASA) và phát triển thuyết dòng ba chiều tại đây.
Sau khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Ngô và vợ ông trở về Trung Quốc vào năm 1954. Ông thành lập chương trình đầu máy turbo đầu tiên của Trung Quốc tại Thanh Hoa và phát triển hệ tọa độ cong phi trực giao để cải thiện độ tính toán chính xác. Sau những trở ngại trong Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hóa, ông tiếp tục công cuộc nghiên cứu vào thập niên 1970. Năm 1980, ông trở thành giám đốc sáng lập của Viện Nhiệt động lực học Kỹ thuật thuộc CAS.
Cuộc đời và sự nghiệp
Thân thế và giáo dục
Ngô sinh ra vào ngày 27 tháng 7 năm 1917 tại Thượng Hải; nguyên quán nằm ở Tô Châu, tỉnh Giang Tô. Gia đình ông là một gia đình trí thức khá giả bình thường, bố là nhân viên văn phòng, dễ tính và vui vẻ, còn mẹ là một người có học thức, tiết kiệm và cần cù, yêu cầu các con phải chăm chỉ học tập. Là con thứ ba trong bốn người con, từ nhỏ Ngô đã xây dựng thói quen học tập chăm chỉ, tiết kiệm, làm việc nghiêm túc và tính tình cương trực. Ông theo học Trường trung học Cách Trí đến năm 16 tuổi, rồi chuyển đến Nam Kinh và tốt nghiệp tại Trường trung học Kim Lăng.
Năm 1935, ông đăng ký vào Khoa cơ khí của Đại học Thanh Hoa ở Bắc Bình (tức Bắc Kinh ngày nay). Sau khi Chiến tranh Trung-Nhật nổ ra vào năm 1937, đại học sơ tán khỏi Bắc Bình và chuyển đến phía nam trú ở Trường Sa, tỉnh Hồ Nam. Cùng với các bạn học tại khoa cơ khí của Thanh Hoa, ông thực hiện nghĩa vụ quân sự trong một năm tại Trường Lực lượng Cơ giới Quân đội mới thành lập ở Hồ Nam. Khi Quân đội Đế quốc Nhật Bản xâm lược Hồ Nam, một lần nữa trường ông buộc phải sơ tán đến Côn Minh ở tây nam Trung Quốc; tại đây Thanh Hoa và một số đại học lưu vong khác kết hợp các nguồn lực đang dần cạn kiệt để lập nên Đại học Liên hợp quốc gia Tây Nam lâm thời (Liên Đại). Ngô tiếp tục học tập tại Liên Đại và được thuê làm làm giảng viên sau khi tốt nghiệp vào năm 1940. Năm 1943, ông cưới Lý Mẫn Hoa, cô bạn học và nhà vật lý tại Liên Đại.
Sự nghiệp ở Hoa Kỳ
Cuối năm 1943, Ngô giành Học bổng bảo lãnh Nghĩa Hòa Đoàn của Đại học Thanh Hoa để đi du học ở Hoa Kỳ. Ông và vợ đều được Viện Công nghệ Massachusetts nhận làm sinh viên Ph.D và bắt đầu học tập vào năm 1944. Ông theo chuyên ngành động cơ đốt trong. Lý hạ sinh hai con trai tại Hoa Kỳ, cặp đôi thay phiên nhau vừa lên lớp vừa trông con.
Ngô lấy bằng Ph.D. vào năm 1947, còn Lý lấy bằng sau chồng một năm. Họ đều gia nhập Phòng thí nghiệm động cơ máy bay Lewis của Ủy ban Cố vấn Hàng không Quốc gia Hoa Kỳ sau khi tốt nghiệp. Năm 1950, ông là người tiên phong trong nghiên cứu thuyết dòng ba chiều - được Hiệp hội kỹ sư cơ khí Hoa Kỳ xem là một trong hai bước đột phá quan trọng nhất của thập niên 1950 trong việc phát triển đầu máy turbo, bên cạnh phát minh máy tính.
Khi Chiến tranh Triều Tiên, quan hệ Mỹ-Trung trở nên đối địch công khai, nên Ngô và Lý quyết định không thể làm việc cho quân đội Hoa Kỳ nữa. Họ từ chức ở NACA và trở thành giáo sư tại Viện bách khoa Brooklyn vào năm 1951. Năm 1954, hai người hạ quyết tâm trở về Trung Quốc. Nhằm tránh bị chính phủ Hoa Kỳ nghi ngờ, gia đình bay đến Anh Quốc vào tháng Tám để nghỉ mát, rồi đi gián tiếp qua Thụy Sĩ, Áo, Tiệp Khắc và Liên Xô, sau cùng đặt chân về quê hương vào cuối năm.
Sự nghiệp ở Trung Quốc
Ở Bắc Kinh, Ngô được bổ nhiệm làm giáo sư và phó trưởng khoa cơ học của Đại học Thanh Hoa, rồi thành lập chương trình đầu máy turbo đầu tiên của Trung Quốc ở Thanh Hoa vào năm 1956. Một năm sau, ông thành phòng nghiên cứu về động cơ turbo và đốt trong tại Viện cơ khí thuộc Viện Khoa học Trung Quốc (CAS). Ông được bầu làm viện sĩ của CAS vào năm 1957. Khi Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc được thành lập vào năm 1958, ông giữ chức trưởng khoa Vật lý và Nhiệt động lực học.
Do thẳng thắn phê phán Đại nhảy vọt, ông bị tố là viện sĩ "cánh hữu" vào năm 1958. Một năm sau, ông được phục hồi chính trị và bổ nhiệm làm phó giám đốc Viện cơ khí thuộc CAS vào năm 1960. Chương trình nghiên cứu của ông là một trong những chương trình bị xóa bỏ trong Nạn đói lớn. Trong Phong trào Giáo dục Xã hội chủ nghĩa, ông được cử làm công việc chân tay ở vùng nông thôn Hông Đồng, Sơn Tây trong ba năm. Khi Cách mạng Văn hóa nổ ra vào năm 1966, Ngô được Thủ tướng Chu Ân Lai và các sĩ quan Không quân Quân Giải phóng Nhân dân bảo vệ vì họ đánh giá cao những cống hiến khoa học của ông. Ông sống sót an toàn qua thời kì sóng gió, song nghiên cứu của ông lại bị ngừng hoàn toàn cho đến năm 1971, khi những hỗn loạn đầu của cuộc cách mạng lắng xuống.
Sau khi kết thúc Cách mạng Văn hóa kết thúc vào năm 1976 và bình thường hóa quan hệ Mỹ-Trung vào năm 1979, Ngô dẫn đầu một nhóm nhà khoa học Trung Quốc ghé thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên kể từ khi ông về nước vào năm 1954. Năm 1980, CAS thành lập Viện Nhiệt động lực học Kỹ thuật (IET), với Ngô làm giám đốc sáng lập.
Nghỉ hưu và qua đời
Ngô nghỉ hưu vào tháng 6 năm 1987. Không lâu sau, ông bị chẩn đoán mắc ung thư gan, song được bác sĩ Ngô Mạnh Siêu chữa trị thành công ở Thượng Hải. Năm 1990, Ngô và Lý được mời giảng dạy ở Đại học Clemson trong bốn tháng, và ông đã trình bày một loạt bài giảng tại Trung tâm nghiên cứu Lewis của NASA. Năm 1992, bệnh ung thư của Ngô tái phát và di căn đến phổi. Ông nhập viện vào tháng 8, rồi mất vào ngày 19 tháng 9 năm 1992 ở Bắc Kinh, thọ 75 tuổi.
Di sản
Cống hiến khoa học
Trong lúc công tác tại NACA vào năm 1950, Ngô đã xuất bản một bài bài có nhan đề "A general theory of three-dimensional flow in subsonic and supersonic turbomachines of axial-, radial-, and mixed-flow types" (tạm dịch: "thuyết chung về dòng ba chiều ở máy turbo dưới sóng âm và siêu âm theo các loại hướng trục-, xuyên tâm và hỗn hợp") - ấn phẩm được xem là tiên phong trong nghiên cứu thuyết dòng ba chiều. Ông đã rút gọn các vấn đề của dòng ba chiều sang bài toán lặp hai nghiệm của hai biến độc lập. Phương pháp ma trận trực tiếp được sử dụng với các dòng dưới âm tốc, còn phương pháp hàm đặc trưng (phần nguyên của logarit) được dùng đối với các dòng siêu thanh.
Ở thập niên 1960, ông phát triển một hệ tọa độ cong phi trực giao phù hợp với cơ thể để cải thiện độ tính toán chính xác. Tại Viện Nhiệt động lực học Kỹ thuật, ông và các cộng sự đã xây dựng các phương pháp nén nhân tạo và chịu va đập để giải các bài toán dòng cận âm.
Lý thuyết của Ngô đã được ứng dụng rộng rãi trong các mẫu thiết kế động cơ máy bay, gồm Teledyne CAE J69, Pratt & Whitney JT3D, Rolls-Royce Spey, Rolls-Royce RB211, Pratt & Whitney JT9D và General Electric F404. Ngay sau khi ông mất, NASA đã công bố Báo cáo 4496 (1993) về thuyết máy turbo chung của ông. Ông đã duyệt qua bản thảo cuối trong lúc nằm viện.
Giải thưởng và chức vụ
Ngô giành Giải thưởng Khoa học Tự nhiên Quốc gia (giải Nhì) vào các năm 1956 và 1982. Ông được CAS trao Giải thưởng thành tựu quan trọng vào năm 1975 và Giải Vàng từ Hiệp hội kỹ thuật cơ khí Trung Quốc. Từ năm 1981 đến 1992, ông làm chủ tịch điều hành của CAS. Ông được bầu vào Ủy ban Thường vụ Quốc hội ở các kì Đại hội Đảng thứ 6 và thứ 7, tại vị từ năm 1983 cho đến khi mất vào năm 1992. Ngày 27 tháng 5 năm 1995, tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban toàn quốc do Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Trung Quốc tổ chức, ông được truy tặng làm Ủy viên Danh dự.
Nhân kỷ niệm 90 năm sinh nhật ông vào năm 2007, Viện Nhiệt động lực học Kỹ thuật đã lập Quỹ Học bổng Ngô Trọng Hoa để tưởng nhớ ông, dành cho các sinh viên và nhà nghiên cứu tốt nghiệp xuất sắc của ngành Nhiệt động lực học Kỹ thuật.
Công trình khoa học nổi bật
Nguồn:
"A general theory of three-dimensional flow in subsonic and supersonic turbomachines of axial-, radial-, and mixed-flow types" (tạm dịch: "Thuyết chung về dòng ba chiều ở máy turbo dưới sóng âm và siêu âm theo các loại hướng trục-, xuyên tâm và hỗn hợp")
"Nghiên cứu về tua bin khí" (giải Nhì Khoa học Tự nhiên Quốc gia 1956)
"Thuyết chung và sự phát triển của dòng ba chiều ở máy cánh quạt" (giải Nhì Khoa học Tự nhiên Quốc gia 1982)
"Ứng dụng điều kiện cân bằng hướng tâm đối với máy nén và tua bin dòng hướng trục"
"Thuyết chung về dòng ba chiều ở máy cánh quạt dưới sóng âm và siêu âm theo các loại hướng trục-, xuyên tâm và hỗn hợp"
Chú thích
Đọc thêm
"thuyết chung về dòng ba chiều ở máy turbo dưới sóng âm và siêu âm theo các loại hướng trục-, xuyên tâm và hỗn hợp" (NACA TN 2604) của Ngô Trọng Hoa
Giáo viên từ Thượng Hải
Người nhận Học bổng bảo lãnh Nghĩa Hòa Đoàn
Người Trung Quốc ở Hoa Kỳ
Chết vì ung thư gan
Nhân viên của NASA
Viện sĩ Viện Khoa học Trung Quốc
Giáo sư Đại học Thanh Hoa
Cựu sinh viên Viện Công nghệ Massachusetts
Cựu sinh viên Đại học Thanh Hoa
Mất năm 1992
Sinh năm 1917
Người từ Tô Châu
Họ Ngô
|
19841119
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20h%E1%BB%99i%20Li%C3%AAn%20bang%20%28Th%E1%BB%A5y%20S%C4%A9%29
|
Quốc hội Liên bang (Thụy Sĩ)
|
Quốc hội Liên bang Thuỵ Sĩ (; ; ) là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Thụy Sĩ, thực hiện quyền lập pháp.
Quốc hội Liên bang gồm hai viện ngang quyền: Viện Quốc dân gồm 200 nghị sĩ, là cơ quan đại biểu của nhân dân; và Viện Liên bang, gồm 46 nghị sĩ, mỗi bang bầu ra hai nghị sĩ, mỗi bán bang bầu ra một nghị sĩ.
Viện Quốc dân và Viện Liên bang chủ yếu hoạt động riêng biệt. Những quyết định của Quốc hội Liên bang phải có sự đồng ý của hai viện. Đối với một số vấn đề nhất định như bầu cử thì Quốc hội Liên bang họp toàn thể tại hội trường Viện Quốc dân để xem xét, quyết định. Trong một phiên họp toàn thể, các nghị sĩ Viện Quốc dân ngồi yên tại chỗ, các nghị sĩ Viện Liên bang ngồi theo bang của họ ở phía sau hội trường. Quốc hội Liên bang họp toàn thể bốn phiên mỗi năm vào cuối mỗi kỳ họp.
Lịch sử
Trước khi nhà nước liên bang Thụy Sĩ được thành lập vào năm 1848 thì cơ quan trung ương duy nhất của Thụy Sĩ là Nghị viện Liên bang. Sau Chiến tranh Liên minh độc lập vào năm 1847, Nghị viện Liên bang được giao nhiệm vụ soạn thảo một bản hiến pháp liên bang cho Thụy Sĩ. Vấn đề cơ cấu tổ chức của cơ quan lập pháp có những ý kiến trái chiều, cụ thể là cách phân bổ số nghị sĩ cho mỗi bang: phe cấp tiến từ những bang lớn nhất đề nghị số nghị sĩ của mỗi bang tỉ lệ thuận với dân số của mỗi bang nhưng những bang nhỏ lo sợ sẽ bị yếu thế. Sau một khoảng thời gian tranh luận dài, hai bên thỏa hiệp chọn chế độ lưỡng viện của Quốc hội Hoa Kỳ: cơ quan lập pháp sẽ gồm có hai viện bình đẳng về quyền hạn, quyết định của cơ quan lập pháp phải có sự đồng ý của hai viện. Viện Quốc dân là cơ quan đại biểu của nhân dân Thụy Sĩ, gồm có những nghị sĩ được bầu ra từ các bang, số nghị sĩ được phân bổ tỉ lệ với dân số của mỗi bang. Viện Liên bang là cơ quan đại biểu của các bang, gồm có cùng một số lượng nghị sĩ từ mỗi bang, giống như Nghị viện Liên bang. Hiến pháp Thụy Sĩ năm 1848 quy định Quốc hội Liên bang là "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Thụy Sĩ".
Tháng 6 năm 1848, Nghị viện Liên bang thông qua dự thảo hiến pháp. Ngày 12 tháng 9, hiến pháp Thụy Sĩ được ban hành sau khi được các bang chấp nhận. Nghị viện Liên bang tuyên bố tự giải tán theo quy định chuyển tiếp của hiến pháp vào ngày 22 tháng 9. Bầu cử Quốc hội Liên bang được tổ chức thành công vào tháng 10 năm 1848 tại các bang tuy xảy ra một vài trường hợp xung đột, đặc biệt là ở bang Fribourg. Phe cấp tiến trúng cử hơn ba phần tư số nghị sĩ Viện Quốc dân và 30 trong số 44 nghị sĩ Viện Liên bang. Ngày 16 tháng 11 năm 1848, Quốc hội Liên bang bầu ra Hội đồng Liên bang đầu tiên của Thụy Sĩ.
Từ khi các quyền trưng cầu ý dân, quyền đề xướng luật lệ của nhân dân được bổ sung vào hiến pháp Thụy Sĩ vào năm 1874 thì Quốc hội Liên bang trở thành "cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Thụy Sĩ dưới các quyền lợi của nhân dân và các bang".
Cơ cấu tổ chức của hai viện Quốc hội Liên bang không có những thay đổi đáng kể từ khi được thành lập. Số nghị sĩ Viện Quốc dân ban đầu là 111 nhưng tăng tỉ lệ với dân số Thụy Sĩ cho đến khi được cố định là 200. Nhiệm kỳ của nghị sĩ Viện Quốc dân ban đầu là 3 năm nhưng được tăng lên 4 năm vào năm 1931. Từ năm 1918, chế độ bầu cử của Viện Quốc dân là đại diện tỉ lệ. Năm 1979, Viện Liên bang được bổ sung hai nghị sĩ đại diện cho bang Jura vừa được thành lập.
Tổ chức, bầu cử và thành phần
Quốc hội Liên bang gồm Viện Quốc dân và Viện Liên bang. Hai viện ngang quyền như nhau.
Chủ tịch Quốc hội Liên bang
Chức vụ chủ tịch Quốc hội Liên bang do chủ tịch Viện Quốc dân đảm nhiệm. Vì kiêm nhiệm hai chức vụ nên chủ tịch Viện Quốc dân thông thường được gọi là "đệ nhất công dân" của Thụy Sĩ.
Viện Quốc dân
Viện Quốc dân là hạ viện của Quốc hội Liên bang, gồm 200 nghị sĩ đại diện cho nhân dân Thụy Sĩ. Từ năm 1931, nhiệm kỳ của nghị sĩ Viện Quốc dân là 4 năm (trước đó là 3 năm). Bầu cử Viện Quốc dân được tổ chức theo đại diện tỷ lệ liên danh đảng tại các bang của Thụy Sĩ. Mỗi bang là một đơn vị bầu cử, số nghị sĩ do mỗi bang bầu ra tương ứng với dân số của bang đó nhưng mỗi bang được bảo đảm ít nhất một nghị sĩ. Ví dụ: Zürich là bang đông dân nhất, bầu ra 35 nghị sĩ, còn những bang thưa dân như Appenzell Innerrhoden, Appenzell Ausserrhoden, Glarus, Nidwalden và Obwalden thì bầu ra 1 nghị sĩ.
Viện Liên bang
Viện Liên bang là cơ quan đại biểu của các bang, gồm 46 nghị sĩ. Mỗi bang bầu ra 2 nghị sĩ, mỗi bán bang bầu ra 1 nghị sĩ, bất kể dân số lớn nhỏ.
Nghị sĩ Viện Liên bang đại diện cho bang của mình nhưng không chịu sự chi phối, chỉ đạo của chính quyền, cơ quan lập pháp của bang.
Mỗi bang được tự quyết định chế độ bầu cử. Bầu cử Viện Liên bang được tổ chức theo chế độ đa số tương đối, ngoại trừ tại bang Jura (đại diện tỉ lệ) và bang Neuchâtel (đại diện tỉ lệ từ năm 2011).
Nhiệm vụ và quyền hạn
Thông thường dự án luật là do Hội đồng Liên bang trình Quốc hội Liên bang, cơ quan chủ trì soạn thảo là các bộ của chính phủ liên bang. Dự án luật trước tiên được các ủy ban của Quốc hội Liên bang thẩm tra, rồi được chủ tịch của hai viện nhất trí giao cho một trong hai viện của Quốc hội Liên bang nghiên cứu trong một phiên họp toàn thể. Trường hợp viện quyết định không xem xét thì dự án luật được trả lại cho Hội đồng Liên bang. Sau khi nghiên cứu, sửa đổi dự thảo luật, Viện Quốc dân và Viện Liên bang quyết định thông qua dự án luật. Trường hợp hai viện không nhất trí thì sẽ tiến hành thủ tục hòa giải bất đồng giữa hai viện.
Các nghị sĩ mỗi viện cũng có quyền trình dự án luật trước Quốc hội Liên bang.
Tổ nghị sĩ
Tại Viện Quốc dân và Viện Liên bang, các nghị sĩ liên kết với nhau thành những tổ nghị sĩ dựa trên tư tưởng chính trị nhưng không nhất thiết là cùng đảng phái.
Một tổ nghị sĩ phải có ít nhất năm thành viên từ mỗi viện. Những nghị sĩ không tham gia một tổ nghị sĩ nào được gọi là "không đăng ký" và không được tham gia bất cứ ủy ban nào.
Tổ nghị sĩ có vai trò quan trọng trong sinh hoạt nghị trường. Tổ nghị sĩ xem xét những dự án, đề nghị trước khi trình Viện Quốc dân và Viện Liên bang. Ở Viện Quốc dân, một nghị sĩ phải thuộc một tổ nghị sĩ thì mới được tham gia ủy ban. Tổ nghị sĩ càng lớn thì càng nhiều ghế trong ủy ban, có thể ảnh hưởng kết quả biểu quyết về dự án, đề nghị trước khi trình Viện Quốc dân, Viện Liên bang.
Nghị sĩ Quốc hội Liên bang
Quy định hiến pháp về kiêm nhiệm
Hiến pháp Thụy Sĩ quy định nghị sĩ mỗi viện không được kiêm nhiệm chức vụ thành viên Hội đồng Liên bang, thẩm phán Tòa án tối cao liên bang và nghị sĩ viện kia.
Quy định pháp luật về kiêm nhiệm
Ngoài ra, Luật Tổ chức Quốc hội quy định nghị sĩ Quốc hội Liên bang không được kiêm nhiệm những chức vụ sau đây:
chức vụ do Quốc hội Liên bang bầu ra hoặc phê chuẩn bổ nhiệm;
thẩm phán tòa án liên bang không do Quốc hội Liên bang bầu ra;
nhân viên biên chế chính phủ liên bang, bao gồm đơn vị hành chính phân cấp, Quốc hội Liên bang, tòa án liên bang, viện công tố liên bang và ủy ban ngoài Quốc hội Liên bang với thẩm quyền quyết định, trừ phi luật quy định khác;
thành viên bộ tư lệnh quân đội;
thành viên của ban điều hành đơn vị sự nghiệp công lập hoặc tổ chức tư nhân được giao nhiệm vụ hành chính và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ liên bang;
đại diện của chính phủ liên bang tại đơn vị sự nghiệp công lập hoặc tổ chức tư nhân được giao nhiệm vụ hành chính và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của chính phủ liên bang.
Quyền miễn trừ
Hiến pháp Thụy Sĩ quy định nghị sĩ Quốc hội Liên bang có quyền miễn trừ trách nhiệm hình sự để bảo đảm quyền tự do ngôn luận tại Quốc hội Liên bang.
Nghị sĩ Quốc hội Liên bang không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về phát ngôn trước Quốc hội Liên bang. Tuy nhiên, quyền miễn trừ trách nhiệm hình sự chỉ bao gồm những hành vi "liên quan mật thiết với nhiệm vụ, quyền hạn của chức vụ nghị sĩ.
Ủy ban pháp luật của hai viện Quốc hội Liên bang có quyền tước quyền miễn trừ của nghị sĩ. Ngoài ra, Ủy ban về quyền miễn trừ của Viện Quốc dân có độc quyền xem xét vấn đề này.
Chế độ của nghị sĩ Quốc hội Liên bang
Thu nhập
Nghị sĩ Quốc hội Liên bang được trả mức lương hằng năm là 26.000 franc. Ngoài ra, cứ mỗi ngày tham dự họp thì nghị sĩ Quốc hội Liên bang được hưởng phụ cấp 440 franc.
Nếu nghị sĩ Quốc hội Liên bang là chủ tịch của một ủy ban Quốc hội Liên bang, một phái đoàn, một tiểu ban hoặc một tổ công tác thì được tăng gấp đôi phụ cấp đi họp hằng ngày. Ngoài ra, mỗi lần báo cáo trước một trong hai viện Quốc hội Liên bang thì nghị sĩ được trả phụ cấp bằng một nửa phụ cấp đi họp.
Trường hợp mắc bệnh hoặc không thể tham dự họp do tai nạn thì nghị sĩ Quốc hội Liên bang được hưởng trợ cấp.
Lương của nghị sĩ Quốc hội Liên bang phải khấu trừ mức đóng bảo hiểm xã hội và chịu thuế thu nhập.
Chế độ khác
Nghị sĩ Quốc hội Liên bang được hưởng hoạt động phí hằng năm là 33.000 franc trong thời gian thực hiện nhiệm vụ và công tác phí bao gồm phụ cấp lưu trú, chi phí ăn uống, chi phí đi lại từ nhà đến Bern và chi phí đi lại trong thời gian thực hiện nhiệm vụ.
Chi phí ăn uống là 115 franc mỗi ngày đi họp và phụ cấp lưu trú qua đêm trong thời gian giữa hai phiên họp là 180 franc. Trường hợp ngoại lệ là nếu thời gian đi lại từ nhà đến cơ quan bằng giao thông công cộng ít hơn 30 phút hoặc khoảng cách từ nhà đến cơ quan theo đường chim bay ít hơn 10 km thì nghị sĩ không được hưởng phụ cấp lưu trú. Trong thời gian công tác ở nước ngoài thì phụ cấp lưu trú và chi phí ăn uống tổng cộng là 395 franc mỗi ngày.
Hoạt động phí và công tác phí của nghị sĩ Quốc hội Liên bang không bị khấu trừ mức đóng bảo hiểm xã hội và không phải chịu thuế.
Phụ cấp gia đình
Nghị sĩ Quốc hội Liên bang được hưởng phụ cấp gia đình bổ sung cho phụ cấp gia đình từ các bang nếu phụ cấp gia đình của bang dưới:
384.70 franc đối với đứa trẻ đầu tiên;
248.40 franc đối với mỗi đứa trẻ tiếp theo;
270.60 franc đối với mỗi đứa trẻ đủ 16 tuổi và đã hoàn thành giáo dục trung học.
Chức danh do Quốc hội Liên bang bầu
Quốc hội Liên bang có nhiệm vụ bầu ra một số chức danh nhất định, bao gồm:
thành viên Hội đồng Liên bang;
tổng thống liên bang;
tổng thư ký liên bang;
thẩm phán Tòa án tối cao liên bang, và
đại tướng Quân đội Thụy Sĩ
Đề nghị bầu Hội đồng Liên bang, tổng thư ký liên bang và thẩm phán Tòa án tối cao liên bang thông thường do một tổ nghị sĩ trình Quốc hội Liên bang.
Xem thêm
Chế độ lưỡng viện
Thụy Sĩ
Tham khảo và ghi chú
Ghi chú
Tham khảo
Thư mục
.
.
.
.
Bài báo
.
Liên kết ngoài
(mul) Site officielliên_kết=https://www.wikidata.org/wiki/Q684719?uselang=fr#P856|chân-chữ|lớp=noviewer|10x10px|Voir et modifier les données sur Wikidata
Notices dans des dictionnaires ou encyclopédies généralistesliên_kết=https://www.wikidata.org/wiki/Q684719?uselang=fr#identifiers|chân-chữ|lớp=noviewer|10x10px|Voir et modifier les données sur Wikidata :
Dictionnaire historique de la Suisse
Gran Enciclopedia Aragonesa
Notices d'autoritéliên_kết=https://www.wikidata.org/wiki/Q684719?uselang=fr#identifiers|chân-chữ|lớp=noviewer|10x10px|Voir et modifier les données sur Wikidata :
VIAF
ISNI
LCCN
WorldCat </div>
Histoire du parlement
« Assemblée fédérale » dans le Dictionnaire historique de la Suisse en ligne.
Lập pháp lưỡng viện
Bài viết chứa thông tin kiểm soát tính nhất quán
Trang có bản dịch chưa được xem lại
Chính phủ Thụy Sĩ
Cơ quan lập pháp quốc gia
Quốc hội theo quốc gia
Chính trị Thụy Sĩ
|
19841123
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam-B%E1%BA%AFc%20qu%E1%BB%91c
|
Nam-Bắc quốc
|
Nam Bắc quốc là cụm từ dùng để chỉ thời kỳ một quốc gia bị chia cắt làm 2 miền Nam Bắc song song tồn tại, về tính chất nó gần giống với Nam Bắc triều nhưng định nghĩa có khác một chút, xét về bình diện phương hướng tùy theo bối cảnh lịch sử và hình thái địa lý mà ngoài Nam Bắc có một số lại phân thành Đông Tây, trên thế giới có những trường hợp phân liệt sau:
Cổ trung đại
Khúc Ốc tự lập tranh giành chính quyền với Nước Tấn (802 TCN-679 TCN)
Chu Huề Vương là chính quyền đối lập với Chu Bình Vương suốt 21 năm (771 TCN-750 TCN)
Tây Chu và Đông Chu (367 TCN-256 TCN) thời Chiến Quốc
Nam Hung Nô (48-216) tách khỏi Bắc Hung Nô
Đế quốc La Mã tách rời thành Tây La Mã (395-476) và Đông La Mã
Tây Ngụy (535-557) và Đông Ngụy (534-551) thời Nam Bắc triều
Nước Vạn Xuân bị chia thành 2 nửa với bên kia là Dã Năng quốc (548-571)
Hãn quốc Đột Quyết bị phân liệt thành Đông Đột Quyết và Tây Đột Quyết (583-630)
Thời đại Nam-Bắc Quốc (698-926) ở bán đảo Triều Tiên
Chân Lạp chia đôi thành 2 quốc gia: Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp (707-802)
Cận hiện đại
miền nam Vương quốc Liên hiệp Hà Lan tách ra trở thành vương quốc Bỉ (1830-nay)
Nội chiến Hoa Kỳ (1861-1865)
Đảo Timor được đế quốc Bồ Đào Nha và đế quốc Hà Lan ký hiệp ước phân giới thành Đông Timor và Tây Timor (1859-nay)
Quần đảo Samoa bị chia cắt thành Đông Samoa và Tây Samoa (1899-nay)
Bắc Mông Cổ rời khỏi Nam Mông Cổ kiến tạo chính quyền riêng sau khi nhà Thanh sụp đổ (1912-nay)
Phân chia Ireland (1921-nay)
Chia cắt Triều Tiên (1945-nay)
Chia cắt Ấn Độ (1947-nay)
Đông Đức và Tây Đức trước khi tái thống nhất (1949-1990)
Trung Hoa Đại Lục và Trung Hoa Thái Bình Dương (1950-nay)
Chia cắt Việt Nam (1954-1976)
Nam Yemen và Bắc Yemen trước khi thống nhất (1967-1990)
Đông Pakistan tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Bangladesh (1971-nay)
Xung đột Afghanistan (1978–nay)
Bắc Síp ly khai Cộng hòa Síp (1983-nay)
Nam Ossetia độc lập với Gruzia và Bắc Ossetia-Alania nằm trong thành phần Liên bang Nga (1991-nay)
Nam Sudan tách khỏi Cộng hòa Sudan (2011-nay)
Xem thêm
Nam-Bắc triều
Trịnh–Nguyễn phân tranh
Bắc triều
Nam triều
|
19841125
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moriyama%20Masahito
|
Moriyama Masahito
|
(sinh ngày 14 tháng 12 năm 1953) là chính khách người Nhật Bản. Ông là thành viên của Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm Bộ trưởng Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ kể từ ngày 13 tháng 9 năm 2023.
Tham khảo
Sinh năm 1953
Cựu sinh viên Đại học Tokyo
Hạ nghị sĩ Nhật Bản
|
19841131
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Koibuchi%20Momona
|
Koibuchi Momona
|
là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti Life Promotion và là nữ diễn viên độc quyền của SOD Create. Cô đã ra mắt ngành phim khiêu dâm vào ngày 21/4/2022.
Tiểu sử
Sinh ra và lớn lên
Cô sinh ra tại tỉnh Akita.
Năm cô học lớp 4 tiểu học, ngực cô đã to ra đến cỡ Cup C và đó cũng là lần đầu cô mặc áo ngực. Đến năm lớp 6, ngực cô đã to ra đến cỡ Cup D. Tại thời điểm đó, cô ghét tham gia học bơi do bề ngang ngực cô đôi khi quá nổi bật khi mặc đồ bơi trường học. Cô cũng đã biết thủ dâm khi còn học tiểu học. Cô đã tự gây khó thở và thủ dâm khi nín thở, hình thành tính cách khổ dâm từ bé.
Những năm cấp hai
Cô đã có kinh nghiệm tham gia hội học sinh khi còn học cấp hai. Cô cũng đã chơi saxophone cho một ban nhạc kèn đồng. Trong khoảng thời gian này, cô cũng đã bị viêm gân khi chơi dương cầm. Trong năm đầu cấp hai, cô có chiều cao 158 cm và ngực cỡ Cup E, sau đó vào năm thứ ba ngực của cô đã có cỡ Cup F đến G. Do đồ lót phù hợp không có cỡ này, cô đã bắt đầu mặc đồ lót người lớn. Cô cũng đã tưởng tượng việc được người khác chú ý đến và cảm thấy thích thú về nó.
Những năm cấp ba
Cô đã chọn nhập học trường trung học nữ sinh do không cần phải chạy marathon hay bơi lội, và không có ánh mắt bạn nam nào chú ý đến. Cô cũng là quản lí của câu lạc bộ truyền thông. Những người bạn tường chạm vào ngực để nó lời chào buổi sáng với cô, và ngực cô đã to ra cỡ Cup H.
Những năm đào tạo để trở thành công chức
Khi cô còn là học sinh, cô có mong muốn trở thành ca sĩ hay diễn viên lồng tiếng, tuy nhiên bố mẹ đã không chấp nhận, vì vậy cô đã không thể nhập học đại học. Bố mẹ đã ép cô trở thành công chức, vì vậy cô đã nhập học trường dự bị công chức. Chủ đề cô yếu thích khi học để chuẩn bị cho bài thi sát hạch là Lịch sử Nhật Bản, tuy nhiên cô cũng có kĩ năng Khoa học chính trị và Tính toán nhanh, giỏi đến mức cô gần như đạt điểm tuyệt đối mỗi bài sát hạch. Tại thời điểm này, cô đã lần đầu hẹn hò với một nhân viên văn phòng lớn tuổi hơn mà cô gặp qua ứng dựng hẹn hò. Lần đầu quan hệ tình dục của cô không mấy thoải mái. Cô đã 19 tuổi vào thời điểm đó. Lí do cô hẹn hò muộn là do cô đã không gặp bạn nam nào khi học trường nữ sinh.
Những năm làm công chức
Cô đã từng làm công chức tại một tòa thị chính địa phương. Làm việc tại phòng thuế, cô chủ yếu phụ trách về Thuế phương tiên nhẹ, Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm chăm sóc dài hạn cho người lớn tuổi, và kiểm tra tờ khai thuế. Do áp lực công việc và bị quấy rối tình dục, cô đã bắt đầu hoạt động trên các nền tảng hẹn hò và đã quan hệ với khoảng 15 người trước khi ra mắt ngành. Trong thời gian này, cô cũng đã được một người đàn ông từng trải chỉ cho về khoái cảm khi quan hệ tình dục và xuất tinh. Ngoài ra, cô cũng đã tự lên đỉnh thành công bằng đồ chơi tình dục.
Cuối cùng cô đã nghỉ việc do tính chất công việc và bị quấy rối. Tuy nhiên bố mẹ cô đã phản đối điều này. Ngay cả khi cô mắc bệnh tâm lí sau khi nghỉ việc, cô vẫn bị nói rằng "đó là lỗi của con khi nghỉ làm công chức".
Những năm làm thần tượng áo tắm và nữ diễn viên khiêu dâm
Một hôm, cô đã tham gia ứng tuyển từ mục tuyển dụng nữ diễn viên khiêu dâm trên trang web của công ti chủ quản. Sau khi nghỉ làm công chức cô đã đến Tokyo vào năm 2021, được phỏng vấn và nhận vào làm tại đó. Tháng 2/2022, ảnh áo tắm của cô lần đầu được đăng trên tạp chí FLASH của Kōbunsha. Sau khi đổi tên từ chỉ Momona sang Koibuchi Momona, ảnh khỏa thân lông mu của cô đã được đăng trên tạp chí FLASH số ngày 15/3/2022. Phần họ "Koibuchi" được lấy cảm hứng từ một bài thơ của Thiên hoàng Yōzei được đăng trong Hyakunin Isshu "Cô gái và chàng trai của dòng sông rơi xuống từ đỉnh dốc Tsukuba, rơi xuống vực thẳm và quấn lấy nhau" (筑波嶺の 峰より落つる男女川 恋ぞつもりて 淵となりぬる). Cô đã bắt đầu chụp ảnh áo tắm vì cô muốn tận dung bộ ngực lớn của mình, thứ cô ghét. Lí do khác là cô "nghĩ rằng [bộ ngực] sẽ làm mọi người hưng phấn hơn".
Vào ngày 21/4, cô trở thành nữ diễn viên khiêu dâm. Cô đã ra mắt ngành phim khiêu dâm từ hãng SOD Star. Lí do cô bắt đầu đóng phim khiêu dâm là do những lời khen cô nhận được từ độc giả và những người thâm niên trong ngành áo tắm, và cô thích đươc mọi người chú ý. Khi lần đầu đến địa điểm quay phim, cô nói rằng cô không thấy lo lắng và còn rất thích thú. Vào ngày 18/11, cô đã mỏ kênh YouTube riêng và bắt đầu làm YouTuber. 28/3/2023, cô thông báo trên kênh YouTube rằng ngực cô đã to ra cỡ Cup O.。
29/4/2023, sự kiện đánh dấu 1 năm ra mắt ngành của cô sẽ được tổ chức tại SyainBar Higashinakano cũ. Vào ngày 19/5, SOD Star thành lập nhóm "4star X sister" gồm 4 nữ diễn viên ra mắt ngành vào năm 2022 (Kamiki Rei, Koibuchi Momona, Kominato Yotsuha, Hoshino Riko). Nhóm đã lập kênh YouTube vào cùng ngày.
Cô đã lần đầu trải nghiệm creampie trong phim "Lệnh cấm creampie thô được gỡ. Quan hệ tình dục la hét và lên đỉnh đầy mồ hôi Koibuchi Momona" (初ナマ中出し解禁。汗だくまみれの大絶頂、大絶叫セックス 恋渕ももな) phát hành ngày 20/7. Creampie đầu tiên này được thực hiện bởi Yoshimura Taku.
Trong tuần ngày 31/7, phim của cô "【Nhắc đến mùa hè là nhắc đến áo tắm! Lễ hội Bikini tập thể SODstar】 THE Lễ hội Bikini dành cho phụ nữ Hai người bạn thân nhất với cơ thể tuyệt hảo nhận được creampie đôi tuyệt vời! Kamiki Rei Koibuchi Momona" (【夏といえば水着!SODstar全員ビキニ祭】THE ビキニ女子会 グラマスボディの仲良しツートップが豪華W中出し! 神木麗 恋渕ももな) đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA.
Phim của cô "Koibuchi Momona (24) đã đến suối nước nóng Hakone Yumoto, tại sao không thử vào phòng tắm nam với chỉ một cái khăn tắm trên người? HARD" (箱根湯本温泉を訪れた恋渕ももなちゃん(24)タオル一枚男湯入ってみませんか?HARD) đã vươn lên xếp thứ 7 ngay khi vừa phát hành trên bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA trong tuần ngày 18/9.
Trong bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần ngày 2/10, phim của cô "Lệnh cấm creampie thô được gỡ. Quan hệ tình dục la hét và lên đỉnh đầy mồ hôi Koibuchi Momona" đã vươn lên xếp thứ 3 ngay khi vừa phát hành.
Phim của cô "Bộ ngực của nhân viên văn phòng nữ ngực lớn yếu ớt sống ở phòng bên cạnh đã quá gợi cảm... Đột nhập vào nhà●Hiếp dâm ngay lập tức●Chảy tràn tinh dịch khi bị nhốt Koibuchi Momona" (隣の部屋に住む爆乳OL 無防備な乳がエロすぎて...自宅侵入即レ●プ 強●中出し監禁 恋渕ももな) đã vươn lên xếp thứ 8 ngay khi vừa phát hành trên bảng xếp hạng sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA trong tuần ngày 23/10. Phim cũng đã vuơn lên xếp thứ 7 trên bảng xếp hạng trong tuần ngày 30/10.
Phim của cô "Koibuchi Momona (24) đã đến suối nước nóng Hakone Yumoto, tại sao không thử vào phòng tắm nam với chỉ một cái khăn tắm trên người? HARD" đã nổi tiếng trở lại và vươn lên xếp thứ 5 trong bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần ngày 25/12.
Đời tư
Cô có phức cảm về kích cỡ ngực của mình, rằng cô không hợp mặc trang phục đáng yêu, không có đồ lót vừa để mặc, trông khá mập, bị đau cổ nặng, sau khi tham gia lao động mọi người nhìn vào ngực của cô nhiều hơn mặt, trở thành nạn nhân của quấy rối tình dục, bị sờ mó vào bộ phận nhạy cảm, và cô cũng có lúc suy nghĩ rằng nên phẫu thuật cắt bỏ một phần. Cô nói rằng ngành phim khiêu dâm chính là mục tiêu của mình, nơi những điều tiêu cực trở nên tích cực về chuyện này.
Cô rất thích các thành viên Hello! Project (Kitagawa Rio, Yōfu Runo, Kitahara Momo). Cô cũng đam mê lịch sử Nhật Bản (đặc biệt trong thời kỳ Chiến Quốc và những năm Bakumatsu, những nhân vật cô yếu thích là Ōtani Yoshitsugu, Akechi Mitsuhide, Saitō Hajime). Cô thích cung thiên văn (đặc biệt chòm sao và những thần thoại). Những thứ cô thích khác bao gồm yêu quái UMA (sinh vật chưa xác định), Sailor Moon, Pokémon, Starbucks, muối tắm, kẹo dẻo Pure, light novel và màu hồng. Cô đã đam mê lịch sử Nhật Bản từ khi chơi các trò của Koei Tecmo (bắt đầu từ một trò chơi Otome).
Các loạt phim Kamen Rider cô yêu thích là Den-O, Kiva, Decade, W và OOO.
Cô không có hứng thú với các bộ anime nổi tiếng.
Hãng áo ngực yêu thích của cô là Panache và Freya.
Nữ diễn viên khiêu dâm và cô muốn diễn chung là Ōtsuki Hibiki.
Cô bị dị ứng với lúa mì và ánh sáng mặt trời.
Chính cô và những người khác đã nhận xét rằng cô chơi thể thao kém. Trong phim ra mắt ngành, cô đã thực hiện kích dục bằng ngực, tuy nhiên ngực cô quá lớn nên đôi lúc nó trông giống luyện cơ hơn, và cẳng tay cô đã trở nên rất mỏi.
Cô từng làm việc bán thời gian tại một cửa hàng 100 yên bán đồ anime.
Dựa trên kinh nghiệm chính mình, cô đã nói với những phụ nữ là nạn nhân quấy rối tình dục rằng "Đó không phải lỗi của bạn mà là môi trường xung quanh" và "Không có gì phải xấu hổ khi lựa chọn thay đổi môi trường đó".
Khuynh hướng tình dục
Cô là một người khổ dâm (M). Khi đóng phim, cô thích được ngắm nhìn và không bị ai làm phiền. Tại địa điểm quay phim khiêu dâm, cô được nhìn bởi nhiều nhân viên hỗ trợ, nên cô đã cảm thấy hưng phấ đến nỗi đã lên đỉnh ngay trước máy quay. Cô thích được đeo vòng choker, đi bộ khi bị quấn cở lại bằng xích chó, hoặc được bỏ lại khi bị trói bởi dây thừng.
Tư thế quan hệ tình dục yêu thích của cô là kiểu chó.
Cô thủ dâm mỗi ngày khi có hứng. Cô nói rằng mình thích thủ dâm bằng cách nhét máy rung vào âm đạo và máy massage điện vào âm vật. Cô nhập tâm vào thủ dâm khi mơ tưởng bản thân được đấu giá và hiếp dâm tập thể, hay về các phim của cô được mọi người xem. Điều đó khiến khoái cảm của cô lên đến tận não chỉ sau ít hơn một phút. Cô cũng hạn chế thủ dâm trước khi đóng phim Ngoài ra, cô nói rằng cô không thể cảm thấy thoải mái khi không có người quan sát.
Thư viện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công ti chủ quản Koibuchi Momona
Trang đặc biệt SOD
恋渕ももな SODstar
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên SOD
Người Akita
|
19841140
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh%20Tuy%E1%BA%BFt%20T%C3%B9ng
|
Đinh Tuyết Tùng
|
Đinh Tuyết Tùng (; 27 tháng 5 năm 1918 – 29 tháng 5 năm 2011) là một nhà ngoại giao và chính trị gia người Trung Quốc, bà là nữ đại sứ đầu tiên của Trung Quốc, giữ chức đại sứ tại Hà Lan từ năm 1979 đến 1981 và đại sứ tại Đan Mạch và Iceland từ năm 1982 đến 1984.
Đầu đời
Đinh Tuyết Tùng sinh năm 1918 tại huyện Ba, Trùng Khánh, bà tốt nghiệp trường trung học nữ sinh Văn Đức và trường dạy nghề nữ sinh tỉnh Tứ Xuyên ở Trùng Khánh, sau đó bà làm việc tại một ngân hàng. Tháng 11 năm 1937, bà kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc và đến tháng 1 năm 1938, bà đến Diên An và ghi danh vào Đại học Quân chính kháng Nhật.
Vào tháng 7 năm 1939, khi Đại học Nữ sinh Trung Quốc ở Diên An thành lập, Tuyết Tùng tham gia lớp nghiên cứu nâng cao và giữ chức phó chủ tịch hội sinh viên. Tháng 10 năm 1941, bà được điều về Diên An để tham gia hoạt động chuẩn bị đến Biên khu Thiểm-Cam-Ninh và được bổ nhiệm làm thư ký cho Lý Đỉnh Minh, phó chủ tịch chính phủ Biên khu Thiểm-Cam-Ninh.
Sự nghiệp
Năm 1947, Đinh Tuyết Tùng chuyển đến Triều Tiên và được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương về Hoa kiều của Đảng Lao động Triều Tiên và hoạt động trong ban tuyên truyền của Ủy ban Đảng ủy tỉnh Hwanghae. Năm 1948, bà trở thành Chủ tịch Liên đoàn Hoa kiều Triều Tiên và đại diện phái đoàn doanh nghiệp Trung Quốc tại Bình Nhưỡng.
Vào tháng 9 năm 1949, bà được giao nhiệm vụ thành lập chi nhánh Tân Hoa Xã ở Bình Nhưỡng và trở thành chủ nhiệm chi nhánh vào đầu năm 1950. Bà quay về Trung Quốc vào tháng 9 cùng năm sau khi Chiến tranh Triều Tiên diễn ra và vào năm 1951, bà chuyển về Ban Liên lạc Quốc tế thuộc Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Năm 1952, bà chuyển sang Ủy ban Chỉ đạo Hoạt động Quốc tế của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đảm nhận chức vụ chánh văn phòng. Năm 1971, bà chuyển sang Hiệp hội Hữu nghị Đối ngoại Nhân dân Trung Quốc với vai trò tổng thư ký và sau đó giữ chức phó chủ tịch hiệp hội.
Năm 1979, bà kế nhiệm Trần Tân Nhân giữ chức đại sứ Trung Quốc tại Hà Lan, trở thành nữ đại sứ đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Trong nhiệm kỳ đại sứ, bà giám sát tạo điều kiện thuận lợi cho chuyến thăm của Thủ tướng Hà Lan Dries van Agt tới Trung Quốc vào năm 1980, đây là chuyến thăm đầu tiên của một Thủ tướng Hà Lan đương nhiệm đến Trung Quốc. Năm 1982, bà được bổ nhiệm trở thành đại sứ tại Đan Mạch và Iceland. Với vai trò đại sứ tại Đan Mạch, bà đóng vai trò quan trọng trong việc Nhà máy bia Carlsberg đầu tư vào Nhà máy bia Hoa Đô Bắc Kinh, nhà máy hiện đại nhất Trung Quốc lúc đó. Với những cố gắng trên bà có biệt danh là "đại sứ bia".
Tuyết Tùng nghỉ hưu vào năm 1994 đến năm 2007, bà quyên tặng 10 di vật văn hóa, bao gồm một chiếc bát kỷ niệm của Bộ Ngoại giao Đan Mạch cho Bảo tàng Phụ nữ và Trẻ em Trung Quốc ở Bắc Kinh.
Gia đình
Đinh Tuyết Tùng kết hôn với nhà soạn nhạc người gốc Triều Tiên Trịnh Luật Thành (tác giả bài hát Hành khúc Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, sau này được công nhận là Quân ca Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc) vào năm 1941. Bà cùng chồng tới Triều Tiên vào năm 1945, nhưng lại yêu cầu Chu Ân Lai xin phép Kim Nhật Thành cho họ quay về Trung Quốc vào năm 1950. Cả hai có một người con gái tên Trịnh Tiểu Đề.
Bà qua đời ngày 29 tháng 5 năm 2011, hưởng thọ 93 tuổi.
Chú thích
|
19841142
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Phan%20Thi%E1%BA%BFt
|
Vịnh Phan Thiết
|
Vịnh Phan Thiết là vịnh ven bờ biển ở trung tâm tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Đường bờ biển của vịnh có hình vòng cung, kéo dài từ mũi Né đến mũi Kê Gà. Vịnh có diện tích khoảng 370 km², độ sâu trung bình 15 m. Thành phố Phan Thiết nằm ở trung tâm vòng cung vịnh, nơi có hai con sông lớn đổ ra là sông Cà Ty và sông Cái.
Vịnh Phan Thiết nằm trên hai dòng hải lưu nóng lạnh, lại tương đối kín gió nên có nguồn hải sản dồi dào, phong phú, gồm các loài cá như cá nục, cá cơm, cá thu, cá ngừ, cá chim, cá hồng, cá mú; các loài giáp xác có tôm thẻ, tôm sú, tôm hùm và các loài nhuyễn thể thân mềm như mực ống, mực nang, sò, điệp, vòm.
Xem thêm
Danh sách vũng vịnh ven bờ biển Việt Nam
Phan Thiết
Mũi Né
Mũi Kê Gà
Chú thích
Phan Thiết
Địa lý Bình Thuận
Du lịch Bình Thuận
|
19841164
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2y%20kh%E1%BB%95%20h%C3%ACnh
|
Cây khổ hình
|
Cây khổ hình (Crucifix) hay còn gọi là cây mộc hình hay Hình thập ác (tiếng Latin: Cruci fixus nghĩa là một ai đó bị đóng vào cây thập giá) là một cây thập tự với hình ảnh Chúa Giê-su bị đóng đinh khổ hình treo trên đó. Cây khổ hình khác biệt với một cây Thánh giá đơn thuần ở chỗ nó miêu tả chính Chúa Giêsu bị treo trên thập tự giá, hình ảnh này được gọi bằng tiếng Anh là Corpus còn tiếng Latinh có nghĩa là cơ thể. Cây khổ hình là biểu tượng chính của nhiều nhóm Cơ Đốc nhân, tín hữu Kitô giáo và là một trong những hình thức phổ biến nhất của Sự kiện đóng đinh Chúa Giê-xu trong nghệ thuật. Nó đặc biệt quan trọng trong Giáo hội Công giáo, nhưng cũng được sử dụng trong Giáo hội Chính thống Đông phương, hầu hết Chính thống giáo Đông phương (ngoại trừ Giáo hội Armenian và Syria), Tin Lành, Anh giáo. Biểu tượng này ít phổ biến hơn trong các nhà thờ Tin lành và nhiều giáo phái khác, và trong Giáo hội Phương Đông Assyria và Giáo hội Tông truyền Armenia thì họ thích sử dụng một cây thánh giá không có hình Chúa Giêsu (Corpus).
Cây khổ hình nhấn mạnh đến sự chết của Chúa Giê-su—cái trên cây thánh giá, khắc họa cái chết của ngài khi bị chịu khổ hình đóng đinh vốn là điều mà những người theo đạo Cơ đốc tin rằng đã mang lại sự cứu chuộc cho toàn thể nhân loại. Hầu hết các cây thánh giá đều khắc họa Chúa Giêsu trên một chữ thập Latinh, thay vì bất kỳ hình dạng nào khác, chẳng hạn như Thánh giá Tau hoặc Thập giá Coptic. Những cây thánh giá lớn cao ngang trục trung tâm của một nhà thờ được biết đến là cây khổ hình hay cây mộc hình. Vào thời kỳ Hậu Trung Cổ đây là một đặc điểm gần như phổ biến của các nhà thờ Công giáo ở phương Tây nhưng giờ đây chúng trở nên hiếm. Các nhà thờ Công giáo La Mã hiện đại và nhiều nhà thờ Phản thệ thường có một cây khổ hình phía trên bàn thờ treo trên tường đối với việc cử hành Thánh lễ, Nghi thức La Mã của Giáo hội Công giáo yêu cầu rằng "trên hoặc gần bàn thờ phải có cây thánh giá có tượng Chúa Kitô chịu khổ hình đóng đinh".
Trong một số nhà thờ Cơ đốc giáo (đặc biệt là Nhà thờ Công giáo La Mã, Cộng đồng Anh giáo, Tin Lành, và Giáo hội Giám lý Liên hiệp) thì trong nghi thức Thánh lễ sẽ có một người được chỉ định mang vác cây thánh giá rước lễ, thập giá hoặc cây thánh giá/cây khổ hình của nhà thờ gọi là kẻ mang cây khổ hình (Crucifer), tên gọi này xuất phát từ tiếng Latin là crux (thập giá) và ferre (chịu, mang, vác). Do đó, nó có nghĩa đen là "kẻ vác thập tự giá", việc sử dụng thuật ngữ "cây khổ hình" phổ biến nhất trong các nhà thờ Anh giáo. Trong Nhà thờ Công giáo thuật ngữ thông thường là "kẻ vác thập tự giá". Hình ảnh cây khổ hình với tượng Chúa Giê-xu bị treo đóng đinh ngắc ngoải tươm máu cũng được đám đông rước lễ kiệu trong những dịp Lễ lớn, đặc biệt trong văn hóa Mỹ Latinh nơi mà Cơ Đốc giáo đóng vai trò ngự trị trong tôn giáo ở Mỹ Latinh. Trong thời kỳ Hội thánh sơ khai, nhiều Cơ Đốc nhân đã treo một thánh giá trên bức tường phía đông ngôi nhà của họ để biểu thị hướng cầu nguyện
Cầu nguyện trước cây khổ hình được coi là bí tích, thường là một phần của lòng sùng một đối với những người theo đạo Cơ Đốc hay những tín nhân Cơ Đốc, đặc biệt là những người thờ phượng tại nhà, cũng như một cách thức thờ phương riêng tư. Tín nhân sùng mộ đó đó có thể ngồi, đứng hoặc quỳ trước cây khổ hình, đôi khi nhìn nó với vẻ suy ngẫm, đau đáu hoặc chỉ cúi đầu lặng thinh không nói hoặc nhắm nghiền mắt trước cây khổ hình. Trong thời Trung Cổ, những cây khổ hình nhỏ, thường được treo trên tường cũng trở nên bình thường trong phòng giam hoặc nơi sinh hoạt cá nhân, đầu tiên là của các tu sĩ, sau đó là của tất cả các giáo sĩ, tiếp theo là ở nhà của giáo dân, lan rộng xuống từ tầng lớp thượng lưu của xã hội như những thứ này trở nên đủ rẻ tiền để một người bình thường có thể mua được để bày trí. Hầu hết các thị trấn đều có một cây khổ hình cở lớn được dựng lên làm tượng đài hoặc một ngôi đền nào đó ở ngã tư thị trấn. Dựa trên phong tục cổ xưa, nhiều người tín nhân Công giáo, tín nhân Luther và tín nhân Anh giáo treo một cây thánh giá trong nhà của họ và cũng sử dụng cây thánh giá làm tâm điểm của bàn thờ tư gia.
Chú thích
Cơ Đốc giáo
|
19841165
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nico%20O%27Reilly
|
Nico O'Reilly
|
Nico O'Reilly (sinh ngày 21 tháng 3 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Manchester City tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp thi đấu
Manchester City
Đến từ Manchester, O'Reilly bắt đầu học tại học viện của câu lạc bộ Manchester City khi mới 8 tuổi. Anh được đôn lên đội U-23 cuối mùa giải 2021-22 và sau đó ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ vào tháng 7 năm 2022. O’Reilly làm đội trưởng đội U-18 trong mùa giải 2022-23. Anh đã gây sự chú ý sau khi cú đá bọ cạp trên cao ở phút thứ 95 của trận đấu gặp U18 Middlesbrough vào tháng 4 năm 2023 được ghi lại. Một tuần sau, anh ghi một bàn thắng ngoạn mục khác là cú sút xa 40 mét vào lưới U18 Manchester United.
O'Reilly tập luyện cùng đội một Manchester City trong kỳ huấn luyện tới Abu Dhabi vào tháng 12 năm 2022. Anh có tên trong danh sách dự bị cho trận đấu gặp Brighton & Hove Albion vào ngày 24 tháng 5 năm 2023 tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp thi đấu
O’Reilly ghi bàn thắng đầu tiên cho đội tuyển U-16 Anh vào ngày 3 tháng 6 năm 2021, trong chiến thắng đậm đà 6-0 trước Bắc Ireland. Vài tháng sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho U-17 Anh, ở phút thứ 88 trong trận hòa 2-2 với U-17 Slovakia vào ngày 21 tháng 10 năm 2022.
Phong cách thi đấu
O’Reilly được truyền thông mô tả là một tiền vệ tấn công có “sự tinh tế”, “duyên dáng và uyển chuyển khi có bóng trong chân”.
Tham khảo
Sinh năm 2005
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
|
19841182
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Honbetsu%2C%20Hokkaid%C5%8D
|
Honbetsu, Hokkaidō
|
là thị trấn thuộc huyện Nakagawa, phó tỉnh Tokachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.618 người và mật độ dân số là 17 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 391,99 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Hokkaidō
|
19841185
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Phan%20R%C3%AD
|
Vịnh Phan Rí
|
Vịnh Phan Rí hay Vũng Phan Rí là vịnh ven bờ biển ở phía bắc tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Vùng nước của vịnh được giới hạn từ mũi La Gàn (xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong) đến mũi Nhỏ (xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình) với cửa vịnh rộng khoảng 27 km, diện tích mặt nước là 135 km². Vịnh có một con sông lớn đổ ra là sông Lũy, thị trấn Phan Rí Cửa nằm bên cửa biển.
Xem thêm
Danh sách vũng vịnh ven bờ biển Việt Nam
Chú thích
Phan Rí
Địa lý Bình Thuận
|
19841196
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20Lai
|
Nguyễn Văn Lai
|
Nguyễn Văn Lai (sinh năm 1986) là một vận động viên điền kinh người Việt Nam. Nguyễn Văn Lai từng nhiều lần vô địch quốc gia ở các cự ly trung bình (5km và 10km), cũng như đã giành được huy chương vàng Sea Games.
Thành tích nổi bật
Ở Sea Games
Nguyễn Văn Lai đã nhiều lần đoạt huy chương vàng Sea Games. Anh đang giữ kỷ lục cự ly 5000m, lập ở Sea Games 2015.
Ở Sea Games 31, Nguyễn Văn Lai đã giành cú đúp huy chương vàng cự ly 5000m và 10.000m.
Các giải đấu trong nước
Nguyễn Văn Lai thi đấu cho đoàn thể thao Quân đội. Từ năm 2009 đến năm 2023 Nguyễn Văn Lai đã 13 lần vô địch quốc gia cự ly 5000m và nhiều lần vô địch cự ly 10.000m.
Từ năm 2023, Nguyễn Văn Lai chuyển sang thi đấu cự ly marathon. Anh đã giành chức vô địch giải đấu Vnexpress Marathon Huế 2023.
Tham khảo
Điền kinh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á
Sinh năm 1986
Nhân vật còn sống
|
19841200
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Phan%20Rang
|
Vịnh Phan Rang
|
Vịnh Phan Rang hay Vũng Phan Rang là vịnh ven bờ biển ở trung tâm tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Vùng nước của vịnh kéo dài từ Hòn Đỏ (xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải) đến cửa sông Dinh (thành phố Phan Rang – Tháp Chàm) với cửa vịnh rộng khoảng 10 km. Vịnh có độ sâu trung bình 7,5–9,2 m. Đầm Nại nằm ở phía bắc vịnh Phan Rang, thông với vịnh qua cửa biển Ninh Chữ; tại khu vực cửa biển có bến cảng Ninh Chữ của Ban quản lý khai thác cảng cá Ninh Thuận.
Xem thêm
Danh sách vũng vịnh ven bờ biển Việt Nam
Chú thích
Phan Rang
Địa mạo Ninh Thuận
|
19841212
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Colorado%20Tribune
|
Colorado Tribune
|
Colorado Tribune, còn được gọi là Daily and Weekly Colorado Tribune, là một tờ báo được xuất bản tại Denver, Colorado từ ngày 15 tháng 5 năm 1867 đến ngày 19 tháng 1 năm 1871. Đây là tờ báo kế thừa của tờ Denver Daily, được xuất bản từ ngày 5 tháng 2 đến ngày 14 tháng 5 năm 1867. Tờ báo được tiếp nối bởi tờ Denver Daily Tribune. Denver Daily Tribune sau đó trải qua một loạt lần thay đổi tên, và cuối cùng có tên là Denver Republic. Năm 1913, Denver Republic được sáp nhập với tờ Rocky Mountain News. Một quảng cáo năm 1868 khẳng định Daily Colorado Tribune là "tờ báo hàng ngày lớn nhất được xuất bản giữa sông Missouri và California."
Tham khảo
|
19841269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2y%20chuy%E1%BB%81n%20th%E1%BA%ADp%20gi%C3%A1
|
Dây chuyền thập giá
|
Dây chuyền thập giá (Crucifix necklace) hay Giây chuyền Thánh giá (Cross necklace) là bất kỳ vòng cổ dạng dây (dây chuyền) nào có đính gắn hình ảnh Thánh giá Thiên chúa giáo hoặc cây khổ hình. Thánh giá thường được đeo như một dấu hiệu của sự cam kết với đức tin Cơ đốc và đôi khi được nhận làm quà tặng cho Nghi thức Cơ Đốc giáo chẳng hạn như rửa tội (báp-têm) và xác nhận. Trong những thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên Kitô giáo, cây thập giá là một biểu tượng bí mật được sử dụng bởi những tín đồ của hội kín tôn giáo mới bị đàn áp. Một số Cơ đốc nhân tin rằng việc đeo thánh giá mang lại sự bảo vệ khỏi ác quỷ, trong khi những người khác, theo đạo Thiên chúa và không theo đạo Thiên chúa, đeo dây chuyền hình thánh giá như một phụ kiện thời trang. Một số giáo phái Cơ Đốc giáo, chẵng hạn như Nhân Chứng Giê-hô-va tin rằng việc đeo thánh giá bị cấm theo lời huấn dụ các tín nhân trong các điều răn nhằm chống lại tục thờ ngẫu tượng.
Tổng quan
Mặt dây chuyền thánh giá là một món quà tâm linh tượng trưng cho sự may mắn của những người theo đạo Thiên Chúa, mặt dây chuyền thánh giá được cộng đồng giáo hội sử dụng như bày tỏ lòng biết ơn và tình yêu với Chúa. Nhiều người lựa chọn mặt dây chuyền thánh giá để nhắc nhở mình về sự hy sinh của Chúa Jesus. Trong nghi thức Cơ Đốc giáo, những người giao tế của Chính thống giáo Cổ Đông phương và Chính thống giáo Cổ Đông phương phải luôn đeo dây chuyền thánh giá rửa tội của họ, đây một nghi thức thực hành tôn giáo bắt nguồn từ Điều 73 và Điều 82 của Công đồng đại kết thứ sáu (Thượng hội đồng) của Constantinople (Công đồng Constantinopolis III). Nhiều giám mục thuộc nhiều giáo phái khác nhau, chẳng hạn như Giáo hội Chính thống Đông phương, đeo thánh giá như một dấu hiệu cho Thánh lệnh của họ. Hầu hết các tín đồ của Nhà thờ Tewahedo Chính thống Ethiopia sẽ đeo một cây thánh giá gắn vào dây chuyền hoặc matäb, một sợi dây lụa. Matäb được buộc quanh cổ vào thời điểm rửa tội và người nhận phải luôn đeo matäb. Phụ nữ thường gắn một cây thánh giá hoặc mặt dây chuyền khác vào matäb, nhưng điều này không được coi là cần thiết.
Thế tục
Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Cộng hòa Nhân dân Xã hội chủ nghĩa Albania, nhà nước vô thần, việc đeo dây chuyền hình thánh giá trong lịch sử đã bị cấm. Năm 1967, Hoxha tự hào tuyên bố rằng Albania là quốc gia hoàn toàn vô thần đầu tiên. Đây từng là một quốc gia có người Hồi giáo chủ yếu với thiểu số tín hữu Công giáo và các nhóm nhỏ Chính Thống giáo Hy Lạp ở phía nam. Từ khi bắt đầu sự cai trị của thể chế cộng sản, tất cả các tôn giáo đều phải cắt đứt quan hệ với các trung tâm tôn giáo của họ ở nước ngoài và trên thực tế tất cả các linh mục trụ lại được sau cuộc đàn áp ban đầu đều bị giam trong nhà tù hoặc trại lao động. Các dòng tu bị xóa bỏ, và tất cả các nghi lễ tôn giáo, kể cả việc cử hành các bí tích, đều bị cấm tiệt và bị trừng phạt bằng mưqc án tử hình đối với những người lén lút thực hiện nghi lễ. Người dân thậm chí không được phép đeo những chiếc vòng cổ tôn giáo hoặc đeo những thứ như giây chuyền đính mặt thánh giá nhỏ. Vào ngày 18 tháng 3 năm 2011, Tòa án Nhân quyền Châu Âu đã ra phán quyết trong vụ Lautsi v. Italy, rằng yêu cầu trong luật pháp Ý rằng các cây thánh giá được trưng bày trong lớp học của các trường công lập không vi phạm Công ước Châu Âu về Nhân quyền.
Trong hai án lệ về những trường hợp diễn ra ở Anh được công bố rộng rãi gồm vụ nữ y tá Shirley Chaplin và tiếp viên hàng không British Airways Nadia Eweida đã bị kỷ luật vì đeo dây chuyền hình chữ thập tại nơi làm việc, vi phạm điều khoản lao động của họ. Cả hai đều đưa vụ việc của mình lên Tòa án Nhân quyền Châu Âu. Vụ kiện của Chaplin đã bị bác bỏ, trong khi Eweida được bồi thường thiệt hại với lý do chính phủ Anh đã không cân nhắc đủ chặt chẽ quyền biểu đạt tôn giáo của cô. Trước những trường hợp như vậy, vào năm 2012, cựu Tổng giám mục Canterbury của Cộng đồng Anh giáo, George Carey, và sau đó là người đứng đầu Giáo hội Công giáo La Mã ở Scotland là Hồng y Keith O'Brien, đã kêu gọi tất cả những người theo đạo Cơ Đốc giáo thường xuyên phải đeo dây chuyền thánh giá. Năm 2005, một người mẹ cáo buộc trường học của con gái mình ở Derby thuộc Anh đã phân biệt đối xử với những người theo đạo Cơ Đốc sau khi cậu thiếu niên bị đình chỉ học vì từ chối việc phải tháo bỏ cái vòng cổ thánh giá đang đeo.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
On Wearing of The Cross (Greek Orthodox Christian Perspective)
Explanation on Wearing Cross Necklaces (Russian Orthodox Christian Perspective)
Trang sức
|
19841280
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B1%20do%20n%C3%BAm%20v%C3%BA
|
Tự do núm vú
|
Tự do núm vú (Free the nipple) là một chiến dịch vận động tự do lộ ngực (Topfreedom) được phát động vào năm 2012, ý tưởng phát động chiến dịch xã hội rộng khắp này khởi phát ý tưởng trong quá trình tiền sản xuất bộ phim cùng tên năm 2014 có tên Free the nipple (Giải phóng núm vú). Chiến dịch này nhằm nêu bật quan điểm về quy tắc chung trong việc cho phép nam giới được cổ trần ở nơi công cộng là chuyện bình thường nhưng đồng thời cũng phải coi việc phụ nữ làm điều tương tự là bình thường chứng không phải là hành khiêu dâm hoặc không đứng đắn, hoặc phơi bày khiếm nhã, và phải khẳng định rằng sự khác biệt này là một cách đối xử với phụ nữ đầy bất công và thật không công bằng. Chiến dịch tranh đấu rộng khắp này này lập luận rằng việc phụ nữ để lộ núm vú (lộ vú) ở nơi công cộng phải là điều được chấp nhận về mặt pháp lý và văn hóa.
Tranh đấu
Năm 2012, nhà làm phim Lina Esco bắt đầu chiến dịch này ở Thành phố New York. Cô đã tạo ra một bộ phim tài liệu về chính mình để ngực trần chạy trên đường phố New York. Khi bộ phim tài liệu đang được thực hiện, cô ấy đã đăng các clip giới thiệu với hashtag #FreeTheNipple. Vào năm 2013, Facebook đã xóa những clip này khỏi trang web của mình vì vi phạm nguyên tắc của Facebook. Tuy vậy, sự lan tỏa của phong trào này ngày càng hiện hữu. Vào năm 2014, một số nhân vật nổi tiếng như Miley Cyrus, Lena Dunham, Chelsea Handler, Rihanna và Chrissy Teigen đã đăng ảnh lên mạng xã hội để thể hiện sự ủng hộ của họ đối với Sáng kiến của Esco. Hai người biểu tình, Tiernan Hebron và sinh viên tốt nghiệp UCSD Anni Ma đã bị bắt vì phơi bày khiếm nhã bên ngoài buổi xuất hiện trong chiến dịch tranh cử cho Thượng nghị sĩ Bernie Sanders vào ngày 23 tháng 3 năm 2016. Họ xuất hiện trong tình trạng cởi trần ngoại trừ những mảnh băng dính trên núm vú và có dòng chữ "Giải phóng núm vú", "Bình đẳng" và "Cảm nhận Bern" được viết trên ngực. Các sĩ quan Cảnh sát Los Angeles yêu cầu họ che ngực lại ngay, nhưng hai người phụ nữ từ chối và bị bắt ngay thức thì. Họ bị giam giữ tận 25 giờ nhưng sau đó không bị buộc tội gì. Sau khi được trả tự do, Ma đã đệ đơn kiện liên bang chống lại Sở cảnh sát Los Angeles.
Ma nói rằng hành động của cô không hề có ý nghĩa dâm dục vì tuyến vú không phải là cơ quan sinh dục mà có mục đích là cho con bú, cần thiết cho trẻ em, đồng thời cho biết cô tin rằng mình không hề để lộ "bộ phận sinh dục" hay "bộ phận riêng tư" (vùng kín) của mình. Luật sư của cô khẳng định cô chưa bao giờ "khỏa thân" và luật phơi bày không đứng đắn của California chỉ áp dụng cho bộ phận sinh dục chứ không áp dụng cho bầu ngực. Vụ kiện của cô cũng cáo buộc rằng các quyền hiến định của cô đã bị vi phạm, rằng cô đã bị phân biệt đối xử về giới một cách bất hợp pháp và luật dân quyền liên bang đã bị vi phạm, bị chà đạp thô bạo lên quyền của mình Cô ấy cũng để ngực trần tại một cuộc vận động tranh cử của Bernie Sanders vào ngày 19 tháng 3 năm 2016 ở Phoenix, Arizona, và cô ấy được dẫn ra phía sau địa điểm mà không xảy ra sự cố nào. Vào ngày 23 tháng 1 năm 2016, cô Anni Ma với tư cách là nhà hoạt động FEMEN, Carly Mitchell, Chelsea Ducote và Marston đã biểu tình tại sự kiện "Walk For Life" (Đi bộ vì Cuộc sống) tại Tòa thị chính San Francisco và Trung tâm hành chính San Francisco ở San Francisco.
Trong lịch sử, phụ nữ đôi khi bị bắt hoặc bị buộc tội vì hành vi không đứng đắn nơi công cộng, gây rối hòa bình hoặc có hành vi dâm dục vì để lộ ngực ở nơi công cộng, ngay cả ở những khu vực pháp lý không có luật rõ ràng cấm làm như vậy. Ở bang New York, phụ nữ để ngực trần được coi là hợp pháp vào khoảng năm 1990, và khi một phụ nữ bị bắt ở đó vào năm 2005 vì để ngực trần ở nơi công cộng, một tòa án đã ra phán quyết có lợi cho cô ấy và sau đó cô ấy đã nhận được 29.000 đô la Mỹ tiền bồi thường. Pháp luật hiện hành tại Mỹ có Luật một vài bang ở Mỹ không cho phép phụ nữ phơi bày núm vú nơi công cộng nên phụ nữ tại bãi biển Hoa Kỳ với núm vú bị che lấp bằng pasties, để phù hợp với các quy tắc địa phương. Các luật điều chỉnh hành vi phơi bày khiếm nhã ở Hoa Kỳ thay đổi tùy theo địa điểm. Ở hầu hết các bang, khỏa thân công cộng là bất hợp pháp.
Tuy nhiên, ở một số tiểu bang, hành vi đó chỉ là bất hợp pháp nếu nó đi kèm với ý định gây sốc, kích động hoặc xúc phạm người khác, một phụ nữ để lộ núm vú trần bằng cách đột ngột kéo áo và áo ngực của cô ấy lên, là sự phơi bày nơi công cộng và do đó được luật pháp ở nhiều bang của Hoa Kỳ xác định là hành vi phạm tội bị cấm.. Tại Canada theo quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự nghiêm cấm "các hành vi không đứng đắn". Không có định nghĩa theo luật định nào trong Bộ luật về những gì cấu thành một hành vi không đứng đắn, ngoài việc để lộ bộ phận sinh dục và/ hoặc núm vú phụ nữ vì mục đích tình dục với bất kỳ ai dưới 16 tuổi. Do đó, quyết định về những trạng thái cởi quần áo được cho là "không đứng đắn" (cũng là bất hợp pháp) được quyết định theo ý kiến chủ quan của các thẩm phán. Ví dụ, các thẩm phán cho rằng tắm nắng khỏa thân không phải là khiếm nhã.
Vào năm 2015, chiến dịch này đã nhận được sự chú ý ở Iceland sau khi một nhà hoạt động sinh viên tuổi teen đăng một bức ảnh mình để ngực trần và cho rằng mình đã bị quấy rối vì làm như vậy. Để ủng hộ sinh viên và sáng kiến này, một Thành viên Quốc hội là Björt Ólafsdóttir đã đăng một bức ảnh ngực trần của mình để thể hiện tinh thần đoàn kết thâm tình. Sự kiện Free the Nipple cũng đã được tổ chức tại Brighton, Anh vào năm 2016 2017 và vào năm 2018. Nhóm The Free the Nipple Brighton được lãnh đạo dưới sự điều hành của Bee Nicholls và Mickey F, cả hai đều đến từ Brighton. Vào năm 2017, sự kiện Free The Nipple đã được tổ chức tại Kingston Upon Hull ở Anh vào ngày cũng được kỷ niệm là Ngày Bình đẳng Phụ nữ và Ngày cởi trần, ngày kỷ niệm Tu chính án thứ mười chín của Hiến pháp Hoa Kỳ vào năm 1920 đã trao cho phụ nữ Hoa Kỳ quyền bầu cử. Ngoài ra còn có sự kiện Free the Nipple vào năm 2017, được tổ chức tại Charleston, West Virginia.
Chú thích
Khỏa thân
Phong trào xã hội
Nhân quyền
Vú
|
19841281
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Yangjaecheon
|
Yangjaecheon
|
Yangjaecheon (Tiếng Hàn: 양재천, Hanja: 良才川) là nhánh thứ hai của sông Hán và bắt nguồn từ núi Gwanaksan (冠岳山) ở Gwacheon-si, Gyeonggi-do. Nó nhập vào suối Yeouicheon ở núi Cheonggyesan và núi Guryongsan tại cầu Yeongdong 1 và chảy theo hướng đông bắc qua Seocho-gu và Gangnam-gu ở Seoul để tạo thành suối Tancheon, là con suối hợp lưu vào con sông. Cấp nước của Yangjaecheon là cấp 3.
Khu vực đi qua
Dòng suối chảy từ tỉnh Gyeonggi-do vào Seoul qua các khu vữựcc khác nhau. Nó có tổng chiều dài 15,6 km.
Gwacheon-si; 8.4km
Seoul
Seocho-gu ; 3.7km
Yangjae-dong
Gangnam-gu ; 3.5km
Dogok-dong
Daechi 3-dong
Irwon 2-dong
Songpa-gu
Jamsil-dong
Tancheon
Hệ sinh thái
Có 174 loài thực vật, 42 loài chim, 20 loài cá, 6 loài động vật có vú và 6 loài lưỡng cư và bò sát ở Yangjaecheon. Công viên sinh thái Yangjaecheon với mục tiêu khôi phục hệ sinh thái đã khôi phục lại trạng thái tự nhiên của dòng sông bằng cách khôi phục độ dốc ven sông để tạo không gian nghỉ ngơi, dạo bộ. Kè bê tông đã được thay thế và xây dựng lại bằng cách sử dụng cự thạch, cây cối, cỏ và vật liệu tự nhiên. Kè bảo vệ thực vật đóng vai trò là biện pháp bảo vệ chống lũ lụt và kiểm soát nhiệt độ nước bằng cách tạo bóng mát. Yangjaecheon cũng cung cấp môi trường sống cho cá và tảo để giúp duy trì chuỗi thức ăn của hệ sinh thái thủy sinh. Nó cũng kết tủa và hấp thụ nước và các chất ô nhiễm, làm giảm hiện tượng phú dưỡng.
Sự phát triển của Yangjaecheon
Yangjaecheon có một câu chuyện liên quan đến ngọn núi Guryongsan. Guryongsan có chín thung lũng, chín đỉnh và chín giếng. Cái tên Guryong xuất phát từ 'chín con rồng'. Đỉnh cao nhất của Guryongsan có tên là Guksoobong, có nghĩa là “đỉnh núi bảo vệ đất nước”. Theo câu chuyện kể, ngọn núi ban đầu có mười thung lũng, mỗi con rồng ở một thung lũng. Họ phải bay lên trời, nhưng một người đến muộn và bị một người nhìn thấy nên không thể bay lên được. Theo những quy tắc ứng xử tốt, anh phải trở thành dòng suối cho mọi người uống rượu và làm ruộng. Con suối khiến con người trở nên giàu có và hạnh phúc hơn, đó là lý do sau này con suối này được đặt tên là Yangjaecheon. Yangjae là một từ viết bằng chữ Hán, được dịch là 'nhóm người tài năng'.
Sự phát triển của Yangjaecheon
Yangjaecheon ban đầu là phụ lưu đầu tiên của sông Hán. Tuy nhiên, đây là một con suối được tạo ra nhân tạo nên nó bắt đầu chảy vào lưu vực suối Tancheon. Vào những năm 1970, dự án dồn điền đổi thửa ở khu vực Gaepo-dong đã khiến Yangjaecheon bị ô nhiễm nặng nề. Sau đó, tình trạng ô nhiễm trở nên tồi tệ hơn nhiều do dân số tăng nhanh. Để cải thiện môi trường sinh thái của Yangjaecheon, hệ thống sông tự nhiên lần đầu tiên được sử dụng ở sông đô thị. Từ năm 1995 đến năm 2000, các tổ chức đã khôi phục chất lượng nước lên hơn cấp 2 bằng cách dỡ bỏ bê tông ở cả hai bờ biển và xây dựng bờ biển có thảm thực vật, cơ sở lọc nước, đường dành cho xe đạp và trung tâm trải nghiệm sinh thái. Nhờ những nỗ lực này, Yangjaecheon đã được Bộ Môi trường chọn vào năm 2005 là dòng sông phục hồi sinh thái xuất sắc.
Vị trí địa lý của Yangjaecheon
Yangjaecheon bắt đầu từ núi Gwanaksan ở Gwacheon. Nó chảy qua đường Gwacheon và nhập vào Maggyecheon, và ở Seocho, nó nhập vào Yeouicheon. Makgyecheon và Yeouicheon là những dòng suối nhỏ bắt đầu từ Cheonggyesan. Cuối cùng, nó chảy qua Gangnam-gu và chảy vào Tancheon. Tổng chiều dài của Yangjaecheon là 15,6 km. Gwacheon quản lý 8,4 km, Seocho-gu quản lý 3,7 km và Gangnam-gu quản lý 3,5 km. Chiều rộng của Yangjaecheon thay đổi từ 6-13 m.
Cơ sở vật chất
Cầu
Cầu Gwanak; 관악교
Cầu Gwanmun; 관문교
Cầu Byeoryang; 별양교
Cầu Burim 1; 부림1교
Cầu Burim 2; 부림2교
Cầu Gwacheon; 과천교
Cầu Yangjaecheon; 양재천교
Cầu Juam; 주암교
Cầu Umyeon; 우면교
Cầu Yeongdong 1; 영동1교
Cầu Yeongdong 2; 영동2교
Cầu Yeongdong 3; 영동3교
Cầu Yeongdong 4; 영동4교
Cầu Yeongdong 5; 영동5교
Cầu Yeongdong 6; 영동6교
Cầu Daechi; 대치교
Vùng đất ngập nước
Cánh đồng trồng lúa: mở cửa cho sinh viên và người dân thành thị. Trong thời gian trái vụ nông nghiệp, nó được sử dụng làm sân trượt băng.
Hai bể bơi: một nằm gần cầu Yeongdong 3, và một nằm giữa cầu Yeongdong 4 và 5, gần ga Dogok.
Cơ sở lọc nước: nằm giữa cầu Yeongdong 2 và 3. Cơ sở này sử dụng quá trình oxy hóa tiếp xúc với sỏi để duy trì BOD 1~3 ppm. Nó có thể lọc 32,000 m3 nước mỗi ngày.
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mô tả từ một trang web Du lịch Hàn Quốc
Visit Seochogoo
Di sản tương lai Seoul-Yangjaecheon
Địa lý Seoul
Sông Hàn Quốc
|
19841285
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20c%C3%A1c%20S%E1%BA%AFc%20t%E1%BB%99c%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a
|
Hội đồng các Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa
|
Hội đồng các Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa hoặc Hội đồng Sắc tộc, là cơ quan đảm trách việc cố vấn cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số người Thượng tồn tại từ năm 1970 đến năm 1975.
Lịch sử hình thành
Cùng với việc thành lập Bộ Phát triển Sắc tộc, Hiến pháp năm 1967 đã thiết lập một định chế đặc biệt cho đồng bào các dân tộc thiểu số là Hội đồng các Sắc tộc. Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và sự điều hành đã được Tổng thống duyệt y trong Luật số 014/69 ngày 14 tháng 10 năm 1969; Sắc lệnh 610-TT/SL ngày 28 tháng 10 năm 1969 ấn định thể thức đề cử hội viên Hội đồng các Sắc tộc và tổ chức cơ quan hành chính và chuyên môn sâu của Hội đồng này; Sắc lệnh 694-TT/SL ngày 19 tháng 12 năm 1969 bổ túc thành phần Hội đồng Giám định Trung ương quy định tại Điều 5 Sắc lệnh 610-TT/SL ngày 28 tháng 10 năm 1969 ấn định các thể thức thi hành Luật số 014/69 về tổ chức và điều hành Hội đồng các Sắc tộc; Sắc lệnh 1023-TT/SL ngày 21 tháng 12 năm 1970 duyệt nội quy của Hội đồng các Sắc tộc.
Hội đồng các Sắc tộc chính thức bắt đầu hoạt động kể từ khóa họp đầu tiên khai mạc ngày 19 tháng 12 năm 1970 tại Phòng Hội Quốc tế Khách sạn Hoàn Mỹ, Sài Gòn dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự hiện diện đông đảo của các nhân vật cao cấp trong và ngoài nước. Sự thành lập và hoạt động của Hội đồng các Sắc tộc là một cột mốc quan trọng trong chính sách đối với các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của đồng bào các dân tộc thiểu số. Từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã chính thức bãi bỏ định chế này.
Nhiệm vụ và quyền hạn
Trong chương thứ nhất của Luật số 014/69 ghi rõ:
Hội đồng các Sắc tộc đại diện các sắc tộc thiểu số sống trên lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa có nhiệm vụ: Cố vấn cho Chính phủ về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số; trình bày sáng kiến, dự thảo những dự án, kế hoạch liên quan đến đồng bào thiểu số.
Hội đồng các Sắc tộc phải được chính phủ tham khảo ý kiến về các vấn đề liên quan đến đồng bào thiểu số.
Hội đồng các Sắc tộc với sự chấp thuận của Quốc hội, có thể cử đại diện thuyết trình trước Quốc hội về các vấn đề liên hệ. Quốc hội có thể tham khảo ý kiến Hội đồng các Sắc tộc về các dự luật liên quan đến đồng bào thiểu số trước khi đưa ra thảo luận.
Cơ cấu tổ chức
Hội đồng các Sắc tộc gồm một văn phòng thường trực phụ trách điều hành hoạt động thường xuyên của Hội đồng và chín ủy ban chuyên môn hợp lại thành Hội đồng các Chủ tịch Ủy ban Chuyên môn, chuyên nghiên cứu các vấn đề liên hệ đến sắc tộc, được trợ giúp bởi một Nha tổng quản trị về phương diện hành chính và một ban chuyên viên về phương diện nghiên cứu.
Văn phòng Thường trực
Ngoài chức vụ Chủ tịch do Phó Tổng thống đảm nhiệm đã được Hiến pháp quy định, văn phòng thường trực do một Phó Chủ tịch, một Tổng thư ký và hai Phó Tổng thư ký Đại Hội đồng bầu hằng năm.
Chủ tịch đại diện Hội đồng trong các buổi lễ chính thức, ký và thi hành các quyết định của Hội đồng, liên lạc trực tiếp với hành pháp, lập pháp và tư pháp, là phát ngôn viên chính thức của Hội đồng về các vấn đề đã được hội đồng quyết định, triệu tập, chủ tọa, khai mạc, bế mạc các phiên họp Hội đồng, chủ tọa các phiên họp hàng tháng của Văn phòng Thường trực và các phiên họp định kỳ giữa Văn phòng Thường trực và Hội đồng các Chủ tịch Ủy ban Chuyên môn trừ trường hợp ủy quyền cho Phó Chủ tịch và trông coi sự thi hành nội quy hội đồng.
Tổng thư ký phụ tá Chủ tịch trong việc điều hành các hoạt động của Hội đồng, phối hợp hoạt động của các Ủy ban Chuyên môn và là thuyết trình viên các vấn đề không thuộc ủy ban nào, soạn thảo nghị trình các phiên họp, và các văn bản liên quan.
Ủy ban Chuyên môn
Theo nội quy Hội đồng ấn định, số ủy ban chuyên môn của Hội đồng các Sắc tộc có thể gia giảm theo nhu cầu đòi hỏi. Hiện nay Hội đồng các Sắc tộc gồm chín ủy ban chuyên môn: Ủy ban Quy chế các Sắc tộc thiểu số, Ủy ban Nội vụ, Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Ủy ban Phát triển Dân sinh, Ủy ban An ninh Quân vụ, Ủy ban y tế Xã hội, Ủy ban Thông tin Thanh niên và Ủy ban Điền địa. Mỗi ủy ban có một chủ tịch điều hành với một số ủy viên.
Thành phần hội viên
Theo Hiến pháp năm 1967, Hội đồng các Sắc tộc do Phó Tổng thống làm Chủ tịch, gồm 1/3 hội viên do Tổng thống chỉ định và 2/3 hội viên do các sắc tộc đề cử qua một cuộc đề cử với nhiệm kỳ bốn năm. chiếu Hiến pháp, sau khi Quốc hội thảo luận và biểu quyết, tổng thống ban hành luật 014/69 quy định Hội đồng các Sắc tộc gồm 48 hội viên thực thụ và 12 hội viên dự khuyết, trong đó có 16 hội viên thực thụ và 4 hội viên dự khuyết do Tổng thống chỉ định, 42 hội viên thực thụ và 8 hội viên dự khuyết do đồng bào các sắc tộc đề cử và được Tổng thống bổ nhiệm bằng sắc lệnh.
Hội viên các thành phần được đề cử là nam, nữ công dân sắc tộc Thượng Miền Nam, Thượng Miền Bắc di cư, chàm có đầy đủ tư cách công dân. Thành phần đề cử được phân chia cho Thượng miền Nam 25 hội viên thực thụ, 6 hội viên dự khuyết, Thượng Miền Bắc di cư 4 hội viên thực thụ, 1 hội viên dự khuyết và chàm 2 hội viên thực thụ, 1 hội viên dự khuyết. Trong sinh hoạt hội đồng, các hội viên hoàn toàn bình đẳng và bình quyền đề xuất các sáng kiến, các dự án để ghi vào nghị trình của hội đồng, có quyền ứng cử và bầu cử các chức vụ trong văn phòng thường trực và Hội đồng các Chủ tịch Ủy ban Chuyên môn. Các hội viên có trách nhiệm như phải tham gia ít nhất một ủy ban chuyên môn và nhiều nhất là ba ủy ban nếu được Đại hội bầu, chỉ được đảm nhận một chức vụ trong Văn phòng Thường trực hay chỉ đảm nhận một chức vụ Chủ tịch Ủy ban mà thôi.
Xem thêm
Các dân tộc tại Việt Nam
Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa
Mặt trận Thống nhất Đấu tranh của các Sắc tộc bị Áp bức
Tham khảo
Thư mục
Tiếng Việt
Hồ Di Sắt (1973), Vài nét về Hội đồng Sắc tộc nhiệm kỳ 1970-1974, Sài Gòn.
Hội đồng các Sắc tộc (1974), Dự án Chánh sách sắc tộc, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Hội đồng các Sắc tộc (1974), Dự án Chánh sách dân tộc, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Bộ Phát triển Sắc tộc, Về dự án thiết lập Hội đồng Sắc tộc ngày 14 tháng 3 năm 1968, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Bộ Phát triển Sắc tộc, Về việc tổ chức và điều hành Hội đồng Sắc tộc ngày 3 tháng 6 năm 1969, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Nguyễn Trắc Dĩ (1972), Hội đồng các Sắc tộc - Một tân định chế dân chủ của Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam, Bộ Phát triển Sắc tộc, Sài Gòn.
Bài nói chuyện của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa nhân ngày mãn nhiệm của Hội đồng Sắc tộc tại Dinh Độc Lập ngày 25 tháng 10 năm 1974, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Tiếng Anh
Gerald Hikey, 1982, "Free in the Forest". Ethnohistory of the Vietnamese Central Highlands 1954-1976, Yale University Press.
Mark W. McLeod: "Indigenous Peoples and Vietnamese Revolution 1930-1975", Journal of World History 10.2 (1999) p. 313-389.
Andrew Hardy, 2005, Red hills - Migrants and the State in the Highlands of Vietnam, Singapore Institute of Southeast Asian Studies, NIAS Press, Singapore.
Norman Charles Labrie: FULRO: The History of Political Tension in the South Vietnamese Highlands, Master of Arts Thesis, University of Massachusetts, 1971.
Gerald C. Hickey, 1967, "The Highland People of South Vietnam", Social and Economic Development, Santa Monica, California, the Rand Corporation Memorandum RM-5281/1-ARPA.
Người Thượng
Việt Nam Cộng hòa
Chính trị Việt Nam Cộng hòa
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa
Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng hòa
Cơ quan chính phủ thành lập năm 1970
Cơ quan chính phủ chấm dứt năm 1975
|
19841286
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng%20kh%C3%B4ng%20ph%E1%BA%A3i%20l%C3%A0%20m%E1%BB%99t%20b%E1%BB%AFa%20ti%E1%BB%87c
|
Cách mạng không phải là một bữa tiệc
|
Cách mạng không phải là một bữa tiệc () hay làm cách mạng không phải là mời người ta đến dự tiệc, là một cụm từ do Mao Trạch Đông đặt ra. Nó được lấy từ bài tiểu luận của Mao có tựa đề Báo cáo điều tra phong trào nông dân ở Hồ Nam viết năm 1927 trong Cách mạng ruộng đất. Nghĩa là cách mạng không thể nhẹ nhàng, mềm mỏng mà phải kiên quyết, triệt để, là hành động bạo lực, đẫm máu của giai cấp này nhằm lật đổ giai cấp khác.
Trong báo cáo này, Mao khẳng định: "Cách mạng không phải là một bữa tiệc, viết luận, vẽ tranh, thêu thùa; nó không thể tinh tế, nhàn nhã và dịu dàng, ôn hòa, tử tế, nhã nhặn, kiềm chế và cao thượng. Cách mạng là một cuộc nổi dậy, một hành vi bạo lực do giai cấp này tiến hành nhằm lật đổ giai cấp khác."
Dựa trên quan điểm này, sử gia Trương Minh còn chỉ ra thêm rằng “cách mạng không phải là một bữa tiệc, cách mạng là lời mời ăn uống". Câu này còn là cơ sở của một lời giễu cợt chính trị: "đối với nhiều cán bộ Geming bushi qingke jiushi chifan 'Cách mạng không phải là chiêu đãi khách, chỉ là dự tiệc [bằng tiền công hoặc bằng giá tiền của nhà giàu mới nổi]."
Xem thêm
Quyền lực chính trị phát ra từ nòng súng
Tham khảo
Chủ nghĩa Mao
Khẩu hiệu chính trị
Chủ nghĩa Marx–Lenin
Thuật ngữ tư tưởng Mao Trạch Đông
Trung Quốc thời đại Mao Trạch Đông
|
19841296
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20L%C3%A0ng%20Mai
|
Vịnh Làng Mai
|
Vịnh Làng Mai hay Vũng Làng Mai là vịnh ven bờ biển ở phía nam tỉnh Bình Định, Việt Nam. Vịnh thuộc địa phận thành phố Quy Nhơn, có tọa độ từ 13°41'–13°46'B và 109°13'–109°17'Đ và diện tích mặt nước 48 km². Trung tâm thành phố Quy Nhơn nằm bên bờ biển phía tây bắc vịnh, và cạnh đó là cửa biển vào cảng Quy Nhơn trong đầm Thị Nại.
Xem thêm
Danh sách vũng vịnh ven bờ biển Việt Nam
Chú thích
Làng Mai
Địa lý Bình Định
Quy Nhơn
|
19841297
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abeno%20Miku
|
Abeno Miku
|
là một cựu nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô sinh ra tại tỉnh Ōita và thuộc về công ti Funstar Promotion.
Sự nghiệp
Năm 2013, cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với hình tượng là một nữ diễn viên song tính luyến ái với kiểu tóc ngắn. Tên diễn của cô được lấy cảm hứng từ Abenomics. Cô đã trở nên nổi tiếng sau khi xuất hiện trên hơn 100 phim khiêu dâm chỉ trong vòng nửa năm sau khi ra mắt ngành.
Tháng 7/2014, cô đã tham gia cuộc thi độ nổi tiếng của các nữ diễn viên để được chọn làm nhân vật trong trò chơi Ryū ga Gotoku của Sega và đã xếp thứ 29, giúp cô có được một vai trong Ryū ga Gotoku 0: Chikai no Basho.
Tháng 3/2016, cô lần đầu đảm nhận vai chính trong phim "Em muốn trở thành em gái của anh." (妹になりたくて。).
30/1/2015, cô đã tham gia nhóm thần tượng Marshmallow 3D với tư cách ca sĩ dưới nghệ danh "Marshmallow☆Orange". Đồng thời với các hoạt động của nhóm, cô cũng đã hoạt động riêng và đã ra mắt với tư cách là ca sĩ độc tấu với đĩa đơn "Sakebe!" (叫べ!) vào năm 2017. Cô cũng đã tổ chức một buổi diễn song tấu với Usa Miharu vào tháng 5/2018. Tháng 8/2018, cô cùng nhóm Marshmallow 3d+ xuất hiện tại TOKYO IDOL FESTIVAL. Nhóm cũng đã tạm dừng các hoạt động trực tiếp vào tháng 1/2019. Cô cũng sẽ tổ chức buổi diễn độc tấu đầu tiên của mình vào tháng 6/2019. Trong trò Ryū ga Gotoku 0: Chikai no Basho được nhắc đến ở trên, cô cũng đã đảm nhận vai có nhiệm vụ ca hát.
Tháng 10/2019, cô được đề cử cho GeoTV×Men's Cyzo ADULT AWARD 2019 trong hạng mục Ngôi sao nói chuyện bậy mặc dù cô chưa từng liên hệ với giải thưởng kể từ khi ra mắt ngành. Biệt danh dùng cho cô là "Cô gái dâm đãng đáng yêu".
1/6/2020, cô đã thông báo mong muốn nghỉ việc nữ diễn viên khiêu dâm vào cuối tháng 1/2021. Vào tháng 12, cô đã kí hợp đồng độc quyền đầu tiên với Million và một trang đặc biệt đã được lập. 2 phim cuối cùng của cô sẽ được phát hành với hãng này. Trùng hợp là cô thông báo nghỉ việc vào cùng năm chính quyền Abe, những người đề xướng chính sách Abenomics từ chức, tuy nhiên cô đã nói rằng đây chỉ là trùng hợp.
Cô đã lần đầu và cũng là lần cuối biểu diễn múa thoát y từ ngày 11 đến 30/12 tại Asakusa Rockza. Cô sẽ ngừng hoạt động công chúng với sự kiện đánh dấu nghỉ việc vào ngày 31/1/2021. Ngay cả sau khi nghỉ việc, cô vẫn thuộc về công ti Funstar Promotion và nắm bản quyền về hình ảnh của mình.
Đời tư
Sở thích của cô là đến các quán cà phê, xem anime và BL. Kĩ năng của cô là hóa trang và mặc đồ nam. Vào năm 2014, cô đã phụ trách làm tóc và trang điểm cho những người mẫu áo tắm chụp ảnh đăng tạp chí Playboy hàng tuần. Cô là người song tính có thể bị thu hút bởi người cùng giới (FTX theo cách gọi thông thường), tuy nhiên cô có thể chuyển đổi giữa ý thức nam và nữ, và nói rằng nam và nữ khác nhau và có các quan điểm tình yêu khác nhau.
Sau này cô cũng là thành viên của "Câu lạc bộ Xe đạp Công nghiệp Team BUKKAKE".
Cô là người có thể làm việc hoàn hảo khi được bảo làm, tuy nhiên cô đã tự đánh giá bản thân là người thiếu tính cá nhân và không thể tự nghĩ ra gì, và là một người đa tài được gọi đi quay phim liên tục cho bất kì dự án nào.
Lí do nghỉ việc của cô là cô đã được chẩn đoán bị loạn sản cổ tử cung (tân sinh trong biểu mô cổ tử cung) khi thực hiện kiểm tra ung thư cổ tử cung năm 2019, theo thông tin được cô tiết lộ trên kênh YouTube chính thức của KMProduce vào ngày 12/11/2020.
Cô chưa từng gọi bản thân là một "nữ diễn viên gợi cảm" và vẫn luôn tự hào là một nữ diễn viên khiêu dâm. Người ta nói rằng các hoạt động của cô ngoài đóng phim khiêu dâm bắt nguồn từ điều này.
Tham khảo
Liên kết ngoài
avenomix - Trang web hãng quần áo chính thức của cô (19/3/2016 - )
Sinh năm 1993
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản
Nữ diễn viên MOODYZ
Nữ diễn viên SOD
Người Ōita
|
19841300
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aridagawa%2C%20Wakayama
|
Aridagawa, Wakayama
|
là thị trấn thuộc huyện Arida, tỉnh Wakayama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 25.258 người và mật độ dân số là 72 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 351,84 km2.
Địa lý
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Wakayama
|
19841315
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Donald%20Triplett
|
Donald Triplett
|
Donald "Don" Gray Triplett (8 tháng 9 năm 1933 - 15 tháng 6 năm 2023) là một nhân viên ngân hàng người Mỹ được biết đến là người đầu tiên được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ. Ông được Leo Kanner lần đầu tiên chẩn đoán vào năm 1943 và được ghi nhãn "Ca số 1". Triplett được chú ý nhờ khả năng thông thái của mình, đặc biệt là khả năng gọi tên các nốt nhạc chơi trên đàn piano và khả năng thực hiện phép tính nhẩm nhanh chóng.
Xuất thân
Donald Triplett sinh ngày 8 tháng 9 năm 1933, với cha và mẹ là Beamon và Mary Triplett, ở Forest, Mississippi. Ban đầu, Donald là một đứa trẻ cực kỳ hướng nội và không phản ứng lại cử chỉ hay giọng nói của cha mẹ. Ngôn ngữ của cậu ấy không bình thường, cậu ấy không chơi với những đứa trẻ khác và có vẻ xa cách với những người khác. Triplett được đưa vào viện điều trị khi mới ba tuổi, nhưng cha mẹ anh đã kéo cậu ra ngoài một năm sau đó. Cha của cậu, Beamon, mô tả đứa trẻ là người sống thu mình với xã hội nhưng quan tâm đến các con số, nốt nhạc, các chữ cái trong bảng chữ cái và hình ảnh của các tổng thống Hoa Kỳ. Người cha nhớ lại khi cậu mới một tuổi, "đứa trẻ có thể ngâm và hát chính xác nhiều giai điệu". Cha mẹ cậu gặp khó khăn lớn trong việc cho cậu ăn, và với cậu việc nhìn những đứa trẻ khác ăn kẹo hoặc kem dường như không có gì hấp dẫn. Khi lên hai tuổi, cậu đã có khả năng đọc thuộc lòng Thánh Vịnh 23 trong Cựu Ước và ghi nhớ 25 câu hỏi và câu trả lời từ giáo lý Trưởng Lão. Vào lễ Giáng sinh năm đó, cậu đã hát với cao độ tuyệt đối cả một bài hát mà chỉ nghe một lần.
Triplett cũng quan tâm đến việc tạo ra các hợp âm. Cậu rất có hứng thú với vần điệu và việc trả lời các câu hỏi chỉ bằng một từ, thường là "có" hoặc "không". Ở tuổi này, cậu bé phát triển niềm yêu thích rất mãnh liệt với các khối quay, chảo và các đồ vật hình tròn khác và không thích xe đạp ba bánh hay xích đu. Ban đầu cậu ấy không hứng thú với cầu trượt nhưng dần chơi khi ở một mình. Cậu đã từng trải qua nhiều cơn phát hoảng quá tải và sợ bị đánh đòn. Tuy nhiên, cậu không thể tìm thấy liên kết giữa cơn phát hoảng của mình với những hình phạt. Cậu có biểu hiện của chứng echolalia (lặp lại lời nói của người khác) và gặp khó khăn trong việc ghi nhớ các đại từ, thường sử dụng bạn (you) để chỉ bản thân và tôi (I) để chỉ người mà cậu đang nói chuyện cùng. Khi bước vào một căn phòng, cậu bé sẽ đi ngay đến đống đồ chơi, phớt lờ tất cả những người trong phòng, kể cả những đứa trẻ khác và diễn viên ông già Noel mà cha cậu đã thuê. Mẹ cậu gặp khó khăn trong việc thuyết phục cậu nhìn bà.
Tháng 10 năm 1938, gia đình Triplett đến gặp Leo Kanner, cuối cùng cậu bé được chẩn đoán là mắc chứng tự kỷ. Donald đã ghé đến nhiều lần, nhưng mỗi lần quay lại, cậu thậm chí còn không nhìn ba bác sĩ có mặt ở đó, mặc dù có hai người vẫn nhớ đến cậu từ lần thăm khám trước. Thay vào đó cậu đi đến bàn làm việc để nhận giấy tờ và sổ sách. Kanner bắt đầu trò chuyện để quan sát "bản chất ám ảnh" của cậu. Ông ta cũng hỏi cậu những câu hỏi về phép tính trừ và Donald trả lời một cách kỳ lạ rằng "Tôi sẽ vẽ một hình lục giác."
Khi trở về nhà, hành vi của cậu dường như có cải thiện và cậu đã học chơi những giai điệu đơn giản trên đàn piano. Cậu tỏ ra tập trung tốt hơn và phản ứng rõ ràng hơn với môi trường xung quanh cũng như với người khác. Tuy nhiên, cậu bé vẫn mắc có những cơn phát hoảng tự kỷ (lúc đó được gọi là "cơn ăn vạ nổi xung" khi có rất ít hiểu biết về rối loạn ở phổ tự kỷ) và thể hiện một số hành vi khó hiểu như đứng trên bàn, để thức ăn lên tóc, nhai giấy và nhét chìa khóa nhà xuống lỗ thoát nước. Cậu còn học mười lăm từ từ một bộ bách khoa toàn thư và lặp đi lặp lại chúng mà không cần ngữ cảnh. Cậu vẫn không nhìn mọi người khi nói chuyện hay sử dụng cử chỉ biểu cảm. Cậu chỉ giao tiếp khi cậu cần thứ gì đó. Sự hứng thú của cậu biến mất khi cậu ấy được cho hoặc được nói những gì cậu ấy cần. Cậu bắt đầu quan tâm đến việc phân loại phim và tạp chí Time theo ngày xuất bản mặc dù không mấy quan tâm đến nội dung bên trong.
Học vấn và trưởng thành
Việc chẩn đoán Triplett đã mở ra lịch sử phức tạp cho chứng tự kỷ, kéo theo nhiều mâu thuẫn giữa các chuyên gia và những người ủng hộ chứng tự kỷ.
Dẫu vậy, Triplett và gia đình ông lại tránh xa với tất cả những điều này. Ông nhập học trường trung học địa phương, nơi các giáo viên và bạn học ở đó đều có thái độ chấp nhận. Năm 1958, ông tốt nghiệp cử nhân tiếng Pháp tại Millsaps College. Sau đó, ông trở về quê nhà đầy ủng hộ của mình, nơi ông đã làm việc 65 năm tại một ngân hàng địa phương do cha ông sở hữu một phần.
Sở thích của ông bao gồm chơi golf hàng ngày. Ông đã học cách lái xe vào cuối những năm 20 tuổi và đi du lịch vòng quanh thế giới khi rảnh rỗi.
Ông chưa bao giờ kết hôn, không có con và sống một mình trong ngôi nhà rộng lớn mà ông từng lớn lên và được thừa hưởng.
Cha của ông, Beaman Triplett, là một luật sư tốt nghiệp Yale, qua đời trong một vụ tai nạn ô tô năm 1980. Người em duy nhất của Don Triplett, luật sư Oliver Triplett, qua đời năm 2020 ở tuổi 81. Oliver là người hỗ trợ cho sự tương tác giữa Don và các nhà báo đến thăm. Oliver là động lực tích cực mạnh mẽ trong cuộc đời Don.
Di sản
John Donvan và Caren Zucker đã có buổi phỏng vấn với Triplett, ghi lại câu chuyện cuộc đời ông trong bài viết Đứa con đầu lòng của chứng tự kỷ trên tờ The Atlantic. Sau đó, ông được giới thiệu trong cuốn sách In a Different Key, cuốn sách sau này được cải biên thành phim tài liệu cho PBS. Người nhà của ông nói rằng cuộc sống của ông "mang lại hy vọng cho những người làm cha mẹ".
Qua đời
Triplett qua đời tại nhà vào ngày 15 tháng 6 năm 2023, ở tuổi 89. Người cháu trai của ông, Oliver Beaman Triplett, chia sẻ rằng nguyên nhân do ông mắc bệnh ung thư. Ông ra đi trong sự thương mến của bạn bè và hàng xóm, những cư dân của thành phố Forest.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sinh năm 1933
Người thuộc phổ tự kỷ
Tự kỷ
Người Hoa Kỳ theo tiểu bang
Người Mississippi
Mất năm 2023
|
19841320
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Odontanthias%20tapui
|
Odontanthias tapui
|
Odontanthias tapui là một loài cá biển thuộc chi Odontanthias trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1979.
Từ nguyên
Từ định danh tapui được đặt theo tên của Jean Tapu (1929–2018), nhân viên Cục Thủy sản tại Papeete (đảo Tahiti), người đã cung cấp mẫu gốc loài này và ảnh màu của nó, cũng như các mẫu cá ở vùng biển Tahiti.
Phân bố
O. tapui được ghi nhận tại đảo Moorea, Tahiti (đều thuộc quần đảo Société) và quần đảo Cook. O. tapui được tìm thấy trong khoảng độ sâu từ 120 đến 350 m.
Mô tả
Chiều dài chuẩn (SL: standard length) lớn nhất được ghi nhận ở O. tapui là 14,5 cm. Loài này có màu hồng với các đốm vàng trên mỗi vảy cá ở thân trên. Mảnh răng lá mía thuôn dài, tựa hình đầu mũi tên như Odontanthias randalli. Đầu màu vàng bao phủ như mặt nạ. Vây lưng mềm màu hồng tím, các tia sợi màu vàng. Vây đuôi có màu vàng, lõm sâu hình lưỡi liềm với hai thùy rất dài và thuôn nhọn.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia ở vây lưng: ?; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia ở vây ngực: thường 16; Số lược mang: 42–47.
Tham khảo
T
Cá Thái Bình Dương
Động vật quần đảo Cook
Động vật Polynésie thuộc Pháp
Động vật được mô tả năm 1979
|
19841328
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A2n%20lo%E1%BA%A1i%20Sibley-Ahlquist
|
Phân loại Sibley-Ahlquist
|
Phân loại Sibley-Ahlquist là một hệ thống phân loại chim do Charles Sibley và Jon E. Ahlquist đề xuất. Hệ thống này dựa trên các nghiên cứu lai DNA-DNA tiến hành vào cuối những năm 1970 và trong suốt những năm 1980.
Lai DNA-DNA là một trong những loại kỹ thuật so sánh dùng trong sinh học phân tử nhằm tạo ra dữ liệu khoảng cách (so với dữ liệu ký tự) và có thể được phân tích để tái tạo phát sinh gen chỉ bằng cách sử dụng thuật toán xây dựng cây phân loại theo ngoại hình. Trong quá trình lai DNA-DNA, tỷ lệ phần trăm giống nhau của DNA giữa hai loài được ước tính bằng mức giảm liên kết hydro giữa các nucleotide của DNA dị loài (tức là sợi DNA kép được tạo ra bằng thực nghiệm từ các chuỗi đơn của hai loài khác nhau), so sánh với DNA đồng loài (cả hai chuỗi DNA của cùng một loài).
Đặc điểm
Hệ thống phân loại này được coi như là một ví dụ ban đầu về miêu tả theo nhánh học, bởi lẽ nó hệ thống hóa nhiều cấp độ phân loại trung gian: "thân" của cây phân loại là lớp Aves, từ đó phân nhánh thành các phân lớp, rồi các phân thứ lớp, tiểu lớp, liên bộ, bộ, phân bộ, phân thứ bộ, tiểu bộ, liên họ, họ, phân họ, tông, phân tông và cuối cùng là chi và loài. Tuy nhiên, nghiên cứu phân loại này không sử dụng các phương pháp miêu tả theo nhánh học hiện đại, vì nó hoàn toàn dựa vào lai DNA-DNA, được dùng làm thước đo duy nhất cho sự giống nhau.
Phân loại Sibley–Ahlquist khác biệt rất nhiều so với cách tiếp cận truyền thống hơn được sử dụng trong phân loại Clements.
Danh mục dưới đây liệt kê những thay đổi lớn so với Clements, theo thứ tự Sibley–Ahlquist như sau:
Mở rộng Struthioniformes, gồm các bộ Rheiformes (đà điểu Nam Mỹ), Casuariiformes (đà điểu đầu mào và đà điểu Emu), Apterygiformes (kiwi) và Struthioniformes (đà điểu).
Tinamiformes (tinamous) không đổi.
Mở rộng đáng kể Ciconiiformes, gồm Sphenisciformes (chim cánh cụt), Gaviiformes (chim lặn gavi), Podicipediformes (chim lặn), Procellariiformes (hải âu và hải yến), Pelecaniformes (bồ nông và họ hàng), Ciconiiformes (hạc và họ hàng), Falconiformes (chim săn mồi), Charadriiformes (chim lội, mòng biển, nhàn và an ca) và Pteroclidae (gà cát).
Anseriformes (vịt, ngỗng và họ hàng) không đổi.
Điều chỉnh Galliformes (gà, trĩ và họ hàng). Chuyển Chachalaca sang Craciformes.
Lập mới Craciformes (chachalaca). Trước đây là một phần của Galliformes.
Lập mới Ralliformes (gà nước). Trước đây là một phần của Gruiformes.
Điều chỉnh Gruiformes (sếu). Gà nước và cun cút lần lượt chuyển sang Ralliformes và Turniciformes.
Lập mới Turniciformes (cun cút). Trước đây là một phần của Gruiformes.
Điều chỉnh Columbiformes (bồ câu). Chuyển gà cát sang Ciconiiformes.
Psittaciformes (vẹt) không đổi.
Lập mới Musophagiformes (turaco). Trước đây là một phần của Cuculiformes.
Điều chỉnh Cuculiformes (cu cu). Chuyển turaco sang Musophagiformes.
Điều chỉnh Strigiformes (cú). Được mở rộng để bao gồm cả Caprimulgiformes (cú muỗi, cú muỗi mỏ quặp, chim dầu, chim potoo).
Điều chỉnh Apodiformes (yến). Chuyển chim ruồi sang Trochiliformes.
Lập mới Trochiliformes (chim ruồi). Trước đây là một phần của Apodiformes.
Coliiformes (chim chuột) không đổi.
Trogoniformes (nuốc) không đổi.
Điều chỉnh Coraciiformes (sả rừng).
Lập mới Upupiformes (đầu rìu). Trước đây là một phần của Coraciiformes.
Lập mới Bucerotiformes (hồng hoàng). Trước đây là một phần của Coraciiformes.
Lập mới Galbuliformes (jacamar và puffbird). Trước đây là một phần của Piciformes.
Điều chỉnh Piciformes (gõ kiến).
Passeriformes (chim dạng sẻ) không đổi.
Một vài trong số những thay đổi là những điều chỉnh nhỏ. Ví dụ, thay vì đặt các loài yến, yến cây và chim ruồi trong cùng một bộ không bao gồm gì khác, Sibley và Ahlquist lại xếp chúng vào cùng một liên thứ tự, bao gồm một bộ gồm chim ruồi và một bộ khác gồm yến và yến cây. Nói cách khác, họ vẫn coi yến là họ hàng gần nhất của chim ruồi.
Một số thay đổi khác thì rộng lớn hơn. Trước đây, chim cánh cụt được coi là tách biệt với tất cả các loài chim còn sống khác. Ví dụ, Wetmore xếp chúng vào một liên bộ, cùng với tất cả các loài chim ngoài tiểu bộ Ratitae trong một liên bộ khác. Tuy nhiên, Sibley và Ahlquist đã xếp chim cánh cụt vào cùng liên họ với chim lặn gavi, hải âu, hải yến và cốc biển. Theo phân tích phát sinh gen của họ, chim cánh cụt gần với những loài chim đó hơn diệc và cò.
Nhánh điểu cầm (gà, vịt và họ hàng) đã được chấp thuận rộng rãi. Bằng chứng DNA của Sibley–Ahlquist về sự đơn ngành của nhánh được thúc đẩy bởi việc phát hiện ra loài chim hóa thạch Vegavis iaai, một loài chim nước về cơ bản là hiện đại nhưng kỳ dị nhất sống gần Cape Horn khoảng 66-68 triệu năm trước, cùng thời với khủng long.
Phân loại
Xem thêm
Phát sinh chủng loại phân tử
Tham khảo
(2005): Bằng chứng hóa thạch rõ ràng về bức xạ gia cầm còn tồn tại ở kỷ Phấn Trắng. Nature 433: 305–308. PDF fulltext Supporting information
Sibley, Charles Gald & Ahlquist, Jon Edward (1990): Phylogeny and classification of birds. Yale University Press, New Haven, Conn.
On the Phylogeny and Classification of Living Birds của Charles G. Sibley
The Early History of Modern Birds Inferred from DNA Sequences of Nuclear and Mitochondrial Ribosomal Genes, của Marcel van Tuinen, Charles G. Sibley và S. Blair Hedges
Sibley's Classification of Birds, của Eric Salzman, Birding, tháng 12 năm 1993. Phiên bản trên web thiếu hình ảnh minh họa, thể hiện các phần của cây phát sinh chủng loài và chỉ bao gồm một phần thư mục, nhưng bổ sung thêm một trình tự xuống tới cấp tông với chi tiết về các đơn vị phân loại trung gian (đặc biệt là chim dạng sẻ). Archived version
Hệ thống phân loại động vật
Điểu học
|
19841330
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Virus%20kh%E1%BB%95ng%20l%E1%BB%93
|
Virus khổng lồ
|
Một virus khổng lồ, đôi khi được gọi là girus (ghép từ từ tiếng Anh giant virus), là một loại virus rất lớn, một số trong đó còn lớn hơn cả vi khuẩn thông thường. Tất cả các virus khổng lồ được biết đến đều thuộc ngành Nucleocytoviricota.
Mô tả
Mặc dù các tiêu chí chính xác được xác định trong các tài liệu khoa học là khác nhau, nhưng virus khổng lồ thường được mô tả là virus có vỏ bọc pseudo-icosahedral lớn (đường kính 200 đến 400 nanômét) có thể được bao quanh bởi một lớp dày (khoảng 100 nm) nhiều sợi nhỏ sợi protein.
Tham khảo
Virus
|
19841338
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85
|
Lễ
|
Lễ có thể là:
Nho giáo có Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín
Lễ hội, lễ cưới, lễ tang
Lễ giáng sinh, lễ vượt qua
Lễ tân
|
19841350
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20trong%20Kimi%20no%20koto%20ga%20Dai%20Dai%20Dai%20Dai%20Daisuki%20na%20100-nin%20no%20Kanojo
|
Danh sách nhân vật trong Kimi no koto ga Dai Dai Dai Dai Daisuki na 100-nin no Kanojo
|
Đây là danh sách các nhân vật của bộ truyện Kimi no koto ga Dai Dai Dai Dai Daisuki na 100-nin no Kanojo
Gia đình Rentarou
Aijou Rentarou (愛城 恋太郎)
Lồng tiếng bởi: Katou Wataru(Tiếng Nhật); Travis Mullenix (Tiếng Anh)
Rentarou đã yêu và bị từ chối hàng trăm lần, do đó lần nào anh chàng cũng phải cố gắng để hoàn thiện bản thân mình hơn. Được một vị thần tình yêu của ngôi đền cầu duyên ban phước quá mức cho lời cầu nguyện của bản thân vào cuối thời trung học, Rentarou được định sẵn sẽ có 100 cô bạn gái. Khi Rentarou giao tiếp bằng mắt với một trong những bạn gái lần đầu tiên, anh ấy và bạn gái mới sẽ có cảm giác như bị Sốc điện. Rentarou thực sự yêu từng bạn gái mới mà anh chàng đã gặp, thậm chí còn vượt qua bài kiểm tra của máy phát hiện nói dối khi bị hỏi về Tình cảm thực sự của anh ấy. Rentarou luôn làm theo cách của mình, đôi khi đến mức cực đoan, để giữ cho tất cả Bạn gái đều cảm thấy hạnh phúc. Anh ấy cũng ghét làm điều biến thái với Bạn gái của mình trừ khi cần thiết nhưng luôn có những kế hoạch dự phòng siêu cực đoan để giảm thiểu bản chất của tình huống.
Họ của Rentarou chứa chữ "Ái" (愛) có nghĩa là tình yêu, cũng là cách chơi chữ của Aijō (愛情) nghĩa là tình cảm. Tên của anh chàng chứa chữ "Luyến" (恋) là sự lãng mạn và khi kết hợp với 2 chữ Hán còn lại, nó còn mang nghĩa là "Người đàn ông của Sự lãng mạn vĩ đại".
Bạn gái (người thứ 1-10
Hanazono Hakari (花園 羽香里)
Lồng tiếng bởi: Hondo Kaede(Tiếng Nhật); Sarah Wiedenheft (Tiếng Anh)
Trong phiên bản voice drama nhân vật được lồng tiếng bởi Ueda Reina.
Một trong hai bạn gái xuất hiện đầu tiên của Rentarou, cùng với Inda Karane. Hakari xuất thân từ một gia đình rất giàu có, và thích thể hiện vẻ ngoài nghiêm nghị đứng đắn, nhưng lại khá thiên về thể chất, và đôi khi có thể lại hơi biến thái. Ngoài việc yêu Rentarou, cô ấy còn bị thu hút bởi Inda Karane. Trong truyện, mẹ của cô ấy, là Hahari không chấp nhận về mối quan hệ của cô với Rentarō, và tạm thời cấm cô gặp anh ấy, dẫn đến việc Rentarō và Bạn gái của anh ấy phải giải cứu cô. Sau khi Rentarō chứng minh được tình cảm thực sự của mình dành cho những người bạn gái với Hahari, Hakari đã được phép trở lại Gia đình Rentarou, nơi mà mẹ của cô giờ cũng là một thành viên. Đôi khi cô ấy còn hợp tác với mẹ để lôi kéo Rentarou và các bạn gái khác của anh ấy thực hiện những hành động biến thái mặc dù cô ấy gần như không tự đề cao Việc làm biến thái đó như mẹ mình.
Inda Karane (院田 唐音)
Lồng tiếng bởi: Tomita Miyu(Tiếng Nhật); Ariel Graham (Tiếng Anh)
Trong phiên bản voice drama nhân vật được lồng tiếng bởi Shiraishi Haruka.
Một trong hai bạn gái xuất hiện đầu tiên của Rentarou, bên cạnh Hanazono Hakari. Cô ấy có tính cách của một tsundere điển hình, dù không hề bạo lực. Cô ấy gặp khó khăn trong việc Nói dối và che giấu đi cảm xúc thật của mình. Mặc dù ban đầu Karane không thích ý tưởng về việc Rentarou có rất nhiều bạn gái, nhưng về sau cô ấy nhanh chóng chấp nhận họ. Ngoài việc yêu Rentarō, cô còn bị Hakari thu hút. Cô ấy hơi bất an về những đặc điểm Tsundere của mình, vì cô cảm thấy bản thân không thể bày tỏ những Cảm xúc trong lòng một cách chính xác giống như những Người bạn gái khác của Rentarō. Tuy nhiên sau khi mất đi đặc điểm Tsundere nhờ loại thuốc từ Kusuri, cuối cùng cô cũng đã thừa nhận tính cách Tsundere của mình chính là điều khiến cô ấy trở nên đặc biệt và sau đó lấy lại được chúng với sự giúp đỡ từ các cô bạn gái khác của Rentarou. Cô ấy có thể chất vượt trội dù cho có vẻ ngoài mảnh khảnh.
Yoshimoto Shizuka (好本 静)
Lồng tiếng bởi: Maria Naganawa
Trong phiên bản voice drama nhân vật được lồng tiếng bởi Iwami Manaka.
Bạn gái thứ ba của Rentarou. Nhút nhát đến mức câm lặng. Shizuka thường xuyên bị bắt nạt bởi các bạn học khác và bị mẹ cô ngược đãi trước khi gặp Rentarō. Cô ấy là một "con mọt sách" người lúc đầu chỉ có thể giao tiếp được qua các đoạn văn trong trang giấy của cuốn sách mà mình yêu thích bằng cách chỉ tay vào nó khi cố gắng trả lời một người nào đó. Rentarō đã phát triển một ứng dụng biết nói cho Shizuka để cô có thể tự do giao tiếp bằng cách đọc thuộc lòng kĩ thuật số những câu thoại mà cô ấy chạm vào. Shizuka thích những cuốn sách lãng mạn giả tưởng. Cô ấy không biết bơi.
Họ của cô nghĩa đen là "Một cuốn sách hay" và tên của cô ấy có nghĩa đen là "Yên tĩnh".
Eiai Nano (栄逢 凪乃)
Lồng tiếng bởi: Asami Seto
Trong phiên bản voice drama nhân vật được lồng tiếng bởi Suyama Emiri.
Bạn gái thứ tư của Rentarou. Cô ấy là Người nghiêm khắc đến mức vô cảm. Cô ấy là một Người thông minh và luôn tối ưu hóa cao độ trong cuộc sống thường ngày, đồng thời loại bỏ mọi cử chỉ và hành động không cần thiết để đạt hiệu quả cao nhất. Ban đầu, Nano đã gặp khó trong việc tập trung, khi lần đầu yêu Rentarou khiến cuộc sống của cô ấy trở nên hỗn loạn nhưng sau khi hẹn hò với Rentarou và ngăn anh đốt những tấm ảnh họ chụp khi đi chơi, cô chấp nhận tình cảm của mình với Rentarou và đã trở lại bình thường. Cô ấy sợ độ cao.
Tên của cô mang nghĩa đen là "Thịnh vượng từ sự bình tĩnh".
Yakuzen Kusuri (薬膳 楠莉)
Lồng tiếng bởi: Ayaka Asai
Trong phiên bản voice drama nhân vật được lồng tiếng bởi Kanemoto Hisako.
Bạn gái thứ năm của Rentarou. Cô ấy là Chủ tịch câu lạc bộ Hóa học tại trường trung học của họ. Kusuri chuyên chế tạo ra những loại thuốc có tác dụng kì lạ khi nó được hấp thụ. Cô ấy mười tám tuổi nhưng do đã uống một loại thuốc được cho là giúp cô trở thành Bất tử nên cô ấy đã dành phần lớn thời gian của mình để sống trong một cơ thể tám tuổi. Cô cũng có một loại thuốc hóa giải có thể phục hồi hầu hết công dụng của thuốc, nhưng tác dụng của thuốc Bất tử chỉ có thể tạm thời bị vô hiệu hóa, cho phép Cô tạm thời xuất hiện ở diện mạo mười tám tuổi trước khi quay trở lại hình dáng lúc tám tuổi. Kusuri hành động giống như ngoại hình chung của cô ấy, cách nói chuyện ở ngôi thứ ba và kết thúc câu nói của mình bằng nanoda (なのだ). Cả Cha mẹ và Bà của Kusuri cũng đã uống thuốc Bất tử và ngoại hình cũng chỉ như mới 8 tuổi.
Tên của Kusuri đồng âm với chữ "Dược" (薬) trong họ của cô ấy.
Hanazono Hahari (花園 羽々里)
Lồng tiếng bởi: Uesaka Sumire
Bạn gái thứ sáu của Rentarou và là mẹ của Hakari. Cô sinh Hakari khi mới mười ba tuổi, do phải lòng một bạn học mắc bệnh nan y. Biết rằng anh không còn sống được bao lâu, cô đã tự mình thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của anh để họ có thể là một gia đình trước khi anh qua đời. Ban đầu, cô không tán thành mối quan hệ của Hakari với Rentarō, tin rằng anh ta đang cặp kè với con gái cô với bốn cô gái khác, nhưng cô đã thay đổi quyết định khi yêu chính Rentarō, đi xa hơn là mua trường học và trở thành chủ tịch mới của trường. để được ở gần anh ấy. Cô ấy yêu thích những thứ dễ thương và chia sẻ một số xu hướng biến thái của con gái mình nếu không muốn nói là ở mức độ cao hơn. Cô ấy cũng có thể có tình cảm quá mức với Rentarō và bạn gái của anh ấy, thường cố gắng trở thành người mẹ đối với tất cả họ. Tên được đặt của cô ấy là một cách chơi chữ của từ tiếng Nhật có nghĩa là mẹ, haha (母).
Haraga Kurumi (原賀 胡桃)
Bạn gái thứ bảy của Rentarou. Kurumi là một học sinh cấp hai với sự trao đổi chất rất cao, điều này khiến cô ấy rất dễ bị đói - ngay cả khi nghe thấy một từ có âm giống với một loại thức ăn nhất định thì cô ấy cũng sẽ thèm món ăn đó. Do đó, cô ấy liên tục đeo tai nghe và đội mũ trùm đầu để ngăn chặn càng nhiều cuộc nói chuyện liên quan đến đồ ăn càng tốt. Cô ấy có hai nhân cách, tùy thuộc vào việc cô ấy có đói hay không. Khi cô ấy ăn, cô ấy là một người rất tốt bụng và ngọt ngào, nhưng khi cô ấy đói, cô ấy nóng tính và đột ngột - thật không may, do thường xuyên đói, cô ấy gần như thường xuyên nóng nảy. Tên được đặt của cô ấy có nghĩa là "quả óc chó", một sự thật đã khiến nỗi ám ảnh về đồ ăn của cô ấy kích hoạt rất nhiều lần khi nghe thấy tên của chính mình đến nỗi quả óc chó hiện là món ăn mà cô ấy không thích.
Meido Mei (銘戸 芽衣)
Bạn gái thứ tám của Rentarou. Mei là người giúp việc của gia đình Hanazono được Hahari tìm thấy sau khi cô bị cha mẹ ruột lạm dụng và bỏ rơi. Cô ấy cực kỳ trung thành với Hahari và sẽ thực hiện bất kỳ yêu cầu nào của Hahari mà không thắc mắc, cho dù vô lý đến đâu. Trên thực tế, cô ấy sẽ tự tử nếu không hoàn thành nhiệm vụ, thường dẫn đến việc Hahari phải hủy bỏ lệnh ngăn cản cô ấy. Đặc điểm thể chất nổi bật nhất của cô ấy là mống mắt có màu cầu vồng thường không được nhìn thấy vì cô ấy hầu như luôn nhắm mắt, (hầu như luôn yêu cầu một số tiết lộ gây sốc) mặc dù điều này không ngăn cản cô ấy lái xe hoặc lái trực thăng. Họ của cô ấy là một cách chơi chữ của từ "Maid".
Sutou Iku (須藤 育)
Bạn gái thứ chín của Rentarou. Iku là thành viên cuối cùng còn lại của đội bóng chày của trường khi các thành viên khác quyết định học bóng chày ở Mỹ. Cô ấy là người khổ dâm, tìm thấy niềm vui khi làm việc quá sức đến kiệt sức và nếu không thì bị tổn thương nhẹ. Ngay cả việc bị Rentarou làm "đau lòng" cũng khiến cô ấy rất vui, mặc dù cô ấy đã trở thành bạn gái hợp pháp của Rentarō. Một câu chuyện bổ sung trong tập thứ năm tiết lộ rằng chứng khổ dâm của cô bắt đầu khi cô bắt đầu yêu thích bóng chày khi còn nhỏ. Ban đầu, cô thấy tập luyện quá vất vả và đau đớn, nhưng sau khi được anh trai động viên, cô quyết định tiếp tục. Tuy nhiên, vì cô ấy đã được bảo rằng cô ấy phải tiếp tục cố gắng ngay cả khi nó đau, cô ấy đã coi đau đớn là một điều tốt. Tên của cô ấy theo thứ tự đặt tên của Nhật Bản có nghĩa là "khắc kỷ".
Utsukushisugi Mimimi (美杉 美々美)
Bạn gái thứ mười của Rentarou. Mimimi là một cô gái bị ám ảnh bởi sắc đẹp, nhưng nhận thức được rằng vẻ đẹp không thể mua được một cách đơn giản và coi vẻ đẹp bên trong cũng quan trọng như vẻ đẹp bên ngoài. Vì vậy, cô ấy đã nỗ lực rất nhiều để làm cho mình trở nên xinh đẹp, tự kiếm tiền, cắt giảm chi phí ở bất cứ đâu có thể, thực hiện các chế độ chăm sóc da mặt và tự học cách diễn đạt. Ban đầu, cô ấy coi Nano là đối thủ về sắc đẹp của mình, có vẻ như Nano đã đánh bại cô ấy trong cuộc thi sắc đẹp ở trường trung học cơ sở của họ. Sau đó, người ta tiết lộ rằng sự căm ghét của cô ấy thực sự bắt nguồn từ việc Nano đã coi thường cô ấy sau cuộc thi, và cô ấy quyết định để mọi chuyện trôi qua khi Nano xin lỗi cô ấy, mặc dù cô ấy khăng khăng muốn duy trì tình bạn thân thiện. Tên đầy đủ của cô ấy chứa chữ kanji có nghĩa là sắc đẹp (美) ba lần với tên được đặt của cô ấy có nghĩa đen là "rất đẹp".
Bạn gái 11 - 20
Kakure Meme (華暮 愛々)
Bạn gái thứ mười một của Rentarou. Meme là một cô gái màu tím bị thu nhỏ, cố gắng trở thành "nhân vật nền". Cô ấy có một dáng người rõ ràng mà cô ấy chủ động buộc chặt để giảm sự chú ý đến cô ấy và đặc điểm ngoại hình nổi bật nhất của cô ấy là tóc mái liên tục che mắt ngoại trừ một số tình huống như khi Rentarou giao tiếp bằng mắt với cô ấy lần đầu tiên khi anh ấy cứu cô ấy khỏi một dấu hiệu bay trong một cơn bão, mặc dù người đọc không bao giờ nhìn thấy trực tiếp đôi mắt của cô ấy. Cô ấy đan những con búp bê nhỏ như một sở thích. Khi bị áp lực hoặc bối rối, Meme sẽ đột ngột biến mất ngay lập tức và ném một trong những con thú nhồi bông này vào nơi cô ấy đang đứng như một phương tiện đánh lạc hướng trong khi cô ấy trốn ở một nơi nào đó gần đó. Họ của cô ấy, Kakure, là một cách chơi chữ của từ tiếng Nhật "đi trốn" (隠れ).
Iin Chiyo (伊院 知与)
Bạn gái thứ mười hai của Rentarō và em họ học cấp hai của anh ấy. Cô ấy có xu hướng cực kỳ ngăn nắp, dẫn đến việc cô ấy rất bực bội khi có bất cứ thứ gì lộn xộn hoặc cẩu thả đến mức cô ấy phải can thiệp và sửa chúng. Kết quả là cô ấy là lớp trưởng của lớp mình, nhưng thầm không thích những kỳ vọng cao mà họ đặt ra cho cô ấy. Nếu cô ấy làm mất kính, sự lo lắng của cô ấy đột nhiên được giải phóng và cô ấy trở thành một mớ hỗn độn khóc lóc. Trong khi Rentarō dè dặt trước việc hẹn hò với em họ của mình, mặc dù biết số phận mà cô ấy sẽ gặp phải nếu anh ấy không chấp nhận cô ấy, anh ấy đã hài lòng sau khi chứng kiến lời thú nhận chân thành, trong sáng của cô ấy. Cha của cô ấy (và cha mẹ duy nhất) Hiro, chú của Rentarō, chấp thuận mối quan hệ của cô ấy với anh ấy sau khi một cậu bé Rentarō từng đẩy anh ấy ra khỏi một chiếc xe tải đang chạy quá tốc độ, tin rằng kết quả là Rentarō là cậu bé ngoan nhất thế giới. Tên của cô ấy là một cách chơi chữ của từ tiếng Nhật dành cho chủ tịch/chủ tịch ủy ban, iinchou (委員長).
Naddy/Yamato Nadeshiko (ナディー/大和 撫子)
Bạn gái thứ mười ba của Rentarou. Nadeshiko là một giáo viên chuyển trường trở thành giáo viên tiếng Nhật mới tại trường của anh ấy. Cô ấy tự nhận mình là người Mỹ, nhưng thực tế cô ấy là một người Nhật thuần chủng và chỉ bị ám ảnh bởi nước Mỹ. Khi còn nhỏ, cha mẹ cô đã buộc cô phải học hỏi và đề cao cách cư xử của một phụ nữ Nhật Bản đúng mực, thậm chí còn nhốt cô vào nhà kho khi cô mắc lỗi. Trong một lần tình cờ, cô ấy khám phá ra một bộ phim Mỹ, và sau khi xem nó, cô ấy đã được truyền cảm hứng bởi sự tự do mà trẻ em Mỹ được phép so với quá trình nuôi dạy của chính cô ấy đến nỗi cô ấy bắt đầu mô phỏng toàn bộ cuộc sống và danh tính của mình theo bộ phim đó, điều này dẫn đến việc cha mẹ cô ấy từ chối cô ấy. Cô ấy thích được gọi là Naddy hơn. Trớ trêu thay, tên của cô ấy lại ám chỉ đến Yamato Nadeshiko, hiện thân của một phụ nữ Nhật Bản được lý tưởng hóa.
Yasashiki Yamame (優敷 山女)
Bạn gái thứ mười bốn của Rentarou. Yamame to và cao hơn những người bạn gái khác của Rentarō, nhưng được Rentarō miêu tả là một người có tâm hồn dịu dàng, yêu thiên nhiên. Yamame là bạn cùng lớp của Iku và là thành viên của câu lạc bộ làm vườn của trường và rất quan tâm đến mọi dạng tự nhiên. Ngay cả cỏ dại mọc trong vườn cũng được cô coi là quý và thậm chí cô còn dành hẳn một khu vườn chỉ để trồng cỏ dại. Khi còn trẻ, cô từng không thích thân hình to lớn của mình, nhưng sau khi giúp một chú chim non về tổ, cô tự hào về nó vì mình có thể bảo vệ và giúp đỡ thiên nhiên. Trong quá khứ của mình, cô ấy đã chứng kiến một trận cháy rừng và phát triển chứng sợ lửa vì những đám cháy như vậy giết chết thực vật và động vật. Sau khi Rentarō bảo vệ Yamame khỏi ngọn lửa do hiệu phó của trường tạo ra một cách hài hước, cô ấy đã thổ lộ tình cảm của mình với Rentarō vì đây là lần đầu tiên có người bảo vệ cô ấy. Họ của cô ấy có cách chơi chữ của từ Cắt, Sashiki (挿し木) và tên được đặt của cô ấy có nghĩa đen là Người phụ nữ trên núi, ám chỉ chiều cao của cô ấy.
Momi Momiji (茂見 紅葉)
Bạn gái thứ mười lăm của Rentarou. Momiji là bạn cùng lớp của Kurumi và là một nhân viên mát xa lành nghề. Dịch vụ mát-xa của cô ấy khiến khách hàng của cô ấy rơi vào trạng thái cực kỳ sung sướng, mặc dù điều này có thể là do bản tính khéo léo của cô ấy, nói rằng cô ấy thích sự "mềm mại" của cơ thể phụ nữ. Sau khi yêu Rentarou, cô ấy thấy cơ thể độc nhất của anh ấy là một công cụ hoàn hảo để luyện tập. Ước mơ của cô là trở thành một nhân viên mát-xa nổi tiếng và được đích thân mát-xa cho người mẫu ống đồng. Tên của cô ấy là một cách chơi chữ của từ massage trong tiếng Nhật, "momimomi".
Yakuzen Yaku (薬膳 ヤク)
Bạn gái thứ mười sáu của Rentarō và là bà của Kusuri. Cô ấy đã tám mươi chín tuổi, nhưng do đã uống một nguyên mẫu thuốc trường sinh của Kusuri nên cô ấy giống như một cô bé tám tuổi. Do sức mạnh của nguyên mẫu, vẻ ngoài của cô ấy không bị thuốc trung hòa phục hồi. Tuổi tác của cô ấy được thể hiện qua kiến thức và sự quyến rũ của một người phụ nữ trưởng thành, một điều hoàn toàn khác với Hahari hư hỏng hơn. Cô gặp chồng mình trong một vùng chiến sự khi cô là một bác sĩ, nhưng sau đó trở thành góa phụ. Cô ấy mù chữ về công nghệ. Cô ấy có một biến thể tic trong lời nói của cháu gái mình, kết thúc câu nói của mình bằng "nanoja" (なのじゃ), một phiên bản cổ hơn. Tên của cô ấy là một cách chơi chữ của Goroawase ám chỉ tuổi của cô ấy: Ya (8) ku (9).
Torotoro Kishika (土呂瀞 騎士華)
Bạn gái thứ mười bảy của Rentarou. Kishika là bạn cùng lớp của Kusuri và là đội trưởng đội kiếm đạo của trường. Cô ấy có năm anh chị em, tất cả đều do cô ấy tự chăm sóc do bố mẹ cô ấy không ở bên. Cô ấy có một mong muốn thầm kín là được nâng niu, chiều chuộng và chiều chuộng, nhưng lại giữ bí mật phần này và cực kỳ phản ứng với bất kỳ ai cố gắng chạm vào cô ấy. Mong muốn được chiều chuộng đã khiến cô ấy làm một bàn tay giả để tự cưng nựng mình và những lời thoại an ủi để lắng nghe khi cô ấy buồn. Sau khi Rentarō phát hiện ra điều này, anh ấy trở thành bạn trai của cô ấy và chiều chuộng cô ấy, khiến cô ấy nảy sinh phản ứng trẻ con khi được cưng chiều. Tên được đặt của cô ấy có nghĩa là "hiệp sĩ" trong tiếng Nhật và họ của cô ấy là một cách chơi chữ từ âm thanh tượng thanh của một thứ gì đó ngọt ngào, "torotoro".
Ahko/Kedarui Āshī (毛樽井 亜愛子衣)
Bạn gái thứ mười tám của Rentarou. Āshī ăn mặc và nói năng giống như một gyaru, nhưng cũng có tính cách tự mô tả là "huyết áp thấp" và luôn có biểu hiện thoải mái, ngay cả khi nói rằng cô ấy có động lực hoặc phấn khích. Sau khi gặp Rentarō và đi chợ trời để bán những thứ dễ thương không sử dụng của mình, cô ấy đã có cảm hứng để một ngày nào đó điều hành một cửa hàng bán những thứ dễ thương và hy vọng Rentarō sẽ giúp hỗ trợ ước mơ mới của cô ấy. Cô ấy thích Rentarō gọi cô ấy là Āko. Họ của cô ấy là một cách chơi chữ của "darui" (怠) い), có nghĩa là chậm chạp, uể oải và buồn tẻ.
Nakaji Uto (中二 詩人)
Bạn gái thứ mười chín của Rentarou. Uto tự nhận mình là một người đi lang thang, mặc quần áo như vậy và chơi ocarina, mặc dù rất kém. Trên thực tế, cô ấy là một học sinh trung học cơ sở năm thứ hai, là một Chūnibyō. Cô ấy có xu hướng nói chuyện theo kiểu thơ mộng, vòng vo hoặc sử dụng phương pháp Socrates. Tên của cô ấy có nghĩa đen là Nhà thơ. Ngoại hình của cô ấy có một số nét giống với nhân vật Snufkin.
Meido Mai (女井戸 妹)
Bạn gái thứ 20 của Rentarou. Cô ấy là cháu gái của người hầu gái trưởng trước đây của gia đình Hanazono, người muốn tự mình trở thành một người hầu gái sau khi gặp Mei. Cô ấy thần tượng Mei và tự xưng là em gái của cô ấy và rất bảo vệ cô ấy. Cô ấy coi thường Rentarō vì đã hẹn hò với Mei, nhưng cô ấy lại yêu anh ấy. Bởi vì cô ấy có xu hướng nghĩ về Mei và sau đó là Rentarou, nên cô ấy rất vụng về, dẫn đến việc cô ấy bị trượt chân và vấp ngã nghiêm trọng vào thời điểm không thích hợp. Mặc dù có cùng họ về mặt ngữ âm nhưng Mai và Mei không có quan hệ huyết thống và chữ Kanji trong họ của họ cũng khác nhau. Tên được đặt của cô ấy có nghĩa đen là "em gái".
Bạn gái 21-
Bonnouji Momoha (盆能寺 百八)
Bạn gái thứ 21 của Rentarou. Momoha là một giáo viên Khoa học xã hội 27 tuổi tại trường của Rentarō, người dạy học sinh năm thứ hai với trọng tâm là giảng dạy đạo đức. Trớ trêu thay, cô ấy có xu hướng phung phí tiền của mình vào cờ bạc và rượu chè, dẫn đến việc cô ấy trở thành người vô gia cư, sống trong căn lều cạnh khu vườn của Yamame vì cô ấy cũng là cố vấn của Câu lạc bộ Làm vườn. Mặc dù đôi khi có hành vi phi đạo đức, nhưng cuối cùng cô ấy cũng rất hào phóng khi thường xuyên sử dụng tiền của mình để cung cấp dụng cụ cho Câu lạc bộ Làm vườn và làm cỏ cho toàn trường trước khi cô ấy bắt đầu đi học. Tên của cô ấy chứa một số cách chơi chữ bao gồm khái niệm Phật giáo về Kleshas / Bonnou (煩悩), hoặc những ham muốn / cám dỗ trần tục. Tên được đặt của cô ấy chứa chữ kanji cho 100 (百) và 8 (八), là số lượng những cám dỗ được cho là người ta phải vượt qua để đạt được Niết bàn trong Phật giáo. Một cách phù hợp, cô ấy được giới thiệu trong Chương 108. Nouji (農事) cũng có nghĩa là Nông nghiệp.
Baio Rin (灰尾 凛)
Bạn gái thứ hai mươi hai của Rentarou. Rin là một học sinh trung học năm thứ hai tập chơi vĩ cầm vì cả bố và mẹ cô đều là nghệ sĩ vĩ cầm. Sau khi tình cờ xem một cảnh ngắn trong bộ phim Resident Evil khi còn nhỏ, Rin cảm thấy thích thú với bất kỳ hình thức mô tả bạo lực nào. Trong khi cô ấy chủ yếu giữ kín chuyện này, Rentarou cho phép cô ấy bày tỏ mong muốn của mình. Cô ấy có xu hướng thốt lên "violen-suwa" khi bị kích thích, đó là sự kết hợp giữa "violence" và "desu-wa", một cách tao nhã để kết thúc câu nói của bạn. Tên của cô ấy là một cách chơi chữ của "violin" và nghe tương tự như "violence".
Hifumi Suu (一二三 数)
Bạn gái thứ hai mươi ba của Rentarou. Suu yêu thích những con số, thậm chí còn nói thẳng rằng cô ấy yêu những con số một cách lãng mạn. Cô ấy không thích hầu hết những thứ khác, thậm chí còn phớt lờ những cuộc trò chuyện ban đầu của Rentarou với cô ấy một cách thô lỗ chỉ vì anh ấy không phải là một con số. Sau khi cho mình giống những con số, Suu bắt đầu thích Rentarō và ngỏ lời làm bạn gái của anh ta. Tên của cô ấy có nghĩa đen là số và họ của cô ấy có nghĩa là "1-2-3"
Kaho Eira (火保 エイラ)
Bạn gái thứ hai mươi tư của Rentarou. Eira là sinh viên đại học năm thứ hai mang nửa dòng máu Brazil tại Đại học Ohananomitsu. Cha cô là một huấn luyện viên Capoeira và cô là một học viên tích cực. Cô ấy có một nỗi sợ hãi kỳ lạ đối với những đồ vật hoặc hiện tượng mà cô ấy "không thể đá" được, từ mèo, trẻ sơ sinh và thậm chí cả người hắt hơi. Tuy nhiên, nếu thứ gì đó có thể đá được, cô ấy tỏ ra hoàn toàn không sợ hãi, thậm chí còn đá vào một chiếc ô tô đang chạy quá tốc độ.
Nekonari Tama (猫成 珠)
Bạn gái thứ hai mươi lăm của Rentarou. Tama là một cô gái 21 tuổi cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống nhân viên văn phòng và quyết định từ chối nhân tính của mình. Cô ấy ăn mặc và hành động như một con mèo, thậm chí lần đầu tiên người ta bắt gặp cô ấy đang ngồi trong hộp như một con thú cưng để nhận nuôi. Sau khi được Rentarou nuông chiều, người ban đầu sẵn sàng "nhận nuôi" cô ấy như một con mèo, cô ấy quyết định làm việc một lần nữa miễn là Rentarou sẵn sàng hẹn hò với cô ấy, vì cô ấy nhận ra rằng vì bây giờ cô ấy có lý do để làm việc nên cô ấy có việc gì đó. để mong đợi sau những ngày làm việc của cô ấy.
Saiki Himeka (才奇姫歌)
Bạn gái thứ 26 của Rentarou. Himeka là học sinh năm nhất chuyển trường và là một thần tượng nổi tiếng với nghệ danh "Kiki". Mặc dù là một ca sĩ xuất sắc nhưng cô ấy lại có sở thích làm những điều bất thường trong những nhiệm vụ và tình huống đời thường để trở nên nổi bật hơn. Ban đầu, cô từ chối Rentarou vì cho rằng anh "bình thường", nhưng khi nghe tin anh có 25 người bạn gái vào thời điểm đó, cô lập tức đề nghị trở thành bạn gái.
Dei Matsuri (出井祭李)
Bạn gái thứ 27 của Rentarou. Matsuri là một học sinh trung học năm thứ nhất có nửa dòng máu Anh thông qua mẹ cô. Cô ấy nói bằng phương ngữ Tokyo Shitamachi. Cô ấy thích làm việc tại các lễ hội Matsuri, lần đầu gặp Rentarō khi đang làm món yakisoba cùng ông bà cô. Lúc đầu, cô ấy khó chịu vì tin rằng Rentarou chỉ xem lễ hội như một phương tiện để ghi điểm cho các cô gái thay vì tận hưởng lễ hội. Sau khi chứng minh rằng mình thực sự thích lễ hội, Matsuri phải lòng Rentarou và ngỏ ý muốn trở thành bạn gái.
Các nhân vật khác
Asakawa (浅川, Asakawa)
Lồng tiếng bởi: Satomi Amano
Cô gái thứ 100 đã từ chối Rentarou sau khi anh tỏ tình với cô.
Người bạn vô danh A (友人A, Yūjin Ei)
Lồng tiếng bởi: Misuzu Yamada
Bạn của Rentarou cho đến khi họ tốt nghiệp cấp hai.
Thần tình yêu (神様)
Lồng tiếng bởi: Shigeru Chiba(Tiếng Nhật); Kenny James (Tiếng Anh)
Vị thần của một ngôi đền địa phương, người đã thông báo cho Rentarou rằng do anh ấy thường xuyên cầu nguyện tại ngôi đền của mình, và một phần do anh ấy bị phân tâm khi xem Castle in the Sky, anh ấy đã quá may mắn cho Rentarou được gặp 100 người bạn tâm giao trong thời trung học của mình.
Baba An (馬場杏)
Lồng tiếng bởi: Kujira
Hiệu phó trường trung học của Rentarou. Cô ấy có ngoại hình rất kỳ lạ và được biết đến với việc đuổi theo những học sinh có hành vi sai trái trong trường, thường trừng phạt các nam sinh bằng những nụ hôn cẩu thả. Cô ấy có xu hướng chạy bằng bốn chân một cách đáng sợ.
Thủ lĩnh Liên minh Gorira
Lồng tiếng bởi: Saitou Kimiko
Lãnh đạo của Liên minh Gorira (呉莉羅連合, Gorira Rengō), một băng đảng đua xe đạp Nhật Bản được thành lập vào đầu thế kỷ 21. Cô ấy là một người phụ nữ vạm vỡ giống một con khỉ đột. Cô ấy đang hẹn hò với một chàng trai nhỏ nhắn mà cô ấy đã cứu khỏi một chiếc ô tô chạy quá tốc độ và đã yêu trong vụ việc.
Bố của Hakari (羽香里の父)
Chàng trai giấu tên mắc bệnh nan y mà Hahari đã yêu khi cô còn là một nữ sinh. Trước khi chết, Hahari đã được ông thụ tinh vào năm 13 tuổi, dẫn đến sự ra đời của Hakari. Rentarō gặp linh hồn của mình sau khi giải cứu Hakari và khiến Hahari yêu anh ấy.
Iin Hiro/Chú Hiro (ヒロ叔父さん)
Cha của Chiyo và chú của Rentarou. Hiro chấp thuận mối quan hệ của Chiyo với Rentarō mặc dù là anh em họ vì Rentarō đã đẩy anh ta ra khỏi đường một chiếc ô tô đang chạy quá tốc độ khi Rentarō còn là một cậu bé.
Kijineta Toruru (雉根田 兎留々)
Chủ tịch câu lạc bộ báo chí của trường, người cố gắng lấy ảnh của Meme cho tờ báo của trường, mặc dù trong câu chuyện mà cô ấy xuất hiện, Mimimi đã hỗ trợ giúp Meme trốn.
Quali/Kuori Tina (九織 ティーナ)
Một cựu thần tượng nhạc pop, người đã đào tạo các bạn gái của Rentarō thành thần tượng, chỉ bỏ rơi họ khi những cô gái chất lượng hơn từ chối bỏ những cô gái kém chất lượng hơn khỏi sân khấu. Tên của cô ấy theo thứ tự tiếng Nhật là một cách chơi chữ của "chất lượng".
Nozawa Yukiko/Nozawa-sensei (野澤先生)
Người vẽ minh họa cho manga. Cô ấy xuất hiện lần đầu ở chương 69 khi Rentarō đến thăm cô ấy để giúp vẽ manga để bạn gái mới của anh ấy có thể thực hành xoa bóp cho đàn ông, và sau đó xuất hiện trong chương 94.
Akogare và Manesu
Hai bạn học cùng trường của Chiyo thường đến công viên gần đó hút thuốc. Chiyo và Naddy đều cố gắng ngăn cản họ làm như vậy bằng các phương pháp của riêng họ. Ở cuối chương trình họ xuất hiện, tiết lộ rằng họ chỉ giả vờ hút thuốc.
Cha mẹ của Kusuri (楠莉の父母)
Con trai và con dâu của Yaku, giống như con gái của họ, cả hai đều phát triển ma túy. Lần đầu tiên được giới thiệu trong Chương 74, họ cũng uống thuốc trường sinh thất bại của Kusuri và kết quả là xuất hiện như những đứa trẻ 8 tuổi. Không giống như Yaku, cha mẹ của Kusuri đã uống một loại thuốc trường sinh tương tự như Kusuri, do đó họ có thể tạm thời trở lại hình dáng thật của mình bằng loại thuốc vô hiệu hóa. Đặc biệt, cha của Kusuri rất giỏi về các loại thuốc tăng cường cơ thể mà thuốc không bị vô hiệu hóa. Giống như Kusuri và Yaku, họ cũng kết thúc câu nói của mình bằng một biến thể của các câu nói trong lời nói, bố của Kusuri kết thúc bằng "Nanosa" (なのさ) và mẹ của Kusuri kết thúc bằng "Nanoyo" (なのよ).
Tập đoàn Nghiêm túc
Một công ty do một người họ hàng xa của Iku đứng đầu. Các sản phẩm và dịch vụ của họ có chất lượng cao đến mức đáng kinh ngạc đến mức những người không biết về hoạt động của họ thường gặp phải những tình huống rắc rối.
Thị trưởng thị trấn Tôi-ghét-nó
Một thị trưởng thành phố Nhật Bản. Bất chấp nỗi ám ảnh về lễ hội thể thao hàng năm, thị trấn của ông vẫn chưa giành được chiến thắng dù chỉ một lần. Ông ấy xem Tôi-yêu-nó như một thị trấn đối thủ.
Mẹ của Shizuka (静の母, Shizuka no Haha)
Lồng tiếng bởi: Madoka Yonezawa
Mẹ của Shizuka. Bà thường xuyên bạo hành con gái mình do con gặp khó khăn trong giao tiếp bằng lời nói. Lần đầu xuất hiện trong một đoạn hồi tưởng ngắn ở chương 3, sau đó cô xuất hiện ở chương 134 và 135 khi phát hiện ra việc Shizuka sử dụng ứng dụng chuyển văn bản thành giọng nói để nói chuyện thay cô, và cô đã tịch thu điện thoại của mình do tin rằng Rentarou đã kích hoạt. Shizuka bằng cách cung cấp ứng dụng cho cô ấy. Sau khi Rentarou đối mặt với cô ấy về điều này, cô ấy đã nhận ra sai lầm trong cách làm của mình và trả lại điện thoại cho con gái mình.
|
19841351
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Judith
|
Judith
|
Judith là một nữ nhân góa phụ được kể trong Kinh Thánh. Vụ lấy thủ cấp Holofernes được kể lại trong Sách Judith, và là chủ đề của nhiều bức tranh và tác phẩm điêu khắc từ thời Phục hưng và thời kỳ Baroque. Trong câu chuyện, Judith là một góa phụ xinh đẹp đã lẻn vào lều của Holofernes và nhân lúc ông này say ngủ đã ra tay hạ thủ lấy đi thủ cấp của vị tướng Assyria khi ông chuẩn bị chỉ huy đạo quân phá hủy thành phố Bethulia quê hương của Judith. Trong hội họa, nghệ thuật châu Âu, Judith rất thường xuyên được khắc họa. Đối với nhiều nghệ sĩ và học giả, vẻ nữ tính bị giới tính hóa của Judith đôi khi kết hợp trái ngược với sự hung hãn nam tính khi Judith là một trong những người phụ nữ đức hạnh mà Van Beverwijck đã nhắc đến và một ví dụ phổ biến về chủ đề biểu tượng Quyền lực nữ giới. Nhiều người cho rằng lá Q cơ được liên hệ nhiều nhất với Judith vì khác với lá bài K cơ được gắn với vị vua cụ thể, lá bài Q cơ không nêu đích danh bất cứ một vị hoàng hậu nào nhưng theo trang Playing Card Factory cho hay nhân vật in trên lá Q cơ của bộ bài Tây (tú lơ khơ) có thể là góa phụ Judith trong Kinh thánh.
Câu chuyện
Câu chuyện nổi tiếng của Judith được tìm thấy trong một số tác phẩm về Septuagint là bản dịch tiếng Hy Lạp của Kinh thánh Do Thái là nền tảng cơ bản của Kinh Cựu ước. Theo cuốn Sách Judith là một trong những tác phẩm về Septuagint, câu chuyện bắt đầu dưới thời vua Nebuchadnezzar là người trị vì vương quốc Assyria vốn là vùng đất nói tiếng Do Thái, bao gồm miền bắc Iraq, đông bắc Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ và các khu vực rìa phía tây bắc Iran ngày nay. Vua Nebuchadnezzar lệnh cho Holofernes là vị tướng giỏi nhất của mình đi viễn chinh, trừng phạt người Israel (chủ yếu là người Do Thái) vì không chịu tôn thờ ông mà Nebuchadnezzar xem đó là hành vi bất kính. Quân đội của tướng Holofernes nhanh chóng bao vây thành phố Bethulia của Israel, nơi góa phụ Judith sinh sống.
Người Israel tôn thờ và cầu nguyện để được đấng tối cao cứu thoát khỏi chiến tranh. Nhưng khi nguồn nước và lương thực dần cạn kiệt, họ mất dần niềm tin vào đấng tối cao. Các trưởng lão trong thành tuyên bố chờ thêm 5 ngày để xem có chuyển biến mới hay không. Nếu không, họ sẽ đầu hàng quân đội của tướng Holofernes. Biết được điều này, Judith cầu nguyện đấng tối cao và bắt tay thực hiện một kế hoạch trong 5 ngày. Cảm thương cho thân phận người dân trước gót giày xâm lăng và vững tin vào Chúa, Judith đã tự vấn tóc, mặc lên người bộ đồ đẹp nhất và bước vào doanh trại địch, giả đò mang theo thông tin cho Holofernes. Judith cùng tỳ nữ tới căn phòng, cởi bỏ chiếc khăn và lớp quần áo góa phụ, tắm rửa và bôi dầu thơm lên người, chải tóc, đội vương miện và mặc trang phục thường diện trong lễ hội lúc chồng bà còn sống, đeo vòng chân, vòng tay, lập lắc, vòng tai, nhẫn, cùng nhiều đồ trang sức khác càng khiến cho vẻ đẹp của Judith thêm lộng lẫy.
Nghe tin báo, Holofernes bước ra khỏi lều và nhìn kỹ người phụ nữ trước mặt. Vị tướng của người Assyria và các tướng phò tá đều bất ngờ trước nhan sắc của Judith, viên tướng mời cô ăn tối và định tán tỉnh như lời Sách Judith: “Ông đắm đuối vì cô nên uống rất nhiều rượu; có lẽ suốt cả đời, chưa ngày nào ông uống nhiều như vậy” (Judith 12:20). Nhân lúc viên tướng ngủ say thì Judith bắt đầu mưu toan hành sự. Đoạn cô tiến đến phía đầu giường của tướng Holofernes, gỡ lấy thanh đại đao của ông, rồi lại gần giường, nắm lấy tóc ông. Cô nói: “Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa Israel, giờ đây xin ban sức mạnh cho con!”. Cô lấy hết sức bình sinh chém vào cổ ông hai nhát cho đầu lìa khỏi thân. Rồi cô lăn xác ông xuống đất, tháo mùng ra khỏi cọc. Một lát sau, cô đi ra và trao thủ cấp tướng Holofernes cho người nữ tỳ. Cô bỏ thủ cấp vào cái túi da đựng thức ăn; rồi cả hai cùng đi ra như thói quen vẫn làm khi đi cầu nguyện. Họ băng qua doanh trại, đi dọc theo khe, tiến lên núi Bethulia và đến cổng thành (Sách Judith 13:6-10).
Hình ảnh
Chú thích
Kinh Thánh
|
19841354
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Numan%20Kurtulmu%C5%9F
|
Numan Kurtulmuş
|
Numan Kurtulmuş (sinh ngày 23 tháng 3 năm 1959) là viện sĩ và chính khách người Thổ Nhĩ Kỳ. Trước đây, ông từng giữ nhiều chức vụ trong chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ như phó thủ tướng, Bộ trưởng Văn hóa và Du lịch, lãnh đạo của hai đảng Saadet Partisi và Halkın Sesi Partisi. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm chủ tịch Hội nghị Đại quốc dân Thổ Nhĩ Kỳ kể từ ngày 7 tháng 6 năm 2023.
Tham khảo
Sinh năm 1959
Nhân vật chính trị
Cựu sinh viên đại học Istanbul
Người Ünye
|
19841356
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%81n%20Phong%20Marathon
|
Tiền Phong Marathon
|
Tiền Phong Marathon, tên đầy đủ là Giải vô địch quốc gia marathon và cự ly dài Báo Tiền Phong, là giải đua marathon do Liên đoàn điền kinh Việt Nam phối hợp với báo Tiền Phong tổ chức hàng năm. Được tổ chức lần đầu vào năm 1958 Tiền Phong Marathon là giải marathon lâu đời nhất Việt Nam và là giải marathon duy nhất được đưa vào chương trình thi đấu điền kinh cấp quốc gia.
Tiền Phong Marathon thường được tổ chức vào cuối tháng Ba, mỗi năm đều thay đổi địa điểm tổ chức.
Kết quả
Lưu ý: Chỉ liệt kê các vận động viên nam và nữ chiến thắng cự ly full marathon (42km).
Tham khảo
Marathon
|
19841358
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salome
|
Salome
|
Salome (tiếng Do Thái: שְלוֹמִית, Shlomit, liên quan đến từ שָׁלוֹם, Shalom nghĩa là hòa bình, Σαλώμη) còn được gọi là Salome III là một công chúa Do Thái, con gái của Herod II, con trai của Herod Đại đế với công chúa Herodias. Cô là cháu gái của Herod Đại đế và là con gái riêng của Herod Antipas. Cô ấy được biết đến từ Kinh Thánh Tân Ước từ một lời kể của Flavius Josephus. Trong Tân Ước, con gái riêng của Herod Antipas muốn lấy thủ cấp của Gioan Baotixita. Theo Josephus, bà kết hôn lần đầu với chú của mình Philip Tetrarch, sau khi ông qua đời (năm 34 sau Công nguyên), bà kết hôn với anh họ Aristobulus của Chalcis, do đó trở thành nữ hoàng của Tiểu Armenia. Tuy nhiên, vì bà không được nêu tên trong Kinh thánh nên ý tưởng cho rằng cả hai mẹ con đều được đặt tên là Herodias đã trở nên phổ biến ở châu Âu thời kỳ đầu hiện đại.
Câu chuyện
Câu chuyện truyền thuyết xoay quanh chuyện nàng công chúa Salome xinh đẹp, rất được cưng chiều, một lần biết được nhà tiên tri Gioan dám chống đối, lên án tội ác của nhà vua Herod Antipas vốn là người đã giết chết anh trai để lấy chị dâu và lên ngôi, Salome đem lòng thương nhớ và mong muốn được đáp lại tình yêu. Nhưng tình yêu của Salome đã bị nhà tiên tri Gioan khước từ làm bẽ bàng danh giá đường đường là một công chúa được cưng chiều, rất đỗi kiêu kỳ nhưng nay lại bị một kẻ tội nhân như Gioan từ chối tình yêu, Salome oán hận, tìm cách trả thù tình.
Công chúa Salome biết nhà vua Herod Antipas rất mê mẩn điệu múa của mình (điệu nhảy Femme fatale), nàng mặc cả và rồi đồng ý nhảy múa cho vua xem và ra điều kiện rằng nhà vua phải ra lệnh giết chết nhà tiên tri Gioan vì đã đắc tội với nàng, không biết làm đẹp lòng nàng công chúa này. Cuối cùng nàng cũng trút được oán hận là đã giết chết kẻ dám cả gan không đáp lại tình yêu của mình. Nhà tiên tri chết đi, Salome vẫn không nguôi được tình yêu da diết, nàng ôm chiếc đầu của Gioan vào lòng, vật vã, đau đớn tột cùng, tâm thần bấn loạn như điên như dại, rồi cũng chính cái chết của Gioan đã thổi bùng ngọn lửa căm phẫn của dân chúng, đứng lên chống đối nhà vua Herod Antipas quyết liệt hơn nữa.
Chú thích
Tham khảo
Gillman, Florence Morgan (2003). Herodias: At Home in the Fox's Den. Interfaces. Collegeville, Minn.: Liturgical Press.
Claudel, Paul-André (2013). Salomé: Destinées imaginaires d'une figure biblique, Paris: Ellipses.
Kinh Thánh
Sinh thập niên 10
Mất thập niên 60
Văn hóa dân gian Kitô giáo
Vua chư hầu La Mã
|
19841362
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Epsilon%20Eridani%20b
|
Epsilon Eridani b
|
Epsilon Eridani b, còn gọi là AEgir , là một ngoại hành tinh cách Trái Đất xấp xỉ 10,5 năm ánh sáng. Nó quay quanh sao Epsilon Eridani trong chòm sao Ba Giang ở khoảng cách 3,5 AU trong 7,6 năm và có khối lượng bằng 0,6 lần Sao Mộc. Hành tinh này được phát hiện vào năm 2000, và cho đến nay vẫn là hành tinh duy nhất đã được xác nhận của hệ hành tinh này. , cả Extrasolar Planets Encyclopaedia và NASA Exoplanet Archive đều liệt kê hành tinh này là 'đã xác nhận'.
Tên gọi
Hành tinh này và sao chủ của nó là một trong những hệ hành tinh được chọn bởi Liên đoàn Thiên văn Quốc tế cho dự án NameExoWorlds, một quá trình để công chúng chọn ra tên riêng cho các ngoại hành tinh và sao chủ (đối với những chủ thể chưa có tên riêng). Quá trình này bao gồm việc đề cử và bỏ phiếu công khai để chọn ra cái tên mới. Tháng 12 năm 2015, IAU thông báo những cái tên thắng cuộc là AEgir (phát âm là [Anh hóa] hoặc , gần giống với từ Bắc Âu cổ là Ægir) (cho hành tinh) và Ran (cho sao chủ của nó). James Ott, 14 tuổi, chính là người đề xuất những tên gọi này.
Vệ tinh Aegir của Sao Thổ cũng được đặt tên theo nhân vật thần thoại Ægir, và có cách đánh vần khác nhau chỉ bởi cách viết hoa.
Phát hiện
Một nhóm các nhà khoa học Canada đã nghi ngờ về sự tồn tại của Epsilon Eridani b vào đầu thập niên 1990, nhưng những quan sát của họ lại không đủ chắc chắn để khẳng định điều đó. Sau này, vào ngày 7 tháng 8 năm 2000, hành tinh chính thức được phát hiện bởi một nhóm các nhà khoa học do Artie Hatzes dẫn đầu. Họ cho rằng hành tinh này có khối lượng bằng 1,2 ± 0,33 lần Sao Mộc, với khoảng cách trung bình tới sao chủ là 3,4 AU. Những người quan sát, trong đó có Geoffrey Marcy, cho rằng cần có thêm thông tin về hành vi nhiễu Doppler của ngôi sao được tạo ra bởi từ trường lớn và biến thiên của nó trước khi có thể xác nhận sự hiện diện của hành tinh này.
Năm 2006, Kính viễn vọng không gian Hubble đã thực hiện các phép đo thiên văn và xác nhận sự tồn tại của hành tinh. Các quan sát này chỉ ra rằng AEgir có khối lượng gấp 1,5 lần Sao Mộc và nằm trên mặt phẳng của đĩa bụi xung quanh ngôi sao. Ngoài ra, hành tinh này có quỹ đạo lệch tâm với độ lệch là 0,25 hoặc 0,7.
Trong khi đó, Kính viễn vọng không gian Spitzer đã phát hiện một vành đai tiểu hành tinh cách ngôi sao khoảng 3 AU. Năm 2009, một nhóm các nhà thiên văn học tuyên bố rằng độ lệch tâm được đề xuất của hành tinh và vành đai này không nhất quán: hành tinh có thể băng qua vành đai và nhanh chóng dọn dẹp các vật chất của nó. Epsilon Eridani b và vành đai bên trong có thể được điều hòa nếu vật chất của vành đai đó đến từ vành đai sao chổi bên ngoài (cũng được biết là có tồn tại).
Các nhà thiên văn học tiếp tục thu thập và phân tích dữ liệu vận tốc xuyên tâm, đồng thời tinh chỉnh các giới hạn trên có được từ non-detection (tạm dịch: phi phát hiện) thông qua phương pháp chụp ảnh trực tiếp, đối với Epsilon Eridani b. Một bài báo được công bố vào tháng 1 năm 2019 đã cho thấy giá trị độ lệch tâm quỹ đạo nhỏ hơn các ước tính trước đây, vào khoảng 0,07, phù hợp với quỹ đạo gần tròn và rất tương đồng với độ lệch tâm của quỹ đạo Sao Mộc là 0,05. Điều này đã giải quyết vấn đề về sự ổn định đối với vành đai tiểu hành tinh bên trong. Các phép đo được cập nhật cũng bao gồm những ước tính mới cho khối lượng và độ nghiêng của hành tinh, vào khoảng 0,78 lần Sao Mộc nhưng do độ nghiêng đã bị ràng buộc kém ở 89°, nên đây chỉ là ước tính sơ bộ về khối lượng tuyệt đối. Nếu thay vào đó, hành tinh chuyển động cùng độ nghiêng với đĩa sao (34°), như Benedict và đồng nghiệp từng đề xuất vào năm 2006, khối lượng của nó sẽ là 1,19 lần Sao Mộc.
Sử dụng dữ liệu thu thập được từ Kính thiên văn robot của Đài quan sát Hải quân Mỹ (URAT), cộng với dữ liệu trước đó từ sứ mệnh Hipparcos và dữ liệu Gaia EDR3 vừa được công bố, một nhóm các nhà khoa học tại Đài quan sát Hải quân Mỹ tin chắc rằng họ đã xác nhận sự tồn tại của một ngoại hành tinh với chu kỳ dài quay quanh Epsilon Eridani.
Một bài báo xuất bản vào tháng 10 năm 2021 xác định rằng, sử dụng các phép đo thiên văn tuyệt đối từ Hipparcos, dữ liệu Gaia DR2 và các phép đo vận tốc xuyên tâm mới từ những bức ảnh sử dụng vortex coronagraph Ms-band Keck/NIRC2, Epsilon Eridani b có khối lượng bằng 0,65 lần Sao Mộc, độ lệch tâm gần bằng 0,055, khoảng cách trung bình đến sao chủ là khoảng 3,53 AU và độ nghiêng là 78°. Những phát hiện tương tự đã được công bố trong một bài báo vào tháng 7 năm 2021, xác định khối lượng tối thiểu của nó là 0,651 lần Sao Mộc, bán trục lớn của hành tinh là 3,5 AU với độ lệch tâm là 0,044. Một bài báo khác vào tháng 3 năm 2022 cho kết quả độ nghiêng là 45°, thấp hơn các ước tính trước đây, với khối lượng bằng 0,63 lần Sao Mộc và độ lệch tâm là 0,16.
Xem thêm
47 Ursae Majoris b
51 Pegasi b
Danh sách các ngoại hành tinh gần nhất
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Epsilon Eridani b tại Bách khoa toàn thư về các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
Epsilon Eridani b tại NASA Exoplanet Archive. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
Chòm sao Ba Giang
Ngoại hành tinh phát hiện năm 2000
Hành tinh khổng lồ
Hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời
Chòm sao Ba Giang
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.