id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19843200
https://vi.wikipedia.org/wiki/Em%20mu%E1%BB%91n%20l%C3%A0m%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20n%E1%BB%95i%20ti%E1%BA%BFng
Em muốn làm người nổi tiếng
Em muốn làm người nổi tiếng là bộ phim điện ảnh thể loại âm nhạc, chính kịch của Việt Nam phát hành năm 2008, phim được đạo diễn bởi Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Đức Việt từ kịch bản của cựu ca sĩ Hà Anh Thu. Bộ phim giành được giải khuyến khích của Giải Cánh diều 2007. Ba nhân vật chính của phim do những người lần đầu tham gia đóng phim thể hiện: Đan Lê, Hồng Kim Hạnh, Thanh Vân cùng một số nam diễn viên đã có đôi chút ấn tượng với khán giả: Minh Tiệp, Lê Văn Anh và Thanh Tùng. Em muốn làm người nổi tiếng được tổ chức họp báo ra mắt vào ngày 26 tháng 01 năm 2008 tại Diamond Plaza, Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung Ba nữ ca sĩ trẻ Nhung, Trang, Vân vừa tốt nghiệp Trường Nhạc và lập thành một ban nhạc, khi không tìm được thành công cả nhóm đã tách ra tìm sự nghiệp riêng cho mỗi người. Nhung dựa vào bầu sô đầy uy lực để được xuất hiện nhiều trước khán giả. Trang thì bám vào một đại gia, để chọn con đường hát ở phòng trà. Riêng Vân chọn con đường ca nhạc thính phòng với một nhạc sĩ có tên tuổi. Mỗi người đều phải trả giá cho con đường đến với thành công của riêng mình. Phân vai Đan Lê vai Tuyết Nhung Hồng Kim Hạnh vai Diệu Vân Trần Thanh Vân vai Linh Trang Lê Văn Anh vai Tuấn Huy Thanh Tùng vai Hưng Minh Tiệp vai Tân Sản xuất Đội ngũ sản xuất Ban đầu, Giám đốc sản xuất Nguyễn Thị Hồng Ngát định mời Vũ Xuân Hưng làm đạo diễn bộ phim, vì tiến độ sản xuất chậm chạp nên Giám đốc sản xuất quyết định thay đạo diễn khác. Nhà quay phim NSƯT Nguyễn Đức Việt được chọn vào vị trí đạo diễn, đây là lần đầu ông giữ vai trò đạo diễn một bộ phim điện ảnh. Kịch bản gốc của tác giả Hà Anh Thu, người từng có thời gian 6 năm là ca sĩ. Kịch bản đã bị hội đồng kiểm duyệt của Cục Điện ảnh lãng quên suốt 3 năm, đến khi bà Nguyễn Thị Hồng Ngát gần về hưu, kịch bản mới được bà phát hiện ra. Ban đầu ca sĩ Nhã Kỳ được chọn vào nhân vật Nhung, nhưng vì cô bận lưu diễn tại Đức nên Đan Lê - biên tập viên Dự báo thời tiết của Đài Truyền hình Việt Nam lúc bấy giờ, cũng từng là một ca sĩ - được chọn thay thế. Trước đấy, Đan Lê được mời đóng vai Vân, nhưng vì trong phim nhân vật này mới 16 tuổi, khá trẻ so với cô nên cô đã từ chối. Ngoài Đan Lê, Thanh Vân cũng là một ca sĩ, họ từng là thành viên của nhóm Ước mơ đến vào khoảng năm 2003-2004. Bối cảnh Ê kíp đã đi tìm bối cảnh trong suốt ba tháng, tiêu tốn khoảng 50 triệu. Bối cảnh do họa sĩ Vũ Huy thiết kế, bộ phim được quay tại chùa Trầm, những tụ điểm ca nhạc lớn ở Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh, phù hợp với hoàn cảnh sống của giới ca sỹ thời hiện đại. Kịch bản gốc khi được duyệt thì chỉ có bối cảnh tại Hà Nội, nhưng trong quá trình làm phim, đoàn làm phim nhận thấy rõ phải đưa các nhân vật của phim vào bối cảnh miền Nam như đúng tình hình thực tế. Âm nhạc Phần âm nhạc do nhạc sĩ Huy Tuấn đảm nhiệm với ca khúc anh sáng tác mới, dành riêng cho bộ phim: Khúc giao mùa. Ngoài ra, một vài ca khúc của Võ Thiện Thanh cũng được sử dụng trong phim. Mức cát xê cho Huy Tuấn khoảng gần 100 triệu đồng. Phim sử dụng trực tiếp các ca khúc Anh Trôi Về Em, Trái Tim Luôn Gần Nhau, Hãy Cho Em Gần Bên Anh do các ca sĩ Phương Linh, Phương Anh, Phương Thu và Kim trình bày. Âm thanh của phim được làm hậu kỳ tại Thái Lan với kinh phí khoảng 400 triệu đồng. Sản xuất Tổng kinh phí sản xuất phim ước tính 2,7 tỷ đồng, trong đó Nhà nước hỗ trợ 1,8 tỷ đồng (70%). Bộ phim khởi quay ngày 15 tháng 7 năm 2007 và dự định ra mắt vào dịp Tết Nguyên Đán 2008. Bộ phim chỉ giữ lại 50% đến 60% tình tiết của kịch bản gốc, bộ phim theo đó cũng chứa đựng góc nhìn tích cực hơn về giới nghệ thuật. Quá trình quay phim diễn ra trong hai tháng. Phát hành Khi bộ phim Giấc mơ không kịp chiếu Tết thì bộ phim Em muốn làm người nổi tiếng mới được đôn ngày chiếu từ 14 tháng 2 sang 7 tháng 2 năm 2008. Phim do BHD độc quyền phát hành trong 5 năm. Từ khi chưa ra rạp, bộ phim đã bán được tám bản cho quân đội. Cũng như một số phim điện ảnh ra cùng năm, Em muốn làm người nổi tiếng cũng được phát hành Album CD riêng. Tham khảo Phim năm 2008 Phim Việt Nam Phim tiếng Việt Phim và người giành giải Cánh diều Phim của Hãng phim Hội Điện ảnh Việt Nam
19843208
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20%E1%BB%9F%20San%20Fernando%201971
Động đất ở San Fernando 1971
Thể loại:Địa chất quận Los Angeles, California Thể loại:Thảm hỏa tại Los Angeles Thể loại:Động đất năm 1971 Thể loại:Bài viết sử dụng Chú thích ANSS Thể loại:Tọa độ trên Wikidata Thể loại:M w
19843209
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20San%20Fernando%201971
Động đất San Fernando 1971
Động đất San Fernando 1971 () là trận động đất xảy ra vào 06:00:41 (theo giờ địa phương), ngày 9 tháng 2 năm 1971. Trận động đất có cường độ 6.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 8,4 km. Hậu quả trận động đất đã làm 58-65 người chết, 200-2.000 người bị thương. Tham khảo Động đất năm 1971
19843214
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0%20duy%20l%E1%BA%ADp%20tr%C3%ACnh
Tư duy lập trình
Tư duy lập trình là cách một người suy nghĩ để đưa ra những phương án giải quyết tối ưu cho những vấn đề mà họ đang gặp phải trong lập trình máy tính. Tư duy lập trình không chỉ áp dụng cho lĩnh vực lập trình, mà còn có thể được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống, chẳng hạn như giải quyết vấn đề, ra quyết định, và sáng tạo. Tư duy lập trình bao gồm các kỹ năng sau: Phân tích vấn đề: Xác định các thành phần của vấn đề và mối quan hệ giữa chúng. Tạo ra các giải pháp: Đề xuất các cách khác nhau để giải quyết vấn đề. Đánh giá các giải pháp: Xem xét các ưu và nhược điểm của từng giải pháp để chọn ra giải pháp tốt nhất. Thực hiện giải pháp: Chuyển đổi giải pháp thành mã code hoặc các hành động cụ thể. Tham khảo Tư duy
19843219
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cheick%20Timit%C3%A9
Cheick Timité
Cheick Aymar Timité (sinh ngày 20 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ chuyên nghiệp người Bờ Biển Ngà chơi ở vị trí tiền đạo chạy cánh hoặc tiền đạo cho câu lạc bộ V.League 1 Thành phố Hồ Chí Minh. Sự nghiệp câu lạc bộ Timité bắt đầu chơi bóng ở tuổi 15 với ES Nanterre trước khi chuyển đến học viện trẻ của Ajaccio. Anh ấy ra mắt Ajaccio trong trận hòa 0–0 Ligue 2 với Auxerre vào ngày 19 tháng 2 năm 2016. Timité gia nhập Amiens vào năm 2016. Do các vấn đề pháp lý liên quan đến việc chuyển nhượng, anh ấy không thể chơi cho Amiens trong năm đầu tiên và được cho Dunkerque mượn với thời hạn 1 năm trong mùa giải 2017–18. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, Timité chuyển đến Tây Ban Nha và gia nhập Segunda División bên CF Fuenlabrada theo hợp đồng một năm. Ngày 31 tháng 1 tiếp theo, chỉ sau một trận đá chính trong bảy trận tổng thể, anh đã chấm dứt hợp đồng. Cùng ngày, Timité đã ký hợp đồng với Valenciennes cho đến cuối mùa giải. Vào ngày 30 tháng 9 năm 2023, Timité ký hợp đồng một năm với câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh của V.League 1 . Sự nghiệp quốc tế Timité ra mắt với Đội tuyển bóng đá U23 Bờ Biển Ngà trong một cặp trận đấu trong khuôn khổ Vòng loại Cúp bóng đá U-23 các quốc gia châu Phi 2019 vào tháng 3 năm 2019. Danh hiệu U23 Bờ Biển Ngà Cúp bóng đá châu Phi 2019: á quân 2019 Tham khảo Liên kết ngoài Eurosport Profile Cầu thủ bóng đá nam Bờ Biển Ngà Nhân vật còn sống Sinh năm 1997
19843231
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mohsin%20Khan
Mohsin Khan
Mohsin Khan (tên khai sinh là Waseem Khan, sinh ngày 26 tháng 10 năm 1991 tại Nadiad, Gujarat, Ấn Độ) là một nam diễn viên người Ấn Độ. Anh được biết đến qua vai diễn Kartik Goenka trong bộ phim Tình yêu diệu kỳ. Tiểu sử Mohsin Khan sinh ngày 26 tháng 10 năm 1991 trong một gia đình theo đạo Hồi ở Nadiad, Gujarat, Ấn Độ. Khi sinh ra, anh tên là Waseem, tuy nhiên sau đó, cha anh quyết định đổi tên anh thành Mohsin Khan. Anh từng học tại Học viện Trẻ em ở Mumbai và học ngành kỹ thuật tại Đại học Bách khoa Thakur, Mumbai, nhận bằng Kỹ thuật Điện tử Viễn thông, đồng thời anh cũng có bằng Cử nhân Nghiên cứu quản lý tại Trường Cao đẳng Mithibai. Sự nghiệp Mohsin Khan bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật với tư cách là trợ lý đạo diễn cho bộ phim Koyelaanchal. Anh có vai chính đầu tay trong bộ phim Nisha Aur Uske Cousins nhưng anh trở nên nổi tiếng qua vai diễn Kartik Goenka trong bộ phim Tình yêu diệu kỳ và đóng chung với Shivangi Joshi. Sự nổi tiếng trong giới truyền thông Mohsin Khan được tạp chí Eastern Eye đưa vào danh sách 50 người đàn ông quyến rũ nhất châu Á, xếp hạng thứ 17 vào năm 2017 và hạng 6 vào năm 2018. Anh cũng được tạp chí The Times of India đưa vào danh sách những người đàn ông được khao khát nhất màn ảnh nhỏ với vị trí thứ 46 vào năm 2018, thứ 43 vào năm 2019 và hạng 5 vào năm 2020. Danh sách tác phẩm Phim truyền hình Vai diễn khách mời Phim ca nhạc Giải thưởng và đề cử Xem thêm Shivangi Joshi Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1991 Nhân vật còn sống Nam diễn viên truyền hình Ấn Độ Nam diễn viên từ Mumbai
19843237
https://vi.wikipedia.org/wiki/FC%20Utrecht
FC Utrecht
Câu lạc bộ bóng đá Utrecht () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Hà Lan có trụ sở tại Utrecht. Câu lạc bộ thi đấu ở Eredivisie, giải đấu hàng đầu của bóng đá Hà Lan và chơi các trận đấu trên sân nhà tại sân vận động Galgenwaard. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1970 dưới hình thức sáp nhập giữa các câu lạc bộ địa phương VV DOS, USV Elinkwijk và Velox. Kể từ đó câu lạc bộ đã vô địch ba giải cúp quốc gia KNVB Cup vào các năm 1985, 2003 và 2004, đồng thời giành được Johan Cruyff Shield vào năm 2004 với tư cách là câu lạc bộ đầu tiên ngoài Bộ ba truyền thống của Hà Lan. Utrecht cũng là câu lạc bộ duy nhất ngoài Bộ ba chưa bao giờ bị xuống hạng ở giải đấu hàng đầu Eredivisie. Utrecht đã thi đấu 15 mùa giải ở châu Âu, lọt vào vòng bảng của UEFA Cup 2004–05 và UEFA Europa League 2010–11, kết quả tốt nhất ở châu Âu của họ. Lịch sử Danh hiệu Quốc gia Vô địch quốc gia (cấp độ cao nhất của bóng đá Hà Lan) Vô địch: 1957–58 (với tên VV DOS) Á quân: 1953–54 (với tên VV DOS) Vô địch khu vực (cấp độ cao nhất của bóng đá Hà Lan trước 1956–57) Vô địch: 1953–54 (với tên VV DOS), 1955–56 (với tên USV Elinkwijk) Eerste divisie (cấp độ cao thứ hai của bóng đá Hà Lan) Á quân: 1964–65 (với tên USV Elinkwijk) Tweede Divisie (cấp độ cao thứ ba của bóng đá Hà Lan) Vô địch: 1961–62 (với tên Velox) Á quân: 1969–70 (với tên Velox, cùng với FC Wageningen nhưng trận đấu quyết định không bao giờ diễn ra vì sáp nhập) KNVB Cup Vô địch: 1984–85, 2002–03, 2003–04 Á quân: 1981–82, 2001–02, 2015–16 Khác: 2019–20 (trận chung kết bị hủy do đại dịch COVID-19) Johan Cruijff Schaal Vô địch: 2004 Á quân: 2003 Châu Âu Intertoto Cup/Summer Cup Đồng vô địch: 1978 Trang phục Cầu thủ Current squad Cho mượn Số áo giữ lại Ban huấn luyện Tham khảo FC Utrecht Câu lạc bộ bóng đá Hà Lan Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 1970 Khởi đầu năm 1970 ở Hà Lan
19843251
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20nghi%E1%BB%87p%20%C4%91%C3%A1nh%20b%E1%BA%A1c%20t%E1%BA%A1i%20Campuchia
Công nghiệp đánh bạc tại Campuchia
Đánh bạc tại Campuchia chính thức bị coi là bất hợp pháp theo Đạo luật nghiêm cấm hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc năm 1996, đưa tất cả các hình thức đánh bạc chưa được cấp phép ra ngoài khuôn khổ pháp luật và đưa ra các khung hình phạt từ xử phạt hành chính cho đến tù giam ngắn hạn, bất chấp việc Tổng cục Nhà giam của chính phủ Campuchia không liệt đánh bạc vào một trong 28 hành vi phạm tội có thể bị xử phạt bằng hình thức bỏ tù. Việc nghiêm cấm hành vi đánh bạc và tổ chức đánh bạc, mở rộng ra cả các hình thức đánh bạc trực tuyến, thì chỉ áp dụng cho các công dân là người Campuchia. Tính đến tháng 10 năm 2015, có tất cả 75 casino phục vụ du khách nước ngoài được vận hành bên trong lãnh thổ Campuchia, thu về xấp xỉ 29 triệu USD cho nhà nước trong 9 tháng đầu năm này và tạo ra thu nhập 2 tỷ USD đối với các sòng bài. Xem thêm Công nghiệp đánh bạc tại Ma Cao Tham khảo
19843256
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jeanne%20c%E1%BB%A7a%20Ph%C3%A1p
Jeanne của Pháp
Jeanne của Pháp hay Jeanne của Valois (tiếng Pháp: Jeanne de France/Jeanne de Valois; tiếng Tây Ban Nha: Juana de Francia/Juana de Valois; tiếng Anh: Joan of France/Joan of Valois; sinh 13 tháng 12 và mất 16 tháng 9 năm 1371 tại Béziers) là người con duy nhất của Philippe VI của Pháp vàZuria của Navarra. Tiểu sử Dù đã có hai con trai và bốn cháu trai để kế vị ngai vàng nước Pháp, nhưng Philippe VI của Pháp vẫn tái hôn với người vợ thứ hai là Zuria của Navarra. Zuria vốn được hứa hôn cho Vương tử Jean, sau là Jean II của Pháp. Tuy nhiên, vì bị hấp dẫn trước vẻ đẹp của nàng Vương nữ kém mình gần 40 tuổi, Phillippe VI đã kết hôn với Zuria vào ngày 29 tháng 1 năm 1350, chỉ một tháng rưỡi kể từ khi người vợ đầu là Jeanne xứ Bourgogne qua đời. Tuy nhiên cuộc hôn nhân giữa hai người kéo dài không lâu khi Philippe VI qua đời vào ngày 22 tháng 8 cùng năm, để lại người vợ góa đang mang thai. Chín tháng sau, vào tháng 5 năm 1351 , Zuria của Navarra đã hạ sinh một cô con gái là Jeanne. Jeanne, cùng với người anh cùng cha khác mẹ Jean II của Pháp và Philippe xứ Orléans, là những người con sống qua tuổi ấu thơ của Philippe VI của Pháp. Zuria của Navarra sau đó cùng con gái định cư ở Neaufles-Saint-Martin, gần Gisors. Theo chứng thư ngày 16 tháng 7 năm 1370, Jeanne được hứa hôn với với Vương tử Chuan, Công tước xứ Girona, sau là Chuan I của Aragón . Tuy nhiên, Jeanne đã qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1371 tại Béziers khi đang trên đường tới Perpignan để tiến hành lễ cưới. Một bà đỡ người Aragón tên là Bonanada bị buộc tội vô căn cứ rằng đã đầu độc Jeanne, nhưng Bonanada không bị kết tội. Jeanne được đặt trong một ngôi mộ ở Thánh đường Thánh Nazaire , sau đó được chuyển đến Nghĩa địa Vương thất của Vương cung thánh đường Thánh Denis. Tượng đài tưởng niệm ở Béziers đã bị phá hủy trong các cuộc chiến tranh tôn giáo vào ngày 6 tháng 5 năm 1562 , trong khi đó lăng mộ của Saint-Denis bị những người cách mạng xâm phạm vào ngày 17 tháng 10 năm 1793. Gia phả Tham khảo Nguồn tài liệu . . Vương nữ Pháp Vương tộc Valois Vương nữ Chôn cất tại Vương cung thánh đường Thánh Denis Sinh năm 1351 Mất năm 1371 Người Pháp thế kỷ 14
19843257
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anne%20Marie%20c%E1%BB%A7a%20Orl%C3%A9ans
Anne Marie của Orléans
Anne Marie của Orléans (27 tháng 8 năm 1669 – 26 tháng 8 năm 1728) là Vương hậu Sardegna thông qua hôn nhân với Vittorio Amadeo II của Sardegna. Anne Marie từng là nhiếp chính của Savoia trong thời gian chồng vắng mặt vào năm 1686 và trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Anne Marie cũng là một nhân vật quan trọng trong lịch sử nước Anh khi có quyền kế vị nước Anh theo phái Jacobite. Thiếu thời Anne Marie của Orléans là con gái của Philippe của Pháp, Công tước xứ Orléans, em trai của Louis XIV của Pháp, và Henrietta của Anh, con gái út của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Mẹ của Anne Marie, Henrietta đã qua đời tại Lâu đài Saint-Cloud chỉ mười tháng sau khi Anne Marie chào đời. Một năm sau, cha của Anne Marie tái hôn với Tuyển hầu Thân vương nữ 19 tuổi Elisabeth Charlotte xứ Pfalz, thường gọi là Liselotte. Liselotte có mối quan hệ rất thân thiết với các con gái riêng của chồng. Anne Marie có một người em trai khác mẹ là Philippe II, Công tước xứ Orléans, Nhiếp chính tương lai của Pháp, được sinh ra từ cuộc hôn nhân thứ hai của cha. Với tư cách là cháu nội của Louis XIII của Pháp, Vương tôn nữ Anne Marie được hưởng địa vị và đãi ngộ của Petite-fille de France (Cháu gái nước Pháp), đồng thời cũng là một Princess du sang (Tông nữ Pháp). Anne Marie được mẹ kế mô tả là "một trong những người phụ nữ đáng yêu và đức hạnh nhất". Hôn nhân Để duy trì ảnh hưởng của Pháp đối với các bang của Ý, bác của Anne Marie là Louis XIV đã sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa Anne Marie, bấy giờ được 14 tuổi, với Vittorio Amadeo II của Savoia, bấy giờ là Công tước xứ Savoia, sau này là Quốc vương Sicilia và Sardegna. Cả hai người đều là chắt của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici thông qua ba người con của hai vợ chồng . Ngoài ra, Vittorip Amadeo II còn là chắt của Henri IV thông qua người con trai ngoại hôn là César de Bourbon. Louis XIV là đồng minh của mẹ chồng tương lai của Anne Marie là Marie Jeanne, và ủng hộ Marie Jeanne tiếp tục nhiếp chính ngay cả khi thời kỳ nhiếp chính thực sự của Marie Jeanne đã chấm dứt vào năm 1680: Marie Jeanne, trên thực tế, đã không tự bỏ vị trí nhiếp chính cho đến trước đám cưới của con trai không lâu. Cuộc hôn nhân ủy nhiệm của Anne Marie và Vittorio Amadeo diễn ra tại Versailles vào ngày 10 tháng 4 năm 1684, một ngày sau khi thỏa thuận hôn nhân được ký kết. Chồng sắp cưới của Vương tôn nữ được đại diện bởi người anh họ là Louis-Auguste, Công tước xứ Maine. Louis XIV đã tặng cho Anne Marie một khoản hồi môn trị giá 900.000 đồng livres. Philippe I xứ Orléans đã đi cùng con gái đến tận Juvisy-sur-Orge (cách Paris 18 km về phía nam), và Bá tước phu nhân xứ Lillebonne đi cùng Anne Marie đến tận Savoia. Anne Marie gặp chồng tại Chambéry vào ngày 6 tháng 5, lễ cưới trực tiếp được cử hành tại lâu đài bởi Tổng giám mục Grenoble. Hai ngày sau, cặp vợ chồng mới cưới thực hiện nghi thức "Lễ rước Hân hoan " tiến vào Torino. Anne Marie đã sinh được tám người con, bắt đầu với Maria Adelaide, chỉ vài tháng sau sinh nhật thứ 16 của Anne Marie. Ca sinh nở gần như khiến Anne Marie phải mất mạng, thậm chí phải nhận lấy của ăn đàng. Maria Adelaide kết hôn với Louis của Pháp, Tiểu Trữ quân, cháu trai của Louis XIV vào năm 1697, và là mẹ của Louis XV của Pháp. Cuộc hôn nhân giữa Maria Adelaide và Louis được sắp xếp với sự hỗ trợ của Nguyên soái xứ Tessé và của Jeanne Baptiste d'Albert de Luynes, Bá tước phu nhân xứ Verrué, tình nhân của Vittorio từ năm 1689 đến năm 1700. Công tước phu nhân và Vương hậu Sau khi đến Savoia, Anne Marie chịu ảnh hưởng của người mẹ chồng thân Pháp cũng như là đồng minh quyền lực của Pháp tại triều đình Savoia. Anne Marie được miêu tả là một người con dâu ngoan ngoãn và khiêm tốn, luôn trung thành tuân theo những mong muốn của mẹ chồng Marie Jeanne.  Mối quan hệ thân thiết của Anne Marie với mẹ chồng không được chồng coi trọng, thậm chí coi đó là một mối đe dọa chính trị, vì từ lâu Vittorio Amadeo đã phản đối những ảnh hưởng của mẹ trong chính trị. Mối quan hệ cá nhân giữa Anne Marie và Vittorio Amadeo được cho là có phần nguội lạnh trong những năm đầu của cuộc hôn nhân, một phần do Vittorio Amadeo ngoại tình và phần vì Vittorio thất vọng khi vợ không sinh được con trai trong vài năm đầu cuộc hôn nhân. Anne Marie lần đầu nắm giữ chức vụ nhiếp chính khi Vittorio Amadeo vắng mặt khỏi Công qưốc vào năm 1686, và được cho là đã xử lý tốt công việc dù còn trẻ tuổi. Khi Vittorio Amadeo cắt đứt quan hệ với Pháp vào năm 1690, Anne Marie và các con đã đi cùng mẹ chồng rời thủ đô để phản đối. Bất chấp mối quan hệ hôn nhân với Pháp, Vittorio Amadeo vẫn gia nhập phe chống Pháp trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Anne Marie được chồng bổ nhiệm làm nhiếp chính của Savoia trong thời gian Vittorio vắng mặt vì chiến tranh, một nhiệm vụ mà Anne Marie đã đảm nhiệm một cách chín chắn và sáng suốt. Năm 1706, Torino bị quân Pháp bao vây dưới sự chỉ huy của Philippe II xứ Orléans, em trai cùng cha khác mẹ của Anne Marie, và lực lượng Tây Ban Nha của người cháu họ cũng như là con rể Felipe V của Tây Ban Nha. Anne Marie và các con trai Vittorio Amadeo Giovanni và Carlo Emanuele bị buộc phải trốn sang Genova. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1713 theo Hiệp ước Utrecht, Vittorio Amadeo nhận được Vương quốc Sicilia vốn trước đây thuộc sở hữu của Tây Ban Nha. Mẹ kế của Anne Marie đã viết rằng: Ta sẽ không được cũng không mất trong hòa bình, nhưng có một điều ta sẽ thích thú là được nhìn thấy Công tước phu nhân xứ Savoia của chúng ta trở thành Vương hậu, bởi vì ta yêu con bé như thể con bé là con ruột của ta... Khi Vittorio Amadeo lên đường đến Sicilia để đăng quang, ban đầu Anne Marie sẽ ở lại Savoia đảm nhiệm vai trò nhiếp chính, nhưng vì anh sợ rằng vợ của nghe theo mẹ, Vittorio Amadeo đã đưa vợ đi cùng. Do đó, Anne Marie đã đăng quang cùng chồng ở Sicilia. Sau cái chết của con trai cả vào năm 1715, Anne Marie và Vittorio Amadeo đều rơi vào tình trạng trầm cảm nặng và rời thủ đô để tang cho con trai, để lại Marie Jeanne đảm đương chính sự của hai vợ chồng. Năm 1720, tuy vẫn giữ tước hiệu Quốc vương nhưng Vittorio Amadeo buộc phải đổi Sicilia mà lấy Công quốc Sardegna có vị thế ít quan trọng hơn. Với tư cách là phối ngẫu của Vương tộc Savoia, Anne Marie được quyền sử dụng Cung điện Vương thất Torino, Palazzina di caccia di Stupinigi rộng lớn bên ngoài thủ đô và Vigna di Madama Reale. Vương hậu Anne Marie qua đời vì bị suy tim tại biệt thự của mình vào ngày 26 tháng 8 năm 1728, một ngày trước sinh nhật lần thứ 59. Anne Marie được chôn cất tại Vương cung thánh đường Superga ở Torino, nơi mà tất cả các con của Anne Marie, ngoại trừ hai người con gái Maria Adelaide và Maria Luisa, cũng được chôn cất. Người thừa kế của phái Jacobite Từ năm 1714 đến năm 1720, Anne Marie của Orléans là người thừa kế lâm thời của ngai vàng Anh, Scotland và Ireland của phái Jacobite. Yêu sách này được đưa ra bởi người anh họ của Anne Marie là James Francis Edward Stuart ("The Old Pretender", con trai của James II). Anne Marie trở thành nữ thừa kế lâm thời sau cái chết của con gái James II là Nữ vương Anne vào năm 1714, khiến Anne Marie và anh họ James là những người cháu duy nhất còn sống của Charles I của Anh. Vị trí người thừa kế của Anne Marie bị thay thế bởi sự ra đời của Charles Edward Stuart ( "Bonnie Prince Charlie", con trai của James Francis Edward Stuart) vào ngày 31 tháng 12 năm 1720. Khi Charles Edward và em trai Henry Benedict Stuart, đều qua đời mà không có hậu duệ hợp pháp, hậu duệ của Anne Marie của Orléans do đó đứng đầu trong thứ tự kế vị theo lập trường của phái Jacobite, tức là họ sẽ được thừa kế vương miện nước Anh nếu không có Đạo luật Dàn xếp, trong đó loại trừ những người theo đạo Công giáo là hậu duệ từ Vương tộc Stuart và Orléans và do đó, ngai vàng được kế vị bởi Vương tộc Hannover từ Đức. Hậu duệ Anne Marie của Orléans và chồng có với nhau tám người con, trong đó chỉ có ba người con sống đến tuổi trưởng thành và chỉ có một người lâu hơn Anne Marie: Maria Adelaide của Savoia (s. Turin, 6 tháng 12 năm 1685 – d. Versailles, 12 tháng 2 năm 1712), kết hôn với Louis của Pháp, Tiểu Trữ quân, con trai cả của Louis của Pháp, Đại Trữ quân. Maria Adelaide chính là mẹ của Louis XV của Pháp. Maria Anna của Savoia (sinh Torino, 14 tháng 8 năm 1687 – mất Turino, 5 tháng 8 năm 1690), qua đời khi còn nhỏ. Maria Luisa Gabriella của Savoia (sinh Torino, 17 tháng 9 năm 1688 – mất Madrid, 14 tháng 2 năm 1714), kết hôn với Felipe V của Tây Ban Nha, con trai thứ hai của Louis của Pháp, Đại Trữ quân. Con gái chết lưu (Torino, 19 tháng 7 năm 1691). Con trai chết lưu (Torino, ngày 9 tháng 11 năm 1697). Vittorio Amadeo Filippo Giuseppe, Thân vương xứ Piedmont (sinh Turin, 6 tháng 5 năm 1699 – mất vì bệnh đậu mùa, Turin, 22 tháng 3 năm 1715), qua đời ở tuổi 16. Carlo Emanuele III của Sardegna (sinh Torino, 27 tháng 4 năm 1701 – mất Torino, 20 tháng 2 năm 1773), Vua của Sardinia. Emanuele Filiberto của Sardegna (sinh Torino, 1 tháng 12 năm 1705 – mất Torino, 19 tháng 12 năm 1705), Công tước xứ Chablais; qua đời khi còn nhỏ. Gia phả Chú thích Tham khảo Nguồn tài liệu |- |- Vương nữ Pháp Vương tộc Orléans Vương tộc Bourbon (Pháp) Vương nữ Người Pháp thế kỷ 18 Người Pháp thế kỷ 17 Sinh năm 1669 Mất năm 1728
19843261
https://vi.wikipedia.org/wiki/%E1%BA%A2nh%20h%C6%B0%E1%BB%9Fng%20v%C4%83n%20h%C3%B3a%20c%E1%BB%A7a%20Taylor%20Swift
Ảnh hưởng văn hóa của Taylor Swift
Ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc người Mỹ Taylor Swift đã gây ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng bằng tài năng sáng tác âm nhạc, nghệ thuật chuyên môn sâu sắc, màn trình diễn ấn tượng, hình tượng nổi bật, góc nhìn trên mọi phương diện và các hoạt động tiêu biểu của cô. Các ấn phẩm thường gọi đây chính là Hiệu ứng Taylor Swift. Sau khi Swift ra mắt công chúng với tư cách là ca sĩ kiêm nhạc sĩ độc lập 16 tuổi vào năm 2006, cô đã dần dần tạo dựng được danh tiếng, thành công và sự tò mò của công chúng nhờ vào hoạt động sự nghiệp của bản thân, khiến cô trở thành một nhân vật mang biểu tượng văn hóa. Swift được vinh danh là người tiên phong của thế kỷ 21, nhờ vào khả năng làm nhạc đa dạng màu sắc, năng lực sáng tác bài hát và tầm quan sát nhạy bén trong các hoạt động kinh doanh. Cô chính là tấm gương truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ và doanh nhân trên toàn thế giới. Swift khởi nghiệp bằng chất nhạc đồng quê, rồi qua thời gian sau cô chuyển sang lấn sân vào thị trường nhạc pop và khám phá các phong cách alternative rock, indie folk cũng như điện tử, góp phần xóa mờ ranh giới giữa các thể loại âm nhạc. Các nhà phê bình đã đánh giá cô là một tinh hoa văn hóa sở hữu sự kết hợp hiếm thấy giữa thành công về mặt thương mại trên các bảng xếp hạng lớn nhỏ, và cô luôn nhận được không ít lời khen ngợi từ phía nhà phê bình cũng như sự ủng hộ nhiệt liệt của những người hâm mộ cô. Chính vì lẽ đó, Swift được cho là đã tác động rộng rãi trong và ngoài ngành công nghiệp âm nhạc. Nhờ vào chính đòn bẩy chính trị và kinh tế mạnh mẽ đó của bản thân, Swift đã tận dụng truyền thông xã hội để làm bật lên các vấn đề trong ngành công nghiệp âm nhạc nói riêng và trong xã hội muôn thuở nói chung. Chẳng hạn như: thúc đẩy cải cách Spotify, Apple Music, Ticketmaster, các bản hợp đồng thu âm và phân phối cũng như thu hút sự quan tâm đông đảo đến quyền của nghệ sĩ, quyền sở hữu tác phẩm, luật sở hữu trí tuệ, phê phán chủ nghĩa tư bản, lên án nạn phân biệt giới tính và phân biệt chủng tộc. Đồng thời, bản thân cô cũng là đối tượng bị truyền thông đeo bám và giật tít gây tranh cãi. Từ giai đoạn từ cuối kỷ nguyên album cho đến sự bùng nổ của mạng Internet, Swift đã là động lực thúc đẩy sự phát triển của việc phân phối, nhận thức và tiêu thụ âm nhạc xuyên suốt những thập kỷ 2000, 2010 và 2020. Các nhà báo đã nhận định những thành công thương mại liên tục và ổn định lâu dài của Swift là tiền lệ chưa bao giờ có, bởi Swift là người nắm trong tay những kỷ lục vô tiền khoáng hậu ở các khía cạnh doanh số bán album, doanh số bán kỹ thuật số, số lần phát trực tuyến, số lượt phát thanh, doanh số bán vinyl, thành tích bảng xếp hạng âm nhạc và doanh thu lẫn khâu tổ chức chuyến lưu diễn. Bloomberg Businessweek đã hô vang Swift là "The Music Industry" (Cả ngành công nghiệp âm nhạc), và đó cũng chính một trong nhiều danh hiệu âm nhạc đại chúng tiêu biểu nhất của cô. Theo lời mô tả của tạp chí Billboard, Swift là "một người kêu gọi ủng hộ, một biểu tượng phong cách, một chuyên gia tiếp thị, một nhạc sĩ xuất sắc, một người tạo động lực thúc đẩy các ranh giới về hình tượng sự nghiệp và một chiến binh đường trường phá từng kỷ lục một." Swift là chủ đề của nhiều nhà nghiên cứu học thuật, nghiên cứu truyền thông và phân tích ảnh hưởng văn hóa. Chủ đề xoay quanh cô thường tập trung vào chủ nghĩa nhạc pop lạc quan (poptimism), chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa tư bản, văn hóa mạng internet, văn hóa người nổi tiếng, chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa Mỹ, chủ nghĩa hậu hiện đại và các hiện tượng âm nhạc xã hội khác nhau. Nhiều học giả hàn lâm giải thích rằng Swift có thể thống trị nền văn hóa nhờ vào nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Các yếu tố này gồm có khả năng cảm thụ âm nhạc của Swift, chủ đề nghệ thuật chặt chẽ, sự nổi tiếng trên toàn thế giới và cho đến hình tượng trước công chúng đầy sức hấp dẫn ở mọi thế hệ và sự nhạy bén trong việc quảng bá âm nhạc của cô. Nhiều viện nghiên cứu học thuật và các trường đại học đã tổ chức những khóa học giảng giải về Taylor Swift. Các tác giả viết bài đã sử dụng tính từ "Swiftian" để mô tả các những tác phẩm dễ gợi nhớ đến Swift. Nổi tiếng và trở thành ngôi sao Taylor Swift chính là một trong những nghệ sĩ bán chạy nhất mọi thời đại. Cô là nữ ca-nhạc sĩ giàu nhất và là tỷ phú đầu tiên trong lịch sử âm nhạc có nguồn thu nhập chính đến từ âm nhạc (1,1 tỷ đô la Mỹ, tính đến cuối năm 2023). Cô đã phát hành tổng cộng 10 album phòng thu, Taylor Swift (2006), Fearless (2008), Speak Now (2010), Red (2012), 1989 (2014), Reputation (2017), Lover (2019), Folklore (2020), Evermore (2020) và Midnights (2022); cộng thêm với bốn album tái thu âm—Fearless (Taylor's Version) (2021), Red (Taylor's Version) (2021), Speak Now (Taylor's Version) và 1989 (Taylor's Version) (2023). Toàn bộ sản phẩm vừa kể đều được các đĩa đơn tiếp sức quảng bá và phát hành trừ các bài hát và hợp tác không album của cô. Tất cả album của Swift đều đạt được thành quả thương mại và được nhiều cây viết đánh giá âm nhạc tán dương. Billboard tuyên bố rằng rất ít nghệ sĩ nào có được ba thế mạnh của Swift là thành công trên bảng xếp hạng, được giới chuyên môn đánh giá cao và cả sự hỗ trợ nhiệt tình của người hâm mộ, và nhờ những nhân tố đó mà cô lại càng thêm lan tỏa và có ảnh hướng mạnh mẽ với công chúng. Một số ấn phẩm đã từng công nhận tốc độ nổi tiếng và sức chạy đường dài của Swift là thuộc dạng "không biết mệt mỏi là gì" và "gây ảnh hưởng lên toàn cầu", và những nhận định ấy chưa bao giờ có thể được chứng kiến kể từ thế kỷ 20. Theo như CNN, Swift đã khởi động thập niên 2010 dưới danh nghĩa là ngôi sao hát nhạc đồng quê và kết thúc thập niên ấy với cương vị là "bà hoàng âm nhạc của mọi thời đại". Jody Rosen viết cho New York và cây viết Steve Chapman của Chicago Tribune đã gọi Swift là ngôi sao nhạc pop và ngôi sao ca nhạc lớn nhất thế giới, theo như Rosen là đến mức khiến cho những người đồng nghiệp cạnh tranh của cô phải "giành giật nhau ở hàng thứ hai". Một số lời diễn tả khác về Swift có thể nhắc đến gồm có "siêu sao nhạc pop ở cấp độ thiên thể" (Elle), và "nữ tiên phong dẫn đầu vĩ đại nhất thế giới" (Fortune). Hiện diện trong văn hóa Các nhà báo đều phong tặng Swift là một biểu tượng văn hóa. Greg Jericho làm ngòi bút chuyên mục của The Guardian đã gọi Swift là một người có "sức sống văn hóa" nổi tiếng bền bỉ lâu dài dưới triều đại bùng nổ của mạng Internet, thậm chí còn vượt qua cả the Rolling Stones, Bob Dylan, David Bowie, Bruce Springsteen và U2. Toàn bộ những đại diện kể trên được tác giả nhận định chỉ có thành tích thương mại ngắn hạn và yếu tố nổi tiếng quan trọng tức thời, trong khi đó, Swift vẫn tiếp tục trên đà thắng lớn ở sự nghiệp năm thứ 18 của cô với album bom tấn Midnights. Jericho đã trích dẫn số liệu năm 2022 và cho biết thêm, chỉ có những nghệ sĩ như Drake, Kanye West và Beyoncé mới có thể đủ khả năng cạnh tranh Swift về mặt danh tiếng, trong khi Swift thì đang là nữ nghệ sĩ nổi tiếng nhất thế kỷ 21. Đến cả, Drake còn phải nhắc đến sự áp đảo về mặt thương mại của Swift trong bài hát năm 2023 "Red Button" của anh, qua phần lời "Taylor Swift the only nigga that I ever rated / Only one could make me drop the album just a little later". Chris Molanphy bên phía Slate khẳng định rằng giai đoạn sự nghiệp của Swift có khi còn dài lâu hơn cả the Beatles và phá cả kỷ lục mà trước đó mọi người vẫn cho rằng "chẳng một ai làm vỡ được" của ban nhạc. Nhiều tay viết báo còn so sánh danh tiếng của cô với những siêu sao nhạc pop thế hệ cũ Michael Jackson hoặc Madonna; Tác giả The New York Times là Ben Sisario cảm thấy tầm cỡ thống trị nền văn hóa của Swift hoàn toàn có thể cạnh tranh một mất một còn với Jackson và Madonna ở thập niên 1980, và gọi đây là điều gì đó mà "cả doanh nghiệp giải trí phải mặc nhiên chấp nhận rộng rãi là không còn người nào được như vậy xuyên suốt những giai đoạn của thế kỷ 21." Nhiều cây viết phê bình gồm có Sam Lansky bên tờ Time, đã cho rằng Swift là một trong những thực thể độc văn hóa cuối cùng trên thế giới. Chính âm nhạc, cuộc đời và hình tượng công chúng của Swift là tâm điểm thu hút dư luận và cánh báo giới trong lĩnh vực văn hóa người nổi tiếng. Swift trở thành thần tượng teen ngay sau khi vừa mới cho phát hành album đầu tay cùng tên tuổi cô vào năm 2006, và từ đó trở về sau cô hóa thành gương mặt thống trị của nền văn hóa đại chúng, nên cô thường được mệnh danh là biểu tượng nhạc pop hoặc diva. Gayle Pamerleau bên Đại học Pittsburgh tại Greensburg đã lấy ví dụ tên tuổi lớn mạnh của Swift trong việc lý giải toàn cầu hóa và gọi cô là một cơn gây sốt của xã hội đã tận dụng "khả năng tồn tại trong vòng 24 tiếng đồng hồ, cầu nối toàn cầu lại với nhau, và khi đó từng người đều biết mọi người khác đang nghĩ gì và làm gì." Kristy Fairclough đến từ Đại học Salford nhấn mạnh Swift là "trung tâm của cả vũ trụ văn hóa". Kate Knibbs bên chuyên trang The Ringer gọi Swift là "chạy trời không khỏi nắng" vì cả công trình sáng tác âm nhạc đồ sộ của Swift đã lún "sâu vào đời sống dân chúng đương đại dù chúng ta có thích hay là không thích." Lẽ đó, sự nghiệp của Swift đã dẫn tới sự định hình của ngành công nghiệp âm nhạc. Trong bài viết năm 2016, Billboard lập luận cho rằng dù sự nghiệp tuy chỉ mới kéo dài có một thập kỷ nhưng Swift đã tác động văn hóa "không thể phủ nhận được". Time xướng danh Swift trong bảng xếp hạng năm 2010, 2015 và 2019 vào trong danh sách xếp hạng 100 người có ảnh hưởng lớn nhất. Năm 2014, cô được liệt vào danh sách 30 Under 30 của Forbes ở hạng mục âm nhạc. Swift trở thành người phụ nữ trẻ nhất nằm trong danh sách 100 người phụ nữ quyền lực nhất thế giới theo Forbes vào 2015, tại vị trí thứ 64, và nghệ sĩ biểu diễn đầu tiên từng lọt vào top 5 danh sách ấy vào năm 2023. Cô trở thành người phụ nữ được tìm kiếm Google nhiều nhất vào năm 2019 và với tư cách nhạc sĩ vào năm 2022, cũng như là nhạc sĩ sáng tác ca khúc được Google nhiều nhất mọi thời đại, và The Guardian vinh danh cô trở thành người phụ nữ quyền lực nhất ở truyền thông Anh Quốc. Nhiều tờ báo truyền thông cũng công nhận cô là đỉnh cao danh vọng mới vào năm 2023, cùng với Glamour bảo rằng cô "đã chính thức xâm lược mọi phương diện của văn hóa đại chúng." Những người soạn tạp chí cho Billboard cảm tưởng rằng "sự hiện diện của cô ấy trong âm nhạc phổ biến cũng giống như chính bản thân nhạc đại chúng vậy. Cô ấy đang công phá với năng suất khủng khiếp nhất, trên nhiều phương tiện và thời đại, và không có đối thủ nào ở cùng trình độ của cô ấy", còn News.com.au thì khẳng định rằng "có lẽ chưa có ai trên hành tinh này có ý nghĩa về mặt văn hóa như Swift." Trong lúc mô tả những ý kiến đồng thuận quan trọng, người viết bài Jeff Yang đã bảo rằng Swift "ngày càng được nhắc đến giống hệt như một lực lượng kinh tế của tự nhiên, một người ủng hộ, tổ chức và đổi mới sáng tạo và được cho là nhân vật có ảnh hưởng nhất, thậm chí là quyền lực nhất trong ngành công nghiệp âm nhạc." CEO bảng xếp hạng ARIA CEO Anabelle Herd cho rằng Swift là một nghệ sĩ, người kể chuyện, nghệ sĩ biểu diễn và doanh nhân hiếm có trong cõi đời. Đưa tin cho CNN, Scottie Andrew cảm thấy rằng "bất cứ khi nào có sự tạm lắng trong diễn ngôn văn hóa", Swift sẽ trở thành chủ đề được chú ý. Billie Schwab Dunn phía Newsweek nhận xét, "Swift đã cai trị cả thị trường, mà bên trong chính là phần lớn những người theo chủ nghĩa tư tưởng văn hóa và sự chú ý của giới truyền thông, giống trước khi có cô ấy thì chẳng có nghệ sĩ nào được như vậy." Billboard khẳng định rằng "sự phổ biến của Internet đã làm suy yếu nền văn hóa độc canh bằng cách mang đến cho chúng ta nhiều lựa chọn giải trí hơn để tập trung và bàn tán cùng nhau, nhưng vị thế văn hóa của Swift đã khơi gợi lại cả thời kỳ mà tất cả chúng ta đều nghe những đĩa đơn ăn khách giống nhau và xem những thứ giống nhau trên truyền hình, những khoảnh khắc văn hóa có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến mức không thể tránh khỏi." Người viết chuyên mục Michael A. Cohen bên MSNBC gọi Swift là "biểu tượng nổi tiếng nhất và ảnh hưởng văn hóa nhất nước Mỹ." Cây bút Jeff Haden tạp chí Inc. phát biểu rằng, "Swift chính là Elvis Presley hoặc The Beatles của thế hệ này, Howard Schultz thành công trong kinh doanh tự thân, và Oprah Winfrey có sức ảnh hưởng văn hóa." Biểu tượng của nước Mỹ Các nhà báo đã gắn kết sự nghiệp nổi tiếng của Swift với chủ nghĩa Mỹ. Theo Knibbs, chỉ cần trong tay một album Fearless, Swift đã từ một "người nổi tiếng chuyên hát đồng quê thì nay đã trở thành ngôi sao nổi tiếng cấp công nghiệp của Mỹ" nhờ tài nghệ thuật khéo léo của cô. Jack Dickey chắp bút cho Time đã viết, Swift đã trở thành "nhạc sĩ quan trọng nhất nước Mỹ" từ năm 2014. Maxim gọi sự nghiệp của cô là "một câu chuyện thành công tinh túy của nước Mỹ". Cây bút đóng góp cho trang Collider Shaina Weatherhead đã viết rằng "Dù cô ấy có thích hay không thì Taylor Swift cũng đã trở thành trụ cột của hệ tư tưởng văn hóa" bằng cách bày tỏ tình cảm chân thành, tấm lòng tận tụy cho sự nghiệp và chủ nghĩa nữ quyền. Weatherhead còn nói thêm, tiếng tăm của Swift đã biến cô trở thành tượng đài của nền văn minh nước Mỹ thay vì chỉ giới hạn trong khuôn khổ ngành công nghiệp âm nhạc. Các nhà báo chẳng hạn như Ann Jamieson từ Tampa Bay Times, Michael A. Cohen bên MSNBC và Kaetlyn Liddy đảm nhận cho NBC News lần lượt phong Swift là "Báo vật Mỹ", "biểu tượng nổi tiếng nhất và ảnh hưởng văn hóa nhất nước Mỹ" nước Mỹ, và "giao thoa với văn hóa đại chúng Mỹ". Người viết luận Anna Mark cảm thấy rằng việc Swift nắm giữ nền văn hóa đại chúng đã ảnh hưởng đến văn hóa Mỹ xuyên suốt cả quá trình sự nghiệp của cô. Nhà phê bình văn hóa Greil Marcus nhấn mạnh rằng Swift "đang dán trên gương mặt lá cờ nước Mỹ" nhờ vào đôi môi đỏ mọng, nước da trắng trẻo và cặp mắt màu lam quyền lực. Theo nhà soạn báo cho Vulture Nate Jones, Swift đang "sở hữu chất nhạc là hiện thân của quyền bá chủ nước Mỹ", còn chuyên gia đề mục Peggy Noonan của tập báo The Wall Street Journal thì cảm thấy rằng người Mỹ phải nên biết ơn Swift vì sự nghiệp của cô là "câu chuyện nước Mỹ hoành tráng". Emily St. James của Vox từng viết, Swift đã thể hiện từng câu chuyện của người Mỹ thuộc thế hệ Millennials thông qua các bài hát của cô theo cách Springsteen đại diện cho thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ. Nhiều cây viết bên Financial Times xướng danh cô là một trong những "biểu tượng văn hóa thành công nhất của nước Mỹ". Swift cũng ẩn ý tự gọi chính bản thân cô là "Miss Americana" (Tiểu thư nước Mỹ) trong bài hát năm 2019 "Miss Americana & the Heartbreak Prince", và cho ra mắt một bộ phim tài liệu năm 2020 cùng tên tự gọi đó để lột tả từng bước tiến trong cuộc đời và sự nghiệp của cô. Tri ân và vinh danh Swift được trao tặng rất nhiều danh hiệu nhạc đại chúng nhờ vào sức ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ của cô. "Cục cưng của nước Mỹ" (America's Sweetheart) là danh hiệu mà truyền thông dùng để nhắc khéo đến Swift, nhờ vào hình tượng "cô gái toàn nước Mỹ" (All-American girl) trong những năm tháng đầu sự nghiệp của cô. Biệt hiệu "Công chúa nhạc đồng quê" (Princess of Country) của Swift thực chất bắt nguồn từ việc cô lấn sân vào thị trường đại chúng bằng những bài hát đồng quê hợp thị hiếu và với tư cách là một ngôi sao nhạc đồng quê. Một số tạp chí còn gọi cô là "Người khổng lồ nhạc pop" (Tạm dịch của Pop Titan) hoặc "Bà hoàng nhạc pop" (Queen of Pop) nhờ vào quyền lực thống trị nền nhạc pop của cô. Time và PopSugar sử dụng "Nữ hoàng viết Bridge" (Queen of Bridges) để bày tỏ khen ngợi trước năng lực của Swift trong việc viết đoạn bridge được công chúng lẫn giới chuyên môn đón nhận rộng rãi của cô. Swift còn được gọi là "Bà chúa thả Easter Egg" (Queen of Easter Eggs) vì cô lừng danh trong việc đặt easter egg và nội dung ẩn ý xuyên suốt video âm nhạc và các ca khúc trong album của cô. Ngoài ra, cô được tạp chí Bloomberg Businessweek và người đưa tin người Mỹ Barbara Walters trao tặng danh hiệu là "Cả ngành công nghiệp âm nhạc" (The Music Industry) nhằm tôn vinh tài chi phối ngành công nghiệp âm nhạc đến từng sợi tơ mỏng của cô. Năm 2019, Swift trở thành người đầu tiên được nhận giải thưởng Phụ nữ của thập kỷ (thập kỷ 2010) từ Billboard vì là "một trong những nghệ sĩ âm nhạc thành công nhất mọi thời đại trong suốt thập kỷ 2010". Giải thưởng âm nhạc Mỹ xướng tên cô là Nghệ sĩ của thập kỷ nhờ vào những kỷ lục giải thưởng cô đoạt được trong thập kỷ 2010. Năm 2021, Giải Brit phong tặng Swift chiếc cúp Biểu tượng toàn cầu "để ghi nhận tác động to lớn của cô đối với âm nhạc trên toàn thế giới". Năm 2022, Nashville Songwriters Association International vinh danh Swift là nhạc sĩ sáng tác ca khúc của thập kỷ nhằm ca tụng thành công của cô với tư cách là một người viết lời. Năm 2023, cô được trao Giải thưởng sáng tạo tại Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio nhờ vào "sức ảnh hưởng của cô đối với văn hóa nhạc pop trên toàn cầu", còn Time thì đã đưa tên cô vào danh sách Nhân vật của năm, và Swift trở thành nghệ sĩ giải trí đầu tiên trong lịch sử 96 năm của danh sách nhận được danh hiệu này. Nhiều sự vật và địa điểm đã được đặt theo tên của Swift. Bảo tàng và Đại sảnh Danh vọng nhạc đồng quê tại Nashville, Tennessee đã thành lập trung tâm giáo dục Taylor Swift nhằm tổ chức các hoạt động liên quan đến chương trình giảng dạy cho các nhóm trường, chương trình âm nhạc, hội thảo và tọa đàm về sách xuất bản. Swift đã được Đại học New York trao bằng danh dự Tiến sĩ ngành Mỹ thuật vào năm 2022 vì là "một trong những nghệ sĩ thành công và nổi tiếng nhất trong thế hệ của cô". Cô đã có hai loài sinh vật được đặt theo tên của mình: Nannaria swiftae, một loài cuốn chiếu đặc hữu ở quê hương Tennessee của cô, và Castianeira swiftay, một loài nhện được phát hiện tại Costa Rica. Các nhà thực vật học đặt tên cho một chiếc máy cảm biến từ xa giám sát kiểu hình ở thực vật là TSWIFT (loại máy quang phổ hình tháp có lắp bánh xe chuyên dụng trong việc quan sát liên tục theo thời gian). Jerry Weiers, thị trưởng của thành phố Glendale, đã thông báo Glendale sẽ đổi tên thành "thành phố Swift" trong các ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2023 nhằm chào đón sự kiện mở màn cho chuyến lưu diễn The Eras Tour của Swift. Santa Clara, thành phố công nghệ nằm ở Bắc California, đã được đổi tên thành "Swiftie Clara" trong những ngày diễn ra chuyến lưu diễn đó của cô. Sự nghiệp âm nhạc Hồi sinh nhạc đồng quê Swift là người có công lớn trong việc tái định hình và hồi sinh lại bối cảnh dòng nhạc đồng quê của thế kỷ 21. Theo Tom Roland của Billboard, khung cảnh nhạc đồng quê ngày nay "đã khác hơn rất nhiều" nhờ vào công lao trong sự nghiệp của Swift, và một số nhà phê bình đã xem việc đó là "không chính thống". Rosen đã công nhận Swift là nghệ sĩ nhạc đồng quê đầu tiên có danh tiếng vươn ra xa nước Mỹ và ghi dấu ấn trên toàn thế giới, vì cô đã thể hiện chất liệu "hiện đại, chủ nghĩa quốc tế và tuổi trẻ" ở ngay chính thể loại âm nhạc mà theo truyền thống là luôn đại diện chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa địa phương và chỉ dành cho người già hay nghe. Thậm chí, thành tích bảng xếp hạng của cô còn vươn tới châu Á và Anh Quốc trong khi ở những nơi đó thì nhạc đồng quê kiểu Mỹ gần như vô danh. Tính đến tháng 2 năm 2011, Fearless đã tẩu tán 400 nghìn bản thuần ở Hồng Kông, Đài Loan, Indonesia và Philippines. Sau khi Swift nổi tiếng, các hãng thu âm nhạc đồng quê bắt đầu đổ xô đi ký hợp đồng với những ca sĩ trẻ có khả năng sáng tác nhạc cho riêng bản thân. Vào năm 2008, Sasha Frere-Jones của The New Yorker gọi Swift là "sinh viên có kỹ năng phi thường về các giá trị đã được thiết lập". Frere-Jones viết thêm, khi còn là người mở đầu chương trình cho Rascal Flatts, Swift đã hiên ngang "[sải bước] ở khắp sân khấu và biểu diễn nhạc cụ gõ song ca bên thùng rác và chuyển đổi màn biểu diễn không ngừng nghỉ. Giọng ca của cô ấy luôn nhẹ nhàng, dễ thở và không hề có chút ảnh hưởng nào. Cô ấy đã đáp lại niềm phấn khích của đám đông bằng tác phong chuyên nghiệp mà cô ấy đã luôn thể hiện tính từ năm 14 tuổi." Rolling Stone cho biết thể loại nhạc đồng quê của Swift đã có tác động lớn đến dòng nhạc pop ở những năm 2010. Theo tin từ Roland, Swift đã luôn nằng nặc đòi tự viết lời cho các bài hát của mình, và ca từ nhất quyết phải khai thác cảm hứng từ cuộc đời cô. Cô đã bước vào làng nhạc đồng quê, một thứ thể loại mà trước đây từng được người ta coi là "chỉ có người cao tuổi hát những bài nhạc sến cho những người cao tuổi khác nghe". Chỉ với những bài hát tự truyện lãng mạn và đau khổ chia tay, Swift đã lan tỏa thể loại nhạc đồng quê đến với các thế hệ trẻ có cùng lý tưởng. Mặc dù các trạm phát thanh nhạc đồng quê ở Mỹ luôn hướng đối tượng nghe nằm trong độ tuổi khoảng 25 đến 54, tuy nhiên đối tượng khán giả trẻ thưởng thức vẫn còn quá ít, và độ tuổi trung bình bị hạn chế lên đến trên 35 tuổi. Nhiều nghệ sĩ nhạc đồng quê, giám đốc điều hành nhãn hiệu ghi âm, và những người quản lý đài phát thanh đã tìm đủ mọi cách nhưng vẫn thất bại trong việc giảm độ tuổi trung bình xuyên suốt từ thập niên 1980 cho đến khi Swift xuất hiện. Một khi danh tiếng của Swift bắt đầu xúc tiến từ giai đoạn giữa cho đến cuối thập niên 2000, cùng với gam màu âm nhạc và chủ đề gây cảm hứng, khi đó độ tuổi trung bình nghe đài nhạc đồng quê bắt đầu giảm xuống quá 25 và thu hút rất nhiều bạn trẻ và thanh thiếu niên lắng nghe. Theo thông tin từ lập trình phát thanh viên John Shomby, Swift đã "gầy dựng nên thứ độ tuổi ấy và là người đầu tiên lại có thể làm được điều đó." Swift là một trong số nghệ sĩ nhạc đồng quê đầu tiên biết tận dụng mạng Internet để làm công cụ tiếp thị, chẳng hạn như quảng bá âm nhạc của cô qua trang MySpace, đây từng là một trang mạng xã hội lớn nhất trên thế giới từ năm 2005 cho đến năm 2009. Swift đã tạo trang MySpace vào hôm trước lúc hãng thu sau này của cô, Big Machine Records, được lập ra (ngày 31 tháng 8 năm 2005), và cuối cùng là thu hút 45 triệu lượt phát nhạc qua MySpace mà theo như CEO Scott Borchetta của hãng thu đã từng kể lại là nhằm thuyết phục các đài phát thanh đồng quê "mang bản tính đa nghi" về đối tượng khán giả thích hợp của Swift. Kể từ đó, lượng theo dõi trên mạng xã hội và dữ liệu dịch vụ phát trực tuyến đã được sử dụng "để chứng minh khả năng tạo tiếng của một nghệ sĩ đối với đài phát thanh". Sisario đã ghi công Swift trong hoạt động mở rộng sức hấp dẫn của âm nhạc đồng quê, giới thiệu thể loại ấy cho nhiều khán giả trẻ hơn, và góp sức cho đài phát thanh nhạc đồng quê vượt qua Top 40 định dạng lớn nhất ở Hoa Kỳ. Chủ nghĩa nhạc pop lạc quan Các nhà báo đã chỉ ra rõ cách thức Swift tái định nghĩa hướng đi của nhạc pop thế kỷ 21: Đó chính là mở rộng ranh giới nhận thức của nhạc pop nhằm mang lại sự gắn kết về mặt cảm xúc và tham vọng nghệ thuật mà không đánh mất thành công về mặt thương mại, bất chấp chỉ trích phê phán. Năm 2013, Rosen đã gọi Swift ở kỷ nguyên Red là một nhân vật đúng đắn: "Một người được các nhà phê bình nhạc rock yêu quý, và họ vốn không hề có chút cảm giác phản văn hóa nào với cô ấy cả", khiến cô trở nên khác biệt với những ngôi sao nhạc pop đi theo xu hướng "rực cháy" của kỷ nguyên đó. Năm 2016, Roland nói rằng Swift "đã chinh phục được dòng nhạc đồng quê, và thực hiện một động thái chưa từng có đó chính là chuyển tiếp cuộc đời sang một nghệ sĩ nhạc pop hoàn toàn với album phòng thu 1989 mới nhất của cô ấy mà không hề có bất cứ vết sạn nào cả." Nhờ chính thành công về mặt thương mại của 1989 mà đã thay đổi hình tượng cô gái trẻ hát nhạc đồng quê của Swift thành một ngôi sao nhạc pop hoàn toàn chính thức. Các đĩa đơn trong album vừa kể được phát đi phát lại rất nhiều lần ở nhiều trạm phát thanh Mỹ suốt một năm rưỡi tính từ ngày được cho ra mắt, và đến cả Billboard còn phải công nhận đây là "một kiểu văn hóa hiện diện khắp nơi" hiếm có đối với một album được ra lò vào những năm 2010. Học giả nhân văn Shaun Cullen mô tả Swift là hình mẫu của "đỉnh cao nhạc pop hậu thiên niên kỷ". Theo lời kể của Jay Willis đến từ trang GQ, Sasha Geffen của Vulture và Hannah Mylrea phía bên NME, họ đều nhận định công trình 1989 đã tránh né các thể loại hay hòa trộn với thể loại khác như hip hop và R&B đương đại, và truyền cảm hứng cho những nghệ sĩ trẻ tuổi khai phá "nhạc pop thuần khiết" và xu hướng âm thanh hoài cổ theo phong cách những năm 1980. Ian Gormely của The Guardian gọi Swift là người tiên phong chủ nghĩa nhạc pop lạc quan (poptimism), thay thế xu hướng dance và urban bằng niềm đam mê tham vọng. Anh viết rằng quá trình chuyển đổi sang nhạc pop của Swift đã là minh chứng cho "sự thành công trên bảng xếp hạng và tầm nhìn nghệ thuật rõ ràng, hai đặc điểm này vốn dĩ không hề loại trừ lẫn nhau." Geffen cho rằng sự thành công trong quá trình chuyển đổi nhạc pop của Swift là nhờ vào ca từ của cô bắt nguồn từ sự gắn kết cảm xúc thành nhiều tầng lớp, còn hơn là những chủ đề hời hợt vô nghĩa đang thống trị nhạc pop chính thống. Theo cây bút Lucy Harbron bên tạp chí Clash, các siêu sao nhạc pop như Dua Lipa sẽ chẳng bao giờ tồn tại nếu như Swift đã không bình thường hóa việc pha trộn nhiều thể loại nhạc pop khác nhau trong 1989, đương nhiên cũng nhờ album này mà đã kéo theo những xu hướng rõ rệt ở những nghệ sĩ nhạc pop khác từ đó. Theo Neil Smith bên BBC, 1989 đã mở đường cho những nghệ sĩ "không muốn bị dồn vào những thể loại âm nhạc tách biệt". Năm 2022, các nhà phê bình Sam Sanders và Ann Powers coi Swift là "sự kết hợp thành công đáng ngạc nhiên giữa ngôi sao nhạc pop sáng chói tới hàng megawatt và ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc trong phòng thu tại nhà tựa như phòng ngủ." "Tắc kè hoa" đa dạng thể loại Swift đã mạo hiểm khám phá nhiều thể loại khác nhau và thực hiện những đổi mới nghệ thuật trong suốt sự nghiệp của mình. Pitchfork cho rằng vào năm 2021, Swift đã vĩnh viễn thay đổi bối cảnh hòa nhạc bằng một loạt bản ghi âm "nghe độc đáo" thích ứng với những chuyến biến trong xu hướng âm nhạc và văn hóa. Harbron cho biết sự nghiệp trải dài trên nhiều thể loại âm nhạc của Swift đã tạo động lực cho các đồng nghiệp của cô thử nghiệm những chất liệu đa dạng. BBC và Time gọi Swift là "tắc kè hoa của âm nhạc" vì lẽ đó. Swift cho hay, ngay cả cô cũng tự "biết mình phải liên tục đổi mới" trước khi các hãng thu âm kịp thời tìm cách thay thế đào thải cô. Chính album phòng thu thứ tư Red của Swift đã góp dầu vào lửa cho các cuộc tranh luận gay gắt về việc phân thể loại nhạc của Swift, vì vào thời điểm đó cô vẫn còn là một nghệ sĩ hát nhạc đồng quê, nhưng Red lại chứa đựng các yếu tố pop, nhạc điện tử và nhạc rock nặng nề. Bản thân Swift cũng cho biết, cô luôn sẵn sàng để cho người khác mặc sức dán nhãn thể loại cho sản phẩm của cô. Nhiều ngòi bút đánh giá nhận định rằng, Red đã cho thấy biểu hiện chuyển đổi tất yếu của Swift sang nhạc pop chính thống. Người đưa tin Randall Roberts của Los Angeles Times đã công nhận Red chính là "tác phẩm ca nhạc đại chúng nước Mỹ được kết xuất hoàn hảo", chẳng cần quan tâm đó là nhạc pop hay là nhạc đồng quê. Jon Caramanica bên The New York Times mệnh danh Swift là "ngôi sao nhạc pop trong bối cảnh đồng quê". Theo Harbron, Red chính là minh chứng để cho công nghiệp âm nhạc nhận thấy rõ: avant-garde không chỉ là phương thức tiếp cận âm nhạc đầy tính thử nghiệm mà đó còn là cách Swift "mở đường cho mọi nghệ sĩ khác" kết hợp nhiều thể loại vào một album ngay từ năm 2012. Hậu kỷ nguyên album 1989, Swift cho phát hành đột xuất Folklore và Evermore, và lần này là hỗn hợp của các phong cách thể loại nhạc indie, dân gian đương đại, chamber pop, và alternative rock. Hai album đó đã kéo giãn gu nhận thức của công chúng đối với âm nhạc của Swift ra xa hơn, và nhiều cây viết đánh giá đã diễn tả bộ sưu tập của Swift giống như tập hợp những bản ca đa thể loại đa trường phái và không đồng nhất. Sau khi Swift chứng minh sức hút của phong cách emo trong nhạc rock, nhiều bài hát của Swift được nhiều nghệ sĩ chuyên pop punk và metalcore hát lại. Ca-nhạc sĩ người Mỹ Noah Kahan còn bảo rằng Folklore và Evermore đã giúp vực dậy sự tò mò quan tâm của công chúng đối với nhạc folk, và Billboard đã nhấn mạnh Swift có khả năng "lôi kéo bất kỳ âm thanh nào đi vào quỹ đạo âm nhạc đại chúng mà cô ấy muốn" và "cho thấy một nghệ sĩ hoàn toàn có thể thay đổi (gu thể loại) tùy ý". Sáng tác ca từ Swift về cơ bản là một nhạc sĩ sáng tác bài hát giàu có ở Nashville mà theo Rosen là đã "đắm chìm trong kỹ thuật và cách kể chuyện của Music Row". Những bài hát của cô nổi tiếng đem lại cảm xúc đam mê và rạo rực điên cuồng. Theo Zoya Raza-Sheikh bên The Independent, Swift hoàn toàn có thể cân bằng các chủ đề phổ quát với tính đặc thù cao độ, và cô còn sở hữu "tài năng kỳ lạ trong việc phản ánh nỗi đau cảm xúc của thế giới qua lăng kính của chính cô ấy." Nhờ vào lời bài nhạc đầy cảm xúc cá nhân và dễ bị tổn thương, cây bút viết báo âm nhạc Nick Catucci cho rằng Swift đã tạo tiền đề giúp cho những ca sĩ thế hệ tiếp theo như Ariana Grande, Halsey và Billie Eilish bắt chước theo phong cách đó. Giáo sư Hannah Wing của Đại học bang Wichita cho rằng yếu tố đưa Swift nổi tiếng là nhờ vào sự quen thuộc đời thường, hay nói cách khác là cô đã khai thác triệt để "cảm giác gần gũi" vào trong âm nhạc của cô. Theo giáo sư sáng tác ca khúc Scarlet Keys tại Cao đẳng âm nhạc Berklee, Swift đã "nhào trộn thơ ca với lối nói thông tục và hiện đại", và thường sử dụng các thủ pháp văn thơ nhưng vẫn giữ bản chất "thực tế", chẳng hạn như trong các bài hát "Mean" (2011) hoặc "Shake It Off" (2014). Tương tự như vậy, nhà báo Sam Corbin đưa tin cho The New York Times đã ví Swift là "một người lập dị về ngôn ngữ, viết lời bài hát chuyển đổi giữa ẩn dụ đối lập nhau và thú tội bắt tai." Theo Raza-Sheikh, Swift đã lột tả tính cách ngây thơ thời niên thiếu của bản thân thông qua các album như Fearless và Speak Now và gây tiếng vang lớn đến đông đảo khán giả. Nối tiếp sau đó, cô đã cho ra mắt các đĩa nhạc trưởng thành đày đặn kinh nghiệm như Red và 1989, nhằm thể hiện sự tự tin của cô trong việc xác định câu chuyện của mình và hoàn toàn "không hề sợ làm đảo lộn thực trạng và khiến giới chuyên môn bất bình". Swift đã "nhập vai phản diện" trong Reputation, và phải đến Folklore và Evermore, một số nhà phê bình mới bắt đầu để ý đến tính nghệ thuật âm nhạc của Swift. Các nhà bình luận coi cả hai album Folklore và Evermore là những tác phẩm thi ca và bối cảnh hóa thành "những dự án giãn cách xã hội do đại dịch COVID-19" hoặc là hoặc "album cách ly". Uproxx nhấn mạnh Folklore đã làm đổi thay cả tông màu âm nhạc trong năm 2020. Cây bút Tom Hull viết rằng Swift "đã bắt kịp được tinh thần của thời đại" với Folklore. The New York Times và Vogue xướng tên Folklore là một trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất "trong kỷ nguyên COVID". Học giả người Anh Jonathan Bate đã tuyên dương Swift là "nhà thơ thực thụ" và ưu ái so sánh cô với những nhân vật trong làng văn học như William Shakespeare, Ernest Hemingway, William Wordsworth, Charlotte Brontë và Emily Dickinson, và chắp bút rằng cô đã có trí óc "cảm thụ văn chương" mà nhiều ngôi sao nhạc pop khác hoàn toàn không có. Giáo sư người Anh Stephanie Burt tại Đại học Harvard cho rằng kỹ năng sáng tác của Swift rất hiếm thấy "ở cả cấp độ vĩ mô của việc sáng tác, trình bày tự sự hoặc một ý tưởng, cũng như cấp độ vi mô trong việc lồng ghép các nguyên âm và phụ âm lại với nhau." Swift trở thành nhạc sĩ sáng tác bài hát được tìm kiếm Google nhiều nhất mọi thời đại. Từ khóa "Swiftian" đã được nhiều nhà làm báo âm nhạc sử dụng để miêu tả các công trình tác phẩm có liên quan hoặc làm gợi nhớ đến Swift. Theo lời nhận định của Andrew Unterberger viết cho tạp chí Billboard, Swift đã nâng "mức trần thương mại" cho ca-nhạc sĩ nhằm đem lại lợi ích cho các nghệ sĩ vốn chú trọng vào các chủ đề cá nhân như Zach Bryan và SZA. Các bài hát cùng ca từ của Swift cũng đã tạo động lực giúp cho nhiều người học tiếng Anh, đặc biệt là những người hâm mộ bên ngoài vùng văn hóa tiếng Anh (anglosphere). Thành công thương mại Swift nổi tiếng là "người đứng đầu bảng xếp hạng trường tồn qua thời gian" theo Time. Các đĩa nhạc của Swift đã đạt thành công thương mại vang dội ở mọi định dạng và chuyên mục thể loại. Rosen đã cảm thấy đây là điều chưa từng có trong lịch sử và đã bác bỏ những quan niệm thường hay bảo ban về thành công thương mại ở âm nhạc trong thế kỷ 21. Billboard cũng coi Swift là "tấm gương cho sự thành công về mặt thương mại với vai trò là một nghệ sĩ thu âm". Vào cuối những năm 2010, nhiều ấn phẩm đã nhìn nhận các album bán được hàng triệu bản của Swift là một điều đặc thù trong ngành công nghiệp âm nhạc dưới triều đại streaming lên ngôi, bởi kỷ nguyên album đã đi đến hồi kết sau khi doanh số tiêu thụ album sụt giảm nặng nề trong khi ngược lại, các album của Swift vẫn luôn trong tình trạng "cháy hàng". Do vậy, các nhà âm nhạc học Mary Fogarty, Gina Arnold và Paul Théberge gọi Swift là "người bất thường". Spencer Kornhaber bên The Atlantic đã phát biểu vào năm 2021 rằng "triều đại" của Swift đã đặt dấu chấm hỏi to lớn cho một trong những quy luật chung rằng: Thời kỳ đỉnh cao về mặt thương mại của một nghệ sĩ chỉ kéo dài trong một vài năm. Trong nước Swift là một nghệ sĩ cực kỳ thành công trên nhiều bảng xếp hạng Billboard và ghi lại nhiều dấu ấn trong việc kéo giãn ranh giới thành công thương mại ra xa hơn. Cô được xếp thứ 8 trong danh sách Nghệ sĩ xuất sắc nhất mọi thời đại của Billboard dựa trên diễn biến thương mại của một nghệ sĩ âm nhạc, và cô còn là nghệ sĩ thế kỷ 21 duy nhất lọt vào top 15 của danh sách này. Swift là nghệ sĩ đứng đầu Billboard Artist 100 lâu nhất (78 tuần liên tục); nghệ sĩ solo có số tuần quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 nhiều nhất (62); phụ nữ có nhiều album quán quân trên Billboard 200 nhất (12); có số bài hát lọt vào Hot 100 nhất (212); có số bài hát lọt vào top 10 của Hot 100 nhất (42); có nhiều tuần đứng đầu bảng xếp hạng Top Country Albums nhất (99); nghệ sĩ có nhiều bài hát số một trên Digital Songs nhất (26); có nhiều bài hát quán quân trên Pop Airplay nhất (12); và có bài hát thời lượng dài nhất đứng đầu Hot 100 ("All Too Well (10 Minute Version)"). Swift là nghệ sĩ âm nhạc đầu tiên và cũng là người duy nhất độc chiếm top 10 bảng xếp hạng Hot 100, và được xếp số một trong các danh sách nghệ sĩ Billboard Year-End ở ba thập kỷ liên tiếp (2009, 2015 and 2023). Các nhà phê bình khẳng định sức mạnh thương mại của Swift là vô song không ai cạnh tranh được, bởi vì cô rất thành công trong việc phân bố đều đặn công trình âm nhạc của mình ở nhiều định dạng như phát trực tuyến, doanh số bán album thuần túy và doanh số bán bản nhạc. Cô là nghệ sĩ duy nhất trong lịch sử Luminate Data có tới sáu album (hoặc nhiều hơn hai album) gồm có Speak Now, Red, 1989, Reputation, và Midnights đã được tẩu tán hơn một triệu bản thuần chỉ trong vòng một tuần lễ. Theo tạp chí New York, chính những số liệu bán hàng vừa kể đã chứng tỏ Swift là người "đang điều khiển ngành công nghiệp âm nhạc theo ý muốn của cô ấy". Financial Times và I-D gọi Swift là "siêu sao nhạc pop cuối cùng" có khả năng tạo ra con số doanh thu chưa từng thấy kể từ kỷ nguyên "nhóm nhạc nam thập niên 1990" – kỷ nguyên mà được coi là đỉnh cao thương mại của sự nghiệp kinh doanh âm nhạc tại Hoa Kỳ. Quốc tế Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI) đã xướng tên Swift là Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm vào các năm 2014, 2019 và 2022 vì cô chính là nghệ sĩ có sản phẩm ca nhạc được tiêu thụ nhiều nhất trên toàn cầu trong những năm đó, và cô còn là nghệ sĩ duy nhất đạt được danh hiệu này ba lần. Charlotte Kripps bên The Independent cho biết Swift đã người đã hồi sinh thể loại nhạc đồng quê ở quốc tế và đưa đến thể loại này với khán giả mới ở Anh Quốc. Swift cũng trở thành nghệ sĩ nhạc đồng quê đầu tiên đạt được thành công trên bảng xếp hạng ngoài Anglosphere. Rosen mô tả cô là "ngôi sao toàn cầu thực sự đầu tiên" của thể loại này, và đang xây dựng cộng đồng những người hâm mộ tận tâm ở các thị trường nước ngoài như Ireland, Brazil và Đài Loan, mà vốn dĩ nhạc đồng quê kiểu Mỹ không phổ biến ở những nước đó. Jakarta, Thành phố Quezon và Singapore là những thành phố lớn nhất của cô ở các nền tảng phát trực tuyến. Swift đang nắm giữ một số thành tích độc nhất trên bảng xếp hạng mọi thời đại ở Úc, Ireland và Anh Quốc. Năm 2021, cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên có ba album quán quân trên U.K. Albums Chart trong vòng dưới một năm, phá kỷ lục 54 tuổi đời của The Beatles. Trên các nền tảng âm nhạc Trung Quốc, các album của cô là một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại và đã mang lại cho cô thu nhập cao nhất đối với một nghệ sĩ nước ngoài (). Cô là nghệ sĩ nữ lưu diễn có doanh thu cao nhất thế giới trong thập niên 2010. Theo Annabelle Heard, giám đốc điều hành của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA), Swift "đã hoàn toàn tái thiết câu chuyện về những gì một nghệ sĩ solo có thể đạt được." Trên trang Spotify, Swift là nghệ sĩ nữ được phát nhạc trực tuyến nhiều nhất trên toàn cầu, nghệ sĩ duy nhất nhận được hơn 200 triệu lượt nghe trong một ngày, và là nghệ sĩ nữ đầu tiên đạt 100 triệu lượt nghe hàng tháng. Midnights là album được phát nhiều nhất trong một ngày với con số 186 triệu lượt stream, và là album đầu tiên thu về 700 triệu lượt phát trên toàn cầu chỉ trong vòng một tuần. Variety gọi Swift là "Nữ hoàng streaming" (Queen of Stream). Swift cũng là nghệ sĩ nữ được phát nhiều nhất trên nền tảng Apple Music và đồng thời lập kỷ lục mọi thời đại về số lượng người nghe nhiều nhất đối với bất kỳ nghệ sĩ nào trong một năm tại nền tảng đó. Phó chủ tịch của Apple Music, Oliver Schusser, đã tuyên bố, "Cô ấy là một nghệ sĩ định nghĩa thế hệ và là tác nhân thay đổi thực sự trong ngành công nghiệp âm nhạc. Cũng như, chắc chắn tác động và sức ảnh hưởng của cô ấy sẽ còn cảm nhận được trong nhiều năm tới." Các sản phẩm ca nhạc ở định dạng truyền thống Swift nổi tiếng nhờ vào doanh số "khủng" trong việc tiêu thụ đĩa CD và đĩa than vinyl ở thế kỷ 21, trong khi thị trường âm nhạc đã phần lớn chuyển sang định dạng kỹ thuật số. Cô đã góp phần thúc đẩy sự hồi sinh của đĩa than và được coi là nhà vô địch của các cửa hàng băng đĩa độc lập nhỏ lẻ. Swift đã sản xuất và cung cấp các phiên bản đĩa LP album của mình độc quyền tại các doanh nghiệp nhỏ nhằm thúc đẩy doanh số bán hàng cho họ. Trong đại dịch COVID-19, cô đã quyên góp miễn phí LP của cô cho các cửa hàng băng đĩa. Evermore đã nắm giữ kỷ lục bán đĩa vinyl LP trong tuần lớn nhất ở Hoa Kỳ tính từ thời điểm Luminate Data thành lập vào năm 1991, và kể từ đó đã bị Red (Taylor's Version) của Swift vượt qua với doanh số 112.000 đĩa vinyl LP, và Midnights với 575.000 bản LP. Midnights là album thế kỷ 21 đầu tiên bán được hơn một triệu đĩa than LP tại Hoa Kỳ. và hơn 80.000 đĩa LP tại Anh Quốc trong một năm. 1989 (Taylor's Version) đã bán được 1,014 triệu đĩa than ở Mỹ vào năm 2023, trở thành album vinyl đầu tiên tẩu tán được triệu bản trong một năm dương lịch tính từ lúc tracking bắt đầu và album của Swift chiếm 7% doanh số bán vinyl vào năm 2023. Album còn giúp cho doanh số tiêu thụ đĩa than hàng năm ở Anh Quốc đạt gần sáu triệu bản, cao nhất trong vòng 33 năm vừa qua. Nhờ sự ủng hộ của Swift đối với các cửa hàng băng đĩa độc lập mà lễ hội Record Store Day (RSD) đã ghi danh Swift là đại sứ toàn cầu đầu tiên của họ. Nhạy bén trong kinh doanh Swift nổi tiếng là một nữ doanh nhân thông thái. Các nhà báo mô tả cô là một "thiên tài tiếp thị vô địch" có "siêu năng lực nhạy bén trong kinh doanh" và là một hình mẫu doanh nhân. Theo Steele, chính sự nghiệp "đầy sóng gió và thắng thế" của Swift đã rút ra được những bài học về quản lý bên ngoài ngành công nghiệp âm nhạc. Chuyên gia kinh tế Paul Krugman đã phản biện, "Là một người hay hoài nghi bẩm sinh như tôi đây, tôi muốn gán sự nổi tiếng của cô ấy với cường điệu tiếp thị. Sự thật đáng buồn thay, cô ấy là một người viết bài hát kiêm nhạc sĩ tài năng với nhiều hiện diện đáng chú ý trên sân khấu." Năm 2024, Billboard đã xếp Swift đứng đầu danh sách Power 100 của năm, và đó là bảng xếp hạng người điều hành ngành âm nhạc có ảnh hưởng nhất. Tác giả viết báo Melinda Newman nhận xét, Swift là một thế lực lâu dài trong ngành kinh doanh âm nhạc, sẵn sàng cam kết đổi mới và mạo hiểm để "gặt hái những phần thưởng đáng kể" cho phần còn lại của ngành công nghiệp âm nhạc. Tên và thương hiệu Nhiều tác giả đã so sánh Swift với các thương hiệu truyền thông, tập đoàn và thương hiệu phụ nữ. Theo The Ringer, Swift là một "sinh quyển âm nhạc có mặt khắp nơi đối với chính cô ấy" và cô đã đạt được một kiểu thành công mà "có thể biến một con người thành một tổ chức, thành một đề tài không thể tránh khỏi." Người viết lách Elamin Abdelmahmoud đồng tình và bảo rằng, Swift là một tổ chức có những kết quả kinh tế, thương mại và văn hóa. Nhà xuất bản âm nhạc Matt Pincus ví Swift giống như "một thương hiệu sở hữu trí tuệ" hệt Vũ trụ Mở rộng DC, còn Fortune thì so sánh cô với Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Nhà kinh tế lao động Carolyn Sloan ví Swift là "một tập đoàn lớn về cơ bản hoạt động trong nhiều lĩnh vực". Theo công ty khảo sát Internet AskPro, "Nếu Taylor Swift là một nền kinh tế thì cô ấy sẽ lớn hơn 50 quốc gia. Hễ cô ấy là một tập đoàn thì số điểm Net Promoter Score của cô ấy sẽ khiến cô ấy trở thành thương hiệu được ngưỡng mộ thứ tư." Các nhà báo CNN đã giải thích tác động của thương hiệu của cô. Bryan Mena phát biểu rằng Swift "không cần phải điều hành một công ty lớn hay lãnh đạo một ngân hàng trung ương để có được sức mạnh kinh tế to lớn, và cô ấy đã đạt được những thành tựu đáng chú ý gây ấn tượng đối với bất kỳ nhà lãnh đạo doanh nghiệp điển hình nào đang điều hành một doanh nghiệp được liệt vào danh sách Fortune 500", còn Scottie Andrew thì nhận xét rằng các hãng thông tấn và công ty thường sử dụng tên của cô trong các tiêu đề, phỏng vấn, nội dung có thương hiệu và sản phẩm để tận dụng danh tiếng của cô. Theo Giáo sư R. Polk Wagner tại Đại học Luật Pennsylvania, nhờ việc Swift gắn kết ca từ với nhiều loại hàng hóa và dịch vụ thông qua đơn đăng ký nhãn hiệu đã cho thấy mức độ hiểu biết của cô rằng "cô ấy lớn hơn cả âm nhạc". Ông cho biết thêm, "Điều đó giống như một quyền xây dựng thương hiệu hơn nếu như xem Taylor Swift là một tập đoàn." Ngoài ra, để ngăn chặn những hoạt động "chiếm đoạt tên miền" trên không gian mạng gây ảnh hưởng tới bản thân, Swift đã mua lại tên miền của trang web khiêu dâm "taylorswift.porn" và "taylorswift.adult". Sự hiện diện trên mạng xã hội Swift chính là "một trong những người được theo dõi nhiều nhất trên các dịch vụ mạng xã hội" kiêm "cường quốc về truyền thông tấn xã", theo Entrepreneur. Cô là người được theo dõi nhiều nhất Instagram từ tháng 9 năm 2015 cho đến tháng 3 năm 2016, là người liên tục có ảnh hưởng trên Twitter, và là người đứng đầu xếp hạng Brandwatch năm 2018, 2019, và 2021. Giám đốc điều hành bán vé Nathan Hubbard bảo rằng Swift là nhạc sĩ đầu tiên "chỉ bán vé gần như trực tuyến." Nhà phê bình văn hóa Brittany Spanos cho rằng sự hiện diện trên mạng xã hội của Swift là một trong những lý do khiến cô vẫn "luôn luôn hợp thời" suốt nhiều năm liền: Swift "đã phát triển lực lượng người hâm mộ của mình trên Myspace. Cô ấy đã sử dụng Tumblr ngay từ thuở hoàng kim của nền tảng đó. Khỏi bàn đến Twitter và hiện nay, cô ấy đang sử dụng TikTok để bình luận video của mọi người." Swift là người tiếp thị theo kiểu kết hợp giữa tương tác mạng xã hội với truyền hình. Brandwatch và Cision gọi Swift là "bậc thầy ra mắt sản phẩm âm nhạc" nhờ vào tầm hiểu biết sâu rộng về "chiến dịch giao tiếp đầy tính chiến lược và cân đối". Học giả chuyên về PR Sinead Norenius-Raniere cho hay, nghệ thuật tích hợp chiến thuật marketing của Swift gồm có: Thông báo theo lịch trình từng thời điểm trên các kênh tiếp thị, khai thác tiềm năng của cả phương tiện truyền thông dạng truyền thống và dạng số, giao tiếp đời thực "thân cận" với những người nghe nhạc để tạo niềm tin tưởng, và tận dụng đa phương tiện để tung "hé lộ" (sneak peek) cho các sản phẩm âm nhạc của cô. Billboard cho rằng Swift "luôn phù hợp lâu dài" một phần là nhờ cô "thấu hiểu khán giả của mình" và biết vận dụng các chiến dịch vốn dĩ "không hoàn toàn phù hợp với tiếng nói trong ngành". Cách thức quảng bá mới lạ của cô thông qua Midnights Mayhem with Me đã trở thành chủ đề được giới phê bình khen ngợi cho sự đổi mới. Phó giáo sư giao tiếp và truyền thông Bond Benton tại đại học bang Montclair cho biết "cách hiện diện trực tuyến của Swift đã mang chất lượng đáng nhớ, đã lôi kéo người hâm mộ cũng như những người ghét bỏ tranh luận và mổ xẻ về cô", và hoàn toàn có thể dự đoán được rằng những nhân vật công chúng muốn truyền tải lời nhắn nhủ đều sẽ phải tận dụng cách thức này. Chu kỳ album Swift nổi tiếng nhờ vào công trình album ca nhạc đa dạng chủ đề và phương thức tung album đậm tính truyền thống, đây thường được gọi là "Những kỷ nguyên" (Eras). Mỗi kỷ nguyên album trong đó là gồm có một loạt các hoạt động quảng bá đi kèm. Rolling Stone mô tả các kỷ nguyên của cô là "sự thịnh vượng về mặt truyền thông đa phương tiện" không thể tránh khỏi. Swift được ghi nhận là người đã hô biến hình thức "chu kỳ album hai năm" (bao gồm phát hành và quảng bá album) trở thành tiêu chuẩn chung của ngành công nghiệp âm nhạc. Đồng thời, cô còn giúp phổ biến thuật ngữ và khái niệm "kỷ nguyên" trong bối cảnh truyền thông rộng hơn. Dẫu thế, các nhà báo cũng khen ngợi việc Swift phát hành Evermore và đạt được thành công thương mại nhanh chóng, bất chấp chưa đầy 5 tháng sau khi vừa mới ra Folklore. Variety đã so sánh động thái này của Swift là hoàn toàn tương tự với The Beatles và U2, còn Rolling Stone thì liên tưởng cô với Prince năm 1987 và David Bowie năm 1977. Chiến thuật tung easter egg (trứng phục sinh) cùng với những đoạn giới thiệu khó hiểu của Swift đã trở thành thông lệ trong dòng nhạc pop ngày nay. Các ấn phẩm đã so sánh đĩa hát của cô giống như một "vũ trụ" âm nhạc để những người hâm mộ, các nhà phê bình và nhà báo mổ xẻ suy đoán. Trang phục, phụ kiện, cách nói chuyện, mã màu, những con số "bí ẩn" và bao bì album tinh tế cũng có thể được Swift tận dụng làm easter egg. Cây bút đánh giá Iker Seisdodos bên El País gọi cô là "bậc thầy nghệ thuật hồi hộp". Theo nhà báo Ashley Lutz, phong cách tiếp thị của cô là "một hành động khôi hài luôn thay đổi nhằm tiết lộ các chi tiết có chọn lọc, trong khi vẫn duy trì bầu không khí bí ẩn và phấn khích", hay còn là một chiến thuật vươn xa khỏi ngành công nghiệp âm nhạc và giải trí. Mỗi kỷ nguyên của Swift được đặc trưng theo từng thiết kế chủ đề thẩm mỹ, bảng màu, phong cách thời trang độc đáo, cùng tâm trạng và cảm xúc đi kèm theo đấy. Cô luôn đổi mới hình tượng và phong cách của mình xuyên suốt sự nghiệp và phổ biến một vài trào lưu aesthetic chẳng hạn như đính kèm ảnh chụp Polaroid trong album 1989, và phong cách cottagecore đồng quê, thơ mộng, cổ kính bên căn nhà gỗ với Folklore và Evermore. Lutz cho rằng những lần Swift chuyển đổi kỷ nguyên đã giúp mở rộng lượng người hâm mộ và sức hấp dẫn của giới phê bình. Nhà bình luận văn hóa đại chúng Jeetendr Sehdev khẳng định Swift đã cố gắng duy trì yếu tố thú vị bằng cách liên tục đổi mới bản thân "trong khi vẫn giữ được tính chân thực". Tuy nhiên, trong phần phản biện, Fairclough viết rằng "kiểu chuyển đổi đầy thẩm mỹ" của Swift cho thấy cô đang vật lộn với việc thiếu bản sắc. Hợp tác thương hiệu Swift là người nắm giữ trong tay nhiều bản hợp đồng nhà tài trợ doanh nghiệp. Quá trình quảng bá ca nhạc của cô có sự tác hợp với các đối tác kinh doanh chiến lược từ phía các công ty, và chuyện này vốn từng được các nhạc sĩ coi là "cấm kỵ". Chuyên gia tiếp thị Christopher Ming đã viết, "Dĩ nhiên rồi, làm việc với những nhãn hàng như Apple Music, Elizabeth Arden và Diet Coke thì bị xem là lười động não suy nghĩ. Nhưng để mà thực hiện các chiến dịch cùng với NCAA Football, Dịch vụ bưu chính Hoa Kỳ và công trình của Papa John thì cần phải có sự khéo léo tiếp thị nhất định. Dẫu thế, họ đã làm được tất." Swift đã quảng bá Red (Taylor's Version) và 1989 (Taylor's Version) bằng cách lần lượt tận dụng Starbucks và Google Tìm kiếm. Các nhà báo cho biết tác động của quá trình phát hành album của Swift "có thể cảm nhận được trên khắp cõi mạng", cùng với các thương hiệu công ty vẫn hay xác nhận rằng họ đã tận dụng "động lực" của Swift. Điều đó đã giúp kéo dài độ hợp thời về mặt văn hóa của Swift lâu hơn nữa. Tác động đến kinh tế Các nhà kinh tế học và nhà phê bình công nghiệp đã nghiên cứu tầm ảnh hưởng của Swift với các doanh nghiệp trên toàn thế giới, và so sánh tác động kinh tế của Swift với các vùng lãnh thổ. Theo ấn phẩm thương mại Pollstar, nếu Swift là một quốc gia thì cô sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 199 trên Trái Đất giống như một quốc gia ở vùng Caribe nhỏ. QuestionPro ước tính tổng ngân sách kinh tế năm 2023 của Swift đạt đến 5 tỷ đô la Mỹ, cao hơn tổng sản phẩm nội địa (GDP) của 50 nước. Tên tuổi và mức độ hiện diện của Swift đã mang lại vô vàn lợi ích cho nhiều doanh nghiệp và thị trường khác nhau, được MarketWatch gọi đấy là "hiệu ứng thị trường chứng khoán Taylor Swift". Mỗi đợt lưu diễn của Swift là mỗi một kênh "làm giàu kinh tế" của các nước. Theo tác giả Peggy Noonan, Swift đã làm thay đổi "các quy luật kinh tế giải trí". Nhiều bản phân tích các tác động kinh tế Swift đều tập trung nghiên cứu vào nền kinh tế "bùng nổ" xoay quanh chuyến lưu diễn của Swift, và cho rằng Swift đã thúc đẩy doanh thu du lịch, lưu trú, mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm và du lịch của nhiều thành thị lên đến hàng triệu đô la Mỹ. Theo phóng sự của một người từng gọi tác động kinh tế của Swift là "Swiftonomics" tên Augusta Saraiva bên phía Bloomberg L.P., chính doanh số bán vé chưa từng có của The Eras Tour đã cho thấy "cú sốc cầu hậu COVID ở Hoa Kỳ" bất chấp những hậu quả suy thoái kinh tế mà đại dịch COVID-19 đã gây ra trên toàn thế giới. Los Angeles Times ví đây giống như một mô hình kinh tế thu nhỏ bao gồm nhu cầu tăng vọt, nguồn cung hạn chế, giá cả tăng cao và khách hàng "sẵn sàng chi tiêu hầu hết mọi thứ." Về sau, The Wall Street Journal gọi hiện tượng đó là "Taylornomics". Thách thức tiêu chuẩn công nghiệp âm nhạc Swift chính là người đã thực hiện một loạt cải cách trong việc kinh doanh mảng âm nhạc, và cô thường được coi là người cầm cờ cho quyền lợi của nghệ sĩ. Các nhà báo ca ngợi Swift vì cô luôn luôn đặt ra những câu hỏi cho ngành công nghiệp âm nhạc và thực hiện các động thái thay đổi chính sách nền tảng phát trực tuyến, giúp đỡ nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ cho các nhạc sĩ sắp nổi, định hình lại mô hình bán vé buổi hòa nhạc, và đàm phán mức bồi thường tài chính hợp lý hơn từ phía hãng thu âm cho tất cả nghệ sĩ âm nhạc. Elle cho rằng những cải cách do Swift áp đặt lên các dịch vụ phát trực tuyến là "một cột mốc đáng quan trọng trong lịch sử âm nhạc". Cải cách phát nhạc trực tuyến Swift đã tranh cãi với các dịch vụ phát nhạc trực tuyến để điều chỉnh các chính sách nhằm giữ gìn tính toàn vẹn nghệ thuật. Cô cho biết các dịch vụ phát trực tuyến kỹ thuật số đã trở thành một hình thức tiêu thụ phương tiện truyền thông thống trị kể từ năm 2013, khiến doanh số bán album truyền thống giảm dần. Vào tháng 11 năm 2014, Swift thông báo rằng album tiếp theo 1989 của cô sẽ không được phát hành lên Spotify gây nên xôn xao dư luận lúc bấy giờ, nhằm phản đối khoản thanh toán "bèo bọt" của nền tảng cho các nghệ sĩ (từ 0,006 đến 0,0084 đô la Mỹ cho mỗi lượt phát trực tuyến). Ở phía mặt sau trang xã luận (op-ed) của The Wall Street Journal có viết, Swift tin rằng rằng giá trị của các tác phẩm nghệ thuật nên được các nghệ sĩ tự quyền xác định: Hai giáo sư ngành quản trị kinh doanh tại Trường Kinh doanh Harvard là Karim R. Lakhani và Marco Iansiti đã xem xét vấn đề và ủng hộ quan điểm của Swift rằng các nhạc sĩ nên được tự do định giá tác phẩm của mình. Với học giả Jessica Searle, Swift đã biến âm nhạc trở thành một "hành hóa phi công cộng". Nilay Patel viết cho Vox đã chỉ trích những suy nghĩ của Swift về album và bảo rằng cô "chẳng hiểu gì về nguyên lý cung - cầu". Patel còn phản biện thêm, chính Internet đã "giết chết" định dạng album và khẳng định nhiều người tiêu thụ nhạc sẽ không còn đi ra cửa hàng mua CD của Swift nữa. Cuối cùng, Swift đã rút toàn bộ danh sách đĩa hát của mình ra khỏi Spotify, khiến hãng phải nói "Chúng tôi hy vọng cô ấy sẽ thay đổi quyết định và cùng chúng tôi xây dựng một nền kinh tế âm nhạc mới phù hợp với tất cả mọi người." 1989 đã trở thành một album thành công mỹ mãn về mặt thương mại ngay từ khi mới ra mắt, và một cây viết báo khác bên Vox Constance Grady công nhận đây hẳn là "một cú tát đầy đau đớn" cho Spotify, khiến cho dịch vụ phải kéo Swift trở về bằng việc tung một danh sách phát gửi riêng cho cô. Các công trình của Swift vẫn biến mất khỏi Spotify tận ba năm sau, Swift quyết định đưa trở lại vào ngày 9 tháng 6 năm 2017 nhân dịp cô được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận cột mốc 100 triệu đơn vị. CEO Daniel Ek của Spotify phát biểu qua CBS This Morning rằng anh đã thuyết phục Swift đưa âm nhạc của cô trở lại Spotify sau khi trực tiếp gặp cô ở Nashville để "giải thích mô hình dịch vụ, tại sao phát trực tuyến lại quan trọng" và người hâm mộ của cô muốn nhạc của cô trở lại Spotify đến nhường nào. Vào tháng 6 năm 2015, Swift viết một lá thư công khai gửi đến Apple Inc. trên nền tảng Tumblr nhằm nêu rõ vấn đề cho nghe thử miễn phí ba tháng mà Apple Music chọn cung cấp cho người dùng, nhưng lại không hề trả công các nghệ sĩ nếu người dùng đang stream nhạc của họ trong khoảng thời gian dùng thử. Cô đã cực kỳ "sốc nặng" khi hay tin Apple lại không hề trả một xu nào cho "những người sáng tác, những nhà sản xuất và những người nghệ sĩ" đối với việc người dùng nghe thử ba tháng miễn phí như vừa kể. Swift giải thích: Swift nhấn mạnh album 1989 cũng sẽ không được đưa lên Apple Music và kêu gọi công ty thay đổi chính sách trước khi ra mắt vào ngày 30 tháng 6 năm 2015. Giám đốc điều hành của Apple Eddy Cue đã xin lỗi và hứa sẽ đảo ngược chỉnh sách. Cue nói với Associated Press rằng, "Lúc tôi vừa mới tỉnh dậy sáng nay và đọc được bức thư của Taylor viết thì chúng tôi buộc lòng phải thay đổi lại ngay." Kết cục, Apple Music chính thức ra mắt và hãng sẽ trả tiền bản quyền cho các nghệ sĩ, bất kể người dùng đang trong thời gian dùng thử ba tháng. Nhiều nhạc sĩ, tổ chức âm nhạc và nhà bình luận trong ngành đã bày tỏ lòng biết ơn với Swift sau việc đó. Sau khi hết hạn hợp đồng sáu album với Big Machine vào năm 2018, Swift đã ký một hợp đồng toàn cầu mới với hãng thu Republic Records do Universal Music Group sở hữu. Cô tiết lộ rằng, vì là một phần của hợp đồng nên bất kỳ việc bán cổ phần nào của Universal tại Spotify sẽ dẫn đến cổ phần sở hữu không thể thu hồi được, dành cho tất cả các nghệ sĩ của Universal. Grady gọi đó là một lời hứa to lớn từ Universal "còn lâu mới được đảm bảo" cho đến khi Swift chính thức can thiệp. Jamie Powell của Financial Times phát biểu, "Một mình Swift còn quyền lực hơn cả công đoàn", và gọi cuộc đàm phán vốn cổ phần là "cổ tức đặc biệt của đồng chí Swift". Yang cho rằng hành động trên đã thể hiện "toàn bộ sức mạnh của Swift: Trong một động thái chưa từng có đã đánh dấu địa vị của cô ấy là một phiên bản của Jeanne d'Arc đang kêu gọi quyền của người sáng tạo". Năm 2023, doanh nhân người Mỹ Elon Musk đã yêu cầu Swift phát hành video âm nhạc hoặc buổi hòa nhạc của cô trực tiếp lên Twitter. Trước lời cầu xin của Ek, Cue và Musk, Fast Company cho rằng Swift là "người quyền lực nhất trong lĩnh vực công nghệ". Nêu cao vấn đề sở hữu trí tuệ Quá trình Swift "chiến đấu" với các bản hợp đồng thu âm đầy bóc lột từ phía Big Machine để giành lại quyền sở hữu các bản hoàn chỉnh (master) đã trở thành một cuộc "cách mạng" của công nghiệp âm nhạc. Tháng 6 năm 2019, sau khi Swift dứt áo ra đi khỏi hãng thu âm cũ để chuyển đến Republic Records thì Scooter Braun đã mua lại Big Machine với giá 330 triệu đô la Mỹ, khiến cho anh ta trở thành chủ nhân của toàn bộ bản thu âm gốc do Big Machine nắm giữ, đồng nghĩa với việc sáu album đầu tiên của Swift tại Big Machine cũng lọt vào danh sách đó. Swift đã lên tiếng rằng cô đã tìm cách mua lại bản quyền các bản thu âm hoàn chỉnh gốc nhưng lại bị đặt ra những điều kiện khó chấp nhận được (chẳng hạn, đổi một album mới lấy một album cũ), và ông Borchetta đã xác nhận chính cô đã từ chối cơ hội đó. Swift đã lên tiếng cáo buộc Big Machine đã cấm cô biểu diễn các bài hát đang bị tranh chấp tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2019, và tuyên bố Borchetta và Braun đang "thực hiện quyền kiểm soát đầy độc tài" đối với cô. Tiếp đến, Big Machine tung ra album trực tiếp Live from Clear Channel Stripped 2008 (2020) mà không hề có sự đồng ý của Swift. Cuộc tranh cãi đã biến thành scandal tai tiếng, trở thành một trong những chủ đề tin tức được bàn cãi nhiều nhất và lan truyền với tốc độ chóng mặt trong suốt hai năm liền 2020 và 2021. Evening Standard hô lên rằng đó là "mối thù lớn nhất của âm nhạc". Rốt cuộc, Swift cho rằng chỉ còn mỗi việc tái thu âm các album là lựa chọn khả thi nhất để giành lại toàn bộ quyền sở hữu âm nhạc của cô. Braun đã tiếp tục bán các bản thu hoàn chỉnh của Swift vào tháng 10 năm 2020 cho Shamrock Holdings với giá khoảng 405 triệu đô la Mỹ với điều kiện là anh ta vẫn sẽ tiếp tục thu lợi. Swift bày tỏ bất bình, khước từ trước lời đề nghị hợp tác từ phía Shamrock và cô quyết định sẽ tái thu âm album với Republic. Các album thu âm lại đã đạt được thành công về mặt thương mại và xếp hạng, được giới chuyên môn khen ngợi và phá vỡ rất nhiều kỷ lục. Sau khi "All Too Well (10 Minute Version)" trở thành bài hát có thời lượng dài nhất leo lên vị trí đầu bảng Hot 100, nhà sản xuất kiêm người hợp tác thân thiết với Swift là Jack Antonoff đã bảo Rolling Stone rằng bài hát dài hơn 10 phút leo lên Hot 100 đã dạy cho nhiều nghệ sĩ một bài học rằng "đừng nên nghe theo" ngành công nghiệp nói. Nhiều nghệ sĩ âm nhạc, chính trị gia, nhà báo và chuyên gia pháp lý đã ủng hộ hành động tranh chấp quyền sở hữu của Swift và cho rằng sự việc ấy mang tính tiên phong và truyền cảm hứng. Các ấn phẩm đã nhận thấy rằng, các vấn đề về quyền sở hữu bản gốc và xung đột giữa các hãng và nghệ sĩ thì đã từng có tiền lệ với Prince, the Beatles, Janet Jackson và Def Leppard. Swift là một trong số ít người dám đưa ra phát biểu công khai về quyền của nghệ sĩ, vốn cổ phần tư nhân và đạo đức trong ngành. Các nhà báo bên Rolling Stone đã gọi vụ việc tranh chấp là 1 trong 50 "dấu ấn quan trọng nhất" của thập niên 2010 và ghi nhận vai trò của Swift trong việc thay đổi nhận thức của công chúng về khái niệm tái thu âm hoặc làm chủ lại. Dominic Rushe viết cho The Guardian đã phát biểu, cuộc chiến của Swift đã đánh dấu sự thay đổi trong kỷ nguyên nhạc số, giúp cho các nghệ sĩ nhận thức rõ hơn về quyền lợi của mình mà không cần phải lệ thuộc vào quyết định của các hãng thu âm nữa. Cây bút phê bình Pitchfork là Sam Sodomsky đã công nhận tầm nhìn mà Swift mang lại và nói rằng Swift "có thể tạo ra những bước ngoặt bằng cách sử dụng đòn bẩy độ tin cậy từ sự thành công của cô ấy" và việc cô đưa ra tiếng nói là nhằm mục đích "sinh lợi tài chính cho ngành công nghiệp lắng nghe". The A.V. Club và MarketWatch đã lấy lời phát biểu của Swift để chỉ trích vốn cổ phần tư nhân, đồng thời nhấn mạnh điều đó với một trong những nhà đầu tư của Braun là The Carlyle Group. Các thành viên Quốc hội Hoa Kỳ như Elizabeth Warren và Alexandria Ocasio-Cortez đã ủng hộ Swift và tuyên bố rằng cô là "một trong nhiều" doanh nghiệp sáng tạo bị các công ty cổ phần tư nhân đe dọa gây tổn hại đến kinh tế Hoa Kỳ. Luật sư âm nhạc James Sammataro đã nhận xét, "bất cứ khi nào Taylor thu hút sự chú ý đến một vấn đề thì vấn đề ấy sẽ được phóng đại... Cô ấy có một cái loa rất to và cô ấy không ngại tận dụng gì cả. Cô ấy đã có nhiều thành công lớn trong việc tạo ra sự cải cách." Các kết quả vượt ngoài mong đợi của dự án tái thu âm được cho là chưa từng xảy ra từ trước. Kornhaber cho rằng bản thu âm lại đã bác bỏ những luận điểm mà các nhà phê bình đã nghi ngờ về Swift. Billboard viết rằng Swift "đã thay đổi cách thức một người nghệ sĩ sẽ soạn thảo bản hợp đồng với các hãng thu âm", còn các luật sư âm nhạc thì nhận thấy rằng việc Swift tái thu âm thành công đã khuyến khích các hãng thu âm "đại tu các hợp đồng có chứa những từ ngữ: cấm người mới ký đơn tái thu âm lại nhạc của họ trong vòng 30 năm". Hình thức bán vé Ngành công nghiệp lưu diễn hòa nhạc đã chuyển sang "mô hình bán vé chậm" sau khi Swift, một người vốn nổi tiếng tổ chức buổi hòa nhạc tại sân vận động và "thống trị của ngành lưu diễn" về mặt thương mại, lần đầu thiết kế và áp dụng chiến lược đó với chuyến lưu diễn Reputation Stadium Tour (2018) của cô. Swift đã giải quyết được thực trạng cháy vé chỉ trong vòng vài phút bằng cách áp dụng hình thức bán vé theo nhu cầu, buộc những người thực sự có nhu cầu tham dự phải đăng ký trước và được phép mua vé bất kỳ lúc nào, ở mức giá nào sau khi đăng nhập. Theo David Marcus bên Ticketmaster, mô hình này hoạt động theo quy luật rằng những ngày đầu mở bán vé sẽ rất cao nhưng sẽ từ từ giảm xuống cho đến giá chót gần sát ngày lưu diễn, đánh đổi "cơn sốt nhằm đem lại quyền lựa chọn và trải nghiệm cho khách hàng" và khống chế tình trạng đầu cơ tích trữ vé hòa nhạc. Mô hình bán vé của Swift ban đầu bị các nhà báo chỉ trích thậm tệ, cho rằng Swift tham lam vô độ, cố lấp liếm doanh số vé "ế chỏng gọng" sau vụ việc truyền thông không mấy tốt đẹp vào năm 2016. Thế nhưng, Reputation Stadium Tour vẫn bán hết vé, thậm chí còn vượt qua The Beatles để trở thành chuyến lưu diễn có doanh thu tại Bắc Mỹ cao nhất mọi thời đại, khiến cho các nhà phê bình phải quay đầu ngưỡng mộ "mô hình bán vé chậm" của Swift. Tháng 11 năm 2022, câu chuyện Ticketmaster quản lý yếu kém đợt mở bán vé trước The Eras Tour tại chặng Hoa Kỳ đã vấp phải chỉ trích rộng rãi từ phía công chúng và chính trị. Do nhu cầu mua vé "khủng" với hơn 3,5 triệu đã đăng ký mua trước, trang web Ticketmaster đã bị sập chỉ trong vòng một tiếng sau khi mở bán nhưng vẫn bán được tới 2,4 triệu vé, khiến cho Swift phá kỷ lục trở thành nghệ sĩ bán được nhiều vé hòa nhạc nhất trong một ngày. Ticketmaster cho rằng sự cố xảy ra là do lưu lượng truy cập trang web khổng lồ "chưa từng có trong lịch sử". Những người hâm mộ và các nhóm người tiêu dùng đã cáo buộc Ticketmaster lừa dối và độc quyền. Một số thành viên Quốc hội Hoa Kỳ tuyên bố rằng Ticketmaster và công ty mẹ Live Nation Entertainment nên được tách ra riêng biệt, vì việc sáp nhập của hai phía đã dẫn đến dịch vụ không đạt tiêu chuẩn và đẩy giá vé cao. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã tổ chức điều tra bên phía Live Nation–Ticketmaster, trong khi một số người hâm mộ đã đâm đơn kiện các công ty về tội cố ý lừa dối, gian lận, ấn định giá và vi phạm luật chống độc quyền. Các thành viên lưỡng đảng bên Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ đã tổ chức kiểm duyệt các công ty tại một phiên điều trần. Dưới sức ép của Hội đồng Kinh tế Quốc gia, Ticketmaster và các công ty bán vé khác đã đồng ý chấm dứt phí rác (junk fees), tức là các khoản phí bổ sung được tiết lộ khi kết thúc quá trình mua vé. Học giả pháp luật người Mỹ William Kovacic gọi đây là "hành động điều chỉnh chính sách của Taylor Swift". Đối với bộ phim hòa nhạc năm 2023 của chuyến lưu diễn, Swift đã áp dụng chiến lược phát hành độc đáo bằng cách hợp tác trực tiếp với các rạp chiếu phim để vượt qua các hãng phim lớn. Pitchfork đã thắc mắc rằng, "Liệu có còn nghệ sĩ nào khác [ngoài Swift] gây sức ép khẩn trương điều tra liên bang về vụ độc quyền ngành công nghiệp âm nhạc chỉ nhờ việc đi lưu diễn nữa hay không?" Entertainment Weekly và The A.V. Club đã liệt kê "Swifties vs. Ticketmaster" vào danh sách một trong những câu chuyện tin tức văn hóa lớn nhất năm 2022. Allaire Nuss đã viết, "Nếu còn một nghệ sĩ nào có đủ năng lực văn hóa đại chúng để hạ bệ cảnh tượng độc quyền đáng ghét nhất của ngành công nghiệp âm nhạc thì chỉ có mỗi Taylor Swift." The Washington Post tuyên bố rằng Swift đang "nắm giữ cả thế giới ngày càng rạn nứt của chúng ta và không thể buông rời, nói trắng ra, theo cách hầu như không một ai khác có thể làm được." Truyền thông, thời trang và chính trị Phương tiện thông tin đại chúng luôn ưu ái chọn Swift để đưa tin rộng rãi, khiến cho cô trở nên nổi tiếng với công chúng trên nhiều phương diện. Cô và âm nhạc của cô đã từng được đề cập hoặc sử dụng trong nhiều sách xuất bản, phim ảnh và chương trình truyền hình. Bên cạnh đó, Swift vốn dĩ là một chủ đề luôn được báo chí săn đón không ngừng và lần đầu tiên, một phóng viên kiêm nhà báo tên Bryan West được Gannett, chuỗi tổ chức báo chí lớn nhất toàn nước Mỹ với USA Today, tuyển dụng để đưa tin riêng toàn thời gian về Swift. Các cây bút đánh giá gọi mối quan hệ giữa cô và phương tiện truyền thống đại chúng là ví dụ của sự phức tạp giữa người nổi tiếng và công nghiệp. Suốt cả sự nghiệp, Swift được cho là "trái chiều" giữa nhận được tán dương cũng như những lời chê bai chỉ trích từ báo chí. Swift được coi là một nhân vật nữ quyền. Cô đã luôn chỉ trích cách truyền thông miêu tả phụ nữ, vì câu chuyện hẹn hò và những tranh chấp của chính cô đã thu hút sự giám sát của báo lá cải và sự chú ý rộng rãi trên mạng xã hội. Cô đã chỉ rõ những tác động của việc đưa tin trên báo chí đối với sức khỏe cá nhân, và bàn về các vấn đề như rối loạn ăn uống, tự trọng và bắt nạt trên mạng. Nhiều học giả và nhà báo đã cho rằng sự cởi mở của Swift đối với những chủ đề này đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về sức khỏe tâm thần. Ngoài ra, Swift thường được mệnh danh là nhân vật biểu tượng văn hóa của thế hệ Millennials, đồng thời là người có ảnh hưởng đến thời trang. Quá trình thay đổi kiểu cách của cô đã trở thành chủ đề được các phương tiện truyền thông đưa tin và phân tích. Cô đã đổi mới hình ảnh và gu thẩm mỹ trong suốt sự nghiệp của mình, kết hợp các chu kỳ album tương ứng với các chủ đề riêng biệt, đồng thời tác động đến các xu hướng thời trang. Đặc biệt, phong cách đường phố của cô đã nhận được nhiều lời khen ngợi. Các tác giả coi Swift là ca sĩ quyền lực nhất trong chính trị nước Mỹ. Chính Swift đã tận dụng danh tiếng của mình để kêu gọi kích động hành động chính trị và trở thành người nổi tiếng có sức ảnh hưởng dẫn đến Joe Biden đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2020, sau LeBron James. Nhiều cuộc khảo sát đã xem Swift là nhân tố quyết định trong các cuộc bầu cử, trong đó có một cuộc khảo sát đã cho rằng cô có thể thu hẹp sự phân cực trong nền chính trị Mỹ. Swift đã truyền cảm hứng cho một số đề xuất lập pháp, bao gồm: Tháng 3 năm 2015, thống đốc bang lúc bấy giờ là Gina Raimondo sau khi bị thôi thúc trước việc Swift mua bất động sản Rhode Island High Watch thì đã đề xuất một loại thuế xa xỉ đối với những ngôi nhà thứ hai trị giá hơn 1 triệu đô la Mỹ trong bang, và được gọi là "thuế Taylor Swift". Đề xuất này đã bị dập tắt sau những lời chỉ trích rộng rãi. 19 tháng 5 năm 2023, các thành viên của Tòa án chung Massachusetts đã giới thiệu "Dự luật Taylor Swift" lưỡng đảng nhằm yêu cầu các công ty phân phối vé tiết lộ toàn bộ chi phí vé trả trước và định giá linh hoạt ngoài vòng pháp luật. Các dự luật tương tự đã được đưa ra tại cơ quan lập pháp bang Minnesota và California. 22 tháng 5 năm 2023, thống đốc bang Texas Greg Abbott đã ký dự luật "Save Our Swifties" thành luật chính thức, cấm sử dụng bot để mua vé số lượng lớn. Các dự luật tương tự đã được đưa ra ở New York và Washington. Tháng 6 năm 2023, các nghị sĩ Hoa Kỳ Bill Pascrell và Frank Pallone đã soạn thảo Đạo luật BOSS và SWIFT (Giám sát tốt hơn trong việc bán vé sơ bộ và tăng cường các giao dịch công bằng lẫn đưa thông tin đầy đủ cho khán giả mua vé buổi hòa nhạc) tại Hạ viện, yêu cầu cải tổ các nền tảng phân phát và bán lại vé. Cũng trong tháng 6 năm 2023, một "dự luật Taylor Swift" chống scalping đã được đề xuất lên Quốc hội Brasil. Tháng 11 năm 2023, nữ nghị sĩ Brazil Erika Hilton đã đưa ra dự luật bắt buộc phải cung cấp nước miễn phí tại các buổi hòa nhạc và thanh trừng các công ty cấm mang bình nước tại các địa điểm, sau cái chết của một người tham dự buổi hòa nhạc tại The Eras Tour do mất nước. Bối cảnh hóa để gây hiệu ứng Một số ấn phẩm đã luôn tìm tòi để xác định và phân tích tác động của Swift trên nhiều lĩnh vực khác nhau, và đặt tên cho những tác động văn hóa của Swift là "Hiệu ứng Taylor Swift". Giáo sư marketing tại Trường Kinh doanh Ross thuộc Đại học Michigan là Marcus Collins, đã gọi Swift là hiệu ứng mạng. Ông nói rằng tầm vóc của Swift lớn "đến mức khi cô ấy làm điều gì đó thì mọi người sẽ làm theo [...] Cô ấy đang gây ảnh hưởng đến một nhóm người và những người đó đang ảnh hưởng lẫn nhau và những người khác." Bên chuyên trang Yahoo! Finance, Chris Bibey đã đồng tình rằng Hiệu ứng Taylor Swift "có thể có tác động đến nỗ lực đầu tư và kinh doanh trong tương lai của bạn" bất kể lợi ích của mỗi người đối với Swift. Nhiều hiện tượng khác nhau đã được cho là do hiệu ứng này, chẳng hạn như: Doanh số bán đàn guitar cho phụ nữ tăng đột biến, trong khi phụ nữ lại là nhóm nhân khẩu học trước đây bị coi thường, nhờ vào hình tượng của Swift là nữ nghệ sĩ cầm đàn guitar và đam mê với nhạc cụ đó trong các buổi biểu diễn của cô. Hiện tượng phá kỷ lục phiếu bầu từ những lần Swift vận động những người theo dõi cô tham gia bỏ phiếu qua mạng xã hội. Hiện tượng người tiêu dùng bát nháo mua sắm hoặc tham gia bất kỳ sản phẩm hoặc dịch vụ nào có liên quan đến Swift, không cần biết có thực sự cần thiết hoặc quan trọng với họ hay không. Ý thức về pháp luật ngày càng tăng trước bộ máy của ngành công nghiệp âm nhạc và các hợp đồng ghi âm. Vô tình làm giàu nền kinh tế hay "vầng hào quang tài chính rộng lớn" theo cách nói của Forbes tại những nơi Swift đến thăm trong chuyến lưu diễn, khiến cho cô nhận được nhiều yêu cầu cởi mở từ các chính trị gia và người đứng đầu chính phủ. Họ đều muốn cô đến tham quan các vùng lãnh thổ thuộc thẩm quyền của họ. Các chương trình truyền hình có lượng người xem đạt mức cao kỷ lục, chẳng hạn như chương trình thể thao, và được nhiều người yêu thích mỗi lần Swift góp mặt trong những chương trình đó. Theo người viết báo Sam Lansky cho Time, Hiệu ứng Taylor Swift "quả thực" đã có tác động đến tâm lý và ảnh hưởng đến mọi người, đặc biệt là những phụ nữ "có điều kiện chấp nhận sa thải, những lời mắng nhiếc và ngược đãi từ một xã hội coi cảm xúc của họ là thứ tầm thường" cũng như tin rằng cảm xúc lẫn nhận thức của họ là điều quan trọng. Lan truyền cảm hứng sáng tạo Swift đã có sức ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ âm nhạc ở nhiều thể loại kể từ khi ra mắt cho đến nay. Các nhà phê bình bắt đầu nhận thấy ảnh hưởng của cô đối với âm nhạc đại chúng vào năm 2013, và ghi nhận album của cô đã truyền cảm hứng cho cả một thế hệ ca-nhạc sĩ. Ngay cả Paul McCartney cũng đã lấy cảm hứng từ nghệ thuật và người hâm mộ của Swift để viết bài hát năm 2018 "Who Cares". Những nghệ sĩ khác đã coi Swift là người có ảnh hưởng bao gồm: Nhiều nhạc sĩ khác nhau đã được Swift truyền cảm hứng ở nhiều khía cạnh trong sự nghiệp, chẳng hạn như đạo đức làm việc và sức hấp dẫn khán giả của cô. Chính lời phát biểu của Swift về quyền của nghệ sĩ đã ảnh hưởng đến Olivia Rodrigo, Joe Jonas, Bryan Adams, the Departed, Snoop Dogg, Ashanti, Niki, Paris Hilton, SZA, Rita Ora, và Offset. SZA đã nói, "Taylor đã mạnh dạn từ bỏ bản thu âm hoàn chỉnh gốc của cô ấy, sau đó bán rẻ tất cả những đĩa nhạc chết dẫm đó. Đó là hành động 'đi chết đi' lớn nhất đối với cơ sở mà tôi từng thấy trong đời và tôi vô cùng hoan nghênh điều đó." Ashanti đã phát biểu, "Taylor đã làm nhiều việc thật tuyệt vời và có thể trở thành một phụ nữ trong ngành công nghiệp do nam giới thống trị này. [Cô ấy] đạt được điều đó thì quả thực là vô cùng tuyệt vời. Sở hữu tài sản của bạn và có cơ hội sở hữu sức sáng tạo của bạn là điều vô cùng quan trọng. Nam, nữ, ca sĩ, rapper, hay gì cũng được, tôi mong đây là bài học cho các nghệ sĩ bước vào và làm chủ." Vulture đã nêu ra Swift rất có thể chính là cảm hứng của album remix năm 2023 của Lovato là Revamped. Swift cũng đã giúp các nghệ sĩ đạt được danh tiếng đại chúng bằng cách mời họ tham gia các chuyến lưu diễn của cô với tư cách là người biểu diễn mở màn; ví dụ gồm có Bieber, Ed Sheeran, Mendes, Cabello, và Charli XCX. Ca sĩ người Anh gốc Philippines Beabadoobee mở màn cho The Eras Tour, nói rằng đi lưu diễn cùng Swift là một trong những ước mơ của cô khi còn nhỏ cho đến lúc lớn. Các nhạc sĩ người Mỹ Jack Antonoff và Aaron Dessner đã thừa nhận Swift đã giúp cho sự nghiệp sản xuất thu âm của họ thăng tiến. Antonoff nói, "Taylor là người đầu tiên để tôi sản xuất một bài hát. Trước khi có Taylor, mọi người đều nói: 'Bạn không phải là nhà sản xuất'. Phải đến khi Taylor Swift xuất hiện thì mới quay qua nói: 'Tôi thích âm thanh của bài hát này'." Swift đã trao cho nam rapper người Mỹ Kendrick Lamar ca khúc quán quân đầu tiên của anh trên Billboard Hot 100 với "Bad Blood" (2015), cùng với nữ rapper người Trinidad Nicki Minaj đã biết ơn Swift vì đã quảng bá đĩa đơn "Super Bass" năm 2011, giúp bản rap trở thành ca khúc thành công không thể ngờ tới được từ đó. Ngoài ngành công nghiệp âm nhạc, Swift còn truyền cảm hứng cho nhiều tác giả, tiểu thuyết gia, đạo diễn phim và người soạn kịch bản gồm có Sina Grace (Superman: The Harvests of Youth), Jenny Han (The Summer I Turned Pretty), Abby McDonald (Bridgerton), và Jennifer Kaytin Robinson (Someone Great và Do Revenge). Đạo diễn phim người Canada Shawn Levy đã ví Swift là "một thỏi nam châm văn hóa không giống bất cứ điều gì mà tôi từng thấy". Swift cũng truyền cảm hứng cho những người đóng giả cô như Ashley Leechin, Jade Jolie, và Taylor Sheesh. Cộng đồng người hâm mộ Việc Swift luôn trao gửi yêu thương tới những người hâm mộ của cô gọi là Swifties, được nhiều nhà báo gọi đây là điều chỉ có thấy một lần duy nhất đối với một nghệ sĩ tầm cỡ lớn như cô. Swifties từ lâu được cho là một nhóm người hâm mộ trung thành với mức độ tham gia và sáng tạo cùng thần tượng tràn đầy nhiệt huyết. Tác giả Amanda Petrusich cho biết, lòng trung thành của Swifties vừa "mạnh mẽ vừa đáng sợ". Fandom của Swift đã là chủ đề được báo chí và giới học thuật quan tâm, và những phân tích quan trọng về Swift được các phương tiện truyền thông gọi là "Swiftology". Đối với các nhà khoa học kinh doanh Brendan Canavan và Claire McCamley, mối quan hệ giữa Swift và Swifties đại diện cho chủ nghĩa tiêu dùng hậu hiện đại. Sự cuồng nhiệt của người hâm mộ mang tên "Swiftmania", được các cánh báo giới cho là phiên bản thế kỷ 21 của Beatlemania. Chẳng hạn như Jon Bream bên Star Tribune đã nói, "Swift đã đạt được một nền văn hóa độc canh không thể tưởng tượng được, một sự đảo lộn theo chủ nghĩa tư tưởng của Beatlemania". Chính vì Swift trở thành nguồn gốc của các huyền thoại trong văn hóa đại chúng nên các nhà báo mô tả các tác phẩm, người nổi tiếng và sự phô trương xung quanh những hiện tượng đó là một thế giới riêng. Glamour và The Washington Post gọi đó là Vũ trụ Điện ảnh Taylor Swift; còn Entertainment Weekly thì gọi là Vũ trụ Âm nhạc Taylor Swift. Ở phía The Guardian, Adrian Horton gọi "Swiftverse" là một loại hình tiểu văn hóa của phương tiện truyền thông đại chúng được "xây dựng nhiều năm và thần thoại Swiftian" gầy dựng nên, còn Alim Kheraj và Billboard thì viết rằng Swift đã biến nhạc pop thành một "câu đố dành cho nhiều người chơi" với cam kết về lượng người hâm mộ áp đảo, một điều mà các nghệ sĩ khác đã cố gắng tạo dựng bấy lâu nay. Chủ đề gây hứng thú trong học thuật Swift là một chủ đề nghiên cứu học thuật, nổi tiếng ở lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc và danh tiếng. Theo giáo sư văn học Elizabeth Scala, người mệnh danh Swift là cây cầu nối giữa tiểu thuyết đương đại và lịch sử, khả năng sáng tạo của Swift có tính "lây lan" và được giới học thuật đặc biệt quan tâm. Trong bài viết The New York Times mang tựa đề "Taylor Swift is Singing Us Back to Nature", nhà khoa học bảo tồn Jeff Opperman cho rằng các bài hát của Swift "chứa đầy ngôn ngữ và hình ảnh của thế giới tự nhiên", làm sống lại các chủ đề về thiên nhiên trong văn hóa đại chúng vốn bị suy giảm trong ca từ lẫn nhạc khí. Các bài hát như "Love Story" được các nhà tâm lý học tiến hóa nghiên cứu để hiểu rõ mối quan hệ giữa âm nhạc đại chúng và chiến lược tình dục của con người. Khi giải thích tại sao Swift lại trở thành một chủ đề nghiên cứu học thuật, học giả văn học Burt đã nói, "nhân loại có đầu óc trí khôn phải nghiên cứu văn hóa, bao gồm cả văn hóa hiện đại, và Taylor Swift cũng quan tâm đến nền văn hóa đó" và tuyên bố rằng các nhà sử học và nhân chủng học trong tương lai sẽ nghiên cứu nghệ thuật, danh tiếng và quá trình đón nhận của Swift để hiểu xã hội đương thời và suy ra các mô hình giao thoa văn hóa. Các chương trình học thuật Nhiều cơ sở giáo dục đại học khác nhau đã mở các khóa học đại học và tự chọn tập trung vào nghiên cứu Swift. Nhiều khóa học đã nhìn nhận việc mổ xẻ tác phẩm của Swift là "một điểm khởi đầu cho việc phê bình, phân tích cũng như hiểu biết các vấn đề văn hóa và tiêu chuẩn rộng hơn." Để kiểm tra tác động nhiều mặt của Swift, Đại học Indiana Bloomington đã tổ chức một hội nghị học thuật kéo dài ba ngày vào năm 2023, và Đại học Melbourne chuẩn bị tổ chức một hội nghị chuyên đề quốc tế mang tên Swiftposium 2024, được các học giả trên khắp các trường đại học Úc và New Zealand đứng ra tổ chức. Chú thích Ghi chú Tham khảo Nguồn ấn phẩm Âm nhạc thập niên 2020 Âm nhạc thập niên 2010 Âm nhạc thập niên 2000 Taylor Swift
19843262
https://vi.wikipedia.org/wiki/RS-24%20Yars
RS-24 Yars
RS-24 Yars (РС-24 Ярс – ракета стратегическая (tên lửa chiến lược)-modification 24-phiên bản 24) còn được gọi là Topol-MR, tên ký hiệu NATO SS-29 hoặc SS-27 Mod 2), là một loại tên lửa đạn đạo liên lục địa trang bị đầu đạn nhiệt hạch MIRV của Nga, có lần bay thử nghiệm lần đầu vào ngày 29 tháng Năm năm 2007, sau một quá trình nghiên cứu phát triển bí mật. Ban đầu nó được thiết kế giống như Topol-M trừ việc tải trọng đầu đạn của nó được điều chỉnh để có thể mang theo nhiều đầu đạn MIRV. Mỗi tên lửa được cho là có khả năng mang tới 4 đầu đạn, mặc dù thông tin chính xác về số đầu đạn của chúng mang theo là bí mật quân sự. RS-24 có trọng lượng nặng hơn loại tên lửa đạn đạo RT-2PM2 Topol-M, và có khả năng mang tới 10 đầu đạn phân ly độc lập. Cuộc thử nghiệm năm 2007 được công khai như một câu trả lời của Nga cho Lá chắn tên lửa của Mỹ đang được triển khai tại Châu Âu. Tên lửa RS-24 được triển khai hoạt động từ năm 2010 với hơn 50 bệ phóng tính đến tháng 6 năm 2017. Theo Sergey Karakaev, chỉ huy Lực lượng Tên lửa Chiến lược, Yars là từ viết tắt của " Yadernaya Raketa Sderzhivaniya", , có nghĩa là "Tên lửa răn đe hạt nhân". Thử nghiệm Theo chính phủ Nga, tên lửa được thiết kế để vượt qua các hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo hiện tại và tương lai. Tên lửa có lần thử nghiệm đầu tiên phóng từ xe mang phóng tự hành tại Trung tâm vũ trụ Plesetsk Tây Bắc nước Nga vào 11:20 GMT, 29 tháng Năm, 2007, và đầu đạn đánh trúng mục tiêu cách tại Trường bắn thử nghiệm Kura Viễn Đông, Bán đảo Kamchatka. Vụ phóng tên lửa thứ hai từ Plesetsk tới Trường bắn thử nghiệm Kura diễn ra vào ngày 25 tháng Mười hai năm 2007, 13:10 GMT. Vụ phóng thành công khi đầu đạn đánh trúng mục tiêu. Vụ phóng thứ ba cũng từ Plesetsk tới Trường bắn thử nghiệm Kura diễn ra vào ngày 26 tháng Mười một năm 2008, 13:20 GMT. Buổi thử nghiệm diễn ra thành công. Vụ phóng thứ tư diễn ra ngày 24 tháng 12 năm 2013 từ Trung tâm vũ trụ Plesetsk. Vào ngày 26 tháng 12 năm 2014, Lực lượng Tên lửa Chiến lược đã tiến hành phóng thành công tên lửa RS-24 Yars. Tên lửa được phóng từ bệ phóng di động được triển khai tại bãi thử Plesetsk. Đầu đạn tên lửa được cho là đã tiếp cận thành công mục tiêu tại bãi thử Kura ở Kamchatka. Vụ phóng được thực hiện với sự hỗ trợ của Lực lượng Phòng không và Vũ trụ, diễn ra lúc 11:02 MSK (08:02 UTC). Hơn 10 lần phóng thành công đã diễn ra từ năm 2012 đến năm 2022. Một lần phóng nữa được thực hiện vào ngày 25 tháng 10 năm 2023. Triển khai Tên lửa RS-24 Yars đã được triển khai tại Sư đoàn tên lửa cận vệ số 54 ở Teykovo. Nga đã triển khai đầy đủ trung đoàn Yars đầu tiên gồm ba tiểu đoàn vào tháng 8 năm 2011 và đưa hai tiểu đoàn của trung đoàn thứ hai vào làm nhiệm vụ chiến đấu vào ngày 27 tháng 12 năm 2011. Việc triển khai tiểu đoàn thứ ba của trung đoàn thứ hai đã hoàn thành việc tái vũ trang sư đoàn Teikovo bằng loại tên lửa mới RS-24 Yars. Hai trung đoàn này bao gồm tổng cộng 18 hệ thống tên lửa và một số sở chỉ huy di động. Sư đoàn tên lửa cận vệ số 39, tại Paskino, tỉnh Novosibirsk, Siberia, sẽ nhận được các hệ thống Yars di động, trong khi Sư đoàn tên lửa cận vệ số 28 tại Kozelsk (miền trung nước Nga) sẽ được trang bị phiên bản tên lửa phóng từ silo. Theo Sergey Karakaev, chỉ huy Lực lượng Tên lửa Chiến lược Nga, tính đến tháng 11 năm 2019, đã có "hơn 150" bệ phóng của tổ hợp "Yars" (silo và di động) đang được triển khai. Các trung đoàn ở Yoshkar-Ola, Teykovo, Nizhny Tagil và Novosibirsk đã được trang bị đầy đủ phiên bản RS-24 phóng từ xe mang phóng tự hành và việc tái vũ trang các trung đoàn tên lửa Irkutsk sẽ hoàn tất cho đến cuối năm 2019. Theo Karakaev, Lực lượng tên lửa chiến lược nhận được khoảng 20 tổ hợp tên lửa RS-24 Yars mới mỗi năm. 3 lữ đoàn tên lửa tại Barnaul sẽ đi vào trực chiến năm 2019-2020 và một trung đoàn nữa ở khu vực Tver năm 2022. Vào ngày 29 tháng 3 năm 2023, tên lửa Yars đã được diễn tập đồng thời ở ba khu vực. Tranh cãi Trung tâm Tình báo Vũ trụ và Hàng không Quốc gia Hoa Kỳ NASIC luôn tin rằng Yars chỉ là một phiên bản tên lửa Topol M vi phạm Hiệp ước START. Đều này được phản ánh trong cả tên gọi Mod 2 và các hình minh họa cho thấy SS-27 Mod 1 và Mod 2 giống hệt nhau. Các phiên bản Phóng từ đường bộ Yars-S. Phóng từ tàu hỏa Barguzin: một hệ thống phóng tên lửa từ tàu hỏa đã được phát triển với tên gọi BZhRK Barguzin. Vận hành Tính đến năm 2022, hơn 136 xe phóng tên lửa tự hành và 16 hầm phóng tên lửa được triển khai với 7 sư đoàn tên lửa: Phóng từ giếng phóng: 28th Guards Rocket Division tại Kozelsk Phóng từ bệ phóng di động: 14th Rocket Division tại Yoshkar-Ola 39th Guards Rocket Division tại Novosibirsk 42nd Rocket Division tại Nizhny Tagil 54th Guards Rocket Division tại Teykovo 29th Guards Rocket Division tại Irkutsk 35th Rocket Division tại Barnaul Xem thêm Strategic Missile Troops RS-26 Rubezh RS-28 Sarmat R-36 (missile) UR-100N RT-2PM Topol RT-2PM2 Topol-M LGM-30 Minuteman DF-41 Hwasong-18 Tham khảo Liên kết ngoài CSIS Missile Threat - SS-29 (RS-24 Yars) Yars RS-24 Technical data sheet
19843271
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20132%20c%E1%BB%A7a%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20B%E1%BA%A3o%20an%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
Nghị quyết 132 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
Nghị quyết 132 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, được thông qua ngày 7 tháng 9 năm 1959 đã quyết định bổ nhiệm một tiểu ban gồm Argentina, Ý, Nhật Bản và Tunisia, đồng thời chỉ đạo tiểu ban này xem xét các tuyên bố trước Hội đồng liên quan đến Lào và tiếp nhận những lời phát biểu và tài liệu tiếp theo, đồng thời thẩm vấn và báo cáo lên Hội đồng trong thời gian sớm nhất. Đó là nghị quyết duy nhất được Hội đồng Bảo an thông qua năm 1959. Lào trước đây từng tố cáo quân đội Bắc Việt vượt qua biên giới chung và thực hiện các cuộc tấn công quân sự chống lại Lào; Chủ tịch Hội đồng Bảo an bèn triệu tập một cuộc họp khẩn cấp. Nghị quyết 132 được thông qua với 10 phiếu thuận và một phiếu chống từ Liên Xô. Tiểu ban kết luận rằng các cuộc vượt biên có tính chất du kích và không thể xác định rõ ràng rằng quân đội Bắc Việt phải chịu trách nhiệm. Xem thêm Danh sách Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc từ 101 đến 200 (1953–1965) Tham khảo Liên kết ngoài Văn bản Nghị quyết tại undocs.org Lào năm 1959 Việt Nam năm 1959 Sự kiện tháng 9 năm 1959 Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc năm 1959 Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc liên quan đến Lào Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc liên quan đến Việt Nam
19843272
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%E1%BB%8B%20quy%E1%BA%BFt%20189%20c%E1%BB%A7a%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20B%E1%BA%A3o%20an%20Li%C3%AAn%20H%E1%BB%A3p%20Qu%E1%BB%91c
Nghị quyết 189 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
Nghị quyết 189 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, được nhất trí thông qua ngày 4 tháng 6 năm 1964 lên án sự cố do các đơn vị quân của Việt Nam Cộng hòa xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia và yêu cầu bồi thường cho người Campuchia. Nghị quyết sau đó đề nghị tất cả các quốc gia và chính quyền công nhận và tôn trọng tính trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, quyết định cử 3 thành viên của nước này tới những nơi xảy ra sự cố gần đây nhất để báo cáo lại Hội đồng sau 45 ngày kèm theo các đề xuất. Campuchia trước đây từng phàn nàn về các hành động xâm lược và xâm nhập của quân lực Việt Nam Cộng hòa và quân đội Mỹ vào lãnh thổ của mình. Ngày 24 tháng 7 năm 1964, phái đoàn do Hội đồng cử đến báo cáo tình hình biên giới vẫn căng thẳng và chưa tìm ra được giải pháp nào cả. Xem thêm Danh sách Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc từ 101 đến 200 (1953–1965) Tham khảo Liên kết ngoài Văn bản Nghị quyết tại undocs.org Việt Nam năm 1964 Campuchia năm 1964 Chiến tranh Việt Nam Sự kiện tháng 6 năm 1964 Quan hệ Campuchia – Việt Nam Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc năm 1964 Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc liên quan đến Việt Nam Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc liên quan đến Campuchia
19843273
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20x%E1%BA%A3%20s%C3%BAng%20t%E1%BA%A1i%20Praha%202023
Vụ xả súng tại Praha 2023
Vào ngày 21 tháng 12 năm 2023, 14 người thiệt mạng trong một vụ xả súng hàng loạt tại Đại học Charles của Quảng trường Jan Palach ở trung tâm Praha, Cộng hòa Séc. 25 người khác bị thương, trong đó có 3 người nước ngoài. Thủ phạm đã cho là đã chết sau vụ tấn công. Trước khi xảy ra vụ nổ súng, người ta tìm thấy cha của hung thủ đã chết tại nhà riêng ở Hostouň. Tham khảo Ghi chú Chú thích
19843276
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cooper%20Flagg
Cooper Flagg
Cooper Flagg (sinh ngày 21 tháng 12 năm 2006) là cầu thủ bóng rổ người Mỹ đang theo học tại Học viện Montverde ở Montverde, Florida. Đã cam kết với Duke, anh ấy đang được các tuyển trạch viên của NBA đánh giá 5 sao và sẽ có tiềm năng nằm trong top đầu của NBA Draft 2025. Tuổi thơ và sự nghiệp cấp trung học Flagg lớn lên ở Newport, Maine và ban đầu theo học tại trường trung học Nokomis. Anh trở thành học sinh năm nhất đầu tiên được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Maine Gatorade sau khi ghi trung bình 20,5 điểm, 10 rebound, 6,2 kiến ​​tạo, 3,7 cướp bóng và 3,7 cản bóng mỗi trận. Nokomis đã giành chức vô địch tiểu bang Class A khi Flagg ghi được 22 điểm và 16 rebound trong chiến thắng 43–27 trước Trường Trung học Falmouth trong trận chung kết cấp bang. Flagg chuyển đến Học viện Montverde ở Montverde, Florida, vào cuối năm thứ nhất trung học. Trước khi bắt đầu năm đầu tiên tại trường mới, anh ấy đã chơi ở Giải bóng rổ trẻ Nike Elite (EYBL) cho Florida Eagles, một đội thể thao nghiệp dư của Montverde. Flagg được vinh danh là MVP của Hoophall Classic 2023 sau khi ghi được 21 điểm với 5 cướp bóng, 5 rebound và 3 kiến ​​tạo trong chiến thắng 85–63 của Montverde trước Học viện La Lumiere. Anh cũng lọt vào danh sách thứ chính cho Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Naismith Prep. Flagg ghi trung bình 9,8 điểm, 5,2 rebound và 3 kiến ​​tạo mỗi trận trong mùa giải đầu tiên tại Montverde. Sau mùa giải, anh chơi cho Maine United ở EYBL và ghi trung bình 25,4 điểm, 13 rebound, 5,7 kiến ​​tạo và 6,9 block trong 7 trận tại giải Peach Jam. Cầu thủ được đánh giá 5 sao Flagg được xếp hạng là người có triển vọng tốt thứ ba của đợt tuyển mộ NBA năm 2025 sau khi kết thúc mùa giải trung học năm nhất. Anh ấy được xếp hạng lại là tuyển thủ xuất sắc thứ 2 vào tháng 8 năm 2022 sau màn trình diễn xuất sắc tại Giải bóng rổ U17 thế giới FIBA ​​năm 2022. Flagg đã nhận được học bổng NCAA Division I đầu tiên từ Bryant khi đang học lớp 8. Anh ấy được phân loại lại vào lớp 2024 vào mùa hè sau năm thứ 2. Flagg hiện là tuyển thủ được đánh giá cao nhất lứa 2025 ở Mỹ. Vào ngày 30 tháng 10 năm 2023, Flagg đã cam kết miệng sẽ chơi cho Duke sau khi xem xét lời đề nghị từ UConn. Ban đầu anh ấy dự định công bố cam kết của mình vào ngày 27 tháng 10, nhưng đã đẩy lùi nó sau vụ xả súng ở Lewiston năm 2023 tại bang Maine, quê hương anh ấy. Flagg sẽ chơi cho đội bóng rổ của Duke vào ngày 8 tháng 11 năm 2023. Sự nghiệp tuyển quốc gia Flagg đã chơi cho đội bóng rổ U17 Hòa Kỳ tại Giải bóng rổ U17 thế giới FIBA ​​năm 2022. Anh alotj vào Đội hình tiêu biểu của giải đấu sau khi ghi trung bình 9,3 điểm, 10 rebound, 2,9 block và 2,4 cuố bóng mỗi trận và Hoa Kỳ giành huy chương vàng. Flagg ghi được 10 điểm với 17 rebound, 8 cướp bóng và 4 block trong chiến thắng 79–67 trước Tây Ban Nha trong trận chung kết. Anh được vinh danh là Vận động viên bóng rổ nam của năm 2022 của Hoa Kỳ nhờ thành tích tại U17 World Cup và là cầu thủ trẻ nhất giành được giải thưởng này. Cuộc sống cá nhân Mẹ của Flagg, Kelly, chơi bóng rổ đại học tại Maine, nơi bà là đội trưởng khi còn là học sinh cuối cấp. Cha của anh, Ralph, chơi bóng rổ NJCAA tại Cao đẳng Cộng đồng Đông Maine. Flagg có một người anh em sinh đôi, Ace, từng là đồng đội ở Nokomis và được chuyển đến Montverde. Anh trai của Flagg, Hunter cũng là một cầu thủ bóng rổ của Nokomis và là sinh viên năm cuối khi anh còn là sinh viên năm nhất. Phong cách chơi bóng Flagg được dự báo sẽ là một cầu thủ NBA ưu tú nên không quá khi so sánh anh ấy với một số cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại. Ví dụ như Scottie Pippen. Giống như Pippen, Flagg là một cầu thủ phòng ngự đặc biệt, người có thể bao quát khắp sân, đồng thời có tác động lớn đến mặt trận tấn công. Cả hai đều cao khoảng 2 mét 06 với sải tay dài. Ở đỉnh cao sự nghiệp, Pippen là một trong những cầu thủ phòng ngự giỏi nhất (nếu không muốn nói là giỏi nhất) giải đấu và Flagg có thể tiến gần đến đẳng cấp đó. Ngoài ra, một cầu thủ lớn khác cũng có phong cách chơi bóng tương đồng với Flagg là Andrei Kirilinko. Tham khảo Liên kết ngoài Montverde Academy Eagles bio USA Basketball bio Montverde Academy alumni Sinh năm 2006 Cầu thủ bóng rổ sống tại Maine Tiền phong phụ Nhân vật còn sống
19843283
https://vi.wikipedia.org/wiki/Edmond%20Tapsoba
Edmond Tapsoba
Edmond Fayçal Tapsoba (sinh ngày 2 tháng 2 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá người Burkina Faso thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Bundesliga Bayer Leverkusen và Đội tuyển bóng đá quốc gia Burkina Faso . Danh hiệu Bayer Leverkusen Bundesliga: 2023–24 DFB-Pokal: 2023–24 Tham khảo Sinh năm 1999 Cầu thủ bóng đá Bayer Leverkusen Cầu thủ bóng đá Bundesliga Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Burkina Faso Cầu thủ bóng đá nam Burkina Faso Cầu thủ bóng đá Leixões S.C. Nhân vật còn sống Trung vệ bóng đá Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha Cầu thủ bóng đá Vitória S.C.
19843319
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A9ng%20ch%E1%BB%89%20K%E1%BA%BF%20to%C3%A1n%20vi%C3%AAn%2C%20Ki%E1%BB%83m%20to%C3%A1n%20vi%C3%AAn%20%28Vi%E1%BB%87t%20Nam%29
Chứng chỉ Kế toán viên, Kiểm toán viên (Việt Nam)
Chứng chỉ Kế toán viên, Kiểm toán viên là các chứng chỉ nghề nghiệp được cấp bởi Bộ Tài chính (Việt Nam). Chứng chỉ này nhằm mục đích đăng ký hành nghề hoạt động dịch vụ kế toán và kiểm toán, theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Trong giới kế toán, kiểm toán tại Việt Nam, chứng chỉ này còn được gọi bằng tên gọi không chính thức là chứng chỉ CPA (Certified Public Accountant), tương tự như chứng chỉ hành nghề được cấp bởi Mỹ và Australia. Chứng chỉ kế toán viên Theo Luật Kế toán 2015 của Việt Nam, người được cấp chứng chỉ kế toán viên phải đáp ứng được 3 điều kiện sau: Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật; Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc chuyên ngành tài chính, kế toán, kiểm toán hoặc chuyên ngành khác theo quy định của Bộ Tài chính Đạt kết quả kỳ thi lấy chứng chỉ kế toán viên Chứng chỉ kiểm toán viên Theo Luật Kiểm toán độc lập 2011 của Việt Nam, kiểm toán viên là người đáp ứng được các tiêu chuẩn sau: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực, khách quan; Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thuộc chuyên ngành tài chính, ngân hàng, kế toán, kiểm toán hoặc chuyên ngành khác theo quy định của Bộ Tài chính; Có Chứng chỉ kiểm toán viên theo quy định của Bộ Tài chính. Kỳ thi kế toán viên, kiểm toán viên Lịch sử kỳ thi Kỳ thi này được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1994 theo quyết định số 237/TC/QĐ/CĐKT của Bộ Tài chính Việt Nam. Khi đó, kỳ thi gồm 8 môn thi, bao gồm: Luật kinh tế, Tài chính doanh nghiệp, Tiền tệ tín dụng, Lý thuyết và thực hành kế toán, Lý thuyết và thực hành kiểm toán, Phân tích hoạt động kinh tế, Tin học và Ngoại ngữ. Lúc này, kỳ thi không giới hạn số năm làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính của người dự thi. Tới năm 2002, Bộ Tài chính sửa đôi quy chế thi của Kỳ thi, nhưng vẫn giữ cơ bản 8 môn thi như quy định của năm 1994. Riêng môn Phân tích hoạt động kinh tế đổi thành Phân tích hoạt động tài chính. Tuy nhiên, kỳ thi bắt đầu đặt ra quy định người dự thi phải có tối thiểu kinh nghiệm 5 năm làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính để được tham gia dự thi và cấp chứng chỉ. Người dự thi năm đầu tiên được yêu cầu phải tham gia tối thiểu 4 môn thi. Tổng điểm của 8 môn thi để đủ điều kiện cấp chứng chỉ là 50 điểm. Năm 2004, lần đầu tiên xuất hiện khái niệm về chứng chỉ kế toán viên. Bộ Tài chính tổ chức một kỳ thi duy nhất nhằm mục đích cấp chứng chỉ kế toán viên và kiểm toán viên cho các thí sinh tham dự kỳ thi. Trong đó thí sinh dự thi chứng chỉ kế toán viên phải tham dự 5 môn thi gồm Pháp luật về kinh tế, Tài chính, Tiền tệ - tín dụng, Kế toán và Tin học. Thí sinh dự thi chứng chỉ kiểm toán viên ngoài 5 môn nêu trên phải tham dự thêm 3 môn thi nữa là Kiểm toán, Phân tích hoạt động tài chính và Ngoại ngữ. Kỳ thi cũng cho phép thí sinh đã có chứng chỉ kế toán viên được thi chuyển tiếp sang chứng chỉ kiểm toán viên . Năm 2012, Bộ Tài chính đặt ra quy định mới về các môn thi. Trong đó, môn Tin học bị loại bỏ khỏi chương trình thi, trong khi môn Ngoại ngữ loại bỏ phần thi vấn đáp. Như vậy thí sinh chỉ còn phải tham gia dự thi 4 môn đối với chứng chỉ kế toán viên và 7 môn đối với chứng chỉ kiểm toán viên. Từ năm 2017, Bộ Tài chính thay đổi quy định về số năm kinh nghiệm tối thiểu để được dự thi, giảm từ 5 năm (60 tháng) xuống còn 36 tháng tính từ thời điểm được cấp bằng tốt nghiệp Đại học. Kỳ thi từ đó được giữ ổn định cho tới nay. Đối tượng dự thi Đối tượng dự thi là người Việt Nam hoặc nước ngoài, đáp ứng đủ các điều kiện sau: Có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, liêm khiết, có ý thức chấp hành pháp luật; Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên về chuyên ngành Tài chính, Ngân hàng, Kế toán, Kiểm toán; hoặc có bằng tốt nghiệp đại học các chuyên ngành khác với tổng số đơn vị học trình các môn học: Tài chính, Kế toán, Kiểm toán, Phân tích hoạt động tài chính, Thuế từ 7% trở lên trên tổng số học trình cả khóa học; hoặc có bằng tốt nghiệp đại học các chuyên ngành khác và có văn bằng, chứng chỉ hoàn thành các khoá học do Tổ chức nghề nghiệp quốc tế về kế toán, kiểm toán cấp. Có thời gian công tác thực tế về tài chính, kế toán, kiểm toán tối thiểu 36 tháng; được tính trong khoảng thời gian từ tháng tốt nghiệp ghi trên bằng tốt nghiệp đại học (hoặc sau đại học) đến thời điểm đăng ký dự thi. Thời gian công tác thực tế về kiểm toán bao gồm thời gian làm trợ lý kiểm toán tại doanh nghiệp kiểm toán, thời gian làm kiểm toán nội bộ tại bộ phận kiểm toán nội bộ của đơn vị, thời gian làm kiểm toán tại cơ quan Kiểm toán Nhà nước. Không thuộc đối tượng bị cấm hành nghề Kế toán. Trong các điều kiện nêu trên, điều kiện thứ 3 là có ý nghĩa "đồng thời". Tức là người muốn tham gia dự thi phải tốt nghiệp tối thiểu 36 tháng kể từ ngày được cấp bằng tốt nghiệp và đã có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực kế toán, tài chính, kiểm toán tối thiểu 36 tháng. Ví dụ, một người đăng ký dự thi tốt nghiệp Đại học chuyên ngành kế toán vào tháng 08/2020, bắt đầu đi làm liên tục trong lĩnh vực kế toán từ tháng 09/2020. Nếu tại kỳ thi năm 2023, thời gian nhận hồ sơ dự thi là tháng 08/2023, người này sẽ không đủ điều kiện 36 tháng công tác thực tế về kế toán nên không đủ tư cách dự thi. Trường hợp thời gian nhận hồ sơ đăng ký dự thi là tháng 10/2023 và người này đi làm liên tục trong lĩnh vực kế toán từ tháng 09/2020, đủ yêu cầu về số tháng kinh nghiệm, nhưng thực tế bằng Đại học chuyên ngành kế toán được cấp vào tháng 11/2020 thì người này cũng không đủ điều kiện dự thi, do thời điểm đăng ký dự thi chưa tốt nghiệp Đại học đủ 36 tháng. Môn thi Người dự thi lấy chứng chỉ Kế toán viên cần phải tham gia 4 môn thi sau: Pháp luật về kinh tế và Luật doanh nghiệp; Tài chính và quản lý tài chính nâng cao; Thuế và quản lý thuế nâng cao; Kế toán tài chính, kế toán quản trị nâng cao. Người dự thi lấy chứng chỉ Kiểm toán viên, ngoài 4 môn thi của chứng chỉ kế toán viên cần phải tham gia thêm 3 môn thi sau: Kiểm toán và dịch vụ bảo đảm nâng cao; Phân tích hoạt động tài chính nâng cao; Ngoại ngữ (Chọn 1 trong 5 ngôn ngữ sau Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc, Đức) Thi sát hạch với người đã có chứng chỉ kế toán, kiểm toán của nước ngoài Người có chứng chỉ kế toán, kiểm toán viên nước ngoài của tổ chức nghề nghiệp nước ngoài được Bộ Tài chính Việt Nam thừa nhận (cụ thể là tổ chức đó là thành viên của IFAC) và nội dung học và thi để lấy được chứng chỉ đó tương đương hoặc cao hơn nội dung học và thi của chứng chỉ Kế toán viên, Kiểm toán viên tại Việt Nam thì được tham dự kỳ thi sát hạch. Bài thi sát hạch bao gồm các nội dung liên quan đến luật Việt Nam như sau: Pháp luật về kinh tế và Luật doanh nghiệp; Tài chính và quản lý tài chính; Thuế và quản lý thuế; Kế toán tài chính, kế toán quản trị; Kiểm toán và dịch vụ bảo đảm. Riêng phần Kiểm toán và dịch vụ bảo đảm chỉ áp dụng đối với người muốn lấy chứng chỉ Kiểm toán viên. Nội dung thi và cấu trúc đề thi của từng môn thi Hằng năm, Bộ Tài chính Việt Nam sẽ công khai nội dung kỳ thi và tài liệu ôn thi trên cổng thông tin điện tử của Bộ. Các thí sinh có thể tự do tải về đê ôn tập cho kỳ thi. Nội dung thi ứng với từng môn thi về cơ bản được giữ ổn định qua các năm và được cập nhật, bổ sung cho phù hợp với văn bản pháp luật được ban hành mới nhất, nhằm đảm bảo tính thực tiễn cho các nội dung thi, đặc biệt là đối với các môn Pháp luật về kinh tế và Luật doanh nghiệp, Thuế và quản lý thuế nâng cao... Dưới đây là nội dung thi của kỳ thi 2023 . Pháp luật về Kinh tế và Luật Doanh nghiệp Gồm các 7 nội dung cơ bản sau: Pháp luật về Doanh nghiệp Pháp luật về Đầu tư Pháp luật về Hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại Pháp luật về Cạnh tranh Pháp luật về Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại Pháp luật về Phá sản Pháp luật về Lao động Môn Pháp luật về Kinh tế và Luật Doanh nghiệp thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Kỳ thi 2018 trở về trước, môn này gồm 2 câu hỏi lý thuyết và 3 câu hỏi bài tập xử lý tình huống pháp lý. Kỳ thi năm 2019, cấu trúc đề thi thay đổi thành chỉ còn 1 câu hỏi lý thuyết và tăng số lượng câu hỏi bài tập xử lý tình huống lên thành 4. Từ kỳ thi 2020 trở đi, môn thi này bỏ hẳn các câu hỏi lý thuyết và toàn bộ là 5 câu hỏi bài tập. Tài chính và quản lý tài chính nâng cao Gồm 12 nội dung cơ bản sau: Vai trò và mục tiêu của quản trị tài chính doanh nghiệp Giá trị thời gian của tiền Rủi ro và tỷ suất sinh lời Định giá trái phiếu và cổ phiếu Dự báo nhu cầu tài chính của doanh nghiệp Quyết định đầu tư vốn của doanh nghiệp Nguồn vốn của Doanh nghiệp Chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp Hệ thống đòn bẩy trong doanh nghiệp Quản trị vốn kinh doanh của doanh nghiệp Phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp Định giá doanh nghiệp Môn Tài chính và Quản lý Tài chính nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Kỳ thi 2018 trở về trước, môn này gồm 2 câu hỏi lý thuyết và 3 câu hỏi bài tập tính toán. Kỳ thi năm 2019, cấu trúc đề thi thay đổi thành chỉ còn 1 câu hỏi lý thuyết và tăng số lượng câu hỏi bài tập tính toán lên thành 4. Từ kỳ thi 2020 trở đi, môn thi này bỏ hẳn các câu hỏi lý thuyết và toàn bộ là 5 câu hỏi bài tập. Thuế và quản lý thuế nâng cao; Gồm 1 phần về tổng quan, 5 sắc thuế chính và 3 nội dung liên quan đến quản lý thuế như sau: Những vấn đề chung về thuế Thuế giá trị gia tăng Thuế tiêu thụ đặc biệt Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Thuế thu nhập doanh nghiệp Thuế thu nhập cá nhân Quản lý thuế Kế hoạch thuế Quy định về dịch vụ hành nghề làm thủ tục về thuế và tư vấn thuế Môn Thuế và Quản lý thuế nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Kỳ thi 2018 trở về trước, môn này gồm 2 câu hỏi lý thuyết và 3 câu hỏi bài tập xác định số thuế phải nộp cho một hoặc nhiều sắc thuế, tuỳ thuộc vào câu hỏi trong đề thi. Kỳ thi năm 2019, cấu trúc đề thi thay đổi thành chỉ còn 1 câu hỏi lý thuyết và tăng số lượng câu hỏi bài tập xác định tiền thuế phải nộp lên thành 4. Từ kỳ thi 2020 trở đi, môn thi này bỏ hẳn các câu hỏi lý thuyết và toàn bộ là 5 câu hỏi bài tập. Kế toán tài chính, kế toán quản trị nâng cao Chuyên đề này gồm 6 nội dung cơ bản sau: Một số quy định chung của Luật Kế toán và các văn bản hướng dẫn Luật Kế toán Nội dung 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam Một số nguyên tắc kế toán quan trọng diễn giải chuẩn mực kế toán theo chế độ Kế toán doanh nghiệp Phương pháp Lập và trình bày Báo cáo tài chính Báo cáo tài chính hợp nhất Một số nội dung về Kế toán quản trị Chuyên đề Kế toán được đánh giá là một trong những chuyên đề có phạm vi kiến thức rộng và đa dạng vấn đề nhất trong kỳ thi, đòi hỏi người dự thi phải có kiến thức chắc chắn về Kế toán và tốc độ làm bài nhanh để giải quyết được hết các câu hỏi và yêu cầu của đề bài. Môn thi này có thời gian làm bài 180 phút với hình thức thi tự luận trên giấy, cũng gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Trong đó, có 1 câu hỏi về kế toán quản trị, 4 câu hỏi về Kế toán tài chính, bao gồm cả lý thuyết và bài tập. Kiểm toán và dịch vụ bảo đảm nâng cao Gồm nội dung cơ bản sau: Phần 1: Tổng quan về Kiểm toán và dịch vụ đảm bảo Những vấn đề chung về hoạt động kiểm toán Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán Phần 2: Các chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo Các chuẩn mực kiểm toán - Các vấn đề chung: Mục tiêu tổng thể của Kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán; Hợp đồng kiểm toán; Trách nhiệm của Kiểm toán viên liên quan đến gian lận, hành vi không tuân thủ pháp luật; Kiểm soát chất lượng doanh nghiệp thực hiện kiểm toán... - Lập kế hoạch kiểm toán - Thực hiện kiểm toán: Bằng chứng kiểm toán; Lấy mẫu kiểm toán; Thủ tục phân tích; Kiểm toán ước tính kế toán; Các bên liên quan; Sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ; Hoạt động liên tục; Đánh giá sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toán... - Kết thúc kiểm toán Chuẩn mực kiểm toán với các nội dung đặc biệt Chuẩn mực kiểm toán với các dịch vụ bản đảm khác - Dịch vụ soát xét báo cáo tài chính thông tin tài chính quá khứ - Dịch vụ bảo đảm ngoài dịch vụ kiểm toán và soát xét thông tin tài chính quá khứ - Các dịch vụ liên quan Phần 3: Thực hành kiểm toán các khoản mục chủ yếu của báo cáo tài chính Kiểm toán hàng tồn kho Kiểm toán nợ phải thu Kiểm toán nợ phải trả Môn Kiểm toán và Dịch vụ bảo đảm nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Phân tích hoạt động tài chính nâng cao Gồm các nội dung cơ bản sau: Phần 1: Tổng quan về Phân tích hoạt động tài chính nâng cao Mục tiêu và nội dung phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp Phương pháp phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp Tổ chức quy trình phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp Cơ sở dữ liệu phục vụ phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp Phần 2: Nội dung phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp Phân tích tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp Phân tích tình hình tài trợ và đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán Phân tích khả năng tạo tiền và tình hình lưu chuyển tiền tệ Phân tích tình hình kinh doanh của doanh nghiệp Phân tích hiệu suất và hiệu quả sử dụng vốn Phân tích rủi ro tài chính và dự báo nhu cầu tài chính Môn Phân tích hoạt động tài chính nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Ngoại ngữ (Chọn 1 trong 5 ngôn ngữ sau Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc, Đức) Môn ngoại ngữ (tiếng Anh) chỉ kiểm tra 2 kỹ năng là đọc (Reading) và viết (Writing), thi theo hình thức tự luận trên giấy với tổng thời gian 120 phút, bao gồm các câu hỏi như sau: Phần I. Đọc hiểu Bài 1: Thí sinh lựa chọn từ 25 từ/cụm từ cho sẵn để điền vào 15 câu chưa hoàn chỉnh. Mỗi từ cho sẵn chỉ được dùng 1 lần. Bài 2: Gồm 2 bài khoá, mỗi bài 80-100 từ. Thí sinh phải trả lời 5 câu hỏi cho mỗi bài khoá, gồm 5 câu tự luận (tự viết câu trả lời) ứng với bài khoá số 1 và 5 câu lựa chọn đáp án đúng ứng với thông tin của bài khoá số 2. Bài 3: Gồm 1 bài khoá 150 từ. Thí sinh phải tự tìm từ/cụm từ thích hợp để điền vào 10 chỗ trống còn thiếu trong bài. Phần II. Viết. Bài 1: Gồm 5 câu dùng dạng thích hợp của từ cho sẵn trong ngoặc điền vào chỗ trống để hoàn thành câu. Bài 2: Dựa trên các từ cho sẵn, thí sinh phải sắp xếp và thêm các từ, giới từ để viết câu hoàn chỉnh. Có tất cả 10 câu. Bài 3: Thí sinh phải viết lại câu bằng các từ gợi ý sao cho câu viết lại giữ nguyên ý nghĩa so với câu gốc. Có tất cả 5 câu. Bài 4: Thí sinh phải dịch 5 câu tiếng Việt ra tiếng Anh và 5 câu tiếng Anh ra tiếng Việt. Nội dung các câu văn ở bài thi này thường về lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Điều kiện đạt yêu cầu thi Đối với môn thi Một môn thi được xem là đạt yêu cầu khi điểm môn thi đó từ 5 trở lên. Thí sinh được bảo lưu điểm thi của môn thi đạt yêu cầu trong vòng 3 năm liên tiếp kể từ năm bắt đầu dự thi môn đó. Điều này được diễn giải là, điểm thi đạt yêu cầu (trên 5 điểm) chỉ được sử dụng để xét kết quả cho kỳ thi đó và 2 kỳ thi liền kề sau đó. Ví dụ, một thí sinh đạt điểm 6 của môn Thuế và quản lý thuế nâng cao năm 2023 nhưng chưa đạt yêu cầu đối với các môn thi khác, hoặc tổng điểm thi không đạt yêu cầu, thí sinh này được bảo lưu điểm của môn này cho kỳ thi của năm 2024 và 2025. Tức là năm 2024, thí sinh này không cần thi môn Thuế và quản lý thuế nâng cao nữa, và chỉ thi các môn còn lại để vượt qua kỳ thi. Trường hợp thí sinh các năm trước thi chứng chỉ kế toán viên và đã đạt yêu cầu một số môn nhưng chưa đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ kế toán viên, năm sau không đăng ký thi chứng chỉ kế toán viên mà đăng ký thi chứng chỉ kiểm toán viên thì thí sinh sẽ không được bảo lưu điểm của các môn đã thi mà buộc phải thi lại đủ 7 môn của chứng chỉ kiểm toán viên. Ví dụ: Năm 2023, thí sinh đăng ký dự thi chứng chỉ kế toán viên và có kết quả các môn Kế toán - 8 điểm, Thuế - 9 điểm, Tài chính là 9 điểm, nhưng môn Luật chỉ đạt 4 điểm, chưa đạt yêu cầu thi nên chưa đủ điều kiện được cấp chứng chỉ kế toán viên. Năm 2024, nếu thí sinh đó đăng ký dự thi chứng chỉ kiểm toán viên, thí sinh không được sử dụng điểm bảo lưu của các môn Kế toán, Thuế và Tài chính, mà phải đăng ký dự thi từ đầu. Trường hợp thí sinh muốn bảo lưu điểm của 3 môn đã đạt yêu cầu, thí sinh phải tiếp đăng ký dự thi chứng chỉ kế toán viên. Sau khi có chứng chỉ kế toán viên thì đăng ký thi chuyển tiếp sang chứng chỉ kiểm toán viên. Đối với chứng chỉ kế toán viên Nếu thí sinh có cả 4 môn thi của chứng chỉ kế toán viên còn được bảo lưu đều đạt yêu cầu (trên 5 điểm), đồng thời tổng điểm 4 môn còn được bảo lưu đạt tối thiểu 25 điểm, thí sinh đó sẽ được tính là đạt yêu cầu thi và được cấp chứng chỉ kế toán viên. Ví dụ: Thí sinh đạt 5 điểm cho cả 4 môn thi, tuy đã đạt yêu cầu với cả 4 môn, nhưng tổng điểm là 20 điểm, chưa đủ điều kiện để cấp chứng chỉ kế toán viên. Thí sinh này cần tiếp tục đăng ký dự thi để nâng tổng điểm lên tối thiểu 25 điểm để được cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, nếu thí sinh đăng ký dự thi chứng chỉ kiểm toán viên, và đạt đủ điều kiện nêu trên với 4 môn của chứng chỉ kế toán viên, nhưng chưa đủ điều kiện để lấy được chứng chỉ kiểm toán viên, thì thí sinh đó cũng không được xét cấp chứng chỉ kế toán viên. Đối với chứng chỉ kiểm toán viên Nếu thí sinh có cả 7 môn thi của chứng chỉ kiểm toán viên còn được bảo lưu đều đạt yêu cầu (trên 5 điểm), đồng thời tổng điểm 6 môn còn được bảo lưu (trừ môn Ngoại ngữ) đạt tối thiểu 38 điểm, thí sinh đó sẽ được tính là đạt yêu cầu thi và được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Nếu thí sinh đã có chứng chỉ kế toán viên và thi chuyển tiếp sang chứng chỉ kiểm toán viên, nếu có cả 3 môn thi còn lại của chứng chỉ kiểm toán viên còn được bảo lưu đều đạt yêu cầu (trên 5 điểm), đồng thời tổng điểm 2 môn còn được bảo lưu (trừ môn Ngoại ngữ) đạt tối thiểu 12,5 điểm, thí sinh đó sẽ được tính là đạt yêu cầu thi và được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Các kỳ thi kế toán viên, kiểm toán viên Kỳ thi năm 2022 Kỳ thi năm 2023 Vào ngày 01/12/2023, Bộ Tài chính Việt Nam thông báo sẽ tổ chức kỳ thi kế toán viên, kiểm toán viên năm 2023 vào các ngày 16,17,23,24/12/2023. Trong đó, địa điểm thi tại khu vực Miền Bắc là Học viện Tài Chính, 69 Đức Thắng, Phường Đức Thắng, Quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Địa điểm thi khu vực Miền Nam là Trường Đại học Tài chính - Marketing, B2/1A đường 385, Tăng Nhơn Phú A, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo danh sách công bố của Bộ Tài Chính, số lượng thí sinh đăng ký dự thi như sau: Tham khảo
19843327
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Vi%E1%BB%87t
Nguyễn Đức Việt
| giải thưởng 1 = Liên hoan phim Việt Nam | năm 1 = 1996 | hạng mục 1 = Quay phim xuất sắc }} Nguyễn Đức Việt (sinh ngày 1 tháng 5 năm 1961) là nghệ sĩ ưu tú, nhà quay phim, đạo diễn điện ảnh Việt Nam. Ông được biết đến khi giành giải Quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 11 với bộ hai phim Cây bạch đàn vô danh, Nước mắt thời mở cửa. Từ năm 2007, ông chuyển sang làm đạo diễn và có được một số tác phẩm xuất sắc như: Những đứa con của làng, Vũ điệu đam mê, Em muốn làm người nổi tiếng.. Tiểu sử Nguyễn Đức Việt sinh ngày 1 tháng 5 năm 1961, trong một gia đình trí thức thuộc dòng họ Nguyễn Đức ở Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An. Cha ông là Nguyễn Đức Nam nhà giáo, nhà lý luận phê bình văn học, nguyên giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục. Sự nghiệp Tốt nghiệp ngành Quay phim, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội năm 1987, Nguyễn Đức Việt về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam. Năm 1996, ông giành giải Quay phim xuất sắc với hai bộ phim điện ảnh Cây bạch đàn vô danh của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân và Nước mắt thời mở cửa của đạo diễn Lưu Trọng Ninh. Năm 1999, Đức Việt tiếp tục hợp tác với Nguyễn Thanh Vân qua bộ phim điện ảnh Đời cát, bộ phim này giành được khá nhiều giải thưởng trong và ngoài nước. Năm 2007, Đức Việt được nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát mời làm đạo diễn bộ phim điện ảnh âm nhạc Em muốn làm người nổi tiếng, bộ phim giành giải Khuyến khích tại Giải Cánh diều 2007. Năm 2009, khi đang thực hiện bộ phim truyền hình Men say - cũng lấy đề tài về âm nhạc - cho Đài Truyền hình Hà Nội, đạo diễn Đức Việt được gặp tác giả Vũ Ly Ly và đọc kịch bản Bụi đường tinh khôi của cô. Trong cùng năm, ông làm đạo diễn, thực hiện bộ phim điện ảnh âm nhạc đề tài Hip hop đầy tiên tại Việt Nam Vũ điệu đam mê dựa theo kịch bản Bụi đường tinh khôi, bộ phim sau đó giành giải Cánh diều Bạc năm 2010 và Bông sen Bạc năm 2011. Nguyễn Đức Việt là thành viên Ban giám khảo hạng mục Phim truyện điện ảnh của Giải Cánh diều 2012 và 2018. Năm 2015, bộ phim Những đứa con của làng do ông đạo giành được giải Cánh diều Bạc cùng với Lạc giới của đạo diễn Phi Tiến Sơn và Hương ga của đạo diễn Cường Ngô; bộ phim còn nhận được giải cho Nam diễn viên phụ, Kịch bản xuất sắc và giải thưởng do Báo chí bình chọn. Cuối năm 2015, Những đứa con của làng tiếp tục giành thêm giải Bông sen Bạc cùng với Cuộc đời của Yến tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19. Năm 2019, Đức Việt đạo diễn bộ phim ngắn tập Vương tơ của Kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 2021, Nguyễn Đức Việt nghỉ hưu nhưng vẫn tiếp tục làm phim trong đó có phim điện ảnh Hồng Hà nữ sĩ năm 2022. Tác phẩm Giải thưởng Giải thưởng cá nhân Giải thưởng cho tác phẩm Tham khảo Nhà quay phim Việt Nam Đạo diễn điện ảnh Việt Nam Sinh năm 1961 Người Nghệ An Nghệ sĩ ưu tú Việt Nam Nhân vật còn sống
19843328
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Vi%E1%BB%87t%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Nguyễn Đức Việt (định hướng)
Nguyễn Đức Việt có thể là: Nguyễn Đức Việt, nghệ sĩ ưu tú, nhà quay phim, đạo diễn điện ảnh Việt Nam. Nguyễn Đức Việt, cầu thủ bóng đá Việt Nam, thành viên đội bóng Hoàng Anh Gia Lai Verner Schulze: lính hàng binh quân đội Pháp - gốc Đức, được chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên là Nguyễn Đức Việt. người lái máy bay đầu tiên cho Quân đội nhân dân Việt Nam
19843330
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20woodsi
Myripristis woodsi
Myripristis woodsi là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1974. Từ nguyên Từ định danh woodsi được đặt theo tên của Loren Paul Woods (1913–1979), nhà ngư học người Mỹ từng làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field (Chicago), người đầu tiên nhận ra loài này khác biệt. Phạm vi phân bố và môi trường sống M. woodsi có phân bố tập trung ở các đảo quốc trên Thái Bình Dương (trừ quần đảo Hawaii, nhóm Pitcairn và đảo Phục Sinh), từ các đảo thuộc Micronesia trải dài về phía đông nam đến quần đảo Tuamotu (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ogasawara và đảo Minami Tori-shima (Nhật Bản), về phía nam đến Nouvelle-Calédonie. M. woodsi sống tập trung trên các rạn san hô ngoài khơi cũng như trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 20 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. woodsi là 26,5 cm. M. woodsi có một đốm trắng ở phía trên của gốc vây ngực, gần kề với đốm màu đỏ sẫm (gần như đen) ở gốc vây ngực. Viền trước màu trắng ở vây bụng và các vây mềm khác. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 12–13; Số vảy đường bên: 30–34. Sinh thái Thức ăn của M. woodsi là các loài động vật phù du. Tham khảo W Cá Thái Bình Dương Cá Nhật Bản Cá Nouvelle-Calédonie Động vật quần đảo Marshall Động vật Kiribati Động vật Polynésie thuộc Pháp Động vật được mô tả năm 1974
19843337
https://vi.wikipedia.org/wiki/Croque%20monsieur
Croque monsieur
Croque monsieur () là món bánh mì kẹp giăm bông và phô mai nóng của Pháp. Tên gọi xuất phát từ các từ tiếng Pháp croque (giòn) và monsieur (quý ông). Nguồn gốc Croque monsieur được cho rằng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1910 trong thực đơn của một quán cà phê ở Boulevard des Capucines, Paris. Dù vậy, nguồn gốc của cách gọi này vẫn chưa được biết, giả thuyết phổ biến hơn là chủ quán cà phê, Michel Lunarca, đã đùa rằng thịt bên trong chiếc bánh kẹp là thịt người. Trước đó, croque monsieur được nhắc đến vào cuối thế kỷ 19, có thể thấy rõ nhất qua những ghi chép trong cuốn La Revue athlétique năm 1891. Chế biến Croque monsieur theo truyền thống được làm với giăm bông nướng hoặc luộc và phô mai cắt lát, phủ phô mai bào và muối và tiêu nhẹ, sau đó nướng trong lò hoặc chiên lên. Bánh mì có thể được làm chín vàng tùy ý bằng cách nướng sau khi nhúng vào trứng đánh đều. Theo truyền thống người ta sẽ dùng phô mai Gruyère nhưng đôi khi cũng dùng phô mai Comté hoặc Emmental. Một số quán bia còn thêm sốt béchamel. Croque monsieur có thể được nướng hoặc chiên lên để lớp phô mai tan chảy và tạo thành lớp vỏ. Món croque monsieur được phục vụ với toping là món trứng chiên phủ lên trên được gọi là croque madame. Ở Vương quốc Anh, món ăn nhẹ nóng hổi có giăm bông và pho mát được gọi là bánh mì nướng và có sẵn máy làm bánh mì nướng để mua. Tại Hoa Kỳ, món Sandwich Monte Cristo là một loại bánh sandwich giăm bông và phô mai thường được kèm trứng và chiên, là món ăn phổ biến trong những bữa ăn tối Chú thích Ẩm thực Pháp Bánh mì kẹp
19843338
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20xanthacra
Myripristis xanthacra
Myripristis xanthacra là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981. Từ nguyên Từ định danh xanthacra được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: xanthós (ξανθός; “vàng óng”) và ákros (ἄκρος; “đỉnh, chóp”), hàm ý đề cập đến các vùng màu vàng ở rìa vây lưng, vây hậu môn và hai thùy đuôi của loài cá này. Phân bố và môi trường sống M. xanthacra có phân bố giới hạn ở Biển Đỏ và trải dài đến vịnh Aden thuộc bờ biển Djibouti. M. xanthacra sống trên các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 18 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. xanthacra là 20 cm. Tham khảo X Cá Ấn Độ Dương Cá biển Đỏ Cá Sudan Cá Djibouti Động vật được mô tả năm 1981
19843339
https://vi.wikipedia.org/wiki/Constanza%20c%E1%BB%A7a%20Arag%C3%B3n%2C%20V%C6%B0%C6%A1ng%20h%E1%BA%ADu%20Sicilia
Constanza của Aragón, Vương hậu Sicilia
Constanza của Aragón (tiếng Aragón: Constanza d'Aragón; tiếng Ý: Costanza d'Aragona; tiếng Catalan: Constança d'Aragó i Navarra; tiếng Tây Ban Nha: Constanza de Aragón y Navarra; tiếng Anh: Constance of Aragon; 1343 – 18 tháng 2 năm 1363), là Vương nữ Aragón, con cả của Pero IV của Aragón và María của Navarra. Constanza còn là Vương hậu đầu tiên của Federico III của Sicilia. Cha của Constanza đã không thành công khi đề cử con gái làm người thừa kế ngai vàng vào đầu năm 1347 vì không có người nam duệ thừa kế. Tiểu sử Ngày 8 tháng 2 năm 1351 tại Perpignan, lễ đính hôn giữa Constanza và Louis I xứ Anjou, con trai của Quốc vương Jean II của Pháp và Jutta của Bohemia, đã được cử hành. Tuy nhiên Constanza và Louis không tiến tới hôn nhân. Ngày 11 tháng 4 năm 1361 tại Catania, Constanza kết hôn với Quốc vương Federico III của Sicilia. Hai người có một con gái là Maria (2 tháng 7 năm 1363 - 25 tháng 3 năm 1401), sau này kế vị cha trở thành Nữ vương Sicilia vào năm 1377 và kết hôn với Martín của Aragón. Năm 136, Constanza qua đời ở Catania, Sicilia, có thể do bệnh dịch hạch, hoặc do các biến chứng sau khi sinh con. Constanza được chôn cất tại Thánh đường Catania. Gia phả Tham khảo Liên kết ngoài Constanza de Aragón Ancestors of Constanza de Aragón Vương nữ Aragón Vương tộc Barcelona Vương nữ Phối ngẫu Vương thất Sicilia Sinh năm 1343 Mất năm 1363 Sản phụ tử vong
19843340
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alionor%20c%E1%BB%A7a%20Arag%C3%B3n
Alionor của Aragón
Alionor của Aragón (tiếng Aragón: Alionor d'Aragón; tiếng Ý: Eleonora d'Aragona; tiếng Catalan: Elionor d'Aragó i Sicilia; tiếng Tây Ban Nha: Leonor de Aragón y Sicilia; tiếng Anh: Eleanor of Aragon; 20 tháng 2 năm 1358 – 13 tháng 8 năm 1382) là con gái của Pero IV của Aragón và Eleonora của Sicilia. Với tư cách là vợ của Juan I của Castilla, Alionor là Vương hậu Castilla. Thân thế Alionor là người con út và là con gái duy nhất của Pero IV của Aragón và Eleonora của Sicilia. Alionor là em gái của Chuan I của Aragón và Martín I của Aragón cũng như là em gái cùng cha khác mẹ của Constanza của Aragón, Vương hậu Sicilia, Chuana của Aragón, Bá tước phu nhân xứ Empúries và là chị gái khác mẹ của Isabel của Aragón, Bá tước phu nhân xứ Urgell. Hôn nhân Ngày 18 tháng 6 năm 1375 tại Soria, Alionor kết hôn với Juan I của Castilla. Cuộc hôn nhân của Alionor và Juan I được sắp xếp như một phần của thỏa thuận hòa bình giữa Aragón và Castilla được ký kết tại Almazán vào ngày 12 tháng 4 năm 1374 và tại Lleida vào ngày 10 tháng 5 năm 1375. Alionor và Juan I có với nhau ba người con: Enrique III (4 tháng 10 năm 1379 – 25 tháng 12 năm 1406), kế vị cha trở thành Quốc vương Castilla. Fernando I (27 tháng 11 năm 1380 – 2 tháng 4 năm 1416), trở thành Quốc vương Aragón năm 1412. Leonor (sinh ngày 13 tháng 8 năm 1382), chết trẻ. Sau bảy năm chung sống, vào ngày 13 tháng 8 năm 1382, Alionor qua đời khi sinh con gái mang tên Leonor. Con trai của Alionor là Fernando sau đó đã giành lấy quyền cai trị Vương quốc Aragón thông qua quyền thừa kế từ mẹ khi cả hai anh trai của Alionor đều qua đời mà không có con trai còn sống. Gia phả Tham khảo Nguồn tài liệu cites: Vương nữ Aragón Vương tộc Barcelona Vương nữ Vương hậu Castilla Phối ngẫu Vương thất Castilla Vương tộc Trastámara Sinh năm 1358 Mất năm 1382 Sản phụ tử vong
19843344
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20violacea
Myripristis violacea
Myripristis violacea là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1851. Từ nguyên Tính từ định danh violacea trong tiếng Latinh có nghĩa là "có màu tím", hàm ý đề cập đến màu tím sẫm ở phần thân trên của loài cá này. Phân bố và môi trường sống M. violacea có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Line cùng quần đảo Marquises và Tuamotu (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), về phía nam đến bãi cạn Aliwal (Nam Phi), Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, M. violacea được ghi nhận ở nhiều vùng biển như cù lao Chàm (Quảng Nam), đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), hòn Cau (Bình Thuận), bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. M. violacea sống tập trung trên các rạn san hô ngoài khơi cũng như trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m. Chúng thường tập trung gần các cụm san hô nhánh Acropora hoặc Porites rus, có khi ẩn mình dưới các gờ đá. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. violacea là 35 cm. Vảy của M. violacea ánh màu bạc, vảy ở thân trên đường bên có viền nâu đen, vảy ngang đường bên viền nâu đỏ sẫm, vảy thân dưới còn lại viền đỏ. Màng nắp mang nâu đỏ. Gốc vây ngực có đốm đen sẫm. Vây ngực trong mờ phớt đỏ. Vây đuôi cùng chóp vây lưng và vây hậu môn có màu đỏ tươi. Rìa trước của vây lưng, vây hậu môn, vây đuôi và vây bụng có màu trắng. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 13–16; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 12–14; Số vảy đường bên: 27–29; Số tia ở vây ngực: 14–15. Sinh thái Thức ăn chủ yếu của M. violacea là các loài động vật phù du. M. violacea có thể tạo ra hai dạng âm thanh nghe như tiếng đập và tiếng gõ, có vẻ như đó là âm thanh giao tiếp khi cạnh tranh cùng loài. Ít thấy hơn là tiếng gầm gừ, chỉ xảy ra khi chúng đang gặp nguy hiểm đe dọa, nên có lẽ là tín hiệu cảnh báo. Thương mại M. violacea được khai thác trong nghề cá quy mô nhỏ. Tham khảo V Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Mozambique Cá Kenya Cá Madagascar Cá Réunion Cá Ấn Độ Cá Maldives Cá Việt Nam Cá Papua New Guinea Cá Nhật Bản Cá Nouvelle-Calédonie Động vật được mô tả năm 1851
19843358
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20Linh%20%28ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20d%E1%BA%ABn%20ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%29
Nam Linh (người dẫn chương trình)
Vũ Trần Nam Linh (sinh năm 1993 là một nam MC (người dẫn chương trình) người Việt Nam. Anh sống và làm việc tại Thành phố Hà Nội, Việt Nam, đến năm 2023 anh chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam làm việc và tiếp tục phát triển nghề nghiệp, hiện nay anh đang cộng tác tại HTV - Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Sen Vàng - Công ty nổi tiếng là đơn vị tổ chức các cuộc thi hoa hậu lớn tại Việt Nam. Anh được nhiều người biết đến như là một MC song ngữ trẻ tài năng, năng động và là ban giám khảo của nhiều cuộc thi lớn về tìm kiếm tài năng dẫn chương trình trên lãnh thổ Việt Nam. Tiểu sử Vũ Trần Nam Linh sinh ngày 1 tháng 1 năm 1993 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Anh sinh ra trong một gia đình có bố là quân nhân, mẹ là giáo viên nhưng lại có đam mê và tố chất nghệ thuật từ nhỏ. Thời đi học của MC Nam Linh gắn liền với các cuộc thi, buổi biểu diễn nghệ thuật. Bên cạnh thành tích học tập, Nam Linh luôn tham gia tích cực các hoạt động ngoại khóa, giữ các vị trí chủ chốt của trường và lớp cũng như đạt nhiều giải thưởng, thành tích. Hiện nay anh đang làm việc như một người dẫn chương trình chuyên nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngôn ngữ dẫn chương trình: song ngữ bao gồm tiếng Anh và tiếng Việt Quá trình học tập 1999-2004: Tiểu học Hà Huy Tập 2 - TP.Vinh - Nghệ An. 2004-2008: THCS Đặng Thai Mai - TP.Vinh - Nghệ An. 2008-2011: THPT Chuyên Phan Bội Châu - Nghệ An. 2011-2015: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Chuyên ngành Truyền hình. Sự nghiệp Năm 2011, sau khi tốt nghiệp Trường Trung học Phổ thông Chuyên Phan Bội Châu, Nam Linh thi đỗ vào Khoa Phát thanh - Truyền hình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội, từ đây theo đuổi ước mơ trở thành Người dẫn chương trình chuyên nghiệp. Năm 2013, anh tham gia cuộc thi Cầu Vồng lĩnh vực Người dẫn chương trình truyền hình do Ban Thanh Thiếu Niên VTV6 tổ chức và bén duyên với các chương trình của Đài truyền hình Việt Nam. Năm 2021, sau gần 10 năm làm nghề, anh quyết định thử sức mình với sân chơi Én Vàng (Cuộc thi Người dẫn chương trình truyền hình do Đài Truyền hình Thành Phố Hồ Chí Minh HTV tổ chức). Với kinh nghiệm và sự khác biệt của mình, các phần thi của Nam Linh gây được nhiều sự chú ý và đánh giá cao từ Ban giám khảo và khán giả. Anh tiến vào Chung kết xếp hạng và đạt ngôi vị Én Bạc (Á quân 1). Từ đây mở ra cơ hội hợp tác với Đài truyền hình Thành Phố Hồ Chí Minh (HTV) và các sự kiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2023, anh quyết định Nam tiến để tiếp tục phát triển sự nghiệp của mình và xuất hiện liên tục tại các sự kiện giải trí lớn. Các cột mốc đáng nhớ 2013: Tham gia và đạt thành tích Top 6 Toàn quốc cùng giải MC được yêu thích nhất Cuộc thi Cầu Vồng lĩnh vực Người dẫn chương trình do Ban Thanh Thiếu Niên VTV6 (Đài Truyền hình Việt Nam) tổ chức. Từ đây được nhiều khán giả truyền hình biết đến. 2013: cùng MC Xuân Quỳnh (Quán quân cuộc thi Cầu Vồng 2013) sáng lập, đồng thời giữ chức vụ Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ MC trực thuộc đội Văn nghệ Xung kích - Học viện Báo chí & Tuyên truyền (viết tắt tên câu lạc bộ là AMC) 2015: Sáng lập và tổ chức cuộc thi MC SPEAK UP - một trong những cuộc thi MC nổi tiếng và uy tín tại Hà Nội hiện nay. 2015: Giữ chức vụ Chủ nhiệm Câu lạc bộ AMC. 2017: Đồng sáng lập Trung tâm kỹ năng nói MVP - Master of Voice Power cùng MC Trần Ngọc và Biên tập viên Dương Sơn Lâm. 2018: Đại diện Việt Nam tham gia cuộc thi Asia Super Team tại Đài Loan, đại giải Ba chung cuộc. 2018: Làm giám khảo cuộc thi tìm kiếm tài năng MC trẻ - The Next MC được tổ chức hàng năm tại Hà Nội. 2021: Tham gia và giành Danh hiệu Én Bạc (Á Quân 1) cuộc thi Én Vàng - Cuộc thi Người dẫn Chương trình Truyền hình do Đài TH Thành phố Hồ Chí Minh (HTV) tổ chức. 2022: Được lựa chọn trở thành MC của SEA GAMES 31 (Bộ môn E-sports) và MC Đêm chung kết Miss Tourism World 2022. 2023: Chuyển vào TP.HCM sinh sống và làm việc, cộng tác với công ty Sen Vàng với vai trò MC các cuộc thi Hoa hậu Việt Nam, Miss World Vietnam, Miss Grand Vietnam. Các giải thưởng đạt được Sau hơn 10 năm hoạt động trong lĩnh vực dẫn chương trình, Nam Linh không ngừng cố gắng cải thiện kỹ năng chuyên môn và truyền lửa đến thế hệ trẻ có niềm đam mê MC, anh cũng đã đạt những thành tựu nhất định. Giải thưởng chuyên môn Top 6 cuộc thi Cầu Vồng Lĩnh vực người dẫn chương trình truyền hình 2013 do VTV6 thuộc Đài truyền hình Việt Nam tổ chức. Giải thí sinh được yêu thích nhất cuộc thi Cầu Vồng Lĩnh vực người dẫn chương trình truyền hình 2013 do VTV6 thuộc Đài truyền hình Việt Nam tổ chức. Đạt giải Á Quân 1 (Én Bạc) trong cuộc thi Én Vàng 2021 (cuộc thi người dẫn chương trình) do HTV Đài truyền hình Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2021. Giải thưởng khác Giải Nhất Khu vực Bắc Trung Bộ - Liên hoan Âm nhạc năm 2008. Top 10 Cuộc thi MC Tiếng Anh Front The Most 2012 (Đại học Ngoại Thương). Đạt Huy chương Vàng  Liên hoan Tiếng hát Giai điệu Tuổi hồng Toàn Quốc 2007. Thành tích học tập Giải Ba học sinh giỏi cấp Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An năm 2003. Giải Ba học sinh giỏi cấp Tỉnh Nghệ An năm 2004. Giải Ba học sinh giỏi cấp Tỉnh Nghệ An môn Tiếng Anh năm 2008. Giải Ba học sinh giỏi cấp Tỉnh Nghệ An môn Tiếng Anh năm 2011. Những chương trình đã dẫn Với phong cách dẫn riêng biệt cùng khả năng tiếng Anh nổi trội, Nam Linh không chỉ là MC quen thuộc trên sóng Truyền hình mà anh còn là người dẫn dắt các sự kiện lớn nổi tiếng tầm cỡ quốc gia và quốc tế tại Việt Nam, có thể kể đến: Truyền hình S Việt Nam - Hương vị cuộc sống VTV1. Du lịch khám phá - VTV2. Câu chuyện giáo dục - VTV2. VOVA, Top Music - chương trình về âm nhạc trên kênh VOV3 thuộc Đài tiếng nói Việt Nam. Bản tin Chuyển động 365 - Truyền hình Quốc hội Việt Nam. Bản tin Thể thao tiếng Anh ON Sports World - VTVcab. Bản tin ON News - VTVcab. Chương trình ASEAN+ - Đài PTTH Hà Nội. Én Xuân 2021 - HTV9. Cùng HTV Hành động Xanh - HTV9. Tạp chí Nhịp sống - Yeah1 TV. Chiếc hộp Điện ảnh - VTVcab17. Sự kiện tiêu biểu MC Chung kết Thế giới Liên quân Mobile - Arena of Valor World Cup AWC 2019. Dẫn chương trình và phỏng vấn trong môn đấu Esport Đột kích (Crossfire) trong khuôn khổ Seagames 31. MC Chung kết Hoa hậu Du lịch Thế giới Miss Tourism World 2022. MC cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2022, Hoa Hậu Thế giới Việt Nam (Miss World Vietnam) 2023, Miss Grand Vietnam 2022 và 2023. Tham Khảo Liên kết ngoài Nhân vật còn sống Người dẫn chương trình Người dẫn chương trình truyền hình Người dẫn chương trình việt nam __LUÔN_MỤC_LỤC__ __CHỈ_MỤC__
19843359
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%BFng%20ph%C3%B3ng%20t%C3%AAn%20l%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BA%A1n%20%C4%91%E1%BA%A1o%20li%C3%AAn%20l%E1%BB%A5c%20%C4%91%E1%BB%8Ba
Giếng phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa
Giếng phóng tên lửa đạn đạo, hay đầy đủ hơn là tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo (missile launch facility), hay giếng phóng ngầm (underground missile silo), tổ hợp phóng tên lửa launch facility (LF), hoặc nuclear silo, là một cấu trúc hình trụ thẳng đứng đặt ngầm dưới mặt đất, có nhiệm vụ lưu trữ và phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa ICBM, tên lửa đạn đạo tầm trung-xa (IRBM), tên lửa đạn đạo tầm trung (MRBM). Cấu trúc tương tự cũng được sử dụng cho các tổ hợp tên lửa chống tên lửa đạn đạo ABM. Thông thường, tên lửa sẽ đặt ngầm dưới đất, cách mặt đất một khoảng, được bảo vệ bởi cửa sập chống vụ nổ hạt nhân phía trên. Chúng thường được kết nối, vật lý hoặc bằng điện với trung tâm điều khiển phóng tên lửa. Sau khi Liên Xô đưa vào trang bị UR-100 còn Mỹ đưa vào trang bị dòng tên lửa LGM-25C Titan II, giếng phóng tên lửa đã được thay đổi vào năm 1960s. Cả hai loại tên lửa ICBM này đều sử dụng nhiên liệu là hypergolic propellant, với khả năng tích trữ trong thân tên lửa, giúp tên lửa có thể phóng ngay lập tức. Cả Liên Xô và Hoa Kỳ đều đưa các hệ thống tên lửa nhiên liệu lỏng xuống dưới các giếng phóng ngầm. Với việc ra đời hệ thống tên lửa ICBM sử dụng chất đẩy rắn, vào cuối những năm 1960s, việc di chuyển nạp tên lửa vào giếng phóng và phóng tên lửa được diễn ra dễ dàng hơn. Các giếng phóng tên lửa ngầm vẫn là hệ thống phóng tên lửa Đạn đạo chủ yếu và các cơ sở phóng tên lửa vẫn còn hoạt động kể từ những năm 1960s. Việc tăng độ chính xác của hệ thống dẫn đường quán tính đã làm các giếng phóng trở nên dễ bị tổn thương hơn thời những năm 1960s. Ngoài các cơ sở dưới lòng đất, tên lửa đạn đạo có thể được phóng từ các cơ sở trên mặt đất hoặc có thể được phóng từ các bệ di động, ví dụ như xe mang phóng tự hành (TEL), tàu hỏa, tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hoặc máy bay. Phát xít Đức Tổ hợp ngầm La Coupole là tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo đầu tiên được Đức quốc xã phát triển và là thiết kế khởi đầu cho các giếng phóng hiện nay. Vị trí tổ hợp này nằm phía Bắc nước Pháp bị quân Đức chiếm, từ năm 1943 đến 1944 nó đã là tổ hợp phóng tên lửa V-2. Tổ hợp được thiết kế để làm bệ phóng tên lửa V-2. Tổ hợp được thiết kế với mái vòm làm bằng bê tông cốt thép giúp lưu trữ số lượng lớn đạn tên lửa V-2 cùng đầu đạn và nhiên liệu. Hàng tá tên lửa được nạp nhiên liệu trong ngày, chuẩn bị và được đưa ra ngoài trời, phóng đi từ một trong hai bệ phóng tên lửa ngoài trời nhằm vào mục tiêu là London và miền Nam nước Anh. Một tổ hợp tương tự là Blockhaus d'Eperlecques, được xây dựng cách 14,4 km Bắc-Tây Bắc La Coupole. Sau khi bị đánh bom nặng nề trong các cuộc không kích của quân Đồng minh trong Chiến dịch Crossbow, người Đức đã không thể hoàn thành việc xây dựng và tổ hợp không thể đưa vào hoạt động. Hoa Kỳ Ý tưởng của người Anh về việc triển khai hệ thống phóng tên lửa ngầm đã được người Mỹ phát triển xa hơn để áp dụng cho các cơ sở phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa. Phần lớn các giếng phóng ngầm được đặt tại các Bang như Colorado, Nebraska, North Dakota, South Dakota, Missouri, Montana, Wyoming và một số Bang khác. Có ba lý do chính để chọn địa điểm đặt giếng phóng tên lửa: giúp giảm đường bay giữa Mỹ và Liên Xô, do tên lửa sẽ đi vòng qua Canada qua Bắc Cực; tăng thời gian cảnh báo tên lửa tấn công trong một cuộc chiến tranh tổng lực hạt nhân. Các tổ hợp này có một vài hệ thống cảnh báo để tránh bị xâm nhập và một vài hệ thống phòng thủ (Xem Safeguard Program). Bổ sung cho ba lí do bên trên, Không quân Hoa Kỳ cũng có một số yêu cầu đối với tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo là phải đủ gần với khu dân cư 50.000 dân để có sự hỗ trợ cộng đồng, và đủ xa để đảm bảo khi bị tấn công bởi vụ nổ 10 MT sẽ không làm thiệt hại đối với cơ sở phóng gần nhất. Từ năm 1961 đến năm 1966, quân đội Mỹ đã xây dựng tổng cộng 1.000 hầm chứa tên lửa Minuteman. Hoa Kỳ bố trí nhiều giếng phóng tên lửa ở vùng Trung Tây nước Mỹ, cách xa các vùng dân cư lớn. Nhiều silo được xây dựng tại Colorado, Nebraska, South Dakota, và Bắc Dakota. Hoa Kỳ đã dành nỗ lực và kinh phí đáng kể trong những năm 1970 và 1980 để thiết kế một hệ thống thay thế, nhưng không có thiết kế tổ hợp phóng mới nào được xây dựng. Hoa Kỳ có nhiều đầu đạn hạt nhân đặt trong hầm ngầm đang được biên chế, tuy nhiên, số lượng đầu đạn phóng từ tên lửa ICBM silo đã giảm số lượng xuống còn khoảng 1800, chuyển sang tập trung đầu đạn hạt nhân cho tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm hạt nhân và tập trung vào các loại vũ khí thông thường tiên tiến hơn. Ngày nay các tổ hợp giếng phóng tên lửa vẫn còn tồn tại dù nhiều tổ hợp đã ngừng hoạt động và loại bỏ các vật liệu nguy hiểm. Sự gia tăng các hầm chứa tên lửa ngừng hoạt động đã khiến chính phủ phải bán một số giếng phóng tên lửa các cá nhân. Một số người mua chuyển đổi chúng thành những ngôi nhà độc đáo, hầm trú ẩn hoặc sử dụng chúng cho các mục đích khác. Chúng là những địa điểm thu hút khách du lịch khám phá. Tổ hợp Atlas Tên lửa Atlas sử dụng bốn phiên bản tổ hợp phóng tên lửa khác nhau. Phiên bản đầu tiên, các bệ phóng nằm thẳng đứng và bệ phóng tên lửa được đặt bên trên mặt đất, tại Căn cứ Không quân Vandenberg ở Bờ biển miền Trung California. Phiên bản thứ hai được cất giữ theo chiều ngang trong một cấu trúc giống như nhà kho với mái có thể thu vào, sau đó được nâng lên thẳng đứng và phóng tại Căn cứ Không quân Francis E. Warren ở Wyoming. Phiên bản thứ ba được cất giữ theo chiều ngang trong một tòa nhà bê tông, sau đó được nâng lên thẳng đứng ngay trước khi phóng. Những thiết kế được bảo vệ khá kém này là hậu quả của việc sử dụng nhiên liệu lỏng đông lạnh, yêu cầu tên lửa khi không trực chiến phải được tháo hết nhiên liệu và nhiên liệu lỏng siêu lạnh chỉ được bơm nhiên liệu ngay trước khi phóng. Phiên bản thứ tư tên lửa được cất giữ thẳng đứng trong các hầm chứa dưới ngầm lòng đất dành cho SM-65 Atlas F. Chúng được bơm nhiên liệu bên trong silo, và sau đó vẫn phải nâng lên bên trên mặt đất trước khi phóng tên lửa. Tổ hợp phóng tên lửa Titan Tên lửa Titan I sử dụng cùng loại silo với Atlas phiên bản thứ tư. ICBM LGM-25C Titan II đã ngừng hoạt động có một trung tâm điều khiển phóng ICBM. Tên lửa Titan (cả phiên bản I và II) được đặt gần nhân viên điều hành và chỉ huy. Việc tiếp cận tên lửa được thực hiện thông qua các đường hầm nối trung tâm điều khiển phóng và cơ sở phóng. Một ví dụ về điều này có thể được nhìn thấy tại Bảo tàng Tên lửa Titan, nằm ở phía nam Tucson, Arizona. Các vụ tai nạn nổi tiếng Cháy tại giếng phóng Titan II số 373-4 – 1965 Searcy missile silo fire Vụ nổ tại giếng phóng Titan II số 374-7 – 1980 Damascus Titan missile explosion Cơ sở phóng tên lửa Minuteman Tên lửa đạn đạo nhiên liệu rắn LGM-30 series Minuteman I, II, III, và LGM-118 Peacekeeper bao gồm một trung tâm chỉ huy phóng tên lửa có khả năng điều khiển 10 giếng phóng. Năm trung tâm điều khiển và 50 bệ phóng tên lửa tạo thành một Lữ đoàn tên lửa. Ba lữ đoàn tạo thành một Phi đoàn tên lửa liên lục địa. Các biện pháp được thực hiện sao cho nếu bất kỳ trung tâm chỉ huy nào bị vô hiệu hóa, một trung tâm điều khiển khác trong Phi đoàn sẽ nắm quyền kiểm soát 10 ICBM của nó. Các giếng phóng LGM-30 và Trung tâm chỉ huy chỉ cách nhau vài dặm, chỉ được kết nối bằng điện tử. Khoảng cách này đảm bảo rằng một cuộc tấn công hạt nhân chỉ có thể vô hiệu hóa một số lượng rất nhỏ ICBM, khiến số còn lại có khả năng được phóng ngay lập tức. Cơ sở phóng tên lửa Peacekeeper Dense Pack là cấu hình được Mỹ dự kiến sử dụng làm cấu hình triển khai bệ phóng tên lửa LGM-118 Peacekeeper, được phát triển dưới thời Tổng thống Reegan, với thiết kế được tối đa hóa khả năng sống sót của bệ phóng tên lửa trong trường hợp bị tấn công phủ đầu bất ngờ bằng vũ khí hạt nhân. Theo chiến lược này, một sê ti mười đến mười hai giếng phóng tên lửa sẽ được đặt thẳng hàng cạnh nhau. Ý tưởng là để vô hiệu hóa tổ hợp phóng tên lửa, kẻ thù sẽ buộc phải phóng nhiều tên lửa, và các tên lửa sẽ bắn tới vào thời điểm khác nhau. Các tên lửa bắn tới muộn hơn sẽ có thể bay xuyên qua đám mây mảnh vụn từ vụ nổ hạt nhân ban đầu, làm tổn hại đến các tên lửa phóng tới sau đó và làm hạn chế năng lượng nổ của chúng. Tuy nhiên cấu hình này chưa bao giờ được triển khai. Liên Xô Liên Xô cũ cũng triển khai giếng phóng tên lửa ICBM trên lãnh thổ Nga và các nước thuộc Liên Bang trong Chiến tranh Lạnh, điển hình như Căn cứ tên lửa Plokštinė tại Lithuania. Trung tâm cảnh báo sớm tên lửa đạn đạo gần Solnechnogorsk ngoại ô Moskva, được hoàn thiện vào năm 1971, và vẫn còn được Liên Bang Nga vận hành. Các bảo tàng Titan Missile Museum Titan II ICBM 571-7 site Minuteman Missile National Historic Site Minuteman II ICBM LCC + D-09 silo Quebec-One Missile Alert Facility Peacekeeper ICBM Q-01 site Ronald Reagan Minuteman Missile State Historic Site Minuteman II ICBM O-01 MAF + N-33 LF Strategic missile forces museum in Ukraine RT-23/SS-24 Molodets ICBM UCP + silo Plokštinė missile base R-12 Dvina MRBM base Nike Missile Site SF-88 Nike 2B/12H, 20A/8L-U ABM SF-88 site RSL-3 Safeguard Program Remote Sprint Launchers 3 site Xem thêm Missile launch control center Cheyenne Mountain Complex Safeguard/Sentinel ABM system A-35 anti-ballistic missile system A-135 anti-ballistic missile system List of Nike missile sites References Rockets and missiles Military installations Nuclear command and control Nuclear warfare British inventions Military equipment of the Cold War
19843369
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Th%E1%BB%A5y%20X%C6%B0%C6%A1ng%202005
Động đất Thụy Xương 2005
Động đất Thụy Xương 2005 () là trận động đất xảy ra vào lúc 8:49 (CST), ngày 26 tháng 11 năm 2005. Trận động đất có cường độ 5.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Hậu quả trận động đất đã làm 14 người chết, 20 người bị thương. Tham khảo Động đất tại Giang Tây Động đất năm 2005 Thảm họa tại Trung Quốc năm 2005 Động đất tại Trung Quốc
19843373
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Carolina%20c%E1%BB%A7a%20Sardegna
Maria Carolina của Sardegna
Maria Carolina của Sardegna (Maria Carolina Antonietta Adelaide; 17 tháng 1 năm 1764 – 28 tháng 12 năm 1782) là Vương nữ Sardegna, con gái út của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha. Thông qua hôn nhân năm 1781 với Anton I của Sachsen, bấy giờ là Tuyển hầu Trữ quân xứ Sachsen, Maria Carolina là Tuyển hầu Trữ phi xứ Sachsen. Maria Carolina qua đời vì bệnh đậu mùa ở tuổi mười tám. Tiểu sử Maria Carolina được sinh ra tại Cung điện Vương thất Torino, là người con thứ mười và con gái thứ sáu của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha, bấy giờ là Công tước và Công tước phu nhân xứ Savoia. Maria Carolina có năm người chị gái, trong đó có hai người chị gả cho cháu nội của Louis XV của Pháp: Maria Giuseppina kết hôn với Louis XVIII của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Provence) vào năm 1771 và Maria Teresa kết hôn với Charles X của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Artois) vào năm 1773. Anh chồng của hai người chị gái của Maria Carolina là vị Quốc vương xấu số Louis XVI của Pháp. Trng sáu người anh em của Maria Carolina, có ba người trở thành Quốc vương Sardegna thuộc dòng chính của Vương tộc Savoia: Carlo Emanuele IV, Vittorio Emanuele I và Carlo Felice I của Sardegna. Cha của của Maria Carolina trở thành Quốc vương Sardegna vào năm 1773 sau khi ông nội Vương nữ là Carlo Emanuele III của Sardegna, người đã cai trị Vương quốc trong 43 năm, qua đời. Vittorio Emanuele III quyết định rằng Maria Carolina sẽ kết hôn với Anton của Sachsen, bấy giờ là Tuyển hầu Trữ quân xứ Sachsen, người thừa kế tước hiệu Tuyển hầu xứ Sachsen. Anton là con trai thứ năm của Friedrich Christian I xứ Sachsen và Maria Antonia xứ Bayern. Thông qua cha, Anton cũng là anh họ của Louis XVIII của Pháp và Charles X của Pháp, hai người anh rể của Maria Carolina. Bản thân Maria Carolina và Anton cũng là anh em họ của Carlos IV của Tây Ban Nha và Ferdinando I của Hai Sicilie, trong đó Maria Carolina có họ hàng thông qua mẹ là María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha và Anton có họ hàng thông qua cha. Maria Carolina còn có một người họ hàng trứ danh là Maria Teresa Luisa của Savoia, Thân vương phi xứ Lamballe. Bất chấp lời cầu xin của Maria Carolina, Vương nữ đã phải kết hôn ủy nhiệm tại Palazzina di caccia di Stupinigi vào ngày 29 tháng 9 năm 1781, sau đó là một buổi lễ khác ở Dresden vào ngày 24 tháng 10 năm 1781 với sự tham gia của chú rể. Lễ mừng đám cưới ở Savoia được tổ chức rất xa hoa với các bữa tiệc tại Cung điện Torino nơi Vương nữ được sinh ra và tại Cung điện Gontieri. Maria Carolina rời quê nhà một cách miễn cưỡng vào tháng 9 năm 1781. Gia đình Vương nữ đã đi cùng Maria Carolina đến Vercelli khi cô phải đẩy ra khỏi xe để khởi hành. Nó đến Augsburg, nước Đức ngày nay vào ngày 14 tháng 10. Tại Sachsen, Maria Carolina được liệt vào hàng những quý phu nhân có địa vị cao quý nhất trong triều đình. Người phụ nữ có địa vị cao nhất là Amalie xứ Zweibrücken-Birkenfeld-Bischweiler, vợ của Friedrich August I của Sacchsen, bấy giờ là Tuyển hầu xứ Sachsen với trị hiệu là Friedrich August III. Không hạnh phúc tới tại nơi ở mới, Maria Carolina mắc bệnh đậu mùa và qua đời ở Dresden vào ngày 28 tháng 12 năm 1782. Được yêu mến tại quê nhà, Maria Carolina được nhớ đến trong một bài hát dân ca xưa được sáng tác để vinh danh Vương nữ sau khi qua đời: Sau khi Maria Carolina qua đời, Anton tái hôn với Maria Theresa Josepha của Áo và có bốn người con nhưng tất cả đều qua đời khi còn nhỏ. Anton trở thành Quốc vương Sachsen vào năm 1827 ở tuổi 71. Maria Carolina được chôn cất tại hầm mộ số 30 ở Thánh đường Dresden, Dresden. Gia phả Tham khảo và ghi chú Liên kết ngoài Vương nữ Sardegna Vương nữ Savoia Vương tộc Savoia Vương nữ Người Ý thế kỷ 18 Vương tộc Wettin Sinh năm 1764 Mất năm 1782 Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
19843374
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Anna%20Carolina%20c%E1%BB%A7a%20Sardegna
Maria Anna Carolina của Sardegna
Maria Anna Carolina của Sardegna (Maria Anna Carolina Gabriella; 17 tháng 12 năm 1757 – 11 tháng 10 năm 1824) là Vương nữ Savoia, con gái của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha và là Công tước phu nhân xứ Chablais thông qua cuộc hôn nhân với chú của Vương nữ là Benedetto của Sardegna. Những năm đầu đời Maria Anna Carolina Sinh ra tại Cung điện Vương thất Torino, bà là con thứ sáu của Vittorio Amadeo III của Sardegna và Maria Antonia Ferdinanda của Tây Ban Nha, bấy giờ là Công tước và Công tước phu nhân xứ Savoia. Maria Anna là người con gái thứ tư nhưng là con gái thứ ba sống qua tuổi ấu thơ của Vittorio Amadeo và María Antonia. Hai chị gái của Vương nữ sau này là "cháu dâu" của Louis XV của Pháp. Trong đó người chị lớn hơn là Maria Giuseppina kết hôn với Louis XVIII của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Provence) vào năm 1771, người chị còn lại là Maria Teresa kết hôn với Charles X của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Artois) vào năm 1773. Người em gái út Maria Carolina kết hôn với Anton I của Sachsen (bấy giờ là Tuyển hầu Trữ quân xứ Sachsen). Ba trong sáu người anh em trai của Maria Anna Carolina là ba vị Quốc vương cuối cùng của Sardegna thuộc dòng trưởng của Vương tộc Savoia, trong đó bao gồm: Carlo Emanuele IV tương lai, Vittorio Emanuele I và Carlo Felice I. Sau cái chết của Carlo Delice I vào năm 1831 mà không có hậu duệ, ngai vàng được truyền cho Carlo Alberto của Savoia, Thân vương xứ Carignano và là nam duệ hợp pháp tiếp theo. Hôn nhân Sau đám cưới của các chị gái Vương nữ với các Vương tôn Pháp, cuộc hôn nhân đã được sắp đặt giữa Maria Anna và chú ruột của Vương nữ là Benedetto của Sardegna, em trai cùng cha khác mẹ của Vittorio Amadeo III (con trai của Carlo Emanuele III của Sardegna và người vợ cuối cùng là Élisabeth-Thérèse xứ Lorraine). Đám cưới diễn ra vào ngày 19 tháng 3 năm 1775 tại Nhà nguyện Khăn liệm Thánh ở Torino. Hai vợ chồng không có con nhưng có một cuộc sống hạnh phúc với nhau. Và dù có mối quan hệ gần gũi, Maria Anna chỉ luôn coi Benedetto đơn thuần là chú của mình. Hai vợ chồng sinh sống chính thức ở là Cung điện Chiablese và Lâu đài Công tước Agliè. Vương nữ có mối quan hệ tốt với các chị dâu Marie Clotilde của Pháp, Thân vương phi xứ Piemonte và Maria Theresa của Austria-Este, Công tước phu nhân xứ Aosta. Khi vào tháng 12 năm 1798, khi Cộng hòa Pháp xâm chiếm Vương quốc Sardegna, toàn bộ Vương thất lâm vào cảnh sống lưu vong. Maria Anna Carolina và chồng rời Torino và chuyển đến Sardegna và ở lại đây cho đến cuối năm 1799. Sau đó, hai vợ chồng rời hòn đảo và định cư ở Roma thuộc Lãnh địa Giáo hoàng. Năm 1805, hai vợ chồng dành vài tháng ở Firenze với tư cách là khách mời của Quốc vương Ludovico I và Vương hậu Maria Luisa của Etruria. Tại Ý, Công tước xứ Chablais được trao quyền chỉ huy Quân đội Ý, trong đó có sự tham gia của quân đội Pháp và có ý định khôi phục chế độ quân chủ ở Pháp sau khi Louis XVI của Pháp bị hành quyết vào năm 1793. Benedetto cũng tham chiến ở Trận Loano . Benedetto, Công tước xứ Chablais qua đời vào ngày 4 tháng 1 năm 1808 tại Roma. Năm 1816, Thái Công tước phu nhân Chablais đã gặp em trai Carlo Felice cùng em họ Carlo Alberto. Vào thời điểm đó, các lãnh địa và tài sản của Vương tộc Savoia đã trở về với Vương tộc. Trong thời gian Maria Anna vắng mặt, Cung điện Chiablese trở thành nơi ở của Camillo II Borghese, Thân vương thứ 6 xứ Sulmona và vợ là Pauline Bonaparte. Tuy nhiên, Maria Anna không trở về quê nhà ngay lập tức: vào năm 1820, Vương nữ mua lại Biệt thự Rufinella ở Frascati gần Roma từ Lucien Bonaparte. Năm 1822, bất chấp sự phản đối của anh trai và em họ, Maria Anna định cư ở Firenze, bất chấp thực tế là thành phố này đã có những động thái tạo nên thời kỳ hỗn loạn ở Vương quốc Sardinia một năm trước đó. Qua đời Mãi đến đầu năm 1824, Maria Anna mới quay trở lại Piemonte và gặp lại các anh em trai là cựu vương Vittorio Emanuele I và đương kim Quốc vương Carlo Felice I của Sardegna tại Lâu đài Moncalieri. Mùa hè cùng năm, cùng với Carlo Felice I và em dâu là Maria Cristina, Maria Anna Carolina đã có chuyến đi đến Savoia và đến thăm Đan viện Hautecombe . Maria Anna qua đời tại Palazzina di caccia di Stupinigi ở Torino vào năm 1824 ở tuổi 66 và được chôn cất tại Vương cung thánh đường Vương thất Superga. Vương nữ để lại tất cả tài sản của mình, bao gồm Cung điện Chiablese, Lâu đài Ducal xứ Agliè và Biệt thự Rufinella ở Frascate cho em trai Carlo Felice I. Gia phả Tham khảo và ghi chú Vương nữ Sardegna Vương nữ Savoia Vương tộc Savoia Vương nữ Người Ý thế kỷ 19 Người Ý thế kỷ 18 Sinh năm 1757 Mất năm 1824 Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr)
19843379
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20Nh%E1%BA%ADp%20kh%E1%BA%A9u%20Th%C6%B0%C6%A1ng%20m%E1%BA%A1i
Chương trình Nhập khẩu Thương mại
Chương trình Nhập khẩu Thương mại () đôi khi gọi là Chương trình Nhập khẩu Hàng hóa (; viết tắt CIP) là một thỏa thuận viện trợ kinh tế giữa Việt Nam Cộng hòa và đối tác hỗ trợ chính là Hoa Kỳ. Chương trình này kéo dài từ tháng 1 năm 1955 cho đến khi Sài Gòn thất thủ năm 1975 và sự giải thể của Việt Nam Cộng hòa sau cuộc xâm lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi quân đội Mỹ buộc phải rút khỏi nước này theo thỏa ước đình chiến năm 1973. Sáng kiến này là một kế hoạch thương mại được thiết kế để bơm một lượng lớn vốn của Mỹ vào nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa nhằm giúp thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng và tự cung tự cấp của miền Nam Việt Nam mà không gây ra mức lạm phát cao thường xảy ra khi bơm vốn mạnh mẽ như vậy. CIP là một kế hoạch theo đó đô la Mỹ được chuyển vào kho bạc chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Một số doanh nhân được chọn đã được cấp giấy phép nhập khẩu cho phép họ mua đô la Mỹ bằng tiền của Việt Nam Cộng hòa với tỷ giá thấp hơn nhiều so với giá trị thị trường. Sau đó, các nhà nhập khẩu sử dụng đồng tiền Mỹ của họ để mua hàng hóa Mỹ, trong khi chính quyền Sài Gòn giữ đồng tiền Việt Nam Cộng hòa do các doanh nhân trả để tài trợ cho quân đội và dịch vụ công. Mục tiêu của cơ chế này là bơm một lượng tiền lớn vào nền kinh tế một cách gián tiếp thông qua hàng hóa vật chất để tránh lạm phát. Tuy nhiên, sáng kiến này không tạo ra nhiều sự phát triển kinh tế vì những người được cấp phép đã chi phần lớn tiền của họ vào hàng tiêu dùng. Tác dụng chính của gói viện trợ này là sự gia tăng nhanh chóng tầng lớp trung lưu và thượng lưu ở thành thị, trong khi cuộc sống của đa số nông thôn miền Nam Việt Nam hầu như không thay đổi. Điều này làm tăng thêm sự bất mãn chống đối chính phủ trong nông dân, đồng thời củng cố sự ủng hộ của thành thị đối với chính quyền Sài Gòn. Giới quan chức Mỹ nhận thức được sự thất bại của chương trình thúc đẩy phát triển kinh tế, nhưng không cố gắng chuyển hướng chi tiêu sang đầu tư vì họ coi việc củng cố sự ủng hộ từ đô thị dành cho chính phủ là rất quan trọng. Họ còn lợi dụng sự phụ thuộc của tầng lớp đô thị vào CIP để đạt được những thay đổi chính trị ở Việt Nam Cộng hòa. Năm 1963, khi Mỹ tìm cách gây áp lực với chính phủ Ngô Đình Diệm sau khi liên minh bắt đầu suy thoái, họ đã cắt nguồn tài trợ như một cử chỉ đối với tầng lớp công chức và sĩ quan quân đội thành thị mà họ không tán thành Diệm. Sau khi nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa bị lật đổ và sát hại trong một cuộc đảo chính do Mỹ hậu thuẫn, CIP đã hoạt động trở lại. Lịch sử Trong Thế chiến thứ hai, Đế quốc Nhật Bản tấn công Liên bang Đông Dương và giành quyền kiểm soát từ tay thực dân Pháp, nhưng khi họ bị quân Đồng Minh đánh bại vào năm 1945, đã dẫn đến tình trạng khoảng trống quyền lực. Lực lượng Việt Minh của Hồ Chí Minh do cộng sản thống trị đã chiến đấu vì nền độc lập của Việt Nam, trong khi người Pháp cố gắng giành lại quyền kiểm soát thuộc địa của họ bằng cách thành lập Quốc gia Việt Nam liên kết với khối Liên hiệp Pháp. Cho đến năm 1954, Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất nổ ra. Năm 1954, Pháp thua trận Điện Biên Phủ và Hội nghị Genève được tổ chức để quyết định tương lai của Liên bang Đông Dương. Việt Minh được trao quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam, trong khi Quốc gia Việt Nam kiểm soát lãnh thổ miền Nam Việt Nam thuộc vĩ tuyến 17. Hiệp định Genève mà Quốc gia Việt Nam không ký kết kêu gọi tổ chức tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956. Quốc gia Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ và các nước chống cộng khác trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, vốn xem Quốc gia Việt Nam đối tác trong cuộc chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chương trình Nhập khẩu Thương mại được thành lập vào tháng 1 năm 1955, ngay sau khi chuyển giao ảnh hưởng trực tiếp còn lại của Pháp đối với Quốc gia Việt Nam cho Cựu Hoàng Bảo Đại và Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Người Mỹ và Diệm lo sợ cộng sản sẽ thắng cử và các cuộc bầu cử toàn quốc không bao giờ diễn ra. Ngày 23 tháng 10 cùng năm, Diệm tự xưng là tổng thống của nước Việt Nam Cộng hòa mới thành lập sau khi ông giành chiến thắng trong một cuộc trưng cầu dân ý gian lận, và viện trợ vẫn tiếp tục khi Mỹ muốn xây dựng một nhà nước chống cộng mạnh mẽ và ổn định ở Đông Nam Á. Khi chương trình lần đầu tiên được giới thiệu, nó đã tạo ra nhiều sóng gió cho các nhà nhập khẩu thương mại tại Việt Nam. Do phần lớn hàng nhập khẩu cho đến thời điểm đó là từ Pháp, nên giới thương nhân phụ thuộc vào việc bán các sản phẩm của Pháp gặp khó khăn vì hàng hóa của họ giờ đây sẽ đắt hơn so với hàng của những người có giấy phép nhập khẩu hiện có quyền tiếp cận sản phẩm thay thế rẻ hơn của Mỹ. Các nhà cung cấp hàng hóa của Pháp đe dọa tổ chức đình công nhưng điều này chẳng bao giờ thành hiện thực. Vào lúc đó, miền Nam Việt Nam cũng đang thiếu dự trữ ngoại tệ và CIP được coi là một cơ chế cấp bách nhằm khắc phục vấn đề này. Sự ra đời của CIP đã mang lại một cấp độ mới chưa từng có về chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa tư bản, và lúc đầu, tầng lớp doanh nhân phải vật lộn để đáp ứng những thách thức của một thị trường phi điều tiết, dẫn đến một loạt tình trạng thiếu hụt và dư thừa đáng kể nhiều loại hàng hóa do họ thiếu kinh nghiệm trong đánh giá lực lượng thị trường và sự mất cân bằng dẫn đến trong nền kinh tế. Ban đầu có 25.000 đơn xin giấy phép nhập khẩu được nhận mà nhiều đơn lại đến từ giới đầu cơ. Trong những năm đầu của sáng kiến này, một phần tài trợ của Hoa Kỳ cho CIP đến từ số tiền thu được từ việc bán sản phẩm nông nghiệp dư thừa của Mỹ cho Pháp. Khi khởi đầu chương trình vào năm 1955, khoảng 20.000 giấy phép CIP đã được cấp, nhưng người ta xác định rằng tiến độ quá khó để quản lý nên số lượng giấy phép giảm dần và mọi người buộc phải tập hợp thành các công ty hợp doanh để tiếp cận chương trình này. Lúc đầu, lạm phát được coi là mối lo ngại cấp bách đến mức có rất ít hạn chế đối với những mặt hàng nhập khẩu, hạn chế đáng chú ý nhất là rượu và đồ trang sức. Người ta cho rằng việc hạn chế nhập khẩu nhiều hơn sẽ gây ra tình trạng thiếu nguồn cung hàng hóa, khiến giá cả tăng cao. Tuy vậy, trong ba năm tiếp theo, các hạn chế đã tăng lên mức trung bình là 75. Năm 1955, Washington bơm 322,4 triệu USD vào miền Nam Việt Nam và nhà sử học George McTurnan Kahin tính toán rằng 87% trong số này đến từ CIP. Từ cuối năm 1955, khi Diệm nắm toàn quyền cai trị đất nước sau khi lật đổ Bảo Đại và tự xưng là tổng thống, cho đến năm 1961, Mỹ đã viện trợ cho Sài Gòn 1,447 tỷ USD, chủ yếu thông qua CIP. Ngoài ra, còn có khoản vay trị giá 95,6 triệu USD. Năm 1958 và 1959, CIP chiếm khoảng 80% hỗ trợ kinh tế. Đến năm 1960, Diệm đã tích lũy được 216,4 triệu USD dự trữ. Dưới thời Diệm cầm quyền, khoảng 43% doanh thu của CIP được dùng vào chi tiêu quân sự. Số tiền viện trợ của CIP đạt đỉnh điểm là 398 triệu USD vào năm 1966 và bắt đầu giảm dần về sau, đạt 233 triệu USD vào năm 1973. Phương pháp Chương trình này sử dụng trợ cấp nhập khẩu để bơm đô la Mỹ vào kho bạc Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền đã bán số đô la này cho những doanh nhân có giấy phép nhập khẩu hàng hóa Mỹ. Các doanh nhân mua đô la Mỹ từ kho bạc Sài Gòn bằng đồng tiền Nam Việt Nam với giá bằng một nửa tỷ giá hối đoái chính thức; sau đó họ sử dụng đồng tiền Mỹ mua được với giá rẻ này để nhập khẩu hàng hóa Mỹ. Điều này có nghĩa là các nhà sản xuất Mỹ vẫn sẽ nhận được số tiền Mỹ tương đương mà họ sẽ nhận được khi bán hàng hóa của mình trên thị trường tự do, trong khi các nhà nhập khẩu Việt Nam Cộng hòa có thể nhận được số lượng hàng hóa gấp đôi với cùng một số tiền. Số tiền mà chính quyền Sài Gòn thu được từ việc bán đô la viện trợ của Hoa Kỳ sẽ được đưa vào một quỹ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nắm giữ, quỹ này được sử dụng để tài trợ cho việc mở rộng và huấn luyện quân đội, cảnh sát quốc gia và cơ quan dân sự Việt Nam Cộng hòa. Dưới thời Diệm, phần lớn chi phí quân sự, cảnh sát và dịch vụ công được Mỹ chi trả thông qua CIP. Vì số tiền tăng thêm không thực sự được lưu thông trong nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa và cạnh tranh để giành được cùng một nguồn cung hàng hóa và dịch vụ nên lạm phát không được kích thích. Một công cụ tài chính tương tự đã được sử dụng trong gói viện trợ của Kế hoạch Marshall nhằm tái thiết Tây Âu sau sự tàn phá trong Thế chiến thứ hai. Một nhà kinh tế học người Mỹ từng mô tả CIP là "phát minh vĩ đại nhất kể từ lúc bánh xe ra đời". Vận hành Mặc dù kế hoạch này đúng đắn về mặt lý thuyết nhưng nó không có hiệu quả trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế. Dưới thời Diệm, có rất ít đầu tư kinh tế hoặc phát triển cơ sở hạ tầng đầy ý nghĩa. Các doanh nhân chủ yếu sử dụng trợ cấp nhập khẩu để mua hàng tiêu dùng như tàu thuyền, xe máy, tủ lạnh, radio, hệ thống âm nhạc và các hàng hóa tương tự khác vốn là những mặt hàng xa xỉ vào thời điểm đó. Do đó, chương trình này có hiệu quả trong việc mở rộng quy mô tầng lớp trung lưu thành thị nhưng không tạo ra nhiều đầu tư kinh tế. Năm 1957, người ta ước tính rằng ít nhất 75% hàng hóa nhập khẩu là hàng tiêu dùng hoặc nguyên liệu dùng để sản xuất ra chúng. Chỉ một phần nhỏ số tiền mua là hàng hóa cơ bản như thiết bị sản xuất và vật tư cho sản xuất của nhà máy. Kết quả là không có nhiều khoản trợ cấp tạo ra hiệu quả sản xuất mang tính kinh tế hơn. Năm 1959, lượng quần áo nhập khẩu (24 triệu USD) chỉ thấp hơn một chút so với lượng máy móc nhập khẩu (28 triệu USD). Nguồn vốn của chính phủ thu được từ việc bán giấy phép nhập khẩu cũng trở thành một vấn đề, với tình trạng tham nhũng và trộm cắp rõ ràng đang cản trở tính hiệu quả của nó như một phương tiện tài trợ cho quân đội và cơ quan dân sự. Ngoài ra, một số quan chức chính phủ không thèm bán giấy phép đáng mơ ước cho giới doanh nhân trừ phi họ nhận được khoản hối lộ. Một lời chỉ trích khác đối với CIP là số tiền mà chính phủ thu được không được sử dụng cho bất kỳ khoản đầu tư kinh tế đáng kể nào thuộc khu vực chính phủ mà chủ yếu để tài trợ cho quân đội. Diệm biện minh bằng cách tuyên bố rằng an ninh quốc gia là trên hết. Theo thời gian, sự kém hiệu quả của CIP bắt đầu khiến chính quyền Eisenhower lo ngại về tình hình thiếu công nghiệp hóa. Tình trạng tham nhũng tràn ngập sáng kiến này vẫn là một vấn đề. Nông dân vùng nông thôn Việt Nam, chiếm hơn 80% dân số, không được ảnh hưởng bởi gói viện trợ ngoại trừ sự bất bình mà nó gây ra cho họ khi họ quan sát thấy mức sống tương đối sung túc của người dân thành thị so với tình trạng nghèo khó của họ. Người ta ước tính rằng vào năm 1961, tỷ lệ thất nghiệp ở mức 25% và đầu tư tư nhân vào nền kinh tế chưa đến 10%. Tuy vậy, chương trình này được ghi nhận là đã làm thay đổi ngành dệt may khi 25.000 máy may được nhập khẩu ngay trong năm đầu tiên hoạt động. Phan Quang Đán, vị chính khách đối lập chống cộng, đối thủ nổi bật nhất của Diệm, và là một trong hai nhà bất đồng chính kiến duy nhất giành được một ghế trong cuộc bầu cử quốc hội lập pháp năm 1959 nhưng bị Diệm cầm tù và cấm đảm nhận chức vụ, nói rằng "Chương trình Nhập khẩu Thương mại của Mỹ—mà chúng ta không tốn một xu nào—mang lại đủ loại hàng hóa xa xỉ trên quy mô lớn, đưa đến cho chúng ta một xã hội nhân tạo—những điều kiện vật chất được nâng cao chẳng để lại ý nghĩa gì cả và không có sự hy sinh; nó mang lại sự xa hoa cho nhóm cầm quyền và tầng lớp trung lưu của chúng ta, và sự xa hoa đồng nghĩa với tệ nạn tham nhũng". Một trong những tác động chính trị của việc truyền ồ ạt vào nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa là mở rộng tầng lớp trung lưu thành thị và giảm bớt áp lực lên chính phủ trong việc thu thuế. Điều này là do chính phủ đã đặt ra thuế nhập khẩu cao, thực tế bằng 50% tỷ giá hối đoái giảm giá được sử dụng theo CIP; các quỹ này cũng là một phần của doanh thu thông thường và không chịu sự giám sát của Mỹ, không giống như chính sách quỹ đối giá. Do số tiền thu được từ thuế nhập khẩu nên thuế thu nhập rất thấp và không có thuế suất thuế thu nhập lũy tiến ở trên toàn quốc, tầng lớp thượng lưu không bị ảnh hưởng nhiều bởi thuế như tầng lớp thượng lưu ở các quốc gia khác, và do đó họ ủng hộ Diệm khá mạnh. Tỷ lệ thuế thu nhập thực tế không quá 5%, và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã nói riêng với một cố vấn thuộc Phái đoàn Đại học Tiểu bang Michigan rằng ông rất vui vì CIP đã cho phép ông xây dựng một cơ sở ủng hộ lớn trong tầng lớp trung lưu và thượng lưu vừa mới hình thành. Giới quản lý viện trợ kinh tế Mỹ cũng nhận thức được tác động của CIP đối với sự ủng hộ chính trị ở đô thị đối với Diệm và những người kế nhiệm ông. Họ biết rằng CIP đã không mang lại lợi ích đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế và ghi nhận điều này trong hàng đống báo cáo của mình, nhưng cho rằng chương trình này vẫn nên được tiếp tục bất kể vì nó có hiệu quả trong việc làm giàu cho tầng lớp trung lưu thành thị và đảm bảo sự ủng hộ chính trị của họ, từ đó giành được lòng trung thành từ sĩ quan quân đội, lãnh đạo doanh nghiệp và công chức. Một báo cáo năm 1959 kết luận rằng nếu CIP không có hoặc bị pha loãng ở mức kinh tế cân bằng, thì mức sống giảm sút tạo ra "vấn đề chính trị nghiêm trọng" do sự ủng hộ của chính phủ đối với những nhóm thiểu số thành thị bị xói mòn. Vì CIP cho phép người được cấp phép nhập khẩu hàng hóa với giá chỉ bằng một nửa nên nó được coi là gần như đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh, bất kể kỹ năng kinh doanh. Kết quả là những giấy phép này được đánh giá cao. Đối với ai không tự tin vào khả năng bán hàng của mình, lợi nhuận tốt thường kiếm được bằng cách bán giấy phép của họ cho những doanh nhân có thiện chí khác, đặc biệt khi nhu cầu vượt xa nguồn cung. Một báo cáo của Chính phủ Hoa Kỳ năm 1966 kết luận rằng có thể đảm bảo 100% lợi nhuận nội địa từ đồng piastre và có thể đạt được lợi nhuận 50% một cách an toàn bằng cách sử dụng tỷ giá hối đoái ở chợ đen và gửi tiền vào ngân hàng Mỹ. Các quan chức cũng đánh thuế thêm 18 piastre trên mỗi đô la đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước này. Bất chấp những lợi ích chính trị ngắn hạn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng phàn nàn về cách người Mỹ thiết lập CIP. Diệm và Nhu cho rằng thủ tục giấy tờ liên quan đến đơn xin nhập khẩu khiến quá trình này diễn ra quá chậm và cản trở sự phát triển của một nền kinh tế mới nổi nơi mà tình hình thị trường thay đổi nhanh chóng. Đặc biệt, bất kỳ khoản đầu tư nào vào hàng hóa cơ bản của các nhà nhập khẩu có giá trên 500.000 USD đều cần có sự xem xét chính thức của Mỹ trước khi phê duyệt. Ngô Đình Nhu cũng nhiều lần công khai chỉ trích chính sách xem xét lại khi trích dẫn một số khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng tư nhân đã bị giới quản lý người Mỹ chặn đứng. Nhu và Diệm cảm thấy rằng những quy định mà người Mỹ đưa ra về việc sử dụng quỹ piastre thu được từ các nhà nhập khẩu Việt Nam đang cản trở khả năng đẩy nhanh sự phát triển của họ, đặc biệt là khi việc xem xét quy hoạch và phê duyệt mất nhiều thời gian. Dù cho thực tế CIP có tác dụng xây dựng cơ sở tầng lớp trung lưu thành thị cho chế độ của ông thông qua sự phát triển của hàng tiêu dùng, Diệm không hài lòng với tình hình này, lo ngại những tác động bất lợi lâu dài mà việc thiếu đầu tư vào hàng hóa cơ bản gây ra đối với đất nước của mình. Ông đặc biệt phản đối điều khoản trong quy định nhập khẩu hạn chế việc mua hàng hóa cơ bản cho các doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn. Điều này tỏ ra là một trở ngại lớn trong một số lĩnh vực, vì chính phủ Việt Nam Cộng hòa có chính sách sở hữu đa số đối với bất kỳ ngành nào được coi là có tầm quan trọng sống còn của quốc gia, cũng như cấm người nước ngoài có cổ phần trong những liên doanh như vậy. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ Trần Văn Chương từng bày tỏ sự phản đối người Mỹ về điều khoản này nhưng không thành công. Chương viết rằng việc hạn chế nhập khẩu hàng hóa cơ bản của Mỹ "kéo dài sự phụ thuộc vào nguồn viện trợ này", và "viện trợ của Mỹ sẽ có giá trị nhất nếu nó được dành một phần để thúc đẩy năng lực công nghiệp của [đất nước]". Theo thời gian, các nhà kinh tế trong chính quyền Eisenhower trở nên thất vọng với việc Diệm từ chối phá giá đồng piastre một khi Việt Nam Cộng hòa đã trở thành một quốc gia ổn định. Diệm từ chối đưa ra tỷ giá hối đoái CIP tương đương với tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do cho hai đồng tiền này. Mặc dù tỷ giá hối đoái cố định có nghĩa là người Mỹ đang tài trợ rất nhiều cho nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa và các công ty nhập khẩu có thể kiếm được nhiều hàng hóa hơn bằng tiền của họ, nhưng tỷ giá này cũng có nghĩa là hàng hóa Việt Nam Cộng hòa sẽ không có tính cạnh tranh kinh tế trên thị trường xuất khẩu. Diệm không muốn tỷ giá tiền tệ, được cố định ở mức 35 piasters đổi một đô la Mỹ, cho rằng điều đó sẽ làm giảm giá trị viện trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa và làm suy yếu sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu thành thị đối với chế độ của ông vì họ phẫn nộ do để mất đi hàng tiêu dùng giá rẻ và hàng xa xỉ của mình. Qua cuộc tiếp kiến ở Washington trong chuyến thăm cấp nhà nước năm 1957, Diệm nói với Ngoại trưởng John Foster Dulles và Đại sứ Elbridge Durbrow rằng phá giá sẽ gây ra hoảng loạn, và một động thái như vậy là không thể thực hiện được ở một quốc gia có sản lượng thấp như Việt Nam. Năm 1963, Đại sứ Mỹ Frederick Nolting và các cố vấn kinh tế của ông đã khuyến khích Diệm chi nhiều hơn quỹ CIP dành cho phát triển nông thôn hòng cố gắng củng cố sự ủng hộ của nông dân trước áp lực cộng sản ngày càng gia tăng, nhưng thảy đều bị Diệm từ chối. Ngày 5 tháng 10 năm 1963, CIP đã bị Hoa Kỳ đình chỉ một thời gian ngắn sau phái bộ McNamara–Taylor, một chuyến đi tìm hiểu thực tế tình hình miền Nam Việt Nam do Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng Maxwell D. Taylor tiến hành để điều tra tiến trình trong cuộc chiến chống nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Báo cáo kết luận rằng Diệm không tập trung vào việc chống nổi dậy mà thay vào đó bận tâm đến việc dập tắt các cuộc biểu tình đòi bình đẳng tôn giáo của Phật giáo, chẳng hạn như đột kích chùa chiền và xả súng vào những Phật tử bất đồng chính kiến. Một trong những lý do dẫn đến việc đình chỉ CIP là để gửi tín hiệu cho giới sĩ quan quân đội rằng Washington không hài lòng với Diệm và do vậy làm tăng khả năng xảy ra một cuộc đảo chính, cũng như cố gắng thúc đẩy sự phẫn nộ của người dân thành thị đối với Diệm trong số những kẻ trước đây từng được hưởng lợi từ CIP. Một vấn đề khác là Diệm có thể thay đổi đường lối chính sách của mình phù hợp với mong muốn của Mỹ dù họ cho rằng điều này khó có thể xảy ra. Nguồn tài chính này chỉ được khôi phục vào đầu tháng 11 năm 1963 sau vụ lật đổ và sát hại Tổng thống Diệm trong một cuộc đảo chính quân sự. CIP tiếp tục cho đến khi chính thể Việt Nam Cộng hòa tan rã vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân đội cộng sản tràn vào miền Nam Việt Nam kể từ lúc người lính Mỹ rút lui sau thỏa ước đình chiến năm 1973. Kahin nói rằng "cùng với các yếu tố hỗ trợ kinh tế khác của Hoa Kỳ...đã mở rộng đáng kể tầng lớp trung lưu ở Việt Nam Cộng hòa và giúp mua chuộc lòng trung thành về mặt chính trị của họ đối với cả chế độ Sài Gòn và nhà tài trợ Mỹ" và nó "cung cấp phương tiện cho một lối sống cũng nhân tạo như nền kinh tế mà nó dựa dẫm". Kahin cho biết sáng kiến này có tác dụng ngược lại với các mục tiêu đã nêu ở chỗ nó thúc đẩy sự phụ thuộc ngày càng tăng về mặt kinh tế. Xem thêm Kinh tế Việt Nam Cộng hòa Quan hệ Hoa Kỳ – Việt Nam Chú thích Tham khảo Việt Nam Cộng hòa Kinh tế Việt Nam Cộng hòa Trợ giúp quốc tế của Hoa Kỳ Khởi đầu năm 1955 ở Việt Nam Chấm dứt năm 1975 ở Việt Nam Quan hệ Việt Nam Cộng hòa – Hoa Kỳ
19843380
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%B7t%20tr%E1%BA%ADn%20G%C6%B0%C6%A1m%20thi%C3%AAng%20%C3%81i%20qu%E1%BB%91c
Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc
Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc (, viết tắt MTGTAQ) là chiến dịch đen kéo dài bắt nguồn từ CIA và được Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam – Đoàn Nghiên cứu và Quan sát (MACV-SOG) tiến hành trong chiến tranh Việt Nam. Nó liên quan đến sự kết hợp giữa tâm lý chiến (PSYWAR) và chiến dịch tâm lý (PSYOP) mà nay gọi là hoạt động hỗ trợ thông tin quân sự (MISO). Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc được "lên kế hoạch và thực thi bắt đầu từ tháng 4 năm 1963," mặc dù nó vẫn tiếp tục phát triển cho đến tận năm 1968. Mặt trận này hình thành nên trung tâm của nhiều PSYOP khác nhau nhằm chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vốn có mật danh là Humidor. Nó cố gắng thuyết phục người dân—và đôi khi là chính phủ—Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về sự tồn tại của một xã hội tự trị, phi cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Việc tạo dựng và ban hành "huyền thoại" Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc đòi hỏi Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ xây dựng dựa trên các kỹ thuật PSYWAR do Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS) thiết lập trong Thế chiến thứ hai. Một số nhà sử học tin rằng MTGTAQ đã tìm cách chuyển hướng sự chú ý của các quan chức Bắc Việt đủ để biện minh cho chi phí và nhân lực của mình. Tuy nhiên, chương trình này không được biết đến với bất kỳ thành công đặc biệt đáng chú ý nào và nó thiếu định hướng về các mục tiêu cuối cùng. Những bất đồng liên tục giữa một số nhà lãnh đạo quân sự ở Việt Nam và các nhà hoạch định chính sách ở Washington đã khiến chương trình này không bao giờ trở thành một lực lượng phản cách mạng thực sự ở miền Bắc Việt Nam. Nó gần như bị giải tán vào năm 1968 sau vòng đàm phán ban đầu về Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973. Nguồn gốc Tiền lệ lịch sử của Mỹ MTGTAQ rút ra từ lịch sử ngắn ngủi về những vụ lừa dối phức tạp trong lịch sử quân sự Mỹ. Nhà sử học John Plaster khẳng định rằng chi nhánh MACV-SOG điều hành MTGTAQ "theo khuôn mẫu của "Ban Chiến dịch Tinh thần OSS" cũ do William Donavan thành lập vào năm 1943. Sự so sánh này là phù hợp, vì cả hai đều chủ yếu dựa vào các hoạt động vô tuyến gian dối, những lá thư lừa bịp và việc phân phát truyền đơn. MTGTAQ cũng được hưởng lợi từ kinh nghiệm của Herbert Weisshart vừa được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc PSYOP thuộc MACV-SOG khi mới thành lập. Không giống như hầu hết các chỉ huy SOG, Weisshart đến với kinh nghiệm PSYOP. "Là thành viên của đội chiến tranh tâm lý gồm sáu người được cử đến Đài Loan vào năm 1952, ông ấy đóng vai trò điều phối việc thả truyền đơn và phát thanh trên đài phát thanh chống lại Trung Quốc để hỗ trợ cho một trong những chiến dịch phản kháng giả định đầu tiên của Cục Tình báo Trung ương". Vẫn hoạt động vào năm 1963, phong trào phản kháng hư cấu của Weisshart chống lại Trung Quốc đại lục đã trở thành "chiến dịch giả định kéo dài nhất" của CIA". "Huyền thoại" Gươm thiêng Ái quốc Những nhà sáng lập Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc người Mỹ đã chọn việc gắn chương trình này với lịch sử phổ thông Việt Nam. Nó được đặt theo tên của vị Hoàng đế Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Minh vào đầu thế kỷ 15. Chiến thuật chiến tranh du kích của ông đã thành công trong việc giành lại nền độc lập cho Việt Nam khỏi tay Trung Quốc sau 20 năm Bắc thuộc lần thứ tư. Một thời gian sau chiến tranh, thanh kiếm nổi tiếng của Lê Lợi đã bị một con rùa lấy đi. Hoàng đế tuyên bố rằng thanh kiếm này được trao cho ông trong suốt thời gian chiến tranh chỉ bị con rùa của Hồ Hoàn Kiếm lấy lại sau khi khởi nghĩa thắng lợi. Câu chuyện về Lê Lợi đã hoàn thành mục tiêu theo như lời tuyên bố của Weisshart là theo đuổi "huyền thoại và biểu tượng dễ nhận biết để làm cơ sở cho một phong trào phản kháng lý tưởng ở miền Bắc Việt Nam". Đó là câu chuyện mà "Mọi học sinh miền Bắc Việt Nam đều biết tới". Biết rằng Bắc Việt dựa vào viện trợ của Trung Quốc, SOG coi Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc là phong trào dân tộc chủ nghĩa chống Trung Quốc, đồng thời chỉ đạo rõ ràng việc đưa ra những lời lẽ mang tính ý thức hệ có thể làm mất đi một số sự ủng hộ của người dân miền Bắc. Truyền thuyết này cũng nhấn mạnh đến sự thống nhất lịch sử giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam chống lại bất kỳ hình thức xâm lược nào của đế quốc. Theo truyền thuyết này thì Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc do Lê Quốc Hùng, người ngưỡng mộ Lê Lợi lập ra hòng đáp lại cuộc cải cách ruộng đất của cộng sản vào năm 1953. Nó được cho là có 10.000 thành viên và tổ chức Đại hội toàn quốc đầu tiên vào năm 1961. Mặt trận phản đối mọi sự can thiệp của nước ngoài vào miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Quá trình phát triển ban đầu Tháng 4 năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đã đề nghị gầy dựng "mạng lưới kháng chiến" ở miền Bắc Việt Nam. Giới quan chức chính phủ phải mất một thời gian để xây dựng các nguồn lực cần thiết hòng vượt qua Khu phi quân sự vĩ tuyến 17. Trách nhiệm về PSYOP chống lại Bắc Việt ban đầu thuộc về CIA, cơ quan tiếp tục đóng vai trò hỗ trợ trong suốt cuộc chiến. Năm 1962, CIA xác định người dân tộc Hmong là những tân binh xứng đáng cho cuộc kháng chiến tại Bắc Việt. Nhưng đến mùa xuân năm 1963, chương trình thí điểm của họ chỉ có tổng cộng 8 tân binh. Phó Giám đốc CIA kiêm Trưởng ban Điều hành tại Sài Gòn là William Colby đã chọn Herbert Weisshart để mở rộng hoạt động kháng chiến tại Bắc Việt và PSYWAR được bắt đầu từ tháng 3 năm 1963. Weisshart đóng vai trò thực hiện Kế hoạch Tác chiến CINCPAC (OPLAN) 34-63 cho PSYOP hướng tới miền Bắc Việt Nam, kế hoạch này về sau được Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara thông qua. "McNamara cũng mong muốn phát triển một phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên danh nghĩa (hư cấu), vốn sẽ là nhà tài trợ bề ngoài cho các hoạt động này. Suy cho cùng thì đó chính là những gì Bắc Việt đang làm ở miền Nam." Kế hoạch cuối cùng mang tên OPLAN 34Alpha kêu gọi quân đội "sử dụng tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có và thiết thực...các phong trào kháng chiến ảo và phát triển tâm lý của cuộc kháng chiến thực sự". Một lá thư năm 1966 của Thiếu tướng Richard Abbey, Phó Tham mưu trưởng MACV, truyền tải rõ ràng quá trình suy nghĩ đằng sau các hoạt động của MTGTAQ. "MTGTAQ là cơ chế miễn trừ trách nhiệm sự tài trợ của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa cho các hoạt động của Kế hoạch Chiến dịch 34A... Câu chuyện bình phong cho MTGTAQ sẽ là cánh tay hành động của mặt trận và nó nhận được [các] quỹ từ mặt trận này. Bằng cách tránh thông báo công khai về trách nhiệm đối với các hoạt động của OPLAN 34A, nhóm MTGTAQ sẽ không bị buộc phải đưa ra câu trả lời cho những câu hỏi kiểu như: Những chiếc thuyền này đến từ đâu? Ai đã trả tiền cho họ? Họ đóng trụ sở tại đâu? Các chương trình phát thanh MTGTAQ mà người dân Sài Gòn địa phương dễ nghe thấy có thể được giải thích bằng cách nói rằng MTGTAQ thuê máy phát sóng từ một đài địa phương". MTGTAQ được hình thành như một biện pháp đối phó bí mật của Mỹ trước sự chi viện được công nhận của Bắc Việt dành cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự khác biệt chính là sự tồn tại của MTGTAQ là "ý tưởng, trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng là có thật. Khi nhiệm vụ của PSYOP chống lại miền Bắc Việt Nam được mở rộng, các quan chức Mỹ quyết định rằng lực lượng lớn cần thiết tốt hơn nên giao cho Lầu Năm Góc thay vì CIA. Việc chuyển giao diễn ra vào tháng 11 năm 1963, được gọi là Chiến dịch Switchback. Herb Weisshert được chuyển giao cho MACV-SOG mới thành lập, với hoạt động được mô tả trong OPLAN 34Alpha bắt đầu vào ngày 1 tháng 2 năm 1964. Nhiệm vụ của MTGTAQ và MACV-SOG Theo Gordon L. Rottman, cựu nhân viên MACV-SOG, Lực lượng Đặc nhiệm Mỹ có năm nhiệm vụ chính trong chiến tranh Việt Nam: Hành quân xuyên biên giới nhằm đập tan Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Khmer Đỏ, Pathet Lào và Quân đội Nhân dân Việt Nam. Vận hành chiến dịch Bright Light giải cứu người Mỹ ở miền Bắc Việt Nam. Huấn luyện và điều động điệp viên xâm nhập vào Bắc Việt để điều hành các phong trào kháng chiến và thu thập thông tin tình báo. Chiến dịch tâm lý mang mật danh Black PSYOP. Chiến dịch tâm lý mang mật danh Gray PSYOP. MTGTAQ là tâm điểm của Black PSYOP trong MACV-SOG, một đơn vị biệt kích tinh nhuệ được tập hợp từ tất cả các nhánh của quân đội cũng như CIA. MACV-SOG truyền bá thông điệp MTGTAQ bằng đường hàng không, tàu thuyền, lục quân và viễn thông. Liên đoàn Tác chiến Tâm lý đã phát triển MTGTAQ được chỉ thị "tư vấn, hỗ trợ và kiểm soát các hoạt động tâm lý của Cục Kỹ thuật Chiến lược nhằm mục đích thiết lập một bầu không khí quan điểm ở miền Bắc Việt Nam -- [Từ ngữ khó đọc] -- các hoạt động SO/STS, hỗ trợ những hoạt động phá hủy vật chất của SOG/STS và gây áp lực PSYOP lên miền Bắc Việt Nam nhằm xóa bỏ sự chi viện cho các hoạt động ở Việt Nam Cộng hòa". Đến năm 1967, SOG cử khoảng 150 nhân viên của mình sang làm công tác tuyên truyền bí mật, bên cạnh việc tuyển mộ thêm nhiều công dân Việt Nam vì kỹ năng ngôn ngữ, hiểu biết văn hóa và khả năng hoạt động với tư cách là thành viên của Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Hoạt động tuyên truyền của MTGTAQ Chiến dịch rải truyền đơn của MTGTAQ MACV-SOG đã dành nguồn lực đáng kể để phân phát truyền đơn bất cứ nơi nào kẻ thù có thể tìm thấy chúng. Truyền đơn chủ yếu nhằm mục đích làm mất tinh thần của kẻ thù. Trong chiến tranh Việt Nam, điều này đã được thực hiện ít nhất bằng số lượng cũng như chất lượng của các thông điệp. Một "Bản tin MACV PSYOP/POLWAR" điển hình từ tháng 8 năm 1969 ghi nhận 683 triệu truyền đơn được thả chỉ riêng trong tháng đó, mặc dù số tờ rơi do SOG thả xuống miền Bắc Việt Nam có thể lên tới hàng chục triệu. Truyền đơn có thể được để lại trên xác chết, bắn ra từ những khẩu đại bác hẹn giờ hoặc thả từ trên máy bay xuống. (Gián điệp và Biệt kích 106) Trong khi nhiều truyền đơn trong số này là một phần của chiến dịch Chiêu Hồi, những truyền đơn khác đặc biệt đề cập đến cuộc kháng chiến của MTGTAQ. SOG nhờ đến một đội ngũ người dân Bắc Việt đã đào tẩu để dịch và hoàn thiện nốt những thông điệp này. Đánh giá về hiệu quả của truyền đơn rất đa dạng. Sử gia Charles Reske chuyên chú thích lịch sử chỉ huy của MACV-SOG, nhận xét: "Việc thả truyền đơn là một trong những PSYOP kém thành công nhất. Từ đầu đến cuối MACV-SOG đã thả hàng tấn truyền đơn ở Lào, Campuchia và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà hầu như chẳng có tác dụng gì cả". Để làm vấn đề trở nên phức tạp hơn, lực lượng SOG đôi khi lại dùng tay thả truyền đơn MTGTAQ từ máy bay Mỹ. Tuy nhiên, truyền đơn MTGTAQ có thể hiệu quả hơn những truyền đơn khác vì chúng được sử dụng theo những cách đặc biệt sáng tạo. Một số được đặt trên xác lính Bắc Việt với hy vọng đồng đội sẽ mất tinh thần khi biết đồng đội của họ là thành viên MTGTAQ. Ngoài truyền đơn, SOG còn phát triển tem bưu chính MTGTAQ để tạo ấn tượng về sự lan rộng của phong trào kháng chiến trên khắp miền Bắc Việt Nam. Bất chấp hiệu quả của truyền đơn trong việc giành được sự ủng hộ, chúng đã thông báo cho người dân Bắc Việt rằng việc phản kháng chế độ là có thể làm được và giúp chính phủ của họ đánh lạc hướng khỏi cuộc chiến thực sự. Đài Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc (ĐMTGTAQ) Đài Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc (ĐMTGTAQ) bắt đầu phát sóng ở miền Bắc Việt Nam vào tháng 4 năm 1965. Chi nhánh chịu trách nhiệm phát sóng, SOG OP-33, sau này gọi là OP-39, được cho là sẽ phát sóng từ bên trong miền Bắc Việt Nam. Thay vào đó, tín hiệu đến từ máy phát 20 kW ở Thủ Đức, gần Sài Gòn. ĐMTGTAQ đã tìm ra hai cách chính để tăng lượng thính giả của mình. Đầu tiên, thông qua dự án Peanuts, SOG đã phân phát hàng nghìn chiếc radio cho miền Bắc Việt Nam. Họ đã phân phát 10.000 cái chỉ trong năm 1968. Những chiếc radio do Nhật Bản sản xuất này được thiết kế để bắt sóng các đài ĐMTGTAQ và các đài khác của Mỹ đồng thời xuyên tạc các đài Bắc Việt. Chúng được đưa vào bằng nhiều phương pháp khác nhau bao gồm đội trinh sát, máy bay thả dù và tàu thuyền. Thứ hai, ĐMTGTAQ đã sử dụng nhiều phương pháp vô tuyến lừa đảo để phá hoại các chương trình phát sóng thực sự của Bắc Việt. Chúng bao gồm "lướt sóng" ("truyền dọc theo tần số của trạm thực") và "quá giang" ("phát [đi] cùng tần số với trạm thực đang đăng xuất và sử dụng dấu hiệu cuộc gọi của nó"). Đúng với thông điệp dân tộc chủ nghĩa của MTGTAQ, đài đã áp dụng cách tiếp cận phi ý thức hệ, nhấn mạnh các giá trị truyền thống của Việt Nam. Sau khi phát triển các đặc điểm tâm lý của người Bắc Việt, chương trình nhắm tới "nhiều đối tượng khác nhau như ngư dân, người Công giáo, nông dân và cán bộ cấp dưới. [Nó] kêu gọi các hành động được lên kế hoạch và thực hiện cẩn thận, hầu hết đều thụ động, như truyền bá tin tức về MTGTAQ...Nó cũng đưa ra quan điểm của MTGTAQ về những diễn biến ở các vùng khác nhau của miền Bắc Việt Nam". ĐMTGTAQ nhằm mục đích dần dần phá vỡ sự tôn trọng đối với giới lãnh đạo Bắc Việt. Một cựu điều hành ĐMTGTAQ nhận xét: "Trạm 'Patriot' công kích không ngừng vào những cán bộ Cộng sản dễ mua chuộc và vô đạo đức, những kẻ không chỉ chiếm đoạt tiền bạc mà còn dụ dỗ những người vợ trẻ của lính Bắc Việt ở miền Nam...Một số điệp viên đáng tin cậy của chúng tôi ở miền Bắc sau đó đã xác nhận rằng những người bị đài phát thanh bí mật nhắm tới thường bị miễn nhiệm". Ngoài việc công kích chính quyền Bắc Việt, các chương trình phát thanh khác còn hướng tới việc khuyến khích những lực lượng MTGTAQ giả tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, để tôn trọng các nhà hoạch định chính sách, ĐMTGTAQ chưa bao giờ chủ trương thay đổi chế độ ở miền Bắc Việt Nam. Đài đã đạt được một số thành công trong việc thu hút được sự chú ý của người dân và cả binh lính miền Bắc Việt Nam. Một sĩ quan Bắc Việt đào tẩu vào miền Nam cho biết, "anh ta và các thành viên khác trong đơn vị của mình thường xuyên nghe Đài Cờ Đỏ, Đài Sài Gòn và Đài MTGTAQ trên đài phát thanh của đơn vị họ. Các chương trình phát sóng của Cờ Đỏ và ĐMTGTAQ không cần biết có phải là thật hay không. Cá nhân anh ta tin rằng ĐMTGTAQ do Đại tá Lý Văn Quốc, sĩ quan QĐNDVN đào tẩu sang Liên Xô cầm đầu và được phía Liên Xô cung cấp phương tiện phát sóng". Bắc Việt đáp trả lại PSYOP của phía Mỹ bằng cách phản truyền bá và ngăn cản bất kỳ đề cập nào đến lời tuyên truyền của kẻ địch. Đài này vẫn tiếp tục hoạt động nhiều năm sau khi phần lớn MTGTAQ bị giải thể vào ngày 1 tháng 11 năm 1968. Song song với Đài Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc, Kế hoạch 39 đã tạo nên nhiều đài phát thanh đen khác, như Đài Tiếng nói Tự do (Voice of Freedom). Đài này thường đọc tin tức, thông qua các diễn đàn văn hóa để tuyên truyền về đời sống và lối sống tự do theokiểu Mỹ. Trung bình mỗi tuần, đài này phát thanh tới 75 giờ. Bên cạnh đó, còn đài phát thanh Cờ Đỏ (Red Flag), tập hợp những phần tử chống cộng quyết liệt, chuyên xuyên tạc, vu khống lãnh đạo và chế độ xã hội ở miền Bắc Việt Nam. Đồng thời, đài còn cố tình xuyên tạc gây hiềm khích giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau, hoặc giữa các nước yêu chuộng hòa bình với dân tộc Việt Nam. CIA còn lập đài phát thanh Sao Đỏ (Red Star) để chống lại Mặt trận Dân tộc Gải phóng miền Nam Việt Nam. Đài này đưa ra khẩu hiệu "Miền Nam Việt Nam là của người miền Nam". Tất cả những hoạt động ngoài vĩ tuyến 17 được lệnh chấm dứt vào tháng 11 năm 1968, sau khi chính quyền Johnson quyết định chấp nhận đề nghị của Hà Nội, tìm giải pháp cho hòa bình. Những lá thư đen Một kỹ thuật ưa thích của SOG là gửi những bức thư giả mạo cho giới quan chức và những người trung thành với phía Bắc Việt nhằm gây nghi ngờ đối với họ. Nhiều bức thư, đôi khi được gọi là thư bút độc, liên quan đến những lời tố cáo trợ giúp cho các hoạt động của MTGTAQ. SOG đã gửi 50–100 bức thư như vậy qua địa chỉ Hồng Kông mỗi tuần và lên tới 7.000 bức thư qua Bangkok mỗi năm. SOG đã nhận được một thông tin liên lạc cho biết rằng một vị tướng Bắc Việt nhận được lá thư "bị rời khỏi chiến dịch cấp sư đoàn của mình và triệu tập về Hà Nội mà không cho lý do". Khối lượng thư tín khổng lồ cho phép SOG có khả năng buộc tội nhiều người Bắc Việt đồng thời nâng cao nhận thức rằng MTGTAQ có nhiều thành viên tích cực. Hoạt động hàng hải và mưu toan lật đổ liên quan Ngăn chặn tiếp tế SOG tuyển mộ thành viên MTGTAQ bằng cách bắt cóc ngư dân ngoài khơi miền Bắc Việt Nam. Chiến dịch này mang mật danh là Mint (Ngăn chặn Hàng hải) kéo dài từ tháng 5 năm 1964 đến tháng 11 năm 1968. SOG đã thuê những người từng sinh sống ở miền Bắc Việt Nam nói được phương ngữ miền Bắc, cho đóng giả làm thành viên MTGTAQ rồi dùng súng bắt giữ đám ngư dân không chút nghi ngờ nào cả. Trong khi đó, các thành viên người Mỹ của SOG có thể di chuyển bên dưới boong tàu mà không bị ai khác nhìn thấy. Thiếu tá Roger McElroy, một trong số rất ít người Mỹ đã từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, kể lại rằng: "Những chiếc tàu đó được đóng bằng gỗ để tránh bị radar phát hiện và giấu ở Đà Nẵng chứ không phải để cho ngư dân trên đảo sử dụng. Thỉnh thoảng tôi đi theo toán biệt hải. Lúc lên tàu tôi mặc quần áo ngụy trang, đội lưới che mặt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân nào hay vật dụng gì chứng minh tôi là người Mỹ". Khi vào đến hải phận miền Bắc Việt Nam, McElroy không được lên trên boong tàu, nhiệm vụ của ông ta là liên lạc với lực lượng hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh Bắc Bộ. Lịch sử Chỉ huy SOG viết: "Những hoạt động của đội tàu thuyền và đội đổ bộ bí mật được tiến hành dọc theo bờ biển miền Bắc để ngăn chặn tàu bè ven biển của địch, bắt giữ tù binh để thẩm vấn và khai thác tâm lý chiến, đồng thời buộc miền Bắc Việt Nam phải tăng cường phòng thủ ven biển". SOG tuần tra vùng biển Bắc Việt Nam bằng tàu "Nasty" tốc độ cao của Na Uy. Bất chấp thành công vừa phải của chương trình, chiến dịch Mint đôi khi gây ảnh hưởng đến các chương trình khác. Ví dụ, trong sứ mệnh Loki, SOG đã sử dụng những con tàu Nasty giống hệt nhau để đánh chìm những chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam, mặc dù việc làm đó chẳng đạt được kết quả gì ngoại trừ việc khiến ngư dân tức giận. Vấn đề này tồn tại cho đến tận năm 1968, chứng tỏ rằng MTGTAQ không phải lúc nào cũng được tích hợp đầy đủ trong những nỗ lực rộng lớn hơn của SOG. SOG đã tăng cường đáng kể hoạt động hàng hải của mình vào năm 1967 thông qua sáng kiến Forae, trong đó bao gồm cả chiến dịch Urgency. Trong suốt chiến dịch Urgency, Đội Cố vấn Hải quân đã mua thêm tàu tuần tra, cho phép rà soát bờ biển miền Bắc Việt Nam để tìm kiếm những chiếc thuyền buồm dễ bị đánh đắm gần như mỗi ngày. Những hoạt động này cũng nhằm mục đích kích động sự hoang tưởng ở miền Bắc Việt Nam và buộc chính phủ phải phân bổ thêm nguồn lực nhằm bảo vệ bờ biển của họ. Đảo Thần Tiên Nằm dưới vĩ tuyến 17, dọc theo hải phận Việt Nam, đến ngoài khơi biển Đà Nẵng có một đảo nhỏ. phương ngữ gọi là Cù lao Chàm. Khi người Mỹ đến Đà Nẵng, họ gọi là "Đảo Thần Tiên" (Paradise Island). Đảo nhỏ này đã trở thành "vùng đất tự do" cho những ngư dân vùng biển Bắc Bộ bị biệt kích bắt cóc đem đến dựa theo sách lược của Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Theo Kế hoạch 39 (OP 39), trước tiên SOG xây dựng trên đảo những làng nhỏ theo khuôn mẫu những làng chài dọc theo bờ biển Bắc Bộ. SOG để ý đến từng chi tiết nhỏ, sao cho giống hệt khuôn mẫu. Vấn đề còn lại là làm sao đem được những người dân chài miền Bắc đến đảo, mà họ tin rằng vẫn còn sống trên đất Bắc. Để làm được điều đó, SOG lập một đơn vị biệt kích biển cho Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Bắt đầu từ tháng 5 năm 1964, những chiếc tàu vũ trang không tên sẽ xâm nhập vào hải phận miền Bắc Việt Nam để bắt cóc ngư dân đem đến cù lao Chàm. Nhân viên, thủy thủ trên những chiếc tàu bí mật đó đều nói giọng miền Trung hoặc Bắc Việt Nam, nhiều người di cư vào Nam từ năm 1954. Tàu nào cũng treo cờ của Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc và thủy thủ đoàn tự xưng là hội viên của phong trào trên. Theo Đại tá Don Blackburn, một trong những ông trùm của SOG thì hoạt động này như sau: "Mục đích của Kế hoạch 39 này là làm cho họ tin rằng đang ở trong một làng giải phóng tại miền Bắc. Khi trả họ về, họ sẽ loan tin là lực lượng kháng chiến có thật và đã giải phóng nhiều vùng ở ngoài Bắc". Những người bị bắt cóc sẽ sống trên đảo khoảng ba tuần lễ. Trong khoảng thời gian đó, họ chỉ gặp những người nói giọng miền Bắc, họ ăn uống, nói chuyện về đời sống dưới chế độ cộng sản, những điều về Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Lại có người được đưa đi thăm những làng ở trên đồi, gây cho họ ý tưởng về những căn cứ kháng chiến nằm sâu trong vùng rừng núi ngoài Bắc". Jack Singlaub, (người thay Blackburn) kể thêm: "Chúng tôi lo cho họ rất chu đáo. người nào cũng mập ra, chữa bệnh cho họ và làm cho họ cảm thấy sống trong vùng kháng chiến sướng hơn dưới chế độ cộng sản. Chúng tôi lấy tin tức từ những người bị bắt cóc và cho họ biết một số biểu hiện suy đồi của giới lãnh đạo Hà Nội. Những ngư dân đôi khi cũng cho biết tên tuổi của một số viên chức tham nhũng trong chính quyền Hà Nội. Đài Gươm thiêng Ái quốc theo đó mà nêu đích danh tên tuổi những giới chức tham ô, lạm dụng quyền lực ở đói phương khá chính xác, gây sự nghi ngờ trong nội bộ chính quyền Hà Nội". Sau khi bắt được những ngư dân dành cho việc "giáo dục", MTGTAQ bèn đưa họ đến hòn đảo này, nằm trong vùng biển Nam Việt Nam một cách an toàn. Để tạo cho những người bị bịt mắt ảo tưởng rằng họ vẫn đang ở ngoài khơi miền Bắc Việt Nam, họ nhanh chóng được chuyển lên tàu cao tốc. Đảo Thần Tiên được SOG chọn vì nó có vẻ ngoài gần giống với vùng cao nguyên Việt Nam. Các tù nhân chỉ được phép nhìn thấy một phần hòn đảo và được thông báo rằng họ đang ở trong "vùng giải phóng" ngoài Bắc. Khi vừa mới đến đây, đám ngư dân liền bị kết tội tử hình nhưng MTGTAQ đã cho họ được khoan hồng. Những người bị bắt cảm thấy đời sống của họ dưới quyền MTGTAQ tốt hơn về mọi mặt so với đời sống dưới chính thể cộng sản. Họ được cung cấp thực phẩm có hàm lượng calo cao, chăm sóc răng miệng và có nhiều thời gian nghỉ ngơi trong khoảng ba tuần lễ.) Kế đến, ngư dân được MTGTAQ giảng dạy về lịch sử của phong trào kháng chiến, cho phép họ có cơ hội giải thích những hành vi lạm quyền và tham nhũng của Chính quyền Hà Nội và khuyến khích họ truyền bá thông điệp MTGTAQ tới các nước láng giềng. Thông tin tình báo nhân lực thu thập được trong các hoạt động này về sau đều được sử dụng cho những chương trình phát thanh, tạo cho người nghe ảo tưởng rằng MTGTAQ có kiến thức sâu sắc về các sự kiện ở miền Bắc Việt Nam và các chương trình phát sóng buộc phải hợp pháp. Đến cuối chương trình này, hơn 1.000 người Bắc Việt đã đến thăm Đảo Thần Tiên. Du khách đến hòn đảo này đều được cung cấp radio và gói quà tặng bị điều chỉnh hướng theo ĐMTGTAQ trước khi rời đi. Cuối cùng, họ đưa cho du khách hai gói quà: một gói được cho là sẽ bị chính quyền cộng sản đánh cắp và gói còn lại được giấu kín. Những khóa huấn luyện kéo dài cho phép giới lãnh đạo MTGTAQ có nhiều thời gian để đánh giá động cơ và lòng trung thành của ngư dân, cũng như các tù nhân khác được đưa đến Đảo Thần Tiên tham dự khóa huấn luyện của MTGTAQ. Theo dự án Borden, một số được gửi trở lại nhằm thu thập thông tin tình báo cho MTGTAQ. Ngay cả khi họ quyết định kể câu chuyện của mình cho chính quyền Bắc Việt, làm như vậy sẽ chỉ nâng cao hình ảnh của MTGTAQ và truyền bá kiến thức về lịch sử huyền thoại của nó. Tuy vậy, ai mà MTGTAQ đánh giá là những người cộng sản có niềm tin chân chính sẽ bị coi là đặc vụ tình báo giả. Tù nhân được thả ra mà chẳng hề hay biết, quần áo và hành lý của họ được nhét kèm theo thẻ chứng minh thư MTGTAQ hoặc tờ truyền đơn mà chắc chắn chính quyền Bắc Việt sẽ tìm thấy. Bất kỳ nỗ lực nào của cựu tù nhân nhằm giải thích lòng trung thành của mình đương nhiên sẽ bị đối phương nghi ngờ gay gắt. Những ngư dân đặt chân đến Đảo Thần Tiên đôi khi được đưa ra lựa chọn đào tẩu sang Việt Nam Cộng hòa. Người nào chọn làm như vậy phải đồng ý xuất hiện trên các cơ quan báo chí như tờ Saigon Daily News hoặc ĐMTGTAQ. Tương tự như chương trình Chiêu Hồi, việc đào tẩu của họ sẽ bị lợi dụng để làm suy sụp tinh thần của binh lính Bắc Việt. Người ta đặt câu hỏi liệu các ngư dân đã thật sự bị lừa hay chỉ giả bị lừa. Ít nhất một ngư dân bị bắt cóc tuyên bố đã biết mình không ở miền Bắc Việt Nam khi sờ thấy cát trên bãi biển của hòn đảo này. Và hồ sơ về một số ngư dân bị bắt cóc ba lần khác nhau có thể cho thấy rằng những ngư dân này đã cố ý bị bắt để được hưởng các tiện ích do MTGTAQ cung cấp. MTGTAQ đã phát triển các hoạt động khác liên quan đến Đảo Thần Tiên nhưng bị giới chức hoạch định chính sách từ chối. Những hoạt động này bao gồm việc huấn luyện du khách ám sát giới quan chức Bắc Việt và khuyến khích họ phát triển các kế hoạch chiến tranh du kích khi trở về miền Bắc. Đội ngũ nhân viên SOG nhiệt tình tiếp tục nêu ra triển vọng biến MTGTAQ thành lực lượng chống đối cách mạng. Năm 1966 được coi là năm hoạt động hiệu quả, 353 ngư dân và thường dân ngoài Bắc được đưa đến Cù lao Chàm. Từ năm 1964 đến năm 1968, tổng cộng có 1003 ngư dân và dân thường bị bắt cóc đưa đến Cù lao Chàm để Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc "truyền giáo". Quả thực, Kế hoạch 39 có cách thức hoạt động y như trong tiểu thuyết. Sự chấm dứt của MTGTAQ Sự sụp đổ đột ngột Các hoạt động của MTGTAQ được mở rộng đáng kể vào năm 1968 với việc triển khai chiến dịch nghi binh Forae. Forae bao gồm nhiều hoạt động liên kết nỗ lực thu thập thông tin tình báo và lật đổ của SOG với huyền thoại về MTGTAQ, bao gồm cả việc gửi các điệp viên tình báo giả đến miền Bắc Việt Nam để làm ra vẻ như họ bị bắt giữ. Các nhà đàm phán Hà Nội tại Hội nghị Hòa bình Paris yêu cầu Mỹ chấm dứt PSYOP nhắm vào miền Bắc Việt Nam, bao gồm cả việc hỗ trợ cho MTGTAQ. Giới quan chức Mỹ đã đồng ý với chính sách này và thực thi nó. SOG được thông báo rằng mặc dù đài ĐMTGTAQ có thể tiếp tục vận hành nhưng hầu như các công tác khác của MTGTAQ xung quanh MTGTAQ, bao gồm cả Đảo Thần Tiên, đều phải ngừng hoạt động. Giới chỉ huy SOG tỏ ra rất kinh ngạc trước quyết định này. Theo đánh giá của một nhà sử học, "Việc Mỹ công bố ngừng hoạt động và sự biến mất đột ngột của tàu MTGTAQ chắc chắn đã được cả chính quyền và người dân miền Bắc chú ý và liên tưởng." MTGTAQ trên thực tế đã chấm dứt vào ngày 1 tháng 11 năm 1968. Một lý do có thể dẫn đến việc dẹp bỏ này là do các thành viên lãnh đạo quân đội và chính phủ Mỹ coi thường SOG. Tướng Westmoreland, cùng nhiều người khác, chưa bao giờ đầu tư nhiều vào SOG và các hoạt động bí mật của nó. Tuy nhiên, SOG đã phải chịu trách nhiệm về phần lớn việc này; chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích của nó chưa bao giờ tiến hành đánh giá PSYWAR xuyên suốt lịch sử chiến tranh Việt Nam. Kháng chiến trên danh nghĩa và thực tế Trong suốt lịch sử của MTGTAQ, các chỉ huy SOG từng đề xuất một số cách thức hòng mở rộng lực lượng kháng chiến trên danh nghĩa, nhiều cách trong số đó đã bị giới chức hoạch định chính sách bác bỏ. Phe ủng hộ việc mở rộng chương trình có thể chỉ ra sự hoang tưởng ngày càng gia tăng ở Hà Nội, tâm lý phản gián của Bắc Việt, và việc tạo ra 19 tội danh mới về các tội liên quan đến hoạt động của MTGTAQ. Tuy nhiên, nếu MTGTAQ muốn đạt được nhiều mục đích hơn là chuyển hướng nguồn lực của Hà Nội thì nó sẽ phải được kích hoạt. Trong con mắt của một nhà sử học SOG, sự tồn tại đơn thuần trên danh nghĩa của nó đã tạo ra "hạn chế gần như tê liệt". Đại tá Donald D. Blackburn, thủ trưởng SOG vào tháng 6 năm 1965, đã thiết kế kế hoạch kích hoạt MTGTAQ trên danh nghĩa. Blackburn nghĩ rằng làm như vậy sẽ đòi hỏi phải tạo ra cả một mạng lưới hỗ trợ bao gồm các nhóm tôn giáo và liên đoàn lao động ở miền Nam Việt Nam nhằm trợ giúp mặt trận hành động MTGTAQ. Mặt trận hành động được đặt tại một hòn "Đảo Thần Tiên" thực sự ở phía tây bắc Bắc Việt Nam. Kế hoạch này từng được đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Henry Cabot Lodge chấp thuận. Thế nhưng kế hoạch này cuối cùng đã bị bác bỏ. Một bản đánh giá khác về SOG do Tướng William Westmoreland ủy quyền vào năm 1967. Sự đánh giá này được gọi là Báo cáo Brownfield vì nó do Chuẩn tướng Albert Brownfield chỉ đạo biên soạn. Được công bố vào ngày 14 tháng 2 năm 1968, bản báo cáo này kết luận rằng "MTGTAQ lẽ ra phải có mục tiêu lập kế hoạch cuối cùng nhằm lật đổ Chế độ Hà Nội." Cả Tướng Westmoreland và các quan chức ở Washington đều không ủng hộ kết luận này. Giới lãnh đạo quân sự và quan chức Washington đều bác bỏ đề xuất này có bốn mối quan ngại chính: Làm như vậy sẽ vi phạm các chính sách công khai của Mỹ. Nó có thể gây bất ổn cho toàn bộ miền Bắc Việt Nam. Bắc Việt có thể tăng cường hoạt động chống lại Việt Nam Cộng hòa. Trung Quốc có thể quyết định công khai tham gia chiến tranh Việt Nam. Đằng sau tất cả những phản đối này ẩn chứa ký ức về Cách mạng Hungary năm 1956. Các chương trình phát sóng được giám sát chặt chẽ từ Đài Âu châu Tự do do Mỹ tài trợ có lẽ đã mang lại cho người Hungary niềm tin nhằm khởi đầu một cuộc cách mạng. Các nhà cách mạng Hungary đã hành động với giả định hợp lý rằng người Mỹ sẽ hỗ trợ quân sự. Giới chức hoạch định chính sách không muốn lịch sử lặp lại. Sẽ là liều lĩnh nếu khuyến khích đám tân binh MTGTAQ bắt đầu một cuộc đảo chính ngay từ đầu, nếu những nhà hoạch định chính sách thiếu quyết tâm đẩy chiến tranh Việt Nam qua khu phi quân sự vĩ tuyến 17. Tham khảo Chiến tranh tâm lý Chiến tranh Việt Nam Chiến dịch quân sự trong Chiến tranh Việt Nam
19843382
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nhanh%20nh%C6%B0%20ch%E1%BB%9Bp%20%28m%C3%B9a%205%29
Nhanh như chớp (mùa 5)
Mùa thứ năm của chương trình Nhanh như chớp do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Đông Tây Promotion phối hợp thực hiện, được phát sóng trên kênh HTV7 và ứng dụng VieON từ ngày 23 tháng 12 năm 2023. Trường Giang và Hari Won đảm nhiệm vai trò MC cho mùa này. Thể thức thi đấu Mỗi tập sẽ có 6 thí sinh tham gia, chia làm 2 đội A và B, mỗi đội 3 thí sinh. Các đội sẽ thi đấu với nhau theo thể thức đấu loại trực tiếp. Đội thắng của một tập sẽ thi đấu ở vòng tiếp theo. Dưới đây là thể thức thi đấu của chương trình ở mùa 5. Mùa này có 2 đợt phát sóng gồm 15 tập cho mỗi đợt và một trận Siêu cúp dành cho 2 đội vô địch của cả 2 đợt. Vòng loại (8 tập): 16 đội sẽ thi đấu dưới thể thức đấu loại trực tiếp. 8 đội thắng tiến vào vòng tứ kết. Vòng tứ kết (4 tập): 8 đội thắng ở vòng loại sẽ thi đấu ở vòng này. 4 đội thắng sẽ vào vòng bán kết. Vòng bán kết (2 tập). 4 đội thắng ở vòng tứ kết sẽ thi đấu ở vòng này. 2 đội thắng sẽ vào trận chung kết. Chung kết (1 tập): 2 đội thắng ở vòng bán kết sẽ thi đấu ở vòng này. Đội thắng ở trận này sẽ là đội vô địch. Siêu cúp (Gala - 1 tập): Đây là trận giao hữu giữa 2 đội vô địch của 2 đợt. Luật chơi Vòng đấu loại Trong mỗi lượt đấu, mỗi đội cử một thành viên đại diện cho đội thi đấu với một thành viên của đội khác. Hai thí sinh thi đấu đối kháng với nhau bằng một bộ câu hỏi chung với thứ tự giống nhau cho cả 2 người. Một người sẽ được chơi trước còn người kia bước vào phòng cách âm để không nghe thấy câu hỏi của chương trình. Thí sinh sẽ ngồi lên một "cỗ máy tia chớp" và có 2 phút để trả lời nhanh một bộ câu hỏi gồm nhiều câu (bao gồm câu hỏi chuẩn và câu đố mẹo). Thời gian chỉ được tính từ khi MC bắt đầu đọc câu hỏi đến lúc người chơi chốt câu trả lời và không được tính khi các thí sinh và MC trò chuyện. Mỗi lần trả lời đúng thì được lên một nấc của con dốc, trả lời sai sẽ bị đẩy xuống đáy dốc (nấc số 0); điểm được tính bằng số lượng câu trả lời đúng liên tiếp và nhiều nhất (ví dụ, một thí sinh trả lời được đến mốc số 5 rồi trả lời sai và không trả lời được liên tiếp quá 5 câu sau đó thì điểm số sẽ là 5 điểm). Thí sinh không được quyền bỏ qua bất kỳ câu hỏi nào mà phải trả lời tất cả các câu hỏi dù sai và tuyệt đối không nghe theo đồng đội. Nếu trả lời theo gợi ý của đồng đội thì đáp án sẽ không được chấp nhận và bị tính là trả lời sai. Nếu trả lời đúng đến mốc số 10 (đúng 10 câu liên tiếp), thí sinh sẽ ngay lập tức nhận được 20.000.000 đồng. Chỉ có một giải 20.000.000 đồng duy nhất trong mỗi chương trình, nghĩa là dù người đó lần thứ hai hay những người chơi khác có trả lời đúng 10 câu liên tiếp thì vẫn sẽ không được nhận 20.000.000 đồng mà chỉ tính là 10 điểm. Khi cả 2 thí sinh trong lượt đấu đã hoàn thành phần thi, đội có số đáp án đúng liên tiếp cao hơn sẽ giành điểm ở lượt đó. Nếu hai đội có số đáp án đúng liên tiếp như nhau thì mỗi đội giành 1 điểm. Sau lượt 3, nếu tỉ số của 2 đội là 3-0 (1 đội thắng cả 3 lượt đầu) hoặc 3-1 (thắng 2 trong 3 lượt, lượt còn lại hòa) thì trận đấu sẽ kết thúc ngay lập tức; đội dẫn trước sẽ là đội chiến thắng và bước vào vòng đặc biệt. Với các trường hợp còn lại, trận đấu sẽ tiếp tục với lượt thứ 4 (khi đó 2 người vừa tham gia lượt 3 sẽ không được tham gia lượt này). Nếu sau lượt 4 mà vẫn chưa có đội chiến thắng, sẽ có một câu hỏi phụ và mỗi đội chọn ra một thành viên bất kỳ để đại diện đứng trước một cây cột. Sau khi nghe câu hỏi, người chơi giành quyền trả lời bằng cách đặt tay lên cột. Trả lời đúng thì đội có thành viên đó giành chiến thắng, nếu sai thì thành viên của đội kia sẽ trả lời, nếu đúng thì thắng. Nếu cả thành viên không trả lời được câu hỏi, một câu hỏi khác sẽ được đưa ra cho đến khi có đội thắng. Kết thúc vòng thi, đội chiến thắng sẽ lọt vào vòng đặc biệt và giành quyền đi tiếp vào vòng sau, còn đội thua cuộc sẽ nhận phần thưởng 15.000.000 đồng. Vòng đặc biệt Đội chiến thắng sẽ đứng trước một cây cột. Trong vòng 1 phút, đội phải liệt kê 20 đáp án theo chủ đề do chương trình đưa ra. Để được xác nhận, mỗi người chơi cần đặt tay lên cột và nói. Các thành viên phải nói luân phiên nhau và không được nói trùng ý. Sau 1 phút, nếu đội liệt kê đủ hoặc hơn 20 đáp án thì chiến thắng và nhận giải thưởng cao nhất (xem cơ cấu giải thưởng ở dưới). Cơ cấu giải thưởng Danh sách các đội tham gia Đây là danh sách các khách mời đã tham gia mùa 5 của chương trình. Danh sách này không bao gồm các khách mời góp mặt trong trận Siêu cúp. Đợt 1 Đợt 2 Chi tiết các tập Ghi chú Tham khảo Nhanh Như Chớp mùa 5 trên Youtube Nhanh như chớp (trò chơi truyền hình) Truyền hình Việt Nam năm 2023 Mùa truyền hình Việt Nam năm 2023 Mùa truyền hình Việt Nam năm 2024
19843385
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%20250m%20Nam
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – 250m Nam
Nội dung thi đấu thuyền rồng 250m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 ở Quảng Châu được tổ chức vào ngày 20 tháng 11 năm 2010 tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechages Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Chung kết nhỏ (MF) Repechage 1 Repechage 2 Chung kết Trận chung kết nhỏ Trận tranh huy chương Liên kết ngoài International Dragon Boat Federation Tham khảo Trang web chính thức 250m Nam
19843387
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20V%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20U-19%20Qu%E1%BB%91c%20gia%202024
Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024
Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024 là quá trình vòng loại của Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024, mùa giải thứ 19 của Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Tổng cộng có 12 đội sẽ đủ điều kiện để tham dự vòng chung kết, bao gồm cả những đội được đặc cách tham dự giải đấu với tư cách chủ nhà. Các đội bóng Một số lượng kỷ lục 35 đội bóng đăng ký tham dự đã được ghi nhận cho giải đấu lần này. Các đội bóng được sắp xếp sẵn vào các bảng đấu dựa theo khu vực địa lý. Những đội bóng đóng vai trò là chủ nhà của bảng đấu vòng loại được đánh dấu bởi ký hiệu (H). Lễ bốc thăm xếp lịch thi đấu vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024 đã diễn ra vào ngày 20 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở VFF, Hà Nội. Thể thức thi đấu Các đội thi đấu vòng tròn hai lượt tại địa điểm tập trung, tính điểm xếp hạng ở mỗi bảng. 7 đội xếp thứ nhất, 4 đội xếp thứ nhì có thành tích tốt nhất ở 7 bảng đấu sẽ lọt vào vòng chung kết. Trường hợp đội chủ nhà vòng chung kết kết thúc vòng loại với vị trí trong nhóm 11 đội nêu trên, đội nhì bàng có thành tích tốt tiếp theo cũng sẽ giành quyền tham dự vòng chung kết. Các tiêu chí Các đội được xếp hạng theo điểm (3 điểm cho 1 trận thắng, 1 điểm cho 1 trận hòa, 0 điểm cho 1 trận thua), và nếu bằng điểm, các tiêu chí sau đây được áp dụng theo thứ tự, để xác định thứ hạng: Điểm trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Hiệu số bàn thắng thua trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Số bàn thắng ghi được trong các trận đối đầu trực tiếp giữa các đội bằng điểm; Nếu có nhiều hơn hai đội bằng điểm, và sau khi áp dụng tất cả các tiêu chí đối đầu ở trên, một nhóm nhỏ các đội vẫn còn bằng điểm nhau, tất cả các tiêu chí đối đầu ở trên được áp dụng lại cho riêng nhóm này; Hiệu số bàn thắng thua trong tất cả các trận đấu bảng; Số bàn thắng ghi được trong tất cả các trận đấu bảng; Sút luân lưu nếu chỉ có hai đội bằng điểm và họ gặp nhau trong trận cuối cùng của bảng; Điểm kỷ luật (thẻ vàng = –1 điểm, thẻ đỏ gián tiếp (2 thẻ vàng) = –3 điểm, thẻ đỏ trực tiếp = –3 điểm, thẻ vàng và thẻ đỏ trực tiếp = –4 điểm); Bốc thăm. Lịch thi đấu Địa điểm trung lập Bảng A: Trung tâm thể thao Viettel Bảng B: Trung tâm đào tạo bóng đá trẻ PVF - Bộ Công an Bảng C: Đoàn bóng đá Huế Bảng D: Công ty cổ phần thể thao Hoàng Anh Gia Lai Bảng E: Trung tâm huấn luyện - Thi đấu thể dục thể thao Bình Phước Bảng F: Công ty cổ phần bóng đá Bà Rịa - Vũng Tàu Bảng G: Trung tâm huấn luyện - Thi đấu thể dục thể thao Tiền Giang Đội hình Các cầu thủ sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 2005 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008 có đủ điều kiện để tham dự giải đấu. Mỗi đội bóng phải đăng ký một đội hình tối thiểu 18 cầu thủ và tối đa 30 cầu thủ. Trong đó, danh sách phải có tối thiểu 2 thủ môn và tối đa 1 cầu thủ nước ngoài gốc Việt Nam (Quy định mục 7.1). Các bảng đấu Bảng A Bảng B Bảng C Bảng D Bảng E Bảng F Bảng G Xếp hạng các đội nhì bảng đấu Bốn đội xếp thứ nhì có thành tích tốt nhất sẽ giành quyền tham dự vòng chung kết. Cầu thủ ghi bàn Các đội vượt qua vòng loại Dưới đây là các đội đã vượt qua vòng loại để thi đấu tại vòng chung kết Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024. Tham khảo Liên kết ngoài Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024 Liên đoàn bóng đá Việt Nam
19843388
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%20250m%20N%E1%BB%AF
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – 250m Nữ
Nội dung thi đấu thuyền rồng 250m nữ tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 ở Quảng Châu được tổ chức vào ngày 20 tháng 11 năm 2010 tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Qualification: 1 → Grand final (CK), Rest → Minnor final (MF) Chung kết Trận chung kết nhỏ Trận tranh huy chương Liên kết ngoài International Dragon Boat Federation Tham khảo Trang web chính thức 250m Nữ
19843389
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pastel%20de%20nata
Pastel de nata
Pastel de nata ( (số nhiều: pastéis de nata; )) hay pastel de Belém là một món bánh truyền thống của Bồ Đào Nha, thường được phủ một lớp quế ở trên. Bên ngoài lãnh thổ Bồ Đào Nha, chúng đặc biệt phổ biến ở các khu vực khác ở Tây Âu, Châu Á và các thuộc địa của Bồ Đào Nha trước đây, chẳng hạn như Brasil, Mozambique, Ma Cao, Goa và Đông Timor. Pastel de nata kiểu Ma Cao đã được chuỗi cửa hàng KFC áp dụng và có sẵn ở các khu vực như Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc. Ở Indonesia, món bánh ngọt này đặc biệt phổ biến ở Kampung Tugu, Jakarta. Lịch sử ra đời Pastéis de nata được tạo ra trước thế kỷ 18 bởi các tu sĩ Công giáo tại tu viện Jerónimos () ở giáo xứ dân sự của Belém, Lisbon. Vào thời điểm đó, các tu viện và tu viện đã sử dụng một lượng lớn lòng trắng trứng để làm cứng quần áo, chẳng hạn như đồ mặc của các tu sĩ và nữ tu. Việc các tu viện sử dụng lòng đỏ trứng còn sót lại để làm bánh ngọt là điều khá phổ biến, dẫn đến sự phổ biến của các công thức làm bánh ngọt trên khắp đất nước. Sau Cách mạng Tự do năm 1820, việc các dòng tu giải tán và nhiều tu viện sắp đóng cửa, các tu sĩ bắt đầu bán pastéis de nata tại một nhà máy đường gần đó để mang lại doanh thu. Năm 1834, tu viện bị đóng cửa và công thức này được bán cho nhà máy đường vào năm 1837, mở Fábrica de Pastéis de Belém. Con cháu đời sau cũng sở hữu nhà máy này cho đến ngày nay. Kể từ khi Fábrica de Pastéis de Belém được khai trương, công thức ban đầu của pastel de nata được lưu giữ trong một căn phòng bí mật. Fábrica de Pastéis de Belém là nơi phổ biến nhất để mua pastéis de nata; cửa hàng nằm cách tu viện Jerónimos chỉ 3 phút đi bộ ngắn ngủi. Cửa hàng cung cấp cả dịch vụ mang đi và ăn tại chỗ, trung bình bán hơn 20.000 chiếc pastéis de nata một ngày. Thông thường, bánh tart được rắc canela (quế) và thường đi kèm với bica (một loại cà phê espresso đậm đà). Vào năm 2009, báo The Guardian đưa pastéis de Belém vào danh sách 50 món ăn ngon nhất thế giới. Năm 2011, sau kết quả của một cuộc bỏ phiếu, món bánh ngọt này đã được công bố là một trong 7 kỳ quan của ẩm thực Bồ Đào Nha, từ đó tiếp tục củng cố vị thế của một trong những món ăn phổ biến nhất đất nước. Pastel de nata trên toàn thế giới Nền ẩm thực Nhật Bản chịu ảnh hưởng của các thương nhân Bồ Đào Nha trong thế kỷ 16 và các món nướng Nhật Bản có tầm quan trọng về mặt văn hóa, bao gồm (xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha: , nghĩa là bánh mì) và castella có nguồn gốc từ thời kỳ này. Pastel de nata cũng là một trong số đó. Ngoài bánh ngọt truyền thống, một số biến thể đã được phát triển đặc biệt cho thị trường Nhật Bản bằng cách thêm hương vị trà xanh. Pastel de nata trà xanh đã được xuất khẩu sang Hàn Quốc và các thị trường khác ở châu Á. Xem thêm Torta de nata Tart trứng Trứng Ghi chú Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Trang web chính thức của Pastéis de Belém Fábrica dos Pastéis de Belém tại Foursquare Pastéis de Belém tại Tripadvisor Pastéis de Belém Ẩm thực Bồ Đào Nha Ẩm thực Hồng Kông Ẩm thực Ma Cao Ẩm thực Brasil Ẩm thực Đông Timor Ẩm thực Indonesia Bánh Tart Món tráng miệng Món ngọt Bánh ngọt Món trứng
19843390
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20%C4%90%C3%B4ng%20H%E1%BA%B1ng
Lý Đông Hằng
Lý Đông Hằng (; sinh ngày 4 tháng 11 năm 1982) là một diễn viên. Tiểu sử Với thành tích học tập xuất sắc, Lý Đông Hằng tốt nghiệp 3 trường khác nhau là Học viện đào tạo diễn xuất Bắc Anh, Cao đẳng Ngoại Ngữ, Đại học Khoa học Điện tử và Công nghệ Trung Quốc. Ngoài ra, anh cò thành thạo 3 thứ tiếng là Anh - Pháp - Trung. Hiện tại, anh đang công tác tại Qua Hữu Đinh Ảnh thị. Sự nghiệp Sở Hà xuất hiện lần đầu tiên trong bộ phim Kungfu Bóng Rổ , nhưng được biết đến nhiều hơn với vai Dylan trong bộ phim truyền hình Đài Loan, Định mệnh anh yêu em. Anh cũng xuất hiện trong hai video âm nhạc của Châu Kiệt Luân cho các bài hát "Sứ Thanh Hoa" trong album On the Run và "Biển Hoa" của Capricorn . Sau đó, anh nổi tiếng hơn nhờ các vai diễn trong bộ phim truyền hình Hạ gia tam thiên và Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao, bộ phim đã giúp anh giành được giải Nam diễn viên được yêu thích nhất tại LeTV Awards. Danh sách phim Phim truyền hình Phim điện ảnh
19843393
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%20500m%20Nam
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – 500m Nam
Nội dung thi đấu thuyền rồng 500m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 ở Quảng Châu được tổ chức vào ngày 19 tháng 11 năm 2010 tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechages Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Chung kết nhỏ (MF) Repechage 1 Repechage 2 Chung kết Trận chung kết nhỏ Trận tranh huy chương Liên kết ngoài International Dragon Boat Federation Tham khảo Trang web chính thức 500m Nam
19843394
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%20500m%20N%E1%BB%AF
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – 500m Nữ
Nội dung thi đấu thuyền rồng 500m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 ở Quảng Châu được tổ chức vào ngày 19 tháng 11 năm 2010 tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Chung kết nhỏ (MF) Chung kết Trận chung kết nhỏ Trận tranh huy chương Liên kết ngoài International Dragon Boat Federation Tham khảo Trang web chính thức 500m Nữ
19843405
https://vi.wikipedia.org/wiki/Book%20of%20the%20SubGenius
Book of the SubGenius
The Book of the SubGenius: Being the Divine Wisdom, Guidance, and Prophecy of J.R. "Bob" Dobbs, High Epopt of the Church of the SubGenius, Here Inscribed for the Salvation of Future Generations and in the Hope that Slack May Someday Reign on This Earth (tạm dịch: Sách SubGenius - Trí tuệ, sự chỉ dẫn và lời tiên tri thiêng liêng của J.R. "Bob" Dobbs, Epopt cấp cao của Giáo hội SubGenius, được ghi ở đây để cứu rỗi các thế hệ tương lai và với hy vọng rằng một ngày nào đó Slack có thể ngự trị trên Trái Đất này; ) được xem là bộ "Kinh Thánh" của Giáo hội SubGenius. Nó được biên soạn từ ấn phẩm zine đang được xuất bản của Giáo hội có nhan đề The Stark Fist of Removal. Nó thường được đặt trong mục hài hước của hầu hết các hiệu sách, mặc dù một số Thành viên SubGenius được phép xếp bộ sách này vào mục tôn giáo. Cuốn sách này từng được ít nhất hai nhà xuất bản riêng biệt tái bản nhiều lần. Ấn bản gốc do hãng McGraw-Hill xuất bản vào năm 1983, trong khi việc tái phát hành cuốn sách (với hình minh họa bìa hiện tại) vào năm 1987 là do ấn hiệu Fireside Books của nhà xuất bản Simon & Schuster thực hiện (, "ấn bản Fireside thứ nhất"). Tham khảo Đọc thêm Revelation X : The 'Bob' Apocryphon: Hidden Teachings and Deuterocanonical Texts of J.R. "Bob" Dobbs, Sách năm 1983 Sách trào phúng Giáo hội SubGenius Sách của McGraw-Hill
19843406
https://vi.wikipedia.org/wiki/J.%20R.%20%22Bob%22%20Dobbs
J. R. "Bob" Dobbs
J. R. "Bob" Dobbs là kẻ đứng đầu bù nhìn tôn giáo nhại Giáo hội SubGenius. Hình ảnh của ông bắt nguồn từ một bộ sưu tập clip art do Công ty Điện thoại Bell Tây Texas phân phối vào năm 1946. Theo giáo điều của SubGenius, "Bob" là một nhân viên bán hàng mà vào năm 1953, đã tận mắt chứng kiến linh ảnh của vị thần JHVH-1 trên chiếc tivi mà ông từng chế tạo. Linh ảnh này đã truyền cảm hứng cho ông viết hoặc đọc "PreScriptures" (như được mô tả trong Sách SubGenius) và thành lập Giáo hội. Thần học cho rằng "Bob" là người bán hàng vĩ đại nhất lúc sinh thời và đã nhiều lần thoát khỏi cái chết. Ông cũng được tôn kính vì những hành động điên rồ của mình và được cho là vị cứu tinh của "Slack". Ông bị ám sát ở San Francisco vào năm 1984, mặc dù Giáo hội tuyên bố rằng ông từng chết đi sống lại nhiều lần kể từ đó. Tiểu sử cá nhân Theo kinh sách Revelation X; The "Bob" Apocryphon, "Bob" chào đời tại Dallas, Texas, có cha tên là Xinucha-Chi-Xan M. Dobbs (một dược sĩ) và mẹ tên là Jane McBride Dobbs. Lúc còn nhỏ, ông đã có biệt tài kiếm được số tiền lớn bằng cách chơi chứng khoán qua điện thoại. Về sau ông lấy cô vợ tên gọi Constance "Connie" Marsh ở Las Vegas vào năm 1955 và làm người mẫu cho một nhiếp ảnh gia đồng thời phát minh và cấp bằng sáng chế cho những món đồ bịt miệng mới lạ. Năm 1957, ông làm việc vào cuối tuần để rao giảng Phúc Âm Cơ đốc giáo "nghiêm túc vì tiền". Truyện ngắn "The Horror on Howth Hill" của Robert Anton Wilson có kể về cuộc trò chuyện giữa Dobbs và nhà khoa học điên De Selby. Connie Dobbs Constance "Connie" Marsh Dobbs, vợ của "Bob", gần như đã trở thành huyền thoại trong giới SubGenius giống như "Bob". Mặc dù "Bob" đã kết hôn với những người phụ nữ, linh hồn, thần linh và đồ vật vô tri khác, Connie vẫn được mô tả trong bộ phim tài liệu Arise! là "người vợ đầu tiên và vẫn là chính thất của ông". Connie, vốn là nữ diễn viên và người mẫu, đã lập nên Nhà dành cho Trẻ em không Slack (Home for Slackless Children), là người bảo trợ cho phụ nữ SubGenius và được coi là kẻ có tầm nhìn về sự giải phóng thực sự đối với phụ nữ. Connie tỏ ra không chịu khuất phục trước bất kỳ ai (đặc biệt là "Bob"). Và cô ấy cũng phóng túng và lăng nhăng như chồng mình, mặc dù cô ấy có cái đầu điềm tĩnh hơn khi đề cập đến các vấn đề gia đình. Connie được mô tả là "bộ não" của cặp đôi viết bài ở lớp 4 hồi còn học lớp 1 và để "Bob" chép bài tập về nhà của mình khi họ còn nhỏ. Cô ấy cũng được cho là một người biến hình, từng tổ chức sinh nhật lần thứ 100 của mình và hát hò, nhảy nhót rồi trò chuyện tại một cuộc họp mặt vào năm 2022. Dobbstown Theo truyền thuyết của Giáo hội, "Bob" và "Connie" đã từng đặt chân đến Sarawak, Malaysia và gầy dựng trụ sở chính của mình, một vùng đất bí mật ở đó mang tên Dobbstown mà họ thường lưu trú mỗi khi có dịp qua đây. Hình ảnh của "Bob" Hình ảnh của "Bob" xuất hiện lần đầu trong ấn phẩm gốc của SubGenius nhan đề Tập sách nhỏ SubGenius #1 (còn gọi là "The World Ends Tomorrow and You May Die"; Thế giới kết thúc vào ngày mai và bạn có thể chết) (1979). Kể từ lần xuất hiện đầu tiên, khuôn mặt của ông đã hiện diện ở nhiều nơi trên thế giới và nó đã xuất hiện trên mọi thứ, từ nghệ thuật graffiti trên cầu vượt xa lộ và như một phần của bộ ký tự đồ họa của hệ điều hành Atari ST, đến các album nhạc của nhiều ban nhạc ngầm (và một số ban nhạc rock chính thống nổi tiếng, từ Devo đến Sublime) và bộ phim không thường xuyên (The Wizard of Speed and Time), chương trình truyền hình (Pee-wee's Playhouse) và phim hoạt hình (SpongeBob SquarePants). Ngoài ra còn có hai bộ truyện tranh Đức có mặt "Bob" ("Future Subjunkies" và "Space Bastards", đều của Gerhard Seyfried và Ziska Riemann). Giáo hội SubGenius duy trì nhãn hiệu và bản quyền đối với hình ảnh của "Bob", mặc dù họ đã cố gắng tránh thực hiện các hành động pháp lý trừ khi thực sự cần thiết. Hình ảnh của "Bob" thường thấy trên nhóm tin Usenet alt.binaries.slack, nơi ông xuất hiện thường xuyên trong những bức hình của nhiều nghệ sĩ. Nghi thức phù hợp trên nhóm tin quy định rằng sự ghi nhận công lao phải được cung cấp khi đến hạn và việc Giáo hội thừa nhận quyền sở hữu hình ảnh của "Bob" được những người tham gia nhóm tin thường xuyên chấp nhận. J.R. "Bob" Dobbs là nguồn cảm hứng cho nhân vật Giáo sư Utonium trong phim hoạt hình The Powerpuff Girls. Nhân vật Doc Magnus của DC Comics cũng có hình ảnh rất giống "Bob." Biểu tượng thiêng liêng Khoảng năm 2002, Giáo hội đã thông qua một biểu tượng mới gọi là "Biểu tượng thiêng liêng", là một cây thánh giá cách điệu gồm ba thanh và một ống, được đặt theo hoa văn phù hợp với mắt, mũi, miệng, và ống tẩu trong hình ảnh của "Bob". Cuộc thăm dò ý kiến ​​của Time Trong số ra ngày 1 tháng 1 năm 2000, một cuộc thăm dò trên Internet của tờ Time đã vinh danh J. R. "Bob" Dobbs là "kẻ lừa đảo hay giả mạo" số 1 của thế kỷ 20. Tham khảo Liên kết ngoài Giáo hội SubGenius Người Mỹ giả tưởng
19843417
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shari%2C%20Hokkaid%C5%8D
Shari, Hokkaidō
là thị trấn thuộc huyện Shari, phó tỉnh Okhotsk, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 11.418 người và mật độ dân số là 15 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 736.97 km2. Địa lý Khí hậu Nhân vật đến từ Shari Kumagoro Tatsuhikari (1969-2011): Cựu đô vật sumo. Takebe Tsutomu: Chính khách người Nhật Bản. Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19843420
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%201000m%20Nam
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – 1000m Nam
Nội dung thi đấu thuyền rồng 1000m nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 ở Quảng Châu được tổ chức vào ngày 18 tháng 11 năm 2010 tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Chung kết nhỏ (MF) Chung kết Trận chung kết nhỏ Trận tranh huy chương Liên kết ngoài International Dragon Boat Federation Tham khảo Official Website 1000m Nam
19843422
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%ADnh%20s%C3%A1ch%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i
Chính sách xã hội
Chính sách xã hội (Social policy) là một kế hoạch hoặc chương trình hành động của chính phủ hoặc chính quyền (các cơ quan thiết chế) nhằm cải thiện hoặc cải cách xã hội. Một số chuyên gia và trường đại học coi chính sách xã hội là một tập hợp con của chính sách công trong khi những người thực hành khác mô tả chính sách xã hội và chính sách công là hai cách tiếp cận riêng biệt, cạnh tranh cho cùng một lợi ích công, với Chính sách xã hội được coi là toàn diện hơn chính sách công. Chính sách xã hội cũng có thể được mô tả là những hành động ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội của các thành viên trong xã hội thông qua việc định hình sự phân phối và tiếp cận hàng hóa và tài nguyên trong xã hội đó. Chính sách xã hội thường đề cập đến những vấn nạn xã hội. Cho dù trường đại học tuân theo luận điểm nào thì chính sách xã hội đều bắt đầu bằng việc nghiên cứu nhà nước phúc lợi và dịch vụ xã hội. Nó bao gồm chủ trương, đường lối, định hướng (Guideline), nguyên tắc, luật pháp và các hoạt động liên quan ảnh hưởng đến điều kiện sống có lợi cho phúc lợi con người, chẳng hạn như chất lượng cuộc sống của một người. Khoa Chính sách xã hội thuộc Trường Kinh tế Luân Đôn định nghĩa chính sách xã hội là "một chủ đề liên ngành và ứng dụng liên quan đến việc phân tích các phản ứng của xã hội đối với nhu cầu xã hội", nhằm mục đích bồi dưỡng cho sinh viên của mình khả năng hiểu lý thuyết và bằng chứng được rút ra từ nhiều ngành khoa học xã hội, bao gồm kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, địa lý học, lịch sử, luật học, triết học và khoa học chính trị. Chính sách xã hội nhằm mục đích cải thiện phúc lợi con người và đáp ứng nhu cầu con người về giáo dục, y tế, nhà ở và an ninh kinh tế. Các lĩnh vực quan trọng của chính sách xã hội là phúc lợi và hưởng phúc lợi, chế độ sính sách, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội, công bằng xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện sống, quyền động vật, chế độ chính sách lương hưu, chăm sóc sức khỏe, nhà ở xã hội, chính sách gia đình, chăm sóc xã hội, bảo vệ trẻ em, loại trừ xã hội, chính sách giáo dục, các vấn đề về tội phạm và tư pháp hình sự, phát triển đô thị và lao động. Trung tâm Chính sách xã hội Malcolm Wiener tại Đại học Harvard mô tả chính sách xã hội là "chính sách công và thực tiễn trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, dịch vụ con người, công lý hình sự, bất bình đẳng, giáo dục và lao động". Những cuộc thảo luận về chính sách xã hội ở Hoa Kỳ và Canada cũng có thể áp dụng cho chính sách của chính phủ về các vấn đề xã hội như giải quyết phân biệt chủng tộc, vấn đề LGBT vấn đề (chẳng hạn như hôn nhân đồng giới), và tình trạng pháp lý của phá thai, súng ống, việc an tử (quyền được chết), thuốc an thần, chất hướng thần (chất gây nghiện các loại) và tệ nạn mại dâm. Ở các quốc gia khác, những vấn đề này sẽ được phân loại theo chính sách y tế và chính sách trong nước. Khái niệm Chính sách xã hội lần đầu tiên được hình thành vào thập niên 1940 do Richard Titmuss đưa ra khi công tác trong lĩnh vực quản lý xã hội ở Anh. Nữ thần công lý mô tả công lý được trang bị ba biểu tượng là một thanh kiếm tượng trưng cho sức mạnh cưỡng chế của triều đình; một chiếc cân của con người đang cân nhắc những tuyên bố cạnh tranh trong mỗi bàn tay; và bịt mắt thể hiện sự công bằng Chú thích Tham khảo Social Policy & Administration Titmuss, R. M. (1951) Problems of social policy. HM Stationery Office. Dean, H. (2006). Social Policy. Cambridge: Polity Press. . Esping-Andersen, G. (1990) The three worlds of welfare capitalism. Princeton: Princeton University Press. Ferragina, Emanuele and Martin Seeleib-Kaiser, "Welfare Regime Debate: Past, Present, Futures?" Policy & Politics: 39 (2011): 4: 583–611. Chính sách công Chính trị so sánh Chính sách xã hội
19843424
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20r%E1%BB%93ng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202010%20%E2%80%93%201000m%20N%E1%BB%AF
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 – 1000m Nữ
Nội dung thi đấu thuyền rồng 1000m nữ tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 ở Quảng Châu được tổ chức vào ngày 18 tháng 11 năm 2010 tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00) Đội hình thi đấu Kết quả Heats Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Repechage (R) Heat 1 Heat 2 Repechage Vòng loại: 1 + Thời gian tốt nhất → Chung kết (CK), Nghỉ → Chung kết nhỏ (MF) Chung kết Trận chung kết nhỏ Trận tranh huy chương Liên kết ngoài International Dragon Boat Federation Tham khảo Trang web chính thức Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010
19843427
https://vi.wikipedia.org/wiki/Louis%20Henri%2C%20C%C3%B4ng%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Bourbon
Louis Henri, Công tước xứ Bourbon
Louis Henri, Công tước xứ Bourbon (Louis Henri Joseph; 18 tháng 8 năm 1692 – 27 tháng 1 năm 1740), là một quý tộc và nhà chính trị gia người Pháp, từng giữ chức Tể tướng đại thần vương quốc Pháp từ năm 1723 đến năm 1726. Là thành viên của Vương tộc Bourbon trị vì, ông giữ tôn hiệu là prince du sang. Louis Henri là con thứ hai và là con trai cả của Louis III, Thân vương xứ Condé, và Louise Françoise de Bourbon, con gái lớn của Vua Louis XIV và tình nhân của ông là Madame de Montespan. Sau cái chết của cha mình vào năm 1710, ông trở thành người đứng đầu chi nhánh Bourbon-Condé của Nhà Bourbon. Vì vậy, ông được giữ tước hiệu Thân vương xứ Condé, nhưng thay vào đó ông lại sử dụng tước hiệu Công tước xứ Bourbon và được biết đến tại triều đình với tôn hiệu Monsieur le Duc. Sau khi ông ngoại qua đời năm 1715, Louis Henri trở thành thành viên của hội đồng nhiếp chính do Philippe II, Công tước xứ Orléans, người nhiếp chính cho vị vua nhỏ Louis XV lãnh đạo. Năm 1723, Louis Henri kế vị Công tước xứ Orléans làm Tể tướng đại thần cho triều đình của Vua Louis XV. Ông đã đàm phán về cuộc hôn nhân của Nhà vua với công chúa Ba Lan là Marie Leszczyńska. Năm 1726, Louis XV bãi nhiệm chức tể tướng của Louis Henri và thay thế ông bằng Hồng y de Fleury. Louis Henri qua đời tại trang viên của ông, Château de Chantilly, vào năm 1740. Các tước vị của ông được thừa kế bởi đứa con trai 4 tuổi của ông là Louis Joseph. Chú thích Tham khảo Olivier Bernier,Louis the Beloved, The Life of Louis XV. 1984, Garden City, New York; Doubleday & Co. Mouffle d'Angerville, The Private Life of Louis XV. "Annotated and amplified by quotations from original and unpublished documents by Albert Mirac." Translated from the French by H. S. Mingard. 1924, New York; Boni and Liveright.  D'Angerville's original title: Vie privée de Louis XV, ou principaux évènements, particularités et anecdotes de son règne. 4 vols. crown 8vo., published in London in 1781. Meyrac says he "extracted these piquant pages" from the original. G. P. Gooch, Louis XV: The Monarchy in Decline. 1956, London; Longmans. Guizot, History of France. Transl. from the French by Robert Black. No date, but a publisher's note is dated 1876; New York; Klemscott Society. vol. 6, p. 110ff. Colin Jones, The Great Nation: France from Louis XV to Napoleon. 2002, New York; Columbia University Press. G. W. Kitchin, D.D., F.S.A., dean of Durham, History of France vol. III. 1903, Oxford, at the Clarendon Press. Ernest Lavisse, Histoire de France, reprinted from the editions of 1900–1911, Paris. 1969, New York; AMS Press, Inc. Vol. VIII, part 2. James Breck Perkins, France Under Louis XV, vol. i. 1897, Boston; Houghton Mifflin Co. J. H. Shennan, Philippe, Duke of Orleans. 1979, London; Thames and Hudson. Sinh năm 1692 Mất năm 1740 Chính trị gia Pháp thế kỷ 18 Gia tộc Condé Vương tử Pháp (Bourbon) Thân vương xứ Condé Công tước xứ Enghien Công tước xứ Bourbon Công tước xứ Guise Người được nhận Huân chương lông cừu vàng Tây Ban Nha Người Pháp thế kỷ 18
19843429
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mahamadou%20Susoho
Mahamadou Susoho
Mahamadou Susoho Sissoho (sinh ngày 20 tháng 1 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Manchester City tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Anh đã từng đại diện cho Anh và Tây Ban Nha trên đấu trường quốc tế. Đầu đời Sussoho sinh ra ở Tây Ban Nha với cha mẹ là người Gambia và chuyển đến Anh sinh sống vào năm 11 tuổi. Anh nói thông thạo tiếng Catalunya. Sự nghiệp thi đấu Manchester City Anh gia nhập học viện Manchester City vào năm 2017 từ RCD Espanyol, và ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng vào tháng 7 năm 2022. Anh được đôn lên đội U-21 Man City trong mùa giải 2023-24, thi đấu tại EFL Trophy vào nửa cuối năm 2023. Anh được có tên trong đội hình đội 1 của Man City cho trận gặp Red Star Belgrade tại UEFA Champions League vào ngày 14 tháng 12 năm 2023, vào sân ở phút 76 của hiệp 2 để thay cho đàn anh Mateo Kovačić. Anh cùng với 5 cầu thủ trẻ khác của Manchester City có tên trong danh sách tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 tại Ả Rập Xê Út. Sự nghiệp quốc tế Từng chơi cho U-16 Anh, Susoho là cầu thủ trẻ thi đấu cho Tây Ban Nha trên đấu trướng quốc tế, từng chơi cho đội U-17 và U-18. Phong cách chơi bóng Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự. Danh hiệu Manchester City FIFA Club World Cup: 2023 Tham khảo Sinh năm 2005 Nhân vật còn sống Tiền vệ bóng đá Tiền vệ bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha Cầu thủ bóng đá Anh Cầu thủ bóng đá nam Anh Người Tây Ban Nha gốc Gambia Người Anh gốc Gambia Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C. Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Tây Ban Nha
19843438
https://vi.wikipedia.org/wiki/Louis%20Henri%2C%20Th%C3%A2n%20v%C6%B0%C6%A1ng%20x%E1%BB%A9%20Cond%C3%A9
Louis Henri, Thân vương xứ Condé
Louis Henri Joseph de Bourbon (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis Philippe II xứ Orléans và là cháu trai của Victoire de Rohan. Ông là thành viên của Nhà Bourbon, vương tộc đang cai trị nước Pháp. Khi sinh ra đời đã giữ tôn hiệu prince du sang và phong cách Serene Highness và nhận tước hiệu Công tước xứ Enghien và Lãnh chúa xứ Chantully, năm 16 tuổi ông được nhận thêm tước vị Công tước xứ Bourbon. Sau khi kế vị cha mình giữ tước hiệu Hoàng thân xứ Condé, ông nhận được phong cách Royal Highness. Ngày 27/8/1830, người ta phát hiện Louis Henri đã chết với một sợi dây quanh cổ nhưng chân vẫn ở trên mặt đất. Nhiều tin đồn và thuyết âm mưu đã xoay quanh cái chết của ông, trong đó, người ta nghi ngờ có sự tham gia của vị vua dang tại nhiệm của Pháp là Louis-Philippe I. Chú thích Tham khảo Smith-Hughes, Jack, Eight Studies in Justice (London: Cassell & Co., 1953), p. 124-153, Ch. VI: "Royal Justice: The Conscience of a Citizen-King". Liên kết ngoài Sinh năm 1756 Mất năm 1830 Nhà Bourbon-Condé Vương tử Pháp (Bourbon) Thân vương xứ Condé Công tước xứ Bourbon Công tước xứ Guise Công tước xứ Enghien Người được nhận Huân chương lông cừu vàng Tây Ban Nha Chôn cất tại Vương cung thánh đường Thánh Denis Gia tộc Condé
19843439
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A0ng%20qu%E1%BB%B7%20c%E1%BB%A7a%20t%C3%B4i
Chàng quỷ của tôi
Chàng quỷ của tôi (My Demon) () là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc với sự tham gia của Kim Yoo-jung, Song Kang, Lee Sang-yi và Kim Hae-sook. Phim được công chiếu trên SBS TV vào 24 tháng 11 năm 2023 và phát sóng vào thứ Sáu và thứ Bảy hàng tuần lúc 22:00 (KST). Bộ phim cũng có sẵn để phát trực tuyến trên Wavve ở Hàn Quốc và trên Netflix ở một số khu vực được chọn. Tóm tắt Bộ phim là câu chuyện về cuộc hôn nhân hợp đồng giữa nữ thừa kế của một tập đoàn Do Do-hee (Kim Yoo-jung) và Jeong Gu-won (Song Kang), một con quỷ tạm thời mất đi sức mạnh của mình. Nhờ sự mất mát nhất thời này mà họ đã có những phút giây hạnh phúc bên nhau. Trải qua nhiều sóng gió, cuối cùng thì họ có thể sống những ngày tháng hạnh phúc bên nhau. Diễn viên Diễn viên chính Kim Yoo-jung trong vai vai Do Do-hee: Giám đốc điều hành của Mirae F&B. Sau khi cha mẹ cô qua đời năm cô 11 tuổi, cô được Joo Cheon-sook, chủ tịch Tập đoàn Mirae nhận nuôi. Kim Gyu-bin vai Do Do-hee thời trẻ Song Kang trong vai Jeong Gu-won: một con quỷ 200 tuổi có âm mưu thực hiện các hợp đồng đầy cám dỗ nhằm ràng buộc linh hồn với con người bằng cách khai thác những điểm yếu của họ. Lee Sang-yi trong vai Joo Seok-hoon: Cháu trai của Cheon-sook và Giám đốc điều hành của Mirae Investment, một chi nhánh của Mirae Group. Kim Hae-sook trong vai Joo Cheon-sook: người sáng lập và là chủ tịch của Tập đoàn Mirae. Diễn viên phụ Tập đoàn Mirae Kim Tae-hoon trong vai Noh Seok-min: Con trai đầu lòng của Cheon-sook, là CEO của Mirae Electronics. Lee Yoon-ji trong vai Noh Soo-an: Con gái thứ hai của Cheon-sook, là giám đốc điều hành của Mirae Apparel. Jo Yeon-hee trong vai Kim Se-ra: Vợ của Seok-min, giám đốc điều hành của Mirae Electronics. Kang Seung-ho vai Noh Do-gyeong: Con trai duy nhất của Seok-min và Se-ra, người đứng đầu Mirae Electronics. Park Do-yoon trong vai Austin: Con trai của Soo-an và anh trai sinh đôi của Justin. Kang Da-on trong vai Justin: Con trai của Soo-an và anh trai sinh đôi của Austin. Quỹ Sunwol Jo Hye-joo trong vai Jin Ga-young: một vũ công có chuyên môn là võ thuật song kiếm truyền thống. Heo Jeong-do trong vai Park Bok-gyu: giám đốc của Quỹ Sunwol, nhà thầu đầu tiên của Gu-won 200 năm trước. Mirae F&B Seo Jeong-yeon trong vai Thư ký Shin Da-jeong: Thư ký của Do-hee. Park Jin-woo trong vai Han Min-soo: trưởng nhóm quan hệ công chúng của Mirae F&B. Lee Ji-won vai Choi Jung-mi: trợ lý giám đốc quan hệ công chúng của Mirae F&B. Hong Jin-ki vai Lee Han-seong: nhân viên mới của bộ phận quan hệ công chúng của Mirae F&B. Diễn viên khác Cha Chung-hwa trong vai người phụ nữ vô gia cư. Extended Kim Young-jae trong vai bố của Do-hee. Woo Hee-jin trong vai mẹ của Do-hee. Kim Seol-jin trong vai Gi Gwang-chol. Kim Beop-rae trong vai Choi Deok-Ho. Jung Soon-won trong vai số hai. Lim Cheol-hyung trong vai Thám tử Park. Jeon Sok-chan trong vai Thám tử Oh. Seo Sang-won trong vai Mục sư Michael. Joo Suk-tae trong vai Cha Tae-jun. Lee Kang-wook trong vai Công tố viên Choi Woo-Sun. Sản xuất Casting Ngày 18 tháng 1 năm 2023, có thông tin cho rằng cả Kim Yoo-jung và Song Kang đều đang xem xét lời đề nghị đóng vai chính trong bộ phim này. Ngày 14 tháng 4 năm 2023, có thông tin cho rằng nam diễn viên Lee Sang-yi đã xác nhận rằng sẽ tham gia bộ phim này và đang chuẩn bị quay phim. Quay phim Ngày 12 tháng 4 năm 2023, buổi đọc kịch bản đầu tiên đã được tổ chức. Chú thích Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2023 Phim truyền hình Hàn Quốc Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên Phim truyền hình SBS, Hàn Quốc
19843446
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%91%20Vi%C3%AAm%20V%C5%A9
Cố Viêm Vũ
Cố Viêm Vũ (; 15 tháng 7 năm 1613 – 15 tháng 2 năm 1682), vốn tên là Cố Giáng (), tự Trung Thanh (忠清), sau đổi tên thành Viêm Vũ (炎武), tự Ninh Nhân (寧人), ngoại hiệu Đình Lâm tiên sinh (亭林先生), là một nhà tư tưởng Trung Quốc sống vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã trải qua tuổi trẻ của mình trong cuộc chinh phục Trung Quốc của người Mãn Châu trong các hoạt động phản Thanh phục Minh sau khi nhà Minh bị lật đổ. Ông không phục vụ nhà Thanh mà đi ngao du toàn quốc và cống hiến hết mình cho học vấn. Cố Viêm Vũ, Vương Phu Chi, Hoàng Tông Hi được hậu thế gọi là Ba nhà nho lớn cuối thời Minh (明末三大儒, Minh mạt tam đại nho), Minh mạt tam tiên sinh (明末三先生) hoặc Ba nhà tư tưởng lớn cuối thời Minh (明末三大思想家, Minh mạt tam đại tư tưởng gia). Thân thế Cố Giáng quê ở huyện Côn Sơn, phủ Tô Châu, Trực Lệ, sinh năm 1613 dưới thời Vạn Lịch trong một gia tộc lớn ở Giang Đông. Cụ của ông là Nam Kinh Binh bộ Hữu thị lang . Ông nội tên là Cố Thiệu Phất (顾绍芾), từng là Giám sinh Quốc tử giám. Cha đẻ tên là Cố Đồng Ứng (顧同應), mẹ đẻ họ Hà. Em gái ông gả cho người cùng huyện là Từ Khai Pháp (徐開法), sinh ra ba anh em , , , đều đỗ đạt thời Thanh. Từ nhỏ, Cố Giáng đã được cho chú họ Cố Đồng Cát (顧同吉) làm con thừa tự. Mẹ kế của ông là con gái nhà họ Vương, mới 16 tuổi, chưa kết hôn đã thành quả phụ, thủ tiết không tái giá. Nàng Vương ban ngày thì dệt vải, tối đến thì đọc sách đến canh hai mới đi ngủ, tự mình nuôi nấng Cố Giáng trưởng thành, thường giảng cho ông những tấm gương trung nghĩa của Nhạc Phi, Văn Thiên Tường, . Vì lý do đó, nên sau này nhà Minh sụp đổ, Cố Giáng đổi tên thành Viêm Vũ, lấy theo tên của , một học sinh của Văn Thiên Tường cả đời ẩn cư không ra làm quan cho người Mông Cổ. Cuộc đời Thời trẻ Năm 1626, Cố Giáng trở thành Tú tài vào năm 14 tuổi, từ đó kết bạn với đồng hương , gia nhập . Cố Giáng và Quy Trang đều có cá tính độc lập, chính trực, không câu nệ lễ giáo cứng nhắc, bị những người bảo thủ đương thời gọi là Quy kỳ Cố quái (歸奇顧怪). Năm 1631, Cố Giáng cùng Quy Trang thi hương ở Ứng Thiên. Năm 1632, Cố Giáng thi tuế khảo, được Đốc học ngự sử xếp hạng nhất đẳng, tên đứng thứ mười bốn. Năm 1641, Cố Thiệu Phất qua đời, Cố Giang ở nhà chịu tang. Sau nhiều lần thi mà không đỗ, lại chịu ảnh hưởng từ ông nội, Cố Giáng cảm thấy nội dung khoa cử chỉ chú trọng văn chương bát cổ khô khan mà không chú trọng đến thực tài, bèn bỏ việc theo đuổi công danh, về nhà nghiền ngẫm Nhị thập nhất sử, mười ba triều, sách địa lý, văn xuôi, tùy bút có liên quan tới dân sinh, trên cơ sở đó bắt đầu sáng tác hai tác phẩm Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư và Triệu vực chí. Kháng Thanh Năm 1644, Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh, kế đó quân Thanh tiến vào Trung Nguyên. Cố Giáng lo sợ binh tai, dẫn mẹ kế đến Thường Thục lánh nạn, ẩn cư ở suối Ngữ Liêm (语濂涇). Sau đó, ông được Huyện lệnh Côn Sơn Dương Vĩnh Ngôn (杨永言) tiến cử, được triều đình Nam Minh bổ nhiệm chức Tư vụ Bộ binh. Trong thời gian này, ông biên soạn Quân chế luận, Tình thế luận, Điền công luận, Tiền pháp luận đề xuất cải cách kinh tế và quân đội, dâng lên triều đình Hoằng Quang, nhưng không được để ý. Thất vọng với triều đình, ông bỏ quan về quê, cùng Quy Trang và (người Gia Định) tham gia nghĩa quân của , trấn giữ Côn Sơn, xem là lãnh tụ của nghĩa quân toàn phủ Tô Châu. Năm 1645, Nam Kinh thất thủ, Cố Giáng đổi tên thành Viêm Vũ để tỏ chí. Tháng 6, quân Thanh tấn công Tô Châu, Gia Định thất thủ, , , ,... tử nạn, , , ,... tự vẫn. Tháng sau, Côn Sơn bị bao vây, Dương Vĩnh Ngôn bỏ trốn, Cố Viêm Vũ cùng Quy Trang liên hiệp quân của Ngô Chí Quỳ (吳志葵), đến cứu, nhưng sắp thành lại bại. Ngô Kỳ Hãng tử trận, mẹ đẻ của Cố Viêm Vũ bị quân Thanh chặt tay, hai em trai Cố Toản và Cố Thằng bị giết. Kế đó, Thường Thục cũng thất thủ, mẹ nuôi của ông (đã ngoài 60 tuổi) tuyệt thực mà chết, để lại di ngôn yêu cầu ông không được phục vụ triều đình nhà Thanh. Đường vương Chu Duật Kiện lên ngôi ở Phúc Châu tiếp tục chống Thanh. Đại học sĩ lại tiến cử Cố Viêm Vũ, nhưng lần này ông không nhận chức vì đang để tang. Năm 1646, Cố Viêm Vũ quyết định đến Phúc Châu nhận chức, nhưng lại nghe theo lời của Lộ Chấn Phi, bí mật liên hệ các hào kiệt vùng Hoài Tứ, tập hợp các lực lượng nổi dậy về với triều đình. Năm 1647, , , Cố Hàm Chính (顾咸正),... âm thầm liên hệ tướng Thanh là nổi dậy, Cố Viêm Vũ có khả năng cũng tham dự. Cuộc nổi dậy thất bại, Cố Viêm Vũ đang lưu vong, liền quay về tìm cách cứu giúp nhưng bất lực. Các chính quyền Nam Minh ở phương nam lần lượt sụp đổ, dù Cố Viêm Vũ không hề nản lòng, nhưng mất đi chỗ dựa tinh thần, công cuộc kháng Thanh của ông cũng đổ bể. Bắc du Do ông và anh trưởng đã qua đời, nên Cố Viêm Vũ được kế thừa gia sản. Nhưng gặp năm thiên tai, mất mùa, nên ông phải cầm cố 800 mẫu ruộng cho cường hào Côn Sơn là Diệp Phương Hằng (葉方恆). Họ Diệp muốn biến ruộng của họ Cố thành của mình, bèn tìm cách hãm hại. Trong gia tộc có chú họ Cố Diệp Thự (顧葉墅) cùng anh họ Cố Duy (顧維) lấy cớ trong nhà khó khăn để đòi chiếm đoạt gia sản không thành, liền cấu kết với họ Diệp, cho gia nô Lục Ân (陸恩) tố cáo Cố Viêm Vũ cấu kết nghĩa quân. Viêm Vũ nổi giận, giết chết Lục Ân nên bị bắt giam hỏi tội. Nhờ người bạn giúp nên vụ án mới có thể được giải quyết. Trong khoảng thời gian này, con trai độc nhất của Cố Viêm Vũ là Cố Di Cốc (顧詒榖) chết yểu khi mới 5 tuổi. Năm 1655, mất chốn dung thân, Cố Viêm Vũ âm thầm về nhà bán hết gia sản, lấy tên giả Tưởng Sơn Dung (蔣山傭), giả làm thương nhân rời quê hương, một đi không trở lại. Hành trình của Cố Viêm Vũ trải qua Giang Tô, Sơn Đông, Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Tây, Hà Nam, Thiểm Tây, tổng cộng 7 tỉnh, hơn 70 huyện, trên 3 vạn dặm đường. Đi đến đâu, ông lại khảo sát địa hình, hỏi thăm và ghi chép lại dân tình thế thái, âm thầm liên hệ với các trí thức vẫn còn tư tưởng phản Thanh. Trong chuyến hành trình này, Cố Viêm Vũ cũng nhiều lần đến viếng Thập tam lăng, nhiều lần vào Bắc Kinh và một lần đến Sơn Hải quan (1659). Năm 1668, Cố Viêm Vũ bị bắt giam 7 tháng do liên lụy tới vụ , nhờ người bạn Lý Nhân Đốc giúp đỡ mới được ra tù. Năm 1671, nhân lúc Cố Viêm Vũ đang nghỉ lại tại nhà của cháu ngoại Từ Càn Học (đang làm quan ở Bắc Kinh), mời ông chủ trì việc biên soạn Minh sử, nhưng ông kiên quyết từ chối, thà như Giới Chi Thôi, Khuất Nguyên lấy cái chết để tỏ chí. Năm 1678, vua Khang Hi nhà Thanh mở khoa Bác học hồng nho để thu hút kẻ sĩ cũ của nhà Minh, Cố Viêm Vũ dứt khoát rời khỏi Bắc Kinh, từ đó không quay lại. Năm 1679, triều đình nhà Thanh mở , Hùng Tứ Lý một lần nữa mời chào Cố Viêm Vũ nhưng ông tiếp tục lấy cái chết ra cự tuyệt. Rời khỏi Bắc Kinh, Cố Viêm Vũ nhiều lần tới Khúc Ốc khảo sát, giao lưu với các kẻ sĩ đất Tấn như Lý Ngung (tức ), , Vệ Hao (衛蒿),... Ở Khúc Ốc, Cố Viêm Vũ đã khảo chứng lịch sử nước Tấn, sáng tác mười mấy bài văn thơ, đồng thời hoàn thiện tác phẩm để đời Nhật tri lục. Tháng 8 năm 1681, Cố Viêm Vũ mang theo con thừa tự Cố Diễn Sinh (顧衍生) đến Khúc Ốc lần cuối, không may bị bệnh. Trên đường đi, Cố Viêm Vũ nhận thấy vùng Thiểm Cam đang xảy ra nhiều mâu thuẫn xã hội, liền gửi thư cho Tuần phủ Trực Lệ Vu Thành Long để phản ánh thực trạng cho vua Khang Hi. Mùng 8 tháng Giêng (1682), Cố Viêm Vũ quyết định đi thăm bạn bè, khi đi qua Hoa Âm, ông không may bị ngã ngựa và mất vào ngày hôm sau, thọ 70 tuổi. Học thuật Cố Viêm Vũ là người phản đối Lý học và Tâm học Tống-Minh chỉ bàn suông về "Tâm, Lý, Tính, Mệnh", đề xướng "Kinh thế trí dụng" (經世致用), dùng học vấn thực tế đề nghiên cứu sự vật cụ thể, đề xuất dùng chủ trương "Phổ học" (樸學) để thay thế "Lý học". Cố Viêm Vũ được xem là thủy tổ ngành khảo chứng học thời Thanh. Nhiều học giả giữa thời Thanh bắt đầu noi theo Cố Viêm Vũ, tiến hành phê khảo toàn bộ lại lịch sử Trung Quốc từ tư liệu thành văn cho đến hiện vật bi ký, từ lịch sử cho đến địa lý, thiên văn, được xưng là . Mặt khác, Cố Viêm Vũ còn là một nhà nghiên cứu tiếng Hán cổ, được coi là người nối bước . Về tư tưởng, Cố Viêm Vũ đề xướng "Chúng trị" (众治, cai trị tập thể) thay vì "Độc trị" (独治). Danh ngôn Cố Viêm Vũ từng viết trong quyển 13 sách Nhật tri lục: Bảo thiên hạ giả, thất phu chi tiện, dữ hữu trách yên. (Nguyên văn: 保天下者,匹夫之賤,與有責焉。). Học giả Lương Khải Siêu cuối thời Thanh đã tổng kết lại thành: Thiên hạ hưng vong, thất phụ hữu trách (Nguyên văn: 天下興亡,匹夫有責), hiểu theo nghĩa rộng là Sự suy thịnh quốc gia là đại sự của mọi người hoặc Ai ai cũng trách nhiệm cho sự thịnh vượng của xã hội. Di sản Ở quê hương Côn Sơn, có và Bảo tàng Cố Viêm Vũ (顾炎武纪念馆) trong khuôn viên công viên. Năm 2005, Bảo tàng được Bộ Tuyên truyền Trung ương Trung Quốc xếp vào danh sách các "địa chỉ giáo dục lòng yêu nước" cấp quốc gia. Nhà cũ của Cố Viêm Vũ nằm ở trấn cổ Thiên Đăng (Côn Sơn, Tô Châu) ngày nay, được kiến tạo từ thời cụ của Cố Viêm Vũ là Cố Tế (顧濟). Thời Gia Tĩnh, nhà bị quân Oa phá hủy, được vua cấp phép dựng lại. Đây một khu phức hợp thời nhà Minh với sảnh chính, khu sinh hoạt, nghiên cứu và một khu vườn. Ngôi mộ của Cố Viêm Vũ nằm ở một góc yên tĩnh của khu vườn. Ghi chú Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Người Giang Tô Người nhà Minh Người nhà Thanh Nhân vật quân sự Nam Minh Nhà tư tưởng đời Minh Sử gia Trung Quốc Nhà ngôn ngữ học Trung Quốc
19843462
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Sân khúc côn cầu trên cỏ của Công viên thể thao Kênh Củng Thự ở Củng Thự, Hàng Châu, từ 24 tháng 9 đến 7 tháng 10 năm 2023. Đội vô địch đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. Lịch thi đấu Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00) Vòng loại Vòng loại Nam Vòng loại Nữ Tóm tắt huy chương Bảng tổng sắp huy chương Danh sách huy chương Giải đấu nam Giải đấu bao gồm hai giai đoạn; vòng sơ loại, sau đó là vòng chung kết. Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng tranh huy chương Bảng xếp hạng cuối cùng Giải đấu nữ Giải đấu bao gồm hai giai đoạn; vòng sơ loại, sau đó là vòng chung kết. Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng tranh huy chương Bảng xếp hạng cuối cùng Tham khảo 2022 Đại hội Thể thao châu Á Đại hội Thể thao châu Á 2022 Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
19843470
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh-38
Kh-38
Kh-38/Kh-38M () là một dòng tên lửa không đối đất do Nga chế tạo để kế thừa dòng tên lửa Kh-25 và Kh-29. Thiết kế và phát triển Cấu hình cơ bản của Kh-38M đã được tiết lộ tại Triển lãm Hàng không Moskva (MAKS) năm 2007. Các nguyên mẫu đầu tiên trang bị cánh gấp và vây đuôi để thuận tiện trong việc vận chuyển. Tên lửa có nhiều loại đầu dò cho các biến thể khác nhau, và có thể trang bị nhiều loại đầu đạn như phân mảnh, đạn chùm, xuyên giáp. Nó có thể được phóng từ máy bay chiến đấu Sukhoi Su-34 và Sukhoi Su-57, cũng như được lên kế hoạch trang bị trên trực thăng Kamov Ka-52K. Lần bắn thử đầu tiên diễn ra vào năm 2010 từ một chiếc Su-34, việc sản xuất hàng loạt bắt đầu vào năm 2015. Trong phiên bản ra mắt tại MAKS 2017, cả hai bề mặt điều khiển của Kh-38 đều được thay thế bằng bề mặt cố định dài và hẹp hơn - điều tương tự từng được áp dụng với tên lửa Aspide của công ty Selenia. Lịch sử hoạt động Kh-38M được sử dụng lần đầu ở chiến trường Syria khi Nga can thiệp quân sự vào cuộc nội chiến, và sau đó là trong cuộc xâm lược Ukraina năm 2022. Biến thể Kh-38MA - dẫn đường bằng radar chủ động và quán tính Kh-38MK - dẫn đường bằng vệ tinh và quán tính Kh-38ML - dẫn đường bằng laser bán chủ động và quán tính Kh-38MT - dẫn đường bằng tia hồng ngoại và quán tính Kh-36 Grom-E1 - biến thể tên lửa hành trình chiến thuật AS-23/AGM với tầm bắn 120 km Kh-36 Grom-E2 - bom lượn dẫn đường AS-23B/KAB với tầm hoạt động 50 km Cả hai phiên bản Grom đều có khối lượng 600 kg, được chế tạo dựa trên cơ sở tên lửa chiến thuật tầm ngắn Kh-38M nên Grom cũng có cấu trúc mô đun, đầu đạn và đầu dò với nhiều cơ chế dẫn đường khác nhau. Loại vũ khí này lần đầu tiên được nhìn thấy tại MAKS 2015, và dự kiến sẽ trang bị trên tất cả các loại máy bay tiêm kích, bao gồm cả MiG-35 và Su-57. Xem thêm Kh-25 AGM-65 Maverick AGM-179 JAGM Brimstone Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin nhà sản xuất tên lửa Kh-38 KTRV hoàn thành phát triển các biến thể đạn dược không đối đất Grom Tên lửa Nga
19843480
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis%20vittata
Myripristis vittata
Myripristis vittata là một loài cá biển thuộc chi Myripristis trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1831. Từ nguyên Tính từ định danh vittata trong tiếng Latinh có nghĩa là "có dải quấn quanh", theo Valenciennes thì hàm ý đề cập đến 5-6 dải sọc đen ở hai bên thân của loài cá này, tuy nhiên loài này có màu đỏ cam gần như đồng nhất, thật ra chỉ có các sọc mờ do tâm vảy cá nhạt màu hơn tạo thành. Phân bố và môi trường sống M. vittata có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii cùng quần đảo Marquises (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ogasawara và miền nam Nhật Bản, về phía nam đến bãi cạn Aliwal (Nam Phi), Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, M. vittata được ghi nhận tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. M. vittata sống tập trung gần các hang hốc trên rạn san hô hay dưới các gờ đá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 100 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở M. vittata là 25 cm. Cá có màu đỏ hoặc đỏ cam. Rìa trước của vây lưng, vây hậu môn, vây đuôi và vây bụng có màu trắng. Chóp gai vây lưng màu trắng. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 13–15; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 11–13; Số vảy đường bên: 35–40; Số lược mang ở cung thứ nhất: 33–38. Sinh thái M. vittata thường hợp thành đàn và ăn chủ yếu các loài động vật phù du. Chúng thường bơi lộn ngược, ngay cả khi hòa vào các đàn cá khác. Thương mại M. vittata được khai thác trong nghề cá quy mô nhỏ. Tham khảo V Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Mozambique Cá Seychelles Cá Madagascar Cá Mauritius Cá Réunion Cá Maldives Cá Việt Nam Cá Papua New Guinea Cá Nhật Bản Cá Hawaii Cá Nouvelle-Calédonie Động vật được mô tả năm 1831
19843485
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myripristis
Myripristis
Myripristis là một chi cá biển thuộc phân họ Myripristinae trong họ Cá sơn đá. Chi này được lập ra vào năm 1829 bởi Georges Cuvier. Từ nguyên Tên chi được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: mūríos (μυρίος; “số 10000, vô hạn”) và prístis (πρίστις; “cưa”), hàm ý đề cập đến lớp vảy cá có răng cưa bao phủ toàn bộ má và nắp mang ở các loài thuộc chi này. Các loài Tính đến hiện tại, có 28 loài được ghi nhận trong chi này, bao gồm: Phân bố Chỉ duy nhất M. jacobus có phân bố rộng khắp Đại Tây Dương. Ba loài M. clarionensis, M. gildi và M. leiognathus có phân bố ở Đông Thái Bình Dương. Các loài còn lại có phân bố ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Sinh thái Thức ăn chủ yếu của các loài Myripristis là động vật phù du. Chúng còn có thể bơi lộn ngược. Một số loài được ghi nhận là có thể tạo ra âm thanh. Tham khảo M
19843488
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%E1%BA%ADp%20phim%20Yurucamp
Danh sách tập phim Yurucamp
Yuru Camp, là một loạt anime truyền hình dựa trên manga cùng tên của Afro. Phim kể về Shima Rin trong chuyến cắm trại một mình, cô đã gặp Kagamihara Nadeshiko và được cô truyền cảm hứng để tận hưởng cắm trại. Bộ phim phát sóng 25 tập trong hai mùa. Mùa đầu tiên phát sóng trên AT-X và Tokyo MX từ ngày 4 tháng 1 đến ngày 22 tháng 3 năm 2018, với tổng cộng 12 tập. Mùa thứ hai phát hành trên AT-X, Tokyo MX, BS11, Sun TV và KBS Kyoto từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 1 tháng 4 năm 2021, trong tỏng số 13 tập. Cả 2 mùa đề có sẵn đối với Blu-ray và DVD, cũng nhứ các dịch vụ phát trực tuyến. Mùa thứ ba dự kiến ​​sẽ phát sóng vào tháng 4 năm 2024. Tổng quan Danh sách tập phim Mùa 1 (2018) Mùa 2 (2021) Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Danh sách các tập anime Danh sách tập phim anime
19843494
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dulce%20de%20leche
Dulce de leche
Dulce de leche (; ), sốt caramel sữa hoặc mứt sữa, là một sản phẩm mứt kẹo phổ biến ở Mỹ Latinh, cũng được tìm thấy trong các món ăn Pháp (confiture de lait) và Ba Lan (kajmak), được chế biến bằng cách đun nóng từ từ đường và sữa trong khoảng thời gian vài giờ. Chất tạo thành có độ đặc giống như nước xốt, dễ phết, có hương vị và màu sắc phong phú nhờ sự chuyển hóa thành màu nâu không có enzym. Nó thường được dùng để phủ lên trên hoặc làm nhân cho các món ngọt. Dulce de leche là thuật ngữ tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "vị ngọt được [làm] từ sữa". Các tên khác của thuật ngữ này bao gồm manjar ("món ngon") và arequipe; ở México và một số quốc gia Trung Mỹ dulce de leche làm bằng sữa dê được gọi là 'cajeta'. Chuẩn bị và tiêu dùng Công thức cơ bản nhất yêu cầu đun từ từ sữa và đường, khuấy gần như liên tục cho đến khi đường tan (sau đó có thể thêm baking soda) trong khoảng 1,5 – 2 giờ, cho đến khi hỗn hợp đặc lại và cuối cùng chuyển sang màu nâu vàng đậm. Phương pháp khác yêu cầu để một gallon sữa ở nhiệt độ phòng trong suốt 24 giờ. Khí sẽ làm hỏng sữa và những gì còn lại là sữa đông và váng sữa. Sau đó nó được đun sôi, làm cho chất rắn chảy lên trên. Chất rắn được loại bỏ và đường được thêm vào. Hỗn hợp này được khuấy cho đến khi cứng lại, sau đó lấy ra khỏi bếp và để nguội. Sau khi nguội, nó được chia nhỏ để tiêu thụ. Với một gallon, phương pháp này mang lại khoảng hai cốc. Các thành phần khác như vani có thể được thêm vào để tạo hương vị. Phần lớn nước trong sữa bay hơi và hỗn hợp đặc lại; sản phẩm dulce de leche thường bằng khoảng 1/6 thể tích sữa được sử dụng. Sự biến đổi này xảy ra trong quá trình chuẩn bị là do sự kết hợp của hai phản ứng chuyển hóa thành nâu không enzym phổ biến được gọi là caramel hóa và Phản ứng Maillard. Một phương pháp chế biến khác, tương tự như sữa đặc đun sôi của Nga được gọi là "varyonaya sgushchyonka", bao gồm việc sử dụng sữa đặc có đường đóng lon hoặc đóng hộp và nấu trong nồi áp suất trong 20 đến 25 phút để có màu nhạt và hơi mềm, hoặc 40 đến 25 phút, 45 phút để có màu đậm hơn và độ đặc chắc hơn. Nếu dùng sữa đặc đóng hộp thì nên bọc trong khoảng 5 đến 6 lớp giấy nhôm để tránh bị vỡ. Cũng có thể cho sữa đặc vào lọ thủy tinh rồi đun sôi trong nồi áp suất. Trong phương pháp này, các thành phần khác nhau cũng có thể được thêm vào, chẳng hạn như dừa vụn hoặc đậu phộng. Tuy nhiên, cần phải thực hiện một số biện pháp phòng ngừa nhất định, chẳng hạn như bọc bình bằng khăn bếp và lót nồi áp suất bằng một chiếc khăn bếp khác để đáy bình không chạm vào nồi (vì tiếp xúc có thể làm vỡ kính). Thời gian nấu tương tự như phương pháp trước (khoảng 35 đến 40 phút). Nên cho nước vào nồi áp suất – đủ ngập lon hoặc hộp sữa đặc. Có thể cho một lượng nhỏ giấm vào nước trong nồi áp suất để nước không bị đổi màu ở đáy. Trong mọi trường hợp, khi đã sẵn sàng, điều quan trọng là phải để dulce de leche nguội hoàn toàn, khoảng 2 giờ. Dulce de leche có thể ăn trực tiếp, nhưng thường được dùng để phết hoặc nhân cho các món ngọt khác, chẳng hạn như bánh ngọt, churro, bánh quy (xem alfajor), bánh tổ ong, bánh flan (còn được gọi là crème caramel (được gọi là pudim ở những nước nói tiếng Bồ Đào Nha) (đừng nhầm với bánh nướng flan của Anh), thêm vào các loại trái cây như chuối, vả tây, và kem lạnh; nó cũng có thể ăn kèm với crêpe (panqueques), oblea (bánh xốp) và bánh mì nướng. Biến thể Ở Pháp, chúng được gọi là confiture de lait và có truyền thống ở vùng Normandie và Savoy. Biến thể này thường được dùng kèm với fromage blanc hoặc crêpe. Một biến thể tương tự còn được gọi là kajmak trong nền ẩm thực Ba Lan, nơi nó được tạo ra một cách độc lập (dựa trên kaymak một loại kem đông ở Thổ Nhĩ Kỳ). Kajmak được sử dụng phổ biến nhất cho bánh xốp hoặc bánh mazurek. Theo truyền thống, chúng được ăn vào dịp Lễ Phục sinh. Hình ảnh Xem thêm Ghi chú Tham khảo Ẩm thực Argentina Ẩm thực Paraguay Ẩm thực Uruguay Ẩm thực México Ẩm thực Cộng hòa Dominica Ẩm thực Colombia Ẩm thực Cuba Ẩm thực Venezuela Ẩm thực Brasil Món tráng miệng Món ngọt
19843509
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sada%20Masashi
Sada Masashi
(sinh ngày 10 tháng 4 năm 1952) là ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và nhà văn người Nhật Bản. Ông còn được gọi thân mật với biệt danh Mattsan. Ông bắt đầu sự nghiệp âm nhạc chính thức với ban nhạc dân gian Grape vào năm 1972. Nhờ vào bản hit "精霊流し" (Shourou Nagashi), do bản thân sáng tác, ông trở nên nổi tiếng tại Nhật Bản. Ban nhạc tan rã vào năm 1976, sau khi sản xuất một số đĩa đơn nổi tiếng bao gồm "縁切寺" (En-kiri Dera) và "無縁坂" (Muen Zaka). Sau khi trở thành ca sĩ solo, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn nhiều ca khúc nổi tiếng như "雨やどり" (Amayadori), "案山子" (Kakashi), "関白宣言" (Kanpaku Sengen), "道化師のソネット" (Doukeshi no Sonnet), "親父の一番長い日" (Oyaji no Ichiban Nagai Hi), "北の国から〜遥かなる大地より〜" (Kita no Kuni Kara - Haruka naru Daichi yori). Đến thời điểm tháng 10 năm 2019, ông là nghệ sĩ có số lượng concert solo lớn nhất tại Nhật Bản, với hơn 4.400 buổi biểu diễn. Sự hài hước hóm hỉnh trong cách nói chuyện tự nhiên đã giúp ông thu hút khán giả trong các buổi hòa nhạc của mình và cũng làm việc trong vai trò người dẫn chương trình truyền hình, radio. Ông cũng hoạt động làm nhà văn với việc xuất bản các tác phẩm như "解夏" (Kaika) và "眉山" (Meizan). Tiểu sử Masashi Sada, sinh năm 1952 tại Nagasaki, Nhật Bản. Ông là con trai lớn của Masato Sada và Kiyoko. Cha ông từng làm gián điệp tại Trung Quốc và Viễn Đông Nga trước khi trở thành thư ký của Bộ Công thương Nhật Bản. Mẹ ông là một phụ nữ Nhật Bản quản lý nhà hàng ở Vladivostok, Nga. Masashi có thời thơ ấu giàu đẹp, học chơi violin từ 3 tuổi. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông trải nghiệm nhiều ngành nghề khác nhau trước khi quyết định trở thành nghệ sĩ âm nhạc. Năm 1972, cùng với bạn học trung học Masami Yoshida, ông thành lập ban nhạc "Grape." Sau khi phát hành đĩa đơn "Shourou Nagashi," nhóm nhanh chóng nổi tiếng. Tuy nhiên, vấn đề sức khỏe và sự hiểu lầm về hình ảnh âm nhạc đã dẫn đến sự tan rã của nhóm vào năm 1976. Sự nghiệp ca sĩ solo Sau khi ban nhạc Grape tan rã vào năm 1976, Masashi Sada tạm thời rời xa ngành công nghiệp âm nhạc. Với sức khỏe suy giảm, ông bắt đầu hoạt động solo vào tháng 11 cùng năm với đĩa đơn "線香花火" (Senkou Hanabi). Lúc đó, ông rời khỏi công ty quản lý của mình The Bird Corporation, và thành lập công ty sản xuất của riêng mình, Sada Kikaku. Năm 1977, ông phát hành đĩa đơn "雨やどり" (Amayadori), một ca khúc hài hước về chuyện tình dưới mưa, trở thành một hit lớn đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon. Điều này là một thành công đáng kể so với "精霊流し" (Seirei Nagashi), đĩa đơn bán chạy nhất trước đó, chỉ đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng. Sau đó, những bài hát như "秋桜" (Aki Sakura) và "案山子" (Kakashi) cũng đạt được sự thành công. Năm 1978, ông thành lập hãng đĩa cá nhân "Free Flight" và tháng 1 năm 1979 phát hành đĩa đơn đầu tiên từ hãng này, "天までとどけ" (Amemade Todoke). Đĩa đơn "関白宣言" (Kanpaku Sengen) phát hành vào tháng 7, trở thành một bản hit lớn với hơn 1,5 triệu bản bán ra. Sau đó, ông ra mắt tác phẩm nổi tiếng khác như "親父の一番長い日" (Oyaji no Ichiban Nagai Hi), "道化師のソネット" (Dōkeshi no Sonetto), "防人の詩" (Bōnin no Uta), "驛舎" (Ekisha). Năm 1980, ông đóng vai chính và làm nhạc cho bộ phim "The Wings of Icarus." Ông cũng sản xuất và đạo diễn một bộ phim tài liệu về dòng sông Trường Giang ở Trung Quốc, "長江" (Chang Jiang) vào năm 1982. Trong giai đoạn này, với sự thất bại của bộ phim và không hòa hợp với tinh thần "lạnh lùng và mạnh mẽ" của thập kỷ 1980, cùng với sự chỉ trích về tính chất "cánh hữu" của một số bản nhạc, Sada đã trải qua giai đoạn khó khăn. Tuy nhiên, ông tiếp tục sự nghiệp và kỷ niệm nhiều sự kiện đặc biệt như buổi hòa nhạc số 1,000 vào năm 1985 và buổi hòa nhạc solo thứ 4,000 vào năm 2013. Ông cũng tham gia các hoạt động xã hội như tổ chức sự kiện "夏・長崎から" (Natsu Nagasaki Kara) để hòa mình vào nghệ thuật và công việc từ thiện. Năm 2018, ông chuyển sang hãng đĩa mới là JVC Kenwood Victor Entertainment và tiếp tục sự nghiệp sáng tác và biểu diễn. Danh sách đĩa nhạc Albums Grape (với Masami Yoshida) Wasuremono (わすれもの) / Đồ Vật Đã Bị Quên (25 tháng 8 năm 1974) Seseragi (せせらぎ) / Tiếng nước chảy nhẹ nhàng (25 tháng 5 năm 1975) Communication (コミュニケーション) (25 tháng 11 năm 1975) Ano Koro ni Tsuite -Season of Raisin- (あの頃について -シーズン・オブ・レーズン-) / Về thời kỳ ấy - Mùa của Lý Do (10 tháng 11 năm 1991) Solo Kikyorai (帰去来) / I Come Back (25 November 1976) Kazamidori (風見鶏) / Weathercock (25 tháng 7 năm 1977) Anthology (私花集) (25 tháng 3 năm 1978) Yume Kuyo (夢供養) / Tưởng Nhớ Giấc Mơ (10 tháng 4 năm 1979) Inshoha (印象派) / Hậu Impressionists (10 tháng 10 năm 1980) Utsuroi (うつろひ) / Chuyển Động (25 tháng 6 năm 1981) Yume no Wadachi (夢の轍) / Rãnh của Giấc Mơ (11 tháng 12 năm 1982) Kaze no Omokage (風のおもかげ) / Dấu Ấn của Gió (30 tháng 11 năm 1983) Glass Age (Glass Age -硝子の世代-) (12 tháng 12 năm 1984) ADVANTAGE (12 tháng 6 năm 1985) Jibun Shokogun (自分症候群) / Hội Chứng Bản Thân (21 tháng 12 năm 1985) Yume Kaikisen (夢回帰線) / Hòa Trở Lại của Giấc Mơ (25 tháng 7 năm 1987) Kazemachi Dori no Hitobito (風待通りの人々) / Những Người Đứng Đợi Bên Đường Chờ Đợi Gió (25 tháng 7 năm 1988) Yume no Fuku Koro (夢の吹く頃) / Thời Điểm Gió Thổi Mơ (25 tháng 1 năm 1989) Yume Bakari Miteita (夢ばかりみていた) / Chỉ Mơ (25 tháng 2 năm 1990) Yume Kaikisen II (夢回帰線II) / Hòa Trở Lại của Giấc Mơ II (25 tháng 8 năm 1990) Kazoku no Shozo (家族の肖像) Bức Chân Dung Gia Đình (25 tháng 7 năm 1991) Honobono (ほのぼの) / Ấm Áp (10 tháng 11 năm 1992) Aimiteno (逢ひみての) / Hẹn Gặp (25 tháng 10 năm 1993) Omoide Dorobo (おもいで泥棒) / Tên Trộm Ước Mơ (25 tháng 10 năm 1994) Sayonara Nippon (さよならにっぽん) / Tạm Biệt Nhật Bản (25 tháng 10 năm 1995) Furukusai Koi no Uta Bakari (古くさい恋の唄ばかり) / Chỉ Là Những Bài Hát Tình Cảm Cũ (25 tháng 10 năm 1996) Yumeuta (夢唄) / Bài Hát Giấc Mơ (21 tháng 11 năm 1997) Kokoro no Jidai (心の時代 / Kỳ Ngộ Tâm) (23 tháng 9 năm 1998) Toki no Sumika (季節の栖) / Nơi ẩn náu của Mùa (23 tháng 6 năm 1999) Nihon Kaku Setsu (日本架空説) / Lý thuyết ảo tưởng về Nhật Bản (21 tháng 9 năm 2000) Alstroemeria (夢百合草 (あるすとろめりあ)) (27 tháng 2 năm 2002) Yume no Tsuzuki (夢のつづき) / Tiếp nối Giấc Mơ (26 tháng 9 năm 2002) Slow Life Story (すろうらいふすとーりー) (22 tháng 10 năm 2003) Koibumi (恋文) / Thư Tình (22 tháng 9 năm 2004) Tokoshie (とこしへ) / Mãi Mãi (7 tháng 9 năm 2005) Utsukushiki Nihon no Omokage (美しき日本の面影) / Dấu Ấn Đẹp của Nhật Bản (6 tháng 9 năm 2006) Mist (12 tháng 9 năm 2007) Utsukushii Asa / Buổi Sáng Đẹp (美しい朝) (9 tháng 6 năm 2009) Yokan (予感) / Dự Báo (9 tháng 6 năm 2010) Sada City (11 tháng 7 năm 2011) Mou Kurukoro... (もう来る頃...) / Đã Đến Lúc (13 tháng 6 năm 2012) Dai Ni Gakushou (第二楽章) / Đoạn Nhạc Thứ Hai (10 tháng 9 năm 2014) Kaze no Kiseki (風の軌跡) / Dấu Vết của Gió (8 tháng 7 năm 2015) Reborn Umaretate no Sada Masashi (Reborn~生まれたてのさだまさし~) (4 tháng 7 năm 2018) Shin-Jibunfudoki I Boukyou (新自分風土記I~望郷篇~) (15 tháng 5 năm 2019) Shin-Jibunfudoki II Mahoroba (新自分風土記II~まほろば篇~) (15 tháng 5 năm 2019) Chuyến lưu diễn kỷ niệm 45 năm 2018 Reborn-Masashi Sada' (45周年記念コンサートツアー2018 Reborn ~生まれたてのさだまさし~) (26 tháng 6 năm 2019) Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của Masashi Sada Sinh năm 1952 Nhân vật còn sống Nam ca sĩ-người viết bài hát Nhật Bản Ca sĩ-người viết bài hát Nhật Bản Ca sĩ Nagasaki
19843512
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amblygobius%20phalaena
Amblygobius phalaena
Amblygobius phalaena là một loài cá biển thuộc chi Amblygobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1837. Từ nguyên Từ định danh phalaena cũng là tên một chi lỗi thời được Carl Linnaeus đặt cho hầu hết các loài bướm đêm, hàm ý không rõ, có lẽ đề cập đến tông màu nâu sẫm của loài cá này như những loài bướm đêm. Tình trạng phân loại Do kích thước bé nhỏ và khó tiếp cận nên việc sử dụng các đặc điểm hình thái kết hợp với phương pháp mã vạch DNA giúp xác định và phân loại các loài cá bống trắng dễ dàng hơn. Kết quả phân tích gen của Daniel và cộng sự (2018) cho thấy, A. phalaena và Amblygobius albimaculatus là hai loài khác biệt, phù hợp với các nghiên cứu bác bỏ A. phalaena là đồng nghĩa của A. albimaculatus trước đây. Phân bố và môi trường sống A. phalaena có phân bố rộng khắp khu vực Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, từ bang Tamil Nadu (cực nam Ấn Độ, gồm cả quần đảo Andaman) và quần đảo Cocos (Keeling) trải dài về phía đông đến quần đảo Marquises và Tuamotu (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), về phía nam đến Úc (bao gồm đảo Lord Howe) và đảo Rapa Iti. Ở Việt Nam, A. phalaena được ghi nhận ở vùng biển ven bờ Bắc Trung Bộ, hòn Cau (Bình Thuận), cũng như cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. A. phalaena sống trên các rạn san hô hoặc trong đầm phá, nền đáy cát và đá vụn, đôi khi trong thảm cỏ biển, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 52 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở A. phalaena là 15 cm. Cá có màu nâu lục sẫm với 5 vạch màu nâu đen. Đầu có nhiều vệt đốm màu xanh óng. Có một sọc sẫm màu viền nhạt băng qua mắt và một sọc khác ngang qua má. Các đốm trắng nhỏ xếp thành 3–4 hàng ngang trên thân. Vây lưng trước có đốm đen và một đốm khác ở gốc vây đuôi trên. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 13–15; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 14. Sinh thái Thức ăn của A. phalaena là tảo, động vật giáp xác và vụn hữu cơ. A. phalaena sống theo cặp hoặc đơn độc. Mỗi cặp đôi hoặc cá thể đơn độc có một hoặc nhiều hang trong phạm vi lãnh thổ của chúng. Hầu hết các cặp đôi vẫn ở bên nhau qua những lần sinh sản nối tiếp, chỉ một số ít cá thể là thay đổi bạn đời. Theo quan sát của Takegaki (2000), khi một con A. phalaena cái xâm phạm lãnh thổ của một cặp đôi, con đực có cơ hội giao phối với con cá cái xâm phạm đó nhưng bị ngăn cản bởi chính con cá cái trú ngụ trong lãnh thổ. Sự cạnh tranh giữa những con cái đó rất kịch liệt đến nỗi con đực không thể khống chế được chúng. Trứng hoàn toàn chỉ được chăm sóc bởi cá đực. Cá đực dùng vây ngực quạt vào cửa hang nơi chứa trứng có lẽ để cung cấp oxy vào hang. Thỉnh thoảng, cá đực nhẹ nhàng ngậm một phần trứng vào miệng rồi nhổ ra ngay. Khi có loài khác xâm phạm lãnh thổ, cá cái cũng cùng cá đực tấn công chúng, nhưng chưa có ghi nhận cho thấy cá cái vào hang chăm sóc trứng. Trong một thí nghiệm loại bỏ cá đực từ 5 cặp A. phalaena của Takegaki (2005), sau khi phát hiện bạn đời vắng mặt (khoảng 1–6 phút), cá cái ngay lập tức chui vào hang và bắt đầu quạt cho trứng như cá đực đã làm. Chỉ 2 cá thể cái lớn nhất trong số này (tổng chiều dài đều hơn 13 cm) là tiếp tục chăm sóc trứng cho đến khi chúng nở, còn những cá thể cái nhỏ hơn (11,6–12,3 cm) còn lại đều rời bỏ tổ trước khi trứng nở. Điều này cho thấy, kích thước có ảnh hưởng đến khả năng làm cha mẹ ở nhiều loài cá, vì kích thước lớn cho phép chúng chịu đựng về mặt thể chất cao hơn và khả năng chiến đấu chống lại kẻ săn trứng tốt hơn. Việc chuyển đổi sự chăm sóc của cá đực sang cá cái không biết chăm sóc trứng như A. phalaena có thể được giải thích bởi sự gần gũi thường xuyên về mặt không gian giữa bạn đời của chúng. A. phalaena có thể sống được hơn 14 tháng, cũng là tuổi thọ cao nhất được ghi nhận ở loài này. Cá đực trưởng thành sớm hơn so với cá cái. Thương mại A. phalaena được đánh bắt trong ngành buôn bán cá cảnh. Tham khảo P Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Ấn Độ Cá Việt Nam Cá Malaysia Cá Singapore Cá Philippines Cá Papua New Guinea Cá Đài Loan Cá Nhật Bản Cá Nouvelle-Calédonie Động vật Polynésie thuộc Pháp Động vật được mô tả năm 1837
19843513
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20trung%20t%C3%A2m
Khu trung tâm
Khu trung tâm hay phố trung tâm (Downtown) là một thuật ngữ chủ yếu được sử dụng ở Bắc Mỹ chỉ về trung tâm thương mại, trung tâm văn hóa và thường là trung tâm lịch sử, trung tâm chính trị, trung tâm hành chính và địa lý của một thành phố. Nó thường đồng nghĩa với khu thương mại trung tâm (CBD). Thông thường, các khu trung tâm thành phố được vây quanh với mật độ dân số thấp hơn và thu nhập thấp hơn vùng ngoại ô. Ở một số khu vực khu vực đô thị, nó được đánh dấu bằng một cụm các tòa nhà cao tầng, các thiết chế văn hóa và sự hội tụ của các tuyến đường sắt và xe buýt. Trích dẫn đầu tiên của Từ điển Oxford về "Downtown" hoặc "trung tâm thành phố" có từ năm 1770, liên quan đến trung tâm của thành phố Boston. Một số người cho rằng thuật ngữ "trung tâm thành phố" được đặt ra ở Thành phố New York, nơi nó được sử dụng vào những năm 1830 để chỉ thị trấn ban đầu ở mũi phía nam của đảo Manhattan. Khu trung tâm Downtown được hiểu là những khu vực trung tâm của thành phố hoặc các khu đô thị quy mô lớn hiện đại có dân cư đông đúc. Và nơi nào có khu đô thị càng phát triển thì sẽ xuất hiện trung tâm thương mại sầm uất. Thường trung tâm thương mại có lợi thế bởi sự hoàn thiện, phát triển của hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng và có sự xuất hiện của các dự án căn hộ, sản phẩm nhà ở cao cấp như nhà phố, biệt thự. Khu trung tâm cũng có đầy đủ tiện ích dân sinh như trường học, bệnh viện, trung tâm thương mại, khu mua sắm, khu vui chơi, giải trí đủ để dáp ứng nhu cầu tìm được nơi an cư, di chuyển dễ dàng mà ít bị kẹt xe, khói bụi. Cư dân nơi đây sẽ hưởng trọn vẹn các động vui chơi, giải trí, mua sắm sầm uất. Còn là nơi thu hút du khách mọi nơi đến trải nghiệm là cho khu vực ngày càng sôi động náo nhiệt. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Fogelson, Robert M. (2003). Downtown: Its Rise and Fall, 1880–1950. New Haven, Connecticut: Yale University Press. . International Downtown Association Xem thêm Trung tâm thành phố Trung tâm thương mại Trung tâm tài chính Phố cổ Thành phố Đô thị Bất động sản Khu phố Thuật ngữ quy hoạch đô thị
19843521
https://vi.wikipedia.org/wiki/Artemis%203
Artemis 3
Artemis 3 (tên chính thức là Artemis III) dự kiến là sứ mệnh có người lái đầu tiên hạ cánh xuống Mặt Trăng của chương trình Artemis và là chuyến bay đầu tiên có phi hành đoàn của tàu đổ bộ Starship HLS. Theo kế hoạch, đây sẽ là nhiệm vụ có người lái thứ hai của chương trình và là sứ mệnh tiếp theo đưa phi hành đoàn đổ bộ lên Mặt Trăng của Hoa Kỳ kể từ sau Apollo 17 vào tháng 12 năm 1972. Tháng 12 năm 2023, Văn phòng Trách nhiệm giải trình Chính phủ Mỹ (GAO) báo cáo sứ mệnh có thể không diễn ra sớm hơn năm 2027, và đến tháng 1 năm 2024, NASA chính thức hoãn sứ mệnh này đến sớm nhất là tháng 9 năm 2026. Tháng 8 năm 2023, do những chậm trễ trong việc phát triển tên lửa Starship, các quan chức của NASA đã để ngỏ về khả năng phóng Artemis 3 mà không thực hiện đổ bộ cùng phi hành đoàn. Trong trường hợp này, sứ mệnh có thể chuyển đổi thành một chuyến thăm có người lái tới trạm Lunar Gateway. Tổng quan Mục tiêu của Artemis 3 là đưa phi hành đoàn đổ bộ xuống vùng cực nam của Mặt Trăng. Dự tính đây sẽ là sứ mệnh đầu tiên đưa một phụ nữ cùng một người da màu lên vệ tinh tự nhiên của Trái Đất. Mặc dù sẽ có tới 4 phi hành gia bay trên tàu Orion, chỉ hai trong số đó đổ bộ lên bề mặt bằng Starship HLS và lưu lại trong khoảng một tuần, trong khi những người khác sẽ tiếp tục ở trên Orion. Hai phi hành gia trong nhóm hạ cánh sẽ tiến hành lên đến bốn cuộc đi bộ trên bề mặt và thực hiện nhiều loại quan sát khoa học, bao gồm lấy mẫu băng nước. Trước khi Artemis 3 hạ cánh, một số thiết bị bổ sung sẽ được chuẩn bị sẵn trên bề mặt, bao gồm một xe tự hành Mặt Trăng không điều áp có khả năng điều khiển từ xa để các phi hành gia sử dụng trong quá trình du ngoạn. Một vài khu vực bóng tối vĩnh cửu có thể được tiếp cận bằng các quãng di chuyển ngắn từ 5 đến 15 km, vốn nằm trong phạm vi của xe tự hành. Phi hành đoàn Tàu vũ trụ Hệ thống tên lửa đẩy vũ trụ (SLS) SLS là một tên lửa đẩy hạng siêu nặng được dùng để phóng tàu Orion từ Trái Đất đến quỹ đạo chuyển tiếp Mặt Trăng. Đây sẽ là sứ mệnh cuối cùng sử dụng SLS Block 1, thiết kế được dùng cho ba sứ mệnh đầu tiên. Kể từ Artemis 4 cho đến Artemis 8, SLS Block 1B, sở hữu một tầng tên lửa tốt hơn là EUS cùng với một khoang chứa hàng để vận chuyển đồ, sẽ được sử dụng. Orion Orion là một phương tiện vận chuyển có người lái được sử dụng trong toàn bộ chương trình Artemis. Nó sẽ vận chuyển phi hành đoàn từ Trái Đất đến quỹ đạo Mặt Trăng rồi cập bến Starship, và đưa phi hành đoàn về lại Trái Đất. Starship HLS, kho chứa và các tàu chở thuốc phóng Sau khi trải qua nhiều giai đoạn thiết kế, ngày 16 tháng 4 năm 2021, NASA đã lựa chọn SpaceX để phát triển Starship HLS và vận chuyển nó tới quỹ đạo halo cận tuyến tính (NRHO) xung quanh Mặt Trăng trước khi phi hành đoàn đến để sử dụng cho sứ mệnh Artemis 3. Quá trình vận chuyển yêu cầu Starship HLS phải được tiếp nhiên liệu ngay trên quỹ đạo Trái Đất trước khi được đẩy đến NRHO. Việc tiếp nhiên liệu lại cần phải có một kho thuốc phóng được đặt sẵn trên quỹ đạo và đã được lấp đầy bằng các (ít nhất 14) chuyến bay. Hai phi hành gia sẽ di chuyển từ Orion đến Starship HLS, sau đó họ sẽ được đưa xuống bề mặt Mặt Trăng và ở lại đó vài ngày trước khi quay trở lại Orion. Sau khi đưa các phi hành gia trở về, Starship HLS sẽ được xử lý bằng cách phóng vào quỹ đạo nhật tâm. Quá trình phát triển Sau quyết định phê chuẩn Chỉ thị Chính sách Không gian 1 của chính quyền tổng thống Donald Trump vào tháng 12 năm 2017, một chiến dịch Mặt Trăng có người lái (sau này là chương trình Artemis), sử dụng tàu vũ trụ có người lái đa chức năng (MPCV) Orion và một trạm không gian trên quỹ đạo Mặt Trăng, đã được thành lập. Với tên gọi ban đầu là Exploration Mission-3 (EM-3), mục tiêu của sứ mệnh là đưa bốn phi hành gia lên quỹ đạo halo cận tuyến tính xung quanh Mặt Trăng và vận chuyển ESPRIT cùng với Utilization Module của Hoa Kỳ lên trạm Gateway. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 2019, ESPRIT và Utilization Module – hiện gọi là HALO – đã được đổi sang bay riêng trên một tên lửa đẩy thương mại. Artemis 3, tên gọi hiện nay của sứ mệnh, cũng được thay đổi kế hoạch để đẩy nhanh quá trình đưa phi hành đoàn đầu tiên của chương trình Artemis lên Mặt Trăng vào cuối năm 2024. Có hồ sơ cho thấy MPCV Orion sẽ thực hiện cuộc gặp với một trạm Gateway cơ bản chỉ gồm bộ phận Năng lượng và Đẩy cùng một chỗ ở/nút ghép nối nhỏ gắn với tàu đổ bộ Mặt Trăng được mua thương mại là Human Landing System (HLS). Đầu năm 2020, các kế hoạch cho Orion và HLS gặp nhau với trạm Gateway đã bị hủy bỏ. Thay vào đó, Orion sẽ ghép nối trực tiếp với HLS, và trạm Gateway sẽ được vận chuyển lên sau Artemis 3. Ngày 10 tháng 8 năm 2021, một cuộc kiểm tra của Văn phòng Tổng Thanh tra báo cáo kết luận rằng những bộ đồ du hành vũ trụ sẽ không thể sẵn sàng trước tháng 4 năm 2025, dẫn tới khả năng trì hoãn sứ mệnh so với kế hoạch trước đó là vào cuối năm 2024. Prada, cùng với Axiom Space, sẽ giúp thiết kế bộ đồ du hành. Ngày 9 tháng 11 năm 2021, Trưởng quản lý của NASA Bill Nelson xác nhận rằng Artemis 3 sẽ khởi động sớm nhất là vào năm 2025. Tháng 6 năm 2023, Jim Free, trưởng quản lý liên kết của NASA trong việc phát triển hệ thống thăm dò, nói rằng phi vụ phóng "có thể" sẽ không sớm hơn năm 2026. Sau đó vào tháng 12 cùng năm, Văn phòng Trách nhiệm giải trình Chính phủ của Hoa Kỳ báo cáo sứ mệnh có khả năng không diễn ra trước năm 2027. Tháng 1 năm 2024, NASA chính thức dời Artemis 3 đến thời điểm sớm nhất là tháng 9 năm 2026. Tham khảo Liên kết ngoài Website Orion tại nasa.gov Website Space Launch System tại nasa.gov Chuyến bay vào không gian năm 2026 Chương trình Artemis Nhiệm vụ phi hành đoàn tới Mặt Trăng Tàu Orion Hệ thống tên lửa đẩy vũ trụ Không gian năm 2026 Hoa Kỳ năm 2026 Tàu không gian Mặt Trăng Tàu vũ trụ có người lái Lunar Gateway
19843522
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A2n%20h%C3%A0ng%20Trung%20%C6%B0%C6%A1ng%20Nga
Ngân hàng Trung ương Nga
Ngân hàng Trung ương Nga (tiếng Nga: Центральный банк Российской Федерации, tiếng Anh: Central Bank of the Russian Federation, viết tắt là CBR), tên giao dịch là Ngân hàng Nga (Банк России) là ngân hàng trung ương của Liên bang Nga. Ngân hàng Trung ương Liên bang Nga được thành lập vào ngày 13 tháng 7 năm 1990. Tiền thân của ngân hàng Trung ương Liên bang Nga có thể bắt nguồn từ Ngân hàng Nhà nước Đế quốc Nga được thành lập vào năm 1860 khi Quyết định thành lập Ngân hàng Nhà nước của Đế quốc Nga được Hoàng đế Peter III của Nga ban ra vào tháng 5 năm 1762. Hiện nay, Ngân hàng Nga có trụ sở chính tại Phố Neglinnaya ở Moscow. Chức năng của nó được quy định cụ thể tại Điều 75 Hiến pháp Nga. Theo hiến pháp, đây là một thực thể độc lập, có trách nhiệm chính trong việc bảo vệ sự ổn định của đồng tiền quốc gia là đồng rúp Nga (rúp), chức năng và quyền hạn của CBR đã được mở rộng đáng kể và ngân hàng trung ương đã nhận được tư cách là cơ quan quản lý quy mô về mọi mặt đối với thị trường tài chính của Nga. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Bank of Russia Creation of the State Bank of the Russian Empire State Bank of the Russian Empire at the site of the Central Bank of the Russian Federation State Bank of the Russian Empire at the site of the Central Bank of the Russian Federation Kinh tế Nga Khởi đầu năm 1860 ở Nga
19843535
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A2n%20h%C3%A0ng%20L%C3%A0o
Ngân hàng Lào
Ngân hàng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (tiếng Lào: ທະນາຄານ ແຫ່ງ ສ. ປ. ປ. ລາວ) là ngân hàng trung ương của Lào thuộc sở hữu 100% vốn của Nhà nước Lào. Đây cũng là ngân hàng cấp cuối cùng, kiểm soát nguồn cung tiền, quản lý dự trữ quốc gia và giám sát các ngân hàng thương mại hoạt động tại Lào. Ngân hàng được quản lý dưới quyền một ban điều hành gồm một Thống đốc và một Phó thống đốc. Thống đốc hiện tại là Xonexay Sithphaxay. Ngân hàng Lào được thành lập vào ngày 7 tháng 10 năm 1968 và đã hoạt động tại thủ đô Vientiane cho đến nay. Ngân hàng Lào kế thừa từ Ngân hàng Quốc gia Lào vốn đã được tiếp quản vào đầu năm 1955 từ Institut d'Émission des États du Cambodge, du Lào et du Việt Nam do Pháp kiểm soát. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1979, đồng kip "Giải phóng" Pathet Lào cũ được thay thế bằng đồng kip Lào mới với tỷ lệ 100 ăn 1. Các thống đốc Thongchanh Uparavanh (1975–1977) Nouphanh Sithphasai (1978–1980) Khamphoui Keoboualapha (1980) Soth Phetrasy (1980–1983) Bousabong Souvannavong (1983–1987) Nouphanh Sithphasai (1987–1988) Pany Yathotou (1988–1990) Pany Yathotou (1990–1992) Bousabong Souvannavong (1993–1994) Pany Yathotou (1995–1997) Cheuang Sombounkhanh (1997–1999) Soukanh Mahalath (1999–2001) Phoupheth Khamphounevong (2001–2002) Chanhsy Phosikham (2002–2003) Phoumy Thipphavone (2003–2005) Phoupheth Khamphounevong (2006–2009) Somphao Phaysith (2009–2018) Xonexay Sithphaxay (2018–đương nhiệm) Chú thích Liên kết ngoài Danh sách các Ngân hàng tại Lào - Tạp chí Lào-Việt Kinh tế Lào Ngân hàng Lào Ngân hàng trung ương Chính phủ Lào Viêng Chăn
19843543
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A2n%20h%C3%A0ng%20Palestine
Ngân hàng Palestine
Ngân hàng Palestine (tiếng Ả rập: بنك فلسطين, tiếng Anh: Bank of Palestine, viết tắt: BoP) là một tổ chức ngân hàng đa quốc gia của Nhà nước Palestine được thành lập tại Dải Gaza vào năm 1960. Ngân hàng Palestine có trụ sở chính tại Ramallah, Bờ Tây và là tổ chức tài chính hàng đầu ở Palestine với giá trị tài sản ròng là 6,5 tỷ USD Đô la Mỹ (USD). Ngân hàng Palestine là tập đoàn ngân hàng phân bố theo địa lý nhất ở Palestine với 74 chi nhánh và chi nhánh công ty con. Trụ sở chính của ngân hàng đặt tại Ramallah của Bờ Tây Palestine. Ngân hàng Palestine cũng có văn phòng đại diện tại Dubai thuộc Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Santiago của Chile. Lịch sử Ngân hàng được thành lập tại Thành phố Gaza vào năm 1960 là ngân hàng đầu tiên ở Palestine. Hasheem Atta Shawa thành lập một nhà băng với tư cách là một ngân hàng nông nghiệp để giúp nông dân phát triển hoạt động kinh doanh cây có múi (citrus) vì gia đình Shawa cũng kinh doanh cây có múi vào thời điểm đó. Ngân hàng hỗ trợ nông dân vay mua thiết bị nông nghiệp, nông cụ canh tác. Đầu những năm 1990, Tiến sĩ Hani Shawa tiếp quản việc điều hành ngân hàng. Hashim Shawa vào năm 31 tuổi đã trở thành chủ tịch kiêm giám đốc điều hành ngân hàng sau khi cha anh qua đời năm 2007. Kể từ đó, ngân hàng có khoảng 1.980 nhân viên và phục vụ hơn 900.000 khách hàng. Vào năm 2019, ngân hàng là bị đơn của một Khiếu nại trong vụ kiện với án lệ Singer v. Bank of Palestine (số vụ việc: 1:19-cv-00006) tuyên bố rằng ngân hàng này đã hỗ trợ cho tổ chức Hamas bằng cách cung cấp các dịch vụ tài chính và duy trì tài khoản cho “tổ chức khủng bố” Hamas. Ngân hàng Palestine tuyên bố rằng không có cơ sở pháp lý đằng sau yêu cầu của nguyên đơn và họ đã và đang thực hiện “các biện pháp nhanh chóng và mạnh mẽ” để bác bỏ vụ kiện này với cáo buộc vô căn cứ này. Chú thích Kinh tế Palestine
19843548
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20Nam
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Giải đấu Nam
Giải đấu nam nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 là giải đấu lần thứ 17 của nội dung khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam tại Đại hội thể thao châu Á. Giải đấu được tổ chức cùng với giải đấu nữ tại Sân khúc côn cầu trên cỏ của Công viên thể thao Kênh Củng Thự ở Hàng Châu, Trung Quốc từ 24 tháng 9 đến 6 tháng 10 năm 2023. Ấn Độ đã giành chức vô địch Đại hội Thể thao châu Á lần thứ tư khi đánh bại đương kim vô địch Nhật Bản 5–1 trong trận chung kết. Hàn Quốc giành huy chương đồng sau khi đánh bại chủ nhà Trung Quốc 2–1. Với tư cách là đội vô địch, Ấn Độ đủ điều kiện trực tiếp tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. Các đội đủ điều kiện Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng phân hạng Trận tranh hạng 11 Trận tranh hạng 9 Trận tranh hạng 7 Trận tranh hạng 5 Vòng tranh huy chương Sơ đồ Bán kết Tranh huy chương đồng Tranh huy chương vàng Số liệu thống kê Bảng xếp hạng cuối cùng Cầu thủ ghi bàn Xem thêm 2023 Men's Asian Champions Trophy Tham khảo Giải đấu Nam
19843553
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20trung%20t%C3%A2m%20mua%20s%E1%BA%AFm%20%E1%BB%9F%20Bangkok
Danh sách trung tâm mua sắm ở Bangkok
Dưới đây là danh sách trung tâm thương mại nổi bật tại Băng Cốc, Thái Lan: A Gaysorn Amarin, Ratchaprasong Asiatique, Ga Saphan Taksin BTS B Bangkok Mall, Bangna C Central Embassy, Phloenchit Central Bangna, Bang Na Central Chaengwattana, Pak Kret Central Rama 9, Đường Rama IX, Đường Ratchadaphisek Central Ladprao, Nút giao Lat Phrao Central Pinklao, Đường Barommarat Chachonnani, Bangkok Noi Central Rama 2, Đường Rama II Central Ramindra, Raminthra Central Rama 3, Đường Rama III Central Rattanathibet, Đường Rattanathibet Central WestGate, Nonthaburi CentralWorld, Pathum Wan Chamchuri Square, Sam Yan Central Eastwille, Đường Pradit Manutham Central Westwille, Đường Ratchapuek Central Park, Đường Rama IV E Emporium, Đường Sukhumvit EmQuartier, Đường Sukhumvit EmSphere, Đường Sukhumvit Esplanade, Thailand Cultural Centre F Fashion Island, Đường Raminthra Future Park, Rangsit G Gaysorn Village, Ratchaprasong I Iconsiam, Khlong San J JJ Mall, Chatuchak M MBK Center, Nút giao Pathum Wan Mega Bangna, Bangna M Lifestore Thapra M Lifestore Ngamwongwan M Lifestore Bangkhae M Lifestore Bangkapi M Lifestore Ramkamhaeng N The Nightingale-Olympic, Phra Nakhon O Old Siam Plaza, Phahurat P Pantip Plaza, Pratunam Paradise Park, Đường Srinakharin Platinum Fashion Mall, Pratunam R River City Shopping Complex, Bangrak S SCB Park Plaza, Chatuchak Seacon Bangkae, Đường Phetkasem Seacon Square, Đường Srinakharin Siam Center, Siam Square Siam Paragon, Chaloem Phao Siam Discovery, Đường Phayathai T Terminal 21 Asok Terminal 21 Rama III U Union Mall, Đường Lat Phrao Y Yodpiman Riverwalk, Pak Khlong Talat Z Zeer Rangsit Xem thêm Danh sách trung tâm mua sắm ở Thái Lan Tham khảo Liên kết ngoài Bangkok.com/shopping-mall/index.html Trung tâm mua sắm Băng Cốc
19843557
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20t%E1%BA%BF%20Palestine
Kinh tế Palestine
Kinh tế Palestine (Economy of the State of Palestine) đề cập đến hoạt động kinh tế của Nhà nước Palestine. Kinh tế Palestine được xếp hạng là những nền kinh tế đang phát triển, thuộc nhóm nền kinh tế thu nhập trung bình thấp. Năm 2019 thì GDP tăng trưởng −2.5% (2019) và đạt 2.1% (2020). Nông nghiệp là trụ cột trong nền kinh tế của Palestine. Sản xuất nông sản hỗ trợ nhu cầu sinh hoạt của người dân và thúc đẩy nền kinh tế xuất khẩu của Palestine. Theo Hội đồng Quan hệ Palestine ở Châu Âu, ngành nông nghiệp sử dụng chính thức 13,4% dân số và sử dụng không chính thức 90% dân số. Đây là nền kinh tế dựa vào viện trợ nhân đạo, từ thiện từ nước ngoài để duy trì và còn bị phụ thuộc kiểm soát, chèn ép bởi Israel mà có thể bóp nghẹt bất cứ lúc nào. GDP bình quân đầu người ở các vùng lãnh thổ Palestine tăng 7% mỗi năm từ năm 1968 đến năm 1980 nhưng chậm lại trong những năm 1980. Từ năm 1970 đến 1991, tuổi thọ người Palestin tăng từ 56 lên 66 tuổi, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh trên 1.000 trẻ giảm từ 95 xuống 42, số hộ gia đình có điện để dùng tăng từ 30% lên 85%, số hộ có nước sạch tăng từ 15% lên 90%, số hộ có tủ lạnh tăng từ 11% lên 85% và số hộ gia đình có máy giặt tăng từ 23% năm 1980 lên 61% năm 1991. Trong 10 năm qua, tỷ lệ thất nghiệp ở Palestine đã tăng lên và ngành nông nghiệp trở thành ngành nghèo nàn nhất ở Palestine và tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh điểm vào năm 2008 khi lên tới 41% ở dải Gaza. Nhờ viện trợ Viện trợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách cũng là vấn đề của kinh tế Palestine. Vì những điều kiện trong lãnh thổ mà họ quản lý, Chính quyền Palestine (PA) đã nhận được khoản hỗ trợ tài chính chưa từng có từ cộng đồng quốc tế. Theo Ngân hàng Thế giới, USD $929 triệu đã được cộng đồng quốc tế trao cho Chính quyền Dân tộc Palestine (PNA) năm 2001, $891 triệu năm 2003 và $1.1 tỷ năm 2005 (chiếm 53% ngân sách năm 2005). Các mục đích chính là hỗ trợ cho ngân sách, viện trợ phát triển và y tế công cộng. Năm 2003, Hoa Kỳ cung cấp $224 triệu, EU $187 triệu, Liên đoàn Ả Rập $124 triệu, Na Uy $53 triệu, Ngân hàng Thế giới $50 triệu, Anh Quốc là $43 triệu, Ý là $40 triệu và $170 triệu cuối cùng đến từ các quốc gia và tổ chức khác. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì thâm hụt ngân sách là khoảng $800 triệu năm 2005, với gần một nửa số này được các nhà tài trợ cung cấp. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới cho biết rằng tình hình tài chính của Palestine đã ngày càng trở nên mất ổn định chủ yếu di sự chi tiêu không kiểm soát của chính phủ, đặc biệt tăng nhanh trong khoản chi trả lương, mở rộng các cơ cấu di chuyển xã hội và tăng cho vay thực. Tham nhũng chính phủ được nhiều người coi là nguyên nhân của hầu hết tình hình tài chính khó khăn của Chính quyền Palestine. Sự trừng phạt kinh tế sau cuộc bầu cử lập pháp tháng 1 năm 2006 cũng đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế Palestine. Sau cuộc bầu cử lập pháp tháng 1 năm 2006, với thắng lợi của Hamas, Nhóm bộ tứ (Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu và Liên hiệp quốc) đã đe doạ cắt những khoản viện trợ cho Chính quyền Palestine. Ngày 2 tháng 2 năm 2006, theo AFP, thì Chính quyền dân tộc PNA đã cáo buộc Israel "tiến hành trừng phạt tập thể sau khi họ không quan tâm tới những kêu gọi của Hoa Kỳ nhằm giải toả các khoản tiền thuộc sở hữu của người Palestine". Thủ tướng Ahmed Qorei cho biết rằng rằng ông hy vọng tìm kiếm được những khoản tiền thay thế khác để đáp ứng sự thiếu hụt ngân sách khoảng 50 triệu dollar, cần thiết để trả lương các nhân viên công, và số tiền này đáng lẽ đã phải được Israel trao cho PA vào ngày đầu tiên của tháng. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chỉ trích Israel vì không nhanh chóng dỡ bỏ phong toả khoản tiền được trông chờ này. Khoản tiền này sau đó đã được dỡ bỏ phong toả. Tuy nhiên, tờ New York Times đã công bố vào ngày 14 tháng 2 năm 2006 rằng một "kế hoạch bất ổn hoá" của Hoa Kỳ và Israel, với mục đích chống Hamas, bên giành chiến thắng trong cuộc bầu cử lập pháp tháng 1 năm 2006, tập trung "chủ yếu nhờ vào tiền bạc" và cắt mọi khoản tiền cho Chính quyền Palestine một khi phe Hamas lên nắm quyền lực, để làm họ mất đi tính hợp pháp trong con mắt người dân Palestine. Theo bài báo của tờ Thời báo Nữu Ước thì Chính quyền Palestine có khoản thâm hụt tiền mặt hàng tháng khoảng $60 triệu tới $70 triệu sau khi họ nhận khoảng $50 triệu tới $55 triệu mỗi tháng từ Israel về các khoản thuế và phí hải quan do các quan chức Israel thu tại biên giới nhưng thuộc sở hữu của người Palestine. Bắt đầu từ tháng 3 năm 2006, Chính quyền Palestine sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt tiền mặt ít nhất $110 triệu mỗi tháng, hay hơn $1 tỷ mỗi năm, là khoản tiền cần thiết để trả đủ lương cho 140.000 nhân viên, là những người lao động chính cung cấp cho ít nhất một phần ba dân số Palestine. Con số nhân viên gao gồm khoảng 58.000 thành viên các lực lượng an ninh, chủ yếu trong số đó thuộc về phong trào Fatah vừa thất bại trong cuộc bầu cử. Từ cuộc bầu cử ngày 25 tháng 1 năm 2006 thì thị trường chứng khoán Palestine đã giảm khoảng 20% điểm, trong khi Chính quyền đã cạn kiệt khả năng vay mượn với các ngân hàng địa phương. Những cáo buộc về việc sử dụng hỗ trợ của Liên minh châu Âu không đúng mục đích tài trợ. Tháng 2 năm 2004, có thông báo rằng văn phòng chống gian lận của Liên minh châu Âu (EU) (OLAF) đang nghiên cứu các tài liệu cho thấy Yasser Arafat và Chính quyền Palestine đã chuyển hướng hàng triệu dollar từ các khoản tài trợ của EU tới các tổ chức liên quan tới các cuộc tấn công khủng bố, như Lữ đoàn Tử vì đạo Al-Aqsa. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 2004, một đánh giá tạm thời nói rằng "Tới thời điểm hiện tại, chưa có bằng chứng rằng những khoản tiền từ khoản Ngân sách Hỗ trợ Trực tiếp không mục tiêu của EU cho Chính quyền Palestine đã bị sử dụng cung cấp cho các hoạt động bất hợp pháp, gồm cả khủng bố." Một Nhóm công tác độc lập của EU cũng đã ra một báo cáo vào tháng 4 năm 2004, được thông qua với số phiếu 7-6, đề cập tới giai đoạn từ cuối năm 2000 tới cuối năm 2002, nói rằng viện trợ của EU đã không bị chuyển tới cho các chiến binh Palestine đang tiến hành các cuộc tấn công vào người dân Israel: "Không có bằng chứng xác định, cho tới thời điểm hiện tại, rằng khoản hỗ trợ ngân sách trực tiếp không mục tiêu của EU đã bị sử dụng cung cấp cho các hoạt động bất hợp pháp, gồm cả cung cấp cho Chủ nghĩa khủng bố". Hơn nữa, EU đã thay đổi cách thức tài trợ cho người Palestine và hiện sử dụng viện trợ có mục đích cho các mục đích cụ thể. Từ tháng 4 năm 2003, tiền chỉ được chuyển nếu nhiều điều kiện được đáp ứng, như việc xuất trình các hoá đơn cho các khoản người Palestine cần trả. EU vẫn là nhà tài trợ lớn nhất cho Chính quyền Palestine. Các khoản chi trả cho các tù nhân Palestine tại các nhà tù của Israel cũng chiếm tỷ trọng thâm hụt ngân sách. Dù người Palestine bị Israel tùy ý bắt giữ nhưmg chính quyền Palestine vẫn phải chi trả các chi phí cho Israel. Ngày 22 tháng 7 năm 2004, Salam Fayyad, Bộ trưởng Tài chính Chính quyền dân tộc Palestine PNA, trong một bài báo trên tờ tuần báo Palestine có tên The Jerusalem Times đã chỉ rõ các khoản chi trả sau cho những người Palestine bị chính quyền Israel giam giữ gồm:: Các khoản trợ cấp cho tù nhân đã tăng trong giai đoạn từ tháng 6 năm 2002 tới tháng 6 năm 2004 lên $9.6 triệu mỗi tháng, tăng 246% so với tháng 1 năm 1995-tháng 6 năm 2002. Từ tháng 6 năm 2002 tới tháng 6 năm 2004, khoảng 77 triệu shekel đã được chuyển cho các tù nhân, so với 121 triệu shekel từ tháng 1 năm 1995 tới tháng 6 năm 2002, gia tăng 16 triệu shekel mỗi năm. Sự gia tăng chi tiêu hàng năm giữa hai giai đoạn là 450%, cao hơn rất nhiều số phần trăm tù nhân tăng thêm. Từ 2002 tới 2004, Chính quyền dân tộc PNA đã trả 22 triệu shekel cho các khoản phí khác — phí luật sư, tiền phạt, và trợ cấp cho những tù nhân được thả. Con số này bao gồm phí luật sư do Chính quyền dân tộc PNA trả trực tiếp và các khoản phí trả thông qua Câu lạc bộ Tù nhân. Bị bóp nghẹt Sau cuộc bầu cử lập pháp năm 2006, với thắng lợi của Hamas thì ngay lập tứng Israel đã ngừng chuyển giao $55 triệu tiền thuế cho Chính quyền Palestine, vì rằng bởi Chính quyền Palestine không có điểm tiếp cận (cảng, sân bay) để thu thuế, mà do chính Israel đảm nhiệm điều này chứ không ai khác. Những khoản tiền đó chiếm một phần ba ngân sách của Palestine, hai phần ba ngân sách riêng của chính quyền Palestine và là nguồn đảm bảo trả lương bổng cho 160.000 nhân viên dân sự Palestine (trong số đó có 60.000 nhân viên an ninh và cảnh sát), đây còn là số tiền mà một phần ba dân số Palestine sống phụ thuộc vào nó. Israel cũng đã tăng việc kiểm soát tại các điểm gác, là một lý do chính dẫn tới cuộc giảm phát kinh tế 2001-2002 từ đầu cuộc Intifada lần thứ hai mà Ngân hàng Thế giới đã so sánh với cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929. Hơn nữa, Hoa Kỳ và EU đã ngừng viện trợ trực tiếp cho Palestine, trong khi Hoa Kỳ áp đặt một lệnh phong toả tài chính với các ngân hàng của Palestine (Ngân hàng Palestine), treo một số khoản tiền của Liên đoàn Ả Rập (ví dụ Ả Rập Xê Út và Qatar) được chuyển cho Palestine Ngày 6 và 7 tháng 5 năm 2006, hàng trăm người Palestine đã biểu tình tại dải Gaza và Bờ Tây yêu cầu được trả lương. Căng thẳng giữa Hamas và Fatah đã gia tăng với sự "túng quẫn kinh tế" của Palestine. Tổ chức Liên hiệp quốc đã lưu ý rằng thất nghiệp của nước này được ước tính ở mức 23% năm 2005, sẽ tăng lên thành 39% năm 2006, trong khi tỷ lệ nghèo khổ, được ước tính ở mức 44%, sẽ tăng lên 67% năm 2006. Dải Gaza Sản xuất kinh tế của Dải Gaza đã giảm một phần ba từ 1992 đến 1996. Sự sụt giảm này phần lớn vì tham nhũng và quản lý kém của Yasser Arafat và các chính sách phong tỏa của Israel—sự ép buộc đóng cửa biên giới để trả đũa các vụ tấn công khủng bố vào Israel—đã phá vỡ các mối quan hệ thị trường lao động và hàng hóa được lập nên trước đó giữa Israel và Dải Gaza. Hậu quả tồi tệ nhất của sự suy giảm này là tình trạng thất nghiệp gia tăng. Việc áp dụng biện pháp phong tỏa toàn diện của Israel đã giảm bớt trong những năm gần đây và vào năm 1988, Israel đã đưa ra các biện pháp mới nhằm giảm bớt các hậu quả của việc phong tỏa và các biện pháp an ninh khác đối với việc di chuyển hàng hòa và lao động của Palestine vào Israel. Những thay đổi đó đã khiến cho nền kinh tế Dải Gaza phục hồi đáng kể trong ba năm liền. Sự phục hồi kinh tế này chỉ chấm dứt khi phong trào al-Aqsa Intifada nổ ra vào ba tháng cuối năm 2000. Phong trào ném đá al-Aqsa Intifada chỉ khiến cho các lực lượng an ninh Israel (IDF) kiểm soát và phong tỏa chặt chẽ biên giới cũng như thường xuyên hạn chế việc đi lại bên trong những vùng tự trị của người Palestine, gây ảnh hưởng lớn đến di chuyển thương mại và lao động. Năm 2001, và thậm chí còn nghiêm trọng hơn vào đầu năm 2002, sự xáo động quốc tế và những biện pháp quân sự của Israel trong những vùng tự trị của Palestine đã phá hủy các cơ sở kinh tế và hành chính của vùng này, mở rộng việc phong tỏa khiến GDP của Dải Gaza giảm mạnh. Một nhân tố chính khác khiến giảm sút thu nhập của vùng là việc hạn chế số người Palestine được phép vào làm việc tại Israel. Sau khi Israel rút quân khỏi Dải Gaza, một lần nữa họ lại cho phép công nhân Palestine vào Israel làm việc nhưng từ sau khi Hamas lên nắm quyền sau cuộc bầu cử nghị viện năm 2006., Israel đang có ý định giảm bớt và thậm chí là chấm dứt cho phép người Palestine được vào Israel làm việc. Trong thời gian những người định cư Israel còn ở tại Dải Gaza, họ đã xây dựng những nhà kính và thực nghiệm những biện pháp canh tác mới. Những nhà kính đó cũng là nơi cung cấp hàng trăm việc làm cho người Palestine ở Gaza. Khi Israel rút quân khỏi Dải Gaza vào mùa hè năm 2005, các nhà kính đó được Ngân hàng thế giới mua lại và trao cho người dân Palestine để khôi phục nền kinh tế của họ. Đa số những nhà kính đó hiện được các nông dân Palestine sử dụng, dù đã có những vụ cướp phá xảy ra ở vài nơi. Theo CIA World Factbook, GDP năm 2001 giảm 35% xuống mức thu nhập trên đầu người còn $625 một năm, và 60% dân số hiện sống dưới mức nghèo khổ. Các ngành công nghiệp tại Dải Gaza nói chung là nhỏ và đều là kiểu sản xuất gia đình với các sản phẩm dệt may, xà phòng, điêu khắc trên gỗ cây ô liu và các đồ thủ công mỹ nghệ làm từ vỏ trai; người Israel đã thành lập một số ngành công nghiệp ở mức độ nhỏ tại một trung tâm công nghiệp. Điện do Israel cung cấp. Các sản phẩm nông nghiệp chính là ô liu, chanh, các loại rau, thịt bò, và các sản phẩm sữa. Xuất khẩu chính là chanh và hoa, trong khi nhập khẩu gồm thực phẩm, các loại hàng tiêu thụ, và các vật liệu xây dựng. Đối tác thương mại chính của Dải Gaza là Israel, Ai Cập, và Bờ Tây. Chú thích Liên kết ngoài MEED – Middle East Business intelligence since 1957 Meeting Minutes of the Palestinian Reform Task Force, 10 July 2002 Kinh tế Palestine
19843558
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gaysorn%20Village
Gaysorn Village
Gaysorn Village (trước đây là Gaysorn Plaza) là một khu phức hợp tại khu vực Ratchaprasong của Băng Cốc. Nó bao gồm Gaysorn Tower, một toà nhà văn phòng, và trung tâm thương mại Amarin Plaza. Toà nhà trung tâm thương mại có 5 tầng với hơn 100 cửa hàng với diện tích hơn 12.600 mét vuông. Hầm gửi xe dành cho 416 xe hơi, bao gồm dịch vụ gác cửa và đậu xe. Gaysorn được quản lý bởi Gaysorn Land Asset Management Co., Ltd., một đối tác giữa Gaysorn Group & Hongkong Land Limited. Trung tâm thương mại Gaysorn là một phần của quận mua sắm Ratchaprasong tại Băng Cốc. Vận chuyển BTS Skytrain Tuyến Sukhumvit - Gaysorn liên kết trực tiếp với cầu bộ hành tại tầng 2 đi đến Ga Chit Lom, InterContinental Hotel, Grand Hyatt Erawan Bangkok, Holiday Inn, Erawan Bangkok, Amarin Plaza và CentralWorld. Tham khảo Liên kết ngoài Trung tâm thương mại tại Băng Cốc Quận Pathum Wan
19843596
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%A7%20t%E1%BB%8Bch%20H%E1%BB%99i%20%C4%91%E1%BB%93ng%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n
Chủ tịch Hội đồng nhân dân
Chủ tịch Hội đồng nhân dân (nói ngắn gọn hơn là Chủ tịch HĐND) là người đứng đầu, lãnh đạo, quản lí các công việc tại Hội đồng nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Chủ tịch Hội đồng nhân dân được Hội đồng nhân dân bầu ra trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân, có nhiệm kì 5 năm và chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Quyền hạn và nghĩa vụ Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân có các nhiệm vụ và quyền hạn chung như sau: Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh/thành phố chịu trách nhiệm giới thiệu Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp để Hội đồng nhân dân bầu; giới thiệu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp để Hội đồng nhân dân bầu. Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp huyện/quận chịu trách nhiệm giới thiệu Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp để Hội đồng nhân dân bầu; giới thiệu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp để Hội đồng nhân dân bầu. Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã/phường chịu trách nhiệm giới thiệu Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực Hội đồng nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các Ban của Hội đồng nhân dân cùng cấp để Hội đồng nhân dân bầu; giới thiệu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp để Hội đồng nhân dân bầu. Chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp chịu trách nhiệm trước Thường trực Hội đồng nhân dân, cơ quan nhà nước cấp trên về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật. Chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp. Chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp ký văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cùng cấp; ký nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông báo và các văn bản khác của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp có quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm, đình chỉ công tác, kỷ luật đối với các cán bộ, công chức thuộc Hội đồng nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật. Tham khảo
19843626
https://vi.wikipedia.org/wiki/Otofuke%2C%20Hokkaid%C5%8D
Otofuke, Hokkaidō
là thị trấn thuộc huyện Katō, phó tỉnh Tokachi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 43.576 người và mật độ dân số là 93 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 466.09 km2. Địa lý Khí hậu Nhân vật đến từ Otofuke Ifukube Akira Nishikawa Takahiro Takeo Fujinokawa Tham khảo Thị trấn của Hokkaidō
19843629
https://vi.wikipedia.org/wiki/Safeguard%20Program
Safeguard Program
Safeguard Program là một hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo của Lục quân Hoa Kỳ được thiết kế để bảo vệ các giếng phóng tên lửa đạn đạo ICBM Minuteman của Không quân Mỹ khỏi các cuộc tấn công, từ đó giúp duy trì khả năng răn đe hạt nhân của Mỹ. Nó sẽ là công cụ chính để bảo vệ Mỹ trước lực lượng tên lửa đạn đạo tương đối nhỏ của Trung Quốc, trong khi có khả năng hạn chế thiệt hại trước các cuộc tấn công hạt nhân của Liên Xô. Trong khi đó một cuộc tấn công hạt nhân tổng lực của Liên Xô sẽ dễ dàng đánh bại hệ thống phòng thủ này. Safeguard là sự phát triển cuối cùng của một loạt thiết kế tên lửa phòng thủ tên lửa đạn đạo do Bell Labs phát triển, bắt đầu từ những năm 1950 với Nike Zeus. Đến năm 1960, người ta nhận thấy hệ thống Nike Zeus hầu như không thể bảo vệ trước một cuộc tấn công bằng ICBM có sử dụng mồi nhử. Một thiết kế mới xuất hiện, Nike-X, với khả năng đối phó với các cuộc tấn công hạt nhân bằng hàng trăm đầu đạn và hàng nghìn mồi nhử, nhưng chi phí của hệ thống này rất lớn. Một giải pháp thay thế là Sentinel program cung cấp khả năng phòng thủ trước các cuộc tấn công hạt nhân giới hạn. Sentinel bắt đầu được xây dựng vào năm 1968 nhưng vấp phải làn sóng phản đối dữ dội về việc các căn cứ của nó được đặt ở khu vực ngoại ô. Vào tháng 3 năm 1969, Tổng thống sắp nhậm chức Richard M. Nixon tuyên bố hủy bỏ chương trình Sentinel, đồng thời các căn cứ của hệ thống phòng thủ tên lửa sẽ được đặt cách xa khu vực dân cư. Các cuộc bàn luận liên quan đến hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo tiếp tục diễn ra hơn một thập kỷ sau khi chương trình Safeguard được thành lập, vànhững lập luận chống lại một hệ thống như vậy đã được biết đến rộng rãi cả trong giới quân sự và dân sự. Trong giới quân sự, lập luận cơ bản nhất chống lại hệ thống Safeguard là việc bổ sung hệ thống ABM sẽ khiến Liên Xô phải chế tạo thêm ICBM để vượt qua hệ thống phòng thủ ABM, nhưng điều này cũng đúng nếu thay vào đó Mỹ chế tạo thêm ICBM. Lực lượng Không quân muốn chế tạo thêm nhiều tên lửa đạn đạo ICBM hơn là dựa vào hệ thống phòng thủ ABM do Lục quân phát triển, và Không quân Mỹ tiến hành vận động hành lang để chống lại Lục quân Mỹ tiếp tục triển khai Safeguard. Nixon vẫn tiếp tục ủng hộ chương trình ABM Safeguard bất chấp sự phản đối và phàn nàn về hiệu quả hạn chế, và lý do cho sự ủng hộ mạnh mẽ của ông vẫn là chủ đề tranh luận giữa các nhà sử học và nhà bình luận chính trị. Trong suốt kỷ nguyên Bảo vệ, các cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, ban đầu do Tổng thống Lyndon B. Johnson khởi xướng vẫn tiếp tục. Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo năm 1972 giới hạn Mỹ và Liên Xô mỗi nước có hai địa điểm ABM. Safeguard được thu hẹp quy mô triển khai ở các địa điểm ở Bắc Dakota và Montana, từ bỏ dự định triển khai tại Missouri và hủy bỏ tất cả các địa điểm đã được lên kế hoạch khác. Việc xây dựng hai căn cứ còn lại tiếp tục cho đến năm 1974, khi một thỏa thuận bổ sung giới hạn Liên Xô và Mỹ chỉ triển khai một địa điểm ABM duy nhất. Do đó, căn cứ Safeguard tại Montana bị bỏ hoang với radar chính đã hoàn thành một phần. Căn cứ còn lại ở Bắc Dakota, Căn cứ phòng thủ Stanley R. Mickelsen, bắt đầu hoạt động vào ngày 1 tháng 4 năm 1975 và hoạt động đầy đủ vào ngày 1 tháng 10 năm 1975. Vào thời điểm đó, Ủy ban Thẩm định Hạ viện đã bỏ phiếu hủy kích hoạt nó. Căn cứ này bị ngừng hoạt động vào ngày 10 tháng Hai năm 1976. Footnotes Xem thêm Sharpner's Pond Anti-Ballistic Missile Site, một hệ thống radar chưa hoàn chỉnh của Sentinel program Strategic Defense Initiative (SDI), hậu thân của Safeguard External links Unofficial website of the Stanley R. Mickelsen Safeguard complex FAS - Safeguard system Global Security - Malstrom ABM site The MSR is listed in the Historic American Engineering Record, survey ND-9-B. The PAR site is listed in the Historic American Engineering Record, survey ND-9-P.
19843632
https://vi.wikipedia.org/wiki/Zucca%20%28r%C6%B0%E1%BB%A3u%20khai%20v%E1%BB%8B%29
Zucca (rượu khai vị)
Zucca () là một loại rượu khai vị của Ý. trong tiếng Ý có nghĩa là "bí" hoặc "bí ngô", nhưng tên của loại rượu này lại thực sự được đặt theo Caffè Zucca, nằm ở Galleria Vittorio Emanuele II, Milano. Thành phần cơ bản của món đồ uống này là đại hoàng, có danh pháp khoa học là Rheum rhabarbarum, do đó thức uống có một cái tên dài hơn là Rabarbaro Zucca. Thành phần của Zucca còn có vỏ cam chanh bào, hạt bạch đậu khấu và các loại thảo dược chữa bệnh khác. Zucca có vị đắng tinh tế và dễ chịu và thường được pha với nước có ga và đá. Zucca có liên quan chặt chẽ với các loại rượu khai vị truyền thống khác của Ý, như Campari, Punt e Mes, và Cynar, vì nó tương đối nhẹ, với 30 độ cồn. Tham khảo Rượu mùi Ý
19843640
https://vi.wikipedia.org/wiki/Giovanni%20Zucca
Giovanni Zucca
Giovanni Zucca (; sinh ngày 11 tháng 12 năm 1907 ở Sestri Ponente) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý. Anh đã chơi 2 trận trong 2 mùa giải ở Serie A cho A.S. Roma. Tham khảo Sinh năm 1907 Năm mất thiếu Cầu thủ bóng đá nam Ý Cầu thủ bóng đá Serie A Cầu thủ bóng đá UC Sampdoria Cầu thủ bóng đá A.S. Roma Cầu thủ bóng đá FS Sestrese Calcio 1919 Thủ môn bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Genoa
19843642
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A5u%20tr%C3%BAc%20%C4%91%C3%B4%20th%E1%BB%8B
Cấu trúc đô thị
Cấu trúc đô thị (Urban structure) là sự sắp xếp, bố trí, quy hoạch sử dụng đất (hệ số sử dụng đất K) trong khu đô thị, hay nói cách khác là việc sử dụng đất của một thành phố được hoạch định quy cũ như thế nào. Các Nhà quy hoạch đô thị, nhà kinh tế và nhà địa lý đã phát triển một số mô hình giải thích nơi những cư dân và doanh nghiệp khác nhau có xu hướng tồn tại trong môi trường đô thị. Cấu trúc đô thị cũng có thể đề cập đến yếu tố Cấu trúc không gian đô thị (Urban spatial structure) liên quan đến việc sắp xếp công cộng và không gian riêng tư trong thành phố cũng như mức độ khả năng kết nối và khả năng tiếp cận. Đại cương Cấu trúc đô thị là bộ khung góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển đô thị. Đô thị được xem như là một hệ thống và mỗi hệ thống luôn gắn liền với hình thức tổ chức nhất định của các khu chức năng. Mỗi một đô thị cần có một cấu trúc đô thị nhằm định hướng phát triển đô thị theo một nguyên tắc đảm bảo sự cân đối hài hòa các thành phần của đô thị. Cấu trúc đô thị chính là bộ khung góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển đô thị. Thành phần cấu tạo nên cấu trúc đô thị bao gồm: Hệ thống giao thông đô thị và Hệ thống các khu chức năng trong đô thị (các đơn vị chức năng đô thị được bố trí thành hệ thống). Cấu trúc đô thị có vai trò quyết định các giải pháp quy hoạch các thành phần đất đai đô thị và hướng đến sự phát triển lâu dài và bền vững cho đô thị. Vai trò của hệ thống giao thông được xác định là bộ khung của đô thị, dựa vào nó, các khu vực chức năng đô thị được bố trí gắn kết với nhau, giữ vai trò liên kết giữa các khu vực chức năng, vừa giữ vai trò giới hạn các khu vực này. Khả năng định hướng và lựa chọn vị trí các khu vực chức năng như khu trung tâm, các công trình dịch vụ, các khu công nghiệp sản xuất đều được nghiên cứu trên sự thuận lợi của hệ thống giao thông. Giải pháp thiết kế các khu vực chức năng đều chịu ảnh hưởng của hệ thống giao thông: Khu nhà ở (khu dân cư): mô hình ở, loại hình nhà, các công trình dịch vụ công cộng đều phụ thuộc vào mạng lưới đường đô thị. Khu vực trung tâm (Trung tâm thành phố, quận nội thành): bố cục tầng cao, không gian quảng trường, bãi đậu xe, khu vực tiếp cận được nghiên cứu dựa trên giải pháp giao thông đô thị. Khu công nghiệp - sản xuất: các cụm nhà máy, vị trí nhà kho, sân bãi, khu xử lí chất thải chịu tác động của hệ thống giao vận tải đô thị. Cấu trúc đô thị là bộ khung hạ tầng kỹ thuật để bảo đảm cho chức năng hạ tầng xã hội đô thị hoạt động hiệu quả. Hạ tầng xã hội đô thị được hiểu là hệ thống các công trình phục vụ cho những nhu cầu và dịch vụ của cư dân, của bộ máy hành chính và các cơ sở sản xuất. Hệ thống công trình này bao gồm hành chính, y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, du lịch, dịch vụ thương mại, mảng cây xanh, công viên và các công trình khác (trừ các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị), được tổ chức cân đối và liên kết với nhau trong không gian đô thị. Việc đáp ứng các nhu cầu hạ tầng kỹ thuật như đi lại, giao thông, cấp nước, thoát nước, cấp điện là những nhu cầu vật chất quan trọng, các nhu cầu về hạ tầng xã hội như học tập, chữa bệnh, văn hóa, thể thao là những nhu cầu cần thiết. Chiến lược Hạ tầng xã hội là một căn cứ quan trọng hình thành cấu trúc chức năng, như linh hồn tạo dựng nên đô thị phát triển. Quy hoạch đô thị và hạ tầng xã hội được liên kết với các hoạt động nghiên cứu – lập quy hoạch – quản lý đầu tư – khai thác đô thị. Các hoạt động này được thực hiện trong một chuỗi thống nhất, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng của đồ án quy hoạch. Quy hoạch công trình hạ tầng xã hội cần xác định được mô hình liên kết giữa hạ tầng xã hội với các chức năng khác trong đô thị. Xác định được các vùng chức năng chính, đề xuất được các yêu cầu, chỉ tiêu, quy mô công trình hạ tầng xã hội phù hợp với các giai đoạn phát triển đô thị, dự báo quy mô công trình hạ tầng xã hội trên cơ sở chiến lược phát triển hạ tầng xã hội, xác định các công trình đầu mối, mạng lưới, vị trí và quy mô mang tính chất vùng hoặc liên vùng. Việc xây dựng đô thị nén (Compact) và tránh dàn trải là một nội dung quan trọng trong chiến lược đô thị tăng trưởng. Khái niệm về đô thị nén hay nhỏ gọn ra đời trong bối cảnh các thành phố mở rộng dàn trải cùng với bùng nổ của xe hơi. Yếu tố Thu nhập cá nhân tăng nhanh và tầng lớp trung lưu mở rộng cổ súy cho phong cách sống biệt lập thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở ngoại vi (Suburbanization). Sự lan tỏa nhanh chóng của các dự án nhà ở mật độ thấp được hỗ trợ bởi lợi nhuận của ngành bất động sản, xe hơi, và quản lý quy hoạch. Nhiều khu ngoại vi thành phố lớn trở thành các thị trấn chỉ để ngủ được gọi là phố qua đường, phố qua đêm (Bed town, tiếng Nhật: ベッドタウン, Beddotaun) còn dịch vụ ngày càng xa nơi có việc làm. Người dân phải di chuyển ngày càng xa hơn để đi làm với sự lệ thuộc vào xe hơi cá nhân là biểu hiện của các đô thị dàn trải (Urban sprawl). Đô thị hóa dàn trải dựa trên nền tảng xe hơi đã được chứng minh thiếu tính bền vững vì khi kết nối lệ thuộc vào xe ô tô cá nhân gây ách tắc giao thông tại các cửa ngõ trung tâm và các trục chính. Các khu đô thị ngoại vi mật độ ở thấp làm tăng cự ly di chuyển, tăng phát thải khí nhà kính và khí gây ô nhiễm môi trường, tăng chi phí xã hội do tắc nghẽn, tốn kém nhiên liệu. Các khu vực được nén thường là trung tâm dịch vụ, dọc hành lang giao thông công cộng nơi có thể khai thác phương thức đi lại phi cơ giới như đi bộ và xe đạp, dành thêm không gian công cộng, cho cây xanh, và mặt nước, tăng khả năng tiếp cận đến tự nhiên, tạo điều kiện để tạo sự đa dạng trong hệ sinh thái định cư, đem nhiều việc làm đến gần chỗ ở. Đô thị càng lớn và nén càng cao ở trung tâm cần có vùng ngoại vi càng rộng để dự trữ nước (hồ điều hòa), để làm nông nghiệp đô thị, và không gian sinh thái rừng và đất ngập nước đảm bảo cân bằng sinh thái. Mức độ nén ở khu vực trung tâm cần đi kèm với không gian công cộng. Các khu vực chức năng như trung tâm thương mại, nhà ở, đầu mối giao thông, kho vận logistics, hay khu công nghiệp cần chỉ số nén về xây dựng là hệ số sử dụng đất chứ không đo bằng dân số. Khu trung tâm (CBD) có thể kết hợp ở và mức độ nén cần cao để phục vụ kinh doanh nhưng cũng cần nhiều không gian dành cho giao thông và công trình công cộng. Tỷ lệ nén ở khu vực trung tâm có mật độ cao phụ thuộc vào năng lực hệ thống hạ tầng giao thông và vận tải hành khách công cộng. Mô hình nhà ở có tác động lớn tới mức độ nén tổng thể của đô thị, cách thức xây dựng nhà ở có tác động lớn tới mật độ xây dựng. Các dự án bất động sản ở ngoại ô thường đầu tư theo cơ hội (theo phạm vi dự án) chủ yếu để giao dịch bất động sản (mua đi bán lại, phân lô bán nền) nên các khu đất bên ngoài ít có nhu cầu kết nối với làng xóm cũ và để lại nhiều diện tích xen kẹt, hay tranh chấp. Với sự lên ngôi của xe hơi, các thành phố mất dần cấu trúc nén cùng đường cao tốc và phòng cách sống ngoại vi biệt lập. Khi các đô thị tổ chức lại theo phương thức tiếp cận việc làm và dịch vụ, mỗi đô thị sẽ có các giới hạn về cấu trúc không gian gắn với phương tiện chủ lực. Các kết nối gần giúp giảm khoảng cách di chuyển để đáp ứng yêu cầu kết nối xã hội và giảm thiểu ô nhiễm và cải thiện sức khỏe cộng đồng, tháo gỡ nhiều vướng mắc trong tiếp cận đến nơi có giao thông công cộng, đến nơi có dịch vụ, và nhiều vướng mắc khác với sự tổ hợp hệ thống hai cấp gồm các tuyến đường được phục vụ linh hoạt, các tuyến đường xe đạp riêng, làn đường xe máy, các hành lang ưu tiên vận tải công cộng, và chương trình kết nối thẳng không qua trung chuyển, và vai trò của hệ thống Metro. Hình ảnh Chú thích Đô thị Thiết kế đô thị Địa lý đô thị Quy hoạch đô thị
19843644
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B9ng%20xanh
Vùng xanh
Vùng xanh (Blue zone) là những khu vực địa lý cụ thể ở trên thế giới, nơi mà mọi người sống ở đó được cho là đã sống lâu hơn mức tuổi thọ trung bình. Năm Vùng xanh được người ta đề xuất là Quận Okinawa ở Nhật Bản; Tỉnh Nuoro, Sardinia của Ý; Bán đảo Nicoya của Costa Rica; Icaria của Hy Lạp; và Loma Linda thuộc California, Hoa Kỳ, điểm chung của những nơi này đó là nơi người dân sống vui, sống khỏe, sống trường thọ hơn bất kỳ vùng đất nào trên trái đất. Tại Việt Nam thì cụm từ Blue Zones được nhiều người, nhất là giới trẻ nhắc đến với ý nghĩa muốn đưa nhau đến vùng đất xanh, tươi đẹp để thay đổi lối sống, mong muốn được sống khỏe mạnh, tươi trẻ, ít bệnh tật, ngày ngày được thư thái giữa thiên nhiên. Đại cương Khái niệm Blue Zone (Vùng xanh) là kết quả nghiên cứu nhân khẩu học do Gianni Pes và Michel Poulain thực hiện, xuất bản năm 2004. Hai người này xác định tỉnh Nuoro của Sardinia (Italy) là khu vực có mật độ nam giới thọ đến trăm tuổi cao nhất và gọi khu vực này là Blue Zone. Dựa trên nghiên cứu này thì Dan Buettner vốn là một nhà thám hiểm Mỹ, nhà báo, tác giả nhiều bài báo nổi tiếng trên New York Times đề xuất thêm 4 địa điểm gồm Okinawa (Nhật Bản), Nicoya (Costa Rica), Icaria (Hy Lạp) và Loma Linda (bang California, Mỹ). Những khu vực này có môi trường trong lành, thiên nhiên tươi đẹp nhờ sự bảo vệ của con người. Vùng đất Blue Zone cũng tập trung nhiều cây xanh và sông suối; cũng là nơi con người sống lâu và khỏe mạnh, ít bệnh tật. Icaria là một hòn đảo nằm ở Hy Lạp, nơi mọi người có chế độ ăn giàu dầu ô liu, rượu vang đỏ và rau củ quả tự trồng tại nhà Sardinia (Ý) với Ogliastra là một tỉnh ở phía đông Sardinia, đây là ngôi nhà có những nam giới sống thọ nhất thế giới. Vì Ogliastra là tỉnh núi non nhiều nhất ở Sardinia nên người dân ở đây thường làm việc trong các trang trại, vườn tược và rất chuộng uống rượu vang đỏ. Okinawa (Nhật Bản) là nơi của những người phụ nữ sống thọ nhất thế giới, đây là những phụ nữ dùng nhiều thực phẩm chế biến từ đậu nành trong các bữa ăn và thường xuyên tập Thái Cực Quyền. Bán đảo Nicoya (Costa Rica): Chế độ ăn của người Nicoya thường có đậu và một loại bánh tráng bắp (Tortilla bắp). Những người dân ở khu vực này cũng thường xuyên thực hiện các công việc yêu cầu thể chất dù cho đã về già và có một quan niệm sống được gọi là "Plan de vida". Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm ở Loma Linda, California (Mỹ) là tập hợp một nhóm người rất sùng đạo, họ là những người ăn chay rất nghiêm ngặt và sống trong những cộng đồng gắn bó chặt chẽ với nhau. Vùng Xanh mở rộng ra là khái niệm dùng để chỉ những khu vực địa lý trên thế giới mà ở đó môi trường trong lành, thiên nhiên tươi đẹp, không bị ô nhiễm nhờ sự chung tay bảo vệ của cộng đồng và chính quyền địa phương. Vùng Xanh còn là khu vực sinh sống của nhiều loài thủy sản, hải sản, tập trung nhiều cây xanh và sông suối. Đây là nơi con người sống khỏe, trường thọ. Điểm chung của những vùng đất này là thiên nhiên trong lành, con người sống gần gũi, giao hòa với thiên nhiên trong từng hơi thở, bước đi, bữa ăn, giấc ngủ. Kết quả nhiều nghiên cứu đã cho thấy người dân ở Vùng Xanh có tuổi thọ cao trên thế giới, con số này cao hơn mức thông thường, người dân rất ít mắc các bệnh mãn tính. Và cách để họ tận hưởng cuộc sống đó chính là sống, tận hưởng, hòa mình vào thiên nhiên, vào không gian sống lý tưởng. Chú thích Chất lượng sống Chất lượng cuộc sống Yếu tố quyết định sức khỏe
19843648
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jean-Philippe%20Krasso
Jean-Philippe Krasso
Jean-Philippe Nil Step Krasso (sinh ngày 17 tháng 7 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Sao Đỏ Beograd. Sinh ra tại Đức, anh thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà. Sự nghiệp thi đấu Đầu sự nghiệp Krasso chuyển đến Pháp vào năm 2007 và bắt đầu chơi bóng tại IFR Châteauroux, trước khi gia nhập học viện của câu lạc bộ Lorient. Anh dành thời gian đầu của sự nghiệp với Lorient B, Schiltigheim và Épinal. Saint-Étienne Krasso ký bản hợp đồng chuyên nghiệp 3 năm với Saint-Étienne vào ngày 28 tháng 5 năm 2020. Vào ngày 24 tháng 7 năm 2020, anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng, trong trận thua 0-1 trước Paris Saint-Germain tại chung kết Cúp bóng đá Pháp 2019–20. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2021, anh được cho Le Mans mượn để tích lũy thêm kinh nghiệm. Vào ngày 27 tháng 1 năm 2022, Krasso được cho mượn ở câu lạc bộ Ajaccio tại Ligue 2, góp công trong việc đưa câu lạc bộ thăng hạng lên Ligue 1. Vào ngày 30 tháng 8 năm 2022, Krasso lập một cú poker trong chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Bastia, trở thành cầu thủ đầu tiên ghi bốn bàn trong một trận đấu cho câu lạc bộ ở thế kỷ 21. Sao Đỏ Beograd Vào ngày 20 tháng 6 năm 2023, Krasso gia nhập đương kim vô địch Serbia, Sao Đỏ Beograd theo dạng chuyển nhượng tự do. Anh ghi hai bàn thắng trong trận ra mắt vào ngày 30 tháng 7, chiến thắng 5–0 trên sân nhà trước Vojvodina. Sự nghiệp quóc tế Krasso sinh ra ở Đức và là người gốc Bờ Biển Ngà, và chuyển đến Pháp khi còn trẻ. Anh đại diện cho đội tuyển U-20 Bờ Biển Ngà tại giải đấu Toulon Tournament 2017. Krasso có trận ra mắt quốc tế cho Bờ Biển Ngà vào ngày 25 tháng 9 năm 2022, trong chiến thắng 2-1 trước Togo. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Quốc tế Bàn thắng quốc tế Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của Bờ Biển Ngà, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Krasso. Danh hiệu Bờ Biển Ngà Africa Cup of Nations: 2023 Cá nhân Đội hình xuất sắc nhất Ligue 2 của UNFP: 2022–23 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1997 Nhân vật còn sống Tiền đạo bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Bờ Biển Ngà Cầu thủ bóng đá Đức Cầu thủ bóng đá nam Đức Cầu thủ bóng đá Bờ Biển Ngà ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá Đức ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá FC Lorient Cầu thủ bóng đá SC Schiltigheim Cầu thủ bóng đá SAS Épinal Cầu thủ bóng đá AS Saint-Étienne Cầu thủ bóng đá Le Mans FC Cầu thủ bóng đá AC Ajaccio Cầu thủ bóng đá Sao Đỏ Beograd Cầu thủ bóng đá Ligue 1 Cầu thủ bóng đá Ligue 2 Cầu thủ bóng đá Championnat National Cầu thủ bóng đá Championnat National 2 Cầu thủ bóng đá Serbian SuperLiga Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Serbia Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Bờ Biển Ngà Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà Cầu thủ bóng đá nam Bờ Biển Ngà
19843655
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BB%AFng%20%C4%91%E1%BB%A9a%20con%20c%E1%BB%A7a%20l%C3%A0ng
Những đứa con của làng
Những đứa con của làng là bộ phim điện ảnh chính kịch phát hành năm 2015 do hãng Hồng Ngát Film sản xuất theo đơn đặt hàng của Nhà nước Việt Nam. Bộ phim lấy đề tài hậu chiến theo kịch bản của Phạm Dũng, đạo diễn bởi Nguyễn Đức Việt, với các diễn viên Trung Anh, Thúy Hằng, Trần Bảo Sơn, Huy Cường. Bộ phim chiến thắng 4 giải thuộc hạng mục Phim truyện điện ảnh tại Giải Cánh diều 2014 và 3 giải cùng hạng mục này tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19. Phân vai Thúy Hằng vai Bưởi Trần Bảo Sơn vai Đông Huy Cường vai Bè NSND Trung Anh vai ông Thập Nội dung Cậu chuyện diễn ra tại làng Hạ, thuộc tỉnh Quảng Trị. Mở đầu phim là cảnh một đám tang với đông đảo dân làng, họ tập trung rồi cùng nhau đạp phá một ngôi mộ. Ngôi mộ của một trưởng làng trong thời chiến tranh đã dẫn quân lính đến tàn sát một nửa số dân của làng, đám tang này là buổi giỗ cho những người đã mất năm đó. Trưởng làng hiện tại là ông Thập, một cựu chiến binh đã thoát chết trong cuộc tàn sát năm xưa, khi Đông - con trai của vị trưởng làng xưa - trở về xin được bốc mộ cho bố đi nơi khác, anh cũng sẽ xây cho làng một cây cầu. Ông Thập và hầu hết dân làng ra sức ngăn cấm Đông trở về, chỉ có Bưởi - con gái ông Thập - và Bè bí mật ủng hộ anh. Sản xuất Dù đã được phê duyệt, cấp phép từ tháng 11 năm 2012 nhưng Bộ Tài chính chưa cấp kinh phí nên việc sản xuất Những đứa con của làng bị trì hoãn. Bộ phim được bấm máy trong 3 tháng từ tháng 7 năm 2014, tại Đak Krong, Quảng Trị. Diễn viên Trung Anh đã vào Quảng Trị trước đó nửa tháng để làm quen với bối cảnh; Thúy Hằng lúc này đang tham gia bộ phim truyền hình Mưa bóng mây, cô thường bay qua lại giữa Quảng Trị và Đà Lạt để thực hiện cả hai bộ phim. Trần Bảo Sơn là diễn viên chính nhưng anh không phải đến thử vai, đạo diễn Nguyễn Đức Việt gửi kịch bản cho Bảo Sơn và sau cuộc nói chuyện họ thống nhất được lịch quay. Những đứa con của làng được nhà nước đặt hàng hãng phim tư nhân Hong Ngat Film sản xuất, là một trong những dự án đầu tiên của các sản phẩm điện ảnh có nhiệm vụ tuyên truyền. Bộ phim có kinh phí khoảng 6 tỷ đồng so với dự tính ban đầu là 9 tỷ đồng, nhà thơ kiêm nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát giữ vai trò giám đốc sản xuất. Để thực hiện tác phẩm này, đoàn phim đã phải tái tạo toàn bộ bối cảnh, phục trang, đạo cụ, không khí chiến tranh ở Quảng Trị những năm 1960. Những đứa con của làng là một trong ba phim thực hiện từ kinh phí nhà nước tham gia tranh giải hạng mục phim truyện điện ảnh Giải Cánh diều 2014 và Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19. Phát hành Tháng 11 năm 2014, Những đứa con của làng được chiếu lần đầu tại Liên hoan phim quốc tế Hà Nội lần thứ ba. Những đứa con của làng cùng Đập cánh giữa không trung là 2 đại diện của Việt Nam tranh tài tại Liên hoan phim lần này. Đây là 2 bộ phim xuất sắc nhất được Hội đồng tuyển chọn trong số 18 tác phẩm điện ảnh Việt Nam được đánh giá là có chất lượng nghệ thuật và gây được tiếng vang trong nước cũng như quốc tế. Hai phim trên cùng tranh giải “Phim dài xuất sắc nhất” trị giá giải thưởng lên tới 5.000USD. Những đứa con của làng có buổi ra mắt ngày 9 tháng 1 năm 2015 và chính thức công chiếu từ 27 tháng 2 năm 2015. Cuối tháng 3 năm 2015, bộ phim tiếp tục được trình chiếu tại Liên hoan phim Pháp ngữ tại Hà Nội. Tháng 7 năm 2015, bộ phim được chọn chiếu trong Tuần lễ phim Việt Nam tại Mỹ cùng với 5 bộ phim khác. Đánh giá Ưu điểm Bộ phim có lời thoại cô đọng, thấm thía, tự nhiên và gần gũi; các nhân vật thể hiện đúng giọng điệu địa phương (Quảng Trị). Ba diễn viên chính Trung Anh, Thúy Hằng, Huy Cường để thể hiện tròn vai, tâm lý nhân vật được khai thác khá tốt. Báo Tia sáng: Biên kịch Phạm Dũng đã không chỉ xây dựng được một hệ thống nhân vật mạnh mà còn tỏ ra hết sức vững vàng trong việc triển khai cấu trúc truyện đi kèm với phát triển tâm lý [...] Những đứa con của làng” đã vượt lên trên được tính chất “tuyên truyền” để trở thành một câu chuyện hay và phổ quát về phẩm giá của con người. Khuyết điểm Nội dung phim theo tuyến tính thời gian, đơn giản và dễ đoán, hình tượng các nhân vật được tạo dựng hơi cường điệu. Diễn biến tâm lý của ông Thập không được hấp dẫn khi ông chỉ thay đổi suy nghĩ và hành động của mình đối với Đông khi biết chủ tịch xã ăn bớt tiền xây cầu. Sự thay đổi không phải vì ông được cảm hóa bởi những điều tốt hay những con người tốt mà vì ông nhận ra được cái xấu. Nhân vật Đông, người xóa bỏ hận thù, hàn gắn nỗi đau lại có quá ít sức ảnh hưởng tới tình tiết phim. Báo Tia sáng: Âm nhạc trong phim không những không nâng được câu chuyện mà nhiều khi còn đơn điệu và tẻ nhạt đến mức phá hỏng cả cảm xúc, đây thực sự là nốt lạc điệu duy nhất trong một tổng thể hài hòa của bộ phim. Giải thưởng Liên kết ngoài Tham khảo Phim giành giải Bông sen bạc Phim giành giải Cánh diều bạc Phim năm 1996 Phim Việt Nam thập niên 1990
19843660
https://vi.wikipedia.org/wiki/AFC%20Champions%20League%202%202024%E2%80%9325
AFC Champions League 2 2024–25
AFC Champions League 2 2024–25 là phiên bản thứ 21 của giải bóng đá cấp câu lạc bộ hạng hai châu Á được tổ chức bởi Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC), và là lần đầu tiên dưới tên gọi mới là AFC Champions League 2. Phân bố đội của hiệp hội Xếp hạng các hiệp hội Các đội tham dự Chú thích: TH: Đương kim vô địch 1st, 2nd, 3rd,...: Vị trí tại giải quốc nội CW: Đội vô địch cúp quốc gia PW: Đội thắng play-off dự AFC Champions League 2 CR: Đội á quân cúp quốc gia ACLE PR: Đội thua vòng sơ loại AFC Champions League Elite Chú giải Lịch thi đấu Xem thêm AFC Champions League Elite 2024–25 AFC Challenge League 2024–25 Tham khảo Notes
19843662
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Ganam
Ga Ganam
Ga Ganam (Tiếng Hàn: 가남역, Hanja: 加南驛) là ga đường sắt trên Tuyến Jungbu Naeryuk nằm ở Ganam-eup, Yeoju-si, Gyeonggi-do, Hàn Quốc. Lịch sử 17 tháng 11 năm 2021: Thông báo bảng cự ly đường sắt 31 tháng 12 năm 2021: Bắt đầu kinh doanh khai trương Bố trí ga Ga kế cận Tham khảo Liên kết ngoài Ganam Ganam
19843663
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20GamgokJanghowon
Ga GamgokJanghowon
Ga GamgokJanghowon (Tiếng Hàn: 감곡장호원역, Hanja: 甘谷長湖院驛) là ga đường sắt trên Tuyến Jungbu Naeryuk nằm ở Gamgok-myeon, Eumseong-gun, Chungcheongbuk-do, Hàn Quốc. Lịch sử 29 tháng 6 năm 2021: Tên ga 112 được xác nhận là Ga GamgokJanghowon 17 tháng 11 năm 2021: Thông báo bảng cự ly đường sắt 31 tháng 12 năm 2021: Bắt đầu kinh doanh khai trương Bố trí ga Ga kế cận Tham khảo Liên kết ngoài GamgokJanghowon GamgokJanghowon
19843664
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Angseongoncheon
Ga Angseongoncheon
Ga Angseongoncheon (Tiếng Hàn: 앙성온천역, Hanja: 仰城溫泉驛) là ga đường sắt trên Tuyến Jungbu Naeryuk nằm ở Angseong-myeon, Chungju-si, Chungcheongbuk-do, Hàn Quốc. Lịch sử 17 tháng 11 năm 2021: Thông báo bảng cự ly đường sắt 31 tháng 12 năm 2021: Bắt đầu kinh doanh khai trương Bố trí ga Ga kế cận Tham khảo Liên kết ngoài Angseongoncheon Angseongoncheon
19843665
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Chungju
Ga Chungju
Ga Chungju (Tiếng Hàn: 충주역, Hanja: 忠州驛) là ga trên Tuyến Chungbuk và Tuyến Jungbu Naeryuk ở Bongbang-dong, Chungju-si, Chungcheongbuk-do. Bố trí ga Xung quanh nhà ga Bến xe buýt công cộng Chungju Sân vận động bóng đá Tangeum Công viên võ thuật thế giới Chungju Trung tâm chứng nhận Chungju Tangeumdae Công viên Tangeumdae Hình ảnh Ga kế cận Tham khảo Liên kết ngoài Chungju Chungju
19843677
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2a%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Basel
Hòa ước Basel
Hòa ước Basel (tiếng Đức: Friede von Basel; tiếng Pháp: Paix de Bâle) được ký kết vào năm 1795, bao gồm 3 hiệp ước hòa bình liên quan đến Pháp trong Cách mạng Pháp (đại diện bởi François de Barthélemy). Hòa ước đầu tiên được ký với Phổ (đại diện bởi Karl August von Hardenberg) vào ngày 5 tháng 4; Hòa ước đầu tiên được ký với Tây Ban Nha (đại diện bởi Domingo d'Yriarte) vào ngày 22 tháng 7, kết thúc Chiến tranh Pyrenees; Và Hòa ước đầu tiên được ký với Bá quốc Hessen-Kassel (đại diện bởi Friedrich Sigismund Waitz von Eschen) vào ngày 28 tháng 8, kết thúc giai đoạn Chiến tranh Cách mạng Pháp chống lại Liên minh thứ nhất. Với sự khôn ngoan ngoại giao tuyệt vời, các hiệp ước đã giúp Pháp xoa dịu và chia rẽ từng kẻ thù của Liên minh thứ nhất. Sau đó, nước Pháp cách mạng nổi lên như một cường quốc lớn ở châu Âu. Hiệp ước đầu tiên, vào ngày 5 tháng 4 năm 1795 giữa Pháp và Phổ, đã được thảo luận từ năm 1794. Phổ rút khỏi liên minh đang thực hiện việc phân chia Ba Lan sắp xảy ra và khi thích hợp, rút quân chống lại Áo và Nga. (Xem thêm Chiến tranh Cách mạng Pháp và Chiến tranh Napoléon). Trong bí mật, Phổ công nhận quyền kiểm soát của Pháp đối với bờ Tây sông Rhein trong khi chờ được chuyển nhượng bởi Đại hội Đế chế. Pháp trả lại toàn bộ vùng đất phía Đông sông Rhine chiếm được trong chiến tranh. Vào đêm ngày 6 tháng 4, văn kiện được ký bởi đại diện của Pháp và Phổ: François de Barthélemy và Karl August von Hardenberg. Họ không gặp mặt nhau, mỗi người ở tại nơi ở riêng của mình ở Rosshof hoặc Markgräflerhof, và giấy tờ được chuyển phát nhanh thông qua người chuyển phát. Hiệp ước nhượng lại bờ trái sông Rhine nằm trong một điều khoản bí mật, cùng với lời hứa sẽ bồi thường cho bờ phải nếu bờ trái sông Rhein được duy trì trong một nền hòa bình chung cuối cùng ở Pháp. Peter Ochs đã soạn thảo hiệp ước và đóng vai trò là người hòa giải cho phần lớn các báo cáo tài chính này. Phổ tuân theo thỏa thuận của Hiệp ước Basel cho đến năm 1806, khi nước này gia nhập Liên minh thứ tư. Trong hòa ước thứ hai, vào ngày 22 tháng 7, Tây Ban Nha nhượng 2/3 phía đông đảo Hispaniola cho Pháp để đổi lấy Gipuzkoa. Người Pháp cũng đến vào ban đêm để ký hiệp ước hòa bình giữa Pháp và Tây Ban Nha, trong đó Tây Ban Nha được đại diện bởi Domingo d'Yriarte, người đã ký hiệp ước tại dinh thự của Ochs, Holsteinerhof. Những hòa ước này với Phổ và Tây Ban Nha đã có tác dụng phá vỡ liên minh giữa hai đối thủ của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp. Vào ngày 28 tháng 8 năm 1795, hòa ước thứ ba được hoàn thành, một hiệp ước hòa bình giữa Pháp và Bá quốc Hessen-Kassel, được ký bởi Friedrich Sigismund Waitz von Eschen. Ngoài ra còn có một thỏa thuận trao đổi quân Áo bị bắt ở Bỉ. Chú thích Tham khảo Đọc thêm Hargreaves-Mawdsley, W. N. "Conclusive Peace-Treaty between His Catholic Majesty and the French Republic, signed at Basel 1795." in Spain under the Bourbons, 1700–1833 (Palgrave Macmillan, London, 1968) pp. 175–176. Liên kết ngoài Hiệp ước năm 1795 Pháp năm 1795 Tây Ban Nha năm 1795 Phổ năm 1795 Bắc Mỹ năm 1795 Hiệp ước của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp
19843681
https://vi.wikipedia.org/wiki/Costanza%20c%E1%BB%A7a%20Sicilia
Costanza của Sicilia
Costanza của Sicilia (tiếng Ý: Costanza di Sicilia; 1324 – 22 tháng 10 năm 1355) là Nhiếp chính Vương nữ của Sicilia. Costanza cai trị Vương quốc Sicilia với tư cách nhiếp chính nhân danh em trai là Ludovico I của Sicilia. Vương nữ là con gái của Pietro II của Sicilia và Elisabeth xứ Kärnten. Tiểu sử Năm 1342, cha của Costanza là Pietro II của Sicilia qua đời và em trai Ludovico kế vị cha trở thành Quốc vương Sicilia và được nhiếp chính bởi người chú là Manfredi của Sicilia và từ năm 1348 là mẹ của hai chị em, Elisabeth xứ Kärnten. Khi mẹ của hai chị em qua đời vào năm 1352, Costanza đã thay mẹ đảm nhiệm vai trò nhiếp chính nhân danh em trai. Thời kỳ nhiếp chính của Costanza được nhớ đến bằng những xung đột giữa các phe phái quý tộc cũng như đại dịch dịch hạch đen. Năm 1355, cả Ludovico và Costanza qua đời vì cái chết đen. Địa vị nhiếp chính của Costanza đã tạo ra trở ngại về mặt hôn nhân cho Vương nữ, đó Costanza qua đời mà không lập gia đình. Sau khi Costanza và Ludovico I qua đời, ngai vàng do đó được thừa kế bởi em trai Federico IV của Sicilia và vị trí nhiếp chính của Costanza được đảm hận bởi em gái Eufemia cho đến năm 1537. Gia phả <center> <center> Tham khảo Vương nữ Sicilia Vương tộc Barcelona (Sicilia) Vương nữ Sinh năm 1324 Mất năm 1355
19843683
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eufemia%20c%E1%BB%A7a%20Sicilia
Eufemia của Sicilia
Eufemia của Sicilia (tiếng Ý: Eufemia di Sicilia; 1330–1359) là một Nhiếp chính Vương nữ của Sicilia. Eufemia cai trị Vương quốc Sicilia với tư cách nhiếp chính từ năm 1355 đến năm 1357 nhân danh em trai là Federico IV của Sicilia. Tiểu sử Eufamia là con gái của Pietro II của Sicilia và Elisabeth xứ Kärnten. Năm 1342, Pietro II qua đời và người em trai Ludovico I kế vị ông dưới sự nhiếp chính của người chú họ là Manfredi của Sicilia từ năm 1348 là Elisabeth xứ Kärnten. Khi Elisabeth qua đời vào năm 1352, chị gái Costanza của Eufemia đã thay mẹ đảm nhiệm vai trò nhiếp chính nhân danh em trai Ludovico I. Năm 1355, Costanza qua đời vì đại dịch Cái chết đen. Do đó Eufemia trở thành nhiếp chính thay thế chị gái. Với địa vị nhiếp chính, Eufemia cũng gặp khó khăn về mặt hôn nhân giống như chị gái Costanza và do đó cũng qua đời trong tình trạng độc thân. Khi Napoli tấn công Sicilia, Eufemia đã cho thiết lập tuyến phòng thủ hòn cho Vương quốc và thành công đẩy lùi cuộc xâm lược trong Trận Aci vào ngày 27 tháng 5 năm 1357. Thời kỳ nhiếp chính của Eufemia kết thúc khi em trai Federico IV được tuyên bố trưởng thành vào năm 1357. Euphemia qua đời vào năm 1359 mà không lập gia đình. <center> <center> Ghi chú liên kết ngoài WOMEN IN POWER 1350-1400 Vương nữ Sicilia Vương tộc Barcelona (Sicilia) Vương nữ Sinh năm 1330 Mất năm 1359
19843696
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20N%E1%BB%AF
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Giải đấu Nữ
Giải đấu nữ nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 là giải đấu lần thứ 11 của nội dung khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ tại Đại hội thể thao châu Á. Giải đấu được tổ chức cùng với giải đấu nam tại Sân khúc côn cầu trên cỏ của Công viên thể thao Kênh Củng Thự ở Hàng Châu, Trung Quốc từ 25 tháng 9 đến 7 tháng 10 năm 2023. Chủ nhà Trung Quốc đã giành chức vô địch Đại hội thể thao châu Á lần thứ tư ở giải đấu này khi đánh bại Hàn Quốc 2–0 trong trận chung kết. Ấn Độ giành huy chương đồng sau khi đánh bại đương kim vô địch Nhật Bản với tỷ số 2–1. Với tư cách là đội vô địch, Trung Quốc đã vượt qua vòng loại trực tiếp ở Thế vận hội Mùa hè 2024. Các đội đủ điều kiện Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Vòng phân hạng Trận tranh hạng 9 Trận tranh hạng 7 Trận tranh hạng 5 Vòng tranh huy chương Sơ đồ Bán kết Tranh huy chương đồng Tranh huy chương vàng Số liệu thống kê Bảng xếp hạng cuối cùng Cầu thủ ghi bàn Xem thêm 2023 Women's Asian Champions Trophy Tham khảo Giải đấu Nữ Đại hội Thể thao châu Á 2022 2022
19843699
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20Nam
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Vòng loại Nam
Vòng loại nam Đại hội thể thao châu Á 2022 là giải đấu vòng loại của nam cho nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022. Giải đấu được tổ chức từ ngày 6 đến ngày 15 tháng 5 năm 2022 tại Bangkok, Thái Lan và chọn ra sáu đội hàng đầu đủ điều kiện tham dự Đại hội Thể thao châu Á 2022. Các đội Vòng sơ loại Bảng A Bảng B Phân loại hạng 5–8 Sơ đồ Bán kết hạng 5–8 Trận tranh hạng 7 Trận tranh hạng 5 Phân loại hạng 1-4 Sơ đồ Bán kết Trận tranh hạng 3 Chung kết Bảng xếp hạng cuối cùng Xem thêm 2022 Men's AHF Cup Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Vòng loại Nữ Tham khảo Vòng loại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Vòng loại Nam Sự kiện thể thao tháng 5 năm 2022 ở Thái Lan Sự kiện thể thao năm 2022 tại Bangkok
19843714
https://vi.wikipedia.org/wiki/Imabetsu%2C%20Aomori
Imabetsu, Aomori
là thị trấn thuộc huyện Higashitsugaru, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 2.334 người và mật độ dân số là 19 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 125,27 km2. Địa lý Đô thị lân cận Tỉnh Aomori Goshogawara Sotogahama Khí hậu Tham khảo Thị trấn của Aomori
19843719
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%B2a%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Lun%C3%A9ville
Hòa ước Lunéville
Hiệp ước Lunéville (hay Hòa ước Lunéville) được ký kết tại Nhà Hiệp ước Lunéville vào ngày 9 tháng 2 năm 1801. Các bên ký kết là Đệ Nhất Cộng hòa Pháp và Hoàng đế Francis II, ông đã ký kết với tư cách là người cai trị các lãnh địa cha truyền con nối của Quân chủ Habsburg và Hoàng đế của Đế chế La Mã Thần thánh. Những người ký tên vào hiệp ước là Joseph Bonaparte và Bá tước Ludwig von Cobenzl, Ngoại trưởng Áo. Hiệp ước chính thức chấm dứt sự tham gia của Áo và Thánh chế La Mã trong Chiến tranh Liên minh thứ hai và Chiến tranh Cách mạng Pháp. Quân đội Áo đã bị Napoléon Bonaparte đánh bại trong trận Marengo vào ngày 14 tháng 6 năm 1800 và sau đó là Jean Victor Marie Moreau trong trận Hohenlinden vào ngày 3 tháng 12. Bị buộc phải tìm giải pháp hòa bình, người Áo đã ký Hiệp ước Lunéville, trong đó xác nhận phần lớn Hiệp ước Campo Formio (17 tháng 10 năm 1797), chính hiệp ước này đã xác nhận Hòa ước Leoben (tháng 4 năm 1797). Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland là quốc gia duy nhất vẫn còn chiến tranh với Pháp thêm một năm nữa. Người Áo tiếp tục chiến tranh chống lại Pháp vào năm 1805. Đàm phán Vào ngày 25 tháng 12 năm 1799, Đệ nhất Tổng tài Napoleon Bonaparte viết thư cho Hoàng đế Francis II để đề nghị hòa bình. Phản ứng của Quân chủ Habsburg và Thánh chế La Mã đã bị trì hoãn. Vào ngày 20 tháng 1 năm 1800, Áo và Anh ký một hiệp ước liên minh chống lại Pháp. Vào ngày 25 tháng 1, Áo phản ứng tiêu cực với lời đề nghị của Napoleon. Tuy nhiên, khi Pháp gia hạn lời đề nghị sau Trận Marengo, phản ứng của Áo là tích cực. Sau đó là một loạt 3 cuộc đàm phán. Hai cuộc đình chiến trước khi bắt đầu đàm phán: Công ước Alessandria (15 tháng 6 năm 1800) ở Ý và Đình chiến Parsdorf (15 tháng 7) ở Đức. Chú thích Tham khảo Thư mục Liên kết ngoài Hiệp ước năm 1801 Pháp năm 1801 Thánh chế La Mã năm 1801 Hiệp ước của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp Cộng hòa Batavia Cộng hòa Cisalpine Cộng hòa Helvetic Hòa ước của Đế quốc La Mã Thần thánh
19843743
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B2ng%20th%E1%BB%A7%20t%C3%AAn%20l%E1%BB%ADa
Phòng thủ tên lửa
Hệ thống phòng thủ tên lửa là một hệ thống vũ khí hoặc công nghệ được áp dụng vào việc phát hiện, bắt bám, đánh chặn và có thể là cả phá hủy tên lửa tấn công. Ban đầu nó là giải pháp phòng thủ chống lại tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) được trang bị vũ khí hạt nhân, sau đó nó đã được mở rộng để bao gồm cả việc phòng thủ trước các tên lửa chiến thuật và tầm ngắn đầu đạn thông thường có tầm ngắn hơn. Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Iran, Israel, Italy, Nga, Đài Loan và Vương Quốc Anh, Hoa Kỳ đều phát triển các hệ thống phòng thủ tên lửa của riêng mình. Tham khảo Bibliography Nicole C. Evans, "Missile Defense: Winning Minds, Not Hearts", Bulletin of the Atomic Scientists, September/October 2004. Daniel Möckli, "US Missile Defense: A Strategic Challenge for Europe", CSS Analyses in Security Policy no. 12, April 2007. Ishmael Jones, The Human Factor: Inside the CIA's Dysfunctional Intelligence Culture, New York: Encounter Books (2010) (). Missiles intelligence. Liên kết ngoài Missile Threat – CSIS Missile Defense Project U.S. Ballistic Missile Defense A primer from the Council on Foreign Relations Steven Donald Smith, Missile Defense Program Moves Forward, 2006. Missile Defense: The First Seventy Years Phòng thủ tên lửa Chương trình vũ khí hạt nhân Hoa Kỳ
19843747
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20c%E1%BB%A9u%20n%C3%B4ng%20s%E1%BA%A3n
Giải cứu nông sản
Giải cứu nông sản là giải pháp nhất thời trong việc hỗ trợ các nhà sản xuất và kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam. Đây là giải pháp đối phó với tình trạng khó khăn khi một mặt hàng nông sản gặp vấn đề bế tắc về tiêu thụ. Các lời kêu gọi giải cứu được đưa ra nhằm tìm kiếm hỗ trợ từ chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước. Nguyên nhân và hậu quả Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là tình trạng thị trường tiêu thụ nông sản thiếu ổn định, các loại nông sản thường xuyên "được mùa mất giá". Nông dân cũng bất chấp các cảnh báo của chính quyền địa phương trong việc tự phát mở rộng diện tích canh tác, nuôi trồng. Chẳng hạn như sự vụ dưa hấu tại Quảng Nam, Quảng Ngãi vào năm 2018. Người nông dân phụ thuộc vào một hoặc vài kênh tiêu thụ, do đó khi việc mua bán của chuỗi hàng bị ngắt quãng họ không biết phải tiêu thụ nông sản của mình thế nào. Năm 2021, vùng trồng cam Tuyên Quang và Hà Giang, vùng trồng bưởi Đồng Nai bắt đầu thu hoạch nhưng không có thương lái hay doanh nghiệp đến thu mua. Điều này cũng xảy ra tương tự ở nhiều nơi với nhiều loại nông sản khác nhau. Hiện tượng này là hệ quả của cung vượt cầu, và nguyên nhân lớn nhất là sự phụ thuộc của Việt Nam vào Trung Quốc. Phần lớn nông sản xuất khẩu sang nước này. Khi xuất khẩu ngưng trệ thì hàng hóa nông sản trong nước dồn ứ. Theo Bộ Công Thương thì vào năm 2020, tỉ lệ xuất khẩu nông sản sang Trung Quốc là 90%, vùng đồng bằng sông Cửu Long có tỉ lệ 70%. Hàng hóa vẫn là dạng thô. Trong nhiều thời điểm, hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc chịu ùn tắc tại các cửa khẩu do các chính sách bất thường từ phía Trung Quốc. Cho đến 2023, 80% nông sản xuất khẩu của Việt Nam đều là hàng hóa thô, chưa có thương hiệu. Điều này góp phần làm khả năng tiêu thụ hàng hóa thiếu tính ổn định. Tổng cục Hải quan cũng đánh giá nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc không tuân theo các chuẩn mực thương mại quốc tế, nên nông dân Việt Nam sẽ tiếp tục hứng chịu thiệt hại. Chỉ có 30% hàng nông sản xuất khẩu sang Trung Quốc là diện chính ngạch, số còn lại theo đường tiểu ngạch truyền thống vốn có nhiều ưu đãi như miễn thuế nhập khẩu, miễn thuế VAT. Do đó, doanh nghiệp không quan tâm nhiều vào diện chính ngạch. Chi phí theo diện xuất khẩu chính ngạch lại đội lên quá cao. Nông sản không bán được khiến đời sống của người nông dân gặp nhiều khó khăn. Hàng hóa tràn ngập với số lượng lớn, khả năng tiêu thụ kém, dẫn đến hư hỏng, đổ bỏ và giá cả tụt mạnh. Một hậu quả lớn trong sản xuất nông nghiệp bởi các khó khăn tiêu thụ này đã góp phần dẫn đến hiện tượng trồng rồi lại chặt. Nguyên nhân khác góp phần gây khó khăn cho thị trường nông sản Việt Nam là sự cạnh tranh của nông sản nước khác ngay tại thị trường nội địa, bao gồm nông sản từ Trung Quốc, Thái Lan. Bên cạnh đó, thương lái Trung Quốc thường xuyên dìm giá trước các đợt thu mua lớn khiến nhiều mặt hàng nông sản rớt giá. Vào giữa năm 2022, giá tôm hùm từ 1 triệu VND/kg tụt xuống chỉ còn 580.000 VND/kg. Hưởng ứng xã hội Hiện tượng này được đánh giá là xảy ra thường niên, tại Việt Nam mỗi năm luôn có mặt hàng yêu cầu được "giải cứu". Các loại mặt hàng thường xuyên được kêu gọi giải cứu: "giải cứu thanh long", "giải cứu chôm chôm", "giải cứu chuối", "giải cứu cá tra", "giải cứu lợn",...Các hoạt động hưởng ứng mạnh nhất và tình trạng yêu cầu "giải cứu" nhiều nhất xảy ra vào năm 2021. Điều này do Đại dịch COVID-19 gây ra. Năm 2021, Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam kêu gọi người dân "giải cứu" 20.000 tấn củ hành tím ở Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Cùng năm, mít Thái giảm mạnh từ 80.000 VND/kg xuống còn 15.000 VND/kg, những lời kêu gọi "giải cứu" có thể thấy khắp Sài Gòn. Vào giữa năm 2021, giá khoai lang tím ở Vĩnh Long rớt xuống mức 650 VND/kg và cũng được kêu gọi "giải cứu". Đầu năm 2022, giá dưa hấu tụt xuống chỉ còn vài nghìn VND/kg, các bảng treo "giải cứu" có thể thấy khắp nơi ở miền Bắc Việt Nam. Cùng thời gian là lời kêu gọi "giải cứu" tôm hùm từ các tiểu thương tại Hà Nội, mặt hàng chỉ còn chừng nửa giá. Sau lời kêu gọi, có cửa hàng chỉ trong vài ngày bán sạch 15 tấn tôm hùm. Cùng năm, tại Bến Tre, chính quyền địa phương kêu gọi Trung ương tìm cách "giải cứu" dừa, giá dừa trung bình từ 7.000 VND/quả đã tụt xuống 2.000 VND/quả, quá mức chịu đựng chi phí nông nghiệp của nông dân. Một số sản phẩm mới ra đời để đáp ứng nhu cầu "giải cứu" như bánh mì thanh long (năm 2020), bánh tiêu sầu riêng, bánh xoài,... Chỉ trích Việc yêu cầu giải cứu là giải pháp tình thế của nền nông nghiệp thiếu tính bền vững. Hiện tượng này gây áp lực cho người tiêu dùng. Nhiều chuyên gia đánh giá không thể điều tiết và phát triển kinh tế thị trường dựa trên tình thương. Người buôn bán kinh doanh nông sản để thu lợi nhuận cho riêng họ, khi khó khăn lại kêu giải cứu và cộng đồng lại phải giải cứu như một điều tốt đẹp. Nông dân Việt Nam vẫn còn sản xuất theo tư duy tiểu nông. Họ sản xuất nhỏ lẻ, chậm ứng dụng kỹ thuật - công nghệ, ít quan tâm thông tin thị trường. Thói quen chạy theo giá cả, thấy nông sản nào hiện đang có giá thì chuyển sang sản xuất, khi thấy mất giá thì lại phá bỏ hoạt động sản xuất của mình để chuyển sang cái khác. Ông Nguyễn Văn Thứ, Chủ tịch GC Food đánh giá tâm lý đám đông đang chi phối thị trường nông sản Việt Nam. Ông Nguyễn Đình Tùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam đánh giá, "Nếu cứ tiếp tục “giải cứu”, bà con luôn nghĩ rằng, khi sản phẩm bán được thì có lợi nhuận, bán không được là trách nhiệm của Nhà nước, xã hội." Biện pháp thay thế Nông dân nên tham gia các hiệp hội để tìm kiếm thị trường. Hàng hóa cần đa dạng kênh bán như siêu thị, cửa hàng, nhà hàng, quán ăn,... Năm 2021, Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số hợp tác với Viettel Post và sàn thương mại điện tử Voso đã xuất khẩu thành công vải thiều Bắc Giang sang thị trường châu Âu đã mở ra chọn lựa thương mại điện tử như một biện pháp hiệu quả. Nông nghiệp cần hình thành các vùng chuyên canh rộng lớn để thu mua, chế biến, tiêu thụ. Cần hình thành các vùng hàng hóa lớn để thu hút doanh nghiệp, thương lái đến ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Như thế cũng chấm dứt việc sản xuất "chạy theo phong trào". Sự hình thành các vùng tập trung sẽ dẫn đến việc đảm bảo quy chuẩn chất lượng, từ đó sản xuất và tiêu thụ sẽ ổn định hơn. Đồng thời, gia tăng hàng hóa nông sản được chế biến thay vì bán thô (bán tươi) như hiện tại. Do đó, cần chính sách và khuyến khích doanh nghiệp chế biến. Ông Trần Thanh Hải, Phó cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu thuộc Bộ Công Thương, nhận định cần doanh nghiệp quy mô lớn: "Những doanh nghiệp này sẽ hướng dẫn nông dân sản xuất theo quy trình mới, phù hợp với nhu cầu khách hàng, áp dụng truy xuất nguồn gốc, sử dụng chỉ dẫn địa lý, xây dựng thương hiệu". Chính phủ Việt Nam xác định biện pháp hàng đầu là giải quyết khó khăn xuất khẩu nông sản. Giải quyết các vướn mắc liên quan tiêu chuẩn hàng hóa nhập khẩu của thị trường nước ngoài. Tập trung vào chất lượng nông sản. Năm 2022, sầu riêng đã được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc. Tuy nhiên, việc xuất khẩu bị ràng buộc bởi chất lượng, hàng hóa phải đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng và các vùng nông nghiệp cung cấp đó khi được cấp chứng nhận mã vùng hàng hóa thì mới có thể đưa vào Trung Quốc. Hàng hóa cần tăng cường nhiều mặt hàng sang diện chính ngạch. Biện pháp khác là chú trọng đến thu nhập thấp của nông dân sản xuất các loại nông sản như lúa,...Mở rộng thị trường tiêu thụ các loại nông sản sang nhiều nước. Xem thêm Được mùa, mất giá Lấy ngắn nuôi dài Liên kết 4 nhà Tham khảo Tạp chí Nông nghiệp Thị trường Nhu cầu
19843750
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1i%20hi%E1%BB%87n%20l%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD
Tái hiện lịch sử
Tái hiện lịch sử là một dạng hoạt động mang tính giải trí hoặc giáo dục trong đó chủ yếu bao gồm các cá nhân không chuyên có chung đam mê hoặc sở thích và những người yêu thích lịch sử; Song song với đó, họ thiết lập các dự án hoặc diễn đàn, hội nhóm trên mạng và theo đuổi kế hoạch tái dựng những nét văn hóa truyền thống, văn vật cổ xưa hoặc phục dựng bối cảnh các sự kiện, thời kỳ lịch sử. Đó có thể trong phạm vi hẹp ví dụ như tái hiện khoảnh khắc đặc biệt của một cuộc chiến từng diễn ra trong lịch sử, hoặc mở rộng ra phạm vi lớn hơn chẳng hạn như một triều đại hoặc toàn bộ một thời kỳ lịch sử VD như Sài Gòn trước năm 1975. Xem thêm Danh sách các hội nhóm tái hiện lịch sử trên thế giới Trò chơi nhập vai thực tế Cosplay Lịch sử rèn luyện thể chất và thể lực MilSim Tham khảo Đọc thêm Horwitz, Tony. Confederates in the Attic: Dispatches from the Unfinished Civil War (1998), an ethnographic study of re-enactors and groups engaged in remembrance. Saupe, Achim. Authenticity, Version: 3, in: Docupedia Zeitgeschichte, 12 April 2016. Retrieved 31 January 2017. Stanton, Cathy (1999-11-01). "Reenactors in the Parks: A Study of External Revolutionary War Reenactment Activity at National Parks" (PDF) National Park Service. Retrieved on 2008-07-28. Liên kết ngoài LivingHistory.co.uk, The UK Online Home of Reenacting and Living History China History Forum (CHF). Sự kiện mang bối cảnh lịch sử
19843754
https://vi.wikipedia.org/wiki/HD%204208
HD 4208
HD 4208 là ngôi sao có một ngoại hành tinh đồng hành nằm trong chòm sao phương nam Ngọc Phu. Do có màu vàng cùng cấp sao biểu kiến là 7,78, ngôi sao này quá mờ để có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Tuy nhiên, những dụng cụ như ống nhòm hoặc một kính viễn vọng nhỏ có thể giúp quan sát được dễ dàng. Ngôi sao này nằm cách Mặt Trời 111,6 năm ánh sáng dựa trên thị sai, và đang trôi dần ra xa với vận tốc xuyên tâm là +57 km/s. HD 4208 được đặt tên là Cocibolca. Tên gọi này được lựa chọn thông qua chiến dịch NameExoWorlds bởi Nicaragua nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập IAU. Cocibolca là tên tiếng Nahuatl của hồ Nicaragua. Đây là một sao dãy chính loại G với phân loại sao là , trong đó ký hiệu hậu tố biểu thị sự thiếu hụt sắt và carbyne trong quang phổ. Ngôi sao này có độ tuổi vào khoảng 6,6 tỷ năm và đang tự quay với tốc độ 4,4 km/s. HD 4208 có khối lượng và bán kính bằng 86% Mặt Trời, và đang bức xạ bằng 71% độ sáng Mặt Trời từ quang cầu ở nhiệt độ hiệu dụng là 5.717 K. Hệ hành tinh Năm 2021, một hành tinh đã được phát hiện quay quanh ngôi sao này nhờ phương pháp vận tốc xuyên tâm. Thiên thể này chuyển động cách sao chủ 1,66 AU với chu kỳ dài 2,28 năm, ngoài ra hành tinh này có độ lệch tâm thấp, vào khoảng 0,042. Do nằm gần với vùng ở được của sao chủ, nó có thể gây hiệu ứng nhiễu loạn nghiêm trọng cho bất kỳ hành tinh cỡ Trái Đất nào chuyển động trong khu vực đó. Xem thêm HD 4203 HD 4308 Danh sách ngoại hành tinh Tham khảo Sao dãy chính nhóm G Chòm sao Ngọc Phu Thiên thể Durchmusterung Thiên thể Gliese và GJ Thiên thể HD Thiên thể Hipparcos
19843764
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20V%C3%B2ng%20lo%E1%BA%A1i%20N%E1%BB%AF
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Vòng loại Nữ
Vòng loại nữ Đại hội thể thao châu Á 2022 là giải đấu vòng loại của nữ cho nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022. Giải đấu được tổ chức từ ngày 6 đến ngày 14 tháng 6 năm 2022 tại Jakarta, Indonesia và chọn ra sáu đội hàng đầu đủ điều kiện tham dự Đại hội Thể thao châu Á 2022. Các đội Kết quả Xem thêm Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Vòng loại Nam‎ Tham khảo Vòng loại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Vòng loại Nữ Sự kiện thể thao tháng 6 năm 2022 ở Indonesia Thể thao Indonesia năm 2022 Giải đấu thể thao ở Jakarta Jakarta thập niên 2020
19843773
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á
Khúc côn cầu trên cỏ là một nội dung thi đấu trong Đại hội Thể thao châu Á bắt đầu từ kỳ Đại hội 1958 diễn ra ở Tokyo, Nhật Bản. Giải đấu dành cho nữ được tổ chức từ kỳ Đại hội 1982 ở New Delhi, Ấn Độ. Giải đấu Nam Kết quả Tóm tắt * = chủ nhà Số lần tham gia Giải đấu nữ Kết quả Tóm tắt * = chủ nhà Số lần tham gia Bảng tổng sắp huy chương Tổng hợp Nam Nữ Danh sách huy chương Xem thêm Indoor hockey at the Asian Indoor and Martial Arts Games Men's Hockey Asia Cup Women's Hockey Asia Cup Tham khảo History Môn thể thao tại Đại hội Thể thao châu Á Đại hội Thể thao châu Á Đại hội Thể thao châu Á
19843798
https://vi.wikipedia.org/wiki/McFlurry
McFlurry
McFlurry là thương hiệu một món kem lạnh tráng miệng soft serve được phục vụ trong cốc, có thêm các thành phần như caramel, kẹo M&M's hoặc những mảnh bánh quy Oreo. Nó được sản xuất và bán bởi chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh quốc tế McDonald's có trụ sở tại Hoa Kỳ. Nó được tạo ra vào năm 1995 và được giới thiệu chính thức vào năm 1997. Lịch sử McFlurry được tạo ra bởi Ron McLellan, người nhượng quyền của McDonald's có quốc tịch Canada, ở Bathurst, New Brunswick vào năm 1995. Tại Hoa Kỳ, McFlurry đã được bán thử nghiệm ở một số khu vực vào năm 1997. Đến tháng 3 năm 1998, sản phẩm đã có mặt ở tất cả các địa điểm ở Hoa Kỳ và Canada, dần dần được giới thiệu ở các địa điểm khác kể từ đó. Cho đến tháng 9 năm 2006, McFlurry được phục vụ với một nắp hộp có lỗ mở có kích thước lớn khiến đầu của một số động vật bị mắc kẹt bên trong các cốc bị bỏ đi. Tại Anh nhiều người đã phản đối kịch liệt vấn đề này nhằm bảo vệ nhím gai châu Âu, khiến McDonald's phải thiết kế lại hình dạng của chiếc cốc. Sau một thời gian "nghiên và thử nghiệm thiết kế đáng kể", công ty đã giải quyết vấn đề này vào năm 2006 bằng cách giảm kích thước của lỗ. Vào tháng 6 năm 2019, McDonald's thông báo về kế hoạch ngừng sử dụng nắp nhựa ở Vương quốc Anh trước tháng 9 năm 2019, như một phần của động thái nhằm giảm việc sử dụng đồ nhựa dùng một lần của chuỗi cửa hàng này. Tuy nhiên, nắp nhựa vẫn đang được sử dụng ở một số thị trường khác kể từ tháng 9 năm 2023. Phim truyền hình 30 Rock có sự góp mặt nổi bật của McFlurry trong cốt truyện của tập 11 mùa 3, "St. Valentine's Day". Mặc dù một số nhà phê bình cho rằng sự nổi bật của sản phẩm trong tập phim là do McDonald's bỏ tiền quảng cáo thô thiển, nhưng sau đó có thông tin cho rằng McDonald's đã không trả tiền để có sự xuất hiện món tráng miệng này, và ekip sản xuất chương trình thậm chí còn lo lắng rằng McDonald's có thể kiện tụng vì sử dụng hình ảnh khi chưa có sự cho phép. Chuẩn bị McFlurry bao gồm kem có hương vị vani được đánh bông trong cốc, có một chiếc thìa được thiết kế đặc biệt có lỗ trên tay cầm để gắn vào máy xay. Nhiều loại kẹo hoặc bánh quy khác nhau được thêm vào, rồi sau đó trộn bằng thìa. Hương vị McFlurry khác nhau tùy theo thị hiếu và hương vị mới được giới thiệu thường xuyên. Kem trong McFlurry giống loại kem mà McDonald's sử dụng cho kem ốc quế và kem sundaes. Kem được làm ra từ việc xử lý sữa tiệt trùng (UHT), bổ sung thêm methyl cellulose. CNBC đưa tin rằng, từ cuối năm 2016, McDonald's đã bắt đầu loại bỏ dần hương vị nhân tạo khỏi kem vani của mình. Sự thay đổi này là một phần trong nỗ lực phục hồi hơn 500 triệu lượt truy cập của khách hàng đã bị mất kể từ năm 2012. Đánh giá Mặc dù gọi McFlurry là "một hỗn hợp kem vô hại, sền sệt phục vụ nhanh chóng mà một số nhà phê bình có thể coi là gần giống với đồ trám hơn là sữa", Wil Fulton và Kat Thompson của Thrillist đã mô tả M&M McFlurry là "ví dụ điển hình cho các thứ mua rẻ tiền, dễ ăn", xếp ở cuối danh sách 13 món tráng miệng nhanh ngon nhất. Dan Myers của The Daily Meal đã đưa Oreo McFlurry vào danh sách (không xếp hạng) 10 món tráng miệng nhanh ngon nhất, nói rằng "Bạn sẽ khó gặp được ai không phải là fan của món ăn này." Xem thêm McDonald's Tráng miệng Đọc thêm Tham khảo Liên kết ngoài Thông tin dinh dưỡng của một cốc McFlurry Sản phẩm của McDonald's Nhãn hiệu kem Kem lạnh Món ngọt Món tráng miệng Khởi đầu năm 1997 Khởi đầu năm 1997 ở Canada Món tráng miệng Canada Món tráng miệng Mỹ
19843800
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amblygobius%20decussatus
Amblygobius decussatus
Amblygobius decussatus là một loài cá biển thuộc chi Amblygobius trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1855. Từ nguyên Tính từ định danh decussatus trong tiếng Latinh có nghĩa là "sọc chữ thập", hàm ý đề cập đến 4 sọc ngang trên thân được nối với nhau bởi các sọc dọc tạo thành kiểu hình ô vuông ở loài cá này. Phân bố và môi trường sống A. decussatus có phân bố rộng khắp khu vực Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, từ Singapore và quần đảo Cocos (Keeling) trải dài về phía đông đến quần đảo Marshall và Vanuatu, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản) và đảo Guam, về phía nam đến bờ bắc Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, A. decussatus được ghi nhận ở vùng biển Hải Vân - Sơn Chà (Thừa Thiên Huế), Côn Đảo), cũng như cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. A. decussatus sống trên nền cát mịn, phù sa, đá vụn ở khu vực cửa sông, đầm phá, và trên rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 25 m. Mô tả Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở A. decussatus là 9,5 cm. Cá có màu xám nhạt phớt xanh lam sẫm với 4 sọc cam mờ dọc chiều dài thân cùng các vạch sọc cam khác. Đầu có cặp sọc cam rất rõ. Gốc vây đuôi có đốm cam; vây đuôi bo tròn. Vây lưng trước và sau có chiều cao bằng nhau. Vảy bao phủ phần trên của nắp mang, không có vảy ở má. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 14; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 14. Sinh thái Thức ăn của A. decussatus là vụn hữu cơ và động vật giáp xác nhỏ (như các loài giáp xác chân chèo thuộc bộ Harpacticoida). Loài này được biết là đã sử dụng hang của một loài thủy sinh không xương sống chưa rõ để làm nơi trú ẩn. Thương mại A. decussatus được đánh bắt trong ngành buôn bán cá cảnh. Tham khảo D Cá Ấn Độ Dương Cá Thái Bình Dương Cá Việt Nam Cá Singapore Cá Philippines Cá Nhật Bản Cá Papua New Guinea Cá Palau Cá Vanuatu Cá Nouvelle-Calédonie Động vật quần đảo Solomon Động vật Guam Động vật quần đảo Marshall Động vật được mô tả năm 1855
19843803
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20tr%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20n%C4%83m%202022
Danh sách trận động đất năm 2022
Dưới đây là Danh sách trận động đất năm 2022. Thời điểm động đất xảy ra theo thời gian sẽ được ghi bằng Giờ Phối hợp Quốc tế (UTC). Danh sách chỉ liệt kê trận động đất có cường độ 6.0 richter trở lên (trừ khi có thiệt hại đáng kể). Thống kê Thương vong Cường độ Thời gian Tháng 1 2 tháng 1: Vân Nam, ; cách Shangri-La, Địch Khánh 99 km về phía Đông, cường độ 5.4 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 13 người bị thương. Tại Ninh Lạng, ít nhất 7.904 ngôi nhà bị hư hại và 1.500 bị phá hủy. 3 tháng 1: Ngoài khơi tỉnh Torba, ; cách Sola 110 km về phía Tây Bắc, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 104 km, . Ngoài khơi Hoa Liên, ; cách thành phố Hoa Liên 66 km về phía Tây, cường độ 6.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 19 km, . 4 tháng 1: Ngoài khơi biển Banda, ; cách Katabu 284 km về phía Đông, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 544 km, . 6 tháng 1: Ngoài khơi León, ; cách Corinto 61 km về phía Nam, cường độ 6.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 17 km, . 7 tháng 1 Lima, ; cách Cocachacra 6 km về phía Tây Bắc, cường độ 5.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 95,8 km, . Thanh Hải, ; cách Kim Xương 109 km về phía Tây Nam, cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 13 km, . 9 người bị thương. Xem thêm tại Động đất Thanh Hải 2022. 9 tháng 1: Tây Macedonia, ; cường độ 5.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 13,5 km, . 2 người bị thương Bắc Maluku, ; cường độ 5.4 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 3 người bị thương. 10 tháng 1: Ngoài khơi quần đảo Kermadec, ; cách Whangarei 526 km về phía Đông Bắc, cường độ 6.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 7 km, . Sulaymaniyah, ; cách Jamjamāl 8 km về phía Đông, cường độ 4.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . Một số tòa nhà bị hư hại nhẹ ở huyện Chamchamal. 11 tháng 1: Ngoài khơi huyện Paphos, ; cách Polis 48 km về phía Tây Tây Bắc, cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 21 km, . Sóng thần cao 10 cm. 3 người chết, 1 người bị thương. Xem thêm tại Động đất Paphos 2022. Ngoài khơi quần đảo Fox, Alaska , ; cách Nikolski 100 km về phía Đông Nam, cường độ 6.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 20 km, . Ngoài khơi quần đảo Fox, Alaska , ; cách Nikolski 53 km về phía Đông Nam, cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 19 km, . 14 tháng 1: Ngoài khơi Banten, ; cách Labuan 80 km về phía Tây Nam, cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 33 km, . 10 người bị thương tại Banten. Shkodër, ; cách Fushë-Arrëz 4 km về phía Đông Nam, cường độ 4.3 richter, tâm chấn đọ sâu khoảng 10 km, . 39 công trình hư hại một phần hoặc toàn phần, ước tính thiệt hại lên đến 5 triệu euro. 15 tháng 1: Tỉnh Kerman, ; cách Kerman 31 km về phía Đông Bắc, cường độ 4.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 5 tòa nhà bị hư hại tại Kerman, 2 người bị thương. 16 tháng 1: Ngoài khơi Bougainville, ; cách Panguna 75 km về phía Tây Tây Nam, cường độ 6.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 379 km, . 17 tháng 1: Badhgis, ; cách Qala i Naw 45 km về phía Đông, cường độ 4.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. Badhgis, ; cách Qala i Naw 45 km về phía Đông, cường độ 5.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 11,4 km, . Tỉnh Kayseri, ; cách Sarıoğlan 3 km về phía Tây Bắc, cường độ 4.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 2 người bị thương. 21 tháng 1: Ōita, ; cách Saiki 27 km về phía Đông Đông Nam, cường độ 6.4 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 40 km, và . 13 người bị thương. Xem thêm tại Động đất Biển Hyūga Nada 2022. 22 tháng 1 Ngoài khơi Bắc Sulawesi, ; cách Sarangani 23 km về phía Đông Nam, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 21 km, . 1 người bị thương. Ngoài khơi đảo Fox, Alaska, ; cách Unalaska 70 km về phía Nam, cường độ 6.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 29 km, . 23 tháng 1: Đông Azerbaijan, ; cách Tabriz 7 km về phía Tây Tây Bắc, cường độ 4.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 1 người bị thương. 24 tháng 1: Nippes, ; cách Anse-à-Veau 4 km về phía Nam, cường độ 5.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . Ngoài khơi Nippes, ; cách Anse-à-Veau 4 km về phía Nam, cường độ 5.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . Dư chấn của Động đất Haiti 2021. 2 người chết, 52 người bị thương, 227 ngôi nhà bị phá hủy, 937 ngôi nhà bị hư hại một phần hoặc toàn phần. Tây Úc, ; cách Wagin 23 km về phía Tây, cường độ 4.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 7,4 km, . Một phần của động đất hàng loạt, 12 tòa nhà bị hư hại nhẹ, không có báo cáo thiệt hại về người. 25 tháng 1: Ngoài khơi ; cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 11 km, . 27 tháng 1: Ngoài khơi Ha'aapai, ; cách Pangai 220 km về phía Tây Tây Bắc, cường độ 6.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 6,2 km, . 28 tháng 1: Ngoài khơi tỉnh Chiriquí, ; cách Arenas 281 km về phía Tây Nam, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 8 km, . 29 tháng 1: Ngoài khơi quần đảo Kermadec, ; cách Whangārei 1.081 km về phía Đông Bắc, cường độ 6.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 8 km, . Sóng thần cao 10 cm tại quần đảo Raoul. Tháng 2 1 tháng 2: Ngoài khơi Maluku, ; cách Lospalos, Đông Timor 184 km về phía Đông Bắc, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 119 km, . 3 tháng 2: Loreto, ; cách Barranca 49 km về phía Tây Bắc, cường độ 6.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 110 km, . 4 tháng 2: Ngoài khơi Banten, ; cách Pelabuhanratu 71 km về phía Tây Nam, cường độ 5.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 45,9 km, . Một trường học ở Lebak Regency bị hư hại một phần. Southeast Indian Ridge; cường độ 6.3 richter, tâm chấn độ khoảng 10 km. 5 tháng 2: Tỉnh Badakhshan, ; cách Ashkāsham 46 km về phía Tây Nam, cường độ 5.8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 212 km, . Hai người chết ở tỉnh Badakhstan do lở đất, và một người chết ở Pakistan; 5 ngôi nhà bị phá hủy và 50 ngôi nhà bị hư hại ở Peshawar, Pakistan. 7 tháng 2: Silesia, ; cách Katowice 4 km về phía Đông Nam, cường độ 4.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 3 người bị thương. 8 tháng 2: Sống núi giữa Đại Tây Dương, cường độ 6.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km. 13 tháng 2: Tỉnh Lori, ; cách Metsavan 19 km về phía Tây Nam, cường độ 5.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 50 tòa nhà bị hư hại nhẹ ở Armenia, 21 tòa nhà bị nứt ở Gruzia, hai người bị thương nhẹ ở Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là trận động đất lớn tại Armenia kể từ khi xảy ra động đất vào năm 1988. Ngoài khơi ; cách Malesso 168 km về phía Tây Nam, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 15 km, . 16 tháng 2: Escuintla, ; cách Nueva Concepción 7 km về phía Tây Nam, cường độ 6.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 60 km, . 3 người chết, 2 người bị thương. Xem thêm tại Động đất Guatemala 2022. Phía Nam đảo Fiji, ; cường độ 6,8 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 535 km, . 21 tháng 2: Quần đảo Balleny; cường độ 6.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 14 km, . 22 tháng 2: Tỉnh Jujuy, ; cách thị trấn Abra Pampa 58 km về phía Tây, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 251 km, . 23 tháng 2: Bolívar, ; cách Santa Rosa del Sur 26 km về phía Tây Nam, cường độ 5.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 50,7 km, . Một trường học bị hư hại một phần ở Santa Rosa del Sur. 25 tháng 2: Tây Sumatra, ; cường độ 6.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 4,1 km, . Nhiều công trình ở Tây Sumatra bị phá hủy hay hư hại nghiêm trọng. Các rung chấn có thể cảm nhận được ở Malaysia và Singapore. 27 người chết, 457 người bị thương. Tại Malaysia, hai tòa nhà bị hư hại nhẹ bao gồm cả bệnh viện. Xem thêm tại Động đất Sumatra 2022. Tháng 3 2 tháng 3: Ngoài khơi Quần đảo Kermadec, ; cách Ngunguru 951 km về phía Đông Bắc, cường độ 6.6 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 24 km, . 3 tháng 3: Veracruz, ; cách Nopalapan 15 km về phía Tây Tây Bắc, cường độ 5.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 109,4 km, . Một trường học bị hư hại ở Veracruz. 5 tháng 3: Tỉnh Phôngsali, ; cường độ 4.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 5 ngôi nhà bị hư hại ở Vân Nam, . 6 tháng 3: Ngoài khơi ; cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 15,5 km, . 7 tháng 3: Ngoài khơi tỉnh Lomaiviti, ; cách Levuka 351 km về phía Đông Nam, cường độ 6.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 581,8 km, . 12 tháng 3: Ngoài khơi Tây Java, ; cách Pelabuhanratu 63 km về phía Tây Nam, cường độ 5.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . Một số ngôi nhà bị hư hại một phần hay toàn phần ở Sukabumi. Auvergne-Rhône-Alpes, ; cách Faverges 3 km về phía Nam, cường độ 4.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 2,7 km, . Một số công trình bị hư hại nhẹ ở Frontenex. 13 tháng 3: Ngoài khơi Mimaropa, ; cách Cabra 67 km về phía Tây Bắc, cường độ 6.4 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 11 km, . 3 ngôi nhà ở Lubang bị phá hủy. Ngoài khơi Tây Sumatra, ; cách Pariaman 168 km về phía Tây, cường độ 6.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 21,8 km, . 1 người bị thương. Sóng thần cao 8 cm. 15 tháng 3: Arequipa, ; cách Huambo 16 km về phía Đông Đông Nam, cường độ 4.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . Một số ngôi nhà bị hư hại một phần ở Maca và sạt lở xảy ra tại Caylloma. 16 tháng 3: Tây Java, ; cách Banjar 80 km về phía Tây Nam, cường độ 5.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 37 km, . 7 ngôi nhà bị hư hại ở Cianjur. Arequipa, ; cách huyện Tapay 12 km về phía Nam, cường độ 5.5 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10,7 km, . Tại huyện Maca, 286 ngôi nhà bị phá hủy và hơn 900 ngôi nhà bị hư hại; lở đất đã xảy ra tại huyện Caylloma. 6 người bị thương. Gilgit-Baltistan, ; cách Gilgit 67 km về phía Đông Nam, cường độ 5.1 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 9,1 km, . 1 người chết, 7 người bị thương. 14:34 (lúc 23:34 theo giờ JST), ngoài khơi của tỉnh Fukushima, ; cách thị trấn Namie 62 km về phía Đông Bắc, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 48,1 km, và . Tiền chấn của Động đất ngoài khơi Fukushima 2022. 14:36 (lúc 23:36 theo giờ JST), Hamadōri, Fukushima, ; cách thị trấn Namie 62 km về phía Đông Bắc, cường độ 7.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 41 km, và . Động đất đã làm rung chuyển vùng Tōhoku, Kantō, Hokuriku và một phần của Hokkaidō. Hơn 10.000 ngôi nhà hư hại, 600 ngôi nhà bị phá hủy, mất điện diện rộng, vỡ nước nghiêm trọng, trật bánh tuyến đường sắt cao tốc Tōhoku Shinkansen. Sóng thần cao 30 cm tại cảng Ishinomaki, Miyagi. Hậu quả đã làm 3 người chết tại ba thành phố Shiogama, Sōma và Tome; 247 người bị thương. Dư chấn của Động đất và sóng thần Tōhoku 2011. Xem thêm tại Động đất ngoài khơi Fukushima 2022. Tỉnh Hormozgan, ; cường độ 5.9 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 22 km, . Hai người bị thương, một số ngôi nhà bị hư hại một phần. 19 tháng 2: Ngoài khơi Tỉnh Béjaïa, ; cường độ 5.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . Hơn 1.700 công trình (bao gồm tòa nhà, trường học và bệnh viện) bị hư hại. 30 người bị thương. Tỉnh Fars, ; cách Darab 91 km về phía Đông Nam, cường độ 4.7 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10 km, . 2 người bị thương. Ngoài khơi Eua, ; cách Ohonua 462 km về phía Đông Nam, cường độ 6.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 21 km, . 20 tháng 1: Đông Visayas, ; cách Burauen 5 km về phía Tây Nam, cường độ 5.3 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 10km, . Ít nhát 1 ngôi nhà bị sập, 39 ngôi nhà khác bị hư hại ở Burauen. Ngoài khơi Quần đảo Kermadec, ; cách Whangārei 1.107 km về phía Đông Bắc, cường độ 6.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 47,6 km, . Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Tham khảo Danh sách liên quan đến năm 2022 Danh sách trận động đất theo năm Động đất năm 2022 Danh sách trận động đất thế kỷ 21 Thiên tai năm 2022
19843804
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20Huliaipole
Trận Huliaipole
Trận Huliaipole bắt đầu vào ngày 5 tháng 3 năm 2022 khi Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga triển khai Chiến dịch phía Nam ở Zaporizhzhia, đẩy lùi Lực lượng Vũ trang Ukraina trên khắp mặt trận cho tới khi tiền tuyến bắt đầu hết tiến triển. Lúc này quân đội Nga đã ở phía Nam thành phố và bắt đầu nỗ lực chiếm nó nhưng bị quân đội Ukraina đánh bật khỏi thành phố. Sau thất bại trong việc không thể chiếm được thành phố, quân đội Nga đã nã pháo vào mọi mục tiêu tại thành phố hàng tháng liền. Tham khảo Nga xâm lược Ukraina 2022