text
stringlengths 82
354k
|
---|
Bachtiar Djafar (27 tháng 7 năm 1939 – 3 tháng 8 năm 2021) là một sĩ quan quân đội và chính trị gia người Indonesia, ông từng là thị trưởng Medan, Bắc Sumatra từ năm 1990 đến 2000.
Djafar sinh tại Labuhan Deli, nay là huyện Deli Serdang, vào ngày 27 tháng 7 năm 1939.
Ông phục vụ trong Lục quân Indonesia trước khi hoạt động chính phủ, bao gồm khoảng thời gian là một phần của #đổi . Djafar tuyên thệ nhậm chức thị trưởng Medan vào ngày 2 tháng 4 năm 1990. Vào thời điểm đó, ông mang cấp bậc thượng tá và là người gốc Mã Lai đầu tiên giữ chức thị trưởng Medan. Ông đảm nhiệm nhiệm kỳ thứ hai vào năm 1995. Trước Djafar, các thị trưởng Medan của Indonesia là người gốc Batak hoặc Mandailing.
Djafar được biết đến trong việc phát triển các khu phía bắc Medan trong nhiệm kỳ. Dưới thời Djafar, chính quyền thành phố triển khai trùng tu Nhà thờ Hồi giáo Al-Osmani xây dựng vào năm 1854. Thành phố thực hiện quá trình nạo vét tại sông Deli, việc những người kế nhiệm Djafar sau này không thực hiện. Trong nhiệm kỳ thị trưởng, ông giữ chức chủ tịch hội đồng cố vấn chi nhánh đảng Golkar của Medan.
Nhiệm kỳ thị trưởng của ông kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2000. Sau nhiệm kỳ thị trưởng, ông tiếp tục phục vụ với vai trò cố vấn trong đảng Golkar. Ông tranh cử với tư cách là ứng cử viên thượng nghị sĩ cho Bắc Sumatra trong cuộc bầu cử lập pháp Indonesia 2004, nhưng không trúng cử. Djafar nhận danh hiệu danh dự Datuk từ Vương thổ Langkat vào tháng 3 năm 2013. Ông kết hôn với Rosmeini Bachtiar và có hai người con.
Djafar qua đời ngày 3 tháng 8 năm 2021. Sau khi ông qua đời, một bệnh viện công vừa thành lập ở khu Medan Labuhan được đổi theo tên ông vào tháng 12 năm 2022. |
Cơ quan Bảo vệ Liên bang Nga
Cơ quan Bảo vệ Liên bang Nga (tiếng Nga: "Федеральная служба охраны"/"Federalnaya Sluzhba Okhrany" viết tắt là FSO, tiếng Anh là "Federal Protective Service" được dịch là "Cục Bảo vệ Liên bang") là một cơ quan thuộc Chính phủ Liên bang Nga chuyên thực thi các nhiệm vụ liên quan đến việc bảo vệ những quan chức cấp cao của nhà nước. Cơ quan này thực thi chức năng theo sự ủy quyền từ các luật liên quan, với đối tượng được bảo vệ bao gồm cả Tổng thống Nga, cũng như một số tài sản liên bang. Cơ quan Bảo vệ Liên bang Nga có nguồn gốc là một nhánh của KGB với tên gọi là Cục 9 KGB hay Devyatka ("девятка") và sau đó là "Cơ quan An ninh Tổng thống" (SBP) do tướng KGB Alexander Korzhakov lãnh đạo.
Vào ngày 27 tháng 5 năm 1996, Đạo luật "Về Bảo vệ Nhà nước" đã tổ chức lại GUO ("Glavnoye Upravlenie Okhrani") thành FSO (Cơ quan Bảo vệ Liên bang). FSO bao gồm "Cơ quan An ninh Tổng thống Nga". Công tác an ninh cá nhân của tổng thống được đặt dưới sự chỉ đạo của Viktor Zolotov là nhân vật giám sát toàn bộ FSO. Theo phương Tây thì FSO bao gồm khoảng 50.000 nhân viên và kiểm soát "hộp đen" (vali hạt nhân) có thể được sử dụng trong trường hợp chiến tranh hạt nhân. Cơ quan này được cho là được ưu tiên sử dụng các thành tựu kỹ thuật tiên tiến trong nước để thực thi nhiệm vụ.
FSO không chỉ bảo vệ cho Tổng thống Nga mà còn bảo đảm an ninh cho các thẩm phán, nhân chứng, quan chức và các địa điểm quan trọng ở Nga như Điện Kremlin hay tòa nhà Quốc hội. FSO có thể tiến hành hoạt động tác chiến và điều tra, thực hiện nghe lén, bắt giữ công dân, lục soát nhà, nơi ở khám xét thư từ, bắt giữ công dân và trưng dụng xe ô tô khi cần. FSO có nhiệm vụ theo dõi và cung cấp thông tin về tình hình kinh tế-xã hội tại các vùng miền của Nga cho các quan chức cấp cao của chính phủ. Ngoài việc bảo vệ các tòa nhà của Nhà nước cùng các địa điểm trọng yếu, các nhân viên FSO còn chịu trách nhiệm về bảo vệ các tuyến đường dẫn tới các cơ sở này và luôn để mắt tới những người dân sống ở các khu vực đó.
FSO lại là một cơ quan đầy quyền lực, đa mục đích và cực kỳ bí mật nên gần như không có một lực lượng an ninh nào tại Nga khép kín hơn FSO. Không có dữ liệu hay báo cáo công khai về các hoạt động của tổ chức này. Chỉ những người được tin cậy đặc biệt mới được làm việc cho FSO. Đôi lúc nhân viên FSO mặc áo vét đen với micro nhỏ gắn trong tai. Khi thì họ mặc đồ dân sự và trà trộn vào đám đông, FSO còn cạnh tranh với cả FSB và Cục Quản lý Tài sản Tổng thống. FSO hiện có khoảng 20.000-30.000 người, cũng có thông tin cho rằng quân số của lực lượng này lên đến 50.000 người. Đội cận vệ bảo vệ Tổng thống Putin là các nhân viên Cục An ninh Tổng thống, cục này trực thuộc FSO với quân số từ 2.000-3.000 nhân viên mặc thường phục. |
Hoa Kỳ tại những đấu trường sắc đẹp lớn nhất thế giới
Đây là danh sách chỉ sự tham gia và thành tích của Hoa Kỳ tại các đấu trường sắc đẹp lớn nhất hành tinh, bao gồm Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Quốc tế, Hoa hậu Trái Đất, Hoa hậu Siêu quốc gia và Hoa hậu Hòa bình quốc tế. Hoa Kỳ gửi đại diện đến Hoa hậu Hoàn vũ lần đầu vào năm 1952, Hoa hậu Thế giới vào năm 1951, Hoa hậu Quốc tế vào năm 1960, Hoa hậu Trái Đất vào năm 2001, Hoa hậu Siêu quốc gia vào năm 2011 và Hoa hậu Hòa bình Quốc tế vào năm 2013. Hoa Kỳ có tổng cộng 17 chiến thắng
9 lần - Hoa hậu Hoàn vũ (1954 • 1956 • 1960 • 1967 • 1980 • 1995 • 1997 • 2012 • 2022)
3 lần - Hoa hậu Thế giới (1973 • 1978 • 2010)
3 lần - Hoa hậu Quốc tế (1974 • 1978 • 1982)
1 lần - Hoa hậu Trái Đất (2020)
1 lần - Hoa hậu Hòa bình Quốc tế (2020)
Các cuộc thi nhượng quyền của Hoa Kỳ của sáu cuộc thi sắc đẹp lớn như sau:
Hàng trăm cuộc thi sắc đẹp được tiến hành hàng năm, nhưng Big Six được coi là danh giá nhất, được các phương tiện truyền thông đưa tin và phát sóng rộng rãi. The Wall Street Journal, BBC News, CNN, Tân Hoa Xã và các hãng thông tấn toàn cầu như Reuters và Agence France-Presse gọi chung là sáu cuộc thi chính là "Big Six" là: Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Quốc tế, Hoa hậu Trái đất, Hoa hậu Siêu quốc gia và Hoa hậu Hòa bình Quốc tế. |
Thánh Scholastica (phát âm tiếng Việt như là "Scôlastica" đồng trinh hay Thánh nữ "Cô-lát-ti-ca"; sinh khoảng năm 480 – 10 tháng 2 năm 543 sau Công nguyên) là một nữ thánh của Giáo hội Công giáo, Giáo hội Chính thống giáo Đông phương và Cộng đồng Anh giáo. Bà sinh ra ở Ý và theo một truyền thống từ thế kỷ thứ chín cho rằng bà là chị em sinh đôi với Biển Đức thành Norcia. Ngày lễ của nữ thánh này nhằm ngày 10 tháng 2 gọi là "Ngày Thánh Scholastica". Thánh Scholastica theo truyền thống được coi là người sáng lập dòng nữ tu Biển Đức (Benedictines). Hình ảnh phổ biến của vị nữ thánh này xuất hiện với bộ dạng cầm cây gậy mục tử và cây thánh giá, với con chim bồ câu bay ra từ mồm của nữ thánh.
Thánh nữ Scholastica và Thánh Bênêđictô là hai người con song sinh của ông Anicius Eupropius và bà Claudia Abondantia Reguardati, chào đời vào năm 480 tại Nursia, Umbria, miền trung nước Ý ngày nay. Một số ý kiến cho rằng họ là “"huynh muội"” với nhau nhưng cũng có sách gọi là “"tỷ muội"”, nhưng đa số đã đặt thánh Scholastica làm người em. Thánh Bênêđictô và thánh Scholastica có thói quen mỗi năm đến vấn an nhau một lần tại một nơi ở giữa hai tu viện rồi cùng nhau cầu nguyện và đàm đạo kéo dài có khi kéo dài từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau. Sau này khi đang cầu nguyện trong phòng tu nhỏ, thánh Bênêđictô có thị kiến là linh hồn thánh nữ Scholastica như hình chim bồ câu trắng bay bổng lên trời bèn sai các đan sĩ đến tu viện thì biết bà đã không còn. |
Tician Tushi (sinh ngày 2 tháng 4 năm 2001) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Thụy Sĩ hiện đang chơi ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Xamax, cho mượn từ Basel.
Sự nghiệp thi đấu.
Tushi ra mắt Basel trong trận thắng 2–1 trước FC Thun, trong khuôn khổ Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sĩ vào ngày 22 tháng 5 năm 2019.
Ngày 7 tháng 1 năm 2022, Tushi được đem cho mượn tại câu lạc bộ Winterthur cho đến hết mùa giải.
Ngày 30 tháng 1 năm 2023, Tushi gia nhập Xamax theo dạng cho mượn.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế.
Tushi được sinh ra tại Thụy Sĩ và là người gốc Kosovo và Albania. Anh ta là cầu thủ trẻ thi đấu quốc tế cho Thụy Sĩ. |
Dòng Chị Em Thanh Bần
Dòng Chị Em Thanh Bần hay Dòng Chị Em Thương Khó (tiếng Anh: "Poor Clares", tiếng Latinh: "Ordo sanctae Clarae", ban đầu được gọi là "Dòng các Quý bà Nghèo khó" và còn được gọi là "Clarisses" hoặc "Clarissines", "Minoresses", "Dòng Franciscan Clarist" và Dòng thứ hai của "Saint Francis") là thành viên của Dòng nữ tu chiêm niệm trong Giáo hội Công giáo. Dòng Chị Em Thương Khó là chi nhánh thứ hai của dòng Phanxicô được thành lập. Dòng tu này được Clare xứ Assisi và Francis xứ Assisi thành lập ra vào Chúa Nhật Lễ Lá năm 1212, Dòng tu này được tổ chức sau Dòng Anh Em Hèn Mọn (Dòng đầu tiên), và trước Dòng Ba Thánh Phanxicô dành cho giáo dân. Tính đến năm 2011, dòng tu này đã có hơn 20.000 nữ tu ở hơn 75 quốc gia trên thế giới. Họ tuân theo một số quan sát khác nhau và được tổ chức thành các liên đoàn.
Trong lịch sử, nữ tu Clare đã trốn khỏi nhà để gia nhập cộng đồng anh em của mình tại Portiuncula, một nơi cách bên ngoài thị trấn mặc dù, theo truyền thống, gia đình bà muốn ép buộc đưa bà về nhà, nhưng sự cống hiến cho sự thánh thiện và khó nghèo của Clare đã truyền cảm hứng cho các anh em nên họ đã chấp nhận quyết định này. Và rồi sau đó vào năm 1216, Francis đã có thể cung cấp cho Clare xứ Assisi và những người bạn đồng hành một tu viện liền kề với nhà nguyện của San Damiano nơi mà bà đã trở thành tu viện trưởng. Mẹ của Clare, hai chị gái và một số phụ nữ giàu có khác từ Florence đã sớm gia nhập trật dòng tu mới. Nữ tu Clare đã cống hiến mình cho các nguyên tắc nghiêm ngặt của Đức Phanxicô đặt ra quy tắc về sự nghèo đói cùng cực nghiêm khắc hơn nhiều so với quy tắc của bất kỳ dòng tu nữ nào vào thời điểm đó. |
Đại hội đồng Tennessee (tiếng Anh: "Tennessee General Assembly - TNGA") là cơ quan lập pháp của tiểu bang Tennessee, Hoa Kỳ. Đây là cơ quan lập pháp lưỡng viện bán thời gian bao gồm Thượng viện và Hạ viện. Chủ tịch Thượng viện mang chức danh bổ sung là Phó Thống đốc bang Tennessee. Ngoài việc thông qua ngân sách cho chính phủ tiểu bang và các luật khác, Đại hội đồng còn bổ nhiệm ba quan chức bang theo quy định của hiến pháp bang. Nó cũng là cơ quan khởi xướng trong bất kỳ quá trình sửa đổi hiến pháp của tiểu bang.
Trụ sở của Nghị viện Tennessee đặt tại Điện Capitol bang Tennessee, thành phố Nashville, toà nhà này cũng là trụ sở của chính phủ tiểu bang. Tennessee là 1 trong 19 tiểu bang ở Mỹ lấy tên cơ quan lập pháp bang là "Đại hội đồng" (General Assembly).
Quy định của Hiến pháp.
Theo Hiến pháp bang Tennessee năm 1870, Đại hội đồng là cơ quan lập pháp lưỡng viện, với Thượng viện gồm 33 thành viên và Hạ viện gồm 99 thành viên.
Các đại diện được bầu với nhiệm kỳ hai năm; Theo một sửa đổi hiến pháp năm 1966, các thượng nghị sĩ được bầu theo nhiệm kỳ 4 năm theo hình thức so le, với các quận có số chẵn được bầu vào năm bầu cử Tổng thống và những quận có số lẻ được bầu vào các năm bầu cử thống đốc bang Tennessee .
Theo Hiến pháp Tennessee, mỗi đại diện phải tối thiểu 21 tuổi, là công dân Hoa Kỳ, đã là cư dân của tiểu bang trong ba năm và cũng là cư dân của quận mà họ đại diện một năm trước cuộc bầu cử. Hiến pháp tiểu bang cũng quy định rằng mỗi thượng nghị sĩ phải tối thiểu 30 tuổi, là công dân Hoa Kỳ, cư trú ba năm tại Tennessee và cư trú tại quận một năm trước cuộc bầu cử.
Cơ quan lập pháp bán thời gian.
Để giữ cho cơ quan lập pháp là một cơ quan bán thời gian, nó bị giới hạn trong 90 "ngày lập pháp" cho mỗi nhiệm kỳ 2 năm, cộng thêm tối đa 15 ngày cho các mục đích tổ chức vào đầu mỗi nhiệm kỳ. Ngày lập pháp được coi là bất kỳ ngày nào mà Hạ viện hoặc Thượng viện họp chính thức tại các hội trường của mỗi viện. Các nhà lập pháp được trả mức lương cơ bản là 19.009 đô la Mỹ cùng với công tác phí là 171 đô la mỗi ngày lập pháp. Nếu cơ quan lập pháp tiếp tục họp lâu hơn 90 ngày lập pháp, các nhà lập pháp sẽ ngừng rút tiền chi phí của họ.
Các nhà lập pháp cũng nhận được "trợ cấp văn phòng" 1.000 đô la mỗi tháng, bề ngoài là để duy trì khu vực văn phòng dành cho công việc lập pháp của họ tại nhà của họ hoặc ở những nơi khác trong quận của họ. Theo truyền thống, về mặt chính trị, việc tăng công tác phí và phụ cấp văn phòng dễ dàng hơn so với tiền lương.
Chủ tịch của mỗi viện được hưởng lương gấp 3 lần các thành viên khác. Theo luật ban hành năm 2004, các nhà lập pháp sẽ được tăng lương bằng với mức tăng lương cho nhân viên nhà nước năm trước, nếu có.
Thống đốc cũng có thể triệu tập "các phiên họp bất thường", giới hạn trong chủ đề hoặc các chủ đề được nêu trong cuộc gọi và giới hạn trong 20 ngày nữa. Hai phần ba mỗi viện cũng có thể bắt đầu kêu gọi như vậy bằng các đơn thỉnh nguyện. |
Renningen là một thị trấn thuộc huyện Böblingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart 18 km về phía tây.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Gärtringen là một thị xã thuộc huyện Böblingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart 25 km về phía tây nam, bao gồm các làng là Rohrau và Gärtringen.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Jujutsu tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
Nhu thuật hay Jujitsu là một trong những môn thể thao được tranh tài tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 ở Campuchia. Môn Jujitsu tại SEA Games 32 diễn ra trong 3 ngày (4/5, 6/5 và 7/5) tại Trung tâm Hội nghị Chroy Changvar.
Nội dung thi đấu.
Môn JuJitsu sẽ bao gồm Mười ba (13) nội dung bao gồm: sáu (6) hạng mục dành cho nam, năm (5) hạng mục dành cho nữ và hai (2) hạng mục hỗn hợp.
- Ne-Waza: 02 VĐV nam nội dung Ne waza GI, 02 VĐV nam nội dung Ne-waza NOGI và 01 VĐV nữ nội dung Ne-waza GI nữ, 02 VĐV nữ nội dung Ne-waza NOGI nữ.
- DUO/SHOW: 01 Đôi nam DUO, 01 Đôi nữ DUO, 01 Đôi nam nữ DUO, 01 Đôi nam SHOW, 01 Đôi nữ SHOW, 01 Đôi nam nữ SHOW
Chương trình thi đấu.
Môn Jujitsu tại SEA Games 32 khởi tranh vào ngày 04/5. Trước đó, vào ngày 02/5 sẽ diễn ra cuộc họp của các Trưởng đoàn của các đội tham dự.
templatestyles src="Bản mẫu:Static row numbers/" /
templatestyles src="Bản mẫu:Static row numbers/" /
Bảng tổng sắp huy chương.
| host = CAM
| flag_template = flagSEAGF
| event = 2023 |
Danh sách cơ quan đại diện ngoại giao của Estonia
Danh sách này liệt kê các cơ quan ngoại giao của Estonia ở các nước khác. Sau khi Estonia phục hồi độc lập từ Liên Xô, vào ngày 12 tháng 4 năm 1990, Bộ Ngoại giao của nước này đã được tái thành lập. Ban đầu, nhân viên của bộ phải làm việc liên tục trong tuần và chỉ có các cơ sở và vật tư cơ bản. Sau khi đảm bảo cho sự công nhận quốc tế của Estonia, các đại sứ quán đã được mở ở New York, Helsinki, Stockholm, Copenhagen, Bonn, Paris và Moscow.
Chính phủ Estonia xem việc sáp nhập Estonia vào Liên Xô là bất hợp pháp, và Bộ Ngoại giao vẫn hoạt động liên tục từ năm 1918 đến nay.
Các nước Estonia, Latvia, Lithuania (các nước Baltic) cùng với các nước Bắc Âu đã ký kết một thỏa thuận để đăng cai các nhân viên ngoại giao tại các đại sứ quán của nhau ở các nước khác, với sự hỗ trợ của nhóm Tám quốc gia vùng Baltic và Bắc Âu.
Tổng số địa điểm đại sứ quán Estonia: 41 |
Papua Cao nguyên () là một tỉnh của Indonesia, gần như theo ranh giới của khu vực phong tục Lano-Pago của người Papua. Tỉnh có diện tích và có dân số là 1.430.459 theo ước tính chính thức vào giữa năm 2022.
Tỉnh Papua Cao nguyên được thành lập chính thức vào ngày 11 tháng 11 năm 2022, từ phần trung tâm và núi non của tỉnh Papua cũ. Tỉnh nằm tại vùng cao nguyên trung tâm của Tây New Guinea, là tỉnh không giáp biển duy nhất của Indonesia. Thủ phủ của Papua Cao nguyên là Wamena, thuộc huyện Jayawijaya. Dự luật thành lập tỉnh được phê chuẩn vào ngày 30 tháng 6 năm 2022, được tổng thống ký thành luật vào ngày 25 tháng 7, trở thành một trong ba tỉnh mới nhất của Indonesia, cùng với Trung Papua và Nam Papua.
Tỉnh tuân theo ranh giới hành chính ban đầu của huyện Jayawijaya từ năm 1969 đến năm 2002. Về mặt văn hóa, Papua Cao nguyên nhìn chung bao phủ khu vực phong tục La Pago.
Tỉnh mới bao gồm tám huyện (kabupaten), được liệt kê dưới đây với các khu vực và dân số của họ theo điều tra nhân khẩu năm 2020, và theo ước tính chính thức vào giữa năm 2021. Vào ngày 11 tháng 12 năm 2002, ba huyện mới được thành lập từ các phần của huyện Jayawijaya - Pegunungan Bintang (dãy núi Bintang), Tolikara và Yahukimo. Sau đó vào ngày 4 tháng 1 năm 2008, bốn huyện mới khác được thành lập từ các phần khác của huyện Jayawijaya - Lanny Jaya, Mamberamo Tengah (Trung Mamberamo), Nduga và Yalimo. |
Hinterbrühl là một địa diểm thuộc München.
Chỗ này thuộc khu phố Thalkirchen phía nam khu vực Maria Einsiedel giữa bờ cao sông Isar và Isar-Werkkanal. Floßkanal chảy qua vùng đất này. Phía bắc của Hinterbrühl là Zentrallände và sân golf München Thalkirchen.
Trong thế kỷ 19 Hinterbrühl thuộc phần đất của xã độc lập Thalkirchen. Tên này ban đầu là tên gọi một nông trại, sau này là Gasthof Hinterbrühl, một quán ăn có Biergarten.
Ở Hinterbrühl chỉ có ít nhà: Gasthof Hinterbrühl, Nhà người trông cổng đập được xây 1899 cùng với việc xây dựng Zentrallände, Nhà để thuyền và một quán có Biergarten nhỏ ở Hồ. Còn thì có một công viên chung quanh hồ Hinterbrühl, là một phần của chuỗi công viên nằm trên bờ dốc sông Isar, tiếp nối nhau hầu như không gián đoạn kéo dài từ Hinterbrühl qua Gierlinger Park và Neuhofener Berg tới phần dưới khu phố Harras.
Khu vực Hinterbrühl là một phần Khu vực bảo vệ phong cảnh vùng ngập nước cạnh sông Isar |
Mùa gió chướng là phim chiến tranh của điện ảnh Việt Nam năm 1978, Hồng Sến đạo diễn, nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết kịch bản theo truyện ngắn cùng tên của ông, với các diễn viên: Thùy Liên, Lý Huỳnh, Nguyễn Phúc, Minh Đáng, Thúy An, Lâm Tới. Bộ phim giành được 4 giải tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1980 cho phim truyện nhựa, nam diễn viên, nữ diễn viên và quay phim xuất sắc.
Có hai chiến sĩ quân giải phóng là Châu và Năm Bờ được trên cử về công tác tại một địa phương ở miền Tây Nam bộ. Tại đây Châu gặp và làm quen với cô giao liên tên Bé Ba, giữa họ dần nảy sinh tình cảm.
Năm Bờ cũng được gặp lại người yêu là Sáu Linh, chỉ huy du kích tại địa phương. Tuy nhiên, niềm vui của họ chưa thật sự trọn vẹn vì cả hai chiến sĩ phải vào cuộc chiến đấu chống càn trong kế hoạch dồn dân lập ấp của địch. Phía bên kia chiến tuyến là đại úy Long, Long điên cuồng diệt cộng, tích cực tổ chức các cuộc hành quân càn quét. Trong một trận càn ác liệt, Châu đã hy sinh. Sáu Linh may mắn thoát được đại úy Long, nhờ vào sự che chở và bảo bọc của dân làng, cô cải trang qua mắt kẻ địch mà trà trộn vào tận ấp để chỉ đạo cơ sở hoạt động. Sau đó Năm Bờ bị bắt giữ trong một lần bị bố ráp, Sáu Linh cùng các chiến sĩ và bà con đột nhập được vào nhà bắt sống đại úy Long, buộc hắn phải thả Năm Bờ và tuyên bố đầu hàng cách mạng.
Trong niềm vui giải phóng, người ta thấy đại úy Long cúi mặt xấu hổ trước hạnh phúc đoàn viên của nhân dân.
Bộ phim được quay tại Đồng Tháp Mười đúng vào mùa gió chướng. Đây là bộ phim điện ảnh tay của cả đạo diễn Hồng Sến, Thúy An, nhà văn Nguyễn Quang Sáng; Sáu Linh cũng là vai diễn chính đầu tiên của nghệ sĩ Thùy Liên.
Năm 1980, Thùy Liên trở thành diễn viên miền Nam đầu tiên giành giải tại một kỳ Liên hoan phim Việt Nam. Bà tham gia đề cử với vai Sáu Linh trong "Mùa gió chướng" và Bảy Hạnh trong Tình đất Củ Chi.
"" trên Internet Movie Database |
Trang phục Hồi giáo
Trang phục Hồi giáo ("Islamic clothing") là trang phục, quần áo ăn bận phù hợp với giáo lý của đạo Hồi. Người Hồi giáo mặc nhiều loại quần áo khác nhau, không chỉ bị ảnh hưởng do những lề luật về tôn giáo mà còn bởi các yếu tố thực tại, khí hậu, văn hóa, xã hội và chính trị. Trong thời hiện đại, một số người Hồi giáo đã dùng trang phục dựa trên truyền thống phương Tây (Âu phục), trong khi những người khác mặc trang phục truyền thống của người Hồi giáo theo kiểu hiện đại, qua nhiều thế kỷ thường bao gồm quần áo dài và thướt tha. Bên cạnh những lợi ích thiết thực của nó đối với khí hậu khô nóng ở vùng Trung Đông, quần áo rộng rãi cũng thường được coi là phù hợp với giáo lý Hồi giáo, quy định rằng những vùng cơ thể có bản chất gợi dục (vùng kín) phải được che giấu khỏi tầm nhìn của thiên hạ.
Trang phục truyền thống của đàn ông Hồi giáo thường che ít nhất là đầu và vùng giữa thắt lưng và đầu gối, trong khi trang phục Hồi giáo của phụ nữ che giấu mái tóc và cơ thể từ mắt cá chân đến cổ Một số phụ nữ Hồi giáo cũng che mặt (đeo Burqa). Tuy nhiên, những người Hồi giáo khác tin rằng Kinh Qur'an không bắt buộc phụ nữ phải đội khăn trùm đầu hoặc khăn che đầu. Trang phục truyền thống chịu ảnh hưởng của hai nguồn lề luật là Kinh Qur'an và những Hadith. Kinh Qur'an cho ra các nguyên tắc hướng dẫn được cho là đến từ Chân Chủ Thượng Đế, trong khi Hadith mô tả một hình mẫu con người được gán cho nhà tiên tri Hồi giáo Muhammad.
Giới luật Hồi giáo nhắc đến sự khiêm tốn ("Haya") là nền tảng của trang phục Hồi giáo. Các tín đồ của Hồi giáo tin rằng bổn phận tôn giáo của đàn ông và phụ nữ Hồi giáo trưởng thành là phải ăn mặc giản dị, như một điều bắt buộc ("Farḍ") được sự đồng thuận của cộng đồng ("Ijma"). Theo quan điểm truyền thống của Hồi giáo Sunni, đàn ông phải che từ rốn đến đầu gối, mặc dù họ khác nhau về việc điều này bao gồm rốn và đầu gối hay chỉ che phần giữa chúng. Theo truyền thống, phụ nữ được khuyến khích che phần lớn cơ thể họ trừ bàn tay và khuôn mặt. Một từ tiếng Ả Rập gắn liền với quần áo Hồi giáo và "Haya" là "Khimar" (خمار), dịch sang tiếng Anh là "tấm mạng che mặt". Tấm màn che mặt lại nổi lên như một chủ đề bàn tán vào những năm 1990 khi có lo ngại về khả năng phương Tây xâm nhập các hoạt động Hồi giáo ở các quốc gia Hồi giáo.
Trang phục Hồi giáo ở Châu Âu, đáng chú ý là sự đa dạng của các loại mũ được phụ nữ Hồi giáo đội mặc đã trở thành một biểu tượng nổi bật về sự hiện diện của Hồi giáo ở Tây Âu. Ở một số quốc gia, việc tuân theo "Hijab" (một danh từ tiếng Ả Rập có nghĩa là "che đậy") đã dẫn đến những tranh cãi chính trị không ngớt và các đề xuất về một lệnh cấm hợp pháp. Chính phủ Hà Lan đã quyết định ban hành lệnh cấm quần áo che mặt, thường được mô tả là "lệnh cấm Burqa", mặc dù lệnh cấm này không chỉ áp dụng cho "burqa" kiểu Afghanistan. Các quốc gia khác, chẳng hạn như Pháp và Úc đang tranh luận về các đạo luật tương tự hoặc có các lệnh cấm hạn chế hơn. Một số chỉ áp dụng cho quần áo che mặt như "Burqa", "Chador", "Boushiya", hoặc "Niqab"; một số áp dụng cho bất kỳ quần áo nào có biểu tượng tôn giáo là Hồi giáo, chẳng hạn như "Khimar" là một loại khăn trùm đầu (một số quốc gia đã có luật cấm đeo khẩu trang ở nơi công cộng, có thể áp dụng cho mạng che mặt).
Mặc dù vùng Balkan và Đông Âu có dân số bản địa Hồi giáo nhưng hầu hết người Hồi giáo ở Tây Âu là thành viên của các cộng đồng nhập cư. Vấn đề trang phục Hồi giáo có liên quan đến các vấn đề di cư và vị trí của Hồi giáo trong xã hội phương Tây. Ủy viên Châu Âu Franco Frattini cho biết vào tháng 11 năm 2006 rằng ông không ủng hộ lệnh cấm Burqa. Đây rõ ràng là tuyên bố chính thức đầu tiên về vấn đề cấm trang phục Hồi giáo từ Ủy ban Châu Âu, cơ quan điều hành của Liên minh Châu Âu. Những lý do được đưa ra để cấm khác nhau. Các lệnh cấm hợp pháp đối với quần áo che mặt thường được biện minh vì lý do an ninh, như một biện pháp chống khủng bố.
Ayaan Hirsi Ali coi Hồi giáo là không tương thích với các giá trị Phương Tây, ít nhất là ở dạng hiện tại. Ayaan Hirsi Ali ủng hộ các giá trị của "Thời đại Khai sáng chủ nghĩa tự do", bao gồm chủ nghĩa thế tục và bình đẳng của phụ nữ. Đối với Ayaan Hirsi Ali thì Burqa hay Chador đều là biểu tượng của tôn giáo theo thuyết tục tĩu và sự áp bức phụ nữ. Theo quan điểm của Ayaan Hirsi Ali thì các giá trị Khai sáng của phương Tây không đòi hỏi phải có sự cấm đoán, bất kể phụ nữ có tự do lựa chọn trang phục Hồi giáo hay không. Trang phục Hồi giáo cũng được coi là biểu tượng cho sự tồn tại của xã hội song song và sự thất bại của hội nhập, năm 2006, Thủ tướng Anh Tony Blair đã mô tả nó như một ""dấu hiệu của sự chia ly". Các biểu tượng có thể nhìn thấy của một nền văn hóa phi Cơ Đốc xung đột với bản sắc dân tộc ở các quốc gia châu Âu, nơi thừa nhận một nền văn hóa (phi tôn giáo) chung. Các đề xuất cấm có thể liên quan đến các lệnh cấm văn hóa liên quan khác, chính trị gia người Hà Lan Geert Wilders đề xuất lệnh cấm khăn trùm đầu, ở các ngôi trường Hồi giáo (Madrasah), ở nhà thờ Hồi giáo mới, và ở nơi nhập cư Châu phi đến phương Tây.
Ở Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ, điểm nhấn là tính chất thế tục của nhà nước, và tính chất biểu tượng của trang phục Hồi giáo. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, lệnh cấm được áp dụng tại các cơ quan nhà nước (tòa án, cơ quan dân sự) và trong giáo dục do nhà nước tài trợ. Năm 2004, Pháp đã thông qua luật cấm "các biểu tượng hoặc quần áo mà qua đó học sinh thể hiện rõ ràng tư tưởng tôn giáo của mình" (bao gồm cả khăn trùm đầu) tại các trường tiểu học, trung học cơ sở và trung học công lập nhưng luật này không liên quan đến các trường đại học (ở các trường đại học Pháp, luật hiện hành cho phép sinh viên tự do ngôn luận miễn là phải đảm bảo giữ trật tự công cộng. Những lệnh cấm này cũng bao gồm khăn trùm đầu của người Hồi giáo, ở một số quốc gia khác được coi là ít gây tranh cãi hơn, mặc dù tòa án luật nhân viên ở Hà Lan cũng bị cấm đội khăn trùm đầu của người Hồi giáo với lý do 'nhà nước trung lập'. Một lập luận dường như ít bị chính trị hóa hơn là trong các ngành nghề cụ thể (giảng dạy), lệnh cấm "khăn che mặt" (Niqab) là hợp lý, vì giao tiếp trực tiếp và giao tiếp bằng mắt là bắt buộc.
Lập luận này đã nổi bật trong phán quyết ở Anh và Hà Lan, sau khi học sinh hoặc giáo viên bị cấm mặc quần áo che mặt. Phản ứng của công chúng và chính trị đối với các đề xuất cấm như vậy rất phức tạp, vì theo định nghĩa, chúng có nghĩa là chính phủ can thiệp vào vấn đề áo quần cá nhân. Một số người không theo đạo Hồi, những người sẽ không bị ảnh hưởng từ lệnh cấm, coi đó là vấn đề quyền tự do dân sự và nó như một con dốc trơn trượt dẫn đến những hạn chế hơn nữa đối với cuộc sống riêng tư. Một cuộc thăm dò dư luận ở Luân Đôn cho thấy 75% người dân Luân Đôn bày tỏ ủng hộ "quyền của tất cả mọi người được ăn mặc phù hợp với niềm tin tôn giáo của họ". Trong một cuộc thăm dò khác ở Vương quốc Anh do tổ chức Ipsos MORI thực hiện cho thấy 61% đồng ý rằng "phụ nữ Hồi giáo đang tự cô lập mình"" bằng cách đeo mạng che mặt, nhưng 77% cho rằng họ nên có quyền đeo mạng che mặt. Những lý do được đưa ra để cấm trang phục Hồi giáo các loại cũng như các lệnh cấm hợp pháp đối với quần áo che mặt thường được biện minh vì lý do an ninh, như một biện pháp chống khủng bố. |
Ẩm thực Ả Rập
Ẩm thực Ả Rập (tiếng Ả rập: المطبخ العربي) là nền ẩm thực của người Ả Rập, được định nghĩa là các món ăn khác nhau của các khu vực trải dài khắp thế giới Ả Rập, từ Maghreb đến vùng Lưỡi liềm Màu mỡ và Bán đảo Ả Rập. Những món ăn này đã có từ hàng thế kỷ và phản ánh văn hóa buôn bán gia vị ("Baharat"), hương liệu, thảo mộc và thực phẩm. Các khu vực có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng có truyền thống độc đáo. Ẩm thực Ả rập cũng bị ảnh hưởng do khí hậu, canh tác và sự giao thương. Ban đầu, người Ả Rập ở bán đảo Ả Rập chủ yếu dựa vào chế độ ăn kiêng gồm chà là, lúa mì, lúa mạch, gạo và một số loại thịt, ít sự đa dạng, và nhấn mạnh nhiều đến các sản phẩm sữa chua, như Leben (لبن) là loại sữa chua không bơ béo. Bánh mì trắng ("Barazidha") được làm bằng bột mì chất lượng cao, tương tự như bánh mì ("Raqaq") nhưng dày hơn, bột lên men thường được ủ men với men borax" ("Buraq") và nướng trong lò đất "Tandoor".
Ẩm thực Ả Rập ngày nay là kết quả của sự kết hợp của các món ăn phong phú đa dạng, bao gồm thế giới Ả rập và kết hợp với Lebanon, Ai Cập và một vài chỗ khác. Ẩm thực Ả rập cũng đã bị ảnh hưởng ở một mức độ từ các món ăn của Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, người Berber, và những nơi khác. Trong một gia đình Ả Rập tầm trung ở vùng Vịnh Ba Tư, một du khách có thể mong đợi một bữa ăn tối gồm một đĩa lớn để ăn chung, với một núi gạo, kết hợp thịt cừu hoặc thịt gà, hoặc cả hai, như các món ăn riêng, với nhiều loại rau hầm, nhiều gia vị, đôi khi với nước xốt cà chua. Rất có thể, sẽ có một vài thứ ở bên cạnh, ít lành mạnh hơn. Trà chắc chắn sẽ đi kèm với bữa ăn, vì nó gần như là được uống thường xuyên. Cà phê cũng có thể sẽ được dọn lên. Văn hoá trà cũng là đặc trưng, trà là một thức uống rất quan trọng ở Ả Rập, nó thường được dọn ra trong bữa ăn sáng, sau bữa ăn trưa, và với bữa ăn tối. Đối với trà Ả Rập là thức uống khách sạn để phục vụ khách. Người Ả rập cũng thường uống trà với chà là. |
Điền kinh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
Môn Điền kinh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 dự kiến sẽ được tổ chức từ ngày 08 đến 12 tháng 05 năm 2023 tại Phnôm Pênh, Campuchia.
Khu liên hợp thể thao quốc gia Morodok Techo là địa điểm chính của môn Điền kinh tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023. Trong khi các sự kiện Marathon và sự kiện đi bộ sẽ được tổ chức tại Angkor Wat.
Quốc gia tham dự. |
Sargocentron iota là một loài cá biển thuộc chi "Sargocentron" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1998.
Từ định danh "iota" cũng chính là tên gọi của ký tự ι, chữ cái nhỏ nhất trong bảng chữ cái Hy Lạp, do đó thường được sử dụng để nhắc đến những thứ gì rất nhỏ. Do là loài có kích thước bé nhất trong chi mà Randall đặt tên này cho chúng.
Phân bố và môi trường sống.
Ở Đông Ấn Độ Dương, "S. iota" chỉ được biết đến tại đảo Giáng Sinh; còn ở Thái Bình Dương, từ quần đảo Maluku trải dài về phía đông đến Papua New Guinea, Palau, quần đảo Phoenix và đảo Wallis, phía bắc tới quần đảo Amami và quần đảo Hawaii, phía nam tới các đảo trên biển San Hô, xa hơn là Nouvelle-Calédonie, Fiji và Tonga.
"S. iota" sống tập trung ở đới mặt trước rạn, độ sâu đến ít nhất là 34 m.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "S. iota" là 7,7 cm. Thân màu đỏ với một sọc đỏ sẫm rất mảnh ngăn cách các hàng vảy dọc từ sau mang đến gốc vây đuôi. Gai vây lưng màu đỏ, lốm đốm trắng mờ, rìa mỗi màng có màu đỏ đậm hơn. Các vây còn lại có tia đỏ và màng trong suốt.
Số gai ở vây lưng: 11; Số tia vây ở vây lưng: 12–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia vây ở vây hậu môn: 9.
"S. iota" hầu như không được nhìn thấy vào ban ngày, nhưng có thể bắt gặp ở gần nơi trú ẩn trên các rạn san hô vào ban đêm. |
Mırra là tên một loại cà phê truyền thống của các tỉnh Hatay, Adana, Urfa, Mardin của Thổ Nhĩ Kỳ và hai nước thuộc Thế giới Ả Rập là Liban và Syria. Đôi khi, nó được để cập rõ rằng là Cà phê Ả Rập vì cái tên Mırra phát sinh từ từ "mur", vốn mang nghĩa là "đắng" trong tiếng Ả Rập. Vì nó có vị rất đắng và đậm, nên nó được dùng với những chiếc cốc rất nhỏ không có tay cầm, kích thước tương tự với cốc Espresso Ý. Loại hạt cà phê dùng là hạt Cà phê chè được rang hai lần nhằm tăng vị đắng. Hạt được xay cho nên không mịn, trái ngược với loại hạt cà phê của Thổ Nhĩ Kỳ vốn thiên về dạng bột. Cà phê được cho vào trong một cái cốc đun miệng nhỏ đáy to gọi là Cezve, cho thêm nước và thường có Bạch đậu khấu đi kèm để tăng hương vị.
Mırra được đun sôi vài lần cho đến khi loại cà phê đậm này hơi đặc lại. Sau đó, nó được uống trong một cốc cezve khác bằng đồng. Người phục vụ nó rót vào chiếc cốc này đến phân nửa thì ngừng lại và đưa cho người khách uống. Uống xong, họ đưa lại chiếc cốc cho người phục vụ để nó được rót vào lượng cà phê như ban nãy rồi truyền qua người khách tiếp theo. Như vậy, chiếc cốc đó xoay vòng giữa những vị khách, mỗi người khi uống xong đều đưa chiếc cốc cho người phục vụ. Nếu không thì theo truyền thống, người khách đó phải cho vàng vào đầy chiếc cốc ấy và cưới người phục vụ đó, hoặc là giúp họ kết hôn, hoặc trả tiền sính lễ cho họ (nếu đó là nữ). |
ATM gạo là một chiếc máy phân phát tự động gạo được ra đời đầu tiên vào ngày 6 tháng 4 năm 2020 bởi Hoàng Tuấn Anh trong bối cảnh Việt Nam phải ứng phó với làn sóng đầu tiên của đại dịch COVID-19. Chiếc máy ATM gạo đầu tiên đã được ra mắt tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh. Chỉ trong thời gian ngắn, chiếc máy đã được lan rộng sang tác tỉnh thành khác của Việt Nam như Hà Nội, Huế, Đà Nẵ, khoảng 100 chiếc máy ATM tại Việt Nam.
Chiếc máy được hoạt động với cơ chế tương tự như máy rút tiền tự động với mỗi người rút gạo nhận được nhận khoảng 1 đến 2 kg gạo miễn phí. Ban đầu chiếc máy có kích cỡ bằng cả phòng trưng bày nhưng sau đó đã được thu gọn lại chỉ còn khoảng 1 m². Đồng thời, nhiều phiên bản khác của ATM gạo cũng đã được ra mắt như ATM oxy, ATM khẩu
ATM gạo là một chiếc máy được ra đời khi Việt Nam phải ứng phó với đại dịch COVID-19. Đến tháng 4 năm 2020, Việt Nam đã ghi nhận khoảng 260 ca mắc COVID-19 và chưa ghi nhận trường hợp nào tử vong. Tuy nhiên, chính phủ nước này đã áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội nghiêm ngặt kéo dài từ ngày 31 tháng 3 năm 2020. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, "Lao động không chính thức, lao động không khí hợp đồng lao động, lao động có thu nhập thấp, lao động trẻ và lao động già là những nhóm dễ bị tổn thương trước dịch COVID-19". Ước tính đã có khoảng 5 triệu công nhân đã bị sa thải do ảnh hưởng bởi đại dịch. Với mong muốn hỗ trợ cộng đồng, những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình mà Hoàng Tuấn Anh đã quyết định thiết kế một chiếc ATM gạo.
Sản xuất và phát triển.
Chiếc máy ATM gạo đầu tiên được thi công trong vòng 8 giờ bởi Hoàng Tuấn Anh, tổng giám đốc điều hành công ty PHGLock quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi cỗ máy được sản xuất thì một tấn gạo đã được Anh cùng bạn bè mình đưa vào chiếc máy. Sau đó thì lên 5 tấn sau khi nhận được sự huy động từ những người xung quanh. Chiếc máy ATM gạo đầu tiên đã được đặt tại số 204B đường Vườn Lài, quận Tân Phú vào ngày 6 tháng 4 năm 2020. Chiếc máy được chế tạo từ những vật dụng sẵn có của công ty PHGLock với cơ chế hoạt động tương tự như máy rút tiền tự động. Mỗi lần người sử dụng nhấn vào một chiếc nút thì sẽ có 1,5 kg gạo tuôn ra từ ống. Gạo của cây ATM ban đầu sẽ được chứa trong thùng lớn rồi dẫn về người cần lấy gạo thông qua các ống dẫn khi người sử dụng nhấn nút trên chiếc máy ATM. Trong quá trình này, một tình nguyện viên sẽ nhận được cảnh báo trên điện thoại. Theo chia sẻ của người sáng tạo cỗ máy thì ban đầu chẳng có ai đến nhận. Tuy nhiên, sau khi nhân viên của công ty ra kêu gọi mọi người xếp hàng nhận gạo thì trong ngày đầu tiên đã có hai tấn gạo được phát ra từ chiếc máy.
Sau thành công của chiếc máy đầu tiên thì chiếc máy thứ hai đã được sáng chế và đi vào hoạt động ở Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh rồi lan rộng ra các quận, huyện khác ở thành phố Hồ Chí Minh. Lúc bấy giờ, người sáng tạo chiếc máy là Tuấn Anh đã chia sẻ bản thân sẵn sàng cho và chuyển giao công nghệ lan rộng các quân huyện khác ở thành phố cũng như tỉnh, thành khác tại Việt Nam khi các mạnh thường quân cần. Thậm chí, để duy trì hoạt động của ATM mà Hoàng Tuấn Anh còn đã phải bán nhà. Chiếc máy ban đầu được cho là có kích cỡ như một phòng trưng bày nhưng sau đó thì lại được thiết kế tinh gọn thành 1 m² để thuận tiện cho việc di chuyển. Thậm chí, nhiều chiếc ATM sau đó đã được thiết kế trong một chiếc xe container nhằm thuận tiện di chuyển và tận dụng sau khi đại dịch COVID-19 ở miền Trung Việt Nam khi các mùa bão lũ đến.
Đến tháng 2 năm 2021, khoảng 100 chiếc ATM gạo đã được lan truyền khắp Việt Nam. Ước tính đến ngày 5 tháng 8 năm 2021, chỉ tại thành phố Hồ Chí Minh đã có hơn 150 tấn gạo và 41.000 người nhận được hỗ trợ từ ATM gạo. Trong thời kỳ đại dịch COVID-19 tại Việt Nam, chiếc máy đã được lan truyền sang nhiều tỉnh/thành khác như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Hòa Bình, Bình Định, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Cần Thơ, Cà Mau, Long An, Bình Thuận, Lâm Đồng, Phú Yên, Vĩnh L, Campuchia, Đông Timor, M
"Tôi choáng ngợp khi chứng kiến làn sóng thiện nguyện lớn chưa từng thấy. Từ vài tấn gạo ban đầu, tôi nhận được vài chục tấn rồi vài trăm tấn. Từ 1 máy ATM dựng ở sân nhà, tôi bắt đầu đi đến các điểm khác của thành phố, rồi tỉnh khác để dựng lên 100 máy trong vòng chỉ 15 ngày đầu của tháng 4."
Ngay sau khi ATM gạo được ra mắt lần đầu tiên hơn một tuần thì Phó Chủ tịch nước Việt Nam Đặng Thị Ngọc Thịnh đã gửi thư ca ngợi Hoàng Tuấn Anh vì nỗ lực của anh vì cộng đồng và người dân trong thời kỳ dịch bệnh COVID-19. Trang thông tin của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ca ngợi hành động của Tuấn Anh "đã góp phần lan tỏa giá trị xã hội tốt đẹp". Nhiều hình thức ATM sau đó cũng đã nhận được sự hỗ trợ từ chính quyền địa phương khi gần 90 tấn gạo từ chương trình của Chính phủ Việt Nam đã được phân phát thông qua ATM gạo ở phường 14, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Vào tháng 3 năm 2021, tác giả của ATM gạo đã được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam trao tặng bằng khen "Gương mặt trẻ tiêu biểu 2020 góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" trong lĩnh vực hoạt động xã hội.
Nhiều tờ báo tại Việt Nam như "Nhân Dân", "Tuổi Trẻ"... ca ngợi và gọi chiếc máy ATM gạo như là một hành động chia sẻ tình thương giữa người với người trong thời kỳ dịch bệnh. Trên Twitter, nhà văn Marianne Williamson đã ca ngợi "ATM gạo" và đề xuất thực hiện ý tưởng này tại Hoa Kỳ khi "nhiều người Mỹ cũng đang thiếu ăn và đang tuyệt vọng mỗi ngày". Nguyen Xuan Quynh của hãng thông tấn "Bloomberg" đã gọi chiếc máy là "sự kết hợp kỳ lạ giữa con người, máy móc và công nghệ di động". Hội đồng Thanh niên châu Á cũng đã vinh danh Hoàng Tuấn Anh là một trong mười "Lãnh đạo trẻ tiêu biểu châu Á" năm 2021.
Văn hóa đại chúng.
Trong đề thi dành cho học sinh giỏi cấp thành phố ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2020 đã đề cập chiếc ATM gạo trong đề thi. Trong câu đầu tiên, đề bài có đề cập đến hình ảnh ATM gạo được tạo nên từ "ATM + gạo + trái tim" và yêu cầu thí sinh dự thi viết một bài văn với nhan đề "những sáng tạo khởi nguồn từ yêu thương". Hay tương tự trong đề thi tuyển sinh vào lớp 10 ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đề cập đến chiếc ATM gạo trong phần nghị luận xã hội.
Nhiều phiên bản khác của ATM gạo cũng đã được ra mắt như ATM oxy, ATM khẩu , ATM oxy là mong muốn giúp đỡ những người mắc COVID-19 cần "sự chăm sóc y tế cơ bản khi các bệnh viện, các cơ sở điều trị quá tải". Ước tính sau khi một tháng dự án ATM oxy được khởi động thì đã có 23 trạm trên khắp thành phố Hồ Chí Minh, cung cấp oxy cho 10.000 bệnh nhân mắc COVID-19. |
Nam Papua, chính thức là tỉnh Nam Papua (), là một tỉnh của Indonesia nằm ở phần phía nam của Papua, theo ranh giới của khu vực tập quán Anim Ha của người Papua. Tỉnh này chính thức được thành lập vào ngày 11 tháng 11 năm 2022 và bao gồm bốn huyện cực nam trước đây thuộc tỉnh Papua và trước ngày 11 tháng 12 năm 2002 đều là một phần của huyện Merauke cũ, diện tích 117.849,16 km2. Theo ước tính chính thức vào giữa năm 2022, tỉnh này có dân số 522.215 người, là tỉnh ít dân nhất ở Indonesia.
Nam Papua có chung biên giới đất liền với quốc gia có chủ quyền Papua New Guinea ở phía đông, cũng như các tỉnh Papua Cao nguyên và Trung Papua của Indonesia lần lượt ở phía bắc và tây bắc. Nam Papua cũng đối mặt với biển Arafura ở phía tây và nam, có biên giới trên biển với Australia. Tỉnh bao gồm khu vực tập quán Anim Ha của người Papua. Merauke là trung tâm kinh tế của Nam Papua, trong khi thủ phủ của nó là Salor nằm ở khu Kurik, huyện Merauke, cách Merauke khoảng 60 km.
Nam Papua được chia thành bốn huyện (kabupaten), số lượng ít nhất so với các tỉnh khác của Indonesia. Trước ngày 11 tháng 12 năm 2002, tất cả bốn huyện hiện tại là bộ phận của huyện Merauke duy nhất, được chia thành bốn huyện hiện tại vào ngày đó. |
Làng sinh thái ("Ecovillage") là một cộng đồng cư dân truyền thống hoặc có chủ ý với mục tiêu trở nên bền vững hơn về mặt xã hội, văn hóa, kinh tế và sinh thái. Làng sinh thái cố gắng tạo ra ít tác động tiêu cực nhất có thể đến môi trường tự nhiên thông qua thiết kế xây dựng có chủ ý và các hành vi có chọn lọc của cư dân. Làng sinh thái là kết quả thực tế từ một sự mong muốn của con người nhằm tìm ra một lối sống bền vững dựa trên thái độ và cách tiếp cận đối với vấn đề loại bỏ chất thải. Hiện có hơn 10.000 làng sinh thái trên khắp thế giới.
Làng sinh thái được thiết kế một cách có ý thức thông qua các quy trình có sự tham gia, thuộc sở hữu của địa phương để tái tạo và khôi phục môi trường tự nhiên và xã hội của nó. Các mục đích của Làng sinh thái là quy hoạch vật chất (như sử dụng năng lượng thấp với mức hiệu suất cao và sản sinh chất thải thấp) và quy hoạch xã hội (như nâng cấp các giá trị xã hội và văn hoá liên quan tới giá trị vật chất). Hầu hết những ngôi làng này có quy mô từ 50 đến 250 cá nhân, mặc dù một số nhỏ hơn và các làng sinh thái truyền thống thường lớn hơn nhiều. Các làng sinh thái lớn hơn thường tồn tại dưới dạng mạng lưới các cộng đồng nhỏ hơn. Một số làng sinh thái đã phát triển thông qua các cá nhân, gia đình, hoặc các nhóm nhỏ khác có cùng chí hướng - những người không phải là thành viên, ít nhất là ngay từ đầu-định cư ở vùng ngoại vi của làng sinh thái và tham gia trên thực tế vào cộng đồng.
Những người dân làng sinh thái gắn kết với nhau bởi các giá trị chung về sinh thái, kinh tế xã hội và văn hóa-tinh thần. Cụ thể, những người dân lập làng sinh thái tìm kiếm các giải pháp thay thế cho các hệ thống điện, nước, giao thông vận tải và xử lý chất thải có tính hủy hoại sinh thái, cũng như các hệ thống xã hội lớn hơn phản ánh và hỗ trợ cư dân. Nhiều người coi sự sụp đổ của các hình thức cộng đồng cư dân truyền thống, lối sống tiêu dùng lãng phí, phá hủy môi trường sống tự nhiên, mở rộng đô thị, canh tác công nghiệp và phụ thuộc quá nhiều vào nhiên liệu hóa thạch là những xu hướng cần phải thay đổi để ngăn chặn thảm họa sinh thái và tạo ra những cách thức giàu có và thỏa mãn hơn của cuộc sống. Làng sinh thái cung cấp các cộng đồng quy mô nhỏ với tác động sinh thái tối thiểu hoặc tác động tái tạo như một giải pháp thay thế.
Trong Làng sinh thái, nhà ở thường là nhà kiểu năng lượng thấp (không quá 10.000KWh/năm), đảm bảo không dùng các nhiên liệu hoá thạch, tránh sử dụng xe hơi, hàng hoá được tiêu thụ trong các cửa hàng bán lẻ. Rau, cây ăn quả, hoa và cả cây lấy gỗ được trồng trên các lô đất tập thể và tư nhân để tự thoả mãn nhu cầu. Các phế thải sinh vật được sử dụng làm phân bón và giảm lượng thải rắn hữu cơ, hạn chế được sự ô nhiễm nguồn nước. Việc ủ phân cục bộ, tách nguồn hợp lý và đốt giấy loại có thể giảm một khối lượng chất thải rắn từ các hộ gia đình hàng năm khoảng từ 250 kg/người xuống 100 kg/người, hoặc thậm chí thấp hơn. Làng sinh thái là một mô hình minh hoạ cho hướng phát triển cần phải có trong cả các nước phát triển cũng như đang phát triển để chuyển đổi được các xu hướng có hại. Nhiều nguồn tài liệu xác định làng sinh thái là một kiểu phụ của các cộng đồng có chủ ý tập trung vào tính bền vững. |
Tontawan Tantivejakul (tiếng Thái: ต้นตะวัน ตันติเวชกุล, sinh ngày 7 tháng 11 năm 2000) còn có biệt danh là Tu (ตู), là một nữ diễn viên và người mẫu người Thái Lan trực thuộc GMMTV. Cô xuất hiện lần đầu trong video âm nhạc của Ink Waruntorn Paonil cùng với Putthipong Assaratanakul (Billkin). Vai diễn đầu tiên của cô là vai nữ chính trong "," chuyển thể từ truyện tranh Nhật Bản Hana Yori Dango cùng với Vachirawit Chivaaree (Bright), bộ phim đã giúp cô được công chúng đón nhận.
Cuộc sống và giáo dục.
Tontawan sinh ra ở thủ đô Bangkok, Thái Lan vào ngày 7 tháng 11 năm 2000. Cô là em gái của nam diễn viên kiêm nhạc sĩ người Thái Lan, Tonhon Tantivejakul. Mẹ cô là giáo sư ngành nghệ thuật giao tiếp tại Đại học Chulalongkorn, trong khi cha cô làm việc trong lĩnh vực truyền thông.
Cô theo học Prasarnmit Demonstration School của Đại học Srinakharinwirot dành cho cấp tiểu học và theo học trung học tại Chulalongkorn University Demonstration School. Hiện tại, cô đang là sinh viên năm 5 ngành nha khoa tại Đại học Chulalongkorn.
Năm 2020, ở tuổi 19, Tu xuất hiện trong MV "Disappointed" (เหนื่อยใจ) của Waruntorn Paonil (Ink), cùng với Putthipong Assaratanakul (Billkin). Cuối năm đó, cô ký hợp đồng với GMMTV. Vào tháng 9 năm 2020, thông báo chính thức được đưa ra thông qua một đoạn giới thiệu rằng cô ấy sẽ ra mắt trong bộ phim chuyển thể từ truyện tranh Nhật Bản Hana Yori Dango, ' với vai nữ chính, Gorya. Cô ấy đã xuất hiện lần đầu tiên cùng với Vachirawit Chiva-aree trong sự kiện công bố dự án của GMMTV "GMMTV 2021: The New Decade Begins". Bộ phim được phát sóng vào ngày 18 tháng 12 năm 2021 trên GMM 25.
Vào tháng 12 năm 2021, trong sự kiện GMMTV 2022: Borderless, Tu được thông báo sẽ đóng vai chính Kongkwan trong "10 Years Ticket" cùng với Pawat Chittsawangdee ( Ohm), bộ phim bắt đầu phát sóng vào ngày 14 tháng 12 năm 2022 trên GMM 25. Vào tháng 9 năm 2022, Maki trong ' "Zero in the Moonlight', một" bộ phim ngắn ' "Magic of Zero"' cùng với Jirawat Sutivanichsak.
Tháng 9 năm 2023, cô được bổ nhiệm là đại sứ về mảng thời trang và trang sức của thương hiệu Dior Thái Lan |
Nambassa là một loạt các lễ hội do những người Hippie (Híp-pi) hình thành, lễ hội này được tổ chức từ năm 1976 đến 1981 tại các trang trại lớn xung quanh Waihi và Waikino ở New Zealand. Đó là những lễ hội âm nhạc, nghệ thuật và thay thế tập trung vào đề tài hòa bình, tình yêu và lối sống thân thiện với môi trường. Ngoài hoạt động giải trí phổ biến, họ còn tổ chức các buổi hội thảo và trưng bày để ủng hộ lối sống thay thế và các vấn đề sức khỏe tổng quát, thuốc thay thế, năng lượng sạch và bền vững cũng như thực phẩm không pha trộn, tẩm ướp.
Phong trào Hippie ở New Zealand là một phần của hiện tượng quốc tế trong những năm 1960 và 1970 ở thế giới phương Tây, báo trước một nền văn hóa nghệ thuật mới về âm nhạc, tự do và cách mạng xã hội, nơi hàng triệu thanh niên trên toàn cầu đang phản kháng chống lại các tiền nhân của cựu trào thế giới và đón nhận một đặc tính Hippie mới. Cụ thể, văn hóa nhóm của New Zealand có nền tảng là hòa bình và hoạt động chống hạt nhân của những năm 1960, nơi những người Hippie đang tích cực cố gắng ngăn chặn sự tham gia của New Zealand vào chiến tranh Việt Nam và ngăn chặn người Pháp thử vũ khí hạt nhân tại đảo san hô Mururoa ở Polynesia thuộc Pháp ở quần đảo Thái Bình Dương.
Lễ hội âm nhạc và các lựa chọn thay thế kéo dài ba ngày vào tháng 1 năm 1979, được tổ chức vào cuối tuần kỷ niệm Auckland, đã thu hút hơn 75.000 khách quen, khiến nó trở thành sự kiện âm nhạc đại chúng, đa văn hóa và nghệ thuật lớn nhất thuộc loại này trên thế giới. Nambassa cũng là tên bộ lạc của một tổ chức từ thiện đã bảo vệ những ý tưởng bền vững và thể hiện những lý tưởng phản văn hóa thực tế, lối sống thay thế dựa trên tinh thần, chủ nghĩa môi trường và các vấn đề xanh từ đầu những năm 1970 đến nay. Tháng 1 năm 1981 thì Lễ kỷ niệm năm ngày của Nambassa về văn hóa âm nhạc, thủ công mỹ nghệ và lối sống thay thế trên một trang trại tại Thung lũng Waitawheta giữa Waihi và Waikino với 15.000 người tham dự-giảm mạnh so với lễ hội năm 1979. Mặc dù sự kiện này thua lỗ, nhưng nó đã thay đổi đáng kể đặc điểm của nó từ nhạc rock sang văn hóa hippie và Thời đại mới. |
Quốc Thảo là nam diễn viên, đạo diễn sân khấu Việt Nam, ông từng nổi tiếng tại miền Nam cuối thập niên 1990, đầu thập niên 2000, với hai giải Mai Vàng. Sau đó ông sang Mỹ tu nghiệp, khi trở về Việt Nam ông tiếp tục làm đạo diễn sân khấu và một số cuộc thi truyền hình.
Nguyễn Văn Thảo (Nghệ danh Quốc Thảo) sinh ngày 28 tháng 10 năm 1963, tại Sài Gòn.
Học hết cấp 3, Quốc Thảo thi đậu hệ trung cấp Kỹ thuật điện chuyên ngành Kế toán tài chính và tốt nghiệp loại giỏi, ông được tuyển về phòng Kinh tế tài chính ở Sở Điện lực thành phố Hồ Chí Minh, làm tại phòng tài vụ. Quốc Thảo có một người bạn rất thân thi vào trường Nghệ thuật Sân khấu 2. Do cần người diễn chung, người này nhờ Quốc Thảo tập cùng, nhờ vậy mà Quốc Thảo nhận thấy sự hứng thú với nghề diễn. Ông đăng ký thử cho vui, nhưng bất ngờ đã đến, ông thi đậu còn bạn ông thi trượt. Quốc Thảo quyết định bỏ công việc ổn định để trở thành tân sinh viên.
Tại trường Nghệ thuật Sân khấu 2, Quốc Thảo học cùng với Hồng Vân, Minh Nhí. Cả hai vở tốt nghiệp "Đoạn đầu đài" và "Số phận trớ trêu", Quốc Thảo đều được tin tưởng giao vai chính. Tốt nghiệp khoa đạo diễn trường Sân khấu, Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1994, ông xin về thực tập ở đoàn Kim Cương một thời gian, kết thúc thời gian thực tập cũng là lúc ông được sân khấu 5B mời về. Vở diễn đầu tiên của ông là "Trong hào quang bóng tối", ông vào vai phản diện đóng đối trọng với nghệ sĩ Thành Lộc. Vở diễn đó hai nghệ sĩ đều được huy chương vàng Liên hoan sân khấu. Vai diễn thành công nhất của Quốc Thảo là Chu Bình trong vở "Lôi Vũ". Trong thời gian này, ông còn tham gia đóng phim điện ảnh cùng một vài tập trong loạt chương nghệ thuật Mưa bụi với vai trò ca sĩ và dẫn chương trình.
Dù tốt nghiệp chuyên ngành đạo diễn, ông lại nổi danh trong vai trò diễn viên, đứng chung sân khấu với nhiều nghệ sĩ tên tuổi như: Hồng Vân, Minh Nhí, Việt Anh, Thành Lộ"Nắng chiều, Hai người đàn bà, Vàng hay bạc nhái, Bản chúc thư"...
Năm 2001, ông cùng Minh Nhí thuê mặt bằng cộng tác với Nhà thiếu nhi Quận 1 để dựng sân khấu với tên Sân khấu Trần Cao Vân, dành cho các nghệ sĩ trẻ tập luyện và biểu diễn. Tuy nhiên, Ủy ban Nhân dân Quận 1 ra quyết định đình chỉ hoạt động của sân khấu vì Nhà thiếu nhi Quận 1 không đủ quyền hạn lập hợp đồng kinh tế. Sân khấu Trần Cao Vân đóng cửa và hai nghệ sĩ mất trắng số tiền đã bỏ ra.
Năm 2004, Quốc Thảo và nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc nhận được lời mời hợp tác với Đại học Colombia ở Chicago - Mỹ, để thực hiện dự án hợp tác, trao đổi nghệ thuật. Dự án kéo dài gần một năm, cùng với việc vào thời điểm đó, sân khấu số 7 Trần Cao Vân mà ông quản lý bị nhiều trục trặc về thủ tục hành chính. Trong thời gian Quốc Thảo tạm trú tại, ở Việt Nam có những tin đồn về việc ông và nghệ sĩ Minh Nhí biểu diễn một số nơi tại Mỹ dù xuất cảnh với lí do du lịch và học tập. Sau này, Quốc Thảo quyết định bán nhà riêng ở Phú Nhuận để ở lại Mỹ kết hôn và học thêm về chuyên môn.
Sau 9 năm sinh sống tại Mỹ với nhiều nghề phụ để duy trì cuộc sống, Quốc Thảo trở về nước tiếp tục làm nghệ thuật. Ông dàn dựng nhiều vở kịch, trong đó dựng lại vở "Nắng chiều".
Tháng 11 năm 2017, đạo diễn Quốc Thảo và đạo diễn Quốc Thuận hợp tác cùng Trung tâm Đào tạo và Thực nghiệm Văn học Nghệ thuật TP.HCM khai trương sân khấu kịch Quốc Thảo. Trước đó, Quốc Thảo và Minh Nhí từng hợp tác tổ chức sân khấu riêng nhưng không thành công. Ông vừa giảng dạy tại sân khấu riêng, vừa làm đạo diễn một số cuộc thi và chương trình truyền hình.
Khi qua Mỹ khoảng được khoảng 3-4 năm Quốc Thảo đã kết hôn, nhưng vì lối sống khác nhau nên khi ông về nước còn vợ ông ở lại Mỹ. |
Phong trào ngôi nhà nhỏ
Phong trào ngôi nhà nhỏ ("Tiny-house movement") là một phong trào kiến trúc và xã hội ủng hộ việc thu nhỏ không gian sống, đơn giản hóa và về cơ bản là "lối sống tối giản". Theo Bộ luật Dân cư Quốc tế 2018, Phụ lục Q: Ngôi nhà tí hon, ngôi nhà bé tí là ""đơn vị ở có diện tích sàn tối đa là 37 mét vuông (400 sq ft), không bao gồm gác xép".". Thuật ngữ ""ngôi nhà bé tí" hay "nhà quy mô nhỏ" (Tiny-house) đôi khi được sử dụng thay thế cho "ngôi nhà siêu nhỏ"" (Micro-house). Đây là một khái niệm được phát triển từ nước Mỹ với triết lý "đủ-là-đủ" và tập trung vào những gì cần thiết và quan trọng.
Thế kỷ 21 chứng kiến những khái niệm như AirBnB (tiếng Anh: "AirBed and Breakfast", dịch là phòng nghỉ và bữa sáng), Co-Living (mô hình sống chung), nhà thông minh, nhà quy mô nhỏ dần trở nên phổ biến với cả thế hệ già và trẻ cũng như truyền cảm hứng cho các phong trào về kiến trúc, xây dựng trên toàn cầu. Mặc dù căn nhà ở nhỏ chủ yếu thể hiện sự trở lại với cuộc sống đơn giản hơn, nhưng phong trào này cũng được coi là một giải pháp thân thiện với môi trường tiềm năng cho ngành công nghiệp nhà ở hiện tại, cũng như một lựa chọn chuyển tiếp khả thi cho những cá nhân đang thiếu nơi ở. Một số tiểu bang ở Hoa Kỳ coi bất kỳ ngôi nhà nào có diện tích dưới 1.000 bộ vuông là ngôi nhà bé tí (hoặc siêu nhỏ) để mở rộng các dịch vụ cho nhiều người đam mê háo hức trải nghiệm.
Sự khác biệt này rất quan trọng vì nhiều người muốn xây cất những ngôi nhà nhỏ trên những lô đất trống, tuy nhiên nếu một ngôi nhà nhỏ thiếu bất kỳ tiện nghi cần thiết nào cần thiết cho một đơn vị ở thì đó là một cấu trúc phụ và phải được đặt trên cùng một lô với chính. Có nhiều lý do để sống trong một ngôi nhà nhỏ. Nhiều người bước vào lối sống này suy nghĩ lại về giá trị của họ với cuộc sống và quyết định nỗ lực nhiều hơn để củng cố cộng đồng, bảo vệ môi trường, dành thời gian cho gia đình hoặc tiết kiệm tiền. Phong trào nhanh chóng trở nên phổ biến ở nhiều nơi khác nhau trên toàn thế giới. Phong trào này thúc đẩy việc tạo ra một trải nghiệm và một hoàn cảnh sống lành mạnh, thân thiện với môi trường và phù hợp với tính cách người dùng. |
Oak Ridge là một thành phố ở các quận Anderson và Roane ở phía Đông của tiểu bang Tennessee, Hoa Kỳ, cách trung tâm thành phố Knoxville khoảng 25 dặm (40 km) về phía Tây. Dân số của Oak Ridge là 31.402 người trong cuộc điều tra dân số năm 2020. Nó là một phần của Vùng đô thị Knoxville. Các biệt danh của Oak Ridge bao gồm "Thành phố nguyên tử", "Thành phố bí mật", "Sường núi", "Thị trấn chế tạo bom nguyên tử", và "Thành phố phía sau hàng rào".
Năm 1942, chính phủ liên bang Hoa Kỳ mua gần 60.000 mẫu Anh (240 km2) đất nông nghiệp ở Thung lũng sông Clinch để phát triển một thành phố quy hoạch hỗ trợ 75.000 cư dân. Nó được xây dựng với sự hỗ trợ của công ty kiến trúc và kỹ thuật Skidmore, Owings Merrill, từ năm 1942 đến năm 1943. Oak Ridge được thành lập vào năm 1942 để làm nơi sản xuất cho Dự án Manhattan—hoạt động quy mô lớn của Mỹ, Anh và Canada nhằm phát triển bom nguyên tử. Thành phố là nơi đặt Phòng thí nghiệm Quốc gia Oak Ridge và Tổ hợp An ninh Quốc gia Y-12, sự phát triển khoa học và công nghệ vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế và văn hóa của thành phố nói chung. |
Danh sách vở opera Việt Nam
Vở Opera Việt Nam đầu tiên chính thức được sáng tác năm 1965 với tựa đề "Cô Sao", tính tới năm 2023 đã có 11 vở opera được ghi nhận là tồn tại. Theo một nhận định, sự ra đời của opera tại Việt Nam được nhận định là nằm trong khoảng thời gian kết hợp giữa hai yếu tố "nội sinh" và "ngoại sinh". Theo đó, yếu tố nội sinh xuất phát từ sự tích tụ kinh nghiệm, khát vọng của người sáng tác với những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực ca cảnh, ca kịch từ giai đoạn trước. Yếu tố ngoại sinh đến từ việc hình mẫu kịch hát cổ điển châu Âu được phổ biến tại Việt Nam cuối những năm 1950 và 1960. Sự hiện diện của những vở opera nước ngoài trên sân khấu Việt Nam được xem là một trong những yếu tố quyết định đến sự ra đời của opera của quốc gia này.
Đỗ Nhuận là nhạc sĩ Việt Nam tiên phong, cũng là người đặt nền móng cho thể loại opera tại Việt Nam. 2 vở opera ""Cô Sao" và "Người tạc tượng" của ông là hai tác phẩm đã giúp cho Đỗ Nhuận có vị trí lớn trong nền nhạc kịch, ca kịch nói chung tại Việt Nam.
Năm 1978, Nguyễn Thiên Đạo sáng tác vở opera mang tên "Mỵ Châu – Trọng Thủy"", đánh dấu tên tuổi của bản thân trong làng âm nhạc cổ điển thế giới đương đại. Đây được xem là vở nhạc kịch đầu tiên của Việt Nam được thế giới biết đến như một tác phẩm "mang tiếng nói dân tộc đặc sắc và thủ pháp biểu hiện mới mẻ". Trải qua 2 lần công diễn và dàn dựng, ""Cô Sao", bản opera đầu tiên của Việt Nam đã bị thất lạc bản tổng phổ, sau đó đã được con trai Đỗ Nhuận là Đỗ Hồng Quân lên kế hoạch phục dựng. Sau gần 40 năm kể từ lần công diễn thứ hai, vở opera được dàn dựng lại nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh của Đỗ Nhuận vào năm 2012. Việc phục dựng và công diễn lần thứ 3 của "Cô Sao"" đã mang nhiều ý nghĩa với nền âm nhạc Việt Nam khi lần đầu người dân nơi đây được xem một loại hình nghệ thuật có tính chất quốc tế như opera. Tuy vậy những năm 20 của thế kỷ 21, Việt Nam vẫn chưa có cơ hội thuận lợi cho opera phát triển, qua đó suốt nhiều thập niên qua, opera vẫn bị xem là thiếu vắng trên sân khấu Việt Nam. Một nghiên cứu nhận định đa phần khán giả Việt còn chưa xem bất cứ vở opera nào.
Ngày 9 tháng 12 năm 2022, nhằm chuẩn bị cho sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam, một dự án trọng tâm là vở opera "Công nữ Anio" đã được công bố tại Nhà riêng Đại sứ. Sự kiện này đã nhận được sự quan tâm, tham dự của đông đảo các vị khách mời phía Việt Nam.
Danh sách dưới đây chỉ liệt kê những vở opera đã được công bố, công diễn hoặc đã được các nguồn sách báo nghiên cứu với thời gian rõ ràng.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Abu Dhabi Open 2023
Mubadala Abu Dhabi Open 2023 là một giải quần vợt nữ chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 2 giải đấu được tổ chức và là một phần của WTA 500 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Zayed Sports City International Tennis Centre ở Abu Dhabi, từ ngày 6 đến ngày 12 tháng 2 năm 2023. Giải đấu trở lại WTA Tour sau hai năm do giải St. Petersburg Ladies' Trophy bị hoãn vì cuộc tấn công của Nga vào Ukraina.#đổi
Vận động viên khác.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bảo toàn thứ hạng:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vượt qua vòng loại:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Amanda Anisimova → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Paula Badosa → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Ons Jabeur → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Garbiñe Muguruza → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vận động viên khác.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bethanie Mattek-Sands / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Desirae Krawczyk / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Demi Schuurs → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Desirae Krawczyk / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Belinda Bencic / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Belinda Bencic đánh bại #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Liudmila Samsonova 1–6, 7–6(10–8), 6–4
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Luisa Stefani / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Zhang Shuai đánh bại #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Shuko Aoyama / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Chan Hao-ching, 3–6, 6–2, [10–8] |
Nguyễn Hà Dịu Thảo
Nguyễn Hà Dịu Thảo (sinh ngày 17 tháng 5 năm 2000) là một hoa hậu, người mẫu chuyển giới Việt Nam. Tháng 4/2023, cô đăng quang Hoa hậu Chuyển giới Việt Nam 2023 và đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2023 tại Thái Lan và Đoạt Thành Tích Top 11 Chung Cuộc . Tuy không giành được vương miện quốc tế, cô vẫn nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ quê nhà.
Nguyễn Hà Dịu Thảo sinh năm 2000, cao 1m78, đến từ Hải Dương và hiện sinh sống cùng gia đình tại Bình Dương. Cô sở hữu nét đẹp ngọt ngào, cuốn hút cùng cá tính mạnh mẽ và phong cách trình diễn ấn tượng.
Dịu Thảo cho biết cô tự lập từ sớm bằng công việc phục vụ quán phở, bán quần á, Dịu Thảo hiểu rõ bản thân nhưng giấu vì sợ mọi người xung quanh kỳ thị. Từ năm 2015, cô kinh doanh mỹ phẩm, phục vụ nhà hàng tiệc cưới, làm công nhân. Năm 2018, Dịu Thảo bắt đầu thay đổi giới tính
Hoa hậu Chuyển giới Việt Nam 2023.
Ngày 08/4/2023, cô chính thức đăng quang Hoa hậu Chuyển giới Việt Nam 2023 và sẽ đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2023 vào tháng 6 tại Thái Lan. Tại đêm chung kết, cô đã xuất sắc thể hiện được kỹ năng catwalk xuất sắc, thần thái cùng những màn trình diễn tuyệt vời để lọt vào top 6. Tại đây, cô đã khiến tất cả phải thán phục với khả năng ứng xử song ngữ tiếng Anh và tiếng Việt, tư duy nhạy bén, vốn kiến thức rộng, dẫn chứng cụ thể chính xác, bản lĩnh sân khấu cùng giọng nói truyền cảm hứng, vượt qua tất cả đối thủ để đăng quang rất thuyết phục.
Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2023.
Đêm chung kết Hoa hậu Chuyển giới Quốc tế 2023 diễn ra ngày tối 24/6/2023 tại Pattaya, Thái Lan, Dịu Thảo đạt được 3 giải thưởng phụ gồm Trang phục dân tộc đẹp nhất, Wonder Woman Award và Miss Popular Vote. Mặc dù rất cố gắng, tuy nhiên may mắn lại không đến với cô khi dừng chân tại top 11 chung cuộc. |
Mary của Đại Anh
Mary của Đại Anh hay Mary của Đại Anh, Ireland và Hannover (tiếng Anh: "Mary of Great Britain"; tiếng Đức: "Maria von Großbritannien, Irland und Hannover"; tiếng Pháp: "Marie de Grande-Bretagne"; tiếng Đan Mạch: "Marie af Storbritannien"; tiếng Tây Ban Nha: "María de Gran Bretaña"; 5 tháng 3 năm 1723 – 14 tháng 1 năm 1772) là con gái thứ tư của George II của Đại Anh, Ireland và Hannover và vợ là Caroline xứ Ansbach, và là Phong địa bá tước phu nhân xứ Hessen-Kassel với tư cách là vợ của Friedrich II xứ Hessen-Kassel.
Vương tôn nữ Mary được sinh ra tại Cung điện Leicester, Westminster, Luân Đôn. Cha của Mary là Thân vương xứ Wales, (con trai của George I của Đại Anh và Sophie Dorothea của Celle) sau này là Quốc vương George II của Đại Anh. Mẹ của Mary là Caroline xứ Ansbach (con gái của Johann Friedrich xứ Brandenburg-Ansbach và Eleonore xứ Sachsen-Eisenach).
Khi cha của Mary kế vị với tên hiệu là George II vào ngày 11 tháng 6 năm 1727, Mary trở thành Vương nữ Đại Anh và được gọi là "Her Royal Highness Vương nữ Mary". Năm 1737, vương hậu Caroline qua đời, đã cậy nhờ con gái là Vương nữ Caroline chăm lo cho Mary, thúc giục Caroline "làm những gì có thể để hỗ trợ cho tính cách nhu mì và dịu dàng của Vương nữ Mary".
Một cuộc hôn nhân đã được thỏa thuận giữa Vương nữ Mary với Công tôn Friedrich của Hessen-Kassel, con trai duy nhất và là người thừa kế của Wilhelm VIII xứ Hessen-Kassel. Đối với mối hôn sự này, Quốc hội đã quyết định cho Mary khoản tiền là 40.000 bảng Anh.
Cặp đôi đã kết hôn ủy nhiệm tại Nhà nguyện Vương thất của Cung điện St. James ở Luân Đôn vào ngày 8 tháng 5, sau đó kết hôn chính thức vào ngày 28 tháng 6 năm 1740 tại Kassel. Thong qua cuộc hôn nhân, đôi vợ chồng có với nhau bốn người con trai, trong đó có ba người con trai sống qua tuổi trưởng thành.
Cuộc hôn nhân của Friederich và Mary không hạnh phúc, và Friedrich bị cho là "tàn bạo" và là "một kẻ thô lỗ" đã lạm dụng Mary. Cuối năm 1746, Mary đến Anh để thoát khỏi sự ngược đãi của chồng. Cặp đôi ly thân vào năm 1754 sau khi Friedrich cải đạo sang Công giáo La Mã. Mary được hỗ trợ bởi bố chồng và ông đã cung cấp cho Mary một nơi ở tại Hanau, vì Mary không muốn trở lại Vương quốc Anh mà muốn ở lại lục địa này để nuôi dạy con cái.
Năm 1756, Mary chuyển đến Đan Mạch để chăm sóc các con của em gái là Louisa của Đại Anh đã qua đời năm 1751, đồng thời cũng mang theo các con của mình để nuôi dạy tại đây. Chồng của Mary, Friedrich đã kế vị cha mình với tư cách là Phong địa bá tước xứ Hessen-Kassel vào năm 1760, vì vậy Mary đã trở thành Phong địa bá tước phu nhân xứ Hessen-Kassel trong mười hai năm cuối đời dù hai vợ chồng đã ly thân.
Mary qua đời vào ngày 14 hoặc 16 tháng 1 năm 1772 ở tuổi 48 tại Hanau, Đức.
Tước hiệu, kính xưng và vương huy.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1727, với tư cách là con gái của quốc vương Anh, Mary được trao quyền sử dụng vương huy của vương quốc. |
Bắt đầu từ ý tưởng của lập trình viên Kamitani Takahiro, vốn cũng là một nghệ sĩ được biết đến với cái tên Bakotsu trên web, cái tên Pixiv được ra mắt vào ngày 10 tháng 9 năm 2007, dưới dạng thử nghiệm beta. Khi số lượng người dùng vượt quá con số 10.000 chỉ mười chín ngày sau khi ra mắt, Kamitani gặp khó khăn trong việc duy trì Pixiv một mình, khiến anh phải thành lập Crooc Inc. vào ngày 1 tháng 10 năm 2007. Ngày 18 tháng 12 năm 2007, website trải qua một đợt nâng cấp lớn, thành những gì tương tự như phiên bản hiện tại của Pixiv. Mặc dù web ban đầu chỉ có tiếng Nhật, tiếng Trung trở thành ngôn ngữ đầu tiên được bổ sung do xu hướng tăng dần của những người đăng kí bên ngoài nước Nhật là Đài Loan và Trung Quốc; cũng có ngày càng nhiều lượt đăng kí từ Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Năm 2009, phiên bản tiếng Anh được coi là có mức độ ưu tiên thấp nhất, nhưng sau đó cũng đã được thiết lập vào đầu năm 2011. Quá trình quốc tế hóa của Pixiv tiếp tục với việc bổ sung tiếng Pháp, tiếng Hàn, tiếng Nga và cả tiếng Thái. Một số quốc gia châu Âu có số lượt truy cập cao trên web như Đức và Ý cũng sẽ được xem xét. Ngày 1 tháng 11 năm 2008, công ty quản lí Crooc đổi tên thành Pixiv Inc.. Tổng giám đốc điều hành của Pixiv Inc. là Katagiri Takanori.
Cần phải là thành viên miễn phí thì mới có thể duyệt trang. Khái niệm chính của Pixiv là để người dùng đăng tải hình minh họa nghệ thuật của riêng họ, trừ các hình thức ảnh chụp; viết lách sáng tạo cũng có thể đăng lên. Người dùng có thể tham gia vào mạng lưới xã hội nơi người ta có thể xếp hạng các đóng góp, để lại nhận xét về những tác phẩm nghệ thuật, thay đổi tag trên bất kì mục nào. Do tính linh hoạt của tag, người dùng có thể tạo ra nhiều sự kiện tham gia ngẫu hứng, trong đó chính họ gửi những tranh vẽ về một chủ đề cụ thể phổ biến. Mỗi người dùng có một hệ thống bảng tin cá nhân, dùng để để lại tin nhắn. Người ta cũng có thể phản hồi các hình ảnh bằng cách dùng một ảnh khác, được gọi là "phản hồi hình ảnh". Pixiv khác với một đối thủ đáng chú ý nhất đến từ Mĩ - DeviantArt, ở chỗ trang này cho phép đăng nội dung khiêu dâm hạng nặng lên web, cho dù cũng có kiểm duyệt bộ phận sinh dục để phù hợp với luật nội dung tục tĩu của Nhật Bản. Những hình ảnh như vậy và những nội dung không phù hợp với trẻ em - chẳng hạn như hình ảnh quái dị - được tách biệt khỏi các nội dung khác thông qua hai bộ lọc bật tắt được thông qua hồ sơ người dùng. Cả hai bộ lọc này, bộ lọc đầu tiên ngăn người dùng xem bất kì nội dung người lớn nào và bộ lọc thứ hai ẩn nội dung quái dị ("R18-G"), được bật mặc định và do đó, những người dùng chưa đăng kí thì sẽ không thể xem các tác phẩm dành cho người lớn. Phần lớn các đóng góp lên web xoay quanh anime, manga và video game fan art (tranh không phải do tác giả vẽ) của người hâm mộ hoặc tác phẩm nghệ thuật gốc tương tự với các loại hình kể trên. Chính sách toàn cầu của website là bảo vệ quyền riêng tư của tất cả người dùng Pixiv, không đăng lại hay in lại tác phẩm của người khác khi chưa được phép và quảng cáo thương mại. Web hiện có khẩu hiệu tiếng Anh là "It's fun drawing!" ("Thật vui khi vẽ!") nhưng các phiên bản trước đó đã dịch nghĩa đen khẩu hiệu tiếng Nhật là "Oekaki ga tanoshiku naru basho" (お絵かきがもっと楽しくなる場所 "Một nơi mà việc vẽ trở nên thú vị hơn").
Các sự kiện chính thức.
Nhiều sự kiện trang trọng được tổ chức định kì trên Pixiv để thu hút người tham gia xoay quanh một chủ đề chung, tùy vào thời điểm trong năm; những sự kiện này xoay quanh tác phẩm nghệ thuật do người dùng đăng. Trong suốt cả năm, các sự kiện theo mùa diễn ra liên kết với những ngày lễ như Halloween, Giáng Sinh, Năm mới và "Tanabata" (tức lễ Thất tịch). Trong một khoảng thời gian cố định, một phần của website sẽ được dành riêng cho nội dung đăng theo mùa này, các khía cạnh của web như thiết kế logo, hệ thống xếp hạng sao cũng thay đổi; ví dụ: ngôi sao sẽ thành quả bí ngô trong sự kiện Halloween. Trong và sau lễ Tanabata giữa năm 2008, các nhà tài trợ hoặc chính Pixiv sẽ trao giải thưởng cho những người tham gia sự kiện có tác phẩm nghệ thuật được cộng đồng yêu thích. Ngoài các sự kiện theo mùa, các nhà tài trợ cũng có thể làm việc với Pixiv trong nhiều sự kiện PR, một lần nữa trao giải thưởng cho người dùng có tác phẩm nổi tiếng nhất. Pixiv từng tổ chức một sự kiện có tên là "Doodle 4 Pixiv", một sự kiện lấy cảm hứng từ cuộc thi Doodle4Google của Google, nơi mà các thành viên tham gia lấy biểu trưng của Pixiv rồi biến hoá nó theo nhiều phong cách khác nhau.
Trước thềm hội chợ Comiket 73 vào tháng 12 năm 2007, người dùng đã thiết lập "Catalog C73 phiên bản Pixiv" trên website này thông qua các tag trên hình ảnh và sau đó, vào tháng 8 năm 2008, Pixiv bắt đầu lập ra một khu vực riêng trên web dành cho các thành viên tham gia Comiket bắt đầu chuẩn bị cho Comiket 74. Điều này cho phép người dùng tìm kiếm thông qua một catalô ("danh mục") theo vòng kết nối "dōjin" và theo tên người dùng cũng bao gồm thông tin về vị trí vòng kết nối của người dùng trong trung tâm hội nghị. Đồng thời, do mức độ đóng góp tranh ảnh của người hâm mộ sê-ri Touhou Project cho web rất cao (chiếm khoảng 3,9% tổng số bài dự thi), Pixiv cũng thiết lập hẳn một danh mục tương tự cho hội nghị Reitaisai "Touhou" hàng năm.
Khi xem trang đầu của Pixiv mà chưa đăng nhập thì sẽ thấy trước một lựa chọn ngẫu nhiên các tác phẩm mới nhất và được đánh giá cao nhất, dưới dạng hình thu nhỏ. Một bộ tag từ những đợt đăng tải gần nhất sẽ hiển thị trong đám mây tag nằm bên dưới tranh minh họa. Khi đã đăng nhập, thì có thể xem trước sáu trong số tranh minh họa mới nhất ở trên cùng, và một số thứ hạng trong top ba cũng được hiển thị, gồm có xếp hạng hàng ngày, phổ biến với nam giới, tân binh và tranh minh hoạ gốc, cũng như xếp hạng hàng ngày cho các đóng góp bằng văn bản. Các thứ hạng khác không có trên trang đầu gồm có: hàng tuần, hàng tháng và phổ biến với nữ giới. Các đám mây tag hiển thị cùng những sự kiện chính thức và tranh minh họa mới từ các nghệ sĩ được yêu thích. Bên tay trái có lựa chọn ngẫu nhiên các nghệ sĩ yêu thích của người dùng, liên kết đến trang người dùng, có thể xem ở bên dưới ảnh hồ sơ người dùng. Hai liên kết có sẵn cho người dùng để xem lại đánh giá và nhận xét trước đây của họ về các hình ảnh. Một liên kết để chuyển đến phiên bản dành cho người lớn của trang đầu cũng có, nếu được bật.
Trên trang người dùng của một người nhất định, có thể xem trước ba ảnh đăng gần đây nhất của họ dưới dạng hình thu nhỏ, cùng với ba hình ảnh mà họ đánh dấu gần đây nhất và ba phản hồi gần nhất của người dùng đó đã phản hồi về ảnh của người khác. Có sẵn lựa chọn các nghệ sĩ yêu thích của người dùng, cùng với các liên kết đến danh sách đầy đủ các nghệ sĩ, được phân chia giữa "người dùng yêu thích" và "lựa chọn của tôi". Có sẵn một hồ sơ ngắn trình bày chi tiết thông tin cơ bản của nghệ sĩ, như biệt hiệu, ngày sinh, giới tính và địa điểm, cùng với một phần tự giới thiệu ngắn. Một hồ sơ bổ sung mô tả chi tiết không gian làm việc trên máy tính của một nghệ sĩ cũng có sẵn. Mỗi người dùng có một ảnh hồ sơ được dùng để phân biệt xuất hiện phía trên tên của họ trên trang người dùng. Mỗi người dùng được cung cấp một hệ thống bảng tin cá nhân, đơn giản mà người dùng hoặc bất cứ ai khác có thể viết nhận xét (giới hạn 140 kí tự) và chỉ có 60 mục nhập gần đây nhất để xem.
Người dùng có thể đăng gửi số lượng hình ảnh không giới hạn, nhưng phải đợi năm phút giữa các lần đăng. Khi tìm kiếm các đóng góp, số lượng người dùng đã đánh dấu một ảnh nhất định sẽ xuất hiện dưới hình thu nhỏ ở dạng "# người dùng" màu xanh lam và số lượng người dùng đã phản hồi ảnh cho một hình nhất định cũng sẽ xuất hiện dưới hình thu nhỏ ở dạng "# res" màu đỏ. Nếu ảnh đăng lên có cỡ lớn hơn 600x600 pixel, thì ảnh đó sẽ xuất hiện dưới độ dài 600 pixel trên trang của ảnh, khi nhấp vào thì sẽ mở ra một cửa sổ trình duyệt mới chứa phiên bản đầy đủ của ảnh đó. Người dùng có thể đánh giá mỗi lần đăng gửi một lần trong khoảng thời gian 24 giờ bằng thang biểu tượng hình ngôi sao từ một đến mười (tức từ thấp đến cao). Số lần đánh giá, tổng điểm và số lần xem của hình ảnh được hiển thị ở phía trên các ngôi sao. Một dòng tóm tắt của ảnh, viết bởi tác giả sẽ xuất hiện ở phía trên của hình ảnh cùng dòng tiêu đề.
Người dùng có thể bình luận ngắn trên ảnh với giới hạn 140 kí tự; 20 dòng bình luận gần đây nhất sẽ được đăng lên và người dùng cũng có thể xóa bình luận của chính họ. Một tập hợp các tag ("thẻ") được đính kèm vào mỗi hình ảnh mà bất kì người dùng Pixiv nào cũng có thể chỉnh sửa và bất cứ tag nào cũng có thể được thêm vào, ngay cả những tag rất cụ thể, chứa các câu từ đầy đủ; tuy nhiên, một ảnh chỉ được sở hữu 10 tag. Nếu một bài gửi nhận được phản hồi bằng ảnh, thì năm phản hồi bằng ảnh gần đây nhất sẽ được xem trước dưới dạng hình thu nhỏ nằm bên dưới dòng nhập nhận xét cùng liên kết đến danh sách đầy đủ các phản hồi bằng ảnh. Bản xem trước của các bài gửi có thể nhúng vào các website khác, chẳng hạn như những blog liên kết trở lại trang của hình ảnh đó trên Pixiv.
Tag hay "thẻ" là một tính năng quan trọng của Pixiv, cho phép nhiều tranh ảnh nhóm lại với nhau theo chủ đề. Mặc dù mỗi ảnh chỉ được phép có mười tag, nhưng các tác giả đã đăng một hình ảnh nhất định cũng có thể chọn khóa hoặc mở khóa tag nào; nếu một tag nhất định được mở khóa, thì bất kì người dùng nào cũng có thể xóa hoặc thay đổi tag đó. Bất cứ người dùng nào cũng có thể bổ sung thêm tag và cũng có thể báo cáo bất cứ tag nào gây khó chịu hoặc mang tính phỉ báng. Một phần của website chứa danh sách 5.000 tag được sử dụng hàng đầu trên trang, các tag được sử dụng nhiều nhất hiện ở trên cùng; hai tag được sử dụng nhiều nhất mọi thời đại là "Touhou" và "original" (tức "bản gốc") với hơn 1 triệu lượt đăng gửi mỗi tag. Một phần khác của website liệt kê số lượng người dùng có hình ảnh với các tag chung; ví dụ: tag "original" được ngườit ta dùng nhiều nhất. Ngoài ra còn có các tùy chọn tìm kiếm nâng cao để có thể tìm hình ảnh theo kích thước, tỉ lệ khung hình và nhiều công cụ.
Người dùng có thể bookmark (tức "đánh dấu") hình ảnh yêu thích và dễ dàng xem lại chúng qua trang người dùng. Các dấu trang như vậy được sắp xếp theo tag và người đánh dấu trang có thể thêm một nhận xét ngắn về hình ảnh. Số lượng ảnh mà một người có thể đánh dấu là vô hạn, các hình ảnh cũng có thể được liệt kê theo thứ tự mới nhất trước hoặc cũ nhất trước. Ai cũng có thể xem các hình ảnh được đánh dấu bởi bất kì người dùng nào. Người dùng có thể thêm những người khác vào danh sách "người dùng yêu thích" của họ, điều này có thể để ở chế độ công khai hoặc riêng tư và được liệt kê theo những ai mới thêm vào gần đây nhất. Người dùng còn có thể thêm bạn bè của họ làm "lựa chọn của tôi" (hoặc "Pixiv của tôi") được hiển thị trong danh sách công khai, sắp xếp theo thứ tự mà các thành viên đã tham gia Pixiv bắt đầu từ người sớm nhất.
Ra mắt vào ngày 1 tháng 4 năm 2009, người dùng có thể trả phí 525 yên mỗi tháng để có được tài khoản nâng cấp, được gọi là Pixiv Premium. Những ai có tài khoản trả phí sẽ được cấp cho nhiều đặc quyền khác nhau, chẳng hạn như được dùng thử dịch vụ mới sớm hơn các thành viên khác, được sắp xếp kết quả tìm kiếm theo mức độ phổ biến và được ưu đãi trong các sự kiện tổ chức thông qua web.
Người dùng premium được tặng 2.000 Điểm Pixiv (viết tắt là pp) mỗi tháng, dùng tặng cho những người khác và ủng hộ người khác thông qua nút "goodP" hiển thị trên trang người dùng. Người dùng có thể gửi điểm mọi lúc mọi nơi giữa giới hạn 10 và 500 điểm. Một bên thứ ba không liên quan đến việc trao đổi điểm giữa hai người dùng sẽ không thể biết bất kì điểm nào đã được trao đổi; có nghĩa là một tính năng riêng tư giữa hai người dùng để thể hiện sự cảm ơn hoặc lòng biết ơn. Nếu bất kì điểm nào đạt được trong khoảng thời gian 30 ngày mà không được tiêu trong thời gian một năm, thì điểm đó sẽ hết hạn. Ngoài ra còn có kế hoạch sử dụng điểm để đổi lấy hàng hóa của Pixiv.
Cộng đồng sự kiện.
Các thành viên premium có thể dùng phần cộng đồng sự kiện ("event community") của web cho phép họ tổ chức các sự kiện bên ngoài web. Chỉ người dùng premium mới có thể tổ chức sự kiện, nhưng bất cứ thành viên Pixiv nào cũng xem được các sự kiện trong lịch công khai và mọi thành viên đều có thể tham gia bất cứ sự kiện nào. Tất cả sự kiện đều dành cho các thành viên Pixiv gặp gỡ ngoài đời trong những sự kiện do người dùng tổ chức nhằm giới thiệu tác phẩm, "dōjinshi" hoặc mọi thứ, miễn là liên quan đến Pixiv. Các sự kiện chỉ có thể lên kế hoạch trước tối đa là ba tháng và mỗi thành viên premium chỉ được tổ chức một sự kiện tại một thời điểm, mặc dù có thể tham gia theo ý muốn của nhiều người. Cộng đồng sự kiện chỉ có thể tổ chức các sự kiện liên quan đến Pixiv, nếu phát hiện sự kiện nào không phù hợp thì sẽ bị xóa. Trạng thái đồng quản lí trên Pixiv chỉ được cấp cho tối da ba người trên một sự kiện.
Tính năng tìm kiếm trên website này cho phép người dùng tìm kiếm hình ảnh thông qua tag của họ hoặc theo tiêu đề/chú thích của họ. Cũng có sẵn tính năng tìm kiếm tag ngẫu nhiên, trừ hình ảnh người lớn, trong đó một bộ bốn mươi ảnh sẽ hiển thị dưới dạng hình thu nhỏ. Người dùng có thể được tìm thấy thông qua tính năng tìm kiếm cụ thể để tìm các kết quả phù hợp với hồ sơ người dùng. Ngoài ra còn có thể nhắn tin cho những người dùng khác với giới hạn 10–10.000 kí tự. Phiên bản dành cho điện thoại di động của website có tên là Pixiv Mobile, viết tắt là Pikumoba (ピクモバ, Pikumoba).
Từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 2009, Pixiv đã tổ chức hội chợ đầu tiên, tên là Pixiv Festa, tại Design Festa Gallery Đông ở Omotesandō, Tōkyō, Nhật Bản. Sự kiện này bao gồm nhiều cuộc triển lãm của 145 nghệ sĩ khác nhau. Người tham gia có thể tự do tương tác với các triển lãm nghệ thuật theo ba cách mà người ta vẫn tương tác trên web, đó là: thông qua xếp hạng hình ảnh từ một đến mười (tức từ thấp đến cao) sao, đưa ra nhận xét về ảnh và có thể thay đổi tag trên bất kì mục nào. Những người tham gia được tặng một bộ nhãn dán hình ngôi sao vàng dùng đặt bên dưới bất cứ tác phẩm nghệ thuật nào, thể hiện sự hài lòng hoặc thiếu sót bằng cách không dán bất kì ngôi sao nào. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều treo một cuốn sổ nhận xét mà mọi người có thể viết bất cứ điều gì họ muốn, hay phê bình các tác phẩm. Cuối cùng, những người tham gia được đưa cho một bộ tag trống để họ có thể viết bất cứ thứ gì họ muốn lên đó và đính vào bên dưới một tác phẩm nhất định; mỗi tác phẩm có mười vị trí để đặt tag.
Các điểm hấp dẫn khác gồm có một khu vực mà người tham gia sẽ được vẽ tranh và nhận phản hồi từ những người khác, và một "Khu Pixiv" trên tầng hai có triển lãm ghi lại lịch sử 1+1⁄2 năm của Pixiv. Mỗi người tham gia cũng được phát một bảng câu đố về Pixiv mà đáp án có thể tìm thấy trong Vùng Pixiv. Những ai đã hoàn thành bài kiểm tra và trả lời đúng ít nhất 25 trong số 30 câu hỏi sẽ nhận được những món quà đặc biệt trong khi nguồn cung cấp vẫn còn. Hội Pixiv Festa lần thứ hai được tổ chức tại cùng địa điểm từ ngày 11 đến ngày 12 tháng 7 năm 2009. Đối với hội Pixiv Festa lần thứ ba được tổ chức từ ngày 12 đến ngày 13 tháng 6 năm 2010, cả Phòng Design Festa Đông và Tây đều được trưng dụng cho hội triển lãm. Từ ngày 16–17 tháng 10 năm 2010, tổ chức Pixiv Festa lần thứ tư.
Pixiv từng tổ chức một sự kiện có tên Pixiv Market (tức "Hội chợ Pixiv") vào ngày 15 tháng 11 năm 2009, tại Tokyo Big Sight ở Ariake, Tōkyō, Nhật Bản. Sự kiện này tương tự như Comiket nơi những người tham gia có thể bán và phân phối tác phẩm nghệ thuật của họ, cho dù chúng là tranh minh họa đơn lẻ hay là cả bộ "dōjinshi". Thời gian đăng kí dành cho thành viên Pixiv Premium được tổ chức từ ngày 31 tháng 7 đến ngày 12 tháng 8 năm 2009 và thời gian đăng kí dành cho thành viên Pixiv thường thì tổ chức từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 10 tháng 9 năm 2009. Khoảng 200 gian hàng đã được dựng lên cho sự kiện này.
Các dịch vụ và phương tiện bổ sung.
Ngoài website Pixiv, Pixiv Inc. bắt đầu phát triển ý tưởng mở rộng Pixiv ra ngoài ranh giới web của mình trong khi vẫn dùng được tài khoản Pixiv của người dùng cho các dịch vụ ngoại vi khác. Vào tháng 10 năm 2008, Pixiv Inc. ra mắt một diễn đàn Internet oekaki có tên là Drawr, diễn đàn này bất kì ai có tài khoản Pixiv đều sử dụng được. Trang này sử dụng hệ thống dựa trên Flash để cho phép người dùng vẽ tranh thông qua ứng dụng web. Những người khác có thể gửi câu trả lời nghệ thuật cho bất kì tác phẩm nào; không có giao diện để nhập văn bản. Không giống như Pixiv, trang này không có tính năng tìm kiếm vì không có tag và không bắt buộc phải đăng kí hay đăng nhập vào Drawr để duyệt mục nhập. Trên Drawr, người dùng có thể tạo chủ đề nơi họ gửi tác phẩm theo chủ đề chung hoặc thêm vào hình ảnh đã khởi đầu chủ đề đó.
Phối hợp với Twitter, Pixiv Inc. đã tung ra một dịch vụ web vào tháng 7 năm 2009 có tên là DrawTwit, dịch vụ mà bất cứ ai có tài khoản Twitter đều dùng được và cho phép người dùng vẽ tranh đăng lên Twitter. Những người khác có thể nhận xét về tác phẩm đó bằng cách viết giới hạn 110 kí tự hoặc vẽ tranh phản hồi giới hạn 140 nét cọ (theo tinh thần giống như giới hạn 140 kí tự cho mỗi tweet của Twitter). DrawTwit ban đầu là một dịch vụ tạm thời khả dụng trong quá trình bảo trì web Pixiv vào ngày 16 tháng 7 năm 2009, nhưng dịch vụ này lại đủ phổ biến để phát triển thành một thực thể riêng. Phối hợp với Livedoor (nhà cung cấp Internet Nhật Bản), một dịch vụ viết blog có tên là Pixiv Blog được ra mắt vào ngày 23 tháng 4 năm 2009, mà bất cứ ai có tài khoản Pixiv đều dùng được. Một wiki Pixiv có tên là Pixiv Encyclopedia (tức "Bách khoa toàn thư Pixiv") được ra mắt vào ngày 10 tháng 11 năm 2009, như một cách để lập chỉ mục và xác định hơn 1,6 triệu tag khác nhau được sử dụng trên Pixiv, mà bất cứ ai có tài khoản Pixiv đều dùng được. Phiên bản tiếng Anh của bách khoa toàn thư này và tài khoản Twitter chính thức bằng tiếng Anh bắt đầu vào tháng 5 năm 2011. Ngày 15 tháng 12 năm 2009, ra mắt dịch vụ trò chuyện oekaki có tên Pixiv Chat, để người dùng có thể vẽ nghệ thuật oekaki ngay khi đang ở trong phòng chat.
Phối hợp với Enterbrain, Pixiv bắt đầu sản xuất tạp chí trực tuyến mang tên "Pixiv Tsūshin" (ピクシブ通信 (Pikushibu thông tín), "Pixiv Tsūshin") vào ngày 20 tháng 4 năm 2009. Tạp chí này chứa nội dung liên quan đến cộng đồng Pixiv, cùng nhiều thông tin hữu ích cho người dùng. Các thông tin gồm có những bài báo tin tức mới nhất của Pixiv, các bài viết hướng dẫn ("How-To"), phỏng vấn với các nghệ sĩ nổi tiếng trên web và hàng loạt chuyên mục, bao gồm cả những nội dung khác nữa. Ngoài ra, tạp chí còn bao gồm những hoạt động chủ động mà các nghệ sĩ trên web đang làm liên quan đến website này, chẳng hạn như tổ chức các cuộc triển lãm nghệ thuật. Cũng với sự hợp tác của Enterbrain, một tạp chí có tựa đề "Quarterly Pixiv" (tức "Pixiv Hàng Quý") sẽ bắt đầu xuất bản vào ngày 28 tháng 5 năm 2010, chứa các tài liệu tương tự như tờ "Pixiv Tsūshin".
Pixiv cũng đã ra mắt Pawoo, một phiên bản của mạng truyền thông xã hội mã nguồn mở phi tập trung Mastodon, dành cho cộng đồng nghệ sĩ của mình. Pawoo Music, một phiên bản Mastodon khác tập trung vào các dịch vụ âm nhạc, cũng đã được ra mắt. Vào tháng 7 năm 2019, Pixiv thông báo ngừng hoạt động Pawoo Music vào ngày 31 tháng 8, ngừng hỗ trợ ứng dụng Mastodon trên thiết bị di động Pawoo. Phiên bản Pawoo sẽ vẫn được tiếp tục hoạt động. Pawoo đã bị cấm dưới hầu hết mọi hình thức trên nền tảng Mastodon do sản phẩm này cho phép nghệ thuật "lolicon".
Vào tháng 12 năm 2016, Pixiv đã ra mắt phiên bản đầu tiên của pixivFanbox, một dịch vụ kết nối nhà sáng tạo và người hâm mộ. Vào thời điểm đó, pixivFanbox cung cấp những tính năng giống như blog cho các nhà sáng tạo, cho phép họ xuất bản nội dung thông qua đăng kí tự động gia hạn hoặc trả tiền cho từng bài. Vào tháng 4 năm 2018, pixivFanbox đã được làm lại, mở đăng kí cho tất cả mọi người trên Pixiv. Gói thanh toán được thay đổi thành gói đăng kí hàng tháng và nhà sáng tạo hiện có thể đặt số lượng gói hỗ trợ và cả số tiền cam kết. Việc làm lại này được thực hiện nhằm cho phép "cộng đồng người hâm mộ hỗ trợ các nghệ sĩ và hoạt động sáng tạo." Vào tháng 4 năm 2020, pixivFanbox tổ chức lễ kỉ niệm lần thứ hai, nhận được tên miền riêng là , người tạo cũng có thể đặt và chia sẻ URL người tạo tùy chỉnh của riêng họ.
Nhóm nghệ thuật hiện đại tự phong Chaos Lounge (カオス*ラウンジ, Chaos Lounge) bị nghi ngờ hợp tác với ban quản lí tối cao tại Pixiv, mặc dù Pixiv sau đó đã phủ nhận mọi mối liên hệ với nhóm này. Katagiri Takanori và Chaos Lounge đã cố tình sử dụng tranh ảnh lấy được từ một cuộc thi Pixiv trong các ảnh ghép nghệ thuật hiện đại của riêng họ. Trong các bức tranh ghép này, khách tham quan phòng trưng bày được khuyến khích hãy "từ từ giẫm lên" những hình ảnh nằm rải rác trên sàn nhà. Khi người dùng Pixiv phàn nàn rằng tác phẩm của họ bị sử dụng không phù hợp, Pixiv đã không thực hiện bất cứ hành động trừng phạt nào, cũng không đình chỉ tài khoản của Chaos Lounge hay Katagiri Takanori . Cuộc tranh cãi đã tạo ra một làn sóng di cư ồ ạt của các nghệ sĩ thất vọng từ Pixiv sang các website tập trung vào nghệ thuật khác như Tinami và Pixa (nay là Egakuba). Lưu lượng truy cập từ dòng người dùng Pixiv thất vọng đã tăng gấp 50 lần so với tốc độ bình thường của các trang mạng này, khiến nhiều trang trong số đó chịu sức ép của loạt người dùng mới và buộc phải chuyển sang ngoại tuyến để bảo trì. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2011, Pixiv chính thức xin lỗi trên web, hứa sẽ cải thiện các hoạt động quản lí của họ trong tương lai.
Vào tháng 6 năm 2018, cựu thành viên của nhóm nhạc nữ thần tượng Niji no Conquistador đã đệ đơn kiện giám đốc đại diện của Pixiv là Nagata Hiroaki (cũng như các công ti quản lí của Niji no Conquistador là Dear Stage, Animate và Pixiv), vì hành vi thị dâm và quấy rối tình dục trong suốt thời gian cô làm việc với nhóm. Nagata đã đệ đơn kiện ngược lại nữ thành viên này vì tội phỉ báng. Sau vụ kiện, ông từ chức. Ngày 10 tháng 2 năm 2020, Sở Tài phán Địa phương Tokyo bác đơn của Nagata và yêu cầu ông bồi thường thiệt hại 1 triệu yên (177.420.447 VND) cho người phụ nữ kể trên.
Ngày 27 tháng 5 năm 2022, Bengo4 đưa tin rằng một phụ nữ chuyển giới đã đệ đơn kiện Pixiv và ông chủ của cô vì hành vi quấy rối tình dục diễn ra vào đầu năm 2018, yêu cầu bồi thường thiệt hại 5,55 triệu Yên. Ngoài ra, một số nhân viên nữ, chuyển giới cũng cho biết bị sếp trong công ty quấy rối tình dục. Vụ việc đã gây ra cuộc tranh luận giữa những người dùng Pixiv, nhiều người trong số họ đã quyết định xóa hoặc ẩn hết tác phẩm của mình trên web. Vào ngày 30 tháng 5 năm 2022, Pixiv đã đưa ra một tuyên bố lấy làm tiếc, thừa nhận rằng biện pháp kỉ luật đã được thực thi. Trong cùng tuyên bố, họ đề cập rằng, vào năm 2019, thủ phạm đã bị giáng chức, bị cắt lương và bị cấm tiếp cận nạn nhân. |
Guizhou JL-9 còn được gọi là FTC-2000 Mountain Eagle (), là một loại máy bay huấn luyện phản lực tiên tiến và máy bay chiến đấu hạng nhẹ siêu thanh do Guizhou Aviation Industry Import/Export Company (Công ty Xuất Nhập khẩu Công nghiệp Hàng không Quý Châu) (GAIEC) phát triển và chế tạo cho Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAAF) và Không quân Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLANAF).
Liên doanh tư nhân GAIEC phát triển một dòng máy bay huấn luyện chi phí thấp là FTC-2000 để phục vụ đào tạo cho các phi công lái máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư. Mẫu máy bay này được cho là sản xuất tại dây chuyền lắp ráp của Tập đoàn Công nghiệp Máy bay Quý Châu (GAIC) ở An Thuận, Quý Châu và ra mắt tại Triển lãm Hàng không Vũ trụ Quốc tế Trung Quốc năm 2001.
FTC-2000, với tên gọi JL-9, đã cạnh tranh với Hongdu JL-10 để đáp ứng các yêu cầu huấn luyện nâng cao của PLAAF và PLANAF. JL-10 có công nghệ tiên tiến hơn nhưng cũng đắt đỏ hơn JL-9. Năm 2013, cả hai được đưa vào sản xuất hàng loạt.
Một biến thể máy bay huấn luyện hạ cánh trên tàu sân bay được truyền thông nhà nước Trung Quốc tiết lộ vào năm 2011 có tên là JL-9G. Nó được gia cố phần gầm, mở rộng sải cánh và cửa hút gió siêu âm không chuyển hướng. Nhưng JL-9G bị chứng minh là không phù hợp khi sử dụng thiết bị hãm để giảm tốc độ hạ cánh trên tàu sân bay và chỉ giới hạn trong các hoạt động trên bộ.
Ngày 5 tháng 9 năm 2018, Tân Hoa Xã đưa tin GAIC bắt đầu sản xuất hàng loạt biến thể FTC-2000G. Ngày 28 tháng 9, có thông tin cho rằng chiếc FTC-2000G trong đợt sản xuất đầu tiên đã thực hiện chuyến bay lần đầu. Tháng 4 năm 2020, Trung Quốc cho biết có một quốc gia Đông Nam Á giấu tên đã đặt hàng FTC-2000G, với việc giao hàng dự kiến từ năm 2021 đến 2023.
FTC-2000 được phát triển từ phiên bản máy bay huấn luyện hai chỗ ngồi của Chengdu J-7 là JJ-7/FT-7; Chengdu J-7 là phiên bản nội địa Trung Quốc của Mikoyan-Gurevich MiG-21. FTC-2000 sử dụng cánh mới, cửa hút gió bên hông thân máy bay và buồng lái màn hình hiển thị; trong khi vẫn giữ nguyên động cơ, phần đuôi và bộ điều khiển cơ học của JJ-7/FT-7.
Lịch sử hoạt động.
Không quân Hải quân Trung Quốc có một trung đoàn JL-9 vào năm 2014.
Không quân Trung Quốc bắt đầu sử dụng JL-9 để phục vụ huấn luyện phi công vào ngày 18 tháng 10 năm 2015.
Thông số kỹ thuật (FTC-2000).
Máy bay có sự phát triển liên quan
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương |
Tây Nam Papua () là một tỉnh của Indonesia, và là một phần của Tây New Guinea. Mặc dù được đặt tên là "tây nam", nhưng đó là cách gọi không đúng về địa lý và tỉnh này thực sự nằm ở rìa tây bắc của Papua. ("Barat Daya", hay Viễn Tây, cũng dùng để chỉ mặt trời vào ngày hạ chí khi nó lặn ở phía tây nam.) Tỉnh bao gồm khu vực Đại Sorong (tiếng Indonesia: Sorong Raya) bao gồm thành phố Sorong, huyện Sorong, huyện Nam Sorong, huyện Maybrat, huyện Tambrauw và huyện Raja Ampat. Dự thảo luật về việc thành lập tỉnh Tây Nam Papua đã được thông qua thành luật và trở thành tỉnh thứ 38 của Indonesia vào năm 2022.
Tây Nam Papua nằm ở mũi phía tây bắc của một khu vực được gọi là bán đảo Doberai hoặc bán đảo Đầu Chim. Mũi cực tây của tỉnh này là Khu bảo tồn biển khu vực huyện Raja Ampat, nơi có sự đa dạng cao về sinh vật biển như rạn san hô, rùa khổng lồ, cá đuối và cá nhám voi. Quần đảo Raja Ampat bao gồm nhiều hòn đảo khác nhau như Batanta, Misool, Salawati và Waigeo. Thủ phủ của Tây Nam Papua là Sorong, một điểm sản xuất dầu khí và là một trung tâm nhập cảnh vào Papua, với các cơ sở cảng và sân bay hoàn chỉnh khiến nó trở thành một trong những thành phố phát triển nhất ở Papua. Trong tỉnh này có nhiều hệ sinh thái như rừng mưa nhiệt đới và núi vẫn được bảo tồn. Huyện Tambrauw là một điểm đến ngắm chim nổi tiếng, khu vực này được tuyên bố là khu Bảo tồn để tăng cường du lịch sinh thái.
Tỉnh mới khi được thành lập bao gồm 5 huyện cộng với thành phố tự trị Sorong, có tư cách là một huyện. Diện tích và dân số tại các cuộc Tổng điều tra năm 2010 và 2020, cùng với các ước tính chính thức vào giữa năm 2021, được lập bảng dưới đây: |
Palaeognathae là một trong hai phân thứ lớp chim còn tồn tại, nhánh còn lại là Phân thứ lớp Chim hàm mới (Neognathae). Palaeognathae bao gồm năm nhánh còn tồn tại gồm các loài không biết bay (cộng với hai nhánh tuyệt chủng), và một nhánh biết bay (Tinamidae). Phân thứ lớp này hiện bao gồm 47 loài. Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng Palaeognathae là một nhánh đơn ngành, Vậy nên cách phân chia phân loại truyền thống gồm các loài không biết bay và biết bay là không chính xác.
Sơ đồ phát sinh chủng loại phân thứ lớp Palaeognathae dưới đây dựa trên Mitchell (2014) với một số nhánh đặt tên theo Yuri "et al." (2013)
Một kiểu phát sinh loài thay thế đã được tìm thấy bởi Kuhl, H. et al. (2020). Theo kiểu này, tất cả các thành viên của Palaeognathae được phân loại trong Bộ Struthioniformes, nhưng chúng vẫn được thể hiện dưới dạng các bộ riêng biệt ở đây. |
Cờ của Benelux là một cờ không chính thức được ủy nhiệm bởi Ủy ban Hợp tác Bỉ-Hà Lan-Luxembourg vào năm 1951. Nó là sự kết hợp của các quốc kỳ của ba nước thành viên: Bỉ, Hà Lan và Luxembourg. Dải màu đỏ được lấy từ cờ của Luxembourg, dải màu xanh là từ cờ của Hà Lan, và dải màu đen và con sư tử màu vàng được lấy từ huy hiệu của Bỉ. Con sư tử cũng đại diện cho khu vực Vùng đất thấp nói chung, vì mỗi quốc gia thành viên đều có một huy hiệu với một con sư tử nằm trên chân trái (Leo Belgicus), mà trong thế kỷ 17 đã biểu tượng hóa Bếnelux như một toàn thể hoặc một phần. |
Lê Hồng Chương (1957) là đạo diễn phim tài liệu Việt Nam, ông từng giành 3 giải đạo diễn xuất sắc tại các giải thưởng điện ảnh trong nước. Ông cũng là thành viên lãnh đạo của Cục điện ảnh và Hội Điện ảnh Việt Nam. Ông được phong Nghệ sĩ nhân dân năm 2015 và Giải thưởng Nhà nước năm 2022.
Lê Hồng Chương sinh năm 1957, trong gia đình có ông nội làm quan trong triều đình nhà Nguyễn, bố là đạo diễn Lê Huân - nguyên Giám đốc Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương.
Lê Hồng Chương theo học chuyên ngành quay phim tại Đại học Điện ảnh toàn Liên bang Xô viết (VGIK), khi tốt nghiệp về nước ông thành danh với vai trò đạo diễn phim tài liệu.
Từ năm 2005 đến 2010, ông giữ chức vụ Giám đốc Hãng phim Tài liệu và Khoa học Trung ương.
Thời gian này, ông phát hiện những kiến thức làm nghề mà ông cần bổ sung có trong các cuốn sách nguyên bản tiếng Pháp tại Thư viện Quốc gia. Thế là ông học tiếng Pháp để có thể tự đọc những cuốn sách này, khi đã biết thêm ngôn ngữ mới, Lê Hồng Chương tạm gác lại chuyến đi Nga để làm luận án tiến sĩ. Ông nhận chức Giám đốc Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp từ năm 2010.
Sau 5 năm làm việc tại Pháp, khi trở về Việt Nam, ông được phân công làm Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh. Ông từng là thành viên Ban giám khảo hạng mục Phim tài liệu - khoa học tại giải Cánh diều 2014. Sau này ông còn là trưởng Ban giám khảo phim tài liệu - khoa hoc giải Cánh diều 2015. Chủ tịch Ban giám khảo phim Tài liệu và Khoa học Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 21 và lần thứ 22.
Ông thôi chức Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh năm và nghỉ hưu năm 2019, hiện tại ông là Phó Chủ tịch Hội điện ảnh Việt Nam, tái đắc cử năm 2021. |
Khăn lúp ("Christian head covering" hay "Christian veiling") là khăn che đầu của những người theo Cơ Đốc giáo. Việc đeo khăn trùm đầu hay khăn lúp là tập tục truyền thống của những người phụ nữ trong nhiều giáo phái Cơ đốc giáo khác nhau trên thế giới. Một số phụ nữ theo đạo Cơ đốc, dựa trên giáo huấn kinh điển của Giáo hội Công giáo, Giáo hội Luther, Giáo hội Moravia, Thần học Calvin, Anh giáo, Phong trào Giám lý và Plymouth Brethren phải đội khăn trùm đầu khi thờ phượng ở nơi công cộng và khi cầu nguyện riêng tại nhà (mặc dù một số phụ nữ thuộc các truyền thống này cũng có thể chọn đội khăn trùm đầu các loại) trong khi những người theo đạo Anabaptist (Trùng tẩy phái) thì tin rằng phái nữ nên luôn đội khăn che đầu như một biểu tượng của sự khiêm tốn ở người phụ nữ.
Các sách hướng dẫn của Cơ đốc giáo sơ khởi đã huấn dạy rằng phụ nữ phải đội khăn trùm đầu khi cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa, cũng như khi ra khỏi nhà. Trong Tân ước có đoạn nói thánh Phaolô muốn rằng khi cầu nguyện các phụ nữ phải đội khăn che đầu, nhưng mà người nam thì không che đầu: "người nam không được che đầu, bởi vì là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa; còn người nữ là vinh quang của người nam". Khăn lúp là dấu chỉ nổi bật của đời sống tu trì cùng với chiếc áo dòng, và chi tiết này được sự chú ý. Ở Việt Nam, các tín đồ của phái Hội Thánh Đức Chúa Trời Mẹ được biết đến với hình tượng những nữ tín đồ bí mật tụ tập cầu nguyện trên đầu đội khăn voan trắng trùm đầu với cảnh tượng ma mị.
Áo dòng và khăn lúp là niềm vinh dự của các nữ tu, và đồng thời là điểm gợi lên sự tò mò nơi các thiếu nữ muốn được sống đời tu để được mặc áo dòng và được đội chiếc lúp trên đầu. Khi nhìn các nữ tu trong bộ tu phục với chiếc khăn lúp cho thấy vẻ thiện và vẻ đẹp kín đáo. Khăn lúp được dịch từ tiếng Pháp "Voile" có gốc Latinh là "Velum", động từ là "Velare" có nghĩa là "che đậy". Ngày trước, phụ nữ thường mang khăn che đầu và che cả mặt (đặc biệt trong lễ cưới) để che dấu vẻ đẹp khuôn mặt, hầu tránh được sự tò mò và trêu ghẹo của đàn ông, còn tầng lớp quý tộc thì khăn che đầu còn là dấu hiệu của sự quý phái, nên các nữ quý tộc thường đội khăn che đầu bằng loại vải thượng hạng (voan), còn người nghèo và nữ nô lệ, khăn che đầu còn có tác dụng giữ gọn tóc và lau mồ hôi khi làm việc, các cô dâu khi làm lễ cưới thì đội chiếc khăn lên đầu, khi phụng vụ muốn tìm ra một biểu hiệu cho nghi thức cung hiến các trinh nữ, thì người ta quy chiếu vào nghi thức hôn nhân. |
Lorenzo Capicchioni (sinh ngày 19 tháng 1 năm 2002) là cầu thủ bóng đá San Marino chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ S.S. Cosmos và Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino.
Sự nghiệp thi đấu quốc tế.
Capicchioni ra mắt quốc tế cho San Marino vào ngày 18 tháng 11 năm 2022 trong 1 trận đấu giao hữu gặp Saint Lucia, trận đấu đó kết thúc với tỷ số hòa 1–1.
"Tính đến 17 tháng 6 năm 2023" |
Công giáo tại México
Công giáo tại Mexico (Giáo hội Công giáo Mễ Tây Cơ hay Nhà thờ Công giáo ở Mexico) là một phần của Giáo hội Công giáo hoàn vũ được đặt dưới sự lãnh đạo tinh thần của Giáo hoàng, Giáo triều ở Rome và Hội đồng Giám mục Quốc gia Mexico ("Conferencia del Episcopado Mexicano"). Theo điều tra dân số Mexico, Công giáo La Mã là tôn giáo thống trị ở Mexico với 77,7% dân số thực hành các nghi thức đạo Công giáo vào năm 2020. Một cuộc khảo sát của Statistica cho thấy con số này có thể thấp hơn, số liệu cho thấy người Công giáo chỉ có thể chiếm 72% dân số cả nước. Lịch sử của Giáo hội Công giáo ở Mexico bắt đầu từ thời kỳ Tây Ban Nha chinh phục Đế chế Aztec (1519–1521) và nó đã tiếp tục như một thiết chế ở Mexico cho đến thế kỷ XXI. Vào cuối thế kỷ XX, các khu vực pháp lý của Công giáo Đông phương cũng được thành lập ở Mexico. Ở nhiều nơi trên đất nước Mexico, Cơ đốc giáo Công giáo được dung hợp rất nhiều với các tín ngưỡng địa phương, phong tục dân gian và văn minh Aztec, văn minh Maya, và các tôn giáo bản địa khác ở thời kỳ tiền Columbo.
Lịch sử của Giáo hội Công giáo ở Mexico bắt đầu từ thời kỳ chinh phục của người Tây Ban Nha (1519–21) và tiếp tục là một thể chế ở Mexico cho đến thế kỷ XXI. Công giáo là một trong nhiều di sản lớn từ thời thuộc địa Tây Ban Nha, những di sản khác bao gồm tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ quốc gia, Bộ luật Dân sự và kiến trúc thuộc địa Tây Ban Nha. Nhà thờ Công giáo là một tổ chức đặc quyền cho đến giữa thế kỷ XIX. Đây là Giáo hội được phép hoạt động duy nhất trong thời kỳ thuộc địa và vào thời kỳ đầu của Cộng hòa Mexico, sau khi giành được độc lập vào năm 1821. Sau khi giành được độc lập, Giáo hội Công giáo còn trực tiếp tham gia, can dự vào chính trị, kể cả cả đến những vấn đề không liên quan trực tiếp đến Giáo hội.
Lịch sử Công giáo ở Mexico bắt đầu từ thời kỳ chinh phục đẫm máu của người Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI. Trong cuộc chinh phục xứ Mễ Tây Cơ, người Tây Ban Nha theo đuổi chính sách kép gồm chinh phạt bằng quân sự, đưa người dân bản địa và lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát của Tây Ban Nha và chinh phục tinh thần, tức là cải đạo người da đỏ bản địa cải đạo sang Cơ đốc giáo (người ta thường gọi là "Thập tự và đại bác"). Khi người Tây Ban Nha bắt tay vào cuộc thám hiểm và chinh phục Mexico thì một linh mục Công giáo, Gerónimo de Aguilar cũng đã đồng hành cùng chuyến thám hiểm của Hernán Cortés để truyền đạo ở những vùng mới khám phá.
Ban đầu khi chứng kiến tập tục của người bản địa thì người Tây Ban Nha kinh hoàng trước nghi thức hiến tế người và ban đầu cố gắng ngăn chặn những nghi lễ kiểu này, nhưng cho đến khi Cuộc chinh phục đế chế Aztec của người Tây Ban Nha hoàn tất thì việc hiến tế vẫn diễn ra. Những người cai trị đồng minh của Cortés từ thành bang Tlaxcala đã cải sang Cơ đốc giáo gần như ngay lập tức và có một bức tranh mô tả về Cortés, Malinche và các lãnh chúa của Tlaxcala cho thấy sự kiện này. Nhưng phải đến khi thủ phủ Tenochtitlan của Aztec sụp đổ vào năm 1521 thì người dân bản địa mới thực hiện một cuộc cải đạo ồ ạt sang Cơ Đốc giáo.
Lý do biện minh cho các cuộc chinh phạt ở nước ngoài của người Tây Ban Nha (và Bồ Đào Nha) là để cải đạo dân cư sở tại sang Cơ đốc giáo. Giáo hoàng đã cấp cho quốc vương Tây Ban Nha (và Bồ Đào Nha) những nhượng bộ được gọi là "Patronato Real" hoặc Quyền bảo trợ của Hoàng gia, trao cho quốc vương quyền bổ nhiệm các ứng cử viên cho các chức vụ cao trong giáo hội, thu một phần mười lợi tức và ủng hộ các tăng lữ, nhưng không nhường quyền trong các vấn đề giáo lý hay giáo điều. Điều này về cơ bản đã khiến Phó vương Tây Ban Nha có quyền lực cao nhất của Giáo hội và chính quyền ở các lãnh thổ hải ngoại.
Trong thời kỳ đầu chinh phục Mexico, các thể chế chính thức của Giáo hội và chính quyền cai trị chưa được thiết lập. Nhưng để bắt đầu cuộc chinh phục về mặt trận tâm linh mặc dù hệ thống phân cấp giám mục (giáo sĩ giáo phận) vẫn chưa được thiết lập, nhưng Cortés đã yêu cầu các dòng khất sĩ Phanxicô, Dòng Đa Minh, và Người Augustin được gửi đến Tân Tây Ban Nha, để cải đạo người bản xứ. Mười hai tông đồ của Mexico như họ được biết đến là những tu sĩ dòng Phanxicô đầu tiên đến năm 1524, tiếp theo là dòng Đa Minh năm 1526, và dòng Augustinô năm 1533. Ở miền Trung Mexico thời tiền Tây Ban Nha, đã có một truyền thống lâu đời về các thành bang bị chinh phục đã du nhập thêm các vị thần của những kẻ chinh phục họ vào đền thờ của họ và việc chuyển đổi sang Cơ đốc giáo dường như cũng tương tự. Nói chung, người da đỏ bản địa không bài xích việc cải sang Cơ đốc giáo. Các thầy tư tế của người bản địa đã bị đuổi đi và các ngôi đền biến thành nhà thờ Thiên chúa giáo. Mục tiêu cũng được nhắm đến là những thanh niên chưa lớn lên với niềm tin ngoại giáo. Ở Tlaxcala, một số người cải đạo trẻ tuổi đã bị sát hại và sau đó được tôn vinh là những người tử vì đạo.
Sự xuất hiện của Mười hai vị tông đồ của Mexico đã khởi xướng cái được gọi là "Cuộc thu phục tinh thần của Mexico". Các tu sĩ dòng Phanxicô đặc biệt giỏi trong việc tạo ra các tư liệu để họ có thể truyền giáo bằng ngôn ngữ bản địa, ngôn ngữ này ở miền Trung Mexico là Nahuatl, ngôn ngữ của người Aztec và các nhóm khác. Fray Andrés de Olmos đã hoàn thành một cuốn cẩm nang hướng dẫn để dạy những người anh em Nahuatl. Fray Alonso de Molina đã biên soạn một cuốn từ điển song ngữ bằng tiếng Nahuatl ("Mexicana") và tiếng Tây Ban Nha ("Castellano") để hỗ trợ các anh em giảng dạy và thuyết giảng. Ông cũng tạo ra một cuốn sổ tay xưng tội song ngữ, để các anh em có thể nghe xưng tội bằng tiếng Nahuatl.
Một trong những thách thức lớn đối với việc cải đạo là trong việc tạo ra những từ và cụm từ gợi lên điều thiêng liêng mà không khiến người bản địa nhầm lẫn về Cơ đốc giáo với niềm tin cũ của họ. Vì lý do đó, toàn bộ một loạt từ từ tiếng Tây Ban Nha và một số từ tiếng Latinh đã được kết hợp dưới dạng từ mượn trong tiếng Nahuatl để biểu thị Chúa ("Dios") thay vì chúa ("teotl") và những từ khác để biểu thị các khái niệm mới, chẳng hạn như một di chúc và di chúc cuối cùng ("testamento") và linh hồn ("ánima"). Các tu sĩ đã thành lập 120 bệnh viện trong một trăm năm đầu tiên của thời kỳ thuộc địa, một số chỉ phục vụ người Tây Ban Nha nhưng một số khác dành riêng cho người bản địa. Những bệnh viện dành cho người da đỏ này đặc biệt quan trọng vì dịch bệnh đã làm vô số người da đỏ bị bệnh và giết chết sau cuộc chinh phục.
Trong cộng đồng Nahua ở Tula thì phụ nữ không chỉ tham gia mà còn giữ chức vụ tôn giáo công khai. Đàn ông và phụ nữ da đỏ bản địa đã bị loại khỏi quyền tài phán của Tòa án dị giáo khi những Tòa án được thiết lập, nhưng vẫn có những lo ngại về tín ngưỡng và thực hành thờ cúng của người bản địa. Năm 1629, Hernando Riz de Alarcón đã viết Chuyên luận về những điều mê tín của người ngoại đạo mà ngày nay sống giữa những người da đỏ bản địa ở Tân Tây Ban Nha này. Người ta biết rất ít về bản thân Ruiz de Alarcón nhưng công việc của ông là một đóng góp quan trọng cho Mexico thời kỳ đầu để hiểu về tôn giáo, tín ngưỡng và y học của người Nahua. Ông đã thu thập thông tin về những người da đỏ Nahua ở Guerrero ngày nay. Ông cũng đã gây sự chú ý của Toà án dị giáo vì đã tiến hành "autos-de-fe" và trừng phạt người da đỏ mà không có thẩm quyền. Văn phòng Tòa thánh đã miễn tội cho ông vì sự thiếu hiểu biết và sau đó bổ nhiệm ông vào vị trí thông điệp viên cho Văn phòng Tòa thánh về các thực hành ngoại giáo làm chất liệu cho cuốn Chuyên luận về mê tín ngoại đạo (Treatise on the Heathen Superstitions).
Vào giữa thế kỷ XIX, Cuộc cải cách tự do đã mang lại những thay đổi lớn trong quan hệ giữa nhà thờ và nhà nước. Những người theo chủ nghĩa tự do ở Mexico đang nắm quyền đã thách thức vai trò của Giáo hội Công giáo, đặc biệt là phản ứng trước việc Giáo hội này tham gia và can dự vào nền chính trị. Những cải cách sau đó đã hạn chế ảnh hưởng của Giáo hội trong lĩnh vực giáo dục, quyền sở hữu tài sản và kiểm soát hồ sơ khai sinh, kết hôn và khai tử, với các luật chống lại giáo sĩ. Nhiều trong số này đã được đưa vào Hiến pháp năm 1857, hạn chế quyền sở hữu tài sản của công ty và các hạn chế khác của Giáo hội. Mặc dù có một số giáo sĩ cấp tiến ủng hộ cải cách, chẳng hạn như José María Luis Mora, Giáo hội dần dần bị coi là bảo thủ và phản cách mạng.
Trong cuộc Chiến tranh Cải cách đẫm máu, Giáo hội là đồng minh của các lực lượng bảo thủ cố gắng lật đổ chính phủ tự do và liên hệ với nỗ lực giành lại quyền lực của phe bảo thủ nhờ sự can thiệp của Pháp, khi Maximilian của Habsburg được mời làm hoàng đế của Mexico. Đế chế sụp đổ và những người bảo thủ bị mất uy tín, cùng với đó Giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ tổng thống lâu dài của Porfirio Díaz (1876–1911) vốn là vị tướng theo chủ nghĩa tự do đã theo đuổi chính sách hòa giải với Giáo hội Công giáo, mặc dù ông bảo lưu các điều khoản chống lại đặc quyền của giáo sĩ khi hiến pháp tự do có hiệu lực, nhưng trên thực tế, ông đã cho phép Giáo hội Công giáo tự do lộng hành nhiều hơn. Với việc Díaz bị lật đổ vào năm 1911 và cuộc xung đột kéo dài một thập kỷ của Cách mạng Mexico, phe Lập hiến chiến thắng do Venustiano Carranza lãnh đạo đã viết lại Hiến pháp mới năm 1917 củng cố các biện pháp chống giáo quyền trong Hiến pháp tự do năm 1857.
Với nhiệm kỳ tổng thống của vị tướng cách mạng Plutarco Elías Calles (1924–28) ở miền Bắc, việc Nhà nước thực thi các điều khoản chống giáo quyền của Hiến pháp năm 1917 đã gây ra một cuộc khủng hoảng lớn kèm theo bạo lực ở một số vùng của Mexico. Cuộc nổi dậy Cristero (1926–29) đã được giải quyết với sự hỗ trợ ngoại giao của Đại sứ Hoa Kỳ tại Mexico để chấm dứt bạo lực. Một sự thay đổi lớn diễn ra vào năm 1992, với nhiệm kỳ tổng thống của Carlos Salinas de Gortari (1988–1994). Trong một chương trình cải cách sâu rộng nhằm "hiện đại hóa Mexico" mà ông đã vạch ra trong bài diễn văn nhậm chức năm 1988, chính phủ của ông đã thúc đẩy việc sửa đổi Hiến pháp Mexico, bao gồm rõ ràng một khuôn khổ pháp lý mới khôi phục tư cách pháp nhân của Giáo hội Công giáo. Phần lớn người Mexico trong thế kỷ 21 tự nhận mình là người Công giáo, nhưng sự phát triển của các nhóm tôn giáo khác như Tin lành truyền đạo, Mormon, cũng như chủ nghĩa thế tục phù hợp với xu hướng ở những nơi khác ở Mỹ Latinh.
Trong những năm gần đây, một số trường hợp lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên do các linh mục ấu dâm đã được đưa ra ánh sáng. Trường hợp nổi tiếng nhất là trường hợp của Marcial Maciel người sáng lập phái "Lê dương của Chúa" (Legion of Christ). Cha Maciel bị buộc tội lạm dụng hàng chục cậu bé trong khoảng thời gian 50 năm, mặc dù ông chưa bao giờ bị kết tội và luôn khẳng định mình vô tội, nhưng cả Legion of Christ và Giáo hội Công giáo đều xin lỗi về hành động của ông và sự che đậy sau khi ông chết. Vào tháng 12 năm 2019, Legion thừa nhận rằng 33 linh mục đã lạm dụng tình dục ít nhất 175 trẻ em từ 11–16 tuổi từ năm 1941 đến năm 2019. Sáu mươi trường hợp liên quan đến Maciel và tổng số đó không bao gồm 90 học sinh bị lạm dụng dưới tay của 54 chủng sinh. Hồng y Norberto Rivera Carrera bị áp lực phải nghỉ hưu vào năm 2007 sau khi bị buộc tội che đậy những vụ lạm dụng tình dục. Vào năm 2012, Cha Manuel Ramírez García bị buộc tội lạm dụng mười ba đứa trẻ ở San Pedro Garza García, Nuevo Leon còn cha Carlos López Valdez ở Tlalpan, Thành phố Mexico đã bị kết án 60 năm tù vào năm 2018 vì lạm dụng một cậu bé, cha Luis Esteban Zavala Rodríguez của Giáo phận Irapuato bị kết tội cưỡng hiếp một bé gái 12 tuổi vào năm 2019 và nhận 65 năm tù.
Cuộc điều tra dân số do INEGI thực hiện vào năm 2020 cho thấy 97,8 triệu người Mexico (chiếm 77,7%) trong tổng dân số 126 triệu người được xác định là người Công giáo. Điều này thể hiện sự gia tăng so với năm 2010 khi 84 triệu người (82,7%) là người Công giáo, đây là một ""sự sụt giảm nghiêm trọng" về tỷ lệ phần trăm theo một phát ngôn viên của Giáo hội. Các giáo đoàn Tin lành và phái Tin lành đã tăng 7,5% trong thập kỷ qua và còn có 10,2 triệu người (8,1%) không có tôn giáo, tăng gấp đôi so với mười năm trước. Tuần báo Công giáo "Desde la Fe" đã viết ra quan điểm trong một bài xã luận: "El bien generalmente no es noticia, el mal, siempre es magnificado. La Iglesia ha tenido un desgaste moral ante la sociedad, por el mal ejemplo de algunos. Es tiempo de conversión hacia el interior" (tạm dịch: "Điều tốt thường không phải là tin tức, điều ác luôn được phóng đại. Giáo hội Công giáo đã bị xói mòn đạo đức trước xã hội, do gương xấu của một số người. Đã đến lúc phải hoán cải nội tâm"."). |
Chiến dịch Walcheren (tiếng Anh: "Walcheren Campaign"; tiếng Đức: "Walcheren-Kampagne"; tiếng Pháp: "Campagne de Walcheren"; tiếng Hà Lan: "Campagne Walcheren"), là một cuộc viễn chinh không thành công của người Anh vào Vương quốc Holland trong năm 1809, nhằm mở ra một mặt trận khác trong cuộc chiến của Đế quốc Áo với Đệ Nhất Đế chế Pháp trong Chiến tranh Liên minh thứ năm. Ngài John Pitt, Bá tước thứ 2 xứ Chatham, là chỉ huy của cuộc hành quân và đổ bộ, với nhiệm vụ đánh chiếm Flushing và Antwerp ở Hà Lan và cho phép điều hướng sông Scheldt. Khoảng 39.000 binh lính và 15.000 con ngựa, cùng với pháo dã chiến và hai đoàn tàu bao vây, đã vượt qua Biển Bắc và đổ bộ lên Walcheren vào ngày 30 tháng 7. Đây là cuộc viễn chinh lớn nhất của Anh trong năm đó, lớn hơn cả đội quân phục vụ trong Chiến tranh Bán đảo ở Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, nó đã không đạt được bất kỳ mục tiêu nào được đề ra trước đó. Chiến dịch Walcheren ít giao tranh, nhưng tổn thất nặng nề về quân số do căn bệnh thường được gọi là "Sốt Walcheren". Mặc dù hơn 4.000 quân Anh đã chết trong cuộc viễn chinh, nhưng chỉ có 106 người chết trong chiến đấu; những người sống sót rút lui vào ngày 9 tháng 12.
Vào tháng 7 năm 1809, người Anh quyết định phong tỏa cửa sông Scheldt để ngăn chặn việc người Pháp sử dụng cảng Antwerp làm căn cứ chống lại họ. Mục đích chính của chiến dịch là tiêu diệt hạm đội Pháp được cho là đang ở Flushing đồng thời đánh lạc hướng để giải vay cho quân Áo đang gặp khó khăn. Tuy nhiên, Trận Wagram đã xảy ra trước khi bắt đầu chiến dịch và người Áo thực sự đã thua cuộc chiến.
John Pitt, Bá tước thứ 2 xứ Chatham chỉ huy đội quân viễn chinh, trong khi Ngài Richard Strachan chỉ huy hải quân, toàn bộ lực lượng viễn chinh gồm 37 tàu, lực lượng viễn chinh hùng hậu nhất từng rời nước Anh, đoàn thuyền nhổ neo rời Downs vào ngày 28 tháng 7. Các chỉ huy bao gồm Hugh Downman, Edward Codrington, Lãnh chúa Amelius Beauclerk, William Charles Fahie, George Cockburn và George Dundas. |
vùng Atacama (, [ataˈkama]) là một trong 16 đơn vị hành chính cấp một của Chile. Vùng này gồm ba tỉnh: Chañaral, Copiapó và Huasco. Ở phía bắc, vùng này giáp với Antofagasta, ở phía nam giáp với Coquimbo, ở phía đông giáp với các tỉnh Catamarca, La Rioja và San Juan của Argentina, và ở phía tây giáp với Thái Bình Dương. Thủ phủ vùng là Copiapó nằm cách 806 km về phía bắc của thủ đô Santiago. Vùng nằm ở phần phía nam của hoang mạc Atacama, phần còn lại của hoang mạc chủ yếu thuộc các vùng khác của Norte Grande.
Vùng Atacama là vùng ít dân thứ ba tại Chile, sau Aysen và Magallanes. Trong tổng dân số của vùng, trên 50% sống ở các thành phố Copiapó và Vallenar.
Các cư dân gốc của khu vực này là người
Diaguita và Chango đánh giá cao sự giàu có về khoáng sản của nó. Kể từ thế kỷ 19, sắt, đồng, bạc và vàng đã mang lại sự thịnh vượng.
Khu vực này trải qua thời kỳ bùng nổ khi mỏ bạc Chañarcillo được phát hiện vào năm 1832. Trong nhiều năm, đây là mỏ bạc lớn thứ ba thế giới.
Đặc điểm tự nhiên.
Phần lớn khu vực là hoang mạc, và sở hữu các nguồn tài nguyên khoáng sản có trữ lượng đáng kể. Nhiều loài động thực vật được tìm thấy trong vùng Atacama. Một phân loài của loài đà điểu Nam Mỹ nhỏ, được biết đến với tên khoa học "Rhea pennata tarapacensis", là một loài chim lớn trên cạn đáng chú ý ở vùng này, phân loài được coi là có nguy cơ tuyệt chủng. Số lượng giảm sút của loài chim này là do săn bắn thời tiền sử và hiện đại, nhưng đáng kể hơn là do chuyển đổi đất nông nghiệp để nuôi sống dân số thế giới ngày càng tăng.
Khai mỏ chiếm 45% GDP của vùng và 90% xuất khẩu của vùng. Hơn nữa, các cuộc khảo sát địa chất khác nhau đã xác định các trữ lượng mới. Khai thác quặng sắt là hoạt động năng động nhất và có rất nhiều mỏ quy mô nhỏ bán sản phẩm của họ cho ENAMI (công ty khai thác quốc gia) để xử lý tại nhà máy luyện kim Paipote. Mỏ đồng chính của khu vực là Candelaria, sản xuất khoảng 200.000 tấn mỗi năm và được kiểm soát bởi tập đoàn quốc tế Phelps Dodge. Quy mô lớn tiếp theo là El Salvador, thuộc sở hữu của CODELCO, với sản lượng hàng năm khoảng 81.000 tấn. Cả hai mỏ đều xuất khẩu qua cảng Chañaral.
Trong những thập kỷ gần đây, trái cây tươi cũng nổi lên thành một mặt hàng xuất khẩu trong vùng, khi các thung lũng Copiapó và Huasco trải qua thời kỳ bùng nổ trồng trái cây của Chile. Những nơi này có lợi thế so sánh vì nhờ khí hậu nắng ấm, trái cây chín sớm hơn so với phần còn lại của đất nước và đến được các thị trường Bắc bán cầu trước tiên. Nho là cây trồng chính và ở quy mô nhỏ hơn là ô liu, cà chua, ớt, hành, đậu tằm, trái cây họ cam quýt, xuân đào, mơ, kinh giới cay và hoa. Sự giàu có hữu cơ của vùng, cùng với vùng nước trong vắt và vịnh kín gió, cùng với kinh nghiệm kinh doanh của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản. Các loài được nuôi bao gồm sò điệp phía bắc, hàu Nhật Bản và Chile, bào ngư, cá bơn, tảo và các loại trai khác nhau. Các sản phẩm khác có giá trị gia tăng cao hơn bao gồm phi lê cá rút xương, cá hun khói và muối, trứng cá và bánh mì kẹp cá.
Điều kiện thời tiết độc đáo tại hoang mạc Atacama, khi cực hiếm những ngày nhiều mây, là điều kiện lý tưởng để phát điện bằng năng lượng mặt trời. Nhiều nhà máy PV và CSP được xây dựng trong khu vực này. |
Danh sách xí nghiệp Bắc Triều Tiên
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (hay Bắc Triều Tiên) là một quốc gia ở Đông Á, nằm ở phần phía bắc của bán đảo Triều Tiên. Bản thân họ cũng tuyên bố chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ đối với khu vực tương đương với lãnh thổ Hàn Quốc ngày nay. Qua thời gian, đất nước Bắc Triều Tiên dần tự mình tách ra khỏi phong trào cộng sản trên thế giới. Tư tưởng "Chủ thể" (Juche), vốn là ý thức hệ của một quốc gia độc lập tự cường, đã được đưa vào Hiến pháp nước này như một sự "vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin" vào năm 1972. Tư liệu sản xuất do nhà nước sở hữu thông qua các doanh nghiệp do nhà nước vận hành và các . Đại đa phần các dịch vụ như y tế, cấp phát nhà ở và chế biến lương thực thực phẩm là được nhà nước bao cấp hoặc tài trợ. Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 1998, Bắc Triều Tiên phải đối mặt với nạn đói khủng khiếp gây ra cái chết của khoảng 0,24 đến 3,5 triệu người, sau đó quốc gia này lại phải tiếp tục vật lộn với vấn đề sản xuất lương thực thực phẩm. Bắc Triều Tiên theo đuổi chính sách "Tiên quân chính trị" (Songun), tức "quân đội trên hết" hay "ưu tiên quân đội trước hết". It is the country with the highest number of military and paramilitary personnel, with a total of 9,495,000 active, reserve, and paramilitary personnel. Its active duty army of 1.21 million is the fourth largest in the world, xếp sau Trung Quốc, Hoa Kỳ và Ấn Độ.
Vì Bắc Triều Tiên là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cho nên gần như có rất ít doanh nghiệp hoạt động tại đây và chúng đều được chính phủ trực tiếp đứng ra quản lý.
Các đơn vị xí nghiệp tiêu biểu.
Danh sách dưới đây bao gồm các công ty xí nghiệp tiêu biểu với trụ sở chủ yếu đặt tại quốc nội. Các lĩnh vực ngành nghề được phân loại theo chuẩn (Industry Classification Benchmark). Các đơn vị đã dừng hoạt động vẫn được liệt kê ở đây và được ghi chú là Ngừng hoạt động. |
Bóng đá tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 – Nữ
Giải đấu bóng đá nữ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 được diễn ra từ ngày 3 tháng 5 đến ngày 15 tháng 5 năm 2023 tại Campuchia. Các trận đấu đều được tổ chức tại Phnôm Pênh.
Việt Nam là đương kim vô địch và đã bảo vệ thành công tấm huy chương vàng sau chiến thắng 2–0 trước Myanmar ở trận chung kết, qua đó có lần thứ 8 lên ngôi trong lịch sử tham dự giải đấu bóng đá nữ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á. Việt Nam cũng trở thành đội tuyển bóng đá nữ đầu tiên 4 lần liên tiếp giành tấm huy chương vàng Đại hội.
Dưới đây là lịch thi đấu cho nội dung thi đấu bóng đá nữ.
Các quốc gia tham dự.
Dưới đây là 8 đội tuyển tham dự giải đấu.
Vào ngày 5 tháng 4 năm 2023, sau khi có kết quả bốc thăm chia bảng, Ủy ban Olympic Indonesia thông báo rằng đội tuyển nữ nước này sẽ rút lui khỏi giải đấu. Đây là lần thứ hai liên tiếp Indonesia không tham gia môn bóng đá nữ tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á.
Ba địa điểm được sử dụng để tổ chức giải đấu: Sân vận động Old RCAF, sân vận động RSN và sân vận động Olympic.
Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 5 tháng 4 năm 2023 tại Sân vận động Quốc gia Morodok Techo ở Phnôm Pênh, Campuchia. Chín đội được xếp vào năm nhóm dựa trên thành tích tại kỳ đại hội gần nhất. Nước chủ nhà và đương kim vô địch SEA Games 31 được xếp vào Nhóm 1.
Vòng đấu loại trực tiếp. |
Đường tỉnh 335 hay Tỉnh lộ 335 (viết tắt là ĐT.335 hay TL.335) là đường tỉnh chạy trên địa phận TP Móng Cái, Quảng Ninh, Việt Nam.
Đường có tổng chiều dài gần 15 km, điểm đầu tại vòng xuyến Trần Nhân Tông, giao với Quốc lộ 18 tại phường Trần Phú và kết thúc tại bến Mũi Ngọc, phường Bình Ngọc.
Đường tỉnh 335 được chia làm 2 đoạn: Đoạn từ Đoạn từ Vòng xuyến Trần Nhân Tông đến ngã ba Trà Cổ - Bình Ngọc và đoạn từ ngã ba Trà Cổ - Bình Ngọc đến bến Mũi Ngọc.
Danh sách các địa phương có đường tỉnh 335 chạy qua:
Đường tỉnh 335 được chia làm 2 đoạn:
Đường tỉnh này là con đường duy nhất kết nối tới phường Trà Cổ và phường Bình Ngọc.
Đường tỉnh 335 được nâng cấp, cải tạo vào năm 2017.
Lưu lượng xe không đồng đều (trừ một số ngày lễ lớn).
Trên toàn tuyến có một cây cầu chính và một số cầu nhỏ với cống tròn thoát nước.
Các điểm giao cắt:.
!Khoảng cách/brtừ đầu tuyến
! colspan="3" |Vị trí
! colspan="8" style="text-align: center; background:#dff9f9;" |Kết nối trực tiếp với #đổi Quốc lộ 18 tại Phường Trần Phú |
Cơ Đốc giáo tại châu Âu
Cơ Đốc giáo (còn gọi là Kitô giáo hay Thiên Chúa giáo) là tôn giáo lớn nhất ở châu Âu và là linh hồn của nền văn hóa châu Âu. Cơ đốc giáo đã được người dân ở châu Âu thực hành thờ phượng nghi lễ ở châu Âu từ thế kỷ thứ nhất, một số Thư tín của Pauline (Pauline Epistles) đã được gửi cho các Cơ đốc nhân sống ở Hy Lạp, cũng như các vùng khác của Đế chế La Mã. Theo một nghiên cứu năm 2010 của Trung tâm nghiên cứu Pew cho hay có khoảng 76,2% dân số châu Âu tự nhận mình là tín đồ Cơ đốc giáo. Điều này là một thuận lợi quan trọng cho châu Âu trong quá trình nhất thể hóa và xây dựng Liên minh châu Âu vững chắc về mặt kinh tế-văn hóa-xã hội. Tính đến năm 2010, Công giáo La Mã là nhóm Cơ đốc giáo lớn nhất ở Châu Âu, chiếm hơn 48% số Cơ đốc nhân ở Châu Âu. Nhóm Kitô giáo lớn thứ hai ở châu Âu là Chính thống giáo, chiếm 32% Kitô hữu châu Âu. Khoảng 19% Cơ đốc nhân châu Âu là một phần của truyền thống Tin lành chính thống. Nga là quốc gia Cơ đốc giáo lớn nhất ở châu Âu tính theo tổng dân số, tiếp theo là Đức và Ý.
Kể từ khi Hoàng đế La Mã Constantine hợp pháp hóa Cơ đốc giáo vào thế kỷ thứ IV sau Công nguyên, Châu Âu đã trở thành một trung tâm quan trọng của văn hóa Cơ đốc giáo, mặc dù tôn giáo này được kế thừa từ Trung Đông và các cộng đồng Cơ đốc giáo quan trọng đã phát triển bên ngoài Châu Âu như Chính thống giáo Đông phương và Giáo hội phương Đông kể từ thời Chúa Kitô. Văn hóa Cơ Đốc giáo đã là một thành tố quan trọng trong nền văn minh phương Tây, ảnh hưởng đến quá trình triết học, nghệ thuật và khoa học. Trong lịch sử, Châu Âu là trung tâm và là ""cái nôi của nền văn minh Thiên Chúa giáo". Châu Âu có một nền văn hóa Cơ đốc giáo phong phú, đặc biệt là có rất nhiều vị thánh Công giáo và các vị thánh tử đạo và hầu hết tất cả các giáo hoàng đều là người châu Âu. Tất cả các vị Giáo hoàng Công giáo La Mã từ năm 741 đến năm 2013 đều đến từ châu Âu. Châu Âu quy tụ nhiều thánh địa Cơ đốc giáo, di sản, thánh tích và trung tâm tôn giáo.
Văn hóa phương Tây trong suốt phần lớn lịch sử của nó, gần như tương đồng với văn hóa Cơ đốc giáo, và nhiều người dân ở Tây bán cầu có thể được mô tả một cách rộng rãi là những Cơ đốc nhân có văn hóa. Khái niệm "Châu Âu"" và "Thế giới phương Tây" (hay còn gọi là Âu Tây, hay Tây Dương) có mối liên hệ mật thiết với khái niệm "Cơ đốc giáo và các tôn giáo theo đạo Cơ đốc", nhiều người thậm chí còn gán cho Cơ đốc giáo là mối liên kết tạo nên một bản sắc châu Âu thống nhất. Mặc dù văn hóa phương Tây chứa đựng một số tôn giáo đa thần trong những năm đầu tiên dưới thời Hy Lạp và Đế chế La Mã, khi quyền lực tập trung của La Mã suy yếu, sự thống trị của Giáo hội Công giáo là lực lượng nhất quán duy nhất ở châu Âu điều này cứ tiếp diễn mãi cho đến Thời đại Khai sáng. Văn hóa Kitô giáo định hướng và dẫn dắt quá trình triết học, văn học, nghệ thuật, âm nhạc và khoa học. Các nguyên tắc Kitô giáo về nghệ thuật tương ứng sau đó đã phát triển thành Triết học Kitô giáo, nghệ thuật Kitô giáo, âm nhạc Kitô giáo, văn học Kitô giáo.
Cơ đốc giáo có tác động đáng kể đến giáo dục và khoa học và y học khi nhà thờ tạo ra nền tảng của hệ thống giáo dục phương Tây, và là nhà tài trợ cho việc thành lập các trường đại học ở thế giới phương Tây vì trường đại học thường được coi là một tổ chức có nguồn gốc từ Cơ đốc giáo thời trung cổ thiết lập ra, nhiều giáo sĩ đã có những đóng góp đáng kể cho khoa học và Dòng Tên, đặc biệt, đã có nhiều đóng góp đáng kể cho sự phát triển của khoa học. Ảnh hưởng Văn minh của Cơ đốc giáo (ở Châu Âu) bao gồm phúc lợi xã hội, thành lập các hệ thống bệnh viện, phát triển kinh tế, hệ thống chính trị, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật văn chương, cũng như xây dựng đời sống gia đình theo giáo lý Thiên Chúa giáo. Sau này, dù cho Cải cách Tin lành là một phong trào tôn giáo, nhưng nó cũng có tác động mạnh mẽ đến tất cả các khía cạnh khác của đời sống châu Âu như tín lý hôn nhân và gia đình, giáo dục, nhân văn và khoa học, trật tự chính trị và xã hội, kinh tế và nghệ thuật. |
Magstadt là một thị xã thuộc huyện Böblingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm giữa Renningen và Sindelfingen.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Schönaich là một thị xã thuộc huyện Böblingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Böblingen 5 km về phía đông nam và cách Stuttgart 16 km về phía tây nam.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Sindelfingen (Swabia: "Sendlfenga") là một thị trấn thuộc bang Baden-Württemberg, miền nam nước Đức. Nơi đây nằm gần Stuttgart tại đầu nguồn sông Schwippe (một nhánh của sông Würm).
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
vùng Coquimbo (, [koˈkimbo]) là một trong 16 vùng của Chile (đơn vị hành chính cấp một). Vùng này giáp với Atacama ở phía bắc, Valparaíso ở phía nam, Argentina ở phía đông và Thái Bình Dương ở phía tây. Nó cách thủ đô Santiago khoảng 400 km về phía bắc.
Thủ đô và thành phố lớn nhất là La Serena. Các thành phố quan trọng khác bao gồm cảng biển Coquimbo và trung tâm nông nghiệp Ovalle.
Vùng Coquimbo tạo thành phần hẹp nhất, hay còn gọi là 'eo' của Chile, và do đó là một trong những vùng có nhiều núi non của đất nước, vì dãy Andes chạy gần biển hơn những nơi khác. Khu vực này có các loài sinh vật biển đáng chú ý cũng như các loài có liên quan đến các vùng núi. Đối với các sinh vật biển, các khu vực nước trồi khuyến khích năng suất sinh học ngoài khơi khu vực bờ biển Thái Bình Dương của Chile.
Ở các khu vực miền núi phía nam của Vùng Coquimbo, tìm thấy loài cọ vang Chile quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng, môi trường sống của chúng bị đe dọa bởi dân số gia tăng trong khu vực và nạn phá rừng liên quan để mở rộng dân cư và nông nghiệp.
Thung lũng Elqui là nơi có một số đài quan sát thiên văn, do bầu trời quang đãng của khu vực. Đây cũng là nơi có con đập Puclaro dài 640 mét, ngăn sông Elqui và tạo ra một hồ chứa 4.630.000 m³ nước để tưới tiêu nông nghiệp.
Các hoạt động khai mỏ và nông nghiệp diễn ra ở nhiều nơi khác nhau trong khu vực, xung quanh các thung lũng ngang và các mỏ khoáng sản. Ban đầu tổ chức này được cấu trúc theo vị trí của các làng người da đỏ Diaguita. Một tỷ lệ cao (70–75%) cư dân có nguồn gốc Mestizo (Âu-da đỏ), cao hơn bất kỳ khu vực nào khác ở Chile. Các dân tộc bản địa khác bao gồm Aymara, Atacameno, Mapuche và Quechua, họ là những người nhập cư từ Peru và Bolivia.
Mức tăng dân số cao gần đây gây căng thẳng cho khu đô thị La Serena - Coquimbo (ước tính 300.000 hoặc 297.253 cư dân), nơi tập trung một nửa dân số khu vực. Về dân số, các thành phố lớn (theo điều tra dân số năm 2002): La Serena (148.815), Coquimbo (148.438), Ovalle (66.405), Illapel (21.826), Vicuña (12.910), Salamanca (11.615) và Los Vilos (10,966).
Khu vực này là một điểm đến du lịch rất phổ biến. Du khách chủ yếu bị thu hút bởi những bãi biển dài, nhiều cát trắng mịn, được tắm vùng biển lặng và khí hậu dễ chịu của khu vực.
Cùng với du lịch, các ngành công nghiệp chính của tỉnh là nông nghiệp và đánh bắt cá. Những ngọn núi là một trung tâm thiên văn học ở Chile |
NHK Fukuoka (NHK福岡放送局, NHK Fukuokahōsōkyoku) là đài truyền hình trực thuộc của tỉnh Fukuoka, dưới sự quản lý bởi đài NHK.
Trụ sở bị đe doạ và phát nổ.
Vào lúc 17:30 (JST), ngày 22 tháng 2 năm 2009 có một vụ nổ xảy ra gần trước trụ sở NHK Fukuoka. Tại hiện trường là những mảnh vỡ những thùng nhựa chứa chất lỏng giống như xăng bị bỏ lại. Một người đàn ông khả nghi đã bị camera an ninh ghi lại và Sở cảnh sát tỉnh Fukuoka đang truy tìm người đàn ông này. |
Joshua Taylor Bassett (sinh ngày 22 tháng 12 năm 2000) là một diễn viên và ca sĩ người Mỹ. Anh được biết đến với vai chính Ricky Bowen trong "".
Bassett sinh ra và lớn lên ở Oceanside, California, với cha mẹ là Taylor và Laura. Anh ấy có năm chị em gái và được học tại nhà.
Bassett hát và chơi piano, guitar, ukulele, bass, trống và một số saxophone. Vào ngày 10 tháng 5 năm 2021, anh ấy công khai mình thuộc cộng đồng LGBTQ+ trong một cuộc phỏng vấn. Vào tháng 12 năm 2021, Bassett tiết lộ rằng anh ấy đã từng bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ và thiếu niên. Năm 2023, anh trở thành Cơ đốc nhân và được rửa tội tại nhà thờ truyền giáo Bê-tên. |
Gerald R. Johnson sinh này 23 tháng 6 năm 1920 tại Kenmore, Ohio, trong một gia đình năm người con của Harold Victor Johnson, Sr. và Hazel Irene Johnson, và là anh em sinh đôi với Harold Victor Johnson, Jr.. Năm 1936, gia đình của Johnson chuyển về sinh sống ở Eugene, Oregon, nơi ông tốt nghiệp trường Công lập Eugene vào năm 1938. Sau đó, Johnson theo học chuyên ngành Nông nghiệp ở Đại học Bang Oregon vào mùa hè năm 1940.
Sự nghiệp quân ngũ.
Năm 1941, ông tham gia Chương trình Học viên Hàng không của Quân đội Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân Luke. Ông tốt nghiệp vào mùa thu cùng năm, được nhận huy hiệu phi công và quân hàm Thiếu úy.
Johnson sau đó được bổ nhiệm vào Phi đoàn Truy kích 57 thuộc Liên đoàn Truy kích 54 tại Everett, Washington, từ tháng 11 năm 1941 đến tháng 2 năm 1943 và cùng đơn vị điều động đến Alaska từ tháng 6 đến tháng 10 năm 1942, nơi ông lái chiếc Bell P-39 Airacobra và Curtiss P -40 Warhawk. Trong thời gian ở Alaska, Johnson đã thực hiện 58 phi vụ bay và báo cáo bắn hạ một máy bay Kawasaki Ki-61 bằng chiếc Airacobra vào ngày 23 tháng 7, nhưng không được xác nhận chính thức.
Johnson được thuyên chuyển về Phi đoàn Tiêm kích 332, Liên đoàn Tiêm kích 329 ở Phi trường Không lực Lục quân Ontario, California trong một thời gian ngắn, từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1943. Ông sau đó được đưa đến Úc, gia nhập Liên đoàn Tiêm kích 49 của Không lực 5, lúc đó đang vận hành máy bay Lockheed P-38 Lightning. Johnson đặt tên cho chiếc Lightning của ông là "Barbara", dựa theo tên của người vợ tương lai của ông, Barbara Hall. Ông đạt được hai chiến công được ghi nhận đầu tiên vào ngày 23 tháng 7 năm 1943 tại Thung lũng Markham, New Guinea, nơi ông bắn hạ một chiếc Nakajima Ki-43 "Oscar" và một chiếc Kawasaki Ki-61 "Tony". Johnson được thăng hàm Đại úy và được điều về Phi đoàn Tiêm kích số 9 vào tháng 8 năm 1943.
Ngày 15 tháng 10 năm 1943, khi đang làm nhiệm vụ bảo vệ đoàn tàu Đồng Minh tại Vịnh Oro, đội bay của Johnson và các máy bay khác thuộc Liên đoàn Tiêm kích 348 đã bị 20 máy bay Nhật Bản tấn công. Khi đang vào đội hình tấn công, một máy bay trong đội hình của Johnson không thể cắt được thùng dầu phụ, và một chiếc khác bị hỏng bộ siêu nạp, buộc chúng phải quay trở về căn cứ với vài chiếc hộ tống. Do đó, Johnson chỉ còn lại khá ít máy bay để đánh chặn máy bay Nhật. Bất chấp những bất lợi, phi đội của Johnson đã thành công trong việc đánh chặn và làm phá sản kế hoạch tấn công của Nhật. Johnson tuyên bố đã bắn hạ bốn máy bay đối phương, nhưng chỉ được ghi nhận ba chiếc: một chiếc Oscar và hai chiếc Aichi D3A "Val", trở thành ACE, nhưng chiếc Lightning của ông đã bị bắn hỏng nặng đến mức không thể sửa chữa. Vì sự dũng cảm trong trận chiến, Johnson được trao thưởng Huân chương Thập tự Phục vụ Xuất sắc.
Ngày 23 tháng 10, Johnson bắn hạ một chiếc A6M Zero khi đang hộ tống một đội máy bay ném bom B-17 Flying Fortress ở gần Rapopo, New Britain. Ông được thăng quân hàm Thiếu tá và được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Liên đoàn Tiêm kích số 9; ông giữ chức vụ này đến tháng 1 năm 1944.
Ngày 15 tháng 11 năm 1943, khi đang bay về căn cứ ở Finschhafen, Johnson phát hiện ra một nhóm máy bay lạ gồm hai máy bay hai động cơ và hai máy bay tiêm kích. Nghi ngờ là máy bay Nhật, Johnson đã lao vào tấn công và bắn cháy một chiếc hai động cơ. Nhưng điều khiến Johnson bất ngờ là khi Johnson tiếp cận chiếc máy bay đang bốc cháy, ông hoảng hốt nhận ra ông vừa bắn nhầm một máy bay CAC Boomerang của Không quân Hoàng gia Úc, có số hiệu đuôi A46-136 và được điều khiển bởi Trung úy Robert M. Stewart. Stewart thoát khỏi chiếc máy bay thành công và sống sót qua vụ tai nạn với vài vết xước nhẹ, và được Johnson tặng một chai rượu gin như một lời xin lỗi. Chiếc Boomerang còn lại, có số hiệu đuôi A46-132, và hai chiếc P-40 Warhawk hộ tống, quay trở về căn cứ an toàn. Để kỷ niệm vụ bắn nhầm này, Johnson đã sơn một lá cờ Úc lên chiếc P-38 Lightning của ông, coi đó như một chiến công bắn rơi máy bay đối phương.
Cuối năm 1943, Phi đoàn số 9 được cung cấp máy bay Republic P-47 Thunderbolt để bổ sung, thay thế cho những chiếc P-48 của phi đoàn bị bắn hạ, bắn hỏng sau các phi vụ ở Rabaul, và số lượng P-38 không đủ để bổ sung kịp ra chiến trường. Johnson đã bắn hạ một chiếc Tony và một chiếc Zero trên chiếc P-47, nâng tổng số chiến công của ông lên 11. Sau đó, Johnson được cấp quyền nghỉ phép ba tháng về Hoa Kỳ.
Quay trở lại chiến trường vào tháng 10 năm 1944, Johnson cùng Liên đoàn 49 được điều động về Tacloban ở Leyte, Philippines. Tacloban bị tấn công liên tục cả ngày lẫn đêm khi quân Nhật đang cố gắng phá hủy các căn cứ tiền tiêu của Mỹ ở Leyte. Bốn giờ sau, Johnson bắn rơi hai máy bay địch, một chiếc Nakajima Ki-44 "Tojo" và một chiếc Oscar, trên bầu trời Balikpapan ở Borneo. 13 ngày sau, ông bắn rơi thêm hai máy bay địch, một chiếc Oscar và một chiếc Val, trong Chiến dịch Philippines. Ngày 11 tháng 11 năm 1944, Johnson bắn hạ hai máy bay Zero trên Vịnh Ormoc, và vào ngày 7 tháng 12, ông bắn hạ ba chiếc Oscar và một máy bay ném bom Nakajima Ki-49 "Helen" trên bầu trời Cebu, đem về cho Johnson tấm Huân chương Thập tự Phục vụ Xuất sắc thứ hai. Tính đến thời điểm đó, Johnson đã đạt được 21 chiến công. Vào mùa xuân năm 1945, Liên đoàn Tiêm kích 49 được điều chuyển về căn cứ mới, Phi trường Clark, và được giao nhiệm vụ cung cấp hỏa lực hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Johnson được thăng quân hàm Trung tá và được giữ chức vụ phó chỉ huy trưởng Liên đoàn Tiêm kích 49 đến tháng 3 năm 1945. Ông đạt được chiến công thứ 22, chiến công cuối cùng của ông, trong một nhiệm vụ càn quét ở Hồng Kông vào đầu tháng 4 năm 1945.
Tháng 7 năm 1945, Johnson được thăng hàm Đại tá và được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng Liên đoàn Tiêm kích 49. Ở tuổi 24, Johnson là một trong những sĩ quan cấp Đại tá trẻ tuổi nhất trong lịch sử Không lực Lục quân Hoa Kỳ. Khi chiến tranh kết thúc, Johnson đã bay tổng cộng 265 phi vụ, được ghi nhận bắn hạ 22 máy bay đối phương, 20 trong số đó trên chiếc P-38 Lightning và hai chiến công trên chiếc P-47 Thunderbolt.
Qua đời và tưởng nhớ.
Vài tuần sau khi chiến tranh kết thúc, Johnson được cử làm giám đốc Căn cứ Không quân Atsugi ở Nhật Bản.
Chiều ngày 7 tháng 10 năm 1945, Johnson thực hiện một chuyến bay chở khách từ Ie Shima về căn cứ Atsugi. Chiếc máy bay B-25H Mitchell, số hiệu đuôi 43-4149, chở theo bốn hành khách (Trung tá Robert Underwood, Trung úy Herbert A. Schaeffler, Trung sĩ Patrick V. Chilsen và Hạ sĩ Ezess F. Fountain) trên bay qua Vịnh Suruga thì gặp một cơn bão nhiệt đới lớn và nhanh chóng bị lạc trong mây đen mù. Khi chiếc máy bay đang dần mất phương hướng và có nguy cơ bị rơi là rất cao, Johnson đã ra lệnh cho toàn bộ hành khách và phi công phụ của ông, Thiếu úy James B. Noland, nhảy dù thoát thân. Do có trên máy bay chỉ có bốn bộ dù, nên Johnson đã nhường lại dù của họ cho Trung tá Underwood. Noland cũng nhường lại dù của mình cho Trung úy Schaeffler và tình nguyện ở lại cùng Johnson để cố gắng hạ cánh chiếc máy bay an toàn. Trước khi bốn người hành khách nhảy, họ được Johnson thông báo rằng ông sẽ cố gắng bay sát đất liền để bốn người họ tiếp đất an toàn, trước khi đưa chiếc máy bay hạ cánh xuống sân bay Irumagawa ở Sayama, Saitama.
Bốn hành khách nhảy dù trong khoảng thời gian năm phút và tất cả đều hạ cánh an toàn. Hạ sĩ Fountain nhảy đầu tiên lúc 21:03, theo sau bởi Trung tá Underwood lúc 21:05 và Trung sĩ Chilsen lúc 21:06. Trung úy Schaeffler là người cuối cùng nhảy khỏi chiếc máy bay, lúc 21:07, và cả bốn người đều được cứu sống sau đó. Nhưng chiếc máy bay không bao giờ xuất hiện tại Irumagawa như Johnson đã nói với các hành khách. Bất chấp nỗ lực tìm kiếm không ngừng nghỉ từ ngày 8 tháng 10 tới ngày 15 tháng 10, chiếc B-25 cùng hai phi công Johnson và Noland không bao giờ được tìm thấy.
Johnson và Noland được xác nhận là đã mất tích vào ngày 7 tháng 10 năm 1945. Vì chuyến bay này được thực hiện sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đã kết thúc, nên chuyến bay không được coi là một nhiệm vụ chiến đấu và hai phi công không được truy tặng Huân chương Trái tim Tím. Johnson và Noland đều được đề tên tại Tấm bia Mất tích tại Đài tưởng niệm Honolulu, tại Nghĩa trang Tưởng niệm Quốc gia Thái Bình Dương ở Hawaii. Sân bay Irumagawa ở Sayama, Saitama sau được đổi tên thành Căn cứ Không quân Johnson để vinh danh ông. Trung tướng George C. Kenney, chỉ huy trưởng Không lực 5, Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, đã nhắn nhủ tới người cha của Johnson rằng "Ông là người cha của người đàn ông dũng cảm nhất mà tôi từng biết đến, và điều dũng cảm nhất mà ông ấy từng làm là chính điều cuối cùng, điều mà ông ấy không phải cần đến sự dũng cảm." |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
") là một bài hát của nam rapper người Hàn Quốc Agust D hay còn được biết đến nhiều hơn dưới nghệ danh Suga của nhóm nhạc BTS kết hợp với nữ ca sĩ người Hàn Quốc IU. Bài hát được trích từ album phòng thu đầu tay sắp tới "D-Day". Mang đậm chất liệu nhạc pop và hip hop, bài hát thảo luận về chủ đề cô đơn và sự kết nối của album. Được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số vào ngày 7 tháng 4 năm 2023 tại Hàn Quốc, thông qua hãng Big Hit Music. Ca khúc do El Capitxn sáng tác kiêm vai trò đồng sản xuất với giọng ca chính Agust D.
Ban đầu bài hát được đặt tên là "Sara" () — saram (), dịch tiếng Hàn có nghĩa là "Người", nhưng không có chữ phụ âm "M" (viết theo ký tự Hangul là ) — Suga đã bắt tay thực hiện cho ca khúc "People Pt. 2" vào khoảng tháng 5 năm 2020 khi đang thực hiện cho mixtape thứ hai D-2 dưới nghệ danh Agust D. Tựa đề cuối cùng cho bài hát đã được thay đổi sau khi những người bạn của anh đã yêu cầu anh hãy chơi chữ một chút qua cái tên của ca khúc để khiến nghe ca khúc bị nghe nhầm thành (), có nghĩa là "Sống", điều đó sẽ khiến cho ca khúc trở nên có sức sống hơn. Ý nghĩa cho tựa đề là để mở rộng, có thể là cho phần tiếp theo của ca khúc "People" từ mixtape "D-2" (2020), bài hát được lấy cảm hứng trong suy nghĩ của anh khi những người khác sẽ đón nhận và phản hồi cho những bài hát của anh như thế nào so với cái tên Agust D. Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí "Billboard", Suga đã mô tả cho bài hát giống như là "một dạng thử nghiệm để có thể phát hành ca khúc này dưới cái tên Agust D", anh nói thêm rằng anh "có một chút lo lắng về bài hát". Bởi vì anh muốn ca khúc có thể "đồng bộ hóa của 2 dạng con người là SUGA và Agust D", đồng thời cũng có thể kết nối từ mixtape của anh đến với album solo chính thức của mình. Suga cho biết rằng anh cần phải tạo ra "một bài hát đậm chất nhạc pop" và anh đã chọn cho nữ ca sĩ người Hàn Quốc IU, người mà anh cảm thấy sẽ đóng một vai trò quan trọng và vai trò đó sẽ làm cho bài hát cảm thấy "bớt dữ dội" hơn và sẽ "tập trung theo chiều hướng nhạc pop" hơn. Cả hai trước đây đã từng làm việc cùng nhau trong đĩa đơn "Eight" (2020) của IU, do Suga cùng đồng sáng tác, sản xuất và trình bày.
Ca khúc đã hoàn thành trước cả khi mixtape "D-2" được hoàn thành. Dù đã hoàn thành từ lâu nhưng bài hát vẫn chưa được phát hành trong suốt ba năm bởi vì do các hoạt động quảng bá liên quan đến BTS cho những ca khúc như "Dynamite" (2020) và "Butter" (2021) đã được thực hiện trước đó, mặc dù một phiên bản demo đã vô tình bị công ty Hybe Corporation công khai vào đầu năm 2023. Một video hậu trường sau đó đã được đăng tải lên YouTube, video quay cảnh về buổi chụp hình cho cuốn photobook "Photo-Folio" của anh, video còn cho thấy Suga đang nghe hướng dẫn cho bài hát được hát từ thành viên cùng nhóm Jungkook.
"People Pt. 2" là một ca khúc nhạc pop với những ảnh hưởng từ dòng nhạc hip-hop dựa theo "nhịp điệu boom bap". Được sáng tác bởi Agust D khi đang ở trong bối cảnh giãn cách xã hội bởi đại dịch COVID-19 thời điểm mà anh 'không thể làm gì cả' và vào lúc đó anh nghĩ rằng anh đã "mất tất cả"; Jang Yi Jeong hay còn được biết đến với cái tên El Capitxn, đã được ghi nhận là người đồng sáng tác và sản xuất cho ca khúc. Trong khi ca khúc tiền nhiệm "People" phản ánh về bản thân và nên xem xét đánh giá của người khác thì bài hát tiếp theo "People Pt. 2" lại tập trung vào "sự kết nối và chống lại sự cô đơn", mặc dù Suga đã tuyên bố rằng, cả hai bài hát đều không khác nhau nhiều bởi vì nó đều nhằm một mục đích là để cho mọi người đều có thể cảm thấy đau đớn và khổ sở. Anh nói thêm "Và tôi cũng vậy. Cho dù đó có thể là tôi từ BTS, SUGA, Min Yoongi hay Agust D, tôi vẫn luôn có điều đó bên trong mình. Mọi người có thể coi tôi là một người không có bất kỳ mối quan tâm hay môt sự lo lắng nào hay là tôi không cảm thấy đau đớn, nhưng đối với tôi cũng có thể cảm thấy những cảm xúc đó. Tôi đang cố gắng tìm mọi cách để chống lại những điều đó và cũng phải vượt qua nó nữ".
Lexi Lane từ trang "Uproxx" đã miêu tả cho ca khúc là là đang "nói về một mối quan hệ bất tận giữa con người và những cảm xúc được cảm nhận theo phong cách Agust D" đã được "hoà hợp với phần đọc rap của Suga cùng với giọng điệu trong trẻo của IU được đúc kết thành một". Bài hát mở đầu với một khúc nhạc dạo, kế tiếp sau đó là một giọng hát "có hồn" của IU đang hát đoạn điệp khúc, nhờ đó đã tăng thêm độ "giai điệu cảm xúc" cho bài hát. Sau đoạn điệp khúc đầu tiên, phần lời đầu của ca khúc tiếp nối với các đoạn rap bằng tiếng Hàn của Suga, "Ôi cái thứ được gọi như là tình yêu này / Có lẽ nó chỉ như một danh sách cảm xúc nhất thời", sau những câu đầu tiên, anh lại hỏi: "Điều gì về mất mát đã khiến chúng ta buồn như vậy?" Khi các câu cuối tiếp diễn, anh tự hỏi "Liệu tôi sẽ hạnh phúc nếu từ bỏ lòng tham của mình?" Ở đoạn bridge, anh tô điểm câu hát của mình qua những câu như "Một ảo tưởng nửa vời sẽ không bao giờ thực hiện được / Người ta nói cuộc sống như sự đấu tranh giữa phản kháng và khuất phục / Tôi nói nó giống sự đấu tranh chống lại sự cô đơn / Nếu không kìm nén được thì khóc cũng được", những câu nói trên đều đề cập đến sự bất đồng về cảm xúc khi trở thành một con người và những câu nói đó đã miêu tả cho niềm tin của rapper rằng "mọi người ai cũng đều có sự cô đơn ở bên trong họ cho đến khi họ chết", cụm từ "cô đơn" này đã được dùng như là để làm điểm bắt đầu của bài hát. Lời dịch cũng đã được cung cấp trong video âm nhạc của bài hát cũng đã cho thấy độ thận trọng của anh.
Vào đầu tháng 3 năm 2023, hãng truyền thông Hàn Quốc "SpoTV News" đã đưa một thông tin cho rằng, Suga và IU có thể sẽ sớm hợp tác và sẽ phát hành một sản phẩm âm nhạc mới. Trong một tuyên bố tiếp theo của "Sports Today", công ty của Suga là Big Hit Music đã đáp lại thông tin trên và đã phủ định rằng "rất khó để có thể xác nhận được tuyên bố này". Tuy nhiên, vào ngày 2 tháng 4, hãng lại thông báo một thông tin cho rằng Suga sẽ phát hành một album solo đầu tay mang tên "D-Day", dưới nghệ danh tên Agust D và sẽ được phát hành vào ngày 21 tháng 4. 3 ngày sau đó, vào ngày 5 tháng 4, một tấm áp phích quảng cáo cho đĩa đơn được trích từ album sắp được phát hành trước album đã được Big Hit chia sẻ trên khắp các trang mạng xã hội. Tấm áp phích đang miêu tả môt khung cảnh cho thấy Suga đang chơi synthesizer trong phòng thu còn xung quanh là các nhạc cụ khác, với tiêu đề đĩa đơn được đặt ở phía dưới, ghi "People Pt. 2" bằng tiếng Hàn, và ngày phát hành là ngày 7 tháng 4 được viết ở dưới cùng; IU cũng đã được tiết lộ sẽ là nghệ sĩ hợp tác trong ca khúc. Đĩa đơn đã được phát hành như dự kiến hai ngày sau đó.
Diễn biến thương mại.
Tính đến thời điểm hiện tại, đĩa đơn đã bán được khoảng 4.132 lượt tải xuống trong ngày đầu tiên phát hành tại Nhật Bản và đã đứng đầu số phát hành hàng ngày trên Bảng xếp hạng Digital Singles Chart của Oricon vào ngày 7 tháng 4 năm 2023. Mặc dù được phát hành đột ngột trong tuần phát hành liên tục, thế nhưng bài hát đã lọt vào top 10 trên bảng xếp hạng hàng tuần tiếp theo của Digital Chart (trong khoảng thời gian từ ngày 3 tháng 4 đến ngày 9 tháng 4) tại vị trí thứ 8, với khoảng 5.427 bản đã được bán ra trong thời gian đó.
Đĩa đơn đã lọt vào một số bảng xếp hạng "Billboard" tại Hoa Kỳ. Phá vỡ kỷ lục và đã trở thành bài hát kỹ thuật số bán chạy nhất trong tuần phát hành này khi đĩa đơn đã bán được hơn 18.000 lượt tải xuống và đã đứng đầu trên các bảng xếp hạng Digital Song của Billboard số ra vào ngày 22 tháng 4 năm 2023, bảng xếp hạng thể loại Rap Digital Song Sales và World Digital Song Sales. IU sau đó cũng đã giành được vị trí thứ 11 trong các vị trí top 10 và vị trí quán quân lần thứ 2 trên bảng xếp hạng quốc tế sau khi ca khúc "Eight" được phát hành 3 năm trước. Ngoài ra, IU cũng đã lần đầu tiên dẫn vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Emerging Artists. Mặc dù đĩa đơn đã không lọt vào bảng xếp hạng Hot 100, nhưng bài hát đã đứng ở vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100. Bài hát cũng đã lọt vào bảng xếp hạng "Billboard" Global 200 tại vị trí thứ 24 và trên Bảng xếp hạng Hoa Kỳ Global Excl. tại vị trí thứ 16.
Video âm nhạc đã được phát hành cùng ngày với đĩa đơn vào ngày 7 tháng 4. Với thời lượng chỉ vỏn vẹn hơn bốn phút, video có nhiều cảnh hậu trường bao gồm có cảnh quay Agust D đang ở một mình trong nhà, "đắm chìm trong những suy nghĩ hoặc là viết nhật ký", hay là những cảnh Agust D đang "viết và thu âm cho bài hát", có cảnh anh đang thu âm với kỹ thuật ngoạn mục", cùng với những cảnh anh làm việc trong phòng thu của mình. Tuy nhiên, IU lại không xuất hiện trong video.
Sau khi những cảnh hậu trường của video kết thúc, một đoạn clip ngắn với tông màu đen trắng đang quay cảnh Suga đang giải thích về quá trình sáng tác bài hát và thông điệp đằng sau những lời bài hát của ca khúc.
Biểu diễn trực tiếp.
Suga đã xuất hiện trong một tập ngày 10 tháng 4 trên chương trình "IU's Palette", một chương trình trên YouTube do chính IU tổ chức, để quảng bá cho đĩa đơn. Suga đã biểu diễn 3 ca khúc "Eight", "People" và "People Pt. 2" lần đầu tiên cùng với một ban nhạc sống. |
Pháp Tạng bộ (; tiếng Phạn: धर्मगुप्तक; "Dharmaguptaka"; Pali: "dhammagutta", "dhammaguttika"), còn gọi là Đàm-vô-đức bộ (曇無德部), Đàm-vô-quật-đa-ca bộ (曇無屈多迦部), Pháp Hộ bộ (法護部), Pháp Mật bộ (法密部), là một trong các bộ phái Phật giáo sơ kỳ. Được cho là có nguồn gốc từ một bộ phái khác, Mahīśāsakas, Pháp Tạng bộ có một vai trò nổi bật trong Phật giáo Trung Á và Trung Hoa thời kỳ đầu, và phần Prātimokṣa (giới luật dành cho bhikṣus và bhikṣuṇī) của bộ phái này vẫn còn hiện diện ở các nước Đông Á cho đến ngày nay, bao gồm cả Trung Quốc, Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản. Pháp Tạng bộ là một trong ba dòng truyền thừa Vinaya còn sót lại cho đến ngày nay, cùng với Theravāda và Mūlasarvāstivāda.
"Guptaka" có nghĩa là "người bảo tồn" và "dhama" có nghĩa là "luật tục, công lý, đạo đức", và rất có thể nhằm chỉ đến giới luật của Phật giáo Bắc truyền.
Phát triển giáo lý.
Các đại sư của Dharmaguptaka coi con đường của một vị thanh văn (śrāvaka), hay Thanh văn thừa ("śrāvakayāna") và con đường của một vị bồ tát ("bodhisattvayāna, Bồ tát thừa") là riêng biệt. Tài liệu Dị bộ tông luân luận ("Samayabhedoparacanacakra") và các chú giải của nó đều nhấn mạnh điều này.
Theo A-tỳ-đạt-ma Đại Tỳ-bà-sa luận ("Abhidharma Mahāvibhāṣā Śāstra"), Pháp Tạng bộ chủ trương rằng Tứ diệu đế phải được quán sát đồng thời.
Thế Thân tuyên bố rằng quan điểm Pháp Tạng bộ tán thành với Thượng tọa bộ và chống lại Nhất thiết hữu bộ cho rằng việc chứng ngộ tứ diệu đế xảy ra cùng một lúc ("ekābhisamaya").
Quan điểm của các tăng sĩ Dharmaguptaka được biết là đã bác bỏ thẩm quyền của các quy tắc prātimokṣa của Nhất thiết hữu bộ với lý do rằng những lời dạy nguyên thủy của Đức Phật đã bị thất truyền.
Thập nhị bộ kinh.
Ngoại diện và ngôn ngữ.
Nhà sư người Parthia An Thế Cao đã đến Trung Quốc và dịch một tác phẩm mô tả màu sắc tăng y (Skt. "kāṣāya") được sử dụng trong năm bộ phái lớn của Ấn Độ, được gọi là Đại Tỳ-kheo Tam thiên Uy nghi ( ). Một văn bản khác được dịch sau này, Xá-lợi-phất vấn kinh ("Śāriputraparipṛcchā"), có một đoạn rất giống với thông tin được mô tả tại Đại Tỳ-kheo Tam thiên Uy nghi. Tuy nhiên, màu sắc tăng y của bộ phái Dharmaguptaka và Sarvāstivāda bị đảo ngược. Trong Đại Tỳ-kheo Tam thiên Uy nghi, tăng y Sarvāstivāda được mô tả là màu đỏ đậm, trong khi tăng y của Dharmaguptaka được mô tả là màu đen. Ngược lại, đoạn mô tả tương ứng được tìm thấy trong "Śāriputraparipṛcchā" sau này miêu tả các tăng nhân Sarvāstivāda mặc y đen và Dharmaguptaka mặc y đỏ đậm.
Thời Đường, các tu sĩ Phật giáo Trung Quốc thường mặc y màu đen xám và thậm chí còn được gọi một cách thông tục là "Tri y" (; Tri ở đây có nghĩa là màu đen). Tuy nhiên, nhà sư Tán Ninh thời Tống viết rằng trong thời kỳ đầu của nhà Hán - Ngụy, các nhà sư Trung Hoa thường mặc tăng màu đỏ.
Theo luật Dharmaguptaka, tăng y không được may từ nhiều hơn 18 mảnh vải, và loại vải này phải khá nặng và thô.
Giới học thuật hầu như đồng thuận cho rằng làn sóng đầu tiên của công tác truyền bá Phật giáo có liên quan đến ngôn ngữ Gāndhārī và chữ viết Kharoṣṭhī và có thể là với phái Dharmaguptaka. Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy các nhánh Phật giáo khác cũng sử dụng tiến Gāndhārī, và thêm bằng chứng cho thấy phái Dharmaguptaka đôi khi cũng sử dụng tiếng Phạn:
Bắt đầu từ thế kỷ thứ nhất của Công nguyên, đã có một xu hướng lớn hướng tới sử dụng một loại ngôn ngữ Gāndhārī được Phạn hóa nhiều hơn. :99
Ở Tây Bắc Ấn Độ.
Các tài liệu Phật giáo Gandharan, văn bản Phật giáo sớm nhất từng được phát hiện, rõ ràng là đặc trưng của phái Dharmaguptaka. Chúng có xu hướng xác nhận sự hưng thịnh của phái Dharmaguptaka ở tây bắc Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ nhất CN, với Gāndhārī là ngôn ngữ kinh điển, và điều này sẽ giải thích ảnh hưởng tiếp theo của Dharmaguptaka ở Trung Á và sau đó là Đông Bắc Á. Theo học giả Phật giáo AK Warder, Dharmaguptaka bắt nguồn từ Aparānta.
Theo một học giả nghiên cứu, bằng chứng được cung cấp bởi các văn bản Phật giáo Gandharan "cho thấy [các] phái Dharmaguptaka đã đạt được thành công ban đầu dưới thời những người Ấn-Scythia bảo trợ của họ ở Gandhāra, nhưng phái này sau đó đã suy tàn cùng với sự trỗi dậy của Đế chế Kuṣāṇa (khoảng giữa thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ thứ ba sau Công nguyên), vốn đã bảo trợ cho phái Sarvāstivāda."
Bằng chứng sẵn có chỉ ra rằng các phái bộ truyền bá Phật giáo đầu tiên đến Khotan đã được thực hiện bởi phái Dharmaguptaka: :98
Một số học giả đã xác định ba giai đoạn chính khác biệt của các hoạt động truyền giáo thấy được trong lịch sử Phật giáo ở Trung Á, có liên quan đến các bộ phái sau theo trình tự thời gian:
Vào thế kỷ thứ 7 CN, Huyền Trang và Nghĩa Tịnh đều ghi lại rằng hoặc động của phái Dharmaguptaka ở Oḍḍiyāna và Trung Á, nhưng không ở tiểu lục địa Ấn Độ. Yijing đã nhóm các bộ phái Mahīśāsaka, Dharmaguptaka và Kāśyapīya lại với nhau thành các tiểu nhánh của Sarvāstivāda, và tuyên bố rằng ba bộ này không thịnh hành ở "năm vùng của Ấn Độ", mà nằm ở một số vùng của Oḍḍiyāna, Khotan và Kucha.
Các nhà truyền giáo Dharmaguptaka đã nỗ lực nhiều hơn bất kỳ nhánh nào khác để truyền bá Phật giáo ra bên ngoài Ấn Độ, đến các khu vực như Iran, Trung Á và Trung Quốc, và họ đã thành công rực rỡ trong việc này. Do đó, hầu hết các quốc gia đã tiếp nhận Phật giáo từ Trung Quốc, cũng đã tiếp nhận Luật tạng Dharmaguptaka và dòng truyền thừa tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni. Theo AK Warder, theo một cách nào đó, bộ phái Dharmaguptaka có thể được coi là vẫn tồn tại cho đến ngày nay ở các quốc gia Đông Á đó.
Trong thời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, các bộ phái Phật giáo Ấn Độ giữ vai trò quan trọng. Các kinh văn được nghiên cứu nhiều nhất là của Pháp Tạng bộ, Hóa Địa bộ, Ca-diếp bộ, Nhất thiết hữu bộ và Đại chúng bộ.
Giữa năm 250 và 255 sau Công nguyên, dòng truyền thừa Dharmaguptaka được thành lập ở Trung Quốc khi các nhà sư Ấn Độ được mời đến giúp thọ giới ở Trung Quốc. Không có bản Luật tạng đầy đủ nào được dịch vào thời điểm này, và chỉ có hai bản văn: Dharmaguptaka Karmavācanā dành cho việc xuất gia và Mahāsāṃghika Pratimokṣa để quy định đời sống của các nhà sư. Sau khi dịch toàn bộ Luật tạng, hầu hết các nhà sư đều tuân theo dòng truyền thừa Pháp Tạng bộ, nhưng các ngôi chùa thường quy định đời sống tu viện với các văn bản Luật tạng khác, chẳng hạn như của Đại chúng bộ, Hóa Địa bộ, hoặc Nhất thiết hữu bộ.
Vào thế kỷ thứ 7, Nghĩa Tịnh đã viết rằng ở miền đông Trung Quốc, hầu hết tuân theo Luật tạng Dharmaguptaka, trong khi Luật tạng Mahāsāṃghika đã được sử dụng trong thời gian trước đó ở Quan Trung (khu vực xung quanh Trường An), và Luật tạng Sarvāstivāda nổi bật ở khu vực Dương Tử và xa hơn về phía nam. Vào thế kỷ thứ 7, sự tồn tại của nhiều dòng Luật tạng trên khắp Trung Quốc đã bị chỉ trích bởi các đại sư Luật tạng như Yijing và Đạo An. Đầu thế kỷ thứ 8, Đạo An được sự ủng hộ của Hoàng đế Zhongzong của nhà Đường, do đó, một sắc chỉ của triều đình quy định tăng đoàn ở Trung Quốc chỉ được sử dụng luật Pháp Tạng bộ để xuất gia.
Kinh văn Phật giáo Gandhāran.
Các kinh văn Phật giáo Gandhāran (các bản thảo Phật giáo cổ nhất còn tồn tại) được Richard Salomon cho là thuộc về phái Dharmaguptaka, và các cuộn sách của Thư viện Anh "đại diện cho một phần ngẫu nhiên nhưng có tính đại diện hợp lý của những gì có lẽ là một tập hợp lớn hơn nhiều của các bản văn được lưu giữ trong tàng kinh viện của một tự viện Dharmaguptaka ở Nagarāhāra."
Trong các văn bản Phật giáo Dharmaguptaka Gandhāran trong Bộ sưu tập Schøyen, có một đoạn trong bản kinh Kharoṣṭhī đề cập đến Sáu Ba-la-mật, một thực hành trung tâm của các vị bồ tát trong giáo lý Đại thừa.
Bản dịch luật tạng.
Vào đầu thế kỷ thứ 5 CN, Luật Pháp Tạng bộ đã được dịch sang chữ Hán bởi nhà sư Dharmaguptaka Buddhayaśas (佛陀耶舍) của Kashmir. Đối với bản dịch này, Buddhayaśas đã đọc thuộc lòng Luật tạng Dharmaguptaka hoàn toàn từ trí nhớ, thay vì đọc nó từ một bản viết tay. Sau khi dịch, Luật Pháp Tạng bộ trở thành luật chính thống trong tự viện Phật giáo Trung Quốc. Luật Pháp Tạng bộ (Dhammaguptaka Vinaya) ngày nay vẫn còn được truyền thừa ở Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc cho đến ngày nay. Tên gọi của Luật tạng Pháp Tạng bộ trong truyền thống Đông Á là "Tứ phần luật" ( ), và tựa tiếng Phạn tương đương sẽ là "Caturvargika Vinaya". Việc xuất gia theo Luật tạng Pháp Tạng bộ chỉ liên quan đến giới nguyện và dòng truyền thừa ("Vinaya"), và không mâu thuẫn với giáo lý Phật giáo thực tế mà một người tuân theo ("Pháp").
"Dīrgha Āgama" ("Trường A-hàm Kinh", 長阿含經) (T. 1) tương ứng với "Trường Bộ kinh" của truyền thống Nam tông. Một phiên bản hoàn chỉnh của "Dirgha Āgama" của Dharmaguptaka đã được dịch bởi Buddhayaśas và Trúc Phật Niệm (竺佛念) vào thời Hậu Tần, có niên đại 413 CN. Nó chứa 30 bài kinh, khác với số lượng 34 bài kinh của "Trường Bộ Kinh" .
"Ekottara Āgama" ("Tăng nhất A-hàm kinh," 增壹阿含經) (T. 125) tương ứng với "Tăng chi Bộ kinh" của Theravāda. Nó được dịch sang chữ Hán bởi Dharmanandi vào năm 384, và được Gautama Saṃghadeva biên tập vào năm 398. Một số người cho rằng bản gốc của nó đến từ phái Sarvāstivādin hoặc Mahāsāṃghika. Tuy nhiên, theo AK Warder, "Ekottara Āgama" đề cập đến 250 quy tắc prātimokṣa dành cho các nhà sư, điều này chỉ tương đồng với Luật tạng Dharmaguptaka. Ông cũng xem một số học thuyết là mâu thuẫn với các nguyên lý của phái Mahāsāṃghika, và tuyên bố rằng chúng đồng thuận nhiều quan điểm với Dharmaguptaka hiện được biết đến. Do đó, ông kết luận rằng "Ekottara Āgama" còn tồn tại là của Dharmaguptaka.
"Śāriputra Abhidharma Śāstra" (舍利弗阿毘曇論"Shèlìfú Āpítán Lùn" ) (T. 1548) là một bản luận pháp hoàn chỉnh được cho là đến từ phái Dharmaguptaka. Phiên bản hoàn chỉnh duy nhất của bản luận này là bằng chữ Hán. Các mảnh tiếng Phạn đã được tìm thấy ở Bamiyan, Afghanistan, và hiện là một phần của Bộ sưu tập Schøyen (MS 2375/08). Những bản thảo này được cho là một phần của thư viện tu viện của phái Mahāsāṃghika Lokottaravāda.
Bộ "Đại tạng" của Pháp Tạng bộ được cho là có thêm hai phần mà một số phái khác không có. Chúng bao gồm các phần Bồ tát tạng và Mật tạng ("Zhòu Zàng" ), đôi khi còn được gọi là Dhāraṇī Piṭaka. Theo Buddhayaśas, người dịch Luật tạng Dharmaguptaka sang chữ Hán, phái Dharmaguptaka đã đồng hóa "Tam tạng Đại thừa" ( "Dàchéng Sānzàng" ).
Tiểu sử của Đức Phật Dharmaguptaka là toàn bộ nhất trong tất cả các tiểu sử cổ điển của Đức Phật, và có tựa đề là "Abhiniṣkramaṇa Sūtra" . Nhiều bản dịch chữ Hán của văn bản này có niên đại từ giữa thế kỷ thứ 3 và thứ 6 sau Công nguyên.
Mối quan hệ với Đại thừa.
Không rõ thời điểm khi các tăng sĩ Dharmaguptaka bắt đầu chấp nhận các kinh điển Đại thừa, nhưng tài liệu "Mañjuśrīmūlakalpa" ghi lại rằng Kaniṣka của Đế chế Kuṣāṇa đã chủ trì việc thành lập các học thuyết Bát nhã ba la mật ở phía tây bắc Ấn Độ. Tāranātha đã viết rằng trong vùng này, 500 vị bồ tát đã tham dự hội đồng tại tu viện Jālandhra trong thời Kaniṣka, gợi ý một số sức mạnh thể chế cho Mahāyāna ở phía tây bắc trong thời kỳ này. Edward Conze còn đi xa hơn khi nói rằng Prajñāpāramitā đã thành công rực rỡ ở phía tây bắc trong thời kỳ Kuṣāṇa, và có thể là căn cứ địa của Đại thừa thời kỳ đầu, nhưng không phải nơi phát tích của nó, mà ông liên kết với nhánh Đại chúng bộ.
Jan Nattier viết rằng bằng chứng văn bản hiện có gợi ý rằng Mahāyāna "Ugraparipṛcchā Sūtra" được lưu hành trong các cộng đồng Dharmaguptaka trong suốt lịch sử ban đầu của nó, nhưng một bản dịch sau này cho thấy bằng chứng rằng văn bản sau đó cũng được lưu hành giữa những người Sarvāstivādin. "Ugraparipṛcchā" cũng đề cập đến sự phân chia bốn phần của kinh điển Phật giáo bao gồm Bồ tát tạng, và Pháp Tạng bộ được biết là đã có một bộ sưu tập như vậy trong kinh điển của họ. Nattier mô tả thêm về loại cộng đồng được mô tả trong "Ugraparipṛcchā."
Mahāyāna "Ratnarāśivyākaraṇa Sūtra", là một phần của "Mahāratnakūṭa Sūtra", được một số học giả tin rằng có nguồn gốc hoặc nguồn gốc từ Dharmaguptaka, do các quy định cụ thể của nó về việc cúng dường cho Đức Phật và cho Tăng đoàn.
Bát Nhã Ba La Mật Đa.
Buddhayaśas vốn là một tăng sĩ Dharmaguptaka, được biết đến là một người theo thuyết Đại thừa, được ghi nhận là đã học cả hai bộ luận Tiểu thừa và Đại thừa. Ông đã dịch "Luật tạng Pháp Tạng bộ", "Dirgha Āgama", và các kinh văn Đại thừa, bao gồm cả "Kinh Đại Tạng Quán Bồ Tát" (虛空藏菩薩經"Xūkōngzàng Púsà Jīng" ). Lời nói đầu do Buddhayaśas viết cho bản dịch "Luật tạng Pháp Tạng bộ" của ông nói rằng các tăng sĩ Pháp Tạng bộ đã đồng hóa Tam tạng Đại thừa.
Kinh điển Phật giáo.
Dharmaguptaka được cho là có thêm hai phần trong kinh điển của họ:
Trong tác phẩm Abhidharma Abhidharma "Abhidharmamuccaya" của thế kỷ thứ 4, Asaṅga đề cập đến bộ sưu tập chứa các Āgama là "Śrāvakapiṭaka", và liên kết nó với Thanh văn và Duyên giác . Vô Trước phân loại các kinh Đại thừa thuộc về "Bồ tát tạng", được chỉ định là tuyển tập giáo lý cho các vị bồ tát.
Paramārtha, một nhà sư Ấn Độ thế kỷ thứ 6 từ Ujjain, liên kết rõ ràng trường phái Dharmaguptaka với Mahāyāna, và miêu tả Dharmaguptaka có lẽ là bộ phái gần nhất với phái Mahāyāna. |
Chiến dịch phản gián
Chiến dịch phản gián hay COINTELPRO (viết tắt âm tiết của cụm từ tiếng Anh: Counter Intelligence Program; 1956–1971) là một loạt các dự án bí mật và bất hợp pháp do Cục Điều tra Liên bang Hoa Kỳ (FBI) thực hiện nhằm theo dõi, xâm nhập, phá hoại và làm sụp đổ các tổ chức chính trị tại Hoa Kỳ. Theo hồ sơ của FBI, mục tiêu của COINTELPRO tập trung vào các nhóm và cá nhân mà FBI cho là mang tính chất lật đổ bao gồm các tổ chức nữ quyền, Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, những người tổ chức phản đối Chiến tranh Việt Nam, các nhà hoạt động dân quyền và các phong trào quyền da màu (như Martin Luther King, Quốc gia Islam và Đảng Black Panther), các tổ chức bảo vệ môi trường và quyền động vật, phong trào người Mỹ da đỏ (AIM), các nhóm Chicano và người Mỹ gốc Mexico như và , các phong trào đòi lập lập (bao gồm với và ), một loạt các tổ chức thuộc phong trào và các nhóm theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng như Ku Klux Klan và cực hữu.
Năm 1971 tại San Diego, FBI đã tài trợ, trang bị vũ khí và kiểm soát một nhóm cực hữu gồm các cựu thành viên của tổ chức bán quân sự chống cộng sản và biến tổ chức này thành với mục tiêu nhắm vào các nhóm, nhà hoạt động và các nhà lãnh đạo tham gia vào phong trào phản chiến, tiến hành đe dọa lẫn bạo lực.
FBI đã sử dụng các hoạt động bí mật chống lại các nhóm chính trị trong nước từ khi được thành lập; truy nhiên, các hoạt động bí mật dưới tên gọi COINTELPRO chỉ chính thức diễn ra từ năm 1956 đến năm 1971. Nhiều chiến dịch đã được sử dụng thông qua việc làm mất uy tín với chiến tranh tâm lý; bôi nhọ các cá nhân và các nhóm qua những tư liệu giả mạo và đưa tin sai sự thật trên các phương tiện truyền thông; phá hoại; bắt giữ oan; bạo lực bất hợp pháp; và ám sát. Theo một báo cáo của Thượng viện, mục tiêu của FBI là nhằm "bảo vệ an ninh quốc gia, ngăn chặn bạo lực, duy trì trật tư xã hội và chính trị hiện có".
Bắt đầu từ năm 1969, các nhà lãnh đạo của Đảng Black Panther đã bị COINTELPRO nhắm đến và cố gắng "vô hiệu hóa" tổ chức bằng các ám sát, bỏ tù, lăng mạ công khai hoặc bị buộc tội sai. Một số Đảng viên của Đảng Black Panther đã bị nhắm đến bao gồm , , , , và . Các chiến thuật phổ biến được COINTELPRO sử dụng là khai man, quấy rối nhân chứng, đe dọa nhân chứng và che giấu bằng chứng ngoại phạm của các nạn nhân.
Giám đốc FBI J. Edgar Hoover đã ban hành các chỉ thị quản lý COINTELPRO, ra lệnh cho các đặc vụ FBI "vạch trần, làm gián đoạn, định hướng sai, phá hoại và vô hiệu hóa" các hoạt động của các phong trào này mà đặc biệt là các nhà lãnh đạo. Dưới thời Hoover, người phụ trách COINTELPRO là William C. Sullivan. Bộ trưởng Tư pháp Robert F. Kennedy đã đích thân ủy quyền cho một số chương trình, đưa ra các văn bản chấp thuận cho phép nghe lén có giới hạn điện thoại của Martin Luther King "trên cơ sở thử nghiệm trong vòng một tháng". Hoover cũng đã mở rộng thời gian để người của ông "không bị trói buộc" trong việc tìm kiếm bằng chứng về bất kỳ lĩnh vực nào của King mà ông xem là đáng để điều tra.
Các hoạt động trong chiến dịch phản gián chính thức bắt đầu từ tháng 8 năm 1956 thông qua một chương trình được thiết kế nhằm "gia tăng chủ nghĩa bè phái, gây rối và khiến nhiều người bỏ đi" bên trong Đảng Cộng sản Hoa Kỳ (CPUSA). Các chiến thuật bao gồm các cuộc điện thoại nặc danh, kiểm toán của Cục Thuế Nội bộ (IRS) và tạo ra các tài liệu nhằm chia rẽ nội bộ tổ chức cộng sản Hoa Kỳ. Một bản ghi nhớ vào tháng 10 năm 1956 của Hoover đã phân loại lại hoạt động giám sát liên tục của FBI đối với các nhà lãnh đạo da đen, bao gồm những điều này trong COINTELPRO với biện minh là phong trào này đã bị những người cộng sản xâm nhập. Năm 1956, Hoover đã gửi một bức thư ngỏ đến T. R. M. Howard#đổi một nhà lãnh đạo nhân quyền, bác sĩ phẫu thuật và doanh nhân ở Mississippi, người đã chỉ trích việc FBI không hành động trong việc giải quyết các vụ sát hạt George W. Lee, Emmett Till và những người Mỹ gốc Phi khác ở phía Nam Hoa Kỳ. Khi (SCLC), một tổ chức nhân quyền người Mỹ gốc Phi được thành lập vào năm 1957; FBI đã bắt đầu theo dõi và nhắm mục tiêu vào tổ chức này gần như ngay lập tức khi đặc biệt tập trung vào Bayard Rustin, Stanley Levison và cuối cùng là Martin Luther King.
Sau cuộc tuần hành ở Washington vì Việc làm và Tự do vào năm 1963, Hoover đã đưa King trở thành mục tiêu chính của COINTELPRO. Dưới áp lực của Hoover yêu cầu tập trung vào King, Sullivan đã viết:#đổi Ngay sau đó, FBI đã cho người theo dõi nhà King, các phòng khách sạn của ông một cách có hệ thông vì họ cho rằng King đang ngày càng phát triển trong tư cách một nhà lãnh đạo nổi bật nhất của phong trào dân quyền.
Vào giữa những năm 1960, King đã bắt đầu công khai chỉ trích FBI vì đã không quan tâm đúng mức đến vấn đề sử dụng khủng bố của những người theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng. Hoover đã đáp lại và gọi ông khai King là "kẻ nói dối khét tiếng" nhất nước Mỹ. Trong quyển hồi ký năm 1991 của mình, nhà báo Carl Rowan của "The Washington Post" đã khẳng định FBI ít nhất một lần gửi thư nặc danh cho King và yêu cầu ông ta tự sát. Nhà sử học Taylor Branch cũng đã ghi lại thông tin về một "gói hàng tự tử" ẩn danh do FBI gửi vào ngày 21 tháng 11 năm 1964, bên trong chứa bản ghi âm thu được thông qua việc nghe lén điện thoại của King cũng như các thiết bị nghe lén ở các phòng khách sạn khác nhau trong vòng hai năm qua, và nó được gửi hai ngày sau thông báo về việc King sẽ được trao giải Nobel hòa bình. Băng ghi âm này được chuẩn bị bởi kỹ thuật viên âm thanh John Matter của FBI, ghi lại một loạt hành vi bừa bãi tình dục của King cùng một lá thư cảnh báo anh: "Chỉ một cách duy nhất cho mày. Tốt nhất là mày nên nhận nó trước khi bản chất bẩn thỉu, dị thường và giả tạo của mày được tiết lộ trước toàn dân". King sau đó đã nhận thông báo về việc đoạn ghi âm sẽ được tung ra cho giới truyền thông nếu ông không đồng ý và tự sát trước khi nhận giải Nobel hòa bình. Khi King từ chối thực hiện hành vi đe dọa, Phó Giám đốc FBI Cartha D. DeLoach đã bắt đầu một chiến dịch truyền thông tung những đoạn ghi âm cho nhiều tổ chức tin tức khác nhau bao gồm "Newsweek" và "Newsday". Thậm chí đến năm 1969, mặc dù đã được nhắc đến ở nhiều nơi khác, "[FBI] vẫn nỗ lực 'phơi bày' Martin Luther King mặc dù ông đã qua đời một năm. [Cục tình báo] đã cung cấp đạn dược cho những kẻ đối đầu, tạo điều kiện cho nhiều cuộc tấn công vào nơi tưởng niệm King, và... cố gắng ngăn chặn các nỗ lực tôn vinh nhà lãnh đạo đã bị ám sát".
Trong cùng khoảng thời gian đó, chiến dịch cũng đã nhắm mục tiêu vào Malcolm X. Trong khi phát ngôn viên của FBI đã bác bỏ việc FBI tham gia "trực tiếp" vụ sát hại Malcolm X vào năm 1965; tuy nhiên, có tài liệu đã cho rằng Cục Tình báo đã cố gắng "mở rộng chia rẽ" giữa Malcolm và Elijah Muhammad thông qua việc xâm nhập và "khơi màu những cuộc tranh luận gay gắt trong tổ chức", tung tin đồn và các chiến thuật khác nhằm tạo tranh cãi nội bộ, dẫn đến vụ ám sát Malcolm. FBI đã thâm nhập sâu vào hệ thống Tổ chức người Mỹ gốc Phi thống nhất của Malcolm trong những tháng cuối đời của anh. Quyển tiểu sử từng đoạt giải Pulitzer về Malcolm X của Manning Marable đã khẳng định những người có âm mưu ám sát Malcolm đều chưa bị bắt và không thể biết được toàn bộ mức độ liên quan của FBI đến cái chết của ông.
Giữa tình trạng bất ổn đô thị từ tháng 7 đến tháng 8 năm 1967, FBI đã bắt đầu chương trình "COINTELPRO–BLACK HATE" tập trung vào King và SCLC; ngoài ra còn có Ủy ban điều phối bất bạo động sinh viên (SNCC), Phong trào hành động cách mạng (RAM), Chấp hành đạo và công lý cho những người bảo vệ, Hội đồng bình đẳng chủng tộc (CORE) và Quốc gia Islam. BACK HATE đã thành lập Chương trình Thông tin Ghetto và chỉ thị 23 văn phòng FBI "làm gián đoạn, định hướng sai, phá hoại hoặc nói cách khác là vô hiệu hóa hoạt động của các tổ chức loại bài chủ nghĩa dân tộc da đen".
Một bản ghi chép vào tháng 3 năm 1968 đã ghi lại mục tiêu của chiến dịch là "ngăn chặn liên minh của các nhóm dân tộc chủ nghĩa da đen"; để "ngăn chặn sự trỗi dậy của một 'messiah', người có thể thống nhấ"; để "xác định những kẻ gây rối tiềm tàng và vô hiệu hóa trước khi chúng có khả năng bạo lực [chống lại chính quyền]"; để "ngăn chặn các nhóm chủ nghĩa dân tộc da đen và các nhà lãnh đạo giành được sự tôn trọng bằng cách làm giảm uy tín của họ đối vớ"; và để "ngăn chặn sự phát triển lâu dài của các tổ chức chiến binh da đen, đặc biệt là trong giới trẻ". King được cho là người có tiềm năng trở thành nhân vật messiah, nếu ông từ bỏ chủ nghĩa bất bạo động và chủ nghĩa hội nhập, còn Kwame Ture được coi là sở hữu "sức hút cần thiết để trở thành mối đe dọa thực sự" vì ông được miêu tả là người tán thành tầm nhìn chiến binh hơn nhiều về "quyền lực Đen". Mặc dù FBI đặc biệt quan tâm đến nhà lãnh đạo và tổ chức hoạt động xã hội, nhưng họ không giới hạn phạm vi nhắm mục tiêu của mình vào những người đứng đầu tổ chức. Các cá nhân như nhà văn cũng được liệt kê một trong số các mục tiêu của chiến dịch.
Chiến dịch này đã diễn ra đồng thời với nỗ lực rộng lớn hơn của liên bang nhằm chuẩn bị các phản ứng quân đội đối với bạo loạn ở các khu đô thị và bắt đầu tăng cường hợp giữa FBI, Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA), Cơ quan An ninh Quốc gia và Bộ Quốc phòng. CIA cũng đã khởi động dự án tình báo trong nước của riêng mình vào năm 1967 với tên gọi Chiến dịch CHAOS. Mục tiêu cụ thể hơn là Chiến dịch Nhân dân Nghèo, một nỗ lực cho King và SCLC thực hiện nhằm chiếm đóng Washington, D.C. đã bị FBI theo dõi và làm gián đoạn chiến dịch ở cấp độ quốc gia, đồng thời sử dụng nhiều chiến thuật bôi nhọ có mục tiêu tại địa phương nhằm làm suy yếu sự ủng hộ cho các cuộc tuần hành. Ngoài ra, Đảng Black Panther cũng là một tổ chức mục tiêu khác bị FBI tiêu diệt từ trong ra ngoài.
Nhìn chung, chiến dịch phản gián bao gồm việc chia rẽ và phá hoại Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa (1961), Ku Klux Klan (1964), Quốc gia Islam, Đảng Black Panther (1967) và toàn bộ các phong trào chính trị – xã hội Cánh tả Mới, bao gồm các nhóm, cộng đồng phản chiến và tôn giáo (1968). Một cuộc điều tra sau đó của Ủy ban Church của Thượng Viện đã đưa ra tuyên bố "COINTELPRO bắt đầu vào năm 1956, một phần là do sự thất vọng với các phán quyết của Tòa án Tối cao hạn chế quyền lực của Chính phủ trong việc tiến hành công khai chống lại các nhóm bất đồng chính kiến". Các ủy ban chính thức của Quốc hội và một số vụ kiện đã kết luận, các hoạt động của COINTELPRO chống lại các nhóm cộng sản và xã hội chủ nghĩa đã vượt quá giới hạn theo luật định đối với hoạt động của FBI, đồng thời vi phạm các đảm bảo của hiến pháp về quyền tự do ngôn luận và lập hội.
Chiến dịch được giữ bí mật cho đến ngày 8 tháng 3 năm 1971, khi Ủy ban Công dân Điều tra FBI đột nhập vào một văn phòng hoạt động của FBI tại Media, Pennsylvania, lấy đi một số hồ sơ và tiết lộ chiến dịch bằng cách chuyển số tài liệu cho các hãng thông tấn. Trận đấu quyền Anh mà ngày nay được gọi là Trận đấu thế kỷ giữa Muhammad Ali và Joe Frazier vào tháng 3 năm 1971 đã trở thành vỏ bọc hoàn hảo cho các nhóm hoạt động thực hiện thành công vụ đánh cắp. Muhammad Ali đồng thời cũng là mục tiêu của Chiến dịch phản gián do ông đã tham gia vào Quốc gia Islam và các phong trào phản đối chiến tranh.
Nhiều tổ chức tin tức ban đầu đã từ chối công bố thông tin ngay lập tức, ngoại trừ "The Washington Post". Sau khi xác nhận độ tin cậy của số tài liệu, tất cả đã được xuất bản ngay trên trang nhất (bất chấp các yêu cầu của Bộ trưởng Bộ tư pháp Hoa Kỳ), khiến cho nhiều tổ chức báo chí khác cũng làm theo. Trong năm đó, Giám đốc FBI J. Edgar Hoover đã tuyên bố sự tập trung của COINTELPRO đã kết thúc và tất cả hoạt động phản gián trong tương lai sẽ được xử lý từng trường hợp.
Các tài liệu bổ sung cũng đã được tiết lộ trong quá trình kiện tụng chống lại FBI từ phóng viên NBC Carl Stern, Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa và một số tổ chức khác. Năm 1976, Ủy ban Thượng viện Mỹ nghiên cứu hoạt động chính phủ liên quan đến hoạt động tình báo, hay thường được biết đến là "Ủy ban Church" sau khi chủ tịch của tổ chức này là Thượng nghị sĩ Frank Church (Idaho) đã phát động một cuộc đại điều tra về FBI và COINTELPRO, nhiều tài liệu được phát hành đã được biên tập lại một phần hoặc toàn bộ.
Báo cáo cuối cùng của Ủy ban Church đã buộc tội hành vi của nhóm tình báo trong các hoạt động tại Hoa Kỳ (bao gồm cả COINTELPRO) với các điều khoản không chắc chắn:
Ủy ban Church đã ghi chép lại lịch sử của Cục điều tra Liên bang (FBI) (ban đầu được gọi là BOI cho đến năm 1936) về việc thực hiện chính sách đàn áp chính trị từ thời Chiến tranh thế giới thứ nhất và trong những năm 1920, khi các điều tra viên được giao nhiệm vụ bắt giữ "những người theo chủ nghĩa vô chính phủ, cộng sản, xã hội chủ nghĩa, cải cách và cách mạng" nhằm trục xuất họ. Từ năm 1936 đến năm 1976, hoạt động nội địa của FBI được tăng cường chống lại các nhóm chính trị và phản đối chiến tranh.
Mục đích dự kiến.
Mục đích dự kiến của chiến dịch phản gián cầm đầu bởi FBI là nhằm "vạch trần, đập vỡ, định hướng sai hoặc vô hiệu hóa" các nhóm mà quan chức FBI tin rằng "có tính chất lật đổ" bằng cách chỉ thị cho các đặc vụ của FBI tại hiện trường:
Tài liệu của FBI.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Khí đốt ở Nga
Khí đốt của Nga hay còn gọi là khí thiên nhiên ở Nga ("Natural gas in Russia") hay khí gas ở Nga là việc khai thác, sử dụng, xuất khẩu khí đốt và chính sách năng lượng của Nga. Tính đến năm 2013, Nga là nhà sản xuất khí đốt tự nhiên lớn thứ hai thế giới, sản xuất ước tính hơn 669 tỷ mét khối (bcm) khí đốt mỗi năm và là nhà sản xuất, nhà xuất khẩu khí đốt tự nhiên lớn nhất thế giới với khối lượng vận chuyển ước tính 196 bcm một năm. Theo ước tính của "The World Factbook", quốc gia này cũng có trữ lượng đã được chứng minh lớn nhất với 48 nghìn tỷ mét khối (tcm). Số liệu thống kê của tổ chức OPEC cũng xếp Nga đứng đầu thế giới, với ước tính 49 tcm, 24% trữ lượng đã được chứng minh, tuy nhiên, BP thì lại ước tính đưa Nga đứng thứ hai sau Iran với 33 tcm. Ngoài ra, Nga có thể có trữ lượng khí đốt tự nhiên chưa được phát hiện lớn nhất, với hơn 6,7 tcm theo ước tính của Cơ quan Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ. Nước Nga tiêu thụ lượng khí đốt khoảng 457 bcm mỗi năm chỉ đứng sau mức tiêu thụ của Hoa Kỳ.
Các nhà sản xuất khí tự nhiên chính ở Nga là các công ty khí đốt Gazprom, Novatek, Itera, Northgas và Rospan, và các công ty dầu khí liên kết là Surgutneftegaz, TNK-BP, Rosneft và LUKOIL. Phần lớn Gazprom thuộc sở hữu nhà nước và độc quyền về đường ống dẫn khí đốt tự nhiên và có độc quyền trong việc xuất khẩu khí đốt tự nhiên theo "Luật Liên bang về Xuất khẩu Khí đốt" có hiệu lực vào ngày 20 tháng 7 năm 2006. Gazprom cũng có quyền kiểm soát tất cả các đường ống dẫn khí đốt ra khỏi Trung Á, và do đó kiểm soát việc tiếp cận thị trường Châu Âu. Nga đã sử dụng khí đốt của Trung Á, chủ yếu là khí đốt từ Turkmenistan, trong những trường hợp nước này nhận thấy mình không thể đáp ứng tất cả các nghĩa vụ giao hàng từ việc sản xuất của chính mình như năm 2000, Gazprom cho phép Turkmenistan sử dụng đường ống của mình để cung cấp khí đốt cho thị trường nội địa Nga giúp Gazprom thực hiện nghĩa vụ của mình với các khách hàng châu Âu.
Việc sử dụng ô tô chạy bằng khí tự nhiên ở Nga được chính phủ Nga khuyến khích. Bộ dụng cụ chuyển đổi hậu mãi được bán từ các công ty như Italgas, trong khi một số xe theo hệ GAZ Group được bán với hệ thống khí đốt tự nhiên. Tính đến cuối năm 2016, Gazprom có mạng lưới 254 trạm xăng trong nước và cũng đặt ra kế hoạch đạt 500 trạm vào năm 2020. Công ty sản xuất xe buýt NEFAZ sản xuất xe buýt chạy bằng khí sử dụng động cơ Daimler. Một biến thể khí đốt tự nhiên của Lada Vesta đã được giới thiệu quảng bá vào năm 2017.
Việc trợ cấp khí đốt tự nhiên ở Nga diễn ra từ lâu trong lịch sử. Trợ cấp cho khí đốt tự nhiên là một trong những lý do khiến năng lượng tái tạo trong nước hạn chế. Tuy nhiên, rất khó để ước tính mức độ trợ cấp vì không có giá chuẩn. Thường tính toán netback đã được sử dụng nhưng có những lập luận chống lại hiệu lực của chúng trong việc xác định quy mô trợ cấp trong nước. "Netback" là giá mà khí đốt của Nga được bán tại biên giới, trừ đi chi phí vận chuyển và thuế đánh vào hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, không chắc chắn rằng giá trong nước phải giống với giá mua tại biên giới. Giải pháp thay thế sẽ là xem xét chuỗi cung ứng khí đốt tự nhiên, xác định bất kỳ tổn thất nào phát sinh và phân loại chúng là trợ cấp gián tiếp. Tuy nhiên, do sự phức tạp của chuỗi cung ứng (bao gồm các hoạt động thượng nguồn, đường ống trung kế, lưới phân phối và các tiện ích địa phương - đôi khi thuộc sở hữu của các tổ chức thương mại, đôi khi thuộc sở hữu của chính quyền thành phố hoặc chính quyền khác), rất khó xác định quy mô tổn thất tài chính.
Chiến lược Năng lượng dự báo sản xuất ngoài Gazprom tăng từ tỷ lệ 17% năm 2008 lên 25–30% vào năm 2030, có nghĩa là tăng trưởng từ 114 lên khoảng 245 BCM/năm. Các thị trường xuất khẩu chính của khí đốt tự nhiên của Nga là Liên minh châu Âu và SNG. Nga cung cấp một phần tư lượng tiêu thụ khí đốt của EU, chủ yếu thông qua quá cảnh qua Ukraine (Soyuz, đường ống Urengoy–Pomary–Uzhhorod) và Belarus (đường ống Yamal-Châu Âu). Các nhà nhập khẩu chính là Đức (nơi các liên kết được phát triển do "Ostpolitik" của Đức trong những năm 1970, và cả Ukraina, Belarus, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp và Hungary.
Vào tháng 9 năm 2009, Thủ tướng Vladimir Putin cho biết Nga sẽ cố gắng tự do hóa thị trường khí đốt trong nước trong tương lai gần nhưng sẽ duy trì độc quyền xuất khẩu của Gazprom trong trung hạn. Tháng 7 năm 2008, tổng thống Nga đã ký luật cho phép chính phủ phân bổ các mỏ dầu khí chiến lược trên thềm lục địa mà không cần thông qua thủ tục đấu giá. Vào ngày 17 tháng 2 năm 2011, Nga đã ký một thỏa thuận với Trung Quốc, nêu rõ rằng để đổi lấy khoản vay 25 tỷ đô la của Trung Quốc cho các công ty dầu mỏ của Nga, Nga sẽ cung cấp cho Trung Quốc một lượng lớn dầu thô thông qua các đường ống mới trong 20 năm tới. Tính đến năm 2014, dầu khí chiếm hơn 60% xuất khẩu của Nga và chiếm hơn 30% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của đất nước.
Nền kinh tế Nga phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ và khí đốt tự nhiên, và Nga đã sử dụng những nguồn tài nguyên này cho lợi thế chính trị của mình. Trong khi đó, Mỹ và các nước phương Tây khác đã nỗ lực giảm bớt sự phụ thuộc của châu Âu vào Nga và các nguồn tài nguyên của Nga. Bắt đầu từ giữa những năm 2000, Nga và Ukraine đã có một số tranh chấp trong đó Nga đe dọa cắt nguồn cung cấp khí đốt. Khi một lượng lớn khí đốt của Nga được xuất khẩu sang châu Âu thông qua các đường ống chạy qua Ukraine, những tranh chấp đó đã ảnh hưởng đến một số quốc gia châu Âu khác. Dưới thời Putin, những nỗ lực đặc biệt đã được thực hiện để giành quyền kiểm soát ngành năng lượng châu Âu. Tuy vậy, công bằng thì nền công nghiệp của châu Âu đã trải qua nhiều thập kỷ phát triển hưng thịnh nhờ dòng chảy khí đốt giá rẻ tưởng chừng như bất tận từ Nga, đây lại chính là "bầu sữa" đã giúp châu Âu có sức để cạnh tranh với một nước Mỹ giàu tài nguyên và bù đắp những yếu tố bất lợi như chi phí nhân công cao và quy định ngặt nghèo về lao động và môi trường.
Cuộc xâm lược Ukraine năm 2022 của Nga là phần mới nhất của Chiến tranh Nga-Ukraine đã gây ra việc vũ khí hóa khí đốt tự nhiên mà Nga đã cố gắng sử dụng để ngăn các nước Tây Âu hỗ trợ cho Ukraine. Đe dọa và sau đó thực sự hạn chế nguồn cung cấp khí đốt cho các nước Tây Âu dẫn đến việc Dòng chảy phương Bắc 2 không bắt đầu hoạt động, tiếp theo là một số đường ống dẫn khí đốt từ Nga ở Baltic bị phá hoại vào ngày 26 tháng 9 năm 2022. Các lệnh trừng phạt đối với các ngân hàng Nga khiến Gazprom khó nhận được tiền thu được từ doanh số bán hàng quốc tế mà năm 2022 đã giảm 45,5% xuống 100,9bcm. Đức, trước đây là khách hàng mua khí đốt chính của Nga đã ngừng nhập khẩu vào tháng 12 năm 2022, cũng như hầu hết các quốc gia EU đã làm. Sản lượng khí đốt của Nga vào năm 2022 thấp hơn 20% so với năm 2021 và có thể phải mất nhiều năm nữa Nga mới tìm được người mua thay thế cho thị trường EU đã mất đi. |
Nông nghiệp ở Nga
Nông nghiệp ở Nga là một phần quan trọng của nền kinh tế Liên bang Nga. Ngành nông nghiệp của Nga đã trải qua sự suy giảm nghiêm trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế vào đầu những năm 1990 khi ngành nông nghiệp phải vật lộn để chuyển đổi từ nền kinh tế chỉ huy sang hệ thống kinh tế định hướng thị trường. Sau gần 10 năm suy thoái, nông nghiệp Nga đã từng bước cải thiện liên tục. Sự mất giá của đồng rúp năm 2014 và việc áp đặt các biện pháp trừng phạt đã thúc đẩy sản xuất nội địa, vào năm 2016, Nga đã vượt qua mức sản xuất ngũ cốc của nước Nga Xô Viết và trong năm đó trở thành nước xuất khẩu lúa mì lớn nhất thế giới. Trong những năm gần đây, Nga lại nổi lên như một cường quốc nông nghiệp mặc dù nền nông nghiệp của Nga cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.
Nước Nga trải qua nhiệt độ khắc nghiệt vào mùa đông và mùa hè, và mùa hè lượng mưa thấp. Nhiều vùng của Nga trải qua sáu tháng tuyết phủ mỗi năm và ở những nơi này lớp đất dưới thường có thể đóng băng vĩnh viễn. Các khu vực màu mỡ nhất nằm ở phần phía nam của đất nước giữa Kazakhstan và Ukraina trong tiếng Nga được gọi là "Chernozem" ("đất đen"). Chỉ hơn 7% tổng diện tích đất của quốc gia là có thể canh tác, với 60% trong số đó được sử dụng cho đất trồng trọt và phần còn lại dành cho chăn thả trên đồng cỏ. Tổng diện tích đất canh tác của Nga ước tính là 1.237.294 km vuông (477.722 sq mi), lớn thứ tư trên thế giới. Trải dài từ biển Baltic đến Thái Bình Dương, Nga là quốc gia có diện tích rừng lớn nhất thế giới, chiếm 1/5 diện tích rừng của thế giới. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu năm 2012 bởi Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc và Chính phủ Liên bang Nga, tiềm năng to lớn này vẫn chưa được khai thác đúng mức.
Các phân tích địa chính trị về thích ứng với biến đổi khí hậu dự đoán những cơ hội lớn cho nông nghiệp Nga trong suốt phần còn lại của thế kỷ 21 khi năng suất canh tác của Siberia tăng lên do quá trình ấm lên toàn cầu khiến băng tuyết tan, để lộ ra những mảnh đất có thể khai thác. Nông nghiệp ở Siberia đã bắt đầu từ nhiều thiên niên kỷ trước bởi những người dân bản địa trong khu vực. Trong khi những người Siberia bản địa này không có nhiều thứ hơn là "gậy đào" được gọi là Mattocks thay vì máy cày, nông nghiệp Siberia sẽ phát triển qua nhiều thế kỷ cho đến khi hàng triệu nông dân Nga định cư ở đó, gặt hái những nguồn thu đáng kể từ vùng đất rộng lớn trải dài từ Ural này Dãy núi đến Thái Bình Dương. Quản lý các luồng di cư trong nước và quốc tế (người Trung Quốc), được cho là khía cạnh trọng tâm của quá trình quản lý nông nghiệp.
Sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991, các trang trại tập thể và nông trang của nhà nước vốn là xương sống của nền nông nghiệp Liên Xô đã phải đối mặt với việc đột ngột mất đi các kênh tiếp thị và cung ứng do nhà nước bảo đảm, cũng như môi trường pháp lý thay đổi đã tạo ra áp lực buộc phải tổ chức lại và tái cơ cấu. Trong vòng chưa đầy mười năm, hàng tồn kho là vật nuôi giảm một nửa, kéo theo nhu cầu về ngũ cốc làm thức ăn chăn nuôi giảm và diện tích trồng ngũ cốc giảm 25%. Việc sử dụng phân khoáng và các đầu vào được mua khác giảm mạnh, khiến sản lượng trồng trọt sụt giảm. Hầu hết các trang trại không còn khả năng mua máy móc mới và các khoản đầu tư vốn khác từ đó đưa đến hệ lụy của một nền nông nghhiệp bên bờ vực phá sản và nguy cơ diễn ra nạn đói.
Từ năm 1999 đến năm 2009, nông nghiệp của Nga tăng trưởng đều đặn, và đất nước chuyển từ một nước phải nhập khẩu ngũ cốc trở thành nước xuất khẩu ngũ cốc lớn thứ ba thế giới sau EU và Hoa Kỳ. Sản lượng thịt đã tăng từ 6,813.000 tấn năm 1999 lên 9.331.000 tấn trong năm 2008 và vẫn tiếp tục tăng. Trong khi các trang trại lớn tập trung chủ yếu vào sản xuất ngũ cốc và các sản phẩm chăn nuôi như sữa hay trứng, các hộ gia đình tư nhân nhỏ lẻ đã sản xuất hầu hết lượng khoai tây, rau và trái cây của cả nước Nga. Nga hiện là nước sản xuất lúa mạch, kiều mạch và yến mạch đứng đầu thế giới cũng như là một trong những nhà sản xuất và xuất khẩu lúa mạch đen, hạt hướng dương và lúa mì lớn nhất thế giới.
Một thống kê về ngành công nghiệp chế biến thực phẩm cho biết khối lượng sản xuất trong sản xuất thực phẩm và thuốc lá đạt 3,12 nghìn tỷ rúp (năm 2010), bao gồm gản xuất lương thực chiếm 2,952 nghìn tỷ rúp và sản xuất các sản phẩm thuốc lá chiếm 164 tỷ rúp. Năm 2008, Nga sản xuất 2,9 triệu tấn thịt, hơn 2,5 triệu tấn xúc xích, hơn 3,7 triệu tấn sản lượng cá thực phẩm, hơn 2,5 triệu tấn dầu thực vật, hơn 120 tấn chè và 413 triệu dal nước khoáng. Mức lương trung bình hàng tháng trong sản lượng thực phẩm và thuốc lá là 16982 rúp/tháng (tháng 3 năm 2010). Năm 2008, Nga sản xuất được 50 triệu dal rượu nho. Năm 2009, Nga đã xuất khẩu sản phẩm rượu Vodka với số tiền 121 triệu đô la.
Trong năm 2004, các trang trại nông dân chiếm 14,4% tổng sản lượng ngũ cốc của Nga (tăng từ 6,2% năm 1997), khoảng 21,8% hạt hướng dương (tăng từ 10,8% năm năm trước đó) và 10,1% củ cải đường (3,5% năm 1997). Các trang trại của công ty sản xuất phần còn lại của các loại cây trồng này, hầu như không có bất kỳ sự đóng góp nào từ các mảnh đất hộ gia đình nhỏ. Tuy nhiên, các mảnh đất hộ gia đình, với diện tích tối đa là 2 ha (4,9 mẫu Anh), sản xuất 93% khoai tây và 80% lượng rau của cả nước dành cho tiêu dùng gia đình hoặc để bán ở thị trường địa phương. Họ cũng sản xuất 51% sữa và 54% thịt vào năm 2003, phần còn lại chủ yếu đến từ các trang trại của công ty (đóng góp của các trang trại nông dân vào sản xuất chăn nuôi là không đáng kể). Khi lô đất hộ gia đình giành được nhiều đất hơn trong quá trình cải cách, tỷ trọng của họ trong sản xuất nông nghiệp của Nga tăng từ 26% tổng giá trị năm 1990 lên 53% năm 2005.
Xuất khẩu ngũ cốc của Nga là hoạt động ngoại thương để bán ngũ cốc, chủ yếu là hạt lúa mì sang các nước khác, một mặt hàng truyền thống mang lại thu nhập xuất khẩu cho Nga trong nhiều thế kỷ, mang lại cho Liên bang Nga trong thế kỷ 21 vị trí dẫn đầu trong số các nhà cung cấp ngũ cốc chính cho thị trường thế giới cùng với EU (hạng 2 2019/20), Mỹ (hạng 3), Canada (hạng 4), Ukraine (hạng 5). Xuất khẩu ngũ cốc của Nga trong một thời gian dài không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có tầm quan trọng chính trị đối nội và đối ngoại quan trọng đối với nước Nga. Nó đã trở thành chủ đề thảo luận công khai và suy đoán chính trị trong các giai đoạn lịch sử khác nhau của đất nước. Vì lúa mì là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của Nga trong một thời gian dài, nên số tiền thu được từ việc bán lúa mì thường được sử dụng để tài trợ chéo cho các lĩnh vực khác của nền kinh tế, chủ yếu là công nghiệp. Đồng thời, năng suất trung bình ngũ cốc trong vùng canh tác rủi ro (80% lãnh thổ Nga) nhưng vẫn được xem là còn thấp.
Nguy cơ đang hiện hữu khi Trung Quốc đang lăm le chiếm lấy vùng Siberia thưa dân nhưng giàu tài nguyên của Nga tại vùng biên giới, nơi 6 triệu người Nga phải đối mặt với khoảng 90 triệu người Trung Quốc. Việc mở rộng sang Siberia không chỉ cung cấp cho quốc gia đông dân như Trung Quốc thêm đất đai sinh sống, mà phần đất thuộc Siberia hiện đang cung cấp cho Trung Quốc nhiều tài nguyên khoáng sản, như dầu mỏ, khí đốt và gỗ, vùng này đã thực sự trở thành một phần trong nền kinh tế Trung Quốc. Làn sóng đổ bộ của người Trung Quốc vào khu vực Siberia để khai thác gỗ đã dẫn đến những tác động tiêu cực và phản ứng của người dân Nga.
Nga hiện nay đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về tình trạng phá rừng. Hàng loạt nhà máy gỗ của Trung Quốc mọc lên ở Nga mang tới việc làm và thu nhập nhưng đi kèm là nỗi lo tài nguyên rừng bị khai thác quá đà. Dù khai thác ồ ạt tại Nga, tất cả những dây chuyền sản xuất gỗ thành phẩm đều được thực hiện ở Trung Quốc, nơi đang hạn chế chặt chẽ việc khai thác gỗ nhằm bảo tồn rừng. Vấn nạn phá rừng đã tồn tại từ nhiều năm nay và ngày càng khó kiểm soát. Từ năm 2000 đến nay, tổng diện tích rừng bị phá là 40 triệu ha, nhưng chỉ có một nửa diện tích được trồng lại. Rừng bị tàn phá mạnh tại các vùng Viễn Đông, phía Tây Bắc và Siberia. Nạn phá rừng không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng lớn đến môi trường và tàn phá các hệ sinh thái, làm tăng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Ngoài ra, diện tích rừng bị suy giảm do các nguyên nhân khác như cháy rừng, phát triển công nghiệp và khai thác khoáng sản cùng với việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp, xây dựng nhà ở và giao thông.. |
"Ưng quá chừng" (cách điệu "ưng quá chừng") là một bài hát của nữ ca sĩ Amee, phát hành vào tháng 3 năm 2023. Do Kai Đinh và TDK sáng tác, ca khúc sau khi ra mắt đã nhanh chóng tạo thành trào lưu trên TikTok và được nhiều người dùng hưởng ứng, cũng như lọt vào nhiều bảng xếp hạng âm nhạc khác nhau tại Việt Nam. Ngày 13 tháng 3 năm 2023, một phiên bản phát lặp của ca khúc được đăng tải lên YouTube theo yêu cầu từ số đông khán giả.
Bài hát, với thời lượng 1:20, do Kai Đinh, TDK sáng tác và sản xuất âm nhạc bởi TDK. Đây là bộ đôi nghệ sĩ quen thuộc từng cùng hợp tác với Amee trong nhiều sản phẩm âm nhạc thành công trước đó. Bài hát được sáng tác riêng cho sản phẩm thuộc thương hiệu kem chống nắng Sunplay. Phía ê-kíp sản xuất đã nói rằng ca khúc sẽ chỉ được giữ nguyên ở thời lượng này và cũng không có kế hoạch sản xuất bản mở rộng cho sáng tác.
Ca khúc được mô tả là mang tiết tấu nhanh, giai điệu vui nhộn, bắt tai và mang đầy không khí mùa hè. Sở hữu lời nhạc chỉ dài vỏn vẹn hai câu, tác giả bài hát đã mượn hình ảnh loài mèo để thể hiện niềm cảm nắng của một cô gái với chàng trai, với phần lời chứa nhiều câu "thả thích duyên dáng, gieo vần thú vị" mà "tinh nghịch với lối chơi chữ tài tình". Phần âm nhạc của "ưng quá chừng" được làm theo kiểu nhạc disco synthwave, vốn là một trong số những đặc trưng của nhạc trẻ Trung Quốc vào thập niên 2020, trong đó phần điệp khúc là điểm nhấn của bài.
Từ tối ngày 1 tháng 3, Amee đã công bố poster cho ca khúc như là dự án mở màn cho hoạt động của cô trong năm 2023. Lịch trình phát hành bài hát gồm 3 mốc là vào lúc 19:00 ngày 3 tháng 3, 5 tháng 3 và 8 tháng 3 năm 2023 – Ngày Quốc tế Phụ nữ. Đến ngày 2 tháng 3 cùng năm, Amee đăng tải bản teaster ca khúc kèm vũ đạo nhảy lên nền tảng TikTok. Phần biên đạo bài hát do RedCat thiết kế; anh cho biết động tác của bài hát bắt chước theo hành động của mèo khi làm nũng, bước đi. Ngày 10 tháng 3, video âm nhạc bài hát và vũ đạo đã chính thức được đăng tải lên YouTube.
Sớm sau khi phát hành, ca khúc đã "gây nghiện" cho giới trẻ, đông đảo nhất là gen Z, và tạo thành xu hướng mới trên TikTok nhờ điệu nhảy đi kèm giai điệu bài hát. Nhiều người dùng của nền tảng, các nghệ sĩ nổi tiếng đã cover lại điệu nhảy ca khúc. Hàng trăm nghìn video trên nền tảng này sử dụng bài hát làm nhạc nền và cover, thu hút con số triệu lượt xem. Câu hát đầu của bài và tiếng kêu "meo meo" trong phần lời hát cũng tạo thành xu hướng lớn trên nhiều nền tảng mạng xã hội khác. Các câu chơi chữ trong bài hát đã trở thành lời cửa miệng bởi nhiều người trên mạng xã hội. Độ nổi tiếng của bài hát còn lan tỏa rộng rãi hơn khi một câu hát tại bài làm nổ ra tranh luận lớn trong cộng đồng mạng.
"Ưng quá chừng" đã debut ở vị trí thứ 3 tại bảng xếp hạng Billboard Vietnam Hot 100 suốt ba tuần liên tiếp, là thành tích cao nhất của bài hát trên bảng xếp hạng; thứ 2 và 1 lần lượt ở hai bảng xếp hạng âm nhạc Spotify và Apple Music Việt Nam; đồng thời đạt thứ hạng cao nhất là 6 trên Zing Music Chart. Video nhảy chính thức của ca khúc cũng lọt vào top 12 mục Âm nhạc thịnh hành của YouTube Việt Nam.
Vào ngày 13 tháng 3, theo yêu cầu từ số đông khán giả, một phiên bản phát lặp (loop version) dài 5:17, trong đó tổng hợp lại gần 100 video cover điệu nhảy bài hát trên TikTok, đã được đăng tải lên YouTube và sau hai tuần thu về 3,3 triệu lượt xem, hơn 1000 bình luận và đứng top 3 mục Âm nhạc thịnh hành Việt Nam.
Đánh giá chuyên môn.
Nhạc sĩ kiêm nhà phê bình âm nhạc Nguyễn Quang Long của báo "Thể thao Văn hóa" đã chấm điểm ca khúc 7,0 trên thang điểm 10, gọi bài hát là một "ca khúc mang tính giải trí trên không gian số", đem lại cho người nghe cảm giác "thoải mái, vui vui [...] tinh thần trẻ trung, hồn nhiên khi tiếp cận". Ông cũng đánh giá cao cách chơi chữ trong ca khúc và vũ đạo khi góp phần vào sự hưởng ứng từ người nghe với bài hát; so sánh lối chơi chữ của bài với hành động nói lái trong văn hóa dân gian Việt Nam xưa và nhận định bài hát chứng minh thế hệ hoạt động âm nhạc trẻ trong nước "hoàn toàn đủ bản lĩnh tạo ra hoặc tham gia các "cuộc chơi" với giới trẻ các nước".
Tuy vậy, ông đã đánh giá "ưng quá chừng" chỉ nằm ở "lưng chừng giữa tạo trend và theo trend", theo đó ca khúc "dường như không tìm thấy những gì đặc biệt để phải nhớ và nhắc tới trong hòa âm, màu sắc tiếng nhạc". Người viết cũng cho rằng tác phẩm dường như là "trend phái sinh" từ bài hát nổi tiếng trên Douyin trước đó "", vốn đã phổ biến đến mức được nhiều người gọi là "huyền thoại", và đưa ra quan điểm chỉ nên nhìn nhận sáng tác trên tinh thần "thực hiện cho vui [...] "thay đổi không khí"". |
Mặc Kỳ Tiết (; 1083 – 1157), họ kép Mặc Kỳ, tên Tiết, tự Nguyên Trung (元忠 hoặc 元中), là Tể tướng Trung Quốc thời Nam Tống, nổi tiếng với vụ án Nhạc Phi.
Mặc Kỳ Tiết là người huyện Dương Vũ, phủ Khai Phong.
Năm 1112 thời Tống Huy Tông, Mặc Kỳ Tiết thi Thượng xá ở Thái học, đỗ Ất khoa, được bổ nhiệm làm Ân Châu Tư pháp Tòng quân sự, chưa đi thì lại được thuyên chuyển làm Giáo thụ trong trường Châu học ở #đổi . Về kinh đô bàn giao, Mặc Kỳ Tiết được bổ nhiệm làm Giáo thụ trường Phủ học phủ Dĩnh Xương, sau đó làm #đổi , nhận chức Thái học lục.
Tháng Giêng năm 1128 thời Tống Cao Tông, Mặc Kỳ Tiết được bổ nhiệm làm quan #đổi Khu mật viện, lại làm Viên ngoại lang ở #đổi (bộ Hình). Mặc Kỳ Tiết chủ động xin làm cung quan, chủ quản cung Minh Đạo (明道宫) ở Bạc Châu, mục đích là để trốn ở khu vực Nguyên Tương nhằm né tránh chiến sự.
Đầu năm 1131, đạo tặc #đổi đánh phá vùng Kinh Hồ, #đổi bèn tiến cử Mặc Kỳ Tiết tạm quản việc Nguyên Châu. Khi tặc quân tấn công, Mặc Kỳ Tiết triệu tập thổ hào trong thành tập hợp trai tráng phòng thủ, đẩy lui Tào Thành. Năm 1134, Tiết được bổ nhiệm làm Chuyển vận phán quan ở Hồ Bắc, đến năm 1137 thì làm #đổi hình ngục cùng lộ.
Năm 1140, Mặc Kỳ Tiết về trung ương, nhờ quy thuận Tần Cối mà từ Phán quan Chuyển vận ti lộ Hồ Nam trở thành #đổi . Trong một năm liên tục thăng chức từ Giám sát ngự sử thành Hữu #đổi , Hữu #đổi rồi #đổi . Tháng 7 năm 1141, khi giữ chức Gián nghị đại phu, Tiết nhận lời Tần Cối và Trương Tuấn (Trương Bá Anh), tiến hành buộc tội Nhạc Phi, vu khống con trai Phi là Nhạc Vân viết thư cho Trương Hiến nói dối việc quân để đe dọa triều đình, ép triều đình phải để Nhạc Phi ở lại nắm giữ quân đội. Cuối năm, Mặc Kỳ Tiết làm Ngự sử trung thừa, tiếp tục cáo buộc Nhạc Phi ở chiến trường Hoài Tây cố tình trì hoãn, không chịu tác chiến dẫn tới thất lợi, tội đáng phải chém. Trong ngục, bất chấp việc bị Mặc Kỳ Tiết dùng mọi loại hình phạt tra tấn dã man, Nhạc Phi vẫn không chịu khuất phục. Cuối cùng Nhạc Phi, Nhạc Vân, Trương Hiến bị Tống Cao Tông xử tử. Mặc Kỳ Tiết còn vu hãm Đại lý tự Thiếu khanh Tiết Nhân Phụ (薛仁輔), Đại lý tự thừa Lý Nhược Phác (李若樸), Hà Ngạn Du (何彥猷), Quận vương Triệu Sĩ Niểu (趙士㒟) vì nói tốt cho Nhạc Phi. Tiếp đó, Tiết lại cùng Tần Cối tiếp tục vu hại các quan viên chủ chiến, người đứng đầu là Tham tri chính sự #đổi bị lưu đày đến chết.
Năm 1142, Mặc Kỳ Tiết kiêm Thị độc, Toàn cung Án hành sứ, lại thăng chức Tham tri chính sự, sung làm Báo tạ sứ tham gia đàm phán với nhà Kim. Trương Tuấn (Trương Đức Viễn) bây giờ bị cách chức, ở lại Trường Sa, cũng bị Tiết vu hãm, may nhờ #đổi làm chứng mà thoát nạn. Cuối năm, Mặc Kỳ Tiết tranh quyền với Tần Cối, bị trục xuất. Năm 1144, Ngự sử trung thừa #đổi , Hữu Gián nghị đại phu #đổi tố cáo Mặc Kỳ Tiết tham tiền mưu lợi làm hại đến quốc gia. Mặc Kỳ Tiết thấy thế bèn xin từ quan, nhưng Cao Tông không đồng ý, muốn cho Tiết đi địa phương khác trấn giữ. Tần Cối vô cùng tức giận, phái Cấp sự trung #đổi liệt kê tội trạng của Tiết, khiến Tiết bị bãi chức, giam lỏng ở #đổi , đến khi đặc xá thì chuyển đến Nguyên Châu.
Năm 1155, Tần Cối chết, Mặc Kỳ Tiết được Cao Tông triệu hồi, bổ nhiệm làm Tham tri chính sự, không lâu được bổ nhiệm làm Thượng thư Hữu bộc dạ, đứng hàng Tể tướng. Mặc Kỳ Tiết tiếp tục đi theo chủ trương cầu hòa của Tần Cối, khiến nhiều người thất vọng. Trương Tuấn (Đức Viễn) nói thẳng, bị Tiết buộc tội lưu đày. Có người đề nghị khôi phục lại quan tước cho Nhạc Phi, Mặc Kỳ Tiết lấy cớ sợ mất lòng nước Kim mà bác bỏ. Năm 1157, Mặc Kỳ Tiết chết, thọ 75 tuổi, ban thụy là Trung Tĩnh (忠靖).
Mặc Kỳ Tiết được đúc tượng quỳ ở mộ Nhạc Phi cùng với vợ chồng Tần Cối và Trương Tuấn (Bá Anh). |
vùng Valparaíso (, [balpaɾaˈiso]) là một trong 16 đơn vị hành chính cấp một của Chile. Vùng này có dân số cao thứ hai của đất nước là 1.790.219 tính đến năm 2017 và diện tích nhỏ thứ tư là 16.396,1 km2, ở phía đông nam là Vùng đô thị Santiago . Khu vực này cũng bao gồm đảo Phục Sinh (Rapa Nui) xa xôi ở Thái Bình Dương.
Thủ phủ của nó là thành phố cảng Valparaíso; các thành phố quan trọng khác bao gồm Viña del Mar, Quillota, San Felipe, Quilpué, Villa Alemana,
Vùng này có cùng vĩ độ với Vùng đô thị Santiago. Thủ phủ của vùng là Valparaíso, là nơi đặt trụ sở của Quốc hội Chile và là một cảng thương mại quan trọng. Trong vùng còn có thành phố nghỉ mát hàng đầu Chile là Viña del Mar. Ngoài ra, các đảo Thái Bình Dương là đảo Phục Sinh, Isla Salas y Gómez, quần đảo Juan Fernández và quần đảo Desventuradas thuộc quyền quản lý của vùng Valparaíso.
Vùng Valparaíso nằm trong phạm vi phân bố rất hạn chế của cây cọ vang Chile ("Jubaea chilensis") đang bị đe dọa tuyệt chủng; vào thời tiền sử, loài cây Chile đặc hữu này có phạm vi rộng lớn hơn đáng kể.
Vùng Valparaíso có dân số khoảng 1,71 triệu người. Mật độ dân số đạt 94,1 người/km2. 91,6% dân số sống ở thành thị và chỉ có 8,4% dân số sống ở nông thôn.
Các đô thị đông dân nhất trong vùng là Valparaíso với 308.000 cư dân và Viña del Mar với 287.000 cư dân, cùng với Villa Alemana, Quilpué và Concón tạo thành [Đại Valparaíso]] với 1,75 triệu người. Ngoài ra còn có Quillota, với khoảng 201.000 cư dân và San Antonio với hơn 200.000 cư dân với ước tính khoảng 250.000 là thành phố lớn thứ hai của khu vực.
Nhập cư và văn hóa.
Valparaíso phát triển với vai trò một điểm nghỉ chân xuyên đại dương của các tàu đánh cá, tàu du hành hàng hải và tàu hải quân quốc tế. Do đó, một lượng lớn cư dân có nguồn gốc quốc gia, dân tộc và văn hóa khác nhau. Dân số thực dân thế kỷ 16 được hình thành từ những người định cư nam giới đến từ các vùng Andalusia, Asturia và León của Tây Ban Nha, và đội quân Basque đã phát triển thành một cộng đồng gốc Basque đáng kể. Nhiều người đến từ các quốc gia khác tại châu Mỹ Latin từ Mexico đến Uruguay, đặc biệt đến vào thời thực dân thế kỷ 17. Đến cuối thế kỷ 18- đầu thế kỷ 19 có một làn sóng nhỏ người định cư Galicia đến từ vùng Galicia của Tây Ban Nha.
Có suy nghĩ rằng đa số cư dân Valparaíso có một phần nguồn gốc ngoài người Tây Ban Nha, như Anh và Ireland, Úc, New Zealand, Bắc Mỹ, Croat và Bosnia, Hà Lan và Bỉ, Pháp, Đức, Hà Lan, Ý, Bồ Đào Nha và Scandinavia. Ngoài ra, có ít nhiều các nhóm Do Thái đã đồng hóa, cũng như tín đồ Cơ Đốc giáo đến từ Đế quốc Ottoman, chủ yếu là Syria-Liban và một lượng lớn người Palestine tại thị trấn La Calera.
Về mặt chủng tộc, đa số cư dân Valparaíso là castizos, nghĩa là nguồn gốc theo dòng phụ hệ của họ chủ yếu đến từ những người da trắng thuộc các dân tộc châu Âu khác nhau, làm nghề đánh cá voi, thực dân và thương nhân. Nguồn gốc theo dòng mẫu hệ của họ thường bắt nguồn từ sự kết hợp giữa nam giới thực dân Tây Ban Nha và nữ giới da đỏ địa phương, bao gồm người Mapuche, Inca, Aymara và hậu duệ người da đỏ Bắc Mỹ (người Cherokee được cho là được chuyển đến vào cuối thế kỷ 19). Một lượng nhỏ người gốc Đông Á, gồm người Hoa, người Nhật và người Hàn, một lượng rất nhỏ người gốc Phi, cũng như một bộ phận người Polynesia có tổ tiên bị bắt cóc từ đảo Phục Sinh và quần đảo Marquesas, bổ sung thêm nguồn di truyền vào nhóm Hispanic tan chảy của khu vực.
Vùng Valparaíso có các vùng đất nông nghiệp, nhà sản xuất rượu vang và hoạt động công nghiệp như khai thác đồng và xi măng. Nhà máy lọc dầu lớn nhất Chile nằm ở Concón (trên cửa sông Aconcagua và cách Valparaíso khoảng 20 km về phía bắc) và có hai nhà máy tinh chế quặng đồng quan trọng: nhà máy Ventanas thuộc sở hữu nhà nước (trên bờ biển và phía bắc Concón), và nhà máy tư nhân ở Chagres , sâu trong nội địa khoảng 89 km.
Vùng này cũng là một trung tâm lưu trữ hóa chất và khí đốt gần cảng Quintero. Trong các thung lũng nội địa, có một ngành công nghiệp xuất khẩu đang bùng nổ, chủ yếu xoay quanh bơ (palta), mãng cầu và hoa. Sự phát triển nổi bật nhất gần đây là canh tác trên sườn đồi bằng cách sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt công nghệ cao. Điều này đã cho phép đất khô cằn và kém hiệu quả đạt được năng suất cao. |
James Scott, Công tước thứ nhất xứ Monmouth
James Scott, Công tước thứ nhất xứ Monmouth và Công tước thứ nhất xứ Buccleuch, KG, PC (9 tháng 4 năm 1649 – 15 tháng 7 năm 1685) là một nhà quý tộc trong Đẳng cấp quý tộc Anh, và sĩ quan quân đội người Anh gốc Hà Lan. Ban đầu được gọi là James Crofts hoặc James Fitzroy, ông sinh ra ở Rotterdam, Cộng hòa Hà Lan, là con trai cả ngoài giá thú của Vua Charles II của Anh, Scotland và Ireland với tình nhân Lucy Walter. Tuy vua Charles II có đến 14 người con, trong đó James Scott là con trưởng, nhưng sau khi qua đời, ngai vàng của Anh, Scotland và Ireland phải để lại cho người em trai của nhà vua là James, Công tước xứ York, vì tất cả 14 người con này đều là Con hoang hoàng gia, không được sinh ra trong cuộc hôn nhân hợp pháp.
Công tước xứ Monmouth đã phục vụ trong Chiến tranh Anh-Hà Lan lần hai và chỉ huy quân đội Anh tham gia Chiến tranh Anh-Hà Lan lần ba trước khi chỉ huy lữ đoàn Anh-Hà Lan chiến đấu trong Chiến tranh Pháp-Hà Lan. Ông đã lãnh đạo Cuộc nổi loạn Monmouth không thành công vào năm 1685, một nỗ lực nhằm phế truất người chú của mình là Vua James II và VII. Sau khi một trong những sĩ quan của ông tuyên bố Công tước xứ Monmouth là vị vua hợp pháp của nước Anh tại thị trấn Taunton ở Somerset, ông ấy đã cố gắng tận dụng đạo Tin lành và vị trí mình là con trai của Vua Charles II, để chống lại James, người đã trở thành một người Công giáo La Mã. Cuộc nổi dậy thất bại, và Công tước xứ Monmouth bị chém đầu vì tội phản quốc vào ngày 15 tháng 7 năm 1685.
Cuộc sống đầu đời.
Charles, Thân vương xứ Wales (sau này trở thành Vua Charles II), chuyển đến The Hague vào năm 1648, trong Nội chiến Anh lần thứ hai, nơi em gái là Công chúa Mary và chồng William II, Thân vương xứ Orange cư trú. Những người họ hàng Pháp của mẹ Charles, Vương hậu Henrietta Maria, đã mời Charles chờ đợi cuộc chiến ở Pháp với Vương hậu, nhưng ông đã chọn Cộng hòa Hà Lan, vì ông tin rằng sẽ có nhiều sự ủng hộ hơn cho chính nghĩa của cha mình, Vua Charles I, hơn là ở Pháp. Vào mùa hè năm 1648, Thân vương xứ Wales bị quyến rũ bởi Lucy Walter, người đang ở The Hague trong một chuyến thăm ngắn ngày. Đôi tình nhân mới 18 tuổi, và cô ấy thường được coi là tình nhân đầu tiên của Charles, mặc dù ông có thể đã bắt đầu ngoại tình ngay từ năm 1646. Con trai James của họ sinh ra ở Rotterdam, Hà Lan vào ngày 9 tháng 4 năm 1649, và trải qua những năm đầu đời ở Schiedam.
Nghiên cứu của Hugh Noel Williams cho thấy rằng Charles đã không đến The Hague cho đến giữa tháng 9 năm 1648 - bảy tháng trước khi đứa trẻ chào đời, và ông chỉ mới gặp Lucy vào tháng 7. Sau đó có tin đồn rằng vào mùa hè năm 1648, Lucy là tình nhân của Đại tá Robert Sidney, con trai thứ của Bá tước xứ Leicester. Vì Charles không còn người con hợp pháp nào còn sống nên em trai ông là James, Công tước xứ York, là người kế vị ngai vàng. Khi cậu bé lớn lên, những người trung thành với Công tước xứ York lan truyền tin đồn về sự giống nhau của cậu bé James với Sidney. Những lời đồn này có thể đã được khuyến khích bởi chính Công tước xứ York, người mong muốn ngăn chặn bất kỳ ai trong số 14 đứa con hoang hoàng gia mà anh trai mình thừa nhận giành được sự ủng hộ trong việc kế vị. Vào năm 2012, một cuộc kiểm tra DNA của hậu duệ dòng dõi của Monmouth là Richard Scott, Công tước thứ 10 xứ Buccleuch cho thấy rằng ông này có chung nhiễm sắc thể Y với một người anh họ xa của Stuart; đây là bằng chứng cho thấy Charles II thực sự là cha của Monmouth.
James có một em gái hoặc em gái cùng cha khác mẹ, Mary Crofts, người có thể có cha là Lãnh chúa xứ Taaffe. Mary sau đó kết hôn với người một người Ireland tên là William Sarsfield, do đó trở thành chị dâu của tướng phái Jacobite Patrick Sarsfield.
Là con ngoài giá thú, James không đủ tư cách để kế vị ngai vàng Vương quốc Anh hoặc Scotland, trừ khi ông ta có thể chứng minh tin đồn rằng cha mẹ của mình đã kết hôn bí mật. James khẳng định rằng cha mẹ của mình đã kết hôn và ông ấy có bằng chứng về cuộc hôn nhân của họ, nhưng chưa bao giờ đưa ra bằng chứng. Vua Charles II đã làm chứng bằng văn bản trước Hội đồng Cơ mật rằng ông chưa bao giờ kết hôn với bất kỳ ai ngoại trừ người phối ngẫu của mình là Vương hậu Catarina Henriqueta của Bồ Đào Nha.
Vào tháng 3 năm 1658, chàng trai trẻ James bị bắt cóc bởi một trong những người hầu của Nhà vua, được gửi đến Paris, và được chăm sóc bởi William Crofts, Nam tước Crofts thứ nhất, người mà ông ta lấy họ.
Sĩ quan và chỉ huy.
Vào ngày 14 tháng 2 năm 1663, khi gần 14 tuổi, ngay sau khi được đưa đến Anh, James được phong làm Công tước xứ Monmouth, với các tước hiệu phụ là Bá tước xứ Doncaster và Nam tước Scott xứ Tynedale, cả 3 tước hiệu đều thuộc về Đẳng cấp quý tộc Anh, và vào ngày 28 tháng 3 năm 1663, ông được phong làm Hiệp sĩ Garter.
Vào ngày 20 tháng 4 năm 1663, chỉ vài ngày sau sinh nhật lần thứ 14 của mình, Công tước xứ Monmouth đã kết hôn với người thừa kế Anne Scott, Nữ bá tước thứ 4 xứ Buccleuch. Ông lấy họ của vợ khi kết hôn. Một ngày sau khi kết hôn, cặp đôi được phong làm Công tước và Nữ công tước xứ Buccleuch, Bá tước và Nữ bá tước xứ Dalkeith, và Lãnh chúa và Phu nhân Scott xứ Whitchester và Eskdale trong Đẳng cấp quý tộc Scotland. Công tước xứ Monmouth nổi tiếng, đặc biệt là vì ông theo đạo Tin Lành. Người thừa kế chính thức của Nhà vua là James, Công tước xứ York, đã công khai chuyển sang Công giáo La Mã.
Năm 1665, ở tuổi 16, Công tước xứ Monmouth phục vụ trong hạm đội Anh dưới sự chỉ huy của chú mình, Công tước xứ York, trong Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai. Tháng 6 năm 1666, ông trở lại Anh để trở thành đội trưởng của một đội kỵ binh. Vào ngày 16 tháng 9 năm 1668, ông được phong làm đại tá của Đội kỵ binh riêng của Bệ hạ. Ông mua lại Moor Park ở Hertfordshire vào tháng 4 năm 1670. Sau cái chết của Josceline Percy, Bá tước thứ 11 xứ Northumberland vào năm 1670, không để lại người thừa kế là nam, tài sản của bá tước được trao lại cho Vương miện. Vua Charles II đã trao các điền trang cho Công tước xứ Monmouth. Bá tước phu nhân xứ Northumberland đã kiện thành công để trả lại tài sản cho con gái duy nhất và cũng là người thừa kế duy nhất của cố Bá tước, Quý bà Elizabeth Percy (1667–1722).
Khi Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ ba bùng nổ vào năm 1672, một lữ đoàn gồm 6.000 quân Anh và Scotland đã được gửi đến phục vụ như một phần của quân đội Pháp (để đổi lấy tiền trả cho Vua Charles), với Monmouth là chỉ huy của đội quân. Ông trở thành Lord Lieutenant xứ Đông Riding của Yorkshire và Thống đốc của Kingston-upon-Hull vào tháng 4 năm 1673. Trong chiến dịch năm 1673 và đặc biệt là tại Cuộc vây hãm Maastricht vào tháng 6 năm đó, Monmouth đã đạt được danh tiếng đáng kể với tư cách là một trong những người lính giỏi nhất nước Anh. Ông được cho là sẽ thay thế Nguyên soái Schomberg làm chỉ huy của cuộc Viễn chinh Zealand của Anh, nhưng điều này đã không xảy ra.
Năm 1674, Monmouth trở thành Chủ tịch của Đại học Cambridge và là "Master of the Horse", và Vua Charles II đã xuống chiếu rằng tất cả các mệnh lệnh quân sự trước tiên phải được đưa cho Công tước xứ Monmouth để kiểm tra, do đó trao cho ông quyền chỉ huy các lực lượng; trách nhiệm của ông bao gồm việc di chuyển quân đội và trấn áp bạo loạn. Vào tháng 3 năm 1677, ông cũng trở thành Lord Lieutenant xứ Staffordshire.
Tuyên bố ngai vàng.
Năm 1678, Monmouth là chỉ huy của lữ đoàn Anh-Hà Lan, hiện đang chiến đấu cho Các tỉnh thống nhất chống lại người Pháp, và ông đã thể hiện tài năng mình trong Trận Saint-Denis vào tháng 8 năm đó trong Chiến tranh Pháp-Hà Lan, càng làm tăng thêm danh tiếng của ông. Năm 1679, sau khi trở về Anh, ông chỉ huy một đội quân nhỏ được huy động để dập tắt cuộc nổi dậy của quân Covenanter Scotland và mặc dù bị áp đảo về quân số, ông đã đánh bại quân nổi dậy Covenanter (được thừa nhận là trang bị kém) trong Trận cầu Bothwell vào ngày 22 Tháng 6 năm 1679.
Khi sự nổi tiếng của ông đối với quần chúng ngày càng tăng, Công tước xứ Monmouth buộc phải sống lưu vong tại Các tỉnh thống nhất Hà Lan vào tháng 9 năm 1679. Sau khi phát hiện ra cái gọi là Âm mưu Nhà Rye vào năm 1683, nhằm ám sát cả vua Charles II và em trai James, Công tước xứ York, Công tước xứ Monmouth được nhiều người ủng hộ quyền lên ngôi nên bị nghi ngờ là chủ mưu. Khi Vua Charles II qua đời vào tháng 2 năm 1685, Monmouth lãnh đạo Cuộc nổi dậy Monmouth, đổ bộ bằng 3 con tàu lên Lyme Regis ở Dorset vào đầu tháng 6 năm 1685, trong nỗ lực giành lấy ngai vàng từ người chú của mình, James II và VII. Ông đã "Tuyên bố bảo vệ và minh oan cho Tin Lành cũng như luật pháp, quyền và đặc quyền của nước Anh khỏi cuộc xâm lược đối với họ, và để giải phóng Vương quốc khỏi sự chiếm đoạt và bạo ngược bởi James, Công tước xứ York": Vua James II và VII phản ứng lại điều này bằng cách ra lệnh bắt giữ các nhà xuất bản và phân phối tờ báo.
Monmouth tuyên bố mình là Vua hợp pháp ở nhiều nơi dọc theo tuyến đường bao gồm Axminster, Chard, Ilminster và Taunton. Hai đội quân gặp nhau trong Trận Sedgemoor vào ngày 6 tháng 7 năm 1685, trận chiến cuối cùng trên bãi đất trống giữa hai lực lượng quân sự chiến đấu trên đất Anh: Lực lượng tạm thời của Monmouth không thể cạnh tranh với quân đội chính quy và đã bị đánh bại rõ ràng.
Sau trận chiến, phần thưởng trị giá 5.000 bảng được tuyên bố là sẽ trao cho ai bắt được Công tước xứ Monmouth. Vào ngày 8 tháng 7 năm 1685, Monmouth bị bắt gần Ringwood, Hampshire, "trong một cánh đồng đậu Hà Lan". Các sự kiện xung quanh việc ông bị bắt được George Roberts mô tả trên "Tạp chí Tait's Edinburgh".
Nhà vua đã thực hiện một hành động bất thường là cho phép cháu trai của mình diện kiến, mặc dù không có ý định ân xá cho anh ta, do đó đã phá vỡ truyền thống lâu đời rằng Nhà vua sẽ chỉ yết kiến khi ông có ý định thể hiện sự khoan hồng. Công tước xứ Monmouth cầu xin lòng thương xót của nhà vua không thành công và thậm chí còn đề nghị chuyển sang Công giáo, nhưng vô ích. Nhà vua, ghê tởm trước hành vi hèn hạ của cháu trai mình và ông đã lạnh lùng bảo rằng anh ta hãy chuẩn bị chết, và sau đó nhận xét rằng Monmouth "đã không cư xử tốt như tôi mong đợi". Nhiều lời cầu xin lòng thương xót đã được gửi đến Nhà vua, nhưng ông đã phớt lờ tất cả, kể cả của chị dâu ông, Thái hậu Caterina.
Monmouth bị Jack Ketch chặt đầu vào ngày 15 tháng 7 năm 1685, trên Đồi Tower. Trước đó không lâu, các Giám mục xứ Turner của Ely và Giám mục Thomas Ken của Bath và Wells đã đến thăm Công tước để chuẩn bị cho ông về cõi vĩnh hằng, nhưng đã giữ lại Bí tích Thánh Thể, vì người đàn ông bị kết án đã từ chối thừa nhận rằng cuộc nổi loạn của ông hoặc mối quan hệ của ông với Lady Wentworth là tội lỗi. Người ta nói rằng trước khi gục đầu vào bệ đá, Monmouth đã đặc biệt ra lệnh cho Ketch kết liễu anh ta bằng một đòn duy nhất. Quá bối rối, Ketch thực sự đã giáng nhiều nhát bằng rìu của mình, người tù đứng dậy một cách trách móc trong lúc đó - một cảnh tượng ghê rợn khiến những người chứng kiến bị sốc, kéo theo những lời hành xác và rên rỉ. Một số người nói rằng một con dao cuối cùng đã được sử dụng để cắt đầu khỏi cơ thể đang co giật. Nguồn khác cho rằng phải thực hiện tám nhát, tờ thông tin chính thức của Tháp Luân Đôn nói rằng đao phủ phải dùng năm nhát, trong khi Charles Spencer, trong cuốn sách Blenheim của ông, cho rằng con số đó là bảy.
Monmouth được chôn cất tại Nhà thờ St Peter ad Vincula ở Tháp Luân Đôn. Tước vị của ông đã bị tước bỏ, nhưng các tước hiệu phụ của ông, Bá tước xứ Doncaster và Nam tước Scott xứ Tindale, đã được Vua George II khôi phục vào ngày 23 tháng 3 năm 1743 cho cháu trai của ông là Francis Scott, Công tước thứ 2 xứ Buccleuch (1695–1751). |
Đất đen ("Chernozem", tiếng Nga là "чернозём"/"chernozyom") là loại đất có màu đen chứa tỷ lệ mùn cao (từ 4% đến 16%) và tỷ lệ hợp chất phosphor và amoniac cao Đất đen (Chernozem) là loại đất rất màu mỡ phì nhiêu và có thể tạo ra năng suất nông nghiệp cao với khả năng lưu trữ độ ẩm cao. Chernozem là Nhóm đất tham chiếu của Cơ sở tham chiếu thế giới về tài nguyên đất (WRB). Cái tên này xuất phát từ các thuật ngữ tiếng Nga có nghĩa là màu đen và đất cát đất đai hoặc vùng đất ("chorny" + "zemlya"). Loại đất giàu chất hữu cơ có màu đen này lần đầu tiên được nhà địa chất người Nga Vasily Dokuchaev xác định vào năm 1883 ở thảo nguyên cỏ cao hoặc đồng cỏ ở Đông Ukraine và Tây Nga.
Chernozem bao phủ khoảng 230 triệu ha đất. Có hai "vành đai chernozem" trên thế giới. Một là Thảo nguyên Á-Âu kéo dài từ phía đông Croatia (Slavonia), dọc theo Danube (phía bắc Serbia, phía bắc Bulgaria (Đồng bằng sông Danube), nam và đông România (Đồng bằng Wallachia và Đồng bằng Moldavia), và Moldova, đến đông bắc Ukraine qua Vùng Đất Đen Trung tâm của miền Trung và miền Nam nước Nga đến Siberia. Phần còn lại trải dài từ Thảo nguyên Canada ở Manitoba qua Great Plains (Đại bình nguyên) của Hoa Kỳ xa về phía nam như Kansas, độ dày của lớp Chernozem có thể rất khác nhau, từ vài cm đến 1,5 mét (60 inch) ở Ukraine, cũng như vùng Thung lũng sông Hồng ở miền Bắc Hoa Kỳ và Canada (vị trí của Hồ Agassiz thời tiền sử).
Địa hình chứa đất đen cũng có thể được tìm thấy với số lượng nhỏ ở những nơi khác (ví dụ: trên 1% ở Ba Lan), Hungary và Texas. Nó cũng tồn tại ở Đông Bắc Trung Quốc, gần Cáp Nhĩ Tân. Chernozem thực sự duy nhất ở Úc nằm xung quanh Nimmitabel, một số loại đất màu mỡ nhất trên lục địa Úc. Trước đây, xuất hiện một thị trường chợ đen cho việc khai thác và xuất bán đất đen bất hợp pháp ở Ukraine. Việc bán đất nông nghiệp là bất hợp pháp ở Ukraine kể từ năm 1992 cho đến khi lệnh cấm được dỡ bỏ vào năm 2020, nhưng đất được vận chuyển bằng xe tải có thể được mua bán hợp pháp, nghĩa là người ta không được sở hữu mua bán những mảnh đất nông nghiệp nhưng lại được phép xúc đất lên để bán chúng. Theo tổ chức phi chính phủ Mặt trận Xanh có trụ sở tại Kharkiv, thị trường chợ đen mua Chernozem bất hợp pháp ở Ukraine được dự đoán đạt khoảng 900 triệu đô la Mỹ mỗi năm vào năm 2011. |
Tốt nghiệp phổ thông tại thành phố quê hương Szatmárnémeti (Satu Mare, Romania). Tiếp tục học đại học tại Kolozsvár (Romania). Từ năm1989 đến 2006 sống tại Cộng hòa liên bang Đức. Ông đã sống và làm việc tại Karlsruhe (thành phố lớn ở bang Baden Württemberg, CHLB Đức), Stuttgart (thủ phủ bang Baden Württemberg, CHLB Đức) và sau đó chuyển đến Budapest. Ông là nhà sáng lập Bàn tròn đối thoại Stuttgart, Hội Văn học và Mỹ thuật Stuttgart (2004) và Tổ chức Văn hóa “Xưởng vẽ và Phòng lưu niệm họa sĩ Csontvary Budapest” (2017). Hội viên Liên đoàn Nhà văn Hungary và Hội viên CLB Văn Bút Hungary. Năm 2003 nhận giải thưởng Prima Verba. Từ năm 2020 là Viện sĩ Viện Hàn lâm Văn học Nghệ thuật, Khoa học châu Âu, trụ sở tại Paris.
Năm 2016, ông trở thành biên tập viên tổ chức Hỗ trợ phát triển văn học D
Năm 2018 cùng với nhà thơ Balázs F. Attilá thành lập Nhà xuất bản AB ART tại Budapest, và điều hành nhà xuất bản này đến năm 2021. Trong năm 2019 khởi động Trường thiên Văn học Thế giới mới, nhan đề "Lyra omnis/Prosa omnis".
Tháng hai năm 2020 ông công bố Tuyên ngôn văn học "Ora et labora (Cầu nguyện và lao động). Tuyên ngôn quan trọng này là “Lời kêu gọi vì nền Văn học Thuần khiết”, là một thử nghiệm soi sáng cho khủng hoảng tinh thần thế giới, thông qua niềm tin, lập trường nhà thơ, và trách nhiệm người cầm bút, độc lập với các quốc gia và truyền thông xã hội. Lời kêu gọi xuất bản bằng nhiều thứ tiếng và cũng đã xuất bản trên báo Văn nghệ của Việt Nam cùng năm 2020."
Từ 2021, ông là điều phối viên tại Hungary của Phong trào thơ ca thế giới, một trong những phong trào thơ ca quốc tế lớn nhất. Thường xuyên công bố và xuất bản tác phẩm thơ độc lập. Cho đến nay thơ của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng. |
The Mandela Catalogue là một sê-ri web Analog Horror do YouTuber người Mỹ Alex Kister tạo ra vào năm 2021. Phim lấy bối cảnh ở Quận Mandela hư cấu, Wisconsin , nơi bị khủng bố bởi "những thực thể Alternates (hay được gọi là thế thân)", những sinh vật này ép buộc nạn nhân của nó tự sát trước khi xác định danh tính của bọn chúng qua việc truyền nhiễm bệnh MAD (rối loạn nhận thức siêu hình) và thao túng tâm lý nạn nhân . Series kinh dị này trở nên phổ biến trực tuyến thông qua các và phản ứng từ người dùng internet.
Bối cảnh và thể loại.
"The Mandela Catalogue" lấy bối cảnh ở Quận Mandela hư cấu, bang Wisconsin , nơi đang bị đe dọa bởi sự hiện diện của "những thực thể Alternates (hay được gọi là thế thân)", những sinh vật này ép buộc nạn nhân của nó tự sát và có thể thao túng phương tiện nghe nhìn . Các khía cạnh khác của cốt truyện series bao gồm Lucifer cải trang thành Gabriel, tổng lãnh thiên thần đã thông báo về sự ra đời của Chúa Giê-su . Series chứa nhiều yếu tố nặng ám chỉ trong Kinh thánh, bao gồm Con tàu của Noah, Adam và Eve cùng với bối cảnh xung quanh các nhà thờ ở Mỹ. "The Mandela Catalogue" lấy bối cảnh trong những năm 1990 và 2000.
"The Mandela Catalogue" bao gồm mười hai phim ngắn trong hai "Act", tập đầu tiên được phát hành vào ngày 9 tháng 6. Các phần của nó thường được trình bày dưới dạng video hướng dẫn cho các công dân quận Mandela của "United States of Department of Temporal Phenomena" hoặc các phiên bản bị hỏng của phim hoạt hình tôn giáo "Kinh thánh dành cho người mới bắt đầu" và được hiển thị dưới dạng băng VHS "."
Phát triển và sản xuất.
"The Mandela Catalogue" do sinh viên 18 tuổi Alex Kister đến từ tạo ra dưới dạng một loạt video ngắn mà cậu ấy bắt đầu thực hiện vào năm 2021, khi đang học đại học vào mùa hè . Đó là dự án làm phim đầu tiên của Kister. Ban đầu, Kister đã tạo ra một video "quay" một lần dựa trên một dự án viết ở trường trung học và dự định thực hiện một loạt phim mà anh ấy đã chỉnh sửa phim hoạt hình dành cho trẻ em để trở nên rùng rợn. Tuy nhiên, do sự phổ biến của video, Kister quyết định tiếp tục làm video theo vũ trụ từ "Overthrone" trong thời hiện đại.Tên của series bắt nguồn từ .
Kister có ít hoặc không có kinh phí và sử dụng phương pháp chỉnh sửa cơ bản: các cảnh được quay tại nhà của anh ấy và các nhân vật được bạn bè của anh ấy khắc họa thông qua hình ảnh tĩnh và lồng tiếng. Mẹ của Kister đã từng đóng vai một thế thân trong phim (Cesar's Alternate và "The Alternate"). Trong một cuộc phỏng vấn với "GQ" , Kister cho biết anh ấy muốn phát triển nỗi kinh hoàng của mình từ "những pha hù dọa [...] gây ra phản ứng sinh lý hơn là phản ứng tâm lý."
Kister đã nói rằng series này ban đầu bắt đầu như một lối thoát sáng tạo cho cuộc khủng hoảng tâm lý mà anh ấy đang giải quyết, đặc biệt là khi đề cập đến chủ đề tôn giáo và Cơ đốc giáo . Series cũng được lấy cảm hứng từ sự cô lập và mất an toàn mà Kister đã trải qua do hậu quả của đại dịch COVID-19. Kister đã lấy cảm hứng ý tưởng từ những loạt phim "Analog Horror" khác như: "The Walten Files" , "Gemini Home Entertainment" , "Local 58" , "Surreal Broadcast" , "The Minerva Alliance", và "Marble Hornets" , và các bộ phim kinh dị như "The Shining" và "The Exorcist" , là những tác phẩm này có ảnh hưởng lớn đến công việc sáng tạo cốt truyện cho series của anh ấy.
Vào tháng 10 năm 2022, Kister hợp tác với Makeship để phát hành các sản phẩm ăn theo (Figures, thú nhồi bô) cho series.
Các tập phim của series.
Hết phần cho biết trước nội dung của tác phẩm.
"The Mandela Catalogue" đã trở nên phổ biến thông qua các trên YouTube và nhanh chóng thu hút được lượng người theo dõi mạnh mẽ. Một số người dùng chỉ trích sự phụ thuộc quá mức vào các series Analog Horror khác. Tập. 4 đã bị chỉ trích đặc biệt vì sử dụng các phân đoạn hành động trực tiếp được quay bằng màn hình xanh. Một số khán giả không thích cảnh thiếu chủ nghĩa siêu thực, trong khi Kister cho rằng việc thiếu chủ nghĩa siêu thực là có mục đích và cố gắng tạo cho các phân đoạn một chất lượng thung lũng kỳ lạ .
Tính đến tháng 3 năm 2023 , kênh YouTube của Kister đã có hơn ba mươi triệu lượt xem.
Đánh giá từ các nhà phê bình.
Dread Central ca ngợi "The Mandela Catalogue" là "[ví dụ] tối cao về hình dáng và âm thanh của Analog horror", đồng thời nói thêm rằng "cảm giác bất an xuất phát từ việc biết rằng bạn sẽ sợ hãi liên tục bị thao túng bằng hình ảnh." Tờ báo sinh viên "The Post" đã ưu ái so sánh việc sử dụng thung lũng kỳ lạ như một kỹ xảo kinh dị với "The Walten Files" . Nó cũng được "GQ" khen ngợi . Trong khi "Tạp chí TLK" ca ngợi khả năng xây dựng thế giới của loạt phim, thì lại chỉ trích giọng nói "đều đều" của nó làm giảm đi giọng điệu của "The Mandela Catalogue"
Trò chơi độc lập "Maple County" (2021) và "Assessment Examination" dựa trên series. "Maple County" được phát triển bởi một trong những diễn viên lồng tiếng của loạt phim, Thorne Baker, vào năm 2021, trước khi anh ấy hợp tác với loạt phim. Trò chơi được đóng khung dưới dạng băng đào tạo tương tác từ Sở cảnh sát Quận Maple, trong đó người chơi phải xác định ảnh nào miêu tả thế thân và ảnh nào miêu tả người thật. "Mandela Invasion," do Broken Arrow Games tạo ra, sử dụng tiền đề là những thế thân đang cố gắng đột nhập vào nhà của người chơi. "Alternate Watch" là một trò chơi dành cho người hâm mộ (Fangame), được phát triển và phát hành bởi "Tesseron" và đăng lên I, người chơi sẽ nhập vai vào một nhân viên điều tra huyền bí thuộc "United States of Department of Temporal Phenomena" có nhiệm vụ quan sát và điều tra căn nhà có dấu hiệu khả nghi về việc xuất hiện của các thế thân và phải báo cáo ngay lập tức nếu phát hiện các thế thân. |
Chiến dịch Enhance và Enhance Plus
Chiến dịch Enhance và Enhance Plus (tiếng Anh: "Operations Enhance and Enhance Plus") là hoạt động chuyển giao một số lượng lớn trang thiết bị và căn cứ quân sự của quân đội Mỹ cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa trước khi Hiệp định Hòa bình Paris chấm dứt sự dính líu của nước Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Hai chiến dịch này được tiến hành từ tháng 5 đến tháng 12 năm 1972.
Cuối tháng 3 năm 1972, Bắc Việt đã mở Chiến dịch Xuân – Hè nhằm tổng tấn công Việt Nam Cộng hòa. Mục tiêu của phe cộng sản là làm suy yếu lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa, chiếm thêm lãnh thổ miền Nam Việt Nam và giảm bớt quyết tâm tiếp tục viện trợ Việt Nam Cộng hòa của Mỹ. Chiến dịch Xuân – Hè được tiến hành trong bối cảnh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang đàm phán một hiệp định hòa bình với Hoa Kỳ và mong muốn củng cố vị thế của mình tại miền Nam Việt Nam trước khi hoàn tất hiệp định.
Mùa hè đỏ lửa đã đặt lực lượng quân sự của Việt Nam Cộng hòa dưới áp lực dữ dội. Sau khi tỉnh lỵ Quảng Trị thất thủ của và khả năng ngăn chặn Bắc Việt của Việt Nam Cộng hòa bị nghi ngờ, Tổng thống Richard Nixon vào ngày 17 tháng 5 đã chỉ thị rằng tối đa thiết bị và vật chất của Mỹ sẽ được chuyển giao cho Việt Nam Cộng hòa càng nhanh càng tốt. Ngày 19 tháng 5, Nixon liền phê duyệt danh sách thiết bị sẽ được cung cấp cho Việt Nam Cộng hòa trước ngày 1 tháng 8 và Dự án Enhance bắt đầu. Nixon cũng muốn tích lũy trang thiết bị quân sự của Việt Nam Cộng hòa để nếu hiệp định hòa bình dự kiến ban hành một lệnh cấm đưa trang thiết bị quân sự mới, Việt Nam Cộng hòa sẽ có đủ nguồn cung cấp.:213–5
Chiến dịch Enhance đã cung cấp cho quân đội Việt Nam Cộng hòa số pháo và vũ khí chống tăng, 69 máy bay trực thăng, 55 máy bay chiến đấu phản lực, 100 máy bay khác và 7 tàu tuần tra.:511 Trang thiết bị được cung cấp cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa (ARVN) bao gồm 2 tiểu đoàn pháo phòng không, 3 tiểu đoàn pháo 175mm, 2 tiểu đoàn xe tăng M48A3 và 141 bệ phóng tên lửa TOW.:511
Chiến dịch Enhance Plus.
Ngày 20 tháng 10 năm 1972, Nixon ra lệnh chuyển giao thêm trang thiết bị quân sự của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa. Nixon dự đoán rằng một hiệp định hòa bình sớm được ký kết và hiệp định này sẽ cấm mở rộng viện trợ quân sự cho Việt Nam Cộng hòa và chỉ cho phép thay thế trang thiết bị quân sự một đổi một. Ông muốn Việt Nam Cộng hòa có tối đa trang bị trong tay trước khi những hạn chế trong hiệp định hòa bình diễn ra. Chuyến hàng chở đồ trang bị cuối cùng đến vào ngày 12 tháng 12 và hiệp định hòa bình chưa được ký kết mãi cho đến ngày 27 tháng 1 năm 1973.:220–2
Các thiết bị chuyển giao cho Việt Nam Cộng hòa bao gồm 234 máy bay chiến đấu phản lực F-5A và A-37, 32 máy bay vận tải C-130, 277 trực thăng UH-1H, 72 xe tăng, 117 xe bọc thép chở quân, pháo và 1.726 xe tải.:512 Chi phí của hàng loạt trang thiết bị này là khoảng 750 triệu đô la (5,7 tỷ đô la năm 2015). Hơn nữa, hầu hết các thiết bị đều do người Mỹ cung cấp cho hai sư đoàn quân đội Hàn Quốc đang rời đi (khoảng 38.000 người) cũng được trao cho Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra, nước Mỹ còn chuyển giao quyền sở hữu các căn cứ quân sự của họ ở miền Nam Việt Nam và đống đồ trang bị nằm tại các căn cứ cho Việt Nam Cộng hòa.:48–9, 511
Kết quả của chiến dịch này đã giúp Việt Nam Cộng hòa sở hữu lực lượng không quân lớn thứ tư trên thế giới vào cuối năm 1972. Tuy vậy, nhiều người nghi ngờ rằng liệu Việt Nam Cộng hòa có đủ khả năng sử dụng và bảo dưỡng tất cả các trang thiết bị này hay không. Một cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho biết chiến dịch này mang lại giá trị chính trị như một dấu hiệu cho thấy Mỹ sẽ không bỏ rơi Việt Nam Cộng hòa".:48–9
Hiệp định Hòa bình Paris được tất cả các bên tham chiến ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, cấm thay thế quân trang quân dụng ở miền Nam Việt Nam ngoại trừ trên cơ sở một đối một và chấm dứt việc chuyển giao thiết bị quân sự lớn từ phía Mỹ. Hiệp định cũng yêu cầu rút gần như toàn bộ nhân viên quân sự Mỹ mặc dù nước này vẫn giữ lại vài nghìn cố vấn dân sự ở Việt Nam Cộng hòa.:228 |
Hội Quân nhân Mỹ gốc Việt
Hội Quân nhân Mỹ gốc Việt (viết tắt: VAAFA) là hiệp hội quân sự chuyên nghiệp phi lợi nhuận, phi đảng phái. Đây là hiệp hội quân sự đầu tiên dành cho quân nhân người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ, tập trung vào việc sắp đặt chỗ ở cho thương binh và giao lưu giữa các cựu chiến binh với nhau.
Tên ban đầu của tổ chức này gọi là Hội Quân nhân người Mỹ gốc Việt, về sau mới đổi thành tên gọi hiện tại vào ngày 1 tháng 10 năm 2014. Tính đến tháng 5 năm 2018, hiệp hội có hơn 1.200 thành viên.
Thành viên VAAFA phần lớn đều là quân nhân tại ngũ, lính dự bị, vệ binh quốc gia và cựu chiến binh lực lượng vũ trang Mỹ; sĩ quan và hạ sĩ quan từ năm nhánh của quân đội Mỹ; Lục quân Hoa Kỳ, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, Hải quân Hoa Kỳ, Không quân Hoa Kỳ và Cảnh sát biển Hoa Kỳ cùng hai lực lượng phi chiến đấu là Đoàn Ủy nhiệm Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAAC) và Đoàn Ủy nhiệm Y tế Công cộng Hoa Kỳ (PHSCC). |
Chiến dịch Brotherhood (tiếng Anh: "Operation Brotherhood") là hoạt động nhân đạo do Tổng thống Magsaysay phát động nhằm đưa đoàn tình nguyện viên Philippines đến Sài Gòn cứu viện, cải thiện điều kiện vệ sinh và hỗ trợ thuốc men cho những người dân tị nạn Việt Nam. Chiến dịch này còn được mở rộng trên phạm vi toàn thế giới khi nhiều quốc gia khác cũng chung tay với Philippines trong việc cứu trợ người dân tị nạn miền Nam Việt Nam.
Mặc dù chiến dịch Brotherhood cam kết thực hiện vì mục đích nhân đạo nhưng nó lại mang nhiều ý nghĩa chính trị. Bản thân tên gọi của chiến dịch này đã ám chỉ đến lực lượng quân đội theo học thuyết của Philippines về "tình anh em" (brotherhood) giữa quân nhân và nhân dân. Theo Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles, chiến dịch Brotherhood là sự thể hiện ấn tượng của thế giới tự do cho các vấn đề Việt Nam.
Chính phủ Philippines đã trao Giải thưởng Ramon Magsaysay cho chiến dịch này vào năm 1958 nhằm ghi nhận tinh thần phục vụ các dân tộc khác trong thời điểm cần thiết mà nó vừa hình thành và phát huy, cũng như tình hữu nghị quốc tế mà nó đã nuôi dưỡng ở Việt Nam. |
Phiến đá khiếu nại cho Ea-nasir
Phiến đá khiếu nại cho Ea-nāṣir là một phiến đất sét được viết khoảng năm 1750 TCN gửi đến thành phố cổ Ur (nay thuộc Iraq). Phiến đá được khắc lên lời khiếu nại của một khách hàng tên là Nanni cho thương nhân Ea-nāṣir bằng tiếng Akkad. Phiến đá này được coi là lời khiếu nại cổ nhất thế giới, và hiện đang được cất giữ ở bảo tàng Anh. Trong thập niên 2020, nội dung phiến đá và thương nhân Ea-nāṣir trở thành một meme Internet.
Phiến đá được tìm thấy bởi Leonard Woolley trong một cuộc thám hiểm thành phố cổ Ur của nhóm khảo cổ từ Đại học Pennsylvania và bảo tàng Anh từ năm 1922 đến 1934. Phiến đá cao 11,6 cm (49⁄16 inch), rộng 5 cm (115⁄16 inch) và dày 2,6 cm (1 inch). Phiến đá được làm bằng đất sét nung, sạch và bị nứt vài chỗ.
Ea-nāṣir đi mua đồng ở thành phố Dilmun và đem trở về Lưỡng Hà để bán. Một hôm, Ea-nāṣir đồng ý bán thỏi đồng cho một khách hàng tên là Nanni. Nanni cử nô lệ của mình đi gửi tiền để hoàn tất việc mua bán. Nanni phàn nàn rằng những thỏi đồng nhận được không đạt tiêu chuẩn và chất lượng kém.
Nanni khiếu nại bằng cách gửi một phiến đất sét viết lời phàn nàn của ông bằng chữ hình nêm cho Ea-nāṣir. Phiến đá khắc lên nội dung về chất lượng không đạt của thỏi đồng của Ea-nāṣir, và vấn đề về một giao dịch khác của ông. Nanni phàn nàn rằng nô lệ mà ông cử đi bị đối xử một cách thô lỗ, và tại thời điểm viết, ông chưa chấp nhận thỏi đồng mặc dù đã trả tiền.
Một số phiến đá khác được tìm thấy trong tàn tích được cho là nơi ở của Ea-nāṣir, trong đó có một phiến đá khiếu nại từ một khách hàng tên là Arbituram phàn nàn rằng ông chưa nhận được thỏi đồng, và một phiến đá khác viết rằng ông không muốn nhận đồng chất lượng kém nữa.
Phiến đá khiếu nại cho Ea-nāṣir đã trở thành một meme Internet do sự khác thường về tính chất nội dung khi so với thời Ai Cập cổ đại, trong đó tạp chí "Forbes" cho rằng phiến đá trông giống như khiếu nại về chất lượng dịch vụ kém của khách hàng thời hiện đại.
Phiến đá được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là "Lời viết khiếu nại khách hàng cổ nhất thế giới" với niên đại 3767 năm. |
Sư đoàn súng trường cận vệ số 23
Ngày 2/5 sư đoàn đã được trao tặng huân chương chiến đấu lần thứ 2:
Ngày 28 tháng 5, các đơn vị của sư đoàn cận vệ số 23 được khen thưởng vì những thành tích chiến đấu trong trận Berlin: các đơn vị Trung đoàn súng trường số 63 và số 68 nhận được huân chương Order of Suvorov, hạng 3, trong khi trung đoàn số 66 được trao tặng Order of Kutuzov hạng 3 và Tiểu đoàn chống tăng cận vệ số 28 được trao tặng Huân chương sao đỏ. Có 13 người bao gồm Thiếu tá Nikin đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Trong số họ có Thiếu tá Lyudmila Stepanovna Kravets, đã thay đại đội trưởng bị thương để chỉ huy đại đội ngày 17 tháng 4 sau đó sơ tán binh sĩ bị thương trong các trận chiến đường phố ở Berlin.
Theo chỉ thị của "STAVKA" ngày 29 tháng 5, sư đoàn cận vệ số 23, cùng với Tập đoàn quân cận vệ số 12 cùng với phần còn lại của quân đoàn xung kích số 3, trở thành một phần của Cụm quân Liên Xô đóng tại Đức. Kể từ năm 1946, Cụm quân được rút gọn về tổ chức, do đó năm 1947, sư đoàn đã được giải thể. |
Notopalaeognathae là một nhánh chim thuộc phân thứ lớp Palaeognathae, bao gồm bộ Rheiformes (đà điểu Nam Mỹ), nhánh Novaeratitae (kiwi, đà điểu đầu mà), bộ Tinamiformes và bộ tuyệt chủng Dinornithiformes (moa). Mối quan hệ chính xác của nhóm này chỉ mới được phát hiện gần đây, với các loài của Tinamiformes và moa có chung một tổ tiên, và kiwi có quan hệ họ hàng gần hơn với đà điểu Emu và đà điểu đầu mào. Loài chim voi đã tuyệt chủng của Madagascar gần đây đã được xác định là có họ hàng gần nhất với kiwi. Đà điểu Nam Mỹ là nhánh cơ bản nhất của nhánh Notopalaeognathae vì chúng là nhóm chị em với Novaeratitae. Struthionidae (Họ Đà điểu) là nhóm chị em của Notopalaeognathae. |
Opera tại Việt Nam
Opera đã xuất hiện tại Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 nhưng sự hình thành và phát triển của thanh nhạc Việt Nam nói chung và opera nói riêng mới chỉ bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 20. Trải qua nhiều năm, nghệ thuật opera tại quốc gia này đã đạt được một số thành tựu nhất định. Nhiều vở opera được sáng tác, dàn dựng và biểu diễn bên cạnh những vở opera nổi tiếng trên thế giới. Đội ngũ nghệ sĩ và giảng viên dần được hình thành cho việc đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp. Tuy nhiên, opera tại Việt Nam vẫn gặp nhiều những vướng mắc và vấn đề trong việc phát triển từ sáng tác, dàn dựng, biểu diễn đến giảng dạy.
Theo một nghiên cứu, opera của Việt Nam hình thành từ nửa sau thế kỷ 20. Một số mẫu hình kịch hát cổ điển châu Âu đã được phổ biến cuối những năm 1950 và 1960 qua các vở "Evgeny Onegin" của Nga và "Núi rừng hãy lên tiếng" của Triều Tiên. Dù vậy, sự hiện diện của opera tại đất nước này đã xuất hiện từ sớm hơn ở đầu thế kỷ 20, trong đó có các hoạt động ca đoàn ở nhà thờ Công giáo và biểu diễn nghệ thuật tại một số nhà hát lớn. Để thể loại opera thuần Việt được ra đời, nền âm nhạc Việt Nam buộc phải có đủ các yếu tố như trình độ của người soạn nhạc, trình độ của các nghệ sĩ biểu diễn, thậm chí là cả trình độ thưởng thức âm nhạc của khán giả.
Thời kì chiến tranh Đông Dương, ngoài ca khúc là lĩnh vực chủ yếu thì ca cảnh và ca kịch đã đạt những thành tựu nhất định, song nền khí nhạc dường như chưa có sự chuyển biến đáng kể nên chưa thể đáp ứng được yêu cầu cho thể loại opera. Chuyên môn của các nhạc sĩ Việt Nam thời bấy giờ mới đạt đến sáng tác ca khúc và chủ yếu theo tư duy đơn âm, chưa theo tư duy đa âm. Đội ngũ các nhạc sĩ sáng tác chưa cũng có sự chuyên môn hóa. Ngoài ra, trình độ của người biễu diễn, công chúng thưởng thức cũng là những yếu tố chưa thể đáp ứng cho sự ra đời opera ở thời kỳ này. Tới thời kì chiến tranh Việt Nam, nền âm nhạc nước này mới đáp ứng các yếu tố để ra đời nghệ thuật opera. Sau một thời gian dài, nghệ thuật opera tại do người Việt sáng tác đã đạt được một số thành tựu nhất định. Nhiều vở opera được viết, dàn dựng và biểu diễn bên cạnh những vở opera nổi tiếng trên thế giới. Đã có thêm lực lượng những người biểu diễn và giảng dạy được hình thành cho đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp.
Trong nền thanh nhạc Việt Nam, opera được đánh giá là một bộ phận làm nên diện mạo hoàn chỉnh cho âm nhạc sân khấu. Bên cạnh phong cách hát các thể loại âm nhạc cổ truyền và hát ca khúc nhạc mới, kỹ thuật hát bel canto của thể loại này đã góp phần tạo nên tính phong phú cho kỹ thuật thanh nhạc của ca hát Việt Nam. Sự có mặt của opera đã thể hiện sự phát triển của nền thanh nhạc chuyên nghiệp tại quốc gia này.
Tại các quốc gia phát triển, opera là một trong những môn nghệ thuật được xem trọng. Tại Việt Nam, opera cũng như các loại hình nghệ thuật bác học khác như ballet đang đứng trước nhiều thách thức và vướng mắc từ biểu diễn, sáng tác đến dàn dựng.
Opera của Việt Nam.
Cụm từ "opera của Việt Nam" được một số nguồn nghiên cứu nhắc đến là nghệ thuật hát tuồng, một loại hình nhạc kịch dân gian lâu đời của Việt Nam. Cũng có nguồn nghiên cứu khác đưa ra thông tin liên quan đến "soap opera" tại Việt Nam, một khái niệm chỉ kịch xà phòng. Tuy vậy, xét theo đúng nghĩa loại hình nghệ thuật nhạc kịch của phương Tây, opera của Việt Nam chỉ mới ra đời vào thế kỷ 20 trong khoảng thời gian kết hợp giữa hai yếu tố nội sinh và ngoại sinh. Theo nhà nghiên cứu âm nhạc Tú Ngọc, yếu tố nội sinh được cho là đến từ sự tích luỹ về khát vọng, kinh nghiệm của những nhạc sĩ đối với những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực ca cảnh, ca kịch từ những giai đoạn trước. Yếu tố ngoại sinh đến từ mẫu hình kịch hát cổ điển châu Âu được phổ biến tại quốc gia này nửa sau thế kỷ 20.
Sự hiện diện của những vở kịch nước ngoài trên sàn diễn Việt Nam và do các nghệ sĩ Việt Nam dàn dựng, biểu diễn chỉ là nhân tố kích thích, trong khi sự rèn luyện kỹ năng, lĩnh hội tri thức nghề nghiệp của nhạc sĩ đối với thể loại này mới mang lại ý nghĩa quan trọng cho sự ra đời của opera Việt Nam. Theo đó, opera Việt Nam được xem là sản phẩm của người Việt được tiếp thu từ tinh hoa âm nhạc nói chung và nghệ thuật opera nói riêng của châu Âu trên cơ sở nền tảng âm nhạc truyền thống. Với vở ca kịch đầu tiên là "Tục lụy" sáng tác năm 1943 của Lưu Hữu Phước, ca kịch và ca cảnh đã phát triển phong phú hơn ở các thời kỳ chiến tranh Đông Dương, chiến tranh Việt Nam và có ảnh hưởng đến sự ra đời của opera Việt Nam. Qua ca cảnh và ca kịch, các nhạc sĩ Việt Nam đã được rèn luyện viết âm nhạc sân khấu theo phong cách phương Tây trước khi đến với thể loại opera.
Năm 1965, vở opera đầu tiên của Việt Nam – "Cô Sao" của Đỗ Nhuận đã được dàn dựng và biểu diễn, đánh dấu sự ra đời của opera Việt Nam. Qua đó, Đỗ Nhuận đã đóng vai trò đặc biệt và có vị trí lớn trong sự khởi đầu của loại hình nghệ thuật tổng hợp này tại Việt Nam. "Cô Sao", về sau còn được đổi thành "A Sao", được ra mắt công chúng lần đầu vào ngày 2 tháng 9, nhân kỷ niệm 20 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tham gia vở diễn là dàn nghệ sĩ đáng chú ý của nền thanh nhạc Việt Nam lúc bấy giờ như Quý Dương, Ngọc Dậu, Trung Kiên, Quang Hưng… Đã có một số tham luận, bài viết liên quan trực tiếp đến quá trình hình thành và phát triển nghệ thuật opera Việt Nam như tham luận hội thảo Khoa Thanh Nhạc 30 Năm (năm 1986) của Trung Kiên. Cùng năm, ông cũng có tên trong một bài tham luận khác có khuôn khổ lớn và bao quát rộng hơn mang tên "Những bước phát triển của 3 dòng ca há" tại khuôn khổ Hội nghị tổng kết 10 năm hoạt động ngành ca múa nhạc.
Tuy nhiên sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, sân khấu nhạc mới chuyển dần sang xu hướng kịch hát khiến cho các sáng tác opera hầu như biến mất trong khoảng thời gian dài. Nguyên nhân được cho là do hoàn cảnh lịch sử xã hội thay đổi dẫn đến thay đổi quan điểm sáng tác. Một nguyên nhân khác cũng được chỉ ra là việc đầu tư cho opera rất tốn kém bởi tính "đồ sộ" của một vở diễn.
Nội dung các vở opera Việt Nam chủ yếu đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với vận mệnh của toàn thể dân tộc như chủ nghĩa anh hùng, yêu nước, cũng như kể lại các cuộc chiến tranh cách mạng với thực dân Pháp và Mỹ... Qua đó nói lên "khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, hạnh phúc và tình yêu của nhân dân". Nguồn nước ngoài nghiên cứu rằng opera do người Việt sáng tác có nội dung sử dụng "lịch sử người Việt và những câu chuyện chính trị". Đa số các opera Việt Nam có cấu trúc theo mẫu hình opera cổ điển châu Âu, đó là phân chia theo lối màn, cảnh và cấu trúc số mục. Ngoại trừ vở "Bông sen" của Hoàng Việt được xây dựng theo lối xuyên suốt không chia thành màn và có quy mô nhỏ hơn tất cả.
Mở đầu các opera là khúc mở màn của dàn nhạc, một số vở mở màn bằng đọc thơ trên nền nhạc và thêm phần hợp xướng như "Cô Sao", Bên bờ K’rông Pa. Phần thanh nhạc gồm hát và hát nói. Nhiều vở thậm chí có thêm nói thường. Các tiết mục thanh nhạc sử dụng nhiều hình thức của opera châu Âu: đơn ca, hợp ca, hợp xướng. Các tiết mục đơn ca chủ yếu là aria và ca khúc, arioso, romance, ballade. Hợp ca có các tiết mục song ca là chủ yếu, ngoài ra còn có tam ca và tốp ca. Hợp xướng được dùng ở nhiều hình thức: Phân chia theo giọng người có hợp xướng nam nữ, hợp xướng nam, hợp xướng nữ. Phân chia theo bè chủ yếu có hợp xướng bốn bè, ba bè, thậm chí là hai bè.
Kỹ thuật hát trong opera Việt Nam có sự khác biệt so với opera cổ điển châu Âu, chủ yếu xuất phát từ sự khác biệt ngôn ngữ, cách phát âm, cùng với những yếu tố âm nhạc dân tộc các vùng miền trên đất nước Việt Nam. Phong cách bel canto cũng đã du nhập song song với sự ra đời của opera Việt Nam. Theo giảng viên thanh nhạc Trần Thị Ngọc Lan, việc đưa kỹ thuật hát của một ngôn ngữ hoàn toàn khác vào tiếng Việt (vốn là ngôn ngữ đơn âm) là một quá trình đòi hỏi "nhiều công phu, say mê và sáng tạ" Ngôn ngữ, lời ca của nhân vật vai diễn giọng nữ cao trong opera Việt Nam thường được thể hiện nét đặc trưng thông qua bối cảnh lịch sử, không gian phản ánh câu chuyện của vở kịch.
Đối với phần dàn nhạc, opera Việt Nam cũng được sử dụng theo mẫu hình opera châu Âu, gồm bốn bộ nhạc cụ trong dàn nhạc giao hưởng là dây, gỗ, đồng, gõ. Bên cạnh đó, các opera đều sử dụng thêm các nhạc cụ dân tộc. Bộ phận khí nhạc, ngoài khúc mở màn và dạo đầu các màn có nhạc đệm, nhạc nền, nhạc dẫn vào tiết mục, nhạc chen đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tình huống kịch và xây dựng hình tượng kịch.
Bên cạnh các tiết mục thanh nhạc và phần viết cho dàn nhạc, các tiết mục múa cũng đôi khi xuất hiện. Trong các opera Việt Nam, các tiết mục múa chủ yếu có màu sắc dân gian như các vũ điệu Tây Nguyên trong "Bên bờ K’rông Pa", múa theo điệu Xòe của dân tộc Thái trong "Cô Sao".
Opera của người Việt hải ngoại.
Năm 1978, nhà soạn nhạc người Pháp gốc Việt Nguyễn Thiên Đạo sáng tác vở opera mang tên "Mỵ Châu – Trọng Thủy", đánh dấu tên tuổi của bản thân nhạc sĩ trong lĩnh vực âm nhạc cổ điển đương đại của thế giới. Đây được xem là vở nhạc kịch đầu tiên của Việt Nam được thế giới biết đến như một tác phẩm "mang tiếng nói dân tộc đặc sắc và thủ pháp biểu hiện mới mẻ".
Tháng 2 năm 2014, tại thành phố Bloomington, tiểu bang Indiana, vở opera tiếng Anh "The Tale of Lady Thị Kính" dựa trên vở chèo cổ "Quan âm Thị Kính" của Việt Nam do nhà soạn nhạc Mỹ gốc Việt Phan Quang Phục đã được trình diễn 4 ngày trên sân khấu hơn 1000 ghế ngồi của Đại học Indiana. Vở opera này có tên tiếng Việt là "Câu chuyện bà Thị Kính", trong đó tên Thị Kính ở tựa đề được viết với dấu tiếng Việt đầy đủ. Tác phẩm dài 135 phút với sự góp mặt của dàn nhạc giao hưởng, dàn hợp xướng và 15 vai diễn, toàn bộ phần lời hát bằng tiếng Anh nhưng được xem là lần đầu tiên, có hai bài hợp xướng được hát bằng tiếng Việt trong một vở opera được dàn dựng và biểu diễn trên sân khấu nhạc kịch thế giới. Trước đó, nhà soạn nhạc này cũng từng cho ra mắt vài cảnh của vở opera 120 phút "Lorenzo de' Medici" vào năm 2007 dù nhận được sự yêu thích của phần nhạc nhưng phần nội dung đã không gây được ấn tượng. Năm 2018, Phan Quang Phục tiếp tục công bố vở opera mới mang tên "Trong bụng ngựa" (tựa tiếng Anh là "What the Horse Eats"). Vở opera gồm 5 màn, được viết như một vở nhạc kịch lớn nhưng được dàn dựng là một vở nhạc kịch thính phòng. "Trong bụng ngựa" được nhận xét "tràn đầy những điệu nhạc gợi cảm và đầy cảm xúc". Năm 2023, một vở opera của một đạo diễn người Pháp gốc Việt soạn mang tên tiếng Việt là "Khung cảnh lãng quên" được công diễn tại Việt Nam nằm trong khuôn khổ sự kiện kỷ niệm "50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam và Pháp". Vở opera này có sự kết hợp cải lương với nhạc kịch Pháp và được thể hiện bằng 3 thứ tiếng Anh, Pháp, Việt.
Lĩnh vực sáng tác của âm nhạc Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 được đánh giá là đạt những thành tựu nhất định về số lượng và cả chất lượng ca khúc thời kỳ này được sáng tác một các phong phú với nhiều thể loại và hình thức như hành khúc, trữ tình, ca khúc quần chúng, ca khúc thiếu , những thể loại có hình thức lớn như hợp xướng, trường ca tiếp tục phát triển. Thời kỳ này còn xuất hiện thêm thể loại thanh xướng kịch. Tư duy đa âm trong các tác phẩm hợp xướng đã phần nào chứng minh bút pháp sáng tác của các nhạc sĩ Việt Nam đã cải thiện hơn, cũng như khẳng định cơ sở để sáng tác các tiết mục hợp xướng cho opera. Ở thời kỳ này, việc sáng tác khí nhạc cũng nhanh chóng phát triển phong phú về mặt thể loại có hình thức lớn như liên khúc sonata giao hưởng nhiều chương, tổ khúc giao hưởng, giao hưởng thơ cho tới các thể loại có hình thức nhỏ như biến tấu, rapsodie, , biểu diễn, đào tạo, nghiên cứu lý luận phê bình, là sự thúc đẩy cho việc phát triển các loại hình sân khấu khác như sân khấu cổ truyền (tuồng, chèo, cải lương), ca kịch và cả cho sân khấu opera. Nhìn chung, các nhạc sĩ Việt Nam tiếp thu opera cổ điển và lãng mạn châu Âu, kết hợp với sử dụng những yếu tố trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam để xây dựng nên các tác phẩm opera Việt Nam.
Khi tiếp cận với nền nhạc kịch châu Âu cổ điển, hai nhạc sĩ Đỗ Nhuận và Nhật Lai đã sáng tác những vở opera Việt Nam đầu tiên kết hợp kỹ thuật hát bel canto với kỹ thuật hát dân tộc và được giới âm nhạc Việt Nam đánh giá cao. Dù bước đầu chỉ là sự thể nghiệm, nhưng việc vận dụng kỹ thuật mang tính cổ điển của thế giới và kỹ thuật dân gian Việt Nam đã được xem là sự hứa hẹn lớn.
Dưới góc độ tìm hiểu vấn đề một nhạc sĩ sáng tác có vị trí quan trọng đối với opera Việt Nam hay không, Đỗ Nhuận từng viết nhiều bài viết liên quan đến mảng đề tài này như “Bàn về ca kịch mới” (báo "Văn học" số 2 năm 1958), “Một thành công lớn trọng việc giới thiệu nhạc kịch "Épgênhi Ôniêghin"” (báo "Văn nghệ" số 12 năm 1961), “Dạo đầu: Cộng hay không cộng?” (báo "Văn hóa" số 6 năm 1969), “Từ ca khúc đến nhạc kịch” (báo "Văn hóa" số 8 năm 1969), “Tôi viết nhạc kịch Người tạc tượng” (báo Văn hóa số 4 năm 1970)…
Bước vào thời kì Đổi mới, cơ chế thị trường với những quan niệm về thương mại hóa nghệ thuật đã tác động đến việc hình thành thị trường âm nhạc ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sáng tác, biểu diễn và đào tạo thanh nhạc chính thống. Những sáng tác lớn ngang tầm với các vở opera của Đỗ Nhuận, Nhật Lai, Hoàng Việt… hay trường ca của Văn Cao, Nguyễn Đình Thi dường như không có.
Ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp quan tâm đến sứ mệnh khai hoá văn minh nên đã cho xây dựng ba nhà hát lớn. Nhà hát Lớn Sài Gòn hoàn thành năm 1897. Nhà hát Lớn Hải Phòng được xây dựng năm 1904 và khánh thành năm 1912. Khi người Pháp dời thủ đô về Hà Nội năm 1887, nhà hát lớn nhất được xây dựng ở đó vào năm 1901, dù mãi đến năm 1911 mới được khánh thánh. Pháp đã đặt sứ mệnh của nước thuộc địa là xây dựng những nhà hát lớn và tài trợ cho các mùa diễn của họ liên quan đến việc ký hợp đồng và mời các đoàn hát nhạc kịch từ Pháp sang đây biểu diễn. Hầu hết các nhà sử học về chủ nghĩa thực dân Pháp không đề cập đến opera hay các thể loại sân khấu phương Tây trong các cuộc thảo luận của họ về công cuộc khai phá văn minh. Thông thường, họ tập trung vào việc xây dựng mạng lưới giao thông, cơ sở hạ tầng đô thị và các công trình công cộng khác. Tuy nhiên, người Pháp sống ở Đông Dương đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc dàn dựng opera và nghệ thuật sân khấu khác trong ở địa mà họ đô hộ. Những buổi biểu diễn opera như vậy không chỉ đại diện cho thành tựu lịch sử của Pháp mà còn như một lời nhắc nhở cộng đồng người bản địa về lòng trung thành với nước Pháp và về những giá trị mà họ mong muốn duy trì. Vì vậy, việc giới thiệu opera đến Đông Dương là nhằm để phục vụ cho việc khai phá văn minh.
Opera đã xuất hiện tại Việt Nam từ thời Pháp thuộc thông qua một số hoạt động biểu diễn tại Nhà thờ Công giáo và một số nhà hát. Trong thập niên năm 1860 và 1870, Sài Gòn đã có nhiều buổi biểu diễn nghệ thuật của người Pháp, chủ yếu là múa ballet và opera do chính quyền Sài Gòn tài trợ. Vở opera cổ điển phương Tây đầu tiên được biểu diễn tại Sài Gòn là "Les deux aveugles" của Jacques Offenbach, ngay khi người Pháp mới đến Sài Gòn năm 1864. Hàng năm, hội đồng thành phố này đều chỉ định ngân sách và các yêu cầu khác cho mùa biểu diễn, đồng thời phải chọn một đạo diễn, người có nhiệm vụ mời các ca sĩ và nhạc sĩ từ Pháp qua biểu diễn. Các vở opera được chọn "một cách khá bảo thủ", nhưng trong năm 1894, 12 vở được mua lại thì có 7 vở mới vừa biểu diễn tại Paris.
Từ năm 1898, hội đồng thành phố Sài Gòn đòi hỏi phải có "ít nhất 5 opera hài kịch và 5 operetta chưa được biểu diễn tại Sài Gòn trong 3 năm qua" hoặc "các tác phẩm nổi tiếng và mới ra mắt tại Pháp". Ban đầu khi chưa có nhà hát, những buổi biểu diễn này phải tạm diễn tại dinh các đô đốc gần công trường Đồng Hồ (ngày nay là giao lộ Đồng Khởi). Năm 1894, công trình mới mà về sau là Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh được xây dựng trên bản thiết kế của Eugène Ferret theo lối kiến trúc thời Đệ tam Cộng hòa Pháp. Đích thân Camille Saint-Saëns đã ghé thăm Sài Gòn năm 1895 và xem một cuộc biểu diễn, tuy nhiên ông cảm thấy "có chút thất vọng". Tuy nhiên nhà soạn nhạc này đã kỳ vọng tác phẩm "Phryné" của mình sẽ được biểu diễn tại đây. Mùa biểu diễn năm 1900-1901 gồm nhiều tác phẩm mới, trong đó có vở "La bohème" của Puccini và "Samson và Delilah" của Saint-Saëns. Vở diễn đầu tiên tại nhà hát là "La Navarraise" của Jules Massenet và đã giành được "thành công vang dội", đặc biệt đối với lính mới trở về từ chiến dịch ở Trung Quốc. Năm 1924, nhà hát lớn Sài Gòn nhận số tiền tài trợ lên đến 800.000 franc, cao hơn tất cả các nhà hát khác ở mẫu quốc trừ Paris Opera và Opéra-Comique.
Do tầm quan trọng của nghệ thuật biểu diễn trong văn hóa châu Âu, âm nhạc và kịch Pháp đến Hà Nội gần như song song với chính quyền cai trị thực dân. Những bản kịch thời sự dần được công diễn ở đó vào đầu năm 1884, và các nghệ sĩ biểu diễn người Pháp đã đi lưu diễn ở Châu Á sớm bắt đầu coi Hà Nội là điểm dừng chân trong các chuyến lưu diễn của họ. Hầu hết những buổi biểu diễn này dường như là những buổi biểu diễn âm nhạc giải trí còn khiêm tốn về mặt quy mô, giống những buổi hòa nhạc ở quán cà phê tại Paris hơn là những buổi biểu diễn sân khấu trang trọng. Tuy nhiên, những sự thay đổi này đã thúc đẩy sự thèm muốn của những người Pháp xa xứ ở Hà Nội với như cầu được xem những tác phẩm công phu hơn. Nỗ lực đầu tiên để tổ chức một mùa diễn opera bắt đầu vào đầu năm 1890, khi một đoàn 14 nghệ sĩ đến Hà Nội với người lãnh đạo là De Greef, giám đốc nhà hát lớn Sài Gòn. Họ mượn nghệ sĩ từ đội ngũ của đoàn kịch Sài Gòn, trình bày những tác phẩm tiêu biểu của Gounod, Massé, Offenbach cùng những nhà soạn nhạc nổi tiếng khác. Đoàn kịch đã hoạt động thành công, nhưng chỉ tồn tại trong vài tuần.
Những vở opera của Saint-Saëns cùng với nhiều tác phẩm khác vẫn còn được biểu diễn đến năm 1910. Nhà hát lớn Hà Nội cũng là một công trình lớn mà Chính quyền thực dân Pháp cho xây dựng trong những năm đầu thế kỷ 20. Sau khi hoàn thành, nhà hát được sử dụng làm nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển phương Tây như âm nhạc thính phòng, kịch nói, trong đó có cả opera, phục vụ chủ yếu cho tầng lớp quan lại thượng lưu người Pháp và một số ít người Việt giàu có. Một số vở opera được biểu diễn ở Nhà hát lớn Hà Nội khi mới được khánh thành năm 1911 có thể kể đến một số vở nổi tiếng của Franz Lehár, Gustave Charpentier, Georges Bizet, Charles G, chính quyền Đông Dương đã không còn tài trợ biểu diễn như trước nữa và cũng ít có mối quan tâm hơn, nhưng opera vẫn tiếp tục được biểu diễn cho đến sự kiện Nhật đảo chính. Opera ở Hà Nội đã làm rõ những sai sót trong sự thể hiện quyền lực của đế quốc Pháp, trong khi đó sự hiện diện của Nhà hát lớn Hà Nội vốn không được chú tâm dàn dựng và công diễn những vở opera lớn đã đặt ra một nghi vấn về chủ nghĩa thực dân, thay vì đưa ra câu trả lời.
Thời kì sau chiến tranh Đông Dương.
Sau khi miền Bắc Việt Nam giành được độc lập vào năm 1954, việc biểu diễn các vở kịch nói, ca cảnh, ca kịch, tuồng, chèo, cải lương là một nguồn sự thúc đẩy thêm cho sự biểu diễn opera ở Việt Nam. Hoạt động biểu diễn còn được thể hiện trong các chương trình hợp tác quốc tế. Những buổi biểu diễn các vở opera nước ngoài đã tạo thêm động lực cho các ca sĩ và nhạc sĩ Việt Nam đối với nghệ thuật opera. Năm 1961, Đoàn Ca Múa nhân dân Trung ương cùng với Trường Âm nhạc Việt Nam và Dàn nhạc giao hưởng Đài Tiếng nói Việt Nam với sự giúp đỡ của một chuyên gia thanh nhạc Liên Xô đã dựng và biểu diễn vở opera “Evgeni Onegin” của Tchaikovsky. Năm 1964, Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam đã biểu diễn vở “Núi rừng hãy lên tiếng” của Triều Tiên. Onegin do Quý Dương và Gremil do Trần Hiếu thể hiện, ngoài ra còn có Ngọc Dậu, Trần Chất và nhiều người khác cùng tham gia. Lần đầu đã không đạt được kết quả như mong muốn, mới chỉ là sự giới thiệu loại hình nghệ thuật còn mới lạ đến với công chúng Việt Nam, nhưng đã thúc đẩy cho sự phát triển sau này. Đó là những vở opera đầu tiên các nghệ sĩ Việt Nam biểu diễn. Đây được xem là bước hội nhập đầu tiên của người Việt đối với nghệ thuật opera, và trở thành tiền đề cho quá trình xây dựng nền nghệ thuật opera mang tính chiến lược lâu dài. Bên cạnh đó, nhiều vở khác đã được dàn dựng và biểu diễn nhưng không được thu âm lại, qua đó không còn tư liệu lưu giữ đến ngày nay.
Đối với miền Nam Việt Nam, vở "Hansel and Gretel" đã được biểu diễn tại Sài Gòn vào năm 1970 là vở opera đầu tiên được biểu diễn tại thành phố trong hơn 30 năm. Vở diễn này là để gây quỹ cho nghệ thuật hát bội.
Đến những năm 1990, opera Việt Nam được biểu diễn tới công chúng nhờ vào sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như Thuỵ Điển, Hội đồng A, những vở opera thuần Việt dường như không xuất hiện mà chỉ có các tác phẩm nước ngoài.
Tới đầu thế kỷ 21 tại Việt Nam, khái niệm opera vẫn mới chỉ được xem là "đơn giản và rất mơ hồ". Thời kỳ đỉnh cao của opera Việt Nam đã có sự giúp sức gần như tối đa từ tài chính đến nhân lực của Nhà nước cũng như các nước như Nga, Đức, Pháp, qua đó có những vở như 3 vở opera trong cuộc đời của Đỗ Nhuận; "Bên bờ K’rông Pa" của Nhật Lai, "Bông sen" của Hoàng Việt. Thập niên 2010, Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam đã cho dựng một số vở opera. Dù đôi lúc opera được trình diễn trên sân khấu ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam vẫn chưa thực sự có một nền nghệ thuật opera chuyên nghiệp, ổn định. Số người sáng tác opera không nhiều nên chủ yếu dàn dựng tác phẩm kinh điển của nước ngoài. Bên cạnh đó, đây cũng là thể loại nghệ thuật kén khán giả hơn là âm nhạc đại chúng, trong khi để dàn dựng và một biểu diễn opera vẫn còn vướng mắc vấn đề tài chính eo hẹp. Việt Nam vẫn chưa có cơ hội thuận lợi cho opera phát triển. Do đó, việc sáng tác và biểu diễn opera trở nên "xa xỉ" tại Việt Nam, khiến loại hình này gần như vắng bóng. Để opera tại nước này phát triển, một số cuộc thi đã được tổ chức nhưng được nhận định vẫn chưa có nhiều hiệu quả.
Các đạo diễn người Châu Âu đã có những sáng tạo nghệ thuật trong quá trình dàn dựng các tác phẩm opera cổ điển của thế giới tại Việt Nam ngày nay, đưa hình thức nghệ thuật này gần gũi với sự tiếp nhận của khán giả Việt Nam hiện đại, đồng thời vẫn phổ biến được các giá trị nghệ thuật của thể loại nhạc kịch này. Một vấn đề khác được đặt ra rằng, số tiền đầu tư cho một tác phẩm opera tại Việt Nam được xem là không đáng kể so với những khoản kinh phí được cấp cho các lễ hội và các dự án đầu tư vào các loại hình âm nhạc truyền thống được vinh danh di sản thế giới. Mặt khác, không có vở opera nào được ngành văn hóa Việt Nam đặt hàng để xúc tiến loại hình nghệ thuật này. Những vở opera có sức ảnh hưởng trên thế giới như "Cây sáo thần", "Cosi fan tutte" hay "La Boheme" đều mất tổng số kinh phí lên đến hàng tỷ Đồng trở lên. Tuy nhiên, có những vở khi công diễn chỉ thu về lợi nhuận không tới 50 triệu Đồng.
Năm 2006, "Cây sáo thần" của Mozart được dàn dựng tại Việt Nam, được coi là một trong những sự kiện âm nhạc lớn nhất diễn ra tại nước này trong năm, cũng là cơ hội giúp đánh thức "tiềm năng âm nhạc cổ điển cho đất nước". Năm 2012, vở "Cô Sao" được phục dựng và tái biểu diễn, mang nhiều ý nghĩa với nền âm nhạc nước này khi lần đầu nhiều người dân Việt Nam được xem một loại hình nghệ thuật có tính chất quốc tế như opera. Năm 2016, "Carmen" – vở nhạc kịch được xem là nổi tiếng nhất của Pháp và là một trong những vở được diễn nhiều nhất trên thế giới, đã ra mắt công chúng Việt Nam tại Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù gặp những khó khăn trước mắt trên con đường phát triển và đưa opera đến gần với công chúng Việt hơn, Nhà hát Nhạc Vũ kịch Việt Nam đã đưa vở "Maria de Buneos Aires" lên sân khấu Nhà hát Lớn với một phong cách mới, đặc biệt là việc đưa dàn nhạc lên sân khấu để tương tác trực tiếp với ca sĩ và dàn diễn viên múa. Chương trình đã thu hút được khán giả thông qua truyền thông, báo chí. Nhiều bài viết, chương trình truyền hình phân tích về tác phẩm này, giúp kéo khán giả Việt đến với opera nhiều hơn.
Đầu thập niên năm 2020, chỉ mới vài vở opera Việt Nam được khôi phục, dàn dựng trên sân khấu trong vài năm gần đây. Việc khai thác các tiết mục thanh nhạc trong các vở opera Việt Nam để biểu diễn còn chưa nhiều, qua đó thể hiện sự quan tâm chưa đúng mức đến thể loại này. Năm 2022, buổi công diễn vở “Công nữ Anio” được công bố tại Việt Nam sẽ được tổ chức dự kiến vào tháng 9 năm 2023 tại nhà hát Lớn Hà Nội. Đây là dự án trọng tâm trong sự kiện kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam.
Những nhà hát đầu tiên của Việt Nam cũng được xây dựng từ đầu những năm 1900 như Nhà hát lớn Hà Nội và Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là nơi diễn ra những chương trình văn hoá nghệ thuật và các buổi diễn opera lớn, nhưng các nhà hát tại Việt Nam vẫn đang ở mức phục vụ các chương trình nghệ thuật ở quy mô trong nước, chưa thể trở thành nơi biẻu diễn của những nghệ sĩ nổi tiếng toàn thế giới trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Thời điểm năm 1990, Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam mới có đủ khả năng phối hợp dàn dựng những tác phẩm opera lớn, và cũng chỉ có nhà hát này mới có đủ các nghệ sĩ có trình độ để biểu diễn opera. Tính ở thời điểm đó, nhà hát dàn dựng và công diễn khoảng dưới 10 vở opera.
Nghệ sĩ Đỗ Quốc Hưng từng nêu ra vấn đề việc không thống nhất giữa hai khái niệm nhà hát khiến cho loại nhà hát kiểu rạp hát lớn tại Việt Nam không còn là thánh đường của nghệ thuật opera. Để duy trì hoạt động, nhà hát phải chấp nhận cho nhiều loại hình âm nhạc, nghệ thuật ngoài opera, thậm chí cả những hoạt động không phải nghệ thuật cũng diễn ra tại đây. Những hoạt động này tuy đạt được mục đích về kinh tế, nhưng đã làm mất đi vị thế, giá trị và chức năng chính của nhà hát. Thực trạng này đã diễn ra ở cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong một khoảng thời gian dài.
Tới năm 2020, sân khấu biểu diễn opera chuyên nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa có. Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân cho biết việc dựng vở "Người tạc tượng" tại Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam chỉ còn cách phải phóng thanh bằng sử dụng micro chuyên dụng treo ở trên và đặt dưới mặt đất. Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam đã ra đời được hơn 50 năm nhưng chưa có được một lực lượng ca sĩ hát opera tương xứng, chưa tạo được sức hút đối với công chúng. Suốt thời gian qua từ đầu thế kỷ 21, chỉ có Nhà hát Nhạc Vũ Kịch Việt Nam và Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh ra sức cố gắng để xây dựng và sản xuất các vở opera nổi tiếng thế giới và một số tác phẩm opera Việt. Tuy nhiên, kinh phí dàn dựng là vấn đề trở ngại lớn nhất.
Năm 2022, một dự án quy hoạch xây dựng nhà hát opera ở Hồ Tây đã được công bố, nhận được sự quan tâm nhất định từ giới chuyên môn và người dân Hà Nội. Năm 2023, nhà hát opera mang tên Hồ Gươm được khánh thành tại quận Hoàn Kiếm được xem là nhà hát có thiết kế, không gian kiến trúc và trang thiết bị hiện đại nhất tại Việt Nam tại thời điểm đi vào hoạt động. Nhà hát này được dự định là yếu tố thúc đẩy đời sống văn hóa, nghệ thuật của người dân tại thành phố Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.
Các nghệ sĩ giọng nữ cao luôn chiếm ưu thế trong thể hiện các tác phẩm thanh nhạc từ khi Trường Âm nhạc Việt Nam được thành lập và đào tạo phần lớn giọng nữ cao. Nổi bật trong số những nghệ sĩ giọng nữ cao là Lê Dung, bà được xem là người đặt nền móng của nhạc cổ điển tại Việt Nam, đồng thời được nhận định là người có tài năng, thành tựu lớn trong việc đem giá trị của nên văn hóa, âm nhạc thế giới với công chúng Việt Nam.
Trong khi đó, với những nam nghệ sĩ opera, chất giọng nam trầm tại Việt Nam và một số nước châu Á nói chung vẫn trong tình trạng khan hiếm. Đỗ Quốc Hưng hiện là giọng nam trầm hiếm hoi tại Việt Nam.
Thế kỷ 21, những nghệ sĩ có tâm huyết với opera đã nỗ lực tìm kiếm đầu tư, xây dựng kịch bản, tập hợp nghệ sĩ để biểu diễn trước công chúng một số vở diễn thuộc loại hình được cho là "kén người thưởng thức" tại quốc gia này. Số lượng nghệ sĩ opera có trình độ cao tới thập niên 2020 vẫn chỉ là con số khiêm tốn. Theo một nhận định từ báo chí, so với các nghệ sĩ opera trên thế giới, nghệ sĩ opera Việt Nam chưa được công chúng quan tâm và chưa nhận được sự đền đáp với công sức bỏ ra. Qua một nghiên cứu, bản thân thể chất của người Việt cũng không có lợi thế để hát loại hình nghệ thuật này từ giọng hát tới thể lực bẩm sinh. Thông thường, một ca sĩ opera phải trải qua nhiều vòng tuyển chọn khắt khe và mất từ 6 tới 10 năm học tại trường lớp mới được biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp. Trong quá trình học, họ phải bỏ cuộc vì bị rất nhiều cuộc thi khắc nghiệt ngăn cản và phải chịu những bài tập khó khăn về kỹ thuật, thể lực.
Do cơ sở vật chất tại Việt Nam hiện chưa đáp ứng đủ để đào tạo ra một ca sĩ opera chuyên nghiệp, nhiều người buộc phải tự trang trải tài chính để du học. Nghệ sĩ opera Việt Nam từ nhiều năm nay vẫn hoạt động một cách âm thầm và gần như tách biệt hẳn với giới giải trí. Các buổi hòa nhạc, nhạc kịch diễn ra không nhiều và lượng khán giả đến xem rất thưa thớt, kéo theo tiền lương thấp, bằng một phần rất nhỏ so với một nghệ sĩ V-pop. Đa số ca sĩ opera của Việt Nam đều phải kiêm thêm nhiều công việc khác để duy trì cuộc sống như kinh doanh, làm quản lý, dạy học. Hầu như không ai kiếm sống được bằng việc hát opera. Một bài báo đã nêu lên thực trạng và đặt ra câu hỏi về việc một số nghệ sĩ của dòng nhạc nhẹ hoặc âm nhạc thị trường (showbiz) chỉ cần "vài cú lắc hông" đã có thể thu về khoản tiền lợi nhuận lớn lao, trong khi các nghệ sĩ opera dù "thầm lặng cống hiến" nhưng khoản lợi nhuận chỉ là "muối bỏ bể". Bài báo nhấn mạnh việc đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng cho âm nhạc hàn lâm cũng là điều cấp thiết.
Nghệ sĩ tiêu biểu.
Nghệ sĩ Hà Phạm Thăng Long, người được đánh giá là một trong những ca sĩ hàng đầu của opera Việt Nam, cũng là người đầu tiên tham dự một cuộc thi opera tại Mỹ. Ninh Đức Hoàng Long là nam nghệ sĩ đoạt giải Nhất cuộc thi opera Quốc tế tại Hungary.
Một số nghệ sĩ opera thế kỷ 21 khác cũng được báo chí Việt Nam đánh giá là nổi bật như Quang Thọ, Quốc Hưng, Vũ Mạnh Dũng, Đào Tố Loan, Lan Anh, Khánh Ngọc, Hương Diệ
Vì được cho là loại hình kén người nghe nên opera tại Việt Nam vẫn chưa thu hút đông đảo khán giả. Theo một nghiên cứu tại thời điểm công bố, đa phần khán giả Việt Nam chưa xem bất cứ vở opera nào. Khán giả tại Việt Nam có thể hiểu biết nhiều hơn về những nghệ sĩ V-pop dù hoạt động lâu năm hay chỉ mới nổi so với một nghệ sĩ opera Việt Nam. Khi nhắc đến âm nhạc Việt Nam trong hơn 20 năm đầu thế kỷ 21, dường như khán giả nước này sẽ chỉ nhớ đến những cái tên đình đám của dòng nhạc nhẹ cùng các bảng xếp hạng từ lượt bình chọn qua đài phát thanh cho tới ngày của những thước đo “triệu lượt xem, nghe” qua thời đại công nghệ số chứ không phải những nghệ sĩ thuộc dòng nhạc opera, thính phòng và cổ điển. Bên cạnh đó, công chúng xem opera ở Việt Nam được đánh giá là không nhiều. Khán giả chính của opera ở Việt Nam vẫn là người nước ngoài.
Trong những năm 1940, một nỗ lực đã được thực hiện để thành lập Nhạc viện Quốc gia đầu tiên. Những người sáng lập đã cố gắng phát triển một chương trình giảng dạy quần chúng bao gồm việc nghiên cứu ba loại âm nhạc: âm nhạc cổ điển phương Tây, âm nhạc truyền thống Việt Nam và âm nhạc đại chúng. Chính quyền Việt Nam muốn nhấn mạnh âm nhạc truyền thống Việt Nam có thế mạnh hơn cả và khẳng định rằng người học phải biết những điều cơ bản về âm nhạc truyền thống trước khi chọn nhạc cổ điển phương Tây hoặc âm nhạc đại chúng Việt Nam, là một ý tưởng không được các trường âm nhạc sau này tuân theo. Mặc dù đã trải qua gần một năm lên kế hoạch, các vấn đề xã hội và chính trị đã ngăn cản việc thành lập nhạc viện này.
Sau năm 1954, miền Bắc Việt Nam giành được hoà bình, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã nhanh chóng thành lập các trường đào tạo âm nhạc ở Trung ương và địa phương trên toàn miền Bắc, đồng thời lên kế hoạch lâu dài cho việc đào tạo những học sinh tài năng sang các nước có nền âm nhạc phát triển, kết hợp việc mời chuyên gia nước ngoài sang giảng dạy. Sài Gòn cũng có một trường Âm nhạc được thành lập sau khi đất nước bị chia cắt. Cho đến trước năm 1975, trường nhạc ở Sài Gòn không bắt buộc phải phục vụ mục đích chính trị.
Sự ra đời của Trường Âm nhạc Việt Nam năm 1956 đã đánh dấu một mốc quan trọng cho công tác đào tạo, là nơi đào tạo được các nghệ sĩ có khả năng hát opera. Giảng dạy những khóa đầu tiên là các ca sĩ Việt Nam và một số cộng tác viên người nước ngoài. Khóa 1 do Quốc Hương giảng dạy, khóa hai có sự hợp tác của chuyên gia thanh nhạc Khương Gia Tường (Trung Quốc), khóa 3 có sự cộng tác của các giảng viên thanh nhạc đến từ Liên Xô. Những ca sĩ như Quý Dương, Trần Hiếu, Mai Khanh đều là thế hệ giảng viên đã trực tiếp tiếp thu những tinh hoa trong nghệ thuật hát opera của thế giới và truyền dạy lại cho học trò của mình.
Cuối thập niên 1980 của thế kỷ 20, hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu sụp đổ, khiến cho đội ngũ sinh viên và giảng viên thanh nhạc không có điều kiện đi học nước ngoài như trước. Sự cộng tác của chuyên gia nước ngoài với Việt Nam cũng trở nên ít dần. Công tác đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp hoàn toàn do giảng viên thanh nhạc Việt Nam đảm nhiệm. Bước ngoặt lớn trong sự phát triển của đất nước chính là sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp. Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, công tác đào tạo thanh nhạc tại chuyên nghiệp tại Nhạc viện Hà Nội gặp phải khó khăn trong tuyển sinh, cũng như sự thống nhất về mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy. Từng có thời điểm khoa thanh nhạc của trường này gặp phải tranh cãi giữa hai luồng quan điểm, một ý kiến là đào tạo hát opera và một ý kiến là đào tạo hát nhạc nhẹ, từ đó dẫn đến có quan điểm cho rằng không nên học hát theo hệ thống kỹ thuật thanh nhạc châu Âu vì "sẽ ảnh hưởng không tốt đến giọng hát".
Tới những năm thập niên 2010, đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp bước vào giai đoạn khó khăn chung của các trường đại học, các học viện âm nhạc và nhạc viện trong việc chạy theo yêu cầu "đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo". Cũng như Học viện Âm nhạc Quốc gia, Học viện Âm nhạc Huế và Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh là những cơ sở đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp hàng đầu ở Việt Nam, và đều có có những đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của nền âm nhạc tại quốc gia này. Cũng trong thời kì này, đào tạo thanh nhạc Việt Nam tiếp thu thêm các mô hình đào tạo của các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đào tạo thanh nhạc trình độ đại học 4 năm với mục tiêu đào tạo hát opera và thính phòng, aria và romance là tác phẩm bắt buộc trong chương trình tốt nghiệp bậc đại học. Nhưng ngay trên thực tế, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam cũng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong việc đào tạo opera chuyên sâu theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Tại các cơ sở đào tạo thanh nhạc trên phạm vi toàn Việt Nam thập niên 2010, việc giảng dạy các aria trích từ các vở opera là điều bắt buộc kể cả đó là dòng opera hay nhạc thính phòng. Khi xây dựng giáo trình dạy học, các nhà sư phạm thanh nhạc Việt Nam đã lựa chọn một số tác phẩm trong opera của các nhạc sĩ Nga đưa vào chương trình chính khóa. Hệ thống các bản aria trích trong các vở opera của Nga được đưa vào với số lượng lớn.
Theo một nghiên cứu, công tác đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp tại Việt Nam còn có những mặt hạn chế khiến không ít sinh viên tỏ ra không mặn mà với hát opera và hát thính phòng. Nguyên nhân chủ quan đến từ việc người học chưa có thái độ và động cơ rõ ràng trong học tập, trong khi nguyên nhân khách quan được xem là do đội ngũ giảng viên thanh nhạc chưa được quan tâm đầu tư đúng mức từ bậc đại học, cũng như có những vấn đề chưa bắt kịp được yêu cầu đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp trong giai đoạn mới. Chương trình giảng dạy ít sử dụng các tiết mục trong opera Việt Nam, tài liệu về opera Việt Nam hầu như không phổ biến. Trong các cuộc thi học kỳ, thi tốt nghiệp, các giải thưởng chuyên nghiệp về thanh nhạc hay các chương trình biểu diễn âm nhạc, việc sử dụng các tiết mục thanh nhạc trong opera Việt Nam vẫn chỉ xuất hiện một cách không đáng kể. Tình trạng sinh viên thanh nhạc ra trường không theo loại hình opera chiếm tới 70 đến 80%, dấy lên tình trạng “thừa mà vẫn thiếu” các nghệ sĩ opera diễn ra trong suốt nhiều năm qua.
Theo một nghiên cứu, đội ngũ giảng viên thanh nhạc tại các học viện âm nhạc và nhạc viện tại Việt Nam hoạt động trên cả lĩnh vực biểu diễn. Họ tham gia trên nhiều lĩnh vực giảng dạy, nghiên cứu khoa học và biểu diễn. Thống kê từ nghiên cứu này chỉ ra, tính đến tháng 5 năm 2015, tổng số giảng viên thanh nhạc của 3 cơ sở đào tạo hàng đầu Việt Nam là 27 người, bên cạnh đó là số lượng giảng viên thỉnh giảng đông đảo, được chia thành 6 thế hệ nối tiếp sự hình thành và phát triển trong suốt quá trình gần 60 năm đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp tại Việt Nam.
Năm 2015, Nghệ sĩ nhân dân Trung Kiên đưa ra nhận định rằng “nội dung giảng dạy thanh nhạc được tập trung vào các chuyên ngành đào tạo hát opera, hát thính phòng, hát ca khúc và ca khúc mang âm hưởng dân ca". Nội dung của 50 vở opera của thế giới đã được ông dịch và biên soạn trong gần 500 trang trong một cuốn sách có tựa đề "Lược sử opera" xuất bản năm 2011. Cuốn sách là tài liệu tham khảo đáng chú ý với đào tạo thanh nhạc chuyên nghiệp cho người Việt Nam. Ông cũng là người đứng ra biên soạn một giáo trình đại học thanh nhạc gồm các trích đoạn opera cho các giọng nữ cao (122 tác phẩm), nam cao (112 tác phẩm), nam trung trầm (116 tác phẩm) đã được Bộ Văn hoá – Thể thao và Du lịch nghiệm thu năm 2007.
Theo nghệ sĩ ưu tú Lê Gia Hội, ông bày tỏ "sinh viên thời nay [2015] có nhiều lo toan cho cuộc sống đời thường nên không chuyên tâm với công việc học tập. Trình độ của sinh viên có phần giảm sút so với trước". |
Bùi Thạc Chuyên là nhà đạo diễn, biên kịch điện ảnh độc lập người Việt Nam, ông được biết đến với bộ phim điện ảnh truyền hình: "12A và 4H", phim ngắn: "Cuốc xe đêm" và các phim điện ảnh: "Chơi vơi", "Sống trong sợ hãi", "Lời nguyền huyết ngải" và "Tro tàn rực rỡ". Dù chỉ có số lượng không nhiều nhưng 4 phim điện ảnh ông làm ra đều giành các giải điện ảnh trong và ngoài nước. Các phim điện ảnh giúp ông có được ba giải Đạo diễn xuất sắc tại giải Cánh diều 2005, giải Cánh diều 2023, Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 16 và Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23.
Từ bộ phim truyện dài đầu tay "Sống trong sợ hãi", cho đến "Chơi vơi". Nếu không tính bộ phim mang tính thương mại "Lời nguyền huyết ngải" để đáp ứng nhu cầu thị trường giải trí, thì các phim của Bùi Thạc Chuyên khá gai góc, đậm chất hiện thực. Ông còn là biên kịch kiêm đạo diễn các Phim tài liệu: “"Xẩm"” giành giải B của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1998 hay “"Tay đào đất"” đạt giải Cánh diều Bạc năm 2003.
Bùi Thạc Chuyên sinh năm 1968 tại Hà Nội, trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật, bố của ông là nhà văn quân đội Bùi Bình Thi, mẹ là họa sĩ Nguyễn Thị Mỹ.
Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Bùi Thạc Chuyên theo học khoa Kịch nói tại Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội và về đầu quân tại Nhà hát Kịch Việt Nam từ năm 1990. Trong khoảng thời gian này, ông tham gia những vở kịch lớn gây tiếng vang trên sân khấu Nhà hát Kịch Việt Nam như “"Vua Lia"” (vai Edgar), “"Ngụ ngôn năm 2000"” (vai ông già)…
Bắt đầu với phim ngắn và phim truyền hình.
Từ năm 1991 ông bắt đầu tham gia làm phim ngắn, phim điện ảnh truyền hình. Năm 1993, một người bạn của ông học về quay phim, đã nhờ ông viết kịch bản và đạo diễn giúp một phim ngắn để thi tốt nghiệp. Phim "Nỗi buồn vĩnh cửu" ra đời và giành giải Cánh én Vàng tại Liên hoan phim Sinh viên toàn quốc lần thứ I. Tiếp đến là các phim video như “"Giọt nước mắt"” đạt Huy chương Bạc tại Liên hoan phim Truyền hình toàn quốc năm 1994; hay "12A và 4H" đạt giải A của Hội Điện ảnh Việt Nam năm 1995… Sau những thành công này, ông chuyển về làm tại Hãng phim truyện I. Năm 1997, Bùi Thạc Chuyên theo học lớp Đạo diễn Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Bộ phim ngắn tốt nghiệp của ông, “"Cuốc xe đêm"” năm 2000, đã giành giải thưởng hạng mục Cinéfondation dành cho nhà làm phim trẻ, tại Liên hoan phim Cannes năm 2000.
Thành công ban đầu với điện ảnh.
Năm 2001, Bùi Thạc Chuyên được nhà đài NHK tài trợ sản xuất phim tài liệu Tay đào đất, phim kể về người nông dân Ngô Đức Nhật cần mẫn cải tạo mạnh đất với lượng lớn tàn dư bom, mìn từ chiến tranh. "Tay đào đất" sau đó nhận giải Cánh diều Bạc cho hạng mục Phim tài liệu video tại Giải Cánh diều 2002. Năm 2004, Bùi Thạc Chuyên tiếp tục chuyển thể câu chuyện về ông Ngô Đức Nhật thành phim điện ảnh, với mục đích truyền tải những gì bộ phim tài liệu ngắn kia chưa thể hiện hết. Tựa đề ban đầu là "Đất lành", được đổi thành "Sống trong sợ hãi" để thu hút người xem. Đây là bộ phim điện ảnh đầu tay của Bùi Thạc Chuyên và cũng đem về nhiều giải thưởng điện ảnh quốc tế và trong nước.
Năm 2000, Bùi Thạc Chuyên đọc được bản thảo kịch bản "Đi mãi rồi cũng quay về" của Phan Đăng Di, cảm thấy thích đề tài của kịch bản nên ông và Phan Đăng Di đã cùng sửa đổi lại nhiều lần để dựng thành phim. Tựa đề kịch bản được thay đổi thành "Tận cùng là biển" và "Mắc kẹt", cuối cùng mới đổi thành "Chơi vơi". Với đề tài nhạy cảm về đồng tính, kịch bản được đưa lên Hãng phim truyện I xét duyệt, sau 3 lần chỉnh sửa, đến năm 2006, Hãng phim mới chấp nhận cấp vốn sản xuất. Bộ phim có kinh phí khoảng 7 tỉ VNĐ, trong đó Nhà nước (đại diện là Hãng phim truyện I) góp 1,6 tỉ; các Quỹ điện ảnh: Hubert Bals từ Liên hoan phim Rotterdam của Hà Lan và Quỹ Fonds Sud của Pháp hỗ trợ 130 nghìn Euro, và phần còn lại đến từ tài trợ. Bộ phim ra mắt năm 2009, giành được nhiều giải thưởng và đề cử tại các liên hoan phim quốc tế. Năm 2010, sau khi thu được phản hồi tích cực từ hàng trăm khán giả sau khi đọc kịch bản RH108, hãng phim Thiên Ngân (Galaxy) đã chọn Bùi Thạc Chuyên làm đạo diễn chuyển thể thành phim "Lời nguyền huyết ngải". Đây là bộ phim điện ảnh đầu tiên Bùi Thạc Chuyên làm theo xu hướng của khản giả, trong khi các phim ông đều dựng lên từ các kịch bản mà mình tâm đắc; dù nhà sản xuất không cho biết chính xác tổng doanh thu, nhưng bộ phim đã mang về 16 tỉ VNĐ trong tuần đầu công chiếu cũng cho thấy sức hút của dòng phim kinh dị cũng như tên tuổi của Bùi Thạc Chuyên vào thời điểm đó. Vì lý do kiểm duyệt mà "Lời nguyền huyết ngải" phải chỉnh sửa kịch bản để từ thể loại kinh dị trở thành trinh thám huyền bí. Năm 2011, dự án phim "Ngủ mơ" ("Dream state") của Bùi Thạc Chuyên nhận được tài trợ cho hạng mục "Dự án phim hay nhất", 150.000HKD của Ðại hội tài chính cho điện ảnh (HAF) trong khuôn khổ Liên hoan phim quốc tế Hồng Kông 2011. Sau đấy, dự án này cùng "Cha và con và..." của Phan Đăng Di được nhận tài trợ 10.000Euro từ Quỹ Hubert Bals của Liên hoan phim Rotterdam. Mặc dù có kịch bản hay nhưng vì không nhận được đủ kinh phí từ điện ảnh nhà nước nên Bùi Thạc Chuyên đã phải rút kịch bản về.
Phát triển tài năng trẻ.
Từ năm 2002, Bùi Thạc Chuyên thành lập và điều hành Trung tâm Hỗ trợ phát triển Tài năng Điện ảnh trẻ (TPD), mở các lớp đào tạo phi lợi nhuận về điện ảnh cho học viên từ 15 đến 20 tuổi. Trung tâm trực thuộc Hội Điện ảnh Việt Nam, được Quỹ Văn hóa Ford bảo trợ. Năm 2013, Quỹ Ford rút vốn, Bùi Thạc Chuyên thành lập Công ty cổ phần Phát triển điện ảnh (CDJ) cũng dưới sự bảo trợ của Hội Điện ảnh Việt Nam. CDJ mở các lớp học về điện ảnh để có kinh phí duy trì TPD. Năm 2017, Bùi Thạc Chuyên cùng đạo diễn Thanh Vân và Hoàng Phương lập Quỹ điện ảnh, tài trợ các nghệ sĩ trẻ trong việc sáng tác, sản xuất phim.
Trở lại với điện ảnh.
Năm 2021, sau 10 năm không sản xuất phim, Bùi Thạc Chuyên một mình lặn lội khắp thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương trong nửa năm để quay dự án phim tài liệu dài 5 tập, “"Không sợ hãi"” về đại dịch COVID-19. Với bộ phim tài liệu này, Bùi Thạc Chuyên kiêm đạo diễn, kịch bản, quay phim, dựng , sau đó bộ phim đã giành giải Cánh diều Bạc. Năm 2022, ông ra mắt tiếp phim điện ảnh "Tro tàn rực rỡ", sau 7 năm chuẩn bị, bộ phim này giành được một số giải thưởng và đề cử trong nước và quốc tế. Tại giải Cánh diều 2023, "Tro tàn rực rỡ" giành được 4 giải thưởng của hạng mục Phim truyện điện ảnh gồm giải quan trọng nhất: Cánh diều vàng cho bộ phim và các giải: giải đạo diễn xuất sắc, quay phim xuất sắc, nữ diễn viên phụ xuất sắc.
Bùi Thạc Chuyên và diễn viên Tú Oanh biết nhau khi đăng ký thi vào Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội, sang năm học thứ hai, họ mới công khai tình cảm. Hai nghệ sĩ kết hôn năm 1994, và có hai con trai. |
Our Skyy 2 là một bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2023. Bộ phim là phần tiếp theo của "Our Skyy" (2018), tiếp tục công cuộc viết tiếp câu chuyện cho các cặp đôi trong các bộ phim BL đình đám trước đó.
Bộ phim được sản xuất bởi GMMTV và dự kiến gồm 16 tập với 8 cặp đôi khác nhau. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim được phát sóng vào lúc 20:30 (), thứ Tư và thứ Năm trên GMM 25, bắt đầu từ ngày 19 tháng 4 năm 2023. Bộ phim kết thúc vào ngày 8 tháng 6 năm 2023.
Ngoài các bài nhạc phim chính thức được đề cập dưới đây, các bài nhạc phim của các phim trước đó đều xuất hiện trong tập cùng tên. |
Stephanie Nguyễn là chính trị gia người Mỹ gốc Việt trong Quốc hội Tiểu bang California và dân biểu khu bầu cử số 10. Bà được bầu vào năm 2022, trước đây từng có thời kỳ làm việc trong Hội đồng Thành phố Elk Grove sau khi bổ nhiệm ủy viên vào năm ="Armstrong 12/15"/ref
Thân thế và học vấn.
Nguyễn chào đời ở nước Mỹ trong một gia đình tị nạn đến từ Việt Nam. Bà thi đậu bằng cử nhân khoa học nhân văn tại Đại học Tiểu bang Sacramento với mong muốn trở thành giáo viê="Tra 3/27"/ref
Sự nghiệp chính trị.
Nguyễn có thời gian từng là giám đốc điều hành một tổ chức phi lợi nhuận mang tên Asian Resources Inc. có trụ sở tại Sacramento chuyên trợ giúp người Mỹ gốc Á và dân nhập cư.
Nguyễn được bổ nhiệm vào Hội đồng Thành phố Elk Grove vào năm 2017 sau khi Steve Lý đương nhiệm đắc cử chức thị trưởng. Bà làm việc cho Hội đồng này đến tận năm 2022, dân biểu khu bầu cử số 4.
Nguyễn đã được bầu vào Quốc hội Tiểu bang California cho khu bầu cử số 10 vào năm 2022. Khu bầu cử Quận Sacramento bao gồm Elk Grove, Florin, Vineyard và một phần của Sacramento. Khu bầu cử này trước đây từng được đánh số là khu bầu cử số 9 do Jim Cooper thuộc Đảng Dân chủ làm dân biểu đã nghỉ hưu để ra tranh cử chức Cảnh sát trưởng Quận Sacramento.
Nguyễn đứng đầu trong cuộc bầu cử sơ bộ phi đảng phái với 29,9% phiếu bầu, tiến tới cuộc tổng tuyển cử cùng với thành viên Đảng Dân chủ và Ủy viên Hội đồng Thành phố Sacramento Eric Guerra. Bà đã đánh bại Guerra trong cuộc tổng tuyển cử với 53,8% phiếu bầu. Các công ty dầu mỏ được cho là đã chi 979.000 đô la hỗ trợ Nguyễn thông qua các khoản chi tiêu độc lập.
Nguyễn sinh sống ở Elk Grove với chồng là sĩ quan cảnh sát và hai con gái của họ. Stephanie lớn lên với sáu anh chị em. |
Quang H. Nguyễn (sinh năm 1962) là doanh nhân và chính trị gia người Mỹ gốc Việt đang phục vụ với tư cách là thành viên Đảng Cộng hòa của Hạ viện Arizona cho Khu bầu cử số 1 từ năm 2021. Khu bầu cử này bao gồm hầu hết Quận Yavapai và một phần Quận Maricopa.
Thân thế và học vấn.
Quang Nguyễn chào đời tại Việt Nam Cộng hòa vào năm 1962 và ra đi năm 12 tuổi cùng gia đình mình sau khi Sài Gòn thất thủ ngày 30 tháng 4 năm 1975. Nguyễn tốt nghiệp Đại học Tiểu bang California, Long Beach với bằng cử nhân giáo dục công nghệ.
Nguyễn lần đầu tiên ứng cử vào Hạ viện Arizona tại Khu bầu cử số 1 vào năm 2020. Trước khi trở thành một quan chức dân cử, Nguyễn từng lập nên công ty tiếp thị Caddis Advertising. Ông cũng tích cực trong các hoạt động bảo thủ và diễn thuyết trước công chúng. Ông đứng đầu trong cuộc bầu cử sơ bộ bề thế của Đảng Cộng hòa với 30,4% tổng số phiếu bầu. Cùng với Judy Burges, ông đã giành chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử và đánh bại Judy Stahl thuộc Đảng Dân chủ.
Giữa đại dịch COVID-19 ở Arizona, Nguyễn bèn ký vào một lá thư thúc giục Thống đốc Doug Ducey trừng phạt các khu học chính thực thi quy định bắt buộc đeo khẩu trang đối với học sinh.
Nguyễn chống phá thai, bài trừ thẻ vắc-xin và ủng hộ cắt giảm thuế. Ông cực lực phản đối chủ nghĩa cộng sản, viện dẫn kinh nghiệm sống ở Sài Gòn trong chiến tranh Việt Nam. Tháng 11 năm 2021, ông đã tài trợ cho Dự luật Hạ viện (HB) 2008 yêu cầu Hội đồng Giáo dục Tiểu bang Arizona cập nhật chương trình giáo dục công dân ở trường trung học để đưa vào những câu chuyện chống cộng của những người như Nguyễn từng chạy trốn khỏi các quốc gia cộng sản. Trong phiên điều trần thứ ba đầu tiên, đạo luật đã không được thông qua tại Thượng viện, nhưng sau khi xem xét lại mới được thông qua với 16 phiếu thuận và 12 phiếu phản đối. Ducey chính thức ký thành luật vào ngày 17 tháng 6 năm 2022.
Phân công ủy ban.
Kể từ phiên họp Cơ quan lập pháp lần thứ 55, Nguyễn phục vụ trong các ủy ban sau đây:
Nguyễn là tín hữu Công giáo. Ông sống ở Prescott Valley cùng với vợ mình tên là Mai làm y tá ghi danh. Con gái của họ đang phụng sự Hải quân Mỹ. |
Vicky Nguyễn (sinh khoảng năm 1979) là nhà báo điều tra người Mỹ gốc Việt từng làm việc cho đài NBC News ở New York. Nguyễn gia nhập NBC News vào tháng 4 năm 2019 với tư cách là phóng viên Điều tra và Tiêu dùng. Phóng sự của bà từng được xuất hiện trên "The Today Show", "3rd Hour Today", "Nightly News with Lester Holt", "NBC News Now" và MSNBC.
Trước khi chuyển đến New York, Nguyễn vào làm tại đài NBC Bay Area, KNTV ở Khu vực vịnh San Francisco. Tại đây, bà là phóng viên điều tra cấp cao của Đơn vị Điều tra NBC Bay Area và là người dẫn chương trình tin tức tối Chủ nhật trên NBC Bay Area. Trước khi gia nhập NBC Bay Area, Nguyễn từng làm việc tại nhiều đài truyền hình khác nhau ở bang Florida, Nevada và Arizona.
Thân thế và học vấn.
Nguyễn chào đời tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam khoảng năm 1979. Khi còn rất nhỏ, bà và cha mẹ mình đã trốn khỏi Việt Nam để tị nạn. Sau hai ngày hai đêm lang thang và một cuộc tấn công của cướp biển Thái Lan ngoài biển khơi, thuyền của họ cập bến bờ biển Malaysia, rồi cả nhà Nguyễn được ở trong một trại tị nạn trong suốt 14 tháng trời. Năm 2 tuổi, Nguyễn di cư sang Mỹ. Một gia đình ở Eugene, Oregon đã bảo lãnh gia đình bà sang Mỹ. Nguyễn đã dành phần lớn thời thơ ấu sinh sống ở San Jose và Santa Rosa, và trở thành công dân Mỹ khi mới lên 10 tuổi.
Nguyễn tiếp tục theo học đại học tại Đại học San Francisco với học bổng học thuật. Trong suốt thời gian ở trường đại học, Bà gia nhập đội cổ vũ và lên làm chủ tịch hội sinh viên. Năm 2000, Nguyễn tốt nghiệp thủ khoa của lớp với bằng truyền thông và bằng phụ về sinh học.
Nguyễn bắt đầu sự nghiệp với hãng tin Central Florida News 13 ở Orlando, Florida. Lúc đó, bà đã quay, viết và biên tập các câu chuyện của mình trước khi đưa tin trực tiếp. Bà từng viết trên blog của mình rằng, "Tôi là 'nhóm một người'. Tôi đã quay video của mình trên máy ảnh DVC Pro nặng 20 pound (và) mang theo giá ba chân nặng 15 pound của riêng mình". Về sau Nguyễn chuyển sang chi nhánh KOLO của hãng ABC ở Reno, Nevada với tư cách là phóng viên trực đêm và người phụ trách bản tin phụ.
Sau thời gian ở Reno, Nguyễn bèn dọn sang Phoenix, Arizona vào làm cho hãng KSAZ. Tại KSAZ, bà có thể đưa tin về những câu chuyện quốc gia. Các cuộc phỏng vấn đáng chú ý bao gồm Alex Trebek, Tyra Banks, Shaquille O'Neal và Thượng nghị sĩ John McCain. Nguyễn cũng có cơ hội đưa tin về các cuộc điều tra Kẻ sát nhân cơ bản và Tay súng giết người hàng loạt trong thời gian làm việc cho hãng KSAZ, đây là trường hợp đầu tiên mà hai kẻ giết người hàng loạt riêng biệt tấn công cùng một thành phố vào cùng một thời điểm.
Nguyễn bèn quay lại Bắc California vào tháng 1 năm 2007 và bắt đầu làm việc với đài NBC Bay Area trong vai trò phóng viên tự do. Ngay sau đó, bà được tuyển dụng toàn thời gian và làm phóng viên chuyên trách cho KNTV. Nguyễn cuối cùng mới được thăng chức thành phóng viên điều tra/cao cấp của KNTV. Trên cương vị này, bà hợp tác chặt chẽ với Đơn vị Điều tra NBC Bay Area.
Tháng 4 năm 2019, Nguyễn chuyển từ California đến New York để nhận vai trò mới là phóng viên điều tra và tiêu dùng cho NBC News. Kể từ khi gia nhập NBC News, bà từng tham gia mấy chương trình như "The Today Show", "3rd Hour Today", "Nightly News with Lester Holt", NBC News Daily và MSNBC.#đổi
Nguyễn được vinh danh qua Giải thưởng Đại học Alfred I. duPont-Columbia năm 2019 vì bài báo "Drivers Under Siege" viết về sự gia tăng những vụ tấn công bạo lực nhằm vào những người điều hành xe buýt ở Vùng Vịnh.#đổi Công trình của bà được ghi nhận bằng Giải thưởng Scripps Howard, Giải thưởng Gerald Loeb, Giải thưởng Sigma Delta Chi Hội Nhà báo Chuyên nghiệp của Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia, ba Giải Gracie, hai Giải Clarion, 15 Giải Emmy khu vực và ba Giải Murrow khu vực.#đổi
Ngoài ra, bà còn giành được một số giải thưởng từ Hiệp hội Nhà báo người Mỹ gốc Á (AAJA) và Hiệp hội Giám đốc Tin tức Phát thanh và Truyền hình (RTNDA). |
Minh Nguyễn tên thật là Nguyễn Văn Minh (sinh ngày 15 tháng 5) là vận động viên xì tố chuyên nghiệp người Mỹ gốc Việt, hai lần giành chiến thắng vòng tay Giải đấu Xì tố Thế giới hiện cư trú tại Bell Gardens, California.
Ông học được lối chơi bài xì tố từ người anh họ của mình là tay chơi xì tố nhà nghề Men Nguyễn, và trở thành một người thường xuyên tham gia các giải đấu xì tố kể từ năm 1999.
Nguyễn xếp hạng thứ 24 trong sự kiện chính hold'em không giới hạn trị giá 10.000 đô la tại Giải đấu Xì tố Thế giới năm 2002 (WSOP), kiếm được 40.000 đô la. Ông tiếp tục giành được một chiếc vòng tay tại Giải đấu Xì tố Thế giới năm 2003 trong sự kiện chia bài hi-lo đinh bạc bảy trị giá 1.500 đô la và sẽ về thứ 11 trong Sự kiện Chính vào cuối năm đó.
Nguyễn đã giành được vòng đeo tay WSOP thứ hai tại WSOP 2004 trong sự kiện hold'em giới hạn tiền cược 1.500 đô la và đứng thứ 2 sau Mark Seif trong sự kiện hold'em không giới hạn 1.500 đô la tại WSOP 2005.
Nguyễn kết thúc ở vị trí thứ 7 tại buổi lễ khai mạc Giải vô địch Xì tố Bắc Mỹ Doyle Brunson, kiếm được 60.000 đô la. Ông cũng về đích ở vị trí thứ 8 tại Vòng Chung kết Xì tố Thế giới năm 2005, kiếm được 172.800 đô la.
Vòng tay Giải đấu Xì tố Thế giới.
Tính đến năm 2009, tổng số tiền thắng giải đấu trực tiếp của Minh Nguyễn đã vượt quá 2.100.000 đô la. 26 lần rút tiền mặt của ông tại tài khoản WSOP trị giá 1.033.671 đô la trong số tiền thắng cược đó. |
Polonaise Vĩnh biệt quê hương (Ogiński)
Polonaise "Vĩnh biệt quê hương" (còn được gọi là bản Polonaise Ogiński, hay Polonaise số 13 theo tên gọi của tác giả) là bản polonaise được sáng tác theo cung La thứ bởi Michał Kleofas Ogiński. Bản nhạc được sáng tác độc tấu dành cho đàn piano vào năm 1794. Đây là một trong những bản polonaise nổi tiếng nhất được sáng tác vào trước thời kì của Frédéric Chopin.
Năm 1794, Ogiński tham gia vào cuộc Nổi dậy Kościuszko chống lại sự đàn áp của Đế quốc Nga và Phổ. Ông chỉ huy một trung đoàn kỵ binh được trang bị súng trường hoạt động ở các quận Vilkomir, Sventsyansky, Braslav. Cuộc khởi nghĩa thất bại nhanh chóng. Cuộc khởi nghĩa thất bại buộc Ogiński phải lưu vong sang Venice. Cũng trong năm này, bản polonaise ra đời và được xuất hiện lần đầu tiên trên báo in. Cho đến hiện nay, bản viết tay gốc của nhà soạn nhạc đã không còn tồn tại.
Bản nhạc được bắt đầu với một giai điệu dịu dàng, giữa bài xuất hiện âm hình tiết tấu đặc trưng của polonaise, tạo sự sinh động cho bản nhạc. Toàn bộ chiều dài của bản nhạc tạo nên không khí u sầu và những đoạn nhạc như đưa vào hồi tưởng về quá khứ: một cảm giác mênh mang và trống trải trong tâm hồn khi nhớ về Tổ quốc tươi đẹp đã vĩnh viễn mất đi, không bao giờ có thể quay về nữa.
Bản polonaise "Vĩnh biệt quê hương", cùng với các bản polonaise khác của Ogiński đã góp phần định hinh lại mục đích của các bản polonaise: từ một bản nhạc chỉ để khiêu vũ thuần túy trở thành một hình thức nghệ thuật thu nhỏ hơn, một bản nhạc để nghe.
Bản polonaise được xem như là một trong những bản polonaise nổi tiếng nhất, đặc biệt là ở Ba Lan và Belarus. Nó được chuyển thể thành bài hát có lời, một bản tiếng Ba Lan được viết bởi Halina Szymulska và một bản tiếng Belarus được viết bởi Vyacheslav Sharapov và thể hiện bởi nhóm Piesnary. Bản nhạc cũng là nguồn gốc cho tên gọi con tàu Polonez phục vụ trên tuyến đường sắt nối Warszawa - Minsk - Moskva từ năm 1973 đến năm 2019. Khi con tàu Polonez đến trạm đường sắt Moscow Belorussky tại Moskva, bản nhạc polonaise thường được vang lên từ những chiếc loa trên tàu.
Từ năm 1991 đến năm 1993, tại Cộng hòa Belarus đã có một dự thảo lấy bản Polonaise Ogiński làm quốc ca. Ngày 8 tháng 9 năm 1992, trong buổi lễ tuyên thệ trung thành của Lực lượng vũ trang Belarus, bản polonaise cũng được vang lên trên Quảng trường Độc lập ở Minsk như một bản quốc ca không chính thức.
Trong văn hóa đại chúng, bản polonaise là nguồn cảm hứng cho tiểu thuyết lịch sử mang tên "Polonez Ogińskiego" của Antoni Wysocki được viết vào năm 1937. Bản nhạc cũng chính là cốt truyện chính của bộ phim Liên Xô "Bản nhạc Pô-lô-ne" được sản xuất bởi hãng phim Belarusfilm vào năm 1971, kể về câu chuyện của nghệ sĩ chơi đàn organ người Ba Lan ẩn náu tại ngôi làng Dzyatlava thuộc Belarus, thường xuyên giúp đỡ những đảng viên Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thời gian Đức Quốc Xã chiếm đóng ngôi làng này.
Ô nhịp thứ sáu của bản Polonaise được xuất hiện ở mặt sau của tờ tiền 50 Rúp Belarus phiên bản năm 2009. |
Investopedia là một trang web truyền thông tài chính có trụ sở tại Thành phố New York, Hoa Kỳ. Được thành lập vào năm 1999, Investopedia cung cấp từ điển về đầu tư, cho lời khuyên, đánh giá, xếp hạng và so sánh các sản phẩm tài chính như tài khoản chứng khoán. Investopedia có hơn 32.000 bài viết và tiếp cận 44 triệu người xem hàng tháng và đăng quảng cáo trả tiền dưới dạng thông tin đầu tư.
Investopedia cung cấp những thông tin vào giao dịch trong ngày, quản lý tài sản, thị trường ngoại hối, cũng như các khóa học tài chính. Nó cũng có một giả lập mô phỏng thị trường chứng khoán.
Lịch sử hình thành.
Investopedia được thành lập vào năm 1999 bởi Cory Wagner và Cory Janssen ở Edmonton, Alberta. Vào thời điểm đó, Janssen đang là sinh viên kinh doanh tại Đại học Alberta. Wagner tập trung vào phát triển kinh doanh và nghiên cứu và phát triển, trong khi Janssen tập trung vào tiếp thị và bán hàng. |
Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé nằm trên địa phận huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên, cách Thành phố Hà Nội khoảng 700km theo hướng Tây Bắc.
Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé được thành lập vào năm 1976 có tổng diện tích 46.730ha, gồm 2 kiểu rừng chính: rừng gỗ tự nhiên núi đất lá rộng thường xanh (46.520ha) và rừng hỗn giao gỗ, tre nứa (210ha).
Vị trí và giáp ranh.
Nằm trên 5 xã Sín Thầu, Leng Su Sìn, Chung Chải, Mường Nhé và Nậm Kè thuộc huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên với diện tích là 46.730 ha. Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé phía bắc giáp với Trung Quốc, phía tây giáp với Lào, phía đông giáp tỉnh Lai Châu.
Đặc điểm khí hậu.
Mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa với những nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới núi cao, Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé tỉnh Điện Biên có hai mùa rõ rệt (mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau). Hệ thống sông suối tuôn chảy trên địa hình tương đối phức tạp và có độ dốc lớn, với hai hệ sông suối chính (thủy hệ Nậm Ma và thủy hệ Nậm Nhé) là đầu nguồn Sông Đà.
Đa dạng sinh học.
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé có hệ sinh thái phong phú được đánh giá là nơi có tính đa dạng sinh học cao vào loại nhất, nhì vùng Tây Bắc .Vì vậy, việc bảo tồn đa dạng sinh học có ý nghĩa rất quan trọng cả về hệ sinh thái lẫn rừng phòng hộ sông Đà.
Khu bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé có 742 loài thực vật, trong đó 35 loài thực vật quý hiếm, 29 loài có tên trong sách đỏ Việt Nam và sách đỏ thế giới. Nhiều loài có giá trị đặc biệt về mặt khoa học như: chò đãi, dổi xương, chò nước, lát hoa, chò chỉ, pơ mu, trầm hương, , cây thuốc nam quý hiếm có 68 loài.
Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé có 2 kiểu rừng chính: rừng gỗ tự nhiên núi đất lá rộng thường xanh và rừng hỗn giao gỗ, tre nứa. Đây là nơi lí tưởng để các loài động vật hoang dã trú ngụ, sinh sống. Cụ thể: Thú có 97 loài, thuộc 24 họ và 9 bộ; chim có 260 loài thuộc 59 họ và 17 bộ; bò sát 65 loài bò sát thuộc 18 họ, 2 bộ và 54 loài ếch nhái thuộc 7 họ, 2 bộ. Trong đó có 55 loài động vật đặc hữu, 45 loài có tên trong Sách đỏ Việt nam như: Gấu ngựa, Gấu chó, Vượn bạc má, Voọc xám, các loài Khỉ, Công, Niệc cổ hung, Trăn mốc, các loài Rái cá...
Đặc biệt, đợt điều tra đầu năm 2022, đơn vị đã xác nhận thêm 14 loài động vật có mặt tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Mường Nhé, gồm 1 loài thú (cầy gấm), 13 loài chim (cò nhạn, cò ruồi, cắt lớn, rẽ giun thường, yểng quạ, phường chèo đỏ đuôi dài, chích hai vạch, khướu đầu hung, khướu ngực đốm, khướu mặt đỏ, kim oanh tai bạc, đớp ruồi cằm đen và đớp ruồi trán đen). |
Peaches (bài hát của Jack Black)
"Peaches" là một bài hát của nam ca sĩ nhạc rock người Mỹ Jack Black được phát hành vào ngày 7 tháng 4 năm 2023. Bài hát được trích từ ca khúc thứ 17 trong album "Phim anh em Super Mario" từ bộ phim cùng tên.Ca khúc nói về nhân vật của Black, Bowser đang biểu diễn ca khúc trên đàn piano để bày tỏ tình cảm của mình dành cho Công chúa Peach. Ý tưởng để có một bài hát của Bowser cũng là từ ý tưởng của Jack Black. Anh đã phát hành bản thu âm cuối cùng của bài hát vài ngày sau khi bản demo được gửi.
Bài hát đã nhận được nhiều đánh giá cao từ các nhà phê bình âm nhạc. Một video âm nhạc do Cole Bennett đạo diễn đã được sản xuất và đăng tải lên YouTube. Khi phát hành lần đầu, "Peaches" đã xuất hiện ở vị trí thứ 61 trên bảng xếp hạng phát trực tuyến iTunes, và vào ngày 9 tháng 4 đã lọt vào Top 15.
Bài hát đã có được 2 video âm nhạc chính thức. Đầu tiên là một video âm nhạc phiên bản live-action do Cole Bennett đạo diễn. Video đang mô tả Black đang chơi bài hát trên đàn piano khi anh đang ở trong một căn phòng có cửa sổ và nhìn ra phong cảnh CGi như trong phim. Video được tải lên bởi Lyrical Lemonade vào ngày 7 tháng 4 năm 2023. Cùng ngày, một video hậu trường đã được đăng trên kênh phụ của Lyrical Lemonade. Vào ngày 10 tháng 4 năm 2023, video âm nhạc đã đạt vị trí thứ 2 trên trang xu hướng âm nhạc của YouTube và đã nhận được hơn 5 triệu lượt xem. Cùng với công ty Illumination, IGN và kênh "Chủ đề" được tải lên lại của bài hát đã thu về tổng cộng là hơn 10 triệu lượt xem.
Video thứ hai có các clip như Bowser đang biểu diễn ca khúc trên đàn piano, cũng như là các clip khác ở trong phim. Video được tải lên bởi công ty Illumination vào ngày 10 tháng 4 năm 2023. |
Germany's Next Topmodel (mùa 18)
Germany's Next Topmodel, Mùa 18 là mùa thứ mười tám của "Germany's Next Topmodel" (thường được viết tắt là GNTM) được phát sóng trên mạng lưới truyền hình Đức ProSieben. Chương trình bắt đầu phát sóng vào ngày 16 tháng 2 năm 2023. Giống như mùa trước, toàn bộ dàn giám khảo sẽ chỉ bao gồm Heidi Klum và một hay nhiều vị giám khảo khách mời trong mỗi tập.
Người chiến thắng trong mùa này là Vivien Blotzki, 22 tuổi đến từ Koblenz. Cô giành được: giải thưởng tiền mặt trị giá €100.000, lên ảnh bìa tạp chí "Harper's Bazaar" và chiến dịch quảng cáo cho "MAC Cosmetics".
"(Tuổi tính từ ngày dự thi)"
Thí sinh bị loại
Thí sinh được miễn loại
Thí sinh dừng cuộc thi
#đổi Thí sinh bị loại trước khi đánh giá
Thí sinh dừng cuộc thi
Thí sinh không bị loại khi rơi vào cuối bảng
Thí sinh chiến thắng cuộc thi |
Hasdai ben Yehuda Crescas (, ) (1340, Barcelona - 1410 (1411?), Zaragoza) là triết gia, nhà thần học, chính khách và lãnh đạo người Do Thái Tây Ban Nha vào thế kỷ 14. Là Rabbi Do Thái giáo thành Zaragoza nhưng ông còn nổi tiếng trong giới triết gia Kitô giáo châu Âu. Ông ủng hộ Do Thái giáo thuần túy không lệ thuộc vào lý thuyết Aristoteles và dựa nhiều hơn vào khía cạnh tinh thần và tình cảm của con người. Các nhà viết tiểu sử xếp ông là một trong những triết gia Do Thái và triết gia trung cổ nói chung nổi bật nhất. Những quan điểm mới của Crescas về tính vô hạn và tự nhiên, không gian và thời gian góp phần tạo nên cuộc cách mạng chống Aristoteles trong triết học tự nhiên, từ đó hình thành nên ngành vật lý mới - cơ học cổ điển.
Hasdai ben Yehuda Crescas sinh khoảng năm 1340 trong một gia đình Do Thái truyền đời học giả tại ở Barcelona. Họ "Crescas" có từ nguyên khả dĩ trong nghĩa là "lớn lên, tăng trưởng". Cha mẹ ông là Yehuda và Regina. Ngoài Hasdai, hai người còn có một con trai Shmuel và một con gái Venges. Trong lời nói đầu của "Or Adonai" (Ánh sáng của Chúa), Crescas viết về gia phả của mình: "Hasdai con trai Yehuda, con trai Hasdai, con trai Yehuda, con trai Hasdai, con trai Yehuda." Ở xứ Catalan, con trai sẽ lấy tên cha mình làm họ, nên cha Hasdai có tên Judah trong tiếng Do Thái và Crescas trong tiếng Catalunya. Ông nội Hasdai là rabbi nổi tiếng, bộ đáp từ của ông được Isaac ben Sheshet (Rivash) trích dẫn nhiều lần. Crescas thọ giáo rabbi Nissim ben Reuven (RaN) trứ danh trong đó có môn triết học. Bản thân RaN cũng nghiên cứu triết học và quen thuộc với những ý tưởng của Gersonides và William xứ Ockham. Crescas trở thành học trò yêu của RaN, được thầy coi gần như con trai, con trai của RaN là Reuven cũng gọi Crescas là anh trai. Một số sử gia cho rằng Reuven kết hôn với em gái Venges của Hasdai Crescas.
Tại Barcelona, Crescas và Rivash là bạn lâu năm, được gọi là "hai người vĩ đại đến từ Catalan", chính họ cũng gọi nhau bằng anh em trong thư từ. Rivash đã cùng Crescas viết chung về những vấn đề quan trọng như xung đột trong chức vụ rabbi tại Pháp. Hai người cùng nhau thành lập quỹ nghiên cứu kinh Torah và giúp đỡ những người Do Thái bị đàn áp ở Tây Ban Nha. Crescas giữ vị trí rabbi Do Thái Barcelona trong một thời gian. Ông kết hôn với Tolrana, có một con trai tên là Yehuda hoặc Crescas. Năm 1370, Hasdai Crescas tham gia cuộc thi giữa giới thi sĩ Do Thái Barcelona với Girona. Ông viết thể thơ "selichot" ( - "Cầu xin Chúa tha thứ"), trong đó cầu nguyện Chúa chiến thắng "kẻ thù nghịch" (cám dỗ hoặc vật chất).
Crescas cũng quan tâm đến Kabbalah, có thể thấy được điều này trong các bản thảo Kabbalah ẩn danh hay như bài viết của chính ông về ý nghĩa lời cầu nguyện Kaddish.
Nhiều tư liệu cho rằng do âm mưu của những kẻ chống đối, Crescas phải ngồi tù một thời gian trong năm 1378 vì tội phạm thượng Bánh Thánh. Các tư liệu khác nói ông bị cầm tù 5 tháng trong năm 1373. Năm 1383, ông tham gia đàm phán với vua Pedro IV xứ Aragon về việc khôi phục quyền lợi cho người Do Thái. Sau khi Pedro IV băng hà, từ năm 1387 đến 1396, Crescas là quân sư cho vua Juan I và hoàng hậu Violante của Aragón, ông làm việc trong các cung điện tại Barcelona và Zaragoza. Hoàng hậu Violante sinh ra ở Pháp là người yêu thích và khuyến khích phát triển khoa học nghệ thuật, những lĩnh vực mà Crescas tham gia. Vua và hoàng hậu xưng Crescas là thầy và "người Do Thái trong triều" (). Rivash làm rabbi tại Zaragoza từ năm 1370 đến năm 1385 rồi chuyển đến Valencia, vua cử Crescas về làm rabbi Zaragoza. Tại đây, ông gặp gỡ thư ký của nhà vua là Bernat Metzhe đại diện của chủ nghĩa nhân văn sơ khai, tác giả bài thơ "Lo somni". Crescas có thể chịu ảnh hưởng từ Metzhe. Ít nhất từ năm 1389 cho đến khi qua đời, Crescas chính thức là rabbi tại Zaragoza, triều đình coi ông là lãnh đạo toàn quyền quyền xét xử người Do Thái ở Aragón, có nguồn còn cho biết ông là rabbi của cả Aragón.
Năm 1391, do tuyên truyền bài Do Thái cũng như cái chết đột ngột của vua Castile, Tây Ban Nha diễn ra làn sóng tàn sát. Toàn bộ cộng đồng Do Thái không còn được phép tồn tại, hoặc chọn rửa tội để cải đạo hoặc chết. Đa số người Do Thái chọn cái chết để giữ đức tin, một số nhỏ thoát được và hầu hết buộc phải chấp nhận cải đạo. Ở các nơi khác, người Do Thái cố gắng với hy vọng nhỏ nhoi để việc này không lan đến, như ở Barcelona dân Do Thái chiếm chưa đến 10% dân số. Đã có những trường hợp tự sát và hoặc tự ra tay giết toàn bộ người trong nhà chỉ để tránh rửa tội. Làn sóng tàn sát lan sang Aragón. Vua Juan I ở Zaragoza cấm không được thực thi việc này, nhưng tình hình ở Barcelona thì không suôn sẻ. Bất chấp vua Juan I ra chiếu thư chống lại việc giết chóc, trong đó đặc biệt nhấn mạnh phải bảo vệ "người Do Thái trong triều đình và quân sư Crescas", con trai duy nhất khi ấy của Crescas đã tử đạo ở Barcelona ở tuổi hai mươi, ngay trước hôn lễ dự kiến. Một ghi chép cho biết Crescas đã cứu được Reuven (con trai RaN) và gia đình. Crescas mô tả lại diễn biến cuộc cuộc tàn sát trong thông điệp gửi dân Do Thái ở Avignon. Có thể Crescas gửi tới Avignon vì khi ấy Giáo hoàng đang ở đó là nhân vật ra quyết sách về người Do Thái. Nhà vua và Crescas dường như hy vọng rằng giáo hoàng sẽ ra lệnh chấm dứt giết chóc. Một số tư liệu còn chép Crescas lập ra các đơn vị Do Thái tự vệ ở Zaragoza, sử dụng thêm cả lính đánh thuê.
Sau pogrom, Crescas lãnh đạo việc khôi phục cộng đồng Do Thái ở Barcelona và Valencia. Dân Do Thái tại Pháp cũng nhờ ông giúp đỡ. Zaragoza trở thành trung tâm Do Thái ở Bán đảo Iberia. Crescas được vua cho phép lấy vợ lẽ là Jamila để tránh tuyệt tự do con trai độc nhất bị giết. Jamila sinh cho ông ba gái: Mira, Sima và Duenia, và một trai tên là Yehuda hoặc Crescas. Năm 1396, Crescas sửa đổi đạo luật cơ bản dành cho người Do Thái, giúp tăng cường tập trung quyền lực đến mức Violante phải ra lệnh bãi bỏ một số điều chỉnh vào năm 1399. Crescas cố gắng thương thuyết với Carlos III để bố trí cho dân Do Thái tị nạn ở Navarra. Năm 1401, trong tư cách sứ thần vua Aragón Martin I, Crescas đến Pamplona tiếp kiến vua Carlos III. Cuộc gặp mặt này có thể đã đề cập đến nơi ăn chốn ở cho dân Do Thái. Carlos III ra sắc lệnh tuyên bố dân Do Thái mang lại ích lợi cho quốc gia và chấp nhận họ là thần dân. Crescas cũng tổ chức tái định cư cho nhiều người Do Thái ở Palestine qua những thương thuyết với sultan Barquq az-Zahir. Một số sử gia cho rằng Crescas đã cố gắng giành quyền tự trị cho người Do Thái tại Palestine. Cùng thời Crescas, nhà Kabbalah Moses Boniak Botharel thành Cisneros tự xưng là Đấng Messiah. Crescas thừa nhận Botarel khả dĩ có khả năng như vậy.
Giống như Nachman thời trước, Crescas dự phần vào các tranh chấp Kitô-Do Thái nhằm bảo vệ dân Do Thái. Ông viết ít nhất hai cuốn sách bằng tiếng Catalunya luận chiến với người theo Kitô giáo. Một cuốn còn lại đến ngày nay, nhưng được diễn ngôn bằng tiếng Hebrew. Không giống tất cả các tài liệu khác cùng chủ đề, tác phẩm Crescas không xuất phát từ việc trích dẫn và phân tích Kinh Thánh, mà dùng lập trường triết học và logic học để chỉ trích Kitô giáo. Ông quan niệm tôn giáo không nên ép người khác phải tin vào những điều phi logic.
Crescas cũng mời Efodi viết sách tranh luận, còn lại là bài luận "Klimat goyim" ( - "Nỗi hổ thẹn của các dân tộc"). Crescas rõ ràng là nhà tranh luận trứ danh, một số tranh luận thành công của ông được học trò trích dẫn lại. Tuy vậy, cuộc tranh luận lớn nhất lịch sử (Tranh luận Tortosa) lại chỉ diễn ra hai năm sau khi Crescas qua đời, chủ chốt phe Do Thái khi ấy là học trò của Crescas Josef Albo và rabbi Zaragoza kế nhiệm Crescas là Zerachiah Halevi. Thực tế là cả hai phe Kitô hay Do Thái đều liên tục trích dẫn Crescas tuyên bố về Đấng Messiah. Có bằng chứng cho thấy khi về già, Crescas thực hành Kabbalah và nổi tiếng về tài làm phép lạ.
Crescas tham gia nhiều việc với khối lượng khổng lồ khiến tác phẩm chính "Or Adonai" (Ánh sáng của Chúa) chỉ được hoàn thành sáu tháng trước khi qua đời (trong khoảng từ tháng 12 năm 1410 đến tháng 2 năm 1411). Sau Crescas, hàng loạt học trò đã dịch và xuất bản các tác phẩm của ông, đồng thời dựa trên đó tạo nên những tác phẩm mới. Ví dụ, Josef Albo đã viết sách triết học "Nguyên lý nền tảng" () tạo ra ảnh hưởng lớn. Một học trò nổi tiếng khác là Joseph ibn Habib viết cuốn "Luận của Joseph" (). Tất cả những tác phẩm này đều được tuyển chọn trong kinh Talmud phổ biến.
Theo tục truyền, những người Do Thái ở Zaragoza có nguy cơ bị tiêu diệt vì giả vờ dâng cho vua Martin I những cuộn Torah (ứng với vinh quang cao nhất) khi mà hòm dâng trống không. Người gác hội đường được báo mộng việc này và ngăn chặn kịp thời. Sự kiện trở thành "Purim Zaragoza" và được tưởng niệm vào ngày 17-18 tháng Shevat. Dù có thể chỉ là tin đồn nhưng thực tế là sau khi Crescas qua đời, người Do Thái ở Zaragoza vẫn được bình yên cho đến khi bị trục xuất khỏi Tây Ban Nha năm 1492. Sau đó, khu Do Thái cổ thời Crescas bị phá đi xây lại hoàn toàn, chỉ giữ lại một số đường phố cũ và cũng bị đổi tên khác đi. Theo như tư liệu còn lại, Crescas sống tại khu Do Thái cổ trên đường Torneros (), nay là đường Verónica.
Tác phẩm chính của Hasdai Crescas là "Or Adonai" ( - Ánh sáng của Chúa). Ông bắt đầu viết muộn nhất là từ năm 1405 và hoàn thành vào mùa đông 1410-1411 cũng là năm cuối đời. Tác phẩm là sự trình bày tín điều Do Thái giáo một cách hệ thống, bên cạnh những khám phá, lập luận nguyên bản và sâu sắc, thuần túy triết học hơn bất kỳ luận thuyết Do Thái Trung cổ nào khác. Tác phẩm này nhằm chống lại nền tảng triết học Aristoteles, không chỉ từ quan điểm tôn giáo mà còn từ quan điểm triết học; như trong lời nói đầu:
Nguyên nhân sai sót và nhầm lẫn là do dựa vào lời và các bằng cớ của người Hy Lạp [Aristoteles], và ta thấy phải chỉ ra sai lầm của những bằng cớ nà[bằng cớ] mà tôn sư chúng ta [Maimonides] đã dựa và
Crescas trình bày ý tưởng mình với phong cách giản dị với đặc trưng ngắn gọn khúc chiết, bất chấp những giới hạn thuật ngữ triết học trong tiếng Hebrew trung cổ. Ông sử dụng vũ khí riêng là phân tích logic và chứng thực để chống lại tư tưởng Aristoteles. Sự chỉ trích Aristoteles của Crescas có ý nghĩa lịch sử; bảo vệ quyền tự do trong việc giải kinh Torah, đồng thời ủng hộ việc giải phóng triết học và khoa học khỏi những dạy dỗ và nhận thức giáo điều của Aristoteles.
Tác phẩm "Or Adonai" được chia làm bốn sách, với những chủ đề sau:
Trong đó, sách đầu tiên nổi bật nhất về mặt triết học. Tiếp nối Maimonides, Crescas liệt kê những cội nguồn trong Torah về sự tồn tại, tính nhất thể và toàn thể của Chúa. Crescas dùng ba phần trong sách để bác bỏ tư tưởng Aristoteles cũng như lời dạy của chính Maimonides, đồng thời vạch ra phát triển triết lý của mình. Sách thứ hai trình bày nền tảng để hiểu kinh Torah, bàn về bản chất, thuộc tính của Chúa và mối liên hệ giữa Ngài với thế giới vật chất. Sách thứ ba dùng để diễn giải chân lý, Torah trở thành lời dạy dỗ hướng dẫn đáng tin. Quyển bốn là những phát ngôn để độc giả tự suy ngẫm rồi đưa đến quyết định chấp nhận hay khước từ.
Crescas lên ý tưởng để viết phần tiếp theo cho "Or Adonai" trong toàn bộ "Ner Alohim" nhưng lại qua đời đột ngột. Một phần trong lời tựa "Or Adonai" cũng được Crescas dùng làm tựa phần tiếp theo phê bình Maimonides về Halacha. Như thường lệ, Crescas chỉ trích Maimonides không dựa trên nguồn Torah, không những thế còn phê bình tham vọng mô tả toàn bộ luật (truyền khẩu) mà trong tương lai sẽ còn thay đổi, và không hề có nền tảng cho các điều răn.
Trong trước tác Do Thái trung cổ, Crescas được Josef Albo, Abrabanel và những người khác trích dẫn. Nhà nghiên cứu Harry Wolfson coi Crescas là người sáng lập triết học phê bình. Giáo sư Warren Harvey mô tả Maimonides là triết gia Do Thái trung cổ quan trọng nhất còn Crescas là nhà phê bình Maimonides quan trọng nhất.
Tổng số không dưới 11 bản thảo được tìm thấy ở Paris, Viên và Firenze, một số do học trò chép lại. Sách được in lần đầu tại Ferrara năm 1555, in lại tại Viên năm 1859, Johannesburg năm 1861, Vilnius năm 1905. Văn phong Crescas rất ngắn gọn, có những thiếu sót đáng kể khi dẫn lại ý kiến tác giả khác. Các ấn bản đều có nhiều lỗi, nên khi thực hiện ấn bản từng chương riêng rẽ năm 1980, vấn đề cơ bản là phải khôi phục văn bản gốc cũng như làm rõ các thuật ngữ Do Thái trung cổ khó. Bản hiện tại do rabbi Shlomo Fischer soạn ra cùng bảng chú giải thuật ngữ và ghi chú. Giáo sư Warren Zeeb Harvey cho ra đời ấn bản phê bình khoa học đầu tiên cho "Or Adonai".
Crescas sáng tác bài thơ này theo kiểu "" ( - sự tha thứ) trong một cuộc thi năm 1370. Trong đó, Crescas cầu xin Chúa chiến thắng "kẻ thù nghịch" (hữu hình hoặc vô hình). Bài thơ gán lực lượng "thù địch" này ở dạng thức giống cái, còn tâm trí (đại diện cho phẩm chất tích cực tốt đẹp) là giống đực. Crescas giải thích lấy nguyên liệu thơ văn này từ Platon và Maimonides. Đối với ông, Platon là "người đứng đầu các soạn giả ngụ ngôn" còn Maimonides là "sự tô vẽ các nhà thông thái".
Có thể Crescas viết khi đang giảng dạy tại Barcelona, phần lời tựa có thể do một học trò viết thêm vào. Bài luận rút ra sự tương đồng giữa mười lời nguyện Kaddish với mười Sephirot. Trước đó, những người theo thuyết Kabbalah trường phái Girona cũng phát triển ý tưởng tương tự.
Luận chiến chống Kitô giáo.
Nhằm chống lại rất nhiều tác phẩm Kitô giáo dành chbo người Do Thái và người cải đạo, Crescas viết cuốn "Bác bỏ các nguyên tắc Kitô giáo" bằng tiếng Catalunya (1397-1398). Tác phẩm hiện nay chỉ còn sót lại một phần trong cuốn "Bittul ikarei ha-notzrim" () năm 1451. Crescas tin rằng tôn giáo không nên buộc mọi người tin vào những điều phi logic và ông chỉ trích Kitô giáo từ lập trường triết học và logic chứ không theo cách diễn giải Kinh thánh. Trong lời nói đầu, Crescas viết rằng nhiều người đáng kính và quan trọng đã yêu cầu ông viết bài này. Một số sử gia còn cho rằng trong đó có cả những Kitô hữu muốn hiểu hơn về Do Thái giáo. Sách có 10 chương, mỗi chương phân tích một triết thuyết Kitô giáo.
Bài giảng lễ Vượt Qua.
Năm 1988, Aviezer Ravitzky (אביעזר רביצקי) xuất bản ấn phẩm học thuật và phân tích chi tiết Bài giảng lễ Vượt Qua của Crescas được tìm thấy trong hai bản thảo tiếng Hebrew. Bài giảng đáng giá về mặt khoa học vì được viết trước "Or Adonai" nên có thể nhìn ra được quan điểm Crescas biến đổi ra sao, cũng như quan điểm đó ảnh hưởng đến từng giai đoạn cuộc đời ông. Ví dụ, ảnh hưởng của Abner thành Burgos chỉ có thể nhận thấy trong giai đoạn sau cuộc đời Crescas.
Biên niên sử pogrom 1391.
Tác phẩm được viết dưới dạng một bức thư gửi cho dân Do Thái ở Avignon với phong cách hướng thượng ẩn chứa bên trong nhiều ám chỉ đến các sách Kinh Thánh, đặc biệt là "Sách Ca Thương". Thư đề ngày 19 tháng 10 năm 1391 (ngày 20 tháng Cheshvan năm 5151 lịch Do Thái) mô tả làn sóng pogrom nổ ra ở Sevilla ngày 4 tháng 6 năm ấy (ngày 1 tháng Tammuz). Crescas không đi sâu vào nguyên nhân sự kiện bi thảm này như là do tổng phó tế Ferrando Martinez kích động và triều đình Castile bạc nhược không kiểm soát được, mà đề cập rằng chính quyền Aragón đã chống lại việc thực thi pogrom. Thư trình bày chi tiết địa điểm và số lượng người chết, do bị xử tử hoặc tự sát để không bị ép rửa tội cải đạo. Crescas đặc biệt chú ý đến những việc xảy ra tại Toledo và Barcelona. Ở Toledo, con cháu của nhà giải kinh Talmud nổi tiếng Asher ben Yechiel (Rosh) đã chết, chắt của ROSH đã tự tay giết vợ con. Chính quyền cố gắng ngăn chặn pogrom và bắt giữ một số kẻ chủ mưu, nhưng đám đông cuồng loạn đã cướp ngục thả chúng ra để tấn công dân Do Thái. Người Do Thái phải tự co cụm nhốt mình trong các lâu đài (tháp) để trốn tránh. Dân Do Thái cũng định dùng vũ trang phản ứng lại, nhưng kẻ thù đông gấp nhiều lần và có đầy đủ vũ khí hơn. Người Do Thái kẻ bị giết, kẻ gieo mình hoặc dùng gươm tự vẫn, hoặc đơn giản là đi ra đường để bị giết. Con trai 20 tuổi Crescas đã chết. Một số ít trốn thoát được và như vậy cáo chung cho cộng đồng Do Thái ở Barcelona. Rivash cũng bị ép rửa tội cải đạo, về sau ông trốn được sang Bắc Phi và quay trở lại với đức tin cũ.
Thần học Crescas ảnh hưởng từ môi trường biến đổi bên ngoài, chủ nghĩa duy lý triết học không còn là mối đe dọa chính với người Do Thái nữa mà khi ấy Kitô giáo mới là vấn đề lớn. Áp lực thống trị, tranh biện và rửa tội cải đạo dẫn đến việc Crescas viết bài luận chống Kitô giáo. Dư âm tranh biện có thể thấy được qua "Or Adonai".
Nền tảng tín lý.
Crescas chỉnh lại 13 nguyên tắc đức tin nổi tiếng của Maimonides xuống còn 6. Crescas cho rằng nếu phủ nhận các nguyên tắc này cũng giống như việc phủ nhận toàn bộ kinh Torah:
Tiếp theo là các nguyên tắc dựa trên Torah, nhưng nếu bác bỏ chúng thì không có nghĩa là phủ nhận Torah:
Ngoài ra còn có danh sách tín điều dựa trên Torah, nhưng không bắt buộc đối với đức tin Do Thái giáo. Crescas cho rằng cơ sở Do Thái giáo không phải nằm ở sự hiểu biết về trí tuệ. Mặc dù trí tuệ có thể dẫn đến việc thông hiểu nền tảng đức tin, nhưng nền tảng chính vẫn là sự mặc khải thiên thượng (đến từ Chúa), nên cơ sở chắt lọc từ Torah là đầy đủ.
Tuy có nhiều nhà giải kinh Do Thái chỉ ra bản chất con người bị biến đổi sau khi Adam phạm tội, nhưng Crescas gần như là triết gia Do Thái trung cổ duy nhất diễn giải sự sa ngã ấy là nguyên tội, và đã có tội thì cần phải đền tội. Crescas dựa trên Kinh Talmud "khi đến với Eva, con rắn đổ ô uế lên chúng ta (), nhưng khi dân Israel đứng trên núi Sinai, sự ô uế đã bị đạp xuống". Crescas giải thích rằng Adam sa ngã nên con người có ham muốn mãnh liệt về vật chất. Về sau, khi Abraham sẵn sàng hiến Isaac làm sinh tế từ đó giống như đã dâng toàn bộ dân Israel làm của lễ đền tội. Vì điều này, Đức Chúa Trời đã lập "Giao ước mới" với Abraham và cứu ông thoát khỏi khuynh hướng vật chất. Điểm nhấn trong cách diễn giải của Crescas là coi việc hi sinh Isaac như là nguyên mẫu cho cả dân tộc Israel, có thể hiểu được do chính ông bị ảnh hưởng từ cái chết của con trai mình. Như vậy, "akeda" () với nghĩa "buộc vào Isaac" cùng với giao ước với Abraham bằng phép cắt bì như một dấu ấn trên xác thịt là sự trả giá cho nguyên tội.
Ý nghĩa giới luật.
Từ lập luận trên có thể thấy Crescas coi một trong ý nghĩa các điều răn (giới luật) chính là sự chuộc tội. Khi ấy, Crescas cũng viện dẫn ý nghĩa khác để tranh biện với Kitô hữu là những người cho rằng điều răn chỉ có giá trị lịch sử, chỉ có ý nghĩa vào giai đoạn loài người sơ khai. Crescas phản đối rằng dòng dõi Abraham tại Ai Cập (hàm ý trước cả thời Moses) đâu phải là giai đoạn mông muội thấp kém nào, mà họ vẫn biết đến sự tự bỏ mình cùng giữ nhiều điều răn khác.
Crescas cho rằng giới luật được dùng với nhiều mục đích: sơ khởi, trung bình và tối hậu. Trước tiên, nhờ điều răn mà một người sửa được tính nết, hoàn thiện trí tuệ và đạo đức, thiết lập cấu trúc xã hội công bằng và khơi dậy lòng nhân ái với nhau. Nhưng theo Crescas, đây chưa phải ý nghĩa tối hậu của những điều răn.
Ý nghĩa tiếp theo là sự đảm bảo linh hồn được toàn hảo để tồn tại ngay cả sau khi (thân xác) đã chết. Tuy nhiên, mục đích quan trọng nhất lại là dấy tình yêu của một người với Chúa, được gắn kết với Ngài, từ đó dẫn họ đến phước hạnh ("eudemonism"). Tình yêu là mục đích tối thượng không phải chỉ cho bản thân điều răn, mà còn là đối tượng mà điều răn tác động đến. Con người đạt cảnh giới này khi liên tục ở trong sự hiện diện của Chúa, khi còn sống hay cả sau lúc qua đời.
Có thể thấy diễn giải Crescas là sự sáng tạo dựa trên các ý tưởng của Yehuda Halevi, Maimonides, Gersonides, Abraham ibn Daud và Saadia Gaon. Khác với nhiều tiền bối, Crescas không dùng khái niệm "giới luật thưởng phạt" để đánh giá theo công đức con người. Crescas cho rằng giới luật không dựa trên điều này mà dùng để kêu gọi hoàn thiện con người nhằm mang lại linh hồn bất diệt. Điều này cũng là bất đồng giữa Crescas với Maimonides và Gersonides: Crescas phủ nhận sự bất tử của linh hồn chỉ nằm ở tâm trí, mà cả những phần nhân cách khác như cảm xúc (trên hết là tình yêu dành cho Đấng toàn năng) cũng bất tử cùng trong linh hồn. Trí tuệ không đảm bảo được linh hồn bất tử, nhưng một số hiểu biết là cần thiết để làm nền tảng cho Kinh Torah và những điều răn trong đó. Ngoài ra, Crescas cũng khước từ thuyết luân hồi của Kabbalah vì ông chỉ tiếp thu một số ý tưởng riêng biệt chứ không phải toàn bộ hệ tư tưởng Kabbalah.
Điểm thú vị là cách Crescas giải thích giới luật đầu tiên. Trái ngược cách hiểu thông thường của Maimonides, Crescas dứt khoát phản đối việc điều răn chỉ tồn tại trong phạm trù đức tin. Ông chứng minh theo ba cách (logic, halakha, tâm lý học) rằng không có giới luật nào bắt phải tin cả, kể cả trên tất cả là phải tin vào Chúa. Crescas cho rằng giới luật chỉ tác động lên hành động. Quan điểm này cộng hưởng mạnh cho lời dạy dỗ của Moses Mendelssohn. Tác phẩm chính cuối cùng của Mendelssohn là "Jerusalem" đã chỉ trích Maimonides rời bỏ truyền thống Do Thái cổ là không biên soạn tín điều. Mendelssohn đã dùng đến lập luận Crescas, Albo và những người khác để viết. Vậy có thể coi Crescas là người đặt nền móng cho ý tưởng về giới luật chỉ tồn tại trên phương diện hành động (Chính hành Do Thái). Một số nhà tư tưởng hiện đại như Yeshayahu Leibowitz cũng ủng hộ thuyết này và coi Crescas như một triết gia tôn giáo vĩ đại.
Nan đề về thuộc tính Thiên Chúa.
Thời Trung cổ thường đưa ra tranh luận những nan đề liệu Chúa có những thuộc tính (theo góc nhìn con người) tích cực hay không, cụ thể là làm thế nào để hiểu "thương xót", "nhân từ" và những từ tương tự trong mối liên hệ với Chúa. Maimonides có quan điểm cực đoan về vấn đề này. Tất cả những từ nào áp dụng cho Chúa chỉ được coi là "tình cờ" thuần túy đồng âm nhưng khác nghĩa với từ dùng cho đối tượng khác. Những chỗ nào Kinh Thánh nói về Chúa thì đều mang nghĩa ẩn dụ, không hề và không thể có sự tương đồng hay giống nhau giữa Chúa với bất kỳ đối tượng nào khác.
Nhiều nhà tư tưởng khác không đến mức như vậy. Gersonides tin rằng có mối liên hệ nhất định giữa những từ ngữ dành cho Chúa với khi nói về một đối tượng khác. Nghĩa dành cho Chúa chân chính là nghĩa gốc, còn khi nói về đối tượng khác thì đã bị bóp méo và đơn giản hóa đi.
Lúc đầu Crescas thống nhất ý tưởng với Maimonides và chỉ trích Gersonides gay gắt. Một thời gian sau, bị ảnh hưởng từ các học giả Latinh, rồi đến Kabbalah, đặc biệt là Azriel xứ Girona, Crescas chuyển hướng sang Gersonides:
Tuy nhiên, ý nghĩa chung của từ [tồn tại] là đối tượng không vắng mặt thuộc tồn tính tồn tại, nên nó được nói về Chúa đáng phước hạnh thay Ngài và các đối tượng khác mà không bị vắng mặt thuộc tính tồn tại. Chỉ (khác) nói về Chúa theo nghĩa tiên nghiệm, còn đối tượng khác thì là hậu nghiệm. Như vậy, từ "tồn tại" được chỉ về Chúa và (cả) những đối tượng khác không phải là ngụy biện, mà như câu chữ nước đôi.
Sau đó, Crescas mở rộng tiếp, khẳng định sự tồn tại những thuộc tính cốt tủy () được xác định qua mười sephirot.
Lập trường này rất gần với tư tưởng Kitô giáo, đến nỗi ngay cả khi chỉ trích Kabbalah, Rivash cũng so sánh đức tin "một số triết gia" vào mười thuộc tính Sephirot với tín lý Ba Ngôi trong Kitô giáo. Shem Tov Ben Yosef Ibn Shem Tov là dịch giả tác phẩm "Bác bỏ nền tảng đức tin Kitô giáo" () cũng ghi nhận tương tự khi nói về việc Crescas phân tích tín lý Ba Ngôi. Crescas duy trì được tư tưởng chính thống về tính hiệp nhất và phi vật chất của Thiên Chúa. Crescas minh họa bằng hình ảnh lửa và than lấy trong sách "Sefer Yetzirah" ("Tạo vật"): lửa (ví với thuộc tính) không tồn tại nếu không có than (ví như chất), nhưng lửa không phải là than. Kết quả là, Crescas tin rằng Chúa siêu việt và không thể biết thấu được, nhưng nội tại Ngài có các thuộc tính cốt yếu (sephirot). Nhà Kabbalah nổi tiếng sau này Meir ibn Gabbai đánh giá cao những mô tả về sephirot của Crescas.
Bằng chứng Thiên Chúa hiện hữu.
Crescas dẫn lại bằng chứng vũ trụ học của Maimonides về sự tồn tại của Thiên Chúa xuất phát từ chuyển động quay của thiên cầu, nhưng cũng bác bỏ nhiều điểm. Nghiên cứu bằng chứng của Giảng sư về sự tồn tại của Chúa, thể hiệp nhất của Ngài, rằng Ngài là vô hình nhưng không phải là một thế lực trong vật thể. Chúng ta sẽ xem xét từ hai quan điểm. Thứ nhất, Maimonides dựa vào nhiều điều còn mơ hồ làm tiền đề. Thứ hai là liệu chứng minh của Maimonides có chắc chắn hay không, ngay cả khi những tiền đề này được chứng , nên toàn bộ bằng chứng của Maimonides là không hợp lệ. Với quan điểm thứ hai, chứng minh cũng bị bác bỏ vì hai lý
Từ đó, ông đi đến kết luận rằng tôn giáo không dựa trên khoa học thực nghiệm, nhưng khoa học không mâu thuẫn với tôn giáo, vì chân lý không thể tự mâu thuẫn với nhau.
Crescas cũng đặt nghi vấn về bằng chứng siêu hình của Maimonides, đặc biệt về tiên đề bất khả của chuỗi nhân quả vô tận. Thay vào đó, Crescas đưa ra bằng chứng siêu hình của riêng mình:
Nguyên nhân và kết quả có thể vô hạn hoặc hữu hạn, nhưng kết luận chắc chắn rằng phải có một số nguyên nhân chung của tất cả, và điều này cần đến sự tồn tại hơn là không tồn tại. Đây là lý do cho cả khối tổng thể toàn bộ, trong đó sự tồn tại vượt trên không tồn tại, đó chính là Thiên Chúa, đáng phước hạnh thay Ngài. Do đó, sự tồn tại của Chúa đã được chứng minh không chút nghi ngờ gì nữa.
Từ đó, Crescas thừa nhận Thiên Chúa tồn tại và có thể chứng minh điều này một cách hợp lý, nhưng không thể biết được ý chí và thuộc tính của Ngài.
Thiên Chúa yêu thương và vui mừng.
Maimonides dùng lại công thức Aristoteles cho rằng Thượng Đế là một lý trí tự nhận thức. Gersonides hoàn toàn ủng hộ luận điểm này. Do đó, những triết gia tôn giáo trước Crescas tin rằng Thiên Chúa là lý trí thuần túy.
Mặt khác, những người ủng hộ Aristoteles cũng gán thuộc tính vui mừng cho Chúa. Chẳng hạn, Gersonides thậm chí còn thêm sự vui mừng thiên thượng vào danh sách năm nền tảng đức tin.
Crescas chỉ ra rằng triết học Aristoteles chứa đựng mâu thuẫn khi coi Thượng Đế chỉ là trí tuệ thuần túy, không thể lệ thuộc vào cảm xúc. Còn theo Crescas, Thiên Chúa không phải trí tuệ thuần túy, mà thực sự có niềm vui, nhưng không phải cảm xúc vui mừng trong các tạo vật như con người mà thể hiện qua hành động. Nói cách khác, sự vui mừng trong Chúa là hành động của Ngài, chủ yếu trong hai việc chính là tạo ra và duy trì thế giới. Hơn nữa, Ngài lấp đầy thế giới bằng tình yêu thương khiến cho nó trở nên hài hòa. Một số nhà nghiên cứu hiện đại nhìn nhận đây là ý nghĩa chính của Crescas trong luận điểm này.
Công thức phước lành mà các hiền nhân đặt ra: "trong sự hiện diện có sự vui mừng" phải được hiểu theo nghĩa đen, chứ không phải ngụ ý... Vì sự vui mừng là thuộc tính phổ quát của Thiên Chúa nên từ đó đổ ra sự tốt lành, các tạo vật nhận được sự tốt lành này. Do đó, sự vui mừng đích thực là "trong sự hiện diện của Ngài, ấy có vui mừng". Nơi Ngài ngự () tức là vương quốc thiên đàng (), nơi các sinh linh (linh hồn)() cư ngụ.
Vì tình yêu thương và sự vui mừng có địa vị bản thể cao như vậy, và vì con người được dựng nên giống Chúa, nên Crescas đề cao những cảm xúc này ở con người, tình yêu thương mới là mục tiêu tối thượng của con người. Trong quá trình suy tư, ông cũng giải quyết được nan đề báo ứng của đức tin. Theo Crescas, một người không tự do lựa chọn đức tin mà bị lý trí tác động, vậy thì làm sao đức tin có thể dẫn đến hình phạt hay phần thưởng được? Câu trả lời không nằm ở bản thân đức tin, mà chính do những cảm xúc đi kèm mới dẫn đến báo ứng khác nhau. Các kết quả khác nhau không phải do tin gì mà do cảm xúc khi tin mang lại. Hình ảnh này khẳng định tính ưu việt của ý chí so với lý trí, điều này có thể chịu ảnh hưởng từ John Duns Scotus.
Thuyết tất định và quyền tự do lựa chọn.
Crescas có quan điểm cấp tiến khá đặc biệt về vấn đề ý chí tự do có khả năng tương thích với sự toàn tri của Đấng toàn năng nắm giữ tương lai. Quan điểm này không đến từ triết học Hy Lạp mà từ chủ nghĩa kinh viện Latinh, chủ yếu là John Duns Scotus. Điều này là khả dĩ vì có hai thầy giáo Alfred Gonteri (Anfredus Gonteri) và Peter Tomay (Peter Thomae) dạy học ở Barcelona ngay gần khu Do Thái, hai người là "tín đồ" của Scotus. Phân tích của Crescas bắt đầu với việc liệu có tồn tại khả năng tương thích này hay không. Xem xét cả hai lập trường ủng hộ cũng như phản đối, Crescas đi đến kết luận rằng có, nhưng bản thân việc đó cũng là tiền tất định về nguyên nhân tạo thành nguyên nhân.
Như vậy, nguyên nhân làm ý chí biểu đạt, nhưng bản thân ý chí vẫn là tự thân nó, không bị phụ thuộc và cưỡng ép (). Như chính bản chất đã nêu, xác xuất để đưa ra các lựa chọn là như nhau, trừ khi nguyên nhân tạo ra một ước vọng lớn hơn các tùy chọn còn lại, nên người (đưa ra lựa chọn) không cảm thấy bị ép buộc hay hạn chế gì cả (). Vì ước vọng được giữ bằng nhau nên được gọi là ý chí chứ không phải nhu cầu.
Điều này trên thực tế mang nghĩa tất định hoàn toàn, mà theo chính Crescas sẽ là nguy hiểm khi áp dụng cho số đông. Vấn đề đức tin của Crescas còn được đẩy đi xa hơn. Đức tin bị thuyết tất định ngự trị và không còn chút ảo tưởng nào về quyền tự do chọn lựa nữa. Con người sẽ thấy đức tin mình là một sự ép uổng.
Như đã giải thích thì ý chí không liên quan gì đến đức tin cả, nhưng tín hữu có nhu cầu cảm nhận mình là người tin, rõ ràng chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc định nghĩa (sự) lựa chọn và ý chí như sự kết nối, kết hợp đức tin với tín hữu. Đây chính là sự vui thích khi Ngài ban phước cho chúng ta. Sự ban phước ấy gồm cả đức tin và lòng chuyên tâm để bảo vệ chân lý, không còn nghi ngờ gì nữa đó chính là vấn đề của ý chí và lựa chọn.
Về vấn đề này, những câu hỏi quan trọng nhất được đặt ra là giáo lý này kết hợp với nguyên tắc báo ứng và ý nghĩa điều răn là gì. Thật vậy, ích lợi gì khi trừng phạt tên tội phạm hay ban thưởng cho người công chính khi cả hai đều không được tự do đưa ra hành động của mình? Crescas giải đáp cả hai vấn đề này. Thứ nhất, phần thưởng hay hình phạt tự xảy ra, giống như bị bỏng khi đến gần lửa quá. Điều răn được thiết kế để cứu một người khỏi các rắc rối. Ở đoạn khác, Crescas đề xuất hình phạt và phần thưởng không kèm theo hành động vì đã được sắp đặt trước, chẳng qua cảm xúc đánh giá theo hành động thôi. Như vậy, tính tất định của Crescas có đối tượng là hành động và đức tin chứ không phải cảm xúc. Một người có thể vô tình trở thành vô thần, nhưng lại cảm thấy buồn thì điều này nằm ngoài ý chí tự do. Sự tự do còn sót lại này phân biệt thuyết tất định của Crescas với Spinoza. Rõ ràng, Crescas không đưa bất kỳ phần thưởng nào cho đức tin và đức tin cũng không ảo tưởng về tự do nào cả.
Theo một số nhà nghiên cứu, có thể Crescas muốn an ủi cộng đồng Marranos là những người bị ép phải chịu rửa tội cải đạo. Samuel David Luzzatto chỉ trích quan điểm tất định của Crescas, coi đó là nguồn gốc dị giáo Spinoza. Về sau, nhà nghiên cứu Harry Wolfson cũng chỉ ra rằng luận điểm "tự do lựa chọn là ảo tưởng" của Spinoza đã được Crescas trình bày trước đó.
Triết học tự nhiên.
Chắc chắn Crescas có đóng góp giá trị cho sự phát triển của vật lý, dù rất khó định giá chính xác quan điểm của ông độc đáo và nguyên bản đến mức nào. Một số sử gia cho rằng Crescas là người đầu tiên tích cực ủng hộ khái niệm không gian đồng nhất vô hạn, so sánh cuộc cách mạng quan điểm không gian này với Copernicus. Các sử gia khác lại đặc biệt chú ý đến việc Crescas từ chối công nhận vật thể cũng là vùng không gian chiếm giữ. Ngược lại, có một số lưu ý cho thấy tương đồng với lý thuyết của Joannes Philoponus và Hibat Allah Abu'l-Barakat al-Baghdaadi trong bối cảnh không có bằng chứng hay lý do để chúng ảnh hưởng trực tiếp đến nhau. Một số coi ông là đại diện trí tuệ nhưng tiêu biểu cho chủ nghĩa kinh viện thời đại mình. Dù thế nào thì Crescas cũng chỉ giới hạn trong việc chỉ trích các nhà tư tưởng đi trước mà không hề đưa ra một lý thuyết mạch lạc riêng nào. Có lẽ vì niềm tin của ông cho rằng sức mạnh tâm trí đủ để chỉ trích các thành tựu do tâm trí xây nên, nhưng không đủ để hiểu thấu chân lý.
Vô hạn thực tại.
Aristoteles và học trò phủ nhận sự tồn tại của "vô hạn thực tại" vì giả định ngược lại sẽ dẫn đến nghịch lý, nhưng thừa nhận "vô hạn tiềm năng", ví dụ như thời gian có thể quay ngược lại vô tận. Một số tác giả như Gersonides lại phủ nhận tính vô hạn tiềm năng của những đại lượng định lượng như thời gian. Các sử gia khoa học cho rằng Galileo đã có những ý tưởng đầu tiên về tập hợp vô hạn thực sự, rất lâu trước khi Georg Cantor phát triển lý thuyết tập hợp vô hạn. Trước cả Galileo, Crescas cũng đã có những suy nghĩ tương tự. Tranh luận về khả năng tồn tại chuỗi vô tận các lập luận riêng biệt, mỗi lập luận là nguyên nhân của lập luận tiếp theo và tất cả đều tồn tại đồng thời, vì chúng là vĩnh cửu, Crescas viết:
Và vì vậy, nếu giả định sự tồn tại của một chuỗi nguyên nhân và kết quả, trong đó (phần tử) thứ nhất là nguyên nhân của thứ hai, và thứ hai là nguyên nhân của thứ ba, , tôi muốn biết bằng cách nào khi mà tiếp tục giả định nguyên nhân chung cho tất cả các quan hệ này thì liệu có thể phủ nhận sự vô hạn về số lượng nguyên nhân và kết quả không?
Một số ý tưởng của Crescas được Giafrancesco Pico della Mirandola diễn tả lại bằng tiếng Latinh. Rất có thể từ đó mà ảnh hưởng lên Galileo, nhưng điều này chưa được chứng minh. Nếu thực sự Galileo tiếp thu điều này thì Crescas là người đầu tiên lập luận khả năng tồn tại của vô hạn thực tại và những khái niệm so sánh "lớn hơn", "bằng" và "nhỏ hơn" đối với tập vô hạn phải được định nghĩa khác đi. Ông đã phân biệt rõ ràng giữa tập hợp số hữu hạn và vô hạn phần tử.
Bản chất không gian và thời gian.
Theo Aristoteles, không gian được xác định bởi vật thể chiếm giữ không gian và sự trống rỗng là bất khả. Ngược lại, Crescas lại cho rằng tồn tại không gian trống để vật thể chuyển động trong đó. Mặc dù thuyết Pitago (Crescas gọi là "nhiều người xưa") đã đưa ra nhận thức về sự trống rỗng và Crescas cũng tiếp thu thông qua Aristoteles, nhưng quan điểm của Crescas khác hẳn. Đặc biệt, ông phủ nhận vai trò của sự trống rỗng (hư vô) trong sáng tạo vạn vật. Tuy nhiên, khi giải thích quan điểm sự trống rỗng ngập tràn và có trước vạn vật, Crescas lại trích dẫn ẩn dụ trong Talmud: "Và theo ý muốn Chúa, Ngài là nơi ở của thế gian". Bằng chứng này dường như cho thấy ảnh hưởng từ Kabbalah.
Do đó, phù hợp với chân lý tự chứng minh và tự đồng thuận, nơi chốn thực sự là sự trống rỗng. Điều khẳng định được suy ra từ thực tế là nơi chốn có thể tương ứng với nơi chốn toàn thể hoặc thành phầ, nên nhiều người xưa đã đồng nhất nơi chốn thực sự của sự vật với hình thức của nó, vì hình thức xác định sự vật và đặc trưng (cá thể hóa) chúng, trong khối toàn thể và từng thành phần.
Tương tự với thời gian cũng không phụ thuộc vào chuyển động các vật thể mà có từ trước. Crescas là người đầu tiên bước từ quan niệm không gian và thời gian gắn liền với vật thể của Aristoteles rằng quan niệm của Newton: không gian và thời gian có trước vật thể. Cách nghĩ của Crescas đổi mới và khác với Aristoteles, không gian của Crescas là liên tục vô hạn có thể chứa nhiều thế giới. Crescas cũng giống Aristoteles ở chỗ quan niệm thời gian vô hạn, nhưng khác ở điểm tồn tại độc với vật thể và chuyển động của chúng. Ngoài ra, đối với Crescas, khoảng thời gian đã qua đến thời điểm hiện tại cũng là vô hạn.
Lý thuyết chuyển động.
Crescas chống lại lý luận Aristoteles rằng đất và nước đi xuống, không khí và lửa đi lên. Ông quan niệm tất cả đều có trọng lượng và xu hướng đi xuống, chỉ là một số mạnh hơn trong khi số khác yếu hơn. Đồng thời, những thứ nặng hơn xu hướng về tâm điểm thế giới thế chỗ những thứ nhẹ hơn.
Khi nói về chuyển động cưỡng bức như khi ném hòn đá lên, chúng bị chi phối bởi quan điểm của người Hy Lạp nổi tiếng [Aristoteles] rằng các nguyên tố có chuyển động tự nhiên trái ngược nhau, theo đó hòn đá có xu hướng rơi xuống còn lửa lại hướng lên. Và suy luận rằng một số nguyên tố, như đất chỉ có sức nặng, lửa chỉ có sức nhẹ, còn nước và không khí kết hợp cả nặng lẫn nhẹ. Quan niệm này vẫn chưa được giải thích đầy đủ, và sẽ không thể nào giải thích nổi. Vì có thể nói rằng mỗi nguyên tố đều có sức nặng, chỉ là sức nặng khác nhau. Như vậy, lửa đi lên là do trọng lực không khí đẩy ngọn lửa từ bên dưới. Tương tự nếu vứt hòn đá vào nồi nấu vàng hoặc chì nóng chảy hay thủy ngân thì đá có xu hướng đi lên do sức nặng của kim loại ép lên.
Ngược với Aristoteles chống lại đa thế giới khi cho các nguyên tố di chuyển từ thế giới này sang thế giới khác. Crescas phủ nhận điều này mà cho rằng mỗi nguyên tố đều đi về tâm điểm thế giới của nó. Đồng thời, Crescas cũng phủ nhận tâm điểm thế giới là nguyên nhân gây ra mọi chuyển động, mỗi vật chuyển động nhờ vào bản chất và cấu trúc chính nó.
Crescas phủ nhận luận điểm Aristoteles rằng vật chất Trái đất và các thiên thể có bản chất khác nhau. Nhưng ông không suy luận tiếp rằng thiên thể cũng có thể bị hủy diệt. Cả thiên thể và vật thể trên đất đều có chuyển động tự nhiên. Crescas kiên trì lặp lại luận điểm này đã góp phần to lớn cho cơ học thiên thể tiếp tục phát triển. Trong các chuyển động tự nhiên, Crescas khảo sát chuyển động của sắt đối với nam châm và khẳng định chuyển động này xảy ra do bản chất và cấu trúc chính nó. Quan trọng nhất là về chuyển động tự quay của các thiên cầu, không đòi hỏi giả định về động cơ vĩnh cửu trong bầu trời. Điều này bác bỏ việc Maimonides và những người trước thời Crescas vẫn dùng chuyển động các thiên thể làm bằng chứng cho sự tồn tại của Chúa.
Sáng tạo không gian và thời gian.
Theo Crescas, thời gian là vô tận, liên tục và tồn tại độc lập với vật thể (không gian). Có chỗ ông viết rằng thời gian ngự trong linh hồn, mang tính chủ quan. Ở chỗ khác, Crescas lại lập luận rằng thời gian được trí tuệ lĩnh hội nên mang tính khách quan.
Thế giới được sáng tạo vào một thời điểm nào đó trong dòng thời gian, tức là thời gian đã tồn tại trước khi thế giới được tạo ra. Crescas dùng lời Talmud để chỉ ra điểm này "như Rabbi Yehuda bar Simon nói: 'trật tự thời gian ở trước mặt chúng [trời và đất]'". Dựa trên quan điểm này, câu hỏi được đặt ra là thời điểm này có gì đặc biệt đáng chú ý để chọn làm thời điểm sáng tạo. Gersonides từ chối trả lời loại câu hỏi kiểu này. Crescas đưa ra một giải pháp hoàn toàn khác cho câu hỏi: Đấng toàn năng liên tục tạo ra các thế giới nối tiếp nhau theo trình tự thời gian. Bên cạnh lập luận, Crescas củng cố quan điểm của mình bằng Talmud: "Chúa đã tạo ra các thế giới và phá hủy chúng".
Crescas thừa nhận các thế giới có giá trị như nhau nhưng có xu hướng cho rằng trong một chuỗi thế giới, cái sau sẽ hoàn hảo hơn cái trước. Đồng thời, thế giới chúng ta có thể tồn tại mãi mãi hoặc bị một thế giới hoàn hảo hơn thay thế, giống như thế giới động vật hoàn hảo hơn thế giới thực vật. Crescas lưu ý không thể dùng lý trí chứng minh điều này, mà chỉ có thể ghi nhận từ truyền thống Kabbalah. Trong tư liệu khác, Crescas trích dẫn Yehuda Halevi: "Ngoài ra, tín đồ luật pháp [Torah] tự thấy cần phải chấp nhận ý tưởng về vật chất vĩnh cửu và nhiều thế giới tồn tại liên tiếp, điều này sẽ không làm giảm đức tin người đó rằng thế giới này được tạo ra trong thời gian và loài người từ Adam và Nô-ê mà ra". Crescas cũng trích dẫn câu Talmud khác để diễn giải việc thế giới chúng ta bị phá hủy và có thế giới khác thay thế: "Thế giới chúng ta tồn tại trong 6.000 năm, và 1.000 năm nữa sẽ bị hủy diệt".
Không có chỗ nào trong các tác phẩm của Crescas chỉ ra chuỗi thế giới có vô hạn hay không. Khi phân tích tái dựng lại về Crescas, các nhà nghiên cứu Harry Wolfson và M. S. Urbach cho rằng chuỗi thế giới theo Crescas là vô tận. Từ đó, có thể thấy bức tranh màu sắc lạc quan về thế giới là một chuỗi vô hạn các thế giới đang được cải thiện.
Aristoteles không công nhận có nhiều thế giới, và lập luận dựa trên không thể tồn tại số lượng vô hạn, ông cho rằng bên ngoài thế giới chúng ta sẽ không thể nào có chân không vô hạn cũng như phương tiện vật chất vô hạn. Crescas bác bỏ điều này và cũng lưu ý một lập luận yếu khác của Aristoteles khi phủ nhận đa thế giới, rằng nguyên tố thế giới này sẽ rơi sang thế giới khác. Crescas cho rằng kể cả trong khuôn khổ lý thuyết Aristoteles, mỗi nguyên tố đều có vị trí tự nhiên riêng trong thế giới đó chứ không phải thế giới khác, cũng không thể xảy ra việc tràn ngập một nguyên tố được. Tất cả điều này đưa Crescas đến lập luận một vũ trụ vô hạn có thể chứa nhiều thế giới. Nhưng Crescas không trình bày rõ về hệ quả của nó là có vô số thế giới trong vụ trũ vô hạn, điều này chỉ đến qua nghiên cứu tái dựng của Harry Wolfson. Wolfson cũng lưu ý chi tiết Crescas coi số lượng thế giới được Talmud đề cập chỉ là một sự cường điệu.
Một trích dẫn quan trọng khác được Crescas sử dụng từ Talmud "Chúa đi qua 18 nghìn thế giới". Crescas tiên phong đưa ra ý tưởng những thế giới này được Chúa dẫn dắt. Crescas mô tả Đấng toàn năng tạo ra các thế giới từ lòng tốt và thương xót của Ngài, càng nhiều thế giới thì sự tốt lành của Chúa càng thể hiện rõ. Tuy vậy, chính Crescas lại có những chi tiết phản đối vô hạn thực tại, có thể ông đã phát triển về sau. Từ đó đưa đến kết luận rằng sự khôn ngoan của Đấng Tạo hóa đã giới hạn số lượng thế giới.
Mặc dù khả năng này [sự tồn tại của vô số thế giới] là đúng và chắc chắn, nhưng chúng ta không thể biết được bản chất thực sự của những gì bên ngoài thế giới mình bằng các phương pháp nghiên cứu hợp lý. Do vậy, các Hiền nhân Talmud bình an cho các ngài nhận ra phải cảnh báo chúng ta không nên tham gia nghiên cứu, tìm tòi "cái gì trên cái gì dưới, cái gì có trước cái gì có sau".
Khoa học và tôn giáo.
Crescas mang đến mô tả mới về liên hệ giữa khoa học và tôn giáo, hai phạm trù không đối kháng mà hợp tác với nhau. Tôn giáo được thiết kế để cải thiện không chỉ tâm hồn mà cả tâm trí, còn khoa học có thể giúp tôn giáo giải thích các điều răn. Con người không nên đọc sách Sáng thế ký qua lăng kính của lý thuyết vật lý đương thời, cũng như không nên điều chỉnh các lý thuyết vật lý phải phù hợp với Kinh Thánh.
Vật chất và hình thức.
Theo Aristoteles, vật chất có đặc tính tiềm ẩn và chỉ trở thành đối tượng thực tế khi được có hình thức làm chủ. Crescas mang lại ý tưởng vật chất phù hợp hơn, hình thức chỉ là phụ thể. Nhưng Crescas vẫn giữ lại thuật ngữ "hình thức" vì có sự khác biệt đáng kể với các phụ thể khác.
Các nguồn tham khảo triết học của Crescas.
Năm 1917, Pierre Duhem là người đầu tiên đề xuất ý tưởng Crescas chịu ảnh hưởng từ Nicole Oresme, không chỉ từ nội dung mà còn do sự gần gũi về địa lý. Cả Oresme và Crescas đều từng ở Navarra, đều phục vụ triều đình, Crescas đại diện cho Martin I còn Oresme dưới tay vua Pháp Charles V. Có thể hai người đã gặp nhau trực tiếp. Trước Crescas đến 30 năm, Nichole đã thảo luận về những vấn đề như đa thế giới và không gian, thời gian vô hạn. Luận đề của Duhem "nhà hội Do Thái chỉ phản ánh sự phát triển của chủ nghĩa kinh viện Kitô giáo" bày tỏ chắc chắn Oresme có ảnh hưởng tới Crescas, rồi từ đó tác động đến Spinoza. Nhưng có những khác biệt lớn giữa Oresme và Crescas khiến Wolfson đi đến kết luận ngược lại rằng Crescas mới là một nhà nhà tư tưởng độc đáo và sâu sắc.
Oresme đề cập về đa thế giới cả trong không gian và theo trình tự thời gian. Ông kết luận rằng chỉ có thế giới mà chúng ta biết là hiện hữu, dù cho Đấng Tối Cao có thể đã tạo ra nhiều thế giới. Crescas lại tin rằng không có đủ bằng chứng để đồng ý hoặc phủ nhận đa thế giới.
Thoạt nhìn thì có vẻ như cả hai triết gia đều có chung quan điểm về không gian, thời gian và chân không vô hạn; nhưng nghiên cứu sẽ thấy có những khác biệt cơ bản. Crescas coi không gian và thời gian là những thực tại vật lý, không gian trong và ngoài thế giới chúng ta là như nhau, thời gian cũng như nhau trong chuỗi thế giới. Không gian và thời gian là liên tục và có thể chia cắt được. Còn Oresme nói bên ngoài thế giới chúng ta chỉ có Chúa hiện hữu, thể siêu chân không là không thể chia cắt được và gắn với Chúa. Lý thuyết Oresme đề cập đến thần học hoặc chủ nghĩa thần bí nhưng không liên quan đến vật lý. Khác với Crescas, Oresme không bác bỏ học thuyết Aristoteles về không gian và thời gian, nhưng chỉ giới hạn chúng trong khuôn khổ thế giới chúng ta.
Crescas không nói đến Nichole Oresme, trong khi trích dẫn Aristoteles, Maimonides và Gersonides nhiều lần. Ngoài ra, Crescas cũng dùng các ý tưởng và tác phẩm của Avicenna, Al-Farabi, Al-Ghazali, Abraham ibn Daud, Themistius, Averroes, Ibn Baja, Al-Tabrizi, Aléxandros thành Aphrodisias, Moshe Narboni, Apollonius xứ Perga, dù không phải tất cả đều được dịch sang tiếng Hebrew cũng như Crescas không biết tiếng Hy Lạp. Ngoài ra, ông còn đề cập nhưng không nhắc đến tên "các nhà thông thái cổ đại" (có thể ám chỉ những người theo trường phái Pitago) "các bình luận gia của Aristoteles", "các triết gia khác ngoài Aristoteles", "các tác giả sau này", "một trong những bình luận gia về Người hướng dẫn", "học trò của Avicenna và Al-Ghazali".
Các nhà nghiên cứu hiện đại cũng nhận thấy quan điểm Crescas về thuyết tất định và ý chí tự do chịu ảnh hưởng từ Duns Scotus#đổi và Aber xứ Burgos. Ảnh hưởng của Tôma Aquinô cũng được ghi nhận, đặc biệt trong học thuyết tình yêu.
Crescas không để lại bộ đáp từ (responsa) hay các tác phẩm khác về halacha (luật học Do Thái) nào. Dầu vậy, những quyết định của ông được các nhà halacha nhiều lần trích dẫn như Joseph ibn Habib (trong "Nimukei Yosef") và Rivash. Crescas tác động mạnh nhất đến những học trò thân cận, nổi tiếng nhất là Josef Albo. Spinoza đã đọc bản gốc nguyên văn của Crescas và mô tả lại bằng chứng siêu hình về sự tồn tại của Chúa theo Crescas trong "Thư về vô hạn". Bằng nhiều cách, Crescas có lẽ đã góp phần vào việc Spinoza phê bình Aristoteles. Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu cho rằng việc Crescas mô tả không gian trống rỗng bao trùm tất cả các vật thể, ẩn dụ với Chúa là bước đầu tiên hướng tới hệ thống Spinoza xây dựng. Trong đó, Chúa cũng là một thực thể, có thuộc tính mở rộng. Bản chất vấn đề này được Crescas tiến hành đối chứng và hiểu theo nghĩa đen.
Gianfrancesco Pico della Mirandola mô tả lại Crescas trong "Examen vanitatis doctrinæ gentium" ("Khảo sát tính vô ích của giáo lý Dân Ngoại"), dù chưa rõ ông tiếp cận với các tác phẩm Crescas như thế nào. Wolfson tin rằng sự phê bình Aristoteles của Crescas còn tạo ra âm hưởng cho Giordano Bruno. Học giả lịch sử triết học Shlomo Pines đồng thời là dịch giả bản tiếng Anh cổ điển của "Maimonides' Guidebook" ("Sách hướng dẫn Maimonides") không chút nghi ngờ mà tuyên bố Crescas là một trong những nhà tư tưởng đã dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa Aristoteles ở châu Âu.
Tác phẩm "Đối thoại về tình yêu" của Judah Leon Abravanel chịu ảnh hưởng trực tiếp từ lời dạy của Crescas về tình yêu thiên thượng, đồng thời mở rộng sang phạm vi ái tình nam nữ.
Ảnh hưởng của Crescas được ghi nhận trong sự phát triển lý thuyết sephirot của những nhà Kabbalah như Meir ibn Gabbai.
Người sáng lập phong trào Haskalah Moses Mendelssohn, đề cập đến Crescas trong tác phẩm "Jerusalem" như một triết gia tôn giáo vĩ đại với thành tựu cho thấy các điều răn giới luật chỉ tác động, điều chỉnh đến hành vi, hành động con người (mà không phải là đức tin).
Về phía đối lập lại với Crescas, đáng chú ý là những người ủng hộ Maimonides như Abrabanel và , cũng như Shimon ben Zemach Duran (Rashbats). Tuy phản đối nhưng họ vẫn dành sự tôn trọng đặc biệt với Crescas.
Trong vai trò lãnh đạo, Crescas được chính sử lẫn văn hóa dân gian đánh giá cao. Thậm chí có truyền thuyết về việc ông cầu nguyện được mưa xuống. Rabbi Yosef ben Jaavetz có cuốn sách phản triết học "Ánh sáng cuộc đời" tỏ sự khen ngợi đối với Crescas. Rabbi Yitsḥaḳ ben Mosheh (bút danh Efodi) dâng tặng cuốn sách "Nỗi hổ thẹn của các dân tộc" lên cho Crescas.
Càng về sau lại càng có nhiều người quan tâm đến những giảng dạy của Crescas. Năm 1920, chuyên khảo đầu tiên bằng tiếng Anh về Crescas của Meyer Waksman "#đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
" được xuất bản, trong đó tuyên bố Crescas không thua kém Maimonides về năng lực và chiều sâu phân tích. Tiếp đến là nghiên cứu cơ bản của Harry Wolfson xác nhận Crescas đã hình thành nên một thế giới quan mới. Trong bộ bốn tập "#đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
" của Simcha Bonam Orbach dành hẳn một tập để nói về Crescas, gọi triết lý của ông là thành quả chín muồi nhất của tư tưởng Do Thái trung cổ. Năm 1971, giáo sư triết học Do Thái Eliezer Schweid viết trong lời tựa cho bản phục chế ấn bản in đầu tiên "Or Adonai" "Crescas đóng mang biểu tưởng triết gia nguyên bản và vĩ đại, không thua kém mà còn vượt hơn Maimonides về sự táo bạo và mới lạ trong phê bình". Giáo sư Zvi Langerman trích dẫn và ủng hộ "quan điểm đã có từ lâu rằng sự phê phán Aristoteles của Crescas là một bước ngoặt trong lịch sử khoa học".
Ngày 10-11 tháng 1 năm 2011, Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử Do Thái Zalman Shazar ở Jerusalem tổ chức hội thảo "Rabbi Hasdai Creskas – Triết gia và Nhà lãnh đạo". Ngày 12 tháng 1, sau khi hội nghị kết thúc, thành phố Jerusalem đã chính thức long trọng khai trương con phố mang tên Hasdai Crescas. Trước đó tại Tel Aviv cũng đã có một đường phố mang tên ông. |
Hải Nguyệt là bộ phim điện ảnh chính kịch của Việt Nam năm 1998, phim do NSƯT Minh Ngọc viết kịch bản và NSƯT Trần Mỹ Hà đạo diễn. Nhân vật Hải Nguyệt là vai chính đầu tiên của Hồng Ánh trong một phim điện ảnh, cùng với các diễn viên Quang Hải, NGƯT Mạnh Dung, Hoài An, Ánh Hoa.
Cuối năm 1995, khu tham gia đóng phim "Mùa hoa cúc quỳ", nhà biên kịch Nguyễn Thị Minh Ngọc đã viết kịch bản "Hải Nguyệt".; phim lấy bối cảnh một làng nghề làm mắm truyền thống tại Phan Thiết.
Hải Nguyệt - một cô gái sinh ra từ gia đình có ba đời làm nước mắm. Sau ngày đất nước giải phóng, trước những biến động thời cuộc, ông Hải Hương đưa cả gia đình “vượt biên” ra nước ngoài. Trong giây phút căng thẳng nhất, Hải Nguyệt đã quyết định ở lại quê nhà với bà cố. Vượt qua nhiều khó khăn với nền kinh tế và chính sách mới, dù trắng tay, cô vẫn quyết tâm vươn lên gìn giữ nghề làm nước mắm truyền thống của gia đình, của quê hương.
Năm 1998, bộ phim được gửi đi tham dự Liên hoan phim Châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 43 tại Đài Bắc.
Sau 4 đợt chiếu tại thành phố Hồ Chí Minh, bộ phim thu về 67 triệu VNĐ, một kết quả khá thấp khi thời điểm đó, doanh số của phim chiếu rạp tại thành phố Hồ Chí Minh chiếm 80% của cả nước. |
Chương trình Constellation (viết tắt là CxP) là một chương trình du hành không gian có người lái do NASA phát triển từ năm 2005 đến 2009. Mục tiêu chính của chương trình là "hoàn thành Trạm vũ trụ Quốc tế" và "quay trở lại Mặt Trăng trước năm 2020" với mục tiêu cuối cùng là thực hiện chuyến bay có người lái tới Sao Hỏa. Logo của chương trình phản ánh ba giai đoạn của chương trình: Trái Đất (ISS), Mặt Trăng và cuối cùng là Sao Hỏa—trong khi mục tiêu liên quan đến Sao Hỏa cũng được thể hiện trong những cái tên được đặt cho các tên lửa đẩy của chương trình: Ares (tương đương với thần Mars (tên của Sao Hỏa trong tiếng Anh)). Các mục tiêu công nghệ của chương trình bao gồm việc lấy lại trải nghiệm của phi hành gia ngoài quỹ đạo Trái Đất tầm thấp và phát triển các công nghệ cần thiết để cho phép sự hiện diện bền vững của con người trên các hành tinh khác. |
Trương Vĩnh Lễ (ngày 13 tháng 5 năm 1914 – ngày 23 tháng 10 năm 2011) là chính trị gia, một doanh nhân Việt Nam Cộng hòa từng một thời giữ chức Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Cộng hòa.
Trương Vĩnh Lễ sinh ngày 13 tháng 5 năm 1914 tại Sóc Trăng, Nam Kỳ thuộc Liên bang Đông Dương. Ông xuất thân trong một gia đình Công giáo theo nghề báo chí và xuất bản, đồng thời ông cũng là chắt của Trương Vĩnh Ký. Ông đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành chính trị, kinh tế và quản trị kinh doanh.
Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông từng làm dân biểu Quốc hội đại diện đơn vị 4 rồi 5 thuộc tỉnh Gia Định với tư cách là đảng viên Tập đoàn Công dân Vụ. Trong Quốc hội khóa 1, ông là phó lãnh đạo khối đa số, rồi đến năm 1957 ông trở thành phó chủ tịch thứ hai. Trong Quốc hội khóa 2 (1959–1963) ông giữ chức Chủ tịch Quốc hội cho đến lúc xảy ra cuộc đảo chính năm 1963 khiến Tổng thống Ngô Đình Diệm bị bắt giữ và sát hại. Sau biến cố năm 1963, chính phủ mới của Tướng Dương Văn Minh liền phong tỏa khối tài sản của ông.
Năm 1971, Nguyễn Cao Kỳ và Trương Vĩnh Lễ cùng nộp đơn tranh cử trong cuộc tuyển cử năm 1971. Sau đó, cả hai người bèn tuyên bố rút khỏi cuộc tuyển cử này, khiến liên danh lúc đấy của Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương trở thành liên danh ứng cử viên duy nhất. Nguyễn Văn Thiệu tái đắc cử chức Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 100% phiếu bầu trong cuộc bầu cử ngày 2 tháng 10 năm đó.
Trương Vĩnh Lễ từng có thời giữ chức Tổng Giám đốc Công ty In ấn Sài Gòn, và xuất bản tờ "Thời báo Đông Dương" ("Le Temps d'Indochinese"), tuần báo "Viễn Đông" ("Extreme Asie") và tuần báo "Diễn đàn chính đảng". Ông còn làm chủ tịch Nhóm Công dân Việt Nam, chủ tịch Chi nhánh Việt Nam của Liên minh Nghị viện và Liên minh Nhân dân châu Á chống Cộng sản vào năm 1963. Về tổ chức xã hội thì ông cũng là chủ tịch Câu lạc bộ Rotary Sài Gòn và chủ tịch Hiệp hội Việt – Pháp.
Ông qua đời ngày 23 tháng 10 năm 2011 tại Paris, Pháp.
Trương Vĩnh Lễ theo tín ngưỡng Công giáo. Ông đã kết hôn và có ít nhất bảy người con. |
The One with the Embryos
"The One with the Embryos" là tập thứ mười hai, mùa thứ tư của loạt phim truyền hình hài kịch tình huống Mỹ "Những người bạn". Tập phim được phát sóng lần đầu trên kênh NBC ở Mỹ vào ngày 15 tháng 1 năm 1998. Trong tập này, Phoebe (Lisa Kudrow) đồng ý mang thai hộ cho vợ chồng em trai Frank Jr. (Giovanni Ribisi) và Alice Knight (Debra Jo Rupp). Trong khi đó, một cốt truyện khác về việc Chandler (Matthew Perry) và Joey (Matt LeBlanc) biết rõ về Monica (Courteney Cox) và Rachel (Jennifer Aniston) như thế nào bằng cách đoán các món đồ trong túi mua sắm của họ, dẫn đến một cuộc thi đố vui cá cược mà Ross (David Schwimmer) làm quản trò.
Tập phim do Kevin S. Bright đạo diễn và Jill Condon và Amy Toomin đồng biên kịch. Ý tưởng để nhân vật Phoebe của Kudrow làm người mang thai hộ trùng với thời điểm nữ diễn viên mang thai ngoài đời thực. Các nhà sản xuất muốn tìm cách sử dụng việc Kudrow mang thai cho một cốt truyện cho mùa thứ tư và giao nhiệm vụ cho các nhà biên kịch. Ribisi và Rupp lần lượt thể hiện lại các vai diễn của họ là Frank Jr. và Alice, điều này ban đầu khó khăn vì cả hai đều có cam kết quay phim.
Tập phim đã nhận được sự hoan nghênh của giới phê bình, thường được xem là một trong những tập hay nhất của toàn bộ loạt phim và được các diễn viên và nhà sản xuất của đoàn làm phim yêu thích. Năm 2009, "The One with the Embryos" xếp thứ 21 trong danh sách "100 tập phim hay nhất mọi thời đại" của "TV Guide".
Trong lần phát sóng đầu tiên, "The One with the Embryos" xếp thứ tư trong tuần từ ngày 12 tháng 1 đến ngày 18 tháng 1 năm 1998, với rating Nielsen là 17,3, tương đương với khoảng 16,8 triệu lượt xem hộ gia đình. Đây là chương trình được xếp hạng cao thứ tư trên NBC trong tuần đó, sau "ER", "Seinfeld" và "Veronica's Closet" – tất cả đều được phát sóng trong danh sách Must See TV vào tối thứ năm của kênh.
"The One with the Embryos" là tập phim yêu thích nhất của Courteney Cox và Matt LeBlanc trong toàn loạt phim. Cảnh Phoebe nói chuyện với phôi là cảnh yêu thích của Kevin S. Bright trong lịch sử của chương trình vì khả năng của Kudrow "lôi kéo bạn vào cảnh quay ... mặc dù chỉ có cô ấy nói chuyện với cái đĩa". David Crane nhắc đến cách tập phim khám phá sự hào phóng; thực hiện một hành động vị tha đã được đền đáp khi Phoebe sinh con trong "The One Hundredth". Ngoài ra, Bright còn cảm thấy cuộc thi đố vui là chất xúc tác làm trẻ hóa toàn bộ mùa thứ tư.
Trong một bài đánh giá năm 2001, "Entertainment Weekly" đã cho tập phim đánh giá A+ và nói rằng "Chỉ nhờ cuộc thi đố vui, Embryos có lẽ là khoảnh khắc hay nhất của Friends". Bài viết chỉ ra câu thoại của Rachel "Anh ấy là một transpon-transpondster!" (trả lời câu hỏi "Công việc của Chandler Bing là gì?") là câu thoại hay nhất của tập phim. Các tác giả của "Friends Like Us: The Unofficial Guide to Friends" gọi đây là "ứng cử viên chắc chắn cho tập phim hay nhất mọi thời đại ... không thể không nhắc đến". Vào năm 2004, Tara Ariano của MSNBC.com viết rằng thông tin về các nhân vật "được tiết lộ một cách hài hòa với cốt truyện. Được viết và diễn xuất đẹp mắt, 'The One With The Embryos' gói gọn toàn bộ loạt phim trong một tập duy nhất". Tập phim được xếp thứ 21 trong danh sách "100 tập phim hay nhất mọi thời đại" của "TV Guide".
Trong một bài viết năm 2018 kỷ niệm 20 năm ngày ra mắt tập phim, "TV Guide" đã nói đây là tập hay nhất của loạt phim và là ""Những người bạn" ở thời đỉnh cao." Kauffman cho biết cô ấy hy vọng "di sản của tập phim là những gì mọi người sẽ nhắc đến khi nói về loạt phim, đó là sự hài hước, chân thực và ngọt ngào." |
Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp
Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp là một khu rừng đặc dụng ở huyện Sốp Cộp, Sơn La.
Lịch sử hình thành.
Sốp Cộp có tên trong Quyết định số 194/CT ngày 09/08/1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là khu bảo tồn thiên nhiên với diện tích 5.000 ha (Bộ NNPTNT, 1997). Năm 1993, dự án đầu tư thành lập khu bảo tồn đã được Chi cục Kiểm lâm Sơn La soạn thảo. Sau đó, dự án này được UBND tỉnh Sơn La phê duyệt (Chi cục Kiểm lâm Sơn La, 2000). Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên được thành lập năm 2002 theo Quyết định số 3440/QĐ-UB của UBND tỉnh Sơn La (Chi cục Kiểm lâm Sơn La, 2003). Hiện nay Ban quản lý có 22 cán bộ, 5 trạm bảo vệ và thuộc sự quản lý của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Sơn La (2003). Theo Chi cục Kiểm lâm Sơn La (2000), tổng diện tích Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp là 27.886 ha, bao gồm phân khu bảo vệ nghiêm ngặt 12.784 ha và phân khu phục hồi sinh thái 15.102 ha. Ngoài ra, vùng đệm của khu bảo tồn có diện tích 26.578 ha (Chi cục Kiểm lâm Sơn La, 2003). Sốp Cộp có trong danh lục các khu rừng đặc dụng Việt Nam đến năm 2010 được xây dựng bởi Cục Kiểm lâm - Bộ NNPTNT với diện tích 27.886 ha (Cục Kiểm lâm, 2003).
Địa hình và thủy văn.
Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp nằm trong địa bàn 2 huyện Sông Mã và Sốp Cộp thuộc vùng núi tây bắc Việt Nam. Địa hình khu bảo tồn thuộc vùng đồi núi, dốc, trên đai cao từ 450 đến 1.940 m. Khu bảo tồn nằm trong lưu vực có các nguồn nước đổ về sông Mã.
Đa dạng sinh học.
Số liệu viễn thám cho thấy rừng tự nhiên ở Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp đã bị phát quang nhiều và thay vào đó là thảm cây bụi. Tuy nhiên, vẫn còn các vùng rừng thường xanh tồn tại trên các đai cao. Khu hệ động vật Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp trước đây có tính đa dạng cao và độ phong phú các loài thú lớn, trong những năm 1950 đã từng có loài tê giác. Tuy thế, sự đa dạng của khu hệ động vật trong vùng đã bị giảm sút trong những năm gần đây do công tác quản lý yếu kém. Chẳng hạn, năm 1975 có 77 con Voi Elephas maximus được ghi nhận tại đây, con số này đã bị giảm xuống còn 17 con vào năm 1986 và chỉ còn 3 con vào năm 1997. Tương tự như thế đối với sự suy giảm loài Bò tót Bos gaurus.
Các vấn đề về bảo tồn.
Các mối đe dọa chủ yếu đối với đa dạng sinh học Khu bảo tồn thiên nhiên Sốp Cộp là mất sinh cảnh, săn bắn và khai thác gỗ. Săn bắn đặc biệt nguy hại đến các quần thể động vật. Ví dụ, trong 6 tháng đầu năm 1992, người ta ước tính rằng có khoảng 1.000kg động vật hoang dã (chủ yếu là rùa và nhím) đã bị săn bắt bởi dân làng Dom Cang, những người sống ở bên ngoài ranh giới khu bảo tồn. |
Neuherberg là một địa điểm thuộc Oberschleißheim ở bìa phía bắc của München.
Neuherberg nằm về phía đông nam trong xã Oberschleißheim: giữa Panzerwiese ở phía tây và Fröttmaning ở phía đông và nam (khúc đường Ingolstädter Straße dẫn tới Ingolstädter Landstraße (B 13)).
Khi tuyển hầu tước Maximilian mở rộng sở hữu Schleißheim đầu thế kỷ 17, ông ta mua thêm Neuherberg.
Khoảng 1800 làng này chỉ có 3 nông trai và một quán ăn trên con đường dẫn tới Pfaffenhofen.
Năm 1964, phía bắc của làng,"Gesellschaft für Strahlenforschung (GSF)" (Tổ chức nghiên cứu bức xạ) thành lập một hãng bây giờ là Helmholtz-Zentrum München.
Năm 2017 trên mảnh đất của Trại lính Fürst-Wrede "Leistungszentrum (trung tâm huấn luyện) của FC Bayern München" được thành lập. |
vùng Libertador General Bernardo O'Higgins (, [liβeɾtaˈðoɾ xeneˈɾal βeɾˈnaɾðo oˈçiɣins]), thường gọi tắt là vùng O'Higgins (), là một trong 16 đơn vị hành chính cấp một của Chile. Vùng được phân thành ba tỉnh. Vùng được tên theo Bernardo O'Higgins Riquelme, một trong những người khai quốc của Chile.
Vùng Libertador General Bernardo O'Higgins giáp với Argentina ở phía đông, phía bắc là vùng Valparaíso và vùng đô thị Santiago, và phía nam là vùng Maule. Vùng trải dài giữa các vĩ tuyến 33° 51' và 35° 01' Nam, và giữa kinh tuyến 70° 02' tây và Thái Bình Dương.
Thủ phủ và thành phố lớn nhất là của vùng là Rancagua. Đô thị lớn thứ hai là San Fernando.
Vào thời tiền kỷ Đệ tứ, các khu rừng cử phương nam rộng lớn bao phủ phần lớn vùng Libertador General Bernardo O'Higgins.
Vùng Libertador General Bernardo O'Higgins nằm trong phạm vi rất hạn chế của loài cọ vang Chile "Jubaea chilensis" đang có nguy cơ tuyệt chủng; vào thời tiền sử loài này có phạm vi rộng hơn đáng kể.
Từ năm 9000 TCN đến năm 300 TCN (giai đoạn cổ xưa), loài người cư trú trong khu vực đã di chuyển giữa vùng bờ biển và thung lũng cũng như dãy Andes. Trong các di chỉ như Pichilemu, Cáhuil and Bucalemu, họ để lại các lớp vật thải hoặc vỏ sò làm bằng chứng cho các cuộc tấn công của họ. Trong giai đoạn Agroalfarero (300 TCN - 1470), các cư dân trải qua các thay đổi về phương thức sinh hoạt, quan trọng nhất là trồng rau và chế tạo các đồ vật bằng đất sét. Từ năm 600 trở đi, họ bắt đầu trồng đậu, ngô, bí, bí đỏ và diêm mạch. Ngoại trừ diêm mạch và một số loại ngô thì các cây trồng cần được tưới tiêu, điều này thúc đẩy họ di chuyển đến ven bờ sông suối. Trong giai đoạn này, các nhóm người sống trong các ngôi nhà Quincha có mái lợp rơm, ở bên các kênh tưới tiêu và cây vườn, một phong cách sinh hoạt được cho là của người Promaucaes hoặc Picunches hay là Chiquillanes. Trong thời kỳ thực dân (1541- 1811), người Tây Ban Nha thống trị khu vực, và hệ thống trang trại chăn nuôi chiếm ưu thế.
Vùng Libertador General Bernardo O'Higgins bao gồm một bộ phận đông đảo dân số nông thôn (chỉ thấp hơn Maule). Trong số các thành phố đông dân, Rancagua (206.971 dân) nổi bật vì được chuyển đổi gần đây thành một khu ngoại ô của Santiago, cách thủ đô 87 km về phía nam. Thành phố là thủ phủ của tỉnh Cachapoal cũng như của vùng Libertador General Bernardo O'Higgins. Theo điều tra nhân khẩu năm 2002, các thành phố đông dân khác là: San Fernando (49.519 cư dân); Rengo (30.891); Machalí (23.920); Graneros (21.616); San Vicente de Tagua Tagua (18.914); Santa Cruz (18.603); Chimbarongo (13.795); Pichilemu (12.392), một thành phố nghỉ dưỡng biển được Agustin Ross Edwards thành lập vào cuối thế kỷ 19; và San Francisco de Mostazal (12.037).
Hoạt động công nghiệp và xuất khẩu chính diễn ra tại mỏ El Teniente của CODELCO, nó chiếm 7,7% sản lượng đồng của Chile. Quặng được chế biến trong các nhà máy cô đặc Sewell và Colón, nấu chảy và tinh chế tại Caletones, và được vận chuyển đến cảng San Antonio thuộc vùng Valparaíso. Các sản phẩm phụ gồm có molybden và bạc.
Nông nghiệp đóng góp 30,1% GDP của vùng. Một phần tư diện tích vườn trái cây của Chile là ở vùng Libertador General Bernardo O'Higgins. Các cây trồng chính là táo và lê, tiếp đến là nho, mận, dương đào và xuân đào.
Hoạt động sản xuất trong vùng chủ yếu liên quan đến khai mỏ đồng, kinh doanh nông nghiệp, thực phẩm và đồ uống. Một lĩnh vực tăng trưởng cụ thể là sản xuất nước trái cây và và trái cây sấy khô.
Trong vài năm qua, đã có sự phát triển đáng kể trong lĩnh vực lâm nghiệp, đặc biệt là rừng trồng bạch đàn và thông radiata.
Để phục vụ cho hành chính nội bộ, vùng Libertador General Bernardo O'Higgins được phân chia thành ba tỉnh:
Các tỉnh được phân chia thành 33 xã.
Vùng được mệnh danh là "miền huaso" theo tên của cao bồi Chile. Thắt lưng và khăn choàng là những vật dụng truyền thống của trang phục huaso, chúng được dệt ở Doñihue trên những khung cửi thẳng nặng nề. Các thiết kế mô phỏng lá nho, chùm nho, cây thông và hoa chuông. Các kiểu dáng sọc màu khác được dệt trên khung dệt ngang.
Cư dân trong vùng có sự pha trộn của chủng tộc và văn hóa người gốc Âu ( bao gồm di dân Argentina) và người da đỏ, do đó khu vực có một văn hóa đồng nhất gọi là "Chileanidad" vào thời hiện đại và dấu ấn mestizo là rõ ràng.
Vùng Libertador General Bernardo O'Higgins có người định cư Tây Ban nha (nổi bật là người Andalusia, Basque, Aragon và Navarre) và người gốc Âu khác. Các gia đình gốc Pháp và Ý lập ra ngành nông nghiệp, bao gồm ngành rượu vang quan trọng: Con đường Rượu vang là một trong các điểm thu hút du lịch chính của thung lũng Colchagua. Các nhà máy bia cũng có thể được tìm thấy, đó là di sản của người Đức và Thụy Sĩ nhập cư. Chăn nuôi gia súc chịu ảnh hưởng đặc biệt của người định cư gốc Anh, Hy Lạp và Nam Tư. |
Vòng loại Cúp bóng đá U-17 nữ châu Á 2024
Vòng loại Cúp bóng đá U-17 nữ châu Á 2024 sẽ là cuộc thi bóng đá dành cho lứa tuổi dưới 17 nữ sẽ xác định các đội tham dự Cúp bóng đá U-17 nữ châu Á 2024 giải đấu cuối cùng. Người chơi sinh vào hoặc sau ngày 1 tháng 1 năm 2007 đủ điều kiện tham gia.
Tổng cộng có tám đội sẽ đủ điều kiện để chơi trong giải đấu cuối cùng. Nước chủ nhà và ba đội hàng đầu của giải đấu trước đó trong 2019 sẽ tự động vượt qua vòng loại, trong khi bốn đội còn lại sẽ được quyết định theo vòng loại.
Sẽ có hai vòng các trận đấu vòng loại, với vòng đầu tiên dự kiến diễn ra từ ngày 22–30 tháng 4 năm 2023 và vòng thứ hai ban đầu dự kiến diễn ra từ ngày 16–24 tháng 9 năm 2023.
Trong số 47 hiệp hội thành viên của AFC, có tổng cộng 29 đội tham gia cuộc thi, với Nhật Bản, Bắc Triều Tiên và Trung Quốc tự động đủ điều kiện tham dự giải đấu cuối cùng với vị trí là ba đội hàng đầu của 2019 và do đó không tham gia vòng loại. Lễ bốc thăm cho vòng đầu tiên của vòng loại được tổ chức vào ngày 3 tháng 11 năm 2022, lúc 16:00 MAS (), tại AFC House ở Kuala Lumpur, Malaysia.
29 đội được chia thành 5 bảng 4 đội và 3 bảng 3 đội, với các đội được xếp hạt giống theo thành tích của họ ở vòng chung kết 2019 và vòng loại 2019 Một hạn chế khác cũng được áp dụng, với tám đội đóng vai trò là chủ nhà của nhóm đủ điều kiện được chia thành các nhóm riêng biệt.
Điều kiện tham gia giải đấu.
Người chơi sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 2007 đến ngày 31 tháng 12 năm 2009 đủ điều kiện tham gia giải đấu.
Ở mỗi bảng, các đội đấu với nhau một lần tại một địa điểm tập trung.
Các đội tuyển được xếp hạng theo điểm (3 điểm cho 1 trận thắng, 1 điểm cho 1 trận hòa, 0 điểm cho 1 trận thua), và nếu tỷ số hòa bằng điểm, các tiêu chí tiêu chuẩn sau đây và được áp dụng, theo thứ tự được đưa ra, để xác định xếp hạng (Quy định mục 9.3)
Vòng đầu tiên sẽ diễn ra từ ngày 22 đến ngày 30 tháng 4 năm 2023.
Lễ bốc thăm cho vòng thứ hai của vòng loại sẽ được tổ chức sau khi hoàn thành vòng đầu tiên , tại AFC House ở Kuala Lumpur, Malaysia.
Đối với vòng thứ hai, tám đội sẽ được chia thành hai bảng bốn đội. Các đội sẽ được xếp hạt giống theo thành tích của họ trong giải đấu chung kết 2019 và vòng loại.
Vòng thứ hai sẽ diễn ra từ ngày 16 đến ngày 24 tháng 9 năm 2023.
Đội đủ điều kiện.
Tám đội sau đủ điều kiện tham dự giải đấu cuối cùng.
1 Đậm chỉ nhà vô địch của năm đó. "In nghiêng" cho biết máy chủ của năm đó.
Cầu thủ ghi bàn. |
Xiaohongshu (, Hán Việt: Tiểu Hồng Thư) là một phương tiện truyền thông xã hội và nền tảng thương mại điện tử. Xiaohongshu được coi sự thay thế của Instagram ở Trung Quốc..
Trụ sở của Xiaohungshu ở Hoàng Phố, Thượng Hải.
Xiaohongshu được thành lập bởi Miranda Qu và Charlwin Mao vào năm 2013, với tư cách là hướng dẫn viên du lịch trực tuyến cho người mua sắm Trung Quốc, cung cấp nền tảng để người dùng đánh giá sản phẩm và chia sẻ trải nghiệm mua sắm của họ với cộng đồng. Vào tháng 10 năm 2014, những người sáng lập bắt đầu tập trung vào việc kết nối người tiêu dùng Trung Quốc với các nhà bán lẻ toàn cầu và thành lập nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới của riêng mình, nơi người tiêu dùng Trung Quốc có thể mua sản phẩm từ nước ngoài và đặt hàng trực tiếp.
Vào năm 2015, Xiaohongshu đã thành lập kho hàng của mình tại Thâm Quyến, Quảng Đông và Trịnh Châu, Hà Nam.
Đến tháng 5 năm 2017, Xiaohongshu đã có hơn 50 triệu người dùng, với doanh thu gần 10 tỷ nhân dân tệ, khiến nó trở thành một trong những nền tảng thương mại điện tử cộng đồng lớn nhất thế giới. Hệ thống hậu cần quốc tế của Xiaohongshu REDDelivery đã đi vào hoạt động trong tháng. Vào ngày 6 tháng 6 năm đó, Xiaohongshu đã tổ chức một lễ hội mua sắm để kỷ niệm 4 năm thành lập, doanh thu bán hàng đã vượt quá 100 triệu nhân dân tệ trong 2 giờ, trong khi ứng dụng được xếp ở vị trí đầu tiên trong Cửa hàng ứng dụng iOS trong danh mục "Mua sắm" trong thời gian đó.
Vào tháng 6 năm 2018, Xiaohongshu đã hoàn thành khoản tài trợ 300 triệu đô la Mỹ do Alibaba và Tencent dẫn đầu, với mức định giá 3 tỷ đô la Mỹ.
Do nền tảng sớm tập trung vào các xu hướng thời trang và làm đẹp nên cơ sở người dùng của Xiaohongshu chủ yếu là nữ trong những năm đầu thành lập. 90% người dùng Xiaohongshu là phụ nữ, theo một báo cáo được công bố vào tháng 4 năm 2021. Ứng dụng này đã thu hút người dùng nữ Gen Z giàu có ở thành thị Trung Quốc như một giải pháp thay thế cho Instagram, vốn bị chặn ở quốc gia này. Xiaohongshu sau đó đã điều chỉnh chiến lược công ty của mình để thu hút nhiều người dùng nam hơn nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng. Vào năm 2021, họ đã thông báo rằng nền tảng này sẽ quảng bá nội dung của người dùng nam. Xiaohongshu cũng bắt đầu tăng cường quảng cáo trên các không gian trực tuyến tập trung vào nam giới, chẳng hạn như diễn đàn thể thao Hupu với khẩu hiệu quảng cáo, “Các quý cô xinh đẹp đều có mặt trên Xiaohongshu, xem miễn phí mà không tốn bất kỳ khoản tiền nào!”, trong khi một quảng cáo khác của Xiaohongshu hiển thị trên diễn đàn trang Baidu Tieba viết, “Những người mẫu xe hơi quyến rũ, xinh đẹp và những người đẹp sành điệu đang chờ đợi bạn.”
Vào tháng 10 năm 2021. Xiaohongshu quyết định chuyển IPO từ Hoa Kỳ sang Hồng Kông. Theo báo cáo của Bloomberg vào tháng 7, điều này bao gồm việc yêu cầu tất cả các công ty nắm giữ hơn 1 triệu dữ liệu người dùng phải gửi đánh giá an ninh mạng, đây là một trong những lý do khiến Xiaohongshu bị đình chỉ niêm yết tại Hoa Kỳ.
Kể từ ngày 15 tháng 3 năm 2022, Xiaohongshu đã ra mắt nút đóng thuật toán, cho phép người dùng tắt "đề xuất được cá nhân hóa" trong nền chỉ bằng một cú nhấp chuột.
Vào cuối năm 2019, Xiaohongshu bắt đầu thử nghiệm nền tảng phát trực tiếp và sẽ chính thức ra mắt phát trực tiếp với thương mại vào tháng 1 năm 2021. |
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 được tổ chức từ ngày 15 đến 22 tháng 3 năm 1988 tại Đà Nẵng với khẩu hiệu "Vì sự sáng tạo nghệ thuật và hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa, vì sự phát triển của nền điện ảnh dân tộc". Không chỉ là kỳ liên hoan phim chào mừng 35 năm thành lập ngành ngành điện ảnh Việt Nam, đây còn là liên hoan phim quốc gia đầu tiên được tổ chức tại một thành phố Trung Bộ. Có tất cả 4 giải Bông sen và 4 giải Đặc biệt của ban giám khảo được trao cho hạng mục phim truyện, nhưng đã gây ra rất nhiều ý kiến trái chiều xung quanh kết quả. Đây cũng là liên hoan phim gây ra nhiều tranh cãi nhất kể từ lần đầu tiên tổ chức.
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 8 là liên hoan phim mở đầu cho một thời kỳ mới của điện ảnh Việt Nam khi Nhà nước không còn bao cấp toàn bộ cho điện ảnh, các hãng phim và công ty điện ảnh chuyển sang cơ chế hạch toán – kinh doanh, phim thị trường bắt đầu xuất hiện và phát triển mạnh sau đó.
Sáng ngày 4 tháng 3 năm 1988, ban tổ chức đã thông báo trước báo giới trong nước và nước ngoài về liên hoan phim này. Đây là lần thứ 8 Liên hoan phim Việt Nam được tổ chức, cũng là kỷ niệm 35 năm ngày thành lập ngành Điện ảnh Việt Nam theo sắc lệnh số 147/SL ngày 15 tháng 3 năm 1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong kỳ liên hoan phim này, có 8 đơn vị sản xuất phim nội địa tham gia bao gồm: Xí nghiệp Phim truyện Việt Nam, Xí nghiệp phim Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, Xí nghiệp Phim hoạt hình Việt Nam, Xí nghiệp Phim tài liệu và khoa học trung ương (nay là Hãng phim Tài liệu và Khoa học trung ương), Xí nghiệp phim truyện Thành phố Hồ Chí Minh, Xưởng phim Quân đội, Điện ảnh Bộ đội biên phòng, Điện ảnh Công an nhân dân. Không chỉ có các đơn vị sản xuất phim trong nước, liên hoan phim lần này còn có các đoàn điện ảnh từ Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Cuba và Tiệp Khắc đến tham dự.
Có tất cả 103 bộ phim tham gia tranh giải trong liên hoan, gồm 17 bộ phim truyện, 52 bộ phim tài liệu khoa học, 22 bộ phim hoạt hình và 12 bộ phim thiếu nhi. Xí nghiệp Phim truyện Việt Nam mang đến liên hoan phim 10 bộ, trong đó có bộ phim 2 tập "Hoàng Hoa Thám". Xưởng phim Quân đội cũng mang đến dự thi 10 bộ bao gồm: "Ca-chu-sa Việt Nam", "Thành trì", "Vang mãi lời thề quyết tử", "Nhịp sống mặt trận", "Đỉnh núi", "Ngôi sao không tắt", "Nơi ấy Trường Sa", "Màu xanh Trường Sa", "Mấy thành tựu phẫu thuật tạo hình" và "Vũ khí tự làm của toàn dân đánh giặc".
Ngày 15 tháng 3, lễ khai mạc liên hoan phim được diễn ra tại Nhà hát Trưng Vương của thành phố Đà Nẵng. Đây là lần đầu tiên liên hoan phim quốc gia được tổ chức tại một tỉnh thuộc khu vực miền Trung, sau 4 lần tổ chức ở Hà Nội, 2 lần ở Thành phố Hồ Chí Minh và 1 lần ở Hải Phòng. Bộ phim được chọn để chiếu mở màn là "Những mảnh đời rừng" của đạo diễn Trần Vũ và Jörg Foth. Đây là bộ phim truyện hợp tác Đức–Việt Nam đầu tiên, do Hãng phim truyện DEFA và Xí nghiệp Phim truyện Việt Nam tại Hà Nội sản xuất. Kết thúc liên hoan phim, có tất cả 11 giải Bông sen vàng được trao, 6 giải cho các phim Việt Nam bao gồm 2 phim điện ảnh, 1 phim tài liệu phóng sự, 1 phim khoa học và 2 phim hoạt hình, 5 giải trao cho các nhà làm phim quốc tế có tác phẩm xuất sắc về Việt Nam. Bên cạnh đó, có 11 bộ phim được trao giải Bông sen bạc và 12 bộ phim được trao giải đặc biệt của ban giám khảo. Trong số 4 bộ phim truyện nhận được giải đặc biệt, "Cơn lốc đen" trên danh nghĩa là bộ phim do Thụy Vân đạo diễn, nhưng trên thực tế đạo diễn Khánh Dư mới là người trực tiếp chỉ đạo. Trong kỳ liên hoan phim này, nghệ sĩ Khánh Dư cũng nằm trong ban giám khảo mục phim truyện, vì vậy ông đã công bố điều này và xin không tham gia cho điểm "Cơn lốc đen". Ban giám khảo phim truyện đã chấp nhận.
Tính tới thời điểm liên hoan phim diễn ra, cuộc họp báo về kết quả của nó được xem là dài nhất và "sóng gió" nhất trong các kỳ Liên hoan phim Việt Nam. Nguyên nhân dẫn đến "sóng gió" này được cho là việc đánh giá thiếu chuẩn mực đối với các phim đoạt giải Vàng hoặc không đạt giải. Trong cuộc họp báo, Chủ tịch Liên hoan phim kiêm chủ tịch Ban giám khảo mảng phim truyện đã nhiều lần lúng túng không thể trả lời nhiều câu hỏi của cánh báo chí. Trước và trong quá trình diễn ra liên hoan phim, Ban xã hội học của Hội Điện ảnh Việt Nam và Ban nghiên cứu khán giả điện ảnh của Công ty phát hành phim trung ương đã phối hợp tiến hành khảo sát và thu thập ý kiến đánh giá của khán giả Hà Nội và tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng đối với 17 bộ phim truyện tham gia dự thi. Đối tượng được khảo sát bao gồm nhiều độ tuổi, tầng lớp, nhưng nhìn chung đều có độ đồng nhất ý kiến khá lớn. Tuy nhiên, giải thưởng cho các bộ phim này lại vượt ra ngoài dự đoán của khán giả khá nhiều. Điều này dẫn đến làn sóng dư luận trái chiều, nhiều ý kiến bất bình về kết quả sau khi lễ trao giải diễn ra.
Trong các tranh cãi về giải thưởng, chủ yếu tập trung ở 4 bộ phim: "Cô gái trên sông" của Đặng Nhật Minh, "Truyện cổ tích cho tuổi mười bảy" của Xuân Sơn, "Anh và em" của Trần Vũ và "Thằng Bờm" của Lê Đức Tiến. Trong đó giải Bông sen bạc cho "Cô gái trên sông" là kết quả gây ra nhiều bất bình nhất khi đến hơn 75% khán giả ở cả Hà Nội và Quảng Nam – Đà Nẵng đều cho rằng đây là bộ phim hay nhất. Bộ phim vốn đã nhận đủ điểm từ ban giám khảo để nhận Bông sen vàng, nhưng tin đồn cấm chiếu khiến bộ phim chỉ nhận được Bông sen bạc. Thứ đến là bộ phim "Truyện cổ tích cho tuổi mười bảy" giành được Bông sen vàng trong khi 54% khán giả Hà Nội xếp phim này ở hạng 8 và 41% khán giả ở Quảng Nam Đà Nẵng xếp nó ở hạng 9. Tương tự với bộ phim "Anh và em" cũng giành giải Bông sen vàng khi 45% khán giả Hà Nội xếp phim ở hạng 10, còn 56% khán giả Quảng Nam – Đà Nẵng xếp nó ở hạng 8. Và cuối cùng là bộ phim "Thằng Bờm" được nhận Giải Đặc biệt (tức giải Ba) với kết quả khảo sát là 65% khán giả Hà Nội xếp nó ở hạng 5 và 63% khán giả Quảng Nam – Đà Nẵng xếp nó ở hạng 7. Nhìn chung cả 2 bộ phim điện ảnh giành giải nhất trong kỳ liên hoan phim này đều không được khán giả đánh giá cao so với những bộ phim khác.
Những thắc mắc, ý kiến tranh luận không chỉ trong dư luận mà còn trên báo chí, giữa các nhà nghiên cứu, phê bình phim, người có chuyên môn trong điện ảnh. Những ý kiến chia làm 3 hướng chính:
Về phần ban giám khảo cho mảng phim truyện, họ nhận định cả 4 phim truyện giành được Bông sen vàng và bạc đều có chất lượng sàn sàn nhau. Nhưng vì liên hoan phim kỳ này được tổ chức đúng vào dịp kỷ niệm 35 năm thành lập ngành nên "cần tìm ra những phim để tặng giải vàng" để khẳng định điện ảnh Việt Nam "đã đạt được những thành tựu nhất định trong bước đầu đổi mới". Để khẳng định sự phát triển chung của ngành điện ảnh Việt Nam nên ban giám khảo mới "phải" chọn ra phim để trao giải vàng. Chính ban giám khảo cũng thừa nhận đây là giải "vàng non". Trong cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt Nam do Cục Điện ảnh đã có nhận định rằng: |
Vùng Maule (, [ˈmawle]) là một trong 16 đơn vị hành chính cấp một của Chile. Thủ phủ của vùng là Talca. Tên gọi của vùng bắt nguồn từ sông Maule, sông chảy từ dãy Andes về phía tây, chia đôi vùng. Sông Maule có tính lịch sử quan trọng, như nó đánh dấu giới hạn phía nam của Đế quốc Inca.
Vùng có diện tích và phía tây là Thái Bình Dương; phía đông là Argentina; phía bắc là vùng O'Higgins, và phía nam là vùng Ñuble. Nhiều loài động vật và thực vật hiện diện trong vùng Maule. Chẳng hạn loài cọ vang Chile ("Jubaea chilensis") đang có nguy cơ tuyệt chủng được phát hiện trong một phạm vi rất hạn chế bao gồm vùng Maule. Phạm vi hạn chế của loài "Nothofagus alessandri" cũng được tìm thấy trong vùng
Theo điều tra nhân khẩu năm 2017, dân số của vùng là 1.033.197. Với một phần ba dân số sống ở nông thôn, Maule có tỷ lệ cư dân nông thôn lớn hơn bất kỳ vùng nào khác của Chile. Thành phố đông dân nhất của vùng là thủ phủ Talca với 235.000 cư dân, tiếp theo là Curicó (120.700) và Linares (127.000). Các thành phố quan trọng khác là: Constitución (50.914), Parral (47.000), Cauquenes (43.000), Molina (42.000) và San Javier (40.000).
Mật độ trung bình của Vùng Maule là 34,1 người trên mỗi km2, với các khu vực thưa dân hơn nằm về phía núi còn thung lũng trung tâm có cư dân dày đặc hơn.
Lâm nghiệp và nông nghiệp là các hoạt động kinh tế chính của vùng, dẫn đầu là các đồn điền nho làm rượu. Vùng Maule là vùng sản xuất rượu vang hàng đầu của Chile, sản xuất 50% tổng số rượu vang xuất khẩu hảo hạng của đất nước, và một số vườn nho lớn nhất nằm ở đây. Do tập trung nhiều vườn nho, thung lũng Curicó, có nghĩa là "nước đen" trong tiếng Mapudungun, được coi là cốt lõi của ngành công nghiệp rượu vang của Chile. Sản xuất rượu vang là một hoạt động truyền thống, một số vườn nho có từ năm 1830. Diện tích trồng nho tăng lên phù hợp với sự phát triển của cơ sở hạ tầng, công nghệ và thiết bị của ngành.
Ngoài rượu vang, hai mặt hàng nông sản định hướng xuất khẩu nổi lên sôi động là rau quả và hoa.
Điện, khí đốt và nước là hoạt động kinh tế quan trọng thứ hai. Sông Maule cung cấp năng lượng cho 5 nhà máy thủy điện, trong đó có tổ hợp Colbún-Machicura.
Vùng Maule gồm cod 4 tỉnh và được chia tiếp thành 30 xã.
Vùng Maule đã sản sinh ra một số lượng đáng kể những người nổi tiếng, đặc biệt là các nhà văn và nhà thơ, các chính khách và tổng thống, nhà khoa học và nhà tự nhiên học, giáo sĩ, nhạc sĩ và nhà nghiên cứu dân gian, nhà báo và nhà sử học. Do đó, sông Maule, con sông dài và rộng chạy qua vùng, đã được coi là dòng sông văn học xuất sắc nhất của Chile. Nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn lấy dòng sông làm bối cảnh hoặc nhân vật chính. Một số tuyển tập, từ điển và tiểu luận đã thuật lại về sự giàu có văn hóa của khu vực.
Khu vực này tự hào có nhiều thị trấn nhỏ và làng mạc với kiến trúc nông thôn thuộc địa được bảo tồn tốt, cả trong lĩnh vực tôn giáo cũng như dân sự. Các giáo phận Talca và Linares (hai giáo phận Công giáo La Mã ở vùng Maule) có một số nhà thờ giáo xứ có vẻ đẹp và giá trị kiến trúc và lịch sử đặc biệt. |
Cricket tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
Cricket tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 sẽ được tổ chức tại Sân Cricket AZ, Phnôm Pênh, từ ngày 29 tháng 4 đến ngày 16 tháng 5 năm 2023. Bốn nội dung cricket khác nhau sẽ được tranh tài.
Mặc dù cricket ở Campuchia tương đối ít được biết đến, môn thể thao này đã được đưa vào các môn thể thao tại Sea Games 32 sau khi vận động hành lang từ Liên đoàn Cricket Campuchia và Hội đồng Cricket Châu Á.
Các quốc gia tham dự.
Đội tuyển cricket quốc gia Việt Nam đã rút lui sau khi không đảm bảo được nguồn tài trợ. |
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2023 được tổ chức tại Trung tâm thương mại Nagaworld 2 và Olympia ở Phnôm Pênh, Campuchia từ ngày 6 tháng 5 đến ngày 15 tháng 5 năm 2023.
Chín nội dung tranh huy chương trong thể thao điện tử, bao gồm năm nội dung và chín sự kiện trao huy chương. Các quốc gia tham gia, chỉ có thể tham gia bảy trong số chín sự kiện. Chủ nhà Campuchia có thể tham gia cả 9 nội dung. |
Tiếng Solresol (Xướng âm: Sol-Re-Sol), ban đầu gọi là Langue universelle và sau đó Langue musicale universelle, là một ngôn ngữ được xây dựng phát minh bởi François Sudre, bắt đầu từ năm 1827. Cuốn sách chính của ông, "Langue Musicale Universelle", được xuất bản sau cái chết của ông vào năm 1866, dù ông ấy đã công khai nó trong vài năm. Tiếng Solresol tận hưởng một thời gian ngắn nổi tiếng, đạt đến đỉnh cao với tác phẩm 1902 "Grammaire du Solresol" của Boleslas Gajewski.
Hiện nay, có tồn tại những cộng đồng nhỏ những người đam mê Solresol nằm rải rác trên khắp thế giới.
Trong hình thái học tiếng Solresol, mỗi từ đều chia ra thành những thể loại của một trong hai nghĩa hoặc chức năng, trong đó các từ dài hơn thường cụ thể hơn. Những từ được phân biệt bởi ba đặc điểm chính: âm tiết đầu, độ dài từ, và liệu nó có một cặp âm tiết lặp lại hay không.
Những từ có độ dài âm tiết 1 và 2 được sử dụng cho đại từ và các trợ từ chung, và những từ có âm tiết lặp lại là các thì.
Những từ có độ dài âm tiết 3 được dành cho những từ được sử dụng thường xuyên (tại thời điểm tạo ra của tiếng Solresol). Những cái bao gồm các âm tiết lặp lại được dành riêng cho "số, tháng trong năm, ngày trong tuần và nhiệt độ [điều kiện thời tiết]", ví dụ: redodo "một", remimi "hai" (theo Gajewski).
Các từ có độ dài âm tiết 4 thuộc nhiều loại theo chủ đề khác nhau. Ví dụ, các từ bắt đầu bằng 'sol', không bao gồm các âm tiết lặp lại, có nghĩa liên quan đến nghệ thuật hoặc khoa học (ví dụ: soldoredo, "nghệ thuật"; solmiredo, "âm thanh").:23.VI. Tuy nhiên, nếu các từ có độ dài âm tiết 4 có một cặp âm tiết lặp lại, nghĩa của chúng liên quan đến bệnh tật hoặc thuốc (ví dụ: solsolredo, "chứng đau nửa đầu"; solreresol, "đậu mùa").:23.VI
Cụ thể hơn, các lớp không có âm tiết lặp lại là:
1. 'do': con người, cơ thể và tinh thần, khả năng trí tuệ, phẩm chất và sự nuôi dưỡng;
2. 're': quần áo, nhà cửa, vệ sinh và gia đình
3. 'mi': hành động của con người và sai sót của mình
4. 'fa': nông thôn, du lịch, chiến tranh, biển
5. 'sol': mỹ thuật và khoa học
6. 'la': công nghiệp và thương mại
7. 'si': thành phố, chính phủ và chính quyền
Với các âm tiết lặp lại, các âm tiết giống nhau mang lại:
1. 'do': tôn giáo
2. 're': công trình xây dựng và ngành nghề khác nhau
3. 'mi': giới từ, cụm trạng từ và trạng từ biệt lập
4. 'fa': bệnh tật
5. 'sol': bệnh tật (tt.)
6. 'la': công nghiệp và thương mại (như trong loại không lặp lại)
7. 'si': tư pháp, quan tòa và tòa án
Cuối cùng, sự kết hợp của năm âm tiết chỉ động vật, thực vật và khoáng chất.
Theo mặc định, tất cả các danh từ và đại từ động vật đều ngụ ý rằng chúng thuộc giới tính nam. Để phân biệt giới tính nữ, bạn thêm một dấu thanh, dấu gạch nối hoặc dấu trường âm vào âm tiết cuối cùng của mạo từ tương ứng hoặc chính từ đó. Trong lời nói, điều này được biểu thị bằng cách lặp lại nguyên âm của âm tiết, với một âm tắc thanh hầu ngăn cách nguyên âm được lặp lại với phần còn lại của từ.:24
Tuy nhiên, trong các bản dịch hiện đại, đại từ không thay đổi tùy thuộc vào giới tính. Thay vào đó, chúng được dịch đơn giản sang tiếng Anh là đại từ trung tính; nó và họ.
Một đặc điểm độc đáo của tiếng Solresol là nghĩa có thể được đảo ngược bằng cách đảo các âm tiết trong từ. Ví dụ như "fala" nghĩa là ngon và "lafa" nghĩa là dở. Sự gián đoạn trong trật tự hợp lý của các từ trong mỗi loại thường được gây ra bởi các từ có thể đảo này.:31.XXI Tuy nhiên, không phải tất cả các từ được đảo trong nghĩa này, như "dorefare" nghĩa là cổ, và "refaredo" nghĩa là tủ quần áo, mà rõ ràng là không trái nghĩa.
Bảng sau đây cho thấy các từ có tối đa hai âm tiết trong từ điển của Gajewski:
Mạo từ xác định có các dạng khác nhau đối với trường hợp chỉ định, sở hữu cách và tặng cách, hay nói cách khác, đối với "the", "to the" và "of the": lần lượt là 'la', 'fa' và 'la si'.:23-24.VII-VIII
Phương pháp giao tiếp.
Mỗi "nốt" của tiếng Solresol được thể hiện dưới dạng một ký hiệu, ví dụ: "Do" là hình tròn, "Re" là nét thẳng đứng, "Mi" và "La" đều là nửa hình tròn, nốt trước hướng xuống dưới, nốt sau hướng về bên phải, "Fa" là đường chéo từ trên cùng bên trái sang dưới cùng bên phải, "Sol" là đường nằm ngang và "Si hoặc Ti" là đường chéo từ dưới cùng bên trái lên trên cùng bên phải.
Các từ của tiếng Solresol được hình thành bằng cách kết nối các ký hiệu theo thứ tự chúng xuất hiện trong từ.
Một mã ngôn ngữ ISO 639-3 đã yêu cầu vào ngày 28 tháng 7 năm 2017, nhưng bị từ chối vào ngày 1 tháng 2 năm 2018.
Tiếng Solresol đã được gán mã #đổi và #đổi trong ConLang Code Registry.
Bảy ký tự cơ bản đã được đề xuất đăng ký trong CSUR.
Văn bản ví dụ.
Điều 1 của "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" trong tiếng Solresol:
Điều 1 của "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" trong tiếng Việt:
"Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền lợi. Mọi con người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong tình anh em." |
Thalkirchen là một khu phố ở phía nam thủ phủ München của Bayern. Nó thuộc quận 19 Thalkirchen-Obersendling-Forstenried-Fürstenried-Solln. Khu phố, gần như hoàn toàn nằm ở bờ đất thấp phía tây sông Isar, là một trong những khu định cư lâu đời nhất ở phía nam thành phố, nhờ vị trí của nó bên con sông Isar được thiên nhiên hóa lại thành một nơi nghỉ dưỡng và giải trí quan trọng cho toàn thành phố. Trung tâm làng Obersendling, nằm ở phần trên cao của bờ sông, giữa Thalkirchen và Maria Einsiedel. cũng được nhập vào khu phố này.
Theo sắc lệnh về làng xã năm 1808, xã Thalkirchen được hình thành vào năm đó từ ngôi làng cùng tên bên sông Isar, phần phía nam Maria Einsiedel và tiếp theo nữa về phía Nam địa điểm Hinterbrühl cũng như khu Obersendling, mà hầu như không có người ở. Bước sang đầu thế kỷ 20, việc xây dựng tuyến đường xe lửa Isartalbahn và khu vila Prinz-Ludwigs-Höhe phía trên cao của bờ sông xảy ra cùng lúc với việc xã này được nhập vào München. Dần dần, ngôi làng Thalkirchen trước đây đã phát triển về phía bắc đến khu phố Sendling. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khu vực còn lại ở Oberfeld cũng được phát triển. Tuy nhiên, nó vẫn còn có một tỷ lệ cao hơn trung bình các khu vực xanh cả ở phần dưới và phần trên cao của bờ sông và ở phần trên cao với các khu đất nông nghiệp. |
Vụ đánh bom Sankt-Peterburg 2023
Vào ngày 2 tháng 4 năm 2023, một vụ đánh bom đã xảy ra tại quán cà phê Street Food Bar №1 ở bờ kè Universitetskaya thuộc địa phận Sankt-Peterburg, Nga. Blogger quân sự Nga Vladlen Tatarsky, tên thật là Maxim Fomin đã thiệt mạng trong vụ nổ với 42 người bị thương, 24 trong số đó phải viện bao gồm 6 người trong tình trạng nguy kịch.
Ủy ban chống khủng bố quốc gia (NAC) của Nga đã cáo buộc cơ quan tình báo Ukraine cùng những kẻ ủng hộ Aleksey Anatolyevich Navalnyy đứng đằng sau vụ đánh bom, người phát ngôn cho điện Kremlin Dmitriy Sergeyevich Peskov cũng đã lặp lại tuyên bố, đồng thời gọi đây là một "hành động khủng bố". Cố vấn Tổng thống Ukraine Mykhailo Podolyak đã đổ lỗi vụ tấn công do những thành phần "khủng bố trong nước" và "đấu đá chính trị nội bộ", trong khi các đồng minh của Navalny lại bác bỏ cáo buộc và tuyên bố nhiều khả năng do các cơ quan tình báo Nga đứng đằng sau vụ đánh bom. Quân đội Cộng hòa Quốc gia Nga (NRA) đã nhận trách nhiệm về vụ tấn công.
Trong năm 2022, một số doanh nhân Nga đã được tìm thấy tử vong trong những tình huống bí ẩn. Ngoài ra, Ukraine đã bị cáo buộc đứng sau các cuộc tấn công chống lại các nhân vật ủng hộ chiến tranh, điển hình như vụ sát hại Darya Dugina.
Vladlen Tatarsky là một blogger quân sự có ảnh hưởng tại NGa với hơn 560.000 người theo dõi trên Telegram. Trước khi tử vong, anh thường chỉ trích các chiến lược của Nga trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga nhưng cũng là người ủng hộ nhiệt thành cuộc xâm lược.
Quán cà phê nơi vụ đánh bom xảy ra thuộc sở hữu của Yevgeny Prigozhin. Câu lạc bộ thảo luận Cyber Z Front thường tụ tập tại đây vào các ngày cuối tuần.
Theo một số nguồn tin, bảo gồm cả chính quyền Nga, Vladlen Tatarsky đã được một người phụ nữ tặng cho một bức tượng nhỏ và sau đó bức tượng này đã phát nổ. Sức mạnh của chất nổ bên trong bức tượng được cho là lớn hơn 200 g đương lượng nổ TNT. Vụ nổ đã làm sập khu vực phía trước của quán cà phê. Cảnh sát ngay sau đó đã được gọi đến hiện trường vào lúc 18:13 phút theo giờ địa phương.
Theo Bộ Y tế Nga, một người (Vladlen Tatarsky) đã chết. Đến tối ngày 2 tháng 4, số người bị thương đã tăng lên 42 người. Trong số đó, 24 người đã được đưa đến các cơ sở y tế ở Saint Petersburg từ quán cà phê. 6 người bị thương được đánh giá trong tình trạng nghiêm trọng.
Các cơ quan thực thi pháp luật Nga đã bắt đầu điều tra vụ việc ngay sau khi vụ đánh bom được diễn ra.
Một người dân địa phương ở Saint Petersburg, Darya Yevgenyevna Trepova (Дарья Евгеньевна Трепова; sinh ngày 16 tháng 2 năm 1997) đã bị Ủy ban Điều tra xem là nghi phạm. Các nhà điều tra cho rằng cô đã mang đến quán cà phê một chiếc hộp có tượng bán thân của Tatarsky, trong đó có một thiết bị nổ. Trước đó, cô đã bị giam giữ trong 10 ngày cùng với chồng sau khi tham gia một cuộc biểu tình phản chiến chống lại cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào hôm 24 tháng 2 năm 2022 vì phớt lờ lệnh giải tán của cảnh sát. Các quan chức Nga cũng đã gọi cô là "người ủng hộ tích cực" cho nhà lãnh đạo phe đối lập đang bị giam giữ Alexei Navalny. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.