text
stringlengths 82
354k
|
---|
Nguyễn Văn Huy (Thái Bình)
Nguyễn Văn Huy (sinh ngày 2 tháng 1 năm 1979) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Thái Bình, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thái Bình. Ông từng là Bí thư Huyện ủy Hưng Hà, Thái Bình; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bí thư Tỉnh đoàn Thái Bình.
Nguyễn Văn Huy là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Ngữ văn, Cử nhân Luật, Thạc sĩ Chính trị học, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có xuất phát điểm từ công tác thanh niên, rồi tham gia các cơ quan, tổ chức của tỉnh Thái Bình.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Văn Huy sinh ngày 2 tháng 1 năm 1979 tại xã Hòa Bình, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Kiến Xương, theo học đại học ở Hà Nội, có hai bằng đại học gồm Cử nhân Ngữ văn, và Cử nhân Luật kinh tế – hành chính, tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 15 tháng 6 năm 2000, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, từng là Bí thư Chi bộ, Lớp trưởng lớp cao cấp lý luận chính trị – Hành chính AI 12 khi học ở trường từ tháng 9 năm 2013 đến tháng 6 năm 2014 và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 7 năm 2001, sau khi tốt nghiệp đại học, Nguyễn Văn Huy trở về Thái Bình, bắt đầu làm việc theo hợp đồng tại Tỉnh đoàn Thái Bình, công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Sau đó 2 năm, ông được tuyển dụng công chức, là chuyên viên của Tỉnh đoàn, đến tháng 11 năm 2005 thì nhậm chức Phó Chánh Văn phòng Tỉnh đoàn Thái Bình, Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn, Phó Bí thư Chi đoàn cơ quan Tỉnh đoàn. Ông được thăng chức Chánh Văn phòng Tỉnh đoàn vào tháng 6 năm 2007, được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, đồng thời là Ủy viên Ủy ban Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh, Chi ủy viên, Ủy viên Ban Chấp hành Công đoàn cơ quan Tỉnh đoàn. Tháng 4 năm 2012, Nguyễn Văn Huy được bầu làm Bí thư thường trực Tỉnh đoàn Thái Bình ở tuổi 33, kiêm Phó Bí thư Chi bộ cơ quan Tỉnh đoàn, đến cuối năm thì được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, đồng thời là Ủy viên Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh Thái Bình, rồi Bí thư Chi bộ cơ quan Tỉnh đoàn.
Tháng 7 năm 2014, Nguyễn Văn Huy được điều lên Tỉnh ủy Thái Bình, nhậm chức Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Sang tháng 4 năm 2016, ông được điều chuyển làm Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, tiếp tục chuyển vị trí làm Phó Chánh Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình từ tháng 9 năm 2018. Tháng 1 năm 2019, ông là Phó Chánh Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình, cho đến tháng 12 cùng năm thì được điều về huyện Hưng Hà, nhậm chức Bí thư Huyện ủy Hưng Hà. Tháng 2 năm 2020, ông được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, tái đắc cử Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Bình lần thứ XX, nhiệm kỳ 2020–2025. Đầu năm 2021, ông được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thái Bình, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 1 gồm huyện Vũ Thư, Hưng Hà, Quỳnh Phụ, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 82,42%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Thái Bình, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng |
Nguyễn Văn An (Thái Bình)
Nguyễn Văn An (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1968) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thái Bình. Ông từng là Phó Tổng giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam; Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Điện Biên.
Nguyễn Văn An là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Luật, Thạc sĩ Công nghệ thông tin, Tiến sĩ Quản lý công, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp 30 năm công tác địa phương ở các tỉnh Lai Châu, Điện Biên rồi tham gia hoạt động của Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Văn An sinh ngày 30 tháng 11 năm 1968, quê quán ở xã An Quý, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 10/10, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Luật kinh tế, theo học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Công nghệ thông tin. Sau đó, ông là nghiên cứu sinh và trở thành Tiến sĩ Quản lý công. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 23 tháng 8 năm 1999, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội.
Tháng 4 năm 1989, sau khi tốt nghiệp đại học, Nguyễn Văn An được tuyển dụng vào Sở Y tế tỉnh Lai Châu, phân công làm cán bộ Trạm Phòng chống rối loạn do thiếu hụt Iod. Hơn 2 năm sau, vào tháng 12 năm 1999, ông nhậm chức Phó Trưởng khoa Nội tiết, Thư ký Chương trình phòng chống các rối loạn do thiếu hụt Iod, Trung tâm Y tế dự phòng của Sở Y tế tỉnh. Sang tháng 1 năm 2003, ông chuyển sang Sở Y tế tỉnh Điện Biên khi mà tỉnh Lai Châu được chia thành Lai Châu và Điện Biên, làm Trưởng phòng Hành chính tổng hợp của Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe tỉnh Điện Biên. Tháng 6 năm 2006, ông được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Trung tâm Truyền thông và Giáo dục sức khỏe tỉnh Điện Biên, là Bí thư Chi bộ, Quyền Giám đốc Trung tâm này tư tháng 12 năm 2007, và là Giám đốc từ tháng 3 năm 2008. Tháng 12 năm 2010, ông giữ chức Bí thư Chi bộ, Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Điện Biên, được giao phụ trách sở từ đầu năm 2011, và là Giám đốc Sở từ tháng 6 năm 2011. Ông cũng được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Điện Biên, rồi tái đắc cử Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2015–2020.
Tháng 1 năm 2020, Nguyễn Văn An được điều tới Văn phòng Quốc hội, được bổ nhiệm làm Phó Tổng Giám đốc Truyền hình Quốc hội Việt Nam. Năm 2021, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thái Bình, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm huyện Đông Hưng, Thái Thụy, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 86,26%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước |
Phan Đức Hiếu (sinh ngày 19 tháng 5 năm 1974) là luật gia, chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thái Bình. Ông từng là Đảng ủy viên Đảng bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
Phan Đức Hiếu là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Luật, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp tập trung cho ngành pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý rồi tham gia hoạt động Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Phan Đức Hiếu sinh ngày 19 tháng 5 năm 1974, quê quán tại xã Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học đại học ở Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân Luật, sau đó đi học cao học ở Đại học Maastricht, Vương quốc Hà Lan từ tháng 9 năm 2003 đến tháng 11 năm 2004, nhận bằng Thạc sĩ Luật. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 31 tháng 12 năm 2005, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phường Phú Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Tháng 9 năm 1995, sau khi tốt nghiệp đại học, Phan Đức Hiếu bắt đầu làm việc ở Công ty Luật Hoàng Long, Hà Nội – một công ty luật, ở vị trí tư vấn pháp luật. Hơn 2 năm sau, vào tháng 12 năm 1999, ông được tuyển dụng viên chức vào Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, là Nghiên cứu viên Ban Môi trường Kinh doanh và Năng lực cạnh tranh. Ông đi du học Hà Lan năm 2003, trở về vào tháng 12 năm 2004, tiếp tục công tác ở Ban Môi trường kinh doanh và Năng lực cạnh tranh, được bổ nhiệm làm Phó Trưởng ban vào tháng 6 năm 2009. Tháng 10 năm 2013, ông là Bí thư Chi bộ ban, được giao nhiệm vụ phụ trách ban, rồi là Trưởng ban từ tháng 5 năm 2014. Tháng 11 năm 2015, ông nhậm chức Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, đồng thời là Phó Bí thư Đảng ủy Viện, được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ tháng 9 năm 2020.
Năm 2021, Phan Đức Hiếu được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thái Bình, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm huyện Đông Hưng, Thái Thụy, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 70,61%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội. |
Hỗn dung tôn giáo
Hỗn dung tôn giáo là sự pha trộn các hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo thành một hệ thống mới, hoặc kết hợp các tín ngưỡng khác vào một truyền thống tôn giáo hay sự kết hợp vào một truyền thống tôn giáo những niềm tin từ những truyền thống không liên quan. Sự dung hợp tôn giáo tín ngưỡng xảy ra vì nhiều lý do, khi các truyền thống tôn giáo tồn tại gần nhau, giao thoa, ảnh hưởng lẫn nhau, chẳng hạn như sự ảnh hưởng sâu đậm của Cơ đốc giáo đối với Hồi giáo bắt nguồn từ Cơ đốc giáo phương Đông xoay quanh nguồn gốc của Hồi giáo. Sự dung hợp tôn giáo còn xảy ra khi một nền văn hóa bị chinh phục và những kẻ chinh phục mang theo tín ngưỡng tôn giáo của họ sang áp đặt, đồng hóa, nhưng không thành công trong việc xóa bỏ các tín ngưỡng và những phương pháp thực hành xa xưa.
Nhiều tôn giáo có các yếu tố dung hợp ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng các tín đồ thường không hài lòng khi gọi như vậy, chẳng hạn như các tôn giáo của Áp-ra-ham, hoặc bất kỳ hệ thống nào có cách tiếp cận độc tôn, coi việc dung hợp là làm hỏng tôn giáo khởi thủy, khiến nó không còn tính chân truyền đúng đắn nữa Mặt khác, các hệ thống tín ngưỡng không độc tôn cảm thấy tự do hơn khi kết hợp các truyền thống khác vào hệ thống của mình. Nhà nghiên cứu Keith Ferdinando lưu ý rằng thuật ngữ "sự dung hợp" là một thuật ngữ khó nắm bắt và có thể áp dụng để chỉ sự thay thế hoặc thay đổi các yếu tố tâm điểm của một tôn giáo bằng niềm tin hoặc thực hành du nhập từ nơi khác. Theo Ferdinando, hậu quả của một định nghĩa như vậy có thể dẫn đến một sự ""thỏa hiệp" chết người đối với "sự toàn vẹn"" của tôn giáo nguyên thủy.
Phật giáo với chủ trương "từ bi hỉ xả" đã có quá trình bản địa hóa và dung hợp lâu đời với nhiều tín ngưỡng truyền thống trong các xã hội Đông Á vì nó được coi là tương thích với các tôn giáo bản địa. Phật giáo chọn con đường hòa hợp với nền văn hóa bản địa, rồi từ hòa hợp đến dung hợp các thuộc tính để tạo ra một Phật giáo đặc trưng của dân tộc sở tại. Sự dung hòa đáng chú ý của Phật giáo với tín ngưỡng địa phương bao gồm Tam giáo, sự giao hòa giữa Phật giáo Đại thừa với Triết học Nho giáo và các yếu tố của Đạo giáo, và Shinbutsu-shūgō được xem là dung hòa giữa Thần đạo và Phật giáo. Tín ngưỡng, thực hành và bản sắc tôn giáo của người Đông Á (những người chiếm đa số Phật tử trên thế giới theo bất kỳ thước đo nào) thường hòa trộn Phật giáo với các yếu tố truyền thống khác bao gồm Nho giáo, Tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Đạo giáo, Thần đạo, Saman giáo Hàn Quốc và tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Sự dung hợp tôn giáo có thể thấy ở nhiều nền văn hóa khác nhau, đơn cử như tôn giáo Dīn-i Ilāhī (, tạm dịch "Tôn giáo Thánh thần") là một tôn giáo dung hợp do hoàng đế Mogul là Akbar I khởi xướng vào năm 1582, với mục đích là tổng hợp các tinh túy của những tôn giáo hiện tồn tại trong đế quốc và thông qua đó dung hòa những sai biệt của dân chúng dưới quyền cai trị của ông.. Nội dung của tôn giáo này chủ yếu lấy từ Hồi giáo và Ấn Độ giáo, nhưng một số yếu tố cũng lấy từ Kitô giáo, Jaina giáo, và Hỏa giáo. ""Tôn giáo Thánh thần" bắt nguồn từ chính sách hòa hợp tôn giáo do Akbar khởi xướng.
Công giáo ở Trung Mỹ và Nam Mỹ đã được dung hợp với một số yếu tố bắt nguồn từ người bản địa da đỏ và các nền văn hóa nô lệ ở những khu vực đó, trong khi nhiều nhà thờ do người châu Phi da đen khởi xướng thể hiện sự dung hợp của Tin lành và tín ngưỡng truyền thống của châu Phi. Nhà thờ Công giáo cho phép một số biểu tượng và truyền thống được chuyển từ các hệ thống tín ngưỡng cổ xưa, miễn là chúng được cải biên lại phù hợp (chứ không để xảy ra xung đột) với thế giới quan của Cơ đốc giáo; sự đồng nhất của các tôn giáo khác với đức tin Công giáo, chẳng hạn như Voudun hoặc Candomblé ở Brazil và Santería ở Cuba, bị Giáo hội Công giáo La Mã lên án. Hình ảnh Đức Mẹ Guadalupe và sự sùng kính sau đó đối với bà được coi là đồng hóa một số yếu tố dung hợp của văn hóa Mexico bản địa vào Cơ đốc giáo. Nữ thần chết Santa Muerte cũng đã nổi lên như là sự kết hợp của nữ thần bản địa Mictecacihuatl và Đức Mẹ Guadalupe. Tính đến năm 2012, Santa Muerte được khoảng 5% dân số Mexico tôn thờ, đồng thời cũng có lượng người theo dõi ở Hoa Kỳ và một phần Trung Mỹ.
Nguồn gốc của Santería bắt nguồn từ các tôn giáo truyền thống của những người nô lệ Tây Phi ở Cuba, những tôn giáo này trộn lẫn với Công giáo La Mã của Thực dân Tây Ban Nha. Các vị thánh Công giáo La Mã được kết hợp với các vị thần Tây Phi trong khi những người châu Phi làm nô lệ chấp nhận các nghi lễ Công giáo La Mã và những phép bí tích. Tôn giáo này được khai sinh khi những nô lệ nhận thấy cần phải bảo tồn, duy trì tín ngưỡng của mình khi họ buộc phải từ bỏ niềm tin cổ xưa nên đã đặt các vị thần của họ dưới hình hài của các vị thánh Công giáo để bảo tồn đức tin của họ. Người Tây Ban Nha đã cố gắng áp đặt tôn giáo Công giáo, cũng là của các vị thánh, vì vậy, để duy trì tôn giáo của họ, họ đã thực hiện một việc dung hòa tín ngưỡng, ở đó họ pha trộn, đồng nhất các vị thánh Tây Ban Nha với các vị thánh châu Phi làm nảy sinh một tín ngưỡng mới. Tương tự, Candomblé đã phát triển giữa các cộng đồng người Brazil gốc Phi trong bối cảnh buôn bán nô lệ ở Đại Tây Dương, nó hợp nhất với một tôn giáo người Brazil gốc Phi khác là Umbanda. Đây là cách người nô lệ bảo tồn được bản sắc tín ngưỡng của mình thông qua việc đưa những vị thần của mình vào hình hài của những vị Thánh Công giáo của những kẻ thực dân châu Âu bảo hộ.
Ở Việt Nam, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, hiện tượng "tam giáo đồng nguyên"" hay là sự dung hợp nhuần nhuyễn giữa Nho - Phật - Đạo đã trở thành một nét nổi bật, đặc sắc của văn hiến Thăng Long và văn minh Đại Việt. Các tôn giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc như Đạo giáo (Lão giáo), Nho giáo và Phật giáo từ Ấn Độ đã được kết hợp với tín ngưỡng dân gian Việt Nam (thuyết vật linh) thành một thể gọi là Tam giáo đồng nguyên, và cũng hình thành các tín ngưỡng, tập tục bản địa, chẳng hạn như tín ngưỡng Đạo Mẫu, Tam phủ, Tứ phủ. Phật giáo truyền vào Việt Nam với tính chất giao lưu và dung hợp đơn thuần, không dựa trên tính tranh chấp hay áp bức nên có điều kiện thuận lợi dung hợp hài hòa với tư tưởng người Việt về mong muốn thoát khổ, Phật giáo dung hợp với cội nguồn văn hóa của dân tộc Việt Nam là một thực tiễn sống động trên những yếu tố nhân văn và cũng bắt nhịp với những đặc điểm trong tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam vốn mang tính dung hợp, đan xen, hòa đồng.
Thờ Mẫu là tín ngưỡng phổ biến của người Việt. Ở mỗi vùng miền từ Bắc, Trung, Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu có những biến đổi cùng với sự giao thoa văn hóa, tôn giáo các dân tộc. Đối với văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ, sự xuất hiện các hình tượng các vị Thánh Mẫu, như: Bà Chúa Xứ núi Sam, Châu Đốc, An Giang; Bà Đen, Núi Cấm, Tây Ninh và Bà Thiên Hậu, Po Ina Nagar là sự phản ánh quá trình giao thoa văn hóa Việt-Chăm-Hoa-Khmer. Bên cạnh đó, còn có sự hỗn dung các yếu tố Tam giáo như Nho-Phật-Đạo với loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu này, trong đó có sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu là một dạng thức tiêu biểu trong tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân Nam Bộ cho thấy những yếu tố Phật giáo kết hợp với tín ngưỡng thờ nữ thần của người Hoa và tục thờ Bồ Tát Quan Âm của người Việt, đặc biệt hình tượng Thiên Hậu Thánh Mẫu và Bồ Tát Quan Âm Nam Hải đều là những vị nữ thần biển được tôn thờ trong đời sống văn hóa tâm linh của cư dân sông nước.
Một số tôn giáo bản địa sau này như Cao Đài, Hòa Hảo (ở Việt Nam) là những ví dụ cho tính nguyên hợp. Đạo Cao Đài ở Việt Nam là một tôn giáo mới, dung hợp nhiều yếu tố từ các tôn giáo lớn, gồm cả Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo, Thần Đạo và cả một số tôn giáo đa thần thời cổ đại, thể hiện qua Ngũ Chi Đại Đạo. Lý luận về sự dung hợp các tôn giáo hình thành nên đạo Cao Đài được gọi là Tam giáo quy nguyên ("Ba tôn giáo sẽ hợp về một mối"), theo đó, các tôn giáo lớn sẽ hợp nhất giáo lý thành một nền Đại Đạo duy nhất và được truyền bá bằng tiếng Việt, cùng với đó là khái niệm "Ngũ chi phục nhất" ("Năm nhánh đạo sẽ trở thành một nền đạo lớn") được đi kèm với "Tam giáo quy nguyên", theo đó, "Ngũ chi" hàm chỉ các tôn giáo trên toàn thế giới, kể cả Tam giáo, thực chất cũng chỉ là năm nhánh đạo ("con đường") gồm Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Năm nhánh này thể hiện năm nấc thang tiến hóa từ thấp lên cao trong quá trình tu tập của các tín đồ, dù theo hướng nào thì cũng quy về một mối.. Ở miền Nam Việt Nam trước đây còn có Đạo Dừa chủ trương hòa đồng tôn giáo, tổng hợp nhiều tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo, Kitô giáo. Đạo Dừa hiện không được chính phủ Việt Nam công nhận là một tôn giáo. |
Papa Legba hay thần Legba là một vị thần (lwa) trong tà giáo Haiti Vodou, Winti và Louisiana Voodoo, Legba đóng vai trò trung gian giữa thế giới thần (lwa) và nhân loại. Vị thần này tọa lạc ở ngã tư đường tâm linh và cho phép (hoặc từ chối) giao tiếp với các linh hồn của Guineé, và được cho là có thể nói được tất cả các ngôn ngữ của con người. Ở Haiti, thần Legba là nhà hùng biện cự phách, ăn nói lợi miệng, giao tiếp, lời nói và sự hiểu biết. Vị thần Legba thường được kết hợp với chó và Papa Legba được xướng tên vào đầu mỗi buổi lễ. Thần Papa Legba có nguồn gốc từ vương quốc Dahomey trong lịch sử của Tây Phi, nằm ở Benin ngày nay với hình tượng là vị hung thần có sừng và dương vật lớn đang cương cứng.
Ở Bénin, Nigeria, Togo, và Ghana, chủ yếu là các bộ tộc người Yoruba và người Gbe (Tadoid), thì vị hung thần Legba được coi là một người trẻ tuổi và vị thần lừa bịp hung ác, thường có cặp sừng dài và cái dương vật vật lớn đang cương cứng tượng trưng cho sự sung mãn tình dục, và điểm thờ của vị thần này thường ở cổng làng ở các vùng quê. Ngoài ra, vị thần này được gọi là "Legba Atibon", "Atibon Legba" hoặc "Ati-Gbon Legba". Papa Legba được cho là đã xuất hiện từ cộng đồng người Yoruba và Gbe (Tadoid) như là sự tiếp nối của Orisha Eshu. Điều này nổi lên với cái tên "Lwa Papa Legba" trong tà giáo Haiti vodou, linh hồn Papa Laba ở giáo phái New Orleans Hoodoo và là Oricha Elegua ở tôn giáo Santéria.
Ở những nơi khác, thần Legba thường xuất hiện như một ông già chống nạng hoặc chống gậy, đội mũ rơm rộng vành và hút tẩu thuốc, hoặc uống rượu rum đen, luôn có con chó là thiêng liêng đối với ông. Legba là nhân vật được đồng nhất với với Thánh Peter, Thánh Lazarus và Thánh Anthony, đồ cúng cho vị thần này thường là kẹo dẻo (candy). Legba là Lwa được trẻ em yêu thích do hình ảnh vui nhộn, giống ông nội của ông ta. Vị thần này thường được giao nhiệm vụ trông trẻ và đánh lạc hướng trẻ em (một vai trò điển hình của nam giới trong tôn giáo mẫu hệ) trong khi người lớn thực hiện các nghi lễ nghiêm túc hơn. Trong văn hóa đại chúng Mỹ thì Legba còn xuất hiện trong các chương trình của Truyện kinh dị Mỹ, , Danh sách diễn viên trong Truyện kinh dị Mỹ, . |
Vị thần có sừng
Vị thần có sừng ("Horned deity") là các vị thần gồm cả các vị thiện thần và ác thần (hung thần, ác quỷ, quỷ dữ, yêu quái) xuất hiện dưới bộ dạng có chiếc sừng trên đầu. Các vị thần có sừng này thường có một cặp sừng đối xứng hai bên, trong khi một số vị có thể có một sừng (độc giác) hoặc ba sừng (tam giác) hoặc nhiều sừng (thường là quái vật, quái thú, quái nhân). Các vị thần được miêu tả có sừng hoặc gạc được ghi nhận trong nhiều tôn giáo trên khắp thế giới, trong đó có Wicca. Trong các tôn giáo tôn thờ các vị thần động vật (tín ngưỡng thờ động vật) thì có những vị thần bò đực có sừng, thần dê và cừu có thể được tôn thờ như các vị thần hoặc là nguồn cảm hứng cho sự xuất hiện của một vị thần. Nếu là thần ác thì giống như hung thần, quỷ dữ và thường có ký hiệu sừng quỷ.
Nhiều tôn giáo ngoại giáo bao gồm các vị thần có sừng trong các đền thờ, chẳng hạn như thần Pan trong thần thoại Hy Lạp, thần Faun trong thần thoại La Mã và Ikenga ở Odinala. Một số tôn giáo tân ngoại giáo đã xây dựng những vị thần này là Thần có sừng, đại diện cho phần nam giới trong hệ thống thần học song thần của họ. Trong các tôn giáo Áp-ra-ham, các vị thần có sừng gắn liền với quỷ học. Những con quỷ Cơ đốc giáo được mô tả là có sừng trong Sách Khải Huyền, và những con quỷ khác như Satan, Baphomet và Beelzebub thường được miêu tả có cặp sừng. Thần có sừng là một trong hai vị thần chính được tìm thấy trong tôn giáo Wicca và một số hình thức Tân ngoại giáo có liên quan. Bản thân thuật ngữ Thần có sừng có trước Wicca, và là một thuật ngữ dung hợp đầu thế kỷ 20 để chỉ một vị thần nhân hình có sừng hoặc có gạc một phần dựa trên các vị thần có sừng trong lịch sử. Theo niềm tin phổ biến của Wicca, vị thần có sừng gắn liền với thiên nhiên, vùng hoang dã, tình dục, săn bắn và vòng đời.
Các vị thần có sừng thường được ghi nhận trong thần thoại Ai Cập gồm: Hathor, Isis, Mnevis, Khnum, Heryshaf, Kherty, Andjety, Horem Akhet, Banebdjedet cho đến những vị thần thoại ở châu Á như Thần Nông. Nhiều mô tả hiện đại về ác quỷ cho thấy nó có sừng và móng guốc của một con dê (ví dụ như Krampus, hung thần, Shaitan, quỷ dữ, Thần Moloch, Ngưu Ma Vương, Papa Legba). Ác quỷ thường được mô tả phổ biến với sừng trên đầu, chân đầy lông và móng guốc của một con dê. Trong thần thoại Hy Lạp, Pan là vị thần hoang dã của những người chăn cừu và đàn gia súc. Pan thường được thể hiện dưới hình dạng một thần rừng với hai chân sau, móng guốc và sừng. Để thuyết phục mọi người từ bỏ thuyết đa thần để ủng hộ tôn giáo mới, các nhà văn Cơ Đốc giáo thời kỳ đầu đã coi Pan là một con quỷ. Một số nhà sử học cho rằng mối liên hệ lâu đời giữa dê với thế giới ma quỷ giải thích cho những mô tả hiện đại về ma quỷ với sừng và móng guốc của dê, đại loại như con quỷ Azazel có thể được liên tưởng đến hình ảnh nghi lễ vật tế thần trong truyền thuyết Do Thái, việc miêu tả ác quỷ có sừng và móng guốc bắt nguồn từ văn học Do Thái thời kỳ đầu.
Satyr hay còn biết với tên gọi là người dê, được miêu tả có mái tóc xoăn, râu dài, cầm sáo, sang đến thời La Mã, Satyr dần thay đổi ngoại hình từ tai nhọn, đuôi ngựa sang có sừng và mang hình dáng nửa người nửa dê. Khi người dê xuất hiện trong phim ảnh là Mr. Tumnus trong The Chronicles of Narnia. Trong tiểu thuyết của mình nữ tác giả Lewis đã miêu tả Tumnus là một người bạn thân của Lucy. Tumnus có làn da hơi đỏ, tóc xoăn, mắt nâu, có sừng trên trán, móng guốc và chân dê. Còn có Grover là người bạn đồng hành, người hộ mệnh của Percy Jackson. Điều đặc biệt khi Grover là một Satyr người da màu. Philoctetes hay còn được biết đến với cái tên thân mật hơn là Phil. Phil làm người thầy của Hercules phiên bản hoạt hình xuất hiện năm 1997. Hình ảnh của Phil chủ yếu được khắc họa dựa theo thần Pan chỉ có điều khác biệt là ông ta lùn hơn và bị hói. Phil là người có trái tim nhân hậu nhưng dễ bực tức và thiếu kiềm chế, đặc biệt ông rất ghét những kẻ vô lễ và thiếu tôn kính. |
Động đất ngoài khơi Fukushima 2022
Một cơn sóng thần có chiều cao 20 cm đã được ghi nhận bởi Cục Khí tượng Nhật Bản tại cảng Ishinomaki, Miyagi lúc 00:29 theo giờ địa phương và một cơn sóng thần khác có chiều cao 30 cm lúc 02:14. Tại cảng Sendai, tỉnh Miyagi, chiều cao sóng thần 20 cm vào lúc 03:15 theo giờ địa phương. Ở Ōfunato, một cơn sóng thần nhỏ đã được phát hiện. Trận động đất không tạo ra sóng thần lớn do độ sâu tâm chấn của nó, gây ra ít sự nâng lên mực nước biển và chỉ tạo ra sự dịch chuyển nhỏ bề mặt nước biển.
Mối liên hệ dư chấn của các trận động đất trước đây.
Trận động đất trên có thể là dư chấn của Động đất và sóng thần Tōhoku 2011. Theo một quan chức của Cục Khí tượng Nhật Bản, trận động đất Fukushima 2022 có tâm chấn rất gần với tâm chấn của một trận động đất một năm trước vào tháng 2 năm 2021 và có thể có mối liên hệ giữa hai trận động đất. Mặc dù trận động đất Fukushima năm 2021 được coi là một dư chấn, nhưng khoảng cách thời gian lớn sau năm 2011 khiến việc xác định nó trở nên khó khăn. Việc xác định xem trận động đất năm 2022 có phải là dư chấn hay không cũng là một thách thức vì trận động đất có cơ chế đứt gãy khác. Trận động đất trên có thể khác với trận động đất năm 2011 ở chỗ trận động đất năm 2022 có thể xảy ra bên trong mảng Thái Bình Dương đang hút chìm trong khi trận động đất năm 2011 xảy ra trên ranh giới giữa mảng Thái Bình Dương và mảng Okhotsk. |
Nguyễn Công Hoàng (sinh ngày 26 tháng 11 năm 1974) là bác sĩ, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Bí thư Đảng ủy Bệnh viện, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Y Dược Thái Nguyên, Phó Chủ tịch Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam, Chủ tịch Hội Thầy thuốc trẻ tỉnh Thái Nguyên, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thái Nguyên.
Nguyễn Công Hoàng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học hàm và học vị Phó Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp hơn 25 năm trong ngành y, đồng thời tham gia hoạt động Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Công Hoàng sinh ngày 26 tháng 11 năm 1974 tại xã Huống Thượng, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học trường Y từ năm 1992 và tốt nghiệp Bác sĩ Đa khoa vào năm 1998. Tháng 7 năm 1999, ông theo học chuyên khoa định hướng tai – mũi – họng tại Trường Đại học Y Hà Nội, hoàn thành vào tháng 2 năm 2000, tiếp tục học cao học ở trường Y Hà Nội từ tháng 6 cùng năm và nhận bằng Thạc sĩ Y khoa vào tháng 2 năm 2003. Sau đó, ông là nghiên cứu sinh rồi trở thành Tiến sĩ Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế vào năm 2010. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 23 tháng 10 năm 1998, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở đường Lương Ngọc Quyến, phường Đồng Quang, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Tháng 1 năm 1998, sau khi tốt nghiệp trường Y, Nguyễn Công Hoàng được Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên nhận vào làm Bác sĩ Khoa Tai Mũi Họng. Ông đi học chuyên khoa định hướng cho đến tháng 3 năm 2000 thì được phân công làm Bác sĩ điều trị Khoa Tai Mũi Họng, rồi được bổ nhiệm làm Phó Trưởng khoa Tai Mũi Họng vào tháng 11 năm 2004. Tháng 4 năm 2010, ông được bầu làm Bí thư Chi bộ Khoa, được giao nhiệm vụ là Quyền Trưởng khoa, rồi chính thức là Trưởng khoa từ tháng 6 năm 2010. Tháng 8 năm này, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Bệnh viện, Trưởng khoa Tai Mũi Họng kiêm Phó Trưởng phòng Hành chính quản trị của Bệnh viện. Tháng 1 năm 2012, ông được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, kiêm Trưởng khoa Tai Mũi Họng, là Phó Bí thư Đảng ủy Bệnh viện từ tháng 8 năm 2015. Giai đoạn này, ông cũng được điều tới Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên để tham gia giảng dạy, giữ vị trí Phó Trưởng bộ môn Tai Mũi Họng, bên cạnh đó là Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hội Thầy thuốc trẻ tỉnh Thái Nguyên từ tháng 6 năm 2016.
Tháng 3 năm 2018, Nguyễn Công Hoàng được phong hàm Phó Giáo sư ngành Y, được giao Phụ trách Bộ môn Tai Mũi Họng của Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, sang tháng 7 thì được bổ nhiệm làm Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên. Từ tháng 1 năm 2019, ông kiêm nhiệm vị trí Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên, đồng thời là Phó Chủ tịch Hội Thầy thuốc trẻ Việt Nam. Năm 2021, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thái Nguyên, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 1 gồm huyện Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 74,74%.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội |
Tiếng Nga tại Hoa Kỳ
commentReformat 1 URL ()) #IABot (v2.0.9.5) (/comment
Tiếng Nga là một trong mười lăm ngôn ngữ được nói nhiều nhất tại Hoa Kỳ, và là một trong những ngôn ngữ thuộc Ngữ tộc Slav và nhóm ngôn ngữ gốc Âu được nói nhiều nhất tại nước này. Kể từ sau khi Liên Xô tan rã, rất nhiều người Nga đã di cư tới Hoa Kỳ và mang theo ngôn ngữ của họ. Phần lớn Người nói tiếng Nga tại Hoa Kỳ ngày nay là Người Nga gốc Do Thái. Theo như cuộc điều tra dân số năm 2010 số lượng người nói tiếng Nga theo thống kê vào khoảng 854,955 người, khiến cho tiếng Nga là ngôn ngữ được nói nhiều thứ mười hai tại Hoa Kỳ. |
Người Muisca (còn gọi là Chibcha) là một dân tộc da đỏ bản địa Nam Mỹ và chủ nhân của nền văn hóa của Altiplano Cundiboyacense ở Colombia, họ đã thành lập Liên minh Muisca trước cuộc chinh phục của Tây Ban Nha. Người dân Muisca nói tiếng Muysccubun là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Chibchan, còn được gọi là Muysca và Mosca. Họ đã chạm trán với những kẻ chinh phục (Conquistador) do Đế chế Tây Ban Nha cử đến vào năm 1537 tại thời điểm diễn ra cuộc chinh phạt. Các nhóm nhỏ của người Muisca hầu hết được khẳng định lòng trung thành của họ với ba nhà cai trị vĩ đại gồm: "Zipa" hay "Hoa" hay "Zaque" trú ngự ở Hunza đã cai trị một lãnh thổ gần như bao phủ Boyacá và nam Santander ở phía nam và đông bắc hiện đại; nhà cai trị "Psihipqua" trú ngự ở Muyquytá và bao gồm hầu hết Cundinamarca hiện đại, phía tây Llanos; và nhà cai trị "Iraca" nhà lãnh đạo tinh thần tôn giáo của Suamox và vùng đông bắc hiện đại Boyacá và tây nam Santander. Kiến thức về các sự kiện cho đến năm 1450 chủ yếu bắt nguồn từ bối cảnh thần thoại, nhưng nhờ "Biên niên sử Tây Ấn" có những mô tả về giai đoạn cuối cùng của lịch sử Muisca, trước khi người Tây Ban Nha đến.
Lãnh thổ của người Muisca trải rộng trên diện tích khoảng 25.000 km2 (9.700 dặm vuông Anh) từ phía bắc Boyacá đến Sumapaz Páramo và từ các đỉnh đến phần phía tây của Dãy núi phía Đông. Lãnh thổ của họ giáp với các vùng đất của Panche ở phía tây, Muzo ở phía tây bắc, Guane ở phía bắc, Lache ở phía đông bắc, Achagua ở phía đông và Sutagao ở phía nam. Vào thời điểm người Tây Ban Nha xâm lược, khu vực này có dân số đông, mặc dù số lượng cư dân chính xác vẫn chưa được biết. Các ước tính khác nhau từ 500.000 đến hơn 3 triệu dân. Nền kinh tế của họ dựa trên nông nghiệp, khai thác muối, thương mại, gia công kim loại và sản xuất. Do nằm dưới sự thuộc địa của Tây Ban Nha, dân số của Muisca đã giảm mạnh và hòa nhập vào dân số nói chung. Hậu duệ của ngừoi Muisca thường được tìm thấy ở các đô thị nông thôn bao gồm Cota, Chiaa, Tenjo, Suba, Engativá, Tocancipá, Gachancipá và Ubaté Một cuộc điều tra dân số của Bộ Nội vụ năm 2005 báo cáo có tổng cộng 14.051 người Muisca ở Colombia. Những người đóng góp quan trọng cho kiến thức về Muisca là người chinh phục chính của họ, Gonzalo Jiménez de Quesada là nhà thơ, người lính và linh mục người Tây Ban Nha Juan de Castellanos (thế kỷ 16); giám mục Lucas Fernández de Piedrahita và Franciscan Pedro Simón (thế kỷ 17); và Javier Ocampo López và Gonzalo Correal Urrego (gần đây). |
Bầu cử chủ tịch nước Việt Nam năm 2023
Một cuộc bầu cử gián tiếp bầu chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được tổ chức vào ngày 2 tháng 3 năm 2023. Cuộc bầu cử đã diễn ra sớm hơn dự định khi ông Nguyễn Xuân Phúc từ chức vì "trách nhiệm chính trị" sau hàng loạt những bê bối tham nhũng như Đại án Việt Á và vụ chuyến bay giải cứu bị phơi bày.
Do là chế độ đơn đảng, ứng cử viên duy nhất tham gia tranh cử là ông Võ Văn Thưởng đã được Quốc hội Việt Nam thống nhất bầu. Vào thời điểm bầu cử chỉ có 488/495 đại biểu quốc hội có mặt tham gia biểu quyết. Kết quả bỏ phiếu ghi nhận 487 phiếu tán thành, 1 phiếu trắng; chiếm 98,38%.
Vào ngày 17 tháng 1 năm 2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã chấp thuận cho ông Nguyễn Xuân Phúc thôi giữ nhiều chức vụ, trong đó có Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong nhiệm kỳ 2021–2026 theo nguyện vọng cá nhân. Sau đó một ngày, Quốc hội Việt Nam đã chính thức miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch nước của ông; bà Võ Thị Ánh Xuân, Phó Chủ tịch nước được phân công giữ Quyền Chủ tịch nước. Việc từ chức của ông được cho là do phải chịu trách nhiệm chính trị khi để xảy ra nhiều vụ sai phạm liên quan đến vụ án sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á và vụ chuyến bay "giải cứu" công dân trở về nước do đại dịch COVID-19 khi hai Phó Thủ tướng xin thôi chức, hai Bộ trưởng và nhiều cán bộ bị xử lý.
Đến ngày 1 tháng 3, nhằm kiện toàn chức vụ Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XV đã ban hành quyết định triệu tập Kỳ họp bất thường lần thứ tư để Quốc hội khóa XV tiến hành bầu cử Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cuộc bầu cử được xác định diễn ra trong sáng ngày 2 tháng 3 năm 2023 tại tòa nhà Quốc hội Việt Nam. Cùng ngày, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã giới thiệu nhân sự để Quốc hội Việt Nam thực hiện bầu cử.
Khoảng 8 giờ ngày 2 tháng 3 năm 2023, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã trình danh sách đề cử nhân sự cho chức vụ Chủ tịch nước. Ngay sau đó, Quốc hội Việt Nam đã tiến hành thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội kết quả thảo luận tại Đoàn, tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội. Tiếp sau đó, Quốc hội thực hiện biểu quyết và bầu Chủ tịch nước qua hình thức bỏ phiếu kín.
Sau khi Ban kiểm phiếu công bố kết quả, Nghị quyết bầu Chủ tịch nước đã ghi nhận 487/488 đại biểu có mặt bỏ phiếu tán thành, chiếm 98,38% tổng số đại biểu Quốc hội cho ông Võ Văn Thưởng. Ông đồng thời cũng là chủ tịch nước trẻ nhất của Việt Nam từ trước đến nay khi giữ chức ở độ tuổi 52. Khoảng 10 giờ, tân Chủ tịch nước của Việt Nam đã có bài phát biểu và tuyên thệ nhậm chức.
Hãng thông tấn "Reuters" gọi ông Võ Văn Thưởng là nhân vật thân cận với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật được xem là quyền lực nhất Việt Nam và là "kiến trúc sư trưởng" trong những cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều nhà đầu tư và phân tích cũng cho rằng cuộc bầu cử là dấu hiệu cho sự liên tục trong chính sách kinh tế và đối ngoại của Việt Nam.
Ngay sau khi Võ Văn Thưởng nhậm chức Chủ tịch nước, nhiều lãnh đạo các quốc gia như Nga, Ấn Độ, Triều Tiên, Nhật Bản, Italia, Mông Cổ, Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất, Trung Quốc, Campuchia, Lào, C |
− (phát âm là "Subtract", nghĩa là "dấu trừ") là album phòng thu thứ sáu và cũng là cuối cùng của nam ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Ed Sheeran, do hãng thu âm Asylum Records và Atlantic Records phát hành vào ngày 5 tháng 5 năm 2023. Được anh bắt tay thực hiện từ giữa năm 2022, album là thành quả hợp tác giữa anh và nhạc sĩ kiêm nhà sản xuất Aaron Dessner cùng với Fred Gibson, Max Martin và Johan Schuster, người cũng đã từng tham gia sản xuất cho ca khúc Eyes Closed cùng album.
Là một album visual acoustic có tổng cộng 14 bài hát (18 bài hát trong bản CD cao cấp và 24 bài hát trong bản Vinyl cao cấp), mỗi ca khúc đều có một video âm nhạc. Trong album có bao gồm hai đĩa đơn đã được phát hành trước đó để quảng bá cho album và một đĩa đơn hợp tác, ca khúc đầu tiên là đĩa đơn chủ đạo mang tên "Eyes Closed", được phát hành vào ngày 24 tháng 3 năm 2023, bài hát đã đứng đầu bảng xếp hạng Vương quốc Anh. Ca khúc thứ hai "Boat", được phát hành vào ngày 21 tháng 4 năm 2023 và đã xếp hạng đứng thứ ba trên bảng xếp hạng Vương quốc Anh. Ca khúc thứ ba mang tên "Life Goes On", được phát hành vào ngày 12 tháng 5 năm 2023. Các video âm nhạc đi kèm của cả ba đĩa đơn cũng đã được phát hành cùng ngày với thời điểm phát hành của ba bài hát.
Album đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc khi nó ra mắt ở vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng tại Úc, Áo, Bỉ, Hà Lan, Pháp, Đức, Ireland, New Zealand, Ba Lan, Scotland, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Vương quốc Anh và lọt vào top 10 ở 11 quốc gia khác bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Ý và Tây Ban Nha.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2023, Ed Sheeran đã công bố tên album, danh sách ca khúc và cả ngày phát hành cho album thông qua những nền tảng mạng xã hội. Anh cũng đã thông báo thêm về một chuyến lưu diễn nhỏ ở châu Âu từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 2 tháng 4, để bổ sung cho việc phát hành đĩa đơn chủ đạo trong album. Album được sản xuất và đồng sáng tác bởi Aaron Dessner đến từ ban nhạc indie rock The National, người cũng đã từng sản xuất cho album "Folklore" và album "Evermore" của Taylor Swift. Ed Sheeran và Aaron Dessner đã cùng nhau soạn nhạc và viết lời cho hơn 30 bài hát trong phòng thu kéo dài hơn một tháng, cuối cùng cũng đã cắt giảm xuống còn 14 bài hát cho album. − là album về chủ đề toán học cuối cùng trong sự nghiệp của anh.
Vào ngày 29 tháng 4 năm 2023, Sheeran đã công bố một loạt các thông tin về buổi biểu diễn ở Bắc Mỹ như một phần của mini tour cho album.
Cùng với việc công bố album, Ed Sheeran cũng đã công bố một chuyến lưu diễn nhỏ, anh đã đến thăm Vương quốc Anh, Ireland và Pháp. Với tổng cộng 7 ngày, diễn ra ở giữa chặng Châu Đại Dương và Bắc Mỹ từ chuyến lưu diễn +–=÷× Tour.
Vào ngày 10 tháng 4 năm 2023, Sheeran đã biểu diễn một buổi hòa nhạc cùng với nhà sản xuất album là Aaron Dessner, anh đã hợp tác với một ban nhạc tại nhà hát Kings Theater ở Brooklyn, New York, nơi mà họ đã chơi cho từng toàn bộ album.
Đánh giá chuyên môn.
− đa số đều nhận được nhiều phản hồi tích cực từ phía các nhà phê bình âm nhạc. Trên Metacritic, một trang mạng tổng hợp điểm đánh giá trung bình của các nhà phê bình với thang điểm 100, album nhận được 65 điểm, dựa trên 14 bài đánh giá, cho thấy album được đón nhận "nhìn chung là thuận lợi".
Alexis Petridis từ tờ báo "The Guardian" đã chấm cho album này 4/5 sao và cho rằng "đây có thể dễ dàng sẽ chính là album hay nhất từ trước đến nay của anh ấy", một "kỷ lục tầm thường" và "không thể thấy được sự mong đợi từ anh để làm hài lòng đám đông". Ngoài ra, ông cũng đánh giá cao công việc của Sheeran với Aaron Dessner, người mà đã mang đến "bầu không khí" và được "thực hiện một cách đẹp mắt" cho album cũng như là những đoạn biên khúc "đầy tinh tế"; những âm thanh "lấp lánh" từ chiếc synthesizer spectrum và những đoạn guitar điện đầy "chất âm vang" mang lại một "làn gió phản hồi nhẹ nhàng" cho album.
Neil McCormick từ nhật báo "The Telegraph" cũng cho một đánh giá tích cực, khi phong tặng album này 5/5 sao và cho rằng "đây là một album trôi chảy, mang đầy tính cảm xúc và lo lắng" khi "album đã giúp cho chúng ta hiểu được phần nào về hành trình tự chữa lành bản thân qua nhiều liệu pháp khác nhau", trong album còn "ưu tiên trực tiếp về cảm xúc thô sơ và giản dị từ Sheeran". Từ chất liệu rung chuyển và cong vênh một cách tinh tế với hướng đi uốn lượn, album đã "mang lại tính cá nhân sâu sắc" cho người nghe.
Nick Levine từ tạp chí "NME" đã chấm cho album này 3/5 sao và cho rằng, anh cảm thấy chắc chắn về album có một "sự khác biệt rõ rệt" đối với những album trước kia. Album lần này mang cho mình một cảm giác buồn bã và thất thường, u sầu và đa số mang tính chân thành, không còn bất kỳ một giai điệu thô bỉ nào giống như ca khúc "folk-Ireland" Galway Girl như trước kia. Ngoài ra, Levine cũng nhận thấy rằng album "giống như là một cái ôm ấm áp một cách thận trọng từ một người bạn nhạy cảm. Anh đã đánh giá cao việc Dessner đã cho Sheeran một không gian cá nhân để có thể nói ra những gì mà anh đã từng nghĩ để ngừng cố gắng làm Sheeran nổi bật lên", Levine cũng khen ngợi cho album về "tính đặc trưng nổi bật" trong từng lời ca của Sheeran.
Robin Murray từ tạp chí "Clash" cũng đánh giá album của Sheeran có một "sự tương đồng" với album "Folklore" của Taylor Swift. Dù có điểm chung là cả hai album đều do Dessner sản xuất, nhưng ông cho rằng album của Sheeran là "quá gọn gàng để có thể bỏ sót" khi album đã cố tình "loại được bỏ đi lớp sơn bóng để lộ ra phần sáng tác bên dưới và hoán đổi nhạc pop để lấy một loại hình nghệ thuật 'nghiêm túc' hơn". Sau cùng, ông đã kết luận rằng album đang mang lại "sự ảnh hưởng đến sau này", nhưng sau cùng thì album vẫn còn "lưu luyến một chút tính chất của Ed Sheeran" mặc dù không phải là "không có chất schmaltz".
Bà Maura Johnston từ tạp chí "Rolling Stone" đã chấm cho album này 4/5 sao và đã khẳng định rằng, album đã được sắp xếp "cẩn thận và có chủ ý nhằm để tạo nên một nền tảng vững chắc cho những suy ngẫm của Sheeran về một loạt các sự kiện khủng khiếp", trong khi khí chất trữ tình của anh "bỗng lại trở nên nổi bật, được hỗ trợ bởi từng dụng cụ âm nhạc tinh xảo và chi tiết bổ sung thêm với những ca từ được truyền đạt một cách gần gũi đã được đúc kết từ những câu chuyện trong cuộc sống của anh".
Roisin O'Connor nhật báo "The Independent" đã mô tả album giống như là "một sự khởi đầu tốt hơn theo một cách nào đó", trong album ta có thể thấy được Dessner đã mang một phong cách "piano với damper pedal phản âm trưởng" đến với album, và từ đó quay trở lại với "phong cách âm hưởng từ tác phẩm đầu tiên của Sheeran "+"". Bà đánh giá rằng "Mặc dù album không đạt yêu cầu về phần ca từ, nhưng sau khi biết rằng Sheeran đã dành hơn một thập kỷ chỉ để tìm hiểu đến những vấn đề mơ hồ nhưng lại rất phổ biến" mặc dù "anh đã cố gắng hết sức để có thể cởi mở".
Steven Loftin từ tạp chí "The Line of Best Fit" đã cho rằng mặc dù album này "không tuân theo những thói quen thông thường mà Sheeran đã làm với những album trước", nhưng anh nhấn mạnh về album rằng "chắc chắn sẽ không bị gỡ ra khỏi gốc rễ", và có thế sẽ tự đặt ra câu hỏi rằng "tại sao lần này anh ấy lại không làm như vậy". Ít nhất là để thử cho một số hình thức tiến bộ" hoặc có thể là vì Sheeran đang có vẻ "rất vui khi được chơi với những đông bằng công thức có sẵn trong sách của riêng mình mà ngay cả khi nhưng đông thức đó được sử dụng và sản xuất một cách độc lập thì nó mới trở nên nổi tiếng nhất, dù anh ấy vẫn cảm thấy lạc lõng". Nhà phê bình Kitty Empire từ tờ báo "The Observer" đã cho album này 3/5 sao và bà đã nhận định album này là một album dựa trên lý trí và theo bản năng nhằm để giải quyết các vấn đề về sức khỏe tâm thần theo cách "đối phó với bất đối phó" với người lớn.. Jon Pareles từ tờ "The New York Times" đã khẳng định album luôn "chứa đựng những ca khúc có ca từ mạnh mẽ, ngay cả khi nội dung về nó chỉ nói về những cảm xúc mong manh", ông nhận định rằng, "Rõ ràng, Sheeran vốn không hề lo lắng về những lời nói rập khuôn — mặc dù trong những bài hát này, những giai điệu buồn khiến chúng được thêm một chút sự khí giới hơn bình thường".
Đội ngũ thực hiện.
Đội ngũ tham gia sản xuất cho album "-" được điều chỉnh trên ghi chú trên bìa đĩa. |
Isabelle I xứ Angoulême
Isabelle I xứ Angoulême (Tiếng Pháp: "Isabelle d'Angoulême", ]; tiếng Anh: Isabelle; #đổi / 1188 – 4 tháng 6 1246) là Vương hậu Anh từ năm 1200 đến năm 1216 với tư cách là người vợ thứ hai của Vua John và là Nữ Bá tước xứ Angoulême từ năm 1202 cho đến khi bà qua đời vào năm 1246, và Bá tước phu nhân xứ La Marche từ năm 1220 đến năm 1246 với tư cách là vợ của Bá tước Hugh.
Isabelle có 5 người con với Vua John, trong đó có người thừa kế của ông, sau này là Henry III. Năm 1220, Isabelle kết hôn với Hugh X xứ Lusignan, Bá tước xứ La Marche, người có thêm 9 người con.
Một số người cùng thời với Isabelle, cũng như các nhà văn sau này, cho rằng bà đã hình thành một âm mưu chống lại Vua Louis IX của Pháp vào năm 1241, sau khi bị mẹ ông, Blanca của Castilla, hắt hủi một cách công khai, người mà bà nuôi lòng căm thù sâu sắc. Năm 1244, sau khi âm mưu thất bại, Isabelle bị buộc tội âm mưu đầu độc nhà vua. Để tránh bị bắt, bà đã tìm nơi ẩn náu ở Tu viện Fontevraud, nơi bà qua đời hai năm sau đó, nhưng điều này không thể được xác nhận.
Vưong hậu nước Anh.
Isabelle là con gái duy nhất và là người thừa kế của Aymer Taillefer, Bá tước xứ Angoulême với Alice xứ Courtenay, là em gái của Peter II xứ Courtenay, Hoàng đế Latinh của Constantinople. Alice và Peter II là cháu Vua Louis VI của Pháp thông qua cha của họ là Peter I xứ Courtenay.
Isabelle trở thành Nữ bá tước Angoulême theo đúng quyền của mình vào ngày 16 tháng 6 năm 1202, lúc đó bà đã là vương hậu của nước Anh. Cuộc hôn nhân của bà, ở tuổi 12 hoặc 14, với Vua John diễn ra vào ngày 24 tháng 8 năm 1200, tại Angoulême, một năm sau khi ông hủy bỏ cuộc hôn nhân đầu tiên với Isabella, Bá tước phu nhân xứ Gloucester. Bà được trao vương miện vưong hậu trong một buổi lễ cầu kỳ vào ngày 8 tháng 10 tại Tu viện Westminster ở London. Isabelle ban đầu được đính hôn với Hugh IX le Brun, Bá tước xứ Lusignan, cháu trai và người thừa kế của Bá tước xứ La Marche. Do sự táo bạo của John khi lấy bà làm vợ thứ hai, Vua Philippe II của Pháp đã tịch thu toàn bộ đất đai ở Pháp của họ và xung đột vũ trang xảy ra sau đó.
Vào thời điểm kết hôn với John, cô gái tóc vàng mắt xanh Isabelle đã được một số người nổi tiếng vì vẻ đẹp của mình. và đôi khi được các nhà sử học gọi là Helen của thời Trung Cổ. Isabelle trẻ hơn chồng rất nhiều và có tính khí thất thường giống anh. Vua John say mê người vợ trẻ đẹp; tuy nhiên, việc anh có được bà ít nhất cũng liên quan nhiều đến việc coi thường kẻ thù của anh cũng như tình yêu lãng mạn. Cô đã đính hôn với Hugh IX le Brun khi bà bị John bắt. Người ta nói rằng anh ta đã bỏ bê công việc quốc gia của mình để dành thời gian cho Isabelle, thường ở trên giường với bà ấy cho đến trưa. Tuy nhiên, đây là những tin đồn do kẻ thù của John lan truyền nhằm làm mất uy tín của ông như một nhà cai trị yếu đuối và hết sức vô trách nhiệm, vì vào thời điểm đó John đang tham gia vào một cuộc chiến tuyệt vọng chống lại Vua Philippe II của Pháp để giữ vững các công quốc Plantagenet còn lại. Những người bình thường bắt đầu gọi bà là "siren" hay "Messalina" vì sức quyến rũ của bà. Mẹ chồng bà, Aliénor xứ Aquitaine, sẵn sàng chấp nhận bà làm vợ của John.
Vào ngày 1 tháng 10 năm 1207, tại Lâu đài Winchester, Isabelle sinh một con trai và người thừa kế, Vua tương lai Henry III của Anh, người được đặt theo tên ông nội là Vua Henry II. Theo sau ông nhanh chóng là một người con trai khác, Richard, và ba cô con gái: Joan, Isabelle và Eleanor. Cả năm người con đều sống sót đến tuổi trưởng thành và có những cuộc hôn nhân lừng lẫy; tất cả trừ Joan đều sinh ra con cái của riêng họ.
Cuộc hôn nhân thứ hai.
Khi Vua John qua đời vào tháng 10 năm 1216, hành động đầu tiên của Isabelle là sắp xếp lễ đăng quang nhanh chóng cho đứa con trai chín tuổi của bà tại thành phố Gloucester vào ngày 28 tháng 10. Vì vương miện hoàng gia vừa bị thất lạc tại vịnh The Wash, cùng với phần kho báu còn lại của Vua John, nên bà đã cung cấp chiếc vòng vàng của riêng mình để sử dụng thay cho vương miện. Tháng 7 năm sau, chưa đầy một năm sau khi ông lên ngôi Vua Henry III của Anh, bà để ông cho nhiếp chính của ông, William Marshal, Bá tước thứ nhất xứ Pembroke, chăm sóc và trở về Pháp để nắm quyền kiểm soát quyền thừa kế Angoulême của mình.
Vào mùa xuân năm 1220, Isabelle kết hôn với Hugh X xứ Lusignan, "le Brun", Seigneur de Luisignan, Bá tước xứ La Marche, con trai của vị hôn phu cũ của bà là Hugh IX, người mà bà đã hứa hôn trước khi kết hôn với Vua John. Trước đó người ta đã sắp xếp rằng con gái lớn Joan của bà sẽ kết hôn với Hugh, và cô bé được nuôi dưỡng tại triều đình Lusignan để chuẩn bị cho cuộc hôn nhân của mình. Tuy nhiên, Hugh khi nhìn thấy Isabelle, người có vẻ đẹp không hề suy giảm, thích mẹ của cô con gái hơn. Joan sau đó được gả cho người chồng khác, Vua Alexander II của Scotland, người mà cô kết hôn vào năm 1221.
Isabelle đã kết hôn với Hugh mà không có sự đồng ý của hội đồng nhà vua ở Anh, theo yêu cầu của một thái hậu. Hội đồng đó không chỉ có quyền giao cho bà bất kỳ người chồng tiếp theo nào mà còn quyết định liệu bà có được phép (hoặc bị ép buộc) tái hôn hay không. Việc Isabelle coi thường quyền lực của mình đã khiến hội đồng tịch thu đất đai của người hồi môn của bà và ngừng trả lương hưu cho bà. Isabelle và chồng trả đũa bằng cách đe dọa giữ Joan, người đã được hứa kết hôn với Vua Scotland, ở Pháp. Hội đồng lần đầu tiên phản ứng bằng cách gửi những bức thư giận dữ đến Giáo hoàng, ký tên của vị vua trẻ Henry, thúc giục ông vạ tuyệt thông Isabelle và chồng bà, nhưng sau đó quyết định thỏa thuận với Isabelle để tránh xung đột với nhà vua Scotland, người đã háo hức đón cô dâu của mình. Isabelle được cấp các kho tài sản ở Devon và doanh thu của Aylesbury trong thời gian 4 năm, để đền bù cho những vùng đất của hồi môn bị tịch thu ở Normandie, cũng như khoản nợ lương hưu 3.000 bảng Anh.
Isabelle có thêm chín người con với Hugh X. Con trai cả của họ là Hugh XI xứ Lusignan kế vị cha mình làm Bá tước xứ La Marche và Bá tước Angoulême vào năm 1249.
Những đứa con của Isabelle từ cuộc hôn nhân hoàng gia của bà đã không cùng bà đến Angoulême, ở lại Anh với anh cả Henry III.
Nổi loạn và cái chết.
Được một số người đương thời mô tả là "vô ích, thất thường và rắc rối", Isabelle không thể dung hòa bản thân với vị trí kém nổi bật của mình ở Pháp. Mặc dù từng là vưong hậu của nước Anh nhưng giờ đây Isabelle hầu như chỉ được coi là một nữ bá tước đơn thuần và phải dành quyền ưu tiên cho những phụ nữ khác. Năm 1241, khi Isabelle và Hugh được triệu tập đến triều đình Pháp để thề trung thành với em trai của Vua Louis IX của Pháp, Alphonse, người đã được phong làm Bá tước Poitou, mẹ của họ, Thái hậu Blanca đã công khai hắt hủi bà. Điều này khiến Isabelle vô cùng tức giận, người có lòng căm thù sâu sắc với Blanca vì đã nhiệt thành ủng hộ cuộc xâm lược của Pháp vào nước Anh trong Chiến tranh Nam tước lần thứ nhất vào tháng 5 năm 1216, đến nỗi bà bắt đầu âm mưu tích cực chống lại Vua Louis. Isabelle và chồng, cùng với các quý tộc bất mãn khác, bao gồm cả con rể của bà là Bá tước Raymond VII xứ Toulouse, đã tìm cách thành lập một liên minh do Anh hậu thuẫn nhằm thống nhất các tỉnh phía nam và phía tây chống lại vua Pháp. Bà khuyến khích con trai mình là Henry trong cuộc xâm lược Normandie vào năm 1230, nhưng sau đó không nhận được hỗ trợ như bà đã hứa.
Năm 1244, sau khi liên minh thất bại và Hugh làm hòa với vua Louis, hai đầu bếp hoàng gia bị bắt vì âm mưu đầu độc nhà vua; Khi thẩm vấn, họ thú nhận đã nhận tiền của Isabelle. Trước khi Isabelle bị bắt, bà đã trốn đến Tu viện Fontevraud, nơi bà qua đời vào ngày 4 tháng 6 năm 1246.
Theo sự sắp xếp từ trước của Isabelle, lần đầu tiên bà được chôn cất trong sân nhà thờ của tu viện như một hành động ăn năn về nhiều hành vi sai trái của mình. Trong một chuyến viếng thăm Fontevraud, con trai bà là Vua Henry III của Anh đã bị sốc khi thấy bà được chôn cất bên ngoài tu viện và ra lệnh chuyển bà ngay vào trong. Cuối cùng bà được đặt bên cạnh Henry II và Aliénor xứ Aquitaine. Sau đó, hầu hết những đứa con Lusignan của bà vì có ít triển vọng ở Pháp, lên đường đến Anh và tới triều đình của Henry, anh em cùng mẹ khác cha của họ.
Với John của Anh, năm người con, tất cả đều sống sót đến tuổi trưởng thành:
Với Hugh X xứ Lusignan, Bá tước xứ La Marche: chín người con, tất cả đều sống sót đến tuổi trưởng thành:
Trong văn hóa đại chúng.
Isabelle đựoc nữ diễn viên Zena Walker thủ vai trong bộ phim truyền hình "Cuộc phiêu lưu của Robin Hood" tập "Isabelle" (1956), trước khi kết hôn với John, nhưng không phải khi mới 12 tuổi. Bà được nữ diễn viên Victoria Abril thể hiện trong bộ phim "Robin và Marian" năm 1976 và được nữ diễn viên Cory Pulman thủ vai trong tập "The Pretender" (1986) của bộ phim truyền hình "Robin of Sherwood". Bà được nữ diễn viên Léa Seydoux thể hiện trong bộ phim "Robin Hood" năm 2010. |
Shenyang J-16 (tiếng Trung: 歼-16) là một máy bay chiến đấu đa năng thế hệ thứ tư tiên tiến của Trung Quốc được phát triển từ Shenyang J-11 (có nguồn gốc từ Sukhoi Su-27), nhà sản xuất chế tạo là Shenyang Aircraft Corporation. J-16 được sử dụng bởi Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAAF).
Thiết kế và phát triển.
Vào thập niên 1990, Trung Quốc đã mua các máy bay chiến đấu chiếm ưu thế trên không Sukhoi Su-27 từ Nga, bao gồm cả những chiếc được sản xuất theo giấy phép tại Trung Quốc dưới tên gọi Shenyang J-11A. J-11A được tiếp tục phát triển thành biến thể một chỗ ngồi J-11B và biến thể hai chỗ ngồi J-11BS với công nghệ nội địa. J-16 là máy bay tấn công có nguồn gốc từ mẫu J-11BS.
J-16 trang bị một radar mảng quét điện tử chủ động AESA, hai động cơ tuốc bin phản lực Shenyang WS-10A. Máy bay sử dụng nhiều vật liệu composite hơn nhằm giảm trọng lượng. Các đơn vị J-16 đã nhận được sơn hấp thụ radar để giảm tín hiệu radar, và tăng cường khả năng Áp chế Phòng không Đối phương (Suppression of Enemy Air Defenses - SEAD) kết hợp với các hộp đo lường hỗ trợ điện tử.
Buồng lái trang bị hệ thống màn hình hiển thị gắn trên mũ bảo hiểm (HMD) để cải thiện nhận thức tình huống của phi công.
Phiên bản tác chiến điện tử J-16D được phát triển vào thập niên 2010. Nó được cho là đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 2015. J-16D được thiết kế để Áp chế Phòng không Đối phương (SEAD), có chứa thiết bị gây nhiễu bên trong và mang theo nhiều thiết bị tác chiến điện tử bên ngoài.
Theo nhà nghiên cứu hàng không Justin Bronk thuộc Royal United Services Institute, J-16 có nhiều lợi thế hơn so với các biến thể Flanker của Nga nhờ ứng dụng rộng rãi vật liệu composite, tên lửa tầm xa hơn, cảm biến và hệ thống điện tử hàng không hiện đại. J-16 đại diện cho sự chuyển đổi của ngành công nghiệp hàng không Trung Quốc thoát khỏi sự phụ thuộc vào công nghệ Nga trong quá khứ, để hướng tới phát triển các sản phẩm phái sinh hiện đại vượt trội so với bản gốc của Nga về nhiều mặt.
Quân đội Trung Quốc đang phát triển khả năng tự hành tiên tiến cho các máy bay chiến đấu. Tháng 3 năm 2021, có thông tin cho rằng một biến thể J-16 với phi công phụ ở ghế sau đã bị thay thế bằng một thuật toán trí tuệ nhân tạo có tên là "chiến thắng tình báo" () đang được thử nghiệm tại Shenyang Aircraft Corporation. Một chiếc máy bay tương tự cũng được phát hiện bằng hình ảnh vệ tinh tại một căn cứ thử nghiệm gần Malan, Tân Cương vào tháng 6 năm 2021.
Lịch sử hoạt động.
Chuyến bay đầu tiên được cho là đã diễn ra vào năm 2011-2012.
Tháng 4 năm 2014, PLAAF đã tiếp nhận một trung đoàn J-16.
J-16 đi vào hoạt động năm 2015 và chính thức được tiết lộ công khai vào năm 2017 trong cuộc duyệt binh kỷ niệm 90 năm thành lập Quân Giải phóng Nhân dân.
Năm 2021, Không quân Trung Quốc bắt đầu đưa J-16D vào huấn luyện chiến đấu.
Theo Bộ Quốc phòng Úc, ngày 26 tháng 5 năm 2022, một chiếc J-16 đã chặn một máy bay giám sát Boeing P-8 Poseidon của Không quân Hoàng gia Úc trên Biển Đông khi chiếc máy bay này đang tiến hành các hoạt động giám sát hàng hải thông thường trên vùng biển quốc tế. Bộ trưởng Quốc phòng Úc mới đắc cử Richard Marles cho biết, chiếc J-16 đầu tiên bay sát bên cạnh chiếc P-8, phóng pháo sáng và sau đó bay ra phía trước, rồi thả vật gây nhiễu vào đường bay làm một số rơi vào động cơ của P-8. Chính phủ Úc đã phản đối Chính phủ Trung Quốc về vụ việc và Marles nói rằng Úc sẽ không bị ngăn cản tiến hành các hoạt động có tính chất tương tự trong tương lai. Theo người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc, các phi công Úc đã hành động "nguy hiểm và khiêu khích" đồng thời phớt lờ các cảnh báo lặp đi lặp lại trước khi chiếc J-16 đuổi máy bay Úc đi. Trong một bài báo của Lowy Institute - một tổ chức tư vấn của Úc, cho biết vụ ngăn chặn đánh dấu sự leo thang trong các hành động vùng xám mà Trung Quốc đang sử dụng để thực thi các yêu sách của mình ở Biển Đông.
Trong số tất cả các máy bay được triển khai ở eo biển Đài Loan, máy bay chiến đấu J-16 được sử dụng thường xuyên nhất, có thể là do khả năng tác chiến điện tử của nó. Tháng 8 năm 2022, Trung Quốc đã điều động một lượng lớn máy bay chiến đấu J-16 đến eo biển Đài Loan, để đáp trả lại chuyến thăm Đài Loan của bà Nancy Pelosi.
Máy bay có sự phát triển liên quan
Máy bay có vai trò, cấu hình và thời đại tương đương
Danh sách liên quan |
Bãi biển Futaba (/ , Futabakaisuiyokujō) là một bãi biển nằm ở thị trấn Futaba, quận Futaba, tỉnh Fukushima. Bãi biển Futaba cách nhà máy điện hạt nhân Fukushima I khoảng 3 km về phía bắc, được xem là bãi biển duy nhất ở tỉnh Fukushima. Năm 2006, được Bộ Môi trường Nhật Bản bình chọn là một trong 100 Bãi tắm đẹp nhất vào năm 2006. Các lễ hội bãi biển mùa hè nổi tiếng ở Futaba được tổ chức vào tháng 8 hàng năm.
Tuy nhiên, do sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và người dân đều di tản hết nên bãi biển này hiện không được phép vào do nồng độ phóng xạ còn cao. Hiện nay, bãi biển đã bị đóng cửa vĩnh viễn và nó không còn được gọi là bãi biển nữa. Trong nhiều năm qua, lượng du khách tới bãi biển này gần như bằng không. |
Tỉ lệ tổn thất tương ứng
Tỉ lệ tổn thất tương ứng (tiếng Anh: Loss exchange ratio) hay tỉ lệ thiệt hại là cách đo hiệu suất chiến đấu trong chiến tranh tiêu hao.
Khái niệm được sử dụng để so sánh mức độ tổn thất giữa hai bên trong một cuộc chiến tranh như tỉ lệ thiệt hại giữa Đức và Liên Xô, hay so sánh tổn thất không quân giữa Đồng minh và phe Trục.
Trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, các lãnh đạo của Việt Minh đã nói với người Pháp rằng "Các ông giết 10 người của chúng tôi, chúng tôi giết 1 người của ông, nhưng cuối cùng các ông sẽ là người kiệt sức." Cuối cùng quân Pháp đã rút lui trong thất bại mặc dù quân đội Việt Minh tổn thất lớn hơn. |
Sở Cảnh sát Tokyo
Sở Cảnh sát Tokyo (警視庁 (Cảnh Thị Sảnh), Keishichō) là trụ sở chính của cảnh sát thủ đô Tokyo cũng như chỉ lực lượng cảnh sát Tokyo. Cơ quan này thành lập vào năm 1874 và chịu trách nhiệm đảm bảo an ninh cho toàn bộ Tokyo.
Sở Cảnh sát Tokyo với người đứng đầu là Tổng thanh tra do Ủy ban Công an Quốc gia bổ nhiệm với sự chấp thuận của Thủ tướng. Với 10 Sở phương diện và 102 Đồn cảnh sát được đặt trong Tokyo, cảnh sát Tokyo có lực lượng lớn nhất thế giới về số lượng cảnh sát viên.
Tòa nhà trụ sở nằm ở gần cổng Sakurada, Kasumigaseki, quận Chiyoda, Tokyo, Nhật Bản.
Sở cảnh sát Tokyo nằm dưới sự lãnh đạo của Tổng Thanh tra và báo cáo trực tiếp lên Ủy ban Công an Tokyo, Uỷ ban này cũng nằm trong toà nhà Sở.
Tổ chức Sở cảnh sát Tokyo gồm 9 phòng và các cơ quan khác:
Phòng Tổng Vụ: Đứng đầu là Trưởng phòng với sĩ quan (cán bộ) cấp bậc Chánh thanh tra trưởng hoặc Chánh thanh tra cấp cao.
+ Phòng Ủy ban Công an (公安委員会室)
+ Phòng thư ký Tổng thanh tra (総監秘書室)
+ Phòng hỗ trợ nạn nhân của tội phạm (犯罪被害者支援室)
+ Phòng quản lý toà nhà trụ sở (庁舎管理室)
+ Phòng giám sát thẩm vấn (取調監督室)
・Ban quản lý thông tin
・Ban quan hệ công chúng
+ Trung tâm quảng bá, viện bảo tàng cảnh sát
+ Phòng kiểm toán
+ Trung tâm lưu giữ vật thất lạc
・Ban cung ứng: Phụ trách đấu thầu, lập ngân sách, mua sắm các mặt hàng cần thiết cho hoạt động của cảnh sát.
・Ban cơ sở vật chất
・Ban quản lý tạm giam 1: Phụ trách quản lý các cơ sở tạm giam và người bị tạm giam giữ.
・Ban quản lý tạm giam 2: Chịu trách nhiệm về các công việc liên quan đến tuần tra, hộ tống người bị tạm giam giữ.
・Ban nhân sự thứ nhất: Phụ trách nhân sự bậc 6 và 5.
- Tổ tổng hợp (庶務係)
- Tổ kế toán (会計係)
- Tổ biểu dương (表彰係)
- Tổ giám sát (監察係)
+ Nhân sự - Tổ nhân sự, Tổ kế hoạch nhân sự, Tổ quản lý thông tin nhân sự
+ Nhân lực - Tổ quản lý nhân lực 1-2
Về các cảnh sát bậc 4 trở lên thuộc thẩm quyền Ủy ban Công an quốc gia dưới sự hỗ trợ của Tổng cục Cảnh sát.
・Ban nhân sự thứ hai: Phụ trách nhân sự từ bậc 7 trở xuống và tuyển dụng học viên vào học viện cảnh sát.
・Ban kiện tụng: Xử lí các vụ kiện chống lại Sở cảnh sát Tokyo với tư cách bị đơn.
+ Phòng huấn luyện Judo
+ Phòng huấn luyện Kendo
+ Phòng huấn luyện kỹ thuật bắt giữ
+ Phòng huấn luyện sử dụng súng ngắn
+ Trung tâm thông dịch
・Sở quản lý sức khỏe
・Phòng Giám sát viên
Phòng Điều tra Hình sự:
・Ban Tổng vụ Hình sự
・Đơn vị điều tra 1: Điều tra các vụ án thiên về vũ lực (giết người, cướp của, hiếp dâm, đốt phá...)
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ nhất (đứng đầu mỗi nhánh là Quản lí) - Tổ điều tra tội phạm vũ lực 1-2
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ hai - Tổ điều tra tội phạm vũ lực 3-4, Tổ điều tra pháp y 1-2
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ ba - Tổ điều tra án mạng 1-2
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ tư - Tổ điều tra án mạng 3-4
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ năm - Tổ điều tra án mạng 5-7
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ sáu - Tổ điều tra cướp của 1-4
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ bảy - Tổ điều tra xâm hại tình dục 1-3
+ Điều tra tội phạm vũ lực thứ tám - Tổ điều tra hỏa hoạn 1-2
Các Tổ điều tra vụ án đặc biệt dưới đây còn có tên gọi khác là SIT (Special Investigation Team), đơn vị điều tra chuyên án như bắt cóc, đánh
+ Điều tra vụ án đặc biệt thứ nhất - Tổ điều tra vụ án đặc biệt 1-2
+ Điều tra vụ án đặc biệt thứ hai - Tổ điều tra vụ án đặc biệt 3-4
+ Điều tra vụ án đặc biệt thứ ba - Tổ điều tra vụ án đặc biệt 6-7
+ Phòng ứng phó điều tra đặc mệnh - Tổ điều tra đặc mệnh 1-5 (Đơn vị chuyên điều tra các vụ án chưa được giải quyết)
・Đơn vị điều tra 2: Điều tra các vụ án thiên về trí tuệ (hối lộ, in tiền giả, lừa đảo, vi phạm bầu cử...)
・Đơn vị điều tra 3: Điều tra liên quan đến trộm cắp.
・Ban Cộng tác Điều tra: Đơn vị phối hợp với các cơ quan cảnh sát khác điều tra tội phạm truy nã.
・Viện nghiên cứu Pháp y cảnh sát Tokyo
・Trung tâm Phân tích hỗ trợ điều tra
・Đội điều tra cơ động: Điều tra ban đầu các vụ án hình sự.
・Ban An ninh thứ nhất
- Tổ tổng hợp
- Tổ kế toán
- Tổ liên lạc an ninh
- Tổ quản lí lực lượng cơ động
+ Kế hoạch an ninh - Tổ kế hoạch an ninh, Tổ quản lý an ninh 1-2
+ Thực thi an ninh - Tổ thực thi an ninh 1-3
+ Tình báo an ninh - Tổ tình báo an ninh 1-3
+ Hiện trường an ninh - Tổ hiện trường an ninh 1-2
+ Phòng quản lí khủng hoảng
+ SAT (Đội đặc nhiệm)
+ Đơn vị chống khủng bố sân bay quốc tế Tokyo
・Ban An ninh thứ hai
・Ban đối phó thảm họa
・Ban cảnh vệ: Phụ trách đảm bảo an toàn cho Thiên hoàng bệ hạ và các thành viên Hoàng gia.
・Ban cảnh hộ: Phụ trách bảo vệ các quan chức chính phủ và nước ngoài.
・Tiểu đoàn cảnh sát cơ động 1-9
・Tiểu đoàn xe đặc chủng
・Tiểu đoàn hàng không cảnh sát Tokyo (Không quân)
・Ban Tổng vụ Giao Thông
・Ban Chấp hành Giao thông
・Ban Điều tra Giao thông
・Ban Điều tiết Giao thông
・Ban Điều hành Giao thông
・Ban đối phó đỗ xe
・Trụ sở giấy phép lái xe
・Trung tâm sát hạch lái xe
・Đội cơ động giao thông khu vực số 1-10 (10 đội)
・Đội cảnh sát giao thông đường cao tốc
Đây là bộ phận vận hành, quản lý các xe cảnh sát, trạm Kōban - trạm cảnh sát, tiếp nhận các cuộc gọi 110 từ người dân.
・Ban Tổng vụ khu vực
・Ban hướng dẫn khu vực
・Đội tuần tra lưu động
・Đội cảnh sát đường sắt
・Sở chỉ huy thông tin liên lạc (Cơ quan trực thuộc)
・Ban Tổng vụ Công an
・Ban Công an thứ nhất
・Ban Công an thứ hai
・Ban Công an thứ ba
・Ban Công an thứ tư
・Ban đối ngoại 1
・Ban đối ngoại 2
・Ban đối ngoại 3
・Ban đối ngoại 4
・Đội điều tra cơ động bảo an
Phòng An toàn Đời sống
・Ban Tổng vụ An toàn Đời sống
・Phòng Đối phó Tội phạm đeo bám
・Phòng Biện pháp An toàn cho trẻ em và phụ nữ
・Ban kinh tế đời sống
・Ban môi trường đời sống
・Ban đảm bảo an toàn
・Ban phát triển thanh thiếu niên
・Ban vụ án vị thành niên
・Ban phòng chống tội phạm mạng
・Đội điều tra đặc biệt An toàn Cuộc sống
Phòng phòng chống tội phạm có tổ chức
・Ban Tổng vụ chống tội phạm có tổ chức
・Ban phòng chống thu nhập từ hành vi phạm tội
・Ban phòng chống tội phạm quốc tế
・Ban phòng chống băng đảng
・Ban phòng chống súng ống chất kích thích
・Đội điều tra đặc biệt chống tội phạm có tổ chức
Học viện cảnh sát thủ đô
Sở phòng chống ngăn chặn tội phạm
Sở biện pháp toàn diện liên quan đến an toàn cá nhân
Văn phòng đối phó tội phạm và an ninh mạng
Có tổng cộng 10 sở phương diện (khu vực) đặt trong Tokyo, các cơ quan này là cơ quan trung gian giữa Sở chính và các Đồn. Cấp bậc của Giám đốc mỗi Sở phương diện là Chánh thanh tra trưởng hoặc Chánh thanh tra cấp cao.
Địa chỉ các Sở phương diện:
Sở phương diện 1: 2-1-1 Kasumigaseki, quận Chiyoda (nằm trong toà nhà Sở chính)
Sở phương diện 10: 3-4-7 Nishigaoka, quận Kita
Cấp bậc của cảnh sát Nhật Bản và chức vụ tương ứng tại Sở cảnh sát Tokyo:
Bậc 1: 警視総監 - Tổng thanh tra (Cấp bậc này cũng là tên chức vụ cho sĩ quan đứng đầu Sở cảnh sát Tokyo)
Bậc 2: 警視監 - Chánh thanh tra giám sát (Phó Tổng thanh tra, Trưởng phòng)
Bậc 3: 警視長 - Chánh thanh tra trưởng (Trưởng phòng, Tham tán)
Bậc 4: 警視正 - Chánh thanh tra cấp cao (Tham tán, Trưởng đơn vị, Trưởng ban)
Bậc 5: 警視 - Chánh thanh tra (Trưởng ban, Ủy viên, Quản lý)
Bậc 6: 警部 - Thanh tra (Tổ trưởng)
Bậc 7: 警部補 - Trợ lý thanh tra (Chủ nhiệm)
Bậc 8: 巡査部長 - Trưởng phòng tuần tra.
Bậc 9: 巡査 - Tuần tra.
Cấp bậc không chính thức:
Tư lệnh - 長官: Chức vụ của cán bộ đứng đầu lực lượng cảnh sát Nhật Bản, tương đương với Tổng tham mưu trưởng (Đại tướng) của Lực lượng Phòng vệ.
Tuần trưởng - 巡査長: Chức vụ nằm giữa bậc 8 và 9, trao cho các cảnh sát bậc 9 nổi bật sau vài năm làm việc. |
Sơ đồ luồng dữ liệu
Sơ đồ luồng dữ liệu (tên tiếng Anh: Data-flow diagram, viết tắt: DFD) là một cách biểu diễn luồng dữ liệu thông qua một quy trình hoặc một hệ thống (thường là một hệ thống thông tin). DFD cũng cung cấp thông tin về đầu ra và đầu vào của từng thực thể và chính trong quy trình đó. Sơ luồng dữ liệu không có luồng điều khiển, không có quy tắc quyết định và không có vòng lặp. Các hoạt động cụ thể dựa trên dữ liệu có thể được biểu diễn bằng lưu đồ.
Đối với mỗi luồng dữ liệu, ít nhất một trong các điểm cuối (nguồn và/hoặc đích đến) phải tồn tại trong một quy trình. Biểu diễn tinh chỉnh của một quy trình có thể được thực hiện trong một sơ đồ luồng dữ liệu khác, sơ đồ này chia nhỏ quy trình này thành các quy trình con.
Sơ đồ luồng dữ liệu được xem là một công cụ, một phần phân tích cấu trúc và mô hình hóa dữ liệu. Khi sử dụng UML, sơ đồ hoạt động thường đảm nhận vai trò của sơ đồ luồng dữ liệu. Một dạng đặc biệt của kế hoạch luồng dữ liệu và kế hoạch luồng dữ liệu hướng trang. Đây cũng được xem là mạng Petri đảo ngược, bởi các vị trí trong các mạng như vậy tương ứng với ngữ nghĩa trong bộ nhớ dữ liệu.
Tên gọi DFD được dựa trên lý thuyết đồ thị, ban đầu nó được sử dụng trong nghiên cứu hoạt động để mô hình hóa quy trình làm việc trong các tổ chức. DFD bắt nguồn từ sơ đồ hoạt động được sử dụng trong các phương pháp phân tích cấu trúc và kỹ thuật thiết kế vào cuối những năm 1970. Những người nổi tiếng với DFD có thể kể đến như Edward Yourdon, Larry Constantine, Tom DeMarco, Chris Gane và Trish Sarson.
DFD sau đó nhanh chóng trở nên phổ biến khi trực quan hóa các bước chính và dữ liệu liên quan đến các quy trình trong hệ thống phần mềm. DFD thường được sử dụng để hiển thị luồng dữ liệu trong hệ thống máy tính, mặc dù về lý thuyết, chúng có thể được áp dụng cho việc mô hình hóa quy trình kinh doanh. DFD rất hữu ích để ghi lại các luồng dữ liệu chính hoặc để khám phá một thiết kế cấp cao mới về luồng dữ liệu. |
Anne dưới Mái nhà Bên Ánh Lửa
Anne dưới Mái nhà Bên Ánh Lửa (tên nguyên tác "Anne of Ingleside)" là một tiểu thuyết của Lucy Maud Montgomery. Được xuất bản lần đầu năm 1939 bởi Nhà xuất bản McClelland and Stewart (Toronto) và the Frederick A. Stokes Company (New York). Đây là cuốn thứ 10 trong số 11 cuốn có sự xuất hiện của nhân vật Anne Shirley, và là tác phẩm xuất bản cuối cùng khi Montgomery còn sống
Theo trình tự thời gian, Anne dưới Mái nhà Bên Ánh Lửa kể về giai đoạn cuộc đời Anne ở tuổi 34-40, trước cuốn "Thung lũng cầu vồng" (Anne ở tuổi 41) - được xuất bản nhiều năm trước đó. Thêm vào đó, một tuyển tập truyện ngắn mang tên "The Blythes Are Quoted" được viết trong giai đoạn 1941-1942 mãi tới năm 2009 mới được xuất bản cũng bao gồm các câu truyện liên quan đến Anne
Tóm tắt nội dung.
Câu chuyện bắt đầu vời thời điểm bảy năm sau giai đoạn gia đình Anne ở ngôi nhà Mơ Ước, Anne đến thăm Diana Wright và con gái của cô, Anne Cordelia, ở Avonlea sau đám tang của cha Gilbert. Khi cô trở về ngôi của mình - được đặt tên "Ngôi nhà Bên Ánh Lửa", cô được chào đón bởi năm đứa con của mình: James Matthew ('Jem'), đứa lớn nhất, hiện đã bảy tuổi; Walter Cuthbert, khoảng sáu tuổi và thường bị cho là hơi 'ngốc nghếch' vì yêu thích thơ ca; cặp song sinh Anne ('Nan') và Diana ('Di'), năm tuổi và trông không giống nhau, Nan với mái tóc nâu và đôi mắt màu hạt dẻ, và Di với mái tóc đỏ và đôi mắt xanh lục; và cuối cùng là Shirley, hai tuổi và là đứa bé bà quản gia Susan Baker yêu chiều nhất, bà Susan đã chăm sóc cậu lúc còn nhỏ trong khi Anne ốm nặng sau sinh. Anne sau đó sinh cô con út và đặt tên là Bertha Marilla Blythe. Cô bé còn được gọi là Roly-Poly, hay ngắn gọn là 'Rilla'.
Mỗi đứa trẻ trong gia đình với những tính cách khác nhau đều có những rắc rối của riêng mình tuy nhiên sau cùng những rắc rối đều được hóa giải. Ở phần cuối, Anne lo lắng rằng Gilbert đã trở nên xa cách và có thể không còn yêu cô nữa. Cô và Gilbert trải qua một buổi tối khó chịu với Christine Stuart, người từng là tình địch của Anne (hoặc cô nghĩ vậy). Cuối cùng mọi chuyện được sáng tỏ khi Anne biết sự lạnh nhạt của Gilbert là do lo lắng cho một trong những bệnh nhân của anh. Anne nhận được một món quà ngạc nhiên từ chồng đó chính là lời hứa về một chuyến đi đến châu Âu để tham dự một đại hội y tế. |
Bùi Mạnh Khoa (sinh ngày 2 tháng 6 năm 1972, người Mường) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thanh Hóa. Ông từng là Bí thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa.
Bùi Mạnh Khoa là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Luật, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Thanh Hóa.
Xuất thân và giáo dục.
Bùi Mạnh Khoa sinh ngày 2 tháng 6 năm 1972 tại xã Ngọc Trạo, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Ông là người dân tộc Mường, lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Luật, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Luật. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 18 tháng 1 năm 2001, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 11 năm 1996, Bùi Mạnh Khoa được tuyển dụng công chức vào Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, nhậm chức Thư ký Tòa Hành chính của Tòa án nhân dân tỉnh. Trong giai đoạn này, ông cũng tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, là Bí thư Đoàn thanh niên của Tòa án nhân dân tỉnh. Tháng 6 năm 2001, ông được chuyển sang làm Thư ký Tòa Kinh tế, đến tháng 1 năm 2005 thì được phân công làm Chuyên viên Phòng Tổ chức cán bộ của Tòa án nhân dân tỉnh. Tháng 3 năm 2007, sau hơn 10 năm công tác ở tòa án, ông được điều tới Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa làm Chuyên viên Phòng Công tác Đại biểu Quốc hội, và là Phó Chủ tịch Công đoàn từ tháng 3 năm 2007. Tháng 10 năm 2010, ông nhậm chức Phó Trưởng phòng Công tác Đại biểu Quốc hội, giữ chức này hơn 1 nhiệm kỳ cho đến tháng 1 năm 2016 thì được điều về huyện Quan Sơn làm Phó Bí thư thường trực Huyện ủy.
Tháng 7 năm 2018, Bùi Mạnh Khoa được bổ nhiệm làm Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thanh Hóa, và là Bí thư Đảng bộ Cục từ tháng 4 năm 2019. Năm 2021, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thanh Hóa, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 1 gồm thành phố Thanh Hóa, Sầm Sơn, huyện Hoằng Hóa, Đông Sơn, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 92,31%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên chuyên trách Ủy ban Pháp luật của Quốc hội.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước |
Trần Văn Thức (Thanh Hóa)
Trần Văn Thức (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1969) là nhà giáo dục, Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hóa, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thanh Hóa. Ông từng là Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa; và Ủy viên Ban Chấp hành Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Nghệ An.
Trần Văn Thức là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học hàm và học vị Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lịch sử, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp hơn 30 năm trong ngành giáo dục, nghiên cứu khoa học và lịch sử Việt Nam.
Xuất thân và giáo dục.
Trần Văn Thức sinh ngày 20 tháng 12 năm 1969 tại xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học đại học ở Trường Sư phạm, Đại học Vinh và tốt nghiệp Cử nhân Sư phạm Lịch sử, sau đó tiếp tục học cao học rồi là nghiên cứu sinh, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Quá trình vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở Nghệ An trong thời kỳ 1939–1945", trở thành Tiến sĩ Lịch sử vào năm 2003. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 21 tháng 10 năm 1992, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 11 năm 1992, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm, Trần Văn Thức được Trường Đại học Vinh nhận vào làm trợ giảng rồi giảng viên Khoa Lịch sử. Trong giai đoạn này, ông tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, là Bí thư Liên chi đoàn Khoa Lịch sử, bên cạnh đó là Chi ủy viên Chi bộ khoa Lịch sử. Hơn 10 năm sau, vào tháng 12 năm 2003, ông được bổ nhiệm làm Phó Trưởng khoa Lịch sử, Trưởng bộ môn Lịch sử Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ khoa Lịch sử của trường. Đến tháng 12 năm 2008, ông là Bí thư Đảng bộ bộ phận, Trưởng khoa Lịch sử, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Trường Đại học Vinh, bên cạnh đó tham gia tổ chức xã hội, là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Phó Chủ tịch, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Nghệ An. Tháng 1 năm 2015, ông điều về Trường Đại học Văn hoá, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, nhậm chức Phó Hiệu trưởng phụ trách, Bí thư Đảng ủy Trường, sau đó là Hiệu trưởng từ tháng 5 cùng năm. Trong thời gian này, ông được phong chức danh Phó Giáo sư ngành Lịch sử.
Tháng 10 năm 2020, Trần Văn Thức được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hóa, sau đó được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025. Sang tháng 12 cùng năm, ông nhậm chức Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Thanh Hóa. Năm 2021, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thanh Hóa, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 1 gồm thành phố Thanh Hóa, Sầm Sơn, huyện Hoằng Hóa, Đông Sơn, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, đồng thời là Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội với tỷ lệ 91,44%.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước |
Võ Mạnh Sơn (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1971) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa, Ủy viên Ủy ban Xã hội của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thanh Hóa. Ông từng là Phó Bí thư thường trực Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Sầm Sơn, Thanh Hóa.
Võ Mạnh Sơn là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Sư phạm Văn, Tiến sĩ Khoa học chính trị, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Thanh Hóa.
Xuất thân và giáo dục.
Võ Mạnh Sơn sinh ngày 13 tháng 7 năm 1971, quê quán tại phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Sư phạm Ngữ văn, sau đó tiếp tục học cao học, là nghiên cứu sinh ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Phương thức lãnh đạo công tác cán bộ của các tỉnh uỷ ở Bắc Trung Bộ giai đoạn hiện nay", và trở thành Tiến sĩ Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước vào năm 2015. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 1 tháng 2 năm 1997, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị cũng ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 6 năm 1995, sau khi tốt nghiệp đại học, Võ Mạnh Sơn trở về Thanh Hóa, bắt đầu công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, là cán bộ Ban Tuyên huấn của Tỉnh đoàn Thanh Hóa. Vào tháng 5 năm 1997, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn, giữ chức Phó Trưởng ban rồi Trưởng ban Tuyên huấn Tỉnh đoàn. Vào tháng 8 năm này, ông được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, nhậm chức Trưởng ban Mặt trận thanh niên, kiêm Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh Thanh Hóa. Tháng 5 năm 2002, ông được bầu làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh Thanh Hóa. Sang tháng 10 năm 2007, sau hơn 10 năm công tác thanh niên, ông được điều đến Trường Chính trị tỉnh Thanh Hóa làm Phó Hiệu trưởng, công tác liên tục cho đến tháng 4 năm 2013 thì được điều về thị xã Sầm Sơn, nhậm chức Phó Bí thư thường trực Thị ủy Sầm Sơn, rồi được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân thị xã Sầm Sơn từ tháng 5 năm 2016. Năm 2017, thị xã được nâng cấp lên thành phố, ông tiếp tục là Phó Bí thư thường trực Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố.
Tháng 8 năm 2020, Võ Mạnh Sơn được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa, được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025. Sang tháng 12 cùng năm, ông nhậm chức Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh Thanh Hóa. Năm 2021, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thanh Hóa, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 1 gồm thành phố Thanh Hóa, Sầm Sơn, huyện Hoằng Hóa, Đông Sơn, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, đồng thời là Ủy viên Ủy ban Xã hội của Quốc hội với tỷ lệ 90,60%.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội |
Thanh Hà (hoa hậu)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Nguyễn Thanh Hà (sinh ngày 1 tháng 8 năm 2004) là một Hoa hậu, người mẫu người Việt Nam. Cô đăng quang Hoa hậu Môi trường Việt Nam 2022. Vì thế, cô trở thành đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Sinh thái Quốc tế 2023 và đăng quang ngôi vị cao nhất cùng với giải phụ Best Eco Dress."
Thanh Hà tên đầy đủ là Nguyễn Thanh Hà sinh năm 2004 tại Bến Tre. Cô từng theo học tại trường Trường THPT Vinschool TP.HCM và từng đăng quang cuộc thi Hoa khôi Trường THPT Vinschool TP.HCM. Đồng thời, cô hiện tại là sinh viên của Đại học Fulbright Việt Nam.
Hoa hậu Môi trường Việt Nam 2022.
Năm 2022, trong đêm chung kết Hoa hậu Môi trường Việt Nam 2022, Thanh Hà đã đăng quang ngôi vị cao nhất của cuộc thi đồng thời còn đạt được giải phụ "Người đẹp Truyền thông". Với tư cách là hoa hậu, cô được trao quyền đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Sinh thái Quốc tế 2023.
Hoa hậu Sinh thái Quốc tế 2023.
Năm 2023, cô đại diện Việt Nam tại cuộc thi Hoa hậu Sinh thái Quốc tế 2023 được diễn ra tại Cairo, Ai Cập. Vào đêm bán kết, cô đạt được giải phụ Best Eco Dress và được đặc cách vào Top 11 chung cuộc của cuộc thi. Vào đêm chung kết, cô xuất sắc vượt 39 thí sinh khác và đăng quang ngôi vị hoa hậu, cô là người Việt Nam đầu tiên đăng quang cuộc thi này.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Hoa hậu Sinh thái Quốc tế
Hoa hậu Sinh thái Quốc tế (tên cũ là Hoa hậu Nữ hoàng Sinh thái vào năm 2015 và Hoa hậu Sinh thái Hoàn vũ vào năm 2016) là một cuộc thi Sắc đẹp Quốc tế quy tụ đại diện của các nền văn hóa và truyền thống khác nhau từ khắp nơi trên thế giới. Mục tiêu chính của nó là thúc đẩy tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường hành tinh của chúng ta bên cạnh việc tiếp thị du lịch trên toàn thế giới. Cuộc thi này tập trung vào sức khỏe trí tuệ, thể chất và tinh thần của tất cả các thí sinh đại diện cho tất cả các quốc gia từ khắp nơi trên thế giới.
Đương kim Hoa hậu Sinh thái Quốc tế là Nguyễn Thanh Hà đến từ Việt Nam được trao vương miện vào ngày 3 tháng 3 năm 2023 tại Cairo, Ai Cập.
Hoa hậu Sinh thái Quốc tế được thành lập bởi nhà sản xuất truyền thông "Beauty Eco" nhằm mục đích nâng cao nhận thức về môi trường và chiến dịch vì một Trái đất xanh. Cuộc thi được tổ chức từ năm 2015 với tên gọi Hoa hậu Nữ hoàng Sinh thái với 9 thí sinh đến từ 9 quốc gia. Năm 2016, tên cuộc thi được đổi thành Hoa hậu Sinh thái Hoàn vũ để tạo điều kiện nhiều hơn các quốc gia tham dự, và kể từ năm 2017 đến nay, tên cuộc thi một lần nữa được đổi thành Hoa hậu Sinh thái Quốc tế.
Mục đích tham gia của các thí sinh là nhằm mục đích công khai các nguồn tài nguyên môi trường hiện có ở quốc gia, nền văn hóa và sự tham gia quốc tế của mỗi quốc gia tham dự. |
Aprion virescens là loài cá biển duy nhất thuộc chi Aprion trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.
Tên chi được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "a" (ἀ; "không có") và "prī́ōn" (πρίων; "cái cưa"), hàm ý đề cập đến xương trước nắp mang nhẵn mịn, không có răng cưa; từ định danh "virescens" trong tiếng Latinh có nghĩa là "màu xanh lục", hàm ý đề cập đến màu xanh lục sẫm đến phớt xanh lam ở loài cá này.
Phân bố và môi trường sống.
Từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, "A. virescens" được phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii và quần đảo Marquises, ngược lên phía bắc tới bờ nam Nhật Bản và đảo Jeju, xa về phía nam đến Úc (gồm cả đảo Lord Howe) và Tonga. "A. virescens" cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
"A. virescens" sống trên các rạn san hô viền bờ và đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 180 m.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "A. virescens" là 112 cm. Cá có màu lục sẫm hoặc phớt lam nhạt. Răng nanh ở hai hàm chắc khỏe, hướng ra trước.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số vảy đường bên: 48–50.
Thức ăn của "A. virescens" chủ yếu là cá, nhưng cũng ăn động vật giáp xác, động vật chân đầu và sinh vật phù du. Tuổi thọ lớn nhất được ghi nhận ở "A. virescens" là 32 năm tuổi.
Những cá thể lớn có thể bị nhiễm độc ciguatera.
"A. virescens" được đánh giá là một loại cá thực phẩm chất lượng. Loài này chủ yếu được bán tươi sống, nhưng cũng được bán ở dạng khô cá và ướp muối.
"A. virescens" là loài được nhắm mục tiêu ở các rạn san hô Nam Phi. Loài này nằm trong số bốn loài cá hồng có giá trị thương mại cao nhất ở Hawaii, và cũng là loài cá tầng đáy thường xuất hiện trong nghề đánh bắt xa bờ ở đó. Đây cũng là một trong hai loài chiếm ưu thế trong sản lượng đánh bắt ở Palau. |
Maria Amélia của Brasil
Dona Maria Amélia (1 tháng 12 năm 1831 – 4 tháng 2 năm 1853) là Hoàng nữ của Đế quốc Brasil và là thành viên của nhánh Brasil của Vương tộc Bragança. Cha mẹ cô là Hoàng đế Pedro I, người trị vì đầu tiên của Brasil, và Amélie xứ Leuchtenberg. Cô là người con duy nhất trong cuộc hôn nhân thứ hai của cha cô, Maria Amélia được sinh ra ở Vương quốc Pháp sau khi Pedro I thoái vị ngai vàng Brasil để nhường ngôi cho con trai ông là Thái tử Pedro. Trước khi Maria Amélia được một tháng tuổi, Pedro I đã đến Bồ Đào Nha để khôi phục vương miện cho cô con gái lớn trong cuộc hôn nhân đầu tiên của ông, Hoàng nữ Maria. Ông đã chiến đấu thành công chống lại em trai mình là Miguel I, người đã soán ngôi của con gái ông.
Chỉ vài tháng sau chiến thắng, Pedro I qua đời vì bệnh lao. Mẹ của Maria Amélia đã đưa cô đến Bồ Đào Nha, nơi cô ở lại gần như cả đời mà chưa từng đến thăm Brasil. Chính phủ Brasil từ chối công nhận Maria Amélia là thành viên của Hoàng gia Brasil vì cô sinh ra ở nước ngoài, nhưng khi người anh cùng cha khác mẹ của cô là Hoàng đế Pedro II được tuyên bố đủ tuổi trị vì đế chế vào năm 1840, ông đã can thiệp vào quyết định của chính phủ Brasil để đòi lại tước hiệu Hoàng nữ Brasil cho cô.
Maria Amélia đính hôn với Đại công tước Maximilian của Áo vào đầu năm 1852, và vị Đại công tước này dành cho công chúa một tình yêu rất lớn, cho đến khi ông bị xử bắn bởi phe Cộng hoà Mexico. Tuy tình yêu đẹp, nhưng trước khi hôn lễ diễn ra, Maria Amelia đã mắc bệnh lao và được đưa đến thị trấn Funchal trên đảo Madeira của Bồ Đào Nha. Bất chấp khí hậu được cho là trong lành, sức khỏe của cô tiếp tục xấu đi và cô qua đời vào ngày 4 tháng 2 năm 1853. Thi thể của Maria Amelia được đưa đến đất liền Bồ Đào Nha và được an táng trong Pantheon của Vương tộc Bragança; gần 130 năm sau, hài cốt của cô được đưa đến Brasil. Để mãi nhớ đến con gái mình, mẹ của Maria Amélia đã tài trợ cho việc xây dựng bệnh viện ở Funchal và đặt tên cho nó là "Princesa D. Maria Amélia". Vị hôn phu của Maria Amélia là Maximilian, sau khi đã lấy vợ là Vương nữ Charlotte của Bỉ, ông và vợ đã hành hương đến Brasil và Madeira, một hành trình đã ảnh hưởng đến việc ông chấp nhận ngai vàng Mexico vào năm 1864 và cuối cùng dẫn đến cái chết bi thảm của chính ông khi đế chế này sụp đổ.
Maria Amélia sinh ngày 1 tháng 12 năm 1831 tại Paris và được đặt tên thánh là "Maria Amélia Augusta Eugênia Josefina Luísa Teodolinda Elói Francisco Xavier de Paula Gabriela Rafaela Gonzaga". Cô là con gái duy nhất của Dom Pedro, Công tước xứ Braganza, và người vợ thứ hai Amélie xứ Leuchtenberg. Thông qua cha mình, Maria Amélia là thành viên của chi nhánh Brasil của Vương tộc Braganza (tiếng Bồ Đào Nha: Bragança), và được gọi bằng kính ngữ Dona (Quý bà) từ khi sinh ra. Cô là cháu gái của Vua Bồ Đào Nha João VI. Mẹ của Maria Amélia là con gái của Eugène de Beauharnais, Công tước xứ Leuchtenberg và là con riêng của Hoàng đế Napoléon Bonaparte của Pháp. Eugène đã kết hôn với Hoàng nữ Augusta, con gái lớn của Vua Maximilian I xứ Bayern.
Pedro trước đây là Hoàng đế đầu tiên của Đế chế Brasil, với đế hiệu là Pedro I, và cũng là Vua của Bồ Đào Nha, với vương hiệu Pedro IV. Ông được kế vị ngai vàng Bồ Đào Nha bởi con gái lớn của ông, Nữ vương Maria II, chị gái cùng cha khác mẹ của Maria Amélia. Nữ vương trẻ tuổi là con gái trong cuộc hôn nhân đầu tiên của Pedro với Nữ Đại vương công Maria Leopoldine của Áo. Năm 1828, vương miện của Maria II bị chiếm đoạt bởi người chú Miguel I, em trai của Pedro. Mong muốn khôi phục ngai vàng cho con gái mình, Pedro đã thoái vị ngai vàng Brasil vào tháng 4 năm 1831 và khởi hành đến châu Âu cùng với Hoàng hậu Amélie, người đang mang thai Maria Amélia.
Để thừa nhận quyền của Maria Amélia với tư cách là một Hoàng nữ Brasil, Pedro đã mời một số vị khách đến chứng kiến sự ra đời của cô, trong đó có phái viên ngoại giao Brasil tại Pháp. Cha mẹ đỡ đầu của đứa trẻ sơ sinh là Vua Pháp Louis Philippe I và người phối ngẫu của ông là Maria Amalia của Hai Sicilia, người mà cô được đặt theo tên. Pedro đã gửi một bức thư cho những người con của mình vẫn còn ở Brasil—bao gồm cả con trai ông, hoàng đế trẻ tuổi Pedro II, với thông điệp: "Chúa Quan phòng muốn giảm bớt nỗi buồn mà trái tim người cha của tôi cảm thấy khi phải chia xa Y.I.M. [Bệ hạ], đã cho tôi thêm một Cô con gái, và với Y.I.M., thêm một người em và thần dân".
Trở về Bồ Đào Nha.
Khi Maria Amélia mới 20 ngày tuổi, cha của cô đã rời Pháp để đến Bồ Đào Nha cùng với những người ủng hộ mình để đòi lại ngai vàng cho con gái lớn. Trong gần hai năm, cô sống ở Paris cùng với mẹ và người chị gái cùng cha khác mẹ là Công chúa Maria, người sau này trở thành Nữ vương Maria II của Bồ Đào Nha. Khi có tin thủ đô Lisboa của Bồ Đào Nha đã rơi vào tay lực lượng của Pedro, cả 3 mẹ con đã rời Paris cùng để đến Bồ Đào Nha đoàn tụ với chồng. Họ đến Lisboa vào ngày 22 tháng 9 năm 1833 và lên đường vào ngày hôm sau. Charles John Napier, một sĩ quan hải quân Anh từng chiến đấu bên cạnh Pedro, đã viết về cuộc hội ngộ đầy xúc động như sau:
Với việc Vua Miguel I bị đánh bại và phải sống lưu vong, và Maria II được phục hồi ngai vàng, Maria Amélia và gia đình của cô vẫn ở lại Bồ Đào Nha, lần đầu tiên cư trú tại Cung điện Ramalhão, và sau đó là tại Cung điện Hoàng gia Queluz gần Lisboa. Nhưng chiến tranh đã ảnh hưởng đến sức khỏe của Pedro, và ông sắp chết vì bệnh lao. Maria Amélia, chưa đầy ba tuổi, được đưa vào giường bệnh của Pedro vào những giờ đầu ngày 24 tháng 9 năm 1834. Rất yếu, Pedro giơ tay chúc phúc cho cô và nói: "Hãy nói với đứa trẻ này về ta, một người cha yêu thương con rất nhiề". Pedro qua đời vào đầu giờ chiều cùng ngày.
Hoàng nữ Đế chế Brasil.
Amélie góa bụa không bao giờ tái hôn, và dành thời gian giám sát quá trình nuôi dạy con gái ở Bồ Đào Nha, nơi họ ở lại mặc dù không phải là thành viên của Hoàng gia Bồ Đào Nha, mặc dù có quan hệ họ hàng gần. Cả Amélie và con gái của cô ấy đều chưa từng đến thăm Brasil thêm bất cứ lần nào, nhưng Amélie đã không thành công trong việc yêu cầu chính phủ Brasil công nhận con gái mình là một thành viên của Hoàng gia Brasil, điều này sẽ mang lại cho cô ấy một khoản thu nhập. Anh trai cùng cha khác mẹ của Maria Amélia là Hoàng đế Pedro II lúc này còn nhỏ và chính phủ Brasil nắm trong tay một chế độ nhiếp chính. Chính phủ từ chối công nhận Maria Amélia là công chúa Brasil do cô sinh ra ở nước ngoài, và cấm cả cô và mẹ cô đặt chân đến Đế quốc Brasil. Tình hình chỉ thay đổi sau khi Pedro II được tuyên bố đủ tuổi để cai trị đất nước vào năm 1840 và khẳng định rằng em gái của mình phải được công nhận là một thành viên trong gia đình ông. Aureliano Coutinho (sau này là Tử tước Sepetiba), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đã yêu cầu quốc hội Brasil công nhận Maria Amélia, việc này diễn ra vào ngày 5 tháng 7 năm 1841.
Với mục đích trau dồi học vấn, Maria Amélia đã cùng mẹ chuyển đến München, kinh đô của Vương quốc Bayern vào giữa những năm 1840, nơi có nhiều người thân của cô đang sinh sống. Là một học sinh tận tụy, cô được tham gia các lớp học bao gồm hùng biện, triết học, lịch sử, địa lý, văn học Đức, toán học và vật lý. Cô học nói và viết không chỉ bằng tiếng Bồ Đào Nha mà còn cả tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức. Cô có năng khiếu vẽ, tô màu và chơi piano rất điêu luyện. Một phụ nữ trẻ thông minh với tính khí nóng nảy và đầu óc sắc sảo, Maria Amélia được một giáo viên mô tả là có "một tài năng đặc biệt về phép biện chứng, một khả năng sẽ tạo ra tài sản của một sinh viên luật trẻ tuổi."
Ký ức về cha cô dường như đã thúc đẩy sự cống hiến của Maria Amélia cho việc học tập. Cựu hoàng đế Pedro II đã phủ một bóng đen lớn lên cuộc đời cô, và luôn được cô nhớ đến, cô thường hỏi những người xung quanh mình: "Và cha tôi, người đang nhìn tôi từ trên trời, liệu ông có hài lòng với con gái mình không? " Cô ấy chưa bao giờ có thể đối mặt với cái chết của cha mình và điều đó khiến cô ấy vô cùng xúc động. Maria Amélia nhận xét sau khi cô ấy nhìn thấy một khu vườn nơi Pedro trồng một cây "Sycamore":
Cuối năm 1850, Maria Amélia và mẹ trở về Bồ Đào Nha, và định cư tại Cung điện Janelas Verdes. Đầu năm 1852, cậu họ của cô là Đại công tước Maximilian của Áo, khi đó đang phục vụ trong hải quân Áo và đang dừng chân ở Bồ Đào Nha, đã đến thăm cô. Mẹ của Maximilian là em gái cùng cha khác mẹ với bà ngoại của Maria Amélia, và cả hai người phụ nữ đều là thành viên của Vương tộc Wittelsbach đến từ Vương quốc Bayern. Ông cũng có quan hệ họ hàng với các anh chị em cùng cha khác mẹ của Maria Amélia, vì cha ông là em trai của Hoàng hậu Brasil Leopoldine. Họ đã gặp nhau trước đó trong một cuộc đoàn tụ gia đình ở München vào năm 1838, khi họ chỉ là những đứa trẻ. Tuy nhiên, trong lần gặp thứ hai này, họ đã yêu nhau. Maximilian bị mê hoặc bởi Maria Amélia, một phụ nữ trẻ tốt bụng với đôi mắt xanh và mái tóc vàng "có vẻ đẹp nổi bật cũng như trí thông minh uyên bác". Họ đã đính hôn, nhưng lễ đính hôn chưa bao giờ được chính thức thực hiện do cô mất sớm.
Những năm cuối đời và cái chết.
Tháng 2 năm 1852, Maria Amélia mắc bệnh ban đỏ. Nhiều tháng trôi qua, cô không hồi phục và bị ho dai dẳng, khởi phát của bệnh lao. Vào ngày 26 tháng 8, công chúa rời cung điện Janelas Verdes, nơi cô sống và đến đảo Madeira. Khí hậu của hòn đảo nổi tiếng là trong lành, như Maria Amélia đã ghi chép: "những cơn sốt biến mất, họ nói, như thể bằng phép thuật!"
Maria Amélia và mẹ cô, người đã đi cùng cô, xuống thuyền vào ngày 31 tháng 8 tại Funchal, thủ phủ của Madeira. Cả thị trấn hân hoan chào đón cô, và một đám đông đi theo công chúa về ngôi nhà mới của cô. Cô rất yêu quý hòn đảo và nói với mẹ: ""Nếu một ngày nào đó con lấy lại được sức khỏe cường tráng như xưa, chúng ta sẽ ở lại hòn đảo này một thời gian dài. Chúng ta sẽ thực hiện những chuyến du ngoạn dài ngày trên núi, chúng ta sẽ tìm thấy những điều mới mẻ, giống như chúng ta đã làm ở Stein!”" Nhưng sức khỏe của cô ấy xấu đi, và đến cuối tháng 11, mọi hy vọng đều tiêu tan. Đến đầu năm 1853, công chúa nằm liệt giường và biết rằng cái chết đang đến gần: "Sức lực của tôi giảm dần từng ngày; tôi có thể cảm nhận được điều đó... chúng ta đang đi đến điểm bắt đầu của sự kết thúc." Sau nửa đêm một chút vào rạng sáng ngày 4 tháng 2, một linh mục đã thực hiện các nghi lễ cuối cùng. Maria Amélia đã cố gắng an ủi mẹ mình: "Mẹ đừng khó; xin Ngài đến giúp đỡ con trong giờ phút cuối cùng; xin Ngài an ủi người mẹ tội nghiệp của con!" Cô mất vào sáng hôm đó vào khoảng 04:00.
Thi thể của công chúa vẫn nằm trong nhà nguyện cạnh ngôi nhà nơi cô qua đời cho đến khi được đưa trở lại đất liền Bồ Đào Nha vào ngày 7 tháng 5 năm 1853. Vào ngày 12 tháng 5, quan tài được đưa xuống ở Lisboa, và một đám tang lớn đã diễn ra sau đó. Hài cốt của cô được an táng bên cạnh cha cô trong Braganza Pantheon, nằm trong Tu viện São Vicente de Fora. Gần 130 năm sau, vào năm 1982, hài cốt của Maria Amélia được đưa đến Brasil và đặt trong Convento de Santo Antônio (Tu viện Thánh Anthony) ở Rio de Janeiro, nơi các vương thất Brasil khác được an táng.
Hoàng đế Pedro II chưa bao giờ gặp trực tiếp em gái mình, nhưng đã phát triển mối quan hệ bền chặt với cô ấy qua những lá thư của cô ấy đã gửi cho ông. Hoàng đế đã viết trong nhật ký của mình 7 năm sau khi cô ấy qua đời: "Tôi đã nghe thấy thánh lễ cho em gái tôi [Maria] Amélia, người mà tôi rất thân thiết và cảm thấy rất tiếc vì chưa bao giờ được gặp." Mẹ của cô đến thăm mộ con gái vào ngày 4 tháng 2 hàng năm cho đến khi bà qua đời, và tài trợ cho việc xây dựng một bệnh viện ở Funchal có tên là "Princesa D. Maria Amélia" để vinh danh con gái bà; bệnh viện vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Amélie để lại tài sản của mình ở Vương quốc Bayern cho Đại công tước Maximilian, "người mà bà sẽ cảm thấy hạnh phúc khi Maximilian trở thành con rể, nếu Chúa để cô con gái yêu dấu của bà là Maria Amélia vẫn còn sống".
Đại công tước Maximilian bị ám ảnh bởi ký ức về Maria Amélia, và sau khi kết hôn với Charlotte của Bỉ, ông đã thực hiện một chuyến hành hương vào năm 1859–60 tới các địa điểm có liên hệ với vị hôn thê cũ của mình. Khi đến đảo Madeira, ông viết: "Ở đây, mất vì bệnh lao vào ngày 4 tháng 2 năm 1853, con gái duy nhất của Hoàng hậu Brasil, một con người có năng khiếu phi thường. Cô ấy rời bỏ thế giới đầy khiếm khuyết này, thuần khiết như một thiên thần trở về Thiên đường, quê hương thực sự của cô ấy."
Maximilian đã đến thăm bệnh viện ở Funchal mang tên Maria Amélia, và cho đến khi ông qua đời đã tài trợ cho việc duy trì một phòng bệnh đôi ở đó. Ông cũng tặng một bức tượng Đức Mẹ Sầu Bi để tưởng nhớ Maria Amélia. Tiếp theo, ông đến thăm ngôi nhà (được gọi là Quinta das Angústias, hay Anguished Villa), nơi cô qua đời; ông đã viết: "trong một thời gian dài, tôi đứng im lặng giữa những suy nghĩ đau buồn và khao khát dưới bóng một cái cây tráng lệ bao bọc và bảo vệ ngôi nhà nơi thiên thần đã không còn tồn tại, đã khóc lóc cay đắng cho nó". Trong hồi ký của mình, Maximilian cũng đề cập đến hòn đảo Madeira, nơi "sự sống [đã] bị dập tắt dường như được định sẵn để đảm bảo hạnh phúc yên bình của riêng tôi".
Sau khi đến Brasil vào ngày 11 tháng 1 năm 1860, Maximilian bị mê hoặc bởi đất nước, một chế độ quân chủ duy nhất ở Nam Mỹ, đất nước nằm dưới sự cai trị của anh trai vị hôn thê đã khuất của ông. Lấy cảm hứng từ sự ổn định và thịnh vượng mà ông thấy ở đó, vào ngày 10 tháng 4 năm 1864, ông đồng ý trở thành hoàng đế của Đế chế Mexico mới được thành lập, tin rằng ông có thể đạt được kết quả tương tự ở Mexico. Nhưng thay vào đó, sau cuộc giao tranh giữa phe bảo thủ và phe tự do Mexico, Maximilian bị hành quyết vào ngày 19 tháng 6 năm 1867, sau khi bị bắt bởi phe Juaristas. Trong một sự kính trọng cuối cùng đối với Maria Amélia, khi ông bị tước hết hành trang để đối mặt với một đội xử bắn, Maximilian đã yêu cầu gửi cho mẹ cô chiếc huy chương nhỏ của Đức Trinh Nữ Maria mà cô ấy đã tặng cho ông. Trong khi cuộc đời của Maria Amélia ít ảnh hưởng đến các sự kiện ở Brasil hoặc Bồ Đào Nha, nhưng cái chết của cô lại có tác động đáng kể, gián tiếp, đối với lịch sử của Mexico.
Hoàng nữ Maria Amélia là người đã được trao các Huân chương Brasil, gồm có:
Cô đã nhận nhiều huân chương ở nước ngoài, gồm có:
Tư liệu liên quan tới |
Mai Văn Hải (sinh ngày 23 tháng 12 năm 1973) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Thanh Hóa, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thanh Hóa. Ông từng là Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.
Mai Văn Hải là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Quản lý đất đai, Tiến sĩ Quản lý kinh tế, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Thanh Hóa.
Xuất thân và giáo dục.
Mai Văn Hải sinh ngày 23 tháng 12 năm 1973 tại xã Nga Trung, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Quản lý đất đai, sau đó tiếp tục học cao học, là nghiên cứu sinh ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Quản lý nhà nước đối với làng nghề trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá", trở thành Tiến sĩ Quản lý kinh tế vào năm 2019. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 28 tháng 2 năm 2000, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Phân viện Chính trị Khu vực I, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh từ tháng 9 năm 2004 đến tháng 6 năm 2005 và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 10 năm 1997, sau khi tốt nghiệp đại học, Mai Văn Hải trở lại Thanh Hóa, được tuyển dụng công chức vào Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa, điều về huyện Nga Sơn làm cán bộ Thanh tra Ủy ban nhân dân huyện Nga Sơn. Tháng 11 năm 2005, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, được bổ nhiệm làm Chánh Thanh tra Ủy ban nhân dân huyện vào tháng 11 năm 2006. Vào tháng 12 năm 2009, ông được bầu vào Ban Thường vụ Huyện ủy, nhậm chức Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Huyện ủy Nga Sơn, sau đó 1 năm vào tháng 8 năm 2010 thì được phân công làm Phó Bí thư thường trực Huyện ủy, và trúng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân huyện Nga Sơn. Tháng 10 năm 2014, ông được bầu làm Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện, Bí thư Đảng ủy Quân sự huyện Nga Sơn, sau đó được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa từ tháng 12 năm này, đồng thời tái đắc cử Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015–2020. Trong giai đoạn này, ông cũng là Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hóa khóa XVII, nhiệm kỳ 2016–2021.
Tháng 9 năm 2020, Mai Văn Hải tiếp tục được bầu làm Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025, được điều lên tỉnh, nhậm chức Phó Bí thư Đảng ủy Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh. Năm 2021, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thanh Hóa, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm thị xã Bỉm Sơn, huyện Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 93,94%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hóa.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng |
Cao Mạnh Linh (sinh ngày 23 tháng 1 năm 1982) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thanh Hóa. Ông từng là Phó Vụ trưởng Vụ Tư pháp, Văn phòng Quốc hội, Thư ký Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng.
Cao Mạnh Linh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Kinh tế, Tiến sĩ Luật, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở các cơ quan, tổ chức của Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Cao Mạnh Linh sinh ngày 23 tháng 1 năm 1982, quê quán tại phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở thủ đô, theo học đại học ở Hà Nội và có hai bằng đại học gồm Cử nhân Kinh tế và Cử nhân Luật, sau đó học cao học, rồi là nghiên cứu sinh luật học ở Trường Đại học Luật Hà Nội, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Chức năng giám sát của Ủy ban tư pháp của Quốc hội Việt Nam hiện nay", trở thành Tiến sĩ Luật vào năm 2020. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 4 tháng 6 năm 2008, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 8 năm 2004, sau khi tốt nghiệp đại học, Cao Mạnh Linh được tuyển dụng công chức vào Văn phòng Quốc hội, được bổ nhiệm làm Chuyên viên Vụ Pháp luật của Văn phòng Quốc hội. Ông công tác ở đây 3 năm, đến tháng 8 năm 2007 thì được chuyển sang làm Chuyên viên Vụ Tư pháp, công tác liên tục thời gian dài và được nâng ngạch Chuyên viên chính từ tháng 1 năm 2015. Ông là Chi ủy viên Chi bộ Vụ từ tháng 6 năm này, được bổ nhiệm làm Phó Vụ trưởng Vụ Tư pháp vào cùng năm này. Tháng 10 năm 2017, ông được phân công trực tiếp giúp việc Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, và nhậm chức Thư ký Tòng Thị Phóng từ tháng 2 năm 2019. Ông cũng giữ các vị trí như Phó Chủ tịch Công đoàn bộ phận, Văn phòng Đảng đoàn Quốc hội, Văn phòng Quốc hội trong giai đoạn này.
Năm 2021, Cao Mạnh Linh được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thanh Hóa, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm thị xã Bỉm Sơn, huyện Hà Trung, Nga Sơn, Hậu Lộc, Vĩnh Lộc, Thạch Thành, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 89,86%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên chuyên trách Ủy ban Tư pháp của Quốc hội. |
Lê Thanh Hoàn (sinh ngày 1 tháng 8 năm 1976) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Brasil, Phó Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Venezuela, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thanh Hóa. Ông từng là Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội, thành viên Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu lập pháp, Thư ký của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu và Nguyễn Khắc Định.
Lê Thanh Hoàn là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Luật, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có xuất phát điểm là viên chức quốc phòng thuộc Bộ Tổng tham mưu, sau đó chuyển sang công tác ở các cơ quan của Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Lê Thanh Hoàn sinh ngày 1 tháng 8 năm 1976 tại xã Bắc Lương, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Luật tại Trường Đại học Luật Hà Nội, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Luật. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 1 tháng 2 năm 2005, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 4 năm 2003, Lê Thanh Hoàn được tuyển dụng vào Bộ Tổng tham mưu, Cơ quan Bộ Quốc phòng làm nhân viên hợp đồng tại Phòng Quản lý Kinh tế. Đến tháng 12 năm này, ông được tuyển dụng làm viên chức quốc phòng, là Trợ lý theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của Ban Quản lý Kinh tế, Cục Quản lý hành chính, Bộ Tổng tham mưu. Tháng 6 năm 2005, ông chuyển vị trí làm Trợ lý theo dõi đất quốc phòng kiêm trợ lý pháp lý, Phòng Tham mưu của Cục Quản lý hành chính, nhận quân hàm Trung úy, là Trợ lý kế hoạch tổng hợp, Phòng Tham mưu – Kế hoạch, Cục Hậu cần, Bộ Tổng tham mưu từ tháng 12 năm 2006. Tháng 6 năm 2008, Lê Thanh Hoàn được điều tới Văn phòng Quốc hội, là Chuyên viên Vụ Pháp luật, đồng thời là Ủy viên Ban Chấp hành Công đoàn bộ phận Vụ, Ủy viên Ban Kiểm tra Hội Cựu chiến binh cơ quan Văn phòng Quốc hội. Tháng 1 năm 2013, ông được nâng ngạch Chuyên viên chính Vụ Pháp luật, sang tháng 3 năm 2015 thì được phân công làm Thư ký hành chính cho Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu. Tháng 8 năm 2016, ông được bổ nhiệm Hàm Phó Vụ trưởng, là thành viên Hội đồng Khoa học Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tháng 7 năm 2020, Lê Thanh Hoàn được nâng ngạch Chuyên viên cao cấp, nhậm chức Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật, Văn phòng Quốc hội từ tháng 4 năm 2021, đồng thời là Thư ký của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định. Năm này, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thanh Hóa, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 4 gồm huyện Triệu Sơn, Thiệu Hóa, Yên Định, Thọ Xuân, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 89,67%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên chuyên trách Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, Phó Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Brasil, Phó Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Venezuela. |
Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 73
Liên hoan phim khai mạc với tác phẩm điện ảnh chính kịch "She Came to Me" của nhà làm phim kiêm tiểu thuyết gia người Mỹ Rebecca Miller. Một video phát trực tiếp với Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy là một phần của chương trình khai mạc. Ngày 21 tháng 2 năm 2023, nhà làm phim người Mỹ Steven Spielberg được ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Ireland Bono trao tặng Gấu Vàng danh dự cho thành tựu trọn đời. Những bộ phim của Spielberg cũng được trình chiếu ở hạng mục Homage nhân dịp này. Tại lễ trao giải được tổ chức vào ngày 25 tháng 2 do Hadnet Tesfai dẫn chính, "Sur l'Adamant" (một bộ phim tài liệu về một trung tâm chăm sóc ban ngày ở Paris dành cho những người bị rối loạn tâm thần, do nhà làm phim người Pháp Nicolas Philibert làm đạo diễn) đã giành giải Gấu Vàng. Giải Gấu Bạc của ban giám khảo được trao cho phim "Roter Himmel" của nhà làm phim người Đức Christian Petzold. Dấu ấn của lễ trao giải là giải Gấu Bạc cho diễn viên chính xuất sắc nhất mà Sofía Otero giành được cho vai Lucía 8 tuổi trong "20.000 especies de abejas"; Otero (lúc 9 tuổi) đã trở thành người thắng giải diễn viên chính trẻ tuổi nhất trong lịch sử Berlinale.
Liên hoan phim bế mạc vào ngày 26 tháng 2 với tổng số vé bán ra đạt mức 320.000 vé và khoảng 20.000 chuyên gia uy tín từ 132 quốc gia, tính cả 2.800 đại diện truyền thông tham dự liên hoan.
Hạn nộp đăng ký tham gia liên hoan phim bắt đầu vào tháng 9 năm 2022 với ngày kết thúc nộp đơn được ấn định vào ngày 23 tháng 11 năm 2022. Ngày 13 tháng 10 năm 2022, với khẩu hiệu "Let's Get Together", ban tổ chức thể hiện tương tác trực tiếp trong tất cả các chương trình của liên hoan sau hai năm chương trình được tổ chức trực tuyến do COVID-19. Báo chí còn đưa tin rằng giải Berlinale Series sẽ lần đầu được khởi động vào năm 2023.
Áp phích của liên hoan được thiết kế bởi Claudia Schramke, tác giả tạo áp phích Berlinale năm ngoái. Giám đốc điều hành của Berlinale, Mariette Rissenbeek đã mô tả tấm áp phích là hình ảnh quan trọng cho Berlinale 2023, cô cho biết nó hướng sự chú ý về phía khán giả—điều cốt lõi không thể thiếu của liên hoan. Rissenbeek chia sẻ: "Chúng tôi rất hài lòng rằng với áp phích năm nay, chúng tôi có thể tôn vinh những người sở hữu sự tò mò, nhiệt tình và những tràng pháo tay làm cho Berlinale trở thành một sự kiện sôi động, truyền cảm hứng và vui vẻ."
Lễ khai mạc và bế mạc.
Lễ khai mạc liên hoan phim được tổ chức vào ngày 16 tháng 2 với các thành viên ban giám khảo, những ngôi sao điện ảnh Đức và quốc tế bước trên thảm đỏ. Trong bài phát biểu khai mạc, trưởng ban giám khảo Kristen Stewart đã chỉ ra "sự áp bức lên chính thể chất của chúng ta". Cô ấy chia sẻ rằng mặc dù mình là phụ nữ, song cô đại diện cho "phiên bản phụ nữ ít chịu thiệt thòi nhất". Nhắc đến chủ đề đó, Golshifteh Farahani (nữ diễn viên người Pháp gốc Iran và thuộc ban giám khảo) lưu ý rằng "một số phụ nữ không may mắn như vậy."
Chiến sự của Nga tại Ukraina và Nhân quyền tại Cộng hòa Hồi giáo Iran là những đề tài thảo luận tại buổi lễ. Sau khi Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelenskyy xuất hiện qua vệ tinh và được nam diễn viên kiêm nhà làm phim người Mỹ Sean Penn giới thiệu, Zelenskyy nhận xét: "Một câu hỏi logic được đặt ra: Văn hóa và nghệ thuật nên đứng về phía nào?" và nói thêm, "Liệu nghệ thuật có thể nằm ngoài chính trị? Điện ảnh có nên nằm ngoài chính trị? Đó là một câu hỏi muôn thuở nhưng ngày nay nó cực kỳ [đúng thời điểm]." Sau đó, bộ phim khai mạc liên hoan phim, tác phẩm chính kịch "She Came to Me" của Rebecca Miller được trình chiếu.
Lễ bế mạc hay đêm trao giải được tổ chức vào ngày 25 tháng 2, do người dẫn phát thanh và truyền hình Đức Hadnet Tesfai dẫn chính. Phim tài liệu "Sur l'Adamant" của Pháp (kể về một trung tâm chăm sóc ban ngày ở Paris dành cho những người mắc chứng rối loạn tâm thần) của Nicolas Philibert đã đoạt giải Gấu Vàng. Stewart gọi bộ phim là "được chế tác xuất chúng" và là "bằng chứng điện ảnh về tính thiết yếu sống còn của biểu cảm con người." Trong bài phát biểu nhận giải, Philibert đã hỏi rằng liệu các thành viên ban giám khảo có "điên" hay không và vẫn cảm ơn họ, cho biết "bộ phim tài liệu ấy có thể được xem là điện ảnh theo đúng nghĩa của nó, làm tôi vô cùng xúc động."
Giải Gấu Bạc của Ban giám khảo thuộc về phim "Roter Himmel" của Christian Petzold. Sofía Otero, diễn viên nhí 9 tuổi đã giành giải Gấu bạc cho diễn viên chính xuất sắc nhất cho vai Lucía 8 tuổi trong "20.000 especies de abejas". Cô bé trở thành người trẻ tuổi nhất giành được giải thưởng chung cho cả nam-nữ trong lịch sử Berlinale. Stewart nhận xét rằng Otero đã thách thức "một hệ thống được thiết kế để làm bớt trí thông minh của diễn viên", đặc biệt là của những diễn viên nhí. Sau buổi lễ, Otero nói với báo chí rằng cô bé muốn dành trọn cuộc đời mình cho sự nghiệp diễn xuất. Buổi lễ khép lại với buổi trình chiếu bộ phim đoạt giải Gấu Vàng "Sur l'Adamant".
Sau đây là ban giám khảo cho hạng mục tranh giải của Berlinale:
Sau đây là những thành viên ban giám khảo cho giải Encounters:
Giám khảo giải Berlinale Series.
Giám khảo cho giải Berlinale Series gồm:
Sau đây là 19 phim được lựa chọn tranh giải chính cho giải Gấu Vàng và Gấu Bạc:
Tựa phim in nổi chỉ người/tác phẩm thắng giải.
Dưới đây là 16 phim được chọn tranh giải hạng mục Encounters:
Tựa phim in nổi chỉ người/tác phẩm thắng giải.
Sau đây là các phim được chọn tranh giải hạng mục Panorama:
Tựa phim in nổi chỉ người/tác phẩm thắng giải.
Những bộ phim sau được chọn cho hạng mục "Perspektive Deutsches Kino" (n.đ.#đổi 'Góc nhìn điện ảnh Đức'):
Sau đây là các bộ phim tham gia hạng mục Forum:
Hạng mục này của Berlinale lần thứ 73 dành riêng cho nhà làm phim, nhà biên kịch kiêm nhà sản xuất người Mỹ Steven Spielberg, chủ nhân giải Gấu Vàng danh dự cho thành tựu trọn đời.
Hạng mục này trình chiếu các bộ phim sau đây:
Bản phục dựng 4K phim "Naked Lunch" của David Cronenberg là tác phẩm khai mạc hạng mục classics.
Phim ngắn quốc tế
Các giải thưởng Berlinale khác.
Giải Perspektive Deutsches Kino
Giải phim tài liệu |
O nhiều mắt (ꙮ) là một là một biến thể ký tự hiếm gặp của chữ cái Kirin O được tìm thấy trong một thủ bản cổ từ thế kỷ 15, trong từ "серафими многоꙮ҄читїи҄" (, "những người nhà trời nhiều mắt") trong tiếng Slav Giáo hội cổ. Biến thể ký tự này được ghi lại bởi Yefim Karsky từ một bản sao của Sách Thánh Vịnh từ khoảng năm 1429, hiện được tìm thấy trong bộ sưu tập của Troitse-Sergiyeva Lavra.
Ký tự được đề xuất đưa vào Unicode năm 2007 và mã hóa với mã ký tự U+A66E trong phiên bản Unicode 5.1 (2008). Ký tự đại diện có bảy con mắt. Tuy nhiên vào năm 2021, sau một dòng tweet nổi bật ký tự này, nhà ngôn ngữ học Michael Everson nhận thấy rằng ký tự trong thủ bản từ năm 1429 được tạo thành từ mười con mắt. Sau một đề xuất năm 2022 về việc thay đổi ký tự để phản ánh điều này, ký tự đã được cập nhật vào cuối năm đó để Unicode 15.0. |
Chất tạo khói là hợp chất hoặc hỗn hợp các chất được dùng để tạo ra các màn khói do quá trình thăng hoa ở nhiệt độ cao và ngưng tụ trong không khí.
Thời kì sơ khai, để tạo màn khói, người ta thường đốt các chất tạo khói như củi, lá cây, mùn cưa, giẻ tẩm dầ, các chất tạo khói được sản xuất từ các chất vô cơ và hữu cơ. Lúc đầu chỉ là chất tạo khói mù, che sự quan sát của đối phương. Do sự phát triển của khoa học quân sự, nhất là về các loại vũ khí, trang bị và phương thức tác chiến, để đáp ứng cho chiến tranh, chất tạo khói cũng phải phát triển để chống được vũ khí công nghệ cao, có thời gian tồn tại lâu trong môi trường, bảo đảm đủ mật độ khói trong thời gian quy định, thực hiện được các mục đích quân sự khác nhau.
Một số chất tạo khói.
Chất tạo khói được nhồi vào đạn, bom, mìn… hoặc trong thiết bị tạo khói. Quân đội các nước hiện đang sử dụng các chất tạo khói: photpho trắng, anhydric sunfuric trong axit sunfuric và trong axit clorsunforic, titan clorua, silic clorua, thiếc clorua, hỗn hợp tạo khói antraxen, hỗn hợp dầu tạo khói.
Trong QĐNDVN đang sử dụng chất tạo khói do Liên Xô và Nga sản xuất như: photpho trắng, anhydric sunfuric trong axit sunfuric và trong axit clorsunforic, hỗn hợp tạo khói antraxen và hỗn hợp tạo khói antraxen do Việt Nam sản xuất từ sản phẩm than cốc.
Trong những năm gần đây, chất tạo khói phát triển theo hướng đối phó với sự xuất hiện của vũ khí chính xác và phương tiện trinh sát hiện đại như: Chất tạo khói tạo màn khói giống hệt nền địa hình; tạo màn khói bán trong suốt, hoạt động trong màn khói phải được trang bị phương tiện nhìn đặc biệt; tạo màn khói từ các hạt chất dẻo, kim loại giống như vật liệu phức tạp của máy bay tàng hình. |
Chất tẩy xạ là hóa chất dùng để tẩy hoàn toàn bụi phóng xạ khỏi đối tượng bị nhiễm xạ. Việc nghiên cứu, sản xuất các chất tẩy xạ bắt đầu từ cuối Chiến tranh Thế giới lần thứ 2, sau khi vũ khí hạt nhân được sử dụng trong chiến tranh. Ban đầu, chủ yếu chất tẩy xạ sử dụng ở dạng lỏng; công nghệ vật liệu mới phát triển đã cho ra đời chất tẩy xạ sử dụng ở dạng rắn, sử dụng đơn giản, giảm ô nhiễm môi trường.
Chất tẩy xạ chuyên dùng ở dạng lỏng.
Thành phần chất tẩy xạ chuyên dụng ở dạng lỏng thường gồm: chất hoạt động bề mặt, chất tạo phức và phụ gia.
Khi đưa vào đối tượng nhiễm xạ, do chất hoạt động bề mặt làm giảm sức căng bề mặt nên dung dịch chất tẩy xạ dễ dàng thấm ướt bề mặt bụi phóng xạ và bề mặt cần tẩy xạ, tạo màng bao quanh và tách bụi phóng xạ khỏi bề mặt nhiễm, đồng thời đưa vào trong dung dịch; tại đây, các ion và phân tử chất tạo phức sẽ liên kết với bụi phóng xạ, giữ không cho bám trở lại; sau đó, dòng dung dịch sẽ chuyển các bụi phóng xạ chảy ra ngoài bề mặt vừa được tẩy rửa. Để bảo đảm an toàn cho đối tượng cần tẩy xạ, dung dịch tẩy xạ phải được sử dụng kịp thời; tỉ lệ pha chế phải chính xác theo tiêu chuẩn quy định cho từng chất tẩy xạ và phù hợp với phương tiện dùng tiêu tẩy.
Chất hoạt động bề mặt.
Chất hoạt động bề mặt là hợp chất hữu cơ, có cấu tạo phân tử gồm 2 phần: ưa nước và kị nước; hòa tan vào nước làm giảm sức căng bề mặt của nước; dựa theo cấu tạo hóa học và bản chất trong dung dịch nước, chia làm 2 loại: chất hoạt động bề mặt ion và không ion.
Chất hoạt động bề mặt ion (xà phòng béo, sunfonol, ) khi hòa tan vào nước phân li thành các ion.
Chất hoạt động bề mặt không ion là các chất khi hòa tan vào nước không phân li thành các ion; đây là các polyglicolete, có công thức chung RR1C6H3O(C2H4O)nH (R là gốc hiđrôcacbon, trong đó số nguyên tử C là 8-10, R1 có thể là gốc hiđrôcacbon hoặc H); trong kĩ thuật các chất hoạt động bề mặt không ion có kí hiệu OP (OP-7 khi n = 7, OP-10 khi n = 10), sử dụng nhiều nhất là OP-10.
Chất tạo phức là chất làm tăng hiệu ứng tẩy rửa khi kết hợp với các ion âm của bụi phóng xạ tạo thành phức chất trong nước; gồm: hexametaphotphat, tripolyphotphat natri và pyrophotphat natri.
Chất phụ gia gồm các chất có đặc tính kiềm và các chất điện li.
Chất tẩy xạ ứng dụng.
Chất tẩy xạ ứng dụng có các loại dung dịch xà phòng, bột giặt dân dụng để tẩy xạ; cồn, xăng, dầu để lau rửa bụi phóng xạ trên bề mặt vật thể dính nhiều dầu mỡ; dùng tro than, đất cát xoa lên bề mặt bê tông, sắt thép, dùng tinh bột xoa lên da và quân trang bị nhiễm để hấp thụ chất phóng xạ, sau đó quét sạch, vùi lấp kĩ.
Quân đội các nước sử dụng nhiều loại chất tẩy xạ, như Quân đội Nga có SF-2 và SF-2U. SF-2 ở dạng bột mịn màu kem hay vàng sẫm, dễ tan trong nước (kể cả nước cứng, với nhiệt độ 10-15oC); dung dịch 0,3% có pH = 11,6; SF-2 được điều chế bằng cách trộn dung dịch nước sunfonol và trinatri photphat (theo tỉ lệ 1:2), sau đó sấy khô; thành phần sản phẩm: 18% sunfonol, 30% trinatri photphat, 16% sunphat natri, còn lại là nước.
SF-2U, dạng bột nhìn bên ngoài giống SF-2, dễ tan trong nước ở nhiệt độ 10-15oC; dung dịch 0,3% có pH = 9,5; thành phần: 25% sunfonol, 50% tripolyphotphat natri, 18% sunphat natri; tẩy rửa và tạo bọt tốt hơn SF-2.
Quân đội Mĩ sử dụng CTX PS-751, là hỗn hợp các muối photphat, silicat, xú
Quân đội Đức sử dụng Colla decohtacoll, là chất tẩy xạ sử dụng ở dạng thể rắn.
Từ năm 1958, bộ đội hóa học QĐNDVN đã sử dụng CTX SF-2 và SF-2U; năm 1993, nghiên cứu sản xuất chất tẩy xạ TX-93, sản phẩm dạng bột màu trắng hay vàng nhạt, có tính tẩy rửa gần như SF-2U; thành phần: 20% sunfonol, 40% tripolyphotphat natri, 22% sunphat natri, 10% natrisilicat Na2SiO3, 6% soda Na2CO3, 2% chất thơm, chất màu và tạp chất. |
Siêu lừa gặp siêu lầy
Siêu lừa gặp siêu lầy là một bộ phim hài hước, hành động của Việt Nam năm 2023 do Võ Thanh Hòa làm đạo diễn; Mai Bảo Ngọc sản xuất với sự tham gia của các diễn viên chính gồm Anh Tú, Mạc Văn Khoa, Ngọc Phước, Trung Lùn và Cát Tường. Bộ phim lấy chủ đề liên quan đến tội phạm lừa đảo xoay quanh bộ đôi Tú và Khoa, cả hai đã gặp nhau tại Phú Quốc và hợp tác cùng ông Năm và Mã Lai để thực hiện nhiều hành vi trộm cắp.
Bộ phim đã được dự kiến khởi chiếu vào ngày 22 tháng 1 năm 2023, tức vào ngày mồng một Tết Nguyên Đán 2023 nhưng sau đó đã bị hoãn chiếu không rõ lý do về ngày 24 tháng 3 và sau đó lại là 3 tháng 3 năm 2023.
Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Với mong muốn đổi đời, Khoa (do Mạc Văn Khoa thủ vai)#đổi một tên lừa đảo khét tiếng tại Việt Nam đã đến Phú Quốc với mong muốn lừa đảo để kiếm bộn tiền đổi đời. Trong khi thực hiện hành vi lừa đảo, anh đã vô tình gặp được Tú (do Anh Tú thủ vai)#đổi một tên lừa đảo có tổ chức khét tiếng hơn và đã thực hiện được nhiều phi vụ chưa bao giờ thất bại cùng với ông Năm (do Trung Lùn thủ vai) và Mã Lai (do Ngọc Phước thủ vai). Thấy được tiềm năng từ Tú, Khoa đã xin gia nhập băng và đã được Tú đồng ý sau khi nghe Khoa chia sẻ về câu chuyện khó khăn của mình.
Tại Phú Quốc, cả băng nhóm đã thành công khi thực hiện nhiều phi vụ lừa đảo sau khi phân tích kỹ càng về điểm yếu của đối tượng rồi từ đó giăng bẫy. Các chiêu thức được thiết lập bằng công nghệ cao như việc cải trang, vượt rào hệ thống an ninh cùng nhiều thủ thuật lừa đảo như diễn kịch lợi dụng tình thương. Cuối cùng cả bọn đã tìm hiểu và gặp được nữ doanh nhân Khánh hoạt động được mô tả hoạt động theo mô hình kinh doanh đa cấp và kêu gọi vốn đầu tư. Nhóm của Tú đã thực hiện lừa đảo bà Khánh khi tự nhận là một nhóm tổ chức sự kiện. Tuy nhiên, sau đó sự thật đã bị phơi bày và lộ diện bà Khánh cũng là một kẻ lừa đảo. Ngay sau đó, bà Khánh đã cố gắng bịt đầu mối bằng cách truy lùng băng nhóm của Tú để tránh việc phanh phui sự thật của mình. Cuối cùng, nhóm của Tú cũng đã thành công phơi bày bộ mặt thật của bà Khánh khi trên đường cố gắng tẩu thoát sang nước không dẫn độ về Việt Nam cùng số tiền của các nhà đầu tư.Hết phần cho biết trước nội dung của tác phẩm.
Cùng một số diễn viên khác như Đại Nghĩa vai kiến trúc sư Thái, Lâm Vỹ Dạ vai Thu Cúc, NSƯT Mỹ Duyên, BB Trần, Hứa Minh Đạ
Phát triển và quay phim.
Kịch bản của "Siêu lừa gặp siêu lầy" được cho là do Võ Thanh Hòa làm kịch bản chính cùng nhiều thành viên khác trong vòng 6 tháng và công đoạn ghi hình đã được thực hiện từ tháng 6 năm 2022 cho đến tháng 12 năm 2022. Bộ phim cũng đã được phía ê-kíp xác nhận tự làm chứ không hề làm lại của ai. Đạo diễn Võ Thanh Hòa khẳng định đây sẽ là những bộ phim được làm đúng nghĩa bởi chính anh. Trước khi có cái tên "Siêu lừa gặp siêu lầy" thì bộ phim đã được gọi tạm là "Phi vụ triệu đô". Ý tưởng làm bộ phim được cho là đã xuất phát từ năm 2018.
Vào ngày 1 tháng 12 năm 2022, ê-kíp bộ phim "Siêu lừa gặp siêu lầy" đã tổ chức sự kiện công bố dự án tại Thành phố Hồ Chí Minh. Dàn diễn viên cùng đạo diễn Võ Thanh Hòa và nhà sản xuất Mai Bảo Ngọc cũng xuất hiện tại sự kiện. Đến giữa tháng 12 năm 2022, một đoạn video kéo dài gần 90 giây quảng cáo bộ phim đã được công bố xuất hiện những phi vụ lẻ tẻ của băng nhóm lừa đảo. Video cũng đã xác nhận việc cầm đầu băng nhóm lừa đảo thuộc về Tú. Trước khi công chiếu, một buổi họp báo vào ngày 12 tháng 1 năm 2023 của bộ phim đã được tổ chức. Tại sự kiện đã có sự tham gia của Trường Giang, Ninh Dương Lan Ngọc, Kiều Minh Tuấ
Bộ phim được dự kiến phát hành vào mồng một Tết Nguyên Đán, tức là vào ngày 22 tháng 1 năm 2023 cùng với "Chị chị em em 2" và "Nhà bà Nữ". Tuy nhiên, đến ngày 19 tháng 1, trước khi khởi chiếu 3 ngày, đơn vị phát hành Galaxy đã xác nhận việc hoãn chiếu bộ phim theo "nguyện vọng của đạo diễn và nhà sản xuất". Bộ phim được thông tin về thời điểm khởi chiếu mới là vào ngày 24 tháng 3 năm 2023. Vào ngày 9 tháng 2 thì nhà sản xuất bộ phim lại tiếp tục dời lịch khởi chiếu về ngày 3 tháng 3 năm 2023. Nhiều ý kiến cho rằng việc bộ phim phải hoãn chiếu là để "né" bộ phim "Nhà bà Nữ" của Trấn Thành; tuy nhiên, số khác lại cho rằng ê-kíp bộ phim đang thực hiện các chiêu trò để quảng bá sản phẩm.
Trong ngày 4 tháng 3, ngày thứ hai khởi chiếu bộ phim đã cán mốc hơn 20 tỷ đồng. Trong 3 ngày công chiếu chính thức, bộ phim đã thu về hơn 360 nghìn vé, đứng #1 phòng vé Việt Nam và thu về hơn 33 tỷ đồng, vượt xa bộ phim "Khi ta hai lăm" được ra mắt cùng thời điểm. Bộ phim đã cán mốc con số 50 tỷ đồng sau hơn một tuần khởi chiếu.
Phóng viên Mai Nhật của tờ "VnExpress", đã cho rằng bộ phim đã mắc nhiều điểm trừ về vấn đề logic trong kịch bản. Các chiêu trò trộm cướp của băng nhóm lừa đảo đều lộ rõ các lỗ hỏng và chưa tới. Tuy nhiên, nhà báo này cũng đã ca ngợi về bối cảnh và góc quay của bộ phim khi "khai thác nét đẹp của đảo ngọc Phú Quốc". "Thần bài", "Phi vụ thế kỷ"... đã được báo "Giao thông" liệt kê để so sánh với "Siêu lừa gặp siêu lầy" mặc dù đây không phải là một bộ phim làm lại vì độ tương đồng. Tờ báo này cũng cho rằng phim không quá tốt về nội dung nhưng lại đủ để giúp người xem giải trí và thư giãn. "ZingNews" lại cho rằng Võ Thanh Hòa đã hụt hơi sau nhiều tác phẩm làm lại như "Ông ngoại tuổi 30", "Chìa khóa trăm tỷ" và "Nghề siêu dễ". Diễn viên Anh Tú đã bị đánh giá là diễn xuất chưa sâu và không ấn tượng; còn Mạc Văn Khoa là thoại không có cảm xúc. Trên tờ "Thể thao và Văn hóa", nhà báo Dạ Nguyệt đã đánh giá bộ phim mang yếu tố giải trí cao nhưng về phần kịch bản thì chấp vá và không có gì hấp dẫn. Nhà báo thậm chí còn khẳng định việc "Siêu lừa gặp siêu lầy" "sao y bản chính" của "Phi vụ thế kỷ 2" vào năm 2016. Ngòi bút Minh Nhật của "Tiền phong" cho rằng bộ phim "có ý tưởng tốt nhưng cách triển khai có nhiều vấn đề" và nội dung phim không đáng để nhớ.
Theo tiết lộ của đạo diễn Võ Thanh Hòa với phóng viên báo "Lao Động" thì dự án "Siêu lừa gặp siêu lầy" sẽ có ba phần và hai tên nhân vật Tú và Khoa sẽ được giữ nguyên như phần đầu tiên. Mùa thứ hai của bộ phim sẽ có 15% tại Thái Lan, 15% tại Philippines và 70% tại Việt Nam; còn đối với mùa thứ ba sẽ là ở Đông Âu và một số nước tại châu Á. |
Câu lạc bộ bóng đá Đông Á Thanh Hóa mùa bóng 2023
Mùa bóng 2023 là mùa giải thứ 24 trong lịch sử của câu lạc bộ Đông Á Thanh Hóa và là mùa thứ 14 liên tiếp đội bóng thi đấu tại V.League 1, giải bóng đá cấp độ cao nhất trong hệ thống giải đấu của bóng đá Việt Nam.
Tiền mùa giải và giao hữu.
Ngày 10-12, CLB Đông Á Thanh Hóa ra mắt HLV trưởng Velizar Popov và trợ lý HLV thể lực Nikita Udovenko, đồng thời chính thức hội quân chuẩn bị mùa giải mới.#đổi #đổi
Giải vô địch quốc gia.
Lịch thi đấu Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2023 được công bố vào ngày 26 tháng 12 năm 2022.
templatestyles src="Legend/" / Chưa thi đấu
Thống kê mùa giải.
Thống kê đội hình.
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Thủ môn
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Hậu vệ
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Tiền vệ
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Tiền đạo |
Nguy cơ Nội chiến Hoa Kỳ lần hai
Nguy cơ Nội chiến Hoa Kỳ lần hai là một thuật ngữ chung được các học giả sử dụng để xác định các thời kỳ bạo lực chính trị quan trọng trong lịch sử Hoa Kỳ có phải là "nội chiến" hay không hoặc phổ biến hơn là để thảo luận về khả năng bùng nổ nội chiến Mỹ trong tương lai gần. Thảo luận về một cuộc nội chiến thứ hai đã xảy ra với tần suất và mức độ gay gắt khác nhau kể từ khi đệ nhất nội chiến kết thúc vào năm 1865.
Thảo luận về khả năng bùng nổ cuộc nội chiến thứ hai trở thành xu hướng chính một cách nghiêm túc do tác động phân cực của cuộc chiến thắng của Donald Trump trong cuộc bầu cử 2016. Nhiều người thuộc phái bảo thủ đã bày tỏ sự bất bình đối với chính quyền mà họ coi đang dần bạo ngược dưới thời trị vì của Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ) như Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama và Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ Nancy Pelosi. Trong khi đó, các nhóm chính trị cánh tả coi việc Trump đắc cử là dấu hiệu cho thấy các phong trào phản động, cực hữu, và chủ nghĩa cực đoan đang chiếm thế thượng phong, cảnh báo rằng hành vi kích động và phản dân chủ của Trump sẽ thúc đẩy bạo lực chính trị, trong khi nỗ lực của phái bảo thủ thân Trump nhằm lật đổ các chuẩn mực dân chủ sẽ dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa siêu dân tộc, chủ nghĩa dân tộc Cơ Đốc, và phái da trắng thượng đẳng. Kết quả là một xã hội Mỹ chia rẽ hận thù được hầu hết các chuyên gia coi là một trong những thời đại phân cực hóa chính trị nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. |
Nguyễn Thị Sửu (hoặc Nguyễn Thị Hường, Kê Sửu, sinh ngày 9 tháng 11 năm 1973, người Tà Ôi) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Thừa Thiên Huế, Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thừa Thiên Huế. Bà từng là Bí thư Huyện ủy A Lưới, Thừa Thiên Huế; Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nguyễn Thị Sửu là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Quản trị kinh doanh, Tiến sĩ Ngữ văn, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Thừa Thiên Huế, và là cán bộ nổi tiếng của người Tà Ôi.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Thị Sửu sinh ngày 9 tháng 11 năm 1973 tại xã A Ngo, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế. Bà là người dân tộc Tà Ôi, lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, thi đỗ Trường Đại học Sư phạm Huế và theo học từ tháng 9 năm 1992, hoạt động đoàn thể với vị trí Bí thư Chi đoàn, Phó Bí thư Liên chi đoàn Khoa Ngữ văn, Ủy viên Ban Chấp hành Đoàn Trường Đại học Sư phạm Huế, và tốt nghiệp Cử nhân Ngữ văn vào tháng 7 năm 1997. Bà cũng có một bằng đại học khác là Cử nhân Quản trị kinh doanh, sau đó học cao học, rồi là nghiên cứu sinh ở Viện Ngôn ngữ học, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Cấu tạo từ tiếng Tà Ôi (trong sự so sánh với tiếng Việt)", và trở thành Tiến sĩ Ngữ văn năm 2008 – và cũng là tiến sĩ đầu tiên của người Tà Ôi. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 10 năm 1996, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 8 năm 1997, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm, Nguyễn Thị Sửu được Trường Trung học sơ sở Dân tộc nội trú A Lưới nhận vào làm giáo viên. Trong gần 10 năm giảng dạy 1997–2006, bà còn tham gia công tác xã hội, công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, là Tổng Phụ trách Đội, Phó Bí thư Đoàn trường, ngoài ra còn là Đại biểu Hội đồng nhân dân huyện A Lưới, Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện A Lưới. Tháng 3 năm 2006, bà được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, nhậm chức Phó Bí thư Đảng ủỵ, Bí thư Chi bộ Văn phòng Huyện ủy, Chánh Văn phòng Huyện ủy A Lưới, rồi được bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện A Lưới. Vào tháng 3 năm 2010, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2010–2015, bà được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, bên cạnh đó là Đảng ủy viên Đảng ủy khối các cơ quan tỉnh, được phân công làm Bí thư Chi bộ, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh. Giai đoạn này bà là Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, Phó Đoàn Hội thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Tháng 11 năm 2015, Nguyễn Thị Sửu tái đắc cử Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XV, nhiệm kỳ 2015–2020, tiếp tục là Trưởng Ban Dân tộc tỉnh, ngoài ra được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Ủy viên Ban Thường vụ Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế. Tháng 8 năm 2017, bà được điều về huyện A Lưới, nhậm chức Bí thư Huyện ủy A Lưới, cho đến tháng 10 năm 2020 thì tiếp tục được bầu làm Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2020–2025. Năm 2021, bà được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thừa Thiên Huế, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm thị xã Hương Trà, huyện Phong Điền, Quảng Điền, A Lưới, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 76,57%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, bà được phê chuẩn làm Ủy viên Hội đồng Dân tộc của Quốc hội và Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Thừa Thiên Huế. Bên cạnh đó, bà cũng là hội viên của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và Hội Văn học nghệ thuật các Dân tộc thiểu số Việt Nam.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Nguyễn Hải Nam (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1977) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Thừa Thiên Huế. Ông từng là Đảng ủy viên Đảng bộ cơ quan Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Vụ trưởng Vụ Quản lý các công ty quản lý quỹ.
Nguyễn Hải Nam là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Tài chính, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có hơn 20 năm công tác trong ngành tài chính, chứng khoán, rồi tham gia hoạt động của Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Hải Nam sinh ngày 2 tháng 10 năm 1977 tại xã Phú Hòa, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Lương Tài, theo học đại học ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, sau đó học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Tài chính. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 7 tháng 6 năm 2006, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 6 năm 2001, sau khi hoàn thành các khóa học ở Đại học Kinh tê Quốc dân, Nguyễn Hải Nam được trường tuyển dụng làm viên chức, bắt đầu là Giảng viên Khoa Tài chính – Ngân hàng của trường. Trong thời gian này ông cũng tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, là Bí thư Liên chi đoàn Khoa Tài chính – Ngân hàng. Tháng 4 năm 2007, ông được điều tới Ủy ban Chứng khoán Nhà nước của Bộ Tài chính, được bổ nhiệm làm Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường của Ủy ban, bên cạnh đó là Chủ tịch Công đoàn Vụ. Sang tháng 8 năm 2010, ông là Phó Bí thư Chi bộ, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các công ty quản lý quỹ của Ủy ban, giữ chức liên tục 5 năm cho đến tháng 1 năm 2015 thì được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ cơ quan Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, là Bí thư Chi bộ, Vụ trưởng Vụ Quản lý các công ty quản lý quỹ.
Năm 2021, Nguyễn Hải Nam được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Thừa Thiên Huế, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 4 gồm huyện Phú Vang, Phú Lộc, Nam Đông, với tỷ lệ 80,70%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước |
Trần Văn Đạt (cầu thủ bóng đá)
Trần Văn Đạt (sinh ngày 26 tháng 12 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Thép Xanh Nam Định tại V.League 1.
Trần Văn Đạt trưởng thành từ trung tâm đào tạo bóng đá trẻ Hà Nội. Năm 2020, anh được triệu tập lên đội tuyển U-23 Việt Nam và tham gia loạt trận giao hữu cùng đội tuyển quốc gia Việt Nam. Sau đó một năm, Văn Đạt được huấn luyện viên Park Hang-seo triệu tập để tham dự vòng loại U23 châu Á 2022. Tiếc rằng, tiền vệ sinh năm 2000 lại không nằm trong danh sách cuối cùng của đội tuyển U-23 Việt Nam tham dự SEA Games 31 và Vòng chung kết U23 châu Á 2022.
Được đôn lên đội một Hà Nội từ mùa 2021 nhưng Văn Đạt không có cơ hội ra sân cho đội bóng Thủ đô. Anh có 2 lần được đem cho Công an Nhân dân ở giải hạng Nhất mượn ở mùa giải 2021 và giai đoạn 2 của mùa 2022. Trước đó ở mùa 2020, anh cũng được gửi đi Phú Thọ và giúp đội thăng hạng từ giải hạng Nhì lên hạng Nhất. |
Lực lượng Vũ trang Sinh viên
Lực lượng Vũ trang Sinh viên (; viết tắt: SAF) là một tổ chức kháng chiến vũ trang ở Myanmar.
Để ứng phó với cuộc đảo chính Myanmar năm 2021, các thành viên Hội sinh viên Đại học có trụ sở ở Yangon đã học huấn luyện quân sự cơ bản tại khu vực của quân đội Arakan và với sự hỗ trợ của quân đội này, họ đã thành lập Lực lượng Vũ trang Sinh viên vào ngày 27 tháng 4 năm 2021 với 22 nhà lãnh đạo.
Đến ngày 24 tháng 1 năm 2022, Lực lượng Vũ trang Sinh viên xác nhận đã có 9 đặc nhiệm SAC thiệt mạng trong một cuộc tấn công gồm 60 người vào Tatmadaw. Một cựu diễn viên có tên Honey Nway Oo hiện cũng là thành viên với tư cách sĩ quan cấp cao trong lực lượng. |
Nguyễn Thanh Cầm (sinh ngày 11 tháng 8 năm 1975) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Xã hội của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Tiền Giang. Bà từng là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trưởng Ban Chính sách – Luật pháp, Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng khoa học Cơ quan Trung ương Hội.
Nguyễn Thanh Cầm là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Quan hệ quốc tế, Thạc sĩ Công tác xã hội, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp công tác tổ chức phụ nữ hơn 20 năm rồi tham gia hoạt động Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Thanh Cầm sinh ngày 11 tháng 8 năm 1975 tại phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, quê quán tại xã Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Bà lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Hà Nội, thi đỗ và theo học Học viện Quan hệ quốc tế, nay là Học viện Ngoại giao và tốt nghiệp Cử nhân Quan hệ quốc tế, sau đó đi du học ở Canada và nhận bằng Thạc sĩ Công tác xã hội. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 22 tháng 5 năm 2006, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện bà thường trú ở phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Tháng 12 năm 1998, Nguyễn Thanh Cầm được tuyển dụng công chức vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, bắt đầu là cán bộ Ban Quốc tế của Trung ương Hội. Bà công tác liên tục thời gian dài hơn 10 năm cho đến tháng 6 năm 2009 thì nhậm chức Phó ban Tham mưu công tác Vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam của Trung ương Hội, được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, kiêm nhiệm thêm một vị trí là Thư ký Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Nguyễn Thị Thanh Hòa. Tháng 6 năm 2011, bà được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc Trung tâm Phụ nữ và Phát triển thuộc Trung ương Hội, đến tháng 10 năm 2013 thì điều trở lại làm Trưởng Ban Chính sách – Luật pháp Trung ương Hội, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Cơ quan Trung ương Hội. Tháng 1 năm 2015, bà là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội, tiếp tục là Trưởng Ban Chính sách – Luật pháp và Bí thư Chi bộ Ban, rồi kiêm nhiệm Tổ trưởng Tổ công tác tham gia giải quyết các vụ việc, điểm nóng liên quan tới phụ nữ, trẻ em và Tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ tháng 11 năm 2017 và Phó Chủ tịch thường trực Hội đồng khoa học Cơ quan Trung ương Hội từ tháng 2 năm 2019.
Năm 2021, Nguyễn Thanh Cầm được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Tiền Giang, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm thị xã Cai Lậy, huyện Cái Bè, Cai Lậy, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 67,52%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, bà được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Xã hội của Quốc hội. |
Nguyễn Thị Uyên Trang
Nguyễn Thị Uyên Trang (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1982) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang, Ủy viên Ủy ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Tiền Giang. Bà từng là Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bí thư Tỉnh đoàn Tiền Giang.
Nguyễn Thị Uyên Trang là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Kinh tế, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp xuất phát điểm từ công tác thanh niên, hoạt động 20 năm rồi chuyển sang công tác Đảng địa phương.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Thị Uyên Trang sinh ngày 31 tháng 8 năm 1982 tại xã Bình Đông, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Bà lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Gò Công, theo học đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3 tháng 2 năm 2006, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện bà thường trú ở xã Trung An, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang.
Tháng 1 năm 2002, Nguyễn Thị Uyên Trang bắt đầu công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Huyện đoàn Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Hơn 3 năm sau, vào tháng 8 năm 2005, bà được bầu làm Ủy viên Thường vụ Huyện đoàn, đến tháng 8 năm 2009 thì giữ chức Phó Bí thư Huyện đoàn Gò Công Đông, rồi nhậm chức Bí thư Huyện đoàn, Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn Tiền Giang từ tháng 4 năm 2012. Bà cũng là Bí thư Chi bộ Huyện đoàn, được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Gò Công Đông từ tháng 3 năm 2013. Tháng 9 năm 2015, bà được điều lên Tỉnh đoàn, nhậm chức Phó Bí thư Tỉnh đoàn Tiền Giang, được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Tiền Giang tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, nhiệm kỳ 2015–2020, và là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, Bí thư Chi bộ, Bí thư Tỉnh đoàn Tiền Giang từ tháng 1 năm 2016.
Tháng 10 năm 2020, Nguyễn Thị Uyên Trang tái đắc cử Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020–2025, tiếp tục là Bí thư Tỉnh đoàn, được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đoàn. Sang 2021, bà được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Tiền Giang, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 3 gồm thị xã Gò Công, huyện Chợ Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông, Tân Phú Đông, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 69,28%. Trong nhiệm kỳ này, bà cũng là Ủy viên Ủy ban Văn hoá, Giáo dục của Quốc hội. Tháng 1 năm 2022, bà miễn nhiệm công tác thanh niên, được điều chuyển làm Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội |
Nhà máy thép là một nhà máy công nghiệp sản xuất thép. Đó có thể là một tổ hơp thực hiện tất cả các khâu của sản xuất thép từ nấu quặng đến cán thép thành phẩm hoặc chỉ là một nhà máy sản xuất bán thành phẩm thép đúc từ gang hoặc phế liệu.
Kể từ khi quy trình Bessemer được phát minh (sử dụng lò chuyển BOF cho phép tinh luyện thép), các nhà máy thép đã thay thế các nhà máy luyện gang. Những phương pháp mới để sản xuất thép xuất hiện sau đó là nấu thép từ phế liệu bằng hồ quang điện hay gần đây là sắt hoàn nguyên trực tiếp Direct Reduced Iron-DRI.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhà máy thép lớn nhất thế giới là nhà máy thép Barrow Hematite Steel Company ở Barrow-in-Furness, Vương quốc Anh. Ngày nay, nhà máy thép lớn nhất thế giới là của POSCO ở Gwangyang, Hàn Quốc công suất 23 triệu tấn/năm.
Tổ hợp sản xuất thép.
Tổ hợp nhà máy sản xuất thép (đôi khi còn được gọi khu liên hợp gang thép, tổ hợp luyện cán thé) có đầy đủ các khâu công nghệ bao gồm:
Tại Việt Nam, một số khu liên hợp gang thép có công suất lớn như Formosa công suất 10-20 triệu tấn/năm Hòa Phát Dung Quất 5,6-11,6 triệu tấn/năm.
Các nhà máy nhò không bao gồm đầy đủ các khâu công nghệ như tổ hợp gang thép. Thường chỉ bao gồm chu trình ngắn như luyện thép bằng lò hồ quang điện từ thép phế hoặc sắt hoàn nguyên trực tiếp Direct reduced iron (DRI), ngoài ra cũng có thể có thêm lò thùng, lò chân không để kiểm soát chính xác thành phần hóa, đúc liên tục, lò gia nhiệt và khâu cán thép. |
Trận Kota Bharu bắt đầu ngay sau nửa đêm ngày 8 tháng 12 năm 1941 (theo giờ địa phương) trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Đây là trận đánh lớn đầu tiên trong Chiến tranh Thái Bình Dương, và được diễn ra giữa một bên là lực lượng trên bộ của Quân Anh-Ấn và một bên là quân đội Đế quốc Nhật Bản.
Kota Bharu, thủ phủ của bang Kelantan trên bờ biển phía đông bắc Malaysia, vào năm 1941, là căn cứ hoạt động của Không quân Hoàng gia (RAF) và Không quân Hoàng gia Úc (RAAF) ở Bắc Mã Lai. Có một đường băng tại Kota Bharu và hai đường băng khác ở Gong Kedak và Machang. Tổn thất của quân Nhật là đáng kể do các cuộc không kích lẻ tẻ của Úc, hệ thống phòng thủ bờ biển của Ấn Độ và hoả lực pháo binh.
Sự chuẩn bị của hai bên.
"Bài chi tiết: Nhật Bản xâm lược Thái Lan, Chiến dịch Krohcol và Chiến dịch Matador"
Kế hoạch xâm lược Mã Lai của Nhật Bản liên quan đến việc đổ bộ binh lính từ Sư đoàn Bộ binh 5 tại Pattani và Songkhla trên bờ biển phía đông của Thái Lan, và binh lính từ Sư đoàn Bộ binh 18 tại Kota Bharu trên bờ biển phía đông bắc của Mã Lai. Các lực lượng đổ bộ lên Thái Lan là để đẩy qua bờ biển phía tây và xâm chiếm Mã Lai qua bang Kedah phía tây bắc, trong khi lực lượng đổ bộ phía đông sẽ tấn công xuống bờ biển phía đông từ Kota Bharu và tiến vào nội địa Mã Lai.
Kế hoạch phòng thủ của người Anh trước một cuộc tấn công từ Thái Lan vào tây bắc Mã Lai là một cuộc tấn công phủ đầu vào miền nam Thái Lan, tên mã là Chiến dịch Krohcol, để đánh chiếm các vị trí chiến lược quan trọng và trì hoãn cuộc tấn công của kẻ thù. Kế hoạch của người Anh là để bảo vệ bờ biển phía đông Mã Lai bao gồm các biện pháp phòng thủ bãi biển cố định của Sư đoàn Bộ binh 9 Ấn Độ dọc theo đoạn bờ biển phía bắc và 2/3 của Sư đoàn 8 Úc bảo vệ đoạn bờ biển phía nam (phần ba còn lại được triển khai đến Ambon, Tây Timor, và Rabaul).
Lực lượng tấn công của Nhật Bản được rút ra từ Tập đoàn quân 25 dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Tomoyuki Yamashita. Lực lượng này xuất phát từ cảng Samah trên Đảo Hải Nam vào ngày 4 tháng 12 năm 1941.Các tàu bổ sung chở thêm binh lính đã gia nhập đoàn tàu vận tải từ Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam, Đông Dương thuộc Pháp. Một máy bay trinh sát của RAAF Lockheed Hudson đã phát hiện ra đoàn tàu vận tải này. Phó Đô đốc Thomas Phillips, tư lệnh lực lượng Hải quân Anh ở Viễn Đông, đã ra lệnh cho tàu chiến HMS "Repulse" huỷ chuyến đi đến Darwin, Australia, và quay trở về Singapore càng nhanh càng tốt. Lực lượng đổ bộ một lần nữa được phát hiện một lần nữa vào ngày 7 tháng 12 bởi một thuỷ phi cơ Catalina thuộc Phi đội 205 RAF, nhưng chiếc Catalina đã bị bắn rơi bởi 5 máy bay tiêm kích Nakajima Ki-27 trước khi nó kịp gửi báo cáo về sở chỉ huy không quân tại Singapore. Sĩ quan Không quân Patrick Bedell, chỉ huy Catalina, và 7 thành viên phi hành đoàn của ông trở thành thương vong đầu tiên của Quân Đồng minh trong cuộc chiến với Nhật Bản.
Trước cuộc xâm lược, quân Nhật đã tuyển mộ một số ít người Mã Lai bất mãn với người Anh vào một tổ chức thứ năm có tên gọi là "Xã hội rùa". Cảnh sát Mã Lai đã nhận thức được sự tồn tại của tổ chức này và đã tiến hành bắt giữ một số thủ lĩnh của nó ngay trước cuộc đổ bộ của Nhật Bản. Tại Kota Bharu, các thành viên của tổ chức này đã hỗ trợ cho quân xâm lược và đóng vai trò là người hướng dẫn.
Đổ bộ vào Kota Bharu.
Đại tướng Không quân Robert Brooke-Popham, Tổng Tư lệnh của Bộ Tư lệnh Viễn Đông Anh, lo sợ rằng Hạm đội Nhật Bản đang cố gắng kích động một cuộc tấn công của Anh và do đó để có một cái cớ để tham chiến, đã ngần ngại phát động Chiến dịch Matador vào ngày 7 tháng 12. Matador là kế hoạch của Anh nhằm tiêu diệt lực lượng đổ bộ trước hoặc trong cuộc đổ bộ. Ông quyết định trì hoãn hoạt động, ít nhất là trong đêm. Ngay sau nửa đêm ngày 7/8 tháng 12, lính Ấn tuần tra các bãi biển tại Kota Bharu phát hiện ra ba bóng lớn: đó là các tàu vận tải "Awazisan Maru", "Ayatosan Maru", và "Sakura Maru", thả neo cách bờ biển khoảng 3 km (1.6 nmi; 1.9 dặm). Các con tàu chở khoảng 5,200 quân thuộc Biệt đội Takumi (Thiếu tướng Hiroshi Takumi, trên tàu "Awazisan Maru"). Hầu hết những người lính này là cựu binh từng tham chiến ở Trung Quốc.
Lực lượng đổ bộ Nhật Bản bao gồm các đơn vị từ Sư đoàn Bộ binh 18. Lực lượng tham gia tấn công đến từ Trung đoàn Bộ binh 56 (Đại tá Yoshio Nasu, trên tàu Sakura Maru), được hỗ trợ bởi một khẩu đội sơn pháo của Trung đoàn Sơn pháo 18 (Trung tá Katsutoshi Takasu), Trung đoàn Công binh 12 (Trung tá Ichie Fujii), Đơn vị Tín hiệu Sư đoàn 18, một đại đội thuộc đơn vị Quân y Sư đoàn 18 và Bệnh viện Dã chiến 2 thuộc đơn vị Quân y Sư đoàn 18. Chúng được hỗ tống bởi một hạm đội (Lực lượng Đổ bộ Kota Bharu) dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Shintaro Hashimoto, bao gồm tuần dương hạm hạng nhẹ "Sendai", các khu trục hạm "Ayanami", "Isonami", "Shikinami", và "Uranami", các tàu quét mìn số 2 và số 3 và tàu săn ngầm số 9.
Cuộc đổ bộ bắt đầu bằng một cuộc bắn phá vào khoảng 00:30 giờ địa phương vào ngày 8 tháng 12 (02:00 giờ địa phương tại Tokyo vào ngày 8 tháng 12, 17:00 GMT vào ngày 7 tháng 12). Các máy bay cất cánh từ 6 tàu sân bay của Nhật Bản bay về phía Trân Châu Cảng cách điểm đến 50 phút. Cuộc tấn công Trân Châu Cảng bắt đầu lúc 01:48 Kelantan giờ địa phương (03:18 giờ Nhật Bản ngày 8 tháng 12; 18:18 GMT, 07:48 giờ Hawaii ngày 7 tháng 12). Do đó, nó thường được gọi là cuộc tấn công ngày 7 tháng 12 ở Hoa Kỳ. Việc tải tàu đổ bộ bắt đầu gần như ngay khi các tàu vận tải thả neo. Biểu động và gió mạnh đã cản trở hoạt động và một số tàu nhỏ hơn bị lật. Một số binh sĩ Nhật Bản đã chết đuối. Bất chấp những khó khăn này, đến 00:45, đợt đổ bộ đầu tiên đã hướng đến bãi biển thành 4 hàng.
Lực lượng phòng thủ trên bộ là Lữ đoàn Bộ binh 8 Ấn Độ (Chuẩn tướng B. W. Key) thuộc Sư đoàn Bộ binh 9 Ấn Độ (Thiếu tướng A. E. Barstow), được hỗ trợ bởi 4 khẩu sơn pháo hạng trung 3,7 inch thuộc Khẩu đội Sơn pháo 21 (IA) (Thiếu tá J. B. Soper). Tiểu đoàn 3/17 Bn, Trung đoàn Dogra, dưới quyền chỉ huy của Trung tá G.A. Preston, chịu trách nhiệm phòng thủ đoạn bờ biển dài 10 dặm (16 km) là địa điểm đổ bộ được chọn. Quân Anh củng cố các bãi biển và đảo nhỏ bằng mìn, dây thép gai và hộp phòng thủ. Họ được hỗ trợ bởi Khẩu đội Pháo Dã chiến 73 thuộc Trung đoàn Pháo Dã chiến 5, Pháo binh Hoàng gia, được triển khai liền kề với sân bay gần đó. Khu vực được bảo vệ bởi Tiểu đoàn Dogra 3/17 bao gồm các bãi biển hẹp Badang và Sabak tại Kota Bharu. Các bãi biển bị chia cắt bởi hai cửa sông dẫn đến cửa sông Pengkalan Chepa thông qua một mê cung của các con lạch, đầm phá và đảo đầm lầy, đằng sau đó là sân bay Kota Bharu và con đường chính trong đất liền.
Tiểu đoàn Dogra ngay lập tức nổ súng dữ dội vào lực lượng xâm lược bằng pháo binh và súng máy. Đến nửa đêm, những đợt lính Nhật đầu tiên hướng về phía bãi biển trên tàu đổ bộ. Đại tá Masanobu Tsuji đã viết trong cuốn sách của mình về Chiến dịch Mã Lai:
Làn sóng thứ nhất và thứ hai của quân Nhật đã bị ghim chặt bởi hoả lực dữ dội từ các hộp phòng thủ và chiến hào của Tiểu đoàn Dogra nhưng sau khi chiến đấu tay đôi ác liệt. một cuộc đột nhập đã được thực hiện trong hệ thống phòng thủ ở bờ nam cửa sông. Ở bờ phía bắc, quân Nhật bị ghim chặt trên một hòn đảo nơi bình minh tìm thấy họ bị mắc kẹt ngoài trời. Máy bay Đồng minh từ các sây bay gần đó bắt đầu tấn công hạm đội đổ bộ và những người lính bị mắc kẹt trên đảo. Thương vong của người Nhật trong đợt thứ nhất và thứ hai rất nặng nề. Người Nhật chỉ tìm cách rời khỏi bãi biển sau khi hai vị trí hộp phòng thủ và các chiến hào hỗ trợ bị phá huỷ. Bất chấp sự kháng cự mạnh mẽ của họ, Dogra buộc phải rút lui để phòng thủ sân bay. Chuẩn tướng Key phái lực lượng dự bị của mình: Trung đoàn Biên phòng 2/12 và Lực lượng Súng trường Biên phòng 1/13 để hỗ trợ Dogra. Lúc 10:30, Key ra lệnh cố gắng chiếm lại các bãi biển đã mất cùng với Trung đoàn Biên phòng 2/12 tấn công từ phía nam và Lực lượng Súng trường Biên phòng 1/13 tấn công từ phía bắc. Cuộc giao tranh dữ dội diễn ra trên các bãi biển với cả hai bên đều chịu nhiều thương vong hơn. Các lực lượng Anh đã đạt được một số tiến bộ nhưng không thể đẩy lùi quân xâm lược. Vào buổi chiều, một cuộc tấn công thứ hai đã diễn ra nhưng lại thất bại trong việc đẩy lùi quân xâm lược.
Sân bay tại Kota Bharu đã được sơ tán và đến hoàng hôn ngày 8 tháng 12, với tầm nhìn rất thấp, và quân Nhật hiện đã có thể xâm nhập giữa các đơn vị Anh và với những mối đe doạ có thể xảy ra về việc đổ bộ xa hơn về phía nam, Chuẩn tướng Key đã xin phép hai cấp trên của mình là Thiếu tướng Barstow (Tư lệnh Sư đoàn Bộ binh 9 Ấn Độ) và Trung tướng Heath (Tư lệnh Quân đoàn III Ấn Độ) rút lui nếu thấy cần thiết.
Các cuộc không kích.
Phi đội 1 RAAF đặt căn cứ tại Kota Bharu đã cho xuất phát 10 máy bay ném bom Lockheed Hudson để tấn công các tàu vận tải Nhật Bản. mỗi chiếc được trang bị 4 quả bom 250 lb (113 kg). Trong 17 phi vụ được thực hiện, họ mất 2 chiếc Hudson do bị bắn rơi và 3 chiếc bị hư hỏng nặng. Một chiếc Hudson, do Trung uý Không quân John Graham Leighton Jones điều khiển, đã đâm vào một tàu đổ bộ đầy tải sau khi bị bắn trúng khi đang bắn phá đầu bãi biển, giết chết khoảng 60 binh sĩ Nhật trên máy bay. Chỉ có 5 chiếc Hudson vẫn đủ điều kiện bay vào cuối trận chiến.
Cả ba tàu chở quân Nhật đều bị hư hại đáng kể, nhưng trong khi "Ayatosan Maru" và "Sakura Maru" vẫn có thể ra khơi, "Awazisan Maru" bị bốc cháy và bị bỏ lại. Các cuộc tấn công của Phi đội 1 RAAF đã giết chết hoặc làm bị thương ít nhất 110 thành viên thuỷ thủ đoàn. Xác tàu đắm sau đó tự chìm hoặc bị tàu ngầm Hà Lan "K XII" phóng ngư lôi vào ngày 12 tháng 12.
Mặc dù phòng thủ vững chắc, Takumi đã có 3 tiểu đoàn bộ binh đầy đủ trên bờ vào giữa buổi sáng ngày 8 tháng 12. Các cuộc phản công do Chuẩn tướng Key phát động đã thất bại và quân Nhật tiến chiếm thị trấn Kota Bharu vào ngày 9. Sau cuộc giao tranh ác liệt trong đêm, Trung đoàn Biên phòng 2/12 của Trung tá Arthur Cumming đã cố gắng trấn giữ sân bay và thực hiện một hành động bảo vệ hậu phương tuyệt vời. Cumming sau đó đã nhận được Huân chương Chữ thập Victoria trong cuộc chiến tại Kuantan. Key đã yêu cầu và được phép rút khỏi Kota Bharu.
Người Nhật tuyên bố rằng cuộc đổ bộ lên Kota Bharu là một trong những cuộc đổ bộ bạo lực nhất trong toàn bộ Chiến dịch Mã Lai. Người ta ước tính rằng họ đã phải chịu đựng khoảng 300 người chết và 500 người bị thương. |
Ngân hàng Medici (tiếng Ý: "Banco dei Medici" [ˈbaŋko dei ˈmɛːditʃi]) là một tổ chức tài chính được thành lập bởi Gia đình Medici ở Ý trong thế kỷ XV (1397–1494). Đây là ngân hàng lớn nhất và được kính trọng nhất ở châu Âu trong thời kỳ sơ khai. Có một số ước tính rằng gia đình Medici, trong một khoảng thời gian, là gia đình giàu có nhất ở châu Âu. Ước tính sự giàu có của họ bằng tiền ngày nay là khó khăn và không chính xác, vì họ sở hữu tác phẩm nghệ thuật, đất đai và vàng. Với sự giàu có, gia đình ban đầu có được quyền lực chính trị ở Cộng hòa Florence, và sau đó là ở các khu vực rộng lớn hơn trên Bán đảo Ý và Châu Âu.
Một đóng góp đáng chú ý cho các nghiệp vụ ngân hàng và kế toán do Ngân hàng Medici đi tiên phong là việc cải thiện hệ thống sổ cái thông qua việc phát triển hệ thống ghi kép để theo dõi các khoản ghi nợ và tín dụng có hoặc tiền gửi và rút tiền.
Giovanni di Bicci de' Medici đã thành lập ngân hàng ở Florence, và mặc dù ông và gia đình có ảnh hưởng trong chính phủ Florentine, nhưng phải đến khi con trai ông là Cosimo Trưởng lão lên nắm quyền vào năm 1434 với tư cách là "Gran maestro" thì Nhà Medici mới trở thành nguyên thủ quốc gia không chính thức của nước Cộng hòa Florence. |
Nguyễn Hữu Lê (1926 – 29 tháng 12 năm 2022) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 1.
Nguyễn Hữu Lê tên thật là Lê Văn Nhân, sinh năm 1926 tại thị trấn Chí Linh, thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ông từng là thư ký cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân Việt Minh ở Đệ tứ Chiến khu. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông đảm nhiệm thư ký văn phòng tỉnh ủy Hải Dương. Từ năm 1946 đến 1948, ông đảm nhiệm nhiều vị trí từ Huyện ủy viên huyện Ninh Giang đến Tỉnh ủy viên, Trưởng ban Tổ chức và Trưởng ban Dân vận của Tỉnh ủy Hòa Bình. Tháng 12 năm 1948, ông phụ trách địch vận Khu ủy Khu 3. Tròn 1 năm sau, ông được điều làm cán bộ đoàn Kiểm tra Trung Ương.
Từ tháng 3 đến tháng 12 năm 1950, ông là Bí thư cho Trần Đăng Ninh – người trở thành Chủ nhiệm đầu tiên của Tổng cục Hậu cần sau khi cơ quan này được thành lập vào tháng 7 cùng năm. Sau 1 năm làm cán bộ kiểm tra của Tổng cục Hậu cần, Nguyễn Hữu Lê lần lượt đảm nhiệm Phó trưởng phòng và Trưởng phòng Kiểm tra của Tổng cục từ tháng 1 năm 1952 đến tháng 8 năm 1957. Sau đó ông được điều làm Trưởng phòng Tổng kết chiến tranh và đảm nhiệm vai trò này trong 4 năm trước khi trở thành Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Kỹ thuật vào tháng 9 năm 1961. Đến tháng 4 năm 1964, ông được thăng làm Hiệu trưởng trường.
Chỉ hơn 1 năm đảm nhiệm Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Kỹ thuật, ông được điều về Tổng cục Hậu cần đảm nhiệm lần lượt các chức vụ Phó cục trưởng Cục Quân nhu, Cục Quản lý xe và Cục Xăng dầu. Từ tháng 3 năm 1970 đến tháng 6 năm 1978 ông là Phó tham mưu trưởng Đoàn 559, Phó cục trưởng Cục Xây dựng, Phó tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần. Tháng 7 năm 1978, ông chính thức được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 1. Chỉ 5 tháng sau, ông được thăng làm Phó tư lệnh kiêm Chủ nhiệm Hậu cần của Quân khu 1, và đảm nhiệm vai trò này cho đến khi về hưu năm 1989. Ngày 29 tháng 12 năm 2022, ông qua đời tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, thọ 96 tuổi. |
Cuộc đua xe đạp tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2023
Thông tin về Cuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2023 được công bố vào ngày 20 tháng 3 năm 2023 trong một cuộc họp báo trước khi khởi tranh giải. Ban tổ chức đã công bố lộ trình cuộc đua với tổng lộ trình dài 2963,9 km. Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh cho biết việc tổ chức này nhằm đánh dấu cột mốc 35 năm tổ chức Cuộc đua xe đạp Cúp Truyền hình TP.HCM và hướng tới kỷ niệm 48 năm Giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, 137 năm Ngày Quốc tế Lao động, 133 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Danh sách tham dự.
Đội đua xe đạp.
Tất cả 25 chặng đua được truyền hình trực tiếp từ 8h hằng ngày trên các kênh HTV9, HTV7 (chặng Huế - Đà Nẵng, chặng Tiền Giang - Tây Ninh) và HTV Thể Thao, cùng các hạ tầng mạng xã hội của HTV) và ứng dụng HTVC. Kể từ cuộc đua năm 2023, HTV bắt đầu áp dụng hệ thống định vị thời gian thực trực tiếp để xác định tốc độ, khoảng cách và thời gian vận động viên đoàn đua thi đấu thay cho thông tin gián tiếp từ tổ trọng tài.
Nhãn hàng tài trợ độc quyền. |
Sự nghiệp Nữ Lưu kì sĩ.
Trước khi lên chuyên.
Cô sinh tại Nanao, Ishikawa, nhưng sau đó chuyển tới Kawasaki, Kanagawa vài tháng sau đó. Bố của cô - Kai Eiji (甲斐栄次 (Giáp Phi Vinh Thứ), Kai Eiji) là một phóng viên shōgi, và chính Kai đã được dạy chơi cờ bởi bố của cô - cùng với cả bốn anh chị em của mình. Ban đầu, cô không hề tỏ ra thích thú vì không thích tranh đấu với người khác, tuy nhiên càng chơi Kai càng yêu thích shogi hơn và khi học lớp 5, cha cô đưa cô tới câu lạc bộ shogi ở Hachioji, ở đó cô tiếp tục trau dồi kĩ năng của mình. Vào tháng 10 năm 1995, khi cô 12 tuổi, Kai tham gia Trường Đào tạo Nữ Lưu kì sĩ, và vào tháng Tư năm 1997, cô ra mắt thế giới chuyên nghiệp với mức xếp hạng Nữ Lưu Nhị cấp, dưới tư cách là học trò của Nakahara Makoto - một kì thủ cũng là công dân ở thành phố Kawasaki.
Trường đào tạo Kì thủ trẻ - Nữ Lưu kì sĩ.
Một năm sau đó, vào tháng Tư năm 1998, cô được phong lên Nữ Lưu Nhất cấp, nhưng Kai đã quyết định thử sức mình ở một môi trường khắc nghiệt hơn môi trường Nữ Lưu khi đó, nên quyết định tạm nghỉ thi đấu chuyên nghiệp nữ vào tháng Chín cùng năm để tham gia Trường đào tạo Kỳ thủ trẻ chi nhánh Kansai với mức xếp hạng khởi đầu là Lục cấp. Trong quá khứ, một Nữ Lưu kì sĩ có thể trở thành một nữ thành viên của Trường đào tạo, tuy nhiên vào năm 1998, nếu một Nữ Lưu kì sĩ muốn làm điều này - cô ấy phải tạm thời nghỉ thi đấu ở thế giới chuyên nghiệp nữ nếu muốn đăng kí tham gia Tân tiến Kì sĩ Tưởng Lệ hội, và Kai trở thành người đầu tiên thực hiện quy định mới này.
Cô được phong lên Nhất cấp ở Trường đào tạo nhưng sau 5 năm tham gia, Kai quyết định rời khỏi Trường đạo tạo vào tháng Tám năm 2003 với mức xếp hạng cuối cùng là Nhị cấp.
Ngày 1 tháng 9 cùng năm, sau năm năm không trong hệ thống, Kai Tomomi trở lại thi đấu ở giới chuyên nghiệp nữ, và dựa trên thành tích trước khi tạm rút lui, cô được thăng lên Nữ Lưu Sơ đẳng, tuy nhiên vẫn phải xuất phát từ Sơ loại ở Nữ Lưu Danh Nhân chiến.
Ở Giải Nữ Lưu Shogi cúp Kashima lần thứ 11 vào năm 2006, cũng là lần cuối cùng giải đấu này được tổ chức, cô giành chiến thắng Nakamura Marika để lần đầu tiên giành chức vô địch chính thức, và cũng đủ điều kiện để được thăng lên Nữ Lưu Nhị đẳng. Cũng trong năm đó, ở Nữ Lưu Danh Nhân chiến kì thứ 33, cô đạt đủ điều kiện để được thăng lên tổ A và chơi ở hạng này trong 7 năm liên tục cho tới năm 2012 (kì 39).
Năm 2007, khi Giải Mynavi Nữ mở rộng lần đầu tiên được tổ chức, cô được xếp hạng hạt giống khi chiến thắng cúp Kashima, đã lọt vào loạt trận tranh danh hiệu (lần đầu tiên Kai làm được điều này), tuy nhiên lại thất bại trước Yauchi Rieko vào tháng Tư năm sau đó với tổng tỉ số 1-3 và không giành được danh hiệu Nữ Vương. Cùng năm đó, cô giành chiến thắng Bạch tổ ở Nữ Lưu Vương Vị chiến kì thứ 19 với hiệu số 4-1 sau khi đánh bại Nakamura Marika, tuy nhiên lại thất bại trước người chiến thắng Hồng tổ là Shimizu Ichiyo vào ngày 1 tháng 9. Kai đồng thời thất bại trước Satomi Kana trong trận Chung kết Xác định Khiêu chiến giả vào ngày 29 tháng 9 của Thương Phu Đằng Hoa chiến kì thứ 16.
Trong năm 2008, Kai đánh bại Yauchi Rieko (khi đó đang là đương kim Nữ Lưu Danh Nhân) ở giải Shogi Net - Nữ Lưu Tối Cường chiến lần thứ nhất.
Ở kì thứ 3 của Giải MyNavi Nữ mở rộng vào năm 2010, Kai chiến thắng Xác định Khiêu chiến giả và lần đầu tiên thách đấu danh hiệu trở lại sau hai năm, và trong loạt năm ván đấu, Kai Tomomi đã đánh bại đương kim Nữ Vương khi đó là Yauchi Rieko với ba ván thắng liên tiếp để lần đầu tiên sở hữu danh hiệu Nữ Lưu - Nữ Vương. Nhờ chiến thắng này, cô đủ điều kiện được thăng lên Nữ Lưu Tam đẳng. Ván đấu thứ ba trong loạt trận tranh danh hiệu này đã diễn ra rất dài khi cả hai bên sử dụng hết thời gian và đều phải chơi cờ một phút, kết thúc sau 181 nước đi sau hai, ba lần thay đổi lợi thế ngoạn mục. |
Khách sạn Bayerischer Hof (München)
Khách sạn Bayerische Hof là một khách sạn hạng sang ở München, nơi thường được các quan khách và những vị khách nổi tiếng ghé đến. Nó nằm ở công trường Promenadeplatz về phía tây bắc Phố cổ München.
Từ năm 2011 đến 2015, khách sạn có số thu nhập cao nhất nước Đức, nhưng đã mất thứ hạng này cho Estrel ở Berlin vào năm 2016. Nó thuộc về Liên minh các khách sạn hàng đầu trên thế giới. |
Động đất ngoài khơi Fukushima 2021
Động đất ngoài khơi Fukushima 2021 (/ , Fukushimaken'oki jishin) là trận động đất xảy ra vào lúc 23:07 (theo giờ địa phương) ngày 13 tháng 2 năm 2021, có cường độ đo được là 7.3 độ Richter (theo cơ quan khí tượng Nhật Bản). Sau trận động đất, trong vòng chưa đầy một giờ, ba trong số cơn dư chấn đó có cường độ 5 trở lên. Không có cảnh báo sóng thần chính thức được đưa ra, ngoài ra các đợt sóng thần nhỏ cũng được quan sát thấy nhưng không gây thiệt hại. Trận động đất trên được coi là dư chấn của động đất và sóng thần Tōhoku 2011 đã xảy ra cách đây gần mười năm trước.
Hậu quả trận động đất khiến 3 người chết và ít nhất 186 người bị thương. Đối với Nhà máy điện hạt nhân Fukushima I, trận động đất này đã gây lo ngại về rò rỉ phóng xạ cao nhưng đã bị bác bỏ ngay sau đó. Mặc dù không có thay đổi về mức độ phóng xạ, nhưng hệ thống làm mát được sử dụng ở hai trong số các lò phản ứng đã bị phát hiện rò rỉ. |
Honey Nway Oo (; sinh ngày 19 tháng 3 năm 1999) là một cựu diễn viên người Miến và hiện là sĩ quan trong Lực lượng Vũ trang Sinh viên (SAF). Ban đầu cô hoạt động trong lĩnh vực diễn xuất và công khai phản đối Tatmadaw sau các cuộc đảo chính Myanmar vào năm 2021. Ngay sau đó, cô đã rời bỏ sự nghiệp diễn xuất để gia nhập SAF; lệnh bắt giữ cô cũng đã được ban hành. Honey được xem là một trong những nhà cách mạng nổi bật nhất ở Myanmar và được ví von là "cô gái của nhân dân" trong các phong trào chống đảo chính.
Xuất thân và giáo dục.
Honey Nway Oo sinh ngày 19 tháng 3 năm 1999 tại Yangon. Sau đó, cô đã hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học và trung học tại đây. Vào năm 2020, cô đã tốt nghiệp chương trình cử nhân tiếng Đức tại Đại học Ngoại ngữ Yangon. Khi còn là sinh viên năm nhất cô đã được bình chọn là "nữ hoàng sắc đẹp". Đến năm 2018, cô đã thành lập đội bóng đá YUFL và là đội trưởng của đội.
Hoạt động diễn xuất.
Trong khi học tiếng Đức tại Đại học Ngoại ngữ Yangon, Honey bắt đầu làm người mẫu cho các tạp chí địa phương và trong các video âm nhạc vào năm 2019. Cô xuất hiện trong hơn 20 quảng cáo truyền hình và là đại sứ thương hiệu cho Oppo. Cô đã xuất hiện lần đầu với vai chính trong bộ phim "Yangon In Love" vào năm 2020. Đồng thời, cô cũng tham gia tổ chức phi lợi nhuận Care Teen, tổ chức cung cấp đồ dùng học tập, dịch vụ y tế và giáo dục cho trẻ em kém may mắn.
Hoạt động cách mạng.
Sau cuộc đảo chính ở Myanmar năm 2021, Honey đã tổ chức các cuộc biểu tình chống đảo chính và bỏ trốn vào rừng. Cô cùng với một số người nổi tiếng khác đã bị buộc tội kêu gọi tham gia Phong trào Bất tuân Dân sự, gây tổn hại đến khả năng cai trị của nhà nước, ủng hộ #đổi ; đồng thời, bị xem là kẻ kích động nhân dân gây ảnh hưởng đến hòa bình và dân sự quốc gia. Vào ngày 3 tháng 7 năm 2021, các lực lượng quân sự đã đến nhà gia đình của cô tại thị trấn Lanmadaw và dán thông báo căn nhà đã bị chính quyền tịch thu. Honey sau đó đã tham gia vào một tổ chức kháng chiến có tên Lực lượng Vũ trang Sinh viên và là sĩ quan cấp cao của lực lượng. Trong buổi lễ tốt nghiệp huấn luyện quân sự, cô đã được trao giải thiện xạ của SAF. |
Tranh đoạt sông (chữ Anh: stream capture, river capture), là một danh từ địa lí học, chỉ hiện tượng trong quá trình phát triển dòng sông, hai dòng sông láng giềng do quan hệ xói mòn bên hoặc xói mòn hướng lên, "sông vị trí thấp" vượt qua đường phân thuỷ cướp đoạt vùng tích tụ nước của "sông vị trí cao" ở thượng du. "Sông vị trí thấp" tranh đoạt sông vị trí cao gọi là "sông tranh đoạt", "sông vị trí cao" ở thượng du bị tranh đoạt gọi là "sông đổi hướng", đoạn sông còn sót lại mất đi nguồn nước của "sông vị trí cao" gọi là "sông đoạn đầu". Đường phân thuỷ mới do lòng sông cũ của sông đổi hướng và sông đoạn đầu hình thành, gọi là khe gió. Việc nghiên cứu tranh đoạt sông đều rất có ý nghĩa đối với việc phân chia hướng chảy và vị trí của sông qua các niên đại khác nhau, làm rõ lịch sử phát triển của sông, cùng với tìm kiếm sa khoáng bồi tích.
Tranh đoạt sông chỉ hiện tượng, đối với dòng sông nằm ở hai bên đường phân thuỷ, bởi vì chênh lệch tốc độ xói mòn khá lớn, cho nên một trong hai dòng sông có lực xói mòn mạnh đủ khả năng cắt xuyên qua đường phân thuỷ, cướp đoạt đoạn sông thượng du có lực xói mòn khá yếu. Sau khi phát sinh tranh đoạt sông, hệ thống sông ngòi tổ hợp mới lại thành các hình thái địa mạo như sông tranh đoạt, sông đổi hướng, sông đoạn đầu và khe gió. Nguyên nhân hình thành tranh đoạt sông có quan hệ với việc di chuyển đường phân thuỷ và vận động tân kiến tạo. Khi độ dốc và độ dài của hai bên đường phân thuỷ không tương đồng, tốc độ xòi mòn hướng lên của hai bên dòng sông cũng không tương đồng, ở một bên có tốc độ xói mòn hướng lên khá nhanh, nguồn sông kéo duỗi về phía đường phân thuỷ cũng nhanh. Khi cắt qua đường phân thuỷ, dòng sông xói mòn khá nhanh đoạt lấy đoạn sông thượng du, hoàn thành xong quá trình tranh đoạt sông. Có lúc ở trong phạm vi một lưu vực nào đó phát sinh sự nhô lên tân kiến tạo cục bộ, dòng sông không thể bảo toàn đường chảy ban đầu, ép buộc đoạn sông thượng du chảy vào trong một con sông khác để hình thành hiện tượng tranh đoạt sông. Sau khi tranh đoạt sông, sông vị trí thấp tranh đoạt sông vị trí cao gọi là sông tranh đoạt, sông vị trí cao ở thượng du bị tranh đoạt gọi là sông đổi hướng, thượng nguồn của sông đổi hướng vì nguyên do bị sông tranh đoạt cướp lấy, do đó khiến cho đoạn sông hạ du trở thành sông đoạn đầu. Tại chỗ đột ngột đổi hướng của sông đổi hướng, vẫn giữ lại sỏi bồi tích hoặc kiểu hình thung lũng, gọi là khe gió. Ở chỗ tiếp giáp của sông đổi hướng và sông tranh đoạt, hướng chảy của sông cực kì không tự nhiên, thường thường xuất hiện hiện tượng bẻ cong đột ngột, gọi là khuỷu sông tranh đoạt, ở chỗ sát gần khuỷu sông tranh đoạt có lúc hình thành nước rơi. Tranh đoạt sông là hiện tượng thường hay phát sinh trong quá trình phát triển hệ thống sông ngòi, nó không chỉ phản ánh lịch sử phát triển và thay đổi của dòng sông, cũng đáng để nghiên cứu phương thức và cường độ hoạt động tân kiến tạo, ngoài ra có thể tìm kiếm tài nguyên sa khoáng có liên quan.
Điều kiện phát sinh.
Giữa hai dòng sông muốn phát sinh hiện tượng tranh đoạt sông, cần phải có ba điều kiện ban đầu:
Ảnh hưởng chủ yếu.
Sau khi sông đổi hướng hợp nhất vào sông tranh đoạt, lưu lượng gia tăng và sự chênh lệch mực nước của sông đổi hướng gia tăng khiến cho mức cơ sở xói mòn giảm xuống, lực xói mòn nước chảy của sông tranh đoạt và sông đổi hướng sẽ gia tăng cho nên sản sinh hẻm núi hoặc thềm sông. Sông đoạn đầu vì nguyên do mất đi vùng tích tụ nước, hiện ra tình hình "sông vô năng" - thung lũng lớn mà nước ít, dễ dàng phát sinh bồi tích, một phần sông đoạn đầu vì nguyên do kênh rạch bằng phẳng, thong thả nên sản sinh ao chứa nước, thí dụ như ao Song Liên Bì (nghĩa là hai cái ao nối liền) ở Nghi Lan, Đài Loan, nhưng mà chỗ hợp nhất chi lưu của nó dễ dàng hình thành quạt phù sa. Việc thay đổi kênh rạch của vùng tích tụ nước khiến cho sự phân phối nguồn nước hạ du thay đổi, đối với ngành nghề dùng thuỷ lượng khá lớn như nông nghiệp, nước uống của cư dân và giao thông hà đạo sẽ hình thành bồi tích, thuỷ lượng hạ du của sông tranh đoạt gia tăng có lợi cho phát triển, hạ du sông đoạn đầu giảm bớt nguồn cấp nước.
Ý nghĩa nghiên cứu.
Đường phân thuỷ ở khu vực đồng bằng, cao lên và nhô ra không rõ ràng, có chỗ là gò đồi thấp lùn hoặc núi nhỏ thấp, có lúc thậm chí là mặt đất thấp bằng, trên thực tế không tồn tại tính ổn định đường phân thuỷ ở khu vực đồng bằng. Vì vậy, việc đổi hướng dòng sông và đổi dời hệ thống sông ngòi, là rất thường xuyên. Trên đồng bằng ngập lụt, tuỳ theo sự bồi tích liên tục của lòng sông và sự lên cao từ từ của đê tự nhiên, khiến cho mực nước của sông cao hơn khu vực đường phân thuỷ giữa các sông, hình thành sông treo trên đất (suspended river). Bỗng nhiên có một hôm nước lũ tràn vỡ đê tự nhiên, làm phát sinh sự đổi hướng của sông. Sông đổi hướng có thể đổ vào một dòng sông có địa thế khá thấp khác, cũng có thể chiếm lấy vùng đất thấp giữa các sông hoặc kênh rạch cũ bị bỏ hoang. Trong tình huống trước, có thể hình thành một loạt đặc trưng địa mạo như sông thêm nước, sông đổi dòng và sông giảm nước. Trong tình huống sau, sông đổi dòng đã chiếm lấy vùng đất thấp giữa các sông, đồng thời hình thành kênh rạch mới. Dòng sông sau khi đổi dòng, vì nguyên do bồi tích liên tục, khiến cho lòng sông tăng cao, hai bên của nó sẽ xuất hiện đê tự nhiên mới. Nhưng mà, so với kênh rạch và đê tự nhiên cũ ban đầu thì thấp, tuỳ theo sự bồi tích dần dần của dòng nước ngập lụt, nó bị chôn vùi dưới đất sét, đất á sét (clay loam) và tầng bồi tích tướng hồ. Lớp sỏi ở kênh rạch cũ đó, trở thành tầng chứa nước nước ngầm phong phú. Vì thế, việc hiểu biết và nắm vững quy luật đổi hướng dòng sông và dời đổi hệ thống sông ngòi ở khu vực đồng bằng, đều có sẵn ý nghĩa trọng yếu về các phương diện như phòng chống lũ lụt, tiêu trừ nước úng, khai phá lợi dụng tài nguyên nước dưới đất, và khởi công xây dựng hồ chứa nước dưới đất. |
Thí nghiệm tước đoạt ngôn ngữ
Thí nghiệm tước đoạt ngôn ngữ được cho là đã được thực hiện ít nhất bốn lần trong lịch sử, là thí nghiệm cách ly trẻ sơ sinh khỏi việc sử dụng ngôn ngữ nói hoặc ngôn ngữ ký hiệu thông thường nhằm cố gắng khám phá đặc điểm cơ bản của bản chất con người hoặc nguồn gốc của ngôn ngữ.
Trường hợp thí nghiệm đầu tiên thuộc loại này có thể tìm thấy trong ghi chép của sử gia Herodotos (ca. 485 – 425 BC), theo đó pharaoh Ai Cập Psamtik I (664 – 610 BC) nhằm chứng minh niềm tin rằng ngôn ngữ Ai Cập là nguồn gốc của ngôn ngữ loài người, đã thử nghiệm bằng cách tìm hai đứa trẻ sơ sinh, giao cho một người chăn cừu nuôi dưỡng tại một nơi biệt lập, cách xa đám đông, không thể tiếp cận với bất kỳ ngôn ngữ nào của con người để xem chúng sẽ nói ngôn ngữ nào. Psamtik I tin rằng ngôn ngữ được nói bởi những đứa trẻ chưa được dạy ngôn ngữ nào chắc chắn là ngôn ngữ gốc. Nếu đứa trẻ nói tiếng Ai Cập, chắc chắn tiếng Ai Cập là ngôn ngữ lâu đời nhất trên thế giới. Tuy nhiên từ đầu tiên mà chúng nói lại là "bekos" (βεκόϛ) thuộc ngôn ngữ của người Phrygia (βεκόϛ nghĩa là bánh mì trong ngôn ngữ này) Các nhà nghiên cứu gần đây cho rằng đây có thể là một cách diễn giải có chủ ý về tiếng bập bẹ của chúng mà thôi.
Một thí nghiệm được cho là do Hoàng đế La Mã Frederick II thực hiện vào thế kỷ 13 đối với những đứa trẻ lớn lên mà không có sự tương tác của con người nhằm xác định xem chúng có ngôn ngữ tự nhiên nào hay không. Người ta cho rằng Frederick II đã tìm cách khám phá ngôn ngữ được Chúa truyền cho Adam và Eve. Các thí nghiệm đã được tu sĩ Salimbene di Adam ghi lại trong Biên niên sử của ông, những đứa trẻ được nuôi dưỡng mà không có giao tiếp tuy nhiên thí nghiệm thất bại do chúng không thể sống sót do thiếu tương tác.
Vài thế kỷ sau thí nghiệm của Frederick II, James IV của Scotland được cho là đã gửi hai đứa trẻ đến nuôi dưỡng bởi một người phụ nữ câm bị cô lập trên đảo Inchkeith, để xác định xem ngôn ngữ được học hay bẩm sinh. Những đứa trẻ được cho là đã nói tốt tiếng Do Thái, nhưng các nhà sử học đã hoài nghi về những tuyên bố này.
Hoàng đế Mughal Akbar được cho là có những đứa con được nuôi dưỡng bởi những vú nuôi câm. Akbar cho rẳng khả năng nói phát sinh từ việc nghe; do đó, những đứa trẻ lớn lên mà không nghe được tiếng nói của con người sẽ bị câm.
Một số tác giả đã nghi ngờ liệu các thí nghiệm của Psamtik I và James IV có thực sự diễn ra hay không và chính xác như thế nào; và có lẽ điều tương tự cũng xảy ra với thí nghiệm của Frederick II. Thí nghiệm của Akbar rất có thể là xác thực, nhưng đưa ra một kết quả mơ hồ. |
Nhà thờ Santo Domingo, Quito
Nhà thờ Santo Domingo là một nhà thờ Công giáo ở trung tâm lịch sử của thành phố Quito, thủ đô của Ecuador. Khu phức hợp nhà thờ gồm tu viện, nhà thờ và nhà nguyện nằm trên quảng trường Plaza de Santo Domingo vốn là quảng trường được đặt theo tên của nhà thờ này. Việc xây dựng Nhà thờ này được bắt đầu vào năm 1540, khi địa điểm được giao cho cộng đoàn Dòng Đa Minh và sau khi một nhà nguyện tạm thời được xây dựng, các kế hoạch xây dựng cuối cùng của nhà thờ vẫn tồn tại cho đến ngày nay đã được kiến trúc sư Francisco Becerra soạn thảo vào năm 1581. Một trong những công trình tráng lệ hoa mỹ của Nhà thờ này là Nhà nguyện thuộc địa Đức Trinh Nữ Mân Côi, được hoàn thành vào năm 1732. Cũng như các nhà thờ và công trình dân dụng khác ở thành phố Quito, những người xây dựng Santo Domingo ngay từ đầu đã nhận thấy nơi đây có địa hình gồ ghề và không bằng phẳng, vì vậy họ phải nghĩ ra nhiều giải pháp kiến trúc khác nhau để tạo sự liên tục cho ngôi đền chính và nhà nguyện trong đó có trên đó là Nhà nguyện Virgen del Rosario, Cổng vòm Santo Domingo được xây dựng vào năm 1732. |
Huỳnh Thị Hằng Nga
Huỳnh Thị Hằng Nga (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1982, người Khmer) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Càng Long, Trà Vinh, Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Trà Vinh. Bà từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bí thư Tỉnh đoàn Trà Vinh.
Huỳnh Thị Hằng Nga là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Luật, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp gần 20 năm công tác thanh niên, sau đó chuyển sang tổ chức Đảng địa phương ở Trà Vinh.
Xuất thân và giáo dục.
Huỳnh Thị Hằng Nga sinh ngày 28 tháng 8 năm 1982 tại xã Đôn Châu, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Bà là người dân tộc Khmer, lớn lên và tốt nghiệp phổ thông ở Duyên Hải, theo học đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh, tốt nghiệp Cử nhân Hành chính, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật hành chính. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 10 tháng 6 năm 2004, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 10 năm 2002, Huỳnh Thị Hằng Nga bắt đầu sự nghiệp với việc tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, là Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Phường 9, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Tháng 6 năm 2004, bà nhậm chức Bí thư Đoàn Phường 9, đồng thời được bầu làm Đảng ủy viên Đảng bộ Phường 9, đồng thời là Phó Bí thư Chi bộ Quân sự, Ủy viên Ban Chấp hành Thị đoàn Trà Vinh. Ba năm sau, bà được điều lên thị xã Trà Vinh làm Phó Bí thư Thị đoàn, đến tháng 3 năm 2010, khi thị xã được công nhận là thành phố thì bà giữ chức Phó Bí thư Thành đoàn, kiêm Chủ tịch Hội đồng đội thành phố. Tháng 10 năm này, bà được điều lên Tỉnh đoàn Trà Vinh, là Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn, Phó Ban Thanh thiếu nhi Trường học, rồi tiếp tục được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh đoàn từ tháng 5 năm 2011, là Chánh văn phòng Tỉnh đoàn, kiêm Chủ tịch Công đoàn cơ sở Tỉnh đoàn, Chi ủy viên Chi bộ cơ quan Tỉnh đoàn, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Trà Vinh từ tháng 9 cùng năm. Tháng 9 năm 2012, bà là Phó Bí thư thường trực Tỉnh đoàn, và Phó Bí thư chi bộ, rồi được bổ nhiệm làm Bí thư Tỉnh đoàn, và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn từ tháng 1 năm 2014, ở tuổi 31.
Tháng 7 năm 2019, Huỳnh Thị Hằng Nga được bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Trà Vinh khóa X, nhiệm kỳ 2015–2020, đến tháng 8 năm 2020 thì được bổ nhiệm làm Bí thư Huyện ủy Càng Long, tái đắc cử Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020–2025. Sang 2021, bà được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Trà Vinh, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm thị xã Duyên Hải, huyện Châu Thành, Cầu Ngang, Trà Cú, Duyên Hải, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 66,20%. Nhiệm kỳ này bà cũng được phân công là Ủy viên Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng |
Bế Trung Anh (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1966, người Tày) là nhà giáo, chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên Thường trực Hội đồng dân tộc, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Trà Vinh. Ông từng là Đảng ủy viên Đảng ủy cơ quan Ủy ban Dân tộc, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Dân tộc.
Bế Trung Anh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học hàm và học vị Phó Giáo sư, Tiến sĩ Xã hội học, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp hơn 30 năm giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học, rồi tham gia hoạt động Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Bế Trung Anh sinh ngày 25 tháng 10 năm 1966 quê quán ở phường Hợp Giang, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Ông là người dân tộc Tày lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 10/10, thi đỗ Đại học Sư phạm I Hà Nội, nay là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nhập học chuyên ngành Toán, hệ chính quy từ tháng 10 năm 1983, tốt nghiệp Cử nhân Toán học vào tháng 8 năm 1987. Sau đó tiếp tục học cao học ở trường Sư phạm từ tháng 2 năm 1989 đến tháng 1 năm 1992 và nhận bằng Thạc sĩ Toán học. Ông là nghiên cứu sinh ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Vai trò cán bộ quản lý cấp tỉnh, thành phố ở Hà Nội dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin", và trở thành Tiến sĩ Xã hội học vào năm 2005. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 13 tháng 4 năm 1988, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị cũng ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 9 năm 1987, sau khi tốt nghiệp đại học, Bế Trung Anh chờ rút hồ sơ, xin việc tại Cao Bằng, sau đó nửa năm thì được nhận vào làm giảng viên trường tại chức kinh tế kỹ thuật thuộc Sở Giáo dục Cao Bằng. Ông được cử đi học giai đoạn 1989–92, cho đến tháng 2 năm 1992 thì được tuyển vào Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh làm giảng viên công nghệ thông tin, rồi cán bộ nghiên cứu, giảng dạy phương pháp xã hội học tại trường. Tháng 11 năm 2000, ông được chuyển bổ môn giảng dạy sang xã hội học, thuộc Trung tâm điều hành Thư viện điện tử của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tháng 9 năm 2008, ông được điều tới Đại học Hà Nội, là giảng viên thuộc Viện nghiên cứu xã hội và phát triển của trường trong 1 năm, rồi tiếp tục được điều tới Học viện Hành chính Quốc gia, nâng ngạch Giảng viên chính, nhậm chức Phó Giám đốc Trung tâm Tin học – Thư viện, kiêm Giám đốc trung tâm Tin học hành chính và công nghệ thông tin của học viện từ tháng 12 năm 2009.
Tháng 11 năm 2016, Bế Trung Anh được điều tới Ủy ban Dân tộc, nâng ngạch Giảng viên cao cấp, nhậm chức Phó Giám đốc Học viện Dân tộc của Ủy ban. Ông được bầu vào Ban Chấp hành Đảng ủy cơ quan Ủy ban Dân tộc, là Ủy viên Ủy ban Kiểm tra, rồi Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Dân tộc từ tháng 6 năm 2020. Năm 2021, ông được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Trà Vinh, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm thị xã Duyên Hải, huyện Châu Thành, Cầu Ngang, Trà Cú, Duyên Hải, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 55,50%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Hội đồng Dân tộc của Quốc hội.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #99CCFF;" | Tổ chức giáo dục |
3. Liga là hạng đấu bóng đá chuyên nghiệp xếp cấp độ thứ ba ở Đức. Trong hệ thống giải đấu bóng đá Đức, nó xếp dưới 2. Bundesliga và xếp trên Regionalliga.
Giải đấu hiện nay được thành lập từ mùa giải 2008–09, thay thế cho Regionalliga - giải đấu từng xếp ở cấp độ thứ ba trước đây. Ở Đức, 3. Liga là cấp độ cao nhất mà một đội bóng dự bị có thể thi đấu. |
Điện thoại đen (tiếng Anh: "The Black Phone") là một bộ phim điện ảnh Mỹ thụôc thể loại siêu nhiên – kinh dị – giật gân công chiếu năm 2021 do Scott Derrickson viết kịch bản, đạo diễn và đồng sản xuất. Được dựa trên truyện ngắn cùng tên của Joe Hill, bộ phim có sự tham gia của các diễn viên chính gồm Mason Thames, Madeleine McGraw, Jeremy Davies, James Ransone và Ethan Hawke. Bộ phim theo chân Feeney Blake, cậu bé 13 tuổi đang cố gắng liên lạc với những nạn nhân của một kẻ sát nhân cuồng loạn bằng một chiếc điện thoại bí ẩn.
Derrickson quyết định thực hiện bộ phim này sau khi rời khỏi đoàn làm phim "Phù thủy tối thượng trong Đa Vũ trụ hỗn loạn" của Marvel Studios do sự khác biệt về sáng tạo. Bộ phim khởi quay trong vòng hai tháng tại Wilmington và những quận lân cận ở Bắc Carolina, từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2021.
"Điện thoại đen" có buổi công chiếu tại Fantastic Fest vào ngày 25 tháng 9 năm 2021, và được Universal Pictures phát hành tại Mỹ và Việt Nam vào ngày 24 tháng 6 năm 2022 sau nhiều lần trì hoãn vì đại dịch COVID-19. Sau khi ra mắt, bộ phim nhận về những lời khen ngợi từ giới chuyên môn, với những lời khen về phần diễn xuất, kịch bản và việc tôn trọng nguyên tác. Tác phẩm còn là một thành công về mặt doanh thu khi thu về 161,4 triệu USD từ kinh phí 16–18 triệu USD. |
Paul Wanner (sinh ngày 23 tháng 12 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Bayern München tại Bundesliga.Sinh ra ở Áo, anh thi đấu cho đội tuyển trẻ của Đức.
Wanner là một cầu thủ bóng đá người Đức đang chơi cho câu lạc bộ Bayern Munich. Anh từng chơi cho đội trẻ của FV Ravensburg trước khi gia nhập đội trẻ của Bayern Munich vào giữa năm 2018.
Vào tháng 1 năm 2022, Wanner được HLV Julian Nagelsmann triệu tập lên đội một Bayern Munich khi nhiều cầu thủ thường xuyên của đội vắng mặt do dương tính với COVID-19. Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Bayern tại Bundesliga vào ngày 7 tháng 1 năm 2022 trước Borussia Mönchengladbach, vào sân thay người ở phút 75 cho Marc Roca. Khi làm như vậy, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử Bayern Munich ở tuổi 16 và trẻ thứ hai trong lịch sử Bundesliga sau Youssoufa Moukoko (trẻ hơn 14 ngày). Trận đấu kết thúc với tỷ số thua 2-1 trên sân nhà cho Bayern.
Vào ngày 12 tháng 10 năm 2022, ở tuổi 16 và 293 ngày, Wanner trở thành cầu thủ trẻ nhất của Bayern tại Champions League khi anh vào sân thay Dayot Upamecano trong hiệp hai trong chiến thắng 4-2 trên sân khách trước Viktoria Plzeň.
Sự nghiệp quốc tế.
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2021, Wanner đã có trận ra mắt cho đội tuyển U17 quốc gia Đức trong trận thắng 10-1 trước đối thủ Ba Lan. Sau đó, anh đã chơi tổng cộng 7 trận ở cấp độ U17 và ghi được hai bàn trong vòng loại Giải vô địch bóng đá U17 châu Âu 2022.
Được mời đến xem và gặp gỡ đội tuyển quốc gia Áo, Wanner hy vọng sẽ được đại diện cho họ tham dự UEFA Euro 2024 tại Đức. |
Cúp bóng đá U-20 nữ châu Á 2024
Giải sẽ được tổ chức tại Uzbekistan từ ngày 3 đến ngày 16 tháng 3 năm 2024. Tổng cộng có tám đội sẽ thi đấu trong giải đấu.
Bốn đội tuyển có thành tích xuất sắc nhất sẽ giành quyền tham dự Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới 2024, với tư cách là đại diện của AFC. Nhật Bản đang là đương kim vô địch.
Nước chủ nhà và ba đội hàng đầu của giải đấu trước đó vào năm 2019 sẽ tự động vượt qua vòng loại, trong khi bốn đội còn lại sẽ được quyết định theo vòng loại. Sẽ có hai vòng các trận đấu vòng loại, với vòng đầu tiên diễn ra từ ngày 6–12 tháng 3 năm 2023 và vòng thứ hai dự kiến diễn ra từ ngày 3–11 tháng 6 năm 2023.
Các đội tuyển đủ điều kiện tham dự Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới 2024.
Ba đội sau đây từ AFC đủ điều kiện tham dự Giải vô địch bóng đá nữ U-20 thế giới 2024.
1 In đậm đội vô địch năm đó. "�In nghiêng" đội chủ nhà năm đó. |
Tháng Tư là lời nói dối của em (anime)
Tháng Tư là lời nói dối của em (四月は君の嘘, Shigatsu wa kimi no uso) là một loạt anime truyền hình thuộc thể loại chính kịch, lãng mạn, âm nhạc dựa trên ấn phẩm manga "Lời nói dối tháng Tư" của tác giả Arakawa Naoshi do Ishiguro Kyōhei đạo diễn. Phim sản xuất bởi xuởng A-1 Pictures và Aniplex phân phối. Kịch bản phim do Yoshioka Takao đảm nhận, Yukiko Aikei thiết kế nhân vật, đồng thời, chỉ đạo hoạt hình, ca khúc mở đầu trong nửa đầu của phim do ChouCho thể hiện, ca khúc mở đầu trong nửa sau đảm nhận bởi Kodama Saori, Satō Satomi và Kayano Ai chịu trách nhiệm bài hát chủ đề kết thúc, bên cạnh việc soạn nhạc phim do Yokoyama Masaru thực hiện. Bộ phim kể về thần đồng piano Arima Kōsei trở nên nổi tiếng với tư cách một nghệ sĩ nhí sau khi thống trị nhiều cuộc thi. Tuy nhiên, việc mẹ qua đời khiến anh không thể tiếp tục chơi piano. Hai năm sau, Kōsei gặp một cô gái tên là Miyazono Kaori — người đã giúp anh trở lại thế giới âm nhạc thông qua nhận xét âm nhạc nên được chơi tự do và không bị hạn chế.
Theo kế hoạch dự kiến, tác phẩm sẽ phát sóng trong 11 tập phim, tuy nhiên, do lo ngại nó sẽ không phải là một bản chuyển thể hoàn chỉnh từ phía nhà sản xuất Tateishi Kensuke thuộc Kodansha, Aniplex đã quyết định sẽ đẩy lên thành 22 tập phim. Ban đầu, biểu trưng tác phẩm có sự xuất hiện các yếu tố âm nhạc như ký hiệu khuông nhạc, Nawada Kouhei đã thay đổi thiết kế nhằm tránh việc khán giả nghĩ "Tháng Tư là lời nói dối của em" là một vở nhạc kịch. Quá trình sản xuất nghệ thuật của phim đã diễn ra với yêu cầu tuân thủ ba từ khóa "trong trẻo", "sống động" và "bật mí". Bởi Kaori dễ bị người xem hiểu nhầm là một nhân vật thô bạo, đội ngũ sản xuất trở nên cẩn thận trong việc xây dựng cô. Đạo diễn bộ phim đề nghị các nhân viên sản xuất tạo nên một tác phẩm liên kết với thế giới thực, vì vậy, hầu hết các phần quan trọng trong phim đều dựa trên những địa điểm có thật. Kịch bản anime chuyển thể không thay đổi nhiều so với manga nhằm đảm bảo bộ phim trung thành ấn phẩm nguyên tác.
Bộ phim phát sóng từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 3 năm 2015 trên truyền hình Nhật Bản. Một OVA bổ sung đã ra mắt cùng với ấn bản đặc biệt của tập manga thứ 11. Aniplex đã phân phối "Tháng Tư là lời nói dối của em" dưới định dạng Blu-ray và DVD. Aniplex of America cấp phép bộ phim tại khu vực Bắc Mỹ. Tác phẩm đã bán ra 96.539 băng đĩa tại gia, xếp thứ 15 trên bảng xếp hạng của Oricon. Phim nhận nhiều đánh giá tích cực từ các nhà phê bình về phong cách, diễn biến, âm nhạc, tuyến nhân vật chính và phần hoạt họa. Bên cạnh đó, tác phẩm mang về một số giải thưởng cũng như đề cử, gồm đề cử "Sê-ri truyền hình" tại Liên hoan Giải thưởng Anime Tokyo, chiến thắng hạng mục "Anime truyền hình" tại Giải thưởng Sugoi Nhật Bản trong cùng năm 2016.
Bối cảnh của "Tháng Tư là lời nói dối của em" hầu hết đều dựa trên những địa điểm có thật của khu đặc biệt Nerima, Tokyo thuộc tỉnh Tokyo, đồng thời cũng là nơi nữ chính Kaori sinh sống. Các khu vực nổi tiếng có thể kể đến gồm công viên Shakuji, sông Shakuji, bên cạnh bệnh viện Nerima Hikarigaoka. Bên cạnh đó, phim cũng có nhiều địa điểm hiếm hoi mà chỉ người dân địa phương biết. Nhiều con đường trong khu vực cũng xuất hiện trong tác phẩm như phân cảnh Kaori cùng nhân vật chính Kousei bất ngờ gặp nhau và trò chuyện.
Trung tâm Nerima Bunka là nguyễn mẫu của Towa Hall — nơi Kōsei và Kaori gặp nhau lần đầu tiên, đồng thời cũng là địa điểm quan trọng thường xuyên xuất hiện trong phim. Phân cảnh Kaori tìm kiếm con mèo đen nằm tại công viên Shakujii, cách Towa Hall 15 phút đi tàu. Trong các tập khác, địa điểm này cũng xuất hiện ở một số cảnh hồi tưởng của Tsubaki. Quán cà phê nơi Kaori buộc Kōsei chơi piano lấy cảm hứng từ La Primeur, mặc dù vậy, trên thực tế quán cà phê bao gồm lò sưởi thay vì nhạc cụ. Nơi Kaori sống cũng như cửa hàng cô ép Kōsei mua bánh canele cho mình — Patisserie Kamitani dựa trên tiệm bánh Kamitani. Trong phân cảnh cuối cùng của anime, nơi Kōsei đọc lá thư từ Kaori nằm ở giao lộ đường sắt đặt gần ga Kami-Shakujii.
Thần đồng piano mười bốn tuổi Arima Kōsei trở nên nổi tiếng sau khi giành chiến thắng trong nhiều cuộc thi piano với độ chính xác vô song của mình, đồng thời, bị chế giễu là "máy đánh nhịp". Khi mẹ của anh ấy là Saki qua đời, Kōsei trở nên suy sụp tinh thần trong lúc đang biểu diễn tại một cuộc thi piano; điều này dẫn đến việc anh không thể nghe thấy tiếng đàn piano của mình, mặc dù thính giác của anh không bị ảnh hưởng.
Hai năm sau, Kōsei không còn chạm vào đàn piano và nhìn thế giới bằng màu đơn sắc. Anh không còn hứng thú với bất kỳ hoạt động nào và thường dành thời gian cho những người bạn của mình là Sawabe Tsubaki và Watari Ryōta. Trong một ngày tháng Tư, Kōsei gặp Kaori Miyazono – một nghệ sĩ vĩ cầm cùng tuổi, thông qua người bạn thời thơ ấu Tsubaki dưới tán hoa anh đào nở rộ. Khi Kaori tiếp tục vực dậy tinh thần của Kōsei, anh nhanh chóng nhận ra rằng mình yêu cô ấy, mặc dù cô dường như chỉ quan tâm đến Ryōta. Sau khi theo dõi màn trình diễn của Kaori tại một cuộc thi violin, cô đã giúp Kōsei quay trở lại với thế giới piano và cho anh thấy phong cách chơi đàn của anh có thể tự do và đột phá.
Kaori nhờ Tsubaki giúp cô kết thân với Ryōta nhằm có thể cộng tác cùng Kōsei. Kōsei nảy sinh tình cảm với Kaori, nhưng không thể bày tỏ tình cảm của mình trước mặt người bạn thân Ryōta. Tsubaki nhận ra Kōsei có tình cảm với Kaori, đồng thời, cô cũng nhận ra mình có tình cảm với anh, rồi trở nên buồn bã.
Trong một buổi biểu diễn, Kaori suy sụp và phải nhập viện, cô giải thích điều này là do cô bị thiếu máu và cần được kiểm tra định kỳ. Sau đó, cô mời Kōsei biểu diễn cùng cô tại một buổi dạ tiệc, nhưng cô lại không đến. Sức khỏe của cô dần xấu đi, đồng thời, cô trở nên chán nản. Kōsei chơi một bản song ca bên cạnh một học sinh tiểu học, điều này đã thúc đẩy Kaori thực hiện một cuộc phẫu thuật mạo hiểm và có khả năng gây chết người để cô có thể biểu diễn cùng Kōsei một lần nữa. Khi đang tham gia vòng chung kết của Cuộc thi piano miền Đông Nhật Bản, Kōsei nhìn thấy linh hồn của Kaori đồng hành cùng mình, anh nhận ra rằng cô đã chết trong cuộc phẫu thuật.
Tại đám tang cô ấy, cha mẹ Kaori đã đưa Kōsei một lá thư từ Kaori tiết lộ rằng cô đã biết trước về cái chết sắp xảy ra, cô mong muốn có được sự tự do trong âm nhạc và với chính bản thân cô, vì vậy cô sẽ không mang theo sự hối tiếc lên thiên đàng. Cô thừa nhận rằng cô đã yêu tiếng đàn piano của Kōsei kể từ khi xem anh ấy biểu diễn tại một buổi hòa nhạc khi cô 5 tuổi. Điều này truyền cảm hứng cho cô chơi vĩ cầm để một ngày nào đó cô có thể biểu diễn cùng anh. Kaori bịa đặt tình cảm của mình dành cho Ryōta để cô có thể đến gần Kōsei hơn mà không làm tổn thương Tsubaki – người dành tình cảm cho Kōsei. Cuối cùng, cô thú nhận tình yêu của mình dành cho anh. Tsubaki an ủi Kōsei và nói với anh rằng cô sẽ luôn ở bên cạnh anh. Kaori đồng thời cũng để lại một bức ảnh khi cô còn nhỏ và trở về sau buổi hòa nhạc đã truyền cảm hứng cho cô, bên cạnh Kōsei ở phía sau. Kōsei sau đó đã đóng khung bức ảnh này.
Mặc dù phần lớn diễn biến trong tác phẩm cơ bản bám sát nguyên tác, tuy nhiên, tập phim cuối có hai sự khác biệt rõ rệt:
Một thần đồng piano, đồng thời là nghệ sĩ trẻ nhất giành chiến thắng tại cuộc thi Saki, mặc dù vậy, anh đã từ bỏ sự nghiệp âm nhạc sau cái chết của mẹ mình. Kousei cảm thấy tội lỗi về những lời cuối cùng của mình với mẹ anh cũng như luôn ám ảnh về bà, dẫn đến anh không thể nghe thấy âm thanh do chính mình chơi. Anh đã sống hai năm không piano, nhìn thế giới qua hai màu đen trắng, tuy nhiên, điều này đã thay đổi sau lần đầu tiên anh gặp Miyazono Kaori, cô giúp anh lấy lại sự tự tin và thuyết phục anh biểu diễn trở lại.
Một nghệ sĩ vĩ cầm với tinh cách tự do phản ánh trong phong cách biểu diễn của cô. Các nhà chuyên môn trong phim đánh giá cô là một người chơi vĩ cầm cẩu thả từ quan điểm kỹ thuật khi cô không biểu diễn tuân theo nhạc phổ, trái ngược, khán giả lại cho rằng Kaori là một nghệ sĩ vĩ cầm tuyệt vời. Khi Kaori năm tuổi, lớp piano của cô đã dự một buổi biểu diễn âm nhạc, đó cũng lần đầu tiên cô gặp Kōsei. Ban đầu, cô tham gia âm nhạc với mong muốn trở thành một nghệ sĩ piano, tuy nhiên sau đó, cô quyết định chuyển hướng sang nghệ sĩ vĩ cầm để có thể chơi cùng Kōsei. Những ngày cuối cùng trước khi qua đời, cô đã viết một lá thư vĩnh biệt dành cho Kōsei tiết lộ về bí mật của cô.
Nhân vật phụ của phim cũng như bạn thời thơ ấu của Kōsei. Cô luôn đến các buổi biểu diễn và cổ vũ anh. Khi còn nhỏ, Tsubaki thường gọi Kōsei ra ngoài chơi nhưng do thời gian luyện tập của anh cùng mẹ nên ít khi cô có thể chơi cùng. Ở bên Kousei một thời gian dài, Tsubaki dần đảm nhận vai trò "chị gái", trong khi Kōsei là "em trai vô dụng mà cô ấy phải chăm sóc". Cô là một người yêu thích thể thao, cô đã tham gia đội bóng chày ở cả trường sơ trung và cao trung cùng với senpai của mình khi anh còn học cùng cô.
Ryōta là bạn thời thơ ấu của Kōsei và Tsubaki, đồng thời là đội trưởng đội bóng đá của trường nằm trong tuyến nhân vật phụ. Anh rất nổi tiếng với các cô gái, bên cạnh biểu lộ thái độ phủ phiếm. Mặc dù vậy, thỉnh thoảng anh cũng có cái nhìn sâu sắc và đưa ra lời khuyên có ích. Khi Tsubaki lần đầu giới thiệu anh với Miyazono Kaori, anh đã ngay lập tức say mê cô, tuy nhiên, dù Kōsei nói với Ryōta về tình cảm của mình dành cho Kaori, anh vẫn chấp nhận điều này và khuyên nhủ Kōsei.
Kế hoạch ban đầu.
Fuji TV đã công bố kế hoạch sản xuất anime truyền hình chuyển thể loạt manga "Lời nói dối tháng Tư" tại sự kiện Line Up 2014, đồng thời sẽ ra mắt phim vào tháng 10 và phát hành trong nửa năm. Đây là tác phẩm anime truyền hình đầu tiên Ishiguro Kyōhei chỉ đạo, trước đó ông tham gia sản xuất với vai trò đạo diễn tập phim "Hội pháp sư" và "Psycho-Pass". Yoshioka Takao – người thường biết đến với tác phẩm "High School DxD" đảm nhận kịch bản phim. Aikei Yukiko, từng tham gia sản xuất anime truyền hình "Accel World" phụ trách vai trò thiết kế nhân vật cũng như giám đốc hoạt họa.
Nhà sản xuất Shunsuke Saito của Aniplex biết đến nguyên tác vào tháng 2 năm 2012 khi đội ngũ biên tập Kodansha gửi cho ông ấn phẩm. Ông nghĩ rằng nếu chuyển thể thành anime, yếu tố âm nhạc sẽ rất thú vị. Vào khoảng thời điểm xuất bản tập thứ ba loạt manga, Saitō đã xin phép Tateishi Kensuke (Kodansha) để chuyển thể bộ truyện thành anime truyền hình gồm mười một tập. Tuy nhiên, Tateishi không đồng ý vì nghĩ rằng bộ phim sẽ không đủ trọn vẹn. Sau đó, Saitō đã đề xuất làm 22 tập và được Tateishi chấp thuận. Đội ngũ sản xuất đã cùng thảo luận để biến bộ phim thành một tác phẩm anime mà không làm mất đi tính đa dạng của nguyên tác, thông qua việc thêu dệt đúng các đặc điểm tính cách học sinh sơ trung.
Nhà sản xuất Shunsuke Saito đã ghé thăm văn phòng của nhà thiết kế đồ họa Nawada Kouhei để mời ông tham gia dự án anime. Ông đã mang theo cuốn "Lời nói dối tháng Tư" để giới thiệu cho Nawada. Nawada Kouhei đã đồng ý phụ trách thiết kế biểu trưng anime, dù ban đầu còn do dự.
Ban đầu, Nawada Kouhei có ý định thiết kế biểu trưng mang yếu tố âm nhạc, ví dụ như ký hiệu khuông nhạc. Tuy nhiên, khi đạo diễn Ishiguro thảo luận với Nawada rằng ông không muốn người xem coi tác phẩm là vở nhạc kịch, Nawada đã đi theo một hướng khác. Ông lựa chọn một kiểu chữ nói lên “Đây là nó.” Sau khi đọc và tưởng tượng tác phẩm, ông liên tưởng đến kiểu chữ giòn, với kanji là "Hiragino", kana là "36 điểm của Yūchiku", "Hiragino" chứa khung xương cứng.
Nawada yêu cầu đạo diễn không để những mảng miếng của biểu trưng xuất hiện đồng loạt, thay vào đó ông muốn phần văn bản xuất hiện trước và tiếp đến là phần màu. Về thiết kế bao bì băng đĩa, ông muốn tập trung vào hình ảnh của âm nhạc cổ điển hơn là cảm giác của tuổi trẻ. Tuy nhiên, ông muốn tránh lạm dụng nó và tạo ấn tượng sang trọng.
Để tạo ra cảm giác thực tế cho nhân vật, Yukiko đã theo sát thiết kế gốc của Arakawa Naoshi, với nét mặt và diễn xuất mang tính chân thực và sức thuyết phục. Bà chỉ điều chỉnh kích thước của mắt và một số chi tiết nhỏ để phù hợp với phong cách của đạo diễn Ishiguro. Trong quá trình thiết kế, bà đã thường xuyên xin ý kiến của Shinkawa và Ishiguro, luôn tập trung khi sửa đổi.
Trong giai đoạn đầu của quá trình thiết kế, Arakawa yêu cầu Yukiko Aikei vẽ Arima Kōsei dưới hình ảnh của một cậu bé. Kōsei mang đặc điểm phong cách riêng, do đó, Yukiko đã cân nhắc đến tính trẻ trung khi tạo hình, tránh mô phỏng hình ảnh "nghiêm túc và đeo kính" một cách cố ý. Tuy nhiên, việc thể hiện biểu cảm khuôn mặt của anh cũng không dễ dàng, bởi Kōsei có "những thay đổi tinh tế không thể hiện cảm xúc trên khuôn mặt". Nhà sản xuất và đạo diễn đã bày tỏ ý muốn Yukiko thể hiện tính dễ thương cho Kaori, vì họ lo ngại rằng hành động của cô có thể gây người xem hiểu lầm. Để ngăn nhân vật nữ chính trở nên quá thô bạo, Ishiguro đã đề xuất Yukiko phác họa một bức tranh của nhân vật sao cho khán giả có thể thông cảm và tha thứ, ngay cả khi cô có vẻ hơi kiêu căng. Vì Tsubaki luôn “cởi mở về cảm xúc”, nên Yukiko Aikei không gặp nhiều khó khăn khi thiết kế cô. Bà muốn tạo ra một hình ảnh tự nhiên và đa dạng về biểu cảm cho Tsubaki. Yukiko muốn thiết kế Wataru thật đẹp trai, bởi anh có vẻ ngoài và tính cách tuyệt vời, khiến người phải ngưỡng mộ. Tuy nhiên, bà không quen với việc phác họa nam giới, nên các đường nét của Wataru có phần mảnh khảnh.
Ishiguro muốn biết ý kiến của Yukiko về việc bỏ gag face khỏi bộ phim. Tuy nhiên, khi Yukiko thử cắt bớt những cảnh gag face, bộ phim trở nên u ám và nặng nề. Vì vậy, để duy trì sự hài hòa trong bộ phim, đội nghũ sản xuất quyết định giữ lại gag face. Bên cạnh đó, bà cũng phác họa những cảnh ký ức buồn bã của Kōsei một cách nghiêm trọng. Mẹ của Kōsei tuy xuất hiện trong nguyên tác, nhưng bà phải đứng dưới trướng "một thực thể bí ẩn". Yukiko đã vẽ phần gáy của bà để tạo ra sự sợ hãi cho người xem.
Trong quá trình tạo hình cho buổi biểu diễn, Yukiko kiểm tra các bản vẽ gốc trước, sau đó điều chỉnh khuôn mặt và dáng vẻ của nhân vật. Bằng cách này, bà mong muốn tạo ra những biểu cảm độc đáo, thường không xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày, nhưng lại rất chân thực khi thể hiện qua diễn xuất của nhân vật. Khi hoàn thiện tất cả các hình ảnh động, Yukiko sử dụng khoảng 4 đến 5 cm giấy gốc và giấy phim cho mỗi lần cắt. Bà tưởng rằng số lượng cắt cảnh tác phẩm mà đội ngũ sản xuất gửi cho bà là rất lớn, nhưng trên thực tế chỉ vỏn vẹn hai bản.
Sau khi thống nhất concept, đội ngũ sản xuất bắt đầu vẽ hai key visual đồng thời. Nhà sản xuất hoạt họa Fukushima Yuuichi và đạo diễn trao đổi về cách làm tương phản các màu sắc. Ông muốn key visual đầu tiên gây ấn tượng với khán giả khi công bố.
Fukushima khen ngợi đạo diễn Ishiguro về khả năng ứng dụng công nghệ kỹ thuật số và sử dụng CGI hiệu quả trong bộ phim. Với nền tảng làm đạo diễn sản xuất, Ishiguro chú trọng đến quá trình làm hoạt họa. Ông đã lên kịch bản và kế hoạch cho cảnh biểu diễn trong tập 2. Theo đó, họa sĩ Kazuyuki Asaga vẽ các frame chính và Ishiguro vẽ phác thảo cho phân đoạn biểu diễn. Đội ngũ đã kết hợp các chuyển động của nhân vật, mồ hôi và tóc để tạo hiệu ứng sinh động. Ishiguro cho rằng đây là một phân đoạn hoàn hảo giữa sự chỉ đạo của ông và bản vẽ của Asaga.
Để tạo ra một tác phẩm gắn kết với thế giới thực, đạo diễn Ishiguro đã yêu cầu đạo diễn nghệ thuật Usui Hisayo chụp ảnh các địa điểm liên quan đến cốt truyện phim. Những bức ảnh này không chỉ là tư liệu cho bà mà còn cho cả đội ngũ sản xuất, vì vậy bà đã chụp khung cảnh xung quanh một cách bằng phẳng nhằm không cần thêm phối cảnh. Ngoài ra, bà cũng quan tâm đến kết cấu của sàn nhà, thảm và độ bóng, bên cạnh việc chụp các bức ảnh về những đặc điểm nổi bật như hình dạng của tay nắm cửa, hình dạng của các cánh cửa trong sảnh, hình dạng của những chiếc ghế...
Usui ban đầu nghĩ bộ phim sẽ giống anime "Hōrō Musuko". Tuy nhiên, đạo diễn cho rằng vì câu chuyện ngày càng trở nên nặng nề, ông muốn bộ thay đổi hướng đi đột ngột, lật ngược hoàn toàn để mang lại sự sống động cũng như nổi bật. Ông cũng nhấn mạnh ba từ khóa "trong trẻo", "sống động" và "bật mí", vì vậy bà đã ghi nhớ ba từ khóa này và bắt đầu phác họa.
Usui sử dụng màu hồng cá hồi của hoa anh đào để tạo lối kết hợp "pop" với bầu trời xanh nhạt. Thay vì kết hợp các màu giống nhau, bà xây dựng mỗi "điểm nhấn" bằng mỗi mảng màu khác nhau, cũng như chọn lựa phụ kiện mang màu sắc “pop”. Bà muốn những bức tranh của mình thể hiện cảm xúc một cách tự nhiên cho người xem, nên bà làm cho các phần đơn điệu trong phim càng đơn điệu hơn, còn những phân cảnh hồi tưởng của Kōsei thì tối và không có nét đồ họa.
Các nhân viên sản xuất đã đến gặp Arakawa Naoshi nhiều lần để thảo luận về việc chuyển thể nhằm đảm bảo tác phẩm sẽ trung thành với manga, nhưng cũng yêu cầu một số sự tự do để biến manga trở thành phim truyền hình dài tập. Vì vậy, nội dung phim không thay đổi nhiều so với nguyên tác; Yoshioka Takao chỉ tinh chỉnh để phù hợp với quy mô (thời lượng) phát sóng 20 phút. Trong manga, các phân cảnh hình ảnh xuất hiện dồn dập lấn át các cảnh biểu diễn, nhưng điều này là không được phép đối với anime, dẫn đến đội ngũ sản xuất phải thay đổi cách thể hiện hoạt họa trong phim, buộc ông sắp xếp lại những cảnh hình ảnh. Khi thiết kế cảnh hình ảnh thay đổi đột ngộ, ông lo lắng về những gì sẽ xảy ra. Tuy nhiên, cuối cùng, chính đạo diễn mới là người sản xuất phần hình ảnh. Trong quá trình sắp xếp kịch bản để gửi cho đạo diễn, ông nhìn thấy cảnh hình ảnh hoàn chỉnh, đồng thời nghĩ rằng đây sẽ là cứu cánh trong tương lai của bộ phim. Những cảnh nghiêm túc được đưa vào đã khiến bộ phim nên nặng nề. Nhưng cảnh gag đã làm màn ảnh sáng hơn bởi ông cho rằng đó sẽ là thói quen hàng ngày của những đứa trẻ ở độ tuổi đó.
Đội ngũ sản xuất ban đầu cố gắng lồng ghép hai tập của manga vào một tập của anime. Vì vậy, biên tập viên Yamano Shiro đã đưa tập đầu tiên và thứ hai của nguyên tác vào tập đầu tiên anime truyền hình. Khi ông thử, ông có cảm giác rằng sẽ rất chật chội trong khi đội ngũ muốn thể hiện một cách thoải mái. Với phương pháp hoạt họa thời điểm sản xuất, việc nhồi nhét nhiều vào tập đầu tiên là có thể, nhưng ông đã yêu cầu phần kịch bản phải đảm bảo cuộc gặp gỡ trong tập đầu tiên thật thư thái với sự đồng tình từ nhà sản xuất Fukushima.
Kaori là một cô gái mạnh mẽ, nếu cô mắc một lỗi nào đó, có khả năng sẽ người xem nghĩ Kaori là một cô gái khó ưa. Vì vậy, Yoshioka trở nên cẩn thận trong phần kịch bản có sự xuất hiện của cô. Ông đã thay đổi một chút sắc thái trong cuộc đối thoại để tăng thêm sự nhẹ nhàng và điều chỉnh cho phù hợp, ví dụ trong đoạn đầu, ông không biết Kaori đang cầm gì, vậy nên ông cần thực hiện một số điều chỉnh ở tác phẩm.
Nhà soạn nhạc Yokoyama Masaru muốn sáng tác những bài hát xoay quanh piano và violon. Trong khi đó, đạo diễn Ishiguro muốn cảm giác trong suốt và cảm giác hiện đại, ông đã diễn giải lời đề nghị của đạo diễn để biến bản nhạc trở thành "cảm giác trẻ trung và đại chúng". Đạo diễn âm thanh Aketagawa Jin đã cố gắng kiểm soát tác phẩm để Yokoyama có thể lạc quan khi ông bị kéo vào khía cạnh tình cảm của tác phẩm gốc. Khoảng 80% bản nhạc trong phim là tất cả về những điều khó khăn, và 20% còn lại là tỏa sáng trên sân khấu. Trong quá trình sáng tác, ông đã sử dụng đàn kalimba vì âm thanh từ đàn kalimba tương tự như âm thanh của piano sau khi nhờ một nhà sản xuất nhạc cụ làm cho ông. Kalimba là một nhạc cụ có âm thanh trong trẻo nên rất hữu ích để xây dựng chủ đề chính.
Trong giai đoạn lập kế hoạch, nhà sản xuất Saitô Shunsuke tin rằng chìa khóa thành công hay thất bại của phim sẽ nằm ở cách đội ngũ sản xuất thể hiện âm nhạc cổ điển và mức độ hoàn thiện của quá trình sản xuất phim. Saitô đã tham khảo ý kiến của Nippon Epic Records và giao cho nhóm nhạc của tác phẩm "Nodame Cantabile" thực hiện phần nhạc cổ điển trong phim. Diễn xuất của từng nhân vật trong phim do nghệ sĩ đảm nhận để phù hợp với bối cảnh, ví dụ Sakata Tomoki đảm nhận Kōsei và Yūna Shinohara đảm nhận Kaori. Ishiguro sẽ hướng dẫn họ trước khi biểu diễn, yêu cầu họ sử dụng âm nhạc để thể hiện tâm trạng của từng phân cảnh. Ông cũng sử dụng nhiều máy quay để ghi lại màn trình diễn của họ và đưa các video này đến nhân viên sản xuất để tham khảo cho bản vẽ.
Đối với bài hát chủ đề, Ishiguro hy vọng rằng bộ phim sẽ thu hút những người không thường xem anime, vì vậy ông đã chọn Goose house và wacci để lần lượt đảm nhận các bài hát mở đầu và kết thúc của nửa đầu. Ishiguro đồng thời mong muốn ca khúc chủ đề trong nửa sau sẽ có "giai điệu đầy màu sắc" nhằm phù hợp với chủ đề loạt anime nên ông đã chọn Coalamode. là nhóm nhạc thể hiện. Bài hát chủ đề mở đầu đầu tiên là "Hikaru Nara" (光るなら, "Hikaru Nara") của Goose House, bên cạnh bài hát kết thúc "Kirameki" (キラメキ, "Kirameki") bởi Wacci, cả hai xuất hiện từ tập 1 đến tập 11. Bài hát mở đầu thứ hai là "Nanairo Shinfonī" (七色シンフォニー, "Nanairo Shinfonī") sáng tác bởi nhóm nhạc Coalamode và bài hát kết thúc thứ hai là "Orenji" (オレンジ, "Orenji") do 7!! đảm nhận, đội ngũ sản xuất sử dụng hai ca khúc từ tập 12 đến 22.
CD soundtrack gồm các bản nhạc cổ điển "Shigatsu wa Kimi no Uso Boku to Kimi to no Ongakuchou" ra mắt trên nền tảng số và qua đinh dạng băng đĩa vào ngày 19 tháng 11 năm 2014. Trong khi đó, album original soundtrack chính thức ra mắt vào ngày 21 tháng 1 năm 2015.
Chủ đề của loạt anime là cách vượt qua những thử thách trong cuộc sống thông qua âm nhạc. Trên trang "The Outerhaven", Josh Piedra phân tích "Tháng Tư là lời nói dối của em" là một lát cắt cuộc sống được thể hiện xuyên suốt, đồng thời, phim có nhiều khía cạnh thay vì chỉ là câu chuyện chính của Kōsei, mỗi nhân vật đều có câu chuyện của riêng họ; điều này không chỉ xây dựng bối cảnh của họ bên cạnh làm họ trở nên dễ hiểu, mà câu chuyện của họ còn đan xen và ảnh hưởng đến câu chuyện chính. Ông cho rằng điểm trừ duy nhất mà bộ phim này thực sự mắc phải là nửa sau của 22 tập phim. Bộ phim đã làm rất tốt ở nửa đầu tập phim, tuy nhiên, nửa sau lại có phần lê thê. Mặc dù cần hiểu rằng tác phẩm cần phát triển nhân vật, nhưng vấn đề là phim dành quá nhiều thời gian để phát triển tuyến nhân vật của mình đến mức một số điểm của cốt truyện hoặc các nhân vật bị bỏ dở trong một, hai tập buộc người xem tự hỏi điều gì đã xảy ra với họ. Một tập phim có thể kết thúc với một chút gay cấn và sau đó tập tiếp theo sẽ bắt đầu với một đoạn hồi tưởng dường như không liên quan đến kết thúc của tập trước, nhưng sau đó lại được gắn vào hoặc giải thích. Điều này trở nên kỳ lạ từ quan điểm về nhịp độ, một số yếu tố của câu chuyện có thể được sắp xếp tốt hơn một chút, tuy nhiên, lối kể chuyện của phim vẫn được hoàn thiện theo khía cạnh nào đó. Đây là là kiểu kể chuyện mà người xem có thể phải quay lại nhằm xem đoạn kết của tập trước chỉ để đảm bảo rằng họ không bỏ lỡ điều gì.
Cái gọi là "tự sự" trong phim theo "trang web thông tin trò chơi Bahamut" là một cách diễn giải cô đọng về cuộc sống, giống như kể một câu chuyện, hùng hồn và nhẹ nhàng, nhưng cuộc đời có những thăng trầm, và khi nói đến những điều thú vị, đó là một cuộc nói chuyện đầy cảm xúc và nhanh chóng, có vui tươi hớn hở như một đứa trẻ mới lớn, có tiết tấu nhảy nhót như nhón gót, cuộc đời cũng sẽ gặp những muộn phiền nặng trĩu hay hờn giận, cuối cùng chọn giải phóng hết tâm huyết và sức lực để vẽ nên một đoạn kết cho câu chuyện cuộc đời. Trang nhận xét rằng nếu không có Kaori, Kōsei sẽ không trở lại sân khấu, đồng hành cùng cô với tư cách là một "người biểu diễn kỳ lạ", anh cũng sẽ không nhận ra rằng những gì mẹ anh để lại cho anh năm xưa là tình yêu thương chứ không phải sự sợ hãi và hận thù. Ngoài ra, từ tiêu đề của tập 21 cho đến tiêu đề của tập 22, vẻ đẹp của Kaori trong tuyết đã tan biến, cô đã biến thành một cơn gió xuân thổi vào trái tim của Kōsei.
Kern của "The Demented Ferrets" cho rằng tình yêu gia đình, tình yêu lãng mạn, niềm đam mê, sở thích, tình yêu cuộc sống, tình yêu bất chấp tổn thương và khó khăn, tình yêu bất chấp đau buồn và tình yêu gắn bó chặt chẽ ngay cả khi buông bỏ quá khứ đều là những chủ đề được thể hiện tốt ở bộ phim. Anh nhận xét "Tháng Tư là lời nói dối của em" sử dụng âm nhạc như một cách để kết nối các nhân vật, đồng thời cho người xem thấy rõ hơn họ thực sự là ai thay vì để một nhân vật chỉ đơn giản là đi trên những dòng chữ dài và cồng kềnh; âm nhạc trở thành tấm gương soi thể hiện bên ngoài những chiếc mặt nạ được xây dựng cẩn thận của các nhân vật. Bên cạnh đó, chu kỳ tổn thương là một vòng luẩn quẩn trong phim; khi được xử lý kém, điều này có thể trở nên độc đoán. Người hâm mộ thường sẽ mong đợi những gì tốt hơn ở nhân vật chính, đồng thời muốn nghe những câu chuyện về chiến thắng; nhưng ở khía cạnh nào đó, bộ phim là câu chuyện về thua nhiều hơn thắng. Nhiều lần trong bộ phim, Kōsei rơi vào trạng thái tinh thần tồi tệ của chính mình, các phân cảnh này rất dễ làm người xem cảm thấy nhàm chán hoặc đánh mất thiện cảm đối với anh, một phần lớn trong số đó bắt nguồn từ những cuộc độc thoại nội tâm liên tục của Kōsei. Cuối cùng, Kern kết luận có rất nhiều sai sót với tác phẩm, mặc dù vậy, điều đó không làm giảm đi việc "Tháng Tư là lời nói dối của em" là một trong những anime chính kịch hay nhất.
Lần đầu tiên, Aikawa ứng cử vai trò quảng bá là khoảng 10 tháng sau khi ông chuyển sang Bộ phận Quảng bá Nhóm Sản xuất và Kế hoạch Aniplex. Kể từ khi ông chuyển đến, ông đã nói chuyện với Suzuki, một nhà sản xuất quảng bá khác của tác phẩm. Sau đó, ông được giao phụ trách quảng bá bộ phim cùng với Suzuki. "Tháng Tư là lời nói dối của em" là một tác phẩm có nhiều yếu tố "tuổi trẻ" và "âm nhạc", ông đã lo ngại rằng sẽ không thể hiên được "âm nhạc" là một yếu tố quan trọng đối với tác phẩm, nhưng sẽ thật vô nghĩa nếu bộ phim chỉ được coi là "anime âm nhạc". Vì vậy, ông đã thực hiện một quảng cáo nhằm đẩy mạnh sức hấp dẫn khác của tác phẩm là "tuổi trẻ". Với sự hợp tác của Fuji TV, đội ngũ sản xuất đã chạy quảng cáo trên truyền hình mỗi tuần trong khoảng ba tháng trước khi phát sóng. Ông không nghĩ rằng có một tiền lệ cho điều này đối với các tác phẩm khác, bởi cùng rất nhiều tựa game NoitaminA, đó là một cuộc chiến để giành được quyền quảng cáo.
Vào ngày 21 tháng 3 năm 2014, tin tức về việc chuyển thể anime ấn phẩm "Lời nói dối tháng Tư", áp phích và trailer đầu tiên cùng danh sách nhân viên sản xuất chính đã được công bố tại "buổi họp báo đội hình noitaminA 2014", trang web chính thức của bộ phim cũng ra mắt trong cùng ngày. Vào ngày 6 tháng 6, đơn vị phân phối phim thông báo Sakata Tomoki và Yūna Shinohara sẽ đảm nhận vai trò nghệ sĩ mẫu của Kōsei và Kaori. Vào ngày 17 tháng 7, trailer thứ hai bên cạnh danh sách các diễn viên lồng tiếng đã chính thức công bố. Vào ngày 9 tháng 8 năm 2014, trang web của tác phẩm đăng tải thông tin Goose House sẽ viết bài hát chủ đề mở đầu. Vào ngày 5 tháng 9, trang web chính thức thông báo rằng wacci sẽ thể hiện bài hát chủ đề kết thúc. Vào ngày 17 tháng 9, phim ấn định thời gian ra mắt ngày 9 tháng 10. Vào ngày 28 tháng 9, trang web của phim công bố áp phich thứ ba. Vào ngày 6 tháng 1 năm 2015, Aniplex thông báo nhân vật mới Nagi trong nửa sau sẽ do Kayano Ai lồng tiếng.
Vào ngày 14 tháng 8 năm 2014, sự kiện hợp tác "Shigatsu wa Kimi no Uso × Goose House" đã diễn ra cùng bản xem trước phát hành với các bài hát thể hiện bỏi Goose House được chọn làm nhạc phim. Đoạn giới thiệu đầu tiên ra mắt vào ngày 14 tháng 8 với bài hát "Zenryoku Shounen", bên cạnh đoạn giới thiệu thứ hai phát hành vào ngày 11 tháng 9 với ca khúc "Uroko". Từ ngày 17 tháng 9, để kỷ niệm loạt anime, triển lãm hợp tác "Tháng Tư là lời nói dối của em" và "Thất hình đại tội" – "Tháng tư là tội lỗi chết người của cậu" đã tổ chức tại các hiệu sách ở các khu vực cụ thể thuộc Nhật Bản. Vào ngày 30 tháng 9, đơn vị phân phối phim thông báo tác phẩm sẽ hợp tác thương mại với tuyến đường sắt Seibu nhằm sử dụng xe điện để quảng bá từ ngày 1 tháng 10. Vào ngày 19 tháng 10, các hoạt động liên quan đến bộ phim đã được tổ chức tại Lễ hội Hoạt hoạt Nerima. Vào đầu tháng 11, bộ phim cùng Tam giác Cao đẳng Ekoda gồm ba trường đại học ở Quận Nerima (Khoa Nghệ thuật Đại học Nihon, Đại học Musashino và Đại học Âm nhạc Musashino) đã tổ chức một sự kiện hợp tác lễ hội trường học. Cuối tháng 12, "Tháng Tư là lời nói dối của em" ký kết thỏa thuận hợp tác với Ezaki Glico và Coca-Cola Nhật Bản nhằm quảng bá xe điện tập đoàn đường sắt Seibu.
Truyền hình và trực tuyến.
Vào ngày 28 tháng 9 năm 2014, trang web chính thức của anime truyền hình thông báo phim sẽ ra mắt trên kênh NoitaminA của Fuji TV vào ngày 10 tháng 10 lúc 1h15 sáng. Một buổi chiếu trước hai tập đầu tiên của anime đã tổ chức tại United Cinema Toyosu ở tỉnh Tokyo trong cùng ngày, sự kiện tiết lộ anime sẽ phát hành trong hai nửa, đồng thời chuyển thể manga cho đến chương cuối cùng. Tokyo MX phát sóng lại tác phẩm mỗi thứ Hai từ ngày 4 tháng 11 năm 2019 vào lúc 19h30. GYAO! là nền tảng phát trực tuyến duy nhất của phim tại Nhật Bản sau khi ra mắt cùng thời điểm phát sóng lại.
Aniplex of America nắm giữ bản quyền phim tại Bắc Mỹ, ra mắt thông qua nền tảng Hulu và Crunchyroll. Việc phát hành phim ở Úc và New Zealand do Madman Entertainment đảm nhận, đồng thời, phát trực tuyến tác phẩm trên AnimeLab. Plus Media Networks Asia mua bản quyền, phát hành phim tại Hàn Quốc trên ANIPLUS TV bên cạnh LAFTEL. Bahamut Anime Crazy, myTV SUPER, kênh truyền hình TVB Jade lên sóng "Tháng Tư là lời nói dối của em" tại Đài Loan, Hồng Kông thông qua quyền phân phối của Medialink. Aniplex trực tiếp ra mắt tác phẩm trên nền tảng bilibili tại Trung Quốc đại lục. Phim ra mắt trên nền tảng POPS và DANET tại Việt Nam, TrueID tại Thái Lan, đối với các quốc gia khác thuộc khu vực Đông Nam Á, bilbili là đơn vị phát hành thông qua bản quyền thuộc sở hữu của Medialink.
Băng đĩa tại gia.
Aniplex đã phát hành phiên bản DVD và Blu-ray của tác phẩm gồm chín tập, với tập đầu tiên ra mắt vào ngày 25 tháng 2 năm 2015, và tập cuối cùng phát hành vào ngày 28 tháng 10 năm 2015. Mỗi bộ bao gồm quà tặng kèm như đĩa CD, bình luận âm thanh, áo khoác, hộp ba mặt cũng như nhãn dán hộp đựng đàn violin. Vào năm 2020, Aniplex đã biên soạn chín tập và tập OVA thành một bộ hộp hoàn chỉnh, lên lịch phát hành vào ngày 1 tháng 4 cùng năm. Ấn bản ngoài bình luận âm thanh và áo khoác, còn bổ sung tập sách đặc biệt bên cạnh bộ sưu tập OP/ED, PV/CM. Để kỷ niệm việc phát hành bộ hộp hoàn chỉnh, một sự kiện đặc biệt đã được tổ chức dành cho những khách hàng đặt trước vào ngày 18 tháng 4 năm 2020 tại Jijitsushinhoru.
Trong quá trình phát hành tại thị trường quốc tế, đĩa phim được biên soạn thành 2 tập, với tập đầu tiên là nửa đầu của "Tháng Tư là lời nói dối của em" bên cạnh tập tiếp theo nằm ở nửa sau cùng các phần quà đính kèm gồm bài hát chủ đề mở đầu và kết thúc có lời, bình luận âm thanh. Tại Bắc Mỹ, ấn bản phát hành chính thức vào ngày 29 tháng 3 năm 2016 (tập 1) và ngày 31 tháng 5 năm 2016 (tập 2). Vào ngày 9 tháng 10 năm 2020, Aniplex of America thông báo bộ đĩa Blu-ray hoàn chỉnh của tác phẩm sẽ ra mắt ngày 22 tháng 12 cùng năm tại "xứ cờ hoa", kèm theo mười ba thẻ minh họa có thể sưu tập, chủ đề mở đầu và kết thúc không lời, bình luận âm thanh của diễn viên tiếng Anh và đạo diễn, phân cảnh lỗi tiếng Anh cũng như trailer tiếng Anh. Madman Entertainment sở hữu quyền phát hành băng đĩa tại gia bộ phim tại Úc và New Zealand, cùng tập đầu tiên vào ngày 6 tháng 7 năm 2016, bên cạnh tập thứ hai vào ngày 3 tháng 8. Anime Limited lên lịch ra mắt ấn bản tại quần đảo Anh lần lượt vào ngày 14 tháng 11 năm 2016 đối với tập một và ngày 8 tháng 5 năm 2017 đối với tập tiếp theo.
Trong quá trình phát hành, đơn vị sản xuất tác phẩm đặt mục tiêu "làm cho gói DVD hoặc Blu-ray trở nên phổ biến đến mức khách hàng sẽ thích nó". Các tập tổng hợp Blu-ray "Tháng Tư là lời nói dối của em" thường xuyên xếp hạng trong nhóm dẫn đầu trên bảng xếp hạng doanh thu BD hàng tuần của Oricon, tập một xếp thứ năm, tập hai xếp thứ sáu, tập ba xếp thứ mười hai, tập bốn xếp thứ mười, tập năm xếp thứ tám, tập sáu xếp thứ tư, tập bảy xếp thứ chín, tập tám xếp thứ hai, bên cạnh tập chín xếp thứ năm.
Mặc dù vậy, vị trí xếp hạng của đĩa DVD thấp hơn so với đĩa BD trên Oricon, tập một xếp thứ sáu, tập hai xếp thứ mười hai, tập ba và tập năm xếp thứ mười bốn, tập bốn xếp thứ mười, tập sáu ở vị trí thứ mười năm, tập bảy ở vị trí thứ hai mươi, tập tám ở vị trí thứ mười bốn, và tập chín ở vị trí thứ mười một. Trong bảng xếp hạng doanh số bán đĩa Blu-ray, DVD năm 2015 của Oricon, "Tháng Tư là lời nói dối của em" xếp thứ 15, với tổng số 96.539 bản đã bán ra.
Trên bảng xếp hạng Billboard Nhật Bản năm 2015, CD soundtrack tác phẩm "Shigatsu wa Kimi no Uso Boku to Kimi to no Ongakuchou" đã xuất hiện trong 43 tuần liên tiếp kể từ ngày phát hành, đạt vị trí số 1 trong năm. Ngoài ra, các chuyến lưu diễn hòa nhạc được tổ chức ở nhiều nơi khác nhau đã giành vị trị thứ nhất trên bảng xếp hạng hàng năm.
Đánh giá chuyên môn.
Không giống như manga, các nhà phê bình phần lớn khen ngợi anime chuyển thể. Trang "Airi☆A LA MODE Remix" gọi "Tháng Tư là lời nói dối của em" là "một kiệt tác chắc chắn sẽ đi vào lịch sử"; nhận xét điểm nổi bật của tác phẩm là cách Kōsei, Kaori và các đối thủ của họ phát triển lẫn nhau trong khi xung đột với nhau, cho rằng chủ đề buồn làm nền xuyên suốt bộ phim, nhưng phong cách tươi sáng độc đáo khiến phim trở thành một câu chuyện tuổi mới lớn đầy mới mẻ, kết luận đây là một tác phẩm xuất sắc của tác giả Arakawa Naoshi. Tờ "Aka no madō sho" cho rằng người xem sẽ cảm động trước diễn biến bất ngờ từ nửa sau bộ phim, đánh giá điểm nổi bật của tác phẩm là âm nhạc, chất lượng âm nhạc cao đến mức có thể khiến người xem nghĩ rằng mình đang nghe trực tiếp, cuối cùng, anh cho "Tháng Tư là lời nói dối của em" 10/10 điểm. Trang "Kazenonatu" ghét những câu chuyện về người chết một cách vô ích chỉ để làm người khác khóc nhưng Kaori là một ngoại lệ bởi cái chết của cô ấy là hoàn toàn cần thiết để xây dựng câu chuyện, mặc dù chỉ nhìn thấy cô ấy chết đã đủ đau đớn để xé nát người xem, nhưng dù vậy, cuộc gặp của cô và Kōsei, những lời cô ấy nói với anh, khung cảnh họ nhìn thấy, những điều họ cảm nhận, khoảng thời gian họ bên nhau, và chính sự tồn tại của Kaori không phải là điều vô ích.
Trên trang "UNF Spinnaker", David Eckstein-Schoemann cho "Tháng Tư là lời nói dối của em" 5/5 cánh buồm, nhận xét điều khiến tác phẩm trở nên thú vị là mặc dù phim bao gồm nhiều tình tiết quen thuộc mà người xem đã xem nhiều lần, nhưng chúng được trình bày theo những cách độc đáo và đáng ngạc nhiên. Ngoài cốt truyện, hoạt họa là một trong những điểm xuất sắc nhất của phim, cốt truyện thú vị không chỉ được thể hiện đẹp mắt mà bộ anime còn làm rất xuất sắc việc khiến người xem có được những cảm xúc phù hợp vào đúng thời điểm. Clound. Lone Star trên trang "TrueID" đánh giá điều thú vị ở cốt truyện là phim ra mắt theo phong cách đời thường, cho phép người xem chú ý đến các chi tiết trong nội dung phim. Bầu không khí, vẻ đẹp của bức tranh, đồ họa nhân vật và nhạc phim tác phẩm mang lại cảm giác lãng mạn như "trái tim gần như nổ tung khỏi lồng ngực trái"; còn phân cảnh kịch tính thì "cực kỳ bạo lực và đau thương như thể ai đó đâm một con dao vào ngực phải và xuyên qua trái tim ở ngực trái". Nick Creamer của "Anime News Network" chỉ trích sự lặp lại và lạc đề ở nửa sau của phim, cho rằng sự hài hước trong tác phẩm chỉ đơn giản là tệ hại - sự hài hước lặp đi lặp lại bên cạnh những khuôn mặt ngớ ngẩn. Allen Moody từ "THEM Anime Reviews" nhận xét một vấn đề khác đối với bộ phim là cái kết ảnh hưởng đến tam giác lãng mạn — Kōsei yêu Kaori, nhưng Tsubaki yêu Kōsei, sẽ có những lựa chọn chắc chắn được đưa ra ở cuối phim hay tác phẩm sẽ chỉ kết thúc với sự lập lờ, và người xem sẽ tự hỏi liệu họ có thực sự thích kiểu kết thúc không xác định. |
Chuyện tình trong ngõ hẹp
Chuyện tình trong ngõ hẹp là bộ phim điện ảnh độc lập, thể loại lãng mạn sản xuất năm 1992 của điện ảnh Việt Nam, do Nguyễn Thanh Vân đạo diễn với các diễn viên chính Mỹ Duyên, Đơn Dương, Thanh Quý. Ban đầu bộ phim có tựa đề Ngõ đàn bà, kịch bản của Đoàn Minh Tuấn và biên tập bởi Hải Ninh.
Đây là bộ phim đầu tay của cả Đoàn Minh Tuấn và Nguyễn Thanh Vân.
Lấy bối cảnh một con ngõ, nơi sinh sống của những người phụ nữ đơn thân. Bà Sinh sống cùng mẹ già và Hà (con gái Sinh), sau thời gian giúp đỡ qua lại thì Toàn -một kỹ sư- dọn đến sống cùng ba mẹ con Sinh.
Sự nhiệt tình của Toàn và vô tư và rung động đầu đời của Hà khiến những lần tiếp xúc gần của hai người tạo cho Sinh có cảm giác bất an với mối quan hệ của hai người. Sinh gợi ý muốn kết hôn nhưng Toàn tỏ ra không mấy hứng thú, đồng thời Hà cũng chủ động bày tỏ tình cảm với Toàn khiến mối quan hệ giữa hai mẹ con Sinh với Toàn trở nên ngột ngạt. |
Lò Thị Việt Hà
Lò Thị Việt Hà (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1977, người Thái) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Xã hội của Quốc hội, Phó chủ tịch Nhóm đại biểu Quốc hội trẻ, Phó Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Thái Lan, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Tuyên Quang. Bà từng là Chánh Văn phòng Đảng – Đoàn thể Văn phòng Quốc hội.
Lò Thị Việt Hà là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Thạc sĩ Luật, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp xuất phát điểm từ quê nhà Sơn La, được điều lên trung ương rồi tham gia hoạt động của Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Lò Thị Việt Hà sinh ngày 15 tháng 11 năm 1977 tại tại xã Chiềng An, thị xã Sơn La, tỉnh Sơn La, Khu tự trị Tây Bắc, nay là phường Chiềng An của thành phố Sơn La. Bà là người dân tộc Thái, quê quán ở Bản Cọ của Chiềng An, có anh trai cũng là chính trị gia Lò Việt Phương, lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Luật, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Luật. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 19 tháng 5 năm 2001, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện bà thường trú ở phường Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội.
Tháng 5 năm 2000, sau khi tốt nghiệp đại học, Lò Thị Việt Hà trở về Sơn La, được tuyển dụng công chức vào Tỉnh ủy Sơn La, bổ nhiệm làm Chuyên viên Ban Nội chính Tỉnh ủy Sơn La. Sau đó hơn 1 năm, tháng 9 năm 2001, bà được điều chuyển sang làm Chuyên viên Phòng Nội chính của Văn phòng Tỉnh ủy Sơn La. Đến tháng 4 năm 2007, bà được điều về Văn phòng Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam làm Chuyên viên, rồi thăng chức Trưởng phòng Tổng hợp, đồng thời là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Liên hiệp, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy, hàm Trưởng phòng thuộc Ban Tổ chức – Cán bộ Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Phó Chủ tịch Công đoàn cơ quan Liên hiệp, phân công phụ trách Văn phòng Đảng ủy Liên hiệp này từ tháng 11 năm 2009. Sau đó 2 năm, bà được điều tới Văn phòng Quốc hội, là Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng ban Thanh tra của Vụ Tổ chức – Cán bộ, kiêm Trưởng phòng Thanh tra – Bảo vệ chính trị nội bộ. Vào tháng 10 năm 2014, bà được bổ nhiệm làm Phó Vụ trưởng Vụ Tổ chức – Cán bộ, và cũng là Ủy viên Ban Thường vụ Công đoàn cơ quan Văn phòng Quốc hội, rồi Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy cơ quan Văn phòng Quốc hội, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Luật gia cơ quan Văn phòng Quốc hội trong năm này.
Tháng 9 năm 2016, Lò Thị Việt Hà nhậm chức Bí thư Chi bộ, Chánh Văn phòng Đảng – Đoàn thể của Văn phòng Quốc hội, Phó Chủ tịch Công đoàn Văn phòng Quốc hội từ tháng 3 năm 2018. Năm 2021, bà được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Tuyên Quang, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm huyện Hàm Yên, Yên Sơn, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 68,84%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, bà được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Xã hội của Quốc hội, Phó chủ tịch Nhóm đại biểu Quốc hội trẻ khóa XV, Phó Chủ tịch Nhóm Nghị sĩ hữu nghị Việt Nam – Thái Lan.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước |
Câu lạc bộ bóng đá Thép Xanh Nam Định mùa bóng 2023
Mùa bóng 2023 là mùa giải chính thức thứ 39 trong lịch sử của câu lạc bộ Thép Xanh Nam Định và là mùa thứ 6 liên tiếp đội bóng thi đấu tại V.League 1, giải bóng đá cấp độ cao nhất trong hệ thống giải đấu của bóng đá Việt Nam.
Giải vô địch quốc gia.
Lịch thi đấu Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2023 được công bố vào ngày 26 tháng 12 năm 2022.
templatestyles src="Legend/" / Chưa thi đấu
Thống kê mùa giải.
Thống kê đội hình.
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Thủ môn
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Hậu vệ
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Tiền vệ
! colspan=14 style="background:yellow; color:; text-align:center"| Tiền đạo
Nguồn: Các giải đấu |
Giải đua xe Công thức 1 2005
Giải đua xe Công thức 1 2005 là mùa giải thứ 56 của Công thức 1 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải đua này diễn ra trong vòng 19 cuộc đua từ ngày 6 tháng 3 đến ngày 16 tháng 10.
Fernando Alonso giành chức vô địch lần đầu tiên trong sự nghiệp Công thức 1 của mình với Renault và đồng thời chấm dứt 5 năm thống trị của Michael Schumacher và Ferrari kể từ năm 2000. Ngoài ra, Alonso còn chấm dứt được 9 năm thống trị của ba đội đua dẫn đầu kể từ năm 1996 là Ferrari, McLaren và Williams. Thêm vào đó, chức vô địch của Alonso khiến anh trở thành nhà vô địch trẻ nhất trong lịch sử Công thức 1 trước khi kỷ lục này được phá bởi Lewis Hamilton vào năm 2008 và Sebastian Vettel vào năm 2010. Bên cạnh đó, đây cũng là chức vô địch đầu tiên của Renault.
Ngoài ra, đây cũng là mùa giải cuối cùng của các đội đua Minardi, BAR và Jordan trước khi các chủ sở hữu mới tiếp quản các đội này. Thêm vào đó, Jaguar Racing đã được bán từ Ford cho công ty Red Bull GmbH và ra mắt Công thức 1 với tên gọi "Red Bull Racing".
Các tay đua và đội đua.
Bảng này liệt kê tất cả các tay đua có hợp đồng với đội đua với tư cách là tay đua chính hoặc tay đua dự bị/lái thử cho mùa giải 2005. Các đội đua sau đây được sắp xếp theo thứ tự của bảng xếp hạng các đội đua vào năm 2004.
Thay đổi quy định.
Thay đổi quy định kỹ thuật.
Quy định sử dụng lốp.
Việc thay lốp khi dừng pit bị cấm và mỗi tay đua phải sử dụng một bộ lốp trong suốt vòng phân hạng và cuộc đua chính. Lý do của sự thay đổi quy tắc này là để thúc đẩy các đội chọn hợp chất lốp cứng hơn với ít độ bám hơn để giảm tốc độ vào cua để nhằm cải thiện độ an toàn. Một bộ lốp chỉ được thay thế khi bị thủng và khi thời tiết ẩm ướt và dưới sự chỉ đạo của FIA. Sau tai nạn thảm khốc của Kimi Räikkönen tại trường đua Nürburgring khi hệ thống treo lốp của anh bị hỏng sau khi một chiếc lốp bị xẹp làm rách hệ thống treo bằng sợi carbon, các ông chủ đội và FIA đã đồng ý rằng mỗi xe có thể thay một lốp mà không bị phạt. Sau khi điều này được áp dụng, việc bảo quản một bộ lốp duy nhất cho toàn bộ cuộc đua trở thành một thách thức mới đối với các tay đua và đối với các nhà sản xuất lốp xe. Thách thức lớn nhất dối với nhà sản xuất lốp xe là tạo ra các bộ lốp bền và lâu dài hơn. Ngoài ra, những đội sử dụng lốp Michelin có lợi thế hơn so với những đội sử dụng lốp Bridgestone.
Vào mùa giải này, FIA yêu cầu động cơ phải bền bỉ ít nhất tại hai chặng đua và đồng thơi gấp đôi yêu cầu theo quy định vào năm 2004. Một tay đua thay động cơ sẽ bị tụt 10 bậc so với vị trí xuất phát của mình trong cuộc đua. Thêm vào đó, động cơ phải được thiết kế để hạn chế số vòng quay và công suất đầu ra được yêu cầu để tăng độ bền bỉ. Ngoài ra, quy định này cũng là một biện pháp cắt giảm chi phí cho các nhà sản xuất động cơ. Sau chặng đua đầu tiên của mùa giải, FIA đã hành động để lấp lỗ hổng trong quy định mới này do BAR đưa ra. |
Mega Web hay Megaweb, là công viên chủ đề ô tô do Toyota điều hành tại Palette Town ở Odaiba, Tokyo, Nhật Bản. Mega Web bao gồm các khu như Toyota City Showcase chuyên trưng bày các loại xe ô tô và có khóa học lái thử dài 1,3 km. Ride Studio cung cấp dịch vụ lái xe ô tô mini và Waku-Doki thì mô phỏng việc lái xe trên đường đua. Ngoài ra còn có khu History Garage trưng bày bộ sưu tập các mẫu xe của thập niên 1950–1970. Mega Web và History Garage đã đóng cửa vĩnh viễn vào ngày 31 tháng 12 năm 2021, như một phần trong quá trình tái phát triển dự kiến của Palette Town. |
Soldo là một loại tiền tệ được đúc dưới dạng xu bạc, tồn tại trong thời trung cổ ở Bán đảo Ý, được phát hành lần đầu tiên vào cuối thế kỷ XII tại Milan bởi Hoàng đế Henry VI. Cái tên này bắt nguồn từ đồng xu "solidus" của người La Mã cổ đại.
Nó nhanh chóng trở nên phổ biến ở Ý, nơi nó được đúc và lưu hành ở Genoa, Bologna và nhiều thành phố khác. Tại Venice, đồng soldo được đúc từ triều đại của Francesco Dandolo trở đi, đồng này vẫn được sử dụng sau khi nền cộng hòa bị giải thể vào năm 1797 và trong thời kỳ Áo chiếm đóng, cho đến năm 1862. Vào thế kỷ XIV ở Florence, một đồng sollo bằng #đổi của 1 lira và 12 denari.
Thời gian trôi qua, đồng seldo bắt đầu được đúc bằng hợp kim bilon và từ thế kỷ XVII được đúc bằng đồng. Trong triều đại Leopoldo II xứ Tuscany (thế kỷ XIX), nó có tỷ giá tương đương với 3 "quattrino". Cải cách tiền đúc ở Ý dưới thời Hoàng đế Napoléon (đầu thế kỷ XIX) khiến nó có giá trị bằng 5 xu, trong khi cần 20 soldi mới đổi được một lira.
Thuật ngữ này, được sử dụng trong thời trung cổ để chỉ tiền lương của binh lính, đã trở thành từ đồng nghĩa của nó trong cả tiếng Ý và tiếng Đức (như "Đã bán" (Sold)).
commentĐổi hướng đến /comment |
Nợ đời hay Đường đời là tiểu thuyết của nhà báo Hoàng Dự, lấy cảm hứng từ cuộc đời của doanh nhân, thầy thuốc Nguyễn Hữu Khai. Tiểu thuyết được Nhà xuất bản Văn học phát hành lần đầu năm 2002 và được chuyển thể thành bộ phim dài tập Đường đời năm 2004.
Tiểu thuyết kể về cuộc đời của Khôi, một thanh niên miền Bắc sau khi xuất ngũ anh theo học ngành kiến trúc, nhưng cuộc sống khó khăn khiến anh phải bỏ học tìm cách nuôi sống gia đình. Cùng một người bạn, anh đi buôn qua đường tiểu ngạch sang Trung Quốc nhưng bị kẹt lại vì chiến tranh biên giới. Tại đây anh được học võ và nghề bốc thuốc, khi về nước anh kinh doanh thuốc bắc. Sau nhiều biến cố, tù tội, anh lưu lạc vào miền nam lập nghiệp. Dù gặp nhiều khó khăn nhưng Khôi vẫn gây dựng được một công ty lớn thuộc lĩnh vực Đông Y.
Cuối năm 1996, nhà báo Hoàng Dự và nhà văn Võ Khắc Nghiêm làm quen với Nguyễn Hữu Khai sau một cuộc thi của báo Sức khỏe và Đời sống. Hai nhà văn biết được về quá trình gây dựng sự nghiệp của Nguyễn Hữu Khai, sau khi thống nhất với nhau, nhà báo Hoàng Dự được nhượng quyền chuyển thể thành tiểu thuyết.
Hoàng Dự đã viết tiểu thuyết Nợ đời từ năm 1997 đến 2001 thì hoàn tất, và được Nhà xuất bản Văn hóa phát hành lần đầu vào năm 2002. Dù là tiểu thuyết nhưng Nợ đời không có nhiều chi tiết hư cấu so với nguyên mẫu.
Năm 2004, tiểu thuyết Nợ đời được chuyển thể thành bộ phim dài tập Đường đời dài 24 tập, do Đài Truyền hình Việt Nam sản xuất.
Khi dựng thành phim, một số chi tiết trong tiểu thuyết đã được thay đổi để phù hợp với điện ảnh. Nhân vật Khôi trong tiểu thuyết được thay tên thành Hải.
Với sự thành công của bộ phim, tiểu thuyết Nợ đời sau này được Nhà xuất bản Văn học tái bản cũng với tựa đề "Đường Đời". |
Miss USA 2022 là cuộc thi Hoa hậu Hoa Kỳ lần thứ 71 diễn ra tại Reno, tiểu bang Nevada và được phát sóng trên truyền hình cáp FYI. Cuộc thi đã được phát lại vào ngày 19 tháng 10 năm 2022 trên kênh Youtube chính thức.
Elle Smith, Hoa hậu Hoa Kỳ 2021 đến từ Kentucky đã trao lại vương miệng cho người chiến thắng là R'Bonney Gabriel đến từ Texas. Gabriel trở thành người chiến thắng Hoa hậu Mỹ lớn tuổi nhất trong lịch sử cuộc thi, vượt qua Cheslie Kryst vào năm 2019, người cũng 28 tuổi khi đăng quang, người Mỹ gốc Á đầu tiên giành được danh hiệu này kể từ Brook Lee năm 1997, và là người giữ danh hiệu đầu tiên gốc Philippines.
Gabriel tiếp tục giành được danh hiệu Hoa hậu Hoàn vũ khoảng ba tháng sau đó tại New Orleans, trở thành Hoa hậu Hoàn vũ thứ chín đến từ Hoa Kỳ. Với chiến thắng của mình, Á hậu 1, Morgan Romano đến từ Bắc Carolina, đã đảm nhận danh hiệu Hoa hậu Mỹ trong một buổi lễ đăng quang ở Auburn, Alabama. Romano trở thành người phụ nữ thứ tư đến từ Bắc Carolina giữ danh hiệu Hoa hậu Mỹ.
§ – Thí sinh được vào top 16 nhờ bình chọn qua mạng.
∞ - Vì Gabriel chiến thắng Hoa hậu Hoàn vũ 2022. Theo luật, Gabriel đã từ bỏ danh hiệu của mình và Á hậu 1, Morgan Romano, đã đảm nhận danh hiệu Hoa hậu Hoa Kỳ.
51 thí sinh tranh tài cho danh hiệu này: |
Nguyễn Văn Mạnh (chính khách)
Nguyễn Văn Mạnh (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1978) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Vĩnh Phúc, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Vĩnh Phúc. Ông từng là Bí thư Thành ủy Phúc Yên, Vĩnh Phúc; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bí thư Tỉnh đoàn Vĩnh Phúc.
Nguyễn Văn Mạnh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. học vị Cử nhân Sư phạm Lịch sử, Thạc sĩ Hành chính công, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Văn Mạnh sinh ngày 15 tháng 4 năm 1978 tại Vĩnh Phúc, quê quán ở xã Liên Mạc, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12, thi đỗ và theo học đại học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Sư phạm Lịch sử, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Hành chính công. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 18 tháng 7 năm 2003, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 9 năm 2001, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm, Nguyễn Văn Mạnh trở về Vĩnh Phúc, được Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Vĩnh Phúc tuyển dụng viên chức và phân công về Trường Trung học phổ thông bán công Nguyễn Thái Học ở thành phố Vĩnh Yên làm giáo viên. Ông dần là Tổ trưởng chuyên môn, tham gia công tác Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và được bầu làm Phó Bí thư rồi Bí thư Đoàn trường. Sau đó gần 4 năm, tháng 4 năm 2005, ông được điều lên Tỉnh đoàn Vĩnh Phúc, là Chuyên viên Ban Tư tưởng Văn hóa, rồi thăng chức Phó Trưởng Ban Thanh niên Nông công nghiệp của Tỉnh đoàn. Tháng 8 năm 2009, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn, là Phó Chánh Văn phòng phụ trách, rồi Chánh Văn phòng, Bí thư Chi bộ, Đảng ủy viên Đảng Bộ Tỉnh đoàn, và là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh đoàn Vĩnh Phúc từ tháng 12 năm 2010. Tháng 9 năm 2011, Nguyễn Văn Mạnh được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh đoàn, kiêm Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Đảng bộ Tỉnh đoàn Vĩnh Phúc, rồi đến tháng 12 năm 2012 thì được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, phân công làm Phó Bí thư thường trực Tỉnh đoàn và chính thức nhậm chức Bí thư Tỉnh đoàn từ tháng 11 năm 2014. Trong giai đoạn này, ông còn là Phó Bí thư Đảng ủy, Chủ nhiệm Ủy Ban Kiểm tra Đảng bộ Tỉnh đoàn, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Chủ tịch Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tỉnh Vĩnh Phúc.
Tháng 10 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015–2020, Nguyễn Văn Mạnh được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, tiếp tục lãnh đạo công tác thanh niên của tỉnh cho đến tháng 3 năm 2016 thì được điều chuyển làm Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Tháng 8 năm 2016, ông được điều chuyển tiếp làm Phó Trưởng ban thường trực Ban Tổ chức Tỉnh ủy, công tác hơn 2 năm cho đến tháng 11 năm 2018 thì được điều về thành phố Phúc Yên, nhậm chức Bí Thư Thành ủy Phúc Yên, tái đắc cử Tỉnh ủy viên tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020–2025. Tháng 3 năm 2021, ông trở lại Tỉnh ủy làm Phó Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Cũng trong năm này, ông được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Vĩnh Phúc, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm huyện Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo, Lập Thạch, Bình Xuyên, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 86,57%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, và Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Vĩnh Phúc.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #FFBF00;" | Chức vụ Đảng
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội |
Thái Quỳnh Mai Dung
Thái Quỳnh Mai Dung (sinh ngày 15 tháng 5 năm 1977) là nữ chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Thường trực Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Vĩnh Phúc. Bà từng là Ủy viên Đoàn Chủ tịch, Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng ban Đối ngoại Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Thái Quỳnh Mai Dung là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân tiếng Anh, Thạc sĩ Chính sách công, Tiến sĩ Kinh tế, Cao cấp lý luận chính trị. Bà có sự nghiệp từng công tác ở nhiều tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế rồi tham gia hoạt động của Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Thái Quỳnh Mai Dung sinh ngày 15 tháng 5 năm 1977 tại xã Đức Lâm, nay là xã Lâm Trung Thủy của huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Bà lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12 ở Đức Thọ, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân tiếng Anh, sau đó tiếp tục học cao học từ tháng 7 năm 2002 đến tháng 9 năm 2003 theo học chương trình đào tạo của Đại học Brunei Darussalam, Brunei và nhận bằng Thạc sĩ Chính sách công. Bà là nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Nghiên cứu ảnh hưởng của giám sát tới tính minh bạch của thị trường chứng khoán Việt Nam""", và trở thành Tiến sĩ Kinh tế vào năm 2020. Bà được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 30 tháng 9 năm 2009, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị.
Tháng 8 năm 1999, sau khi tốt nghiệp đại học, Thái Quỳnh Mai Dung được tuyển dụng vào Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc (AusAID) – cơ quan hoạt động quốc tế của Chính phủ Úc – làm Phiên dịch viên. Sau đó gần 1 năm, tháng 6 năm 2000, bà chuyển việc làm sang Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), tiếp tục là Phiên dịch viên và Trợ lý Dự án của Ngân hàng này. Tháng 5 năm 2002, bà được nhận vào Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), là Phiên dịch viên và Thư ký, học ở Brunei cho đến tháng 10 năm 2003 thì bắt đầu là Phiên dịch viên, Thư ký của Cơ quan Phát triển Quốc tế Đan Mạch thuộc Bộ Ngoại giao Đan Mạch, rồi đến tháng 11 năm 2004 thì là Phiên dịch viên, Trợ lý hành chính của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam.
Tháng 7 năm 2005, Thái Quỳnh Mai Dung được tuyển dụng công chức vào Văn phòng Quốc hội, được bổ nhiệm làm Chuyên viên Vụ Kinh tế và Ngân sách, sau đó 2 năm thì chuyển sang làm Chuyên viên Vụ Kinh tế từ tháng 8 năm 2007. Tháng 7 năm 2011, bà được bổ nhiệm làm Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế, giữ chức vụ này 8 năm cho đến tháng 6 năm 2019 thì được điều tới Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, là Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng ban Đối ngoại, đồng thời là Bí thư Chi bộ Ban Đối ngoại, Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Năm 2021, bà được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Vĩnh Phúc, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm huyện Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo, Lập Thạch, Bình Xuyên, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 82,81%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, bà được phê chuẩn làm Ủy viên Thường trực Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #191970;" | Chức vụ xã hội |
Nguyễn Thành Trung (chính khách)
Nguyễn Thành Trung (sinh ngày 26 tháng 10 năm 1982) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên chuyên trách Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Yên Bái. Ông từng là Thư ký Ủy viên trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển.
Nguyễn Thành Trung là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Ngân hàng – Tài chính, Thạc sĩ Kinh tế, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có xuất phát điểm công tác ở ngân hàng thương mại cổ phần, rồi tham gia hoạt động ở các cơ quan, tổ chức của Quốc hội.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Thành Trung sinh ngày 26 tháng 10 năm 1982, quê quán tại phường Hùng Vương, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12 ở Hải Phòng, theo học đại học ở Hà Nội và tốt nghiệp Cử nhân Ngân hàng – Tài chính, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 8 tháng 10 năm 2012, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Tháng 11 năm 2004, sau khi tốt nghiệp đại học, Nguyễn Thành Trung trở về Hải Phòng, kỳ kết hợp đồng lao động với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, nay là ngân hàng thương mại cổ phần (Vietcombank), chi nhánh Hải Phòng, bắt đầu là nhân viên thử việc. Sau đó 2 tháng, ông là Kinh tế viên của Phòng Quan hệ khách hàng của Ngân hàng. Tháng 11 năm 2009, ông ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn với Vụ Tài chính – Ngân sách của Văn phòng Quốc hội, rồi được tuyển dụng công chức vào Văn phòng Quốc hội, được bổ nhiệm làm Chuyên viên Vụ từ tháng 8 năm 2010. Tháng 1 năm 2015, ông được bổ nhiệm làm Hàm Trưởng phòng của Vụ Tài chính – Ngân sách, phân công làm Thư ký Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Phùng Quốc Hiển. Sang tháng 7 năm 2016, ông được nâng hàm Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính – Ngân sách, là Thư ký Phó Chủ tịch Quốc hội Phúng Quốc Hiển khi chính trị gia này được bầu tại Quốc hội khóa XIV. Ông được nâng ngạch Chuyên viên chính từ tháng 1 năm 2017, được điều chuyển làm Phó Vụ trưởng Vụ Thông tin, Văn phòng Quốc hội từ tháng 4 năm 2021.
Năm 2021, Nguyễn Thành Trung được Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Yên Bái, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 1 gồm thành phố Yên Bái, huyện Yên Bình, Trấn Yên, Lục Yên, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 90,12%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên chuyên trách Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội. |
Nguyễn Quốc Luận (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1975) là Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Yên Bái, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, Đại biểu Quốc hội khóa XV từ Yên Bái. Ông từng là Trưởng Ban Tài chính – Ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái; Chánh Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái.
Nguyễn Quốc Luận là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Cử nhân Kinh tế đầu tư, Kinh tế chính trị, Thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Cao cấp lý luận chính trị. Ông có sự nghiệp đều công tác ở quê nhà Yên Bái.
Xuất thân và giáo dục.
Nguyễn Quốc Luận sinh ngày 29 tháng 10 năm 1975 tại xã Tân Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông 12/12 ở Văn Chấn, theo học đại học ở Hà Nội và có hai bằng đại học gồm Cử nhân Kinh tế đầu tư và Cử nhân Kinh tế chính trị, sau đó tiếp tục học cao học và nhận bằng Thạc sĩ Quản trị kinh doanh. Ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 27 tháng 2 năm 2007, trở thành đảng viên chính thức sau đó 1 năm, từng theo học các khóa chính trị ở Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và tốt nghiệp Cao cấp lý luận chính trị. Hiện ông thường trú ở phường Minh Tân, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái.
Tháng 11 năm 1999, Nguyễn Quốc Luận ký kết hợp đồng lao động với Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái, là cán bộ hợp đồng của Phòng Công nghiệp – Dịch vụ. Đến tháng 2 năm 2003, ông được điều sang Phòng Đăng ký kinh doanh và đổi mới doanh nghiệp của Sở, tiếp tục là cán bộ hợp đồng, cho đến tháng 9 năm này thì được tuyển dụng công chức vào Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái. Tháng 11 cùng năm, ông được phân công làm chuyên gia tư vấn cho Dự án Chia sẻ huyện Văn Chấn thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái, cho đến tháng 2 năm 2005 thì được bổ nhiệm làm Chuyên viên Phòng Kinh tế đối ngoại của Sở, kiêm Điều phối viên của Ban Thư ký Dự án Chia sẻ tỉnh Yên Bái. Tháng 1 năm 2006, ông được thăng chức Phó Trưởng phòng Kinh tế đối ngoại, kiêm Phó Giám đốc Ban Thư ký Dự án Chia sẻ tỉnh Yên Bái, sau đó 2 năm thì được điều chuyển làm Chánh Thanh tra Sở, thêm 2 năm nữa cho đến tháng 8 năm 2010 thì trở lại Phòng Kinh tế đối ngoại làm Trưởng phòng. Tháng 7 năm 2021, ông trúng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái khóa XVII, nhiệm kỳ 2011–2016;, nhậm chức Phó Trưởng ban chuyên trách Ban Kinh tế – Ngân sách.
Tháng 8 năm 2014, Nguyễn Quốc Luận được bổ nhiệm làm Chánh Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân tỉnh Yên Bái, vẫn kiêm nhiệm vị trí Phó Trưởng Ban Kinh tế – Ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh. Tháng 7 năm 2016, khi văn phòng dân cử được điều chỉnh, ông nhậm chức Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân tỉnh, đến tháng 1 năm 2019 thì một lần nữa điều chuyển và giữ chức Phó Chánh Văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái. Tháng 3 năm 2019, ông được phê chuẩn làm Trưởng Ban Kinh tế – Ngân sách Hội đồng nhân dân tỉnh, và là Bí thư Chi bộ Đại biểu Hội đồng nhân dân chuyên trách. Vào tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020–2025, ông được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh. Năm 2021, ông được Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh giới thiệu tham gia ứng cử đại biểu quốc hội từ Yên Bái, bầu cử ở đơn vị bầu cử số 2 gồm thị xã Nghĩa Lộ, huyện Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Yên, rồi trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa XV với tỷ lệ 94,48%. Ngày 21 tháng 7 năm 2021, ông được phê chuẩn làm Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và Phó Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội chuyên trách tỉnh Yên Bái.
! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước |
Thiên hà xoắn ốc lùn
Thiên hà xoắn ốc lùn là phiên bản lùn của thiên hà xoắn ốc. Các thiên hà lùn được đặc trưng là có độ sáng thấp, đường kính nhỏ (dưới 5 kpc), độ sáng bề mặt thấp và lượng hydro thấp. Các thiên hà này có thể được coi là một phân lớp của các thiên hà có độ sáng bề mặt thấp.
Các thiên hà xoắn ốc lùn, đặc biệt là các thiên hà lùn tương tự các thiên hà xoắn ốc loại Sa-Sc, là khá hiếm. Ngược lại, các thiên hà elip lùn, thiên hà vô định hình và phiên bản lùn của các thiên hà xoắn ốc Magellanic (có thể được coi là chuyển tiếp giữa xoắn ốc và vô định hình về mặt hình thái) là rất phổ biến.
Có ý kiến cho rằng các thiên hà xoắn ốc lùn có thể biến đổi thành các thiên hà elip lùn, đặc biệt là trong môi trường cụm dày đặc. |
Chi Quốc phòng là tổng hợp các khoản chi của một quốc gia nhằm tăng cường khả năng phòng thủ của đất nước, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Phạm vi, quy mô chi quốc phòng chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: sự phát triển kinh tế, tình hình và khả năng huy động bảo đảm cho quốc phòng; những dự báo nguy cơ chiến tranh và nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ đất nước. Mục đích, tính chất, nội dung chi quốc phòng thường chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi chế độ chính trị - xã hội; chủ trương, chính sách, pháp luật của nhà nước về lĩnh vực quốc phòng. Với nhiều quốc gia, chi quốc phòng nhằm mục đích phòng thủ, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, trong khi với nhiều quốc gia, chi quốc phòng chủ yếu nhằm tăng cường khả năng quân sự, thực hiện mục đích xâm lược, can thiệp, chi phối các quốc gia khác.
Chi quốc phòng gồm chi cho công tác quốc phòng theo nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng và chi cho công tác quốc phòng ở các cơ quan Trung ương và các địa phương.
Nội dung chủ yếu của chi quốc phòng gồm: chi để duy trì hoạt động thường xuyên của lực lượng vũ trang; chi về huấn luyện quân sự và giáo dục quốc phòng; chi về đào tạo, nghiên cứu khoa học, kỹ thuật quân sự; chi về bảo quản, sửa chữa, mua sắm thiết bị kỹ thuật quân sự; chi xây dựng các công trình quốc phòng; chi phát triển công nghiệp quốc phòng; chi bảo đảm các chế độ, chính sách trong các quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
Mức chi quốc phòng được tính toán dựa trên nhu cầu bảo đảm cho nhiệm vụ quốc phòng nhưng lại phụ thuộc rất lớn vào tiềm lực kinh tế được thể hiện trực tiếp ở nguồn ngân sách mà nền kinh tế có thể huy động được để đáp ứng các nhu cầu chiến tranh và quốc phòng. Hằng năm, để duy trì sức mạnh quân sự và thực hiện chiến lược quân sự của mình, các nước trên thế giới dành ra 1-4% tổng sản phẩm trong nước (GDP) cho quốc phòng.
Một số nước chi quốc phòng cao như: Hoa Kỳ, Nga, Hàn Quốc, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản chi khoảng 6% GDP. Các nước ASEAN duy trì mức chi quốc phòng trung bình khoảng 2,1% GDP; một số nước có mức chi quốc phòng cao như: Singapore, Indonesia, Thái Lan chi khoảng 4% GDP.
So với chi phát triển kinh tế, sản xuất kinh doanh, chi quốc phòng có tính chất phức tạp, nội dung chi phong phú, đa dạng do nhiều cấp, nhiều ngành thực hiện, chi phí cho hoạt động quốc phòng thường không kết tinh ở những vật phẩm cụ thể như trong lĩnh vực hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh; chi phí có thể dự kiến tính toán được cho từng nhiệm vụ cụ thể nhưng dung sai lớn; chi phí có phần có thể lượng hóa chính xác và xác định được đơn vị tính, có phần khó hoặc không thể lượng hóa chính xác; kết quả của hoạt động quốc phòng thường khó hoặc không làm được việc tính toán, lượng hóa giá trị. Đặc điểm nêu trên chính là khó khăn cho việc phân tích, bảo đảm tính hiệu quả của chi quốc phòng.
Cần nghiên cứu xác định các tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá mức độ kết quả hoạt động quốc phòng, so sánh với chi phí quốc phòng để thấy hiệu quả chi cao hay thấp, phân tích nguyên nhân và tìm biện pháp nâng cao hiệu quả chi quốc phòng. Mối quan hệ giữa kết quả hoạt động quốc phòng và chi quốc phòng được coi là có hiệu quả trong các trường hợp cơ bản: chi phí ở mức nhất định nhưng kết quả đạt cao nhất; kết quả nhiệm vụ đạt mức nhất định với chi phí thấp nhất; chi quốc phòng tăng nhưng kết quả thực hiện nhiệm vụ quốc phòng tăng ở mức cao hơn; chi quốc phòng giảm, kết quả thực hiện nhiệm vụ cũng giảm nhưng mức giảm ít hơn. Các quốc gia, dù tiềm lực kinh tế ở mức nào đều rất quan tâm tới chi quốc phòng và hiệu quả chi quốc phòng. |
Chuẩn bị hậu cần
Chuẩn bị hậu cần là tổng thể các hoạt động, biện pháp chuẩn bị về kế hoạch, tiềm lực, lực lượng, thế trận hậu cần, cơ sở vật chất kĩ thuật, hậu cần, tổ chức chỉ huy, điều hành hậu cần để sẵn sàng bảo đảm kịp thời, đầy đủ cho lực lượng vũ trang tác chiến trong mọi tình huống; là một bộ phận của chuẩn bị quân sự. Chuẩn bị hậu cần là một trong những nhiệm vụ cơ bản và là nguyên tắc bảo đảm hậu cần trong tác chiến, là cơ sở tiến hành các mặt bảo đảm hậu cần cho lực lượng vũ trang hoạt động tác chiến. Thực hiện tốt việc chuẩn bị hậu cần sẽ góp phần quan trọng bảo đảm cho tác chiến thắng lợi.
Chu đáo, toàn diện; tích cực, chủ động, thường xuyên chuẩn bị sẵn sàng, lấy bảo đảm cho tác chiến thắng lợi làm mục tiêu.
Chuẩn bị hậu cần được tiến hành theo 2 giai đoạn: giai đoạn chuẩn bị trước từ thời bình và giai đoạn chuẩn bị trực tiếp khi có tình huống chiến tranh.
Nội dung cơ bản gồm: chuẩn bị kế hoạch hậu cần; chuẩn bị lực lượng; chuẩn bị cơ sở vật chất hậu cần; chuẩn bị mạng đường vận tải; chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho chỉ huy, chỉ đạo, điều hành hậu cần và bảo vệ hậu cần để bảo đảm cho tác chiến.
Cơ quan chỉ huy hậu cần.
Trong tác chiến, từ cấp trung đoàn và tương đương trở lên có tổ chức cơ quan chỉ huy hậu cần, do vậy cần chuẩn bị cho cơ quan chỉ huy hậu cần có công sự vững chắc, tổ chức bảo vệ chặt chẽ, duy trì nghiêm kỉ luật bảo mật phòng gian; giữ vững liên lạc thường xuyên , với cơ quan hậu cần cấp trên, cấp dưới, với các đơn vị bạn và địa phương; hiệp đồng chặt chẽ với các cơ sở và đơn vị hậu cần thuộc quyền; chuẩn bị vị trí chính thức và vị trí dự bị cho chỉ huy hậu cần bảo đảm chỉ huy, chỉ đạo chính xác, kịp thời, tập trung, liên tục, chặt chẽ.
Ngay từ thời bình, hậu cần các cấp, các đơn vị phải chuẩn bị bảo đảm cho các nhiệm vụ theo quy định. Khi chiến tranh xảy ra, căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu tác chiến của đơn vị và quyết tâm tác chiến của người chỉ huy để điều chỉnh, bổ sung hoàn chỉnh các mặt chuẩn bị hậu cần. Trong quá trình chuẩn bị hậu cần phải kết hợp và hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng hậu cần trên địa bàn tác chiến, giữa hậu cần chủ lực cơ động với hậu cần khu vực phòng thủ địa phương, giữa hậu cần cấp trên với hậu cần cấp dưới và cùng cấp; phân công, phân cấp cụ thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong chuẩn bị và bảo đảm hậu cần.
Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt Nam, vấn đề chuẩn bị hậu cần luôn được quan tâm cùng với chuẩn bị các mặt bảo đảm cho lực lượng vũ trang chiến đấu.
Trong thời kì phong kiến, các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc, các thủ lĩnh nghĩa quân đã rất quan tâm tới việc chuẩn bị hậu cần, bảo đảm cho các lực lượng tham gia đánh giặc, như:
Trong kháng chiến chống Pháp, từng trận chiến đấu, từng chiến dịch, cùng với chuẩn bị tác chiến, ta đã thực hiện tốt việc chuẩn bị hậu cần. Trong những chiến dịch nhỏ (từ năm 1947 đến giữa năm 1950), nội dung chuẩn bị hậu cần gồm tổ chức thu mua lương thực, thực phẩm và huy động dân công vận chuyển đến địa bàn chiến dịch, thời gian chuẩn bị khoảng 2-3 tháng. Đến các chiến dịch lớn (từ giữa năm 1950), chuẩn bị hậu cần gồm nhiều nội dung và thực hiện 2 bước: chuẩn bị trước và chuẩn bị trực tiếp. Khi chiến dịch được xác định trên một chiến trường mới, Tổng cục Cung cấp và các địa phương tiến hành công tác chuẩn bị: mở đường, sửa đường, chuẩn bị và huy động nhân lực, chuẩn bị lương thực, thực phẩm, kho tàng, thời gian chuẩn bị khoảng 4-6 tháng. Khi có quyết định chính thức mở chiến dịch, cơ quan hậu cần chiến dịch được thành lập làm công tác triển khai lực lượng, kho tàng, quân y, tổ chức vận chuyển vật chất vào khu vực tập kết chiến dịch, chiến đấ, thời gian khoảng 1-2 tháng.
Trong kháng chiến chống Mỹ, chuẩn bị hậu cần chiến dịch cũng chia làm 2 bước: chuẩn bị trước từ khi có phương án chiến dịch và chuẩn bị trực tiếp khi nhiệm vụ và kế hoạch tác chiến đã được xác định. Nội dung chuẩn bị trước gồm khảo sát, nghiên cứu đường vận chuyển, khả năng khai thác nhân lực, vật lực tại chỗ. Nội dung chuẩn bị trực tiếp gồm việc triển khai các căn cứ hậu cần chiến dịch, tổ chức dự trữ vật chất và tiến hành mọi công tác bảo đảm tại các căn cứ, bảo đảm cho lực lượng chiến dịch vào tập kết, sẵn sàng bảo đảm cho tác chiến. Thời gian chuẩn bị trước thường kéo dài 2-4 tháng, chuẩn bị trực tiếp thường 1-2 tháng. Đến cuối cuộc kháng chiến, do đã có điều kiện tổ chức và chuẩn bị chiến trường trước, các bước chuẩn bị hậu cần được rút ngắn; như ở Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh (1968), thời gian chuẩn bị 3 tháng, trong đó chuẩn bị trực tiếp gần 2 tháng; Chiến dịch Hồ Chí Minh (1975), thời gian chuẩn bị gần 1 tháng nhưng hậu cần vẫn bảo đảm đầy đủ và kịp thời cho tác chiến thắng lợi.
Chuẩn bị hậu cần có mối quan hệ chặt chẽ với chuẩn bị kỹ thuật và chuẩn bị tác chiến. Căn cứ vào nhiệm vụ, yêu cầu, nội dung chuẩn bị tác chiến để chuẩn bị hậu cần và chuẩn bị kỹ thuật cho phù hợp. Hậu cần và kỹ thuật là 2 ngành đan xen nhau trong quá trình chuẩn bị và bảo đảm cho tác chiến. Phương tiện vận tải và một số phương tiện khác của hậu cần (như phương tiện xây dựng, làm đường, phương tiện y tế...) muốn hoạt động tốt đòi hỏi phải thường xuyên chuẩn bị tốt về mặt kĩ thuật. Mặt khác, các loại vật chất kỹ thuật muốn được chuyển kịp thời, đầy đủ cho các lực lượng tác chiến phải thông qua hoạt động của công tác vận tải.
Trong chiến tranh tương lai, việc chuẩn bị hậu cần sẽ ngày càng hoàn thiện. Quân đội các nước sẽ áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến vào chuẩn bị hậu cần. Việc điều chỉnh, bổ sung lực lượng, phương tiện, vật chất hậu cần sẽ được lập trình sẵn, môđun hóa, bảo đảm nhanh chóng và độ chính xác cao; tự động hóa chỉ huy hậu cần ngày càng hoàn thiện. |
Cut Meutia là dịch vụ tàu hỏa chở hành khách hiện đang hoạt động ở huyện Bắc Aceh, tỉnh Aceh, Indonesia. Nó bắt đầu vào năm 2016 và hiện chỉ phục vụ ba ga đường sắt trong huyện, với kế hoạch mở rộng ra ba nhà ga khác. Đây là dịch vụ tàu hỏa đang hoạt động duy nhất ở Indonesia chạy trên đường ray khổ tiêu chuẩn 1,435 mm và là dịch vụ tàu hỏa hoạt động duy nhất ở Aceh.
Đường sắt hoạt động ở Aceh từ thời Đông Ấn Hà Lan, nối Banda Aceh với Langkat ở Bắc Sumatra. Tuy nhiên, tuyến đã ngừng hoạt động vào năm 1982, khiến Aceh không có dịch vụ tàu hỏa hoạt động và các nhà ga và đường sắt có dấu hiệu xuống cấp. Năm 1996, nỗ lực phát triển đường ray giữa Langkat và biên giới tỉnh Aceh dừng lại do khó khăn về kinh phí sau khi lắp đặt 2 km đường ray. Một đoạn khác dài 5 km được phát triển vào năm 2000, nhưng một lần nữa quá trình phát triển buộc dừng lại do thiếu nguồn tài chính.
Năm 2002, một thỏa thuận được ký kết giữa các thống đốc ở Sumatra nhằm quy hoạch lại mạng lưới đường sắt xuyên Sumatra, nối Aceh với các thành phố khác trên đảo. Sau trận động đất và sóng thần năm 2004, viện trợ tái thiết từ Pháp được chuyển đến thông qua SNCF; điều này bao gồm việc phát triển một đoạn đường ray dài theo khổ tiêu chuẩn 1.435 mm thay vì khổ 1.067 mm được sử dụng ở những nơi khác tại Indonesia. Chạy thử nghiệm bắt đầu vào ngày 1 tháng 12 năm 2013, với các tuyến đường từ Krueng Mane gần Bireuën đến Krueng Geukueh gần Lhokseumawe qua Bungkaih. Do thiếu hành khách, cuộc thử nghiệm bị tạm dừng vào tháng 7 năm 2014.
Vào ngày 3 tháng 11 năm 2016, dịch vụ được mở lại và đặt tên là "Cut Meutia" theo tên nữ anh hùng dân tộc #đổi . Kereta Api Indonesia điều hành dịch vụ. Tính đến năm 2023, nó được phân loại là dịch vụ "mở đường", một trong năm tuyến đang hoạt động tại Indonesia vào thời điểm đó. Đây hiện là đoạn đường sắt duy nhất đang hoạt động trong tỉnh, và là đoạn duy nhất trong cả nước chạy trên khổ đường ray 1.435 mm.
Mở rộng tương lai.
Quá trình phát triển đang được tiến hành trên phần mở rộng của dịch vụ đến các nhà ga Kutablang và Geurugok đã hoàn thành ở huyện Bireuën. Một phần mở rộng khác đến Paloh đang trong giai đoạn lập kế hoạch. Trong bối cảnh phát triển toàn bộ hệ thống xuyên Sumatra, đường ray 1.435 mm được lên kế hoạch để đáp ứng đường ray 1.067 mm quốc gia tại Kutablang và kế hoạch phát triển đường sắt 1.435 mm sẽ được giới hạn ở tuyến đường Kutablang – Lhokseumawe tách rời từ tuyến tàu chính.
Đầu máy toa xe và dịch vụ.
Tàu hỏa có hai toa với sức chứa 192 hành khách, toàn bộ chuyến đi kéo dài trong 32 phút. Đầu máy toa xe diesel sản xuất bởi PT INKA.
Kể từ năm 2022, giá vé tàu là 2.000 Rupiah, với nhiều chuyến mỗi ngày vào buổi sáng và buổi chiều. Do giá vé thấp và quãng đường di chuyển ngắn, nó thường được người dân địa phương sử dụng như một phương tiện giải trí, đặc biệt là học sinh. Dịch vụ này hiện được chính phủ Indonesia trợ cấp, nhận được 18,8 tỷ Rp (~ 1,2 triệu USD) vào năm 2021. Dịch vụ báo cáo có 32.936 hành khách trong năm 2022. |
Chuẩn bị hậu phương
Chuẩn bị hậu phương là tổng thể các hoạt động và biện pháp chuẩn bị mọi mặt về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, khoa học công nghệ... của đất nước nhằm xây dựng, củng cố tiềm lực về mọi mặt, sẵn sàng huy động nhân lực, tài lực, vật lực cho chiến tranh và tiếp tục được chuẩn bị trong suốt quá trình chiến tranh, do các bộ, ngành của Trung ương và các địa phương phối hợp với lực lượng vũ trang theo một ý định, kế hoạch thống nhất, dưới sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ.
Các nước trên thế giới.
Chuẩn bị hậu phương là một việc làm cần thiết của mỗi quốc gia, tùy theo tình hình cụ thể của mỗi nước để tiến hành chuẩn bị hậu phương cho phù hợp. Ở Liên Xô, trong chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941-1945), để chuẩn bị sẵn sàng đối phó với chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít, Đảng cộng sản và nhân dân Liên Xô đã chủ động chuẩn bị hậu phương về mọi mặt, đẩy mạnh sản xuất phát triển, tăng cường nguồn dự trữ quốc gia và dự trữ động viên; chuẩn bị các loại nguyên liệu dự trữ quốc gia và dự trữ động viên, các loại nguyên liệu chiến lược, nhiên liệu và các vật tư khác. Từ tháng 1.1939 đến tháng 1.1941, các nguồn dự trữ quốc gia và dự trữ động viên tăng nhiều: về gang gấp 5 lần, thép lá gấp 2 lần, đồng hơn 2 lần, kẽm 2,2 lầ(21.6.1941), tổng trị giá dự trữ vật chất quốc gia tăng gần gấp đôi, đạt 7,6 tỉ rúp. Bên cạnh đó, nền công nghiệp quốc phòng đã phát triển mạnh: về sản xuất máy bay, năm 1940 mới trang bị lại cho không quân được 86 máy bay các loại, đến nửa đầu năm 1941 đã tăng lên 2.653 chiếc; về sản xuất xe tăng, trong thời kì 1930-39 số lượng xe tăng đã tăng lên 43 lần. Chỉ tính riêng 6 tháng đầu năm 1941 đã sản xuất 1.503 xe tăng các loại (T-34 và 393 K.V). Trong vòng 5 năm (1934-38), số lượng pháo tăng 225%... Trình độ sản xuất vũ khí bộ binh trong những năm đầu chiến tranh đã hoàn toàn đáp ứng những nhu cầu của Quân đội Liên Xô. Năm 1940-41 đã chế tạo được súng chống tă: năm 1940 năng suất trung bình của tất cả các loại ngũ cốc đã tăng 8,6 tạ/ha, tổng thu hoạch đã đạt 96,6 triệu tấn; đến ngày 1.1.1941, cả nước đã có 54,8 triệu đầu súc vật lớn, gia súc nuôi lấy thị, phương tiện, vật chất bảo đảm cho Hồng quân đánh bại kẻ thù.
Ở Việt Nam, khái niệm chuẩn bị hậu phương đã có từ rất sớm và đã trở thành kinh nghiệm và truyền thống trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. Trong cuộc chiến chống quân Nam Hán lần thứ hai với chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền đã tích cực chiêu mộ nhân dân phát triển sản xuất. Trong quá trình chuẩn bị kháng chiến, Ngô Quyền đã rất chú trọng xây dựng lực lượng thủy quân, sửa chữa, đóng mới và huy động nhiều thuyền phục vụ quân đội.
Đến thời Nhà Trần thế kỷ 13, Trần Quốc Tuấn đã đề xuất kế sách giữ nước lâu dài là “khoan thư sức dân để làm kế sâu gốc, liền rễ, đó là thượng sách để giữ nước”. Trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên (1258 và 1285), Nhà Trần đã chuẩn bị hậu phương chu đáo, thực hiện nhiều chính sách, biện pháp bồi dưỡng sức dân, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo nên sự gắn bó giữa triều đình với nhân dân.
Thời Tây Sơn thế kỷ 18, Nguyễn Huệ sau khi giành chiến thắng trong các cuộc chiến tranh, tiếp tục củng cố hậu phương, cho phân chia lại ruộng đất của người giàu cho dân nghèo, ra lệnh tịch thu ruộng đất vắng chủ để tạm cấp và mở mang nội - ngoại thương, cải tiến văn tự, khuyến khích học tập, nhằm củng cố hậu phương vững mạnh.
Trong kháng chiến chống Pháp, ở miền Bắc VN cùng với việc chuẩn bị cơ sở vật chất ở các vùng tự do, căn cứ Việt Bắc được mở rộng và củng cố, nhiều tuyến đường ô tô được sửa chữa lại và mở thêm. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhân dân ta đã đẩy mạnh xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trở thành hậu phương lớn của cả nước, cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, đồng thời kết hợp xây dựng và củng cố hậu phương tại chỗ cũng như các căn cứ kháng chiến ở miền Nam. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, việc chuẩn bị hậu phương được tiến hành từng bước, từ thời bình trên phạm vi cả nước, với sự tham gia của toàn dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo điều hành theo một kế hoạch thống nhất của Nhà nước.
Chu đáo, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, thực hiện theo thứ tự ưu tiên, bám sát yêu cầu, nhiệm vụ và tình hình thực tiễn của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa chuẩn bị hậu phương quốc gia với chuẩn bị hậu phương chiến lược, chiến dịch và hậu phương tại chỗ, sẵn sàng huy động mọi nguồn lực cho tiền tuyến khi xảy ra chiến tranh.
Nội dung của chuẩn bị hậu phương gồm: chuẩn bị tiềm lực chính trị, chuẩn bị về quân sự - an ninh, chuẩn bị về kinh tế, chuẩn bị khoa học, công nghệ.
Chuẩn bị hậu phương được tiến hành cơ bản từ thời bình và tiếp tục bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện trong quá trình chiến tranh; một nội dung của công tác quốc phòng, góp phần quan trọng tạo thế và lực vững chắc để bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân, sẵn sàng chuyển nền kinh tế của đất nước sang thời chiến và duy trì sản xuất trong chiến tranh. Đồng thời, sẵn sàng huy động nhân lực, vật lực, tài lực bảo đảm cho lực lượng vũ trang tác chiến trong mọi tình huống.
Trong chiến tranh tương lai (nếu xảy ra), đối phương có thể sẽ sử dụng rộng rãi vũ khí công nghệ cao và chú trọng đánh phá ác liệt hậu phương của ta ngay từ những ngày đầu, tháng đầu chiến tranh. Do vậy, Nhà nước cần có kế hoạch và chỉ đạo, điều hành chặt chẽ việc thực hiện chuẩn bị hậu phương từng bước, theo phân cấp cho phù hợp để đáp ứng kịp thời với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. |
Chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh
Chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh là tổng thể các kế hoạch, giải pháp và hoạt động thực tiễn mà một quốc gia (hoặc một nhóm quốc gia) tiến hành để xây dựng và phát triển tiềm lực kinh tế quân sự, sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu khi có chiến tranh. Đây là một hoạt động thường xuyên của nhà nước và nhân dân, được tiến hành ngay từ thời bình; là quá trình tập trung mọi nguồn lực để đẩy nhanh phát triển tiềm lực kinh tế và tiềm lực kinh tế quân sự của nhà nước với một cơ cấu hợp lí nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế quân sự tăng lên nhanh chóng cả về trình độ công nghệ, số lượng và chủng loại sản phẩm khi đất nước có chiến tranh. Đây cũng là quá trình tạo ra những tiền đề cần thiết ngay từ trong thời bình để chuyển tiềm lực kinh tế thành tiềm lực kinh tế quân sự một cách có hiệu quả, duy trì sức sống và tính cơ động của nền kinh tế, bảo đảm cho cả sản xuất dân sự và sản xuất quân sự đều ổn định và phát triển trong điều kiện đất nước có chiến tranh. Chuẩn bị kinh tế có vị trí rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị đất nước cho chiến tranh, là hoạt động tất yếu không thể thiếu đối với một nước trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Trọng tâm của chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh là xây dựng và phát triển tiềm lực kinh tế quân sự của đất nước.
Đặc điểm trên thế giới.
Cơ sở để tiến hành chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh gồm:
Chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh là vấn đề có tính quy luật đối với tất cả các quốc gia, dân tộc khi còn tồn tại giai cấp, nhà nước, chiến tranh và quốc phòng. Tuy nhiên, ở các nước có chế độ xã hội khác nhau thì bản chất, mục đích chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh khác nhau.
Trọng tâm của chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh là xây dựng và phát triển tiềm lực kinh tế quân sự của đất nước. Ngoài ra, còn bao gồm các nội dung về phòng thủ kinh tế, chuẩn bị đối phó với các tình huống chiến tranh kinh tế như bao vây, cấm vậ, các thể chế nhà nước trong quản lí và điều hành nền kinh tế khi xảy ra chiến tranh.
Nội dung cơ bản của chuẩn bị kinh tế cho chiến tranh gồm: xây dựng cơ cấu tiềm lực kinh tế quân sự hợp lí; nâng cao tính cơ động và sức sống của nền kinh tế, bảo đảm duy trì khả năng hoạt động của nền kinh tế trong chiến tranh; mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quân sự. |
Trong lý thuyết số, Giả thuyết Polignac được đề xuất bởi Alphonse de Polignac trong 1849 và được phát biểu như sau:
Cho bất kỳ số chẵn "n", có vô số khoảng cách số nguyên tố kích thước "n". Nói cách khác: có vô số cặp số nguyên tố có khoảng cách giữa chúng bằng với "n".
Mặc dù giả thuyết chưa được chứng minh hay phản chứng cho một giá trị "n" cụ thể, nhưng trong 2013, đã có tiến bộ lớn trong quá trình chứng minh. Trong năm đó, Zhang Yitang đã chứng minh có vô số khoảng cách số nguyên tố có kích thước "n" cho một số "n" 70,000,000. Trong cùng năm đó và sau Zhang, James Maynard thông báo kết quả mới chứng minh rằng có vô số khoảng cách số nguyên tố nhỏ hơn hoặc bằng với.Vào ngày 14 tháng tư năm 2014, một năm sau kết quả của Zhang, theo wiki của dự án Polymath, "n" đã rút gọn còn 246. Hơn nữa, nếu giả định giả thuyết Elliott–Halberstam và dạng tổng quát của nó, thì trang wiki của dự án Polymath nói rằng "n" sẽ rút gọn chỉ còn 12 và 6, tương ứng.
Đối với "n" = 2, nó là giả thuyết số nguyên tố sinh đôi. Đối với "n" = 4, nó là giả thuyết có vô số số nguyên tố họ hàng ("p", "p" + 4). Đối với "n" = 6, nó là giả thuyết có vô số số nguyên tố sexy ("p", "p" + 6) và không có số nguyên tố nằm giữa "p" và "p" + 6.
Giả thuyết Dickson tổng quát hóa giả thuyết Polignac cho mọi tổ hợp tuyến tính của số nguyên tố.
Phỏng đoán mật độ.
Đặt formula_1 cho "n" chẵn là số khoảng cách số nguyên tố kích thước "n" và nằm dưới "x".
Giả thuyết Hardy–Littlewood đầu tiên phát biểu rằng mật độ tiệm cận của nó có dạng
trong đó "C""n" là hàm của "n", và formula_3 nghĩa là thương của hai biểu thức tiến dần đến 1 khi "x" tiến đến vô cực.
"C"2 là hằng số của số nguyên tố sinh đôi
trong đó tích này tiếp tục mở rộng trên tất các số nguyên tố "p" ≥ 3.
"Cn" là tích của "C"2 và một số khác dựa trên các ước nguyên tố lẻ "q" của "n":
Ví dụ chẳng hạn, "C"4 = "C"2 và "C"6 = 2"C"2. Số nguyên tố sinh đôi có cùng mật độ theo phỏng đoán với số nguyên tố họ hàng, và bằng một nửa của mật độ của các số nguyên tố sexy. |
Công nghiệp Quốc phòng
Công nghiệp Quốc phòng là bộ phận của kinh tế quân sự, có chức năng sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị và sản xuất các vật tư, trang bị hậu cần cần thiết cho lực lượng vũ trang. Công nghiệp Quốc phòng gồm các nhà máy, xí nghiệp quốc phòng và các cơ sở nghiên cứu khoa học công nghệ. Sự phát triển công nghiệp Quốc phòng phụ thuộc vào chế độ chính trị, tình hình kinh tế, xã hội, sự phát triển khoa học công nghệ của mỗi nước. Công nghiệp Quốc phòng còn sản xuất sản phẩm dân dụng.
Xét trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, công nghiệp Quốc phòng là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Xét trên phạm vi ngành, công nghiệp Quốc phòng là một bộ phận của công nghiệp quốc gia. Công nghiệp Quốc phòng là ngành công nghiệp thiết yếu không chỉ với quốc phòng, an ninh, mà có mối quan hệ hữu cơ, tác động không nhỏ đối với phát triển khoa học và công nghệ cũng như nền kinh tế. Do chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân mà nhiều nước coi công nghiệp Quốc phòng là một ngành ưu tiên đặc biệt, tập trung đầu tư và triển khai chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ mũi nhọn, vừa đáp ứng nhu cầu quốc phòng, an ninh, vừa góp phần phát triển kinh tế, xã hội cả trong thời bình và thời chiến. Sự tham gia của công nghiệp Quốc phòng vào sản xuất và xuất khẩu sản phẩm dân dụng đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.
Công nghiệp quốc phòng trên thế giới.
Công nghiệp Quốc phòng tại Nga.
Nước Nga, sau chiến tranh lạnh, kế thừa thành tựu của Liên Xô, chú trọng đầu tư phát triển công nghiệp Quốc phòng theo mô hình và cơ chế mới. Đến nay, công nghiệp Quốc phòng Nga đã phát triển mạnh, đáp ứng được nhu cầu quốc phòng trong nước và xuất khẩu lượng lớn vũ khí, trang bị hiện đại. Nga được kế thừa tổ hợp công nghiệp Quốc phòng Liên Xô với 6 đặc điểm:
Sau khi Liên Xô tan rã, Nga chuyển sang nền kinh tế thị trường, có sự quản lí của nhà nước, nên cơ chế quản lí nhà nước đối với tổ hợp công nghiệp Quốc phòng cũng có sự thay đổi. Hiện nay, cơ cấu tổ chức của tổ hợp công nghiệp Quốc phòng Nga gồm 4 thành phần chủ yếu: cơ quan lập pháp (Quốc hội, Hội đồng Liên bang và Tổng thống Nga), cơ quan hành pháp (Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban các vấn đề về tổ hợp công nghiệp Quốc phòng, Bộ Quốc phòng và một số cơ quan liên ), giới công nghiệp (các tập đoàn, công ti, xí nghiệp công nghiệp Quốc phòng), các lực lượng vũ trang.
Quy mô của tổ hợp công nghiệp Quốc phòng Nga rất đa dạng, bao gồm: vũ khí hạt nhân, công nghiệp hàng không - vũ trụ, công nghiệp hàng không và công nghiệp đóng tàu quân sự, công nghiệp tăng - thiết giáp, sản xuất vũ khí bộ binh và đạn dược, sản xuất vũ khí pháo , sự quản lí của nhà nước giữ vai trò quan trọng hàng đầu.
Để duy trì vai trò quản lí của nhà nước, Nga tổ chức Cục Vũ khí, Trang bị, có nhiệm vụ xây dựng các chính sách quốc gia về công nghiệp Quốc phòng, bảo đảm thực hiện các chương trình nghiên cứu, phát triển tiềm lực công nghệ, thực hiện các quy định của nhà nước đối với các xí nghiệp công nghiệp Quốc phòng (nghiên cứu, phát triển, sản xuất, sửa chữa lớn và nâng cấp hoặc loại khỏi biên chế: xe thiết giáp, vũ khí pháo binh, các hệ thống tên lửa, hệ thống vũ khí điều khiển chính xác cao, đạn dược, vũ khí cỡ nhỏ và các trang thiết bị quân sự khác).
Đến năm 2014, với khoảng 1.200 xí nghiệp và tổ chức công nghiệp Quốc phòng bố trí ở 70 khu vực trên toàn quốc, tổ hợp công nghiệp Quốc phòng Nga chiếm ưu thế lớn trong tổng số sản phẩm công nghệ cao của quốc gia (chiếm 100% sản phẩm công nghệ cao thuộc các lĩnh vực công nghệ: hàng không, vũ trụ, quang học, điện tử, vật liệu nổ công nghiệp; chiếm 90% trong lĩnh vực đóng tàu, thiết bị điện tử; chiếm 70% trong lĩnh vực thông tin liên lạc).
Nga đang nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sản xuất công nghiệp Quốc phòng thuộc diện “độc nhất vô nhị” trên thế giới, thông qua việc cho ra đời các loại vũ khí, trang bị có tính năng chiến - kĩ thuật rất độc đáo không thể sao chép hay bắt chước hoàn toàn, điển hình là các loại máy bay chiến đấu có khả năng cơ động cao, như Su-27, Su-30, Su-35; tên lửa phòng không S-300, S-400, S-500; tên lửa đạn đạo chiến dịch, chiến thuật “Iskander”; tên lửa đường đạn vượt đại châu tầm bắn 12.000 km đặt trên xe quân sự cơ độ
Các cơ sở công nghiệp Quốc phòng Nga vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong số các quốc gia xuất khẩu vũ khí, trang bị ra thị trường quốc tế: Liên hợp công nghiệp hàng không Almaz-Antey chuyên sản xuất, chế tạo các loại tên lửa phòng không; Liên hợp xí nghiệp công nghiệp liên bang Uralvagonzavod nổi tiếng về sản xuất xe tăng T-72S và T-90S; Tổng công ti công nghiệp Oboronprom chuyên sản xuất máy bay trực thăng và phương tiện phòng, chống tên lửa; Công ti Irkut chế tạo thủy phi cơ Be-200; Công ti Sukhoi sản xuất các loại máy bay chiến đấu (tiêm kích, cường kích và tàng hình); Tổng công ti nhà nước Sevmash nghiên cứu, chế tạo và đóng tàu ngầm hạt nhân nguyên tử...
Công nghiệp Quốc phòng tại Mỹ.
Thời kì đầu (1787-1941), công nghiệp Quốc phòng bao gồm chủ yếu là các công ti vũ khí và xưởng đóng tàu do nhà nước sở hữu. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất xảy ra, một số công ti tư nhân đã tham gia vào sản xuất một số mặt hàng quân sự; đầu thế kỷ 20, chi tiêu quốc phòng chỉ khoảng 1% GDP, tăng lên 3% vào những năm 30 của thế kỷ 20.
Thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai, để phục vụ cho chiến tranh, năm 1942 Tổng thống Rudơven (Franklin Delano Roosevelt) thành lập Ủy ban sản xuất cho chiến tranh, đã thu nạp các công ti công nghiệp lớn, nhất là ngành công nghiệp xe hơi; ngân sách quốc phòng tăng lên 40% GDP. Ngành công nghiệp Quốc phòng trở thành ngành công nghiệp lớn nhất nước Mĩ, vượt qua tất cả các nước trên thế giới về quy mô, năng lực và sức mạnh quốc phòng.
Thời kì sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ tiếp tục phát triển ngành công nghiệp Quốc phòng; các tập đoàn công nghiệp lớn như Boeing, General Motors tiếp tục duy trì các phân nhánh quốc phòng, đồng thời chuyển giao công nghệ linh hoạt để vừa sản xuất hàng quốc phòng và hàng dân sự, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Được nhà nước hỗ trợ tài chính, các công ti lớn ATT, General Electric, IBM... đã sáng chế ra nhiều công nghệ mới, như máy bay không người lái, thiết bị nhìn đêm, các sản phẩm công nghệ cao như định vị toàn cầu (GPS), Internet và một số sản phẩm được đưa vào phục vụ đời sống dân sự.
Ngày nay, sự tư nhân hóa cao độ ở mọi mặt trong đời sống kinh tế, xã hội, nhà nước chỉ đóng vai trò là trọng tài, vũ khí, trang bị quân sự trở thành loại hàng hóa công đặc biệt, khách hàng lớn nhất là nhà nước Mĩ. Trong cuộc chiến tranh Côxôvô cuối thế kỷ 20, nhà nước Mĩ đã đặt hàng nền công nghiệp Quốc phòng hàng tỉ đô la để mua khí tài quân sự phục vụ cho cuộc chiến. Trong xu thế toàn cầu hóa ngành công nghiệp Quốc phòng, các mặt hàng quân sự trước đây thuộc độc quyền sản xuất của các công ti Mĩ, thì sang thế kỷ 21 đã được nhiều quốc gia sản xuất, như dự án phát triển máy bay tiêm kích F-35, là sản phẩm được 9 quốc gia xây dựng, cấp vốn và thử nghiệm (gồm Úc, Canada, Đan Mạch, Italia, Hà Lan, Na Uy, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mĩ).
Công nghiệp Quốc phòng tại Trung Quốc.
Thời kì những năm 50, 60 của thế kỷ 20, ngành công nghiệp Quốc phòng vốn được sự giúp đỡ, trang bị của Liên Xô nên ngay sau thời kì giải phóng, hàng loạt các cơ sở công nghiệp Quốc phòng đã được xây dựng ở vùng Đông Bắc Trung Quốc (Hắc Long Giang, Liêu Ninh, Cát Lâm). Những vũ khí, trang bị nổi tiếng thời kì đầu của Trung Quốc như ô tô quân sự Hồng Hà, xe tăng kiểu 59, máy bay tiêm kích J-5, J-6, tên lửa phòng không Hồng Kì-2, đều mang dấu ấn rõ nét của Liên Xô.
Sau một thời gian dài bị đình trệ về công nghệ, kĩ thuật và bị thu nhỏ về quy mô, nền công nghiệp Quốc phòng Trung Quốc đã trải qua quá trình cơ cấu lại một cách sâu rộng, trở nên tinh gọn, có khả năng đáp ứng hiệu quả hơn và tốt hơn các yêu cầu về công nghệ cao của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA). Năm 1982, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Công nghiệp quốc phòng Trung Quốc là một cơ quan ngang bộ bao gồm Ủy ban Khoa học và Công nghệ quốc phòng, Sở Công nghiệp Quốc phòng nhà nước và Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Trang bị thuộc Quân ủy Trung ương, có nhiệm vụ hoạch định chính sách cho mua sắm quốc phòng và có vai trò như một cơ quan chịu trách nhiệm về việc nghiên cứu và phát triển khoa học, công nghệ cho lĩnh vực quân sự.
Năm 1998, có sự tổ chức lại của ngành công nghiệp Quốc phòng Trung Quốc, tiêu điểm chính của việc tổ chức lại là chia tách khối đặt hàng và khối cung ứng ra làm 2 phần tách biệt, bộ phận cung ứng vẫn lấy tên COSTIND.
Tháng 3.2008, COSTIND được hợp nhất vào “siêu bộ” có tên Bộ Công nghiệp và Công nghệ thông tin và vẫn giữ vai trò quản lí nhà nước về khoa học, công nghệ và công nghiệp Quốc phòng. COSTIND được đổi tên thành SASTIND (Cục Quản lí khoa học, Công nghệ và Công nghiệp quốc phòng, States Administration for Science, Technology and Industry for National Defence). Các tổ chức dưới sự quản lí của COSTIND (nay là SASTIND) gồm 5 trường đại học, 2 viện nghiên cứu và 10 tập đoàn kinh tế (Tập đoàn Công nghiệp Hàng không số 1, Tập đoàn Công nghiệp Hàng không số 2, Tập đoàn Công nghiệp Hoa Bắc, Tập đoàn Công nghiệp Hoa Nam, Tập đoàn Công nghiệp đóng tàu Trung Quốc, Tập đoàn Đóng tàu nhà nước Trung Quốc, Tập đoàn Khoa học và Công nghệ Hàng không vũ trụ Trung Quốc, Tập đoàn Điện máy Hàng không vũ trụ Trung Quốc, Tập đoàn Hạt nhân quốc gia Trung Quốc, Tập đoàn Kĩ thuật và Xây dựng Hạt nhân Trung Quốc).
Đến năm 2014, Trung Quốc sản xuất được hầu hết các loại vũ khí, trang bị kĩ thuật hiện đại vừa đáp ứng cho nhu cầu của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc vừa cho xuất khẩu. Tập đoàn Công nghiệp Hoa Bắc (NORINCO) sản xuất hầu như toàn bộ các sản phẩm quân sự cho lục quân Trung Quốc, gồm: các loại xe tăng chiến đấu chủ lực, các loại xe bọc thép chở quân, các hệ thống pháo tự hành, các loại pháo lựu 155 mm, các hệ thống hỏa tiễn phóng loạt, hệ thống tên lửa chống tăng, cối, hệ thống phòng không, các loại vũ khí nhỏ và đạn, các hệ thống điều khiển bắn, các phương tiện công binh…
Công nghiệp Quốc phòng tại Hàn Quốc.
Ngành công nghiệp Quốc phòng Hàn Quốc, trước những năm 70 của thế kỷ 20, chủ yếu nhập khẩu vũ khí, trang bị; sản xuất phụ tùng, linh kiện theo giấy phép của nước ngoài (chủ yếu là của Mĩ). Từ năm 1971, Hàn Quốc thành lập Cục Trang bị quốc phòng (PDA, thuộc BQP). Từ đó, PDA đã góp phần vào việc củng cố và hiện đại hóa các trang bị quân sự của Hàn Quốc. Đến những năm 90 của thế kỷ 20, ngành công nghiệp Quốc phòng Hàn Quốc đã cung cấp được 70% các loại vũ khí, bao gồm các loại đạn, các loại thiết bị thông tin, các loại xe quân sự, các loại quân phục… cho Quân đội Hàn Quốc.
Các công ti quốc phòng của Hàn Quốc thành lập một tổ chức dân sự phi lợi nhuận, với tên gọi Hiệp hội Công nghiệp quốc phòng Hàn Quốc, hoạt động vì mục đích thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp Quốc phòng Hàn Quốc. Các hoạt động chính của Hiệp hội Công nghiệp quốc phòng Hàn Quốc: xây dựng những chính sách để phát triển công nghiệp Quốc phòng; thực thi các chính sách về công nghiệp Quốc phòng đã được chính phủ ban hành; xúc tiến thương mại quốc tế cho ngành công nghiệp Quốc phòng; khảo sát và nghiên cứu trong lĩnh vực thương mại của ngành công nghiệp Quốc phòng; bảo lãnh về tài chính cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và các hợp tác mua bán; xuất bản những tạp chí, ấn phẩm về quốc phòng, khoa học và công nghệ.
Các sản phẩm vũ khí của Hàn Quốc bắt đầu được sản xuất từ năm 1971, khi Bộ Quốc phòng Hàn Quốc xây dựng một dự án lắp ráp loại súng M-16 của Mĩ. Cũng trong những năm 70 của thế kỷ 20, Hàn Quốc đã kí một số thỏa thuận để sản xuất theo giấy phép một số các loại vũ khí theo thiết kế của Mĩ, bao gồm các loại lựu đạn, cối, mìn và các loại súng không giật.
Đến năm 1990, các công ti của Hàn Quốc kí một số hợp đồng sản xuất các loại xe tăng, các loại pháo tự hành và pháo xe kéo, 2 loại xe thiết giáp và 2 kiểu trực thăng. Công ti Hyundai đã sản xuất 88 xe tăng (thường được gọi là K-1) tại Changwon. Xe tăng K-1 là kết quả của sự hợp tác nghiên cứu, thiết kế giữa Quân đội Hàn Quốc và Mĩ, pháo có cùng cỡ nòng 105 mm như loại M48A5, tuy nhiên một số thành phần như hệ thống điều khiển bắn, hệ thống truyền động đã được cải tiến. Công ti Hyundai và các nhà thầu phụ Hàn Quốc đã sản xuất hầu hết các hệ thống này, trong khi Công ti Samsung sản xuất loại pháo lựu tự hành M-109, các công ti Deawoo và Asia Morto đã hợp tác để sản xuất các loại xe bánh lốp và các loại xe bọc thép chở quân.
Trong suốt những năm 70 và 80 của thế kỷ 20, Hàn Quốc đã trở thành nhà sản xuất hàng đầu các loại tàu biển, bao gồm các loại tàu chở dầu cỡ lớn và các giàn khoan dầu. Các nhà đóng tàu chính là Hyundai và Deawoo đã xây dựng được những xưởng rất lớn tại Ulsan và đảo Koje phía nam Pusan vào giữa những năm 80 của thế kỷ 20.
Trong năm 1990, ngành đóng tàu Hàn Quốc đã tự thiết kế 2 chiếc tàu lớn; hợp tác với các công ti của Mĩ, Italia và Đức thiết kế các loại tàu khác nhau. Các sản phẩm của nền công nghiệp Quốc phòng Hàn Quốc được chia theo các lĩnh vực: vũ khí nhỏ và pháo binh, đạn và thuốc nổ, xe quân sự, điện tử truyền thông, máy bay, tàu hải quân.
Hiện nay, ngành công nghiệp Quốc phòng Hàn Quốc có khả năng sản xuất nhiều hệ thống vũ khí thông thường và sản xuất những hệ thống vũ khí hiện đại để tự trang bị và xuất khẩu. Những mũi nhọn của ngành công nghiệp Quốc phòng Hàn Quốc tập trung vào nghiên cứu, chế tạo: các ngành công nghiệp vi điện tử, hàng không vũ trụ, công nghiệp hóa dầu, đóng tàu, chế tạo máy, sản xuất xe tăng, xe thiết giáp, đóng tàu sân , Hàn Quốc đầu tư cho quốc phòng rất lớn, mỗi năm chi khoảng 2,6% GDP cho ngân sách quốc phòng để phát triển khoa học quân sự, huấn luyện, vũ khí, trang bị.
Công nghiệp Quốc phòng tại Ấn Độ.
Ngành công nghiệp Quốc phòng Ấn Độ hiện nay đã có 39 nhà máy, xí nghiệp sản xuất vũ khí và 8 công ti thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất hàng quốc phòng cung cấp trang bị và dự trữ quốc phòng. Ngoài ra, có thể huy động năng lực của khu vực dân sự cho mục tiêu đó. Tất cả 39 nhà máy sản xuất vũ khí của Ấn Độ được chia thành 5 nhóm theo chủng loại sản phẩm: đạn và thuốc nổ, súng, xe cơ giới và trang bị, xe tăng - thiết giáp, khí tài. 8 công ti thuộc sở hữu nhà nước sản xuất hàng quốc phòng bao gồm: Công ti Hàng không vũ trụ Hindustan, Công ti Điện tử Bharat, Công ti Xe máy công trình Bharat, Công ti Đóng tàu Mazagon, Công ti Đóng tàu Garden Reach, Công ti Đóng tàu Goa, Công ti Thuốc nổ Bharat, Công ti Mishra Dhatu Nigam.
Về lĩnh vực nghiên cứu - phát triển, Ấn Độ có Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển quốc phòng, gồm 39 nhà máy quốc phòng và 8 công ti nhà nước. Cơ quan này chịu sự giám sát của Ủy ban Quốc phòng của Quốc hội, Tổng kiểm toán nhà nước. DRDO có cơ sở hạ tầng lớn, 34.000 nhân viên, trong đó có 16.000 nhân viên khoa học kĩ thuật. Cơ quan này điều hành một mạng lưới 52 phòng thí nghiệm, 70 viện nghiên cứu, 50 trung tâm khoa học công nghệ quốc gia, 150 cơ sở công nghiệp nhà nước và tư nhân. Các hoạt động nghiên cứu và phát triển của DRDO gồm: lĩnh vực hàng không, pháo binh, tên lửa, các thiết bị đo đạc và điện tử, các loại xe chiến đấu, công trình, hệ thống hải quân, công nghệ quân sự, nghiên cứu chất nổ, nghiên cứu địa hình, ứng dụng tin học tiên tiến, rôbô
Công nghiệp Quốc phòng tại Đức.
Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, CHLB Đức là một quốc gia hùng mạnh về nhiều phương diện, trong đó có công nghiệp Quốc phòng, song bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Sau chiến tranh, để khắc phục những khó khăn và thúc đẩy công nghiệp Quốc phòng phát triển, chính quyền Đức đã thực hiện nhiều biện pháp mạnh như: tư nhân hóa nền công nghiệp Quốc phòng; cho phép nước ngoài đầu tư trực tiếp 100% vốn vào lập công ti sản xuất quốc phòng; dành khoảng 20% tổng doanh thu của công nghiệp Quốc phòng cho tái đầu tư, làm kinh phí nghiên cứu, phát triển vũ khí, trang bị quân sự; nhà nước hỗ trợ tăng cường sáp nhập các công ti thành những tập đoàn quốc phòng lớn để có thêm tiềm lực công nghệ, đầu tư vốn có chiều sâu và mở rộng sản xuất.
Đến năm 2014, nền công nghiệp Quốc phòng Đức đã phát triển ở trình độ cao, có khả năng đáp ứng hầu hết các nhu cầu và xuất khẩu. Tổng giá trị sản xuất hằng năm (những năm đầu thế kỷ 21) của nền công nghiệp Quốc phòng Đức đạt khoảng 28 tỉ Ơrô (trong khi kinh phí mua sắm của QĐ chỉ khoảng 6 tỉ Ơrô, còn lại để xuất khẩu). Một số tập đoàn công nghiệp Quốc phòng tiêu biểu của Đức: Tập đoàn hàng không vũ trụ và quốc phòng châu Âu (EADS), Tập đoàn Krauss-Maffei Wegmann (KMW), Tập đoàn Rheinmetall, Tập đoàn Thyssenkrupp Marine Systems, Tập đoàn MTU Aero Engines. Mỗi tập đoàn tập trung vào chế tạo các loại vũ khí, trang bị quân sự đặc thù như: EADS sản xuất các loại máy bay Airbus dân sự và quân sự, máy bay trực thăng, các thiết bị phục vụ cho chương trình không gian, vệ tinh, các hệ thống quân sự trên đất liền, trên không và trên biển; KMW tập đoàn lưỡng dụng, đa ngành, với những lĩnh vực mũi nhọn: công nghệ nhựa, kĩ thuật ứng dụng và tự động, xử lí bề mặt và vận tải.
Công nghiệp Quốc phòng tại Nhật Bản.
Ngành công nghiệp Quốc phòng Nhật Bản trước 2 cuộc chiến tranh thế giới được đánh giá thuộc loại hàng đầu thế giới, ngang hàng với Mĩ với việc chế tạo được các loại máy bay chiến đấu hiện đại như Aichi-D3A, A6M Reisen (Zero), Ki-45; thiết giáp hạm hàng đầu thế giới Y, Nhật Bản tập trung vào phát triển kinh tế, tái thiết đất nước. Do đó, công nghiệp Quốc phòng gần như bị đóng cửa hoàn toàn hoặc chuyển sang sản xuất các mặt hàng dân sự và chỉ được hồi sinh vào năm 1952 khi một số công ti trong nước thực hiện các công tác sửa chữa và duy trì trang thiết bị quân sự cho Quân đội Mĩ tại châu Á. Công nghiệp Quốc phòng phát triển đầy đủ trở lại từ năm 1954 và trở thành thành phần quan trọng của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF).
Tháng 7 năm 1970, Nhật Bản công bố 5 mục tiêu cho việc xây dựng công nghiệp Quốc phòng: tổ chức nghiên cứu và phát triển, nỗ lực sản xuất vũ khí trong nước, sử dụng các ngành công nghiệp dân sự để sản xuất vũ khí, thiết lập các mục tiêu dài hạn, giới thiệu và cạnh tranh vào lĩnh vực sản xuất quốc phòng.
Tính đến cuối thập niên 70 của thế kỷ 20, công nghiệp Quốc phòng Nhật Bản đã có đủ khả năng sản xuất hầu hết các trang thiết bị quân sự hiện đại, bao gồm máy bay, xe tăng, pháo, tàu mặt nước và tàu ngầ
Do phải thực hiện chính sách giới hạn về quân đội và không xuất khẩu vũ khí, những vũ khí sản xuất ra chủ yếu để phục vụ nhu cầu của lực lượng phòng vệ, nên quy mô nền công nghiệp Quốc phòng Nhật Bản không lớn, không rầm rộ như các nước Mĩ, Nga, Trung Quốc. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn có những sản phẩm quân sự hiện đại như xe tăng chiến đấu chủ lực kiểu 90, máy bay tiêm kích Mitsubishi F-2, tàu khu trục Aegis lớp K
Hiện nay, công nghiệp Quốc phòng Nhật Bản có 12 nhà sản xuất, chiếm 95% đơn hàng quốc phòng trong nước. Trong đó có những tập đoàn chế tạo vũ khí được xem là hàng đầu khu vực cũng như trên thế giới như: Mitsubishi Heavy Industries, Kawasaki Heavy Industries, Mitsubishi Electric Corporation, Ishikawajima-Harima Heavy Industries.
Công nghiệp Quốc phòng tại Việt Nam.
Ngay từ khi mới thành lập nước, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều chủ trương, chính sách để chuẩn bị xây dựng cơ sở, phát triển ngành công nghiệp Quốc phòng, nhằm từng bước nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Ngày 15.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị thành lập Phòng Quân giới trực thuộc Bộ Quốc phòng - Cơ quan điều hành cao nhất của ngành Quân giới Việt Nam, với 2 nhiệm vụ: thu thập, mua sắm vũ khí và tổ chức cơ sở sản xuất vũ khí. Ngày 25.3.1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh tổ chức lại cơ quan Bộ Quốc phòng, trong đó có Chế tạo Quân giới Cục (tức Phòng Quân giới thành Cục Quân giới), nền móng hình thành và bước đầu phát triển công nghiệp Quốc phòng Việt Nam. Hoạt động của công nghiệp Quốc phòng trong thời kì này có quy mô không lớn, trình độ chưa cao, nhưng mang tính nhân dân sâu rộng, kịp thời đáp ứng những yêu cầu cấp thiết về sửa chữa và cung cấp vũ khí trên chiến trường. Kết quả có nhiều thành công trong nghiên cứu - sản xuất lựu đạn, mìn và bước đầu nghiên cứu, chế tạo súng badôca.
Giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, các binh công xưởng được thành lập. Trung bình mỗi xưởng có khoảng trên dưới 100 công nhân (một số xưởng có 200-300) với 10-15 (một số xưởng có 20-30) cỗ máy công cụ (tiện, phay, bào, khoan, dập…); máy phát động lực thường là những máy hơi nước nhỏ (máy locomobile loại vừa, tàu lăn đường kiểu Anbarê, động cơ ô tô kiểu Peugeot, Ford, GMC đã cải biên chạy khí than). Do điều kiện chiến tranh và kinh tế còn nghèo, nên việc sản xuất còn rất thủ công, nhà xưởng được làm dã chiến (bằng tre, gỗ; giống nhà dân, đặt trong vườn, dưới rặng tre, rặng dừa, trong đình, chù) hoặc mượn nhà dân, tiện triển khai và cơ động khi có chiến sự; công nhân thường ở nhờ nhà dân. Ở đồng bằng Nam Bộ, có nhiều kênh rạch, nhiều xưởng phải đặt trên ghe, thuyền, chỉ những bộ phận rèn đúc để trên bờ, khi địch càn quét thì đưa cả lên thuyền chuyển đi nơi khác. Riêng ở Khu 8, nhà xưởng còn được làm theo kiểu lắp ghép, dễ tháo lắp, cất giấu, sơ tán, di chuyể
Cuối năm 1947, công nghiệp Quốc phòng Việt Nam được phát triển với việc ra đời hàng loạt nhà máy, xí nghiệp thuộc quyền quản lí của Cục Quân giới (89 xưởng, 12 công trường) và Ban Vũ khí dân quân, với hơn 24.000 công nhân. Đến năm 1950, công nghiệp Quốc phòng Việt Nam có 150 nhà máy, công xưởng và hàng trăm công trường hoặc tổ vũ khí với số công nhân hơn 25.000 người. Vũ khí, trang bị kĩ thuật được sản xuất tăng lên hằng năm. Chỉ tính từ năm 1946 đến năm 1950, các xưởng quân giới từ Liên khu 4 trở ra đã sản xuất được 1.323 t vũ khí, đạn dược các loại, trong đó có cối các cỡ 60 mm, 120 mm, súng SKZ... Trong thời gian này, các xưởng quân nhu, quân dược cũng được thành lập. Đến năm 1949, đã có 21 cơ sở quân dược với hơn 1.200 công nhân và 20 cơ sở quân nhu với gần 1.700 công nhân. Nhịp độ sản xuất vũ khí, đạn dược phát triển rất mạnh. Tính theo khối lượng tấn và lấy chỉ số năm 1946 là 100, thì nhịp độ sản xuất vũ khí đạn dược ở Liên khu 4 trở ra tăng hằng năm như sau: năm 1946 là 10, năm 1947 là 707, năm 1948 là 1.044 và năm 1949 là 3.544.
Trong kháng chiến chống Mỹ.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cơ cấu tổ chức, quy mô sản xuất và các sản phẩm của một nền công nghiệp Quốc phòng Việt Nam phát triển tương đối nhanh. Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất các loại vũ khí cơ bản (súng và đạn cho bộ binh, mìn, lựu đạ), các cơ sở nghiên cứu và nhà máy quân giới đã bám sát thực tiễn chiến đấu trên các chiến trường, tích cực nghiên cứu, cải biên, cải tiến và chế tạo được nhiều loại vũ khí có công lực, nâng cao hiệu quả sử dụng một số loại vũ khí hiện đại do các nước bạn sản xuất; đồng thời, tích cực nghiên cứu biện pháp chống phá, làm giảm hiệu lực một số loại vũ khí hiện đại của địch, đặc biệt là trong lĩnh vực chiến tranh điện tử...
Giai đoạn 1975 đến nay.
Sau năm 1975 đến nay, công nghiệp Quốc phòng Việt Nam đạt được những kết quả quan trọng, giải quyết được nhiều vấn đề có tính cấp bách trước mắt cũng như lâu dài. Từ việc phải dựa vào nguồn cung cấp vũ khí, trang bị kĩ thuật của nước ngoài thông qua cơ chế viện trợ QS là chủ yếu, đến khi bước vào thời kì hội nhập, nội lực kinh tế đất nước đã phát triển, đủ sức tự bảo đảm cho các nhu cầu của lực lượng vũ trang, thông qua cơ chế mua bán quốc tế hoặc đầu tư cho công nghiệp Quốc phòng nghiên cứu, sản xuất. Đây là sự thay đổi cơ bản trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác trên thị trường quốc tế về mua bán vũ khí và chuyển giao công nghệ quân sự.
Đồng thời, Việt Nam cũng đã từng bước hội nhập, tham gia kí kết và thực hiện nghiêm túc các điều ước quốc tế liên quan tới kiểm soát vũ khí, trên cơ sở bảo đảm các lợi ích quốc gia và tôn trọng luật pháp quốc tế. Việc mở rộng hợp tác song phương, đa phương, gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực, thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược, kí kết các thỏa thuận hợp tác liên chính phủ về kinh tế, quốc phòng, KTQS… đã nâng vị thế của đất nước và tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn cho công nghiệp Quốc phòng được tiếp cận và mở rộng mối quan hệ hợp tác, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, mua sắm vật tư kĩ thuật với nhiều đối tác khác nhau trên thế giới.
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã có những doanh nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong sản xuất, kinh doanh, với doanh thu xuất khẩu hàng kinh tế đạt vài chục triệu đô la/năm. Thành công của các dự án hợp tác quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp Quốc phòng cũng bước đầu góp phần khẳng định Việt Nam là một đối tác tin cậy, tôn trọng các cam kết quốc tế và có trách nhiệm đối với sự nghiệp gìn giữ hòa bình trên thế giới; đồng thời, tạo được một số chuyển biến mới về chất trong năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo của ngành công nghiệp Quốc phòng.
Pháp lệnh Công nghiệp Quốc phòng.
Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng do Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi năm 2018 quy định tổ chức hoạt động công nghiệp Quốc phòng có 2 loại hình: cơ sở công nghiệp Quốc phòng nòng cốt (do Quân đội trực tiếp quản lí) và cơ sở công nghiệp Quốc phòng động viên (cơ sở công nghiệp ngoài quân đội). Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân khác khi có đủ điều kiện theo quy định của Chính phủ thì đều có thể tham gia hoạt động công nghiệp Quốc phòng.
Đây là cơ chế tổ chức để mở rộng phạm vi hoạt động sản xuất hàng quốc phòng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước và của nền kinh tế quốc dân để xây dựng và phát triển nền công nghiệp Quốc phòng phù hợp với thực tế. Cơ sở công nghiệp Quốc phòng nòng cốt có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa lớn, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, vật tư kĩ thuật được Nhà nước đầu tư phục vụ quốc phòng, an ninh, làm nòng cốt xây dựng và phát triểncông nghiệp Quốc phòng, do BQP trực tiếp quản lí.
Hoạt động của cơ sở công nghiệp Quốc phòng nòng cốt gồm: nghiên cứu, phát triển, sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa lớn, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, vật tư kĩ thuật và các sản phẩm khác phục vụ quốc phòng theo đặt hàng hoặc giao kế hoạch; hướng dẫn chuyển giao công nghệ, đào tạo, huấn luyện nhân lực, chuẩn bị động viên công nghiệp; chuẩn bị các điều kiện bảo đảm theo yêu cầu sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị khi đất nước chuyển sang thời chiến; liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế để sản xuất các sản phẩm phục vụ quốc phòng, an ninh và tham gia phát triển kinh tế, xã hội theo quy định của pháp luật. Lộ trình đổi mới tổ chức, quản lí cơ sở công nghiệp Quốc phòng nòng cốt theo chiến lược phát triển công nghiệp Quốc phòng do Chính phủ quy định.
Cơ sở công nghiệp Quốc phòng động viên là cơ sở sản xuất công nghiệp được Nhà nước đầu tư xây dựng năng lực sản xuất phục vụ quốc phòng theo quy định của Pháp lệnh Động viên công nghiệp; có nhiệm vụ: trong thời bình thực hiện nhiệm vụ quản lí, bảo quản, sản xuất thử để duy trì năng lực thiết bị dây chuyền, tham gia nghiên cứu, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ phục vụ quốc phòng, an ninh theo đặt hàng của Bộ Quốc phòng; thực hiện nhiệm vụ động viên công nghiệp theo quy định của Pháp lệnh Động viên công nghiệp.
Chức năng, nhiệm vụ của Công nghiệp Quốc phòng.
Chức năng, nhiệm vụ của công nghiệp Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay: nghiên cứu, phát triển, sản xuất, bảo dưỡng, sửa chữa lớn, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, vật tư kĩ thuật và các sản phẩm phục vụ quốc phòng; tham gia phát triển kinh tế, xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo đảm nhu cầu sản phẩm quân sự cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh cả thời bình và thời chiến, đồng thời làm nòng cốt thực hiện chuẩn bị động viên công nghiệp để mở rộng năng lực sản xuất quân sự khi cần thiết; quản lí kỹ thuật quân sự và đảm nhiệm một số khâu mà các ngành công nghiệp khác không có khả năng làm được, đi sâu vào kỹ thuật quân sự với mức độ chuyên môn hóa cao, nơi thiết kế, chế tạo mẫu, sản xuất thử vũ khí, đạn và các phương tiện chiến tranh đặc thù.
Để hòa nhập vào nền kinh tế và thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, công nghiệp Quốc phòng đã kịp thời chuyển đổi theo hướng phát triển công nghệ lưỡng dụng và tham gia sản xuất sản phẩm dân dụng phục vụ nhu cầu dân sinh, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, xã hội. Trên thế giới, công nghiệp Quốc phòng luôn được các nước đầu tư phát triển, nhất là các nước có tiềm năng kinh tế và khoa học công nghệ.
Hiện nay, dưới tác động của toàn cầu hóa, môi trường an ninh quốc tế đã và đang có nhiều biến động phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh và lợi ích của nhiều nước. Tình hình kinh tế thế giới lâm vào khó khăn làm cho ngân sách quốc phòng và thị trường đầu ra của công nghiệp Quốc phòng các quốc gia bị thu hẹp. Tác động của cách mạnh quân sự mới dựa trên những thành tựu về khoa học công nghệ, nhất là trong lĩnh vực khoa học thông tin đã làm thay đổi cách thức tiến hành chiến tranh và chế tạo vũ khí, trang bị mới, đồng thời thúc đẩy sự cải tổ mạnh mẽ nền công nghiệp Quốc phòng thế giới cũng như trong nước theo xu hướng: mở rộng quy mô thông qua sáp nhập, hợp nhất các tập đoàn, công ti, xí nghiệp công nghiệp Quốc phòng; ưu tiên nghiên cứu, phát triển vũ khí công nghệ cao; điều chỉnh cơ cấu sản phẩm, kết hợp và dân dụng, ưu tiên phát triển công nghệ lưỡng dụng; thúc đẩy nghiên cứu, hợp tác phát triển khoa học công nghệ quân sự. |
Nguyễn Thành Trung (sĩ quan)
Nguyễn Thành Trung (sinh ngày 9 tháng 10 năm 1947) là một cựu Đại tá Không quân Nhân dân Việt Nam. Ông là người đã lái máy bay F-5E ném bom vào Dinh Độc Lập ngày 8 tháng 4 năm 1975 và là người Việt Nam đầu tiên lái máy bay Boeing 767 và 777.
Thân thế và tuổi thiếu thời.
Ông tên khai sinh là Đinh Khắc Chung, sinh ngày 9 tháng 10 năm 1947, tại xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Cha ông là ông Đinh Văn Dậu (còn gọi là Tư Dậu), mẹ ông là bà Nguyễn Thị Mỹ. Ông là người con trai thứ 4 trong gia đình có 5 anh em, vì vậy ông có tên gọi trong gia đình là Năm Chung.
Sau năm 1954, trừ người anh cả của ông tập kết ra Bắc, cả gia đình ông đều ở lại miền Nam. Cha ông và người anh thứ hai đều hoạt động bí mật tại quê nhà. Riêng ông cùng người anh thứ ba và người em gái út sống công khai với mẹ để tiếp tục đi học.
Ngày 2 tháng 3 năm 1963, cha ông là Tư Dậu, khi đó đang là Phó bí thư, giữ quyền Bí thư Huyện ủy Châu Thành, Bến Tre, bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa giết chết, má và em gái ông bị bắt, nhà bị đốt. Ông phải đổi họ sang họ Nguyễn với một lý lịch mới để lánh nạn.
Trở thành điệp viên.
Năm 1965, ông được Ban binh vận T2 (khu 8) đưa lên Sài Gòn tiếp tục học hết bậc phổ thông, rồi vào học khoa Toán - Lý - Hóa ở Đại học Khoa học Sài Gòn (nay là Đại học Khoa học tự nhiên).
Sau đó, ông được Ban Binh vận Trung ương cục miền Nam chỉ đạo thi tuyển vào Không lực Việt Nam Cộng hòa. Ngay sau khi nhận được giấy báo trúng tuyển, ngày 31 tháng 5 năm 1969, Nguyễn Thành Trung được kết nạp vào Đảng Nhân dân Cách mạng Miền Nam (sau hợp nhất trở lại Đảng Cộng sản Việt Nam).
Sau hơn một năm huấn luyện ở Nha Trang, vào năm 1970 Nguyễn Thành Trung được đưa đi đào tạo phi công ở các căn cứ Hoa Kỳ tại các bang Texas, Louisiana và Mississippi. Ông học rất giỏi và được xếp thứ 2 trong tổng số 500 học viên của khóa. Đến năm 1972 thì về nước, đóng quân tại căn cứ không quân Biên Hòa, biên chế trực thuộc sư đoàn 3 không quân, phi đoàn 540 Thần Hổ.
Ném bom Dinh Độc Lập năm 1975.
Ngày 8 tháng 4 năm 1975, lúc 8 giờ 30 phút sáng, Nguyễn Thành Trung (lúc đó là Trung úy Không lực VNCH) nhận được mệnh lệnh xuất kích từ sân bay Biên Hòa (lúc này thuộc chính quyền Việt Nam Cộng hòa), lái máy bay F5-E ném bom Dinh Độc Lập. Lần đầu ném 2 quả bom rơi không trúng mục tiêu, lần cắt bom thứ hai có trúng đích nhưng chỉ có một quả nổ. Ông tiếp tục dùng súng 20 ly bắn vào kho xăng Nhà Bè, rồi lái máy bay đáp xuống an toàn trên đường băng dã chiến bằng đất với đường đáp chỉ 1.000m ở sân bay tỉnh Phước Long (nay là tỉnh Bình Phước) trong khi F5E yêu cầu một đường băng hạ cánh đến 3000 m.
Phi đội Quyết Thắng.
Ngày 22 tháng 4 năm 1975, ông được điều ra sân bay Đà Nẵng để hướng dẫn các phi công miền Bắc lái máy bay A-37 (Phi đội Quyết Thắng) do quân Giải phóng chiếm được và huấn luyện trong vòng 1 tuần. Chiều ngày 28 tháng 4 năm 1975, theo lệnh của bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh, Nguyễn Thành Trung dẫn đầu phi đội gồm 3 chiếc A-37 từ sân bay Thành Sơn (Phan Rang) cất cánh thẳng hướng Sài Gòn, ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, làm đảo lộn kế hoạch di tản bằng máy bay của người Mỹ, rồi cả phi đội hạ cánh an toàn xuống sân bay Thành Sơn (Phan Rang).
Nghi kỵ sau chiến tranh.
Sau giải phóng, vì có thể lái máy bay F5 và A37 của QĐNDVN, Nguyễn Thành Trung được phân công phụ trách công tác đào tạo, huấn luyện bay và đã góp phần rất lớn gầy dựng nên Trung đoàn Không Quân Cường Kích 937 và Trung đoàn Không Quân Tiêm Kích 935. Tuy nhiên sau đó đã xảy ra một số vụ vượt biên trái phép bằng máy bay tại các sân bay phía Nam mà chủ mưu thường là các sĩ quan không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trá hàng nên Nguyễn Thành Trung cũng bị vạ lây và mất tin tưởng từ cấp trên, phải 'ngồi chơi xơi nước' cho đến năm 1980 mới được bay lại, nhưng chỉ được bay 4 vòng quanh sân bay rồi xuống đất chỉ đạo tiếp.
Trong thời gian này Nguyễn Thành Trung được đào tạo bay bằng máy bay An-26 của Liên Xô, vì đã có kinh nghiệm dày dạn tại Mỹ cũng như kinh nghiệm thực tiễn tại chiến trường nên Nguyễn Thành Trung tiếp thu rất nhanh và được giữ lại làm giảng viên, đào tạo phi công phục vụ vận chuyển cho chiến trường Campuchia.
Mặt khác để chứng minh sự trong sạch và lòng trung thành của mình, Nguyễn Thành Trung tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời giữ liên lạc với những người đã kết nạp Đảng, phân công nhiệm vụ tình báo cho cán bộ cách mạng như là các ông Võ Văn Kiệt (Bí thư Thành Ủy, sau này là Thủ tướng), Phó Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Võ Danh, Bí thư Quận ủy Nguyễn Hữu Chí (tức Tư Chí)... để làm chứng cho ông.
Cuối cùng Nguyễn Thành Trung cũng được minh oan và những đóng góp to lớn của ông đã được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân ngày 20 tháng 1 năm 1994.
Người phi công lão luyện.
Sau đó ông là Phó Tổng Giám đốc Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines), cơ trưởng, giáo viên của loại máy bay Boeing 777 và là phi công dày dạn kinh nghiệm nhất của Việt Nam với hơn 35 năm kinh nghiệm và hơn 22000 giờ bay.
Ngày 1 tháng 10 năm 2008, ông đã tham gia tổ phi công lái máy bay Beechcraft King Air 350, số seri FL-417 cho bầu Đức, người được xem là công dân Việt Nam sinh sống và làm việc tại Việt Nam đầu tiên sở hữu máy bay riêng. |
Để thay thế Chiến dịch Matador, ba đơn vị đặc biệt đã được tập hợp lại để quấy rối và trì hoãn cuộc tiến công của quân Nhật từ đầu bãi biển của họ tại Songkhla và Pattani.
Krohcol là quan trọng nhất trong 3 chiến dịch. Krohcol được giao nhiệm vụ phá huỷ đối tượng địa lý được gọi là Ledge. Việc phá huỷ Ledge sẽ chặn được đường đến Pattani, do đó đảm bảo an ninh cho các đường dây liên lạc và rút lui của Sư đoàn Bộ binh 11 Ấn Độ. Đối với người Nhật, việc chiếm được Ledge sẽ cho phép họ tiếp cận các khu vực phía sau của Sư đoàn 11 Ấn Độ, hoặc buộc người Anh phải rút lui khỏi Perak và Kedah, hoặc nếu họ đủ nhanh, họ thậm chí có thể cắt đứt hoàn toàn Sư đoàn 11 Ấn Độ.
Lực lượng hai bên.
Khối Thịnh vượng chung Anh.
Nó được đặt tên là Krohcol vì nó đang hoạt động từ thị trấn Kroh ở biên giới Perak-Thái và "col" là viết tắt của cột (có nghĩa là nhóm chiến đấu).
Lực lượng tham gia Chiến dịch Krohcol ban đầu gồm có:
Lực lượng khởi hành từ Kroh bao gồm những người lính từ Trung đoàn 3/16 Punjab và một số kỹ sư dưới quyền chỉ huy của Trung tá Henry Moorhead, được chở trên những chiếc xe tải Marmon-Herrington AWD của Đại đội Vận tải Cơ giới 2/3 Úc dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá G.A.C. Kiernan. Krohcol nằm dướ sức mạnh được chỉ định của nó và bị trì hoãn do một tiểu đoàn thứ hai là Trung đoàn 5/14 Punjab và một khẩu đội pháo hạng nhẹ đến trễ. Đơn vị còn lại mà không có chúng. Mục tiêu của đơn vị là một đoạn đường dài 6 dặm (10 km) cắt qua một sườn đồi dốc và được giới hạn ở phía bên kia bởi sự sụt giảm tuyệt đối xuống một con sông và được gọi là Ledge. Việc nổi lên sườn đồi ra đường sẽ khiến quân Nhật bị trì hoãn đáng kể.
Cảnh sát Hoàng gia Thái.
Để chống lại Lực lượng Khối Thịnh vượng chung này là sự kháng cự của các cảnh sát và tình nguyện viên từ Betong dưới quyền chỉ huy của Thiếu tá Prayoon Rattanakit, người đã gây ra sự trì hoãn hơn nữa cho lực lượng Krohcol. Cảnh sát Thái Lan đồng thời chiến đấu với Sư đoàn Bộ binh 5 Nhật Bản tại Pattani, trước khi có lệnh ngừng bắn giữa hai bên.
Lực lượng Krohcol bắt đầu vượt qua biên giới khoảng 14 giờ sau cuộc đổ bộ lên Kota Bharu, vào ngày 8 tháng 12, và gặp lực lượng đối lập từ các Cảnh sát Thái và các tình nguyện viên dân sự do Thiếu tá Prayoon Rattanakit, uỷ viên cảnh sát của thị trấn Betong dẫn đầu.
Khi Krohcol tiến vào Betong, một cảnh sát viên Thái Lan chỉ huy một đơn vị cảnh sát đã cho phép họ đi qua mà không bị cản trở. Sau đó, anh ta tiếp cận Trung tá Moorhead và lịch sự xin lỗi vì "sai lầm". Tuy nhiên, người ta không biết tại sao Moorhead không ngay lập tức đẩy lên Ledge, nhưng sự chậm trễ này là không thể tránh khỏi.
Chạy đua giành Ledge.
Vào sáng ngày 10 tháng 12, 3/16 Punjab khởi hành từ Betong và hướng đến Ledge, cách đó 26 dặm (42 km). Trung đoàn 42 Nhật Bản thuộc Sư đoàn 5 cùng với 2 đại đội xe tăng hạng nhẹ, đã đổ bộ lên Pattani lúc 03:00, đã giành chiến thắng trong cuộc đua, đến Ledge vào trưa ngày 10 tháng 12.
Khoảng 14:00, trong khi tiến qua một khe núi phía trên sông Pattani và vẫn còn cách Ledge km 37 1 dặm (1,6 km), Krohcol tiến lên A (P.M.) Đại đội (Subadar Sher Khan) lại bị tấn công, lần này là từ Sư đoàn Bộ binh 5 Nhật Bản. Một Đại đội đã tiến lên xung quanh một ngọn đồi và đã khuất tầm nhìn khi nó bị tấn công. Moorhead đã phái Đại đội D tiến lên phía trước (P.M.s) (Trung uý Zarif Khan) dọc theo con đường để hỗ trợ Đại đội A, và Đại đội C (Dogra) (Đại uý K.A.H. Casson) được phái đến vượt qua một khu rừng bao phủ ở sườn trái. Đại đội B (Sikh) (Trung uý G.B. Palmer) bảo vệ sườn trái của tiểu đoàn.
Ngay sau đó, Moorhead mất liên lạc với cả ba đại đội dẫn đầu. Cuối buổi chiều, một tuỳ viên từ Đại đội D báo cáo rằng Đại đội A đang trong một trận chiến tuyệt vọng chống lại xe tăng và bộ binh với Đại đội D hỗ trợ. Phụ tá của Tiểu đoàn, Đại uý A.E. Charlton, đã đi về phía trước qua một cây cầu gỗ bắc qua suối Kampong To và cùng với người tuỳ viên, anh ta rẽ vào khúc cua gấp 100 m phía trước. Khi vòng qua khúc cua, Charlton phát hiện một chiếc xe tăng Nhật ở khoảng cách ngắn phía trước và phần súng cối của Đại đội A trong một cuộc đấu súng dữ dội. Charlton vội vã quay trở lại cây cầu gỗ và đưa trung đội chống tăng của tiểu đoàn về phía trước. Công binh của Thiếu tá Dinwiddie đã tháo dỡ cây cầu bằng tay. Khi chiếc xe tăng vòng qua khúc cua, nó đã nhận được loạt đạn từ Súng trường chống tăng Boys của Tiểu đoàn và rút lui. Nhưng bộ binh Nhật Bản bây giờ đã chiếm giữ con đường phía trước. Đại đội B và C trở lại ngay trước khi màn đêm buông xuống. Đến nửa đêm ngày 10 tháng 12, Trung tá Stokes cùng với 5/14 Punjab và Khẩu đội Sơn pháo 10 được vận chuyển bởi Đại đội MT 2/3 Úc đã đến Kroh.
Không còn khả năng tiến thêm nữa, và bây giờ bị cắt đứt khỏi hai đại đội của mình, Moorhead vẫn ở Sở chỉ huy Đại đội và Đại đội B ở vị trí cầu nối với âm thanh chiến đấu dữ dội kéo dài suốt đêm.
Tình hình vào buổi sáng ngày 11 tháng 12 là Moorhead trấn giữ cây cầu ở km 37 (cách Betong 25 dặm về phía bắc), nhưng anh ta đã mất liên lạc hoàn toàn với các đại đội A và D. Havildar Manawar Khan và 8 người từ Đại đội A trở về với tin tức Subadar Sher Khan và Đại đội A đã bị xe tăng và bộ binh tiêu diệt hoàn toàn.
Punjab 5/14 của Trung tá Stokes và Khẩu đội Sơn pháo 10 đã dành cả buổi sáng để chuẩn bị các vị trí phòng thủ tại Kroh, trong khi chính Stokes đã tiến lên tham khảo ý kiến Moorhead. Moorhead ra lệnh cho Stokes chuẩn bị một vị trí cách Betong 9 dặm (14 km) về phía bắc để yểm trợ cho tiểu đoàn khi nó rút lui. Stokes rời Đại đội C (P.M.), 5/14 Punjab (Trung uý C.E.N. Hopkins-Husson) tại Kroh và tiến về phía trước với phần còn lại của tiểu đoàn của mình cộng với khẩu đội sơn pháo đến cột 15 km, nơ họ chuẩn bị các vị trí mới.
NCO báo cáo rằng vào ngày hôm trước, Đại đội A đã tiến 700 yards (640 m) ra khỏi cây cầu khi họ phát hiện xe tăng và bộ binh Nhật đến từ vị trí Ledge. Subadar Sher Khan đã triển khai đại đội của mình vào khu rừng rậm phía đông con đường và cho phép 2 xe tăng dẫn đầu đi qua. Khi họ đã vượt qua, Khan ra lệnh cho người của mình tấn công bộ binh Nhật. Khan gần như ngay lập tức bị trọng thương, mặc dù quỳ bên đường, anh ta vẫn tiếp tục động viên người của mình, và quân Nhật rút lui trong tình trạng hỗn loạn, để lại một số người bị thương. Một nhóm thứ hai gồm 2 xe tăng và bộ binh đến ngay sau đó và chiếc xe tăng đầu tiên đã chạy qua Subadar bị thương, giết chết ngay lập tức. Phần còn lại của đại đội đã chiến đấu quyết liệt trong nửa giờ tiếp theo, gây ra nhiều thương vong, nhưng bị chặn lại trên con đường rộng, cuối cùng họ bị xoá xổ. Chỉ có một NCO tìm cách trốn thoát, cùng với 8 người sống sót khác.
Vào lúc 11:00 ngày 11 tháng 12, để cứu trợ Moorhead, Trung uý Zarif Khan và Đại đội D quay trở lại qua rừng rậm, sau khi bám vào vị trí của họ cho đến khi màn đêm buông xuống. Trung uý Khan rút vào rừng rậm, và đi đường vòng dài, đến các vị trí của tiểu đoàn, sau khi mất 15 người.
Trong buổi chiều cùng ngày, tiểu đoàn đã bị tấn công ba lần, cuộc tấn công cuối cùng đã diễn ra trước khi màn đêm buông xuống là sức mạnh của tiểu đoàn dọc theo toàn bộ đơn vị Punjab 3/16. Những khẩu sơn pháo của trung đoàn bộ binh Nhật Bản đã tiêu diệt hầu hết các đoàn vận tải của đơn vị Punjab, nhưng cuối cùng đã bị loạt khỏi vòng chiến bởi súng cối 2 inch (51 mm) của đơn vị Punjab. Đại đội Vận tải Ô tô Úc 2/3 và Bệnh viện lưu động Dã chiến 36 đã sơ tán những người lính Punjab bị thương suốt cả ngày.
Với số lượng thương vong ngày càng gia tăng, Moorhead quyết định quay trở lại Betong, dưới sự cho phép của cấp trên. Moorhead đã gọi điện cho Đại tá Harrison (GSO 1), người nói với anh ta rằng anh ta phải bám trụ cho đến khi mệnh lệnh đến. Bản mệnh lệnh cho phép rút về Betong phải được chở bằng xe máy đưa tin từ Murray-Lyon tại sở chỉ huy của anh ta cách đó 113 dặm (182 km).
Tiểu đoàn đã giữ vị trí của mình suốt đêm, nhưng đến bình minh, rõ ràng là người Nhật đang cố gắng vượt qua tiểu đoàn từ phía đông và phía nam. Không lâu sau lúc 07:00, một cuộc tấn công mạnh của Nhật Bản bắt đầu, được hỗ trợ bởi lực lượng vượt trội về phía đông và phía nam. Moorhead quyết định rằng anh ta phải cố gắng rút lui nhanh chóng.
Đại đội Sikh của Trung uý Palmer đã có thể tự giải thoát, nhưng với cái giá phải trả là 30 người thương vong trong khi Đại đội Dogra của Đại uý Casson sớm thấy mình bị bao vây hoàn toàn. Casson ra lệnh cho người của mình chiến đấu theo cách của họ. Một số ít người sống sót đã đến được vị trí của Đại đội D. Những người còn sống sót báo cáo rằng cả Casson và chỉ huy thứ hai của anh ta, Trung uý Frank Skyrme đã thiệt mạng trong cuộc giao tranh. Đại uý Harry Casson (từ đảo Saint Vincent) được báo cáo là mất tích trong chiến đấu, được cho là thiệt mạng. Trên thực tế, anh ta đã sống sót sau trận chiến, nhưng bị cắt đứt khỏi đơn vị. Ông sống sót trong rừng rậm trong những năm tháng tiếp theo, cuối cùng bị bắt vào ngày 24 tháng 4 năm 1942.
Gần như bị quân Nhật lấn át và dưới hoả lực pháo binh hạng nặng, Krohcol bắt đầu rút lui. Đại tá Moorhead, được trang bị một khẩu súng trường, vẫn ở lại với hậu phương của 4 xe thiết giáp Bren còn sống sót. Khi họ vừa rời đi, 2 trong số 4 xe thiết giáp bị trúng đạn pháo. Moorhead nhảy lên 2 xe thiết giáp Bren còn lại, nhưng không phải trước khi giải cứu một người lính Punjab bị thương (Moorhead phát hiện anh ta nằm trên con đường bị nổ đạn pháo, nâng một bàn tay mệt mỏi để chía tay anh ta. Anh ta nhảy ra khỏi xe, cõng anh ta trên vai và quay trở lại xe).
Moorhead buộc phải vừa đánh vừa rút đến Betong trong suốt ngày 12 tháng 12, nơi họ đi qua đơn vị Punjab 5/14 của Trung tá Stokes, nơi đang đào hào và chuẩn bị phòng thủ. Quân số của đơn vị Punjab 3/16 đã giảm xuống còn khoảng 350 sĩ quan và binh lính.
Các trinh sát Nhật Bản đã tìm thấy vị trí của đơn vị Punjab 5/14 ngay sau khi trời tối và thăm dò khu vực suốt đêm.
Vào lúc bình minh ngày 13 tháng 12, quân Nhật tấn công vị trí này bằng xe tăng hạng nhẹ và bộ binh cơ giới. Một chiếc xe tăng hạng nhẹ đã bị phá huỷ và một số cuộc tấn công của bộ binh phía trước đã bị đánh bại. Với tốc độ thông thường của họ, quân Nhật đã sớm đẩy các lực lượng xung quanh sườn của Stokes. Đơn vị Punjab 5/14 buộc phải rút về Kroh, điều mà họ đã làm với thương vong tương đối nhỏ.
Quân Nhật đã thả một tù nhân khỏi một nhà tù địa phương, một tên cướp cũ biết rõ về khu vực này. Betong bị chiếm đóng trở lại, và lực lượng dưới quyền chỉ huy của Prayoon bắt đầu thực hiện các hành động trừng phạt chống lại người Hoa địa phương, những người được cho là đã chào đón Krohcol bằng cách treo cờ Liên minh Jack cũng như là cờ Quốc Dân đảng. Một người Ấn Độ địa phương bị buộc tội tình nguyện phục vụ (với tư cách là người hướng dẫn) cho Krohcol đã bị một nhóm người Thái báo thù bằng cách theo dõi, dồn vào chân tường và bị bắn chết.
Hai đơn vị còn lại.
Một trong những đơn vị khác, bao gồm 200 binh sĩ xe tải từ Punjab 1/8, và một phần của Khẩu đội chống tăng 273, tất cả đều dưới sự chỉ huy của Thiếu tá E.R.Andrews, đã vượt qua biên giới Thái Lan cùng lúc với Krohcol. Đơn vị này, được đặt tên là Laycol theo tên Chuẩn tướng William Lay, tư lệnh Lữ đoàn Bộ binh 6 Ấn Độ, vượt qua biên giới lúc 17:30 ngày 8 tháng 12 năm 1941 và di chuyển về phía Songkhla để quấy rối và trì hoãn kẻ thù. Laycol đến Ban Sadao, cách biên giới 10 dặm (16 km) về phía bắc lúc hoàng hôn, nơi nó dừng lại và chiếm một vị trí phía bắc của ngôi làng.
Laycol đã chạm trán với một đơn vị cơ giới Nhật Bản do Đại tá Saeki thuộc Sư đoàn 5 Nhật Bản với một đại đội xe tăng từ Trung đoàn Xe tăng 1. Lực lượng được dẫn dắt bởi những chiếc xe tăng và di chuyển theo đội hình chặt chẽ với đèn pha đầy đủ. Hai chiếc xe tăng dẫn đầu đã bị hạ gục bởi các khẩu pháo chống tăng, nhưng bộ binh Nhật nhanh chóng hạ gục và bắt đầu bao vây xung quanh sườn của đơn vị Punjab. Laycol rút lui vào ngày 11 tháng 12 qua vị trí tiền đồn tại Kampong Imam, phá huỷ hai cây cầu và phá huỷ 1/3 đường trở về.
Đoàn tàu Thiết giáp.
Đơn vị cuối cùng là một đoàn tàu thiết giáp, với 30 người từ Trung đoàn 2/16 Punjab và một số kỹ sư, tiến vào Thái Lan từ Padang Besar ở Perlis. Đoàn tàu thiết giáp này đã đến Khlong Ngae, miền Nam Thái Lan, và phá huỷ thành công một cây cầu dài 200 foot (60 m) trước khi rút về Padang Besar. |
Linda Le (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1982) là cosplayer, người mẫu, nghệ sĩ và nhân vật Internet người Mỹ gốc Việt. Le có nghệ danh là Vampy Bit Me, hoặc Vampy hay Vamp; "Vampy" cũng là một cái tên mà cô đã đặt cho nhân vật hư cấu của chính mình.
Chào đời tại Okmulgee, Oklahoma trong một gia đình người Việt nhập cư, Le chuyển đến và lớn lên ở San Jose, California, rồi sau tốt nghiệp ngành kinh doanh tại Đại học Tiểu bang San Jose trong khi làm nhiều công việc lặt vặt khác nhau. Về sau, cô theo học nghề tạo mẫu tóc từ tiệm Paul Mitchell ở Mỹ và tiệm Toni Guy ở Luân Đôn cũng như ở Tokyo, trước khi trở về Mỹ bắt đầu dạy trang điểm và làm người mẫu. Le đã hóa trang thành các nhân vật mà mình yêu thích trong anime và trò chơi điện tử cổ điển từ năm 12 tuổi.
Cô sớm nổi tiếng sau khi một số bộ cosplay của cô ra mắt trong cuốn sách giới thiệu "Otacool 2" của công ty đồ chơi và đồ sưu tập Nhật Bản Kotobukiya. Sau đó Lê hợp tác với họa sĩ "Street Fighter" là Long Vo để tạo nên tác phẩm minh họa và truyện tranh cho cuốn sách "VENT" của hãng Udon Entertainment, cũng như với nhà điêu khắc Tim Miller của Sideshow Collectibles, theCHIVE, Gibson Guitar Corporation, KusoVinyl, Myx TV, Manga Entertainment UK và Bang Zoom! Entertainment, Jessica Chobot, và các họa sĩ cũng như công ty khác ở Mỹ và Nhật. Le là thành viên của nhóm chế tạo trang phục và áo giáp Team Mantium Designs, sau đổi tên thành Mantium Industries, và là một game thủ do Mad Catz tài trợ. Le từng viết bài chuyên mục dành cho YouBentMyWookie và vào năm 2012, cô gia nhập hãng Nerdist Industries phụ trách sản xuất "Just Cos", một chương trình trên Internet về thế giới cosplay, do Chloe Dykstra đồng tổ chức. Le là thành viên của đội chơi game và cosplay chuyên nghiệp của Kat Gunn, Less Than 3 (LT3), cũng do Mad Catz tài trợ. "FHM" Singapore đã giới thiệu chân dung Le trong số tháng 12 năm 2013, kể cả trên trang bìa.
Cô vốn là một người hâm mộ đặc biệt nữ anh hùng Psylocke của bộ truyện "X-Men", mà cô ấy hay cosplay trong mọi phiên bản của nhân vật này, và Morrigan Aensland từ "Darkstalkers". Trong các cuộc phỏng vấn năm 2013, Le cho biết cô làm việc "gần 15 tiếng mỗi ngày và ngủ tối đa khoảng 4 tiếng", bộ trang phục yêu thích của cô cho đến nay là bộ của Teresa từ "Claymore", bộ trang phục tham vọng nhất là của Morrigan, và yêu cầu trang phục kỳ quặc nhất mà cô ấy nhận được là "Kasumi gần như khỏa thân trong "Dead or Alive"." Le từng tham dự hơn 200 hội nghị của người hâm mộ Mỹ từ năm 2008 đến năm 2013, khi cô quyết định "nghỉ ngơi một thời gian" vào cuối năm đó. "Amped Asia" vào năm 2010 đã gọi Le "có lẽ là cô gái châu Á hấp dẫn nhất hành tinh số 1 nhờ tính lập dị (và cả sự gợi cảm nữa)." IGN vào năm 2011 cho rằng "kỹ năng cosplay của cô ấy nằm ngoài bảng xếp hạng". Theo Kotaku vào năm 2012, "Linda là một cỗ máy cosplay, nổi tiếng không chỉ về chất lượng trang phục mà còn về sự đa dạng của chúng;" Kotaku trước đây cũng đã mô tả Le "cực kỳ quyến rũ" và các tác phẩm của cô ấy trông "tuyệt vời". Khi được hỏi về năm 2013, cô nhìn thấy mình như thế nào trong 20 năm tới, Le trả lời: "Cosplay rất tuyệt, nhưng tôi không thể làm nó mãi đượ, nghĩ ra đồ chơi và làm gì đó liên quan đến bối cảnh nghệ thuật". #ĐỔI |
Tổng trấn Venice ( ; Tiếng Veneto: "Doxe de Venexia" #đổi ; tiếng Ý: "Doge di Venezia" [ˈdɔːdʒe di veˈnɛttsja]; tất cả đều bắt nguồn từ tiếng Latinh: "dux", "lãnh đạo quân sự"), đôi khi được dịch là Công tước (so sánh với "Duca" của Ý), là quan tòa trưởng và lãnh đạo của Cộng hòa Venice trong khoảng thời gian từ 726 đến 1797.
Các tổng trấn của Venice được bầu chọn suốt đời bởi giới quý tộc Venice. Doge không phải là một công tước theo nghĩa hiện đại, cũng không tương đương với một công tước cha truyền con nối. "Doge" là tước hiệu của quan chức cao cấp nhất được bầu chọn của Venice và Genoa; cả hai thành phố đều là nước cộng hòa và doge được bầu. Một doge được gọi khác nhau bằng các kính ngữ đính kèm "My Lord the Doge" ("Monsignor el Doxe"), "Most Serene Prince" ("Serenissimo Principe") và "
Serene Highness" ("Sua Serenità"). |
Sông cảm triều (chữ Nhật: 感潮河川, chữ Anh: tidal river), hoặc gọi là sông triều nhập, là đoạn sông tính từ cửa sông đến ranh giới vùng triều bị thuỷ triều của biển và đại dương ảnh hưởng, khiến cho độ mặn, mực nước, lưu tốc, lưu lượ
Nguyên nhân hình thành.
Sau khi sóng dài của thuỷ triều tiến vào cửa sông, không những bị sự giảm dần của độ sâu nước và sự co hẹp của hai bờ ảnh hưởng, mà còn bị dòng nước khá lớn đổ dồn về hạ du khiến cho sự tiến nhập của sóng triều bị cản trở, do đó hiện tượng thuỷ triều ở cửa sông cũng thường khá phức tạp.
Khi sóng triều ở đoạn cửa sông tiến về phía trước, một mặt bị sự nâng lên và lực cản của lòng sông ảnh hưởng, một mặt bị sự cản trở của nước sông đổ xuống, năng lực lên xuống của nước triều dần dần tiêu hao, tốc độ dòng chảy giảm dần.
Khi sóng triều tiến về phía trước một khoảng cách tương đối, nước triều rút ở ngoài cửa sông, thì nước triều ở trong cửa sông lập tức chảy về biển lại, mực nước của con triều liên tục không ngừng rút xuống, thuỷ lượng triều rút tính từ sườn sau của sóng triều cũng nhiều thêm. Vì vậy, không chỉ lưu tốc ngược dòng sóng triều vì nguyên do lực cản của dòng sông nên suy yếu, mà chính là thuỷ lượng vì nguyên do triều rút mà giảm bớt. Đợi khi sóng triều đi ngược dòng cho đến một địa điểm nào đó, lưu tốc dòng triều đúng lúc triệt tiêu lẫn nhau với tốc độ xả xuống hạ du của dòng sông, nước triều thôi chảy ngược, chỗ đó gọi là ranh giới nước triều.
Ở phía trên ranh giới nước triều, sóng triều vẫn liên tục không ngừng đi ngược dòng, đây là kết quả do dòng sông bị tắc nghẽn và bồi tích, nhưng mà chiều cao của sóng triều suy giảm nhanh chóng và mãnh liệt, cho đến chỗ chênh lệch triều cao và triều thấp bằng không thì thôi, ta mới gọi đây ranh giới vùng triều.
Sông cảm triều phổ thông mà nói có sẵn các đặc trưng dưới đây:
Sông cảm triều không nhất định toàn đoạn đều bị thuỷ triều ảnh hưởng, đoạn sông bị thuỷ triều ảnh hưởng gọi là đoạn sông cảm triều (tidal reach). Thông thường mà nói, sông cả có độ dốc lòng sông thoai thoải, thì đoạn sông cảm triều khá dài. Sự thay đổi độ mặn của sông cảm triều thường giới hạn ở bộ phận hạ du, nhưng mà sự thay đổi mức nước và lưu tốc của nó có thể ảnh hưởng tướng đối đến thượng du.
Khi cửa sông có hình dạng loa, càng dễ bị hải triều xông vào, hình thành sự khác biệt của gradient mực nước biển ngoài cao trong thấp, sản sinh chênh lệch triều cao và triều thấp khá lớn, thí dụ như hải triều sông Tiền Đường nổi tiếng ở vịnh Hàng Châu. |
Dưới bóng cây hạnh phúc
Dưới bóng cây hạnh phúc là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSƯT Vũ Trường Khoa làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 21h00 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 12 tháng 1 năm 2023 và kết thúc vào ngày 29 tháng 3 năm 2023 trên kênh VTV1.
"Dưới bóng cây hạnh phúc" kể về cuộc đời làm dâu của Son (Nguyễn Kim Oanh) - người phụ nữ chọn việc chăm lo gia đình nhà chồng là sự nghiệp quan trọng nhất của mình. Trong gia đình chồng có một người anh cả là Tố (NSƯT Bùi Như Lai) từng bị vợ bỏ, tính tình khó ưa và hận đàn bà; có cặp vợ chồng em út Danh (Hoàng Anh Vũ) - Tuyết (Kiều My) là những người trẻ mê lối sống phù phiếm nhưng năng lực giới hạn. Còn Đạt (Mạnh Hưng) - chồng Son là người luôn chỉ biết hưởng thụ những gì vợ cố vun vén. Tất cả họ đều chịu sự tác động của người cha - ông Công (NSND Quốc Trị), người đàn ông gia trưởng khiến gia đình luôn gặp những rắc rối.
Cùng một số diễn viên khác…
Bài hát trong phim là ca khúc "Hạnh phúc vụt qua" do Lê Anh Dũng sáng tác và Mai Diệu Ly thể hiện.
"Dưới bóng cây hạnh phúc" do NSƯT Vũ Trường Khoa làm đạo diễn, kịch bản được viết bởi Trịnh Đan Phượng, Trịnh Cẩm Hằng và Trịnh Khánh Hà. Đây là tác phẩm nói về đề tài gia đình, kể về cuộc sống của một người phụ nữ làm dâu trong một gia đình toàn đàn ông. Vai chính lần lượt do NSND Quốc Trị, Kim Oanh, Mạnh Hưng, Kiều My, Hoàng Anh Vũ, Luơng Thanh, Huyền Thạch đảm nhận. Bộ phim đánh dấu sự trở lại của NSƯT Bùi Như Lai sau nhiều năm không xuất hiện trên phim truyền hình và diễn viên Kiều My sau 2 năm vắng bóng màn ảnh nhỏ cũng như sau 7 năm đóng vai phụ nữ đã có gia đình trong "Hôn nhân trong ngõ hẹp." Phim đồng thời đánh dấu sự trở lại của Hoa hậu Thân thiện Đậu Thị Hồng Phúc sau 11 năm không xuất hiện trên màn ảnh nhỏ, kể từ phim "Mặt nạ da người." |
Slitherlink (còn được gọi là Fences, Takegaki, Loop the Loop, Loopy, Ouroboros, Suriza và Dotty Dilemma) là một trò chơi giải đố logic được phát triển bởi công ty phát hành trò chơi câu đố Nikoli, Nhật Bản, công ty Nhật đã phát triển trò chơi Sudoku.
Slitherlink được chơi trên một bảng chữ nhật, được chia thành các ô vuông 1x1. Mỗi ô vuông có 1 số nguyên từ 0 đến 3, hoặc là ô trống. Nhiệm vụ của bạn là nối các điểm (là các góc của các hình vuông 1x1) thành 1 đường đi khép kín, sao cho số được ghi trên mỗi ô vuông đúng bằng số cạnh của ô vuông đó mà có đường đi đi qua. (các ô trống có thể có bao nhiêu cạnh thuộc đường đi cũng được.). Một bảng Slitherlink hợp lệ luôn có một cách giải duy nhất.
Bất cứ khi nào số cạnh xung quanh một ô khớp với số trong ô, các cạnh tiềm năng khác phải được loại bỏ. Điều này thường được biểu thị bằng cách đánh dấu X vào các cạnh được biết là trống.
Một ký hiệu hữu ích khác khi giải Slitherlink là một cung chín mươi độ giữa hai cạnh liền kề, để chỉ ra rằng phải điền chính xác một trong hai cạnh. Một ký hiệu liên quan là một vòng cung kép giữa các cạnh liền kề, cho biết rằng phải điền cả hai hoặc cả hai. Những ký hiệu này không cần thiết cho giải pháp, nhưng có thể hữu ích trong việc tìm ra nó.
Nhiều phương pháp dưới đây có thể được chia thành hai bước đơn giản hơn bằng cách sử dụng ký hiệu vòng cung.
Chính xác 2 hoặc 0 cạnh tại mỗi điểm.
Chìa khóa cho nhiều suy luận trong Slitherlink là mỗi điểm có chính xác hai cạnh kết nối với nó hoặc không có cạnh nào. Việc áp dụng quy tắc đơn giản này dẫn đến các khoản khấu trừ ngày càng phức tạp. Việc nhận ra các mẫu đơn giản này sẽ giúp ích rất nhiều trong việc giải các câu đố Slitherlink.
Định lý đường cong Jordan.
Trong một câu đố đặc biệt khó, người ta có thể sử dụng định lý đường cong Jordan, trong đó phát biểu rằng bất kỳ đường cong mở nào bắt đầu và kết thúc bên ngoài đường cong đóng phải cắt đường cong đóng một số lần Số chẵn. Đặc biệt, điều này có nghĩa là bất kỳ hàng nào của lưới phải có số chẵn các đường dọc và bất kỳ cột nào phải có số chẵn các đường ngang. Khi chỉ chưa biết một đoạn đường thế trong một trong các nhóm này, bạn có thể xác định xem nó có phải là một phần của vòng lặp hay không bằng định lý này. Điều này cũng có nghĩa là nếu bạn vạch một đường tùy ý trong đầu từ mép ngoài của lưới đến mép ngoài khác của lưới, thì đường đó sẽ cắt đường cong đã đóng một số lần chẵn.
Một chiến lược đơn giản để hỗ trợ việc sử dụng định lý này là "sơn" (đôi khi được gọi là "bóng râm") các khu vực bên ngoài và bên trong. Khi bạn nhìn thấy hai ô bên ngoài hoặc hai ô bên trong cạnh nhau, thì bạn biết rằng không có ranh giới giữa chúng. Điều ngược lại cũng đúng: nếu bạn biết không có đường kẻ giữa hai ô, thì các ô đó phải có cùng một "màu" (cả bên trong hoặc cả bên ngoài). Tương tự, nếu một ô bên ngoài và một ô bên trong liền kề nhau, bạn biết rằng phải có một đường kẻ đầy giữa chúng; và một lần nữa điều ngược lại là đúng.
Slitherlink xuất hiện lần đầu trong Puzzle Communication Nikoli số 26 (tháng 6 năm 1989). Biên tập viên đã kết hợp hai câu đố ban đầu được đóng góp ở đó. Lúc đầu, mỗi ô vuông chứa một số và các cạnh không phải tạo thành một vòng khép kín.
Trò chơi điện tử.
Câu đố Slitherlink đã được giới thiệu trong trò chơi điện tử trên một số nền tảng. Một trò chơi có tên Slither Link đã được Bandai xuất bản tại Nhật Bản cho bảng điều khiển di động Wonderswan vào năm 2000. Các câu đố Slitherlink đã được đưa vào cùng với các câu đố Sudoku và Nanogram trong Tạp chí Câu đố Loppi: Loạt trò chơi Câu đố Kangaeru từ hộp mực Success for the Game Boy Nintendo Power vào năm 2001. Các trò chơi Slitherlink cũng được giới thiệu cho bảng điều khiển trò chơi cầm tay Nintendo DS, với việc Hudson Soft phát hành Puzzle Series Vol. 5: Slitherlink tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 11 năm 2006 và Agetec phát hành Brain Buster Puzzle Pak tại Bắc Mỹ vào ngày 17 tháng 6 năm 2007. |
Trợ từ tiếng Nhật
Trong tiếng Nhật, trợ từ (助詞, joshi) hoặc "teniowa" (てにをは, "teniowa") là các phụ tố hoặc từ ngắn trong tiếng Nhật theo sau danh từ, động từ, tính từ hoặc câu. Chức năng ngữ pháp của chúng thể hiện các ngữ nghĩa hoặc chỉ định chức năng cho đối tượng nó bổ nghĩa.
Chính tả và từ điển.
Trợ từ tiếng Nhật được viết bằng chữ hiragana trong tiếng Nhật hiện đại, tuy nhiên một số cũng có dạng kanji (Ví dụ 弖 hoặc 天 cho te て; 爾 cho ni に; 乎 hoặc 遠 cho o を; và 波 cho wa は).
Trợ từ tuân theo quy tắc phiên âm giống như tất cả các từ tiếng Nhật, ngoại trừ は (viết ha, phát âm wa khi là trợ từ), へ (viết he, phát âm là e) và を (viết là wo, thường được phát âm là o, mặc dù một số nói nó là wo).
Có 8 loại trợ từ, được phân loại theo chức năng của chúng
格助詞, kaku-joshi - Trợ từ thể cách
が, の, を, に, へ, と, で, から, より
並立助詞, heiritsu-joshi - Trợ từ tịnh lập
か, の, や, に, と, やら, なり, だの
終助詞, shū-joshi - Trợ từ đuôi câu
か, の, や, な, わ, とも, かしら
間投助詞, kantō-joshi - Trợ từ đan xen
ばかり, まで, だけ, ほど, くらい, など, なり, やら
は, も, こそ, でも, しか, さえ, だに
ば, や, が, て, のに, ので, から, ところが, けれども, くせに |
Tara Kristen Lipinski (sinh ngày 10 tháng 6 năm 1982) là cựu vận động viên trượt băng nghệ thuật, diễn viên, bình luận viên thể thao và nhà sản xuất phim tài liệu người Mỹ. Ở nội dung đơn nữ, cô giành huy chương vàng Thế vận hội Mùa đông 1998, vô địch Thế giới 1997, hai lần vô địch Chung kết Champions Series (1997–1998) và vô địch Hoa Kỳ 1997. Cho đến năm 2019, cô là vận động viên trượt băng đơn trẻ nhất vô địch Quốc gia Hoa Kỳ và là người trẻ nhất vô địch Thế vận hội và Thế giới trong lịch sử trượt băng nghệ thuật. Cô là phụ nữ đầu tiên biểu diễn thành công kỹ thuật tổ hợp "3Lo-3Lo" trong thi đấu, đây cũng là yếu tố nhảy đặc trưng của Lipinski. Bắt đầu từ năm 1997, báo chí Mỹ tung tin Lipinski tranh đua với vận động viên trượt băng nghệ thuật Michelle Kwan, đỉnh điểm của việc này là khi Lipinski giành huy chương vàng tại Thế vận hội mùa đông 1998.
Lipinski nghỉ thi đấu vào năm 1998. Cô chiến thắng tất cả các giải mình đã tham gia, đồng thời là vận động viên trượt băng trẻ nhất chiến thắng trong Giải vô địch trượt băng nghệ thuật chuyên nghiệp thế giới. Cô tham gia biểu diễn trong các chương trình truyền hình trực tiếp trước khi giã từ sân băng vào năm 2002. Lipinski cùng với nhà bình luận thể thao Terry Gannon và đồng đội trượt băng cũng là bạn tốt Johnny Weir trở thành bình luận viên trượt băng nghệ thuật chính cho đài NBC năm 2014.
commentĐã di chuyển đến /comment
templatestyles src="Giới hạn mục lục/" /
Tara Kristen Lipinski sinh ngày 10 tháng 6 năm 1982 tại Philadelphia, con gái của "Pat" Lipinski và giám đốc điều hành dầu mỏ Jack Lipinski. Những năm ấu thơ diễn ra ở Sewell, New Jersey. Lúc lên hai, khi đang xem Thế vận hội Mùa hè 1984, bé Tara đứng lên cái bát Tupperware và giả vờ là vận động viên giành huy chương vàng. Năm ba tuổi, cô bé bắt đầu trượt patin và cuối cùng vô địch quốc gia trong nhóm tuổi mình khi lên chín. Cùng năm ấy, Lipinski bắt đầu trượt băng nghệ thuật, mang các kỹ năng đã có sang sân băng. Về sau, cô chuyển hẳn sang trượt băng nghệ thuật và học kỹ năng này tại Đại học Delaware tại Newark, Delaware.
Năm 1991, cha Lipinski được thăng chức nên gia đình chuyển đến Sugar Land, Texas, gần Houston. Cô được tập luyện trên sân băng công cộng trong trung tâm thương mại The Galleria. Hai năm sau, Lipinski cùng mẹ trở lại Delaware để tiếp tục tập luyện với huấn luyện viên Jeff DiGregorio, người từng hướng dẫn cô trong ba năm trước khi họ chuyển đến Texas. Cha cô vẫn ở lại Texas để làm việc nuôi gia đình. Năm 1995, Lipinski và mẹ lại chuyển đến Bloomfield Hills, Michigan, để tập luyện với huấn luyện viên Richard Callaghan tại Câu lạc bộ Trượt băng Detroit.
Sự nghiệp thể thao.
Năm 1994, Lipinski giành được huy chương bạc nữ cấp thiếu nhi ("novice") tại Giải vô địch trượt băng nghệ thuật Hoa Kỳ năm 1994. Cũng năm ấy, cô trở thành vận động viên trẻ nhất nhận huy chương vàng tại Liên hoan Thế vận hội Hoa Kỳ khi 12 tuổi. Tháng 11, lần đầu tiên tham gia thi đấu quốc tế, cô giành vị trí thứ nhất tại giải "Pokal der Blauen Schwerter" ở Chemnitz (Đức) khiến giới truyền thông bắt đầu quan tâm. Ở cấp độ thiếu niên ("junior"), cô đứng vị trí thứ tư tại Giải vô địch thiếu niên thế giới 1995 và đứng thứ nhì tại Giải vô địch Hoa Kỳ 1995. Cuối năm 1995, cô đứng thứ năm tại Giải vô địch thế giới 1996, đánh dấu khép lại mối quan hệ giữa DiGregorio và nhà Lipinski.
Sau khi Lipinski và mẹ thực hiện một loạt phỏng vấn và nhận những bài học mẫu từ huấn luyện viên tiềm năng khắp cả nước, cuối cùng họ chọn thuê Richard Callaghan. Tháng 1 năm 1996, Lipinski giành huy chương đồng cấp độ trưởng thành ("senior") tại Giải vô địch Hoa Kỳ 1996. Kết thúc mùa giải 1995–96, cô được quốc tế chú ý khi đủ điều kiện tham dự Giải vô địch thế giới 1996. Lipinski chỉ đứng thứ 22 sau bài thi ngắn, nhưng bài thi tự do với 7 cú nhảy ba vòng đã đưa cô lên vị trí 15.
Lipinski và Callaghan dành năm tiếp theo giúp diện mạo mình trưởng thành hơn; cô tham gia lớp học múa ba lê và thuê biên đạo Sandra Bezic để "tạo ra những màn diễn cho Lipinski thể hiện niềm say mê nhưng trông chững chạc". Cuối năm 1996, cô tăng độ khó kỹ thuật cho bài diễn với cú nhảy liên hoàn 3Lo-3Lo. Cô trở thành phụ nữ đầu tiên thực hiện được kỹ thuật này khi thi đấu. Lipinski dự "ISU Champions Series" (về sau đổi tên thành "Giải trượt băng nghệ thuật ISU Grand Prix") trong mùa giải 1996–97; cô về nhì tại Skate Canada, hạng ba tại Trophée Lalique và hạng nhì tại Cúp Quốc gia 1996. Cô giành huy chương vàng tại Chung kết Champion Series và đánh bại Michelle Kwan khi có nhiều cú nhảy thành công hơn trong cả bài thi ngắn lẫn tự do.
Tháng 2 năm 1997, ở tuổi 14, Lipinski trở thành vận động viên trượt băng trẻ tuổi nhất giành danh hiệu Vô địch Hoa Kỳ, phá kỷ lục cũ của Sonya Klopfer thiết lập năm 1951. Lipinski đánh bại đương kim vô địch 1996 Michelle Kwan dù Kwan đã thắng bài thi ngắn. Trong bài thi tự do, Kwan bị ngã hai lần và chỉ thành công ("land") được 4 trong 7 cú nhảy 3 vòng dự kiến, mở ra cánh cửa cho chiến thắng của Lipinski. Lipinski là người cuối cùng thực hiện phần thi tự do và hoàn thành một cách sạch sẽ với 7 cú nhảy 3 vòng, gồm cả tổ hợp 3Lo-3Lo đặc trưng của mình. Cô xếp hạng nhất.
Theo tác giả Edward Swift tờ "Sports Illustrated", Giải vô địch quốc gia Hoa Kỳ năm 1997 đánh dấu sự khởi đầu cho cuộc so tài Kwan–Lipinski.
Một tháng sau, Lipinski chiến thắng Giải vô địch thế giới 1997 và trở thành nhà nữ vô địch trượt băng trẻ tuổi nhất khi ấy. Lipinski trẻ hơn 1 tháng so với Sonja Henie người Na Uy khi giành chức vô địch đầu tiên (trong 10 lần vô địch) năm 1927. Lipinski hoàn thành 7 cú nhảy 3 vòng giống như tại giải vô địch Hoa Kỳ và Chung kết Champion Series, kết thúc tại vị trí cao nhất ngay sau bài thi ngắn. Cô cũng hoàn thành hai cú nhảy Axel 2 vòng (2A) góp phần nhỏ để nâng điểm số. Lipinski đạt hầu hết điểm trình diễn (PCS) là 5,7 hoặc 5,8 giống như điểm kỹ thuật (TES). Ba trong bốn giám khảo chấm điểm trình bày của Lipinski cao hơn điểm kỹ thuật.
Phóng viên Jere Longman của "The New York Times" gọi bài thi tự do của Lipinski là "màn trình diễn nhẹ nhàng duyên dáng" và nói rằng cô ấy "điềm tĩnh và gần như hoàn mỹ". Lipinski mở màn bằng cú nhảy Axel 2 vòng (2A) và Flip 3 vòng (3F) cũng như 3Lo liên tiếp quen thuộc. Cô nhận được 5,8 và 5,9 cho điểm kỹ thuật, còn điểm trình bày là 5,7 và 5,8. Khi có kết quả cuối cùng sau bài thi tự do, các giám khảo đã không thể công bố rõ ràng người chiến thắng. Lipinski, Kwan (bài thi ngắn đứng thứ tư) và vận động viên người Nga Irina Eduardovna Slutskaya đều được bầu chọn cho vị trí thứ nhất. Kwan xếp thứ nhất cho bài thi tự do với đa số phiếu đánh giá thứ nhất và thứ nhì, còn Lipinski xếp thứ nhất chung cuộc vì bài thi tự do được nhiều phiếu thứ nhì hơn Slutskaya. Chỉ cần thêm 2 giám khảo cho điểm Slutskaya cao hơn Lipinski ở bài thi tự do thì Kwan đã có thể giành chiến thắng chứ không phải về nhì. Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ giành cả hạng nhất và nhì tại giải thế giới kể từ năm 1992 khi Kristi Yamaguchi giành huy chương vàng và Nancy Kerrigan được huy chương bạc.
Mùa giải tiền Thế vận hội.
Giữa hai mùa giải, Lipinski cao thêm 2 inch và tròn 15 tuổi. Cô bước vào mùa giải 1997–98 khi hàng ngày tham gia lớp khiêu vũ của giáo viên múa ba lê người Nga Marina Sheffer để bài diễn được phức tạp tinh tế hơn. Cô chọn nhạc phim cho cả bài diễn ngắn lẫn tự do, còn Marina Sheffer phụ trách biên đạo múa. Theo tác gia kiêm sử gia trượt băng nghệ thuật Ellyn Kestnbaum, báo chí Mỹ đã tung hô "hết sức cuộc đua tranh Kwan–Lipinski".
Tại Giải trượt băng Hoa Kỳ 1997, Kwan lần đầu tiên đánh bại Lipinski trong ba nội dung thi đấu và giành huy chương vàng. Lipinski đứng thứ nhì sau Kwan trong cả bài thi ngắn và tự do, về nhì chung cuộc. Mặc dù thực hiện những cú nhảy khó hơn Kwan trong bài thi ngắn, các điểm kỹ thuật của Lipinski đều thấp hơn. Với bài thi tự do, cô bị ngã khi thực hiện cú nhảy Lutz 3 vòng (3Lz) nhưng có màn diễn mạnh mẽ và khó về kỹ thuật. Theo Kestnbaum, Callaghan "ngạc nhiên không rõ tại sao các giám khảo lại cho nhà đương kim vô địch thế giới điểm thấp như vậy, đáng nhẽ nhà vô địch phải có ưu thế không chút nghi ngờ từ vị thế đó chứ". Lipinski lại về nhì tại Trophée Lalique, sau vận động viên người Pháp Laëtitia Hubert. Phải biết rằng Hubert đã không thắng cuộc thi lớn nào kể từ Giải vô địch thiếu niên thế giới 1992 và chỉ đứng thứ 11 ngay cuộc thi trước đó.
Đến với Chung kết Champions Series 1997–98, Lipinski chỉ ở hạt giống thứ tư ngang bằng Maria Viktorovna Butyrskaya của Nga. Nhưng cô đã chiến thắng giải này và có được màn diễn sạch sẽ trong cả mùa giải. Dù đủ điều kiện tham dự nhưng Kwan đành phải rút lui vì chấn thương. Mike Penner của tờ "LA Times" đưa tin rằng cả Lipinski và Callaghan đều lo ngại bị ban giám khảo đối xử bất công tại Champion Series mùa đó. Giám khảo chấm điểm kỹ thuật của Lipinski thấp hơn mùa trước, thấp tới 5,3 vì thực hiện nhảy Lutz không chuẩn. Theo Penner, các giám khảo nói với Callaghan rằng Lipinski thường xuyên thực hiện nhảy Lutz bằng cạnh trong của lưỡi trượt chứ không phải cạnh ngoài, trong trượt băng nhảy sai Lutz như vậy thì gọi là "Flutz". Lipinski và Callaghan tranh cãi với các giám khảo về điểm số những cú nhảy, lấy cớ rằng cô đã thực hiện y như khi vô địch thế giới lẫn quốc gia Hoa Kỳ mùa giải trước. Các tờ báo lớn tại Hoa Kỳ đã đăng tải một số bài với chủ đề Lipinski bị điểm thấp. Theo phóng viên Nancy Armor của "The Spokesman-Review", Lipinski thể hiện màn trình diễn tốt nhất của mình trong mùa tại giải Chung kết với cú nhảy tốt Lutz 3 vòng (3Lz).
Tại Giải vô địch Hoa Kỳ 1998, Lipinski về nhì sau Kwan. Trong bài thi ngắn, Lipinski bị ngã khi thực hiện nhảy Flip 3 vòng, cô gọi đây là "điểm thấp nhất" trong sự nghiệp mình. Cô kiểm soát lại được bài thi ngắn đủ để leo từ thứ tư lên thứ nhì chung cuộc. Muốn giành chức vô địch, Lipinski sẽ phải đứng đầu bài thi tự do đồng thời Kwan chỉ đạt vị trí thứ ba trở xuống. Bài thi tự do của Lipinski có 7 lần nhảy 3 vòng, với cú kép 3Lo-3Lo đặc trưng và tổ hợp khó 1T-1/2Lo-3S. Các giám khảo đều cho điểm 5,8 và 5,9, ngoại trừ một cặp 5,7 cho phần trình bày.
Thế vận hội mùa đông 1998.
Trượt băng nghệ thuật Hoa Kỳ chọn Kwan, Lipinski và vận động viên đứng thứ 3 tại giải quốc gia là Nicole Bobek tham dự Thế vận hội mùa đông 1998 ở Nagano, Nhật Bản. Lipinski và Kwan là đồng ứng cử viên cho tấm huy chương vàng.
Trong nội dung đơn nữ, Kwan thắng bài thi ngắn với 8 trên 9 giám khảo xếp cô hạng nhất, còn Lipinski về nhì. Bài thi ngắn của Lipinski khó hơn của Kwan về mặt kỹ thuật, được Swift gọi là là "rực rỡ - nhanh, nhẹ nhàng và vui tươi". Bài thi tự do của Lipinski với đặc trưng tổ hợp 3Lo-3Lo có tổng 7 lần nhảy 3 vòng, đây là màn diễn kỹ thuật khó nhất lịch sử Thế vận hội tính đến thời điểm ấy. Lipinski nhận điểm trình diễn là 5,8 và 5,9. Điểm trình bày của Kwan đều đạt 5,9 nhưng thấp điểm kỹ thuật hơn Lipinski. Kwan có bài thi tự do gần như hoàn hảo chỉ với một lỗi nhỏ trong một lần nhảy. Theo phóng viên Amy Shipley tờ "The Washington Post", Kwan "trượt băng xuất sắc và Lipinski trượt giỏi hơn". Swift cho rằng bài thi tự do của Kwan "đủ để giành chiến thắng ở bất kỳ kỳ Thế vận hội nào khác", nhưng ban giám khảo cho cô 5 điểm kỹ thuật 5,7 tạo chỗ trống cho Lipinski vượt lên dẫn trước. Swift nói thêm rằng Lipinski "đã bùng nổ" trong bài thi tự do và "bay vút lên và quay tròn phóng túng, tràn ngập [sân băng] vui tươi". Giống như Kwan, cô có 7 cú nhảy 3 vòng, nhưng "sự khác biệt ở cú tổ hợp 3Lo-3Lo đặc trưng và [tổ hợp] 3 vòng kết thúc tuyệt vời 1T-1/2L-3S". Theo Kestnbaum, những cú nhảy của Lipinski không lớn như của Kwan, nhảy lên không đạt mức lý tưởng nhưng đáp xuống sạch sẽ và tăng tốc khi kết thúc. Các cú xoay nhanh hơn Kwan nhưng không khó bằng và tư thế cũng yếu hơn. Kestnbaum cũng phát biểu: "Màn diễn [Lipinski] không cho thấy các bước chuyển tiếp phức tạp, trượt nghiêng đầy sắc thái, cơ thể và đường nét được kiểm soát và thanh lịch". Lipinski đạt điểm kỹ thuật 5,8 và 5,9 còn điểm trình bày được đến 6 trên 9 giám khảo xếp vị trí đầu tiên. Lipinski giành huy chương vàng vì bài thi tự do có trọng số lớn hơn bài thi ngắn.
Khi ấy, Lipinski là vận động viên trẻ nhất đoạt huy chương vàng Thế vận hội trong lịch sử trượt băng nghệ thuật. Cô là nữ vận động viên Mỹ thứ sáu giành huy chương vàng Thế vận hội môn trượt băng nghệ thuật. Kwan về nhì, còn vận động viên trượt băng Trung Quốc Trần Lộ bất ngờ giành huy chương đồng. Lipinski phá vỡ kỷ lục đã tồn tại 70 năm của Sonja Henie thiết lập tại Thế vận hội mùa đông 1928 khi trẻ hơn 2 tháng. Lipinski-Kwan cũng mang lại thành tích cho Hoa Kỳ trong nội dung trượt đơn, không quốc gia nào đạt cả huy chương vàng lẫn bạc kể từ Thế vận hội kể từ năm 1956, khi mà cũng hai vận động viên người Mỹ lập nên là Tenley Albright và Carol Heiss.
Sự nghiệp chuyên nghiệp.
Tháng 3 năm 1998, Lipinski thông báo quyết định rút khỏi Giải vô địch thế giới 1998 với lý do bị nhiễm trùng tuyến nghiêm trọng đến mức phải nhổ hai răng hàm, thường xuyên mệt mỏi và có thể bị tăng bạch cầu đơn nhân. Tháng 4, Lipinski bày tỏ ý định chuyển lên chuyên nghiệp trong một phỏng vấn trên chương trình "Today Show" của đài NBC, chấm dứt tư cách thi đấu tại Thế vận hội. Cô chia sẻ động lực chính là mong muốn kết thúc việc gia đình bị xa cách nhau do trượt băng và cũng tập trung vào các mục tiêu khác như học đại học trong hai năm tới. Theo "The New York Times", quyết định của Lipinski "gây chấn động cộng đồng trượt băng nghệ thuật Thế vận hội". "USA Today" chỉ trích quyết định này, cho rằng cô chọn dễ dàng từ bỏ và so sánh quyết định của cô với việc đi diễn xiếc vậy. Vận động viên trượt băng nghệ thuật Scott Hamilton viết trong cuốn "Landing It: My Life On and Off the Ice" ("Tiếp xuống: Đời tôi trong và ngoài sân băng") rằng Lipinski phải hứng chịu "lượng nhiệt khổng lồ" khi chuyển lên chuyên nghiệp.
Năm 1998, do được nhiều nhượng quyền và thỏa thuận xuất bản, giá trị tài sản ròng của Lipinski ước tính khoảng 12 triệu đô la. Cô ký thỏa thuận độc quyền với CBS để thực hiện một số màn biểu diễn trên băng và tham gia những giải đấu không nằm trong hệ thống thừa nhận. Sau Thế vận hội, Lipinski lưu diễn với công ty "Champions on Ice" tới 90 thành phố ở Hoa Kỳ. Tháng 8 năm 1998, cô chấm dứt mối liên hệ bắt đầu từ năm 1995 với "Champions on Ice" rồi tham gia dàn diễn viên "Stars on Ice" để nâng cao sắc sảo cũng như trình diễn nhóm. Cô bị đau hông và chấn thương hông khi diễn tập. Cùng năm, Lipinski viết hai cuốn sách "#đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Năm 1999, Lipinski biểu diễn mùa thứ hai với "Stars on Ice" và tham gia "Grand Slam of Figure Skating" được ISU công nhận. Cô trở thành phát ngôn viên cho Boys and Girls Clubs of America và vận động chống ma túy, xuất hiện trong vở kịch xà phòng "The Young and the Restless" cũng như diễn trong các chương trình truyền hình của đài Fox Family Network và Nickelodeon. Cô cũng trở thành người trẻ tuổi nhất chiến thắng Giải vô địch Trượt băng Nghệ thuật Chuyên nghiệp Thế giới, hoàn thành cú nhảy 3F, 3T và 3S trong bài thi tự do. Nhận về hai điểm 10, mười một điểm 9,9 và một điểm 9,8; Lipinski nhiều hơn 1 điểm so với người về nhì là Denise Biellmann.
Năm 2000, Lipinski phẫu thuật hông hòng cứu vãn sự nghiệp mình vào tuổi 18. Cô bị chấn thương gờ ổ khớp ở hông nhưng bị chẩn đoán sai trong 4 đến 5 năm khiến khớp đau đớn. Cô trở thành người phát ngôn nâng cao nhận thức về huyết khối tĩnh mạch sâu ("deep vein thrombosis" -DVT) mà Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ đánh giá là "tác dụng phụ tiềm ẩn nguy hiểm khi phẫu thuật". Chấn thương nguyên khởi có thể đã bắt đầu trước Thế vận hội mùa đông 1998, nhưng ngày càng trở nên tồi tệ hơn đến mức Lipinksi không thể đi lưu diễn nữa. Ca phẫu thuật vốn thường chỉ mất 45 phút đã kéo dài tới 3,5 giờ vì cô đang bị viêm khớp diễn tiến và sụn đã tràn lên xương. Bảy ngày sau, Lipinski trở lại sân băng để tập nhẹ với "Stars on Ice". Cô có thể lưu diễn trở lại nhưng phải rút lui khỏi Giải vô địch Chuyên nghiệp Thế giới năm 2000. Năm 2002, Lipinski cùng "Stars on Ice" lưu diễn tới 61 thành phố Hoa Kỳ rồi từ giã sự nghiệp trượt băng.
Kỹ thuật trượt băng.
Kỹ thuật trượt băng của Lipinski chịu ảnh hưởng từ Kristi Yamaguchi, Scott Hamilton và Christopher Bowman. Phong cách trượt băng của cô thường được so sánh với Michelle Kwan. Jere Longman ví Lipinski như "người thực hiện nhảy Thỏ Energizer bền bỉ" còn Kwan là "nghệ sĩ hoàn thiện, tinh tế hơn". Huấn luyện viên Frank Carroll của Kwan gọi phong cách Lipinski là "tuyệt vời", đồng thời thêm rằng cô ấy "dễ chuyển hướng, dễ nhảy". Tác giả Ellyn Kestnbaum nhận xét rằng so với "sự bày tỏ niềm vui được biên đạo cẩn thận hơn" của Kwan, Lipinski thể hiện "niềm vui tự phát và vô tư trong chuyển động chính mình tạo nên một bầu không khí tự tin và làm chủ không gian hơn".
Kestnbaum đề cập đến kỹ thuật trượt băng của Lipinski trong cuốn "Culture on Ice: Figure Skating and Cultural Meaning" để minh họa ảnh hưởng nữ giới lên môn trượt băng nghệ thuật. Trong đó viết "những người hoài nghi và hay thuần túy vốn coi trọng tính nghệ thuật khả dĩ trong thể thao hay các điểm sáng giá trong trượt băng nghệ thuật phàn nàn rằng các giám khảo trao huy chương vàng cho Lipinski chỉ đếm số lần nhảy mà không quan tâm đến chất lượng cú nhảy, và ít để ý hơn nữa đến chất lượng phần còn lại bài diễn". Kestnbaum lấy Lipinski làm ví dụ về cách thanh thiếu niên, đặc biệt là nữ thiếu niên thống trị thể thao, và bao nhiêu người trên báo chí lại chỉ trích sự phát triển này, một số thậm chí cả chính Lipinski để khuyến khích nó phát triển. Kestnbaum gọi những cú nhảy của Lipinski là "nhỏ và đôi khi sai sót kỹ thuật", những cú nhảy này được tranh luận trên báo chí năm 1997 và 1998. Kestnbaum nhận thấy những bài diễn đầu tiên của Lipinski do Sandra Bezik nhấn mạnh tới sự trẻ trung và nữ tính, trong khi đến Thế vận hội 1998, trọng tâm là 'sự trau chuốt' hơn hoặc 'tính trưởng thành' trong kỹ năng thể hiện".
Theo Longman, Lipinski "thúc đẩy môn thể thao này tiến lên theo độ khó trong những cú nhảy của mình". Ed Swift nhận xét rằng mặc dù những cú nhảy của Lipinski không lớn, nhưng cô ấy thực hiện cú xoay "nhanh đến mức như biến hình tựa Tinkerbell, xen giữa những cú nhảy". Tháng 3 năm 1997, ông nhận xét Lipinski có "năng khiếu âm nhạc và tư thế đĩnh đạc vượt xa tuổi mình", dù thường bị căng thẳng nhưng cô là "màn kết hợp trượt băng hoàn hảo, nếu bé thì bé hạt tiêu". Năm 2018, Chủ tịch Trượt băng nghệ thuật Hoa Kỳ Sam Auxier ghi nhận Lipinski đã giúp gia tăng mức phức tạp cho môn trượt băng Thế vận hội.
Sự nghiệp truyền hình.
Sau khi nghỉ trượt băng nghệ thuật, Lipinski dành vài năm du lịch và làm việc "mỗi nơi một chút". Cô có tham gia diễn xuất nhưng quyết định đó "không phải việc mình". Năm 2009, mong muốn có lại cảm giác mãnh liệt với trượt băng nghệ thuật, cô liên hệ với dịch vụ phát trực tuyến Trượt băng nghệ thuật Hoa Kỳ Ice Network để đề nghị được làm bình luận viên thi đấu. Lipinski bắt đầu tham gia bình luận cho Universal Sports năm 2010 và khởi sự làm việc cho NBC và NBC Sports năm 2011. Tại đó, cô bình luận hầu hết các chương trình phát sóng thi đấu trượt băng nghệ thuật quốc tế. Không như thông lệ các bình luận viên trượt băng nghệ thuật thời cô còn thi đấu, cô tường thuật từ trường quay thay vì đến địa điểm thi đấu trực tiếp. Cô cũng trở thành phóng viên đặc phái của "Extra" và các chi nhánh NBC địa phương.
Lipinski hợp tác với bình luận viên thể thao Terry Gannon và vận động viên trượt băng nghệ thuật đồng thời là người bạn tốt Johnny Weir tại Thế vận hội Mùa đông 2014 ở Sochi với tư cách là nhóm bình luận viên trượt băng nghệ thuật thứ hai nhà đài cho các chương trình phát sóng trực tiếp hàng ngày. Lúc đầu, Lipinski hợp tác với Gannon tại các nội dung cho nữ còn Weir với Gannon tại các nội dung cho nam. Sau khi thấy làm việc ăn ý mà Lipinski gọi là "cảm xúc tức thì" với nhau, họ đưa ra ý tưởng cả ba bình luận cùng lúc với nhau cho NBC. Lipinski cho biết nó như "một kiểu tiền định" vậy. Bộ ba tạo nên 10 tỷ suất khán giả ban ngày ngày thường tốt nhất lịch sử NBC. Theo phóng viên Tom Weir, "họ có sự đồng điệu hài hước tức thì, với những câu chuyện phiếm bình thường và khía cạnh hài hước đã thể hiện tốt đến kinh ngạc đối với phông nền cần vững chắc và chính xác của môn trượt băng nghệ thuật". Sau Thế vận hội, bộ ba thăng tiến lên bình luận viên trượt băng nghệ thuật chính của đài NBC. Lipinski cùng Weir và Gannon là nhà phân tích tại Thế vận hội Mùa đông 2018. Bình luận trong thời gian chính tại Thế vận hội từng là giấc mơ của Lipinski. Ngoài ra, bộ ba này cũng dẫn cho lễ bế mạc Thế vận hội 2018, 2020 và 2022.
Năm 2014, chương trình "Access Hollywood" đài NBC đã thuê Lipinski và Weir phân tích thời trang trên thảm đỏ tại Giải Oscar lần thứ 86. Cô chuyên trách phóng viên truyền thông xã hội, phong cách sống và thời trang cho kênh NBC Sports, trong đó có "Beverly Hills Dog Show" cùng Weir năm 2017, National Dog Show từ năm 2015, Kentucky Derby từ năm 2014 đến 2018 và show trước trận đấu Super Bowl năm 2015 và 2017. Tạp chí "People" gọi họ là phóng viên văn hóa cho Thế vận hội Mùa hè 2016.
Theo "Houston Chronicle", Lipinski đến với nghiệp phát thanh truyền hình "cùng đam mê, sức sống và đạo đức nghề nghiệp nghiêm túc giống như những gì cô ấy đã mang đến sân băng". Cô dành hàng trăm giờ đồng hồ nghiên cứu về vận động viên trượt băng. Chịu ảnh hưởng từ Peggy Fleming, Dick Button và Scott Hamilton, Lipinski học cách bình luận bằng cách nghe lại băng thu âm phát thanh của Hamilton trước đây. Cô gọi sự nghiệp phát thanh viên là "giấc mơ thứ hai" của mình. Năm 2018, cô chia sẻ với "Entertainment Tonight" "Tôi cảm kích vô cùng vì trong cả thế giới mình Johnny và tôi đã tìm ra chỗ này, mang lại cho chúng tôi những cơ hội ở ngoài sân băng". Cùng năm, "The Washington Post" cho thấy phản ứng trái chiều của khán giả đối với Lipinski và Weir; một số coi họ là "con cưng Thế vận hội – nơi cung cấp tràn đầy tri thức, sôi nổi chất chơi", trong khi những ý kiến khác lại nói "xấu tính, đáng ghét và cuồng loạn". Người tiền nhiệm của Lipinski, Weir và Gannon tại NBC Scott Hamilton gọi họ là một "hiện tượng" và "luồng gió tươi mới". "GQ" mô tả phong cách bình luận của họ là "khả năng những người như Gladwell trong việc làm sáng tỏ môn trượt băng nghệ thuật cho những ai chưa biết và tính vô tư thẳng thắn từng khiến họ bị chỉ trích".
"Cosmopolitan" coi phong cách bình luận của Lipinski và Weir là trung thực và đầy màu sắc, đồng thời khẳng định họ vui tính nhưng tránh được vẻ "phô diễn bề ngoài bóng bẩy". Họ cố gắng để người xem dễ tiếp cận với môn trượt băng nghệ thuật, các khía cạnh kỹ thuật chỉ nhắc đến ở mức tối thiểu nhưng chú trọng vào "sắc thái để ai cũng có thể tham gia đàm luận". Cây bút thể thao và phê bình truyền thông Bill Goodykoontz nêu lên sự nhiệt tình của họ đối với trượt băng nghệ thuật là "đặc trưng" khi họ nói không ngừng về môn thể thao nằm lòng của mình. Theo Dick Button, Lipinski và Weir đều "xuất sắc" nhưng Lipinski "có thể nói hơi quá", dù Tom Weir có nói khi vận động viên trượt băng "tao nhã và không mắc lỗi", cả Lipinski lẫn Weir đều "khôn ngoan và giữ yên lặng". Goodykoontz chỉ ra rằng Lipinski và Weir đã im lặng một cách bất thường khi đại diện của Ủy ban Olympic Nga là Kamila Valeryevna Valieva thực hiện bài thi ngắn. Valieva được phép thi đấu dù không qua được kiểm tra ma túy trước Thế vận hội mùa đông 2022. Họ chỉ đơn thuần thông tin về những cú nhảy của Valieva rồi về sau mới bày tỏ ý kiến cá nhân rằng lẽ ra cô không được phép thi đấu.
Năm 2018 và 2019, Lipinski và Weir dẫn chương trình và xuất hiện trong một số màn trình diễn trên Food Network, gồm cả hai mùa "Wedding Cake Challenge" ("Thử thách làm bánh cưới"). Năm 2022, Lipinski cùng dẫn "Wedding Talk" với nhà tổ chức sự kiện José Rolón và nhà thiết kế hôn lễ Jove Meyer, do Chicken Soup for the Soul Studios sản xuất. Cùng năm đó, Lipinski và chồng là Todd Kapostasy, một nhà sản xuất thể thao và đạo diễn phim tài liệu, đồng sản xuất loạt phim tài liệu "Meddling: The Olympic Skating Scandal That Shocked the World." Loạt phim gồm bốn phần tập trung vào tranh cãi về môn trượt băng tại Thế vận hội mùa đông 2002, được phát sóng trên dịch vụ phát trực tuyến NBC Peacock vào tháng 1 năm 2022. Lipinski nói rằng vợ chồng mình lựa chọn cho ra đời loạt phim này nhân dịp 20 năm vụ bê bối cũng như những gì đã xảy ra chưa được nhìn nhận toàn diện. Cô gọi tác phẩm của mình là "một cái nhìn sâu sắc và có trách nhiệm về những gì đã xảy ra". Họ đã tiến hành phỏng vấn các nhân vật liên quan đến vụ việc tại Nga, Pháp và Canada. "USA Today" gọi bộ phim tài liệu là "cái nhìn sâu sắc về vụ bê bối".
Tháng 6 năm 2017, Lipinski kết hôn với nhà sản xuất thể thao Todd Kapostasy sau hai năm hẹn hò. Họ gặp nhau lần đầu tại Sports Emmys 2015 khi Lipinski trao tặng giải thưởng cho Kapostasy. Đám cưới ấy, Johnny Weir là nam phù dâu và trong số khách mời có cả Scott Hamilton.
Lipinski bày tỏ đức tin Công giáo với lòng sùng kính Thánh Têrêsa thành Lisieux từ năm 1994. Cô ghi công Thánh Têrêsa phù hộ mình trong chiến thắng Thế vận hội năm 1998 và hồi phục sau ca phẫu thuật hông năm 2000. Trong các kỳ Thế vận hội, cô đều đeo mề đay Thánh Têrêsa do linh mục Vince Kolo từ Pittsburgh trao gửi. Cô đã cảm tạ Thánh Têrêsa trong khu vực "kiss and cry" sau bài thi ngắn tại Nagano, còn huấn luyện viên của cô cầm bức tượng nhỏ của Thánh Têrêsa khi Lipinski thực hiện bài thi tự do. Cô cũng đeo dây chuyền đính bùa lấy may do người cậu tặng với dòng chữ "Short, but good" ("bé hạt tiêu"). Lipinski cũng đặt tượng Thánh Têrêsa trên bảng trước mỗi lần thi đấu. Vài tháng sau Thế vận hội Nagano, cô dâng tặng huy chương và trang phục mình cho triển lãm. Năm 2001, Lipinski dựng một căn phòng vinh danh Thánh Têrêsa trong khu vui chơi trẻ em tại một bệnh viện ở Detroit. Cô nói rằng biểu tượng hoa hồng của Thánh Têrêsa, "luôn xuất hiện vào những thời điểm tốt nhất và tệ nhất của mình".
Tháng 9 năm 2020, nhằm giúp nâng cao nhận thức về tình trạng sức khỏe, Lipinski cho công khai thông tin chẩn đoán lạc nội mạc tử cung của mình sau khi điều trị bằng phẫu thuật nội soi. Dù triệu chứng không nghiêm trọng nhưng Linpinski bị đau từng cơn gia tăng hơn 5 năm trước khi được chẩn đoán và điều trị. Cô thông báo rằng phẫu thuật thành công, loại bỏ được các mô dính nội mạc và hồi phục "chủ yếu không đau nữa". Cô cho biết việc nâng cao nhận thức về bệnh lạc nội mạc tử cung của vũ công kiêm diễn viên Julianne Hough đã khích lệ mình tìm cách điều trị riêng.
Trượt băng nghệ thuật.
Mốc thi đấu đáng nhớ.
templatestyles src = "Columns/" /
templatestyles src = "Columns/" /
Chương trình truyền hình.
templatestyles src="Div col/"/*"Early Edition" (1997), bản thân |
Cửa chắn sân ga
Cửa chắn sân ga (Tiếng Anh: Platform screen doors, PSDs), còn được gọi là Cửa cạnh sân ga (Tiếng Anh: Platform edge doors, PEDs), được sử dụng tại một số ga xe lửa, tàu điện ngầm và ga chở người để tách sân ga khỏi đường ray xe lửa, cũng như trên một số tuyến buýt nhanh, xe điện mặt đất và các hệ thống đường sắt nhẹ. Chủ yếu được sử dụng để đảm bảo an toàn cho hành khách, chúng là một bổ sung tương đối mới cho nhiều hệ thống tàu điện ngầm trên khắp thế giới, một số đã được trang bị thêm cho các hệ thống đã có sẵn. Chúng được sử dụng rộng rãi trong các hệ thống tàu điện ngầm châu Á, châu Âu và Hệ thống vận chuyển nhanh xe buýt Mỹ Latinh.
Ý tưởng về cửa chắn sân ga có từ đầu năm 1908, khi Charles S. Shute ở Boston được cấp bằng sáng chế cho "Hàng rào và cổng an toàn cho sân ga". Sáng chế bao gồm "một hàng rào cho các cạnh của sân ga", bao gồm một loạt các cọc được bắt vít vào mép của sân ga và các cọc có thể di chuyển theo chiều dọc có thể thu vào trong mép của sân ga khi có một đoàn tàu trong nhà ga. Năm 1917, Carl Albert West được cấp bằng sáng chế cho "Cổng dành cho đường sắt ngầm và những thứ tương tự". Sáng chế cung cấp các thanh dẫn cách đều nhau được cố định vào tường bên của đường hầm, với "cổng có các đầu của nó được dẫn hướng trong các thanh dẫn, các đầu và phần trung gian của cổng có các con lăn ăn vào tường bên". Các xi lanh khí nén có pít-tông sẽ được sử dụng để nâng các cổng phía trên sân ga khi một đoàn tàu đang ở trong ga. Không giống như phát minh của Shute, toàn bộ cổng sân ga có thể di chuyển được và có thể rút lên trên.
Các nhà ga đầu tiên trên thế giới có cửa chắn sân ga là mười nhà ga của Tuyến 2 Tàu điện ngầm Saint Petersburg được mở từ năm 1961 đến năm 1972. "Cửa" sân ga thực sự là các lỗ trên tường nhà ga, hỗ trợ trần của sân ga. Các đường hầm tiếp giáp với nền tảng đảo của mười nhà ga được xây dựng bằng máy khoan đường hầm(TBM) và các nền tảng đảo thực sự được đặt trong một hầm riêng biệt giữa hai đường hầm. Thông thường, TBM đào các đường hầm sâu giữa các nhà ga, trong khi các hầm của nhà ga được đào thủ công và chứa cả đường ray và sân ga. Tuy nhiên, trong trường hợp của Tàu điện ngầm Saint Petersburg, các TBM khoan một cặp đường hầm liên tục đi qua mười nhà ga và bản thân các nhà ga được xây dựng trong các hầm chỉ chứa sân ga, với các lỗ nhỏ ở các bên của hầm, trong lệnh cho hành khách tiếp cận các đoàn tàu trong đường hầm.
Hệ thống giao thông đại chúng tốc độ cao của Singapore khai trương năm 1987 thường được mô tả là hệ thống tàu điện ngầm hạng nặng đầu tiên trên thế giới kết hợp PSD vào các nhà ga vì lý do kiểm soát khí hậu và an toàn, thay vì hạn chế về kiến trúc, mặc dù Lille Metro nhẹ mở cửa vào năm 1983 trước đó.
Mặc dù các thuật ngữ này thường được sử dụng thay thế cho nhau, nhưng cửa chắng sân ga có thể đề cập đến cả rào chắn có chiều cao đầy đủ và nửa chiều cao. Cửa lưới chắn toàn bộ chiều cao của nền tảng là toàn bộ rào cản giữa sàn và trần nhà ga, trong khi cửa lưới chắn nửa chiều cao của nền tảng được gọi là cửa cạnh nền tảng hoặc cửa nền tảng tự động, vì chúng không chạm tới trần nhà và do đó không tạo ra một rào cản tổng thể. Cửa sân ga thường chỉ bằng một nửa chiều cao của cửa toàn chắn, là cửa trượt cao ngang ngực ở mép sân ga để ngăn hành khách rơi khỏi mép sân ga xuống đường ray. Nhưng đôi khi chúng đạt đến chiều cao của đoàn tàu. Giống như cửa chắn có chiều cao tối đa, các cổng sân ga này trượt mở hoặc đóng đồng thời với cửa tàu. Hai loại cửa lưới này hiện là loại chính trên thế giới.
Cửa chắn sân ga kín hoàn toàn.
Cửa lưới kín hoàn toàn (PSD: Platform Screen Door) là loại cửa lưới ngăn hoàn toàn từ mặt sàn đến trần nhà. Cửa lưới kín hoàn toàn đầu tiên là cửa lưới của Ga Park Pobedi trên Tuyến Tàu điện ngầm St. Petersburg số 2 ở Nga, đây cũng là "cửa lưới" được lắp đặt đầu tiên trên thế giới trong chính nhà ga.
Cửa chắn sân ga nửa kín.
Cửa chắn sân ga dạng nửa kín (PED: Platform Edge Door) được lắp đặt ở độ cao khoảng 2m trở lên, giống như loại kín hoàn toàn nhưng đường chạy và ke ga không tách biệt hoàn toàn, phía trên để hở. Nó chủ yếu được lắp đặt ở các ga mặt đất và ga trên cao, nhưng cũng được lắp đặt từng chút một ở một số ga ngầm. Các ga trên Tuyến 1 và 2 của Tàu điện ngầm Busan gặp khó khăn trong việc lắp đặt các hệ thống kín hoàn toàn 100% do thiếu ngân sách, Các ga trên các tuyến hệ thống giao thông mới của Nhật Bản, Tuyến Namboku của Tàu điện ngầm Tokyo và Tuyến Tozai của Tàu điện ngầm Thành phố Kyoto đã được mở tại Các ga của thập niên 1990 và các ga của Tama Urban Monorail mở cửa vào năm 1998.
Một ga trên đường không có mái che sẽ là nửa kín cho dù nó được lắp đặt ở độ cao nào. Loại đóng hoàn toàn và loại bán đóng được gọi chung là 'loại đóng'.
Cửa lưới bán kín đã được lắp đặt không chỉ ở các nhà ga mà còn ở các bến xe buýt.
Cửa chắn sân ga dạng lan can.
Cửa chắn sân ga dạng lan can (HHPSD: Half Height Platform Screen Door) là một trong những loại cửa lưới và được lắp đặt ở độ cao khoảng một nửa so với loại cửa lưới kèm theo.
Ga Đại học Konkuk và Ga Gangbyeon của Tàu điện ngầm Seoul tuyến 2, Daegu Metro tuyến 3, Ga Tokyo, Ga Shinagawa, Ga Shin -Yokohama, Ga Atami, Ga Nagoya của Nhật Bản đường sắt cao tốc Tokaido Shinkansen Nó được lắp đặt ở tất cả các ga của Kyushu Shinkansen và Nishi Kyushu Shinkansen.
Hầu hết, nó được lắp đặt bằng rất nhiều kính, nhưng có những trường hợp không có kính hoặc rất ít, chẳng hạn như ga đơn giản của kho phương tiện Anpyeong hoặc sân ga của Nhật Bản.
Trong trường hợp của Bangkok Skytrain, quảng cáo video được truyền đi bằng cách lắp đặt các biển báo kỹ thuật số (màn hình) trên tường. Ở JR East, đó là cửa nhà thông minh, cửa lưới có độ mở rộng hơn so với cửa lưới kiểu tay vịn hiện có, có cấu trúc phụ đơn giản và cấu trúc khung nhẹ, giúp giảm trọng lượng của thiết bị và đơn giản hóa các cơ chế hướng dẫn hỗ trợ, và rút ngắn thời gian lắp đặt (Tiếng Nhật : スマートホームドア ) đã được phát triển và đang được thí điểm tại Ga Machida trên Tuyến Yokohama và Ga Haijima trên Tuyến Hachiko. Kể từ năm 2018, đã có thông báo rằng cửa nhà thông minh cũng sẽ được giới thiệu tích cực khi lắp đặt cửa lưới ở khu vực Tokyo
Cửa chắn dạng dây thừng.
Cửa chắn dạng dây thừng (RSD: Rope Screen Door) là một loại cửa chắn ngăn không gian giữa sân ga và tàu bằng cách di chuyển một sợi dây hoặc thanh chắn lên xuống.
Các chuyến tàu và tàu điện ngầm thông thường ở khu vực đô thị của Hàn Quốc có chiều dài tàu và vị trí cửa khác nhau nên rất khó vận hành tại các ga có cửa lưới có thể thu vào trái-phải hiện có và chỉ có thể vận hành cửa lưới dạng dây.
Lần đầu tiên trên thế giới, cửa lưới dạng dây thừng được lắp đặt tại ga Nokdong trên tuyến tàu điện ngầm Gwangju số 1 ở Hàn Quốc, nhưng sau đó đã được thay thế bằng loại nửa kín. Ga Munyang trên Tuyến tàu điện ngầm Daegu số 2 và Ga Nonsan trên Tuyến Honam. Tuy nhiên, các đoàn tàu có thông số kỹ thuật khác không được vận hành tại Ga Munyang. Mặt khác, cửa lưới dạng dây thừng, được xuất khẩu sang Nhật Bản và vận hành thử nghiệm, đáp ứng các loại tàu khác nhau.
Trên tàu điện ngầm Thượng Hải năm 2007, một người đàn ông cố gắng lên một đoàn tàu đông đúc đã bị mắc kẹt giữa cửa tàu và cửa sân ga khi chúng đóng lại. Anh ta bị kéo xuống dưới đoàn tàu đang khởi hành và bị giết. Năm 2010, một phụ nữ ở Ga Công viên Trung Sơn của Thượng Hải đã thiệt mạng trong hoàn cảnh tương tự khi cô bị mắc kẹt giữa cửa tàu và sân ga. Một cái chết gần như giống hệt nhau đã xảy ra trên Tàu điện ngầm Bắc Kinh vào năm 2014 —cái chết thứ ba liên quan đến cửa sân ga ở Trung Quốc trong vòng vài năm trước đó. Năm 2018, một phụ nữ cũng bị mắc kẹt tương tự giữa cửa sân ga và xe lửa tại ga đường cao tốc Bao'an của Thượng Hải. Cô ấy đã thoát khỏi vết thương bằng cách đứng yên khi đoàn tàu khởi hành. Vào ngày 22 tháng 1 năm 2022, một phụ nữ lớn tuổi đã thiệt mạng khi bị mắc kẹt giữa cửa tàu và cửa chắn sân ga tại Ga đường Qi'an ở Thượng Hải.
Từ năm 1999 đến 2012, các cửa sân ga của Tàu điện ngầm Luân Đôn, tất cả đều nằm trên tuyến Jubilee, là nguyên nhân gây ra 75 vụ thương tích, bao gồm cả những cú va chạm vào đầu và cánh tay của mọi người. |
Trần Định Định (tiếng Trung: 陈定定; bính âm: Chén Dìngdìng) là một nhà khoa học chính trị Trung Quốc có sở thích nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Trung Quốc, an ninh châu Á, chính trị Trung Quốc và nhân quyền. Ông là Giáo sư về Quan hệ quốc tế và Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Con đường Tơ lụa Thế kỷ 21 tại Đại học Tế Nam, Quảng Châu, Trung Quốc. Ông là thành viên không thường trú tại Viện Chính sách Công Toàn cầu (GPPi), nhà nghiên cứu thỉnh giảng tại Đại học Johns Hopkins SAIS, nhà nghiên cứu tại Trung tâm Toàn cầu hóa, Đại học Thanh Hoa, và là giám đốc sáng lập của Viện Intellisia (海国图智研究院), một think tank độc lập của Trung Quốc tập trung vào các vấn đề quốc tế. Kể từ năm 2014, Trần Định Định là cộng tác viên hàng tuần cho tạp chí "The Diplomat".
Ông có bằng cử nhân Kinh tế Quốc tế của Đại học Nhân dân Trung Quốc và bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ khoa học chính trị của Đại học Chicago. Từ năm 2005 đến 2006, ông là giảng viên thỉnh giảng tại Bộ Chính trị tại Đại học Dartmouth. Từ năm 2006 đến 2007, ông là Nghiên cứu sinh tại Đại học Harvard. Từ năm 2009 đến 2016, Trần Định Định là trợ lý giáo sư tại Đại học Ma Cao, giảng dạy Chính trị Trung Quốc và quan hệ quốc tế. Từ năm 2014 đến 2018, ông là phó chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu Quốc tế (khu vực Châu Á Thái Bình Dương). |
Công suất đơn vị
Công suất đơn vị là mức công suất trên một đơn vị khối lượng của phương tiện cơ động; được tính bằng tỉ số giữa công suất hữu ích lớn nhất của động cơ với khối lượng toàn bộ hoặc khối lượng chiến đấu.
Công suất đơn vị là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng cơ động của phương tiện cơ giới, thường dùng cho xe tăng, xe thiết giáp, xe chiến đấu bộ binh và ô tô quân sự. Đơn vị tính thường là kW/t (hoặc cv/t).
Xe tăng TYPE 90 MITSUBISHI do Nhật Bản chế tạo (sử dụng động cơ điêzen tăng áp tuabin công suất 1.500 hp (1118,55 kW)) có công suất đơn vị lớn nhất là 22,37 kW/t.
Xe tăng STRV 103 do Thụy Điển chế tạo (sử dụng động cơ có công suất 240 hp (178,9 kW)) có công suất đơn vị nhỏ nhất là 4,51 kW/t; trong khi đó khối lượng chiến đấu của xe là 39,7 tấn, mặc dù để giảm khối lượng chiến đấu của loại xe này người ta đã không sử dụng tháp pháo và vận tốc tối đa chỉ đạt 50 km/h.
Các thế hệ xe sản xuất gần đây, do có sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ, các vật liệu mới được sử dụng trong chế tạo động cơ cũng như vỏ giáp của xe tăng, xe thiết giáp, nên công suất đơn vị có xu hướng tăng nhờ việc tăng công suất động cơ và giảm khối lượng chiến đấu.
Để có được công suất đơn vị cao, các xe thường sử dụng động cơ công suất lớn đặc biệt là động cơ tuabin khí, đồng thời sử dụng vật liệu chế tạo vỏ giáp mới như composite, các hợp kim nhẹ nhằm giảm khối lượng chiến đấu.
Các xe tăng hạng nhẹ hiện đại có công suất đơn vị 15-18 kW/t (20-21 hp/t). Các xe tăng chủ lực, xe chiến đấu bộ binh hiện đại có công suất đơn vị 22-25 kW/t (khoảng 30 hp/t).
Xe thiết giáp trên dưới 15 kW/t (khoảng 20 hp/t); ô tô QS 10-12 kW/t (12-15 hp/t). Đối với tàu (thuyền), đại lượng được tính bằng tỉ số giữa tổng công suất thiết bị động lực với lượng giãn nước tiêu chuẩn gọi là hệ số trang bị động lực của tàu (thuyền). |
Cơ số đạn là lượng đạn tiêu chuẩn (phát bắn) được quy định cho một đơn vị vũ khí (súng, pháo, cối, bệ phóng tên lử), xe chiến đấu (xe tăng, xe bọc thé) hay máy bay, tàu thuyề; được dùng làm đơn vị tính toán cấp phát, bảo đảm đạn cho một nhiệm vụ chiến đấu nhất định.
Cơ số đạn chủ yếu phụ thuộc vào tính năng chiến - kĩ thuật của vũ khí - đạn và khả năng chuyên chở, mang theo của người và phương tiện (khẩu đội, kíp ). Cơ số đạn từng loại vũ khí được quy định thống nhất trong toàn quân.
Căn cứ chính để quy định số lượng và thành phần đạn trong Cơ số đạn của một loại vũ khí, xe chiến đấu |
Hội đồng Đại diện Nhân dân Khu vực Malang
Hội đồng Đại diện Nhân dân Khu vực Malang là cơ quan lập pháp nhất viện của thành phố Malang, Đông Java, Indonesia. Nó có 45 đại biểu, được bầu 5 năm một lần, cùng lúc với cuộc bầu cử lập pháp quốc gia.
Malang được chính phủ Đông Ấn Hà Lan công nhận cương vị cao khi là một đô thị tự quản vào năm 1914, với hội đồng thành phố thành lập vào ngày 6 tháng 10 năm 1914. Năm 1922, hội đồng thành phố chuyển đến địa điểm hiện đại ở #đổi . Trong thời kỳ Hà Lan, hội đồng bao gồm 11 đại biểu, trong đó 8 người Hà Lan, 2 người Indonesia bản địa, ghế cuối cùng được phân bổ cho các nhóm không phải người bản địa như người Ả Rập hoặc người Hoa.
Dưới thời Indonesia độc lập, hội đồng thành phố tái lập vào năm 1950, với tư cách là cơ quan lập pháp lâm thời. Hội đồng bầu cử đầu tiên phục vụ khoảng từ năm 1951 và năm 1956.
Năm 2018, 41 trong số 45 đại biểu cơ quan lập pháp đã bị bắt giữ với cáo buộc hối lộ, trong một vụ án liên quan đến thị trưởng Mochammad Anton. Các đại biểu bị bắt với cáo buộc đã nhận các khoản thanh toán từ 12,5 đến 50 triệu Rupiah (842 đến 3.368 USD) để phê duyệt ngân sách thành phố đề xuất vào năm 2015. 40 người thay thế nhậm chức trong khoảng một tuần sau vụ bắt giữ để duy trì các chức năng của chính quyền thành phố. 40 trong số các nghi phạm bị phán quyết với các cáo buộc và nhận loạt bản án từ 4 đến 5 năm.
Trong giai đoạn 2019–2024, PDI-P là đảng lớn nhất trong cơ quan lập pháp với 12 ghế. Lãnh đạo gồm có một chủ tọa và ba phó chủ tọa.
Các đại biểu được bổ nhiệm vào một trong bốn ủy ban – Ủy ban A về chính phủ, Ủy ban B về Kinh tế và Tài chính, Ủy ban C về Phát triển và Ủy ban D về Phúc lợi Công cộng.
Trong cuộc bầu cử năm 2019, thành phố được chia thành năm khu vực bầu cử hệ thống đầu phiếu để bầu ra các thành viên cơ quan lập pháp. Các khu vực bầu cử có đường ranh giới chung với 5 khu của thành phố. |
Cơ số quân y
Cơ số quân y là số lượng vật tư quân y được đóng gói sẵn trong bao bì thích hợp nhằm cung cấp đồng bộ, đủ vật tư để thực hiện một nhiệm vụ kĩ thuật quân y với khối lượng phục vụ quy định (cơ số thuốc) hoặc để trang bị lần đầu cho một tổ chức quân y (cơ số dụng cụ, cơ số đồng bộ). Xây dựng cơ số quân y căn cứ vào tổ chức, nhiệm vụ, phạm vi cứu chữa của mỗi tuyến quân y; các quy định về khả năng kỹ thuật (về điều trị, phòng bệnh, cận lâm sàng, pha chế...); số lượng, cơ cấu vết thương của thương binh, cơ cấu bệnh của bệnh binh; định mức tiêu hao vật tư trung bình (để triển khai một kỹ thuật, để sử dụng cho một đợt điều trị một ca bệnh hoặc một ngày điều trị theo từng phác đồ nhất đị); khả năng của nền kinh tế Nhà nước và của ngành quân y; mục đích cần đạt được của cơ số.
Theo loại vật tư đóng trong cơ số.
Theo loại vật tư đóng trong cơ số, có: cơ số thuốc, cơ số dụng cụ, cơ số đồng bộ.
Cơ số thuốc có nội dung là thuốc, hóa chất, bông băng, phương tiện băng bó, vật tư tiêu dùng mau hỏ, cơ số thuốc thường xuyên (cơ số thuốc bệnh), cơ số thuốc phòng dịch. Cơ số thuốc chiến thương bảo đảm phục vụ cho thương binh trong chiến đấu. Cơ số thuốc thường xuyên (cơ số thuốc bệnh) phục vụ chăm sóc sức khỏe thường xuyên của bộ đội. Cơ số thuốc phòng, chống dịch đáp ứng các yêu cầu phòng, chống các dịch bệnh thường xảy ra ở đơn vị.
Cơ số dụng cụ có nội dung là các loại vật tư bao gồm cả vật tư mau hỏng và vật tư lâu bền, được sử dụng để cấp phát lần đầu cho một tổ chức quân y (như cơ số phẫu thuật, cơ số thay băng, cơ số bào chế, cơ số trang bị của tiểu đoàn quân y sư đoà) hoặc cho một nhân viên quân y (túi cứu thương, túi y tá, túi y sĩ, để phát cho cứu thương, y tá, y sĩ...). Cơ số đồng bộ là cơ số bảo đảm các loại vật tư quân y cho một tổ chức quân y hoặc một phân đội quân y, bao gồm cả dụng cụ và thuốc. Trong đó các loại dụng cụ (vật tư lâu bền) thường được tính đủ theo biểu trang bị; các loại thuốc (vật tư tiêu hao) được tính toán bảo đảm cho 3 tháng hoặc 6 tháng hoạt động.
Theo khối lượng (cách) đóng gói.
Theo khối lượng (cách) đóng gói, có: cơ số đơn, cơ số kép. Cơ số đơn là các cơ số chỉ gồm một đơn vị bao gói như: một túi thuốc cá nhâ, một kiện. Cơ số kép là cơ số được đóng gói thành 2 hoặc nhiều kiện (cơ số bào chế 15 kiện, cơ số trang bị cho tiểu đoàn quân y sư đoàn 13 kiện).
Mỗi loại cơ số quân y đều có tên gọi riêng, được coi là một danh mục trong thống kê quân y và là một đơn vị tính toán trong việc lập kế hoạch tiếp tế quân y, trong quản lí, thống kê, thanh toán. Cơ số Y, cơ số thuốc chiến thương, đóng thành 2 kiện sử dụng trong kháng chiến chống Mỹ, bao gồm các loại thuốc chiến thương thiết yếu và bông băng đủ để thực hiện nhiệm vụ cứu chữa tối khẩn cấp và khẩn cấp cho 25 thương binh do vũ khí thông thường qua trạm quân y với thời gian nằm trung bình 5-7 ngày; cơ số thuốc chiến thương áp dụng từ năm 1988, cấp cho tiểu đoàn quân y của sư đoàn và tương đương để cứu chữa cơ bản cho 50 thương binh bị thương do vũ khí thông thường qua tuyến, gồm 2 kiện, 60 kg.
Đóng gói cơ số quân y.
Việc đóng gói cơ số quân y phải được tuân thủ theo một quy trình thống nhất. Thông thường cơ số quân y được đóng gói tại các kho quân y cấp chiến dịch hoặc cấp chiến lược. Bao bì đóng gói cần phù hợp với tính chất và mục đích sử dụng, bảo đảm an toàn trong vận chuyển, chống được va đập, ít bị tác động của điều kiện thời tiết và thuận tiện mang vác, bốc xếp. Kinh nghiệm trong kháng chiến chống Mỹ, việc tiếp tế vật tư quân y từ hậu phương cho tiền tuyến chủ yếu là sử dụng cơ số nhằm bảo đảm thuận tiện trong dự trù, cấp phát, bảo quản. Tuy nhiên, đóng gói, bảo đảm bằng cơ số tốn kém hơn nhiều so với việc đóng gộp để cấp phát theo dự trù thường xuyên, nên thông thường cơ số thuốc được cấp phát sử dụng ngay thường đóng gói trong các bao bì đơn giản, sử dụng một lần; còn cơ số trang bị, dụng cụ, cơ số thuốc dự trữ sẵn sàng chiến đấu, phòng, chống dịch thường đóng gói trong các bao bì bền chắc, sử dụng lâu dài.
Vật tư quân y.
Hầu hết các loại vật tư quân y đều có niên hạn sử dụng; để bảo đảm chất lượng, tính đồng bộ luôn luôn sẵn sàng bảo đảm tốt cho cứu chữa thương binh, bệnh binh, vật tư y tế cận hạn cần được luân chuyển, thay thế, dự trữ bằng các loại vật tư cùng loại, cùng số lượng và hạn sử dụng dài hơn. Việc luân lưu vật tư quân y có thể cho toàn bộ hoặc các khoản vật tư cận hạn, có nguy cơ giảm chất lượng trong cơ số.
Luân lưu toàn bộ cơ số là định kì thay thế toàn bộ các cơ số đã đóng gói và cấp phát cho đơn vị từ trước đó bằng các cơ số mới, các cơ số cũ được loại khỏi danh mục dự trữ, tháo gỡ đưa vào sử dụng thường xuyên (hình thức này chỉ áp dụng trong trường hợp đặc biệt theo quy định của Cục Quân y, như thực hiện luân lưu dự trữ sẵn sàng chiến đấu cho Trường Sa). Luân lưu từng loại theo danh mục cơ số là luân lưu vật tư khi niên hạn sử dụng của vật tư đó trong cơ số gần hết hạn (trước khi hết hạn 6-12 tháng), giữ nguyên bao bì cơ số.
Trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra), nhu cầu sử dụng vật tư quân y sẽ rất lớn; để luân lưu các loại thuốc có hạn sử dụng trong dự trữ sẵn sàng chiến đấu đòi hỏi phải có một lượng thuốc tiêu thụ thường xuyên tương ứng. Nếu chỉ riêng ngành quân y đảm nhiệm việc dự trữ các loại vật tư quân y cho cả thời bình và thời kì đầu chiến tranh sẽ rất khó khăn, do đó cần có sự tham gia của các cơ quan ban ngành của cả Nhà nước và Quân đội. |
Cơ số vật tư kỹ thuật
Cơ số vật tư kỹ thuật là số lượng vật tư kỹ thuật (chi tiết, cụm máy, bộ phận thay thế, nguyên liệ) quy định cho một đơn vị trang bị kỹ thuật dùng trong khai thác bảo quản, bảo dưỡng và sửa chữa. Cơ số vật tư kỹ thuật dùng làm đơn vị tính toán nhu cầu, cấp phát vật tư kỹ thuật cho từng loại trang bị kĩ thuật có trong biên chế của đơn vị khi thực hiện nhiệm vụ để dự trữ sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, diễn tập, hành quân, dã ngoạ
Các loại cơ số vật tư kỹ thuật được đóng thành hòm, hộp, kiệ, thuận tiện cho vận chuyển, dễ dàng cho quản lí, cấp phát, tiếp nhận và nhanh chóng tới đơn vị cần cấp phát.
Theo yêu cầu khai thác.
Theo yêu cầu khai thác, có các loại cơ số vật tư kỹ thuật 1, 2, 3 (tương ứng với hình thức sửa chữa).
Cơ số 1 dùng để bảo dưỡng và sửa chữa nhỏ trang bị kĩ thuật hỏng nhẹ tại đơn vị, được cấp thẳng xuống kho và trạm sửa chữa của đơn vị cấp chiến thuật.
Cơ số 2 dùng để bảo dưỡng và sửa chữa vừa trang bị kĩ thuật hỏng vừa, đưa về bãi tập trung hoặc trạm sửa chữa cấp chiến dịch, được cấp cho kho, trạm sửa chữa cấp chiến dịch và chiến lược (kho, trạm quân khu, quân đoàn và quân chủng, binh chủng hoặc kho, xưởng thuộc lực lượng sửa chữa ) để sửa chữa vừa và sửa chữa lớn cho cụm chính.
Cơ số 3 dùng để sửa chữa lớn trang bị kĩ thuật hỏng nặng, đưa về xưởng, nhà máy, được cấp cho kho, xưởng sửa chữa quân khu, quân chủng, binh chủng. Thường được áp dụng trong lĩnh vực trang bị xe máy.
Theo hình thức bảo dưỡng kĩ thuật.
Theo hình thức bảo dưỡng kỹ thuật, có: cơ số vật tư bảo dưỡng kĩ thuật 1, cơ số vật tư bảo dưỡng kĩ thuật 2.
Theo mức sửa chữa, có cơ số vật tư: sửa chữa nhỏ, sửa chữa vừa và sửa chữa lớn.
Yêu cầu khi xây dựng.
Yêu cầu khi xây dựng cơ số vật tư kĩ thuật: phải tính toán cụ thể cơ số vật tư kĩ thuật cho từng loại trang bị kỹ thuật, xe má; tính toán số lượng vật tư kỹ thuật cụ thể từng loại cơ số phù hợp với đặc điểm hoạt động và tình hình hư hỏng của trang bị kỹ thuật trong điều kiện thực tế của chiến tranh Việt Nam; đề xuất quy định dự trữ, thời gian dự trữ, cấp phát cơ số vật tư kỹ thuật ở các cấp, các đơn vị hợp lí. Phương pháp xác định cơ số vật tư kỹ thuật thường có các cách: tính trực tiếp từng cơ số; tính theo chu trình sửa chữa lớn.
Căn cứ vào quy định mức bảo đảm (số lần, cấp bảo dưỡng kĩ thuật và mức sửa chữa) của từng cơ số vật tư kỹ thuật đối với từng loại trang bị kỹ thuật và kết quả tính toán để xác định số lượng vật tư kĩ thuật cần thiết trong từng loại cơ số.
Ưu điểm của việc dùng Cơ số vật tư kĩ thuật: đơn giản hóa phép tính khi lập kế hoạch bảo đảm và thống kê vật tư kĩ thuật hoặc thể hiện trong các văn bản kĩ thuật (chỉ lệnh, chỉ thị, hướng dẫ); thuận tiện cho việc vận chuyển, tổ chức cấp phát, tiếp nhậ
Hạn chế của việc sử dụng cơ số vật tư kỹ thuật trong bảo đảm: khi bảo đảm theo cơ số, nguồn vật tư kĩ thuật phải lớn, ổn định; trong chiến đấu có thể có loại vật tư kĩ thuậtkhông sử dụng hết, gây ra lãng phí; gây khó khăn cho việc thanh quyết toán (quản lí)... Để khắc phục những hạn chế, cần tăng cường nguồn dự trữ, chủ động sản xuất trong nước; kí kết hợp đồng bảo đảm lâu dài, ổn định với các nguồn nhập khẩu và tổ chức khôi phục các chi tiết, cụm chi tiết, cụm máy tổng thành hư hỏ; cải tiến mẫu biểu thống kê, thao tác đơn giản, chính xá
Đối với Quân đội ta, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, bảo đảm vật tư kĩ thuật chủ yếu theo danh mục, đến cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ, một số chuyên ngành có những trang bị hiện đại đã tiến hành bảo đảm vật tư kĩ thuật theo cơ số; từ sau năm 1975, số lượng vật tư kĩ thuật chính thức bảo đảm theo cơ số. |
Cơ sở sửa chữa
Cơ sở sửa chữa là cơ sở kỹ thuật có chức năng tiến hành công tác sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật. Cơ sở sửa chữa có cơ sở sửa chữa cố định (trạm, xưởng, nhà má) và cơ sở sửa chữa cơ động (đơn vị, trạm dã chiến, dã ngoại). Trong Quân đội, cấp chiến lược thường có xí nghiệp liên hiệp, nhà máy sửa chữa; cấp chiến dịch có phân đội và xưởng sửa chữa; cấp chiến thuật có phân đội và trạm sửa chữa
Cơ sở sửa chữa ra đời và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của Quân đội, của vũ khí, trang bị kỹ thuật; phụ thuộc vào số lượng, mức độ hiện đại của vũ khí, trang bị kỹ thuật của Quân đội, thủ đoạn tác chiến và uy lực vũ khí, trang bị kỹ thuật của địch. Trong kháng chiến chống Pháp, các cơ sở sửa chữa được tổ chức ngay từ những ngày đầu kháng chiến. Sắc lệnh số 34/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1946) chuyển Phòng Quân giới thành Chế tạo Quân giới cục, các khu thành lập các ti, khoa hoặc phòng quân giới trực tiếp chỉ đạo các xưởng sửa chữa, sản xuất bảo đảm vũ khí cho các đơn vị trong toàn quân. Cuối năm 1950, Cục Vận tải tổ chức các xưởng sửa chữa: Tiền Phong (96-AX), Đông Khê (96-BX), Thành Công và Chiến Thắng. Theo Nghị định số 14A/NĐA (1953) của Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh, Cục Quân khí giải thể 2 xưởng sửa chữa K78 và T40 thành lập 3 đội sửa chữa cơ động. Cùng với sự ra đời các đại đoàn, Quân đội ta đã thành lập các công trường để sửa chữa vũ khí tại các địa phương; trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đã hình thành hệ thống cơ sở sửa chữa từ hậu phương ra tiền phươ, Quân đội đã có nhà máy, xí nghiệp sửa chữa lớn, trạm, xưởng sửa chữa vừa và nhỏ.
Chiến tranh trong tương lai sẽ là cuộc chiến tranh vũ khí công nghệ cao, công tác sửa chữa có vai trò quyết định đối với công tác bảo đảm kỹ thuật cho các đơn vị tác chiến. Việc tổ chức các cơ sở sửa chữa phải theo hướng gọn nhẹ, cơ động; được bố trí theo hướng, vùng theo thế trận chiến lược. |
Cứu kéo là toàn bộ các biện pháp tổ chức và kỹ thuật nhằm đưa vũ khí, trang bị kỹ thuật hỏng hoặc gặp sự cố (kẹt, sa lầy, sa hố, chìm, rệ, đổ...) ra khỏi vị trí nguy hiểm hay trên đường hành quân ra nơi có khả năng cơ động tiếp (đối với trang bị không bị hỏng) về nơi tập trung (thu hồi), sửa chữa theo quy định; một nội dung của bảo đảm kỹ thuật.
Đối tượng cần cứu kéo gồm: các phương tiện kĩ thuật trang bị cho Quân đội khi gặp nạn, không tự vượt qua được. Có phương tiện cứu kéo chuyên dụng (cẩu, xe dắt) hoặc xe cùng loại kết hợp với lực lượng tại chỗ và phương tiện thông thường (xe, súc vậ).
Căn cứ vào các đối tượng cứu kéo, độ sa lầy, điều kiện thực tế... để đưa ra các phương pháp cứu kéo khác nhau. Từng chuyên ngành kĩ thuật có các phương pháp cứu kéo cụ thể. Vd: Cứu kéo xe tăng, xe xích tiến hành các phương pháp: tự cứu kéo, sử dụng đầu kéo chuyên dùng, dùng tời của đầu kéo và hệ thống ròng rọc. Áp dụng các phương pháp khác nhau phụ thuộc vào lực kéo cần thiết để cứu kéo, lực kéo của động cơ đầu kéo, khối lượng và độ phức tạp của công tác chuẩn bị cứu kéo, độ sa lầ
Nội dung chính tổ chức cứu kéo vũ khí, trang bị kỹ thuật: xác định vị trí, tình trạng kỹ thuật của trang bị cần cứu kéo; dự kiến khối lượng công việc, thứ tự hoạt động cứu kéo; chọn đường cứu kéo và vị trí triển khai các phương tiện cứu kéo; chuẩn bị phương tiện cứu kéo, trang bị kỹ thuật cần cứu kéo và thực hành cứu kéo.
Trong chiến đấu phải thực hiện cứu kéo trước những trang bị, phương tiện kĩ thuật trong tầm uy hiếp hỏa lực của địch vào nơi ẩn nấp gần nhất, đường cứu kéo của cấp trên hoặc khu vực sửa chữa của đơn vị và những trang bị quan trọng, không tốn nhiều công sức sửa chữ
Căn cứ vào nhu cầu cứu kéo vũ khí, trang bị kỹ thuật trong chiến đấu (chiến dịch), cơ quan kỹ thuật trên cơ sở thực lực của bản thân và lực lượng cứu kéo được cấp trên tăng cường, phối thuộc tổ chức ra các lực lượng cứu kéo chuyên trách. Thông thường lực lượng cứu kéo được kết hợp với lực lượng sửa chữa thành phân đội cứu kéo - sửa chữa và bố trí tại các trọng điểm trên đường cơ động, trên hướng chủ yếu của chiến dịch.
Để nâng cao hiệu quả cứu kéo trong chiến tranh hiện đại, cần tập trung cải tiến các phương tiện cứu kéo (đầu kéo) theo hướng đa năng (cẩu, nâng, dắt), gọn nhẹ, cơ động, tàng hình; huấn luyện thành thạo kĩ năng sử dụng phương tiện cứu kéo trong điều kiện tác chiến ác liệt cho lực lượng chuyên trách. |
Dịch tễ học quân sự
Dịch tễ học quân sự là chuyên ngành của dịch tễ học và y học quân sự nghiên cứu những quy luật phát sinh, phát triển, sự phân bố tần số của bệnh tật cùng những yếu tố quy định sự phân bố đó trong cộng đồng quân nhân, các biện pháp giám sát, phòng và chống các bệnh dịch trong các điều kiện hoạt động thời bình và thời chiến của lực lượng vũ trang.
Mục đích, đối tượng.
Mục đích nghiên cứu của dịch tễ học quân sự cùng với các ngành khoa học, y học quân sự khác như: vệ sinh quân sự, y học quân chủng, binh chủng, phòng hóa - phòng nguyên, tổ chức chỉ huy quân , sức chiến đấu cho bộ đội ở góc độ phòng, chống bệnh dịch trong mọi điều kiện hoạt động quân sự.
Đối tượng nghiên cứu và phục vụ của dịch tễ học quân sự đó là cộng đồng quân nhân, bao gồm toàn bộ những người phục vụ trong lực lượng vũ trang (chiến sĩ, hạ sĩ quan, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, lực lượng dự bị động viên) cùng với tình trạng sức khỏe và các bệnh tật quan sát thấy trong cộng đồng quân nhân; toàn bộ các yếu tố của môi trường sống và hoạt động quân sự có ảnh hưởng tới sức khỏe và tần số cũng như sự phân bố tần số bệnh tật của các quân nhân.
Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là Dịch tễ học quân sự chung và Dịch tễ học quân sự quân chủng, binh chủng: lục quân, hải quân, không quân, công binh, tăng thiết giáp, đặc công, hóa họ, trong đó khác biệt về cơ cấu, tần số bệnh tật cũng như sự phân bố và nguyên nhân được xem xét một cách cụ thể, đặt cơ sở cho công tác dự phòng bệnh dịch của các nhóm người phục vụ trong các quân chủng, binh chủng.
Ở góc độ đặc thù của loại hình hoạt động quân sự, phạm vi đề cập của Dịch tễ học quân sự trong cả thời bình và thời chiến. Dịch tễ học quân sự thời bình xem xét nghiên cứu mọi bệnh tật cùng những yếu tố ảnh hưởng do các hoạt động tuyển nhận tân binh, luyện tập, lao động phòng, chống thiên tai, thảm họa trong điều kiện ở doanh trại, cơ động dã ngoại. Dịch tễ học quân sự thời chiến xem xét các loại bệnh tật nội khoa, ngoại khoa của bộ đội phát sinh trong quá trình hành quân, trú quân, chiến đấu phòng ngự hay tiến công, chiến đấu với các khí tài và nhiệm vụ đặc biệt, chiến đấu với vũ khí hủy diệt lớn trong đó có vũ khí sinh học, chiến đấu dẹp bạo loạ
Ở góc độ đặc thù về khu vực địa lí của các hoạt động quân sự, phạm vi đề cập của Dịch tễ học quân sự là vùng rừng núi, vùng đồng bằng, đô thị và vùng ven biển, hải đảo. Ở từng khu vực, sự khác biệt trong đặc điểm về cơ cấu, tần số mắc bệnh, mùa bệnh, chu kì bệ, đặt cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp can thiệp phòng, chống bệnh dịch phù hợp cho bộ đội đóng quân ở từng khu vực địa lí.
Xác định nguyên nhân của bệnh, nghiên cứu lịch sử tự nhiên của bệnh, đánh giá hiệu quả các biện pháp can thiệp. Xác định nguyên nhân của bệnh: ngoài một số ít bệnh có nguyên nhân duy nhất là do yếu tố gen, hầu hết các bệnh khác là kết quả của sự tương tác giữa gen và các yếu tố môi trường. Yếu tố môi trường bao gồm những yếu tố sinh học, hóa học, vật lí, tâm lí, kinh tế và văn hóa có ảnh hưởng tới sức khỏe. Ngoài ra, yếu tố hành vi cá nhân ảnh hưởng tới sự tương tác đó.
Dịch tễ học quân sự nghiên cứu những tác động này và hiệu quả của các can thiệp phòng bệnh bằng các biện pháp nâng cao sức khỏe cho cộng đồng quân nhân. Dịch tễ học quân sự nghiên cứu lịch sử tự nhiên của bệnh: bất kì một loại bệnh nào cũng đều có thời gian tiến triển nhất định trên cơ thể người, từ trạng thái lành sang trạng thái bệnh rồi sau đó kết thúc bằng khỏi hoặc tử vong hoặc tàn phế. Mỗi loại bệnh có thể khác nhau từng chi tiết cụ thể, nhưng nhìn chung đều có một quá trình diễn biến tự nhiên theo một quy luật riêng, trong một thời gian nhất định. Quá trình đó gọi là quá trình tự nhiên, nghĩa là quá trình diễn biến của bệnh khi không có sự can thiệp của điều trị, một số tác giả gọi là lịch sử tự nhiên của bệnh. Cần phải xác định quá trình tự nhiên của bệnh để có những đề cập khác nhau trong việc phòng ngừa và kiểm soát bệnh.
Đồng thời, Dịch tễ học quân sự thường được sử dụng để mô tả tình trạng sức khỏe của các nhóm quần thể trong cộng đồng quân nhân. Các nhà quản lí trong lĩnh vực y tế cần phải có những thông tin về gánh nặng bệnh tật của quần thể để có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực nhất định của ngành cho các ưu tiên can thiệp để tăng cường sức khỏe quần thể.
Dịch tễ học quân sự chú trọng vào các phơi nhiễm môi trường lao động quân sự đặc thù. Đánh giá hiệu quả các biện pháp can thiệp nhằm xác định các yếu tố như thời gian nằm viện của bệnh nhân với những vấn đề sức khỏe
Dịch tễ học mô tả được thực hiện bằng phương pháp mô tả dịch tễ học nhằm đo lường tần số mắc bệnh và tử vong ở cộng đồng quân nhân với mọi loại bệnh tật, trước hết là các bệnh thường gặp trong Quân đội như: bệnh nhiễm trùng, truyền nhiễm người lớn, bệnh tật do chiến đấu, luyện tập và lao động quân sự, bệnh nghề nghiệp theo đặc thù quân chủng, binh chủng. Mô tả sự phân bố mắc và tử vong do các bệnh tật trên ở các góc độ về con người, thời gian và không gian quân sự. Mô tả những yếu tố nguy cơ nội sinh và ngoại sinh của môi trường sinh hoạt và lao động quân sự đã quy định tần số và sự phân bố tần số mắc và tử vong do bệnh tật trong Quân đội.
Dịch tễ học phân tích được thực hiện bằng phương pháp phân tích và can thiệp dịch tễ học, sử dụng các thiết kế nghiên cứu chủ yếu, các kiến thức về thống kê toán học, y sinh học và về y xã hội học để phân tích, làm rõ mối quan hệ giữa các yếu tố nguy cơ của môi trường hoạt động quân sự và sự phát sinh, phát triển bệnh tật trong cộng đồng quân nhân, kiểm định các giả thuyết về nhân - quả do dịch tễ học mô tả nêu ra.
Dịch tễ học can thiệp là sự vận dụng các thiết kế nghiên cứu can thiệp để tiếp tục phân tích nhằm khẳng định các giả thuyết nhân - quả; đồng thời, tiến hành các nghiên cứu thực nghiệm để làm cơ sở đề xuất và xác định hiệu quả các biện pháp can thiệp phòng, chống dịch bệnh trong các điều kiện cụ thể của môi trường hoạt động quân sự của bộ đội.
Dịch tễ học lí thuyết khái quát xây dựng những mô hình lí thuyết hay toán học dịch tễ học cho các loại bệnh tật thường gặp trong Quân đội, trong các mối quan hệ nội tại và ngoại sinh của môi trường hoạt động quân sự.
Dịch tễ học quân sự sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản là điều tra mô tả, phân tích và thực nghiệm dịch tễ, nhằm phát hiện và làm rõ đặc điểm về sự phát sinh, phát triển của các quá trình dịch bệnh dưới ảnh hưởng các yếu tố tự nhiên và xã hội theo đặc thù lao động quân sự; đề xuất các biện pháp phòng và chống các bệnh dịch lưu hành tự nhiên hoặc do vũ khí sinh họ |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.