id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
618
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
20786 | https://vi.wikisource.org/wiki/D%E1%BA%B7m%20m%C3%B2n | Dặm mòn | Ôi chiều mùa thu sao mà buồn
Tầng khói biếc đầy tràn về thôn
Dòng sông như đờ không muốn chảy
Có phải hôm nay chở nặng hồn?
Gió về mang cả mùi lăng tẩm
Buồn cắt lênh đênh những miếng đen
Người viễn khách, lòng sầu vạn cổ
Dặm mòn muốn gặp một người quen.
Thơ Việt Nam |
20788 | https://vi.wikisource.org/wiki/D%C6%B0%E1%BB%9Bi%20tr%C4%83ng%20ng%E1%BB%93i%20g%E1%BA%A3y%20%C4%91%C3%A0n | Dưới trăng ngồi gảy đàn | Mây nước mê ly cầm dưới nguyệt,
Cỏ hoa vờ vật mộng trong hương
Tỉnh hồn như có ai kêu gọi
Ngàn liễu trăng soi ngất dặm đường.
Thất ngôn tứ tuyệt
Thơ Việt Nam |
20790 | https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BB%ADi%20Li%C3%AAn%20T%C3%A2m | Gửi Liên Tâm | (Nhờ Quách Tấn trao lại)
Canh sương tiếng hát vẳng kia sông,
Thơ dẹp em đang ướp cạnh lòng.
Thưa chị đem nay dường nhớ quá!
Đưa thư hồng nhạn biết mang không ?
Một nhành mai trắng rung rinh ngọc,
Đôi cụm sao vàng lớt đớt bông.
Muốn thấy người xa trong giấc mộng,
Khuya lơ còn tựa ở bên song.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20792 | https://vi.wikisource.org/wiki/G%C3%B5%20b%E1%BB%93n | Gõ bồn | Liêu trai trở lại, lánh vòng trần
Ma Phật mơ hồ mộng với thân!
Mặt ngọc bên trời tàn bóng nguyệt
Mình ta trước cửa thưởng hoa xuân
Gõ bồn chẳng thấy ai tao khách
Cách núi khôn tìm bóng cố nhân
Một tiếng trên không trong ác lặn
Hạc kêu bay lẫn đám phù vân.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20794 | https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dt%20l%E1%BB%87%20tr%C3%ADch%20ti%C3%AAn | Giọt lệ trích tiên | Sông dài chảy tận về đâu?
Non xanh xanh mãi bên sầu thế nhân!
Lòng này gởi Hán Vân có được
Xin gởi về non Ngọc, đài Dao
Bụi hồng cách với hoa đào,
Bụi hồng cách mấy hoa đào nẻo xưa!
Nước lạnh lùng sông đưa lá thắm,
Cuốn nỗi lòng thăm thẳm nào chăng?
Non còn mải ngó vừng trăng,
Bàn câu nhân sự sau bằng mộng mơ
Vắng tiên hạc bơ vơ dưới thế,
Gảy tiên cầm điệu lẻ trong sương;
Sông Ngân cách mấy sông Tương
Sông Ngân cách với sông Tương mấy trời!
Chưa xong một tiếng cười Bao Tự
Hẹn ngày về mấy độ chiêm bao
Gió hương đưa lại đồng sao
Trâu bày ăn tại đồng cao xanh rì
Lại đưa đến Diêu Trì thuở trước
Hội Bàn Đào chén ngọc rời tay
Ao xuân lồng bóng mây bay
Rèm châu tuyết phủ mây bay nửa lầu.
Sông dài những tương tư trời rộng
Non xanh còn đứng mộng vừng trăng.
Lục bát
Thơ Việt Nam |
20796 | https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%E1%BB%AFa%20c%C3%A2y%20%C4%91%C3%A0o | Giữa cây đào | Tầm xuân khách xôn xao
Không thấy giữa cây đào
Chim non thun cổ ấm
Giữa hai cành hoa giao
Thơ Việt Nam |
20798 | https://vi.wikisource.org/wiki/Hai%20ti%C3%AAn%20n%E1%BB%AF%20nh%E1%BB%9B%20L%C6%B0u%20Nguy%E1%BB%85n | Hai tiên nữ nhớ Lưu Nguyễn | Khúc Nghê vắng tựa lâu rồi,
Mộng tiên dài dặc, mộng người biết đâu.
Trời trong động, quạnh xuân sâu,
Nẻo trần không lối rầu rầu trăng soi.
Hương đầy suối, cánh đào trôi,
Men khe cát trắng, cỏ thôi bơ sờ!
Sương mai, đèn gió mơ hồ,
Sông đành không chốn hỏi đò Lưu lang.
Lục bát
Thơ Việt Nam |
20800 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20H%E1%BA%A1c%20l%C3%A2u%20%28B%C3%ADch%20Kh%C3%AA%29 | Hoàng Hạc lâu (Bích Khê) | Thang mây uốn khúc chồng non mộng
Nhạc gió dài hơi thổi luỵ sầu
Hạc vàng vút cánh về đâu tá?
Có phải bay về Hoàng Hạc lâu?
Thơ Việt Nam |
20802 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%C3%B4ng%20ph%E1%BA%A3i%20l%C3%BAc | Không phải lúc | Oanh mai ríu rít khúc trong hoa
Thỉnh thoảng chim vườn lại nhặt ca
Cô gái lầu son không phải lúc
Tình xuân tu trúc nhấn gần xa
Thơ Việt Nam |
20804 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%C3%AAn%20Kim%20tinh | Lên Kim tinh | Thơ thuỷ tinh nơi lòng trăng mật
Nhạc thiên nhiên đầy nhạc pha lê
Đêm nay gấm trên xuân lục
Bút thi nhân mềm chữ thơ đề:
Lên Kim tinh xác bằng thanh khí
Đất lưu li không khí xa hương
Cây du dương lâu đài song sóng
Trên biền châu trời lộn kim cương
Trăng có đôi: rưng rưng ánh ngọc
Mùa rất cao: đẹp xuống anh hoa
Chàng gặp chàng: lời hay ý sắc.
Khí trang nghiêm và chuyển thần qua.
Nàng Vệ Nữ theo nàng Vệ Nữ
Áo âm dương gió tóc thơm rừng
Người như nhạc trong xuân bằng nhạc
Thơ tình ròng đội báu linh lung!
Thơ Việt Nam |
20806 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%B9%20t%E1%BB%ADu%20ca | Mỹ tửu ca | Trăm năm vui được mấy hồi,
Rượu ngon còn đó còn mời vương tôn.
Ngựa hồng nghỉ dặm quan sơn,
Thuyền bơi: sen động, khe đờn, trăng lên.
Chén này khách hãy cạn liền,
Ngó đôi mắt ngọc thì quên bụi hồng!
Tóc mây chảy suối hương nồng,
Em là Ngọc Nữ, Kim Đồng là ai?
Chén rồi lại chén nữa đây,
Núi không, đêm tịnh, nhỡ say chớ sầu!
Xuân thơm tuy hết mặc dầu,
Rượu ngon còn mãi khách lưu lại cùng.
Lục bát
Thơ Việt Nam |
20808 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%99ng%20Xu%C3%A2n%20H%C6%B0%C6%A1ng | Mộng Xuân Hương | Nửa cánh giang hồ bạt nhớ thương
Đêm nay buồn lắm, gục bên giường
Ngoài ly Lý Bạch trời như mộng
Sau khói phù dung mộng cố hương
Thi mộng: Xuân Hương nường đã đến
Thưa cô, dáng nguyệt tuyết còn vương
Tỉnh ra thì thấy mình trong mộng
Nửa mảnh trăng treo một mặt buồn.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20811 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nam%20h%C3%A0nh | Nam hành | Mâm vàng đây, đĩa ngọc đây
Tiệc hoa sáng, rượu chung đầy
Trông ra mây nước muôn trùng biếc
Nước ái non tình bóng nguyệt đây
Tiếp ly cạn, cạn ly đầy
Năm con một vợ ngồi vòng xây
Nhạc chim thanh tước rót về đây
Đỗ vàng cành lá lục
Nâng chén tình ròng ca một khúc
Tiệc hoa hề, chén ngọc hề
Giang hồ vút cánh sau chung rượu
Năm vẻ rồng bay áng sắc mây
Tiền ròng bạc tốt trong tay trắng
Danh nghĩa cao sang tựa mặt trời
Tiếng xe rổn rảng sau bờ trúc
Bóng vợ bóng con lẫn bóng cây
Đông liễu tây đào ngồi khép nép
Nẻo xuân gùi gấm phủ hoa đầy.
Mình ơi! Rót chén này
Nụ cười Bao Tự điểm xuân ngây
Rạng màu yên tiệc ngọc lung lay
Xa xa đường thoảng tiếng chân reo
Dặm cỏ ven đồi huê lác đác
Ngựa ai rung lạc tiếng trong veo.
Thơ Việt Nam |
20813 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ng%C5%A9%20H%C3%A0nh%20S%C6%A1n | Ngũ Hành Sơn | Quái thay núi thấp nức danh đồn,
Tuyệt nhất năm hòn, ngọn Thuỷ Sơn.
Chẳng suối Phong Nha nghe róc rách,
Chẳng mây Hồng Lĩnh thấp chờn vờn.
Giữa trời bóng nguyệt lồng vô động,
Trên biển mù sương thổi lại non.
Tiền, hậu hai bài ngâm chửa tới,
Hồi chuông thiên cổ động bon bon.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20815 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ng%C5%A9%20H%C3%A0nh%20S%C6%A1n%20%28h%E1%BA%ADu%29 | Ngũ Hành Sơn (hậu) | Lại chơi hòn Non Nước
Chẳng mọc cánh mà bay
Bạn bè thôi bỏ hết
Ngất ngưởng Vọng Hải Đài
Ngó lên trời xanh ngắt!
Cheo leo quán sông Ngân:
Phải chăng chàng Lý Bạch
Ngồi chuốc chén đêm ngày:
Thuyền neo bên lau lách,
Sông lạnh bóng sao rơi
Mặt nước vỗ bành bạch
Da trăng trắng tợ hàu
Đứng trên đài Vọng Hải
Ngỡ tới Hoàng Hạc lâu
Tuyệt thay hòn Non Nước!
Hồn Thôi Hiệu ở đâu
Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, lạy
Trên, dưới, đất, trời, chầu
Vàng sao ngời mắt rạng
Sương châu nhỏ giọt sa
Gọi sắc cỏ thơm dậy
Lẩn quất khí rừng hoa
Gọi hồn đại hải lại
Nhập khói động Huyền Không
Điều thú về hết thảy:
Phụng hoàng múa theo công,
Rồng xuống khoe năm vẻ
Bạch viên ngoạm trái đào
Thần tiên rủ yêu quái
Cử lên nhạc tiêu thiều
Sực nức lò hương xông;
Trập trùng màu xiêm áo;
Lác đác trổ mưa bông;
Phật Như Lai thoạt hiện
Trên bảy sắc cầu vồng
Quái thay hòn Non Nước
Nghe giảng đủ mười tông
Muôn năm lòng đá rắn
Nhuần thấm giọt từ bi
Biển xanh thay chất mặn;
Rừng thẳm lọc hơi sầu
Có ai biết trên cao
Da trời máu thịt sứa
Da trời se chất sữa
Truyền cảm hứng mênh mông
Gió thơm vùng nổi dậy:
Cảnh sắc biến thành không
Ta trên đài Vọng Hải
Ngất ngưởng mặt thần đồng
Khôi ngô và lẩm liệt
Cất tiếng hát trong veo;
Trước chơi hòn Non Nước
Thi hứng, suối tuôn đèo
Không hiểu người đến trước
Mấy kẻ biết "đăng đài"?
Không biết người đến sau
Ngất ngưởng sẽ là ai?
Từ nay lên Ngọc Điện
Chỉ nhượng Phật Như Lai
Lượn theo thế biển rừng
Xếp lại hình lá cỏ:
Động hoá mây năm vùng
Đại bàng bay chẳng tới
Ngòi nhược thuỷ bao quanh
Suối thiên thai chảy dựng
Rắn bảy đầu đến khoanh
Bảy lần đài Vọng Hải
Ta sẽ ngồi nhập định
Bốn mươi chín ngày đêm
Mặt nguyệt rót êm đềm;
Mặt trời tuôn sáng tạo
Thần trí mở kho tàng
Tượng trưng vây cao đạo
Chỗ chính phẩm văn chương
Ta bước xuống long sàng
Viết trên hai tảng đá
Bài hậu Ngũ Hành Sơn
Ngó trời cười sang sảng
Trở lại giữa bạn bè
Vỗ hai bàn tay trắng!
Thơ Việt Nam |
20817 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ng%C5%A9%20H%C3%A0nh%20S%C6%A1n%20%28ti%E1%BB%81n%29 | Ngũ Hành Sơn (tiền) | Lên chơi hòn Non Nước
Gót trổ ngọc song song
Chàng ơi đêm đã ướt
Mắt sao trên sườn cong
Long lanh ngời sáng, mướt
Là gấm hay là nhung
Dệt lên đá lung linh
Những hình điêu khắc nổi
Sặc sỡ voi uốn ngà
Cánh dơi nghe phất phới
Tiên đồng bước giữa hoa
Mục đồng lưng trâu cỡi
Thổi sáo bên rừng mai
Bí mật trời Thiên Thai
Động Huyền Không bốc khói
Lờ mờ đường lên mây
Chén trăng vừa tầm với
Chàng ơi vàng ròng đây
Kề môi say ân ái
Nhàu nhàu đêm rêu xanh
Dầu dầu màn sương quỳnh
Là là buông ren lụa
Gót trố gần mà xa...
Hiện lên đồi thạch nhũ
Sữa trắng như tuyết pha
(Nhi nhỉ nơi một vú)
Chàng ơi lòng vừa sao
Khi hứng giọt thơm ngào
Thôi lên đài Vọng Hải
Nhìn kim cương rưng rưng
Nhạc vàng đâu bay lại
Trời nước lộn trong sương
Hình trập trùng múa nhảy
Trên nền sóng rung rinh
Những tiên nữ trắng tinh
Ngang thân làn biếc khoả
Ti trúc nhấn gần xa
Lay bay hơi báu toả
Miệng nào rục điệu ca
Tóc nào buông loã xoã
Mắt nào điện long lanh
Tay nào như sáp bay
Gió lồng hang Âm Phủ
Hoa mộng thấm màu thâm
Bóng đa phờ tóc rũ
Ô con tinh đứng nằm
Đưa võng hát ru con
Điệu buồn trơn giọng cú
Làm ứa mảnh trăng lòn
Hai ta là mảnh vỡ
Của ngai báu thiên đường
Hai ta là chất bổ
Cắn ở trái Đau Thương
Chàng ơi đêm nín thở
Để hồn biến ra hương
Chập chờn trong nữ yêu
Vào ra theo răng lựu
Chập chờn trong ba tiêu
Dường mưa thu nhỏ giọt
Chập chờn trong tiếng chuông
Điểm kinh ngân thánh thót
Chập chờn trong bể sương
Lượn theo nếp y thường
Hai ta là mảnh vỡ
Của ngai báu thiên đường
Hai ta là chất bổ
Cắn ở trái Đau Thương
Ái ân là Ô Thước
Cây ngọc trổ văn chương
Lên chơi hòn Non Nước
Ôm nhau chết bên đường
Mơ màng trăng hạc rước...
Thơ Việt Nam |
20819 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ng%C3%B3n%20giai%20nh%C3%A2n | Ngón giai nhân | Đây em gượng khúc tranh này
Mới lên trục gấm nét mày đã cau
Em ơi nhấn mạnh thì đau
Em ơi nhấn nhẹ khôn lau nét buồn
Tiếng mau e ruột như cồn
Lại trong tiếng đục luống hờn bấy thân
Tình anh luỵ ngón giai nhân
Sống lìa nay được ấy ngần đoàn viên.
Lục bát
Thơ Việt Nam |
20821 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nghe%20chu%C3%B4ng | Nghe chuông | Mưỡu:
Đêm khuya giấc điệp mơ màng
Nghe chuông sực tỉnh một tràng mộng xuân.
Trớ trêu cho khách phong trần
Nghe chuông đối cảnh tinh thần ngẩn ngơ.
Nói:
Chuông đâu thánh thót
Giữa đêm trường như đem rót vào tai!
Giọng càng ngân, tiếng càng dội, hơi càng dài
Mường tượng khúc Bồng Lai tiên nhạc phách
Hoán khởi mê tân thuyền thượng khách
Tỉnh hồi trường dạ mộng trung nhân
Bóng yêu hoa, màu khiêu vũ, mây phú quý, bả phù vân...
Tiếng linh động trong ngần thiên vạn cổ.
Riêng tớ những chứa chan bầu thống khổ
Đã phong trần còn khổ với ba sinh.
Mộng giang hồ bay bổng tận mây xanh
Nghe tiếng dội rồi trở về non nước.
Đêm dài dặc ấy ai người tỉnh trước
Nắm chày kình đông dượt động cho kêu
May ra người tỉnh thức đều.
Ca trù
Thơ Việt Nam |
20823 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nh%E1%BA%B7t%20hoa | Nhặt hoa | Muôn dặm sông Ngân con mộng lớn,
Ôi là đài điện ánh trân châu.
Đêm nay ta nhặt hoa trăng rụng,
Những cánh đau thương sắp mặt lầu.
Thất ngôn tứ tuyệt
Thơ Việt Nam |
20825 | https://vi.wikisource.org/wiki/Qu%C3%A1n%20kh%C3%A1ch%20xu%C3%A2n%20v%E1%BB%81 | Quán khách xuân về | Thân bệnh triền miên sầu quán khách
Đầu đường dương liễu nảy tươi xanh
Gởi tình cái én xuân muôn dặm
Hắt giọt lòng đông cảnh một mình.
Thất ngôn tứ tuyệt
Thơ Việt Nam |
20827 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%ACnh%20o%C3%A1n | Tình oán | Vườn xuân ta tới ngó trời xa
Thiếu phụ lầu cao bỗng thấy ta
Âu yếm nâng tay... ta chạy đến
Vai chồng tay ngọc miệng cười hoa
Thơ Việt Nam |
20829 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%ACnh%20xu%C3%A2n | Tình xuân | Ngày xuân ai chẳng lại
Chơi xuân một nhành mai
Gió xuân rơi hoa hết,
Tình xuân dễ lợt phai.
Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thơ Việt Nam |
20831 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%B3c%20x%C3%B5a%20%C4%91%C3%A0n%20t%C6%A1 | Tóc xõa đàn tơ | Tóc xõa đàn tơ rơi lướt thướt
Hồn thu đã hiện khóc thu gầy
Tôi nhìn đôi mắt rưng rưng lệ
Cả mảnh hồn thơ rợn ý say.
Thơ Việt Nam |
20834 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%C3%B4i%20ch%E1%BA%BFt%20r%E1%BB%93i%20ti%E1%BA%BFng%20n%C3%B3i%20nh%C6%B0%20ch%C3%A2u | Tôi chết rồi tiếng nói như châu | Tôi chết rồi! Tiếng nói như châu
Vỗ sóng vàng mơ động máu lầu
Người đứng người đi người hổn hển
- Tình tôi khóc nức nở chiêm bao
Tôi chết rồi! Tiếng nói như châu
Tản mác ra muôn vạn khí sầu
Người khóc: "Tình ta thơ mộng cả"
Để tìm khoái lạc ở chiêm bao.
Tôi chết rồi! Tiếng nói như châu
Ánh sắc phương phi rất nhiệm mầu
Tôi sú tình tôi trong mắt ước
Mơ màng phối hiệp ở chiêm bao.
Người khóc: "Thiên tài của anh mô?
Cho em ôm ấp chốn phòng thu
Cho em thờ phụng như châu báu
Rồi chết theo em tận đáy mồ".
Thơ Việt Nam |
20836 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%A5m%20bia%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc%20m%E1%BB%99 | Tấm bia trước mộ | (Người hỡi nghìn năm người chửa chết
Trong bài thơ đẹp khóc giai nhân)
Hãy khép trong đau để ước mơ,
Để yêu lờ lặng những trang thơ,
Để chôn tất cả hờn vô hạn,
Sâu hóm trong đây huyệt chữ mờ.
Huyệt chữ bằng tinh vạn thước sâu:
Mồ người thi sĩ rất đa sầu!
Mồ người mỹ nữ xuân mười bốn!
Hai đứa bên nhau quấn lấy nhau.
Thơ Việt Nam |
20838 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%A1%20%C4%91%E1%BB%81%20tr%C3%AAn%20bia%20m%E1%BB%99 | Thơ đề trên bia mộ | Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng
Bút thần: sóng lạnh ánh sao rơi
Sau nghìn thu nữa trên trần thế
Hồn vẫn về trong bóng nguyệt soi.
Thơ Việt Nam |
20840 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20%C4%91%C3%A0n%20m%C6%B0a | Tiếng đàn mưa | Mưa hoa rụng, mưa hoa xuân rụng
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn
Nước non rả rích giọng đàn mưa xuân.
Lầu mưa xuống, thềm lan mưa xuống
Cùng nước non hoa rụng mưa xuân
Mưa rơi ngoài nội trên ngàn
Nghe trong ý khách giọt đàn mưa rơi.
Đầm mưa xuống nẻo đồi mưa xuống
Bóng dương tà rụng bóng tà dương
Hoa xuân rơi với bóng dương
Mưa trong ý khách mưa cùng nước non.
Rơi hoa hết mưa còn rả rích
Càng mưa rơi càng tịch bóng dương
Bóng dương với khách tha hương
Mưa trong ý khách muôn hàng lệ rơi.
Song thất lục bát
Thơ Việt Nam |
20842 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20ca | Tiếng ca | Ta đến: sau màn vắng tiếng ca
Ta đi: ca lý vọng theo ta
Khúc người khuê phụ hầu ông lớn
Sầu đối đông quân điểm nụ hoa
Thơ Việt Nam |
20844 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tinh%20ch%E1%BA%A5t%20ng%C3%A0n%20xu%C3%A2n | Tinh chất ngàn xuân | Tinh chất ngàn xuân hiệp lại ta
Mình như chim tước nhẹ bay qua
Ới ai mê luyến màu nhan sắc
Níu thiếp mơ loàn vẻ nguyệt ba
Son trẻ Thiên tài lông hạc múa
Xanh tươi Nghệ thuật bút đào pha
Đâu đây lãng đãng bầu hương nhạc
Phất phất gần như phất phất xa
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20846 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C3%AAn%20n%C3%BAi%20%E1%BA%A4n%20nh%C3%ACn%20s%C3%B4ng%20Tr%C3%A0 | Trên núi Ấn nhìn sông Trà | Trà Giang Thiên Ấn chuông gầm sóng
Vang tiếng ngàn năm đất Cẩm Thành
Ngàn năm quả Ấu nằm trơ mốc
Một dải sông Trà chảy sậm xanh
Xót hồn cổ độ sương vài giọt
Xịch bóng tà huy nguyệt mấy canh
Nghìn dặm cố nhân đâu có tá?
Cánh chim kêu lạnh đập trong cành.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20848 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C4%83ng%20s%C3%A1ng%20b%E1%BA%BFn%20%C4%91%C3%B2%20x%C6%B0a | Trăng sáng bến đò xưa | Trăng sáng giữa trời trong
Soi về miền cổ độ
Lòng ta bến đò xưa
Bóng trăng sao chẳng tỏ?
Thơ Việt Nam |
20850 | https://vi.wikisource.org/wiki/V%E1%BB%81%20Thu%20X%C3%A0%20c%E1%BA%A3m%20t%C3%A1c | Về Thu Xà cảm tác | Phố phường hai dãi đứng trơ trơ
Phong cảnh nhìn xem đã khác xưa.
Chợ búa lăng xăng tôm cá thịt
Điếm đàng xông xáo sớm chiều trưa.
Thân tiều đâu vắng khoanh tay ngó
Ma đói nên ghé đứng cửa chờ.
Phần thuế xâu, phần công nợ nữa
Thăm quê khiến khách rối lòng tơ!
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20852 | https://vi.wikisource.org/wiki/Xu%C3%A2n%20h%E1%BB%93ng | Xuân hồng | Nghìn hồng muôn tía đón xuân qua
Thiếu nữ trong gương tỏ mặt hoa
Nâng chén rượu nồng ta sẽ chúc:
Xe hoa, người mới dặm oanh ca
Thơ Việt Nam |
20872 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ti%E1%BB%81n%20X%C3%ADch%20B%C3%ADch%20ph%C3%BA | Tiền Xích Bích phú | Nguyên tác
壬戌之秋,七月既望,蘇子與客泛舟遊於赤壁之下。清風徐來,水波不興,舉酒屬客,誦明月之詩,歌窈窕之章。少焉,月出於東山之上,徘徊於斗牛之間,白露橫江,水光接天;縱一葦之所如,凌萬頃之茫然。浩浩乎如馮虛御風,而不知其所止;飄飄乎如遺世獨立,羽化而登仙。
於是飲酒樂甚,扣舷而歌之。歌曰:「桂棹兮蘭槳,撃空明兮泝流光。渺渺兮予懷,望美人兮天一方。」客有吹洞簫者,倚歌而和之,其聲嗚嗚然,如怨、如慕、如泣、如訴,餘音嫋嫋,不絕如縷。舞幽壑之潛蛟,泣孤舟之嫠婦。
蘇子愀然,正襟危坐,而問客曰:「何為其然也?」
客曰:「『月明星稀,烏鵲南飛』此非曹孟德之詩乎?西望夏口,東望武昌,山川相繆,鬱乎蒼蒼,此非孟德之困於周郎者乎?方其破荊州,下江陵,順流而東也,舳艫千里,旌旗蔽空,釃酒臨江,橫槊賦詩,固一世之雄也,而今安在哉?況吾與子漁樵於江渚之上,侶魚蝦而友麋鹿;駕一葉之扁舟,擧匏樽以相屬。寄蜉蝣於天地,渺滄海之一粟。哀吾生之須臾,羨長江之無窮。挾飛仙以遨遊,抱明月而長終。知不可乎驟得,託遺響於悲風。」
蘇子曰:「客亦知夫水與月乎?逝者如斯,而未嘗往也;盈虛者如彼,而卒莫消長也,蓋將自其變者而觀之,則天地曾不能以一瞬;自其不變者而觀之,則物與我皆無盡也,而又何羨乎?且夫天地之間,物各有主,苟非吾之所有,雖一毫而莫取。惟江上之清風,與山間之明月,耳得之而為聲,目遇之而成色,取之無禁,用之不竭,是造物者之無盡藏也,而吾與子之所共適。」
客喜而笑,洗盞更酌。肴核既盡,杯盤狼藉,相與枕藉乎舟中,不知東方之既白。
Phú |
20932 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BA%ADu%20X%C3%ADch%20B%C3%ADch%20ph%C3%BA | Hậu Xích Bích phú | Nguyên tác
是歲十月之望,步自雪堂,將歸於臨皋。二客從予,過黃泥之坂。霜露既降,木葉盡脫,人影在地,仰見明月,顧而樂之,行歌相答。已而歎曰:「有客無酒,有酒無肴,月白風清,如此良夜何!」客曰:「今者薄暮,舉網得魚,巨口細鱗,狀如松江之鱸。顧安所得酒乎?」歸而謀諸婦。婦曰:「我有斗酒,藏之久矣,以待子不時之需。」於是攜酒與魚,復遊於赤壁之下。
江流有聲,斷岸千尺;山高月小,水落石出。曾日月之幾何,而江山不可復識矣。予乃攝衣而上,履巉巖,披蒙茸,踞虎豹,登虬龍,攀棲鶻之危巢,俯馮夷之幽宮。葢二客不能從焉。劃然長嘯,草木震動,山鳴谷應,風起水湧。予亦悄然而悲,肅然而恐,凜乎其不可留也。反而登舟,放乎中流,聽其所止而休焉。
時夜將半,四顧寂寥。適有孤鶴,橫江東來。翅如車輪,玄裳縞衣,戛然長鳴,掠予舟而西也。須臾客去,予亦就睡。夢一道士,羽衣蹁躚,過臨皋之下,揖予而言曰:「赤壁之遊樂乎?」問其姓名,俛而不答。「嗚呼!噫嘻!我知之矣。疇昔之夜,飛鳴而過我者,非子也耶?」道士顧笑,予亦驚寤。開戶視之,不見其處。
Hán Việt
Thị tuế thập nguyệt chi vọng, bộ tự Tuyết Đường, tương quy ư Lâm Cao. Nhị khách tòng dư, quá Hoàng Nê chi phản. Sương lộ ký giáng, mộc diệp tận thoát, nhân ảnh tại địa, ngưỡng kiến minh nguyệt. Cố nhi lạc chi, hành ca tương đáp.
Dĩ nhi thán viết: "Hữu khách vô tửu, hữu tửu vô hào; nguyệt bạch phong thanh, như thử lương dạ hà?" Khách viết: "Kim giả bạc mộ, cử võng đắc ngư, cự khẩu tế lân, trạng như Tùng giang chi lô. Cố an sở đắc tửu hồ?" Quy nhi mưu chư phụ. Phụ viết: "Ngã hữu đấu tửu, tàng chi cửu hĩ, dĩ đãi dư bất thì chi nhu."
Ư thị huề tửu dữ ngư, phức du ư Xích Bích chi hạ. Giang lưu hữu thanh, đoạn ngạn thiên xích. Sơn cao nguyệt tiểu, thuỷ lạc thạch xuất. Tằng nhật nguyệt chi kỷ hà, nhi giang sơn bất khả phức thức hĩ. Dư nãi nhiếp y nhi thượng, lý sàm nham, phi mông nhung, cứ hổ báo, đăng cầu long; phan thê cốt chi nguy sào, phủ Phùng Di chi u cung. Cái nhị khách bất năng tòng yên. Hoạch nhiên trường khiếu, thảo mộc chấn động, sơn minh cốc ưng, phong khởi thuỷ dũng. Dư diệc tiễu nhiên nhi bi túc nhiên nhi khủng, lẫm hồ kỳ bất khả lưu dã. Phản nhi đăng chu, phóng hồ trung lưu, thính kỳ sở chỉ nhi hưu yên. Thì dạ tương bán, tứ cố tịch liêu. Thích hữu cô hạc, hoành giang đông lai, sí như xa luân, huyền thường cảo y, kiết nhiên trường minh, lược dư chu nhi tây dã.
Tu du khách khứ dư diệc tựu thuỵ. Mộng nhất đạo sĩ, vũ y biên tiên, quá Lâm Cao chi hạ, ấp dư nhi ngôn viết: "Xích Bích chi du lạc hồ?" Vấn kỳ tính danh, phủ nhi bất đáp. "Ô hô y hy! Ngã tri chi hĩ. Đoàn tích chi dạ, phi minh nhi quá ngã giả, phi dư dã gia?" Đạo sĩ cố tiếu, dư diệc kinh ngộ. Khai hộ thị chi, bất kiến kỳ xứ.
Phú |
21055 | https://vi.wikisource.org/wiki/Quy%E1%BA%BFt%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C3%A0nh%20ch%C3%ADnh%3A%20Tinh%20gi%E1%BA%A3n%20quy%20tr%C3%ACnh%20xu%E1%BA%A5t/nh%E1%BA%ADp%20kh%E1%BA%A9u%20%C4%91%E1%BB%91i%20v%E1%BB%9Bi%20doanh%20nghi%E1%BB%87p%20Hoa%20K%E1%BB%B3 | Quyết định hành chính: Tinh giản quy trình xuất/nhập khẩu đối với doanh nghiệp Hoa Kỳ | Với thẩm quyền tôi được trao trên cương vị Tổng thống theo Hiến pháp và pháp luật của Hoa Kỳ, và nhằm giảm các rào cản về chuỗi cung đối với thương mại song vẫn bảo vệ an ninh Quốc gia, sức khỏe và an toàn công cộng, môi trường và tài nguyên thiên nhiên của chúng ta, tôi ban hành quyết định như sau:
Điều 1. Chính sách.
Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới và là Quốc gia có hoạt động thương mại lớn nhất. Thương mại rất quan trọng đối với sự thịnh vượng của Quốc gia - thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ các công việc tốt trong nước, nâng cao đời sống, và giúp người Mỹ mang lại cho gia đình của họ hàng hóa và dịch vụ giá cả phải chăng. Chính sách của Hoa Kỳ là thúc đẩy thương mại thông qua thực hiện hiệu quả một chương trình nghị sự thương mại thế kỷ 21 đầy tham vọng và thực thi mạnh mẽ các luật của Quốc gia chúng ta liên quan đến thương mại, an ninh, sức khỏe và an toàn công cộng, môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Để hỗ trợ các mục tiêu này, và để đảm bảo rằng Quốc gia chúng ta có vị thế tốt để cạnh tranh trong một nền kinh tế thế giới cởi mở, công bằng và phát triển, Chính phủ Liên bang phải tăng cường nỗ lực để cải thiện công nghệ, chính sách và các biện pháp kiểm soát khác chế tài việc vận chuyển hàng hóa qua biên giới Quốc gia chúng ta.
Đặc biệt, chúng ta phải tăng cường nỗ lực để hoàn thành việc lập ra cơ sở hạ tầng xử lý thương mại có hiệu suất và hiệu quả về chi phí, như Hệ thống Dữ liệu Thương mại Quốc tế (ITDS), hiện đại hóa và đơn giản hóa cách thức các bộ và cơ quan ngang bộ (gọi chung là cơ quan nhà nước) tương tác với các thương nhân. Chúng ta cũng phải cải thiện môi trường thương mại rộng lớn hơn thông qua việc xây dựng các chính sách và các quy trình điều hành có tính đổi mới nhằm thúc đẩy áp dụng có hiệu quả các biện pháp kiểm soát theo luật, các biện pháp dàn xếp có tính hợp tác với các bên liên quan, và giảm các yêu cầu thủ tục vừa không cần thiết vừa tăng chi phí cho cả phía cơ quan nhà nước lẫn phía ngành nghề kinh doanh đồng thời làm suy yếu khả năng cạnh tranh kinh tế của Quốc gia chúng ta. Với việc thể hiện cam kết của chúng ta đối với sử dụng công nghệ, phối hợp các quy trình của chính phủ, thực hiện các cam kết với quốc tế, và theo đuổi cách tiếp cận sáng tạo để thúc đẩy cơ hội mới cho xúc tiến thương mại trong thế kỷ 21, chúng ta có thể làm gương và liên kết với các nước khác sẵn sàng chấp nhận các chương trình tương tự. Điều này sẽ khuyến khích tuân thủ pháp luật, và trên bình diện rộng hơn, sẽ mang lại một môi trường kinh doanh thịnh vượng hơn, an toàn hơn, an ninh và bền vững hơn cho tất cả các nước.
Điều 2. Phối hợp chính sách.
Việc phối hợp chính sách, hướng dẫn, giải quyết tranh chấp, và đánh giá định kỳ đối với các chức năng và các chương trình được nêu trong Quyết định này sẽ được xác định rõ thông qua quy trình liên ngành nêu trong Chỉ thị Chính sách của Tổng thống số 1 ngày 13 tháng 2 năm 2009 (Tổ chức của Hệ thống Hội đồng An ninh Quốc gia), hoặc bất kỳ văn bản kế tiếp nào.
Điều 3. Hệ thống Dữ liệu Thương mại Quốc tế - ITDS.
ITDS, như được mô tả trong phần 405 của Đạo luật năm 2006 về An ninh và Trách nhiệm Giải trình đối với Tất cả các Cảng ("Đạo luật Cảng AN TOÀN") (Công Luật 109-347), là một năng lực về trao đổi thông tin điện tử, hoặc còn gọi là "một cửa", thông qua đó các doanh nghiệp sẽ truyền dữ liệu theo yêu cầu của cơ quan liên quan về việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hóa. Nhằm tăng cường sự phối hợp liên bang liên quan đến việc phát triển ITDS và mang lại sự minh bạch cần thiết cho các doanh nghiệp, cơ quan, và người sử dụng tiềm năng khác:
(a) Đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, các cơ quan liên quan sẽ phải đạt được các năng lực, thỏa thuận, và các yêu cầu khác để sẵn sàng sử dụng ITDS và các hệ thống hỗ trợ, như Môi trường Thương mại Tự động, là phương tiện chính để nhận từ người sử dụng bộ dữ liệu chuẩn và các tài liệu khác có liên quan (không bao gồm các đơn xin cấp phép, giấy phép, hoặc giấy chứng nhận) cần thiết cho việc thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu;
(b) Đến ngày 31 tháng 12 năm 2016, Bộ An ninh Nội địa sẽ xác nhận với Bộ trưởng Tài chính và Ban Giám đốc ITDS (gọi tắt là Ban), có chức năng là Ban Chỉ đạo Liên ngành được thành lập theo Điều 405 của Đạo Luật cảng AN TOÀN, rằng ITDS hoạt động hoàn chỉnh và cho phép người dùng:
(i) truyền một bộ dữ liệu nhập khẩu và xuất khẩu phù hợp, sẽ được thu nhận, lưu trữ và chia sẻ, thông qua một cửa an toàn, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của chính phủ Hoa Kỳ về thông quan hàng hóa; và
(ii) chuyển đổi từ các yêu cầu và thủ tục trên giấy sang việc nộp hồ sơ tới và liên lạc với các cơ quan qua đường điện tử nhanh hơn và hiệu quả hơn về mặt chi phí;
(c) Ban sẽ, thông qua tham vấn với các cơ quan tham gia ITDS, nêu ra định nghĩa về bộ dữ liệu chuẩn cần được thu thập, lưu trữ, và chia sẻ trong ITDS và sẽ kiểm điểm định kỳ các yếu tố dữ liệu để cập nhật bộ dữ liệu chuẩn, khi cần thiết;
(d) Ban sẽ tiếp tục hỗ trợ Bộ trưởng Tài chính trong việc giám sát việc thực hiện và tham gia vào ITDS, bao gồm cả việc thiết lập các năng lực và yêu cầu của ITDS gắn với việc thu nhận từ người sử dụng và gửi đến cơ quan liên quan các dữ liệu điện tử chuẩn về nhập khẩu và xuất khẩu, và
(e) Ban sẽ công bố thời gian biểu phác thảo việc phát triển và thiết lập các năng lực bảo đảm của ITDS, cũng như kế hoạch và tiến độ thực hiện của các cơ quan. Các cơ quan có trách nhiệm thực hiện các bước cần thiết để đáp ứng theo thời gian biểu, trong đó có việc hoàn thành kịp thời tất cả các thỏa thuận thích hợp, bao gồm các bản ghi nhớ, và các tài liệu cần thiết khác theo đó thiết lập các thủ tục và hướng dẫn về việc trao đổi an toàn và bảo vệ dữ liệu giữa các cơ quan, và tuỳ trường hợp, với các đơn vị khác của Chính phủ Liên bang.
Điều 4. Thành lập Hội đồng Liên ngành của Hành pháp về Biên giới.
(a) Thành lập Hội đồng Liên ngành của Hành pháp về Biên giới (BIEC), một nhóm công tác liên ngành được chủ trì bởi Bộ trưởng An ninh Nội địa hoặc một quan chức cao cấp được chỉ định của Bộ. BIEC cũng sẽ có một Phó Chủ tịch, được chọn 2 năm một lần trong số các thành viên của BIEC thông qua một quy trình do các thành viên xác định. BIEC sẽ xây dựng các chính sách và các quy trình để tăng cường phối hợp giữa các cơ quan hải quan, an ninh vận tải, y tế và an toàn, vệ sinh, bảo tồn, thương mại, và kiểm dịch thực vật với các cơ quan quản lý biên giới; và các trách nhiệm nhằm cải thiện cụ thể quy trình chuỗi cung ứng và cải thiện việc xác định các lô hàng bất hợp pháp.
(b) Bộ An ninh Nội địa sẽ cung cấp ngân sách và hỗ trợ hành chính cho BIEC, trong phạm vi pháp luật cho phép.
(c) Ngoài Chủ tịch và Phó Chủ tịch, BIEC bao gồm các đại diện cao cấp được chỉ định từ các cơ quan cấp phép trước khi hàng có thể được nhập khẩu và xuất khẩu, trong đó có Bộ Ngoại giao, Tài chính, Quốc phòng, Nội chính, Nông nghiệp, Thương mại, Y tế và Phúc lợi Con người, Giao thông Vận tải, và An ninh Nội địa, Cơ quan Bảo vệ Môi trường và các cơ quan khác có lợi ích và thẩm quyền quản lý biên giới, theo quyết định của Chủ tịch và Phó Chủ tịch. BIEC cũng bao gồm các đại diện phù hợp thuộc Văn phòng Điều hành của Tổng thống.
Điều 5. Chức năng của BIEC.
BIEC có trách nhiệm:
(a) xây dựng các nguyên tắc và phương pháp quản lý rủi ro thông thường để áp dụng vào hoạt động của các cơ quan liên quan đến việc xem xét và thông quan hàng hóa tại cửa khẩu và khuyến khích tuân thủ pháp luật liên quan;
(b) xây dựng các chính sách và các quy trình để phối hợp, cải thiện và tăng tốc việc các cơ quan xem xét dữ liệu thương mại điện tử truyền qua các hệ thống thích hợp và cung cấp sự phản hồi có phối hợp và tinh giản tới người sử dụng nhằm tạo thuận lợi cho thương mại và hỗ trợ cũng như thúc đẩy việc tuân thủ các luật và điều ước quốc tế, bao gồm (có phối hợp với, và như là các khuyến nghị tới, Ban) các chính sách và các quy trình được thiết kế để hỗ trợ Bộ trưởng Tài chính, tuỳ trường hợp, với các hoạt động liên quan đến ITDS;
(c) xác định các cơ hội để tinh giản các hệ thống Chính phủ Liên bang và giảm chi phí thông qua loại bỏ các năng lực dư thừa hoặc thông qua tăng cường tận dụng các năng lực Môi trường Thương mại Tự động như một phương tiện cải thiện các quy trình quản lý chuỗi cung ứng;
(d) đánh giá, thông qua phối hợp với Ban, nhu cầu kinh doanh, tính khả thi và lợi ích tiềm tàng của việc phát triển hoặc khuyến khích việc khu vực tư nhân phát triển các giao diện dựa trên web áp dụng cho các hệ thống dữ liệu điện tử, bao gồm cả ITDS, dành cho các cá nhân và doanh nghiệp nhỏ;
(e) làm việc chặt chẽ với và xem xét các lời khuyên của các ngành nghề và các bên liên quan khác về các cơ hội để cải thiện các quy trình quản lý chuỗi cung ứng, với mục tiêu thúc đẩy cạnh tranh kinh tế thông qua tăng cường tạo thuận lợi cho thương mại và thực thi;
(f) khuyến khích các nước khác phát triển hệ thống một cửa tương tự để tạo thuận lợi cho việc chia sẻ dữ liệu có liên quan, tuỳ trường hợp, trên các hệ thống của chính phủ và với các đối tác kinh doanh; và
(g) đánh giá, thông qua tham vấn với Bộ Tài chính, các cơ hội để tạo thuận lợi cho thanh toán điện tử các khoản thuế, phí, lệ phí phải nộp khi nhập khẩu. Chính phủ Liên bang ủng hộ việc thanh toán điện tử các khoản thuế, phí, lệ phí phải nộp khi nhập khẩu, và hiện đang cho phép thanh toán điện tử qua các hệ thống khác nhau.
Điều 6. Rà soát các quy định.
Để hỗ trợ việc Chính phủ Liên bang nhanh chóng thiết lập ITDS là hệ thống dựa vào việc thu nhận, trao đổi và xử lý dữ liệu điện tử ở quy mô lớn nhất có thể, mọi cơ quan sử dụng ITDS có trách nhiệm:
(a) trong khuôn khổ báo cáo đánh giá hồi cứu phải gửi tới Văn phòng Thông tin và Quy định Pháp lý (OIRA) muộn nhất vào ngày 14 Tháng 7 năm 2014, theo Quyết định Hành chính 13610 ngày 10 tháng 5 năm 2012 (về Xác định và Giảm Gánh nặng từ Các Quy định Pháp lý), trừ khi có chỉ thị khác từ OIRA, phải xác định liệu có bất kỳ quy định nào cần được sửa đổi để đạt được các yêu cầu đặt ra trong Quyết định này không, và
(b) nhanh chóng tiến hành các bước theo quy trình làm luật để thực hiện việc sửa đổi cần thiết đối với quy định được xác định, tuân thủ khoản (a) của điều này.
Điều 7. Báo cáo.
(a) Trong thời hạn 180 ngày kể từ ngày ban hành Quyết định này, các cơ quan có lợi ích hoặc thẩm quyền quản lý biên giới có trách nhiệm báo cáo Ban về việc họ dự kiến sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế để phân loại và nhận biết sản phẩm.
(b) Đến ngày 1 tháng 7 năm 2014, và hàng năm sau đó cho đến tháng 7 năm 2016, BIEC, có tham vấn với Ban, phải nộp lên Tổng thống, thông qua Phụ tá Tổng thống về An ninh Nội địa và Chống Khủng bố, một báo cáo về việc thực hiện Điều 5 của Quyết định này.
Điều 8. Điều khoản chung.
(a) Không được suy diễn từ ngữ nào trong Quyết định nhằm làm suy giảm hoặc ảnh hưởng đến:
(i) thẩm quyền do pháp luật trao cho một bộ, cơ quan, hoặc người đứng đầu của chúng; hoặc
(ii) các chức năng của Giám đốc Văn phòng Quản trị và Ngân sách liên quan đến các đề nghị ngân sách, hành chính, hoặc lập pháp.
(b) Quyết định này sẽ được thực thi phù hợp với luật pháp, và tùy thuộc vào sự phân bổ ngân sách.
(c) Quyết định này không có ý định, và không tạo ra bất kỳ quyền hoặc lợi ích nào, có tính thực chất hay mang tính thủ tục, có thể thực thi theo pháp luật hoặc bằng vốn chủ sở hữu bởi bất kỳ bên nào chống lại Hoa Kỳ, các bộ, cơ quan, hoặc các đơn vị, cán bộ, nhân viên, hoặc các đặc vụ, hoặc bất kỳ người nào khác.
(d) các cơ quan độc lập được khuyến khích tuân thủ các yêu cầu của Quyết định này.
Quyết định hành chính Hoa Kỳ |
21073 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch | Kinh Dịch | Những điều nên biết (lời người dịch)
Tựa của Trình Di
Đồ thuyết của Chu Hy
Thứ tự tám quẻ của Phục Hy
Phương vị tám quái của Phục Hy
Thứ tự sáu mươi tư quẻ của Phục Hy
Phương vị sáu mươi tư quẻ của Phục Hy
Thứ tự tám quẻ của Văn vương
Phương vị tám quẻ của Văn vương
Hình vẽ sự biến đổi của các quẻ
Phép bói bằng cỏ thi
Dịch thuyết cương lĩnh
Chu Dịch thượng kinh
Chu Dịch hạ kinh |
21078 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Th%E1%BB%A9%20t%E1%BB%B1%20s%C3%A1u%20m%C6%B0%C6%A1i%20t%C6%B0%20qu%E1%BA%BB%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%A5c%20Hy | Kinh Dịch/Thứ tự sáu mươi tư quẻ của Phục Hy | Hình vẽ thứ tự tám quẻ trên đây, tức như trong Hệ từ truyện nói rằng: “Tám quái thành hàng”, hình này nhân đó mà chồng thêm lên, cho nên ba vạch ở dưới, tức là tám quẻ của hình vẽ trước, ba vạch ở trên thì đều theo đúng thứ tự của nó mà chồng thêm lên, và những quẻ dưới cũng đều diễn ra làm tám. Nếu theo từng hào mà sinh dần dần, thì tức như lời Thiệu Tử đã nói: “Tám chia làm mười sáu, mười sáu chia làm ba hai, ba hai chia làm sáu tư” vậy. Coi đó còn thấy sự mầu nhiệm của phép Tượng tự nhiên vậy.
Chu Hy nói rằng: “Dịch có Thái cực sinh ra hai Nghi, hai Nghi sinh ra bốn Tượng, bốn Tượng sinh ra tám Quẻ” tiết đó chính là Khổng Tử phát minh hình thể thứ tự tự nhiên trong việc “vạch quẻ” của Phục Hy, rất là thiết yếu. Nhưng mà giải thuyết xưa nay, chỉ có hai ông Khang Tiết, Minh Đạo hiểu được, cho nên Khang Tiết nói rằng: “Một chia làm hai, hai chia làm bốn, bốn chia làm mười sáu, mười sáu chia làm ba hai, ba hai chia làm sáu tư, cũng như rễ thì có gốc, gốc thì có cành, cành lớn càng ít, cành nhỏ càng nhiều”; mà ông Minh Đạo thì cho nó là một cách gia bội. Hai ông phát minh lời của Khổng Tử, lại có thể gọi là thiết yếu vậy. Bởi vì nếu lấy Hà đồ Lạc thư mà nói, thì Thái cực là Tượng bỏ trống ở giữa, hai Nghi là Tượng Âm, Dương, lẻ, chẵn, bốn Tượng tức là Hà đồ một hợp với sáu, hai hợp với bảy, ba hợp với tám, bốn hợp với chín. Lạc thư một ngậm chín, hai ngậm tám, ba ngậm bảy, bốn ngậm sáu; tám quẻ là bốn số thực, bốn số hư của Hà đồ, và bốn ngôi chính, bốn ngôi góc của Lạc thư vậy. Lấy quẻ mà nói, thì Thái cực là toàn thể của bầu “Tượng số chưa ra hình”, hai Nghi thì là Dương mà là Âm, số Dương một mà số Âm hai; bốn Tượng là: ở trên vạch Dương sinh thêm một vạch Dương nữa thành gọi là Thái Dương, sinh thêm một vạch Âm nữa thành gọi là Thiếu Âm , và trên vạch Âm sinh thêm một vạch Dương thành gọi là Thiếu Dương , sinh thêm một vạch Âm nữa cũng thành gọi là Thái Âm. Bốn Tượng đã dựng, thì Thái Dương ở ngôi một ngậm số chín, Thiếu Âm ở ngôi hai mà ngậm số tám, Thiếu Dương ở ngôi ba mà ngậm số bảy, Thái Âm ở ngôi bốn mà ngậm số sáu, những số sáu, bảy, tám, chín do đó mà định ra. Tám quẻ, tức là ở trên Thái Dương sinh thêm một vạch Dương nữa thành mà gọi là Kiền, sinh thêm một vạch Âm nữa thành mà gọi là Đoái; ở trên Thiếu Âm sinh thêm một vạch Dương nữa thành mà gọi là Ly, sinh thêm một vạch Âm nữa thành mà gọi là Chấn; ở trên Thiếu Dương sinh thêm một vạch Dương nữa thành gọi là Tốn, sinh thêm một vạch Âm nữa thành gọi là Khảm, ở trên Thái Âm sinh thêm một vạch Dương nữa thành gọi là Cấn, sinh thêm một vạch Âm nữa thành mà gọi là Khôn. Thuyết “tiên thiên" của Thiệu Khang Tiết nói rằng: “Kiền một, Đoái hai, Ly ba, Chấn bốn, Tốn năm, Khảm sáu, Cấn bảy, Khôn tám, tức là ý thế. Đến như ở trên tám quẻ, lại đều sinh thêm một Âm một Dương, thành mười sáu cái “bốn vạch”, trong kinh tuy không nói rõ, nhưng Thiệu Tử nói: “bốn chia làm mười sáu", là chỉ về đó. Rồi các cái “bốn vạch”, mỗi cái lại thêm một Âm và một Dương nữa, thành ba hai cái “năm vạch”, Thiệu Tử bảo mười sáu chia làm ba hai là vậy. Và trên các cái năm vạch, mỗi cái lại thêm một Âm và một Dương nữa, thành sáu tư cái “sáu vạch”. Tám quẻ chồng lẫn lên nhau, lại đều được những thứ tự: Kiền một, Đoái hai, Ly ba, Chấn bốn, Tốn năm, Khảm sáu, Cấn bảy, Khôn tám, coi hình vẽ trên có thể thấy rõ.
Trong khoảng trời đất, gì cũng là sự mầu nhiệm của Thái cực Âm Dương, Thánh nhân ngửa xem cúi xét, nghiệm xa nghiệm gần, chỉ có hiểu ngầm một cách cao tột trong lòng. Cho nên từ thủa hai Nghi chưa chia, mù mịt một bầu Thái cực, nhưng lẽ hai Nghi, bốn Tượng, sáu mươi tư quẻ cũng đã rõ ràng ở trong. Thái cực chia ra hai Nghi, thì Thái cực vẫn là Thái cực, hai Nghi vẫn là hai Nghi; hai Nghi chia bốn Tượng, thì hai Nghi lại là Thái cực, mà bốn Tượng lại là hai Nghi. Theo đó mà suy: bốn rồi tám, tám rồi mười sáu, mười sáu rồi ba hai, ba hai rồi sáu tư, cho đến trăm, nghìn, vạn, ức vô cùng, tuy là hiện ở hình vạch, như có cái trước cái sau là do nhân vi mà ra, nhưng mà cái hình định sẵn, cái thể thành sẵn thì vẫn có đủ trong đám hồn nhiên, không cần nghĩ ngợi tác vi một mảy chút nào ở trong đó cả. |
21080 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Th%E1%BB%A9%20t%E1%BB%B1%20t%C3%A1m%20qu%E1%BA%BB%20c%E1%BB%A7a%20V%C4%83n%20v%C6%B0%C6%A1ng | Kinh Dịch/Thứ tự tám quẻ của Văn vương | Thiệu Tử nói rằng: Khôn tìm Kiền, được hào Chín Đầu của nó mà thành ra Chấn, cho nên nói rằng: “Tìm một lần mà được con trai”. Kiền tìm ở Khôn, được hào Sáu Đầu của nó mà thành ra Tốn, cho nên nói rằng: “Tìm một lần mà được con gái”. Khôn tìm đến lần thứ hai, được hào Chín Hai của Kiền mà thành ra Khảm, cho nên nói rằng: “Tìm hai lần mà được con trai”. Kiền tìm đến lần thứ hai, được hào Sáu Hai của Khôn mà thành ra Ly, cho nên nói rằng: “Tìm hai lần mà được con gái”. Khôn tìm đến lần thứ ba, được hào Chín Ba của Kiền mà thành ra Cấn, cho nên nói rằng: “Ba lần tìm mà được con trai”. Kiền tìm đến lần thứ ba, được hào Sáu Ba của Khôn mà thành ra Đoái, cho nên nói rằng: “Ba lần tìm mà được con gái”. Lại nói: “Kiền tìm ở Khôn mà được con gái, Khôn tìm ở Kiền mà được con trai. Lúc đầu vạch quẻ không phải như thế.
Chỉ là sau khi vạch quẻ, thì thấy có những Tượng ấy. |
21087 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh | Quẻ Kiền
Quẻ Khôn
Quẻ Truân
Quẻ Mông
Quẻ Nhu
Quẻ Tụng
Quẻ Sư
Quẻ Tỵ
Quẻ Tiểu Súc
Quẻ Lý
Quẻ Thái
Quẻ Bĩ
Quẻ Đồng Nhân
Quẻ Đại Hữu
Quẻ Khiêm
Quẻ Dự
Quẻ Tùy
Quẻ Cổ
Quẻ Lâm
Quẻ Quán
Quẻ Phệ hạp
Quẻ Bí
Quẻ Bác
Quẻ Phục
Quẻ Vô Vọng
Quẻ Đại Súc
Quẻ Di
Quẻ Đại Quá
Quẻ Tập Khảm
Quẻ Ly |
21088 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20h%E1%BA%A1%20kinh | Kinh Dịch/Chu Dịch hạ kinh | Quẻ Hàm
Quẻ Hằng
Quẻ Độn
Quẻ Đại Tráng
Quẻ Tấn
Quẻ Minh Di
Quẻ Gia Nhân
Quẻ Khuê
Quẻ Kiển
Quẻ Giải
Quẻ Tổn
Quẻ Ích
Quẻ Quải
Quẻ Cấu
Quẻ Tụy
Quẻ Thăng
Quẻ Khốn
Quẻ Tỉnh
Quẻ Cách
Quẻ Đỉnh
Quẻ Chấn
Quẻ Cấn
Quẻ Tiệm
Quẻ Quy Muội
Quẻ Phong
Quẻ Lữ
Quẻ Tốn
Quẻ Đoái
Quẻ Hoán
Quẻ Tiết
Quẻ Trung Phu
Quẻ Tiểu Quá
Quẻ Ký Tế
Quẻ Vị Tế |
21089 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20h%E1%BA%A1%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20H%C3%A0m | Kinh Dịch/Chu Dịch hạ kinh/Quẻ Hàm | Truyện của Trình Di. - Quẻ Hàm, Tự quái nói rằng: Có trời đất rồi sau mới có muôn vật, có muôn vật rồi sau mới có trai gái, có trai gái rồi sau mới có vợ chồng, có vợ chồng rồi sau mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua tôi, có vua tôi rồi sau mới có trên dưới, có trên dưới rồi sau lễ nghĩa mới có chỗ đặt. Trời đất là gốc muôn vật, vợ chồng là đạo người, cho nên kinh trên bắt đầu bằng quẻ Kiền quẻ Khôn, kinh dưới bắt đầu bằng quẻ Hàm, nối đến quẻ Hằng. Trời đất là hai vật, cho nên hai quẻ (Kiền Khôn) chia ra làm đạo trời đất; trai gái hợp nhau mà thành vợ chồng, cho nên quẻ Hàm và quẻ Hằng đều hai thể hợp lại làm nghĩa vợ chồng, Hàm tức là cảm lấy sự đẹp lòng làm chủ, Hằng nghĩa là thường, lấy sự chính làm gốc, mà đạo đẹp lòng, tự nhiên phải có sự chính. Đạo của sự chính vẫn có đẹp lòng, nhún mà động, cứng mềm đều ứng, đó là đẹp lòng. Hàm là quẻ Đoái trên Cấn dưới, tức là gái trẻ và trai trẻ vậy. Trai gái cảm nhau, chẳng ai nồng nàn bằng bậc trẻ, cho nên đôi trẻ hợp lại, thành ra quẻ Hàm. Thể Cấn đốc thực, chính là cái nghĩa thật thà. Chí trai đốc thực để giao xuống, lòng gái vui đẹp mà ứng lên, con trai là kẻ cảm trước, trai lấy lòng thành cảm trước, thì gái đẹp lòng mà ứng theo.
Dịch âm. - Hàm hanh, lợi trinh, thú nữ, cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Hàm hanh, lợi chính, lấy con gái, tốt.
Truyện của Trình Di. - Hàm tức là cảm, nhưng không nói cảm, vì Hàm còn có nghĩa nữa là đều, tức là trai gái cảm lẫn nhau vậy. Các vật cảm nhau, không gì thiết tha bằng trai với gái mà hạng tuổi trẻ càng thiết tha hơn. Các vật cảm nhau thì có lẽ hanh thông, cho nên quẻ Hàm mới có lẽ hanh. Lợi trinh nghĩa là cái đạo cảm nhau, lợi về sự chính. Lấy con gái tốt, là nói tài quẻ. Quẻ có mềm trên cứng dưới, hai khí cảm ứng với nhau, đậu mà đẹp lòng là nghĩa trai chịu dưới gái, dùng cách đó mà lấy con gái, thì được chính đáng mà tốt lành.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hàm là giao cảm. Đoái mềm ở trên, Cấn cứng ở dưới, mà cùng cảm ứng với nhau. Lại, Cấn chủ đậu, thì sự cảm được chuyên nhất. Đoái chủ đẹp lòng thì sự ứng đến tột bậc. Lại nữa, Cấn lấy mình là hạng thiếu nam (trai trẻ), mà chịu dưới Đoái là hạng thiếu nữ (gái trẻ), trai trước gái, được chính đạo của trai gái, vừa đúng thì hôn nhân, cho nên quẻ của nó là Hàm, mà lời Chiêm của nó là hanh mà lợi về sự chính, lấy con gái thì tốt. Bởi vì cảm thì phải thông, nhưng nếu lấy nhau không theo chính đạo, thì mất sự hanh, mà các việc làm đều hung!
Dịch âm. - Thoán viết: Hàm cảm dã, nhu thượng nhi cương hạ, nhị khí cảm ứng dĩ tương dữ, chỉ nhi duyệt, nam hạ nữ, thị dĩ hanh lợi trinh, thú nữ cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Hàm là cảm vậy. Mềm trên mà cứng dưới, hai khí cảm ứng để cùng nhau, đậu mà đẹp lòng, trai dưới gái; vì vậy mới hanh lợi trinh, lấy con gái thì tốt.
Truyện của Trình Di. - Nghĩa của chữ Hàm là cảm, ở quẻ thì hào mềm trên, hào cứng dưới, mềm lên biến cứng mà thành thể Đoái, cứng xuống biến mềm mà thành thể Cấn, Âm Dương giao nhau là nghĩa trai gái giao cảm. Lại Đoái là con gái ở trên, Cấn là con trai ở dưới, cũng là mềm trên cứng dưới, hai khí Âm Dương cảm nhau ứng nhau, hoà hợp với nhau, thế là cùng nhau. Đậu mà đẹp lòng, nghĩa là đậu ở sự đẹp lòng, tức là ý kiên nhẫn thành thật. Cấn đậu ở dưới, ấy là gốc thực nhường nhau. Đoái đẹp lòng ở trên, tức là hoà vui ứng nhau. Trai mà nhường gái, tức là hoà đến tột bậc. Cái đạo cảm nhau như thế, cho nên có thể hanh thông, mà được chính đạo, hễ lấy con gái như thế thì tốt. Tài quẻ như vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu thích nghĩa tên quẻ, các câu dưới, dùng thể, đức quẻ, tượng quẻ để thích lời quẻ.
Dịch âm. - Thiên địa cảm nhi vạn vật hoá sinh, thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hoà bình; quan kỳ sở cảm nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.
Dịch nghĩa. - Trời đất cảm mà muôn vật hoá sinh, đấng thánh nhân cảm lòng người mà thiên hạ hoà bình; xem cái thửa cảm mà tình của trời đất muôn vật có thể thấy vậy.
Truyện của Trình Di. - Đã nói cái nghĩa trai gái cảm nhau, lại suy cho cùng cực đạo cảm, cho hết lẽ của trời đất và cách dùng của đấng thánh nhân. Hai khí trời đất cảm nhau mà hoá sinh muôn vật, đấng thánh nhân dùng sự chí thành để cảm lòng số dân ức triệu mà thiên hạ hoà bình, cái lòng thiên hạ sở dĩ hoà bình, là do đấng thánh nhân cảm hoá nó vậy. Xem cái lẽ trời đất giao cảm, hoá sinh muôn vật và cái cách của đấng thánh nhân cảm hoá lòng người, để đem sự hoà bình đến, thì tình của trời đất muôn vật, có thể thấy được. Cái lẽ cảm thông, kẻ biết đạo im lặng mà xem mới được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói cho cùng cực cái lẽ cảm thông.
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn thượng hữu trạch, Hàm, quân tử dĩ hư thụ nhân.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trên núi có chầm, là quẻ Hàm, đấng quân tử coi đó mà trống rỗng lòng mình để nhận người ta.
Truyện của Trình Di. - Tính chầm nhuần xuống, tính đất chịu sự nhuần chầm ở trên núi, mà sự thấm nhuần của nó thông suốt, ấy là khí của hai vật cảm thông với nhau. Đấng quân tử xem tượng núi chầm thông khí đó mà giữ cho lòng mình trống rỗng để nhận người ta. Ôi, người ta hễ trong bụng trống rỗng thì có thể nhận, đầy đặc thì không thể nhận. Trống rỗng trong lòng tức là không có ý riêng vậy. Trong lòng đã không chuyên chủ, thì không sự cảm nào mà không thông. Nếu chỉ lấy lượng mà chứa, chọn sự hợp với ý mình mà nhận, thì không phải là đạo “có cảm ắt thông” của đấng thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trên núi có chầm là vì sự trống rỗng mà thông suốt vậy.
Dịch âm. - Sơ Lục: Hàm kỳ mẫu.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Cảm thửa ngón chân cái.
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu Đầu ở dưới quẻ dưới, với hào Tư cảm nhau, là phận nhỏ, ở chỗ đầu, sự cảm chưa sâu, há động được người? Cho nên cũng như ngón chân cái người ta mới động, chưa đủ để tiến lên. Người ta cảm nhau cũng có nông sâu nhẹ nặng khác nhau, biết thời thế thì xử lý không mất lẽ phải.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Quẻ Hàm dùng thân thể người ta làm Tượng, cảm ở dưới đất, là Tượng ngón chân cái, sự cảm còn nông, muốn tiến chưa được, cho nên không nói cát hung. Quẻ này tuy chủ về sự cảm, nhưng cả sáu hào đều nên tĩnh không nên động.
Dịch âm. - Tượng viết: Hàm kỳ mẫu, chí tại ngoại dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cảm thửa ngón chân cái, chí ở ngoài vậy.
Truyện của Trình Di. - Chí của hào Đầu mà động, là cảm với hào Tư, cho nên nói là “ở ngoài”. Chí tuy động mà cảm chưa sâu, chưa đủ để tiến lên.
Dịch âm. - Lục Nhị: Hàm kỳ phi, hung! Cư cát!
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Hai: Cảm thửa bụng chân, hung! Ở yên, tốt!
Truyện của Trình Di. - Phi là bụng chân, khi đi, nó phải động trước, rồi chân mới nhắc nó lên, không phải bụng chân tự động. Hào Hai nếu không giữ đạo, chờ người trên đến tìm mình, mà cứ động trước như cái bụng chân, thì là nóng nảy càn rỡ, tự mình làm mất đạo mình, cho nên mới hung. Nếu mà ở yên không động, để chờ người trên đến tìm, thì hợp với đạo tiến lui mà tốt. Hào Hai là người trung chính, vì nó ở trong cuộc “cảm” mà ứng với hào Năm, cho nên phải như thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Phi là bụng chân, khi muốn đi thì nó động trước, đó là một kẻ nóng nảy càn rỡ, không thể giữ bền. Hào Hai ở vào chỗ đó, lại là chất Âm mềm không thể giữ bền, cho nên mới lấy tượng đó. Nhưng nó có đức trung chính, có thể ở yên nơi chốn của mình, cho nên lời Chiêm của nó là động thì hung mà tĩnh thì tốt.
Dịch âm. - Tượng viết: Tuy hung, cư cát, thuận bất hại dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dẫu hung, ở yên tốt, thuận thì không hại vậy.
Truyện của Trình Di. - Ở giữa được chỗ chính, ứng với nó lại cũng là kẻ trung chính, tài nó vốn là lương thiện, vì ở thì “cảm”, chất mềm mà ứng lên trên, cho nên răn rằng: Hễ động trước mà đi tìm vua thì hung, ở yên mà tự giữ đạo thì tốt; lời Tượng lại nói cho rõ ý đó mà rằng: “Không phải răn rằng không được cảm nhau, chỉ có thuận lễ thì không có hại". Thuận lễ nghĩa là giữ đạo đừng động trước vậy.
Dịch âm. - Cửu Tam: Hàm kỳ cổ, chấp kỳ tuỳ, vãng lận.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Cảm thửa đùi, giữ thửa sự theo, đi thì đáng tiếc.
Truyện của Trình Di. - Hào Chín Ba là chất Dương ở chỗ cứng, có tài Dương cứng mà làm chủ bên trong, ở trên quẻ dưới, ấy là kẻ phải tự giữ chính đạo, để cảm người ta, thế mà nó lại ứng nhau với hào Sáu Trên, tính Dương thích đi lên mà đẹp lòng với Âm, hào Trên ở chỗ cùng tột sự cảm duyệt, cho nên hào Ba cảm mà theo nó. Đùi là vật ở dưới mình, trên chân, không thể tự do, phải theo thân thể mà động, cho nên mới dùng làm Tượng, ý nói hào Chín Ba không thể tự chủ, phải theo vật khác mà động như cái đùi vậy, thì sự chấp thủ của nó chỉ là theo người mà thôi. Tài Dương cứng, cảm với kẻ mình đẹp lòng mà thôi, như thế mà đi, thì đáng thẹn tiếc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đùi là vật theo chân mà động, không thể tự chuyển. “Giữ” tức là ý “rất nên trì thủ”. Hai hào dưới đều muốn động, hào Ba không thể tự giữ mà theo nó đi, thì đáng tiếc vậy, cho nên Tượng, Chiêm của nó như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Hàm kỳ cổ, diệc bất xử dã; chí tại tuỳ nhân, sở chấp hạ dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cảm thửa đùi, cũng chẳng ở vậy; chí ở theo người, thửa giữ thấp vậy.
Truyện của Trình Di. - Có chất Dương cứng, không biết tự giữ, chí lại thích theo người ta, ấy là sự cầm giữ của nó rất hèn thấp vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nói là “cũng” vì hai hào trước đều muốn động cả. Hai hào Âm vốn tính nóng nẩy, nó động là phải, hào Chín Ba là chất Dương cứng, ở chỗ cùng cực sự đậu, nên tĩnh thì phải, mà cũng lại động, là đáng tiếc lắm.
Dịch âm. - Cửu Tứ: Trinh cát, hối vong; đồng đồng vãng lai, bằng tòng nhĩ tư.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư: Chính bền thì tốt, sự ăn năn sẽ mất; săng sắc đi lại, bạn theo sự nghĩ của mày.
Truyện của Trình Di. - Cảm là sự động của người ta, cho nên đều theo thân thể người ta mà lấy Tượng. Ngón chân cái lấy về nghĩa “ở dưới mà động nhỏ”; bụng chân lấy nghĩa “động trước”, đùi lấy nghĩa “động theo”. Hào Tư không lấy Tượng gì mà nói thẳng vào đạo cảm, không nói “cảm thửa tim”, vì sự cảm tức là tim rồi. Hào Tư đứng chỗ giữa mà ở quẻ trên, đúng vào ngôi của trái tim, cho nên là chủ sự cảm, mà nói đạo cảm, chính bền thì tốt, mà sự ăn năn sẽ mất, không theo lẽ chính, thì sẽ có sự ăn năn. Lại, hào Tư là thể đẹp lòng, ở ngôi Âm mà ứng với hào Đầu, cho nên răn rằng: đạo cảm chính bền không gì không thông, nếu có vướng víu riêng tây, thì hại cho sự cảm thông, sẽ có ăn năn. Đấng thánh nhân cảm lòng thiên hạ, như thể rét nực mưa nắng, không gì không thông, không gì không ứng, chỉ là sự chính mà thôi, chính là để trống lòng mình, không có ý riêng. Săng sắc đi lại bạn theo mình nghĩ, nghĩa là trinh nhất thì sự cảm của mình không gì không thông, nếu mà đi lại săng sắc, dùng lòng riêng của mình để cảm người ta, thì chỉ cho nào sự nghĩ tới nơi có thể cảm động, còn chỗ không tới, thì không thể cảm. Đó là bè bạn và kẻ đồng loại chỉ theo sự nghĩ của mình vậy. Lòng riêng có sự vướng víu đã chủ về một góc, một việc, há lại có thể thênh thang, mông mênh, không đâu không thông?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Tư ở trên đùi, dưới thăn thịt, lại nhắm giữa ba hào Dương, là trái tim, chủ của sự cảm. Tim mà cảm người, nên chính và bền, mới là được lẽ, nay hào Chín Tư lấy thể Dương ở ngôi Âm, là mất sự chính mà không bền, cho nên nhân lời Chiêm mà đặt lời răn, cho rằng hễ chính mà bền thì tốt, sự ăn năn sẽ mất; nếu cứ săng sắc, không thể chính bền, mà bận lòng về sự cảm riêng, thì chỉ bè bạn cùng loài theo mình, không thể tới được chỗ xa nữa.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Đi lại vẫn là cảm ứng, săng sắc nghĩa là một lòng muốn cảm nó, một lòng lại muốn nó đến ứng mình. Ví như mới chính cái nghĩa, liền muốn mưu cái lợi, mới tỏ cái đạo liền muốn tính cái công; lại như khi thấy đứa trẻ ngã vào trong giếng, bụng mình rùng rợn, vừa muốn cứu nó, vừa muốn cha mẹ nó khen mình tử tế, đó là cái bệnh săng sắc.
Có người hỏi rằng: Đi lại tức là trong lòng săng sắc đi lại, cũng như nói rằng “đi lại trong lòng”, phải không? Đáp rằng: Không phải. Hệ từ đã nói rõ rằng: “Mặt trời đi thì mặt trăng lại, mặt trăng đi thì mặt trời lại, mùa rét đi thì mùa nắng lại, mùa nắng đi thì mùa rét lại", đâu phải là sự đi lại trong lòng? Cái đó chỉ là đối với cái mặt trời đi thì mặt trăng lại kia mà nói. Đằng kia là cái đi lại tự nhiên, cái săng sắc thì là cái đi lại có thêm ý riêng không tốt vào đó; săng sắc chỉ là thêm cái lòng vội vã không thể thuận theo với lẽ tự nhiên.
Dịch âm. - Tượng viết: Trinh cát, hối vong, vị cảm hại dã; đồng đồng vãng lai, vị quang đại dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chính tốt, sự ăn năn mất, chưa cảm hại vậy; săng sắc đi lại, chưa sáng lớn vậy.
Truyện của Trình Di. - Chính bền thì sự ăn năn phải mất, đó là chưa bị sự cảm riêng làm hại, hễ là ứng riêng thì có hại cho sự cảm; săng sắc đi lại, là lấy lòng riêng cảm nhau, đạo cảm hẹp rồi, cho nên nói là chưa sáng lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cảm hại nghĩa là lấy sự bất chính mà cảm thì có hại vậy.
Dịch âm. - Cửu Ngũ: Hàm kỳ môi, vô hối.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Cảm thửa thăn thịt, không ăn năn.
Truyện của Trình Di. - Hào Chín Năm là ngôi tôn, nên lấy lòng chí thành để cảm thiên hạ mà ứng với hào Hai, liền với hào Trên, nếu vướng víu với hào Hai mà đẹp lòng với hào Trên, thì là thiên tử nông hẹp, không phải đạo kẻ làm vua, há cảm được thiên hạ? Thăn thịt là thịt lưng trái nhau với tim, mắt không trông thấy, ý nói: nếu trái được lòng riêng, kẻ cảm không phải là người mình đã trông thấy mà đẹp lòng, thì được chính đạo của kẻ làm vua cảm thiên hạ mà không có sự ăn năn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thăn thịt tức là thịt lưng, ở khoảng trên tim mà nó trái nhau với tim, không thể cảm vật, chẳng vướng víu về sự riêng tây. Hào Chín Năm vừa nhằm chỗ đó, cho nên dùng làm Tượng mà răn kẻ xem: hễ mà có thể như thế, thì tuy không cảm được người nhưng cũng có thể không phải ăn năn.
Dịch âm. - Tượng viết: Hàm kỳ môi, chí mạt dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cảm thửa thăn thịt, chí ngọn vậy.
Truyện của Trình Di. - Đây là răn bảo người ta, khiến họ trái với lòng riêng mà cảm thăn thịt, vì họ để bụng về đường nông nổi, vút ngọn, vướng víu hào Hai mà đẹp lòng với hào Trên, đó là cảm về tư dục của mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chí ngọn nghĩa là không thể cảm người.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Vân Phong nói rằng: Hào Đầu nói rằng: “chí ở ngoài”, hào Ba nói rằng: “chí ở theo người”, hào Năm tuy không vướng víu lòng riêng, không thể cảm người, nhưng mà chí nó như thế cũng nhỏ nhặt lắm.
Dịch âm. - Thượng Lục: Hàm kỳ phụ, giáp, thiệt.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Trên: Cảm thửa xương má, mép, lưỡi.
Truyện của Trình Di. - Hào Trên Âm mềm thuộc thể đẹp lòng mà lại là chủ của sự đẹp lòng, lại ở chỗ cùng tột của sự đẹp lòng, đó là kẻ muốn cảm người đến tột bậc, cho nên không thể lấy lòng chí thành cảm người mà chỉ phát hiện ở chỗ miệng lưỡi, ấy là thói thường của bọn tiểu nhân con gái, há động được người?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Xương má, mép, lưỡi đều là vật dùng để nói mà ở phía trên thân thể, hào Sáu Trên lấy chất Âm ở cuối thể đẹp lòng, đó là kẻ ở chỗ cùng cực sự cảm, chỉ cảm người bằng lời nói mà không có sự thật; lại, quẻ Đoái tức là miệng lưỡi cho nên Tượng nó như thế, đủ biết là hung.
Dịch âm. - Tượng viết: Hàm kỳ phụ, giáp, thiệt, đằng khẩu thuyết dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cảm thửa xương má, mép, lưỡi, là ruổi miệng nói vậy.
Truyện của Trình Di. - Chỉ có chí thành mới cảm được người, hào này lại lấy sự mềm mỏng đẹp lòng tuyên dương ở miệng nói, há cảm được người.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ 縢 (đằng) với chữ 騰 (đằng là ruổi) vẫn dùng lẫn lộn.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trương Trung Khê nói rằng: Bọn Tô Tần, Trương Nghi, xoay ngang, xoay dọc lời nói của họ, đó tức là ruổi miệng nói.
Có người hỏi rằng: Nội quái của quẻ Hàm là Cấn, chủ về sự đậu, cớ sao trong quẻ đều nói sự động? Chu Hy đáp rằng: quẻ Cấn tuy chủ về sự đậu, nhưng quẻ Hàm có nghĩa giao cảm, đều là muốn động, cho nên đều nói về động, nhưng hễ hơi động thì đều không tốt. Mà động sở dĩ không tốt, là vì nội quái thuộc Cấn. |
21090 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20h%E1%BA%A1%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20H%E1%BA%B1ng | Kinh Dịch/Chu Dịch hạ kinh/Quẻ Hằng | Truyện của Trình Di. - Quẻ Hằng, Tự quái nói rằng: Đạo vợ chồng không thể không lâu, cho nên tiếp đến quẻ Hằng. Hằng nghĩa là lâu. Quẻ Hàm là đạo vợ chồng, vợ chồng ăn ở với nhau trọn đời không đổi, cho nên sau quẻ Hàm tiếp đến quẻ Hằng. Quẻ Hàm, trai trẻ ở dưới gái trẻ, là trai mà chịu nhường gái, đó là nghĩa trai gái giao cảm; quẻ Hằng trai lớn ở trên gái lớn, trai tôn gái ty, đó là đạo thường của vợ chồng ở nhà. Bàn về tình giao cảm, thì bậc trẻ là thân thiết nhau; bàn về thứ tự tôn ty, thì bậc lớn phải cẩn thận đứng đắn, cho nên Đoái Cấn hợp nhau là quẻ Hàm, mà Chấn Tốn hợp nhau thì là quẻ Hằng. Trai ở trên gái, ấy là trai động ở ngoài, gái thuận ở trong, tức là lẽ thường của đạo người. Lại, cứng trên mềm dưới, sấm gió cùng nhau, nhún mà động, cứng mềm ứng nhau, đều là nghĩa hằng.
Dịch âm. - Hằng hanh, vô cữu, lợi trinh, lợi hữu du vãng.
Dịch nghĩa. - Quẻ Hằng hanh, lợi về sự chính, lợi có thửa đi.
Truyện của Trình Di. - Hằng là thường lâu, đạo hằng có thể hanh thông, hễ thường thường theo giữ đạo ấy mà có thể hanh thông mới là không đổi, nếu thường thường theo giữ đạo ấy mà không thể hanh thông, thì không phải là đạo có thể thường thường theo giữ, tức là có lỗi. Ví như đấng quân tử thường thường theo giữ điều thiện, đó là cái đạo có thể thường thường theo giữ; kẻ tiểu nhân thường thường theo giữ điều ác, đó là lỗi với cái đạo có thể thường thường. Đạo hằng sở dĩ hanh được, là vì trinh chính, cho nên nói là “lợi trinh”. Ôi gọi là hằng, tức là cái đạo có thể thường thường, không phải chỉ giữ một bề mà không thay đổi, cho nên mới lợi về có thửa đi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hằng là thường lâu. Là quẻ Chấn cứng ở trên, Tốn mềm ở dưới, Chấn sấm, Tốn gió, hai vật cùng nhau. Tốn nhún, Chấn động, là nhún mà động, hai thể sáu hào đều ứng với nhau. Cả bốn điều đó đều là lẽ thường, cho nên mới là quẻ Hằng. Lời Chiêm của nó thì là hễ mà có thể giữ lâu đạo ấy thì hanh mà không lỗi, lại ắt lợi về giữ được nết trinh, mới là được cái đạo mình vẫn thường thường theo giữ mà lợi có thửa đi.
Dịch âm. - Thoán viết: Hằng cửu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Hằng là lâu vậy.
Truyện của Trình Di. - Hằng tức là nghĩa dài lâu.
Dịch âm. - Cương thượng nhi nhu hạ, lôi phong tương dữ, tốn nhi động, cương nhu giai ứng, Hằng.
Dịch nghĩa. - Cứng lên mà mềm xuống, sấm gió cùng nhau, nhún mà động, cứng mềm đều ứng nhau, là quẻ Hằng.
Truyện của Trình Di. - Tài quẻ có bốn điều đó, tức là cái nghĩa làm nên quẻ Hằng. Cứng lên mà mềm xuống, nghĩa là hào Đầu quẻ Kiền lên ở ngôi Tư, hào Đầu quẻ Khôn, xuống ở ngôi Đầu, hào cứng lên mà hào mềm xuống, hai hào đổi chỗ thì thành Chấn Tốn, Chấn trên Tốn dưới, cũng là cứng lên mềm xuống. Cứng ở trên mà mềm ở dưới, tức là đạo hằng. Sấm gió cùng nhau, nghĩa là sấm động thì gió nổi, hai đàng chờ nhau, giữ lẫn cho nhau, cho nên nói là “cùng nhau”, đó cũng là sự thường của nó. Nhún mà động, nghĩa là dưới Tốn thuận mà trên Chấn động, tức là lấy đức nhún mà động. Trời đất tạo hoá thường lâu không thôi, cũng là động bằng cách thuận mà thôi. Nhún mà động tức là đạo thường lâu vậy. Động mà không thuận, có thể thường thường mãi chăng? Bốn điều đó tức là đạo hằng, vì vậy quẻ này mới là quẻ Hằng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ, tượng quẻ, đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ. Có người lấy sự biến đổi của quẻ giải nghĩa mấy chữ “cứng lên mềm xuống mà rằng”: “Quẻ Hằng do ở quẻ Phong mà lại, hào cứng lên ngôi Hai, hào mềm xuống ở ngôi Đầu”, cũng thông.
Dịch âm. - Hằng hanh, lợi trinh, vô cữu, cửu ư kỳ đạo dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Hằng hanh, lợi về sự chính, không lỗi, là vì lâu với thửa đạo vậy.
Truyện của Trình Di. - Đạo Hằng có thể đem lại sự hanh thông mà không tội lỗi, nhưng cái mà mình vẫn thường giữ, nên được chính đính, nếu không chính đính thì không phải là đạo có thể thường giữ, cho nên nói là lâu với thửa đạo. Thửa đạo tức là cái đạo có thể thường giữ vậy. Không giữ được đều thường thường và thường thường giữ đạo bất chính, đều không thể hanh thông mà có lỗi vậy.
Dịch âm. - Thiên địa chi đạo, hằng cửu nhi bất dĩ dã.
Dịch nghĩa. - Đạo của trời đất, thường lâu mà không thôi vậy.
Truyện của Trình Di. - Trời đất sở dĩ không bị ngừng tắt, là vì có đạo thường lâu, người mà thường giữ được cái đạo có thể thường giữ, thì hợp với lẽ trời đất.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đạo hằng vẫn có thể hanh và không lỗi nữa, nhưng ắt lợi về sự chính mới là lâu với thửa đạo, không chính thì là cái giữ lâu đó không phải chính đạo. Đạo của trời đất sở dĩ lâu dài được, cũng vì sự chính mà thôi.
Dịch âm. - Lợi hữu du vãng, chung tắc hữu thuỷ dã.
Dịch nghĩa. - Lợi có thửa đi, chót thì có đầu vậy.
Truyện của Trình Di. - Lý trong thiên hạ, chưa có khi nào không động mà lại có thể thường thường. Động thì chót rồi lại đầu vì vậy mới thường thường mà không cùng tận. Phàm những vật do ở trời đất sinh ra, dẫu đến núi non rắn dầy, cũng phải biến đổi, cho nên “hằng” không phải là nhất định, nhất định thì không phải hằng, chỉ có tuỳ thời biến đổi, mới là đạo thường, cho nên nói rằng “lợi có thửa đi”. Tỏ rõ là phải như thế, là sợ người ta câu nệ về thói thường.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Lâu với thửa đạo” là chót, “lợi có thửa đi” là đầu. Động tĩnh sinh lẫn cho nhau, đó là lẽ tuần hoàn, nhưng phải lấy tĩnh làm chủ.
Dịch âm. - Nhật nguyệt đắc thiên nhi năng cửu chiếu, tứ thì biến hoá nhi năng cửu thành, thánh nhân cửu ư kỳ đạo nhi thiên hạ hoá thành; quan kỳ sở hằng, nhi thiên địa vạn vật chi tình khả kiến hỹ.
Dịch nghĩa. - Mặt trời mặt trăng được trời mà có thể soi lâu, bốn mùa biến hoá mà có thể nên lâu, đấng thánh nhân lâu với thửa đạo mà thiên hạ hoá nên; xem cái thửa thường, mà tình trời đất muôn vật có thể thấy vậy.
Truyện của Trình Di. - Đây là nói cho cùng cực lẽ thường. Mặt trời mặt trăng chỉ là tính khí Âm Dương mà thôi, vì nó thuận đạo trời mà đi lại đầy vơi, cho nên có thể soi lâu không thôi, “được trời” là thuận lẽ trời vậy; bốn mùa chỉ là khí của Âm Dương mà thôi, đi lại biến hoá, sinh nên muôn vật, cũng vì được lẽ trời, cho nên có thể thường lâu không thôi; đấng thánh nhân đem đạo thường lâu, thực hành có thường độ, mà thiên hạ hoá theo, thành ra tục tốt, ”xem cái thửa thường”, nghĩa là xem mặt trời mặt trăng lâu soi, bốn mùa lâu nên và cái lẽ thánh nhân sở dĩ thường lâu, xem những cái đó thì tình lý của trời đất muôn vật có thể thấy được. Cái đạo thường lâu của trời đất, cái lý thường lâu của thiên hạ, nếu không phải kẻ biết đạo, ai mà hiểu được?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói thật cùng cực cái đạo thường lâu.
Dịch âm. - Tượng viết: Lôi phong Hằng, quân tử dĩ lập bất dịch phương.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sấm gió là quẻ Hằng, đấng quân tử coi đó mà đứng chẳng đổi phương.
Truyện của Trình Di. - Đấng quân tử coi tượng sấm gió cùng nhau làm thành quẻ Hằng, để giữ cho đức của mình thường lâu, tự đứng trên đường trung chính thường lâu, không đổi phương sở.
Dịch âm. - Sơ Lục: Tuấn Hằng, trinh hung, vô du lợi.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Đào sâu sự thường, trinh cũng hung, không thửa lợi.
Truyện của Trình Di. - Hào Đầu ở dưới mà hào Tư là chính ứng của nó, là người biết thủ thường mà không biết đo đắn tình thế: hào Tư là thể Chấn mà tính Dương, lấy chất cứng ở chỗ cao, chí nó muốn lên không muốn xuống, lại bị hào Hai, hào Ba ngăn cách, cái chí ứng với hào Đầu của nó đã khác thường rồi, thế mà hào Đầu còn cầu mong nó một cách sâu sắc, ấy là chỉ biết lẽ thường, không biết lẽ biến: Tuấn nghĩa là đào cho sâu, “đào sâu sự thường” nghĩa là cầu sự thường một cách sâu sắc. Thủ thường mà không biết đo đắn tình thế, cầu mong người trên một cách sâu bền, chặt chẽ, đó là đạo hung. Câu nệ thói thường như thế, thì không đi đâu mà lợi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Đầu với hào Tư là chính ứng, đó là lẽ thường, nhưng hào Đầu ở thể dưới mà đóng ngôi Đầu, chưa thể cầu cạnh sự gì một cách sâu sắc, hào Tư thể Chấn, tính Dương, chỉ lên không xuống, lại bị hào Hai hào Ba ngăn cách, cái ý ứng với hào Đầu đã khác thường rồi; hào Đầu là hạng nhu ám không biết đo đắn tình thế, lại lấy chất Âm ở thể Tốn là chủ sự nhún, tính chỉ vụ nhập, cho nên cứ theo lẽ thường mà cầu cạnh nó một cách sâu sắc, đó là tượng “đào sâu sự thường”. Kẻ xem như thế, tuy chính cũng hung, mà không lợi về điều gì.
Dịch âm. - Tượng viết: Tuấn hằng chi hung, thuỷ cầu thâm dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đào sâu sự thường mà hung, mới cầu sâu vậy.
Truyện của Trình Di. - Ở lúc mới đầu của đạo Hằng, mà cầu mong người trên một cách sâu sắc, ấy là chỉ biết thói thường mà không biết đo đắn tình thế, vì vậy mới hung.
Dịch âm. - Cửu Nhị: Hối vong.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Sự ăn năn mất.
Truyện của Trình Di. - Trong nghĩa quẻ Hằng, mà ở được chỗ chính thì là đạo thường, Chín là hào Dương mà ở ngôi Âm, đó là trái với lẽ thường, ở chỗ trái thường, đáng lẽ thì có ăn năn, vì hào Chín Hai lấy đức “giữa” ứng với hào Năm, hào Năm lại ở ngôi giữa, lấy đức “giữa” ứng với đức “giữa”, thì nó ở yên hay cử động đều được mực giữa; ấy là kẻ thường lâu được với đạo “giữa”. Thường lâu được với đạo “giữa” thì không sai mất sự chính. “Giữa” trọng hơn chính, giữa thì chính rồi, chính thì chưa ắt là giữa. Hào Chín Hai lấy đức cứng giữa mà ứng nhau với kẻ “đức giữa”, đó là nó trội về đức, đủ để làm mất sự ăn năn. Người ta hễ biết được trọng, khinh, thì có thể nói chuyện Kinh Dịch.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất Dương, ở ngôi Âm, đáng lẽ có sự ăn năn, vì nó giữ lâu đức “giữa”, cho nên mới mất sự ăn năn.
Dịch âm. - Tượng viết: Cửu Nhị hối vong, năng cửu trung dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Hào Chín Hai, ăn năn mất, vì giữ lâu được đức giữa vậy.
Truyện của Trình Di. - Sở dĩ được khỏi ăn năn, vì nó có thể thường lâu với đức giữa vậy. Người ta có thể thường lâu với đức giữa, há chỉ mất sự ăn năn mà thôi, còn là đức hay nữa.
Dịch âm. - Cửu Tam: Bất hằng kỳ đức, hoặc thừa chi tu, trinh lận.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Chẳng thường thửa đức, hoặc vâng đấy thẹn, trinh cũng đáng tiếc.
Truyện của Trình Di. - Ba là hào Dương ở ngôi Dương, ở được phải ngôi, đó là chỗ ở thường, thế mà nó lại muốn theo hào Sáu Trên, chẳng những Âm Dương theo nhau, gió lại theo sấm, được chỗ thường mà không chịu ở, đó là người không có đức hằng. Đức đã không thường, thì sự hổ nhục hoặc cũng theo tới. “Hoặc vâng đấy” nghĩa là có lúc sẽ đến. “Trinh cũng đáng tiếc”: nghĩa là cố giữ đức bất hằng để làm đức hằng, há là chẳng đáng thẹn tiếc?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ngôi tuy chính, nhưng nó quá cứng không giữa, chí lại muốn theo hào Trên, không thể ở lâu cái chỗ của mình, cho nên là tượng “chẳng hằng thửa đức, hoặc vâng đấy thẹn”. “Hoặc” là không biết người nào, “thừa” là vâng, ý nói người ta đều được vâng (sự hổ thẹn) mà tiến cho, không biết là ở đâu lại. Trinh lận nghĩa là chính mà không giữ đức hằng thì là đáng tiếc, đó là lời răn lại kẻ xem.
Dịch âm. - Tượng viết: Bất hằng kỳ đức, vô sở dung dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chẳng thường thửa đức, không có chỗ dung vậy.
Truyện của Trình Di. - Người đã chẳng thường, thì còn dung ở vào đâu? Cái chỗ nên ở, đã không thường thường yên ở, mà lại ở vào chỗ không phải sở cứ, thì há có thể thường ở? Đó là cái người bất hằng không có chỗ nào để dung thân mình.
Dịch âm. - Cửu Tứ: Điền vô cầm.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư: Săn không loài cầm.
Truyện của Trình Di. - Lấy chất Dương ở ngôi Âm, tức là ở không phải ngôi, ở không phải chỗ, dẫu thường thường theo giữ mà có ích gì? Sự làm của người ta hễ mà phải đạo thì lâu mãi sẽ thành công, nếu không phải đạo, dù lâu mà có ích gì? Cho nên lấy sự đi săn làm thí dụ, ý nói hào Chín ở ngôi Tư, dẫu rằng thường lâu, cũng như săn bắn không được cầm thú, nghĩa là uổng phí sức mà không có công.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất Dương ở ngôi Âm tức là ở lâu chỗ không phải ngôi, cho nên mới là tượng ấy. Kẻ xem nếu đi săn thì không được gì, mà các việc khác, cũng không được cái sở cầu của mình.
Dịch âm. - Tượng viết: Cửu phi kỳ vị, an đắc cầm dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Ở lâu không phải ngôi, sao được con cầm vậy?
Truyện của Trình Di. - Ở không phải ngôi, dẫu lâu được gì? Vì lấy sự đi săn làm thí dụ, cho nên nói là “sao được con cầm”.
Dịch âm. - Lục Ngũ: Hằng kỳ đức, trinh, phụ nhân cát, phu tử hung.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Năm: Thường thửa đức, chính, đàn bà tốt, đàn ông hung.
Truyện của Trình Di. - Hào Năm ứng với hào Hai, là Âm mềm mà ứng Dương cứng, ở giữa mà kẻ ứng với cũng giữa, ấy là sự chính của kẻ Âm mềm, cho nên hễ thường lâu được với đức ấy thì là chính bền. Lấy sự thuận theo làm nết thường, tức là đạo đàn bà, với đàn bà như thế là chính, cho nên mới tốt. Nếu đấng trượng phu cũng lấy sự thuận theo người ta làm nết thường, thì là mất sự chính đính của kẻ Dương cương, tức là hung. Hào Năm là ngôi vua mà không nói về đạo vua, là vì như nghĩa của hào Sáu Năm, ở kẻ trượng phu còn hung, huống chi đạo kẻ làm vua. Ở kẻ khác, hào Sáu ở ngôi vua mà ứng với kẻ cứng, cũng chưa là hỏng, vì ở quẻ Hằng, cho nên không thể như thế. Đạo làm vua há lại có thể lấy sự mềm thuận mà nết thường ư?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy chất mềm giữa mà ứng với kẻ cứng giữa, thường lâu không đổi, tức là chính mà bền rồi. Nhưng đó là đạo đàn bà, không phải điều của đàn ông nên làm, cho nên Tượng, Chiêm như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Phụ nhân cát, tòng nhất nhi chung dã; phu tử chế nghĩa, tòng phụ hung dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đàn bà tốt, theo một bề đến trọn đời vậy; đàn ông đặt ra nghĩa, theo đàn bà thì hung.
Truyện của Trình Di. - Như hào Năm theo hào Hai, với đàn bà là chính đáng mà tốt, bởi vì đàn bà lấy sự theo làm đạo chính, lấy sự thuận làm nết thường, phải nên trọn đời giữ theo một bề, đàn ông là kẻ theo lẽ phải mà làm việc, nếu theo đạo đàn bà thì là hung.
Lời bàn của Tiên Nho. - Cốc Kiêm Sơn nói rằng: Mềm mà ở giữa, tức là ngôi có dư mà tài không đủ xứng. Đàn bà tốt, đàn ông hung, là sao? Là vì đàn bà có thể theo một bề đến trọn đời, đàn ông là kẻ tự đặt ra nghĩa, mà lại theo nghĩa của đàn bà được sao? Cho nên Bá Di là bậc thánh trong sạch, ông Mạnh Tử chê là hẹp, Bá Cơ giữ lễ không đi, đức Khổng Tử bảo là kinh, coi đó đủ biết.
Dịch âm. - Thượng Lục: Chấn hằng, hung.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Xốc thường, hung.
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu ở cuối quẻ Hằng, chót thể Chấn, sự hằng đã cuối thì thành bất thường, thể Chấn đã phải động đến cùng tột. Là chất Âm, ở ngôi Trên, không phải chỗ yên ổn của nó, vả lại, nó là kẻ Âm mềm, không thể giữ vững sự thao thủ của mình, đều là nghĩa bất thường, cho nên mới là xốc thường, tức là lấy sự "dũ" làm nết thường vậy. Xốc là động cách nhanh chóng, ví như xốc áo, xốc nách, tức là cái ý xốc nổi vận động. Ở ngôi trên, mà sự động không có tiết độ, nếu lấy kiểu ấy là nết thường, thì hung là đáng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Xốc là động cách nhanh chóng. Hào Sáu Trên ở cùng tột quẻ Hằng, nhằm chót thể Chấn, sự thường đã cùng tột thì thành bất thường, thể Chấn đã chót thì phải quá động, nó lại là chất Âm mềm, không thể giữ bền, ở ngôi trên không phải chỗ yên ổn của nó, cho nên có Tượng "xốc thường" mà lời của nó thì hung.
Dịch âm. - Tượng viết: Chấn hằng tại thượng, đại vô công dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Xốc thường ở trên, cả không công vậy.
Truyện của Trình Di. - Cái đạo ở trên, ắt có đức thường, thì mới có thể có công, nếu mà nóng động bất thường, thì còn nên được trò gì? Ở trên mà không thường, ắt phải hung lắm. Lời Tượng lại tỏ nó không có thể thành lập sự gì, cho nên nói rằng: "cả không công vậy". |
21103 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20Ki%E1%BB%81n | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh/Quẻ Kiền | Dịch âm. - Kiền nguyên hanh lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Kiền: Đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền.
Truyện của Trình Di. - Đời Thượng cổ thánh nhân bắt đầu vạch ra tám Quẻ, đạo của ba Tài đủ rồi, nhân đó lại trùng điệp lên cho hết các sự biến đổi của gầm trời. Cho nên, sáu vạch thành một quẻ, hai hình Kiền thì là quẻ Kiền. Kiền tức là trời, chữ “trời” chỉ về hình thể của trời, chữ “kiền” chỉ về tính tình của trời. Kiền nghĩa là mạnh, mạnh mà không nghỉ gọi là Kiền. Ôi! Trời gộp lại, là Đạo, cái mà “trời cũng không thể sai trái” đó vậy; nếu nói tách ra, thì về phần hình thể gọi là Trời, về phần chủ tể gọi là Đế, về phần công dụng gọi là Quỷ thần, về phần diệu dụng gọi là Thần, về phần tính tình, gọi là Kiền. Kiền là đầu muốn vật, cho nên là Trời, là Dương, là cha, là vua. Nguyên, hanh, lợi, trinh là bốn đức tính: nguyên là muôn vật bắt đầu, hanh là muôn vật lớn lên, lợi là muôn vật được thoả, trinh là muôn vật đã thành. Chỉ Kiền và Khôn có bốn đức tính ấy, còn ở Quẻ khác thì nó tuỳ việc mà thay đổi đi. Cho nên nguyên là chuyên làm những điều thiện lớn; lợi thì chủ về những sự chính bền; thể của hanh, trinh, việc nào xứng với việc ấy. Ý nghĩa của bốn đức tính rộng thật, lớn thật.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sáu vạch là Quẻ của Phục Hy vạch ra, nét là lẻ, số của khí Dương, chữ Kiền là mạnh, tính của khí Dương. Chữ Kiền, trong bản chú là tên Quẻ ba nét (quẻ đơn) dưới là quẻ trong, trên là quẻ ngoài. Chữ Kiền trong Kinh văn là tên quẻ sáu nét (quẻ kép). Phục Hy ngửa xem, cúi xét, thấy Âm Dương có số lẻ chẵn, cho nên vạch một nét lẻ để hình dung khí Dương, vạch một nét chẵn để hình dung khí Âm; thấy một Âm một Dương lại có cái tượng sinh ra một Âm và một Dương nữa, cho nên từ dưới kể lên, gấp hai lần nữa, mà làm ba nét, cho thành tám Quẻ; thấy tính của khí Dương thì mạnh, mà thành cái hình lớn nhất là Trời, cho nên những quẻ có ba nét lẻ, đặt tên là Kiền mà sánh với Trời. Ba nét đủ rồi, tám Quẻ thành rồi, lại gấp thêm ba lần nữa cho thành sáu nét, mà trên tám Quẻ, mỗi Quẻ lại thêm vào tám Quẻ nữa, cho thành sáu mươi tư Quẻ.
Quẻ này sáu nét đều lẻ, trên dưới đều Kiền, thì là Dương đến thuần tuý, mạnh đến cùng tột, cho nên cái tên là Kiền, cái tượng là trời, đều không thể đổi.
Nguyên, hanh, lợi, trinh là lời của Văn Vương đèo vào, để đoán sự lành dữ của một quẻ, vẫn gọi lời Thoán. Nguyên nghĩa là cả, hanh nghĩa là thông, lợi nghĩa là nên, trinh nghĩa là chính đính mà bền vững. Văn Vương cho rằng: Đạo Kiền cả thông mà rất chính đính, cho nên khi bói, hễ được quẻ ấy mà cả sáu hào không biến, thì sự “chiêm” đó sẽ được cả thông mà ắt lợi về đường chính đính bền vững, mới có thể giữ được trọn vẹn về sau. Đó là một cái tinh ý của thánh nhân sở dĩ làm ra Kinh Dịch để dạy người ta bói toán, mà lại có thể “mở mang các vật, làm nên các việc”. Quẻ khác cũng theo như thế mà suy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Vân Phong nói rằng: Sách Liên sơn của nhà Hạ bắt đầu bằng quẻ Cấn, sách Qui tàng của nhà Thương bắt đầu bằng quẻ Khôn, Kinh Dịch của vua Văn Vương thì bắt đầu bằng quẻ Kiền. Kinh Dịch vì sự nêu rõ phận cả (phận vị vua tôi) mà làm ra, xem hình tiên thiên vẽ ngang, Kiền ở số một mà hình tiên thiên vẽ tròn, Kiền ở mặt trước, thì Kinh Dịch của Phục Hy cũng đã thế rồi. Sách Bản nghĩa nói rằng: “Nét là lẻ, số của khí Dương”, đó là theo Tượng mà nói; “Kiền nghĩa là mạnh, tính của khí Dương” đó là theo Lý mà nói. Trình Tử nói rằng: “Rất nhỏ là Lý, rất rõ là Tượng”. Chu Tử lại theo Số và Tính mà phát minh thêm. Trong đời Phục Hy, có nét quẻ Kiền, chưa có những chữ “nguyên, hanh, lợi, trinh” tưởng rằng lúc ấy người nào xem được quẻ này, theo Tượng của sáu nét kia mà xét cũng đã tự biết có lẽ “nguyên, hanh, lợi, trinh” rồi.
Lại rằng: Bốn chữ “nguyên, hanh, lợi, trinh”, các nhà đều giải làm bốn đức tính, riêng sách Bản nghĩa cho là lời “chiêm”, cho nên bói được quẻ này mà cả sáu hào không biến thì lấy đâu đó mà đoán. Xét như trong sách Khải mông, thì chẳng những sáu hào không biến, mới đoán như thế, quẻ Kiền biến đi ba hào, hay là ba hào quẻ khác biến sang quẻ Kiền, cũng lấy câu đó mà đoán. Cả thông và rất chính, ấy là gốc của trời đất. Nhưng cả thông mà lại ắt phải chính bền, ấy là lẽ đương nhiên của nhân sự. Kiền là quẻ thứ nhất trong Kinh Dịch, bói được quẻ ấy tuy là việc vẫn cả thông, nhưng nếu mà không chính đính bền vững, thì cũng không thể giữ được trọn vẹn về sau, huống chi quẻ khác. Cho nên lời Thoán trong sáu tư quẻ Kinh Dịch, thì ba tư quẻ có nói đến “trinh”. Thế thì không trinh vẫn không có thể xem bói.
Hồ Song Hồ nói rằng: Sáu mươi tư quẻ đầu là Kiền, thứ hai là Khôn, ấy là theo ngôi trời đất, bày rõ cái phận vua tôi, trên dưới, để làm giềng mối cho đạo người. Nay coi những chữ “lợi trinh”, “an trinh cát” trong các lời Thoán của hai quẻ Kiền, Khôn, có thể thấy rõ cái lòng Văn Vương. Rút lại lời Thoán chỉ là những lời quyết đoán của việc xem bói, phần nhiều cũng theo hình tượng và sự biến đổi của các quẻ đại để đều là nhân lời chiêm đế ngụ việc dạy đời. Như nói “lợi trinh” không nói “lợi bất trinh”, nói “trinh cát” không nói “bất trinh cát” v.v… Phép của thánh nhân tuy có bốn, giáo của thánh nhân chỉ có một. Một đó là gì? Tức là “trinh” vậy.
Dịch âm. - Sơ cửu: Tiềm long vật dụng.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Rồng lặn chớ dùng.
Truyện của Trình Di. - Hào dưới là Đầu, Chín là số Dương đã thịnh, cho nên dùng để đặt tên hào Dương. Lý vốn là vật vô hình, nên phải mượn Tượng làm cho rõ nghĩa. Kiền lấy con rồng làm Tượng, rồng là loài vật thiêng liêng biến hoá không thể lường được, cho nên dùng để hình dung sự biến hoá của đạo Kiền, sự tiêu tức của khí Dương và sự tiến lui của thánh nhân. Hào Chín Đầu ở dưới một quẻ, là đầu các vật, khí Dương đương sinh, thánh nhân còn trong hàn vi, cũng như rồng còn lặn hụp, chưa thể tự ra làm việc, phải náu kín để chờ thời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chín Đầu là tên hào Dương ở dưới một quẻ. Phàm lúc vạch ra các quẻ, đều phải tự dưới lên trên, cho nên lấy hào dưới nhất làm hào Đầu. Số Dương chín là già, mà bảy là trẻ, già thì biến đổi, trẻ không biến đổi, cho nên mới gọi hào Dương là Chín. “Rồng lặn chớ dùng” là lời Chu Công đèo vào, để đoán sự tốt xấu của một quẻ, vẫn gọi nó là lời Hào. Lặn tức là nấp, rồng tức là vật thuộc Dương. Khí Dương đầu tiên còn ở bậc dưới, chưa thể thi thố việc gì, cho nên Tượng nó là con rồng lặn, lời chiêm của nó thì là “chớ dùng”. Phàm gặp quẻ Kiền mà hào này biến, thì xem Tượng đó mà ngẫm vào lời “chiêm” kia. Các hào theo đó mà suy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Kinh Dịch cũng như cái gương, vật gì đến cũng soi được. Như nói “rồng lặn” chỉ là có cái tượng ấy, tự thiên tử đến thứ nhân, người nào đến cũng “xử” được. Khổng Tử bảo: “có đức con rồng mà còn ẩn nấp, không đổi dời, không nên danh”, tức là chỉ thiết vào việc mà nói. Nhưng kẻ biết xem, thì dẫu thuyết của Khổng Tử cũng vẫn linh hoạt, và vẫn không đâu không thông; kẻ không biết xem, thì dù thuyết của Văn Vương Chu Công cũng là lời chết.
Hào Chín Đầu của quẻ Kiền, chỉ là hình tượng “Khí Dương ẩn nấp”, và là lời Chiêm “chưa thể phát dụng” mà thôi. Nếu như để ngay một người “không đổi dời, không nên danh, ẩn mà chưa hiện, làm mà chưa nên” ngồi vào trong đó thì là lời chết mất rồi. Bằng như hiểu được bản ý quẻ này, dù gặp thời ấy, ở ngôi ấy, làm người ấy, cũng không hại gì.
Dịch âm. - Cửu Nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn.
Truyện của Trình Di. - Ruộng là lớp trên mặt đất, xuất hiện ở trên mặt đất, thì đức đã tỏ, lợi về sự được thấy ông vua có đức lớn để thi hành đạo thuật của mình; ông vua chúa cũng lợi về sự được thấy bề tôi có đức lớn để làm thành công nghiệp của mình; người trong thiên hạ thì lợi về sự thấy người đức lớn, để gội hơn huệ của họ. Ông vua đức lớn tức hào Chín Năm. Kiền Khôn là quẻ thuần tuý, không phân biệt cứng mềm, mà lấy cái đức giống nhau để ứng với nhau.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Hai” là kể từ dưới lên, nhằm hào thứ hai, sau đây theo đó mà suy. Hào Chín Hai này cứng mạnh trung chính , ra khỏi chỗ lặn, lìa khỏi chỗ ẩn, ơn huệ lan tới người ta, người ta được thấy là lợi. Cho nên tượng nó là con rồng hiện ở ruộng, lời chiêm của nó thì là lợi về sự thấy người lớn. Hào Chín Hai tuy chưa được ngôi mà cái đức của người lớn đã tỏ, người thường không thể đương nổi, cho nên khi bói gặp hào này biến, chỉ là lợi về sự thấy người ấy. Nghĩa là cũng chỉ vào hạng người lớn ở ngôi dưới vậy. Đó là dùng hào và lời chiêm cùng làm chủ khách của nhau, ấy là một cái lệ riêng.
Nếu mà có đức “rồng hiện” thì là lợi về sự thấy người lớn ở hào Chín Năm trên đó.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Trong quẻ Kiền, hào khác, kẻ xem có thể coi là chính mình, riêng hào Chín Hai và hào Chín Năm thì không thể cho là nói về mình. Hai câu “lợi về sự thấy người lớn” trước giờ người ta đều giải không thông. Hào Chín Hai có hình bóng gì? Sao lại bắt thấy người lớn? Xét ra, hễ xem được hai hào ấy thì có thể thấy người lớn. Người lớn không cần chỉ về vua chúa, kẻ xem không đương nổi rồng hiện rồng bay, thì kẻ xem là khách, lợi về sự thấy người lớn ấy. Người lớn tức là rồng hiện, rồng bay, người có đức của hào Chín Hai và hào Chín Năm vậy. Còn chữ rồng lặn và chữ quân tử thì kẻ xem tự mình đương lấy.
Dịch âm. - Cửu Tam: Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược! Lệ, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Đấng quân tử trọn ngày săng sắc tối dương rùng rợn. Nguy! Không lỗi.
Truyện của Trình Di. - Hào Chín Ba tuy là ngôi của người nhưng đã ở trên thể dưới, chưa lìa khỏi bậc dưới mà được tôn hiển… Suốt ngày đến tối, không dám trễ nải và vẫn nơm nớp lo sợ, thì dù ở chỗ hiểm nghèo cũng không có lỗi. Kẻ ở ngôi dưới mà đức làm vua đã rõ, thiên hạ sắp sửa theo về, đủ thấy là đáng lo sợ. Tuy là nói về việc thánh nhân, nhưng nếu không đặt ra ý răn dỗ, thì còn lấy gì làm sự dạy người? Đó là cái nghĩa làm ra Kinh Dịch.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chín là hào Dương, Ba là ngôi Dương, đã hai lần cứng, lại không chính giữa, ở trên bậc dưới, ấy là chỗ hiểm nghèo. Nhưng tính nó cứng mạnh, có cái hình tượng có thể săng sắc sợ gắng, cho nên lời chiêm của nó như thế. Chữ quân tử chỉ về kẻ xem. Ý nói: nếu biết lo sợ như thế thì dù ở chỗ hiểm nghèo cũng không có lỗi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Hỏi rằng: Hào Chín Ba không nói tượng là cớ làm sao? Đáp rằng: Chín Ba là hào Dương, tính cứng, không được chính giữa, ở trên bậc dưới, có cái hình tượng sức mạnh nhọc khổ, không thể nói bằng con rồng, cho nên chỉ nói săng sắc, rùng rợn. Nghĩa là nó có hình tượng săng sắc sợ gắng vậy.
Họ Vương nói rằng: Phàm nói không lỗi, đều là đáng lẽ có lỗi, xử được phải cách thì không có lỗi.
Dịch âm. - Cửu Tứ: Hoặc dược lại uyên, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư: Hoặc nhảy ở vực, không lỗi.
Truyện của Trình Di. - Vực là chỗ của rồng ở. Hoặc là tiếng còn nghi ngờ, nghĩa là không hẳn. Nhảy hay không nhảy, chỉ cốt kịp thời để tới chỗ yên ổn. Thánh nhân hành động, không việc gì mà không phải thời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hoặc là tiếng nghi ngờ chưa định hẳn; nhảy là không bám vào đâu mà tuyệt hẳn với đất, có điều chưa bay mà thôi; vực là nơi trên trống dưới rỗng, sâu tối khôn lường. Con rồng ở đó dường như thấp hơn ở ruộng, nhưng nếu nhảy mà vượt dậy, thì là ngảnh lên trời rồi. Chín là hào Dương, thứ Tư là ngôi Âm, ở dưới quẻ trên, tức là giữa lúc thay đổi, giữa khi tiến lui chưa định, cho nên tượng nó như thế, mà Chiêm của nó thì là tuỳ thời tiến lui sẽ không có lỗi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Dịch Sơn Trai nói rằng: Hào Chín Tư đã lìa khỏi thể dưới, cho nên gọi là nhảy, nhưng còn ở dưới thể trên, cho nên nói là ở vực. Vực thấp hơn ruộng, ruộng là đất bằng, vực thì trống cả trên dưới. Hào Hai nói ở ruộng, hào này lại nói ở vực, là vì vực là chỗ ở của rồng, không thể ví như ở ruộng, ở ruộng thì không thể biến hoá mà ở vực thì có cách biến hoá.
Khâu Kiến An nói rằng: Chín là Dương, Dương là động, cho nên nói nhảy, Thứ Tư là Âm, Âm thì trống không, cho nên nói là ở vực. Hoặc là hãy còn nghi ngờ. Tiến lên thì nhảy, lui xuống thì ở trong vực, xuất xử như thế, có thể không có lỗi.
Dịch âm. - Cửu Ngũ: Long phi tại thiên, lợi kiến đại nhân.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Rồng bay ở trời, lợi về sự thấy người lớn.
Truyện của Trình Di. - Đây là tiến lên ngôi trời, thánh nhân đã được ngôi trời, thì lợi về sự thấy người đức lớn ở dưới, để cùng mình làm việc trong thiên hạ, thiên hạ cũng lợi về sự được thấy ông vua đức lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào này cứng mạnh, trung chính ở ngôi cao, giống như lấy đức thánh nhân ở ngôi thánh nhân, cho nên Tượng nó như thế mà Chiêm thì cũng như hào Chín Hai, có điều cái người hào này thấy mà được lợi là hạng người lớn ở trên mà thôi. Nếu như có cái ngôi ấy thì người “thấy mà được lợi” lại là hạng người lớn ở dưới của hào Chín Hai.
Lời bàn của Tiên Nho. - Dương Thành Trai nói rằng: Chín là đức của trời, là tượng con rồng; Năm là ngôi trời, tức là cái tượng bay mà ở trời.
Dịch âm. - Thượng Cửu: Kháng long hữu hối.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Rồng quá cực có ăn năn.
Truyện của Trình Di. - Chín Năm là ngôi cùng tột, trung chính là sự đắc thời cùng tột, quá đó thì là quá cực. Hào Chín Trên tới chỗ quá cực, cho nên có sự ăn năn. Có lỗi thì có ăn năn, chỉ có thánh nhân biết lẽ tiến, lui, còn, mất mà không có lỗi, cho nên không đến ăn năn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trên là tên một hào trên cùng. Quá cực là ý lên quá mà không thể xuống. Khí Dương đã cùng cực ở trên, hễ hơi động cựa thì sẽ có sự ăn năn, cho nên Tượng nó như thế.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trương Bồ Dương nói rằng: Đạo của trời đất, lấy sáu khí Dương lần lượt đi lại, sinh ra và làm thành muôn vật mà không cùng tận. Khí Dương đến đây cực thịnh, khí Âm sắp sửa sinh ra mà xô đẩy đi, nếu không thể trở lui xuống dưới để theo sự biến, thì là quá cực, không phải là lối “lâu mà không cùng”.
Họ Lý nói rằng: Kiền là vật thuộc về Dương, tiêu, tức, đầy vơi có thời, rồng là loài thuộc về Dương, lặn, hiện, nhảy, bay cũng có thời; thánh nhân có đức của loài rồng, lên, xuống, tiến, lui cũng có thời. Thứ tự các hào có thể thấy rõ.
Dịch âm. - Dụng Cửu: Kiến quần long vô thủ, cát.
Dịch nghĩa. - Hào Dùng Chín: Thấy đàn rồng không đầu, tốt!
Truyện của Trình Di. - Hào Dùng Chín là cách ở chỗ Kiền cứng. Là hào Dương, ở thể Kiền, ấy là thuần những tính cứng. Cứng mềm giúp đỡ lẫn nhau mới là vừa phải, đây lại thuần những tính cứng, tức là quá cứng. Thấy đàn rồng tức là xem các hào Dương, không làm đầu thì tốt. Đem tính cứng làm kẻ đi trước thiên hạ là hung.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dùng Chín là nói phép bói toán được hào Dương đều dùng số chín không dùng số bảy. Đó là thông lệ của một trăm chín mươi hai hào trong các quẻ, vì quẻ này thuần là Dương mà ở ngay đầu cho nên phát ra ở đấy. Thánh nhân nhân thể đèo thêm lời vào, khiến cho những người bói được quẻ này mà sáu hào đều biến thì cứ theo đó mà đoán. Vì sáu hào Dương đều biến, thì là cứng mà biết mềm, ấy là cách tốt, cho nên mới là Tượng “đàn rồng không đầu”, mà Chiêm là “như thế thì tốt”.
Lời bàn của Tiên Nho. - Có người hỏi rằng: Hai quẻ Kiền Khôn riêng nói Dùng Chín, Dùng Sáu là sao? Chu Hy đáp rằng: Hai quẻ ấy thuần Dương thuần Âm mà lại ở đầu các quẻ, cho nên đặt ra một lẽ ở đây. Phàm phép xem bói đều dùng hào biến mà xem. Cho nên hễ xem được hào Dương, đều dùng số Chín không dùng số Bảy, xem được hào đều dùng số Sáu mà không dùng số Tám. Bởi vì số Bảy là Dương trẻ, số Chín là Dương già, số Sáu là Âm già, số Tám là Âm trẻ, già biến đổi mà trẻ thì không biến đổi. Phàm việc xem bói, dùng số Chín, dùng số Sáu là dùng hào biến mà xem. Gặp quẻ Kiền mà sáu hào đều biến, là Âm, gặp quẻ Khôn mà sáu hào đều biến, là Dương.
Hồ Quảng nói rằng: Lời hào tuy để phát minh về lý của quẻ, thật ra chỉ để dùng về bói toán, cho nên dùng số Chín và số Sáu mà đặt tên hào, là cốt lấy ở chỗ dùng của nó. Lời hào động thì dùng, không động thì không dùng, lời quẻ bất luận động hay không động đều dùng, có điều không động thì xem bằng lời Thoán của quẻ gốc, mà động thì phải hợp cả lời Thoán của quẻ gốc quẻ biến mà xem. Ví như sáu hào quẻ Kiền biến cả thì hoá ra quẻ Khôn, sáu hào quẻ Khôn biến cả thì hoá ra quẻ Kiền. Thuyết của Tiên Nho cho là biến cả thì bỏ quẻ gốc xem quẻ biến; nhưng Kiền, Khôn là nghĩa lớn của trời đất, quẻ Kiền tuy biến sang quẻ Khôn, chưa thể dùng toàn lời của quẻ Khôn; quẻ Khôn tuy biến sang quẻ Kiền, chưa thể dùng toàn lời của quẻ Kiền, cho nên dựng riêng ra hào. Dùng Chín, Dùng Sáu để làm phép Chiêm khi hai quẻ ấy biến cả. Thuyết đó cũng phải. Lấy lý mà xét, thì phàm các quẻ, tuy là biến cả cũng không có lẽ bỏ hẳn quẻ gốc mà không xem, chẳng riêng hai quẻ Kiền Khôn như thế. Cho nên hợp quẻ gốc quẻ biến mà xem thì phải. Như thế quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn thì xem cả lời quẻ Kiền và lời quẻ Khôn, quẻ Khôn biến sang quẻ Kiền thì xem cả lời quẻ Khôn và lời quẻ Kiền. Có điều từ quẻ Kiền biến sang quẻ Khôn thì là cái nghĩa “Dương gốc ở Âm”, từ quẻ Khôn biến sang quẻ Kiền, thì là cái nghĩa “mạnh mà thể thuận”. Hợp xem lời quẻ, nên biết ý đó, cho nên dùng lời Dùng Chín Dùng Sáu để phát ra.
Dịch âm. - Thoán viết: Đại tai Kiền nguyên, vạn vật tư thuỷ, nãi thống thiên.
Dịch nghĩa. - Thoán truyện nói rằng: Lớn thay cái đức đầu cả của Kiền, muôn vật nhờ đó khởi đầu, bèn tóm việc trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thoán là lời của Văn Vương đèo vào. Truyện là lời của Khổng Tử dùng để thích nghĩa Kinh Dịch. Sau đây chỗ nào nói truyện, đều thế. Đây chuyên dùng đạo trời để tỏ nghĩa quẻ Kiền, lại chia nguyên, hanh, lợi, trinh làm bốn đức tính để nói rõ ra, mà một tiết này bắt đầu thích nghĩa chữ “nguyên” vậy. “Lớn thay” là lời than thở, “nguyên” là cả lớn, là mới đầu, “kiền nguyên” là phần cả lớn mới đầu trong đức tính của trời, cho nên muôn vật sinh ra đều phải nhờ nó làm phần khởi đầu. Nó lại là đầu của bốn đức tính mà thông suốt cả đầu chót đức tính của trời, cho nên nói là “tóm việc trời”.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Kiền nguyên chỉ là đức tính của trời, không phải hai việc hay hai vật. Cũng như tinh thần người ta, há có thể nói người là người, tinh thần là tinh thần?
Hồ Song Hồ nói rằng: Thoán truyện là của Khổng Tử tán tụng lời quẻ của Văn Vương, nhưng chỉ tự tỏ ý mình để giải quẻ của Phục Hy, không phải hết thảy giống như Văn Vương. Như lời quẻ Kiền, Văn Vương chỉ làm lời chiêm, Khổng Tử lại cho là bốn đức tính, và ở trong đó nhiều chỗ nói về quẻ biến, quẻ này từ quẻ kia sang, đều tự Khổng Tử phát minh, Văn Vương gián hoặc cũng có, nhưng không nhiều bằng Khổng Tử.
Lan Đình Thuỵ nói rằng: Kiền, nguyên là khí nhất nguyên trong phần Dương của trời, cũng như người ta có nguyên khí vậy. Nhiều người chỉ biết muôn vật sinh ra ở đất, mà không biết rằng trời đã lấy khí Kiền nguyên làm cuộc khởi đầu cho nó, cũng như người ta sinh ra ở mẹ, mà không biết rằng đã nhờ khởi đầu ở nguyên khí của cha. Khởi đầu từ trước khi chưa sinh, sinh ra nhằm sau khi có cuộc khởi đầu.
Dịch âm. - Vân hành vũ thí, phẩm vật lưu hình.
Dịch nghĩa. - Mây đi mưa tưới, sắp đặt các vật, lưu chuyển các hình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây thích đức “hanh” của Kiền.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trình Di nói rằng: Mây đi mưa tưới, là chỗ hanh thông của Kiền.
Dương Thành Trai nói rằng: Thoán truyện nói nguyên lợi trinh mà không nói hanh, là vì mây đi mưa tưới, tức là cái hanh của phần khí, sắp đặt các vật, lưu chuyển các hình, tức là cái hanh của phần hình rồi.
Dịch âm. - Đại minh chung thuỷ, lục vị thì thành, thì thừa lục long dĩ ngự thiên.
Dịch nghĩa. - Cả rõ chót đầu, sáu ngôi nhằm thì mà nên, luôn luôn cưỡi sáu con rồng để ngự đường trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đầu tức là nguyên, chót tức là trinh. Không có chót thì không có đầu, chẳng trinh thì chẳng có gì làm nguyên. Đây nói thánh nhân làm cho thật tỏ tất cả phần đầu chót của đạo Kiền, thì thấy sáu ngôi trong quẻ, đều cứ theo thì mà nên, và cưỡi sáu hào Dương đó để đi đường trời, ấy là nguyên hanh của thánh nhân.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Trong bốn đức tính của Kiền, nguyên quan trọng nhất, thứ nữa đến trinh cũng quan trọng. Không có nguyên thì không có gì để sinh, không có trinh thì không có gì làm chót, không có chót thì không có gì làm đầu, không có đầu thì không thành chót, xoay quanh không bao giờ cùng. Thế là “cả rõ đầu chót”.
Lại rằng: Đầu chót tức là bốn đức tính, đầu là nguyên mà chót là trinh. Bởi vì không có chót thì không lấy gì làm đầu, không có trinh thì không lấy gì làm nguyên, ngôi của sáu hào do đó mà lập nên. “Theo thì mà nên” nghĩa là hào nào hào ấy đều theo thì vận mà thành ra, ví như lặn, hiện, bay, nhảy đều theo từng thì, nhưng đều là cuộc lưu hành của bốn đức tính. Hào Chín Đầu và nửa hào Chín Hai là nguyên: nửa hào Chín Hai và nửa hào Chín Ba là hanh; hào Chín Tư và nửa hào Chín Năm là lợi; nửa hào Chín Trên là trinh. Đó là thánh nhân làm cho thật tỏ phần đầu phần chót của đạo Kiền, cho nên được thấy sáu ngôi đều theo thì vận mà thành ra, nhân cái thì vận của sáu hào để đương vào với vận trời, mà bốn đức tính vì vậy mới cuối chót rồi lại bắt đầu, ứng biến không bao giờ cùng.
Lại rằng: Trời với người chỉ có một lẽ, sự hành động của người là vận của trời. Nếu theo ý riêng của mình mà hành động, thì là “người” rồi không phải “trời” nữa. Chỉ có lặn, hiện, bay, nhảy, đều nhằm thì vận, thì là lấy “người” mà đương với “trời”.
Dịch âm. - Kiền đạo biến hoá, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hoà, nãi lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Đạo Kiền biến hoá, vật nào được đúng tính mệnh của vật ấy, giữ hợp được khí thái hoà, mới hay tốt và chính bền.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Biến là hoá dần dần, hoá là biến đã thành. Cái của các vật bẩm thụ là tính, cái của trời phú cho là mệnh. Thái hoà tức là khí dung hoà do Âm Dương hội họp mà ra. “Các chính” nghĩa là nhận được từ khi mới sinh, “bảo hợp” thì là giữ được trọn vẹn sau khi đã sinh. Đây nói đạo Kiền biến hoá, không gì không lợi, mà trong muôn vật, vật nào nhận đúng tính mệnh của vật ấy để tự toàn. Đó là thích nghĩa hai chữ “lợi trinh”.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Đạo Kiền biến hoá, vật nào được tính mệnh của vật ấy, chỉ là một cái lý. Lý đó chộn rộn ở khắp các chỗ. Ví như hạt thóc mọc thành cây lúa, lúa nảy ra hoa, hoa kết thành quả, lại là hạt thóc, trở lại hình cũ của nó. Một gié lúa có trăm hạt thóc, hạt nào cũng hoàn toàn; đem trăm hạt đó mà gieo, mỗi hạt lại thành trăm hạt; lúc đầu chỉ là một hạt chia ra. Vật nào có lý của vật ấy, tóm lại vẫn chỉ là một cái lý.
Dịch âm. - Thủ xuất thứ vật, vạn quốc hàm ninh.
Dịch nghĩa. - Vượt đầu mọi vật, muôn nước đều yên.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thánh nhân ở trên vượt cao hơn hết mọi vật, cũng như đạo Kiền biến hoá, khắp trong muôn nước, nước nào được nơi chốn của nước ấy mà đều yên ổn, cũng như các vật đều được tính mệnh của nó mà giữ trọn khi Thái hoà. Đây là nói về lợi trinh của thánh nhân.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trình Di nói rằng: Lời ở dưới quẻ là Thoán. Phu Tử theo đó mà thích, cũng gọi là Thoán. Thoán là nói về nghĩa một quẻ, cho nên “bậc trí giả cứ xem lời Thoán thì đã nghĩ được quá nửa. “Lớn thay Kiền nguyên” là khen sự lớn lao trong việc khởi đầu muôn vật của đạo Kiền. “Nguyên” trong bốn đức tính cũng như “nhân” trong năm đạo thường, nói riêng thì là một việc, nói rộng thì nó bao hàm tất cả bốn thứ. “Muôn vật nhờ nó khởi đầu, bèn tóm việc trời” là nói về “nguyên”. Hai chữ “Kiền nguyên” là nói gồm cả đạo trời. Đạo trời khởi đầu muôn vật, muôn vật nhờ sự khởi đầu của trời. “Mây đi mưa tưới, sắp đặt các vật, lưu chuyển các hình” là nói về “hanh”, nghĩa là đạo trời vận hành, sinh nuôi tất cả các vật. Làm cho cả rõ đầu chót của đạo trời, thì thấy sáu ngôi trong quẻ đều theo thì vận của nó mà thành. Đầu chót của quẻ, tức là đầu chót của đạo trời. Nhân thì vận của sáu hào ấy, tức là thì vận của trời. “Để ngự đường trời” tức là để đương vào đạo trời. Đạo Kiền biến hoá sinh nuôi muôn vật, lớn nhỏ cao thấp, vật nào theo loài vật ấy, đó là “đều được tính mệnh”; cái của trời cho là mệnh, cái của các vật nhận được là tính. “Giữ hợp khí Thái hoà bèn lợi trinh”; giữ là làm cho còn luôn, hợp là làm cho hoà luôn, vừa giữ vừa hợp được khí Thái hoà, cho nên mới lợi và trinh. Đạo của trời đất thường lâu không thôi, đó là giữ và hợp khí Thái hoà. Trời là tổ muôn vật, vua là tông muôn nước, đạo trời vượt đầu các vật mà muôn vừng hanh thông, đạo vua ở trên ngôi trời, mà bốn biển phải theo, đấng vương giả thể theo trời, thì muôn nước đều yên.
Chu Hy nói rằng: Nguyên là loài vật mới sinh, hanh là loài vật tươi tốt, lợi là nó sắp sửa có quả trinh là quả đã thành rồi, quả đã thành rồi cuống nó rời rụng, có thể lại trồng cho mọc. Bốn đức tính sở dĩ xoay như vòng tròn mà không có đầu cũng giống như thế. Nhưng mà trong bốn thứ đó, sinh khí vẫn thường lưu hành, không bị gián đoạn chỗ nào. Bởi vậy đức “nguyên” mới bao hàm tất cả mấy thứ mà tóm đạo trời. Nay lấy thánh nhân mà nói thì ý Khổng Tử cho rằng: Quẻ này tức là lời chiêm của vị thánh nhân được ngôi trời, thực hiện đạo trời mà đem đến một cuộc thái bình. Tuy là văn nghĩa không giống cái cũ của Văn Vương, nhưng kẻ đọc, ai nấy lấy ý mà tìm, thì lời Khổng Tử và lời Văn Vương vẫn đi với nhau mà không trái nhau. Quẻ Khôn cũng vậy.
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trời đi mạnh, quân tử coi đó tự cường không nghỉ.
Truyện của Trình Di. - Lời Tượng ở dưới quẻ giải về tượng của một quẻ, lời Tượng ở dưới hào giải về tượng của một hào. Các quẻ đều lấy hình tượng làm phép, đạo Kiền là cái hình tượng che chở chăn nuôi rất lớn, phi thánh nhân không thể thể theo. Vì muốn mọi người có thể bắt chước, cho nên chỉ lấy cái tính “đi mạnh” mà thôi. Vả, hai chữ “rất mạnh” cũng đủ để thấy đạo trời. “Quân tử coi đó tự cường không nghỉ” ấy là bắt chước sự đi mạnh của trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tượng đây là lời Chu Công đèo vào dưới hai hình tượng trên dưới của quẻ và sáu hào của hai tượng đó.
Trời là hình tượng của quẻ Kiền. Phàm những quẻ trùng đều theo nghĩa trùng, riêng về quẻ này không thế, là vì trời chỉ có một mà thôi. Chỉ nói trời đi, thì thấy ngày nay một vòng, ngày mai lại một vòng, giống như hình tượng trùng phúc, phi có một sức rất mạnh, không thể như thế. Quân tử bắt chước chỗ đó không để nhân dục hại đến sự cứng mạnh của đức trời thì phải tự cường không thôi.
Dịch âm. - Tiềm long vật dụng, Dương tại hạ dã.
Dịch nghĩa. - Rồng lặn chớ dùng, Dương ở dưới vậy.
Truyện của Trình Di. - Khí Dương ở dưới, quân tử ở cảnh hàn vi, chưa thể làm việc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dương chỉ về hào Chín, dưới chỉ về sự “lặn”.
Dịch âm. - Hiện long tại điền, đức phổ thí dã.
Dịch nghĩa. - Rồng hiện ở ruộng, đức lan rộng vậy.
Truyện của Trình Di. - Hiện ở trên đất, tức là đức hóa lan tới các vật, sự thi ơn đã rộng.
Lời bàn của Đổng Bàn Giản. - Hào Chín Hai hãy còn ở dưới mà lại nói "đức lan rộng" là vì: cũng như mặt trời đương lên, tuy là chưa tới giữa trời, nhưng mà ánh sáng của nó không đâu không tới.
Dịch âm. - Chung nhật kiền kiền, phản phục đạo dã.
Dịch nghĩa. - Suốt ngày săng sắc, trở đi trở lại với đạo vậy.
Truyện của Trình Di. - Tức là tiến, lui, động, nghỉ, phải nhằm với đạo.
Lời bàn của Du Quảng Bình. - Thích về cái lúc "trọn ngày săng sắc làm việc" mà lại nói: "trở đi trở lại với đạo" là sao? Là vì quân tử làm việc tuy là kiền kiệt đau đáu, nhưng mà cái lẽ giản dị vẫn không phút chốc xa rời, chẳng qua làm việc một cách vô sự mà thôi. Hào Chín Ba ở trên thể dưới, sắp lìa khỏi "người" mà đến "trời", cho nên có hình tượng "trở đi trở lại với đạo".
Dịch âm. - Hoặc dược tại uyên, tiến vô cữu dã.
Dịch nghĩa. - Hoặc nhảy ở vực, tiến lên không lỗi vậy.
Truyện của Trình Di. - Cân nhắc thấy có thể tiến mà tiến, tiến được nhằm thì, thì không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Có thể tiến mà thôi, bất tất phải tiến.
Dịch âm. - Long phi tại thiên, đại nhân tạo dã.
Dịch nghĩa. - Rồng bay ở trời, việc người lớn vậy.
Truyện của Trình Di. - Việc của người lớn, tức là việc của thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tạo 造 nghĩa là làm.
Dịch âm. - Kháng long hữu hối, doanh bất khả cửu dã.
Dịch nghĩa. - Rồng quá cực có ăn năn, sự đầy đủ không thể lâu vậy.
Truyện của Trình Di. - Đây thì biến đổi, đó là có ăn năn.
Lời bàn của Từ Tiến Trai. - “Đây” là Dương đã quá cực, “không thể lâu dài” là Âm đã sinh ra. Dùng chữ “đây” để thích chữ “quá cực”, dùng chữ “không thể lâu” để thích chữ “có ăn năn”. Người ta biết là không thể lâu mà đề phòng từ khi còn chưa quá cực, sẽ không ăn năn.
Dịch âm. - Dụng cửu, thiên đức bất khả vi thủ dã.
Dịch nghĩa. - Dùng Chín: Đức trời không làm đầu vậy.
Truyện của Trình Di. - Dùng Chín tức là đức trời. Đức trời vốn là Dương cương, nếu lại dùng sự cương cường mà thích đi trước người ta, thì là quá quắt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây nói Dương cương không thể làm đầu người ta, cho nên sáu hào biến cả thì tốt.
Dịch âm. - Văn ngôn viết: Nguyên giả thiện chi trưởng dã, hanh giả gia chi hội dã, lợi giả nghĩa chi hoà dã, trinh giả sự chi cán dã.
Dịch nghĩa. - Văn ngôn nói rằng: Nguyên là trưởng của điều thiện, hanh là sự tốt tụ hợp, lợi là điều nghĩa hoà hợp, trinh là gốc của việc.
Truyện của Trình Di. - Các quẻ khác chỉ có lời Thoán lời Tượng mà thôi, riêng về quẻ Kiền quẻ Khôn lại đặt ra bài Văn ngôn, để nói cho rõ nghĩa thêm, và để suy rộng đạo Kiền, đem ra mà làm việc người. Bốn đức nguyên, hanh, lợi, trinh của Kiền, loài người thì nguyên là đầu của các điều thiện, hanh là cuộc tụ hợp của các sự đẹp, lợi là hoà hợp về nghĩa, trinh là chỗ dùng làm việc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thiên này nói lại ý của Thoán truyện, Tượng truyện, cho hết dư uẩn của hai quẻ Kiền Khôn, mà thuyết của các quẻ khác có thể theo đó mà suy.
Nguyên là khởi đầu của sinh vật, đức của trời đất, không có cái gì trước nó, ở bốn mùa là Xuân, ở người ta là nhân mà là trùm trưởng của các điều thiện. Hanh là sự thông đạt của các sinh vật, các vật tới đó, vật nào cũng tốt, cho nên về bốn mùa là Hạ, ở người ta là lễ, mà là cuộc tụ hội của các điều hay. Lợi là sự thoả thuê của các sinh vật, vật nào được cái sở nghi của vật ấy, cho nên ở bốn mùa là Thu, ở người ta là nghĩa mà được sự hoà hợp của từng phần. Trinh là sự thành công của sinh vật, thực lý đầy đặn, đâu đó đều đủ, cho nên ở bốn mùa là Đông, ở người ta là trí, và là gốc của các việc; gốc là thân của loài cây, cành lá đều tựa vào đó mà đứng.
Dịch âm. - Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia hội túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hoà nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự. Quân tử hành thử tứ đức giả, cố viết: Kiền nguyên hanh lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Đấng quân tử thể theo điều nhân đủ để làm trùm người ta; tốt sự hội hợp đủ để hợp lễ; làm lợi kẻ khác đủ để hoà hợp điều nghĩa; chính đính vững bền đủ để làm gốc các việc. Đấng quân tử thực hành bốn đức ấy, cho nên nói rằng: "Kiền nguyên hanh lợi trinh".
Truyện của Trình Di. - Bắt chước điều nhân của Kiền, là đạo của đấng quân trưởng, đủ để làm trùm người ta; thể theo điều nhân tức là thể theo đức nguyên; so sánh mà bắt chước nó, gọi là “thể”. Được sự hội thông tốt đẹp, mới hợp với lễ; không hợp lễ thì không phải lý, há được là tốt? Không phải lý đâu có hanh thông? Hoà với nghĩa thì mới có thể làm lợi kẻ khác. Vì có chính đính vững bền, cho nên mới làm được việc. Thực hành bốn đức tính ấy mới hợp với quẻ Kiền.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lấy điều nhân làm thể, thì không một vật nào mà không ở trong yêu thương, cho nên có thể làm trùm người ta. Tốt sự hội hợp thì không điều gì mà không hợp lễ. Khiến cho các vật đều được cái lợi của nó, thì nghĩa còn gì không hoà? Chính bền nghĩa là biết sự chính đính ở đâu mà giữ cho vững, như nói: “biết mà không bỏ vậy”, cho nên đủ làm gốc của các việc. Không phải là bậc quân tử rất mạnh, không thể thực hành được các điều ấy, cho nên nói là “Kiền nguyên hanh lợi trinh”.
Tiết này nói lại ý của Thoán truyện, lời lẽ không khác những câu Mục Khương đã nói trong truyện Xuân thu. Ngờ rằng đời xưa có mấy câu đó, Mục Khương nhắc lại, mà đức Phu Tử cũng lấy vào đấy, cho nên chương dưới mới đặt hai chữ “Tử viết” 子曰 để nêu cho rõ lời của Khổng Tử. Đó là kẻ chép Thoán truyện muốn tỏ chương này là lời cổ vậy.
Dịch âm. - Sơ Cửu viết: Tiềm long vật dụng hà vị dã? Tử viết: Long đức nhi ẩn giả dã. Bất dịch hồ thế, bất thành hồ danh, độn thế vô muộn, bất kiến thị nhi vô muộn, lạc tắc hành chi, ưu tắc viễn chi, xác hồ kỳ bất khả bạt, tiềm long dã.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu nói rằng: “Rồng lặn chớ dùng” là nghĩa làm sao? Thầy nói: Đó là đức con rồng mà còn ẩn nấp, không đổi theo đời, không nổi về tiếng, trọn đời không buồn, chẳng được nhận là phải mà không buồn, vui thì làm, lo thì lánh xa, vững chắc không thể lay nhổ, ấy là rồng lặn.
Truyện của Trình Di. - Từ đây trở xuống nói về công dụng của Kiền, tức là cách “dùng chín” vậy. Hào Chín Đầu là Dương còn nhỏ, ấy là “đức rồng ẩn nấp", cũng như thánh hiền trong thuở hàn vi, chỉ cốt giữ đạo của mình, không hề theo đời thay đổi, vui nết của mình không cần ai biết, tự tin tự vui, thấy có thể làm thì làm, biết là khó khăn thì tránh. Sự thao thủ vững chắc không thể cướp nổi. Đó là đức của rồng lặn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đức rồng tức là đức của thánh nhân, vì còn ở dưới nên phải ẩn nấp. “Đổi” là thay đổi sự thao thủ của mình. Đại để những lời Văn ngôn trong sáu hào quẻ Kiền, đều lấy thánh nhân để giải cho rõ ý nghĩa, chỉ có chỗ kín chỗ hở, không có chỗ nông chỗ sâu.
Dịch âm. - Cửu Nhị viết: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân, hà vị dã? Tử viết: Long đức nhi chính trung giả dã. Dung ngôn chi tín, dung hạnh chi cẩn, nhàn tà tồn kỳ thành, thiện thế nhi bất phạt, đức bác nhi hoá. Dịch viết: “Hiện long đại điền, lợi kiến đại nhân”, quân đức dã.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai nói: “Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn” là nghĩa làm sao? Thầy nói: Đó là đức rồng mà được trung chính. Nói thường nhằm đúng, nết thường cẩn thận, ngăn điều tà, giữ điều thành thật, làm hay cho đời mà không cậy công, đức rộng mà hoá được người. Kinh Dịch nói: “Rồng hiện ở ruộng, lợi về sự thấy người lớn”, đó là đức của ông vua.
Truyện của Trình Di. - Là đức rồng mà ở chính giữa, ở vào chính giữa quẻ dưới là được cái nghĩa chính giữa. Thường tin thường cẩn, trong lúc vội vàng cũng phải để ý vào đó. Đã ở chỗ không có lỗi, chỉ cốt ngăn điều tà. Điều tà đã ngăn, thì điều thành thật sẽ còn. Làm hay cho đời mà không cậy công, tức là không nhận điều hay của mình. Đức rộng mà hoá được người, tức là làm cho mình được ngay thẳng. Bấy nhiêu khoản đều là việc của người lớn, tuy không phải ngôi vua, nhưng là đức của người làm vua.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chính giữa là lúc không lặn mà chưa nhảy. Nói thường cũng nhằm đúng, nét thường cũng cẩn thận, đó là thịnh đức cùng tột. Ngăn điều tà, giữ điều thành thực, tức là cái ý “dù không chán nản cũng phải giữ gìn” trong Kinh Thi. Nói đức ông vua là để thích rõ người lớn là Hào Chín Hai.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Từ chữ “đức rồng chính giữa” trở xuống, đều là đức của ông vua. Ý nói dù không ở ngôi vua, nhưng có đức của ông vua, cho nên mới là người lớn. Y Xuyên lại giảng cái người lớn đó thành hai kiểu.
Dịch âm. - Cửu Tam viết: Quân tử chung nhật kiền kiền, tịch dịch nhược, lệ vô cữu, hà vị dã? Tử viết: Quân tử tiến đức tu nghiệp; trung tín sở dĩ tiến đức dã, tu từ lập kỳ thành, sở dĩ cư nghiệp dã; tri chí chí chi, khả dữ cơ dã; tri chung chung chi, khả dữ tồn nghĩa dã. Thị cố cư thượng vị nhi bất kiêu, tại hạ vị nhi bất ưu, cố kiền kiền, nhân kỳ thì nhi dịch, tuy nguy, vô cữu hỹ.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba nói: “Quân tử trọn ngày săng sắc, tôi dường rùng rợn vậy, nguy không lỗi”, là nghĩa làm sao? Thầy nói: Quân tử tiến đức sửa nghiệp; trung tín là để tiến đức; sửa lời nói, dựng điều thành thực là để ở nghiệp; biết chỗ cùng tột, thì làm cho được cùng tột, người đó có thể chung việc cơ vi, biết chỗ cuối chót thì giữ cho đến cuối chót, người đó có thể chung việc giữ nghĩa. Thế cho nên, ở ngôi trên không kiêu căng, ở ngôi dưới không lo lắng, cho nên săng sắc, hiểm nghèo cũng không có lỗi.
Truyện của Trình Di. - Hào Ba ở trên ngôi dưới, mà đức làm vua đã tỏ, thì sẽ làm gì? Chỉ có tiến đức sửa nghiệp mà thôi. Lòng chứa trung tín là để tiến đức. Lựa lời nói, dốc tâm trí là để ở nghiệp. Biết chỗ cùng tột, làm được cùng tột, ấy là chi trí, tìm chỗ cùng tột của sự biết, rồi mới làm cho cùng tột, vì là sự biết ở trước, cho nên có thể chung việc cơ vi, cũng như - Mạnh Tử - nói rằng: “điều lý phần đầu là việc của bậc trí”. Biết chỗ cuối chót, thì giữ cho đến cuối chót, ấy là lực hành, đã biết chỗ cuối chót ở đâu, thì gắng sức tiến lên mà giữ cho đến cuối chót, vì là giữ ở mặt sau, cho nên có thể chung việc giữ nghĩa, cũng như - Mạnh Tử - nói rằng: “điều lý phần sau là việc của bậc thánh”. Đó là đầu chót của việc học. Sự học của quân tử như thế, cho nên biết cách ở trên ở dưới, mà không kiêu căng, không lo lắng, không trễ nải mà sợ hãi, dù ở chỗ hiểm nghèo mà không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trung tín là cái chủ ở trong lòng, không một điều nghĩ nào không thực. Sửa lời nói là cái hiện ra ngoài việc, không một câu nói nào không thực. Biết chỗ cùng tột, làm được cùng tột là việc về mặt tiến đức. Biết chỗ cuối chót, giữ đến cuối chót, là việc về mặt ở nghiệp. Sở dĩ trọn ngày săng sắc, tối còn lo sợ là vì cớ đó. Có thể ở trên, có thể ở dưới, không kiêu căng, không lo âu, thế gọi là không có lỗi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Có người hỏi rằng: Việc dựng điều thành thực, không nói về cách sửa nết, lại nói về cách sửa lời, là cớ làm sao? Đáp rằng: Chỗ không thành thực của người ta phần nhiều là ở lời nói… Người ta thường coi lời nói là không quan trọng, nên mới nói ra một cách dễ dàng. Nếu như mỗi câu mỗi cần phải thực, thì đó là rất trung tín. Tiến đức thấy được nhiều nghĩa lý trong việc sửa đổi lời nói dựng điều thành thực. Sửa lời nói, dựng điều thành thực là cốt để lập cái trung tín đó. Nếu mà miệng không lựa lời, gặp việc là nói, thì cái trung tín cũng bị chìm đắm trôi dạt, đứng không thể vững.
Trung tín là biết đến chỗ chân thực cùng tột. Sửa lời nói, dựng điều thành thực là làm đến chỗ chân thực cùng tột. Nếu không biết đến chân thực thì tiến cái gì? Trước mặt tối om om, tiến làm sao được? Nếu đã biết mà không chân thực làm đi, cái đạo lý kia chỉ là treo ở lưng trời, không chỗ yên đậu, thì cái gọi là trung tín, cũng là hão huyền mà thôi.
Trung tín và sửa lời nói, dựng điều thành thực là những tài liệu; mặt dưới, biết chỗ cùng tột, biết chỗ cuối chót, chỉ có “thực” rồi mới như thế được. Ví như gieo giống, phải là thực có hạt giống gieo xuống trong bùn, mới có thể ngày ngày thấy nó mọc lên; nếu đem vỏ không vất xuống, thì mọc sao được? Dù cho là cái đạo lý hão huyền đi nữa, cũng phải thực thấy, nếu chỉ để tai nghe qua, dùng miệng nói qua thì làm gì được? Trung tín sở dĩ cần phải thực, cũng như hiếu phải thực hiếu, đức hiếu mới mỗi ngày một tiến; đễ phải thật đễ, đức đễ mới mỗi ngày một tiến; nếu mà không thật, ấy là nó không có gốc, tiến làm sao được? Ngày nay biết được như thế, ngày mai có thể thuộc dần; ngày mai mới thấy có hai phần, ngày kia liền thấy có ba bốn phần, ý tứ tự nhiên thấy nó khác nhau. Dựng điều thành thực, vẫn là trung tín ở trên; sửa lời nói tức là nói năng thế nào, bên trong phải thế ấy; ở nghiệp giữa là thường thường như thế, không có chút nào gián đoạn. Đức là cái được ở trong lòng; nghiệp là cái thấy ở công việc; tiến đức nghĩa là ý tứ một ngày một mạnh hơn, một ngày một hăng hái hơn, không phải việc ở bề ngoài, chỉ là tự mình cảm thấy ý tứ khác nhau…
Hai chữ “trung tín” ở đây, khác với những chữ “trung tín” nói ở chỗ khác. Chữ “trung tín” này cũng như - Hạng Lương - vứt nồi chõ, đốt nhà cửa, đem lương ba ngày, tỏ cho sĩ tốt biết là phải chết, thì mới có thể đánh trận. Trung tín phải có bụng ấy, mới tiến đức được…
Trung tín là chỗ “ý thành”, như ghét hơi xấu, như thích vẻ đẹp, việc gì vật gì cũng thấy thuần là lẽ trời như thế, thì đức mỗi ngày mỗi tiến.
Trung tín là đầu, sửa lời nói dựng điều thành thực là chót, biết chỗ cùng tột, làm đến cùng tột là việc thuộc về tiến đức; biết chỗ cuối chót, giữ đến cuối chót là việc thuộc về ở nghiệp. Người ta sở dĩ một chân bước lên, một chân lui xuống; chỉ là không làm bằng cách chân thực, thì tiến làm sao được? Mấy câu “trung tín tiến đức” và “biết chỗ cùng tột, làm đến cùng tột, người đó có thể chung việc cơ vi” là chữ nói về sự đi; “sửa lời nói, dựng đều thành thực” và “biết chỗ cuối chót, giữ đến cuối chót, người đó có thể chung việc giữ nghĩa" là chữ nói về sự ở; tiến đức là mỗi ngày mỗi mới, ở nghiệp là ngày nào cũng thế; tiến đức cũng như đo đắn, sửa đắp để làm cái nhà; ở nghiệp cũng như ở vào cái nhà làm sẵn; biết chỗ cùng tột, nghĩa là biết được tới chỗ vút bậc; làm đến cùng tột, nghĩa là ý tứ theo nó tới đó; biết chỗ cuối chót là biết được chỗ sau rốt, giữ đến cuối chót, là ý tứ theo nó đến đấy.
Dịch âm. - Cửu Tứ viết: Hoặc dược tại uyên, vô cữu, hà vị dã? Tử viết: Thượng hạ vô thường, phi vi tà dã; tiến thoái vô hằng, phi ly quần dã; quân tử tiến đức tu nghiệp, dục cập thì dã, cố vô cữu.
Dịch nghĩa.- Hào Chín Tư nói: “Hoặc nhảy ở vực, không có lỗi” là nghĩa làm sao? Thầy nói: Lên xuống bất thường, không phải làm điều cong queo; tiến lui không nhất định, không phải lìa bỏ bầy bạn, đấng quân tử tiến đức sửa nghiệp, muốn cho kịp thì, nên không có lỗi.
Truyện của Trình Di. - Hoặc nhảy, hoặc ở, lên xuống bất thường; hoặc tiến, hoặc lui, đi, tới theo lẽ phải, không phải làm điều cong queo, không phải lìa bỏ bầy bạn, là vì tiến đức sửa nghiệp, muốn được kịp thì mà thôi. Lúc đáng làm thì làm, lúc đáng thôi thì thôi, không thể nhất định, lúc nào cũng như lúc nào, cho nên mới là “hoặc”. Vực sâu là chỗ ở của loài rồng, “ở vực” tức là nhảy đến chỗ yên ổn. Vực ở chỗ sâu mà nói là nhảy, đó là chỉ lấy cái nghĩa “đến chỗ yên ổn” mà thôi. Hoặc là tiếng còn nghi ngờ, phải tuỳ thời mà chưa chắc hẳn. Quân tử theo thời như bóng theo hình. Nếu mà có thể xa lìa, thì không phải là đạo nữa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Quẻ trong nói về đạo đức học vấn, quẻ ngoài nói về thời thế, địa vị. Tiến đức sửa nghiệp, ở hào Chín Ba đủ rồi, đây chỉ muốn cho kịp thì mà tiến.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Vân Phong nói rằng: Hào Ba, Hào Tư đều nói về việc tiến đức sửa nghiệp, vì nó hai lần cứng, mà không chính giữa, đều là những lúc nguy nghi. Từ xưa thánh hiền ở vào chỗ đó, chỉ có tiến đức sửa nghiệp mà thôi. Huống chi, hai hào đó lại ở giữa chỗ trên dưới tiến lui, nơi đạo Kiền biến hoá… về sự tiến lui mà biết cơ tức là thức thời, trong lúc biến hoá mà biết cái mầu nhiệm, tức là biết đạo.
Dịch âm. - Cửu Ngũ viết: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân, hà vị dã? Tử viết: Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thuỷ lưu thấp, hoả tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ. Thánh nhân tác nhi vạn vật đổ. Bản hồ thiên giả thân thượng, bản hồ địa giả thân hạ, tắc các tòng kỳ loại dã.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm nói: “Rồng bay ở trời, lợi về sự thấy người lớn” là nghĩa làm sao? Thầy nói: Cùng tiếng ứng nhau, cùng hơi tìm nhau, nước chảy chỗ ướt, lửa tới chỗ ráo, mây theo rồng, gió theo hổ, thánh nhân dấy lên mà muốn vật cùng thấy. Cái gì gốc ở trời thì thân với trên, cái gì gốc ở đất thì thân với dưới, đó là vật nào lại theo với loài vật ấy.
Truyện của Trình Di. - Người với thánh nhân là cùng một loài, hào Năm là đức “rồng” mà lên ngôi tôn, loài người cũng đã theo ngóng, huống chi là hạng cùng đức với nhau, trên ứng với dưới, dưới tìm đến trên, đó là “cùng tiếng ứng nhau, cùng hơi tìm nhau”. “Chảy chỗ ướt, tới chỗ ráo, theo rồng, theo hổ” cũng đều là vì khí loại. Cho nên thánh nhân dấy lên muốn vật cũng đều trông thấy. Chữ “vật” 物 đây chỉ về người ta, cũng như chữ “nhân vật” 人物 ”vật luận” 物論 chữ “vật” 物 đều chỉ về người. Trong Kinh Dịch, những câu “lợi kiến đại nhân” 利見大人, chữ giống nhau mà nghĩa khác nhau, ở quẻ Tụng, câu “lợi kiến đại nhân” 利見大人, nghĩa là nên thấy hạng người đức lớn, trung chính, sự phân biệt về người lớn đó nói ở trước khi thấy. Hào Hai, Hào Năm của quẻ Kiền, thì thánh nhân ra rồi, trên dưới cùng thấy, cùng làm xong việc, hạng người lớn “được thấy là lợi” đó, lại nói ở sau khi thấy. Gốc ở trời như là mặt trời mặt trăng, các ngôi sao; gốc ở đất thì như loài sâu, loài thú, loài cây cỏ, âm dương đều theo với loại của nó, người và các vật đều thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tác 作 là nổi lên, vật 物 tức là người, thấy là thích ý của chữ “lợi kiến” 利見. Gốc ở trời là giống động vật, gốc ở đất là giống thực vật, vật nào theo loại vật ấy. Thánh nhân là đầu loài người, cho nên thánh nhân nổi lên, thì người ta đều được trông thấy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Gốc ở trời thì thân với trên, phàm các động vật đầu ngảnh lên trên là thân với trên, tức là loài người; gốc ở đất thì thân với dưới, phàm các thực vật đều ngảnh xuống dưới, đó là thân với dưới. Loài cầm, loài thú phần nhiều đầu ngang, sở dĩ không khôn. Đó là gốc ở thuyết của Thiệu Khang Tiết.
Dịch âm. - Thượng Cửu viết: Kháng long hữu hối, hà vị dã? Tử viết: quý nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhân tại hạ vị nhi vô phụ, thị dĩ động nhi hữu hối dã.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên nói: “Rồng quá cực có ăn năn” là nghĩa làm sao? Thầy nói: Quý mà không ngôi, cao mà không dân, người hiền ở ngôi dưới mà không giúp, cho nên hễ hành động thì có ăn năn.
Truyện của Trình Di. - Hào Chín ở Trên mà không nhằm vào ngôi tôn, cho nên không có dân, không kẻ phụ tá, nếu hành động thì có ăn năn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Người hiền ở ngôi dưới, chỉ về từ hào Chín Năm trở xuống. Không giúp vì hào Chín Năm quá cao, chí khí kiêu động, các hào kia không đến giúp đỡ. Đấy là tiết thứ hai, nói lại ý của Tượng truyện.
Lời bàn của Tiên Nho. - Dương Thành Trai nói rằng: hào này ở đầu lục long, cho nên gọi là quý cao. Bởi vì từ hào Chín Tư trở xuống đều theo về hào Chín Năm, cho nên (hào này) mới không có kẻ giúp đỡ.
Ngô Lâm Xuyên nói rằng: Chữ “quý” cốt thích hào Chín là rồng, chữ “cao” thì thích ngôi. Trên quá cực Không có ngôi là vì hào Dương mà không được ở ngôi Dương; không có dân là vì thuần Dương mà không có Âm. Người hiền của hào Chín Ba lại ở ngôi dưới và lại là thể đối địch, không ứng với nhau, đó là không giúp. Vì thế, hễ hành động thì có ăn năn. Nhưng quá cực là thời của trời mà có ăn năn là việc của người. Những kẻ thức thời khéo xử, dù quá cực mà không hành động thì cũng không đến ăn năn.
Dịch âm. - Tiềm long vật dụng, hạ dã.
Dịch nghĩa. - Rồng lặn chớ dùng, vì ở dưới vậy.
Truyện của Trình Di. - Đây trở xuống nói về thì vận của quẻ Kiền. Chớ dùng vì còn ở dưới, chưa thể dùng được.
Lời bàn của Hồ Vân Phong. - Trên kia "Dương ở dưới" là nói về khí. Đây rằng "ở dưới" là nói về người.
Dịch âm. - Hiện long tại điền, thì xá dã.
Dịch nghĩa. - Rồng hiện ở ruộng, thì vận phải ở vậy.
Truyện của Trình Di. - Tức là tùy thời mà đỗ.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ý nói chưa được thời đại dùng đến.
Dịch âm. - Chung nhật kiền kiền, hành sự dã.
Dịch nghĩa. - Suốt ngày săng sắc, làm việc vậy.
Truyện của Trình Di. - Tức là tiến đức sửa nghiệp.
Lời bàn của Hồ Vân Phong. - Tức là làm việc nên làm.
Dịch âm.- Hoặc dược tại uyên, tự thí dã.
Dịch nghĩa. - Hoặc nhảy ở vực, là tự thử vậy.
Truyện của Trình Di. - Nghĩa là tuỳ theo thì vận, mình tự dùng mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chưa thể làm việc, hãy thử xem có thể làm được không.
Dịch âm. - Phi long tại thiên, thượng trị dã.
Dịch nghĩa. - Rồng bay ở trời, việc chính trị của bậc trên vậy.
Truyện của Trình Di. - Nghĩa là được ngôi mà làm chính trị của bậc trên.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nghĩa là ở ngôi trên để trị kẻ dưới.
Dịch âm. - Kháng long hữu hối, cùng chi tai dã.
Dịch nghĩa. - Rồng quá lắm có ăn năn, cái tai nạn của sự cùng cực vậy.
Truyện của Trình Di. - Tức là cùng cực mà tai nạn đến.
Lời bàn của Ngô Lâm Xuyên. - Chữ “cùng” chỉ về quá cao, chữ "tai" chỉ về có ăn năn.
Dịch âm. - Kiền nguyên dụng cửu, thiên hạ trị dã.
Dịch nghĩa. - Kiền nguyên dùng Chín, thiên hạ thịnh trị vậy.
Truyện của Trình Di. - Cái đạo Dùng Chín, trời với thánh nhân giống nhau. Hễ được chỗ dùng của nó thì thiên hạ thịnh trị.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ý nói Kiền nguyên dùng Chín, không giống với các quẻ khác. Đạo của người làm vua cứng mà lại có thể mềm, thiên hạ không đâu không thịnh trị.
Đây là tiết thứ ba, nhắc lại ý trước lần nữa.
Dịch âm. - Tiềm long vật dụng, Dương khí tiềm tàng.
Dịch nghĩa. - Rồng lặn chớ dùng, khí Dương ẩn nấp.
Truyện của Trình Di. - Đây trở xuống nói về nghĩa của quẻ Kiền. Đương lúc khí Dương còn nhỏ và còn lặn náu, quân tử cũng nên ẩn nấp, chưa thể làm việc.
Dịch âm. - Hiện long tại điền, thiên hạ văn minh.
Dịch nghĩa. - Rồng hiện ở ruộng, thiên hạ văn vẻ sáng sủa.
Truyện của Trình Di. - Đức rồng hiện ở trên đất, thì thiên hạ thấy cái văn vẻ sáng sủa của nó.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tuy là chẳng ở ngôi trên, nhưng mà thiên hạ đã thấm đức hoá.
Dịch âm. - Chung nhật kiền kiền, dữ thì giai hành.
Dịch nghĩa. - Suốt ngày săng sắc, với thì vận cùng đi.
Truyện của Trình Di. - Tức là theo thời mà tiến.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thời nên như thế.
Dịch âm. - Hoặc dược tại uyên, Kiền đạo nãi cách.
Dịch nghĩa. - Hoặc nhảy ở ruộng, đạo Kiền mới đổi.
Truyện của Trình Di. - Bỏ ngôi dưới mà lên ngôi trên, đó là trên dưới thay đổi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bỏ dưới lên trên tức là thay đổi.
Dịch âm. - Phi long tại thiên, nãi vị hồ thiên đức.
Dịch nghĩa. - Rồng bay ở trời, bèn chính ngôi về đức trời.
Truyện của Trình Di. - Chính ngôi ở trên, tức là ngôi nhằm đức trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đức trời tức là ngôi trời. Bởi vì chỉ có đức ấy mới đáng ở vào ngôi ấy, cho nên mới dùng chữ ấy đặt tên.
Dịch âm. - Kháng long hữu hối, dữ thì giai cực.
Dịch nghĩa. - Rồng quá có ăn năn, với thì vận đều cùng cực.
Truyện của Trình Di. - Thì vận đã cùng cực, thì người ở vào thì vận đó cũng phải cùng cực.
Dịch âm. - Kiền nguyên dụng Cửu, nãi kiến thiên tắc.
Dịch nghĩa. - Kiền nguyên dùng Chín, bèn thấy phép trời.
Truyện của Trình Di. - Đạo Dùng Chín tức là phép của trời. Phép tắc của trời chỉ về đạo trời. Có người hỏi rằng: Có phải sáu hào quẻ Kiền đều là việc của thánh nhân chăng? Đáp rằng: Theo được hết đạo của nó thì là thánh nhân. Nếu có chỗ được chỗ lỗi thì phải có sự lành sự dữ ở trong. Há riêng một quẻ Kiền đâu? Các quẻ đều thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cứng mà lại có thể mềm, đó là phép trời.
Đây là tiết thứ tư, nhắc lại ý trước một lần thứ ba.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Song Hồ nói rằng: Văn ngôn thích sáu hào quẻ Kiền tất cả ba tiết. Tiết thứ nhất giống như chuyên nói về đức, riêng có hào Trên hình như lại nói về ngôi. Tiết thứ hai giống như chuyên nói về ngôi, hào Hai hình như nói cả về thời và ngôi, hào Ba trở lên lại dường như nói chỗ dùng. Tiết thứ ba hoàn toàn nói về thì vận, nhưng cũng đều có phân biệt. Rút lại, thì như Chu Tử bảo rằng: “Thánh nhân học Dịch chỉ cần “thể” ra rất nhiều ý tứ. Kẻ đọc phải tự hiểu lấy”.
Dịch âm. - Kiền nguyên giả thuỷ nhi hanh giả dã.
Dịch nghĩa. - Kiền nguyên là đầu mới mà hanh thông vậy.
Truyện của Trình Di. - Đây lại phản phúc nói kỹ cho được hết nghĩa. Đã là đầu mới ắt phải hanh thông, nếu không hanh thông thì phải tắt dứt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đầu mới thì phải hanh thông, lý thế như vậy.
Dịch âm. - Lợi trinh giả tính tình dã.
Dịch nghĩa. - Lợi trinh và tính tình vậy.
Truyện của Trình Di. - Đây là tính tình của Kiền. Đã đầu mới mà hanh thông, nếu không lợi trinh có thể không tắt được chăng?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thu liễm qui tàng, mới thấy cái thật của tính tình.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trình Hiệu nói rằng: nguyên hanh chỉ là đầu mới mà hanh thông, nghĩa là khi mới phát sinh, hết thảy hanh thông, tới khi lợi trinh thì là vật nào được tính mệnh của vật ấy.
Tính tình như nói tư chất thể đoạn. Sắp đặt, chế nặn, biến hoá, nuôi nấng đều là lợi cả. Không nhận có công, thường thường và lâu dài mà không thôi, là trinh.
Chu Hy nói rằng: “Lợi trinh là tính tình” đó là tính tình của Kiền. Khi còn mới đầu mà hanh thông, là chỗ phát sinh của Kiền, chung là một cái tính tình; đến chỗ lợi trinh, thì mỗi vật có một tính tình. Thóc lúa cây cỏ đều có linh tính. Nguyên hanh tức là lúc nó nở hoa, kết quả, đến khi lợi trinh mới thấy tính tình của nó.
Có người hỏi: “Lợi trinh tức là tính tình” là nghĩa làm sao? Đáp rằng: Chữ tính tình đó như nói bản thể. Nguyên hanh là chỗ phát dụng, lợi trinh là ý thu góp dụm họp, nhưng mà còn chưa rắn đặc, đến mùa Đông mới thành; trong mùa Thu, tuy là đã đặc và dần dần muốn lìa cái gốc, nhưng nó thụ khí chưa đủ, thì trồng không mọc. Cho nên phải đến mùa Đông mới thành. Người ta khi đến mùa Thu mùa Đông, ngỡ như không thấy sinh ý, không biết rằng nó đã thu liễm ở trong. Như một chồi cây có hàng nghìn quả kết hột, hột nào có đủ sinh lý của hột ấy, đem những hột đó mà trồng, lại thành nghìn cây. Quẻ Bác nói "Quả lớn không ăn" chính là nghĩa ấy, ở chỗ đó có thể thấy rõ cái ý "sinh sinh không cùng". Đức lớn của trời đất là sinh. Trời đất không hề làm gì, chỉ có việc sinh mà thôi. Lẽ đó vốn là tự nhiên xếp đặt, thánh nhân thấy "mày dàm" ấy thì nói rõ ra.
Dịch âm. - Kiền thủy năng dĩ mỹ lợi lợi thiên hạ, bất ngôn sở lợi, đại hỹ tai!
Dịch nghĩa. - Đức tính đầu mới của Kiền có thể lấy sự tốt lợi làm lợi cho gầm trời, mà không nói đến cái đã lợi. Lớn lắm thay!
Truyện của Trình Di. - Cái đạo đầu mới của Kiền, có thể khiến cho mọi loài sinh thành, gầm trời nhờ sự tốt lợi của nó mà không nói được cái đã lợi, là vì không gì không lợi, không thể chỉ ra mà gọi, nên mới khen cái lợi đó là "lớn lắm thay"!
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đầu mới là nguyên mà hanh. Làm lợi cho gầm trời là lợi, không nói cái đã lợi là trinh. Có người nói rằng: "Khôn lợi cho nết trinh của ngựa cái", đó là nói cái đã lợi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Có người hỏi rằng: Kinh Dịch của họ Trình giải rằng: "Không gì không lợi, nên không nói cái đã lợi" câu ấy thế nào?
Đáp rằng: Kiền thì không gì không lợi. Khôn chỉ lợi cho nết trinh của ngựa cái, thì là có cái lợi, có cái không lợi.
Dịch âm. - Đại tai kiền hồ, cương kiện trung chính, thuần, tuý, tinh dã. Lục hào phát huy, bàng thông tình dã. Thì thừa lục long, dĩ ngự thiên dã. Vân hành vũ thí, thiên hạ bình dã.
Dịch nghĩa. - Lớn thay Kiền kia, vừa cứng vừa mạnh, vừa trung vừa chính, vừa thuần, vừa tuý, vừa tinh vậy. Sáu hào phát huy, rộng thông các tình vậy. Thường cưỡi sáu rồng để ngự tận trời vậy. Mây đi mưa tưới, thiên hạ hoà bình vậy.
Truyện của Trình Di. - “Lớn thay” là tán dương sự lớn lao của đạo Kiền. Dùng sáu đức tính cứng, mạnh, trung, chính, thuần, túy để hình dung đạo Kiền. Tinh tức là phần cực tinh của sáu tính kia. Dùng sáu hào phát huy, rộng thông cho hết tình nghĩa. Nhân thì vận của sáu hào để đương vào với vận trời, thì công dụng của trời đã rõ rệt lắm, cho nên mới thấy mây đi mưa tưới, Âm Dương tràn khắp, tức là cái đạo thiên hạ hoà bình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cứng là nói về thể chất, mạnh thì gồm cả công dụng. Nói trung là sự đi của nó không thái quá cũng không bất cập. Nói chính là sự đứng của nó không lệch về mặt nào. Bốn điều đó là đức tính của Kiền. Thuần là không lẫn về Âm Dương, tuý là không lẫn với tà ác, vì là trung chính cứng mạnh đến cùng tột; mà tinh thì lại là cái cùng tột của tính thuần tuý. Có kẻ ngờ rằng: Kiền chỉ cứng mà không mềm, không thể nói là trung chính. Không phải như thế. Trong khoảng trời đất, chỉ có một khí lưu hành, duy có động tĩnh khác nhau mà thôi. Nói về toàn thể của cuộc lưu hành, thì chỉ gọi là Kiền mà không cái gì là không bao bọc. Vì lấy động tĩnh chia ra, mới có Âm, Dương, cứng, mềm khác nhau. Chữ “rộng thông” cũng như chữ “Khúc tận” (hết các chiều). Câu dưới ý nói thánh nhân thường cưỡi sáu rồng để ngự trời, thì như trời khi mây đi mưa tưới, thiên hạ thái bình vậy.
Đây là tiết thứ năm, lại nhắc lại ý của chương đầu.
Dịch âm. - Quân tử dĩ thành đức vi hạnh, viết khả kiến chi hạnh dã. Tiềm chi vi ngôn dã, ẩn nhi vị hiện, hành nhi vị thành, thị dĩ quân tử phất dụng dã.
Dịch nghĩa. - Đấng quân tử lấy đức đã thành làm nết, gọi là "nết có thể thấy". Chữ "lặn" nghĩa là ẩn mà chưa hiện, làm mà chưa thành, cho nên đấng quân tử không dùng.
Truyện của Trình Di. - Đức đã thành, việc có thể thấy, là nết, có Đức thành thì mới có thể đưa ra công dụng, Hào Đầu đương lặn, ẩn mà chưa hiện, nết còn chưa thành, chưa thành tức là chưa tỏ, cho nên quân tử không làm việc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thành đức tức là cái đức đã thành. Hào Chín Đầu vẫn đã thành đức, có điều cái nết của nó chưa hiện mà thôi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Song Hồ nói rằng: Hào Chín Đầu đức thành, hạnh dựng, tuy có thể tỏ ra việc làm, nhưng mà thời vận và địa vị chưa thể thành được cái làm, cho nên lời Hào mới nói chớ dùng.
Dịch âm. - Quân tử học dĩ tụ chi, vấn dĩ biện chi, khoan dĩ cư chi, nhân dĩ hành chi. Dịch viết: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân, quân đức dã.
Dịch nghĩa. - Đấng quân tử dùng sự học để thu họp, dùng sự hỏi để phân biệt, dùng sự rộng rãi để ở, dùng điều nhân để thi hành. Kinh Dịch nói rằng: “Rồng hiện ở ruộng lợi về sự thấy người lớn”, đức của người làm vua vậy.
Truyện của Trình Di. - Thánh nhân ở dưới tuy đã rõ rệt mà chưa được ngôi, thì chỉ tiến đức sửa nghiệp mà thôi. Học để thu họp, hỏi để phân biệt, đó là tiến đức; rộng rãi để ở, điều nhân để thi hành, đó là sửa nghiệp. Cái đức làm vua đã rõ rệt rồi, lợi được thấy bậc người lớn, chỉ tiến lên mà thực hành thôi. Tiến lên mà ở vào ngôi đó, thì như vua Thuấn, vua Vũ, tiến lên mà thực hành cái đạo của mình thì như Y Doãn, Phó Duyệt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vì là do bốn điều ấy (học, vấn, khoan, nhân) mới nên đức của người lớn. Nói lại lần nữa, cho thật rõ hào Chín Hai là người lớn đó.
Dịch âm. - Cửu tam trùng cương bất trung, thượng bất tại thiên, hạ bất tại điền, cố kiến kiền, nhân kỳ thì nhi dịch, tuy nguy vô cữu hỹ.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba hai lần cứng mà không được giữa, trên không ở trời, dưới không ở ruộng, cho nên săng sắc, nhân thì đó, mà lo lắng, dẫu nguy, không có lỗi.
Truyện của Trình Di. - Hào Ba hai lần cứng, tức là tính cứng đã thịnh, lại quá bậc giữa mà ở trên bậc dưới, trên chưa tới trời mà dưới đã lìa khỏi ruộng, đó là chỗ hiểm nghèo. Nhân thì thuận xử, săng sắc lo ngại để phòng sự hiểm nghèo, cho nên dẫu nguy mà không đến nỗi có lỗi. Đấng quân tử theo thời lo sợ, vì vậy mà được hanh thái.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hai lần cứng chỉ về hào Dương ngôi Dương.
Lời bàn của Tiên Nho. - Sái Tiết Trai nói rằng: Quẻ dưới lấy hào Hai là giữa, quẻ trên lấy hào Năm là giữa. Hào Ba ở trên hào Hai là quá bậc giữa, hào Tư ở dưới hào Năm là chưa tới bậc giữa. Ở trời là hào Năm, ở ruộng là hào Hai; hào Ba trên chưa tới Năm, dưới đã lìa khỏi Hai, mà giữa thì ở ngôi “người”, chỉ có một cách săng sắc không nghỉ, thì dẫu ở chỗ hiểm nghèo cũng không có lỗi.
Dịch âm. - Cửu Tứ trùng cương (?) nhi bất trung, thượng bất tại thiên, hạ bất tại điền, trung bất tại nhân, cố hoặc chi. Hoặc chi giả nghi chi dã, cố vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư hai lần cứng (?) mà không được giữa, trên không ở trời, dưới không ở ruộng, giữa không ở người, cho nên nói “hoặc”. Nói “hoặc” là còn nghi ngờ, cho nên không có lỗi.
Truyện của Trình Di. - Hào Tư không ở trời, không ở ruộng mà vượt trên người là chỗ hiểm nghèo. “Ngờ” là tiếng còn chưa quyết. Cách xử chỗ đó không thể nhất quyết, hoặc tiến hoặc lui, tuỳ sự yên ổn mà thôi, vì vậy mà không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Tư không phải là hai lần cứng, chữ 重 (trùng) ngờ thừa. Ở người, chỉ về hào Ba, “hoặc” nghĩa là hãy còn tuỳ thời chưa định.
Dịch âm. - Phù đại nhân giả, dữ thiên địa hợp kỳ đức, dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh, dữ tứ thì hợp kỳ tự, dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung, tiên thiên nhi thiên phất vi, hậu thiên nhi phụng thiên thì. Thiên thả phất vi, nhi huống ư nhân hồ? Huống ư quỷ thần hồ?
Dịch nghĩa. - Ôi người lớn là hạng hợp đức với trời đất, hợp sự sáng với Mặt trời mặt trăng, hợp thứ tự với bốn mùa, hợp sự lành dữ với quỷ thần, đi trước trời mà trời không trái đi sau trời mà vâng thì trời. Trời còn không trái, huống chi người? Huống chi quỷ thần?
Truyện của Trình Di. - Người lớn với trời đất, mặt trời, mặt trăng bốn mùa, quỷ thần hợp đạo. Trời đất tức là đạo. Quỷ thần là dấu vết tạo hoá. Thánh nhân đi trước trời mà trời đồng tình, đi sau trời mà thuận được với trời, vì hợp với đạo mà thôi. Hợp với đạo thì người và quỷ thần hà trái lại được?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ “Người lớn” đây thích hạng người lớn mà trong lời Hào nói rằng: “Được thấy là lợi”, có đức ấy ở ngôi ấy thì mới đương nổi. Người và trời đất quỷ thần vốn không hai lẽ. Chỉ vì bị lấp về sự riêng tây của bản ngã, cho nên mắc ở hình hài mà không thể thông nhau. Thánh nhân không có riêng tây, lấy đạo làm thể. Khi nào còn có những sự kia nọ, trước sau đáng nói? “Đi trước trời mà trời không trái” tức là cái gì do ý làm ra, vẫn hợp với đạo bằng cách im lặng. “Đi sau trời, mà vâng thì trời” tức là biết lẽ như thế, vâng theo mà làm.
Dịch âm. - Kháng chi vi ngôn dã, tri tiến nhi bất tri thoái, tri tồn nhi bất tri vong, tri đắc nhi bất tri táng.
Dịch nghĩa. - Kháng là nói về hạng người biết tiến mà không biết lui, biết còn mà không biết mất, biết sự được mà không biết sự thiệt hại.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vì vậy cho nên hành động thì có ăn năn.
Lời bàn của Tiên Nho. - Phùng Hậu Trai nói rằng: Tiến lui là nói về mình, còn mất là nói về ngôi, được và thiệt hại là nói về người. Hào này cùng trên mà trở lại dưới là lui, chín biến ra sáu là mất, không có dân, không có kẻ giúp là thiệt hại.
Dịch âm. - Kỳ duy thánh nhân hồ? Tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chính giả, kỳ duy thánh nhân hồ?
Dịch nghĩa. - Chỉ có thánh nhân chăng? Biết tiến lui còn mất mà không lỗi với sự ngay thẳng, chỉ có thánh nhân chăng?
Truyện của Trình Di. - Quá lắm là “kháng”. Đã tới “kháng” thì không biết lẽ tiến lui còn mất, hơn thiệt. Thánh nhân hiểu lẽ đó mà xử trí không lỗi với sự ngay thẳng, cho nên không đến nỗi “kháng”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Biết rõ lý thế như thế mà xử với nó bằng đạo, thì không đến nỗi ăn năn và không phải là tính riêng để tránh hại.
Đây là tiết thứ sáu, lại nói lại ý của mấy tiết thứ hai, thứ ba, thứ tư.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Sáu hào trong bài Văn ngôn đều nói về đức của thánh nhân, chỉ có cái ngôi đã ở khác nhau. Hào Đầu “không đổi theo đời, không nên về tiếng, trốn đời không buồn, không được nhận là phải mà không buồn, vui thì làm, lo thì tránh, ấy là rồng lặn”, đã là nói về đức của thánh nhân rồi, chỉ là còn lặn chưa được dùng mà thôi. Hào Chín Hai lại tốt, đức hoá của nó đã tới người ta. Đó là ngôi kẻ bầy tôi ở đó mà yên. Đến hào Chín Ba ở trên quẻ dưới, ngôi đã cao rồi, lúc đó thời thế không thể làm gì, chỉ nên lo lắng sợ hãi, tiến đức sửa nghiệp, săng sắc không nghỉ. Hào Chín Tư “Hoặc nhảy ở vực”, Y Xuyên bảo “ruộng là chỗ ở yên của rồng” e rằng chưa phải. Ruộng là chỗ bằng phẳng, dù cho có nước cũng nông. “Vực” là chỗ sâu không thể lường, “nhẩy” là đã lìa khỏi sự “đi”, mà chưa tới sự “bay”. Đi còn dùng chân, nhảy thì không dùng đến chân, dùng sự vượt lên mà lên, chân không phải đạp xuống đất, vượt được thì lên trời, không được lại ở vực như cũ, đều không thể lường; dưới đã lìa khỏi sự đi, trên thì gần với sự bay, trên không ở trời, dưới không ở ruộng, giữa không ở người, cho nên nói “hoặc” là tiếng còn nghi ngờ, không được yên ổn như hào Chín Hai. Lúc đó, tiến lui không được và đều không do ở mình, chỉ theo thì vận của trời mà thôi. Tới hào Chín Trên lại quá cực rồi. Xem ra người ta ở trong đại vận không lúc nào nhàn, lành dữ, hối , một phút không dừng, giống như chiếc bánh xe lớn, cứ quay tít mãi. Thánh nhân chỉ theo với nó để xem đạo lý ra sao, chỗ này xử bằng đạo lý này chỗ kia xử bằng đạo lý kia. |
21109 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20Kh%C3%B4n | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh/Quẻ Khôn | Dịch âm. - Khôn nguyên hanh, lợi tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng. Tiên mê, hậu đắc, chủ lợi. Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng, an trinh, cát.
Dịch nghĩa. - Quẻ Khôn: Đầu cả, hanh thông, lợi về nết trinh của ngựa cái. Quân tử có sự đi. Trước mê, sau được. Chủ về lợi. Phía Tây Nam được bạn, phía Đông Bắc mất bạn. Yên phận giữ nết trinh thì tốt.
Truyện của Trình Di. - Khôn là quẻ đối nhau với Kiền, bốn đức tính giống nhau, mà về thể “trinh” thì khác nhau. Kiền lấy chính bền làm trinh. Khôn thì mềm thuận là trinh. Ngựa cái là giống có đức mềm thuận mà sức đi khỏe, cho nên dùng tượng của nó, gọi là “nết trinh của ngựa cái”. Việc làm của đấng quân tử mềm thuận mà lợi và trinh, đó là hợp với đức tính của Khôn. Âm phải theo Dương, ắt đợi xướng rồi mới hoạ. Âm đi trước Dương tức là mê lẫn, phải ở sau Dương mới đúng lẽ thường. Chủ về lợi, nghĩa là lợi cho muôn vật đều chủ ở Khôn. Vì cuộc sinh thành đều là công của đất cả. Đạo làm bầy tôi cũng vậy, vua sai tôi làm, vất vả về làm việc là cái chức trách của kẻ làm tôi. Tây Nam là phương Âm, Đông Bắc là phương Dương. Âm phải theo Dương, lìa bỏ bầy loại của nó mới có thể làm nên công cuộc hoá dục, mà được cái tốt trong việc yên phận giữ nết trinh. Nghĩa là đúng với lẽ thường thì yên, yên với lẽ thường thì trinh, cho nên mới tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nét là vạch chẵn, số của khí Âm. Khôn nghĩa là thuận, tức là tính của khí Âm. Chữ Khôn trong lời chua tức là tên quẻ ba vạch, chữ Khôn trong lời Kinh, thì là tên quẻ sáu vạch. Sự thành hình của khí Âm không có gì lớn hơn đất. Quẻ này ba vạch đều chẵn, cho nên đặt tên là Khôn để hình dung đất. Trồng lên hai lượt, lại được một quẻ Khôn nữa, thì là Âm đến thuần tuý, thuận đến cùng tột, cho nên cái tên và cái tượng của nó đều không thể đổi. Ngựa cái là giống ngoan ngoãn mà đi khỏe. Dương trước, Âm sau, Dương chủ về nghĩa, Âm chủ về lợi. Tây Nam là phương Âm, Đông Bắc là phương Dương. “An” là việc làm của nết thuận, “trinh” là sự giữ gìn của đức mạnh. Hễ gặp quẻ này, thì lời Chiêm là cả hanh thông mà lợi, phải lấy nết thuận, đức mạnh làm chính, nếu có đi đâu, thì trước mê, sau được mà chủ về lợi, đi sang Tây Nam thì được bạn, đi sang Đông Bắc thì mất bạn. Đại để hễ chịu yên về đường chính thì tốt.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: “Lợi về nết trinh của ngựa cái” ý nói: chỉ lợi cho sự chính đính của nết mềm thuận, không lợi cho sự chính đính của nết cương kiện. Chữ “lợi” này vốn là hư tự (tức là động từ) không có ý là bốn đức tính. Đến trong lời Thoán mới có ý đó.
Có người hỏi rằng: “Tây Nam được bạn, Đông Bắc mất bạn” là nghĩa làm sao? Đáp rằng: Âm không thể sánh với Dương, Âm chỉ lý hội được một nửa, không như Dương gồm được cả Âm, cho nên không gì không lợi. Âm chỉ dùng được một nửa, cho nên được ở Tây Nam, mất ở Đông Bắc. Từ chữ “trước mê sau được” cũng vậy. Từ Vương Bật trở xuống đều không biết thế, cho nên giải nghĩa sai cả.
Dịch âm. - Thoán viết: Chí tai Khôn nguyên, vạn vật tư sinh, nãi thuận thừa thiên.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Cùng tột thay cái đức đầu cả của Khôn, muôn vật nhờ nó mà sinh ra, bèn thuận theo trời.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng địa đạo tỏ nghĩa của quẻ Khôn, mà đầu tiên nói về đức “nguyên”. “Chí” là cùng tột, ví với chữ “đại”, nghĩa nó hơi hoãn hơn. “Thuỷ là khởi đầu của phần khí, “sinh” là khởi đầu của phần hình, “Thuận theo trời”, tức là thi hành đạo của đất vậy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Khi mà nhờ Kiền để khởi đầu thì liền nhờ Khôn để sinh ra, hai việc đó không hề cách nhau giây lát. Lúc Kiền hanh thông, Khôn cũng hanh thông. Muôn vật nhờ Kiền để khởi đầu mà có phần khí, nhờ Khôn để sinh ra mà có phần hình. Khí tới thì sinh. Đó là Khôn nguyên.
Dịch âm. - Khôn hậu tái vật, đức hợp vô cương.
Dịch nghĩa. - Sức dầy của Khôn, chở được các vật, đức nó hợp với đức không bờ.
Truyện của Trình Di. - Cái đạo “nhờ đó mà sinh ra” cũng có thể gọi là lớn. Nhưng Kiền đã khen là lớn rồi, cho nên Khôn phải khen là cùng tột. Nghĩa chữ “chí” hoãn hơn, không thịnh bằng chữ “đại”. Thánh nhân với sự phân biệt tôn ti, cẩn thận nghiêm ngặt như thế. Thuận theo trời mà thi hành, để cho thành công, đức dầy của Khôn mang chở muôn vật, có thể sánh nhau với đức “không bờ” của Kiền.
Dịch âm. - Hàm hoằng quang đại, phẩm vật hàm hanh.
Dịch nghĩa. - Bao dung rộng rãi, sáng láng, lớn lao, các phẩm, các vật, đều hanh thông.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây nói về hanh. Đức của Khôn hợp với đức không bờ của Kiền, là nói Khôn sánh với Kiền.
Lời bàn của Tiên Nho. - Du Quảng Bình nói rằng: “Hàm” là không gì không bao dung, “Hoằng” là không gì không có, “Quang” là không đâu không tỏ, “Đại” là không đâu không che trùm.
Dịch âm. - Tẫn mã địa loại, hành địa vô cương, nhu thuận lợi trinh quân tử du hành.
Dịch nghĩa. - Ngựa cái là loài của đất, đi đất không bờ, mềm, thuận, lợi về nết trinh, đấng quân tử thửa làm.
Truyện của Trình Di. - Dùng bốn chữ “hàm”, “hoằng”, “quang”, “đại” để hình dung đạo Khôn, cũng như những đức cương, kiện, trung, chính, thuần, túy của Kiền vậy. Hàm là bao dung, hoằng là rộng rãi, quang là sáng láng, đại là rộng dày. Vì có bốn đức tính ấy, cho nên mới vâng theo được công việc của trời, khiến cho các phẩm các vật đều được hanh thông thoả thuê. Dùng ngựa cái làm tượng của Khôn, vì nó mềm thuận đi khỏe, là loài của đất. “Đi đất không bờ” chỉ về đức mạnh - Kiền mạnh, Khôn thuận, Khôn cũng mạnh ư? Đáp rằng: Không mạnh thì sao sánh được với Kiền? Chưa có bao giờ Kiền đi mà Khôn đỗ. Nó động thì cứng, nhưng với đức mềm vẫn không hại gì. Mềm thuận mà lợi về nết trinh là đức của Khôn, điều mà quân tử vẫn làm. Đó là đạo của quân tử hợp với đức Khôn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây nói về lợi trinh. Ngựa là tượng của Kiền mà lại cho là loài của đất, là vì giống cái là vật thuộc Âm, mà ngựa lại là con vật đi đất. “Đi đất không bờ” thì tức là thuận mà mạnh. Mềm thuận lợi về nết trinh là đức của Khôn. “Quân tử thửa làm” nghĩa là điều mà người ta vẫn làm như đức của Khôn. Hễ mà vẫn làm như thế, thì lời chiêm như đoạn dưới đây.
Dịch âm. - Tiên mê thất đạo, hậu thuận đắc thường, Tây Nam đắc bằng, nãi dữ loại hành; Đông Bắc táng bằng, nãi chung hữu khánh.
Dịch nghĩa. - Trước mê mất đường, sau thuận được như thường, Tây Nam được bạn, bèn đi với loài, Đông Bắc mất bạn, bèn chót có phúc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dương lớn, Âm nhỏ, Dương được kiêm Âm. Âm không được kiêm Dương, cho nên đức Khôn thường kém nửa Kiền. Đông Bắc tuy mất bạn, nhưng quay về Tây Nam, thì chót cùng sẽ có phúc.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Đông Bắc không phải là ngôi của Âm, Âm nhu tới đó đã mất bè bạn, tự nhiên đứng chân không được, ắt phải quay về bản vị, cho nên chót cùng có phúc. Giống cái là giống mềm thuận, cho nên trước thì mê mà mất bạn; ngựa là loài vật đi khỏe, cho nên sau thì được mà có phúc. Đem chữ “ngựa cái” tách ra thì sẽ thấy ý tứ đó. Nói “chót có phúc”, thì phúc không ở bây giờ. Vì nó là vật mềm thuận, Đông Bắc không phải chỗ nó ở yên, tự nhiên phải mất bạn, cũng như con cá quen ở dòng nước chảy chậm, sống trong dòng nước chảy nhanh không được. Mất bạn ở Đông Bắc thì phải trở lại Tây Nam, ấy là sau chót có phúc.
Hỏi rằng: Có phải là người mềm thuận trung chính làm việc vượt qua thường phận không được, chỉ khi theo thường giữ phận, thì lại làm được việc hay không? Đáp rằng: Là thế.
Dịch âm. - An trinh chi cát, ứng địa vô cương.
Dịch nghĩa. - Cái tốt của kẻ yên về nết trinh, ứng nhau với đức không bờ của đất.
Truyện của Trình Di. - Công dụng của Kiền là việc của Dương, công dụng của Khôn là việc của Âm. Từ những hình tượng trở lên, gọi là đạo của trời đất; từ những hình tượng trở xuống, gọi là công của Âm Dương. . Từ chữ “tiên mê hậu đắc” trở xuống là nói về Âm đạo: Xướng trước thì mê mà trái đạo Âm, hoạ sau thì thuận mà đúng lẽ thường. Tây Nam là phương Âm, theo với loài nó cho nên được bạn, Đông Bắc là phương Dương, lìa loài của nó cho nên mất bạn. Lìa loài của nó mà lại theo Dương, thì có thể làm nên cái công sinh ra các vật, cho nên chót có phúc tốt. “Đi với loài” tức là ba phần bản thể, theo với Dương là phần công dụng. Thể Âm mềm nóng, cho nên theo Dương thì nó có thể yên về nết trinh, được tốt lành, ứng nhau với đức không bờ của địa đạo. Nếu Âm không yên về nết trinh, há lại có thể ứng nhau với địa đạo? Trong lời Thoán này có ba chỗ nói “không bờ” nghĩa không giống nhau, “Đức hợp với sức không bờ” là nói về sự vận hành không nghỉ của trời. “Ứng nhau với đức không bờ của đất” là nói về sự vô cùng của đất. “Đi đất không bờ” là nói về sự đi mạnh của loài ngựa.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Yên mà lại trinh, đó là đức của đất.
Dịch âm. - Tượng viết: Địa thế Khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Thế đất là quẻ Khôn, đấng quân tử coi đó mà dùng đức dày chở các vật.
Truyện của Trình Di. - Đạo Khôn cũng lớn như Kiền, phi thánh nhân ai thể được nó? Đất dày mà thế của nó xuôi nghiêng, cho nên lấy cái hình tượng xuôi thuận và dày đó mà nói “thế đất là quẻ Khôn”. Đấng quân tử coi cái hình tượng Khôn dày mà đem cái đức thâm hậu chứa chở các vật.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Khôn là hình tượng của đất, cũng chỉ có một mà thôi, cho nên không nói chữ “trùng” mà nói “thế của nó xuôi”, thì thấy nó là cái hình cao thấp nhân nhau không bao giờ dùng, cực thuận, cực dày, không có cái gì không chở.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Thế của đất thường thường có lý xuôi thuận. Vả như một đám đất bằng trước mặt phải có những khu gò bãi đột khởi, rồi nó cũng tự xuôi dần. Đất phẳng không thấy nó dốc, nhưng nó vẫn là những lớp cao thấp liên tiếp với nhau. Vì vậy mới thấy thế đất xuôi thuận.
Dịch âm. - Sơ lục, lý sương, kiên băng chí.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Xéo sương, váng rắn tới.
Truyện của Trình Di. - Hào Âm gọi là Sáu, tức là Âm thịnh, nếu đã đến “tám” thì Dương sinh rồi, không phải là thuần thịnh nữa. Khí Âm mới sinh ở dưới, hãy còn rất nhỏ, thánh nhân trong khi khí Âm mới sinh, vì nó sắp lớn, thì làm ngay ra lời răn. Khí Âm mới đọng là sương, xéo chân lên sương, phải biết khí Âm dần dần thịnh lên, ắt sẽ đến lúc kết thành váng rắn. Cũng như tiểu nhân lúc đầu tuy là rất nhỏ, không thể để cho nó lớn, nó lớn thì sẽ đến lúc nó thịnh.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sáu là tên của hào Âm. Số của khí Âm, Sáu là già mà Tám còn trẻ, cho nên mới gọi hào Âm là Sáu. Sương là khí Âm kết lại, Âm thịnh thì nước đóng cục thành váng. Hào này khí Âm mới sinh ở dưới, buổi đầu rất nhỏ mà thế của nó ắt có lúc thịnh, cho nên hình tượng giống như người giẫm lên sương thì biết váng rắn sắp đến, Âm Dương là gốc của Tạo hoá, thứ nọ không thể không có thứ kia, mà sự tiêu đi lớn lên vẫn như thường, không phải là cái người ta có thể thêm bớt. Nhưng Dương chủ về sinh, Âm chủ về sát, thì loại của nó cũng có ngay gian khác nhau. Cho nên thánh nhân làm Kinh Dịch, với chỗ “thứ nọ không thể không có thứ kia” đã dùng những chữ “kiện”, “thuận”, “nhân”, “nghĩa” để nói cho rõ, mà không thiên về bề nào, đến chỗ chúng nó tiêu đi lớn lên ngay gian khác nhau, thì không bao giờ mà không chú ý đến sự nâng Dương nén Âm. Đó là cốt để giúp sự hoá dục, xen với trời đất, ý rất sâu xa. Hào này không nói đến “Chiêm”, là vì cái ý “cẩn vi” đã tỏ ở trong hình tượng.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Đầy trong trời đất, cái để làm ra tạo hoá, chỉ là những cuộc đầu, chót, thịnh, suy của hai khí Âm Dương mà thôi. Dương sinh ở phương Bắc, lớn ở phương Đông, thịnh ở phương Nam; Âm đầu ở phương Nam, giữa ở phương Tây, chót ở phương Bắc; cho nên Dương thường ở tả, lấy sự sinh dục trưởng dưỡng làm việc, mà loài của nó thì là cứng, là sáng, là công, là nghĩa, và đạo quân tử cũng thuộc vào đó; Âm thường ở hữu, lấy sự tàn hại, thảm sát làm việc, mà loài của nó, thì là mềm, là tối, là tư, là lợi, và đạo tiểu nhân cũng thuộc vào đó. Thánh nhân làm Kinh Dịch, vạch quẻ, soạn lời, trong chỗ tiến, lui, tiêu, lớn, những điều khuyên bảo người ta sâu lắm.
Dịch âm. - Tượng viết: Lý sương kiên băng, âm thuỷ ngưng dã, tuần chí kỳ đạo, chí kiên băng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Xéo sương, váng rắn (?) là Âm mới đọng, dần đến thửa đạo, sẽ đến váng rắn.
Truyện của Trình Di. - Khí Âm mới đọng là sương, nó thịnh thì đến váng rắn, tiểu nhân tuy nhỏ, nó lớn thì sẽ dần dần tới thịnh, cho nên phải răn từ đầu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Xét sách Nguỵ chí bốn chữ 履霜堅冰 (lý sương kiên băng) chép là 初六履霜 (Sơ lục lý sương), nay nên theo vậy.
Dịch âm. - Lục nhị: Trực, phương, đại, bất tập, vô bất lợi.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Hai: Thẳng, vuông, lớn, không phải tập, không gì không lợi.
Truyện của Trình Dỉ. - Hào Hai khí Âm ở dưới, cho nên là chủ quẻ Khôn. Tóm nói đạo Khôn trung chính ở dưới, đó là đạo đất. Lấy ba đức tính: thẳng, vuông và lớn, hình dung đức tính của Khôn, thế là hết cả đạo đất. Bởi thẳng, vuông, lớn, cho nên không cần tập tành mà không có cái gì không lợi. Không tập, nghĩa là tự nhiên, ở đạo Khôn thì không cần làm mà đâu vào đấy, ở thánh nhân thì cứ ung dung tự do vẫn nhằm vào đạo. Thẳng, vuông, lớn cũng như Mạnh Tử bảo là “rất lớn, rất cứng và thẳng” vì ở thể Khôn, nên mới dùng “vuông” thay “cứng” giống như nết “trinh” để vào cho ngựa cái vậy. Nói về phần khí thì để sự “lớn” ở trước, vì sự “lớn” là thể của phần khí; với Khôn thì để đức “thẳng” đức “vuông” ở trước, đó là do ở sự “thẳng vuông” mà đến sự “lớn”. Thẳng, vuông, lớn đủ hết đạo đất, cốt ở người ta hiểu biết mà thôi. Hai quẻ Kiền Khôn là thể thuần tuý, dùng ngôi ứng nhau. Hào Hai là chủ quẻ Khôn, cho nên không lấy hào Năm ứng nhau với nó, ấy là không để quân đạo ở vào hào Năm. Ở quẻ Kiền thì hào Năm hào Hai ứng nhau.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mềm thuận, chính, bền tức là đức thẳng của Khôn. Cái hình phú ra đã có nhất định, tức là đức vuông của Khôn. Đức hợp với sức không bờ, tức là đức lớn của Khôn. Hào Sáu Hai mềm thuận mà trung chính lại được đạo Khôn một cách thuần tuý, cho nên đức tính của nó trong thẳng ngoài vuông mà lại thịnh lớn, không cần học tập mà không cái gì không lợi. Kẻ xem nếu có những đức như thế, thì lời chiêm sẽ là như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Lục Nhị chi động, trực dĩ phương dã; bất tập, vô bất lợi, địa đạo quang dã.
Dịch nghĩa. - Sự động của hào Sáu Hai, thẳng và vuông vậy; không tập, không gì không lợi, đạo đất tỏ vậy.
Truyện của Trình Di. - Theo trời mà động thì chỉ có thẳng và vuông mà thôi. Thẳng vuông thì là lớn rồi. Cái nghĩa thẳng vuông, sức lớn vô cùng. Đạo đất sáng tỏ, công nó cứ xuôi mà thành, há đợi phải tập mà sau mới lợi?
Dịch âm. - Lục Tam: Hàm chương khả trinh; hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Ngậm văn vẻ, có thể chính; hoặc theo đuổi việc nhà vua, không cậy công? Thì được tốt lành về sau.
Truyện của Trình Di. - Hào Ba ở trên quẻ dưới, tức là được ngôi. Đạo kẻ làm tôi, phải nên ngậm kín những cái văn vẻ tốt đẹp của mình, có điều gì hay phải trả về vua thì mới có thể như thường và được chính đính, trên không có lòng ghen ghét, dưới đúng với đạo mềm thuận. “Khả trinh” nghĩa là có thể giữ gìn bằng cách chính bền, và lại có thể bình thường lâu dài và không ăn năn xót tiếc. Hoặc có làm việc cho người trên, thì không dám nhận lấy sự thành công, chỉ phụng sự để giữ lúc chót mà thôi. Giữ chức trách để cho trọn việc, đó là đạo kẻ làm tôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Số Sáu thuộc về Âm, ngôi Ba thuộc về Dương, ở trong có ngậm những cái văn vẻ tốt đẹp, có thể giữ gìn bằng cách chính đính. Nhưng nó ở trên quẻ dưới, không thể náu nấp tới cùng cho nên, hoặc cũng có khi đi ra làm việc của người trên, thì trước tuy là không thành, mà sau lại được có chót. Vì nó có hình tượng ấy, cho nên mới răn kẻ xem hễ có đức ấy, thì lời chiêm như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Hàm chương khả trinh, dĩ thì phát dã. Hoặc tòng vương sự, trí quang đại dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Ngậm văn vẻ có thể chính để tuỳ theo thì mà phát động vậy. Hoặc có theo đuổi công việc nhà vua, trí khôn sáng tỏ lớn lao vậy.
Truyện của Trình Di. - Đấng Phu Tử sợ rằng người ta giữ gìn văn vẻ mà không đạt nghĩa, cho nên lại theo chỗ đó mà giảng rõ ra, ý nói: Đạo của kẻ làm bề tôi ở ngôi dưới, không nên nhận là có công có điều hay; ắt phải ngậm kín cái tốt của mình thì mới chính đính và mới có thể như thường. Nhưng gặp việc gì mà nghĩa nên làm, thì phải tuỳ theo thì vận mà phát động, không nhận có công, thế thôi. Không để lỗi mất dịp “nên”, thế là theo thì, chứ không phải là nấp náu tới cùng không làm. Nấp náu không làm không phải là kẻ tận trung. Lời Tượng chỉ nói câu trên, lời giải thì gồm luôn cả đoạn dưới. Các quẻ đều thế. Hoặc là theo đuổi công việc nhà vua mà lại có thể không nhận có công, có cuộc sau chót, thì là trí khôn sáng láng lớn lao. Bởi vì trí khôn sáng láng lớn lao, nên mới có thể ngậm kín. Những kẻ tối tăm nông nổi, có điều gì hay, chỉ sợ người ta không biết, há lại có thể ngậm được văn vẻ?
Dịch âm. - Lục Tứ: Quát nang, vô cữu, vô dự.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Thắt túi, không lỗi, không khen.
Truyện của Trình Di. - Hào Tư ở gần ngôi Năm, mà không có nghĩa tương đắc, ấy là cái lúc trên dưới ngăn nấp, tự xử bằng cách chính đáng cũng là cái chỗ nguy nghi. Nếu như giấu kín cái khôn của mình, như thể thắt chặt miệng túi, không cho hở ra, thì có thể được không lỗi; không thế, thì có hại. Đã giấu kín thì là không có tiếng khen.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Thắt túi chỉ về thắt chặt miệng túi mà không ra. Khen là tiếng quá sự thực, cẩn thận kín đáo như thế, thì không lỗi mà cũng không có tiếng khen. Hào Sáu Tư hai lần Âm, không được chính giữa, cho nên Tượng nó như thế. Nghĩa là, hoặc là việc phải cẩn mật, hoặc là thời nên ẩn trốn.
Dịch âm. - Tượng viết: Quát nang vô cữu, thận bất hại dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Thắt túi không lỗi, cẩn thận thì không có hại vậy.
Truyện của Trình Di. - Có thể cẩn thận như thế, thì không có hại.
Dịch âm. - Lục ngũ: Hoàng thường, nguyên cát.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Năm: Quần vàng, cả tốt.
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khôn tuy là đạo kẻ làm tôi, nhưng hào Năm thực là ngôi kẻ làm vua, nên mới răn rằng: “Quần vàng, cả tốt”. Vàng là màu trung chính, quần là đồ mặc phía dưới; giữ mực trung chính mà ở dưới, thì cả tốt, nghĩa là phải giữ phận vậy. Nguyên là cả mà hay, hào tượng chỉ nói giữ mực trung chính, ở ngôi dưới thì cả tốt, chứ chưa bày tỏ hết nghĩa. Quần vàng đã là cả tốt, thì ở ngôi tôn, làm người trên thiên hạ, là sự rất hung, có thể do đó mà biết. Người sau chưa đạt, nghĩa ấy đã bị tối mất, không thể không nói cho rõ. Năm là ngôi tôn, ở quẻ khác hào Sáu ở ngôi Năm, hoặc là mềm thuận, hoặc là văn vẻ sáng láng, hoặc là mờ tối yếu ớt, ở quẻ Khôn là ở ngôi tôn. Âm là đạo làm tôi, là đạo làm vợ, bề tôi mà ở ngôi tôn, thì là Hậu Nghệ, Vương Mãng, sự đó còn có thể nói, phận vợ mà ở ngôi tôn, thì là Nữ Oa, Vũ thị, đó là cái biến, không thể nói xiết, cho nên mới có lời răn “quần vàng” mà không nói hết.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vàng là màu trung chính, quần là đồ trang sức phía dưới. Hào Sáu Năm là thể Âm, ở ngôi tôn, cái đức trung thuận đầy ở trong mà hiện ra ngoài, cho nên Tượng nó như thế, mà Chiêm của nó thì là điều lành của bậc đại thiện. Kẻ xem đức ắt như thế, thì sự chiêm đoán cũng thế. Truyện Xuân thu chép: Nam Khoái sắp làm phản, bói được hào này, cho là rất tốt. Tử Phục Huệ Bá nói rằng: “Việc trung tín thì được, nếu không thế, ắt là thất bại. Ngoài mạnh, trong ôn là trung, dùng sự “hoà” để thống suất sự “trinh” là tín; cho nên nói rằng: “quần vàng cả tốt”. Vàng là màu trung chính, quần là đồ trang sức phía dưới, nguyên là trùm của điều thiện. Trong không trung chính, không đúng với màu của nó; dưới không cung kính, không đúng với sự trang sức của nó; việc làm không thiện, không đúng khuôn phép của nó. Ôi Kinh Dịch không thể xem sự mạo hiểm. Ba điều đó có điều thiếu, thì bói dù đúng, vẫn chưa thể tin”. Sau Khoái quả nhiên thất bại. Coi đó đủ tỏ phép xem bói.
Dịch âm. - Tượng viết: Hoàng thường nguyên cát, văn tại trung dã.
Dịch nghĩa. - Quần vàng cả tốt, văn vẻ ở trong vậy.
Truyện của Trình Di. - Văn vẻ của màu vàng trung chính ở trong là không thái quá. Bên trong chứa vẻ rất đẹp mà ở bậc dưới, cho nên mới là cả tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tức là văn vẻ ở trong mà hiện ra ngoài.
Dịch âm. - Thượng Lục: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng.
Dịch nghĩa. - Rồng đánh nhau ở đồng, máu nó xanh vàng.
Truyện của Trình Di. - Đó là Âm đi theo Dương, nhưng mà thịnh quá thì phải gây ra tranh giành. Hào Sáu đã cùng cực, lại tiến không thôi, thì ắt đánh nhau, cho nên nói rằng: “đánh nhau ở đồng”. Đồng nghĩa là tiến đến ngoài. Đã chọi nhau, thì đều bị thương, cho nên máu nó xanh vàng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Âm đã thịnh cực, đến nỗi tranh nhau với Dương, cả hai kẻ bại đều bị thương, Tượng nó như thế. Kẻ xem như thế đủ biết là hung.
Lời bàn của Tiên Nho. - Trên nói “váng rắn đến” là phòng cái vạ “rồng đánh nhau ở đồng” tức lúc mới đầu. Đây nói “rồng đánh nhau ở đồng”, là để tỏ rằng cái lo “váng rắn” tới lúc chót.
Dịch âm. - Tượng viết: Long chiến vu dã, kỳ đạo cùng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Rồng đánh nhau ở đồng, thửa đạo cùng vậy.
Truyện của Trình Di. - Âm đã thịnh đến cùng cực, thì ắt đánh nhau mà bị thương.
Dịch âm. - Dụng Lục: Lợi vĩnh trinh.
Dịch nghĩa. - Hào Dùng Sáu: Lợi về vĩnh viễn chính đính.
Truyện của Trình Di. - Hào Dùng Sáu của quẻ Khôn cũng như hào Dùng Chín của quẻ Kiền, tức là phép “dụng Âm” vậy. Đạo Âm mềm mà khó được bình thường. Cho nên cái phép dùng Sáu, lợi về thường thường chính bền.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dùng Sáu nghĩa là hễ được hào Âm thì đều dùng Sáu mà không dùng Tám, đó cũng là một thông lệ. Vì quẻ này là thuần Âm mà ở đầu, cho nên bày tỏ tại đây. Gặp quẻ này mà sáu hào đều biến, thì sự chiêm đoán như lời này. Nghĩa là Âm mềm mà không thể giữ bền, biến đi thành Dương thì có thể vĩnh viễn chính đính, cho nên mới răn kẻ xem bằng chữ “lợi vĩnh trinh”, cũng như hai chữ “lợi trinh” ở quẻ Kiền vậy. Từ quẻ Khôn mà biến đi, cho nên không đủ về nguyên hanh.
Dịch âm. - Tượng viết: Dụng Lục vĩnh trinh, dĩ đại chung dã.
Dịch nghĩa. - Dùng Sáu vĩnh viễn chính đính, vì lớn đến chót vậy.
Truyện của Trình Di. - Âm đã không đủ chính bền, thì không thể lâu dài đến cùng chót, cho nên cái đạo Dùng Sáu, lợi ở thịnh lớn trong lúc chót. Hễ lớn đến chót, thì mới vĩnh viễn chính đính.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đầu là Âm sau là Dương, cho nên nói rằng “đại chung”.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Dương là lớn, Âm là nhỏ, như quẻ Đại quá và quẻ Tiểu quá… đều thế. Nói về Âm Dương, thì sáu hào quẻ này lúc đầu vốn là nhỏ cả, đến đây, Âm biến làm Dương, vì vậy bảo là “đại chung”, ý nói trước nhỏ mà sau lớn vậy.
Dịch âm. - Văn ngôn viết: Khôn chí nhu nhi động dã cương, chí tĩnh nhi đức phương, hậu đắc, chủ lợi nhi hữu thường, hàm vạn vật nhi hoá quang. Khôn đạo kỳ thuận hồ? Thừa thiên nhi thời hành.
Dịch nghĩa. - Lời Văn ngôn nói rằng: Đạo Khôn rất mềm mà động thì cứng, rất tĩnh mà đức vuông, sau được, chủ lợi, mà có thường, ngậm muôn vật mà có sáng. Đạo Khôn là thuận chăng? Theo trời mà làm việc có thời.
Truyện của Trình Di. - Đạo Khôn rất mềm mà khi nó động thì cứng, thể Khôn rất tĩnh mà đức của nó thì vuông; vì nó động thì cứng nên ứng với Kiền không sai; vì nó đức vuông, nên khi
sinh vật có thường. Đạo Âm không xướng mà hoạ, cho nên ở sau là được, mà chủ về lợi, làm nên muôn vật là sự thường của Khôn; ngậm chứa muốn loài, đó là công và đức hoá của nó vừa sáng vừa lớn. Dưới chữ "chủ" 主 sót chữ "lợi" 利. Đạo Khôn là thuận chăng? Theo trời mà làm việc có thời, nghĩa là vâng theo sự thi hành của trời mà không trái thời. Đó là khen ngợi sự xuôi thuận của đạo Khôn vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ “cương” và chữ “phương” thích về nết “trinh” của ngựa cái. Phương là sinh vật có thường. Trình truyện nói rằng: Dưới chữ 主 (chủ) nên có chữ 利 (lợi). Câu “ngậm muôn vật mà hoá sáng” là lại nói rõ nghĩa của chữ “hanh”; câu “Đạo Khôn là thuận chăng? Vâng trời mà làm việc theo thời” là lại nói rõ nghĩa của chữ “thuận thừa thiên”.
Từ đây trở lên, nhắc lại ý của Thoán truyện.
Dịch âm. - Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh; tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương. Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triêu nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hỹ, do biện chi bất tảo biện dã. Dịch viết: Lý sương, kiên băng chí, cái ngôn thuận (?) dã.
Dịch nghĩa. - Cái nhà chứa điều thiện, ắt có phúc thừa; cái nhà chứa điều bất thiện, ắt có vạ thừa. Tôi giết vua nó, con giết cha nó, không phải là cớ một mai một hôm, cái mà nó đã bởi đó mà đến vẫn là dần dần, vì kẻ phân biệt không phân biệt sớm đó thôi. Kinh Dịch nói rằng: “Xéo sương, váng rắn đến” đó là nói về sự thuận.
Truyện của Trình Di. - Việc trong gầm trời, chưa có cái gì không do tích lại mà nên. Những nhà mà cái tích lại là thiện, thì phúc khánh kịp đến con cháu; nếu cái tích lại là bất thiện, thì tai vạ trôi tới đời sau; lớn ra, cho đến cái hoạ thí nghịch, cũng do tích luỹ mà đến, không phải một mai một hôm có thể làm nên. Kẻ sáng thì biết những sự “dần dần” không nên cho nó lớn lên; cái nhỏ chứa lại sẽ thành cái lớn, phân biệt từ khi còn sớm không để cho nó thuận tiện mà lớn, cho nên cái ác ở thiên hạ, không bởi đâu mà thành ra được. Mới biết lời răn “sương váng” là đúng. Sương mà đến váng, ác nhỏ mà đến lớn, đều là sự thế thuận tiện mà lớn vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tiếng cổ chữ 順 (thuận) chữ 慎 (thận) vẫn dùng lẫn lộn. Xét ra chữ 順 (thuận) ở đây, nên đổi ra làm chữ 慎 (thận) ý nói lên phân biệt từ khi còn nhỏ.
Dịch âm. - Trực kỳ chính dã, phương kỳ nghĩa dã. Quân tử kính dĩ trực nội, nghĩa dĩ phương ngoại, kính nghĩa lập nhi đức bất cô. Trực, phương, đại, bất tập, vô bất lợi, tắc bất nghi kỳ sở hành dã.
Dịch nghĩa. - Thẳng tức là chính, vuông tức là nghĩa. Đấng quân tử dùng sự kính để làm cho thẳng bên trong, dùng điều nghĩa để làm cho vuông bên ngoài, kính nghĩa dựng thì đức không bồ côi. Thẳng, vuông, lớn, không phải tập, không gì không lợi, không ngờ cái điều mình làm vậy.
Truyện của Trình Di. - Thẳng là nói về sự kính, vuông là nói về điều nghĩa. Đấng quân tử lấy sự kính làm chủ để làm cho thẳng bên trong, giữ điều nghĩa để làm cho vuông bên ngoài, sự kính dựng được thì bên trong thẳng, điều nghĩa hiện ra thì bên ngoài vuông; nghĩa hiện ra ngoài, không phải là nó ở ngoài. Kính nghĩa dựng, thì đức thịnh rồi, không hẹn nó lớn mà nó tự lớn, đó là đức không bồ côi, dùng gì mà không chu đáo? Làm gì mà không lợi? Còn ngờ gì nữa?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là nói về sự học. “Chính” chỉ về bản thể, “nghĩa” chỉ về sự ngăn chế, mà “kính” thì tức là sự giữ gìn về bản thể vậy. Bốn chữ “Trực nội phương ngoại” Trình truyện nói đã đủ ý. “Không bồ côi” là nói về sự lớn. Còn ngờ cho nên phải tập mà sau mới lợi, không ngờ thì cần gì phải tập!
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: “Kính để làm thẳng bên trong”, ấy là công phu trì thủ. “Nghĩa để làm vuông bên ngoài”, thì là công phu giảng học. Thẳng là thẳng trên thẳng dưới, trong bụng không có mảy may cong queo. Vuông tức là ý dứt khoát, vuông vắn; chỗ này, việc ấy đều phải khu xử bằng cách dứt khoát, ví như một vật bốn mặt thẳng băng có thể xắt được, không thể di dịch. Khi “tròn” thì chuyển động được; lúc chưa có việc, chỉ nhờ: “Kính để làm thẳng bên trong”; nếu có sự vật tới nơi, thì phải phân biệt một cái “phải trái”. Kính như cái gương nghĩa là cái tính “soi được”.
Kính để nuôi lòng, không có một mảy ý riêng, có thể là thẳng; do đó mà phát ra, làm việc gì nhằm với lẽ phải của việc ấy, thế gọi là nghĩa.
Dịch âm. - Âm tuy hữu mỹ, hàm chi dĩ tòng vương sự, phất cảm thành dã, địa đạo dã, thê đạo dã, thần đạo dã. Địa đạo vô thành nhi đại hữu chung.
Dịch nghĩa. - Âm tuy có sự tốt đẹp, phải ngậm nó lại để đi theo việc nhà vua, không dám nhận sự thành công, đó là đạo đất, đó là đạo vợ, đó là đạo kẻ làm tôi. Đạo đất không nhận sự thành công mà thay thế cho tới có chót.
Truyện của Trình Di. - Đạo kẻ làm người dưới, không nhận có công, phải ngậm kín những sự văn vẻ tốt đẹp của mình để đi theo việc nhà vua và thay thế người trên mà làm cho chót công việc, không dám nhận lấy sự thành công. Cũng như đạo đất thay trời làm trọn các vật, mà phần công vẫn chủ ở trời. Đạo vợ cũng vậy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Trong khoảng trời đất: muôn vật sán lạn trưng bày, đều là Âm bám vào Dương, cái đẹp hiển hiện ra ngoài đó thôi. Hào Sáu Ba và hào Sáu Năm đều là Âm ở ngôi Dương, cho nên, ở hào Ba thì nói “Âm tuy có sự tốt đẹp” mà ở hào Năm thì nói: “cái tốt đẹp ở bên trong”. Nhưng hào Ba đương tiến mà ngôi không chính giữa, cho nên, tuy có sự tốt đẹp, còn phải ngậm lại, hào Năm thì đã chính ngôi mà ở, cho nên, cái tốt đẹp ở trong phát ra thành sự nghiệp. Kẻ đi làm tôi người ta, sự nghiệp rõ rệt với đời vẫn có từng thì, không thể cậy về tài năng, mà cứ tiến tràn, để mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét của hào Ba và hào Năm.
Dịch âm. - Thiên địa biến hoá, thảo mộc phồn; thiên địa bế, hiền nhân ẩn. Dịch viết: Quát nang vô cữu, vô dự, cái ngôn cẩn dã.
Dịch nghĩa. - Trời đất biến hoá, cỏ cây tốt; trời đất đóng khép, người hiền ẩn. Kinh Dịch nói rằng: Thắt túi, không lỗi không khen, nghĩa là nói về sự cẩn thận vậy.
Truyện của Trình Di. - Hào Tư ở trên gần vua mà không có nghĩa tương đắc, cho nên là tượng cách tuyệt. Trời đất cảm nhau thì biến hoá, muôn vật cỏ cây đều rậm tốt; vua tôi giao tế với nhau thì là đạo hanh thông. Trời đất bế cách thì muôn vật không được thoả thuê; vua tôi tuyệt đường thì bậc hiền giả phải ẩn trốn. Hào Tư ở vào giữa lúc bế cách, thắt túi, giấu kín, tuy là không có tiếng khen, nhưng mà có thể không lỗi, ý nói nên sự giữ gìn cẩn thận vậy.
Lời bàn của Tiên Nho. - Lã Đông Lai nói rằng: Trời đất biến hoá cỏ cây tốt; trời đất đóng khép người hiền ẩn, người ta với trời đất cùng là một khí, thái thì hiện, bĩ thì ẩn, cũng như mùa xuân thì sinh, mùa thu thì rụng, khí tới là ứng, không hề cách nhau cái tóc, và cũng không cần nghĩ ngợi, so tính. Nếu bảo là “xét thời thế mà hành động”, thì đã coi là chia ra làm hai việc rồi. Sở dĩ chỉ nói người hiền ẩn là vì người thường thì vẫn tự mình cách tuyệt, cho nên, với khí trời đất, không thông nhau. Khí tới mà biết, chỉ có người hiền mà thôi.
Dịch âm. - Quân tử hoàng trung, thông lý, chính vị cư thể. Mỹ tại kỳ trung nhi xướng ư tứ chi, phát ư sự nghiệp, mỹ chi chí dã.
Dịch nghĩa. - Đấng quân tử vàng trong thông lẽ, chính ngôi ở thể. Cái tốt đẹp ở thửa trong mà khắp tới bốn chi, phát ra sự nghiệp, là tốt đẹp đến cùng tột vậy.
Truyện của Trình Di. - Vàng trong tức là văn vẻ ở trong. Đấng quân tử văn vẻ bên trong mà đạt về lý, ở ngôi chính mà vẫn không mất thể của kẻ dưới. Năm là ngôi tôn, ở quẻ Khôn chỉ lấy cái nghĩa trung chính mà thôi. Cái tốt đẹp chứa ở bên trong mà thông xướng ra bốn chi, phát hiện ra sự nghiệp. Đó là đức tốt đến cùng tột.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Vàng trong chỉ về cái đức trung chính ở trong, đó là chính nghĩa chữ 黄 (hoàng). Chính ngôi ở thể, nghĩa là ở ngôi tôn mà vẫn thể dưới, đó là chính nghĩa chữ 裳 (thường). Câu “cái đẹp ở trong” lại thích chữ 黄 (hoàng); câu “khắp ra bốn chi” là lại thích chữ 居體 (cư thể).
Lời bàn của Tiên Nho. - Từ Tiến Trai nói rằng: vàng trong là đức ở trong, thông lẽ là không lẽ nào không thông, ý nói cái đức mềm thuận chứa ở bên trong đã đến cực thịnh, chính ngôi là ở nhằm ngôi chính giữa, ở thể là ở thể dưới mà không tiếm, ý nói cái đức mềm thuận hình hiện ra ngoài mà đều xứng đáng. Vàng trong thông lẽ thì cái đẹp chứa ở trong phát ra bốn chi; chính ngôi ở thể thì có thể phát ra sự nghiệp.
Bốn chữ “vàng trong thông lẽ” phải nên ngẫm nghĩ. Hàm dưỡng không ngấm, thao thủ không bền, lẽ trời còn có một mảy chưa thuần tuý, lòng dục còn có một mảy chưa trừ hết, thì chưa được là “vàng trong”. Hàm dưỡng ngấm rồi, thao thủ bền rồi, lẽ trời trọn vẹn rồi, lòng dục trừ hết rồi, nhưng nếu vần thơ chưa đạt, mạch lạc chưa suốt, thì cái chứa ở bên trong tuy có vẻ đẹp về đường ôn hoà thuần hậu, mà không có cái mầu nhiệm về mặt dung xướng quán thông, chưa được là thông lẽ.
Dịch âm. - Âm nghi ư Dương, tất chiến, vị kỳ hiềm ư vô Dương dã cô xưng long yên; do vị ly kỳ loại dã, cô xưng huyết yên. Phù huyền hoàng giả thiên địa chi tạp dã, thiên huyền nhi địa hoàng.
Dịch nghĩa. - Âm ngờ với Dương, ắt phải đánh nhau. Ví nó hiềm rằng không có Dương, cho nên gọi là rồng; vì nó còn chưa lìa loài của nó cho nên gọi là máu. Ôi xanh vàng là sự lẫn lộn của trời, đất vậy, trời xanh mà đất vàng.
Truyện của Trình Di. - Dương lớn Âm nhỏ, Âm phải theo Dương. Âm đã thịnh cực, đều nhau cùng Dương, đó là ngờ với Dương. Không theo nhau thì phải đánh nhau. Quẻ này tuy là thuần Âm, e bị ngờ là không có Dương, cho nên mới gọi là rồng. Thấy nó đánh nhau với Dương, ở đồng là tiến không thôi mà tới tận ngoài; thịnh cực mà tiến không thôi thì đánh nhau rồi; tuy thịnh cực vẫn không lìa hẳn loài Âm mà tranh nhau với Dương, đủ biết là nó bị thương, cho nên mới gọi là máu, Âm đã thịnh cực, tranh nhau với Dương, thì Dương không thể không bị thương, cho nên máu nó xanh vàng, xanh vàng là sắc của trời đất, tức là đều bị đau cả.
Bản nghĩa của Chu Hy. - 无 (vô) nghĩa là ngang đều với nhau, không còn lớn nhỏ khác nhau. Quẻ Khôn tuy không có Dương, nhưng Dương vẫn chưa từng không có. Máu thuộc về Âm, nghĩa là khí là Dương mà máu là Âm. Xanh vàng là sắc chính của trời đất, câu ấy ý nói Âm Dương đều bị thương.
Đây là nhắc lại ý của Tượng truyện.
Lời bàn của Tiên Nho. - Sái Tiết Trai nói rằng: Tháng mười là tháng Khôn. Tháng Khôn sáu hào đều là thể Âm, nhưng mà cái lẽ sinh rồi lại sinh vẫn không phút chốc dừng nghỉ. Một khí dương tuy là sinh ở tháng tý mà thật ra, nó đã khởi đầu từ tháng hợi. Khí Dương của tháng mười, chỉ có chưa thành ra hào mà thôi. Thánh nhân vì nó thuần Âm mà hoặc ngờ là không Dương, cho nên mới gọi là rồng, để tỏ lẽ đó. Người xưa gọi tháng mười là tháng Dương, chính do ở đây mà ra. |
21110 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20Tru%C3%A2n | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh/Quẻ Truân | Truyện của Trình Di. - Quẻ Truân, Tự quái nói rằng: Có trời đất, rồi sau muôn vật mới sinh. Đầy trong trời đất, chỉ có muôn vật, cho nên tiếp đến quẻ Truân; truân là đầy, truân là muôn vật mới sinh. Muôn vật mới sinh, uất kết chưa thông, cho nên thành ra đầy tắc ở trong trời đất; đến khi nó đã vọt tốt, thì ý đầy tắc mất rồi. Trời đất sinh ra muôn vật, quẻ truân là tượng các vật mới sinh, cho nên nó nối sau hai quẻ Kiền Khôn. Nói về hai tượng, thì mây, sấm nổi lên, ấy là Âm Dương mới giao; nói về hai thể thì Chấn mới giao ở dưới, Khảm mới giao ở giữa, Âm Dương giao nhau mới thành mây sấm. Âm Dương mới giao mây sấm ứng nhau mà chứa thành mưa, cho nên là truân, nếu đã thành mưa thì là giải rồi. Lại động ở trong hiểm cũng là nghĩa truân, Âm Dương không giao nhau là Bĩ, Âm Dương mới giao nhau mà chưa xướng là Truân, về thì vận, thì nó là lúc thiên hạ gian truân, chưa được hanh thái.
Dịch âm. - Truân nguyên hanh lợi trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.
Dịch nghĩa. - Truân đầu cả, hanh thông, lợi tốt, chính bền, chớ dùng có thửa đi, lợi về dựng tước hầu.
Truyện của Trình Di. - Quẻ Truân có cách cả hanh, mà ở vào đó thì lợi ở chính bền. Không chính bền lấy gì để qua lúc truân? Lúc truân chưa thể có thửa đi. Thiên hạ đương truân, há rằng sức một người nào có thể làm cho qua được? Ắt phải rộng nhờ về sức giúp đỡ, cho nên lợi về việc dựng nước hầu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chấn, Khảm đều là tên quẻ ba vạch. Quẻ Chấn một hào Dương động ở dưới hai hào Âm, cho nên, tính nó là động, tượng nó là sấm. Quẻ Khảm, một hào Dương hãm ở giữa hai hào Âm, cho nên tính nó là hãm, là hiểm, tượng nói là mây, là phương Nam, là nước. Truân là tên quẻ sáu vạch, nghĩa nó là khó, tức là cái ý các vật mới mọc mà chưa thông đạt, cho nên chữ 屯 (truân) do ở chữ 艸 (thảo) mà ra, giống như mầm cỏ dùi đất mới mọc mà chưa duỗi thẳng. Quẻ này là Chấn gặp Khảm, Kiền Khôn mới giao với nhau mà gặp chỗ hiểm hãm, cho nên tên nó là Truân, Chấn động ở dưới, Khảm hãm ở trên, còn động được chăng? Trong chỗ hiểm mà còn động được, tuy là có thể hanh thông, mà ở chỗ hiểm, thì nên giữ đường ngay thẳng, chưa thể vội tiến, cho nên bói được quẻ này, thì lời chiêm là cả hanh và lợi về đường ngay thẳng, mà chưa nên vội có thửa đi. Lại: hào Chín Năm Dương ở dưới Âm mà là chủ sự làm ra quẻ, đó là cái nghĩa hiền nhân chịu nhường người ta mà được lòng dân có thể làm vua. Cho nên hễ bói về việc dựng vua, gặp quẻ này thì tốt.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Hỏi rằng: Quẻ Truân lợi về sự dựng nước hầu. Lời chiêm ấy với câu “lợi về sự thấy người lớn” ở quẻ Kiền có đồng lệ không? Đáp rằng: Có. Đó cũng chỉ là đại khái như thế. Nếu mà tự bói việc làm vua, thì dựng tước hầu là mình, nếu bói việc lập vua thì dựng tước hầu là chỉ về vua. Chỗ đó lại xem rõ cái duyên mình gặp thế nào. Kinh Dịch không phải là thứ văn tự trói chặt. Cho nên nói rằng: “Không thể dùng làm điển yếu".
Dịch âm. - Thoán viết: Truân, cương nhu thuỷ giao nhi nạn sinh, động hồ hiểm trung, đại hanh trinh, lôi vũ chi động mãn doanh. Thiên tạo thảo muội, nghi kiến hầu nhi bất ninh.
Dịch nghĩa. - Quẻ truân, cứng mềm mới giao nhau mà nạn sinh, động ở trong chỗ hiểm, cả hanh trinh, sấm mưa động đến đầy rẫy. Vận trời bối rối, mờ tối, nên dựng tước hầu, mà chớ cho là yên.
Truyện của Trình Di. - Nói về hai tượng mây sấm, thì là mềm cứng mới giao nhau. Nói về hai thế Chấn Khảm, thì là động ở trong chỗ hiểm. Cứng mềm mới giao nhau mà chưa thông xướng thì phải gian truân, cho nên nói là “nạn sinh”. Lại "động trong chỗ hiểm", cũng là nghĩa gian truân. Cái mà gọi là “cả hanh và trinh” tức là sấm mưa động đến đầy dẫy, Âm Dương mới giao nhau thì còn gian truân chưa thể thông xướng, tới khi tràn hoà lan khắp thì thành sấm mưa đầy dẫy trong khoảng trời đất, sinh vật mới được thoả thuê, đó là Truân có cách cả hanh. Sở dĩ có thể cả hanh là do ở trinh. Nếu không chính bền, thì sao ra khỏi cảnh Truân? Người ta ở vào cảnh Truân có cách làm cho cả hanh cũng là do ở chính bền. Thiên tạo chỉ về thì vận, thảo là rối loạn không có trật tự, muội là mờ tối không sáng, gặp thì vận đó, nên gây dựng kẻ giúp đỡ, thì có thể qua được cảnh Truân. Tuy dựng tước hầu để giúp cho mình, nhưng mà cũng nên siêng năng lo sợ, không dám ở yên, đó là lời răn sâu xa của thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Câu đầu dùng hai thể để thích nghĩa tên quẻ, mới giao là Chấn, nạn sinh là Khảm. Câu thứ hai dùng đức của hai thể để thích lời quẻ: động là việc của thể Chấn, hiểm là đất của thể Khảm. Từ đó trở xuống, thích về nguyên hanh lợi trinh, bèn dùng ý gốc của Văn Vương. Câu “sấm mưa” dùng tượng hai thể để thích lời quẻ. Sấm là tượng của Chấn, mưa là tượng của Khảm. Thiên Tạo như nói thiên vận, thảo muội tức là rối loạn tối tăm. Âm Dương giao nhau mà sấm mưa nổi lên, những cảnh tạp loại, tối tăm đầy trong hai khoảng (trời đất). Thiên hạ chưa định, danh phận chưa rõ, nên lập vua để thống trị, chưa thể vội cho là lúc yên ổn. Chỗ này không dùng nghĩa của hào Chín Đầu, là vì sự dùng nghĩa có nhiều mối, đây cũng dùng về một mối của nó.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Sấm mưa động đến đầy dẫy, cũng là cái ý uất tắc, “Vận trời rối loạn mờ tối nên dựng nước hầu mà chẳng cho là yên” là do Khổng Tử phát minh riêng ra một lẽ. Ý nói: Đương lúc rối ren đó, không thể không có ông vua, cho nên phải lập vua, rút lại vẫn không thể cho dựng ra tước hầu là xong, phải tự lấy làm không yên mới được. Bởi vì mới động mà gặp chỗ hiểm thánh nhân thấy có tượng ấy nên mới nhân đó mà đặt lời răn.
Dịch âm. - Tượng viết: Vân lôi Truân, quân tử dĩ kinh luân.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Mây sấm là quẻ Truân, đấng quân tử coi đó mà sửa sang thiên hạ.
Truyện của Trình Di. - Quẻ Khảm không nói là mưa mà nói là mây, là vì mây tức là mưa mà chưa thành; chưa thành mưa cho nên là truân. Đấng quân tử coi tượng quẻ Truân, sửa sang việc thiên hạ để qua lúc truân nan.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Quẻ Khảm không nói nước mà nói mây, là ý chưa được hanh thông. Kinh luân là công việc làm tơ, kinh là kéo, luân là gỡ. Cái đời truân nàn là lúc quân tử có thể làm việc.
Lời bàn của Tiên Nho. - Ngô Lâm Xuyên nói rằng: "Quân tử trị đời như làm tơ. Muốn gỡ sự rối bời, cũng như lúc truân muốn giải sự uất kết. Kinh là tóm các mục nó làm một mà sau chia ra, giống như tiếng sấm do một mà chia: luân là gỡ các mối nó làm hai mà sau hợp lại, giống như tiếng sấm tự hai mà hợp lại.
Dịch âm. - Sơ Cửu: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Quanh co, lợi về ở chính bền, lợi về dựng tước hầu.
Truyện của Trình Di. - Hào Đầu là hào Dương, ở dưới, tức là kẻ có tài cương minh, gặp đời truân nan mà ở ngôi dưới. Chưa thể đi ngay cho qua cảnh truân, nên phải quanh co. Đương buổi đầu hồi truân, nếu không quanh co mà vội tiến lên, thì phạm vào nạn, cho nên phải ở một cách chính đính mà giữ cho bền chí. Đại phàm người ta ở cảnh truân nan, ít kẻ giữ được chính đính. Nếu không giữ được chính đính vững bền, thì sẽ trái nghĩa, qua sao được cảnh truân? Ở đời truân, đương bị gian nan ở dưới, nên có kẻ giúp, đó là cái đạo ở cảnh truân và qua cảnh truân, cho nên mới dùng nghĩa “dựng tước hầu”; tức là tìm người giúp đỡ vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bàn hoàn là cái trạng thái khó tiến. Đầu hồi truân nan là hào Dương ở dưới lại ở vào một thể động, mà trên ứng nhau với hào Âm nhu, hãm hiểm, cho nên có tượng quanh co. Nhưng nó ở được chỗ chính, cho nên lời chiêm của nó là lợi về sự chính đính. Vả lại, nó vốn là hào làm chủ sự lập thành quẻ, là Dương, chịu ở dưới Âm, tức là cái tượng nhân dân theo chờ, cho nên tượng nó như thế, mà kẻ xem như thế thì lợi về sự dựng lên để làm tước hầu.
Dịch âm. - Tượng viết: Tuy bàn hoàn, chí hành chính dã. Dĩ quý hạ tiện, đại đắc dân dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dẫu quanh co có chí làm sự chính đính vậy. Là kẻ sang, chịu dưới kẻ hèn, cả được dân vậy.
Truyện của Trình Di. - Người hiền ở dưới, nếu thời chưa lợi, tuy phải quanh co chưa thể đi ngay để làm cho qua cảnh truân của đời, nhưng vẫn có chí làm qua cảnh truân, có tài làm qua cảnh truân, đó là chí ở làm sự chính đính. Hào Chín gặp lúc truân nan, là Dương mà đến ở dưới Âm, tức là cái tượng kẻ sang chịu dưới kẻ hèn. Đương hồi truân, kẻ Âm nhu không thể tự giữ cho còn, có một người có tài Dương cương, chúng phải theo về, thế mà lại biết tự xử một cách thấp kém, cho nên mới được lòng dân. Có người ngờ rằng: đương truân ở dưới, còn sang đi nữa? Ôi, là tài cương minh, mà chịu ở dưới kẻ Âm nhu; là hạng có tài làm qua cảnh truân, mà lại ở dưới một kẻ bất tài; thế là kẻ sang chịu dưới kẻ hèn. Huống chi Dương đối với Âm, vẫn là sang hơn kia mà!
Dịch âm. - Lục Nhị: Truân như, chiên như, thừa mã ban như! Phỉ khấu, hôn cấu. Nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Hai: Dường quanh co vậy, dường cưỡi ngựa rẽ ra vậy. Chẳng phải giặc: dâu gia. Con gái trinh tiết không đặt tên chữ, mười năm mới đặt tên chữ.
Truyện của Trình Di. - Là Âm nhu, ở đời truân nan, tuy có kẻ chính ứng ở trên (chỉ vào hào Năm) mà bị bức vì hào Đầu là hào Dương cương, nên phải quanh quanh co co. Cưỡi ngựa tức là muốn đi, muốn theo kẻ chính đính ứng nhau với mình mà lại rẽ ra không thể tiến lên. Hào Hai gặp đời truân nan, tuy là không thể tự giúp cho mình, mà nó ở giữa, được ngôi chính, có kẻ hưởng ứng ở trên, không mất đạo nghĩa. Nhưng nó bị bức về hào Đầu, Âm là cái mà Dương vẫn tìm, mềm là cái mà cứng vẫn lấn, thể mềm đương lúc truân nan, vẫn khó tự giúp, lại bị Dương cương vẫn bức, nên mới là nạn, nếu không bị bức về giặc nạn thì nó sẽ đi mà tìm dâu gia, dâu gia tức là kẻ chính ứng trên kia rồi. Giặc là chỉ vào kẻ phi lý mà đến. Hào Hai giữ nết trung chính, không cẩu thả hợp nhau với hào Đầu, cho nên không sinh đẻ. Nếu cứ chính bền không thay đổi, cho tới mười năm, truân nan cực điểm, phải thông đạt, sẽ được kẻ chính đính ứng với mà sinh con, nuôi con. Là hạng con gái Âm nhu, mà giữ được chí tiết, lâu rồi cũng được thông đạt, huống chi là hạng quân tử giữ đạo mà không cong queo. Hào Đầu là người hiền minh cương chính mà lại là giặc để bức người ta, là sao? Đáp rằng: Đây cứ theo nghĩa “hào Hai là mềm gần cứng” không kể cái đức hào Đầu ra sao. Sự dùng nghĩa của Kinh Dịch như thế.
Bản nghĩa của Chu Hy. - 班 (ban) là bộ điệu chia rẽ không tiến, 字 (tự) là hứa gả chồng. Kinh Lễ nói rằng: “Con gái hứa gả chồng, thì cài trâm và đặt tên chữ”. Hào Sáu Hai Âm nhu trung chính, có kẻ hưởng ứng ở trên, mà lại cưỡi lên hào Đầu là hào Dương cương, cho nên bị ngăn cản mà phải quanh co không tiến. Nhưng hào Đầu không phải giặc cướp, là kẻ cầu làm hôn nhân với mình, có điều mình vẫn giữ thói chính đính, không ứng với nó, mãi đến mười năm, số cùng, lý cực, thì kẻ tìm càn kia phải đi, kẻ hưởng ứng chính đáng hợp lại mà có thể ứng. Hào này có tượng ấy, nên mới nhân đó mà răn kẻ xem.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Họ Cảnh giải câu 女子貞不字 (nữ tử trinh bất tự) dùng điển “hứa gả chồng, cài trâm, mà đặt tên chữ” cho 貞不字 (trinh bất tự) là chưa hứa gả chồng, với nghĩa hai chữ 婚媾 (hôn cấu) thông nhau, cũng là nói rất có lý. Xuyên thì cho 字 (tự) là nuôi nấng.
Hỏi rằng: Trong câu “mười năm mới đặt tên chữ” chữ “mười năm” đó có phải chỉ về số cùng lý cực mà nói hay không? Đáp rằng: Trong Kinh Dịch, những chỗ dùng Tượng như thế đều không thể hiểu. Như nói mười năm, ba năm, bảy ngày, tám tháng, đều có chỉ về cái gì, có điều bây giờ không thể giải bằng một cách xuyên tạc, vậy thì hãy chừa lại đó.
Dịch âm. - Tượng viết: Lục Nhị chi nạn, thừa cương dã; thập niên nãi tự, phản thường dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Cái nạn của hào Sáu Hai là vì cưỡi lên Dương cương. Mười năm mới đặt tên chữ, trở lại sự thường vậy.
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu Hai ở vào thời truân mà lại cưỡi lên Dương cương, bị kẻ Dương cương lấn bức, đó là cái nạn. Đến mười năm thì nạn đã lâu, ắt phải hanh thông, mới được trở lại sự thường mà hợp với kẻ chính ứng. Mười là cùng tận của số.
Dịch âm. - Lục Tam: Tức lộc vô ngu, duy nhập vu lâm trung, quân tử cơ bất như xả, vãng lận.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Theo hươu không có ngu nhân, chỉ vào trong rừng. Đấng quân tử biết cơ, không bằng bỏ đi thì hối tiếc.
Truyện của Trình Di. - Sáu Ba là hào Âm nhu ở ngôi cương, cái tài mềm yếu đã không thể làm yên sự truân nan, lại ở ngôi cương mà không chính giữa, thì phải động càn, nó chỉ tham về cái vẫn tìm, đã không tự giúp cho mình mà lại không có ứng viện, thì sẽ đi đâu? Giống như theo hươu mà không có ngu nhân. Những người vào nơi rừng núi, phải có ngu nhân đưa đường, nếu không có kẻ đưa đường, thì chỉ hãm vào rừng rậm mà thôi. Đấng quân tử nhìn thấy cơ vi của công việc, bất nhược bỏ đó đừng theo. Nếu đi, thì chỉ mua lấy sự cùng khốn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Âm nhu, ở dưới, không giữa, không chính, trên không có kẻ chính ứng, đi càn để mua lấy sự cùng khốn, đó là cái Tượng theo hươu không có ngu nhân, hãm vào trong rừng. Đấng quân tử kiến cơ, chẳng bằng bỏ quách; nếu đi đuổi mà không bỏ, ắt bị thẹn tiếc. Răn kẻ xem phải nên như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Tức lộc vô ngu, dĩ tòng cầm dã; quân tử xả chi, vãng lận cùng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Theo hươu không có ngu nhân, vì theo mồi vậy. Đấng quân tử bỏ đó, là vì đi thì hối tiếc cùng khốn.
Truyện của Trình Di. - Việc không thể làm mà cứ động càn, vì theo ý muốn của mình. Không có ngu nhân mà đi theo hươu, vì tham cái mồi. Đương thời truân nan, không thể động mà cứ động, cũng như không có ngu nhân mà đi theo hươu, là vì có lòng theo mồi. Quân tử thì thấy cơ mà bỏ không theo, nếu đi ắt phải hối tiếc cùng khốn.
Dịch âm. - Lục Tứ: Thừa mã ban như, cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi.
Dịch nghĩa - Hào Sáu Tư: Cưỡi ngựa dường rẽ ra vậy, tìm dâu gia, đi thì tốt, không gì không lợi.
Truyện của Trình Di. - Sáu Tư là hào mềm thuận, ở ngôi gần vua, ấy là tương đắc với người trên, mà tài không đủ làm qua cảnh truân, cho nên muốn tiến lại thôi, như người cưỡi ngựa rẽ ra. Mình đã không thể làm qua cảnh truân của đời, nếu tìm người để giúp cho mình thì có thể qua. Hào Đầu là người hiền có đức Dương cương, tức là kẻ dâu gia chính ứng với mình, nếu tìm hạng dâu gia Dương cương ấy để đi cùng giúp ông vua Dương cương trung chính mà làm cho qua cảnh truân của đời, thì tốt, mà không cái gì không lợi. Ở ngôi công khanh, tài mình tuy không đủ làm qua cảnh truân của đời, nhưng nếu biết những người hiền thân ở dưới mà dùng, thì làm gì không được?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Âm nhu ở vào cảnh truân nan không thể tiến lên, cho nên là tượng cưỡi ngựa rẽ ra. Nhưng có hào Đầu, giữ đường chính đính, ở dưới để ứng với mình, cho nên lời chiêm là xuống tìm dâu gia thì tốt.
Dịch âm. - Tượng viết: Cầu nhi vãng, minh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Tìm mà đi, sáng vậy.
Truyện của Trình Di. - Biết là mình không đủ tài, tìm người hiền để giúp cho mình, rồi sau mới đi, có thể bảo là người sáng, ở vào cái ngôi có thể làm được, mình không làm nổi, mà thôi, thì là một kẻ rất tối.
Dịch âm. - Cửu Ngũ: Truân kỳ cao, tiểu trinh cát, đại trinh hung.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Gian truân thửa ơn huệ, nhỏ mà trinh thì lành, lớn mà trinh thì dữ.
Truyện của Trình Di. - Hào Năm ở ngôi tôn được chỗ chính, mà gặp thời truân, nếu có người hiền nào bậc cương minh giúp đỡ, thì có thể qua được cảnh truân. Vì không có bề tôi, cho nên mới truân. Đã có sự tôn trọng của đấng nhân quân tuy ở vào đời truân nan, về danh vị vẫn không hại gì, có điều sự thi thố không được, đức trạch không lan xuống, thế là truân về ân huệ, tức là cảnh truân của đấng nhân quân. Ân trạch đã không lan xuống, thì uy quyền không còn ở mình; uy quyền đã mất mà muốn lấy lại bằng cách gấp vội, ấy là rước lấy sự không hay… cho nên, nhỏ mà chính thì tốt. Nhỏ mà chính nghĩa là chính lại dần dần, như Bàn
Canh nhà Thương, Tuyên Vương nhà Chu, sửa đức mình, dùng người hiền, khôi phục chính sự của tiên vương, chư hầu lại chầu. Nghĩa là dùng cách đưa đến từ từ, để cho họ khỏi làm điều bạo ngược.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Năm tuy là Dương cương trung chính, ở ngôi tôn, nhưng đương thời truân, hãm trong chỗ hiểm, dù có hào Sáu Hai chính ứng mà nó Âm nhu tài yếu, không đủ giúp việc; hào Chín Đầu lại được lòng dân ở dưới, chúng đều theo về, hào Chín Năm tuy có ơn trạch, không thể ban ra; đó là cái tượng truân về ơn trạch. Kẻ xem để xử việc nhỏ, thì cứ giữ đường chính đính có thể được tốt; để xử việc lớn, tuy là chính đính cũng không khỏi hung.
Dịch âm. - Tượng viết: Truân kỳ cao, thi vị quang dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Truân thửa ơn huệ, ơn đức chưa sáng vậy.
Truyện của Trình Di. - Ơn trạch chưa lan xuống, cho nên đức thì chưa sáng lớn, đó là cảnh truân của đấng nhân quân.
Dịch âm. - Thượng Lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Trên: Cưỡi ngựa dường rẽ ra vậy; khóc ra máu đầm đìa vậy.
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu là Âm nhu, nhằm cuối quẻ Truân, ở chỗ hiểm cực mà không có kẻ ứng viện, ở thì không yên, động thì không có chỗ đi, cưỡi ngựa muốn đi, lại phải rẽ ngang không tiến, cùng truân quá đỗi, đến nỗi khóc ra máu mắt đầm đìa, đó là truân đến cùng cực. Nếu là Dương cương mà có kẻ giúp, thì khi truân đã cùng cực có thể qua được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Âm không có ứng viện, ở cuối cảnh truân, tiến nữa thì không có chỗ đi, chỉ có lo sợ mà thôi, cho nên tượng nó như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Khấp huyết liên như, hà khả trường dã?
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Khóc ra máu đầm đìa vậy, sao thể lâu được!
Truyện của Trình Di. - Truân nan cùng cực không biết làm gì, cho nên đến nỗi khóc ra máu mắt, điên bái như thế thì còn có thể dài lâu được ư? Quẻ tức là việc, hào tức là thời của việc, chia làm ba mà lại gấp lên hai lần, đủ để bao quát các lẽ. Theo đó mà suy cho rộng ra việc của thiên hạ hết rồi.
Lời bàn của Tiên Nho. - Khâu Kiến An nói rằng: Quẻ Truân sáu hào; hai hào Dương bốn hào Âm. Hết thảy các quẻ đều dùng những hào Âm Dương ít nhất làm chủ, cho nên quẻ này hai hào
Dương làm chủ bốn hào Âm. Nhưng hào Năm ở thể Khảm, hãm mà thất thế, hào Đầu ở thể Chấn, động mà được thời, cho nên hào Đầu là chủ quẻ Truân. Hào ấy nói rằng: “Lợi về ở chính đính”, “lợi về sự dựng tước hầu” thế thì quẻ ấy chủ về cái gì có thể biết rồi. |
21111 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20M%C3%B4ng | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh/Quẻ Mông | Truyện của Trình Di. - Quẻ Mông, Tự quái nói rằng: Truân tức là đầy, Truân là các vật mới sinh. Các vật sinh ra thì phải đội lên, cho nên tiếp đến quẻ Mông. Mông nghĩa là đội, tức là vật hãy còn non. Truân là các vật mới sinh, các vật mới sinh thì còn non bé, mờ tối, chưa phát ra được, cho nên quẻ Mông mới nối quẻ Truân. Nó là quẻ Cấn trên Khảm dưới. Cấn là núi, là đỗ, Khảm là nước, là hiểm, dưới núi có chỗ hiểm; gặp chỗ hiểm thì đỗ, không biết đi đâu, đó là tượng của quẻ Mông. Nước là vật phải đi, mới ra chưa đi đâu, cho nên là mông. Tới khi nó tiến thì là nghĩa hanh.
Dịch âm. - Mông hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cốc, tái tam độc, độc tắc bất cốc, lợi trinh.
Dịch nghĩa. - Quẻ Mông hanh, chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta. Mới bói bảo: hai, ba lần nhàm, không bảo. Lợi về sự chính.
Truyện của Trình Di. - Chữ “mông” có lẽ khai phát, tức là nghĩa hanh. Quẻ này có tài thời trung, chính là cái đạo làm đến hanh thông. Hào Sáu Năm là chủ quẻ Mông, mà hào Chín Hai là người mở mang sự mờ tối. “Ta” là hào Hai. Hào Hai không phải là chủ quẻ Mông, hào Năm đã nhún thuận vào hào Hai, hào Hai bèn mở mang sự mờ tối cho nó. Cho nên mới lấy hào Hai làm chủ mà nói: “Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta”. Hào Năm ở ngôi tôn, có đức nhu thuận, mà đương ở hồi trẻ thơ, chính ứng với hào Hai, mà đức “trung” lại cũng giống nhau, có thể dùng đạo của hào Hai để mở mang sự mờ tối. Hào Hai lấy đức cương trung, ở dưới, được vua tìm theo, phải nên lấy đạo tự giữ, đợi vua chí thành cầu mình mà sau mới ứng, thì có thể dùng được đạo của mình, đó là “không phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta”. Bói là xem để quyết đoán. Mới bói, bảo, nghĩa là thật lòng, dốc ý để tìm mình thì mình bảo họ, đến hai, ba lần thì là nhảm nhí, cho nên không bảo. Cái đạo mở mang kẻ mờ tối, chỉ lợi về sự chính đính. Vả lại, hào Hai tuy là cương trung, nhưng ở ngôi Âm, cho nên, nên có răn bảo.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cấn cũng là tên quẻ ba vạch, một hào Dương đỗ ở trên hai hào Âm, cho nên đức nó là đỗ, tượng nó là núi. Mông nghĩa là tối, các vật mới sinh, mờ tối chưa sáng. Quẻ này là Khảm gặp Cấn, dưới núi có chỗ hiểm, tức là cái đất mờ tối; trong hiểm ngoài đỗ tức là cái ý mờ tối, cho nên đặt tên là Mông. Từ chữ 亨 (hanh) trở xuống là lời Chiêm, Hào Chín Hai là chủ quẻ trong, tính cứng, ở giữa, có thể mở mang sự mờ tối cho người ta, mà với hào Sáu Hai Âm Dương ứng nhau, cho nên hễ gặp quẻ này thì có đạo hanh thông. “Ta” là hào Hai, “trẻ thơ” là kẻ trứng nước tối tăm, chỉ vào hào Năm. Kẻ bói là bậc sáng thì người ta nên đến tìm mình mà sự hanh thông ở người ta, kẻ bói là hạng tối, thì mình nên đi tìm người, mà sự hanh thông ở mình. Người ta tìm mình, thì mình nên xem lẽ nên chăng mà ứng với họ. Mình tìm người ta thì nên hết lòng trung thành chuyên nhất mà hỏi. Bậc sáng láng nuôi kẻ tối tăm và kẻ tối tăm tự nuôi lấy mình lại đều lợi về sự chính đính.
Dịch âm. - Thoán viết: Mông, sơn hạ hữu hiểm, hiểm nhi chỉ, Mông.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Mông, dưới núi có chỗ hiểm, hiểm mà đỗ, là Mông.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng tượng quẻ, đức quẻ để thích tên quẻ có hai nghĩa.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: Dưới núi có chỗ hiểm là tượng của quẻ, hiểm mà đỗ là đức của quẻ. Quẻ Mông có hai nghĩa. Hiểm mà đỗ là hiểm ở trong, đỗ ở ngoài, trong nhà đã không yên ổn, mặt ngoài lại đi không được, đó là cái tượng tối tăm.
Dịch âm. - Mông hanh dĩ hanh hành thì trung dã. Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã, chí ứng dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Mông hanh, dùng lẽ mà làm cho đúng mực giữa của thời vậy. Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm , chí ứng nhau vậy.
Truyện của Trình Di. - Dưới núi có chỗ hiểm, trong đã hiểm không thể ở, đỗ ở ngoài lại không thể tiến, chưa biết làm gì, cho nên mới là cái nghĩa tối tăm. Quẻ Mông hanh thông, vì nó dùng lẽ hanh thông để làm cho đúng mực giữa của thời. Thời là được vua hưởng ứng, giữa là ở được chỗ giữa. Được chỗ giữa thì là phải thời. Chẳng phải ta tìm trẻ thơ, trẻ thơ tìm ta, chí ứng nhau vậy. Hào Hai là người hiền cương minh ở dưới, hào Năm là hạng trẻ thơ ở trên, không phải là hào Hai tìm hào Năm, là chí hào Năm ứng với hào Hai. Người hiền ở dưới, há lại có thể tự mình tiến lên để đi tìm vua. Nếu mà tự tìm, ắt không có lẽ mà không được tin dùng. Người đời xưa sở dĩ phải đợi ông vua hết lòng kính lễ mà sau mới đi, không phải là tự tôn đại. Là vì người ta tôn đức vui đạo, không như thế thì không thể cùng nhau làm việc.
Dịch âm. - Sơ phệ, cốc, dĩ cương trung dã; tái tam độc, độc tắc bất cốc, độc mông dã.
Dịch nghĩa. - Mới bói, bảo, vì cứng giữa vậy; hai ba lần, nhàm, nhàm thì không bảo, vì làm nhàm trẻ thơ vậy.
Truyện của Trình Di. - Mới bói, nghĩa là thành tâm chuyên nhất mà lại, cầu để quyết sự mờ tối, thì nên lấy đạo cương trung mà bảo, để mở mang cho họ. Hai ba lần thì là phiền nhiễu, cái ý đến bói đã là phiền nhiễu mà không thành tâm chuyên nhất, thì là nhảm nhí khinh nhờn, không nên bảo nữa. Bảo họ, họ cũng không thể tin nhận, chỉ làm phiền nhàm, cho nên nói là nhàm trẻ thơ. Kẻ tìm, kẻ bảo đều là phiền nhàm tất cả.
Lời bàn của Tiên Nho. - Lã Đông Lai nói rằng: “Mới bói bảo, vì là cứng giữa. Hào Chín Hai là người mở mang trẻ thơ. Chín là cứng, Hai là giữa, cứng giữa là toàn thể của hào Chín Hai. Đương lúc kẻ học mới lại hỏi, lòng họ thành thật chuyên nhất, cho nên đem luôn toàn thể mà bảo. “Hai ba lần nhàm, nhàm thì không bảo, vì nhàm trẻ thơ”, hai ba lần là nhàm, đó là trẻ thơ làm nhàm người mở mang trẻ thơ. Nay không nói “làm nhàm người mở mang trẻ thơ”, mà lại nói “nhàm trẻ thơ” là sao? Bởi vì thánh nhân dạy người không mỏi há lại chán kẻ trẻ thơ làm nhàm mình? Sở dĩ hai ba lần nhàm mà không bảo, là tại chí lý không thể so sánh bàn bạc, sau một lời nói, thì phải nhận hiểu tức thì; nếu chưa nhận hiểu ta cứ bỏ đó không bảo, kẻ kia tuy là chưa đạt mà cái lẽ trời ở trong bụng hắn vẫn còn nguyên vẹn không động. Nếu hai ba lần nhàm mà còn bảo họ, thì họ sẽ phải sánh bàn, đồ đoán, lại là làm nhàm lẽ trời của họ. Vì vậy mới nói là “nhàm trẻ thơ”.
Dịch âm. - Mông dĩ dưỡng chính, thánh công dã.
Dịch nghĩa. - Trẻ thơ để nuôi sự chính đính, công bậc thánh vậy.
Truyện của Trình Di. - Lời quẻ nói “lợi trinh”, lời Thoán lại nhắc cho rõ nghĩa để tỏ bất chính là điều đáng răn trong ở hào Hai, thật là đạo nuôi trẻ thơ vậy. Chưa được mở mang gọi là trẻ thơ; hạng trẻ thơ hãy còn thuần nhất chưa mở mang mà nuôi lấy sự chính đính, ấy là cái công làm nên bậc thánh. Nếu đã mở mang mà sau mới cấm, thì nó ngăn cách mà khó thắng được. Nuôi sự chính đính từ thuở trẻ thơ là cách rất khéo trong việc học. Trong sáu hào quẻ Mông, hai hào Dương là người trị sự mờ tối, bốn hào Âm là người ở cảnh mờ tối.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lời Thoán này dùng thể quẻ để thích lời quẻ. Hào Chín Hai đem cái đạo có thể hanh thông, mở mang sự tối tăm cho người khác, mà lại hợp với mực giữa của thời, (tức vào những việc nói ở đoạn dưới), đều là dùng đạo hanh thông mà làm, mà nhằm với lẽ nên phải vậy. Chí ứng nghĩa là hào Hai cứng sáng, hào Năm mềm tối, cho nên hào Hai không tìm hào Năm mà hào Năm phải tìm hào Hai, cái chí của nó tự nhiên ứng nhau. Dĩ cương trung, nghĩa là đã cứng lại giữa, cho nên biết cách giảng bảo mà có chừng độ. Nhàm, nghĩa là bói đến hai ba lần thì kẻ hỏi vẫn nhàm mà kẻ bảo cũng nhàm. Trẻ thơ để nuôi sự chính đính, tức là cái công làm nên thánh nhân, câu đó là để thích nghĩa hai chữ “lợi trinh”.
Dịch âm. - Tượng viết: Sơn hạ xuất tuyền, Mông, quân tử dĩ quả hạnh, dục đức.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Dưới núi ra suối, là quẻ Mông, đấng quân tử coi đó mà quyết việc làm, nuôi lấy đức.
Truyện của Trình Di. - Dưới núi ra suối, ra mà gặp phải chỗ hiểm, chưa đi, đó là tượng quẻ Mông, ví như người ta trẻ thơ, chưa hề đến đâu. Đấng quân tử xem tượng quẻ Mông mà quyết việc làm, nuôi lấy đức, nghĩa là coi nó chảy ra mà chưa thể thông đi, để mình quả quyết việc của mình làm; coi nó mới ra mà chưa thể ngảnh về đâu, để mình nuôi lấy cái mình sở đắc vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Suối là nước mới chảy ra, tất nhiên phải đi, mà đi dần dần.
Dịch âm. - Sơ Lục: Phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc, dĩ vãng, lận.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Mở mang trẻ thơ, lợi dùng về sự hình phạt người ta để thoát gông cùm, đi thì hối tiếc.
Truyện của Trình Di. - Hào Đầu là Âm tối, ở dưới, ấy là kẻ dân mờ tối; hào này nói cách mở mang cho họ. Mở mang sự mờ tối cho kẻ dân, thì tỏ rõ hình cấm với họ, khiến họ biết sợ, rồi sau mới theo đó mà dạy bảo họ. Từ xưa các đấng thánh vương làm việc chính trị, phải đặt ra hình phạt để làm cho dân chúng nhất tề, tỏ rõ giáo hoá để làm cho phong tục lành phải; hình phạt lập rồi, giáo hoá mới thực hiện được. Dù mà thánh nhân chỉ chuộng đức hoá không chuộng hình phạt, nhưng cũng chưa từng bỏ riêng đàng nào. Cho nên lúc mới dựng nền chính trị, phải lập phép luật trước đã, lúc mới trị kẻ tối tăm phải doạ họ bằng hình phạt, để trút những cái gông cùm về sự mờ mịt của họ (?), gông cùm tức là trói buộc, không bỏ được những gông cùm về sự mờ mịt, thì thiện giáo không có đường nào mà vào. Đã dùng hình cấm dắt họ, dầu mà bụng họ chưa thể hiểu được, nhưng họ cũng phải sợ oai mà theo, không dám thả động cái lòng ham muốn mờ mịt, rồi mới có thể dần dần hiểu biết đạo phải mà đổi cái bụng, thì mới có thể thay đổi thói tục. Nếu chỉ chuyên dùng hình phạt để làm việc, thì kẻ tối tăm tuy là có sợ, nhưng rút lại vẫn không thể mở mang, họ chỉ cẩu thả tránh cho khỏi tội mà không còn có liêm sỉ, trị hoá không thể thành được. Cho nên hễ dùng kiểu đó mà đi, thì là đáng tiếc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Là Âm ở dưới, đó là tối tăm quá đỗi. Kẻ xem gặp hào đó thì nên mở mang sự tối tăm của mình. Nhưng cách mở mang sự tối tăm đó, cần phải trừng giới một cách thống thiết mà tạm bỏ đó để coi về sau, nếu cứ đi mà không chịu bỏ, thì sẽ đến phải hổ thẹn hối tiếc. Đó là răn kẻ xem phải nên như thế.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: “Phát mông” nghĩa là tự mình mờ tối, được người mở mang cho, hoặc là người ta mờ tối, được mình mở mang cho. “Lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc”: nói cách thô thiển thì như ngày nay người ta đánh tù, phải tháo gông cùm mới được, nếu cứ một mực cùm hẳn thì không thể được. Nhược bằng một mực cùm hẳn, thì là “dĩ vãng lận”. Đây chỉ nói về cách trị kẻ tối tăm, cần nên rộng rãi chầy chậm, phép phải như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Lợi dụng hình nhân, dĩ chính pháp dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lợi dùng hình phạt người, để chính pháp vậy.
Truyện của Trình Di. - Lúc mới trị kẻ mờ tối, phải dựng bờ ngăn, tỏ rõ tội phạt của họ, thế là làm chính pháp luật, khiến họ cứ đó mà noi, dần dần đến phải biến hoá. Có người ngờ rằng: lúc mới mở mang kẻ mờ tối, đã vội hình phạt người ta, há chẳng là “không dạy mà giết” hay sao? Ngờ vậy là không biết rằng: trong việc lập ra pháp chế, hình phạt là để dạy bảo. Về sau những người bàn về hình phạt, đều không biết có giáo hoá ở trong.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lúc mới mở mang cho kẻ mờ tối, phải trừng giới ngay, là để làm cho pháp luật được đúng.
Dịch âm. - Cửu Nhị: Bao Mông, cát! Nạp phụ, cát. Tử khắc gia.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Bao dung trẻ thơ, tốt! Nộp vợ, tốt! Con trị nhà!
Truyện của Trình Di. - Bao là bao dung. Hào Hai ở đời mờ tối có tài cương minh, cùng ông vua ở hào Sáu Năm ứng nhau, các đức trung chính giống nhau, tức là người đảm đang nhiệm vụ của đời, ắt phải rộng lượng bao dung, thương kẻ ngu tối, thì có thể mở mang sự tối tăm của thiên hạ mà làm nên việc “trị kẻ tối tăm”; đạo phải cho rộng, đức phải cho khắp, như thế thì tốt. Quẻ này có hai hào Dương, hào Chín Trên thì cứng mà thái quá, chỉ hào Chín Hai có đức cứng và trung chính, lại ứng với hào Năm, tức là kẻ được dùng với đời, mà chỉ riêng mình sáng suốt vậy. Nếu cậy sáng suốt mà chuyên tự nhiệm, thì đức không rộng, cho nên dù hạng đàn bà yếu đuối tối tăm, cũng nên nghe theo điều thiện của nó, thì sự sáng suốt của mình mới rộng rãi. Vả lại, vì rằng các hào đều thuộc về Âm, cho nên gọi là đàn bà. Thành như Nghiêu, Thuấn, thiên hạ không ai kịp, mà còn nói rằng: “rộng hỏi kẻ dân”, “lấy điều thiện của người làm điều thiện của mình”, hào Hai biết bao nạp, thì có thể làm nên công việc của vua, cũng như người con làm nổi công việc của nhà. Hào Năm đã là Âm nhu, cho nên cái công mở mang sự tối tăm, đều ở hào Hai. Nói về gia đình, thì Năm là cha, Hai là con, hào Hai chủ trương được công việc của nhà, ấy là con người trị được gia đình vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Hai lấy tư cách Dương cương làm chủ quẻ trong, tóm coi các hào Âm, tức là người gánh cái nhiệm vụ mở mang kẻ tối tăm. Nhưng hạng người mà nó phải trị thì rộng, mà tính loài người lại không nhất luật như nhau, không thể nhất khái quyết định, mà đức hào ấy lại cứng mà không thái quá, tức là cái tượng có sự bao dung. Vả lại, nó là Dương mà tiếp nhận các hào Âm, cho nên lại là cái tượng “nghe vợ”. Hơn nữa, nó ở ngôi dưới, mà có thể gánh việc trên, tức là cái tượng người con trị được gia đình. Cho nên kẻ xem, hễ có đức ấy mà gánh việc ấy thì nên như thế là tốt.
Dịch âm. - Tượng viết: Tử khắc gia, cương tiếp nhu dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Coi trị được nhà, cứng tiếp mềm vậy.
Truyện của Trình Di. - Con mà trị nổi nhà là nhờ về sự tin dùng của cha chuyên nhất. Hào Hai chủ trương được công việc mở mang kẻ tối tăm, là nhờ về sự tin dùng của hào Năm chuyên nhất. Hai và Năm, cái tính cứng mềm tiếp nhau, cho nên đúng đạo cương trung, làm nên công việc mở mang kẻ mờ tối. Nếu tình trên dưới mà không tiếp nhau, thì hào Hai tuy là cương trung, cũng không có thể làm chủ công việc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là chỉ về hào Hai hào Năm ứng nhau.
Dịch âm. - Lục Tam: Vật dụng thủ nữ, kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Chớ dùng lấy gái, thấy chồng vàng không có mình, không thửa lợi.
Truyện của Trình Di. - Hào Ba là Âm nhu ở chỗ tối tăm, tức là cái hạng con gái bất trung bất chính mà hay động càn, chính ứng ở trên, không thể đi xa mà theo; gần thấy hào Chín Hai được các kẻ tối tăm theo về, và lại cực kỳ được thời, cho nên nó mới bỏ nơi chính ứng mà theo hào đó, đó là con gái chỉ thấy chồng vàng. Con gái theo người phải có chính lễ, vậy mà người này thấy kẻ nhiều tiền mà theo, không thể giữ được thân mình, thì không đi đâu được lợi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Ba là hào Âm nhu, chẳng trung chẳng chính, ấy là cái tượng con gái trông thấy chồng vàng mà không tự chủ được mình. Kẻ xem gặp hào đó, thì hẳn lấy vợ, ắt được cái người như thế, không còn lợi gì. Chồng vàng, tức là đàn ông lấy vàng đút mình mà chòng ghẹo mình, như việc làm của chàng Thu Hồ nước Lỗ.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Quảng nói rằng: Hai chữ “Kim phu” sách Bản nghĩa giải không bó sát với tượng của hào. Trình truyện cho “Kim phu” là hào Chín Hai, nhưng hào Chín Hai là chủ việc mở mang kẻ tối tăm, nếu hào Ba mà biết theo nó, thì cũng hợp với nghĩa của câu “trẻ thơ tìm ta” ở lời Thoán, không nên cho là bất thuận. Nghĩa là, theo lệ Kinh Dịch: hào Âm ở thể dưới, mà có cầu cạnh với ngôi trên, thì đều hung, thuyết của họ Vương gần phải.
Dịch âm. - Tượng viết: Vật dụng thủ nữ, hạnh bất thuận dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chớ dùng lấy gái, nết không thuận vậy.
Truyện của Trình Di. - Con gái như thế, nết họ cong queo không thuận, không thể lấy được.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ 順 nên đổi ra làm chữ 慎 (thận là cẩn thận), tiếng cổ, chữ 順 (thuận)"' chữ 慎 (thận) vẫn dùng lẫn lộn. “Nết không cẩn thận” với ý kinh càng bén sát hơn.
Dịch âm. - Lục Tứ: Khốn mông, lận.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Khốn về tăm tối, hối tiếc.
Truyện của Trình Di. - Hào Tư là Âm nhu mà tối tăm, không có bậc cương minh giúp đỡ, chẳng có lối nào mở mang sự tối tăm của mình, nên mới bị khốn về sự tối tăm, đáng hối tiếc lắm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đã xa hào Dương, lại không có hào chính ứng, đó là cái tượng bị khốn về sự tối tăm. Kẻ xem như thế là đáng hổ thẹn hối tiếc. Biết tìm những kẻ cương minh mà gần gũi với họ, thì có thể khôn.
Dịch âm. - Tượng viết: Khốn mông chi lận, độc viễn thật dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sự hối tiếc của kẻ khốn về tối tăm, một mình xa sự thật (?) vậy.
Truyện của Trình Di. - Trong thời tối tăm, Dương cương là kẻ mở mang sự tối tăm, hào Tư là Âm nhu mà rất xa với Dương cương, tức là một hạng ngu tối mà không được gần người hiền, không bởi đâu mà được sáng, cho nên phải khốn về sự tối tăm. Đáng thẹn tiếc, là vì riêng nó phải xa người hiền minh. Không được gần người hiền đến nỗi phải khốn, đáng thẹn tiếc lắm. “Thật” tức là Dương minh vậy.
Dịch âm. - Lục Ngũ: Đồng mông, cát!Dịch nghĩa. - Hào Sáu Năm: Trẻ thơ, tốt!
Truyện của Trình Di. - Hào Năm lấy tư cách nhu thuận mà ở ngôi vua, phía dưới ứng với hào Hai là hạng lấy đức cương minh, dùng tài cương minh, để trị sự tối tăm của thiên hạ, cho nên mới tốt. “Trẻ thơ” là lấy cái nghĩa “chưa được mở mang, còn phải nhờ người”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Cứng mềm ở giữa, nhằm ngôi tôn, phía dưới ứng nhau với hào Chín Hai, giữ đức thuần nhất chưa mở mang để nghe người ta, cho nên tượng nó là hạng trẻ thơ, mà lời chiêm như thế thì tốt.
Dịch âm. - Tượng viết: Đồng mông chi cát, thuận dĩ tốn dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Sự tốt của trẻ thơ, thuận và nhũn vậy.
Truyện của Trình Di. - Bỏ mình theo người đó là thuận hạ chí mình mà tìm xuống dưới là nhún. Có thể như thế, tức là hơn cả thiên hạ.
Dịch âm. - Thượng Cửu: Kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Đánh kẻ tối tăm, không lợi cho sự làm giặc, lợi cho sự chống giặc.
Truyện của Trình Di. - Ở sau quẻ Mông, là nhằm giữa lúc tối tăm đến cùng cực. Người ta tối tăm đến cùng cực thì như dân Miêu không theo đức hoá, làm giặc làm loạn, nên đánh dẹp nó. Nhưng hào Chín ở trên, cứng quá mà không được giữa, cho nên răn rằng: “Không lợi cho sự làm giặc”. Trị sự tối tăm của người ta, tức là chống giặc; tự do làm sự tham bạo, thì là làm giặc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào này là Dương cương, ở trên cùng, cho nên là tượng đánh kẻ tối tăm. Nhưng, cả quyết thái quá, đánh trị ngặt quá, thì ắt trở lại làm hại. Chỉ có ngăn sự cám dỗ bên ngoài, để làm cho cái tính chất chân thật thuần tuý của nó được nguyên vẹn, thì dù có quá nghiêm mật, cũng là hợp lẽ nên chăng, cho nên mới răn kẻ xem như thế. Việc gì cũng vậy, không phải một việc dạy người mà thôi.
Dịch âm. - Tượng viết: Lợi dụng ngự khấu, thượng hạ thuận dã''.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lợi về sự chống giặc, trên dưới đều thuận vậy.
Truyện của Trình Di. - Lợi về sự chống giặc, là vì kẻ trên người dưới đều được sự thuận của mình, người trên không làm dữ quá, kẻ dưới đánh đuổi được sự tối tăm của nó, đó là cái nghĩa chống giặc.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chống giặc bằng sự cương minh, kẻ trên người dưới đều đúng với đạo của mình. |
21112 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20Nhu | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh/Quẻ Nhu | Truyện của Trình Di. - Quẻ Nhu, Tự quái nói rằng: Mông tức là đội, là vật còn non, vật non thì tất phải nuôi, cho nên tiếp đến quẻ Nhu. Nhu tức là việc ăn uống. Vật còn non nớt, phải đợi nuôi nấng mới lớn mà cái cần dùng trong sự nuôi nấng các vật thì là ăn uống, cho nên nói rằng quẻ Nhu là việc ăn uống. Mây bay lên trời có tượng hun bốc nhuần ướt, ăn uống là để nhuần ích cho các loài vật, cho nên quẻ Nhu - là việc ăn uống - sở dĩ nối dưới quẻ Mông. Đại ý quẻ này có nghĩa chờ đợi. Cái tính Kiền mạnh nhất định phải tiến, vậy mà nó lại ở dưới quẻ Khảm là tượng chỗ hiểm, chỗ hiểm làm ngăn trở nó, cho nên cần phải chờ đợi rồi sau mới tiến.
Dịch âm. - Nhu, hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu, có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt! Lợi sang sông lớn.
Truyện của Trình Di. - Nhu là chờ đợi. Nói về hai thể, thì Kiền cứng mạnh cần tiến lên, mà gặp chỗ hiểm, chưa thể tiến được, cho nên là nghĩa chờ đợi. Nói về tài quẻ, thì hào Năm ở ngôi vua, là chủ sự chờ đợi, có đức cứng mạnh, trung chính, mà sự thành tín đầy đặc bên trong, tức là bên trong đầy đặc có đức tín; có đức tín thì sáng láng mà có thể hanh thông, được trinh chính và tốt. Dùng những cái đó mà chờ đợi, thì gì mà không qua: dù hiểm cũng không khó, cho nên mới lợi về việc sang sông lớn. Đại phàm trinh cát, có khi là đã chính lại tốt, có khi là có chính mới tốt, cần phải phân biệt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nhu nghĩa là đợi. Quẻ Kiền gặp quẻ Khảm, Kiền mạnh Khảm hiểm, sức mạnh gặp chỗ hiểm mà không vội tiến cho mắc vào chỗ hiểm đó, ấy là cái nghĩa chờ đợi. Phu là đức tin ở trong. Quẻ này hào Chín Năm là thể Khảm bên trong đã đầy đặc, lại có những tính Dương cương, trung chính mà ở ngôi tôn, tức là cái tượng “có đức tin được ngôi chính” Nước Khảm ở phía trước, Kiền mạnh kề tới, ấy là cái tượng “sắp sang sông lớn mà chưa tiến lên một cách khinh thường”. Cho nên, kẻ xem, nếu là có sự chờ đợi mà tự mình sẵn có đức tin thì sẽ sáng láng hanh thông; nếu lại được chính thì tốt mà lợi về việc sang sông lớn. Chính bền thì không cái gì không tốt, mà sự sang sông lại càng quý ở chờ đợi. Đó là không vì lòng muốn mau chóng mà phạm vào chỗ hiểm nạn.
Dịch âm. - Thoán viết: Nhu, tu dã; hiểm tại tiền dã; cương kiện nhi bất hãm, kỳ nghĩa bất khốn cùng hỹ.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Nhu tức là đợi, chỗ hiểm ở trước vậy. Cứng mạnh mà không bị hãm, nghĩa nó không khốn cùng rồi.
Truyện của Trình Di. - Nghĩa của quẻ Nhu là đợi, vì có chỗ hiểm ở phía trước, chưa thể vội tiến, nên phải chờ đợi rồi sau mới đi. Là hạng cứng mạnh như Kiền mà biết chờ đợi, không dám khinh thường mà động, cho nên không bị hãm vào chỗ hiểm, cái nghĩa của nó không đến khốn cùng.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
Dịch âm. - Nhu hữu phu, quang, hanh, trinh, cát, vị hồ thiên vị, dĩ chính trung dã; lợi thiệp đại xuyên, vãng hữu công dã.
Dịch nghĩa. - Quẻ Nhu có đức tin, sáng láng, hanh thông, chính bền, tốt, là vì ở vào ngôi trời, để chính giữa vậy. Lợi về sự sang sông lớn, đi thì có công vậy.
Truyện của Trình Di. - Hào Năm cứng đặc, ở giữa, là tượng đức tin, mà lại được cái nó vẫn chờ đợi, cũng là nghĩa có đức tin. Vì là Kiền cương, rất thành, cho nên đức nó sáng tỏ mà có thể hanh thông, được trinh chính mà tốt. Sở dĩ có thể như thế, là vì nó ở ngôi trời mà được chính giữa. Đã có đức tin mà lại trinh chính, tuy qua chỗ hiểm mặc lòng, hễ đi thì có công, đó là điều chí thiện trong đạo Nhu.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng thể và hai tượng của quẻ để thích lời quẻ.
Dịch âm. - Tượng viết: Vân thướng ư thiên, Nhu, quân tử dĩ ẩm thực yến lạc.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Mây lên trời, là quẻ Nhu,
đấng quân tử coi đó mà ăn uống yên vui.
Truyện của Trình Di. - Hơi mây hun nấu mà bốc lên trời, phải đợi Âm Dương hoà hợp rồi mới thành mưa; mây đương lên trời, thì chưa thành mưa, cho nên là nghĩa chờ đợi. Khí của Âm Dương cảm nhau mà chưa thành mưa, cũng như đấng quân tử còn nuôi tài đức chưa thi thố ra việc làm. Đấng quân tử coi tượng mây đương lên trời đợi để làm mưa, mà mang bọc đạo đức ở yên đợi thời, ăn uống để nuôi khí thể, yên vui để hoà tâm chí. Đó là “ở cách bình dị để chờ số mệnh”.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Mây lên trời, không còn làm gì nữa, chỉ đợi Âm Dương hoà hợp tự nhiên sẽ mưa. Việc còn phải chờ, thì cũng đừng làm gì nữa, chỉ hãy ăn uống yên vui, đợi nó tự đến mà thôi. Nếu lại làm một sự gì, thì không phải là chờ đợi nữa.
Dịch âm. - Sơ Cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Đầu: Đợi ở đồng, lợi về dùng lẽ hằng. Không có lỗi.
Truyện của Trình Di. - Kẻ đợi vì gặp chỗ hiểm cho nên đợi rồi mới tiến, Hào Đầu rất xa chỗ hiểm, cho nên là đợi ở đồng, đồng là một nơi rộng rãi xa xôi, ở chỗ rộng rãi xa xôi, lợi ở yên giữ đạo thường thì không có lỗi. Nếu không yên giữ đạo thường mà nóng nẩy hành động, phạm vào hiểm nạn, há lại có thể đợi ở chỗ xa mà không có lỗi được sao?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đồng là chỗ đất rộng xa, tức là tượng chưa gần chỗ hiểm, mà hào Chín Đầu là hào Dương cương lại có tượng thường ở nơi chốn của nó; cho nên mới răn kẻ xem có thể như thế thì không có lỗi.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu vu giao, bất phạm hành dã, lợi dụng hằng, vô cữu, vị thất thường dã.
Dịch nghĩa. - Đợi ở đồng không phạm vào chỗ hiểm nạn vậy, lợi dụng đạo thường, không lỗi, vì chưa sai mất đạo thường vậy.
Truyện của Trình Di. - Ý nói kẻ ở nơi rộng xa, không dám xông pha vào chỗ hiểm nạn mà đi. Dương là vật cứng mạnh mà chỉ tiến lên, hào Đầu hết đợi ở chỗ rộng xa, không dám xông pha vào chỗ hiểm nạn mà tiến, lại nên ở yên, không sai đạo thường, thì không có lỗi. Tuy là không tiến, mà kẻ tâm chí thích động, thì không thể nào chịu yên đạo thường. Đấng quân tử chờ thời, phải nên yên tĩnh tự giữ, tâm chí tuy có chờ đợi, nhưng vẫn êm lặng như sẽ ở vậy đến trọn đời, thì mới có thể dùng được đạo thường.
Dịch âm. - Cửu Nhị: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Đợi ở bãi cát, hơi có điều tiếng, sau chót tốt.
Truyện của Trình Di. - Khảm là nước, nước gần thì có cát Hào Hai cách chỗ hiểm đã dần dần hơi gần, cho nên là đợi ở cát. Dần dần gần với hiểm nạn, tuy là chưa đến lo hãi, nhưng đã hơi có điều tiếng. Những lời thuộc về hoạn nạn cũng có lớn nhỏ khác nhau, nhỏ là hơi có điều tiếng, ấy là cái hại rất nhỏ về lời nói vậy. Hào Hai là tài cương minh, ở chỗ mềm yếu, giữ ngôi chính giữa, mà tự xử một cách rộng rãi, đó là kẻ khéo chờ đợi, tuy cách chỗ hiểm đã gần dần dần, mà còn chưa tới chỗ hiểm, cho nên chỉ hơi có hại về điều tiếng, mà không có hại lớn, sau rốt vẫn được lành tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bãi cát đã gần chỗ hiểm rồi. Hại về, điều tiếng, cũng là tai hại hạng nhỏ. Vì tiến dần dần gần với quẻ Khảm, cho nên mới có tượng ấy. Cương trung mà biết chờ đợi, cho nên sau chót được tốt. Đó là răn kẻ xem phải nên như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu vu sa, diễn tại trung dã, tuy tiểu hữu ngôn, dĩ chung cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đợi ở cát là rộng rãi ở trong vậy, tuy là hơi có điều tiếng, về sau được tốt vậy.
Truyện của Trình Di. - Diễn là rộng rãi. Hào Hai tuy gần chỗ hiểm, mà vì rộng rãi ở giữa, cho nên, tuy là hơi có điều tiếng phạm tới, sau chót vẫn được tốt lành. Đó là khéo xử.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Diễn tức là ý rộng rãi. Lấy cách rộng rãi ở giữa, đó là không vội tiến lên.
Dịch âm. - Cửu Tam: Nhu vu nê, trí khấu chí.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Ba: Đợi ở bùn, dắt giặc đến.
Truyện của Trình Di. - Bùn là chỗ sát với nước: Đã tiến sát đến chỗ hiểm, cho nên là dắt giặc nạn đến nơi. Hào ba cứng mà không giữa, lại ở trên thể mạnh, có tượng tiến động, cho nên mới là dắt giặc. Nếu không kính thận, thì sẽ phải lên táng bại.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Bùn là nơi sắp sửa hãm vào chỗ hiểm, giặc thì là thứ hại lớn. Hào Chín Ba cách với chỗ hiểm càng gần, mà lại quá cứng không giữa, cho nên tượng nó như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu vu nê, tai tại ngoại dã; tự ngã trí khấu, kính thận bất bại dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đợi ở bùn, hại ở ngoài vậy; tự mình dắt giặc, kính thận thì không thất bại vậy.
Truyện của Trình Di. - Hào Ba bức sát vào chỗ hiểm nạn của thể trên, cho nên nói rằng: tại hại ở ngoài. Tai là tiếng chung về hoạn nạn, đối với chữ 眚 (sảnh) mà nói, thì nó là một phần nhỏ. Hào Ba dắt giặc là tại tự mình tiến sát đến nơi, cho nên nói rằng: tự mình dắt giặc. Nếu biết kính thận, cân nhắc cơ nghi rồi sẽ tiến lên, thì không thất bại. Thời của quẻ Nhu là phải chờ đợi sẽ tiến, cốt xem thời thế mà động, không phải là răn người ta không được tiến, chỉ muốn khiến cho người ta chớ để lỗi mất cơ nghi mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Ngoài là quẻ ngoài, kính thận không thất bại là nói rõ sự chiêm ở ngoài lời chiêm, cái ý thánh nhân dạy bảo người ta thật là thiết tha.
Dịch âm. - Lục Tứ: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Đợi chưng máu, ra tự hang.
Truyện của Trình Di. - Hào Tư là chất Âm nhu, ở chỗ hiểm, phía dưới lại nhằm đường tiến vào ba hào Dương, ấy là bị thương về hiểm nạn, cho nên nói rằng: đợi chưng máu. Đợi ở máu là đã bị thương về hiểm nạn, thì không thể ở yên, ắt mất chỗ ở, cho nên nói là ra tự hang.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Máu là chỗ giết hại, hang là nơi hiểm hãm. Hào Tư giao với thể Khảm, ấy là vào chỗ hiểm rồi, cho nên là tượng “đợi chưng máu”. Nhưng nó mềm được chính đạo, đợi mà không tiến, cho nên lại là tượng “ra tự hang”. Kẻ xem như thế, thì tuy ở chỗ bị hại, sau chót cũng ra được.
Dịch âm. - Tượng viết: Nhu vu huyết, thuận dĩ thính dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đợi chưng máu, thuận mà nghe vậy.
Truyện của Trình Di. - Hào Tư là Âm nhu ở trong hiểm nạn, không thể cố ở, cho nên tự hang lui ra. Vì là Âm nhu, không tranh cạnh với đời, hễ không ở được thì lui, là xuôi thuận để nghe theo thời, cho nên không đến nỗi hung.
Dịch âm. - Cửu Ngũ: Nhu vu tửu thực, trinh cát.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Đợi chưng rượu cơm, chính tốt!
Truyện của Trình Di. - Là Dương cương, ở giữa, được chính vị ở ngôi trời, mà làm được hết đạo của mình, dùng kiểu ấy mà đợi, thì đợi gì không được? Nên chỉ yên vui cơm rượu để đợi, mà cái chờ đợi ắt là phải được. Đã trinh chính mà sự chờ đợi lại thoả thuê, đáng gọi là tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Rượu cơm là đồ yên vui. Ý nói cứ yên mà đợi. Hào Chín Năm là bậc Dương cương trung chính, đợi ở ngôi tôn, cho nên có tượng ấy. Kẻ xem như thế mà chính bền thì được tốt lành.
Dịch âm. - Tượng viết: Tửu thực trinh cát, dĩ trung chính dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Rượu cơm chính tốt, vì trung chính vậy.
Truyện của Trình Di. - Đợi ở rượu cơm mà trinh và tốt, là vì hào Năm được chỗ trung chính mà làm hết đạo của nó.
Dịch âm. - Thượng Lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Vào chưng hang, có ba người khách không mời mà đến, kính trọng họ, sau chót tốt.
Truyện của Trình Di. - Quẻ Nhu vì có chỗ hiểm ở trước, chờ thời mới tiến, hào Sáu Trên ở chót chỗ hiểm, chót thì biến đổi, ấy là chờ đã cực lâu mà được. Âm đỗ ở số sáu, tức là ở yên nơi chốn, cho nên là vào trong hang, hang tức là chỗ yên ở. Ở yên và đã đỗ rồi, thì kẻ đi sau ắt tới. Ba người khách không mời, chỉ vào ba hào Dương ở dưới. Ba hào Dương của quẻ Kiền không phải là vật ở dưới, nó chỉ chờ thời mà tiến. Chờ đã lâu rồi, cho nên nó đều tiến lên; “không mời” tức là không giục mà nó tự đến. Hào Sáu Trên đã đợi được chỗ ở yên, khi các hào Dương tới nơi, nếu nó không nổi lòng ghen ghét cạnh tranh, mà cứ chí thành tận kính để chờ, thì những hào kia tuy rất cường bạo, há lại có lẽ xâm lăng với nó? Cho nên sau chót vẫn tốt. Có người nói rằng: Là hào Âm, ở trên ba hào Dương, sao được là yên? Đáp rằng: Ba hào Dương thuộc về thể Kiền, chí nó cốt ở tiến lên, hào Sáu là ngôi Âm, không phải chỗ nó đáng đỗ, không có ý muốn tranh cướp, kính nó thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Âm, ở chỗ hiểm cực, không còn chờ đợi, có tượng bị hãm mà vào hang; dưới thì ứng nhau với hào Chín Ba. Hào Chín Ba và hai hào Dương ở dưới chờ đợi đã cực mà cùng tiến lên, là tượng ba người khách không mời mà đến. Hào Sáu Trên là bậc Âm nhu, không thể chống nó mà biết xuôi thuận với nó, có tượng kính nó. Kẻ xem gặp chỗ hãm hiểm, nhưng với những người phi ý mà đến, cứ kính trọng mà đãi lại họ, thì sau được tốt.
Dịch âm. - Tượng viết: Bất tốc chi khách lai, kính chi chung cát, tuy bất đáng vị, vị đại thất dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Khách không mời mà đến, kính họ, sau tốt, tuy không đáng ngôi, mà chưa hỏng lắm vậy.
Truyện của Trình Di. - Không đáng ngôi chỉ về Âm mà ở trên. Hào này là hào Sáu ở ngôi Âm đó là cái tượng yên ổn. Lại nói cho hiết nghĩa, tỏ rằng: Âm nên ở dưới mà nó ở trên là không đáng ngôi. Nhưng biết kính thận tự xử, thì hào Dương không thể lấn, sau vẫn được tốt, tuy không đáng ngôi, mà chưa đến nỗi hỏng lắm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Là Âm ở trên, tức là đáng ngôi. Đây nói không đáng ngôi, chưa rõ là ý làm sao.
Lời bàn của Tiên Nho. - Có người hỏi: Không đáng ngôi là thế nào? Chu Hy đáp rằng: Đại phàm hai hào Đầu và Trên đều không có ngôi, hào Hai là ngôi kẻ sĩ, hào Ba là ngôi khanh đại phu, hào Tư là ngôi đại thần, hào Năm là ngôi vua. Hào Sáu Trên không đáng ngôi như phụ lão không coi gia chính mà lui về chỗ nhàn rỗi, nhà chùa có chốn tây đường, v.v… |
21116 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A1o%20c%C3%A1o%20c%E1%BB%A7a%20B%E1%BB%99%20Ngo%E1%BA%A1i%20giao%20Hoa%20K%E1%BB%B3%20v%E1%BB%81%20t%C3%ACnh%20h%C3%ACnh%20nh%C3%A2n%20quy%E1%BB%81n%20n%C4%83m%202015/Vi%E1%BB%87t%20Nam | Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tình hình nhân quyền năm 2015/Việt Nam | Việt Nam
Bản tiếng Anh
TÓM TẮT
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc tài do một đảng duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - thống trị, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Cuộc bầu cử Quốc hội gần đây nhất được tổ chức năm 2011 đã diễn ra không tự do và không công bằng cho dù có sự cạnh tranh hạn chế giữa các ứng viên do Đảng Cộng sản Việt Nam xem xét kỹ lưỡng. Chính quyền vẫn duy trì sự kiểm soát có hiệu quả đối với các lực lượng an ninh.
Chính phủ đã bắt đầu thực thi pháp luật theo các sửa đổi trong hiến pháp, bao gồm các điều liên quan đến nhân quyền, được ban hành tháng 1 năm 2014. Vào tháng 11, Quốc hội đã thông qua một số luật có ảnh hưởng đến quyền công dân, bao gồm Bộ luật hình sự mới, Bộ luật tố tụng hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, Bộ luật dân sự, và Bộ luật tố tụng dân sự. Bộ luật tố tụng hình sự và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã pháp điển hóa việc suy đoán vô tội, quy định nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự thuộc về nhà nước, công nhận một số ít quyền im lặng trong những trường hợp nhất định, và nới lỏng các quy định về quyền được tư vấn. Bộ luật hình sự vẫn giữ lại các quy định mơ hồ về an ninh quốc gia và quy định thêm việc hình sự hóa các hành vi chuẩn bị phạm tội trong một số lĩnh vực.
Những vấn đề nổi bật nhất về quyền con người tại Việt Nam là sự hạn chế nghiêm ngặt của chính quyền đối với quyền chính trị của công dân, đặc biệt là quyền của công dân trong việc thay đổi chính quyền thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng; hạn chế quyền tự do của công dân bao gồm tự do hội họp, tự do lập hội và tự do ngôn luận; chưa có sự bảo vệ đầy đủ đối với các quyền về quy trình tố tụng hợp pháp của công dân, bao gồm sự bảo vệ chống bắt giam tùy tiện.
Những vi phạm quyền con người khác bao gồm việc tước đoạt sinh mạng tùy tiện và trái luật; công an tấn công và dùng nhục hình; bắt giữ người và giam cầm tùy tiện do các hoạt động chính trị; công an tiếp tục ngược đãi nghi can trong quá trình bắt giữ và tạm giam, kể cả việc sử dụng vũ lực làm chết người, cũng như các điều kiện khắc khổ của trại giam, và từ chối quyền được xét xử nhanh chóng và công bằng. Chính quyền hạn chế các quyền tự do ngôn luận và trấn áp những người bất đồng quan điểm; thực hiện kiểm soát và kiểm duyệt báo chí; hạn chế quyền tự do sử dụng Internet và tự do tôn giáo; duy trì việc theo dõi chặt chẽ thường xuyên các nhà hoạt động; và tiếp tục hạn chế quyền riêng tư và quyền tự do hội họp, tự do lập hội, và tự do đi lại. Chính quyền tiếp tục kiểm soát chặt chẽ việc đăng ký của các tổ chức phi chính phủ (NGO), trong đó có các tổ chức nhân quyền. Nhà chức trách hạn chế sự thăm viếng của các tổ chức phi chính phủ về nhân quyền vốn không đồng tình với sự giám sát của chính quyền. Nhà chức trách và các tổ chức phi chính phủ ghi nhận số nạn nhân của nạn buôn người tăng cao, có thể là do nhu cầu ngày càng lớn giữa các quốc gia láng giềng cũng như quyết định của Việt Nam năm 2012 trong việc tăng cường nỗ lực theo dõi và điều tra vụ việc. Chính quyền tiếp tục hạn chế quyền của người lao động trong việc thành lập và gia nhập các tổ chức công đoàn độc lập và đã thực thi không đầy đủ các điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh. Lao động trẻ em vẫn còn tiếp diễn, nhất là các công việc trong lĩnh vực nông nghiệp.
Đôi khi chính quyền đã có hành động khắc phục, bao gồm việc truy tố đối với các quan chức vi phạm pháp luật; công an đôi khi vi phạm mà không bị trừng phạt. Tham nhũng trong ngành công an vẫn diễn ra.
Phần 1. Tôn trọng sự toàn vẹn của con người, kể cả quyền không bị:
a. Tước đoạt sinh mạng tùy tiện hoặc trái luật
Các báo cáo cho biết các quan chức hoặc nhân viên khác dưới sự chỉ huy của Bộ Công an đã giết người tùy tiện hoặc trái pháp luật, trong đó có ít nhất 14 người chết khi đang bị tạm giam, và một số cáo buộc đáng chú ý về việc cán bộ sử dụng vũ lực làm chết người. Trong hầu hết các trường hợp chính quyền hoặc cung cấp ít thông tin liên quan đến cuộc điều tra về những cái chết này, hoặc thông báo những cái chết đó là do tự tử hoặc các vấn đề về sức khỏe. Trong một số ít trường hợp, chính quyền đã truy cứu trách nhiệm đối với các cán bộ công an.
Theo tin tức báo chí, ngày 28 tháng 2, Nguyễn Văn Tình đã chết do xuất huyết não, phù não sau khi cảnh sát địa phương ở tỉnh Hà Tĩnh bắt giam ông mà không có lệnh với cáo buộc đánh bài ăn tiền và giam giữ ông này trong năm giờ. Chính quyền địa phương đã tiến hành điều tra ba công an xã do hành vi tạm giữ người trái luật.
Ngày 8 tháng 4, chính quyền địa phương tại tỉnh Hưng Yên đã thông báo cho gia đình Nguyễn Đức Duân rằng Duân đã chết sau vài tuần bị cảnh sát giam giữ. Theo báo chí, toàn bộ cơ thể Duân có nhiều vết bầm tím.
Ngày 10 tháng 10, Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi, được thông báo đã chết do bị tra tấn trong khi đang bị giam giữ. Cảnh sát đã bắt Dư hai tháng trước vì tội trộm cắp và không cho gia đình anh này liên lạc khi Dư đang bị tạm giam. Ngày 4 tháng 10, cơ quan cảnh sát đã triệu tập gia đình anh này tới Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội nơi Dư đang trong tình trạng hôn mê và cơ quan nội tạng bị tổn thương và có các vết bầm tím trên cơ thể. Sau cái chết của Dư, nhà chức trách đã ép gia đình mai táng anh này ngay lập tức, và gia đình anh này cáo buộc báo cáo khám nghiệm tử thi không ghi đầy đủ mức độ chấn thương. Ngày 30 tháng 12, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bạn tù của Dư về tội “cố ý gây thương tích” và cho biết họ sẽ chuyển việc điều tra trách nhiệm của các cán bộ lãnh đạo và quản giáo trong vụ việc của Dư lên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngày 9 tháng 4, Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông đã xử án treo đối với các cán bộ công an Lê Mạnh Nam và Trần Đăng Tùng về tội bắt giữ trái pháp luật Hoàng Văn Ngài – đã chết trong khi đang bị giam giữ vào năm 2013. Tòa án đã không truy cứu trách nhiệm về cái chết của ông Ngài đối với các cán bộ công an này.
Ngày 7 tháng 10, sau phiên xét xử kéo dài ba ngày, Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã kết án các điều tra viên tỉnh Sóc Trăng bao gồm Nguyễn Hoàng Quân và Triệu Tuấn Hưng lần lượt 1,5 năm và hai năm tù giam do đã đánh đập và ép buộc bảy người đàn ông nhận tội trong vụ án giết người năm 2013. Bảy người này khẳng định công an tỉnh Sóc Trăng đã tra tấn khi thẩm vấn họ.
b. Mất tích
Không có báo cáo nào về người mất tích do động cơ chính trị.
c. Tra tấn và đối xử hoặc trừng phạt dã man, vô nhân đạo hay đê hèn khác
Luật pháp nghiêm cấm hành hạ thân thể, nhưng công an và các cán bộ tại các trung tâm cai nghiện vẫn thường ngược đãi các nghi can trong quá trình bắt giữ hoặc tạm giam.
Vào đầu tháng 6, Quốc hội đã ban hành báo cáo về nhiều trường hợp ép cung hoặc dùng nhục hình trong các cuộc điều tra từ năm 2011 đến năm 2014. Bộ Công an cho biết họ đã nhận được 46 khiếu nại về ép cung hoặc dùng nhục hình; trong số này, nhà chức trách thừa nhận chỉ có ba trường hợp là đúng và sáu trường hợp vẫn đang được điều tra.
Tháng 11, Quốc hội đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi trong đó quy định công an phải ghi hình hoặc ghi âm các cuộc thẩm vấn tại các cơ sở điều tra chính thức. Đối với các cuộc thẩm vấn diễn ra tại các địa điểm khác, phải thực hiện ghi âm nếu nhà chức trách hoặc bị cáo có yêu cầu. Bộ luật này sẽ có hiệu lực vào tháng 7 năm 2016 và dự kiến quy định trên sẽ được thực hiện thí điểm đầu tiên vào năm 2017, và triển khai trên toàn quốc vào năm 2019.
Tháng 10, Bộ trưởng Bộ Công an cho biết chính phủ đã quy trách nhiệm đối với 26 cán bộ công an về “hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra”. Trong số này có hai cán bộ bị truy tố do dùng nhục hình, và hai “thủ trưởng cơ quan điều tra” bị khiển trách do để xảy ra việc dùng nhục hình.
Các nhà hoạt động chính trị và tôn giáo và gia đình của họ cho biết họ bị các đơn vị và cán bộ công an sách nhiễu nhiều và nhiều khi nghiêm trọng, từ việc hăm dọa và xúc phạm tới các vụ ngược đãi lớn hơn, chẳng hạn như các vụ cảnh sát mặc thường phục ném đá vào nhà của họ. Các nhà hoạt động cũng cho biết các cuộc tấn công đó đã làm họ và gia đình bị thương tích và sang chấn tâm lý phải nhập viện.
Ngày 1 tháng 1, một số người mặc trang phục cảnh sát và thường phục đã ngăn cản giáo dân tham dự các hoạt động lễ thánh tại gia mừng Năm mới của Mục sư Hội thánh Mennonite Nguyễn Hồng Quang. Giáo dân khẳng định chính quyền địa phương đã đưa họ đến đồn cảnh sát và đánh vào người và mặt họ bằng nắm đấm. Ông Quang cũng khẳng định chính quyền địa phương đã hành hung ông sau khi ông đến đồn cảnh sát để hỏi về vụ việc. Ông Quang và giáo dân cho biết trong năm qua họ nhiều lần bị hành hung.
Ngày 1 tháng 1, những người phản đối về quyền sử dụng đất tại tỉnh Tiền Giang cho biết Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã giam giữ họ trong khoảng tám giờ sau khi họ cố gắng tiến hành biểu tình. Nhà hoạt động Lư Thị Thu Vân cho biết công an đã đánh bà khi đang bị giam giữ, dẫn đến các vết thương trên mặt.
Ngày 21 tháng 1, hàng chục cảnh sát mặc thường phục đã hành hung 12 nhà hoạt động sau khi họ đến thăm cựu tù nhân chính trị Trần Anh Kim ở tỉnh Thái Bình. Hai trong số những người bị hành hung bao gồm Nguyễn Thanh Giang và Nguyễn Thị Kim Chi đã hơn 70 tuổi. Các nhà hoạt động khẳng định các cán bộ công an đã giam giữ họ trong gần bảy giờ tại một đồn cảnh sát địa phương và liên tục hành hung và dùng lời đe dọa họ.
Ngày 17 tháng 2, năm người khiếu kiện về quyền sử dụng đất ở tỉnh Bắc Giang cho biết nhà chức trách đã đưa họ đến một đồn cảnh sát địa phương sau khi họ mang đơn kiện đến nhà của chủ tịch tỉnh. Những người này khẳng định bốn người đàn ông mặc áo mưa và đeo mặt nạ đã tấn công bà Nguyễn Thị Luyến và bà Suốt bằng gậy sau khi họ rời khỏi đồn cảnh sát, gây ra các vết thương trên cơ thể. Trong một diễn biến khác, hàng chục cảnh sát mặc thường phục đã truy đuổi và sau đó hành hung bà Phạm Thị Nhượng sau khi bà rời khỏi đồn cảnh sát.
Ngày 13 tháng 3, một số người mặc thường phục đã hành hung các nhà hoạt động về quyền sử dụng đất bao gồm Lại Tiến Sơn và Nguyễn Thanh Hà bằng gậy và mũ bảo hiểm xe máy tại Hà Nội sau khi họ đến thăm và trao quà cho những người biểu tình về quyền sử dụng đất ở làng Dương Nội. Khi hành hung, những kẻ phạm tội đó liên tục hét to “Đánh chết chúng đi”.
Ngày 22 tháng 4, ba người mặc thường phục tại Hà Nội đã hành hung blogger Trịnh Anh Tuấn (còn gọi là Gió Lang Thang). Ông Tuấn khẳng định những người đó đã lôi ông khỏi chiếc xe máy và dùng gạch đánh vào đầu và tay ông. Ông Tuấn là thành viên chủ chốt của nhóm “Vì một Hà Nội xanh”, một phong trào bảo vệ môi trường phản đối chính quyền thành phố Hà Nội chặt hạ các cây cổ thụ trên các tuyến phố chính hồi đầu năm.
Ngày 11 tháng 5, năm người mặc thường phục tại Hà Nội đã hành hung đến bất tỉnh blogger Nguyễn Chí Tuyến (tức Anh Chí), một thành viên chủ chốt khác của nhóm “Vì một Hà Nội xanh”. Anh Chí cho biết cảnh sát mặc thường phục đã theo dõi chặt chẽ và sách nhiễu ông và những người cùng biểu tình, nhiều người trong số này là sinh viên.
Ngày 19 tháng 5, công an quận 8 Thành phố Hồ Chí Minh đã hành hung blogger chính trị và nhà hoạt động Đinh Quang Tuyến, lôi ông này ra khỏi xe máy và dùng mũ bảo hiểm đánh vào mặt, khiến ông Tuyến phải nhập viện.
Ngày 25 tháng 6, những người mặc thường phục đã hành hung hơn 40 nhà hoạt động và người dân làng Dương Nội khi họ đang chờ đón Trịnh Bá Khiêm, một người cùng làng đã chấp hành xong án tù. Trong số những người bị hành hung có con trai ông Khiêm là Trịnh Bá Tư, Trịnh Bá Phương, và các nhà hoạt động Mai Thanh, Trương Văn Dũng, Nguyễn Tường Thụy.
Ngày 27 tháng 7, công an thành phố Nha Trang đã hành hung các nhà hoạt động Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Huy Tâm và Võ Trường Thiện khi họ cố gắng tổ chức tuyệt thực để ủng hộ tự do ngôn luận. Bà Quỳnh cho biết công an đã đấm bà, gây ra các vết bầm tím và vết rách trên mặt.
Ngày 28 tháng 8, cảnh sát mặc đồng phục và thường phục ở tỉnh Lâm Ðồng đã hành hung hai nhóm các nhà hoạt động và các cựu tù nhân chính trị, bao gồm Trần Thị Nga, Trương Minh Tam, Chu Mạnh Sơn, Phạm Minh Hoàng, Nguyễn Văn Oai, trước và sau khi họ đến thăm ông Trần Minh Nhật, một tù nhân lương tâm vừa mới được ra tù. Họ cáo buộc công an đã dừng xe của một nhóm các nhà hoạt động, kéo họ xuống đất, và đá vào người họ. Cảnh sát mặc thường phục bị cáo buộc đã đánh các thành viên của một nhóm khác, bao gồm Lê Đình Lượng, Bích Hạnh và Lê Hương. Trong một diễn biến khác, những người mặc thường phục đã hành hung Trương Minh Tam một vài ngày trước đó, sau khi ông đến một nhà tù ở tỉnh Thanh Hóa để lấy đồ cá nhân của mình.
Ngày 17 tháng 10, Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi, đã chết do bị tra tấn trong khi đang bị giam giữ (xem phần 1.a.).
Ngày 3 tháng 11, hai luật sư Trần Thu Nam và Lê Văn Luân cho biết cảnh sát mặc thường phục và những người lạ đã đánh vào đầu và mặt họ, khiến họ phải nhập viện. Ông Nam và Luân bị hành hung sau khi gặp gỡ gia đình của Đỗ Đăng Dư. Ngày 12 tháng 11, cảnh sát đã tạm giữ luật sư Trần Vũ Hải vài giờ trước khi ông và hàng chục luật sư và các nhà hoạt động lên kế hoạch phản đối chính quyền sách nhiễu luật sư.
Ngày 22 tháng 11, các nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh và Trương Minh Đức cho biết công an tỉnh Đồng Nai và những người lạ đã tạm giữ và hành hung họ sau khi giải tán cuộc họp giữa hai nhà hoạt động này với hơn 800 công nhân nhà máy (xem thêm phần 7.a.). Bà Hạnh cáo buộc cảnh sát mặc thường phục đã trói ngược tay bà ra phía sau, đẩy ngã xuống đất, và đánh vào mặt, khiến bà này phải nhập viện. Theo ông Đức, cảnh sát truy tố các nhà hoạt động này về tội cung cấp “các tài liệu bất hợp pháp” cho người lao động và đã tịch thu điện thoại di động, máy tính và máy ảnh của họ. Đại diện chính quyền nói rằng bà Hạnh và ông Đức đã gây rối trật tự công cộng và phủ nhận việc cảnh sát địa phương đã hành hung hoặc tịch thu đồ cá nhân của những người này.
Ngày 6 tháng 12, nhà hoạt động nhân quyền, luật sư Nguyễn Văn Đài cho biết cảnh sát mặc thường phục đã hành hung ông và một nhà hoạt động tại tỉnh Nghệ An sau khi ông tổ chức một cuộc họp liên quan đến nhân quyền. Ngày 16 tháng 12, công an đã bắt giữ ông Đài và trợ lý Lê Thu Hà tại Hà Nội về tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 trong Bộ luật hình sự. Cảnh sát đã bắt giữ ông Đài khi ông này đang trên đường đến gặp một phái đoàn nước ngoài để thảo luận về nhân quyền. Vợ ông Đài cho biết cảnh sát đã tịch thu các tài sản mang tính tôn giáo cá nhân, bao gồm Kinh Thánh của ông Đài khi thực hiện lệnh khám xét. Bà cũng cho biết cảnh sát đã không cho bà và luật sư bào chữa được gặp ông Đài cũng như không cho phép họ liên lạc hoặc mang đồ ăn, nước uống hoặc đồ cá nhân cho ông Đài. Đại diện chính quyền nói rằng họ bắt giữ ông Đài do ông này vi phạm pháp luật nhiều lần và âm mưu làm suy yếu chính quyền.
Các nhà hoạt động nhân quyền cũng cho biết công an đã giam giữ và sách nhiễu các nhà hoạt động khác liên quan đến vụ bắt giữ ông Đài. Cảnh sát đã tạm giữ nhà hoạt động Trương Dũng. Ngày 21 tháng 12, ông Dũng cho biết một người lạ mặt đã đổ chất lỏng có tính axit vào đầu ông tại một đồn cảnh sát địa phương, sau khi ông Dũng cố lấy lại đồ đạc mà cảnh sát đã tịch thu trước đó.
Điều kiện ở nhà tù và các trại tạm giam
Điều kiện ở trại giam là khắc khổ nhưng nhìn chung không đe dọa tính mạng. Quá chật chội, chế độ ăn uống không đủ, thiếu nước sạch và điều kiện vệ sinh nghèo nàn tiếp tục là những vấn đề nghiêm trọng.
Điều kiện vật chất: Chính quyền thường giam nam và nữ tách biệt nhau, trừ một số ngoại lệ ở những trại tạm giam địa phương có diện tích hạn chế. Vào tháng 11, Quốc hội đã thông qua luật mới về thi hành tạm giữ, tạm giam. Luật này sẽ có hiệu lực vào tháng 7 năm 2016 và quy định phân loại quản lý người bị tạm giữ, tạm giam, bao gồm người thực hiện hành vi phạm tội thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng (bao gồm các tội liên quan đến an ninh quốc gia), người mắc các bệnh truyền nhiễm, người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần, trẻ vị thành niên, phụ nữ mang thai, chăm sóc con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính, chuyển giới, và liên giới. Mặc dù chính quyền thường giam giữ người chưa thành niên tách biệt với người lớn, nhưng trong một số ít trường hợp người chưa thành niên vẫn được giam giữ chung với người lớn trong một thời gian ngắn do diện tích chật hẹp.
Tù nhân được chăm sóc y tế cơ bản, mặc dù trong nhiều trường hợp các cán bộ quản trại đã ngăn người nhà mang thuốc vào cho tù nhân. Bên cạnh đó, người nhà của những nhà hoạt động bị bỏ tù có những vấn đề về sức khỏe quả quyết rằng việc điều trị y tế ở trại là không đầy đủ và khiến cho bệnh tình diễn biến phức tạp và để lại những hậu quả lớn và lâu dài. Trước khi được thả vào ngày 17 tháng 4, người nhà của nhà hoạt động Phật giáo Hòa Hảo Mai Thị Dung cho biết cán bộ tại nhà tù Thanh Xuân đã từ chối điều trị y tế thích hợp đối với bệnh tê liệt chân, sỏi mật, và các bệnh khác của bà.
Vào tháng 3, các tù nhân lương tâm Đinh Nguyên Kha, Đặng Xuân Diệu, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Trần Vũ Anh Bình đã tuyệt thực 10 ngày để phản đối việc biệt giam Bình tại trại giam Xuyên Mộc, tỉnh Vũng Tàu.
Vào tháng 4, tù nhân lương tâm Bùi Thị Minh Hằng đã tuyệt thực 10 ngày để phản đối việc bỏ tù bà tại trại giam Gia Trung tỉnh Gia Lai. Gia đình bà Hằng cho biết chính quyền đã ngăn không cho họ gặp gỡ và cung cấp thức ăn cho bà và cáo buộc nhà chức trách trại giam đang trả đũa do bà Hằng từ chối mặc áo tù nhân. Cuối cùng, nhà chức trách đã cho phép các thành viên gia đình được tiếp tục thăm bà.
Những cái chết trong tù chủ yếu liên quan đến các điều kiện sức khỏe nghiêm trọng, vấn đề này trở nên trầm trọng hơn do chăm sóc y tế kém hoặc chậm chễ, vệ sinh kém, và thiếu dinh dưỡng. Một số người nhà của các tù nhân cáo buộc rằng tù nhân chết do nhà chức trách dùng vũ lực làm chết người (xem phần 1.a. và 1.b.).
Nói chung các phạm nhân phải làm việc nhưng không được nhận tiền công. Nhà chức trách biệt giam tù nhân trong khoảng thời gian tiêu chuẩn là ba tháng. Một số tù nhân chính trị cho biết họ bị biệt giam thường xuyên hơn so với các tù nhân khác. Các báo cáo cũng cho biết các trại giam cũng giam giữ những người chuyển giới ở khu biệt lập do không biết nên giam những người đó ở khu nam hay khu nữ. Tù nhân không được tiếp cận các tài liệu đọc và phương tiện viết lách, đặc biệt là tù nhân chính trị. Người nhà tù nhân vẫn tiếp tục khẳng định một cách đáng tin cậy rằng tù nhân sẽ được thêm thức ăn và được đối xử tốt hơn nếu biết hối lộ cán bộ quản trại.
Nhà chức trách thường đưa các tù nhân chính trị đến các nhà tù được chỉ định cụ thể. Đây cũng là nơi giam giữ thường xuyên các tù nhân hình sự, và trong nhiều trường hợp, tù nhân chính trị bị giam tách biệt với các tù nhân khác. Nhà chức trách cô lập hoàn toàn một số tù nhân chính trị nổi tiếng. Các nhà hoạt động cho biết các cán bộ quản trại hành hung tù nhân lương tâm để họ nhận tội hoặc sử dụng các phương tiện khác để bắt tù nhân nhận tội bằng văn bản, bao gồm chỉ đạo các tù nhân khác hành hung họ hoặc hứa sẽ đối xử tốt hơn.
Một số cựu tù nhân lương tâm cho biết các tù nhân nhận được lượng thức ăn không đầy đủ và kém chất lượng. Một số cựu tù nhân cho biết họ chỉ được nhận hai bát cơm nhỏ và rau mỗi ngày, thường bị trộn lẫn các chất lạ như côn trùng, hoặc đá nhỏ.
Quản lý trại giam: Không có hệ thống thanh tra nhà tù nào hoạt động mặc dù pháp luật có quy định về giám sát thi hành án hình sự của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, một tổ chức chuyên giám sát các tổ chức xã hội do chính phủ Việt Nam bảo trợ.
Nhà chức trách chỉ cho tù nhân mỗi tháng gặp gia đình một lần trong 30 phút và nói chung cho phép người nhà chu cấp thêm đồ bao gồm tiền, thực phẩm và chăn đệm cho tù nhân. Người nhà của các tù nhân chính trị cho biết các cán bộ quản trại đôi khi thu hồi quyền được thăm viếng, thường là sau khi các tù nhân chính trị tuyệt thực hoặc từ chối tuân theo các chỉ dẫn. Người nhà của họ tiếp tục bị chính quyền giám sát chặt chẽ và bị các nhân viên an ninh sách nhiễu cũng như gây trở ngại trong công việc, học hành, và các hoạt động kinh doanh.
Trái ngược với hành động đối với tù nhân phi chính trị, các nhà chức trách thường xuyên chuyển trại tù nhân chính trị đến các địa điểm xa gia đình của họ, gây khó khăn cho người nhà đến thăm. Vào tháng 1, các cán bộ công an đã chuyển tù nhân lương tâm Ngô Hào từ trại giam Xuân Phước ở tỉnh Phú Yên quê ông đến trại giam An Điềm tại tỉnh Quảng Nam.
Vào tháng 2, các cán bộ công an đã chuyển Bùi Thị Minh Hằng từ trại giam An Bình tại tỉnh Đồng Tháp quê bà đến trại giam Gia Trung tỉnh Gia Lai, cách đó khoảng 300 dặm.
Các chức sắc tôn giáo và các cựu tù nhân lương tâm cho biết các cán bộ công an không cho phép các tù nhân thực hành các nghi lễ tôn giáo hoặc gặp gỡ các chức sắc tôn giáo. Người nhà và một số cựu tù nhân cho biết nhà chức trách không cho phép tù nhân nhận tài liệu tôn giáo khi bị tạm giam. Các cán bộ công an thường không cho phép sở hữu các văn bản pháp luật ngoại trừ các ấn phẩm chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Giám sát độc lập: Ủy ban Chữ thập đỏ Quốc tế không yêu cầu và cũng không đến thăm các nhà tù trong năm qua.
d. Bắt giữ hoặc giam cầm tùy tiện
Luật pháp cho phép chính quyền bắt và giam giữ người theo các quy định mập mờ về an ninh quốc gia trong Bộ luật hình sự, bao gồm bắt giữ nhà hoạt động dân chủ Trần Anh Kim trong năm qua về tội “âm mưu lật đổ chính quyền” (Điều 79). Chính quyền tiếp tục bắt và giam giữ những người đã bày tỏ quan điểm chính trị hoặc tôn giáo một cách ôn hòa theo các quy định khác của pháp luật hình sự, bao gồm tội “gây rối trật tự công cộng” (Điều 245), tội “chống người thi hành công vụ” (Điều 257), hay tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” (Điều 258). Nhà chức trách thường xuyên quản chế hành chính hoặc quản thúc tại gia các nhà hoạt động. Mặc dù có những tranh luận công khai tại Quốc hội song Bộ luật hình sự đã thông qua vào tháng 11 không xóa bỏ cũng như không làm rõ các quy định này.
Vai trò của công an và bộ máy an ninh
Bộ Công an chịu trách nhiệm về an ninh trong nước và quản lý đội ngũ công an, một cơ quan điều tra an ninh quốc gia đặc biệt và các đơn vị an ninh khác trong nước. Cục Điều tra của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (văn phòng công tố cấp trung ương) xem xét các cáo buộc vi phạm của lực lượng an ninh và các cơ quan thực thi pháp luật.
Ủy ban nhân dân (cơ quan hành pháp cấp địa phương) có thẩm quyền đối với lực lượng công an và công tố viên cấp tỉnh, huyện và địa phương. Mặc dù Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao có quyền điều tra các vi phạm của lực lượng công an, song các tổ chức công an hoạt động với thẩm quyền lớn đáng kể và ít có sự minh bạch và giám sát công. Các cán bộ công an đôi khi vi phạm mà không bị xử phạt. Ở cấp xã, lực lượng an ninh gồm dân phòng địa phương hoặc thành viên của các tổ chức xã hội thuộc chính phủ thường xuyên hỗ trợ công an. Nhìn chung, công an duy trì trật tự công cộng có hiệu quả, nhưng các năng lực khác của công an, đặc biệt là về điều tra, còn rất hạn chế, và việc đào tạo cũng như nguồn lực, đặc biệt là ở cấp địa phương, còn chưa đầy đủ. Một số chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế tiếp tục trợ giúp đào tạo công an cấp tỉnh và các cán bộ quản lý trại giam nhằm tăng cường kỹ năng chuyên môn cho họ.
Nhiều cơ quan chuyên môn của chính phủ giám sát vấn đề di cư và biên giới. Cục Quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an có trách nhiệm giám sát việc xuất cảnh và nhập cảnh vào Việt Nam. Quân đội thực hiện các chức năng an toàn công cộng tại các khu vực biên giới. Bộ Tài chính kiểm soát các cơ quan hải quan và các cơ quan khác giám sát vấn đề kiểm dịch và các chức năng khác. Trách nhiệm, quyền hạn và cơ cấu hoạt động chính thức của các cơ quan này khác nhau đáng kể. Các cán bộ biên phòng thường thiếu năng lực nhận diện và ngăn chặn các hoạt động qua biên giới bất hợp pháp như buôn bán người; ma túy và tiền chất ma túy; và buôn bán động vật hoang dã, gỗ, và hàng giả.
Thủ tục bắt giữ và đối xử người bị tạm giam
Luật pháp quy định quy trình bắt giữ và đối xử đối với người bị tạm giữ, tạm giam trước khi xét xử vụ án. Cảnh sát và các cơ quan điều tra khác thường thực hiện lệnh bắt, tạm giữ, và tạm giam. Theo luật, công an nói chung cần có quyết định của Viện kiểm sát nhân dân về việc bắt giữ nghi can, dù trong một số ít trường hợp công an cần quyết định của tòa án. Trong hầu hết các trường hợp Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, cấp tỉnh, cấp huyện ban hành các lệnh bắt giữ đó. Trong những trường hợp khẩn cấp, chẳng hạn như có bằng chứng chứng minh một người đang chuẩn bị thực hiện phạm tội hoặc khi cảnh sát phát hiện một người phạm tội quả tang thì được bắt giữ mà không cần lệnh bắt. Trong các trường hợp này, Viện Kiểm sát nhân dân phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc bắt giữ trong vòng 12 giờ sau khi nhận được thông báo từ công an.
Viện Kiểm sát nhân dân phải ban hành quyết định điều tra chính thức đối với người bị tạm giam trong vòng ba ngày kể từ ngày bắt giữ; nếu không, công an phải thả nghi phạm. Luật pháp cho phép Viện kiểm sát gia hạn thời gian tạm giữ hai lần, mỗi lần ba ngày, tối đa là chín ngày.
Luật pháp cho phép nghi phạm được tiếp xúc với luật sư từ lúc bị tạm giữ; tuy nhiên, nhà chức trách tiếp tục dùng nhiều cách cản trở quan liêu để ngăn không cho nghi phạm tiếp xúc với luật sư. Trong những vụ được điều tra theo luật an ninh quốc gia, chính quyền có quyền cấm luật sư bào chữa tiếp cận với thân chủ cho đến khi các cán bộ kết thúc điều tra và nghi phạm đã bị chính thức buộc tội, hầu hết thường là sau khoảng bốn tháng.
Theo luật, nhà chức trách có quyền kéo dài thời gian điều tra đối với các vụ án về an ninh quốc gia và không cho tiếp xúc với luật sư trong thời gian lên đến 20 tháng. Trong các trường hợp như vậy, nhà chức trách không cho luật sư tiếp cận thân chủ hoặc không đưa ra bằng chứng về vụ việc cho đến ngay trước khi vụ việc được đưa ra xét xử và do đó luật sự không có đủ thời gian chuẩn bị bào chữa. Theo luật, nhà chức trách phải đề nghị đoàn luật sư địa phương, trung tâm trợ giúp pháp lý hoặc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ định luật sư bào chữa trong các vụ án có người vị thành niên, người bị khiếm khuyết về thể chất và tâm thần và người chính thức bị kết án tử hình. Bộ luật hình sự mới, được thông qua vào tháng 11, bổ sung thêm các trường hợp này bao gồm những người chính thức bị buộc tội với bản án có thể lên đến 20 năm hoặc nhiều hơn. Bộ luật mới không quy định người bào chữa phải là luật sư, và họ có thể là một người đại diện cá nhân của bị cáo hoặc thành viên của một tổ chức trợ giúp pháp lý.
Luật pháp yêu cầu các cơ quan chức năng thông báo cho người bị tạm giữ, nghi can, bị can về các quyền của mình theo quy định của pháp luật, bao gồm cả quyền có luật sư. Trong hầu hết các trường hợp, sau khi được tư vấn, các bị cáo là người chịu trách nhiệm mời luật sư riêng của mình. Luật quy định luật sư bào chữa có nghĩa vụ bào chữa cho thân chủ của mình từ lúc nhà chức trách ban hành quyết định tạm giữ.
Nhà chức trách thường gửi thông báo đến các cơ quan lãnh sự về việc bắt giữ công dân nước ngoài, nhưng đôi khi lại trì hoãn thông báo đó. Quan chức chính quyền thường cho phép cán bộ lãnh sự được tiếp cận người nước ngoài bị bắt hoặc bị giam giữ nhưng đôi khi lại áp đặt những điều kiện nghiêm ngặt đối với việc tiếp cận này, bao gồm yêu cầu cán bộ công an có mặt tại các cuộc gặp giữa các cán bộ lãnh sự và công dân nước ngoài bị bắt giữ, và đôi khi là ghi hình các cuộc gặp này.
Luật pháp cho phép luật sư bào chữa có mặt trong các cuộc thẩm vấn thân chủ của mình. Luật pháp cũng yêu cầu các nhà chức trách cho luật sư tiếp cận với hồ sơ của vụ án và cho phép họ sao chụp lại các tài liệu. Các luật sư thường có thể thực hiện các quyền này. Tháng 11, Quốc hội đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi trong đó quy định cảnh sát phải ghi hình hoặc ghi âm các cuộc thẩm vấn. Bộ luật này sẽ có hiệu lực vào tháng 7 năm 2016 và dự kiến quy định trên sẽ được thực hiện thí điểm đầu tiên vào năm 2017, và triển khai trên toàn quốc vào năm 2019. Những người đại diện cho người bị giam giữ nhạy cảm về chính trị cho biết họ gặp khó khăn lớn trong việc thực hiện trách nhiệm của mình với thân chủ và thực hiện các quyền của họ theo quy định của luật. Nhiều người bị giam giữ, đặc biệt là những người bị cáo buộc các tội xâm phạm an ninh quốc gia, cho biết họ bị hạn chế tiếp cận các tài liệu và thông tin hỗ trợ trong việc chuẩn bị bảo vệ pháp lý, bao gồm cả Bộ luật hình sự.
Công an nói chung thông báo cho gia đình người bị giam giữnơi giam giữ, nhưng người nhà chỉ có thể vào thăm khi điều tra viên cho phép. Trong quá trình điều tra, nhà chức trách thường không cho người bị giam giữ tiếp xúc với người nhà, đặc biệt trong các vụ án về an ninh quốc gia. Trước khi cáo trạng chính thức được đưa ra, người bị giam giữ có quyền báo cho gia đình biết, mặc dù vậy Bộ Công an giam giữ một số người tình nghi xâm phạm an ninh quốc gia mà không cho họ liên lạc. Thời gian giam giữ trước khi xét xử được tính vào thời gian chấp hành bản án.
Ví dụ, chính quyền tiếp tục từ chối các yêu cầu thăm viếng gia đình đối với các nhà hoạt động về quyền sử dụng đất như Ngô Thị Minh Ước, Nguyễn Thị Bé Hai, Nguyễn Thị Trí - bị bắt hồi tháng 7 năm 2014.
Vào tháng 11, cảnh sát Nha Trang đã bắt giữ Nguyễn Hữu Quốc Duy sau khi ông cho biết đã khởi tạo một nhóm trên Facebook để thảo luận cách tránh bị bắt khi thực hiện hoạt động nhân quyền. Mẹ của Duy cho biết cảnh sát không thông báo cho bà về nơi giam giữ Duy cũng như không cho phép bà vào thăm.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia cũng như một số tội đặc biệt nghiêm trọng, tòa án có thể áp dụng hình thức quản chế hoặc quản thúc hành chính trong thời gian từ 1 đến 5 năm sau khi chấp hành xong án tù. Hình thức quản chế thường bao gồm quản thúc tại gia và tước quyền bầu cử, ứng cử, tham gia chính quyền hoặc quân đội.
Theo Luật Xử lý vi phạm hành chính, cơ quan chức năng có quyền giam giữ người nghiện ma túy tại “các cơ sở cai nghiện bắt buộc” (trước đây gọi là trung tâm “06” hoặc “cơ sở điều trị bắt buộc”). Luật này quy định việc gửi bất kỳ người nào vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc phải thông qua quy trình tố tụng. Luật cũng quy định cụ thể người bị giam giữ tại các cơ sở này có thể làm việc không quá ba giờ mỗi ngày. Chính phủ đã đóng cửa các cơ sở điều trị bắt buộc đối với người bán dâm (trước đây gọi là trung tâm “05”) vào năm 2013, nhưng chính quyền tiếp tục đưa người bán dâm sử dụng ma túy hoặc bị nhiễm HIV vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tiếp tục có các báo cáo về lao động cưỡng bức tại các cơ sở này.
Luật pháp cho phép bảo lãnh tại ngoại như một biện pháp để thay thế tạm giam, nhưng hiếm khi nhà chức trách áp dụng. Luật pháp cho phép các nhà điều tra, kiểm sát viên, hoặc tòa án được phép nhận tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo lãnh tại ngoại. Một ủy ban liên ngành đã đưa ra các hướng dẫn thực hiện quy định pháp lý này vào năm 2013.
Các trường hợp hiếm hoi về việc chấp nhận bảo lãnh các cá nhân bị bắt vì thực thi quyền tự do ngôn luận đó là vào ngày 10 tháng 2, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã được tại ngoại chờ điều tra các cáo buộc liên quan đến các thông tin đăng trên blog “Quê Choa” của ông. Ngày 12 tháng 2, nhà chức trách đã thả tại ngoại blogger Hồng Lê Thọ, người điều hành trang web “Người Lót Gạch”. Trước đó nhà chức trách đã bắt giữ hai blogger trên về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật hình sự), và cho đến thời điểm cuối năm tình hình về vụ việc của hai ông này vẫn chưa rõ ràng.
Bắt giam tùy tiện: Việc bắt và giam giữ tùy tiện, đặc biệt đối với những nhà hoạt động chính trị, vẫn còn là một vấn đề nghiêm trọng (xem phần 2.a.).
Nhà chức trách bắt và giam giữ các cá nhân dựa trên các cáo buộc về tiết lộ bí mật quốc gia, lật đổ, lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, tuyên truyền chống nhà nước, phá hoại đoàn kết dân tộc và các tội khác để đàn áp những người bất đồng chính kiến và những người bảo vệ cộng đồng.
Ngày 3 tháng 8, công an ở tỉnh Thanh Hóa đã bắt giữ cựu tù nhân lương tâm Đinh Tất Thắng và cáo buộc ông này về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” vì đã viết đơn thư công khai chỉ trích lãnh đạo và công an tỉnh.
Ngày 1 tháng 10, công an ở tỉnh Thái Bình chính đã chính thức khởi tố cựu tù nhân lương tâm, nhà hoạt động dân chủ Trần Anh Kim về tội “âm mưu lật đổ chính quyền” (Điều 79 Bộ luật hình sự). Nhà chức trách đã bắt giữ ông Kim và hai cộng sự khác vào ngày 21 tháng 9, ngày mà ông đã lên kế hoạch khai trương một tổ chức chính trị mới có tên “Lực lượng Quốc dân Dựng cờ Dân chủ”. Việc bắt giữ ông Kim là vụ bắt giữ chính thức đầu tiên áp dụng các quy định mơ hồ về an ninh quốc gia trong Bộ luật hình sự kể từ năm 2013.
Theo các báo cáo đáng tin cậy, nhà chức trách cũng đã giam giữ tùy tiện ở nhiều mức độ khác nhau đối với các nhà hoạt động tôn giáo và chính trị tại nơi ở của họ, tại các đồn cảnh sát địa phương, hoặc tại sân bay.
Ngày 30 tháng 8, công an ở tỉnh Hà Giang đã giam giữ Ma Văn Pá, một người dân tộc H’mông theo Đạo Dương Văn Minh, một ngày sau khi ông này gặp gỡ một phái đoàn nước ngoài đang điều tra tự do tôn giáo. Nhà chức trách đã thả ông Pá sau một ngày giam giữ và thẩm vấn, trong thời gian giam giữ đó công an đã đấm vào đầu, đe dọa sẽ đánh nữa, và tịch thu máy tính xách tay của ông này.
Ngày 1 tháng 9, cảnh sát tại sân bay Nội Bài ở Hà Nội giam giữ người ủng hộ nhân quyền Nguyễn Quang A trong khoảng 15 giờ sau khi ông này trở về từ nước ngoài.
Ngày 13 tháng 12, công an đã giam giữ nhà hoạt động dân chủ chống Trung Quốc Nguyễn Phương Uyên trong một ngày tại một quán cà phê ở Thành phố Hồ Chí Minh sau khi bà này tham gia lễ ký bán công khai về một cuốn sách bị cấm có nội dung về thay đổi hình thức chính phủ Việt Nam. Nhà chức trách cũng giam giữ chủ cửa hàng cà phê đó.
Giam giữ chờ xét xử: Luật thi hành tạm giữ, tạm giam mới bao gồm các quy định phân biệt quyền của cá nhân bị tạm giữ chờ xét xử và những người đang thụ án. Các cá nhân bị giam giữ chờ xét xử sẽ có một số quyền nhất định, như quyền bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử và trưng cầu dân ý. Luật quy định bốn mức độ tội phạm: tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Thời gian tạm giam để điều tra sẽ khác nhau tùy vào mức độ phạm tội. Các nhà hoạt động thường cho biết một số cuộc điều tra vượt quá các thời hạn theo quy định của luật, từ tối đa bốn tháng đối với tội ít nghiêm trọng đến 20 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
Tháng 5 năm 2014, các cán bộ công an đã bắt giữ nhà hoạt động, blogger nổi tiếng Nguyễn Hữu Vinh (còn gọi là Anh Ba Sàm) và cáo buộc ông này về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật hình sự). Cảnh sát cũng đã bắt giữ bà Nguyễn Thị Minh Thúy - nhân viên của ông Vinh. Tháng 11 năm 2014, nhà chức trách đã truy tố cả ông Vinh và bà Thúy theo Điều 258, và vào cuối năm họ vẫn đang bị tạm giam chờ xét xử, được cho là đã quá thời gian giam giữ tối đa theo luật định.
Ân xá: Chính quyền đã thả bốn tù nhân lương tâm theo các quy định về ân xá.
Ngày 21 tháng 1, chính quyền đã ân xá cho nhà báo Nguyễn Văn Khương, một năm trước khi kết thúc bản án tù bốn năm. Nhà chức trách đã kết án ông Khương về tội đưa hối lộ một quan chức sau khi ông này bí mật ghi hình một đồng nghiệp đang đưa hối lộ cho cảnh sát nhằm phanh phui tình trạng tham nhũng của cảnh sát.
Ngày 22 tháng 2, chính quyền đã ân xá cho nhà hoạt động vì dân chủ và quyền sử dụng đất Cao Văn Tỉnh, sáu tháng trước khi kết thúc bản án tù 4,5 năm. Trước đó nhà chức trách đã kết án ông Tỉnh về tội “âm mưu lật đổ chính quyền” (Điều 79 Bộ luật hình sự).
Ngày 17 tháng 4, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ân xá cho tín đồ phật giáo Hòa Hảo Mai Thị Dung – đã thụ án tù hơn chín năm sau khi nhà chức trách bắt giữ bà do tham gia buổi tuyệt thực đòi tự do tôn giáo hơn nữa.
Ngày 30 tháng 6, chính quyền đã ân xá cho thành viên của Đảng Nhân dân Hành động và Khối 8406 Lê Thanh Tùng, sáu tháng trước khi kết thúc bản án tù bốn năm. Nhà chức trách đã kết án ông Tùng về tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88 Bộ luật hình sự).
Vào ngày Quốc khánh mùng 2 tháng 9, chính quyền đã ân xá cho 18.539 tù nhân phi chính trị. Theo số liệu thống kê chính thức, 837 tù nhân bị buộc tội liên quan đến tham nhũng, 2.188 tù nhân về tội giết người, và 1.449 về tội phạm ma tuý đã được ân xá. Chính quyền cho biết họ không thả bất kỳ tù nhân nào bị kết án theo các điều luật về an ninh quốc gia.
e. Từ chối xét xử công khai và công bằng
Luật pháp quy định tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân, song hệ thống tư pháp không đủ mạnh và chịu ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài như các quan chức chính quyền cấp cao và ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Giống như trước đây, ảnh hưởng chính trị, vấn nạn tham nhũng và sự thiếu năng lực đã bóp méo hệ thống tòa án rất nhiều. Hầu hết, nếu không phải là tất cả, các thẩm phán đều là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và đều do Đảng Cộng sản Việt Nam và các quan chức địa phương sàng lọc trong quá trình lựa chọn để quyết định sự phù hợp với vị trí. Sự chi phối của Đảng đặc biệt rõ ràng trong những vụ án nổi tiếng và những trường hợp khác mà trong đó nhà chức trách buộc tội bị cáo đã chống lại hoặc làm tổn hại Đảng hoặc nhà nước.
Luật tổ chức toà án nhân dân ban hành tháng 11 năm 2014 và có hiệu lực vào tháng 6 bao gồm các quy định về xét xử công bằng. Luật này quy định rõ rằng thẩm phán và hội thẩm phải xét xử độc lập; nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, và cá nhân can thiệp vào việc xét xử; và quy định rằng việc xét xử phải được tiến hành kịp thời và công khai, và tòa án phải đảm bảo các nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và quá trình tranh tụng, và chính quyền phải coi bị cáo là vô tội cho đến khi chứng minh họ có tội. Luật này cũng bao gồm các điều về xây dựng các án lệ, chỉ ra rằng một trong những nhiệm vụ của Toà án nhân dân tối cao là tổng hợp và công bố các quyết định của các tòa án nhân dân để làm án lệ áp dụng trong các phiên xét xử.
Vẫn còn thiếu các luật sư và thẩm phán có trình độ. Liên đoàn Luật sư Việt Nam là tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và Hội Luật gia Việt Nam.
Thủ tục xét xử
Hiến pháp năm 2013 quy định các quyền cơ bản của công dân, trong đó mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Công dân đều phải được coi là vô tội cho đến khi việc xét xử chứng minh người đó có tội và có quyền mời luật sư bào chữa và được xét xử công khai, nhanh chóng. Bộ luật tố tụng hình sự mới đã pháp điển hóa suy đoán vô tội đối với người bị buộc tội và quy định nghĩa vụ chứng minh trong các vụ án hình sự thuộc về nhà nước. Tuy nhiên, các luật sư bào chữa thường phàn nàn rằng trong nhiều trường hợp có vẻ các thẩm phán đã xác định bị cáo có tội trước khi tiến hành xét xử. Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự cho phép quá trình tranh tụng nhiều hơn trong suốt phiên xét xử, một chính sách nếu được thực thi hiệu quả, sẽ đưa tòa án hướng tới một hệ thống tư pháp cân bằng bình đẳng hơn. Luật sư cho rằng các tòa án vẫn chưa triển khai hệ thống tranh tụng thực sự. Các phiên xử nói chung là công khai, nhưng trong các vụ án nhạy cảm, các thẩm phán đã xử kín hoặc hạn chế chặt chẽ người dự phiên tòa. Cơ chế bồi thẩm đoàn không được sử dụng.
Viện Kiểm sát nhân dân đưa ra cáo trạng truy tố bị can và đóng vai trò như một công tố viên trong quá trình xử án. Bị cáo có quyền được thông báo một cách nhanh chóng và chi tiết về cáo buộc đối với họ, tuy nhiên điều này không phải lúc nào cũng được thực hiện. Chính quyền nói chung để bị cáo có quyền có mặt và có luật sư bào chữa tại phiên tòa mặc dù không nhất thiết luật sư đó là do bị cáo chọn. Bộ luật tố tụng hình sự mới sẽ cho phép luật sư bào chữa dễ dàng đăng ký bào chữa cho thân chủ của mình. Luật pháp quy định ngôn ngữ viết và nói tại phiên tòa là Tiếng Việt song sẽ có phiên dịch nếu những người tham dự quá trình xét xử dùng ngôn ngữ nói và viết khác. Chính quyền chỉ định luật sư bào chữa cho bị cáo không đủ khả năng thuê luật sư chỉ trong các vụ án liên quan đến tội phạm vị thành niên hoặc người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc tâm thần hoặc có khả năng bị kết án chung thân hoặc tử hình.
Các luật mới ban hành vào tháng 11 cũng sẽ quy định chính quyền phải chỉ định luật sư bào chữa cho các bị cáo chính thức bị cáo buộc phạm tội với bản án có thể lên đến 20 năm hoặc nhiều hơn. Luật sư bào chữa thường cho biết họ có rất ít thời gian nghiên cứu các bằng chứng chống lại thân chủ của mình trước phiên xét xử. Mặc dù bị cáo hoặc luật sư bào chữa có quyền kiểm tra bằng chứng và chất vấn chéo các nhân chứng, nhưng đã có những vụ án mà bị cáo cũng như luật sư của mình không được phép tiếp cận bằng chứng của chính quyền trước phiên xử, không biết ai sẽ là nhân chứng hoặc không có cơ hội được chất vấn chéo các nhân chứng hoặc phản bác các lời khai. Bị cáo có quyền bào chữa, nhưng luật không quy định rõ ràng về việc bị cáo có quyền gọi người làm chứng.
Bộ luật tố tụng hình sự mới có quy định quyền im lặng trong một số trường hợp nhất định; mặc dù bị cáo sẽ có quyền im lặng khi chưa có sự có mặt của luật sư, song bị cáo có thể bị phạt nếu từ chối khai sau khi luật sư bào chữa có mặt. Luật mới quy định cụ thể về nghĩa vụ chứng minh trong các vụ án hình sự thuộc về nhà nước; do đó, bị cáo có quyền không bị bắt buộc nhận tội và được phép lựa chọn không đưa ra lời khai. Tuy nhiên, công an thường thẩm vấn nghi phạm mà không có sự tham dự của luật sư bào chữa. Có nhiều báo cáo cho biết điều tra viên đã dùng các hành động ngược đãi thân thể, cách ly, kéo dài quá lâu các buổi thẩm vấn, và tước đoạt giấc ngủ để bắt nghi phạm phải nhận tội. Trong các vụ án về an ninh quốc gia, các thẩm phán đôi khi không cho luật sư bào chữa được lập luận thay mặt thân chủ của mình trước tòa. Người bị kết án có quyền kháng cáo. Các tòa án quận/huyện và tỉnh không công bố biên bản phiên xét xử, nhưng Tòa án Nhân dân Tối cao vẫn công bố biên bản của tất cả các vụ án mà họ xử phúc thẩm.
Ví dụ, nhà hoạt động Lê Thị Phương Anh cho biết nhân viên cảnh sát đã hành hung bà trong giai đoạn điều tra trước khi xét xử để thực hiện ép cung. Cùng với hai nhà hoạt động khác, ngày 12 tháng 2, bà Anh đã bị kết án 12 tháng tù về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật hình sự). Nhà chức trách đã thả bà Phương Anh vào ngày 15 tháng 5.
Vẫn có các báo cáo đáng tin cậy cho rằng nhà chức trách đã gây sức ép để các luật sư bào chữa không nhận bào chữa cho những thân chủ là những nhà hoạt động tôn giáo hay dân chủ. Nhà chức trách cũng hạn chế, sách nhiễu, bắt giữ, khai trừ họ khỏi đoàn luật sư, và trong một số trường hợp còn giam giữ các luật sư bảo vệ nhân quyền vì làm đại diện cho các nhà hoạt động chính trị. Nhà chức trách đã không cho phép các luật sư như Lê Trần Luật, Huỳnh Văn Đông, Lê Công Định, Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Thanh Lương hành nghề luật sư.
Tù nhân chính trị và người bị giam giữ vì lý do chính trị
Chính quyền giam giữ ít tù nhân chính trị hơn so với các năm trước do họ đã chấp hành xong bản án, số lượng bắt giữ và kết án tiếp tục giảm. Vào cuối năm có khoảng 95 tù nhân chính trị, so với con số khoảng 125 tù nhân chính trị vào cuối năm 2014. Chính quyền khẳng định không có tù nhân chính trị tại Việt Nam và không cho phép các tổ chức nhân quyền hoặc các tổ chức nhân đạo tiếp xúc thường xuyên với những người này.
Chính quyền tiếp tục trấn áp những phát biểu về chính trị thông qua việc bắt giữ tùy tiện và giam giữ ngắn hạn mà không có cáo buộc. Trong năm qua, chính quyền đã kết án hai nhà hoạt động thực hiện ôn hòa các quyền con người đã được quốc tế công nhận về tội “gây rối trật tự công cộng” (Điều 245), và “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” (Điều 258) trong Bộ luật hình sự. Năm 2014, chính quyền đã kết án 29 nhà hoạt động.
Nhà chức trách cũng tiếp tục giam giữ và bỏ tù những người sử dụng Internet để bày tỏ các ý kiến về nhân quyền, chính sách của chính phủ và đa nguyên chính trị (xem phần 2.a.). Nhiều nhà hoạt động có liên hệ với các tổ chức chính trị không đăng ký tiếp tục bị giam trong tù, bao gồm Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Văn Lý, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Trần Anh Kim. Bộ Công an quản thúc tại gia những người khác, trong đó có Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung và Nguyễn Phương Uyên.
Nhà chức trách đã thả một số nhà hoạt động chính trị và tôn giáo nổi bật. Ngoài việc thả trước thời hạn ba tù nhân lương tâm theo pháp luật về ân xá (xem phần 1.d.), vào ngày 19 tháng 9, chính quyền đã đình chỉ bản án của blogger kiêm nhà hoạt động Tạ Phong Tần, đã thụ án bốn năm trong tổng án mười năm tù về tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88 Bộ luật hình sự). Bà Tần đã rời Việt Nam, và có thể sẽ phải chấp hành hết bản án nếu quay lại Việt Nam.
Các thủ tục và biện pháp khắc phục tư pháp dân sự
Hiến pháp năm 2013 quy định rằng người nào bị bắt và giam giữ trái phép, bị khởi tố hình sự, bị điều tra, truy tố, đưa ra xét xử, hoặc bị thi hành án trái pháp luật có quyền được đòi bồi thường về vật chất và tinh thần và phục hồi danh dự. Luật quy định cơ chế để theo đuổi vụ kiện dân sự nhằm giải quyết hoặc khắc phục hậu quả trong trường hợp nhà chức trách lạm quyền. Những vụ kiện dân sự được xét xử bởi tòa hành chính và tòa dân sự trong đó áp dụng thủ tục xét xử giống như trong các vụ án hình sự và được xét xử bởi các thành viên của cùng một hội đồng thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Cả ba tòa hình sự, hành chính và dân sự tiếp tục có biểu hiện tham nhũng, chịu ảnh hưởng từ bên ngoài, thiếu tính độc lập và thiếu kinh nghiệm.
Mặc dù pháp luật có quy định về quy trình bồi thường dân sự trong trường hợp cán bộ vi phạm nhân quyền, song trên thực tế công dân ít có khả năng theo đuổi một cách hiệu quả các thủ tục tư pháp dân sự hoặc hình sự trong việc khắc phục hậu quả của các hành vi vi phạm nhân quyền; bên cạnh đó, cũng chỉ có rất ít chuyên gia pháp lý có kinh nghiệm về hệ thống này.
Năm 2013, nhà chức trách đã thả ông Nguyễn Thanh Chấn, người bị kết án oan về tội giết người và đã thụ án 10 năm tù. Vào tháng 9, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã tiến hành điều tra các thẩm phán đã xét xử phúc thẩm ông Chấn. Ông Chấn đã đệ đơn khiếu nại dân sự lên Tòa phúc thẩm Hà Nội, và đến cuối năm vẫn đang chờ quyết định của tòa.
Chính phủ tiếp tục ngăn cấm các vụ kiện tập thể đối với các bộ của chính phủ, do đó đã hạn chế quyền khiếu kiện chung của công dân về đất đai.
Bồi thường tài sản
Vẫn có rất nhiều khiếu kiện về việc bồi thường không đủ hoặc chậm trễ, sự tham nhũng của cán bộ và sự thiếu minh bạch của chính phủ trong quá trình thu hồi đất và di dân để chuẩn bị cho các dự án cơ sở hạ tầng. Vào tháng 7 năm 2014, Luật Đất đai sửa đổi có hiệu lực giúp giải quyết các thách thức trong vấn đề thu hồi đất và tăng cường sự minh bạch về thủ tục. Tuy nhiên, nhiều người phàn nàn rằng các điều khoản và nguyên tắc đáng quan ngại nhất vẫn còn tồn tại. Luật sửa đổi vẫn duy trì quyền quyết định đáng kể trong việc xác định giá đất, giao đất và thu hồi đất cho ủy ban nhân dân và hội đồng nhân dân địa phương, đây là điều mà nhiều người khẳng định sẽ dẫn đến hành vi không công bằng và tham nhũng. Hơn nữa, nhiều người cho rằng với việc cho phép liên tục thu hồi đất để phát triển kinh tế xã hội, trái với việc chỉ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng và phúc lợi công cộng, thì luật này không có nhiều cải cách đáng kể.
Đã có một số vụ đụng độ giữa nông dân và chính quyền tại các địa điểm thu hồi đất và các cuộc biểu tình liên quan đến đất. Tranh chấp về thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế xã hội vẫn là một vấn đề lớn, gây bất bình trong dân chúng. Nhiều người dân có đất bị chính quyền cưỡng chế thu hồi đã phản đối tại các cơ quan đảng do đơn khiếu nại của họ không được giải quyết. Một số vụ cưỡng chế thu hồi đất đã gây ra các vụ bạo lực và thương tích cho cả quan chức nhà nước và người dân. Các báo cáo cũng cho biết “côn đồ” đã hăm dọa và đe dọa người dân, hoặc đột nhập vào nhà của các nhà hoạt động. Nhà chức trách đã bắt giữ và kết án ít nhất một chục người biểu tình liên quan đến đất đai với cáo buộc “chống người thi hành công vụ” hoặc “gây rối trật tự công cộng”.
Đầu năm qua, chính quyền địa phương ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh được cho là đã không cho 155 em học sinh Công giáo nhập học ở trường gần nhà và yêu cầu các em đến các trường xa hơn. Nhiều giáo dân cáo buộc các quan chức địa phương đã cố ép họ rời bỏ nhà cửa để tịch thu đất cho một dự án phát triển kinh tế.
Theo số liệu của chính phủ, số lượng đơn khiếu nại về tranh chấp đất đai tăng cao đột biến trong thập kỷ qua, chiếm 70% đến 90% tổng số lượng đơn khiếu kiện, khiếu nại.
Nhiều nhà hoạt động nhân quyền cho biết cảnh sát đã tịch thu đồ đạc cá nhân của họ, bao gồm máy tính xách tay, điện thoại di động, và các tài liệu cá nhân trong các cuộc thẩm vấn hoặc giam giữ tùy tiện.
f. Tự ý can thiệp vào quyền riêng tư, gia đình, nhà ở hay thư tín
Luật pháp nghiêm cấm các hành vi tự ý can thiệp vào quyền riêng tư, gia đình, nhà ở hay thư tín, song trên thực tế, chính phủ không bảo hộ nhất quán và nhà chức trách đôi khi vi phạm các quyền này.
Theo quy định của pháp luật, lực lượng an ninh chỉ được phép xông vào nhà dân nếu có lệnh khám xét của viện kiểm sát, song các cán bộ an ninh thường không tuân thủ quy định này đối với trường hợp của các nhà hoạt động, thay vào đó, họ yêu cầu được phép khám nhà đương sự với lời đe dọa về các hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra nếu thiếu hợp tác.
Các nhà chức trách đôi khi ngăn cản các nhà hoạt động chính trị và người thân của các tù nhân chính trị gặp gỡ các nhà ngoại giao nước ngoài hoặc ngăn không cho ra nước ngoài. Các chiến thuật được sử dụng bao gồm lập hàng rào hoặc cử bảo vệ đến đứng ngoài nơi cư trú của các nhà hoạt động và triệu tập các cá nhân đến đồn cảnh sát địa phương.
Các nhà hoạt động Nguyễn Đan Quế, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Bắc Truyền cho biết Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bao vây nhà của họ và ngăn cản họ gặp gỡ một quan chức cấp cao nước ngoài đến thăm vào ngày 5 tháng 8. Lê Công Cầu, thành viên của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, cho biết chính quyền tại thành phố Huế đã ngăn không cho ông ra khỏi nhà để đi gặp vị quan chức nước ngoài đó.
Các nhà chức trách mở và kiểm duyệt thư từ của những người đang trong diện bị theo dõi, tịch thu hàng hóa và thư từ, theo dõi các cuộc nói chuyện điện thoại, e-mail, tin nhắn văn bản, blog và các giấy tờ gửi qua fax của họ. Chính quyền cắt điện thoại và tạm ngưng cung cấp dịch vụ điện thoại di động và Internet của một số nhà hoạt động chính trị và người nhà của họ.
Bộ Công an cũng duy trì hệ thống đăng ký nhân khẩu và đội ngũ cảnh sát khu vực để giám sát các hoạt động trái pháp luật. Mặc dù hệ thống này ít can thiệp vào đời tư của người dân hơn so với trước đây, nhưng Bộ Công an vẫn tiếp tục theo dõi sát sao những người tham gia hoặc bị nghi ngờ tham gia các hoạt động chính trị trái phép. Người nhà của các nhà hoạt động công khai cho biết họ bị cán bộ an ninh xâm hại thân thể, hăm dọa và chất vấn.
Chính phủ tiếp tục khuyến khích các cặp vợ chồng không sinh nhiều hơn hai con. Mặc dù luật không cấm hoặc không quy định hình phạt đối với việc có nhiều hơn hai con, song một số đảng viên cho biết những hậu quả không chính thức nếu có hơn hai con, bao gồm hạn chế về thăng tiến trong công việc (xem phần 6, Phụ nữ).
Việc là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là điều kiện tiên quyết để thăng tiến trong các tổ chức nhà nước và trong tất cả các cơ quan và các doanh nghiệp có liên quan đến chính phủ. Tuy nhiên, sự đa dạng hóa kinh tế tiếp tục làm cho việc trở thành thành viên của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tổ chức quần chúng chịu sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng ít quan trọng trong việc thăng tiến về tài chính và địa vị xã hội.
Phần 2. Tôn trọng tự do của người dân, bao gồm:
a. Tự do ngôn luận và tự do báo chí
Mặc dù hiến pháp và pháp luật đã quy định về quyền tự do ngôn luận, bao gồm cả quyền tự do ngôn luận của nhà báo, nhưng chính quyền vẫn tiếp tục áp dụng các quy định chung về an ninh quốc gia và các quy định chống phỉ báng nhằm hạn chế những quyền tự do này. Pháp luật coi tội “phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo”, “tội tuyên truyền chống Nhà nước” là những tội nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia. Pháp luật cũng quy định rõ là cấm “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước và các tổ chức xã hội”.
Tự do ngôn luận: Chính quyền tiếp tục hạn chế những phát ngôn có nội dung chỉ trích các cá nhân lãnh đạo chính quyền, ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên chính trị, dân chủ đa đảng, hoặc chất vấn các chính sách về những vấn đề nhạy cảm như nhân quyền, tự do tôn giáo, hay vấn đề tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc. Chính quyền cũng tìm cách ngăn chặn các chỉ trích thông qua việc theo dõi các cuộc gặp gỡ và liên lạc của các nhà hoạt động, bao gồm tại các cơ sở giáo dục.
Ngày 25 tháng 3, trong bối cảnh các cuộc biểu tình công khai gia tăng tại Hà Nội phản đối kế hoạch của chính quyền thành phố trong việc chặt hạ cây cổ thụ trên các tuyến phố chính, trường Đại học Lâm nghiệp đã ra thông báo chỉ đạo “tất cả các cán bộ nhân viên và sinh viên không được phát ngôn hoặc cung cấp thông tin” liên quan đến việc chặt hạ cây xanh tại Hà Nội và cho biết cảnh sát yêu cầu nhà trường quy kết trách nhiệm đối với các cá nhân nếu “vi phạm quy định về phát ngôn và cung cấp thông tin”. Trường đại học này đã rút lại thông báo hai ngày sau đó, sau khi vấp phải nhiều chỉ trích của báo chí và truyền thông xã hội.
Tháng 12 năm 2014, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt giữ blogger Nguyễn Đình Ngọc (còn gọi là Nguyễn Ngọc Già) vì những vi phạm “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” sau khi ông viết các bài trên Dân Làm Báo và Dân Luận chỉ trích nhà nước. Nhà chức trách sau đó đã cáo buộc ông Ngọc về tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88 liên quan đến an ninh quốc gia). Cảnh sát đã gây sức ép bắt gia đình ông Ngọc phải giữ im lặng về vụ việc. Nhà chức trách đã bắt giữ blogger Hồng Lê Thọ hồi tháng 11 năm 2014 và giam giữ ông Nguyễn Quang Lập vào tháng 12 năm 2014 tại thành phố Hồ Chí Minh, với cáo buộc đăng các bài viết trên blog chỉ trích nhà nước. Ngày 10 tháng 2, chính quyền đã thả tại ngoại ông Lập do vấn đề sức khỏe và ngày 20 tháng 10 đã đình chỉ điều tra vụ việc. Ngày 11 tháng 2, cảnh sát đã thả Hồng Lê Thọ tại ngoại, và ngày 21 tháng 10 đã đình chỉ điều tra vụ việc. Ông Nguyễn Đình Ngọc vẫn đang bị giam giữ.
Chính quyền khoan dung đối với một số cuộc tranh luận hạn chế về các chủ đề chính trị hoặc xã hội nhạy cảm. Ví dụ, chính phủ cho phép các tổ chức phi chính phủ và các công ty tư nhân được góp ý về Bộ luật dân sự nhằm thực hiện những cải tiến cần thiết cho các nhóm dễ bị tổn thương, ví dụ như quyền của người chuyển giới trong việc thay đổi bản dạng giới tính. Chính quyền cũng khoan dung đối với các cuộc tranh luận hạn chế trên báo chí và giữa các tổ chức xã hội dân sự về các đạo luật quan trọng đang được Quốc hội thảo luận (xem thêm phần 3, Đảng phái chính trị và tham gia chính trị).
Vào tháng 6, linh mục Công giáo Nguyễn Duy Tân cho biết Công an tỉnh Đồng Nai đã triệu tập ông đến đồn cảnh sát địa phương ba lần để chất vấn về một bài đăng trên Facebook trong đó ông nói rằng ông hy vọng về “hòa bình, dân chủ, nhân quyền, và quyền bỏ phiếu cho mọi người Việt Nam”. Ông Duy cho biết cảnh sát đã đe dọa sẽ cáo buộc ông về tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88 Bộ luật hình sự).
Tự do báo chí và truyền thông: Đảng Cộng sản Việt Nam, chính phủ, và các tổ chức đoàn thể chịu sự lãnh đạo của Đảng kiểm soát tất cả các hoạt động in ấn, phát thanh truyền hình, và truyền thông điện tử thông qua Bộ Thông tin và Truyền thông, dưới sự chỉ đạo chung của Ban Tuyên giáo Trung ương. Việc sở hữu tư nhân bất kỳ đài phát thanh truyền hình hay tòa báo nào vẫn còn bị cấm, nhưng có nhiều báo cáo phổ biến cho biết đã có các hợp đồng phụ ký với các cơ sở tư nhân. Theo báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông đã thúc đẩy kế hoạch hợp nhất báo in và báo điện tử trong cả nước, nhằm tăng cường sự kiểm soát của chính phủ đối với báo chí.
Hiến pháp khẳng định công dân có quyền tự do báo chí. Ngày 7 tháng 8, chính phủ đã ban hành Nghị định 65/2015/NĐ-CP, trong đó sửa đổi bổ sung một số điều về xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến hành vi đăng, phát, cung cấp, đưa tin, công bố thông tin sai sự thật. Theo Nghị định này, các cơ quan báo chí sẽ bị xử phạt nếu họ xuất bản “thông tin sai sự thật” trong các lĩnh vực thống kê; năng lượng nguyên tử; quản lý giá, phí, lệ phí và hóa đơn; giáo dục; hàng không dân dụng; đào tạo nghề; khí tượng thủy văn; bản đồ; và y tế.
Luật pháp giới hạn chỉ cho phép các quan chức cấp cao, người nước ngoài, khách sạn hạng sang, và giới truyền thông được tiếp cận truyền hình vệ tinh nhưng người dân trên khắp cả nước tiếp tục có thể tiếp cận các chương trình nước ngoài thông qua thiết bị vệ tinh gia đình hoặc truyền hình cáp. Thuê bao ở các vùng đô thị có thể tiếp cận rộng rãi truyền hình cáp, bao gồm các kênh có nguồn gốc nước ngoài.
Chính quyền cho phép các cơ quan truyền thông nước ngoài (bao gồm nhưng không giới hạn BBC và CNN) hoạt động mặc dù luật pháp quy định việc phát sóng truyền hình nước ngoài phải được phát chậm 30 đến 60 phút để có thể kiểm duyệt nội dung. Người xem truyền hình cho biết nhiều bài bình luận, phim tài liệu, phim truyền hình về chiến tranh Việt Nam, chiến tranh lạnh, thời Xô Viết hoặc các sự kiện tại Trung Quốc, bao gồm cuộc biểu tình “Chiếm Trung tâm” (Occupy Central) ở Hồng Kông đã bị phá sóng.
Các hãng truyền thông lớn của nước ngoài cho biết chính quyền từ chối cấp visa cho những phóng viên trước đây đã viết về các chủ đề chính trị nhạy cảm, đặc biệt là các phóng viên của các báo Việt ngữ ở nước ngoài.
Bạo hành và sách nhiễu: Có nhiều báo cáo về các nhân viên an ninh đã tấn công, đe dọa hoặc bắt giữ một số nhà báo vì họ đã đề cập đến những vấn đề nhạy cảm.
Trong năm qua, nhà chức trách tiếp tục trừng phạt báo Người Cao tuổi với cáo buộc đã đăng một loạt bài điều tra chỉ trích tham nhũng và việc làm sai trái của các quan chức nhà nước cấp cao. Vào tháng 2, Bộ Thông tin và Truyền thông đã thu hồi giấy phép phiên bản trực tuyến của báo này và thu hồi thẻ nhà báo của Tổng biên tập Kim Quốc Hoa (còn gọi là Nguyễn Quốc Hoa). Ngày 12 tháng 5, cảnh sát đã khởi tố ông Hoa về tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” (Điều 258 Bộ luật hình sự). Đến thời điểm cuối năm cảnh sát vẫn chưa giam giữ ông Hoa.
Ngày 8 tháng 6, các báo cáo cho biết nhiều người đã đánh các nhà báo Vĩnh Phú và Linh Hoàng của báo Giao thông và lấy trộm máy ảnh khi họ đang thu thập tin ở thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 18 tháng 6, cảnh sát bị cho là đã bắt giữ và đánh đập phóng viên Tống Văn Đạt của báo Tuổi trẻ Thủ đô tại Hà Nội sau khi ông này cố gắng quay phim các nhân viên cảnh sát điều khiển giao thông.
Ngày 25 tháng 6, nhà báo tự do kiêm Chủ tịch Hội nhà báo độc lập Việt Nam Phạm Chí Dũng cho biết sau khi gửi nhiều giấy triệu tập, Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã giam giữ ông trong hơn tám giờ và gây áp lực buộc ông phải đóng cửa trang web của hội. Cảnh sát triệu tập Dũng một lần nữa vào ngày 8 tháng 7.
Ngày 3 tháng 9, những người lạ mặt đã hành hung và làm nhà báo Nguyễn Ngọc Quang của Truyền hình Thái Nguyên bị thương. Các nhà báo khác cho rằng vụ hành hung là do nhà báo này đã có các bài điều tra về các hoạt động khai thác khoáng sản trái phép trên địa bàn tỉnh.
Ngày 10 tháng 9, các nhân viên cảnh sát đã hành hung phóng viên Phạm Thanh Tàu của báo Hà Nội Mới khi ông này đang đưa tin về một vụ tai nạn giao thông tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 15 tháng 9, chính quyền tỉnh Long An đã nhanh chóng tạm giữ phóng viên Nguyễn Hoàng Nam, tịch thu điện thoại di động, và ép ông này xóa các nội dung trong máy ảnh sau khi tham dự phiên xét xử 12 nhà hoạt động về quyền sử dụng đất. Ngày 23 tháng 9, cảnh sát tại các khu vực lân cận Hà Nội đã giam giữ sáu thành viên của kênh truyền hình Lương Tâm TV mà không có lệnh, đây là một tổ chức truyền thông độc lập trên YouTube không đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông. Cảnh sát đã đánh đập một số thành viên và thả họ ra trong cùng ngày sau khi đã tịch thu máy quay phim, máy tính xách tay và điện thoại di động của họ. Các thành viên bị giam giữ bao gồm người đứng đầu Nguyễn Vũ Bình và các nhân viên Lê Thu Hà, Nguyễn Mạnh Cường, Phạm Đắc Đạt, Lê Thị Yến và Trần Đức Thịnh. Cảnh sát đã khám xét nhà của Nguyễn Vũ Bình và tịch thu các thiết bị sản xuất, đe dọa sẽ truy tố nếu ông Bình tiếp tục làm phim.
Các nhà báo nước ngoài cho biết họ tiếp tục bị yêu cầu phải thông báo cho cơ quan chức năng khi đi ra khỏi Hà Nội đến các khu vực được coi là nhạy cảm, chẳng hạn như vùng Tây Bắc hoặc Tây Nguyên, hoặc liên quan đến câu chuyện mà chính phủ có thể coi là nhạy cảm. Nhiều phóng viên nước ngoài cho biết họ đã bị nhân viên an ninh sách nhiễu, bao gồm cả việc đe dọa không gia hạn thị thực nếu họ tiếp tục công bố những câu chuyện về các chủ đề “nhạy cảm”.
Kiểm duyệt hoặc hạn chế nội dung đăng tải: Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Tuyên giáo Trung ương thường xuyên can thiệp trực tiếp để áp đặt hoặc kiểm duyệt nội dung. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản và chính phủ vẫn duy trì kiểm soát các nội dung truyền thông thông qua hình thức tự kiểm duyệt với lời đe dọa sẽ sa thải và có thể bắt giữ các nhà báo.
Vào tháng 9, báo Thanh Niên có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh đã sa thải Phó tổng thư ký tòa soạn Đỗ Văn Hùng, và Bộ Thông tin và Truyền thông đã thu hồi thẻ nhà báo sau khi ông này đăng một bài viết châm biếm Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trên trang Facebook của mình.
Luật pháp hạn chế nghiêm ngặt tự do báo chí. Nghị định 159/2013/NĐ-CP quy định phạt tiền từ 70 triệu đồng đến 100 triệu đồng đối với các nhà báo, báo chí, và truyền thông trực tuyến nếu cung cấp hoặc phát thông tin được cho là làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Nghị định cũng cho phép chính phủ xử phạt nhà báo và báo chí. Nghị định này quy định mức tiền phạt từ 5 triệu đến 10 triệu đồng nếu nhà báo không công bố nguồn tin; các nhà báo và báo chí “sử dụng tài liệu, hồ sơ từ các tổ chức, thư tín hay tài liệu của các cá nhân”.
Theo các quy định của chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông có quyền thu hồi giấy phép đối với các nhà xuất bản nước ngoài, và từng nhà xuất bản nước ngoài hàng năm phải nộp đơn xin cấp lại giấy phép. Tuy nhiên, những người bán rong đường phố và các cửa hàng dành cho khách du lịch công khai bán các phiên bản bằng tiếng nước ngoài của một số cuốn sách bị cấm. Các ấn phẩm định kỳ bằng tiếng nước ngoài hiện có mặt rộng rãi ở các thành phố, mặc dù đôi khi chính quyền kiểm duyệt các bài viết.
Quy định về tội phỉ bang/vu khống: Luật pháp yêu cầu các nhà báo phải bồi thường thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức bị hủy hoại danh tiếng do thông tin mà các nhà báo đã công bố, ngay cả khi những thông tin này là chính xác. Các nhà quan sát độc lập cũng lưu ý rằng luật pháp đã hạn chế nghiêm trọng các phóng sự điều tra. Mặc dù trong năm qua đã có một số bài báo viết về những chủ đề thường được xem là nhạy cảm, chẳng hạn như việc truy tố các cán bộ cao cấp thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam và của các quan chức chính phủ với các cáo buộc tham nhũng và đôi khi phê phán một vài quan chức và các tổ chức chính thức khác, nhưng quyền tự do chỉ trích Đảng Cộng sản Việt Nam và đội ngũ lãnh đạo cấp cao trong Đảng vẫn còn bị hạn chế.
Tự do Internet
Chính quyền tiếp tục thực hiện các hình thức kiểm soát truy cập Internet. Chính quyền cho phép truy cập Internet thông qua một số ít các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP), tất cả đều thuộc quyền sở hữu nhà nước hoặc là công ty cổ phần với quyền kiểm soát đáng kể của nhà nước. Mặc dù có những sự kiểm soát này, việc tiếp cận và sử dụng Internet tiếp tục tăng mạnh. Ngân hàng Thế giới ước tính năm 2014 có 48% dân số được tiếp cận với Internet.
Nhà chức trách tiếp tục trấn áp các phát biểu mang tính chính trị trên mạng thông qua các vụ bắt giữ vì động cơ chính trị và kết án các blogger cũng như thông qua việc giam giữ ngắn hạn, theo dõi, hăm dọa, và tịch thu bất hợp pháp máy tính và điện thoại di động của các nhà hoạt động và người nhà của họ. Chính quyền tiếp tục áp dụng Điều 258 Bộ luật hình sự đối với các nhà hoạt động thể hiện quan điểm chính trị ôn hòa trên mạng. Những người bất đồng chính kiến và các blogger cho biết Bộ Công an thường xuyên ra lệnh ngắt kết nối dịch vụ Internet tại nhà của họ.
Chính quyền đôi khi sử dụng tường lửa để chặn một số trang web được coi là không phù hợp về chính trị và văn hóa, trong đó có các trang web được điều hành bởi các nhóm chính trị người Việt Nam ở hải ngoại. Ngoài ra, Đài phát thanh Châu Á Tự do và trang web BBC tiếng Việt cho biết dịch vụ của họ ở Việt Nam bị khóa. Các nhà cung cấp dịch vụ nhà nước đã khóa các trang tiếng Việt tại Việt Nam khi các trang đó chứa các nội dung chỉ trích Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc thúc đẩy cải cách chính trị. Một số thuê bao trong nước cho biết họ phải đi đường vòng, như sử dụng các mạng ảo cá nhân để truy cập vào các trang web bị chặn.
Nhà chức trách không chặn Facebook; và các giám đốc điều hành của Facebook cho biết có hơn 30 triệu người sử dụng trên toàn quốc; tuy nhiên, chính phủ theo dõi các bài viết trên Facebook và trừng phạt các nhà hoạt động sử dụng internet để tổ chức các cuộc biểu tình. Vào tháng 7, cảnh sát đã giam giữ nhà hoạt động trên internet Nguyễn Thanh Phước trong hơn hai tuần với các cáo buộc “gây rối trật tự công cộng” sau khi ông này kêu gọi tổ chức cuộc họp “phong trào Zombie” tại thành phố Hồ Chí Minh trên trang Facebook của mình. Cảnh sát cũng đã giam giữ khoảng 20 thành viên khác của phong trào Zombie trong một vài giờ. Ngày 28 tháng 8, công an đã giam giữ thành viên của phong trào Zombie Nguyễn Hữu Thiên Ân tại thành phố Nha Trang và sau đó truy tố ông này về tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88 liên quan đến an ninh quốc gia). Tính đến tháng 12, công an đã gia hạn điều tra thêm một vài tháng nữa và gây sức ép lên người nhà phải giữ im lặng về vụ việc của ông Thiên Ân. Một bài hát rap chống cộng sản lan truyền trên các phương tiện truyền thông xã hội vào đầu năm đã lấy cảm hứng từ phong trào Zombie.
Theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông, các công ty Internet, các trang mạng xã hội, các trang web cung cấp thông tin hoặc bình luận thuộc lĩnh vực “chính trị, kinh tế, văn hóa, và xã hội”, có trụ sở tại Việt Nam phải đăng ký và phải có giấy phép hoạt động. Bộ này cũng yêu cầu chủ sở hữu đệ trình các kế hoạch chi tiết về nội dung và phạm vi để chính phủ phê duyệt. Chính quyền áp dụng các chế tài hành chính như phạt tiền hoặc đình chỉ giấy phép hoạt động để điều chỉnh các hoạt động trực tuyến, bao gồm Nghị định 159 và 174 thi hành Luật Xử phạt các vi phạm hành chính.
Nghị định 72/2013/NĐ-CP yêu cầu các công ty vận hành các trang web tổng hợp và các mạng xã hội, bao gồm cả nền tảng blog phải đặt hệ thống máy chủ tại Việt Nam và lưu trữ thông tin đã đăng trong 90 ngày và một số siêu dữ liệu đến hai năm. Tháng 9 năm 2014, chính quyền đã ban hành thông tư mới hướng dẫn chi tiết thi hành Nghị định 72. Người sử dụng mạng xã hội và blog phải cung cấp đầy đủ họ tên, số chứng minh thư và địa chỉ trước khi tạo tài khoản. Theo Nghị định này, các nhà vận hành trang web tổng hợp trong nước và mạng xã hội phải cho phép nhà chức trách kiểm tra các máy chủ tại Việt Nam theo yêu cầu và phải có cơ chế gỡ bỏ nội dung bị cấm trong vòng ba giờ kể từ thời điểm nhà chức trách phát hiện hoặc thông báo. Việc thực thi các yêu cầu này dường như hạn chế.
Chính phủ cấm truy cập trực tiếp Internet thông qua nhà cung cấp dịch vụ Internet nước ngoài, yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ Internet trong nước phải lưu trữ thông tin truyền đi trên Internet ít nhất là trong 15 ngày, đồng thời yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ Internet phải cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và chỗ làm việc cho các nhân viên an ninh giám sát các hoạt động trên Internet. Bộ Công an từ lâu đã yêu cầu “các đại lý Internet”, bao gồm các quán cà phê phải đăng ký thông tin cá nhân của khách hàng và lưu trữ các trang web mà khách hàng đã truy cập, và tham gia các cuộc điều tra thực thi pháp luật về hoạt động trên mạng. Các quán cà phê Internet tiếp tục cài đặt và sử dụng phần mềm do Chính phủ phê duyệt để theo dõi các hoạt động trực tuyến của khách hàng. Bộ Công an triển khai thực hiện những việc này và các yêu cầu khác và tiến hành theo dõi có chọn lọc.
Tự do học thuật và các sự kiện văn hóa
Các chuyên gia nước ngoài làm việc tạm thời tại các trường đại học trong nước được phép thảo luận về các chủ đề phi chính trị một cách rộng rãi và tự do trên lớp học, nhưng các nhà quan sát của chính phủ thường xuyên tham dự những lớp học được các nhà khoa học nước ngoài và trong nước giảng dạy. Các ấn phẩm học thuật thường phản ánh quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính phủ. Chính phủ tiếp tục yêu cầu các tổ chức quốc tế và trong nước phải có sự phê duyệt của chính phủ ít nhất 20 ngày trước khi tổ chức các hội nghị có sự tham gia và tài trợ của nước ngoài.
Chính quyền tiếp tục cấm mọi chỉ trích công khai Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của nhà nước, bao gồm các tổ chức khoa học và kỹ thuật độc lập, kể cả khi các chỉ trích đó hoàn toàn mang tính học thuật.
Mặc dù chính quyền kiểm soát các cuộc triển lãm nghệ thuật, âm nhạc, và các hoạt động văn hóa khác nhưng vẫn tiếp tục cho phép các nghệ sĩ lựa chọn chủ đề tác phẩm trong phạm vi rộng hơn. Các nhà chức trách tiếp tục hạn chế các cuộc trưng bày nghệ thuật và trình diễn âm nhạc công cộng bằng việc yêu cầu nhiều thủ tục xin phép đáng kể. Chính quyền cũng cho phép các trường đại học có nhiều quyền tự chủ hơn trong các hoạt động trao đổi quốc tế và các chương trình hợp tác quốc tế, tuy nhiên yêu cầu về thị thực đối với các học giả và các sinh viên trao đổi vẫn còn phiền phức.
Nhiều nhà hoạt động cho biết các cán bộ của Bộ Công an đã đe dọa lãnh đạo các trường đại học nếu họ không đuổi học các nhà hoạt động, mặc dù các hoạt động chính trị của họ mang tính ôn hòa.
Ngày 1 tháng 9, Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã đuổi học sinh viên và là nhà hoạt động Phạm Lê Vương Các ở Thành phố Hồ Chí Minh. Là một blogger chính trị, Các đã tham dự phiên Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát tại Geneva hồi tháng 6 và cho biết chính quyền địa phương thẩm vấn khi ông này quay trở về Việt Nam.
b. Tự do hội họp và lập hội một cách hòa bình
Tự do hội họp
Mặc dù hiến pháp quy định cá nhân có quyền tự do hội họp, song chính quyền địa phương thường ngăn cản hội họp, và chính quyền tiếp tục hạn chế và theo dõi tất cả các hình thức phản đối hay tụ tập công khai. Luật và các quy định yêu cầu những người muốn tụ tập theo nhóm phải xin phép, chính quyền địa phương có thể đồng ý hoặc từ chối cấp phép mà không nêu lý do. Chỉ những người tổ chức tụ họp công khai để bàn về các vấn đề nhạy cảm thì mới phải xin giấy phép, và người ta thường xuyên tụ tập theo các nhóm phi chính thức mà không bị chính quyền can thiệp. Chính quyền nói chung không cho phép biểu tình vì mục đích chính trị. Chính quyền cũng hạn chế quyền tụ tập để cầu nguyện của nhiều nhóm tôn giáo chưa đăng ký.
Bộ Công an và công an địa phương thường xuyên ngăn cản các nhà hoạt động tham gia hội họp một cách ôn hòa. Ví dụ, vào ngày 26 tháng 1, blogger Huỳnh Công Thuận và nhà hoạt động Nguyễn Bắc Truyền cho biết Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ngăn cản họ tham dự một cuộc họp xã hội dân sự để thảo luận về việc áp dụng hình phạt tử hình của Việt Nam. Cả hai người cho biết công an địa phương đã bao vây nhà của họ và ngăn cản việc đi lại của họ.
Vào tháng 3 và tháng 4, sinh viên và các nhà hoạt động vì môi trường độc lập đã tổ chức một loạt các cuộc tuần hành tại Hà Nội để phản đối kế hoạch của quan chức thành phố trong việc chặt hạ cây cổ thụ. Ngày 13 tháng 4, chính quyền đã bắt giữ Nguyễn Việt Dũng về tội “gây rối trật tự công cộng” sau khi ông này mặc một bộ quân phục của Việt Nam Cộng Hòa trước đây và tham gia cuộc biểu tình ngày 12 tháng 4 phản đối chặt hạ cây xanh. Ngày 14 tháng 12, một tòa án cấp quận tại Hà Nội đã kết án Dũng 15 tháng tù giam. Luật sư của ông Dũng cho biết ông Dũng bị kết án “chỉ là do ông mặc bộ quân phục đó”.
Ngày 26 tháng 4, hơn 100 cảnh sát mặc đồng phục và thường phục đã giải tán cuộc tuần hành quanh Hồ Hoàn Kiếm nhằm phản đối kế hoạch chặt hạ cây xanh tại Hà Nội. Chính quyền địa phương đã dùng vũ lực bắt giữ khoảng 20 người, thẩm vấn và hăm dọa họ tại một đồn cảnh sát địa phương trong nhiều giờ. Một số người khác, chủ yếu là sinh viên, khẳng định chính quyền đã giam giữ họ khi đang trên đường đến tham gia cuộc tuần hành. Những người khác cho biết một số trường đại học ở Hà Nội đã cấm sinh viên tham gia các sự kiện tương tự.
Ngày 17 tháng 5, chính quyền ở Hà Nội đã cố ngăn chặn cuộc tụ họp dã ngoại bên ngoài thành phố để ủng hộ chiến dịch “Vì một Hà Nội xanh” và đến thăm nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến – người đã bị những người lạ hành hung vài ngày trước đó. Những người có ý định tham gia chuyến dã ngoại khẳng định họ đã gặp nhiều khó khăn mới đến được nơi do sự can thiệp của chính quyền khiến các lái xe phải thả họ xuống giữa đường, và nhóm đã phải chia thành các nhóm nhỏ và bắt phương tiện giao thông công cộng đến điểm hẹn.
Ngày 25 tháng 7, các nhà hoạt động và nạn nhân của sự bất công trên toàn quốc đã tham gia “Ngày tuyệt thực thế giới”, ủng hộ phóng thích tất cả các tù nhân chính trị tại Việt Nam. Nhà chức trách đã ngăn cản nhiều nhà hoạt động, bao gồm Phạm Bá Hải, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Hoàng Vi, và Nguyễn Phương Uyên, rời khỏi nhà trong thời gian này. Những người khác, bao gồm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trương Hoàng Anh, Nguyễn Phi Tâm và Phạm Văn Hải khẳng định chính quyền đã theo dõi, ngăn chặn, hành hung, giam giữ họ khi đang trên đường đến các địa điểm tụ họp công cộng. Ví dụ, nhà chức trách đã bất ngờ đóng cửa Công viên Bách thảo ở Hà Nội để phun thuốc trừ sâu khi một nhóm các nhà hoạt động dự định gặp nhau ở đó.
Vào tháng 8 và tháng 9, các học viên Pháp Luân Công tại thành phố Hồ Chí Minh cho biết cảnh sát và những người đàn ông được thuê đã hành hung họ khi cố gắng nhóm họp tại một trong số các công viên công cộng của thành phố. Các học viên Pháp Luân Công cho biết cảnh sát không đưa ra lý do giải tán nhóm mà chỉ nói rằng họ đang làm theo lệnh.
Tháng 7 năm 2014, công an đã truy tố ba nhà hoạt động vì đất đai của Phong trào Liên đới Dân oan, gồm Ngô Thị Minh Ước, Nguyễn Thị Bé Hai, Nguyễn Thị Trí, về tội “tuyên truyền chống nhà nước” (Điều 88 Bộ luật hình sự) sau khi họ tổ chức cuộc biểu tình tại thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu chính quyền trả lại đất đã tịch thu cho nông dân và chỉ trích sự tham nhũng của chính phủ, Trung Quốc, và các khẩu hiệu của Đảng. Đến thời điểm cuối năm vụ việc vẫn chưa được xét xử.
Chính quyền thường cho phép các nhóm được tụ tập hội họp trao đổi về các vấn đề không nhạy cảm. Vào tháng 8, hơn 1.000 người đã tham gia cuộc diễu hành niềm tự hào Việt Pride tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tự do lập hội
Hiến pháp cho phép cá nhân có quyền được lập hội song chính quyền tiếp tục hạn chế nghiêm ngặt quyền tự do lập hội, không cho phép hay chấp nhận các đảng đối lập chính trị. Chính phủ cấm thành lập các tổ chức tư nhân, độc lập, đặc biệt nhấn mạnh đối với những người làm việc trong các tổ chức quần chúng do đảng thành lập hoặc kiểm soát, thường là dưới sự bảo trợ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Một số tổ chức, bao gồm các nhóm tôn giáo chưa đăng ký, đã hoạt động bên ngoài khuôn khổ này mà không bị chính quyền can thiệp hoặc chỉ bị can thiệp rất ít, và trong năm qua nhà chức trách đã thể hiện nhiều sự khoan dung đối với các tổ chức phi chính phủ độc lập. Một số tổ chức đã đăng ký cho biết trong năm qua các hoạt động của họ bị giám sát nhiều hơn trong giai đoạn trước khi chuyển giao lãnh đạo dự kiến trong kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam hồi tháng 1 năm 2016.
Khuôn khổ pháp lý và quy định của Việt Nam đã hệ thống hóa tính ưu việt của Đảng Cộng sản Việt Nam và thiết lập các cơ chế để hạn chế sự tự do của các tổ chức phi chính phủ trong việc hoạt động và tổ chức, bao gồm hạn chế tự do lập hội, tự do hội họp, tự do ngôn luận, và tự do báo chí. Chính phủ đã sử dụng các hệ thống đăng ký phức tạp và được chính trị hóa đối với các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức tôn giáo để ngăn chặn sự tham gia chính trị và tôn giáo không được hoan nghênh. Các tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước thường xuyên gặp các vấn đề trong việc đăng ký, được nêu cụ thể trong Nghị định 93 về việc đăng ký của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài và Nghị định 38 về quản lý và sử dụng viện trợ nước ngoài của các tổ chức phi chính phủ trong nước. Bất chấp những hạn chế này, số lượng các tổ chức phi chính phủ độc lập vẫn tiếp tục tăng lên trong năm qua.
Luật pháp và các quy định điều chỉnh các tổ chức phi chính phủ làm hạn chế khả năng tham gia vào vận động chính sách hoặc tiến hành các nghiên cứu ngoài các chủ đề được nhà nước phê duyệt. Ví dụ, Quyết định 97, có hiệu lực năm 2009, nghiêm cấm các tổ chức khoa học xã hội và công nghệ hoạt động trong các lĩnh vực như chính sách kinh tế, chính sách công, các vấn đề chính trị, và một loạt các lĩnh vực khác được coi là nhạy cảm. Chính quyền cũng không cho phép họ tham gia thể hiện công khai các lập trường vận động chính sách.
Vào đầu tháng 5, trong một cuộc bầu cử nội bộ tại thành phố Hồ Chí Minh chọn đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Nhà văn Việt Nam, chín nhà văn cho biết họ bị loại khỏi danh sách các ứng viên do tham gia vận động thành lập một hội nhà văn độc lập.
c. Tự do tôn giáo
Xem Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ tại trang web.
d. Tự do đi lại, người lánh nạn trong nước, bảo vệ người tị nạn và người không quốc tịch
Hiến pháp quy định quyền tự do đi lại trong nước, ra nước ngoài, di trú, và hồi hương, nhưng chính quyền vẫn áp đặt một số giới hạn về tự do đi lại đối với một số cá nhân, đặc biệt là những người bị kết án về các tội an ninh quốc gia hoặc các tội có liên quan hoặc những người bày tỏ quan điểm chỉ trích chính quyền. Nhìn chung chính quyền có thái độ hợp tác với Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tị nạn (UNHCR) và với các tổ chức nhân đạo khác trong việc bảo vệ và hỗ trợ người lánh nạn trong nước, người tị nạn, người tị nạn hồi hương, người xin vào các trại tế bần, người không quốc tịch, và những người khác cần có sự hỗ trợ.
Chính phủ cho phép Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tị nạn thực hiện các chuyến thăm tìm hiểu thực tế và giám sát, song chính quyền địa phương lại theo dõi chặt chẽ tất cả các khía cạnh của những chuyến thăm đó. Một số thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số bỏ chạy khỏi Tây Nguyên sang Campuchia, một số do bị đàn áp tôn giáo, quả quyết rằng khi họ trở về, chính quyền Việt Nam đã bắt giữ và thẩm vấn họ, đôi khi lên đến vài ngày. Người nhà của họ cũng cho biết cảnh sát đã theo dõi chặt chẽ những người đã trốn sang Campuchia và cả người nhà của họ.
Đi lại trong nước: Một số nhà bất đồng chính kiến đang bị quản chế hoặc bị quản thúc tại gia bị hạn chế đi lại chính thức, bao gồm Lê Công Định, Lê Thanh Tùng, Nguyễn Phương Uyên, Nguyễn Tiến Trung và Đinh Nhật Uy. Bộ Công an tiếp tục theo dõi và hạn chế có chọn lọc sự đi lại của các nhà hoạt động nổi bật như Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Bắc Truyền, Phạm Bá Hải, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Hồng Quang, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga, và nhiều người khác. Nhiều nhà hoạt động cho biết họ phải dùng các chiến thuật cải trang để tránh những sự hạn chế đi lại này. Các nhà hoạt động khác cho biết việc tự do đi lại trong nước đã cải thiện hơn so với các năm trước đó.
Một số nhà hoạt động cho biết chính quyền đã ngăn họ và người thân ra khỏi nhà khi có các sự kiện nhạy cảm về chính trị. Ví dụ, vào tháng 9, trong kỳ Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Nam và trong chuyến thăm của các quan chức chính phủ cấp cao, cảnh sát mặc thường phục đã bao vây nhà của nhà hoạt động Trần Thị Nga và một người hàng xóm và ngăn cản họ ra ngoài.
Chính quyền hạn chế việc đi đến một số khu vực nhất định thông qua việc yêu cầu công dân và người nước ngoài cư trú tại Việt Nam phải xin giấy phép đến thăm các khu vực biên giới; các cơ sở quốc phòng, các khu công nghiệp liên quan đến quốc phòng, các khu “dự trữ chiến lược quốc gia” và những “công trình cực kỳ quan trọng vì mục đích chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội”.
Cảnh sát địa phương yêu cầu công dân phải đăng ký tạm trú khi ngủ qua đêm ở bất kỳ nơi nào bên ngoài nhà riêng của họ; chính quyền dường như có những biện pháp thực thi yêu cầu này một cách nghiêm ngặt hơn ở một số huyện miền núi Tây Bắc và Tây Nguyên. Người mang hộ chiếu nước ngoài cũng phải đăng ký nếu tá túc ở nhà dân, mặc dù không có trường hợp nào bị chính quyền địa phương từ chối cho phép du khách nước ngoài tá túc tại nhà bạn bè hay gia đình họ.
Luật cư trú không được chính quyền triển khai thực hiện một cách nghiêm ngặt và việc di cư từ nông thôn ra thành thị vẫn không giảm. Tuy nhiên, việc di cư không phép đã gây khó khăn cho người dân trong việc xin giấy phép cư trú hợp pháp và hưởng các phúc lợi về giáo dục công cộng và chăm sóc sức khỏe.
Xuất cảnh: Những công dân có ý định di cư đôi khi gặp khó khăn trong quá trình xin hộ chiếu; các nhà chức trách thường tịch thu hộ chiếu, đôi khi là tịch thu không thời hạn.
Việc cấm xuất cảnh ngày càng được tăng cường. Các nhà chức trách cấm và ngăn chặn hàng chục cá nhân đi ra nước ngoài hoặc nhập cảnh vào Việt Nam, giữ hộ chiếu của họ về những tội mơ hồ, hoặc từ chối cấp hộ chiếu cho một số nhà hoạt động mà không giải thích rõ ràng. Những người này bao gồm Nguyễn Hồ Nhật Thành (Paulo Thành Nguyễn), Phạm Chí Dũng, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Nguyễn Hoàng Vi, Bùi Tuấn Lâm, Đinh Xuân Thi, Lê Phúc Hiệp, Nguyễn Lân Thắng, Nguyễn Thị Huyền Trang, Nguyễn Thanh Thủy, Nguyễn Tường Thụy, Ngô Nhật Đăng, Nguyễn Đình Hà, Nguyễn Văn Tráng, Phạm Đắc Đạt, Phạm Lê Vương Các, Nguyễn Văn Viên, Lê Ngọc Thanh, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Thị Nhung, Lê Bá Huy Hào, Mai Xuân Dũng, Võ Văn Tạo, Khổng Hy Thiêm, Uyên Thảo Trần Lê, Nguyễn Thị Phi và Phạm Hà Nam. Mặc dù thời hạn quản thúc đã hết, chính quyền tiếp tục cấm các nhà hoạt động như Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Bá Hải, Phạm Hồng Sơn, Lê Thị Kim Thu, Nguyễn Hồng Quang, và những người khác được nhận hộ chiếu và đi ra nước ngoài.
Di cư và hồi hương: Nhìn chung, chính quyền cho phép các công dân đã di cư được trở về thăm quê hương, mặc dù công an từ chối cấp thị thực nhập cảnh và đôi khi trục xuất một số nhà hoạt động chính trị nổi bật ở nước ngoài.
Bảo vệ người tị nạn
Xin tị nạn: Luật không quy định việc cấp quy chế tị nạn và chính phủ cũng không thiết lập hệ thống bảo vệ người tị nạn.
Hồi hương người tị nạn: Theo các tổ chức phi chính phủ nhân quyền quốc tế, chính phủ đã gây áp lực lên Campuchia trong việc hồi hương các thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên trước đó đã chạy sang Campuchia xin quy chế tị nạn và bảo vệ tránh sự sách nhiễu và các hạn chế về tự do tôn giáo của các quan chức Việt Nam.
Ngày 20 tháng 11, người phát ngôn của Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền bày tỏ quan ngại về các báo cáo cho rằng chính quyền đã bắt giữ chín công dân Triều Tiên hồi tháng 10 và sau đó chuyển họ sang Trung Quốc, nơi họ có nguy cơ bị gửi trả về Triều Tiên. Người phát ngôn lưu ý rằng, nếu bị hồi hương, những người này sẽ có nguy cơ đối mặt với các vi phạm về nhân quyền nghiêm trọng.
Người không quốc tịch
Các nhà chức trách cho biết tính đến năm 2013 họ đã nhập tịch cho hầu như tất cả 10.000 cá nhân không quốc tịch và trước đây thường trú ở Campuchia. Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn (UNHCR) ước tính có gần 200 người đang chờ phê chuẩn chính thức từ chính phủ vào cuối năm.
Phần 3. Tự do tham gia quy trình chính trị
Hiến pháp quy định khả năng bầu trực tiếp đại biểu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan nhà nước khác. Mặc dù hiến pháp quy định rằng công dân có quyền bỏ phiếu khi đủ 18 tuổi và ứng cử vào Quốc hội, hoặc Hội đồng nhân dân khi 21 tuổi, nhưng khả năng thay đổi chính phủ một cách dân chủ của công dân bị hạn chế nghiêm ngặt. Đảng Cộng sản Việt Nam sàng lọc tất cả các ứng cử viên.
Trong phiên họp mùa xuân, Quốc hội đã thông qua luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, và có hiệu lực vào ngày 1 tháng 9. Luật mới này quy định về tỷ lệ các ứng viên chính thức vào Quốc hội là người dân tộc thiểu số (18%) và là phụ nữ (35%) và vào Hội đồng nhân dân là phụ nữ (35%). Luật cho phép các cá nhân đang bị tạm giam và tạm giữ và những người đang bị cải tạo giáo dục bắt buộc và cai nghiện được bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử.
Bầu cử và tham gia chính trị
Các cuộc bầu cử gần đây: Cuộc bầu cử gần đây nhất vào năm 2011 lựa chọn các đại biểu Quốc hội đã cho phép cạnh tranh hạn chế giữa các ứng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, mặc dù toàn bộ quy trình bầu cử là không rõ ràng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã lựa chọn và xem xét kỹ lưỡng tất cả các ứng viên. Các ứng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã giành 458 trong số 500 ghế được bầu. 42 người còn lại là những ứng viên ngoài Đảng.
Theo chính phủ, hơn 99% cử tri đủ điều kiện bỏ phiếu đã đi bỏ phiếu trong cuộc bầu cử năm 2011 - một con số mà các nhà quan sát quốc tế cho là cao một cách khó tin. Cử tri được phép bỏ phiếu theo ủy quyền, và chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm đảm bảo rằng tất cả các cử tri đủ điều kiện đều đi bỏ phiếu bằng cách tổ chức bầu cử theo nhóm, và đảm bảo rằng tất cả các cử tri đủ điều kiện đều đã đi bỏ phiếu.
Quốc hội, mặc dù thành phần phần lớn là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, vẫn tiếp tục thể hiện nhiều nỗ lực để khẳng định vai trò của cơ quan lập pháp. Trong năm qua, Quốc hội đã thông qua cơ chế thực hiện bỏ phiếu bất tín nhiệm đối với các lãnh đạo cấp cao và đã tổ chức một lần bỏ phiếu bất tín nhiệm.
Đảng phái chính trị và tham gia chính trị: Chương I, Điều 4 của hiến pháp sửa đổi nêu vai trò chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mặc dù Điều này không nêu chi tiết các quyền cụ thể, song phần 1 khẳng định vai trò của đảng là “đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam” và “lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội", một vai trò lớn không trao cho bất cứ thực thể theo hiến pháp nào khác. Phần 2 nêu thêm trách nhiệm của Đảng đối với quần chúng. Phần 3 quy định rằng “tất cả các tổ chức Đảng và Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Bộ Chính trị có vai trò là cơ quan ra quyết định tối cao, mặc dù về mặt nguyên tắc thì Bộ Chính trị phải báo cáo cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phong trào đối lập chính trị và các đảng phái chính trị khác được coi là bất hợp pháp.
Ngày 21 tháng 9, công an ở tỉnh Thái Bình đã giam giữ và sau đó cáo buộc cựu tù nhân lương tâm, nhà hoạt động dân chủ Trần Anh Kim ngay trước khi ông này lên kế hoạch khai trương một tổ chức chính trị mới có tên “Lực lượng Quốc dân Dựng cờ Dân chủ” (xem phần 1.d.) .
Chính phủ tiếp tục hạn chế nghiêm ngặt các tranh luận công khai và những chỉ trích đối với nhà nước độc đảng. Tuy nhiên, một số nhóm và cá nhân đã công khai kêu gọi cho phép dân chủ đa đảng. Các nhà phê bình đã thảo luận về những ưu và khuyết điểm của các luật và quy định liên quan đến nhân quyền, bao gồm các sửa đổi trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, và dự thảo luật mới về lập hội, tiếp cận thông tin, biểu tình, và tín ngưỡng và tôn giáo. Họ cũng thảo luận các vấn đề chính trị nhạy cảm khác, bao gồm bảo vệ quyền của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, chuyển giới và người liên giới tính; các quyền về đất đai và các vấn đề về môi trường.
Sự tham gia của phụ nữ và các dân tộc thiểu số: Luật mới về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân quy định 35% ứng viên chính thức của hai cơ quan này là phụ nữ và 18% ứng viên chính thức đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, phụ nữ tiếp tục có ít đại diện trong các cơ quan chính trị. Có 122 nữ đại biểu Quốc hội (chiếm khoảng 24%), hai nữ bộ trưởng trong bộ máy chính phủ gồm 28 thành viên, hai thành viên nữ (một người dân tộc Thái) trong Bộ Chính trị gồm 16 thành viên và một thành viên nữ trong Tòa án Nhân dân Tối cao. Các dân tộc thiểu số chiếm 78 ghế trong Quốc hội (khoảng 16%); có một nam bộ trưởng là người dân tộc thiểu số trong chính phủ và không có đại biểu nào là người dân tộc thiểu số trong bộ máy Tòa án Nhân dân tối cao.
Phần 4. Tham nhũng và thiếu sự minh bạch trong Chính phủ
Luật pháp quy định các hình phạt hình sự đối với hành vi tham nhũng của quan chức, tuy nhiên, chính phủ không phải lúc nào cũng thực thi pháp luật một cách hiệu quả, và các quan chức đôi khi có hành vi tham nhũng mà không bị trừng phạt.
Tham nhũng: Tham nhũng tiếp tục là một vấn đề lớn bất chấp chính phủ đã tăng cường tập trung về vấn đề này trước thềm Đại hội Đảng Cộng sản vào năm 2016. Vào tháng 9, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành báo cáo đánh giá về các thách thức và thành tựu chính trị và kinh tế, trong đó nêu “Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng... và đặt ra thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của nhà nước, đe dọa sự sống còn của chế độ”.
Tham nhũng trong giao đất, đấu thầu các dự án xây dựng và cơ sở hạ tầng, và hỗ trợ phát triển chính thức tiếp tục là một vấn đề. Vào tháng 4, một nhà tài trợ nước ngoài cho rằng tham nhũng đã đạt đến mức mà họ sẽ ngừng hỗ trợ các dự án tại Việt Nam.
Cải cách ngành ngân hàng tiếp tục diễn ra trong năm báo cáo, dẫn đến việc bắt giữ ông Nguyễn Xuân Sơn, cựu Chủ tịch Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, với cáo buộc tham nhũng trong thời gian ông đảm nhiệm chức Tổng Giám đốc Ocean Bank. Đây là vụ bắt giữ lãnh đạo cấp cao đầu tiên của một doanh nghiệp nhà nước kể từ năm 2013.
Ngày 11 tháng 9, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cho biết Thanh tra Chính phủ đã tiến hành hơn 120.000 cuộc thanh tra các quan chức chính phủ và các giao dịch từ ngày 31 tháng 7, và thu hồi 50,3 nghìn tỷ đồng và 4.420 mẫu đất. Thanh tra Chính phủ phát hiện các vi phạm kinh tế với tổng số tiền 201,5 nghìn tỷ đồng trong giai đoạn 2011-15, thu hồi giấy phép đối với hơn 46.900 mẫu đất, và thu hồi 113,88 nghìn tỷ đồng trong 441 vụ liên quan đến tham nhũng.
Ngày 27 tháng 10, một tòa án ở Hà Nội đã kết án sáu lãnh đạo của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam do dính líu đến vụ bê bối tham nhũng liên quan đến hợp đồng đường sắt do Nhật Bản tài trợ.
Tham nhũng trong lực lượng cảnh sát là vấn đề đáng quan ngại ở tất cả các cấp, và cảnh sát đôi khi đã có hành vi vi phạm pháp luật mà không bị trừng phạt. Ngành công an có cơ chế giám sát nội bộ, nhưng cơ chế này cũng chịu ảnh hưởng chính trị.
Luật phòng, chống tham nhũng 2013 cho phép công dân khiếu nại công khai về các thủ tục hành chính không hiệu quả của chính phủ, về các hành vi tham nhũng và chính sách kinh tế, nhưng chính quyền nghiêm cấm việc tập hợp những người bất mãn lại, theo đó những người tổ chức phản đối tham nhũng sẽ bị bắt giữ và sách nhiễu.
Kê khai tài chính: Luật phòng, chống tham nhũng sửa đổi yêu cầu các quan chức cấp cao của chính phủ và các đại biểu Quốc hội phải kê khai thu nhập và tài sản của mình và giải trình những thay đổi so với bản kê khai của năm trước. Tháng 1 năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị yêu cầu kê khai tài sản tăng thêm của các quan chức đang nắm giữ vị trí quản lý. Ngoài ra, các giám sát viên có quyền chất vấn bản kê khai của nhân viên. Mặc dù pháp luật không quy định hình phạt đối với việc không tuân thủ, nhưng Nghị định ban hành hồi tháng 7 năm 2014 lại quy định có thể áp dụng hình thức khiển trách, cảnh cáo, đình chỉ, hoặc sa thải công chức không tuân thủ. Năm 2014, chính phủ cho biết 99% công chức đã thực hiện kê khai tài chính.
Tiếp cận thông tin của chính phủ: Luật pháp không quy định về việc công chúng được truy cập thông tin của chính phủ, và chính phủ thường không cấp quyền truy cập đối với những thông tin như vậy cho công dân Việt Nam hay người nước ngoài, kể cả các phương tiện truyền thông nước ngoài. Theo quy định của pháp luật, Công báo đã công bố hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật của chính phủ trong các ấn bản hàng ngày, nhưng lại không công bố các văn bản của Đảng Cộng sản, ví dụ như các chỉ thị của Bộ Chính trị. Chính phủ và Quốc hội đều có trang web bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Các quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nói chung có thể được tiếp cận thông qua trang web của tòa, mặc dù việc lấy thông tin của chính phủ là khó khăn đối với các cá nhân.
Phần 5. Thái độ của Chính phủ đối với điều tra quốc tế và điều tra phi chính phủ về các cáo buộc vi phạm quyền con người
Chính phủ không cho phép các tổ chức nhân quyền địa phương hoặc tư nhân được thành lập hoặc hoạt động, cũng như không dung thứ cho các tổ chức hay cá nhân chỉ trích công khai về các thực tiễn quyền con người. Chính phủ sử dụng nhiều phương cách để ngăn chặn các chỉ trích trong nước về các chính sách quyền con người, trong đó bao gồm biện pháp giám sát; tạm giam; truy tố và bỏ tù; can thiệp vào thư từ cá nhân; và hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do hội họp.
Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác: Nhìn chung, chính phủ cấm các cá nhân liên hệ trực tiếp với các tổ chức nhân quyền quốc tế, nhưng nhiều nhà hoạt động vẫn bất chấp lệnh cấm này. Chính phủ cho phép đại diện của Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người tị nạn, và chính phủ nước ngoài đến thăm Tây Nguyên.
Các cơ quan về nhân quyền của Chính phủ: Không có các thanh tra viên, các ủy ban nhân quyền hoặc các ủy ban lập pháp được thành lập cụ thể để giải quyết các vấn đề về quyền con người. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cơ quan chịu trách nhiệm đào tạo tất cả các quan chức cấp cao, giám sát Viện Nhân quyền Việt Nam – đây là viện thực hiện các trao đổi nghiên cứu với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài về các thông lệ quốc tế tốt nhất về nhân quyền. Chính phủ tiếp tục thảo luận song phương về các vấn đề quyền con người với một số chính phủ nước ngoài và tổ chức các cuộc hội đàm chính thức liên quan đến quyền con người, bao gồm thông qua các cuộc đối thoại được tổ chức hàng năm.
Phần 6. Phân biệt đối xử, bạo hành xã hội và nạn buôn người
Luật pháp nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc, giới tính, khuyết tật, ngôn ngữ, hoặc địa vị xã hội; tuy nhiên, việc thực thi những quy định này của luật pháp vẫn còn chưa đồng đều. Chính phủ tiếp tục thể hiện quan điểm thoáng hơn và tôn trọng các quyền dành cho người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính, chuyển giới và liên giới.
Phụ nữ
Hiếp dâm và bạo lực gia đình: Luật pháp nghiêm cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng bạo lực đối với phụ nữ cũng như nghiêm cấm hành vi lợi dụng một người không có khả năng tự vệ. Luật pháp cũng coi hiếp dâm là một tội, bao gồm cả hành vi hiếp dâm bạn đời. Kẻ phạm tội hiếp dâm có thể phải chịu hình phạt từ hai đến bảy năm tù giam. Trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng, bao gồm hiếp dâm có tổ chức, có hành vi phạm tội lặp lại, hoặc gây hại nghiêm trọng cho nạn nhân thì mức án có thể từ bảy đến 15 năm tù. Các cơ quan chức năng đã truy tố các trường hợp phạm tội hiếp dâm một cách đầy đủ, nhưng chính phủ không công bố số liệu thống kê về số vụ bắt giữ, truy tố, kết án và trừng phạt đối tượng phạm tội này.
Các cơ quan chức năng coi hành vi bạo lực gia đình là các vụ dân sự, trừ trường hợp nạn nhân bị thương tích lên tới hơn 11%. Luật pháp quy định cụ thể các hành vi cấu thành bạo lực gia đình, đồng thời, giao trách nhiệm cụ thể cho các cơ quan chính phủ và các bộ ngành khác nhau, bên cạnh đó, cũng quy định các mức hình phạt đối với người phạm tội từ cảnh cáo, quản chế đến phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ là khá phổ biến. Vào tháng 2 năm 2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ghi nhận 192.000 vụ bạo lực gia đình từ năm 2009 đến giữa năm 2013, trong đó có 136.700 vụ liên quan đến bạo lực đối với bạn đời, chủ yếu là bạo lực với vợ, hơn 19.700 vụ liên quan đến bạo lực với người cao tuổi, và hơn 27.800 vụ liên quan đến bạo lực đối với trẻ em.
Vào tháng 11, các tổ chức phi chính phủ đã công bố kết quả hai cuộc điều tra về bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. Một cuộc khảo sát cho biết 58% phụ nữ đã lập gia đình bị lạm dụng về thể chất hoặc tình dục ít nhất một lần trong đời, thường là do bạn đời là nam giới hoặc thành viên trong gia đình. Một nghiên cứu khác được thực hiện từ tháng 12 năm 2013 đến tháng 1 năm 2014 tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy 83% phụ nữ và trẻ em gái ở Hà Nội và 91% tại thành phố Hồ Chí Minh đã trải qua ít nhất một trong các hình thức quấy rối tình dục trong đời. Người trả lời là sinh viên cho biết họ đã bị huýt sáo và trêu chọc, trong khi những nhân viên văn phòng được hỏi cho biết họ bị quấy rối qua thư điện tử và tin nhắn. Theo khảo sát, hầu hết các vụ quấy rối đều xảy ra trên đường phố.
Các tổ chức phi chính phủ và những người giúp đỡ nạn nhân cho rằng nhiều quy định pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình còn yếu, và chính phủ không cung cấp số liệu thống kê về việc bắt giữ, truy tố, kết án, hoặc trừng phạt. Các quan chức chính phủ thừa nhận bạo lực gia đình là một mối quan ngại xã hội đáng kể, và truyền thông đã thảo luận vấn đề này một cách công khai. Mặc dù lực lượng cảnh sát và hệ thống pháp luật nói chung vẫn chưa đủ để đối phó với các vụ án liên quan đến bạo lực gia đình, song với sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ quốc tế và trong nước, chính phủ hiện vẫn đang tiếp tục đào tạo về pháp luật cho lực lượng cảnh sát, các luật sư và các quan chức trong hệ thống pháp lý. Sự kỳ thị xã hội cũng khiến nhiều nạn nhân không dám đối mặt, do lo sợ bị bạn đời hoặc gia đình họ quấy rối.
Một số tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế đã nỗ lực giải quyết vấn đề bạo lực gia đình. Ở các thành phố lớn, các tổ chức phi chính phủ trong nước vận hành các đường dây nóng dành cho các nạn nhân. Trung tâm Phụ nữ và Phát triển, được hỗ trợ bởi Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cũng có đường dây nóng trên toàn quốc, dù không được quảng bá một cách rộng rãi ở khu vực nông thôn. Mặc dù khu vực nông thôn thường thiếu các nguồn lực tài chính để cung cấp đường dây nóng và xây dựng các trung tâm lánh nạn, song luật pháp quy định phải thành lập "những địa chỉ tin cậy" để phụ nữ có thể chuyển đến ở tại một gia đình khác trong khi chính quyền địa phương và lãnh đạo cộng đồng cố gắng giáo dục kẻ bạo hành và giải quyết khiếu nại. Có 300 địa chỉ như thế trên khắp cả nước, tất cả đều được thành lập thông qua Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở cấp xã, phường. Nhiều phụ nữ vẫn chấp nhận cuộc sống hôn nhân bị bạo hành hơn là phải đối đầu với sự kỳ thị xã hội và gia đình cũng như e ngại về sự bất ổn về kinh tế.
Với sự giúp đỡ của các tổ chức phi chính phủ quốc tế, chính phủ tiếp tục hỗ trợ các cuộc hội thảo và hội nghị chuyên đề nhằm mục đích giáo dục phụ nữ và nam giới về bạo hành gia đình và về các quyền của phụ nữ, đồng thời, nhấn mạnh vấn đề này thông qua các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng. Tháng 2 năm 2014, Thủ tướng đã phê duyệt chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình đến năm 2020. Các tổ chức phi chính phủ địa phương đã liên kết với Hội Liên hiệp Phụ nữ để tham gia vào các mối quan ngại của phụ nữ, đặc biệt là vấn đề bạo hành đối với phụ nữ và vấn đề buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Quấy rối tình dục: Luật pháp nghiêm cấm hành vi quấy rối tình dục ở nơi làm việc (xem phần 7.d.). Các ấn phẩm và đào tạo về các quy định phẩm chất đạo đức đối với các quan chức chính phủ và công nhân viên chức cũng không đề cập đến vấn đề quấy rối tình dục.
Nạn nhân bị quấy rối tình dục có thể liên hệ với các tổ chức xã hội như Hội Phụ nữ để yêu cầu can thiệp. Nếu nạn nhân là thành viên của công đoàn thì đơn khiếu nại cũng có thể được nộp cho các cán bộ công đoàn. Trong trường hợp nghiêm trọng, nạn nhân có thể kiện người phạm tội với tội danh “làm nhục người khác” và từ đó xác định các hình phạt bao gồm cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. Tuy nhiên, trong năm qua các vụ kiện hoặc truy tố liên quan đến hành vi quấy rối tình dục vẫn còn chưa được biết đến và hầu hết các nạn nhân đều không muốn tố cáo kẻ phạm tội một cách công khai.
Quyền sinh sản: Hiến pháp quy định xã hội, gia đình và mọi công dân có nghĩa vụ thực hiện “chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình”. Pháp luật khẳng định quyền của cá nhân trong việc lựa chọn biện pháp tránh thai, khám phụ khoa, điều trị, kiểm tra sức khỏe trong thời kỳ mang thai và được tiếp cận dịch vụ y tế khi sinh nở tại các cơ sở y tế. Nhìn chung, chính phủ Việt Nam đã thực thi các quy định pháp luật này.
Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020 áp dụng cho tất cả các công dân và cố gắng duy trì số con trung bình của mỗi cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh sản là 1,8. Chính phủ, chủ yếu thông qua các chiến dịch truyền thông rộng rãi, ra sức khuyến khích các cá nhân thực hiện kế hoạch hóa gia đình. Một chỉ thị của Bộ chính trị có quy định về khiển trách đảng viên nếu họ sinh con thứ ba, thôi không cho giữ chức vụ nếu sinh con thứ tư và khai trừ Đảng nếu sinh con thứ năm. Vi phạm chỉ thị này cũng làm giảm cơ hội được đề bạt, và có thể dẫn đến chấm dứt hợp đồng lao động.
Phân biệt đối xử: Pháp luật quy định về bình đẳng giới trong tất cả các lĩnh vực đời sống, nhưng phụ nữ vẫn tiếp tục phải đối mặt với sự phân biệt đối xử của xã hội. Mặc dù phần lớn các đạo luật và các quy định pháp luật đều bảo vệ các quyền của phụ nữ trong hôn nhân và tại nơi làm việc, đồng thời, có nhiều quy định pháp lý kêu gọi đối xử ưu đãi đối với nữ giới, song phụ nữ không phải lúc nào cũng được đối xử bình đẳng trong tuyển dụng, giáo dục, hoặc nhà ở, đặc biệt là ở các vùng nông thôn (xem thêm phần 7.d.).
Chênh lệch về giới trong giáo dục đã giảm, nhưng vẫn còn những khoảng cách nhất định. Theo báo cáo do Cơ quan phụ nữ Liên Hợp Quốc tài trợ năm 2013, trình độ chuyên môn của lao động nữ thấp hơn so với lao động nam. Có sự khác biệt đáng kể về hồ sơ đào tạo giữa nam giới và nữ giới ở cấp đại học. Trong giáo dục đại học, số lượng sinh viên nữ theo học các chương trình công nghệ ứng dụng ít hơn rất nhiều so với số lượng nam giới.
Một báo cáo nữa do Liên Hợp Quốc tài trợ về bảo trợ xã hội đối với phụ nữ và trẻ em gái lưu ý rằng phụ nữ di cư làm việc trong các lĩnh vực không chính thức gặp khó khăn về nhà ở tiêu chuẩn. Những phụ nữ này sống trong các căn phòng tạm bợ, không an toàn và thiếu các dịch vụ cơ bản.
Mặc dù pháp luật quy định về quyền thừa kế bình đẳng giữa nam giới và phụ nữ, song trên thực tế, phụ nữ vẫn phải đối mặt với sự phân biệt đối xử về văn hóa: Con trai thường được thừa kế tài sản nhiều hơn con gái, trừ khi được quy định khác trong văn bản pháp lý. Một nghiên cứu thực hiện vào tháng 12 năm 2014 cho thấy phụ nữ có ít thông tin hơn nam giới về tiếp cận đất đai và việc thích con trai hơn con gái vẫn còn tiếp diễn, mặc dù luật pháp quy định mọi công dân đều có quyền bình đẳng.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ trực thuộc chính phủ vẫn tiếp tục nỗ lực thúc đẩy quyền phụ nữ, trong đó bao gồm quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế và pháp lý, quyền được bảo vệ trước hành vi bạo hành của bạn đời. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng đã vận hành các chương trình tài chính tiêu dùng tín dụng vi mô và các chương trình khác để thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ. Bản Kế hoạch Chiến lược Quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 của chính phủ khẳng định rằng nam giới và nữ giới phải bình đẳng trong việc được hưởng cơ hội, tham gia, và các lợi ích về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, tính đến cuối năm, chính phủ chưa đưa ra cam kết tài chính nào để thực hiện chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016-2020. Chính phủ đã thông qua các quy định về phân bổ ngân sách dựa trên giới như là một phần của Luật ngân sách Nhà nước trong năm qua.
Lựa chọn giới tính dựa trên cơ sở giới: Theo Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc, tỷ lệ giới tính bé trai/bé gái trung bình của trẻ sơ sinh ở Việt Nam năm 2013 là 113,8/100. Tỷ lệ mất cân bằng của bé trai sơ sinh so với bé gái vẫn tiếp tục gia tăng, đặc biệt là ở một số khu vực giàu có tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Chính phủ thừa nhận vấn đề này (giảm tỷ lệ chênh lệch nam-nữ là một mục tiêu nổi bật của Chương trình quốc gia về bình đẳng giới) và tiếp tục tiến hành các biện pháp để giải quyết tình trạng đó. Bộ Y tế đã nhận được thêm vốn và nguồn lực để giải quyết sự mất cân bằng giới này. Bộ Y tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký kết chương trình phối hợp nhằm giải quyết sự mất cân bằng giới tính, tập trung truyền thông để thay đổi hành vi, và xây dựng các chương trình thí điểm tại 20 tỉnh. Mặc dù không có chương trình cụ thể để giải quyết sự mất cân bằng giới tính, nhưng Hội Liên hiệp Phụ nữ đã lồng ghép chủ đề này vào các chương trình và các hoạt động hiện tại của hội.
Trẻ em
Khai sinh: Theo quy định của luật, bất cứ ai có ít nhất cha hoặc mẹ là người Việt Nam thì đều được công nhận là công dân Việt Nam, mặc dù những người có cha mẹ không phải là người Việt Nam cũng có thể được cấp quy chế công dân trong một vài trường hợp nhất định. Không phải tất cả các em bé mới sinh đều được đăng ký khai sinh ngay lập tức, thường là do người dân vẫn còn thiếu hiểu biết hoặc chưa thấy thật cần thiết về vấn đề này. Luật pháp yêu cầu phải trình giấy khai sinh khi sử dụng các dịch vụ công cộng, chẳng hạn như giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Chính vì vậy, các bậc cha mẹ, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, không đăng ký khai sinh sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng được nhập học và được chính phủ bảo trợ chăm sóc sức khỏe đối với con cái họ.
Giáo dục: Giáo dục là bắt buộc, miễn học phí, và phổ cập cho đến khi trẻ 14 tuổi, mặc dù nhiều gia đình được yêu cầu phải trả nhiều loại phí khác nhau. Theo một chương trình trợ cấp của chính phủ, học sinh dân tộc thiểu số được miễn các loại học phí. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng không phải lúc nào cũng thực hiện đúng quy định này, hoặc chưa thực hiện đồng đều đối với các bé trai và bé gái, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, nơi mà ngân sách của chính phủ và gia đình dành cho giáo dục còn rất hạn chế và đóng góp của trẻ em trong lực lượng lao động nông nghiệp vẫn được đánh giá cao.
Xâm hại trẻ em: Năm 2011, Liên Hợp Quốc và Tổng cục Thống kê cho biết 25% trẻ em là nạn nhân của các hành vi xâm hại theo như báo cáo của các bà mẹ trong một nghiên cứu về bạo lực gia đình năm 2006. Theo một báo cáo trên báo chí, Bộ Công an và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ghi nhận năm 2012 có khoảng 1.000 trẻ em bị xâm hại tình dục mỗi năm. Các tổ chức phi chính phủ nêu lên sự khó khăn trong việc có được thông tin chính xác về tình trạng xâm hại tình dục trẻ em và trẻ vị thành niên, điều đó có nghĩa là số lượng các vụ xâm hại trên thực tế có thể còn cao hơn nữa. Chính phủ không công bố thông tin về mức độ nghiêm trọng của vấn đề này, cũng không cho biết những nỗ lực trong việc đấu tranh chống các hành vi xâm hại.
Kết hôn sớm và bị ép buộc: Theo luật, độ tuổi kết hôn tối thiểu là 18 tuổi đối với nữ và 20 tuổi đối với nam, và luật quy định việc giúp tổ chức kết hôn hoặc kết hôn với người chưa đủ tuổi quy định là hành vi vi phạm pháp luật. Người nào đứng ra dàn xếp những cuộc hôn nhân sớm này có thể bị phạt với các mức độ khác nhau, từ phạt vi phạm hành chính đến phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Theo cuộc tổng điều tra dân số năm 2009, tỷ lệ kết hôn dưới 18 tuổi chiếm khoảng 16% ở miền núi Tây Bắc và khoảng 11% ở khu vực Tây Nguyên – đây là hai khu vực nông thôn nghèo, xa xôi hẻo lánh, tuy nhiên không có thêm dữ liệu của chính phủ. Chính quyền cấp tỉnh và Hội Liên hiệp phụ nữ chịu trách nhiệm nâng cao nhận thức về hậu quả của việc kết hôn sớm.
Bóc lột tình dục trẻ em: Hành vi bóc lột tình dục trẻ em dưới 16 tuổi là bất hợp pháp. Pháp luật quy định các hành vi mua bán, tước đoạt sự tự do của trẻ em cũng như tất cả các hành vi liên quan đến mại dâm trẻ em và cưỡng bức lao động trẻ em là phạm tội. Án phạt cho tội danh này là từ 3 năm đến tù chung thân và phạt tiền từ 5 đến 50 triệu đồng. Pháp luật cũng quy định hình phạt tù đối với các hành vi liên quan đến mại dâm trẻ em, trong đó có hành vi chứa chấp mại dâm trẻ em (từ 12 đến 20 năm tù), môi giới mại dâm trẻ em (từ 7 đến 15 năm tù), và mua dâm người vị thành niên (từ 3 đến 15 năm tù). Tương tự, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi đối xử tàn bạo, làm nhục, bắt cóc, mua bán, và cưỡng bức trẻ em tham gia bất kỳ hoạt động nào có hại cho sự phát triển lành mạnh của trẻ; đồng thời quy định về sự bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.
Tuổi được quan hệ tình dục có sự đồng thuận tối thiểu là 18. Hành vi hiếp dâm bị coi là bất hợp pháp và có thể bị kết án tù chung thân hoặc tử hình. Hình phạt cho hành vi quan hệ tình dục với trẻ vị thành niên từ 16 đến 18 tuổi là từ 5 đến 10 năm tù giam tùy từng trường hợp cụ thể. Hình phạt đối với tội hiếp dâm trẻ em trong độ tuổi từ 13 và dưới 16 là từ bảy đến 15 năm tù giam. Nếu làm nạn nhân có thai, loạn luân, hoặc người phạm tội là người giám hộ của nạn nhân thì mức án tăng lên 12 đến 20 năm tù giam. Luật quy định tất cả các trường hợp quan hệ tình dục với trẻ dưới 13 tuổi đều được coi là hiếp dâm trẻ em, và người phạm tội có thể bị kết án từ 12 đến 20 năm tù giam, tù chung thân hoặc tử hình. Chính phủ thực thi pháp luật và những kẻ phạm tội hiếp dâm phải nhận những bản án nghiêm khắc. Việc sản xuất, phân phối, phổ biến, hoặc bán các sản phẩm khiêu dâm trẻ em là bất hợp pháp và có thể bị phạt tù từ 3 đến 10 năm tù giam.
Trẻ em lang thang: Các tổ chức phi chính phủ độc lập ước tính có khoảng 23.000 đến 25.000 trẻ em sống lang thang trên đường phố, đôi khi các em bị cảnh sát ngược đãi hoặc quấy rối.
Bắt cóc trẻ em quốc tế: Việt Nam không phải là thành viên của Công ước Hague năm 1980 về các khía cạnh dân sự đối với hành vi bắt cóc trẻ em quốc tế.
Thái độ thù địch đối với người Do Thái
Có rất ít người Do Thái sinh sống và làm việc tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Không có báo cáo nào cho thấy ở Việt Nam có những hành vi chống lại người Do Thái.
Nạn buôn người
Xem Báo cáo về nạn buôn người của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trên trang web.
Người khuyết tật
Hiến pháp có các quy định bảo vệ người khuyết tật về thể chất và tâm thần. Luật pháp nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử hoặc ngược đãi đối với người khuyết tật về thể chất và tâm thần; khuyến khích họ làm việc và đảm bảo quyền bình đẳng của họ trong việc tiếp cận với chỗ ở, giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, giao thông vận tải, và đào tạo hướng nghiệp. Chính phủ tiếp tục tăng cường phối hợp với các chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ và các công ty tư nhân nhằm rà soát các quy định pháp luật điều chỉnh việc thực hiện điều ước quốc tế, tiến hành nghiên cứu khả thi, chia sẻ các thông lệ quốc tế tốt nhất, tổ chức các buổi hội thảo cung cấp thông tin, ủng hộ tuyển dụng người khuyết tật và tổ chức các hoạt động nâng cao nhận thức.
Pháp luật quy định việc xây dựng và tu bổ các tòa nhà làm việc của chính phủ và các công trình công cộng lớn phải tính đến các phương án di chuyển thuận lợi cho người khuyết tật, nhưng việc thực thi quy định này còn rời rạc. Bộ Xây dựng vẫn có các cơ quan kiểm tra việc chấp hành trong việc loại bỏ các rào cản đối với người khuyết tật, đồng thời tiến hành đào tạo về thực tiễn xây dựng cho các thanh tra viên và các công ty kiến trúc tại hơn 22 tỉnh thành. Một số tòa nhà và các cơ sở mới tại những thành phố đô thị lớn có các đường dốc và các cửa vào dành cho người khuyết tật.
Tiếp cận giáo dục đối với trẻ em khuyết tật, đặc biệt là trẻ bị điếc, và trẻ bị khiếm khuyết về mặt trí tuệ vẫn còn cực kỳ hạn chế. Bộ Giáo dục và Đào tạo ước tính có khoảng 500.000 trẻ em khuyết tật đã được tham gia học tập tại các trường tiểu học, trung học và đại học.
Pháp luật ủng hộ và khuyến khích các công ty tuyển dụng người khuyết tật, tuy nhiên các rào cản xã hội và thái độ đối với người khuyết tật vẫn còn là vấn đề (xem phần 7.d.)
Năm 2011, chính phủ hỗ trợ người khuyết tật bỏ phiếu bằng việc đưa các hòm phiếu đến tận nhà của những người khuyết tật không thể đi đến nơi bỏ phiếu. Pháp luật không hạn chế quyền bỏ phiếu của người khuyết tật, tuy nhiên nhiều điểm bỏ phiếu rất khó tiếp cận, nhất là đối với những người gặp khó khăn trong việc đi lại, di chuyển.
Mặc dù việc cung cấp các dịch vụ xã hội cho người khuyết tật còn hạn chế, song chính phủ vẫn nỗ lực hỗ trợ thành lập các tổ chức trợ giúp người khuyết tật và tham vấn ý kiến của các tổ chức đó khi xây dựng hoặc rà soát các chương trình quốc gia, chẳng hạn như Chương trình giảm nghèo quốc gia, Luật giáo dục nghề nghiệp và các chính sách giáo dục khác. Ủy ban Quốc gia về Người khuyết tật, Liên hiệp hội người khuyết tật Việt Nam và các thành viên của các tổ chức này từ nhiều bộ ngành tiếp tục phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước để tăng cường nỗ lực bảo vệ, hỗ trợ, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ giáo dục và việc làm của người khuyết tật. Chính phủ điều hành một mạng lưới nhỏ các trung tâm phục hồi chức năng để cung cấp dịch vụ phục hồi chức năng lâu dài cho bệnh nhân nội trú. Một số tỉnh thành, các cơ quan chính phủ và các trường đại học cũng có những chương trình được thiết kế đặc biệt dành riêng cho người khuyết tật.
Quốc gia/Chủng tộc/Dân tộc thiểu số
Luật pháp nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử đối với đồng bào dân tộc thiểu số, nhưng sự phân biệt đối xử xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số đã tồn tại từ lâu và tiếp tục dai dẳng. Các quan chức chính phủ ở một số tỉnh, nhất là ở khu vực cao nguyên, đã có những hành vi trái với pháp luật của quốc gia trong việc phân biệt đối xử đối với người dân tộc thiểu số hoặc thành viên của các nhóm tôn giáo thiểu số. Bất chấp tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể, vẫn tồn tại khoảng cách kinh tế giữa các cộng đồng dân tộc thiểu số và cộng đồng dân tộc Việt (Kinh), mặc dù một số nơi, trong đó có khu vực Tây Nguyên, miền núi Tây Bắc, và một phần của đồng bằng sông Cửu Long, các nhóm dân tộc thiểu số vẫn chiếm một tỷ lệ lớn dân số.
Các tổ chức nhân quyền quốc tế tiếp tục cáo buộc chính quyền sách nhiễu và hăm dọa các thành viên của một số nhóm dân tộc thiểu số, bao gồm người vùng cao, thường được gọi là “người Thượng” và người dân tộc thiểu số Công giáo ở Tây Nguyên. Có nhiều báo cáo cho biết thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số này đã chạy sang Campuchia và Thái Lan, xin quy chế tị nạn và tự xưng là nạn nhân của sự đàn áp tôn giáo. Chính phủ khẳng định những người này là người di cư bất hợp pháp đã rời Việt Nam để tìm kiếm các cơ hội kinh tế. Các nhóm nhân quyền cáo buộc chính phủ đã gây áp lực lên Campuchia trong việc từ chối cấp quy chế tị nạn cho những người này và đề nghị hồi hương họ về Việt Nam.
Chính phủ đã thực hiện các chính sách tại các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số thông qua ba ban liên ngành, đó là Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Ban Chỉ đạo Tây Nguyên và Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. Chính phủ cũng tiếp tục theo dõi chặt chẽ một số nhóm dân tộc thiểu số ở miền núi, đặc biệt là một số nhóm dân tộc ở khu vực Tây Nguyên và miền núi Tây Bắc.
Nhà chức trách tiếp tục bỏ tù nhiều người dân tộc thiểu số bị cáo buộc có hành vi liên hệ với các tổ chức ở nước ngoài mà chính phủ cho là có mục đích ly khai, viện dẫn các quy định về an ninh quốc gia trong Bộ luật hình sự và đã kết án những người này nhiều năm tù. Ngoài ra, các nhà hoạt động thường cho biết lực lượng công an cũng hiện diện đông hơn trong khu vực trong những dịp nhạy cảm và các ngày lễ.
Chính phủ tiếp tục nỗ lực giải quyết khoảng cách kinh tế giữa các nhóm dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh thông qua các chương trình đặc biệt nhằm trợ cấp các cơ sở giáo dục và y tế, mở rộng mạng lưới đường giao thông, điện khí hóa các cộng đồng nông thôn và các khu vực làng bản. Chính phủ tiếp tục giao đất cho các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thông qua một chương trình đặc biệt.
Pháp luật quy định về phổ cập giáo dục dành cho trẻ em bất kể tôn giáo hay sắc tộc, và đồng bào dân tộc thiểu số không phải trả học phí. Chính phủ mở các trường học đặc biệt cho trẻ em dân tộc thiểu số, và đã có 300 trường nội trú cho trẻ em dân tộc thiểu số ở 50 tỉnh, hầu hết ở vùng núi Tây Bắc, khu vực Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm cả các cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, cộng với điều kiện ưu đãi đặc biệt khi nhập học, các chương trình định hướng và các suất học bổng kèm ưu đãi nhập học ở trình độ đại học. Chính phủ cũng đã làm việc với các quan chức địa phương để xây dựng chương trình giảng dạy ngôn ngữ địa phương, nhưng chương trình này dường như chỉ mới được thực hiện toàn diện ở khu vực Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và tại một số ít các khu vực miền núi Tây Bắc. Cũng có một vài trường kỹ thuật và dạy nghề được chính phủ trợ cấp dành cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Chính phủ phát sóng chương trình phát thanh và truyền hình bằng ngôn ngữ dân tộc thiểu số ở một số vùng nhất định. Chính phủ cũng yêu cầu các quan chức dân tộc Kinh làm việc tại các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống phải học ngôn ngữ địa phương. Chính quyền cấp tỉnh tiếp tục các sáng kiến tăng việc làm, giảm khoảng cách thu nhập giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh, giúp các quan chức địa phương trở nên nhạy cảm và dễ tiếp thu văn hóa và truyền thống của các dân tộc thiểu số.
Chính phủ dành điều kiện ưu đãi cho các công ty trong nước và nước ngoài đầu tư ở khu vực miền núi nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Chính phủ cũng duy trì các chương trình phát triển cơ sở hạ tầng tại những khu vực nghèo đói, nhiều dân tộc thiểu số sinh sống và xây dựng các chương trình khuyến nông cho các khu vực nông thôn xa xôi hẻo lánh.
Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cùng với các ban chỉ đạo cấp tỉnh về dân tộc thiểu số tiếp tục hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và giải quyết một số vấn đề liên quan đến giảm nghèo và tăng tỷ lệ biết chữ.
Các hành vi xâm hại, phân biệt đối xử và hành vi bạo lực khác dựa trên khuynh hướng tình dục và bản dạng giới tính
Luật pháp chưa giải quyết việc phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục hoặc bản dạng giới tính. Phân biệt đối xử và kỳ thị xã hội vẫn là hiện tượng phổ biến, và truyền thông trong nước cho biết vẫn có hiện tượng quấy rối những người chuyển giới, kể cả những người đang bị giam giữ.
Tình dục đồng thuận giữa những người đồng giới không phải là hành vi phạm tội. Vào tháng 11, Quốc hội đã thông qua Bộ luật dân sự sửa đổi trong đó có các quy định mới hợp pháp hóa quyền của những người chuyển giới trong việc thay đổi giới tính, quyền được chăm sóc y tế và thay đổi bản dạng giới tính của họ.
Năm 2013, Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, một tổ chức phi chính phủ hoạt động vì quyền lợi của các nhóm thiểu số, cho biết có khoảng 1,65 triệu người ở Việt Nam được cho là người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới. Vào tháng 8, hơn 1.000 người đã tham gia sự kiện diễu hành niềm tự hào Việt Pride tại Thành phố Hồ Chí Minh và có các chuỗi sự kiện Việt Pride tại 17 tỉnh và thành phố trên cả nước, bao gồm cuộc diễu hành xe máy của hơn 300 người tại Hà Nội.
Kỳ thị xã hội đối với những người nhiễm HIV và AIDS
Pháp luật có quy định về bảo vệ các quyền cụ thể của người bị nhiễm HIV/AIDS, bao gồm xét nghiệm tự nguyện; bảo mật danh tính; quyền được học hành, làm việc, chăm sóc y tế, và không bị phân biệt đối xử; và các cơ chế bồi thường pháp lý trong trường hợp vi phạm các quyền đó.
Theo nghiên cứu Chỉ số đánh giá mức độ kỳ thị 2014, có 11,2% số người bị nhiễm HIV, 16,6% mại dâm nữ, 15,5% người tiêm chích ma túy, và 7,9% nam giới có quan hệ tình dục đồng tính cho biết có hành vi vi phạm về các quyền trong 12 tháng trước cuộc khảo sát. Tuy nhiên, các cuộc Điều tra đánh giá các mục tiêu về trẻ em và phụ nữ cho thấy sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người dương tính với HIV vẫn còn phổ biến, với khoảng 70% nữ giới được hỏi cho biết họ đã phải đối mặt với một số hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử. Người bị nhiễm HIV tiếp tục phải đối mặt với các rào cản trong việc tiếp cận và duy trì việc làm, với 4,2% số người được hỏi cho biết họ bị mất việc làm hoặc thu nhập và 6,7% cho biết người tuyển dụng lao động đã từ chối không tạo cơ hội việc làm hoặc nghề nghiệp cho họ.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được tiến bộ trong việc thay thế tạm giữ hành chính người sử dụng ma túy bằng thủ tục tố tụng tư pháp và gửi các bệnh nhân nhiễm HIV điều trị ngoại trú, nhưng không có số liệu báo cáo chính thức nào về việc tiếp cận điều trị HIV hoặc điều trị có hỗ trợ bằng thuốc đối với các rối loạn lạm dụng chất trong số những người bị giam giữ, đáng chú ý nhất là tại các trung tâm cai nghiện bắt buộc. Theo ước tính của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Việt Nam duy trì khoảng 17.680 người tại hệ thống các “trung tâm 06” với tỷ lệ nhiễm HIV cao ở mức 13%.
Phần 7. Quyền của người lao động
a. Tự do lập hội và quyền thương lượng tập thể
Luật pháp không cho phép người lao động được tổ chức và tham gia vào các tổ chức công đoàn độc lập do họ lựa chọn. Mặc dù người lao động có quyền lựa chọn việc tham gia công đoàn và cấp công đoàn (cấp địa phương hay còn gọi là “cấp cơ sở”, cấp tỉnh, hoặc cấp trung ương), song tất cả các công đoàn đều nằm trong khuôn khổ pháp lý và chịu sự kiểm soát của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (TLĐLĐVN) - cơ quan công đoàn duy nhất tại Việt Nam. TLĐLĐVN là tổ chức công đoàn cấp trên và chịu sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thẩm quyền phê duyệt và quản lý các liên đoàn lao động trực thuộc được tổ chức theo ngành và theo địa phương. TLĐLĐVN báo cáo trực tiếp Bộ Chính trị và không thuộc thẩm quyền của Thủ tướng hay bộ ngành nào.
Mặc dù Luật Công đoàn quy định trách nhiệm của các cơ sở công đoàn trong việc “tuyên truyền thông tin vận động và hướng dẫn người lao động thành lập và tham gia tổ chức công đoàn”, tuy nhiên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chỉ được đại diện cho người lao động ở những doanh nghiệp “không có tổ chức công đoàn” khi có đề nghị của người lao động. Nhưng cả luật này và cả các quy định liên quan đều không quy định cách thức để người lao động yêu cầu sự đại diện đó, và cũng không nói rõ cần tối thiểu bao nhiêu người lao động để đưa ra lời yêu cầu như vậy. Ngoài ra, Bộ luật Lao động không nhất quán với luật công đoàn và không quy định rõ Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam chỉ được đại diện người lao động trong các doanh nghiệp không có tổ chức công đoàn khi có yêu cầu của người lao động.
Theo luật này, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng có trách nhiệm trong việc giáo dục người lao động về các quyền và nghĩa vụ của họ, đại diện cho người lao động (“thỏa ước lao động tập thể”) trong thương lượng tập thể và các tranh chấp cá nhân của người lao động, tổ chức và lãnh đạo các cuộc đình công hợp pháp và phối hợp với các cơ quan nhà nước về các quan hệ lao động, an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, và các vấn đề khác. Theo luật, đóng đoàn phí là bắt buộc đối với các công đoàn viên và chủ sử dụng lao động trong nước cũng như nước ngoài. Thành viên công đoàn phải đóng 1% tiền lương của mình cho công đoàn, và chủ sử dụng lao động đóng 2% cho mỗi nhân viên, dù nhân viên đó có là thành viên công đoàn hay không. Để tăng trách nhiệm giải trình đối với việc sử dụng phí công đoàn, luật nêu rõ quy chế sử dụng quỹ cho các công đoàn viên, và người sử dụng lao động trong nước và nước ngoài.
Pháp luật cũng cho phép các tổ chức công đoàn trực thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam được quyền thương lượng tập thể nhân danh người lao động về các vấn đề liên quan đến lương và phụ cấp, thời giờ làm việc, làm thêm giờ, an toàn lao động và sức khỏe nghề nghiệp. Các tranh chấp lao động tập thể vượt quá thẩm quyền phải được hòa giải thông qua hội đồng hoà giải. Trong trường hợp hội đồng không thể giải quyết vấn đề thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp quận/huyện có thẩm quyền giải quyết. Bộ luật Lao động cho phép các tổ chức công đoàn và người sử dụng lao động được tạo điều kiện và hỗ trợ việc thương lượng tập thể và yêu cầu các doanh nghiệp phải thiết lập một cơ chế giúp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động trao đổi thông tin và tham vấn về các chủ đề ảnh hưởng đến điều kiện làm việc. Các quy định yêu cầu phải tiến hành các cuộc đối thoại tại nơi làm việc 3 tháng một lần.
Luật cũng cho phép các cuộc đình công trong một số hoàn cảnh nhất định, và quy định một quy trình hòa giải và trọng tài phức tạp và rườm rà trước khi được phép đình công hợp pháp. Luật cấm đình công trong những lĩnh vực kinh doanh phục vụ công chúng, hoặc những lĩnh vực mà chính phủ cho là thiết yếu đối với nền kinh tế quốc dân và quốc phòng, cụ thể là đình công trong các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất điện; bưu chính viễn thông; vận tải, giao thông và quản lý vận tải biển và hàng không; các công trình công cộng; và sản xuất dầu khí. Luật định nghĩa “các dịch vụ thiết yếu” rộng hơn so với các chuẩn mực quốc tế. Luật cũng cho Thủ tướng chính phủ quyền được chấm dứt những cuộc đình công bị coi là gây hại đến nền kinh tế quốc dân hay an toàn công cộng.
Các cuộc đình công không xuất phát từ tranh chấp lao động tập thể hoặc không tuân theo quy trình mà luật quy định thì sẽ bị coi là bất hợp pháp. Luật có sự phân biệt giữa tranh chấp “về lợi ích” và tranh chấp “về quyền”, và trái với các tiêu chuẩn quốc tế, luật cấm đình công đối với các tranh chấp “về quyền”, hoặc cấm các cuộc đình công phát sinh từ các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện hoặc giải thích các quy định của pháp luật hoặc các thỏa thuận có tính ràng buộc pháp lý khác, như các thỏa thuận thương lượng tập thể. Luật cũng cấm đình công trong các lĩnh vực cụ thể và theo cấp ngành. Trước khi người lao động được phép tổ chức đình công, họ phải khiếu nại theo một quy trình với hội đồng hòa giải (hoặc một cán bộ hòa giải lao động cấp quận/huyện nếu doanh nghiệp không có tổ chức công đoàn). Nếu hai bên không đạt được thỏa thuận chung thì công đoàn phải nộp đơn khiếu nại lên hội đồng trọng tài cấp tỉnh. Các công đoàn (hoặc đại diện của người lao động tại những nơi không có tổ chức công đoàn) có quyền kháng nghị quyết định của hội đồng trọng tài cấp tỉnh lên tòa án nhân dân tỉnh, hoặc có quyền tổ chức đình công. Luật cũng quy định rằng những người đình công sẽ không được hưởng lương trong thời gian không đi làm. Luật cấm trả đũa người đình công. Theo luật, các cá nhân tham gia các cuộc đình công mà bị tòa án nhân dân coi là bất hợp pháp và gây thiệt hại cho chủ sử dụng lao động thì phải bồi thường các thiệt hại đó. Cá nhân người lao động có thể trực tiếp đưa vụ việc lên hệ thống tòa án nhân dân, nhưng trong hầu hết các trường hợp, họ chỉ được phép làm như vậy sau khi đã cố gắng hòa giải nhưng thất bại.
Vào tháng 10, chính phủ đã ban hành Nghị định 88 về xử phạt vi phạm hành chính đối với việc can thiệp vào các hoạt động công đoàn. Cụ thể, nghị định quy định mức tiền phạt từ ba đến 10 triệu đồng đối với hành vi phân biệt đối xử người lao động thành lập hoặc tham gia công đoàn, hoặc thực hiện các hoạt động công đoàn, và đối với bất kỳ hành động nào gây bất lợi đến hoạt động của công đoàn.
Chính phủ tiếp tục thực hiện một số biện pháp để cải thiện các quan hệ lao động, bao gồm phối hợp với một số chính quyền cấp tỉnh để xây dựng và thực hiện các kế hoạch tổng thể về quan hệ lao động, tập trung vào vấn đề hòa giải và cải cách công đoàn. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng phối hợp với các tổ chức phi chính phủ quốc tế để tăng cường năng lực trong việc hỗ trợ tổ chức và thương lượng tập thể tại khu vực tư nhân.
Lãnh đạo Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có vai trò ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng thông qua việc soạn thảo, sửa đổi, hoặc góp ý về pháp luật lao động, thông qua xây dựng mạng lưới an sinh xã hội và đề ra các tiêu chuẩn về y tế, an toàn lao động và mức lương tối thiểu. Các nhà hoạt động và những người đại diện cho các tổ chức độc lập của người lao động (không thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) thường phải đối mặt với hành vi phân biệt đối xử.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết, từ tháng 1 đến tháng 11, đã xảy ra 262 cuộc đình công, xấp xỉ số vụ xảy ra trong cùng kỳ năm 2014. Khoảng 61% số cuộc đình công này xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (chủ yếu là các công ty Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật Bản). Không cuộc đình công nào trong số này tuân theo quy trình hòa giải và trọng tài, do đó, chính quyền coi đây là những cuộc đình công "tự phát" bất hợp pháp. Chính phủ đã không thực hiện hành động nào chống lại những người lao động tham gia đình công, trong một số trường hợp còn chủ động đứng ra làm trung gian hòa giải để đi đến thỏa thuận có lợi cho người lao động. Trong một số trường hợp, chính phủ đã phạt tiền nặng những chủ sử dụng lao động, đặc biệt là với các công ty nước ngoài, do các doanh nghiệp này đã có những hành động bất hợp pháp đối với người lao động, dẫn đến các cuộc đình công.
Ngày 26 tháng 3, các công nhân tại một nhà máy trong khu công nghiệp Tân Tạo ở Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã đình công phản đối những thay đổi đề xuất trong luật bảo hiểm xã hội. Những thay đổi này quy định hầu hết công nhân phải đợi lĩnh lương hưu khi họ đã có ít nhất 20 năm làm việc và/hoặc đến tuổi nghỉ hưu chính thức. Các báo cáo trên truyền thông ước tính có từ 80.000 đến 90.000 công nhân đã tham gia cuộc đình công này. Trong những ngày đình công, các quan chức cấp thứ trưởng của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã tham gia đối thoại ghi nhận các nhu cầu của những người tham gia đình công và bày tỏ hối tiếc về vụ việc. Cuộc đình công chấm dứt vào ngày 2 tháng 4 khi Thủ tướng đồng ý đề nghị Quốc hội chỉnh lý điều luật sửa đổi gây tranh cãi trong Luật bảo hiểm xã hội mới.
Bản báo cáo tháng 7 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và chương trình Better Work Vietnam (Việc làm tốt hơn ở Việt Nam) của Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) ghi nhận nhiều trường hợp chủ sử dụng lao động can thiệp vào các hoạt động của người lao động. Báo cáo cho biết 62% các nhà máy phân biệt đối xử hoặc can thiệp vào các hoạt động của công đoàn. Tương tự, các số liệu cho thấy có khoảng 45% số nhà máy có các cán bộ quản lý tiếp tục ngồi trong các ban chấp hành công đoàn, việc này làm suy yếu chức năng của công đoàn với vai trò là tiếng nói đại diện hợp pháp cho người lao động. Đồng thời, báo cáo cho biết 7% số nhà máy đã phát hiện các vụ việc có sự can thiệp của quản lý trực tiếp và công khai trong các hoạt động công đoàn, và số ít (8 chủ sử dụng lao động đã thực sự “cố” can thiệp) vẫn được phát hiện đã ngăn chặn công nhân tham gia các cuộc họp nếu không có mặt của người quản lý. Cũng có các báo cáo đáng tin cậy cho rằng người sử dụng lao động có xu hướng sử dụng hợp đồng ngắn hạn hoặc hợp đồng thử việc để trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ mang lại lợi ích hợp pháp cho người lao động, chẳng hạn như bảo hiểm thất nghiệp, hoặc để ngăn cản người lao động gia nhập các tổ chức công đoàn.
Nhiều tổ chức phi chính phủ quốc tế về lao động đã phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong việc đào tạo cho các đại diện công đoàn thuộc Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về tổ chức lao động, thương lượng tập thể, và các vấn đề công đoàn khác. Do việc thành lập hoặc tìm cách thành lập các tổ chức liên đoàn lao động độc lập với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là bất hợp pháp, nên không có tổ chức phi chính phủ trong nước về lao động do chính phủ phê duyệt tham gia vào việc tổ chức lao động. Tuy nhiên, các tổ chức phi chính phủ về lao động trong nước đã nỗ lực nâng cao nhận thức về quyền của người lao động và các vấn đề an toàn và sức khỏe nghề nghiệp và hỗ trợ lao động nhập cư trong và ngoài nước.
Các nhà hoạt động công đoàn độc lập tìm cách thành lập các liên đoàn lao động tách biệt với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoặc thông báo cho người lao động về các quyền của họ đôi khi gặp phải sự sách nhiễu của chính quyền. Ví dụ, ngày 22 tháng 11, cảnh sát đã tạm giữ các thành viên của phong trào Lao động Việt là Đỗ Thị Minh Hạnh và Trương Minh Đức trong vài giờ sau khi giải tán cuộc họp giữa hai người này và hơn 800 công nhân bị một công ty may mặc Hàn Quốc sa thải. Bà Minh Hạnh cáo buộc cảnh sát mặc thường phục đã trói ngược tay bà ra sau lưng, đẩy bà ngã xuống đất, và đánh vào mặt bà, dẫn đến phải nhập viện. Ông Đức cho biết cảnh sát cáo buộc hai người họ vì đã cung cấp “các tài liệu bất hợp pháp” và đã tịch thu điện thoại di động, máy tính và máy ảnh của họ. Họ cho biết phong trào Lao động Việt đã và đang hỗ trợ người lao động kể từ ngày 9 tháng 11, sau khi nhà máy kia quyết định chấm dứt hợp đồng lao động mà không bồi thường theo quy định của pháp luật. Đại diện chính quyền cho biết bà Hạnh và ông Đức đã gây rối trật tự công cộng và tuyên truyền thông tin sai lệch về tranh chấp lao động; họ chối rằng công an địa phương không tấn công hoặc tịch thu đồ đạc của hai người. Trong một diễn biến khác, ngày 25 tháng 12, cảnh sát đã hành hung và bắt tạm giam Hoàng Đức Bình, Đỗ Thị Minh Hạnh và các nhà hoạt động ôn hòa về quyền lao động khác tại Thành phố Hồ Chí Minh.
b. Cấm lao động cưỡng bức hoặc lao động bắt buộc
Luật pháp nghiêm cấm mọi hành vi lao động cưỡng bức hoặc lao động bắt buộc. Một nghị định của chính phủ quy định hình phạt từ ba năm đến 10 năm tù đối với tội buôn bán lao động. Trong năm qua không có trường hợp truy tố nào đối với các vụ án lao động cưỡng. Bộ luật hình sự mới đã hình sự hóa việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, hoặc “sử dụng các thủ đoạn khác” đối với lao động cưỡng bức. Hình phạt là phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng và/hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm hoặc đến 12 năm tù nếu có các tình tiết tăng nặng. Bộ luật hình sự mới có quy định riêng về việc hình sự hóa buôn bán người hoặc tiếp nhận người để lao động cưỡng bức. Nếu nạn nhân là người trưởng thành, mức phạt là phạt tiền từ 20 triệu đến 100 triệu đồng và/hoặc phạt từ năm năm đến 10 năm tù, hoặc đến 20 năm tù nếu có các tình tiết tăng nặng. Nếu nạn nhân là người dưới 16 tuổi, mức phạt là phạt tiền từ 50 đến 200 triệu đồng và/hoặc phạt từ bảy năm đến 12 năm tù, hoặc chung thân nếu có các tình tiết tăng nặng.
Các tổ chức phi chính phủ tiếp tục cho biết lao động cưỡng bức đối với người lớn và trẻ em tại Việt Nam vẫn còn tiếp diễn. (xem phần 7.c.).
Chính phủ tiếp tục giam giữ người sử dụng ma túy tại “các cơ sở cai nghiện bắt buộc” (còn gọi là “các trung tâm 06”). Một báo cáo năm 2014 do Diễn đàn Quyền Lao động quốc tế ban hành cho thấy lao động cưỡng bức và ngược đãi tiếp tục diễn ra tại các trung tâm 06, bao gồm những người bị giam giữ bị ép buộc sản xuất hàng hoá cho các công ty tư nhân. Trong năm qua có bằng chứng chứng minh lao động cưỡng bức tiếp tục xảy ra tại một số trung tâm cai nghiện. Với các sửa đổi luật năm 2013, chính quyền có quyền đưa tội phạm ma túy vào các trung tâm như vậy chỉ sau một quá trình tư pháp, không bằng nghị định hành chính như trước đây (xem thêm phần 1.d.). Tháng 12 năm 2014, Thủ tướng ban hành Nghị quyết số 98 về cải cách các trung tâm 06. Nghị quyết yêu cầu biến phần lớn các trung tâm 06 thành các trung tâm điều trị tự nguyện và tái khẳng định chính sách, ban hành lần đầu tiên vào năm 2013, rằng phải thực hiện quá trình tư pháp khi đưa một cá nhân vào trung tâm 06 bắt buộc. Nghị quyết cũng kêu gọi giảm số lượng các cơ sở cai nghiện bắt buộc và quy định các trung tâm 06 phải tuân thủ pháp luật Việt Nam và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị. Trong năm qua, một số trung tâm giam giữ đã chuyển sang hệ thống cơ sở điều trị tự nguyện.
Theo báo cáo, các công ty xuất khẩu lao động, phần lớn có liên kết với các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị môi giới không có giấy phép, đã thu tiền của người lao động đang mong muốn được xuất khẩu lao động với mức phí cao hơn quy định của pháp luật mà không bị xử phạt. Những lao động này phải gánh những khoản nợ lớn, và do đó họ dễ bị lao động cưỡng bức, kể cả việc phải lao động để trừ nợ.
Xem thêm Báo cáo về Nạn buôn người của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại trang web.
c. Cấm lao động trẻ em và quy định độ tuổi làm việc tối thiểu
Luật pháp quy định độ tuổi lao động tối thiểu là 18. Các doanh nghiệp tuyển dụng trẻ em ở độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi phải có trách nhiệm chăm sóc người lao động chưa thành niên về mặt “lao động, tiền lương, sức khỏe và giáo dục” trong quá trình lao động. Luật pháp nghiêm cấm trẻ em dưới 18 tuổi làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm. Luật quy định trẻ em từ 15 đến dưới 18 tuổi chỉ được làm việc tối đa tám giờ mỗi ngày và 40 giờ mỗi tuần. Trẻ em từ 13 đến 15 tuổi chỉ được làm các công việc nhẹ (theo quy định của Bộ LĐTBXH), và chủ sử dụng lao động phải cân nhắc đến các điều kiện học hành, làm việc, an toàn lao động và vệ sinh. Pháp luật cho phép trẻ em đến đăng ký tại các trung tâm đào tạo thương mại, một hình thức đào tạo nghề, từ năm 14 tuổi mà không cần có sự đồng ý của cha mẹ.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm về việc thực thi các chính sách và quy định của pháp luật về lao động trẻ em. Các quan chức chính phủ có thể phạt tiền và truy tố chủ sử dụng lao động trong các trường hợp vi phạm các quy định pháp luật về lao động trẻ em. Là một phần của Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em và Chương trình Quốc gia về bảo vệ trẻ em của chính phủ, chính phủ tiếp tục các nỗ lực nhằm ngăn chặn lao động trẻ em, đặc biệt là đối tượng trẻ em ở khu vực nông thôn, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn và trẻ em có nguy cơ tiếp xúc với các điều kiện làm việc độc hại.
Kết quả khảo sát toàn quốc về lao động trẻ em 2012 của chính phủ ban hành năm 2014 cho thấy lao động trẻ em là một vấn đề lớn và ước tính có hơn 2,8 triệu trẻ em hoạt động kinh tế trong cả nước, trong đó có 1,75 triệu là lao động trẻ em. Cuộc khảo sát xác định lao động trẻ em là những trẻ em tham gia vào các hoạt động kinh tế - “các hoạt động sản xuất kinh tế, thương mại và dịch vụ phục vụ tiêu dùng hoặc mua bán có trả lương hoặc không được trả lương” – làm việc hơn một giờ mỗi ngày hoặc năm giờ trong một tuần đối với trẻ em từ 5 đến 11 tuổi, hơn bốn giờ một ngày hoặc 24 giờ trong một tuần đối với trẻ em từ 12-14 tuổi, hoặc hơn bảy giờ một ngày hoặc 42 giờ trong một tuần đối với trẻ em từ 15 đến 17 tuổi.
Cụ thể, 60% lao động trẻ em là ở trong lĩnh vực nông nghiệp, 22% trong lĩnh vực dịch vụ, và 18% trong lĩnh vực xây dựng và sản xuất. Trong số 1,75 triệu lao động trẻ em, 85% ở các vùng nông thôn và 15% ở các khu vực đô thị. Khoảng 60% lao động trẻ em là nam giới. Các cuộc khảo sát cho biết 52% trẻ em đã bỏ học, và chỉ có 24% thuộc các hộ gia đình dưới mức nghèo của đất nước. Ngoài ra, 38% lao động thuộc các hộ gia đình có thu nhập gấp đôi ngưỡng nghèo. Bản báo cáo cũng cho biết có gần 569.000 lao động trẻ em (khoảng 32%) làm việc trung bình hơn 42 giờ mỗi tuần. Trong số những đứa trẻ này, 96% không đi học.
Một số trẻ em là nạn nhân của lao động cưỡng bức và làm công trừ nợ tại các nhà máy tại các gia đình ở đô thị, đặc biệt là trong lĩnh vực may mặc không chính thức gần thành phố Hồ Chí Minh, trong các mỏ vàng và các nhà máy gạch tư nhân ở nông thôn, cũng như trong các nhà hàng tại các trung tâm đô thị lớn.
d. Phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp
Luật pháp nghiêm cấm phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp dựa trên giới tính, sắc tộc, khuyết tật, địa vị xã hội, tình trạng hôn nhân, tôn giáo, và tình trạng nhiễm HIV/AIDS. Luật pháp ủng hộ và khuyến khích tuyển dụng người khuyết tật.
Theo luật, doanh nghiệp không được sa thải lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, hoặc chăm con nhỏ dưới một tuổi trừ khi doanh nghiệp đóng cửa. Chủ sử dụng lao động không được ép buộc động nữ đang mang thai từ 7 tháng trở lên hoặc đang chăm con nhỏ dưới một tuổi làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, hay ở các địa điểm cách xa nhà của họ. Luật quy định nguyên tắc trả lương như nhau cho các công việc giống nhau. Luật pháp nghiêm cấm quấy rối tình dục ở nơi làm việc; tuy nhiên, theo Tổ chức Lao động Thế giới, các quy định pháp luật này chưa cụ thể và khả năng khó được thực hiện.
Luật không cấm phân biệt đối xử dựa trên quan điểm chính trị, tuổi tác, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc gia, khuynh hướng tình dục hoặc bản dạng giới tính. Ngoài ra, không có luật nào cấm chủ sử dụng lao động hỏi về tình trạng gia đình, ý định kết hôn hoặc bắt đầu hoặc chăm lo gia đình trong các buổi phỏng vấn xin việc.
Chính phủ đã không thực thi hiệu quả các luật liên quan đến phân biệt đối xử về việc làm. Hành vi vi phạm quy định pháp luật về phân biệt đối xử bao gồm phạt tiền, gồm phạt hành chính lên tới 50 đến 75 triệu đồng đối với hành vi vi phạm các quy định cấm quấy rối tình dục. Tuy nhiên, hình phạt là không đủ để ngăn chặn hành vi phân biệt đối xử về việc làm. Trong năm qua, chính phủ đã có một số hành động nhằm giải quyết sự phân biệt đối xử về việc làm đối với người khuyết tật. Ví dụ, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành hướng dẫn các sở điều chỉnh chương trình đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho người khuyết tật phù hợp với nhu cầu đa dạng của họ. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cũng đã ban hành chỉ thị yêu cầu tất cả các tỉnh dành 20% ngân sách đào tạo nghề cho người khuyết tật và đặt mục tiêu 10% tổng số học viên là người khuyết tật. Các công ty có tối thiểu 51% người lao động là người khuyết tật sẽ được vay vốn ưu đãi đặc biệt của chính phủ.
Hoạt động tuyển dụng mang tính phân biệt đối xử vẫn tồn tại, thường liên quan đến giới tính, tuổi tác và tình trạng hôn nhân. Phụ nữ làm việc trong khu vực công sẽ nghỉ hưu ở tuổi 55, ngoại trừ những người có cấp hàm Bộ trưởng hoặc những người có bằng tiến sĩ hoặc là giáo sư, so với độ tuổi 60 ở nam giới. Các doanh nghiệp có phụ nữ làm lãnh đạo chiếm khoảng 25% trong tổng số hơn 300.000 doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có phụ nữ làm lãnh đạo tiếp tục ít được tiếp cận tín dụng và các thị trường quốc tế cũng như không có đầy đủ kiến thức về quản lý tài chính và hoạt động, bên cạnh gánh nặng về các trách nhiệm xã hội và gia đình. Nhiều phụ nữ cho biết họ nhận được mức lương thấp hơn so với đồng nghiệp nam.
Luật pháp nghiêm cấm ưu tiên tuyển dụng dựa trên cơ sở giới; mặc dù các tổ chức phi chính phủ cho rằng sự phân biệt đối xử đó vẫn xảy ra, và khó chứng minh được các cáo buộc. Các rào cản về xã hội và thái độ vẫn là những vấn đề đối với việc làm cho người khuyết tật.
e. Điều kiện làm việc có thể chấp nhận được
Mức lương tối thiểu đối với doanh nghiệp dao động từ 2,4 triệu đồng mỗi tháng đến 3,5 triệu đồng mỗi tháng, tùy theo khu vực. Theo luật, Hội đồng Tiền lương quốc gia gồm các đại diện từ Bộ Lao động Thương binh Xã hội, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, sẽ xác định mức lương tối thiểu vùng. Hội đồng Tiền lương Quốc gia đã nhất trí tăng mức lương tối thiểu thêm 12,4%, có hiệu lực vào ngày 01 tháng 1 năm 2016. Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, mức lương tối thiểu mới sẽ đáp ứng 87% đến 90% tiêu chuẩn làm việc tối thiểu. Trái lại, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam cho rằng mức lương tối thiểu chỉ đáp ứng 72% mức sống tối thiểu.
Luật pháp quy định số giờ làm việc trong điều kiện bình thường là 8 giờ mỗi ngày, số giờ nghỉ bắt buộc là 24 giờ mỗi tuần. Số giờ làm thêm được trả lương gấp rưỡi mức lương trong điều kiện làm việc bình thường, được trả gấp đôi nếu làm thêm vào các ngày cuối tuần và gấp ba lần nếu làm thêm vào các ngày lễ hoặc vào các ngày nghỉ phép được hưởng lương. Luật cũng quy định giới hạn tối đa làm thêm giờ không quá 50% số giờ làm việc bình thường mỗi ngày, không quá 30 giờ mỗi tháng và 200 giờ trong một năm, nhưng vẫn có ngoại lệ trong trường hợp đặc biệt tối đa là 300 giờ làm thêm một năm theo quy định của chính phủ sau khi đã tham vấn với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các đại diện chủ lao động. Pháp luật cũng quy định số ngày nghỉ phép hàng năm là 12 đến 16 ngày, tùy vào loại hình công việc.
Ngày 25 tháng 6, quốc hội đã thông qua Luật an toàn vệ sinh lao động, trong đó mở rộng sự bảo vệ pháp lý và các nỗ lực phòng ngừa đối với các ngành nghề không chính thức. Luật mới quy định công tác bảo đảm an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, đưa ra các thủ tục cho người lao động là nạn nhân trong các vụ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, và quy định trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong các lĩnh vực an toàn và sức khỏe nghề nghiệp. Luật không quy định về quyền của người lao động trong việc thoát khỏi các tình huống gây nguy hiểm đến sức khỏe hoặc sự an toàn mà không ảnh hưởng tới việc làm của họ. Bộ luật cũng quy định việc “cho thuê lại lao động”, một hình thức việc làm mới, giúp bảo vệ những người lao động bán thời gian và người giúp việc gia đình.
Không rõ là chính phủ thi hành nghiêm ngặt đến mức nào các quy định pháp lý về tiền lương, giờ làm việc, phúc lợi hoặc an toàn nghề nghiệp và các hạn chế về sức khỏe. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Ủy ban nhân dân và các tổ chức công đoàn địa phương chịu trách nhiệm thi hành luật, nhưng việc thi hành này chưa thường xuyên vì nhiều lý do, trong đó phải kể đến lý do nguồn vốn ít và thiếu cán bộ thực thi pháp luật đã qua đào tạo. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho biết các cơ quan chức năng không phải lúc nào cũng truy tố những hành vi vi phạm. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã thừa nhận những bất cập trong hệ thống thanh tra lao động của mình, và nhấn mạnh rằng hiện chưa có đủ số thanh tra viên lao động trên toàn quốc. Theo các quan chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, cả nước có 492 thanh tra viên lao động, bao gồm cả chuyên trách và kiêm nhiệm. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã chỉ ra và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã thừa nhận chính mức tiền phạt còn thấp đối với các công ty vi phạm pháp luật về lao động khiến cho hình phạt này không đạt được hiệu quả răn đe đối với các hành vi vi phạm. Số tiền phạt thông thường từ 1,065 triệu đến 106,5 triệu đồng tùy hành vi vi phạm.
Tiếp tục có các báo cáo đáng tin cậy cho biết các nhà máy thường vi phạm quy định về số giờ làm thêm tối đa và quy định về số ngày nghỉ. Những người lao động di cư, gồm những người đi tìm công ăn việc làm trong nước, là những người dễ bị tổn thương nhất và thường phải chịu những điều kiện làm việc nguy hiểm. Những người lao động khác thường làm việc trong những ngành nghề không chính thức, có cả những người thuộc các nhóm sắc tộc thiểu số. Hiện tượng bị thương khi làm việc do sức khỏe kém, điều kiện an toàn lao động và đào tạo nhân viên không đầy đủ ở nơi làm việc vẫn là một vấn đề quan ngại. Các vụ tai nạn lớn trong công nghiệp và xây dựng xảy ra thường xuyên. Ví dụ, vào tháng 3, một giàn giáo lớn tại công trường xây dựng trong một khu công nghiệp do Đài Loan đầu tư tại tỉnh Hà Tĩnh đã đổ sập khiến 16 người chết và 27 người bị thương. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ước tính mỗi tháng có khoảng 50 công nhân thiệt mạng trong các vụ tai nạn công nghiệp.
- Xem thêm tại trang web. |
21120 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20T%E1%BB%A5ng | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh/Quẻ Tụng | Truyện của Trình Di. - Quẻ Tụng, Tự quái nói rằng: Ăn uống thì phải kiện tụng, cho nên tiếp đến quẻ Tụng. Cái mà người ta cần dùng là sự ăn uống, đã phải chờ đợi, thì sự tranh kiện ở đó mà ra. Vì vậy quẻ Tụng mới nói quẻ Nhu. Nó là quẻ Kiền trên Khảm dưới. Nói về hai Tượng thì khí Dương của trời đi lên, tính nước đi xuống, sự đi của nó trái nhau, cho nên thành Kiện. Nói về hai thể, thì trên cứng dưới hiểm, cứng với hiểm gặp nhau, khỏi kiện sao được? Lại nữa, người ta bên trong hiểm trở mà bên ngoài cương cường, vì vậy sinh ra tranh kiện.
Dịch âm. - Tụng, hữu phu chất dịch, trung cát, chung hung, lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên.
Dịch nghĩa. - Kiện, có thật, bị lấp, phải sợ, vừa phải, tốt; theo đuổi đến chót, xấu; lợi về sự thấy người lớn, không lợi về sự sang sông lớn.
Truyện của Trình Di. - Phép kiện phải có sự thật, ở trong không có sự thật thì là cái kiểu của kẻ Vô võng, ấy là đạo hung. Quẻ này giữa đặc tức là tượng có sự thật. Kẻ kiện tranh biện với người này mà đợi, người khác quyết đoán cho mình, dù có sự thật cũng nên lấp đi, nếu không lấp thì đã rõ rồi, không có kiện nữa. Việc đã chưa phân biện, thì lành dữ chưa thể chắc, cho nên có sự sợ hãi. Trung cát nghĩa là vừa phải thì tốt, chung hung nghĩa là theo đuổi công việc tới cùng thì xấu. Kẻ kiện cần để phân biệt cong ngay, cho nên lợi về sự thấy người lớn, vì rằng người lớn dùng đức cương minh trung chính quyết đoán việc kiện của họ. Kiện không phải là việc hoà bình, nên chọn chỗ yên ổn mà ở, không nên hãm vào chốn nguy hiểm, cho nên không lợi về sự sang sông lớn.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tụng là tranh biện. Trên Kiền dưới Khảm, Kiền cứng Khảm hiểm, người trên dùng sự cứng để chế kẻ dưới, kẻ dưới dùng sự hiểm để nhòm người trên, lại là mình hiểm mà nó mạnh, đều là đạo kiện. Quẻ này hào Chín Hai giữa đặc mà không có kẻ ứng cùng, lại là thêm lo. Vả, theo quái biến, nó tự quẻ Độn mà , tức là kẻ cứng đến ở hào Hai mà nhằm vào giữa thể dưới, có Tượng có sự thật bị lấp, biết sợ mà hợp với lẽ vừa phải; hào Chín Trên quá cứng ở cuối sự kiện, có Tượng theo đuổi việc kiện đến cùng! Hào Chín Năm cứng mạnh, trung chính ở ngôi tôn, có tượng người lớn; lấy tư cách Dương cương cưỡi lên chỗ hiểm, ấy là sự đầy đặc xéo vào chỗ hãm, có Tượng không lợi về sự sang sông lớn, cho nên mới răn kẻ xem ắt có sự tranh biện và tuỳ theo chỗ của họ ở mà thành ra lành hay dữ.
Dịch âm. - Thoán viết: Tụng, thượng cương hạ hiểm, hiểm nhi kiện, Tụng.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Quẻ Tụng, trên cứng dưới hiểm, hiểm mà mạnh, là quẻ Tụng.
Truyện của Trình Di. - Tụng là quẻ trên cứng dưới hiểm, hiểm mà lại mạnh, lại là hiểm với mạnh tiếp nhau, trong hiểm ngoài mạnh, đều là cái cớ sinh kiện. Nếu như mạnh mà không hiểm, thì không sinh ra kiện; hiểm mà không mạnh, cũng không thể kiện; vì hiểm mà lại mạnh, nên mới thành kiện.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng đức quẻ để thích nghĩa tên quẻ.
Dịch âm. - Tụng hữu phu, chất dịch, trung cát, cương lai nhi đắc trung dã; chung hung, tụng bất khả thành dã; lợi kiến đại nhân, thượng trung chính dã; bất lợi thiệp đại xuyên, nhập vu uyên dã.
Dịch nghĩa. - Kiện có sự thật, bị lấp, phải sợ, vừa phải tốt, cứng lại mà được vừa phải vậy: theo đuổi đến chót thì xấu, việc kiện không thể thành vậy; lợi về sự thấy người lớn, chuộng sự trung chính vậy; không lợi về sự sang sông lớn, vào chưng vực vậy.
Truyện của Trình Di. - Lại cứ tài quẻ mà nói, hào Chín Hai lấy tư cách Dương cương ở ngoài đến, thì nó là chủ việc kiện. Lấy đức Dương cương ở giữa, tức là cái Tượng giữa đặc, cho nên là có sự thật. Trong thời kiện, dù có đức tin cũng phải ngăn trở, bị tắc lấp mà có sợ hãi, nếu không bị lấp thì không thành kiện. Lại, ở chỗ hãm hiểm, cũng là cái nghĩa tắc lấp sợ hãi. Hào Hai lấy đức Dương cương ở ngoài đến mà được vừa phải, nghĩa là lấy đức Dương cương đến kiện mà không làm quá. Kiện không phải việc hay, nó là việc bất đắc dĩ, đâu lại có thể làm đến cùng chót? Nếu cố ý làm đến cùng chót thì là hung. Vì vậy mới nói là “không thể thành”, “thành” là làm cho việc đến cùng tận. Kẻ kiện chỉ cần phân biệt được sự phải trái, phân biệt được đúng tức là trung chính, cho nên mới lợi về sự thấy người lớn, vì cái mà người đi kiện vẫn chuộng, là sự trung chính… Người lớn trung chính tức là hào Chín Năm. Kiện nhau với người, ắt phải để mình vào chỗ bình yên, nếu xéo vào chỗ nguy hiểm, thì là tự hãm thân mình, đó là vào vực. Trong quẻ này có Tượng trung chính hãm hiểm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây dùng sự biến đổi của quẻ và thể quẻ, tượng quẻ để thích lời quẻ.
Dịch âm. - Tượng viết: Thiên dữ thuỷ vi hành, Tụng, Quân tử dĩ tác sự mưu thuỷ.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trời với nước đi trái nhau, là quẻ Tụng, đấng quân tử coi đó mà dấy việc mưu tính lúc đầu.
Truyện của Trình Di. - Trời trên nước dưới, hai thể trái nhau mà đi, đó là cớ sinh ra kiện. Nếu như trên dưới thuận nhau, thì kiện còn bởi đâu mà sinh ra được? Đấng quân tử coi cái Tượng đó biết rằng tình người phải có tranh kiện, cho nên hễ làm việc gì, ắt phải mưu tính từ đầu, cho dứt mối kiện từ khi việc mới bắt đầu, thì kiện không bởi đâu mà sinh ra nữa. Nghĩa chữ “mưu thuỷ” rộng lắm, như là những việc cẩn thận giao kết, ghi rõ khế khoán, v.v…
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trời trên nước dưới, thường đi trái nhau. Dấy việc, mưu tính từ đầu, mối kiện phải tuyệt.
Dịch âm. - Sơ Lục: Bất vĩnh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Chẳng lâu dài về việc của mình, hơi có điều tiếng, sau tốt.
Truyện của Trình Di. - Hào Sáu là kẻ lấy tư cách nhu nhược, ở dưới, không thể làm cho cùng cực việc kiện của mình, cho nên từ đầu quẻ Tụng, nhân tài hào Sáu mà răn trước rằng: Nếu không theo đuổi lâu dài về việc của mình, thì tuy hơi có điều tiếng, về sau cũng được tốt lành. Vì rằng kiện tụng không phải là việc có thể lâu dài, lấy tài Âm nhu mà kiện ở dưới thì khó được tốt, bởi tại trên có ứng viện, lại biết không cố theo đuổi lâu dài về việc của mình, cho nên tuy là hơi có điều tiếng, sau cũng được tốt. Có điều tiếng là tai hại nhỏ, không lâu dài về việc của mình mà không đến nỗi phải hung, đó là sự tốt trong việc kiện.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Âm nhu ở dưới, không thể làm trọn việc kiện, cho nên lời chiêm và tượng của nó như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Bất vĩnh sở sự, tụng bất khả trường dã; tuy tiểu hữu ngôn, kỳ biện minh dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Chẳng lâu dài về việc của mình, việc kiện không thể kéo dài vậy. Dẫu là hơi có điều tiếng; sự phân biệt được rõ ràng vậy.
Truyện của Trình Di. - Là kẻ nhu nhược mà kiện ở dưới, nghĩa nó không thể lâu dài. Nếu làm lâu dài việc kiện, thì cũng không thắng mà vạ tới mình. Nhu nhược ở dưới, tài không thể kiện, dẫu không kéo dài công việc của mình, nhưng đã kiện rồi, ắt có hại nhỏ, cho nên hơi có điều tiếng. Song đã không kéo dài công việc của mình, mà ở bên trên, lại có Dương cương chính ứng, biện lý công minh, cho nên về sau được tốt. Nếu không thế, thì sao khỏi vạ?
Dịch âm. - Cửu Nhị: Bất khắc tụng, qui nhi bộ, kỳ ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Không được kiện, về mà trốn, người làng mình ba trăm hộ, không có tội lỗi.
Truyện của Trình Di. - Hào Hai, hào Năm là chỗ ứng nhau, mà hai tính cứng không thể cùng nhau. Hào Chín Hai từ ngoài lại, lấy đức cứng ở chỗ hiểm, làm chủ việc kiện mà cùng hào Năm chọi nhau. Hào Năm là bậc trung chính; ở ngôi vua, hào Hai chọi lại sao được? Đó là kiện nhau mà nghĩa không được. Nếu biết là nghĩa không nên, lui về mà trốn để tránh cho qua, dùng sự kiện ước tự xử, thì được khỏi tội. Phải trốn, là cốt tránh chỗ làm kẻ đối địch. Ba trăm hộ tức là cái ấp rất nhỏ. Nếu mà ở chỗ mạnh lớn, tức là hãy còn ganh đua, sao được khỏi tội?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Hai là hạng Dương cương làm chủ sự hiểm, và vốn muốn kiện. Nhưng tính cương, ở ngôi nhu, được chỗ chính giữa của quẻ dưới mà trên thì ứng với hào Chín Năm, là bậc Dương cương ở ngôi tôn, thế không thể địch, cho nên Tượng và lời Chiêm của nó như thế. Người ấp ba trăm hộ, tức là ấp nhỏ, ý nói tự xử một cách thấp hẹp, cho khỏi tai hoạn. Kẻ xem nếu thế thì không có tội.
Lời bàn của Tiên Nho. - Chu Hy nói rằng: “Không được kiện, về mà trốn, người ấp ba trăm hộ, không có tội, cớ gì không nói hai trăm hộ? Là vì nó có định số. Ngày nay, những người giải nghĩa lại muốn gò gập, cho nên chỉ có thể nói là ấp nhỏ?
Dịch âm. - Tượng viết: Bất khắc tụng qui bộ, thoán dã; tự hạ tụng thượng, hoạn chí, suyết dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Không được kiện, về trốn, là đi lánh vậy, tự dưới kiện lên, hoạn nạn tới, nhặt lấy vậy.
Truyện của Trình Di. - Nghĩa đã không thể địch nhau, cho nên không thể được kiện, về mà trốn, ấy là lánh bỏ nơi chốn của mình. Ở dưới mà kiện người trên, nghĩa trái thế kém, vạ hoạn kéo đến cũng như nhặt lấy. Ý nói tự mình tự rước lấy vạ lo vậy.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Suyết là tự mình vơ lấy.
Dịch âm. - Lục Tam: Thực cựu đức, trinh lệ, chung cát; hoặc tòng vương sự, vô thành.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Ăn về đức cũ, chính bền, lo sợ, sau tốt; hoặc theo việc vua, không thành.
Truyện của Trình Di. - Hào Ba tuy ở ngôi cương mà ứng với hào Trên, nhưng chất nó vốn là Âm nhu, lại ở chỗ hiểm, xen vào khoảng giữa hai hào cương, lo sợ không phải là vì việc kiện. Ăn đức cũ nghĩa là xử theo cái phận sẵn có của mình, trinh là kiên cố tự giữ, lo sợ sau tốt nghĩa là tuy ở vào chỗ hiểm nghèo, mà biết lo lắng, thì sau chót ắt được tốt lành. Theo việc vua là mềm theo cứng, dưới theo trên. Hào Ba không vì việc kiện mà theo việc làm của hào Chín Trên, cho nên nói rằng “hoặc theo việc vua, không thành”, nghĩa là mình theo người trên thì sự thành công không phải ở mình. Kiện là việc cứng mạnh, cho nên hào Đầu thì không kéo dài, hào Ba thì theo hào Trên, đều không phải hạng không biết kiện, hai hào đó đều vì Âm nhu không chót việc kiện mà được tốt, hào Tư cũng vì không được kiện mà đổi, được tốt, đó là việc kiện lấy sự biết thôi làm hay.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Chữ 食 (thực) này cũng như chữ 食 (thực) trong tiếng 食邑 (thực ấp: làng ăn lộc), chỉ về cái được hưởng. Hào Sáu Ba là hạng Âm nhu, không phải kẻ biết kiện, cho nên cứ giữ nếp cũ, ở chỗ ngay thẳng, thì dù có nguy mà sau vẫn tốt. Nhưng nếu hoặc ra mà làm việc vua, thì cũng không thể thành công. Kẻ xem nên cứ thủ thường không ra là phải.
Dịch âm. - Tượng viết: Thực cựu đức, tòng thượng cát dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Ăn đức cũ, và theo người trên thì tốt vậy.
Truyện của Trình Di. - Giữ phận sẵn có của mình, tuỳ theo việc làm của người trên, mà không phải ở mình mà ra, cho nên dù là không thành mà sau vẫn được tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tòng thượng cát nghĩa là theo người trên thì tốt, tỏ rằng việc gì tự chủ thì không thành công.
Dịch âm. - Cửu Tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, thâu an trinh cát.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Tư: Không thể kiện, lại theo mệnh đổi ra yên bề chính bền, tốt!
Truyện của Trình Di. - Hào Tư là Dương cương, ở thể mạnh, không được trung chính, vốn là kẻ đi kiện. Nhưng nó vâng theo hào Năm, xéo lên hào Ba, mà ứng với hào Đầu, hào Năm là vua, nghĩa không thể kiện; hào Ba ở dưới mà tính lại mềm, không kiện với nó; hào Đầu chính ứng với nó mà chỉ thuận theo, không phải kẻ dự việc kiện; hào Tư tuy là cứng mạnh muốn kiện, mà không có kẻ đối địch, việc kiện của nó, không bởi đâu mà dấy lên được, cho nên nó không thể kiện. Lại, hào này ở ngôi mềm để ứng với hào mềm, cũng là cái nghĩa “biết thôi”. Đã là nghĩa không thể kiện, nếu biết nén lòng cương phẫn muốn kiện, lại theo số mệnh mà thay lòng, dẹp khí, đổi ra yên bề chính bền thì tốt. Mệnh tức là chính lý, làm trái chính lý gọi là “chống mệnh”, cho nên cho sự theo mệnh là “lại”… Ôi, cứng mạnh mà không trung chính, thì hay nóng nảy hành động, cho nên không thể ở yên; không trung chính, cho nên không trinh không yên. Vì vậy mới thích kiện cáo. Nếu như nghĩa không thể kiện mà không kiện, lại theo chính lý, đổi sự không an trinh ra làm an trinh thì tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - “Tức” nghĩa là tới, “mệnh” tức là chính lý, “thâu” nghĩa là đổi. Hào Chín Tư cứng mạnh mà không trung chính, cho nên có tượng kiện cáo. Vì nó ở vào ngôi nhu, cho nên lại là cái tượng vì “không thể kiện mà theo chính lý thay đổi lòng bụng, ở yên chính đạo”. Kẻ xem như thế thì tốt.
Lời bàn của Tiên Nho. - Lã Đông Lai nói rằng: Hào này là số Chín, ở ngôi Tư, ấy là hạng cương cường ở chỗ không được trung chính, vốn là kẻ thích kiện. Nhưng cái mà nó phải theo là hào Năm, hào Năm rất tôn, nó không dám kiện; cái mà nó xéo lên là hào Ba, hào Ba rất mềm, không đến nỗi sinh kiện, cái mà nó ứng với là hào Đầu, hào Đầu đã ứng với nó, không phải kẻ kiện nhau với nó; tả hữu trước sau, đều không thể kiện, dù nó có lòng thích kiện, cũng không được sính chút nào, thì cái bụng nó ắt phải trở lại mà về đường thiện. Vì vậy mới nói là “lại theo mệnh”. Mệnh tức chính lý. Cái lòng thích kiện, đã không thi thố ra được, thì lại theo về chính lý mà đổi ra thiện.
Hồng Quát Sương nói rằng: Hào Hai với hào Năm kiện nhau, hào Tư với hào Đầu kiện nhau, sự địch nhau của các hào đó mạnh yếu khác nhau, mà đều nói là không thể kiện, là vì: hào Hai là dưới kiện trên, sự không thể đó là thế như thế; hào Tư là trên kiện dưới, sự không thể này là lý như thế. Hào Hai thấy thế không thể địch, nên phải lui về mà trốn; hào Tư biết lý không thể đổi, cho nên lại phải theo mệnh. Bởi tại hào Hai hào Tư là kẻ cứng, ở ngôi mềm, nên mới có thể như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Phục tức mệnh, thâu an trinh, bất thất dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lại theo mệnh, đổi ra an bề chính bền, không lỗi vậy.
Truyện của Trình Di. - Có thể như thế, là không có lỗi, vì vậy mới tốt.
Dịch âm. - Cửu Ngũ: Tụng nguyên cát.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Năm: Kiện cả tốt.
Truyện của Trình Di. - Hào này là kẻ lấy đức trung chính ở ngôi tôn mà trị việc kiện. Trị việc kiện được trung chính, cho nên cả tốt.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là kẻ có đức Dương cương trung chính để ở ngôi tôn, nghe việc kiện mà được công bình. Kẻ xem gặp hào này, kiện mà có lý, chắc tỏ được sự oan khuất.
Dịch âm. - Tượng viết: Tụng nguyên cát, dĩ trung chính dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Kiện cả tốt, vì trung chính vậy.
Truyện của Trình Di. - Cái đạo trung chính, thi thố vào việc gì mà không cả tốt!
Bản nghĩa của Chu Hy. - Trung thì nghe không lệch, chính thì đoán hợp lẽ.
Dịch âm. - Thượng Cửu: Hoặc tích chi bàn đái, chung triêu tam trĩ chi.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Trên: Hoặc cho chiếc dải lưng da, trọn buổi sáng, ba lần lột lại.
Truyện của Trình Di. - Hào Chín ở trên, tức là một kẻ cứng mạnh tột bậc, và lại là kẻ ở trong việc kiện làm cho cùng cực việc kiện. Người mà dòng nết cương cường, làm cho cùng cực việc kiện, thì sự rước vạ mất đòi, vẫn là lẽ đương nhiên. Nếu hoặc có kẻ khiến xui, khéo kiện, có thể được kiện, cùng cực không thôi, rồi đến được thưởng thứ đồ phục mệnh, thì cũng là của vì sự thù nhau tranh nhau với người ta mà được, có thể giữ được yên lành chăng? Cho nên, trọn một buổi sớm mà đến ba lần bị lột.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dải lưng da là đồ trang sức thuộc về mệnh phục; lột là cướp lại. Hào này lấy đức cương, ở cuối việc kiện, tức là xong kiện mà được kiện, cho nên có tượng cho sắc mệnh, nhận phẩm phục. Nhưng, cái của vì kiện mà được, không thể yên lâu, cho nên lại có Tượng “trọn buổi sớm ba lần bị lột”. Lời Chiêm của hào này là hết việc kiện, kẻ vô lý hoặc cũng được thắng, nhưng cái mà hắn đã được, sau rồi ắt phải mất. Cái ý răn bảo của thánh nhân thật là sâu xa.
Dịch âm. - Tượng viết: Dĩ tụng thụ phục, diệc bất túc kính dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Vì kiện mà nhận đồ mặc, cũng không đủ kính vậy.
Truyện của Trình Di. - Làm cho cùng cực việc kiện, giả sử được nhà vua yêu mà cho phục mệnh, cũng còn không đủ kính trọng mà đáng khinh ghét, huống chi lại còn vạ lo theo sau.
Lời bàn của Tiên Nho. - Đổng Bàn Giản nói rằng: Coi thể cả một quẻ Tụng, chỉ là việc kiện không thể thành; hào Chín Đầu không lâu dài cái việc của mình, hào Chín Hai không thể kiện, hào Sáu Ba giữ nếp cũ, ở chỗ Chín, không phải kẻ có thể kiện; hào Chín Tư không thể kiện, mà biết trở lại chính lý, thay đổi tâm chí, ở yên chỗ chính đính; hào Chín Năm nghe kiện cả tốt; Hào Chín Trên tuy có được ban dải lưng da mà không tránh khỏi cái nạn một buổi sớm ba lần lột, đầu đuôi đều là ý không thể kiện. |
21130 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20D%E1%BB%8Bch/Chu%20D%E1%BB%8Bch%20th%C6%B0%E1%BB%A3ng%20kinh/Qu%E1%BA%BB%20S%C6%B0 | Kinh Dịch/Chu Dịch thượng kinh/Quẻ Sư | Truyện của Trình Di. - Quẻ Sư, Tự quái nói rằng: đã kiện ắt có đông người nổi lên, cho nên tiếp đến quẻ Sư. Sư lữ dấy lên, bởi tại có sự tranh giành, cho nên quẻ Sư mới nối quẻ Tụng. Nó là quẻ Khôn trên, Khảm dưới. Nói về hai thể, thì trong đất có nước, tức là cái tượng đông người tụ họp. Nói về nghĩa của hai quẻ, thì trong hiểm, ngoài thuận, đi đường hiểm bằng cách xuôi thuận, đó là nghĩa trẩy quân; nói về các hào, thì một hào Dương làm chủ các hào Âm, tức là cái tượng tóm cả đông người. Quẻ Tỵ một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở trên, là tượng ông vua; quẻ Sư một hào Dương làm chủ các hào Âm mà ở dưới, là tượng tướng suý.
Dịch âm. - Sư trinh, trượng nhân cát, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Quân chính, bậc trượng nhân tốt, không lỗi.
Truyện của Trình Di. - Cái đạo quân gia, lấy sự chính đính làm gốc. Dấy quân động chúng, để làm độc hại thiên hạ, mà không dùng cách chính đính thì dân không theo, chẳng qua cưỡng bách mà xua họ đi mà thôi. Cho nên quân gia phải lấy sự chính đính làm chủ. Hành động tuy chính đính, nhưng kẻ làm tướng phải là bậc trượng nhân mới tốt mà không có lỗi. Bởi vì, có khi tốt mà có lỗi, có khi không lỗi mà không tốt. Tốt và không lỗi, mới là tận thiện. Trượng nhân là tên gọi bậc tôn nghiêm, đem quân coi chúng, nếu không phải kẻ mà mọi người tôn tín sợ phục, thì sao cho được lòng người vâng theo?… Gọi là trượng nhân, bất tất phải người vốn vẫn ở ngôi cao quý, hễ mà tài mưu đức nghiệp đủ khiến mọi người sợ phục thì nhằm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Sư là quần chúng. Quẻ này dưới Khảm trên Khôn, Khảm hiểm mà Khôn thuận, Khảm là nước mà Khôn là đất, đời xưa ngụ hình ở nông, núp cái rất hiểm chỗ cả thuận, giấu cái không thể lường trong chỗ rất tĩnh. Lại nữa, trong quẻ chỉ hào Chín Hai là một hào Dương ở giữa quẻ dưới, là Tượng làm tướng; trên dưới năm hào Âm đều phải thuận mà theo, là Tượng làm quân. Hào Chín Hai lấy tư cách Dương cương ở dưới làm việc, hào Sáu Năm là hạng mềm yếu ở trên mà dùng người, tức là cái Tượng ông vua sai tướng ra quân, cho nên quẻ này gọi tên là Sư. Trượng nhân là tiếng để gọi bậc trưởng lão, cái đạo dùng quân lợi về được chính đính, mà phải dùng người lão thành, mới được tốt mà không có lỗi. Đó là răn kẻ xem cũng phải như thế.
Dịch âm. - Thoán viết: Sư chúng dã, trinh chính dã, năng dĩ chúng chính, , khả dĩ vương hỹ.
Dịch nghĩa. - Lời Thoán nói rằng: Sư là nhiều người, trinh là chính, khiến được nhiều người chính đính, thì có thể làm nên nghiệp vương.
Truyện của Trình Di. - Khiến được mọi người chính đính thì có thể trị thiên hạ. Được lòng người phục theo mà về với mình, đạo “vương” có thế mà thôi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lấy thể quẻ thích nghĩa hai chữ sư trinh. Dĩ 以 nghĩa là sai khiến được người, một hào Dương ở giữa quẻ dưới mà năm hào Âm đều bị sai khiến vậy. Có thể khiến cho mọi người đều phải chính đính, thì là quân của đấng vương giả.
Dịch âm. - Cương trung nhi ứng, hành hiểm nhi thuận, dĩ thử độc thiên hạ nhi dân tòng chi, cát, hựu hà cữu hỹ?
Dịch nghĩa. - Cứng giữa mà có chính ứng, đi chỗ hiểm mà xuôi thuận, dùng cái đó để làm độc hại thiên hạ mà dân theo, tốt! Còn lỗi gì nữa?
Truyện của Trình Di. - Đây là nói về hào Hai. Hào ấy là kẻ cứng, ở ngôi giữa mà được đạo trung, có ông vua ở hào Sáu Năm làm chính ứng, tin dùng một cách chuyên nhất, dù đi đường hiểm mà cứ lấy sự xuôi thuận hành động, đó là nghĩa binh, tức là quân của đấng vương giả. Trên thuận dưới hiểm là đi chỗ hiểm mà thuận. Sư lữ nổi lên, không khỏi hại của, hại người, độc hại thiên hạ, vậy mà lòng dân vẫn theo mình, là vì mình chỉ theo nghĩa hành động. Đời xưa, đánh bên Đông thì bên Tây oán ấy là lòng dân theo về. Như thế, cho nên tốt mà không lỗi. Tốt là ắt được, không lỗi là hợp với nghĩa, thì còn lỗi gì?
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây lại lấy thể quẻ thích nghĩa câu “trượng nhân cát, vô cữu”. Cương trung chỉ hào Chín Hai ứng là hào Sáu Năm ứng nhau với nó. Hành hiểm là đi vào đường hiểm nghèo. Thuận là thuận lòng người. Bấy nhiêu điều đó phi người có đức lão thành, thì không làm nổi. Độc nghĩa là hại, sư lữ dấy lên, không khỏi làm hại thiên hạ, nhưng vì có tài đức ấy, cho nên dân mới vui lòng mà theo.
Dịch âm. - Tượng viết: Địa trung hữu thuỷ, Sư, quân tử dĩ dung dân súc chúng.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Trong đất có nước, là quẻ Sư, đấng quân tử coi đó mà dung dân, nuôi quân.
Truyện của Trình Di. - Trong đất có nước, nước tụ trong đất, là tượng đông người tụ họp, cho nên mới là quẻ Sư. Đấng quân tử coi tượng trong đất có nước đó, để dung giữ dân của mình, nuôi hợp quân của mình.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Nước không thể ngoài đất, quân không thể ngoài dân, cho nên hễ nuôi được dân, thì có thể nuôi được quân.
Dịch âm. - Sơ Lục: Sư xuất dĩ luật, phủ tang, hung.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Đầu: Quân ra bằng luật, không khéo thì hung.
Truyện của Trình Di. - Hào Đầu là lúc khởi đầu việc quân, cho nên nói về cái nghĩa ra quân và cách trẩy quân. Đứng về mặt nhà nước dấy quân mà nói, thì hợp nghĩa lý là luật, nghĩa là cứ lấy sự cấm kẻ loạn giết kẻ bạo mà hành động. Nếu hành động mà không theo nghĩa, tuy khéo cũng hung. Khéo là có thể đắc thắng, hung là bại nghĩa hại dân. Đứng về mặt trẩy quân mà nói, thì luật tức là hiệu lệnh, trong phép trẩy quân, phải lấy hiệu lệnh tiết chế làm gốc, để mà tóm coi binh chúng. Nếu không có luật tuy khéo cũng hung, nghĩa là tuy được thắng lợi cũng được hung đạo. Vì rằng: coi quân không có kỷ luật, may mà không thua lại được, thỉnh thoảng cũng có. Đó là lời răn của thánh nhân.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Luật tức là phép, phủ tang nghĩa là không khéo. Họ Triều nói rằng: “chữ phủ, Tiên Nho nhiều người giải nghĩa là chẳng”. Hào này ở đầu quẻ, là lúc khởi đầu việc quân. Cái đạo ra quân, nên cẩn thận lúc đầu, có luật thì tốt, không khéo thì hung, đó là răn kẻ xem nên cẩn thận lúc đầu mà phải giữ phép.
Dịch âm. - Tượng viết: Sư xuất dĩ luật, thất luật hung dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Quân ra bằng luật, mất luật hung vậy.
Truyện của Trình Di. - Quân ra nên có luật, mất luật thì hung, tuy may mà được, cũng là hung đạo.
Dịch âm. - Cửu Nhị: Tại Sư trung cát, vô cữu, vương tam tích mệnh.
Dịch nghĩa. - Hào Chín Hai: Ở trong quân, vừa phải thì tốt, không lỗi, nhà vua ba lần cho mệnh.
Truyện của Trình Di. - Quẻ Sư chỉ có hào Chín Hai là một hào Dương được các hào Âm theo về, hào Năm ở ngôi vua, tức là chính ứng của nó, hào Hai thì là chủ đám quân, chuyên chế việc đó. Kẻ ở dưới mà chuyên chế công việc, ở trong quân thì được. Từ xưa, các vua sai tướng, công việc ở ngoài cửa buồng, được chuyên chế hết. Ở trong quân, chuyên chế mà được vừa phải, cho nên mới tốt mà không có lỗi. Bởi vì cậy thế mà chuyên chế, thì trái với đạo làm kẻ dưới, mà không chuyên chế, thì không có lẽ thành công, cho nên, hễ được vừa phải thì tốt. Phàm cách trị quân, vừa uy nghiêm vừa ôn hoà thì tốt. Đã xử việc quân cực khéo, thì có thể thành công mà yên thiên hạ, cho nên nhà vua mới có sủng mệnh tới ba lần. Việc gì mà tới ba lần tức là cực điểm. Hào Sáu Năm dùng nó đã chuyên nhất, lại phải hậu hỹ về sung số nữa, bởi vì hễ lễ không xứng thì oai không trọng mà kẻ dưới không tin. Quẻ khác, hào Chín Hai bị hào Sáu Năm sai dùng cũng có, nhưng chỉ quẻ Sư, thì hào Chín Hai chuyên chủ công việc, mà được các hào Âm kia theo về, cho nên nghĩa nó rất lớn. Đạo kẻ làm tôi, không dám chuyên về một việc gì, chỉ có việc “ngoài cửa buồng” thì được chuyên chế mà thôi; chuyên chế ở mình, nhưng những sự nhân sức quân mà làm ra được, đều là do ở vua cho mà chức phận mình nên làm.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Chín Hai ở dưới, được các hào Âm theo về, mà có đức cương trung, trên thì ứng với hào Năm, mà được hào ấy yêu đương, cho nên tượng và lời Chiêm của nó như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Tại Sư trung, cát, thừa thiên sủng dã; vương tam tích mệnh, hoài vạn bang dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Ở trong quân, vừa phải thì tốt, vâng sự yêu của trời vậy; nhà vua ba lần cho mệnh, làm cho muôn nước nhớ mến vậy.
Truyện của Trình Di. - Ở trong quân vừa phải thì tốt, là vì được vâng sự yêu quý tin dùng của trời; trời chỉ về vua, kẻ làm tôi phi được vua yêu mà dung, thì đâu có được chuyên quyền đánh dẹp mà có sự tốt lành về thành công? Nhà vua ba lần ban cho ân mệnh, khen sự thành công, là để làm cho muôn nước nhớ mến.
Lời bàn của Tiên Nho. - Khâu Kiến An nói rằng: Trên được thiên tử yêu dùng, giao cho binh quyền, cho mệnh đến ba lần, khiến được chuyên coi việc “ngoài cửa buồng”. Đấng vương giả dụng binh là chẳng đứng được, không phải bản tâm thích sự chém giết, cho nên ba lần ban cho mệnh lệnh, cốt ở làm yên muôn nước mà thôi.
Dịch âm. - Lục Tam: Sư, hoặc dư thi, hung.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Ba: Quân hoặc khiêng thây, hung.
Truyện của Trình Di. - Hào Ba ở trên quẻ dưới, tức là kẻ ở ngôi gánh trách nhiệm, chẳng những tài nó Âm nhu không trung chính, mà việc sư lữ, dùng người nên chuyên nhất, hào Hai đã lấy tư cách cương trung, được người trên tin cậy, ắt phải chuyên chủ về việc, thì mới thành công, nếu để nhiều người chủ trương, thì là đạo hung. Dư thi nghĩa là nhiều người làm chủ, đó là chỉ vào hào Ba. Bởi vì hào Ba ở trên quẻ dưới, cho nên mới phát nghĩa đó. Việc quân lữ, dùng không chuyên nhất, đổ hại là sự tất nhiên.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Dư thi nghĩa là sự đồ thua rối, khiêng thây mà về. Vì là hào Âm, ở ngôi Dương, tài yếu, chí cương, không trung không chính, mà phạm vào việc không phải phận mình, cho nên, tượng và lời Chiêm của nó như thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Sư hoặc dư thi, đại vô công dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Quân hoặc khiêng thây, rất không công vậy.
Truyện của Trình Di. - Nương tựa, giao phó cho hai ba người, sao thành công được! Há chỉ không thành công mà thôi đâu, đó còn là cách rước lấy sự hung nữa.
Dịch âm. - Lục Tứ: Sư tả thứ, vô cữu.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Tư: Quân lùi đóng, không lỗi.
Truyện của Trình Di. - Quân tiến là vì hăng mạnh, hào Tư là kẻ yếu, ở ngôi Âm, không phải có thể tiến lên mà được thắng lợi. Biết không thể tiến mà lui, cho nên lùi đóng. Cân nhắc nên chăng để tiến hoặc lui, thế là rất nên, cho nên không lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Tả thứ tức là đóng quân lui lại. Âm nhu không giữa, mà ở ngôi Âm, được chỗ chính, cho nên Tượng nó như thế. Giữ lấy toàn quân mà lui, hơn hào Sáu Ba xa lắm, cho nên lời Chiêm của nó là thế.
Dịch âm. - Tượng viết: Tả thứ vô cữu, vị thất thường dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Lùi đóng không lỗi, chưa mất lẽ thường vậy.
Truyện của Trình Di. - Cái phép hành binh, theo thời thế mà làm điều nên làm, đó là lẽ thường. Cho nên đóng quân lui xuống, chưa hẳn là sai, như hào Tư lùi mà đóng, ấy là hợp với sự nên làm, cho nên không lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Biết khó mà lui, đó là sự thường trong việc quân.
Lời bàn của Tiên Nho. - Hồ Vân Phong nói rằng: Sợ rằng người ta cho lui là nhát, cho nên nói rõ nên lui mà lui, cũng là sự thường trong việc quân.
Dịch âm. - Lục Ngũ: Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu, trưởng tử suất sư, đệ tử dư thi, trinh hung.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Năm. Ruộng có chim, lợi cho sự có lời để nói. Con cả đem quân, con em khiêng thây, chinh cũng hung.
Truyện của Trình Di. - Ngôi vua là chủ việc dấy quân, cho nên mới nói về cách dấy quân dùng tướng. Quân lữ dấy lên ắt vì mọi rợ lấn đất Hoa Hạ, giặc cướp gian nhũng làm hại sinh dân, không thể lấy đức mà dụ, nên phải vâng theo lời nói mà đánh, cũng như chim vào trong ruộng, lấn hại lúa má, nghĩa nên phải săn, thì săn mà bắt. Động quân như thế thì không có lỗi. Nếu hành động một cách khinh suất, thì lỗi lớn lắm. Chấp ngôn nghĩa là vâng theo lời nói, tức là kể rõ tội trạng của họ mà đánh. Như vua Thuỷ Hoàng nhà Tần và vua Vũ Đế nhà Hán đều “lùng vào núi rừng để tìm chim muông”, không phải là ruộng có chim. Trong phép dùng tướng trao quân, nên để con cả đem quân. Hào Hai ở dưới, làm chủ việc quân, tức là con cả. Nếu để con em nhiều người làm chủ, thì tuy việc làm chính đáng, nhưng cũng là hung. Con em tức là những người không phải con cả.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Hào Sáu Năm là chủ việc dùng quân, mềm thuận mà ở giữa, tức là kẻ không gây ra mối binh đao, quân giặc tràn lấn đến mình, chẳng đứng được mà phải ứng địch, cho nên mới là cái Tượng trong ruộng có chim, mà lời chiêm của nó, thì lợi về sự săn bắt mà không có lỗi. Ngôn là lời nói. Trưởng tử là hào Chín Hai. Đệ tử là hào Ba hào Bốn. Mấy câu này lại răn kẻ xem, uỷ nhiệm ai phải chuyên dốc về người ấy, nếu sai quân tử làm việc, mà để tiểu nhân xen vào, thì là sai chúng khiêng thây mà về, cho nên, tuy là chính đáng vẫn không khỏi hung.
Dịch âm. - Tượng viết: Trưởng tử suất sư, dĩ trung hành dã; đệ tử dư thi, sử bất đáng dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Con cả đem quân theo đạo giữa mà đi vậy; con em khiêng thây, sai khiến không được xứng đáng vậy.
Truyện của Trình Di. - Con cả ý nói hào Hai lấy đức trung chính hợp với người trên mà nhận trách nhiệm để đi, nếu lại sai khiến kẻ khác, nhiều người chủ trương công việc, thì là sai dùng không xứng đáng, hung là phải lắm.
Dịch âm. - Thượng Lục: Đại quân hữu mệnh, khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng.
Dịch nghĩa. - Hào Sáu Trên: Đấng đại quân có mệnh, mở nước vâng nhà, kẻ tiểu nhân chớ dùng.
Truyện của Trình Di. - Hào Trên là cuối việc quân, công đã thành rồi, đấng đại quân đem tước mệnh mà thưởng cho kẻ có công. Mở nước là phong họ làm chư hầu; vâng nhà là dùng họ làm quan khanh quan đại phu. Kẻ tiểu nhân dù cho có công cũng không thể dùng, cho nên răn rằng chớ dùng. Trong khi quân lữ dấy lên, sự thành công không phải một lối, bất tất ai cũng quân tử, cho nên răn rằng: Kẻ tiểu nhân có công cũng không thể dùng, thưởng chúng bằng những vàng lụa tước vị thì được, không thể để chúng có nước nhà mà làm chính sự. Đây nói về nghĩa của cuối quẻ Sư, không lấy riêng nghĩa của hào này, là vì chỉ nói cái nghĩa lớn hơn. Nếu nói về hào, thì hào Sáu lấy đức mềm yếu, ở chỗ cực thuận, việc quân đã xong mà không có ngôi, khéo xử thì không có lỗi.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Đây là việc quân đã xong rồi, xuôi thuận đã tột bậc, tức là lúc bàn công ban thưởng. Khôn là đất, cho nên có Tượng mở nước vâng nhà. Nhưng kẻ tiểu nhân thì dù có công cũng không thể để chúng được có tước đất, chỉ ưu đãi chúng bằng những vàng lụa thì được. Đó là răn người ban thưởng, với kẻ tiểu nhân thì chớ dùng lời chiêm này, kẻ tiểu nhân mà gặp trường hợp ấy cũng không được dùng hào này.
Dịch âm. - Tượng viết: Đại quân hữu mệnh, dĩ chính công dã; tiểu nhân vật dụng, tất loạn bang dã.
Dịch nghĩa. - Lời Tượng nói rằng: Đấng đại quân có mệnh, để chính công vậy; kẻ tiểu nhân chớ dùng, ắt loạn nước vậy.
Truyện của Trình Di. - Đấng đại quân cầm quyền ân thưởng, để làm cho chính cái công quân lữ, đó là sau chót việc quân; tuy là thưởng kẻ có công, nhưng với kẻ tiểu nhân thì không thể vì chúng có công mà dùng, dùng chúng ắt là loạn nước. Kẻ tiểu nhân cậy công, mà làm loạn nước, từ xưa vẫn có.
Bản nghĩa của Chu Hy. - Lời răn của thánh nhân sâu lắm.
Lời bàn của Tiên Nho. - Lý Long Sơn nói rằng: Trong sáu hào: ra quân, đóng quân, đem quân, đem tướng, cùng là vâng lời đánh kẻ có tội, rút quân ban thưởng, không cái gì không đủ, tuy đến rậm lời như binh thư đời sau. Chỉn không bằng mấy lời sơ lược của sáu hào quẻ Sư. Huống chi những lời về quân của vương giả, so với các sách quyền mưu của đời sau, đằng kỳ đằng chính, khác nhau rất xa. Kẻ trị thiên hạ, chẳng đừng được mà phải dùng quân, hà tất bỏ chỗ này tìm chỗ khác? |
21208 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%E1%BB%95%20An%20Nam%20l%E1%BB%A5c%20d%E1%BB%8B%20%C4%91%E1%BB%93%20k%C3%BD | Bổ An Nam lục dị đồ ký | Nguồn
本文寫於唐僖宗中和二年(882年),收錄在崔致遠《桂苑筆耕集》卷十六。 Bản văn tả vu Đường Hi Tông trung hòa nhị niên (882 niên ) , thu lục tại Thôi Trí Viễn 《 quế uyển bút canh tập 》 quyển thập lục .
Tác giả Triều Tiên
Tác giả thời Đường
zh:補安南錄異圖記 |
21217 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%ACnh%20An%20Nam%20chi%E1%BA%BFu | Bình An Nam chiếu | Xem thêm bản tiếng Anh:
Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/1104, accessed July 11, 2016.
Văn học Trung Quốc
Chiếu |
21313 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%8Bch%20s%E1%BB%AD%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ta | Lịch sử nước ta | Dân ta phải biết sử ta.
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.
Kể năm hơn bốn ngàn năm
Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hòa.
Hồng Bàng là tổ nước ta
Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang
Thiếu niên ta rất vẻ vang
Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.
Tuổi tuy chưa đến chín mười
Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.
An Dương Vương thế Hùng Vương
Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.
{{khác2|Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời…|Nhiều bản in hiện nay cắt bỏ 2 câu này}}
Nước Tàu cậy thế đông người
Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam
Quân Tàu nhiều kẻ tham lam
Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?
Hai Bà Trưng có đại tài
Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian
Ra tay khôi phục giang san
Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta
Tỉnh Thanh Hóa có một bà
Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi.
Tài năng dũng cảm hơn người
Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.
Phụ nữ ta chẳng tầm thường
Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời.
Kể gần sáu trăm năm giời
Ta không đoàn kết bị người tính thôn.
Anh hùng thay ông Lý Bôn
Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người.
Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài
Lập nên triều Lý sáu mươi năm liền.
Vì Lý Phật Tử ngu hèn
Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.
Thương dân cực khổ xót xa
Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu.
Vì dân đoàn kết chưa sâu
Cho nên thất bại trước sau mấy lần.
Ngô Quyền quê ở Đường Lâm
Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.
Đến hồi thập nhị sứ quân
Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.
Động Hoa Lư có Tiên Hoàng
Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.
Ra tài kiến thiết kinh dinh,
Đến Vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.
Lê Đại Hành nối lên ngôi
Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.
Vì con bạo ngược hoành hành
Ba đời thì đã tan tành nghiệp vương.
Công Uẩn là kẻ phi thường
Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.
Mở mang văn hóa nước nhà
Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.
Lý Thường Kiệt là hiền thần
Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.
Tuổi già phỉ chí công danh
Mà lòng yêu nước trung thành không phai.
Họ Lý truyền được chín đời
Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.
Nhà Trần thống trị giang san,
Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,
Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:
Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,
Tung hoành chiếm nửa Âu châu
Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,
Lăm le muốn chiếm nước ta
Năm mươi vạn lính vượt qua biên thùy,
Hải quân theo bể kéo đi,
Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nêm.
Dân ta nào có chịu hèn
Đồng tâm hợp lực mấy phen đuổi Tàu.
Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,
Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang.
Mênh mông một dải Bạch Đằng
Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,
Hai lần đại phá Nguyên binh,
Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.
Quốc Toản là trẻ có tài,
Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền
Mấy lần đánh thắng quân Nguyên
Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.
Thật là một đấng anh hùng.
Trẻ con Nam Việt nên cùng neo theo.
Đời Trần văn giỏi võ nhiều
Ngoài dân thịnh vượng trong triều hiền minh.
Mười hai đời được hiển vinh,
Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.
Cha con nhà Hồ Quý Ly,
Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.
Tình hình trong nước không yên,
Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,
Bao nhiêu của cải trân châu,
Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.
Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,
Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.
Mấy phen sông Nhị núi Lam,
Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.
Kìa Túy Động nọ Chi Lăng,
Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.
Mười năm sự nghiệp hoàn thành,
Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.
Vì dân hăng hái kết đoàn,
Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.
Vua hiền có Lê Thánh Tôn,
Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.
Trăm năm truyền đến Cung Hoàng,Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.
Bấy giờ trong nước lôi thôi,
Lê Nam, Mạc Bắc rạch đôi san hà,
Bảy mươi năm vạn can qua
Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.
Từ đời mười sáu trở đi,
Vua Lê, chúa Trịnh chia vì khá lâu
Nguyễn Nam Trịnh Bắc đánh nhau,
Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng.
Dân gian có kẻ anh hùng,
Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,
Đóng đô ở đất Quy Nhơn,
Đánh tan Trịnh, Nguyễn cứu dân đảo huyền
Nhà Lê cũng bị mất quyền,
Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.Nguyễn Huệ là kẻ phi thường
Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc tàu,
Ông đà chí cả mưu cao,
Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.
Cho nên tàu dẫu làm hung,
Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.
Tướng tây Sơn có một bà,Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,
Tay bà thống đốc ba quân,
Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.Gia Long lại dấy can qua,
Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.
Tự mình đã chẳng có tài,
Nhờ tây qua cứu tính bài giải vây.
Nay ta mất nước thế này,
Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,
Khác gì cõng rắn cắn gà,
Rước voi dầy mả thiệt là ngu si.
Từ năm Tân Hợi trở đi,
tây đà gây chuyện thị phi với mình.
Vậy mà vua chúa triều đình,
Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoai.
nay ta nước mất nhà tan
Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.
Năm Tự Đức thập nhất niên,
Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.
Hăm lăm năm sau trận này,
Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,
Ngàn năm gấm vóc giang san,
Bị vua họ Nguyễn đen hàng cho Tây !
Tội kia càng đắp càng đầy,
Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.
Nước ta nhiều kẻ tôi trung,
Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.
Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,
Cùng thành còn mất làm gương để đời.
Nước ta bị Pháp cướp rồi,
Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;
Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng
Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.
Mấy năm ra sức cần Vương,
Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,
Giang san độc lập một miền,
Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.
Anh em khố đỏ, khố xanh,
Mưu khoải nghĩa tại Hà thành năm xưa,
Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,
Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.
Kìa Yên Bái, nọ Nghệ Anh
Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.
Nam Kỳ im lặng đã lâu,
Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.
Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!
Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.
Xét trong lịch sử Việt Nam,
Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.
Nhiều phen đánh Bắc dẹp Đông,
Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.
Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,
Vì ta chỉ biết lo yên một mình.
Để người đè nén, xem khinh,
Để người bóc lột ra tình tôi ngươi !
Bây giờ Pháp mất nước rồi,
Không đủ sức, không đủ người trị ta.
Giặc Nhật Bản thì mới qua;
Cái nền thống trị chưa ra mối mành.
Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,
Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.
Ấy là nhịp tốt cho ta,
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Người chúng ít, người mình đông
Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.
Hỡi ai con cháu Rồng Tiên !
Mau mau đoàn kết vũng bền cùng nhau.
Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.
Người giúp sức, kẻ giúp tiền,
Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.
Trên vì nước, dưới vì nhà,
Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.
Chúng ta có hội Việt Minh
Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh
Mai sau sự nghiệp hoàn thành
Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng
Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh !
Phụ lục
Những năm quan trọng:
Trước Tây lịch
2879 - Hồng Bàng
111 - Tàu lấy nước ta lần đầu
Sau Tây lịch
40 - Hai Bà Trưng đánh Tàu
248 - Bà Triệu Ẩu khởi nghĩa
544 - Vua Lý đánh Tàu
603 - Tàu lấy nước ta
939 - Vua Lê khởi nghĩa
968 - Đời vua Đinh (12 năm)
981 - Đời vua Tiên Lê (29 năm)
1010 - Đời vua Hậu Lý (215 năm)
1073 - Lý Thường Kiệt đánh Tàu
1225 - Đời vua Trần (175 năm)
1283 - Trần Hưng Đạo đánh Tàu
1407 - Tàu lấy nước ta
1427 - Vua Lê khởi nghĩa
1543 - Đời vua Hậu Lê (360 năm)
1545 - Vua Lê, chúa Trịnh
1771 - Đời vua Tây Sơn (24 năm)
1789 - Vua Nguyễn Huệ đánh Tàu
1794 - Gia Long thông với Tây
1847 - Tây bắt đầu đánh nước ta
1862 - Vua nhà Nguyễn bắt đầu hàng Tây
1889 - Ông Đề Thám khởi nghĩa
1893 - Ông Phan Đình Phùng khởi nghĩa
1916 - Trung Kỳ khởi nghĩa
1917 - Thái Nguyên, Sầm Nưa khởi nghĩa
1930 - Yên Bái, Nghệ An khởi nghĩa
1940 - Bắc Sơn và Đô Lương khởi nghĩa
1941 - Nam Kỳ khởi nghĩa
1945 - Việt Nam độc lập
Truyện thơ
Lục bát |
21316 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Fi%20Gia%20Long | Hỏi Gia Long |
Hỏi Gia Long bài 1
Ai về địa phủ hỏi Gia Long,
Khải Định thằng này phải cháu ông?
Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ,
Trăm gia ba chục khổ nhà nông.
Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến,
Năm ngoái qua Tây ỉa vãi vùng.
Bảo hộ trau dồi nên tượng gỗ
Vua thời còn đó, nước thời không.
Hỏi Gia Long bài 2
Nước thời không có, có vua chi?
Có cũng như không chả ích gì!
Người vét đinh điền còn bạch địa,
Ta khoe dụ chỉ tự đan trì.
Cấp tiền nguyệt bổng vinh nào có?
Ăn của quan trường tệ lắm ri!
Thọ lắm lại càng thêm nhục lắm.
Nhỏ cu li, lớn cũng cu li.
Hỏi Gia Long bài 3
Cu li đành phận chớ ra oai
Chuyên chế ăn quen thói cũ hoài
Quân chủ cờ bay vui trước mắt
Dân quyền trống đánh chán bên tai
Bùi, Liêm giảo hiểm khoe tài trí
Huề, Thụ thông minh gọi bất tài
Cấm hết công môn ăn hối lộ
Ngoài ra Tiềm để mặc lòng ai
Hỏi Gia Long bài 4
Mặc lòng ai thảo với quân vương
Lớp để xây lăng lớp tậu vườn
Mặc kệ dân gian chìm nước lụt
Trối thây sĩ tử thiếu nhà trường
Một mình mê mải nghề ca xướng
Các nước lăng xăng nghiệp phú cường
Một lễ tứ tuần thu nặng túi
Bạc vàng châu báu có trăm rương
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
21355 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C3%81%20T%E1%BA%BF%20%C3%81%20ca | Á Tế Á ca | Bản của Võ Văn Sạch sưu tầm được (In trong "Văn thơ Đông Kinh nghĩa thục", Nhà xuất bản Văn Hoá, Hà Nội, 1997)
Chú thích |
21361 | https://vi.wikisource.org/wiki/C%E1%BB%ADu%20nh%E1%BA%ADt%20chi%C3%AAu%20kh%C3%A1ch | Cửu nhật chiêu khách | Lời tự: Năm ngoái tôi bị tống giam hôm trước thì hôm sau là trùng cửu. Tháng ngày qua, nay ngày ấy lại đến, cảm thấy đời mình nếu có may mà không chết, cũng không còn là cái ta khi trước nữa rồi, mà những cuộc lên cao cũng không thể có nữa, mới rót rượu mời các bạn chung quanh tám chín người và nói: đây là tiệc sinh nhật kiếp này của gã Mẫn Hiên này. Mọi người lấy làm lạ hỏi. Tôi cười nói rõ đầu đuôi và làm bài thơ này. |
21446 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20C%E1%BA%A7u%20T%C3%AAn%20R%E1%BA%A5t%20Th%C3%A1nh%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu | Kinh Cầu Tên Rất Thánh Đức Chúa Giêsu | (3 câu bên dưới mỗi câu đọc 2 lần)
Xin Chúa thương xót chúng con.
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúa Giêsu nghe cho chúng con.
Chúa Giêsu nhậm lời chúng con.
Đức Chúa Cha ngự trên trời là Đức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con. (câu nào cũng thưa như vậy)
Đức Chúa Con chuộc tội cứu thế là Đức Chúa Trời thật.
Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời thật.
Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời.
Chúa Giêsu là Con Đức Chúa Trời hằng sống.
Chúa Giêsu là ánh sáng Đức Chúa Cha.
Chúa Giêsu là ánh thanh sạch Chúa sáng láng đời đời.
Chúa Giêsu là Vua vinh hiển.
Chúa Giêsu là mặt trời soi đàng công chính.
Chúa Giêsu là Con Đức Bà Maria đồng trinh.
Chúa Giêsu rất đáng yêu mến.
Chúa Giêsu cực mầu cực nhiệm.
Chúa Giêsu là Chúa mạnh mẽ.
Chúa Giêsu là Cha thật đời sau.
Chúa Giêsu là sứ Đức Chúa Trời Ba Ngôi.
Chúa Giêsu phép tắc vô cùng.
Chúa Giêsu nhịn nhục vô ngần.
Chúa Giêsu chịu lụy mọi đàng.
Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Chúa Giêsu yêu chuộng sự sạch sẽ.
Chúa Giêsu yêu mến chúng con.
Chúa Giêsu là Chúa sự bình an.
Chúa Giêsu là căn nguyên sự sống.
Chúa Giêsu là gương mọi nhân đức.
Chúa Giêsu sốt sắng thương yêu linh hồn người ta.
Chúa Giêsu là Chúa thật chúng con.
Chúa Giêsu là chốn chúng con ẩn dật.
Chúa Giêsu là Cha kẻ khó khăn.
Chúa Giêsu là kho tàng các giáo nhân.
Chúa Giêsu là Đấng chăn chiên lành.
Chúa Giêsu là sự sáng thật.
Chúa Giêsu là Đấng khôn ngoan hằng sống đời đời.
Chúa Giêsu là Đấng lòng lành vô cùng.
Chúa Giêsu là đàng cùng là sự sống chúng con.
Chúa Giêsu là sự vui mừng các thánh thiên thần.
Chúa Giêsu là Vua các thánh tổ tông.
Chúa Giêsu là Thầy các thánh tông đồ.
Chúa Giêsu là Đấng dạy dỗ các thánh sử.
Chúa Giêsu là sức mạnh các thánh tử vì đạo.
Chúa Giêsu là sự sáng soi các thánh hiển tu.
Chúa Giêsu là sự thanh sạch các thánh đồng trinh.
Chúa Giêsu là triều thiên các thánh nam cùng các thánh nữ.
Chúa Giêsu hằng có lòng lành.
Thưa: Chúa Giêsu tha tội chúng con.
Chúa Giêsu hằng có lòng lành.
Thưa: Chúa Giêsu nhậm lời chúng con.
Kẻo phải sự dữ.
Thưa: Chúa Giêsu chữa chúng con. (câu nào cũng thưa như vậy)
Kẻo phải tội lỗi.
Kẻo phải cơn Chúa giận.
Kẻo phải chước ma quỷ cám dỗ.
Kẻo phải lòng mê tà dâm.
Kẻo phải chết khốn nạn đời đời.
Vì phép mầu nhiệm Đức Chúa Giêsu xuống thế làm người.
Vì Đức Chúa Giêsu sinh ra.
Vì Đức Chúa Giêsu Hài Đồng.
Vì Đức Chúa Giêsu trót đời ăn ở xứng đáng Đức Chúa Trời thật.
Vì Đức Chúa Giêsu chịu khó nhọc.
Vì Đức Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu ra, cùng chịu nạn.
Vì Đức Chúa Giêsu chịu đóng đinh cùng bỏ tất tưởi trên cây thánh giá.
Vì Đức Chúa Giêsu chịu yếu nhược rũ liệt.
Vì Đức Chúa Giêsu chịu chết và chịu táng xác.
Vì Đức Chúa Giêsu sống lại.
Vì Đức Chúa Giêsu lên trời.
Vì Đức Chúa Giêsu truyền phép Thánh Thể.
Vì Đức Chúa Giêsu vui mừng khoái lạc.
Vì Đức Chúa Giêsu vinh hiển sáng láng.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa Giêsu tha tội chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa Giêsu nhậm lời chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa Giêsu thương xót chúng con.
Chúa Giêsu nghe cho chúng con.
Chúa Giêsu nhậm lời chúng con.
Lời nguyện:
Chúng con lạy ơn Đức Chúa Giêsu là Chúa chúng con; các thánh ở trên trời, các người ở dưới thế, các quỷ ở trong hỏa ngục cũng kính sợ danh Đức Chúa Giêsu cực cao cực trọng cực mầu cực nhiệm, phép tắc vô cùng. Đức Chúa Giêsu là đàng cực chính cực thật; ai mà theo đàng này thì được sống lâu vui vẻ chẳng cùng. Chúng con xin hằng theo chân Đức Chúa Giêsu, kẻo lạc đàng sa hỏa ngục khốn nạn vô cùng, lại xin Đức Chúa Cha chớ chấp tội lỗi chúng con. Ấy Con Đức Chúa Cha là Đức Chúa Giêsu / đã ra đời làm người vì chúng con; ấy máu thánh Đức Chúa Giêsu / đã chảy ra hết vì tội thiên hạ. Xin Đức Chúa Cha / hãy xem Con xuống thế / liều mình chịu nạn chịu chết cho hết cả và loài người ta, mà tha tội tha vạ cho chúng con. Chúng con cám ơn Đức Chúa Giêsu chẳng có khi khuây, hằng trông cho thấy mặt Đức Chúa Giêsu cực tốt cực lành, cực vui cực sáng, mà thờ phượng ngợi khen Đức Chúa Giêsu / cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần / chẳng hay hết chẳng hay cùng. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21452 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20C%E1%BA%A7u%20Th%C3%A1nh%20Giuse | Kinh Cầu Thánh Giuse | (3 câu bên dưới mỗi câu đọc 2 lần)
Xin Chúa thương xót chúng con.
Xin Chúa Kitô thương xót chúng con.
Xin Chúa thương xót chúng con.
Chúa Giêsu nghe cho chúng con.
Chúa Giêsu nhậm lời chúng con.
Đức Chúa Cha ngự trên trời là Đức Chúa Trời thật.
Thưa: Thương xót chúng con. (câu nào cũng thưa như vậy)
Đức Chúa Con chuộc tội cứu thế là Đức Chúa Trời thật.
Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời thật.
Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời.
Rất thánh Đức Bà Maria.
Thưa: Cầu cho chúng con. (câu nào cũng thưa như vậy)
Ông thánh Giuse.
Ông thánh Giuse là đấng sang trọng bởi dòng Đavít.
Ông thánh Giuse là sự sáng láng các thánh Tổ tông.
Ông thánh Giuse là bạn Đức Mẹ Chúa Trời.
Ông thánh Giuse là đấng thanh sạch giữ gìn Đức Nữ đồng trinh.
Ông thánh Giuse là đấng dưỡng nuôi con Đức Chúa Trời.
Ông thánh Giuse là đấng ân cần gìn giữ Chúa Kitô.
Ông thánh Giuse là đấng cai quản Thánh Gia thất xưa.
Ông thánh Giuse gồm no mọi nhân đức.
Ông thánh Giuse cực thanh cực tịnh.
Ông thánh Giuse cực khôn cực ngoan.
Ông thánh Giuse là đấng vững vàng mạnh mẽ.
Ông thánh Giuse chịu lụy mọi đàng.
Ông thánh Giuse rất ngay chính thật thà.
Ông thánh Giuse làm gương nhân đức nhịn nhục.
Ông thánh Giuse là kiểu thức các tài công noi theo.
Ông thánh Giuse là đấng làm cho sáng danh gia đạo.
Ông thánh Giuse che chở kẻ giữ mình đồng trinh.
Ông thánh Giuse là đấng nâng đỡ gia thất chúng con
Ông thánh Giuse là đấng an ủi kẻ mắc gian nan.
Ông thánh Giuse là nơi cậy cho kẻ liệt lào.
Ông thánh Giuse là bổn mạng kẻ mong sinh thì.
Ông thánh Giuse làm cho quỷ thần kinh khiếp.
Ông thánh Giuse là quan thầy bào chữa Hội Thánh.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa Giêsu tha tội chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa Giêsu nhậm lời chúng con.
Chúa Giêsu chuộc tội cứu thế.
Thưa: Chúa Giêsu thương xót chúng con.
Xướng: Chúa đã đặt ông thánh Giuse làm chủ nhà Chúa.
Đáp: Cùng cai quản gia nghiệp Chúa.
Lời nguyện:
Lạy Đức Chúa Giêsu là Chúa chúng con, Chúa đã khấng toan liệu cách khôn ngoan, lưỡi khen chẳng xiết mà chọn ông thánh Giuse làm bạn thanh sạch Đức Mẹ thân sinh Chúa, xin Chúa hãy khâng ban cho chúng con / như đã cung kính ông thánh Giuse làm quan thầy bào chữa dưới đất, thì cũng được nhờ người cầu thay nguyện giúp trên trời, vì Chúa là đấng hằng sống hằng trị đời đời. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21469 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20t%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c%20Ch%C3%ADnh%20ph%E1%BB%A7%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202015 | Luật tổ chức Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2015 | Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
Quốc hội ban hành Luật tổ chức Chính phủ.
Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Vị trí, chức năng của Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Điều 2. Cơ cấu tổ chức và thành viên của Chính phủ
1. Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Cơ cấu số lượng thành viên Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
2. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các bộ, cơ quan ngang bộ.
Việc thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ do Chính phủ trình Quốc hội quyết định.
Điều 3. Nhiệm kỳ của Chính phủ
Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 năm. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chính phủ tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới thành lập Chính phủ.
Điều 4. Thủ tướng Chính phủ
1. Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nước.
2. Thủ tướng Chính phủ là người đứng đầu Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước.
Điều 5. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ
1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; bảo đảm bình đẳng giới.
2. Phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và chức năng, phạm vi quản lý giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; đề cao trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu.
3. Tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, năng động, hiệu lực, hiệu quả; bảo đảm nguyên tắc cơ quan cấp dưới phục tùng sự lãnh đạo, chỉ đạo và chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định của cơ quan cấp trên.
4. Phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Chính phủ với chính quyền địa phương, bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Chính phủ và phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương.
5. Minh bạch, hiện đại hóa hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan hành chính nhà nước các cấp; bảo đảm thực hiện một nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, hiện đại, phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân.
Chương II: NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA CHÍNH PHỦ
Điều 6. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp luật
1. Ban hành kịp thời và đầy đủ các văn bản pháp luật để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và của chính quyền địa phương; kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật.
2. Quyết định các biện pháp để tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; chỉ đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, nghị định, chương trình công tác của Chính phủ.
3. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm điều kiện về cơ sở vật chất, nhân lực và các nguồn lực khác để thi hành Hiến pháp và pháp luật; thống nhất quản lý công tác hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước, thi hành án.
4. Tổng hợp đánh giá tình hình thi hành Hiến pháp, pháp luật và báo cáo với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước theo quy định của pháp luật.
Điều 7. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong hoạch định chính sách và trình dự án luật, pháp lệnh
1. Đề xuất, xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các chương trình, dự án khác trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
2. Quyết định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các chương trình, dự án khác theo thẩm quyền.
3. Xây dựng các dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Ủy ban thường vụ Quốc hội.
4. Báo cáo Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội ý kiến của Chính phủ về các dự án luật, pháp lệnh do các cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội trình.
Điều 8. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý và phát triển kinh tế
1. Thống nhất quản lý nhà nước nền kinh tế quốc dân, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; củng cố và phát triển kinh tế nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng; phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế, các nguồn lực xã hội để phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế quốc dân.
2. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường bình đẳng, cạnh tranh và hợp tác giữa các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế; tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và bảo đảm vận hành có hiệu quả các loại thị trường.
3. Xây dựng mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trình Quốc hội; quyết định chính sách cụ thể về tài chính, tiền tệ quốc gia, tiền lương, giá cả. Quyết định, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
4. Trình Quốc hội dự toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương hằng năm; quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán chương trình, dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước theo nghị quyết của Quốc hội. Báo cáo Quốc hội về tình hình tài chính nhà nước, các rủi ro tài khóa gắn với yêu cầu bảo đảm tính bền vững của ngân sách và an toàn nợ công.
5. Quyết định chính sách cụ thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế về kinh tế, phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
6. Thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với các tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, thực hiện chức năng chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật. Thống nhất quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực quốc gia; thống nhất quản lý việc sử dụng ngân sách nhà nước, các tài sản công khác và thực hiện các chế độ tài chính theo quy định của pháp luật trong các cơ quan nhà nước; thi hành chính sách tiết kiệm, chống lãng phí.
7. Thống nhất quản lý hoạt động hội nhập quốc tế về kinh tế trên cơ sở phát huy nội lực của đất nước, phát triển các hình thức hợp tác kinh tế với các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất trong nước. Quyết định chính sách cụ thể khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế về kinh tế; khuyến khích đầu tư nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.
8. Chỉ đạo, tổ chức và quản lý việc thực hiện công tác kế toán và công tác thống kê của Nhà nước.
Điều 9. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
1. Thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tổ chức quy hoạch, kế hoạch và xây dựng chính sách bảo vệ, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch; phát triển các dịch vụ môi trường và xử lý chất thải.
3. Thống nhất quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu và đánh giá tác động môi trường để chủ động triển khai có hiệu quả các giải pháp phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
4. Quyết định chính sách cụ thể về bảo vệ, cải thiện và giữ gìn môi trường; chỉ đạo tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường ở các khu vực trọng điểm; kiểm soát ô nhiễm, ứng cứu và khắc phục sự cố môi trường.
5. Thi hành chính sách về bảo vệ, cải tạo, tái sinh và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Điều 10. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý khoa học và công nghệ
1. Thống nhất quản lý nhà nước và phát triển hoạt động khoa học và công nghệ, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng sản phẩm, sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ.
2. Chỉ đạo thực hiện chính sách, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ; ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ.
3. Quyết định chính sách cụ thể về khoa học và công nghệ để phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
4. Huy động các nguồn lực xã hội để phát triển khoa học và công nghệ, đa dạng hóa và sử dụng có hiệu quả các nguồn đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; ưu tiên đầu tư phát triển khoa học và công nghệ hiện đại, công nghệ cao, khoa học cơ bản; chú trọng các lĩnh vực công nghệ mà Việt Nam có thế mạnh.
5. Xây dựng cơ chế, chính sách để mọi người tham gia và được thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động khoa học và công nghệ.
Điều 11. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong giáo dục và đào tạo
1. Thống nhất quản lý nhà nước hệ thống giáo dục quốc dân.
2. Quyết định chính sách cụ thể về giáo dục để bảo đảm phát triển giáo dục phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; ưu tiên đầu tư, khuyến khích các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, thu hút, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.
3. Xây dựng cơ chế, chính sách phát huy các nguồn lực xã hội nhằm phát triển giáo dục và đào tạo; tạo điều kiện xây dựng xã hội học tập.
4. Ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề.
Điều 12. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý văn hóa, thể thao và du lịch
1. Thống nhất quản lý nhà nước và phát triển văn hóa, thể thao và du lịch.
2. Quyết định chính sách cụ thể để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; khuyến khích phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật.
3. Quyết định chính sách cụ thể để phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao; ưu tiên đầu tư, huy động các nguồn lực xã hội để phát triển thể thao chuyên nghiệp, thể thao thành tích cao.
4. Xây dựng cơ chế, chính sách để phát triển du lịch; nâng cao chất lượng hoạt động du lịch trong nước và phát triển du lịch quốc tế.
Điều 13. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý thông tin và truyền thông
1. Thống nhất quản lý nhà nước và phát triển hoạt động thông tin và truyền thông.
2. Xây dựng chính sách và các biện pháp phát triển, quản lý và bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin và truyền thông; ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin và truyền thông vào phát triển kinh tế - xã hội.
3. Xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, bảo đảm các điều kiện cần thiết để đẩy mạnh ứng dụng tin học vào hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp thông tin cho người dân theo quy định của pháp luật.
4. Quyết định và chỉ đạo thực hiện các biện pháp ngăn chặn có hiệu quả những hoạt động truyền bá tư tưởng và sản phẩm văn hóa độc hại; thông tin xuyên tạc, sai lệch làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam.
Điều 14. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý y tế, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân và dân số
1. Thống nhất quản lý nhà nước về y tế, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân và dân số.
2. Đầu tư, phát triển nhân lực y tế có chất lượng ngày càng cao; phát triển nền y tế Việt Nam theo hướng kết hợp y tế dự phòng và khám bệnh, chữa bệnh, kết hợp y học hiện đại và y học cổ truyền; phát triển công nghiệp dược theo hướng hiện đại, cung ứng đủ thuốc và trang thiết bị y tế đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của Nhân dân.
3. Tạo nguồn tài chính y tế bền vững để bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của Nhân dân dựa trên thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
4. Xây dựng chính sách chăm sóc sức khỏe của Nhân dân trình Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện các chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
5. Thống nhất quản lý và thực hiện chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình. Duy trì quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số và phân bố dân cư phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, phát triển đô thị của cả nước.
Điều 15. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong thực hiện các chính sách xã hội
1. Thống nhất quản lý nhà nước về thực hiện các chính sách xã hội.
2. Quyết định chính sách cụ thể nhằm phát triển nguồn nhân lực; hướng nghiệp, tạo việc làm, cải thiện điều kiện làm việc; nâng cao năng suất lao động; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động; tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định.
3. Thực hiện chính sách tôn vinh, khen thưởng, ưu đãi đối với người có công và gia đình có công với nước. Phát triển hệ thống an sinh xã hội; chỉ đạo thực hiện các chương trình xóa đói, giảm nghèo; thực hiện trợ giúp xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn; có chính sách phát triển nhà ở, tạo điều kiện để mọi người có chỗ ở.
4. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; bảo đảm quyền bình đẳng nam, nữ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ và trẻ em; có biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực, xúc phạm nhân phẩm đối với phụ nữ và trẻ em.
5. Tổ chức và tạo điều kiện cho thanh niên, thiếu niên được học tập, lao động và giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân, phát huy khả năng của thanh niên trong công cuộc lao động sáng tạo để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
6. Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa và đấu tranh, ngăn chặn các tệ nạn xã hội.
Điều 16. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với công tác dân tộc
1. Xây dựng và trình Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước.
2. Quyết định chính sách cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, quyền dùng tiếng nói, chữ viết của các dân tộc; giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
3. Quyết định chính sách cụ thể, các biện pháp ưu tiên phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước; xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số.
4. Thực hiện quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng người dân tộc thiểu số.
Điều 17. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với công tác tín ngưỡng, tôn giáo
1. Xây dựng và trình Quốc hội quyết định chính sách tôn giáo của Nhà nước.
2. Quản lý và tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân.
3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; chống mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.
Điều 18. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý về quốc phòng
1. Thống nhất quản lý nhà nước về quốc phòng.
2. Thực hiện chính sách, pháp luật nhằm xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
3. Tổ chức giáo dục quốc phòng, an ninh cho toàn dân, củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh. Tổ chức thực hiện các biện pháp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
4. Tổ chức thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ tính mạng và tài sản của Nhân dân.
5. Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện chính sách ưu đãi, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, công nhân, viên chức quốc phòng và chính sách hậu phương quân đội.
Điều 19. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý về cơ yếu
1. Thống nhất quản lý nhà nước về cơ yếu.
2. Thực hiện chính sách, pháp luật nhằm xây dựng lực lượng cơ yếu chính quy, hiện đại, được tổ chức thống nhất, chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu bảo vệ thông tin bí mật nhà nước.
3. Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin mật mã quốc gia, hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng, hệ thống giám sát an toàn thông tin trên mạng công nghệ thông tin trọng yếu của các cơ quan Đảng, Nhà nước; quản lý hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã.
4. Thực hiện chính sách ưu đãi, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần đối với người làm công tác cơ yếu.
Điều 20. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội
1. Thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
2. Thực hiện chính sách, pháp luật nhằm xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật xây dựng nền an ninh nhân dân, phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, phòng ngừa và đấu tranh chống các loại tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
4. Thực hiện chính sách ưu đãi, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần và chính sách đối với cán bộ, chiến sỹ, công nhân công an.
Điều 21. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân
1. Xây dựng và trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước quyết định các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân.
2. Quyết định những biện pháp cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân.
3. Tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Điều 22. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong đối ngoại và hội nhập quốc tế
1. Thống nhất quản lý nhà nước về đối ngoại và hội nhập quốc tế; xây dựng và trình Quốc hội quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại.
2. Tổ chức thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; quyết định các chủ trương và biện pháp để tăng cường và mở rộng quan hệ với nước ngoài và các tổ chức quốc tế; bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
3. Trình Quốc hội, Chủ tịch nước xem xét, quyết định phê chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực đối với điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Chủ tịch nước. Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước. Quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ.
4. Quyết định và chỉ đạo việc thực hiện chính sách cụ thể về hợp tác kinh tế, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và các lĩnh vực khác với các quốc gia, vùng lãnh thổ và các tổ chức quốc tế; phát triển, tăng cường công tác thông tin đối ngoại.
5. Trình Hội đồng quốc phòng và an ninh, quyết định việc lực lượng vũ trang nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
6. Tổ chức và chỉ đạo hoạt động của các cơ quan đại diện của Nhà nước tại nước ngoài và tại các tổ chức quốc tế; bảo vệ lợi ích chính đáng của tổ chức và công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quản lý hoạt động của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
7. Quyết định chính sách cụ thể nhằm khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.
Điều 23. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức và công tác thi đua, khen thưởng
1. Thống nhất quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế độ công vụ, công chức, viên chức.
2. Trình Quốc hội quyết định cơ cấu tổ chức của Chính phủ; thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh.
3. Quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).
4. Thống nhất quản lý nhà nước về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập; quản lý biên chế công chức, số lượng người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập từ trung ương đến địa phương.
5. Thống nhất quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và các chế độ, chính sách khác đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.
6. Chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính nhà nước, cải cách chế độ công vụ, công chức; bảo đảm thực hiện một nền hành chính thống nhất, thông suốt, liên tục, dân chủ, trong sạch, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, phục vụ Nhân dân và chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân.
7. Thống nhất quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của các hội, tổ chức phi chính phủ.
8. Thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.
Điều 24. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
1. Thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước.
2. Chỉ đạo việc thực hiện công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong hoạt động của bộ máy nhà nước và các hoạt động kinh tế - xã hội.
3. Kiểm tra việc thực hiện công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Điều 25. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ đối với chính quyền địa phương
1. Thực hiện việc phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương theo quy định tại các luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Trên cơ sở bảo đảm sự quản lý thống nhất của trung ương, Chính phủ phân cấp cho chính quyền địa phương quyết định hoặc thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước thuộc ngành, lĩnh vực trên địa bàn quản lý phù hợp với điều kiện và khả năng của chính quyền địa phương.
Căn cứ vào năng lực và điều kiện cụ thể của chính quyền địa phương, Chính phủ có thể ủy quyền cho chính quyền địa phương thực hiện một số nhiệm vụ với các điều kiện bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó.
2. Hướng dẫn và kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định.
3. Lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp.
4. Giải quyết kiến nghị của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và cử tri.
5. Quy định các chế độ, chính sách đối với các chức danh của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp.
Điều 26. Quan hệ của Chính phủ với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
1. Chính phủ phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
2. Chính phủ và Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội xây dựng quy chế phối hợp công tác.
3. Khi xây dựng dự án luật, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, dự án pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, dự thảo nghị định của Chính phủ, Chính phủ gửi dự thảo văn bản để Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan tham gia ý kiến.
4. Chính phủ thường xuyên thông báo cho Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội về tình hình kinh tế - xã hội và các quyết định, chủ trương quan trọng của Chính phủ liên quan đến nhiều tầng lớp Nhân dân.
5. Chính phủ tạo điều kiện thuận lợi để Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong Nhân dân, động viên, tổ chức Nhân dân tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức và viên chức.
6. Chính phủ có trách nhiệm nghiên cứu, giải quyết và trả lời các kiến nghị của Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội.
Điều 27. Trách nhiệm của Chính phủ
1. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; về kết quả, hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của bộ máy hành chính nhà nước; về các chủ trương, chính sách do mình đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Chính phủ báo cáo công tác của Chính phủ với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước một năm hai lần.
Chính phủ báo cáo công tác đột xuất theo yêu cầu của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chương III: NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Điều 28. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ
1. Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp luật; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo việc xây dựng các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội;
b) Lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các văn bản pháp luật và các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và các dự án khác thuộc thẩm quyền quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
c) Chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giữa các thành viên Chính phủ; quyết định các vấn đề khi còn có ý kiến khác nhau giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
d) Lãnh đạo việc thực hiện công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong hoạt động của bộ máy nhà nước và các hoạt động kinh tế - xã hội;
đ) Lãnh đạo, chỉ đạo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện các quy định của pháp luật và các chương trình, kế hoạch, chiến lược của Chính phủ trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội và quốc phòng, an ninh;
e) Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và xử lý các vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện Hiến pháp và pháp luật trong phạm vi toàn quốc.
2. Lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất, thông suốt, liên tục của nền hành chính quốc gia:
a) Quản lý và điều hành hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương trong quá trình phục vụ Nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường quốc phòng, an ninh;
b) Chỉ đạo và thống nhất quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương;
c) Lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thanh tra, kiểm tra các hoạt động thực thi công vụ của cán bộ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước;
d) Lãnh đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, thanh tra công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương;
đ) Quyết định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính của bộ máy nhà nước;
e) Lãnh đạo, chỉ đạo việc quản lý, điều hành toàn bộ cơ sở vật chất, tài chính và nguồn ngân sách nhà nước để phục vụ cho sự vận hành của bộ máy nhà nước;
g) Ủy quyền cho Phó Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ;
h) Lãnh đạo, chỉ đạo công tác cải cách hành chính và cải cách chế độ công vụ, công chức trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương;
i) Lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
3. Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; trong thời gian Quốc hội không họp, trình Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ.
4. Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định giao quyền Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong trường hợp khuyết Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Trong thời gian giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, quyết định giao quyền Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong trường hợp khuyết Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
6. Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ.
7. Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
8. Phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới khi không hoàn thành nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao hoặc vi phạm pháp luật.
9. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ.
10. Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
11. Quyết định các tiêu chí, điều kiện thành lập hoặc giải thể các cơ quan chuyên môn đặc thù, chuyên ngành thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện. Quyết định thành lập các cơ quan, tổ chức khác thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; quyết định thành lập hội đồng, Ủy ban hoặc ban khi cần thiết để giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo, phối hợp giải quyết những vấn đề quan trọng liên ngành.
12. Triệu tập và chủ trì các phiên họp của Chính phủ.
Điều 29. Trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ
1. Chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương; về các quyết định và kết quả thực hiện các quyết định của mình trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
2. Thực hiện báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; giải trình, trả lời chất vấn trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, trường hợp vắng mặt thì ủy quyền cho Phó Thủ tướng Chính phủ thực hiện.
3. Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Điều 30. Thẩm quyền ban hành văn bản
1. Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản pháp luật theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái Hiến pháp và pháp luật.
2. Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ ký các văn bản của Chính phủ; ban hành quyết định, chỉ thị và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương.
Điều 31. Phó Thủ tướng Chính phủ
1. Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ được phân công.
2. Khi Thủ tướng Chính phủ vắng mặt, một Phó Thủ tướng Chính phủ được Thủ tướng Chính phủ ủy nhiệm thay mặt Thủ tướng Chính phủ lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Chương IV: NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA BỘ TRƯỞNG, THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN NGANG BỘ
Điều 32. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ, lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.
Điều 33. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách là thành viên Chính phủ
1. Tham gia giải quyết các công việc chung của tập thể Chính phủ; cùng tập thể Chính phủ quyết định và liên đới chịu trách nhiệm các vấn đề thuộc thẩm quyền của Chính phủ.
2. Đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các chủ trương, chính sách, cơ chế, văn bản pháp luật cần thiết thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; chủ động làm việc với Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ về công việc của Chính phủ và công việc khác có liên quan; chịu trách nhiệm về toàn bộ nội dung và tiến độ trình các đề án, dự án, văn bản pháp luật được giao.
3. Tham dự phiên họp Chính phủ và tham gia biểu quyết tại phiên họp Chính phủ.
4. Thực hiện các công việc cụ thể theo ngành, lĩnh vực được phân công hoặc ủy quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành pháp luật, việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và các quyết định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về ngành, lĩnh vực được phân công.
5. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ tướng Chính phủ ủy quyền.
Điều 34. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ
1. Lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm cá nhân về mọi mặt công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án đã được phê duyệt, các nhiệm vụ của bộ, cơ quan ngang bộ được Chính phủ giao.
2. Quyết định theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ mà mình là người đứng đầu.
3. Đề nghị Thủ tướng Chính phủ việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức Thứ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
4. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực được phân công; ban hành hoặc trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách phát triển ngành, lĩnh vực được phân công.
5. Thực hiện việc tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và thực hiện phân cấp quản lý công chức, viên chức đối với các tổ chức, đơn vị trực thuộc theo quy định của pháp luật.
6. Quyết định phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện một số nhiệm vụ liên quan đến ngành, lĩnh vực được giao quản lý theo phạm vi lãnh thổ; phân cấp, ủy quyền cho các tổ chức, đơn vị trực thuộc.
7. Quyết định chương trình nghiên cứu khoa học, công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; các tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm và các định mức kinh tế - kỹ thuật của ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền.
8. Quyết định thành lập các tổ chức phối hợp liên ngành, tổ chức sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
9. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, cho từ chức, đình chỉ công tác, khen thưởng, kỷ luật người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tổ chức, đơn vị trực thuộc.
10. Lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.
11. Quản lý và tổ chức sử dụng có hiệu quả công sở, tài sản, phương tiện làm việc và tài chính, ngân sách nhà nước được giao; quyết định biện pháp tổ chức phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong ngành, lĩnh vực được phân công.
12. Lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện cải cách hành chính, cải cách chế độ công vụ, công chức trong ngành, lĩnh vực thuộc trách nhiệm quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ.
13. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội; giải trình về những vấn đề Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội quan tâm; trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, kiến nghị của cử tri, kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội về những vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý.
14. Thực hiện những nhiệm vụ khác do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.
Điều 35. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong mối quan hệ với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ hướng dẫn và kiểm tra, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực được phân công.
2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền kiến nghị với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ khác đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quy định do các cơ quan đó ban hành trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc của bộ, cơ quan ngang bộ về ngành, lĩnh vực do bộ, cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm quản lý. Trong trường hợp kiến nghị không được chấp thuận thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 36. Nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ trong mối quan hệ với chính quyền địa phương
1. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực được phân công hoặc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao.
2. Kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên về ngành, lĩnh vực chịu trách nhiệm quản lý.
Đề nghị Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những văn bản pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trái với các văn bản về ngành, lĩnh vực được phân công. Nếu Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không chấp hành thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 37. Trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công; về kết quả, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ, cơ quan ngang bộ; về các quyết định và kết quả thực hiện các quyết định của mình trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được giao; cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ.
2. Thực hiện báo cáo công tác trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; giải trình, trả lời chất vấn trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội.
3. Thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý.
Điều 38. Thứ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
1. Thứ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thực hiện nhiệm vụ do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ phân công và chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ về nhiệm vụ được phân công.
2. Số lượng Thứ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không quá 05; Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao không quá 06. Trong trường hợp do sáp nhập bộ, cơ quan ngang bộ hoặc do yêu cầu điều động, luân chuyển cán bộ của cơ quan có thẩm quyền thì Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Chương V: BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ
Điều 39. Bộ, cơ quan ngang bộ
1. Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.
2. Chính phủ quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của từng bộ, cơ quan ngang bộ.
Điều 40. Cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ
1. Cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ gồm vụ, văn phòng, thanh tra, cục, tổng cục, đơn vị sự nghiệp công lập.
2. Vụ, văn phòng, thanh tra, cục, tổng cục, đơn vị sự nghiệp công lập có người đứng đầu.
Số lượng cấp phó của người đứng đầu vụ, văn phòng, thanh tra, cục, đơn vị sự nghiệp công lập không quá 03; số lượng cấp phó của người đứng đầu tổng cục không quá 04.
3. Việc thành lập các đơn vị quy định tại khoản 1 Điều này do Chính phủ quyết định căn cứ vào tính chất, phạm vi quản lý, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của từng bộ, cơ quan ngang bộ.
Điều 41. Văn phòng Chính phủ
1. Văn phòng Chính phủ là bộ máy giúp việc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, có chức năng tham mưu tổng hợp, giúp việc cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Chính phủ.
2. Văn phòng Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ đứng đầu.
Điều 42. Cơ quan thuộc Chính phủ
1. Cơ quan thuộc Chính phủ là cơ quan do Chính phủ thành lập.
2. Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của Chính phủ; chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về nhiệm vụ và quyền hạn được giao.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Chương VI: CHẾ ĐỘ LÀM VIỆC CỦA CHÍNH PHỦ
Điều 43. Chế độ làm việc của Chính phủ và từng thành viên Chính phủ
Chế độ làm việc của Chính phủ và từng thành viên Chính phủ được thực hiện kết hợp giữa quyền hạn, trách nhiệm của tập thể Chính phủ với quyền hạn, trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng Chính phủ và cá nhân từng thành viên Chính phủ.
Chính phủ làm việc theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số.
Chính phủ ban hành quy chế làm việc của Chính phủ.
Điều 44. Hình thức hoạt động của Chính phủ
1. Chính phủ họp thường kỳ mỗi tháng một phiên hoặc họp bất thường theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, theo yêu cầu của Chủ tịch nước hoặc của ít nhất một phần ba tổng số thành viên Chính phủ.
2. Trong trường hợp Chính phủ không họp, Thủ tướng Chính phủ quyết định gửi lấy ý kiến các thành viên Chính phủ bằng văn bản.
3. Chính phủ họp theo yêu cầu của Chủ tịch nước để bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước.
Điều 45. Trách nhiệm tham dự phiên họp của thành viên Chính phủ
1. Thành viên Chính phủ có trách nhiệm tham dự phiên họp của Chính phủ, nếu vắng mặt trong phiên họp hoặc vắng mặt một số thời gian của phiên họp thì phải được Thủ tướng Chính phủ đồng ý.
Thủ tướng Chính phủ có thể cho phép thành viên Chính phủ vắng mặt và được cử cấp phó tham dự phiên họp của Chính phủ.
2. Khi cần thiết, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được mời tham dự phiên họp của Chính phủ.
3. Người tham dự phiên họp của Chính phủ không phải là thành viên Chính phủ có quyền phát biểu ý kiến nhưng không có quyền biểu quyết.
Điều 46. Phiên họp của Chính phủ
1. Phiên họp của Chính phủ chỉ được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên Chính phủ tham dự.
2. Nội dung phiên họp của Chính phủ do Thủ tướng Chính phủ đề nghị và thông báo đến các thành viên Chính phủ.
3. Các quyết định của Chính phủ phải được quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành. Trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo ý kiến mà Thủ tướng Chính phủ đã biểu quyết.
Điều 47. Thành phần mời tham dự phiên họp của Chính phủ
1. Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn về việc thực hiện chính sách an ninh quốc gia, quyền lãnh thổ và các vấn đề liên quan.
2. Chính phủ mời Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn về việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.
3. Chính phủ mời Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có liên quan.
Điều 48. Kinh phí hoạt động của Chính phủ
Kinh phí hoạt động của Chính phủ do Quốc hội quyết định từ ngân sách nhà nước.
Chương VII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 49. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016.
Luật tổ chức Chính phủ số 32/2001/QH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Điều 50. Quy định chi tiết
Chính phủ quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2015.
Luật pháp Việt Nam |
21470 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20t%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c%20Vi%E1%BB%87n%20ki%E1%BB%83m%20s%C3%A1t%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202014 | Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2014 | Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013;
Quốc hội ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.
Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân; về Kiểm sát viên và các chức danh khác trong Viện kiểm sát nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Điều 2. Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điều 3. Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
1. Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
2. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm:
a) Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;
b) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
3. Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định;
b) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
c) Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
d) Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;
e) Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội;
g) Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật;
h) Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;
i) Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;
k) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;
l) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 4. Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
1. Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm:
a) Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác được thực hiện đúng quy định của pháp luật;
b) Việc bắt, tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù, chế độ tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo đúng quy định của pháp luật; quyền con người và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù không bị luật hạn chế phải được tôn trọng và bảo vệ;
c) Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành nghiêm chỉnh;
đ) Mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
3. Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy định của pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định trong hoạt động tư pháp;
b) Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp;
c) Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm;
d) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền khác trong hoạt động tư pháp;
đ) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền;
e) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
Điều 5. Kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân
1. Trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
Điều 6. Các công tác của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành quyền công tố bằng các công tác sau đây:
a) Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
b) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
c) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố tội phạm;
d) Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự;
đ) Điều tra một số loại tội phạm;
e) Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự.
2. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp bằng các công tác sau đây:
a) Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
b) Kiểm sát việc khởi tố, điều tra vụ án hình sự;
c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng trong giai đoạn truy tố;
d) Kiểm sát việc xét xử vụ án hình sự;
đ) Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự;
e) Kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
g) Kiểm sát việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính;
h) Kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền;
i) Kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp.
3. Các công tác khác của Viện kiểm sát nhân dân gồm có:
a) Thống kê tội phạm; xây dựng pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật;
b) Đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế và các công tác khác để xây dựng Viện kiểm sát nhân dân.
Điều 7. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ quyết định trái pháp luật của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới.
2. Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương thành lập Ủy ban kiểm sát để thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến về các vụ án, vụ việc trước khi Viện trưởng quyết định theo quy định tại các Điều 43, 45, 47, 53 và 55 của Luật này.
Điều 8. Trách nhiệm phối hợp của Viện kiểm sát nhân dân
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa án, Thi hành án, Thanh tra, Kiểm toán, các cơ quan nhà nước khác, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để phòng, chống tội phạm có hiệu quả; xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.
Điều 9. Quyền và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân; có quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo các hành vi, quyết định trái pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân; Viện kiểm sát nhân dân phải giải quyết, trả lời theo quy định của pháp luật.
2. Khi có căn cứ cho rằng hành vi, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân không có căn cứ, trái pháp luật thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án và Cơ quan thi hành án có quyền kiến nghị, yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân xem xét lại. Viện kiểm sát nhân dân phải giải quyết, trả lời theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân; lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân.
Điều 10. Giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Chủ tịch nước, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
Điều 11. Ngày truyền thống, phù hiệu của Viện kiểm sát nhân dân
1. Ngày truyền thống của Viện kiểm sát nhân dân là ngày 26 tháng 7 hằng năm.
2. Phù hiệu của Viện kiểm sát nhân dân hình tròn, nền đỏ, viền vàng, có tia chìm ly tâm; ở giữa có hình ngôi sao năm cánh nổi màu vàng; hai bên có hình bông lúa; ở dưới có hình thanh kiếm lá chắn; trên nền lá chắn có nửa bánh xe răng màu xanh thẫm và các chữ “KS” màu bạch kim; nửa dưới phù hiệu có hình dải lụa đỏ bao quanh, phía trước có dòng chữ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Chương II: CÁC CÔNG TÁC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Mục 1: THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
Điều 12. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1. Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
2. Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
3. Khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện.
4. Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.
5. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Điều 13. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1. Tiếp nhận đầy đủ tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do các cơ quan, tổ chức, cá nhân chuyển đến và chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm thông báo đầy đủ, kịp thời tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận cho Viện kiểm sát nhân dân.
3. Trực tiếp kiểm sát; kiểm sát việc kiểm tra, xác minh, lập hồ sơ và kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm thông báo đầy đủ, kịp thời kết quả xác minh, giải quyết cho Viện kiểm sát nhân dân.
4. Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì Viện kiểm sát nhân dân yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đầy đủ, đúng pháp luật;
b) Kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
c) Cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
d) Khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm.
5. Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
6. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Mục 2: THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
Điều 14. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can.
2. Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn, hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can trái pháp luật.
3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
4. Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân.
5. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật.
6. Phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng khác của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
7. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
8. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.
9. Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội phạm.
10. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
11. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 15. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
2. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
3. Giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra.
4. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra khi cần thiết.
5. Kiến nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc khởi tố, điều tra.
6. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thay đổi Điều tra viên, cán bộ điều tra; xử lý nghiêm minh Điều tra viên, cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng.
7. Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
8. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát điều tra vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Mục 3: THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG GIAI ĐOẠN TRUY TỐ
Điều 16. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố
1. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân theo quy định của luật; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
2. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến vụ án trong trường hợp cần thiết.
3. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ để quyết định việc truy tố hoặc khi Tòa án yêu cầu điều tra bổ sung mà xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra.
4. Quyết định khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong trường hợp phát hiện vụ án còn có hành vi phạm tội, người phạm tội khác chưa được khởi tố, điều tra và trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung.
5. Quyết định việc tách, nhập vụ án, chuyển vụ án để truy tố theo thẩm quyền, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
6. Quyết định gia hạn, không gia hạn thời hạn truy tố, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
7. Quyết định truy tố, không truy tố bị can.
8. Quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án, bị can; quyết định phục hồi vụ án, bị can.
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để quyết định việc truy tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 17. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố
1. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
2. Kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Mục 4: THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Điều 18. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
1. Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa.
2. Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
3. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
4. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 19. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án.
2. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
3. Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
4. Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.
5. Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.
6. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Mục 5: CÔNG TÁC ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều 20. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo quy định của luật mà người phạm tội là cán bộ, công chức thuộc Cơ quan điều tra, Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền tiến hành hoạt động tư pháp.
Điều 21. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương theo quy định tại các Điều 12, 13, 14 và 15 của Luật này và quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Mục 6: KIỂM SÁT VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM, THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
Điều 22. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam.
2. Khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam;
b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam;
c) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam;
d) Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật;
đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật;
e) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật;
g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật.
Điều 23. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam
1. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
2. Cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam phải chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân khiếu nại, tố cáo của người bị tạm giữ, tạm giam trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo.
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của cơ quan, người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát của mình.
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với việc giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới; quyết định giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật.
4. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam của người có thẩm quyền thuộc trách nhiệm kiểm sát của mình.
Trường hợp hết thời hạn pháp luật quy định mà tố cáo không được giải quyết thì Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền giải quyết tố cáo; kết luận nội dung tố cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên là kết luận cuối cùng.
Điều 24. Trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong việc tạm giữ, tạm giam
1. Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định sau đây của Viện kiểm sát nhân dân trong việc tạm giữ, tạm giam:
a) Yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc tạm giữ, tạm giam phải được thực hiện ngay; yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, yêu cầu trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện trong thời hạn 15 ngày; yêu cầu tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu;
b) Quyết định quy định tại điểm d khoản 2 Điều 22 của Luật này phải được thi hành ngay; nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải thi hành, nhưng có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên phải giải quyết;
c) Kháng nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 22 của Luật này phải được giải quyết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị thì có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát cấp trên có thẩm quyền; Viện kiểm sát cấp trên phải giải quyết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; quyết định của Viện kiểm sát cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với kiến nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 22 của Luật này, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết, trả lời theo quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam.
Điều 25. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc thi hành án hình sự
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án hình sự.
2. Khi kiểm sát thi hành án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Yêu cầu Tòa án ra quyết định thi hành án hình sự; yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án hình sự;
b) Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt tù của trại giam đóng tại địa phương;
c) Quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật;
d) Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn thời gian thử thách;
đ) Kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự;
e) Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật trong thi hành án hình sự; xử lý nghiêm minh người vi phạm;
g) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Điều 26. Trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thi hành án hình sự
1. Đối với yêu cầu ra quyết định thi hành án hình sự đúng quy định của pháp luật, yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải thực hiện ngay.
2. Đối với yêu cầu tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân thì Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự phải thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
3. Đối với kiến nghị, kháng nghị, quyết định, yêu cầu khác của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thi hành án hình sự thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải xem xét, giải quyết, trả lời hoặc thi hành theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Mục 7: KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH, VỤ VIỆC DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, KINH DOANH, THƯƠNG MẠI, LAO ĐỘNG VÀ NHỮNG VIỆC KHÁC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT; KIỂM SÁT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ, THI HÀNH ÁN HÀNH CHÍNH
Điều 27. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật
1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án, vụ việc.
3. Thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp pháp luật quy định.
4. Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật.
5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
6. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
7. Kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố tụng.
8. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Điều 28. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
1. Kiểm sát việc cấp, chuyển giao, giải thích, đính chính bản án, quyết định của Tòa án.
2. Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan.
3. Kiểm sát hồ sơ về thi hành án.
4. Tham gia phiên họp, phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước.
5. Kiểm sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thi hành án.
6. Yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến việc thi hành án thực hiện các việc sau đây:
a) Ra quyết định thi hành án đúng quy định của pháp luật;
b) Thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật;
c) Tự kiểm tra việc thi hành án và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân;
d) Cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi hành án.
Yêu cầu quy định tại các điểm a, b và d khoản này phải được thực hiện ngay; yêu cầu quy định tại điểm c khoản này phải được thực hiện trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
7. Kiến nghị Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc thi hành án.
8. Kháng nghị quyết định của Tòa án, quyết định, hành vi của Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới theo quy định của pháp luật; yêu cầu đình chỉ việc thi hành án, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật.
9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật.
Mục 8: GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO VÀ KIỂM SÁT VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
Điều 29. Giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền giải quyết các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
b) Khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra; kết quả giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng Cơ quan điều tra đối với quyết định, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra;
c) Khiếu nại hành vi, quyết định tố tụng của người có thẩm quyền thuộc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
d) Khiếu nại trong hoạt động tạm giữ, tạm giam;
đ) Khiếu nại hành vi, quyết định quản lý, giáo dục phạm nhân của người được giao quản lý, giáo dục phạm nhân;
e) Khiếu nại khác theo quy định của pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền giải quyết các tố cáo sau đây:
a) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
b) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động của người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra;
c) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có thẩm quyền trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam;
d) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người được giao quản lý, giáo dục phạm nhân;
đ) Tố cáo khác theo quy định của pháp luật.
3. Khi giải quyết khiếu nại, tố cáo, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tiếp nhận, phân loại, thụ lý, kiểm tra, xác minh khiếu nại, tố cáo;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan;
c) Áp dụng biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra;
d) Ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo;
đ) Thông báo quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo cho người đã khiếu nại, tố cáo.
Điều 30. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp
1. Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
2. Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo; kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát nhân dân.
3. Ban hành kết luận kiểm sát, thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Điều 31. Trách nhiệm báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Quốc hội công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
2. Định kỳ 06 tháng và hằng năm, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao chủ trì, phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện quy định tại khoản này.
Mục 9: THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP
Điều 32. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự
1. Quyết định việc chuyển yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự của nước ngoài cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền của Việt Nam để khởi tố, điều tra.
2. Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài triệu tập người làm chứng, người giám định; thu thập, cung cấp chứng cứ, tài liệu; truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
3. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại các Điều 14, 16 và 18 của Luật này trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự theo yêu cầu của nước ngoài.
4. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền công tố trong tương trợ tư pháp về hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật tương trợ tư pháp.
Điều 33. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp
1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người tiến hành và người tham gia hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dân sự, dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
2. Tham gia phiên họp của Tòa án về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân.
3. Kháng nghị quyết định có vi phạm pháp luật của Tòa án về việc dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù.
4. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật.
Mục 10: THỐNG KÊ TỘI PHẠM VÀ CÁC CÔNG TÁC KHÁC
Điều 34. Công tác thống kê tội phạm
1. Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm chủ trì thống kê tội phạm, phối hợp với các cơ quan hữu quan trong việc thống kê hình sự.
2. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân trong việc thống kê tội phạm.
Điều 35. Công tác nghiên cứu khoa học
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm nghiên cứu tội phạm học, khoa học kiểm sát góp phần thực hiện chức năng, nhiệm vụ và đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật.
Điều 36. Công tác xây dựng pháp luật=
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền đề nghị, trình dự án luật, pháp lệnh; chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan trong xây dựng pháp luật; ban hành văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền theo quy định của luật về ban hành văn bản pháp luật.
Điều 37. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
1. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ cho Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, công chức khác và viên chức của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức các loại hình đào tạo, bồi dưỡng theo quy định của pháp luật.
Điều 38. Hợp tác quốc tế
Viện kiểm sát nhân dân hợp tác quốc tế trong việc đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu khoa học, đàm phán, ký kết, gia nhập các hiệp định tương trợ tư pháp và các thỏa thuận quốc tế khác theo quy định của pháp luật.
Điều 39. Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Thông qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật.
Chương III: TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều 40. Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
3. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh).
4. Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương (sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện).
5. Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Điều 41. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân các cấp
1. Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
2. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao.
3. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình.
Điều 42. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có:
a) Ủy ban kiểm sát;
b) Văn phòng;
c) Cơ quan điều tra;
d) Các cục, vụ, viện và tương đương;
đ) Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp công lập khác;
e) Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2. Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Thủ trưởng, các Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; công chức khác, viên chức và người lao động khác.
Điều 43. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có:
a) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
c) Một số Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng sau đây:
a) Chương trình, kế hoạch công tác của ngành Kiểm sát nhân dân;
b) Dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước;
c) Bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
d) Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Ủy ban thường vụ Quốc hội về những ý kiến của Viện trưởng không nhất trí với nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm gửi Thủ tướng Chính phủ;
đ) Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp;
e) Đề nghị Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao tuyển chọn, xem xét việc miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại khoản 2 Điều này. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng.
4. Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Điều 44. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có:
a) Ủy ban kiểm sát;
b) Văn phòng;
c) Các viện và tương đương.
2. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Điều 45. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có:
a) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
b) Các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
c) Một số Kiểm sát viên.
2. Số lượng thành viên Ủy ban kiểm sát, các Kiểm sát viên quy định tại điểm c khoản 1 Điều này do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
3. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng sau đây:
a) Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Báo cáo tổng kết công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
c) Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp;
d) Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
4. Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại khoản 3 Điều này. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5. Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Điều 46. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có:
a) Ủy ban kiểm sát;
b) Văn phòng;
c) Các phòng và tương đương.
2. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Điều 47. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có:
a) Viện trưởng;
b) Các Phó Viện trưởng;
c) Một số Kiểm sát viên.
2. Số lượng thành viên Ủy ban kiểm sát, các Kiểm sát viên quy định tại điểm c khoản 1 Điều này do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
3. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây:
a) Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
b) Báo cáo tổng kết công tác với Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp;
c) Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp;
d) Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
4. Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại khoản 3 Điều này. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5. Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Điều 48. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có văn phòng và các phòng; những nơi chưa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc.
2. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác.
Điều 49. Thành lập, giải thể Viện kiểm sát nhân dân
Việc thành lập, giải thể Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 50. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát quân sự
1. Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong quân đội.
2. Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát quân sự có nhiệm vụ quy định tại khoản 2 Điều 2 của Luật này; bảo vệ an ninh, quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của quân đội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quân nhân, công chức, viên chức và người lao động khác trong quân đội; bảo đảm mọi hành vi phạm tội và vi phạm pháp luật phải được xử lý nghiêm minh.
3. Viện kiểm sát quân sự thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại các mục 1, 2, 3, 4, 5, 6, 8, 9 và 10 Chương II của Luật này và kiểm sát thi hành án dân sự quy định tại Điều 28 của Luật này.
Điều 51. Hệ thống Viện kiểm sát quân sự
1. Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2. Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.
3. Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Điều 52. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát quân sự trung ương
1. Viện kiểm sát quân sự trung ương thuộc cơ cấu Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có:
a) Ủy ban kiểm sát;
b) Văn phòng;
c) Cơ quan điều tra;
d) Các phòng và tương đương.
3. Viện kiểm sát quân sự trung ương có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Thủ trưởng, các Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác.
Điều 53. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát quân sự trung ương
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có:
a) Viện trưởng;
b) Các Phó Viện trưởng;
c) Một số Kiểm sát viên.
2. Số lượng thành viên Ủy ban kiểm sát, các Kiểm sát viên quy định tại điểm c khoản 1 Điều này do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
3. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát quân sự trung ương họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây:
a) Chương trình, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát quân sự;
b) Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về công tác của Viện kiểm sát quân sự;
c) Kiến nghị của Viện kiểm sát quân sự trung ương với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về việc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong quân đội;
d) Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát quân sự trung ương đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp;
đ) Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương trình Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát quân sự trung ương.
4. Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại khoản 3 Điều này. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5. Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Điều 54. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương
1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương gồm có:
a) Ủy ban kiểm sát;
b) Các ban và bộ máy giúp việc.
2. Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác.
Điều 55. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương gồm có:
a) Viện trưởng;
b) Các Phó Viện trưởng;
c) Một số Kiểm sát viên.
2. Số lượng thành viên Ủy ban kiểm sát, các Kiểm sát viên quy định tại điểm c khoản 1 Điều này do Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương.
3. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương họp do Viện trưởng chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây:
a) Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát quân sự trung ương;
b) Báo cáo tổng kết công tác với Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương và Tư lệnh quân khu và tương đương;
c) Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp;
d) Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương trình Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực.
4. Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại khoản 3 Điều này. Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Điều 56. Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát quân sự khu vực
1. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự khu vực gồm có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc.
2. Viện kiểm sát quân sự khu vực có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác.
Điều 57. Thành lập, giải thể Viện kiểm sát quân sự
Việc thành lập, giải thể Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Chương IV: CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG KHÁC CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Mục 1: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 58. Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân
1. Các chức danh tư pháp trong Viện kiểm sát nhân dân gồm có:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Kiểm sát viên;
c) Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra;
d) Điều tra viên;
đ) Kiểm tra viên.
2. Các công chức khác, viên chức và người lao động khác.
3. Ở Viện kiểm sát quân sự có các chức danh tư pháp, công chức, viên chức, người lao động khác quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này và các quân nhân khác.
Điều 59. Trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân
1. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
2. Bồi thường, bồi hoàn thiệt hại gây ra khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
3. Giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác.
4. Tôn trọng và chịu sự giám sát của nhân dân.
5. Nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, quy định của Viện kiểm sát nhân dân; tham gia phổ biến, giáo dục pháp luật.
6. Thường xuyên học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Điều 60. Điều động, luân chuyển, biệt phái công chức, viên chức của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định:
a) Điều động, luân chuyển công chức, viên chức giữa các Viện kiểm sát nhân dân. Khi cần thiết thì điều động, luân chuyển công chức giữa các Viện kiểm sát nhân dân trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
b) Biệt phái công chức, viên chức của Viện kiểm sát nhân dân đến làm việc ở cơ quan nhà nước hoặc đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm vụ.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh quyết định điều động, luân chuyển công chức giữa các Viện kiểm sát nhân dân trong cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định:
a) Điều động, luân chuyển Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức giữa các Viện kiểm sát quân sự không cùng quân khu và tương đương sau khi thống nhất với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Biệt phái Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức của Viện kiểm sát quân sự đến làm việc ở cơ quan nhà nước hoặc đơn vị khác theo yêu cầu nhiệm vụ sau khi thống nhất với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Tư lệnh quân khu và tương đương quyết định điều động, luân chuyển Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức giữa các Viện kiểm sát quân sự trực thuộc quân khu và tương đương sau khi thống nhất với Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Điều 61. Quản lý công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất quản lý công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân các cấp theo quy định của pháp luật, bảo đảm xây dựng Viện kiểm sát nhân dân trong sạch, vững mạnh.
2. Viện trưởng các Viện kiểm sát nhân dân khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm quản lý công chức và người lao động khác của Viện kiểm sát theo quy định của Luật này và theo sự phân công, phân cấp của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Mục 2: VIỆN TRƯỞNG, PHÓ VIỆN TRƯỞNG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CÁC CẤP
Điều 62. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước.
2. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội là năm năm. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 63. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác và xây dựng Viện kiểm sát nhân dân; quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Ban hành thông tư, quyết định, chỉ thị, điều lệ, quy chế, chế độ công tác áp dụng đối với Viện kiểm sát nhân dân.
3. Quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn; quyết định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới; quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, trình Ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
4. Trình Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp, Điều tra viên các ngạch, Kiểm tra viên các ngạch.
6. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền.
7. Kiến nghị xây dựng luật, pháp lệnh; chỉ đạo việc xây dựng và trình dự án luật, pháp lệnh theo quy định của pháp luật; đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
8. Trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình.
9. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc tổng kết kinh nghiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
10. Tham dự các phiên họp của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bàn về việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.
11. Kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật.
12. Chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Quốc hội.
13. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Điều 64. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công hoặc ủy quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm trước Viện trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
3. Nhiệm kỳ của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 65. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện;
c) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
3. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 66. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Chỉ đạo, điều hành, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
b) Chỉ đạo, hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trực thuộc;
c) Báo cáo trước Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình và cấp dưới; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân cùng cấp;
d) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
3. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 67. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác, quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp mình và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; báo cáo công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao khi có yêu cầu;
b) Báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.
3. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 68. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
1. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
2. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, theo sự phân công hoặc ủy quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình; chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình và trước pháp luật.
3. Nhiệm kỳ của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 69. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương
1. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác và xây dựng Viện kiểm sát quân sự; quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát quân sự trung ương;
b) Báo cáo công tác của Viện kiểm sát quân sự trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
c) Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực; Kiểm sát viên, Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự;
d) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm tra viên các ngạch Viện kiểm sát quân sự;
đ) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật và sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
3. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 70. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương
1. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác, quyết định các vấn đề về công tác của Viện kiểm sát quân sự cấp mình; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác của Viện kiểm sát quân sự cấp mình và cấp dưới trực thuộc trước Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương; trả lời chất vấn trước Hội nghị đại biểu quân nhân do cơ quan chính trị quân khu và tương đương tổ chức hằng năm;
b) Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của Viện kiểm sát quân sự khu vực trực thuộc;
c) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
3. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 71. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực
1. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác, quyết định những vấn đề về công tác của Viện kiểm sát quân sự cấp mình và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp trên.
3. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 72. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực
1. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2. Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công hoặc ủy quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp mình và các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật; chịu trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trước Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp mình và trước pháp luật.
3. Nhiệm kỳ của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực là 05 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm.
Điều 73. Trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp
Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi, quyết định của mình trong việc khởi tố, bắt, giam, giữ, truy tố, tranh tụng, kháng nghị và các hành vi, quyết định khác thuộc thẩm quyền; nếu làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
Mục 3: KIỂM SÁT VIÊN, KIỂM TRA VIÊN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều 74. Kiểm sát viên
Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Điều 75. Tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên
1. Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2. Có trình độ cử nhân luật trở lên.
3. Đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát.
4. Có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này.
5. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Điều 76. Ngạch Kiểm sát viên
1. Ngạch Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân gồm có:
a) Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Kiểm sát viên cao cấp;
c) Kiểm sát viên trung cấp;
d) Kiểm sát viên sơ cấp.
2. Ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể được bố trí bốn ngạch Kiểm sát viên; ở Viện kiểm sát quân sự trung ương có Viện trưởng là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và có thể được bố trí các ngạch Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp; các Viện kiểm sát khác có thể được bố trí các ngạch Kiểm sát viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp.
Điều 77. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên sơ cấp
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 của Luật này và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự:
1. Có thời gian làm công tác pháp luật từ 04 năm trở lên;
2. Có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
3. Đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên sơ cấp.
Điều 78. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên trung cấp
1. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 của Luật này và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự:
a) Đã là Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất 05 năm;
b) Có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
c) Có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên sơ cấp;
d) Đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên trung cấp.
2. Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân, người đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 của Luật này, các điểm b, c và d khoản 1 Điều này thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự.
Điều 79. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên cao cấp
1. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 của Luật này và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên cao cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên cao cấp của Viện kiểm sát quân sự:
a) Đã là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất 05 năm;
b) Có năng lực thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
c) Có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với Kiểm sát viên cấp dưới;
d) Đã trúng tuyển kỳ thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp.
2. Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân, người đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 của Luật này, các điểm b, c và d khoản 1 Điều này thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên cao cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên cao cấp của Viện kiểm sát quân sự.
Điều 80. Tiêu chuẩn bổ nhiệm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 của Luật này và có đủ các điều kiện sau đây thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao:
a) Đã là Kiểm sát viên cao cấp ít nhất 05 năm;
b) Có năng lực chỉ đạo, điều hành công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
c) Có năng lực giải quyết những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân, người đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 20 năm trở lên, có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 của Luật này, điểm b và điểm c khoản 1 Điều này thì có thể được tuyển chọn, bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 81. Bổ nhiệm Kiểm sát viên trong trường hợp đặc biệt
Trong trường hợp đặc biệt, người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến để làm lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp, tuy chưa đủ thời gian làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp hoặc chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn quy định tại Điều 75 và điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 77, điểm b và điểm c khoản 1 của các Điều 78, 79 và 80 của Luật này thì cũng có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 82. Nhiệm kỳ Kiểm sát viên
Kiểm sát viên được bổ nhiệm lần đầu có thời hạn là 05 năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch thì thời hạn là 10 năm.
Điều 83. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
1. Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình trong việc thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Kiểm sát viên phải chấp hành quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao và phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với Viện trưởng; trường hợp Viện trưởng vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và Kiểm sát viên phải chấp hành nhưng không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền. Viện trưởng đã quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm tra, xử lý nghiêm minh đối với vi phạm pháp luật của Kiểm sát viên khi thực hiện nhiệm vụ được giao; có quyền rút, đình chỉ hoặc hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của Kiểm sát viên.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp do luật định.
3. Trong vụ việc có nhiều Kiểm sát viên tham gia giải quyết thì Kiểm sát viên ở ngạch thấp hơn phải tuân theo sự phân công, chỉ đạo của Kiểm sát viên ở ngạch cao hơn.
4. Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên có quyền ra quyết định, kết luận, yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật.
Điều 84. Những việc Kiểm sát viên không được làm
1. Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm.
2. Tư vấn cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án, vụ việc không đúng quy định của pháp luật.
3. Can thiệp vào việc giải quyết vụ án, vụ việc hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án, vụ việc.
4. Đưa hồ sơ, tài liệu của vụ án, vụ việc ra khỏi cơ quan nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền.
5. Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.
Điều 85. Tuyên thệ của Kiểm sát viên
Người được bổ nhiệm vào các ngạch Kiểm sát viên phải tuyên thệ:
1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân;
2. Đấu tranh không khoan nhượng với mọi tội phạm và vi phạm pháp luật;
3. Kiên quyết bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, lẽ phải và công bằng xã hội;
4. Không ngừng phấn đấu, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”;
5. Nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật, nguyên tắc tổ chức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Điều 86. Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Chủ tịch là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các ủy viên là đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội luật gia Việt Nam.
Danh sách ủy viên Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo đề nghị của Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao để Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm;
b) Xem xét những trường hợp Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể được miễn nhiệm chức danh Kiểm sát viên quy định tại khoản 2 Điều 88 của Luật này theo đề nghị của Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao để Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước miễn nhiệm;
c) Xem xét những trường hợp Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể bị cách chức chức danh Kiểm sát viên quy định tại khoản 2 Điều 89 của Luật này theo đề nghị của Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao để Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước cách chức.
3. Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao làm việc theo chế độ tập thể; quyết định của Hội đồng tuyển chọn phải được quá nửa tổng số ủy viên biểu quyết tán thành.
Điều 87. Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp
1. Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp gồm có Chủ tịch là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các ủy viên là một Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, đại diện lãnh đạo Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Danh sách Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định.
2. Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức các kỳ thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp;
b) Công bố danh sách những người trúng tuyển;
c) Đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm người đã trúng tuyển làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp.
3. Quy chế làm việc của Hội đồng thi tuyển Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên cao cấp do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định.
Điều 88. Miễn nhiệm Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên đương nhiên được miễn nhiệm chức danh Kiểm sát viên khi nghỉ hưu, thôi việc, chuyển ngành.
2. Kiểm sát viên có thể được miễn nhiệm chức danh Kiểm sát viên vì lý do sức khỏe, hoàn cảnh gia đình hoặc vì lý do khác mà xét thấy không thể hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Điều 89. Cách chức Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên đương nhiên bị cách chức chức danh Kiểm sát viên khi bị kết tội bằng bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, Kiểm sát viên có thể bị cách chức chức danh Kiểm sát viên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vi phạm trong khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
b) Vi phạm quy định tại Điều 84 của Luật này;
c) Vi phạm về phẩm chất đạo đức;
d) Có hành vi vi phạm pháp luật khác.
Điều 90. Kiểm tra viên
1. Kiểm tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
2. Kiểm tra viên có các ngạch sau đây:
a) Kiểm tra viên;
b) Kiểm tra viên chính;
c) Kiểm tra viên cao cấp.
3. Tiêu chuẩn bổ nhiệm, điều kiện nâng ngạch Kiểm tra viên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Kiểm tra viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ, việc và báo cáo kết quả với Kiểm sát viên;
b) Lập hồ sơ kiểm sát vụ, việc;
c) Giúp Kiểm sát viên thực hiện hoạt động khác khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
d) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng.
5. Kiểm tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Kiểm sát viên và trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mục 4: THỦ TRƯỞNG, PHÓ THỦ TRƯỞNG, ĐIỀU TRA VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN KIỂM SÁT QUÂN SỰ TRUNG ƯƠNG
Điều 91. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương
1. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
2. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
3. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Điều 92. Điều tra viên và các chức danh khác của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương
1. Tiêu chuẩn bổ nhiệm, điều kiện nâng ngạch, các ngạch Điều tra viên và các chức danh khác của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương do luật định.
2. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được Thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao phân công, Điều tra viên và các chức danh khác của Cơ quan điều tra phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được Thủ trưởng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương phân công, Điều tra viên và các chức danh khác của Cơ quan điều tra phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Chương V: BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều 93. Tổng biên chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ ngạch Kiểm sát viên, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân
1. Số lượng Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao không quá 19 người.
2. Tổng biên chế, số lượng Kiểm sát viên; cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện kiểm sát; số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi có ý kiến của Chủ tịch nước.
Căn cứ tổng biên chế, số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định biên chế, số lượng Kiểm sát viên, công chức khác, viên chức và người lao động khác của các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới.
3. Tổng biên chế, số lượng Kiểm sát viên; cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên của mỗi cấp Viện kiểm sát quân sự; số lượng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự trung ương do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Căn cứ số lượng, cơ cấu tỷ lệ ngạch Kiểm sát viên của Viện kiểm sát quân sự đã được Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định số lượng Kiểm sát viên của Viện kiểm sát quân sự mỗi cấp sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 94. Kinh phí và cơ sở vật chất
1. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Kinh phí hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân do Viện kiểm sát nhân dân tối cao lập dự toán và đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Trong trường hợp Chính phủ và Viện kiểm sát nhân dân tối cao không thống nhất về dự toán kinh phí hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiến nghị Quốc hội xem xét, quyết định. Việc quản lý, phân bổ và sử dụng kinh phí được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách.
3. Kinh phí hoạt động của Viện kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương lập dự toán báo cáo Bộ Quốc phòng để đề nghị Chính phủ trình Quốc hội quyết định. Việc quản lý, phân bổ và sử dụng kinh phí hoạt động của các Viện kiểm sát quân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân sách.
4. Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị nâng cao năng lực hoạt động cho Viện kiểm sát nhân dân.
Trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc của Viện kiểm sát quân sự do Chính phủ bảo đảm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 95. Chế độ tiền lương
1. Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên có thang bậc lương riêng.
2. Chế độ tiền lương đối với Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên của Viện kiểm sát nhân dân do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định trên cơ sở đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chế độ tiền lương đối với công chức khác, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Chế độ tiền lương đối với Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát quân sự được thực hiện theo chế độ của quân đội.
Điều 96. Chế độ phụ cấp
1. Chế độ phụ cấp đặc thù của cán bộ, công chức, viên chức Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quyết định.
2. Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát quân sự được hưởng chế độ phụ cấp của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật.
3. Chế độ phụ cấp khác theo quy định của pháp luật.
Điều 97. Trang phục, giấy chứng minh Kiểm sát viên, giấy chứng nhận Điều tra viên, Kiểm tra viên
1. Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân được cấp trang phục và phù hiệu; Kiểm sát viên được cấp cấp hiệu, giấy chứng minh; Điều tra viên, Kiểm tra viên được cấp cấp hiệu, giấy chứng nhận để làm nhiệm vụ.
Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát quân sự được cấp trang phục theo chế độ của quân đội.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định chế độ cấp phát và sử dụng trang phục ngành Kiểm sát nhân dân, phù hiệu, cấp hiệu của Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân các cấp, của Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên trên cơ sở đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định hình thức, chất liệu, màu sắc trang phục; chế độ cấp phát và sử dụng trang phục đối với các công chức khác, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân.
3. Giấy chứng minh Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao cấp và quản lý. Hình thức, kích thước, màu sắc của Giấy chứng minh Kiểm sát viên do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định trên cơ sở đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Giấy chứng nhận Điều tra viên, Kiểm tra viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định, cấp và quản lý.
Điều 98. Chế độ đào tạo, bồi dưỡng
1. Nhà nước bảo đảm kinh phí cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực để phục vụ Viện kiểm sát nhân dân; có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức của Viện kiểm sát nhân dân là người dân tộc thiểu số hoặc công tác tại miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
3. Kiểm sát viên, Điều tra viên, Kiểm tra viên, quân nhân khác, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát quân sự được đào tạo, bồi dưỡng theo quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng.
Điều 99. Khen thưởng, xử lý vi phạm
1. Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân có thành tích trong công tác thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng và quy định của Viện kiểm sát nhân dân.
Quân nhân, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát quân sự có thành tích trong công tác thì được khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua khen thưởng, quy định của Viện kiểm sát nhân dân, Bộ Quốc phòng.
2. Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát nhân dân vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật và quy định của Viện kiểm sát nhân dân.
Quân nhân, công chức, viên chức và người lao động khác của Viện kiểm sát quân sự vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, quy định của Viện kiểm sát nhân dân, Bộ Quốc phòng.
Chương VI: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 100. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2015, trừ các điều, khoản quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Điều 40, Điều 49, các khoản 3, 4 và 5 Điều 63, Điều 74, Điều 76, điểm b và điểm c khoản 1 Điều 79, điểm b và điểm c khoản 1 Điều 80, khoản 1 Điều 93 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 02 năm 2015.
3. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân số 34/2002/QH10, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân số 03/2002/PL-UBTVQH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Pháp lệnh số 15/2011/PL-UBTVQH12, Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự số 05/2002/PL-UBTVQH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.
Điều 101. Hướng dẫn thi hành
Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các cơ quan hữu quan trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành khoản 2 Điều 31, các Điều 86, 87, 90, 94, 95, 96, 97, 98 và 99 của Luật này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2014.
Luật pháp Việt Nam |
21492 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Qu%E1%BA%A3n%20l%C3%BD%2C%20s%E1%BB%AD%20d%E1%BB%A5ng%20v%C5%A9%20kh%C3%AD%2C%20v%E1%BA%ADt%20li%E1%BB%87u%20n%E1%BB%95%20v%C3%A0%20c%C3%B4ng%20c%E1%BB%A5%20h%E1%BB%97%20tr%E1%BB%A3%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202017 | Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2017 | Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ.
Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ; nguyên tắc, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Vũ khí là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được chế tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.
2. Vũ khí quân dụng là vũ khí được chế tạo, sản xuất bảo đảm tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác theo quy định của Luật này để thi hành công vụ, bao gồm:
a) Súng cầm tay bao gồm: súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên, súng chống tăng, súng phóng lựu;
b) Vũ khí hạng nhẹ bao gồm: súng đại liên, súng cối, súng ĐKZ, súng máy phòng không, tên lửa chống tăng cá nhân;
c) Vũ khí hạng nặng bao gồm: máy bay chiến đấu, trực thăng vũ trang, xe tăng, xe thiết giáp, tàu chiến, tàu ngầm, pháo mặt đất, pháo phòng không, tên lửa;
d) Bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi; đạn sử dụng cho các loại vũ khí quy định tại các điểm a, b và c khoản này.
3. Súng săn là súng được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, được sử dụng để săn bắn, bao gồm: súng kíp, súng hơi và đạn sử dụng cho các loại súng này.
4. Vũ khí thô sơ là vũ khí có cấu tạo, nguyên lý hoạt động đơn giản và được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, bao gồm: dao găm, kiếm, giáo, mác, thương, lưỡi lê, đao, mã tấu, côn, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ, phi tiêu.
5. Vũ khí thể thao là vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, được sử dụng để luyện tập, thi đấu thể thao, bao gồm:
a) Súng trường hơi, súng trường bắn đạn nổ, súng ngắn hơi, súng ngắn bắn đạn nổ, súng thể thao bắn đạn sơn, súng bắn đĩa bay và đạn sử dụng cho các loại súng này;
b) Vũ khí thô sơ quy định tại khoản 4 Điều này dùng để luyện tập, thi đấu thể thao.
6. Vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự là vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất tương tự như vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao.
7. Vật liệu nổ là sản phẩm dưới tác động của xung kích thích ban đầu gây ra phản ứng hóa học nhanh, mạnh, tỏa nhiệt, sinh khí, phát sáng, tạo ra tiếng nổ, bao gồm:
a) Thuốc nổ là hóa chất hoặc hỗn hợp chất được sản xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của xung kích thích;
b) Phụ kiện nổ là kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo xung kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ.
8. Vật liệu nổ quân dụng là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh.
9. Vật liệu nổ công nghiệp là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích kinh tế, dân sự.
10. Tiền chất thuốc nổ là hóa chất nguy hiểm, trực tiếp dùng để sản xuất thuốc nổ.
11. Công cụ hỗ trợ là phương tiện, động vật nghiệp vụ được sử dụng để thi hành công vụ, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhằm hạn chế, ngăn chặn người có hành vi vi phạm pháp luật chống trả, trốn chạy; bảo vệ người thi hành công vụ, người thực hiện nhiệm vụ bảo vệ hoặc báo hiệu khẩn cấp, bao gồm:
a) Súng bắn điện, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, từ trường, laze, lưới; súng phóng dây mồi; súng bắn đạn nhựa, nổ, cao su, hơi cay, pháo hiệu, hiệu lệnh, đánh dấu và đạn sử dụng cho các loại súng này;
b) Phương tiện xịt hơi cay, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, chất gây ngứa;
c) Lựu đạn khói, lựu đạn cay, quả nổ;
d) Dùi cui điện, dùi cui cao su, dùi cui kim loại; khóa số tám, bàn chông, dây đinh gai; áo giáp; găng tay điện, găng tay bắt dao; lá chắn, mũ chống đạn; thiết bị áp chế bằng âm thanh;
đ) Động vật nghiệp vụ là động vật được huấn luyện để sử dụng cho yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội;
e) Công cụ hỗ trợ có tính năng, tác dụng tương tự là phương tiện được chế tạo, sản xuất không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có tính năng, tác dụng tương tự như công cụ hỗ trợ quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này.
12. Kinh doanh là việc mua bán vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
Điều 4. Nguyên tắc quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Trang bị vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ phải đúng thẩm quyền, đối tượng và bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
3. Người quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm đầy đủ điều kiện theo quy định.
4. Người ra mệnh lệnh hoặc quyết định sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải chịu trách nhiệm về mệnh lệnh, quyết định của mình.
5. Sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm đúng mục đích, đúng quy định, hạn chế thiệt hại đối với người, tài sản và môi trường.
6. Nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, trang bị, mang, xuất khẩu, nhập khẩu, vận chuyển, sửa chữa, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép, giấy xác nhận.
7. Vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ không còn nhu cầu sử dụng, hết hạn sử dụng hoặc không còn khả năng sử dụng phải được thu hồi, thanh lý hoặc tiêu hủy.
8. Vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ và các loại giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ bị mất phải được kịp thời báo cáo cho cơ quan quản lý có thẩm quyền.
9. Vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải được thử nghiệm, kiểm định, đánh giá và đăng ký theo quy định của pháp luật về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trước khi được phép sản xuất, kinh doanh, sử dụng tại Việt Nam.
Điều 5. Các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ và công cụ hỗ trợ
1. Cá nhân sở hữu vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, trừ vũ khí thô sơ là hiện vật để trưng bày, triển lãm, đồ gia bảo.
2. Nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, mua bán, xuất khẩu, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển, sửa chữa, sử dụng trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ hoặc chi tiết, cụm chi tiết để lắp ráp vũ khí, công cụ hỗ trợ.
3. Mang trái phép vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc vào nơi cấm, khu vực cấm, khu vực bảo vệ và mục tiêu bảo vệ.
4. Lợi dụng, lạm dụng việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
5. Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ được giao.
6. Giao vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân không đủ điều kiện theo quy định.
7. Trao đổi, tặng, cho, gửi, mượn, cho mượn, thuê, cho thuê, cầm cố vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ hoặc chi tiết, cụm chi tiết để lắp ráp vũ khí, công cụ hỗ trợ; trừ trường hợp trao đổi, tặng, cho, gửi, mượn, cho mượn, thuê, cho thuê vũ khí thô sơ để làm hiện vật trưng bày, triển lãm, đồ gia bảo.
8. Vận chuyển, bảo quản, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ không bảo đảm an toàn hoặc làm ảnh hưởng đến môi trường.
9. Chiếm đoạt, mua bán, trao đổi, tặng, cho, mượn, cho mượn, thuê, cho thuê, cầm cố, làm giả, sửa chữa, tẩy xóa các loại giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
10. Chiếm đoạt, mua bán, trao đổi, tặng, cho, gửi, mượn, cho mượn, thuê, cho thuê, cầm cố phế liệu, phế phẩm vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
11. Hướng dẫn, huấn luyện, tổ chức huấn luyện trái phép cách thức chế tạo, sản xuất, sửa chữa hoặc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ dưới mọi hình thức.
12. Che giấu, không tố giác, giúp người khác chế tạo, sản xuất, mang, mua bán, sửa chữa, xuất khẩu, nhập khẩu, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng trái phép hoặc hủy hoại vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
13. Đào bới, tìm kiếm, thu gom trái phép vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; phế liệu, phế phẩm vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
14. Cố ý cung cấp thông tin sai lệch về quản lý vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ; không báo cáo, báo cáo không kịp thời, che giấu hoặc làm sai lệch thông tin báo cáo về việc mất, thất thoát, tai nạn, sự cố về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
Điều 6. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được trang bị, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Chỉ đạo, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
2. Chỉ được giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ cho người có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 7 của Luật này.
3. Phân công người có đủ điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật này quản lý kho, nơi cất giữ vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
4. Bố trí kho, nơi cất giữ vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này.
Điều 7. Điều kiện, trách nhiệm của người được giao sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Người được giao sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có phẩm chất đạo đức tốt, đủ sức khỏe phù hợp với công việc được giao;
c) Không đang trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã được xóa án tích trong trường hợp bị kết tội theo bản án, quyết định của Tòa án;
d) Đã qua đào tạo, huấn luyện và được cấp giấy chứng nhận về sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
2. Người được giao sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ có trách nhiệm sau đây:
a) Sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đúng mục đích, đúng quy định;
b) Khi mang vũ khí, công cụ hỗ trợ phải mang theo giấy chứng nhận, giấy phép sử dụng;
c) Bảo quản vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đúng chế độ, đúng quy trình, bảo đảm an toàn, không để mất, hư hỏng;
d) Bàn giao vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và giấy phép cho người có trách nhiệm quản lý, bảo quản theo đúng quy định sau khi kết thúc nhiệm vụ hoặc hết thời hạn được giao.
3. Chính phủ quy định việc huấn luyện và cấp chứng nhận về sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
Điều 8. Điều kiện, trách nhiệm của người được giao quản lý kho, nơi cất giữ vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Người được giao quản lý kho, nơi cất giữ vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có phẩm chất đạo đức tốt, đủ sức khỏe phù hợp với công việc được giao;
c) Không đang trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã được xóa án tích trong trường hợp bị kết tội theo bản án, quyết định của Tòa án;
d) Đã qua đào tạo, huấn luyện và được cấp chứng chỉ về quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ; chứng nhận huấn luyện nghiệp vụ phòng cháy và chữa cháy, kỹ thuật an toàn vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ;
đ) Nắm vững nội quy, chế độ quản lý, bảo quản kho, nơi cất giữ vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
2. Người được giao quản lý kho, nơi cất giữ vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ có trách nhiệm thực hiện đúng chế độ, đúng quy trình, bảo đảm an toàn, không để mất, hư hỏng.
3. Chính phủ quy định việc huấn luyện và cấp chứng chỉ về quản lý vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ; chứng nhận huấn luyện kỹ thuật an toàn vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ.
Điều 9. Quản lý, bảo quản vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải được quản lý, bảo quản theo đúng chế độ, đúng quy trình, bảo đảm an toàn, không để mất, hư hỏng.
2. Kho, nơi cất giữ vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải được bố trí, thiết kế, xây dựng đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn, phòng, chống cháy, nổ, bảo đảm môi trường theo quy định; có nội quy, phương án bảo vệ, phòng cháy và chữa cháy, kế hoạch hoặc biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất và phương tiện bảo đảm an toàn được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
3. Chính phủ quy định chi tiết việc quản lý, bảo quản vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
Điều 10. Thu hồi vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ và giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ trang bị cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được thu hồi trong trường hợp sau đây:
a) Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp giải thể, chuyển đổi, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập;
b) Vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ không còn nhu cầu sử dụng, hết hạn sử dụng hoặc không còn khả năng sử dụng;
c) Không thuộc đối tượng được trang bị theo quy định của Luật này.
2. Giấy phép, giấy xác nhận về vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ đã cấp cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được thu hồi trong trường hợp sau đây:
a) Trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này;
b) Vũ khí, công cụ hỗ trợ bị mất;
c) Tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, sửa chữa vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ giải thể, chuyển đổi, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập;
d) Giấy phép, giấy xác nhận cấp không đúng thẩm quyền.
3. Giấy chứng nhận, chứng chỉ về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ đã cấp cho cá nhân được thu hồi trong trường hợp chuyển công tác khác, nghỉ hưu, thôi việc hoặc không còn đủ điều kiện theo quy định.
Cơ quan quản lý trực tiếp có trách nhiệm thu hồi giấy chứng nhận, chứng chỉ và nộp cho cơ quan có thẩm quyền đã cấp.
4. Giấy phép, giấy chứng nhận về quản lý, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ đã cấp cho tổ chức, doanh nghiệp được thu hồi trong trường hợp sau đây:
a) Tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ giải thể, chuyển đổi, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập;
b) Chấm dứt hoạt động về vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ;
c) Không bảo đảm điều kiện về sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ theo quy định của Luật này; không đáp ứng đầy đủ hoặc không thực hiện đúng nội dung quy định trong giấy phép, giấy chứng nhận;
d) Giấy phép, giấy chứng nhận cấp không đúng thẩm quyền;
đ) Không tiến hành kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ trong thời gian 06 tháng kể từ ngày được cấp giấy phép kinh doanh.
5. Giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ bị hư hỏng, hết hạn sử dụng phải giao nộp cho cơ quan có thẩm quyền đã cấp để được cấp lại, cấp đổi.
Điều 11. Thủ tục thu hồi vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ và giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thuộc trường hợp quy định tại Điều 10 của Luật này có trách nhiệm lập hồ sơ, làm thủ tục đề nghị thu hồi. Hồ sơ đề nghị bao gồm:
a) Văn bản đề nghị thu hồi;
b) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan cấp giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ.
3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ phải thu hồi vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ và giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
4. Trường hợp cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp không đề nghị thu hồi vũ khí, vật liệu nổ quân dụng, công cụ hỗ trợ và giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ thì cơ quan cấp giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ phải kiểm tra, lập biên bản, tổ chức thu hồi và xử lý theo quy định.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 12. Trường hợp mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mang vũ khí, công cụ hỗ trợ từ nước ngoài vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp sau đây:
a) Bảo vệ khách quốc tế là đối tượng cảnh vệ đến thăm và làm việc tại Việt Nam;
b) Luyện tập, thi đấu thể thao; triển lãm, trưng bày, chào hàng, giới thiệu sản phẩm; làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật;
c) Theo chương trình, kế hoạch của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam được mang vũ khí, công cụ hỗ trợ ra, vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp sau đây:
a) Bảo vệ đối tượng cảnh vệ theo quy định của Luật Cảnh vệ;
b) Luyện tập, thi đấu thể thao; triển lãm, trưng bày, chào hàng, giới thiệu sản phẩm; làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật;
c) Theo chương trình, kế hoạch của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải được sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Công an.
Điều 13. Số lượng, chủng loại vũ khí, công cụ hỗ trợ được phép mang vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân được phép mang tối đa 10 khẩu súng ngắn kèm theo cơ số đạn, phụ kiện kèm theo (nếu có) và công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để làm nhiệm vụ bảo vệ. Trường hợp mang nhiều hơn 10 khẩu súng ngắn hoặc chủng loại khác và cơ số đạn, phụ kiện kèm theo (nếu có) phải được sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định quyết định số lượng, chủng loại vũ khí, công cụ hỗ trợ mang vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để luyện tập, thi đấu thể thao; triển lãm, trưng bày, chào hàng, giới thiệu sản phẩm; làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
3. Số lượng, chủng loại vũ khí, công cụ hỗ trợ mang vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định tại điểm c khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 12 của Luật này do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định.
Điều 14. Thủ tục cấp Giấy phép mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại điểm a khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 12 của Luật này bao gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ lý do, thời hạn mang vào, ra; họ và tên, số, ngày cấp thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu của người mang vũ khí, công cụ hỗ trợ; số lượng, chủng loại, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu vũ khí, công cụ hỗ trợ; cơ số đạn, phụ kiện kèm theo (nếu có) và phương tiện vận chuyển; cửa khẩu mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ;
c) Văn bản đồng ý của Bộ trưởng Bộ Công an theo quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này.
2. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 12 của Luật này và trường hợp theo chương trình, kế hoạch của Bộ Công an bao gồm:
a) Giấy tờ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này;
b) Bản sao quyết định, chương trình hoặc kế hoạch của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định tại khoản 3 Điều 12 của Luật này bao gồm:
a) Giấy tờ quy định tại điểm a và điểm b khoản 1, điểm b khoản 2 Điều này;
b) Văn bản đồng ý của Bộ trưởng Bộ Công an.
4. Hồ sơ quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp giấy phép; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
5. Thủ tục cấp giấy phép đối với trường hợp mang vũ khí, công cụ hỗ trợ vào, ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo chương trình, kế hoạch của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 15. Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ để triển lãm, trưng bày, chào hàng, giới thiệu sản phẩm hoặc làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật
1. Vũ khí, công cụ hỗ trợ được sử dụng để triển lãm, trưng bày hoặc làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật phải làm mất tính năng, tác dụng.
2. Vũ khí, công cụ hỗ trợ chỉ được chào hàng, giới thiệu sản phẩm theo thời gian, địa điểm đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền.
Đối với trường hợp mang vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để chào hàng, giới thiệu sản phẩm, sau khi hết thời hạn chào hàng, giới thiệu sản phẩm phải mang ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đầy đủ số lượng, chủng loại vũ khí, công cụ hỗ trợ theo giấy phép.
3. Hãng phim hoạt động theo quy định của Luật Điện ảnh, bảo tàng, đơn vị biểu diễn nghệ thuật được sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để triển lãm, trưng bày hoặc làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
4. Trường hợp cơ quan, tổ chức có nhu cầu sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ còn tính năng, tác dụng và vật liệu nổ để làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật thì Bộ trưởng Bộ Công an quyết định sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đối với các trường hợp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công an; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định đối với các trường hợp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Việc sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ còn tính năng, tác dụng và vật liệu nổ để làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật do cơ quan chuyên môn của Bộ Công an hoặc Bộ Quốc phòng thực hiện.
5. Thủ tục cấp giấy phép trang bị, giấy phép sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để triển lãm, trưng bày hoặc làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng được thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nêu rõ lý do, nhu cầu sử dụng, chủng loại, số lượng vũ khí, công cụ hỗ trợ; bản sao quyết định thành lập hoặc bản sao giấy phép hoạt động; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp giấy phép trang bị, giấy phép sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
6. Thủ tục cấp giấy phép trang bị, giấy phép sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để triển lãm, trưng bày hoặc làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
7. Chính phủ quy định chi tiết thẩm quyền, trình tự, thủ tục làm mất tính năng, tác dụng và xác nhận tình trạng vũ khí, công cụ hỗ trợ được sử dụng để triển lãm, trưng bày hoặc làm đạo cụ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật.
Điều 16. Giám định vũ khí, công cụ hỗ trợ có tính năng, tác dụng tương tự
1. Cơ quan có thẩm quyền giám định vũ khí, công cụ hỗ trợ có tính năng, tác dụng tương tự bao gồm:
a) Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công an;
b) Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an Thành phố Hà Nội và Công an Thành phố Hồ Chí Minh;
c) Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh;
d) Phòng Giám định Kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng.
2. Trình tự, thủ tục giám định vũ khí, công cụ hỗ trợ có tính năng, tác dụng tương tự thực hiện theo quy định của Luật Giám định tư pháp.
Chương II: QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VŨ KHÍ
Điều 17. Nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, sửa chữa vũ khí
1. Tổ chức, doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, sửa chữa vũ khí.
2. Tổ chức, doanh nghiệp khác khi có đủ điều kiện được tham gia nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa vũ khí.
3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Điều 18. Đối tượng được trang bị vũ khí quân dụng
1. Đối tượng được trang bị vũ khí quân dụng bao gồm:
a) Quân đội nhân dân;
b) Dân quân tự vệ;
c) Cảnh sát biển;
d) Công an nhân dân;
đ) Cơ yếu;
e) Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
g) Kiểm lâm, Kiểm ngư;
h) An ninh hàng không;
i) Hải quan cửa khẩu, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu của Hải quan.
2. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị vũ khí quân dụng đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển và Cơ yếu thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
3. Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị vũ khí quân dụng đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Điều 19. Loại vũ khí quân dụng trang bị cho Cơ yếu, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm lâm, Kiểm ngư, An ninh hàng không, Hải quan cửa khẩu, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu của Hải quan
1. Cơ yếu, Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, An ninh hàng không được trang bị súng ngắn và đạn sử dụng cho loại súng này.
2. Kiểm lâm, Hải quan cửa khẩu, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu của Hải quan được trang bị súng ngắn, súng tiểu liên và đạn sử dụng cho các loại súng này.
3. Kiểm ngư được trang bị súng ngắn, súng tiểu liên, súng trung liên, súng đại liên, súng máy có cỡ nòng đến 14,5 mm và đạn sử dụng cho các loại súng này.
4. Trường hợp cần thiết phải trang bị loại vũ khí quân dụng ngoài quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 20. Thủ tục trang bị vũ khí quân dụng
1. Thủ tục trang bị vũ khí quân dụng đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị của cơ quan, đơn vị nêu rõ nhu cầu, điều kiện, số lượng, chủng loại, kèm theo văn bản phê duyệt của lãnh đạo Bộ, ngành; bản sao quyết định thành lập cơ quan, đơn vị; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép trang bị vũ khí quân dụng và hướng dẫn cơ quan, đơn vị thực hiện việc trang bị; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
d) Giấy phép trang bị vũ khí quân dụng có thời hạn 30 ngày.
2. Thủ tục trang bị vũ khí quân dụng đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển và Cơ yếu thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 21. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng
1. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ số lượng, chủng loại, nước sản xuất, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu của từng vũ khí quân dụng; bản sao Giấy phép trang bị vũ khí quân dụng; bản sao hóa đơn hoặc bản sao phiếu xuất kho; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ đề nghị cấp đổi, cấp lại Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ lý do; số lượng, chủng loại, nước sản xuất, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu của từng vũ khí quân dụng; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ. Trường hợp mất, hư hỏng Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng thì trong hồ sơ phải có văn bản nêu rõ lý do mất, hư hỏng và kết quả xử lý;
c) Hồ sơ quy định tại điểm a và điểm b khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
d) Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền kiểm tra thực tế, cấp Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
đ) Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng chỉ cấp cho cơ quan, đơn vị được trang bị và có thời hạn 05 năm. Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng hết hạn được cấp đổi; bị mất, hư hỏng được cấp lại.
2. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vũ khí quân dụng đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển và Cơ yếu thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 22. Nguyên tắc sử dụng vũ khí quân dụng
1. Khi thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, việc sử dụng vũ khí quân dụng thực hiện theo quy định của pháp luật về quốc phòng.
2. Khi thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, việc sử dụng vũ khí quân dụng phải tuân theo nguyên tắc sau đây:
a) Phải căn cứ vào tình huống, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà đối tượng thực hiện để quyết định việc sử dụng vũ khí quân dụng;
b) Chỉ sử dụng vũ khí quân dụng khi không còn biện pháp nào khác để ngăn chặn hành vi của đối tượng và sau khi đã cảnh báo mà đối tượng không tuân theo. Nếu việc sử dụng vũ khí quân dụng không kịp thời sẽ đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ, người khác hoặc có thể gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác thì được sử dụng ngay;
c) Không sử dụng vũ khí quân dụng khi biết rõ đối tượng là phụ nữ, người khuyết tật, trẻ em, người cao tuổi, trừ trường hợp những người này sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
d) Trong mọi trường hợp, người sử dụng vũ khí quân dụng phải hạn chế thiệt hại do việc sử dụng vũ khí quân dụng gây ra.
3. Khi thực hiện nhiệm vụ độc lập, việc sử dụng vũ khí quân dụng phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 23 của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Khi thực hiện nhiệm vụ có tổ chức, việc sử dụng vũ khí quân dụng phải tuân theo mệnh lệnh của người có thẩm quyền. Người ra mệnh lệnh phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 23 của Luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
4. Người được giao sử dụng vũ khí quân dụng không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại khi việc sử dụng vũ khí quân dụng đã tuân thủ quy định tại khoản 3 Điều này; trường hợp sử dụng vũ khí quân dụng vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, lợi dụng hoặc lạm dụng việc sử dụng vũ khí quân dụng để xâm phạm tính mạng, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 23. Các trường hợp nổ súng quân dụng khi thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự
1. Người thi hành nhiệm vụ độc lập phải cảnh báo bằng hành động, mệnh lệnh lời nói hoặc bắn chỉ thiên trước khi nổ súng vào đối tượng trong trường hợp sau đây:
a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực hoặc công cụ, phương tiện khác tấn công hoặc chống trả đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
b) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực hoặc công cụ, phương tiện khác gây rối trật tự công cộng đe dọa tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác;
c) Người đang bị truy nã, bị bắt, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, người đang bị áp giải, xét xử hoặc chấp hành hình phạt tù đang chống trả, đe dọa tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác; đối tượng đang đánh tháo người bị dẫn giải, người bị giam, giữ, áp giải do phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm nguy hiểm;
d) Khi biết rõ đối tượng đang thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
đ) Được nổ súng vào phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông đường thủy nội địa, trừ phương tiện giao thông của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế để dừng phương tiện đó trong trường hợp đối tượng điều khiển phương tiện đó tấn công hoặc đe dọa trực tiếp đến tính mạng người thi hành công vụ hoặc người khác; khi biết rõ phương tiện do đối tượng phạm tội điều khiển cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở người hoặc có con tin; khi biết rõ trên phương tiện chở đối tượng phạm tội hoặc vũ khí, vật liệu nổ trái phép, tài liệu phản động, bí mật nhà nước, ma túy, bảo vật quốc gia cố tình chạy trốn, trừ trường hợp trên phương tiện có chở người hoặc có con tin.
2. Người thi hành nhiệm vụ độc lập được nổ súng vào đối tượng không cần cảnh báo trong trường hợp sau đây:
a) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội khủng bố, giết người, bắt cóc con tin hoặc đang trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ khi vừa thực hiện xong hành vi phạm tội đó;
b) Đối tượng sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển hoặc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trực tiếp sử dụng vũ khí, vật liệu nổ chống lại việc bắt giữ;
c) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ tấn công hoặc uy hiếp trực tiếp đến an toàn của đối tượng cảnh vệ, công trình quan trọng về an ninh quốc gia, mục tiêu quan trọng được bảo vệ theo quy định của pháp luật;
d) Đối tượng đang sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, vũ lực đe dọa trực tiếp đến tính mạng của người thi hành công vụ hoặc người khác;
đ) Đối tượng đang trực tiếp thực hiện hành vi cướp súng của người thi hành công vụ;
e) Được nổ súng vào động vật đang đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác.
Điều 24. Đối tượng được trang bị vũ khí thể thao
1. Đối tượng được trang bị vũ khí thể thao bao gồm:
a) Quân đội nhân dân;
b) Dân quân tự vệ;
c) Công an nhân dân;
d) Câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao có giấy phép hoạt động;
đ) Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh;
e) Cơ quan, tổ chức khác được thành lập, cấp phép hoạt động trong luyện tập, thi đấu thể thao.
2. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị vũ khí thể thao đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
3. Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị vũ khí thể thao đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng sau khi đã thống nhất với Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Điều 25. Thủ tục trang bị vũ khí thể thao
1. Thủ tục trang bị vũ khí thể thao đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ nhu cầu, điều kiện, số lượng, chủng loại vũ khí thể thao cần trang bị; văn bản đồng ý về việc trang bị vũ khí thể thao của cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định; bản sao quyết định thành lập, bản sao Giấy phép hoạt động hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép trang bị vũ khí thể thao và hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị thực hiện việc trang bị; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
d) Giấy phép trang bị vũ khí thể thao có thời hạn 30 ngày.
2. Thủ tục trang bị vũ khí thể thao đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 26. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao
1. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao quy định tại điểm a khoản 5 Điều 3 của Luật này đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ số lượng, chủng loại, nước sản xuất, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu của từng vũ khí thể thao; bản sao Giấy phép trang bị vũ khí thể thao; bản sao hóa đơn hoặc bản sao phiếu xuất kho; giấy tờ chứng minh xuất xứ hợp pháp của vũ khí thể thao; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ đề nghị cấp đổi, cấp lại Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ lý do; số lượng, chủng loại, nước sản xuất, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu của từng vũ khí thể thao; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ. Trường hợp mất, hư hỏng Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao thì trong hồ sơ phải có văn bản nêu rõ lý do mất, hư hỏng và kết quả xử lý;
c) Hồ sơ quy định tại điểm a và điểm b khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
d) Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền kiểm tra thực tế, cấp Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
đ) Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao chỉ cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị được trang bị và có thời hạn 05 năm. Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao hết hạn được cấp đổi; bị mất, hư hỏng được cấp lại.
2. Vũ khí thể thao quy định tại điểm b khoản 5 Điều 3 của Luật này phải được khai báo theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 30 của Luật này.
3. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vũ khí thể thao đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 27. Sử dụng vũ khí thể thao
1. Vũ khí thể thao được sử dụng trong tập luyện, thi đấu thể thao tại trường bắn hoặc địa điểm tổ chức, được cảnh giới và có biện pháp bảo đảm an toàn; tuân thủ giáo án tập luyện, luật thi đấu thể thao và điều lệ giải.
2. Vũ khí thể thao phải được kiểm tra an toàn trước, trong và sau khi tập luyện, thi đấu thể thao.
3. Vũ khí thể thao được giao cho vận động viên, huấn luyện viên, học viên hoặc hội viên thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 24 của Luật này để tập luyện, thi đấu thể thao tại địa điểm tập luyện và thi đấu.
Điều 28. Đối tượng được trang bị vũ khí thô sơ
1. Đối tượng được trang bị vũ khí thô sơ bao gồm:
a) Quân đội nhân dân;
b) Dân quân tự vệ;
c) Cảnh sát biển;
d) Công an nhân dân;
đ) Cơ yếu;
e) Kiểm lâm, Kiểm ngư;
g) An ninh hàng không;
h) Hải quan cửa khẩu, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu của Hải quan;
i) Câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao có giấy phép hoạt động;
k) Trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh.
2. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị vũ khí thô sơ đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển, trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh, Cơ yếu và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
3. Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị vũ khí thô sơ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Điều 29. Thủ tục trang bị vũ khí thô sơ
1. Thủ tục trang bị vũ khí thô sơ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ nhu cầu, điều kiện, số lượng, chủng loại vũ khí thô sơ cần trang bị; bản sao quyết định thành lập hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép trang bị vũ khí thô sơ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
d) Giấy phép trang bị vũ khí thô sơ có thời hạn 30 ngày.
2. Thủ tục trang bị vũ khí thô sơ đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển, trung tâm giáo dục quốc phòng và an ninh, Cơ yếu và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 30. Thủ tục khai báo vũ khí thô sơ
1. Thủ tục khai báo vũ khí thô sơ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Cơ quan, tổ chức, đơn vị sau khi được trang bị vũ khí thô sơ phải đến cơ quan Công an cấp Giấy phép trang bị vũ khí thô sơ làm thủ tục khai báo. Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị của cơ quan, tổ chức, đơn vị nêu rõ số lượng, chủng loại, nước sản xuất; nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu (nếu có) của từng vũ khí thô sơ; bản sao Giấy phép trang bị vũ khí thô sơ; bản sao hóa đơn hoặc bản sao phiếu xuất kho; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an cấp Giấy phép trang bị vũ khí thô sơ có trách nhiệm thông báo xác nhận khai báo vũ khí thô sơ cho cơ quan, tổ chức, đơn vị;
b) Tập thể, cá nhân sở hữu vũ khí thô sơ dùng làm hiện vật để trưng bày, triển lãm, đồ gia bảo phải khai báo với Công an xã, phường, thị trấn nơi đặt trụ sở hoặc cư trú. Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị; bản kê khai vũ khí thô sơ, bản sao giấy tờ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ (nếu có); giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Công an xã, phường, thị trấn phải thông báo xác nhận khai báo vũ khí thô sơ cho tập thể, cá nhân sở hữu.
2. Thủ tục khai báo vũ khí thô sơ đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 31. Sử dụng vũ khí thô sơ
1. Người được giao vũ khí thô sơ khi thực hiện nhiệm vụ phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật này và được sử dụng trong trường hợp sau đây:
a) Trường hợp quy định tại Điều 23 của Luật này;
b) Ngăn chặn người đang có hành vi đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của người khác;
c) Phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết theo quy định của pháp luật.
2. Người được giao sử dụng vũ khí thô sơ không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại khi việc sử dụng vũ khí thô sơ đã tuân thủ quy định tại Điều này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp sử dụng vũ khí thô sơ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, lợi dụng hoặc lạm dụng việc sử dụng vũ khí thô sơ để xâm phạm sức khỏe, tính mạng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 32. Thủ tục cấp Giấy phép mua vũ khí
1. Tổ chức, doanh nghiệp thuộc Bộ Công an được phép sản xuất, kinh doanh vũ khí khi mua vũ khí phải lập hồ sơ bao gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ số lượng, chủng loại vũ khí; tên, địa chỉ tổ chức, doanh nghiệp bán lại;
b) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép mua vũ khí; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép mua vũ khí có thời hạn 30 ngày.
3. Thủ tục cấp Giấy phép mua vũ khí đối với tổ chức, doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng được phép sản xuất, kinh doanh vũ khí thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 33. Vận chuyển vũ khí
1. Việc vận chuyển vũ khí thực hiện theo quy định sau đây:
a) Phải có mệnh lệnh vận chuyển vũ khí hoặc Giấy phép vận chuyển vũ khí của cơ quan có thẩm quyền;
b) Bảo đảm bí mật, an toàn;
c) Vận chuyển với số lượng lớn hoặc vũ khí nguy hiểm phải sử dụng phương tiện chuyên dùng và bảo đảm các điều kiện về phòng cháy và chữa cháy;
d) Không được chở vũ khí và người trên cùng một phương tiện, trừ người có trách nhiệm trong việc vận chuyển;
đ) Không dừng, đỗ phương tiện vận chuyển vũ khí ở nơi đông người, khu vực dân cư, nơi có công trình quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trường hợp cần nghỉ qua đêm hoặc do sự cố, khi không đủ lực lượng bảo vệ phải thông báo ngay cho cơ quan quân sự, cơ quan Công an nơi gần nhất để phối hợp bảo vệ.
2. Thủ tục cấp Giấy phép vận chuyển vũ khí đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ số lượng, chủng loại, nguồn gốc xuất xứ của vũ khí cần vận chuyển; nơi đi, nơi đến, thời gian và tuyến đường vận chuyển; họ và tên, địa chỉ của người chịu trách nhiệm vận chuyển, người điều khiển phương tiện; biển kiểm soát của phương tiện; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép vận chuyển vũ khí; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
d) Giấy phép vận chuyển vũ khí có thời hạn 30 ngày. Giấy phép vận chuyển vũ khí chỉ có giá trị cho một lượt vận chuyển; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hoàn tất việc vận chuyển, phải nộp lại cho cơ quan đã cấp giấy phép.
3. Thủ tục cấp mệnh lệnh vận chuyển vũ khí đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 34. Thủ tục cấp Giấy phép sửa chữa vũ khí
1. Thủ tục cấp Giấy phép sửa chữa vũ khí đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ chủng loại, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu của từng loại vũ khí đề nghị sửa chữa; số lượng, bộ phận cần tiến hành sửa chữa; cơ sở tiến hành sửa chữa; địa chỉ, thời gian sửa chữa; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép sửa chữa vũ khí; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2. Thủ tục cấp Giấy phép sửa chữa vũ khí đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Chương III: QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VẬT LIỆU NỔ
Điều 35. Nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, bảo quản, sử dụng vật liệu nổ quân dụng
1. Tổ chức, doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an được nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, bảo quản vật liệu nổ quân dụng.
2. Việc nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, bảo quản vật liệu nổ quân dụng phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an giao nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, bảo quản vật liệu nổ quân dụng;
b) Thiết lập hệ thống tổ chức quản lý, kỹ thuật an toàn do người chỉ huy trực tiếp điều hành, chỉ đạo và phân công người có đủ trình độ, kinh nghiệm chịu trách nhiệm thực hiện công tác kỹ thuật an toàn tại mỗi bộ phận, vị trí có nguy cơ cao về sự cố, tai nạn cháy, nổ;
c) Có phương án bảo đảm an ninh, trật tự, phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường cho cơ sở nghiên cứu, sản xuất, hệ thống kho, nơi bốc dỡ, phương tiện vận chuyển và định kỳ tổ chức diễn tập phòng cháy và chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ. Kho chứa vật liệu nổ quân dụng phải thiết kế, xây dựng theo quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này.
3. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định việc nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, bảo quản, sử dụng vật liệu nổ quân dụng thuộc phạm vi quản lý.
Điều 36. Vận chuyển vật liệu nổ quân dụng
1. Việc vận chuyển vật liệu nổ quân dụng thực hiện theo quy định sau đây:
a) Phải có mệnh lệnh vận chuyển vật liệu nổ quân dụng hoặc Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ quân dụng của cơ quan có thẩm quyền;
b) Bảo đảm bí mật, an toàn;
c) Sử dụng phương tiện chuyên dùng bảo đảm điều kiện vận chuyển vật liệu nổ quân dụng và bảo đảm an toàn, phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường;
d) Không được chở vật liệu nổ quân dụng và người trên cùng một phương tiện, trừ người có trách nhiệm trong việc vận chuyển;
đ) Không dừng, đỗ phương tiện vận chuyển vật liệu nổ quân dụng ở nơi đông người, khu vực dân cư, gần trạm xăng dầu, nơi có công trình quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trường hợp cần nghỉ qua đêm hoặc do sự cố phải thông báo ngay cho cơ quan quân sự, cơ quan Công an nơi gần nhất để phối hợp bảo vệ khi cần thiết.
2. Thủ tục cấp Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ quân dụng đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định sau đây:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ lý do, khối lượng vật liệu nổ quân dụng cần vận chuyển, nơi đi, nơi đến, thời gian và tuyến đường vận chuyển; họ và tên, địa chỉ của người chịu trách nhiệm vận chuyển, người điều khiển phương tiện; biển kiểm soát của phương tiện; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ quân dụng; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ quân dụng chỉ có giá trị cho một lượt vận chuyển; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hoàn tất việc vận chuyển, phải nộp lại cho cơ quan đã cấp giấy phép.
3. Thủ tục cấp mệnh lệnh vận chuyển vật liệu nổ quân dụng đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 37. Nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp
1. Việc nghiên cứu vật liệu nổ công nghiệp thực hiện theo quy định sau đây:
a) Việc nghiên cứu, phát triển, thử nghiệm vật liệu nổ công nghiệp do các tổ chức khoa học và công nghệ hoặc doanh nghiệp sản xuất vật liệu nổ công nghiệp thực hiện trên cơ sở đề án nghiên cứu được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
b) Việc triển khai sản xuất hoặc chuyển giao công nghệ sản xuất quy mô công nghiệp được thực hiện tại cơ sở sản xuất vật liệu nổ công nghiệp có đủ điều kiện theo quy định và có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Việc sản xuất vật liệu nổ công nghiệp thực hiện theo quy định sau đây:
a) Tổ chức sản xuất vật liệu nổ công nghiệp phải là doanh nghiệp nhà nước được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
b) Chủng loại sản phẩm, quy mô sản xuất phải phù hợp với định hướng phát triển ngành vật liệu nổ công nghiệp, bảo đảm chất lượng và kỹ thuật an toàn;
c) Người quản lý, người lao động, người phục vụ có liên quan đến sản xuất vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự; có trình độ chuyên môn phù hợp và được huấn luyện về kỹ thuật an toàn, phòng cháy và chữa cháy, ứng phó sự cố trong hoạt động liên quan đến sản xuất vật liệu nổ công nghiệp;
d) Có đủ phương tiện, thiết bị đo lường phù hợp để kiểm tra, giám sát các thông số kỹ thuật và phục vụ công tác kiểm tra chất lượng nguyên liệu, thành phẩm trong quá trình sản xuất; có nơi thử nghiệm riêng biệt, an toàn theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
đ) Thực hiện việc phân loại, ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật;
e) Tổ chức sản xuất vật liệu nổ công nghiệp chỉ được bán sản phẩm đúng chủng loại cho doanh nghiệp kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp.
3. Việc kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp thực hiện theo quy định sau đây:
a) Tổ chức kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp phải là doanh nghiệp nhà nước được Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
b) Địa điểm kho, bến cảng, nơi tiếp nhận bốc dỡ vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm đủ điều kiện về an ninh, trật tự; bảo đảm khoảng cách an toàn đối với các công trình, đối tượng cần bảo vệ;
c) Kho, thiết bị bốc dỡ, phương tiện vận chuyển, thiết bị, dụng cụ phục vụ kinh doanh phải được thiết kế, xây dựng phù hợp, đáp ứng yêu cầu về bảo quản, vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp, phòng cháy và chữa cháy; trường hợp không có kho, phương tiện vận chuyển, phải có hợp đồng thuê bằng văn bản với tổ chức được phép bảo quản, vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp;
d) Người quản lý, người phục vụ có liên quan đến kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự; có trình độ chuyên môn phù hợp và được huấn luyện về kỹ thuật an toàn, phòng cháy và chữa cháy, ứng phó sự cố trong hoạt động liên quan đến kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp;
đ) Doanh nghiệp kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp chỉ được kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp có trong Danh mục vật liệu nổ công nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam; việc kinh doanh phải bảo đảm đúng quy định trong giấy phép kinh doanh; được mua lại vật liệu nổ công nghiệp của tổ chức được phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp không sử dụng hết.
4. Việc xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp thực hiện theo quy định sau đây:
a) Doanh nghiệp được phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp thì được xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp;
b) Chỉ được xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp khi có Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công Thương cấp;
c) Việc ủy thác nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp chỉ được thực hiện giữa doanh nghiệp được phép sản xuất, doanh nghiệp được phép kinh doanh hoặc tổ chức, doanh nghiệp được phép sử dụng với doanh nghiệp được phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp.
5. Chính phủ quy định về trình độ chuyên môn; huấn luyện kỹ thuật an toàn, phòng cháy và chữa cháy, ứng phó sự cố trong hoạt động liên quan đến sản xuất, kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp.
Điều 38. Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp. Doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng phải có văn bản đề nghị của Bộ Quốc phòng hoặc cơ quan được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ quản lý vật liệu nổ công nghiệp;
b) Bản sao văn bản giao nhiệm vụ sản xuất vật liệu nổ công nghiệp của Thủ tướng Chính phủ;
c) Bản sao quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
d) Bản sao quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình sản xuất vật liệu nổ công nghiệp theo quy định của pháp luật về quản lý, đầu tư xây dựng;
đ) Bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự; văn bản thẩm duyệt, kiểm tra nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy đối với nhà, công trình sản xuất, kho bảo quản vật liệu nổ công nghiệp;
e) Bản sao quyết định của Bộ trưởng Bộ Công Thương công nhận kết quả đăng ký của sản phẩm và đưa sản phẩm vật liệu nổ công nghiệp vào Danh mục vật liệu nổ công nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam đối với vật liệu nổ công nghiệp mới sản xuất, sử dụng ở Việt Nam;
g) Bản sao quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường; bản sao Giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường;
h) Bố trí mặt bằng; bố trí dây chuyền công nghệ; hệ thống điện, chống sét; giấy chứng nhận kiểm định các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, thiết bị đo; kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu thuốc nổ; nghiệm thu về chất lượng công trình xây dựng;
i) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
2. Doanh nghiệp đang sản xuất vật liệu nổ công nghiệp có yêu cầu chuyển đổi tên doanh nghiệp mà không có sự thay đổi về điều kiện sản xuất, chỉ cần có văn bản đề nghị điều chỉnh Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp, bản sao quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cho phép đổi tên doanh nghiệp và bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự do cơ quan Công an có thẩm quyền cấp.
3. Doanh nghiệp sản xuất vật liệu nổ công nghiệp có cải tạo, nâng cấp hạ tầng và thiết bị sản xuất vật liệu nổ công nghiệp nhưng không làm giảm yêu cầu theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về mặt bằng, công nghệ và điều kiện về phòng, chống cháy, nổ, kỹ thuật an toàn của dây chuyền sản xuất đã được cấp phép, sau khi thực hiện cải tạo, nâng cấp, doanh nghiệp sản xuất vật liệu nổ công nghiệp làm văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp.
4. Doanh nghiệp sản xuất vật liệu nổ công nghiệp bị sự cố, tai nạn phá hủy làm hư hỏng dây chuyền sản xuất, sau khi có kết quả điều tra và sửa chữa phục hồi, doanh nghiệp sản xuất vật liệu nổ công nghiệp lập hồ sơ kỹ thuật của quá trình sửa chữa, phục hồi và làm văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp.
5. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vật liệu nổ công nghiệp; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 39. Thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp. Doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng phải có văn bản đề nghị của Bộ Quốc phòng hoặc cơ quan được Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ quản lý vật liệu nổ công nghiệp;
b) Bản sao văn bản giao nhiệm vụ kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp của Thủ tướng Chính phủ;
c) Bản sao quyết định thành lập doanh nghiệp hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
d) Bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự; văn bản thẩm duyệt, kiểm tra nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy đối với kho, phương tiện chuyên dùng vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp;
đ) Danh sách cán bộ lãnh đạo, quản lý có liên quan trực tiếp đến công tác bảo quản, vận chuyển và kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp; hồ sơ cá nhân của người đại diện doanh nghiệp; giấy phép lao động của người nước ngoài làm việc tại doanh nghiệp (nếu có); bảng kê khai hệ thống kho, bến cảng, nhà xưởng của cơ sở kinh doanh và văn bản cho phép đưa công trình vào sử dụng; danh sách phương tiện vận tải chuyên dùng và bản sao giấy phép lưu hành; giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước về tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng đo lường nhà nước cấp cho cơ sở thí nghiệm vật liệu nổ công nghiệp (nếu có); kế hoạch hoặc biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố khẩn cấp đối với kho, phương tiện vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp;
e) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp bao gồm: báo cáo hoạt động kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp theo giấy phép đã cấp và giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 40. Thủ tục cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp;
b) Bản sao Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp;
c) Bản sao hợp đồng mua, bán vật liệu nổ công nghiệp với doanh nghiệp nước ngoài và hợp đồng mua, bán vật liệu nổ công nghiệp với doanh nghiệp trong nước;
d) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
3. Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu vật liệu nổ công nghiệp có thời hạn 06 tháng.
Điều 41. Sử dụng vật liệu nổ công nghiệp
1. Tổ chức, doanh nghiệp sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký doanh nghiệp hoặc đăng ký hoạt động ngành, nghề, lĩnh vực cần sử dụng vật liệu nổ công nghiệp;
b) Có hoạt động khoáng sản, dầu khí hoặc công trình xây dựng, công trình nghiên cứu, thử nghiệm hoặc thực hiện nhiệm vụ do Thủ tướng Chính phủ giao cần sử dụng vật liệu nổ công nghiệp;
c) Có kho, công nghệ, thiết bị, phương tiện, dụng cụ phục vụ hoạt động sử dụng vật liệu nổ công nghiệp bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; trường hợp không có kho, phương tiện vận chuyển, phải có hợp đồng thuê bằng văn bản với tổ chức được phép bảo quản, vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp;
d) Địa điểm sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự, phòng cháy và chữa cháy, vệ sinh môi trường; bảo đảm khoảng cách an toàn đối với công trình, đối tượng cần bảo vệ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và các quy định có liên quan;
đ) Người quản lý, chỉ huy nổ mìn, thợ mìn và người khác có liên quan đến sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự; có trình độ chuyên môn tương xứng với vị trí, chức trách đảm nhiệm, được huấn luyện về kỹ thuật an toàn, phòng cháy và chữa cháy, ứng phó sự cố trong các hoạt động liên quan đến sử dụng vật liệu nổ công nghiệp;
e) Quy mô sử dụng thuốc nổ trong 01 quý từ 500 kg trở lên, trừ trường hợp sử dụng thuốc nổ để thử nghiệm, thăm dò, đánh giá địa chất.
2. Tổ chức, doanh nghiệp sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phải tuân theo quy định sau đây:
a) Chỉ được mua vật liệu nổ công nghiệp có trong Danh mục vật liệu nổ công nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam từ các doanh nghiệp kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp;
b) Vật liệu nổ công nghiệp không sử dụng hết phải bán lại cho doanh nghiệp kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp;
c) Thực hiện việc bổ nhiệm người chỉ huy nổ mìn và thực hiện đầy đủ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn trong sử dụng vật liệu nổ công nghiệp khi tiến hành nổ mìn;
d) Lập thiết kế, phương án nổ mìn phù hợp với quy mô sản xuất, điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội nơi nổ mìn. Trong thiết kế, phương án nổ mìn phải quy định cụ thể các biện pháp an toàn, bảo vệ, canh gác chống xâm nhập trái phép khu vực nổ mìn; thủ tục cảnh báo, khởi nổ; thủ tục bảo quản và thủ tục giám sát việc tiêu thụ, tiêu hủy vật liệu nổ công nghiệp tại nơi nổ mìn và nội dung khác theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.
Thiết kế hoặc phương án nổ mìn phải được cơ quan cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phê duyệt và được sự đồng ý bằng văn bản của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc cơ quan quản lý khi nổ mìn trong khu vực dân cư, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, khu vực có di tích lịch sử - văn hóa, bảo tồn thiên nhiên, công trình an ninh, quốc phòng hoặc công trình quan trọng khác của quốc gia, khu vực bảo vệ khác theo quy định của pháp luật. Thực hiện việc giám sát các ảnh hưởng nổ mìn đối với công trình, đối tượng cần bảo vệ nằm trong phạm vi ảnh hưởng của nổ mìn;
đ) Tổ chức, doanh nghiệp được Bộ Công Thương, Bộ Quốc phòng cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phải thông báo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ít nhất 10 ngày trước khi thực hiện các hoạt động theo giấy phép.
3. Chính phủ quy định về trình độ chuyên môn; huấn luyện kỹ thuật an toàn trong hoạt động liên quan đến sử dụng vật liệu nổ công nghiệp.
Điều 42. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp đối với tổ chức, doanh nghiệp không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp;
b) Bản sao quyết định thành lập hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có bản sao Giấy chứng nhận đầu tư hoặc bản sao giấy phép thầu do cơ quan có thẩm quyền cấp theo quy định của pháp luật;
c) Bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự;
d) Bản sao giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản, dầu khí đối với doanh nghiệp hoạt động khoáng sản, dầu khí; bản sao quyết định trúng thầu thi công công trình, bản sao hợp đồng nhận thầu hoặc văn bản ủy quyền, giao nhiệm vụ thực hiện hợp đồng thi công công trình của tổ chức quản lý doanh nghiệp;
đ) Thiết kế, bản vẽ thi công các hạng mục công trình xây dựng, thiết kế khai thác mỏ có sử dụng vật liệu nổ công nghiệp đối với công trình quy mô công nghiệp; phương án thi công, khai thác đối với hoạt động xây dựng, khai thác thủ công. Thiết kế hoặc phương án do chủ đầu tư phê duyệt phải bảo đảm điều kiện về an toàn theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
e) Phương án nổ mìn được lãnh đạo doanh nghiệp ký duyệt. Trường hợp nổ mìn trong khu vực dân cư, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, khu vực có di tích lịch sử - văn hóa, bảo tồn thiên nhiên, công trình an ninh, quốc phòng hoặc công trình quan trọng khác của quốc gia, khu vực bảo vệ khác theo quy định của pháp luật thì phương án nổ mìn phải được cơ quan có thẩm quyền quy định tại điểm d khoản 2 Điều 41 của Luật này đồng ý bằng văn bản;
g) Bản sao văn bản nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy đối với kho vật liệu nổ công nghiệp và điều kiện bảo đảm an toàn theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
h) Trường hợp tổ chức, doanh nghiệp đề nghị cấp phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp không có kho hoặc không có phương tiện vận chuyển, hồ sơ đề nghị cấp giấy phép phải có bản sao hợp đồng nguyên tắc thuê kho, phương tiện vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp với tổ chức, doanh nghiệp có kho, phương tiện vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp bảo đảm điều kiện về an toàn theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, phòng cháy và chữa cháy hoặc bản sao hợp đồng nguyên tắc với tổ chức được phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp để cung ứng vật liệu nổ công nghiệp đến công trình theo hộ chiếu nổ mìn;
i) Quyết định bổ nhiệm người chỉ huy nổ mìn của lãnh đạo doanh nghiệp và danh sách thợ mìn, người có liên quan trực tiếp đến sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; giấy phép lao động của người nước ngoài làm việc có liên quan đến sử dụng vật liệu nổ công nghiệp (nếu có); bản sao chứng chỉ chuyên môn, giấy chứng nhận huấn luyện về kỹ thuật an toàn trong hoạt động vật liệu nổ công nghiệp của người chỉ huy nổ mìn và đội ngũ thợ mìn;
k) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ.
2. Đối với tổ chức, doanh nghiệp đề nghị cấp lại Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp nhưng không thay đổi về địa điểm, quy mô hoạt động, hồ sơ đề nghị bao gồm: báo cáo hoạt động sử dụng vật liệu nổ công nghiệp trong thời hạn hiệu lực của giấy phép đã cấp và giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Trường hợp đáp ứng điều kiện quy định tại các điểm b, d và đ khoản 1 Điều này nhưng không tự thực hiện việc nổ mìn, tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu nổ mìn được quyền ký hợp đồng thuê toàn bộ công việc nổ mìn với tổ chức có Giấy phép dịch vụ nổ mìn.
4. Hồ sơ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định; trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
5. Thời hạn của Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp theo thời hạn của Giấy phép khai thác khoáng sản nhưng không quá 05 năm; theo thời hạn công trình nhưng không quá 02 năm đối với trường hợp phục vụ thi công công trình, thử nghiệm, thăm dò khoáng sản, hoạt động dầu khí và hoạt động khác do Thủ tướng Chính phủ giao.
6. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp đối với tổ chức, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 43. Dịch vụ nổ mìn
1. Hình thức và yêu cầu hoạt động dịch vụ nổ mìn quy định như sau:
a) Dịch vụ nổ mìn là việc thực hiện hợp đồng nổ mìn giữa tổ chức, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ nổ mìn với tổ chức, cá nhân có nhu cầu theo quy định của Luật này, bao gồm: dịch vụ nổ mìn tại địa phương có phạm vi hoạt động giới hạn trong địa bàn đất liền của 01 tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương; dịch vụ nổ mìn trên thềm lục địa; dịch vụ nổ mìn có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Số lượng, phạm vi, quy mô của tổ chức, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ nổ mìn phải phù hợp với nhiệm vụ, nhu cầu của hoạt động xây dựng, hoạt động khoáng sản tập trung và điều kiện kinh tế - xã hội đặc thù của địa phương;
c) Trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, cơ quan quản lý nhà nước về vật liệu nổ công nghiệp chỉ định, bắt buộc việc thực hiện dịch vụ nổ mìn ở khu vực, địa điểm có đặc thù về an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
2. Điều kiện, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ nổ mìn quy định như sau:
a) Được thành lập theo quy định của pháp luật, có đăng ký ngành, nghề cung ứng dịch vụ nổ mìn; đối với tổ chức, doanh nghiệp cung ứng dịch vụ nổ mìn có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là doanh nghiệp nhà nước;
b) Có đủ điều kiện về sử dụng, bảo quản và vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp theo quy định của Luật này; cơ sở vật chất, kỹ thuật và nhân sự đủ để cung ứng dịch vụ cho tối thiểu 05 tổ chức thuê dịch vụ;
c) Có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan khi sử dụng, bảo quản, vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp để thực hiện dịch vụ nổ mìn.
3. Tổ chức, cá nhân thuê dịch vụ nổ mìn có quyền và nghĩa vụ sau đây:
a) Không phải có giấy phép đối với hoạt động vật liệu nổ công nghiệp đã thuê dịch vụ nổ mìn;
b) Chỉ được thuê một tổ chức, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ nổ mìn cung ứng một loại dịch vụ nổ mìn tại một vị trí, địa điểm;
c) Theo sự điều hành của bên cung ứng dịch vụ nổ mìn trong các hoạt động cụ thể khi bảo quản, vận chuyển, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp;
d) Hợp tác, tạo điều kiện hỗ trợ bên cung ứng dịch vụ nổ mìn các vấn đề liên quan đến an ninh, an toàn trong hoạt động vật liệu nổ công nghiệp.
4. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép dịch vụ nổ mìn bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép dịch vụ nổ mìn. Doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng phải có văn bản đề nghị của Bộ Quốc phòng hoặc cơ quan được Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ quản lý vật liệu nổ công nghiệp;
b) Bản sao quyết định thành lập hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có bản sao Giấy chứng nhận đầu tư;
c) Bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự;
d) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép dịch vụ nổ mìn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với hình thức dịch vụ nổ mìn tại địa phương có phạm vi hoạt động giới hạn trong địa bàn đất liền của 01 tỉnh hoặc thành phố trực thuộc trung ương; văn bản đề nghị cấp Giấy phép dịch vụ nổ mìn của cơ quan quản lý có thẩm quyền đối với dịch vụ nổ mìn trên thềm lục địa hoặc dịch vụ nổ mìn có phạm vi hoạt động trên toàn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
đ) Đề án dịch vụ nổ mìn nêu rõ mục tiêu, quy mô, phạm vi, tính phù hợp quy hoạch, nhu cầu về dịch vụ nổ mìn và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp; các điều kiện cần thiết và giải pháp bảo đảm về an ninh, an toàn trong hoạt động cung ứng dịch vụ nổ mìn; bản sao Giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp và phương án nổ mìn điển hình đã thực hiện trong 02 năm trở về trước tính từ thời điểm đề nghị cấp Giấy phép dịch vụ nổ mìn; giấy tờ, tài liệu quy định tại các điểm g, h và i khoản 1 Điều 42 của Luật này;
e) Đối với tổ chức, doanh nghiệp đã có Giấy phép kinh doanh vật liệu nổ công nghiệp, hồ sơ không bao gồm giấy tờ, tài liệu quy định tại các điểm b, c, d khoản này và điểm h khoản 1 Điều 42 của Luật này;
g) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
5. Đối với tổ chức, doanh nghiệp đề nghị cấp lại, điều chỉnh Giấy phép dịch vụ nổ mìn, hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị cấp lại, điều chỉnh Giấy phép dịch vụ nổ mìn; báo cáo hoạt động dịch vụ nổ mìn trong thời hạn hiệu lực của Giấy phép đã cấp lần trước và giấy tờ, tài liệu quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 4 Điều này.
6. Hồ sơ quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy phép dịch vụ nổ mìn; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
7. Giấy phép dịch vụ nổ mìn có thời hạn 02 năm.
Điều 44. Vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp
1. Tổ chức, doanh nghiệp vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Tổ chức, doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh hoặc sử dụng vật liệu nổ công nghiệp; doanh nghiệp có đăng ký ngành, nghề vận chuyển hàng hóa;
b) Phương tiện vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp phải đủ điều kiện theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn trong hoạt động vật liệu nổ công nghiệp; bảo đảm điều kiện về an toàn, phòng cháy và chữa cháy;
c) Người quản lý, người điều khiển phương tiện, áp tải và người phục vụ có liên quan đến vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự; có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí, chức trách đảm nhiệm, được huấn luyện về an toàn, phòng cháy và chữa cháy;
d) Có Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp; biểu trưng báo hiệu phương tiện đang vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp.
2. Người thực hiện vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp phải tuân theo quy định sau đây:
a) Thực hiện đúng nội dung ghi trong Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp;
b) Kiểm tra tình trạng hàng hóa trước khi xuất phát hoặc sau mỗi lần phương tiện dừng, đỗ và khắc phục ngay sự cố xảy ra;
c) Có phương án vận chuyển bảo đảm an toàn, phòng cháy và chữa cháy; có biện pháp ứng phó sự cố khẩn cấp;
d) Thực hiện đầy đủ thủ tục giao, nhận về hàng hóa, tài liệu liên quan đến vật liệu nổ công nghiệp;
đ) Không dừng, đỗ phương tiện vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp ở nơi đông người, khu vực dân cư, gần trạm xăng dầu, nơi có công trình quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; không vận chuyển khi thời tiết bất thường. Trường hợp cần nghỉ qua đêm hoặc do sự cố phải thông báo ngay cho cơ quan quân sự, cơ quan Công an nơi gần nhất để phối hợp bảo vệ;
e) Không được chở vật liệu nổ công nghiệp và người trên cùng một phương tiện, trừ người có trách nhiệm trong việc vận chuyển.
3. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ lý do, khối lượng, số lượng, chủng loại vật liệu nổ công nghiệp cần vận chuyển; nơi đi, nơi đến, thời gian và tuyến đường vận chuyển; họ và tên, địa chỉ của người chịu trách nhiệm vận chuyển, người điều khiển phương tiện; biển kiểm soát của phương tiện;
b) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự để sản xuất, kinh doanh, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp của tổ chức, doanh nghiệp nhận vật liệu nổ công nghiệp;
c) Các loại giấy tờ chứng minh đủ điều kiện vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp theo quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
d) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ.
4. Hồ sơ đề nghị điều chỉnh Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị điều chỉnh nội dung Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp;
b) Bản sao Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp.
5. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
6. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp, điều chỉnh Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp chỉ có giá trị cho một lượt vận chuyển; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hoàn tất việc vận chuyển, phải nộp lại cho cơ quan đã cấp giấy phép.
7. Trường hợp vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp bằng nhiều phương tiện trong cùng một chuyến thì chỉ cấp 01 Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp; nếu vận chuyển bằng nhiều loại phương tiện giao thông thì phải cấp riêng cho mỗi loại phương tiện 01 Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp.
8. Trường hợp vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp bên trong ranh giới mỏ, công trường hoặc cơ sở sản xuất, bảo quản vật liệu nổ công nghiệp trên các đường không giao cắt với đường thủy, đường bộ công cộng thì không phải xin cấp giấy phép, nhưng phải thực hiện đúng quy định tại các điểm b, c, d và e khoản 2 Điều này.
9. Khi có yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong các hoạt động cấp quốc gia hoặc ở khu vực có yêu cầu đặc biệt về bảo đảm an ninh, trật tự thì cơ quan có thẩm quyền quyết định tạm ngừng cấp giấy phép hoặc tạm ngừng hiệu lực thi hành của Giấy phép vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp.
10. Việc cấp, điều chỉnh, thu hồi và tạm ngừng cấp mệnh lệnh vận chuyển vật liệu nổ công nghiệp đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 45. Trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp
1. Tổ chức, doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu, chế tạo, thử nghiệm, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, bảo quản, vận chuyển, sử dụng, tiêu hủy vật liệu nổ công nghiệp có trách nhiệm sau đây:
a) Có giấy phép, giấy chứng nhận hoặc phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền;
b) Thành lập bộ phận quản lý và kiểm tra an toàn, đánh giá nguy cơ rủi ro về an toàn, xây dựng phương án nổ mìn, kế hoạch ứng cứu khẩn cấp, ban hành nội quy, quy định, quy trình bảo đảm an ninh, an toàn, phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường trong hoạt động vật liệu nổ công nghiệp;
c) Bảo quản, lưu trữ sổ sách, chứng từ đối với từng loại vật liệu nổ công nghiệp trong thời hạn 10 năm;
d) Báo cáo định kỳ, báo cáo trong trường hợp đột xuất.
2. Tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp chỉ được mua bán sản phẩm đúng khối lượng, số lượng, chủng loại theo giấy phép của cơ quan có thẩm quyền.
3. Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định chi tiết khoản 1 Điều này.
Chương IV: QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TIỀN CHẤT THUỐC NỔ
Điều 46. Nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ
1. Việc nghiên cứu, chế tạo tiền chất thuốc nổ do tổ chức khoa học và công nghệ hoặc doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ thực hiện.
2. Việc sản xuất tiền chất thuốc nổ phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Do tổ chức, doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật thực hiện;
b) Địa điểm cơ sở sản xuất tiền chất thuốc nổ phải bảo đảm các điều kiện về an ninh, trật tự. Nhà xưởng, kho, công nghệ, thiết bị, phương tiện phục vụ sản xuất phải được thiết kế, xây dựng phù hợp với quy mô và đặc điểm nguyên liệu, sản phẩm tiền chất thuốc nổ; bảo đảm yêu cầu về an toàn, phòng cháy và chữa cháy; khoảng cách an toàn đối với công trình, đối tượng cần bảo vệ và bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật;
c) Có đủ phương tiện, thiết bị đo lường phù hợp để kiểm tra, giám sát các thông số kỹ thuật và phục vụ công tác kiểm tra chất lượng nguyên liệu trong quá trình sản xuất;
d) Chỉ được sản xuất, bán sản phẩm đúng chủng loại cho doanh nghiệp sản xuất vật liệu nổ công nghiệp, kinh doanh, sử dụng tiền chất thuốc nổ.
3. Việc kinh doanh tiền chất thuốc nổ phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Do doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật thực hiện;
b) Địa điểm kho, bến cảng, nơi tiếp nhận bốc dỡ tiền chất thuốc nổ phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự; có trang thiết bị an toàn, phòng, chống cháy, nổ; bảo đảm khoảng cách an toàn đối với công trình, đối tượng cần bảo vệ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và các quy định có liên quan; kho chứa hoặc kho thuê theo hợp đồng để chứa tiền chất thuốc nổ phải bảo đảm điều kiện về bảo quản chất lượng trong thời gian kinh doanh; công cụ, thiết bị chứa đựng, lưu giữ tiền chất thuốc nổ phải bảo đảm chất lượng và vệ sinh môi trường; phương tiện vận chuyển tiền chất thuốc nổ theo quy định của pháp luật về vận chuyển hàng nguy hiểm; có chứng từ hợp pháp chứng minh rõ nguồn gốc nơi sản xuất, nơi nhập khẩu hoặc nơi cung cấp loại tiền chất thuốc nổ kinh doanh; có trang thiết bị kiểm soát, thu gom và xử lý chất thải nguy hại hoặc có hợp đồng vận chuyển, xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường;
c) Có kế hoạch hoặc biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố hóa chất được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt hoặc xác nhận theo quy định của Luật Hóa chất;
d) Người trực tiếp quản lý, người phục vụ có liên quan đến kinh doanh tiền chất thuốc nổ phải được huấn luyện về kỹ thuật an toàn hóa chất, phòng cháy và chữa cháy.
4. Việc xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ thực hiện theo quy định sau đây:
a) Doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh tiền chất thuốc nổ thì được xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ;
b) Chỉ được xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ khi có giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ do cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công Thương cấp;
c) Việc ủy thác nhập khẩu tiền chất thuốc nổ chỉ được thực hiện giữa các doanh nghiệp được phép sản xuất, doanh nghiệp được phép kinh doanh hoặc tổ chức, doanh nghiệp được phép sử dụng với doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh tiền chất thuốc nổ.
5. Miễn trừ cấp phép trong trường hợp sau đây:
a) Miễn trừ việc cấp giấy phép kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ phục vụ cho nghiên cứu khoa học, thử nghiệm với khối lượng sử dụng trong 01 năm từ 05 kg trở xuống;
b) Tổ chức nhập khẩu tiền chất thuốc nổ để sử dụng trực tiếp cho sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm phải có Giấy phép nhập khẩu tiền chất thuốc nổ và được miễn trừ việc cấp Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ nhưng vẫn phải bảo đảm điều kiện kinh doanh quy định tại khoản 3 Điều này;
c) Tổ chức sử dụng tiền chất thuốc nổ không hết khi bán lại cho tổ chức cung cấp tiền chất thuốc nổ hợp pháp được miễn trừ việc cấp Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ.
Điều 47. Thủ tục cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ;
b) Bản sao quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
c) Bản sao quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình sản xuất tiền chất thuốc nổ theo quy định của pháp luật về quản lý, đầu tư xây dựng;
d) Bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ là Amoni nitrat có hàm lượng từ 98,5% trở lên;
đ) Bản sao văn bản thẩm duyệt, kiểm tra nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy đối với nhà, công trình sản xuất, kho bảo quản tiền chất thuốc nổ;
e) Bản sao quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với cơ sở sản xuất tiền chất thuốc nổ; bản sao Giấy xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường;
g) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
2. Doanh nghiệp đang sản xuất tiền chất thuốc nổ có yêu cầu chuyển đổi tên doanh nghiệp mà không có sự thay đổi về điều kiện sản xuất, chỉ cần có văn bản đề nghị điều chỉnh Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ, bản sao quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cho phép đổi tên doanh nghiệp và bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ là Amoni nitrat có hàm lượng từ 98,5% trở lên do cơ quan Công an có thẩm quyền cấp.
3. Doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ có cải tạo, nâng cấp hạ tầng và thiết bị sản xuất tiền chất thuốc nổ nhưng không làm giảm các yêu cầu theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về mặt bằng, công nghệ và điều kiện về phòng, chống cháy, nổ, kỹ thuật an toàn của dây chuyền sản xuất đã được cấp phép, sau khi thực hiện cải tạo, nâng cấp, doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ làm văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ.
4. Doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ bị sự cố, tai nạn phá hủy làm hư hỏng dây chuyền sản xuất, sau khi có kết quả điều tra và sửa chữa phục hồi, doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ phải lập hồ sơ kỹ thuật của quá trình sửa chữa, phục hồi và làm văn bản đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ.
5. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 48. Thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ;
b) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc bản sao Giấy chứng nhận đầu tư, trong đó có ngành, nghề liên quan đến hóa chất hoặc vật liệu nổ công nghiệp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp;
c) Bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với doanh nghiệp kinh doanh tiền chất thuốc nổ là Amoni nitrat có hàm lượng từ 98,5% trở lên;
d) Bản sao văn bản thẩm duyệt, kiểm tra nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy đối với kho, phương tiện chuyên dùng vận chuyển tiền chất thuốc nổ;
đ) Bảng kê khai hệ thống kho, bến cảng, nhà xưởng của cơ sở kinh doanh, văn bản cho phép đưa công trình vào sử dụng; danh sách các phương tiện vận tải chuyên dùng và bản sao giấy phép lưu hành; kế hoạch hoặc biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố khẩn cấp đối với kho, phương tiện vận chuyển tiền chất thuốc nổ;
e) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ có thời hạn 05 năm.
3. Thủ tục cấp đổi, cấp lại, điều chỉnh Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ thực hiện như sau:
a) Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ hết hạn được cấp đổi. Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị cấp đổi; trường hợp tổ chức kinh doanh tiền chất thuốc nổ có thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, địa điểm, quy mô hoặc điều kiện kinh doanh thì phải cung cấp giấy tờ, tài liệu chứng minh nội dung thay đổi;
b) Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ được cấp lại trong trường hợp bị mất, hư hỏng. Thời hạn hiệu lực của giấy phép cấp lại không thay đổi. Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị cấp lại; văn bản nêu rõ lý do mất, hư hỏng và kết quả xử lý;
c) Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ được điều chỉnh trong trường hợp thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, địa điểm, quy mô, điều kiện hoạt động hoặc thông tin liên quan đến tổ chức đăng ký. Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị điều chỉnh; giấy tờ, tài liệu liên quan chứng minh nội dung thay đổi. Thời hạn hiệu lực của Giấy phép không thay đổi;
d) Hồ sơ quy định tại các điểm a, b và c khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền thuộc Bộ Công Thương cấp đổi, cấp lại, điều chỉnh Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều 49. Thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ
1. Hồ sơ đề nghị cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp giấy phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu;
b) Bản sao Giấy phép kinh doanh tiền chất thuốc nổ đối với doanh nghiệp kinh doanh tiền chất thuốc nổ hoặc bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất tiền chất thuốc nổ đối với doanh nghiệp sản xuất tiền chất thuốc nổ;
c) Bản sao hợp đồng, đơn đặt hàng hoặc hóa đơn mua, bán tiền chất thuốc nổ;
d) Bản thuyết minh quy trình sản xuất, thử nghiệm hoặc đề cương nghiên cứu, trong đó có sử dụng tiền chất thuốc nổ đối với trường hợp tổ chức, cá nhân nhập khẩu tiền chất thuốc nổ để sử dụng trực tiếp cho sản xuất, nghiên cứu, thử nghiệm;
đ) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu, Chứng minh Công an nhân dân hoặc giấy chứng minh do Quân đội nhân dân cấp của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, cấp giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất thuốc nổ có thời hạn 06 tháng.
3. Tổ chức, doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép nhập khẩu tiền chất thuốc nổ không phải thực hiện các quy định về cấp Giấy xác nhận khai báo hóa chất thuộc danh mục hóa chất phải khai báo theo quy định của Luật Hóa chất.
Điều 50. Vận chuyển tiền chất thuốc nổ
1. Tổ chức, doanh nghiệp vận chuyển tiền chất thuốc nổ phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Tổ chức, doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh hoặc sử dụng tiền chất thuốc nổ; doanh nghiệp có đăng ký ngành, nghề vận chuyển hàng hóa;
b) Có phương tiện đủ điều kiện vận chuyển tiền chất thuốc nổ theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về an toàn trong hoạt động tiền chất thuốc nổ; bảo đảm điều kiện về an toàn, phòng cháy và chữa cháy;
c) Người quản lý, người điều khiển phương tiện, áp tải và người phục vụ có liên quan đến vận chuyển tiền chất thuốc nổ phải có trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí, chức trách đảm nhiệm, được huấn luyện về an toàn, phòng cháy và chữa cháy;
d) Có mệnh lệnh vận chuyển hoặc Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ; biểu trưng báo hiệu phương tiện đang vận chuyển tiền chất thuốc nổ.
2. Người thực hiện vận chuyển tiền chất thuốc nổ phải tuân theo các quy định sau đây:
a) Thực hiện đúng nội dung ghi trong Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ;
b) Kiểm tra tình trạng hàng hóa trước khi xuất phát hoặc sau mỗi lần phương tiện dừng, đỗ và khắc phục ngay sự cố xảy ra;
c) Có phương án bảo đảm vận chuyển an toàn, phòng cháy và chữa cháy; có biện pháp ứng phó sự cố khẩn cấp;
d) Thực hiện đầy đủ thủ tục giao, nhận về hàng hóa, tài liệu liên quan đến tiền chất thuốc nổ;
đ) Không dừng, đỗ phương tiện vận chuyển tiền chất thuốc nổ ở nơi đông người, khu vực dân cư, gần trạm xăng dầu, nơi có công trình quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, ngoại giao; không vận chuyển tiền chất thuốc nổ khi thời tiết bất thường. Trường hợp cần nghỉ qua đêm hoặc do sự cố phải thông báo ngay cho cơ quan quân sự, cơ quan Công an nơi gần nhất để phối hợp bảo vệ;
e) Không được chở tiền chất thuốc nổ và người trên cùng một phương tiện, trừ người có trách nhiệm trong việc vận chuyển.
3. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị nêu rõ lý do, khối lượng, chủng loại tiền chất thuốc nổ cần vận chuyển, nơi đi, nơi đến, thời gian và tuyến đường vận chuyển; họ và tên, địa chỉ của người chịu trách nhiệm vận chuyển, người điều khiển phương tiện; biển kiểm soát của phương tiện;
b) Bản sao quyết định thành lập của cơ quan có thẩm quyền hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
c) Bản sao Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tiền chất thuốc nổ là Amoni nitrat có hàm lượng từ 98,5% trở lên;
d) Các loại giấy tờ chứng minh đủ điều kiện vận chuyển tiền chất thuốc nổ theo quy định tại khoản 1 Điều này;
đ) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ.
4. Hồ sơ đề nghị điều chỉnh Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị điều chỉnh nội dung Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ;
b) Bản sao Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ.
5. Hồ sơ quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
6. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền phải cấp, điều chỉnh Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ chỉ có giá trị cho một lượt vận chuyển; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hoàn tất việc vận chuyển, phải nộp lại cho cơ quan đã cấp giấy phép.
7. Trường hợp vận chuyển tiền chất thuốc nổ bằng nhiều phương tiện trong cùng một chuyến thì chỉ cấp 01 Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ; nếu vận chuyển bằng nhiều loại phương tiện giao thông thì phải cấp riêng cho mỗi loại phương tiện 01 Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ.
8. Trường hợp không có kho, phương tiện vận chuyển thì phải có hợp đồng thuê bằng văn bản với tổ chức được phép bảo quản, vận chuyển tiền chất thuốc nổ.
9. Trường hợp vận chuyển tiền chất thuốc nổ bên trong ranh giới mỏ, công trường hoặc cơ sở sản xuất, bảo quản tiền chất thuốc nổ trên các đường không giao cắt với đường thủy, đường bộ công cộng thì không phải xin cấp giấy phép, nhưng phải thực hiện đúng quy định tại các điểm b, c, d và e khoản 2 Điều này.
10. Khi có yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong các hoạt động cấp quốc gia hoặc ở khu vực có yêu cầu đặc biệt về bảo đảm an ninh, trật tự thì cơ quan có thẩm quyền quyết định tạm ngừng cấp Giấy phép hoặc tạm ngừng hiệu lực thi hành của Giấy phép vận chuyển tiền chất thuốc nổ.
11. Thủ tục cấp, điều chỉnh, thu hồi và tạm ngừng cấp mệnh lệnh vận chuyển tiền chất thuốc nổ đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 51. Trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, sử dụng tiền chất thuốc nổ
1. Tổ chức, doanh nghiệp duy trì đủ điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn, phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, bảo quản, sử dụng tiền chất thuốc nổ và có trách nhiệm sau đây:
a) Bảo quản, lưu trữ sổ sách, chứng từ đối với từng loại tiền chất thuốc nổ trong thời hạn 05 năm;
b) Báo cáo định kỳ, báo cáo trong trường hợp đột xuất;
c) Bảo đảm quy định về an toàn trong sử dụng, cất trữ, bảo quản, xử lý hóa chất bị thải bỏ đối với hóa chất nguy hiểm theo quy định của Luật Hóa chất.
2. Tổ chức sử dụng tiền chất thuốc nổ chỉ được mua tiền chất thuốc nổ trong danh mục tiền chất thuốc nổ được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam từ tổ chức sản xuất, kinh doanh tiền chất thuốc nổ hợp pháp; bán lại tiền chất thuốc nổ không sử dụng hết cho tổ chức sản xuất, kinh doanh tiền chất thuốc nổ hợp pháp.
3. Tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh tiền chất thuốc nổ phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép, giấy chứng nhận và chỉ được mua, bán tiền chất thuốc nổ trong danh mục tiền chất thuốc nổ được phép sản xuất, kinh doanh và sử dụng ở Việt Nam.
4. Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định chi tiết khoản 1 Điều này.
Chương V: QUẢN LÝ, SỬ DỤNG CÔNG CỤ HỖ TRỢ
Điều 52. Nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu, sửa chữa công cụ hỗ trợ
1. Việc nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa công cụ hỗ trợ do tổ chức, doanh nghiệp thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng thực hiện và phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Được Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao trách nhiệm nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa công cụ hỗ trợ;
b) Bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự, phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường;
c) Việc nghiên cứu, chế tạo công cụ hỗ trợ do tổ chức, doanh nghiệp sản xuất công cụ hỗ trợ thực hiện trên cơ sở đề án nghiên cứu của cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
d) Có đủ phương tiện, thiết bị đo lường phù hợp để kiểm tra, giám sát các thông số kỹ thuật và phục vụ công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất; có nơi thử nghiệm riêng biệt, an toàn theo đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật;
đ) Chủng loại sản phẩm phải bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; sản phẩm công cụ hỗ trợ phải có nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu, nước sản xuất, năm sản xuất, hạn sử dụng;
e) Người quản lý, người lao động, người phục vụ có liên quan đến sản xuất công cụ hỗ trợ phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự; có trình độ chuyên môn phù hợp và được huấn luyện về kỹ thuật an toàn, phòng cháy và chữa cháy, ứng phó sự cố trong các hoạt động liên quan đến sản xuất công cụ hỗ trợ.
2. Việc kinh doanh công cụ hỗ trợ phải bảo đảm đủ điều kiện sau đây:
a) Tổ chức kinh doanh công cụ hỗ trợ phải là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật;
b) Bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự, phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường;
c) Kho, phương tiện vận chuyển, thiết bị, dụng cụ phục vụ kinh doanh phải phù hợp, bảo đảm điều kiện về bảo quản, vận chuyển công cụ hỗ trợ, phòng cháy và chữa cháy;
d) Người quản lý, người phục vụ có liên quan đến kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự; có trình độ chuyên môn phù hợp và được huấn luyện về quản lý công cụ hỗ trợ, phòng cháy và chữa cháy;
đ) Chỉ được kinh doanh công cụ hỗ trợ bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và theo Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ.
3. Việc xuất khẩu, nhập khẩu công cụ hỗ trợ thực hiện theo quy định sau đây:
a) Tổ chức, doanh nghiệp được phép sản xuất, kinh doanh công cụ hỗ trợ thì được xuất khẩu, nhập khẩu công cụ hỗ trợ;
b) Công cụ hỗ trợ xuất khẩu, nhập khẩu phải bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; chủng loại, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu, nước sản xuất, năm sản xuất, hạn sử dụng trên từng công cụ hỗ trợ.
4. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định việc quản lý, huấn luyện và sử dụng động vật nghiệp vụ.
Điều 53. Thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ đối với tổ chức, doanh nghiệp không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ;
b) Bản sao quyết định thành lập hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp;
c) Bản sao giấy tờ, tài liệu chứng minh bảo đảm điều kiện về an toàn, phòng cháy và chữa cháy đối với khu vực kinh doanh và kho bảo quản công cụ hỗ trợ;
d) Danh sách người quản lý, người phục vụ có liên quan trực tiếp đến công tác bảo quản và kinh doanh công cụ hỗ trợ; hồ sơ cá nhân của người đại diện doanh nghiệp; kế hoạch hoặc biện pháp phòng ngừa, ứng phó sự cố khẩn cấp đối với kho bảo quản công cụ hỗ trợ;
đ) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ đề nghị cấp lại Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ bao gồm: báo cáo hoạt động kinh doanh công cụ hỗ trợ trong thời hạn hiệu lực của giấy phép đã cấp và giấy tờ, tài liệu quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Hồ sơ cấp Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
4. Thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ đối với tổ chức, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 54. Thủ tục cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu công cụ hỗ trợ
1. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu công cụ hỗ trợ đối với tổ chức, doanh nghiệp không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu của tổ chức, doanh nghiệp;
b) Bản sao Giấy phép kinh doanh công cụ hỗ trợ;
c) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, thẩm định, cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu công cụ hỗ trợ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu công cụ hỗ trợ có thời hạn 30 ngày.
3. Thủ tục cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu công cụ hỗ trợ đối với tổ chức, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 55. Đối tượng được trang bị công cụ hỗ trợ
1. Đối tượng được trang bị công cụ hỗ trợ bao gồm:
a) Quân đội nhân dân;
b) Dân quân tự vệ;
c) Cảnh sát biển;
d) Công an nhân dân;
đ) Cơ yếu;
e) Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
g) Cơ quan thi hành án dân sự;
h) Kiểm lâm, lực lượng bảo vệ rừng chuyên trách, Kiểm ngư, lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành thủy sản;
i) Hải quan cửa khẩu, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu của Hải quan;
k) Đội kiểm tra của lực lượng Quản lý thị trường;
l) An ninh hàng không, lực lượng trực tiếp thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành giao thông vận tải;
m) Lực lượng bảo vệ cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo vệ;
n) Ban Bảo vệ dân phố;
o) Câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao có giấy phép hoạt động;
p) Cơ sở cai nghiện ma túy;
q) Các đối tượng khác có nhu cầu trang bị công cụ hỗ trợ thì căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định.
2. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị, sử dụng công cụ hỗ trợ đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển, Cơ yếu và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
3. Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ quy định việc trang bị công cụ hỗ trợ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Điều 56. Thủ tục trang bị công cụ hỗ trợ
1. Thủ tục trang bị công cụ hỗ trợ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định sau đây:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị trang bị của cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nêu rõ nhu cầu, điều kiện, số lượng, chủng loại công cụ hỗ trợ cần trang bị; bản sao quyết định thành lập cơ quan, tổ chức hoặc bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; bản sao quyết định thành lập lực lượng bảo vệ chuyên trách đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thành lập lực lượng bảo vệ chuyên trách; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ đề nghị trang bị công cụ hỗ trợ lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép trang bị công cụ hỗ trợ và hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp thực hiện việc trang bị; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
d) Giấy phép trang bị công cụ hỗ trợ có thời hạn 30 ngày.
2. Thủ tục trang bị công cụ hỗ trợ đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển, Cơ yếu và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 57. Thủ tục cấp Giấy phép mua công cụ hỗ trợ
1. Tổ chức, doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công an được phép sản xuất, kinh doanh công cụ hỗ trợ khi mua công cụ hỗ trợ phải lập hồ sơ đề nghị bao gồm:
a) Văn bản đề nghị cấp Giấy phép mua công cụ hỗ trợ, trong đó nêu rõ số lượng, chủng loại công cụ hỗ trợ; tên, địa chỉ cơ sở, doanh nghiệp bán lại;
b) Giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ.
2. Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép mua công cụ hỗ trợ lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định. Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép mua công cụ hỗ trợ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Giấy phép mua công cụ hỗ trợ có thời hạn 30 ngày.
3. Thủ tục cấp Giấy phép mua công cụ hỗ trợ đối với tổ chức, doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng được phép kinh doanh công cụ hỗ trợ thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 58. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ, Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ
1. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ, Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định sau đây:
a) Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ được cấp đối với các loại súng bắn điện, hơi ngạt, chất độc, chất gây mê, từ trường, laze, lưới; súng phóng dây mồi; súng bắn đạn nhựa, nổ, cao su, hơi cay, pháo hiệu, đánh dấu; các loại dùi cui điện, dùi cui kim loại. Đối với các loại công cụ hỗ trợ khác thì cấp Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ;
b) Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ hoặc Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ số lượng, chủng loại, nước sản xuất, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu của từng công cụ hỗ trợ; bản sao Giấy phép trang bị công cụ hỗ trợ; bản sao hóa đơn hoặc bản sao phiếu xuất kho; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
c) Hồ sơ đề nghị cấp đổi, cấp lại Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ hoặc Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ lý do, số lượng, chủng loại, nhãn hiệu, số hiệu, ký hiệu từng loại công cụ hỗ trợ. Trường hợp mất, hư hỏng Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ hoặc Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ phải có văn bản nêu rõ lý do và kết quả xử lý; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
d) Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ, Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
đ) Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền kiểm tra thực tế, cấp Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ hoặc Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
e) Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ chỉ cấp cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được trang bị và có thời hạn 05 năm. Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ hết hạn được cấp đổi; bị mất, hư hỏng được cấp lại;
g) Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ chỉ cấp cho cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được trang bị và không có thời hạn. Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ bị mất, hư hỏng được cấp lại.
2. Thủ tục cấp Giấy phép sử dụng công cụ hỗ trợ, Giấy xác nhận đăng ký công cụ hỗ trợ đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển, Cơ yếu và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 59. Vận chuyển công cụ hỗ trợ
1. Việc vận chuyển công cụ hỗ trợ thực hiện theo quy định sau đây:
a) Phải có mệnh lệnh vận chuyển công cụ hỗ trợ hoặc Giấy phép vận chuyển công cụ hỗ trợ của cơ quan có thẩm quyền;
b) Bảo đảm bí mật, an toàn;
c) Vận chuyển với số lượng lớn hoặc công cụ hỗ trợ dễ cháy, nổ, nguy hiểm phải có phương tiện chuyên dùng và bảo đảm các điều kiện về phòng cháy và chữa cháy;
d) Không được chở công cụ hỗ trợ và người trên cùng một phương tiện, trừ người có trách nhiệm trong việc vận chuyển;
đ) Không dừng, đỗ phương tiện vận chuyển công cụ hỗ trợ ở nơi đông người, khu vực dân cư, nơi có công trình quan trọng về quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trường hợp cần nghỉ qua đêm hoặc do sự cố, khi không đủ lực lượng bảo vệ phải thông báo ngay cho cơ quan quân sự, cơ quan Công an nơi gần nhất để phối hợp bảo vệ.
2. Thủ tục cấp Giấy phép vận chuyển công cụ hỗ trợ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định sau đây:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ lý do, số lượng, chủng loại, nơi đi, nơi đến, thời gian và tuyến đường vận chuyển; họ và tên, địa chỉ của người chịu trách nhiệm vận chuyển, người điều khiển phương tiện; biển kiểm soát của phương tiện; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ quy định tại điểm a khoản này lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép vận chuyển công cụ hỗ trợ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do;
d) Giấy phép vận chuyển công cụ hỗ trợ có thời hạn 30 ngày. Giấy phép vận chuyển công cụ hỗ trợ chỉ có giá trị cho một lượt vận chuyển; trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hoàn tất việc vận chuyển, phải nộp lại cho cơ quan đã cấp giấy phép.
3. Trình tự, thủ tục cấp mệnh lệnh vận chuyển công cụ hỗ trợ đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển, Cơ yếu và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 60. Thủ tục cấp Giấy phép sửa chữa công cụ hỗ trợ
1. Thủ tục cấp Giấy phép sửa chữa công cụ hỗ trợ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện như sau:
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ số lượng, chủng loại công cụ hỗ trợ cần sửa chữa, nơi sửa chữa, thời gian sửa chữa; giấy giới thiệu kèm theo bản sao thẻ Căn cước công dân, Chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc Chứng minh Công an nhân dân của người đến liên hệ;
b) Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép sửa chữa công cụ hỗ trợ lập thành 01 bộ và nộp tại cơ quan Công an có thẩm quyền do Bộ trưởng Bộ Công an quy định;
c) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan Công an có thẩm quyền cấp Giấy phép sửa chữa công cụ hỗ trợ; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
2. Thủ tục cấp Giấy phép sửa chữa công cụ hỗ trợ đối với đối tượng thuộc Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, Cảnh sát biển, Cơ yếu và câu lạc bộ, cơ sở đào tạo, huấn luyện thể thao thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 61. Sử dụng công cụ hỗ trợ
1. Người được giao công cụ hỗ trợ khi thực hiện nhiệm vụ phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 22 của Luật này và được sử dụng trong trường hợp sau đây:
a) Trường hợp quy định tại Điều 23 của Luật này;
b) Ngăn chặn, giải tán biểu tình bất hợp pháp, bạo loạn, gây rối trật tự công cộng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;
c) Ngăn chặn người đang có hành vi đe dọa đến tính mạng, sức khỏe của người thi hành công vụ hoặc người khác;
d) Ngăn chặn, giải tán việc gây rối, chống phá, không phục tùng mệnh lệnh của người thi hành công vụ, làm mất an ninh, an toàn trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện ma túy;
đ) Phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết theo quy định của pháp luật.
2. Người được giao sử dụng công cụ hỗ trợ không phải chịu trách nhiệm về thiệt hại khi việc sử dụng công cụ hỗ trợ đã tuân thủ quy định tại Điều này và quy định khác của pháp luật có liên quan; trường hợp sử dụng công cụ hỗ trợ vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, lợi dụng hoặc lạm dụng việc sử dụng công cụ hỗ trợ để xâm phạm tính mạng, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 62. Trách nhiệm của tổ chức, doanh nghiệp nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, sửa chữa công cụ hỗ trợ
1. Phải bảo đảm điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn, phòng cháy và chữa cháy, bảo vệ môi trường trong quá trình hoạt động nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, kinh doanh, vận chuyển, sửa chữa công cụ hỗ trợ.
2. Tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh công cụ hỗ trợ chỉ mua, bán, xuất khẩu, nhập khẩu và sửa chữa công cụ hỗ trợ theo giấy phép do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Chương VI: TIẾP NHẬN, THU GOM, PHÂN LOẠI, BẢO QUẢN, THANH LÝ, TIÊU HỦY VŨ KHÍ, VẬT LIỆU NỔ, CÔNG CỤ HỖ TRỢ
Điều 63. Nguyên tắc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải trình báo, khai báo, giao nộp vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ cho cơ quan quân sự, cơ quan Công an hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất trong trường hợp không thuộc đối tượng trang bị, sử dụng theo quy định của pháp luật mà có từ bất kỳ nguồn nào hoặc phát hiện, thu nhặt được.
2. Việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm an toàn và hạn chế ảnh hưởng đến môi trường. Việc vận chuyển vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ tiếp nhận, thu gom được phải sử dụng phương tiện chuyên dùng hoặc các phương tiện khác nhưng phải bảo đảm an toàn.
3. Việc tiếp nhận, thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ phải được tiến hành thường xuyên và thông qua các đợt vận động.
4. Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ còn giá trị sử dụng sau khi được phân loại sẽ được đưa vào sử dụng theo quy định của pháp luật.
5. Việc phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ trang bị đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định; đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
6. Người làm công tác tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ phải được tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ và được trang bị các thiết bị bảo vệ để bảo đảm an toàn.
Điều 64. Tiếp nhận, thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ tiếp nhận, thu gom bao gồm: các loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ quy định tại Điều 3 của Luật này; phế liệu, phế phẩm, phụ kiện của vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; chất nổ từ bom, mìn, lựu đạn, đạn, quả nổ, ngư lôi, thủy lôi.
2. Các trường hợp tiếp nhận, thu gom bao gồm:
a) Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân không được trang bị hoặc sở hữu theo quy định của pháp luật;
b) Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ có liên quan đến vụ án đã được cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật; vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ do cơ quan chức năng phát hiện, thu giữ;
c) Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ do cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện nhưng không xác định được cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm quản lý hoặc sở hữu; vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ sau chiến tranh còn tồn tại ở ngoài xã hội.
Điều 65. Đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ
1. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ phải nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân cấp huyện.
a) Hồ sơ đề nghị bao gồm: văn bản đề nghị nêu rõ lý do, mục đích, yêu cầu đào bới, tìm kiếm; bản sao tài liệu chứng minh việc sử dụng, quản lý hoặc thi công công trình hợp pháp tại địa điểm đề nghị đào bới, tìm kiếm;
b) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp huyện phải trả lời bằng văn bản, trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do.
2. Tổ chức, cá nhân đề nghị đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ sau khi được Ủy ban nhân dân cấp huyện cho phép đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ phải đề nghị hoặc thuê tổ chức, đơn vị được phép đào bới, tìm kiếm quy định tại khoản 5 Điều này thực hiện việc đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ.
3. Tổ chức, cá nhân đề nghị đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ phải có văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã ít nhất 05 ngày trước khi thực hiện việc đào bới, tìm kiếm để có phương án phối hợp bảo đảm an toàn. Việc đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ chỉ được thực hiện trong phạm vi, địa điểm đã được cho phép.
4. Trường hợp tổ chức, cá nhân đề nghị có nhu cầu đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ ngoài phạm vi, địa điểm đã được cho phép thì phải có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân cấp huyện. Chậm nhất trong thời gian 05 ngày làm việc, Ủy ban nhân dân cấp huyện phải có văn bản trả lời; trường hợp không đồng ý phải nêu rõ lý do.
5. Tổ chức, đơn vị được phép thực hiện đào bới, tìm kiếm vũ khí, vật liệu nổ bao gồm: đơn vị chuyên ngành kỹ thuật về vũ khí, công binh thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; tổ chức khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
Điều 66. Thẩm quyền tiếp nhận, thu gom, phân loại, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, cơ quan quân sự, cơ quan Công an, đơn vị Quân đội có thẩm quyền tiếp nhận, thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
2. Cơ quan quân sự, cơ quan Công an cấp huyện, đơn vị Quân đội cấp Trung đoàn trở lên có trách nhiệm phân loại vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đã tiếp nhận, thu gom.
3. Cơ quan, đơn vị cấp trên trực tiếp của cơ quan quy định tại khoản 2 Điều này có thẩm quyền quyết định thanh lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
4. Cơ quan quân sự, cơ quan Công an cấp huyện, đơn vị Quân đội cấp Trung đoàn trở lên thực hiện việc tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
5. Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ là vật chứng hoặc liên quan đến vụ án được xử lý theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
Điều 67. Trình tự, thủ tục tiếp nhận, thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Trình tự, thủ tục tiếp nhận vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thực hiện như sau:
a) Tổ chức tiếp nhận vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ;
b) Lập biên bản tiếp nhận vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; biên bản tiếp nhận được lập thành 02 bản, 01 bản giao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân giao nộp, 01 bản lưu tại cơ quan tiếp nhận;
c) Ghi vào sổ tiếp nhận, thu gom đầy đủ các thông tin liên quan đến việc tiếp nhận vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
2. Trình tự, thủ tục thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thực hiện như sau:
a) Tổ chức thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ;
b) Lập biên bản thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ;
c) Ghi vào sổ tiếp nhận, thu gom đầy đủ các thông tin về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ do cơ quan, tổ chức, cá nhân trình báo.
3. Trường hợp thu gom vũ khí hạng nặng, bom, mìn, lựu đạn, quả nổ, ngư lôi, thủy lôi, vật liệu nổ, đầu đạn tên lửa, đạn pháo và đầu đạn pháo các loại hoặc các vũ khí khác cần phải có kỹ thuật chuyên ngành xử lý thì cơ quan Công an hoặc Ủy ban nhân dân nơi tiếp nhận thông tin phải tổ chức bảo vệ và thông báo ngay cho cơ quan quân sự cấp huyện, đơn vị Quân đội cấp Trung đoàn trở lên để tổ chức thu gom, xử lý theo thẩm quyền.
4. Trường hợp cơ quan tiếp nhận, thu gom cho rằng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ có dấu hiệu liên quan đến hoạt động phạm tội thì phải thông báo cho cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
Điều 68. Tổ chức giao nhận vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Việc lập thống kê bàn giao cho cơ quan quân sự để xử lý theo quy định đối với bom, mìn, lựu đạn, quả nổ, ngư lôi, thủy lôi, vật liệu nổ, đầu đạn tên lửa, đạn pháo và đầu đạn pháo các loại đã tiếp nhận, thu gom thực hiện như sau:
a) Cơ quan Công an và Ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện lập thống kê bàn giao cho cơ quan quân sự cấp huyện;
b) Cơ quan Công an cấp tỉnh và các đơn vị thuộc Bộ Công an lập thống kê bàn giao cho cơ quan quân sự cấp tỉnh;
c) Khi bàn giao phải lập biên bản, kèm theo bảng thống kê ghi cụ thể chủng loại, số lượng, nguồn gốc.
2. Việc vận chuyển các loại vũ khí, vật liệu nổ bàn giao quy định tại khoản 1 Điều này do lực lượng chuyên ngành của cơ quan quân sự đảm nhiệm.
3. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định việc tiếp nhận, thu gom, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy bom, mìn, lựu đạn, quả nổ, ngư lôi, thủy lôi, vật liệu nổ, đầu đạn tên lửa, đạn pháo và đầu đạn pháo các loại đã tiếp nhận, thu gom hoặc do cơ quan, đơn vị ngoài Quân đội chuyển giao.
Điều 69. Bảo quản vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ tiếp nhận, thu gom
1. Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đã tiếp nhận, thu gom phải được bảo quản chặt chẽ theo quy định. Có nội quy, phương án phòng cháy và chữa cháy. Không được bảo quản chung trong kho vũ khí, khí tài, kho tài liệu, kho vật tư của đơn vị.
2. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành quy chuẩn kỹ thuật kho bảo quản vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ tiếp nhận, thu gom thuộc phạm vi quản lý; Bộ trưởng Bộ Công an ban hành quy chuẩn kỹ thuật kho bảo quản vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ tiếp nhận, thu gom không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
Điều 70. Trình tự, thủ tục phân loại, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ đã tiếp nhận, thu gom phải được thống kê, phân loại để xác định chất lượng và giá trị sử dụng để thanh lý hoặc tiêu hủy.
2. Trình tự, thủ tục phân loại, thanh lý vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thực hiện như sau:
a) Sau khi tiếp nhận, thu gom vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, cơ quan quân sự, cơ quan Công an cấp huyện, đơn vị Quân đội cấp Trung đoàn trở lên tiến hành phân loại và báo cáo cơ quan cấp trên trực tiếp quyết định đưa vào sử dụng hoặc tiêu hủy;
b) Cơ quan cấp trên khi nhận được báo cáo phải xem xét và quyết định cho phép đưa vào sử dụng hoặc tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.
3. Trình tự, thủ tục tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thực hiện như sau:
a) Sau khi có quyết định tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, cơ quan quân sự, cơ quan Công an cấp huyện, đơn vị Quân đội cấp Trung đoàn trở lên phải thành lập Hội đồng tiêu hủy và xây dựng phương án tiêu hủy. Thành phần Hội đồng tiêu hủy bao gồm: đại diện cơ quan tiêu hủy là Chủ tịch Hội đồng; đại diện cơ quan kỹ thuật chuyên ngành và cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về môi trường cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm tiêu hủy là thành viên Hội đồng. Phương án tiêu hủy phải bảo đảm an toàn, hạn chế ảnh hưởng đến môi trường;
b) Sau khi tiêu hủy, phải tiến hành kiểm tra tại hiện trường, bảo đảm tất cả vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ tiêu hủy đã bị làm mất khả năng phục hồi tính năng, tác dụng. Kết quả tiêu hủy phải được lập thành biên bản, có xác nhận của Chủ tịch và các thành viên Hội đồng.
4. Trường hợp số vũ khí, vật liệu nổ có nguy cơ mất an toàn, cần xử lý khẩn cấp thì người đứng đầu cơ quan quân sự, cơ quan Công an cấp huyện, đơn vị Quân đội cấp Trung đoàn trở lên quyết định tiêu hủy ngay; sau khi tiêu hủy, phải báo cáo cơ quan cấp trên bằng văn bản.
Điều 71. Kinh phí bảo đảm cho việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ
1. Kinh phí bảo đảm cho việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ bao gồm:
a) Ngân sách nhà nước;
b) Đóng góp tự nguyện, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài;
c) Các nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật.
2. Việc quản lý, sử dụng kinh phí bảo đảm cho việc tiếp nhận, thu gom, phân loại, bảo quản, thanh lý, tiêu hủy vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Chương VII: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VŨ KHÍ, VẬT LIỆU NỔ, TIỀN CHẤT THUỐC NỔ, CÔNG CỤ HỖ TRỢ
Điều 72. Nội dung quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
2. Ban hành, sửa đổi, bổ sung danh mục vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
3. Quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; tiêu chuẩn kho bảo quản vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
4. Ban hành biểu mẫu, tổ chức đăng ký, cấp, đổi, thu hồi các loại giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
5. Tổ chức đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
6. Tổ chức công tác phòng, chống vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
7. Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ vào công tác quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
8. Thực hiện thống kê nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
9. Phổ biến, giáo dục pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
10. Hợp tác quốc tế về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
11. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
Điều 73. Trách nhiệm quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
2. Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành danh mục vũ khí quân dụng.
3. Bộ Công an thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Bộ trưởng Bộ Công an ban hành danh mục vũ khí thể thao, danh mục công cụ hỗ trợ.
4. Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước về vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành danh mục vật liệu nổ công nghiệp, danh mục tiền chất thuốc nổ.
5. Bộ, cơ quan ngang Bộ, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ.
6. Ủy ban nhân dân các cấp, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức thực hiện quản lý nhà nước về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ tại địa phương.
Điều 74. Cập nhật, khai thác, quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ
1. Cơ sở dữ liệu về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ là tập hợp thông tin cơ bản về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ được chuẩn hóa, số hóa, lưu trữ, quản lý bằng công nghệ thông tin để phục vụ quản lý nhà nước và giao dịch của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác cơ sở dữ liệu về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng.
3. Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác cơ sở dữ liệu về vật liệu nổ công nghiệp, tiền chất thuốc nổ đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý của Bộ Công Thương.
4. Bộ trưởng Bộ Công an quy định việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác cơ sở dữ liệu về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ đối với đối tượng không thuộc phạm vi quản lý của Bộ Quốc phòng, Bộ Công Thương.
Chương VIII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 75. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018.
2. Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số 16/2011/UBTVQH12 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số 07/2013/UBTVQH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Điều 76. Quy định chuyển tiếp
Các loại giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ về vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ đã được cấp trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà còn thời hạn thì được tiếp tục sử dụng cho đến hết thời hạn ghi trong giấy phép, giấy xác nhận, giấy chứng nhận, chứng chỉ đó.
Luật này được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2017. |
21497 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BA%A3i%20%E1%BB%91c%20tr%C3%B9 | Hải ốc trù | {| align="center"
! Nguyên văn chữ Hán
! Phiên âm Hán Việt
! Dịch nghĩa
|-
|
海屋籌
蘭橈隨意漾中流,
景比山陽更覺幽。
生面獨開雲露骨,
斷鼇爭崎客回頭。
馮夷疊作擎天柱,
龍女添為海屋籌。
大抵始皇鞭未及,
古留南甸鞏金甌。
|
Hải ốc trù
Lan nhiêu tuỳ ý dạng trung lưu
Cảnh tỉ sơn dương cánh giác u
Sinh diện độc khai vân lộ cốt
Đoạn ngao tranh kị khách hồi đầu
Bằng Di diệp tác kình thiên trụ
Long Nữ thiêm vi hải ốc trù
Đại để Thuỷ Hoàng tiên vị cập
Cố lưu Nam điện củng kim âu.
|
Ngóng đỉnh toan ngoan
Phe phẩy mái chèo, tuỳ thích cỡi thuyền dong chơi giữa duềnh,
Qua gần chân núi lại thấy cảnh càng vắng.
Mây thoảng qua, núi lộ mặt, thấy đá chơ vơ,
Những khối lèn dựng cao vút khi qua dưới, khách phải vếch trông.
Hoặc là hải thần Bằng Di đã dựng cột để chống trời nghiêng,
Hoặc là hải thần Long Nữ đã nối thêm cây nêu trỏ cung điện dưới bể.
Ý chừng vua Tần Thuỷ Hoàng chưa từng đi kinh lí đến chỗ này,
Vì trời vốn dành nó lại ở xứ Nam này để làm vững chắc cơ đồ nước ta.
|
Thơ chữ Hán
Thất ngôn bát cú |
21576 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Th%C3%A1nh%20Micae%20T%E1%BB%95ng%20l%C3%A3nh%20thi%C3%AAn%20th%E1%BA%A7n | Kinh Đức Thánh Micae Tổng lãnh thiên thần | Lạy ơn Đức Thánh Micae là tổng lãnh thiên thần rất mạnh mẽ, chúng con xin Người hằng thương nhớ đến chúng con liên mà cầu xin Đức Chúa Trời ban sức cho chúng con được giữ đạo nên.
Chúng con xin Đức Thánh Micae cầu cho chúng con đáng chịu lấy những sự Chúa Kitô đã hứa.
Lạy ơn Đức Chúa Trời thượng trí vô cùng, đã chia các việc ra cho các Thiên thần có thứ tự lạ lùng, thì chúng con xin Đức Chúa Trời thương cho các đấng thiên thần hằng chầu chực Đức Chúa Trời ở trên trời coi sóc, gìn giữ chúng con đang khi còn sống ở thế gian. Vì Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21577 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20Thi%C3%AAn%20Th%E1%BA%A7n%20B%E1%BA%A3n%20M%E1%BB%87nh | Kinh Thiên Thần Bản Mệnh | Thiên thần của Chúa là Thiên thần bản mệnh yêu dấu của con. Nơi Ngài tình yêu của Chúa được ban cho con. Mỗi ngày, xin Ngài hãy ở cạnh bên con để soi sáng và canh giữ, để điều khiển và hướng dẫn con. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21578 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20k%C3%ADnh%20Th%C3%A1nh%20gi%C3%A1 | Kinh kính Thánh giá | Con lạy Thánh giá, con kính Thánh giá. Thánh giá là phép mầu nhiệm của lòng thương xót vô cùng: Đấng hằng sống đã chịu chết, cho người chết được sống.
Thánh giá là bàn thờ Đức Chúa Con dâng mình tế lễ Đức Chúa Cha.
Thánh giá là giường Chúa muôn vật nằm khi tắt thở.
Thánh giá là cờ Vua Cả toàn thắng đã cứu chúng con cho khỏi tay ma quỷ.
Thánh giá là tàu vượt sang qua biển, đem chúng con đến nơi vĩnh phúc.
Thánh giá là chìa khóa mở cửa thiên đàng cho chúng con được vào.
Lạy cây Thánh giá, từ xưa đến nay chẳng có cây nào sánh bầy cùng cây Thánh giá. Lạy Chúa nằm trên cây Thánh giá chịu chết vì chúng con. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21580 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20c%E1%BA%A7u%20c%C3%B9ng%20Thi%C3%AAn%20Ch%C3%BAa%20Ba%20Ng%C3%B4i | Kinh cầu cùng Thiên Chúa Ba Ngôi | Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, con thờ lạy Chúa. Xin Chúa giúp con quên hẳn mình con, để chỉ nhớ đến Chúa và kính mến Chúa, như thể linh hồn con đã được về thiên đàng chiêm ngắm Chúa và hưởng hạnh phúc đời đời.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi là Đấng vô thủy vô chung, phép tắc vô cùng, thông minh vô cùng, trọn tốt trọn lành. Xin gìn giữ con được luôn vui mừng bình an, khỏi mọi xao xuyến bối rối, xin đừng để con rời xa Chúa, xin cho mọi giây phút đời con được chìm đắm trong mầu nhiệm thâm sâu của Chúa.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, là Đấng cao cả vô biên, sáng láng vô cùng, là Đấng hằng tạo dựng, là hạnh phúc và là niềm hy vọng của con, con hoàn toàn phó thác mình con cho Chúa, con tôn vinh Chúa, con ngợi khen Chúa, con ước ao cho mọi người thờ lạy Ba Ngôi cực thánh Chúa. Xin Chúa cho linh hồn con nên nhà Chúa ở, nên nơi Chúa nghỉ ngơi và ngự trị.
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, con khát khao về với Chúa để được sống đời đời. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21582 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20c%E1%BA%A7u%20xin%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu%20Th%C3%A0y%20T%E1%BA%BF%20L%E1%BB%85%20%C4%91%E1%BB%9Di%20%C4%91%E1%BB%9Di | Kinh cầu xin Chúa Giêsu Thày Tế Lễ đời đời | Lạy Chúa Giêsu là Thày Cả Thượng Phẩm vĩnh viễn đời đời, là Đấng Tế Lễ có tính Thiên Chúa, Chúa yêu dấu loài người chúng con là anh em của Chúa, trong lúc tình yêu xúc động nồng nàn không thể sánh ví được, Chúa đã lập ra chức vụ linh mục Công giáo, khác nào một dòng máu yêu mến đã vọt lên bởi Trái Tim Cực Thánh Chúa, xin Chúa đoái thương hằng tiếp tục đổ vào lòng các linh mục của Chúa những ngọn sóng tác sinh của Tình Yêu Lai Láng Vô Biên.
Xin Chúa hãy sống trong mình các linh mục của Chúa, hãy biến các linh mục ấy trở nên Chúa: hãy lấy thánh sủng Chúa mà làm cho các linh mục ấy thành những lợi khí của lòng thương xót Chúa, xin Chúa hãy hành động trong mình các linh mục và nhờ các linh mục, xin hãy làm cho các linh mục sau khi đã mặc lấy Chúa nên giống Chúa mọi đàng bởi trung thành theo gương các nhân đức đáng tôn thờ của Chúa, nhân danh Chúa và nhờ sức mạnh của Thánh Linh Chúa, các linh mục ấy làm những công việc chính Chúa đã làm cho thế gian được rỗi.
Lạy Chúa cứu chuộc các linh hồn xin hãy nhìn xem lũ người đông biết bao còn ngủ trong tối tăm lầm lạc. Xin Chúa hãy đếm số những con chiên không trung thành đang lang thang trên miệng vực sâu. Xin Chúa hãy ngắm xem lũ đông những người nghèo khổ, đói khát, dốt nát, yếu đuối; đang rên rỉ trong tình cảnh bỏ rơi.
Xin Chúa hãy trở về với chúng con, nhờ các linh mục của Chúa; xin Chúa lại sống thật trong mình các linh mục, xin Chúa hãy hành động bởi các linh mục, và lại đi qua giữa thế gian, mà giảng dạy, mà tha thứ, mà yên ủi, mà tế lễ, mà nối lại mối giây cực thánh của Tình Yêu kết hợp lòng Thiên Chúa với quả tim loài người. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21584 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu%20Vua%20V%C5%A9%20Tr%E1%BB%A5 | Kinh Chúa Giêsu Vua Vũ Trụ | Lạy Đức Chúa Giêsu Kitô, con nhìn nhận Chúa là Vua vũ trụ. Hết mọi sự đã tạo thành đều vì Chúa. Xin Chúa hãy thi hành hết quyền Chúa đối với con.
Con hứa lại lời hứa khi chịu phép Rửa tội: con bỏ Satan, bỏ các sự sang trọng của Satan, và các công việc của nó, và con hứa sẽ sống làm một người Công giáo tốt. Con lại cam đoan riêng điều này: là con sẽ hành động theo sức con, để quyền lợi của Thiên Chúa và của Hội Thánh Chúa được tôn trọng.
Lạy Trái Tim Cực Thánh Đức Chúa Giêsu, con dâng cho Trái Tim các công việc mọn hèn của con, cầu được ơn này: là các tâm hồn đều công nhận vương quyền của Thánh Tâm, và như thế nước bình an của Thánh Tâm sẽ mở rộng khắp vũ trụ. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21586 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20d%C3%A2ng%20m%C3%ACnh%20cho%20Tr%C3%A1i%20Tim%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu | Kinh dâng mình cho Trái Tim Chúa Giêsu | Lạy ơn Đức Chúa Giêsu là Đấng rất nhân lành đã chuộc tội cả và loài người ta, xin Chúa đoái thương chúng con lấy lòng khiêm nhường đang sấp mình xuống trước bàn thờ Chúa; chúng con vốn thuộc về Chúa, cùng muốn thuộc về Chúa liên, song chúng con ước ao hợp làm một cùng Chúa cho vững vàng hơn nữa, thì ngày hôm nay, chúng con thay thảy rắp lòng đến dâng mình cho Trái Tim Cực Trọng Chúa.
Thương ôi! Có nhiều người chưa biết Chúa, lại nhiều kẻ đã lỗi các giới răn và dể duôi Chúa; xin Chúa cực khoan cực nhân thương gọi những kẻ ấy trở về làm tôi Trái Tim Cực Thánh Chúa, xin Chúa chẳng những là làm Vua các kẻ lành chẳng lìa bỏ Chúa bao giờ, mà lại làm Vua các con bội bạc đã bỏ Chúa, cùng đưa nó về nhà Cha là Trái Tim Chúa cho sớm, để nó khỏi đói khát và khỏi chết vô cùng; xin Chúa làm Vua những kẻ lạc đàng theo đạo rối, hay là bất thuận chẳng hợp với Hội thánh Chúa, thì xin Chúa dắt về đàng thật nẻo chính, để mọi người đều tin như nhau, và chóng nên một đoàn chiên theo một Chúa chiên.
Lạy Chúa, xin ban sự bằng yên, sự thong dong cho Hội thánh Chúa càng ngày càng thịnh, cho các dân các nước giữ phép đạo chính, để cho khắp tứ phương thiên hạ hết mọi người đồng thanh kêu lên rằng: ngợi khen Trái Tim Cực Thánh đã ban mọi sự lành cho chúng con; sáng danh trái Tim Cực Trọng Đức Chúa Giêsu đời đời chẳng cùng. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21588 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20%C4%91%E1%BB%81n%20t%E1%BA%A1%20Tr%C3%A1i%20Tim%20C%E1%BB%B1c%20Th%C3%A1nh%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu | Kinh đền tạ Trái Tim Cực Thánh Đức Chúa Giêsu | Lạy Đức Chúa Giêsu rất nhân lành, Chúa đã yêu dấu loài người quá bội, mà loài người vô tình tệ bạc, lại còn khinh mạn dể duôi; nay chúng con sấp mình xuống trước bàn thờ Chúa, hết lòng thờ phượng cung kính, cho được đền vì những sự vô nhân bất nghĩa khắp thiên hạ hằng làm sỉ nhục Trái Tim Chúa hay thương dường ấy.
Song le chúng con nhớ lại, xưa nay chúng con cũng đã lỗi nghĩa cùng Chúa như vậy, thì chúng con hết lòng ăn năn đau đớn, xin Chúa thương xót thứ tha; chúng con sẵn lòng đền tội chúng con, cùng xin đền tội những kẻ lạc xa đàng rỗi, hoặc bởi cố tình chẳng tin phục nhận biết Chúa là Đấng chăn chiên dẫn đàng chính thật, hoặc khinh dể những điều đã khấn nguyện khi chịu phép Rửa tội, mà rẫy bỏ giới răn Chúa là ách êm ái dịu dàng.
Bấy nhiêu tội đáng khóc lóc đau đớn dường ấy, thì chúng con quyết chí đền hết thay thảy, lại dốc lòng đền riêng những tội này, như cách ăn ở buông tuồng mất nết, những thói tục xấu xa làm dịp cho kẻ hãy còn thanh sạch mất lòng khiết tịnh, tội bỏ chẳng giữ các ngày lễ, sự nói lộng ngôn phạm đến Chúa cùng các thánh, những lời sỉ nhục bỉ báng Đấng thay mặt Chúa cùng các Đấng làm thày, những điều ơ hờ khinh dể cùng những tội gớm ghê phạm đến chính phép Bí tích mến yêu; sau hết chúng con xin đền tội chung các nước hằng chống cưỡng chẳng nhận quyền, cùng chẳng vâng phục lời Hội thánh Chúa truyền dạy. Chớ gì chúng con được đổ máu ra mà rửa sạch bấy nhiêu tội ấy; ít là chúng con xin dâng công đền tội xưa Chúa đã dâng cho Đức Chúa Cha trên cây Thánh giá, mà rầy còn dâng trên bàn thờ mọi ngày, lại xin dâng công nghiệp Đức Mẹ Đồng Trinh và các thánh cùng các kẻ lành, cho được đền vì những sự vô phép mất lòng Chúa.
Chúng con thật lòng hứa cùng Chúa, từ nay về sau, nhờ ơn Chúa giúp, thì chúng con sẽ giữ đức tin vững vàng, ăn ở thanh sạch, giữ luật Evan cho trọn, nhất là luật yêu người, cho được bù lại những tội chúng con, cùng tội thiên hạ đã phụ ơn bội nghĩa cùng Chúa hay thương dường ấy, lại hết ngăn ngừa kẻ người ta còn phạm đến Chúa, cùng khuyên dụ cho nhiều người trở lại theo chân Chúa.
Lạy Đức Chúa Giêsu cực khoan cực nhân! Chúng con cậy vì lời Đức Nữ Đồng Trinh Maria đã đồng công chuộc tội cầu bầu, xin Chúa nhận lễ đền tội chúng con thật lòng kính dâng mà tạ Chúa, cùng xin ban cho chúng con được ơn bền đỗ, giữ lòng trung tín, lo việc bổn phận làm tôi Chúa Cho đến trọn đời, cho ngày sau chúng con hết thảy được về quê thật, là nơi Chúa hằng sống hằng trị cùng Đức Chúa Cha và Đức Chúa Thánh Thần đời đời chẳng cùng. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21590 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20Ch%E1%BA%A7u%20M%C3%ACnh%20Th%C3%A1nh | Kinh Chầu Mình Thánh | Con lạy Đức Chúa Giêsu hằng ngự trên bàn thờ đêm ngày liên mãi vì lòng thương loài người ta, và lấy lòng nhân từ thương xót mời gọi chờ đợi cùng chịu lấy mọi kẻ đến cùng Chúa. Con tin thật vững vàng Chúa ngự trong phép Mình Thánh, dù mà con rất hèn hạ con cũng cả dám sấp mình xuống thờ lạy đội ơn Chúa vì mọi ơn Chúa đã xuống cho con, nhất là vì Chúa đã lập phép Mình Thánh phó mình cho con cùng đã ban Mẹ Chúa, là Rất Thánh Đức Bà Maria, làm quan thày bầu cử cho con và đã mở lòng con đến chầu Mình Thánh Chúa trong nhà thờ này bây giờ.
Hôm nay con thờ lạy Trái Tim Chúa đáng mến vô cùng, hay thương vô cùng, trước là cho được tạ ơn Chúa đã lập phép cực trọng Mình Thánh Chúa, sau là cho được đền vì tội lỗi những kẻ vô đạo, kẻ rối đạo và kẻ có đạo đã phạm đến phép Mình Thánh Chúa từ xưa đến nay. Sau nữa dù mà con chầu Mình Thánh Chúa ở đây, nhưng mà lòng con ước ao cho được chầu Chúa nơi các nhà thờ có Mình Thánh Chúa, nhất là những nơi người ta bỏ chẳng chầu Mình Thánh Chúa.
Lạy ơn Đức Chúa Giêsu, con kính mến Chúa hết lòng hết sức, con lo buồn ăn năn trách mình con vì bấy lâu nay nhiều lần con đã mất lòng Chúa là Đấng nhân lành vô cùng dường ấy. Từ nay về sau, trông ơn Chúa giúp sức, con quyết chí sửa mình chẳng còn dám mất lòng Chúa nữa. Dù mà con rất hèn mạt, con cũng xin dâng trót mình con cho Chúa. Trí khôn ý muốn, mọi sự lòng con yêu chuộng ước ao cùng các sự khác thuộc về con, thì con dâng cho Chúa hết thay thảy chẳng dám tiếc sự gì cùng Chúa nữa. Từ này mà đi Chúa muốn định cho con thể nào, con vâng bằng lòng thể ấy. Con chẳng xin, chẳng muốn đí gì, chỉ xin, chỉ muốn cho con được kính mến, được giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hết hơi cùng vâng theo thánh ý Chúa cho trọn mà thôi.
Con xin Chúa thương đến các linh hồn nơi luyện ngục, nhất là những linh hồn kẻ khi còn sống có lòng kính mến Mình Thánh Chúa và trông cậy Rất Thánh Đức Bà cách riêng. Con lại xin Chúa thương đến các kẻ có tội cho nó được ăn năn sửa mình lại nữa.
Sau hết dù con có yêu mến ước ao sự gì, vật gì, thì con cũng hằng xin hợp một ý cùng Trái Tim rất nhân lành Chúa mà dâng sự ấy vật ấy làm một cùng Trái Tim Chúa cho Đức Chúa Cha, xin Người nhận lấy cùng nghe lời con cầu xin vì công nghiệp Chúa. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21592 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20vi%E1%BA%BFng%20Hang%20%C4%90%C3%A1%20Gi%C3%A1ng%20Sinh | Kinh viếng Hang Đá Giáng Sinh | Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, là con Đức Chúa Cha hằng có đời đời, Chúa đã giáng sinh làm người để cứu độ trần gian, chúng con hợp cùng Đức Mẹ và Thánh Giuse mà thờ lạy tạ ơn kính mến Chúa, chúng con đồng thanh với các Thiên thần và các mục đồng mà chúc tụng rằng:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời
Bình an hạnh phúc cho người trần gian”.
Chớ gì lòng chúng con nên như hang đá cho Chúa giáng sinh, chớ gì lòng chúng con nên như máng cỏ cho Chúa ngự.
Lạy Đức Mẹ Maria, Mẹ đã sinh Chúa Giêsu cho loài người, xin giúp chúng con hăng hái loan truyền mầu nhiệm Giáng sinh và Nhập thể khắp nơi. Lạy Đức Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa, là Mẹ uy quyền cao sang, xin cho Tổ quốc và Giáo hội Việt Nam muôn ơn lành hồn xác; cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế, và thương yêu nhau như Chúa truyền dạy.
Lạy Thánh Cả Giuse, là Đấng thay mặt Đức Chúa Cha nuôi dưỡng Chúa Giêsu ở trần gian, là Đấng rất mạnh thế hằng cầu bầu cùng Con Thánh của Người bênh vực che chở chúng con, xin cho chúng con biết sống đơn sơ khiêm nhường, chăm chỉ làm việc, mộ mến suy ngắm và thực hành Lời Chúa, để chúng con được sống an vui như Thánh Gia xưa.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Đức Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse, xin cho chúng con lĩnh được những ơn rất trọng bởi mầu nhiệm Nhập thể. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21594 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20c%E1%BA%A7u%20c%C3%B9ng%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu%20H%C3%A0i%20%C4%90%E1%BB%93ng | Kinh cầu cùng Chúa Giêsu Hài Đồng | Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, con chạy đến cùng Chúa, xin Chúa, vì Rất Thánh Đức Mẹ Maria, mà thương giúp con. Con tin thật vững vàng, Chúa là Thiên Chúa quyền phép vô cùng sẽ cứu chữa con, và ban mọi ơn lành cho con.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, con ăn năn ghét các tội con đã phạm, xin Chúa nhân từ vô cùng tha tội cho con, và giúp con dốc lòng chừa các tội ấy. Con xin dâng mình cho Chúa, và sẵn lòng thà chịu mọi hình khổ chẳng thà làm mất lòng Chúa. Từ nay, con trung thành làm tôi Chúa, và vì lòng mến Chúa, con quyết chí thương yêu mọi người.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, chớ gì con được hợp với Rất Thánh Đức Mẹ Maria, thánh Giuse, các thánh và các Thiên thần ở trên thiên đàng mà ngợi khen Chúa đời đời. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21597 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20Th%E1%BB%9D%20L%E1%BA%A1y%20M%C3%ACnh%20V%C3%A0%20M%C3%A1u%20C%E1%BB%B1c%20Th%C3%A1nh%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu | Kinh Thờ Lạy Mình Và Máu Cực Thánh Chúa Giêsu | Lạy Chúa Ba Ngôi Cực Thánh, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, con tin, con thờ lạy, con trông cậy và kính mến Chúa.
Con xin dâng cho Chúa của rất quý báu là Mình Máu linh hồn và thần tính Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, đang ngự trong các nhà chầu ở khắp thế gian.
Con xin dâng cho Chúa mọi hy sinh của con, hợp với những đau khổ của Đức Giêsu Kitô và Đức Maria, Mẹ Chúa, để xin Chúa tha thứ cho những người không tin, không thờ lạy, không trông cậy, không kính mến Chúa, và xin cho những kẻ có tội được ơn hối cải.
Vì công phúc vô cùng của Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu, và nhờ sức mạnh cầu bầu của Trái Tim Vô Nhiễm Đức Maria, con xin Chúa ban cho các nước được hòa thuận bằng yên, và nước Việt Nam được bình an thịnh vượng.
Lạy Ba Ngôi Cực Thánh, con ước ao sống kết hợp với Chúa để nên đền thờ Chúa ngự. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21599 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20Th%E1%BB%9D%20L%E1%BA%A1y%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu%20Ng%E1%BB%B1%20Trong%20Ph%C3%A9p%20M%C3%ACnh%20Th%C3%A1nh | Kinh Thờ Lạy Chúa Giêsu Ngự Trong Phép Mình Thánh | Lạy Chúa Giêsu ẩn mình trong phép Bí tích mến yêu, chúng con thờ lạy Chúa. Chúa ngự đây để an ủi chúng con đang sống ở thế gian này.
Chúng con xin dâng mình chúng con cho Chúa, chúng con muốn thuộc trọn về Chúa và nên thánh thiện như ý Chúa muốn.
Chúng con cám ơn Chúa, vì hằng ngày chúng con được chầu Mình Thánh Chúa, và được rước Chúa vào linh hồn chúng con. Xin Chúa tha thứ hết mọi tội lỗi chúng con đã phạm đến phép Mình Thánh.
Chúng con xin hứa, sẽ cổ động cho nhiều người tôn sùng Chúa ngự trong phép Mình Thánh, và siêng năng rước lễ.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự trong phép Mình Thánh, chúng con thờ lạy Chúa, chúng con dâng mình cho Chúa, xin Chúa chúc phúc cho chúng con và gia đình chúng con. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21601 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20d%C3%A2ng%20m%C3%ACnh%20cho%20Tr%C3%A1i%20Tim%20C%E1%BB%B1c%20Th%C3%A1nh%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu%20Vua%20v%C3%A0%20Tr%C3%A1i%20Tim%20V%E1%BA%B9n%20S%E1%BA%A1ch%20%C4%90%E1%BB%A9c%20M%E1%BA%B9%20Maria%20N%E1%BB%AF%20V%C6%B0%C6%A1ng | Kinh dâng mình cho Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu Vua và Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ Maria Nữ Vương | Lạy Chúa Giêsu Kitô Vua! Lạy Đức Mẹ Maria Nữ Vương! Chúng con dâng linh hồn và xác chúng con, gia đình chúng con, địa phận chúng con cho Trái Tim Cực Thánh Chúa và Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ.
Chúng con nguyện xin cho Tổ quốc và Giáo hội Việt Nam được bình an thịnh vượng; cho địa phận chúng con được phát triển, được thêm đạo đức, cho các giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ, chủng sinh và các giáo hữu được sốt sáng hăng hái làm việc mục vụ và tông đồ.
Chúng con xin hứa cùng Chúa, chúng con sẽ siêng năng dự lễ, rước lễ, chầu Mình Thánh và sùng kính ngày thứ sáu đầu tháng; chúng con xin hứa cùng Đức Mẹ, chúng con sẽ siêng năng lần hạt Mân Côi, theo gương các nhân đức của Mẹ, và sùng kính ngày thứ bảy đầu tháng.
Lạy Chúa Giêsu Kitô Vua! Lạy Đức Mẹ Maria Nữ Vương!
Chúng con tin rằng, nhờ sự dâng mình cho Trái Tim Cực Thánh Chúa và Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ, chúng con sẽ được nhiều ơn lành hồn xác đời này, và được hưởng hạnh phúc vô cùng đời sau. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21603 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kinh%20Tr%C3%A1i%20Tim%20C%E1%BB%B1c%20Th%C3%A1nh%20Ch%C3%BAa%20Gi%C3%AAsu | Kinh Trái Tim Cực Thánh Chúa Giêsu | Lạy Chúa Giêsu, Trái Tim Cực Thánh Chúa là tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa; chúng con thờ lạy Chúa, chúng con tôn vinh Chúa, chúng con cảm tạ Chúa. Chúa đã lập phép Mình Thánh để chính Chúa làm của ăn của uống nuôi dưỡng các linh hồn, và ban sự sống thiêng liêng cho loài người. Chúng con xin Chúa cho các giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo hữu có tình yêu nồng nàn để phục vụ Hội thánh và các linh hồn.
Lạy Chúa Giêsu, Trái Tim Cực Thánh Chúa là sức mạnh của Thiên Chúa toàn năng, chúng con trông cậy vào ơn Chúa, tin tưởng vào lòng thương xót Chúa. Xin Chúa cho hết thảy chúng con cố gắng làm việc thiện hàng ngày, mà việc trọng nhất là dâng lễ, dự lễ, rước lễ, hãm mình hy sinh, để thực hiện ý Chúa trong bổn phận mỗi người chúng con.
Lạy Chúa Giêsu, Trái tim Cực Thánh Chúa là sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, Chúa đã để một người lính lấy giáo mở Trái Tim Chúa, cho chúng con được tiến vào tận đáy lòng Chúa mà học hỏi các mầu nhiệm thiên linh. Xin cho các đấng bậc trong Hội Thánh chăm chỉ học và giảng Lời Chúa, cho các tâm hồn bé mọn thấu hiểu mầu nhiệm Nước Trời như Chúa đã cầu nguyện cho họ.
Lạy Trái Tim cực Thánh Chúa Giêsu, xin cho các giám mục, linh mục, nam nữ tu sỹ và giáo hữu sống thánh thiện, trở nên muối và ánh sáng cho thế gian. Lạy Đức Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, Đức Thánh Micae, hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô, xin cho chúng con chu toàn các công việc mục vụ và tông đồ theo thánh ý Chúa. Amen.
Kinh Kitô giáo |
21618 | https://vi.wikisource.org/wiki/S%E1%BA%A5m%20gi%E1%BA%A3ng%20khuy%C3%AAn%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20%C4%91%E1%BB%9Di%20tu%20ni%E1%BB%87m | Sấm giảng khuyên người đời tu niệm | Hạ nguơn nay đã hết đời,
Phong ba biến chuyển đổi dời gia cang.
Năm Mèo Kỷ Mão rõ ràng,
Khắp trong trần hạ nhộn nhàng xiết chi.
Ngồi buồn Điên tỏ một khi,
Bá gia khổ não vậy thì từ đây.
Cơ trời thế cuộc đổi xây,
Điên mới theo Thầy xuống chốn phàm gian.
Thấy đời ly loạn bất an,
Khắp trong các nước nhộn nhàng đao binh.
Kẻ thời phụ nghĩa bố kình,
Người thời trung hiếu chẳng gìn vẹn hai.
Nên Điên khuyên nhủ bằng nay,
Xin trong lê thứ ngày rày tỉnh tâm.
Cơ thâm thì họa diệt thâm,
Nào trong sách sử có lầm ở đâu.
Người khôn nghe nói càng rầu,
Người ngu nghe nói ngửa đầu cười reo.
Rồi sau sẽ thấy hùm beo,
Khắp trong bá tánh hiểm nghèo đáng thương.
Điên nầy vưng lịnh Minh Vương,
Với lịnh Phật đường đi xuống giảng dân.
Thấy trong bá tánh phàm trần,
Kẻ khinh người nhạo Thần Tiên quỉ tà.
Mặc ai bàn tán gần xa,
Quỉ của Phật Bà sai xuống cứu dân.
Kẻ xa thì mến đức-ân,
Làm cho người gần ganh-ghét khinh-khi.
Nam mô, mô Phật từ bi,
Miệng thì niệm Phật lòng thì tà gian.
Khắp trong bá tánh trần hoàn,
Cùng hết xóm làng đều bỉ người Điên.
Điên nầy xưa cũng như ai,
Vào các ra đài tột bực giàu-sang.
Nghĩ suy danh lợi chẳng màng,
Bèn lên ẩn dật lâm san tu trì.
Nhờ Trời may mắn một khi,
Thẩn thơ lại gặp Đức Thầy Bửu-Sơn.
Cúi đầu Điên tỏ nguồn cơn,
Động lòng bác ái ra ơn dạy truyền.
Thấy Điên tâm tánh quá thiềng,
Nội trong sáu khắc biết liền Thiên cơ.
Chuyện nầy thôi nói sơ sơ,
Để rộng thì giờ nói chuyện chơn tu.
Dương trần kẻ trí người ngu,
Ham võng ham dù danh lợi xuê xang.
Cờ đà đến nước bất an,
Chẳng lo tu niệm tham gian làm gì.
Phật, Trời thương kẻ nhu mì,
Trọng cha, yêu Chúa kính vì tổ tông.
Ngồi buồn nói chuyện bông lông,
Khắp trong trần hạ máu hồng nhuộm rơi.
Chừng nào mới đặng thảnh thơi,
Dậu Phật ra đời thế giới bình yên.
Điên nầy Điên của Thần Tiên,
Ở trên Non Núi xuống miền Lục Châu.
Đời còn chẳng có bao lâu,
Rán lo tu niệm đặng chầu Phật Tiên.
Thế gian ít kẻ làm hiền,
Nhiều người tàn bạo làm phiền Hóa Công.
Thế gian chuyện có nói không,
Đến hội Mây Rồng thân chẳng toàn thây.
Việc đời đến lúc cấn gay,
Mà cũng tối ngày nói xéo nói xiên.
Dương trần tội ác liên miên,
Sau xuống huỳnh tuyền Địa ngục khó ra.
Điên nầy nói việc gần xa,
Đặng cho lê thứ biết mà lo tu.
Tu cho qua cửa Diêm phù,
Khỏi sa Địa ngục ngao du Thiên đài.
Đường đời chẳng có bao dai,
Nên viết một bài cho bá tánh coi.
Tuồng đời như pháo châm ngòi,
Bá gia yên lặng mà coi Khùng nầy.
Khùng thời ba tớ một Thầy,
Giảng dạy dẫy đầy rõ việc Thiên cơ.
Điên đây còn dại còn khờ,
Yên lặng như tờ coi chúng làm sao.
Bá gia kẻ thấp người cao,
Chừng thấy máu đào chúng mới chịu tu.
Bây giờ giả dạy giả ngu,
Cũng như Nhơn Quí ở tù ngày xưa.
Lúc nầy kẻ ghét người ưa,
Bị Điên nói bừa những việc vừa qua.
Dương trần biếm nhẻ gần xa,
Nói quỉ nói tà đây cũng cam tâm.
Ngồi buồn nhớ chuyện xa xăm,
Dạo trong Bảy Núi cười thầm sư mang.
Nói rằng lòng chẳng tham sang,
Sao còn ham của thế-gian làm gì?.
Việc nầy thôi quá lạ kỳ,
Cũng trong Phật giáo sao thì chê khen.
Lúc nầy tâm trí rối beng,
Tiếng huyễn tiếng kèn mặc ý bá gia.
Hết gần rồi lại tới xa,
Dân sự nhà nhà bàn tán cười chơi.
Chuyện nầy cũng lắm tuyệt vời,
Giả như Hàn Tín đợi thời lòn trôn.
Đến sau danh nổi như cồn,
Làm cho Hạng Võ mất hồn mấy khi.
Chuyện xưa thanh-sử còn ghi,
Khen anh Hàn Tín vậy thì mưu cao.
Chuyện đời phải có trước sau,
Điên Khùng khờ dại mà cao tu hành.
Bá gia phải rán làm lành,
Niệm Phật cho rành đặng thấy Thần Tiên.
Thương đời trong dạ chẳng yên,
Khắp trong lê thứ thảm phiền từ đây.
Ngày nay thế cuộc đổi xây,
Rán lo tu niệm đặng Thầy cứu cho.
Mảng theo danh lợi ốm o,
Sẵn của hét hò đứa ở người ăn.
Đừng khi nhà lá một căn,
Mà biết niệm Phật sau bằng bạc muôn.
Giàu sang như nước trên nguồn,
Gặp cơn mưa lớn nó tuôn một giờ.
Cửu Huyền Thất Tổ chẳng thờ,
Để thờ những Đạo ngọn cờ trắng phau.
Dương trần bụng dạ nhiều màu,
Thấy cảnh bên Tàu sao chẳng nghĩ suy.
Lời xưa người cổ còn ghi,
Những việc lạ kỳ nay có hay chưa?
Chưa là với kẻ chẳng ưa,
Chớ người tâm đạo biết thừa tới đâu.
Bá gia mau kíp lo âu,
Để sau đối đầu chẳng đặng toàn thây.
Việc đời nói riết thêm nhây,
Nếu muốn làm Thầy phải khổ phải lao.
Mèo kêu bá tánh lao xao,
Đến chừng rồng rắn màu đào chỉn ghê.
Con ngựa lại đá con dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao.
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng.
Nói ra nước mắt rưng rưng,
Điên biểu dân đừng làm dữ làm hung.
Việc đời nói chẳng có cùng,
Đến sau mới biết đây dùng kế hay.
Bây giờ mắc việc tà tây,
Nên mới làm vầy cho khỏi ngại nghi.
Thiên cơ số mạng biết tri,
Mà sao chẳng chịu chạy đi cho rồi?
Những người giả đạo bồi hồi,
Còn chi linh thính mà ngồi mà nghe.
Việc đời như nước trong khe,
Nó tưởng đặt vè nói biếm người hung.
Điên nầy nối chí theo Khùng,
Như thể dây dùn đặng cứu bá gia.
Sau nầy kẻ khóc người la,
Vài ba năm nữa biết mà tà tinh.
Điên biết chẳng lẻ làm thinh,
Nói cho bá tánh mặc tình nghe không.
Việc Điên, Điên xử chưa xong,
Lục Châu chưa giáp mà lòng ủ ê.
Người nghe đạo lý thì mê,
Kẻ lại nhún trề nói: Lão kiếm cơm.
Thấy nghèo coi thể rác rơm,
Rồi sau mới biết rác rơm của Trời.
Vì Điên chưa đến cái thời,
Nên còn ẩn dạng cho người cười chê.
Từ đây sắp đến thảm thê,
Con lìa cha mẹ, vợ kia xa chồng.
Tới chừng đến việc ngóng trông,
Trách rằng Trời Phật không lòng từ bi.
Di Đà lục tự rán ghi,
Niệm cho tà quỉ vậy thì dang ra.
Khuyên đừng xài phí xa hoa,
Ăn cần ở kiệm đặng mà lo tu.
Đừng khinh những kẻ đui mù,
Đến sau sẽ khổ gấp mười mù đui.
Đời nay xét tới xem lui,
Chừng gặp tuổi Mùi bá tánh biết thân.
Tu hành sau được đức ân,
Nhờ Trời ban bố cho gần Phật Tiên.
Nói ra trong dạ chẳng yên,
Điên gay chèo quế dạo miền Lục Châu.
Tới đâu thì cũng như đâu,
Thêm thảm thêm sầu lòng dạ người xưa.
Bá gia ai biết thì ưa,
Tôi chẳng nói thừa những việc Thiên-cơ.
Khi già lúc lại trẻ thơ,
Giả quê giả dốt khắp trong thị thiềng.
Đi nhiều càng thảm càng phiền,
Lên doi xuống vịnh nào yên thân Già.
Tay chèo miệng lại hát ca,
Ca cho bá tánh biết đời loạn ly.
A Di Đà Phật từ bi,
Ở bên Thiên Trước chứng tri lòng nầy.
Từ ngày thọ giáo với Thầy,
Dẹp lòng vị kỷ đầy lòng yêu dân.
Ngày nay chẳng kể tấm thân ,
Miễn cho bá tánh được gần Bồng Lai.
Đời nầy vốn một lời hai,
Khắp trong trần hạ mấy ai tu trì.
Đời nầy giành giựt làm chi,
Tới việc ly kỳ cũng thả trôi sông.
Thuyền đưa Tiên Cảnh Non Bồng,
Mấy ai mà có thiềng lòng theo đây.
Cứ lo làm việc tà tây,
Bắt ngưu bắt cầy đặng chúng làm ăn.
Chừng đau niệm Phật lăng xăng,
Phật đâu chứng kịp lòng người ác gian.
Thấy đời mê muội lầm than,
Ăn bạ nói càn tội lỗi chỉn ghê.
Chữ tu không phải lời thề,
Mà không nhớ đến đặng kề Tiên bang.
Nói nhiều trong dạ xốn xang,
Cùng hết xóm làng tàn ác nhiều hơn.
Thầy chùa như thể cây sơn,
Ngoài da coi chắc trong thời mối ăn.
Buồn thay cho lũ ác tăng,
Làm điều dối thế cho hư Đạo mầu.
Di Đà Phật Tổ thêm rầu,
Giận trong tăng chúng sao lừa dối dân.
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Tu theo lối cũ mau gần Diêm Vương.
Bá gia lầm lạc đáng thương,
Nên trước Phật đường thọ lãnh dạy dân.
Dương trần nhiều kẻ ham sân,
Cứ theo biếm nhẻ xa gần người Điên.
Lòng buồn mượn lấy bút nghiên,
Viết cho trần hạ bớt phiền lo tu.
Thương đời chớ chẳng kiếm xu,
Buồn cho bá tánh hết mù tới đui.
Có chi mà gọi rằng vui,
Khắp trong bá tánh gặp hồi gian lao.
Từ đây hay ốm hay đau,
Rán tu đem được Phật vào trong tâm.
Lời hiền nói rõ họa thâm,
Đặng cho bá tánh tỉnh tâm tu hành.
Ngày nay Điên mở Đạo lành,
Khắp trong lê thứ được rành đường tu.
Nay đà gần cuối mùa thu,
Hết ngu tới dại công phu gần thành.
Xác trần đạo lý chưa rành,
Mấy ai mà được lòng thành với Điên.
Điên nầy sẽ mở xích xiềng,
Dắt dìu bá tánh gần miền Tiên bang.
Không ham danh lợi giàu sang,
Mong cho bá tánh được nhàn tấm thân.
Thường về chầu Phật tấu trần,
Cầu xin Phật Tổ ban lần đức ơn.
Nay đà bày tỏ nguồn cơn,
Cho trong trần hạ thiệt hơn tỏ tường.
Phật, Trời thấy khổ thời thương,
Muốn cho lê thứ thường thường làm nhơn.
Đừng ham tranh đấu thiệt hơn,
Tu niệm chớ sờn uổng lắm dân ôi!
Hồng trần biển khổ thấy rồi,
Rán tu nhơn đạo cho tròn mới hay.
Đừng ham nói đắng nói cay,
Cay đắng sau nầy đau đớn, sầu bi.
Tu hành tâm trí rán trì,
Sau nầy sẽ thấy việc gì trên mây.
Đừng làm tàn ác ham gây,
Sẽ có người nầy cứu vớt giùm cho.
Dương trần lắm chuyện đôi co,
Phải dẹp vị kỷ mà lo tu hành.
Kệ kinh tưởng niệm cho sành,
Ngày sau thấy Phật đành rành chẳng sai.
Lúc nầy thế giới bi ai,
Chẳng nói vắn dài Phật nọ tức tâm.
Mấy lời khuyên nhủ chẳng lầm,
Từ đây đạo hạnh được mầm thanh cao.
Hồng trần lao khổ xiết bao,
Khuyên trong lê thứ bước vào đường tu.
Xưa nay đạo hạnh quá lu,
Ngày nay sáng tỏ đền bù ngày xưa.
Mặc tình kẻ ghét người ưa,
Điên chẳng nói thừa lại với thứ dân.
Quan trường miệng nói vang rân,
Mà tâm dính chặt hồng trần bụi nhơ.
Buồn đời nên mới làm thơ,
Cũng còn tai lấp mắt ngơ mới kỳ.
Người đời lòng dạ bất tri,
Trông cho làm bịnh dị kỳ nó coi.
Dương gian chậu úp được voi,
Dấu đầu rồi lại cũng lòi sau đuôi.
Nói nhiều mà dạ chẳng nguôi,
Việc tu bá tánh bắn lùi như tôm.
Tưởng Phật được lúc đầu hôm,
Đêm khuya muốn giựt nồi cơm của người.
Thế gian nhiều chuyện nực cười,
Tu hành chẳng chịu, lo cười lo khinh.
Người già ham muốn gái xinh,
Đến sao chẳng biết thân mình ra sao?
Xác thân cọp xé beo quào,
Còn người tàn bạo máu đào tuôn rơi.
Tu hành hiền đức thảnh thơi,
Ngay cha thảo Chúa, Phật Trời cứu cho.
Bá gia hãy rán mà lo,
Kiếm Lão Đưa Đò nói chuyện huyền cơ.
Bấy lâu chẳng biết làm thơ,
Nay viết ít tờ trần hạ tỉnh tâm.
Đến sau khổ hạnh khỏi lâm,
Nhờ công tu niệm âm thầm quá hay.
Chừng nào chim nọ biếng bay,
Cá kia biếng lội khổ nầy mới yên.
Nhắc ra quá thảm quá phiền,
Bể khổ gần miền mà chẳng chịu tu.
Ngọn đèn chơn lý hết lu,
Khắp trong lê thứ ao tù từ đây.
Thấy trong thời cuộc đổi xây,
Đời nay trở lại khác nào đời Thương.
Nhắc ra thêm ghét Trụ Vương,
Ham mê Đắc Kỷ là phường bội cha.
Hết gần Điên lại nói xa,
Nói cho bá tánh biết mà người chi.
Lời lành khuyên hãy gắn ghi,
Dương trần phải rán tu trì sớm khuya.
Đừng ham làm chức nắc nia,
Ngày sau như khóa không chìa dân ôi.
Tu hành như thể thả trôi,
Nay lở mai bồi chẳng có thiềng tâm.
Mưu sâu thì họa cũng thâm,
Ngày sau sẽ biết thú cầm chỉn ghê.
Hùm beo tây tượng bộn bề,
Lại thêm ác thú mãng xà, rít to.
Bá gia ai biết thì lo,
Gác tai gièm siểm đôi co ích gì,
Hết đây rồi đến dị kỳ,
Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha.
Dân nay như thể không cha,
Chẳng ai dạy dỗ thật là thảm thương.
Thứ nầy đến thứ Minh Vương,
Nơi chốn Phật đường mặt ngọc ủ ê.
Cám thương trần hạ nhiều bề,
Bởi chưng tàn bạo khó kề Phật Tiên.
Chúng ham danh lợi điền viên,
Ngày sau đến việc lụy phiền suốt canh.
Kệ kinh tụng niệm đêm thanh,
Ấy là châu ngọc để dành ngày sau.
Bây giờ chưa biết vàng thau,
Đời sau kính trọng người cao tu hành.
Nam mô miệng niệm lòng lành,
Bá gia phải rán biết rành đường tu.
Thương ai ham võng ham dù,
Cũng như những kẻ đui mù đi đêm.
Khuyên đời như vá múc thêm,
Mảng lo tranh đoạt thù hềm với nhau.
Đến chừng có ốm có đau,
Vang mồm niệm Phật, Phật nào chứng cho.
Dương trần tiếng nhỏ tiếng to,
Nói ngỗng nói cò đây cũng làm thinh.
Tưởng rằng thân nó là vinh,
Chẳng lo tu niệm cứ ghình với Điên.
Nói ra trong dạ chẳng yên,
Bây giờ nói chuyện cỡi thuyền khuyên dân.
Đêm ngày chẳng nại tấm thân,
Nắng mưa chẳng quản tảo tần ai hay.
Chừng sau đến hội Rồng Mây,
Người đời mới biết Điên nầy là ai.
Lui thuyền chèo quế tay gay,
Thuyền đi nước ngược đến rày cù-lao.
Xa xa chẳng biết làng nào,
Thiệt làng Long Khánh ít người nào tu.
Tớ Thầy liền giả đui mù,
Bèn đi ca hát kiếm xu dương trần.
Bá gia tựu lại rần rần,
Trong nữa ngày trần chẳng có đồng chi.
Nực cười trần hạ một khi,
Ở một đêm thì sáng lại qua sông.
Bình minh vừa buổi chợ đông,
Bày trò bán thuốc hát ròng đời nay.
Cho thiên hạ tựu đông vầy,
Rồi mới ra bài hát việc Thiên cơ.
Tới đây bá tánh làm ngơ,
Buồn cho lê thứ kịp giờ ra đi.
Lìa xa Hồng Ngự một khi,
Thẳng đường trực chỉ Điên đi Tân Thành.
Tới đây ra mặt người rành,
Nói chuyện thiệt sành thông lảu Đạo nho.
Nhiều người xúm lại đôi co,
Chê lão đưa đò mà biết việc chi.
Thấy đời động tánh từ bi,
Điên chẳng bắt tì còn mách việc xa.
Khoan khoan chơn nọ bước ra,
Giáp rạch Cả Cái rồi ra ngoài vàm.
Đoái nhìn mây nọ trắng lam,
Điên ra sức lực chèo chơi một giờ.
Xa nhìn sương bạc mờ mờ,
Tân An làng nọ dân nhờ bắp khoai.
Giả người bán cá bằng nay,
Dân chúng ngày rày xúm lại mua đông .
Tới lui giá cả vừa xong,
Điên cũng bằng lòng cân đủ cho dân.
Có người chẳng chịu ngang cân,
Bỏ thêm chẳng bớt mấy lần không thôi.
Nực cười trần hạ lắm ôi!
Giảng cho bá tánh một hồi quá lâu.
Thân già thức suốt canh thâu,
Nói cho lê thứ quày đầu mới thôi.
Nhiều người nghe hết phủi rồi,
Quày thuyền trở lại bồi hồi sầu bi.
Giả người tàn tật một khi,
Xuống vàm kinh Xáng được thì chút vui.
Một người nhà lá hẩm-hui,
Mà biết đạo lý mời Cùi lên chơi.
Bàn qua kim cổ một hồi,
Cùi xuống giữa vời Châu Đốc thẳng xông.
Đến nơi thiên hạ còn đông,
Giả gái không chồng đi bán cau tươi.
Thấy dân ở chợ nực cười.
Xúm nhau trêu ghẹo đặng cười Gái Tơ.
Buồn đời lăng mạ ngẩn ngơ,
Biến mất lên bờ liền giả cùi đui.
Phố phường nhiều kẻ tới lui,
Thấy kẻ Đui Cùi chẳng muốn ngó ngang.
Đời nay quý trọng người sang,
Giả ra gây lộn nói toàn tiếng Tây.
Tây, Nam, Chà, Chệt, chú, thầy,
Nó thấy làm vầy chẳng bắt ngại nghi.
Xuống thuyền quày quả một khi,
Chèo lên Vĩnh Tế vô thì núi Sam.
Đi ngang chẳng ghé chùa am,
Xuôi dòng núi Sập đặng làm người ngu.
Xem qua đầu tóc u sù,
Cũng như người tội ở tù mới ra.
Chèo ghe rao việc gần xa,
Bồng Lai Tiên Cảnh ai mà đi không?
Nhiều người tâm đạo ước mong,
Nếu tôi gặp được như rồng lên mây.
Ấy là tại lịnh Phương Tây,
Cho kẻ bạo tàn kiến thấy Thần Tiên.
Có người nói xéo nói xiên,
Chú muốn kiếm tiền nói gạt bá gia.
Thoáng nghe lời nói thiết tha,
Rưng rưng nước mắt chèo về Mặc Dưng.
Tay chèo miệng cũng rao chừng.
Đường đi Tiên cảnh ai từng biết chưa?
Khúc thời nhắc lại đời xưa,
Lúc chàng Lý Phủ đổ thừa Trọng Ngư.
Nhà anh có của tiền dư,
Sao chẳng hiền từ thương xót bá gia?
Bây giờ gặp việc thiết tha,
Bạc vàng có cứu anh mà hay không?
Hết tây Điên lại nói đông,
Có ai thức tỉnh để lòng làm chi!
Mặc Dưng mất dạng Từ Bi,
Thuyền đi trở ngược về thì Vàm-Nao.
Dòm xem thiên hạ lao xao,
Không ghé nhà nào cũng gọi vài câu.
Con sông nước chảy vòng cầu,
Ngày sau có việc thảm sầu thiết tha.
Chừng ấy nổi dậy phong ba,
Có con nghiệt-thú nuốt mà người hung.
Đến chừng thú ấy phục tùng,
Bá gia mới biết người Khùng là ai.
Bây giờ phải chịu tiếng tai,
Giảng Đạo tối ngày mà chẳng ai nghe.
Đời như màn nọ bằng the,
Hãy rán đọc vè của kẻ Khùng Điên.
Khỏi vàm Điên mới quày thuyền,
Xuống miền Cao Lãnh lại phiền lòng thêm.
Tới đây ca hát ban đêm,
Ai có thù hềm chưởi mắng cũng cam.
Cho tiền cho bạc chẳng ham,
Quyết lòng dạy dỗ dương trần mà thôi.
Nghe rồi thì cũng phủi rồi,
Nào ai có biết đây là người chi.
Trở về Phong Mỹ một khi,
Thuyền đi một mạch tới thì Rạch Chanh.
Ghe chèo khúc quẹo khúc quanh,
Ở đây có một người lành mà thôi.
Nhắc ra tâm trí bồi hồi,
Khó đứng khôn ngồi thương xót bá gia.
Kiến Vàng làng nọ chẳng xa,
Kíp mau tới đó vậy mà thử coi.
Xứ nầy nhà cửa ít oi,
Mà trong dân sự nhiều người chơn tu.
Thấy người đói rách xin xu,
Ra tay cứu vớt đui mù chẳng chê.
Khỏi đây đến chổ bộn bề,
Rõ ràng Bến Lức đã kề bên ghe.
Giả người tàn tật đón xe,
Rồi lại nói vè ròng việc Thiên-cơ.
Hết vè rồi lại nói thơ,
Làm cho bá tánh ngẩn ngơ trong lòng.
Thơ vè Điên đã nói xong,
Đi luôn Ba Cụm kẻo lòng ước-mơ.
Tới đây dẹp hết vè thơ,
Giả Người Bán Mắm quá khờ quá quê.
Chợ nầy thiên hạ bộn bề,
Kẻ nhún người trề chê mắm chẳng ngon.
Bạn hàng tiếng nói quá dòn:
Giá nầy chẳng bán còn chờ chuyện chi?
Bưng thời kẻ níu người trì:
Ở đây không bán chị thì đi đâu?
Dứt lời rồi lại câu mâu,
Mắng: con đĩ chó khéo hầu làm khôn?
Muốn làm cho có người đồn,
Biến mất xác hồn cho chúng chỉn ghê.
Nói ra thêm thảm thêm thê,
Ông Lãnh dựa kề giả bán trầu cau.
Bạn hàng xúm lại lao xao:
Ông bán giá nào nói thử nghe coi?
Trầu thời kẻ móc người moi,
Còn cau bẻ giấu thấy lòi tánh tham.
Thấy già bán rẻ nó ham,
Bị thêm quê dốt nó làm thẳng tay.
Ghe người biến mất bằng nay,
Cho chúng biết tài của kẻ Thần Tiên.
Bến Thành đến đó đậu liền,
Gặp hai thằng lính tra liền thuế thân.
Tớ Thầy nói chuyện cân phân:
Mới lỡ một lần xin cậu thứ tha.
Hai người tôi ở phương xa,
Bởi chưng khổ não mới là nổi trôi.
Lính nghe vừa dứt tiếng rồi,
Khoát nạt một hồi rồi lại bắt giam.
Thấy đời trong dạ hết ham,
Ghe người biến mất coi làm chi đây.
Tức thời Điên giả làm thầy,
Đi coi đi bói khắp trong phố phường.
Có người tu niệm đáng thương,
Điên mới chỉ đường Tịnh Độ vãng sanh.
Dạo cùng khắp cả Sài Thành,
Khi ca khi lý nói rành Thiên cơ.
Bá gia bá tánh làm ngơ,
Tưởng như những kẻ nói thơ kiếm tiền.
Văn minh trọng bạc trọng tiền,
Khôn ngoan độc ác làm phiền người xưa.
Mặc ai ghét ghét ưa ưa,
Chẳng dám nói bừa cho bá tánh nghe.
Phiền ba ngựa ngựa xe xe,
Điên giả người què Gia Định thẳng xông.
Què nầy đường xá lảu thông,
Khắp trong thiềng thị rồi thì nhà quê.
Kêu cơm bá tánh nghe ghê,
Thêm nói bộn bề những việc về sau.
Dương trần bàn tán thấp cao,
Chẳng biết người nào rõ việc tiên tri.
Giả từ Gia Định một khi,
Thuyền loan trực chỉ đến thì Cần thơ.
Tới đây giả kẻ quá khờ,
Vợ điên chồng lại đứng hờ một bên.
Phố phường xóm dưới đầu trên,
Cùng người đi chợ xúm nhau reo cười.
Thị thiềng hiền đức được mười,
Phần nhiều xúm lại chê cười Người Điên.
Vợ thời ca hát huyên thiên,
Chồng chẳng có tiền lại quán xin cơm.
Bá gia coi thể rác rơm,
Ai cũng sẳn hờm đặng có ghẹo chơi.
Điên mà ca hát việc đời,
Với việc hiện thời khổ não Âu Châu.
Chạy cùng chẳng sót đâu đâu,
Lòng quá thảm sầu lìa lại Vĩnh Long.
Chợ quê giảng dạy đã xong,
Thuyền loan trực chỉ đến rày Bến Tre.
Chợ nầy đậu tại nhà bè,
Giả chị bán chè dạo khắp các nơi.
Giọng rao rặt tiếng kim thời,
Rước rước mời mời anh chị mua ăn.
Trẻ già qua lại lăng xăng,
Nói nói rằng rằng những việc bướm ong.
Gánh chè bán hết vừa xong,
Điên cũng nói ròng chuyện khổ về sau.
Nói rồi chơn bước mau mau,
Lìa xa thiềng thị đến thì thôn quê.
Đi đâu cũng bị nhún trề,
Kẻ lại chưởi thề nói: lũ bá-vơ.
Thấy đời tai lấp mắt ngơ,
Lúc ở trên bờ khi lại đi ghe.
Dạo cùng khắp tỉnh Bến Tre,
Đủ bực thơ vè lìa lại Trà Vinh.
Tới đây bày đặt hát kình,
Đua nhau bán thuốc mặc tình mua không.
Nói ra những chuyện bông lông,
Trách trong lê thứ không lòng từ bi.
Gặp người đói khó khinh khi,
Điền viên sự sản ai thì làm cho.
Dạy rồi thuyền lại Mỹ Tho,
Khuyên trong trần hạ rán lo tu trì.
Xưa nay không có mấy khi,
Dương trần có Phật vậy thì xuống đây.
Chợ quê giáp hết thuyền quay,
Đi trở lộn về Ông Chưởng giảng dân.
Quản chi nắng Sở mưa Tần,
Chèo xuôi chèo ngược mấy lần không thôi.
Thảm thương bá-tánh lắm ôi!
Bồng Lai Tiên cảnh rao rồi một khi.
Nếu ai rảnh việc thì đi,
Còn mắc nợ thì ở lại dương gian.
Có người xưng hiệu ông quan,
Tên thiệt Vân Trường ở dưới dinh Ông.
Thấy đời cũng bắt động lòng,
Ghé vào tệ xá thẳng xông lên nhà.
Mình người tu niệm vậy mà,
Nói chi lớn tiếng người mà khinh khi.
Người nhà cảm tạ một khi,
Cúng năm cắc bạc tiền đi non bồng.
Xuống thuyền xuôi nước thẳng xông,
Ghé nhà chủ Phối xem lòng Đạo Ba.
Ngồi chơi đạo lý bàn qua,
Mấy bà có biết lúa mà bay không?
Có người đạo lý hơi thông,
Xin ông bày tỏ cho tôi hiểu rày.
Điên nghe liền mới tỏ bày,
Lúa bay về núi dành rày ngày sau.
Hỏi qua tu niệm âm hao,
Không biết câu nào trái ý Đạo Ba.
Buồn đời Điên mới bước ra,
Tay gay chèo quế dạo mà khắp nơi.
Đi hoài chẳng có nghỉ ngơi,
Miệng cũng rao mời Tiên cảnh Bồng Lai.
Có người xuống bến bằng nay,
Mách chơi ít tiếng người rày mạng vong.
Nhà ngươi thiệt chẳng có lòng:
Đòi đã hai lần sao chẳng chịu đi?
Thương đời ta luống sầu bi,
Đò đi tới chốn ăn thì bao nhiêu?
Điên rằng tôi chẳng ham nhiều,
Bao nhiêu tự ý cho nhiều chẳng ham.
Điên nầy bụng chẳng có tham,
Ghe đã chở đầy chật nứt trong mui.
Già đây cũng chở cầu vui,
Vậy chú hãy ngồi ngay chỗ sau đây.
Thấy người lòng dạ tà-tây,
Thân tôi làm vầy ông chẳng cho vô.
Trong mui đã mát lại khô,
Tôi có đủ tiền mà trả cho ông.
Trong mui dòm thấy trống không,
Bước nhầu vào đó máu hồng trào ra.
Cho người hung bạo biết Ta,
Thuyền người biến mất vậy mà còn chi.
Trở lên Chợ Mới một khi,
Chèo lên chèo xuống vậy thì cũng rao.
Năm xưa đây có máu đào,
Mà nay chưa có người nào chơn tu.
Nào Điên có muốn kiếm xu,
Mà trong trần hạ đui mù không hay.
Hỏi ông người ở đâu rày,
Trả lời rằng ở Non cày Vua Nghiêu.
Tới đây trong dạ buồn hiu,
Bỏ ghe Điên cũng đánh liều chưa thôi.
Giả ra một kẻ hàn nồi,
Khắp trong hàng xóm đi rồi sạch trơn.
Tới đâu cũng tỏ thiệt hơn,
Nhà tôi vốn thiệt có đờn năm dây.
Tôi còn mắc cái nợ nầy,
Nên mới làm vầy cho giải quả căn.
Nhà tôi đâu phải khó khăn,
Đem theo trong xách bạc hằng tám mươi.
Nhiều người nghe nói reo cười,
Thân tôi lao lý anh cười tôi chi?
Giả từ Chợ Mới một khi,
Thuyền đi xuôi ngược đến thì Ba Răng.
Ít ai biết được Đạo hằng,
Ghé am thầy pháp nói rằng lỡ chơn.
Trước sau bày tỏ nguồn cơn,
Vì thương lê thứ chi sờn lòng đây.
Có người lối xóm muốn gây,
Xin sáu trái bắp liền quày xuống ghe.
Ghe Điên vốn thiệt ghe be,
Mà lại Điên nhè nước ngược thẳng xông.
Ra oai thuyền chạy như dông,
Người nhà xuống bến trong lòng ngại nghi.
Ông nầy chẳng biết người chi,
Chèo quế vậy thì mạnh bạo quá tay.
Thần Tiên mà chẳng ai hay,
Cứ biếm nhẻ hoài buồn dạ người xưa.
Đời nay mỏng tợ màn thưa,
Khuyên trong lê thứ chẳng thừa một câu.
Thân nầy chẳng nệ mau lâu,
Miễn cho bá tánh gặp chầu vinh huê.
Thương trong trần hạ thảm thê,
Lao khổ nhiều bề chớ chẳng còn vui.
Nhiều người nghèo khổ hẩm hui,
Không đất cặm dùi mà chẳng ai thương.
Con thuyền đương lướt gió sương,
Bỗng nghe tiếng khóc tư lương ai hoài.
Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ đạc sạch trơn.
Du thần bày tỏ nguồn cơn:
Rằng người nghèo khó đương hờn phận duyên.
Điên nghe vội vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn.
Coi rồi bày tỏ thiệt hơn,
Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi.
Rồi đi dạo xóm một khi,
Đi lên nhà thì giã gạo mà chơi.
Vào nhà nói chuyện một hơi,
Gặp người bán thuốc cũng thời ghé vô.
-Mua một ve uống hởi cô,
Uống vô bổ khỏe trị nhiều chứng phong.
Uống thì pha nước nóng trong,
Chớ đừng pha rượu nó hòng kỵ thai.
Hai thằng ở xóm bằng nay,
Nó nói ngày rày thuốc chẳng có hay.
Người cha đi lại thấy rầy,
Thiệt mấy đứa nầy cải cọ làm chi.
Bước ra nhà nọ một khi,
Đi lên đi xuống kiếm thì xe lôi.
Gặp xe chẳng có lên ngồi,
Chạy trước đi rồi ngừng lại chỗ kia.
Xóm nầy kẻ ghét người ưa,
Ghé vào nhà nọ nhổ bừa cái răng.
Nhổ rồi lui tới lăng xăng,
Liền bước xuống thuyền Thầy Tớ thả trôi.
Vàm Nao rày đã đến rồi,
Quày thuyền ghé lại bằng nay Chợ Đình.
Hát hai câu hát huê tình,
Đậu xem dân-chúng Chợ-Đình làm sao.
Sáng ngày chợ nhóm lao xao,
Giả bận áo màu ai cũng dòm xem.
Mấy thằng trai trẻ thấy thèm,
Đứng xa quanh quẩn nói gièm với nhau.
Đứa nầy nói để cho tao,
Đứa kia xạo xự áo màu quá ngon.
Nhắc ra động tấm lòng son,
Buồn cho lê thứ sao còn ham vui.
Ở đây một buổi ghe lui,
Về trên bảy núi ngùi ngùi thương dân.
Thầy Trò chẳng nại tấm thân,
Rảo khắp Non Tần bận nữa thử coi.
Chơn tu thì quá ít oi,
Nhiều người ẩn sĩ quá lòi tánh tham.
Đi lần ra đến Núi Sam,
Đến nơi rảo khắp chùa am của người.
Dạy rồi bắt quá tức cười,
Thầy tu nhiều kẻ biếng lười quá tay.
Trẻ già biến hóa ai hay,
Dạo trong Bảy Núi chẳng nài công lao.
Rú rừng lúc thấp lúc cao,
Giả ra nghèo khó vào nhiều am vân.
Tu hành nhiều kẻ tham sân,
Làm sao cho đặng mau gần Phật-Tiên.
Ai ai cũng cứ ham tiền,
Ấy là đem sợi xích xiềng trói thân.
Lìa xa Bảy Núi lần lần,
Xuống thuyền trực chỉ lên gần Hà Tiên.
Đến đây giả kẻ không tiền,
Rảo khắp thị thiềng xin xỏ bá gia.
Đi rồi cũng quá thiết tha,
Trở về non cũ đặng mà dạo chơi.
Non Tiên gió mát thảnh thơi,
Nhưng nhớ việc đời lụy ngọc nhỏ sa.
Xuống trần lúc hát lúc ca,
Mà trong lê thứ có mà biết chi.
Nam mô hai chữ từ bi,
Trần hạ nói gì đây cũng làm thinh.
Tu thời nhàn hạ thân mình,
Phần Điên khuyên nhủ mặc tình ghét ưa.
Thiên cơ ai dám nói thừa,
Mà trong bá tánh chẳng ưa Điên Khùng.
Xuống thuyền chèo quế thung dung,
Đi dạy đủ chỗ khắp cùng thử coi.
Rạch Giá chợ nọ thoi loi,
Gần nơi ven biển cá mòi nhiều hơn.
Tới đây giả kẻ có cơn,
Khi say khi tỉnh lúc hờn số căn.
Dương trần đi lại lăng xăng,
Chê chê nhạo nhạo cười rằng quân điên.
Ở đâu mà tới thị thiềng,
Lính chẳng bắt xiềng nó lại bót đi.
Lòng thương vì tánh từ bi,
Dạy dỗ chuyện cùng mà chẳng ai nghe.
Dạy rồi Điên lại xuống ghe,
Long Xuyên, Sa Đéc nói ròng vè thơ.
Vợ chồng nghèo khổ bơ vơ,
Ở nơi giữa chợ lại khờ lại quê.
Buồn trong lê thứ ủ ê,
Sóc Trăng chợ ấy thuyền kề đến nơi.
Đến đâu thì cũng tả tơi,
Nói rõ việc đời sắp khổ sắp lao.
Thị thiềng thiên hạ lao xao,
Chẳng có người nào tu niệm hiền lương.
Thấy trong trần hạ thảm thương,
Đâu có biết đường chơn chánh mà đi.
Lìa xa đô thị một khi,
Thuyền loan trực chỉ đến thì Bạc Liêu.
Chợ nầy tàn ác quá nhiều,
Phố phường dân Thổ dân Tiều nhiều hơn.
Đi cùng thành thị ráo trơn,
Cà Mau đến đó thiệt hơn tỏ bày.
Cho trong bá tánh chợ nầy,
Rõ việc dẫy đầy lao lý về sau.
Đường đi lao khổ sá bao,
Miễn cho trần hạ biết vào đường tu.
Tu hành đâu có tốn xu,
Mà sau thoát khỏi lao tù thế gian.
Thầy Trò lắm cảnh gian nan,
Chừng nào hết khổ mới an tấm lòng.
Đằng vân đến tỉnh Gò Công,
Vì thương dân thứ mới hòng đến đây.
Xưa kia bảo lụt tỉnh nầy,
Mà sau cảnh khổ xứ nầy nhiều hơn.
Yêu dân lòng nọ chẳng sờn,
Thầy hát Tớ đờn dạy cũng khắp nơi.
Khỏi đây Bà Rịa tách vời,
Đến đó vậy thời trời mới sáng ra.
Chợ nầy đông đúc người ta,
Nhiều đuông chà là lại với nho tươi.
Đến đây Thầy Tớ hóa mười,
Nói nói cười cười bán thuốc Sơn Đông.
Ai ai đều cũng ngóng trông,
Coi lũ khách này hát thuật làm sao.
Hát mà trong bụng xáo xào,
Nói chuyện bên Tàu máu đổ tuôn rơi.
Cả kêu dân chúng hỡi ôi!
Sao không thức tỉnh việc đời gần bên.
Khổ đà đi đến như tên,
Rán lo tu niệm tìm nền vinh hoa.
Vinh nầy của Đức Phật Bà,
Của Ông Phật Tổ ban mà cho dân.
Tu cho nhàn toại tấm thân,
Đừng làm tàn ác xa lần Tiên bang.
Hát kêu bớ kẻ giàu sang,
Rán lo làm phước làm doan mới là.
Đến lâm cảnh khổ có Ta,
Với lịnh Phật Bà cứu vớt giùm cho.
Tu hành phải rán trì mò,
Gặp Lão Đưa Đò đừng có khinh khi.
Dạy rồi Thầy Tớ liền đi,
Biên Hòa đến đó vậy thì xem qua.
Đến đây dạy dỗ gần xa,
Khuyên trong bá tánh vậy mà tỉnh tâm.
Ngày nay gặp Bạn Tri Âm,
Rán mà trì chí đặng tầm huyền cơ.
Tân An dạy dỗ kịp giờ,
Chẳng dám chần chờ đi thẳng Tây Ninh.
Tới đây vừa lúc bình minh,
Điên ra sức giảng mặc tình nghe không.
Giảng rồi Dầu Một thẳng xông,
Thiềng thị giáp vòng thứ chót là đây.
Thương dân giảng dạy dẫy đầy,
Rảo khắp tối ngày chẳng có nghỉ chơn.
Nhiều người hung ác quá chừng,
Không biết đời khổ lo mừng lo vui.
Nhắc ra dạ nọ nào nguôi,
Từ đây Lục Tỉnh đui cùi thiếu chi.
Nói mà trong dạ sầu bi,
Bá gia chậm chậm khinh khi Điên nầy.
Đừng ham nói nọ nói nầy,
Lặng yên coi thử Điên nầy là ai.
Cảm thương Ông Lão Bán Khoai,
Vì yêu dân chúng chẳng nài nắng mưa.
Câu nầy nhắc chuyện năm xưa,
Khuyên trong trần hạ hãy chừa lòng tham.
Khùng thời quê ngụ Núi Sam,
Còn Điên chẳng có chùa am dưới nầy.
Vua Nghiêu xưa mở đất cày,
Ngày nay nhường lại cảnh nầy cho Điên.
Xuống trần dạy dỗ huyên thiên,
Dạy rồi thì lại thảm phiền nhiều hơn.
Cầu xin Phật Tổ ra ơn,
Lời Điên khuyên nhủ như đờn Bá Nha.
Thị thiềng khắp hết gần xa,
Từ đây sắp đến quê nhà Điên đi.
Đừng thấy ngu dại mà khi,
Thầy thì Huệ Lựu tớ thì Huệ Tâm.
Đời cùng còn chẳng mấy năm,
Khắp trong các nước thây nằm bằng non.
Cha thì chẳng thấy mặt con,
Vợ thì chồng chẳng được còn tại gia.
Khuyên trong lê thứ trẻ già,
Tu hành hiền đức Phật mà cứu cho.
Ấy là quí báu thơm tho,
Đừng ham gây gổ nhỏ to làm gì.
Con thì ăn ở nhu mì,
Học theo luân lý kính vì mẹ cha.
Sau nầy sấu bắt hùm tha,
Xử người tàn bạo vậy mà tại đây.
Đời xưa quả báo thì chầy,
Đời nay quả báo một giây nhãn tiền.
Dương trần phải rán làm hiền,
Đừng trọng bạc tiền bỏ nghĩa bỏ nhân.
Người hung phải sửa cái thân,
Từ đây có kẻ Du Thần xét soi.
Chuyện người chớ móc chớ moi,
Hãy treo gương thiện mà soi lấy mình.
Ai thương ai ghét mặc tình,
Phận mình cứ giữ tâm mình cho ngay.
Điên đây vưng lịnh Phương Tây,
Hầu hạ bên Thầy đặng cứu bá gia.
Thấy đời lòng dạ tây tà,
Cứ theo chế nhạo cười mà người Điên.
Ngồi buồn kể chuyện huyên thiên,
Chẳng có ham tiền cũng bị ghét vơ.
Viết cho bá tánh ít tờ,
Đi làm ruộng rẫy bỏ hờ theo xem.
Thương người nghèo khổ lấm lem,
Thấy cảnh sung sướng nó thèm quá tay.
Ai mà biết đặng ngày mai,
Ngày nay yên tịnh ngày mai thảm sầu.
Từ rày gặp cảnh buồn rầu,
Cho người tàn bạo cứng đầu khinh khi.
Dương trần nay đáng sầu bi,
Nên Điên mới nói chuyện ni tỏ tường.
Đêm ngày tưởng Phật cho thường,
Phải rán lo lường kim chỉ từ đây.
Thương đời Điên mới tỏ bày,
Dạy trong trần hạ ngày rày rán nghe.
Đừng khi nhà lá chòi tre,
Nhà săng cột lớn bù xè hay ăn.
Lúc này Điên mắc lăng xăng,
Dương trần biết đặng đạo hằng mới thôi.
Chẳng ham cúng kiếng chè xôi,
Phật Trời chẳng muốn điều tồi đâu.
Muốn cho dân hiểu Đạo mầu,
Chớ không có muốn chùa lầu cho cao.
Bao nhiêu cũng biết vàng thau,
Dạy khôn trần thế chớ nào dạy ngu.
Sáng ngày con chó sủa tru,
Chừng heo cắn ổ hiềm thù mới yên.
Đừng ham giành giựt của tiền,
Người hung hay gọi kẻ hiền rằng ngu.
Nay Điên chỉ rõ đường tu,
Ấy là đủ việc tài bù cho dân.
Thôi thôi nói riết dần lân,
Tới đây cũng lần ngừng lại bút nghiên.
BỬU châu công luyện chốn non Tần,
SƠN thủy môn giang bảo giác dân.
KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân.
Lục bát |
21704 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tuy%C3%AAn%20b%E1%BB%91%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BA%A1i%20s%E1%BB%A9%20Hoa%20K%E1%BB%B3%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20Ted%20Osius | Tuyên bố của Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius | Tuyên bố ngày 12 tháng 10 năm 2016
Tuyên bố ngày 19 tháng 12 năm 2016
Tuyên bố về việc kết án Trần Thị Nga |
21885 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C6%B0%E1%BB%9Bc%20%C4%91i%20b%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%E1%BB%AFa | Bước đi bước nữa | Xê lại gần đây, xích lại gần đây!
Lại đây cho mẹ nhủ câu này:
Mẹ không muốn thế nhưng mà nghĩ
Bấy lâu mẹ đã nhiều đắng cay.
Kể con cũng lớn khôn rồi,
Chín suối cha con hẳn ngậm cười.
Mẹ muốn bước thêm bước nữa,
Còn đàn em nhỏ cậy con nuôi.
Con ơi! khóc suốt đêm kia,
Khóc suốt đêm qua nữa, chỉ vì...
Con mẹ có còn thương mẹ dại
Thì con gái mẹ nhận lời đi!
Mẹ cũng không mong sướng lấy mình,
Nhưng mà số phận bắt điêu linh.
Vả chăng thiên hạ nào riêng mẹ,
Gái goá qua đò uổng tiết trinh.
Mai mốt... con ơi! lấy chồng,
Chúng con coi mẹ có như không.
Khuya rồi đấy nhỉ! đi nghỉ,
Gió bấc đêm nay lạnh ngập phòng.
Thơ Việt Nam |
21888 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ch%E1%BB%9D%20mong | Chờ mong | Chờ mong như suốt đêm qua,
Chàng ơi! tháng là ba mươi ngày...
Lần lần lá rụng rồi đây,
Tơ đàn rã rợi cho tay lỗi đàn.
Tiếng đâu rào rạt rộn ràng?
Ngựa ai ai cưỡi trên ngàn lá khô.
Tiếng đâu xao động lô xô?
Xe ai ai đẩy ngang bờ giâu xanh.
Buồng hương bóng bóng mình mình,
Gió hiu hiu hắt qua mành mành hoa.
Người về chỉ những người ta,
Gió mơ hồ nhắn người ta quên về.
Nay rồi mai lại ngày kia,
Nhớ mong chờ đợi đến khi...? chàng!
Thơ Việt Nam
Lục bát |
21890 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chuy%E1%BA%BFn%20t%E1%BA%A7u%20%C4%91%C3%AAm | Chuyến tầu đêm | Gió lạnh nghe chừng đêm thấy sâu,
một chuyến đêm chạy,
Một chuyến tầu đêm chạy rất mau.
Những ánh đèn phai tựa tà,
Toa này toa khác nối liền toa...,
Chập chờn như một con lớn,
Như một oan hồn hiển hiện ra.
Tầu chạy hình như để chở buồn,
Chở người đi nhớ kẻ về thương;
Nâng bao nhiêu gót chân xinh đẹp.
Tầu chạy đêm nay có lạc đường?
Tiếng máy vang như tiếng sấm rền,
Chuyến tầu này biết có ai quen?
Biết đâu chả có vài tên bạn
Ở một ga nào vội vã lên?
Lững thững tầu đi mất nửa rồi,
Sao không dừng lại ở ga tôi,
Lấy mươi lăm phút cho tôi gửi,
Chút ít xuân xanh trả lại trời?
Mà mãi đêm nay mới nhớ ra:
Đời mình chẳng khác chuyến tầu qua.
Nhưng từ ga nhớn, từ ga nhỏ,
chẳng làm cho lấy một ga.
Tầu biết bây giờ chạy đến đâu?
Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu.
Bỏ đây một chiếc tầu kiêng đỗ;
Chở một toa nặng oán sầu.
Thơ Việt Nam |
21893 | https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%B4%20h%C3%A1i%20m%C6%A1 | Cô hái mơ | Thơ thẩn đường chiều một khách thơ
Say nhìn xa rặng núi xanh lơ
Khí trời lặng lẽ và trong trẻo
Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ
Hỡi cô con gái hái mơ già
Cô chửa về ư? Đường thì xa
Mà cái thoi ngày như sắp tắt
Hay cô ở lại về cùng ta?
Nhà ta ở dưới gốc cây dương
Cách động Hương Sơn nửa dặm đường
Có suối nước trong tuôn róc rách
Có hoa bên suối ngát đưa hương
Chả giả lời nhau lấy một lời
Cứ lặng rồi đi, rồi khuất bóng
Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi...
Thơ Việt Nam |
21895 | https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%B4%20l%C3%A1i%20%C4%91%C3%B2 | Cô lái đò | Xuân đã đem mong nhớ trở về,
Lòng cô gái ở bến sông kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước,
Trên bến cùng ai đã nặng thề.
Nhưng rồi người khách tình xuân ấy,
Đi biệt không về... với bến sông.
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi,
Mấy lần cô gái mỏi mòn trông...
Xuân này đến nữa đã ba xuân,
Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần.
Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi,
Cô đành lỗi ước với tình quân.
Bỏ thuyền, bỏ bến, bỏ dòng trong,
Cô lái đò kia đi lấy chồng.
Vắng bóng cô em từ dạo ấy,
Để buồn cho những khách sang sông...
Thơ Việt Nam |
21897 | https://vi.wikisource.org/wiki/D%C3%B2ng%20d%C6%B0%20l%E1%BB%87 | Dòng dư lệ | Gió đưa xác lá về đường,
Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời.
Sầu thương quyện lấy hồn tôi,
Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm.
Một ngàn năm, một vạn năm,
Con tằm vẫn kiếp con tằm vương tơ.
Tặng người gọi một dòng thơ,
Hay là dòng nước mắt thừa đêm qua.
Đường về Thanh Hoá bao xa?
Bao giờ ra nhớ rủ ta với! chàng!
Bảo rằng quan chẳng cho sang,
Ai đời quan cấm đò ngang bao giờ?
Vườn Thanh qua đấy năm xưa,
Trọ nhờ đêm ấy trời mưa tối trời.
Quanh lò sưởi ấm bên tôi,
Bên người lão bộc, nàng ngồi quay tơ.
Tuổi nàng năm ấy còn thơ,
Còn bao hứa hẹn đợi chờ một mai.
(Rồi đây bao gió bụi đời,
Tôi quên sao được con người vườn Thanh!)
Lạnh lùng canh lại sang canh,
Lòng tôi thao thức với tình bâng quơ.
Bởi sinh lạc kiếp giang hồ,
Dám đâu toan tính se tơ giữa đường.
Thu sang rồi thu lại sang,
Cúc bao lần nở, lá vàng bao rơi?
Bao nhiêu vật đổi sao dời,
Đường bao nhiêu dặm, hỡi người bốn phương!
Trọ bao nhiêu quán bên đường,
Nhưng không lần nữa qua vườn Thanh xưa.
Cô nàng năm ấy quay tơ,
(Tôi quên sao được!) hẳn chưa lấy chồng.
Một hôm lòng lại nhủ lòng:
Nơi đây giáp với cánh đồng vườn Thanh...
Rồi tôi len lén một mình,
Ra đi với những tâm tình hay hay.
Đường mòn tràn ngập bông may,
Gió heo báo trước một ngày thu sang.
Dừng chân trước cửa nhà nàng,
Thấy hoa vàng với bướm vàng hôn nhau.
Tìm nàng chẳng thấy nàng đâu,
Lá rơi lả tả bên lầu như mưa...
Chợt người lão bộc năm xưa,
Từ đâu mang mảnh guồng tơ lại nhà.
Một hai xin phép ông già,
Trọ nhờ đêm ấy nữa là hai đêm.
Ông già nể khách người quen,
Ngậm ngùi kể lại một thiên hận tình!
Rồi ông kết: (giọng bất bình),
"Trời cay nghiệt thế cho đành? Thưa ông,
Cô tôi nhạt cả môi hồng,
Cô tôi chết cả tấm lòng ngây thơ.
Đâu còn sống lại trong mơ,
Đâu còn sống lại bên bờ sông yêu?
Buồng the sầu sớm thương chiều,
Khóc thầm biết có bao nhiêu lệ rồi.
Tơ duyên đến thế thì thôi!
Thế là uổng cả một đời tài hoa.
Đêm đêm bên cạnh chồng già,
Và bên cạnh bóng người xa hiện về..."
Rùng mình, tôi vội gạt đi:
"Già ơi! thảm lắm! kể chi dài dòng.
Cháu từ mắc số long đong,
Yêu thương chìm tận đáy lòng đã lâu.
Đau thương qua mấy nhịp cầu,
Cạn dòng nước mắt, còn đâu khóc người..."
"Dối già một chút mà thôi,
Nghe lời già kể, cháu mười đêm luôn,
Chợt thương, chợt nhớ, chợt buồn,
Cháu như một kẻ mất hồn, già ơi!"
Chuyện xưa hồ lãng quên rồi,
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh.
Bao nhiêu oan khổ vì tình,
Cớ sao giống hệt chuyện mình gặp xưa?
Phải chăng? Mình có nên ngờ,
Rằng người năm cũ bây giờ là đây?
Thơ Việt Nam
Lục bát |
21899 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%A0n%20t%C3%B4i | Đàn tôi | Đàn tôi đứt hết dây rồi
Không người nối hộ, không người thay cho
Rì rào những buổi gieo mưa
Lòng đơn ngỡ tiếng quay tơ đằm đằm
Có cô lối xóm hàng năm
Trồng dâu tốt lá, chăn tằm hơn tơ
Năm nay biết đến bao giờ
Dâu cô tới lứa, tằm cô chín vàng?
Tơ cô óng chuốt mịn màng
Sang xin một ít cho đàn có dây
Thơ Việt Nam
Lục bát |
21901 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4i%20nh%E1%BA%A1n | Đôi nhạn | Một bông cúc nở trong vườn vắng,
Gió lạnh ngàn phương lướt thướt về.
Lá úa dần mòn rơi rụng hết,
Sương mù giăng mắc lụa lê thê.
Sông quạnh, tóc huyền buông lả lướt,
Nàng buồn đưa mắt hững hờ trông:
Một hai ba cánh buồm nâu ngả,
Biển dậy mầu xanh sóng trập trùng.
Bỗng ngang biển thẳm, ngang trời thẳm,
Một chấm đen rồi hai chấm đen.
Đôi vợ chồng son: đôi nhạn nhỏ,
Bay về tổ ấm mớm hương duyên.
Sông yêu bốn cánh chèo khoan nhặt,
Cố đẩy đò yêu đến bến yêu.
Tuy gió lạnh về, sương lạnh xuống,
Thì mùa thu lạnh biết bao nhiêu!
Môi nàng tự thuở son tô đỏ,
Chưa nở lần nào với ái ân...
Nhưng tự thuở son tô đỏ má,
Má kia nước mắt thấm bao lần.
Bởi đâu? hay bởi đôi chim nhạn,
Đã mỉa mai nàng phận lẻ loi?
Tẻ lạnh buồng hương nàng với bóng,
Ngày ngày nhìn mãi nhạn chung đôi.
Thê lương thấm mãi hồn son trẻ,
Bóng vợ chồng chim ám ảnh nàng.
Chăm chỉ người ta đan áo rét,
Lâu rồi nàng đã bẻ que đan.
Khi lẻ loi thân, khi mắt lệ,
Mải nhìn đôi nhạn luyến nhau bay.
Khi lòng là một nơi hoang đảo,
Đan áo cho ai những lúc này?
Nàng như chờ đợi, như mong ngóng
Ở mãi đâu đâu một sự gì...
Nhưng chẳng bao giờ đưa đến cả,
... Tiếng chân ngựa dẵm, lặng im nghe!
Tiếng chân ngựa dẵm trên đường sỏi...
Nghệ sĩ: anh chàng của bốn phương,
Sương xuống lạc đường, trời lạnh lắm!
Tối rồi, mưa mãi, ngựa chùn cương...
Bạn hãy cùng tôi cùng tưởng tượng,
Một gian phòng nhỏ kín then sương.
Mấy cành củi nỏ thi nhau cháy,
Than đỏ tung lên nắm bụi hường.
Những câu tâm sự, câu tâm sự...
Đã thốt ra từ miệng ái ân.
Bên đống than hồng, người khách trọ,
Má hồng như má gái đương xuân.
... Rồi một ngày sương, hai ngày sương,
Ngựa hồng chưa thấy thắng yên cương.
Ái ân làm ngắn ngày lưu luyến,
Cắt đứt bao nhiêu vạn dậm đường.
Kể từ thu ấy mỗi thu sang,
Tôi thấy nàng đan áo vội vàng;
Tôi thấy nàng nhìn đôi nhạn nhỏ,
Bằng đôi mắt đẹp của yêu đương.
Thơ Việt Nam |
21903 | https://vi.wikisource.org/wiki/Em%20v%E1%BB%9Bi%20anh | Em với anh | Lòng em như quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi.
Lòng anh như mảng bè trôi
Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều.
Lòng anh như biển sóng cồn
Chứa muôn con nước nghìn con sông dài
Lòng em như thể lá khoai
Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu
Lòng anh như hoa hướng dương
Trăm nghìn đổ lại một phương mặt trời.
Lòng em như cái con thoi
Thay bao nhiêu suốt mà thoi vẫn lành!
Thơ Việt Nam
Lục bát |
21906 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ghen%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29 | Ghen (Nguyễn Bính) | Cô nhân tình bé của tôi ơi!
Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười
Những lúc có tôi và mắt chỉ...
Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi.
Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai,
Đừng hôn, dù thấy cánh hoa tươi,
Đừng ôm gối chiếc, đêm nay ngủ...
Đừng tắm chiều nay, biển lắm người.
Tôi muốn mùi thơm của nước hoa,
Mà cô thường xức, chẳng bay xa,
Chẳng làm ngây ngất người qua lại,
Dẫu chỉ qua đường, khách lại qua.
Tôi muốn những đêm đông giá lạnh
Chiêm bao đừng lẩn quất bên cô
Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp
Một trẻ trai nào, trong giấc mơ.
Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ.
Đừng làm ẩm áo khách chưa quen.
Chân cô in vết trên đường bụi
Chẳng bước chân nào được dẫm lên.
Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi,
Thế nghĩa là yêu quá mất rồi
Và nghĩa là cô là tất cả.
Cô là tất cả của riêng tôi!
Thơ Việt Nam |
21909 | https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%E1%BB%8Dt%20n%E1%BA%BFn%20h%E1%BB%93ng | Giọt nến hồng | Giọt nến hồng gieo xuống án thư,
Ngoài nhà tiếng khách mỗi dần thưa.
Dì hai khẽ ghé tai em dặn:
“Như thế... từ nay... cháu nhớ chưa?”
Chiều ấy dì hai đã trở về,
Mình em ở lại với buồng the.
Buồng the chăn chiếu nguyên mùi mới,
Đốt nến hồng lên lại tắt đi.
Ái chà! lạnh! mùa đông...!
Lặng yên níu áo dì hai lại,
Ngủ nốt đêm nay có được không?
Thơ Việt Nam |
21911 | https://vi.wikisource.org/wiki/Gi%E1%BB%91i%20gi%C4%83ng | Giối giăng | - Sum họp đôi ta chốc bấy lâu,
Tình tôi với mợ tưởng cùng nhau
Trăm năm đầu bạc duyên còn thắm,
Tôi có ngờ đâu đến thế đâu!
Liệu tôi không sống đến ngày mai,
Mợ có thương tôi lấy một vài,
Ở lại nuôi con khôn lớn đã
Ôm cầm tôi dám tiếc thuyền ai!
Mợ còn trẻ lắm mới hai mươi,
Ở vậy sao cho trót một đời?
Tang tóc ba năm cho phải phép,
Miễn sao thiên hạ khỏi chê cười.
Để con ở lại, chọn ai người
Phải lứa vừa đôi mợ sánh đôi.
Con mợ con tôi, tôi chả muốn
Vào làm con cái của nhà ai.
Cũng chẳng hay gì gái chính chuyên,
Mợ đừng thề thốt ngộ tôi thiêng
Lẻ loi không giữ điều khôn dại,
Khôn dại chờ khi lắp ván thiên.
Mợ để tôi đi, mợ nín đi,
Còn sao được nữa? Khóc mà chi!
Bao nhiêu sầu khổ, ngần này tuổi,
Chết cũng không non yểu nỗi gì!
Con nó đâu rồi, bế lại đây!
Cho tôi nhìn nó một vài giây,
Trước khi nhắm mắt tôi thừa biết
Đời nó sau này... hẳn đắng cay!
Thơ Việt Nam |
21913 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A0%20N%E1%BB%99i%20ba%20m%C6%B0%C6%A1i%20s%C3%A1u%20ph%E1%BB%91%20ph%C6%B0%E1%BB%9Dng%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29 | Hà Nội ba mươi sáu phố phường (Nguyễn Bính) | Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
Lòng chàng có để một tơ vương.
Chàng qua chiều ấy qua chiều khác,
Góp lại đường đi, vạn dặm đường.
Nhà ấy hình như có mặt trời,
Có rừng có suối có hoa tươi;
Bao nhiêu chim lạ, bao nhiêu bướm?
Không! Có gì đâu, có một người.
Chân bước khoan khoan, lòng hỏi lòng:
- Có nên qua đấy nữa hay không?
Không nên qua đấy, nên qua đấy,
Không: Nhớ làm sao! Qua mất công.
Có một chiều kia anh chàng si
Đến đầu phố ấy bỗng ngừng đi:
- Hai bên hàng phố hình như họ...
Đi mãi đi hoài có ích chi?
Đem bao hy vọng lúc ra đi,
Chuốc lấy buồn thương lúc trở về.
Lòng mỗi lần đi lần bão táp,
Mỗi lần là một cuộc phân ly.
Chàng đau đớn lắm, môi cắn môi;
Răng cắn vào răng, lời nghẹn lời:
- Hờ hững làm sao! Mê đắm quá!
Trời ơi! Cứu vớt lấy tôi! Trời!
Chao ơi! Yêu có ông Trời cứu!
Yêu có ông Trời khoá được chân!
Chàng lại đi về qua phố ấy,
Mấy mươi lần nữa và vân vân...
Chàng đi mãi, đi đi mãi,
Đến một chiều kia, đến một chiều
Phố ấy đỏ bừng lên: ,
Yêu là như thế? Thế là yêu?
Hà Nội ba mươi sáu phố phường,
Lòng chàng đã dứt một tơ vương.
Chàng qua chiều ấy qua chiều khác....
Ô! Một người đi giữa đám tang.
Thơ Việt Nam
Hà Nội |
21915 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%B4n%20nhau%20l%E1%BA%A7n%20cu%E1%BB%91i | Hôn nhau lần cuối | Cầm tay, anh khẽ nói:
- Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi.
Rồi một, hai, ba năm,
Danh thành anh trở lại.
Với em, anh chăn tằm,
Với em, anh dệt vải.
Ta sẽ là vợ chồng.
Sẽ yêu nhau mãi mãi.
Sẽ se sợi chỉ hồng,
Sẽ hát câu ân ái.
Anh và em sẽ sống,
Trong một mái nhà tranh.
Lấy trúc thưa làm cổng,
Lấy tơ liễu làm mành.
Nghe lời anh, em hỡi!
Khóc lóc mà làm chi?
Hôn nhau một lần cuối,
Em về đi, anh đi...
Thơ Việt Nam |
21917 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%C4%83n%20h%E1%BB%93ng | Khăn hồng | Chị cho em chị chiếc khăn thêu,
Ý chị thương em khóc đã nhiều.
Khóc chị ngày xưa, giờ lại khóc,
Cho mình khi tắt một tình yêu...
Em nhớ mùa thu năm ngoái đây,
Em sang thăm chị ở hai ngàỵ
Vắng người em có thưa cùng chị:
"Em đã yêu và đã đắm say!"
Đưa ảnh người yêu cho chị xem,
(Cả thư người ấy gửi cho em).
Chị cười: "Đáng sợ là đôi mắt,
Chưa khóc bao lần đến trắng đêm.
Em cứ yêu đi thực thuỷ chung,
Yêu đi rồi chị tặng khăn hồng.
Bao giờ... vui nhỉ! Về ăn cưới,
Chắc chả như khi chị lấy chồng."
Em đi theo đuổi mãi tơ duyên,
Dò mãi lòng sông, sắm mãi thuyền.
Cho đến một hôm em mới nhớ:
"Lòng người..." Chị Trúc nhớ hay quên?
Người ta đi lấy cái giàu sang,
Rời cả keo sơn, bỏ đá vàng.
Mới nửa đời người, em đã khóc,
Hai lần hai truyện bước sang ngang.
Em đi mất tích một mùa xuân,
Đi để chôn vùi hận ái ân.
Không hiểu nghe ai mà chị biết,
Em về, chị gởi một vuông khăn.
Em đã dùng khăn chị để lau
Bao nhiêu nước mắt của u sầu.
Em còn sợ nữa mùa thu tới,
Người ấy còn đan áo nữa đâu!
Em vẫn nghe lời chị:..."thuỷ chung..."
Cho nên khăn chị vẫn phai hồng.
Đem thân về ở vườn dâu cũ,
Buồn cũng như khi chị lấy chồng.
Thơ Việt Nam |
21919 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%C3%B4ng%20%C4%91%E1%BB%81%20%28Nguy%E1%BB%85n%20B%C3%ADnh%29 | Không đề (Nguyễn Bính) | 1
Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
2
Có chiếc thuyền nằm trên cát mịn
Có đàn trâu trắng lội ngang sông
Có cô thợ ruộm về ăn Tết
Sương gió đường xa rám má hồng
3
Xóm Tây bà lão lưng còng
Có hai cô gái lấy chồng cả hai
Gió thu thở ngắn than dài
Bà đem áo rét phơi ngoài cửa thưa
4
Gió lạnh sương sa nặng hạt rồi
Thuyền ta đậu lại bến này thôi
Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ?
Nào biết về đâu, kẻ ngược xuôi?
Thơ Việt Nam |
21921 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%C3%A1%20th%C6%B0%20v%E1%BB%81%20B%E1%BA%AFc | Lá thư về Bắc | Có những đêm dài thức trắng đêm
Viết thơ riêng gửi để anh xem
Anh ơi, từ độ ta xa cách
Anh có khi nào nhớ đến em?
Nhớ buổi chia tay trên bến xe
Lòng em thắt lại lúc xe đi
Lẻ loi thân nhạn sang nam ấy
Biết có làm nên công cán gì?
Xe lửa qua Gôi, qua Ninh Bình
Lần lần xe lửa tuốt vô Thanh
Quay về đất Bắc em thầm nhủ
Nơi ấy quê ta, ôi, cảm tình!
Xe nuốt trôi đi những dặm đường
Những cồn cát trắng, những rừng hoang
Những ven biển thắm, hầm om tối
Trong bóng đêm lan, trong nắng vàng
Một buổi sớm mai đến Sài Gòn
Thân em chẳng khác con chim con
Bơ vơ trong xứ người xa lạ
Rộn những phồn hoa, em chạnh buồn
Rồi men tráng lệ châu thành ấy
Từ đấy in thêm bóng một người
Bóng một nhà thơ đầy nguyện vọng
Giầu lòng tin tưởng bước tương lai
Nhà thơ còn trẻ lắm, anh ơi
Chưa xã giao quen, chưa trải đời
Song le trường học thiên nhiên sẽ
Đào luyện nhà thơ nên một người
Quán trọ nhà thơ như chiêm bao
Khi thì Chợ Quán, khi Đa Kao
Hiện nay sống tạm bên Cầu Muối
Chưa biết mai đây ở chốn nào
Lẽo đẽo đi trong gió bụi đời
Gian nan vất vả quá anh ơi
Lắm khi thiếu cả lời an ủi
Nhưng kiếm đâu ra lấy một lời!
Thỉnh thoảng anh nên phí ít giờ
Viết cho em lấy một dòng thơ
Trời ơi, tưởng tượng em sung sướng
Được đọc thơ anh gửi bất ngờ
Viết gửi về anh, anh coi chơi
Một vài dòng ngắn thế này thôi
Để anh thấu rõ tình mong nhớ
Của đứa em anh ở cuối trời
Kỉnh thăm tất cả người thân thích
Còn chuyện phương xa, để lúc về
(Là lúc khải hoàn thân gió bụi)
Quê nhà em sẽ kể anh nghe
Thơ Việt Nam |
21923 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%C3%B2ng%20m%E1%BA%B9 | Lòng mẹ | Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không!
Nín đi, mặc áo ra chào họ
Rõ quí con tôi! Các chị trông!
Ương ương dở dở quá đi thôi!
Cô có còn thương đến chúng tôi
Thì đứng lên nào! Lau nước mắt
Mình cô làm khổ mấy mươi người
Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía
Này gương, này lược, này hoa tai
Muốn gì tôi sắm cho cô đủ
Nào đã thua ai đã kém ai?
Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái
Nuôi dạy em cô tôi đảm đương
Nhà cửa tôi coi, nợ tôi giả
Tôi còn mạnh chán! Khiến cô thương!
Ðưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi!
Con ạ! nay mình mẹ khóc
Ðêm đêm mình mẹ lại đưa thoi
Thơ Việt Nam |
21925 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%C3%B2ng%20n%C3%A0o%20d%C3%A1m%20t%C6%B0%E1%BB%9Fng | Lòng nào dám tưởng | Mẹ em như bóng nắng về chiều,
Sống được bao nhiêu biết bấy nhiêu.
Em em còn trẻ người non dạ,
Há nỡ theo anh, nỡ bỏ liều.
Lấy ai nuôi mẹ, dạy em thơ?
Anh có thương em hãy cố chờ.
Chưa trọn đạo con tròn nghĩa chị,
Lòng nào dám tưởng tới duyên tơ.
Thơ Việt Nam |
21927 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%C6%B0a%20xu%C3%A2n%20%28I%29 | Mưa xuân (I) | Em là con gái trong khung cửi
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
Lòng trẻ còn như cây lụa trắng
Mẹ già chưa bán chợ làng xa
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo: “Thôn Ðoài hát tối nay”
Lòng thấy giăng tơ một mối tình
Em ngừng thoi lại giữa tay xinh
Hình như hai má em bừng đỏ
Có lẽ là em nghĩ đến anh
Bốn bên hàng xóm đã lên đèn
Em ngửa bàn tay trước mái hiên
Mưa thấm bàn tay từng chấm lạnh
Thế nào anh ấy chả sang xem!
Em xin phép mẹ, vội vàng đi
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe
Mưa bụi nên em không ướt áo
Thôn Ðoài cách có một thôi đê
Thôn Ðoài vào đám hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả thiết xem
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em
Chờ mãi anh sang anh chả sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Ðể cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!
Mình em lầm lụi trên đường về
Có ngắn gì đâu môt dải đê!
Áo mỏng che đầu mưa nặng hạt
Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya
Em giận hờn anh cho đến sáng
Hôm sau mẹ hỏi hát trò gì
“- Thưa u họ hát...” rồi em thấy
Nước mắt tràn ra, em ngoảnh đi
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay
Hoa xoan đã nát dưới chân giày
Hội chèo làng Ðặng về ngang ngõ
Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”
Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày
Bao giờ em mới gặp anh đây?
Bao giờ chèo Ðặng đi ngang ngõ
Ðể mẹ em rằng hát tối nay?
Thơ Việt Nam |
Subsets and Splits