id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
618
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 11
513k
|
---|---|---|---|
16647 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%A5c%20V%C3%A2n%20Ti%C3%AAn%20%28b%E1%BA%A3n%20Qu%E1%BB%91c%20ng%E1%BB%AF%202082%20c%C3%A2u%29 | Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu) |
Mục lục
I
II
III
IV
Bản chữ Nôm
Vân Tiên Cổ Tích Tân Truyện - 雲僊古跡新傳
Thơ Việt Nam
Lục bát
Truyện Nôm |
16648 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%A5c%20V%C3%A2n%20Ti%C3%AAn%20%28b%E1%BA%A3n%20Qu%E1%BB%91c%20ng%E1%BB%AF%202082%20c%C3%A2u%29/I | Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu)/I | Trước đèn xem truyện Tây minh,
Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận Đông-thành,
Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành.
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao.
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân Tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội long vân,
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây,
Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa.
Làm trai trong cõi người ta,
Trước là báo bổ sau là hiển vang".
Tôn sư khi ấy luận bàn:
"Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Máy trời chẳng dám nói ra,
Xui thầy thương tớ xót xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong,
Phải toan một phép để phòng hộ thân.
Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.
Chẳng may mà gặp lúc nghèo,
Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an".
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi,
Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
Hay là bối rối việc nhà,
Hay là đức bạc hay là tài sơ?
Bấy lâu lòng những ước mơ,
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao.
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: "Vạn lý trường đồ,
Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kì ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào.
Song đường tuổi hạc đã cao,
Xin thầy nói lại âm hao con tường".
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường coi trăng.
Nhân cơ tàng sự dặn rằng:
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
Sau con cũng rõ lẽ này,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
Số con hai chữ khoa kì,
Khôi tinh đã rạng Tử-vi thêm lòa.
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan.
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng con mới nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.
Trong cơ bĩ cực thới lai,
Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn".
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn mọi lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương,
Thầy đeo đoạn thảm tớ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử-lộ quảy bầu Nhan Uyên.
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay".
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chơn.
Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
Tiên rằng: "Bớ chú cõng con!
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"
Dân rằng: "Tiểu tử là ai,
Hay là một đảng Sơn-đài theo tao?"
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời".
Dân nghe tiếng nói khoan thai,
Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua:
"Nhơn rày có đảng lâu la,
Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn Sơn-đài,
Người đều sợ nó có tài khôn đương.
Bây giờ xuống cướp thôn hương,
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi,
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn!
Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng.
E khi mắc đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.
Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình".
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao?
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này".
Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.
E khi họa hổ bất thành,
Khi không mình lại xô mình xuống hang".
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ!
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Trước gây việc dữ tại mầy,
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng".
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu tử phá vòng Đương-dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe nầy?"
Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng".
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kì?
Chẳng hay tên họ là chi,
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ này,
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra?".
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì tất tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây-xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà-khê.
Sai quân đem bức thơ về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành!
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà-khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
Vân Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi.
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Đó mà biết chữ thỉ chung,
Lựa là đây phải theo cùng làm chi".
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
"Đông-thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên".
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin".
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na:
"Vật chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ,
Lòng chê cũng phải mặt ngơ sao đành!".
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây.
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của này rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng nghĩa khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì".
Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.
Ai dè những đấng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm.
Riêng than: Trâm hỡi là trâm!
Vô duyên chi bấy ai cầm mà mơ?
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ".
Vân Tiên ngó lại rằng ừ:
"Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu".
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
"Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?"
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực này.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kì,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên họa lại một bài trao ra.
Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai.
Có câu xúc cảnh hứng hoài,
Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình!
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương,
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông!
Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an.
Hữu tình chi bấy Ngưu-lang,
Tấm lòng Chức-nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên!
Đẩy xe cho chị qua miền Hà-khê".
Trải qua dấu thỏ đường dê,
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặng vuông tròn,
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy lòng càng sanh nghi.
Hỏi rằng: "Nào trẻ tùy nhi,
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình,
Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy ngùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn:
"Lao đao phận trẻ chi sờn,
No nao trả đặng công ơn cho chàng".
Kiều công nghe nói liền can,
Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng.
Khi nào cha rảnh việc quan,
Cho quân qua đó mời chàng đến đây.
Sao sao chẳng kíp thời chầy,
Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
Hậu đường con hãy tạm lui,
Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già".
Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình.
Dời chơn ra chốn hoa đình,
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn.
Than rằng: "Lưu thủy cao sơn,
Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm.
Chữ tình càng tưởng càng thâm,
Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộng trời dài,
Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền".
Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.
Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên,
Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu".
Lục bát |
16649 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%A5c%20V%C3%A2n%20Ti%C3%AAn%20%28b%E1%BA%A3n%20Qu%E1%BB%91c%20ng%E1%BB%AF%202082%20c%C3%A2u%29/II | Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu)/II | Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra.
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
Giữa đường lại gặp người ra kinh kì,
Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
Nhớ câu bình thủy tương phùng,
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi:
"Chẳng hay danh tánh là chi,
Một mình mang gói ra đi việc gì?"
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn Minh tánh tự Ô-mi quê nhà".
Vân Tiên biết lẽ chánh tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao,
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
Kìa nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chơn một hồi...".
Cùng nhau bày họ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
Hớn Minh đi trước tựu trường,
Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.
Dám xin cha mẹ an tâm,
Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi".
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:
"Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn-giang,
Con người là Võ Thể Loan,
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.
Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia,
Con đi qua đó trao qua thơ này.
Con dầu bước đặng thang mây,
Dưới chơn đã sẵn một dây tơ hồng".
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chơn.
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân qua hè.
Lại xem dặm liễu đường hòe,
Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim nói dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm kiểng coi người,
Kiểng xinh như vẽ người tươi như dồi.
Hàn-giang phút đã tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ.
Võ công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.
Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sanh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
Những e kẻ Tấn người Tần,
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.
Xem đà đẹp đẽ hòa hai,
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng.
Công rằng: "Ngãi tế mới sang,
Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà".
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng tiểu khoa lo gì".
Công rằng: "Con dốc xuống thi,
Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
Gần đây có một họ Vương,
Tên là Tử Trực văn chương tót đời.
Cha đà sai trẻ qua mời,
Đặng con cùng gã thử chơi một bài.
Thấp cao cao thấp biết tài,
Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu".
Xảy đâu Tử Trực tới hầu,
Võ Công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con!
Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu bình thủy hữu duyên làm đề".
Song song hai gã giao kề,
Lục Vương hai họ đua nghề một khi.
Cho hay kì lại gặp kì,
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành.
Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
Thiệt trang lương đống đã đành,
Khá khen hai họ tài lành hòa hai".
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầy.
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực rày xin nhượng Tiên này làm anh.
Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau".
Phút xem trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên vào chốn thơ lầu nghỉ an.
Võ công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chơn trời,
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình.
Gọi là chút nghĩa tống tình,
Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau".
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu,
Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,
Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung.
Thưa rằng: "Quân tử phó công,
Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
Tấm lòng thương gió nhớ mưa,
Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời:
Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng.
Quản bao chút phận má hồng,
Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương,
Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng.
Xin đừng tham đó bỏ đăng,
Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.
May duyên rủi nợ dễ phô,
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần".
Thể Loan vội vã lui chơn,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Trường-an.
Xa xa vừa mấy dặm đàng,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn đều đi.
Trải qua thủy tú sơn kì,
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay.
Người hay lại gặp kiểng hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng-lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
Chữ tài chữ mạng xưa hòa ghét nhau.
Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây".
Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau".
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Phút đâu gặp bạn cố tri,
Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quận Phan-dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương-xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
Làm thơ mới biết bậc nào tài năng".
Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề".
Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu,
Trà ve tuyết điểm rượu bầu cúc hương.
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".
Bĩ bàng trà rượu đã xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi.
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ,
Cười người Tôn Tẫn không lừa.
Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên".
Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?"
Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương"
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời ngũ bá phân vân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng,
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông.
Thương thầy Nhan tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia-cát tài lành,
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tửcao xa,
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên-lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dưng lời biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".
Trực rằng: "Chùa rách phật vàng,
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu Thuấn thuở xưa,
Khó ngăn Sào Phủ khôn ngừa Hứa Do.
Di Tề chẳng khứng giúp Châu,
Một mình một núi ai hầu chi ai.
Ông Y ông Phó ôm tài,
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.
Thái công xưa một cần câu,
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi,
Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu.
Trần Đoàn chẳng chút lo âu,
Gió trăng một túi công hầu chiêm bao.
Người nay có khác xưa nào?
Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,
Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đờn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt gẫm âu nực cười".
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ lại bảy người Trước-lâm.
Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.
Rừng nhu biển thánh minh mông,
Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".
Quán rằng: "Đó biết ý đây,
Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng người tráp đầy đường,
Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ ba.
Vân Tiên vừa bước chơn ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ,
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
Hai hàng lụy ngọc nhỏ sa,
Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi há nỡ lấp đường công danh!
Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm dời.
Gắng vào trong quán an nơi,
Tớ thầy than thở liệu lời qui lai.
Tiểu đồng than vắn than dài,
Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay!
Trực rằng: "Đã đến nỗi này,
Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền.
Sớm hôm thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay,
Bây giờ kíp rước thợ may,
Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.
Dây rơm mũ bạc áo thùng,
Cứ theo trong sách Văn công mà làm".
Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì!
Trong mình không cánh không vi,
Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng.
Vào tràng phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.
Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vật đổi còn gì mà trông!"
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau!
Thương thay chín chữ cù lao.
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy nhành thiên hương.
Ai ai trông thấy cũng thương,
Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.
Dầu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại mấy lần xông pha".
Xảy đâu bạc tác vừa ra,
Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.
Thấy nhau khó nổi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương".
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm xa xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân,
Đương khi quá đói thuốc thần cũng no".
Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần".
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây.
Non xanh nước bích vui vầy,
Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".
Nói rồi quày quã ra đi,
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nồng đòi cơn:
"Nên hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành.
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.
Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bịnh nửa chừng,
Trong non khó liệu giữa rừng khôn toan".
Tiên rằng: "Khô héo lá gan,
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu!
Mịt mù nào thấy chi đâu,
Chơn đi đã mỏi mình đau như dần.
Có thân phải khổ với thân,
Thân ôi thân biết mấy lần chẳng may!"
Đồng rằng: "Trời đất có hay,
Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
Một mình nhắm trước nhắm sau,
Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang".
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng-văn.
Dắt nhau khi ấy hỏi phăn,
Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.
Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.
Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
May mà bịnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".
Ngang rằng: "Ta ở chốn nầy,
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem Y học làm đầu,
Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y.
Gẫm trong Ngân hải tinh vi,
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang.
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang,
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân.
Vị chi sẵn đặt quân thần,
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan.
Mạch thời đọc phú Lư-san,
Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sinh.
Lục quân Tứ vật thang danh.
Thập toàn Bát vị sẵn dành nội thương.
Lại thông Bát trận tân phương,
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài".
Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi".
Ngang rằng: "Lục bộ đều suy,
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng.
Cứ trong Kinh lạc mà thông,
Mạng môn tướng hỏa đã xông lên đầu.
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
Muốn cho giáng hỏa phải đầu tư âm.
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm,
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.
Ngoài thời cho điểm vạn linh,
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.
Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phúc cho chàng,
Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai".
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".
Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm,
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.
Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu?
Tiểu đồng người khá qua cầu,
Cùng ông thầy bói ở đầu Tây-viên".
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy người coi đã đầy.
Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào.
Huỳnh kim Dã hạc sách cao,
Lục nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay.
Can chi đều ở trong tay,
Đã thông trời đất lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành.
Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi?
Ứng vào rùa với cỏ thi,
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
Đồng rằng: "Người ở đông phương,
Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây"
Bói rằng: "Đinh mão năm may,
Hèn chi Giáp tí ngày rày chẳng an.
Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta".
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Một giao hai sách lại ba hào trùng.
Trang thành là quẻ lục xung,
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hóa ra làm quẻ du hồn,
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan.
Cứ trong quẻ ấy mà bàn:
"Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình.
Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho bịnh ấy đặng yên,
Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày".
Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay tiếng dậy đồn xa,
Tên là Đạo sĩ ở Trà-hương thôn".
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay!
Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
Pháp rằng: "Ấn đã cao tay,
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì.
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quì lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn duổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.
Pháp hay sái đậu thành binh,
Bện hình làm tướng phá thành Diêm Vương.
Pháp hay đạo hỏa phó thang,
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.
Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bệnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".
Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
Pháp rằng: "Có khó chi sao,
Người nằm ta chữa rối trao phù về".
Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề,
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".
Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ tọa tiền chứng miêng.
Thỉnh ông đại thánh Tề thiên,
Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây.
Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây,
Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi.
Thỉnh ông Phật tổ A-di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
Lại mời công chúa Ngũ-long,
Bình nam ngũ hổ hội đồng an dinh.
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
Cùng là tam phủ Động-đình Xích-lân.
Thỉnh trong khắp hết quỉ thần,
Cùng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
Cho người ba đạo phù trời,
Uống vào khỏe mạnh như lời chẳng sai".
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang:
"Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
Thời người khá lấy mà trao cho thầy".
Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".
Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng:
"Ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".
Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
Những lo chạy hết một trăm,
Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật còn,
Bơ vơ đất khách thon von thế này.
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau".
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt gần cầu Lá-buôn.
Đương khi mưa gió luông tuồng,
Nguời buồn lại gặp kiểng buồn khá thương!
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao!
Dầu cho tài trí bực nào,
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ,
Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chơn".
Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi".
Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại-đề.
Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đã hai rằm,
Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây".
Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?"
Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao,
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.
Một mình về trước viếng thân,
Hai người trở việc còn lần đi sau.
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Từ đây tới quận Đông-thành,
Trong mình có bịnh bộ hành sao xong.
Lần hồi đến chốn giang trung,
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".
Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này".
Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây,
Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
Phòng khi sông biển phong ba bất kì".
Tiểu đồng vội vã ra đi,
Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm dao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".
Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình!
Bấy lâu đất khách lưu linh,
Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau.
Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình!".
Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
Tôi xin đưa tới Đông-thành thời thôi".
Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
"Phận mình đã mắc tai nàn,
Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
Xiết bao những nỗi dật dờ,
Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chơn cùng!".
Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.
Sơn quân ghé lại một bên,
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.
Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.
Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
"Bữa qua có thấy người tang chăng là?"
Quán rằng: "Thôi đã ra ma,
Khi mai làng xóm người đà đi chôn".
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".
Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy,
Chẳng hay người thác mả này là ai?"
Người rằng: "Một gã con trai,
Ở đâu không biết lạc loài đến đây.
Chơn tay mặt mũi tốt thay,
Đau chi nên nỗi nước này khá thương".
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi!
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại-đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quải đơm.
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.
Thứ này đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.
Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ.
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chơn tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: "Người ở cùng ta.
Hôm mai hẩm hút với già cho vui".
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,
Thân tôi như thể trái mùi trên cây.
May đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm,
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn-giang."
Tiên rằng: "Vậy cũng một làng,
Võ công người ở gần đàng đây chăng?"
Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,
Khói ba khúc vịnh thì lần đến nơi."
Tiên rằng: "Xưa đã gá lời,
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạo tào khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
Trăm năm muốn trọn ân tình,
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử ơn sâu,
Xin đem tới đó trước sau cho tròn."
Ngư rằng: "Làm đạo rể con,
Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim.
Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa.
E khi chậm bước tới trưa,
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
Mấy ai ở đặng hảo tâm,
Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi.
Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giàu.
Đã ba thứ tóc trên đầu,
Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".
Vân Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông chẳng đã tách vời đưa sang.
Dắt Tiên vào chốn hậu đàng,
Võ công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
Chẳng qua sợ thế gian cười,
Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa!
Ngư ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn".
Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,
Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng.
Nhớ xưa trong núi Lư-san,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên.
Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,
Giúp người Hạng Võ qua miền Ô-giang.
Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn".
Một lời gắng giúp keo sơn,
Ngư ông từ giã lui chơn xuống thuyền.
Võ công khôn ngớt lòng phiền,
Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay.
Dạy Tiên: "Ngươi hãy ngồi đây,
Cho ta trở lại sau này liệu toan".
Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang,
Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?
Mặc con toan liệu làm sao,
Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".
Loan rằng: "Gót đỏ như son,
Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn?
Ai cho sen muống một bồn,
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê?
Thà không trót chịu một bề,
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu.
Dốc lòng chờ đợi danh nhu,
Rể đâu có rể đui mù thể ni.
Đã nghe người nói hội này,
Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa.
Ta dầu muốn kết sui gia,
Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh".
Công rằng: "Muốn trọn việc mình,
Phải toan một chước dứt tình mới xong.
Nghe rằng: trong núi Thương-tòng,
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
Đông-thành ngàn dặm còn xa,
Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".
Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than.
Võ công ra trước dỗ chàng:
"Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông-thành".
Ra đi đương lúc tam canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa.
Tiên rằng: "Các chú đưa ta,
Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.
Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".
Lặng nghe vẳng tiếng hai bên,
Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
Vân Tiên khi ấy hãi hùng,
Nghĩ ra mới biết Võ công hại mình.
Nực cười con tạo trớ trinh,
Chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao.
Ngẫm mình tai nạn biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo.
Trong hang sau trước quạnh hiu,
Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.
Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Đã đành xa cõi nhơn gian,
Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi lò,
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng.
Năm ngày chịu đói khát ròng,
Nhờ ba huờn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Du thần xem thấy ai hoài,
Xét trong mình gã có bài phù tiên.
Mới hay là Lục Vân Tiên.
Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra.
Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.
Du thần trở lại sơn trung,
Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.
Lão tiều cơm gói sẵn sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới đường đại lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.
Hay là yêu quái tà gian,
Rung cây nhát lão làm đuờng hại nhân.
Lão tiều liền bước lại gần,
Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn.
Chi bằng lên tiếng hỏi han:
"Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"
Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau.
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:
"Ít người trong tuyết đưa than,
Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương".
Vân Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay:
"Ngửa trông lượng cả cao dày,
Cứu trong một buổi ơn tày tái sanh.
Mai sau về tới Đông-thành,
Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".
Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,
Làm ơn mà lại trông người sao hay?
Già hay thương kẻ thảo ngay,
Này thôi để lão dắt ngay về nhà".
Tiên rằng. "Trong dạ xót xa,
Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi.
Lại thêm rũ liệt tứ chi,
Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".
Lão tiều vội ngửa áo tơi,
Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,
Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".
Khỏi rừng ra tới ngã ba,
May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.
Lão tiều lật đật bôn trình,
Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi.
Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh,
Cớ sao nên nỗi thân hình thể ni?"
Tiên ràng: "Chẳng xiết nói chi,
Thân này nào có khác gì cây trôi.
Linh đinh gió dập sóng dồi,
Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
Minh rằng: "Đây khó hỏi han,
Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau."
Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu.
Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
Hớn Minh quỳ gối lạy liền:
"Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành.
Này hai lượng bạc trong mình,
Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".
Tiều rằng: "Vốn lão tình không,
Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quý mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày".
Vân Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
Lão tiều trở lại lâm sơn,
Tiên Minh hai gã đều hoàn am mây.
Tiên rằng: "Đã gặp khoa này,
Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?"
Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi,
Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.
Anh thời về trước tỉnh thân.
Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.
Đi vừa tới huyện Loan-minh,
Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.
Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì.
Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
Mình làm nỡ để ai lo,
Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.
Án đày ra quận Sóc-phang,
Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây.
Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".
Vân Tiên nghe nói thảm thương,
Lại bày một khúc tai ương phận mình.
Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thương cội xuân huyên,
Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
Trông con như hạn trông dào,
Mình này trôi nổi phương nào biết đâu.
Vầng mây giăng bạc trên đầu,
Ba năm chưa trọn một câu sanh thành.
Hữu tam bất hiếu đã đành,
Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
Tưởng thôi như cắt ruột gan,
Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần".
Minh rằng: "Người ở trong trần,
Có khi phú quí có lần gian nan.
Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê.
Thôi thôi anh chớ vội về,
Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.
Bao giờ hết lúc tai nàn,
Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
Cam La sớm gặp cũng xinh,
Muộn mà Khương tử cũng vinh một đời.
Nên hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong".
Vân Tiên khi ấy an lòng,
Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.
Võ công làm việc trớ trinh,
Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
Ngày ngày trang điểm phấn dồi,
Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử Trực vừa về,
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.
Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,
Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền xa chơi.
Thương chàng phận bạc trong đời,
Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng".
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa,
Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.
Trời sao nỡ phụ tài lành,
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.
Cùng nhau chưa đặng vuông tròn.
Người đà sớm thác ta còn làm chi?
Trong đời mấy bực cố tri,
Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm?".
Công rằng: "Ta cũng thương thầm,
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang.
Thôi thôi khuyên chớ thở than,
Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
Tới đây thời ở lại đây,
Cùng con gái lão sum vầy thất gia.
Phòng khi hôm sớm vào ra,
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên".
Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên,
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?
Hay là học thói nước Tề,
Vợ người tử Củ đưa về Hoàn công.
Hay là học thói Đường cung,
Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?
Người nay nào phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao?"
Võ công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể Loan trong cửa bước ra,
Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.
Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
Chẳng ưng thời cũng làm khuây,
Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng?".
Trực rằng: "Ái Lữ Phụng-tiên,
Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi?
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa?
Hổ hang vậy cũng người ta,
So loài cầm thú vậy mà khác chi?
Vân Tiên anh hỡi cố tri,
Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông-thành.
Võ công hổ thẹn trong mình,
Năm ngày nhuốm bịnh thất tình chết oan.
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang,
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.
Lục bát |
16650 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%A5c%20V%C3%A2n%20Ti%C3%AAn%20%28b%E1%BA%A3n%20Qu%E1%BB%91c%20ng%E1%BB%AF%202082%20c%C3%A2u%29/III | Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu)/III | Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga,
Hà-khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều công lên chức thái khanh,
Chỉ sai ra huyện Đông-thành chăn dân.
Ra tờ khắp hết xa gần,
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi.
Khiến quân đem bức thư mời,
Lục ông vưng lịnh tới nơi dinh tiền.
Kiều công hỏi chuyện Vân Tiên,
Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
Thưa rằng: "Nghe tiếng đồn vang,
Con tôi nhuốm bịnh giữa đàng bỏ thây.
Biệt tin từ ấy nhẫn nay,
Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang!"
Kiều công trong dạ bàng hoàng,
Trở vào nói lại với nàng Nguyệt Nga:
"Lục ông nói lại cùng cha.
Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo.
Riêng than chút phận tơ điều,
Hán-giang chưa gặp Ô-kiều lại rơi".
Nàng rằng: "Phải thiệt như lời,
Xin cha sai kẻ mời người vào trong".
Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng,
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa,
Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn".
Lục ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chơn mặt mũi giống in con mình.
Chuyện trò sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự tình mới hay:
"Thương con phận bạc lắm thay,
Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?"
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng:
"Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
Người đời như bóng phù du,
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng.
Cũng chưa đồng tịch đồng sàng,
Cũng chưa nên nghĩa tào khang đâu mà!
Cũng như cửa sổ ngựa qua,
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền".
Nàng rằng: "Trước đã trọn nguyền,
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ".
Công rằng: Chút nặng tình xưa,
Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi?
Ngỡ là con trẻ mất đi,
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này.
Bây giờ con lại thấy đây,
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào?
Ngửa trông đất rộng trời cao,
Tre còn măng mất lẽ nào cho cân!"
Lục ông từ tạ lui chân,
Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang.
Nguyệt Nga nhuốm bịnh thở than,
Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng:
"Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu.
Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ôi là trời.
Thề xưa tạc dạ ghi lời,
Thương người quân tử biết đời nào phai.
Tiếc thay một đấng anh tài,
Việc văn việc võ nào ai dám bì?
Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu!
Thương vì hai tám tuổi đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương vì chẳng đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,
Vùa hương bát nước ai dành ngày sau.
Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là?"
Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay.
Đờn cầm ai nỡ dứt dây,
Chẳng qua con tạo đổi xây không thường"
Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
Khi không gãy gánh giữa đường chẳng hay.
Nay đã loan phụng lẽ bầy,
Nệm nghiêng gối chích phận này đã cam.
Trăm năm thề chẳng lòng phàm,
Sông Ngân đưa bạn cầu Lam rước người.
Thân con còn đứng giữa trời,
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi".
Kiều công trong dạ chẳng vui:
"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.
Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người mai chước kết đàng sui gia.
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
Lễ nghi đưa lại về nhà thái sư.
Thái sư chẳng biết rộng suy,
Đem điều oán hận sớm ghi vào lòng.
Xảy đâu giặc mọi hành hung,
Ô-qua quốc hiệu binh nhung dấy loàn.
Đánh vào tới ải Đồng-quan,
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần:
"Sao cho vững nước an dân,
Các quan ai biết mưu thần bày ra?"
Thái sư nhớ việc cừu nhà,
Vội vàng quì xuống tâu qua ngai vàng:
"Thuở xưa giặc mọi dấy loàn,
Vì ham sắc tốt phá tàn Trung-hoa.
Muốn cho khỏi giặc Ô-qua,
Đưa con gái tốt giao hòa thời xong.
Nguyệt Nga là gái Kiều công,
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
Nàng đà có sắc khuynh thành,
Lại thêm rất bực tài tình hào hoa.
Đưa nàng về nước Ô-qua,
Phiên vương ưng dạ ắt là bãi binh".
Sở vương nghe tấu thuận tình,
Châu phê dạy sứ ra dinh Đông-thành.
Sắc phong Kiều lão thái khanh:
"Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi,
Nguyệt Nga nàng ấy nên người,
Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ".
Kiều công vâng lịnh nhà vua,
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào.
Nguyệt Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
Thất tình trâm nọ biếng cài,
Dựa mình bỏ xả tóc dài ngồi lo:
"Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên.
Hạnh Ngươn xưa cũng chẳng yên,
Bởi chưng Lư Kỉ cựu hiềm còn ghi.
Hai nàng chẳng đã phải đi,
Một vì ngay chúa một vì thảo cha.
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh.
Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì-linh,
Thương người Lương Ngọc duyên lành phôi pha.
Tới nay phận bạc là ta,
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ nghĩa quân thần,
Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên.
Nghĩa tình nặng cả hai bên,
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
Sao sao một thác thời xong,
Lấy mình báo chúa lấy mình sự phu".
Kiều công nương gối đang lo,
Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.
Kêu vào ngồi dựa trướng tiền,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh:
"Chẳng qua là việc triều đình,
Nào cha có muốn ép tình chi con".
Nàng rằng: "Con kể chi con,
Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
Thương cha tuổi tác đã cao,
E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
Tuổi già bóng xế nhành dâu,
Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?"
Công rằng: "Chẳng sá việc nhà,
Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
Hôm nay đã tới mồng mười,
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành".
Nàng rằng: "Việc ấy đã đành,
Còn lo hai chữ ân tình chưa xong.
Con xin sang lạy Lục ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền,
Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau".
Kiều công biết nghĩ trước sau,
Dạy cho tiền bạc cấp hầu đưa đi.
Lục ông ra rước một khi,
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
Ngày lành giờ ngọ đăng đàn,
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
"Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay!"
Bảy ngày rồi việc làm chay,
Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
"Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.
Rày vua gả thiếp về Phiên,
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
Chẳng chi cũng gọi là dâu,
Muốn lo việc nước phải âu đạo nhà.
Một ngày một bước một xa,
Của này để lại cho cha dưỡng già".
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.
Các quan xe giá bộn bề,
Năm mươi thể nữ hầu kề chơn tay.
Hai mươi nay đã đến ngày,
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
Công rằng: "Thật dạ xót xa,
Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu".
Nàng rằng: "Non nước cao sâu,
Từ đây xa cách khôn hầu thấy cha.
Thân con về nước Ô-qua,
Đã đành một nỗi làm ma đất người.
Hai phương nam bắc cách vời,
Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha".
Kiều công lụy ngọc nhỏ sa,
Các quan ai nấy cũng là đều thương.
Chẳng qua việc ở quân vương,
Cho nên phụ tử hai đường xa xuôi.
Buồm trương thuyền vội tách vời,
Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông.
Mười ngày đã tới ải Đồng,
mông biển rộng đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ,
Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
Than rằng: "Nọ nước kìa non,
Kiểng thời thấy đó người còn về đâu?"
Quân hầu đều ngủ đã lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một mình:
"Vắng người có bóng trăng thanh,
Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
Vân Tiên anh hỡi có hay?
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng".
Than rồi lấy tượng vai mang,
Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.
Kim Liên thức dậy mới hay,
Cùng quân thể nữ một bầy đều lo.
Cùng nhau lặng chẳng dám hô,
Thầm toan mưu kế chẳng cho lậu tình:
"Việc này là việc triều đình,
Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan.
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng,
Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.
Trá hôn về nước Ô-qua,
Ai mà vạch lá ai mà tìm sâu?"
Tính rồi xong xả chước mầu,
Phút nghe thuyền đã đến đầu ải quan.
Đốc quan xe giá sửa sang,
Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.
Nào hay tì tất Kim Liên,
Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời.
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,
Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung.
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay?
Quan-âm thương đấng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.
Dặn rằng: "Nàng hỡi Nguyệt Nga!
Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày.
Đôi ba năm nữa gần đây,
Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi".
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,
Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.
Nên hư chưa biết làm sao,
Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân?
Một mình luống những bâng khuâng,
Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông.
Một mình mang bức tượng chồng,
Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.
Ông rằng: "Nàng ở hà phương,
Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?"
Nàng rằng: "Trận gió hôm qua,
Chìm thuyền đến nỗi mình ra thế này.
Tối tăm sẩy bước tới đây,
Xin soi xét tới thơ ngây lạc đàng".
Bùi ông đứng nhắm tướng nàng,
Chẳng trang đài các cũng hàng trâm anh.
Đầu đuôi han hỏi sự tình,
Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.
Bùi ông mừng rước về nhà,
Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con.
Rằng: "Ta sanh đặng chồi non,
Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinh.
Trong nhà không gái hậu sinh,
Ngày nay đặng gặp minh linh phước trời".
Nguyệt Nga ở đã an nơi,
Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa.
Một lo về nước Ô-qua,
E vua bắt tội cha già rất oan.
Hai lo phận gái hồng nhan,
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì:
Nguyệt Nga luống những sầu bi,
Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga,
Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần.
Thấy nàng thờ bức tượng nhân,
Nghiệm trong tình ý dần lân hỏi liền:
"Tượng này sao giống Vân Tiên?
Bấy lâu thờ có linh thiêng đều gì?"
Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi,
Một câu chánh tiết phải ghi vào lòng.
Trăm năm cho vẹn đạo tòng,
Sống sao thác vậy một chồng mà thôi".
Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi,
Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa?
Làm người trong cõi gió mưa,
Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào.
Chúa xuân còn ở vườn đào,
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần.
Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang.
Ở đời ai cậy giàu sang,
Ba xuân mòn hết, ngàn vàng khôn mua.
Hay chi như vãi ở chùa,
Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh.
Linh đinh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước biết mình vào đâu?
Ai từng mặc áo không bâu,
Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau?
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,
Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình".
Nàng rằng: "Xưa học sử kinh,
Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.
Chẳng phen thói nước Trịnh đâu,
Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình".
Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh,
Sao không soi xét để mình ngồi không.
Hồ-dương xưa mới góa chồng,
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa.
Hạ Cơ lớn nhỏ đều ưa,
Sớm đưa Doãn Phủ, tối ngừa Trần quân.
Hớn xưa Lữ hậu thanh xuân,
Còn vừa Cao tổ mấy đành Dị Ki.
Đường xưa Võ Hậu thiệt gì,
Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già.
Cứ trong sách vở nói ra,
Một đời sung sướng cũng qua một đời.
Ai ai cũng ở trong trời,
Chính chuyên trắc nết chết thời cũng ma.
Người ta chẳng lấy người ta,
Người ta đâu lấy những là tượng nhân?
Cho nên tiếc phận hồng nhan,
Học đời Như Ý vẽ chàng Văn Quân".
Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân,
Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi.
Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình:
"Làm người chấp nhứt sao đành,
Hễ là lịch sự có kinh có quyền.
Tới đây duyên đã bén duyên,
Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai?
Nhớ câu: Xuân bất tái lai,
Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn.
Làm chi thiệt phận hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng.
Vọng phu xưa cũng trông chồng,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.
Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi".
Nguyệt Nga giả dạng mừng vui,
Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy.
Tôi xin dám gởi lời này,
Hãy tua châm chậm sẽ vầy nhơn duyên.
Tôi xin lạy tạ Vân Tiên,
Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung".
Cha con thấy nói mừng lòng,
Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.
Chiếu hoa gối sách bộn bề,
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra.
Xảy vừa tới lúc canh ba,
Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ.
Dán trong vách phấn một tờ,
Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi.
Hai bên bờ bụi rậm rì,
Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ.
Lạ chừng đường sá bơ vơ,
Có bầy đôm đốm sáng nhờ đi theo.
Qua truông rồi lại lên đèo,
Dế kêu giắng giỏi sương gieo lạnh lùng.
Giày sành đạp sỏi thẳng xông,
Vừa may trời đã vừng đông lố đầu.
Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,
Tìm nơi bàn thạch ngỏ hầu nghỉ chưn.
Người ngay trời phật cũng vưng,
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,
Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta.
Khi khuya nằm thấy Phật bà,
Người đà mách bảo nên già tới đây".
Nguyệt Nga bán tín bán nghi,
Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà.
Bước vào thấy những đàn bà,
Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.
Nguyệt Nga đành dạ ở rồi,
Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào.
Hỏi thăm ra chốn Ô-sào,
Quan san mấy dặm đi vào tới nơi!
Lục bát |
16651 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%A5c%20V%C3%A2n%20Ti%C3%AAn%20%28b%E1%BA%A3n%20Qu%E1%BB%91c%20ng%E1%BB%AF%202082%20c%C3%A2u%29/IV | Lục Vân Tiên (bản Quốc ngữ 2082 câu)/IV | Đoạn này tới thứ ra đời,
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bịnh đường xa,
Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,
Đã đành hai chữ quy y chùa này".
Tiên rằng: "Phước gặp khoa này,
Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau,
Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên.
Lúc hư còn có lúc nên,
Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay".
Hớn Minh trở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè con sống trên đời thấy cha.
Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Kể đã mấy năm,
Con mang tật bịnh ăn nằm nơi nao?"
Thưa rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an?"
Đặt bày lễ vật nghiêm trang,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh:
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bề nguồn nước cội cây,
Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng.
Suy trang nằm giá khóc măng,
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa".
Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề,
Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
Đặng con đến đó đáp câu ân tình".
Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên.
"Kiều công rày ở Tây-xuyên,
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra".
Tiên rằng: "Cám nghĩa Nguyệt Nga
Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng".
Tây-xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt Kiều công khóc liền:
"Nguyệt Nga rày ở nước Phiên,
Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng.
Mấy thu Hồ Việt đôi phang,
Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lại thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành?
Hẹp hòi đặng chút nữ sanh,
Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn".
Nói rồi lụy nhỏ đôi cơn,
"Cũng vì một sự oán hờn nên gây.
Thôi con ở lại bên này,
Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già".
Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì,
Năm sau lịnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra.
Vân Tiên dự trúng khôi khoa,
Đương trong nhâm tý thiệt là năm nay.
Nhớ lời thầy nói thật hay,
Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh.
Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô-qua,
Phủ vây quan ải binh ba bốn ngàn.
Sở Vương phán trước ngai vàng,
Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong.
Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh.
Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
Ngày xưa mắc án trốn di,
Phải về nương náu từ bi ẩn mình".
Sở Vương phán trước triều đình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó tướng bình di,
Tiên Minh tương hội xiết gì mừng vui.
Nhứt thinh phấn phát oai lôi,
Tiên phuông hậu tập trống hồi tấn binh.
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô-qua.
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
Phút đâu binh đáo quan thành,
Ô-qua xem thấy xuất hành cự đang.
Tướng Phiên hai gã đường đường,
Một chàng Hỏa Hổ một chàng Thần Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hỏa Hổ Thần Long một hồi.
Hớn Minh chùy giáng dường lôi,
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô.
Một mình lướt trận xông vô,
Thấy người Cốt Đột biến hô yêu tà.
Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan.
Phép tà Cốt Đột hết phang,
Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
Trung tiên tả hữu lưỡng biên,
Trạng nguyên Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa kịp rày đuổi theo.
Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao.
Chạy ngang qua núi Ô-sào,
Phút đâu con ngựa sa hào thương ôi!
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đường núi phút đà tam canh.
Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.
Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi,
Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi:
"Quan-âm thuở trước nói chi,
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đà đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.
Khôn trông mồng bảy đêm thu,
Khôn trông bầy quạ đội cầu đưa sao.
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau".
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng".
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão bà lật đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
Vân Tiên mới nói sự tình:
"Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô-qua,
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây".
Lão bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già".
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sanh nghi.
Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tánh danh cho tường".
Lão bà chẳng dám lời gian:
"Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Tiên rằng: "Nàng xách lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng: "Sao nàng chẳng nói đi,
Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
Nguyệt Nga khép nép thưa qua:
"Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đà về chốn cửu tuyền,
Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió trăng".
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn:
"Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi?"
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Để lời thệ hải minh sơn,
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ,
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng: "Đã thiệt tên ngài.
Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua".
Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc òa như mưa
Ân tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xảy nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Minh rằng: "Tẩu tẩu ở đâu,
Cho em ra mắt chị dâu thể nào?"
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã sang miền Ô-qua.
May đâu sum hiệp một nhà,
Giặc đà an giặc khải ca hồi trào".
Tiên rằng: "Nàng tính thể nào?"
Nàng rằng: "Anh hãy về trào tâu lên.
Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
Lịnh tha tội trước mới nên về nhà".
Trạng nguyên từ giã lão bà,
Dặn dò gởi lại Nguyệt Nga ít ngày:
"Tôi về đem bức tượng này,
Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà".
Tiên Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại trào ca đề huề.
Sở Vương nghe trạng nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
Sở Vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay đà trừ Cốt Đột xong,
Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
Phải chi trước có trạng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ".
Lệnh truyền mở yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng,
Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu".
Thái sư trước bệ quì tâu:
"Ô-qua dấy động qua mâu cũng vì
Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân".
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng:
"Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa,
Thái sư trước chẳng lo lừa,
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng,
Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
Ngay gian sao cũng có trời,
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan".
Trạng nguyên tâu trước trào đàng:
"Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
Trịnh Hâm là đứa gian tà,
Hại tôi buổi trước cũng đà ghê phen".
Sở Vương phán trước bệ tiền:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi.
Vậy cũng đạo chúa nghĩa tôi,
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng.
Hớn xưa có gã Đổng công,
Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay có khác nào người xưa.
Thấy người trung chánh chẳng ưa,
Rắp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
Ấy là mới hết người sau gian tà".
Sở vương phán trước trào ca:
"Thái sư cách chức về nhà làm dân.
Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông-thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã bình,
Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà".
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào: "Các anh!".
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh?
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan".
Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi.
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dầu cho có sống làm gì nên thân?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng cố nhân,
Vốn em mới dại một lần xin dung".
Trạng rằng: "Hễ đấng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi".
Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
Vội vàng cúi lạy chơn lui ra về.
Còn người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
Hớn Minh Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc trạng kịp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông-thành.
Võng điều gươm bạc lọng xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần.
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
Của đi khuyên giáo mấy năm,
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ thẩn vào ra Đại-đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng:
"Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
Thỏa tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay?"
Đọc văn nhớ tới châu mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
Người ngay trời phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.
Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
"Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì?
Ông nào mất xuống âm ti,
Ông nào còn sống nay thì làm quan?"
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng:
"Phải người đồng tử mắc nàn chốn ni?"
Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn.
Ai dè còn thấy bổn quan,
Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum hiệp tại nơi Đại-đề.
Đoạn thôi xe giá ra về,
Tuần dư phút đã gần kề Hàn-giang.
Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
Mẹ con những mảng lo âu;
"Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,
Phải ra đón rước lộ trình họa may".
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng: "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa.
Dầu người còn nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.
Nay đà tới thứ trạng nguyên,
Hàn-giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng châu báu áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều,
Ngư tiều nay đặng danh biêu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng trạng nguyên.
Võ công đã xuống huỳnh tuyền,
Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này".
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy.
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi".
Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
Cười rằng: "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
Ca ca sao chẳng chịu đi,
Về cho tẩu tẩu để khi xách giày".
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy chơn rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết ngãi sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.
Trạng nguyên về tới Đông-thành
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sanh con sau nối gót lân đời đời.
Lục bát |
16652 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BB%A5c%20V%C3%A2n%20Ti%C3%AAn%20%28b%E1%BA%A3n%20N%C3%B4m%201916%29 | Lục Vân Tiên (bản Nôm 1916) |
Mục lục
I
II
III
IV
Bản chữ Nôm
Vân Tiên Cổ Tích Tân Truyện - 雲僊古跡新傳
Thơ Việt Nam
Lục bát
Truyện Nôm |
16674 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90i%20s%E1%BB%A9%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Ph%C3%A1p%20%28T%C3%B4n%20Th%E1%BB%8D%20T%C6%B0%E1%BB%9Dng%29 | Đi sứ nước Pháp (Tôn Thọ Tường) | Múa gươm, quăng chén cất mình đi,
Bịn rịn đâu màng thói nữ-nhi.
Mây khói một màu thuyền thoát-thoát!
Biển trời muôn dặm núi ti-ti.
Phương xa xe ngựa lừa đi đến;
Nước cũ non sông ngóng lúc về.
Tên cỏ cung dâu là chí trẻ,
Danh mà chi đó, lợi mà chi?
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16678 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%B1%20thu%E1%BA%ADt%20%28m%C6%B0%E1%BB%9Di%20b%C3%A0i%20li%C3%AAn%20ho%C3%A0n%29 | Tự thuật (mười bài liên hoàn) |
I
Giang-san ba tỉnh hãy còn đây;
Trời đất xui chi đến nỗi này?
Chớp nhoáng thẳng bon dây thép kéo;
Mây tuôn đen kịt khói tàu bay.
Xăng-văng chậm tính, thương đòi chỗ;
Khấp-khởi riêng lo, biết những ngày.
Miệng cọp, hàm rồng, chưa dễ chọc,
Khuyên đàn con trẻ chớ thày lay.
II
Thày lau lại chác lấy danh nhơ
Ai mượn mình lo việc bá vơ
Trẻ dại giếng sâu lòng chẳng nỡ
Đường xa ngày tối tuổi không chờ
Ái xiêm chán thấy xăn tay thợ
Xe ngựa nào toan gỡ nước cờ
Rủi rủi may may đâu đã chắc
Miệng lằn lưỡi mối hãy tai ngơ.
III
IV
V
VI
VII
VIII
IX
Kể mấy mươi năm lễ văn,
Trời đà xui thế, thiết khôn ngăn.
Bốn đời chung đội ơn nuôi dạy;
Ba tỉnh riêng lo việc ở ăn.
Hết sức người theo trời chẳng kịp,
Hoài công chim lấp biển khôn bằng.
vậy, thôi thì chớ...
Nhắm mắt đưa chân, lỗi đạo hằng?
X
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16680 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C3%A2n%20th%E1%BA%BF%20n%C3%A0ng%20Ki%E1%BB%81u | Thân thế nàng Kiều | Mười mấy năm trời xong,
Sông Tiền-đường đục hóa trong.
Mảnh duyên bình lãng còn nong-nả,
Chút phận tang-thương lắm ngại-ngùng.
Chữ hiếu ít nhiều, trời đất biết;
Gánh tình nặng nhẹ, chị em chung.
thiên cổ thương mà trách:
Chẳng trách chi Kiều, trách Hóa-công.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16690 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BA%A1i%20g%E1%BA%B7p%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20quen | Lại gặp người quen | Hốt ức lục thất niên tiền sự,
忽 憶 六 七 年 前 事
chưa hương nguyền.
bây giờ lại gặp người quen,
Nỗi lưu-lạc sự ghét-ghen là thế .
Thiếp tự thân khinh, lang vị khí,
妾 自 身 輕 郎 未 棄
Thần tuy tội trọng, đế do liên.
臣 雖 罪 重 帝 猶 憐
chi mà tủi phận, hờn duyên,
Để son phấn khúc-khích.
Ý-trung-nhân khả tình tương bạch,
意 中 人 可 情 相 白
Thôi bút nghiên, phách cũng đều sai.
nhau cười.
Hát nói |
16692 | https://vi.wikisource.org/wiki/G%E1%BA%B7p%20c%C3%B4%20%C4%91%E1%BA%A7u%20c%C5%A9 | Gặp cô đầu cũ | Hồng, Hồng, Tuyết, Tuyết,
Mới ngày nào chi chi.
Mười lăm năm thấm-thoắt có gì!
, đã kỳ tơ-liễu.
Ngã lãng du thời quân thượng thiếu;
我 浪 遊 時 君 尚 少
Quân kim hứa giá, ngã thành ông.
君 今 許 嫁 我 成 翁
Cười cười nói nói ,
Mà chừng ái ngại.
Riêng một thú Thanh đi lại,
ngây-ngây dại-dại với tình.
Đàn ai một tiếng dương tranh?
Hát nói |
16696 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ki%E1%BB%81u%20m%E1%BA%AFc%20l%E1%BA%ADn%20S%E1%BB%9F%20Khanh | Kiều mắc lận Sở Khanh | Những nghĩ chim lồng chắp cánh bay,
khi phận rủi hồi may.
Làng nho người cũng coi ra vẻ;
ai ngờ mắc phải tay.
Hai chữ tin trao gác nguyệt;
Một roi vó tếch đường mây.
Mẫu đơn vùi-vập cơn mưa gió,
Cái nợ yên-hoa khéo đọa đày.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16698 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C3%BAc%20Sinh%20v%E1%BB%81%20th%C4%83m%20Ho%E1%BA%A1n%20Th%C6%B0 | Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư | Trong nửa năm trời mới bén hơi,
Hồ vui sum họp, lại xa khơi.
Chén đưa lòng những băn-khoăn nỗi;
Dặm thẳng lòng còn lẩn-quất nơi.
Nước lã ra chừng coi cũng ;
Bồ-hòn hầu dễ ngậm làm tươi.
Ghê cho cái gái tay đanh-đá;
càng thêm vẻ nói cười.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16700 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%95ng%20v%E1%BB%8Bnh%20Truy%E1%BB%87n%20Ki%E1%BB%81u%20%28Chu%20M%E1%BA%A1nh%20Trinh%29 | Tổng vịnh Truyện Kiều (Chu Mạnh Trinh) | Cuốn ngỏ rèm xuân trải mấy sương,
Sắc tài chi lắm để làm gương.
Công cha bao quản liều thân thiếp;
Sự nước xui nên phụ với chàng.
Cung oán nỉ-non đàn bạc mệnh,
Duyên may dun giủi lưới Tiền-đường.
Hai bên vẹn cả tình cùng hiếu,
Đem bắc đồng cân đáng mấy vàng.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16708 | https://vi.wikisource.org/wiki/Phong%20c%E1%BA%A3nh%20H%C6%B0%C6%A1ng%20S%C6%A1n | Phong cảnh Hương Sơn | Bầu trời, cảnh ,
Thú Hương-sơn ao ước bấy lâu nay!
Kìa non non, nước nước, mây mây,
« Đệ nhất động », hỏi đây phải?
Thỏ-thẻ rừng mai chim cúng trái;
Lửng-lơ khe cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang-hải giật mình trong giấc mộng!
Này suối Giải oan, này chùa Cửa võng,
Này Phật-tích, này động Tuyết-.
Nhác trông lên, ai khéo :
Đá ngũ sắc long-lanh như gấm dệt.
Thăm-thẳm một hang lồng bóng nguyệt,
Gập-ghềnh lối uốn thang mây.
giang-sơn còn đợi ai đây?
Hay tạo-hóa ra tay -đặt?
Lần tràng-hạt, niệm: Nam-vô Phật!
Cửa từ-bi công-đức là bao.
Càng trông, phong-cảnh càng yêu.
Hát nói |
16711 | https://vi.wikisource.org/wiki/Than%20th%C3%A2n%20%28Tr%E1%BA%A7n%20T%E1%BA%BF%20X%C6%B0%C6%A1ng%29 | Than thân (Trần Tế Xương) | Kể đã ba mươi mấy tuổi rồi,
Tôi ngồi tôi nghĩ cái thằng tôi.
Mấy khoa hương-thí không đâu cả;
Ba luống vườn hoang bán sạch rồi.
Gạo cứ lệ ăn đong bữa một;
Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.
Bắc thang lên hỏi ông trời nhé:
Trêu ghẹo người ta thế nữa thôi?
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16716 | https://vi.wikisource.org/wiki/V%E1%BB%A3%20ch%E1%BB%93ng%20Ng%C3%A2u | Vợ chồng Ngâu | Tục truyền tháng bảy mưa ngâu,
Con trời lấy chăn trâu cũng phiền.
Một duyên, hai là nợ,
Sợi xích-thằng ai gỡ cho ra?
Vụng-về cũng thể cung nga,
Trăm khôn nghìn khéo chẳng qua mục-đồng.
Hay là sợ muộn chồng chăng tá,
Hơi đâu mà kén cá chọn canh!
Lấy ai, ai lấy cũng đành,
Rể trời đâu cả đến anh ao buồm.
Thơ Việt Nam
Song thất lục bát |
16718 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%B5%20Ch%C3%A2u%2C%20Tr%E1%BB%8Dng%20Th%E1%BB%A7y%20%28V%C3%A2n%20th%C3%AA%29 | Mỵ Châu, Trọng Thủy (Vân thê) | Một đôi kẻ Việt người Tần,
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương.
Vuốt rùa chàng đổi máy,
Lông ngỗng thiếp đưa đường.
Thề nguyền phu phụ,
Lòng nhi-nữ,
Việc quân-vương.
Duyên nọ tình kia dở dở dang,
Nệm gấm vó câu,
Trăm năm giọt lệ.
Ngọc trai nước giếng,
Ngàn thu khói nhang.
Thơ Việt Nam
Cổ phong |
16720 | https://vi.wikisource.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Hai%20B%C3%A0%20Tr%C6%B0ng | Vịnh Hai Bà Trưng | I
Nước nhà gặp cơn bĩ,
Trách-nhiệm gái trai chung;
Quyết lo đền nợ nước,
Há những vị thù chồng.
Tham-tàn căm tướng « Chệch »,
Tai mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi đứng cùng chị;
Thù riêng mà nghĩa công.
Xin đem phận bồ liễu,
Đành liều với non sông.
Một trận đuổi Tô-Định,
Quân Tàu đuôi chạy cong.
Lĩnh-nam bảy mươi quận,
Mặc sức ta vẫy vùng.
Mê-linh dựng nghiệp đế,
Độc lập nên cờ hồng.
Bốn năm nước tự chủ;
Nhi-nữ cũng anh-hùng.
II
Cấp nạn em cùng chị,
Anh hùng gái giống cha.
Quyết lo đền nợ nước
Chẳng những vị thù nhà.
Voi Triệu đem đường tiến,
Cờ Đinh mở lối ra.
Cõi Nam nền độc lập,
Muôn thuở tiếng hai bà.
Thơ Việt Nam
Ngũ ngôn cổ phong |
16721 | https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%A0o%20h%C3%A8 | Vào hè | Ai xui con cuốc gọi vào hè?
Cái nóng nung người nóng nóng ghê.
Ngõ trước vườn sau um những cỏ,
Hồng rơi thắm rụng ngán cho huê.
Trên cành gọi bạn chim xao xác,
Trong tối đua bay đóm lập lòe.
May được nồm nam cơn gió thổi,
Đàn ta ta gảy khúc nam nghe.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16722 | https://vi.wikisource.org/wiki/Qua%20s%C3%B4ng%20B%E1%BA%A1ch%20%C4%90%E1%BA%B1ng | Qua sông Bạch Đằng | Một dòng ra bể nước mênh mông.
Sông Bạch Đằng đây có phải không?
Đánh Hán năm nao thuyền giáp trận,
Bình Hồ nơi đó đã ghi công.
Sóng dồn lớp lớp làn tên bắn,
Gió thổi ào ào tiếng trống rung.
Ngô chúa Trần vương đâu vắng hết,
Ngùi ngùi hiu quạnh cả non sông.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16729 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20truy%20%C4%91i%E1%BB%87u%20c%E1%BB%A5%20Ti%C3%AAn%20%C4%90i%E1%BB%81n | Bài truy điệu cụ Tiên Điền | (mồng mười tháng tám)
Kiếp kim cổ tài-tình là bận,
Hồn văn-chương vơ-vẩn non sông.
Xót thay nước đục bụi trong,
Nghìn thu biết ngỏ tấm lòng cùng ai!
Trộm nhớ thuở anh-tài giáng-thế,
Cõi Tiên-điền rót khí linh-kỳ.
Gặp cơn Lê-thị suy-vi,
Kim-thành muốn lở, thang trì muốn vơi.
Mắt chí-sĩ trông đời ngao-ngán,
Muốn ra tay tát cạn bể đông.
Trách người chi bấy hóa-công,
Lỡ thời để khách anh-hùng bó tay.
Miền Bắc-tái rồng bay mỏi cánh,
Đỉnh Hồng-sơn hạc lánh xa xa.
Rắp toan tìm thú cỏ hoa,
Tang-bồng gác mái yên-hà cùng cao.
Trời Đông-phố ào-ào gió động,
Hội tao-phùng đái-ủng tân-quân.
Giang hồ lang-miếu một thân,
Dật-dân bỗng hóa hàng-thần, lạ thay!
Há chẳng biết cao bay, xa chạy,
Cái công danh là bẫy trên đời.
Song-le con tạo trêu ngươi,
Buộc nhau chỉ một chữ thời mà đau.
Bắt đày-đọa cất đầu không nổi,
Bắt đến điều mỏi gối chồn chân.
« Bắt phong-trần phải phong-trần,
Cho thanh-cao mới được phần thanh-cao. »
Xuất với xử bên nào cũng khó,
Nhục hay vinh ở đó mà ra.
Cát lầm ngọc trắng cũng là,
Càng kiên-trinh lắm, càng ma-chiết nhiều.
Song chẳng lẽ cũng liều nhắm mắt,
Cũng dày mày dạn mặt cho xong.
Cầm bằng như kiếp má hồng,
Hơn nhau chỉ một tấm lòng chính-chuyên.
Dạ trinh-bạch đã nguyền sắt đá,
Giả hình-hài tiếu-mạ mà chi?
Dở-dang thay cái tu-mi,
Cực trăm nghìn nỗi trong khi tòng quyền!
Bước đã lỡ mượn thuyền sao nổi,
Nợ còn nhiều định chối không xong.
Hỏi ai gạn đục khơi trong,
Đục trong trong đục mà lòng trơ trơ,
Đồng ly-thử gió mờ bụi tối,
Nỗi hương-quan ruột rối như vò.
Lâm-ly ngọc bút song hồ,
Văn-chương một áng điểm-tô tuyệt vời.
Vì mặt trắng thương người mệnh bạc,
Khúc đoạn-trường tả bước lưu-ly.
Lờ-mờ nước chảy mây đi,
Tri-âm biết có Chung-Kỳ là ai?
Dòng thệ thủy núi mài sông lở,
Tấm lòng son gột rửa bao phai.
Bận mình chi bấy chữ tài,
Túi cơm giá áo như ai cũng nhàn!
Muốn động đến cửu-toàn linh-thính,
Hỏi bao giờ tài mệnh không ghen.
Mệnh sao hay bỡn hay chen?
Tài sao vùng-vẫy những toan chọc trời?
Lòng bằng-điếu mấy lời giãi tỏ,
Đỉnh trầm bay ngọn gió hiu-hiu.
Non sông man-mác mọi chiều,
Khí thiêng phảng-phất ít nhiều đâu đây.
Tháng 8 năm Đinh-mão (1927)
Thơ Việt Nam
Song thất lục bát |
16731 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20L%C6%B0%C6%A1ng | Trương Lương | Trương Lưu-hầu: ngao-cực gây thiêng, hồ-tinh cấu sáng. Vằng-vặc mi thanh mục tú, kỳ-sĩ phong-tư, nhơn nhơn thức viễn tài cao, nho gia khí-tượng. Y-bát noi một dấu thi thư, chung đỉnh rõi năm đời khanh tướng...
Một tấm vải dọc ngang trong tám cõi, đủ phiu-pha ơn Hán nợ Hàn; ba tấc lưỡi đưa đón ngoại năm năm, bề vẹn vẻ thù Tần oán Hạng. Sánh từ trên như Trọng-Liên, Phạm-Lãi còn thua; so dở xuống dẫu Lý-Tĩnh Khổng-Minh chửa đáng. Vị đế-sư mà cao-sĩ, ngoại-vật vẫn còn trong lý, nghìn thu chữ thắm chửa rời phai; nền nho-gia mà danh-thần, chẳng tiên nhưng cũng khác trần, muôn kiếp bia danh còn để sáng... |
16733 | https://vi.wikisource.org/wiki/R%E1%BA%AFn%20%C4%91%E1%BA%A7u%20bi%E1%BA%BFng%20h%E1%BB%8Dc | Rắn đầu biếng học | Chẳng phải "liu điu" vẫn giống nhà!
"Rắn đầu" biếng học quyết không tha
Thẹn đèn "hổ lửa" đau lòng mẹ,
Nay thét "mai gầm" rát cổ cha.
"Ráo" mép chỉ quen tuồng lếu láo,
"Lằn" lưng chẳng khỏi vết roi da.
Từ nay "Trâu" Lỗ xin siêng học,
Kẻo "hổ mang" danh tiếng thế gia!
Thơ Nôm
Thất ngôn bát cú |
16734 | https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%A3ng%20chi%20nh%E1%BB%AF%20gia%2C%20t%E1%BA%A5t%20k%C3%ADnh%20t%E1%BA%A5t%20gi%E1%BB%9Bi%2C%20v%C3%B4%20vi%20phu%20t%E1%BB%AD | Vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô vi phu tử | Mày về nhà chồng, phải kính phải răn, chớ trái lời chồng (chữ Kinh Lễ: vãng chi nhữ gia, tất kính tất giới, vô-vi phu-tử).
(Câu phá).— Khuyên con giữ đạo làm dâu, bà già nghĩ đã đến lắm vậy.
(Câu thừa).— Phù con dại cái mang, lẽ xưa nay vốn thế. Khuyên con phải kính trọng chồng, há chẳng phải đạo lắm ru!
(Khởi giảng).— Mẹ đưa con ra cửa, ý nghĩ rằng: trong phối định giường đạo cả, thực là muôn hóa chi theo ra; mà hôn nhân hai họ giao vui, há để một lời chi trách đến.
(Câu lĩnh mạch) — Mẹ đưa con ra, mẹ càng nghĩ lắm, con ạ!
(Khai-giảng vế trên).— Con, con mẹ, mà dâu, dâu người vậy! Hoặc lời ăn nói chi ra tuồng, tức lành đồn xa, dữ đồn xa, ai bảo rằng con chi còn nhỏ.
(Khai-giảng vế dưới).— Dâu, dâu người, mà con, con mẹ vậy! Hoặc trong cửa trong nhà chi có chuyện, tức yêu nên tốt ghét nên xấu, rồi ra trách mẹ chi không răn.
(Câu hoàn-đề).— Về nhà chồng phải kính phải răn, chớ trái lời chồng, con nhé!
(Trung-cổ vế trên).— Lúc ở nhà nhờ mẹ nhờ cha, về nhà chồng, nhờ chồng nhờ con, nhé! Khôn chẳng qua lẽ, khỏe chẳng qua lời, chớ bắt chước người đời xỏ chân lỗ mũi chi lăng nhăng. Nhủ này con, nhủ này con: đi đến nơi, về đến chốn, việc nhà việc cửa cho siêng năng; hỏi thì nói, gọi thì thưa, thờ mẹ thờ cha cho phải lễ. Kính lấy đấy! răn lấy đấy! Liệu học ăn, học nói, học gói, học mở; khi anh nó hoặc ra xô-xát chi lời, cũng tươi, cũng đẹp, cũng vui cười, chớ như ai học thói nhà ma, mà hoặc con cà con kê chi kể-lể.
(Trung-cổ vế dưới).— Lúc ở nhà là mẹ là con, về nhà chồng là dâu là con, nhé! Khôn cho người giái, dại cho người thương, chớ bắt chước người thế mặc áo qua đầu chi khủng khỉnh. Nghe chưa con? Nghe chưa con? Ăn có nơi, nằm có chốn, lời ăn nết ở cho ra tuồng; gọi thì dạ, bảo thì vâng, thờ mẹ thờ cha cho phải đạo. Kính vậy thay! Răn vậy thay! Chớ cậy khôn, cậy khéo, cậy duyên, cậy tài; khi anh nó hoặc nổi bầng bầng chi sắc, thì lạy, thì van, thì lễ phép, đừng học chi những tuồng đĩ-thõa mà hoặc dây mơ rễ mái chi lôi thôi.
(Hậu-cổ vế trên).— Đời có kẻ xem chồng như đứa ăn, đứa ở, thậm đến điều mày tớ chi khinh. Chẳng biết rằng: ngu si cũng thể chồng ta, dẫu rằng khôn khéo cũng ra chồng người. Chẳng suy chẳng nghĩ, lại ra điều cả vú lấp miệng em, sao chẳng biết xấu chàng hổ ai chi lý! Mẹ khuyên con giữ đạo cương thường, khôn hèn cũng chịu, hay dở cũng đành, chớ hoặc sinh vênh-vểnh chi môi; khi anh nó quá giận sinh xằng, mẹ con ắt phải mắc bèo trôi chi tiếng.
(Hậu-cổ vế dưới).— Đời có kẻ giận chồng mà đánh con đánh cái, thậm đến điều mày tao chi quá. Chẳng biết rằng: khôn ngoan cũng thể đàn bà, tuy rằng vụng dại cũng là đàn ông. Bạ ăn bạ nói, lại ra điều múa dìu qua mắt thợ, sao chẳng biết già đòn non nhẽ chi cơ? Mẹ khuyên con giữ nết thảo-hiền, vọt roi cũng chịu, yêu đương cũng nhờ, chớ hoặc lộ sầm sầm chi mặt, khi anh nó nói dai thêm chuyện, cha con ắt phải mang vớ cọc chi cười.
(Kết cổ).— Con ơi, nhập gia tùy tục, mẹ nhủ cho đạo vợ chi thường; xuất giá tòng phu, con phải giữ nhà chồng chi phép.
(Thúc đề).— Thôi mẹ về.
Văn bát cổ
Kinh nghĩa |
16736 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%E1%BA%A5y%20ch%E1%BB%93ng%20cho%20%C4%91%C3%A1ng%20t%E1%BA%A5m%20ch%E1%BB%93ng%2C%20b%C3%B5%20c%C3%B4ng%20trang%20%C4%91i%E1%BB%83m%20m%C3%A1%20h%E1%BB%93ng%20r%C4%83ng%20%C4%91en | Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang điểm má hồng răng đen | Vấn: Lấy chồng cho đáng tấm chồng, bõ công trang-điểm má hồng răng đen.
Truyện rằng: « Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh đồ ».
Kim khảo: « Dài lưng tốn vải, ăn no lại nằm ». Tằng kiến ư thiên vạn nữ nhi chi nghị; bất tri hà sở thủ ư anh đồ, nhi quyến luyến nhược thị dư?
Thí vị trần chi, dĩ quan xuân-hoài tình-tự.
Em nghe rằng: sen ngó đào tơ, may gặp hội hôn-nhân chi phải lứa; chả chim cơm trắng, vẫn là mong giải-cấu chi tốt đôi; chọn mặt gửi vàng, dẫu ý ai cũng vậy.
Nay vâng lời sách hỏi mà lược bày ra.
Trộm nghĩ rằng: rồng bay còn đợi đám mây, bắn bình tước phải đợi tay anh hùng. Lấy chúng em chi má đỏ hồng hồng, răng đen nhưng-nhức, chẳng những muốn cô tú, dì nho chi dự, vẫn là mong chồng loan, vợ phụng chi chung tình. Nếu mà cú đậu cành mai, thì công trang-điểm chẳng hoài lắm ru? Vậy nên sớm gửi tơ duyên, ai là chẳng ngọc đá vàng thau, chi lựa ngọc.
Nay xét phương ngôn, chị em bạn gái nói chuyện rằng:
— « Chẳng tham ruộng cả ao liền, tham về cái bút cái nghiên anh đồ ».
Ý trộm nghĩ rằng: Ngọc còn đợi giá, vàng chẳng lộn thau. Cây gỗ lim chìm, quyết chẳng nỡ mang làm cọc giậu, hoa đào tươi tốt, hẳn không đem bán cho lái buôn. Cam đường với quả quít hôi, cũng cân nhắc ba đồng một, một đồng đôi chi giá.
Thử ngó coi: ruộng sâu ao cả, chàng nông kia chi trọc phú những khoe giàu, song Vương-Khải, Thạch-Sùng đã từng đấu phú, rồi cũng giương mắt ếch ư của đời người thế chi thu.
Nghiên ruộng bút cày, anh đồ nọ chi đa văn không ngại khó; kia Mãi-Thần, Mông-Chính có lẽ tràng bần, rồi cũng bổng cánh hồng ư bĩ cực thái lai chi hội.
Nông nhì sĩ nhất, lẽ ấy đã rành.
Vả: chân lấm tay bùn, chàng nông nãi vũ-phu chi cục-kịch, lấy yếm thắm giải đào chi tha-thướt, giá thể mà mang bầu xách lọ, sao cho cam hạt ngọc để ngâu vầy.
Miệng thêu dạ gấm, anh đồ là quân-tử chi dịu-dàng, lấy môi son má phấn chi nhởn-nhơ, giá thể mà sửa túi nâng khăn, thì mới đáng cành ngô cho phượng đậu.
Vậy có thơ rằng:
Dẫu có bạc vàng trăm vạn lạng,
Chẳng bằng kinh sử một vài pho.Lại có thơ rằng:
Gươm trời chi để tay phàm tuốt,
Búa nguyệt sao cho đứa tục mài.
Vả: tiếng tăm con gái, nết na học trò, nên em nghĩ duyên em, em nghĩ tình em, lại tưởng đến anh đồ chi sự-nghiệp. Đèn xanh một ngọn, án tuyết ân-cần; quyển vàng mấy pho, cửa huỳnh gióng-giả.
Còn trong trần-lụy, anh đồ là vị vũ chi giao long, may khoa thi mà kim-bảng đề danh, tức hôm nọ chi hàn nho, mà hôm nay đã bảng-nhỡn, thám-hoa chi đài các, em phỏng có duyên ưa lá thắm, thì trước voi anh, sau võng thiếp, cũng thỏa đời ư võng lọng chi nghênh-ngang.
Đương thuở hàn vi, anh đồ là tại sơn chi hổ báo, gặp vận thái mà thanh-vân đắc-lộ, tức bữa tê chi tiện-sĩ, mà bữa ni đã thượng-thư, đô-đốc chi phong-phú; em phỏng như phận đẹp chỉ hồng, thì anh quan cả thiếp hầu bà, cũng sướng kiếp ư ngựa xe chi đủng-đỉnh!
Huống chi: kinh sử lầu thông, anh đồ chi tài học, đã sẵn tay kinh-tế; tuy có dài lưng tốn vải, bấy giờ đã đai vàng áo gấm chi bảnh-bao.
Tài năng rất mực, anh đồ chi duyên-phận, gặp được lúc long vân; tuy có ăn no lại nằm, bấy giờ cơm chúa võng đào chi chểnh-chện.
Gương-trời vằng-vặc, sáng soi nhà vàng gác tía chi linh-lung.
Lộc nước miên-miên, súc-tích gấm cuốn vàng cân chi ban-cấp.
Như thế thì: chồng quan sang, vợ hầu đẹp, ai chẳng khen nhất thế chi thần tiên. Danh phận cả, bổng lộc nhiều, thế mới thỏa tam-sinh chi hương-hỏa. Khởi vô sở thủ ư anh đồ tai?
Vậy nên: yếm trắng nước hồ, vả đi vả lại, chỉ mong anh nho-sĩ chi yêu-đương. Miệng ong lưỡi én, uốn ngược uốn xuôi, cũng mặc giọng thế gian chi mai-mỉa.
Em nay: tuổi mới giăng tròn, tiết vừa hoa nở; vâng lời sách hỏi, giải hết niềm đơn.
Em cẩn thưa.
Văn sách |
16740 | https://vi.wikisource.org/wiki/Mai%20%C4%91%C3%ACnh%20m%E1%BB%99ng%20k%C3%BD | Mai đình mộng ký | Trăm năm là kiếp ở đời,
Vòng trần nay đã mấy người trăm năm.
Cuộc phù-sinh có bao-lăm,
Nỡ qua ngày bạc mà lầm tuổi xanh.
Duyên tế-ngộ, hội công-danh,
Là hai, với nghĩa chung-tình là ba.
Đều là đường cái người ta,
Là cầu noi đó, ai qua mới từng.
Tình duyên hai chữ nhắc bằng,
Há rằng duyên-chướng, há rằng tình-si.
Chuyện xưa còn có sá chi,
Đêm thanh vui chén muốn ghi nỗi mình.
Cho rằng hay giống có tình,
Chiêm bao lẩn-quất năm canh lần lần.
Nhớ xưa năm Tỵ, tháng Dần,
Thưởng xuân vừa gặp giữa tuần tròn trăng.
Thắng-du tiện nẻo quan đăng,
Trông vời non Liễu, băng chừng dặm hoa.
Trời hôm xuân nhuốm màu da,
Cơn mưa rửa tuyết, trận hà cuốn mây.
Chim về xao-xác lá cây,
Rừng Đông đã thấy tròn xoay bóng thiềm.
Lửa đâu thấp-thoáng trong rèm,
Khi đưa hương xạ, khi đem khói tùng.
Đá đâu lấp-ló giữa giòng,
Như bay hoa sóng, như trồng gương nga.
Thành đâu xây lấp yên-hà,
Đỉnh non nền cũ, cán cờ bụi sương.
Đền đâu lắng dấu khói hương,
Bể reo công trước, vàng tương mái tàu.
Lần theo ngọn nước làu làu,
Gió lay chiếc cọc, thuyền mau mái chài.
Trong gương ai cắm cành mai?
Dưới mày ai ném một vài lưu-tinh?
Phồn hoa nổi áng thị thành,
Này Phù-thạch phố là danh lịch triều.
Thú phong-lưu cũng ít nhiều,
Đèn chong vẻ tố, lò thiêu bụi trần.
Vũng doi trải mấy xây vần,
Dập-dìu còn đó với xuân dễ nào !
Thảo mà cánh điệp, lá đào,
Đi về Vu-giáp, ra vào Vũ-lăng.
Một trời hoa cỏ lâng-lâng,
Mơ-mòng mưa Sở gió Đằng đâu đây.
Chiều xuân chuốc chén vơi đầy,
Thử xem người tỉnh người say mới là.
Dã men vừa sánh giọng trà,
Nhà lan treo tháp, doành la xuống thuyền.
Gió xuân rút cánh buồm duyên,
Thiều-quang chín chục, vân-yên một chèo.
Bến tình nhẹ nhổ con neo,
Đầu mai yến vấn, mạn chèo oanh đưa.
Thảnh-thơi bầu rượu túi thơ,
Ngón cầm khiển-hứng, nước cờ giải-mê.
Não nùng vượn suối hoa khe,
Với người dường có vả-vê chữ tình.
Phong-quang tám bức vén tranh,
Bình non mượn khắm, gương doành lét tô.
Bến Nam liễu bá con đò;
Mảnh mây viễn-phố, cánh cò hàn-sa.
Ngàn đông khói lẫn lạc-hà;
Giọt mưa cổ-thụ, tiếng gà cô-thôn.
Vó câu pha gió nhẹ bon,
Bến lầu Bắc hỏi hoàng-hôn địch nào?
Trời Tây bóng hạc non sào,
Đường rêu khách quạnh ruổi vào Thiên-thai.
No xem góc bể chân trời,
Một xuân biết mấy mươi nơi dập-dìu.
Đòi nơi giốc-mục ca-tiều,
Cần hôn mấy cán, tơi chiều nửa manh.
Thảnh-thơi gió mát trăng thanh,
Nào đầm Đồng-lại, nọ ghềnh Bàn-khê.
Mảng vui sào cạy, mái-phê,
Doành Ngân bóng thỏ đã xê ngang đầu.
Nài xuân chén những kèo mau,
Tưởng duyên kỳ-ngộ, ngâm câu Vị -đường,
Này này quế-trạo lan-tương
Ví đua Xích-bích, chi nhường Đông-Pha.
Say-sưa đòi thú lân-la,
Giang-thành đã gióng canh gà sang tư.
Giấc hoè thiếp-thiếp lần mơ,
Trong mơ-mòng thấy tình cờ lạ sao.
Tưởng mình lạc lối nguồn Đào,
Khi ra Động-khẩu, khi vào Bồng-doanh.
Đòi nơi chim lá hoa cành,
Dường chiều đón rước, như tình rủ-rê.
Mấy chòm len-lỏi sơn-khê,
Dòng ngăn thú dật, vách che bụi trần.
Ruổi quanh hoa-kính lần lần,
Cảnh tiên riêng đợi tay thần mở-mang.
Bầu trời ghẽ chiếm thanh-quang,
Nẻo xa trông rõ mấy trang lão-tùng.
Dưới tùng có gác Nghinh-phong,
Cách chừng thấy những phạm-cung bảo đài.
Băng chừng rảo bước tới nơi,
Tường sau nghìn gốc tảo-mai quanh thành.
Biển đâu nét tạc rành-rành,
Đề ba chữ “Thưởng-mai-đình” vàng tương.
Trong đình bốn báu sẵn-sàng,
Cánh mây mới thảo, ngòi sương chửa rời.
Xông mai chợt động bóng người,
Vẻ lan vừa chán vội dời gót sen.
Ghẽ ngang về mái tây-hiên,
Càng dao khuất bóng, xiêm tiên lẫn màu.
Ít nhiều chùm quẹn chồi thâu,
Hương thừa còn phảng-phất đâu trước đình.
Vẻ sao ngọc chuốt giá thanh,
Bút thần đố vẽ nên tranh truyền thần !
Giá sao báu Triệu, châu Tần,
Người sao so dưới cõi trần chưa ai !
Thực âu sắc nước hương trời,
Chặng dòng thần-nữ cũng vời tiên-cung.
Nguồn phong động khóa trùng-trùng,
Khách thơ thêm những mơ-mòng hồn thơ.
Biết đâu nước đợi non chờ,
Chúa xuân sao bỗng hững-hờ cho đang.
Bào tình lần thấm giọt Tương,
Thẫn-thờ ngọn khói cành sương một mình.
Lén vào kề trước Côn-đình,
Vách mai còn dán rành-rành tiên mai:
Lứa ngọc cùng ai đó ?Trăng kia với khách này.
Một cành xuân đã sớm,Mấy đóa tuyết nào bay.
Vẻ sạch mưa càng dãi,Lòng thơm gió nỡ lay.
Bướm con đừng thóc-mách,Cho hái có dường tay.(Bài thơ Thưởng mai nguyên vận)
Tứ cao cách lạ tột vời,
Quần-thoa hiếm nhỉ nảy tài Âu, Tô !
Nữ-trung dễ mấy nầy ru !
Song mai kể mấy công-phu tập rèn.
Câu thần, chữ thánh, người tiên,
Hay đâu là chẳng sẵn nguyền trăm năm.
Phím hoàng đợi khách tri-âm,
Nên treo cân Lệ, ai cầm giá Côn.
Nghĩ mình giong-ruổi nước non,
Niềm kinh-quốc, nỗi hương-thôn bấy chầy,
Thốt chi bướm lũ ong bầy,
Đàn Tao nào mấy đua tay cắm vè.
Dù chăng con tạo khắt-khe,
Thì chi cánh điệp còn mê với tình.
Trót đà tới Mẫu–đơn–đình,
Thơm chăng cũng bẻ một cành làm duyên.
Tục-điêu cẵng bộ vần tiên,
Liễu-trì trước lá hoa-tiên thế nào?
Ngòi dao vừa ráo luật Đào,
Với vần thơ trước sắp vào một phong:Dao trì in vẻ ngọc,
Đúc lại lá tiên này.Nản gió hoa vừa náu,
Này hương nguyệt muốn bay.Chiếc đình còn phảng-phất,
Cái bướm bỗng thày-lay.Chẳng những xuân kia chọn,
Thần tiên cũng chắp tay.
(Bài họa vần thơ thưởng-mai)
Người tiên dẫu cách mấy trùng,
Dấu tiên cẵng phó thi-đồng chắt-chiu.
Bỗng dưng trăng dật gió dìu,
Làm sao lui tới cho đeo-đẳng này.
Cuộc mê càng mải-miết thay,
Dập-dờn chiếc-bóng, chay-vay trót giờ.
Một đình, một khách thẩn-thơ,
Thôi thầm-thì hỏi, lại mơ-mẩn chào.
Hiên đâu kéo dãy hoa đào,
Đánh liều cả quyết bước vào thử xem.
Thướt tha tơ liễu buông rèm,
Trà non uốn điệu, dương mềm khoe tươi.
Nhụy xuân rước gió như cười,
Chòm thanh, khóm dật, khác vời chân-du.
Có cây có đá lô-xô,
Có lầu túc-điểu, có hồ du-ngư.
Giữ trời một cuộc tiên-cư,
Đình-đài mấy tóp, đồ-thư mấy từng.
Hoa say, hạc ngủ, mơ chừng,
Một rằng Bích-động, hai rằng Thanh-tiêu.
Một hiên Huy-phượng cheo-leo,
Thấp đưa gió trúc, cao reo sóng tùng.
Tiểu-hoàn lẩn bóng hiên-trung,
Vén cành biếc, hái hoa hồng trước lang.
Bóng người chợt thấy dung-quang,
Lanh-chanh bước tới sổ-sàng hỏi ngay:
“Người đâu quan-khách đâu đây ?
Lạ-lùng xông-xáo chốn này là sao !”
Nhủ rằng: “Chớ đổ nhau nao !
Qua đình Mai, thấy thơ nào bỏ rơi.
Tài này Lý Đỗ một hai,
Xuân in cảo liễu, tuyết tươi nét tùng.
Nhời đâu thần khế, đạo đồng,
Hạnh-đường bao ná, nhủ cùng được hay !”
Hoàn rằng: “Mơ-mẩn ngán thay !”
Vội vàng giật lấy tiên mây trở vào.
Tuyệt mù nào thấy đâu nào,
Càng bay phấn điệp, hoa xào cánh thơm.
Mảnh riêng càng nát như tươm,
Càng ngơ-ngẩn bóng, càng nâm-nỉ tình.
“Chắc chi con trẻ đành-hanh,
Tin sương có lọt trước manh cho chăng?
Tấc gang cách mấy mươi từng,
Không dưng hầu dễ gió Đằng cợt ai.
Chớ rằng lá thắm giòng khơi,
Một thơ kéo được tơ trời mà hay !
Kiếp xưa cũng thế nào đây?
Họa-hoằn chăng chẳng là tay vuông tròn.
Mảnh tiên tạc lấy sắc son,
Tấc lòng đem hỏi, nước non mượn bàn.”
Bàn-mê những ngóng tin nhàn,
Nhởn-nhơ sực thấy bóng Hoàn tận nơi.
Tăn-măn nói nói cười cười,
Rằng: “Vâng Nghiêm-lệnh rước người về sanh.”
Cảnh-tình một bước một thanh,
Tắt chừng thư-các, rảo quanh trì-đường.
Ngoài-sanh, giá lục xây vàng,
Bình đan xuân vẽ, đài gương bóng lồng.
Trong sanh, mở cánh phù-dung,
Mắt trần luống những lạnh-lùng vẻ Ngân.
Ỷ trên thấy một phu-nhân,
Bước vào tự lễ phân tân trước tòa.
Dạy rằng: ”Quê ở đâu xa?
Ấy ai thóc-mách nên mà biết đây?”
Dứt lời, rén rén thưa bày:
“Khi xưa dòng-dõi, khi nay phong-trần,
Mảng vui nước trí non nhân,
Đăng lâm trót hẹn với xuân một lời.
Cho nên trẹo nẻo lạc vời,
Phúc-giang, Phượng–lĩnh là nơi quê nhà.
Thày-lay vâng chịu trót đà,
Hạnh nào lượng bể bao-la muôn nhờ.”
Nghe thôi lẳng-lặng trót giờ,
Ngọc khoan khoan mới xa đưa dịu-dàng:
“Rằng gia-quân với nghiêm-đường,
Chữ luân xưa cũng mối-giường một hai.
Đền Thương cùng nếm vạc mai,
Cũng trong Y Phó, cũng ngoài Tôn Ngô.
Nấy sương vẹn bước vân-cù,
Dẫn nhàn riêng chiếm thú hồ-sơn đây.
Cơ trời dâu bể vần-xây,
Trần-kiều biết mặt Chu này là ai.
Lửa binh rấp thuở chông gai,
Áo xiêm đổi thói, cân đai đau lòng.
Nặng nguyền hưu thích dữ đồng,
Theo chầu Liệt-thánh năm dòng mười dư.
Bận-bùng còn chút ngây-thơ,
Điền-thôn quen lấy cầm thư đỡ phiền.
Dù chăng cảnh bụt làng tiên,
Với trần nghĩ đã diễn miền nước mây.
Tiền-nhân túc-trái sao đây?
Không dưng người biết chốn này là đâu.
Mới rồi dạo tới thư-lâu,
Nhẹ-nhàng vừa thấy con hầu nói qua.
Khách nào la-lướt yên-hà,
Một mình thơ-thẩn dò-la hạnh đường.
Lại đưa hai bức thi-chương,
Khác chiều nên bảo đón chàng vào chơi…
Lời quê trẻ nó dông-dài,
Thêm hoa may lại gặp tài văn-nhân.
Xem trong xướng-họa mấy vần,
Lấy mai mà vẽ lòng xuân cần-quyền.
Hay đâu là nợ là duyên,
Là thân trước trẻ là nguyền xưa ngươi.
Khen cho cẩm tú sắc tài,
Lạ cho con Tạo lựa người ghê thay !
Kiếp trần dây-dướng dường này,
Lửa-hương chờ đợi đến tay anh-hùng.
Ấy nhân-duyên, ấy tao-phùng,
Dẫu đâu sắc sắc không không, nghĩ gì.
Lọ là nhạn cá đi về,
Lứa đôi chăng lại một kỳ tái lai.
Nền thi-lễ cẵng dùi-mài,
Tiếng khôi đừng thẹn với mai mới hào !
Duyên lành hẳn đợi giá cao,
Đất bằng sấm dã, thơ đào lại ca.
Xe duyên đành có Trăng-già;
Mặc-dù nhân-quả, chớ ra quan-hoài.
Hồn mai còn nhớ đình Mai,
Cảnh quen hẳn chẳng lạ người quen đâu.
Còn non còn nước còn lâu,
Còn câu thơ ấy là câu sấm rồi.”
Đương khi từ tạ khúc-nhôi,
Giang-thôn đâu động tiếng còi mục-nhi.
Trong thuyền sực tỉnh đòi khi,
Tấc riêng dồn-dã khôn suy tin ngờ.
Nào đình, nào khách, nào thơ?
Bấy giờ hồ-điệp, bây giờ Trang-sinh!
Cũng trong hai chữ chung-tình,
Sao người thường bấy, mà mình quái thay !
Tài-tình xem lại xưa nay,
Kiếp người may với chẳng may cũng nhiều.
Cuộc đời mây nổi, nước triều,
Tình bao-nhiêu, nợ bấy-nhiêu, hay gì.
Lấy điều mộng ảo mà suy,
Một thì là giác, hai thì là mê.
Mê chăng một lúc đi về,
Giác thì duyên ấy còn ghê sau này.
Thấy đây còn biết từ đây,
Bao-giờ sao nữa lại hay bấy-giờ.
Hoàn thiên tẩu bút một thơ,
Quê đâu chữa đó là nhờ tao nhân.
Truyện Nôm
Lục bát |
16743 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%A1nh%20t%E1%BB%95%20t%C3%B4m%20%28Tr%E1%BA%A7n%20T%E1%BA%BF%20X%C6%B0%C6%A1ng%29 | Đánh tổ tôm (Trần Tế Xương) | Bực chẳng nhẽ anh hùng khi vị ngộ,
Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm,
Bài trạm thành cuối cánh phỗng ầm ầm,
Ngồi thôi chẳng bốc quân rác rảnh.
Cũng có lúc không chi thì bát-sách,
Cũng có khi bạch-định bốc yêu-hồng;
Cất bài lên ông lão vẫn lẩn vòng,
Không đâu cả gặp kề năm bảy phỗng.
Cũng có ván tôm lèo lên chờ rộng,
Vớ phải thằng bạch-thủ phỗng tay trên.
Gớm ghê thay đen thực là đen!
Sắc như mác cũng thua thằng vận đỏ.
May mắn nhẽ hữu duyên năng tái-ngộ,
Bĩ cực rồi đến độ thái lai;
Tiếng tam-khôi chi để nhường ai,
Hết bạch lại hồng, thông mãi mãi.
Nào những kẻ tay trên ban nãy,
Đến bây giờ thay-thảy dưới tay ta;
Tiếng bài cao lừng-lẫy khắp gần xa,
Bát-vạn ấy người ta ai dám đọ.
Thế mới biết tổ-tôm có đen thì có đỏ.
Thì anh hùng vị-ngộ có lo chi;
Trước sau, sau trước làm gì?
Hát nói |
16746 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A0%20th%C3%A0nh%20ch%C3%ADnh%20kh%C3%AD%20ca | Hà thành chính khí ca | Một vừng chính khí lưu hình,
Rộng trong trời đất: nhật, tinh, sơn, hà,
Hạo nhiên ở tại lòng ta,
Tấc vuông son sắt hiện ra khi cùng.
Nên thua theo vận truân phong,
Ngàn thu rạng tiếng anh hùng sử xanh.
Có quan tổng đốc Hà Ninh
Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng?
Lâm nguy, lý hiểm đã từng,
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.
Thôn Hồ dạ vẫn nhăm nhăm,
Ngoài tuy giao thiệp, trong căm những là...
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,
Rạng ngày mồng tám, mới qua giờ thìn,
Biết cơ trước đã giữ gìn,
Hơn trăm võ sĩ, vài nghìn tinh binh.
Tiên nghiêm sai đóng trên thành,
Thệ sư rót chén rượu quỳnh đầy vơi.
Văn quan võ tướng nghe lời,
Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.
Ra uy xuống lệnh vừa xong,
Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng súng ran.
Tiêm cừu nổi giận xung quan,
Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê.
Lửa phun súng phát bốn bề,
Khiến loài bạch quỉ hồn lìa phách xiêu
Bắn ra nó chết cũng nhiều
Phố phường trông thấy, tiếng reo ầm ầm.
Quan quân đắc chí bình tâm,
Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh.
Chém cha cái lũ hôi tanh
Phen này quét sạch sành sanh mới là!
Không ngờ thất ý tại ta,
Rõ ràng thắng trận, thế mà thua cơ!
Nội công rắp tự bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngã theo
Quan quân sợ chết thảy đều,
Cửa Tây, Bạch quỷ đánh liều trèo lên.
Nào ai sức mạnh gan liền?
Nào ai cầm vững cho bền ba quân?
Nào ai có chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu,
Đốt nung gan sắt, giãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gởi cái tàn hồn gốc cây.
Trời cao biển rộng đất dày,
Non Nùng sông Nhị chốn nầy làm ghi!
Thương thay trong buổi gian nguy,
Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.
Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường!
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!
Kể từ năm Dậu bao xa,
Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.
Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.
Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sanh tựu nghĩa, có gan mấy người?
Trước quan Võ hiển khâm sai,
Sau, quan Tổng đốc một vài mà thôi.
Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...
Khi bình làm hại dân ta,
Túi tham vơ nhặt chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn gian nguy,
Mắt trông ngơ ngác, chơn đi gập ghình.
Võ như đề đốc Lê Trinh,
Cùng là chính phó lãnh binh một đoàn,
Đương khi giao chiến ngang tàng,
Thấy quân hầu đổ vội vàng chạy ngay.
Nghĩ xem thật cũng ghê thay,
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?
Thế mà nghe nói mơ hồ
Rằng: quan đề đốc xuống hồ cửa tây;
Kẻ rằng: Treo ở cành cây
Người rằng: hẳn xuống giếng nầy không sai.
Thăm tìm ngày một ngày hai,
Định rằng hiệp táng cùng nơi học đường.
Hỏi ra sau mới tỏ tường,
Cũng loài úy tử, cũng phường tham sanh.
Phép công nên bắt gia hình,
Rồi ra nặng chữ nhơn tình lại thôi.
Văn như Tuần phủ nực cười,
Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già.
Biết bao cơm áo nước nhà?
Nhắm trong sĩ tịch cũng là đại viên.
Chén son chưa cạn lời nguyền,
Nỡ nào bỗng chốc quên liền ngay đi?
Lại còn lẩn khuất làm chi?
Hay là tham tiếc mùi gì ở đây?
Hay là còn chước bình Tây,
Chực làm nội ứng, đợi ngày ?
Hay là tiếc gái xuân xanh?
Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân ?
Hay là còn chút từ thân,
Rắp toan tịch cốc mấy lần lại thôi!
Sao không sợ tiếng với đời?
Sao không thẹn với người tử trung ?
Kìa Tôn Thất Bá niết công,
Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,
Đã quốc tộc, lại vương thần,
Cũng nên hết sức kinh luân mới là...
Nước non vẫn nước non nhà,
Nỡ sao bán rẻ một tòa Thăng Long?
Thề xưa liệu đã chẳng xong,
Lại còn mở mặt trong vòng lưỡng gian.
Tư giao rắp những mưu gian,
Thừa cơ xin chữ hội thương ra ngoài.
Ấy mới khôn, ấy mới tài,
Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh.
Dâng công quyền nhận tỉnh thành,
Xui người đổ tiếng một mình quan trên.
Tội danh thiệt đã quả nhiên,
Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài.
Thung dung kể đến phiên đài,
Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.
Thác trong thôi cũng nên đời.
Sống thừa chi để kẻ cười, người chê!
Nhĩ Hà, Tản lĩnh đi về,
Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!
Còn như ty thuộc hạ liêu,
Kẻ công người quả còn nhiều chan chan,
Biết đâu cho khắp mà bàn,
Sau nầy sẽ có sử quan phẩm bình,
Trước rèm gió mát trăng thanh
Thừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong.
Xa trông chót vót Bình phong,
Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!
Rồi khi cá nước duyên hài,
Ra tay khang tế, giở tài kinh luân.
Nghiêu Thuấn quân, Nghiêu Thuấn dân,
Bát thiên thu, bát thiên xuân thái hòa!
Bây giờ ta gắn với ta,
Túy tinh khiển hứng, ngâm nga tiêu sầu.
Ở đời văn võ công hầu,
Càng nghe câu chuyện càng sầu bên tai!
Diễn ca Chính khí một bài,
Để cho thiên hạ người người khuyên răn.
Dưới đây là một bản khác, in trong sách văn cấp 3 cũ:
Một vừng chính khí lưu hình,
Khoảng trong trời đất: nhật, tinh, sơn, hà,
Hạo nhiên ở tại người ta,
Tấc gang son sắt hiện ra khi cùng.
Hơn thua trong vận truân phong,
Nghìn thu để tiếng anh hùng sử xanh.
Có quan tổng đốc Hà Ninh
Hiệu là Quang Viễn, trung trinh ai bằng?
Lâm nguy, lý hiểm đã từng,
Vâng ra trọng trấn mới chừng ba năm.
Thôn Hồ dạ vốn nhăm nhăm,
Ngoài tuy giao tiếp, trong chăm những là...
Vừa năm Nhâm Ngọ, tháng ba,
Sáng mai mồng tám, bước qua giờ thìn,
Biết cơ trước đã giữ gìn,
Hơn trăm vũ sĩ, vài nghìn tinh binh.
Tiên nghiêm lên đóng trên thành,
Thệ sư rót chén rượu quỳnh đầy vơi.
Văn quan vũ tướng nghe lời,
Hầm hầm xin quyết một bài tận trung.
Ra oai xuống lệnh vừa xong,
Bỗng nghe ngoài đã đùng đùng pháo ran.
Tiêm cừu nổi giận xung quan,
Quyết rằng chẳng để chi đàn chó dê.
Lửa phun súng phát bốn bề,
Khiến loài bạch quỉ hồn lìa phách xiêu
Bắn ra nghe chết cũng nhiều
Phố phường nghe thấy, tiếng reo ầm ầm.
Quan quân đắc chí bình tâm,
Cửa Đông, cửa Bắc vẫn cầm vững binh.
Chém cha cái lũ hôi tanh
Phen này quét sạch sành sanh mới là!
Nào ngờ thất ý tại ta,
Rõ ràng thắng trạng, hóa mà thua cơ!
Nội công rắp những bao giờ,
Thấy kho thuốc cháy, ngọn cờ ngả theo
Quan quân sợ chết thảy đều,
Cửa Tây, Bạch quỷ đánh liều trèo lên.
Nào ai cơm áo dốc đền?
Nào ai gìn giữ vững bền ba quân?
Nào ai còn chí kinh luân?
Nào ai nghĩ đến thánh quân trên đầu?
Một cơn gió thảm mưa sầu,
Nấu nung gan sắt, dãi dầu lòng son,
Chữ trung còn chút con con,
Quyết đem gửi cái tàn hồn gốc cây.
Trời cao biển rộng đất dày,
Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi!
Thương thay gặp buổi truân nguy,
Lòng riêng ai chẳng thương vì người trung!
Rủ nhau tiền góp của chung,
Rước người ra táng ở trong học đường.
Đau đớn nhẽ, ngẩn ngơ dường!
Tả tơi thành quách, tồi tàn cỏ hoa!
Kể từ năm Dậu bao xa,
Đến nay tính đốt phỏng đà mười niên.
Long thành thất thủ hai phen,
Kho tàng hết sạch, quân quyền dời tan.
Đổi thay trải mấy ông quan,
Quyên sinh tựu nghĩa, có gan mấy người?
Trước quan Võ hiển khâm sai,
Sau quan Tổng đốc một vài mà thôi.
Ngoài ra võ giáp văn khôi,
Quan, bào, trâm, hốt nhác coi, ngỡ là...
Khi bình làm hại dân ta,
Túi tham mở rộng chẳng tha miếng gì.
Đến khi hoạn nạn lâm nguy,
Mặt trông ngơ ngác, chân đi gập ghềnh.
Võ như đề đốc Lê Trinh,
Cùng là chánh phó lãnh binh một đoàn,
Đang khi giao chiến ngang tàng,
Thấy cơ hầu đổ vội vàng nhót ngay.
Nghĩ xem thật cũng ghê thay,
Bảo thân chước ấy ai bày sẵn cho?
Lại còn nghe những mơ hồ
Rằng: quan đề đốc dưới hồ cửa tây;
Kẻ rằng: treo ở cành cây
Kẻ rằng: hẳn dưới giếng này chẳng chơi.
Thăm tìm ngày một ngày hai,
Định rằng hợp táng ở nơi học đường.
Hỏi ra sau mới tỏ tường,
Cũng loài úy tử, cũng phường tham sinh.
Phép công nên bắt gia hình,
Rồi ra nặng chữ nhân tình lại thôi.
Văn như Tuần phủ nực cười,
Bình Chi là hiệu, năm mươi tuổi già.
Biết bao cơm áo nước nhà?
Kể trong sĩ tịch cũng là đại viên.
Chén son chưa cạn lời nguyền,
Thế mà bỗng chốc quên liền ngay đi?
Lại còn quanh quẩn làm chi?
Hay là thương tiếc vật gì ở đây?
Hay là có chước bình Tây,
Trước kia hoảng hốt sau này nghiên tinh?
Hay là tiếc cái xuân xanh?
Tìm nơi kiếm chốn gieo mình trú chân?
Hay là còn chút từ thân,
Đã toan tịch cốc mấy lần lại thôi!
Sao không biết xấu với đời?
Sao không biết thẹn với người tử trung?
Kìa Tôn Thất Bá niết công,
Kim chi ngọc diệp, vốn dòng tôn nhân,
Đã quốc tộc, lại vương thần,
Cũng nên hết sức kinh luân mới là...
Nước non vẫn nước non nhà,
Nỡ nào bán rẻ một tòa Thăng Long?
Thề xưa liệu đã chẳng xong,
Mặt nào còn đứng trong vòng lưỡng gian.
Tư giao rắp những mưu gian,
Thừa cơ xin dự hội thương ra ngoài.
Ấy mới khôn, ấy mới tài,
Lẩn đi tránh tiếng, giục người nói quanh.
Dâng công quyền lĩnh tỉnh thành,
Mà toan đổ tội một mình quan trên.
Tội danh thật đã quả nhiên,
Xin đem giao xuống cửu nguyên chế đài.
Lân la kể đến phiên đài,
Xỉ ban cũng đã tuổi ngoài sáu mươi.
Thác trong thôi cũng nên đời.
Sống thừa chỉ để kẻ cười, người chê!
Nhị hà, Tản lĩnh đi về,
Giang sơn tuyết chở, sương che cũng liều!
Còn như ty thuộc hạ liêu,
Kẻ công người quá còn nhiều chan chan,
Biết đâu cho khắp mà bàn,
Sau này đã có sử quan thẩm bình,
Trước rèm gió mát trăng thanh
Thừa lương nhân chốn nhàn đình thong dong.
Xa trông tút vút Bình phong,
Chúc mừng vạn thọ thánh cung lâu dài!
Rồi ra cá nước duyên hài,
Ra tay khang tế, giở tài kinh luân.
Đã thánh quân lại hiền thần,
Có đâu mà chẳng quần dân thái hòa!
Bấy giờ ta lại với ta,
Tỉnh say dật hứng, ngâm nga tiêu sầu.
Hà thành văn vũ công hầu,
Càng nghe thấy chuyện càng rầu bên tai!
Diễn ca Chính khí một bài,
Để cho thiên hạ người người khuyên răn.
Lục bát |
16748 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%C3%A0%20th%C3%A0nh%20hi%E1%BB%83u%20v%E1%BB%8Dng | Hà thành hiểu vọng | Bốn bề hàng phố tiếng xôn xao,
Giở dậy mà xem những thế nào?
Lục sở bày trò trong rạp tối,
Tam tài cờ cắm ngọn thành cao.
Giày Tàu bít gót, Ngô đi bãi,
Váy lĩnh phơi trôn, đĩ rửa hào.
Nhuốm, vện, khoang, vằn... vô số chó,
Ra tuồng đắc ý chạy xôn xao.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
16751 | https://vi.wikisource.org/wiki/N%E1%BB%AF%20t%C3%BA%20t%C3%A0i | Nữ tú tài | Thung dung nhân thủa thanh nhàn,
Thấy trong "Kim cổ kỳ quan" sách ngoài.
Họ Văn, có nữ tú tài,
Con quan Tham tướng tuổi vời xuân xanh.
Vả thêm quốc sắc khuynh thành,
Đã hay nghề ngựa, lại lành nghề cung
Chân thiếu nữ, giả anh hùng,
Trượng phu, mấy kẻ địch cùng kém xa.
Đặt tên là ả Phi Nga,
Huyên đường, sớm vắng, còn nhà nghiêm quân.
Tống triều đại chấn tư văn,
Nho phong thì thắm, vũ thần thì khinh.
Phi Nga có chí cậy mình,
Quyết lòng nấu sử, xôi kinh, theo thì.
Quần chân, áo chít, cài khuy,
Trá hình làm đấng nam nhi, học hành.
Cải danh hiệu đích Tuấn Khanh,
Lạy cha, thôi mới khởi trình tòng sư.
Đêm ngày luyện tập thi, thư,
Phong tư chỉnh chệ ngôn từ khoan dung.
Bạn cùng Ngụy Soạn, Tử Trung,
Đua nhau trận bút vẫy vùng kình, côn.
Một phen cá vượt vũ môn,
Ba chàng cùng chiếm khôi nguyên tú tài.
Tiếng đồn vang động khắp nơi,
Kẻ xin sửa túi, người nài nâng khăn.
Bướm dờn, ong liệng vườn xuân.
Ai hay rằng kẻ văn nhân, nữ tài.
Ba chàng kinh sử, dùi mài,
Mặt ai kết chỉ, mặc ai gieo cầu.
Một hôm thanh vắng thư lâu
Tử Trung nói cợt trình hầu Tuấn Khanh.
Rằng: "Hai ta tuổi xuân xanh,
"Đồng niên, đồng cán, khoa danh cùng đồng.
"Ước gì biến dịch thư, hùng,
"Một trai một gái vợ chồng đẹp đôi!"
Soạn Chi nghe nói mỉm cười,
Rằng: "Âm dương vốn khí trời bẩm sinh.
"Ví mà biến tướng cải hình,
"Lấy nhau, đây cũng thuận tình gả cho!"
Tuấn Khanh có ý thẹn thò,
Lệ khi ngồi đứng lõa lồ hình dong.
Thời ta khôn nẻo đề phòng,
Giả rằng qui tỉnh phủ công ra về.
Nghĩ mình phận gái khôn bề,
Sớm khuya bè bạn gần kề lửa hương.
Cùng nhau chung chiếu, chung giường,
Tử Trung, Ngụy Soạn hai chàng xưa nay.
Họa là có kẻ biết hay,
Thời ta xa chạy cao bay nẻo nào ?
Dẫu mà khép nép ra vào,
Nương long đột khởi má đào hây hây.
Dễ mà gìn giữ đêm ngày,
Lửa gần rơm, lỡ sự này biết sao!
Đã hay rằng chẳng thế nào,
Song xem Đỗ Tử ước ao tính tình.
Tuổi cùng thập bát xuân xanh,
Soạn Chi nhị thập hai anh quốc tài.
Âu ta phải lấy một người,
Kết làm phu phụ hợp đôi phỉ nguyền.
Cát đằng nhờ gió đưa duyên,
Song hai gã ấy tài hiền ngang nhau.
Nào đâu đã hẳn hơn đâu,
Dễ mà kết chỉ gieo cầu cho xong.
Đôi tay bưng lấy quả bồng,
Thuyền quyên thì một, anh hùng thì hai.
Chẳng hay duyên phận bởi trời,
Mượn cơ tạo hoá thay lời nhân gian.
Còn đang nghĩ ngợi lo toan,
Bỗng nghe chim tước kêu ran ngoài lầu.
Càng như khêu giục cơn sầu,
Ngẩn ngơ mặt ngọc, âu sầu nét hoa.
Nàng bèn ngước mắt trông ra,
Trên cành, tước đỗ xa xa vừa tầm.
Lấy tên miệng nhổ tay cầm,
Đề thơ bát tự lâm râm khấn nguyền.
Đề rằng: "Phát tất ứng huyền."
Bắn con chim tước phải tên rõ ràng.
Chim bay rơi xuống học tràng.
Tử Trung thoắt đã vội vàng ra xem.
Thấy tên cắm ở đầu chim,
Nhổ ra chàng mới nhận xem chữ đề.
Vô tình ai biết việc chi,
Trông sau bỗng có tuỳ nhi lại thì...
Cầm tên giao lại Soạn Chi,
Rằng: "Tay diệu thủ, tài kỳ xuyên dương.
Tử Trung từ tạ bản trường,
Theo hề hồi tỉnh lưỡng đường xuân huyên.
Soạn Chi thấy chữ đề tên,
Rằng: "Tay này hẳn quả nhiên đại tài!
"Song hiềm một nỗi sự người,
"Phi Nga chưa rõ gái, trai nhường nào ?"
Một mình nghĩ ngợi thấp cao,
Tuấn Khanh thoắt đã trở vào cải trang.
Lại y nam tử đường đường,
Xăm xăm bước tới học đường mà lo.
Thấy Soạn Chi mặt ngẩn ngơ,
Cầm tên mà ngắm câu thơ chữ đề.
Tuấn Khanh mới hỏi: "Rằng thì,
"Tên này bắt được chữ gì mà coi ?"
Soạn Chi rằng: "Lúc vừa rồi,
"Thấy tên bắn tước có đôi thơ đề.
"Đã hay rằng của dị kỳ,
"Phi Nga tự ký thực thì nữ nhân.
"Song còn nghĩ ngợi phân vân,
"Đàn bà chưa dễ mấy thân lành nghề!"
Tuấn Khanh rằng: "Dám giấu gì,
"Phi Nga tên ấy thực thì chị tôi.
"Phải khi dạo cảnh hiên mai,
"Bắn con chim tước bay rơi bên này.
"Sự tình trình để anh hay,
"Thực tay thiếu nữ, cũng tay anh hùng!"
Soạn Chi rằng: "Mới lạ lùng!
"Nữ nhân tài kể đầu dòng thủ khoa.
"Hỏi thăm chị ả Phi Nga,
"Xuân xanh độ mấy ? Mặt hoa nhường nào ?
"Đã tìm nơi sánh anh hào ?
"Hay còn cung cấm, lầu cao đợi thì ?"
Tuấn Khanh rằng hỏi làm gì ?
"Tôi thì mười tám, chị thì đôi mươi!
"Hình dung thể dáng con người,
"Chị tôi thì cũng như tôi khác nào!
"Ngọc lành còn đợi giá cao,
"Hôn nhân chưa định nơi nào kết nghi.
"Phép nhà chẳng dám phi vi,
"Nhìn làm chi, hỏi làm chi, hỡi chàng ?"
Soạn Chi nghe nói tỏ tường,
Khác nào Lưu, Nguyễn gặp nàng tiên nhân.
Rằng: "Em muốn kết Châu, Trần,
"Cậy anh gánh vác, đỡ đần cho nên.
"May mà hương lửa bén duyên,
"Cũng vì mấy chữ trúc tiên thơ đề."
Tuấn Khanh rằng chẳng nệ gì,
"Vâng lời, em sẽ thử về hỏi xem,
"Liệu lời mà nói cho êm,
"May ra chị lại nghe em chờ thì.
"Dù mà nên chữ vu qui,
"Thời anh phải lấy vật gì đưa sang."
Soạn Chi mở tráp lấy vàng,
Đưa ngay một chiếc ngọc trang báu kỳ.
Lại đề tiểu luật một thi,
Rằng: "Đưa vi vật làm ghi tấm lòng.
"Phiền anh đưa đến tướng công,
"Xin cho chị Ả lầu trong xem tường.
Gọi là ghi tấm lòng vương,
"Hễ xem thấy của thời thương đến người,"
Tuấn Khanh xem của chịu lời,
Tạ từ thôi mới tái hồi bản gia.
Mặt hoa luống thẹn đường hoa,
Than rằng: "Sự bởi trăng già trêu ngươi,
"Lòng ta rắp lấy một người,
"Bói tên thời lại lạc loài khác tên."
Nàng buồn, than thở sự duyên,
Rằng: "Lòng chẳng rắp mà nên lạ lùng.
"Tiếc thay chàng Đỗ Tử Trung,
"Đồng niên vả lại oai dung đức tài.
"Lòng ta muốn kết duyên hài,
"Song tên thì lại ở nơi tay người!"
Soạn Chi chắc hẳn mười mươi,
Sự mình chẳng lộ cho ai biết tình.
Đêm ngày tơ tưởng một mình.
Tuấn Khanh lại đến tập tành làm văn.
Soạn Chi sẽ hỏi sự nhân,
Tuấn Khanh rằng: "Sự mười phân đã đành.
"Thơ tiên em đã đệ trình,
"Chị rằng: "Hội thí danh thành sẽ hay.
"Ngọc trang chị đã cầm tay,
"Vâng lời em mới sang đây tức thì.
Xin anh chớ nệ điều chi,
"Vu qui cùng với vinh qui cũng mầu!"
Soạn Chi rằng: "Chẳng bao lâu,
"Nguyện xin như ý sở cầu cho cam.
"Xin đừng ra dạ bắc nam,
"Mà chê lươn ngắn, lại tham trạch dài!"
Tuấn Khanh nghe nói mỉm cười,
Trình rằng: "Đã có đôi nơi cao dày.
"Có tiên thì hậu mới hay,
"Đã trồng cây đức, ắt dày nền nhân,
"Mấy lời gắn bó ân cần,
"Đành rằng thiên địa, quỉ thần chứng ta!"
Còn đương trò chuyện lân la,
Bỗng nghe chiếu chỉ Khai khoa cầu hiền.
Soạn Chi thoắt thấy tin truyền,
Rủ hai anh bạn cùng lên kinh kỳ.
Tuấn Khanh cố ý trở về,
Trình quan Tham tướng xin thi kịp người.
Dạy rằng: "Phận gái nữ hài,
"Thi Hương đã đỗ tú tài thì thôi.
"Thôi đừng thi cử theo người,
"Nữa người ta biết nữ hài thì sao ?
"Âu là cáo bệnh mới cao,
"Anh em ai biết sự nào mà nghi!"
Thoắt thôi Đỗ Tử, Soạn Chi,
Hai anh đều đến rủ đi vào trường.
Tuấn Khanh vâng cứ nghiêm đường,
Giả rằng bị bệnh phi thường, cáo thi.
Hai người khi ấy ra đi,
Tới nơi nộp quyển vào thi đua tài.
Công danh ai dễ nhường ai,
Hai chàng cùng chiếm tam khôi bảng vàng.
Tiếc thay tài Tuấn Khanh chàng,
Có thi thì cũng bảng vàng tam khôi.
Soạn Chi xem bảng xuân rồi,
Đinh ninh bèn nhớ đến lời đinh hôn.
Về nhà Tham tướng họ Văn
Nào hay thời vận gian truân quở người.
Phải thằng Binh Đạo vô loài,
Cùng quan Tham tướng bất hài đã lâu.
Nó làm một bản vọng tâu,
Vua đòi Tham tướng về chầu khám tra.
Biên phong điền sản cửa nhà,
Cùng là thân thích chẳng tha một người.
Nhưng cho có một tú tài,
Vì rằng công tử là người văn nhân.
Tuấn Khanh bèn cũng theo chân,
Theo vào trong ngục ân cần trình cha.
Mấy lời sau trước thưa qua,
Mưa tuôn giọt ngọc, lệ sa nên doành.
Rằng: "Xưa có gái Đề Oanh,
"Cứu cha khỏi nạn nên danh nữ tài.
"Tôi nay cũng phận nữ hài,
"Xin soi gương trước, báo nơi đạo thường.
Nói thôi mở túi lấy vàng,
Chia cho những kẻ ngục trường làm ăn:
"Đã hay : quan pháp vô thân" ,
"Song lẽ giữ lấy chữ "nhân" làm đầu.
"Khoan cho lão tướng giải sầu,
"Đôi ơn lượng cả các hầu ngục quan."
Ngục trường mấy kẻ cũng ngoan,
Nghe lời bèn để lão quan ở ngoài.
Tướng công sẽ bảo tú tài,
Rằng: "Con là phận nữ hài ngây thơ.
"Tiến kinh vạn lý trình đồ,
"Lệ khi ấm lạnh lõa lồ thì sao ?"
Nàng rằng: "Ngựa cỡi, cũng đeo,
"Rừng hoang, núi ngát, hiểm nghèo quản ru!
"Miễn là khỏi được oan vu,
"Một đoàn phụ tử thiên thu yên lành.
"Lạy cha con kíp khởi trình,"
Về nhà khi ấy một mình lo toan.
Gọi Văn Long đến thở than,
Rằng: "Bây giờ lúc gian nan hiểm nghèo.
"Ta là thân gái bọt bèo,
"Vì cha nên phải quyết liều mình đi.
"Quan san nghìn dặm quản chi,
"Song hiềm thiếu kẻ nữ nhi theo đòi.
"Phiền ngươi kiếm lấy một người,
"Trá hình nam tử với ngươi theo cùng!"
Long rằng: "Xin cả vợ chồng,
"Quẩy bầu, giắt ngựa, mang cung theo hầu."
Vợ chồng Long mới bảo nhau,
Rằng: "Trong nghĩa nặng ân sâu chưa đền.
"Bây giờ người mắc oan khiên,
"Không dưng ai có cần phiền đến ai.
"Con người quốc sắc nữ tài,
"Còn liều chẳng nghĩ dặm dài xông pha.
"Huống chi thân kẻ chúng ta,
"Mình đừng e lệ đường xa nỗi gần!
"Hễ lòng ta ở có nhân,
"Ắt là thiên địa đền ân sau này."
Vợ Long người cũng ngoan thay,
Nghe lời chồng bảo bước ngay vào nhà.
Đổi thay quần áo đàn bà,
Mặc đồ nam tử bước ra tức thì.
Vợ chồng khi ấy cùng đi,
Tuấn Khanh được kẻ nữ nhi theo hầu.
Đêm ngày mưa nắng giãi dầu,
Một cung một ngựa, một hầu lân la.
Chẳng nề muôn dặm đường xa,
Chân đi miệng niệm Di Đà độ thân.
Khấn rằng: "Thái thượng lão quân,
Cỡi trâu hóa phép phong vân chớ chầy.
Kìa trời cao nọ đất dày,
Xét soi kíp giải oan này mới xong.
Bèn làm văn sớ một phong,
Khẩn cầu thiên địa, Thổ công linh thần.
Cẩn phong một sớ vân vân,
Ngày đi tối lại nương thân khẩn cầu
Mưa tran nắng nấu giãi dầu,
Thành đô phủ ấy, đã hầu tới nơi.
Lầu Tần, quán Sở thảnh thơi,
Tạm vào trú ngụ ở nơi nhà hàng.
Nào ngờ cách bức hòe tường,
Trông sang thấy có một nàng tiểu thư.
Nhìn xem vẻ mặt nhân từ,
Long lanh mắt phương, nõn nà vóc mai.
Vén mành mành liếc trông ra,
Thấy chàng, len lét gót hoa đứng rình.
Người quốc sắc, vẻ khuynh thành,
Khoé tường ghé mắt, bậc rành phong tư.
Ngẫm rằng thực khách thi thư,
Dung nghi chỉnh chện, ngôn từ khoan thai.
Hẳn người danh sĩ cao tài,
Đi đâu đồ đệ lạc loài đến đây ?
Hay là ông Nguyệt xe giây,
Giẩy giun chàng đến chốn này cùng ta ?
Mặt hoa ẩn bóng tường hoa,
Liếc xem thử ý người ta thế nào ?
Càng nhìn càng nổi trận rào,
Nương long thổn thức, áo bào chứa chan.
Biết ai mà đặng thở than,
Ước gì đây đấy giao hoan một phòng.
Thuyền quyên đã rõ anh hùng,
Sao anh hùng chẳng rõ lòng thuyền quyên ?
Ruột tằm bối rối nào yên,
Bồi hồi chưa định kinh quyền làm sao.
Tuấn Khanh lập chí làm cao,
Gọi hề lấy rượu đưa vào bình phong.
Chàng cùng đồ đệ thung dung,
Tạm bày tiệc ngọc chén chung sa đà.
Bỗng đâu thấy một mụ già,
Tay bưng tiểu níp đồ trà, cam, lê.
Trình rằng: "Lấy tấm lòng quê,
"Nhà nàng tôi ở gần kề lân la.
"Trộm nghe công tử đường xa,
"Trà thang sẵn có của nhà đưa sang.
"Vật tuy bé nhỏ lạ thường,
"Song le nghĩa ví nghìn vàng trọng thay!"
Tuấn Khanh đương lúc giở say,
Rằng: "Lòng cho khách, khách rày đội ơn!
"Từ ra, sợ bảo rằng hờn,
"Lấy ra, chưa kể căn nguyên nhường nào ?
"Đã hay vay mận trả đào,
"Song ơn này để biết bao giờ đền ?
"Vả bấy nay chưa từng quen,
"Nào ai biết họ tường tên bao giờ ?"
Mụ rằng: "Nàng Cảnh tiểu thư,
"Con quan Tướng quốc khi xưa, kén chồng.
Ở cùng ông ngoại tướng công,
"Thấy chàng tướng mạo uy dung khác thường.
"Nay chàng muôn dặm đường trường,
"Qua đây là chốn phố phường hôi tanh
"Sẵn đây có của ngon lành,
"Gọi là vật mọn, vi thành sai đưa.
"Để mà ghi tấm lòng thơ,
"Họa may kim cải duyên ưa cùng người!"
Tuấn Khanh bèn chịu mỉm cười,
Mới ngâm tiểu luật thử chơi xem lòng.
Bút hoa tay thảo cẩn phong,
Gửi lời mụ lão tạ lòng ân nhân.
Lĩnh lời mụ mới ra sân,
Gọi hầu bèn hỏi vân vân mọi lời.
Văn Long mách bảo một hai;
Rằng: "Chàng Công tử tú tài họ Văn.
Chưa đâu xứng kết hôn nhân,
"Cớ sao mụ hỏi ân cần làm chi ?"
Nghe lời mụ lão trở về,
Mấy lời bộc bạch dâng thơ cho nàng.
Nàng từ tiếp được thơ chàng,
Đã say tướng mạo lại tường họ tên.
Bỗng đâu như chất lửa phiền,
Bèn đề một bức thư tiên họa vần.
Giục già đem đến Văn quân,
Cứ lời thưa thốt ân cần cho thông.
Nàng bèn vào gửi Phú ông,
Rằng: "Tôi thấy gã con dòng họ Văn.
"Thực là tài tử giai nhân
"Hình dung, tướng mạo mười phân chỉnh tề.
"Trọ bên tửu điếm gần kề,
"Lòng tôi cũng muốn kết nghì hợp duyên.
"Đã tra tường họ tường tên,
"Dám trình ông dạy có nên chăng là ?"
Phú ông tính khí thực thà,
Rằng: "Xưa con nguyện, ông đà nhớ đây!
"Bây giờ đã đẹp duyên này,
"Gọi hề lấy áo ông nay ra mừng."
Tuấn Khanh đương tiệc tưng bừng,
Đã nghe tin nhạn bay chừng tới nơi.
Mụ già len lén trình lời,
Rằng: "Thơ này của cô tôi trong lầu.
"Dạy tôi đem đến thưa hầu,
"Nguyện xin quân tử hảo cầu kết duyên."
Chàng bèn mở bức vân tiên,
Đọc xong, mình cũng ngợi khen rằng tài.
Tiếc thay nàng cũng một loài,
Trượng phu mà kết duyên hài, đẹp đôi!
Lặng ra, sợ bảo rằng tồi,
Chê ra lại sợ người cười hẹp dong!
Phải tìm quỉ kế mới xong,
Rằng: "Ta đã đội ơn lòng biết bao.
"May chân bước tới vườn đào,
"Giáng Hương, Từ Thức lẽ nào gặp tiên!
"Lửa gần hương muốn bén duyên,
"Anh hùng nỡ phụ thuyền quyên rẫy ruồng,
"Sợ rằng đã có tao khang,
"Mới hay bất khả hạ đường biết sao ?
Mụ rằng: "Thục nữ anh hào,
"Làm chi e lệ thấp cao rẫy ruồng!
"Nguyên xưa nàng đã tỏ tường,
"Mới đem duyên kết cùng chàng, không đâu!
"Nỡ nào ruồng rẫy, tủi nhau,
"Nỡ nào khẩn nguyện nơi cầu, nơi vong!"
Mụ còn năn nỉ chưa xong,
Trông ra đã thấy Phú ông bước gần
Tuổi vừa thất thập ngoại tuần,
Phơ phơ tóc bạc, xoăn xoăn râu rồng.
Đến chào chàng: "Tiểu tướng công!
"Mừng rằng hạnh ngộ tương phùng đến đây.
"Già còn cháu gái thơ ngây,
"Là con Cảnh Tướng quốc nay ở cùng.
"Bồ côi, vả giữ con dòng,
"Theo đôi kim chỉ nữ công kịp người.
"Chưa nơi nào đẹp duyên hài,
"Bằng lòng lấy, nó chọn người hợp duyên.
"Thấy chàng công tử sĩ hiền,
"Dám xin hạ cố tòng quyền nên chăng ?
Tuấn Khanh bèn mới thưa rằng:
"Đội ơn quốc lão xem bằng Thái san.
"Đoái thương đến kẻ sĩ hàn
"Chẳng so hơn thiệt, chẳng màng trọng khinh.
"Song nàng dòng dõi tướng khanh,
"Đã khuynh quốc sắc, lại danh nữ tài.
"Tôi là vũ tướng nhi hài,
"Hổ thân ít chữ phải mài cung đao.
"Dám đâu đọ khách lầu cao,
"Bao giờ đai bạc cẩm bào mới hay.
"Vả còn nghiêm phụ khi nay,
"Mắc oan còn phải đợi ngày giải oan.
"Dám xin lạy đấng tôn nhan
"Xót tình cho kẻ sĩ hàn đội ơn!"
Lão ông nghe nói căn nguyên,
Khen rằng: "Thực kẻ sĩ hiền hiếu trung.
"Dỗ người, người chẳng nghe cùng,
"Về không thì sợ mất lòng cháu ta.
"Âu là già dụng mưu già,
"Tìm lời phương tiện ắt là phải nghe."
Nhủ rằng: "Ngọc diệp kim chi
"Lứa đôi xem cũng phải thì lứa đôi.
"Nghe già chàng hãy chịu lời,
"Gửi qua nghiêm phụ để người được hay.
"Việc rồi chàng trở về đây,
"Lễ nghênh hôn ấy, già nay xin giùm."
Thấy lời lão trượng gạn gùng,
Chàng liền xảy nhớ Tử Trung bạn hiền.
Hiện còn chưa định nhân duyên,
Bèn toan một bước tạm quyền giả danh.
Rằng: "Ơn lão trượng hậu tình
"Đoái thương đến kẻ lữ hành, tha hương.
"Dạy lời phương tiện đôi đường,
"Vâng lời kẻo bận lòng vàng nặng thương."
Trong mình cởi lấy ngọc trang,
Tay dâng, rằng: "Chút vật thường làm tin.
"Gọi là tiểu lễ tòng quyền,
"Trao người đành dạ, tôi xin khởi trình.
"Nguyện cho vạn sự giai thành.
"Thì tôi sẽ biện vấn danh lễ thường."
Phú ông lĩnh lấy ngọc trang,
Đưa về lại phó cho nàng tiểu thư.
Nàng vâng lĩnh lấy bấy giờ,
Như khơi bể ái, như khua cơn sầu.
Lão ông bèn trở về lầu,
Truyền làm tiệc rượu mừng hầu tân lang.
Gọi là lễ tiễn lên đường,
Phó kinh, thành sự thì chàng hồi qui.
Tiệc rồi từ tạ ra đi,
Buộc yên, cột ngựa, hai hề theo sau.
Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu
Thẳng dong dặm liễu, vó câu bước dồn.
Gập ghềnh cách trở quan san,
Kìa non Thúy lĩnh, nọ ngàn Tương dương.
Xa xôi muôn dặm đường trường,
Tuấn Khanh thoắt đã tới phương kinh kỳ.
Tìm anh Đỗ Tử, Soạn Chi,
Trước mừng, sau nữa hoan hùy giải oan.
Tử Trung thoắt thấy ngọc nhan,
Chân hài giở gót miệng khoan khoan chào.
Rằng: "Xin quí hữu tạm vào,
Tha hương ngộ cố biết bao là mừng.
Hai người trò chuyện tưng bừng,
Kẻ vui cố hữu người mừng tân quan.
Cùng nhau đồng tịch đồng bàn,
Tuấn Khanh hỏi: "Ngụy tôn nhan đâu rày ?"
Tử Trung bèn mới kể bày,
Rằng: "Anh Ngụy Soạn từ ngày thấy tên.
"Bảng vàng chiếm được khôi nguyên,
"Thẳng dong xe ngựa về miền bên anh."
Tuấn Khanh nghe rõ chân tình,
Làm thinh kẻo sợ sự mình hở hang,
Rằng: "Tôi muôn dặm đường trường,
"Thành đô chẳng gặp, Ngụy chàng vinh qui.
"May còn quí hữu đây thì,
"Thương em xin nặng lòng vì phụ thân."
Tuấn Khanh kể hết vân vân,
Tử Trung nghe rõ ân cần duyên do.
Hỏi rằng: "Phải kẻ oán thù,
"Cho tôn bá phải oan tù gian truân.
"Anh thì làm một bản văn,
"Để tôi tâu với thánh quân cửu trùng.
"Thiên triều khi ngự thung dung,
"Xin soi chẳng để oan vòng kẻ ngay.
"Tôi xin gánh sức việc này,
"Gọi là kẻ mỏng, người dày giúp nhau!"
Tuấn Khanh mới giải mạch sầu,
Bèn làm sớ tấu đệ hầu quan nhân.
Tử Trung xem hết phân vân,
Cân đai áo mũ rời chân tức thì.
Tuấn Khanh mới bảo tùy nhi,
Đi chơi cho biết kinh kỳ tẻ vui.
Mảng còn xem ngắm mọi nơi,
Lâu rồi, Trung đã gót rời chủ gia.
Nhác trông bên gốc chiếu hoa,
Tiểu hàm bỏ ngỏ, người đà vắng tanh.
Đến liền xem của Tuấn Khanh,
Giở ra thấy sớ tính danh nữ hài.
Khen rằng thực đáng nữ tài,
Bấy nay ai biết rằng ai là gì ?
Trung bèn lấy sớ cất đi,
Tiểu hàm lại để như y bao giờ.
Nực cười tơ tưởng ngồi chờ,
Tuấn Khanh đâu đã ngẩn ngơ trở về.
Tử Trung rằng hội giai kỳ,
Giắt tay cười mãi ngồi kề với nhau.
Rằng: "Anh em đã bấy lâu,
"Bây giờ đã phỉ sở cầu từ đây!"
Tuấn Khanh biết ý nào hay,
Gẫm mình, mình lại ngại thay sự mình!
Nghĩ khi cử động, ngôn, hành,
Thôi ta giữ chẳng lộ hình khi nao!
Họa chăng một chút má đào,
Nương long song đã cao cao vừa tày.
Ví mà chàng có biết hay,
Lả lơi thì đã đến đây làm gì.
Vậy nên phải nói lảng đi,
Việc chi quí hữu cười, chê, dạy cùng"
Tử Trung rằng: "Buổi tương phùng,
"Ai ngờ công tử là chàng nữ nhân.
"Khi xưa đã thấy sự chân,
"Ước gì biến dịch Châu, Trần một khi.
"Mới hay nhân nguyện thiên tùy,
"Lọ là đòi hỏi làm chi nữa mà!"
Tuấn Khanh đã tỏ bệnh ra,
Phải thầy diệu thủy Pháp loa khôn đành.
Nhưng mình phải biết sự mình,
Hãy còn khép nép dạng hình như không.
Sớ trong tay áo Tử Trung,
Giở ra hỏi: "Chữ cẩn phong ai đề.
"Của này dấu tích còn ghi,
Há không dấu tích mà phi bạn này."
Tuấn Khanh đỏ mặt, tía mày
Nương long giộn giật, giở bài rời chân.
Hình như phi điểu thất quần,
Lạ lùng khôn nẻo ẩn thân, náu hình.
Nghĩ mình tủi xót phận mình,
Dám xin bày thực chân tình biết sao ?
"Thương hoa xin chớ ngại nào,
Hãy khoan khoan để má đào gửi thân.
"Ngửa trông bể ái nguồn ân,
"Song thời đã trót định thân cùng người.
"Lòng tôi ái sắc tham tài,
"Hai anh cốt lấy một người kết duyên.
"Ngựa nào gác được hai yên,
"Cho nên tôi phải gửi nguyền bói tên.
"Bắn chim vừa thủa ứng huyền,
"Ai mà bắt được thì nên vợ chồng,
"Phải tay Ngụy Soạn anh hùng,
"Được tên lại viết thư phong, ngọc lành.
"Chữ rằng: tòng nhất bất canh,
"Chẳng thì dám tiếc tiện hình này đâu!"
Trung rằng: "Báo ứng nhiệm mầu,
"Lặng nghe ta kể trước sau cho tường.
"Nguyên xưa ở chốn học đường,
"Nhổ tên đầu tước, thực chàng Tử Trung.
"Mới hay thiên địa chí công,
"Bây giờ lại tỏ hình dung rõ ràng.
"Giũ tên hạ thủ vi cường,
"Ngọc này sẵn đợi ngọc trang chăng là ?
"Việc xưa phảng phất gần xa,
"Nghĩ lâu thì lại nhớ ra rõ ràng.
"Đề thơ chim tước bay sang,
"Phát tất ứng huyền, chữ ký Phi Nga!"
Tuấn Khanh rằng: "Mới dị kỳ,
"Thế mà anh Ngụy Soạn Chi nhận càn."
Chàng rằng: "Thiên vận tuần hoàn,
"Kẻo kêu rằng chịu, kẻo van rằng đừng.
"Giục lòng hương lửa tưng bừng,
Khen thay nguyệt lão xích thằng xe dây."
Trăng trăng, gió gió, mây mây,
Kẻ yêu quốc sắc, người say văn tài.
Duyên sâu sánh với tình dài,
Bõ công đăng hỏa, dùi mài xưa nay.
Bỗng đâu giong ruổi đến đây,
Tưởng rằng cố hữu, ai hay duyên hài.
Trượng phu thiện kính anh tài,
Thuyền quyên dẫu đấng vạn loài chẳng tha!
Vén cành âu hẳn hái hoa,
Khỏi lầu mới gọi nàng Ba bước vào.
Chàng liền cởi áo cẩm bào,
Thuyền quyên sánh với anh hào
Trướng loan nghiêng ngửa gối loan
Thắm duyên Thần nữ, phỉ nguyền Tương quân.
Vui vầy bể ái nguồn ân,
Mưa trên đỉnh Sở, mây vần ngàn Tương.
Khắc giờ hơn nợ nghìn vàng,
Say sưa vẻ nguyệt, mơ màng giấc mai.
Cùng nhau đã phỉ duyên hài,
Nàng bèn năn nỉ trình lời vân vân...
"Thiếp nay là phận nữ nhân,
"Một thân đã phó lang quân cầm quyền.
"Lòng còn nghĩ ngợi chưa yên,
"Soạn Chi đã trót nhận tên phải lầm.
"Ta nay đã hợp sắt cầm,
"Ắt chàng Ngụy Soạn tủi thầm không đâu.
"Tôi xin đoan một chước mầu,
"Tích xưa dĩ mã dịch ngưu hay là.
"Nguyên tôi ngày trước đi qua,
"Nghỉ Thành đô phủ, gần nhà Phú ông,
"Thấy nàng thục nữ hình dung,
"Trầm ngư lạc nhạn tuyệt vòng trần gian.
"Con Cảnh Tướng quốc ở quan,
"Thấy tôi muốn kết phượng loan duyên lành.
"Tôi đà làm chước từ hành,
"Song nàng chỉ quyết một tình khăng khăng.
"Vậy tôi phải lấy ngọc trang,
"Mượn đồ chàng Ngụy đưa sang tức thì.
"Gọi là lễ mọn xá chi,
"Rắp ranh để kết duyên nghì đủ đôi.
"Kẻo tôi đã trót chịu lời,
"Bói tên thấy ở tay người biết sao ?
"Ai ngờ thiên võng nan đào,
"Giẩy giun thiếp bỗng tìm vào tới đây.
"Ơn chàng thương đến hậu thay,
"Muốn đem nàng ấy vào tay Ngụy chàng.
"Khác nào vàng lại đổi vàng,
"Kẻ về bên ấy, người sang bên này!
"Tử Trung nghe nói mừng thay,
"Rằng: "Thi diệu kế ta nay bằng lòng.
"Còn đi xem việc Tham công,
"Hôm qua đã tấu Cửu trùng ngự coi.
"Phán quan Lại bộ tra rồi,
"Ta đi xem thử lượng tài làm sao ?"
Tử Trung lên tới lầu cao,
Gặp quan Lại bộ vừa vào tấu tri.
Lượng tâu Tham tướng lão kỳ.
Lại ra trọng trấn biên thùy an dân.
Thằng Binh Đạo ở bất nhân,
Mưu mô phản kẻ trung thần oan khiên.
Tội thằng Binh Đạo đương nhiên,
Đem đày Đông hải mười niên sẽ về.
Họ Văn phủ nội vật gì,
Phó hoàn Tham tướng lĩnh về phủ trung.
Lại sai trọng trấn đổng nhung,
Truyền Công án viện cứ công phụng hành.
Tử Trung nghe rõ phân minh,
Vợ chồng sắm sửa khởi trình vinh qui.
Nhà quan Tham tướng đã về,
Ngoài dinh, Ngụy Soạn chực kề đợi tin.
Tưởng rằng về đến thì nên,
Chẳng ngờ đã phõng tay trên nực cười.
Tổ tôm kia mới bất tài,
Thập thành ngồi đợi một hai lấy tiền.
Tuấn Khanh việc rõ tòng quyền,
Đổi thay quần áo như in mọi ngày.
Đến mừng Ngụy Soạn trình bày,
Rằng: "Em cam chịu lỗi này biết sao.
"Nghe tin anh đỗ bảng cao,
"Vội mừng kể đã biết bao là mừng.
"Cho cam lặn suối qua rừng,
"Thần kinh chỉ nẻo tách chừng thăm tin.
"Đành hay có chí thì nên,
"Khôi nguyên mừng mới, nhân duyên phải thì.
"Chữ rằng: "Thiên tải nhất thì,
"Lọ gieo lá thắm, lọ xe chỉ hồng.
"Nay mừng gặp hội kỳ phùng,
"Dám xin tạm trú thong dong mấy ngày.
"Em về minh bạch trình bày,
"Gửi qua nghiêm phụ người hay sự lòng."
Nàng bèn vào lạy Tướng công,
Nỗi niềm gia sự thỉ chung trần tình.
Rằng: "Con nhân việc lai kinh,
"Một mình mình biết, một mình mình hay.
"Bởi chưng văn sớ cầm tay,
"Tiện khi cầu khấn đêm ngày cho cha.
"Bỗng quên bỏ ngỏ hòm ra,
Tử Trung xem thấy biết là nữ nhân.
"Lộ tình và nặng niềm ân,
"Cho nên chàng ép hôn nhân đã thành.
"Lạy cha xin thú thực tình,
"Chẳng tham hoa nguyệt mà khinh phép nhà."
Tướng công mừng rỡ thay là,
"Rằng: "Khen gái trả ân cha mới tài.
"Mừng con đã đẹp duyên hài,
"Việc gì bởi phận, tại trời xui ra.
"Có sao thấy gã tân khoa,
"Ngựa xe đến chực bên nhà đã lâu ?
"Ngày xưa có thấy vào hầu,
"Hỏi han xem ý ra màu rắp ranh.
"Cha thì giả cách vô tình,
"Khách thì vốn dạ đinh ninh một lòng.
"Vắng con cha chẳng nói cùng,
"Bây giờ đã vậy khách mong nỗi gì ?"
Nàng bèn thưa thớt vân vi :
"Bói tên chàng Ngụy toan khi lộn sòng.
"Được tên là Đỗ Tử Trung,
"Con đà tra thực thỉ chung rõ ràng.
"Trình qua nghiêm phụ được tường."
Soạn Chi đến quán chào chàng Tử Trung.
Rằng: "Tôi thấy sự lạ lùng,
"Cho nên tôi đến trình cùng quí huynh.
"Nguyên tôi giao với Tuấn Khanh,
"Chị chàng tôi đã rắp ranh Tấn Tần
"Giao rằng chiếm được bảng xuân,
"Trở về rồi sẽ hôn nhân kết nguyền.
"Nay tôi đã chiếm khôi nguyên,
"Cứ lời giao ước cho nên tới hầu.
"Ngỡ là y ước sở cầu,
"Ai ngờ biến cải ra màu bạc đen.
"Nỡ nào ở thế cho nên,
"Nhẹ bên đai ấn, nặng bên má hồng.
"Thuyền quyên nỡ phụ anh hùng,
"Để anh hùng luống chốc mòng thuyền quyên.
"Phiền anh gắng sức một phen,
"Gửi qua Tham tướng có nên chăng tường."
Thấy lời chân thực khá thương,
Tử Trung mới bảo rõ ràng cho hay :
Rằng: "Trang tình nghĩa xưa nay,
"Há rằng mới có một nay ru mà!
"Lần lần năm đã kể ba,
"Tuy hình nam tử, thực là nữ nhân.
"Bởi chưng để lộ sớ văn,
"Cho tôi mới biết ân cần hỏi tra.
"Nàng bèn sự thực nói ra,
"Cùng tôi lời đã giao hòa kết duyên.
"Mới hay thành sự tại thiên,
"Một lời nói cợt mà nên vợ chồng!
"Nàng thì đã vẹn chữ tòng,
"Chị thì chẳng có, anh hòng làm chi ?
"Rõ ràng còn có giấu gì ?
"Anh em là nghĩa lan chi bạn vàng "
Soạn Chi nghe nói bàng hoàng,
Giục hề sắm sửa lên đường hồi gia.
Giận rằng sa kế đàn bà,
Soạn Chi nghĩ lại tưởng mà hổ ngươi.
Tìm lời chữa thẹn đỡ thời,
Một ngày mắc tiếng, muôn đời tạc bia,
Thế gian họa hổ họa bì,
Tri nhân, tri diện, ai thì tri tâm.
Sự nay ta đã trót lầm,
Vậy bèn kể lể nghĩ thầm xưa sau:
"Sắc tài ai kém ai đâu,
"Rủi may là phận, ai hầu biết sao ?
"Sắt cầm duyên những ước ao,
"Lượng công trình kể biết bao công trình.
"Vô tình thay, khách vô tình,
"Nỡ đem lòng bạc mà khinh nghĩa vàng!
Thấy lời than thở cũng thương,
Tử Trung mới bảo Ngụy chàng cho hay :
"Đã nên may khéo là may,
"Lễ nghênh hôn đã đặt bày vừa xong,
"Phiền anh vào gửi tướng công,
"Cho vào làm lễ cúc cung từ đường.
"Tiệc rồi em lẻn lên đường,
"Thì anh sắm sửa vinh hương cũng vừa."
"Soạn Chi mặt mũi ngẩn ngơ,
"Đười ươi giữ ống hẫng hờ tính sao ?
Chẳng đi ra ý làm cao,
Đi thời còn mặt mũi nào mà đi!
Thôi thôi ở cũng mà chi,
Lời rằng chữ vị là vì quản bao!
Gọi hề sắm sửa cho tao,
Văn cân đai cước, cẩm bào nghiêm trang.
Bèn vào Văn tướng từ đường,
Cứ trong hôn lễ phần hương khấn cầu.
Nguyện xin báo ứng nhiệm mầu,
Họ Văn, họ Đỗ cùng nhau thọ tràng.
Tướng công mở tiệc giữ giàng,
Khuyên mời tân khách họ hàng no say.
Đương khi tiệc yến vui vầy,
Tráp trầu nàng mở sắp bày đưa ra.
Lễ mừng hai họ gần xa,
Rồi nàng lại trở gót hoa về phòng.
Vợ chồng vào lạy tướng công,
Tạ cùng Ngụy Soạn, giải lòng vân vi;
"Nàng ba là nghĩa lan chi,
"Phiền anh tạm trú đợi thì sẽ hay.
"Để tôi tuyển trạch được ngày,
"Cùng nhau ta sẽ vui vầy vinh hương."
Soạn Chi ngồi lặng tư lường
Ra chiều có ý bẽ bàng lắm thay!
Giờ lâu Soạn mới thưa bày,
Trình rằng: "Đợi một vài ngày thì vâng!"
Vợ chồng Đỗ thị vào phòng,
Sắm sanh đồ đệ Tử Trung lên đường.
Vó câu khoan bước dặm trường,
Trỏ thành đô phủ chốn hàng ngày xưa.
Mong sao gặp mặt tiểu thư,
Nạp nghênh hôn lễ mà đưa nàng về.
Gả cho anh Nguỵ Soạn Chi,
Cùng nhau ta sẽ lưỡng qui nhất đoàn.
Những mong than thở sự duyên,
Thành đô phủ ấy gần miền tới nơi.
Bỗng nghe tiếng nhạc vang trời,
Giục lòng thiếu nữ viễn hoài nhớ mong.
Vội mừng ngỡ tiểu tướng công,
Nào ngờ Đỗ Tử vào trong sảnh đường.
Phú ông sắm sửa vội vàng,
Ra hầu quí khách chưa tường duyên do:
"Tôi là già lão hèn ngu,
"Việc gì xin chỉ giáo cho mừng lòng ?"
Bấy giờ chàng Đỗ Tử Trung,
Khuyên mời quan lão tướng công cùng ngồi:
"Tôi xin trình gửi vài lời,
"Có tin hỉ sự vầy vui đó mà!
"Rằng anh Ngụy Soạn Thám hoa,
"Đồng song vả lại đồng khoa bảng vàng.
"Ngày xưa có gửi ngọc trang,
"Vốn đem duyên kết cùng nàng tiểu thư.
"Lễ nghênh hôn cậy tôi đưa,
"Trình quan lão tướng chọn giờ lên xe."
Mấy lời lão tướng ngồi nghe,
Rằng: "Tôi tuổi tác hàn vi bất tài.
"Có con cháu gái nữ hài,
"Nguyên xưa đã kết Tú tài họ Văn.
"Chàng còn dở việc nghiêm quân,
"Cho nên chưa định hôn nhân đưa về
"Gửi trình lời thực lòng quê
"Còn không lão dám tiếc chi nói càn."
Tử Trung rằng vốn ngọc trang,
"Tuấn Khanh đã đổi cho chàng Soạn Chi.
"Họ Văn đã hẹn vu qui,
"Lại làm một bức thư đưa rõ ràng.
"Phiền người đưa đến cho nàng,
"Nhận xem tự dạng mới tường sự duyên.
"Nàng nhìn trong bức thư tiên,
Thì bài thơ họa quả nhiên của mình.
Song hiềm một nỗi Tuấn Khanh,
Bấy lâu vắng bóng phong thanh cá nhàn
Ước ao thấy mặt tiểu quan
Cho cam công khách hồng nhan đợi chờ.
Quải người thay, bấy ông tơ,
Xe duyên chểnh mảng, thẫn thờ niềm đơn.
Ước gì rõ được căn nguyên,
Thắm phai cho biết, bạc đen cho tường.
Nhân sao chiếm nhận ngọc trang,
Xưa nay ai biết Ngụy chàng là ai.
Rày chi những sự trái tai,
Thiên duyên chẳng lọ vật nài ép duyên!
Ví mà ỷ thế cậy quyền,
Thì đành bình thủy, hoàng tuyền thấy ai ?
Phiền ông ra gửi lại người,
Phú ông lại cứ như lời trình qua.
Tử Trung thấy nói thực thà,
Sai quân về đón hầu bà tới nơi.
Dẫn cho rõ nỗi niềm tây,
Trước sau minh bạch chuyện này mới xong.
Nàng vâng lĩnh mệnh thẳng dong,
Lên xe bèn tới Phú ông thảo đường.
Nực cười thay Cảnh thư nương,
Nhác trông xa ngỡ em chàng Tuấn Khanh.
Ghé nom trong bức mành mành,
Nhìn xem nhan sắc dáng hình như in.
Nghĩ rằng nàng tới đem tin,
Ắt là ta hẳn phỉ nguyền từ đây,
Vội vàng bèn trở gót giày,
Mời rằng nương tử vào ngay trong phòng.
Ong mừng bướm, bướm mừng ong,
Kẻ mong tin nhạn, người mong thư truyền,
Hỏi thăm công tử bình yên,
Đến đây nương tử hàn huyên việc gì ?
Tuấn Khanh rằng phận nữ nhi,
"Chấp kinh quyền cũng phải tùy mới thông.
"Tôi đà phận đẹp cỡi rồng,
"Muốn cho nàng cũng chữ đồng vinh hoa.
"Thực là ngày trước đi qua,
"Trá hình nam tử nay ta rõ ràng.
"Bởi chưng có việc nghiêm đường.
"Cải tang cho tiện đường trường xông pha.
"Nay tôi đã vẹn thất gia,
"Phu quân là Trạng tân khoa nhà ngoài.
"Còn chàng Ngụy Soạn quốc tài,
"Chưa nơi nào đẹp duyên hài xứng cân.
"Thấy nàng đáng giá phu nhân,
"Cho nên tâm sự ân cần đem sang.
"Vốn ngày xưa chiếc ngọc trang,
"Thực là của Ngụy Soạn chàng vấn danh.
"Bởi tôi ngày trước trá hình,
"Nên bây giờ phải thân hành thưa qua.
"Nàng nên sắm sửa bước ra,
"Chào quan Hoàng bảng tân khoa lấy lòng.
"Trở vào lạy tạ Phú ông,
"Chị em ta cũng đều cùng vinh qui."
Mấy lời nàng Cảnh ngồi nghe,
Nghĩ rằng chưa tỏ Soạn Chi dạng hình.
Nhưng mà khoa mục tướng khanh,
Có hình thì mới có danh ắt là.
Nàng bèn minh bạch trình qua,
Phú ông nghe nói lòng hòa mừng thay.
Truyền làm yến tiệc vui vầy,
Lễ nghênh hôn cũng đặt bày nghiêm trang.
Nàng vào bái tạ từ đường,
Lạy ông thôi mới mời chàng Tử Trung,
Tiệc rồi thầy tớ thung dung,
Xe xe, ngựa ngựa, thẳng dong lên đường.
Vui chân chẳng ngại dặm trường,
Đến nơi gia tướng Ngụy chàng văn nhân.
Nhìn xem quốc sắc mười phân,
Nghĩ rằng khách cũng là xuân càng mầu.
Mừng lòng đã thỏa sự cầu,
Người xe chỉ thắm, ta xâu hạt vàng,
Song song anh, yến, phượng, hoàng,
Cùng nhau mở tiệc lên đàng vinh qui.
Tiệc bày hồng nhạn tứ vi,
Họ hàng thân thích, hả hê vui vầy.
Xướng ca đàn hát ba ngày,
Tiệc rồi ai nấy chia tay ra về.
Tử Trung mới hỏi Soạn Chi:
"Ngọc trang đã hợp, nào thì trúc tiên ?
"Giao hoàn cho phỉ sở nguyền,
"Các tuỳ kỳ tiện mới yên dạ này."
Trúc tiên Soạn đã cầm tay,
Vâng lời bèn mới gửi ngay trả chàng.
Giao rằng bốn họ vinh xương,
Có người khoa mục, có nàng thục nhân.
Đời đời xuân lại gặp xuân,
Dõi truyền Đỗ, Ngụy, Cảnh, Văn bốn nhà.
Truyện này dù thực dù ngoa,
Cứ trong tiểu thuyết diễn mà chép chơi.
Miễn là lầm lỗi theo lời,
Chẳng ca Bạch tuyết, chẳng tài Thanh liên.
Ít nhiều chắp chảnh một thiên,
Ai chê mặc ý, ai khen mặc lòng.
Dõi truyền phúc, lộc, thọ chung,
Kiêm toàn bách phúc, hưởng đồng thiên xuân.
Truyện Nôm
Lục bát |
16770 | https://vi.wikisource.org/wiki/Di%E1%BB%85n%20v%C4%83n%20nh%E1%BA%ADm%20ch%E1%BB%A9c%20l%E1%BA%A7n%20th%E1%BB%A9%20hai%20c%E1%BB%A7a%20Barack%20Obama | Diễn văn nhậm chức lần thứ hai của Barack Obama | Diễn văn nhậm chức của Barack Obama
en:Barack Obama's Second Inaugural Address
ja:バラク・オバマの第2回大統領就任演説 |
16792 | https://vi.wikisource.org/wiki/Thi%E1%BA%BFt%20d%C4%A9%20di%E1%BB%85n%20%C3%A2m%20th%C3%A1n%20v%C4%83n | Thiết dĩ diễn âm thán văn |
Phiên âm Hán Việt
Thiết dĩ nhân sinh tại thế, do ư diệp mậu hoa hồng
Minh lý đại hạn đáo lai, các tự triêu sương hiểu lộ
Ngã Phật thân trường trượng lục, tịch diệt Song Lâm
Lão Quân đan luyện cửu hoàn, chung quy Thệ Thủy
Thán bát bách niên chi Bành Tổ
Ta tam thập tuế chi Nhan Hồi
Tuy nhiên lão thiếu bất đồng
Nhậm nãi tử sinh bình đẳng
Giả như Tam Hoàng thọ mệnh, khởi miễn luân hồi
Tích thời Ngũ Đế thánh quân, nan lưu bất tử
Thần Nông diệu dược, bất y hạn tận chi nhân
Biển Thước linh đơn, mạc cứu số chung chi sĩ
Tần Thủy Hoàng di sơn tắc hải, mệnh táng Sa Khâu
Sở Bá Vương sức lực bạt sơn, Ô Giang tự vẫn
Tề Cảnh Công thiên tứ phì mã, chung thành uổng hố lư diêm
Hán Hàn Tín thập đại công lao, cự bảo trường sinh tại thế
Mạnh Thường Quân tam thiên kiếm khách, cá cá thân vong
Khổng Phu Tử thất thập nhị hiền, nhân nhân hà tại
Kham thán Chu, Tần, Hán, Ngụy lâu đài không tỏa ư hoang giao
Khả thương Tấn,Tống, Tề, Lương quan quách tận ai ư khoáng dã
Cổ thánh tiền hiền:
Dã tằng đôi kim tích ngọc, dã tằng y tử yểu hoàng
Dã tằng đoạt lợi tranh danh, dã tằng dụng văn đấu võ
Ô hô...!
Nhân sinh cáp tự thủy đông lưu
Chí sính anh hùng xung Đẩu Ngưu
Tam thốn khí tồn thiên bát dụng
Nhất đán vô thường vạn sự hưu |
16969 | https://vi.wikisource.org/wiki/V%C4%83n%20C%C3%B4i%20th%C3%A1nh%20nguy%E1%BB%87t%20t%C3%A1n%20t%E1%BB%A5ng%20thi%20ca | Văn Côi thánh nguyệt tán tụng thi ca | (Dẫn: Ca này đọc ngày trước hết và các ngày lễ cả)
Vườn Rosa bao quanh trái đất
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu hiền,
Thử truy cùng cho đến căn nguyên
Xem ai đã gây nên vậy tá?
Bởi ông thánh Ða Minh cha cả
Thấy ruộng thiêng cỏ rả mê man,
Người lo buồn nguyện ngắm kêu van
Xin Ðức Mẹ cực khoan thương đoái.
Ðức Mẹ thương xuống ơn rộng rãi
Trao tràng châu truyền hãy giảng khuyên:
Khuyên người ta lần hạt ngắm nên,
Sẽ chữa tật thiêng liêng cho đã.
Người vâng cứ giảng không bao nả
Thấy lòng người khác cả khi xưa,
Kẻ mê đàng tội lỗi liền chừa
Phường đạo rối xác xơ tan tác.
Thế gian bỗng tự nhiên ra khác
Ruộng Y-ghê cỏ rác bớt dần,
Thánh hội từng tư mộ công ân
Hằng năm đặt lễ tuần kính nhớ.
Thơ rằng:
Mộc bản thủy nguyên giai hữu tự
Ðức cơ phúc chỉ khởi vô do.
Bởi đâu khai tác thánh chi đồ
Phải truy niệm sao cho xứng đáng.
Kìa hà lạc thấy còn cảm thán
Nọ cam đường thi tán tam chương,
Huống vườn thiêng Thánh Mẫu mở mang
Cây phúc rủ ngành vàng quí hoá.
Ta hãy cố hái hoa tìm quả
Quả cùng hoa rất lạ rất nhiều,
Rất thơm tho mỹ vị ngọt ngào
Ngoạn hứng chỉn không bao là chán.
Văn Côi Thập Ngũ Sự Thi Ca
Phép ngắm Rosa nguyên cội rễ,
Suy ơn chuộc tội loài người thế,
Tự sinh nhi tử tử nhi sinh,
Công nghiệp vô cùng khôn xiết kể.
Lạy ơn rất thánh Ðức Bà,
Xin vì phép ngắm Rosa thánh này,
Ban ơn soi sáng bởi trời,
Cùng ban sự sống đời đời cho con.
Năm sự Vui
1. Chúa toan cứu chuộc các sinh linh,
Sai sứ truyền tin Thánh Tử sinh.
Thánh Mẫu dâng mình theo ý Chúa
Chịu thai nguyên vẹn đức đồng trinh.
Lạy ơn Ðức Mẹ nhân thay
Xin vì sự nhiệm mầu này dủ thương,
Cho con lòng vững đá vàng,
Vâng theo ý Chúa mọi đàng đừng sai.
2. Isave thánh đà già cả,
Chúa định mang thai con cách lạ,
Ðến viếng tha con khỏi tội truyền,
Con trong lòng mẹ liền mừng tạ.
Lạy ơn Ðức Mẹ nhân thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này dủ thương.
Cầu xin Chúa cả thiên đàng,
Cứu con cho khỏi các đàng tội khiên.
3. Bê-lanh phong cảnh cực trần ai,
Chúa chọn sinh nơi khốn khó thay.
Máng cỏ bò lừa quì thở ấm.
Thiên thần mừng rỡ Chúa ra đời.
Lạy ơn Ðức Mẹ nhân thay.
Xin vì sự nhiệm mầu này dủ thương.
Cho con được ở khiêm nhường,
Chớ yêu chuộng sự vẻ vang trên đời.
4. Mẫu hoàng vâng giữ lời truyền dạy.
Ðem Chúa vào đền xin chuộc lấy.
Thầy cả xưng ra thật Chúa Trời.
Liền xin ẵm lấy cùng thờ lạy.
Lạy ơn Ðức Mẹ nhân thay.
Xin vì sự nhiệm mầu này dủ thương.
Cho con thủ tiết băng sương,
Ðáng lên hưởng phúc thiên đường ngày sau.
5. Lễ rồi Con lạc, Mẹ tìm Con
Lòng Mẹ ba ngày rất héo hon,
Ðoạn trở về đền thì lại thấy,
Con về giữ vẹn đạo thần hôn.
Lạy ơn Ðức Mẹ nhân thay.
Xin vì sự nhiệm mầu này xuống ơn.
Cho con lòng thật ăn năn,
Soi gương phúc đức siêng năng vâng lời.
Tạ (năm sự Vui)
Con kính nhớ ngợi khen Ðức Mẹ,
Ðã hưởng phần vui vẻ lạ thay.
Vui vì khi thấy sứ Chúa sai,
Truyền tin lạ chịu thai Thánh Tử
Vui vì Isave thánh nữ
Tội truyền con khỏi tự trong thai,
Vui vì khi thấy Chúa ra đời
Thiên thần hát mừng Người cách lạ,
Vui vì Chúa vào đền thờ cả
Thánh Simi kính tạ khen Người,
Vui vì Con lạc mất ba ngày
Tìm lại thấy trong nơi đền thánh.
Bấy nhiêu sự chúng con dâng kính
Xin giàn ra trong tính phần vui,
Cho chúng con hưởng phúc trên trời
Ðược hằng sống đời đời vui vẻ.
Năm sự Thương
Sự vui qua sự sầu lại kế,
Lòng Ðức Bà như bể dạt dào,
Khi thấy con chịu khốn khó bao,
Thì người cũng phải đau đớn hết.
1. Chúa vào cầu nguyện trong vườn Giệt
Thấy tội loài người lòng thảm thiết,
Máu lộn mồ hôi đổ túa ra,
Phó mình vào nộp tòa quan xét
Lạy ơn Ðức Mẹ khoan thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này thảm thương,
Cho con được sức vững vàng,
Chịu nhiều sự khó Chúa thường định cho.
2. Chịu khốn thâu đêm rất nhuốc nha,
Sáng ngày dinh trấn giải vào tra,
Dậy đưa cột đá đem dây trói,
Ðánh cả và mình thịt nát ra
Lạy ơn Ðức Mẹ khoan thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này thảm thương,
Soi cho con mọn biết đường,
Trách mình vì tội đã thường phạm liên.
3. Mặc cho áo đỏ như vua giả,
Ðầu đội mão gai thâu suốt cả,
Máu chảy ròng ròng mặt chứa chan
Lại quì gối nhạo giơ tay vả.
Lạy ơn Ðức Mẹ khoan thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này thảm thương,
Cho con được đức khiêm nhường,
Hằng bằng lòng chịu trăm đường nhuốc nha.
4. Khi quan luận giết án đà phê,
Thánh giá đem cho vác nặng nề,
Ðau đớn vừa đi vừa ngã xuống,
Hung đồ buộc cổ kéo lôi đi
Lạy ơn Ðức Mẹ khoan thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này thảm thương,
Giữ con đừng để ngang tàng,
Cứ nương Thánh giá theo đàng Chúa đi.
5. Thảm thay, xô ngửa trên thánh giá,
Ðanh đóng chân tay thâu suốt cả,
Chúa chịu đền thay hết tội đời,
Mẹ như dao sắc thâu qua dạ.
Lạy ơn Ðức Mẹ khoan thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này xuống ơn,
Tha con khỏi các nợ nần,
Khi hồn lìa xác khỏi quân giặc thù.
Tạ (năm sự Thương)
Kính nhớ sự thảm thương Ðức Mẹ,
Khi Con vì tội thế đền bồi.
Thương Con đã đổ máu mồ hôi
Chịu quân dữ bắt nơi vườn Giệt,
Thương Con chịu thâu đêm thảm thiết
Chịu đánh đòn nát hết thịt mình,
Thương con đầu đội mạo gai khoanh
Mặc áo đỏ như hình vua giả,
Thương Con phải vác cây Thánh giá
Gượng vác đi mà ngã khốn thay,
Thương Con chịu đanh đóng chân tay
Cùng chịu chết vì loài người thế.
Ðức Mẹ bởi thương Con qúa lẽ
Trong lòng nên như bể đắng cay,
Xin vì những sự thảm thiết này
Cho con được ăn mày phần phúc.
Năm sự Mừng
Sự thương khó đà qua khỏi lúc
Những sự mừng bỗng chốc tiếp theo,
Vì các ơn rất cả rất nhiều,
Ðức Mẹ được kể sao cho xiết.
1. Xác quàn hang đá khỏi ba ngày
Sống lại uy nghi sáng láng thay.
Ðức Mẹ thấy con mừng qúa bội,
Tông đồ mặt ủ bỗng nên tươi.
Lạy ơn Ðức Mẹ cam thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này đoái thương
Cho con sạch tội mọi đường,
Cùng tin mọi sự tỏ tường ngày sau.
2. Cứu chuộc Chúa đà xong mọi sự
Dặn dò Thánh Mẫu cùng đầy tớ.
Khuyên con ở lại Chúa lên trời,
Bên hữu Ngôi Cha tòa Chúa ngự.
Lạy ơn Ðức Mẹ cam thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này đoái thương
Cho con lòng mến thiên đường,
Hằng hằng ra sức tìm đường để lên.
3. Thánh Mẫu tông đồ hội họp nhau
Thánh Thần lưỡi lửa xuống trên đầu
Soi cho biết tiếng muôn vàn nước
Ban sức thiêng liêng giảng đạo mầu.
Lạy ơn Ðức Mẹ cam thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này đoái thương
Cho con sức mạnh vững vàng,
Xưng ra đạo thánh sửa sang trong ngoài.
4. Nữ Vương đến tuổi đầy ơn phúc
Thánh Tử, thiên thần đều xuống rước
Hồn xác lên trời rất tốt lành
Hưởng muôn muôn phúc ai suy được
Lạy ơn Ðức Mẹ cam thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này đoái thương
Ðến cơn nhất đán phi thường,
Cho con khỏi mắc chước phường sa-tan
5. Chúa cả Ba Ngôi thưởng Nữ Vương
Ngự trên thần thánh nước thiên đường
Ban quyền xem sóc loài người thế
Là Mẹ cầu bầu để Chúa thương.
Lạy ơn Ðức Mẹ cam thay,
Xin vì sự nhiệm mầu này xuống ơn
Cho con lòng giữ trung cần
Ðáng lên chầu chực hưởng phần phúc riêng.
Tạ (năm sự Mừng)
Con cám mến ngợi khen kính nhớ,
Sự Ðức Bà mừng rỡ Con mình.
Mừng khi thấy Chúa đã phục sinh
Rất sáng láng tốt lành hơn trước,
Mừng khi thấy Chúa lên hưởng phúc
Các thiên thần đón rước tưng bừng,
Mừng vì khi thấy Chúa Thánh Thần
Ðã hiện xuống ban ơn cả thể,
Mừng khi thấy mình toan giã thế
Con xuống mời rước Mẹ lên trời,
Mừng vì được ơn cả Ba Ngôi
Ban toà thưởng ngự nơi trọng nhất.
Sự vui mừng rất bền rất thật
Lòng Ðức Bà càng rất khoan thay,
Xin vì những sự vui mừng này
Cho chúng con đời đời mừng rỡ.
Thống kỷ:
Ba phần tóm lại mười lăm chục
Cảm nhớ khong khen công cứu thục,
Mọi phúc treo gương rất sáng thay
Soi lên sẽ được muôn phần phúc.
Tổng tạ:
Mười lăm sự ngắm về lần hạt,
Chúng con xin ngợi hát khong khen.
Các ơn các ích thiêng liêng
Tóm mọi cách chung riêng thay thảy.
Bởi sự vui Ðức Bà xem thấy
Sứ Ba Ngôi chào lại truyền tin.
Ngôi Thứ Hai xuống ở cùng liên
Ðược hưởng các ơn riêng vạn bội.
Bởi sự thương thấy Con chuộc tội
Chịu gian nan nghìn nỗi trăm đàng.
Lòng Ðức Bà đau đớn thảm thương
Các sự khó cũng dường như phải.
Bởi sự mừng tự Con sống lại
Chúa xuống ơn rộng rãi muôn vàn,
Cho đến khi lìa khỏi thế gian
Các phúc trọng Chúa ban đầy dẫy.
Vì ba sự Vui Thương Mừng ấy
Giúp đỡ Con chuộc lấy loài người,
Lại nên vườn hoa rất lạ thay
Cho thánh hội đời đời thưởng ngoạn.
Chữ rằng:
Thái linh chi giả tư kỷ bản
Chước lễ toàn giả thám kỷ nguyên.
Huống các ơn bởi mạch thiêng liêng
Xưa nay đã tràn trên trái đất.
Rễ cây phúc đượm nhuần tốt bậc
Lá ngành đua thật rất rum ra,
Bóng rợp che mát mẻ ôn hòa
Hoa đỏ trắng gần xa ánh giãi.
Thơ rằng:
Thanh hư linh hựu quang mang khải
Hồng bạch huyền hoa phúc úc khai.
Sắc vẻ vang hương ngạt ngào bay
Gẫm xem chính xuân đài cảnh trí. |
17066 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%C3%BAc%20giang | Khúc giang | Khúc giang kỳ 1 của Đỗ Phủ
Khúc giang kỳ 2 của Đỗ Phủ, Tản Đà dịch
Khúc giang kỳ 2 của Đỗ Phủ, Nhượng Tống dịch
Khúc giang kỳ 2 của Đỗ Phủ, Trương Minh Ký dịch |
17070 | https://vi.wikisource.org/wiki/V%C3%A0o%20nh%C3%A0%20ng%E1%BB%A5c%20Qu%E1%BA%A3ng%20%C4%90%C3%B4ng%20c%E1%BA%A3m%20t%C3%A1c | Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác | Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.
Thất ngôn bát cú |
17102 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%20m%E1%BB%99t%20s%E1%BB%91%20%C4%91i%E1%BB%81u%20c%E1%BB%A7a%20Lu%E1%BA%ADt%20%C4%90i%E1%BB%87n%20l%E1%BB%B1c%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202012 | Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện lực nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2012 | Luật số 24/2012/QH13 của Quốc hội : LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐIỆN LỰC
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật điện lực số 28/2004/QH11,
Điều 1
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật điện lực như sau:
Bổ sung khoản 17 và khoản 18 vào Điều 3 như sau:
“17. Giá bán buôn điện là giá bán điện của đơn vị điện lực này bán cho đơn vị điện lực khác để bán lại.
18. Giá bán lẻ điện là giá bán điện của đơn vị điện lực bán cho khách hàng sử dụng điện.”
Bổ sung khoản 1a vào sau khoản 1; sửa đổi, bổ sung khoản 3 và khoản 4 Điều 4 như sau:
“1a. Ưu tiên phát triển điện phục vụ nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong hoạt động điện lực, sử dụng điện nhằm tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn năng lượng, bảo vệ môi trường; khuyến khích nghiên cứu, phát triển, sản xuất và sử dụng thiết bị hiện đại phục vụ yêu cầu phát triển điện lực.
Đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo để phát điện; có chính sách ưu đãi đối với dự án đầu tư phát triển nhà máy phát điện sử dụng các nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo.”
Khoản 1 và khoản 3 Điều 8 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Quy hoạch phát triển điện lực là quy hoạch chuyên ngành bao gồm quy hoạch phát triển điện lực quốc gia và quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quy hoạch phát triển điện lực được lập, phê duyệt để làm cơ sở cho các hoạt động đầu tư phát triển điện lực và được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Quy hoạch phát triển điện lực phải hợp với quy hoạch các nguồn năng lượng sơ cấp cho phát điện gồm cả nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo và có tính đến quy hoạch khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
. Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được lập trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và phải phù hợp với quy hoạch phát triển điện lực quốc gia. Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được lập cho từng giai đoạn mười năm và có định hướng cho mười năm tiếp theo.”
Bổ sung Điều 8a vào sau Điều 8 như sau:
“Điều 8a. Nội dung quy hoạch phát triển điện lực
1. Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia bao gồm những nội dung chính sau đây:
a) Tổng quan về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống năng lượng quốc gia trong giai đoạn quy hoạch;
b) Dự báo nhu cầu điện;
c) Đánh giá các nguồn năng lượng sơ cấp, khả năng khai thác, khả năng xuất nhập khẩu năng lượng; đánh giá khả năng trao đổi điện giữa các vùng, miền; dự báo giá nhiên liệu cho sản xuất điện;
d) Chương trình phát triển điện lực quốc gia bao gồm chương trình chi tiết cho phát triển nguồn điện, phát triển lưới điện, liên kết lưới điện với các nước trong khu vực, phát triển điện nông thôn, phát triển nguồn năng lượng mới, năng lượng tái tạo và các nội dung khác liên quan;
đ) Tổng hợp khối lượng xây dựng và vốn đầu tư cho chương trình phát triển điện lực quốc gia, phân tích kinh tế - tài chính chương trình phát triển điện lực quốc gia;
e) Bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai;
g) Dự kiến quỹ đất cho công trình điện lực;
h) Cơ chế, chính sách, giải pháp bảo đảm thực hiện chương trình phát triển điện lực quốc gia trong giai đoạn quy hoạch.
2. Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bao gồm những nội dung chính sau đây:
a) Quy hoạch, định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong giai đoạn quy hoạch;
b) Dự báo nhu cầu điện chi tiết cho các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong giai đoạn quy hoạch;
c) Đánh giá tiềm năng phát triển các nguồn điện tại địa phương bao gồm cả nguồn điện sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; khả năng trao đổi điện năng với các khu vực lân cận;
d) Đánh giá hiện trạng cung cấp điện tại địa phương, đặc biệt là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
đ) Chương trình phát triển nguồn, lưới điện của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho các giai đoạn lập quy hoạch; thiết kế sơ đồ phát triển lưới điện chi tiết cho các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
e) Bảo vệ môi trường và phòng, chống thiên tai;
g) Tổng hợp khối lượng xây dựng và vốn đầu tư cho phương án quy hoạch phát triển điện được chọn, phân tích kinh tế - tài chính phương án được chọn;
h) Dự kiến quỹ đất cho công trình điện lực;
i) Cơ chế chính sách, giải pháp bảo đảm thực hiện quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong giai đoạn quy hoạch.”
Sửa đổi, bổ sung tên Điều 9 và nội dung khoản 1, khoản 2 Điều 9 như sau:
“Điều 9. Lập, phê duyệt, công bố và điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực
1. Bộ Công thương tổ chức lập quy hoạch phát triển điện lực quốc gia trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; công bố và hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đã được phê duyệt; quy định cụ thể nội dung, trình tự, thủ tục lập, thẩm định, điều chỉnh quy hoạch phát triển điện lực và hướng dẫn lập kế hoạch triển khai thực hiện.
2. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) tổ chức lập quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp thông qua trước khi trình Bộ trưởng Bộ Công thương phê duyệt; công bố và hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã được phê duyệt.”
Khoản 1 Điều 11 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Đầu tư phát triển điện lực phải phù hợp với quy hoạch phát triển điện lực. Dự án đầu tư chưa có trong quy hoạch phát triển điện lực chỉ được thực hiện khi cơ quan lập quy hoạch phát triển điện lực trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch cho phép.”
Điểm đ khoản 1 Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“đ) Tổ chức kiểm toán năng lượng điện theo định kỳ và thực hiện các giải pháp điều chỉnh sau khi có kết luận kiểm toán theo quy định của pháp luật về sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả.”
Khoản 2 Điều 18 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Thủ tướng Chính phủ quy định điều kiện, cơ cấu ngành điện để hình thành và phát triển các cấp độ thị trường điện lực; quy định lộ trình phát triển thị trường điện lực, rà soát và điều chỉnh đẩy nhanh lộ trình phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ.”
Khoản 6 Điều 23 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“6. Trong trường hợp bên mua điện không trả tiền điện và đã được bên bán điện thông báo hai lần thì sau mười lăm ngày, kể từ ngày thông báo lần đầu tiên, bên bán điện có quyền ngừng cấp điện. Bên bán điện phải thông báo thời điểm ngừng cấp điện cho bên mua điện trước 24 giờ và không chịu trách nhiệm về thiệt hại do việc ngừng cấp điện gây ra.”
Khoản 2 Điều 24 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Thiết bị đo đếm điện phải bảo đảm yêu cầu kỹ thuật đo lường và được kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm theo quy định của pháp luật về đo lường.”
Sửa đổi, bổ sung tên Điều 25 và nội dung khoản 1, khoản 2 Điều 25 như sau:
“Điều 25. Kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm thiết bị đo đếm điện
1. Chỉ những tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm đã đăng ký hoặc được chỉ định theo quy định của pháp luật về đo lường mới được phép kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm thiết bị đo đếm điện.
2. Bên bán điện có trách nhiệm tổ chức việc kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm thiết bị đo đếm điện theo đúng yêu cầu và thời hạn quy định của pháp luật về đo lường.”
Điểm c khoản 2 Điều 28 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“c) Không làm tổn hại đến lợi ích của khách hàng sử dụng điện, lợi ích của Nhà nước và an ninh năng lượng quốc gia.”
Bổ sung khoản 1a vào sau khoản 1; sửa đổi, bổ sung khoản 3 và khoản 4 Điều 29 như sau:
“1a. Giá bán điện thực hiện theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước phù hợp với cấp độ phát triển của thị trường điện lực.
3. Thực hiện cơ cấu biểu giá bán lẻ điện hợp lý đối với các nhóm khách hàng; Nhà nước hỗ trợ giá bán lẻ điện cho mục đích sinh hoạt đối với hộ nghèo, hộ chính sách xã hội theo tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội từng thời kỳ.
4. Bảo đảm quyền tự quyết định giá mua, bán điện trong khung giá, cơ cấu biểu giá bán lẻ điện do Nhà nước quy định của các đối tượng mua bán điện trên thị trường điện lực.”
Bổ sung khoản 6 vào Điều 30 như sau:
“6. Báo cáo tài chính đã được kiểm toán hàng năm của đơn vị điện lực.”
Các khoản 1, 2 và 3 Điều 31 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Giá bán lẻ điện do đơn vị bán lẻ điện xây dựng căn cứ khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện do Thủ tướng Chính phủ quy định phù hợp với cấp độ phát triển của thị trường điện lực, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62 của Luật này.
Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Việc điều chỉnh giá bán lẻ điện phải được thực hiện công khai, minh bạch về sự biến đổi của các yếu tố cấu thành liên quan đến việc điều chỉnh giá. Nhà nước sử dụng các biện pháp để bình ổn giá bán điện phù hợp với quy định của pháp luật về giá.
2. Khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, giá truyền tải điện, giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành hệ thống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực do đơn vị điện lực có liên quan xây dựng; cơ quan điều tiết điện lực thẩm định trình Bộ trưởng Bộ Công thương, Bộ trưởng Bộ Tài chính phê duyệt theo sự phân công của Chính phủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62 của Luật này.
Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn phương pháp lập khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, giá truyền tải điện, giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành hệ thống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực.
3. Giá phát điện theo hợp đồng mua bán điện có thời hạn, giá bán buôn điện do các đơn vị điện lực thỏa thuận nhưng không được vượt quá khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện đã được phê duyệt.”
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 4; bổ sung khoản 5 vào Điều 32 như sau:
“1. Tổ chức, cá nhân được cấp giấy phép để thực hiện một hoặc nhiều lĩnh vực hoạt động điện lực.
4. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện cấp giấy phép đối với từng lĩnh vực hoạt động điện lực.
5. Bộ Công thương quy định trình tự, thủ tục cấp, gia hạn, sửa đổi, bổ sung và thời hạn giấy phép hoạt động điện lực đối với từng lĩnh vực hoạt động điện lực.”
Điểm a khoản 2 Điều 39 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“a) Tuân thủ quy trình, quy chuẩn kỹ thuật về vận hành nhà máy điện, lưới điện; đối với nhà máy thủy điện còn phải tuân thủ quy định về an toàn đập thủy điện và vận hành hồ chứa nước;”
Điểm c khoản 1 Điều 44 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“c) Định giá bán trên thị trường bán lẻ điện cạnh tranh theo quy định tại khoản 1 Điều 31 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62 của Luật này.”
Sửa đổi, bổ sung tên Điều 49; bổ sung khoản 4 vào Điều 49 như sau:
“Điều 49. Trách nhiệm phối hợp thực hiện khi xây dựng, cải tạo, kết thúc sử dụng công trình điện lực và các công trình khác
4. Khi không còn khai thác, sử dụng thì công trình điện lực phải được xử lý, quản lý bảo đảm an toàn theo quy định của Chính phủ.”
Khoản 1 Điều 54 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Nhà máy điện, trạm phát điện phải được bảo vệ nghiêm ngặt, xung quanh phải có tường rào bảo vệ, biển báo an toàn về điện, về phòng cháy, chữa cháy; những người không có nhiệm vụ không được phép vào nhà máy điện, trạm phát điện.
Hồ chứa nước, đập thủy điện và các công trình phụ trợ phục vụ nhà máy thủy điện phải được xây dựng, quản lý, bảo vệ bảo đảm an toàn vận hành nhà máy thủy điện và vùng hạ du. Nghiêm cấm các hành vi lấn chiếm đập thủy điện, lòng hồ, làm ô nhiễm nguồn nước và ảnh hưởng đến khả năng phát điện.”
Bổ sung Điều 59a vào sau Điều 59 như sau:
“Điều 59a. Xử lý sự cố điện
1. Trường hợp xảy ra sự cố điện, đơn vị điện lực trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp xảy ra sự cố điện nghiêm trọng đến mức thảm họa lớn thì việc ban bố tình trạng khẩn cấp và áp dụng các biện pháp ứng phó phải thực hiện theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp.”
Điều 62 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 62. Giá bán điện ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo
1. Giá bán điện ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo khu vực nối lưới điện quốc gia được thực hiện theo quy định tại Điều 31 của Luật này.
2. Giá bán điện ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo khu vực chưa nối lưới điện quốc gia được thực hiện như sau:
a) Giá bán lẻ điện cho mục đích sinh hoạt do đơn vị điện lực có liên quan xây dựng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với cơ chế hỗ trợ giá bán lẻ điện cho mục đích sinh hoạt tại khu vực này do Thủ tướng Chính phủ quy định;
b) Các loại giá điện khác do đơn vị điện lực có liên quan xây dựng, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định theo nguyên tắc bảo đảm bù đắp đủ chi phí, có lợi nhuận hợp lý cho đơn vị điện lực trên cơ sở tham khảo ý kiến của cơ quan điều tiết điện lực.”
Sửa đổi, bổ sung các điểm đ, g và k khoản 1; bổ sung điểm m và điểm n khoản 1; sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 66 như sau:
“đ) Xây dựng khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân, cơ chế điều chỉnh giá và cơ cấu biểu giá bán lẻ điện; tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về giá điện;
g) Quy định khung giá phát điện, khung giá bán buôn điện, phê duyệt giá truyền tải điện, giá dịch vụ phụ trợ hệ thống điện, phí điều độ vận hành hệ thống điện và phí điều hành giao dịch thị trường điện lực;
k) Kiểm tra, giám sát việc điều chỉnh và thực hiện giá điện;
m) Kiểm tra hợp đồng mua bán điện có thời hạn giữa đơn vị phát điện và đơn vị mua điện, hợp đồng mua bán buôn điện có thời hạn theo quy định của Chính phủ;
n) Kiểm tra và xử lý vi phạm trong lĩnh vực điện lực theo quy định của pháp luật.
2. Thủ tướng Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều tiết điện lực.”
Điều 67 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 67. Thanh tra chuyên ngành điện lực
Thanh tra chuyên ngành điện lực thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra.”
Điều 2
Sửa đổi một số từ ngữ của Luật điện lực như sau:
a) Thay cụm từ “quy hoạch phát triển điện lực địa phương” bằng cụm từ “quy hoạch phát triển điện lực tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” tại khoản 2 Điều 10;
b) Thay cụm từ “phi dịch vụ phụ trợ” bằng cụm từ “giá dịch vụ phụ trợ” tại điểm h khoản 1 Điều 21; thay cụm từ “các loại phí dịch vụ” bằng cụm từ “giá dịch vụ phụ trợ” tại điểm b khoản 2 Điều 21;
c) Thay cụm từ “phí truyền tải điện” bằng cụm từ “giá truyền tải điện” tại điểm b khoản 1 Điều 40;
d) Thay từ “quy phạm” bằng cụm từ “quy chuẩn kỹ thuật” tại khoản 4 Điều 11; điểm b khoản 2 Điều 28 khoản 2 Điều 34; điểm đ khoản 1 Điều 39; điểm d khoản 1 Điều 40; điểm đ khoản 1 Điều 41; điểm b khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 45; điểm b khoản 5 và khoản 6 Điều 54; khoản 7 và khoản 8 Điều 55; các khoản 1, 2, 3 và 7 Điều 57; khoản 1 Điều 64;
đ) Thay cụm từ “quy phạm kỹ thuật” bằng cụm từ “quy chuẩn kỹ thuật” tại khoản 12 Điều 3; khoản 5 Điều 55;
e) Thay cụm từ “Bộ Công nghiệp” bằng cụm từ “Bộ Công thương” tại khoản 7 Điều 3; khoản 4 Điều 10; khoản 5 Điều 11; khoản 3 Điều 13; khoản 3 Điều 21; điểm b khoản 1 Điều 34; khoản 1 và khoản 2 Điều 38; khoản 1 và khoản 2 Điều 56; khoản 5 Điều 59; khoản 3 Điều 61; khoản 4 Điều 64; khoản 2 và khoản 3 Điều 65.
Bãi bỏ từ “thứ tự” tại khoản 1 Điều 18; bãi bỏ điểm b khoản 1 Điều 41; điểm e khoản 1 Điều 66 của Luật điện lực.
Bổ sung từ “minh bạch” vào sau cụm từ “Bảo đảm công khai” tại khoản 1 Điều 17 của Luật điện lực.
Bổ sung cụm từ “bảo đảm quyền lợi giữa các bên nhưng không trái với quy định của pháp luật” vào sau cụm từ “trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác” tại khoản 1 và khoản 3 Điều 24; vào cuối điểm i khoản 2 Điều 39, điểm e khoản 2 Điều 40 và điểm c khoản 2 Điều 41 của Luật điện lực.
Bổ sung từ “biên giới” vào sau cụm từ “nông thôn, miền núi” tại tên Chương VIII; tên các điều 60, 61 và 64; các khoản 1, 3 và 4 Điều 60; khoản 4 Điều 61; các khoản 1, 2 và 4 Điều 64 của Luật điện lực.
Điều 3
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2013.
Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012.
Luật sửa đổi, bổ sung |
17104 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%A1m%20%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20-%20Ph%C3%A1p%2014-9-1946 | Tạm ước Việt - Pháp 14-9-1946 | TẠM ƯỚC VIỆT – PHÁP 14 THÁNG 9 NĂM 1946
Văn kiện
Khoản 1: Những kiều dân Việt ở Pháp và những kiều dân Pháp ở Việt Nam đều được hưởng quyền tự do cư trú như người bản xứ, và những quyền tự do tư tưởng, tự do dạy học, buôn bán, đi lại, nói chung là tất cả các quyền tự do dân chủ.
Khoản 2: Những tài sản và xí nghiệp của người Pháp ở Việt Nam sẽ không phải chịu một chế độ khe khắt hơn chế độ dành cho tài sản và xí nghiệp của người Việt Nam, nhất là về phương diện thuế khoá và luật lao động. Đổi lại, những tài sản và xý nghiệp của kiều dân Việt Nam tại các xứ trong khối Liên hiệp Pháp cũng sẽ được hưởng sự ngang hàng về chế độ như thế. Chế độ tài sản và xí nghiệp Pháp hiện có ở Việt Nam chỉ có thể thay đổi do sự thoả thuận chung giữa nước Cộng hoà Pháp và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tất cả những tài sản của Pháp đã bị Chính phủ Việt Nam trưng dụng hoặc những tài sản mà tư nhân hoặc xí nghiệp Pháp bị nhà chức trách Việt Nam tước, sẽ trả lại cho chủ nhân hay những người có quyền hưởng thụ. Sẽ cử ra một Uỷ ban Việt - Pháp để định ra cách thức hoàn lại.
Khoản 3: Để nối lại ngay từ giờ những mối liên lạc về văn hoá mà cả nước Pháp và nước Việt Nam đều muốn phát triển, những trường học Pháp các cấp sẽ được tự do mở trên đất Việt Nam. Những trường ấy sẽ theo chương trình học chính thức của Pháp. Một bản thoả hiệp riêng sẽ định rõ những trụ sở nào sẽ dành cho những trường học ấy dùng. Những trường ấy sẽ mở rộng cho cả học sinh Việt Nam.
Những kiều dân Pháp sẽ được tự do nghiên cứu khoa học và mở những viện khoa học trên đất Việt Nam.
Những kiều dân Việt Nam cũng được hưởng đặc quyền ấy ở Pháp. Tài sản và địa vị pháp luật của Viện Paxtơ (Pasteur) sẽ được khôi phục. Một Uỷ ban Việt - Pháp sẽ định điều kiện cho Trường Viễn Đông bác cổ hoạt động trở lại.
Khoản 4: Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ dùng đến người Pháp trước nhất mỗi khi cần người cố vấn hoặc chuyên môn. Chỉ khi nào nước Pháp không cung cấp được nhân viên mà Chính phủ Việt Nam cần đến thì đặc quyền trên đây của Pháp mới thôi thi hành.
Khoản 5: Ngay sau khi giải quyết vấn đề điều hoà tiền tệ hiện thời, sẽ chỉ có một thứ tiền duy nhất tiêu dùng trong những xứ thuộc quyền Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và những xứ khác ở Đông Dương. Tiền ấy là đồng bạc Đông Dương hiện nay do Nhà Ngân hàng Đông Dương phát hành, trong khi đợi một viện phát hành tiền tệ. Một uỷ ban gồm có đại biểu tất cả các nước hộ viên của Liên bang Đông Dương sẽ nghiên cứu chế độ pháp lý của viện phát hành ấy. Uỷ ban ấy lại có nhiệm vụ dung hợp tiền tệ và hối đoái đồng bạc Đông Dương thuộc về khối đồng Phrăng (Franc).
Khoản 6: Nước Việt Nam cùng với các nước trong Liên bang Đông Dương họp thành một quan thuế đồng minh. Vì vậy sẽ không có hàng rào quan thuế nào trong nội địa Liên bang và thuế nhập cảng cùng xuất cảng ở mọi chỗ thuộc địa phận Đông Dương sẽ đánh đều nhau. Một uỷ ban dung hợp quan thuế và ngoại thương sẽ nghiên cứu những phương sách thi hành cần thiết và sắp đặt việc tổ chức quan thuế Đông Dương; uỷ ban này có thể là uỷ ban dung hợp tiền tệ, và hối đoái nói trên.
Khoản 7: Một uỷ ban Việt - Pháp để điều hoà giao thông sẽ nghiên cứu những phương sách tái lập và cải thiện các đường giao thông giữa Việt Nam và các nước khác trong Liên bang Đông Dương và trong khối Liên hiệp Pháp: đường vận tải bộ, thuỷ và hàng không, sự liên lạc bưu điện, điện thoại, điện tín và vô tuyến điện.
Khoản 8: Trong khi chờ đợi Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ Dân chủ Cộng hoà Việt Nam ký kết một bản hiệp định dứt khoát giải quyết vấn đề ngoại giao của nước Việt Nam với ngoại quốc, một uỷ ban chung Việt - Pháp sẽ ấn định việc đặt lãnh sự Việt Nam tại các nước lân bang và sự giao thiệp giữa nước Việt Nam với các lãnh sự ngoại quốc.
Khoản 9: Vì muốn lập ngay ở Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ một nền trật tự cần thiết cho các quyền tự do, dân chủ được tự do phát triển, cho thương mại được phục hồi, vì hiểu rằng sự đình chỉ những hành động xung đột và vũ lực của cả hai bên sẽ có ảnh hưởng tốt cho những việc nói trên, Chính phủ Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cùng ấn định những phương sách sau đây:
a) Hai bên sẽ đình chỉ hết mọi hành động xung đột và vũ lực.
b) Những hiệp định của hai Bộ tham mưu Pháp và Việt Nam sẽ định rõ điều kiện thi hành và kiểm soát những phương sách do hai bên cùng ấn định.
c) Định rõ ràng những tù nhân hiện bị giam giữ vì lý do chính trị sẽ được phóng thích, trừ những người bị truy tố về những thường tội đại hình và tiểu hình. Những tù nhân bị bắt trong các cuộcc hành binh cũng vậy. Nước Việt Nam bảo đảm sẽ không truy tố và sẽ không tha thứ một hành động vũ lực nào đối với những người trung thành với nước Pháp. Đổi lại, Chính phủ Pháp bảo đảm sẽ không truy tố và sẽ không tha thứ một hành động vũ lực nào đối với những người trung thành với nước Việt Nam.
d) Sự hưởng thụ những quyền tự do dân chủ đã định trong khoản thứ nhất sẽ được hai bên bảo đảm lẫn cho nhau.
đ) Hai bên sẽ đình chỉ những sự tuyên truyền đối với nhau không được thân thiện.
e) Chính phủ Pháp và Chính phủ Dân chủ Cộng hoà Việt Nam sẽ hợp tác để những kiều dân các nước trước kia là thù địch không thể làm hại được nữa.
g) Một nhân vật do Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ định và được Chính phủ Pháp công nhận, sẽ được uỷ nhiệm bên vị thượng sứ để xếp đặt sự cộng tác cần thiết cho việc thi hành những điều thoả thuận này.
Khoản 10: Chính phủ Cộng hoà Pháp và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cùng tìm cách ký kết Những bản thoả thuận riêng về bất cứ vấn đề nào có thể thắt chặt dây liên lạc thân thiện và dọn đường cho một hiệp ước chung dứt khoát. Theo mục đích ấy các cuộcc đàm phán sẽ tiếp tục càng sớm càng hay và chậm nhất là vào tháng 1 năm 1947.
Khoản 11: Bản thoả hiệp này ký làm hai bản. Tất cả các khoản sẽ bắt đầu thi hành từ 30 tháng 10 năm 1946.
Hiệp định
Hiệp định liên quan đến Pháp
Hiệp định liên quan đến Việt Nam
Văn kiện ngoại giao |
17110 | https://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20s%C6%A1%20b%E1%BB%99%20Ph%C3%A1p%20-%20Vi%E1%BB%87t%206-3-1946 | Hiệp định sơ bộ Pháp - Việt 6-3-1946 |
Toàn văn Hiệp định
HIỆP ĐỊNH SƠ BỘ
Một bên là Chính phủ Cộng hòa Pháp do ông Xanh tơ ny (Sainteny), người thay mặt và có sự ủy nhiệm chính thức của Thủy sư đô đốc Đác giăng li ơ (George Thierry d' Argenlieu), Thượng sứ Pháp thụ nhiệm ủy quyền của Chính phủ Cộng hòa Pháp làm đại biểu.
Một bên là phủ Cộng hòa Việt Nam do cụ Chủ tịch Hồ Chí Minh và đặc ủy viên của Hội đồng các Bộ trưởng là ông Vũ Hồng Khanh làm đại biểu..
Hai bên đã thỏa thuận về các khoản sau đây:
1) Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có Chính phủ của mình, Nghị viện của mình, quân đội của mình, tài chính của mình, và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương ở trong khối Liên hiệp Pháp. Về việc hợp nhất ba Kỳ, Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận, những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết.
2) Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện, đón tiếp quân đội Pháp khi quân đội ấy chiểu theo theo các hiệp định quốc tế đến thay thế quân đội Trung Hoa. Một Hiệp định phụ khoản đính theo Hiệp định sơ bộ này sẽ định rõ cách thức thi hành công việc thay thế ấy.
3) Các điều khoản kể trên sẽ được tức khắc thi hành. Sau khi ký hiệp định, hai Chính phủ lập tức quyết định mọi phương sách cần thiết để đình chỉ ngay cuộc xung đột, để giữ nguyên quân đội hai bên tại vị trí hiện thời và để gây ra một bầu không khí êm dịu cần thiết cho việc mở ngay các cuộc điều đình thân thiện và thành thực. Trong cuộc điều đình ấy sẽ bàn về:
a) Những liên lạc ngoại giao của Việt Nam với nước ngoài.
b) Chế độ tương lai của Đông Dương.
c) Những quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp ở Việt Nam.
Các thành phố Hà Nội, Sài Gòn, Paris có thể được chọn làm nơi hội họp cuộc hội nghị.
Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946
Phụ khoản kèm theo
PHỤ KHOẢN
Đính theo Hiệp định sơ bộ của Chính phủ Cộng hòa Pháp và Chính phủ Việt Nam
Hai Chính phủ kể trong bản Hiệp định sơ bộ đã thỏa thuận các khoản sau này:
1) Những lực lượng quân bị thay thế quân đội Trung Hoa sẽ gồm có:
a) 10.000 quân Việt Nam với các sĩ quan Việt Nam thuộc quyền điều khiển của các nhà chức trách quân sự Việt Nam.
b) 15.000 quân Pháp, trong số đó đã kể số lính Pháp hiện nay đã đóng trong cõi Việt Nam ở phía Bắc vĩ tuyến 16.
15.000 lính Pháp ấy phải là những người Pháp chính tông, trừ những đội phụ trách canh phòng tù binh Nhật Bản.
Tổng cộng các lực lượng kể trên sẽ đặt dưới quyền của Tư lệnh Pháp do các đội viên Việt Nam cộng tác.
Khi các đội quân Pháp đã đổ bộ, một Hội nghị Tham mưu gồm các đại biểu của Bộ tư lệnh Pháp và Bộ tư lệnh Việt Nam sẽ định rõ sự tiến triển, sự du nhập, và cách sử dụng các đội quân Pháp và các đội quân Việt Nam đã kể trên.
Sẽ lập ra những Ủy ban binh vụ Pháp - Việt ở tất cả các cấp quân đội để chuyên việc liên lạc binh sĩ Pháp và Việt Nam theo tinh thần cộng tác thân hữu.
2) Những đội quân Pháp dùng để thay thế quân đội Trung Hoa sẽ chia ra làm 3 hạng:
a) Những đội phụ trách việc canh phòng tù binh Nhật Bản. - Các đội này sẽ rút về Pháp ngay khi nào nhiệm vụ của họ đã xong, nghĩa là sau khi tù binh Nhật Bản đã được đem ra khỏi xứ này; dù sao thời gian ấy không được quá 10 tháng.
b) Những đội quân cùng với quân đội Việt Nam phụ trách về việc công an và phòng vệ đất nước Việt Nam. - Cứ mỗi năm một phần năm (1/5) các đội quân sẽ về Pháp để quân đội Việt Nam thay thế. Vậy trong 5 năm, quân đội Việt Nam sẽ thay thế toàn số quân đội Pháp này.
c) Những đội quân phụ trách việc phòng vệ các căn cứ hải và không quân. - Thời hạn của nhiệm vụ giao cho các đội này sẽ do các cuộc hội nghị sau quyết định.
3) Ở các nơi đồn trú có quân đội Pháp và quân đội Việt Nam đóng giữ, những khu vực riêng biệt cho đôi bên sẽ được định rõ.
4) Chính phủ Pháp cam đoan không dùng các tù binh Nhật vào những việc có mục đích quân sự.
Làm tại Hà Nội, ngày 6 tháng 3 năm 1946
Hiệp định
Hiệp định liên quan đến Pháp
Hiệp định liên quan đến Việt Nam
Văn kiện ngoại giao
zh:越法初步协定(1946年) |
17149 | https://vi.wikisource.org/wiki/S%E1%BB%91ng%20m%C3%A3i%20v%E1%BB%9Bi%20Th%E1%BB%A7%20%C4%90%C3%B4 | Sống mãi với Thủ Đô |
Các chương
Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương 22
Chương 23
Chương 24
Sống mãi với Thủ Đô |
17159 | https://vi.wikisource.org/wiki/Than%20ngh%C3%A8o%20%28T%E1%BB%AB%20Di%E1%BB%85n%20%C4%90%E1%BB%93ng%29 | Than nghèo (Từ Diễn Đồng) | Cái khó theo nhau mãi thế thôi!
Có ai, hay chỉ một mình tôi?
Bạc đâu ra miệng mà mong được!
Tiền chưa vào tay đã hết rồi!
Van nợ, lắm khi tràn nước mắt,
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.
Biết rày, thuở bé đi làm quách:
Chẳng Ký, không Thông, cũng cậu bồi.
Thơ Việt Nam
Thất ngôn bát cú |
17189 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20Khoa%20h%E1%BB%8Dc%20v%C3%A0%20c%C3%B4ng%20ngh%E1%BB%87%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202013 | Luật Khoa học và công nghệ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 |
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ; việc tổ chức thực hiện hoạt động khoa học và công nghệ; biện pháp bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
2. Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm.
3. Hoạt động khoa học và công nghệ là hoạt động nghiên cứu khoa học, nghiên cứu và triển khai thực nghiệm, phát triển công nghệ, ứng dụng công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, phát huy sáng kiến và hoạt động sáng tạo khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ.
4. Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.
5. Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm khám phá bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy.
6. Nghiên cứu ứng dụng là hoạt động nghiên cứu vận dụng kết quả nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra công nghệ mới, đổi mới công nghệ phục vụ lợi ích của con người và xã hội.
7. Phát triển công nghệ là hoạt động sử dụng kết quả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, thông qua việc triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm để hoàn thiện công nghệ hiện có, tạo ra công nghệ mới.
8. Triển khai thực nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm công nghệ mới ở dạng mẫu.
9. Sản xuất thử nghiệm là hoạt động ứng dụng kết quả triển khai thực nghiệm để sản xuất thử nhằm hoàn thiện công nghệ mới, sản phẩm mới trước khi đưa vào sản xuất và đời sống.
10. Dịch vụ khoa học và công nghệ là hoạt động phục vụ, hỗ trợ kỹ thuật cho việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, an toàn bức xạ, hạt nhân và năng lượng nguyên tử; dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, phổ biến, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
11. Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức có chức năng chủ yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật.
12. Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người thực hiện hoạt động khoa học và công nghệ .
13. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ là những vấn đề khoa học và công nghệ cần được giải quyết để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển khoa học và công nghệ.
14. Đặt hàng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ là việc bên đặt hàng đưa ra yêu cầu về sản phẩm khoa học và công nghệ, cung cấp kinh phí để tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tạo ra sản phẩm khoa học và công nghệ thông qua hợp đồng.
15. Kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khoa học và công nghệ là cơ sở vật chất - kỹ thuật của tổ chức khoa học và công nghệ; hệ thống chuẩn đo lường, phòng thí nghiệm trọng điểm; khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, cơ sở ươm tạo công nghệ, cơ sở ươm tạo doanh nghiệp khoa học và công nghệ; hạ tầng thông tin, thống kê khoa học và công nghệ.
16. Đổi mới sáng tạo (innovation) là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa.
Điều 4. Nhiệm vụ của hoạt động khoa học và công nghệ
1. Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; xây dựng luận cứ khoa học cho việc định ra đường lối, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; góp phần xây dựng nền giáo dục tiên tiến, xây dựng con người mới Việt Nam; kế thừa và phát huy giá trị truyền thống lịch sử, văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và đóng góp vào kho tàng văn hoá, khoa học của thế giới.
2. Nâng cao năng lực khoa học và công nghệ để làm chủ công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, phương pháp quản lý tiên tiến; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người; kịp thời dự báo, phòng, chống, hạn chế và khắc phục hậu quả thiên tai.
3. Tiếp thu thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới để tạo ra, ứng dụng có hiệu quả công nghệ mới; tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao; phát triển nền khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, tiếp cận với trình độ thế giới, làm cơ sở vững chắc cho việc phát triển các ngành công nghiệp hiện đại; đẩy mạnh việc phổ biến và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống.
Điều 5. Nguyên tắc hoạt động khoa học và công nghệ
1. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phát triển khoa học và công nghệ.
2. Xây dựng và phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
3. Bảo đảm quyền tự do sáng tạo, phát huy dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ vì sự phát triển của đất nước.
4. Trung thực, khách quan, đề cao đạo đức nghề nghiệp, tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
5. Bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe con người, bảo vệ môi trường.
Điều 6. Chính sách của Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ
Nhà nước thực hiện các chính sách sau đây nhằm bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu:
1. Ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển khoa học và công nghệ; áp dụng đồng bộ cơ chế, biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhằm phát huy vai trò then chốt và động lực của khoa học và công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân;
2. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ; gắn nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tạo tiền đề hình thành và phát triển kinh tế tri thức;
3. Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến và hiện đại, nghiên cứu làm chủ và tạo ra công nghệ mới nhằm đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của sản phẩm;
4. Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chú trọng lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm quốc gia; áp dụng cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt để phát triển, đào tạo, thu hút, sử dụng có hiệu quả nhân lực khoa học và công nghệ;
5. Tạo điều kiện phát triển thị trường khoa học và công nghệ;
6. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ;
7. Khuyến khích, tạo điều kiện để hội khoa học và kỹ thuật, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp tham gia tư vấn, phản biện, giám định xã hội và hoạt động khoa học và công nghệ;
8. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ; nâng cao vị thế quốc gia về khoa học và công nghệ trong khu vực và thế giới.
Điều 7. Ngày khoa học và công nghệ Việt Nam
Ngày 18 tháng 5 hằng năm là Ngày khoa học và công nghệ Việt Nam.
Điều 8. Các hành vi bị cấm
1. Lợi dụng hoạt động khoa học và công nghệ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; gây thiệt hại đến tài nguyên, môi trường, sức khỏe con người; trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
2. Xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; chiếm đoạt, chuyển nhượng, chuyển giao bất hợp pháp kết quả khoa học và công nghệ.
3. Tiết lộ tài liệu, kết quả khoa học và công nghệ thuộc danh mục bí mật nhà nước; lừa dối, giả mạo trong hoạt động khoa học và công nghệ.
4. Cản trở hoạt động khoa học và công nghệ hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều 9. Hình thức và phân loại tổ chức khoa học và công nghệ
1. Hình thức của tổ chức khoa học và công nghệ được quy định như sau:
a) Tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện, trung tâm, phòng thí nghiệm, trạm nghiên cứu, trạm quan trắc, trạm thử nghiệm và hình thức khác do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định;
b) Cơ sở giáo dục đại học được tổ chức theo quy định của Luật giáo dục đại học;
c) Tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được tổ chức dưới hình thức trung tâm, văn phòng, phòng thử nghiệm và hình thức khác do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định.
2. Tổ chức khoa học và công nghệ được phân loại như sau:
a) Theo thẩm quyền thành lập, tổ chức khoa học và công nghệ gồm các loại quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này;
b) Theo chức năng, tổ chức khoa học và công nghệ gồm tổ chức nghiên cứu cơ bản, tổ chức nghiên cứu ứng dụng, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ;
c) Theo hình thức sở hữu, tổ chức khoa học và công nghệ gồm tổ chức khoa học và công nghệ công lập, tổ chức khoa học và công nghệ ngoài công lập, tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài.
Điều 10. Quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập
1. Căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cơ quan nhà nước khác xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
2. Việc xây dựng quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây:
a) Xây dựng quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ thống nhất, đồng bộ và phân bố hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ và phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh;
b) Gắn kết tổ chức khoa học và công nghệ với cơ sở đào tạo và tổ chức ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
c) Bảo đảm thực hiện mục tiêu nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, chú trọng những lĩnh vực khoa học và công nghệ phục vụ trực tiếp nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh;
d) Bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm.
Điều 11. Điều kiện thành lập, đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ
1. Tổ chức khoa học và công nghệ được thành lập khi có đủ điều kiện sau đây:
a) Có điều lệ tổ chức và hoạt động, mục tiêu, phương hướng hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật;
b) Nhân lực khoa học và công nghệ, cơ sở vật chất - kỹ thuật đáp ứng yêu cầu thực hiện mục tiêu, phương hướng và điều lệ tổ chức và hoạt động.
2. Ngoài các quy định tại khoản 1 Điều này, việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ công lập phải phù hợp với quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ và ý kiến thẩm định của cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ theo phân cấp của Chính phủ.
Trường hợp Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc thì Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ thành lập Hội đồng liên ngành để thẩm định.
3. Việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài phải tuân thủ các quy định tại khoản 1 Điều này và đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Mục đích, nội dung, lĩnh vực hoạt động phù hợp với quy định của pháp luật, yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam;
b) Được Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cho phép thành lập;
c) Được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) cho phép đặt trụ sở làm việc tại địa phương.
4. Tổ chức khoa học và công nghệ phải đăng ký hoạt động tại cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về khoa học và công nghệ và được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ.
5. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện thành lập, thẩm quyền, trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ.
Điều 12. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể tổ chức khoa học và công nghệ
1. Thẩm quyền thành lập tổ chức khoa học và công nghệ được quy định như sau:
a) Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội;
b) Chính phủ thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Chính phủ;
c) Toà án nhân dân tối cao thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Tòa án nhân dân tối cao;
d) Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
đ) Thủ tướng Chính phủ thành lập hoặc ủy quyền cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;
e) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ thành lập tổ chức khoa học và công nghệ thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, trừ trường hợp quy định tại điểm đ khoản này;
g) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập tổ chức khoa học và công nghệ của địa phương theo thẩm quyền;
h) Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp thành lập tổ chức khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật và điều lệ;
i) Doanh nghiệp, tổ chức khác, cá nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ của mình.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có quyền quyết định việc sáp nhập, chia, tách, giải thể tổ chức khoa học và công nghệ; quy định chức năng, nhiệm vụ của tổ chức khoa học và công nghệ do mình thành lập phù hợp với quy định của pháp luật.
3. Chính phủ quy định cụ thể trình tự, thủ tục thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể tổ chức khoa học và công nghệ.
Điều 13. Quyền của tổ chức khoa học và công nghệ
1. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động khoa học và công nghệ trong lĩnh vực đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập được Nhà nước giao biên chế.
2. Đăng ký tham gia tuyển chọn hoặc được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; ký kết hợp đồng khoa học và công nghệ; đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ.
3. Thành lập tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp khoa học và công nghệ trực thuộc, văn phòng đại diện, chi nhánh trong nước và ở nước ngoài để hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
4. Hợp tác, liên doanh, nhận tài trợ của tổ chức, cá nhân; góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để hoạt động khoa học và công nghệ và hoạt động sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
5. Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
6. Công bố kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của Luật báo chí, Luật xuất bản và quy định khác của pháp luật.
7. Tư vấn, đề xuất ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ của Nhà nước với cơ quan có thẩm quyền.
8. Tham gia hoạt động hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.
9. Được chuyển đổi một phần hoặc toàn bộ thành doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật.
Điều 14. Nghĩa vụ của tổ chức khoa học và công nghệ
1. Đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ; thực hiện hoạt động khoa học và công nghệ theo đúng lĩnh vực đã được quy định trong giấy chứng nhận đăng ký hoạt động.
2. Thực hiện hợp đồng khoa học và công nghệ đã ký kết, nhiệm vụ khoa học và công nghệ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giao.
3. Thực hiện dân chủ, bình đẳng, công khai trong việc sử dụng kinh phí và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
4. Bảo đảm kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản thường xuyên theo chức năng của mình; sử dụng kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ đúng pháp luật.
5. Đăng ký, lưu giữ và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
6. Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về khoa học và công nghệ.
7. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ trong tổ chức mình; giữ bí mật nhà nước về khoa học và công nghệ.
Điều 15. Văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài
1. Tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài được thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam để hoạt động khoa học và công nghệ, hoạt động liên quan trực tiếp đến hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Là tổ chức khoa học và công nghệ hợp pháp của tổ chức quốc tế, quốc gia, vùng lãnh thổ nơi tổ chức đó thành lập hoặc đăng ký hoạt động;
b) Đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 11 của Luật này;
c) Hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ mà Việt Nam có nhu cầu;
d) Cam kết chấp hành nghiêm chỉnh quy định pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
3. Giấy phép thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ cấp và có thời hạn không quá 05 năm nhưng không vượt quá thời hạn còn lại của giấy đăng ký hoạt động hoặc giấy tờ có giá trị tương đương của tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài trong trường hợp pháp luật quốc gia đó có quy định thời hạn giấy đăng ký hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài.
4. Văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài được thực hiện hoạt động khoa học và công nghệ ghi trong giấy phép thành lập và có quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
5. Chính phủ quy định cụ thể về điều kiện, trình tự và thủ tục thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh tại Việt Nam của tổ chức khoa học và công nghệ nước ngoài.
Điều 16. Mục đích, nguyên tắc đánh giá, xếp hạng tổ chức khoa học và công nghệ
1. Đánh giá tổ chức khoa học và công nghệ là việc sử dụng kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn để xác định năng lực và hiệu quả hoạt động của tổ chức khoa học và công nghệ.
2. Việc đánh giá tổ chức khoa học và công nghệ nhằm mục đích sau đây:
a) Tạo cơ sở để xếp hạng tổ chức khoa học và công nghệ;
b) Phục vụ hoạt động hoạch định chính sách phát triển khoa học và công nghệ, quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ;
c) Làm cơ sở xem xét việc tuyển chọn, xét giao trực tiếp cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ, thực hiện chính sách ưu tiên đầu tư từ ngân sách nhà nước, cho vay, tài trợ, bảo lãnh vốn vay của quỹ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
3. Việc đánh giá, xếp hạng tổ chức khoa học và công nghệ được thực hiện theo nguyên tắc sau đây:
a) Có phương pháp, tiêu chí đánh giá phù hợp;
b) Độc lập, bình đẳng, trung thực, khách quan, đúng pháp luật;
c) Kết quả đánh giá, xếp hạng phải được công bố công khai, minh bạch.
Điều 17. Đánh giá tổ chức khoa học và công nghệ phục vụ quản lý nhà nước
1. Tổ chức khoa học và công nghệ công lập phải được đánh giá để phục vụ quản lý nhà nước.
2. Việc đánh giá tổ chức khoa học và công nghệ phục vụ quản lý nhà nước do cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ thực hiện hoặc thông qua tổ chức đánh giá độc lập.
3. Việc đánh giá tổ chức khoa học và công nghệ được thực hiện dựa trên tiêu chí và phương pháp đánh giá do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định đối với từng loại hình tổ chức khoa học và công nghệ.
Điều 18. Tổ chức đánh giá độc lập
1. Tổ chức có tư cách pháp nhân, cá nhân được thực hiện đánh giá, xếp hạng tổ chức khoa học và công nghệ theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc đánh giá, xếp hạng tổ chức khoa học và công nghệ phải tuân theo nguyên tắc quy định tại khoản 3 Điều 16 của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân thực hiện đánh giá, xếp hạng phải chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá, xếp hạng của mình.
Điều 19. Chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ
1. Chức danh nghiên cứu khoa học là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực nghiên cứu khoa học của cá nhân hoạt động trong lĩnh vực khoa học, gồm trợ lý nghiên cứu, nghiên cứu viên, nghiên cứu viên chính, nghiên cứu viên cao cấp.
Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tham gia giảng dạy, đào tạo đại học, sau đại học được xét bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư. Thủ tục xét bổ nhiệm thực hiện theo quy định của pháp luật về giáo dục đại học.
2. Chức danh công nghệ là tên gọi thể hiện trình độ và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cá nhân hoạt động trong từng lĩnh vực công nghệ.
Chính phủ quy định cụ thể chức danh công nghệ, thủ tục, quy trình xét công nhận, bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ.
3. Người có học vị tiến sĩ hoặc có công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ xuất sắc hoặc được giải thưởng cao về khoa học và công nghệ được xét công nhận, bổ nhiệm vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ cao hơn không phụ thuộc vào năm công tác.
4. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, bộ, cơ quan ngang bộ có liên quan quy định hệ thống danh mục, tiêu chuẩn và mã số chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ.
Điều 20. Quyền của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ
1. Tự do sáng tạo, bình đẳng trong hoạt động khoa học và công nghệ.
2. Tự mình hoặc hợp tác với tổ chức, cá nhân khác để hoạt động khoa học và công nghệ, ký kết hợp đồng khoa học và công nghệ.
3. Được tạo điều kiện để tham gia, thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo chức năng của tổ chức khoa học và công nghệ mà mình là thành viên.
4. Thành lập doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
5. Đăng ký tham gia tuyển chọn hoặc được giao trực tiếp thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
6. Được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; chuyển giao, chuyển nhượng kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ.
7. Công bố kết quả hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của Luật báo chí, Luật xuất bản và quy định khác của pháp luật.
8. Góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu trí tuệ để hoạt động khoa học và công nghệ, sản xuất, kinh doanh; nhận tài trợ để hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật.
9. Tư vấn, đề xuất ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước với cơ quan có thẩm quyền, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức khoa học và công nghệ mà mình là thành viên và tham gia giám sát việc thực hiện.
10. Tham gia tổ chức khoa học và công nghệ, hội, hiệp hội khoa học và công nghệ; tham gia hoạt động đào tạo, tư vấn, hội nghị, hội thảo khoa học và công nghệ; tham gia hoạt động hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ.
11. Được xét công nhận, bổ nhiệm vào chức danh quy định tại Điều 19 của Luật này.
12. Được khen thưởng, hưởng quyền ưu đãi, hỗ trợ theo quy định của pháp luật.
Điều 21. Nghĩa vụ của cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ
1. Đóng góp trí tuệ, tài năng vào sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2. Thực hiện hợp đồng khoa học và công nghệ đã ký kết.
3. Thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giao.
4. Đăng ký, lưu giữ và giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước.
5. Giữ bí mật nhà nước về khoa học và công nghệ, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Điều 22. Đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài về khoa học và công nghệ
1. Căn cứ vào quy hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt quy hoạch phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ trên cơ sở đề xuất của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan nhà nước khác.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, bộ quản lý chuyên ngành tổ chức đào tạo trình độ đại học, sau đại học; phát hiện, đào tạo bồi dưỡng nhân tài để bổ sung nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, bảo đảm cơ cấu ngành, lĩnh vực và vùng miền; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho lĩnh vực khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức liên quan tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về khoa học và công nghệ cho đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ trên phạm vi cả nước.
4. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tự đào tạo, tham gia, tài trợ cho việc đào tạo, đào tạo lại nhân lực, bồi dưỡng nhân tài khoa học và công nghệ; khuyến khích đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực nữ trong hoạt động khoa học và công nghệ; ưu tiên thu hút, đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ cho vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn.
5. Kinh phí thực hiện việc đào tạo nguồn nhân lực quy định tại khoản 2 Điều này do ngân sách nhà nước bảo đảm. Kinh phí tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quy định tại khoản 3 Điều này được lấy từ kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ. Kinh phí tài trợ cho việc đào tạo, đào tạo lại nhân lực về khoa học và công nghệ quy định tại khoản 4 Điều này được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
6. Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 23. Ưu đãi trong việc sử dụng nhân lực, nhân tài khoa học và công nghệ
1. Người được bổ nhiệm vào chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Được xếp vào vị trí việc làm và hưởng mức lương, phụ cấp phù hợp với chuyên môn và năng lực trong tổ chức khoa học và công nghệ công lập;
b) Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định tại Điều 64 của Luật này;
c) Được trang bị phương tiện và tạo điều kiện làm việc thuận lợi cao hơn mức quy định cho cán bộ, công chức nhà nước và phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được giao;
d) Được miễn trách nhiệm dân sự trong trường hợp xảy ra thiệt hại, rủi ro gây ra cho Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do nguyên nhân khách quan, mặc dù đã thực hiện đầy đủ quy trình, quy định về nghiên cứu khoa học.
2. Nhà khoa học đầu ngành ngoài ưu đãi quy định tại khoản 1 Điều này còn được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Được ưu tiên giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ quan trọng;
b) Được thành lập nhóm nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực chuyên môn của mình và được cấp hoặc hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của nhóm này;
c) Được trực tiếp đề xuất, tham gia xây dựng, đánh giá và phản biện chính sách của ngành, lĩnh vực, quốc gia về phát triển khoa học và công nghệ;
d) Được ưu tiên giao nhiệm vụ phản biện độc lập đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ và cấp tỉnh;
đ) Được hưởng mức phụ cấp ưu đãi đặc biệt theo quy định của Chính phủ;
e) Được hỗ trợ kinh phí tham gia hội nghị, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế thuộc lĩnh vực chuyên môn.
3. Nhà khoa học được giao chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia đặc biệt quan trọng ngoài ưu đãi quy định tại khoản 1 Điều này còn được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Hưởng mức lương và phụ cấp ưu đãi đặc biệt theo thỏa thuận với cơ quan nhà nước giao nhiệm vụ; được bố trí nhà ở công vụ, phương tiện đi lại công vụ trong thời gian thực hiện nhiệm vụ được giao;
b) Đề xuất việc điều động nhân lực khoa học và công nghệ, kinh phí thực hiện nhiệm vụ và nguồn lực vật chất, tài chính bảo đảm thực hiện nhiệm vụ;
c) Thuê, thỏa thuận chi phí thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài; tự quyết định việc mua sáng chế, thiết kế, tài liệu kỹ thuật, bí quyết công nghệ phục vụ cho nhiệm vụ trong phạm vi dự toán kinh phí được giao;
d) Tự quyết định và được hỗ trợ kinh phí tham gia hội nghị, hội thảo khoa học trong nước và quốc tế thuộc lĩnh vực chuyên môn;
đ) Toàn quyền quyết định việc tổ chức nhiệm vụ được giao.
4. Nhà khoa học trẻ tài năng ngoài việc được hưởng ưu đãi quy định tại khoản 1 Điều này còn được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Ưu tiên xét cấp học bổng để nâng cao trình độ ở trong nước, ngoài nước;
b) Được thành lập nhóm nghiên cứu xuất sắc trong lĩnh vực chuyên môn của mình và được cấp hoặc hỗ trợ kinh phí cho hoạt động của nhóm này;
c) Được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tiềm năng và được ưu tiên chủ trì, tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ khác;
d) Được hỗ trợ kinh phí tham gia hội nghị, hội thảo trong nước và quốc tế thuộc lĩnh vực chuyên môn.
5. Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 24. Thu hút cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài
1. Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia nước ngoài được khuyến khích tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam.
2. Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian làm việc tại Việt Nam có quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 20 và Điều 21 của Luật này và được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Được bổ nhiệm, thuê đảm nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức khoa học và công nghệ; được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp, xét công nhận, bổ nhiệm chức danh nghiên cứu khoa học, chức danh công nghệ theo quy định tại Điều 19 của Luật này;
b) Được hưởng lương chuyên gia theo quy định của Chính phủ và ưu đãi khác theo hợp đồng;
c) Được hưởng các ưu đãi về xuất nhập cảnh, cư trú, nhà ở và ưu đãi khác theo quy định của pháp luật.
3. Chuyên gia nước ngoài được khuyến khích tham gia hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam và được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Được thuê đảm nhiệm chức danh lãnh đạo tổ chức khoa học và công nghệ; được giao chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
b) Được hưởng ưu đãi về xuất nhập cảnh, cư trú, nhà ở và ưu đãi khác theo quy định của pháp luật;
c) Được hưởng lương chuyên gia theo quy định của Chính phủ và ưu đãi khác theo hợp đồng.
4. Cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ là người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia là người nước ngoài có cống hiến lớn đối với sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam được Nhà nước Việt Nam vinh danh, khen thưởng, tặng giải thưởng về khoa học và công nghệ của Việt Nam.
5. Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 25. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ được tổ chức dưới hình thức chương trình, đề tài, dự án, nhiệm vụ nghiên cứu theo chức năng của tổ chức khoa học và công nghệ và các hình thức khác.
2. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước bao gồm nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh và cấp cơ sở do cơ quan có thẩm quyền quy định tại Điều 27 của Luật này xác định.
Nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh phải thực hiện theo hình thức đặt hàng.
3. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân đề xuất ý tưởng khoa học, nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Chính phủ quy định tiêu chí xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp phù hợp với từng giai đoạn phát triển và lĩnh vực khoa học và công nghệ; biện pháp khuyến khích đề xuất ý tưởng khoa học, nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Điều 26. Đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Việc đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được quy định như sau:
a) Cơ quan, tổ chức, cá nhân gửi đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ về bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan nhà nước khác ở trung ương phù hợp với ngành, lĩnh vực, địa bàn quản lý để tổng hợp.
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan nhà nước khác ở trung ương tổ chức lấy ý kiến tư vấn xác định và công bố công khai nhiệm vụ đặt hàng cấp mình và gửi đề xuất đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia về Bộ Khoa học và Công nghệ;
b) Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm tổng hợp đề xuất đặt hàng, tổ chức lấy ý kiến tư vấn về nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia và công bố công khai;
c) Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm chủ động hoặc theo yêu cầu của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, đề xuất đặt hàng nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia cấp bách, mới phát sinh có tác động lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh quốc gia; tổ chức lấy ý kiến tư vấn về các nhiệm vụ này;
d) Việc lấy ý kiến tư vấn xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ được thực hiện thông qua Hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Hội đồng tư vấn xác định nhiệm vụ khoa học và công nghệ do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quyết định thành lập, quy định nhiệm vụ và quyền hạn. Thành phần của Hội đồng bao gồm nhà khoa học, nhà quản lý, nhà kinh doanh có uy tín và trình độ phù hợp với nhiệm vụ. Trong trường hợp cần thiết, người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền có quyền lấy ý kiến tư vấn của chuyên gia tư vấn độc lập trước hoặc sau khi họp Hội đồng. Thành viên Hội đồng và chuyên gia tư vấn độc lập phải chịu trách nhiệm về ý kiến tư vấn của mình.
2. Việc đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước có thể áp dụng quy định tại khoản 1 Điều này.
3. Việc đề xuất, tư vấn xác định nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và kỹ thuật phải bao gồm nội dung triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm và dự toán kinh phí cho các hoạt động này hoặc đề xuất dự án triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm.
4. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể Điều này.
Điều 27. Thẩm quyền phê duyệt, ký hợp đồng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ được quy định như sau:
a) Căn cứ vào chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ 05 năm và nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia hằng năm;
b) Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp tỉnh;
c) Tổ chức, cá nhân không thuộc quy định tại điểm a và điểm b khoản này tự phê duyệt hoặc trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở theo quy định về tổ chức và hoạt động của mình.
2. Thẩm quyền ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được quy định như sau:
a) Bộ Khoa học và Công nghệ ký hợp đồng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia;
b) Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký hợp đồng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp tỉnh;
c) Tổ chức, cá nhân quy định tại điểm c khoản 1 Điều này ký hợp đồng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp cơ sở.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm gửi báo cáo về Bộ Khoa học và Công nghệ về việc phê duyệt và ký hợp đồng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ để tổng hợp, đưa vào cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ.
Điều 28. Phương thức giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được giao theo phương thức tuyển chọn, giao trực tiếp, xét tài trợ từ quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
2. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước có thể được thực hiện theo phương thức quy định tại khoản 1 Điều này hoặc phương thức khác do tổ chức, cá nhân lựa chọn.
Điều 29. Tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước
1. Tuyển chọn thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước là việc xác định tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ và phải bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, hiệu quả.
2. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ có nhiều tổ chức, cá nhân có khả năng tham gia thực hiện phải được giao theo phương thức tuyển chọn nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp phải thông báo công khai trên cổng thông tin điện tử của cơ quan mình hoặc phương tiện thông tin đại chúng khác danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ; điều kiện, thủ tục tham gia tuyển chọn.
4. Việc tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phải bảo đảm công khai, công bằng, dân chủ, khách quan; kết quả tuyển chọn phải được công bố công khai trên cổng thông tin điện tử hoặc phương tiện thông tin đại chúng khác.
5. Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp thành lập Hội đồng tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ và quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng này.
Hội đồng tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp thành lập, quy định nhiệm vụ và quyền hạn. Hội đồng có nhiệm vụ tư vấn và phải chịu trách nhiệm về việc tư vấn của mình. Thành phần của Hội đồng bao gồm nhà khoa học, nhà quản lý, nhà kinh doanh có uy tín và trình độ phù hợp với nhiệm vụ. Thành viên Hội đồng phải có năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ khoa học và công nghệ và chịu trách nhiệm về ý kiến tư vấn của mình.
6. Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sau khi có ý kiến tư vấn của Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp có quyền lấy thêm ý kiến tư vấn của chuyên gia tư vấn độc lập trước khi quyết định.
7. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định cụ thể việc tuyển chọn tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Điều 30. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được giao trực tiếp
1. Nhà nước giao trực tiếp cho tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ đối với một trong các trường hợp sau đây:
a) Nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc bí mật quốc gia, đặc thù phục vụ an ninh, quốc phòng;
b) Nhiệm vụ khoa học và công nghệ đột xuất;
c) Nhiệm vụ khoa học và công nghệ mà chỉ có một tổ chức khoa học và công nghệ có đủ điều kiện về nhân lực, chuyên môn, trang thiết bị để thực hiện nhiệm vụ đó.
2. Người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền quyết định giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy định tại Điều này sau khi lấy ý kiến tư vấn của Hội đồng tư vấn khoa học và công nghệ và phải chịu trách nhiệm về việc giao nhiệm vụ của mình. Tổ chức, cá nhân được giao chủ trì nhiệm vụ phải có đủ năng lực, điều kiện và chuyên môn phù hợp.
Trong trường hợp cần thiết, người đứng đầu cơ quan quản lý nhà nước có quyền lấy thêm ý kiến tư vấn của chuyên gia tư vấn độc lập trước khi quyết định.
3. Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 31. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ được quỹ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ xét tài trợ, cho vay, bảo lãnh vốn vay
Tổ chức, cá nhân có quyền đề xuất nhiệm vụ khoa học và công nghệ để quỹ phát triển khoa học và công nghệ, quỹ đổi mới công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao và các quỹ khác trong lĩnh vực khoa học và công nghệ xét tài trợ, cho vay, bảo lãnh vốn vay theo điều lệ tổ chức và hoạt động của quỹ.
Điều 32. Liên kết xác định và thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức khoa học và công nghệ, nhà khoa học liên kết với doanh nghiệp và tổ chức khác để xác định, thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ phục vụ yêu cầu đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá.
2. Việc hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy định tại khoản 1 Điều này được quy định như sau:
a) Hỗ trợ đến 30% vốn đầu tư cho dự án của doanh nghiệp ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm mới hoặc nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm từ kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ; hỗ trợ đến 50% vốn đầu tư cho dự án thực hiện ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn;
b) Hỗ trợ đến 50% vốn đầu tư cho dự án thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước.
3. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện, hình thức, trình tự, thủ tục và mức hỗ trợ của Nhà nước đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy định tại Điều này.
Điều 33. Phân loại hợp đồng khoa học và công nghệ
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ, hoạt động dịch vụ khoa học và công nghệ được thực hiện thông qua hợp đồng khoa học và công nghệ bằng văn bản.
2. Các loại hợp đồng khoa học và công nghệ gồm:
a) Hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
b) Hợp đồng chuyển giao công nghệ;
c) Hợp đồng dịch vụ khoa học và công nghệ.
3. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định mẫu hợp đồng quy định tại điểm a khoản 2 Điều này.
Điều 34. Quyền, nghĩa vụ của bên đặt hàng theo hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Bên đặt hàng theo hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có quyền sau đây:
a) Sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, nếu không có thoả thuận khác trong hợp đồng;
b) Tổ chức việc giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2. Bên đặt hàng theo hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có nghĩa vụ sau đây:
a) Cung cấp thông tin cần thiết cho việc thực hiện hợp đồng;
b) Tổ chức nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ đặt hàng;
c) Tiếp nhận và tổ chức triển khai ứng dụng hoặc chuyển giao kết quả nghiên cứu sau khi được nghiệm thu;
d) Thanh toán đầy đủ kinh phí cho bên nhận đặt hàng theo thoả thuận trong hợp đồng.
Điều 35. Quyền, nghĩa vụ của bên nhận đặt hàng thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Bên nhận đặt hàng thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có quyền sau đây:
a) Hưởng quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo thỏa thuận trong hợp đồng;
b) Yêu cầu bên đặt hàng cung cấp thông tin và những điều kiện khác theo thỏa thuận trong hợp đồng để thực hiện hợp đồng;
c) Nhận kinh phí của bên đặt hàng để thực hiện hợp đồng.
2. Bên nhận đặt hàng thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ có nghĩa vụ sau đây:
a) Bàn giao kết quả nghiên cứu, giao nộp sản phẩm theo đúng quy định trong hợp đồng;
b) Giữ bí mật về kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo thoả thuận;
c) Không được chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cho người khác nếu không có sự chấp thuận của bên đặt hàng.
Điều 36. Giải quyết tranh chấp hợp đồng khoa học và công nghệ
1. Bên vi phạm hợp đồng khoa học và công nghệ phải bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra và bị xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Tranh chấp hợp đồng khoa học và công nghệ được giải quyết trước hết theo nguyên tắc hoà giải, thương lượng trực tiếp giữa các bên. Trường hợp các bên không tự giải quyết được thì tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài hoặc toà án.
Điều 37. Đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước, khi kết thúc phải được đánh giá nghiệm thu khách quan, chính xác thông qua Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành. Người giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo thẩm quyền quyết định nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Trong trường hợp cần thiết, người giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ có quyền lấy thêm ý kiến tư vấn của tổ chức, chuyên gia tư vấn độc lập trước khi quyết định nghiệm thu.
2. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước do tổ chức, cá nhân tự tổ chức đánh giá, nghiệm thu. Trường hợp tổ chức, cá nhân không có khả năng tự tổ chức đánh giá, nghiệm thu thì có quyền đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ địa phương xem xét đánh giá, nghiệm thu.
3. Kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh, môi trường, tính mạng, sức khoẻ con người phải được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền thẩm định.
4. Hằng năm, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố công khai danh mục nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước đã được nghiệm thu.
5. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định tiêu chí, thủ tục đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
Điều 38. Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành, tổ chức, chuyên gia tư vấn độc lập đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Người giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ có trách nhiệm thành lập Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành hoặc thuê tổ chức, chuyên gia tư vấn độc lập để đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
2. Thành phần Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành bao gồm nhà khoa học, đại diện cơ quan, tổ chức đề xuất đặt hàng, cơ quan, tổ chức đặt hàng, nhà quản lý, nhà kinh doanh có năng lực và chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ.
3. Tổ chức, chuyên gia tư vấn độc lập phải có năng lực và chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ.
4. Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành, tổ chức, chuyên gia tư vấn độc lập tiến hành đánh giá, nghiệm thu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ theo mục đích, yêu cầu, nội dung, kết quả, tiến độ ghi trong hợp đồng đã được ký kết và chịu trách nhiệm trước người giao nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
5. Hội đồng khoa học và công nghệ chuyên ngành, tổ chức, chuyên gia tư vấn độc lập phải chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá của mình.
Điều 39. Đăng ký, lưu giữ kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước phải được đăng ký, lưu giữ tại cơ quan thông tin khoa học và công nghệ quốc gia và tại cơ quan có thẩm quyền của bộ, ngành, địa phương chủ quản.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc danh mục bí mật nhà nước được đăng ký, lưu giữ theo chế độ mật.
2. Kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước được khuyến khích đăng ký, lưu giữ tại cơ quan thông tin khoa học và công nghệ quốc gia hoặc cơ quan có thẩm quyền của bộ, ngành, địa phương.
Điều 40. Trách nhiệm tiếp nhận và tổ chức ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ
1. Đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có trách nhiệm tiếp nhận, tổ chức ứng dụng, bố trí kinh phí, đánh giá hiệu quả ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do mình đề xuất đặt hàng hoặc đặt hàng sau khi được đánh giá, nghiệm thu và định kỳ hằng năm gửi báo cáo kết quả ứng dụng về Bộ Khoa học và Công nghệ.
2. Đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước mà tổ chức, cá nhân không có khả năng tự tổ chức ứng dụng kết quả nghiên cứu thì có quyền đề nghị cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ địa phương xem xét tạo điều kiện ứng dụng.
3. Trường hợp kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ không sử dụng ngân sách nhà nước được tổ chức, cá nhân hiến, tặng cho Nhà nước thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm tiếp nhận, lưu giữ và xem xét tổ chức ứng dụng.
Điều 41. Quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính, cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ là chủ sở hữu kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác trong hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2. Đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước thì đại diện chủ sở hữu nhà nước được quy định như sau:
a) Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ là đại diện chủ sở hữu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia;
b) Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là đại diện chủ sở hữu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp tỉnh hoặc cấp cơ sở do mình phê duyệt;
c) Thủ trưởng cơ quan, tổ chức không thuộc quy định tại điểm a và điểm b của khoản này là đại diện chủ sở hữu kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do mình quyết định phê duyệt.
3. Đại diện chủ sở hữu nhà nước quy định tại khoản 2 Điều này có quyền xét giao toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước theo quy định của Chính phủ cho tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
4. Việc thực hiện quyền sở hữu, quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tạo ra bằng ngân sách nhà nước quy định tại khoản 3 Điều này được quy định như sau:
a) Trường hợp được giao toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu thì tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ thực hiện quyền này theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật về chuyển giao công nghệ;
b) Trường hợp được giao quyền sử dụng thì tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ thực hiện quyền này theo quy định của pháp luật.
5. Trường hợp tổ chức chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ không thể sử dụng được kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều này thì đại diện chủ sở hữu nhà nước quy định tại khoản 2 Điều này quyết định giao quyền sử dụng đó cho tổ chức khác có khả năng sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
6. Chính phủ quy định cụ thể các trường hợp, trình tự, thủ tục giao toàn bộ, giao một phần quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ quy định tại Điều này.
Điều 42. Quyền tác giả đối với kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
Người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là tác giả của kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đó. Tác giả của kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được hưởng quyền theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 43. Phân chia lợi nhuận khi sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước
Lợi nhuận thu được từ việc sử dụng, chuyển giao quyền sử dụng, chuyển nhượng, góp vốn bằng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được chia cho tác giả tối thiểu 30%; phần còn lại được phân chia giữa chủ sở hữu, cơ quan chủ trì, người môi giới theo quy định của Chính phủ.
Điều 44. Trách nhiệm triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Trách nhiệm triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của bên đề xuất đặt hàng hoặc đặt hàng thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được thực hiện theo quy định tại Điều 40 của Luật này.
Trường hợp bên đề xuất đặt hàng hoặc đặt hàng không thực hiện trách nhiệm quy định tại khoản này thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước có trách nhiệm trực tiếp hoặc tham gia triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất, đời sống theo hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, yêu cầu và hướng dẫn của bên đặt hàng, trừ trường hợp bất khả kháng.
Trường hợp tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ không thực hiện trách nhiệm quy định tại khoản này thì sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, đồng thời không được tham gia thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước trong thời hạn 03 năm kể từ ngày bị xử lý vi phạm.
Điều 45. Khuyến khích ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Tổ chức, cá nhân ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt công nghệ cao và khai thác, sử dụng sáng chế để đổi mới quản lý kinh tế - xã hội, đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá được hưởng ưu đãi về thuế, tín dụng và ưu đãi khác theo quy định tại Luật này và văn bản pháp luật khác có liên quan.
2. Chủ sở hữu, tác giả và người ứng dụng thành công kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được hưởng lợi ích do việc ứng dụng kết quả này vào sản xuất và đời sống theo hợp đồng khoa học và công nghệ và theo quy định của Luật này.
3. Việc ứng dụng thành công thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, đời sống là một trong những tiêu chí chủ yếu để đánh giá năng lực của tác giả, người đứng đầu tổ chức khoa học và công nghệ, doanh nghiệp; là căn cứ để Nhà nước ưu tiên khi xét tuyển chọn, giao thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; được quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ xét hỗ trợ kinh phí hoạt động khoa học và công nghệ.
4. Tổ chức khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công, tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ được hỗ trợ, ưu đãi về thuế và các ưu đãi khác theo quy định của pháp luật để đưa nhanh kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất và đời sống, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
5. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tạo điều kiện để thành viên ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Điều 46. Ứng dụng khoa học và công nghệ trong dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế - xã hội
1. Dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế - xã hội sử dụng ngân sách nhà nước phải lập hạng mục chi cho ứng dụng, nghiên cứu và phát triển phục vụ xây dựng căn cứ khoa học trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và giải quyết vấn đề khoa học và công nghệ phát sinh trong quá trình thực hiện.
2. Dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế - xã hội phải được thẩm định về cơ sở khoa học, trình độ công nghệ đáp ứng yêu cầu theo quy định của pháp luật trước khi phê duyệt.
3. Chính phủ quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục thẩm định công nghệ trong dự án đầu tư, chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Điều 47. Khuyến khích hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và đổi mới sáng tạo
1. Cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ các cấp phải có biện pháp thúc đẩy phong trào sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất và đổi mới sáng tạo.
2. Hằng năm, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, doanh nghiệp tổ chức hội thi sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo; dành ngân sách sự nghiệp khoa học và công nghệ để hỗ trợ các hoạt động này.
3. Doanh nghiệp dành kinh phí tổ chức thi sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, đổi mới sáng tạo thì kinh phí chi cho hoạt động này được tính là đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ của doanh nghiệp.
4. Nhà nước tài trợ, khuyến khích tổ chức, cá nhân tổ chức, tài trợ cho hoạt động sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, đổi mới sáng tạo và tổ chức hội thi sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, đổi mới sáng tạo.
Điều 48. Truyền thông, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ
1. Nhà nước đầu tư, khuyến khích tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư phát triển công tác truyền thông, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch hằng năm, 05 năm về công tác truyền thông, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ.
3. Kinh phí của tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đầu tư, tài trợ cho hoạt động truyền thông, phổ biến kiến thức khoa học và công nghệ được tính vào chi phí hợp lý.
Điều 49. Ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
1. Nhà nước bảo đảm chi cho khoa học và công nghệ từ 2% trở lên trong tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp khoa học và công nghệ.
2. Ngân sách cho khoa học và công nghệ phải được ghi thành một mục chi riêng trong mục lục ngân sách nhà nước hằng năm của bộ, ngành, địa phương.
3. Việc phân bổ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ của năm sau được thực hiện trên cơ sở nhu cầu của thực tiễn và kết quả sử dụng ngân sách đã được phân bổ.
Điều 50. Mục đích chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
1. Thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ ưu tiên, trọng điểm, nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp phục vụ lợi ích chung của xã hội; chú trọng nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ.
2. Duy trì và phát triển năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, đầu tư và hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho tổ chức khoa học và công nghệ; bảo đảm hoạt động nghiên cứu cơ bản thường xuyên của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
3. Phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.
4. Cấp kinh phí cho quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ theo quy định tại Điều 59 của Luật này.
5. Hỗ trợ việc thực hiện nghiên cứu ứng dụng và đổi mới công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm.
6. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ tại địa phương.
7. Mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, hỗ trợ nhập khẩu công nghệ nguồn, công nghệ cao, thiết kế, thuê chuyên gia trong nước và nước ngoài thuộc lĩnh vực ưu tiên.
8. Tuyên truyền, phổ biến kiến thức, truyền thông, thông tin, thống kê khoa học và công nghệ; hỗ trợ đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, công bố kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, giải thưởng khoa học và công nghệ.
9. Hỗ trợ hoạt động khoa học và công nghệ khác.
Điều 51. Xây dựng dự toán và quản lý việc sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
1. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng đề xuất dự toán chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ hằng năm theo quy định của pháp luật.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính lập dự toán chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, dự toán chi sự nghiệp khoa học và công nghệ theo đề xuất dự toán của Bộ Khoa học và Công nghệ.
3. Cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ xây dựng đề xuất dự toán chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ hằng năm và đề nghị cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư, tài chính tổng hợp, xây dựng dự toán chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, dự toán chi sự nghiệp khoa học và công nghệ, bảo đảm chi đúng, chi đủ kinh phí đã được phân bổ.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp phê duyệt dự toán chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ.
4. Cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm cấp phát kinh phí khoa học và công nghệ đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tiến độ kế hoạch khoa học và công nghệ; đôn đốc, kiểm tra các ngành, các cấp nhằm bảo đảm sử dụng kinh phí khoa học và công nghệ đúng mục đích, hiệu quả.
Điều 52. Áp dụng khoán chi đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Việc áp dụng khoán chi đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước được quy định như sau:
a) Khoán chi được áp dụng đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt mục tiêu, nội dung, yêu cầu về sản phẩm nghiên cứu và dự toán kinh phí;
b) Nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã xác định được rõ tiêu chí đối với sản phẩm cuối cùng trên cơ sở thẩm định thuyết minh và dự toán kinh phí thì được áp dụng khoán chi đến sản phẩm cuối cùng;
c) Nhiệm vụ khoa học và công nghệ không thể khoán chi đến sản phẩm cuối cùng và những nhiệm vụ khoa học và công nghệ có tính rủi ro cao thì thực hiện việc khoán chi đối với từng phần công việc đã xác định rõ tiêu chí.
2. Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ theo thỏa thuận với tổ chức, cá nhân.
3. Chính phủ quy định cụ thể tiêu chí, quy trình, thủ tục thực hiện khoán chi đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước và việc mua kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Điều 53. Cấp, sử dụng, quản lý kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước
1. Việc cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước phải kịp thời, phù hợp với tiến độ đặt hàng và phê duyệt nhiệm vụ khoa học và công nghệ.
2. Kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được cấp thông qua quỹ phát triển khoa học và công nghệ của Nhà nước hoặc chuyển vào tài khoản tiền gửi của cơ quan chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tại Kho bạc Nhà nước.
3. Việc sử dụng kinh phí thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ được thực hiện theo ủy nhiệm chi của cơ quan chủ trì thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ và quyết toán khi kết thúc hợp đồng, không phụ thuộc vào năm tài chính.
4. Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 54. Cơ chế đầu tư đặc biệt thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt
1. Nhiệm vụ khoa học và công nghệ quy mô lớn phục vụ quốc phòng, an ninh, có tác động mạnh đến năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm quốc gia được áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt.
2. Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định nhiệm vụ khoa học và công nghệ thuộc loại dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.
3. Thủ tướng Chính phủ quyết định thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Chính phủ quy định tiêu chí xác định nhiệm vụ, cơ chế đầu tư đặc biệt và phương thức thực hiện đối với nhiệm vụ khoa học và công nghệ được áp dụng cơ chế đầu tư đặc biệt quy định tại Điều này.
Điều 55. Huy động nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ
1. Nhà nước khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ cho khoa học và công nghệ.
2. Tổ chức, cá nhân được thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ theo quy định tại Điều 62 và Điều 63 của Luật này.
3. Tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ cho khoa học và công nghệ được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật;
b) Được tôn vinh, khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 56. Đầu tư của doanh nghiệp cho khoa học và công nghệ
1. Doanh nghiệp phải dành kinh phí đầu tư nhằm đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa.
2. Kinh phí đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp được tính là khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
3. Doanh nghiệp đầu tư hoặc liên kết đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm của Nhà nước, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa được quỹ trong lĩnh vực khoa học và công nghệ xét hỗ trợ, cho vay và được hưởng ưu đãi khác theo quy định của Luật này.
Điều 57. Khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
1. Doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ để đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá được quỹ của Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất vay, bảo lãnh để vay vốn.
2. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật về công nghệ cao. Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ trong nước được hỗ trợ lãi suất vay vốn tại ngân hàng.
Điều 58. Phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ
1. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ là doanh nghiệp thực hiện sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khoa học và công nghệ để tạo ra sản phẩm, hàng hoá từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
2. Doanh nghiệp khoa học và công nghệ phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Là doanh nghiệp được thành lập, đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp;
b) Có năng lực thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ;
c) Doanh thu từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hoá hình thành từ kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt tỷ lệ theo quy định.
3. Ngoài ưu đãi quy định tại Điều 57 của Luật này, doanh nghiệp khoa học và công nghệ còn được hưởng ưu đãi sau đây:
a) Được xem xét, giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thuộc sở hữu nhà nước;
b) Được hưởng chính sách ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn lệ phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà theo quy định của pháp luật;
c) Được ưu tiên thuê đất, cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao;
d) Được hưởng chính sách ưu đãi về tín dụng đầu tư của Ngân hàng phát triển Việt Nam, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và các quỹ khác để thực hiện dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh;
đ) Được ưu tiên sử dụng trang thiết bị phục vụ cho hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tại phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp, cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ của Nhà nước.
4. Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 59. Các quỹ hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ
1. Nhà nước thành lập, khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập quỹ để huy động nguồn lực xã hội nhằm hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ.
2. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ được thành lập theo quy định của Luật này.
Quỹ đổi mới công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao được thành lập theo quy định của Luật chuyển giao công nghệ, Luật công nghệ cao.
3. Cơ chế, hình thức hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ của quỹ được thực hiện theo điều lệ tổ chức và hoạt động của quỹ.
Điều 60. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia
1. Chính phủ thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia nhằm mục đích tài trợ, cấp kinh phí cho việc thực hiện nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng; tài trợ, cấp kinh phí cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ đột xuất có ý nghĩa quan trọng về khoa học và thực tiễn, nhiệm vụ khoa học và công nghệ tiềm năng; cho vay với lãi suất thấp hoặc không lấy lãi để thực hiện việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất và đời sống; bảo lãnh vốn vay đối với một số nhiệm vụ khoa học và công nghệ chuyên biệt; hỗ trợ nhà khoa học trẻ tham gia hội nghị, hội thảo quốc tế; hỗ trợ hoạt động nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia.
2. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia được hình thành từ nguồn vốn được cấp ban đầu, vốn cấp bổ sung hằng năm từ ngân sách nhà nước dành cho phát triển khoa học và công nghệ, kết quả hoạt động của quỹ; khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân và nguồn hợp pháp khác.
3. Chính phủ quy định Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia.
Điều 61. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
1. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để phục vụ yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ của mình.
2. Quỹ được sử dụng vào mục đích theo quy định tại khoản 1 Điều 60 của Luật này.
3. Quỹ được hình thành từ nguồn vốn được cấp một lần ban đầu từ ngân sách nhà nước dành cho phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; vốn bổ sung hằng năm từ phân bổ ngân sách cho nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp bộ, cấp tỉnh và kết quả hoạt động của quỹ; đóng góp của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân và nguồn hợp pháp khác.
4. Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định Điều lệ mẫu tổ chức và hoạt động của quỹ phát triển khoa học và công nghệ của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Điều 62. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân
1. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập quỹ phát triển khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật.
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân là tổ chức hoạt động phi lợi nhuận để tài trợ không hoàn lại, cho vay với lãi suất thấp hoặc không lấy lãi, bảo lãnh vốn vay phục vụ yêu cầu phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân.
2. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân được hình thành từ nguồn vốn đóng góp của tổ chức, cá nhân thành lập không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; khoản đóng góp tự nguyện, hiến, tặng của tổ chức, cá nhân và nguồn hợp pháp khác.
3. Điều lệ tổ chức và hoạt động của quỹ do tổ chức, cá nhân thành lập quy định và phải được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về tài chính có thẩm quyền, đồng thời thông báo việc thành lập quỹ cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ địa phương nơi đặt trụ sở chính của quỹ.
Điều 63. Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp ngoài nhà nước được khuyến khích thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của mình hoặc đóng góp vào Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của ngành, địa phương và được hưởng quyền lợi theo quy định của Quỹ.
2. Doanh nghiệp nhà nước phải trích một tỷ lệ tối thiểu thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp.
Chính phủ quy định cụ thể tỷ lệ trích thu nhập tính thuế thu nhập doanh nghiệp để thành lập quỹ và cơ chế quản lý, sử dụng quỹ phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp nhà nước.
3. Doanh nghiệp có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng quỹ đúng mục đích thành lập quỹ và thông báo việc thành lập quỹ cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ địa phương nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp.
Điều 64. Chính sách thuế đối với hoạt động khoa học và công nghệ
Các trường hợp sau đây được hưởng chính sách ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật về thuế:
1. Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
2. Thu nhập từ sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu áp dụng tại Việt Nam; sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm;
3. Doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và một số hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao;
4. Dịch vụ khoa học và công nghệ;
5. Máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ;
6. Kinh phí tài trợ của tổ chức, cá nhân cho hoạt động nghiên cứu khoa học; khoản tài trợ nhận được để sử dụng cho hoạt động nghiên cứu khoa học;
7. Chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho tổ chức, cá nhân thuộc địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
8. Các trường hợp khác được quy định tại các luật về thuế.
Điều 65. Chính sách tín dụng đối với hoạt động khoa học và công nghệ
1. Tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ vay vốn trung và dài hạn để hoạt động khoa học và công nghệ được hưởng lãi suất ưu đãi khi vay vốn tại Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, các quỹ khác của Nhà nước.
2. Tổ chức, cá nhân vay vốn để đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ được ưu đãi về tín dụng theo điều lệ của quỹ nơi vay vốn.
3. Tổ chức, cá nhân vay vốn tại ngân hàng thương mại để đầu tư vào hoạt động khoa học và công nghệ, đặc biệt hoạt động triển khai thực nghiệm và sản xuất thử nghiệm được Ngân hàng phát triển Việt Nam xem xét hỗ trợ lãi suất sau đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư, dành tỷ lệ nhất định dư nợ tín dụng cho hoạt động khoa học và công nghệ.
4. Những chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ phục vụ trực tiếp chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm của Nhà nước và phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia, đặc biệt dự án triển khai thực nghiệm, sản xuất thử nghiệm có yêu cầu sử dụng vốn lớn, được ưu tiên xét cho sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức theo phương thức sau đây:
a) Tài trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
b) Cho vay đối với dự án đầu tư xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ hoặc cho vay có thu hồi đối với dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Điều 66. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển khoa học và công nghệ
1. Nhà nước có chính sách đầu tư đồng bộ, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật của cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ quốc gia; khuyến khích, hỗ trợ xây dựng trung tâm nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, khu công nghệ cao, công viên công nghệ; nâng cấp và xây dựng mới trung tâm nghiên cứu trong cơ sở giáo dục đại học để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, ứng dụng, triển khai, thương mại hoá công nghệ mới.
2. Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan có liên quan xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của tổ chức khoa học và công nghệ quan trọng; phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế; cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương huy động nguồn vốn để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc.
4. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định kế hoạch đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của tổ chức khoa học và công nghệ ở địa phương.
5. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan kiểm tra, giám sát việc sử dụng ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học và công nghệ ở bộ, ngành, địa phương và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Điều 67. Xây dựng hạ tầng phục vụ phát triển công nghệ cao
1. Nhà nước đầu tư, huy động nguồn lực xã hội để xây dựng hạ tầng phục vụ phát triển công nghệ cao.
2. Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển khu công nghệ cao, cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và cơ quan có liên quan trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Điều 68. Xây dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia và thống kê về khoa học và công nghệ
Nhà nước đầu tư xây dựng, khuyến khích tổ chức, cá nhân tài trợ cho việc xây dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia và thống kê về khoa học và công nghệ hiện đại nhằm bảo đảm thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời về hoạt động khoa học và công nghệ trong nước và thế giới.
Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 69. Xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ
Nhà nước có chính sách và biện pháp sau đây để xây dựng và phát triển thị trường khoa học và công nghệ:
1. Khuyến khích mọi hoạt động chuyển nhượng, chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, các bên cùng có lợi;
2. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ;
3. Áp dụng chính sách ưu đãi đối với sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm bằng công nghệ mới; sản phẩm được làm ra từ công nghệ mới lần đầu áp dụng tại Việt Nam; hoạt động tư vấn khoa học và công nghệ; thiết bị công nghệ cao nhập khẩu, xuất khẩu công nghệ;
4. Áp dụng chế độ thưởng cho tập thể lao động và cá nhân có hoạt động đổi mới sáng tạo, sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, ứng dụng công nghệ mới được chuyển giao;
5. Nhà nước thành lập, khuyến khích tổ chức, cá nhân thành lập tổ chức dịch vụ khoa học và công nghệ, trung tâm xúc tiến và hỗ trợ hoạt động chuyển giao công nghệ; trung tâm, sàn giao dịch công nghệ; chợ công nghệ - thiết bị.
Điều 70. Nguyên tắc hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
1. Tích cực, chủ động và bảo đảm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi.
2. Đa dạng hóa, đa phương hóa hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
3. Phát triển khoa học và công nghệ theo chuẩn mực quốc tế và gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
4. Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước tiên tiến, tranh thủ tối đa cơ hội để nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao.
Điều 71. Hoạt động hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
1. Liên kết, tham gia hoạt động khoa học và công nghệ với nước ngoài, bao gồm:
a) Tham gia tổ chức khoa học và công nghệ, hội, hiệp hội khoa học và công nghệ của nước ngoài;
b) Tham gia hoạt động nghiên cứu, đào tạo, tư vấn, hội nghị, hội thảo khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế ở trong nước và nước ngoài;
c) Thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài ở Việt Nam và thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh của tổ chức khoa học và công nghệ của Việt Nam ở nước ngoài.
2. Xây dựng và thực hiện chương trình, dự án chung về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong khuôn khổ thỏa thuận song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực và quốc tế.
3. Thu hút, thuê chuyên gia, nhà khoa học là người Việt Nam ở nước ngoài, chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia vào chương trình, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, chương trình đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ, hoạt động khoa học và công nghệ khác ở Việt Nam.
4. Tổ chức triển lãm, diễn đàn khoa học và công nghệ, chợ công nghệ, trung tâm, sàn giao dịch công nghệ, giới thiệu, chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt công nghệ tiên tiến, công nghệ cao của các nước và Việt Nam.
5. Tìm kiếm, chuyển giao công nghệ tiên tiến của nước ngoài vào Việt Nam.
6. Phát triển mạng lưới đại diện khoa học và công nghệ Việt Nam ở nước ngoài.
Điều 72. Biện pháp thúc đẩy hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ
1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.
2. Đẩy mạnh việc tham gia, ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về hợp tác khoa học và công nghệ.
3. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ cho đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ.
4. Xây dựng một số tổ chức, nhóm nghiên cứu khoa học và công nghệ đạt tiêu chuẩn khu vực, quốc tế.
5. Tăng cường kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển khoa học và công nghệ, đặc biệt hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ, hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm đạt tiêu chuẩn khu vực, quốc tế. Kết nối mạng thông tin tiên tiến, hiện đại của khu vực và quốc tế về nghiên cứu và đào tạo.
6. Hoàn thiện cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ để tổ chức, cá nhân Việt Nam tham gia hoạt động hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ.
7. Xây dựng cơ chế, chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam.
8. Sử dụng có hiệu quả vốn vay và viện trợ của nước ngoài đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Điều 73. Trách nhiệm của Chính phủ
1. Thống nhất quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trong phạm vi cả nước và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách cụ thể để bảo đảm phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.
2. Chỉ đạo ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược phát triển khoa học và công nghệ, quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
3. Phân công, phân cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ.
4. Chỉ đạo hoạt động hội nhập quốc tế về khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.
5. Chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoa học và công nghệ; kiểm tra việc thực hiện pháp luật về khoa học và công nghệ.
6. Chỉ đạo công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ.
Hằng năm, Chính phủ báo cáo Quốc hội về việc thực hiện chính sách, biện pháp để phát triển khoa học và công nghệ; việc sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ; kết quả hoạt động khoa học và công nghệ.
Điều 74. Trách nhiệm của Bộ Khoa học và Công nghệ
Bộ Khoa học và Công nghệ chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trong phạm vi cả nước, có trách nhiệm sau đây:
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ, quy hoạch mạng lưới tổ chức khoa học và công nghệ công lập;
2. Xây dựng và phê duyệt phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ 05 năm và hằng năm;
3. Thống nhất quản lý nhiệm vụ khoa học và công nghệ các cấp; hướng dẫn xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước các cấp, trực tiếp quản lý và tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp quốc gia; xây dựng và tổ chức thực hiện nhiệm vụ trong chương trình, đề án khoa học và công nghệ đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt;
4. Quản lý, sử dụng hiệu quả ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ; xây dựng đề xuất cơ cấu, tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ làm căn cứ cho việc giao dự toán ngân sách nhà nước hằng năm;
5. Thẩm định việc thành lập tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo phân cấp của Chính phủ; cho phép thành lập tổ chức khoa học và công nghệ có vốn nước ngoài; đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ theo thẩm quyền;
6. Xây dựng và quản lý hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học và công nghệ; hệ thống thống kê khoa học và công nghệ và tiêu chí thống kê thống nhất trong cả nước; đẩy mạnh việc khai thác và sử dụng sáng chế; phát triển thị trường khoa học và công nghệ;
7. Tổ chức quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về khoa học và công nghệ;
8. Tuyên truyền, phổ biến và tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật về khoa học và công nghệ;
9. Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ;
10. Thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công nghệ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ theo thẩm quyền; căn cứ kết quả kiểm tra và hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ của các cơ quan và tổ chức để đề xuất điều chỉnh việc phân bổ kinh phí cho giai đoạn tiếp theo;
11. Thực hiện nhiệm vụ khác được Chính phủ ủy quyền hoặc phân công.
Điều 75. Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm sau đây:
a) Lập và trình Chính phủ dự toán chi đầu tư phát triển khoa học và công nghệ theo đề xuất của Bộ Khoa học và Công nghệ;
b) Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc xét duyệt dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho khoa học và công nghệ; đôn đốc, kiểm tra các ngành, các cấp nhằm bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả kinh phí đầu tư phát triển khoa học và công nghệ.
2. Bộ Tài chính có trách nhiệm sau đây:
a) Lập và trình Chính phủ dự toán chi sự nghiệp khoa học và công nghệ theo đề xuất của Bộ Khoa học và Công nghệ về cơ cấu, tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ;
b) Cân đối và bố trí kinh phí đầy đủ, kịp thời theo dự toán kinh phí đã được phê duyệt;
c) Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ đôn đốc, kiểm tra các ngành, các cấp nhằm bảo đảm sử dụng kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ đúng mục đích và có hiệu quả.
3. Bộ Nội vụ có trách nhiệm sau đây:
a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng chính sách sử dụng, trọng dụng nhân lực khoa học và công nghệ;
b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, cơ quan có liên quan giao biên chế cho tổ chức khoa học và công nghệ công lập.
4. Bộ, cơ quan ngang bộ có trách nhiệm sau đây:
a) Thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ và chịu trách nhiệm về hoạt động khoa học và công nghệ trong ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách; xác định, tổ chức thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ và quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực khoa học và công nghệ thuộc ngành, lĩnh vực được phân công phụ trách; có tổ chức chuyên trách quản lý khoa học và công nghệ;
b) Phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch, biện pháp thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới công nghệ; xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin, thống kê về khoa học và công nghệ;
c) Báo cáo kịp thời, đầy đủ thông tin và số liệu thống kê khoa học và công nghệ về Bộ Khoa học và Công nghệ;
d) Quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ đúng mục đích và có hiệu quả, phù hợp với đặc thù và tiến độ kế hoạch khoa học và công nghệ.
Điều 76. Trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ trong phạm vi địa phương theo phân cấp của Chính phủ có trách nhiệm sau đây:
1. Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển khoa học và công nghệ;
2. Bảo đảm sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ và nguồn lực khác của xã hội chủ yếu cho ứng dụng khoa học và công nghệ ở địa phương;
3. Tiếp nhận, tổ chức ứng dụng, đánh giá hiệu quả ứng dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ do mình đề xuất đặt hàng hoặc đặt hàng sau khi được đánh giá, nghiệm thu và định kỳ hằng năm gửi báo cáo kết quả ứng dụng về Bộ Khoa học và Công nghệ;
4. Quản lý, sử dụng kinh phí đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ đúng mục đích và có hiệu quả; bảo đảm cấp kinh phí đầy đủ, kịp thời, phù hợp với đặc thù và tiến độ kế hoạch khoa học và công nghệ để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển khoa học và công nghệ của địa phương và của cả nước;
5. Xây dựng và quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin, thống kê về khoa học và công nghệ; báo cáo đầy đủ, trung thực số liệu thống kê khoa học và công nghệ cho cơ quan quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ có thẩm quyền;
6. Tuyên truyền, phổ biến và tổ chức hướng dẫn thực hiện pháp luật về khoa học và công nghệ;
7. Thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khoa học và công nghệ; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ theo thẩm quyền.
Điều 77. Danh hiệu vinh dự Nhà nước, khen thưởng và giải thưởng về khoa học và công nghệ
1. Tổ chức, cá nhân có thành tích trong sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ được phong, tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước, giải thưởng và các hình thức khen thưởng khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng.
2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan nhà nước khác ở trung ương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xét, tặng giải thưởng về khoa học và công nghệ cho tập thể, cá nhân có công trình nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ xuất sắc trong phạm vi quản lý của bộ, ngành, địa phương.
3. Tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài được đặt và tặng giải thưởng khoa học và công nghệ nhằm khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.
4. Chính phủ quy định cụ thể Điều này.
Điều 78. Nhận danh hiệu, giải thưởng về khoa học và công nghệ của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế
Tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ được nhận danh hiệu, giải thưởng về khoa học và công nghệ do tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế phong, tặng phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều 79. Xử lý vi phạm
1. Cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Tổ chức vi phạm pháp luật về khoa học và công nghệ thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 80. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.
Luật khoa học và công nghệ số 21/2000/QH10 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.
Điều 81. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Chính phủ và cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2013.
Luật Việt Nam |
17191 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%20m%E1%BB%99t%20s%E1%BB%91%20%C4%91i%E1%BB%81u%20c%E1%BB%A7a%20Lu%E1%BA%ADt%20C%C6%B0%20tr%C3%BA%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202013 | Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 | Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú số 81/2006/QH11.Điều 1
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cư trú:
1. Sửa đổi, bổ sung khoản 8 Điều 8 và bổ sung khoản 10 và khoản 11 vào Điều 8 như sau:
“8. Thuê, cho thuê, làm giả, sửa chữa, làm sai lệch nội dung sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác có liên quan đến cư trú; sử dụng giấy tờ giả về cư trú; cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về cư trú; giả mạo điều kiện để được đăng ký thường trú.”
“10. Giải quyết cho đăng ký cư trú khi biết rõ người được cấp đăng ký cư trú không sinh sống tại chỗ ở đó.
11. Đồng ý cho người khác đăng ký cư trú vào chỗ ở của mình để vụ lợi hoặc trong thực tế người đăng ký cư trú không sinh sống tại chỗ ở đó.”
2. Điều 20 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 20. Điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương
Công dân thuộc một trong những trường hợp sau đây thì được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương:
1. Có chỗ ở hợp pháp, trường hợp đăng ký thường trú vào huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ một năm trở lên, trường hợp đăng ký thường trú vào quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ hai năm trở lên;
2. Được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; con về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con;
b) Người hết tuổi lao động, nghỉ hưu, nghỉ mất sức, nghỉ thôi việc về ở với anh, chị, em ruột;
c) Người khuyết tật, mất khả năng lao động, người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi về ở với anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, người giám hộ;
d) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có khả năng nuôi dưỡng về ở với ông, bà nội, ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, người giám hộ;
đ) Người thành niên độc thân về ở với ông, bà nội, ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột;
e) Ông bà nội, ngoại về ở với cháu ruột;
3. Được điều động, tuyển dụng đến làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn và có chỗ ở hợp pháp;
4. Trước đây đã đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương, nay trở về thành phố đó sinh sống tại chỗ ở hợp pháp của mình;
5. Trường hợp quy định tại các khoản 1, 3 và 4 Điều này đăng ký thường trú vào chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân, tổ chức thì phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Bảo đảm điều kiện về diện tích bình quân theo quy định của Hội đồng nhân dân thành phố;
b) Có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn về điều kiện diện tích bình quân;
c) Được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản;
6. Việc đăng ký thường trú vào nội thành thành phố Hà Nội thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 19 của Luật Thủ đô.”
3. Khoản 1 Điều 23 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Người đã đăng ký thường trú mà thay đổi chỗ ở hợp pháp, khi chuyển đến chỗ ở hợp pháp mới nếu có đủ điều kiện đăng ký thường trú thì trong thời hạn mười hai tháng có trách nhiệm làm thủ tục thay đổi nơi đăng ký thường trú.”
4. Khoản 4 Điều 30 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“4. Trưởng Công an xã, phường, thị trấn trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này phải cấp sổ tạm trú theo mẫu quy định của Bộ Công an.
Sổ tạm trú được cấp cho hộ gia đình hoặc cá nhân đã đăng ký tạm trú, có giá trị xác định nơi tạm trú của công dân và có thời hạn tối đa là hai mươi bốn tháng. Trong thời hạn ba mươi ngày trước ngày hết thời hạn tạm trú, công dân đến cơ quan Công an nơi cấp sổ tạm trú để làm thủ tục gia hạn.
Việc điều chỉnh thay đổi về sổ tạm trú được thực hiện theo quy định tại Điều 29 của Luật này. Sổ tạm trú bị hư hỏng thì được đổi, bị mất thì được cấp lại. Trường hợp đến tạm trú tại xã, phường, thị trấn khác thì phải đăng ký lại.”
5. Khoản 2 Điều 31 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Đại diện gia đình, nhà ở tập thể, cơ sở chữa bệnh, khách sạn, nhà nghỉ, cơ sở khác khi có người đến lưu trú có trách nhiệm thông báo việc lưu trú với Công an xã, phường, thị trấn; trường hợp người đến lưu trú tại nhà ở của gia đình, nhà ở tập thể mà chủ gia đình, nhà ở tập thể đó không đăng ký thường trú tại địa bàn xã, phường, thị trấn đó thì người đến lưu trú có trách nhiệm thông báo việc lưu trú với Công an xã, phường, thị trấn. Việc thông báo lưu trú được thực hiện trực tiếp hoặc bằng điện thoại hoặc qua mạng Internet, mạng máy tính. Công an xã, phường, thị trấn có trách nhiệm thông báo địa điểm, địa chỉ mạng Internet, địa chỉ mạng máy tính, số điện thoại nơi tiếp nhận thông báo lưu trú cho nhân dân biết.”
Điều 2
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013.''
Luật sửa đổi, bổ sung |
17192 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%20%C4%90i%E1%BB%81u%20170%20c%E1%BB%A7a%20Lu%E1%BA%ADt%20Doanh%20nghi%E1%BB%87p%202013 | Luật sửa đổi, bổ sung Điều 170 của Luật Doanh nghiệp 2013 | Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Điều 170 của Luật doanh nghiệp số 60/2005/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung theo Điều 3 của Luật số 38/2009/QH12.Điều 1
Khoản 2 Điều 170 của Luật doanh nghiệp được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước ngày 01 tháng 7 năm 2006, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, có quyền thực hiện theo một trong hai cách sau đây:
a) Đăng ký lại để tổ chức quản lý, hoạt động theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước ngày 01 tháng 7 năm 2006, đã hết thời hạn hoạt động theo quy định tại Giấy phép đầu tư sau ngày 01 tháng 7 năm 2006, chưa thực hiện thủ tục giải thể doanh nghiệp và có đề nghị được tiếp tục hoạt động phải đăng ký lại trước ngày 01 tháng 02 năm 2014 theo các điều kiện do Chính phủ quy định. Trong trường hợp này, việc đăng ký lại có hiệu lực kể từ ngày hết hạn hoạt động ghi trên Giấy phép đầu tư;
b) Không đăng ký lại; trong trường hợp này, doanh nghiệp tổ chức quản lý, hoạt động theo Giấy phép đầu tư, Điều lệ doanh nghiệp. Đối với những nội dung không quy định tại Giấy phép đầu tư, Điều lệ doanh nghiệp, doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.
Doanh nghiệp được điều chỉnh, bổ sung ngành, nghề trong trường hợp không thay đổi thời hạn hoạt động ghi trong Giấy phép đầu tư; việc điều chỉnh, bổ sung ngành, nghề được thực hiện theo quy định của pháp luật tại thời điểm điều chỉnh, bổ sung.
Trường hợp thay đổi thời hạn hoạt động hoặc việc điều chỉnh, bổ sung ngành, nghề làm thay đổi thời hạn hoạt động ghi trong Giấy phép đầu tư thì doanh nghiệp phải đăng ký lại theo quy định tại điểm a khoản này.
Chính phủ quy định chi tiết khoản này.”
Điều 2
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 8 năm 2013.Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2013.''
Luật sửa đổi, bổ sung |
17308 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20C%C3%A1n%20b%E1%BB%99%20ki%E1%BB%83m%20s%C3%A1t%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20Trung%20Hoa%201995 | Luật Cán bộ kiểm sát nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 1995 |
CHƯƠNG 1. NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1. Căn cứ theo Hiến pháp, nay chế định Luật này nhằm bảo đảm cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc giám sát pháp luật, thi hành quyền kiểm sát độc lập theo luật pháp, bảo đảm cho cán bộ kiểm sát thực hiện chức trách, nâng cao tố chất của cán bộ kiểm sát, thực hiện việc quản lí khoa học đối với cán bộ kiểm sát.
Điều 2. Cán bộ kiểm sát là nhân viên kiểm sát thực thi quyền kiểm sát Nhà nước theo pháp luật, bao gồm Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát, kiểm sát viên và trợ lí kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương, Viện kiểm sát nhân dân chuyên ngành như Viện kiểm sát quân sự, . . .
Điều 3. Cán bộ kiểm sát phải chấp hành trung thực Hiến pháp và pháp luật, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân.
Điều 4. Cán bộ kiểm sát thực hiện chức trách theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
Điều 5. Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo công tác của Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương, Viện kiểm sát nhân dân chuyên ngành. Viện kiểm sát nhân dân cấp trên lãnh đạo công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới.
CHƯƠNG II. CHỨC TRÁCH
Điều 6. Chức trách của cán bộ kiểm sát:
(1) Tiến hành công tác giám sát pháp luật theo pháp luật;
(2) Thay mặt Nhà nước tiến hành công tố;
(3) Tiến hành điều tra các tội phạm do Viện kiểm sát nhân dân trực tiếp thụ lí theo quy định của pháp luật;
(4) Các chức trách khác theo quy định của pháp luật.
Điều 7. Ngoài việc thực hiện chức trách kiểm sát ra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát còn phải thực hiện các chức trách khác tương ứng với chức vụ của mình.
CHƯƠNG III. NGHĨA VỤ VÀ QUYỀN LỢI
Điều 8. Cán bộ kiểm sát phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
(1) Tuân thủ nghiêm túc Hiến pháp và pháp luật;
(2) Khi thực hiện chức trách phải lấy sự thật làm căn cứ, lấy pháp luật làm chuẩn mực, chấp hành pháp luật vì quyền lợi chung, không được lợi dụng pháp luật vì việc riêng;
(3) Bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân và các tổ chức khác;
(4) Trong sạch, liêm chính, trung thành với chức trách và tuân thủ kỉ luật;
(5) Bảo vệ bí mật quốc gia và bí mật của công tác kiểm sát;
(6) Chịu sự giám sát của pháp luật và của quần chúng nhân dân.
Điều 9. Cán bộ kiểm sát được hưởng các quyền lợi như sau:
(1) Các quyền hạn và điều kiện làm việc cần phải có để cán bộ kiểm sát thực hiện chức trách;
(2) Thực hiện chức trách kiểm sát theo đúng pháp luật mà không chịu sự can thiệp của cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội và cá nhân;
(3) Nếu không vì lí do pháp luật quy định, chưa qua trình tự quy định của pháp luật, thì không bị miễn chức, giáng chức, cho thôi việc hoặc bị xử lí;
(4) Được hưởng thù lao lao động, được hưởng bảo hiểm và đãi ngộ phúc lợi;
(5) Được pháp luật bảo vệ an toàn về thân thể, tài sản và nơi ở;
(6) Được tham gia đào tạo, bồi dưỡng;
(7) Được khiếu nại hoặc tố cáo;
(8) Được từ chức.
CHƯƠNG IV. ĐIỀU KIỆN ĐỐI VỚI CÁN BỘ KIỂM SÁT
Điều 10. Muốn đảm nhiệm chức trách, cán bộ kiểm sát phải có đủ các điều kiện dưới đây:
(1) Có quốc tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa;
(2) Tròn 23 tuổi;
(3) Tán thành Hiến pháp nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa;
(4) Có tố chất chính trị, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức tốt đẹp;
(5) Khoẻ mạnh;
(6) Tốt nghiệp ngành luật của trường đại học hoặc tốt nghiệp trường đại học không thuộc ngành luật nhưng có kiến thức chuyên ngành luật và đã công tác tròn 2 năm; hoặc đã có bằng đại học Luật và công tác được tròn 1 năm; Người có bằng Thạc sĩ, Tiến sĩ Luật thì có thể không bị hạn chế bởi thời gian công tác nói trên;
Nhân viên kiểm sát trước khi thi hành Luật này, nếu không đủ điều kiện quy định tại mục thứ (6) của Điều 9 thì phải được đào tạo, bồi dưỡng và phải có đủ điều kiện do Luật này quy định. Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết thi hành Luật này.
Điều 11. Những nhân viên dưới đây không được làm cán bộ kiểm sát:
(1) Từng phạm tội và bị xử phạt hình sự;
(2) Từng bị khai trừ khỏi chức vụ;
CHƯƠNG V. BỔ NHIỆM VÀ BÃI MIỄN
Điều 12. Việc bổ nhiệm, bãi miễn chức vụ của cán bộ kiểm sát được thực hiện theo trình tự và quyền hạn bổ nhiệm, bãi miễn do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bầu và bãi miễn. Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát và kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc bổ nhiệm và bãi miễn. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương do Đại hội đại biểu nhân dân các cấp ở địa phương bầu và bãi miễn. Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát và Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân đề nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp bổ nhiệm và bãi miễn.
Việc bổ nhiệm, bãi miễn Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp ở địa phương phải báo cáo với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp để đề nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân cấp đó phê chuẩn (cấp trên - ND).
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát và Kiểm sát viên của Phân viện Viện kiểm sát nhân dân được thành lập theo khu vực trong tỉnh, khu tự trị và thành lập ở thành phố trực thuộc trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp bổ nhiệm và bãi miễn.
Trợ lí Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân bổ nhiệm, bãi miễn.
Cách thức bổ nhiệm, bãi miễn Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát và Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân chuyên ngành như Viện kiểm sát quân sự,... do Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc quy định riêng.
Điều 13. Đối với cán bộ kiểm sát, trợ lí Kiểm sát viên mới vào ngành, sẽ áp dụng biện pháp thi tuyển công khai và kiểm tra sát hạch chặt chẽ, đồng thời dựa vào tiêu chuẩn có đủ đức và tài để lựa chọn những người xuất sắc trong số nhân viên có đủ điều kiện cụ thể của cán bộ kiểm sát.
Người đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát, phải được lựa chọn trong số cán bộ xuất sắc có kinh nghiệm công tác thực tế.
Điều 14. Theo qui định của pháp luật, Cán bộ kiểm sát bị bãi nhiệm khi có một trong những trường hợp sau đây :
(1) Mất quốc tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa;
(2) Bị điều ra khỏi Viện kiểm sát;
(3) Do thay đổi chức vụ không cần phải bảo lưu chức vụ vốn có;
(4) Qua kiểm tra, sát hạch thấy không xứng đáng với chức vụ;
(5) Vì lí do sức khoẻ không thể thực hiện chức vụ lâu dài;
(6) Nghỉ hưu;
(7) Từ chức, thôi việc;
(8) Do phạm tội, vi phạm kỉ luật, vi phạm pháp luật không thể tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ;
(9) Vì các lí do khác mà phải miễn nhiệm.
Điều 15. Đối với những trường hợp không đủ điều kiện theo quy định của Luật này hoặc việc chọn cử làm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân vi phạm trình tự do pháp luật quy định, thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp không phê chuẩn.
Điều 16. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, khu tự trị và thành phố trực thuộc trung ương có thể kiến nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp huỷ bỏ, thay thế Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới.
Điều 17. Cán bộ kiểm sát không được kiêm nhiệm chức vụ Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân, không được kiêm nhiệm chức vụ trong cơ quan hành chính, cơ quan xét xử các doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp, không được kiêm nhiệm chức trách của luật sư.
CHƯƠNG VI. TRÁNH ĐẢM NHẬN CHỨC VỤ
Điều 18. Giữa các cán bộ kiểm sát, nếu có quan hệ vợ chồng, quan hệ huyết thống trực hệ, quan hệ huyết thống bàng hệ trong phạm vi 3 đời và quan hệ cận hôn nhân, thì không thể cùng đảm nhiệm các chức vụ dưới đây:
(1) Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát của cùng một Viện kiểm sát nhân dân;
(2) Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, trợ lí Kiểm sát viên của cùng một Viện kiểm sát nhân dân;
(3) Kiểm sát viên, trợ lí Kiểm sát viên của cùng một Vụ nghiệp vụ;
(4) Viện trưởng, Phó Viện trưởng của Viện kiểm sát nhân dân ở hai cấp có quan hệ cấp trên, cấp dưới.
CHƯƠNG VII. CẤP BẬC CỦA CÁN BỘ KIỂM SÁT
Điều 19. Cấp bậc của cán bộ kiểm sát được chia thành 12 bậc:
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cán bộ kiểm sát ở cấp bậc cao nhất. Từ cấp bậc thứ 2 đến cấp bậc thứ 12 được chia thành: cán bộ kiểm sát cao cấp, cán bộ kiểm sát trung cấp và cán bộ kiểm sát.
Điều 20. Việc xác định cấp bậc của cán bộ kiểm sát được căn cứ vào chức trách đang đảm nhiệm, tài năng, đạo đức, trình độ nghiệp vụ, thành tích về công tác kiểm sát và niên hạn công tác.
Điều 21. Nhà nước ban hành quy định riêng về biện pháp sắp xếp bình xét và phong cấp đối với cấp bậc của cán bộ kiểm sát.
CHƯƠNG VIII. KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ
Điều 22. Việc kiểm tra sát hạch cán bộ kiểm sát do Viện kiểm sát nhân dân sở tại tổ chức thực hiện.
Điều 23. Việc kiểm tra sát hạch cán bộ kiểm sát phải khách quan, công bằng, kết hợp giữa lãnh đạo và quần chúng, giữa kiểm tra sát hạch thường xuyên và kiểm tra sát hạch theo từng năm.
Điều 24. Nội dung kiểm tra sát hạch cán bộ kiểm sát bao gồm: Thành tích thực tế trong công tác kiểm sát, tư tưởng, đạo đức phẩm chất, trình độ nghiệp vụ kiểm sát và trình độ Luật học, thái độ tác phong công tác, thành tích thực tế qua kiểm tra sát hạch công tác kiểm sát có trọng điểm.
Điều 25. Kết quả kiểm tra sát hạch hàng năm được chia thành 3 mức: xuất sắc, đạt yêu cầu và không đạt yêu cầu. Kết quả kiểm tra sát hạch là căn cứ để khen thưởng, xử phạt, đào tạo bồi dưỡng, cho thôi việc, điều chỉnh cấp bậc và lương đối với cán bộ kiểm sát.
Điều 26. Kết quả kiểm tra sát hạch được thông báo cho người được kiểm tra bằng văn bản. Nếu người được kiểm tra có ý kiến khác về kết quả kiểm tra sát hạch, có thể đề nghị xem xét lại.
CHƯƠNG IX. ĐÀO TẠO - BỒI DƯỠNG
Điều 27. Cần có kế hoạch bồi dưỡng lí luận và nghiệp vụ cho cán bộ kiểm sát. Việc bồi dưỡng cán bộ kiểm sát phải quán triệt nguyên tắc lí luận liên hệ với thực tế, bồi dưỡng theo nhu cầu và chú trọng hiệu quả thực tiễn.
Điều 28. Trường cán bộ kiểm sát quốc gia và các cơ quan bồi dưỡng cán bộ kiểm sát khác đảm nhiệm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát theo các quy định của pháp luật.
Điều 29. Thành tích và giấy chứng nhận kết quả học tập trong thời gian đào tạo, bồi dưỡng của cán bộ kiểm sát là một trong những căn cứ để bổ nhiệm và đề bạt.
CHƯƠNG X. KHEN THƯỞNG
Điều 30. Cán bộ kiểm sát có thành tích và cống hiến nổi bật trong công tác kiểm sát hoặc có đóng góp nổi bật khác, sẽ được khen thưởng.
Việc khen thưởng cán bộ kiểm sát được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp khuyến khích về tinh thần và vật chất.
Điều 31. Cán bộ kiểm sát có một trong những thành tích dưới đây sẽ được khen thưởng:
(1) Chấp hành nghiêm minh, công bằng, có thành tích nổi bật trong công tác kiểm sát;
(2) Kiến nghị nghiệp vụ hoặc kiến nghị cải cách công tác kiểm sát được chấp nhận và có hiệu quả rõ rệt;
(3) Đạt thành tích nổi bật trong việc bảo vệ lợi ích của quốc gia, của tập thể và của nhân dân, không để xảy ra tổn thất nghiêm trọng;
(4) Có thành tích dũng cảm đấu tranh với tội phạm;
(5) Có thành tích nổi bật trong việc bảo vệ bí mật quốc gia và bí mật công tác kiểm sát, có các công lao, thành tích khác.
Điều 32. Việc khen thưởng chia thành các mức sau: Tặng thưởng, ghi công, hạng Ba, hạng Nhì, hạng Nhất, tặng danh hiệu vẻ vang.
Quyền hạn và trình tự khen thưởng được thực hiện theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG XI. TRỪNG PHẠT
Điều 33. Cán bộ kiểm sát không được có những hành vi dưới đây:
(1) Phát ngôn bừa bãi, làm hại đến danh dự quốc gia, tham gia các tổ chức phi pháp, tham gia hội họp, diễu hành, thị uy chống lại Nhà nước, tham gia bãi công;
(2) Tham ô, nhận hối lộ;
(3) Làm sai pháp luật vì lợi ích riêng;
(4) Ép cung, bức cung;
(5) Che dấu chứng cứ hoặc làm giả chứng cứ;
(6) Tiết lộ bí mật quốc gia hoặc bí mật của công tác kiểm sát;
(7) Lạm dụng chức quyền, xâm phạm lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân hoặc của tổ chức khác;
(8) Lơ là, không làm tròn chức trách, lập án sai hoặc gây tổn thất nghiêm trọng cho đương sự;
(9) Cố ý kéo dài thời gian giải quyết vụ án, làm lỡ công tác;
(10) Lợi dụng chức quyền để mưu lợi riêng cho mình hoặc cho người khác;
(11) Tiến hành các hoạt động kinh doanh kiếm lời;
(12) Tự ý gặp gỡ đương sự và người đại diện cho đương sự, nhận lời mời, quà biếu của đương sự và người đại diện cho đương sự;
(13) Các hành vi vi phạm pháp luật, kỉ cương khác.
Điều 34. Cán bộ kiểm sát có một trong 13 hành vi nêu ở Điều 33 của Luật này sẽ bị xử lí kỷ luật; nếu cấu thành tội phạm, sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo pháp luật.
Điều 35. Việc xử lí kỷ luật chia thành các mức sau: cảnh cáo, ghi lỗi, ghi lỗi nặng, hạ cấp bậc, tước bỏ chức vụ, khai trừ. Người bị xử lí kỷ luật bị tước bỏ chức vụ cũng đồng thời bị hạ lương và cấp bậc.
Điều 36. Quyền hạn và trình tự xử phạt được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
CHƯƠNG XII. TIỀN LƯƠNG, BẢO HIỂM, PHÚC LỢI
Điều 37. Chế độ lương, mức lương của cán bộ kiểm sát do Nhà nước qui định căn cứ vào đặc điểm của công tác kiểm sát.
Điều 38. Thực hiện chế độ tăng lương định kì cho cán bộ kiểm sát. Sau khi kiểm tra sát hạch nếu xác định là xuất sắc hoặc đạt yêu cầu, thì có thể tăng lương theo quy định; người có cống hiến đặc biệt, có thể được tăng lương trước kì hạn theo quy định.
Điều 39. Cán bộ kiểm sát được hưởng phụ cấp kiểm sát, phụ cấp khu vực, phụ cấp khác và bảo hiểm, đãi ngộ phúc lợi theo quy định của Nhà nước.
CHƯƠNG XIII. TỪ CHỨC, CHO THÔI VIỆC
Điều 40. Cán bộ kiểm sát muốn từ chức thì phải có đơn đề nghị, cơ quan kiểm sát sẽ bãi nhiệm chức vụ của cán bộ đó theo trình tự pháp luật quy định.
Điều 41. Có thể cho cán bộ kiểm sát thôi việc khi có một trong những lí do sau đây:
(1) Qua kiểm tra sát hạch hàng năm, liên tục 2 năm đều được xác định là không đạt yêu cầu;
(2) Không làm tròn công tác hiện tại, nhưng lại không chấp nhận việc bố trí công tác khác;
(3) Do điều chỉnh cơ quan kiểm sát hoặc do giảm biên chế nên phải điều chỉnh công tác, nhưng cán bộ đó không chấp nhận việc sắp xếp hợp lí của cơ quan;
(4) Bỏ việc hoặc quá hạn nghỉ phép từ quá 15 ngày liên tiếp, hoặc quá 30 ngày trong một năm (nếu tính tổng cộng) mà không có lý do chính đáng;
(5) Không thực hiện nghĩa vụ của cán bộ kiểm sát, đã giáo dục mà vẫn không sửa chữa.
Điều 42. Khi cho cán bộ kiểm sát thôi việc thì cũng phải bãi miễn chức vụ của cán bộ đó theo trình tự pháp luật quy định.
CHƯƠNG XIV. NGHỈ HƯU
Điều 43. Chế độ nghỉ hưu của cán bộ kiểm sát do Nhà nước căn cứ vào đặc điểm của công tác kiểm sát để đề ra quy định riêng.
Điều 44. Cán bộ kiểm sát sau khi nghỉ hưu, được hưởng tiền bảo hiểm dưỡng lão và các đãi ngộ khác theo quy định của Nhà nước.
CHƯƠNG XV. KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
Điều 45. Cán bộ kiểm sát nếu không tán thành việc xử lí của Viện kiểm sát nhân dân đối với bản thân mình, thì trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được quyết định xử lí, có thể đề nghị cơ quan xử lí đó xem xét lại, đồng thời có quyền khiếu nại lên cơ quan cấp trên của cơ quan xử lí đó.
Cơ quan thụ lí khiếu nại phải giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.
Trong thời gian khiếu nại và giải quyết khiếu nại không định chỉ việc thi hành các quyết định xử lí đối với cán bộ kiểm sát đó.
Điều 46. Cán bộ kiểm sát có quyền tố cáo hành vi của cơ quan nhà nước, của nhân viên nhà nước xâm phạm quyền lợi của mình theo quy định tại Điều 9 Luật này. Nếu cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội hoặc cá nhân can thiệp vào việc cán bộ kiểm sát thực hiện chức trách kiểm sát theo đúng pháp luật, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Điều 47. Cán bộ kiểm sát khi đưa ra khiếu nại và tố cáo phải thực sự cầu thị; người làm sai sự thật, vu cáo hãm hại người khác, phải bị truy cứu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Điều 48. Đối với cán bộ kiểm sát bị xử lí sai, cần phải kịp thời sửa lại cho đúng; nếu gây tổn thất về danh dự, thì phải khôi phục danh dự, xoá bỏ mọi ảnh hưởng xấu, phải xin lỗi và bồi thường; nếu gây tổn thất về kinh tế, thì phải bồi thường. Nhân viên nào chịu trách nhiệm trực tiếp về việc đả kích, báo thù thì bị truy cứu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG XVI. UỶ BAN KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ KIỂM SÁT
Điều 49. Viện kiểm sát nhân dân thành lập Uỷ ban kiểm tra đánh giá cán bộ kiểm sát.
Chức trách của Uỷ ban kiểm tra đánh giá cán bộ kiểm sát là chỉ đạo công tác bồi dưỡng, kiểm tra sát hạch, đánh giá nhận xét cán bộ kiểm sát. Biện pháp cụ thể sẽ có quy định riêng.
Uỷ ban kiểm tra đánh giá cán bộ kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, căn cứ vào quy định tại Điều 13 của Luật này, tổ chức thi hành thống nhất trong cả nước để bổ nhiệm Kiểm sát viên và trợ lí Kiểm sát viên mới.
Điều 50. Thành viên của Uỷ ban kiểm tra đánh giá cán bộ kiểm sát có từ 5 đến 9 người. Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra đánh giá cán bộ kiểm sát do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân đảm nhiệm.
CHƯƠNG XVII. ĐIỀU KHOẢN KÈM THEO
Điều 51. Biện pháp quản lí Uỷ viên thư kí của Viện kiểm sát nhân dân do Viện kiểm sát nhân dân tối cao xác định. Đối với nhân viên hành chính tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân, thì quản lí theo các quy định có liên quan của Nhà nước.
Điều 52. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 1995.
Luật Trung Quốc |
17312 | https://vi.wikisource.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20T%E1%BB%AB%20H%C3%A0%20M%E1%BA%ADu%20%28d%E1%BB%8B%20b%E1%BA%A3n%20m%E1%BB%9Bi%29 | Dương Từ Hà Mậu (dị bản mới) |
DƯƠNG TỪ HÀ MẬU CỔ THƯ 楊徐荷茂古書
I. Phần đầu:
- Tác phẩm được mở đầu bằng hai câu thơ:
双生楊珍楊寶 Song sinh Dương Trân, Dương Bảo;
双胎春雪秋冰 Song thai Xuân Tuyết, Thu Băng.
- Tiếp theo là tựa đề: 集傳國語楊徐荷茂原本 Tập truyện quốc ngữ Dương Từ Hà Mậu nguyên bản.
- Cùng lời giới thiệu: 衛道諸家集傳演說國音韻辭 傳序 Vệ đạo chư gia tập truyện diễn thuyết quốc âm vận từ. Truyện tự:
(Phần chữ Hán tôi còn đang phiên âm):
吾聞道之大原出於天,而具於天,若使人而非人道... 明承道統(流)傳賢群書章句分明語言照...
是為序:
II. Phần chính:
𡎝 南 𣈙 㐌 昇 平
Cõi Nam rày đã thăng bình,
常 䀡 各 册 家 庭 劄 𠚢
Thường xem các sách gia đình chép ra.
𩲡 耒 傳 屡 諸 家
Coi rồi chuyện cũ chư gia,
𢚸 爲 道 學 劄 𠚢 底 𠁀
Lòng vì đạo học chép ra để đời.
異端𠸗唉排排
Dị đoan xưa hãy bời bời,
吏添道佛道𡗶冰冫春?
Lại thêm đạo Phật, đạo Trời băng xăng.
退𠁀𡗊役凌冫顔?
Thói đời nhiều việc lăng nhăng,
氽埃別鄧道恒𠊚些
Mấy ai biết đặng đạo hằng người ta?
都饒敬𡮶道邪
Đua nhau kính (kỉnh) chuộng đạo tà,
𠬠句果報閍茹調信?
Một câu "quả báo", muôn nhà đều tin.
呐浪𡗶佛册印
Nói rằng: Trời, Phật, sách in,
罪衛地獄福蓮?天唐
Tội về địa ngục, phước lên thiên đàng.
Có người về đạo Hoa-lang,
Năm đời giữ thói khoe khoang cầu hồn.
Họ Hà, tên Mậu, người khôn,
Ở đời Hậu Tấn, Long Môn quê nhà.
Sáu mươi tuổi tác hầu già,
Tuy rằng giào (giàu) có, trong nhà không con.
Rạng dồi một tấm lòng son,
Của ra bố thí, nào còn so đo.
Vợ chồng giữ đạo bo bo,
Ơn trời ngỏ đặng (được) chút cho phước lành.
Hôm mai luống những đọc kinh,
A-men! Đức Chúa có linh chăng là.
Liễu Thơ (Thư) là vợ họ Hà,
Chiêm bao nằm thấy nguyệt sa trên mình.
Phút đâu có nghén thình lình,
Khiến ngươi Hà Mậu thấy tình sanh nghi.
Nói rằng: Khí huyết già suy,
Có đâu chửa nghén, e khi bịnh (bệnh) gì?
Sai người rước bạn danh y,
Anh em đồng đạo, tên Kỳ họ Châu.
Châu Kỳ coi mạch hồi lâu,
Nói rằng: Chị mắc quỷ đầu thai đây.
Mậu rằng: Nhờ lượng đức thầy,
Mạch kia đã hẳn, thuốc nầy ắt hay.
Kỳ rằng: trảm quỷ đan này, (có lẽ hiểu là: giết quỷ đầu thai bằng đơn thuốc này)
Quỷ thai bịnh ấy từ đây trừ rồi.
Thuốc thang mấy tháng uống bồi,
Càng thêm lớn bụng, gần hồi sanh thai.
Họ Hà thấy vậy than dài:
Tuổi già còn hãy mang tai thế nầy (này)?
Kỳ rằng: Há chẳng biết đây,
Trải ba đời cũng làm thầy vừa ba.
Châu Phan xưa thật chú ta,
Trị thai có phép truyền gia rất mầu.
Liễu Thơ (Thư) bịnh quỷ đã lâu,
Xin (thà) dùng thuốc ngoại, ngõ (ngỏ) hầu thay tay.
Ta nghe đồn phía (phái)Sơn Tây,
Trong non tùng í (ý, ấy) có thầy địa tiên.
Tên người là Lý Tri Niên,
Thường ngày luyện tập thuốc tiên đan kỳ.
Ta xin (thà) ra sức đem đi,
Tới (đến) nơi cầu phép một khi cho tường.
Mậu rằng: Ta đạo Hoa-lang,
Tiên là đạo khác, có màng chi nhau.
Kỳ rằng: Xưa sách có câu:
"Tế sanh(sinh) hoạt mạng" sách đầu sách y.
Làm thầy đâu có hẹp suy,
Đau bịnh thì (thời) cứu, đạo gì mà sao?
Ai ai cũng chữ ngô bào,
Sanh trong trời đất lẽ (lí) nào ghét nhau?
Họ Hà thấy vậy thêm sầu,
Gượng đi cùng bạn, lên cầu thuốc tiên.
Trải qua vài dặm sơn xuyên,
Phút đâu lộ thấy gần miền Tùng san.
Đường đi đá mọc (mộc) nghinh (nghênh) ngang,
Cây ... ... ... ..., thạch bàn nhiều nơi.
Hai người dừng bước xem chơi,
Mặt nhìn cảnh vật khác nơi phong trần.
Hoa bay, nước chảy, mấy từng (chừng),
Bóng tùng che núi, như vừng lọng xây.
Chim kêu, vượn hú, vang dầy,
Hiu hiu gió thổi, lá cây reo mừng.
Hai người còn đứng trông từng (chừng),
Thấy ngươi đồng tử trong trăng (lầu) bước ra.
Chào rằng: Hai khách đường xa,
Nào ai tên Mậu, họ Hà, nói minh?
Họ Hà nghe nói thất kinh,
Sao rằng sớm biết tánh danh ta rày?
Đồng rằng: Thầy mỗ đánh tay,
Dạy rằng có khách ngày nay đến (tới) nhà.
Để lời dạy bảo cùng ta,
Ra đường đón rước, đem qua Thạch bàn.
Hôm mai là bữa thanh nhàn,
Thầy ta lên chốn Thạch bàn chầu tiên.
Hai người nghe nói đi liền,
Theo thằng đồng tử vào miền thâm san.
Ngó lên trên đỉnh Thạch bàn,
Thấy hai ông lão dựa ngang đánh cờ.
Tóc râu đều bạc phơ phơ,
Mười phần cốt cách chẳng nhờ bạn di?.
Có hai quyển sổ chi chi,
Cùng hai chim hạc tương tùy một bên.
Tri Niên hầu đứng một bên,
Thấy hai người khách leo lên Ngọc hồ.
Chào rằng hai gã Gia Tô,
Đến đây lòng muốn hỏi, phô, việc gì?
Họ Hà vội vã liền quỳ,
Thơ(thưa) rằng: Cầu thuốc cứu nguy người nhà.
Tri Niên chửa kịp nói ra,
Hai ông trên đá liền toan (xoa) cuộc cờ.
Cười rằng: Hà Mậu rất khờ.
Khéo nghe thầy tục tầm phơ nói quàng!
Liễu Thơ (Thư) nghén đủ mười trăng,
Song sanh hai gái, Tuyết, Băng, trên đời.
Vinh hoa có số ở trời,
Thói ngươi sau phải đổi dời (dầy) mới nên.
Mấy lời ta nói chớ quên,
Đừng mong sau thác được (đặng) lên Thiên đàng.
Ông cha trước đã lầm đàng,
Đến sau con cháu phải toan lẽ (lí) gì?
Nói rồi cỡi hạc bay đi,
Họ Hà chưa (chửa) hỏi việc chi đành rành (lành).
Hai người là khách hữu tình,
Tri Niên mời lại gia đình cùng nhau.
Mậu rằng: Cầu thuốc vợ đau,
Ông tiên lại nói việc sao cũng kỳ!
Chẳng hay người học sách chi,
Mà sao biết trước thạnh (thịnh) suy việc người?
Niên rằng ta chẳng dấu ngươi,
Hai ông già í (ý,ấy) là người thiên công.
Phép hay biến hóa, thần thông,
Một ông Bắc Đẩu, một ông Nam Tào.
Hai ông vốn thực Thiên Tào,
Mạng dân sanh tử đều vào trong tay.
Hai người may gặp (kịp,kíp) ngày nay,
Đến sau mới biết lời hay tiên truyền.
Họ Hà khi í(ý,ấy) về liền,
Vào nhà thấy vợ đến chừng (miền) khai hoa,
Nở(đẻ) hai con gái như hoa,
Mùi hương thơm ngát, trong nhà đều kinh.
Mậu rằng: Tiên đạo rất linh,
Thinh không mà biết sự tình khắp nơi.
Kỳ rằng: Ta học đạo Trời,
Xưa nay linh nghiệm có lời chi nao (nào)?
Muốn cho tỏ (rõ) đặng (được) âm hao,
Ngày sau ta phải trở vào Tùng san.
Thứ nầy (này) đến thứ họ Dương,
Làm người chút biết văn chương gọi là.
Nam Khang vốn thật (thực) quê nhà,
Sánh cùng họ Đỗ, ở Trà Thạch Khê.
Nương (noi, nổi) theo dân dã thú quê,
Lập vườn, cày ruộng, chuyên nghề làm ăn.
Dương Từ cùng vợ thề rằng:
Trăm năm giữ trọn đạo hằng cùng nhau.
Đã năm mươi mấy tuổi đầu,
Không con nối mộng (nghiệp), luống? cầu thon von.
Bao nhiêu chùa miếu cũng lon (lòn, son),
Ngõ (ngỏ) nguyền cầu đặng chút con nối đời,
Liền ngày khấn Phật, cầu Trời,
Tấm lòng tin (tín), cúng khắp nơi miếu chùa.
Của nhà có việc bán mua,
Ra ơn làm phước, hơn thua chẳng nài.
Phút đâu họ Đỗ song thai,
Đến kỳ sanh đặng (được) hai trai một lần.
Nay đà đặng (được) nối gót lân,
Phận mình: dù (dầu) có thanh bần, cũng ưng.
Người trong làng xóm đều mừng,
Ai hay lão bạng, có chừng sanh châu.
Nhớ câu "thiện ác đáo đầu",
Làm lành gặp phước (phúc), sách đâu có lầm.
Dương Từ lòng cũng mừng thầm,
Hai trai tướng mạo khác tầm thường nhân.
Vẻ vang cốt cách tinh thần,
So trong lũ (trẻ) nhỏ phàm dân ít bằng,
Họ Dương mới đặt tên rằng:
Dương Trân, Dương Bửu (Bảo), hai thằng anh em.
Dương Từ khi í (ý,ấy) liệu toan,
Xuất gia đầu Phật, cho an phận mình.
Nói rằng: Một tấm lòng thành,
Cầu con nối nghiệp, mới đành quy y.
Ta đà sinh đặng hài nhi,
Nam vô hai chữ "từ bi" thân già.
Bao nhiêu thế tục gần xa,
Nhân tình ấm lạnh, trải qua cũng rồi.
Trong vòng danh lợi thôi thôi!
Hoàng lương nửa gối, mấy hồi chiêm bao.
Sang giào (giàu) lòng chẳng ước ao,
Hoa tàn, mây nổi, nước xao, trăng lờ. (xao xuyến, lờ mờ)
Hai con tuổi tác còn thơ,
Sớm, khuya, ấm, lạnh, mặc nhờ hiền thê.
Trong tay một chuỗi bồ đề,
Trăm năm xin cởi lời thề nước non.
Giả (trả) rồi nợ vợ nợ con, (giả nợ: âm cổ)
Từ đây giữ vẹn lòng son tu (chùa) hành.
Nói rồi quày (quẩy) quả đăng trình,
Nhắm (nhằm) nơi am tự một mình ra đi.
Thương thay hai gã hài nhi,
Cùng nàng Đỗ thị sầu bi muôn phần.
Than rằng: Chàng hỡi! Lương nhân!
Am vân đường cách phong trần bao xa?
Hai con tuổi mới nên ba,
Có cha lại giống không cha cũng kỳ!
Bao đành bỏ vợ con đi.
Cửa nhà bần bạc, cậy gì ngày sau?
May nhờ tấc đất ngọn rau,
Mẹ con lần lựa nuôi nhau tháng ngày.
Dương từ ở chốn am mây,
Cải tên, đặt hiệu rằng: Thầy Thiện trai.
Dốc lòng tìm(tầm) dấu Như Lai,
Đã đành trốn khỏi trần ai, không về.
Thị, phi, mặc thế khen chê,
Tương rau cũng đã yên (an) bề đi tu.
Sớm khuya chuông mõ, công phu,
Tụng kinh niệm kệ (hát) ở Phù Đồ Sa.
Bây giờ đến lúc họ Hà, (bài trừ = bpây trừ = bây giờ)
Vợ là họ Liễu đẻ ra con lành.
Quả nhiên hai gái song sanh,
Ông tiên lời dạy đành lành (đinh lình) chẳng ngoa,
Nay đà giáp tháng bồng ra,
Mời anh em đến (tới) nhằm (nhắm) mà đặt tên.
Bà con nội ngoại hai bên,
Một ông trưởng tộc ngồi trên, dạy rằng:
Hài nhi gương mặt như trăng,
Đặt tên Xuân Tuyết, Thu Băng, cho đành.
Họ Hà nghe nói giật mình,
Nhớ lời tiên dạy sự tình khăng khăng.
Bảo rằng: Nghén đủ mười trăng,
Song sanh hai gái Tuyết, Băng trên đời.
Ông tiên nói chẳng sai lời,
Lại rằng: Thói có đổi dời(dày), lẽ chi?
Xui(xuôi) nên tấc dạ hoài nghi,
Gẫm(ngẫm) trong mình lại muốn đi non tùng.
Hỏi cho biết lẽ cát hung,
Trăm năm đặng(được) tỏ(rõ) thủy chung việc mình.
Vừa đâu đến(tới) bữa du minh,
Châu Kỳ, bạn cũ, có tình viếng thăm.
Nói rằng: Hai trẻ giáp năm,
Gẫm(ngẫm) lời tiên dạy có nhầm cũng chăng?
Mậu rằng: Xuân Tuyết, Thu Băng,
Tuyết Băng hai chữ khăng khăng như lời.
Kỳ rằng: Ta trọn ba đời,
Trong nhà thờ đức Chúa Trời lâu nay.
Mấy đường họa, phước, rủi, may,
May nhờ, rủi chịu, thấy bày vẽ chi.
Mậu rằng: Ta cũng ưu nghi,
Ông cha trước đã việc chi lầm đàng.
Nhớ xưa chữ đạo là đàng,
Đàng đi nào có một phương hẹp hòi.
Người xưa dễ há không coi,
Đàng nào làm phải, mà noi cho nhằm?
Ví như lỡ bước lỗi lầm,
Một đời cũng biết, huống năm ba đời?
Kỳ rằng: Đàng ở dưới(trên?) trời,
Có nơi chánh(chính) lộ có nơi tha kỳ.
Đã đành hai chữ "từ bi",
Chẳng đi đàng chánh(chính), lại đi đàng tà.
Phải đời con cháu vinh hoa,
Ai còn dám nói ông cha lầm đàng.
Muốn cho tỏ(rõ) máy hành tàng,
Phải tìm dấu trước, hỏi han sự tình.
Thị phi chẳng những việc mình,
Việc đời còn hãy bất bình nhiều nơi.
Bao nhiêu đạo ở dưới(trên?) trời,
Thảy đều xưng thánh, khoe lời nói hay.
Ví như một lũ chim bay,
Con nào trống mái, mấy tay biết rành.
Đạo ta bằng có vinh hiển, (viết nhâm: hiển vinh)
Trải xưa nay lại một mình Gia Tô.
Đạo Tiên, đạo Phật, đạo Nho,
Cớ sao chẳng một, bo bo đạo trời?
Đã kêu rằng đức chúa Trời,
Trời sao nỡ để các nơi tranh giành?
Cây cao biết mấy mươi cành,
Còn theo một cội, huống sanh là người.
Mậu rằng: Tiên cảnh tốt tươi,
Phen này ta nguyện theo ngươi đi tìm.
Làm người há chẳng bằng chim,
Chim còn biết cuốn(quyện,cuộn,dọn)cây êm gởi mình.
Vén mây mới thấy trời xanh,
Tìm đàng phải cuốn (quyện,cuộn,dọn)mấy cành gai chông.
Kỳ rằng ta muốn thẳng xông,
E khi rồi lại thẹn thùng nước non.
Học y mười mấy năm tròn,
Quỷ thai một bịnh, mạch còn nói sai.
Tiên ông mấy(mới) nắm tay ai,
Thinh không mà biết song thai cũng kỳ.
Trách chi mang tiếng tục y,
Khoe tài coi mạch, thật khi người đời,
Ta đi thời mắc Tiên cười,
Chi bằng ở lại khỏi người chê bai.
Anh lên tìm Lý Tri Niên,
Theo tha ắt đặng gặp Tiên non Bồng. (tha: hắn,ông ta)
Sau dù(dầu) rõ nỗi đục trong,
Đó sao đây vậy, một lòng mà thôi.
Dặn rồi vội vã chơn lui (chân lôi),
Ngó trên tử lý về xuôi một bề.
Họ Hà tự chốn làng quê,
Đai cơm, bầu nước, đề huề ra đi.
Ra đi đương lúc xuân kỳ,
Đoái nhìn phong cảnh một khi vui lòng.
Hữu tình thay ngọn gió đông,
Cành mai nở nhụy, lá tùng reo vang.
Cỏ hoa nghinh(nghênh) cánh cạnh đàng,
Như tuồng(theo) mừng rước Đông hoàng tới đây.
Líu lo chim nói trên cây,
Như tuồng(theo)chào hỏi khách này ở đâu?
Hai bên đá mọc giao đầu,
Như tuồng(theo) đón rước, giàn hầu người sang.
Dưới khe nước chảy như đàn,
Giống tuồng(theo) đưa bạn hương quan tách vời.
Các hoa đua nở, miệng cười,
Giống tuồng(theo) mừng rỡ gặp người cố tri.
Mảng xem phong cảnh dị kỳ,
Hay đâu lỡ bước, lại đi tìm đàng.
Xa trông thấy một người thường,
Cỡi lừa chậm bước miệng dừng ngâm thơ.
Họ Hà dừng bước đứng chờ,
Lắng nghe người ấy tiếng thơ ngâm rằng:
Thơ(thi) rằng:
Ba vua năm đế dấu vừa qua,
Mối đạo, trời trao đức thánh ta.
Hai chữ "cương thường" ... các nước,
Một câu "trung hiếu" dựng muôn nhà.
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà.
Căm bấy! Bầy ngu theo thói mọi!
Trời gần chẳng kính, kính trời xa.
Họ Hà nghe đặng(được) thơ rồi,
Trong dạ bồi hồi, bước tới hỏi thăm.
Vó lừa kí cách xăm xăm,
Nhìn lại gặp nhằm ông Lý tri Niên.
Mậu rằng: Tôi cũng có duyên,
Tìm tiên, mà lại gặp tiên giữa đàng,
Niên rằng: Chẳng ở nhân gian,
Việc chi lên chốn thâm san một mình?
Độc trùng, ác thú, không kinh,
Đàng chim, dấu thỏ, lộ trình xiết bao!
Mậu rằng: Xưa có lời trao,
Phải lên nói lại âm hao cho tường.
Xin thầy chỉ vẽ mọi đường(đàng),
Đem tôi lên tới Thạch bàn ngày xưa.
Niên rằng: Trong cõi mưa mây,
Khôn mời Bắc Đẩu, khó thơ(thưa) Nam Tào,
Hai ông vốn thực(thật) vì sao,
Người con mắt tục thấy sao đặng(được) hoài?
Gần đây có núi Thiên Thai,
Có chùa Linh diệu, có đài Âm dương.
Trong chùa lại có hai hang,
Một đàng Bích Lạc, một đàng Diêm La.
Có ông tiên trưởng, thầy ta,
Hiệu là Tứ Thất, tên là lão Nhan.
Thường ngày luyện tập kim đan,
Một mình gồm đủ ba? ngàn xuân thu.
Đẳng nhàn một cảnh thanh u,
Nay du sông Vị, mai du non Tùng.
Lại hay có phép sai đồng,
Lên trời xuống đất, thần thông ai tề(?).
Theo ta lên đó hai ngày,
Hỏi thăm căn số, thì(thời) hay sự tình.
Bao nhiêu những việc tiền trình,
Lòng son một tấm, gương minh soi rồi.
Họ Hà nghe nói mừng vui,
Mang gói lần hồi, lên núi Thiên Thai.
Họ Hà chuyện vãn còn dài,
Xin nối đầu bài, nói chuyện họ Dương.
Họ Dương tự cách gia hương,
Đã ba năm trường, ở chốn am mây.
Hôm mai chuông mõ vang dầy,
Chúng tăng vâng nghị mình thầy Thiện Trai.
Bao nhiêu thế tục gác(khác) ngoài,
Một xâu chuỗi hột mang vai, gìn lòng.
Quỵ (quỳ) hương ba thứ đã xong,
Mười lời? giới cấm, cũng không phạm gì.
Vâng đầu làm việc tu trì,
... năm lên chức đại sư một chùa.
Ra vô trong cõi Phù-tô(đồ),
Thấy người tài sắc Nam Vô Di Đà!
Ngày ngày kinh kệ ngâm nga,
Lăng? Nghiêm, Diệu Giác, cùng là Kim Cang.
Phút đâu bồn bực chẳng an,
Dạo chơi ra chốn tam quan một hồi.
Am mây cảnh vắng nào vui,
Xem bao nhiêu lại ngậm ngùi bấy nhiêu.
Vội vàng trở lại Hậu Liêu,
Bạch cùng Hòa thượng xin điều vân du.
Xưa hòa thượng cũng đạo Nho,
Tên là Trần Kỷ (Ký), ở Phù Đồ Sa.
Lắm? phen(phiên) đi ứng chơi khoa,
Thi văn chẳng đỗ, lòn? ra cửa thiền.
Giận đời nhiều việc đảo điên,
Làm thơ khuyến thế, ngày liền ngâm chơi.
Thơ rằng:
Người xưa cầm đuốc dạo đêm chơi,
Nào có cưu chi cái việc đời,
Phụng Thuấn, lân Nghiêu, người trước nát,
Hươu Tần, rắn Hán, lỗi sau dời.
Thánh hiền để tiếng(thay) vài pho sách,
Tạo hóa theo mình một tấc hơi?
Trong cuộc phù sanh thế cùng ai(ai cũng thế),
Rằng hay, rằng dở, chẳng qua trời.
Họ Dương sắm(sửa) lại hành trang,
Lạy thầy Hòa thượng, ra đàng vân du.
Từ đây theo thú vân du,
Kìa non, nọ nước, mặc dầu dong chơi.
Người sanh ở dưới vòm? trời,
Xưa qua, nay lại, mấy đời chọn sao.
Võng(vòng) danh, xuyên? lợi tráo nhau,
Hết vinh, đến nhục, sang giào(giàu) chi ai?
Nhớ câu "xuân bất tái lai",
Bóng già theo gót, biết nài chi đây.
Đã đành thiền trượng một cây,
Giới đao một lưỡi cùng thầy thế gian.
Xưa nay trong cuộc giang san.
Vật còn có chủ, ai toan chia giành?
Kìa kìa gió mát trăng thanh,
Tai nghe, mắt thấy, mới đành dạ ta.
Khe đào, cụm liễu, trải qua,
Tin xuân dã bạn ong hoa dầy dầy(dờidời).
Đi vừa xa chốn am mây,
Tới nơi Hà lãnh trời tây hầu chiều.
Ven ghềnh một nhắm hiu hiu,
Tiếng ngư trong núi, bóng tiều ngoài khơi.
Bên non hầu, khuất mặt trời,
Dương Từ thơ thẩn(dẫn) tìm nơi nghỉ mình.
May đâu gặp một tiểu sanh,
Cho trâu uống nước dưới ghềnh Hà tây.
Ngồi cầm ống quyển trong tay,
Thổi rồi lại hát, hát hay lại cười.
Dương Từ bước tới xem chơi,
Ngâm(ngẫm,gẫm) ba câu hát, thật lời thạch kim.
Hát rằng:
Chẳng phải trời Nghiêu, bóng chiều ngao ngán; trời đã tối rồi chờ sáng cùng làm(cũng lâu).
Hát rằng:
Nghe tiếng con chim oanh đỗ trên cành kêu mới biết ai dày(dời) đồng kéo(kẹo) lại trời Tây.
Hát rằng:
Trong cõi nhân gian nhiều đàng lầm lỗi, gặp với trời chiều nhược(khó) nỗi đi xa.
(Ba câu hát này sách chép liền thành câu văn nên tôi để phiên âm nguyên bản để tiện nghiên cứu).
Hát rồi lại thổi quyển chơi,
Gẫm trong thú vị, thảnh thơi hơn thiền.
Dương Từ bước tới hỏi liền:
Ba câu hát ấy, ai truyền cho ngươi?
Tiểu sanh nghe nói miệng cười,
Đáp rằng: Vốn thật có người dạy ta.
Gần đây vài dặm chẳng xa,
Có thầy đạo sĩ tu đà nhiều năm,
Một am ở chốn?(cấm) tây lâm,
Ngày ngày thong thả, đờn(đàn) cầm, ca thi.
Thuốc thang, phù chú (ni), ai bì,
Người đau tới đó, bịnh chi cũng lành.
Dương Từ hỏi đã đành rành,
Xăm xăm bước tới trình lần? tây lâm.
Tới nơi trời đã tối xầm(dầm),
Đứng xa ngoài cửa, nghe ngâm thơ rằng:
Biết ơn(ân) phụ tử, nghĩa quân thần,
Nhờ có Trời sanh đức Thánh nhân.
Nét mực tu kinh ngăn đứa loạn,
Dấu xe hành đạo rạch trong trần.
Trăm năm còn cảm(cám) lời than phụng(phượng),
Muôn nước đều thương tiếng khóc lân.
Phải đặng(được) viết điều luân sách Hán,
Mọi nào dám(giám) tới cạo đầu dân!
Thơ rồi lại gảy đàn cầm,
Như tuồng(theo) mừng bạn tri âm tới nhà,
Tử Kỳ xưa gặp Bá Nha,
Ngón đờn(đàn) "lưu thủy" nay mà còn đây.
Dương Từ gõ cửa kêu thầy,
Rằng đi lỡ tối, đêm(?điếm) này độ ta.
Có ông đạo sĩ bước ra,
Chào rằng: Thiền khách nay đà đến đây?
Lều tranh, dựng(giường?) đá, chiếu mây,
Khô nai, cơm bắp, rượu trai(chay), tạm dùng!
Từ rằng: Lời dám hỏi ông:
Ở trong am vịnh sao không Phật thờ?
Sĩ rằng: Ta chẳng ước ma(mơ?),
Bởi vì chữ phất*?*, sánh vừa chữ nhân,
(*?* có lẽ là chữ Phật, do thiếu bộ "nhân đứng" phía trước nên tôi phiên như vậy)
Đường qua tây vực chẳng gần,
Cõi di, cõi hạ trời phân rõ ràng.
Ta thường coi sách nhà Đàng (Đường),
Thấy lời "Phật biểu" họ Hàn khó tin.
Phất(Phật) nhân, sống cũng chẳng nhìn,
Huống đem hình đuốc, tượng in thờ gì?
Từ rằng: vốn thật từ bi!
Sĩ rằng: lại có ít gì dân phong.
(Đoạn thiếu là:)
Thấy câu ngôn ngữ bất thông,
Dầu(dù) cho linh nghiệm cũng dòng man di
Từ rằng: Thầy học đạo chi?
Sĩ rằng: Thiên hạ thiếu gì đàng xưa.
Đạo đời như chiếc thuyền đưa,
Mặc ai đi sớm về trưa, không gàn!
Kìa như họ Lão, họ Trang,
Họ Dương, họ Mặc, họ Hoàng, họ Thân.
Các nhà í(ý,ấy) cũng cổ nhân,
Trải đường mạ(mở?) ngõ, trong trần nhiều nơi.
Có nghe các họ đua bơi?,
Không nghe họ Phật ở đời trung nguyên.
Từ rằng: Biết đạo chi chuyên?
Sĩ rằng: Xưa có sách hiền chép câu:
Một vòm(bầu) trời đất như chu(thuyền)
Mặc(mặt?) người kim cổ, chèo đâu thì chèo.
Từ rằng khó(nhược) nỗi phương theo,
Sĩ rằng: Lựa phải xuống đèo, (trên?)lên non.
Vua tôi, chồng vợ, cha con,
Anh em, bầu bạn, vuông tròn mới xong.
Chẳng tin, coi một ngày ròng,
Đi đâu cho khỏi đạo trong cương thường?
Ta xưa cũng khách thư đường,
Mi(mày) xanh có chí hiển dương trên đời,
Ghét đời Thúc Quý đua bơi,
Sợ trời nên phải tìm nơi nghỉ(ẩn?) mình,
Vốn không học thói Lan đình,
Kéo nhau thầm miệng phẩm bình cổ kim.
Cũng không học thói chữ lâm(lầm?),
Rủ nhau dốc(uống?)rượu hôn trầm ngày đêm.
Gió, trăng là bạn, anh, em,
Sớm nghe tiếng sáo, tối xem bóng thiềm.
Mộ* riêng một tấm thanh điềm, (*mộ:hâm mộ)
Sẵn hoa dưới hố, sẵn chim trên cành.
Hươu, nai, khỉ, dộc ai dừng(đừng,đành),
Của trong trời đất, mặc tình xem chơi.
An, nguy có phận ở trời,
Người đời đừng mắc, lỡ(nhỡ) đời chia thôi.
Dương Từ nghe nói rẽ ròi(rồi),
Một đêm chẳng ngủ, luống ngồi lo âu.
Nghĩ rằng mình đã đi tu,
Ngỡ(hẵng) như lời í(ý,ấy) công phu lỡ làng!
Cương thường để mặc ai toan,
Đạo ta giữ vẹn, nào can phạm gì?
Thảy(xảy?) vừa trời sáng, hầu đi,
Hỏi rằng: Thầy húy tên gì dạy tôi?
Sĩ rằng: Trọn đạo thời thôi,
Người đời nào phải trao dồi tánh danh?
Trời cao đất rộng, thanh thanh,
Non xanh, nước biếc, đã đành phôi pha (phui phai).
Hỏi thời ta phải nói ra,
Ba ngàn thế giới, ta đà vô danh.
Từ rằng: Đâu thật(thực) có danh?
Sĩ rằng: Linh Diệu đã đành chùa tiên.
Dương Từ vội vã đi liền,
Ngồi lâu lại sợ cửa thiền mắc chê.
Trải qua mấy dặm lâm khê,
Hiu hiu gió thổi, tê tê (phê phê) non tùng.
Ngọn? đào, bì?(vỏ) liễu song sanh(song)
Một vầng(quầng?) mây bạc, bóng lồng phau tuôn.
Hoà đi, hoà nghĩ(nghỉ), hoà bồn(buồn),
Giận đời đạo sĩ khui dòng Phật gia.
Đi vừa tới suối Kim Ba,
Thấy một ông già xuống suối tắm chơi.
Tắm rồi hứng chút(mát?) thảnh thơi,
Hát một vài lời hay rất êm tai.
Hát rằng:
Tắm nước trong, tấm lòng đả trải(sạch?),
Cám(cảm) thương người làm khách trần ai!
Hát rằng:
Gió xuân qua, mình ta đã chút(mát?),
Cám(cảm) thương người phiêu lạc tha hương!
Hát rằng:
Biển Thánh, lăng Nho, công phu ngơ ngáo, tuổi đã già rồi, thế đạo còn xa!
Hát rồi tay chống gậy lê,
Vai mang bầu rượu, đi về cõi tây.
Dương Từ đứng dưới bóng cây,
Hỏi rằng: Ông trượng làm thầy chi chăng?
Lão rằng theo thói làm ăn,
Người con mắt(mắc) tục, ai rằng thầy ai?
Từ rằng: Tán, kiệu, mão, đai,
Ngôi cao, sang trọng, đố ai không thầy?
Lão rằng: Ta ở chốn nầy(này),
Sáu mươi mấy tuổi, biết thầy nào đâu.
Thánh nhân dẫn trước khôn cầu!
May còn người đạo ở đầu Tây lâm.
Dương Từ nghe chữ "Tây lâm".
Hỏi rằng: Phải kẻ đờn cầm, ca thi?
Chẳng hay tên ấy tên chi?
Chẳng phen Sào Phụ, cũng bì Hứa Do.
Lão rằng: Khắp chốn giang hồ,
Ai ai chẳng biết Huyền Hồ tiên sinh?
Thấy ngươi ta cũng bất bình,
Mong(cớ?) sao cạo tóc, làm hình đi tu?
Từ rằng cám(cảm) Phật ân sâu,
Không con mà lại cho cầu đặng con.
Lão rằng: Cầu Phật đặng con,
Xưa ngươi Bá Đạo sao còn lo sau?
Có con mà lại cạo đầu,
Xưa ngươi Tử Hạ còn cầu làm chi?
Từ rằng: Đã chót? quy y,
Việc ta đã quyết, can gì tới ai?
Chót theo Bồ Tát Như Lai,
Trước sau giữ một lòng trai chẳng sờn.
Gặp đây xin hỏi trượng nhân,
Cảnh chùa nào tốt, chỉ bần tăng đi?
Lão rằng: Chùa chẳng thiếu chi,
Hàn Sơn, Lam Thủy ít bì Thiên Thai.
Thiên thai xa chốn trần ai,
Có chùa Linh Diệu, có đài Âm Dương.
Thiền sư rày muốn du phương,
Đông Nam phía í(ý,ấy) là đàng đi lên.
Dương Từ khăng khắng chửa(chưa) quên,
Giả(trả) ân lão trượng, lòng bền? ra đi.
Ngày xuân con bóng trì trì,
Tưởng câu "thủy tú, sơn kỳ" thêm vui.
Khói tan, ngút sạch, như giồi,
Miệng hang, nèn? đá, nặc mùi chi lan.
Ai mộ? chín chục thiều quang,
Mây lành, gió đoán? vẻ vang một trời.
Mảng? xem phong cảnh nơi nơi,
Ác? vàng chen? núi, khó dời đường chim.
Trong non nhà cửa khôn tìm,
Dương Từ vào miếu, một đêm ngỏ(nằm?) nhờ.
Miếu môn vắng vẻ như tờ,
Tối tăm, chửa rõ trong thờ thần chi.
Họ Dương vừa giấc ngủ đi,
Chiêm bao nằm thấy quân tùy bắc ngang.
Quân rằng: Vâng lịnh(lệnh) Phán quan,
Chữ ghi? trong thẻ, đòi chàng hầu tra.
Họ Dương hồn gượng theo ta,
Tới nơi công phủ một tòa nghiêm trang.
Ngồi trên thấy một ông quan,
Trước bàn hương án bày hàng bút nghiên.
Có người thư lại ngồi biên,
Hai bên treo trống, treo chiêng, rõ ràng.
Trước sân lỗ bộ hai hàng,
Tả đao, hộ vệ, đứng dàn hầu xa.
Quân tùy dẫn họ Dương ra,
Trước sân cẩm thạch đặng mà nghe tra.
Quan rằng: Thằng sãi bôn ba,
Tới nằm cửa miếu vậy mà gọi ai?
Dám xưng rằng chữ Thiện trai,
Người trong Hoa hạ, hay ngoài Man di?
Tóc râu là dáng(dạng) nam nhi,
Của cha mẹ đuốc(đúc), can gì cạo đi?
Tổ tiên chút đã đền chi,
Hang hương bát nước, mấy khi phụng thờ?
Áo cơm nỡ còn (còn nợ) (sơ sơ) sờ sờ,
Ngọn rau, con cá, cũng nhờ đất vua.
Trốn xâu(sưu), trốn(luổn) thuế, vô chùa,
Trong đời những sãi, thời vua nhờ gì?
Vợ con sao nỡ bỏ đi?
Lời thề dường ấy sao khi quỷ thần!
Ba giềng chẳng đặng một phân(phần),
Như vậy(vầy) cũng gọi làm thân con người.
Để bay(bây) sống cũng nhơ đời,
Truyền quân đao phủ dẫn nơi pháp đình.
Họ Dương khiếp vía hồn kinh,
Lạy xin dung nộ chút tình bần tăng.
Phán quan cất bút ... rằng,
Tha về phải giữ đạo hằng cổ kim.
Dương Từ thức giấc nửa đêm,
Nghĩ ra mới biết một điềm chiêm bao.
Gẫm(ngẫm) trong mộng sự ngán ngao,
Cát, hung, chưa rõ lẽ nào thân sau.
Vầng ô vừa lộ(ló,lố) bóng đầu,
Dương Từ vào miếu coi câu chữ đề,
Ngó lên trên biển ngạch đề,
Rằng: Đàng Hàn Tử, Xương Lê chi thần.
Than rằng: Đã đương thành thần,
Ngay vua, nào nại tấm thân mất còn.
Lại xem đôi liễn sơn son,
Có câu liễn đối, treo còn đến nay.
Liễn rằng:
Một sách "Đạo Nguyên" lòa mắt thánh;
Ba tờ "Phật Biểu" chát tai vua.
Dương Từ than thở rằng hay,
Người ngay lại gặp liễn hay treo đời.
Lòng son một tấm tú? trời,
Những người gian nịnh đổi dời sao xong.
Cho hay đặng chữ "hiếu trung", (tr.25a)
Dầu muôn năm cũng sắc phong miếu thờ.
Vái rằng: Bần đạo ngẩn ngơ,
Lỡ đàng lại tới ... ... cửa thần.
Tạ ơn, bốn lạy xin dâng,
Chấp chi bần đạo, quên chừng vân du.
Từ đây khỏi cửa công hầu,
Chim trời cá nước, mặc dầu nghênh ngang.
Đi rồi nghĩ lại thở than,
Rằng đêm trong miếu mắt ... (mắc nạn) chiêm bao.
Ghi lòng vàng đá, chửa nao,
Những ... mộng huyễn, nghĩ nào mà tin.
Đi vừa mười dặm đứng nhìn,
Đàng về tây bắc cảnh in quê nhà.
Than rằng từ thuở(thủa) xuất gia,
Đến nay kể đã hơn ba năm trường.
Người thì(thời) chê lỗi cương thường,
Thần thì(thời) bắt tội, một rừng(giường) hiếu trung,
Biết tu mấy kiếp cho xong!
Làm người nghĩ thẹn trong hổ cảnh người!
(có lẽ in nhầm, phải là: Làm người nghĩ hổ thẹn trong cảnh người).
Tu chi trời đất hổ ngươi,
Thần hờn, quỷ giận, dân cười, sĩ chê.
Tưởng đi, rồi lại tưởng về,
Về thời hổ ... bồ đề trong tay.
Tương dưa, đậu phụ, cơm chay,
Công phu chút(chót) đã lâu nay cúng dường(dàng).
Đi thời lại sợ lầm đàng.
Thế gian đàm tiếu mỗi(mọi) đàng thị phi.
Dùng dằng lỡ ở, lỡ đi,
Bàn lui, bàn tới, việc gì chửa xong.
Đi vừa tới chốn tang trung,
Thấy tam kỳ lộ trong lòng sanh nghi.
(tr.26a)
三
Một mình đứng giữa tam kỳ,
Ngó nam, ngó bắc, đi đường chửa đành(chưa dừng),
(có lẽ là: đường đi chưa ràng, chưa rõ ràng đường nào mà đi),
May đâu thấy một cổ đình?,
Ở bên đường cái, danh "Thanh Phong đình".
Trong đình không phụng thần linh,
Để cho hành khách lộ trình nghỉ ngơi.
Dương Từ bước tới xem chơi,
Thấy câu liễn đối, thật lời thạch kim.
Liễn rằng:
Đường đi ba ngõ(ngả) ngươi(người) Châu khóc;
Tơ trắng hai màu họ Địch than,
Dương Từ coi liễn đối rồi,
Trong lòng ngẫm nghĩ một hồi giải ra.
Giải rằng: đường có ngã ba,
Một qua bắc khứ, một qua nam hành.
Giải rằng: Tơ trắng sạch mình,
Màu vàng cũng đặng, màu xanh không từ.
Làm người nay thật, mai hư,
Lòng không quyết một, cũng như liễn này(nầy).
Hỡi ai chí chót chơi mây,
Mùi(màu) thiền đã nếm, bấy (trừ) chầy cũng nên.
Giữ lòng kim thạch cho bền,
Chớ nghe lời tục, mà quên phận mình.
Giả(trả) ơn câu liễn trong đình,
Khiến ta quyết một lòng thành đi tu.
Từ đây mới dứt lòng sầu,
Chót chọn cửa Phật, chẳng âu tiếng người,
Thiên Thai chùa ý(ấy) gần vời,
Dương Từ đón khách hỏi nơi chưa(chửa) rành.
(Nhân+đa) nghe bên ruộng dâu xanh,
Gió đưa tiếng hát, như hình có ai.
Hát rằng:
Bờ dâu ấm con chim Cưu đậu,
(= Bến Hà châu đôi chim cưu đậu,)
Thuở nghênh (nghèo?) có vội(bậu) với qua.
(= Buổi nghiêng nghèo có bậu, có qua.)
Hát rằng:
Cành dâu ... cây châm cởi ...
Với sang giào dù lọng thiếu chi.
(= Lúc sang giàu dù lọng nghinh ngang.)
Hát rằng:
Ngọn gió dời(dày) một ngày một khác,
Ta nhờ(nhớ) người câu hát thái tân(=thể tần).
Hát rằng:
Biển (bến?) đò xưa bạn đưa đã trống,
Ta chờ người thổi ống phụng(phượng) sanh(sinh).
Dương Từ nghe tiếng thanh ...,
... chân bước vào trong ruộng dâu coi.
Thấy hai con gái mang gùi,
Hái dâu vừa rồi, sắm sửa hồi trang,
Dương Từ nhắm(nhằm) vóc hai nàng,
Chừng vài mươi tuổi, dung nhan tầm thường.
Hỏi rằng: Kỳ lộ nhiều đàng,
Lên chùa Linh Diệu biết đàng nào đi?
Đáp rằng: Hòa thượng hỏi chi?
Ta là phận gái, biết gì chùa đâu.
Để tằm, lo việc hái dâu,
Kéo tơ, dệt lụa, đương cầu nữ công,
Thầy tu muốn hỏi đường thông,
(tr28a)
Phải tầm bà sãi, tây đông mới tường.
(Thiếu 2 câu)(bàn này thêm 4 câu) là:
Ta nghe con gái nhà Khương,
Ít ... ... ... già đương tu đặc(hành).=>(viết nhầm hành thành đặc)
Có câu lão kỹ (vi ni: HV)
Mấy đàng (trai mạn:HV) cũng đi nếm rồi.
(tiếp)
Nói thôi mang giỏ về xuôi,
Dương Từ còn đứng (ngội ngồi) ngậm ngùi thở than.
Làm bà vãi cũng gian nan,
Đã ra thân trục(chọc), còn mang tiếng đời.
Gái kia chẳng chỉ ... nơi,
Đánh liều đi khắp(phía)? phương trời đông nam.
Ra đi tới Bạch Vân Nham(đồi),
Trời vừa tròn bóng tìm am nghỉ mình.
Dưới Nham(đồi) có ruộng dâu xanh,
Có tòa cổ miếu, mây dinh(danh,doanh) tứ bề.
Ngó vô biển? cửa chữ đề:
"Hiếu Từ" hai chữ, son tô(phê?) chói lòa.
Có câu liễn đối treo ra,
Dương Từ xem thấy, lòng đà sanh(sinh) nghi.
Liễn rằng:
Đói rách lòng không hờn(hận) mẹ ghẻ;
Ốm đau lời chẳng dỗi cha lành.
Thấy câu liễn đối mà thương,
Cho hay: con thảo nhiều đường gian nan(nguy).
Muốn vô coi tượng thờ chi,
Lại e linh nghiệm, như kỳ chiêm bao.
Trở ra, lại muốn chọn vào,
Thấy câu liễn ý(ấy), đi sao cho đành!
Xảy nghe bên cụm dâu xanh,
Có người đốn cội(củi) linh tinh (lanh chanh) hát rằng:
Hát rằng:
Núi non đây nhiều cây nghinh ngang.
Dọn thông đường nhờ cán búa ta.
Hát rằng:
Búa trong tay, liền ngày đốn cội(củi),
Vui rừng trời tránh buổi loạn ly.
Hát rằng:
Cội cây yêm(ấm,ẩm) phải tìm (nối)núp bóng,
Mặc người đời dù lọng nghinh ngang,
Dương Từ nghe hát mấy lời,
Xăm xăm bước tới, thấy người tiều phu.
Hỏi rằng: Nhà cửa ở đâu?
Biết trong miếu ấy, công hầu bậc chi?
Tiều rằng: trong miếu Hiếu từ* (viết sai thành chữ "từ" trong "câu từ",
Thờ ông Mẫn Tử thuở kỳ Xuân Thu.
Học theo thánh đạo đã lâu,
Một câu hiếu hạnh ở đầu tứ khoa.
Hết lòng thảo với mẹ cha,
Người ngoài cho đến trong nhà đều vâng(khen).
Thuở xưa đương lúc khó hèn,
Ấu thơ mẹ mất, cha liền thú thê.
Từ ngày có mẹ lẽ về,
Đẻ hai em nhỏ, cha kề ấp yêu.
Mẹ thương con ruột phần nhiều,
Tấm thân con lẽ, mẹ liều như không.
Đói cơm, rách áo kiệt(mặc?) lòng.
Ăn theo đày(đầy) tớ, nằm cùng chuồng trâu,
Tử Khiên không dạ oán sầu,
Phải sao hay vậy, son câu hiếu hòa.
Đến khi cha khiến đẩy xa,
Thấy con áo rách, giận bà hậu thê.
Cha liền vội vã trở về,
Trách bà mẹ lẽ, toan bề để ra.
Tử Khiên than thở, lạy cha.
Xin dung một mẹ, mới hòa ba con.
Rách, lành, chi sá một con,
Hai con thơ ấu, mẹ còn mới nên.
Thảo thân một tấm lòng bền,
Cảm tình, mẹ lẽ chẳng quên con chồng.
Nhớ câu: "Hiếu đễ(đệ) thành phong".
Người trong nước Lỗ đều mong học đòi.
Sắc phong một thuở hẳn hoi,
"Hiếu Từ" hai chữ, dấu roi(noi?,soi?) muôn đời.
Ta đây cũng một họ người,
Kêu bằng ông tổ ba mươi bốn đời,
Từ rằng: Xin hỏi vài lời,
Lão tiều vốn thật là người trâm anh.
Sao không ra lập công danh,
Noi theo nghiệp tổ, hiển vinh mà nhờ?
Tiều rằng trước mắt sờ sờ,
... ai chẳng thấy ... chờ lẽ chi?
Đua nhau hai chữ "tương khi",
Trên quyền, dưới ..., đoái gì thiên luân!
Nước thì(thời) chia bốn năm phần,
Can qua biết mấy mươi lần đánh nhau.
Trong thì(thời) gian nịnh giụm(chụm) đầu,
Ngoài thì(thời) ô lại, đua cầu tham quan.
Chính(chánh) ra dữ quá cọp vàng,
Lòng dùng độc, quá hổ mang, thuồng luồng.
Bốn phương mọi rợ luôn tuồng,
Nay giành ải hổ, mai ruồng(lùng) ải lang.
Nơi nơi trộm cướp dấy loàn,
Lê dân hết sức, của tan chẳng còn!
Trong trời đất cũng thon von,
Khói mây đen kịt(nghẹt), nước non đau sầu.
(tr31a)
Biết đời tam đại ở đâu,
Gặp đời Thúc Quý phải âu lánh mình.
Từ rằng bờ cõi đã thinh(thanh),
Chẳng tham danh lợi, lánh mình cũng cho.
Ở trong tạo hóa nhiều lò,
Thiếu chi nghề nghiệp mà bo(phô) theo tiều?
Tiều rằng: Cửa thánh gương treo,
Dùng đời chẳng đặng, chớ(chưa,chửa) theo đời dùng?
Nghề như các bậc thương nông,
Nghề như y lý cũng không ra chi(gì).
Bao nhiêu nghề nghiệp đều khi,
Chẳng khi nào khéo lấy chi đời dùng.
Khéo khôn ắt có mỏi(mủi) lòng,
Mỏi(mủi) lòng rồi lại mắc vòng hoạ tai.
Thử coi con thú vật ngoài,
Như voi như cọp, mấy ai giám(dám) bì?
Voi kia cao lớn đen sì,
Cặp ngà không dụng: can chi lụy(truy) mình.
Cọp kia nanh vuốt như binh,
Tấm da không dụng: ai rình đâm chi?
Lấy trong việc ấy mà suy(thôi),
Những nghề đời dụng, ra gì xưa nay!
Ta nhờ cán búa trong tay,
Theo nơi sơn lĩnh, tháng ngày thảnh thơi.
Bữa dùng một gánh củi trời,
Cá, cơm, rượu, thịt, ở đời cũng no.
Giữ câu "phù ngưỡng" bo bo,
Thờ trên noi dưới, miễn cho xong mình.
Xin đừng hổ với chư linh,
Cùng đành(đừng) thẹn với người sanh trong đời.
Xin đừng hư trá(dối) lẽ trời,
Cũng đành(đừng) trốn lánh việc đời thì(thời) xong.
(tr.32a)
Dương Từ nghe nói hổ lòng,
Khen rằng tiều lão thật dòng hiền xưa.
Ta đà khỏi chốn mây mưa,
Cớ trêu tấc dạ, lại ưa mùi(vị) thiền.
Thiên Thai dốc kiếm chùa tiên,
Chưa(chửa,chớ) thông đường sá, xin phiền vẻ ta.
Tiều rằng: Có chỉ nam xa,
Chưa(chửa,chớ) lo lỗi đạo, lo ta lầm đàng.
Đây đi xuống bến Châu Giang,
Ngang? qua Tây Bắc, lên đàng Thiên thai.
Dương Từ vội vã gót hài,
Từ biệt non đoài, nương gậy thiền đi.
Dưới đời nhiều việc so my,
Nhiều thói cao kỳ nghĩ lại mà kinh.
Những người ngay thẳng đều vinh,
Thân tuy đã mất mà danh hãy còn.
(tr.32b)
Bảng vàng, thẻ bạc sơn son,
Bao nhiêu vinh hiển, là con nhà hiền.
Tiều phu là đấng(đứa?) không tiền,
Gẫm(ngẫm) trong lời nói có duyên hơn vàng.
Hỡi ôi! Mấy kẻ giào(giàu) sang,
Nhưng tham vui sướng, quên màng thân sau.
Dương Từ đi tới sông Châu,
Ngẩn ngơ nào biết bến đâu đưa mình.
Ngó lên trên khúc sông quang(quanh?),
Thấy bên bậc(vực) thẳm có manh cô bồng.
Một người ngồi giữa khoang thông,
Khua chèo miệng hát, gió lồng tiếng vang.
Hát rằng:
Bến sông Châu, vực sâu, cá ở,
Thương người hiền gặp thuở loạn ly.
(tr.33a)
Hát rằng:
Nước vận(vần) quanh bãi gành(ghềnh) chảy cạn,
Kẻ anh hùng hoạn nạn khá thương!
Hát rằng:
Chiếc thuyền câu, đậu đâu nên đó,
Ở nước loạn, giàu có mà chi?
Dương Từ nghe tiếng ngư ca,
Bước lên trên bực, coi vơi thể nào?
Mình hơn tám thước(?) rất cao,
Mặt đen râu quắn, khác nào võ(vũ) phu.
Dương Từ bước xuống ngư chu,
Xin đưa khỏi bến, sẽ âu hoàn tiền.
Ngư rằng: Ngươi ở chùa chiền,
Đi đâu sông suối, mà phiền ta đưa?
(tr.33b)
Nhắm hình chẳng phải người xưa;
Lánh nơi hoạn nạn, tới trưa lỡ làng.
Ta nghe trong bến Lư Giang,
Có ông ngư phụ đưa chàng Ngũ Viên.
Lại nghe đình trưởng dừng thuyền,
Chở ngươi Hạng Vũ qua miền Ô Giang.
Hai người bởi ý(ấy)lánh nạn(nàn),
Một toan lã(trả) oán, một toan lã(trả) thù.
Sợ đời bắc(bắt) kẻ tóc râu,
Nào ai bắt đứa(đấng) trọc đầu làm chi?
Nói rồi ra lẽ thị phi,
Dễ đưa qua đó, tiếc gì công ta.
Cầm chèo thong thả đưa qua,
Dương Từ, tới bến, xì ra tiền đò.
Ngư rằng: Ta chẳng đưa đò,
Phòng tham tiền của so đo với người.
(tr.34a)
Trước đà làm phải trên đời,
Ngàn vàng chẳng bảo(báu) một lời mà sang.
Từ rằng: Ta tiếc(tánh) cho chàng,
Chẳng phen lương(giường) đống, cũng trang anh hùng.
Ta nghe nước Tấn chinh đông,
Cầu người võ sĩ ra công can thành.
Mong(cớ) sao chẳng xuống Tây Kinh,
Phò vua giúp nước, lập danh để đời?
Cá tôm đặng(được) mấy tiền lời,
...藝
Theo nghề chài lưới, quên nơi sang giàu?
Ngư rằng ngươi khéo phỉnh nhau,
Ai từng khát nước tới đầu bờ ao?
Đời nay chửa(chưa,chớ) khát đời nào,
Đất dày(dầy) thăm thẳm, trời cao mù mù.
Bốn vụ(mùa) thành luỹ làm xâu(?),
Dân ốm, nước gầy, má(mỡ) dầu cũng khô,
(tr.34b)
Thấy đời danh lợi muốn phô(bo),
Khác nào con chấu nhảy vô vòng(?) dầu.
Từ rằng: Xưa sách có câu,
Công thành danh(thân) toại(thoái), ai hầu chi ai?
Ngư rằng: Xưa bậc hiền tài,
Lập thân sao chẳng biết bài bảo thân.
Dầu vinh cũng tiếng nhân thần,
Trâu cày ngựa cỡi(cưỡi), cái thân ra gì?
Chớ tham ăn lộc đời suy,
Bẫy chim, lưới cá, e khi mắc còng(cồng).
Lỗi(trối) ai ra sức muông săn,
Một mai thỏ hết, chúng ăn tới mình.
Sao bằng một cõi an sanh,
Sông sâu vực thẳm, ai dừng(giành) chi đây?
Sẵn dùng chèo bách một cây,
Thuyền thông một chiếc, đỡ(?) ngày hôm mai.
(tr.35a)
Theo sông khúc vắn khúc dài,
Năm ba sợi nhợ, một vài cần tre.
Đêm trăng, ngày gió, bạn bè,
Vui câu hát xướng(?), buồn vơi(ve) rượu hầu.
Trải chơi gành(ghềnh) hạc, bãi âu,
Thú vui trong nước, mặc dầu nghinh ngang.
Cá tôm sẵn lộc trời ban,
Phận đà no đủ, còn màng của chi?
Nói rồi thong thả chèo đi,
Dương Từ khen đó tính khi lâu dài.
Than rằng: Thương đứng(đấng) hiền tài,
(đứng=đấng:âmcổ)
Sao không gặp thuở, biết nai(nại) thân nào?
Hỡi ai quyền trọng ngôi cao!
Thú hiền(hèn) cũng có người nào chửa(chớ,chưa) khinh.
Họ Dương từ(tự) thuở đăng trình,
Trải chơi non nước sự tình biết bao.
(tr.35b)
Đi hơn nửa tháng lao đao,
Đến nay mới thấy đàng vào Thiên Thai,
Thiên Thai một cảnh an bài,
Dương Từ tới, mới ở ngoài động môn.
Thứ này(nầy,nơi) người ở long môn,
Tên là Hà Mậu, trí khôn, ra liền.
Theo cùng ông Lý Tri Niên,
Từ non tùng ý(ấy) vào miền Thiên Thai.
Đi đà hơn nửa tháng dài,
Phút đâu lố(lộ) thấy gần ngoài động môn.
Tri Niên, lừa(ngựa?) thả bên non,
Cùng ngươi Hà Mậu đi lòn(luồn,trọn) cửa hang,
Hai người đi khỏi cửa hang,
Tới nơi động khẩu gặp chàng họ Dương.
Họ Hà, họ Lý, họ Dương,
Ba người gặp hỏi, mới tường tánh danh.
(tr.36a)
Niên rằng: Tiên cảnh rất linh,
Dương Từ(Hà) đều hãy(hỡi) chút dừng(đành) lại đây.
Chờ ta lên trước động mây,
Lên chùa Linh Diệu thăm thầy Lão Nhan.
Dương Từ nghe nói vội vàng,
Thơ(thưa) rằng xin đó kẻ(đem) đàng ta đi.
Niên rằng: ngươi vốn thiền sư,
Tới nơi tiên cảnh cầu chi chăng là?
Từ rằng: nghe tiếng đồn xa,
Rằng chùa Linh Diệu một tòa ở đây.
Niên rằng: Diệu Linh chùa này,
Vốn không thờ Phật mà lây tới thiền.
Từ rằng không Phật, có Tiên,
Xin cho thấy đặng, phỉ nguyền chơi mây.
Niên rằng: Hai gã ở đây,
Ta xin lên trước động mây một giờ.
(tr.36b)
Lâu, mau, sao vậy cũng từ (chờ:viếtnhầmlà"từ"),
Cho tin xuống rước kịp giờ sẽ(sãi) lên.
Tri Niên vịn đá chèo lên,
Tới nơi vân động gần trên mây giằng(?).
Dương Từ, Hà Mậu đều mừng,
Ngồi trong cửa động trách(?) lân(?) cũng nhiều.
Mậu rằng: Tiếc(?) đó đi tu,
E mai cửa Phật công phu lỡ làng.
Ta nghe Phật ở Tây phương,
Vốn người mọi rợ, luân thường chẳng ưa.
Lại nghe tam đại đời xưa,
Dân an, nước trị, Phật chưa bài(bày) hình,
Đến năm đời Hán Vĩnh Bình,
Sứ qua Thiên Trúc thỉnh kinh Phật về,
Đến sau Lương Vũ rất mê,
Lập chùa tượng cốt, chuyên nghề tu trai.
(tr.37a)
Ngụy, Trần, Tề, Tống đến nay,
Đời đời nào cũng trọng thầy sa môn.
Trên vua nhưng(những) dưới dân thôn,
Đua nhau kính trọng(chuộng) một môn phù tằng(đồ),
Quỳ(quỵ) hương, chẩn tế, nam vô.
Tới lui tăng đạo, ni cô ... đàng,
Bao nhiêu theo đạo Tây phương.
Phước lành chửa(chưa) thấy, tai ương tới mình,
Trên thời nghiêng nước nghiêng thành,
Dưới thời nhà cửa tan tành xiết bao!
Phật linh mấy cứu ai nào,
Người nay sao hãy chọn(trọn,lòn,luồn) vào Thích gia?
Từ rằng: Ngươi chớ giấu ta,
Đạo nào nên trọng, nói mà nghe chơi?
茂 浪 些 重 道 ...
Mậu rằng: Ta trọng đạo Trời,
典 ... ... 論 ... ... ... 蘇
Đến nay đã trọn ba đời Gia Tô.
(tr.37b)(Đoạn thiếu là:)
徐 浪 ... 道 ... 蘇
Từ rằng: Theo đạo Gia Tô,
... 空
... không sách vẻ(vẽ) nói phô(bo) miệng ...
Chúa Trời đã có đức hay,
Sao giang(giăng) thập ác chân tay đinh ghìm(?).
Chúa bà đã có đức hiền,
Sao đầu đầu(cực) ... ... liền ngồi chung.
Họ Hà nghe nói động lòng,
Nước mắt dòng dòng răng chớ nói chơi(?).
Cảm thương đức Chúa trên trời,
Ơn dân dưới đời chịu tội cho dân.
Cảm thương nước thánh muôn phần,
Có tội mấy lần đều rửa sạch trang(?).
Từ rằng: Trời một ngọc hoàng,
Ở trên thiên hạ sửa sang muôn đời.
Ngươi xưng rằng đức Chúa Trời,
Trời sao lại mắc vào nơi cực hình?
(tr.38a)
Chẳng hay ai mắc tội tình,
Còn trời nào nữa hay mình do(?)di(?)
Ngươi rằng nước thánh rửa đi,
Sao không rửa trước để chi khổ mình?
Do(?)di(?) đã mắc cực hình,
Còn ai làm thánh ... ... nước cho.
Tội dân trời đã chịu cho,
Làm vua trong nước nào lo trị đời?
Mậu rằng: Trời cứu con trời,
Ai không vệ(về) đạo tội đời lỗi chết(?).
Từ rằng như tiếng nói này,
Chúa Trời ... ... nước Tây rõ ràng.
Dân đều vệ(về) đạo Hoa Lang,
Đời còn phải ... ... đường ... ai.
Ta nghe bên huyện Tôn Nhai(?),
Có người đạo trưởng mang tai ngồi tù.
(tr.38b)
Nào ... nước thánh đi đâu,
Không đem rửa tội để cầu người lo.
Lấy trong việc ý(ấy) mà so,
Trời đông, nam, bắc khác đò trời tây.
Đoạn thiếu ở trên có lẽ do tác giả kịch liệt công kích đạo Thiên Chúa, sợ đụng chạm nên đã bị cắt đi chăng?
Tôi vì muốn gìn giữ vốn chữ Nôm cổ của dân tộc mà phiên âm cả đoạn thiếu này, rất mong được sự lượng thứ của bạn đọc theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa. Tôi hoàn toàn không có ý công kích, chê bai hay miệt thị gì trong vấn đề này. Theo thiển nghĩ của tôi, tác giả có lẽ chỉ chê bai những nhân vật của mình vì một số hiểu biết không mang tính khoa học: việc thụ thai, sự trùng lặp,... Bởi vậy, bản thân tôi rất cần sự lượng thứ của độc giả gần xa.
Họ Hà đương gẫm(ngẫm) lời hay,
Phút đâu chim hạc lại bay(?) xuống liền.
Hóa ra đồng tử có duyên,
Tay cầm hai trái đào tiên, miệng cười.
Bảo cho hai trái, hai người,
Ăn rồi mới biết là người dạy khôn.
Ngày nay đã đến hoàng hôn,
Hai ngươi dời khỏi động môn hành trình.
Theo ta tới Bích Phong Đình,
Ở trong hang đá nghỉ mình một đêm.
Sáng(rạng) mai có kẻ xuống tìm,
Đem lên Vân động, mạ(mựa) hiềm thị(đợi) trông.
(tr.39a)
Tiểu đồng dạy bảo vừa xong,
Hóa ra chim hạc, thinh không bay về.
Hai người mắt thấy lòng ghê,
Khen rằng: Tiên đạo anh linh nhiều bề.
Phỏng chừng đương lúc sơ canh,
Ngó ra thấy bóng trăng thanh bên trời.
Băng luân một tấm treo khơi,
Non sông muôn nước bóng ngời khắp soi.
Hai người lần tới ngồi coi,
Ngó ra trước cửa, trăng soi như ngày.
Vẳng nghe có tiếng đông(động) dầy(dời),(tiếng động nhiều dần)
Trần trần (rần rần) ngựa gió, xe mây chật đàng,
Trước đi kiệu bạc, tán(ô) vàng,
Giữa che phủ phất, sau dàn(giàn) quạt tiêu.
Đèn ngân, đuốc ngọc, rất nhiều,
Lòa nơi cửa động, hương thiêu thêm nồng.
(tr.39b)
Ngỡ là Thiên tử ngự phong,
Gẫm(ngẫm) trong nghi vệ, cũng đồng thần tiên.
Họ Hà coi thấy sợ liền,
Than rằng: Mấy ... linh thiên(?) như vầy!
Đi tu cũng tiếng ông thầy,
Theo làm tôi Phật, bấy chầy thấy không?
Từ rằng: Thấy chuyện(truyện), thấy đồng,
Tạc(?) hình, đúc tượng ngồi không trên bàn.
Ta thường sớm tối đèn(?) nhan(nhang),
Thấy ma, thấy quỷ, chàng ràng(rạng) chèo(trêu) ngươi.
Phật không thấy nói thấy cười,
Cũng không đi đứng cùng người thế gian.
Chạnh lòng ta mới hỏi chàng,
Xưa nay về đạo Hòa Lang thấy gì?
Mậu rằng thấy bức tượng kia,
Thấy cây thập ác, thấy kỳ đọc kinh.
(tr.40a) (Thiếu một đoạn là:)
Bẩy ngày thấy bữa du minh,
Thấy nhà chung ... thấy hình rất tây.
Thường thường thấy phút ... ...
Thấy ban nước thánh, thấy khi chọn người.
(tiếp)
Trót(tốt) đà bị chúng nhân cười,
Vậy nên phải tới hỏi người tiên tri.
Từ rằng: Gặp kẻ lão tri,
Ta xin niệm đạo từ bi cho tường.
Hai người những ... ngồi bàn,
Nghe chùa Linh Diệu chuông vàng sớn chung(rung).
Đi vừa tới lúc hừng đông,
Tri Niên đã xuống Bích Phong Đình rồi.
Nói rằng: Gặp tuyết giao bôi,
Chư tiên hội án(yến) một hồi canh ba.
Mậu rằng: Chiều bữa hôm qua,
Có người đồng tử cho ta ăn đào.
(tr.40b)
Chẳng hay duyên cớ làm sao,
Khiến ta ăn đào, tránh khỏi động môn.
Niên rằng: Nơi cửa động môn,
Ngày lành, tháng tốt, để buồn, tiên đi.
Hai ngươi lòng hãy chưa(chửa) ly(rời),
E con mắt tục, dòm(?) vị thần linh.
Có ăn hai trái đào xanh,
Rửa lòng nhân dục, trong mình mới an.
Chư tiên nay đã hồi luân,
Ta xin dẫn lộ hai chàng đi lên.
Dương Từ Hà Mậu theo lên,
Tới nơi Vân động nửa trên ... trời, (?: ngửa lên xem trời)
Thấy ngài đồng tử truyền lời,
Rằng: Ba ngươi hãy tạm nơi động này.
Tôn sư giấc mộng đương say,
Từ(chờ) khi thức dậy, sãi hay lẽ nào.
(tr.41a)
Ba người ở động vân cao,
Nhắm xem cảnh vật biết bao nhiêu tình.
Kỳ hoa, đoan(thoại) thảo, xanh xanh,
Châu(trân) cầm(ly) dị thú, rậprình(dậpdình) vui thay!
Nền(nóc) chùa cao quá tầng(vầng) mây,
Bên thềm đá gấm(gẫm), bóng cây imlìm(?:êm đềm).
Ngó vô mấy bức thơ liêm,
Mấy tầng(vầng) thơ đống, trang nghiêm muôn phần.
Ngó ra non nước mấy từng(chừng),
Như tuồng ... tới, bên chân(chưn) đứng chầu(chào,chèo),
Đông, tây, sơn đỏ hai lầu,
Chuông vàng, mõ ngọc, chiếu chầu rất suy.
Ngó xem bờ cõi tứ bề,
Một bầu thiên hạ ... ... nửa châu.
Từ rằng: Có chí vân du,
Đến nay mới đặng ngồi đầu mây xanh.
(tr.41b)
Mậu rằng tìm ... cao minh,
Đến nay mới đặng khỏi mình vội nhờ (?:vếtnhơ).
Niên rằng: Ta thuở bài thơ, => "ấu" viết sai là "bài".
Có lòng tầm(tìm) đạo bây giờ thảnh thơi,
Phút đâu đồng tử ra mời,
Rằng: Tôn sư dậy(dạy), ngồi nơi hiên đào.
Ba người khép nép bước vào,
Gần nơi hiên đào nghe tiếng ngâm thơ,
Đạo trời, nào phải có đâu xa,
Hỏi tấm lòng người, há thấy ra?
Theo nghĩa ai đừng(đành) làm phản nước.
Có đâu nỡ phụ tình nhà?
Xưa nay đời chuộng đường trung hiếu,
Sách vở còn ghi lẽ chánh tà.
Năm phẩm rừng Nho săn sóc lấy,
Trên đời châu báu ... nào qua.
(tr.42a)
Ba người nghe tiếng ngâm rồi,
Vào trước chỗ ngồi, quỳ gối vòng tay.
Tri Niên lại trước, lời bày,
Ngu si chưa rõ xin thầy dạy phô.
Lão Nhan biết lũ mê đồ,
Hỏi rằng: Hà thị nói phô việc gì?
Mậu rằng: Tôi cũng ngu si,
Chẳng hay đời trước cớ chi lầm đàng?
Sư rằng: về đạo Hoa Lang,
Trong tấm lòng chàng tưởng việc chi nên!
Mậu rằng: Lòng chẳng dám quên,
Một lời sau thác đặng lên Thiên đàng.
Lão Nhan dẹp chuyện Hoa Lang,
Hỏi rằng: Kìa gã họ Dương thưa gì?
Mấy năm học đạo từ bi,
Vân du đã chán, ít gì đến đây?
(tr.42b)
Từ rằng: Vì việc chơi mây,
Mang điều bài quấy(?), thầy thầy(ngầy ngầy) trong tai.
Kiếp sau là đi(kiếp) lâu dài,
Biết theo đạo Phật trọn ... cũng chăng?
Sư rằng: Kính Phật, trọng tăng,
Tấc dạ nằng nằng tin tưởng điều chi?
Từ rằng: Học đạo từ bi,
Nhớ ngày sau thác, đặng kỳ siêu thăng.
Lão nhan ngồi ngẫm nghĩ rằng:
Hai đàng(đường) đều muốn chữ "thăng lên trời".
Ta dầu(dù) nói cũng uổng lời,
Chi bằng cho thấy lẽ trời mới tin.
Dặn rằng: Hai gã lòng in,
Đều mong sau thác đặng lên nhà trời.
Chùa đây có ngó lên trời.
Chi bằng bước tới coi chơi một hồi.
(tr.43a)
Hai người nghe nói mừng vui,
Phút quên mình sống, còn ngồi dương gian,
Thưa rằng: Đây có Thiên đàng,
Hai tôi xin tới du quan nửa giờ.
Sư rằng: Hồn sạch phách nhơ,
Xác phàm còn sống, khó(khổ) mơ(ma) lên trời.
Ta nghe trong phép chúa Trời,
Cầu hồn về đạo lên nơi Thiên đàng.
Lại nghe phép thành (Địa) Tạng Vương,
Siêu hồn sẽ(sãi) vãi về phương tây trời.
Hai ngươi nay muốn lên trời,
Xác phàm điều(đều) lại, hồn dời mới xong.
Ta đây có phép thần thông,
Xuất hồn rồi lại ra công hoàn hồn.
Hai ngươi trước tới đài môn,
Giờ lành ta sẽ xuất hồn cho lên.
(tr.43b)
Lại kêu ông Lý dặn rằng:
Rừng Nho gắn vó cho bằng tiên nhân,
Hôm nay là bữa lương thần,
Sửa sang vị thuốc, lo phần luyện đan(đơn),
Tri Niên học thuốc đã an,
Ở chùa Linh diệu thanh nhàn xem chơi.
Dương Từ, Hà Mậu vâng lời,
Theo ngươi đồng tử tới nơi Dương Đài.
Dương Đài có tấm bia bài,
Đề câu "Thiên bất khả giai" rõ ràng.
Hai chàng bước tới xem tường,
Tầng tầng (Từngtừng) mây giợn bốn phương trên trời.
Mậu rằng: Học đạo chúa Trời,
Thiên đàng đành dể trọn đời mới lên.
Phen này hồn sống đặng lên,
Tìm ông cha trước, đặng xin phép về.
(tr.44a)
Về rồi chúng thấy ... chê,
Còn chi người ngoại nói nghề phải chăng.
Từ rằng: Giận tiếng nói nhăng(?),
Nỡ(nó) chê ông Phật là thằng man di.
Lên trời dầu thác cũng đi,
Tìm cho thấy Phật xin trừ(?) phép linh.
Phép chi phá miếu thần linh,
Bắt ông đạo sĩ mới đành(dừng) bụng ta.
Phút đâu đồng tử bưng ra,
Mâm đào lại có bình trà dâng cho.
Bảo rằng ăn uống cho no,
Xuống khe tắm gội, rồi lo lên trời.
Hai người đều phải nghe lời,
Ăn no tắm mát, ngồi chơi nửa giờ.
Tôn sư coi thấy gần xa,
Tới đài, cầm viết vẽ tờ phù(bùa) linh.
(tr.44b)
Dạy rằng: Giờ tý, chữ canh,
Mộng sàng hai gã đem mình nằm an(yên),
Kim đan cho uống ba hoàn,
Linh ấn<phù> hai đạo, cấp mang vào mình.
Tôn sư đốt lá linh phù(bùa),
Hoàng Cân lực sĩ hiện hình chờ(giờ) sai.
Lại biên một cái tín bài,
Đề rồi tên họ của hai xác phàm.
Dạy rằng: Chờ(giờ) trọn tam tam,
Chín trời đi khắp, rồi đem trở về.
Tín bài đã có ấn ...,
Cầm đưa các cửa đặng bề đi thông.
... lời thầy ... vừa xong,
Hai chàng lực sĩ thinh không tàng hình,
Tôn sư lại niệm chú(?) linh,
Cấp như luật lịnh(lệnh) âm binh ứng hầu.
(tr.45a)
Mây đen, khói mịt, ngút mù,
... ... sấm sét, giây lâu mới tàng.
Hai người nằm dưới mộng sàng,
Thiu thiu nhắm mắt nằm an(yên) một buồng(?),
Tôn sư lại đốt phù(bùa) dồn,
Hoàng Cân lực sĩ xuất hồn ra đi,
Hai hồn đều xuất ra đi,
Theo tên lực sĩ một khi lên trời.
Hai chàng đi tới cõi trời,
Coi trong cảnh vật khác nơi cảnh người.
Trời đông một cửa xanh ngời,
Thấy tấm biển đề hai chữ "Thanh Thiên".
Hai cung Tốn, Chấn đoàn viên,
Mộc Tinh, các phủ, đóng(?) liền, giăng giăng.
Đường đi giáp ất thẳng băng,
Có thần gìn giữ, hiệu rằng Thanh Long.
(tr.45b)
Hai chàng trình tín bài xong,
Đem nhau tìm kiếm, hỏi dòng họ xưa.
Áo xanh quân đống(đóng) khuya ...,
Cầm cờ xuân lịnh(lệnh) rước đưa Thần Hoàng.
Mới hay thứ nhất Thiên đàng,
Thật vua Thanh đế, ngôi vàng chánh(chính) đông.
Giữ gìn muôn việc hóa công,
Nhờ(nhớ) ơn gây dựng, vun trồng vụ xuân.
Hai người vội vã lui chân,
Trời đông đi khắp, đến chừng(từng,tầng) trời nam.
Trời nam một cửa son ...,
"Xích Thiên" hai chữ, phản ra rõ ràng.
Cung Ly rực rỡ nghiêm trang,
Hỏa tinh các phủ sửa sang chói lòa.
Bính, Đinh, hai ngã vào ra,
Có thần Châu(Chu) Tước hỏi tra ngăn ngừa.
(tr.46a)
Hai chàng trình tín bài thưa,
Hỏi thăm tin tức, cũng chưa thấy gì.
Quân hầu áo đỏ(?) dựng đi,
Cầm cờ hạ lịnh(lệnh) oai nghi rõ ràng.
Mới hay thứ nhị Thiên đàng,
Phần vua Xích Đế sửa sang vụ hè.
Trời tây<nam> tìm dấu vắng huy(hoe),
Đem nhau một bè, qua chốn trời tây.
Trời tây một cửa phấn tô,
"Bạch Thiên" hai chữ, phản đồ treo ra.
Hai cung Càn(Kiền), Đoài chói lòa,
Kim Tinh các phủ vô ra trần trần(rầnrần).
Tới lui trong cõi Canh, Tân,
Có thần Bạch Hổ giữ phần đồn ngăn.
Hai chàng đi tới trình bằng.
Mong theo việc trước, phăng phăng hỏi tìm.
(tr.46b)
Thấy quân trắng áo, trắng xiêm,
Cầm cờ Thu Lịnh(Lệnh) bài(bày) nghiêm các tòa.
Mới hay là cõi thứ ba,
Phần vua Bạch đế, ở tòa tây thiên.
Đem nhau vội vã đi liền,
Trời tây khỏi miền, trời bắc lại đi.
Nghiêng trông một cửa đen sì,
"Hắc Thiên" hai chữ, phản ghi chẳng lầm.
Một tòa cung Khảm tâm tâm (tăm tăm),
Thủy tinh các phủ ở sâm si cùng.
Phương đi Nhâm, Quý, nhiều sông,
Có thần Huyền Vũ đề phòng đứa gian.
Hai chàng thưa gởi đã an,
Đi qua khỏi cửa tìm đàng người quen(quên).
Thấy quân mặc áo màu đen,
Cầm cờ Đông Lịnh(Lệnh) đua chen đầy đường.
(tr.47a)
Thứ tư đây cũng Thiên đàng,
Phần vua Hắc đế sửa sang một trời.
Trót đà tìm hỏi các nơi,
Đem nhau lại dời qua chốn trung thiên.
"Trung Thiên" hai chữ phản vàng,
Chói lòa một cửa, bốn phương đều hầu,
Hai cung Khôn, Cấn(Lương), làu làu,
Thổ Tinh các phủ liền nhau một tầng(vầng).
Đàng Xà, Câu Trận(Trần), hai thần,
Giữ phần Mậu Kỷ, là phần tuần tra.
Hai chàng trình tín bài qua,
Cứ theo việc trước vậy mà hỏi han.
Thấy quân mặc áo màu vàng,
Cầm cờ Tứ Quý dóng giàn khắp nơi.
Thứ năm đến giữa cõi trời,
Thật vua Hoàng đế trị vì(vời) trung ương,
(tr.47b)
Dương Từ, Hà Mậu, hai chàng,
Hỏi ngài Lực sĩ mỗi đàng cơ quan.
Rằng: Đi năm cửa Thiên đàng,
Cớ chi chẳng thấy Hoa Lang người nào?
Cũng không Phật tử ra vào,
Hoặc là còn ở trời nào nữa chăng?
Hoàng Cân lực sĩ đáp rằng:
Một không thật có chín tầng âm dương.
Tới đây mới đặng năm phương,
Hãy còn bốn cửa Thiên đường ở cao,
Hai người muốn rõ âm hao,
Phải tìm cho khắp, lẽ nào nhầm thay.
Nói rồi vội vã đem đi,
Mau cho cấp kì tới chốn Hiều Thiên.
"Hiều Thiên" hai chữ phản ra,
Sáng soi một cửa chói lòa muôn phương.
(tr.48a)
Thái dương sánh với tiểu dương,
Hai cung dành(đành) sẵn hào quang mặt(mặc) trời.
Kim ô một bóng sáng ngời,
Theo đường Hoàng Đạo soi đời xưa nay.
Máy xây làm việc bằng ngày,
Có thần giữ cửa hiệu bày Thiên Xung(xong).
Hai chàng trình tín bài xong,
Cứ theo việc trước tìm dòng cố nhân.
Tìm thôi(đôi) thấy những quỷ thần,
Thiên đường đây thật về phần Dương Quân.
Xiết bao trong dạ bâng khuâng,
Đem nhiều đi lần tới chốn cùng thiên.
"Cùng thiên" hai chữ phản bài,
Quế hương một cửa, hơi bay đầm đầm.
Thái Âm sánh với Thiếu Âm.
Hai cung đồ lộ(sộ) sáng dầm(dâm) mặt trăng.
(tr.48b)
Một vầng(vừng) Bạch Thố(Thỏ) bóng giăng.
Non sông muôn nước, soi bằng lòng gương.
Có ông tuần giữ một phương,
Thiên Anh chữ đạt(đặt), đón đường hỏi tra.
Hai chàng trình tín bài ra,
Cứ theo việc trước, hỏi bà con thân.
Hỏi thăm thấy những quỷ thần,
Thiên đường đây thật về phần Âm Quân.
Trong lòng chi xiết khuâng bâng (sai thứ tự, phải là bâng khuâng),
lại phải đi lần qua chốn Thường Thiên.
"Thương Thiên" hai chữ chói lòa,
Băng ... một cửa ra vô rập rình.
Quyết Âm sánh với Dương Minh,
Hai cung lộng(lồng) lộng, ngôi tinh, ngôi thần.
Bao nhiêu sấm sấm sét nổ rân,
Mây đen, sương trắng, băng xăng cõi này.
Có thần Viêm Hỏa ở đây,
Hôm mai giữ cửa ngăn rày hỏi tra.
Hai người trình tín bài ra,
Cứ theo việc trước, hỏi qua việc mình.
Tìm thôi gặp những thần linh,
Thiên đường đây thật ngôi Tinh chánh vì.
Ngẩn ngơ, ngao ngán, lòng nghi,
Huyền Thiên lố thấy, kíp đi tìm đàng.
"Huyền Thiên" hai chữ sơn vàng,
Các phương chầu chực, nhộn nhàng vào ra.
Tử Vi rực rỡ một tòa,
Ngọc Hoàng Đại đế thật là cõi đây.
Đền, đài, lầu các, doanh xây,
Sân lân, gác phụng, nền quy, lầu rồng,
Thiên Bồng, Thiên Tuế hai ông,
Ra vô chầu chực có ông tuần phòng.
Hai chàng xem thấy nớp lòng,
Trên trời đếm những là dòng thần linh.
Khắp nơi han hỏi sự tình,
Thảy đều chẳng gặp quen mình là ai.
Cùng nhau than vắn, thở dài,
Còn nơi nào nữa, toan bài hỏi han!
Thương thay hai gã gian nan,
Chín trời đã khắp, phải toan lẽ gì?
(Thiếu 9 câu)
Phút đâu trên chốn tây lầu,
Nổ ba tiếng sấm, nhóm chầu các cung.
Áo, xiêm, đai, mão, lạnh lùng!
Tinh quân các vị rùng rùng tới nơi,
Hai người đứng nép coi chơi,
Những người chầu chực nhà trời là ai?
Thấy đi có tấm thẻ bài,
Đề rằng "Khổng tử Đại Tài Thánh Vương".
Ngồi trong kiệu ngọc, tàn vàng,
Một ông Khổng tử dung nhan tốt lành.
Theo sau biết mấy thần linh,
Coi trong thẻ bạc, đề danh Đại Hiền,
Dương Từ coi thẻ khen liền:
Hèn chi vua chúa chính chuyên miếu thờ.
Cho hay muôn nước đều nhờ,
Đạo ông Khổng Tử làm bờ chăn dân.
Trong đời biết chữ nhân luân,
Biết đường trị loạn, muôn phần nhờ ai?
Nhớ câu "kế vạng khai lai",
Thật ông Khổng tử đại tài thánh vương.
Đâu đâu cũng kính, cũng nhường,
Môn đồ cũng đặng hiển dương muôn đời.
Như vầy mới gọi đạo trời,
Trời sanh đức thánh thay lời dạy dân.
Dương Từ vừa dứt tiếng phân,
Phút đâu lại thấy vị thần đi sau.
Một người cỡi ngựa, tốt râu,
Đến gần nhìn thật Quan Hầu thuở xưa.
Vội vàng quỳ lạy, liền thưa:
Mừng nay gặp Phật, khác xưa cõi phàm.
Nam mô hai chữ già lam,
Xin thương bần sãi ở am chầy ngày!
Quan Hầu cỡi ngựa đi ngay,
Châu Thương đứng lại tỏ bày căn duyên.
Hỏi rằng: Người ở cửa thiền,
Việc chi tới chốn huyền thiên làm gì?
Từ rằng: Ông vội quên đi,
Am mây bần sãi tu trì nhiều công.
Nhang đèn, liền đốt bàn ông,
Nay làm ra Phật sao không đoái hoài?
Châu Thương nổi sặc cười dài,
Nói rằng: Thần, Phật, khác loài nhau xa.
Quan Hầu vốn thật chúa ta,
Tấm lòng trung chánh ai mà dám đương!
Tiếng khen muôn nước đều nhường.
Trời phong làm chức Thành Hoàng Đại Vương.
Từ rằng: Ông thật Thành Hoàng,
Ở trong chùa ấy thờ ông Quan nào?
Đáp rằng: Vì thuở Hán trào,
Có ông Phổ Tịnh kết giao đồng làng.
Chúa ta hiển thánh ngọc hoàng,
Hòa thượng lòng nhớ, thở than bạn lành.
Già lam hai chữ thơm danh,
Mới đặt bài vị tụng kinh siêu hồn.
Khiến nên thiên hạ tiếng đồn,
Vẽ hình, tượng cốt, nhiều môn phù đồ.
Chúa ta chẳng phải đi tu,
Trong mình giữ vẹn tóc râu tốt lành.
Nói cho sãi rõ sự tình,
Nhắm coi Thần, Phật, hai hình khác nhau.
Nói rồi quày ngựa đi mau,
Dương Từ lơ láo, dàu dàu mày châu.
Than rằng: Sự dĩ đáo đầu,
Biết khôn thôi đã tóc râu hết rồi!
Xiết bao chịu nỗi khúc nôi,
Đến nay mới biết lầm ôi! Là lầm!
Nhớ lời đại sĩ Tây lâm,
Chúa le trong dạ, hổ thầm với va,
Chín trời nay khắp trải qua,
Giờ về đã tới từ ra trở về,
Hoàng cân Lực sĩ đề huề,
Dương Từ, Hà Mậu, ra về chưa xa.
Ra về khỏi bến Ngân hà,
Gặp ông Thái ất tuần tra đón đường.
Lăm le bắt trót hai chàng,
Tuốt gươm linh kiếm phòng toan chém đầu.
Hoàng cân Lực sĩ quỳ tâu,
Tín bài có chữ, xin cầu khoan dung.
Thái Ất coi tín bài xong,
Cười rằng: Lũ dại khéo mong lên trời.
Trời đâu cho sãi lên chơi,
Cho quân tả đạo tới nơi dòm hành!
Lão Nhan là vị tiên linh,
Há không rõ đặng sự tình Phong đô?
Phong đô cõi ấy ra vô,
Nhóm nhau những đạo tăng đồ thiếu ai.
Tha bây về động Thiên thai,
Thưa cùng Từ Thất vẽ bày Phong đô.
Bày rồi hai chữ Phong đô.
Kíp đi, chẳng khứng nói phô rõ ràng.
Hoàng cân Lực sĩ vội vàng,
Kíp đem hai họ về đàng Đài dương.
Thứ nầy đến thứ sư đường,
Lão Nhan ngồi chốn Đài dương đợi chờ.
Đánh tay đã đủ chín giờ,
Đốt bùa, niệm chú, như xưa hoàn hồn.
Dương Từ, Hà Mậu hoàn hồn,
Giựt mình thức dậy, thấy Tôn sư ngồi.
Hai người tỉnh lại hỡi ôi!
Vội vàng xuống lạy một hồi tạ ân.
Tôn sư đứng dậy lui chân,
Trở về hậu viện dưỡng thần thảnh thơi.
Hỏi rằng: Hai gã lên trời,
Tầm đà thấy đạo ở nơi cửa nào?
Thưa rằng: Chẳng có âm hao,
Cũng không tông tích nơi nao đặng tường.
Cho hay chín cõi thiên đường,
Ngôi thần, ngôi thánh, phô trương đã rành.
Hai tôi có gặp thần linh,
Rằng Tôn sư rõ sự tình Phong đô.
Vẽ rồi hai chữ Phong đô,
Kíp đi không khứng nói pho rõ ràng.
Hai tôi nghe nói chưa tường,
Xui thầy chỉ vẽ mọi đường Phong đô.
Sư rằng: Nơi chốn Phong đô,
Cầm cân phước tội, trị đồ hung hoang.
Tục kêu rằng chốn Diêm quan,
Ở miền âm phủ sửa sang việc đời.
Hai người trước đã lên trời,
Nay tìm xuống đất mỏm hơi, nhọc mình
Thưa rằng: Rõ đặng sự tình,
Dầu cho nhắm mắt, vong linh cũng đành,
Xin thầy thương kẻ ngu sanh,
Mở đường chỉ ngõ, hết tình thời thôi.
Tôn sư nghe nói thương ôi!
Đem hai họ ấy đến ngôi Dương đài.
Trong đài có tấm bia bài.
Đề câu "Địa quật hữu giai" rõ ràng.
Dưới đài có một cái hang,
Dòm vào lạnh lẽo, thấy đàng tối tăm.
Dương Từ, Hà Mậu lo thầm,
Phen này xuống đất nguyện tầm cho ra.
Bên hang có tấm đá hoa,
Khảm vào bốn chữ "Nam kha mộng sàng".
Hai người lên đá nằm an.
Tôn sư làm phép ròng ban như lời.
Tạo Y quỷ sứ một người,
Cấp như luật định tới nơi ứng hầu.
Dặn rằng: Chớ khá ở lâu,
Mười giờ đi hết, đem nhau trở về.
Ban cho một cái thẻ đề,
Cầm đi các cửa đặng bề đi thông.
Tôn sư dặn bảo vừa xong,
Tạo Y quỷ sứ ra công đem đàng.
Dương Từ, Hà Mậu hai chàng,
Đi theo tên ấy xuống đàng âm ty.
Xuống vừa tới cõi âm ty,
Mặt nhìn cảnh vật khác thì nhân gian.
Mơ màng một cõi quan san,
Mây sầu gió thảm chàng ràng trêu ngươi.
Tạo Y trước dặn hai người,
Đàng đi âm phủ nhiều loài yêu ma,
Tay chơn mình mẩy người ta,
Đầu trâu mặt ngựa, tên là Dạ Xoa
Dạ Xoa giữ việc gian tà,
Người nào mắc tội cho tra hành hình.
Có quân ngăn đón lộ trình,
Tên là quỷ Tốt cái hình lạ thay!
Sớm đầu, vắn cẳng, dài tay,
Xủ tai, lồi mắt, mũi dài, răng to.
Cho hay nó thật hung đồ.
Thấy sao hay vậy, chó phô hỏi gì.
Có ta vâng lệnh đem đi,
Lòng nghi muốn hỏi việc gì, nói cho,
Phút đâu đi đến bến đò,
Bến đò đưa rước chẳng lo tốn tiền,
Bài đề hai chữ "Hoàng Tuyền",
Người qua, kẻ lại, liền liền ngày đêm,
Người kêu "chín suối Cẩm diêm".
Chín kia số hết suối thêm đò đầy.
Qua vừa khỏi bến đò nầy,
Thấy bầy chó dữ ngăn rày đường đi.
Xa xem vằn vện đen sì,
Hằm hằm đứng sủa dị kỳ rất hung,
Bên đường có thẻ bài phong,
Chữ cấm ba vòng rằng Ác Cẩu Thôn.
Có quân quỷ tốt đường mòn,
Người đi qua lại, ỷ khôn dám kề.
Tạo Y đưa cái thẻ đề,
Đem nhau tới đặng một bề đi xuôi.
Vừa đi vừa ghé mắt coi,
Thấy quân quỷ tốt giơ roi đánh người,
Dẫn ra một lũ vài mươi,
Kêu là thầy pháp dối người thế gian.
Người đau chẳng dụng thuốc thang,
Lòng tham tiền bạc bày đàn chữa chuyên,
Khoe khoang nhiều phép linh thiêng,
Phỉnh treo trang khoáng ăn tiền đứa ngu.
Bày đều đóng ấn vẽ phù,
Láo sai binh tướng bắt tù Diêm vương.
Nhà dân cúng đất lệ thường,
Dám kêu tên Đế ngũ phương ngán ngầm.
Làm cho người mắc lỗi lầm,
Ấy là loạn đạo tội dầm ngày sau.
Để bầy chó dữ đua nhau,
Xé thây lũ ấy nhai đầu ăn gan.
Hai người coi thấy liền than,
Đi qua khỏi cửa hỏi chàng Tạo Y,
Hỏi rằng: Thầy pháp tội chi?
Cho bầy chó dữ một khi hành hình,
Đáp rằng: thầy pháp nó khinh
Dối trong trời đất chư linh chẳng vì.
Đời xưa phép luật ai bì,
Trừ ma ếm quỷ, việc gì cũng hay.
Lão quân mất sách đến nay
Đời sau bắt chước liền bày phép xiên.
Nói rồi vội vã đi liền,
Khỏi nơi Ác cẩu gần miền Đạo san.
Đạo san địa phủ chữ vàng,
Bài dựng bên đàng ai thấy cũng kinh.
Núi non đá mọc như binh,
Bày ra sắc lẻm như hình phủ đao,
Có quân quỷ tốt lao xao,
Đón đường tra hỏi, ai nào dám qua,
Tạo Y đưa cái thẻ ra,
Đi qua cửa khác liếc mà xem coi,
Thấy quân quỷ tốt cầm roi,
Dẫn thầy địa lý hỏi đòi chứng tra.
Tra rồi dẫn các thầy ra,
Kể bao nhiêu tội cho va nghe cùng.
Nhà ai rủi mắc tang hung,
Phỉnh đi coi đất đặng mong ăn tiền.
Khoe khoang rằng học phép tiên,
Tầm long điểm huyệt chôn liền giàu sang,
Ai mà chẳng dụng địa bàn,
Chôn nhằm cuộc xấu, ắt mang tai trời.
Lấy câu phú quý dắt người,
Bày nơi ngũ quỷ, chỉ nơi lục thần.
Khiến cho thói chuộng lăng nhăng,
Coi thân cha mẹ rẻ bằng cỏ tranh.
Người thời ham chữ công danh,
Thác không mai táng, để dành thầy toan.
Người thầy ham việc giàu sang,
Nghe theo thầy tục để quàn lâu năm.
Nghĩ điều hoặc thế mà câm,
Tội kia đã đáng thây dầm Đạo san.
Dạ xoa đứng dưới Đạo san,
Bắt thầy địa lý quăng ngang trên hình,
Hai người coi thấy thất kinh,
Quăng lên lăn xuống, thân hình còn chi?
Hai người mắt thấy tai bi,
Mang lời đều hỏi Tạo y vội vàng:
Chẳng hay phong thủy mấy chàng,
Tội chi mắc phải Đạo san hành hình?
Đáp rằng: trong số tử sanh,
Là trời dành để, ai dành đặng đâu.
Từ xưa vua Vũ làm đầu,
Phép bày địa lý để âu trị đời.
Đến sau phong thủy các nơi,
Học đòi coi quẻ, đua bơi tài nghề,
Bày ra làm sách không xuê,
Ngũ phương định hướng, làm bề vọng khi.
Đua nhau cải số trời đi,
Khiến người tai nạn, gian nguy một dòng.
Nói rồi dời bước thẳng xông.
Dương Từ, Hà Mậu ra công hỏi tìm.
Đi vừa đến bến sông Diêm,
Thấy cái cầu chìm, không lót ván đi.
Bắc ngang qua một cái cây,
Dưới cầu những rắn hổ mây, mãng xà.
Có mồng, có tích, như hoa,
Ngóc đầu, ngóc cổ, lội ra dập dìu.
Bài đề là "Nại hà Kiều",
Ai mà có phước thời dìu dắt qua.
Ai mà có tội đem ra,
Quỷ xô xuống đó, mảng xà cắn thây.
Có quân quỷ tốt đông dầy,
Đón người qua lại cầu này hỏi tra.
Tạo Y đưa cái thẻ ra,
Quỷ đều vâng lịnh dắt qua khỏi cầu.
Dạ Xoa chẳng biết ở đâu,
Dẫn ra một lũ trọc đầu đem đi.
Dương Từ trông thấy lòng nghi,
Khuyên nhau chậm bước đặng khi xem tường.
Bốn phương thầy sãi rõ ràng,
Cổ gông, tay trói, lang thang áo quần.
Quỷ đi cầm thẻ rao rân,
Nói rằng thầy sãi sao thân điếm đàng.
Kể từ sống ở dương gian,
Sợ xâu, trốn thuế, tìm đàng đi tu;
Vô chùa làm chước cạo đầu,
Trốn vua theo Phật, trông cầu rảnh tay,
Ghe phen cúng vái làm chay,
Liền ngồi chẩn tế đặt bày việc ra.
Cho đi phổ khuyến người ta,
Bán rao tiếng Phật khắp nhà chúng sanh.
Bày đường nói kệ, nói kinh,
Mõ chuông cửa Phật rập rình ra vô.
Miệng thời niệm chữ Nam mô,
Mắt xem gắm ghé mấy cô đi chùa.
Áo cơm khỏi tốn tiền mua,
No lòng ấm cật lại đua thói xằng.
Tham câu sắc dục ai bằng,
Lòng lang dạ cáo, lăng nhăng trọn đời.
Khi buồn cô vãi đỡ chơi,
Khi vui vợ khách, cùng nơi thanh lầu.
Chẳng trừ thịt chó, thịt trâu,
Trối thây giới cấm! Mặc dầu no say.
Ngoài am giả chước ăn chay,
Trong liêu rượu thịt ngày ngày liền xơi.
Ở đời lại quyết dối đời,
Trong mình chẳng sợ lẽ trời là chi.
Phui pha hai chữ luân di.
Một câu trung hiếu bỏ đi chẳng màng.
Đến nay thác xuống suối vàng,
Án tào sáng chép tội chàng khó nhiêu
Tra rồi đem tới Hà kiều,
Xô cho loài rắn xúm nhiều ăn thây.
Tiếng nghe la khóc vang dầy,
Dưới cầu sóng giợn, huyết đầy sông Diêm.
Dương Từ khó nỗi mắt xem,
Rằng: Ta còn phải đi tìm làm chi.
Thấy vầy cũng biết thị phi,
Đã đành trót phận quy y lầm đàng.
Xưa xem trong miễu họ Hàn.
Dẫn ra đi chém xem giàn như đây!
Tiếc công tu luyện nhiều ngày,
Bỏ nhà bỏ cửa tới đây mới tường.
Thôi thôi từ giã hai chàng,
Ta xin trở lại tìm đàng cố hương.
Tạo Y nghe nói liền can,
Rằng: Người muốn ở suối vàng ngẩn ngơ.
Thẻ cho đi trọn mười giờ,
Đây chưa đặng nửa, khó mơ trở về.
Họ Hà thấy nói ủ ê,
Rằng: Xin gắn vó trọn bề thủy chung.
Gượng đi tìm khắp các cung,
Vậy sau mới biết đạo tùng mà theo.
Chuông kia chẳng đánh sao kêu,
Đèn kia muốn tỏ, không khêu cũng lờ.
Dương Từ nghe phải, làm ngơ,
Gắng đi theo dõi trọn giờ cùng nhau.
Xiết bao mặt ủ mày châu,
Nghĩ trong phận sãi ruột sầu xót xa.
Đi vừa một đỗi xa xa,
Phút đâu bãi cát Hoàng sa gần kề.
"Hoàng sa" hai chữ bảng đề,
Mắt nhìn cảnh vật não nề, thở than!
Dàu dàu cỏ héo, hoa tàn,
Xơ rơ trên bãi cát vàng, buồn thay!
Gió âm hiu hắt lá cây,
Mưa tuôn bạc bạc, bóng mây mờ mờ.
Khắp xem bốn phía bụi bờ,
Éo le cảnh vật, dật dờ ở đây.
Nào hay làng xóm đông dầy,
Có nơi chợ búa, có bầy người ta.
Kêu tên rằng chợ âm la,
Người buôn, kẻ bán, cửa nhà rất đông.
Họ Hà chưa hẳn tấm lòng,
Hỏi: Sao âm phủ thói đồng dương gian?
Tạo Y tỏ vẻ mọi đàng,
Dương gian âm phủ, cơ quan cũng đồng.
Khác là khác việc hóa công,
Cõi bờ chữ "hạ", chữ "trung" rõ ràng.
Sanh, thời ở cảnh dương gian,
Thác, về âm phủ là đàng xưa nay.
Họ Hà nghe nói rõ bày,
Hỏi thăm dòng họ chốn nầy chưa ra,
Đi vừa khỏi bãi Hoàng sa,
Tới nơi cửa ải thấy đà nên kinh.
Cho hay dưới cõi u minh,
Rất nhiều âm tướng, âm binh, nhộn nhàng.
Bài đề rằng "Quỷ Môn Quan",
Vô ra biết mấy mươi đàn tội nhân.
Người thời mắc tội vô luân,
Kẻ thời vô đạo, rần rần dẫn ra.
Lũ kia con gái đàn bà,
Đàn nầy trai tráng, ông già, xiết bao.
Chẳng hay dẫn tới ngục nào?
Nghe quân quỷ tốt miệng rao thẻ rằng:
Dương gian nhiều kẻ tham nhăng,
Trong nhà giàu có lòng hằng bất nhân.
Cho vay đặt nợ muôn phần,
Lợi trung gia lợi, khổ thân nhà nghèo.
Không tiền lại bắt về treo,
Khiến làm đầy tớ, ở theo việc nhà.
Gông cùm, trăng trói, dẫn ra,
Lăng xăng lũ bảy, đàn ba chật đàng.
Kia là thơ lại nhà quan,
Chuộng bề xảo trá, khoe khoang hơn người.
Trau giồi đao bút cho tươi,
Án sanh làm tử, cất mươi xàng xàng
Dắt người vào tội thác ngang,
Ham ăn của cải cho sang cửa nhà.
Nầy là công, cổ, chư gia,
Đều tham chữ "lợi", lại hòa chữ "gian".
Lợi, gian, hai chữ dấy loàn,
Nhà buôn, nhà bán, mắc nàn đã ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng,
Ở đừng vô đạo, cũng đừng vô luân.
Đã làm vào tội bất nhân,
Dầu cho muôn kiếp, cái thân ra gì?
Tạo Y cầm cái thẻ đi,
Qua rồi cửa quỷ, kịp khi đến thành.
Bài đề rằng "Uổng Tử Thành",
Ở trong rực rỡ cung đình nghiêm trang.
Đền son, gác tía lầu vàng,
Hẳn hòi để chốn Diêm quan trị vì.
Các nơi chúa ngục, âm trì,
Đến nơi chầu chực, án từ phán ra.
Tội nào đoán quyết, cho ra hành hình.
Biết bao nhiêu phạm tội tình,
Thác oan uổng tử, vong linh dật dờ.
Hồn thời mượn chúng đại thơ
Hồn thời đội trạng, đội tờ giấy không.
Đàn bà cho tới đàn ông,
Đem nhau quỳ chốn sân rồng thiếu chi.
Trâu, dê, heo chó đều đi,
Mồm thời cắn trạng vào quỳ Diêm quan.
Mới hay vật cũng chịu oan,
Thác không đáng thác, xương tan thịt lìa.
Hai người quỷ sứ đứng kề,
Kẻ thâu đơn trạng, người thì kêu rao.
Hai người chưa rõ lẽ nào,
Đem nhau tới chốn Án tào coi chơi.
Thấy quân quỷ sứ ba người,
Dẫn tới một người chưa biết tội chi.
Ở đời làm nghiệp thế y
Chú ruột Châu Kỳ, tên gọi Châu Phan.
Họ Hà nhìn thấy rõ ràng,
Hỏi rằng sao chú lầm đàng nơi đây?
Đáp rằng: Mang tội làm thầy,
Hốt lầm thang thuốc, hại lây mạng người.
Đạo ta đây có ba người,
Hãy còn ở cửa thứ mười xin ăn.
Một người tên gọi Hà Năng,
Thật người Hà Mậu kêu bằng ngôi ông,
Châu Phan lời nói chưa xong,
Quỷ đà kéo cổ vào trong Án tào
Lại nghe quỷ sứ lao xao,
Dẫn một người nào, đầu trọc mang gông,
Dương Từ xem thấy nghi lòng,
Lại gần vốn thật thầy trong chùa mình.
Hỏi rằng hòa thượng tu hành,
Cớ sao mà mắc tội tình chi đây?
Đáp rằng: Từ thuở chơi mây,
Am vân hôm sớm hằng vầy kệ kinh.
Chẳng may lâm bệnh xá sanh,
Chưa hay buổi ấy âm linh tội gì!
Nói rồi quỷ sứ dẫn đi,
Vào Án tào ấy một khi tra tường.
Án tào quỷ sứ phụng chương,
Đặng dâng bệ ngọc, Diêm vương ngự rằng:
Châu Phan là đứa vô ân,
Đành lòng chẳng tưởng mồ phần tổ tiên.
Mình sanh trong cõi trung nguyên,
(Thiếu một đoạn)
Hiềm vì nghề nghiệp y môn,
Chẳng coi sách vở, làm khôn hại người.
Phó cho cầm cửa thứ mười,
Dẫn đi hành tội, cho người thấy ghê,
Hành rồi hóa kiếp làm dê,
(Thiếu một đoạn)
Dạ Xoa vâng lịnh phăng phăng.
Ngục mười dẫn lại giao thằng Châu Phan.
Diêm vương phán trước ngai vàng:
Rằng: Người Trần Kỷ sao chàng đi tu?
Tiếng xưa cũng biết chữ nhu (nho),
Há không coi sách Xuân Thu dạy đời?
Ngoại di Trung quốc khác trời,
Phụ Nho, theo Phật, chuộng lời nam mô,
Mấy năm ở chốn Phù đồ,
Xưng rằng Hòa thượng, nói phô hoang đàng,
Của thời tam bảo ăn thường,
Ruộng thời sẵn có thập phương cúng dường.
Vả xưa Phật ở Tây phương.
Sống không biết lẽ cang thường là chi.
Luyện lòng hai chữ "từ bi",
Việc nhà việc nước, biết gì tới ai.
Làm người sao chẳng theo loài?
Thảo cha ngay chúa, đoái hoài chi đâu!
Đành lòng cắt hẳn tóc râu,
Đã toan bất tử, lại âu bất thần.
Tội kia đã đến muôn phần,
Khó dung cho đó làm thân con người.
Trước cho bầy rắn cắn tươi,
Rồi sau cho hóa kiếp người làm trâu.
Hành cho chín kiếp rất lâu,
Để ăn rơm cỏ, dãi dầu tấm thân.
Dạ Xoa lãnh nạp họ Trần,
Đem giao chúa ngục ở phần sông Diêm.
Có quân quỷ tốt liền đam,
Dẫn qua Tào án còn giam nửa giờ.
Dương Từ theo khóc bơ vơ,
Rằng nay Hòa thượng biết nhờ cậy ai!
Kỷ rằng: Ta hỏi Thiện Trai:
Cớ sao xuống chốn âm đài, chuyện chi?
Thưa rằng: Tầm dấu Mu ni
Ngỏ xin khỏi tiếng thị phi trên đời.
Kỷ rằng: Trốn lánh việc đời,
Đã đành lỗi đạo cùng trời đất kia.
Ngàn năm trong cõi thiền kia,
Lấy ta làm một tấm bia để đời.
Người về xin gởi vài lời,
Nói cùng tăng sãi các nơi chùa chiền.
Trở về theo đạo thánh hiền,
Lo bề nhà cửa, chớ nguyền đi tu.
Tu chi mắc kiếp làm trâu,
Lại xô xuống cầu, cho rắn phân thây.
(Thiếu 9 câu, thuật lời Châu Phan)
Đương phô quỷ sứ đánh ngang,
Dẫn tới ngục đàng, chịu phép khảo tra.
Châu Phan sùi sụt bước ra,
Họ Hà thấy vậy xót xa phận mình.
Tạo Y quỷ sứ có tình,
Đem qua các chốn ngục hình xem coi.
Bài đề hai chữ "Phong Lôi"
Ngục nầy để trị bầy tôi gian tà.
Hung thay quỷ tốt Dạ Xoa.
Bắt bầy tôi nịnh đem ra hành hình.
Tay chân đều có đóng đinh,
Nằm trên tấm thớt lõa hình trần phơi.
Người giăng nằm giữa ngó trời,
Người thời nằm sấp khắp nơi rẽ ròi.
Phút đâu một tiếng âm lôi,
Nổ ra sấm sét đánh bồi trên thây.
Trước sân lai láng máu đầy,
Tan xương nát thịt, cái bầy quân gian.
Coi tên: Đề thuở Hán Đàng (Đường).
Thập Thường Thị ấy với đoàn hoạn quan.
Hành rồi sái phép linh đan,
Thân hoàn hồn phách, lại hoàn ngục giam.
Cũng vì một tấm lòng tham,
Sâu dân mọt nước, đều làm chẳng công.
Làm tôi mang chữ bất trung,
Phép trong trời đất chẳng dung đứa nào.
Coi rồi cửa ấy tù lao,
Coi qua cửa khác những nào tội nhân.
Bài đề hai chữ "Hỏa Quân"
Ngục này trị kẻ vô luân, loạn thần.
Cột đồng cắm đứng trước sân,
Chế dầu lửa đốt rần rần như giông.
Lửa xe chói đỏ cột đồng,
Dạ Xoa dắt tới đàn ông một đàn.
Tay cầm roi sắt đánh, phang,
Khiến xông vào đó ôm ngang cột đồng.
Thịt xương chói đỏ theo đồng,
Khói bay tanh khét, như xông a ngùy.
Coi vào trong thẻ án ghi,
Họ tên lũ ấy một khi mới tường,
Thảy đều mắc tội hòa gian,
Vợ người đã lấy, còn toan giết chồng.
Coi rồi phía tả đàn ông,
Ngó qua phía hữu, rất đông đàn bà.
Trước sân đem vạc dầu ra,
Dầu sôi sục sục, lửa ra dần dần.
Một bầy phụ nữ truồng trần,
Buộc vào để đứng lõa thân chịu hình.
Dạ Xoa cưa, kéo nên kinh,
Cưa đầu tới đít, rã mình làm hai.
Lòng hai người cũng chia hai,
Bỏ vô dầu nấu, nấu hoài cho tiêu.
Coi vào trong thẻ án nêu,
Họ tên lũ ấy thảy đều dâm bôn.
Thông gian mình nghĩ rằng khôn,
Ở đời chẳng sợ tiếng đồn ô danh.
Coi chồng như đứa vô tình,
Ngày đêm những mảng rập rình cùng trai,
Chê cười cũng trối thây ai,
Kiếm lời che mắt, lắp tai thằng chồng.
Dầu cho dại cũng là chồng,
Lỏng sao giám nói nó không biết gì?
Rõ ràng chứng có tứ tri,
Việc trong buồng kín, âm trì lại biên.
Giết chồng có phép nước chuyên,
Âm thầm có phép cửu tuyền cưa hai,
Cho hay những tội lấy trai,
Thiên tru, địa lục, ai ai nên chừa.
Tạo Y thấy vậy chẳng ưa,
Xem qua ngục khác, phép ngừa đứa gian,
Bài đề hai chữ "Kim Cang".
Ngục này để trị những đàn bất nhân,
Mấy thằng trộm cướp sát nhân.
Cối đồng xay giã, tấm thân nát nghiền.
Làm con chẳng thảo, chẳng hiền,
Mình treo cần sắt, cung liền bắn lên.
Bắn cho văng thịt nhiều tên,
Hỏi ơn cha mẹ đã đền đặng chưa?
Mấy người ăn nói thiếu thừa,
Bắt kềm kéo lưỡi đưa ra khỏi hàm.
Kể sao xiết nỗi gian tham,
Dạ Xoa cứ phép đều đam hành hình.
Kim cang đến cửa đã đành,
Cửa mười cũng nối sẵn dành theo đây.
Bài đề "Minh Lịnh" ngục nầy,
Để trị các bầy bại lễ, loạn luân.
Loài người ăn ở bất phân,
Anh em lấy bậy, bất phân làm người.
Trẻ già nào trọn mấy đời,
Âm thầm chẳng biết hổ ngươi cùng trời.
Mây mưa quen thói nhớp đời,
Bà con nào kể, lẽ trời nào kiêng,
Dạ Xoa theo án xử liền,
Bắt đoàn con gái ghe phen hành hình.
Kẻ thời đội chảo máu tanh,
Ngồi bàn chông sắt, nhóm đoanh ruồi lằng.
Kẻ thì bưng mẻ dòi ăn,
Người bưng máu uống, chưn trăng, cổ xiềng,
Giường đồng lạnh lẽo để liền,
Bao nhiêu tội ấy thay phiên bắt nằm.
Trên đầu dội nước ướt dầm,
Sương sa lạnh lẽo, ruột tằm héo don.
Lạnh lùng xương thịt hao mòn,
Để chi nhơ nhuốc nước non trên đời.
Trải qua xem thấy khắp nơi,
Dương Từ, Hà Mậu buông lời hỏi han.
Hỏi rằng: Các tội ngục đàng,
Hành rồi một thứ, lại hoàn nguyên thây.
Chẳng hay hoàn lại làm chi?
Hoặc là hết tội, đợi kỳ tha chăng?
Tạo Y quỷ sứ đáp rằng:
Âm hình há dễ một lần mà xong!
Giết đi hoàn lại, lòng dòng,
Ngục này hết phép, còn vòng ngục kia.
Hành cho khắp hết cửa bia,
Đem về Tòa án, mới chia kiếp đầy.
Đứa lên làm kiếp ăn mày,
Thằng kia kiếp chó, con này kiếp heo.
Dầu muôn kiếp cũng noi theo,
Mãn thân súc vật; máu đeo dao người,
Tạo Y chưa nói dứt lời,
Thấy quân quỷ tốt tới nơi nhộn nhàng.
Dẫn đi một lũ bóng chàng,
Áo quân rách nát, đều mang gông xiềng.
Họ Hà buông tiếng hỏi liền;
Chẳng hay lũ ấy sổ biên tội gì?
Đáp rằng: Tội chẳng nhẹ chi,
Ở trên dương thế hay khi thánh thần.
Miếu đường là chốn thanh tân,
Trống xây, giọng lý, tiếng rân cầu mời.
Bà tiên, bà Chúa, đặt lời,
Chàng Năm chàng Bảy, lên chơi giới hiền.
Rập rình đàn, địch, cổ, chiêng,
Cơm tiền đã tốn, dầu đèn lại hao.
Ai lên khấn vái, phước trao,
Ai quên cúng quảy, họa vào khi không.
Quạt chơi, ợ, ngáp, lên đồng.
Dối người giàu có rằng ông quở chàng.
Chè xôi gà vịt, đặt bàn,
Cho ta dâng lễ, mới an cửa nhà.
Tội kia khi hoặc người ta,
Phong lôi ngục nọ đem ra hành hình,
Họ Dương lại hỏi đinh ninh
Bóng chàng dường ấy đã đành tội kia.
Chẳng hay thầy thuốc tội chi,
Kìa quân quỷ tốt dẫn đi đông dầy?
Đáp rằng: Thầy thuốc chẳng hay,
Bịnh không biết mạch đặt tay coi chừng.
Lòng quen cưu thói bất nhân,
Nhà giàu thời hốt "bát trân", "thập toàn".
Nhà nghèo thời hốt thuốc ngang,
Tử tô, kinh giới, ma hoàng, quế chi.
Mười hai kinh lạc kể gì,
Bốn mùa vận khí xây đi, mặt trời!
Đau trong tạng phủ thây người!
Thấy tiền đem tới, miệng cười, lòng vui.
Chín trăm phương thuốc xa xui,
Hai ba mươi vị phanh phui đủ làm.
Một pho Thọ Thế lam nham.
Nhìn đâu hốt đó, chẳng ham sách nào.
Làm hoàn, làm tễ, hỗn hào,
Thuốc sâu, thuốc mọt, trộn vào mật ong.
Mạng người coi rẻ bằng lông,
Uống may: thời khá; rủi: không chi thầy.
Khoe mình dao thuốc liền ngày,
Oan hồn theo khóc dầy dầy sau chơn.
Tưởng là trộm cướp bất nhơn,
Ai hay thầy thuốc dữ hơn cọp nhiều.
Tội kia đã đáng đem treo,
Kim cang ngục nọ, xử theo án đồ.
Họ Dương lại thấy dẫn tù,
Mụ bà một lũ u đồ đi ra.
Lặng nghe kể tội mụ bà,
Quỷ cầm thẻ án, trước đà rao rân.
Rao rằng: Làm mụ bất nhân,
Khiến người sanh đẻ tấm thân mắc nàn.
Vả trời phú tánh đã an,
Có cho ai ngược, ai ngang, bao giờ?
Bào thai đã định ngày giờ,
Mười trăng chưa đủ, phải chờ mới nên.
Vợ người chuyển bụng đau rên,
Mụ bà chẳng hỏi nhớ, quên, tháng ngày.
Lên giường vội vã ra tay,
Rằng: Ta sửa bụng cho quày đầu ra.
Vài giờ chưa thấy sổ ra,
Thọc tay lỗ đẻ, sờ mà thăm coi.
Coi rồi chẳng thấy lỗ mòi,
Khiến xui hốt thuốc giục đòi cho mau,
Dối rằng: gần lố mào cau,
Bảo người rán rặn làm nao đẻ đùa.
Hai tay bóp bụng đẩy xua,
Thấy lâu rồi lại thăm vô cửa mình.
Chúc nguyền bà chúa thai sanh,
Đức thầy, đức mụ, thần linh giúp cùng,
Làm tuồng chộn rộn sợ lung,
Chủ nhà van vái tứ tung binh tàng,
Khiến con trong bụng chẳng an,
Ngặt mình nên phải tìm đàng chun ra.
Chõi, quày, chưa kịp hạ sa,
Mụ bà tay chận, kéo ra vội vàng,
Những đồ đi ngược đi ngang,
Cũng vì tay mụ, lòng toan sanh cầm.
Dân ngu chẳng biết lỗi lầm,
Vì ai khuấy rối lẽ trời
Khiến nên èo uột, ra vời chẳng lâu?
Người khôn cũng mắc rầm rầm nhiều nơi.
Lẽ thời tội đáng chém đầu,
Thứ dung cho nó xuống cầu một cây.
Mậu rằng: Nhờ cớ sự nầy,
Đẻ đừng kêu mụ, rước thầy được chăng?
Tạo Y quỷ sứ đáp rằng:
Coi trong sách thuốc có bằng luận minh.
Tiếp sanh lại với thâu sanh,
Tiếp, thâu, hai chữ, là danh mụ bà.
Chờ con trong bụng sổ ra,
Ãm bồng, lau rửa, ấy là phận ta.
Xưa nay làm phận đàn bà,
Tới ngày sanh đẻ, như hoa trên cành.
Hoa kia nở nhụy có chừng,
Đàn bà chửa nghén thời đừng sợ chi,
Thú cầm là loại vô tri,
Tới chừng chuyển bụng, mụ gì sửa cho?
Làm người chẳng biết so đo,
Cứ toan theo mụ, rủi ro cho mình,
Gẫm vật hóa hóa sinh sinh,
Máy trời có sẵn trong mình người ta.
No ngày, khảm tháng đẻ ra,
Mẹ con mạnh khỏe, thầy bà làm chi?
Miễn cho giữ nết đứng đi,
Theo bề ăn ở, đừng khi thánh thần,
Dầu cho đẻ mấy mươi lần,
Dễ hơn súc vật muôn phần, nào lo?
Đây đà dứt việc hỏi phô,
Đem nhau tới chốn Phong đô tách vời.
Ra đi tới cửa thứ mười,
Lại gặp ba người quân dẫn đi xin.
Họ Hà dừng bước đứng nhìn,
Một người hình dạng thật in ông mình.
Hà Năng chợt thấy hãi kinh,
Vừa mừng vừa khóc thình linh nói ra:
Hỏi rằng: Hà Mậu cháu ta,...
(Thiếu một đoạn)
Cho hay sự dĩ đáo đầu;
Chưa về cõi thọ ai hầu biết khôn.
(Thiếu một đoạn)
Bấy lâu cầm ở ngục hình,
Một mình chịu khổ, sự tình xiết bao,
Đã không tiền bạc theo tao,
Cũng không dòng họ người nào ở đây,
Gặp nhau chưa hết tình bày,
Tạo Y quỷ sứ kéo ngay ra về.
Rằng: Mười giờ hết phải về,
Dùng dằng đây nữa khó bề hồi dương,
Nói thôi trở gót vội vàng,
Họ Hà, Ông, cháu, hai đàng phân ly,
Năng rằng: Cháu hãy về đi!
(Thiếu một đoạn)
Nói thôi hối cháu trở lên,
Cám thương Hà Mậu chẳng quên mọi lời.
Thứ nầy đến chuyện trên đời,
Dương Từ, Hà Mậu, về nơi Tiên đài.
Lão Nhan ở núi Thiên thai,
Ngồi chùa Linh diệu, hôm mai đợi chờ.
Đánh tay đã đủ mười giờ,
Đốt phù làm phép, như xưa hoàn hồn,
(Thiếu một đoạn)
Thầy rằng: Đã thấy rõ ràng.
Ta phân gốc ngọn hai chàng đặng hay,
(Thiếu một đoạn)
Họ Hà nghe nói rõ ràng,
Chạnh thương đời trước, hai hàng lụy rơi.
Họ Dương quỳ lạy buông lời,
Hỏi rằng: Đạo Phật ở đời tin chăng?
Tôn sư chúm chím cười rằng
Thói đời những mắc đạo xằng đua bơi,
Từ xưa trời tách ra đời,
Ba vua, năm đế, nối đời rất lâu.
Từ ngày có Phật đến sau,
Đến đời ngũ Quý hại nhau bời bời,
Nên hư, gương ở các đời,
Coi vào thời thấy, phải lời bàn chi?
Dương, Hà, hai gã liền quỳ,
Hỏi rằng: Nho đạo dám bì tiên chăng?
Tôn sư thong thả đáp rằng:
Đạo tiên cũng ở trong hằng đạo nho.
Đạo tiên theo việc nhàn du,
Dạo chơi non nước, chẳng cầu công danh.
Đạo nho lo việc kinh dinh,
Giúp trong nhà nước cho minh cương thường
Tiên xưa ở chốn thơ đường,
Một câu nho giáo, lòng càng chẳng quên,
Muốn theo tiên đạo cho bền,
Phải tòng nho đạo mới nên phận mình,
Hai người đều khá hồi trinh,
Đạo nào làm phải mặc tình ráp theo,
Thưa rằng chút phận cheo leo,
Non xanh, nước biếc, xin theo đạo thầy,
Thầy rằng một cõi tiên nầy,
Tiền duyên chưa dứt ở đây khó bề.
Sao sao cũng phải trở về,
Sửa sang nhà cửa trọn bề sẽ hay.
Hai người đồng tiếng thưa thầy,
Rằng: Xin ở lại vài ngày cõi tiên.
Tôn sư hối Lý tri Niên,
Dạy đem hai gã dạo miền Thiên Thai,
Trải qua mấy chốn lâu đài,
Coi thơ tiên cảnh tám bài, thú xưa.
I. Vịnh Sĩ Thú
Long gồm kinh sử mấy mươi pho,
Vàng ngọc nào hơn báu học trò?
Cây trái rừng nho ra sức hái,
Lố gành biển thánh ráng công mò,
Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng,
Đạo vị trau giồi bữa bữa no,
Gặp thuở mày xanh ngồi đọc sách
Một nhà đều hưởng lộc trời cho.
II. Vịnh Nông Thú
Trải khi nắng hạ, lúc mưa thu,
Cày cấy ghe phen sức dãi dầu,
Cúi ngửa nương theo vài đám ruộng,
Làm ăn giữ vốn mấy con trâu.
Theo nghề Hậu tắc nhà không đói,
Chuyên việc Mân phong nước chẳng sầu,
Nhờ gặp mùa màng trời đất thuận,
Năm trăm giống thóc một tay thâu.
III. Vịnh Y thú
Một túi linh đan chẳng ráo hơi,
Trong tay thường cứu mạng người đời.
Năm mùi tánh dược ngày xem xét,
Trăm trứng thang danh bữa đổi dời.
Bịnh tới, chẳng câu người khó đói,
Mạch coi, liền ngán kẻ ăn chơi
Xưa lời quốc thủ khen rằng phải,
Giúp sống dân ta trọn lẽ trời.
IV. Vịnh Bốc Thú
Trải đời thường chuộng báu thi quy,
Phưởng phất mùi hương chúa Phục hy,
Tám quẻ khai ra đường bí yếu,
Sáu hào xây để máy u vi.
Cát, hung, muôn việc vài lời đoán,
Thời vận ngàn năm một lẽ suy.
Bày vẽ tháp trời, hang đất đó,
Những con mắt tục mấy người tri,
V. Vịnh Công Thú
Hóa công máy móc ở đâu nà,
Trăm thợ nhân gian mọc nảy ra,
Sáu phủ đua làm nghề khéo léo,
Năm hành sắm đủ của xây xa.
Màu tuồng đơn kép theo hình vật,
Mọi việc lâu mau mặc ý ta.
Máy tạo trong tay nào có vụng,
Chí lăm nên giống nước cùng nhà.
VI. Vịnh Thương Phú
Một câu thế lợi mở muôn nguồn,
Giàu khó theo người việc bán buôn
Các chợ sanh tài trăm họ nhóm,
Mấy ghe hóa trị bốn phương ruồng.
Trái cân Yến Tử còn roi dấu,
Quyển sổ Đào Công chẳng mất tuồng,
Chờ giá một mai may gập vận,
Ra vào biết mấy của ngàn muôn.
VII. Vịnh Ngư Thú
Ai nói rằng nghề hạ bạc hư?
Chớ chê chài lưới thói bần xừ,
Biếng theo ông Lữ câu danh lợi,
Sánh với thầy Viên bói thủy ngư,
Gánh cá giang hồ trăm chợ đủ,
Chiếc thuyền phong nguyệt bốn mùa dư.
Trọn nhờ lọc nước vui ngày tháng,
Giềng mối trong tay giữ chặt khư.
VIII. Vịnh Tiều Thú
Thánh nhân còn gọi kẻ sô nghiêu,
Người chớ nên khinh thói lão tiều,
Ngày tháng nghinh ngang vài gánh củi,
Núi non dọn vén một tay rìu,
Lộc rừng cũng đủ bề hôm sớm,
Nghề cũ nào lo vốn ít nhiều.
Theo vận vui trời, nhờ cán búa,
Mặc đời Kiệt, Trụ, mặc đời Nghiêu.
Coi rồi tám thú thơ hay,
Họ Hà ngẫm nghĩ bèn day hỏi liền,
Hỏi rằng: Đây vốn cảnh tiên,
Cớ sao chuộng thói theo miền phàm dân?
Niên rằng: Một gốc thiên dân,
Người tiên sánh với phàm trần đâu xa.
Từ trong tám thú trở ra,
Việc đời rồi rảnh ấy là thần tiên,
Hai người theo Lý Tri Niên
Ở Trong Vân động kết nguyền đồng tâm,
Ngày ngày thong thả ca ngâm,
Cùng nhau vui thú quỳnh lâm, dao trì,
Lối nầy tới lối Châu Kỳ,
Chạnh lòng nhớ bạn cố tri họ Hà,
Liền năm liền tháng tới nhà,
Hỏi thăm tin tức, lâu đà thon von.
Liễu nương ở với hai con,
Mượn người tìm khắp nước non mọi đàng.
Long môn từ vắng mặt chàng,
Tình nhà man mác, lòng nàng héo don.
Lìa nhau đã tám năm tròn,
Trông chồng đã mỏi, thấy con thêm sầu,
Tuổi già mà lại hay đau,
Tắt hơi khó nỗi ngồi lâu chờ chồng,
Châu Kỳ thang thuốc giúp công,
Số trời khôn cải, hết lòng thời thôi.
Liễu nương từ thuở thác rồi,
Hai con tám tuổi, mồ côi nhà nghèo.
Cậu, cô, ép uổng khiến theo,
Đọc kinh xem lễ giữ lèo lái xưa.
Tuyết, Băng, lòng vốn chẳng ưa,
Chị em giữ phận đẩy đưa tiếng người,
Nói rằng: Theo đạo năm đời,
Trong khi nào thấy có lời chi hay,
Cha già đi mất lâu nay
(Thiếu một đoạn)
Đọc kinh xem lễ làm gì?
Ơn cha chẳng đoái, còn ghi đạo nào?
Cậu, cô, ghét tiếng cầu cao,
Bỏ điều đói rách, lẽ nào trối thây!
Chị em hẩm hút qua ngày,
Trời sanh trời dưỡng, xày xày cũng xong.
Châu Kỳ thấy cũng động lòng,
Liền cho tiền gạo để phòng nuôi nhau.
Chị em bàn luận cùng nhau,
Việc cha thuở trước họ Châu nói liền.
Rằng: Cha theo Lý Tri Niên,
Đem đi tìm đạo cảnh tiên non Bồng.
Vả đây lên chốn non Tùng,
Đường đi hiểm trở, hầu mong cũng gần,
Muốn cho đặng chữ "hiến thân",
Phải đi lên đó một lần cho hay.
Tìm cha thời phải hỏi thầy,
Mất còn cho hẳn, lòng nầy mới an,
Chị em cơm nước sửa sang,
Nhằm chừng Tùng lãnh băng ngàn phăng phăng.
Cám thương Xuân Tuyết, Thu Băng,
Tuổi còn thơ ấu, nhọc nhằn xiết bao!
Tìm cha nên chốn non cao,
Kể nào thú dữ, màng nào thảnh thơi.
Chị em đi quá nửa ngày,
Hỏi thăm chẳng thấy, trở quày lộn ra,
Hai bên cây đá giao hòa,
Trong non nào thấy cửa nhà chi đâu,
Đường chim dấu thỏ, luôn nhau,
Chị em ngơ ngẩn khôn cầu đường ra,
Non đoài bóng ác hầu tà,
Cùng nhau lần bước đi qua Thạch bàn.
Thạch bàn lại có khe ngang,
Mở cơm ăn uống, rồi toan hỏi người.
Dưới chân đau mỏi khôn dời,
Cùng nhau lẩn thẩn, phút trời hoàng hôn.
Khóc than tiếng dậy như cồn,
Kêu rằng: Cha hỡi! Linh hồn ở đâu?
Chứa chan muôn thảm ngàn sầu,
Hai con sống thác, ai hầu biết cho?
Dắt nhau lên đá nằm co,
Khóc rồi lại ngủ, biết lo phương gì.
Non cao cây cối rậm rì,
Nằm queo lại ngủ, gặp kỳ đêm đông.
Thương thay! Sương tuyết lạnh lùng,
Năm canh đá gối, sương mùng, xiết bao!
Bóng trăng vừa thấy lên cao,
Một bầy thỏ bạch nhảy vào mừng vui.
Nằm khoanh trên đá nối đuôi,
Bao nhiêu sương tuyết, lông chùi sạch trơn.
Đêm đông hơi ngáy tợ đờn,
Chị em giấc ngủ nhờ ơn đăng bền,
Vầng ô vừa lố bóng lên,
Giựt mình trực thấy, thỏ bên nhảy liền,
Ngày sau việc ấy sách biên:
Tướng tinh mộng nguyệt; kết duyên Dương Hà.
Mặt trời vừa lố sáng ra,
Chị em lòng đói, xót xa phận mình.
Chim đâu bay tới thình lình,
Xanh lông, đỏ mỏ như hình sơn son.
Đậu trên đầu đá hai con,
Trái đào, mỏ gắp quăng lòn xuống cho.
Chị em cầm ngửi thơm tho,
Nhờ ăn đào ấy, đặng no tấm lòng.
Chưa hay đi đặng cùng không,
Đoạn sau mới biết cùng, thông, mọi đàng.
Thứ này tới chuyện Tấn vương,
Sửa sang nhà nước, bốn phương vững vàng.
Buổi chầu đông mặt bá quan,
Hai bên văn võ đều bàn việc dân.
Có quan Bảo giá họ Tần,
Quỳ dâng lời sớ ở phần Dự châu.
Tấn vương xem thấy lòng sầu,
Mới hay một trấn Dự châu mất mùa.
Phán rằng: Nghiêu, Thuấn, làm vua,
Chín năm nước lụt mà mùa chẳng hư;
Vì lòng lo sợ có dư,
Phải toan chữ "đức" đặng trừ chữ "tai".
Ngày nay châu Dự cõi ngoài,
Muôn dân đói khó, nào ai đỡ đần!
Tần Khanh trước bệ liền tâu:
Xin đi kinh lược Dự châu một lần.
Trước là chẩn thải muôn dân,
Sau răn quan lại, khỏi phần gian tham.
Tấn vương y tấu cho làm,
Phê rằng: "Thay trẫm, đông nam tuần hành".
Tần Khanh phụng chỉ triều đình,
Thối triều sắm sửa, giàn binh mã rồi,
Về dinh tạm nghỉ một hồi,
Phu nhân liền đặt lễ bồi xin đưa.
Thưa rằng: Cám nỗi dây dưa,
Đoái câu "lân chỉ", nhà chưa phỉ nguyền
Nay ông vâng lịnh tuần biên,
Ra ơn, làm phước, cầu duyên phận mình.
Hoặc là trời chút thương tình,
Sớm cho đặng chữ minh linh nối dòng.
Miễn là nối nghiệp cho ông,
Tôi, phần liễu yếu dám trông lẽ gì!
Tần Khanh từ giã ra đi,
Rần rần xe ngựa một khi đăng trình.
Ngưỡng chiêm kỳ, cổ, nghiêm minh:
Trải qua các trấn, sanh linh đều mừng.
Đua nhau rượu thịt đem dâng,
Đốt hương, đội trạng, tưng bừng xã thôn.
Mười ngày tới huyện long môn,
Xảy vừa gặp lúc hoàng hôn bóng vầy.
Huyện đường xin rước vào đây,
Truyền quân tạm nghỉ rạng ngày sẽ đi.
Đêm đông tiếng trống trì tri
Bóng trăng thấp thoáng trúc ly lối vào
Tần Khanh nằm thấy chiêm bao,
Hai con thỏ bạch nhảy vào trong tay,
Giựt mình bèn thức dậy ngay,
Ngồi bàn chưa rõ điềm nầy cát, hung.
Phút đâu trời đã hừng đông,
Đòi quan Tri huyện, hỏi trong dân tình,
Chỗ nào oan khúc cho minh,
Chỗ nào non nước anh linh cho tường,
Huyện quan bày vẽ mọi đường,
Rằng: Non Tùng có nhiều phương, thú cầm.
Nghĩ trong điều ấy nghi thầm,
Truyền ra một lịnh: sơn lâm liệp điền.
Huyện quan sắm việc săn liền,
Đem đi lên chốn sơn xuyên giải buồn.
Truyền quân vác lưới, chiêu muông,
Nhắm chừng Tùng lãnh, đi ruồng vào săn.
Non xanh cây mọc giăng giăng,
Hươu nai, dấu đá lấy ngăn chật đàng.
Trải qua vừa tới Thạch bàn,
Hai con thỏ bạch bên đàng nhảy đi,
Tần Khanh xem thấy lòng nghi,
Truyền quân bốn dấu, lưới vây tư bề.
Tìm theo tới chốn Hoàng khê,
Thấy hai gái trẻ nằm kề ngủ trưa.
Quân hầu chưa kịp lời thưa,
Tần Khanh bước tới thấy vừa lòng thương.
Nói rằng: Điềm mộng mơ màng,
Thật trời cho lão gặp đàng minh linh.
Giã ơn non nước thần linh,
Đi săn không thú, đã đành gặp con.
Bèn kêu thức dậy hỏi đon,
Việc chi dám tới núi non chốn này?
Tuyết, Băng thức dậy mới hay,
Cúi đầu bèn lạy, tỏ bày đầu đuôi.
Thưa rằng lỡ bước tới, lui,
Đói lòng nhờ có chim nuôi ba ngày,
Tần Khanh nghe rất mừng thay,
Con ai khéo đẻ, mặt mày tốt tươi.
Lịnh truyền bãi việc săn chơi,
Đem hai gái ấy về nơi huyện đường.
Tần Khanh ngồi giữa huyện đường,
Đòi ra han hỏi họ đương việc nhà.
Hỏi rằng hai trẻ tìm cha,
Rằng ai vẽ ngõ chỉ nhà cho đi?
Mới thưa rằng: Có danh y,
Bạn cùng thân phụ, Châu Kỳ là tên.
Tần Khanh đòi họ Châu liền,
Cùng là cô bác ở bên họ Hà.
Tần Khanh hỏi việc họ Hà,
Châu Kỳ gốc ngọn thưa qua rõ ràng.
Tần Khanh mới rõ lòng vàng,
Khen rằng: Bỏ đạo Hòa lan phải rồi.
Cho hay gà, hạc, khác ngôi,
Cây hiền, trái báu, biết mùi, mấy ai?
Bà con nội ngoại vừa hai,
Chớ rằng ai dại, trách tay các người!
Tuyết, Băng là gái thờ Trời,
Ta xin nuôi lấy, cải đời theo ta,
Châu Kỳ quỳ lạy trở ra,
Họ hàng nghe nói, trẻ già đều ưng.
Tuyết, Băng, thay áo, đổi quần.
Phận làm dưỡng tử, lễ dâng lạy rồi.
Tần Khanh sai kẻ tống hồi,
Phu nhân mừng đặng con nuôi trong nhà,
Ấp yêu như ngọc, như ngà,
Dạy bề đức hạnh, nết na thêm nhuần,
Xuê xang cốt cách mười phần,
Họ Hà cải lại họ Tần, rất vinh.
Tuyết, Băng nay đã yên mình,
Ở nơi công phủ, theo tình phu nhân.
Tần Khanh xe ngựa rần rần,
Từ nơi huyện ấy, trông chừng Dự châu.
Các quan lại, tới bữa hầu,
Tờ chương, tờ biểu, bày tâu nhộn nhàng.
Tần Khanh khiến mở cho tường,
Đặng cho lúa gạo, cứu hoang muôn nhà.
Nhớ ơn chẩn thải chư gia,
Một châu trăm họ, trẻ, già, đều vui.
Sửa sang sáu tháng yên rồi,
Giã từ châu Dự, phản hồi Tấn kinh.
Tần Khanh bái yết triều đình,
Tấn vương phán hỏi dân tình khắp nơi.
Phán rằng: Ta nối ngôi trời,
Gẫm mình ít đức, trị đời chẳng an.
Dự châu trời xuống tai nàn.
Cứu dân một cõi, nhờ chàng Tần Khanh.
Công cao quyền trọng, đã đành.
Chức quan Tổng trấn sẵn đành phong ngươi.
Hà đông là cõi tốt tươi,
Bảy châu, chín quận, nhiều người ăn chơi.
Nấy ngươi thay mặt đổi lời,
Ra ngồi Trấn ấy, trị đời chăn dân.
Tấn vương lòng rất ân cần,
Yến diên thết đãi, quân thần đưa nhau,
Tần Khanh xuống bệ khấn đầu,
Tạ vua, lãnh chỉ, thối chầu sửa sang.
Về dinh sắm sửa hành trang,
Đều đem nha lệ lên đàng Hà đông.
Mười ngày tới huyện Hà Đông,
Các quan, xa giá, hội đồng tiếp nghinh.
Rước ông Tổng trấn vào thành,
Muôn dân nườm nượp đều tranh tới mừng.
Long môn huyện ấy ở gần,
Nam khang huyện ấy ở gần Hà đông.
Tần Khanh trấn thủ ải đồng,
Chánh ra bủa khắp, ngoài trong vững vàng.
Mấy câu gia huấn rõ rằng,
Nuôi con gái ngọc, dung nhan khác thường.
Phu nhân lòng rất yêu đương,
Lại cho học chữ cho tường xưa nay.
Tuyết, Băng hai gái xinh thay!
Đã thông kinh sử liền ngày ngâm nga.
Tiếng thơm ngày một đồn xa,
Chúng đều khen ngợi họ Hà phước to,
Tuy là hoa có thơm tho,
Vườn xuân còn đóng, chưa lò gió đông.
Nói rồi việc ở cửa công,
Đây bèn kể chuyện vợ chồng họ Dương.
Dương Từ, từ thuở ly hương,
Một mình Đỗ thị náu nương quê nhà.
Nuôi hai con thuở lên ba,
Đến nay năm tuổi, trong nhà nghèo thêm.
Đỗ nương canh cửi nghề, êm.
Bữa đi gặt mướn còn hềm thiếu ăn.
Dương Trân, Dương Bửu hai thằng,
Tuổi còn thơ ấu, nhọc nhằn xiết bao.
Bà con bên nội lãng xao,
Đồng tiền bát gạo, thấy nào giúp đâu.
Anh em nay vũng, mai bàu,
Hái rau bắt ốc, nuôi nhau năm dài.
Đỗ nương có một em trai,
Tên là Đỗ khoái, tuổi ngoài năm mươi.
Cũng trang tiểu phú trong đời,
Nhà nuôi lục súc chuộng lời, bán buôn,
Ngày nay rảnh việc ngồi buồn,
Chạnh lòng nhớ chị, bỗng tuôn lệ dầm
Nhớ thôi nghĩ lại tủi thầm,
Chị ta nào khác đàn cầm đứt dây.
Cám thương hai cháu thơ ngây,
Trong nhà bần bạc buổi nầy nhờ ai?
Anh đà theo Phật Như Lai,
Gia đinh ấm, lạnh, đoái hoài chi đâu.
Nói thôi chẳng xiết dạ sầu,
Đi qua nhà chị ngõ hầu viếng thăm.
Đỗ nương mừng thấy em thăm.
Mừng rồi lại khóc đầm đầm lệ sa.
Em dầu đoái tấm thân ta,
Ruộng hoang vườn rậm, cửa nhà quạnh hiu.
Ruột gan khô héo mấy chiều,
Nỗi duyên, nỗi phận, nghĩ nhiều bề đau,
Vợ chồng kết tóc cùng nhau,
Trăm năm một hội, nghèo giàu cùng theo.
Hay đây tuổi phận bọt bèo,
Lại mang lấy tiếng ở lều vọng phu.
Quản bao một chiếc bách châu,
Linh đinh trong vực, mặc dầu gió mưa.
Cám thương hai trẻ dây dưa,
Tuổi còn thơ ấu, vóc chưa nên người.
Cứ quen theo thói ăn chơi,
Những điều khôn dại ở đời cậy ai.
Nghe thôi Đỗ Khoái than dài,
Nói rằng: Chị chớ trông hoài uổng công.
Chị thời mang tiếng có chồng,
Gặp khi mưa nắng cậy cùng người ta.
Cháu thời mang tiếng có cha,
Hôm mai lo liệu như gà mồ côi.
Oan gia anh trốn nợ rồi,
Chị già, cháu dại, còn ngồi trông chi?
Ở đây ít kẻ yêu vì,
Hãy theo bên ngoại đỡ khi nghiêng nghèo.
Đỗ nương lo việc nghiêng nghèo,
Mẹ con sửa soạn ngỏ theo đặng nhờ.
Hai thằng Trân, Bửu còn khờ,
Ăn rồi tìm chốn bụi bờ đi chơi.
Ở vừa đặng nửa năm trời,
Đỗ nương thấy vậy, buông lời nói ra:
Heo, dê, gà, vịt, trong nhà,
Coi dùm cho cậu, hơn là chơi không.
Khoái rằng: Chị đã có lòng,
Dạy con biết việc để phòng đỡ thân.
Xưa nay người ở trong trần,
Nhỏ phần việc nhỏ, lớn phần việc to.
Làm ăn lớn nhỏ đều lo,
Trước ra sức nhọc, sau lo bụng mình,
Đỗ nương phận khó đã đành,
Hai con no đói rách lành có em,
Một bề ăn ở đặng êm,
Trong nhà dê, ngỗng, càng thêm đẻ lời.
Anh em Trân, Bửu hết chơi,
Em thời chăn ngỗng, anh thời chăn dê,
Sớm đi thời tối lại về,
Bầy nào theo nấy, chớ hề lộn nhau,
Đỗ nương ngó thấy thêm sầu,
Chạnh lòng nhớ bạn, dòng châu đượm nhuần.
Than rằng: chàng hỡi Dương quân!
Muốn tu còn nối gót lân làm gì?
Dầu cho nên Phật từ bi,
Nỡ nào ngồi ngó hài nhi nỗi nầy!
Phải chi con có cha đây,
Sắm cho ăn học, theo thầy văn chương.
Người nhà nghe nói liền thương,
Thưa cùng Đỗ Khoái đặng tường cơ quan.
Khoái rằng: Chị chớ thở than,
Lòng em cũng đã thầm toan việc đời.
Ngỗng, dê, đặng mấy mươi lời?
Một cây hoa bút dưới trời, vinh hơn.
Chí nguyền nuôi cháu làm ơn,
Giúp nên cho chị, chẳng sờn lòng đâu,
Cháu nay mới sáu tuổi đầu,
Chờ nên tám tuổi sẽ âu học hành.
Từ đây hai gã tiều sanh,
Theo bề dê, ngỗng, phận đành nuôi chăn,
Sớm trưa tìm chỗ cho ăn,
Rủ con nít lại nhiều thằng, xúm chơi.
Châu Khê là cảnh tốt tươi,
Ở vùng non nước nhiều nơi linh thần,
Thuở xưa lập miễu Hà phần,
Thờ ông giáo thọ ở gần châu Khê.
Trời chiều hai gã đi về,
Nghe ai đọc sách, tiếng kề miếu môn,
Hai thằng tuy nhỏ mà khôn.
Tìm vào trong miễu thấy tôn sư ngồi.
Vội vàng quỳ gối lạy rồi,
Thưa rằng: Xin dạy hai tôi học hành,
Tôn sư khi ấy hiện hình,
Trao cho quyển sách Văn minh vỡ lòng
Dạy rằng hai gã coi chung,
Việc trong kim cổ sẵn dùng nhiều nơi,
Thánh xưa hiền trước để lời,
Phò vua, giúp nước, sửa đời, dạy dân.
Học cho biết lẽ quân thần,
Biết phần phụ tử, biết phần hiếu trung.
Dặn dò tua khá thìn lòng,
Chớ tham của hoạnh, đừng mong thói tà.
Nhiều người theo đạo nho ta,
Tiếng đồn hay chữ, vậy mà làm nhăng.
Bởi vì không xét lòng hằng,
Bỏ quên gốc cội, theo phăn ngọn ngành,
Giàu nghèo có số trời sanh,
Trau mình giữ thẳng làm lành mới nên.
Hai con chử dạ cho bền,
Một câu "minh đức" chớ quên thơ nầy.
Minh Đức Thi:
Trên là quan trưởng dưới là dân,
Giữ tấm lòng lành, rảnh thấm thân.
Đi học phải toan tìm cội đức,
Đặng thời chớ khá dứt nguồn ân,
Bốn mùa đông rạng đều theo số,
Trăm họ giàu nghèo cũng có phần.
Xin giữ lòng hằng, dè việc quấy,
Một câu phúc họa, để trời cân.
Dương Trân, Dương Bửu từ đây,
Chịu thầy cho sách, liền xây trở về.
Bữa đi chăn ngỗng chăn dê,
Sách đem theo học, chẳng hề chơi hoang.
Thường ra sơn cốc bên đường,
Bẻ cây tập viết bốn dường chữ xưa,
Ngày liền vào miễu hỏi thưa,
Mấy câu chữ mắc, lý chưa đặng rành.
Học hành mình biết cho mình,
Mẹ già cùng cậu sự tình nào hay.
Phút đâu hơn một năm chầy,
Tôn sư điển ấy hết bày vẽ chi,
Lần hồi ngày tháng qua đi,
Vừa nên tám tuổi, gặp kỳ trùng dương,
Người xưa gặp tiết trùng dương,
Đều lên kiếm núi, lánh đường họa tai.
Có thày dạy học cao tài,
Tên là Trình Kiệt ở ngoài Hạc lâu.
Làm người ở ẩn khôn cầu,
Gió trăng vui thú, công hầu mặc ai.
Thường đi non nước chơi hoài,
Đôi ba chén rượu, một vài câu thi.
Thơ rằng:
Cảnh xuân cho mát mấy mươi đều.
Gấm nhiễu văn người phải gắng theo.
Luôn tháng ngày Châu tin phụng gáy,
Buồn non nước Tống tiếng quyên kêu,
Nhà nho leo lét công đèn lửa,
Biển thánh linh đinh phận bọt bèo.
Ôm đạo một lòng trời đất thấy,
Luống vì bầy trẻ dựng làm nêu.
Than rằng: Sanh chẳng gặp thì,
Phải cam ở dưới cán kỳ tư văn.
Một lòng giữ mối đạo hằng.
Trau lời thế giáo, cằm dằn nhân luân.
Phút đâu gặp bữa thanh thần,
Thật ngày trùng cửu, là phần cuối thu.
Đem bầy trò nhỏ ngao du,
Tới non Cẩm thạch, ở dầu châu Khê.
Nghỉ xem phong cảnh ra đề,
Thấy hai ông lão ngồi kề trên non.
Lại xem bên bến suối Son,
Thấy bầy hươu chạy như tuồng binh đi.
Ra hai câu đối nên kỳ,
Các trò ngơ ngáo, đáp chi xong lời.
Xúm nhau đương nghĩ đối chơi,
Phút đâu Trân, Bửu, đến nơi xem tường.
Trân rằng: Câu đối cũng thường,
Tôi xin đáp lại coi dường sức nao.
Tôn Sư Xuất Đối Đề:
Chữ "mao", chữ "điệt".
Hai ông lão tử ngồi trên.
Dương Trân Đáp Đối Đề:
Đàn sắt, đàn cầm.
Bốn kẻ vương tôn đứng trước,
Dương Trân đối một câu rồi,
Lại thêm Dương Bửu đối bồi một câu,
Tôn Sư Xuất Đối Đề:
Hùng hổ tỳ hưu,
Nhà tướng rằng muôn đội.
Dương Bửu Đáp Đối Đề:
Long lân quy phụng,
Nước vua gọi là bốn linh.
Thầy Trình thấy đối nên kinh,
Khen cho hai gã tiểu sinh thần đồng.
Thầy bèn gạn hỏi thủy chung,
Liền theo hai gã thẳng xông về nhà.
Anh em Trân, Bửu về nhà,
Thưa cùng cậu, mẹ, đều ra mừng thầy,
Cùng nhau chuyện vãn tỏ bày,
Rượu cơm thiết đãi, trọn ngày vầy vui.
Người trong làng xóm tới lui,
Mới hay họ Đỗ có nuôi thần đồng,
Thầy rằng: Nay dám bày lòng,
Xin nuôi hai trẻ theo dòng nho gia,
Hạc lầu về ở cùng ta,
Học cho biết đạo ngỏ ra giúp đời
Đỗ nương, Đỗ Khoái vâng lời,
Đành cho hai trẻ theo nơi Hạc lầu.
Hạc lầu là chốn nho lưu,
Ra công mài ngọc lưu cầu vẽ văn,
Anh em Trân, Bửu hai thằng,
Nay đà khỏi việc nhọc nhằn ngỗng, dê.
Theo thầy Trình Kiệt ra về,
Đua nhau gắng sức học nghề văn chương,
Hôm mai ở chốn thơ đường,
Bao nhiêu sĩ tử đều nhường ngôi trên.
Nói ra thơ phú liền nên,
Sách coi qua mắt, chẳng quên câu nào.
Cho hay tuổi nhỏ tài cao,
Thông minh hẳn có trời trao tánh tình,
Đến khi đọc sách Thi Kinh,
"Lục Nga" thơ ấy động tình xiết bao.
Nhớ câu chín chữ cù lao,
Công ơn cha mẹ no nao đặng đền.
Chạnh lòng buông tiếng khóc lên.
Dòng châu lai láng thấm trên đất dày.
Anh em bái tạ ơn thầy,
Trở về viếng mẹ chầy ngày cách xa.
Nàng rằng: Mừng thấy con ta,
Bấy lâu thương nhớ mình già thêm suy,
Kể từ hai trẻ ra đi,
Ba năm học đạo, biết gì cùng không?
Mẹ già mòn mỏi lòng trông,
Nương lều, dựa cửa, bỏ công tháng ngày.
Thơ rằng: Đạo thánh kể bày:
Làm con thảo thuận tiếng hay xa đồn.
Thường xem trong sách thánh môn,
Hai mươi bốn thảo mới tròn người hay.
Ngưỡng trông trời rộng đất dày,
Ơn cha, nghĩa mẹ, sánh tày lưỡng nghi.
Ấu thơ còn chửa biết gì,
Lớn khôn lòng rất yêu vì hai thân,
Ngày xưa trong miễu Hà phần,
Hai con hỏi việc phụ thân đã rồi.
Hiềm vì non nước xa xôi,
Phận nhà khó đói ngùi ngùi khôn đi.
Bây giờ nhờ có cậu đây,
Con xin lên chốn am mây hỏi tìm.
Đỗ nương nghe mấy lời êm,
Mày châu, mặt ủ, lại thêm buồn lòng.
Than rằng mình những luống trông,
Thấy con mà lại thấy chồng ở đâu!
Am mây dấu tích đã lâu,
Mất còn hai lẽ ai hầu thông tin!
Hai con dạ đã lâm đền,
Biết bao giờ đặng mặt nhìn thấy cha.
Nói thôi nước mắt nhỏ sa,
Anh em Trân, Bửu, đều hòa khóc than!
Thưa rằng: Mẹ hãy tạm an,
Hai con mai sẽ lên đàng am mây.
Đỗ nương lòng cũng ưng vầy,
Sắm ăn cho trẻ phen nầy tầm cha.
Am vân đường sá cách xa,
Cảnh chùa thầy Lộc, tên va Sãi mầm.
Anh em Trân, Bửu tới tầm,
Hỏi thăm tên họ, Sãi mầm chỉ ngay:
Nói rằng: Là tám năm nay,
Thiện Trai thầy ấy chơi mây quên về.
Thuở đi có chuỗi bồ đề
Lâu nay chẳng biết cầm về tay ai.
Hỏi rằng: Hòa thượng là ai?
Đáp rằng: Cũng đã theo ngoài phương tây.
Hỏi: Ai thầy cả ở đây?
Đáp rằng: Vốn thật mầm nầy chớ ai
Bây là con nít nhà ai?
Khéo đem chuyện cũ hỏi hoài chẳng thôi.
Chùa nầy không chuối không xôi,
Không mang dầu cúng, còn rồi nói chi!
Anh em khôn xiết sầu bi,
Dạo coi bàn Phật một khi khuây lòng.
Thấy chùa thờ bức tượng Ông,
Nhện giăng, bụi đóng, kệ không hương đèn.
Anh em thấy tượng liền khen,
Khen rồi lại cảm, hiệp bèn làm thơ,
Cùng nhau xướng họa một giờ,
Tặng ông Quan Đế bài thơ khen rằng:
Tặng Quan Đế:
Tấm lòng ngay chúa thấu trời cao,
Năm ải khôn ngừa một lưỡi đao.
Núi đất ba lời gìn nghĩa Hán,
Sông vàng hai trận trả ơn Tào.
Quyển kinh bát loạn tay nào mỏi,
Ngọ đuốc phò nguy gió chẳng xao.
Phải thuở Kinh châu ngồi giữ chặt,
Ngụy, Ngô hai nước biết nài sao?
Ngâm rồi bèn lấy cục than,
Viết vào tấm vách rõ ràng tám câu
Anh em trước án khấu đầu,
Lạy ông Quan hầu, lui gót trở ra.
Đem nhau vội vã về nhà,
Thưa với mẹ già, đặng rõ nguồn cơn
Nàng rằng: tấc dạ keo sơn,
Thấy con lại nhớ công ơn của chồng.
Tưởng là tách dặm non sông,
Am vân hôm sớm ra công tu hành,
Hay đâu còn nỗi Lưu linh.
Trời dài đất rộng, một mình bơ vơ.
Xiết bao khe suối, bụi bờ,
Nắm xương già rụi, biết nhờ ai hang?
Khóc thôi dùng lễ để tang,
Mẹ con chịu phục cho chàng họ Dương.
Lần hồi ở chốn quê hương,
Anh em Trân, Bửu theo phương học hành.
Tiếng hay đâu cũng biết danh,
Tuổi vừa hai tám, tài anh khác thường.
Xảy nghe trên huyện Nam khương,
Tờ đòi sĩ tử tựu trường phú thi.
Bao nhiêu chúng bạn đều đi,
Anh em giành thứ nhất nhì đậu cao.
Về nhà sắm sửa níp, bao,
Lên Hà đông trấn đặng vào thu vi,
Hai chàng cất gánh ra đi,
Nửa đường xảy gặp trò thi trở về.
Nói rằng có bản treo đề,
Rao cho sĩ tử trở về khoa sau
Ngày nay có giặc Tây châu,
Lịnh sai quân trấn, lo âu giẹp loàn,
Học trò ai nấy đều than:
Ba năm một hội, lỡ làng công phu,
Xảy về đương lúc sơ thu,
Đi đường thấy cảnh dạ sầu nào nguôi!
Khắp nơi bờ cõi ngậm ngùi,
Gió tây dìu dặt mấy mùi kỳ hoa.
Lá cây vàng rụng giơ chà,
Chim kêu déo dắt người xa thêm sầu,
Hai chàng nghĩ việc trước sau,
Về đường phân nói cùng nhau mấy lời,
Trân rằng: Hổ đứng dưới trời,
Phận làm nhân tử ở đời chẳng may,
Cha thời sống thác nào hay,
Mẹ thời già yếu, liền ngày ngồi trông.
Tưởng là đèn sách nên công,
Sớm cho gặp hội mây rồng hiển vang.
Hay đâu gặp buổi ly loàn,
Lỡ bề báo hiếu, lỡ đàng lập thân,
Luận theo trong cõi phàm trần,
Ngọc lành chờ giá, biết phần ai mua?
Sau dầu đặng lộc nhà vua,
Xuân huyên chếch mác, se sua ai nhờ?
Bửu rằng: Danh lợi phỉnh phờ,
Ví như hình vẽ khó đo lòng trời,
Trời tây khó nỗi vị lòng
Ngày xuân nhặt thúc như vòng én mau,
Thương thay mẹ đã bạc đầu!
Chưa hay bóng xế nhành dâu buổi nào!
Không nhà, không cửa, nài sao?
Chịu ơn nghĩa cậu biết bao giờ rồi.
Tình người ở bạc như vôi,
Mấy ai biết đạo tài bồi lấy nhau,
Ta dầu tốt báu như châu,
Về nơi đáy biển, ai hầu biết cho!
Anh em tỏ tấm lòng lo,
Xảy đà gần đến bến đò sông Tương,
Thấy tòa cổ miếu bên đường,
Cây cao, bóng mát, vách tường phấn tô,
Cùng nhau tránh nắng bước vô,
Trước sân thấy có một hồ hoa sen,
Một hồ sen nở lõa bè,
Đóa đua nở nhụy, đóa chen ngậm cười.
Trân rằng: Cảnh khéo trêu ngươi,
Gẫm hoa sen nọ giống người tài hoa,
Ta nghe sen nở bông ra,
Sớm: là mùa hạ; muộn: là mùa thu,
Hỡi ôi! Sen chẳng gặp chầu
Muộn, dầu trổ tốt, ai hầu khen chi?
Hai chàng làm một bài thi,
Vịnh hoa sen muộn, ngụ suy việc mình,
Vịnh Thu Liên:
Sen hỡi là sen! tiếng chẳng hèn
Thấy sen lỡ vận tiếc cho sen
Ngậm cười trước hạ: hèn cũng thưởng,
Đua nở mùa thu: tốt mấy khen?
Gương mặt bất phàm đâu biết đặng,
Bèo tai vô dụng gọi rằng quen.
Phải mà sanh gặp nơi tiên cảnh,
Lá rộng cao che khắp các bèn.
Anh em họa sướng thơ rồi,
Viết vô trong vách tô vôi rõ ràng.
Sau thơ, lạc khoản hai hàng,
Một hàng quê quán, một hàng tánh danh.
Đem nhau trở lại gia đình,
Nhờ cậu nuôi mình, chờ đợi khoa sau,
Lối nầy tới chuyện tây châu,
Có người Vương Phục lòng âu phản thần.
Riêng cầu bên nước Nữ Chân,
Đem quân mọi rợ đánh phần Hà đông.
Tần khanh làm chức Nguyên nhung.
Ra ngăn Vương Phục, đánh cùng Nữ Chân.
Giặc hung, oai thế lẫy lừng,
Nguyên nhung đánh giẹp đã gần hai đông,
Đánh rồi lũ kiến, chòm ong,
Tây châu một cõi lặng trong như tờ,
Ải lang vắng khói như xưa,
Nguyên nhung binh mã về bờ cõi châu.
Quân đi tới rừng Tương châu,
Tới tòa cổ miếu gặp chầu mưa đông.
Đóng quân vào nghỉ miếu trung,
Chờ trời tạnh ráo sẽ mong kéo về.
Tần Khanh ngồi ngó tư bề,
Thấy trên vách phấn có đề "thơ sen".
Xem qua thơ ấy liền khen,
Khiến đem bút mực, đọc bèn sao qua.
Nói rằng: Trời đất khiến ta,
Gặp trang tài sĩ sớm hòa nghĩa thân,
Nhớ nay Xuân Tuyết, Thu Băng,
Tuổi vừa hai bảy, vừa chừng đào yêu,
Đà nên lập lớp thước kiều,
Giàn binh xạ tước, ngỏ chiêu anh tài.
Sao cho xứng gái, xứng trai,
Chữ tài, chữ sắc, sánh hai đôi lành.
Nói rồi, lịnh dạy kéo binh,
Xếp thơ bỏ hộp, về thành Hà đông.
Đãi đằng tướng sĩ đã xong,
Về dinh ngồi nghĩ lại trong việc nhà.
Tây châu từ thuở kéo ra,
Phu nhân có nghén đặng ba tháng rồi.
Nay về con đã biết ngồi,
Thật trời thêm phước còn roi họ Tần,
Bèn đem chuyện ở miếu thần,
Cùng "thơ sen" ấy tố Trần Phu nhân,
Nói rằng: Hai gái Tuyết, Băng;
Đã thông chữ nghĩa, lại nhuần nết na,
Người xưa muốn tính việc nhà,
Thấy người văn học, mới là xứng đôi,
Bấy lâu giặc giã chưa rồi,
Những lo sĩ tử bỏ nơi học trường
Ai dè bên huyện Nam khương,
Có hai sĩ tử họ Dương tài tình.
Muốn cho nên việc con mình,
Phải đòi phủ huyện, hỏi minh việc chàng,
May đâu có huyện Nam khương,
Tên Trần Đoan, tới dân chương mừng hầu,
Mừng cho chín huyện, bảy châu,
Ở an lạc nghiệp đọc câu thăng bình,
Tần Khanh ngồi chốn hậu dinh,
Đòi vào han hỏi sự tình họ Dương.
Trần Đoan thưa chuyện họ Dương,
Mẹ con, nhà cửa, tỏ tường đầu đuôi,
Tần Khanh nghe rất mừng vui,
Cười rằng: Máy tạo khéo xui hiệp hòa.
Họ Dương sánh với họ Hà,
Song sanh điềm ấy, đôi đà xứng hai,
Nấy cho quan Huyện làm mai,
Xe dây Nguyệt Lão đặng hài lương duyên,
Trần Đoàn vâng lịnh về liền,
Trở về tống bảng, tờ truyền theo sau,
Rằng: Nay yên giặc Tây châu,
Tấn vương bệ ngọc mở chầu ân khoa.
Huyện quan viết bảng treo ra,
Rao cho sĩ tử gần xa đặng tường.
Anh em Trân Bửu hai chàng,
Đem nhau tới chốn huyện đàng ứng thi.
Anh em cùng đậu nhất nhì,
Trở về sắm sửa cùng đi tựu trường.
Trần Đoàn ngồi chốn hậu đường,
Đòi lại hai chàng, nói chuyện cầu hôn.
Dạy về thưa với gia tôn,
Đều dùng sáu lễ nghinh hôn một lần,
Trước lo kết nghĩa châu trần,
Sau là một nỗi lập thân khoa này,
Hai chàng ngẫm nghĩ một giây,
Thưa rằng: Công học bấy chầy ra chi!
Ân vua đã mở khoa thi,
Để cho thử sức một kỳ sẽ hay,
May mà cánh nhạn cao bay,
Trấn quan khỏi tiếng bằng nay tư tình.
Chẳng may bảng hổ vô danh,
Huyện quan cũng khỏi nho sanh chê cười,
Trần Đoàn nghe thấm mấy lời,
Dạy về lo liệu tới nơi khoa trường.
Hai chàng về lạy gia nương,
Cùng nhau bàn luận mọi đường gần xa.
Nàng rằng: Chút phận không nhà,
Mặc con toan liệu, mẹ già cũng ưng,
Chớ lo dây đỏ vấn chưn,
Lo công nghiệp buổi thanh xuân cho tròn.
Sau dầu danh tạc bia son,
Trời dành trong sách có con gái hiền.
Hai chàng thâm tạ nhà huyên,
Mang đồ tứ bửu lên miền Hà đông.
Mười ngày lên tới Hà đông,
Tìm nơi lánh ở, mình không dạo đường,
Cùng nhau vô đủ ba trường,
Còn chờ treo bảng, chưa tường đỗ không,
Trần Đoàn lãnh việc mai dong,
Phải đi lên trấn, theo cùng họ Dương.
Mắc di chuyển vẫn dọc đường,
Tới nơi nghe chúng vào trường mới xong.
Hỏi tìm khắp hết tây đông,
Anh em Trân Bửu, đều không gặp rồi,
Bảy ngày kiếm ngược, kiếm xuôi,
Tới lui hai lẽ, thẳng dùi khôn toan,
Muốn về ra mắt Trấn quan,
Sợ e người hỏi hai chàng huyện ta.
May vừa cửa bảng xướng ra:
Dương Trân tên họ, Thủ khoa chánh vì.
Cử nhân Dương Bửu thứ nhì,
Ba ngàn sĩ tử một khi khen giồi,
Yến diên, áo mão, ban rồi,
Trần Đoàn đóng cửa rước lui hai chàng,
Đem ngay vào chốn công đàng,
Lễ dâng bốn lạy, rỡ ràng nam nhi,
Trần Đoàn bèn lấy quyển thi,
Dâng lên trước án một khi khen liền
Dạy rằng: Hai gã thiếu niên,
Chữ danh đã toại, chữ duyên thêm nồng.
Vàng dòng ta cũng chẳng dùng,
Muốn cho ngọc nhuận, sánh cùng băng thanh.
Lứa đôi có số thiên thành,
Chờ khi tháng tốt, ngày lành sẽ toan,
Nói rồi vào chốn hậu đàng,
Khiến đem hai chàng, ra mắt phu nhân.
Phu nhân xem thấy rất mừng,
Rằng: Ơn trời khéo nhắm chừng định đôi,
Trai tài, gái sắc, phải rồi,
Nhà loan cửa phụng sánh ngôi, vui vầy,
Sai người rước mẹ qua đây,
Chủ hôn cho trẻ kết dây sắt cầm,
Dương Trân, Dương Bửu đồng tâm,
Thưa rằng con nợ thanh khâm chưa rồi.
Trên đà thương cảm hai tôi,
Xin cho thỏa dạ rạng rồi công danh.
Tiểu khoa sau lại phỉ tình bách niên.
Công rằng: Lời nói rất miêng
Chữ quyền cùng với chữ duyên đi liền,
Thi hương sớm đã gặp duyên,
Chờ cho thi hội phỉ nguyền mới nên.
Nay đà làm lễ hỏi tên
Keo sơn chữ dạ cho bền ngày sau.
Hai con qua chốn thơ lầu,
Ở chơi vài bữa sẽ âu về làng.
Trần Khanh lại dạy Trần Đoàn
Khá tua bậu bạn hai chàng đi chơi.
Huyện quan trước án vâng lời,
Phải theo Trân, Bửu, chơi nơi thơ lầu,
Tuyết, Băng hai gái riêng sầu,
Ngồi nơi hoa viện lo âu việc mình.
Tuyết, Băng cám chữ minh linh,
Vò vò nuôi nhện công trình biết bao.
Riêng than chút phận má đào,
Gặp xuân chưa biết ngày nào đền ân.
Băng rằng nghe việc hòa thân,
Gẫm trong mình lại muôn phần xót xa.
Có cha mẹ mới có ta,
Có ta, mới có cửa nhà giàu sang.
Mẹ kia đã xuống suối vàng,
Cha xưa non nước khôn toan mất còn.
Hai bên nội ngoại bà con,
Đều người về đạo lại lòn cửa quan.
Từ ta nương dựa cửa sang,
Nào ai lui tới hỏi han thăm tình.
Dầu không gặp nghĩa minh linh,
Cội cây nguồn nước ở mình còn chi,
Mai sau đặng chữ vu quy,
Đã đành phận gái phải đi theo chồng.
Trăm năm sống thác nhờ chồng,
Một môn dòng họ đều không nhìn rồi.
May còn chút tiếng con nuôi,
Ví như trà dở ướp mùi bông hoa,
Nay nghe hai gã tân khoa,
Cha đi tu mất, mẹ già khó khăn.
Vốn không nhà cửa nghiệp hằng,
Nhờ theo họ ngoại ở ăn học hành.
Tiếc rằng trời đất thình lình,
Khéo xe duyên phận cho mình quá ngang!
Cha xưa về đạo Hòa lan,
Chẳng ưa đạo Phật, không màng đạo nho,
Cha nuôi nay chuộng đạo nho,
Gả chồng cũng lựa học trò bậc cao.
Cho hay duyên nợ buổi nào,
Con Trời, con Phật, đều vào theo nhu (nho)
Tuyết rằng: Ta học đạo nhu,
Đến nay mới biết công phu thánh hiền,
Sửa sang ba mối, năm giềng,
Dạy người thiên hạ vẹn tuyền tánh xưa,
Đặt làm sáu bản đờn xưa,
Có thi vận để tiếng đưa tơ đồng,
Ta nay rảnh việc nữ công,
Hòa đờn một tiệc giãi lòng buồn ngâm.
Chị đờn sắt, em đờn cầm,
Tay đờn, miệng đọc, thâm trầm nghe hay.
Xuân Tuyết Đàn Ngâm:
Trời che đất chở đức cao dày,
Cha mẹ sanh con khó sánh tày.
Vậy có người hiền lo báo bổ,
Hai mươi bốn thảo dấu còn nay.
Thu Băng Đàn Ngâm:
Cha phải cha, con phải đạo con,
Rằng lành, rằng thảo, tiếng hay còn.
Cây kiều, cây tử, đời thường ví,
Chẳng trái lòng nhau mới đặng tròn,
Xuân Tuyết Đàn Ngâm:
Vua phải vua, tôi phải đạo tôi,
Sửa sang giềng mối mới lên ngôi
Minh lương hai chữ vầy trên dưới,
Nước trị nhà an, bốn biển vui,
Thu Băng Đàn Ngâm:
Vợ phải vợ, chồng phải đạo chồng,
Vợ chồng là đạo đất trời thông.
Khó nghèo đều chịu giàu đều hưởng,
Kết tóc trăm năm trọn một lòng,
Xuân Tuyết Đàn Ngâm:
Anh phải anh, em phải đạo em,
Huân trì hai ống thổi nghe êm
Sang đồng một cội, là xương thịt,
Sống thác nương nhau ở dịu niêm.
Thu Băng Đàn Ngâm:
Làm người bậu bạn muốn nên danh,
Lời thẳng khuyên nhau ở lấy lành,
Giao mặt xưa rằng vàng ngọc báu,
Giúp lòng nhân nghĩa, lại thêm xanh,
Anh em Trân, Bửu, ngồi buồn,
Lén qua hoa viện đi luồn xem chơi,
Anh em vừa bước tới nơi,
Phút nghe trong viện có lời đờn ngâm,
Mấy dây cầm sắt hòa thâm,
Đờn ngân tiệp với thơ ngâm ai hoài.
Hai chàng dừng bước vách ngoài,
Rõ ràng nghe đặng sáu bài thơ xưa.
Trời thu đương lúc nắng trưa,
Chị em ngồi nực, vừa ưa buông đờn.
Hai chàng ngoài vách mau chơn,
Bước vào trong viện coi đờn những ai,
Hay đâu hiệp mặt gái trai,
Mày qua mắt lại, hòa hai ngỡ ngàng.
Tuyết, Băng mắc cỡ vội vàng,
Cúi đầu che mặt, hậu đàng trở vô.
Hai con thể nữ hầu cô,
Cất đờn, bưng hộp, nói phô đều cười.
Bửu, Trân, thấy cũng nực cười,
Bước vô trong viện kiếm lời hỏi qua.
Cho hay con tạo khéo ngoa,
Dạo tầm hoa, lại bỗng ra thấy người,
Trần Đoan bạn với hai người,
Ở nơi hoa viện đã mươi ngày rồi,
Thưa cùng quan trấn kíp hồi,
Tần công bèn dựng lễ bồi đưa ra,
Ban cho năm vóc vân sa.
Sâm nhung, Thanh quế để già dưỡng thân,
Lại cho vàng bạc hai cân,
Của đưa chàng rể sắm phần ra đi.
Mười ngày về tới châu Khê,
Người làng đón rước bộn bề lễ nghi,
Tiếng hay, đâu cũng yêu vì,
Hai thầy cử nhỏ đậu thi trở về.
Ai dè chăn ngỗng, chăn dê,
Vận trời ngó lại ra bề người sang,
Bà con họ nội xa đàng,
Võng dù xin rước về làng thuở xưa.
Đỗ nương, Đỗ Khoái đãi, đưa,
Tiệc bồi năm bữa, mới vừa rảnh rang.
Dương Trân, Dương bửu, hai chàng,
Thưa cùng cậu, mẹ, hiệp bàn việc hôn.
Nàng rằng: Nhờ của công môn,
Ban cho vật quý, mình khôn chối từ.
Chưa hay hai gái hoa tươi,
Đứng trong đào liễu đua cười mấy xuân?
Hai chàng đem việc họ Tần
Đờn nơi hoa viện đều phân tỏ tường,
Nàng rằng: Nhờ phước tổ đường.
Cho con gặp thuở khoa trường nên danh.
Nhờ trời phước đặng chữ vinh,
Sau rồi sẽ liệu gia đình mới xong.
Hai con vào chốn thơ phòng,
Ôn nhuần kinh sử lo vòng thi xuân.
Lần hồi ngày tháng tới gần,
Đem nhau cất gánh trông chừng Tràng an.
Hai chàng đi tới Tấn bang,
Vào trường thi hội, bảng vàng đỗ cao.
Trước đền đứng lặng đầu ngao,
Dương Trân Bảng Nhãn, Bửu vào Thám hoa.
Tuy không dành Trạng nguyên khoa,
Cung thiềm, tháp nhạn cũng là á khôi.
Hốt hoa, bào gấm ban rồi,
Quỳnh lâm mở tiệc, chúa tôi phỉ lòng.
Tờ truyền tới trấn Hà đông,
Tần Khanh văn tín vợ chồng đều vui.
Truyền quân lập tức trống hồi,
Tới Nam khang huyện dọn ngôi công đàng.
Cứ theo Trà thạch các làng,
Cất làm nhà cửa nghiêm trang một tòa,
Giấy nêu rường cột nguy nga,
Nam khang một huyện ít nhà dám đang,
Dọn rồi án kỷ rỡ ràng,
Xảy vừa tới lúc hai chàng vinh quy,
Bảng vàng tán đỏ, đều đi,
Ngựa xe võng giá oai nghi chói lòa
Lại thêm áo mão giồi ra,
Lịnh ban gấm nhiễu ngọc ngà thiếu chi,
Khắp nơi châu huyện đều vì,
Thổi kèn, gióng trống, ra đi rước mừng.
Cho hay đỏ tía sắc xuân,
Để dành trong sách giồi thân học trò.
Thật nhờ họ Đỗ ơn to,
Lúc nầy mới đặng trời cho sang giàu.
Châu Khê đùm đậu bấy lâu,
Đền ơn nhờ cậu, trước sau phỉ tình,
Hạc lầu là chỗ dương danh,
Anh em trả nghĩa sư sanh cũng tròn.
Nay đà đẹp mặt mẹ con,
Ở nơi Trà thạch ăn ngon, mặc lành,
Nhờ vua hai chữ hiển vinh,
Một môn dòng họ linh đình tới lui,
Anh em Trân, Bửu chẳng vui,
Nhớ cha đi mất, ngùi ngùi thở than.
Dọn ra trước chốn công đàng,
Đặt làm hương án, một bàn vọng lên,
Họ tên bài vị rõ biên,
Ăn chay nằm đất chúc nguyền vong linh,
Theo nho dùng lễ tam sinh,
Đọc bài văn tế phỉ tình cha con.
Văn Tế Rằng:
Hỡi ôi!
Trăng xế bóng xuân;
Mây giăng lầu Hạc.
Thấy chữ "mặc liên" thơ cũ,
Chi xiết não nùng;
Nghĩ câu ""phong mộc" người xưa,
Càng thêm bát ngát.
Nhớ linh xưa:
Kinh sử đều thông;
Vận thời chẳng đạt,
Công, danh, hai chữ,
Mơ màng bên gối hoàng lương;
Sự nghiệp một câu,
Lấp lửng trong gương bạch phát.
Khắp chùa miễu cây hương cầu nòi giống,
Nghĩa cha con, nghĩa đã đặng tròn;
Trùm non sông lời nói để ghi lòng,
Tình chồng vợ, tình đâu ở bạc!
Thừa ưa cắp một gậy thiền;
Bỗng chốc bẻ hai gương nhạc,
Xiết bao đường sá xa xôi;
Thêm nỗi cửa nhà man mác!
Đau đớn thay! Một cụm tàn huyên;
Ủ ê bấy! hai cành hoa ngạc,
Ngoài bảy chục xuân thu,
Còn thêm nữa: vó câu qua cửa,
Khôn rõ nỗi xa gần;
Trong ba ngàn thế giới,
Biết bao nhiêu dấu thỏ lên đèo,
Khó lường nơi sống thác,
Tu gặp chùa nghèo;
Chơi lầm cảnh khác.
Sớm hôm chuông mõ,
Xưa am mây đã chót nhọc nhằn;
Ngày tháng tương dưa,
Nay rừng bụi ai cùng mặn lạt?
Làng Trà thạch, đá buông lời nói khống,
Biết đâu tìm dấu Như Lai;
Đất châu Khê, hoa chảy nước mắt đầm,
Khó nỗi hỏi tin Bồ Tát.
Phải gặp thuở qua miền Đông độ,
Rước cha trở lại,
Trong nhà cũng có thích Già;
Nào ai biết tới cõi tây phương,
Xin cha lộn về,
Ở nước há không Di Lặc?
Hộ; là cậy, mất cha nào cậy,
Muốn hỏi han mà cửa Phật vắng hiu;
Ai; là thương, thấy mẹ thêm thương,
Luống trong nhớ, mà tuổi trời nặng vác.
Hỡi ôi!
Sang giàu một giấc,
Mây nổi hoa tàn;
Sự nghiệp trăm năm,
Nước xao, bèo dạt!
Đã biết: cha nghề nào, con nghề nấy,
Mới phải nhân tình;
Há ngờ cha đường nọ, con đường nầy,
Cũng vì thiên các...
Vái Phật mở câu giới cấm,
Hưởng cô nhi mấy tiệc cỗ bàn;
Nhờ vua đặng chữ vinh quy;
Xin hiển khảo dùng thoi vàng bạc.
Đọc rồi văn tế linh cha,
Một môn già trẻ, đều hòa khóc than,
Vô, ra, dù, võng, nhộn nhàng,
Đãi đàng trên dưới cỗ bàn, no say.
Tiệc mừng vừa đủ mười ngày,
Tần Khanh sai kẻ lễ bày đính duyên.
Mừng cho hai rể đặng tiên
Ngàn năm tiếng rạng, danh biên thẻ ngà.
Hai chàng Bảng nhãn, Thám hoa,
Khiến người lên tạ nhạc gia ơn, rồi.
Lương duyên hai chữ thêm giồi,
Trần Đoan vừa tới lo bồi nghinh hôn.
Đỗ nương vâng lịnh công môn,
Chờ ngày giờ tốt nghinh hôn đem về.
Sửa sang sáu lễ nên xuê,
Họ hàng mới nhóm, toan về phụng chiêm.
Hay đâu trăng tỏ mây êm,
Hằng ga núp bóng cung Thiềm bạc sao!
Hỏi đôi chén ngọc chờ trao,
Dương Trân nhuốm bịnh liền đau thương hàn,
Trong nhà lo việc thuốc thang,
Rước thầy hay trị, ngày càng ốm hư,
Tần Khê có dạ ưu tư,
Ra tờ khắp chốn cầu sư tới liền.
Lối này tới cảnh người tiên,
Nơi chùa Linh diệu ở miền Thiên thai.
Dương Từ, Hà Mậu hòa hai,
Bấy lâu ở chốn Quỳnh đài dạo chơi,
Theo tiên hầu nửa tháng trời,
Tấm lòng rửa sạch, việc đời lãng xao.
Lão Nhan coi số Thiên tào,
Đòi hai người vào, nói chuyện trần duyên.
Rằng: Hai họ có căn duyên,
Trời đà trước định, kết nguyền thân gia.
Rày nên sum hiệp một nhà,
Con trai, con gái, thảy đà thành thân.
Họ Hà nghe nói hỏi phăng,
Rằng tôi đi khỏi mới gần nửa trăng.
Trong nhà hai gái còn măng,
Tuổi trời chưa mấy, sao rằng thành thân?
Đáp rằng trên dưới có phần,
Non tiên một bữa, cõi trần một năm,
Toán theo giáp tý thời lầm,
Tuyết, Băng nay đã mười lăm tuổi rồi.
Đạo trời đã biết thời thôi,
Hai người khá kíp phản hồi cố hương,
Lão Nhan làm phép thâu đường,
Cho hai hoàn thuốc cứu chàng Dương Trân,
Hai người về cõi hồng trần,
Sang giàu chung hưởng nhờ phần lộc con,
Lộc con là lộc trời còn,
Nhân luân hai chữ vuông tròn mới an.
Hai người từ biệt Lão Nhan,
Ra nơi Vân động, theo đàng ngày xưa.
Tri Niên họ Lý theo đưa,
Dùng dằng cửa động còn chưa chỉ đường,
Rót ra hai chén quỳnh tương,
Rằng xin gượng uống về đường cho an,
Từ đây xuống chốn dương gian,
Non tiên xa cách khôn đàng trở lên.
Gặp nhau biết lấy chi đền,
Chút duyên bèo nước nào quên tình nầy,
Ngàn năm bóng gió ở đây,
Riêng than chim nhạn rẽ bầy kêu xa,
Vội vàng nào kịp hái hoa,
Dương quan cành liễu gọi là đưa nhau,
Của đưa nào báu chi đâu,
Sao bằng mùi đạo tám câu năm vần.
Ta xin bắt chước cổ nhân,
Gọi thơ đua bạn dương trần ngày nay.
Thơ Đưa Hà Mậu:
Long môn chốn cũ lại bôn ba,
Non nước bâng khuâng cám họ Hà.
Nước Thánh năm đời lòa mắt tục,
Rượu tiên một thuở rửa lòng tà,
Đào nguyên khó hẹn tin bèo nhóm,
Vân động riêng buồn tiếng hạc xa,
Khôn, dại, sự đời ngươi đã thấy,
Nên mình rồi phải giúp người ta,
Thơ Đưa Dương Từ:
Thiên thai xa cách cõi Nam khương,
Hoa cỏ ngùi ngùi cám họ Dương,
Chùa Phật khôn cầm cây lão mại,
Động tiên xin chuốc chén quỳnh tương.
Chút tình bóng gió riêng cưu bạn,
Mấy dặm non sông vôi tách đường.
Đói lạnh dấu xưa ai cũng biết,
Ngươi về, nhà, nước, hiếm người thương
Dương Từ, Hà Mậu nghe thơ,
Than rằng: Nào biết bao giờ gặp nhau!
Cuộc đời là cuộc bể dâu,
Nước về doành thẳm, khôn cầu nguồn xưa.
Nói thôi nước mắt như mưa,
Tri Niên chỉ nẻo quê xưa đành rành,
Thâu đàng nhờ có phép linh
Một ngày một ngọ, hồi trình chẳng xa
Dương Từ về đến quê nhà,
Đoái nhìn cảnh vật thấy ra lạ lùng.
Ngẩn ngơ đứng trước bình phong,
Minh nghi chưa dám vào trong công đường.
May đâu lại có Đỗ nương,
Dạo chơi ra cửa nhìn tường phu quân.
Hai hàng nước mắt rưng rưng,
Nửa thương việc trước, nửa mừng ngày nay,
Dương Từ lấy thuốc tiên hay,
Cho Dương Trân uống, kịp ngày lành mau.
Cha con chồng vợ gặp nhau,
Hỏi, phô, chuyện vãn, trước sau tỏ tình.
Gần xa đều tới thăm mình,
Coi đi tu đã nên hình Phật chi?
Mười lăm năm bỏ nhà đi,
Nợ oan gia lại khéo ghì vào đây.
Nàng rằng: Từ ấy những nay,
Nghĩ trong phận thiếp liền ngày lụy tuôn.
Xiết bao gió chớp mưa luồn,
Chất sầu làm gối, nấu buồn làm cơm.
May nhờ hai trẻ danh thơm,
So bề nhà cửa đặng nờm nở ra,
Phải con chơi vụt theo cha,
Ôi thôi! Thân mẹ cũng ra ăn mày,
Cho hay một trả một vay,
Am mây đã trốn còn đày đi xa,
Đói thời phổ khuyến người ta,
Tương chua, cơm hẩm, gọi là ăn chay,
Coi chim quành quạch thời hay,
Theo cây trái chín ăn chay đời đời.
Bay đâu cho khỏi dưới trời,
Tiếng kêu quành quạch già đời ra chi?
Chỉn rằng vận có thạnh suy,
Người đời sao khỏi hiệp ly lẽ thường.
Bằng nay sum hiệp nhất đường,
Hai con dâng lễ thọ trường cho vui,
Trong nhà quan khách tới lui bộn bề.
Đoạn này Hà Mậu ra về,
Long môn đất ấy, quán quê xưa rồi.
Trạc nhìn nhà cửa hỡi ôi!
Ngói chài, nóc sập, vách vôi gạch nhào,
Ổ vò lưới nhện lao xao,
Trước sân cỏ lán, ngoài rào ngả xiêu.
Vợ con dấu trước vắng hiu,
Bếp còn ốc để, thềm nhiều dế ngâm,
Họ Hà thấy vậy động tâm.
Hai hàng nước mắt ra dầm chéo khăn,
Chưa hay duyên cớ sao rằng,
Tới nhà em gái hỏi phăng sự tình.
Mới hay rằng việc bất bình,
Liễu thơ trước dã bỏ mình về quê,
Tuyết, Băng, hai gái đương xuê,
Ở cùng quan Trấn, bỏ nghề gia tô.
Mậu rằng: Hai trẻ cải đồ,
Thật trời xui khiến còn mồ mả sau.
Cám thương họ Liễu thác mau,
Vợ chồng chẳng gặp theo nhau buổi nầy,
Phải chi đặng sống lại đây,
(Thiếu một đoạn)
Bà con dòng họ một phồn,
Nghe lời nói lạ, tới dồn hỏi xăng.
Mậu rằng: Nói việc Hà Năng,
Cho con cháu biết, kẻo rằng đạo hay
Đốt nhiều vàng bạc thời may.
Vái ông khỏi mắc ăn mày âm cung,
Ai ai nghe cũng não nùng,
Đều lau nước mắt khôn cùng thở than.
Tiếng đồn ra khắp các làng,
Châu Kỳ tới viếng, hỏi han việc đời,
Kỳ rằng: Muốn thấu đạo trời,
Mười lăm năm trọn nối hơi đến giờ,
Đã đành dấu trước bơ vơ,
Đuốc xao vì gió, trăng lờ bởi mây.
Vì ai nên cớ sự nầy,
(Thiếu một đoạn)
Đội ơn anh có công đi,
Phải, chăng, đã thấy, còn nghi lẽ nào.
Ví như một giấc a giao,
Mấy nguồn nước đục lòng vào đều trong.
Mậu rằng: Nói lại đượm lòng,
(Thiếu một đoạn)
Nay ta cứ gốc mà phăng,
Theo đường nhân nghĩa, chi bằng đạo nho.
Trời sanh có một đạo nho,
Ngàn nghề muôn nghiệp đều lò ấy ra,
Cứ theo đơm quảy ông bà,
Quỷ thần chẳng giận, mồ ma không hờn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Dạy đời con cháu đội ơn thánh hiền,
Từ đây hai họ đều truyền:
Bao nhiêu tả đạo đều nguyền đốt kinh.
Phút đâu quan Trấn hay tình,
Đòi Hà Mậu tới hỏi minh mọi lời.
Tuyết, Băng, hai gái nhờ trời,
Cha con vầy hiệp mọi nơi vuông tròn,
Cho hay người cách nước non,
Thác thời mất dấu, sống còn gặp nhau.
Tần Khanh gạn hỏi đuôi đầu,
Họ Hà thưa việc trước sau tỏ tường,
Liền sai quan huyện Nam khương,
Dạy Trần Đoan rước họ Dương đem về.
Yến diên thết đãi phủ phê,
Cùng nhau bàn luận mọi bề phải chăng.
Việc trong trời đất, mấy tầng,
Thấy đâu nói đó, nào từng có quên.
Dương Từ, Hà Mậu hai tên,
Tần Khanh dâng sớ tâu lên cửu trùng.
Tấn vương xem sớ lạ lùng,
Chỉ đòi nội vụ thảy cùng lai kinh.
Tần Khanh vâng chỉ lai kinh,
Cha con hai họ sửa mình đều đi,
Tấn vương ngự trước đan trì,
Cho vào ra mắt một khi xem tường,
Tả biên quỳ tấu họ Dương,
Anh em Trân, Bửu, hai chàng tân khoa
Hữu biên quỳ tấu họ Hà,
Chị em Băng, Tuyết, nết na dịu dàng,
Tấn vương phán trước ngai vàng,
Dương Từ, Hà Mậu có công,
Chín Trời, mười Đất, đi thông,
Tìm ra mối đạo, trong lòng mới an.
Bấy lâu chuộng thói dị đoan,
Đến nay mới biết lầm đường đi xa,
Có lòng quy chánh, cải tà,
Trời liền cho phước, sanh ra con hiền.
Thêm giồi hai chữ lương duyên,
Song sanh đôi tốt, phỉ nguyền giàu sang,
Việc này giao lại Trấn quan,
Chủ hôn hai họ, cho an việc nhà,
Con hiền là báu nước nhà,
Đáng biên vào sử để ra khuyên đời.
Tấn vương dụ xuống khắp nơi,
Cấm theo đạo Phật, đạo trời, chẳng nên.
Dụ rằng: "Đất dưới, Trời trên,
Giữa là kẻ thế, bốn bên Mọi, Lào,
xưa nay chẳng đặng hỗn hào,
Xứ ai nấy ở, loại nào nấy theo,
Coi công: lưỡng quốc tương triều,
Đường đi cách trở, hãy nhiều non sông.
Cớ sao mình ở nước Trung,
Lòng theo nước ngoại, còn mong đợi gì.
Ông bà mồ mả bỏ đi,
Gốc mình chẳng kính, lại vì gốc ai?
Cửa nhà làng xóm cách ngoài,
Phận gần chẳng đoái, đoái hoài phận xa,
(Thiếu một đoạn)
Cứ theo một đạo nho ta,
Giữ câu lễ nghĩa, muôn nhà an vui".
Tấn vương dụ xuống cấm rồi,
Tần Khanh dâng sớ xin hồi Hà đông.
Tấn vương ngự đến đền rồng,
Bạc vàng gấm vóc thưởng công Dương, Hà,
Làm thơ ngự chế ban ra,
Tặng cho hai họ vinh hoa một đời.
Thơ Tặng Dương Từ:
Chùa sãi nào hơn gã họ Dương,
Đi tu mà biết lẽ du phương,
'Gậy thiền dầu tránh nơi tiên động,
Rượu lão đâu say chỗ Phật đường.
Thế tục lắm người con mắt thịt,
Phong trần mấy kẻ tấm lòng gương,
Việc trong trời đất: nên, hư, thấy,
Nào để dân ngu phải lỗi đường.
Thơ Tăng Hà Mậu:
Qua bếp nên khen gã họ Hà,
Năm đời còn biết lẽ ngay tà,
Ra đi chẳng nại đường trời đất,
Chớ lỗi câu nào việc mẹ cha.
Dối thói man di vì nỗi trẻ,
Nghĩ ơn thủy thổ cám cho già,
Một người tìm đạo, muôn người thấy,
Bia để ngàn năm tiếng nước nhà,
Khiến nêu thơ ấy; hai người,
Có công giúp nước, để đời xem trông,
Hai người dưng biểu đền rồng,
Đem nhau về trấn hà đông rỡ ràng,
Tần Khanh về kíp sai quan,
Ra Long môn quận sửa sang cửa nhà,
Dựng nên lương đống một tòa,
Ơn vua sửa dựng, nêu ra cột cờ.
Tần Khanh liền luận ngày giờ,
Dương, Hà hai họ viết thơ đính kỳ,
Phu nhân lòng rất yêu vì,
Sắm cho hai gái vinh quy về làng.
Trong mình đã đủ nữ trang,
Lại thêm của báu lịnh ban thiếu gì,
Cửa nhà rực rỡ ai bì,
Hai con vầy ở, đợi kỳ tống hôn.
Xui nên một huyên Long môn,
Bà con nội ngoại khen đồn tiếng xa.
Ngẫm xem trong cửa họ Hà,
Người sang khách trọng vô ra dập dều,
Trời trao lộc tốt làm nêu ở đời.
Tới ngày tháng sáu hai mươi.
Họ Dương sắm lễ, nhóm người nghinh hôn.
Nam khương qua đến Long Môn,
Đường đi mười bữa, cầu hôn xa vời.
Tần Khanh trước đã vâng lời,
Kiệu tân rần rộ đền nơi họ Hà,
Họ Dương lễ cưới họ Hà,
Hai trai hai gái một nhà thành thân.
Sánh đôi: Xuân Tuyết, Dương Trân,
Thu Băng, Dương Bửu, cân phân vợ chồng.
Đuốc hoa chén ngọc song song,
Trướng loan gối phụng động phòng thêm xuân.
Ba ngày liền mở tiệc mừng,
Khắp nơi châu huyện đều dâng liễn đầy,
Người lui kẻ tới dầy dầy,
Gia tô, thầy sãi cũng vầy coi chơi,
Cùng nhau bàn bạc một lời,
Đã ưng bỏ đạo Phật, Trời, theo nho.
Theo nho trên hưởng phước to,
Phấn vua giồi mặt nào lo phận hèn,
Cho hay công ở sách đèn,
Trải xưa nay cũng tiếng khen còn đời.
*Đoạn cuối truyện:
(tr100b)
Một hồ sen nở ... ...
Đóa đua nở nhụy, đóa ... ngậm cười.
Trân rằng: Cảnh khéo chiều ngươi,
Ngẫm(gẫm) hoa sen nộ, ... người tài hoa.
Ta nghe sen nộ rõ ra,
Hôm thời(thì) vụ hạ, muộn là vụ thu.
Than ôi! Hôm chẳng gặp chiều,
Muộn dầu rõ tốt ai hầu khen chi.
Hai chàng làm một bài thi,
Vịnh hoa sen ý(ấy) ... ... việc mình.
Thơ rằng:
蓮 唉 羅 蓮 ... 庄' ...
Sen hỡi là sen, tiếng chẳng ...,
... 蓮 呂 運 惜 朱 蓮
Thấy sen lỡ vận, tiếc cho sen.
吟 唭 逾 夏 ... ... ...
Ngậm cười gió hạ thăm nhiều tháng(?),
都 ... 湖 秋 卒 氽 ...
Đua nở hồ thu tốt mấy khen.
---HẾT--- |
17324 | https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%B4%20b%C3%A9%20b%C3%A1n%20di%C3%AAm | Cô bé bán diêm | "Cô bé bán diêm" là truyện cổ tích do tác giả người Đan Mạch Hans Christian Andersen sáng tác. Truyện kể về một cô bé nghèo khổ phải đi bán diêm giữa mùa đông giá lạnh và từ giã cõi đời trong đêm Chúa giáng sinh.
Truyện được xuất bản lần đầu tiên năm 1848 trong phần năm của quyển Nye Eventyr (Những truyện cổ tích mới) với nhan đề Den Lille Pige Med Svovlstikkerne (Cô gái bé nhỏ với những que diêm).
Tóm tắt truyện
Cô bé bán diêm sống gia đình rất nghèo khổ, khó khăn mồ côi mẹ, bà mất sớm, tài sản tiêu tán nên cô phải bán diêm cho người bố rất tàn nhẫn hay đánh cô. Vào một ngày cuối năm, cô không bán được que diêm nào. Cô không dám về nhà vì sợ cha đánh. Đêm giao thừa trời giá rét, cô ngồi nép vào gốc tường giữa hai ngôi nhà. Đêm càng lạnh giá, cô quẹt que diêm để sưởi ấm
Mỗi lần quẹt que diêm cháy sáng là một mông tưởng đến với cô. Lần thứ nhất, cô thấy lò sưởi; lần thứ hai cô thấy bàn ăn và con ngỗng quay; lần thứ ba cô thấy cây thông Nô-en cùng những ngọn nến; lần thứ tư cô thấy bà hiện về, lần thứ năm cô thấy mình cùng bà bay lên trời.
Buổi sáng đầu năm, người ta thấy một em bé ngồi giữa những bao diêm trong đó có một bao diêm đốt hết nhẵn. Người ta bảo cô bé đã chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng và đôi môi cô đang mỉm cười.
Đặc điểm nghệ thuật
Truyện "Cô bé bán diêm" chỉ có duy nhất một nhân vật, đó là một em bé bán diêm không có tên. Ba người trong gia đình em là bà, mẹ và cha đều không được miêu tả trực tiếp. Mẹ được nhắc đến thông qua đôi giày quá khổ, cha hiện diện trong nỗi sợ hãi khi cô bé bán diêm nghĩ đến việc phải về nhà khi chưa bán được xu nào và bà thì trong ảo ảnh của những que diêm cháy. Với lối dẫn chuyện đa dạng: miêu tả cảnh vật, miêu tả tâm trạng, lời độc thoại, lời đối thoại một chiều và dẫn lời gián tiếp, câu truyện trở nên hấp dẫn, tránh được sự đơn điệu. Xuyên suốt câu truyện là sự tương phản giữa cảnh ngộ của cô bé bán diêm với khung cảnh rực rỡ, đầm ấm xung quanh trong buổi tối giao thừa, với ảo ảnh đẹp đẽ nhưng ngắn ngủi do những que diêm mang lại. Cảnh ngộ đó còn đáng thương hơn khi con người xung quanh cũng lạnh giá như mùa đông khắc nghiệt. Đỉnh điểm của câu truyện là cái chết của em bé bán diêm giữa đêm giao thừa, một kết cục không giống như cổ tích truyền thống, tính cổ tích có chăng là đôi má hồng và nụ cười của em khi lên cõi thiên đàng, giải thoát khỏi mọi khổ đau.
Dị bản
Cô bé bán diêm có một số dị bản, một hoặc một số tình tiết khác với truyện xuất bản lần đầu năm 1848:
Cô bé bán diêm mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Cả hai chiếc giày của em bị một cậu bé lấy mất.
Không nhắc đến cha và cô bé bán diêm không dám trở về nhà vì sợ làn roi của mẹ kế.
Cô bé bán diêm gặp mẹ thay vì bà khi đốt những que diêm.
Phóng tác
Đã có nhiều tác phẩm nghệ thuật dựa trên câu truyện cổ tích nổi tiếng này, ngoài một số tiểu thuyết, truyện ngắn phóng tác, những phim, nhạc phẩm đáng chú ý là:
Phim
Trung thành với cốt truyện hoặc khác biệt không nhiều:
Cô bé bán diêm (La Petite Marchande d'Allumettes), phim câm của Jean Renoir, Pháp,1928.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl); chủ nhiệm: Charles Mintz, đạo diễn Arthur Davis; do Hãng phim Columbia, Mỹ phát hành năm 1937 và được đề cử Giải Oscar cho thể loại phim hoạt hình ngắn cùng năm.
Hansu Kurushitan Anderusan no sekai (phát hành tại Mỹ với tiêu đề The World of Hans Christian Andersen - Thế giới của Hans Christian Andersen) do hãng phim hoạt hình Toei, Nhật Bản hợp tác với Mỹ sản xuất và phát hành năm 1971, đoạn kết của phim là câu truyện về Cô bé bán diêm.
Thay đổi, thậm chí thay đổi hẳn so với cốt truyện:
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim truyền hình Anh, Richard Bramall và Tom Robertson đạo diễn, phát hành năm 1974.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim video Mỹ, đạo diễn Mark Hoeger và Wally Broodbent, phát hành năm 1983
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim truyền hình Anh Richard Bramall và Tom Robertson đạo diễn, phát hành năm 1987
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim nhạc của Anh, đạo diễn Michael Custance, phát hành năm 1987.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim truyền hình Mỹ, Michael Lindsay-Hogg đạo diễn, phát hành năm 1987.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim hoạt hình Mỹ, Michael Sporn đạo diễn, phát hành năm 1991.
Sự hồi sinh của cô bé bán diêm (Sungnyangpali sonyeoui jaerim), phim nhựa Hàn Quốc, do Sun-Woo Jang đạo diễn, phát hành năm 2002, bản tiếng Anh có tựa đề Resurrection of the Little Match Girl.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim nhựa Canada, James Ricker đạo diễn, phát hành năm 2004.
Cô bé bán diêm (H.C. Andersens eventyrlige verden: Den lille pige med svovlstikkerne), phim hoạt hình Đan Mạch, đạo diễn Jørgen Bing nằm trong một sery phim hoạt hình dựa trên truyện cổ Andersen của ông, phát hành năm 2005.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim hoạt hình Mỹ, Roger Allers đạo diễn, phát hành năm 2006 và được đề cử Giải Oscar cho phim hoạt hình ngắn hay nhất trong năm đó.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), phim hoạt hình ngắn năm 2011 do hãng phim True-D Animations Studio của Việt Nam sản xuất (Xem trên YouTube).
Nhạc
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), opera một hồi của nhà soạn nhạc Đan Mạch August Enna viết năm 1897.
Cô bé bán diêm (Das Mädchen mit dem Schwefelhölzern), opera của nhà soạn nhạc người Đức Helmut Lachenmann, hoàn thành năm 1996.
Cô bé bán diêm (The Little Match Girl), nhạc phẩm của tay guitar điện Loren Mazzacane Connors, ra đời năm 2001.
Ấn tượng 12 (Striking 12), nhạc phẩm của ban nhạc Mỹ GrooveLily dựa trên câu truyện này, trình diễn lần đầu năm 2004.
Ở Việt Nam: bài hát Em bé bán diêm, ca sĩ Ngọc Lễ sáng tác, phát hành trong album Ru cho con và em năm 2000; nhạc sỹ Nguyễn Minh Phương cũng có bài hát cùng tên, phát hành trong album Bụi Phấn năm 2007
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cô bé bán diêm trong Dimibox
Cô bé bán diêm (tiếng Anh, 1848)
Cô bé bán diêm - Những sự diễn dịch hiện đại
Tiểu sử và sự nghiệp của Michael Sporn (tiếng Anh)
Cổ tích hiện đại: Cô bé bán diêm, Lê Huy Bắc.
Ngọn lửa chiếu xuống Cô bé bán diêm (tiếng Anh).
Nghe bài hát Em bé bán diêm của Nguyễn Minh Phương
Hans Christian Andersen
Truyện cổ tích Đan Mạch |
17328 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C3%82m%20ph%C3%B9%20kinh | Âm phù kinh |
Thượng Thiên
1. Quan Thiên Chi Đạo, chấp Thiên chi hành, tận hĩ.
觀 天 之 道, 執 天 之 行, 盡 矣.
2. Thiên hữu Ngũ tặc, kiến chi giả xương.
天 有 五 賊, 見 之 者 昌.
3. Ngũ Tặc tại Tâm, thi hành ư Thiên, Vũ Trụ tại hồ thủ, vạn hóa sinh hồ thân.
五 賊 在 心,施 行 於 天, 宇 宙 在 乎 手, 萬 化 生 乎 身.
4. Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã.
天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道, 以 定 人 也.
5. Thiên phát sát cơ, di tinh dịch tú. Địa phát sát cơ, long xà khởi lục. Nhân phát sát cơ, thiên địa phản phúc. Thiên nhân hợp phát, vạn hóa định hĩ.
天 發 殺 機, 移 星 易 宿. 地 發 殺 機, 龍 蛇 起 陸. 人 發 殺 機, 天 地 反 覆. 天 人合 發, 萬 化 定 矣.
6. Tính hữu xảo chuyết, khả dĩ phục tàng.
性 有 巧 拙, 可 以 伏 藏.
7. Cửu khiếu chi tà, tại hồ tam yếu. Khả dĩ Động Tĩnh.
九 竅 之 邪 在 乎 三 要. 可 以 動 靜.
8. Hỏa sinh ư Mộc, họa phát tất khắc. Gian sinh ư quốc, thời động tất hội. Tri chi tu luyện vị chi Thánh Nhân.
火 生 於 木, 禍 發 必 克. 姦 生 於 國, 時 動 必 潰. 知 之 修 鍊, 謂 之 聖 人.
Trung Thiên
9. Thiên sinh, Thiên sát, Đạo chi lý dã.
天 生 天 殺, 道 之理 也.
10. Thiên địa vạn vật chi đạo, vạn vật Nhân chi đạo, Nhân vạn vật chi đạo. Tam Đạo ký nghi, Tam tài ký an, cố viết thực kỳ thời bách hài lý. Động kỳ cơ vạn hóa an.
天 地 萬 物 之 盜, 萬 物 人 之 盜, 人 萬 物 之 盜. 三 盜 既 宜, 三 才 既 安, 故 曰 食 其 時 百 骸 理, 動 其 機 萬 化 安.
11. Nhân tri kỳ Thần chi thần, bất tri bất thần chi sở dĩ Thần.
人 知 其 神 之 神, 不 知 不 神 之 所 以 神.
12. Nhật nguyệt hữu số, đại tiểu hữu định, thánh công sinh yên, thần minh xuất yên. Kỳ đạo cơ dã, thiên hạ mạc năng kiến, mạc năng tri. Quân tử đắc chi cố cùng, tiểu nhân đắc chi, khinh mệnh.
日 月有 數, 大 小 有 定, 聖 功 生 焉, 神 明 出 焉. 其 盜 機 也, 天 下 莫 能 見, 莫 能 知. 君 子 得 之 固 窮,小 人 得 之 輕 命.
Hạ Thiên
13. Cổ giả thiện thính, lung giả thiện thị. Tuyệt lợi nhất nguyên, dụng sư thập bội. Tam phản trú dạ, dụng sư vạn bội.
瞽 者 善 聽, 聾者 善 視. 絕 利 一 源, 用 師 十 倍. 三 返 晝 夜, 用 師 萬 倍.
14. Tâm sinh ư vật, tử ư vật. Cơ tại mục.
心 生 於 物, 死 於 物. 機 在 目.
15. Thiên chi vô ân, nhi đại ân sinh. Tấn lôi, liệt phong, mạc bất xuẩn nhiên. Chí lạc tính dư, chí tĩnh tính khiêm.
天 之 無 恩 而 大 恩 生. 迅 雷 列 風 萬 不 蠢 然. 至 樂 性 噢, 至 靜 性 兼.
16. Thiên chi chí tư, dụng chi chí công. Cầm chi chế tại khí.
天 之 至 私, 用 之 至 公. 禽 之 制 在 氣.
17. Sinh giả, tử chi căn. Tử giả, sinh chi căn. Ân sinh ư hại, hại sinh ư ân.
生 者 死 之 根. 死 者 生 之 根. 恩 生 於 害, 害 生 於 恩.
18. Ngu nhân dĩ Thiên Địa văn lý thánh. Ngã dĩ thời vật văn lý triết.
愚 人 以 時 文 理 聖. 我 以 時 物 文 理 哲.
19. Nhân dĩ ngu ngu thánh nhân, Ngã dĩ bất ngu ngu thánh nhân. Nhân dĩ kỳ kỳ thánh nhân, Ngã dĩ bất kỳ kỳ thánh nhân.
人 以 愚 虞 聖 人, 我 以 不 愚 虞 聖 人. 人 以 奇 期 聖 人 我 以 不 奇 期 聖 人.
20. Trầm thủy, nhập hỏa, tự thủ diệt vong.
沉 水 入 火, 自 取 滅 亡.
21. Tự nhiên chi Đạo, tĩnh, cố Thiên Địa vạn vật sinh. Thiên địa chi Đạo tẩm, cố Âm Dương thắng, Âm Dương tương thôi nhi biến hóa thuận hĩ.
自 然 之 道 靜, 故 天 地 萬 物 生. 天 地 之 道 浸. 故 陰 陽 勝, 陰 陽 相 摧 而 變 化 順 矣.
22. Thánh nhân tri tự nhiên chi đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. Chí tĩnh chi Đạo luật lịch sở bất năng khế. Viên hữu kỳ khí, thị sinh vạn tượng, bát quái, Giáp Tí thần cơ, Quỉ tàng, Âm Dương tương thắng chi thuật, chiêu chiêu hồ, tiến ư tượng hĩ.
聖 人 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之. 至 靜 之 道 律 歷 所 不 能 契. 爰 有 其 氣, 是 生 萬 象 八 卦 甲子, 神 機 鬼 藏, 陰 陽 相 勝 之 術, 昭 昭 乎, 進 於 相 矣.
Kinh Đạo giáo |
17366 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Nam%20n%C3%AAn%20h%E1%BB%8Dc%20ch%E1%BB%AF%20Ph%C3%A1p | Người Nam nên học chữ Pháp | Tiểu dẫn: Trong số báo Tiếng Dân ra ngày 24 tháng 3 năm 1936, đúng kỷ niệm 10 năm cụ Tây Hồ qua đời, cụ Huỳnh Thúc Kháng trong bài viết mang tựa đề "Cụ Tây Hồ với việc Tây học - Chuyện dật sử trong khoảng Đông học", trong đó có nhắc lại nguyên văn lời cụ Tây Hồ như sau:
... Sau khi đi gặp cụ Sào Nam (1906) về, Cụ nói:
Anh em chưa nên nghe việc ngoài (việc Đông Du) vội, trước hết phải học tiếng nước ngoài đã. Tôi sang Nhật Bản, đi đâu nhờ có cụ Sào Nam bập bẹ đôi tiếng, gặp người Nhật biết chữ Hán, còn mượn cây bút nói được đôi chuyện, không thì tôi ngồi đối diện với họ như là người câm. Nếu như họ pha trà trước mặt mình mà họ chửi hay mắng mình, mình cũng cầm chén uống ngay, mà lại cảm ơn họ nữa. Cái khổ không biết tiếng nói ra thế nào, anh em tưởng tượng cũng biết được...
Cụ lại nói:
Lúc cụ Sào Nam và mấy người thiếu niên sang Nhật nói chuyện cầu học, Khuyến Dưỡng Nghị hỏi:
- Các ông có biết tiếng Pháp không ?
- Thưa chưa.
- Các ông ở chung với người Pháp đã nửa thế kỷ, nước Pháp là một nước văn minh có tiếng trên thế giới, sao lại không học chữ họ ? Đó là một khuyết điểm lớn. Người Nhật chúng tôi hễ người Anh tới, chúng tôi học tiếng Anh, người Nga, người Pháp, người Đức đến, chúng tôi học tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Đức. Chúng tôi lại cho bọn thiếu niên trong nước sang tận xứ họ mà học nữa. Vì mình có biết tiếng họ, chữ họ, đọc được sách vở của họ, mới biết tình hình, chính thể cùng công việc của họ mà bắt chước theo điều hay của họ chứ. Ông đã lớn tuổi không học được, chớ lớp thiếu niên này sao lại không học được tiếng Pháp ?
Đại Ôi (Thủ tướng Nhật) nói tiếp:
- Việt Nam thuộc dưới quyền bảo hộ nước Pháp mấy mươi năm nay, mà chúng tôi gặp ông là một người Việt Nam đầu tiên mới tới nước tôi, đủ thấy dân tộc các ông ít đi ra ngoài. Đã không ra ngoài, đã trong nước lại không học tiếng Pháp, thì dầu ở bên cạnh mà đối mặt nhau như cách xa ngàn dặm. Các ông mắc phải bệnh "ngột". Học tiếng Pháp, chữ Pháp, chính là phương thuốc chữa bệnh "ngột" đầu tiên của các ông vậy ... |
17372 | https://vi.wikisource.org/wiki/M%E1%BB%99t%20%C4%91o%E1%BA%A1n%20%C4%91%E1%BB%91i%20tho%E1%BA%A1i%20v%E1%BB%9Bi%20c%E1%BB%91%20%C4%91%E1%BA%A1o%20M.%20%E1%BB%9F%20Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Ki%E1%BB%81u | Một đoạn đối thoại với cố đạo M. ở Phước Kiều | Tiểu dẫn: Sau khi ở Nhật Bản về (1906), Phân Châu Trinh muốn nói chuyện với công sứ tỉnh và nhờ cố đạo M. ở Trà Kiệu làm trung gian liên lạc. Vị cố đạo này hẹn ngày giờ tới nhà thờ làng Phước Kiều nói chuyện trước. Sau đây là nội dung cuộc đối thoại đó.
... Ông Cố hỏi tiên sinh việc đi Nhật Bản có không ?
Tiên sinh nói:
- Việc ấy khó nói. Nói có thì người ta cũng không tin, nói không thì người ta lại nghi rằng có, chỉ tôi biết lấy tôi mà thôi, không phải nói nữa.
- Đi Nhật Bản thì đi đằng nào ?
- Thế giới giao thông này, đằng nào lại không đi được. Vả, tôi nghĩ giáo sĩ như các ngài đều là người nước văn minh bên Tây, nay sang bên này, ôm một lòng bình đẳng bác ái, lo dìu dắt nhân loại, dò xét thời cuộc, nghĩ việc tương lai, nên tôi muốn hầu chuyện, đặng tỏ tấm lòng uất ức một đôi chút, không ai ngờ ngài lại hỏi những câu không khác chi giọng quan trường An Nam như thế !
Ông Cố biết tiên sinh có ý khích mình, trả lời một cách lạt lẽo rằng:
- Nhà tôn giáo chỉ quản bên phần hồn mà thôi.
- Tôi vẫn biết rồi, song xác đã không còn, hồn dựa vào đâu ? Tôi xem dân nước Nam theo đạo Da Tô có ba phần trong mười, nhà thờ khắp nơi, dân giáo thành chợ, lại có mấy đức giáo sĩ văn minh làm cha làm thầy, chuông sớm trống chiều, không ngày nào không giảng dạy, thế mà xét nghĩ trong dân đó, thì phong tục hủ bại, thực nghiệp sơ sài, sinh kế khốn đốn, không khác gì dân ngoài, thỉnh thoảng cũng có trường học, chẳng qua về phần ít, mà những kẻ ở trường ra, thì cũng làm công việc phiên dịch thường thường, chưa thấy có người nào mở mang nền học thức, làm ra công lợi cho công chúng, để làm tiêu biểu cho dân giáo, làm gương tốt cho người An Nam. Có lẽ dân An Nam không phải con chung của Chúa Trời, nên dẫu có theo giáo, chỉ sớm chiều đọc mấy câu kinh, đến ngày lễ tới nhà thờ quỳ nghe giảng mà thôi hay sao ?
Ông Cố biết tiên sinh có hoài bão khác người bèn nói rằng:
- Ông đã có lòng như thế, đã làm bức thư gửi cho Toàn quyền, Khâm sứ rồi, song có một điều này nên tôi không muốn tới: quan Tây sang bên này, hàng ngày tiếp kiến chỉ có đám quan trường mà thôi, mà trong đám ấy thì nhiều kẻ ô mỵ không có nhân cách, vì thế nên người Tây có ý khinh người An Nam, cho sĩ dân cũng là một bọn như thế, ấy là một điều lầm, nên tôi không muốn tới, và tôi muốn nói là việc quan hệ đến lợi hại cả hai nước Pháp cùng Nam, chớ không phải việc riêng chi của tôi. Quan sứ có chịu đãi tôi một cách khác đãi quan trường thì tôi mới tới.
Ông Cố nói:
- Để tôi làm giới thiệu cho.
Ông Cố mới viết thư cho Công sứ tỏ ý tiên sinh yêu cầu như thế. Công sứ bằng lòng, định ngày tới nói chuyện hơn mấy giờ đồng hồ. |
17433 | https://vi.wikisource.org/wiki/B%C3%A0i%20t%E1%BB%B1a%20ch%E1%BB%AF%20N%C3%B4m%20vi%E1%BA%BFt%20cho%20%22H%E1%BB%A3p%20qu%E1%BA%A7n%20doanh%20sinh%20thuy%E1%BA%BFt%22 | Bài tựa chữ Nôm viết cho "Hợp quần doanh sinh thuyết" | Mở bản họa đồ của hai nửa địa cầu, xem sử dân tộc trong năm mảnh đại châu, mà nhìn rộng ra, hơn hai mươi triệu loài người, hàm răng đội tóc, vuông chân tròn đầu, hỏi xem có nước nào: lập quốc ở trước mặt đất hơn hai nghìn dặm, tự Bắc chí Nam, nào ven bể nào đất liền hơn hai nghìn dặm; năm loại kim khắp đất, năm trăm giống thóc đầy đồng; nào rừng tre nào miễu gỗ, nào muối mắm chăn tằm, cất chân tìm là đủ ăn no bụng. Những muối mắm chăn tằm, cất chân tìm là được đủ ăn no bụng. Những kẻ bước chân đến nước mình, kiếm ăn đến xứ mình, đều lưng vốn gấp nghìn, hàng bày đủ mặt; mà cái ông chủ ngồi ôm lấy cái non sông gấm vóc đó, cứ lì lì, lười chân biếng tay, bịt tai nhắm mắt, học không hay cày không biết, công chẳng thiết thương chẳng cần; mùa được mà gào đói, nằm ấm mà than rét; trừ cách cúi đầu quỳ gót, khóc lóc van xin người ngoài, không còn có một nghề gì, một nghiệp gì để tự độ lấy thân cả; hẹp đất chật trời, không còn gì là thú sống; ốm hen hoi hả, sớm chẳng chắc chiều, như người nước ta vậy không ? Chắc hẳn là không có ...
Hỏi xem có giống người nào: quây quần hơn hai nghìn vạn, cùng sinh một đất, cùng bơi một dòng; trong ngoài(1) cùng một tục truyền, Nam Bắc cùng một thứ tiếng; khoe khoang nhau bằng lễ nghi văn hiến, xưng hô nhau bằng chú bác anh em; thế mà đãi giống khác, tiếp người ngoài(2) thì vâng theo chiều chuộng, chỉ sợ không chu; đến như cùng giống cùng nòi, lại nỡ coi như quân thù, lạt như nước lã; ngã đau chẳng xót, mẹo lừa lẫn nhau; không có một chút nào là tình liên lạc, không có một mảy nào là bụng thương yêu; không có cái đoàn thể bền chặt nào là đông quá ba người, không có một hội xã lợi ích nào là vốn hơn trăm bạc; chùa Phật điện Thần, vàng son rực rỡ; tiệc ca chiếu rượu, mâm chén ngổn ngang; ném món tiền nghìn lạng để cầu một chức quan, phá nghiệp nhà bậc trung để lấy một tên đỗ; thế mà nói đến chuyện lập hội buôn, mở trường học, dựng xưởng thợ, khẩn đồn điền thì thu tay đứng nhìn, một cái lông không muốn mất; lợi bằng cái tóc thì so kè, họa bằng cái núi thì không nghĩ; như người nước ta ấy không ? Chắc hẳn là không có ...
Than ôi ! Lấy sợi tóc mảnh mà buộc nặng ngàn cân, hơi xểnh cửa sinh là lâm vào đất chết; ruổi cho mau, nối cái tình thương yêu đây đấy, bỏ cái nhầm gián cách nọ kia; hợp sông làm bể, giùm cây nên rừng; phàm việc sống phải nhớ, trừ ra chết mới bỏ; mưu sống như thế, còn sợ không toàn; huống hồ lại họp một bọn vô số những hạng người cổ xưa, không học thức, không lý tưởng, không nghề nghiệp, không công đức, mà cho ra chống chọi trong giữa chừng mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết này, ta không biết trông mong gì chẳng đem lòng lo sợ.
Ấy vì thế nên những người có biết, phải khóc máu sôi tim, mỏi mồm khan tiếng, mà ngay ngáy lo đồng bào ta trong bước sau này. Bài "Hợp quần doanh sinh" của ông Mai Sơn có lẽ cũng có ý ấy chăng ? Cũng có chí ấy chăng ? Ông là một người có tiếng ở Bắc Kỳ, nay lại đem sức theo đòi học mới; bể dâu biến cải, từng trải đã nhiều; nấn ná bấy lâu, ta biết rằng không có thể cứ nín thít mà nằm yên được, muốn ra tay tổ chức một công cuộc cho xã hội, mà trước hết viết bài này để hỏi người đời; ngẫm nghĩ ý trong bài thì chẳng qua là lấy họp đoàn thể, mở thực nghiệp là cái nghĩa thứ nhất trong lúc mở màn.
Song lại sợ dân đức, dân trí nước mình, còn chưa đủ để nói chuyện ấy chăng. Nên lại lấy những tập tục hủ bại từ trước, những tình trạng khốn nạn hiện nay, đem ra mà ghép nên lời, tỉ tót cân quyền, ba tiếng than sau, theo với một câu xướng trước.
Tôi đến Hà Thành mới đầy vài tháng, muốn tìm những văn nghị luận của các sĩ phu ngoài Bắc, đã lâu mà chưa được bài nào. Gần đây ở nhà ông Nghiêm(3) là chủ hội Hà Thành Quảng Hợp Ích Thương hội, được xem bài này của ông (Mai Sơn) không xiết vui mừng, vội khuyên để xuất bản. Lại được sớm hôm đi lại, cùng nhau bàn bạc, thời sự, mới biết rằng ông đối với tiền đồ Tổ quốc, sắp nói trong một bộ sách lớn, mà bài này chẳng qua một mảnh lông trong chiếc áo cát quang đó thôi. Vả chẳng cứ như điều được biết, thời cái thế kỷ hai mươi này, chính là cái cuộc đời của người văn minh, cùng người bán khai, đương ganh đua lấy bước sinh tồn. Các nước châu Âu châu Mỹ trong vòng năm mươi năm nay; cái dây gắn bó của dân tộc, muôn người cùng lòng, còn đường tiến hóa của nước nhà, một ngày ngàn dặm; mà những kẻ lo sâu nghĩ xa ở trong nước, còn không ngại mòn óc nát tim, ráo môi khô lưỡi; hằng ngày xây một cái huyễn tưởng sắp tới, rất hiếm rất nguy, để rền rĩ ngay cạnh nách; hằng ngày nêu một cái mục đích, rất tươi rất tốt, để khua múa ngay bên cạnh mình; mà các nước Á Đông chúng ta cùng rung động xôn xao về cơn sóng gió mới của toàn thế giới. Những bậc chân nhân chí sĩ giật mình về những cơ sống chết mất còn của dân của nước, cùng nhau xuôi ngược kêu rao, ngậm ngùi than vãn; sớm viết một tập sách, chiều ra một tờ báo; để hàng ngày gõ vào đầu, khua vào óc cho người trong nước; khác nào vớt chết đuối, chữa cháy nhà, không thể một khắc nào là để chậm; khác nào đói ăn cơm, khát uống nước, không thể một người nào là nhạt nhẽo. Ấy thế mà một người rên trăm người hỏi, một người xướng trăm người theo, đọc những sách, xem những lời bàn; cơ hồ không biết là nét chữ hay là dòng châu, là nét mực hay là dòng máu; khiến cho người xem phải khóc phải ngâm, phải nghe phải tức, phải dựng chân tóc, phải đau khúc lòng. Đến nay xếp vào nhà có thể chật đến xà ngang, tải lên xe có thể nhọc cho trâu kéo(4). Thế mà thế vẫn chưa thôi, nước ta trong mấy mươi năm nay, thế nước rất đỗi khó khăn, lòng người ngày càng suy kém; cái gương mờ ám trước mắt, cái đường nguy hiểm sau này; đều có cái thế tan hoang không đợi trọn ngày, điều đó chẳng cần phải kể; người biết thời mới xét được ra, người khéo miệng mới bày được gió. Thế mà những kẻ đọc sách biết chữ trong nước, chưa có ai làm được một bài bàn, viết được một quyển sách, đăng được một tờ báo, để gọi là lay tỉnh người nước ta trong một phần muôn. Dẫu có một vài ông học sĩ, đôi ba cậu thiếu niên, gọi độc lập, nói tự do ... song chẳng qua khí khái hão mà tức tối xằng; chắp nhặt vài ba danh từ mới, để làm câu nói đầu lưỡi; chứ thực thì không phương châm, cũng không mục đích; không lòng kiên nhẫn, không chí lâu bền; lúc xoay đông, lúc lại chuyển tây; chốc nóng bốc, chốc đã lạnh ngắt. Giá phỏng có ai lấy lời ngông ý hỏi mà bẻ bai, đem mặt giận tiếng to mà dọa nạt; thời lại hồn mê chí quẩn, mặt xám mày run; lấm lét bàng hoàng, bỏ ngay chủ ý. Tìm lấy kẻ đã ngã thêm hăng, trăm lay chẳng chuyển, thời thực là chưa thấy được mấy người. Sĩ đã thế rồi, dân lại càng quá, còn mong gì không chồn không khuất, tự đứng tự đi; trơ trơ giữ vững trong vòng, đối mặt bi ca, dưới chỗ mấy lần áp chế, mở toang lối quậy, quát lớn gào to; phá tan giấc mơ mộng cho triệu người, cứu vớt kiếp đắm chìm cho muôn thuở; để mở một con đường sinh hoạt cho nhân dân, phóng một tia sáng quang minh cho Tổ quốc nữa đâu !
Than ôi ! Non sông Hồ Lạc, bể dâu chưa tắt khí thiêng; thời buổi gió mấy, thảo dã(5) còn nhiều người giỏi. Lên cao gọi một tiếng: nước ta còn có người nữa không ? Ta chắc rằng trong vòng gió bụi, dưới chốn suối rừng, tất nhiên có một ông Mai Sơn vùng ngồi dậy, nhoẻn miệng cười mà rằng: "Việc đó không phải là việc lạ lùng gì lắm", mơ màng nghĩ đến, tinh thần tìm đến, ta lại chắc rằng ông Mai Sơn cũng cho câu nói của ta, phải như Hà Hán(6) đâu xa mà ngờ !
Chú thích
(1) Trong ngoài: tức là đàng trong đàng ngoài
(2) Giống khác, nước ngoài: chỉ người Pháp
(3) Ông Nghiêm: có lẽ là Nghiêm Xuân Quảng, một nhân sĩ Bắc Kỳ có tham gia lập hội buôn hồi đó
(4) Nguyên văn là "thử chi vị hãn ngưu sung đống": chính là bảo làm chảy mồ hôi trâu, làm đầy cả xà nhà
(5) Thảo dã: đồng cỏ, chỉ nơi thôn quê, núi rừng
(6) Hà Hán: nghĩa đen chỉ sông Ngân Hà ở trên trời. Nghĩa bóng chỉ điều viễn vông, xa cách khó thực hiện được |
17437 | https://vi.wikisource.org/wiki/Cu%E1%BB%99c%20n%C3%B3i%20chuy%E1%BB%87n%20v%E1%BB%9Bi%20quan%20th%E1%BB%91ng%20so%C3%A1i%20S%C3%A0i%20G%C3%B2n%20%E1%BB%9F%20tr%C3%AAn%20%C4%91%E1%BA%A3o%20C%C3%B4n%20L%C3%B4n | Cuộc nói chuyện với quan thống soái Sài Gòn ở trên đảo Côn Lôn | Tiểu dẫn: Ngày 8-9-1909, Quan Thống soái Sài Gòn ra ngoài đảo Côn Lôn cùng quan chánh tham biện ở đấy ra nơi trại cụ Tây Hồ ở và có cuộc đàm thoại. Theo thư cụ Tây Hồ gửi cho tôi (tức Huỳnh Thúc Kháng), thuật những lời vấn đáp như sau:
... Quan Thống soái hỏi:
- Ông còn có tư tưởng phản đối nước Pháp nữa không ?
Cụ trả lời:
- Bản tâm không có tư tưởng đó. Tôi phản đối cái chính sách ngược đãi người Việt Nam chúng tôi, chứ không phản đối nước Pháp.
- Có quen biết Phan Bội Châu không ?
- Chính anh em bạn.
- Vậy thì anh cũng là đảng bài Pháp chớ gì ?
- Phan Bội Châu hiệu Sào Nam là một tay hào kiệt ái quốc của nước Nam, trong nước không ai không biết tiếng. Ngày tôi ở Kinh đô Huế, thường qua lại luôn, đến nghị luận việc nước thì ý kiến giữa tôi với Sào quân, hai bên không đồng mà lại trái hẳn nhau.
- Trái nhau thế nào ?
- Phan Bội Châu nhận hẳn rằng người Pháp quyết không có thiệt lòng khai hóa cho người Nam, nên nói việc khai hóa, trước phải tìm cách đánh đổ chính phủ Pháp, mà muốn đánh đổ chính phủ Pháp, không nhờ cậy thế lực một nước mạnh ngoài, thì tự người Nam không làm gì được. Hiện nay, nước mạnh duy Nhật Bản là nước đồng văn đồng chủng nên cầu viện với Nhật Bản ...
Tôi bác cái thuyết trên của Sào quân, lấy lẽ rằng, người nước Nam chui rúc dưới chính thể chuyên chế đã trên ngàn năm, chưa có tư cách quốc dân độc lập, dẫu có cậy sức nước ngoài, chỉ diễn cái trò "đổi chủ mà làm đầy tớ lần thứ hai", không có ích gì. Vả lại, nước Pháp là một nước làm tiên đạo văn minh cả hoàn cầu, nay hiện bảo hộ nước ta, mình nhân đó mà học theo, chuyên dụng tâm về mặt khai trí trị sinh các việc thực dụng. Dân trí đã mở, trình độ một ngày một cao, tức là cái nền độc lập ngày sau ở đấy. Còn theo chính kiến "cậy sức nước ngoài" thì nó quanh co khúc chiết, mình không tự lập, ai là kẻ cứu mình, Triều Tiên, Đài Loan cái gương rõ ràng, người Nhật chắc gì hơn người Pháp.
Sào quân không nghe, cũng không nhận là phải, phủi áo ra đi, làm theo ý kiến mình.
- Vậy thì ông sang Nhật Bản là ý gì ?
- Chính kiến của tôi, trái với chính kiến của Sào quân, Sào quân sang Nhật có chỗ đứng chân, bèn phát biểu chính kiến của mình, làm sách làm báo gửi về trong nước, người nước Nam phần khổ với ngược chính của quan lại, gia dĩ sưu cao thuế nặng, không biết kêu van vào đâu. Đương giữa lúc người đau cần thuốc, co lâu muốn duỗi, được sách cổ động của Sào quân cổ xúy, gãi nhằm chỗ ngứa, cả nước đều hưởng ứng, một kẻ xướng muôn ngàn người họa, cái chính kiến "tự lực khai hóa" của tôi bị phong trào "Đông học" che át, không xuất đầu ra được, không ai thèm nghe, thực sự trăm phần thiếu thốn, mà cái tiếng trống kêu dội sẽ gây ra mối nguy hiểm cho đường tương lai của quốc dân, không thể tránh được. Bất đắc dĩ, tôi mới băng mình vượt biển thẳng sang Nhật Bản, thuật rõ tình hình phù tháo và cảnh tượng nguy hiểm trong nước cho Sào quân nghe, khuyên Sào quân chăm lo đào tạo bạn thiếu niên du học, mà gác tư tưởng hành vi "bạo động", đợi thời hội khác. Nhưng Sào quân nhất vị cố chấp, lấy lẽ rằng một nước êm đềm trong giấc ngủ như người bệnh gần chết, nếu không giống trống to, trương cờ lớn, thổi kèn, gõ mõ, làm như dông sấm, thì không sao đánh thức giấc ngủ kia được ...
Tôi ở Nhật Bản vài tháng, cùng Sào quân biện cãi nhiều lần, rút cục Sào quân không nghe, tôi bèn từ về, ấy là khoảng tháng 6 năm 1906.
- Về nước ông làm những gì ?
- Tôi không theo chính kiến của Phan Sào quân, cũng như Sào quân không theo chính kiến của tôi, ai làm theo sở kiến nấy. Về nước tôi trù cùng anh em đồng ý tổ chức lập ra những hội công khai như Học hội, Thương hội ... Nhưng vì sĩ phu nước Nam thuở nay chưa có cách tổ chức ấy, ban đầu mới khởi làm, không khỏi có vẻ kinh quái, những lời bàn nghị nổi lên, sẽ sinh ra lắm điều ngăn trở. Vì thế nên tôi trước làm bức thư điều trần, gởi lên quan Toàn quyền, quan Khâm sứ và đăng báo Tây, thuật rõ tình trạng trong nước cùng hiểm tượng Đông Dương, bản ý là cốt tỏ bày mối tâm sự, mở đường khai hóa sau này, chớ không có ý gì khác, không dè vì thế mà mang tội.
Quan Thống soái còn đang ngẫm nghĩ. Tôi (Phan Châu Trinh) nói tiếp: - Tôi xem sử Âu Tây có khi anh em một nhà mà chính kiến khác nhau huống là anh em bạn.
Thống soát gật đầu và nói:
- Ông nói phải, chính kiến không đồng nhau, cái đó vẫn thường. Ông muốn nói gì nữa không ?
- Tôi ra ngoài hòn đảo này đã gần hai năm, cách xa trong đất, tin tức không. Song có bọn tù ở Bắc Kỳ vào đây thuật chuyện ngoài ấy, nói biên giới Bắc Kỳ và phía Bắc Trung Kỳ thỉnh thoảng có những hành vi kịch liệt. Nhà nước xử bằng nghiêm hình trọng phạt, e nhân đó gây ra mối biến loạn to, cái đó rất là thất sách, không phải cách xử trí thích hợp.
- Tôi vâng lệnh quan Toàn quyền ra đây, cốt hỏi ý kiến ông, còn việc gì muốn nói cứ nói ngay, không can ngại gì.
- Vâng, tôi lúc ở trong nước, vào Nam ra Bắc, dân tình lại tệ, nghe thấy cũng nhiều. Khi các nhà đại chính trị sẵn lòng thâu thái, sẽ biên chép và trình bày sau, trong một cuộc đàm thoại không thể nói hết được.
- Ông ở lại mạnh giỏi, tôi sẽ đạt ý ông lên quan Toàn quyền, có lẽ chúng ta sẽ gặp nhau ở Sài Gòn nay mai.(*)
Chú thích
(*) Quả như lời quan Thống soái hứa trên, độ trên một tháng thì có chiếc tàu đặc phái ra đảo Côn Lôn đưa cụ Tây Hồ về Sài Gòn. |
17444 | https://vi.wikisource.org/wiki/C%C3%A1c%20ki%E1%BA%BFn%20ngh%E1%BB%8B%20v%E1%BA%AFn%20t%E1%BA%AFt%20c%E1%BB%A7a%20Phan%20Ch%C3%A2u%20Trinh%20do%20Roux%20d%E1%BB%8Bch%20chuy%E1%BB%83n%20cho%20b%E1%BB%99%20tr%C6%B0%E1%BB%9Fng%20thu%E1%BB%99c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20v%C3%A0%20Sarraut | Các kiến nghị vắn tắt của Phan Châu Trinh do Roux dịch chuyển cho bộ trưởng thuộc địa và Sarraut | Bản 1
YÊU CẦU XÉT LẠI CÁC BẢN ÁN XỬ CÁC NHO SĨ TRUNG KỲ
Trường hợp dân chúng ở Trung Kỳ xin được giảm sưu thuế, các viên chức Nhà nước và các quan chức An Nam đổ trách nhiệm về sự biến đó cho nho sĩ đã xúi giục dân chúng nổi loạn. Do đó, người thì bị bỏ ngục, người thì bị chém đầu. Nhiều người trong số họ là nạn nhân của những vụ xét xử mà tôi không rõ lý do; còn về một số bản án mà tôi biết thì tôi chắc chắn rằng đã có cơ sở để nhận định là mắc phải sự bất công sâu sắc. Ba người có tên là Huỳnh Thúc Kháng, Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh bị xử liên lụy cùng tội danh với tôi. Bản án đó cho rằng tôi là người cầm đầu những người làm loạn và các ông trên đã theo tôi để xúi dân nổi loạn. Trong bản án cũng nói rằng, mặc dù không có chứng cớ, nhưng vẫn có thể chắc là như thế và trong bản án của họ có tên tôi.
Trần Quý Cáp (một tiến sĩ) làm quan giáo thụ một phủ trong tỉnh Khánh Hòa - trong tỉnh này dân chúng không làm điều gì phạm pháp và tôi không hiểu vì lỗi gì mà Công sứ và các quan An Nam không tra xét gì Trần Quý Cáp, cho bắt, đem xử và cho chém liền, chém rồi mà vẫn không thông báo cho làng ông biết, đồng thời xác đem chôn ở một nơi nào đó mà cũng không cho vợ con biết. Viên quan xử án lại còn được thăng cấp rất cao.
Đặng Nguyên Cẩn đang giữ chức Đốc học ở tỉnh Bình Thuận cũng bị kết án tù. Ngô Đức Kế (tiến sĩ) chỉ ở lại nhà để học hành và buôn bán cũng bị bắt và bị tạm giam hơn một năm (trước khi xảy ra vụ dân xin giảm xâu). Đến năm xảy ra vụ xin giảm xâu, người ta nhân đó mà kết án như những người khác.
Trước đây ở Trung Kỳ, nhiều vụ án đã bị xử rất bất công nhưng không đến nỗi quá bất công như các vụ án đã xử vào lúc xảy ra vụ dân chúng xin giảm xâu. Vì vậy, tôi trân trọng xin Ngài Bộ trưởng mở lòng thương đối với người dân An Nam và lệnh đưa hồ sơ các các vụ án dân Trung Kỳ nổi loạn vào năm 1908 về để xem xét lại. Một khi Ngài đã xem xét chúng tôi, thì thưa Ngài Bộ trưởng, Ngài sẽ có thể hiểu thấu sự cai trị ở xứ An Nam như thế nào.
Phan Châu Trinh
Nguyên văn tiếng Nam dịch ra tiếng Pháp. Làm tại Paris, ngày 31/5/1911
Sao nguyên văn
Đã ký tên: Quan ba Roux
Bản 2
VỀ BÁO CHÍ VÀ DIỄN THUYẾT
Ở Đông Dương, về việc cai trị dân chúng, về việc giáo dục học đường cũng như về các phong tục tập quán ngày càng tệ hại, vậy mà người ta không biết nguyên do từ đâu.
Cho tới nay, đã xuất hiện nhiều sách do người An Nam viết, cũng như các bài căm hờn và ca thán về sự cai trị của người Pháp. Do đó, tôi nghĩ rằng sự phẫn nộ đó vẫn kéo dài cho đến nay. Các quan cai trị trước đây cũng đã có những biểu thị tốt để giải tỏa những tình cảm hận thù của dân chúng, tuy nhiên sự phẫn nộ đối với Chính phủ vẫn không hề mất.
Hiện nay, Ngài Bộ trưởng sẵn lòng muốn cho người An Nam tiến bộ, tôi xin Ngài cho phép ra các tờ báo làm kim chỉ nam hướng dẫn cho dân chúng lớp dưới. Bằng cách ấy, các tầng lớp thượng lưu cũng được mở rộng tầm nghe, thấy, điều đó sẽ giúp các quan chức cai trị xứ này dễ dàng hơn.
Nếu được như vậy những tờ báo này sẽ ấn định phương hướng cho sự giáo dục học đường và có thể sửa chữa phong tục, tập quán của người An Nam.
Trẻ em sẽ có nhà trường để học, người có học sẽ có sách báo để đọc; còn đám người dốt nát thì hiện chưa có cách gì (trong lúc này) để mở mang trí tuệ cho họ. Cho đến nay, đám người này thường hay gây lộn xộn và luôn luôn bị lừa gạt, cho nên, tôi xin cho lập các trụ sở diễn thuyết để dạy cho họ con đường ngay thẳng và cách thức trực tiếp cư xử cũng như sự hiểu biết điều hay, dở. Làm như thế cũng là tạo thuận lợi cho việc cai trị xứ sở.
Phan Châu Trinh
Nguyên văn tiếng Nam dịch ra tiếng Pháp. Làm tại Paris, ngày 2/6/1911
Sao nguyên văn
Đã ký tên: Quan ba Roux
Bản 3
VỀ CÁC ĐIỀU LUẬT VÀ VỀ VIỆC THÀNH LẬP TÒA ÁN BỔ SUNG
Luật pháp là việc hệ trọng hàng đầu trong một xứ và nếu không được thấm nhuần tinh thần công lý thì những tổn hại sẽ lại càng tăng. Trí khôn của dân chúng mỗi ngày mỗi phát triển thêm, mà cứ áp dụng luật cũ không thích hợp, đó là cái tệ nghiêm trọng nhất.
Cách thức cai trị mỗi ngày mỗi đổi khác, nếu cứ áp dụng luật cũ là là không theo kịp thời thế, đó là cái tệ thứ hai.
Trong các điều luật cũ có nhiều điều không công bằng, và vì thế, cho dù các quan chức cấp trên có tốt, tôi vẫn e rằng vẫn cứ tồn tại nhiều sự đè nén dân chúng, huống hồ nếu các quan hiện nay lại không có tình cảm tốt đối với dân mà lại cứ dùng luật cũ thì có khác nào chắp thêm cánh cho hổ, và dân chúng không còn sức kham nổi tình trạng đó. Đó là cái tệ thứ ba.
Ở Đông Dương, cái tổn hại tồi tệ nhất là chỗ quyền hành chính và quyền tư pháp ở trong cùng một tay; vì vậy dù quan có làm hại dân, dân cũng không dám nói gì; nếu có ai dám chống lại thì tội vạ sẽ đến ngay: nhẹ thì phạt tiền hoặc khổ sai, nặng thì bị đi đày, bị chém; đó là nguyên do sự ta thán của dân.
Trước đây tôi có đề nghị quan Toàn quyền lập các tòa án, nhưng một năm đã trôi qua mà tôi chẳng thấy gì.
Nay tôi vinh hạnh đề nghị Ngài Bộ trưởng, vốn đã biểu lộ ý định tiến hành những cải cách ở Đông Dương, cho cải tổ lại luật pháp, lập các tòa án bổ sung và phân quyền: các quan chức ngạch hành chính lo việc cai trị, quan chức ngạch tư pháp coi xử việc pháp luật. Làm như vậy, những thiệt hại mà dân chúng gánh chịu sẽ ngày càng bớt đi.
Phan Châu Trinh
Nguyên văn tiếng Nam dịch ra tiếng Pháp. Làm tại Paris, ngày 4/6/1911
Sao nguyên văn
Đã ký tên: Quan ba Roux
Bản 4
BÃI BỎ CÁC BIỆN PHÁP CẤM SÁCH TRUNG HOA
Lập hội dịch sách Pháp và sách Trung Hoa sang chữ Quốc ngữ và mở các phòng đọc sách.
Mấy năm gần đây, dân chúng An Nam rất xôn xao: những quy định ở Đông Dương cấm nhiều thứ sách Trung Hoa vì cho rằng những sách ấy kích động dân chúng căm ghét Chính phủ Pháp. Nhưng người ta đã không thấy được là tất cả những sách ấy đều có ích cho dân; như là các sách Âu châu cũng như sách Pháp đã được dịch sang tiếng Trung Hoa và cũng nhờ có các sách ấy mà những người biết chữ Nho được mở mang trí tuệ. Người ta cũng lại không nhận ra rằng: nếu triệt bỏ những sách ấy thì mọi người sẽ nghĩ rằng Chính phủ muốn để dân An Nam ngu tối và rằng do Nhà nước đã lập trường học tiếng Pháp nên loại trừ các sách Trung Hoa.
Vì vậy tôi đề nghị bãi bỏ các biện pháp cấm đoán đó và cho lập các hội dịch các sách Trung Hoa sang chữ Quốc ngữ cũng như cho lập các phòng đọc sách để tạo thuận lợi cho những người muốn học hỏi.
Phan Châu Trinh
Nguyên văn tiếng Nam dịch ra tiếng Pháp. Làm tại Paris, ngày 4/6/1911
Sao nguyên văn
Đã ký tên: Quan ba Roux
Bản 5
VỀ VIỆC ĐÓNG CỬA CÁC TRƯỜNG HỌC
Sự trừng phạt đối với những người lập trường học và việc họ bỏ trốn ra nước ngoài
Năm 1908, vào lúc dân chúng xin giảm thuế, một số người đã đứng ra lập các trường học cũng như một số thầy giáo đã bị bắt; còn các trường học của họ đều bị đóng cửa hết.
Ở Phú Lâm, một trường học cho con trai và con gái do dân hùn tiền lập đã bị các quan phá, rồi sửa lại làm chuồng ngựa và lập đồn.
Ở làng Thạnh Bình, một trường học cho con trai và con gái cũng do dân hùn tiền lập, trong hoàn cảnh tương tự đã bị lấy làm trường hàng tổng.
Trong làng tôi, có một trường học do dân mở, cũng bị lấy làm trường hàng tổng. Về số dư của tiền góp làm trường và để nuôi thầy giáo lúc này, tôi không rõ sự thể ra sao. Tôi không thể rõ vì từ lúc tôi bị bắt giam, mọi thư từ của gia đình tôi cũng như của bè bạn tôi gửi đến đều bị thu giữ cả.
Còn ở những làng khác, tôi cho rằng các trường học cũng bị triệt bỏ theo cách ấy.
Một số người đã lập hội buôn và hội học. Những người đó một khi bị bắt đều bị giam. Những người còn lại đã bỏ trốn ra nước ngoài. Tôi đề nghị xem xét lại: Trước hết là không buộc tội họ vì vốn họ không có tội gì để buộc. Hiện nay, chính quyền vẫn tìm bắt họ vì cho rằng họ muốn nổi loạn. Ngoài ra, tôi đề nghị trả lại cho dân chúng các trường học do họ đã lập nên và cho phép họ lập thêm các trường khác, để mỗi làng có một trường (vì mỗi tổng chỉ có một trường thì không đủ).
Phan Châu Trinh
Nguyên văn tiếng Nam dịch ra tiếng Pháp. Làm tại Paris, ngày 5/6/1911
Sao nguyên văn
Đã ký tên: Quan ba Roux |
17445 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng%20Chu%20li%E1%BB%87t%20qu%E1%BB%91c/H%E1%BB%93i%201 | Đông Chu liệt quốc/Hồi 1 |
Hồi 1: Nghe trẻ hát, tôi trung bị giết, Trải lòng ngay, Ðỗ-Bá thác oan
Từ lúc vua Trụ mất nước Võ-vương lập lên nhà Châu, dân chúng sống trong cảnh thái-bình thịnh trị.
Các triều vua kế tiếp như Thành-vương, Khương-vương, đều nhờ lấy đức trị dân, lại được các bậc trung thần như: Châu-công, Thiệu-công, Tất-công, Sử-Dật, hết lòng phò tá, lên cơ-nghiệp vững-bền.
Qua đến đời vua thứ tám là Di-vương, cơ-nghiệp nhà Châu bắt đầu suy-yếu.
Ðến đời vua thứ chín là Lệ-vương lại càng nhu-nhược hơn. Trong nước nổi loạn, nịnh-thần thí vua, toan tiếm ngôi may nhờ có Châu-công và Thiệu-công, đồng tâm hiệp lực, lập Thái-tử Tịnh lên kế vị.
Thái-tử Tịnh lên ngôi xưng hiệu là Tuyên-vương, trong thì lo sửa sang triều-chính chiêu-đãi hiền-thần, ngoài thì lo vỗ an bá-tánh, vì thế các bậc hiền-tài lúc bấy giờ như Phương-Chúc, Thiệu-Hổ, Doãn-kiết-phủ, Châu-Bá, Trọng-sơn-phù, đều dốc lòng bảo giá. Tuyên-vương đem lại thái bình cho nhà Châu được mười chín năm thì giặc Khương-nhung dấy-loạn, vua phải ngự-giá thân-chinh.
Thế giặc quá mạnh, Tuyên-vương thua luôn may trận, quân-sĩ hao hụt rất nhiều, bèn trở về Thái-nguyên kiểm-điểm dân số để mộ thêm binh lính.
Khi đi ngang qua một khu phố nhỏ gần Kiểu-kinh có một bầy trẻ xúm nhau vỗ tay hát:
Thỏ lên, ác lặn non mờ,
Túi cơ cung yểm bơ phò nước non.
Vua nghe câu hát lấy làm tức giận, truyền quân vây bắt.
Bọn trẻ cả sợ chạy tán loạn, chỉ bắt được có hai đứa.
Vua quát hỏi:
- Ai bày cho chúng bay hát như thế ?
Hai đứa trẻ run lẩy bẩy, cúi đầu tâu:
- Cách đây ba hôm, có một đứa nhỏ mặc áo đỏ, đến tại chợ nầy dạy chúng con hát. Nhưng chẳng biết vì sao, cùng một lúc, cả trẻ con trong khu phố đều biết các câu hát ấy.
Vua lại hỏi:
- Hiện bây giờ thằng bé mặc áo đỏ ấy ở đâu ?
Hai đứa bé đáp:
- Chẳng biết nó đi đâu, từ ấy đến nay chúng con không còn gặp nó nữa.
Vua Tuyên-vương cau mày, suy nghĩ rồi truyền đuổi hai đứa bé ấy đi. Lại khiến quan Tư-thị loan-báo khắp khu-phố cấm không cho con nít hát như thế nữa. Nếu đứa trẻ nào còn hát cha mẹ nó phải chịu tội. Kế đó vua ngự-giá về cung.
Sáng hôm sau, lâm triều bá quan vào chầu đủ mặt, vua bèn thuật lại câu hát ấy, và hỏi có ai đoán được hư thiệt không ?
Quan Lễ-Bộ Triệu-hổ quỳ tâu:
- Tâu Bệ-hạ, cây yểm là thứ cây dâu núi, dùng làm cung, còn cơ là loại cỏ dùng đan giỏ đựng tên. Cứ theo câu hát ấy mà bàn thì chắc trong nước sẽ bị nạn binh-đao !
Tuyên-vương đưa mắt nhìn các quan cận-thần hỏi ý-kiến.
Quan Thái-tế Trọng-sơn-phủ quỳ tâu:
- Theo ý Ngu-thần thì cung tên biểu hiệu cho binh-đao, nay Bệ-hạ đang muốn kiếm dân, bắt lính đánh dẹp rợ Khương, điềm ấy e ảnh hưởng không lành đến dự-tính của Bệ-hạ.
Tuyên-vương gật đầu hỏi lại:
- Thế thì thằng con nít mặc áo đỏ là ai ?
Thái-sư Bá-dương-phụ tâu:
- Chúng con nít mặc áo đỏ thuộc hỏa, còn sao Huỳnh-hoặc cũng thuộc hỏa. Ấy là ông trời muốn răn vua, nên khiến sao Huỳnh-hoặc biến ra đứa trẻ đó.
Tuyên-vương nghe nói cho là phải, bèn phán:
- Vậy bây giờ trẫm tha tội cho Khương-nhung, rút quân ở Thái-nguyên về, truyền đốt tất cả số cung tên lưu trữ trong kho, như thế có tránh được điềm họa kia chăng ?
Dương-phụ lại quỳ tâu:
- Hạ-thần xem thiên văn thấy điềm dữ ứng tại cung vua, chớ không can chi đến bờ cõi. Hơn nữa, luận theo câu hát "thỏ lên, ác lặn" có nghĩa là âm thạnh, dương suy, hạ thần e rằng việc nước sẽ do tay đàn bà quấy rối.
Tuyên-vương nói:
- Trong cung có Khương-hậu là kẻ hiền-đức, cai quản tam-cung, lục-viện. Mỗi một cung phi đều do tay Khương-hậu chọn lựa, làm sao có thể xảy ra tai họa ấy được ?
Dương-phụ tâu:
- Tâu Bệ-hạ, ý trong câu hát không phải là việc bây giờ, xin Bệ-hạ cứ thi nhân, bố đức, may ra việc dữ trở nên lành, còn cung tên trong kho chẳng nên đốt làm chi.
Tuyên-vương nghe xong, lòng rất nghi-hoặc, bèn bãi chầu lui vào hậu cung, đem các việc thuật lại cho Khương-hậu nghe.
Khương-hậu tâu:
- Tâu Bệ-hạ, điềm dữ vừa ứng, trong cung lại có việc lạ lùng, thần-thiếp định tâu cùng Bệ-hạ.
Tuyên vương ngơ-ngác hỏi:
- Chẳng hay trong cung lại có việc gì chẳng lành sao ?
Vừa rồi trong cung có một phi-tần của Tiên-vương để lại, tuổi ngoài năm mươi, có thai đã bốn mươi năm trời, đêm qua lại sanh ra một gái.
Tuyên-vương giật mình hỏi:
- Ðứa con gái ấy bây giờ ở đâu ?
Khương-hậu nói:
- Thần-thiếp cho là quái-thai, nên đã sai người đem vứt xuống sông Thanh-thủy, cách đây vài mươi dậm.
Vua cho là chuyện lạ, bèn đòi người cung-phi già đó đến hỏi tự sự.
Người cung-phi già được lệnh, đến quỳ móp xuống đất, tâu rằng:
- Tiện tỳ được nghe nói vào đời Hạ-kiệt, tại Bao-thành có thần-nhân hóa ra hai con rồng sa xuống giữa sân triều, nhả nước dãi ra rồi kêu vua Kiệt nói: "Ta là hai vị Ðế-vương của Bao-thành đây ". Vua Kiệt cả sợ, muốn giết hai con rồng ấy, song quan Thái-sư bói quẻ và tâu rằng: Thần nhân hạ giáng, ắt có điềm lành, xin Bệ-hạ hãy lấy nước dãi mà để dành. Vì nước dãi là tinh-khí của rồng, để dành trong cung ắt đặng hưởng phúc. Vua Kiệt nghe theo truyền đem mâm vàng hứng lấy nước dãi, đựng vào một chiếc hộp son, cất kỹ trong kho. Vừa cất xong thì trời nổi mưa, hai con rồng bay đi mất. Từ ấy đến nay đã hơn sáu trăm bốn mươi bốn năm, qua nhà Hạ, đến nhà Ân, rồi đến nhà Châu ta thêm nữa mà vẫn chưa ai dám mở hộp ấy. Ðến đời Tiên-vương, chiếc hộp ấy có hào quang rực rỡ, quan giữ kho trông thấy tâu lại với Tiên-vương. Tiên-vương truyền đem sổ bộ tra cứu, mới hay trong hộp đó đựng nước dãi rồng, bèn truyền mở ra xem. Rủi thay Tiên-vương sơ ý làm rơi chiếc hộp xuống đất, nước dãi đổ lai láng rồi hóa thành một con giãi nhỏ chạy tung tăng khắp sân triều. Nội-thị theo đuổi bắt con giãi kia chạy vào cung rồi biến mất. Lúc đó tiện-tỳ mới lên mười hai tuổi. Vì đạp nhằm đầu con giãi ấy mà thọ thai. Tiên-vương lấy làm lạ, đem tiện tỳ giam vào lãnh cung. Ðến nay hơn bốn mươi năm trời mới sanh ra một gái ! Nội-thị không dám giấu, vào tâu với Hoàng-hậu. Hoàng-hậu cho là quái-thai nên đã đem vất xuống sông, xin Bệ-hạ rộng lòng tha cho tiện-tỳ khỏi tội.
Tuyên-vương nghe xong, lo lắng thở đài, phán:
- Ấy là việc đời trước, có can chi đến ngươi mà phải sợ sệt.
Nói xong, vội sai nội thị đến bờ sông Thanh-thủy xem đứa bé ấy thể nào.
Một lát sau, nội thị trở về tâu:
- Tâu Bệ-hạ, đứa bé ấy đã trôi đi đâu mất tích.
Nhà vua an lòng, trở vào hậu cung an nghĩ.
Sáng hôm sau vua cho vời quan Thái-sư Dương-phụ đến kể việc nước miếng rồng cho Dương-phụ và bảo:
- Nay đứa bé ấy đã chết rồi, khanh hãy chiếm một quẻ xem oan nghiệt đã dứt chưa ?
Dương-phụ vâng mạng, gieo quẻ rồi dâng lời đoán cho Tuyên-Vương xem.
Lời đoán rằng:
- Cười cười khóc khóc, dê mắc lưới, ngựa sa lầy. Sợ thay ! Sợ thay ! Nước non tang-tóc.
Vua không hiểu ý, hỏi lại Dương-phủ tâu rằng:
- Dê chỉ về Mùi, ngựa ứng về Ngọ. Cười cười, khóc khóc nói về chuyện vui buồn. Quẻ nầy ứng qua năm Ngọ, năm Mùi sẽ có chuyện vui buồn đó. Theo dự đoán của hạ thần, tuy yêu-quái ra khỏi cung nhưng chưa trừ đặng.
Tuyên-vương nghe tâu, mặt buồn dàu-dàu, hạ chiếu truyền rao khắp dân chúng, ai tìm ra đứa con nít ấy, bất kỳ sống thác đều được thưởng ba trăm tấm lụa, ngược lại ai giấu diếm mà nuôi, sẽ bị xử-tử toàn gia.
Vua truyền giao việc nầy cho quan Thượng-đại-phu Ðỗ-bá xem xét.
Lại ra lệnh cho quan Ðại-phu Tả-nho nghiêm cấm khắp nơi, từ thành-thị đến thôn quê không ai được làm cung bằng gỗ yểm và giỏ tên bằng cỏ cơ. Ai trái lệnh được quyền bắt chém.
Nhân-dân nghe lệnh, nhất nhất tuân theo. Duy có các miền xa vắng, lệnh của nhà vua chưa được ban bố, nên cách hai ngày sau có một người đàn bà xách mấy cái túi tên bằng cỏ cơ, và một người đàn ông vác mấy cây cung bằng gỗ yểm đến chợ bán.
Quân tuần trông thấy áp lại bắt, nhưng người đàn ông lanh chân chạy thoát.
Chúng dẫn người đàn bà vào nạp cho quan Ðại-phu Tả-nho.
Tả-nho nghĩ thầm:
- Hai vật nầy đúng theo lời hát của lũ trẻ rồi. Vả lại, quan Thái-sư bảo là có nữ họa, thế thì người đàn-bà nầy là mối họa lớn của quốc-gia, ta phải vào triều phục chỉ.
Nghĩ như vậy, Tả-nho giấu việc người đàn ông bỏ trốn, chỉ dắt người đàn bà vào triều tâu nạp.
Nhà vua truyền đem tội nhơn xử-tử, và đem tất cả các túi tên ra chợ đốt đi để răn dân chúng.
Trong lúc đó, ngươi đàn ông kia hoảng vía chạy trối chết, không hiểu cớ gì quan quân lại đón bắt vợ chồng mình. Mãi đến ngày hôm sau, anh ta mới biết lệnh cấm, và nghe đồn người đàn bà bán giỏ tên bị xử tử, lòng nóng như đốt, anh ta than thầm:
- Ôi ! vợ ta đã bị giết rồi, giờ đây ta biết nương tựa vào đâu ! đau đớn thay.
Than rồi, anh ta khóc rống lên, nhưng sợ khóc lớn quan quân hay được, bèn tìm nơi vắng vẻ để khóc cho thỏa lòng.
Anh ta đi lần đến mé sông Thanh-thủy, đôi mắt đỏ ngoe, dòng châu lả chả, bỗng thoáng thấy đàng xa có bầy chim kêu rả-rít, xúm nhau ngậm một chiếc chiếu cuốn tròn, nổi trên sông, mà đem vào bờ.
Lấy làm lạ, anh ta chạy đến giở chiếc chiếu ra xem, thì thấy trong đó gói một đứa bé gái vừa mới lâm bồn (1).
Anh ta nghĩ thầm:
- Con ai đem bỏ như vầy. Ðã không chết mà lại có bầy chim cứu nạn, ắt là một quí-nữ. Ta đem về nuôi để ngày sau nhờ cậy.
Nghĩ như vậy bèn cỡi áo gói đứa bé ôm vào mình, rồi thẳng đường sang Bao-thành lánh nạn.
Từ khi giết người đàn-bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ, Tuyên-vương cho rằng điềm họa trong nước đã diệt được, nên không còn lo ngại gì nữa. Tuy nhiên, cứ cách vài năm nhà vua lập đàn tế-lễ nơi Thái-miếu (2), ăn chay nằm đất để cầu phúc.
Năm ấy vào năm thứ bốn mươi ba, vua ngủ nơi trai-cung (3), trống canh hai vừa đổ, xảy có một người con gái, dung nhan đẹp đẽ từ phía Tây xăm xăm đi lại.
Vua cả giận nghĩ rằng:
- Ðàn bà con gái sao dám đến chỗ chay cấm, bèn quát lên một tiếng hô nội thị đến bắt.
Vua gào rát cổ, mà vẫn không thấy một tên nội-thị nào.
Người đàn bà kia cứ ung-dung đi vào Thái-miếu, góp nhặt các bài-vị bó thành một bó, rồi bước ra cười ba tiếng, khóc ba tiếng, đoạn chậm rãi tiến về hướng Ðông (4).
Vua bèn rượt theo, bỗng giật mình thức dậy mới biết là chiêm-bao, trong lòng kinh hãi, đòi Thái sư Bá-dương-phụ đến hỏi.
Bá-dương-phụ tâu rằng:
- Lời đồng-dao (5) cách đây ba năm Bệ-hạ đã quên rồi sao ?
Hạ-thần tiên đoán nhà Châu sẽ bị nữ-họa. Nay yêu-khí chưa dứt, mà người đàn bà ấy lại khóc ba tiếng, cười ba tiếng, thì đúng theo quẻ hạ thần đã tiên đoán vậy.
Tuyên-vương lo lắng hỏi:
- Ngày trước trẫm đã giết người đàn bà bán giỏ cung bằng cỏ cơ rồi, như thế chưa trừ đặng câu đồng-dao ấy hay sao ?
Bá-dương-phụ tâu.
- Tâu Bệ-hạ, đạo trời mầu nhiệm lắm, đâu phải dễ gì giết một người đàn bà hèn mọn kia mà có thể làm biến-đổi được thiên-cơ (6).
Vua nghe nói lòng buồn rã rượi, ngồi đứng không an, giây lâu sực nhớ đến việc ba năm trước có sai Ðỗ-bá truy tầm đứa bé thả trôi sông, sao đến nay chưa nghe kết quả, bèn đòi Ðỗ-bá vào hỏi.
Ðỗ-bá quỳ tâu:
- Tâu Bệ-hạ, hạ-thần hết sức tìm kiếm, nhưng chẳng thấy. Khắp trong dân gian cũng không ai tìm được xác, chứng tỏ quái-thai kia đã bị chìm mất tích rồi. Vả lại Bệ-hạ đã xử-tử người đàn bà bán cung, thì lời đồng-dao đâu còn linh-ứng ? Nếu cứ tra xét thì e động đến dân-tình.
Tuyên-vương cả giận mắng:
- Ðã không làm được việc, lại không phục-chỉ, rõ là một đứa khi quân.
Bèn sai võ-sĩ dẫn Ðỗ-bá ra pháp-trường xử trãm.
Giữa lúc đó, quan Hạ-đại-phu Tả-nho, vốn là bạn thân của Ðỗ-bá, thấy vội quỳ móp trước sân triều can gián:
- Tâu Bệ-hạ, đời vua Nghiêu bị lụt chín năm, đời vua Thang nắng hạn đến bảy năm, mà chẳng hề sanh biến loạn. Nay chỉ vì giết không được một đứa con nít mà Bệ-hạ xử-tử một đại thần e các lân-bang chê cười, xin Bệ-hạ xét lại.
Tuyên-vương mặt giận phừng phừng, nói:
- Nếu vì tình bạn mà can gián, thì ngươi qua đã trọng bạn khinh vua.
Tả-nho tâu:
- Vua phải bạn trái thì nên theo vua. Bạn phải vua trái thì nên theo bạn. Tội Ðỗ-bá không đáng gì, mà Bệ-hạ đem giết, thiên hạ sẽ cho Bệ-hạ là bất minh. Hạ thần biết mà không can gián, thiên-hạ sẽ cho Hạ-thần là bất trung. Nếu Bệ-hạ giết Ðỗ-bá, hạ thần xin cùng chết.
Tuyên-vương nói:
- Trẫm chém Ðỗ-bá như chém cỏ rác, ngươi chớ nhiều lời làm chi.
Nói xong, nạt võ-sĩ đem Ðỗ-bá ra chém.
Còn Tả-nho về đến nhà cũng tự-vận mà thác.
Người sau, cảm lòng trung nghĩa, lập miếu nơi Ðồ-lăng mà thời gọi là miếu Tả-tướng-quân.
Con trai Ðỗ-bá là Thấp-thúc trốn qua nước Tấn, lành đến chức Sĩ-sư, sau con cháu đổi ra họ Phạm.
.
Khi Tuyên-vương nghe tin Tả-nho tự vận, lòng hối-ngộ, ăn ngủ không yên, mà sanh bệnh, bỏ cả việc triều chính.
Khương-hậu thấy vậy cũng không dám phàn nàn.
Một hôm, vào tiết mùa thu, Tuyên-vương muốn đi săn bắn để giải muộn bèn truyền Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ sắm sửa xe giá lên đường. Hai bên tiền hô, hậu ủng thẳng đến Ðông-giao.
Ðến nơi, vua truyền hạ trại, và dặn dò quân-sĩ không được đạp phá mùa màng, làm chấn động lê dân. Ðoạn truyền lịnh hễ ai bắt được nhiều thú rừng sẽ được trọng thưởng.
Quân-sĩ đua nhau bủa vây khắp chốn. Lòng vua rất đẹp.
Chẳng bao lâu, mặt trời đã gác non Ðoài, vua truyền bãi cuộc săn bắn.
Quân sĩ tuân lệnh bao nhiêu phi-cầm tầu thú đều buộc trói sẳn sàng hộ giá về cung.
Ði chưa dược ba bốn dặm đường, nhà vua mặt mày bỗng xây xẩm, rồi trước mắt thoáng thấy một cổ xe nhỏ từ đàng xa tiến đến.
Trên xe có hai người, tay cầm cung tên, hô lớn:
- Bệ-hạ vẫn được mạnh giỏi chứ.
Tuyên-vương nhìn kỹ thấy hai người đó là Ðỗ-bá và Tả-nho, thất kinh gọi kẻ tả-hữu hỏi thì chẳng ai thấy gì hết.
Chiếc xe nhỏ kia cứ lởn vởn mãi trước mắt, vua cả giận hét:
- Phản thần ! Dám đến đây phạm giá sao ?
Nói xong, rút bửu kiếm ra chém.
Bỗng nghe có tiếng Ðỗ-bá và Tả-nho mắng lại.
- Hôn quân, đã không biết sửa mình còn chém người vô tội !
Hôm nay khí số hôn quân đã mãn, hãy lo mà đền mạng cho sớm.
Dứt lời, trương cung nhằm ngay ngực nhà vua bắn tới.
Tuyên-vương hét lên một tràng thất thanh rồi té xỉu xuống.
Các quan hộ giá xúm lại đỡ dậy, lo thuốc men cứu chữa.
Nhà vua ôm ngực rên la cho đến lúc về tới cung.
Ai nay đều sợ sệt, nhìn nhau không biết nguyên-do nào xảy ra như vậy.
(1) Lâm bồn: mới sanh.
(2) Thái-miếu: nơi thờ-phượng các Tiên-vương.
(3) Trai-cung: nhà chay.
(4) Ấy là điềm ứng cho nhà Châu phải dời qua hướng Ðông.
(5) Ðồng-dao: câu hát của con nít.
(6) Thiên cơ: máy trời, sự mầu nhiệm của tạo hóa. |
17446 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng%20Chu%20li%E1%BB%87t%20qu%E1%BB%91c/H%E1%BB%93i%202 | Đông Chu liệt quốc/Hồi 2 |
Hồi 2: Bao-quýnh chuộc tội, dâng gái đẹp, U-vương đốt lửa diễu chư-hầu
Từ khi săn bắn ở Ðông-giao về, Tuyên-vương lâm bệnh nặng , đêm nào chợp mắt cũng thấy Ðỗ-bá và Tả-nho đến đòi mạng
Biết mình không thể sống được lâu, bèn cho đòi Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ đến để thác cô .
Hai người nầy vào quỳ dưới long-sàng hỏi thăm căn bịnh. .
Vua khiến nội-thị đỡ dậy và nói :
- Trẫm nhờ sức của hai khanh mới ở ngôi đặng bốn mươi sáu năm, chẳng ngờ hôm nay lâm bịnh nặng, không thể sống được nữa, Thái-tử là Cung-niếc tuổi tuy đã lớn mà tánh-tình ngu-muội, xin chư khanh hãy hết lòng phò tá kẻo hư cơ-nghiệp.
Hai người cúi đầu lãnh mạng, bái tạ lui ra.
Vừa đến cửa cung xảy gặp quan Thái-sử Bá-dương-phụ bước vào.
Thiệu-hổ hỏi :
- Có phải ngài đến để thăm Bệ-hạ không ? Bịnh tình Bệ-hạ rất nguy kịch, khó mà sống đặng.
Doãn-kiết-phù nói :
- Trước kia là tiếng hát rao, nay lại đến hồi quỷ hiện, vận nước thật khó an toàn.
Bá-dương-phụ nói :
- Ðêm qua tôi có xem thiên-văn, thấy yêu-tinh phục nơi sao Tử-vi. Quốc gia còn gặp nhiều tai biến nữa.
Thiệu-hổ nói :
- Tuy trời định hơn người, song người cũng có thể thắng mạng trời. Các ông cứ nói theo thiên-đạo mà bỏ nhân-lực sao ! Cả triều thần không đủ sức chống lại mọi tai biến ư ?
Ba người nhìn nhau, mỗi người riêng một ý nghĩ, rồi ai về nhà nấy.
Ðêm hôm ấy Tuyên-vương băng-hà.
Khương Thái-hậu bèn ra ý chỉ triệu các vị lão-thần Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ xuất lãnh bá quan, phò Thái-tử Cung-niếc vào làm lễ cử ai, rồi tức vị trước linh-cữu, xưng hiệu là U-vương , lập con gái Thân-bá lên làm Hoàng-hậu, lập con trai là Nghi-cựu lên làm Thái-tử, phong Thân-Bá làm Thân-hầu.
Sau khi Tuyên-vương chết, bà Khương-hậu buồn rầu vô cùng, chẳng bao lâu cũng tạ thế.
Còn U-vương lại là một ông vua bạo ngược, háo sắc. Mặc dù trong tang chế, ngày nào cũng ăn uống rượu chè, đắm say vật-dục đến nỗi bỏ bê cả việc triều-chánh.
Thân-hầu ngày ngày can gián không được, buồn giận lui về nước Thân tá túc.
Bấy giờ khí số nhà Châu cũng đã sắp tàn, nên khiến các vị lão thần như Doãn-kiết-phủ, Thiệu-hổ, đều lần lượt quy-thiên.
U Vương lại dùng Quách-công, Tế-công, và con của Doãn-kiết-phủ là Doãn-cầu lên làm bực Tam-công.
Ba người nầy đều là những kẻ dua nịnh tham quyền, cố-vị còn Trịnh-hữu-bá là người trung-trực vua lại không tin dùng.
Một hôm, thiết-triều tại Kỳ-sơn , có quan thủ-thần vào tâu :
- Tâu Bệ-hạ, chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lúc.
Không một chút lo lắng, U-vương mỉm cười nói :
- Núi lở đất động là việc thường, nhà ngươi tâu với trẫm làm gì ?
Nói xong, liền di-giá về cung
Quan Thái-sử Bá-dương-phụ cầm tay quan Ðại-phu Triệu-thúc-Ðái than rằng :
- Thuở trước sông Ỷ , sông Lạc cạn , nhà Hạ mất ; sông Hà cạn , nhà Thương hư ; nay cùng một lúc ba sông đều động một lượt ấy là trời muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh khỏi tai biến.
Triệu-thúc-đái hỏi :
- Theo dự đoán của ngài thì bao giờ mới xảy ra tai biến ấy ?
Bá-dương-phụ đánh tay xem lại, rồi đáp :
- Nếu vua biết răn mình, chuộng hiền lánh dữ thì trong khoảng mười năm, bằng ngược lại họa sẽ tới gấp không chừng.
Thúc-đái nghe nói thở dài, cầm tay Dương-phụ, nói :
- Nay Thánh-thượng chẳng kể việc quốc-chính , xa những tôi trung gần gũi nịnh thần , chẳng lẽ chúng ta khoanh tay ngồi ngó trong lúc nước nhà bại vong. Vậy chúng ta phải can gián, dù được hay không cũng tròn bổn phận.
Bá-dương-phụ cũng thở dài rồi lắc đầu nói :
- Dù chúng ta có làm gì cũng vô ích .
Trong lúc hai người nói chuyện có kẻ rình mò nghe được , thuật lại với Quách-công.
Quách-công sợ nếu để Thúc-đái can gián ắt lòi chuyện gian-nịnh của mình, bèn thẳng vào hậu cung tìm lời sàm tâu rằng :
- Bá-dương-phụ và Triệu-thúc-đái chê bai triều-đình, làm cho dân chúng hoang-mang.
U Vương nói :
- Chúng là những đứa ngu dốt biết chi mà bàn luận. Thói thường, những kẻ ngu dốt thường học đòi hay xét-nét đến công việc của thiên-hạ , khanh để ý làm gì cho bận tâm.
Quách-công nghe nói thì cúi đầu lui ra, mặt mày hớn hở.
Cách vài ngày sau, quan trấn thủ núi Kỳ-sơn lại dâng biểu về tâu rằng :
- Ba sông đều cạn, núi Kỳ-sơn lại lở, đè chết dân chúng rất nhiều .
U Vương không thèm để ý đến, sai bọn nội giám đi tìm gái đẹp sung bổ vào cung.
Triệu-thúc-đái nóng lòng, dâng biểu can rằng :
- Sơn băng, thủy kiệt là biểu-hiệu của thiên tai. Vả lại Kỳ-sơn là nơi dựng nghiệp đế vương nay lại bị lở đi thì không phải việc nhỏ . Lẽ ra phải chọn hiền tài, để chung lo cứu nước thì Bệ-hạ lại chọn mỹ-nữ để vui riêng, hạ thần lấy làm hổ thẹn .
Nhà vua chưa kịp nói, thì Quách-công đã quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, đất Phong, đất Kiều là chỗ đóng đô còn Kỳ-sơn cũng như chiếc giày rách lâu đời đã bỏ đi, thì việc núi long đất lở có can hệ gì. Ấy là Thúc-đái có ý khi-quân, mượn cớ để phỉ-báng triều đình, xin Bệ-hạ rộng xét.
U-vương nói :
- Lời Quách-công nói rất phải, Thúc-đái đã có ý khi-quân, trẫm không thể nào dung thứ.
Nói rồi vua bèn cách chức Triệu-thúc-đái đuổi về quê.
Thúc-đái ngửa mặt lên trời than :
- Nguy bang bất nhập, loạn bang bất cứ . Tuy-nhiên, ta không khỏi đau lòng nhìn nhà Tây-châu mất nước .
Than rồi bèn dắt cả gia-quyến trở về nước Tấn.
Lúc ấy có quan Ðại-phu Bao-hướng vừa ở Bao-trung về, nghe tin Thúc-đái bị đuổi, bèn vội vã vào triều can gián rằng :
- Tâu Bệ-hạ, nước nhà đang xảy ra nhiều điềm tai biến, Bệ-Hạ lại đuổi cả các tôi hiền, thì lấy ai phò xã tắc.
Vua cả giận, truyền bắt Bao-hướng hạ ngục.
Từ ấy không còn ai dám ngăn cản nữa.
Ðây nhắc qua việc người bán cung lúc trước, sau khi vớt được đứa bé, bèn trốn về Bao-thành ẩn-náu. Nhưng vì nghèo khó nuôi đứa bé không nổi, mới đem cho một nhà giàu, hiếm con, là Tư-đại đặt tên đứa bé là Bao-tự.
Nàng Bao-tự tuổi vừa mười bốn mà cao lớn như một thiếu-nữ mười sáu, mười bảy sắc đẹp tuyệt trần, mắt phượng, mày ngài,
đáng bậc khuynh-thành, khuynh-quốc. Nhưng vì ở chốn thôn quê, dẫu sắc-nước hương-trời cũng không ai biết tới.
Một hôm, Hồng-đức là con của Bao-hướng, nhơn thâu thuế làng đi qua đấy, thấy Bao-tự đang gánh nước.
Hồng-đức đứng sững sờ, chắc lưỡi khen thầm :
- Làng quê mùa như vầy, sao lại có người đẹp đến thế !
Bỗng chàng lại sanh ra một ý nghĩ :
- Cha ta bị tù nơi Kiểu-kinh đã ba năm, mà vua chưa tha. Nay, nếu được nàng nầy đem dâng cho vua, ắt vua tha tội.
Bèn hỏi thăm tên họ rồi trở về nhà thưa với mẹ :
- Phụ thân con vì tánh ngay thẳng mà trái ý vua, chứ không làm gì nên tội. Nay vua đang tuyển gái đẹp, mà con gái nhà Tư-đại lại đẹp vô ngần, nếu chúng ta mua được đem dâng cho vua, chuộc tội cho phụ thân, ấy là kế của Táng-nghi-sanh cứu Văn-vương ngày xưa đó.
Mẹ Hồng-đức nói :
- Nếu kế ấy mà thành-tựu, đem lại sự sum-họp gia-đình, thì mẹ đâu có tiếc gì vàng bạc .
Ðược lời Hồng-đức cả mừng, đem ba trăm tấm lụa đến nhà Tư-đại hỏi mua nàng Bao-tự.
Việc mua bán không khó khăn lắm, vì Bao-tự là con nuôi, nhà Tư-đại đâu có mến tiếc làm chi.
Hồng-đức đem về, hương xông xạ ướp thay đổi xiêm-y, dạy cho biết những phép tắc cần thiết, rồi dẫn đến Kiểu-kinh tìm cách lo lót với Quách-công nhờ bảo tấu.
Quách-công thấy vàng bạc, lòng mừng rỡ vào triều tâu với U Vương rằng :
- Bao-hướng ngỗ-nghịch oai trời, tội đáng muôn thác. Nay có con va là Hồng-đức, chẳng nài khó khăn tìm kiếm khắp nơi mới được một mỹ nhân tên Bao-tự, đem đến dâng cho Bệ-hạ để chuộc tội cha, xin Bệ-hạ nghĩ tấm lòng hiếu thảo mà lượng xét.
U Vương nghe tâu cả mừng truyền dẫn Bao-Tự vào bệ-kiến .
Bao-Tự bước vào quỳ lạy trước ngai.
U-vương xem thay mặt rồng ngây ngất, nhìn mãi không thôi !
Qua một lúc, vua mới sực tỉnh, nghĩ thầm :
- Ðã biết bao nhiêu cung nữ tuyển lựa, nhưng chưa hề có người nào chim sa cá lặn như vầy.
Bèn hạ chỉ tha Bao-hướng và cho phục-chức . Lại truyền dẫn Bao Tự vào một biệt cung, không cho Thân-hậu hay.
Ðêm ấy U-vương say tình cá nước. Và, từ đó chẳng lúc nào rời Bao-tự. Khi xem trăng, khi sánh nguyệt, khi đối ẩm, lúc ca xang , say sưa mãi nơi cung Quỳnh-đài, chẳng thiết gì đến việc triều chính .
Có khi đến mười ngày cũng không thấy vua lâm triều. Trăm quan đều thở than, lo lắng.
Có người đem chuyện vua mê-say Bao-tự nói với Thân-hậu hay.
Thân-hậu tức giận, một hôm dẫn bọn cung-nga đến cung Quỳnh-đài xem hư thiệt .
Vừa đến nơi, Thân-hậu thoáng thấy U-vương đang cùng với Bao-tự kề vai trửng-giỡn.
Thân-hậu bước vào Bao-tự vẫn ngồi im, liếc mặt đưa tình nhìn vua chứ không đứng dậy chào đón.
Thân Hậu tức không dằn được, chỉ vào mặt mắng :
- Loài tiện tỳ mi ở đâu dám đến đây làm nhơ nhớp chốn cung vi ?
Vừa nói, vừa muốn xốc tới.
U-vương sợ Thân-hậu làm hỗn vội đứng dậy, cản lại, và nói :
- Ðây là mỹ-nhơn của trẫm mới dùng, chưa định ngôi thứ nên chưa kịp đến ra mắt hậu, xin hậu chớ chấp nhứt làm chi.
Thân-hậu mắng nhiếc một hồi rồi hậm-hực lui ra.
Bao-tự hỏi U-vương :
- Tâu Bệ-hạ chẳng hay người ấy là ai mà hung-dữ lắm vậy ?
U Vương nói :
- Ấy là Hoàng-hậu đó. Ngày mai khanh phải đến làm lễ ra mắt.
Bao-tự làm thinh, rồi ngày mai cũng chẳng đi chào Hoàng-hậu .
Từ khi biết rõ sự tình, Thân-hậu lòng buồn rười rượi ngày tối than thở mãi trong cung.
Thái-tử Nghi-cựu thấy thế quỳ tâu :
- Tâu mẫu-hậu, mẫu-hậu đã làm chúa tể nơi tam cung lục viện , oai quyền như thế, chẳng hay còn điều chi bất bình mà buồn bã .
Thân-hậu đỡ con dậy, hai hàng nước mắt ràng rụa, nói :
- Con ơi ! phụ-vương con đắm say con Bao-tự, không kể gì đến mẹ nữa. Thân mẹ dù có bị bạc bẽo cũng chẳng sao, duy có giang san sự-nghiệp sau nầy ắt phải tan tành vì tay con khốn nạn đó.
Thái-tử nghe nói vừa buồn, vừa giận, cầm tay Thân-hậu nói :
- Xin mẹ chớ có sầu bi. Ngày mai là ngày Sóc (mồng một), phụ-vương con thế nào cũng lâm triều , chừng ấy mẹ sai bọn cung-nữ qua nơi Huỳnh-đài bẻ phá bông hoa , dụ Bao-tự ra khỏi cung , con sẽ đánh cho một trận trả thù cho mẹ. Dẫu phụ-vương con có trách mắng, con xin cam chịu.
Thân-hậu lắc đầu nói :
- Con chớ nên nóng nảy như thế, để thủng-thỉnh mà liệu, kẻo lâm vào độc-kế của con dâm-phụ đó.
Thái-tử Nghi-cựu hậm-hực ra về.
Sáng hôm sau, quả nhiên U-vương lâm-triều.
Nghi-cựu bèn sai một số cung-nhân qua nơi Quỳnh-đài, chẳng nói chi hết cứ việc vác cây đập phá bông hoa.
Bọn thế nữ trong đài trông thấy thất kinh chạy ra cản lại và la lớn rằng :
- Hoa nầy vốn của Chúa-thượng trồng, để cho Bao-nương ngoạn cảnh chớ nên phá phách mà tội chẳng nhỏ.
Bọn cung-nhân vẫn không ngừng tay, ứng tiếng đáp :
- Bọn ta vâng lịnh Ðông-cung Thái-tử đến bẻ hoa nầy về dâng cho Chánh-hậu, ai dám cản trở sao !
Hai đàng cãi vả om-sòm, làm cho Bao-tự đang mơ-màng giấc điệp, bỗng giật mình thức dậy, bước ra xem thấy bông hoa tơi tả
Bao-tự cả giận, toan bước tới đánh bọn cung-nữ, chẳng dè Thái-tử núp gần đấy, nhảy tới trợn mắt hét :
- Nghiệt-phụ mi là người chi, danh dự gì mà dám xưng là nương-nương, chẳng kiêng ai hết, nay ta làm cho mi thấy cái nương-nương của mi.
Nói dứt lời, Thái-tử nắm đầu Bao-tự tát cho mấy cái .
Bao Tự đau quá ré lên.
Bọn cung-nữ sợ hãi, đồng quỳ móp xuống đất thưa :
- Xin Thái-tử hãy khoan-dung, kẻo phiền lòng Chúa-thượng
Thái-tử Nghi-cựu chưa hả giận, nhưng sợ đánh sảy tay bèn buông Bao-tự ra , rồi chỉ vào mặt nói :
- Nếu mi còn ngạo-nghể ta sẽ không bao giờ để cho mi sống yên.
Nói xong quay gót trở về Ðông cung.
Bao-tự biết Thái-tử đánh trả thù cho mẹ, nên phải dằn lòng nhẫn nhục trở vào, nằm vật trên giường than khóc.
Bọn cung-nga thế nữ đồng xúm lại khuyên giải :
- Bề nào cũng còn có Chúa-thượng, nương-nương khóc lóc làm chi.
Bao-tự nằm khóc sụt sịt mãi cho đến lúc U-vương bãi triều bước về Quỳnh-đài, nàng mới khóc rống lên .
U-vương vội vã bước vào hỏi :
- Tại sao ái-khanh dung mạo như thế nầy ? Chẳng hay có điều gì xảy đến, hãy nói cho trẫm rõ.
Bao-tự cứ khóc mãi không nói. Ðợi cho U-vương năn nỉ đôi ba phen, nàng mới nghẹn ngào thốt ra lời :
- Hôm nay Thái-tử dẫn một tốp cung-nhân đến hái phá trông hoa dưới đài. Mặc dầu hành động ngang tàng ấy, thiếp cũng chẳng làm nói Thái-tử lại xông vào đánh thiếp. Nếu chẳng có cung-nga can giáng ắt mạng thiếp chẳng còn .
Nói xong lại khóc rống lên nữa .
U-vương đã rõ ngọn-ngành , vừa vỗ về Bao-tự, vừa nói :
- Ái khanh ơi ! Chỉ vì ái-khanh không chịu ra mắt Chánh-hậu, nên Chánh-hậu giận, sai Thái-tử làm như vậy chứ không phải tại Thái-tử đâu, ái-khanh chớ hiểu lầm mà trách nó .
Bao-tự làm ra mặt giận nói :
- Thái-tử vì mẹ mà báo thù, Thánh-thượng cũng vì Chánh-hậu mà che chở tội lỗi. Dầu thiếp có chết đi cũng chẳng tiếc. Song, từ khi hầu-hạ Thánh-thượng đến nay, thiếp đã có mang hai tháng. Vậy xin Thánh-thượng cho thiếp ra khỏi cung để bảo tồn giọt máu của Thánh-thượng.
U-Vương mặt mày buồn bã, đỡ Bao-tự dậy, nói :
- Thôi, ái-khanh chớ buồn bã mà đau lòng Trẫm. Trẫm sẽ xét xử công-minh .
Rồi, nội trong ngày hôm ấy, vua truyền chỉ rằng : Thái-tử Nghi-Cựu bạo động vô-lễ, chẳng biết điều thảo thuận, nên phải đưa qua nước Thân cho Thân-hầu dạy dỗ, còn những quan Thái-phó, Thiếu-phó nơi Ðông-cung, dạy dỗ chẳng nghiêm, nên thảy đều bị cách chức.
Thái-tử Nghi-cựu được lệnh vội vã vào cung kêu nài, nhưng U-vương đã biết trước, dặn quan giữ cửa không cho vào.
Thái-tử chẳng biết làm sao, đành lên đường qua nước Thân cư-trú.
Còn Thân-hậu, luôn mấy hôm không thấy con vào thăm trong lòng lo lắng, sai bọn cung-nữ dò hỏi, mới hay Thái-tử đã bị đầy sang nước Thân rồi một mình bơ vơ, ngày ngày nhớ con gào thét thảm-thiết.
Lần hồi ngày tháng thoi đưa, Bao-tự lâm-bồn sanh đặng một trai.
U-vương yêu-mến vô-ngần, đặt tên là Bá-phục. Và, cũng từ ngày ấy, U-vương có ý phế con đích lập con thứ, song chưa có cơ hội thuận-tiện
Quách-thạch-phù (tức Quách-công) dò biết ý vua bèn thương-nghị với Doãn-cầu, rồi thông-tư với Bao-tự rằng:
- Thái-tử hiện bị đày ra khỏi nước, vậy phải lập tự cho Bá-phúc. Bên trong cậy có nương-nương, bên ngoài chúng tôi giúp sức, lo chi việc ấy không thành .
Bao-tự bắt được tin, lòng mừng khắp khởi, vội phúc đáp ngay :
- Ta cậy nhờ hai khanh hết lòng bảo bọc , nếu Bá-phục đặng nối ngôi thì việc giàu sang trong thiên-hạ, ta quyết không bao giờ phụ.
Từ đó, Bao-tự thường lén sai người tâm-phúc, theo dỏi hành-vi của Thân-hậu , dầu việc nhỏ mọn đến đâu cũng không qua mặt nổi .
Còn Thân-hậu sống trong buồn thảm, giận vua nhớ con, cả ngày không ráo nước mắt.
Có một cung-nhân già cả, thấy thế động lòng, kiếm lời bàn bạc :
- Tâu Hoàng-hậu, nay tình mẹ con cách trở, cả hai đều mang nặng nhớ nhung, xin Hoàng-hậu lén biên thư gởi sang nước Thân bảo Ðiện-hạ làm biểu gởi về thỉnh tội may ra Chúa-thượng động tình mà cho phép hồi-hương , như thế mẹ con được sum-họp.
Thân-hậu sụt sùi nói :
- Lời ngươi nói rất phải, ngặt không có ai đem thư, biết liệu làm sao ?
Người cung-nhân nói :
- Mẹ tôi là Ôn-áo, biết nghề làm thuốc. Vậy Hoàng-hậu giả đau, đòi mẹ tôi vào coi mạch, rồi khiến mẹ tôi đem thư về mà sai anh tôi đi thì khỏi lo chi hết .
Thân-hậu nghe theo lời, viết một bức thư.
Trong thư đại ý như sau :
Thiên-tử vô đạo, mê đắm con nghiệt-phụ, làm cho mẫu-tử phân-ly . Nay con nghiệt-phụ lại sanh đặng một đứa con, Chúa-thượng yêu mến lắm. Vậy con phải gởi biểu để thỉnh tội để Chúa-thượng thương tình, tha con về trào. Chừng ấy mẹ con gặp nhau sẽ tính toán kế khác .
Viết thư xong, Thân-hậu giả bịnh sai người đòi Ôn-áo vào cung xem mạch.
Tuy việc rất kín đáo, song không thoát khỏi tầm mắt của bọn tay chân Bao-tự, chúng hay được, chạy về báo .
Bao-tự nghĩ thầm :
- Ðấy chắc là va thông tin tức với Thái-tử. Vậy chờ lúc Ôn-áo ra khỏi cung, bắt lại mà xét sẽ biết ngay gian.
Thật vậy, khi Ôn-áo xem mạch cho Chánh-hậu xong, bái tạ ra về có ôm theo hai tấm lụa.
Vừa bước chân ra khỏi cung, bị nội-giám đón lại hỏi :
- Lụa nầy ở đâu mà có vậy ?
Ôn-áo đáp :
- Tôi vào coi mạch cho Chánh-hậu, được Chánh-hậu tặng thưởng.
Nội-giám đưa mắt nhìn nhau như hỏi ý, rồi một người bước đến giật tấm lựa mở banh ra khám xét. Thấy trong tấrn lụa không có gì nội giám lại xúm nhau lục soát khắp mình. Bỗng bắt gặp trong lai áo, có một phong thư , vội đem về Quỳnh-đài dâng cho Bao-tự.
Bao-tự xem thơ cả giận , truyền bắt Ôn-ao xiềng lại, và xé nát hai tấm lụa quăng xuống đất.
Kịp lúc U-vương bước vào, thấy thế hỏi duyên cớ .
Bao-tự khóc và tâu rằng :
- Tiện thiếp hân-hạnh được vào chốn thâm cung, lại được Bệ-hạ rũ lòng thương, ơn ấy dẫu đến chết cũng chưa đáp đền nổi.
Nay vì thiếp sanh được một mụn con trai, làm cho Chánh-hậu đem lòng ghen ghét, viết thư cho Thái-tử, lập mưu ám hại. Tấm thân thiếp thật khó mà toàn mạng.
Nói dứt lời lấy phong thư dâng cho U-vương xem.
U-vương sửng sốt, nhận biết nét chữ của Thân-hậu liền hỏi :
- Người nào đã nhận đem bức thư này .
Bao-tự nói :
Người đó là Ôn-áo, hiện Nội-giám còn đang giữ lại.
Vua đòi dẫn Ôn-áo vào, rồi chăng hỏi qua một tiếng, rút gươm chém đứt làm hai đoạn.
Sau Nhiêm-ông có thơ than rằng :
Lá thư chưa lọt cửa song ngoài
Máu đã tuôn rồi ! thật đắng cay.
Ám đạm thâm cung, tàn khí uất,
Bâng khuâng nữa giấc mộng chương-đài.
Ðêm đến, Bao-tự lại thỏ thẻ với U-vương rằng .
- Tánh mạng của mẹ con thần thiếp hiện nằm trong tay Thái-tử, chưa biết sống chết lúc nào.
U-vương nói :
- Bề nào cũng còn có trẫm đây, Thái-tử mà làm chi đặng sao .
Bao-tự vừa khóc vừa nói :
Hiện nay được nhờ Chúa thượng che chở, dầu ai có ghét cũng chẳng làm chi, song đến chừng Chúa-thượng qua đời, Thái-tử lên nối ngôi , chừng ấy quyền-bính về tay Chánh-hậu. Chánh-hậu muốn giết mẹ con thiếp lúc nào chẳng được.
Dứt lời, Bao-tự lại khóc rống lên .
U-vương cầm tay thổn-thức :
- Trẫm muốn phế Chánh-hậu và Thái-tử đi, để lập khanh làm Chánh-hậu, và Bá-phục làm Ðông-cung, song e quần-thần chẳng phục .
Bao-tự nói :
- Tôi nghe vua thì thuận, mà vua nghe tôi là nghịch, xin Bệ-hạ hãy đem ý đó mà hiểu-dụ quần thần, xem nghị-luận thế nào .
U-vương mỉm cười, nói :
- Ái khanh nói rất phải, để mai trẫm sẽ tính.
Ðêm ấy Bao-tự sai người tâm-phúc ra nói với Quách-thạch-phủ và Doãn-cầu hay, đặng dự bị trước mà ứng đáp.
Ngày thứ, U-vương lâm trào, các quan triều bái xong, vua truyền chỉ triệu hết công-khanh thượng-điện, mà phán rằng :
- Nay Chánh-hậu sanh lòng tật-đố, không kiêng-nễ phép vua , ngày đêm thốt những lời oán-cừu trẫm. Tội ấy khó dung, chư khanh nghi thế nào
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
- Hoàng-hậu là một vị quốc mẫu, dẫu có tội chi cũng không nên tra hỏi. Nếu xét không đáng vị Chánh-cung thì xin Bệ-hạ chọn người có đức-hạnh thay thế mà thôi.
Doãn-cầu cũng quỳ xuống tâu theo :
- Tâu Bệ-hạ, kẻ hạ-thần trộm nghe đức-hạnh của Vương-phi Bao-tự, thật đáng làm chúa trong cung lắrn .
U Vương lại hỏi :
- Nay Thái-tử đang ở nước Thân, như bỏ ngôi của Thân-hậu thì địa-vị của Thái-tử sẽ thế nào ?
Quách-thạch-phù tâu :
- Nếu đã bỏ mẹ thì dùng con làm gì nữa. Xin Bệ-hạ hãy phế Nghi-cựu mà tôn Bá-phục lên Ðông-cung.
U Vương mừng lắm, lập tức hạ chiếu bắt Thân-hậu giam vào lãnh-cung, cắt ngôi Nghi-cựu, lập Bao-tự lên làm Chánh-hậu, Bá-phục làm Ðông-cung Thái-tử .
Lại ra lệnh nếu ai ngăn-cản sẽ bị khép vào tội phản-nghịch.
Quần-thần nhiều người lấy làm bất bình, nhưng không dám nói, vì thấy ý vua đã quyết, can gián không ích gì mà hại đến thân.
Bá-dương-phụ tức tốc xin từ quan, về làng dưỡng lão, còn các vị trung thần khác, lần lượt bỏ chức cũng nhiều.
Bao-tự tuy được phong làm Hoàng-hậu nhưng chưa lấy thế làm vui. Cả ngày ít nói, không cười, không ai hiểu nổi được lòng nàng cả. Có lẽ nàng đang ước-vọng những cái gì xa xôi nữa chăng ?
U Vương thấy Bao-tự không cười, lòng bâng khuâng lo lắng , bèn triệu tất cả nhạc-công trong triều tập-họp đến để đờn ca hát xướng cho nàng vui, song vẫn không thấy nàng cười lên một tiếng nào.
U Vương nghĩ thầm :
- Ta phế lập Chánh cung và Ðông-cung mục đích để làm vui lòng nàng, thế mà không được nàng trao cho một nụ cười thật là đau đớn .
Nghĩ như vậy bèn thỏ thẻ hỏi Bao-tự :
- Ðờn ca như thế không làm cho ái-khanh vui sao ?
Bao-tự đáp :
- Tâu Bệ-hạ, thần thiếp nhớ lại tiếng xé lụa trước đây còn vui tai hơn là tiếng âm nhạc .
U-vương cả mừng nói :
- Ái-khanh ưa nghe tiếng xé lụa, sao ái-khanh không nói cho sớm .
Nói rồi truyền quan giữ kho mỗi ngày đem vào cung một trărn tấm lụa, lại khiến các cung-nữ khỏe mạnh thay phiên nhau xé để làm vui Bao-tự.
Nhưng quái thay ! xé đến bao nhiêu lụa vẫn chưa thấy Bao-tự cười một tiếng nào.
U-vương lo lắng, hỏi :
- Ðã ưa tiếng xé lụa, và lụa cũng đã xé rặt nhiều, sao trẫm chưa thay ái-khanh vui .
Bao-tự mặt lầm-lì không đáp.
U-vương se thắt cõi lòng nói :
- Thế nào trẫm cũng tìm cách làm cho ái-khanh cười lên một tiếng.
Bèn ra lệnh khắp triều thần, ai có kế gì làm cho Bao-tự cười lên một tiếng sẽ được thưởng ngàn vàng.
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, ngày trước Tiên-vương có lập mười cái phong-hỏa-đài tại núi Ly-sơn, lại tạo mấy chục cỗ trống rất lớn, để mỗi khi có giặc Tây-nhung đến xâm lấn thì nổi lửa gióng trống lên. Các chư-hầu nghe thấy đem binh đến cứu. Từ ấy đến nay, trong nước thái-bình, nên phong-hỏa-đài không dùng đến. Nếu Bệ-hạ muốn làm cho Chánh-hậu vui cười, xin Bệ-hạ hãy cùng Chánh-hậu đến Ly-sơn du-ngoạn, rồi nữa đêm đốt phong-hỏa-đài lên, đánh trống cho thật dữ , binh viện các chư hầu ắt đem binh đến cứu. Chừng ấy, không thấy giặc giã gì cả, các chư-hầu phải lục-tục kéo quân trở về, như thế làm sao Chánh-hậu khỏi tức cười .
U vương đắc-ý vỗ tay cười lớn, nói :
- Kế ấy rất hay !
Bèn dắt Bao-tự lên Ly-sơn bày tiệc ăn uống rồi truyền quân nổi lửa đốt phong-hỏa-đài.
Lúc ấy Trịnh-bá-hữu đang làm chức Tư-đồ tại trào, nghe việc ấy thất kinh, vội vã chạy đến Ly-sơn, quỳ móp xuống đất tâu rằng :
- Tâu Bệ-hạ, phong-hỏa-đài Tiên-vương lập lên là để thông tin tức với chư hầu khi trong nước có biến, nay vô cớ mà Bệ-hạ đốt lửa, gạt chư hầu để làm trò vui , về sau thoảng có điều binh đao bất trắc , đốt phong-hỏa-đài lên thì ai còn tin mà đến cứu viện , xin Bệ-hạ chớ nên làm việc đó.
U Vương nổi giận mắng :
- Nay thiên-hạ đang vui hưởng thái bình thì cần gì quân cứu viện . Trẫm và Vương-hậu ra đây du ngoạn, không có gì tiêu-khiển nên mượn kế làm vui. Nếu sau nầy có giặc lại can hệ gì đến ngươi sao mà ngươi lo lắng .
Trịnh-bá-hữu nghe nói thở dài, lủi thủi bước ra.
U-vương truyền quân đốt lửa, và gióng trống lên. Ánh lửa rực trời, tiếng trống vang như sấm.
Các chư hầu ngỡ là Kiểu-kinh có giặc, vội vàng kiểm-binh, điểm tướng suốt đêm kéo đến Ly-sơn. Ðến nơi thì nghe trên lầu đờn ca, hát xướng, lại thấy U-vương cùng Bao-Tự đang uống rượu vui vầy.
Thấy quân-sĩ các chư-hầu rầm rộ kéo đến U-vương mỉm cười ra đứng trước hiên lầu, nói lớn rằng :
- Trẫm may mắn không có giặc giã chi, chẳng dám phiền đến các chư-hầu.
Các chư-hầu đều ngơ ngác nhìn nhau rồi bẽn lẽn cuốn cờ, dẹp trống, ai về nước nầy.
Bao-tự đứng trên lầu trông xuống thấy quân lính khắp nơi ồ-ạt kéo đến, rồi lại lặng lẽ ra về thích chí vổ tay cười dài.
U-vương ôm Bao-tự vào lòng nói :
- Ái khanh ơi ! một tiếng cười của ái-khanh chẳng những làm vui lòng ta, mà còn tô thắm vạn màu tươi trong vũ-trụ , ấy cũng nhờ công của Quách-thạch-phủ đó.
Nói xong, truyền quan giữ kho lấy ngàn vàng đem thưởng cho Quách-thạch-phủ.
Người sau có bài thơ vịnh việc đốt lửa ấy như sau :
Buồn lòng tiêu khiển một trò chơi,
Ðốt lửa đêm thanh đỏ rực trời.
Cờ trống chư hầu bôn bả tới
Giúp vui chỉ một nụ cười tươi.
Ðây nói về Thân-hầu, khi nghe U-vương phế Thân-hậu, lập Bao-Tự, lòng buồn bã, lập sớ gợi đến can rằng :
- Xưa vua Kiệt mê Mụi-Hỷ mà nhà Hạ hư, vua Trụ mê Ðắc-kỷ mà nhà Thương mất. Nay Bệ-hạ đắm say Bao-tự , phế bỏ dòng chánh lập ra dòng thứ là trái nghĩa phu thê, hại tình phụ tử . Xin Bệ-hạ lấy cái gương nhà Hạ , nhà Thương mà tránh cho nhà Châu khỏi điều tai biến.
U Vương xem sớ cả giận, vỗ án hét :
- Quân phản-tặc, sao dám loạn-ngôn như thế !
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, Thân-hầu trước đây thấy Bê-hạ đuổi Thái-tử đem lòng oán-hận , nay lại nghe Chánh-hậu bị truất ngôi, ý muốn mưu phản, nên mới dám dâng biểu hài tội Bệ-hạ như vậy .
U Vương hỏi :
- Như thế thì nay trẫm phải đối-xử làm sao ?
Quách-thạch-phủ tâu :
- Thân-hầu vốn chẳng có công cán chi, nhờ Thân hậu mà được phong đến tước hầu. Nay Thân-hậu và Thái-tử đã bị truất-phế, thì cũng nên truất Thân-hầu xuống tước Bá như cũ, rồi dám binh đến vấn-tội để trừ hậu-hoạn.
U Vương y tấu, hạ chỉ cách chức Thân-hầu lại khiến Quách-thạch-phủ kiểm-điểm binh mã, kéo đến nước Thân vấn tội. |
17447 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng%20Chu%20li%E1%BB%87t%20qu%E1%BB%91c/H%E1%BB%93i%203 | Đông Chu liệt quốc/Hồi 3 |
Hồi 3: Kiểu-kinh, quân Khuyển-nhung tác-loạn, Ðông-lạc, Châu-bình-vương dời đô
Từ ngày Thân Hầu dâng biểu can vua, lòng nơm-nớp lo âu chẳng biết ý vua như thế nào, vội sai quân đi thám thính.
Quân về báo :
- U Vương sai Thạch-phủ làm đại-tướng, dẫn binh sang nước Thân vấn tội.
Thân-hầu thất-kinh, hội các tướng tá thương-nghị.
Thân-hầu nói :
- Nước ta đã nhỏ mà binh lại ít làm sao cự cho lại binh vua
Quan Ðại-phu Lữ-chương quỳ tâu :
- Tâu Chúa-công, tuy nước ta là một chư hầu nhỏ, song Thiên-tử vô đạo, ngoài thì bỏ trung dùng nịnh, trong thì phế chánh, lập thứ , làm lắm điều bạo ngược. Nay nước Tây-nhung binh ròng, tướng mạnh, lại giáp ranh với nước Thân , xin Chúa-công gởi thư cầu cứu , mượn binh kéo về Kiểu-kinh đặng cứu Chánh-hậu, bắt vua phải nhường ngôi cho Thái-tử, ấy là noi theo gương Y-doãn, Châu-công đó.
Thân-hầu khen phải, bèn khiến người đem một xe vàng lụa mang qua nước Tây-nhung mượn quân, lại hứa rằng, nếu phá được Kiểu-kinh thì bao nhiêu vàng bạc trong kho tự ý muốn lấy bao nhiêu cũng được.
Nhung-chúa được thư, nghĩ thầm :
- Thiên-tử bất chánh, Thân-hầu là vị quốc-cựu lại viết thư đến cầu cứu, ta đem quân dựng lại ngôi Thái-tử, đó là thuận lẽ trời, rất hợp với ý ta.
Nghĩ rồi sai Mãng-tốc và Bột-đình, làm tả hữu tiên-phuông, điểm binh mười vạn, kéo đến Kiểu-kinh. Còn Nhung-chúa thống lãnh đạo trung quân đi sau làm hậu-vệ.
Ðến nơi, Nhung-chúa đốc quân vây thành kín mít.
Quân vào báo. U-vương thất-kinh nói :
- Cơ bắt mật, họa tiên phát. Ta chưa kịp cất quân đi đánh mà giặc đã đến vây thành, biết làm sao bây giờ ?
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
- Xin Bệ-hạ sai người đền phong-hỏa-đài đốt lửa lên, tất nhiên các chư hầu đem quân đến cứu. Chừng ấy trong đánh ra ngoài đánh vô ắt quân giặc không còn đường trốn thoát.
U-Vương nghe lời, sai người đến Ly-sơn đốt lửa cháy ngất trời mà chẳng thấy binh của chư hầu nào đến cả. Chỉ thấy binh của Thân-hầu kéo đến hiệp với binh của Nhung-chúa vây thành càng chặt hơn .
U-vương thấy chư-hầu không đến, binh giặc công-phá rất gấp, bèn bảo Quách-thạch-phủ :
- Thế giặc mạnh yếu chưa rõ. Khanh ra đánh thử, rồi trẫm sẽ chọn binh mạnh mẽ mà tiếp ứng.
Quách-thạch-phủ tuy sợ sệt nhưng phải tuân hành, dẫn binh xe hai trăm cỗ khai thành tiến ra.
Trông thấy Quách-thạch-phủ, Thân-hầu chỉ vào mặt, nói với Nhung-chúa :
- Ấy là đứa khi quân hại nước , đừng để nó chạy thoát.
Nhung-chúa quay lại hỏi các tướng tá :
- Ai dám ra bắt thằng giặc đó chăng ?
Bột-đình vung đao, vỗ ngựa đến thưa :
- Tôi xin lấy đầu tên phản-tặc đó.
Dứt lời, bay ngựa đến đánh với Quách-thạch-phủ.
Ðánh chưa đặng mười hiệp Bột-đình chém Quách-thạch-phủ một đao rơi đầu .
Nhung-chúa thừa thế, cùng với Mãng-tốc, đốc quân đến chém giết quân của U-vương vô số, rồi kéo vào thành, đốt phá nhà cửa lửa cháy mịt mù.
Thân-hầu cũng không biết làm sao ngăn cản được hành động ấy.
Trong thành cả loạn, U-vương tính thế không xong, bèn chở Bao-tự và Bá-phục lên xe nhỏ, rồi mở cửa sau thoát ra khỏi thành.
Quan Tư-đồ Trịnh-bá-hữu chạy theo kêu lớn rằng :
- Xin Bệ-hạ chớ sợ, có hạ-thần theo bảo giá đây .
Nói xong, đẩy xe U-vương, thẳng đến Ly-sơn .
Ði dọc đường gặp Doãn-cầu, hơ-hải chạy đến tâu :
- Tâu Bệ-hạ, Khuyển-nhung đốt hết cung thất , chở hết vàng bạc trong kho. Còn Quách-công đã tử trận rồi.
U Vương run rẩy hối Trịnh-bá-hữu đẩy xe đi cho mau.
Khi đến Ly-sơn , Trịnh-bá-hữu lại đốt phong-hỏa-đài lên, khói bay ngất trời xanh, mà cũng không thấy chư hầu đến cứu.
Chẳng bao lâu, quân Khuyển-nhung tràn tới, vây dưới chân núi đông nghẹt.
U Vương và Bao-tự đều thất kinh, nhìn xuống chân núi rnà khóc ròng.
Trịnh-bá-hữu tâu :
- Việc đã gấp rồi, hạ thần xin liều mình bảo-giá, đưa Bệ-hạ ra khỏi vòng vây, qua bên nước tôi rồi liệu bề khôi phục.
U Vương nói :
- Bởi trẫm chăng nghe lời thúc-phụ nên mới đến nỗi này. Nay trẫm chỉ còn nhờ ở tay thúc-phự mà thôi .
Trịnh-bá-hữu bèn khiến người nổi lửa đốt Ly-cung đi, đặng gạt Khuyển-nhung, rồi phò U-vương xông xuống núi.
Trịnh-bá-hữu cầm xà mâu đi trước mở đường , Doãn-cầu phò mẹ con Bao-tự theo sau U-vương.
Ði chưa đặng bao xa, gặp viên cận tướng của Khuyển-nhung là Cổ-lý-xích xốc đến đón đường.
Trịnh-bá-hữu cả giận, hươi xà mâu rước đánh.
Hai đàng đánh chưa đặng mười hiệp Cổ-lý-xích cự không lại bị Trịnh-bá-hữu đâm nhào xuống ngựa.
Ðàng sau, binh sĩ lại ó lên, Trịnh-bá Hữu quay nhìn lại, thấy Bột-đình đem binh truy-cản.
Quân Khuyển-nhung quá mạnh, Trịnh-bá-hữu chỉ có một mình không làm sao cự cho nổi, đánh đỡ một hồi, bị tên bỏ mạng !
Còn xe của U-vương bị Mãng-tốc bắt lại đem nạp cho Nhung-Chúa
Nhung-chúa rút đao chém U-vương và Bá-phúc. Còn Bao-tự, vì thấy xinh đẹp, nên Nhung-chúa không chém bắt về nơi trướng mà giao hoan, thù lạc.
Doãn Cầu quá sợ hãi núp trong xe, bị quân Khuyển-nhung trông thấy, kéo cổ ra mà chém .
Giữa lúc đó, Thân-hầu thấy lửa dậy trong cung liền đem binh vào chữa, và thả Thân-hậu ra. Ðoạn đi tìm U-vương, song không thấy đâu cả.
Bỗng thấy Nhung-chúa đem binh vào thành cười hả hê nói :
- Tôi đã giết hôn quân rồi.
Thân-hầu kinh ngạc, nói :
- Tôi muốn đem binh vấn tội để răn vua không ngờ lại xẩy ra cơ hội nầy. Chúng ta không làm sao tránh khỏi mang tiếng về sau.
Nói rồi sai người khâm liệm, làm lễ an táng U-vương.
Chôn cất xong, Thân-hầu trở về Kinh sư, bài tiệc đãi đằng Nhung-chúa để tạ ơn, và lấy vàng lụa trong kho sắp lên mười xe, để làm quà tiễn hành đưa Nhung-chúa về nước.
Nhưng không ngờ Nhung-chúa lấy việc giết U-vương làm công-trạng, không chịu đem binh về, cứ lần-quần nơi Kinh-thành ăn uống, chơi bời, phá-phách nhân dân. Ai nầy đều oán-trách.
Thân-hầu không biết làm thế nào, túng phải làm thư sai người đem đến ba xứ chư hầu: Tấn-hầu Cơ-cừu nước Bắc-lộ, Vệ-hầu Cơ-hòa nước Ðông-lộ, và Tần-hầu Dinh-khai nước Tây-lộ.
Lại sai người qua bên nước Trịnh, đem việc Trịnh-bá-hữu bị tử-trận tin cho Thái-tử Quật-đột (con của Trịnh-bá-hữu) đem quân qua báo thù.
Thái-tử Quật-đột tuổi mới mười ba, mà mình cao tám thước, sức mạnh phi-thường, lại thông-minh tài trí ít người sánh kịp.
Ngày kia, nghe được tin cha tử trận đau xót không cùng, liền mặc tang phúc, đem ba trăm cỗ xe trận sang Kiểu-kinh báo thù.
Nhung-chúa hay tin kiểm điểm binh mã, đề phòng dự chiến .
Vừa đến nơi Thái-tử Quật-đột muốn ra quân, nhưng Công-tử Thành can rằng :
- Binh ta đường xa mới đến, còn mệt mỏi, nếu đánh e khó thắng. Xin cứ an-dinh hạ trại, chờ binh các nước chư-hầu kéo đến, hiệp sức công phá thì mới thành công đặng.
Quật-đột nói :
- Binh quý thần tốc . Nếu đợi lâu chễnh-mảng lòng quân. Vả lại, nhơn lúc binh Khuyển-nhung đang bê trể, không đánh để trả thù cha còn đợi chừng nào.
Nói xong, thúc quân ra trận, đến trước cửa thành kêu Nhung-Chúa mắng rằng :
- Hỡi tên giặc Mọi ! Hãy đem đầu mà nạp cho ta để đền lại tội phản-phúc !
Trên thành không ai ra ứng đáp.
Quật-đột tức giận, truyền quân công phá.
Trong lúc quân sĩ đang phá thành rất hăng, thì bỗng nghe một hồi thanh la nổi lên vang dậy nơi phía rừng rậm, rồi một đạo quân kéo ra (đó là đạo binh của Nhung-chúa sai phục sẵn ở đó) .
Quật-đột vội vàng xua binh đón đánh.
Trong lúc hai bên đang xáp trận, trong thành lại có tiếng thanh la nổi lên, cửa thành mở rộng, trong thành xông ra một đạo binh nữa.
Quật-đột bị hai đạo binh của Bột-đình và Mãng-tốc đánh ép lại một lượt, làm cho binh sĩ rối loạn bỏ chạy.
Quật-đột cũng hoảng vía, giục ngựa chạy dài. Chạy đến ba mươi dặm mới dám an-dinh hạ trại.
Quật-đột bị thất trận trở về than-thở với Công-tử Thành rằng :
- Bởi ta không nghe lời nên mới mang thảm-bại, nay liệu làm sao ?
Công tử Thành đáp :
- Từ đây đến Bộc-dương không xa , Vệ-hầu là người từng trải, vậy xin chúa-công hãy đến đó cầu cứu người, rồi hiệp binh tấn công một lượt mới thắng nổi.
Quật-đột nghe theo khiến đẩy xe sang Bộc-dương thành.
Ði được vài ngày, bỗng thấy một đạo binh mã cờ xí rộn ràng, cầm đầu là một vị chư-hầu mặc áo gấm, buộc đai vàng, tóc xanh râu bạc, giống như một vị tiên thần giáng thế. (Người đó là Vệ-công, tên Cơ-hòa, tuổi đã chín mươi).
Quật-đột mừng rỡ, dừng binh lại, kêu lớn :
- Tôi là Thái-tử nước Trịnh, tên Quật-đột, bị Khuyển-nhung xâm phạm Kinh-sư, giết cha tôi, tôi đem binh vấn tội, chẳng ngờ lại bị thua, phải đến đây cầu cứu ngài.
Vệ-công xuống ngựa thủ lễ và nói :
- Thái-tử hãy an lòng. Tôi nguyện đem binh giúp đỡ. Vả lại tôi có nghe binh Tấn và Tần cũng sắp đến đây thì có lo chi không trừ được lũ giặc đó !
Quật-đột cúi đầu cảm tại rồi hiệp binh cùng với Vệ-công kéo đến Kiểu-kinh.
Ðến nơi binh hai nước chư-hầu Trịnh, Vệ hạ trại cách Kinh-thành hai mươi dặm , lại sai quân đi thám thính tin tức nước Tần và nước Tấn.
Quân thám thính về báo :
- Phía Tây có tiếng chiêng trống vang trại, lại có một ngọn cờ thêu chữ "Tần" rất lớn .
Vệ Công nói :
- Nước Tần tuy là một nước Phụ-dung (nước phụ chư-hầu, phái cống hiến và nghe theo lệnh nước chư-hầu) ít binh mã, song binh tướng rất tinh nhuệ, đã làm cho rợ Khuyển-nhung lắm phen khiếp sợ.
Nói vừa dứt lời thì lại có tin báo :
- Quân nước Tấn cũng đã kéo đến đóng nơi phía Bắc.
Vệ Công mừng rỡ, nói :
- Quân hai nước Tần, Tấn đã kéo đến thì còn lo gì đại sự chẳng thành.
Bèn sai người sang mời Tần-công và Tấn-công đến hội kiến.
Trong giây phút, hai vị chư hầu ấy đều đến trại Vệ-công đàm-đạo.
Thấy Quật-đột mặc tang phục Tần-công và Tấn-công hỏi :
- Chẳng hay người ấy là ai vậy ?
Vệ Công đáp :
- Ðó là Thái-tử Quật-đột, con của Trịnh Bá đó .
Ðoạn kể lại chuyện U-vương và Trịnh-bá-hữu bị chết.
Hai vị chư hầu Tần, Tấn ngậm ngùi thương tiếc.
Vệ-công nói :
- Nay lão phu đã già yếu, đến đây cũng chỉ vì nhiệm-vụ thần-tử . Vậy trăm việc xin ủy thác cho hai ngài định liệu, chẳng hay hai ngài đã có kế hoạch nào chưa ?
Tần-công đáp :
- Quân Khuyển-nhung chẳng qua tham tiền mê sắc mà tác loạn kinh-thành. Nay binh ta mới đến chắc chúng chưa kịp đề phòng. Vậy đêm nay chia quân làm ba mặt, Ðông, Nam, Bắc, mà đánh vào một lượt, còn phía Tây để cho Trịnh Thái-tử đem quân mai phục . Làm như thế ắt trọn thắng.
Vệ-công khen là diệu kế. Mỗi người trở về lo việc điểm quân.
Lúc bấy giờ, Thân-hầu ở trong thành hay được có binh bốn nước đến, trong lòng mừng rỡ, lén bàn với Chu công-huyến rằng :
- Bốn nước đã hiệp binh, thế nào cũng chia làm bốn đạo công phá. Vậy ta chờ họ phá thành sẽ mở cửa ra ứng tiếp.
Ðoạn bàn với Nhung-chúa sai Bột-đình chở vàng bạc lụa là vệ nước để bớt vây cánh. Lại khiến Mãng-tốc kéo binh Khuyển-nhung ra ngoài thành cự địch.
Nhung-chúa đâu rõ kế của Thân-hầu, ngỡ thiệt nên làm theo.
Mãng-tốc kéo binh ra khỏi thành đóng trại nơi cửa phía Ðông đợi rạng ngày sẽ giao chiến, không dè qua đến canh ba, binh Vệ đến cướp trại, túng thế phái bỏ chạy.
Binh ba nước ồ lên phá thành một lượt Thân-hầu vội vã mở tung bốn cửa thành cho quân ngoài tràn vào.
Nhung-chúa đang ngủ say, hay được tin kinh hãi vội lên ngựa chạy ra cửa phía Tây gặp đạo binh phục của Quật-đột chận lại.
Hai đàng rước đánh. Ðương khi nguy cấp xảy có đạo binh thua của Mảng-tốc kéo đến giải vây, nên Nhung-chúa mới chạy thoát được .
Quật-đột không đuổi theo, kéo quân vào thành hội với các nước .
Lúc bấy giờ Bao-tự đang ngủ, giật mình thức dậy thấy Nhung-chúa bỏ chạy, lại nghe bốn mặt thành quân sĩ ó vang, muốn theo Nhung-chúa song không kịp, túng thế phải rút gươm tự vẫn.
Ôi thôi ! Hồng nhan một kiếp, cánh hoa sắc nước hương trời mới dựa hơi đông-phong đã phải dập vùi dưới làn mưa bão, không kẻ xót thương.
Người sau có bài thơ trách Bao-tự như sau :
Một kiếp hồng-nhan một nụ cười !
Phong-đài khói tỏa chửa mờ phai.
Nụ cười còn mãi rung trong gió,
Nhung-khuyển, U-vương ai hỡi ai !
Ngày ấy Thân-hầu đặt tiệc khoản-đãi.
Trong lúc đang ăn-uống Vệ-công buồn bã buông đũa nói :
- Nước biến, vua mất, chúng ta còn vui sướng gì mà ngồi ăn uống ?
Các chư-hầu nghe nói đều đứng dậy vòng tay thưa rằng :
- Chẳng hay hiền hầu có điều chi dạy bảo chăng ?
Vệ Công nói :
- Nước không thể để một ngày không có vua. Nay Thái-tử còn ở bên nước Thân vậy phải rước về mà tôn lên Thiên-tử.
Tần tương-công nói :
- Hiền-hầu nói rất phải, chúng ta nỡ nào ăn uống vui vầy mà quên nhiệm vụ trọng đại đó sao !
Quật-đột nói :
- Tôi chưa có công cán chi, xin nguyện qua nước Thân rước Thái-tử cho.
Vệ-công cả mừng, rót rượu khuyên mời rồi lập tức viết biểu chương và sửa sang xe giá đi đón Thái-tử. Các chư-hầu đều xin đem quân theo hộ tống.
Quật-đột nói :
- Việc nầy không phải là việc đi đánh giặc, chẳng cần phải nhiều quân. Chỉ một đạo quân của tôi đây cũng đủ rồi.
Hôm sau, Quật-đột lên đường sang nước Thân.
Lúc bấy giờ Thái-tử Nghi-cựu đang ở nước Thân , ngày ngày buồn bực, không biết Thân-hầu ra đi đã lâu lành dữ thế nào, xảy có quân vào báo rằng :
- Trịnh Thái-tử đem biểu-chương đến rước Thái-tử về Kiểu-kinh.
Thái-tử Nghi-cựu nghe nói, lật đật ra rước vào, giở biểu ra xem mới hay U-vương đã thác về tay Khuyển-nhung, liền khóc oà.
Quật-đột tâu :
- Xin Thái-tử lấy giang sơn, xã tắc làm trọng, trở về tức vị cho an lòng dân.
Thái-tử nói :
- Nay ta đã mang danh bất-hiếu với thiên hạ, lẽ ra không nên trở về trị nước, nhưng chẳng lẽ không nể lời các trấn chư hầu .
Nói rồi bèn sửa soạn lên xe trở về Kinh.
Về đến nơi, thấy các trấn chư hầu đã dẫn binh ra cách thành ba mươi dặm đón tiếp.
Thái-tử vào thành, thấy cung điện hoang-tàn sập đổ, lòng bùi-ngùi ứa lệ, rồi phụng-mệnh Thân-hầu làm lễ cáo miếu mà lên ngôi, xưng hiệu Châu-Bình-vương.
Các chư-hầu và bá-quan triều bái tung hô.
Bình-vương cầm tay Thân-hầu phán rằng :
- Trẫm là người đã bị phế, mà còn đặng hưởng nghiệp tổ tông như vầy cũng là nhờ ở Quốc-cựu.
Nói xong, bèn phong chức Thân-hầu làm Thân-công.
Thân-hầu tâu :
- Tâu Bệ-hạ, Kiểu-kinh không mất là nhờ có quân các chư-hầu kéo về giải tỏa. Hạ thần đã không ngăn cản nổi Khuyển-nhung để làm hại Tiên-vương thì thật là đắc tội.
Nói rồi từ chối không nhận.
Bình-vương lại gia phong cho các trấn chư-hầu và phong hàm-ân cho Trịnh-bá-hữu rồi yết bản phủ-dụ nhân-dân.
Ngày thứ, vua Bình-vương lưu Vệ-công làm Tư-đồ, Quật-đột làm Khanh-sĩ tại triều, Chu-công-huyền làm Thái-tử cùng coi việc nước . Riêng Thân-hầu và Tần-tương-công vì đất nước giáp ranh với Khuyển-nhung nên phải cáo từ ra về.
Thân-hầu thấy Quật-đột tướng mạo khôi ngô, thông minh xuất-chúng, bèn đem con gái mình là Khương-thị gả cho Quật-đột.
Nhắc qua Nhung-chúa, từ ngày kéo quân vào Kiểu-kinh đã thuộc đường thuộc nào, tuy bị các chư-hầu đánh bại song quân sĩ còn đông, lại nghĩ đến công lao khó nhọc mà không được hưởng gì, thì giận lắm, xua quân vào đánh phá chiếm một nữa đất Kỳ-phong làm chỗ trú quân để xâm lấn Kiểu-kinh.
Bình-vương thấy đất Kiểu-kinh trong mấy tháng giặc giả tàn-phá, cung thất bị hư, phong-cảnh tiêu-điều, có ý muốn dời đô sang Lạc-ấp, bèn triệu các quan hỏi ý-kiến.
Các quan cùng tâu :
- Lạc-ấp là nơi trung-tâm của thiên-hạ, nên trước đây Tiên-vương đã ra công sửa sang rất vững chắc, gọi là Ðông-đô. Năm nào ở đó cũng có hội chư-hầu. Nay nếu Bệ-hạ muốn dời đô sang đó thì tiện lắm.
Vệ Công nghe các quan tâu, thở dài, rồi cúi đầu tâu :
- Tâu Bệ-hạ, hạ-thần đã hơn chín mươi tuổi, được Bệ-hạ tưởng tình cho dự vào quốc-sự, nay nếu các quan luận như vậy mà hạ thần không nói e mang tội bất trung . Vả chăng Kiểu-kinh là nơi lập nghiệp đế, bốn bề núi sông hiểm-trở, còn Ðông-đô tuy là giữa úm nước, nhưng trống trải, không làm sao tránh nổi mũi giặc.
Bình-vương nói :
- Trẫm cũng biết Kiểu-kinh là nơi Tiền-vương lập nghiệp, lẽ ra phải gìn giữ không nên bỏ phế, song hiện nay Khuyển-nhung cướp lấn nơi Kỳ-phong, thế rất hung-hăng. Trong cung, các kho tàng bị cháy, nếu sửa sang e tốn công của muôn dân. Cực chẳng đã trẫm mới dời đô qua đó mà thôi.
Vệ-công tâu :
- Khuyển-nhung là lũ sài-lang chẳng nên cho nó vào nước . Bởi Thân-hầu tính liều, mượn binh của nó chẳng khác nào mở cửa rước kẻ cướp vào, cho nên cung-thất phải tan, Tiên-vương bị hại . Nay Bệ-hạ nên coi đó là một mối thù, quyết lòng rửa hận, bắt Khuyển-nhung mổ mật đem tế nơi Thái-miếu để làm gương. Nếu Bệ-hạ tránh kẻ thù thì kẻ thù sẽ tìm Bệ-hạ mà tới. Thuở trước Ngu Thuấn làm vua ở nhà tranh thềm đất, vua Ðại-võ ở cung thấp hẹp mà không tưởng là xấu, xin Bệ-hạ xét lại.
Chu-công-huyến quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, lời luận của quan Tư-đồ không đúng với quyền biến. Trước kia Tiên-vương bỏ việc quốc-chính, làm rối đạo cang-thường mà sanh giặc. Việc ấy đã lỡ rồi không phải nói làm chi . Nay Bệ-hạ muộn bỏ hết những cái gì xấu xa lúc trước, làm cho mọi người ai cũng thấy rằng Bệ-hạ là tượng trưng cho một sự kiến-quốc mới mẻ, thế thì việc dời đô rất có ảnh-hưởng tốt trong lòng bá tánh.
Vệ Công lắc đầu, tâu :
- Tâu Bệ.hạ, thắng giặc phải căn cứ ở lòng người, mà còn hãy dựa trên sức mạnh, nghĩa là phải giữ được những chỗ hiểm yếu . Nay Thân-hầu đem Khuyển-nhung vào nước đặng thì cũng có thể dẹp nó đặng. Xin Bệ-hạ sai sứ hỏi người xem có kế nào hay chăng ?
Lúc đang thương nghị, bỗng có tin Thân-hầu sai người đem văn biểu đến.
Bình-vương mở ra xem, thấy trong văn biểu viết như sau :
Giặc Khuyển-nhung đem quân xâm lấn nước Thân, xin Bệ-hạ nghĩ tình đem binh cứu ứng, kẻo nước Thân khó bề giữ nổi.
Xem biểu xong, Bình-vương nói :
- Thân-hầu lo phận mình chưa xong, làm sao lo việc trẫm . Thôi, ý trẫm đã quyết các khanh khá tuân lời
Ðoạn truyền quan Thái-sư chọn ngày dời đô.
Vệ Công tâu :
- Nay vì tránh giặc mà Bệ-hạ dời đô, e lòng dân không tránh khỏi ly-tán. Vậy xin Bệ-hạ cho phép hạ-thần đăng bảng cho nhân dân hay đã.
Vua nhậm lời. Vệ-công bèn đăng bảng truyền-dụ dân chúng ai-muốn theo qua Ðông-đô thì sắm sửa mà đi.
Kế đó quan Chúc-sử làm văn biểu cáo với nhà Thái-miếu, rồi quan Lễ-bộ phò thần chủ bảy miếu lên xe đi trước.
Tần-tương-công nghe tin vua thiên-đô liền thân hành đem quân hộ giá.
Dân gian già trẻ dìu đắt nhau theo vua chẳng biết bao nhiêu. |
17448 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng%20Chu%20li%E1%BB%87t%20qu%E1%BB%91c/H%E1%BB%93i%204 | Đông Chu liệt quốc/Hồi 4 |
Hồi 4: Tần-văn mộng thấy con trời, Trịnh-chúa nhìn thương mẹ dưới hầm
Khi Bình-vương đến Lạc-dương thấy phong cảnh tốt tươi, dân cư trù mật không kém gì Kiểu-kinh, trong lòng mừng rỡ.
Kinh-đô định xong, cả chư hầu đều dâng biểu chúc mừng, duy chỉ có nước Sở chẳng thấy đến.
Bình-vương nổi giận muốn khởi binh vấn tội.
Quần thần can rằng :
- Nước Sở chẳng tuân vương-hóa đã lâu, xưa Tuyên-vương phải lắm phen chinh phục. Từ đó cứ hàng năm đem cống hiến một xe thanh-mao để dùng đặt rượu mà tế tự. Lệ ấy cũng chỉ cho có chừng đó thôi. Nay Bệ-hạ mới dời đô, lòng người chưa định, nếu đem binh chinh phạt e khó thắng. Xin Bệ-hạ chờ cho binh hùng tướng mạnh sẽ tính đến việc đó cũng chẳng muộn chi.
Bình-vương nghe nói cũng đổi giận làm vui, không tính việc chinh Nam nữa.
Kế đó Tần-vương-công cáo từ về nước.
Bình-vương nói :
- Nay đất Kỳ-phong bị giặc Khuyển-nhung chiếm giữ, quấy rối dân lành. Nếu nhà ngươi đánh đuổi được thì ta cho đất ấy để đền đáp lại công hộ giá thiên đô .
Tần tương công bái mạng lui về, sắm sửa binh mã lo kế đánh đẹp Khuyển-nhung.
Chẳng bao lâu, giặc Khuyển-nhung bị giết sạch , tướng Khuyên Nhung là Bột-đình và Mãng-tốc đều tử-trận, còn Nhung-chúa trốn ra giãi đất hoang nơi phía Tây mà tạm trú.
Ðất Kỳ-phong sát nhập vào nước Tần, rộng rãi hơn ngàn dặm .
Từ ấy nước Tần trở nên đại-quốc .
Thu nhận đất Kỳ-phong chẳng bao lâu thì Tần tương-công mất, con là Tần văn-công lên kế vị .
Một hôm, Văn-công nằm mộng, thấy một con trăn lớn, từ trên trời sa xuống, trong giây phút lại hóa ra một đứa bé kêu Văn công nói :
- Ta là con trời sai xuống báo cho nhà ngươi được biết : Nhà ngươi sẽ làm Bạch-đế giữ nghiệp nơi phía Tây .
Nói rồi biến mất.
Văn-công đem việc ấy hỏi Thái-sử Ðôn.
Quan Thái-sử tâu :
- Sắc bạch là sắc của phía Tây. Ấy là điềm trời cho Chúa-công làm chủ khắp phương Tây đó. Vậy phải tạ ơn trời đất.
Văn-công bèn lập miễu nơi Phu-ấp mà thờ, lại giết con trâu trắng để tế.
Kế đó, có người ở xứ Trần-thương săn được một con thú, hình thù giống heo, nhưng lông cứng mà nhọn, đánh không chết. Họ không biết con gì, bèn đem dâng cho Văn-công. Nhưng, khi đi đến nữa đường thì gặp hai đứa trẻ chỉ con vật ấy nói : Con thú nầy tên con Vị , thường ở dưới đất , hay ăn óc người chết. Hễ đánh nhắm óc nó thì nó chết.
Con vật liền đáp rằng :
- Hai đứa con nít nầy là Trĩ-tinh hiện lên . Hễ bắt đặng con trống thì làm Vương, bặt đặng con mái thì làm Bá.
Hai đứa trẻ nghe con vật nói, liền biến mất.
Con thú cũng biến theo .
Người đi săn kinh hãi, lật đật báo cho Văn-công hay.
Văn-Công liền lập miễu nơi núi Trần-thương để thờ Trĩ-tinh.
Thuở ấy tại núi Chung-nam có cây Tử lớn, Văn-công muốn đốn về xây cất cung-điện, nhưng cưa không đứt, búa chặt không vô. Ai nấy lấy làm lạ.
Một đêm kia, có người nằm ngủ dưới gốc cây nghe một bầy quỷ đến chúc mừng cây ấy.
Lại có tiếng hỏi :
- Nếu Tần-vương khiến người bỏ tóc xõa, và lấy chỉ đỏ quấn xung quanh thân cây thì liệu làm sao ?
Sáng hôm sau người ấy đem câu chuyện báo lại cùng Văn công .
Văn-công khiến người làm y như vậy.
Quả thật, thân cây bị cưa ngã. Nhưng cây vừa ngã xuống thì một con trâu xanh ở trong thân xông xa, chạy thẳng xuống sông Ung-thủy. Từ đó, dân chúng thỉnh thoảng lại thấy trâu xanh hiện lên.
Văn-công sai kỵ-sĩ đón đánh nhưng trâu xanh quá mạnh, không làm sao đánh nổi.
Kỵ-sĩ bèn bỏ tóc xõa mà đánh, trâu xanh mới chịu chạy xuống nước.
Văn-công bèn chế ra cờ ngũ-sắc để nơi quan-trung, lại lập miễu mà tế vị thần trâu ấy.
Lúc bấy giờ, vua Huệ-công nước Lỗ nghe nước Tần tế-lễ trời, bèn sai Thái-tế Nhượng đến xin vua Bình-vương cho phép mình được tế giao và tế lễ.
Bình-vương không cho.
Huệ-công nói :
- Tổ ta là Châu-công, có công lớn với nhà vua, vả lại lễ nhạc do tổ ta bày chế, nay con cháu dùng thì có hại chi. Hơn nữa, Thiên-tử đã không cấm nước Tần sao lại cấm nước Lỗ
Bèn không kể đến mạng vua, cứ tế giao, tế lễ như nhà vua vậy.
Vua Bình-vương biết việc ấy nhưng không dám nói.
Từ đấy nhà Châu ngày một suy yếu. Các nước chư-hầu chuyên quyền, xâm bờ lấn bờ cõi nhau, gây rối rắm trong khắp thiên-hạ.
Nói về Trịnh Thế-tử là Quật-đột, từ khi cha chết, lên kế-vị, tự xưng hiệu là Trịnh võ-công.
Nhân khi nhà Châu suy-yếu, chiếm cả đất Quốc và đất Khoái, làm thành một nước lớn.
Trịnh-võ-công và Vệ võ-công đều kiêm chức khanh-sỉ tại triều nhà Châu.
Qua năm Bình vương thứ mười ba, Vệ võ-công thất-lộc, còn một mình Trịnh võ-công bình-chánh, lúc thì về nước Trịnh, lúc lại ở nơi triều Châu.
Vợ Trịnh võ-công là Khương-thị sanh đang hai trai, con lớn đặt tên Ngộ-sanh, con thứ đặt tên là Ðoạn.
Ngộ sanh vì lúc nhỏ bị đẻ ngược nên Khương-thị không ưa, còn Ðoạn thì hình dung tuấn-tú mặt mũi khôi-ngô, lại có sức khỏe lạ thường, nên được Khương-thị yêu-mến lắm.
Một hôm, Khương-thị ngỏ ý với chồng :
- Nếu Ðoạn mà được nối ngôi Chúa-công sau nầy thì hơn Ngộ-sanh gấp bội.
Trịnh võ-công nói ;
- Lớn nhỏ đều có thứ bậc, chẳng nên xáo trộn luân thường. Vả chăng Ngộ-sanh có lầm lỗi gì mà lại bỏ chánh lập thứ ?
Bèn phong Ngộ-sanh làm Thế-tử, còn Ðoạn thì phong một chỗ nhỏ ở Cung-thành nên gọi là Cung thúc-đoạn.
Việc ấy làm cho Khương-thị không vui.
Sau đó, Võ-công qua đời Ngộ-sanh lên tức vị, xưng hiệu là Trịnh trang-công, rồi cũng thế chức cha mà làm Khanh-sĩ nơi triều nhà Châu.
Khương-thị phu-nhân thấy Cung-thúc-đoạn chẳng có quyền chi, lòng buồn bã, nói với Trịnh trang-công :
- Con nối nghiệp cha, làm chủ nước Trịnh, đất rộng mấy trăm dặm ngoài mà lại để cho em một chỗ đất nhỏ mọn vậy mà đành lòng sao ?
Trang công thưa :
- Ý mẫu-hậu dạy thế nào, xin cho con biết.
Khương-thị phu-nhân nói :
- Nếu quả con thương tình ruột thịt thì việc gì mà không lấy đất Chế-ấp phong cho em.
Trang-công thưa :
- Chế-ấp là nơi hiểm-địa, Tiên-vương đã có lời di-chúc, không nên đem phong cho ai, trừ chỗ ấy ra mẫu-hậu muốn chỗ nào con cũng xin vâng lời .
Khương-thị phu nhân nói :
- Nếu vậy thì phong cho Ðoạn đất Kinh-thành.
Trang-công làm thinh, không nói :
- Nếu không bằng lòng thì tốt hơn con nên đuổi em con ra khỏi nước để kiếm cách dung-thân.
Trang-công bùi-ngùi, nhìn mẹ nói :
- Thưa mẫu-hậu, con đâu dám làm thế .
Ngày hôm sau Trịnh trang-công cho đòi Cung-thúc vào triều phong đất Kinh-thành.
Quan Ðại-phu Tề-Túc can rằng :
- Tâu Chúa-công, Kinh-thành đất rộng dân đông chẳng kém gì Vinh-dương, nếu phong cho Cung-thúc-đoạn ắt sanh hậu hoạn !
Trịnh trang-công nói :
- Lịnh của mẹ ta, lẽ nào ta dám cãi .
Bèn phong cho Cung-thúc nước Kinh-thành.
Cung-thức bái lĩnh rồi lui ra, vào cung từ biệt Khương-thị .
Khương-thị đuổi hết kẻ tả hữu ra, rồi nói nhỏ với Cung-thúc :
- Anh con không nghĩ tình cốt nhục bạc đãi con đã lâu . Hôm nay sở-dĩ con được phong đất Kinh-thành là nhờ có mẹ nài nỉ lắm mới được. Nay con đến Kinh-thành phải thao luyện binh mã dự bị cho sẵn, lúc nào có cơ-hội, mẹ sẽ tin con hay, kéo binh về mà lấy Trịnh. Mẹ làm nội-ứng thì cái ngôi của Ngộ-sanh sẽ về tay con không khó !
Cung-thúc lãnh mạng, từ tạ qua Kinh-thành.
Từ ấy người ta gọi Ðoạn là Thái-thúc Kinh-thành
Thái-thúc lại đòi hai quan Tể, trần ở hai vùng Tây bỉ và Bắc bi đến dụ rằng :
- Ðất của hai ngươi chưởng-quản, nay đã thuộc về đất phong của ta rồi, vậy từ nay thuế-vụ phải đem đến đây mà nạp, còn việc binh tình phải nghe lệnh ta điều khiển.
Hai quan Tế thầy Thái-thúc là con cưng của Quốc-mẫu, nên không dám cãi lịnh.
Thái-thức lại thường giả cách đi săn để luyện tập binh-sĩ, gồm thâu cả binh của Tây bỉ và Bắc bỉ, rồi lại cướp luôn cả đất Yên và đất Lâm-giêng .
Quan Tể hai xứ nầy thấy rõ hành động bội phản , lén về triều tâu cùng Trịnh-trang-công hay.
Trịnh-trang-công nghe tâu, mỉm cười, làm thinh không nói gì cả .
Bỗng có người bước ra, nói lớn :
- Tâu Chúa-công, tội của Ðoạn đáng chém đầu, sao Chúa-công nỡ ngồi yên ?
Trịnh-trang-công xem lại, người vừa nói đó là Công-tử Lữ, liệu là Tử-phong, làm chức Thượng-khanh, bèn hỏi rằng :
- Khanh có ý kiến gì hay chăng ?
Công-tử Lữ tâu :
- Thái-thúc-đoạn ỷ trong có quốc-mẫu yêu vì, ngoài cậy có đất Kinh-thành là nơi hiểm-yếu, luyện tập binh mã, mưu chiếm đoạt nước Trịnh. Xin Chúa-công cho tôi đem quân đến đó bắt Ðoạn đem về trị tội.
Trịnh-trang-công suy nghĩ một lúc, rồi nói :
- Thái-thúc tuy vô-đạo, song tội lỗi chưa rõ rệt. Nếu giết nó không khỏi đau lòng mẹ ta. Hơn nữa, trong tình ruột thịt, ta sẽ bị người ngoài dị nghị là bất nghĩa, bất hiếu .
Công-tử Lữ cúi đầu tâu :
- Tâu Chúa-công, nếu trọng tình ruột thịt mà không quyết đoán được quốc-sự e không tránh khỏi tai họa.
Trịnh-trang-công nói :
- Nếu Thái-thúc cố-ý bội phản, thì thế nào mỗi ngày sẽ mỗi lộng hành thêm. Chừng ấy tội lỗi đã rõ ràng nếu trừng trị cách nào mẹ ta cũng không nói gì đặng.
Công-tử Lữ bùi ngùi, tâu :
- Kiến thức của Chúa-công rất xa, tôi không thế nào sánh kịp. Song chỉ e thế lực của Thái-thúc mỗi ngày một to khó mà trừ được.
Trịnh-trang-công hỏi :
- Thế thì bây giờ phải làm thế nào để mẹ ta khỏi oán trách ta là vô đạo
Công-tử Lữ tâu ;
- Ðã lâu Chúa-công không vào triều nhà Châu ấy bởi Chúa-công lo việc Thái-thúc. Nay phải giả cách vào chầu vua Châu để cho Thái-Thúc tưởng Kinh-đô bỏ vắng, tất đem binh đến đây chiếm đoạt. Tôi xin đem quân phục sẳn ở đất Kinh-thành, đợi Thái-Thúc cử quân đi, lén vào chiếm giữ. Còn Chúa-công cũng đem một đạo quân theo đường tắt mà đánh ập lại, thì Thái-thúc dù có cánh bay lên trời cũng không trốn thoát.
Trịnh-trang-công nói :
- Kế ấy rất hay, song chớ nên tiết lậu ra ngoài.
Công-tử Lữ bái tạ lui ra.
Ngày thứ Trịnh-trang-công thăng điện, nói dối rằng mình bận sang chầu vua Châu, giao việc triều chính cho Tề-Túc . Khương-thị hay đặng tin ấy cả mừng, viết mật thư sai người tâm-phúc đem đến Kinh-thành trao cho Thái-thúc. Trong thư ước hẹn nội trong sơ tuần tháng năm phải hưng binh về lấy nước Trịnh.
Lúc đó vào hạ tuần tháng tư, Công-tử Lữ đã sai người phục nơi yếu lộ, nên bắt được người đem thư ấy.
Công-tử Lữ bèn giết quách, rồi mang thư đem về dâng cho Trịnh-trang-công.
Trịnh-trang-công rất đau lòng, nhưng không thể vì tình máu mủ mà dung kẻ phản nghịch, bèn phong bức thư ấy lại như cũ, rồi sai người tâm phúc của mình đem đến Kinh-thành giao cho Thái-thúc .
Ðược thư, Thái-thúc phúc đáp hẹn ngày mồng năm tháng năm động binh và dặn Khương-thị đến ngày đó phải dựng một cây bạch kỳ trong thành để biết chỗ tiếp-ứng.
Trịnh-trang-công xem thư phúc-đáp, nghĩ thầm :
- Thế nầy thì mẹ đừng trách con là vô đạo .
Ðoạn vào từ biệt Khương-thị, dối rằng mình đi qua Châu, rồi kéo binh ra khỏi thành đến đóng nơi Lâm-giêng.
Công-tử Lữ cũng lén đem hai trăm cỗ xe chiến qua phục gần Kinh-thành.
Thúc-đoạn, từ khi tiếp được thư đó liền sai con là Công-tôn-hoạt qua nước Vệ mượn binh, rồi lấy cớ trở về Kinh-đô để coi việc quốc chính, mà kéo quân ra đi.
Công-tử Lữ sai người thám thính, hay tin Thúc-đoạn đi rồi bèn kéo quân vào thành, nồi lửa lên làm hiệu, chiêu tập bá tánh kể rõ tội mưu-phản của Thúc-đoạn. Do đó cả thành bá tánh đều oán ghét Thúc-đoạn vô cùng.
Còn Thúc-đoạn kéo quân ra đi chưa đầy nữa buổi, thấy Kinh-thành lửa bốc nghịt trời, biết là có biến, vội đem quân trở về cứu viện .
Về đến nơi, thầy Kinh-thành bị chiếm, lòng đầy căm tức, xua quân vây thành công phá.
Chẳng ngờ, Trịnh-trang-công lại kéo quân đến đánh, làm cho Thúc-đoạn không biết đường nào mà chạy, túng thế phải kéo binh đến đất Cung là chỗ được phong trước kia để cố-thủ.
Trịnh-trang-công dẫn binh đến phá thành .
Cung thành chỉ là một ấp nhỏ, làm sao cự lại binh triều, chẳng bao lâu thành bị phá.
Thúc-đoạn thấy thế đã cùng, ngữa mặt lên trời than rằng :
- Mẹ ta đã gạt ta, ta còn mặt mũi nào thấy anh ta nữa .
Nói rồi rút gươm tự vận.
Trịnh-trang-công vào thành ôm thây Thúc-đoạn khóc rống lên một hồi, nói :
- Bởi em làm lếu nên tình huynh đệ phải chia lìa.
Nói rồi lục trong mình Thúc-đoạn thấy phong thư của Khương-thị gởi hãy còn, bèn lấy gói chung với bức thư trả lời của Thúc-đoạn, rồi sai người đem về kinh-đô giao cho Tề-túc trình lại cho Khương-thị.
Trịnh-trang-công lại còn ra lệnh đưa Khương-thị sang đất Dĩnh mà tá túc, và thề rằng :
- Nếu không phải chốn cửu tuyền chẳng bao giờ còn thấy mặt nhau nữa.
Phong thư về đến kinh-đô, Khương-thị mở ra xem, lòng thẹn thùng khôn xiết, liệu mình chẳng còn mặt mũi nào thấy mặt Trịnh-trang-công nữa, bèn lìa khỏi cung môn, ra nơi đất Dĩnh.
Trịnh-trang-công trở về cung, không thấy mẹ, lòng buồn bã nghĩ thầm :
- Ta đã ép lòng mà để em chết, nay còn nỡ nào lìa mẹ sao đành ! Nhưng đã trót lời thề, biết liệu sao !
Quan trấn Dĩnh-ấp là Dĩnh-khảo-thúc là một người chí-hiếu, nghe tin Trịnh-trang-công đem mẹ đi an trí, lòng bất mãn, nói với người rằng :
- Dù mẹ có tội lỗi đến đâu, con cũng không nên bất hiếu. Chúa-công làm như thế thật là trái đạo !
Bèn nghĩ ra một kế, bắt mấy con chim cú đem vào dâng cho Trịnh-trang-công.
Trịnh-trang-công hỏi là chim gì ?
Khảo-thúc tâu :
- Tâu Chúa-công, đây là giống chim cú. Giống chim nầy ban ngày dẫu một vật lớn như trái núi vẫn không trông thấy, còn ban đêm dầu vật nhỏ bằng sợi tóc cũng thấy rõ. Thật là một giống vật chỉ thấy được sự nhỏ mà không thấy được sự lớn. Hơn nữa, lúc còn nhỏ chim mẹ kiếm mồi cho ăn, lúc lớn lên nó không biết gì đến chim mẹ nữa, tlật là giống chim bất hiếu, nên bắt nó mà ăn thịt.
Trịnh-trang-công nghe nói, ngồi lặng thinh.
Chợt lúc đó có người đem thịt dê lại dâng cho vua nhắm rượu.
Trịnh-trang-công cắt một miếng ban cho Khảo-thúc.
Khảo-thúc liền chọn những nơi ngon cắt gói lại một gói, cất vào túi áo.
Trịnh-trang-công lấy làm lạ hỏi :
- Khanh để dành chi vậy ?
Khảo-thúc tâu :
- Tâu Chúa-công, mẹ tôi đã già mà trong nhà lại nghèo khó , ít bao giờ được ăn miếng ngon vật lạ. Nay được Chúa công ban thưởng, nếu không dành cho mẹ tôi thì tôi không làm sao yên lòng được .
Trịnh-trang-công nói :
- Ngươi thật là một người con chí hiếu. Tiếc rằng trẫm không thể bằng ngươi được.
Khảo-thúc giả bộ ngơ ngác, hỏi :
- Quốc-mẫu vẫn được mạnh giỏi cớ sao Chúa-công lại tỏ ý buồn bã ?
Trịnh-trang-công đem câu chuyện Thúc-đoạn bội phản, và đày Khương-thị ra đất Dĩnh, nay hối hận, nhưng mắc phải lời thề không làm sao trông thấy mặt mẹ.
Khảo-thúc nghe xong, buồn bả tâu :
- Thúc-đoạn đã mất, tình cốt nhục chia lìa, nay chỉ còn Quốc-mẫu mà Chúa-công lại bộ bể phụng dưỡng e lỗi đạo làm con Nếu Bệ-hạ đã lỡ lời thề, tôi xin dâng kế , có thể trông thấy mặt mẹ mà khỏi phạm lời thề đó.
Trịnh-trang-công mừng rỡ hỏi :
- Người có kế gì hãy giúp trẫm.
Khảo-thúc tâu :
- Chúa-công truyền đào đất đến tận thạch, rồi làm một cái nhà dưới hầm mà rước Quồc-mẫu đến đó. Chúa-công coi như đó là chốn suối vàng . Hai mẹ con sẽ cởi mở được nỗi lòng nhớ nhung trắc tị mà không trái lời thề.
Trịnh-trang-công y tâu, bèn sai Khảo-thúc đem năm trăm tráng dân khoẻ mạnh đến Khúc-vĩ; đào một cái hầm, dưới núi Ngưu-tì, sâu hơn sáu mươi trượng, làm một ngôi nhà gác trên mặt suối và đặt thang dài.
Khảo-thúc bái mạng, trước tiên trở về đất Dĩnh yết kiến Khương-thị, nói rõ lòng hối hận của Trịnh-trang-công, muốn rước Quốc-mẫu về phụng-dưỡng, sau đó, mới đến Ngưu-tì lo việc đào suối.
Chẳng bao lâu công việc hoàn thành. Khảo-thúc liền đưa Khương-thị đến Ngưu-tì và viết biểu dâng cho Trịnh-trang-công hay.
Trịnh-trang-công đến nơi thấy mẹ, vội sụp lạy, nói :
- Ngộ-sanh nầy bất hiếu, xin mẫu-hậu dung tha .
Khương-thị buồn vui lẫn lộn, ứa nước mắt, nói :
- Ðó là lỗi của mẹ con đâu có tội gì .
Nói xong, đỡ Trịnh-trang-công dậy.
Hai mẹ con ôm nhau khóc sướt mướt.
Trịnh-trang-công cõng mẹ lên thang rồi đưa về cung.
Người nước Trịnh trông thấy, ai nay chấp tay lên trán, khen vua là người chí hiếu.
Ấy cũng nhờ có Dĩnh Khảo-thúc mà mẹ con Trịnh trang-công mới đoàn tụ được.
Trịnh-trang-công cảm ơn Khảo-thúc , phong cho Khảo-thúc làm đến chức Ðại-phu, hợp với Công-tôn-yết mà chưởng-quản việc binh quyền.
Về sau Phan tiên-sinh có thơ khen Khảo-thúc như vầy :
Lời thề đã lở giữa muôn dân,
Lỗi đạo đành cam với mẫu thân
Ví chẳng mưu cao người Khảo-thúc
Trang-công đâu dễ vẹn nhân luân. |
17449 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng%20Chu%20li%E1%BB%87t%20qu%E1%BB%91c/H%E1%BB%93i%205 | Đông Chu liệt quốc/Hồi 5 |
Hồi 5: Châu, Trịnh hai nước gởi con tin, Lỗ, Tống một lòng đi chinh phạt
Nhắc lại con trai Thúc-đoạn là Công-tôn-hoạt đi viện binh nước Vệ về đến nữa đường, hay được tin cha mình bị giết, bèn trở lại nước Vệ khóc với Huệ-hoàn-công, tỏ bày việc Trịnh-trang-công giết em, đày mẹ.
Vệ-hoàn-công nghe nói cả giận, trách Trịnh-trang-công là vô-đạo bèn hưng binh đánh nước Trịnh .
Trịnh-trang-công hay được tin bèn hội quần thần mà thương nghị.
Công-tử Lữ tâu :
- Nhổ cỏ không tận rễ, thường bị nảy chồi. Công-tôn Hoạt đã trốn thoát lại còn đem binh nước Vệ về đánh ấy là vì Vệ-Hầu không rõ hành vi của Thúc-đoạn, nên mới giúp Công-tôn Hoạt đó. Xin Chúa-công viết thư gởi cho Vệ-hầu kể rõ cớ sự, ắt Vệ-hầu phải kéo binh về.
Trịnh trang-công khen phải, vội viết thư sai sứ đem qua nước Vệ .
Tiếp được thư, Vệ-hoàn-công mở ra xem .
Thư rằng :
Ngộ-sanh kính dâng Vệ-hiền hầu nhã giám.
Nhà tôi bất hạnh, anh em sát hại lẫn nhau, thật lấy làm xấu hổ với lân quốc. Nhưng xét kỷ, em tôi là đoạn đã lợi dụng lòng hiếu hữu của tôi mà sanh điều phản phúc. Tôi vì sự nghiệp tiền-nhân, buộc lòng phải chịu cảnh cốt nhục tương tàn . Mẹ tôi vì quá thương Ðoạn, nên phải tránh ra Dĩnh-ấp, nay tôi đã cho người rước về phụng-dưỡng , lẽ ra Công-tôn Hoạt phải biết tội cha, đem mình sửa lỗi , lại chạy sang quý quốc viện binh mà phản-loạn . Hiền-hầu không tỏ nên giúp kẻ tôi loàn. Xét mình chẳng có tội chi, xin Hiền-hầu chớ nghe lời Công-tôn Hoạt khiến hai nước bất hòa, sanh việc binh đao , thì thật tôi lấy làm may-mắn !
Vệ-hoàn-công xem thư xong, giật mình nói :
- Thúc-đoạn bất nghĩa, gây nên tai họa. Nay ta lại nghe lời giúp Công-tôn Hoạt hóa ra ta giúp kẻ nghịch sao !
Nói rồi lập tức sai người đi rút quân về.
Nhưng lúc đó Công-tôn Hoạt đã đánh chiếm được đất Lâm-giêng.
Trịnh trang-công nổi giận khiên Cao-Cừ-Di đem ba vạn binh rồng đến đánh.
Công-tôn Hoạt cô thế lại phải chạy trở lại nước Vệ .
Công-tử Lữ thừa thắng đuổi theo đến tận biên-giới nước Vệ.
Vệ-hoàn-công thấy thế đem lòng lo lắng, bèn họp quần thần lại thương nghị.
Công-tử Chu-hu bàn rằng :
- Nước tràn thì lấy đất ngăn, giặc đến thì lầy quân chống , xưa nay đã vậy, lựa phải bàn bạc làm chi ?
Quan Ðại-phu Thạch-thác tâu :
- Tâu Chúa-công. sỡ-dĩ quân Trịnh đến đây là vì ta giúp cho Công-tôn Hoạt đánh Trịnh. Nay Chúa-công không có ý giúp Công-tôn Hoạt nữa thì chỉ cần biên thư phúc đáp mà xin lỗi, quân Trịnh ắt rút về .
Vệ hoàn-công khen phải, khiến Thạch-thác viết thư gởi cho Trịnh trang-công.
Thư rằng :
Hoàn-công nước Vệ, xin phúc đáp Trịnh Hiền-hầu nhã giám.
Tôi quá nghe lời Công-tôn Hoạt, ngỡ Hiền-hầu vô đạo, giết em, giam mẹ nên mới cất quân giúp Hoạt.
Nay được rõ tội ác của Thúc-đoạn lòng hối-hận vô cùng, tôi đã rút quân về nước. Nếu Hiền-hầu rộng xét, tôi xin bắt Công-tôn-Hoạt đưa về Trịnh để hai nước được giao hảo như xưa.
Thư xong, sai người đem đến dâng cho Trịnh trang-công. .
Trịnh trang-công đọc thơ mừng rỡ, nói :
- Vệ-hầu đã biết lỗi ta chớ nên sanh-sự nữa.
Bèn sai người ra biên-ải, bảo Công-tử Lữ rút binh về.
Khương-thị nghe tin, sợ Trịnh trang-công giết Công-tôn-Hoạt, bèn đến năn-nỉ với Trịnh trang-công tha-tội cho Hoạt.
Trang-công nễ lời mẹ, và thấy Hoạt bị cô thế, không làm gì nổi nữa, nên viết thư cho phép Công-tôn-Hoạt ở ngay bên nước Vệ để coi việc phụng thờ Ðoạn .
Từ ấy Công-tôn-Hoạt ở bên nước Vệ cho đến trọn đời.
Nói về Châu-bình-vương đã lâu không thấy Trịnh trang-công về triều, nhân lúc Quách-Công là Kỵ-phù đến chầu, lại nói năng lưu-loát lấy làm vừa ý phán rằng :
- Bấy lâu cha con Trịnh-bá bỉnh-chánh, nay chẳng biết ý gì không thấy về triều. Vậy trẫm có ý muốn trao chức Khanh-sĩ cho khanh để lo việc nước, ý khanh thế nào ?
Quách-Công quỳ tâu :
- Trịnh trang-công không đến, ắt trong nước có việc. Nếu Bệ-hạ dạy hạ-thần quyền thế, Trịnh trang-công không những oán Bệ-hạ mà còn oán hạ-thần nữa. Hạ thần chẳng dám vưng mạng.
Châu bình-vương ép uổng , nhưng Quách-công nhứt thiết chối từ và xin về nước.
Trịnh trang-công tuy không qua triều Châu, song vẫn có người ở kinh-sư dò la tin tức. Mỗi việc gì xảy ra , Trịnh trang-công đều hay biết .
Bởi vậy, khi nghe được tin, Trịnh-trang-công lập tức sửa sang xe giá đến Lạc-dương ra mắt Bình-vương, và tâu rằng :
- Hạ thần đội ơn Bệ-hạ, cha truyền con nối, giữ chức Khanh-sĩ lo việc quốc-chánh, nay hạ thần xét mình bắt tài, muốn từ chức lui về Trịnh, giữ phận chư-hầu.
Bình-vương nói :
- Ðã lâu khanh không vào triều, lòng trẫm trông mong. Nay được gặp khanh chẳng khác cá gặp nước, sao khanh lại nói thế ?
Trịnh trang-công tâu :
- Vì trong nước không may gặp biến, nên bỏ việc đã lâu. Hạ-thần lại được nghe Bệ-hạ có ý phú việc quốc chánh cho Quách-công . Hạ-thần trộm nghĩ tài đức hạ-thần không sánh Quách-công, nếu giữ lấy chức vị, e mang tội với Bệ-hạ.
Bình-vương nghe Trịnh trang-công, lòng hổ thẹn, vội nói :
- Trẫm nghe nước Trịnh sanh biến, nên nhờ Quách-công bỉnh-chánh vài hôm để chờ khanh đến. Nhưng Quách-công từ chối mãi, vả trẫm cũng đã cho về nước. Khanh chờ nghi ngờ.
Trịnh trang-công tâu :
- Tâu Bệ-hạ, việc nước là của nhà vua không phải việc riêng của kẻ hạ-thần thì quyền xử-dụng cũng do nhà vua định đoạt. Nay Quách-công có đủ tài năng giúp nước, xin Bệ-hạ cứ dùng. Hạ thần sẽ từ chức để khỏi mang tiếng tham quyền cố vị.
Bình-vương thấy Trịnh trang-công nghi kỵ , lòng buồn bã nói :
- Trẫm trao việc nước cho cha con khanh chắp-chưởng đã bốn mươi năm, lẽ ra tình vua tôi không đến nỗi vì chuyện nhỏ mọn đó mà tổn thương. Khanh cứ nghi nan, trẫm biết làm sao giải nỗi lòng của trẫm.
Trịnh trang-công lòng chưa hả giận, tâu :
- Tâu Bệ-hạ, nhậm chức hay từ chức đó là bổn phận của hạ-thần. Hạ-thần tự xét mình trước nhiệm vụ chứ đâu dám khinh mạng .
Bình-vương nói :
- Muốn cho khanh được thấy lòng quý mến của trẫm, trẫm sẽ cho Thái-tử Hổ sang ở bên nước Trịnh làm con tin.
Trịnh trang-công nghe nói, vập đầu tâu :
- Tâu Bệ hạ, xin Bệ-hạ đừng dạy như thế mà hạ thần phải mang tiếng hiếp vua.
Bình-vương nói :
- Không phải thế ! Vì khanh có tài chính-trị, trẫm muốn cho Thái-tử sang đó du học để hấp-thụ những phong-hóa tốt lành của nước Trịnh. Nếu khanh từ chối thì quả lòng khanh đã hờn trẫm đó.
Trịnh trang-công nhất định chối từ, quần thần thấy thế quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, nếu Bệ-hạ không để con tin thì chẳng lấy gì để giải mối nghi ngờ của Trịnh Bá, còn Trinh-bá nhận con tin thì trái đạo vua tôi. Chi bằng hai bên cùng giao con với nhau thì tránh được nghi ngờ, mà tiếng tăm cũng trọn vẹn.
Bình-vương khen phải .
Trịnh trang-công mới sai Thế-tử Hốt đến ở làm con tin nhà Châu, còn Thái-tử Hổ nhà Châu thì lại sang nước Trịnh.
Ðược ít lâu Bình-vương băng hà.
Trịnh trang-công và Châu-công Hắc-kiên cùng coi việc nước, bèn cho Thế-tử Hốt về Trịnh, và rước Thái-tử Hổ về Châu kế vị.
Thái-tử Hổ nghe vua cha mất, trong lòng phiền nảo, tự nghĩ mình không được ở nhà hầu hạ thuốc men trong lúc lâm chung nên về đền triều phát bịnh nặng rồi tạ thế.
Con Thái-tử Hổ là Lâm lên nối ngôi tức là Châu hoàn-vương .
Các nước chư-hầu hay tin đều tựu đến chịu tang và làm lễ chúc mừng tân vương .
Quách-công Kỵ-Phủ đến trước, lo việc lễ bộ, đâu đó rất đàng hoàng khiến cho mọi người phải khâm phục.
Hoàn-vương lên ngôi, nghĩ đến việc cha mình làm con tin buồn bã mà chết, lại thấy Trịnh trang-công gánh vác việc nước, trong lòng nghi hoặc, mới kêu Châu-công Hắc-kiên đến hỏi rằng :
- Trịnh trang-công bắt nhà Châu gởi con tin thật có ý khinh vua , lòng trẫm áy náy không yên , nếu để va bỉnh-chánh lâu ngày ắt sanh họa . Nay trẫm có ý giao quyền lại cho Quách-Công Kỵ-Phủ là người rất lễ độ ý khanh thế nào.
Châu-công Hắc-kiên tâu :
- Trịnh trang-công là người hà-khắc, ít ra ơn, chẳng phải tôi trung, lẻ ra không nên dụng. Ngặt vì nhà Châu từ lúc dời đô qua Lạc-ấp công lao nước Tần và nước Trịnh rất lớn, nay tước bỏ quyền của Trịnh, tôi e Trịnh-bá đem lòng giận ắt sanh điều rối nước, xin Bệ-hạ nên xét kỹ đã.
Hoàn-vương nói :
- Ý trẫm đã tuyệt không thể ngồi ngó Trịnh-bá chuyên chế được.
Hôm sau, Hoàn-vương lâm triều, kêu Trịnh trang-công nói :
- Khanh là cựu thần của Tiên-vương, trẫm không dám ép buộc theo quần-liêu mà làm nhọc lòng khanh. Vậy khanh chớ cho trẫm bất nghĩa.
Trịnh trang-công vừa cười, vừa tâu :
- Nghĩa là Bệ-Hạ bảo tôi trả chức mà về nước ?
Ðoạn bước ra ngoài, nét mặt hằm hằm nói với mọi người :
- Vua trẻ con nầy bội-bạc lắm, không thể giúp đặng !
Nói xong, lên xe trở về nước Trịnh.
Thế-tử Hốt đem các quan ra tận biên thùy tiếp đón.
Trịnh trang-công kể công việc vua Hoàn-vương bạc đãi.
Các quan ai nay đều bất bình.
Quan Ðại-phu Cao-cừ-di nói :
- Chúa ta giúp nhà Châu đến nay đã hai đời , công trạng rất lớn. Vả lại Thái-Tử Hổ ở nước ta chưa có gì thất lễ, nay lại bỏ Chúa-công dùng Quách-công kỵ-phủ, thật là bất nghĩa. Xin Chúa-công ra binh đánh nhà Châu, phế Hoàn-vương mà lập vua khác, như thế các chư-hầu mới kính nễ nước Trịnh.
Dĩnh Khảo-thúc nói :
- Không nên thế ! Ðạo vua tôi như tình mẹ con. Chúa-công đã không thù mẹ sao lại thù Chúa được ! Chúa.công nên kiên-nhẫn ít lâu đợi cho Hoàn-vương hối hận mà trọng dụng, nếu nóng nẩy e làm mất khí tiết mấy đời của nhà Trịnh.
Tế-Túc tâu :
- Theo tôi tưởng cả hai người đều có lý. Vậy tôi có một ý dung-hòa hơn, là cần dò xét thái-độ Hoàn-vương trước đã. Nay đem một đạo binh sang đất nhà Châu lấy cớ mất mùa , mượn lúa ở Lạc-ấp và ôn-ấp, nếu nhà Châu trách phạt, ta sẽ sanh sự, bằng không Chúa công sẽ vào chầu để can gián Hoàn-vương.
Trịnh-trang-công cho là phải, bèn sai Tề-túc cắt quân kéo đến ôn-ấp.
Quan giữ ôn-ấp là Ôn Ðại-phu, thấy thế la hoảng :
- Sao ngài lại làm ngang như thế . Chưa có lệnh Hoàn-vương tôi không thể nào cho mượn lúa được.
Tề-Túc nói :
- Hiện nay ở đây lúa mạch đang chín, còn nước ta thiếu lúa ăn, nếu không cho mượn ta cứ tự tiện gặt lấy.
Nói xong khiến quân đem liềm hái xuống ruộng mà gặt.
Ôn Ðại-phu thấy quân Trịnh mạnh quá không dám ngăn cản, vội chạy về Lạc-dương cấp báo.
Hoàn-vương nổi giận định hưng binh đánh Trịnh, nhưng Châu-công Hắc-kiên can rằng :
- Tề-Túc gặt lúa trộm ấy chỉ là việc nhỏ ngoài biên đình. Bệ-hạ không nên vì việc nhỏ mà bỏ việc lớn , xin cứ lấy đại-lượng đối xử Trịnh trang-công sẽ ăn-năn mà hối cải.
Hoàn-công nhận lời, truyền canh giữ bờ cõi nghiêm nhặt còn việc gặt lúa thì bỏ qua không nói đến.
Tề-Túc đóng quân trên đất Châu ba tháng, không thấy gì, bèn trở về phục chỉ .
Trịnh trang-công thấy thế có ý ăn-năn, hối hận, bèn tính việc qui triều Châu bệ kiến Hoàn-vương.
Trịnh trang-công sắp lên đường thì bỗng có Tề hi-công sai sứ qua mời sang Thạch-môn phó hội.
Trịnh trang-công đã có ý muốn giao-ước với Tề-hầu , nay sẵn dịp bèn lên đường phó hội .
Khi gặp Tề hi-Công, Trịnh-trang-công cùng kết làm anh em sanh-tử, uống máu ăn thề, hẹn giúp đỡ lẫn nhau trong cơn hoạn nạn.
Tề hi-công, sau khi hỏi thăm, biết Thế-tử Hốt chưa định gia thất bèn tỏ ý rằng :
- Tôi có một đứa con gái, tuổi vừa cập kê, tài mạo gồm đũ , như hiền-hầu bằng lòng tôi sẽ gã cho Thế-tử Hốt.
Trịnh trang-công nghe nói rất đẹp dạ. Hai bên giả biệt ra về.
Về đến Kinh-đô, Trịnh trang-công thuật chuyện ấy lại với Thế-tử Hốt .
Thế-tử Hốt thưa :
- Việc phối- ngẫu cốt phải cân xứng , nay nước ta nhỏ, nước Tề lớn kết hôn với nhau đâu phải cách. Ý con tưởng không nên với cao làm gì .
Trịnh trang-công nói :
- Ðó là ý kiến của Tề hi-công ước muốn chớ đâu phải ý củ cha . Vả lại, kết nghỉa với Tề, ngày sau có thể tượng-trợ được, sao con lại từ chối ?
Thế-tử Hốt thưa :
- Thân trai bổn phận phải tự lập, lẽ đâu trông mong vào sự bảo trợ của kẻ khác .
Trịnh trang-công nghe nói, khen con có chí khí và không ép nữa.
Sau đó, sứ Tề qua Trịnh biết được chuyện Thế-tử Hốt từ chối việc hôn nhơn, trở về thuật lại với Tề hi-công .
Tề-hi-công khen thầm :
- Nếu vậy thì Trịnh Thế-tử quả lâ một kẻ can-cường , lại đầy lòng khiêm nhượng. Nhưng thôi ! con gái ta nhỏ, việc đó chưa muộn gì.
Một hôm, Trịnh trang-công đang thương nghị với quần thần về việc đi chầu Châu-vương, xảy có tin báo rằng Công-tử nước Vệ là Chu-hu đã giết vua Vệ hoàn-công mà soán vị.
Trịnh trang-công thất kinh, vỗ tay xuống bàn than :
- Thôi rồi ! Chẳng bao lâu nữa nước Trịnh ta xảy ra binh-biến .
Các quan không hiểu, ngơ ngác hỏi :
- Do đâu mà Chúa-công lại tiên-liệu như thế ?
Trịnh trang-công nói :
- Chu-hu là một đứa hung hăng. Nay soán ngôi nước Vệ tất thị oai với các nước lân-bang. Nước ta trước kia có hiềm khích, chắc là bị va dấy binh đánh trước . Vậy phải đề-phòng mới được.
Chu-hu nầy nguyên là con thứ ba của Vệ trang-công.
Vệ-trang-công trước kia lấy bà Trang-khương nước Tết rất đẹp mà không con, sau lại lấy nàng Lệ-Vĩ nước Trần làm thứ, Lệ-Vĩ cũng không con , nên Vệ trang-công lại, lấy em gái của Lệ-Vĩ là Ðài-Vĩ .
Nàng này sanh đặng hai trai là Hoàn và Tân.
Bà Trang-khương rất tốt tính, không hề biết ghen tương, đem Hoàn về nuôi làm con , rồi lại dâng cho Vệ trang-công một cung nữ.
Người cung-nữ nầy sanh được một trai, tức là Chu-hu.
Chu-hu tánh hung-bạo, nhưng Vệ trang-công lại rất yêu quý .
Do đó, Chu-hu mỗi ngày một lộng hành, bất chấp lời giáo huấn.
Thạch-thác thấy thế đã nhiều lần khuyên Vệ trang-công :
- Chúa công cần phải trấn áp công tử, kẻo sau nầy khó tránh tai vạ !
Còn Thạch-thác lại cũng có một đứa con trai là Thạch-hậu thường giao du với Chu-hu, rủ nhau săn bắn, luyện tập võ-nghệ.
làm lắm điều nhiễu hại dân chúng.
Thạch-thác cả giận đánh đập nhiều lần, nên Thạch-hậu bỏ nhà vào thành ở luôn với Chu-hu .
Thạch-thác cũng đành bó tay trước đứa con ngỗ-nghịch đó .
Sau Vệ trang-công mất, Hoàn lên ngôi kế vị tức là Vệ hoàn-Công.
Vệ hoàn-công vốn nhu nhược, không làm được việc lớn.
Thạch-thác thấy thế cáo-quan không tham dự triều chính nữa.
Lúc bấy giờ Chu-hu không còn kiêng nễ ai nữa, mưu tính với Thạch-hậu, toan việc cướp ngôi.
Rồi gặp lúc vua Bình-vương nhà Châu mất, Vệ hoàn-công sắp sửa đi điếu tang, Chu-hu được dịp bàn với Thạch-hậu.
Thạch-hậu nói :
- Ðó là dịp tốt. Ngày mai Công-tử bày tiệc tiễn hành đưa Chúa-công. Tôi sẽ cho quân sĩ phục ở phòng tiệc . Lúc đang ăn uống Chu Công-tử rút gươm ra mà hạ sát Chúa-công đi thì lo gì không đoạt được ngôi báu .
Chu-hu cả mừng, làm y kế.
Sáng hôm sau Chu-hu bày tiệc ở Cung-quán rồi mời Vệ hoàn-công đến dự.
Chu-hu nâng ly rượu nói :
- Nay huynh-hầu đi xa, em xin có ly rượu tiễn hành.
Vệ hoàn-công nói :
- Hiền đệ quá nhọc lòng ! Chẳng qua ta đi vắng một tháng rồi lại trở về. Chỉ mong hiền-đệ trông coi việc quốc-chính cho cẩn-
thận là tốt rồi !
Nói xong, Vệ hoàn-công rót một chén rượn trao cho Chu-hu để giã biệt.
Hai người nâng ly vui vẻ. Ðược một lúc Chu-hu giả say làm rơi ly rượu xuống đất, rồi cúi xuồng lượm ly đi rửa.
Vệ hoàn-công không ngờ nên bị Chu-hu lén ra phía sau lưng rút gươm đâm một nhát bỏ mạng.
Lúc đó, Thạch-hậu dẫn năm trăm quân giáp vây chặt Cung-quán, nên không ai đám trái lệnh.
Giết vệ hoàn-công xong, Chu-hu lên tức vị , và phong cho Thạch-hậu làm Thượng đại-phu.
Còn em ruột của Vệ hoàn-công là Tân bỏ trốn qua nước Hình lánh nạn.
Vừa lên ngôi được ba ngày, Chu-hu nghe dân-chúng bàn tán về việc mình giựt anh, soán ngôi, lòng bực tức, kêu Thạch Hậu vào hỏi ý-kiến :
- Nay ta mới tức vị, oai-quyền trong thiên hạ chưa được bao nhiêu, muốn cho các nước nể vì, tất phải hưng binh chinh phạt.
Vậy theo ý người nên đánh nước nào trước ?
Thạch-hậu tâu :
- Các lân-quốc đều chẳng có thù hiềm chi, duy chi có nước Trịnh trước kia có thù hiềm với ta việc Công-tôn-hoạt . Tiên-công đã nhượng bộ cầu hòa trong lúc quân Trịnh kéo tới bờ cõi, thật là điều quốc nhục. Nay Chúa-công muốn dựng binh, xin hãy đánh Trịnh trước .
Chu-hu nói :
- Nước Trịnh vừa lập minh-thệ với nước Tề tại Thạch-môn , nếu nay đánh Trịnh ắt Tề đem binh giúp, nước ta cự sao nổi ?
Thạch-hậu tâu .
- Nếu muốn đánh Trịnh, Chứa-công phải sai sứ sang nước Tống, nước Lỗ để cầu họ ra binh giúp sức. Rồi mượn thêm binh
nước Trần, nước Sái hiệp lại mà đánh thì lo gì chẳng thắng.
Chu-hu nói :
- Trần và Sái là hai nước nhỏ , xưa nay vẫn tùng-phục nhà Châu, nay nhà Châu nghịch với Trịnh, thì ta có thể mượn binh hai
nước ấy đánh Trịnh được. Duy chỉ có Lỗ và Tống là hai nước lớn rất khó nài họ giúp mình.
Thạch-hậu tâu :
- Chúa-công chưa rõ, nước Tống xưa Tống mục-công nối ngôi anh là Tuyên-công. Sau Tống mục-Công gần thác, muốn báo
ơn anh, nên bỏ con ruột là Bằng, truyền ngôi cho con người anh là Dư-di. Bằng oán cha và rất ghét Dư-Di nên bỏ sang nước Trịnh cư ngụ. Nước Trịnh đã chứa Bằng lại có ý giúp Bằng đánh Tống, cướp ngôi của Dư-di. Nay nhân việc nầy mà rủ Dư-di hiệp binh đánh Trịnh, ắt Dư-di không từ chối. Còn nước Lỗ thì Công-tử Vận chưởng-quản cả binh-quyền, xem Lỗ-Hầu chẳng ra chi. Nếu đem nhiều tiền của hối-lộ cho Công-tử Vận ắt nước Lỗ hưng-binh ngay .
Chu-hu nghe nói lòng phấn khởi, lập tức sai sứ sang Lỗ, Trần Sái .
Còn nước Tống vì phải có một sứ-giả ăn nói bặt-thiệp mới xong nên chưa chọn được người .
Thạch-hậu tâu :
- Nay có Ninh-dực, người đất Trung-mâu , vốn là một kẻ miệng lưỡi. Xin Chúa-công sai người ấy đi ắt thành-sự.
Chu-hu y lời, liền sai Ninh-dực sang mượn binh nước Tống
Ninh-dực bái mạng, lập tức lên ngựa ra đi.
Ðến nơi vào yết kiến.
Tống tương-công hỏi :
- Tại sao lại cử binh đánh Trịnh ?
Ninh-dực tâu : .
- Trịnh trang-công vô đạo, giết em, đày mẹ, khiến cho Công-tôn-hoạt trốn sang nước tôi tỵ-nạn. Trịnh trang-công lại mượn cớ ấy xâm lấn bờ cõi, Tiên-vương tôi vì nhu-nhược mà cầu hòa. Nay Chúa-công tôi quyết hưng binh rửa nhục. Vì nghĩ đến chỗ chúng ta đều có thù chung với nước Trịnh nên Chúa-công tôi khiến tôi sang đây mà cầu viện.
Tống tương-công nói :
- Ta cùng nước Trịnh xưa nay chẳng có thù hiềm chi , sao ngươi lại nghĩ như thế ?
Ninh-dực ôn-tồn nói :
- Có lẽ Chúa-công đã không nhớ ngôi vua nầy ai truyền lại cho Chúa-công chăng ?
Tồng tương-công mỉm cười nói :
- Của Vương-thúc ta là Tống mục-công truyền lại.
Ninh-dực nói :
- Từ xưa nay, hễ cha thác thì truyền ngôi lại cho con là lẽ thường . Tống mục-công tuy có lòng tốt, truyền ngôi lại cho Chúa-công, song công-tử Bằng hiện nương ngụ nơi đất Trịnh, lăm le mượn binh nước Trịnh về phục nghiệp . Như thế Chúa-công
làm sao yên được. Nay đánh Trịnh là một cơ-hội tốt để cho Chúa-Công trừ mối hại cho nước Tống sau nầy.
Tống tương-công lâu nay đã có ý nghi kỵ Công-tử Bằng , nay Ninh-dực nói đúng ý, liền nhận lời giúp Vệ đánh Trịnh.
Lúc ấy có quan Ðại tư-mã, vốn giòng dõi vua Thang, tên Không-phu-gia thấy Tống tương-công nhận lời giúp Vệ, bèn can rằng :
- Xin Chúa-công chớ nghe lời ngụy-biện của sứ nước Vệ. Nếu bắt tội Trịnh trang-công giết em, bỏ tù mẹ thì Chu-hu giết
anh đoạt ngôi lại không phải tội sao ? Quên tội mình, kết tội kẻ khác, ấy không phải là lời chân chính .
Tuy-nhiên, Tống tương-công vì đã hứa lỡ với Ninh-Dực, nên chẳng nghe lời can gián, nội ngày ấy hưng binh.
Còn nước Lỗ, Công-tử Vận đã ăn hối lộ của nước Vệ rồi, nên cũng rầm-rộ kéo binh sang. Trần và Sái cũng đều tề-tựu đũ mặt.
Năm nước họp lại cử nước Tống làm Minh-chủ, Thạch-hậu làm Tiên-phuông, Chu-hu đi hậu đạo, chở theo rất nhiều lương thực , lũ lượt kéo qua cửa Ðông-thành của nước Trịnh.
Trịnh trang-công hay tin, liền họp các quan đại thần lại bàn bạc.
Trong triều người chủ chiến, kẻ chủ hòa, ý-kiến rộn ràng chưa quyết .
Trịnh trang-công mỉm cười nói :
- Các quan chưa bàn được gì hay. Nhưng cứ theo thiển-kiến của ta thì Chu-hu vừa mới nổi loạn đoạt ngôi anh, dân tình trong nước không phục, nay va mượn oán cũ, cử binh sang đánh nước ta, chỉ cốt để cho dân nước Vệ sợ đó thôi. Công-tử Vận thì vì ham tiền hối-lộ mà cử binh sang đánh chứ không phải ý muốn của Lỗ ân-Công. Trần và Sái thì không có oán cừu gì với nước Trịnh , thế thì bốn nước đó không đáng sợ. Duy chỉ có Tống, ghét Công-tử Bằng trốn tránh trên đất Trịrih, nên thực lòng quyết đánh . Nay ta đưa Công-tử Bằng ra trú nơi đất Trường-các, binh Tống hay tin ắt kéo quân ra đó . Trong lúc ấy, ta khiến Công-tử Lữ dẫn quân ra cửa Ðông đánh với Chu-hu, rồi giả thua mà chạy. Chu-hu vốn làm oai, đã đánh thắng tất nhiên kéo quân về chứ không dám ở lâu trên đất Trịnh, sợ trong nước có loạn. Bởi vì hiện nay nước Vệ còn có Thạch-thác là một tôi trung của Vệ hoàn-công, làm sao chịu khoanh tay ngồi ngó Chu-hu phản-phúc được ! Tình trạng Chu-Hu hiện nay lo phận mình chưa đũ , có đâu lại làm hại ta được sao ?
Các quan cận-thần nghe nói đều cho là phải.
Trịnh trang-công liền khiến quan Ðại-phu Hà thúc-dĩnh đem một đạo quân đưa Công-tử Bằng qua Trường-các , rồi lại sai người đến nói với Tống tương-công rằng :
- Công-tử Bằng trốn sang nước tôi, tôi không nỡ giết, nên bắt đày ra Trường-các , vậy xin Chúa-công định-đoạt.
Tống tương-công hay được tin lập tức kéo đại binh ra vây nơi Trường-các.
Ba nước Trần, Sái và Lỗ thấy binh Tống đi rồi, có ý chán nản muốn rút binh về, nên lúc nghe Công-tử Lữ đem quân đánh Vệ ở cửa Ðông cũng không buồn tiếp ứng. |
17474 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20c%E1%BA%A3m%20%C6%A1n%20To%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20Sarraut%20%C4%91%C3%A3%20cho%20%E1%BB%9F%20th%C3%AAm%20m%E1%BB%99t%20n%C4%83m | Thư cảm ơn Toàn quyền Sarraut đã cho ở thêm một năm | Thưa Ngài Toàn quyền
Ông quan ba Roux đã tôi hay là Ngài đã cho phép tôi lưu lại Pháp thêm một năm nữa. Tôi xin gửi thư này để cảm ơn Ngài.
Ngoài ra tôi sẽ rất sung sướng được đến chào Ngài trước khi rời để đi Houlgate.
Tôi xin trân trọng kính chào Ngài.
Phan Châu Trinh(1)
Chú thích
(1) Thư viết tay, bằng quốc ngữ, nét chữ viết và chữ ký đều không giống chữ của Phan Châu Trinh, có thể do người khác viết dùm. Góc trái có ghi của người nhận thư "Tôi đã tiếp Phan Châu Trinh" chữ ký không rõ, chắc là của văn phòng Bộ Thuộc địa
Thư từ |
17656 | https://vi.wikisource.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20Trung%20Hoa%201982 | Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa 1982 |
LỜI NÓI ĐẦU
Trung Quốc là một trong những quốc gia có lịch sử lâu đời nhất trên thế giới. Nhân dân các dân tộc Trung Quốc đã cùng nhau xây dựng nên một nền văn hoá huy hoàng, sán lạn, với truyền thống cách mạng quang vinh.
Từ sau năm 1840, nước Trung Quốc phong kiến từng bước trở thành nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Nhân dân Trung Quốc tiếp bước thế hệ đi trước, anh dũng đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc và tự do dân chủ.
Thế kỷ 20, Trung Quốc đã xảy ra sự thay đổi lịch sử long trời lở đất.
Năm 1911, Tôn Trung Sơn lãnh đạo cách mạng Tân Hợi lật đổ đế chế phong kiến, thành lập nước Trung Hoa dân quốc. Nhưng nhiệm vụ lịch sử của nhân dân Trung Quốc đánh bại chủ nghĩa đế quốc và phong kiến vẫn chưa hoàn thành.
Năm 1949, Đảng Cộng sản Trung Quốc do lãnh tụ Mao Trạch Đông lãnh đạo nhân dân các dân tộc Trung Quốc tiến hành đấu tranh vũ trang và các hình thức đấu tranh khác trong cuộc trường chinh gian khổ, cuối cùng đã lật đổ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phong kiến và chủ nghĩa tư bản quan liêu, giành thắng lợi vĩ đại cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới, thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Từ đó nhân dân Trung Quốc nắm được quyền lực nhà nước, trở thành chủ nhân quốc gia.
Sau khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Trung Quốc từng bước thực hiện chủ nghĩa dân chủ mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đã hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với chế độ tư hữu tư liệu sản xuất, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, thành lập chế độ xã hội chủ nghĩa, lấy cơ sở là chuyên chính dân chủ nhân dân với nền tảng liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo, trên thực tế, chuyên chính giai cấp vô sản được củng cố và phát triển. Nhân dân Trung Quốc và quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đã đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, đánh thắng sự xâm lược của chủ nghĩa bá quyền, chiến tranh phá hoại và vũ trang đẫm máu, bảo vệ độc lập, an ninh quốc gia, tăng cường an ninh quốc phòng. Về mặt kinh tế, đã giành được những thành tựu vô cùng quan trọng, hình thành tương đối hoàn chỉnh hệ thống công nghiệp XHCN, sản xuất nông nghiệp nâng cao rõ rệt. Các sự nghiệp giáo dục, khoa học, văn hoá… phát triển mạnh mẽ. Việc giáo dục tư tưởng XHCN giành được thành tựu rõ rệt. Đời sống của phần lớn bộ phận dân cư được cải thiện đáng kể.
Sự thắng lợi của cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới Trung Quốc và những thành tựu của sự nghiệp XHCN do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân các dân tộc Trung Quốc dưới sự dẫn dắt của lý luận Mác-Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông kiên trì chân lý, sửa chữa sai lầm, gian khổ đấu tranh và giành được thắng lợi. Từ nay về sau, nhiệm vụ căn bản của nước ta là tập trung lực lượng tiến hành xây dựng hiện đại hoá XHCN. Nhân dân các dân tộc Trung Quốc sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Mao Trạch Đông kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì con đường XHCN, kiên trì cải cách đổi mới, không ngừng hoàn thiện các mặt của chế độ XHCN, phát triển dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, tự lực cánh sinh, gian khổ phấn đấu, từng bước thực hiện hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật, xây dựng đất nước ta thành một nước XHCN giàu mạnh, dân chủ văn minh.
Ở nước ta, giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ, nhưng đấu tranh giai cấp vẫn còn tồn tại trong một phạm vi và thời gian nhất định. Nhân dân Trung Quốc vẫn cần tiến hành đấu tranh với các thế lực phản động trong và ngoài nước, đấu tranh với phần tử chống đối nhằm phá hoại chế độ XHCN ở nước ta.
Đài Loan là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Hoàn thành sự nghiệp thống nhất tổ quốc là trách nhiệm thiêng liêng của nhân dân cả nước Trung Quốc trong đó bao gồm đồng bào Đài Loan.
Sự nghiệp xây dựng XHCN phải dựa vào giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đoàn kết tất cả các lực lượng có thể đoàn kết. Trong quá trình lâu dài của cách mạng và xây dựng đã kết thành các đảng phái dân chủ và các đoàn thể nhân dân tham gia, do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo được toàn thể nhân dân lao động XHCN, người yêu nước XHCN và chiến tuyến thống nhất của đông đảo người yêu nước ủng hộ. Chiến tuyến thống nhất tiếp tục được củng cố và phát triển. Hội nghị Hiệp thương chính trị nhân dân Trung Quốc là tổ chức mặt trận yêu nước thống nhất rộng rãi, từng phát huy tác dụng quan trọng trong lịch sử. Từ nay về sau, trong đời sống chính trị cả nước, đời sống xã hội và trong các hoạt động đối ngoại hoà bình, trong sự nghiệp tiến hành xây dựng hiện đại hoá XHCN, trong đấu tranh thống nhất và đoàn kết bảo vệ nhà nước, sẽ từng bước phát huy các tác dụng quan trọng khác.
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là quốc gia đa dân tộc thống nhất, do cộng đồng các dân tộc trong cả nước tạo nên, xác lập quan hệ dân tộc XHCN bình đẳng, đoàn kết tương trợ lẫn nhau và quan hệ đó tiếp tục được tăng cường. Trong quá trình đấu tranh bảo vệ đoàn kết dân tộc, phản đối chủ nghĩa đại dân tộc, chủ yếu là chủ nghĩa dân tộc đại Hán, phản đối chủ nghĩa dân tộc địa phương. Nhà nước cố gắng hết sức để thúc đẩy sự phồn vinh giữa các dân tộc trên cả nước.
Thành tựu cách mạng và xây dựng Trung Quốc là không tách rời khỏi sự ủng hộ của nhân dân toàn thế giới. Tương lai của Trung Quốc có mối quan hệ mật thiết với tương lai của thế giới. Trung Quốc kiên trì chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ, kiên trì 5 nguyên tắc chung sống hoà bình, tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, phát triển quan hệ ngoại giao và kinh tế, giao lưu văn hoá với các nước, kiên trì chống lại chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa thực dân, tăng cường đoàn kết nhân dân các nước trên thế giới, ủng hộ nhân dân các nước đang phát triển và các dân tộc bị áp bức trong sự nghiệp chính nghĩa, giành lấy và bảo vệ nền độc lập, phát triển kinh tế dân tộc, nỗ lực để bảo vệ hoà bình thế giới và thúc đẩy sự tiến bộ của loài người.
Bản hiến pháp này dùng hình thức pháp luật xác nhận thành quả đấu tranh của nhân dân các dân tộc Trung Quốc, quy định chế độ và nhiệm vụ căn bản của nhà nước, là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Nhân dân các dân tộc trong cả nước, tất cả các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, các chính đảng và đoàn thể xã hội, các tổ chức sự nghiệp, các doanh nghiệp đều phải lấy Hiến pháp làm tiêu chuẩn xử sự căn bản trong hoạt động của mình và có trách nhiệm trong việc bảo vệ sự tôn nghiêm của Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp được thi hành.
CHƯƠNG I. NGUYÊN TẮC CHUNG
Điều 1. Thể chế nhà nước
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là nhà nước xã hội chủ nghĩa của chuyên chính dân chủ nhân dân, với nền tảng là liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ cơ bản của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Điều 2. Chính thể nhà nước
Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua cơ quan đại diện là Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương.
Nhân dân dựa vào quy định pháp luật, thông qua cách thức và hình thức quản lý công việc nhà nước, quản lý các ngành kinh tế và văn hoá, quản lý công việc xã hội.
Điều 3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Các cơ quan nhà nước nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được tổ chức và hoạt động dựa trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ.
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp đều chịu trách nhiệm trước nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Cơ quan hành chính, cơ quan xét xử, cơ quan kiểm sát đều do Đại hội Đại biểu nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm, và chịu sự giám sát của cơ quan này.
Sự phân cấp chức năng, quyền hạn của cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương phải tuân theo sự lãnh đạo thống nhất từ trung ương dựa trên nguyên tắc phát huy đầy đủ tính chủ động, tích cực của địa phương.
Điều 4. Chính sách dân tộc
Các dân tộc đang sinh sống trên đất nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa hoàn toàn bình đẳng. Nhà nước bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các dân tộc thiểu số, bảo vệ và phát triển sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị và áp bức dân tộc thiểu số, nghiêm cấm hành vi phá hoại sự đoàn kết, gây chia rẽ các dân tộc.
Nhà nước dựa vào đặc điểm và yêu cầu của các dân tộc thiểu số, giúp đỡ các khu vực dân tộc thiểu số nhanh chóng phát triển kinh tế và văn hoá.
Địa phương tập trung các dân tộc thiểu số sinh sống thực hiện chế độ khu tự trị, xây dựng cơ quan tự trị, thi hành quyền tự trị. Địa phương tự trị các dân tộc là bộ phận không thể tách rời của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Các dân tộc đều có quyền tự do sử dụng và phát triển tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình, có quyền tự do giữ gìn hoặc thay đổi phong tục tập quán của mình.
Điều 5. Sự tôn nghiêm và thống nhất của pháp chế
Nhà nước bảo vệ sự thống nhất và tôn nghiêm của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tất cả quy phạm pháp luật, văn bản pháp quy hành chính và văn bản pháp quy mang tính địa phương đều không được trái với hiến pháp.
Tất cả các cơ quan nhà nước và lực lượng vũ trang, các đảng phái chính trị và đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đều phải tuân thủ hiến pháp và pháp luật. Mọi hành vi vi phạm hiến pháp và pháp luật, đều bị truy cứu.
Hành vi của mọi tổ chức hoặc cá nhân đều không được vượt quá quy định của hiến pháp và pháp luật.
Điều 6. Chế độ công hữu và nguyên tắc phân phối theo lao động
Cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể quần chúng lao động.
Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động.
Điều 7. Kinh tế quốc doanh
Kinh tế quốc doanh là kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân xã hội chủ nghĩa, là lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước bảo đảm sự ổn định và phát triển của kinh tế quốc doanh.
Điều 8. Kinh tế tập thể
Công xã nhân dân nông thôn, hợp tác sản xuất nông nghiệp và các hình thức hợp tác kinh tế khác như sản xuất, dịch vụ, tín dụng, tiêu dùng, là chế độ kinh tế tập thể của quần chúng lao động XHCN. Người lao động tham gia vào tổ chức kinh tế tập thể nông thôn, có quyền kinh doanh trên đất phần trăm, diện tích rừng phần trăm, nghề phụ gia đình, trồng trọt chăn nuôi trong phạm vi quy định của pháp luật.
Các hình thức hợp tác kinh tế giữa các ngành công nghiệp thủ công, công nghiệp, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, dịch vụ... ở các thành phố thị trấn đều là kinh tế sở hữu tập thể quần chúng lao động xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức kinh tế tập thể ở thành phố, thị trấn, khuyến khích, chỉ đạo, và giúp đỡ việc phát triển kinh tế tập thể.
Điều 9. Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản, nguồn nước, rừng, đồi núi, thảo nguyên, đất hoang, đầm lầy. đều thuộc sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân. Ngoài ra, các tài nguyên rừng, đồi núi, đồng cỏ, đất hoang do pháp luật quy định thuộc sở hữu tập thể.
Nhà nước bảo đảm sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ động, thực vật quý hiếm. Nghiêm cấm mọi tổ chức hoặc cá nhân dùng bất cứ thủ đoạn nào chiếm đoạt hoặc phá hoại tài nguyên thiên nhiên.
Điều 10. Chế độ đất đai
Đất đai ở thành phố thuộc sở hữu nhà nước.
Đất đai ở nông thôn, ngoại ô thành phố, ngoài do pháp luật quy định thuộc sở hữu nhà nước, thì thuộc sở hữu tập thể, đất ở, đất phần trăm, diện tích đất đồi núi phần trăm đều thuộc sở hữu tập thể.
Nhà nước căn cứ vào nhu cầu lợi ích công cộng, có thể tiến hành trưng dụng đất đai theo quy định của pháp luật.
Mọi tổ chức hoặc cá nhân không được chiếm đoạt, mua bán, cho thuê hoặc chuyển nhượng đất đai dưới các hình thức trái quy định pháp luật.
Mọi tổ chức và cá nhân phải sử dụng đất đai hợp lý.
Điều 11. Kinh tế phi công hữu
Kinh tế cá thể của người lao động thành phố thị trấn trong phạm vi quy định của pháp luật là sự bổ sung của kinh tế công hữu xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của kinh tế cá thể.
Nhà nước quản lý hành chính, chỉ đạo, giúp đỡ và giám sát kinh tế cá thể.
Điều 12. Nguyên tắc không xâm phạm tài sản công cộng
Tuyệt đối không xâm phạm tài sản công hữu thiêng liêng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước bảo vệ tài sản công xã hội chủ nghĩa. Nghiêm cấm mọi tổ chức hoặc cá nhân dùng bất cứ thủ đoạn nào chiếm đoạt hoặc phá hoại tài sản nhà nước và tập thể.
Điều 13. Bảo vệ tài sản thuộc sở hữu tư nhân
Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu nhà cửa và các tài sản được hình thành từ nguồn thu nhập và tích lũy hợp pháp của công dân.
Nhà nước dựa vào các quy định của pháp luật, bảo vệ quyền thừa kế tư nhân về tài sản công dân.
Điều 14. Chế độ sản xuất, tích luỹ và tiêu dùng
Nhà nước thông qua việc nâng cao tính tích cực và trình độ kỹ thuật của người lao động, đẩy mạnh khoa học kỹ thuật tiên tiến, hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế và chế độ quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện các hình thức chế độ trách nhiệm xã hội chủ nghĩa, cải tiến tổ chức lao động, không ngừng nâng cao sức sản xuất và hiệu quả kinh tế, phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí.
Nhà nước thực hiện hợp lý việc tích luỹ và tiêu dùng, chú ý toàn diện đến lợi ích quốc gia, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trên cơ sở phát triển sức sản xuất, từng bước cải thiện đời sống vật chất và đời sống văn hoá của nhân dân.
Điều 15. Kinh tế kế hoạch
Nhà nước thực hiện kinh tế kế hoạch trên cơ sở công hữu xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thông qua cân bằng tổng hợp kinh tế kế hoạch và tác dụng bổ trợ của điều tiết thị trường, bảo đảm phát triển hài hoà kinh tế quốc dân.
Nghiêm cấm tất cả các tổ chức hoặc cá nhân làm xáo trộn trật tự xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế nhà nước.
Điều 16. Doanh nghiệp quốc doanh
Doanh nghiệp quốc doanh phục tùng sự lãnh đạo thống nhất của nhà nước và hoàn thành kế hoạch của nhà nước, có quyền tự chủ trong quản lý kinh doanh trong phạm vi quy định pháp luật.
Doanh nghiệp quốc doanh trên cơ sở quy định pháp luật, thực hiện quản lý dân chủ thông qua Đại hội Đại biểu công nhân viên chức và các hình thức khác.
Điều 17. Doanh nghiệp tập thể
Tổ chức kinh tế tập thể chịu sự chỉ đạo của kế hoạch nhà nước và tuân thủ pháp luật có liên quan, có quyền độc lập, tự chủ tiến hành các hoạt động kinh tế.
Theo quy định của pháp luật, tổ chức kinh tế tập thể quản lý người lao động dựa trên nguyên tắc dân chủ; người lao động có quyền bầu hoặc bãi miễn người quản lý, quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động quản lý kinh doanh.
Điều 18. Đầu tư nước ngoài
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cho phép doanh nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá nhân nước ngoài đầu tư tại Trung Quốc, hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc hoặc với các tổ chức kinh tế khác tiến hành các hình thức hợp tác kinh tế theo quy định của pháp luật nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Tất cả các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh đều phải tuân thủ pháp luật nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Tất cả các quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp đều được pháp luật nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa bảo vệ.
Điều 19. Sự nghiệp giáo dục
Nhà nước phát triển sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học toàn dân.
Nhà nước thành lập các trường học, phổ cập giáo dục cấp tiểu học, phát triển giáo dục cấp trung học cơ sở, giáo dục dạy nghề và giáo dục phổ thông trung học, đồng thời phát triển giáo dục mầm non.
Nhà nước thực hiện phát triển các loại hình giáo dục, xoá mù chữ, tiến hành giáo dục chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ đối với công nhân, nông dân, công nhân viên chức nhà nước, và người lao động khác, khuyến khích nhân tài tự học.
Nhà nước khuyến khích tổ chức kinh tế tập thể, tổ chức đơn vị sự nghiệp nhà nước và các lực lượng xã hội khác xây dựng các loại hình giáo dục đào tạo theo quy định của pháp luật.
Nhà nước đẩy mạnh sử dụng phổ biến tiếng phổ thông trong phạm vi cả nước.
Điều 20. Sự nghiệp khoa học
Nhà nước phát triển khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, phổ cập tri thức khoa học và kỹ thuật, khuyến khích các thành quả nghiên cứu khoa học và sáng tạo phát minh kỹ thuật.
Điều 21. Sự nghiệp vệ sinh, y tế và giáo dục thể chất
Nhà nước phát triển sự nghiệp vệ sinh y tế, phát triển ngành y tế hiện đại và y học truyền thống, khuyến khích và ủng hộ các tổ chức kinh tế tập thể nông thôn, đơn vị kinh tế, sự nghiệp nhà nước và các tổ chức dân phố (xã, phường) xây dựng cơ sở vệ sinh, y tế, triển khai hoạt động vệ sinh mang tính quần chúng, bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Nhà nước phát triển sự nghiệp giáo dục thể chất, triển khai hoạt động thể chất quần chúng, tăng cường thể chất người dân.
Điều 22. Sự nghiệp văn hoá
Nhà nước phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, phát thanh truyền hình, xuất bản, phát hành, bảo tàng văn hoá, thư viện và các sự nghiệp văn hoá khác phục vụ quần chúng nhân dân, phục vụ chủ nghĩa xã hội, triển khai hoạt động văn hoá mang tính quần chúng.
Nhà nước bảo vệ di tích lịch sử, di sản văn hoá quý giá và các di sản văn hoá lịch sử quan trọng khác.
Điều 23. Tầng lớp trí thức
Nhà nước bồi dưỡng nhân tài, nhân viên chuyên nghiệp trên mọi lĩnh vực, đội ngũ tri thức, tạo điều kiện để phát huy mạnh mẽ tác dụng của họ trong sự nghiệp hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa, phục vụ chủ nghĩa xã hội.
Điều 24. Xây dựng văn minh tinh thần
Nhà nước chú trọng phổ cập, giáo dục lý tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục văn hoá, kỷ luật và giáo dục pháp chế, thông qua việc ban hành và chấp hành các quy tắc xử sự trong quần chúng ở phạm vi các thành phố, thị trấn, góp phần xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước nêu cao truyền thống yêu nước, dân tộc, yêu lao động, yêu khoa học, yêu chủ nghĩa xã hội, triển khai giáo dục sâu rộng trong nhân dân chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa cộng sản, tiến hành giáo dục chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, phản đối chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa phong kiến và tư tưởng lạc hậu khác.
Điều 25. Sinh đẻ kế hoạch
Nhà nước áp dụng sinh đẻ kế hoạch, điều chỉnh sự tăng trưởng dân số phù hợp với sự phát triển xã hội và kinh tế.
Điều 26. Đời sống, môi trường sinh thái
Nhà nước bảo vệ và cải thiện cuộc sống và môi trường sống, phòng chống ô nhiễm và các hoạt động công ích khác.
Nhà nước tổ chức và động viên việc trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng.
Điều 27. Chế độ cơ quan nhà nước và cán bộ viên chức
Tất cả các cơ quan nhà nước trên nguyên tắc tinh giản, thực hiện chế độ công tác trách nhiệm, thực hiện bồi dưỡng và thi sát hạch đối với cán bộ viên chức công tác trong bộ máy nhà nước, không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác, chống chủ nghĩa quan liêu.
Tất cả các cơ quan nhà nước và cán bộ công nhân viên chức nhà nước phải dựa vào sự ủng hộ của nhân dân, thường xuyên bảo đảm mối liên hệ mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến và kiến nghị của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và nỗ lực phục vụ nhân dân.
Điều 28. Bảo vệ trật tự xã hội
Nhà nước bảo vệ trật tự xã hội chủ nghĩa, trấn áp các hoạt động phản quốc và các hoạt động phản cách mạng khác, xử lý các hoạt động làm nguy hại đến trật tự trị an, phá hoại kinh tế xã hội chủ nghĩa, và các hoạt động tội phạm khác, trừng trị và cải tạo các phần tử phạm tội.
Điều 29. Lực lượng vũ trang
Lực lượng vũ trang nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thuộc về nhân dân, với nhiệm vụ củng cố quốc phòng, chống xâm lược, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân dân yêu chuộng hoà bình, tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước, nỗ lực phục vụ nhân dân.
Nhà nước tăng cường xây dựng cách mạng hoá, hiện đại hoá, chính quy hoá lực lượng vũ trang, tăng cường lực lượng quốc phòng.
Điều 30. Khu vực hành chính
Các khu vực hành chính nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được phân định như sau:
Cả nước phân thành Tỉnh, Khu tự trị, Thành phố trực thuộc.
Tỉnh, Khu tự trị phân thành Châu tự trị, Huyện, Huyện tự trị, Thành phố.
Huyện, Huyện tự trị phân thành Hương, Hương dân tộc, Trấn.
Thành phố trực thuộc và thành phố tương đối lớn phân thành Khu và Huyện. Châu tự trị phân thành Huyện, Huyện tự trị, Thành phố.
Khu tự trị, Châu tự trị, Huyện tự trị đều là tự trị dân tộc địa phương.
Điều 31. Khu vực hành chính đặc biệt
Nhà nước trong trường hợp cần thiết có thể thành lập khu hành chính đặc biệt. Trong khu hành chính đặc biệt thi hành chế độ căn cứ theo tình hình cụ thể do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc quy định theo pháp luật.
Điều 32. Chính sách bảo vệ đối với người nước ngoài
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nước ngoài trong phạm vi biên giới nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, người nước ngoài trong lãnh thổ Trung Quốc phải tuân thủ pháp luật nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Người nước ngoài vì lý do chính trị có yêu cầu nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa cho cư trú, có thể được nhà nước bảo vệ quyền lợi.
CHƯƠNG II. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA CÔNG DÂN
Điều 33. Quyền công dân
Tất cả những người có quốc tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đều là công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Mọi công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đều bình đẳng trước pháp luật.
Tất cả quyền lợi của công dân được Hiến pháp và pháp luật quy định, đồng thời Hiến pháp và pháp luật quy định nghĩa vụ của công dân.
Điều 34. Quyền bầu cử và quyền ứng cử
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đủ 18 tuổi không phân biệt dân tộc, chủng tộc, giới tính, nghề nghiệp, thành phần gia đình, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ giáo dục, tình hình tài chính, giới hạn cư trú đều có quyền bầu cử và ứng cử; trừ những người mà theo quy định của pháp luật bị tước quyền chính trị.
Điều 35. Quyền tự do chính trị cơ bản
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền tự do ngôn luận, xuất bản, lập hội, tham gia tổ chức đoàn thể, đi lại, biểu tình.
Điều 36. Quyền tự do tín ngưỡng
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo.
Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân không được cưỡng chế công dân đi theo tôn giáo hoặc từ bỏ tôn giáo, không được phân biệt, kỳ thị người có tôn giáo và người không tôn giáo.
Nhà nước bảo đảm hoạt động tôn giáo bình thường. Nghiêm cấm bất kỳ người nào lợi dụng hoạt động tôn giáo để phá hoại trật tự xã hội, tổn hại đến sức khoẻ của công dân, làm ảnh hưởng các chế độ giáo dục của nhà nước.
Đoàn thể tôn giáo và sự nghiệp tôn giáo không chịu sự chi phối của thế lực bên ngoài.
Điều 37. Quyền tự do thân thể
Quyền tự do thân thể của công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là bất khả xâm phạm.
Tất cả mọi công dân, trừ những người do Viện kiểm sát nhân dân phê chuẩn hoặc quyết định hoặc những người do Toà án nhân dân quyết định, và do cơ quan công an thi hành, đều không bị bắt giữ.
Nghiêm cấm các hành vi giam giữ, bắt bớ trái pháp luật hoặc hạn chế tự do thân thể công dân, nghiêm cấm việc xâm phạm thân thể công dân một cách bất hợp pháp.
Điều 38. Tôn trọng và bảo vệ danh dự
Danh dự của công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được tôn trọng và không bị xâm hại, nghiêm cấm việc làm nhục, xúc phạm, vu cáo, bức hại công dân dưới bất kỳ hình thức nào.
Điều 39. Quyền bất khả xâm phạm nơi ở
Nơi ở của công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không bị xâm phạm. Nghiêm cấm các hành vi khám xét hoặc đột nhập một cách bất hợp pháp nơi ở của công dân.
Điều 40. Quyền tự do thư tín và bảo mật thư tín
Quyền tự do thư tín và bảo mật thư tín của công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được pháp luật bảo vệ. Trừ trường hợp vì lý do an ninh quốc gia hoặc do yêu cầu của việc bắt giữ tội phạm hình sự, do cơ quan công an hoặc cơ quan kiểm sát tiến hành kiểm tra căn cứ theo trình tự quy định của pháp luật, nghiêm cấm bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào, vì bất cứ lý do gì xâm phạm quyền tự do thư tín hoặc quyền bảo mật thư tín của công dân.
Điều 41. Quyền giám sát của công dân đối với cơ quan nhà nước
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền phê bình và kiến nghị đối với bất kỳ cơ quan nhà nước hoặc nhân viên của cơ quan nhà nước; công dân có quyền khiếu nại, tố cáo hoặc tố giác đối với bất kỳ hành vi không làm tròn trách nhiệm, trái pháp luật của cơ quan nhà nước hoặc nhân viên cơ quan nhà nước, nhưng không được phép bịa đặt hoặc bẻ cong sự thật để vu cáo hãm hại.
Đối với khiếu nại, khiếu tố hoặc tố giác của công dân, cơ quan có liên quan phải điều tra rõ sự việc, có trách nhiệm xử lý. Nghiêm cấm mọi hành vi khống chế, đả kích, báo thù.
Những người bị thiệt hại do cơ quan nhà nước hoặc người công tác trong cơ quan nhà nước gây ra có quyền đòi bồi thường theo các quy định pháp luật.
Điều 42. Quyền và nghĩa vụ lao động
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền và nghĩa vụ về lao động.
Nhà nước thông qua nhiều hình thức tạo điều kiện về việc làm, tăng cường bảo đảm việc làm, cải tạo điều kiện lao động, và trên cơ sở phát triển sức sản xuất nâng cao thu nhập của người lao động và phúc lợi đãi ngộ.
Lao động là trách nhiệm vinh quang của tất cả công dân có đầy đủ năng lực lao động. Người lao động ở trong doanh nghiệp quốc doanh và tổ chức kinh tế tập thể ở thành phố thị trấn đều phải có thái độ của người làm chủ quốc gia đối với lao động của chính mình. Nhà nước phát động thi đua, khen thưởng các điển hình lao động và các cá nhân lao động tiên tiến XHCN. Nhà nước phát động nghĩa vụ lao động việc làm đối với công dân.
Nhà nước bồi dưỡng, giáo dục dạy nghề cần thiết trước khi công dân tìm việc làm.
Điều 43. Quyền nghỉ ngơi của người lao động
Người lao động là công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền nghỉ ngơi.
Nhà nước phát triển các biện pháp nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, quy định chế độ thời gian làm việc và nghỉ ngơi của công nhân viên chức.
Điều 44. Chế độ hưu trí
Nhà nước căn cứ theo quy định của pháp luật thực hiện chế độ hưu trí đối với cán bộ công nhân viên chức làm việc tại cơ quan nhà nước và tổ chức đơn vị sự nghiệp. Cuộc sống của người nghỉ hưu được nhà nước và xã hội bảo đảm.
Điều 45. Quyền được trợ cấp khó khăn
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa nếu rơi vào tình trạng già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động, có quyền nhận được sự giúp đỡ vật chất của nhà nước và xã hội.
Nhà nước phát triển bảo hiểm xã hội, cứu tế xã hội, và sự nghiệp y tế nhằm phục vụ quyền lợi của công dân.
Nhà nước và xã hội bảo đảm đời sống cho thương binh, gia đình anh hùng liệt sỹ, ưu đãi gia đình quân nhân.
Nhà nước và xã hội giúp đỡ, sắp xếp lao động, ổn định cuộc sống, giáo dục cho những công dân tàn tật như mù, điếc, câm và những công dân tàn tật khác.
Điều 46. Quyền và nghĩa vụ giáo dục
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền và nghĩa vụ được giáo dục.
Nhà nước tạo điều kiện để thanh niên, thiếu niên, nhi đồng phát triển toàn diện về các mặt: đạo đức, trí lực, thể chất.
Điều 47. Tự do hoạt động văn hoá
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền tự do trong việc tiến hành nghiên cứu khoa học, sáng tạo văn học nghệ thuật và các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong sự nghiệp giáo dục, khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và sự nghiệp văn hoá khác.
Điều 48. Nguyên tắc bình đẳng nam nữ
Phụ nữ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có quyền bình đẳng với nam giới trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và đời sống gia đình.
Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ, thực hiện trả lương bình đẳng giữa nam và nữ, bồi dưỡng và đề bạt cán bộ nữ.
Điều 49. Chế độ hôn nhân, gia đình
Hôn nhân, gia đình, bà mẹ và trẻ em được nhà nước bảo vệ.
Hai bên vợ và chồng phải thực hiện nghĩa vụ kế hoạch hoá gia đình.
Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục trẻ vị thành niên, người thành niên có nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ.
Nghiêm cấm hành vi phá hoại tự do hôn nhân, ngược đãi người già, phụ nữ và trẻ em.
Điều 50. Bảo đảm quyền lợi của Hoa kiều, người Trung Quốc về nước
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Hoa kiều, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của kiều bào và Hoa kiều.
Điều 51. Hạn chế quyền tự do và quyền lợi công dân
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa khi thực hiện quyền tự do và quyền lợi của mình không được xâm hại đến tự do và quyền lợi hợp pháp của nhà nước, xã hội, tập thể và công dân khác.
Điều 52. Nghĩa vụ thống nhất tổ quốc và đoàn kết dân tộc
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có nghĩa vụ bảo vệ sự thống nhất Tổ quốc và đoàn kết các dân tộc trong nước.
Điều 53. Nghĩa vụ tôn trọng pháp luật
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa phải tôn trọng Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ bí mật quốc gia, giữ gìn tài sản công cộng, tuân thủ kỷ luật lao động, tuân thủ trật tự công cộng, tôn trọng đạo đức xã hội.
Điều 54. Nghĩa vụ bảo vệ an toàn, danh dự, lợi ích của nhà nước
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có nghĩa vụ bảo vệ sự an toàn, danh dự và lợi ích quốc gia, không được có hành vi xâm hại đến sự an toàn, danh dự và lợi ích của nhà nước.
Điều 55. Nghĩa vụ bảo vệ nhà nước và nghĩa vụ quân sự
Bảo vệ tổ quốc, chống chiến tranh xâm lược là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia tổ chức dân quân theo quy định của pháp luật là nghĩa vụ vinh quang của mỗi công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Điều 56. Nghĩa vụ nộp thuế
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG III. CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
PHẦN THỨ NHẤT. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN TOÀN QUỐC
Điều 57. Tổ chức của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và cơ quan thường trực
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là cơ quan quyền lực cao nhất. Cơ quan thường trực là Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Điều 58. Chủ thể thực hiện quyền lập pháp của nhà nước
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc thực hiện quyền lập pháp.
Điều 59. Tổ chức và bầu cử Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc là tổ chức trong đó các đại biểu được lựa chọn từ các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc và quân đội. Tất cả các dân tộc thiểu số đều có tỷ lệ đại biểu nhất định.
Bầu cử Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc do Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc chủ trì.
Tỷ lệ đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và phương án tăng thêm số đại biểu do pháp luật quy định.
Điều 60. Nhiệm kỳ của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có nhiệm kỳ 5 năm.
Trước khi Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc kết thúc nhiệm kỳ 2 tháng, Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc phải hoàn thành danh sách đại biểu ứng cử của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khoá sau. Trường hợp bất thường, không thể tiến hành bầu cử, Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc lấy biểu quyết đạt 2/3 số đại biểu thông qua, thì có thể kéo dài thời gian bầu cử hoặc kéo dài nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. Trong thời gian đặc biệt nếu kết thúc sau 1 năm, phải hoàn thành việc bầu cử Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khoá mới.
Điều 61. Chế độ hội nghị Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc
Hội nghị Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc mỗi năm họp 1 lần, do Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc triệu tập. Nếu đại biểu Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc thấy cần thiết hoặc có 1/5 số đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc kiến nghị, có thể triệu tập Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc lâm thời.
Điều 62. Chức năng quyền hạn của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc thực hiện các chức năng quyền hạn sau:
(1) Sửa đổi hiến pháp;
(2) Giám sát thực thi hiến pháp;
(3) Ban hành và sửa đổi luật cơ bản như: Luật Hình sự, Dân sự, Cơ quan nhà nước và các luật cơ bản khác;
(4) Bầu ra Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa;
(5) Căn cứ vào sự giới thiệu của Chủ tịch nước quyết định bầu ra Thủ tướng; căn cứ theo giới thiệu của Thủ tướng Quốc vụ viện quyết định bầu ra Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, Uỷ viên Quốc vụ viện và các Bộ trưởng, Chủ nhiệm các Uỷ ban, Tổng Kiểm toán và Ban thư ký;
(6) Bầu ra Chủ tịch Uỷ ban quân sự Trung ương, căn cứ theo giới thiệu của Chủ tịch Uỷ ban quân sự Trung ương quyết định bầu ra các thành viên khác của Uỷ ban quân sự Trung ương;
(7) Bầu ra Chánh án Toà án nhân dân tối cao;
(8) Bầu ra Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
(9) Thẩm tra và phê chuẩn báo cáo tình hình kinh tế Nhà nước, kế hoạch phát triển xã hội và kế hoạch thi hành;
(10) Thẩm tra và phê chuẩn báo cáo dự toán của nhà nước và tình hình chấp hành dự toán;
(11) Sửa đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không phù hợp của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc;
(12) Phê chuẩn quy hoạch xây dựng Tỉnh, Khu tự trị và Thành phố trực thuộc;
(13) Quyết định thành lập và quy định chế độ khác của Khu hành chính đặc biệt;
(14) Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình;
(15) Các chức năng quyền hạn khác của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Điều 63. Quyền bãi miễn của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có quyền bãi miễn các cán bộ sau đây:
(1) Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa;
(2) Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Uỷ viên Quốc vụ, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm Uỷ ban, Tổng kiểm toán, Ban Thư ký Quốc vụ viện;
(3) Chủ tịch và các thành viên khác trong Uỷ ban quân sự Trung ương;
(4) Chánh án Toà án nhân dân tối cao;
(5) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 64. Sửa đổi Hiến pháp và thông qua pháp luật
Việc sửa đổi Hiến pháp do Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc hoặc 1/5 đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc trở lên, và do 2/3 tổng số đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc trở lên biểu quyết thông qua.
Điều 65. Tổ chức và bầu cử Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc do những đại biểu sau hợp thành: Uỷ viên trưởng; Một số Phó Uỷ viên; Trưởng Ban Thư ký; Một số Uỷ viên.
Trong số thành viên của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân có một số đại biểu là người dân tộc thiểu số theo tỉ lệ nhất định.
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có quyền bầu và bãi miễn thành viên Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Thành viên Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không là người đảm nhiệm chức vụ cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan toà án và cơ quan kiểm sát.
Điều 66. Nhiệm kỳ của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có nhiệm kỳ trùng với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. Nhiệm kỳ đó kéo dài cho đến khi Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khoá sau bầu ra Uỷ ban thường vụ khoá mới.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch có thể giữ chức vụ liên tiếp nhưng không quá hai nhiệm kỳ.
Điều 67. Chức năng, quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
(1) Giải thích Hiến pháp, giám sát thực thi Hiến pháp;
(2) Ban hành và sửa đổi các văn bản pháp luật mà các văn bản này không do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc ban hành và sửa đổi;
(3) Trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, có thể bổ sung hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc ban hành, nhưng không được mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản của những văn bản pháp luật này;
(4) Giải thích pháp luật;
(5) Trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, có thể có phương án điều chỉnh bộ phận khi cần thiết trong quá trình thi hành dự toán nhà nước, thẩm tra và phê chuẩn kế hoạch phát triển kinh tế xã hội;
(6) Giám sát và đôn đốc công tác của Quốc vụ viện, Uỷ ban quân sự Trung ương, Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
(7) Bãi bỏ các văn bản pháp quy hành chính, quyết định và mệnh lệnh trái với Hiến pháp và pháp luật của Quốc vụ viện;
(8) Bãi bỏ các văn bản pháp quy và quyết định có tính địa phương do cơ quan quyền lực nhà nước cấp tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương ban hành trái với Hiến pháp, pháp luật và văn bản pháp quy hành chính;
(9) Trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, theo đề nghị của Thủ tướng Quốc vụ viện quyết định bầu ra các Bộ trưởng, Chủ nhiệm các Uỷ ban, Tổng kiểm toán,Trưởng Ban thư ký;
(10) Trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, theo đề nghị của Chủ tịch Uỷ ban quân sự trung ương, quyết định bầu các thành viên khác trong Uỷ ban quân sự trung ương;
(11) Theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, miễn nhiệm Phó Chánh án, Tham phán, Uỷ viên Uỷ ban tham phán và Chánh án Toà án quân sự Trung ương;
(12) Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, miễn nhiệm Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên, Uỷ viên Uỷ ban kiểm sát và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương và phê chuan miễn nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh, Khu tự trị, Thành phố trực thuộc;
(13) Miễn nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền ở nước ngoài;
(14) Quyết định phê chuẩn hay bãi bỏ các hiệp định quan trọng và các điều ước mà Nhà nước tham gia ký kết với nước ngoài;
(15) Quy định các chế độ hàm cấp của nhân viên ngoại giao, quân nhân và chế độ hàm cấp chuyên môn khác;
(16) Quy định và quyết định trao tặng huân chương và các tên gọi danh dự của nhà nước;
(17) Quyết định đặc xá;
(18) Trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, nếu xảy ra xâm lược vũ trang hoặc cần thiết phải tham gia vào điều ước quốc tế để chống lại sự xâm lược trong cộng đồng quốc tế, Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh;
(19) Quyết định tổng động viên toàn quốc hoặc động viên cục bộ;
(20) Quyết định giới nghiêm toàn quốc hoặc các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc;
(21) Các quyền khác mà Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc trao cho.
Điều 68. Phân công công tác của Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc
Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc làm công tác chủ trì Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, triệu tập hội nghị Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. Phó Chủ tịch và Trưởng Ban thư ký giúp việc cho Chủ tịch.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Trưởng Ban thư ký tổ chức thành Uỷ ban Hội nghị, xử lý công việc thường ngày quan trọng của Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc.
Điều 69. Quan hệ giữa Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc với Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Điều 70. Uỷ ban chuyên môn và cơ quan chức năng của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc thành lập các Uỷ ban chuyên môn như Uỷ ban dân tộc, Uỷ ban pháp luật, Uỷ ban kinh tế tài chính, Uỷ ban y tế, văn hoá, khoa học, giáo dục, Uỷ ban đối ngoại, Uỷ ban Hoa kiều và các Uỷ ban cần thiết khác. Trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, các Uỷ ban chuyên trách chịu sự lãnh đạo của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Các Uỷ ban chuyên trách dưới sự lãnh đạo của Đại hội Đại biểu nhân dân và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân nghiên cứu, xem xét và sắp xếp các đề án có liên quan.
Điều 71. Uỷ ban điều tra các vấn đề quan trọng
Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc nếu thấy cần thiết, có thể thành lập Uỷ ban điều tra đối với các vấn đề đặc biệt và căn cứ vào báo cáo của Uỷ ban điều tra, để ra các quyết định tương ứng.
Uỷ ban điều tra khi tiến hành điều tra, tất cả các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội và công dân có liên quan đều có nghĩa vụ cung cấp tài liệu cần thiết khi cơ quan này yêu cầu.
Điều 72. Quyền trình đề án
Đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và thành viên của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, có quyền trình các đề án trong phạm vi chức năng và nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Điều 73. Quyền chất vấn
Đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc trong thời gian họp, hoặc các thành viên Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, có quyền chất vấn Quốc vụ viện, các Bộ, các Uỷ ban theo quy định và trình tự pháp luật. Cơ quan được hỏi có trách nhiệm phải trả lời.
Điều 74. Quyền miễn trừ tư pháp của đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, trừ những đại biểu thông qua đoàn chủ tịch Đại hội Đại biểu cho phép, hoặc trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, thông qua Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc cho phép, không thể bị bắt hoặc bị xét xử hình sự.
Điều 75. Quyền tự do ngôn luận và biểu quyết
Việc phát ngôn và biểu quyết của đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc trong tất cả các hội nghị đều không bị pháp luật truy cứu.
Điều 76. Nghĩa vụ của đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ bí mật quốc gia và tự mình tham gia vào sản xuất, công tác, hoạt động xã hội, giúp đỡ việc thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân phải có mối liên hệ mật thiết với đơn vị bầu cử cũ và nhân dân, lắng nghe, phản ánh ý kiến và yêu cầu của nhân dân, nỗ lực phục vụ nhân dân.
Điều 77. Quyền giám sát và miễn trừ đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc chịu sự giám sát của đơn vị bầu cử cũ. Đơn vị bầu cử cũ có quyền bãi miễn đại biểu của đơn vị bầu cử đó theo trình tự và quy định của pháp luật.
Điều 78. Tổ chức và trình tự công tác của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Trình tự tổ chức và công tác của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc do pháp luật quy định.
PHẦN THỨ HAI. CHỦ TỊCH NƯỚC CỘNG HOÀ NHÂN DÂN TRUNG HOA
Điều 79. Bầu cử và nhiệm kỳ của Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước
Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc bầu ra.
Công dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đủ 45 tuổi trở lên có quyền bầu cử và ứng cử giữ chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa có nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, thời gian liên tục giữ chức vụ không quá 2 nhiệm kỳ.
Điều 80. Chức năng, quyền hạn của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa căn cứ theo quyết định của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và quyết định của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có quyền công bố pháp luật, bãi miễn Thủ tướng Quốc vụ viện, Phó Thủ tướng, Uỷ viên Quốc vụ viện, Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban, Kiểm toán trưởng, Trưởng Ban Thư ký, trao tặng các huân chương và danh hiệu danh dự, công bố lệnh đặc xá, công bố lệnh giới nghiêm, tuyên bố tình trạng chiến tranh, tuyên bố lệnh tổng động viên.
Điều 81. Chức năng, quyền hạn trong lĩnh vực ngoại giao của Chủ tịch nước
Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đại diện cho nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tiếp nhận Quốc thư nước ngoài, theo quyết định của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, biệt phái hoặc triệu hồi Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền ở nước ngoài, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các hiệp định quan trọng và các điều ước quốc tế.
Điều 82. Chức năng, quyền hạn của Phó chủ tịch nước
Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa làm nhiệm vụ giúp việc cho Chủ tịch nước.
Phó Chủ tịch nước được Chủ tịch nước uỷ quyền, có thể thực hiện một phần quyền hạn của Chủ tịch.
Điều 83. Thời gian đổi khoá của Chủ tịch và Phó chủ tịch nước
Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa làm nhiệm vụ cho tới khi Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khoá sau bầu ra Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước khoá mới.
Điều 84. Xử lý đối với trường hợp khuyết chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch nước
Khi chức danh Chủ tịch nước còn khuyết thì Phó Chủ tịch nước đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch nước.
Nếu khuyết chức danh Phó Chủ tịch nước thì Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc bầu cử bổ sung.
Nếu trường hợp cả Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước đều khuyết sẽ do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc bầu bổ sung; trước khi bầu bổ sung sẽ do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc giữ chức vụ Chủ tịch nước.
PHẦN THỨ BA. QUỐC VỤ VIỆN
Điều 85. Tính chất, địa vị của Quốc vụ viện
Quốc Vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa còn gọi là chính phủ nhân dân trung ương là cơ quan hành pháp nhà nước cao nhất, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Điều 86. Tổ chức của Quốc vụ viện
Quốc Vụ viện có cơ cấu thành viên như sau: Thủ tướng, Một số Phó thủ tướng; Một số Uỷ viên Quốc vụ viện; Bộ trưởng các Bộ; Chủ nhiệm các Uỷ ban; Tổng Kiểm toán; Trưởng Ban Thư ký.
Quốc Vụ viện thi hành chế độ trách nhiệm Thủ tướng. Các Bộ, các Uỷ ban thi hành chế độ trách nhiệm Bộ trưởng, Chủ nhiệm.
Cơ cấu tổ chức của Quốc vụ viện do pháp luật quy định.
Điều 87. Nhiệm kỳ Quốc vụ viện
Nhiệm kỳ của Quốc vụ viện trùng với nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Uỷ viên Quốc vụ viện không giữ chức vụ quá 2 nhiệm kỳ.
Điều 88. Phân công công tác của Quốc vụ viện
Thủ tướng lãnh đạo công tác Quốc Vụ viện. Phó Thủ tướng, Uỷ viên Quốc Vụ viện là những người giúp việc cho Thủ tướng.
Thủ tướng, Phó Thủ tướng, Uỷ viên Quốc vụ viện, Thư ký trưởng tổ chức thành Hội nghị thường vụ Quốc vụ viện.
Thủ tướng triệu tập và chủ trì Hội nghị Thường vụ Quốc vụ viện và Hội nghị Toàn thể Quốc vụ viện.
Điều 89. Chức năng, quyền hạn của Quốc vụ viện
Quốc Vụ viện có các chức năng sau:
(1) Căn cứ theo Hiến pháp và pháp luật, quy định các biện pháp hành chính, ban hành các văn bản pháp quy hành chính, ra các quyết định và các thông tư;
(2) Trình các dự thảo đối với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc;
(3) Quy định nhiệm vụ và chức trách của các Bộ và các Uỷ ban, thống nhất lãnh đạo công tác các Bộ, các Uỷ ban và công tác hành chính trên phạm vi toàn quốc mà không thuộc phạm vi các Bộ hoặc các Uỷ ban quản lý;
(4) Thống nhất lãnh đạo công tác của cơ quan hành chính nhà nước các cấp địa phương trên cả nước, quy định ranh giới chức năng quyền hạn giữa cơ quan hành chính nhà nước trung ương với các cấp địa phương như tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;
(5) Hoạch định và thi hành dự toán nhà nước, kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc dân;
(6) Lãnh đạo, quản lý công tác kinh tế và xây dựng thành phố thị trấn;
(7) Lãnh đạo, quản lý công tác giáo dục, khoa học, văn hoá, vệ sinh, thể dục và sinh đẻ có kế hoạch;
(8) Lãnh đạo, quản lý công tác dân chính, công an, hành chính tư pháp và kiểm sát…;
(9) Quản lý công việc đối ngoại, ký kết hiệp định và các điều ước quốc tế với nước ngoài;
(10) Lãnh đạo và quản lý sự nghiệp xây dựng quốc phòng;
(11) Lãnh đạo và quản lý sự nghiệp dân tộc, bảo đảm quyền lợi bình đẳng của dân tộc thiểu số và quyền tự trị của địa phương tự trị dân tộc thiểu số;
(12) Bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Hoa kiều, bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của kiều bào và Hoa kiều về nước;
(13) Sửa đổi hoặc huỷ bỏ mệnh lệnh, chỉ thị và quy định không phù hợp do các Bộ hoặc các Uỷ ban ban hành;
(14) Sửa đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định và mệnh lệnh không phù hợp do cơ quan hành chính nhà nước địa phương các cấp ban hành;
(15) Phê chuẩn ranh giới giữa các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc; phê chuẩn quy hoạch ranh giới giữa châu tự trị, huyện, huyện tự trị, thành phố;
(16) Quyết định giới nghiêm trong phạm vi bộ phận của tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc;
(17) Xem xét biên chế của cơ quan hành chính, miễn nhiệm, bồi dưỡng, sát hạch, thưởng phạt cán bộ hành chính theo quy định pháp luật;
(18) Các quyền khác mà Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc trao cho.
Điều 90. Chế độ trách nhiệm các Bộ, Uỷ ban
Các Bộ trưởng, Chủ nhiệm các Uỷ ban Quốc Vụ viện chịu trách nhiệm về công tác bộ phận mình. Triệu tập và chủ trì Hội nghị Bộ trưởng hoặc Hội nghị Uỷ ban, Hội nghị thường vụ, thảo luận quyết định những vấn đề quan trọng của công tác ở bộ mình.
Các Bộ, Uỷ ban căn cứ theo pháp luật và các văn bản pháp quy, quyết định, mệnh lệnh hành chính của Quốc Vụ viện, ban hành các mệnh lệnh, chỉ thị và văn bản trong phạm vi quyền hạn của mình.
Điều 91. Cơ quan kiểm toán
Quốc Vụ viện thành lập cơ quan kiểm toán, tiến hành hạch toán, giám sát đối với các cơ quan Quốc Vụ viện và thu chi tài chính của chính phủ các cấp địa phương, cơ cấu tài chính tiền tệ của nhà nước và thu chi tài vụ các tổ chức đơn vị sự nghiệp.
Cơ quan kiểm toán chịu sự lãnh đạo của Thủ tướng Quốc vụ viện, tuân thủ các quy định của pháp luật, có quyền kiểm toán và giám sát độc lập, không chịu sự can thiệp của cơ quan hành chính khác, đoàn thể xã hội và cá nhân.
Điều 92. Mối quan hệ giữa Quốc vụ viện, Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Quốc vụ viện chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc; trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
PHẦN THỨ TƯ. QUÂN UỶ TRUNG ƯƠNG
Điều 93. Cơ cấu, trách nhiệm và nhiệm kỳ của Quân uỷ Trung ương
Quân uỷ Trung ương nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa lãnh đạo lực lượng vũ trang toàn quốc.
Quân uỷ Trung ương gồm các thành viên sau: Chủ tịch; Một số Phó Chủ tịch; Một số uỷ viên.
Quân uỷ Trung ương thực hiện chế độ Chủ tịch chịu trách nhiệm.
Quân uỷ Trung ương có nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Điều 94. Trách nhiệm của Quân uỷ đối với Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Quân uỷ Trung ương chịu trách nhiệm trước Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
PHẦN THỨ NĂM. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN ĐỊA PHƯƠNG VÀ CHÍNH PHỦ NHÂN DÂN CÁC CẤP
Điều 95. Sắp xếp và tổ chức Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương, chính phủ địa phương
Các Tỉnh, Thành phố trực thuộc, Huyện, Thị, Khu trực thuộc Tỉnh, Hương, Hương dân tộc, Trấn thành lập Đại hội Đại biểu nhân dân và Chính phủ nhân dân địa phương.
Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương và tổ chức chính phủ nhân dân các cấp địa phương do pháp luật quy định.
Khu tự trị, Châu tự trị, Huyện tự trị thành lập các cơ quan tự trị. Tổ chức của cơ quan tự trị và công tác của cơ quan này do pháp luật quy định theo nguyên tắc cơ bản quy định tại Phần thứ 5, Phần thứ 6 Chương 3.
Điều 96. Tổ chức Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương
Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.
Đại hội Đại biểu nhân dân từ cấp Huyện trở lên thành lập Uỷ ban thường vụ.
Điều 97. Bầu cử Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương
Đại hội Đại biểu nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc, thành phố thành lập Khu và Thành phố thuộc tỉnh do Đại hội Đại biểu nhân dân cấp dưới bầu cử. Đại hội Đại biểu nhân dân Huyện, thành phố không thành lập Khu, Khu trực thuộc thành phố, Hương, Hương dân tộc, Trấn do nhân dân bầu cử trực tiếp.
Tỷ lệ đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương và số đại biểu phát sinh do pháp luật quy định.
Điều 98. Nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương
Đại hội Đại biểu nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc, thành phố thành lập Khu có nhiệm kỳ 5 năm. Đại hội Đại biểu nhân dân Huyện, thành phố không thành lập Khu, Khu trực thuộc thành phố, Hương, Hương dân tộc, Trấn có nhiệm kỳ 3 năm.
Điều 99. Chức năng quyền hạn Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương
Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương hoạt động trong phạm vi khu vực hành chính, bảo đảm việc tuân thủ và chấp hành Hiến pháp, pháp luật, văn bản pháp quy hành chính trên cơ sở quyền hạn do pháp luật quy định, thông qua và ban hành các quyết định, thẩm tra và quyết định kế hoạch xây dựng các công trình công cộng, xây dựng kinh tế, văn hoá địa phương.
Đại hội Đại biểu nhân dân từ cấp huyện trở lên thẩm tra và phê chuẩn báo cáo tình hình dự toán và thi hành kế hoạch phát triển xã hội, kinh tế quốc dân và các dự toán khác trong phạm vi hành chính địa phương, có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ các quyết định không phù hợp của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp.
Đại hội Đại biểu nhân dân Hương dân tộc có quyền sử dụng các biện pháp cụ thể phù hợp với đặc điểm dân tộc theo quy định của pháp luật.
Điều 100. Ban hành các văn bản pháp quy mang tính địa phương
Đại hội Đại biểu nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc và Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân có quyền ban hành các văn bản pháp quy mang tính địa phương nhưng không trái với Hiến pháp, pháp luật và văn bản pháp quy hành chính, chuẩn bị các đề án để báo cáo với Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Điều 101. Quyền hạn Đại hội đại biểu nhân dân địa phương trong việc bầu cơ quan Hành chính địa phương
Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương có quyền bầu và bãi miễn chính phủ nhân dân cùng cấp như Chủ Tịch tỉnh, Phó Chủ Tịch tỉnh, Chủ tịch, Phó Chủ tịch thành phố, Chủ tịch huyện, Phó Chủ tịch huyện, Chủ Tịch khu, Phó Chủ Tịch khu, Hương trưởng, Phó Hương trưởng, Trấn trưởng, Phó Trấn trưởng.
Đại hội Đại biểu nhân dân cấp Huyện trở lên có quyền bầu cử và quyền bãi miễn Chánh án Toà án nhân dân, và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, khi bầu hoặc bãi miễn Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phải báo cáo lên Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và được Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp phê chuẩn.
Điều 102. Quyền bãi miễn và giám sát của Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương
Đại hội Đại biểu nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc, Thành phố thành lập Khu chịu sự giám sát của đơn vị bầu cử đó; Đại hội Đại biểu nhân dân cấp Huyện, Thành phố không xây dựng Khu, Khu trực thuộc, Hương, Hương dân tộc, Trấn chịu sự giám sát của cử tri.
Đơn vị bầu cử và cử tri Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương có quyền bãi miễn đại biểu do họ bầu ra theo trình tự và quy định của pháp luật.
Điều 103. Tổ chức, địa vị và sự ra đời của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương
Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân cấp Huyện trở lên bao gồm: Chủ nhiệm, một số Phó Chủ nhiệm, một số Uỷ viên, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp.
Đại hội Đại biểu nhân dân cấp Huyện trở lên có quyền bầu và bãi miễn Uỷ ban thường vụ và các thành viên Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp.
Thành viên Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân cấp huyện trở lên không được đảm nhận chức vụ cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát.
Điều 104. Chức năng, quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân địa phương
Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân cấp huyện trở lên thảo luận, quyết định các công việc quan trọng trên các phương diện trong phạm vi khu vực hành chính địa phương; giám sát công tác chính phủ nhân dân, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; huỷ bỏ các quyết định và mệnh lệnh không phù hợp của chính phủ nhân dân cùng cấp; hủy bỏ quyết định không phù hợp của Đại hội Đại biểu nhân dân cấp dưới; có quyền bãi nhiệm công chức cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật; trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân không họp, có quyền bãi miễn và bầu bổ sung các đại biểu Đại hội Đại biểu nhân dân cấp đó.
Điều 105. Tổ chức, địa vị và chế độ trách nhiệm của chính phủ địa phương
Chính phủ nhân dân các cấp địa phương là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước các cấp địa phương, là cơ quan hành chính nhà nước cấp địa phương.
Chính phủ nhân dân các cấp địa phương thực hiện chế độ Chủ tịch tỉnh, Chủ tịch thành phố, Chủ tịch Huyện, Chủ tịch khu, Hương trưởng, Trấn trưởng chịu trách nhiệm.
Điều 106. Nhiệm kỳ của chính phủ địa phương
Chính phủ nhân dân các cấp địa phương có nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu nhân dân các cấp địa phương.
Điều 107. Chức năng, quyền hạn của chính phủ địa phương
Chính phủ nhân dân từ cấp Huyện trở lên có quyền hạn do pháp luật quy định, quản lý các công tác hành chính, kinh tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, vệ sinh, sự nghiệp thể chất, quy hoạch xây dựng thành phố, thị trấn, tài chính, dân chính, công an, sự nghiệp dân tộc, hành chính tư pháp, kiểm sát, sinh đẻ kế hoạch… của khu vực hành chính đó. Ban hành các quyết định và mệnh lệnh miễn nhiệm, bồi dưỡng, sát hạch và thưởng phạt công nhân viên chức.
Chính phủ nhân dân Huyện, Hương dân tộc, Trấn chấp hành quyết định của Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp và các quyết định, mệnh lệnh của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên, quản lý công tác hành chính của địa phương.
Chính phủ nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc quyết định quy hoạch, phân định địa giới hành chính Hương, Hương dân tộc và Trấn.
Điều 108. Mối quan hệ giữa chính phủ địa phương và chính phủ địa phương các cấp
Lãnh đạo chính phủ nhân dân cấp huyện trở lên phụ trách công tác các bộ phận của chính phủ nhân dân cấp dưới, có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không phù hợp của các bộ phận trực thuộc và chính phủ nhân dân cấp dưới.
Điều 109. Địa vị và chức năng quyền hạn của cơ quan kiểm toán thuộc chính phủ địa phương
Chính phủ nhân dân địa phương từ cấp huyện trở lên thành lập cơ quan kiểm toán. Cơ quan kiểm toán địa phương có quyền giám sát kiểm toán độc lập theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước chính phủ nhân dân cấp đó và cơ quan kiểm toán cấp trên.
Điều 110. Mối quan hệ giữa chính phủ địa phương với Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp và chính phủ cấp trên
Chính phủ nhân dân các cấp địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác với Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp. Chính phủ nhân dân cấp huyện trở lên trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp không họp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân cùng cấp.
Chính phủ nhân dân các cấp địa phương chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước chính phủ nhân dân cấp trên. Chính phủ nhân dân các cấp địa phương trong cả nước đều do cơ quan hành chính nhà nước là Quốc vụ viện thống nhất lãnh đạo và phục tùng sự quản lý của Quốc Vụ viện.
Điều 111. Uỷ ban dân cư và Uỷ ban thôn dân
Thành phố và nông thôn căn cứ theo khu vực cư trú của cư dân thiết lập Uỷ ban dân cư hoặc Uỷ ban thôn dân là tổ chức tự trị có tính quần chúng cơ sở. Chủ nhiệm, Phó chủ nhiệm và Uỷ viên của Uỷ ban cư dân, Uỷ ban dân thôn do cư dân bầu cử. Uỷ ban cư dân, Uỷ ban thôn dân có mối quan hệ lẫn nhau giữa chính quyền cơ sở do pháp luật quy định.
Uỷ ban cư dân và Uỷ ban thôn dân thành lập các Uỷ ban Giải phóng nhân dân, Vệ sinh trị an, Vệ sinh công cộng., xử lý các công việc và sự nghiệp công ích của cư dân địa phương, hoà giải tranh chấp nhân dân, giúp đỡ duy trì trật tự trị an, và nêu các đề nghị, yêu cầu, ý kiến phản ánh của quần chúng đối với chính phủ nhân dân.
PHẦN THỨ SÁU. CƠ QUAN TỰ TRỊ CỦA ĐỊA PHƯƠNG TỰ TRỊ DÂN TỘC
Điều 112. Cơ quan tự trị dân tộc
Cơ quan tự trị của địa phương tự trị dân tộc là Đại hội Đại biểu nhân dân và chính phủ nhân dân Khu tự trị, Châu tự trị, Huyện tự trị.
Điều 113. Tổ chức Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương tự trị và cơ quan thường vụ tổ chức Nhân Đại địa phương
Trong Đại hội Đại biểu nhân dân Khu tự trị, Châu tự trị, Huyện tự trị ngoài các đại biểu là người dân tộc thiểu số của khu vực tự trị, còn có số lượng đại biểu phù hợp tương ứng là người dân tộc khác.
Trong Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân Khu tự trị, Châu tự trị, Huyện tự trị thực hiện chế độ Chủ nhiệm và Phó Chủ nhiệm chịu trách nhiệm.
Điều 114. Bầu cử người đứng đầu cơ quan chính phủ địa phương tự trị
Chủ tịch Khu tự trị, Châu trưởng Châu tự trị, Chủ tịch huyện Huyện tự trị chịu trách nhiệm công dân của dân tộc khu tự trị.
Điều 115. Quyền tự trị Khu tự trị dân tộc
Cơ quan tự trị của Khu tự trị, Châu tự trị, Huyện tự trị thực hiện chức năng cơ quan nhà nước địa phương theo quy định tại Phần 5 Chương 3 Hiến pháp, thực hiện quyền tự trị theo quy định Hiến pháp, pháp luật khu tự trị và các quy định pháp luật khác, căn cứ theo tình hình thực tế tại địa phương quán triệt thi hành pháp luật và chính sách nhà nước.
Điều 116. Điều lệ tự trị và Điều lệ đơn hành
Đại hội Đại biểu nhân dân địa phương tự trị dân tộc có quyền soạn thảo các Điều lệ tự trị và Điều lệ đơn hành (chỉ áp dụng cho 1 địa phương nhất định) trên cơ sở đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hoá. Điều lệ tự trị và Điều lệ đơn hành phải được Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc phê chuẩn mới phát sinh hiệu lực. Điều lệ tự trị và Điều lệ đơn hành của Châu tự trị và Huyện tự trị phải thông qua Tỉnh hoặc Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân Khu tự trị phê chuẩn mới phát sinh hiệu lực, và phải lập hồ sơ theo dõi tại Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc.
Điều 117. Quyền tự trị tài chính
Cơ quan tự trị của địa phương tự trị dân tộc có quyền tự trị trong việc quản lý tài chính địa phương. Thu nhập tài chính của địa phương tự trị dân tộc đều nằm trong thể chế tài chính nhà nước, phải do cơ quan tự trị của địa phương tự trị dân tộc lên kế hoạch sử dụng.
Điều 118. Quyền tự chủ kinh tế mang tính chất địa phương
Cơ quan tự trị địa phương tự trị dân tộc dưới sự chỉ đạo kế hoạch nhà nước, tự chủ sắp xếp và quản lý kế hoạch kinh tế mang tính địa phương.
Nhà nước khi thành lập doanh nghiệp, khai thác tài nguyên ở địa phương tự trị dân tộc, phải quan tâm đến lợi ích địa phương tự trị dân tộc.
Điều 119. Quyền tự chủ về sự nghiệp văn hoá địa phương
Cơ quan tự trị của địa phương tự trị dân tộc tự chủ trong quản lý giáo dục, khoa học, văn hoá, vệ sinh, sự nghiệp thể dục địa phương, bảo vệ và trùng tu di sản văn hoá của dân tộc, phát triển và làm phong phú văn hoá dân tộc.
Điều 120. Công an, bộ đội khu tự trị dân tộc
Cơ quan tự trị của địa phương tự trị dân tộc trên cơ sở nhu cầu thực tế của địa phương và chế độ quân sự nhà nước, thông qua Quốc vụ viện phê chuẩn có thể tổ chức ra lực lượng công an để bảo vệ trật tự xã hội địa phương.
Điều 121. Ngôn ngữ công vụ trong cơ quan hành chính ở khu tự trị dân tộc
Cơ quan tự trị của địa phương tự trị dân tộc trong khi chấp hành chức năng nhiệm vụ dựa vào quy định của Điều lệ tự trị địa phương dân tộc, sử dụng một hoặc một số văn tự hoặc ngôn ngữ địa phương.
Điều 122. Sự giúp đỡ, ủng hộ của nhà nước đối với Khu tự trị dân tộc
Nhà nước giúp đỡ các dân tộc thiểu số ở trên một số các phương diện tài chính, vật chất, kỹ thuật… tăng tốc độ phát triển kinh tế và sự nghiệp xây dựng văn hoá.
Nhà nước giúp đỡ địa phương tự trị dân tộc, bồi dưỡng cán bộ các cấp, các chuyên gia và các công nhân kỹ thuật từ trong chính địa phương.
PHẦN THỨ BẢY. TOÀ ÁN NHÂN DÂN VÀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều 123. Cơ quan xét xử
Toà án nhân dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là cơ quan xét xử của nhà nước.
Điều 124. Các cấp, tổ chức và nhiệm kỳ của Toà án nhân dân
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thành lập Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân các cấp địa phương, các Toà chuyên môn và Toà quân sự.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao có nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, không được giữ chức vụ quá 2 nhiệm kỳ.
Tổ chức của Toà án nhân dân do pháp luật quy định.
Điều 125. Nguyên tắc xét xử công khai và nguyên tắc biện hộ
Toà án nhân dân trong khi xét xử vụ án, ngoài trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật, phải tiến hành xét xử công khai. Bị cáo có quyền biện hộ.
Điều 126. Quyền xét xử độc lập
Toà án nhân dân có quyền xét xử độc lập theo quy định của pháp luật, không chịu sự can thiệp của cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội, cá nhân.
Điều 127. Mối quan hệ giữa cơ quan xét xử các cấp
Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.
Toà án nhân dân tối cao giám sát toà án nhân dân địa phương các cấp và công tác xét xử của toà chuyên môn, toà án nhân dân cấp trên giám sát công tác xét xử của toà án nhân dân cấp dưới.
Điều 128. Mối quan hệ giữa Toà án và Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc
Toà án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm trước Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân và Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. Toà án nhân dân các cấp địa phương chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước thành lập ra.
Điều 129. Cơ quan giám sát pháp luật
Viện kiểm sát nhân dân nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là cơ quan giám sát pháp luật của nhà nước.
Điều 130. Các cấp, tổ chức và nhiệm kỳ của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân các cấp của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân địa phương các cấp và Viện kiểm sát quân sự.
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm kỳ trùng với nhiệm kỳ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, giữ chức vụ liên tiếp không quá 2 nhiệm kỳ.
Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân do pháp luật quy định.
Điều 131. Quyền kiểm sát độc lập
Viện kiểm sát nhân dân có quyền giám sát độc lập theo quy định của pháp luật, không chịu sự can thiệp của cơ quan hành chính, đoàn thể xã hội và cá nhân.
Điều 132. Mối quan hệ giữa cơ quan kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân tối cao là cơ quan kiểm sát cao nhất.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo công tác của Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Viện kiểm sát chuyên môn, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên lãnh đạo công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới.
Điều 133. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Đại hội Đại biểu nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm trước Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân và Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc. Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước lập ra và Viện kiểm sát nhân dân cấp trên.
Điều 134. Ngôn ngữ tố tụng
Công dân các dân tộc thiểu số đều có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình để tham gia tố tụng. Người của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tham gia tố tụng nếu như không thông thạo ngôn ngữ địa phương phải có phiên dịch.
Khu vực cư trú của dân tộc thiểu số hoặc khu vực cư trú của nhiều dân tộc thiểu số thì dùng ngôn ngữ thông dụng của địa phương để xét xử; quyết định khởi tố, bản án phán quyết, bố cáo hoặc các văn bản khác cần căn cứ vào nhu cầu trên thực tế để sử dụng một ngôn ngữ địa phương hoặc mấy loại văn tự khác nhau.
Điều 135. Nguyên tắc phân công và chế ước giữa các cơ quan tư pháp
Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan công an xử lý các vụ án hình sự phải phân công trách nhiệm, phối hợp lẫn nhau, chế ước lẫn nhau bảo đảm chấp hành pháp luật chính xác, có hiệu quả.
CHƯƠNG IV. QUỐC KỲ, QUỐC HUY, THỦ ĐÔ
Điều 136. Quốc kỳ
Quốc kỳ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là cờ đỏ và năm ngôi sao.
Điều 137. Quốc huy
Quốc huy nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, giữa là năm ngôi sao chiếu rọi Thiên An Môn, xung quanh là bông kê và răng cưa.
Điều 138. Thủ đô
Thủ đô của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là Bắc Kinh.
SỬA ĐỔI NĂM 1988
(Hội nghị lần thứ nhất, Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc khoá 7 ngày 12 tháng 4 năm 1988. Công báo số 8 Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 12 tháng 4 năm 1988 công bố thi hành)
Điều 1. Địa vị và quản lý kinh tế tư nhân.
Điều 11 Hiến pháp thêm quy định: “Nhà nước cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển trong phạm vi quy định của pháp luật. Kinh tế tư nhân là sự bổ sung của chế độ kinh tế XHCN. Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của kinh tế tư nhân, tiến hành chỉ đạo, giám sát và quản lý đối với kinh tế tư nhân”.
Điều 2. Chuyển nhượng quyền thuê, cho thuê và sử dụng đất đai
Khoản 4 Điều 10 Hiến pháp quy định “Mọi tổ chức hoặc cá nhân không được chiếm đoạt, mua bán, cho thuê hoặc chuyển nhượng đất đai dưới các hình thức trái pháp luật.” Nay sửa thành “Mọi tổ chức, cá nhân không được chiếm hữu, mua bán hoặc các hình thức chuyển nhượng đất đai trái pháp luật. Quyền sử dụng đất có thể được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật”.
SỬA ĐỔI NĂM 1993
(Hội nghị lần thứ nhất Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khoá 8 ngày 29 tháng 3 năm 1993 thông qua. Công báo Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khoá 8 ngày 29 tháng 3 năm 1993 công bố thi hành).
Điều 3. Nhiệm vụ và mục tiêu của giai đoạn đầu
Hai câu sau của phần cuối đoạn 7 Lời tựa Hiến pháp viết: “Từ nay về sau, nhiệm vụ căn bản của nước ta là tập trung lực lượng tiến hành xây dựng hiện đại hoá XHCN. Nhân dân các dân tộc Trung Quốc sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, với sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Mao Trạch Đông kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì con đường XHCN, kiên trì cải cách đổi mới, không ngừng hoàn thiện các mặt của chế độ XHCN, phát triển dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, tự lực cánh sinh, gian khổ phấn đấu từng bước thực hiện hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật, xây dựng đất nước ta thành một nước XHCN giàu mạnh, dân chủ văn minh.”
Nay sửa thành: “Nước ta đang ở vào giai đoạn đầu XHCN. Nhiệm vụ căn bản của nhà nước là, căn cứ vào lý luận xây dựng XHCN đặc sắc Trung Quốc, tập trung lực lượng tiến hành xây dựng hiện đại XHCN. Nhân dân các dân tộc Trung Quốc tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông, kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì con đường XHCN, kiên trì cải cách mở cửa, không ngừng hoàn thiện các chế độ của CNXH, phát triển dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, tự lực cánh sinh, gian khổ đấu tranh, từng bước thực hiện hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật, xây dựng nước ta thành một nước XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh”.
Điều 4. Chế độ chính đảng
Phần cuối đoạn 10 trong lời tựa Hiến pháp thêm: “Chế độ hợp tác đa đảng và hiệp thương chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ tồn tại và phát triển lâu dài”.
Điều 5. Kinh tế quốc hữu
Điều 7 Hiến pháp quy định: “Kinh tế quốc doanh là kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân xã hội chủ nghĩa, là lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước bảo đảm củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh.” Nay sửa thành: “Kinh tế quốc hữu là thể chế kinh tế dựa trên sở hữu toàn dân XHCN, là lực lượng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhà nước bảo đảm củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh.”
Điều 6. Hình thức tổ chức kinh tế nông thôn
Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp quy định: Công xã nhân dân nông thôn, hợp tác sản xuất nông nghiệp và các hình thức hợp tác kinh tế khác như sản xuất, cung tiêu, tín dụng, tiêu dùng, là kinh tế tập thể quần chúng lao động XHCN. Người lao động tham gia kinh tế tập thể nông thôn, có quyền kinh doanh trên đất phần trăm, diện tích rừng phần trăm, nghề phụ gia đình, trồng trọt chăn nuôi trong phạm vi quy định của pháp luật. Nay sửa thành: “Chế độ trách nhiệm trong nhận thầu sản xuất hộ gia đình và các hình thức hợp tác kinh tế sản xuất, cung tiêu, tín dụng, tiêu thụ… ở nông thôn là kinh tế tập thể quần chúng lao động XHCN. Người lao động tham gia vào tổ chức kinh tế tập thể ở nông thôn có quyền kinh doanh trên đất phần trăm, diện tích rừng phần trăm, các nghề phụ gia đình và chăn nuôi trồng trọt trong phạm vi quy định của pháp luật”.
Điều 7. Kinh tế thị trường
Điều 15 Hiến pháp quy định: “Nhà nước thực hiện kinh tế kế hoạch trên cơ sở công hữu xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thông qua cân bằng tổng hợp kinh tế kế hoạch và tác dụng bổ trợ của điều tiết thị trường, bảo đảm kinh tế quốc dân phát triển hài hoà.” “Nghiêm cấm mọi tổ chức hoặc cá nhân làm đảo lộn trật tự kinh tế xã hội”. Nay sửa lại: “Nhà nước thực hiện kinh tế thị trường XHCN.” “Nhà nước tăng cường hoạt động lập pháp trong quản lý kinh tế, hoàn thiện khống chế, điều tiết vĩ mô.” “Nhà nước nghiêm cấm mọi tổ chức, cá nhân làm xáo trộn trật tự kinh tế xã hội theo quy định của pháp luật”.
Điều 8. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp quốc doanh
Điều 16 Hiến pháp quy định: “Doanh nghiệp quốc doanh phục tùng sự lãnh đạo thống nhất của nhà nước và hoàn thành kế hoạch nhà nước, có quyền tự chủ trong quản lý kinh doanh theo quy định pháp luật.” “Doanh nghiệp quốc doanh thông qua Đại hội Đại biểu công nhân viên chức và các hình thức khác thực hiện quản lý dân chủ trên cơ sở quy định pháp luật.” Nay sửa lại: “Doanh nghiệp quốc doanh có quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ quy định pháp luật”. “Doanh nghiệp quốc doanh thực hiện quản lý dân chủ theo quy định của pháp luật, thông qua Đại hội Đại biểu công nhân viên chức và các hình thức khác.”
Điều 9. Tổ chức và kinh doanh của kinh tế tập thể
Điều 17 Hiến pháp quy định: “Tổ chức kinh tế tập thể ngoài chịu sự chỉ đạo của kế hoạch nhà nước và tuân thủ pháp luật có liên quan, có quyền độc lập, tự chủ tiến hành các hoạt động kinh tế.” “Tổ chức kinh tế tập thể thực hiện quản lý dân chủ trên cơ sở quy định của pháp luật, người quản lý do toàn thể người lao động của đơn vị bầu ra hoặc bãi miễn, quyết định những vấn đề quan trọng trong quản lý kinh doanh.” Nay sửa lại “Tổ chức kinh tế tập thể tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan, có quyền tự chủ, độc lập tiến hành các hoạt động kinh doanh.” “Tổ chức kinh tế tập thể thực hiện quản lý dân chủ, bầu và bãi miễn người quản lý theo quy định của pháp luật, quyết định các vấn đề quan trọng trong quản lý kinh doanh.”
Điều 10. Lao động và người lao động
Khoản 3 điều 42 Hiến pháp quy định: “Lao động là trách nhiệm vinh quang của tất cả công dân có đầy đủ năng lực lao động. Người lao động trong doanh nghiệp quốc doanh và tổ chức kinh tế tập thể ở thành phố thị trấn phải có thái độ người làm chủ quốc gia đối với lao động của chính mình. Nhà nước phát động thi đua, khen thưởng với các điển hình lao động và cá nhân lao động tiên tiến XHCN. Nhà nước phát động nghĩa vụ lao động việc làm đối với công dân.” Nay sửa thành: “Lao động là trách nhiệm quang vinh của tất cả công dân có đủ năng lực lao động. Người lao động trong doanh nghiệp quốc hữu và tổ chức kinh tế tập thể thành thị nông thôn phải có thái độ làm chủ đất nước với lao động của chính mình. Nhà nước phát động thi đua, khen thưởng với các điển hình lao động và cá nhân lao động tiên tiến XHCN. Nhà nước phát động nghĩa vụ lao động việc làm đối với công dân.”
Điều 11. Nhiệm kỳ của cơ quan quyền lực địa phương
Điều 98 Hiến pháp quy định: “Đại hội Đại biểu nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc, Thành phố thành lập Khu có nhiệm kỳ 5 năm. Đại hội Đại biểu nhân dân Huyện, Thành phố không không thành lập Khu, Khu trực thuộc thành phố, Hương, Hương dân tộc, Trấn có nhiệm kỳ 3 năm.” Nay sửa thành: “Đại hội Đại biểu nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc, Huyện, Thành phố, Khu trực thuộc thành phố có nhiệm kỳ 5 năm. Đại hội Đại biểu nhân dân Hương, Hương dân tộc, Trấn có nhiệm kỳ 3 năm.”
SỬA ĐỔI NĂM 1999
(Hội nghị lần thứ 2, Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá 9 ngày 15 tháng 3 năm 1999 thông qua, Công báo của Đại hội Đại biểu toàn quốc khoá 9 ngày 15 tháng 3 năm 1999 công bố thi hành).
Điều 12. Các mục tiêu và nhiệm vụ căn bản trong giai đoạn đầu CNXH
Đoạn thứ 7 lời tựa Hiến pháp viết: “Sự thắng lợi của cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới Trung Quốc và những thành tựu của sự nghiệp XHCN do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nhân dân các dân tộc Trung Quốc dưới sự dẫn dắt của lý luận Mác Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông kiên trì chân lý, sửa chữa sai lầm, gian khổ chiến đấu và giành được thắng lợi. Nước ta đang ở giai đoạn đầu XHCN. Nhiệm vụ căn bản của nhà nước là căn cứ vào lý luận xây dựng XHCN đặc sắc Trung Quốc, tập trung lực lượng tiến hành xây dựng hiện đại XHCN. Nhân dân các dân tộc Trung Quốc tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông, kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì con đường XHCN, kiên trì cải cách mở cửa, không ngừng hoàn thiện các chế độ của CNXH, phát triển dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, tự lực cánh sinh, gian khổ đấu tranh, từng bước thực hiện hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật, xây dựng nước ta thành một nước XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh.” Nay sửa thành: “Thắng lợi của cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới Trung Quốc và thành tựu của sự nghiệp XHCN, là do nhân dân các dân tộc Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Mao Trạch Đông, kiên trì chân lý, sửa chữa sai lầm, chiến thắng nhiều khó khăn hiểm nguy giành được thắng lợi. Nước ta sẽ ở trong giai đoạn đầu XHCN lâu dài, nhiệm vụ căn bản của nhà nước là đi theo con đường xây dựng CNXH có đặc sắc Trung Quốc, tập trung lực lượng tiến hành xây dựng hiện đại hoá XHCN. Nhân dân các dân tộc Trung Quốc sẽ tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vận dụng chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì con đường XHCN, kiên trì cải cách mở cửa, không ngừng hoàn thiện các chế độ XHCN, phát triển nền kinh tế thị trường XHCN, phát triển dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, tự lực cánh sinh, gian khổ phấn đấu, từng bước thực hiện hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật, xây dựng nước ta thành một nước XHCN giàu mạnh, dân chủ, văn minh.”
Điều 13. Mục tiêu của việc xây dựng pháp chế
Điều 5 Hiến pháp bổ sung thêm 1 khoản trở thành khoản 1 quy định: “Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật, xây dựng nhà nước pháp trị XHCN.”
Điều 14. Hình thức sở hữu và chế độ phân phối
Điều 6 Hiến pháp quy định: “Cơ sở của chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa tư liệu sản xuất, gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể quần chúng lao động.” “Chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao động.” Nay sửa thành: “Cơ sở của chế độ kinh tế XHCN của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là chế độ công hữu XHCN tư liệu sản xuất với chế độ sở hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể của người lao động. Chế độ công hữu XHCN xoá bỏ chế độ người bóc lột người, thực hiện nguyên tắc làm theo năng lực hưởng theo lao động.” “Nhà nước ở trong giai đoạn đầu của CNXH, kiên trì chế độ kinh tế cơ bản với công hữu làm chủ thể và các hình thức kinh tế khác cùng phát triển, kiên trì chế độ phân phối theo lao động là chính, và chế độ phân phối với các hình thức phân phối đa dạng khác cùng tồn tại.”
Điều 15. Hình thức tổ chức kinh tế nông thôn
Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp quy định: “Chế độ trách nhiệm trong nhận thầu sản xuất hộ gia đình và các hình thức hợp tác kinh tế sản xuất, cung tiêu, tín dụng, tiêu thụ… ở nông thôn là kinh tế tập thể quần chúng lao động XHCN. Người lao động tham gia vào tổ chức kinh tế tập thể nông thôn có quyền kinh doanh trên đất phần trăm, diện tích rừng phần trăm, các nghề phụ gia đình và chăn nuôi trồng trọt trong phạm vi quy định của pháp luật”. Nay sửa lại: “Tổ chức kinh tế tập thể nông thôn thực hiện thể chế kinh doanh đa tầng trên cơ sở nhận thầu kinh doanh ở gia đình, kết hợp thống nhất và phân chia. Các hình thức hợp tác kinh tế nông thôn như: sản xuất, cung tiêu, tín dụng, tiêu dùng là chế độ kinh tế tập thể XHCN quần chúng lao động. Người lao động tham gia vào tổ chức kinh tế tập thể nông thôn có quyền kinh doanh trên đất phần trăm, diện tích rừng phần trăm, nghề phụ gia đình, chăn nuôi trồng trọt theo quy định của pháp luật.”
Điều 16. Địa vị và quản lý kinh tế phi công hữu
Điều 11 Hiến pháp quy định: “Kinh tế cá thể của người lao động thành phố thị trấn trong phạm vi quy định của pháp luật là sự bổ sung của kinh tế công hữu xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của kinh tế cá thể.” “Nhà nước quản lý hành chính, chỉ đạo, giúp đỡ và giám sát kinh tế cá thể” “Nhà nước cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển trong phạm vi quy định của pháp luật. Kinh tế tư nhân là sự bổ sung chế độ kinh tế XHCN. Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của kinh tế tư nhân, tiến hành chỉ đạo, giám sát và quản lý đối với kinh tế tư nhân” Nay sửa thành: “Kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân, kinh tế phi công hữu trong phạm vi quy định của pháp luật là một bộ phận hợp thành quan trọng của kinh tế thị trường XHCN.” “Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân. Nhà nước thực hiện sự chỉ đạo, giám sát và quản lý đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân.”
Điều 17. Chế tài phạm tội, bảo vệ trật tự XHCN
Điều 28 Hiến pháp quy định: “Nhà nước bảo vệ trật tự xã hội chủ nghĩa, trấn áp các hoạt động phản quốc và các hoạt động phản cách mạng khác, xử lý các hoạt động làm nguy hại đến trật tự trị an, phá hoại kinh tế xã hội chủ nghĩa, và các hoạt động tội phạm khác, trừng trị và cải tạo các phần tử phạm tội.” Nay sửa thành: “Nhà nước bảo vệ trật tự XHCN, trấn áp các hoạt động phản quốc và các hoạt động tội phạm nguy hại đến an ninh quốc gia, xử lý hoạt động phạm tội nguy hại đến trật tự trị an, phá hoại kinh tế XHCN và các hoạt động tội phạm khác, trừng trị và cải tạo phần tử phạm tội.”
SỬA ĐỔI NĂM 2004
(Hội nghị lần thứ 2 Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khoá 10 ngày 14 tháng 3 năm 2004. Công báo của Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc ngày 14 tháng 3 năm 2004 công bố thi hành)
Điều 18. Trong đoạn 7 Lời tựa Hiến pháp viết: “dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông” sửa thành “dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”, “đi theo con đường xây dựng XHCN có đặc sắc Trung Quốc”, sửa thành “đi theo con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc”, sau đoạn “từng bước thực hiện hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng, khoa học kỹ thuật” tăng thêm “đẩy mạnh việc phát triển văn minh vật chất, văn minh chính trị và văn minh tinh thần”. Như vậy, đoạn này sửa thành “sự thắng lợi của cách mạng chủ nghĩa dân chủ mới và các thành tựu của sự nghiệp XHCN là do nhân dân các dân tộc Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản cùng với chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, kiên trì chân lý, sửa chữa sai lầm, chiến thắng nhiều khó khăn nguy hiểm giành được. Nước ta sẽ ở trong thời kỳ đầu XHCN một thời gian dài. Nhiệm vụ căn bản của nước ta là đi theo con đường XHCN đặc sắc Trung Quốc, tập trung lực lượng tiến hành xây dựng hiện đại hoá XHCN. Nhân dân các dân tộc Trung Quốc tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, dưới sự chỉ đạo của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”, kiên trì chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì con đường XHCN, kiên trì cải cách mở cửa, không ngừng hoàn thiện các chế độ XHCN, phát triển kinh tế thị trường XHCN, phát triển dân chủ XHCN, kiện toàn pháp chế XHCN, tự lực cánh sinh, gian khổ đấu tranh, từng bước thực hiện hiện đại hoá công nghiệp, nông nghiệp, quốc phòng và khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh phát triển văn minh vật chất, văn minh chính trị và văn minh tinh thần, xây dựng nước ta thành một nước XHCN giàu mạnh, dân chủ văn minh.”
Điều 19. Hai câu trong đoạn 10 Lời tựa Hiến pháp viết: “Trong quá trình lâu dài của cách mạng và xây dựng đã kết thành một khối gồm các đảng phái dân chủ và các đoàn thể nhân dân tham gia, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc bao gồm toàn thể nhân dân lao động XHCN, người yêu nước XHCN và trận tuyến thống nhất của đông đảo người yêu nước ủng hộ. Trận tuyến thống nhất tiếp tục được củng cố và phát triển.” Nay sửa lại: “trong quá trình xây dựng và cách mạng lâu dài, đã kết thành một khối gồm các đảng phái dân chủ và các đoàn thể nhân dân tham gia dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc bao gồm toàn thể người lao động XHCN, người xây dựng sự nghiệp XHCN, người yêu nước XHCN và trận tuyến thống nhất của đông đảo người yêu nước ủng hộ. Trận tuyến thống nhất tiếp tục được củng cố và phát triển.”
Điều 20. Khoản 3 Điều 10 Hiến pháp quy định: “Nhà nước có thể tiến hành trưng dụng đất đai theo quy định của pháp luật, trong trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo lợi ích công cộng.” Nay sửa thành: “Nhà nước có thể tiến hành trưng thu hoặc trưng dụng có bồi thường đối với đất đai theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo lợi ích công cộng.”
Điều 21. Khoản 2 điều 11 Hiến pháp “Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân. Nhà nước thực hiện sự chỉ đạo, giám sát và quản lý đối với kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân.” Nay sửa thành “Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế phi công hữu khác. Nhà nước cổ vũ, ủng hộ và chỉ đạo kinh tế phi công hữu phát triển, và thực hiện giám sát và quản lý đối với kinh tế phi công hữu theo quy định pháp luật.”
Điều 22. Điều 13 Hiến pháp quy định “Nhà nước bảo vệ quyền sở hữu thu nhập, tích luỹ, nhà cửa và các tài sản hợp pháp khác của công dân.” “Nhà nước dựa vào các quy định của pháp luật, bảo vệ quyền thừa kế tư nhân về tài sản công dân.” Nay sửa thành “Quyền tư hữu về tài sản hợp pháp của công dân là bất khả xâm phạm”. “Nhà nước bảo hộ quyền tư hữu về tài sản và quyền thừa kế của công dân theo quy định của pháp luật”. “Nhà nước có thể tiến hành trưng thu hoặc trưng dụng có bồi thường đối với tài sản tư hữu của công dân theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết nhằm đảm bảo lợi ích công cộng.”
Điều 23. Điều 14 Hiến pháp tăng thêm 1 khoản, thành khoản 4: “Nhà nước xây dựng kiện toàn chế độ bảo đảm xã hội tương ứng với trình độ phát triển kinh tế.”
Điều 24. Điều 33 Hiến pháp tăng thêm 1 khoản, thành khoản 3: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm nhân quyền.” Khoản 3 tương ứng trở thành khoản 4.
Điều 25. Khoản 1 điều 59 Hiến pháp quy định “Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc do đại biểu các Tỉnh, Khu tự trị, Thành phố trực thuộc và quân đội hợp thành. Tất cả các dân tộc thiểu số đều có tỷ lệ đại biểu tương ứng.” Nay sửa thành: “Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc do đại biểu các Tỉnh, Khu tự trị, Thành phố trực thuộc, Khu hành chính đặc biệt và quân đội hợp thành. Tất cả các dân tộc thiểu số đều có tỉ lệ đại biểu tương ứng.”
Điều 26. Điều 67 Hiến pháp quy định “chức năng quyền hạn thứ 20 của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc là quyết định giới nghiêm toàn quốc hoặc tỉnh đặc biệt, khu tự trị, thành phố trực thuộc nay sửa thành (chức năng quyền hạn thứ 20) quyết định toàn quốc hoặc 1 tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc rơi vào tình trạng khẩn cấp.”
Điều 27. Điều 80 Hiến pháp viết: “Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa căn cứ theo quyết định của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và quyết định của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc có quyền công bố pháp luật, bãi miễn Thủ tướng Quốc Vụ viện, Phó thủ tướng, Uỷ viên Quốc Vụ viện, Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban, Tổng Kiểm toán, Trưởng Ban Thư ký, trao tặng các huân chương và danh hiệu danh dự, công bố lệnh đặc xá, công bố lệnh giới nghiêm, tuyên bố tình trạng chiến tranh, tuyên bố lệnh động viên.” Nay sửa thành “Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa căn cứ theo quyết định của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, quyết định của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc công bố pháp luật, miễn nhiệm Thủ tướng, Phó Thủ tướng, uỷ viên Quốc Vụ viện, các Bộ trưởng, các Chủ nhiệm Uỷ ban, Tổng kiểm toán, Trưởng ban thư ký, phong tặng huân chương nhà nước và các danh hiệu danh dự, công bố lệnh đặc xá, tuyên bố đất nước rơi vào tình trạng khẩn cấp, tuyên bố tình trạng chiến tranh, phát lệnh tổng động viên.”
Điều 28. Điều 81 Hiến pháp quy định: “Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đại diện cho nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tiếp nhận Đại sứ nước ngoài; căn cứ vào quyết định của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, phái và triệu hồi Đại sứ toàn quyền tại nước ngoài, phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước hoặc hiệp định quan trọng với nước ngoài.” Nay sửa thành: “Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đại diện cho nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trong các hoạt động đối nội, tiếp nhận Đại sứ nước ngoài; căn cứ vào quyết định của Uỷ ban thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc phái hoặc triệu hồi đại sứ tại nước ngoài, phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước hoặc hiệp định quan trọng ký với nước ngoài.”
Điều 29. Điều 89 Hiến pháp quy định chức năng quyền hạn thứ 16 của Quốc Vụ viện quyết định lệnh giới nghiêm trong phạm vi nội bộ của Tỉnh, Khu tự trị, Thành phố trực thuộc. Nay sửa thành: “chức năng quyền hạn thứ 16 là quyết định tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật đối với Tỉnh, Khu tự trị, Thành phố trực thuộc.”
Điều 30. Điều 98 Hiến pháp quy định “Đại hội Đại biểu nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc, Huyện, Thành phố, Khu trực thuộc thành phố có nhiệm kỳ 5 năm. Đại hội Đại biểu nhân dân Hương, Hương dân tộc, Trấn có nhiệm kỳ 3 năm.” Nay sửa thành: “Nhiệm kỳ của Đại hội Đại biểu nhân dân cấp địa phương là 5 năm”.
Điều 31. Chương 4 Hiến pháp “Quốc kỳ, quốc huy, thủ đô” sửa thành “Quốc kỳ, quốc ca, quốc huy, thủ đô”.
Điều 136 Hiến pháp tăng thêm 1 khoản, trở thành khoản 2: “Quốc ca của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là ca khúc “Nghĩa dũng quân, tiến lên”.
Hiến pháp
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa |
18787 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20t%C3%ACnh%20con/Quy%E1%BB%83n%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t | Khối tình con/Quyển thứ nhất |
Mục lục
"Tựa"
Áo rách (Đoản mã)
Đêm xuông (phủ Vĩnh)
Đò đưa
Đùa cô sư
Đời Hậu Trần
Đồng tiền (Hoa phong lạc) |
18788 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20t%C3%ACnh%20con/Quy%E1%BB%83n%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t/%22T%E1%BB%B1a%22 | Khối tình con/Quyển thứ nhất/"Tựa" | Chữ nghĩa Tây, Tàu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng
Nửa ngòi bút ngỗng, ba sinh luỵ
Một mối tơ tằm, mấy đoạn vương
Có kẹo, có câu là sách vở
Chẳng lề, chẳng lối cũng văn chương
Còn non, còn nước, còn giăng gió
Còn có thơ, ca bán phố phường
Thất ngôn bát cú |
18790 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20t%C3%ACnh%20con/Quy%E1%BB%83n%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t/%C4%90%C3%AAm%20xu%C3%B4ng%20%28ph%E1%BB%A7%20V%C4%A9nh%29 | Khối tình con/Quyển thứ nhất/Đêm xuông (phủ Vĩnh) | Đêm xuông vô số cái xuông xuồng
Xuông rượu, xuông tình, bạn cũng xuông!
Một bức màn con coi ngán nỗi
Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng!
Một vừng giăng khuất đi mà đứng
Một lá mành treo quấn lại buông
Ngồi hết đêm xuông, xuông chẳng hết!
Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông |
18791 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20t%C3%ACnh%20con/Quy%E1%BB%83n%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t/%C4%90%C3%B2%20%C4%91%C6%B0a | Khối tình con/Quyển thứ nhất/Đò đưa | Rung rinh nước chảy ngang [thì] đèo
[Thuyền thì ai] thuyền ai một lá, giậm chèo quanh non
Đá trơ, trơ mãi [a] thời mòn
Khối tình bóp bẹp, vo tròn lại nguyên
Giang san một chiếc mui [thì] bồng
Sóng to [mà] gió cả, hãi hùng lắm phen
Anh thương em má lúm đồng tiền
Phấn son em chẳng biết, con thuyền đênh lênh đênh
Sông thu ngược gió xuôi thuyền
[Thuyền thì xuôi] thuyền xuôi gió ngược cho phiền lòng anh
[Ta trót] đem nhau xuống thác lên ghềnh
Trăm năm đôi chữ trung tình ai chớ quên
Con sông xuân nước chảy lờ đờ
Thuyền trôi lững đững, giăng tờ mờ soi
Công danh chi nữa, chàng ôi!
Chàng về giậm mũi cho tôi lái thuyền |
18792 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20t%C3%ACnh%20con/Quy%E1%BB%83n%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t/%C4%90%C3%B9a%20c%C3%B4%20s%C6%B0 | Khối tình con/Quyển thứ nhất/Đùa cô sư | Ai ai đứng khuất bóng giăng mờ
Cô sử, cô sư khéo thẫn thờ
Cửa phật những mong tròn quả phúc
Cõi trần sao nỡ dứt duyên tơ?
Vãi già tiểu bé đâu đâu cả?
Chùa vắng sân không thế thế ư?
Tớ dẫu chưa tu, đầu dở trọc
Phen này ốm trọc cũng ra sư
Thất ngôn bát cú |
18793 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20t%C3%ACnh%20con/Quy%E1%BB%83n%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t/%C4%90%E1%BB%9Di%20H%E1%BA%ADu%20Tr%E1%BA%A7n | Khối tình con/Quyển thứ nhất/Đời Hậu Trần | Núi Thiên Cầm giời bắt đôi Hồ
Quan lại Minh sang giữ bản đồ
Muôn rừng, trai bể mắc tai vạ
Người chết không chôn, kẻ sống lo
Nghệ An, Mô Độ ai gây nhóm?
Giản Định, Trùng Quang lại có vua
Mật giặc vỡ tan thành Cổ Lộng
Máu thù lai láng bến Bô Cô
Liều gan cố chết bấy nhiêu phen
Các vị tướng thần ai bậc nhất
Ông Nguyễn Cảnh Dị, bố là Chân
Cùng ông Đặng Dung, bố là Tất
Quân cơ sau trước nối thay nhau
Hai bố hai con một dạ sắt
Khí thiêng đúc lại bốn anh hào
Giời có thương Trần chưa vội mất
Tiếc cho trận đêm cửa Sái Đà
Nhầm để con kềnh lọt lưới ra
Nước nhà giao lại cho quân giặc
Sự nghiệp này thôi đến lão qua
Sông dài, sóng cả, con thuyền ngược
Vua tôi theo trót với sơn hà
Nghìn thu thơm để nước Nam Việt
Mười ba năm nối vận Đông A |
18794 | https://vi.wikisource.org/wiki/Kh%E1%BB%91i%20t%C3%ACnh%20con/Quy%E1%BB%83n%20th%E1%BB%A9%20nh%E1%BA%A5t/%C4%90%E1%BB%93ng%20ti%E1%BB%81n%20%28Hoa%20phong%20l%E1%BA%A1c%29 | Khối tình con/Quyển thứ nhất/Đồng tiền (Hoa phong lạc) | Đồng tiển đồng tiền
Sao em sắc sảo lại khôn ngoan?
Vừa xinh vừa đẹp
Vừa trắng vừa tròn
Chán chỗ nhà quê đến chỗ quan
Quan yêu quan để nhẩy lên bàn
Cô hầu nâng đỡ
Cậu lính kêu van
Sướng đến thế mà em nỡ bạc
Lại lẩn theo chú Trích, chú Cược tếch lên ngàn
Thất ngôn bát cú |
18989 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20S%C4%A9%20quan%20Qu%C3%A2n%20%C4%91%E1%BB%99i%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%201999%20%28s%E1%BB%ADa%20%C4%91%E1%BB%95i%2C%20b%E1%BB%95%20sung%202014%29 | Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam 1999 (sửa đổi, bổ sung 2014) | Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam số 16/1999/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 19/2008/QH12.
CHƯƠNG I:NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 2: Vị trí, chức năng của sĩ quan
Sĩ quan là lực lượng nòng cốt của quân đội và là thành phần chủ yếu trong đội ngũ cán bộ quân đội, đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý hoặc trực tiếp thực hiện một số nhiệm vụ khác, bảo đảm cho quân đội sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Điều 3: Lãnh đạo, chỉ huy, quản lý sĩ quan
Đội ngũ sĩ quan đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Điều 4: Điều kiện tuyển chọn đào tạo sĩ quan
Công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, sức khỏe và tuổi đời; có nguyện vọng và khả năng hoạt động trong lĩnh vực quân sự thì có thể được tuyển chọn đào tạo sĩ quan.
Điều 5: Nguồn bổ sung sĩ quan tại ngũ
Những người sau đây được tuyển chọn bổ sung cho đội ngũ sĩ quan tại ngũ:
1. Hạ sĩ quan, binh sĩ tốt nghiệp các trường đào tạo sĩ quan hoặc các trường đại học ngoài quân đội;
2. Hạ sĩ quan, binh sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu;
3. Quân nhân chuyên nghiệp và công chức quốc phòng tại ngũ tốt nghiệp đại học trở lên đã được đào tạo, bồi dưỡng chương trình quân sự theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
4. Cán bộ, công chức ngoài quân đội và những người tốt nghiệp đại học trở lên được điều động vào phục vụ trong quân đội đã được đào tạo, bồi dưỡng chương trình quân sự theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
5. Sĩ quan dự bị.
Điều 6: Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của sĩ quan
1. Sĩ quan có quyền và nghĩa vụ công dân theo quy định của Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm theo quy định của Luật này.
2. Sĩ quan được Nhà nước bảo đảm về chính sách, chế độ ưu đãi phù hợp với tính chất hoạt động đặc thù quân sự.
Điều 7: Giải thích từ ngữ
Điều 8: Ngạch sĩ quan
Sĩ quan chia thành hai ngạch: sĩ quan tại ngũ và sĩ quan dự bị.
Điều 9: Nhóm ngành sĩ quan
Sĩ quan gồm các nhóm ngành sau đây:
1. Sĩ quan chỉ huy, tham mưu;
2. Sĩ quan chính trị;
3. Sĩ quan hậu cần;
4. Sĩ quan kỹ thuật;
5. Sĩ quan chuyên môn khác.
Điều 10: Hệ thống cấp bậc quân hàm sĩ quan
Hệ thống cấp bậc quân hàm của sĩ quan gồm ba cấp, mười hai bậc:
1. Cấp Uý có bốn bậc:
Thiếu uý;
Trung uý;
Thượng uý;
Đại uý.
2. Cấp Tá có bốn bậc:
Thiếu tá;
Trung tá;
Thượng tá;
Đại tá.
3. Cấp Tướng có bốn bậc:
Thiếu tướng, Chuẩn Đô đốc Hải quân;
Trung tướng, Phó Đô đốc Hải quân;
Thượng tướng, Đô đốc Hải quân;
Đại tướng.
Điều 12: Tiêu chuẩn của sĩ quan
1. Tiêu chuẩn chung:
A) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, hoàn hành tốt mọi nhiệm vụ được giao;
B) Có phẩm chất đạo đức cách mạng; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; gương mẫu chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật quân đội; tôn trọng và đoàn kết với nhân dân, với đồng đội; được quần chúng tín nhiệm;
C) Có trình độ chính trị, khoa học quân sự và khả năng vận dụng sáng tạọ chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước vào nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân; có kiến thức về văn hoá, kinh tế, xã hội, pháp luật và các lĩnh vực khác; có năng lực hoạt động thực tiễn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; tốt nghiệp chương trình đào tạo theo quy định đối với từng chức vụ;
D) Có lý lịch rõ ràng, tuổi đời và sức khoẻ phù hợp với chức vụ, cấp bậc quân hàm mà sĩ quan đảm nhiệm.
2. Tiêu chuẩn cụ thể đối với từng chức vụ của sĩ quan do cấp có thẩm quyền quy định.
Điều 13: Tuổi phục vụ tại ngũ của sĩ quan
Điều 14: Trách nhiệm xây dựng đội ngũ sĩ quan
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân có trách nhiệm xây dựng đội ngũ sĩ quan.
CHƯƠNG II:QUÂN HÀM, CHỨC VỤ SĨ QUAN
Điều 16: Đối tượng phong quân hàm sĩ quan tại ngũ
Điều 18: Thăng quân hàm sĩ quan trước thời hạn
Điều 19: Kéo dài thời hạn xét thăng quân hàm sĩ quan
Điều 20: Mức thăng, giáng cấp bậc quân hàm sĩ quan
Việc thăng hoặc giáng cấp bậc quân hàm sĩ quan mỗi lần chỉ được một bậc; trường hợp đặc biệt mới thăng hoặc giáng nhiều bậc.
Điều 21: Bổ nhiệm, miễn nhiệm chức vụ đối với sĩ quan
1. Sĩ quan được bổ nhiệm chức vụ khi có nhu cầu biên chế và đủ tiêu chuẩn quy định đối với chức vụ đảm nhiệm.
2. Việc miễn nhiệm chức vụ đối với sĩ quan được thực hiện trong các trường hợp sau đây :
A) Khi thay đổi tổ chức mà không còn biên chế chức vụ sĩ quan đang đảm nhiệm;
B) Sĩ quan không còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện đảm nhiệm chức vụ hiện tại;
C) Sĩ quan hết hạn tuổi phục vụ tại ngũ quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này mà không được kéo dài thời hạn phục vụ tại ngũ.
3. Sĩ quan có thể được giao chức vụ thấp hơn chức vụ đang đảm nhiệm hoặc chức vụ có quy định cấp bậc quân hàm cao nhất thấp hơn cấp bậc quân hàm hiện tại trong những trường hợp sau đây:
A) Tăng cường cho nhiệm vụ đặc biệt;
B) Thay đổi tổ chức, biên chế;
C) Điều chỉnh để phù hợp với năng lực, sức khoẻ của sĩ quan.
Điều 22: Quan hệ cấp bậc, chức vụ của sĩ quan
Sĩ quan có cấp bậc quân hàm cao hơn là cấp trên của sĩ quan có cấp bậc quân hàm thấp hơn; trường hợp sĩ quan có chức vụ cao hơn nhưng có cấp bậc quân hàm bằng hoặc thấp hơn cấp bậc quân hàm của sĩ quan thuộc quyền thì sĩ quan có chức vụ cao hơn là cấp trên.
Điều 23: Quyền tạm đình chỉ chức vụ đối với sĩ quan trong trường hợp khẩn cấp
Trường hợp khẩn cấp mà sĩ quan thuộc quyền không chấp hành mệnh lệnh có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng thì sĩ quan có chức vụ từ Trung đoàn trưởng trở lên được quyền tạm đình chỉ chức vụ đối với sĩ quan đó và chỉ định người thay thế tạm thời, đồng thời phải báo cáo ngay cấp trên trực tiếp.
Điều 24: Biệt phái sĩ quan
Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, sĩ quan tại ngũ được biệt phái đến công tác ở cơ quan, tổ chức ngoài quân đội, do cấp có thẩm quyền quyết định.
CHƯƠNG III:NGHĨA VỤ, TRÁCH NHIỆM VÀ QUYỀN LỢI CỦA SĨ QUAN
Điều 26: Nghĩa vụ của sĩ quan
Sĩ quan có nghĩa vụ sau đây:
1. Sẵn sàng chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia xây dựng đất nước, bảo vệ tài sản và lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức; bảo vệ tính mạng, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân;
2. Thường xuyên giữ gìn và trau dồi đạo đức cách mạng, học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực về chính trị, quân sự, văn hoá, chuyên môn và thể lực để hoàn thành nhiệm vụ;
3. Tuyệt đối phục tùng tổ chức, phục tùng chỉ huy; nghiêm chỉnh chấp hành điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội; giữ bí mật quân sự, bí mật quốc gia;
4. Thường xuyên chăm lo lợi ích vật chất và tinh thần của bộ đội;
5. Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tôn trọng và gắn bó mật thiết với nhân dân.
Điều 27: Trách nhiệm của sĩ quan
Sĩ quan có trách nhiệm sau đây:
1. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về những mệnh lệnh của mình, về việc chấp hành mệnh lệnh của cấp trên và việc thừa hành nhiệm vụ của cấp dưới thuộc quyền;
2. Lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ của đơn vị theo chức trách được giao; bảo đảm cho đơn vị chấp hành triệt để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ, quy định của quân đội, sẵn sàng chiến đấu và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong bất kỳ hoàn cảnh, điều kiện nào;
3. Khi nhận mệnh lệnh của người chỉ huy, nếu sĩ quan có căn cứ cho là mệnh lệnh đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra mệnh lệnh; trong trường hợp vẫn phải chấp hành mệnh lệnh thì báo cáo kịp thời lên cấp trên trực tiếp của người ra mệnh lệnh và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành mệnh lệnh đó.
Điều 28: Những việc sĩ quan không được làm
Sĩ quan không được làm những việc trái với pháp luật, kỷ luật quân đội và những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm.
Điều 29: Nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của sĩ quan biệt phái
Điều 30: Đào tạo, bồi dưỡng đối với sĩ quan
1. Sĩ quan được Đảng và Nhà nước chăm lo, khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển tài năng.
2. Sĩ quan được đào tạo, bồi dưỡng tại các trường trong và ngoài quân đội theo yêu cầu công tác.
Điều 31: Tiền lương, phụ cấp, nhà ở và điều kiện làm việc đối với sĩ quan tại ngũ
Sĩ quan tại ngũ được hưởng tiền lương, phụ cấp, nhà ở và điều kiện làm việc như sau:
2. Đủ tiêu chuẩn, đến thời hạn xét thăng quân hàm nhưng đã có bậc quân hàm cao nhất của chức vụ đang đảm nhiệm hoặc đã có bậc quân hàm Đại tá, cấp Tướng 4 năm trở lên mà chưa được thăng cấp bậc quân hàm cao hơn thì được nâng lương theo chế độ tiền lương của sĩ quan;
3. Giữ nhiều chức vụ trong cùng một thời điểm thì được hưởng quyền lợi của chức vụ cao nhất và phụ cấp kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo theo quy định của pháp luật;
4. Khi được giao chức vụ thấp hơn chức vụ đang đảm nhiệm theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 21 của Luật này thì được giữ nguyên quyền lợi của chức vụ cũ;
5. Khi có quyết định miễn nhiệm chức vụ thì được hưởng các quyền lợi theo cương vị mới;
6. Được bảo đảm điều kiện để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
Điều 32: Chế độ nghỉ của sĩ quan tại ngũ
1. Sĩ quan tại ngũ được nghỉ những ngày lễ theo quy định của Bộ luật lao động và nghỉ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
2. Khi có lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ và trong thời chiến, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được ra lệnh đình chỉ chế độ nghỉ của sĩ quan; mọi sĩ quan đang nghỉ phải về ngay đơn vị.
Điều 33: Chăm sóc sức khoẻ sĩ quan tại ngũ và gia đình sĩ quan
1. Sĩ quan tại ngũ được chăm sóc sức khoẻ; khi bị thương, ốm đau ở xa các cơ sở quân y hoặc mắc những bệnh mà cơ sở quân y không có khả năng điều trị thì được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở dân y, được quân đội thanh toán viện phí.
2. Bố, mẹ, người nuôi dưỡng hợp pháp của chồng và của vợ, vợ hoặc chồng và con dưới 18 tuổi của sĩ quan tại ngũ không có chế độ bảo hiểm y tế thì được khám bệnh, chữa bệnh miễn hoặc giảm viện phí tại các cơ sở quân y và dân y theo quy định của Chính phủ.
Điều 34: Sĩ quan tại ngũ chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng
Khi chức vụ đang đảm nhiệm không còn nhu cầu bố trí sĩ quan, nếu sĩ quan có đủ điều kiện thì được xét chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp hoặc công chức quốc phòng và được hưởng mức lương không thấp hơn khi còn là sĩ quan.
Điều 35: Sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ
Điều 36: Điều kiện nghỉ hưu của sĩ quan
Sĩ quan được nghỉ hưu khi:
1. Đủ điều kiện theo quy định bảo hiểm xã hội của Nhà nước;
2. Trong trường hợp chưa đủ điều kiện nghỉ hưu theo quy định tại khoản 1 Điều này, quân đội không còn nhu cầu bố trí sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng hoặc không chuyển ngành được, nếu nam sĩ quan có đủ 25 năm và nữ sĩ quan có đủ 20 năm phục vụ trong quân đội trở lên thì được nghỉ hưu.
Điều 37: Quyền lợi của sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ và sĩ quan tại ngũ hy sinh, từ trần
CHƯƠNG IV:SĨ QUAN DỰ BỊ
Điều 38: Tuổi phục vụ của sĩ quan dự bị
Điều 39: Đối tượng đăng ký sĩ quan dự bị
Những người sau đây phải đăng ký sĩ quan dự bị:
1. Sĩ quan, cán bộ là quân nhân chuyên nghiệp khi thôi phục vụ tại ngũ còn đủ tiêu chuẩn và điều kiện của sĩ quan dự bị;
2. Quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan khi thôi phục vụ tại ngũ và hạ sĩ quan dự bị đã được đào tạo sĩ quan dự bị;
3. Cán bộ, công chức ngoài quân đội và những người tốt nghiệp đại học trở lên có chuyên môn phù hợp với yêu cầu của quân đội, đã được đào tạo sĩ quan dự bị.
Điều 40: Gọi đào tạo sĩ quan dự bị và gọi sĩ quan dự bị vào phục vụ tại ngũ, huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu
Điều 41: Bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm sĩ quan dự bị
Việc bổ nhiệm chức vụ, phong, thăng quân hàm đối với sĩ quan dự bị được quy định như sau:
1. Học viên tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị được phong quân hàm Thiếu uý sĩ quan dự bị;
2. Cán bộ, công chức tốt nghiệp đào tạo sĩ quan dự bị thì căn cứ vào chức vụ được bổ nhiệm trong các đơn vị dự bị động viên, kết quả học tập, rèn luyện và mức lương đang hưởng để xét phong cấp bậc quân hàm sĩ quan dự bị tương xứng;
3. Căn cứ vào nhu cầu biên chế, tiêu chuẩn chức vụ của sĩ quan, kết quả học tập quân sự và thành tích phục vụ quốc phòng, sĩ quan dự bị được bổ nhiệm chức vụ trong các đơn vị dự bị động viên và được thăng cấp bậc quân hàm tương xứng với chức vụ đảm nhiệm;
4. Thời hạn xét thăng quân hàm sĩ quan dự bị dài hơn 2 năm so với thời hạn của mỗi cấp bậc quân hàm sĩ quan tại ngũ quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật này;
5. Sĩ quan dự bị vào phục vụ tại ngũ thì căn cứ vào tiêu chuẩn, quy định cấp bậc quân hàm của chức vụ được bổ nhiệm, cấp bậc quân hàm sĩ quan dự bị hiện tại và thời hạn xét thăng quân hàm để xét thăng cấp bậc quân hàm tương xứng.
Điều 42: Trách nhiệm của sĩ quan dự bị
Sĩ quan dự bị có trách nhiệm sau đây:
1. Đăng ký, chịu sự quản lý của chính quyền và cơ quan quân sự địa phương nơi cư trú hoặc công tác và đơn vị dự bị động viên;
2. Tham gia các lớp huấn luyện, tập trung kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu theo quy định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng;
3. Hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao trong lực lượng dự bị động viên;
4. Vào phục vụ tại ngũ theo quy định tại khoản 2 Điều 40 của Luật này.
Điều 43: Quyền lợi của sĩ quan dự bị
Sĩ quan dự bị có quyền lợi sau đây:
1. Được hưởng phụ cấp trách nhiệm quản lý đơn vị dự bị động viên; trong thời gian tập trung huấn luyện, kiểm tra sẵn sàng động viên, kiểm tra sẵn sàng chiến đấu được hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp, được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở quân y và được hưởng các chế độ khác do Chính phủ quy định; được miễn thực hiện nghĩa vụ lao động công ích;
2. Sĩ quan dự bị được gọi vào phục vụ tại ngũ trong thời bình, khi hết thời hạn được trở về cơ quan hoặc địa phương trước khi nhập ngũ và tiếp tục phục vụ trong ngạch dự bị; trường hợp quân đội có nhu cầu, sĩ quan có đủ tiêu chuẩn thì được chuyển sang ngạch sĩ quan tại ngũ.
Điều 44: Giải ngạch sĩ quan dự bị
CHƯƠNG V:QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ SĨ QUAN
Điều 45: Nội dung quản lý nhà nước về sĩ quan
Nội dung quản lý nhà nước về sĩ quan bao gồm:
1. Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về sĩ quan;
2. Lập quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ sĩ quan;
3. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, bố trí, sử dụng sĩ quan; chính sách, chế độ đối với đội ngũ sĩ quan;
4. Chỉ đạo, tổ chức việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm đối với sĩ quan và việc thi hành các quy định của Luật này.
Điều 46: Trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ[sửa]
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về sĩ quan.
2. Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về sĩ quan; chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để thực hiện việc quản lý nhà nước về sĩ quan.
3. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện việc quản lý nhà nước về sĩ quan; đào tạo, cung cấp cho quân đội những cán bộ phù hợp với yêu cầu quân sự; ưu tiên tiếp nhận, bố trí việc làm cho sĩ quan đã hoàn thành nhiệm vụ trong quân đội, có đủ điều kiện chuyển ngành theo kế hoạch của Chính phủ; bảo đảm điều kiện để thực hiện chính sách, chế độ đối với sĩ quan tại ngũ, sĩ quan thôi phục vụ tại ngũ và gia đình sĩ quan.
Điều 47: Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp
Chính quyền địa phương các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
1. Giáo dục hướng nghiệp, tạo nguồn đào tạo sĩ quan trong thanh niên;
2. Ưu tiên tiếp nhận, bố trí việc làm đối với sĩ quan chuyển ngành, phục viên;
3. Đăng ký, quản lý, tạo điều kiện để sĩ quan dự bị hoàn thành nhiệm vụ theo quy định của pháp luật;
4. Thực hiện các chế độ, chính sách đối với sĩ quan và gia đình sĩ quan cư trú hợp pháp tại địa phương.
CHƯƠNG VI:KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 48: Khen thưởng
Sĩ quan có thành tích trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, công tác; cơ quan, tổ chức và cá nhân có thành tích trong việc thực hiện Luật này thì được khen thưởng theo quy định của Nhà nước.
Điều 49: Xử lý vi phạm
1. Sĩ quan vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật của Nhà nước thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo Điều lệnh quản lý bộ đội, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
2. Sĩ quan tạm thời không được mang quân hàm khi bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam; sĩ quan bị phạt tù thì đương nhiên bị tước quân hàm khi bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm Luật này thì bị xử lý theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG VII:ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 50: Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015.
Luật này thay thế Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 30 tháng 12 năm 1981 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam ngày 21 tháng 12 năm 1990.
Điều 51: Quy định thi hành Luật
Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2014
Xem thêm
Luật Quy định chế độ phục vụ của sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1958
Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam 1981
Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam 1990 (sửa đổi)
Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 1999
Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam 2008 (sửa đổi)
Luật Sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam 2014 (sửa đổi)
Luật pháp Việt Nam |
19078 | https://vi.wikisource.org/wiki/Nam%20Phong%20t%E1%BA%A1p%20ch%C3%AD | Nam Phong tạp chí | Quyển I
Quyển II
Quyển III
Quyển IV
Quyển V
Quyển VI
Quyển VII
Quyển VIII
Quyển IX
Quyển X
Quyển XI
Quyển XII
Quyển XIII
Quyển XIV
Quyển XV
Quyển XVI
Quyển XVII
Quyển XVIII
Quyển XIX
Quyển XX
Quyển XXI
Quyển XXII
Quyển XXIII
Quyển XXIV
Quyển XXV
Quyển XXVI
Quyển XXVII
Quyển XXVIII
Quyển XXIX
Quyển XXX
Quyển XXXI
Quyển XXXII
Quyển XXXIII
Quyển XXXIV
Quyển XXXV
Tạp chí |
19110 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20C%C3%B4ng%20An%20Nh%C3%A2n%20D%C3%A2n%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202014 | Luật Công An Nhân Dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2014 | LUẬT
CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM
Ngày 24-11-2014, Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Sinh Hùng đã ký lệnh công bố Luật Công an nhân dân số 73/2-14/QH-QH13 ban hành quy định về công an nhân dân. Luật này có hiệu lực từ 1/7/2015. Dưới đây là toàn bộ văn bản mới này.
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ;
Quốc hội ban hành Luật Công an nhân dân.
Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về nguyên tắc tổ chức, hoạt động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và chế độ, chính sách đối với Công an nhân dân.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với Công an nhân dân, cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng điều ước quốc tế đó.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.
2. Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ là công dân Việt Nam được tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện và hoạt động trong các lĩnh vực nghiệp vụ của Công an nhân dân được phong, thăng cấp bậc hàm cấp tướng, cấp tá, cấp úy, hạ sĩ quan.
4. Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật là công dân Việt Nam , có trình độ chuyên môn kỹ thuật, hoạt động trong Công an nhân dân được phong, thăng cấp bậc hàm cấp tá, cấp úy, hạ sĩ quan.
5. Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ là công dân Việt Nam thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được phong, thăng cấp bậc hàm Thượng sĩ, Trung sĩ, Hạ sĩ, Binh nhất, Binh nhì.
6. Công nhân công an là người được tuyển dụng vào làm việc trong Công an nhân dân mà không thuộc diện được phong cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ.
Điều 4. Vị trí, cơ cấu của Công an nhân dân
Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Công an nhân dân gồm lực lượng An ninh nhân dân, lực lượng Cảnh sát nhân dân và Công an xã.
Điều 5. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Công an nhân dân
1. Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Công an nhân dân được tổ chức tập trung, thống nhất và theo cấp hành chính từ trung ương đến cơ sở.
3. Hoạt động của Công an nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều 6. Ngày truyền thống của Công an nhân dân
Ngày 19 tháng 8 hằng năm là ngày truyền thống của Công an nhân dân và là ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Điều 7. Tuyển chọn công dân vào Công an nhân dân
1. Công dân có đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, sức khoẻ, có nguyện vọng và năng khiếu phù hợp với công tác công an thì có thể được tuyển chọn vào Công an nhân dân.
2. Công an nhân dân được ưu tiên tuyển chọn sinh viên, học sinh xuất sắc tốt nghiệp ở các học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề có đủ tiêu chuẩn để đào tạo, bổ sung vào Công an nhân dân.
Điều 8. Nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân
1. Công dân thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân là thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc trong lực lượng vũ trang nhân dân. Hằng năm, Công an nhân dân được tuyển chọn công dân trong độ tuổi gọi nhập ngũ vào phục vụ trong Công an nhân dân với thời hạn là ba năm.
2. Thủ tục tuyển chọn công dân thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được áp dụng như đối với công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ.
Điều 9. Chế độ phục vụ của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân và công nhân công an
1. Sĩ quan Công an nhân dân phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp; hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp hoặc chế độ nghĩa vụ; công nhân công an phục vụ theo chế độ tuyển dụng.
2. Công dân phục vụ trong Công an nhân dân xuất ngũ, chuyển ngành phải thực hiện nghĩa vụ quân sự trong ngạch dự bị theo quy định của pháp luật.
Điều 10. Xây dựng Công an nhân dân
1. Nhà nước có chính sách đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân; xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
2. Cơ quan, tổ chức và công dân có trách nhiệm tham gia xây dựng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh.
Điều 11. Giám sát hoạt động của Công an nhân dân
1. Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện giám sát hoạt động của Công an nhân dân.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ và xây dựng Công an nhân dân, giám sát việc thực hiện pháp luật về Công an nhân dân.
Điều 12. Quan hệ phối hợp giữa Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ với Công an nhân dân
1. Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng Công an nhân dân.
2. Việc phối hợp giữa Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ với Công an nhân dân do Chính phủ quy định.
Điều 13. Trách nhiệm và chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
2. Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm có thành tích thì được khen thưởng; bị tổn hại về danh dự thì được khôi phục, bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; người bị thương tích, tổn hại về sức khoẻ, tính mạng thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Chương II: CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 14. Chức năng của Công an nhân dân
Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Điều 15. Nhiệm vụ và quyền hạn của Công an nhân dân
1. Thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm; tham gia thẩm định, đánh giá tác động về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đối với quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh với hoạt động quốc phòng và đối ngoại.
2. Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Hoạt động tình báo theo quy định của pháp luật.
4. Bảo vệ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, khách quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam; bảo vệ sự kiện, mục tiêu quan trọng về chính trị, kinh tế, ngoại giao, khoa học - kỹ thuật, văn hóa, xã hội; bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, cơ quan đại diện nước ngoài, đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; bảo vệ cá nhân nắm giữ hoặc liên quan mật thiết đến bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật.
5. Thực hiện quản lý về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ bí mật nhà nước; chủ trì thực hiện quản lý về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; kiểm soát nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh tại các cửa khẩu theo quy định của Chính phủ; phối hợp với Bộ đội Biên phòng, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật.
6. Thực hiện quản lý về công tác điều tra và phòng, chống tội phạm. Chủ trì thực hiện nhiệm vụ phòng, chống khủng bố, bạo loạn và giải quyết các tình huống phức tạp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường; tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố; khởi tố, điều tra tội phạm theo quy định của pháp luật; thực hiện công tác thống kê hình sự; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và kiến nghị biện pháp khắc phục; giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại cộng đồng theo quy định của pháp luật.
7. Thực hiện quản lý về thi hành án hình sự; quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tổ chức thi hành bản án, quyết định về hình sự, biện pháp tư pháp, thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
8. Thực hiện quản lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quy định của pháp luật; bảo đảm an ninh, trật tự trong việc thực hiện quyết định cưỡng chế khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
9. Thực hiện quản lý về cư trú, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, con dấu, trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật; cấp thẻ Căn cước công dân; đăng ký, cấp biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; thực hiện quản lý về an ninh, trật tự các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ theo quy định của pháp luật.
10. Chủ trì, phối hợp quản lý và thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
11. Làm nòng cốt xây dựng thế trận an ninh nhân dân, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Hướng dẫn các cơ quan, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, tài chính, tiền tệ, đầu tư, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh thông tin, an ninh xã hội, an ninh môi trường.
12. Hướng dẫn, huấn luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đối với lực lượng bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
13. Áp dụng các biện pháp vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật.
14. Được sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ để tấn công, truy bắt tội phạm, ngăn chặn người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật khác và để phòng vệ chính đáng theo quy định của luật.
15. Quyết định hoặc kiến nghị tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi gây nguy hại hoặc đe dọa gây nguy hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật khi có căn cứ xác định liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Huy động, trưng dụng theo quy định của pháp luật phương tiện thông tin, phương tiện giao thông, phương tiện khác và người đang sử dụng, điều khiển phương tiện đó trong trường hợp cấp bách để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội hoặc để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội đang xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra.
16. Thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội khi có tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp hoặc khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật.
17. Nghiên cứu, ứng dụng, huy động thành tựu khoa học, công nghệ trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
18. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
19. Thực hiện hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân; là cơ quan đầu mối thực hiện dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
20. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Chương III: TỔ CHỨC CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 16. Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân
1. Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân gồm có:
a) Bộ Công an;
b) Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
c) Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
d) Công an xã, phường, thị trấn.
2. Căn cứ yêu cầu công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Chính phủ quy định việc thành lập Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Công an xã là lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động và chế độ, chính sách đối với Công an xã do luật quy định.
4. Căn cứ yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định thành lập các đồn, trạm Công an và các đơn vị độc lập bố trí tại những địa bàn cần thiết; quy định việc điều động sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân đảm nhiệm các chức danh Công an xã.
Điều 17. Thẩm quyền quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức trong Công an nhân dân
1. Chính phủ quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an.
2. Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của tổng cục, bộ tư lệnh, đơn vị trực thuộc Bộ, đơn vị thuộc tổng cục, bộ tư lệnh, Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các đơn vị còn lại trong Công an nhân dân.
Điều 18. Chỉ huy trong Công an nhân dân
1. Bộ trưởng Bộ Công an là người chỉ huy cao nhất trong Công an nhân dân.
2. Chỉ huy công an cấp dưới chịu trách nhiệm trước chỉ huy công an cấp trên về tổ chức và hoạt động của đơn vị công an được giao phụ trách. Chỉ huy công an địa phương chịu trách nhiệm trước chỉ huy công an cấp trên và trước cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp.
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân có chức vụ hoặc cấp bậc hàm cao hơn là cấp trên của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ có chức vụ hoặc cấp bậc hàm thấp hơn. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ có chức vụ cao hơn nhưng cấp bậc hàm ngang hoặc thấp hơn là cấp trên của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ có cấp bậc hàm ngang hoặc cao hơn nhưng chức vụ thấp hơn.
Chương IV: SĨ QUAN, HẠ SĨ QUAN, CHIẾN SĨ CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 19. Phân loại sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Phân loại theo lực lượng, trong Công an nhân dân có:
a) Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ An ninh nhân dân;
b) Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân.
2. Phân loại theo tính chất hoạt động, trong Công an nhân dân có:
a) Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ;
b) Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật;
c) Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ.
Điều 20. Hệ thống cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ:
a) Sĩ quan cấp tướng có bốn bậc:
Đại tướng;
Thượng tướng;
Trung tướng;
Thiếu tướng;
b) Sĩ quan cấp tá có bốn bậc:
Đại tá;
Thượng tá;
Trung tá;
Thiếu tá;
c) Sĩ quan cấp úy có bốn bậc:
Đại úy;
Thượng úy;
Trung úy;
Thiếu úy;
d) Hạ sĩ quan có ba bậc:
Thượng sĩ;
Trung sĩ;
Hạ sĩ.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật:
a) Sĩ quan cấp tá có ba bậc:
Thượng tá;
Trung tá;
Thiếu tá;
b) Sĩ quan cấp úy có bốn bậc:
Đại úy;
Thượng úy;
Trung úy;
Thiếu úy;
c) Hạ sĩ quan có ba bậc:
Thượng sĩ;
Trung sĩ;
Hạ sĩ.
3. Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ:
a) Hạ sĩ quan có ba bậc:
Thượng sĩ;
Trung sĩ;
Hạ sĩ;
b) Chiến sĩ có hai bậc:
Binh nhất;
Binh nhì.
Điều 21. Đối tượng, điều kiện, thời hạn xét phong, thăng cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Đối tượng xét phong cấp bậc hàm:
a) Học sinh, sinh viên hưởng sinh hoạt phí tại các trường của Công an nhân dân, khi tốt nghiệp được phong cấp bậc hàm như sau:
Trung cấp: Trung sĩ;
Cao đẳng: Thượng sĩ;
Đại học: Thiếu úy;
Học sinh, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được phong cấp bậc hàm cao hơn một bậc;
b) Cán bộ, công chức hoặc người tốt nghiệp các học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề được tuyển chọn vào Công an nhân dân thì căn cứ vào trình độ được đào tạo, quá trình công tác, nhiệm vụ được giao và bậc lương được xếp để phong cấp bậc hàm tương ứng;
c) Chiến sĩ nghĩa vụ được phong cấp bậc hàm khởi điểm là Binh nhì.
2. Điều kiện xét thăng cấp bậc hàm:
Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được thăng cấp bậc hàm khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hoàn thành nhiệm vụ, đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sức khỏe;
b) Khi cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất quy định đối với chức vụ, chức danh đang đảm nhiệm;
c) Đủ thời hạn xét thăng cấp bậc hàm theo quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Thời hạn xét thăng cấp bậc hàm:
a) Hạ sĩ quan, sĩ quan nghiệp vụ:
Hạ sĩ lên Trung sĩ: 1 năm;
Trung sĩ lên Thượng sĩ: 2 năm;
Thượng sĩ lên Thiếu úy: 2 năm;
Thiếu úy lên Trung úy: 2 năm;
Trung úy lên Thượng úy: 3 năm;
Thượng úy lên Đại úy: 3 năm;
Đại úy lên Thiếu tá: 4 năm;
Thiếu tá lên Trung tá: 4 năm;
Trung tá lên Thượng tá: 4 năm;
Thượng tá lên Đại tá: 4 năm;
Đại tá lên Thiếu tướng: 4 năm;
Thời hạn thăng cấp bậc hàm trong mỗi cấp tướng tối thiểu là 4 năm;
b) Thời hạn xét thăng cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật; hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ do Chính phủ quy định;
c) Thời gian sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ học tập tại trường được tính vào thời hạn xét thăng cấp bậc hàm; đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ bị giáng cấp bậc hàm, sau một năm kể từ ngày bị giáng cấp bậc hàm, nếu tiến bộ thì được xét thăng cấp bậc hàm.
4. Tuổi của sĩ quan được xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng không quá 56; trường hợp cao hơn khi có yêu cầu theo quyết định của Chủ tịch nước.
Điều 22. Phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, nghiên cứu khoa học, học tập mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm thì được xét phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất quy định đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm từ hai bậc trở lên thì được xét phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc, nhưng không vượt quá cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan đang đảm nhiệm.
3. Chủ tịch nước quyết định việc phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc đối với cấp bậc hàm cấp tướng. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc từ Đại tá trở xuống.
Điều 23. Chức vụ của sĩ quan Công an nhân dân
1. Chức vụ cơ bản của sĩ quan gồm có:
a) Bộ trưởng Bộ Công an;
b) Tổng cục trưởng, Tư lệnh;
c) Cục trưởng;
d) Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
đ) Trưởng phòng; Trưởng Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Trung đoàn trưởng;
e) Đội trưởng; Trưởng Công an phường, thị trấn; Tiểu đoàn trưởng;
g) Đại đội trưởng;
h) Trung đội trưởng;
i) Tiểu đội trưởng.
2. Chức vụ, chức danh tương đương với chức vụ quy định tại điểm b khoản 1 Điều này do Chính phủ quy định; chức vụ, chức danh tương đương với chức vụ quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều này do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Điều 24. Cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan Công an nhân dân
1. Cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan được quy định như sau:
a) Đại tướng: Bộ trưởng Bộ Công an;
b) Thượng tướng: Thứ trưởng Bộ Công an;
Số lượng Thứ trưởng Bộ Công an có cấp bậc hàm Thượng tướng không quá sáu;
c) Trung tướng:
Tổng cục trưởng; Tư lệnh, Chính ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động; Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ;
Chánh Văn phòng Bộ Công an; Chánh Thanh tra Bộ Công an; Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Công an;
Cục trưởng các cục: An ninh mạng; Cảnh sát giao thông; Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Đối ngoại; Pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp; Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; Giám đốc các học viện: An ninh nhân dân, Cảnh sát nhân dân, Chính trị Công an nhân dân;
Một Phó Tổng cục trưởng là Bí thư hoặc Phó Bí thư Đảng ủy Tổng cục;
Giám đốc Công an thành phố Hà Nội; Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh;
d) Thiếu tướng:
Trợ lý Bộ trưởng Bộ Công an;
Cục trưởng các cục: Cơ yếu; Tài chính; Kế hoạch và Đầu tư;
Cục trưởng các cục về tham mưu, chính trị, nghiệp vụ thuộc Tổng cục An ninh, trừ Cục trưởng Cục Hậu cần, Chánh Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo về nhân quyền và Chánh Thanh tra Tổng cục;
Cục trưởng các cục về tham mưu, chính trị, nghiệp vụ thuộc Tổng cục Tình báo, trừ Cục trưởng Cục Hậu cần;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Cảnh sát: Tham mưu; Chính trị; Cảnh sát hình sự; Cảnh sát kinh tế; Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy; Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng; Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường; Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; Cảnh sát truy nã tội phạm; Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội; Cảnh sát đăng ký, quản lý cư trú và dữ liệu quốc gia về dân cư; Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Chính trị Công an nhân dân: Tham mưu; Tổ chức Cán bộ; Công tác chính trị; Chính sách; Đào tạo; Công tác Đảng, công tác quần chúng;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật: Thông tin liên lạc; Quản lý trang bị kỹ thuật và trang cấp; Quản lý khoa học công nghệ và môi trường; Công nghệ thông tin; Quản lý xây dựng cơ bản và doanh trại; Y tế;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp: Chính trị; Quản lý phạm nhân, trại viên; Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng; Theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp; Hướng dẫn tạm giam, tạm giữ;
Viện trưởng Viện Khoa học hình sự; Viện trưởng Viện Lịch sử Công an; Tổng biên tập Báo Công an nhân dân; Tổng biên tập Tạp chí Công an nhân dân; Giám đốc Trung tâm phát thanh, truyền hình, điện ảnh Công an nhân dân; Giám đốc các bệnh viện: 19-8, 199, 30-4, Y học cổ truyền;
Giám đốc Học viện Tình báo; Hiệu trưởng các trường đại học: An ninh nhân dân; Cảnh sát nhân dân; Kỹ thuật - Hậu cần Công an nhân dân; Phòng cháy và chữa cháy;
Giám đốc Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hà Nội; Giám đốc Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hồ Chí Minh;
Chức vụ cấp phó của cấp trưởng quy định tại điểm c khoản này có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng, số lượng như sau: của Tổng cục trưởng không quá năm; của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động không quá bốn; của Chính ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động là một; của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ không quá bốn; của Chánh Văn phòng Bộ Công an không quá ba; của Chánh Thanh tra Bộ Công an không quá ba; của Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Công an không quá ba; của Cục trưởng Cục An ninh mạng, Cục Cảnh sát giao thông, Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Cục Đối ngoại, Cục Pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp, Cục Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc không quá hai; của Giám đốc Học viện An ninh nhân dân không quá ba; của Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân không quá ba; của Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân không quá ba; của Giám đốc Công an thành phố Hà Nội không quá bốn; của Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh không quá bốn;
đ) Đại tá:
Cục trưởng, Thủ trưởng đơn vị tương đương thuộc Tổng cục, Bộ Tư lệnh; Hiệu trưởng các trường bậc đại học, trường sĩ quan, trừ quy định tại điểm d khoản này;
Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trừ Giám đốc Công an thành phố Hà Nội và Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh;
Chức vụ cấp phó của cấp trưởng quy định tại điểm d khoản này;
e) Thượng tá: Trưởng phòng; Trưởng Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Trung đoàn trưởng;
g) Trung tá: Đội trưởng; Trưởng Công an phường, thị trấn; Tiểu đoàn trưởng; Trưởng đồn Công an;
h) Thiếu tá: Đại đội trưởng; Trưởng trạm Công an;
i) Đại úy: Trung đội trưởng;
k) Thượng úy: Tiểu đội trưởng.
2. Phó Chủ nhiệm thường trực, Phó Chủ nhiệm chuyên trách Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương có cấp bậc hàm cấp tướng thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
3. Sĩ quan Công an nhân dân biệt phái là Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội hoặc được bổ nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng hoặc tương đương có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng; sĩ quan Công an nhân dân biệt phái là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội hoặc được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng hoặc tương đương có cấp bậc hàm cao nhất là Trung tướng; sĩ quan Công an nhân dân biệt phái có chức vụ cao hơn được phong, thăng cấp bậc hàm cấp tướng theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
4. Cấp bậc hàm cao nhất là cấp tướng đối với chức vụ của sĩ quan ở đơn vị thành lập mới do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Cấp bậc hàm cao nhất đối với sĩ quan còn lại là cấp tá, cấp úy do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Điều 25. Thẩm quyền phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức các chức vụ trong Công an nhân dân
1. Chủ tịch nước phong, thăng cấp bậc hàm cấp tướng đối với sĩ quan Công an nhân dân.
2. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm các chức vụ Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Tư lệnh, Chính ủy Bộ Tư lệnh trong Công an nhân dân.
3. Bộ trưởng Bộ Công an phong, thăng cấp bậc hàm cấp tá; bổ nhiệm các chức vụ Phó Tổng cục trưởng, Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh, Cục trưởng, Phó Cục trưởng và các chức vụ, chức danh tương đương, Giám đốc, Phó Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Giám đốc, Phó Giám đốc Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quy định việc phong, thăng các cấp bậc hàm, bổ nhiệm các chức vụ, chức danh còn lại trong Công an nhân dân.
4. Người có thẩm quyền phong, thăng cấp bậc hàm nào thì có thẩm quyền tước, giáng cấp bậc hàm đó; mỗi lần chỉ được thăng, giáng một cấp bậc hàm, trừ trường hợp đặc biệt mới xét thăng, giáng nhiều cấp bậc hàm. Người có thẩm quyền bổ nhiệm chức vụ nào thì có thẩm quyền miễn nhiệm, cách chức, giáng chức đối với chức vụ đó.
Điều 26. Thủ tục phong, thăng cấp bậc hàm trong Công an nhân dân
1. Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng.
Việc phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng của sĩ quan Công an nhân dân biệt phái theo đề nghị của cơ quan, tổ chức nơi được cử đến biệt phái và Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Thủ tục phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm sĩ quan cấp tá, cấp úy và hạ sĩ quan, chiến sĩ do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Điều 27. Điều động sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Người có thẩm quyền bổ nhiệm chức vụ nào thì có quyền điều động người giữ chức vụ đó.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân phục tùng sự điều động của cấp có thẩm quyền.
Điều 28. Biệt phái sĩ quan Công an nhân dân
1. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, cấp có thẩm quyền quyết định biệt phái sĩ quan đến công tác tại cơ quan, tổ chức ngoài Công an nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Sĩ quan biệt phái được hưởng chế độ, chính sách như sĩ quan đang công tác trong Công an nhân dân. Việc phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm đối với sĩ quan biệt phái thực hiện như đối với sĩ quan đang công tác trong Công an nhân dân, trừ quy định tại khoản 3 Điều 24 và khoản 1 Điều 26 của Luật này.
3. Cơ quan, tổ chức nơi sĩ quan được biệt phái đến có trách nhiệm giao nhiệm vụ, giữ bí mật và bảo đảm điều kiện làm việc, sinh hoạt cho sĩ quan biệt phái theo quy định của pháp luật.
Điều 29. Hạn tuổi phục vụ của sĩ quan Công an nhân dân
1. Hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan Công an nhân dân quy định như sau:
a) Cấp úy: 53;
b) Thiếu tá, Trung tá: nam 55, nữ 53;
c) Thượng tá: nam 58, nữ 55;
d) Đại tá: nam 60, nữ 55;
đ) Cấp tướng: nam 62, nữ 57.
2. Trường hợp đơn vị công an có nhu cầu, sĩ quan quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này nếu có đủ phẩm chất, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe tốt và tự nguyện thì có thể được kéo dài tuổi phục vụ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an, nhưng không quá 60 đối với nam và 55 đối với nữ.
3. Sĩ quan là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia cao cấp, nữ sĩ quan cấp tướng có thể được kéo dài hạn tuổi phục vụ hơn 62 đối với nam và hơn 57 đối với nữ theo quy định của Chính phủ; trường hợp đặc biệt có thể kéo dài khi có yêu cầu theo quyết định của Chủ tịch nước.
4. Sĩ quan Công an nhân dân được nghỉ hưu khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; trường hợp chưa đủ điều kiện nghỉ hưu theo quy định của pháp luật mà Công an nhân dân không còn nhu cầu bố trí hoặc không chuyển ngành được hoặc sĩ quan tự nguyện xin nghỉ nếu nam sĩ quan có đủ hai mươi lăm năm, nữ sĩ quan có đủ hai mươi năm phục vụ trong Công an nhân dân thì được nghỉ hưu trước hạn tuổi quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 30. Nghĩa vụ, trách nhiệm của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước.
2. Nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh Công an nhân dân, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên.
3. Trung thực, dũng cảm, cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
4. Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; liên hệ chặt chẽ với Nhân dân; tận tụy phục vụ Nhân dân, kính trọng, lễ phép đối với Nhân dân.
5. Thường xuyên học tập nâng cao trình độ chính trị, pháp luật, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ; rèn luyện phẩm chất cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và thể lực.
6. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về những mệnh lệnh của mình, về việc chấp hành mệnh lệnh của cấp trên và việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới thuộc quyền. Khi nhận mệnh lệnh của người chỉ huy, nếu có căn cứ cho là mệnh lệnh đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra mệnh lệnh; trong trường hợp vẫn phải chấp hành mệnh lệnh thì báo cáo kịp thời lên cấp trên trực tiếp của người ra mệnh lệnh và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành mệnh lệnh đó.
Điều 31. Những việc sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân không được làm
1. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Những việc trái với pháp luật, điều lệnh Công an nhân dân và những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức, viên chức không được làm.
Chương V: BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG VÀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 32. Bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của Công an nhân dân
1. Nhà nước bảo đảm điều kiện về ngân sách và cơ sở vật chất cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và xây dựng lực lượng Công an nhân dân bao gồm: đầu tư tài chính, trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ, trang bị, thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, đất đai, trụ sở, công trình, cơ sở công nghiệp và các điều kiện vật chất kỹ thuật khác.
2. Trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, Nhà nước huy động thành tựu khoa học, công nghệ phục vụ hoạt động của Công an nhân dân bao gồm: chuyển giao công nghệ, kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo, huấn luyện và nghiên cứu khoa học của Công an nhân dân; bảo đảm tiềm lực thông tin, cơ sở dữ liệu, tư liệu khoa học và công nghệ; bổ sung lực lượng, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Đối với vũ khí, công cụ hỗ trợ, trang bị, thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phục vụ cho hoạt động của Công an nhân dân mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì Bộ trưởng Bộ Công an trình Thủ tướng Chính phủ quyết định nhập khẩu theo quy định của pháp luật
4. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 33. Trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ của Công an nhân dân
1. Công an nhân dân được Nhà nước trang bị vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao.
2. Nhà nước có chính sách ưu tiên ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; đầu tư nghiên cứu sản xuất thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ và công cụ hỗ trợ phục vụ công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
Điều 34. Trang phục, Công an hiệu, cờ hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, giấy chứng minh Công an nhân dân
Trang phục, Công an hiệu, cờ hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, giấy chứng minh Công an nhân dân do Chính phủ quy định.
Điều 35. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức cần thiết khác phù hợp với nhiệm vụ được giao; được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển tài năng để phục vụ Công an nhân dân.
2. Nhà nước có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân là người dân tộc thiểu số.
Điều 36. Tiền lương, phụ cấp, nhà ở và điều kiện làm việc đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Chế độ tiền lương và phụ cấp do Chính phủ quy định; tiền lương của sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp được tính theo chức vụ, chức danh đảm nhiệm và cấp bậc hàm, phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của Công an nhân dân; phụ cấp thâm niên được tính theo mức lương hiện hưởng và thời gian phục vụ trong Công an nhân dân; được hưởng trợ cấp, phụ cấp như đối với cán bộ, công chức có cùng điều kiện làm việc và trợ cấp, phụ cấp đặc thù Công an nhân dân.
2. Sĩ quan Công an nhân dân nếu giữ nhiều chức vụ, chức danh trong cùng một thời điểm thì được hưởng quyền lợi của chức vụ, chức danh cao nhất và phụ cấp kiêm nhiệm chức vụ, chức danh theo quy định của pháp luật.
3. Sĩ quan Công an nhân dân được giữ nguyên quyền lợi của chức vụ, chức danh đang đảm nhiệm khi được giao chức vụ, chức danh thấp hơn chức vụ, chức danh đang đảm nhiệm do yêu cầu công tác hoặc thay đổi tổ chức, biên chế.
4. Sĩ quan Công an nhân dân khi có quyết định miễn nhiệm chức vụ, chức danh thì được hưởng các quyền lợi theo chức vụ, chức danh mới.
5. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được bảo đảm doanh trại và các điều kiện làm việc, sinh hoạt phù hợp với tính chất công việc, nhiệm vụ được giao.
6. Sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan chuyên môn kỹ thuật được hưởng phụ cấp nhà ở, được bảo đảm nhà ở công vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật.
Điều 37. Chăm sóc sức khoẻ đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên, học sinh Công an nhân dân và thân nhân
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên, học sinh Công an nhân dân được bảo đảm chăm sóc sức khoẻ; khi bị thương, ốm đau, tai nạn, rủi ro nghề nghiệp ở xa các cơ sở y tế Công an nhân dân hoặc mắc những bệnh mà cơ sở y tế Công an nhân dân không có khả năng điều trị thì được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế khác, được thanh toán viện phí và thực hiện các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
2. Bố, mẹ, người nuôi dưỡng hợp pháp của chồng và của vợ, vợ hoặc chồng và con dưới 18 tuổi của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên, học sinh Công an nhân dân không có chế độ bảo hiểm y tế thì được Công an nhân dân mua bảo hiểm y tế, được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế theo quy định của pháp luật.
3. Nhà nước bảo đảm kinh phí để thực hiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 38. Chế độ nghỉ ngơi của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân đang công tác được nghỉ ngơi theo quy định của Bộ luật lao động và theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
Điều 39. Chế độ, chính sách đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân nghỉ hưu, chuyển ngành, xuất ngũ, nghỉ theo chế độ bệnh binh, hy sinh, từ trần
1. Sĩ quan Công an nhân dân nghỉ hưu được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Lương hưu tính trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này và theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;
b) Nếu nghỉ hưu trước hạn tuổi phục vụ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 29 của Luật này do thay đổi tổ chức, biên chế hoặc không còn nhu cầu bố trí, sử dụng thì ngoài chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội còn được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ;
c) Sử dụng trang phục Công an nhân dân, Công an hiệu, cấp hiệu, phù hiệu trong các ngày lễ; các cuộc hội họp và cuộc giao lưu truyền thống của Công an nhân dân;
d) Được chính quyền địa phương nơi cư trú tạo điều kiện ổn định cuộc sống; trường hợp chưa có nhà ở thì được được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật;
đ) Được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật, được khám, chữa bệnh theo cấp bậc hàm, chức vụ hoặc chức danh trước khi nghỉ hưu tại cơ sở y tế Công an nhân dân theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân chuyển ngành được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Nhà nước bảo đảm đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết đối với sĩ quan, hạ sĩ quan chuyển ngành theo yêu cầu của tổ chức;
b) Bảo lưu mức lương và phụ cấp thâm niên tại thời điểm chuyển ngành trong thời gian tối thiểu là 18 tháng;
c) Các quyền lợi quy định tại điểm c khoản 1 Điều này;
d) Trường hợp do yêu cầu điều động trở lại phục vụ trong Công an nhân dân thì thời gian chuyển ngành được tính vào thời gian công tác liên tục để xét thăng cấp bậc hàm và thâm niên công tác;
đ) Khi nghỉ hưu được hưởng phụ cấp thâm niên tính theo thời gian phục vụ trong Công an nhân dân và mức lương hiện hưởng; trường hợp mức lương hiện hưởng thấp hơn mức lương tại thời điểm chuyển ngành thì được lấy mức lương tại thời điểm chuyển ngành để tính lương hưu theo quy định của pháp luật.
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan xuất ngũ được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Trợ cấp tạo việc làm và trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ;
b) Các quyền lợi quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này;
c) Trường hợp có đủ mười lăm năm phục vụ trong Công an nhân dân trở lên, khi ốm đau được khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế của Công an nhân dân theo
quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
4. Sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân nghỉ theo chế độ bệnh binh được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Chế độ về ưu đãi người có công với cách mạng và chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
b) Quyền lợi quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này.
5. Sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân có thời gian trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc công tác ở địa bàn khó khăn, ngành nghề đặc thù thì được quy đổi thời gian đó để tính hưởng quyền lợi khi thôi phục vụ trong Công an nhân dân.
6. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân đang công tác mà hy sinh thì thân nhân của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đó được hưởng các chế độ theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ.
7. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân đang công tác mà từ trần thì thân nhân của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đó được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ.
Điều 40. Chế độ, chính sách đối với sinh viên, học sinh, công nhân công an, hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ
1. Sinh viên, học sinh Công an nhân dân được hưởng sinh hoạt phí và chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật đối với hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ.
2. Công nhân công an có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về lao động và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ và thân nhân được hưởng các chế độ, chính sách quy định đối với hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ trong lực lượng vũ trang; khi hết thời hạn phục vụ được trợ cấp học nghề hoặc trợ cấp tạo việc làm và được ưu tiên thi tuyển vào các trường Công an nhân dân, được hưởng chế độ, chính sách khác theo quy định của Chính phủ.
Chương VI: KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 41. Khen thưởng
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân, công nhân công an có thành tích trong chiến đấu, công tác thì tùy theo công trạng được xét tặng thưởng huân chương, huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước và các hình thức khen thưởng khác theo quy định của pháp luật.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm thì tuỳ theo công trạng được xét khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 42. Xử lý vi phạm
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân, công nhân công an vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho sức khoẻ, tính mạng của người khác, tài sản hoặc lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân không được sử dụng Công an hiệu, cấp hiệu, phù hiệu khi bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam; nếu bị phạt tù thì đương nhiên bị tước Công an hiệu, cấp hiệu, phù hiệu khi bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi chống đối, cản trở hoạt động của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân trong thi hành công vụ thì tuỳ tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Chương VII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 43. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015.
Các quy định về phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức các chức vụ có cấp bậc hàm cao nhất là cấp tướng có hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật này được công bố.
2. Luật Công an nhân dân số 54/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Điều 44. Điều khoản chuyển tiếp
1. Việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ của Công an nhân dân thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành cho đến thời điểm luật về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ được ban hành.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động và chế độ, chính sách đối với Công an xã thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành cho đến thời điểm luật về Công an xã được ban hành.
Điều 45. Quy định chi tiết
Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2014. |
19154 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ph%C3%A1p%20l%E1%BB%87nh%20L%E1%BB%B1c%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20bi%E1%BB%83n%20Vi%E1%BB%87t%20Nam | Pháp lệnh Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam | Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;
Căn cứ Nghị quyết số 11/2007/QH12 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ khóa XII (2007 - 2011) và năm 2008;
Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.
Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng chuyên trách của Nhà nước thực hiện chức năng quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và bảo đảm việc chấp hành pháp luật của Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam hoạt động theo quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam .
Điều 2
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ.
Bộ Quốc phòng trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam .
Điều 3
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam hoạt động trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam .
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có trách nhiệm thực hiện, phối hợp với các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Quy chế phối hợp hoạt động, trách nhiệm cụ thể của các lực lượng do Chính phủ quy định.
Điều 4
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm phối hợp, cộng tác, giúp đỡ lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ; được Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật khi có yêu cầu và được hưởng các chính sách theo quy định của pháp luật.
Chương II: NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM
Điều 5
Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cần thiết, nắm vững các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam không được lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công tác của mình để gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều 6
Trong nội thủy, lãnh hải và vùng nước cảng biển của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để bảo vệ chủ quyền; giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn; bảo vệ tài nguyên, phòng, chống ô nhiễm môi trường; phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống các hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép và mua bán người, vận chuyển, mua bán trái phép hàng hoá, vũ khí, chất nổ, chất ma tuý, tiền chất và các hành vi vi phạm pháp luật khác.
Điều 7
Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán; bảo vệ tài nguyên, phòng, chống ô nhiễm môi trường; phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh chống các hành vi buôn lậu, cướp biển, cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền, vận chuyển trái phép và buôn bán người, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma tuý, tiền chất.
Điều 8
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên để góp phần giữ gìn an ninh, trật tự, hoà bình và ổn định trên các vùng biển.
Điều 9
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ thu thập, tiếp nhận thông tin, xử lý kịp thời và thông báo cho cơ quan chức năng có liên quan theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tham gia tìm kiếm, cứu nạn, khắc phục sự cố trên biển và thực hiện các hoạt động bảo vệ môi trường, tổ chức ứng phó sự cố môi trường biển.
Điều 10
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có nhiệm vụ tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân hoạt động trên biển; phối hợp với các lực lượng khác bảo vệ tài sản của Nhà nước, tính mạng, tài sản của người và phương tiện hoạt động hợp pháp trên các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam; phối hợp với các đơn vị khác của lực lượng vũ trang để bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia trên các hải đảo, vùng biển thuộc lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Điều 11
Khi phát hiện người và phương tiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có quyền kiểm tra, kiểm soát; nếu có hành vi vi phạm thì được xử lý vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật, buộc người và phương tiện đó phải chấm dứt hành vi vi phạm, rời khỏi vùng nước đang hoạt động hoặc rời khỏi vùng biển Việt Nam; bắt, giữ người và phương tiện phạm pháp quả tang, lập biên bản xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển cho cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam .
Điều 12
Trong trường hợp người và phương tiện vi phạm pháp luật không chịu tuân theo hiệu lệnh, chống đối hoặc cố tình bỏ chạy thì lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có quyền cưỡng chế, thực hiện quyền truy đuổi hoặc các quyền khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Điều 13
1. Trong tình thế cấp thiết phải đuổi bắt người và phương tiện vi phạm pháp luật, cấp cứu người bị nạn, ứng phó với sự cố môi trường nghiêm trọng thì lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được quyền huy động người, phương tiện của cá nhân, tổ chức Việt Nam, nhưng phải hoàn trả ngay khi tình thế cấp thiết chấm dứt; trường hợp có thiệt hại về tài sản thì phải bồi thường. Người được huy động làm nhiệm vụ mà bị thương hoặc bị chết thì được giải quyết theo chính sách của Nhà nước; trong trường hợp không có người, phương tiện của cá nhân, tổ chức Việt Nam để huy động hoặc đã huy động nhưng vẫn chưa giải quyết được tình thế cấp thiết, thì lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có thể đề nghị người nước ngoài, phương tiện của cá nhân, tổ chức nước ngoài hoạt động trên các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam giúp đỡ theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
2. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, người có thẩm quyền trong lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được quyền trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức Việt Nam theo quy định của pháp luật về trưng mua, trưng dụng tài sản.
Điều 14
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được trang bị và sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ, các biện pháp nghiệp vụ để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
Điều 15
Khi thi hành nhiệm vụ, lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được nổ súng trong các trường hợp sau đây:
1. Khi người vi phạm dùng vũ khí chống trả hoặc dùng biện pháp khác trực tiếp đe doạ tính mạng và an toàn phương tiện của Cảnh sát biển Việt Nam ;
2. Khi truy đuổi người và phương tiện có hành vi vi phạm nghiêm trọng, nếu không dùng vũ khí thì người và phương tiện đó có thể chạy thoát;
3. Để bảo vệ công dân khi bị người khác trực tiếp đe doạ tính mạng.
4. Để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia trong trường hợp cảnh cáo.
Trong các trường hợp được nổ súng quy định tại Điều này, cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam chỉ được bắn vào đối tượng sau khi đã ra lệnh cho họ dừng lại hoặc nổ súng cảnh cáo mà không có kết quả, trừ trường hợp cấp bách; đối với những trường hợp phức tạp, có ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền, an ninh quốc gia thì phải báo cấp có thẩm quyền quyết định.
Điều 16
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam tiến hành hoạt động điều tra tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, pháp luật về tổ chức điều tra hình sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Chương III: TỔ CHỨC CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM
Điều 17
Tổ chức và hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam do Chính phủ quy định.
Biên chế, trang bị cụ thể của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định.
Điều 18
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam bao gồm sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ, công chức quốc phòng và công nhân quốc phòng (sau đây gọi chung là cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển).
Điều 19
Việc bổ nhiệm, cách chức, giáng chức; phong, thăng, giáng và tước cấp bậc quân hàm đối với cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam được thực hiện như sau:
1. Đối với sĩ quan thực hiện theo Luật về sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam ;
2. Đối với quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ thực hiện theo Luật nghĩa vụ quân sự;
3. Đối với công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.
Điều 20
Chế độ phục vụ của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 21
Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam có cờ hiệu, phù hiệu và trang phục riêng do Chính phủ quy định.
Khi làm nhiệm vụ, tàu thuyền và các phương tiện khác của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam phải treo quốc kỳ và cờ hiệu Cảnh sát biển Việt Nam; cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển phải mặc trang phục và mang phù hiệu Cảnh sát biển Việt Nam.
Chương IV: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM
Điều 22
Nội dung quản lý nhà nước đối với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam bao gồm:
1. Ban hành, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ;
2. Tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ;
3. Tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam ;
4. Thực hiện chế độ, chính sách đối với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ;
5. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ;
6. Hợp tác quốc tế.
Điều 23
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước đối với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam .
2. Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước đối với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra và chủ trì phối hợp với bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc xây dựng, tổ chức và hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về các hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.
4. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ và tạo điều kiện để lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ.
5. Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam .
Chương V: BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG VÀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT BIỂN VIỆT NAM
Điều 24
Nhà nước xây dựng lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; có chính sách ưu tiên, tăng cường đầu tư để nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, trang bị vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ bảo đảm cho lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ.
Điều 25
1. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, chiến sĩ lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật đối với cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Nhà nước có chính sách, chế độ ưu đãi phù hợp với tính chất nhiệm vụ, phạm vi địa bàn hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam như sau:
a) Phụ cấp công tác lâu năm ở biên giới, hải đảo;
b) Phụ cấp trách nhiệm theo nghề đặc thù của cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam ;
c) Phụ cấp đi biển;
Chính phủ quy định cụ thể chế độ, chính sách ưu đãi đối với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam .
Điều 26
1. Công dân đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, sức khỏe, có năng khiếu phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ và có nguyện vọng thì có thể được tuyển chọn vào lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam;
2. Lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam được ưu tiên tuyển chọn công dân quy định tại khoản 1 Điều này là sinh viên, học sinh tốt nghiệp ở học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung học chuyên nghiệp, trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề để bổ sung vào lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.
Điều 27
Cán bộ, chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật và kiến thức cần thiết khác phù hợp với nhiệm vụ được giao; được khuyến khích và tạo điều kiện phát triển tài năng để phục vụ lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam.
Điều 28
Kinh phí tổ chức, xây dựng và hoạt động của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Chương VI: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 29
Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2008.
Pháp lệnh này thay thế Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam ngày 28 tháng 3 năm 1998.
Điều 30
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
Pháp lệnh |
19193 | https://vi.wikisource.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt%20C%C3%B4ng%20an%20nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i%20ch%E1%BB%A7%20ngh%C4%A9a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%202014 | Luật Công an nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2014 |
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật Công an nhân dân.
Chương I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về nguyên tắc tổ chức, hoạt động; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và chế độ, chính sách đối với Công an nhân dân.
Điều 2. Đối tượng áp dụng
Luật này áp dụng đối với Công an nhân dân, cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng điều ước quốc tế đó.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Bảo vệ an ninh quốc gia là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.
2. Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội.
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ là công dân Việt Nam được tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện và hoạt động trong các lĩnh vực nghiệp vụ của Công an nhân dân được phong, thăng cấp bậc hàm cấp tướng, cấp tá, cấp úy, hạ sĩ quan.
4. Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật là công dân Việt Nam , có trình độ chuyên môn kỹ thuật, hoạt động trong Công an nhân dân được phong, thăng cấp bậc hàm cấp tá, cấp úy, hạ sĩ quan.
5. Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ là công dân Việt Nam thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được phong, thăng cấp bậc hàm Thượng sĩ, Trung sĩ, Hạ sĩ, Binh nhất, Binh nhì.
6. Công nhân công an là người được tuyển dụng vào làm việc trong Công an nhân dân mà không thuộc diện được phong cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ.
Điều 4. Vị trí, cơ cấu của Công an nhân dân
Công an nhân dân là lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Công an nhân dân gồm lực lượng An ninh nhân dân, lực lượng Cảnh sát nhân dân và Công an xã.
Điều 5. Nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Công an nhân dân
1. Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý nhà nước của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Công an nhân dân được tổ chức tập trung, thống nhất và theo cấp hành chính từ trung ương đến cơ sở.
3. Hoạt động của Công an nhân dân phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; cấp dưới phục tùng cấp trên; dựa vào Nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân dân; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều 6. Ngày truyền thống của Công an nhân dân
Ngày 19 tháng 8 hằng năm là ngày truyền thống của Công an nhân dân và là ngày hội “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Điều 7. Tuyển chọn công dân vào Công an nhân dân
1. Công dân có đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ học vấn, sức khỏe, có nguyện vọng và năng khiếu phù hợp với công tác công an thì có thể được tuyển chọn vào Công an nhân dân.
2. Công an nhân dân được ưu tiên tuyển chọn sinh viên, học sinh xuất sắc tốt nghiệp ở các học viện, trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề có đủ tiêu chuẩn để đào tạo, bổ sung vào Công an nhân dân.
Điều 8. Nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân
1. Công dân thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân là thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc trong lực lượng vũ trang nhân dân. Hằng năm, Công an nhân dân được tuyển chọn công dân trong độ tuổi gọi nhập ngũ vào phục vụ trong Công an nhân dân với thời hạn là ba năm.
2. Thủ tục tuyển chọn công dân thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân được áp dụng như đối với công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự tại ngũ.
Điều 9. Chế độ phục vụ của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân và công nhân công an
1. Sĩ quan Công an nhân dân phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp; hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp hoặc chế độ nghĩa vụ; công nhân công an phục vụ theo chế độ tuyển dụng.
2. Công dân phục vụ trong Công an nhân dân xuất ngũ, chuyển ngành phải thực hiện nghĩa vụ quân sự trong ngạch dự bị theo quy định của pháp luật.
Điều 10. Xây dựng Công an nhân dân
1. Nhà nước có chính sách đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân; xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
2. Cơ quan, tổ chức và công dân có trách nhiệm tham gia xây dựng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh.
Điều 11. Giám sát hoạt động của Công an nhân dân
1. Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện giám sát hoạt động của Công an nhân dân.
2. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân thực hiện nhiệm vụ và xây dựng Công an nhân dân, giám sát việc thực hiện pháp luật về Công an nhân dân.
Điều 12. Quan hệ phối hợp giữa Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ với Công an nhân dân
1. Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Công an nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng Công an nhân dân.
2. Việc phối hợp giữa Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ với Công an nhân dân do Chính phủ quy định.
Điều 13. Trách nhiệm và chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật.
2. Nhà nước bảo vệ, giữ bí mật cho cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm có thành tích thì được khen thưởng; bị tổn hại về danh dự thì được khôi phục, bị thiệt hại về tài sản thì được đền bù; người bị thương tích, tổn hại về sức khỏe, tính mạng thì bản thân và gia đình được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
Chương II: CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 14. Chức năng của Công an nhân dân
Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Điều 15. Nhiệm vụ và quyền hạn của Công an nhân dân
1. Thu thập thông tin, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình và đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm; tham gia thẩm định, đánh giá tác động về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội đối với quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm với nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; phối hợp có hiệu quả hoạt động an ninh với hoạt động quốc phòng và đối ngoại.
2. Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
3. Hoạt động tình báo theo quy định của pháp luật.
4. Bảo vệ cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, khách quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam; bảo vệ sự kiện, mục tiêu quan trọng về chính trị, kinh tế, ngoại giao, khoa học - kỹ thuật, văn hóa, xã hội; bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, cơ quan đại diện nước ngoài, đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam; bảo vệ cá nhân nắm giữ hoặc liên quan mật thiết đến bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật.
5. Thực hiện quản lý về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ bí mật nhà nước; chủ trì thực hiện quản lý về nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam; kiểm soát nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh tại các cửa khẩu theo quy định của Chính phủ; phối hợp với Bộ đội Biên phòng, các ngành hữu quan và chính quyền địa phương trong hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở khu vực biên giới theo quy định của pháp luật.
6. Thực hiện quản lý về công tác điều tra và phòng, chống tội phạm. Chủ trì thực hiện nhiệm vụ phòng, chống khủng bố, bạo loạn và giải quyết các tình huống phức tạp về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường; tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố; khởi tố, điều tra tội phạm theo quy định của pháp luật; thực hiện công tác thống kê hình sự; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và kiến nghị biện pháp khắc phục; giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại cộng đồng theo quy định của pháp luật.
7. Thực hiện quản lý về thi hành án hình sự; quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, trại tạm giam, nhà tạm giữ; tổ chức thi hành bản án, quyết định về hình sự, biện pháp tư pháp, thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật.
8. Thực hiện quản lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quy định của pháp luật; bảo đảm an ninh, trật tự trong việc thực hiện quyết định cưỡng chế khi có yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
9. Thực hiện quản lý về cư trú, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân, con dấu, trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phòng cháy, chữa cháy theo quy định của pháp luật; cấp thẻ Căn cước công dân; đăng ký, cấp biển số phương tiện giao thông cơ giới đường bộ; thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; thực hiện quản lý về an ninh, trật tự các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ theo quy định của pháp luật.
10. Chủ trì, phối hợp quản lý và thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm; hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
11. Làm nòng cốt xây dựng thế trận an ninh nhân dân, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Hướng dẫn các cơ quan, tổ chức thực hiện công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, tài chính, tiền tệ, đầu tư, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh thông tin, an ninh xã hội, an ninh môi trường.
12. Hướng dẫn, huấn luyện nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức pháp luật đối với lực lượng bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
13. Áp dụng các biện pháp vận động quần chúng, pháp luật, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nghiệp vụ, vũ trang để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật.
14. Được sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ để tấn công, truy bắt tội phạm, ngăn chặn người đang thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật khác và để phòng vệ chính đáng theo quy định của luật.
15. Quyết định hoặc kiến nghị tạm đình chỉ, đình chỉ hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi gây nguy hại hoặc đe dọa gây nguy hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu, đồ vật khi có căn cứ xác định liên quan đến hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Huy động, trưng dụng theo quy định của pháp luật phương tiện thông tin, phương tiện giao thông, phương tiện khác và người đang sử dụng, điều khiển phương tiện đó trong trường hợp cấp bách để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội hoặc để ngăn chặn hậu quả thiệt hại cho xã hội đang xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra.
16. Thực hiện các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội khi có tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp hoặc khi có nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức ban bố tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật.
17. Nghiên cứu, ứng dụng, huy động thành tựu khoa học, công nghệ trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
18. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
19. Thực hiện hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân; là cơ quan đầu mối thực hiện dẫn độ, chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù và thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự theo quy định của pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
20. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.
Chương III: TỔ CHỨC CỦA CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 16. Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân
1. Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân gồm có:
a) Bộ Công an;
b) Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
c) Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
d) Công an xã, phường, thị trấn.
2. Căn cứ yêu cầu công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Chính phủ quy định việc thành lập Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Công an xã là lực lượng nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động và chế độ, chính sách đối với Công an xã do luật quy định.
4. Căn cứ yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định thành lập các đồn, trạm Công an và các đơn vị độc lập bố trí tại những địa bàn cần thiết; quy định việc điều động sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân đảm nhiệm các chức danh Công an xã.
Điều 17. Thẩm quyền quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức trong Công an nhân dân
1. Chính phủ quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an.
2. Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của tổng cục, bộ tư lệnh, đơn vị trực thuộc Bộ, đơn vị thuộc tổng cục, bộ tư lệnh, Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các đơn vị còn lại trong Công an nhân dân.
Điều 18. Chỉ huy trong Công an nhân dân
1. Bộ trưởng Bộ Công an là người chỉ huy cao nhất trong Công an nhân dân.
2. Chỉ huy công an cấp dưới chịu trách nhiệm trước chỉ huy công an cấp trên về tổ chức và hoạt động của đơn vị công an được giao phụ trách. Chỉ huy công an địa phương chịu trách nhiệm trước chỉ huy công an cấp trên và trước cấp ủy Đảng, chính quyền cùng cấp.
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân có chức vụ hoặc cấp bậc hàm cao hơn là cấp trên của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ có chức vụ hoặc cấp bậc hàm thấp hơn. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ có chức vụ cao hơn nhưng cấp bậc hàm ngang hoặc thấp hơn là cấp trên của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ có cấp bậc hàm ngang hoặc cao hơn nhưng chức vụ thấp hơn.
Chương IV: SĨ QUAN, HẠ SĨ QUAN, CHIẾN SĨ CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 19. Phân loại sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Phân loại theo lực lượng, trong Công an nhân dân có:
a) Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ An ninh nhân dân;
b) Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Cảnh sát nhân dân.
2. Phân loại theo tính chất hoạt động, trong Công an nhân dân có:
a) Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ;
b) Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật;
c) Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ.
Điều 20. Hệ thống cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ:
a) Sĩ quan cấp tướng có bốn bậc:
Đại tướng;
Thượng tướng;
Trung tướng;
Thiếu tướng;
b) Sĩ quan cấp tá có bốn bậc:
Đại tá;
Thượng tá;
Trung tá;
Thiếu tá;
c) Sĩ quan cấp úy có bốn bậc:
Đại úy;
Thượng úy;
Trung úy;
Thiếu úy;
d) Hạ sĩ quan có ba bậc:
Thượng sĩ;
Trung sĩ;
Hạ sĩ.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật:
a) Sĩ quan cấp tá có ba bậc:
Thượng tá;
Trung tá;
Thiếu tá;
b) Sĩ quan cấp úy có bốn bậc:
Đại úy;
Thượng úy;
Trung úy;
Thiếu úy;
c) Hạ sĩ quan có ba bậc:
Thượng sĩ;
Trung sĩ;
Hạ sĩ.
3. Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ:
a) Hạ sĩ quan có ba bậc:
Thượng sĩ;
Trung sĩ;
Hạ sĩ;
b) Chiến sĩ có hai bậc:
Binh nhất;
Binh nhì.
Điều 21. Đối tượng, điều kiện, thời hạn xét phong, thăng cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Đối tượng xét phong cấp bậc hàm:
a) Học sinh, sinh viên hưởng sinh hoạt phí tại các trường của Công an nhân dân, khi tốt nghiệp được phong cấp bậc hàm như sau:
Trung cấp: Trung sĩ;
Cao đẳng: Thượng sĩ;
Đại học: Thiếu úy;
Học sinh, sinh viên tốt nghiệp xuất sắc được phong cấp bậc hàm cao hơn một bậc;
b) Cán bộ, công chức hoặc người tốt nghiệp các học viện, trường đại học, trường cao đẳng, trường trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề được tuyển chọn vào Công an nhân dân thì căn cứ vào trình độ được đào tạo, quá trình công tác, nhiệm vụ được giao và bậc lương được xếp để phong cấp bậc hàm tương ứng;
c) Chiến sĩ nghĩa vụ được phong cấp bậc hàm khởi điểm là Binh nhì.
2. Điều kiện xét thăng cấp bậc hàm:
Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được thăng cấp bậc hàm khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hoàn thành nhiệm vụ, đủ tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, sức khỏe;
b) Khi cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất quy định đối với chức vụ, chức danh đang đảm nhiệm;
c) Đủ thời hạn xét thăng cấp bậc hàm theo quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Thời hạn xét thăng cấp bậc hàm:
a) Hạ sĩ quan, sĩ quan nghiệp vụ:
Hạ sĩ lên Trung sĩ: 1 năm;
Trung sĩ lên Thượng sĩ: 1 năm;
Thượng sĩ lên Thiếu úy: 2 năm;
Thiếu úy lên Trung úy: 2 năm;
Trung úy lên Thượng úy: 3 năm;
Thượng úy lên Đại úy: 3 năm;
Đại úy lên Thiếu tá: 4 năm;
Thiếu tá lên Trung tá: 4 năm;
Trung tá lên Thượng tá: 4 năm;
Thượng tá lên Đại tá: 4 năm;
Đại tá lên Thiếu tướng: 4 năm;
Thời hạn thăng cấp bậc hàm trong mỗi cấp tướng tối thiểu là 4 năm;
b) Thời hạn xét thăng cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật; hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ do Chính phủ quy định;
c) Thời gian sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ học tập tại trường được tính vào thời hạn xét thăng cấp bậc hàm; đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ bị giáng cấp bậc hàm, sau một năm kể từ ngày bị giáng cấp bậc hàm, nếu tiến bộ thì được xét thăng cấp bậc hàm.
4. Tuổi của sĩ quan được xét thăng cấp bậc hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng không quá 57; trường hợp cao hơn khi có yêu cầu theo quyết định của Chủ tịch nước.
Điều 22. Phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, nghiên cứu khoa học, học tập mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm thì được xét phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân lập thành tích đặc biệt xuất sắc trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm mà cấp bậc hàm hiện tại thấp hơn cấp bậc hàm cao nhất quy định đối với chức vụ, chức danh sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đang đảm nhiệm từ hai bậc trở lên thì được xét phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc, nhưng không vượt quá cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ, chức danh sĩ quan đang đảm nhiệm.
3. Chủ tịch nước quyết định việc phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc đối với cấp bậc hàm cấp tướng. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc phong, thăng cấp bậc hàm trước thời hạn và phong, thăng cấp bậc hàm vượt bậc từ Đại tá trở xuống.
Điều 23. Chức vụ của sĩ quan Công an nhân dân
1. Chức vụ cơ bản của sĩ quan gồm có:
a) Bộ trưởng Bộ Công an;
b) Tổng cục trưởng, Tư lệnh;
c) Cục trưởng;
d) Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
đ) Trưởng phòng; Trưởng Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Trung đoàn trưởng;
e) Đội trưởng; Trưởng Công an phường, thị trấn; Tiểu đoàn trưởng;
g) Đại đội trưởng;
h) Trung đội trưởng;
i) Tiểu đội trưởng.
2. Chức vụ, chức danh tương đương với chức vụ quy định tại điểm b khoản 1 Điều này do Chính phủ quy định; chức vụ, chức danh tương đương với chức vụ quy định tại các điểm c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều này do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Điều 24. Cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan Công an nhân dân
1. Cấp bậc hàm cao nhất đối với chức vụ của sĩ quan được quy định như sau:
a) Đại tướng: Bộ trưởng Bộ Công an;
b) Thượng tướng: Thứ trưởng Bộ Công an;
Số lượng Thứ trưởng Bộ Công an có cấp bậc hàm Thượng tướng không quá sáu;
c) Trung tướng:
Tổng cục trưởng; Tư lệnh, Chính ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động; Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ;
Chánh Văn phòng Bộ Công an; Chánh Thanh tra Bộ Công an; Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Công an;
Cục trưởng các cục: An ninh mạng; Cảnh sát giao thông; Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ; Đối ngoại; Pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp; Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc; Giám đốc các học viện: An ninh nhân dân, Cảnh sát nhân dân, Chính trị Công an nhân dân;
Một Phó Tổng cục trưởng là Bí thư hoặc Phó Bí thư Đảng ủy Tổng cục;
Giám đốc Công an thành phố Hà Nội; Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh;
d) Thiếu tướng:
Trợ lý Bộ trưởng Bộ Công an;
Cục trưởng các cục: Cơ yếu; Tài chính; Kế hoạch và Đầu tư;
Cục trưởng các cục về tham mưu, chính trị, nghiệp vụ thuộc Tổng cục An ninh, trừ Cục trưởng Cục Hậu cần, Chánh Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo về nhân quyền và Chánh Thanh tra Tổng cục;
Cục trưởng các cục về tham mưu, chính trị, nghiệp vụ thuộc Tổng cục Tình báo, trừ Cục trưởng Cục Hậu cần;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Cảnh sát: Tham mưu; Chính trị; Cảnh sát hình sự; Cảnh sát kinh tế; Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy; Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng; Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường; Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao; Cảnh sát truy nã tội phạm; Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội; Cảnh sát đăng ký, quản lý cư trú và dữ liệu quốc gia về dân cư; Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Chính trị Công an nhân dân: Tham mưu; Tổ chức Cán bộ; Công tác chính trị; Chính sách; Đào tạo; Công tác Đảng, công tác quần chúng;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật: Thông tin liên lạc; Quản lý trang bị kỹ thuật và trang cấp; Quản lý khoa học công nghệ và môi trường; Công nghệ thông tin; Quản lý xây dựng cơ bản và doanh trại; Y tế;
Cục trưởng các cục thuộc Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp: Chính trị; Quản lý phạm nhân, trại viên; Giáo dục cải tạo và hòa nhập cộng đồng; Theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp; Hướng dẫn tạm giam, tạm giữ;
Viện trưởng Viện Khoa học hình sự; Viện trưởng Viện Lịch sử Công an; Tổng biên tập Báo Công an nhân dân; Tổng biên tập Tạp chí Công an nhân dân; Giám đốc Trung tâm phát thanh, truyền hình, điện ảnh Công an nhân dân; Giám đốc các bệnh viện: 19-8, 199, 30-4, Y học cổ truyền;
Giám đốc Học viện Tình báo; Hiệu trưởng các trường đại học: An ninh nhân dân; Cảnh sát nhân dân; Kỹ thuật - Hậu cần Công an nhân dân; Phòng cháy và chữa cháy;
Giám đốc Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hà Nội; Giám đốc Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hồ Chí Minh;
Chức vụ cấp phó của cấp trưởng quy định tại điểm c khoản này có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng, số lượng như sau: của Tổng cục trưởng không quá năm; của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động không quá bốn; của Chính ủy Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động là một; của Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ không quá bốn; của Chánh Văn phòng Bộ Công an không quá ba; của Chánh Thanh tra Bộ Công an không quá ba; của Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Công an không quá ba; của Cục trưởng Cục An ninh mạng, Cục Cảnh sát giao thông, Cục Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Cục Đối ngoại, Cục Pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp, Cục Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc không quá hai; của Giám đốc Học viện An ninh nhân dân không quá ba; của Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân không quá ba; của Giám đốc Học viện Chính trị Công an nhân dân không quá ba; của Giám đốc Công an thành phố Hà Nội không quá ba; của Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh không quá ba;
đ) Đại tá:
Cục trưởng, Thủ trưởng đơn vị tương đương thuộc Tổng cục, Bộ Tư lệnh; Hiệu trưởng các trường bậc đại học, trường sĩ quan, trừ quy định tại điểm d khoản này;
Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trừ Giám đốc Công an thành phố Hà Nội và Giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh;
Chức vụ cấp phó của cấp trưởng quy định tại điểm d khoản này;
e) Thượng tá: Trưởng phòng; Trưởng Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Trung đoàn trưởng;
g) Trung tá: Đội trưởng; Trưởng Công an phường, thị trấn; Tiểu đoàn trưởng; Trưởng đồn Công an;
h) Thiếu tá: Đại đội trưởng; Trưởng trạm Công an;
i) Đại úy: Trung đội trưởng;
k) Thượng úy: Tiểu đội trưởng.
2. Phó Chủ nhiệm thường trực, Phó Chủ nhiệm chuyên trách Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Công an Trung ương có cấp bậc hàm cấp tướng thực hiện theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
3. Sĩ quan Công an nhân dân biệt phái là Ủy viên thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội hoặc được bổ nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng hoặc tương đương có cấp bậc hàm cao nhất là Thiếu tướng; sĩ quan Công an nhân dân biệt phái là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội hoặc được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng hoặc tương đương có cấp bậc hàm cao nhất là Trung tướng; sĩ quan Công an nhân dân biệt phái có chức vụ cao hơn được phong, thăng cấp bậc hàm cấp tướng theo quy định của cơ quan có thẩm quyền.
4. Cấp bậc hàm cao nhất là cấp tướng đối với chức vụ của sĩ quan ở đơn vị thành lập mới do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định.
Cấp bậc hàm cao nhất đối với sĩ quan còn lại là cấp tá, cấp úy do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Điều 25. Thẩm quyền phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức các chức vụ trong Công an nhân dân
1. Chủ tịch nước phong, thăng cấp bậc hàm cấp tướng đối với sĩ quan Công an nhân dân.
2. Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm các chức vụ Thứ trưởng, Tổng cục trưởng, Tư lệnh, Chính ủy Bộ Tư lệnh trong Công an nhân dân.
3. Bộ trưởng Bộ Công an phong, thăng cấp bậc hàm cấp tá; bổ nhiệm các chức vụ Phó Tổng cục trưởng, Phó Tư lệnh, Phó Chính ủy Bộ Tư lệnh, Cục trưởng, Phó Cục trưởng và các chức vụ, chức danh tương đương, Giám đốc, Phó Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Giám đốc, Phó Giám đốc Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quy định việc phong, thăng các cấp bậc hàm, bổ nhiệm các chức vụ, chức danh còn lại trong Công an nhân dân.
4. Người có thẩm quyền phong, thăng cấp bậc hàm nào thì có thẩm quyền tước, giáng cấp bậc hàm đó; mỗi lần chỉ được thăng, giáng một cấp bậc hàm, trừ trường hợp đặc biệt mới xét thăng, giáng nhiều cấp bậc hàm. Người có thẩm quyền bổ nhiệm chức vụ nào thì có thẩm quyền miễn nhiệm, cách chức, giáng chức đối với chức vụ đó.
Điều 26. Thủ tục phong, thăng cấp bậc hàm trong Công an nhân dân
1. Thủ tướng Chính phủ trình Chủ tịch nước phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng.
Việc phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng của sĩ quan Công an nhân dân biệt phái theo đề nghị của cơ quan, tổ chức nơi được cử đến biệt phái và Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Thủ tục phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm sĩ quan cấp tá, cấp úy và hạ sĩ quan, chiến sĩ do Bộ trưởng Bộ Công an quy định.
Điều 27. Điều động sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Người có thẩm quyền bổ nhiệm chức vụ nào thì có quyền điều động người giữ chức vụ đó.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân phục tùng sự điều động của cấp có thẩm quyền.
Điều 28. Biệt phái sĩ quan Công an nhân dân
1. Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, cấp có thẩm quyền quyết định biệt phái sĩ quan đến công tác tại cơ quan, tổ chức ngoài Công an nhân dân theo quy định của pháp luật.
2. Sĩ quan biệt phái được hưởng chế độ, chính sách như sĩ quan đang công tác trong Công an nhân dân. Việc phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm đối với sĩ quan biệt phái thực hiện như đối với sĩ quan đang công tác trong Công an nhân dân, trừ quy định tại khoản 3 Điều 24 và khoản 1 Điều 26 của Luật này.
3. Cơ quan, tổ chức nơi sĩ quan được biệt phái đến có trách nhiệm giao nhiệm vụ, giữ bí mật và bảo đảm điều kiện làm việc, sinh hoạt cho sĩ quan biệt phái theo quy định của pháp luật.
Điều 29. Hạn tuổi phục vụ của sĩ quan Công an nhân dân
1. Hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan Công an nhân dân quy định như sau:
a) Cấp úy: 53;
b) Thiếu tá, Trung tá: nam 55, nữ 53;
c) Thượng tá: nam 58, nữ 55;
d) Đại tá: nam 60, nữ 55;
đ) Cấp tướng: nam 60, nữ 55.
2. Trường hợp đơn vị công an có nhu cầu, sĩ quan quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này nếu có đủ phẩm chất, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe tốt và tự nguyện thì có thể được kéo dài tuổi phục vụ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an, nhưng không quá 60 đối với nam và 55 đối với nữ.
3. Sĩ quan là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, chuyên gia cao cấp, nữ sĩ quan cấp tướng có thể được kéo dài hạn tuổi phục vụ hơn 60 đối với nam và hơn 55 đối với nữ theo quy định của Chính phủ; trường hợp đặc biệt có thể kéo dài khi có yêu cầu theo quyết định của Chủ tịch nước.
4. Sĩ quan Công an nhân dân được nghỉ hưu khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; trường hợp chưa đủ điều kiện nghỉ hưu theo quy định của pháp luật mà Công an nhân dân không còn nhu cầu bố trí hoặc không chuyển ngành được hoặc sĩ quan tự nguyện xin nghỉ nếu nam sĩ quan có đủ hai mươi lăm năm, nữ sĩ quan có đủ hai mươi năm phục vụ trong Công an nhân dân thì được nghỉ hưu trước hạn tuổi quy định tại khoản 1 Điều này.
Điều 30. Nghĩa vụ, trách nhiệm của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước.
2. Nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh Công an nhân dân, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên.
3. Trung thực, dũng cảm, cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
4. Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; liên hệ chặt chẽ với Nhân dân; tận tụy phục vụ Nhân dân, kính trọng, lễ phép đối với Nhân dân.
5. Thường xuyên học tập nâng cao trình độ chính trị, pháp luật, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ; rèn luyện phẩm chất cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật và thể lực.
6. Chịu trách nhiệm trước pháp luật và cấp trên về những mệnh lệnh của mình, về việc chấp hành mệnh lệnh của cấp trên và việc thực hiện nhiệm vụ của cấp dưới thuộc quyền. Khi nhận mệnh lệnh của người chỉ huy, nếu có căn cứ cho là mệnh lệnh đó trái pháp luật thì phải báo cáo ngay với người ra mệnh lệnh; trong trường hợp vẫn phải chấp hành mệnh lệnh thì báo cáo kịp thời lên cấp trên trực tiếp của người ra mệnh lệnh và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành mệnh lệnh đó.
Điều 31. Những việc sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân không được làm
1. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Những việc trái với pháp luật, điều lệnh Công an nhân dân và những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức, viên chức không được làm.
Chương V: BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG VÀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÔNG AN NHÂN DÂN
Điều 32. Bảo đảm kinh phí và cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của Công an nhân dân
1. Nhà nước bảo đảm điều kiện về ngân sách và cơ sở vật chất cho hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và xây dựng lực lượng Công an nhân dân bao gồm: đầu tư tài chính, trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ, trang bị, thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, đất đai, trụ sở, công trình, cơ sở công nghiệp và các điều kiện vật chất kỹ thuật khác.
2. Trường hợp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, Nhà nước huy động thành tựu khoa học, công nghệ phục vụ hoạt động của Công an nhân dân bao gồm: chuyển giao công nghệ, kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; bảo đảm cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo, huấn luyện và nghiên cứu khoa học của Công an nhân dân; bảo đảm tiềm lực thông tin, cơ sở dữ liệu, tư liệu khoa học và công nghệ; bổ sung lực lượng, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực khoa học và công nghệ phục vụ hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.
3. Đối với vũ khí, công cụ hỗ trợ, trang bị, thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phục vụ cho hoạt động của Công an nhân dân mà trong nước chưa sản xuất được hoặc chưa đáp ứng đủ nhu cầu thì Bộ trưởng Bộ Công an trình Thủ tướng Chính phủ quyết định nhập khẩu theo quy định của pháp luật
4. Chính phủ quy định chi tiết khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 33. Trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ của Công an nhân dân
1. Công an nhân dân được Nhà nước trang bị vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ được giao.
2. Nhà nước có chính sách ưu tiên ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; đầu tư nghiên cứu sản xuất thiết bị, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ và công cụ hỗ trợ phục vụ công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng Công an nhân dân.
Điều 34. Trang phục, Công an hiệu, cờ hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, giấy chứng minh Công an nhân dân
Trang phục, Công an hiệu, cờ hiệu, cấp hiệu, phù hiệu, giấy chứng minh Công an nhân dân do Chính phủ quy định.
Điều 35. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, pháp luật, chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức cần thiết khác phù hợp với nhiệm vụ được giao; được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện phát triển tài năng để phục vụ Công an nhân dân.
2. Nhà nước có chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân là người dân tộc thiểu số.
Điều 36. Tiền lương, phụ cấp, nhà ở và điều kiện làm việc đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
1. Chế độ tiền lương và phụ cấp do Chính phủ quy định; tiền lương của sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp được tính theo chức vụ, chức danh đảm nhiệm và cấp bậc hàm, phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của Công an nhân dân; phụ cấp thâm niên được tính theo mức lương hiện hưởng và thời gian phục vụ trong Công an nhân dân; được hưởng trợ cấp, phụ cấp như đối với cán bộ, công chức có cùng điều kiện làm việc và trợ cấp, phụ cấp đặc thù Công an nhân dân.
2. Sĩ quan Công an nhân dân nếu giữ nhiều chức vụ, chức danh trong cùng một thời điểm thì được hưởng quyền lợi của chức vụ, chức danh cao nhất và phụ cấp kiêm nhiệm chức vụ, chức danh theo quy định của pháp luật.
3. Sĩ quan Công an nhân dân được giữ nguyên quyền lợi của chức vụ, chức danh đang đảm nhiệm khi được giao chức vụ, chức danh thấp hơn chức vụ, chức danh đang đảm nhiệm do yêu cầu công tác hoặc thay đổi tổ chức, biên chế.
4. Sĩ quan Công an nhân dân khi có quyết định miễn nhiệm chức vụ, chức danh thì được hưởng các quyền lợi theo chức vụ, chức danh mới.
5. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được bảo đảm doanh trại và các điều kiện làm việc, sinh hoạt phù hợp với tính chất công việc, nhiệm vụ được giao.
6. Sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan chuyên môn kỹ thuật được hưởng phụ cấp nhà ở, được bảo đảm nhà ở công vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật.
Điều 37. Chăm sóc sức khỏe đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên, học sinh Công an nhân dân và thân nhân
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên, học sinh Công an nhân dân được bảo đảm chăm sóc sức khỏe; khi bị thương, ốm đau, tai nạn, rủi ro nghề nghiệp ở xa các cơ sở y tế Công an nhân dân hoặc mắc những bệnh mà cơ sở y tế Công an nhân dân không có khả năng điều trị thì được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế khác, được thanh toán viện phí và thực hiện các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
2. Bố, mẹ, người nuôi dưỡng hợp pháp của chồng và của vợ, vợ hoặc chồng và con dưới 18 tuổi của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, sinh viên, học sinh Công an nhân dân không có chế độ bảo hiểm y tế thì được Công an nhân dân mua bảo hiểm y tế, được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở y tế theo quy định của pháp luật.
3. Nhà nước bảo đảm kinh phí để thực hiện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 38. Chế độ nghỉ ngơi của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân
Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân đang công tác được nghỉ ngơi theo quy định của Bộ luật lao động và theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
Điều 39. Chế độ, chính sách đối với sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân nghỉ hưu, chuyển ngành, xuất ngũ, nghỉ theo chế độ bệnh binh, hy sinh, từ trần
1. Sĩ quan Công an nhân dân nghỉ hưu được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Lương hưu tính trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này và theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;
b) Nếu nghỉ hưu trước hạn tuổi phục vụ theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 29 của Luật này do thay đổi tổ chức, biên chế hoặc không còn nhu cầu bố trí, sử dụng thì ngoài chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội còn được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ;
c) Sử dụng trang phục Công an nhân dân, Công an hiệu, cấp hiệu, phù hiệu trong các ngày lễ; các cuộc hội họp và cuộc giao lưu truyền thống của Công an nhân dân;
d) Được chính quyền địa phương nơi cư trú tạo điều kiện ổn định cuộc sống; trường hợp chưa có nhà ở thì được được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật;
đ) Được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật, được khám, chữa bệnh theo cấp bậc hàm, chức vụ hoặc chức danh trước khi nghỉ hưu tại cơ sở y tế Công an nhân dân theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân chuyển ngành được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Nhà nước bảo đảm đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết đối với sĩ quan, hạ sĩ quan chuyển ngành theo yêu cầu của tổ chức;
b) Bảo lưu mức lương và phụ cấp thâm niên tại thời điểm chuyển ngành trong thời gian tối thiểu là 18 tháng;
c) Các quyền lợi quy định tại điểm c khoản 1 Điều này;
d) Trường hợp do yêu cầu điều động trở lại phục vụ trong Công an nhân dân thì thời gian chuyển ngành được tính vào thời gian công tác liên tục để xét thăng cấp bậc hàm và thâm niên công tác;
đ) Khi nghỉ hưu được hưởng phụ cấp thâm niên tính theo thời gian phục vụ trong Công an nhân dân và mức lương hiện hưởng; trường hợp mức lương hiện hưởng thấp hơn mức lương tại thời điểm chuyển ngành thì được lấy mức lương tại thời điểm chuyển ngành để tính lương hưu theo quy định của pháp luật.
3. Sĩ quan, hạ sĩ quan xuất ngũ được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Trợ cấp tạo việc làm và trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ;
b) Các quyền lợi quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này;
c) Trường hợp có đủ mười lăm năm phục vụ trong Công an nhân dân trở lên, khi ốm đau được khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế của Công an nhân dân theo quy định của Bộ trưởng Bộ Công an.
4. Sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân nghỉ theo chế độ bệnh binh được hưởng các quyền lợi sau đây:
a) Chế độ về ưu đãi người có công với cách mạng và chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;
b) Quyền lợi quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này.
5. Sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân có thời gian trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc công tác ở địa bàn khó khăn, ngành nghề đặc thù thì được quy đổi thời gian đó để tính hưởng quyền lợi khi thôi phục vụ trong Công an nhân dân.
6. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân đang công tác mà hy sinh thì thân nhân của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đó được hưởng các chế độ theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ.
7. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân đang công tác mà từ trần thì thân nhân của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ đó được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và được hưởng trợ cấp một lần theo quy định của Chính phủ.
Điều 40. Chế độ, chính sách đối với sinh viên, học sinh, công nhân công an, hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ
1. Sinh viên, học sinh Công an nhân dân được hưởng sinh hoạt phí và chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật đối với hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ.
2. Công nhân công an có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về lao động và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ và thân nhân được hưởng các chế độ, chính sách quy định đối với hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ tại ngũ trong lực lượng vũ trang; khi hết thời hạn phục vụ được trợ cấp học nghề hoặc trợ cấp tạo việc làm và được ưu tiên thi tuyển vào các trường Công an nhân dân, được hưởng chế độ, chính sách khác theo quy định của Chính phủ.
Chương VI: KHEN THƯỞNG VÀ XỬ LÝ VI PHẠM
Điều 41. Khen thưởng
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân, công nhân công an có thành tích trong chiến đấu, công tác thì tùy theo công trạng được xét tặng thưởng huân chương, huy chương, danh hiệu vinh dự nhà nước và các hình thức khen thưởng khác theo quy định của pháp luật.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, phối hợp, cộng tác, giúp đỡ Công an nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm thì tùy theo công trạng được xét khen thưởng theo quy định của pháp luật.
Điều 42. Xử lý vi phạm
1. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân, công nhân công an vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại cho sức khỏe, tính mạng của người khác, tài sản hoặc lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân không được sử dụng Công an hiệu, cấp hiệu, phù hiệu khi bị khởi tố, tạm giữ, tạm giam; nếu bị phạt tù thì đương nhiên bị tước Công an hiệu, cấp hiệu, phù hiệu khi bản án có hiệu lực pháp luật.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi chống đối, cản trở hoạt động của sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân trong thi hành công vụ thì tùy tính chất, mức độ vi phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Chương VII: ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 43. Hiệu lực thi hành
1. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2015.
Các quy định về phong, thăng, giáng, tước cấp bậc hàm cấp tướng; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức các chức vụ có cấp bậc hàm cao nhất là cấp tướng có hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật này được công bố.
2. Luật Công an nhân dân số 54/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005 hết hiệu lực thi hành kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.
Điều 44. Điều khoản chuyển tiếp
1. Việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ của Công an nhân dân thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành cho đến thời điểm luật về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ được ban hành.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động và chế độ, chính sách đối với Công an xã thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành cho đến thời điểm luật về Công an xã được ban hành.
Điều 45. Quy định chi tiết
Chính phủ, cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết các điều, khoản được giao trong Luật.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2014.
Xem thêm
Luật Công an Nhân dân (Việt Nam) 2005
Luật pháp Việt Nam |
20048 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20%C4%91%C3%AAm | Tiếng đêm | Vườn trăng tha thướt cành in bóng;
Từng giọt tầu tiêu điểm tiếng sương,
Cỏ nép chân cây, cành rũ lá
Vài tia gió nhẹ rỡn hoa tường.
Song thưa từng mảnh sáng trăng qua,
Thức giấc tôi thầm lén bước ra,
Rón rén lướt đi như gió thoảng
Sợ làm kinh động giấc mơ hoa.
Bên gốc tôi nghe có những lời
Rù rì trong đám lá khô rơi,
Tưởng hồn thu thảo trong khuya vắng
Rủ rỉ cùng hoa nói chuyện đời
Lại thoảng tình hương ở các bông
Bay ra lan đượm khắp không trung;
Trong cơn ngây ngất say sưa ấy
Chợt động cành cây tiếng lá rung.
Tiếng gió lùa qua thức mộng chim
Phá tan hương khói giấc êm đềm
Lại thêm tiếng khánh chùa xa thẳm
Quen đến buồng tôi lúc nửa đêm.
Thất ngôn tứ tuyệt
Thơ Việt Nam |
20054 | https://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%AAm%20t%C3%A0n | Đêm tàn | Eo óc canh gà đã gáy mau
Đêm tàn đất khách, nổi xưa sau
Tình nhà khắc khoải hồn quyên oán
Nợ nước mông minh sóng bể sầu
Mộng lạc cố hương hồn chợt tỉnh
Đoái nhìn lữ xá cảnh đêm thâu
Mưa sa, gió thổi hơi sương lạnh
Phong cảnh vì ai nhuộn vẻ sầu
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20056 | https://vi.wikisource.org/wiki/L%C3%AAn%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng | Lên đường | Khoác áo lên đường lại bữa nay,
Phong trần chưa chán mặt nhau đây.
Rừng xanh đất đỏ chưa chồn gót,
Quán lạ sông xa, nắng xạm mày.
Nghĩa bạn những e khi khói lửa,
Tình đời chi quản nỗi chua cay.
Ái ân tiếng gọi ngoài xa thẳm,
Nửa gối phong sương lạnh những ngày.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20058 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%A3%20c%E1%BA%A3nh | Tả cảnh | Mai trắng bên sông mờ bóng nước
Cỏ xanh trước gió vẩn màu mây
Nhà ai sườn núi cơn mưa gội
Bãi phẳng trời tà chiếc nhạn bay
Một chiếc thuyền nan về bến nước
Hai hàng yến nhạn liệng quanh trời
Rừng thông chen chúc ngàn lau sậy
Bóng xế non đoài lữ khách ai??
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20060 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ng%E1%BA%ABu%20%C4%91%E1%BB%81%20%28V%C3%A2n%20%C4%90%C3%A0i%29 | Ngẫu đề (Vân Đài) | Chín kiếp trầm luân luỵ tự xưa
Nhân gian đầy đoạ thoả trời chưa?
Ai cười thế sự, đời mưa gió
Ai khóc nhân tình, buổi gió mưa.
Non nước khôn đo lòng bốn bể
Sắc tài thêm tủi hận ngàn xưa
Lau nhau một lũ trò con tạo
Cười gượng bao phen lại khóc hờ
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20062 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chi%E1%BB%81u%20thu%20%28V%C3%A2n%20%C4%90%C3%A0i%29 | Chiều thu (Vân Đài) | Hiu hắt chiều hôm ngọn gió thu
Vừng ô gác núi bóng thêm mờ
Ngập ngừng cánh nhạn bên trời thẳm
Thấp thoáng thuyền ngư bến nước xưa
Mù mịt bên cầu cây phủ khói
Trơ trơ sườn núi đá phôi mưa
Trên đường vô hạn người qua lại
Trông khách tha hương luống hững hờ.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20064 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BB%AB%20kh%C3%BAc | Từ khúc | I
Trời lặn non đoài
Trăng xế non đoài
Hết chiều lại tối, tối rồi mai
Ngày xuân em đứng nhìn non nước
Non nước nầy ai nỡ bỏ hoài
Trời lặn non đoài
Trăng xế non đoài
Kìa đàn chim nhạn liệng ngang trời
Cùng nhau tha rác xây làm ổ
Trông thấy chim kia lại tủi người
Trời cao đất rộng
Sau nầy em biết tỏ cùng ai...
II
Cái bóng xuân qua gió thoảng ngoài
Đời người cũng thế thế mà thôi
Giang san gánh nặng thương thân yếu
Quãng vắng đường xa bước ngậm ngùi
Nỗi lòng biết ngỏ, ngỏ cùng ai
Sông sâu cá lặn
Cánh nhạn bên trời
Ngày xanh thấm thoát xuân xanh chóng
Non nước vơi đầy có thế thôi
Thơ Việt Nam |
20066 | https://vi.wikisource.org/wiki/C%E1%BA%A3m%20hai%20gi%E1%BB%8Dt%20l%E1%BB%87 | Cảm hai giọt lệ | Thu năm nọ bến Tương sùi sụt,
Xuân năm nào lệ lụt hồ Đông,
Bắc Nam tủi nước sầu sông
Vì ai để một tấm lòng xót thương.
"Giọt lệ thu" vấn vương nỗi bạn!
"Linh phượng" về thêm cảm sầu ai!
Trăm năm giấc mộng lẻ loi
Hồn si đem gởi ra ngoài nước mây.
Tình tư kỷ cảm ngày mưa gió,
Một tấm lòng lệ rỏ, máu sa!
Bắc Nam tưới đẫm sơn hà,
Lệ tương tư ấy bao giờ ráo khô.
Xót lệ nọ lòng chưa nguôi được,
Cảm lệ kia như chuốc mối sầu!
Xuân về hoa lạnh hồn đau?
Thu sang trăng giữ riêng màu kém tươi
Giọt lệ thảm cứ rơi thánh thót,
Khiến lòng ai chua xót vì ai...
Ngùi trông châu lệ tuôn rơi,
Cảm "hai giọt lệ" bao nuôi tấc lòng!
Song thất lục bát
Thơ Việt Nam |
20068 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chi%E1%BB%81u%20qu%C3%AA | Chiều quê | Đồng vắng nông phu, đò vắng khách,
Làng chiều mây toả lướt màn sương.
Cây soi gương nước tìm dư ảnh,
Mây đọng lòng sông nhớ viễn phương.
Miếu cũ âm thầm bên cổ thụ,
Tre già thoi thóp dưới tà dương.
Ngâm nga mục tử về thôn vắng,
Vai nặng hoàng hôn mỗi bước đường.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20070 | https://vi.wikisource.org/wiki/Thuy%E1%BB%81n%20%C4%91i | Thuyền đi | Gió lên không định giờ đi
Thuyền trôi ai dễ hẹn kỳ trùng lai
Mây chờ ngừng bến xa xôi
Nhớ thương đọng lại muôn đời quên không
Thuyền đi sông nước ngại ngùng
Bến xanh xanh vẫn ngóng trông tháng ngày
Giang Lăng cách trở đâu đây
Nghe đêm vượn hót, nghe ngày chim kêu
Lục bát
Thơ Việt Nam |
20072 | https://vi.wikisource.org/wiki/Qua%20c%E1%BA%A3nh%20c%C5%A9 | Qua cảnh cũ | Nầy hồ, nầy cảnh, nầy người
Năm xưa ta cũng cùng ai hồ nầy
Anh em đoàn lũ sum vầy
Tìm hoa vãn cảnh vui ngày xuân sang
Hoa thơm cỏ quý bên đàng
Đón chào mừng khách tầm phương những người
Người vui cảnh lại càng tươi
Chim đua người nói, thuyền bơi quanh hồ
Đào đỏ thắm, liễu xanh đua
Ngẫm trong hồ hải, bấy giờ sạch không?
Cho hay là chốn bụi hồng
Máy tang thương đã xoay vòng biệt ly
Hoa xuân kia đã qua thì
Hồn xưa biết có đi về đâu đây
Nước xanh biếc khói mây bay
Hiu hiu gió thổi, hây hây cát vàng
Bơ vơ nọ chiếc thuyền nan
Ngày xưa đã vắng khóc than cũng rồi
Kìa nước ngậm chân trời xanh biếc
Thấy nước xuôi luống tiếc công danh
Hai ba năm uổng công trình
Trần gian sao sớm lọt vành thế ru!
Kìa tảng đá ngàn thu trước mặt
Anh cùng em tay dắt cùng ngồi
Ngâm thơ cổ luận chuyện đời
Vẻ tranh mây chó thợ trời khéo thay!
Kìa gió thổi lung lay nhành liễu
Chốn hoa lâm vẳng điệu đờn hay
Nào ngờ lao khách xưa nay
Hồn thiêng phảng phất cỏ cây chốn này
Nầy cây cỏ, nầy nước mây
Mây xanh nước bạc hoa bay tơi bời
Bới hoa vạch cỏ tìm người
Khóc than sự cũng đã rồi biết sao!
Nước non phải nước non nào?
Xưa sao thanh lịch giờ sao u sầu?
Lòng người chẳng đánh mà đau
Cùng anh Đ.H.B. dạo hồ Tây năm 1920.
Lục bát
Thơ Việt Nam |
20078 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%201 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 1 | Xót nỗi chồng, xót nỗi con
Nước mây xa cách mấy Thu tròn
Người đi kẻ ở càng ngao ngán
Đất rộng trời cao mấy nước non
Giấc buớm đêm Thu hồn vất vưởng
Canh gà tháng Hạ dạ chon von
Tình kia cảnh đà bao nổi
Khô héo mình ve lắm mỏi mòn. |
20079 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%202 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 2 | Mỏi mòn chi xiết nổi lo âu
Con cách chồng xa có biết đâu
Tiếc nước nỉ non hồn cuốc oán
Thương thân rên rỉ giọng quyên rầu
Đã cam nung nấu duyên vàng đá
Nỡ phụ lầm than chố lửa dầu
Bứt rứt ruột tằm khôn chắp nối
Ngẩn ngơ ngày trọn lại đêm thâu. |
20080 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%203 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 3 | Đêm thâu khóc đứng với than ngồi
Nhiệt huyết niềm riêng mấy dạo sôi
Đã nguyện trăm năm đành trọn kiếp
Thì toan một thác quách cho rồi
Khe chê phó mặc lời chênh lệch
Hơn thiệt lo gì việc khúc nôi
Hiềm cuộc thịnh suy khôn ngoảnh mặt
Xa xa chàng thấu hỡi chàng ơi! |
20081 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%204 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 4 | Chàng ơi xuôi ngược bến dòng Tương
Đầu cuối chung dòng nước thảm thương
Ngàn dặm đói no nơi đất khách
Năm canh mê tỉnh chốn phòng hương
Tang bồng chôn chặt hồn ba thước
Cung kiếm vùi sâu chí bốn phương
Nông nỗi cáo xanh ông có thấu
Những mong khi biến lại khi thường. |
20082 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%205 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 5 | Khi thường tình nghĩa trĩu hai vai
Biến lại càng thêm xót nỗi ai!
Có miệng muốn câm nên ngậm miệng
Còn tai giả điết hoa ngơ tai
Gối nghiêng nệm chích thân đành một
Dặm khách hồn quê bóng vẫn hai
Mẹ cách, con xa, chồng cách vợ
Cuộc đời ly biệt sống chi dài. |
20083 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%206 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 6 | Sống dai sự thế biết thêm cùng
Đã tủi mình riêng lại tủi chung
Mưa gió chắc chi mòn sức liễu
Tuyết sương chưa dễ nhuốm gan tùng
Lá ngăn trước ngỏ ve rền rỉ
Sương toả đầy song gió lạnh lùng
Thảm thiết chồng con nơi đất khách
Tơ lòng đòi đoạn rối lung tung. |
20084 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%207 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 7 | Lung tung tơ rối gở không thành
Văng vẳng làng xa điếm trở canh
Phất phất gió se gầy nhánh trúc
Chênh chênh trăng lọt xế bên mành
Đa mang cho lắm càng thêm bận
Đày đoạ làm chi thế cũng đành
Rắp muốn vạch trời kêu cả tiếng
Ghẹo người chi mấy hởi cao xanh? |
20085 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%208 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 8 | Cao xanh ông hỡi thấu cho không
Chút nghĩa cang thường nặng núi sông
Duyên đã lỡ làng chia cách nhạn
Nghĩa coi sống thác tợ lông hồng
Đá vàng chung giữ niềm hương lửa
Son sắt riêng than phận lưới lồng
Ai tới trời xanh nhờ nhắc chút
Mượn chim ô thước gởi tin chồng. |
20086 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%209 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 9 | Tin chồng muôn dặm thấu cho chăng
Uất ức bao nhiêu nỗi bất bằng
Dứt dậu chỉ e làm cúc héo
Pha trời còn vị đám mây giăng
Lắng tai nghe gió sầu khôn chắn
Tựa gối nhìn hoa thảm khó ngăn
Nông nỗi nin đi không nín được
Canh khuya to nhỏ với vầng trăng. |
20087 | https://vi.wikisource.org/wiki/H%E1%BB%8Da%20Khu%C3%AA%20ph%E1%BB%A5%20th%C3%A1n/K%E1%BB%B3%2010 | Họa Khuê phụ thán/Kỳ 10 | Vầng trăng chênh chếch xế đầu non
Mờ tỏ chân mây đá mấy hòn
Tranh vẻ giang san màu khói nhạt
Đường in tang hải vết sương mòn
Chiếu chăn dấu củ còn hơi hám
Chuông trống chùa xưa vẫn bính bong
Cảnh đó người đây chi xiết nỗi
Nỗi thương chồng, với nỗi thương con. |
20089 | https://vi.wikisource.org/wiki/T%E1%BA%A7u%20%C4%91i | Tầu đi | Muôn cột giăng đều giây thép lưới
Tình dài vương vấn nợ phong sương
Hồn mơ dáng núi từng cơn khói
Lòng gởi theo ga mỗi chặng đường
Chuếnh choáng toa say sầu tứ xứ
Ngang tàng bánh cuộn gió mười phương
Đôi đường ân ái song song nối
Mây gió biên thùy, mộng cố hương.
Thất ngôn bát cú
Thơ Việt Nam |
20112 | https://vi.wikisource.org/wiki/Ba%20ng%C3%A0y%20lu%C3%A2n%20l%E1%BA%A1c | Ba ngày luân lạc | Chương 1
Chương 2
Chương 3
Chương 4
Chương 5
Chương 6
Chương 7
Chương 8
Chương 9
Chương 10
Chương 11
Chương 12
Chương 13
Chương 14
Chương 15
Chương 16
Chương 17
Chương 18
Chương 19
Chương 20
Chương 21
Chương kết
Tiểu thuyết Việt Nam
Văn học Việt Nam |
20542 | https://vi.wikisource.org/wiki/Th%C6%B0%20Ch%E1%BB%A7%20t%E1%BB%8Bch%20H%E1%BB%93%20Ch%C3%AD%20Minh%20g%E1%BB%ADi%20c%C3%A1c%20h%E1%BB%8Dc%20sinh%20nh%C3%A2n%20ng%C3%A0y%20khai%20gi%E1%BA%A3ng%20%C4%91%E1%BA%A7u%20ti%C3%AAn%20%E1%BB%9F%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20n%C4%83m%201945 | Thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các học sinh nhân ngày khai giảng đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945 | Hà Nội, ngày 4 tháng 9 năm 1945
Các em học sinh,
Hôm nay là ngày khai giảng đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tôi đã tưởng tượng thấy trước mắt cái cảnh nhộn nhịp tưng bừng ở khắp các nơi. Các em đều hết thảy vui vẻ vì sau mấy tháng giời nghỉ học, sau bao nhiêu cuộc chuyển biến khác thường, các em lại được gặp thầy gặp bạn. Nhưng sung sướng hơn nữa, từ giờ phút này giở đi, các em được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam. Các em được nhận sự may mắn đó là nhờ sự hi sinh của biết bao đồng bào các em. Vậy các em nghĩ sao?
Trong năm học tới đây, các em hãy cố gắng, siêng năng học tập, nghe thầy, yêu bạn. Sau 80 năm giời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước trên hoàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em. Ngày hôm nay, nhân buổi tựu trường của các em, tôi chỉ biết chúc các em một năm đầy vui vẻ và đầy kết quả tốt đẹp.
Chào các em thân yêu
Hồ Chí Minh |
20559 | https://vi.wikisource.org/wiki/Xu%C3%A2n%20l%C3%AAn%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng | Xuân lên đường | Từ khi xuân lên đường,
Cây thùy dương héo hắt
Không ai tưới lệ thương.
Từ khi xuân lên đường,
Giải phím ngà bụi đóng
Em khoá kín phòng sương.
Từ khi xuân lên đường
Em buồn như gốc liễu
Rủ trước bến sông Hương.
Thơ Việt Nam |
20562 | https://vi.wikisource.org/wiki/Em%20bu%E1%BB%93n | Em buồn | Tơ liễu buông ngang rèm
Sương xuân rơi êm đềm
Lòng em nghe rạo rực
Tưởng lại buổi xuân... đêm.
Vắt mình trên lan can
Lòng em buồn mênh mang
Tình xuân em man mác
Hồn xuân em mơ màng.
Xuân xưa em cười luôn
Xuân nay em thật buồn
Vì người xưa vắng mặt
Để lại mảnh tình suông.
Đêm xuân pháo nổ ran
Hương nồng bay lang thang
Em buồn trông mòn mỏi
Cánh nhạn bến Hương giang.
Thơ Việt Nam |
20564 | https://vi.wikisource.org/wiki/Tr%C4%83ng%20m%C6%A1 | Trăng mơ | Một đêm mờ lạnh ánh gương phai
Suốt dải sông Hương nước thở dài...
Xào xạc sóng buồn khua bãi sậy
Bập bềnh bên mạn chiếc thuyền ai
Mây xám xây thành trên núi Bắc
Nhạc mềm chới với giữa sương êm
Trăng mờ mơ ngủ lim dim gật
Ẻo lả nằm trên ngọn trúc mềm.
Nhịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma
Biến mất vì nghe giục tiếng gà
Trăng tỉnh giấc mơ, lười biếng dậy
Động lòng lệ liễu, giọt sương sa.
Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng
Hương trăng quấn quýt hơi sương ướt
Ngân dội lời tình điệu hát xuân.
Thơ Việt Nam |
20569 | https://vi.wikisource.org/wiki/Chi%E1%BA%BFc%20kh%C4%83n%20tay | Chiếc khăn tay | Đây là công trình ngày quạnh quẽ
Đây là thơ cảm ý yêu đương
Đây là luyến ái chung san sẻ
Là mộ âm thầm những nhớ thương
Đây là hình ảnh tay mười ngón
Rung chuyển lòng ta với chỉ hồng
Đây là những tiếng hoa cười đón
Tia nắng vàng reo giữa cánh đồng
Đây là nhật ký yêu nhiều buổi
Mà tiếng chim kêu rộn gió vườn
Đây là sinh khí trong tình ái
Những dấu tinh hoa dệt bước đường
Đây cảnh đôi người đang vĩnh biệt
Mờ mờ trong khói lẫn trong mây
Đây là tiếng dội lòng tê liệt
Lúc bướm mang vàng lả tả bay
Buồn vui sau trước kết thành dây
Ký ức bao năm góp một ngày
Ta muốn đừng nghe lời kể lể
Của màu khăn lụa ở trên tay.
Thơ Việt Nam |
Subsets and Splits