id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19831126
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pedro%20Porro
|
Pedro Porro
|
Pedro Antonio Porro Sauceda (; sinh ngày 13 tháng 9 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha, hiện đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh và đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Sự nghiệp ban đầu
Porro sinh ra ở Don Benito, Badajoz, Extremadura, Tây Ban Nha. Anh đã chơi cho Gimnástico de Don Benito và Rayo Vallecano trước khi gia nhập Girona vào ngày 10 tháng 8 năm 2017. Theo báo cáo, anh đã từ chối Real Madrid, Atlético Madrid và Bayern Munich để ký hợp đồng với câu lạc bộ xứ Catalan.
Girona
Vào ngày 28 tháng 11 năm 2017, trước cả khi ra mắt đội dự bị, Porro đã có trận ra mắt đội một khi vào sân thay người ở phút cuối cho người ghi bàn Johan Mojica trong trận hòa 1-1 trên sân khách trước Levante, tại Copa del Rey mùa giải đó. Anh có trận ra mắt cho đội B 5 ngày sau đó, chơi 7 phút cuối cùng trong trận hòa 0-0 ở Segunda División B trước Ebro.
Porro ghi bàn thắng đầu tiên cho đội một vào ngày 6 tháng 5 năm 2018, ghi hai bàn trong chiến thắng 3-0 trên sân khách trước Villarreal B. Vào ngày 2 tháng 7, anh đã gia hạn hợp đồng đến năm 2022, và chơi hầu hết giai đoạn tiền mùa giải ở vị trí hậu vệ phải.
Porro có trận ra mắt La Liga vào ngày 17 tháng 8 năm 2018, đá chính ở vị trí hậu vệ phải trong trận hòa 0-0 trên sân nhà trước Real Valladolid. Ngày hôm sau, anh ký hợp đồng gia hạn thêm một năm.
Porro khẳng định mình là một cầu thủ đá chính dưới thời Eusebio Sacristán, trở thành sự lựa chọn đầu tiên thay thế Aday Benítez và thay thế Pablo Maffeo đã ra đi. Anh ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên vào ngày 31 tháng 1 năm 2019, bàn thắng duy nhất của đội trong trận thua 1-3 tại cúp trước Real Madrid.
Manchester City
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2019, Porro đã ký hợp đồng với Manchester City, với mức phí được báo cáo là 11 triệu bảng Anh. Ngay sau khi ký hợp đồng với Manchester City, Porro đã được cho mượn ngay lập tức đến Real Valladolid ở La Liga trong một mùa giải. Đội bóng này có quyền mua đứt cầu thủ, và sau khi chơi 13 trận đấu ở giải đấu, giúp Pucelanos đứng thứ 13, Real Valladolid đã quyết định không thực hiện quyền mua đứt Porro.
Sporting CP
Vào ngày 16 tháng 8 năm 2020, Porro gia nhập Sporting CP theo hợp đồng cho mượn hai năm cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2022 với tùy chọn mua đứt với giá 8,5 triệu euro (7 triệu bảng Anh). Vào ngày 24 tháng 9 năm 2020, anh có trận ra mắt cho câu lạc bộ trong chiến thắng 1-0 trên sân nhà trước Aberdeen ở vòng loại thứ ba UEFA Europa League. Sau khi đến Lisbon tại Estádio José Alvalade với một số nghi ngờ về tuổi trẻ, Porro ngay lập tức khẳng định mình là cầu thủ đá chính ở bên phải hàng thủ, ra mắt giải đấu trong chiến thắng 2-0 trên sân khách trước Paços de Ferreira. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Leões vào ngày 1 tháng 11 trong chiến thắng 4-0 trước Tondela. Vì những màn trình diễn xuất sắc của mình cho câu lạc bộ, Porro đã được vinh danh là Hậu vệ của tháng Primeira Liga trong ba tháng liên tiếp, từ tháng 11 đến tháng 1 năm 2021. Vào ngày 23 tháng 1, Porro ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng trước Braga để giúp câu lạc bộ của mình giành chức vô địch Taça da Liga. Ba ngày sau, Porro ghi bàn thắng từ ngoài vòng cấm trong chiến thắng 2-0 trên sân khách trước Boavista. Cú sút của anh sau đó đã được bình chọn là Bàn thắng của tháng của Primeira Liga. Anh đã chơi 30 trận cho nhà vô địch cuối cùng, chấm dứt hạn hán 19 năm, đồng thời được vinh danh trong Đội hình tiêu biểu của năm.
Vào đầu mùa giải tiếp theo, Porro tiếp tục thi đấu nổi bật, kiến tạo cho Nuno Santos trong trận hòa 1-1 trên sân nhà trước đối thủ cùng thành phố Porto, và ghi hai bàn thắng từ chấm phạt đền trong hai trận liên tiếp ở giải đấu, trong chiến thắng 1-0 trước Estoril vào ngày 19 tháng 9 và chiến thắng 1-0 trước Marítimo vào ngày 24 tháng 9, giúp anh giành được danh hiệu Hậu vệ xuất sắc nhất tháng của Primeira Liga trong hai tháng liên tiếp vào tháng 8 và tháng 9. Vào ngày 24 tháng 11, Porro ghi bàn thắng thứ ba vào lưới Borussia Dortmund trong chiến thắng 3-1 trên sân nhà ở trận đấu vòng bảng UEFA Champions League 2021-22, bằng cách đá bồi sau khi Gregor Kobel cản phá được quả phạt đền của Pedro Gonçalves, giúp đội nhà giành vé vào vòng 1/16 lần đầu tiên kể từ mùa giải 2008-09.
Không lâu sau đó, Porro bắt đầu gặp phải chấn thương gân kheo tái phát, khiến anh phải ngồi ngoài hai tháng của mùa giải. Anh trở lại sau chấn thương vào ngày 29 tháng 1 năm 2022, với pha kiến tạo quan trọng cho Pablo Sarabia giúp đội nhà lội ngược dòng đánh bại đối thủ cùng thành phố Benfica với tỷ số 2-1 trong trận chung kết Taça da Liga 2021-22.
Vào ngày 16 tháng 5 năm 2022, Sporting đã kích hoạt điều khoản mua đứt Porro với giá 8,5 triệu euro (7,2 triệu bảng Anh), ký hợp đồng với anh ta theo hợp đồng ba năm cố định với điều khoản mua lại được báo cáo là 20 triệu euro (17,6 triệu bảng Anh). Sau một mùa giải giúp Sporting về nhì sau đối thủ Porto, ghi 5 bàn và kiến tạo 7 bàn, anh được bầu vào Đội hình tiêu biểu của năm lần thứ hai liên tiếp.
Tottenham Hotspur
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2023, ngày cuối cùng của kỳ chuyển nhượng, câu lạc bộ Tottenham Hotspur của Premier League đã thông báo việc ký hợp đồng với Porro dưới dạng cho mượn từ Sporting với nghĩa vụ mua đứt vào mùa hè. Porro có trận ra mắt Spurs vào ngày 11 tháng 2, đá chính trong trận thua 4-1 trước Leicester City. Màn trình diễn của anh đã bị chỉ trích bởi cựu huấn luyện viên của Spurs, Tim Sherwood, người đã mô tả Porro là "tệ đến mức khó tin." Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 18 tháng 3 năm 2023 trong trận hòa 3-3 trên sân khách trước Southampton.
Sự nghiệp quốc tế
Porro có trận ra mắt đội tuyển U21 Tây Ban Nha vào ngày 29 tháng 3 năm 2019, trong trận giao hữu với Romania, mà Tây Ban Nha đã giành chiến thắng 1-0. Vào tháng 3 năm 2021, Porro được triệu tập lần đầu tiên vào đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha cho vòng bảng vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022. Anh có trận ra mắt vào ngày 28 tháng 3 năm 2021 trong chiến thắng 2-1 trước Georgia. Porro được đưa vào danh sách đội tuyển Tây Ban Nha tham dự vòng chung kết UEFA Nations League 2021 tại Ý vào tháng 10, nhưng không được ra sân.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Danh hiệu
Sporting CP
Primeira Liga: 2020–21
Taça da Liga: 2020–21, 2021–22
Tây ban nha
Á quân UEFA Nations League: 2020–21
Cá nhân
Hậu vệ xuất sắc nhất tháng của Primeira Liga: tháng 11 năm 2020 , tháng 12 năm 2020, tháng 1 năm 2021, tháng 8 năm 2021 , tháng 9 năm 2021
Bàn thắng đẹp nhất tháng tại Primeira Liga: tháng 1 năm 2021
Đội hình Primeira Liga của năm: 2020–21, 2021–22
Chú thích
Liên kết ngoài
Profile at the Tottenham Hotspur F.C. website
Sinh 1999
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
|
19831141
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Djed%20Spence
|
Djed Spence
|
Diop Tehuti Djed-Hotep Spence (sinh ngày 9 tháng 8 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh chơi ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ Genoa C.F.C ở Serie A, theo dạng cho mượn từ câu lạc bộ Tottenham Hotspur ở Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Middlesbrough
Spence ký hợp đồng với Middlesbrough vào ngày 1 tháng 7 năm 2018, sau khi từng gắn bó với học viện của Fulham. Anh có trận ra mắt cho Middlesbrough tại EFL Cup vào ngày 14 tháng 8 năm 2018, vào sân thay người trong trận đấu với Notts County tại Riverside Stadium. Spence ra mắt giải đấu cho Middlesbrough trong chiến thắng 1-0 trước Charlton Athletic vào ngày 7 tháng 12 năm 2019, và ghi bàn thắng đầu tiên ở giải đấu trong chiến thắng 1-0 trước Huddersfield Town vào ngày 26 tháng 12 năm 2019.
Vào ngày 11 tháng 1 năm 2020, Spence đã giành giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất tháng của EFL, sau khi có trận ra mắt giải đấu, bàn thắng đầu tiên và ba trận giữ sạch lưới.
Nottingham Forest (cho mượn)
Vào ngày 1 tháng 9 năm 2021, có thông báo rằng Spence sẽ tham gia Nottingham Forest theo dạng cho mượn trong phần còn lại của mùa giải. Anh đã ghi bàn thắng đầu tiên cho Forest trong chiến thắng 3-0 trước Birmingham City vào ngày 2 tháng 10. Spence đã gây ấn tượng trong các chiến thắng ở FA Cup trước các câu lạc bộ Premier League là Arsenal và Leicester City, ghi bàn thắng thứ tư trong chiến thắng 4-1 trước Leicester.
Spence đã được trao giải Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của EFL Championship cho tháng 3 năm 2022 cũng như được đề cử cho giải Bàn thắng của tháng sau cú sút xa tầm xa của anh vào lưới Queens Park Rangers mà cuối cùng anh đã được trao giải. Sau khi cũng được đề cử cho giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải Championship, Spence đã có được hat-trick giải thưởng cho tháng 3 năm 2022 khi anh giành giải Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất tháng của EFL lần thứ hai trong sự nghiệp.
Spence đã đóng vai trò quan trọng trong đội bóng giành chức vô địch của Nottingham Forest, và được góp mặt trong cả Đội hình tiêu biểu của EFL Championship và Đội hình tiêu biểu của PFA Championship.
Tottenham Hotspur
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2022, Tottenham Hotspur đã thông báo về việc ký hợp đồng với Spence trong thời hạn 5 năm, với mức phí được báo cáo là 20 triệu bảng Anh. Anh có trận ra mắt cho Tottenham vào ngày 29 tháng 8, vào sân thay người ở phút cuối trong chiến thắng 2-0 trước Nottingham Forest.
Rennes (cho mượn)
Vào ngày 31 tháng 1 năm 2023, Spence gia nhập câu lạc bộ Rennes của Ligue 1 theo dạng cho mượn đến hết mùa giải.
Leeds United (cho mượn)
Vào ngày 30 tháng 8 năm 2023, câu lạc bộ Leeds United ở EFL Championship đã thông báo về việc ký hợp đồng với Spence theo dạng cho mượn một mùa giải từ Tottenham Hotspur. Anh có trận ra mắt cho câu lạc bộ trong trận đấu EFL Championship gặp Sheffield Wednesday, vào sân thay người ở hiệp hai trong trận hòa 0-0.
Vào ngày 18 tháng 9 năm 2023, Leeds United thông báo rằng Spence đã dính chấn thương trong buổi tập luyện và sẽ phải nghỉ thi đấu 8 tuần.
Sự nghiệp quốc tế
Vào tháng 3 năm 2022, Spence lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển U21 Anh cho các trận đấu vòng loại Giải vô địch U21 châu Âu sắp tới gặp Andorra và Albania. Anh có trận ra mắt với tư cách là người thay thế trong chiến thắng 3-0 trên sân khách trước Albania vào ngày 29 tháng 3 năm 2022.
Thống kê sự nghiệp
Chú thích
Liên kết ngoài
Profile at the Tottenham Hotspur F.C. website
Nhân vật còn sống
Sinh 2000
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Leeds United F.C.
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Nottingham Forest F.C.
Cầu thủ bóng đá Middlesbrough F.C.
|
19831166
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Lak
|
Tiếng Lak
|
Tiếng Lak (лакку маз, lakːu maz) là một ngôn ngữ riêng thuộc hệ Đông Bắc Kavkaz. Đây là ngôn ngữ được sử dụng bởi khoảng 157.000 người Lak, một dân tộc sống ở cộng hòa tự trị Dagestan của Nga (là một trong sáu ngôn ngữ tiêu chuẩn hoá ở khu vực này).
Lịch sử
Vào năm 1864, nhà dân tộc học và ngôn ngữ học người Nga P. K. Uslar đã viết: "Ngữ pháp tiếng Kazikumukh hoặc như tôi đã gọi tắt bằng ngôn ngữ mẹ đẻ, ngữ pháp tiếng Lak, Lakku maz, tiếng Lak, đã được sẵn sàng".
Tiếng Lak đã trải qua nhiều thế kỉ thông qua một lượng từ mượn tiếng Ả Rập, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Ba Tư, và tiếng Nga. Khi Dagestan là một đơn vị hành chính thuộc Liên Xô và sau đó là Nga, phần lớn là mượn từ tiếng Nga (đặc biệt là từ vựng chính trị và kỹ thuật). Có một đài báo chí và phát thanh bằng ngôn ngữ này.
Theo Hiến pháp Cộng hòa Dagestan năm 1994, tiếng Lak được đặt như một ngôn ngữ nhà nước cùng với tiếng Nga và một số ngôn ngữ khác nói ở Dagestan (khoảng 20 ngôn ngữ địa phương không được viết và không có địa vị chính thức). Tiếng Lak được dùng làm công cụ giảng dạy tại các trường tiểu học và làm môn học tại các trường trung học, dạy nghề và đại học. Có một báo chí bằng ngôn ngữ này, "Ilchi".
Tiếng Lak tiêu chuẩn dựa trên phương ngữ tại thành phố Kumukh (không nhầm lẫn với dân tộc Kumyk). Ngôn ngữ này có các phương ngữ sau: Kumukh, Vitskhi, Arakul, Balkhar, Shadni, Shalib, Vikhli, Kuli, và Kaya.
Ban đầu từ vựng được cho là gần giống với tiếng Dargin và hai ngôn ngữ này thường được kết hợp trong một nhóm con Lak–Dargin của các ngôn ngữ Dagestan. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu hơn đã khiến các nhà ngôn ngữ học kết luận sự liên kết này là không đủ.
Ngữ âm
Phụ âm
Các phụ âm này do Schulze đưa ra, nhưng không phải Titus.
Phụ âm /ʡ/ do Titus đưa ra, nhưng không phải Schulze.
Âm này phiên âm là âm tắc thanh hầu (đặt tên là "âm thanh quản thanh hầu" khá mơ hồ bởi cả hai nguồn).
Theo Catford (1977) một số phương ngữ có các âm /t͡p, d͡b, t͡pʼ/.
Nguyên âm
Năm nguyên âm được trình bày là /a, e, i, o, u/. Ba nguyên âm /i, a, u/ có thể được yết hầu hóa dưới dạng /iˤ, aˤ, uˤ/, và cũng có các tha âm vị phía trước của [e, æ, œ].
Ngữ pháp
Tiếng Lak là một trong số ngôn ngữ Đông Kavkaz với sự phù ứng (agreement) động từ theo ngôi. Nhìn chung, ngôn ngữ này chỉ phân biệt giữa người nói và người không tham gia nói. Tức là, hình vị đánh dấu sự phù ứng giữa ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai tương tự nhau.
Các đại từ tự do của tiếng Lak chia thành ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai
Chữ viết
Cho đến năm 1928, ngôn ngữ này được viết bằng chữ Ả Rập. Sau đó viết bằng chữ Latinh trong mười năm, và kể từ năm 1938 là chữ Kirin.
Ban đầu bảng chữ cái tiếng Lak bằng chữ Kirin gồm có 48 chữ cái, sau đó là 54 chữ cái khi thêm các chữ kép như "тт", "пп", "чч", "хьхь", v.v.:
Bảng so sánh chữ viết
Biên soạn theo,
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lak Grammar by Wolfgang Schulze
Transliteration of Lak
Lak House – Lak culture and society site
Lak words
Ngôn ngữ tại Nga
|
19831167
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BB%87n%20con%20m%C3%A8o%20d%E1%BA%A1y%20h%E1%BA%A3i%20%C3%A2u%20bay
|
Chuyện con mèo dạy hải âu bay
|
Chuyện con mèo dạy hải âu bay (tiếng Tây Ban Nha: Historia de una gaviota y del gato que le enseñó a volar) là kiệt tác dành cho thiếu nhi của nhà văn Chile nổi tiếng Luis Sepúlveda – tác giả của cuốn Lão già mê đọc truyện tình đã được dịch ra 60 thứ tiếng và bán được 18 triệu bản khắp thế giới.
Chuyện con mèo dạy hải âu bay, xuất bản lần đầu năm 1996, cũng đã bán được 5 triệu bản khắp thế giới. Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện ấm áp, trong sáng, dễ thương về loài vật mà còn chuyển tải thông điệp về trách nhiệm với môi trường về sự sẻ chia và yêu thương cũng như ý nghĩa của những nỗ lực – “Chỉ những kẻ dám mới có thể bay”.
Nội dung
Cô hải âu Kengah bị nhấn chìm trong váng dầu – thứ chất thải nguy hiểm mà những con người xấu xa bí mật đổ ra đại dương. Với nỗ lực đầy tuyệt vọng, cô bay vào bến cảng Hamburg và rơi xuống ban công của con mèo mun, to đùng, mập ú Zorba. Trong phút cuối cuộc đời, cô sinh ra một quả trứng và con mèo mun hứa với cô sẽ thực hiện ba lời hứa chừng như không tưởng với loài mèo: không ăn quả trứng, chăm sóc cho tới khi nó nở, dạy cho con hải âu bay.
Lời hứa của một con mèo cũng là trách nhiệm của toàn bộ mèo trên bến cảng, bởi vậy bè bạn của Zorba bao gồm ngài mèo Đại Tá đầy uy tín, mèo Secretario nhanh nhảu, mèo Einstein uyên bác, mèo Bốn Biển đầy kinh nghiệm đã chung sức giúp nó hoàn thành trách nhiệm. Tuy nhiên, việc chăm sóc, dạy dỗ một con hải âu đâu phải chuyện đùa, sẽ có hàng trăm rắc rối nảy sinh và cần có những kế hoạch đầy linh hoạt được bàn bạc kỹ càng.
Khi không dạy được cho Lucky (chú hải âu) Zorba phải cùng bạn bè tìm ra trong con người, ai là người xứng đáng nhất để lũ mèo trên bến cảng phá luật (luật của mèo là cấm nói chuyện với con người vì họ có thể đẩy loài mèo vào phòng thí nghiệm) và cuối cùng họ đã chọn ra người xứng đáng. Đó là một Nhà thơ.Cuối cùng thì zorba đã hoàn thành lời hứa.
Xuất bản
Câu chuyện về một con hải âu và con mèo dạy hải âu bay, có phụ là "Tiểu thuyết dành cho giới trẻ từ 8 đến 88 tuổi", được xuất bản vào tháng 10 năm 1996 bởi Tusquets Editores ở Barcelona, Tây Ban Nha, trong tuyển tập Andanzas. Bìa và minh họa trong truyện được vẽ bởi Miles Hyman.
Chuyển thể
Tác phẩm được chuyển thể thành phim hoạt hình có tựa đề La gabbianella e il gatto và được biết đến bằng tiếng Tây Ban Nha là Chuyện về một cô hải âu (và về con mèo dạy cô ấy bay), bởi đạo diễn Enzo D' Alò, ra mắt năm 1998. Đây là bộ phim thành công nhất về mặt thương mại của đạo diễn Enzo D' Alò khi thu về hơn 12 tỷ lire, trở thành bộ phim nổi tiếng nhất của ông và là bộ phim hoạt hình Ý thành công nhất về mặt thương mại.
Ngày 1 tháng 6 năm 2018, vở kịch chuyển thể từ tác phẩm do các nữ diễn viên người Chile María Izquierdo và Elvira López đạo diễn và đóng vai chính đã được công chiếu tại Santiago, Chile và được giới thiệu như một trong những tác phẩm của Lễ hội Santiago a Mil tại Nhà hát UC.
Tham khảo
|
19831175
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ueda%20Kazuo
|
Ueda Kazuo
|
(sinh ngày 20 tháng 9 năm 1951) là nhà kinh tế học người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản kể từ ngày 9 tháng 4 năm 2023.
Tham khảo
Chính khách Nhật Bản
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1951
|
19831176
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0%20Th%E1%BB%8B%20M%E1%BB%B9%20Dung
|
Hà Thị Mỹ Dung
|
Hà Thị Mỹ Dung (sinh năm 1972) quê Hà Tĩnh, là một chính khách Việt Nam. Bà hiện là Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam.
Xuất thân và học vấn
Hà Thị Mỹ Dung, sinh năm 1972 tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Tại Tiên Điền, các dòng họ Nguyễn, họ Đặng, họ Hà, họ Trần là những dòng họ có nhiều người đỗ đạt. Những người nổi tiếng của họ Hà Tiên Điền có thể kể đến: Hà Văn Đại, Hà Văn Tấn, Hà Văn Mạo, Hà Văn Quyết...
Bà là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 2002, có bằng Tiến sĩ kinh tế và Cao cấp lý luận chính trị.
Sự nghiệp
Hà Thị Mỹ Dung là một trong số ít các cán bộ có mặt và trưởng thành tại Kiểm toán nhà nước ngay từ những ngày đầu thành lập (1994).
Bà có 14 năm giữ vị trí lãnh đạo cấp vụ tại Kiểm toán Nhà nước. Trước khi được bổ nhiệm bà là Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ Kiểm toán Nhà nước.
Tháng 4 năm 2021, bà được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn giữ chức Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước. Bà là nữ Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước đầu tiên của Kiểm toán Nhà nước.
Tại Hội nghị của Kiểm toán Nhà nước vào tháng 8-2023, bà được Kiểm toán Nhà nước giới thiệu nhân sự quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIV.
Tham khảo
Người Hà Tĩnh
Sống tại Hà Nội
Sinh năm 1972
Nhân vật còn sống
|
19831178
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/TRT%20World
|
TRT World
|
TRT World là kênh truyền hình quốc tế thuộc sở hữu của Tập đoàn Phát thanh – Truyền hình Thổ Nhĩ Kỳ. Phát sóng thử nghiệm vào ngày 18 tháng 5 năm 2015.
Tham khảo
|
19831180
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Harvey%20White
|
Harvey White
|
Harvey David White (sinh ngày 19 tháng 9 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Stevenage ở giải EFL League One.
Harvey White sinh ra ở Maidstone, Kent và gia nhập Học viện Tottenham Hotspur khi còn trẻ.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Tottenham Hotspur
White có trận ra mắt cho Tottenham trong chiến thắng 4-0 tại Europa League trước Ludogorets Razgrad vào ngày 26 tháng 11 năm 2020, vào sân thay người ở phút thứ 82. Anh có trận ra mắt chính thức cho Tottenham vào ngày 10 tháng 1 năm 2021 trong trận đấu vòng 3 FA Cup gặp Marine ở giải đấu hạng 8, kết thúc với chiến thắng 5-0. White gia nhập câu lạc bộ Portsmouth ở giải League One vào ngày 18 tháng 1 năm 2021 theo hợp đồng cho mượn đến hết mùa giải 2020–21. Bàn thắng đầu tiên của anh trong bóng đá chuyên nghiệp đến trong chiến thắng 1-0 trên sân khách trước Oxford United vào ngày 23 tháng 2 năm 2021.
White trở lại đội U21 Tottenham sau khi kết thúc thời hạn cho mượn và được HLV trưởng Antonio Conte triệu tập lên đội một trong kỳ nghỉ World Cup FIFA 2022. Anh đã chơi trong các trận giao hữu gặp OGC Nice và Motherwell và được Conte khen ngợi là "cực kỳ thông minh" sau trận đấu với Nice. White có trận ra mắt Premier League cho Tottenham trước Crystal Palace vào ngày 4 tháng 1 năm 2023, vào sân thay người ở phút thứ 86 trong chiến thắng 4-0. Anh gia nhập câu lạc bộ Derby County ở giải League One theo hợp đồng cho mượn vào ngày 31 tháng 1 năm 2023, cho đến hết mùa giải 2022–23, ra sân 15 trận trong thời gian cho mượn, trong đó 5 trận đá chính.
Stevenage
White ký hợp đồng với câu lạc bộ Stevenage ở giải League One vào tháng 9 năm 2023 với mức phí không được tiết lộ.
Sự nghiệp quốc tế
Vào tháng 5 năm 2019, White có trận ra mắt đội U18 Anh trong trận thua sau loạt sút luân lưu sau khi hòa 1-1 trong hiệp phụ với Tây Ban Nha.
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
Portsmouth
Á quân EFL Trophy: 2019–20
Chú thích
Liên kết ngoài
Sinh 2001
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Portsmouth F.C.
|
19831192
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Horikoshi%20K%C5%8Dhei
|
Horikoshi Kōhei
|
là một mangaka người Nhật Bản, trở nên nổi tiếng với bộ manga Học viện siêu anh hùng.
Tiểu sử
Học vấn
Kohei Korikoshi sinh ngày 20 tháng 11 năm 1986 tại tỉnh Aichi, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp trường trung học phổ thông Toho, Horikoshi đã nhập học vào khoa Thiết kế của Đại học Nghệ thuật Nagoya. Khi còn đi học, anh đã giành được Giải thưởng Danh dự Tezuka lần thứ 72 (nửa cuối năm 2006) cho truyện ngắn Nukegara. Anh từng là trợ lý của Yasuki Tanaka, tác giả của bộ truyện tranh Summer Time Rendering, Hitomi no Catoblepas và Kagijin.
Tác phẩm
Trước khi tốt nghiệp, Horikoshi đã debut bằng việc xuất bản truyện ngắn Tenko trong Akamaru Jump 2007 SUMMER'' (Shueisha). Tiếp theo đó one-shot "My Hero'' đã được xuất bản trong "Akamaru Jump'' WINTER 2008.
Weekly Shonen Jump đã xuất bản one-shot Omagatoki Zoo trong số thứ hai năm 2010. Aimagaktoki Zoo được chuyển thành series dài kỳ trên Weekly Shonen Jump từ số 32 năm 2010 đến số 19 năm 2011.
One-shot "Space Boy Bulge" được xuất bản trong Shonen Jump NEXT! SUMMER 2011. Dựa trên one-shot này, Senshi no Bulge được đăng dài kỳ trên tạp WSJ từ số 25 năm 2012 .
Do Senshi no Bulge kết thúc trong thời gian ngắn nên Horikoshi trở nên suy sụp tinh thần, không thể nghĩ ra ý tưởng mới, thậm chí còn nghĩ rằng mình không thể vẽ manga được nữa. Tuy nhiên, Horikoshi đã tìm ra lối thoát với My Hero, tác phẩm nổi bật nhất trong các one-shot trước đây, và bắt đầu đăng dài kỳ Học viện siêu anh hùng trên Weekly Shonen Jump số 32 (2014) và là tác phẩm thú vị nhất của anh.
Năm 2019, Horikoshi giành được Giải thưởng Harvey cho Manga hay nhất với "Học viện siêu anh hùng".
Đời tư
Khi tác phẩm đầu tay Tenko được xuất bản, ấn tượng đầu tiên của phóng viên phụ trách báo cáo về anh ấy là: "Khi tôi gặp Horikoshi tại bữa tiệc giải thưởng Tezuka, tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy anh ấy cực kỳ vui tính, không giống như những người khác". Horikoshi thừa nhận anh ấy rất dễ xúc động.
Horikoshi cực kỳ hâm mộ truyện tranh siêu anh hùng của Mỹ sau khi xem bộ phim Spider-Man (2002). Anh ấy rất thích các siêu anh hùng, góc làm việc của anh ấy được trang trí bằng rất nhiều figure siêu anh hùng như Người Nhện và Người Dơi.
Ngoài ra, Horikoshi cũng là fan của thể loại shounen manga. Tác phẩm yêu thích của anh ấy là Nhóc Maruko, Dragon Ball, One Piece, Naruto, Akira, Tekkonkinkreet, Boys on the Run. Về hội họa, Horikoshi cho rằng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ Yuyuki Nagata và cực kỳ hâm mộ mangaka Hideki Arai.
Chú thích
Sinh năm 1986
Họa sĩ truyện tranh
Nhân vật còn sống
Học viện siêu anh hùng
|
19831198
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abhayamudra
|
Abhayamudra
|
Abhayamudrā hay Ấn vô úy là một thủ ấn trong Ấn Độ giáo, Phật giáo và các tôn giáo khác tại Ấn Độ; mang ý nghĩa "không sợ hãi", ấn vô úy là biểu tượng thiêng liêng đại diện cho các sức mạnh thần thánh giúp xua tan nỗi sợ hãi, mang lại sự bảo vệ và hạnh phúc. Để bắt ấn này, tay phải cần phải giữ thẳng, lòng bàn tay hướng ra phía ngoài. Đây là một trong những thủ ấn sớm nhất được tìm thấy trong Ấn Độ giáo, Phật giáo, Kỳ Na giáo và Sikh giáo.
Vị thần Hindu Nataraja được miêu tả với hình tượng tay phải giữ ấn vô úy, ban tặng sự bảo vệ khỏi cái ác và sự thiếu hiểu biết cho những người tuân theo lẽ phải của pháp (dharma).
Ấn vô úy có lẽ đã được sử dụng trước khi Phật giáo xuất hiện, với ý nghĩa là một biểu tượng của sự thân thiện khi đến gần người xa lạ. Trong nghệ thuật Gandhāra, nó có mặt để thể hiện hành động thuyết giáo.
Thủ ấn này đã được Phật Gautama sử dụng để khuất phục một con voi đang say rượu khi bị nó tấn công do âm mưu của Devadatta (có nguồn nói là Ajātasattu), đã được thể hiện trong một số bích họa và kinh điển.
Trong Phật giáo Nguyên thủy, ấn vô úy thường được thực hiện với tay phải giơ cao ngang vai, cánh tay cong, lòng bàn tay hướng ra ngoài với các ngón tay dựng thẳng khép lại với nhau, tay trái được buông thõng khi đứng. Tại Thái Lan và Lào, thủ ấn này gắn liền với tượng Phật bước đi (, một kiểu điêu khắc tượng Phật đặc sắc tại Thái Lan). Trong Phật giáo Đại thừa, các vị Phật và Bồ tát thường kết hợp ấn vô úy với một ấn khác ở tay còn lại.
Tham khảo
Nguồn tham khảo
Liên kết ngoài
Thủ ấn
Biểu tượng Phật giáo
|
19831201
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wolfoo%20v%C3%A0%20h%C3%B2n%20%C4%91%E1%BA%A3o%20k%E1%BB%B3%20b%C3%AD
|
Wolfoo và hòn đảo kỳ bí
|
Wolfoo và hòn đảo kỳ bí là một bộ phim hoạt hình điện ảnh năm 2023 của Việt Nam được dựa trên sê-ri hoạt hình Wolfoo được ra mắt lần đầu tiên vào năm 2014. Bộ phim kéo dài khoảng 100 phút do Sconnect đầu tư và sản xuất. Phim do Phan Thị Thơ làm đạo diễn với sự tham gia sản xuất của Lê Duy Khang, Đinh Sỹ Hiếu, Kiều Hùng Cương, Trương Ngọc Linh, Nguyễn Mai Phương, Trịnh Zy San, Trương Hoàng Nhung, Ninh Thị Thúy Phượng, Lê Minh Hoàng, Lê Chí Nguyên, Vũ Minh Hiếu, Nguyễn Trà Giang, Vũ Tiến Đạt, Nguyễn Thị Hảo, Ngô Thế Mạnh, Lê Thanh Dũng của các diễn viên lồng tiếng như Sony Minh Hiếu, Đạt Phi, Như Ý... Bộ phim được khởi chiếu chính thức tại Việt Nam vào ngày 13 tháng 10 năm 2023 dành cho mọi lứa tuổi. Đây được xem là bộ phim hoạt hình thương mại đầu tiên của Việt Nam.
Sơ lược
Bộ phim xoay quanh câu chuyện của chú sói nhỏ 8 tuổi có tên Wolfoo – có tính cách vui vẻ, tốt bụng và thích được khám phá. Bên cạnh cậu là cô em gái 6 tuổi tên Lucy với tính cách tinh nghịch và hay làm nũng anh trai của mình. Bối cảnh phim được đặt khi cả hai anh em bị đưa vào một chiếc dây chuyền và đến Linh Giới – một vùng đất diệu kỳ. Khi bị dịch chuyển đến vùng đất mới, hai anh em đã bị tách lạc ra. Chính vì điều này, Wolfoo đã quyết định đi tìm em gái 6 tuổi của mình. Tuy nhiên, trên đường đi tìm em gái, chú sói nhỏ Wolfoo đã vướng cầu cuộc chiến của binh đoàn quỷ dữ do Chú quỷ Bane cai trị đảo Thần Bí đứng đầu.
Nhân vật
Wolfoo (8 tuổi): Chú sói nhỏ; sở hữu tính cách vui vẻ, tốt bụng và thích khám phá.
Lucy (6 tuổi): Là em gái của Wolfoo thường xuyên làm nũng anh trai và yêu anh trai hết mực.
Võ sư Bono: Người canh giữ dây chuyền màu nhiệm, khi chiếc dây chuyền bị lấy thì con trai ông là Bobo cũng đã mất tích. Ông là một người cọc cằn, bê tha, mê rượu nhưng rất trọng tình cảm.
Công chúa tiên tộc Ali: Cùng Bono, cô nàng đảm nhận bảo vệ dây chuyền màu nhiệm. Cô bé hoạt bát nhưng lại rất tự ti.
Hox: Nhân vật phản diện có tính hiếu thắng và lòng tự trọng cao.
Chúa quỷ Bane: Nhân vật sẵn sàng giẫm đạp lên người khác để đạt được mục đích của mình.
Bộ phim có sự tham gia lồng tiếng của Đạt Phi Media.
Sản xuất
Vào năm 2014, nhân vật Wolfoo chính thức được ra mắt tại Việt Nam với những tập phim ngắn phát trên nền tảng YouTube. Sau hơn 9 năm phát triển, sê-ri đã thu hút khoảng 4,5 tỷ lượt xem hàng tháng với 3 nút kim cương và hàng trăm nút vàng, nút bạc của YouTube. Sau đó, tác phẩm cũng đã được dịch thuật sang nhiều thứ tiếng trên thế giới như: tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Indonesia, tiếng Trung Quốc, tiếng Nhật, tiếng Hindi... Nguyên tác gốc của bộ phim cũng từng nhiều lần trở thành 1 trong 50 kênh YouTube có nhiều lượt xem nhất tại Hoa Kỳ. Theo chia sẻ của ê-kíp sản xuất, lý do có phiên bản điện ảnh sau phiên bản ngắn là do mong muốn khán giả của mình có thể xem phim tại rạp thay vì chỉ thông qua màn hình tivi hay ở điện thoại. Bộ phim do đạo diễn Phan Thị Thơ đảm nhận. Bộ phim đã mất khoảng 12 tháng để hoàn tất mọi công đoạn.
Theo chia sẻ của nhà sản xuất, "Sẽ rất tuyệt nếu những đứa trẻ được hòa mình vào nhân vật trong phim, được cùng Wolfoo buồn, vui, đi khám phá... trải qua nhiều cung bậc cảm xúc để từ đó có thể nuôi dưỡng những tâm hồn đầy màu sắc, mới mẻ và giàu tình cảm".
Đón nhận
Đánh giá
Theo nhà báo Thiên Di trên tờ VietNamNet, bộ phim đã thành công trong việc đưa vào 2 trong 12 yếu tố phát triển nhân cách và kỹ năng cho trẻ em lần lượt là Can đảm và Sáng tạo. Diễn hoạt của bộ phim được đầu tư kỹ lương, tự nhiên giữa nhân vật và môi trường. Nhà báo Thiên Di cũng ca ngợi phim đã ghi điểm nhờ vào kịch bản, diễn hoạt và hậu kỳ.
Doanh số
Sau 7 ngày kể từ khi công chiếu, bộ phim Wolfoo và hòn đảo kỳ bí đã trở thành 1 trong 3 bộ phim có doanh thu phòng vé cao nhất Việt Nam sau Đất rừng phương Nam và Quỷ ám: Tín đồ với 2 tỷ đồng, hơn 800 suất chiếu và gần 15.000 vé bán ra.
Phát hành
Bộ phim được khởi chiếu tại tất cả các rạp tại Việt Nam từ ngày 13 tháng 10 năm 2023 dành cho mọi lứa tuổi. Đây được xem là bộ phim hoạt hình điện ảnh đầu tiên phát hành với mục đích thương mại của Việt Nam.
Tham khảo
Phim Việt Nam
Phim năm 2023
Phim hoạt hình Việt Nam
Phim về gia đình
Phim giả tưởng
|
19831205
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nh%C3%A0%20cai%20tr%E1%BB%8B%20x%E1%BB%A9%20Parma
|
Danh sách nhà cai trị xứ Parma
|
Công tước xứ Parma và Piacenza (tiếng Ý: duca di Parma e Piacenza; tiếng Anh: Duke of Parma and Piacenza; ) là người cai trị Công quốc Parma và Piacenza, một quốc gia lịch sử ở miền Bắc của Bán đảo Ý, tồn tại từ năm 1545 đến 1802 và một lần nữa từ năm 1814 đến năm 1859.
Công tước xứ Parma cũng là Công tước xứ Piacenza, ngoại trừ những năm đầu cai trị của Ottavio Farnese (1549–1556), và thời kỳ diễn ra các cuộc chiến tranh Napoléon, khi cả hai được tách ra thành những chức vụ riêng biệt do hai cá nhân khác nhau nắm giữ. Công tước xứ Parma cũng thường giữ danh hiệu Công tước xứ Guastalla từ năm 1746 (khi Francis I, Hoàng đế La Mã Thần thánh chiếm đóng Công quốc Guastalla sau khi Công tước xứ Gonzaga cuối cùng qua đời không con) cho đến năm 1847 (khi lãnh thổ được nhượng lại cho Công quốc Modena), ngoại trừ dưới thời Hoàng đế Napoléon I, khi em gái của Napoléon là Pauline Bonaparte trong thời gian ngắn được phong làm Nữ công tước xứ Guastalla và Varella. Công tước cuối cùng là Robert I, bị lật đổ và mất quyền lực trong một cuộc cách mạng sau chiến thắng của Pháp và Sardinia trước Đế quốc Áo. Lãnh thổ của nó được sáp nhập vào Sardinia vào năm 1860.
Năm 1814, sau khi Hoàng đế Napoleon I thoái vị, con trai của ông là Hoàng tử Napoleon đã được nhận tước phong Công tử xứ Parma và trở thành người thừa kế của mẹ ông là Maria Ludovica của Áo, nhưng Đại hội Viên đã bác bỏ quyền thừa kế này, chỉ cho phép mẹ ông trở thành Nữ công tước xứ Parma và giữ tước vị này cho đến khi qua đời thì quyền công tước sẽ được trả lại cho Nhà Bourbon-Parma.
Công tước xứ Parma và Piacenza (1545-1731)
Nhà Farnese 1545–1731
Nhà Bourbon Tây Ban Nha (1731–1735)
Nhà Habsburg (1735–1748)
Nhà Bourbon-Parma (1748–1802)
Công tước Pháp xứ Parma (1808-1814)
Những nhân vật trong danh sách này không thực sự cai trị bất kỳ lãnh thổ nào của Parma và Piacenza, nhưng nhận tước phong danh dự duché grand-fief, cha truyền con nối, được Hoàng đế Napoléon I phong tặng vào năm 1808.
Nhà Habsburg-Lorraine (1814–1847)
Napoléon François Joseph Charles Bonaparte, con trai của Marie Louise và Hoàng đế Napoléon I, đã có lúc nằm trong hàng kế vị, nhưng ông chưa bao giờ là Công tước xứ Parma. Ông mất trước mẹ mình vào năm 1832.
Nhà Bourbon-Parma (1847–1859)
Tham khảo
Công tước xứ Parma
Công quốc Ý
Danh sách công tước
|
19831210
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakao%20Takehiko
|
Nakao Takehiko
|
(sinh ngày 5 tháng 3 năm 1956) là nhà chính trị người Nhật Bản. Trước đây, ông từng giữ chức vụ làm Thống đốc Ngân hàng Phát triển Châu Á từ ngày 28 tháng 4 năm 2013 đến ngày 16 tháng 1 năm 2020.
Tham khảo
Sinh năm 1956
|
19831215
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%89ric%20Vuillard
|
Éric Vuillard
|
Éric Vuillard (sinh ngày 4 tháng 5 năm 1968) là nhà văn và nhà làm phim người Pháp. Ông sinh ra tại Lyon và hiện sống tại Rennes, Pháp. Sách của ông đạt nhiều giải thưởng, trong đó có giải danh giá nhất của văn học Pháp là giải Goncourt.
Tác phẩm
Truyện và tiểu thuyết
Le chasseur (1999)
Bois vert (2002)
Tohu (2005)
Conquistadors (2009)
La bataille d'Occident (2012)
Congo (2012)
Tristesse de la terre: une histoire de Buffalo Bill Cody (2014)
14 juillet (2016)
L'ordre du jour (Chương trình nghị sự, 2017)
La guerre des pauvres (2019)
Une sortie honorable (2021)
Phim
La vie nouvelle (biên kịch, 2003)
Mateo Falcone (biên kịch, đạo diễn, 2008)
Giải thưởng
Khuyến khích đặc biệt của hội đồng giám khảo Grand prix littéraire du Web 2009 (Conquistadors)
Prix Franz Hessel 2012 (Congo)
Prix Valery-Larbaud 2013 (Congo)
Lọt vào chung khảo giải Femina 2014 (Tristesse de la terre)
Prix Joseph-Kessel 2015 (Tristesse de la terre)
Prix Alexandre-Vialatte 2017
Giải Goncourt 2017 (L’Ordre du Jour)
Lọt vào chung khảo Albertine Prize 2019 (L’Ordre du Jour)
Lọt vào chung khảo giải Booker Quốc tế 2021 (La guerre des pauvres, bản dịch The War of the Poor của Mark Polizzotti)
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1968
Tiểu thuyết gia Pháp
Nhà văn Pháp
Nhà biên kịch phim Pháp
|
19831222
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Clinton%20D.%20Burdick
|
Clinton D. Burdick
|
Clinton DeWitt Burdick (26 tháng 7 năm 1924 – 17 tháng 2 năm 2013) là một phi công người Mỹ thuộc Liên đoàn Chiến đấu số 356 trong Thế chiến II. Ông là con trai của phi công Howard Burdick, người được công nhận với 8 chiến công trên không.
Đầu đời
Burdick sinh ngày 26 tháng 7 năm 1924 tại Brooklyn.
Binh nghiệp
Ông chịu ảnh hưởng từ cha mình nên đăng ký vào Chương trình Học viên Sĩ quan Hàng không của Không lực Lục quân Hoa Kỳ, ông tham gia vào ngày 21 tháng 10 năm 1942. Ông được huấn luyện cơ bản ở Fort Worth, Texas, tại đây ông điều khiển chiếc BT-13 và tiếp tục huấn luyện nâng cao, ông được huấn luyện trên chiếc AT-6. Vào ngày 12 tháng 3 năm 1944, Burdick được sắc phong hàm thiếu úy và được trao phù hiệu phi công tại Căn cứ Không quân Foster ở Texas. Sau khi tốt nghiệp, ông theo học trường bắn pháo trên không trên đảo Matagorda, tại đây ông điều khiển chiếc P-40 Warhawk.
Thế chiến II
Vào tháng 9 năm 1944, ông được phân công vào Phi đoàn Chiến đấu số 361, Liên đoàn Chiến đấu số 356 tại Không quân Hoàng gia Martlesham Heath ở Anh, ông thực hiện các nhiệm vụ tại chiến trường châu Âu trong Thế chiến II.
Khi điều khiển chiếc P-47 Thunderbolts, Burdick thực hiện nhiệm vụ chiến đấu đầu tiên vào ngày 6 tháng 11 năm 1944, và trong cùng tháng này, Liên đoàn Chiến đấu số 356 đổi thành chiếc P-51 Mustang. Khi điều khiển chiếc P-51, ông lập chiến công trên không đầu tiên vào ngày 5 tháng 12, khi bắn hạ một chiếc Focke-Wulf Fw 190 và làm hư hại một chiếc Fw 190 khác ở phía đông bắc Berlin. Vào ngày 14 tháng 1 năm 1945, những chiếc P-51 của Liên đoàn số 356 đụng độ với 15 đến 20 chiếc Fw 190, phía tây nam Hồ Dümmer. Trong trận không chiến, Burdick đã bắn hạ hai chiếc Fw 190 và làm hư hại hai chiếc máy bay khác.
Burdick trở thành phi công ách vào ngày 20 tháng 2, khi ông bắn hạ ba chiếc Fi 156 (trong đó một chiếc là chiến công chung) trên bầu trời Bayreuth, đây cũng là chiến công cuối cùng của ông trong chiến tranh. Điều này khiến Burdick và Howard trở thành cặp cha con duy nhất được trao huy hiệu phi công ách. Burdick thực hiện nhiệm vụ chiến đấu cuối cùng vào ngày 20 tháng 2.
Trong Thế chiến II, Burdick được công nhận là đã bắn phá hủy 5,5 máy bay quân địch trong trận không chiến cộng với 3 chiếc bị hư hại, 1 chiếc bị phá hủy chung và 1 chiếc bị phá hủy trên mặt đất, khi thực hiện 53 nhiệm vụ chiến đấu trong chiến tranh. Trong lúc ở Liên đoàn số 356, ông điều khiển chiếc P-51D mang tên "DoDo". Burdick là một trong năm phi công ách duy nhất trong Liên đoàn số 356.
Đời tư
Burdick và vợ Connie có một con trai và một vài người cháu.
Sau khi Thế chiến II kết thúc, Burdick giải ngũ năm 1946. Ông theo học tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), ông tốt nghiệp với bằng Cử nhân kỹ thuật hàng không năm 1950. Năm 1952, ông tốt nghiệp từ MIT với bằng Thạc sĩ về kỹ thuật hàng không. Ở tuổi 25, cha mẹ Burdick ly hôn và cha ông chuyển đến California rồi tái hôn. Năm 1963, ông chuyển đến cư trú ở Los Angeles và cuối cùng hai cha con hòa thuận với nhau. Burdick làm việc trong ngành hàng không và công nghiệp điện tử cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1989.
Ông qua đời vào ngày 17 tháng 2 năm 2013, ở tuổi 88.
Thành tích
Tất cả thông tin về máy bay quân địch bị hư hại và phá hủy từ Stars and Bars.
Huy chương
Huy chương bao gồm:
Huy chương Đơn vị Tổng thống
Huy chương vàng Quốc hội (2015)
Chú thích
Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
Sĩ quan Không lực Lục quân Hoa Kỳ
Cựu sinh viên Viện Công nghệ Massachusetts
|
19831227
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Howard%20Burdick
|
Howard Burdick
|
Howard Burdick (12 tháng 12 năm 1891—20 tháng 1 năm 1975) là một phi công người Mỹ trong Thế chiến I được công nhận với 8 chiến thắng trên không. Ông và con trai Clinton D. Burdick, là cặp cha con phi công ách duy nhất được biết đến.
Chú thích
Đọc thêm
Over the Front: A Complete Record of the Fighter Aces and Units of the United States and French Air Services, 1914-1918 (1992). Norman L. R. Franks, Frank W. Bailey. Grub Street. , .
American Aces of World War I. Norman Franks, Harry Dempsey. Osprey Publishing, 2001. , .
Liên kết ngoài
Harold Burdick at the aerodrome forum
|
19831229
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Akimoto%20Katsuhiro
|
Akimoto Katsuhiro
|
(sinh ngày 2 tháng 2 năm 1956) là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thị trưởng thành phố Sapporo kể từ ngày 2 tháng 5 năm 2015.
Tham khảo
Sinh năm 1956
|
19831230
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Homo%20Deus%3A%20L%C6%B0%E1%BB%A3c%20s%E1%BB%AD%20t%C6%B0%C6%A1ng%20lai
|
Homo Deus: Lược sử tương lai
|
Homo Deus: Lược sử tương lai (tiếng Do Thái: ההיסטוריה של המחר, tiếng Anh: Homo Deus: A Brief History of Tomorrow) là một cuốn sách được viết bởi tác giả người Israel Yuval Noah Harari, giáo sư tại Đại học Do Thái ở Jerusalem. Cuốn sách được xuất bản lần đầu bằng tiếng Do Thái vào năm 2015 bởi Nhà xuất bản Dvir; được dịch sang tiếng Anh và xuất bản tại Vương quốc Anh vào tháng 9 năm 2016 và tại Mỹ vào tháng 2 năm 2017.
Tương tự cuốn sách trước đó, Sapiens: Lược sử loài người, Harari kể lại tiến trình lịch sử loài người thông qua mô tả các sự kiện và trải nghiệm của cá nhân con người, cùng với các vấn đề đạo đức liên quan đến cuộc khảo sát lịch sử của ông. Tuy nhiên, Homo Deus (từ tiếng Latin "Homo" có nghĩa là con người và "Deus" có nghĩa là Chúa) đề cập nhiều hơn đến những khả năng mà con người có được (Homo sapiens) trong suốt quá trình tồn tại và quá trình tiến hóa với tư cách là loài thống trị trên thế giới. Cuốn sách mô tả những khả năng và thành tựu hiện tại của nhân loại cũng như nỗ lực vẽ nên một bức tranh về tương lai. Nhiều vấn đề triết học được thảo luận như chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa xuyên nhân loại, và cái chết.
Tóm tắt
Cuốn sách đặt ra mục tiêu xem xét các khả năng về tương lai của Homo sapiens. Tác giả đặt tiền đề rằng trong thế kỷ 21, nhân loại có thể sẽ thực hiện một nỗ lực đáng kể để đạt được hạnh phúc, sự bất tử và sức mạnh giống như Chúa. Xuyên suốt cuốn sách, Harari công khai suy đoán nhiều cách khác nhau để tham vọng này có thể được thực hiện trong tương lai dựa trên quá khứ và hiện tại.
Phần 1: Homo sapiens chinh phục thế giới
Phần đầu tiên của cuốn sách khám phá mối quan hệ giữa con người và các loài động vật khác, điều gì đã dẫn đến sự thống trị của loài trước đối với loài sau.
Phần 2: Homo sapiens mang lại ý nghĩa cho thế giới
Kể từ cuộc cách mạng ngôn ngữ khoảng 70.000 năm trước, con người đã sống trong một "thực thể liên chủ quan", chẳng hạn như các quốc gia, biên giới, tôn giáo, tiền bạc và công ty, tất cả đều được tạo ra để cho phép hợp tác linh hoạt, quy mô lớn giữa các cá nhân khác nhau. Con người bị tách biệt khỏi các loài động vật khác bởi khả năng tin vào những cấu trúc liên chủ thể này, vốn chỉ tồn tại trong tâm trí con người và được tiếp thêm sức mạnh thông qua niềm tin tập thể.
Khả năng to lớn của con người trong việc mang lại ý nghĩa cho hành động và suy nghĩ của mình là điều đã mang lại nhiều thành tựu cho loài người.
Harari cho rằng chủ nghĩa nhân văn là một hình thức tôn giáo tôn thờ loài người thay vì thần thánh. Nó đặt loài người và những ham muốn của nó lên hàng đầu trên thế giới, trong đó con người được coi là sinh vật thống trị. Những người theo chủ nghĩa nhân văn tin rằng đạo đức và giá trị bắt nguồn từ bên trong mỗi cá nhân, chứ không phải từ nguồn bên ngoài. Trong thế kỷ 21, Harari tin rằng chủ nghĩa nhân văn có thể thúc đẩy con người tìm kiếm sự bất tử, hạnh phúc và quyền lực.
Phần 3: Homo sapiens mất kiểm soát
Sự phát triển công nghệ đã đe dọa khả năng liên tục của con người trong việc mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ; Harari gợi ý khả năng thay thế loài người bằng siêu nhân, hay "homo deus" (người thần thánh) được ban tặng những khả năng như cuộc sống vĩnh cửu .
Chương cuối gợi ý khả năng con người là thuật toán và do đó, Homo sapiens có thể không chiếm ưu thế trong một vũ trụ nơi dữ liệu lớn trở thành mô hình. Khi con người hấp thụ nhiều dữ liệu hơn, họ sẽ sử dụng nhiều thuật toán hơn và xử lý dữ liệu hiệu quả hơn, điều này mang lại cho con người những cảm xúc sâu sắc hơn và khả năng trí tuệ vượt trội. Tuy nhiên, dữ liệu ngày càng tăng nhanh chóng cuối cùng có thể tiêu thụ con người theo nghĩa là không còn gì ban đầu tạo nên con người chúng ta và khiến con người trở nên lỗi thời.
Cuốn sách kết thúc bằng câu hỏi sau dành cho người đọc: "Điều gì sẽ xảy ra với xã hội, chính trị và đời sống hằng ngày khi các thuật toán phi ý thức nhưng trí tuệ cao biết ta rõ hơn ta biết chính mình?"
Giải thưởng và vinh danh
Tạp chí Time đã liệt kê Homo Deus là một trong10 cuốn sách phi hư cấu hay nhất năm 2017.
Wellcome đưa Homo Deus vào danh sách sơ khảo cho Giải thưởng Sách năm 2017 của họ.
Đón nhận
Homo Deus đã được điểm sách và thảo luận trên The New York Times, The Guardian, The Economist, The New Yorker, NPR, Financial Times, và Times Higher Education.
Trang web tổng hợp đánh giá Book Marks báo cáo rằng 43% nhà phê bình dành cho cuốn sách một bài đánh giá "tuyệt vời", trong khi những nhà phê bình còn lại bày tỏ ấn tượng "tích cực" (29%) hoặc "hỗn hợp" (29%), dựa trên trên một mẫu gồm bảy đánh giá.
Bài hát "Homo Deus" của Steve Aoki trong album Neon Future IV được đặt theo tên cuốn sách và có phần tường thuật của Harari về cuốn sách nói.
Tham khảo
|
19831232
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8Bch%20Kingfisher
|
Chiến dịch Kingfisher
|
Chiến dịch Kingfisher là một chiến dịch quân sự của Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (TQLC) trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch diễn ra ở phía tây của "Quảng trường Leatherneck", gần Căn cứ Cồn Tiên, và kéo dài từ ngày 16 tháng 7 đến ngày 31 tháng 10 năm 1967.
Bối cảnh
Sau khi kết thúc Chiến dịch Buffalo và Chiến dịch Hickory II, Lực lượng Viễn chinh Thủy quân lục chiến 3 (III MAF) phát động Chiến dịch Kingfisher trên cùng khu vực với cùng mục tiêu với các chiến dịch trước, đó là ngăn chặn sự xâm nhập của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) vào phía đông tỉnh Quảng Trị.
Diễn biến
16–27 tháng 7
Giai đoạn này chỉ có một vài tiếp xúc nhỏ với QĐNDVN.
28–30 tháng 7
Tiểu đoàn TQLC 2/9, với sự hỗ trợ của một trung đội gồm 5 chiếc M-48, 3 chiếc M50 Ontos và 3 chiếc LVTE, di chuyển về phía bắc dọc theo Tỉnh lộ 606 để thực hiện một cuộc tấn công phá hoại vào Khu phi quân sự vĩ tuyến 17 (DMZ). Đơn vị không liên lạc được với QĐNDVN và thiết lập lực lượng phòng thủ ban đêm ở vị trí gần sông Bến Hải. Sáng hôm sau, khi lực lượng đang quay về theo lộ trình cũ thì một quả mìn được kích nổ làm 5 lính thủy đánh bộ bị thương. Khi tiếp tục đi sâu hơn, quả mìn thứ hai được kích nổ. QĐNDVN sau đó phát động nổ súng bằng vũ khí nhỏ và súng cối, và tấn công các xe bọc thép bằng tên lửa RPG-2. QĐNDVN cố gắng chia nhỏ và đấu súng với tiểu đoàn, và đồng thời chặn tiếp viện trên không. Đoàn xe sau đó rút lui. Chỉ đến khi bom napalm được triển khai, đoàn xe của TQLC mới hoàn toàn thoát khỏi khu vực. Các đại đội TQLC bị cô lập thiết lập các vị trí phòng thủ ban đêm và cuối cùng được Tiểu đoàn TQLC 3/4 giải vây vào sáng ngày 30 tháng 7. TQLC có 23 người chết và 251 người bị thương, trong khi TQLC thống kê được QĐNDVN có 32 người chết và 175 người khác được cho là đã thiệt mạng.
4–14 tháng 9
Sáng ngày 4 tháng 9, Tiểu đoàn 3/4 giao chiến với lực lượng QĐNDVN cách Cồn Thiên 1,5 km về phía nam, kẹp quân miền Bắc giữa hai Đại đội TQLC. TQLC tuyên bố rằng QĐNDVN có 38 người chết và 1 người bị bắt, trong khi TQLC có 6 người chết và 47 người bị thương.
Ngày 7 tháng 9, Đơn vị 26/3, với sự hỗ trợ của M-48, đã chạm trán với lực lượng Bắc Việt cách Cồn Thiên 4,8 km về phía nam. QĐNDVN được cho là có 51 người thiệt mạng, trong khi TQLC có 14 người chết.
Tối ngày 10 tháng 9, Đơn vị 3/26 giao chiến với Trung đoàn 812 của QĐNDVN cách Cồn Thiên 6 km về phía Tây Nam. Một số binh sĩ cộng sản tấn công được cho là đã đội mũ bảo hiểm USMC và mặc áo khoác chống đạn, và họ được hỗ trợ tốt bởi súng cối và tên lửa 140mm. Một khẩu RPG đã tiêu diệt một chiếc xe tăng phun lửa M67, nhưng QĐNDVN không thể xuyên thủng phòng tuyến của TQLC và pháo binh Hoa Kỳ bao quanh TQLC buộc quân miền Bắc phải rút lui trước 20:30. Sáng hôm sau, TQLC tuyên bố rằng 140 thi thể của QĐNDVN được tìm thấy xung quanh phòng tuyến của Hoa Kỳ, trong khi họ có 34 người chết và 192 người bị thương.
Sáng ngày 13 tháng 9, một Đại đội QĐNDVN tấn công khu vực đông bắc căn cứ Cồn Thiên, nhưng không thể chọc thủng được căn cứ và lại chịu hỏa lực pháo binh và vũ khí nhỏ của TQLC nên buộc phải rút lui.
21 tháng 9
Ngày 21 tháng 9, các Đại đội TQLC E, F & G, 2/4 tiến hành một cuộc càn quét lớn về phía đông Cồn Thiên ngay dưới Đường Dấu. Khi các đơn vị tiến qua hàng rào, các đại đội phải hứng chịu hỏa lực của lính bắn tỉa, súng cối và sau đó là pháo hạng nặng. Đại đội sau đó đã rơi thẳng vào một cuộc phục kích theo kiểu chong chóng. Các cuộc giao tranh cận chiến tiếp diễn cả ngày, kết thúc khi màn đêm buông xuống. TQLC có 16 người chết và 118 người bị thương, trong khi tuyên bố QĐNDVN ước tính có 39 người chết. Khi trận chiến kết thúc, TQLC để lại 15 người chết trên chiến trường, và vào ngày 10 tháng 10, TQLC quay trở lại để đưa các xác chết về. LCPL Jedh Colby Barker được truy tặng Huân chương Danh dự vì hành động của anh ta trong trận chiến này. TQLC không thể tìm thấy thi thể ở địa điểm này trong ba tuần.
14 tháng 10
Lúc 01:25 ngày 14 tháng 10, pháo binh của QLVNCH đánh vào vị trí của Tiểu đoàn 2, Trung đoàn TQLC số 4 xung quanh Cầu Washout, giữa cứ điểm Charlie 2 (C-2) và Căn cứ Chiến đấu Cồn Thiên. Một LP ban đêm đưa tin rằng một đơn vị lớn của QLVNCH (2 đại đội) đang di chuyển qua vị trí của họ về phía cây cầu. Lính bắn tỉa của TQLC sử dụng Starlight Scopes nhìn thấy quân miền Bắc đang tập trung chuẩn bị tấn công ở vị trí của Đại đội H. Xe tăng của TQLC nổ súng trước với đạn tổ ong, súng máy buộc QĐNDVN tấn công sớm hơn. QĐNDVN không xuyên thủng được phòng tuyến của công ty và rút lui.
Lúc 02:30, QĐNDVN phát động tấn công Đại đội G, mở đầu bằng việc phá hủy 2 vị trí súng máy bằng RPG. Quân cộng sản xuyên qua vòng vây và tràn vào sở chỉ huy Đại đội (CP), giết chết Đại đội trưởng Đại úy Jack W. Phillips, người quan sát tiền phương và 3 trung đội trưởng; những thiếu úy trẻ này vừa mới đến chiến trường. Đại úy James W McCarter được lệnh nắm quyền chỉ huy Đại đội, nhưng anh ta đã bị hỏa lực của QĐNDVN giết chết trước khi đến được Bộ chỉ huy. Đại đội F được lệnh hỗ trợ Đại đội G càn quét khu vực và đánh đuổi quân Bắc Việt ra ngoài. TQLC có sự hỗ trợ của trực thăng AC-47 Spooky. Cuối cùng QĐNDVN buộc phải rút lui lúc 04:30. TQLC có 21 người chết và 23 người bị thương. SGT Paul H. Foster được truy tặng Huân chương Danh dự vì những hành động của anh ấy trong trận chiến. QĐNDVN được cho là có 24 người thiệt mạng.
25–27 tháng 10
Ngày 25 tháng 10, Tiểu đoàn TQLC 2/4 bắt đầu cuộc càn quét về phía bắc dọc theo Đường 561. Dù không có chạm trán đối phương, nhưng tiến độ bị chậm lại do cây cối rậm rạp và đơn vị đã thiết lập một vị trí ban đêm. Đêm đó, rocket của QĐNDVN đánh trúng vị trí của tiểu đoàn, giết chết Sĩ quan Điều hành, Thiếu tá John Lawendowski và làm bị thương sĩ quan chỉ huy Lt.Col. James Hammond. Hai người khác trong nhóm chỉ huy đã được sơ tán bằng trực thăng. Sĩ quan tác chiến trung đoàn, Trung tá John C. Studt được điều động đến để nắm quyền chỉ huy Tiểu đoàn 2/4.
Ngày 26 tháng 10, Tiểu đoàn TQLC 2/4, một phần nhỏ của Đại đội F ở lại vị trí ban đêm để bảo vệ kho đạn đã di chuyển về phía bắc và bảo đảm mục tiêu vào lúc 13 giờ. Tiểu đoàn sau đó bị hỏa lực súng cối và vũ khí nhỏ của QĐNDVN tấn công. Một chiếc trực thăng UH-34D HMM-363 bị bắn rơi khi đang cố gắng đón các binh sĩ thương vong, khiến phi công và xạ thủ cửa thiệt mạng. Một chiếc UH-34 khác cố gắng hạ cánh nhưng bị hư hại và buộc phải hạ cánh xuống Điểm C-2. Trung tá Studt gọi tiếp viện và Đại đội F di chuyển về phía bắc đến vị trí Tiểu đoàn, trong khi hai Đại đội từ Tiểu đoàn TQLC 3/3 di chuyển về phía bắc từ Điểm C-2 đến vị trí Tiểu đoàn 2/4 vào lúc chạng vạng. QĐNDVN đã thăm dò vị trí của TQLC bằng các cuộc tấn công hỏa lực trực tiếp và gián tiếp và trên bộ trước khi rút lui vào khoảng 02:00 ngày 27 tháng 10. Sáng hôm sau, TQLC tuyên bố QĐNDVN có 19 người chết, nhưng họ không thể kiểm soát khu vực do hỏa lực súng cối và pháo binh của quân cộng sản. TQLC có 8 người chết và 45 người bị thương trong khoảng thời gian từ 25 đến 27 tháng 10.
Sau chiến dịch
Chiến dịch Kingfisher kết thúc vào ngày 31 tháng 10. TQLC có 340 người chết và 1.461 người bị thương. Theo báo cáo của Hoa Kỳ, QĐNDVN có 1.117 người thiệt mạng và 5 người bị bắt, và có thêm 1.942 người được cho là đã bị lực lượng Hoa Kỳ giết chết và 155 vũ khí bị thu giữ. Cả hai bên đều tuyên bố giành chiến thắng chiến thuật. Chiến dịch Kentucky diễn ra nối tiếp ngay sau Chiến dịch Kingfisher.
Tham khảo
Trận đánh và chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam
Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam
Việt Nam năm 1967
Lịch sử Quảng Trị
|
19831233
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hedvig%20Sofia%20c%E1%BB%A7a%20Th%E1%BB%A5y%20%C4%90i%E1%BB%83n
|
Hedvig Sofia của Thụy Điển
|
Hedvig Sofia Augusta của Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: Hedvig Sofia av Sverige; 26 tháng 6 năm 1681 – 22 tháng 12 năm 1708), là con cả của Karl XI của Thụy Điển và Ulrikke Eleonore của Đan Mạch và là Công tước phu nhân xứ Scheleswig-Holstein-Gottorp. Hedvig Sofia là người thừa kế ngai vàng Thụy Điển từ khi sinh ra cho đến khi em trai ra đời một năm sau đó và một lần nữa kể từ em trai Karl XII trở thành Quốc vương Thụy Điển vào năm 1697 cho đến khi qua đời. Hedvig Sofia còn là nhiếp chính của Công quốc Holstein-Gottorp cho con trai từ năm 1702 đến 1708.
Tuổi trẻ
Hedvig Sofia dành phần lớn tuổi thơ tại Cung điện Karlberg. Sau khi mẹ qua đời vào năm 1693, Hedvig Sofia và các em được giám hộ bởi bà ngoại là Hedwig Eleonora xứ Scheleswig-Holstein-Gottorp, Thái hậu Thụy Điển. Người chăm sóc chính cho Vương nữ là Juliana Schierberg, người bạn tri kỷ và có ảnh hưởng lớn đến Vương nữ. Hedvig Sofia còn là người cháu yêu thích của bà nội Hedwig Eleonora. Và bởi ảnh hưởng của bà nội, Hedvig Sofia có tư tưởng chống Đan Mạch. Hedvig Sofia được nhận xét là xinh đẹp, quyến rũ nhưng đoan trang và là một học sinh giỏi, đặc biệt là với môn hội họa. Vương nữ cũng được ghi nhận là người hòa đồng trong triều đình Thụy Điển nghiêm nghị, và có ghi nhận rằng Quốc vương Karl XI đã chi cho con gái nhiều tiền hơn so với việc chi tiêu cho những việc khác.
Từ năm 1697 đến năm 1699, Đan Mạch có chính sách thiết lập liên minh với Thụy Điển thông qua đám cưới kép giữa Karl XII của Thụy Điển với Sophie Hedevig của Đan Mạch và giữa Carl của Đan Mạch và Hedvig Sofia của Thụy Điển (sau cuộc hôn nhân của Hedvig Sophia vào năm 1698, Vương nữ được thay thế bởi Ulrika Eleonora của Thụy Điển). Nhà ngoại giao Jens Juel đã mời Beata Elisabet von Königsmarck để xúc tiến cho mối hôn sự. Tuy nhiên, sau cùng không cuộc hôn nhân nào diễn ra cả.
Công tước phu nhân
Ngày 12 tháng 5 năm 1698 tại Karlberg, Hedvig Sofia kết hôn với anh họ Friedrich IV xứ Scheleswig-Holstein-Gottorp. Cuộc hôn nhân của Vương nữ được sắp đặt như một phần của chính sách liên minh truyền thống giữa Thụy Điển với Holstein-Gottorp để chống lại Đan Mạch. Em trai Karl XII của Hedvig Sofia trước đó đã được cho là sẽ cưới em gái Marie Elisabeth của Friedrich, nhưng Karl XII đã từ chối. Cuộc hôn nhân đã được quyết định từ thời thơ ấu của Hedvig Sofia và trái với ý muốn của Vương nữ. Cuộc hôn nhân giữa Hedvig Sofia và Friedrich IV cũng không hạnh phúc. Vương nữ không thích lối sống sa đọa của Friedrich IV, điều mà Công tước đã biết ngay cả trước khi hai người kết hôn.
Năm 1698, Hedvig Sofia đến thăm Holstein-Gottorp và ở lại đây khoảng một năm. Trong thời gian ở Gottorp, Friedrich IV thường đến thăm những người tình ở Hamburg và cũng đưa một vài người trong số đó đến Gottorp. Mistress of the Robes của Hedvig Sofia là Beata Magdalena Wittenberg, đã vướng vào một cuộc xung đột vật lý với một nam cận thần đảm nhiệm vai trò ma cô của Friedrich IV, một cuộc xung đột kết thúc với việc Wittenberg hất văng bộ tóc giả của Beata và Hedvig Sophia yêu cầu quay trở lại Thụy Điển.
Năm 1699, Hedvig Sofia trở lại Thụy Điển, bấy giờ được xếp ở vị trí thứ hai trong hàng thừa kế ngai vàng Thụy Điển và là người thừa kế lâm thời. Bà Công tước cư trú chủ yếu tại Karlberg. Hedvig Sophia là một người tích cực tham gia vào các bữa tiệc và thường xuyên làm chủ triều đình của em trai khoảng vài năm trước Đại chiến Bắc Âu và dành phần lớn cuộc đời mình tại triều đình Thụy Điển. Cuộc hôn nhân của Hedvig Sofia là khởi đầu của một chuỗi lễ hội kéo dài cho đến khi Vương nữ rời đi, và khi Hedvig Sofia trở lại, một chuỗi lễ hội khác đã được bắt đầu và kéo dài cho đến khi chiến tranh bùng nổ.
Hedvig Sophia được coi là người có ảnh hưởng chính trị đối với em trai Karl XII: vào ngày 1 tháng 10 năm 1702, bá tước Magnus Stenbock đã nhờ cậy vợ là nữ bá tước Eva Oxenstierna sử dụng ảnh hưởng của mình trong quốc hội để liên hệ với Hedvig Sophia và nhờ Vương nữ thuyết phục Karl XII chấm dứt chiến tranh và thiết lập hòa bình.
Nhiếp chính
Ngày 18 tháng 10 năm 1702, Hedvig Sofia trở thành góa phụ và là nhiếp chính chính thức cho con trai là tân Công tước xứ Holstein-Gottorp chưa đến tuổi thành niên. Tuy nhiên, Bà Thái Công dành phần lớn thời gian ở Thụy Điển và hiếm khi đến thăm nhà chồng: Hedvig Sofia giao công việc hàng ngày của công quốc cho Christian August xứ Schelewig-Holstein-Gottorp, chú của người chồng quá cố, nhưng những vấn đề quan trọng nhất luôn là được Hedvig Sofia thông qua. Hedvig Sofia đã có kế hoạch đến thăm Holstein-Gottorp vào năm 1705, nhưng Karl XII yêu cầu chị gái ở lại Thụy Điển và Hedvig Sofia đồng ý. Với tư cách là Nhiếp chính, Hedvig Sophia đảm bảo rằng chính sách cũ của Holstein-Gottorp vẫn được giữ nguyên là liên minh với Thụy Điển để chống lại Đan Mạch. Điều này dẫn đến một số căng thẳng với bên chính quyền ở Holstein-Gottorp lúc bấy giờ đang xem xét về một liên minh khác, nhưng Hedvig Sofia vẫn nắm quyền kiểm soát các chính sách và đường lối của Thái Công tước phu nhân được duy trì cho đến khi Hedvig Sofia qua đời mà không xảy ra bất kỳ xung đột công khai nào.
Tại Thụy Điển, Hedvig Sofia có gắng để con trai mình được chấp nhận làm người thừa kế ngai vàng Thụy Điển, và "Đảng Holstein", theo cách gọi kể từ cái chết của em trai Vương nữ, cũng là ứng cử viên thành công nhất dưới sự lãnh đạo của Hedvig Sofia cho đến khi Vương nữ qua đời vào năm 1708. Là một góa phụ, Hedvig Sofia trở thành đối tượng của một kế hoạch dàn xếp một cuộc hôn nhân chính trị mới. Trong số các ứng cử viên có Trữ quân Hannover, tương lai là Quốc vương George II của Đại Anh. Tuy nhiên, Hedvig Sofia từ chối cuộc hôn nhân sắp đặt. Lúc đó Vương nữ có quan hệ với vị cận thần trẻ tuổi là Olof Gyllenborg. Hedvig Sofia đã thân quen với Olof Gyllenborg từ trước khi kết hôn, và sau cái chết của chồng, Olof Gyllenborg đã cho Vương nữ biết tình cảm của mình qua một bài thơ với thông điệp rằng thà thú nhận tình cảm còn hơn là để nó cứ thế chết đi. Mối quan hệ sau đó đã được công khai tại triều đình và dường như đã được chấp nhận, mặc dù bà nội của Hedwig Eleonora xứ Scheleswig-Holstein-Gottorp của Hedvig Sofia rất không thích.
Tại triều đình Thụy Điển, Hedvig Sophia được miêu tả là một người phụ nữ đẹp, có niềm yêu thích với thời trang và được mệnh danh là "Vương nữ Vui vẻ". Hedvig Sofia là trung tâm của đời sống xã hội tại triều đình, và người ta nói rằng mọi thú vui của cuộc sống cung đình đều chấm dứt sau khi Vương nữ qua đời. Hedvig Sofia là một ca sĩ tài năng: trong Đại chiến Bắc Âu,Vương nữ xuất hiện với tư cách là ca sĩ tại các buổi hòa nhạc tại triều đình, trong khi em gái Ulrika Eleonora chơi đàn clavier. Giống như em gái, Hedvig Sofia nhiều lần xin đến thăm em trai trên chiến trường trong chiến tranh, điều mà nhiều phụ nữ khác thường làm, nhưng lần nào cũng bị từ chối.
Năm 1708, Hedvig Sofia qua đời vì mắc phải bệnh đậu mùa khi chăm sóc con trai qua cơn bạo bệnh. Vào tháng 7 năm 1709, em trai Vương nữ, người vừa lâm vào cảnh tị nạn sau thảm họa quân sự tại Poltava và đang ở xa Bender (ngày nay ở Moldavia), nhận được tin Hedvig Sophia qua đời ở Stockholm vào tháng 12 trước năm ngoái. Karl XII lúc đầu không tin chị gái đã qua đời, và đây là lần duy nhất Quốc vương được biết là đã khóc. Đó là "một sự kiện mà tôi đã tin tưởng rằng sẽ không bao giờ bất hạnh đến thế để tồn tại" và anh ấy đã phải chịu đựng "nỗi đau buồn không bao giờ có thể rời bỏ tôi cho đến khi những người đã chia tay sẽ gặp lại nhau". Lễ tang và mai táng của Hedvig Sophia tại Nhà thờ Riddarholm không diễn ra cho đến năm 1718, sau khi Karl XII qua đời. Hedvig Sofia được chôn cất tạm thời vào năm 1708, nhưng lễ tang chính thức bị trì hoãn để chờ lệnh của em trai Hedvig Sofia về cách tiến hành. Tuy nhiên, vào năm 1716, Hedvig Sofia và bà nội được chôn cất vội vàng mà chư qua ý kiến của Quốc vương vì họ lo rằng Karl XII sẽ nhất quyết tổ chức một đám tang mà đất nước không còn đủ khả năng chi trả.
Hedvig Sofia có lẽ được biết đến nhiều nhất qua lượng thư từ giữa Vương nữ và em trai Karl XII, người dành phần lớn cuộc đời cho các chiến dịch chiến tranh ở nước ngoài. Khi Karl XII qua đời vào năm 1718 và không có hậu duệ, đứa con duy nhất của Hedvig Sofia là Công tước Karl Friedrich sẽ kế vị Karl XII. Thế nhưng em gái của Karl XII là Ulrika Eleonora đã nhanh chóng giành lấy ngai vàng.
Hậu duệ
Hedvig Sophia còn là bà nội của Hoàng đế Pyotr III của Nga.
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Anteckningar om svenska qvinnor (tiếng Thụy Điển)
Wilhelmina Stålberg: Anteqningar om Svenska kvinnor (Bằng tiếng Anh: Ghi chú về phụ nữ Thụy Điển) (bằng tiếng Thụy Điển)
Dansk biografisk Lexikon / VII. Bind. I. Hansen - Holmsted
Lundh-Eriksson, Nanna: Den glömda drottningen. Karl XII:s syster. Ulrika Eleonora D.Y. och hennes tid. Affärstryckeriet, Norrtälje. (1976)
Norrhem, Svante (2007). Kvinnor vid maktens sida : 1632–1772. Lund: Nordic Academic Press. Libris 10428618.
Nanna Lundh-Eriksson (1947). Hedvig Eleonora. Stockholm: Wahlström & Widstrand. ISBN
Liên kết ngoài
Vương nữ Thụy Điển
Vương tộc Pfalz-Zweibrücken
Vương nữ
Mất năm 1708
Sinh năm 1681
|
19831234
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anna%20Katarzyna%20Konstancja%20c%E1%BB%A7a%20Ba%20Lan
|
Anna Katarzyna Konstancja của Ba Lan
|
Anna Katarzyna Konstancja của Ba Lan, Anna Katarzyna Konstancja Wazówna, Anna Katrina Kónttannttiia của Thụy Điển hay Anna Katarina Konstantia Vasa (tiếng Ba Lan: Anna Katarzyna Konstancja Wazówna; tiếng Thụy Điển: Anna Katarina Konstantia av Sverige; 7 tháng 8 năm 1619 tại Warszawa - 8 tháng 10 năm 1651 tại Köln) là Vương nữ Ba Lan và Thụy Điển, con gái của Sigismund III Vasa của Ba Lan và Thụy Điển và Constanze của Áo.
Tiểu sử
Sau cái chết liên tiếp của mẹ (1631) và cha (1632), để đảm bảo điều kiện sống của Anna Katarzyna Konstancja vẫn phù hợp với địa vị của Vương nữ, vào năm 1632, quốc hội đã ban tặng cho Anna Katarzyna các quận Brodnickie, Gołubskie và Tucholskie vốn trước đây thuộc về mẹ Anna. Tuy nhiên, Vương nữ chỉ sở hữu chúng cho đến khi trưởng thành vào năm 1638.
Kể từ năm 1637, một cuộc hôn nhân đã được đề xuất giữa Anna Katarzyna Konstancja và Ferdinand Karl của Áo, người thừa kế xứ Tyrol và cháu trai của Ferdinand II của Thánh chế La Mã. Bất chấp sự dàn xếp vào năm 1639 và 1642, cuộc hôn nhân không thành sự vì Ferdinand Karl đã lớn tuổi và vì bất đồng về số tiền của hồi môn.
Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu tước xứ Brandenburg và Gaston của Pháp, Công tước xứ Orléans (em trai củaLouis XIII của Pháp), cũng là đối tượng kết hôn phù hợp cho Vương nữ. Tuy nhiên, Anna Katarzyna Konstancja cuối cùng kết hôn với Philipp Wilhelm, người thừa kế của Hành cung Bá quốc Neuburg và sau này là Tuyển hầu tước Pfalz, tại Warsaw vào ngày 8 tháng 6 năm 1642. Vương nữ mang theo của hồi môn đáng kể là trang sức và tiền mặt, tổng cộng là 2 triệu đồng thalers. Ngày 18 tháng 7 năm 1645, Anna Katarzyna hạ sinh đứa con duy nhất là một cậu con trai nhưng đứa trẻ qua đời cùng ngày hôm đó.
Anna Katarzyna Konstancja qua đời ở Cologne và được chôn cất tại nhà thờ Dòng Tên ở Düsseldorf.
Gia phả
Thư viện ảnh
Tham khảo
Vương nữ Ba Lan
Vương nữ Thụy Điển
Vương tộc Vasa
Vương nữ
Mất năm 1651
Sinh năm 1619
|
19831240
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20binh%20c%E1%BA%A7u%20v%E1%BB%93ng
|
Chiến binh cầu vồng
|
Chiến binh cầu vồng (tiếng Indonesia: Laskar Pelangi) là tác phẩm văn học thiếu nhi nổi tiếng của nhà văn Indonesia Andrea Hirata.
Cuốn tiểu thuyết dựa trên những trải nghiệm thời thơ ấu của tác giả ở Belitung và được viết chỉ trong vỏn vẹn 6 tháng sau đó xuất bản lần đầu vào năm 2005. Cuốn sách đã bán được 5 triệu bản, với các ấn bản lậu bán được thêm 15 triệu bản. Nhờ thành công vang dội, cuốn sách kéo dài thêm 3 phần tiếp theo: Sang Pemimpi (The Dreamer), Edensor và Maryamah Karpov.
Tác phẩm là bức tranh chân thực về hố sâu ngăn cách giàu nghèo, là tác phẩm văn học truyền tải sâu sắc nhất ý nghĩa đích thực của việc làm thầy, việc làm trò và việc học.
Nội dung
Chiến binh cầu vồng kể về câu chuyện có thật của những con người sống dưới đáy xã hội tại hòn đảo Belitung (Indonesia). Nghèo đói bủa vây người lớn khiến những đứa trẻ không được đến trường. Chúng phải lựa chọn: hoặc đi học hoặc kiếm tiền nuôi sống gia đình. Nếu từ bỏ quyền đi học, những đứa trẻ sớm sẽ trở thành công nhân, như thế hệ cha mẹ chúng, lao vào công cuộc kiếm tiền khốc liệt. Nếu không, những đứa trẻ buộc đánh cược cả tính mạng để đến trường. Mỗi ngày, chúng đạp xe 40 km, vượt qua đầm cá sấu chết người, để đến trường Tiểu học Muhammadiyah - ngôi trường nghèo nhất ở Belitung.
Muhammadiyah đã trụ vững ngay cả trong giông bão để che chở ước mơ của những đứa trẻ. Cậu bé Lintang khát khao trở thành nhà Toán học để cha mẹ tự hào; Nahar say mê âm nhạc, nghệ thuật; Sahara muốn đấu tranh cho nữ quyền; Ikal ước mơ làm giáo viên. Còn Akiong sẽ là một thuyền trưởng tài ba trong tương lai...
Nuôi dưỡng những ước mơ tươi đẹp ấy, là thầy Harfan và cô Mus đáng kính tại Muhammadiyah. Một thầy giáo "không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn là người bạn và người dìu dắt tinh thần cho học sinh của mình". Một cô giáo khao khát được dạy học dù ở ngôi trường làng tồi tàn nhất và không hề được trả lương. Thầy Harfan và cô Mus đã mang đến cho những cô cậu học trò nghèo không chỉ kiến thức vô tận mà còn là tuổi thơ đẹp nhất, tình bạn đẹp nhất và tâm hồn phong phú.
Dù hiện thực nghiệt ngã, khổ đau và tiếc nuối nhưng đến cuối cùng, người đọc sẽ cảm nhận những hạt mầm hy vọng vẫn đang sinh sôi, những tia nắng vẫn đang le lói rọi đến tương lai của các nhân vật. Giáo dục vẫn luôn là một phép màu, ít nhất là khi con người còn đặt niềm tin vào phép màu ấy.
Chiến binh cầu vồng có cả tuổi học trò trong sáng lẫn những trò đùa tinh quái, cả nước mắt lẫn nụ cười. Một bức tranh chân thực về hố sâu ngăn cách giàu nghèo, một tác phẩm văn học cảm động truyền tải sâu sắc nhất ý nghĩa đích thực của việc làm thầy, việc làm trò và việc học.
Chuyển thể
Tác phẩm được chuyển thể thành phim điện ảnh cùng tên vào năm 2008 bởi đạo diễn Riri Riza và Mira Lesmana; trở thành bộ phim Indonesia được xem nhiều nhất mọi thời đại, với 5 triệu khán giả xem trong thời gian chiếu rạp.
Tham khảo
Sách năm 2005
Tiểu thuyết năm 2005
Tiểu thuyết của Andrea Hirata
Tiểu thuyết được chuyển thể thành phim
|
19831244
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85%20l%E1%BA%A1y%20t%E1%BA%A5n%20h%C6%B0%C6%A1ng
|
Lễ lạy tấn hương
|
Lễ lạy tấn hương hay khấu đầu triều thánh, thường được biết đến ở Việt Nam là tam bộ nhất bái, hoặc nhất bộ nhất bái, là hành động người bước ba bước thì quỳ xuống lạy một lạy hoặc một bước thì quỳ xuống lạy một lạy. Đây là hành động thực hành tôn giáo của các tín đồ đạo Phật. Trong ngôn ngữ của đạo Phật thì đây được gọi là một hạnh tu và được giải thích là cứ ba (hoặc một) bước chân chính niệm thì một lần đỉnh lễ sát đất. Nghi thức này rất phổ biến trong giới tu hành Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ. Việc lạy này được thực hiện trong các chuyến triều sơn lễ thánh, ở Việt Nam thường được gọi là đi trẫy hội, hay lễ bái trẫy hội.
Trong các ngôn ngữ
Trong tiếng Trung tam bộ nhất bái (三步一拜) được thực hành trong các chuyến triều sơn (朝山). Trong tiếng Hàn tam bộ nhất bái được gọi là Samboilbae (삼보일배). Trong tiếng Anh, tam bộ nhất bái được gọi là Three Steps, One Bow.
Lịch sử
Người nổi tiếng nhất, đôi khi được xem là người đã tạo ra tam bộ nhất bái là Hư Vân (1840-1959) người Trung Quốc. Ông là Tổ thứ 44 của dòng thiền Quy Ngưỡng. Năm 1883, khi 43 tuổi, ông tam bộ nhất bái vì hạnh nguyện báo đáp công ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, ông đã tam bộ nhất bái từ núi Phổ Đà sơn, gần Thượng Hải, thuộc tỉnh Chiết Giang đến Ngũ Đài sơn thuộc tỉnh Sơn Tây, khoảng cách 3.000 dặm, trong thời gian 6 năm.
Trong sách Đại Phật Tự của Trịnh Chấn Phong chép về việc hành hương lễ Phật ở Đông Độ như sau: "...quảy túi màu vàng đi triều sơn, người ốm yếu, già cả, phụ nữ, đến những thiếu nữ yểu điệu, những bác nông dân chất phát, ai nấy đều kiền thành mỗi bước mỗi cúi đầu, thậm chí có người mỗi bước một lạy, cứ như thế lạy đến đỉnh núi..." Tại Tây Tạng, có câu chuyện kể một người đàn ông bán gia súc để lấy kinh phí thực hiện tâm nguyện tam bộ nhất bái đến thánh địa Lhasa, ông kiệt sức và chết mất xác trên các con đường núi. Người con trai khi trưởng thành đã hoàn thành ước nguyện này thay cho người cha. Vào ngày 19 tháng 11 năm 2017, tại Phổ Đà sơn, hơn 1.000 người dẫn đầu bởi các nhà sư đã tam bộ nhất bái từ chùa Vũ Thiền Tự (雨禅寺) đến chùa Huệ Tế Thiền Tự (慧济禅寺).
Tại Mỹ, vào năm 1973-1974 có hai nhà sư là Hằng Cụ (Heng Ju) và Hằng Do (Heng Yo) đã tam bộ nhất bái từ Gold Mountain Monastery ở San Francisco tới Marblemount, Washington, khoảng cách hơn 1.000 dặm để cầu nguyện hòa bình thế giới. Sau đó có nhà sư Hằng Thực (恆實) (Heng Sure) và Hằng Châu (Heng Ch’au) trong 2 năm 6 tháng, từ 1977 đến 1979 đã tam bộ nhất bái từ Nam Pasadena đến Ukiah, California, khoảng cách 800 dặm, cầu nguyện hòa bình thế giới.
Tại Việt Nam, nhà sư Thích Tâm Mẫn đã tiến hành nhất bộ nhất bái từ miền Nam ra miền Bắc với quãng đường dài 1.860 km trong thời gian từ 24/11 năm 2009 đến 24/11 năm 2012, với 6 triệu lạy. Địa điểm xuất phát là chùa Hoằng Pháp và địa điểm cuối là Trúc Lâm Yên Tử. Bốn câu kệ của nhà sư là "Sám hối tội lỗi - Cầu nguyện hòa bình - Chí đạt quả Phật - Hóa độ chúng sanh". Chuyến hành trình này đã được cấp phép.
Tại Malaysia, vào ngày 19 tháng 5 năm 2019, hơn 1.000 người dẫn đầu bởi các nhà sư chùa Thiên Hậu Cung (天后宫) tập hợp lại để tam bộ nhất bái lên ngọn núi Lạc Thánh Lĩnh (乐圣岭山) với khoảng cách khoảng 1 km.
Tại Hàn Quốc, ngày 22 tháng 8 năm 2023 diễn ra tam bộ nhất bái của một đoàn người gồm nhiều tôn giáo khác nhau tham gia một sự kiện tưởng niệm. Trong đó có những người Tin lành và Công giáo. Điều này dẫn đến một phản ứng gay gắt của những người Thiên Chúa giáo chống lại Phật giáo. Hội đồng Thiên Chúa giáo Hàn Quốc đã đưa ra một tuyên bố vào ngày 21 rằng: "Bốn tôn giáo lớn thực hiện ba bước đi và một cúi đầu để tưởng nhớ buổi lễ tưởng niệm. Có thể chọn nhiều phương pháp khác nhau cho bất kỳ mục đích nào, nhưng nếu bạn là một người theo đạo, ít nhất nếu bạn là người theo đạo Thiên Chúa thì phương pháp cũng phải mang tính tôn giáo." Sau đó, Truyền thông Giáo hội Hàn Quốc cho biết: "Cần phải xem xét lại việc các tôn giáo dẫn đầu các cuộc biểu tình chính trị để kích động công chúng, và đặc biệt là tham gia vào các buổi lễ tưởng niệm theo những cách trái với Kinh thánh nhân danh Cơ đốc giáo", đồng thời nói thêm: "Thật không đúng khi tiếp cận các vấn đề xã hội theo cách không áp dụng cho người khác và áp dụng các phương pháp thực hành của các tôn giáo khác".
Nghi thức
Theo truyền thống của Phật giáo Bắc truyền thì nghi thức 'lễ lạy tấn hương' hay còn gọi là 'khấu đầu triều thánh' được mô tả rằng, những hành giả từ nơi trụ xứ của mình khi hướng về địa điểm muốn đến phải phát nguyện đãnh lễ, có hai cách triều sơn lễ thánh, 1 là bước một bước lạy một lạy, 2 là bước ba bước lạy một lạy, cứ như thế lạy chừng nào cho đến địa điểm muốn đến. Bên cạnh tam bộ nhất bái, hoặc nhất bộ nhất bái còn có ngũ bộ nhất bái.
Người tu hành Phật giáo ở Tây Tạng có lối "tam bộ-ngũ thể-nhập địa". Nghĩa là tam bộ (đi ba bước) để ngũ thể (chân, tay, ngực, trán...) một lần chạm xuống đất (nhập địa) lạy một lạy. Một cách chi tiết, niệm Phật trong khi chắp tay lại, tay giơ cao quá đầu rồi bước lên một bước. Đưa tay ra trước trong khi vẫn chắp tay rồi bước thêm bước thứ hai. Bước thêm bước nữa đưa tay ra phía trước ngực. Hướng về trước cho thân song song với mặt đất, lòng bàn tay úp xuống, khi đầu gối chạm đất thì toàn thân nằm trên mặt đất. Chạm nhẹ trán xuống đất. Đứng lên và lặp lại quá trình này.
Mục đích
Hành động này là cách bày tỏ lòng tin vào Tam bảo trong đạo Phật, đồng thời thử thách và rèn luyện thể chất lẫn tinh thần. Nhà báo Kim Gil-woong của Jejunews viết về tam bộ nhất bái với diễn giải ba bước đi mang hàm ý sự quy y Tam bảo, gồm Phật, Pháp, Tăng. Tức là 3 bước, quy Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Ngoài ra, có thể hiểu 3 bước là 3 bước diệt trừ Tam độc gồm Tham, Sân, Si.
Theo nhà sư người Mỹ Hoằng Do, đây là cách để tập trung tư tưởng, sự chầm chậm và dừng lại của các bước đi để làm dừng lại loạn tưởng trong tâm thức. Do đó, tam bộ nhất bái được xem là một phương tiện thiền định. Trang tin của chùa Hoằng Pháp gọi đó là "một trong những phương pháp rèn luyện chí kiên định và phá trừ tâm ngã mạn của người xuất gia".
Tam bộ nhất bái còn được sử dụng trong chính trị, phục vụ mục đích biểu tình yêu sách hoặc phản đối, là một phương pháp bất bạo động tại Hàn Quốc. Ngày 31 tháng 5 năm 2003, một đoàn tam bộ nhất bái hơn một nghìn người sau 65 ngày, vượt qua 321,3 km từ bãi triều Haechang họ đã đến Seoul. Họ thúc giục Tổng thống Roh Moo-hyun đình chỉ dự án cải tạo Saemangeum vì môi trường. Vào ngày 29 tháng 4 năm 2016, các nhà sư đã dẫn đầu đoàn biểu tình đòi lại đất của chùa Bongeunsa bị Chính phủ cưỡng bức trưng thu vào năm 1970 và ngăn chặn chính quyền thành phố Seoul bán đất đó cho Công ty xe hơi Hyundai. Ngày 17 tháng 2 năm 2022 một cuộc biểu tình theo cách này diễn ra tại Seoul với đông đảo công nhân ngành logistics, dẫn đầu bởi các nhà sư, nhằm phản đối tập đoàn CJ từ chối đàm phán với các công nhân đình công yêu sách điều kiện làm việc tốt hơn. Ngày 8 tháng 5 năm 2023, các nhà sư ở chùa Jogyesa tam bộ nhất bái từ chùa ở khu Jongno-gu đến Đại sứ quán Nhật Bản, kêu gọi chấm dứt xả nước nhiễm phóng xạ từ Fukushima.
Tam bộ nhất bái cũng được dùng như hành động tưởng niệm. Trong 3 ngày, từ ngày 22 đến ngày 24 tháng 8 năm 2023, để tưởng niệm 300 ngày xảy ra vụ giẫm đạp Halloween tại Itaewon, đông đảo người Hàn Quốc là cha mẹ của các nạn nhân đã tam bộ nhất bái. Họ từ địa điểm tai nạn hướng về tòa nhà Quốc hội Hàn Quốc, cầu nguyện cho sự việc đau lòng sẽ không xảy ra một lần nào nữa.
Pháp lý
Vào tháng 5 năm 2005, ông Kim, người đứng đầu công đoàn Nhà máy Xây dựng Ulsan cùng nhiều người khác đã tổ chức 'cuộc họp giải quyết nhằm thúc đẩy đàm phán chân thành về tiền lương tập thể' với khoảng 600 thành viên công đoàn tại Công viên Horse Chestnut ở Dongsung-dong, Seoul, họ ra chiếm đường hai làn, đi ba bước cúi lạy một lạy. Cảnh sát đã giải tán họ, truy tố tội không tuân lệnh và phạt tiền 500.000 won. Tuy nhiên, tòa án phán quyết ông Kim và một đồng sự vô tội. Đến năm 2010, đến lượt Tòa án tối cao phán quyết một lần nữa về sự vô tội của họ.
Giới chức và cảnh sát Hàn Quốc từng yêu cầu lệnh cấm tam bộ nhất bái vì lý do an ninh, để đảm bảo an toàn cho các nguyên thủ quốc gia trước các cuộc biểu tình hoặc các chuyến viếng thăm của nguyên thủ nước ngoài. Tuy nhiên, Quyết định 2019 Heonma 1091 của Tòa án Hiến pháp ngày 28 tháng 10 năm 2021, bác bỏ yêu sách thông qua đạo luật nhằm ngăn chặn tam bộ nhất bái.
Tại Việt Nam, tam bộ nhất bái hay nhất bộ nhất bái để cầu nguyện không bị ngăn cản, như chuyến đi nổi tiếng của nhà sư Thích Tâm Mẫn chỉ cần xin phép chính quyền. Trích dẫn thêm, chiếu theo khoản 1 điều 36 Bộ Luật giao thông đường bộ thì lòng đường và hè phố chỉ được sử dụng cho mục đích giao thông. Hoạt động khác trên đường bộ theo điều 35 phải được thực hiện theo quy định:
a) Cơ quan, tổ chức có nhu cầu sử dụng đường bộ để tiến hành hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội phải được cơ quan quản lý đường bộ có thẩm quyền thống nhất bằng văn bản về phương án bảo đảm giao thông trước khi xin phép tổ chức các hoạt động trên theo quy định của pháp luật;
b) Trường hợp cần hạn chế giao thông hoặc cấm đường thì cơ quan quản lý đường bộ phải ra thông báo phương án phân luồng giao thông; cơ quan, tổ chức có nhu cầu sử dụng đường bộ quy định tại điểm a khoản 1 Điều này phải thực hiện việc đăng tải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ;
c) Ủy ban nhân dân nơi tổ chức hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan chức năng của địa phương tổ chức việc phân luồng, bảo đảm giao thông tại khu vực diễn ra hoạt động văn hóa, thể thao, diễu hành, lễ hội. Nghiêm cấm các hành vi tụ tập đông người, cản trở giao thông.
Chỉ trích
Nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là cách quảng cáo. Trong sách Thiền Vipassana - Bốn Nền Tảng Chánh Niệm của Thích Nhật Từ, hành động tam bộ nhất bái bị xem là cuồng tín, là kiểu khổ hạnh không nên tiếp tay, không nên ủng hộ cho lối tu sai lầm này.
Theo tư tưởng và quan niệm của Thiền tông, "Cần gì phải đến cầu Phật ở Linh Sơn, Linh Sơn ở trong tâm các vị, trong tất cả các vị đều có tháp Linh Sơn, nên hướng về tháp Linh Sơn để tu".
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Xem thêm
(bằng tiếng Anh)
(bằng tiếng Hàn)
(bằng tiếng Trung)
Phật giáo
|
19831248
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3ng%20bi%E1%BB%83n%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20s%C3%A2u%20C%E1%BB%ADa%20L%C3%B2
|
Cảng biển nước sâu Cửa Lò
|
Cảng biển nước sâu Cửa Lò là một bộ phận của cụm cảng Nghệ An. Cảng biển này ở xã Nghi Thiết, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Theo quyết định phê duyệt hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam, cảng biển nước sâu Cửa Lò là một cảng tổng hợp, cảng container, và là cảng đầu mối của nhóm cảng biển Bắc Trung Bộ.
Cảng được khởi công xây dựng vào ngày 7 tháng 12 năm 2010. Chủ đầu tư là Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An với tổng vốn đầu tư là 490 triệu dollar Mỹ. Tư vấn thiết kế là Japan Port Corporation (Nhật Bản). Giai đoạn 1 của dự án xây dựng cảng Cửa Lò dự kiến hoàn thành vào năm 2015.
Chiều dài bến cảng là 3.020 mét, có khả năng tiếp nhận tàu trọng tải 30.000 DWT - 50.000 DWT.
Hiện tại, ở Cửa Lò vẫn có một cảng biển khác mang tên Cảng Cửa Lò đang hoạt động. Song cảng này chỉ có khả năng tiếp nhận tàu 5.000 DWT - 10.000 DWT.
Tham khảo
VietNamNet: "Khởi công dự án "Cảng biển nước sâu Cửa Lò" .
Quyết định số 2190/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam phê duyệt Quy hoạch hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2020
Cửa Lò
Kinh tế Nghệ An
|
19831260
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%91ng%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Trống (định hướng)
|
Trống có thể là:
Trống
Đực
Tính từ như: Trống rỗng, Trống trải.
|
19831268
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Indrapura%20%28Khmer%29
|
Indrapura (Khmer)
|
Theo chữ khắc trên tấm bia của Sdok Kok Thom, Indrapura (, ) hoặc Amarendrapura (, ) là kinh đô đầu tiên của triều đại vua Jayavarman II vào khoảng năm 781, trước khi thành lập Đế quốc Khmer vào năm 802.
Vị trí
George Coedes và Claude Jacques đã nhận dạng nơi này với Banteay Prei Nokor, nằm gần Kompong Cham, Campuchia, trong khi Michael Vickery cho rằng nó gần kề Kompong Thom hơn. Một số học giả đề xuất Ak Yum là trung tâm của Amarendrapura.
Chú thích
Tham khảo
Địa điểm khảo cổ ở Campuchia
Campuchia thiên niên kỷ 1
|
19831269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Somlenh%20Polokor
|
Somlenh Polokor
|
Somlenh Polokor () là một tờ tạp chí của Campuchia, được xuất bản trong thập niên 1960. Tạp chí này có mối liên hệ mật thiết với Đảng Cộng sản Campuchia trong thời kỳ hoạt động bí mật.
Tham khảo
Tạp chí cộng sản
Tạp chí xuất bản ở Campuchia
Tạp chí chính trị ngừng hoạt động
Tạp chí ngừng hoạt động xuất bản ở Campuchia
|
19831275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20c%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%A7%20tham%20d%E1%BB%B1%20Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20v%C3%B4%20%C4%91%E1%BB%8Bch%20qu%E1%BB%91c%20gia%202023%E2%80%9324
|
Danh sách cầu thủ tham dự Giải bóng đá vô địch quốc gia 2023–24
|
Dưới đây là đội hình tham dự của các câu lạc bộ tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia 2023–24 tính tới ngày 12 tháng 10 năm 2023.
Lượt đi
Thống kê
Giai đoạn 1
Chuyển nhượng
Trước mùa giải
Tham khảo
Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
Bóng đá Việt Nam năm 2023
|
19831288
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh%20ph%E1%BB%91%20ng%E1%BB%A7%20g%E1%BA%ADt
|
Thành phố ngủ gật
|
Thành phố ngủ gật (tựa tiếng Anh: Drowsy City) là một bộ phim điện ảnh Việt Nam thuộc thể loại tâm lý – giật gân – kinh dị năm 2023 do đạo diễn Lương Đình Dũng sáng tác và thực hiện. Phim có sự tham gia của các diễn viên như Lê Thúy Hiền, Vũ Minh Trí, Tạ Xuân Tuế, Trần Văn Bá và Nguyên Quốc Thành. Trước khi được khởi chiếu chính thức tại Việt Nam vào ngày 13 tháng 10 năm 2023, phim đã được phát hành tại nhiều Liên hoan phim như Liên hoan phim Tallinn Blacknights, Liên hoan phim FNC Duneuvu hay Liên hoan phim quốc tế Kolkata.
Bộ phim được cho là xây dựng ở một thể loại mà hiếm bộ phim Việt Nam nào thực hiện.
Nội dung
Bộ phim xoay quanh Trần Văn Tảo, một nam thanh niên 26 tuổi làm nghề mổ gà thuê sống một mình ở khu nhà bỏ hoang giữa một thành phố nhộn nhịp, phồn vinh tại Việt Nam. Một hôm nọ, một nhóm côn đồ đã dẫn một cô gái điếm đến khu vực chỗ của Tảo. Việc gặp gỡ nhau thường xuyên đã khiến Tảo có tình cảm với người con gái ấy và không may Tảo đã khiến cho người phụ nữ ấy mang thai. Khi phát hiện, "đồ kiếm cơm" của mình mang thai, nhóm côn đồ đã khó chịu đánh đập cô gái và hành hạ, mua vui Tảo. Từ đây, Tảo đã trở thành con người khác và tìm mọi cách để trả đũa lại nhóm côn đồ.
Sản xuất
Theo chia sẻ của đạo diễn Dũng, phim sẽ "mang đến câu chuyện về hành trình đi tìm bản ngã con người một cách chân thật và tàn bạo, phản ánh đúng mặt tối của xã hội". Khi phát hành tại Việt Nam, bộ phim đã bị chỉnh sửa và cắt đi phân đoạn kéo dài khoảng 1 phút, so với bản gốc kéo dài 75 phút. Bộ phim được xây dựng theo phong cách "show, don't tell", được kiểu là kể chuyện bằng hình ảnh thay vì sử dụng thoại như các bộ phim thông thường. Trong toàn bộ bộ phim, nhân vật chính là Tảo cũng chỉ có khoảng 4–5 câu thoại. Các diễn viên trong phim cũng đều là những gương mặt mới chưa xuất hiện trong showbiz Việt Nam và được ghi hình tại Mộc Châu, Sơn La; Tràng An, Ninh Bình; Hà Nội; Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.
Theo tiết lộ của đơn vị sản xuất, nhà quay phim Thái Lan Chalermpornpanit, nhà quay phim Việt Nam Phạm Văn Khuê và nhạc sĩ Martynas Bialobžeskis đều là giám đốc hình ảnh của bộ phim. Hậu kỳ của Thành phố ngủ gật được thực hiện tại 3 quốc gia là Thái Lan, Hàn Quốc và Việt Nam. Theo chia sẻ của diễn viên Quốc Toàn – người vào vai Tảo có nói về việc ám ảnh mùi gà, thịt gà hay phở gà sau khi quay hình xong. Anh cũng đã phải mất một thời gian để có thể thoát khỏi vai diễn này của bản thân.
Đón nhận
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
|
19831295
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Isabel%20Alfonsa%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
Isabel Alfonsa của Tây Ban Nha
|
Isabel Alfonsa của của Tây Ban Nha hay Isabel Alfonsa de Borbón-Dos Sicilias y Borbón, (tiếng Tây Ban Nha: Isabel Alfonsa de España; tiếng Ý: Isabella Alfonsa di Spagna; tiếng Anh: Isabel Alfonsa of Spain; tên đầy đủ: Isabel Alfonsa María Teresa Antonia Cristina Mercedes Carolina Adelaida Rafaela de Borbón-Dos Sicilias y Borbón; 16 tháng 10 năm 1904 – 18 tháng 7 năm 1985) là Vương tôn nữ Tây Ban Nha, thành viên của Vương tộc Borbone-Hai Sicilie và là Vương nữ của Borbone-Hai Sicilie. Thông qua cuộc hôn nhân với Bá tước Jan Kanty Zamoyski, Isabel Alfonsa là thành viên của gia đình quý tộc Zamoyski và là Bá tước phu nhân Zamoyska.
Gia đình
Vương tôn nữ Isabel Alfonsa của Tây Ban Nha được sinh ra tại Cung điện Vương thất Madrid vào ngày 16 tháng 10 năm 1904, là con thứ ba và là con gái duy nhất của Carlo của Hai Sicilie và María de las Mercedes của Tây Ban Nha. Mẹ của Isabel Alfonso là người thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha từ ngày 11 tháng 9 năm 1880 đến ngày 17 tháng 10 năm 1904. María de las Mercedes qua đời một ngày sau khi sinh Isabel Alfonsa. Ông bà ngoại của Isabel Alfonsa là Alfonso XII của Tây Ban Nha và Maria Christina Henriette của Áo. Thông qua cha, Vương tôn nữ là cháu chắt của Ferdinando II của Hai Sicilie. Isabel Alfonsa còn là cháu gọi cậu của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và là cô họ của Juan Carlos I của Tây Ban Nha.
Vương tôn nữ được rửa tội tại Cung điện Vương thất Madrid vào ngày 24 tháng 10 năm 1904 và được đặt tên là Isabel Alfonsa María Teresa Antonia Cristina Mercedes Carolina Adelaida Rafaela. Cha mẹ đỡ đầu của Vương tôn nữ là Quốc vương Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Vương nữ María Isabel Francisca de Asís của Tây Ban Nha.
Một năm sau đó, anh trai Fernando María của Isabel qua đời ở San Sebastián. Năm 1907, cha của Isabel Alfonsa là Carlo Tancredi của Hai Sicilie đã tái hôn với Vương nữ Louise của Orléans, con gái của Philippe của Orléans, Bá tước xứ Paris và María Isabel của Tây Ban Nha . Carlo Tancredi và Louise có với nhau một con trai và ba con gái, trong đó cô con gái María de las Mercedes chính là bà nội của đương kim Quốc vương Felipe VI của Tây Ban Nha.
Hôn nhân và hậu duệ
Vương tôn nữ Isabel Alfonsa kết hôn với người bác họ là Bá tước Jan Kanty Zamoyski, người con thứ bảy và con trai thứ ba của Bá tước Andrzej Zamoyski và Vương tôn nữ Maria Carolina Giuseppina của Hai Sicilie vào ngày 9 tháng 3 năm 1929 tại Madrid. Tại đám cưới, Isabel Alfonsa mặc một chiếc váy cưới màu trắng bằng vải charmeuse, đầu đội voan trắng cùng vòng hoa cam. Lễ cưới còn có sự góp mặt của đông đảo họ hàng cô dâu và chú rể.
Isabel Alfonsa và Jan Kanty có với nhau bốn người con:
Bá tước Karol Alfons Zamoyski (28 tháng 10 năm 1930 – 26 tháng 10 năm 1979)
Nữ Bá tước Maria Krystyna Zamoyska (2 tháng 9 năm 1932 – 6 tháng 12 năm 1959)
Bá tước Józef Michal Zamoyski (27 tháng 6 năm 1935 - 22/23 tháng 5 năm 2010)
Nữ Bá tước Maria Teresa Zamoyska (sinh ngày 18 tháng 4 năm 1938)
Trong khoảng thời gian từ năm 1929 – 1945, gia đình của Isabel Alfonsa của Tây Ban Nha sống ở Tiệp Khắc ở thị trấn Stará Ľubovňa.
Qua đời
Ngày 18 tháng 7 năm 1865, Vương tôn nữ Isabel Alfonsa trút hơi thở cuối cùng tại Madrid, dưới thời trị vì của người cháu trai Juan Carlos I của Tây Ban Nha, thọ 80 tuổi. Isabel Alfonsa được chôn cất tại Panteón de Infantes thuộc El Escorial.
Huân chương
Bậc Dame Grand Cross of Justice của Huân chương Quân đội Thiêng liêng Costantiniano của Thánh Giorgio
Bậc Dame của Huân chương Vương hậu María Luisa
Vương gia huy
Gia phả
Ghi chú
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương nữ Hai Sicilie
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương tộc Borbone-Hai Sicilie
Vương nữ
Sinh năm 1904
Mất năm 1985
Bài viết có văn bản tiếng Tây Ban Nha
|
19831300
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shichigahama%2C%20Miyagi
|
Shichigahama, Miyagi
|
là thị trấn thuộc huyện Miyagi, tỉnh Miyagi. Tính đến ngày 1 tháng 11 năm 2023, dân số ước tính thị trấn là 17.683 người và mật độ dân số là 1.300 người/km2. Tổng diện tích thành phố là 13,19 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Miyagi
|
19831305
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20de%20las%20Mercedes%20c%E1%BB%A7a%20Bayern%20v%C3%A0%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha
|
María de las Mercedes của Bayern và Tây Ban Nha
|
María de las Mercedes của Bayern và Tây Ban Nha hay María de las Mercedes de Baviera y Borbón (3 tháng 10 năm 1911 – 11 tháng 9 năm 1953) là một Vương nữ người Đức và Tây Ban Nha. María de las Mercedes là vợ thứ ba của Vương tử người Gruzia là Irakli Bagration của Mukhrani. Thông qua cha là Vương tằng tôn Ferdinand của Bayern, María de las Mercedes là thành viên của Vương tộc Wittelsbach. Thông qua mẹ là Vương nữ María Teresa Isabel của Tây Ban Nha, María de las Mercedes là cháu ngoại của Alfonso XII và cháu gái gọi cậu của Alfonso XIII của Tây Ban Nha thuộc Vương tộc Borbón.
Thiếu thời
María de las Mercedes của Bayern và Tây Ban Nha sinh ngày 3 tháng 10 năm 1911 tại Cung điện Cuesta de la Vega, Madrid, là con gái của Ferdinand của Bayern và María Teresa Isabel của Tây Ban Nha. Cha mẹ của Vương tôn nữ là chị em họ và cả hai đều là cháu của Isabel II của Tây Ban Nha. Trước khi María de las Mercedes chào đời, cậu của Vương tôn nữ là Alfonso XIII của Tây Ban Nha đã tuyên bố rằng bất kỳ đứa trẻ nào được sinh ra từ cuộc hôn nhân của chị gái sẽ là Infante/Infanta của Tây Ban Nha. Vào ngày lễ rửa tội, Vương tôn nữ được đặt tên là María de las Mercedes Teresa María de la Paz Fernanda Adalberta Cristina Antonia Isidra Raimunda Josefa Jesusa Fausta Francisca de Borja y Todos los Santos vào ngày 11 tháng 10 năm 1911 tại Cung điện Vương thất Madrid. Cha mẹ đỡ đầu của Vương tôn nữ là María de la Paz của Tây Ban Nha (bà nội) và Adalbert Afons của Bayern (chú, đại diện bởi Carlo Tancredi của Hai Sicilie). María de las Mercedes có hai anh trai là Luis Alfonso (1906–1983) và José Eugenio (1909–1966) và một em gái là María del Pilar (1912–1918). Năm 1912, mẹ của Vương tôn nữ qua đời năm 1912 và cha của Vương tôn nữ tái hôn với thị tùng của người mẹ là María Luisa de Silva y Fernandez de Henestrosa, Nữ Công tước xứ Talavera de la Reina.
Trước sự thiết lập Cộng hòa Tây Ban Nha thứ hai vào năm 1931, gia đình của Vương tôn nữ đã sang Đức sống lưu vong.
Hôn nhân và hậu duệ
Ngày 29 tháng 8 năm 1946, María de las Mercedes kết hôn với Irakli Bagration của Mukhrani tại Cung điện Miramar ở San Sebastián.
Bác bỏ lời khuyên của Đại vương công Vladimir Kirillovich của Nga, Vương tử Juan của Tây Ban Nha, Bá tước xứ Barcelona, Gia chủ Vương thất Tây Ban Nha lưu vong, đã không công nhận hôn nhân của chị họ mang tính vương giả. Vì vậy, các con của Vương tôn nữ không nằm trong danh sách kế vị ngai vàng Tây Ban Nha. Năm 1948, em gái của Irakli là Leonida kết hôn với Đại vương công Vladimir, người mà Đại vương công nhìn nhận là có thân phận vương giả tương xứng với mình.
Hai vợ chồng có hai người con:
María de la Paz Bagration của Mukhrani (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1947)
Bagrat Bagration của Mukhrani (12 tháng 6 năm 1949 – 20 tháng 3 năm 2017)
María de las Mercedes qua đời vào ngày 11 tháng 9 năm 1953 tại Madrid vì bệnh tim đã có từ trước. Vương tôn nữ được chôn cất tại Pantéon de Infantes tại El Escorial.
Huân chương
Bậc Dame of Honnor and Devotion của Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta
Vương gia huy
Gia phả
<center>
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
"HA FALLECIDO LA INFANTA DOÑA MARIA MERCEDES DE BAVIERA" (abc.es, 12 tháng 9 năm 1953)
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương nữ Bayern
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương tộc Wittelsbach
Vương nữ
Người Madrid
Sinh năm 1911
Mất năm 1953
Bài viết có văn bản tiếng Tây Ban Nha
|
19831319
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ngo%E1%BA%A1i%20h%C3%A0nh%20tinh%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20ph%C3%A1t%20hi%E1%BB%87n%20tr%C6%B0%E1%BB%9Bc%20n%C4%83m%202000
|
Danh sách ngoại hành tinh được phát hiện trước năm 2000
|
Danh sách các ngoại hành tinh được phát hiện trước năm 2000 là danh sách các ngoại hành tinh lần đầu được xác nhận là được quan sát trước năm 2000.
Đối với các ngoại hành tinh được phát hiện bởi phương pháp duy nhất vận tốc xuyên tâm, giá trị khối lượng thực sự có giới hạn thấp hơn. (Xem khối lượng cực tiểu để biết thêm thông tin).
Danh sách
Những thiên thể ứng cử viên được xem là ngoại hành tinh
HD 114762 b, nằm ở chòm sao Hậu Phát, từng được xem là ngoại hành tinh đầu tiên được phát hiện. Được tìm thấy vào năm 1989 bởi một đội do David Latham dẫn đầu, hiện nay nó được xác nhận là một sao lùn đỏ.
Tham khảo
2000
|
19831328
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paul-Georges%20Ntep
|
Paul-Georges Ntep
|
Paul-Georges Ntep de Madiba (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá người Pháp - Cameroon thi đấu ở vị trí tiền vệ chạy cánh và tiền đạo cho câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh tại V.League 1. Anh được biết đến với tốc độ nhanh và kỹ thuật điêu luyện.
Ntep là tuyển thủ trẻ người Pháp và có 2 lần ra sân cho đội tuyển Pháp vào năm 2015. Sau đó anh chuyển sang thi đấu cho đội tuyển Cameroon từ 2018 và có 1 bàn thắng.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Ntep sinh tại Douala, thành phố lớn nhất của Cameroon. Anh chuyển đến Pháp lúc 8 tuổi sống với dì của mình, người nằm ở commune của Grigny ở miền nam Paris. Anh bắt đầu sự nghiệp tại US Ris Orangis và dành 2 năm cho câu lạc bộ. Trong thời gian làm việc với Ris Orangis, anh ấy đã bắt tay vào một số thử nghiệm với các câu lạc bộ chuyên nghiệp, trong đó có Auxerre, tuy nhiên, anh ấy đã không được ký hợp đồng.Năm 2005, Ntep gia nhập đội U14 của Viry-Châtillon và sau một năm gắn bó với một câu lạc bộ nghiệp dư khác (ESA Linas-Montlhéry), ký hợp đồng với CS Brétigny Foot; một câu lạc bộ đã được đào tạo đội tuyển Pháp Patrice Evra và Jimmy Briand. Khi tập luyện ở Brétigny, Ntep đã gây ấn tượng với các huấn luyện viên và quan chức câu lạc bộ, và vào năm 2009, anh được mời thử việc ba ngày với câu lạc bộ chuyên nghiệp Auxerre, người mà Brétigny có quan hệ đối tác. Sau khi thử nghiệm thành công, anh đã được ký hợp đồng với một hợp đồng stagiaire (kỳ thực tập).
Auxerre
Ntep bắt đầu với mùa giải 2009-10 tập luyện cùng đội U18 của câu lạc bộ. Giữa mùa giải, anh gia nhập đội dự bị của câu lạc bộ ở Championnat de France amateur. Ntep ra sân trong 14 trận cho đội ghi được 2 bàn thắng. Vào mùa giải 2010–11, anh bắt đầu tập luyện với đội cấp cao. Ntep cũng có tên trong danh sách của đội để xuất hiện trong UEFA Champions League. Vào ngày 16 tháng 10 năm 2010, anh ngồi dự bị trong trận thua 0-1 của đội trước Bordeaux.Một tuần sau, Ntep ra mắt chuyên nghiệp trong một trận đấu tại Coupe de la Ligue chống lại Bastia vào sân thay người ở phút 31 Dennis Oliech. Auxerre đã thắng trận đấu với tỷ số 4–0.
Rennes
Vào ngày 30 tháng 1 năm 2014, Ntep đã gia nhập Stade Rennais của Ligue 1 trong một hợp đồng có thời hạn 3 năm 6 tháng.
Wolfsburg
Tháng 1 năm 2017, Ntep gia nhập câu lạc bộ VfL Wolfsburg của Bundesliga theo hợp đồng đến năm 2021. Vào ngày 11 tháng 2 năm 2020, Wolfsburg thả Ntep.
Saint-Étienne (mượn)
Vào ngày 17 tháng 1 năm 2018, Ntep đã tham gia câu lạc bộ Saint-Étienne của Ligue 1 theo dạng cho mượn kéo dài cả mùa giải.
Kayserispor (mượn)
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2019, Ntep gia nhập câu lạc bộ Kayserispor của Thổ Nhĩ Kỳ theo dạng cho mượn kéo dài cả mùa giải.
Guingamp
Vào ngày 13 tháng 5 năm 2020, Guingamp xác nhận việc ký hợp đồng với Ntep theo dạng chuyển nhượng tự do.
Boavista
Sau một mùa giải đáng thất vọng ở Ligue 2, hợp đồng của anh với Guingamp kết thúc và Ntep một lần nữa trở thành cầu thủ tự do, cho phép anh gia nhập câu lạc bộ Boavista của Primeirra Liga sau khi kết thúc kỳ chuyển nhượng thông thường, được công bố là bản hợp đồng mới vào ngày 4 tháng 9 năm 2021 bởi Porto. Với tổng cộng 19 lần ra sân cho Boavista và ghi một bàn thắng, Ntep rời câu lạc bộ vào cuối mùa giải 2021-22.
Thành phố Hồ Chí Minh
Vào ngày 26 tháng 9 năm 2023, Ntep đã ký hợp đồng với câu lạc bộ Thành phố Hồ Chí Minh của V.League 1.
Sự nghiệp quốc tế
Pháp
Mặc dù Ntep sinh ra tại Cameroon, anh ấy là cầu thủ trẻ người Pháp từng thi đấu cho đội U18 vào năm 2010. Ba năm sau, anh nhận được lời mời từ U21 Pháp sang thi đấu ở giải VĐQG Toulon.
Anh ấy đủ điều kiện để chơi cho Cameroon hoặc Pháp ở cấp độ cao. Ngày 24 tháng 5 năm 2015, Ntep được huấn luyện viên Didier Deschamps triệu tập vào đội tuyển Pháp thi đấu giao hữu với Bỉ và Albania. Anh ra mắt vào ngày 7 tháng 6 năm 2015 trong trận thua 4–3 trước Bỉ.
Cameroon
Vào tháng 8 năm 2018, Ntep chuyển sang thi đấu cho Cameroon và được đề cử tham dự trận đấu với Comoros ở bảng B vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2019.
Cuộc sống cá nhân
Ntep là anh họ của cầu thủ bóng bầu dục Charles-Edouard Ekwah Elimby và các cầu thủ bóng đá Pierre Ekwah, Ludéric, Romaric và Emeric Etonde.
Thống kê sự nghiệp
Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Cameroon trước, cột tỷ số biểu thị tỷ số sau mỗi bàn thắng của Ntep.
Tham khảo
Liên kết ngoài
|
19831334
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nile%20John
|
Nile John
|
Nile Omari Mckenzie John (sinh ngày 6 tháng 3 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh chơi ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur ở Premier League.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Tottenham Hotspur
John có trận ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 24 tháng 2 năm 2021 cho Tottenham khi vào sân thay người trong trận đấu Europa League gặp Wolfsberger AC, tỷ số chung cuộc là 4-0.
Vào ngày 19 tháng 8 năm 2021, John có trận đá chính đầu tiên cho Tottenham bằng cách chơi trong trận đấu đầu tiên của giải đấu UEFA Europa Conference League gặp Paços de Ferreira, tỷ số chung cuộc là 1-0.
Charlton Athletic (cho mượn)
Vào ngày 27 tháng 1 năm 2022, John gia nhập Charlton Athletic theo dạng cho mượn trong phần còn lại của mùa giải 2021–22. Anh đã ngồi dự bị trong một số trận đấu nhưng không ra sân thi đấu chính thức nào cho Charlton.
Sự nghiệp quốc tế
Sau khi đại diện cho Anh từ cấp độ U15 đến U17, John đã ra mắt đội tuyển Anh U19 trong chiến thắng 2-0 trước Ý U19 tại St. George's Park vào ngày 2 tháng 9 năm 2021.
Thống kê sự nghiệp
Chú thích
Sinh 2003
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Charlton Athletic F.C.
|
19831335
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cha%C3%AFm%20El%20Djebali
|
Chaïm El Djebali
|
Chaïm El Djebali (; sinh ngày 7 tháng 2 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp chơi ở vị trí tiền vệ cho Lyon B. Sinh ra ở Pháp, anh chơi cho đội tuyển quốc gia Tunisia.
Đời tư
Chaïm El Djebali sinh ra ở Décines-Charpieu, ngoại ô thành phố Lyon, Pháp. Cha là người Tunisia và mẹ là người Algeria. Anh mang quốc tịch Pháp, Algeria và Tunisia.
Sự nghiệp
El Djebali được lên đội dự bị vào năm 2021 và ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ vào ngày 30 tháng 6 năm 2022, ràng buộc anh với câu lạc bộ cho đến năm 2025.
Anh đã đại diện cho Pháp U16 một lần vào năm 2019. Vào tháng 9 năm 2022, anh đã chấp nhận lời triệu tập lên đội tuyển quốc gia Tunisia tham dự một loạt trận giao hữu. Anh đã ra mắt Tunisia với tư cách là người vào sân thay người muộn trong chiến thắng giao hữu 1-0 trước Comoros vào ngày 22 tháng 9 năm 2022.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh 2004
Nhân vật còn sống
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Tunisia
Cầu thủ bóng đá Olympique Lyonnais
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
|
19831338
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20Nh%C3%A2n
|
Bảo Nhân
|
Bảo Nhân, tên đầy đủ Trần Nguyễn Bảo Nhân (sinh ngày 28 tháng 06 năm 1983), là một đạo diễn phim, nhà biên kịch phim người Việt Nam.
Anh đã đạo diễn các bộ phim thành công, bao gồm Mùa oải hương năm ấy, Chạy đi rồi tính, loạt phim Gái già lắm chiêu, Cô gái từ quá khứ,...
Tiểu sử
Trần Nguyễn Bảo Nhân sinh ra và lớn lên tại Huế. Anh tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế chuyên ngành hệ bác sĩ đa khoa, và được trường giữ lại làm việc sau khi tốt nghiệp. Sau đó, anh học tiếp hai năm thạc sĩ. Anh vào Thành phố Hồ Chí Minh học thêm chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ. Sau khi hoàn thành chương trình học, Bảo Nhân làm việc tại Bệnh viện Thẩm Mỹ Sài Gòn.
Năm 2009, có người ở đoàn làm phim Nhìn ra biển cả của nhà biên kịch Hồng Ngát đến khám bệnh tại bệnh viện và mời anh đi thử vai.
Bảo Nhân đã kết hợp với Namcito, và đạo diễn nhiều bộ phim thành công như Mùa oải hương năm ấy, Chạy đi rồi tính, series điện ảnh Gái già lắm chiêu, Cô gái từ quá khứ. Thành công của Gái già lắm chiêu 2, Gái già lắm chiêu 3 và Gái già lắm chiêu V - Những cuộc đời vương giả mang về cho anh giải thưởng Đạo diễn xuất sắc tại các giải thưởng điện ảnh như Ngôi Sao Xanh 2019 và Giải Cánh diều 2020.
Riêng Gái già lắm chiêu 3 của đạo diễn Bảo Nhân và Namcito lọt Top 10 phim điện ảnh Việt Nam có doanh thu cao nhất mọi thời đại.
Ngoài ra, Namcito và Bảo Nhân còn thực hiện remake bộ phim Hàn Quốc nổi tiếng Cô nàng xinh đẹp (VTV3), với tên Việt là Mối tình đầu của tôi. Đầu năm 2022, bộ đôi Đạo diễn/Nhà sản xuất chính thức công bố ra mắt vũ trụ điện ảnh mới mang tên Vũ Trụ Mỹ Nhân.
Danh sách phim và chương trình
Phim điện ảnh
Phim truyền hình
Phim sitcom
Chương trình talkshow, phim du lịch
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Xem thêm
Danh sách phim điện ảnh Việt Nam có doanh thu cao nhất
Liên kết ngoài
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1983
Người Huế
Đạo diễn điện ảnh Việt Nam
Nhà viết kịch Việt Nam
Người họ Trần tại Việt Nam
|
19831340
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Liga%20Portugal%202
|
Liga Portugal 2
|
Liga Portugal 2 (), còn được gọi là Liga Portugal SABSEG, là giải đấu hạng hai của hệ thống giải bóng đá Bồ Đào Nha. Vào cuối mỗi mùa giải, hai đội đứng đầu sẽ được thăng hạng lên Liga Portugal hạng cao nhất và hai đội có thứ hạng thấp nhất sẽ xuống hạng giải hạng ba. Bắt đầu từ mùa giải 2021–22, các đội xuống hạng sẽ không còn thi đấu ở Campeonato de Portugal, giải đấu sẽ trở thành hạng tư, mà sẽ thi đấu ở giải hạng ba mới được thành lập có tên là Liga 3 (Giải hạng 3).
Giải đấu bắt đầu vào năm 1990 với tên gọi Segunda Divisão de Honra (Giải hạng hai danh dự), thay thế Segunda Divisão (Segunda Divisão) trở thành giải hạng hai của bóng đá Bồ Đào Nha. Khi giải đấu thuộc quyền quản lý của Liga Portuguesa de Futebol Profissional (LPFP) vào năm 1999, nó được đổi tên thành Segunda Liga (Giải hạng hai), một cái tên được giữ cho đến năm 2016, ngoại trừ giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2012, khi nó được gọi là Liga de Honra (Giải danh dự). Được đổi tên thành LigaPro vào năm 2016, giải đấu đã lấy tên hiện tại vào đầu mùa giải 2020–21.
Tính đến mùa giải 2018–19, giải đấu có 18 đội tham dự trên toàn quốc, bao gồm cả các đội dự bị (đội B) của một số câu lạc bộ hàng đầu. Có 20 đội khác nhau đã giành được chức vô địch giải đấu; thành công nhất là Paços de Ferreira, với 4 lần vô địch, bao gồm cả mùa giải inaugural và mùa giải 2018–19 vừa kết thúc gần đây.
Định dạng
Trong mùa giải 2016-17, có 22 câu lạc bộ tham dự Segunda Liga (24 câu lạc bộ ở các mùa giải trước). Sau đó, số lượng đội giảm xuống mỗi mùa cho đến khi đạt 18 đội trong mùa giải 2018-19. Trong suốt mùa giải, mỗi câu lạc bộ sẽ thi đấu với nhau hai lần, một lần trên sân nhà và một lần trên sân khách, tổng cộng là 34 trận. Vào cuối mỗi mùa giải, hai đội đứng đầu sẽ được thăng hạng lên Liga Portugal và hai đội có thứ hạng thấp nhất sẽ xuống hạng Liga 3 mới (trước đây họ xuống hạng Campeonato de Portugal). Cũng sẽ có một trận play-off lên hạng/xuống hạng hai lượt giữa đội đứng thứ 16 của Primeira Liga và đội đứng thứ 3 của Liga Portugal 2. Các đội B không thể thăng hạng lên Liga Portugal nhưng có thể xuống hạng nếu họ kết thúc mùa giải ở một trong những vị trí xuống hạng hoặc nếu đội chính cũng xuống hạng.
Phát sóng
Kể từ mùa giải 2018–19, tất cả các trận đấu đều được phát sóng bởi Sport TV, mặc dù một số trận đấu chỉ được phát sóng trực tuyến. Ngoại lệ là các trận đấu trên sân nhà của Benfica B và Porto B, được phát sóng bởi Benfica TV và Porto Canal.
Câu lạc bộ
Sân vận động và vị trí
Cho mùa giải 2023–24.
Chú thích
Liên kết ngoài
Official webpage
Giải bóng đá Bồ Đào Nha
Giải bóng đá hạng nhì châu Âu
Khởi đầu năm 1990 ở Bồ Đào Nha
Sự kiện thể thao định kỳ thành lập năm 1990
|
19831345
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mikazuki%20Taiz%C5%8D
|
Mikazuki Taizō
|
(sinh ngày 24 tháng 5 năm 1971) là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Shiga kể từ ngày 20 tháng 7 năm 2014.
Tham khảo
Sinh năm 1971
Người Shiga
|
19831352
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nukaga%20Fukushir%C5%8D
|
Nukaga Fukushirō
|
là một chính khách người Nhật Bản, và là đảng viên Đảng Dân chủ Tự do. Ông là Nghị viên Chúng Nghị viện từ năm 1983 đến nay và đại diện cho quận 2 Ibaraki. Ông từng 2 lần giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng và 1 lần giữ chức Bộ trưởng Tài chính.
Tham khảo
Sinh năm 1944
Nhân vật còn sống
Cựu sinh viên Đại học Waseda
Bộ trưởng Nhật Bản
Hạ nghị sĩ Nhật Bản
Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản
Người Ibaraki
|
19831353
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gepard%20%28ph%C3%A1o%20ph%C3%B2ng%20kh%C3%B4ng%20t%E1%BB%B1%20h%C3%A0nh%29
|
Gepard (pháo phòng không tự hành)
|
Pháo phòng không tự hành Flugabwehrkanonenpanzer Gepard là một tổ hợp pháo phòng không tự hành SPAAG của Lục quân Đức. Pháo được phát triển vào những năm 1960s và đã được nâng cấp nhiều lần với việc trang bị các thiết bị điện tử tiên tiến. Đây là loại pháo phòng không tự hành chủ lực của Lục quân Đức và một số nước NATO.
Quân đội Đức đưa Gepard vào trang bị cuối năm 2010 và được thay thế bởi Wiesel 2 Ozelot Leichtes Flugabwehrsystem (LeFlaSys) trang bị bốn tên lửa đất đối không FIM-92 Stinger hay LFK NG. Một phiên bản phát triển dựa trên pháo Nächstbereichschutzsystem MANTIS và tên lửa LFK NG, trên khung gầm xe thiết giáp GTK Boxer, cũng được cân nhắc.
Pháo PKTH Gepard đã tham gia chiến đấu trong cuộc chiến tranh Nga-Ukraine.
Phát triển
Gepard được phát triển từ năm 1963. Năm 1969, việc chế tạo được bắt đầu với việc chế tạo bốn nguyên mẫu type A thử nghiệm cả pháo 30 và 35 mm. Tháng Sáu năm 1970, nhà phát triển quyết định lựa chọn pháo 35 mm. Năm 1971, mười hai nguyên mẫu type B được đặt hàng chế tạo.
Lục quân Đức chế tạo một lượng nhỏ xe thiết giáp phiên bản B1 và B2R. Tháng Hai năm 1973, chính phủ Tây Đức ra quyết định sản xuất phiên bản thử nghiệm, tháng Chín năm 1973 một bản hợp đồng đã được ký với công ty Krauss-Maffei để chế tạo 432 tháp pháo B2 và 420 thân xe với tổng giá trị hợp đồng 1,2 triệu DM. Mỗi xe thiết giáp có giá gấp ba lần một chiếc Leopard 1 thông thường. Chiếc đầu tiên được chuyển giao cho quân đội vào tháng Mười hai năm 1976. Bỉ cũng đặt mua 55 chiếc, cùng phiên bản với quân đội Đức. Hà Lan đặt hàng 95 chiếc, được trang bị hệ thống radar của Philips.
Kể từ những năm thập niên 80s, các khẩu đội tên lửa phòng không vác vai Redeye và sau đó là Stinger được phối thuộc cho các đơn vị pháo phòng không Gepard nhằm tận dụng tầm bắn xa hơn của tên lửa. Để có thể kết hợp thành một đơn vị hỏa lực, hệ thống pháo được nâng cấp để gắn tên lửa Stinger lên hai bên pháo chính. Hệ thống vũ khí mới được quân đội Đức thử nghiệm nhưng không tiến hành trang bị do giới hạn ngân sách. Thay vào đó, hệ thống phòng không hạng nhẹ Ozelot Light Air Defence System (LeFlaSys) đã được triển khai trong trang bị của ba Lữ đoàn dù.
Đặc điểm kỹ thuật
Hệ thống được phát triển dựa trên khung gầm xe tăng Leopard 1 với tháp pháo lớn gắn hai khẩu pháo tự động 35 mm Oerlikon KDA.
Khung gầm và hệ thống động lực
Gepard được phát triển dựa trên khung gầm Leopard 1, nó tương tự với Leopard 1 về khối động cơ 10 xi lanh sản xuất bởi MTU Aero Engines, đạt công suất 610 kW tại vòng quay 2200 RPM, tiêu thụ nhiên liệu ở mức 150 lít/100 km tùy vào điều kiện địa hình. Hộp số (kiểu: 4 HP-250) do ZF Friedrichshafen sản xuất và hệ thống xả trộn lẫn với khí trời giúp giảm bộc lộ hồng ngoại cũng được lấy từ xe tăng Leopard 1.
Gepard còn được trang bị động cơ phụ diesel 4 xi lanh của Daimler-Benz (kiểu: OM 314). Động cơ được đặt phía trước xe ở vị trí hộc chứa đạn trên xe Leopard 1. Động cơ phụ với dung tích 3,8 lút được thiết kế để sử dụng nhiều loại nhiên liệu và có công suất . Động cơ tiêu thụ 10-20 lít nhiên liệu một giờ tùy thuộc trạng thái vận hành.
Thân xe được điều chỉnh một chút so với nguyên bản Leopard 1.
Radar và laser
Các xe thiết giáp được chuyển giao cho Đức và Bỉ được trang bị radar do Siemens sản xuất MPDR 12 băng tần S, gắn thấp phía sau tháp pháo, cho tầm quét 15 km bán cầu trước và được tích hợp máy hỏi MSR 400 Mk XII để tự động phân biệt mục tiêu. Radar bám mục tiêu băng tần Ku cũng được phát triển bởi Siemens-Albis có tầm quét 15 km và được gắn phía trước xe, nằm giữa hai khẩu pháo; nó có thể bao quát góc rộng 180 độ. Ngoài ra, Gepard còn có ống ngắm quang học ổn định hai mặt phẳng, kính ngắm toàn cảnh cho cả trưởng xe và pháo thủ với độ phóng đại 1,5 lần ở trường nhìn 60 độ và 6 lần ở trường nhìn hẹp 12,5 độ. Một máy đo khoảng cách laser được trang bị trên phiên bản nâng cấp B2L, được đặt trên đỉnh ăng te.
Pháo
Pháo có chiều dài gấp 90 lần đường kính (), với vận tốc đầu nòng (Đạn FAPDS (Đạn xuyên giáp văng mảnh thoát vỏ ổn định bằng cánh đuôi-Frangible Armour Piercing Discarding Sabot)), cho tầm bắn hiệu dụng . Cỡ đạn sử dụng là 35×228mm (STANAG 4516).
Pháo tự động KDA sử dụng hai dây tiếp đạn cùng lúc cho hai loại đạn khác nhau, thông thường mỗi khẩu pháo được nạp 320 viên từ trong tháp pháo và 20 viên xuyên giáp từ kho chứa nhỏ bên ngoài.
Pháo có tốc độ bắn 550 viên/phút mỗi khẩu, cho phép hai khẩu pháo bắn liên tục 35 giây trước khi hết đạn (640 viên cho cả hai khẩu). Đây là tiêu chuẩn khi bắn tạo màn hỏa lực chống lại mục tiêu bay, hoặc 24 viên mỗi khẩu (48 viên cả hai khẩu) một phút và 48 viên mỗi khẩu một phút trong chế độ bắn thông thường. 40 viên đạn xuyên giáp được sử dụng trong chống mục tiêu mặt đất bọc giáp nhẹ.
Các phiên bản
radar tìm kiếm: băng tần S, cự ly 15 km
Radar bắt bám: băng tần Ku, cự ly 15 km
Đo xa laser
radar tìm kiếm: băng tần X, cự ly 15 km
Radar bắt bám: X/Ka band, tầm 13 km
Hoạt động
Pháo phòng không Gepard đã được triển khai trong cuộc chiến Nga-Ukraina 2022.
Các nước vận hành
: 36 hệ thống từ quân đội Đức.
: 60 hệ thống cũ từ Hà Lan với giá 21 triệu đô la.
:
: 43 hệ thống (36 + 7 dự trữ), tất cả đều từ kho vũ khí niêm cất của Đức.
:
Từng vận hành
: 55 hệ thống trong trang bị, đã được rút khỏi trang bị và bán cho các công ty tư nhân.
: Nhận bốn hệ thống năm 2008, và trả lại Đức vào tháng Một năm 2011. Đơn hàng đặt mua 30 hệ thống bị hủy bỏ do giá thành nâng cấp/sửa chữa quá cao.
: 420 hệ thống (195 phiên bản B2 và 225 phiên bản B2L với định tầm laser). Trong những năm 1980s chúng được trang bị cho bảy sư đoàn cơ giới của Đức, mỗi sư đoàn có sáu khẩu đội và một sư đoàn bổ sung với biên cế ba khẩu đội tổng cộng 69 khẩu đội mỗi khẩu đội có 6 đơn vị xe phòng không Gepard.
: 95 hệ thống, loại biên năm 2006; 60 hệ thống được bán cho Jordan năm 2013.
Các hệ thống tương tự
Fliegerabwehrpanzer 68
K30 Biho
Korkut
M247 Sergeant York
Marksman anti-aircraft system
PZA Loara
2K22 Tunguska
Type 87 self-propelled anti-aircraft gun
Type 95 SPAAA
ZSU-23-4 Shilka
CV9040 LvKv90
Pantsir missile system
Tham khảo
Liên kết ngoài
Gepard Photos and Walk Arounds on Prime Portal
Gepard at Army Technology
Gepard at GlobalSecurity.org
Gepard at Defence Journal
35 mm artillery
Armoured fighting vehicles of Germany
Cold War military vehicles of Germany
Military vehicles introduced in the 1970s
Self-propelled anti-aircraft weapons
|
19831355
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/LFK%20NG
|
LFK NG
|
LFK NG là viết tắt của Lenkflugkörper Neue Generation ("Tên lửa tự dẫn thế hệ mới") là một chương trình phát triển tên lửa phòng không tầm ngắn đã bị hủy bỏ do MBDA và Diehl Defence phát triển cho Lục quân Đức và cũng dự kiến được tích hợp trong chương trình phát triển vũ khí phòng không mới SysFla bổ trợ cho hệ thống phòng không Ozelot. Đây là một phiên bản của tên lửa tầm nhiệt không đối không IRIS-T.
Tên lửa sẽ được trang bị đầu dò tầm nhiệt độ nhạy cao có khả năng phân biệt mục tiêu có độ bộc lộ tín hiệu hồng ngoại thấp, như các tên lửa hoặc UAV. Nó được trang bị đầu đạn xuyên giáp để đối đầu với trực thăng vũ trang. Đầu dò được phát triển dựa trên tên lửa IRIS-T.
Tên lửa được thiết kế để có thể phóng thẳng đứng từ các bệ phóng cố định, xe tải hoặc xe thiết giáp như GTK Boxer và Ozelot, hoặc phóng từ phương ngang từ máy bay trực thăng như Eurocopter Tiger.
Tuy nhiên chương trình phát triển đã bị hủy bỏ vào năm 2011.
Đặc tính kỹ thuật
Chiều dài: 1,8 m
Đường kính: 110 mm
Tầm bắn: 10,000 m
Tốc độ: Tới Mach 2,2
Trọng lượng: 28 kg
Đầu đạn: 2,5 kg
Xem thêm
Machbet
Medium Extended Air Defense System – hệ thống phòng không tương lai của Không quân Đức.
Nächstbereichschutzsystem MANTIS – hệ thống phòng không tầm cực gần.
SPYDER
Tham khảo
Link ngoài
Post–Cold War weapons of Germany
Surface-to-air missiles of Germany
21st-century surface-to-air missiles
|
19831357
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sikou%20Niakat%C3%A9
|
Sikou Niakaté
|
Sikou Niakaté (sinh ngày 10 tháng 7 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Braga tại Giải bóng đá Ngoại hạng Bồ Đào Nha. Sinh ra tại Pháp, anh thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Mali trên đấu trường quốc tế.
Đầu đời
Sikou Niakaté được sinh ra tại Montreuil, Pháp, mang 2 hộ chiếu quốc tịch Pháp và Mali.
Sự nghiệp thi đấu
Valenciennes
Niakaté ra mắt chuyên nghiệp cho Valenciennes FC trong trận thua 1–0 tại Ligue 2 trước Nîmes Olympique vào ngày 31 tháng 7 năm 2017, ở tuổi 18.
Guingamp
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2018, ngày cuối cùng của kỳ chuyển nhượng mùa hè 2018, Niakaté gia nhập đội bóng Ligue 1 Guingamp theo hợp đồng 5 năm. Anh ngay lập tức được cho Valenciennes mượn trong phần còn lại của mùa giải.
Cho mượn tại Metz
Vào ngày 12 tháng 8 năm 2021, anh gia nhập Metz theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải kèm theo tùy chọn mua.
Cho mượn tại Braga
Vào ngày 28 tháng 6 năm 2022, Niakaté chuyển đến Braga ở Bồ Đào Nha. Braga có quyền lựa chọn quyền mua của anh khi kết thúc hợp đồng cho mượn với giá 1,8 triệu euro và nếu anh chơi một nửa số trong số trận chính thức trong mùa giải, quyền chọn này sẽ trở thành nghĩa vụ phải mua.
Braga
Vào ngày 7 tháng 6 năm 2023, Braga tuyên bố kích hoạt điều khoản và Niakaté ký hợp đồng 5 năm với đội bóng.
Vào ngày 21 tháng 9 năm 2023, bàn phản lưới nhà của Niakaté ở phút thứ 88 đã khiến cho Braga nhận thất bại 2–1 trên sân nhà trước SSC Napoli. Đây là trận đấu đầu tiên của Braga tại UEFA Champions League trong hơn 1 thập kỷ.
Sự nghiệp quốc tế
Niakaté được gọi triệu tập lên đội tuyển U-17 Pháp vào tháng 12 năm 2015, trở thành cầu thủ đầu tiên của Évreux FC 27 được gọi triệu tập lên đội tuyển U-17 quốc gia nước này trong lịch sử.
Niakaté được gọi lên đội tuyển Mali chuẩn bị cho trận đấu tại Vòng loại giải vô địch bóng đá thế giới 2018 gặp Gabon. Anh chính thức quyết định đại diện cho quê hương Mali vào năm 2023. Anh có trận ra mắt quốc gia châu Phi này trong chiến thắng 4–0 trước Nam Sudan tại Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2023.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1999
Nhân vật còn sống
Hậu vệ bóng đá nam
Hậu vệ bóng đá
Trung vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Cầu thủ bóng đá Mali
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Mali
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Mali ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bồ Đào Nha
Cầu thủ bóng đá Valenciennes FC
Cầu thủ bóng đá En Avant Guingamp
Cầu thủ bóng đá FC Metz
Cầu thủ bóng đá S.C. Braga
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Ligue 2
Cầu thủ bóng đá Primeira Liga
|
19831374
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Namcito
|
Namcito
|
Nam Nguyễn, còn được biết đến với nghệ danh Namcito, sinh ngày 11 tháng 03 năm 1983, là một nhà sản xuất phim, đạo diễn, nhà làm phim kiêm doanh nhân người Việt Nam.
Tiểu sử
Namcito xuất thân từ gia đình có truyền thống nghệ thuật. Mẹ anh là diễn viên chèo. Cô dì chú bác đều tham gia nghệ thuật trong quân đội.
Sự nghiệp
Anh bắt tay thực hiện bộ phim điện ảnh đầu tiên Gái già lắm chiêu (2016) cùng đạo diễn Bảo Nhân. Đây là tác phẩm mở đầu cho những thành công liên tiếp của vũ trụ Gái già lắm chiêu.
Hai người tiếp tục sản xuất các dự án thành công như Mùa oải hương năm ấy, Chạy đi rồi tính, series điện ảnh Gái già lắm chiêu, Cô gái từ quá khứ. Thành công của Gái già lắm chiêu 2, Gái già lắm chiêu 3 và Gái già lắm chiêu V - Những cuộc đời vương giả mang về cho cả hai giải thưởng Đạo diễn xuất sắc tại các giải thưởng điện ảnh như Ngôi Sao Xanh 2019, Giải Cánh diều 2020.
Ngoài ra, Namcito và Bảo Nhân còn thực hiện remake bộ phim Hàn Quốc nổi tiếng She was pretty (VTV3), với tựa Việt Mối tình đầu của tôi.
Đầu năm 2022, bộ đôi Đạo diễn/Nhà sản xuất chính thức công bố ra mắt vũ trụ điện ảnh mới mang tên Vũ Trụ Mỹ Nhân.
Danh sách phim và chương trình
Phim điện ảnh
Phim truyền hình
Phim sitcom
Chương trình talkshow, phim du lịch
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Liên kết ngoài
Danh sách phim điện ảnh Việt Nam có doanh thu cao nhất
__LUÔN_MỤC_LỤC__
Nhân vật còn sống
Đạo diễn Việt Nam
Biên kịch phim Việt Nam
Sinh năm 1983
|
19831383
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20Ada%20Lovelace
|
Ngày Ada Lovelace
|
Ngày Ada Lovelace là một sự kiện quốc tế diễn ra hàng năm được tổ chức vào ngày Thứ Ba thứ hai của tháng 10. Ngày này được đặt tên theo Ada Lovelace, người được mệnh danh là lập trình viên đầu tiên trên thế giới. Niềm đam mê và tầm nhìn của bà đối với công nghệ, đã biến bà trở thành một biểu tượng mạnh mẽ cho phụ nữ hiện đại trong lĩnh vực công nghệ. Trong ngày Ada Lovelace, các sự kiện và hoạt động được tổ chức để tôn vinh thành tựu và thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, và toán). Các hoạt động thường bao gồm các bài giảng, hội thảo, triển lãm và nhiều sự kiện cộng đồng khác.
Bà Suw Charman-Anderson, người sáng lập ra dự án Ngày Ada Lovelace, chia sẻ: "Ngày Ada Lovelace là ngày để kể những câu chuyện của những người phụ nữ trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Những câu chuyện này vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc truyền cảm hứng cho các bé gái và phụ nữ đang cân nhắc theo học STEM, những câu chuyện còn cho thấy rằng họ cũng có thể theo đuổi sự tò mò của mình và xây dựng lên sự nghiệp. Còn với những phụ nữ đã theo đuổi STEM, qua đó họ cũng có thể thấy rằng họ không đơn độc và chạm tới thành công là điều có thể. Và cũng chính họ sẽ đem đến cho người khác những câu chuyện của họ nhằm thấu hiểu, truyền cảm hứng và hỗ trợ những người phụ nữ trong đời họ."
Lịch sử
Năm 2009, bà Suw Charman-Anderson đã đăng một "lời tuyên thệ" lên trang xã hội PledgeBank (nền tảng cũ của mySociety): "Tôi sẽ đăng một bài blog vào hôm thứ Ba ngày 24 tháng 3 về một phụ nữ trong lĩnh vực công nghệ mà tôi ngưỡng mộ nhưng chỉ khi 1.000 người khác cũng làm như vậy." Và đó chính là tiền thân của dự án Ngày Ada Lovelace, khi có tới gần 2000 người tham gia vào đóng góp những bài blog, mục báo cho chủ đề tương tự, trong đó có cả trang The Guardian, The Telegraph, cùng những báo lớn khác đưa tin. Suw Charman-Anderson nhận ra rằng vấn đề không phải là thiếu phụ nữ trong lĩnh vực công nghệ, mà là việc họ không được nhìn nhận và tôn vinh một cách xứng đáng.
Kể từ khi thành lập, Ngày Ada Lovelace đã có quy mô quốc tế, với các sự kiện được tổ chức bởi các nhóm từ bảo tàng, hiệp hội nghề nghiệp, trường đại học, cao đẳng và trung học. Mặc dù Ngày Ada Lovelace là ngày thứ Ba thứ hai của tháng 10, nhưng các sự kiện tôn vinh phụ nữ trong lĩnh vực STEM thường kéo dài trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 11 và bao gồm các hoạt động đa dạng, từ các cuộc thi Wikipedia Editathons trực tiếp/từ xa cho đến các buổi thảo luận nhóm và chiếu phim.
Các hoạt động cho ngày lễ tôn vinh này đã càng mở rộng thêm kể từ năm 2009 để nêu bật những đóng góp đa dạng của phụ nữ trong ngành STEM ở các quốc gia khác nhau. Nhiều sự kiện đề cao các sáng kiến chính sách và học bổng liên quan đến tính công bằng, đa dạng và hòa nhập; mang lại không gian và nền tảng cho việc đối thoại và thảo luận về cách thức hoạt động của thiên kiến vô thức, nguyên do chính tạo ra rào cản đối với những đóng góp và tiến bộ của phụ nữ trong các lĩnh vực chuyên môn của STEM.
Liên kết ngoài
Trang chính thức của dự án Ngày Ada Lovelace
Sự kiện editathons Ngày Ada Lovelace do Wikimedia UK phối hợp tổ chức
Blog cá nhân của bà Suw Charman-Anderson
Đọc thêm
Ada Lovelace
Bức trần kính
Lĩnh vực STEM
Phân biệt giới tính
Phân cực dựa trên giới tính
Mất cân bằng giới tính trong lĩnh vực STEM
Sự khác biệt giới tính về trí thông minh
Dòng thời gian của phụ nữ trong khoa học
Ngày Quốc tế Phụ nữ và Trẻ em gái trong Khoa học (11 tháng 2)
Tham khảo
Đạo đức khoa học và công nghệ
Phụ nữ trong lĩnh vực STEM
Phụ nữ trong khoa học
Phụ nữ trong công nghệ
Khởi đầu năm 2009 ở Vương quốc Liên hiệp Anh
Ngày nhận thức
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười
Sự kiện định kỳ thành lập năm 2009
|
19831385
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o%20gia%20%C4%90an%20%C4%91%E1%BA%A1o
|
Đạo gia Đan đạo
|
Đan đạo là một nhánh tu luyện của các tu sĩ đạo gia, được thừa nhận khởi nguồn từ đức Lão Tử, về sau được Lữ Động Tân hợp nhất và phát triển thành đan đạo.
1. Đặc trưng của Đạo gia Đan đạo
Phương pháp tu luyện Tính mệnh song tu
Ngưng thần kết đan: Gọi là Nội đan
Vạn giáo đồng nguyên
2. Sự khác biệt của khí công và nội đan
Khí công chủ trương tích khí ở đan điền, khí đủ thì khai thông 2 mạch nhâm – đốc. Sau đó có tác dụng cường kiện thân thể, hoặc tán khí ra tứ chi để biểu diển công phu…
Đan đạo chủ trương ngưng thần, thu tiên thiên khí, kết thành kim đan, vậy nên gọi là Nội đan vậy.
3. Đường lối tu luyện: Tính mệnh song tu
Tính mệnh song tu là đặc trưng tu luyện của đạo gia đan đạo và các hành giả nội đan
A - TÍNH PHÁP
Tính tức là thần, cũng có nghĩa là bản nguyên, ám chỉ ý thức của một người
Tính pháp tu tập của hành giả nội đan hoàn toàn tương đồng với hành giả Phật gia, có thể chia ra ba bộ như sau:
Dưỡng tính
Tu tính
Kiến tính
Đặc trưng tu luyện đan đạo đó là ngưng thần mà thành đan, cho nên bắt buộc phải dùng tính pháp để hàm dưỡng bản nguyên, từ đó công phu có thể thăng bật lên cao hơn.
Các sách tính pháp mà hành giả nội đan thường đọc có thể kể đến:
Đạo Đức kinh
Nam Hoa kinh
Thanh Tĩnh kinh
Cảm Ứng kinh
Tam Ni Y Thế
B - MỆNH PHÁP
Mệnh chính là khí, ám chỉ trạng thái năng lượng bên trong cơ thể
Tương tự như tính pháp, mệnh pháp cũng có thể chia làm ba bộ:
Luyện tinh
Luyện khí
Luyện thần: Nội đan
B1 - Luyện tinh: Hàm dưỡng bản nguyên, cứu hộ bảo mệnh
Gồm có luyện thể dưỡng sinh và luyện cốc hóa huyết sinh tinh, giai đoạn nhập môn này chủ yếu là đem cơ thể quân bình trở về trạng thái cân bằng âm dương, làm nền cho giai đoạn tiếp theo, 4 yếu tố cần cân bằng là Thanh – Trọc – Động – tĩnh, tương ứng với ăn ngủ, vận động, nghĩ ngơi, thu tâm.
B2 - Luyện khí: Phục lại càn khôn, thu tiên thiên khí
Mục đích của tu luyện nhằm để con người hợp nhất với trời đất, từ đó thu được khí tiên thiên. Muốn như thế thì trong thân con người phải tạo lập được càn khôn (bát quái tiên thiên) thì mới ứng ra được với trời đất. Mà như ta biết thân người khi sinh thì càn khôn dịch chuyển, đảo quái mà khảm ly làm chủ (bát quái hậu thiên), vì thế phải dùng phép thủy hoả ký tế mục đích để phục lại càn khôn.
Công phu giai đoạn này còn có tên là phục khí, thu được khí tiên thiên thì mới có nguyên liệu (dược vật) để tiến hành ngưng đan ( giai đoạn 3)
B3 - Luyện thần: Kết đan, Hoàn đan & Chuyển đan
Đan đạo từ thời Lữ Động Tân xem cơ thể như lò đan (lò bát quái) gọi là Lô – Đỉnh, xem thần – khí như dược vật, lại dùng Phong – Hỏa để điều hòa, nấu luyện, gọi là luyện đan
Bước sơ khởi: Dược vật (thần – khí) đưa vào Lô- Đỉnh, kết hợp hỏa hậu, trải qua nấu luyện, loại bỏ tạp chất, hình thành bán thành phẩm đầu tiên của luyện đan.
Trải qua công phu luyện đan, bán thành phẩm cuối cùng cũng thành đan hoàn chỉnh, gọi là kết đan. Đan dược này nếu lấy ra để cho cơ thể sử dụng thì gọi là Hoàn đan, nếu tiếp tục đưa vào lò để luyện lên đan dược phẩm chất cao hơn, gọi là chuyển đan
Kim đan cửu chuyển
Tùy từng phái mà tên gọi có sự khác nhau, sau đây là tên gọi 9 cấp độ chuyển đan của Tây Phái:
Đệ Nhất chuyển: Tiểu hoàn đan
Đệ Nhị chuyển: Âm dương hoàn đan
Đệ Tam chuyển: Tam nguyên hoàn đan
Đệ Tứ chuyển: Ngọc dịch hoàn đan
Đệ Ngũ chuyển: Kim dịch hoàn đan
Đệ Lục chuyển: Đại hoàn đan
Đệ Thất chuyển: Thất phản hoàn đan
Đệ Bát chuyển: Thượng trung hạ hoàn ñan
Đệ Cữu chuyển: Cửu chuyển hoàn ñan
Ngoại đan
Nhiều người cho rằng ngoại đan là sử dụng thuốc để thay thế hoặc bổ trợ cho tu luyện (đồng dạng với giả kim thuật của phương Tây), các khái niệm về ngoại đan đầu tiên xuất hiện trong các sách Thần Nông Thảo Kinh và Tham Đồng Khế
Trên thực tế thì ngoại đan trong đan đạo còn ám chỉ khả năng xuất dương thần ra khỏi cơ thể, nội đan ngoại phóng.
4. Triết lý Vạn đạo quy nhất của tu sĩ nội đan
Các hành giả nội đan đi theo triết lý phi tôn giáo, và vạn giáo đồng nguyên, học tập và kế thừa tinh hoa của mọi tôn giáo. Đức Lão tử nói: "Một thành hai, hai thành ba, ba thành vạn”, tu hành giả, muốn ngộ đạo, tất phải từ cái vạn đó mà quay trở về cái một, chính là đạo ban đầu vậy.
5. Nội đan và đan đạo tại Việt Nam
Việt Nam hiện tại có đầy đủ truyền thừa, cũng như kinh sách của các cổ phái, nhưng đa số hoạt động theo các nhóm nhỏ, không lập phái.
Do đặc trưng tu tập tính pháp theo Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, các hành giả đan đạo thường ẩn cư hoặc hoạt động sinh hoạt theo nhóm nhỏ, người ngoài khó nhận biết được.
Tham khảo hoặc Chú thích
Đạo đức kinh
Nam Hoa Kinh
Tính mệnh khuê chỉ toàn thư
|
19831401
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ngo%E1%BA%A1i%20h%C3%A0nh%20tinh%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20ph%C3%A1t%20hi%E1%BB%87n%20n%C4%83m%202000-2009
|
Danh sách ngoại hành tinh được phát hiện năm 2000-2009
|
Danh sách các ngoại hành tinh được phát hiện vào năm 2000-2009 là danh sách các ngoại hành tinh được quan sát lần đầu tiên vào năm 2000-2009.
Danh sách
Tham khảo
2000-2009
|
19831404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20quan%20s%C3%A1t%20%28thuy%E1%BA%BFt%20t%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%91%E1%BB%91i%20h%E1%BA%B9p%29
|
Người quan sát (thuyết tương đối hẹp)
|
Trong thuyết tương đối hẹp, người quan sát (tiếng Anh: observer) là một hệ quy chiếu mà từ đó một tập hợp các vật thể hoặc sự kiện đang được đo lường. Thông thường, đây là hệ quy chiếu quán tính hoặc "người quan sát quán tính" ("inertial observer"). Ít thường xuyên hơn, người quan sát có thể là một hệ quy chiếu phi quán tính tùy ý, chẳng hạn như hệ quy chiếu Rindler mà có thể được gọi là "accelerating observer".
Nói về người quan sát trong thuyết tương đối hẹp không phải là đưa ra giả thuyết cụ thể về một cá nhân đang trải qua các sự kiện, mà đúng hơn đó là một bối cảnh toán học cụ thể mà từ đó các vật thể và sự kiện sẽ được đánh giá.
Lịch sử
Albert Einstein thường xuyên sử dụng từ "người quan sát" (Beobachter) trong bài báo đầu tiên năm 1905 của ông về thuyết tương đối hẹp và trong bài trình bày phổ biến đầu tiên của ông về chủ đề này. Tuy nhiên, ông đã sử dụng thuật ngữ này theo nghĩa thông thường của nó, ví dụ như đề cập đến "người ở cửa sổ toa xe lửa" hoặc "những người quan sát lấy đoàn tàu làm vật thể tham chiếu". Ở đây, vật thể tham chiếu hoặc hệ tọa độ—một sự sắp xếp vật lý của các thước đo (meterstick) và clock bao phủ vùng không–thời gian nơi các sự kiện diễn ra—được phân biệt với người quan sát—một người thí nghiệm (experimenter) gán tọa độ không–thời gian cho các sự kiện ở xa người đó bằng cách quan sát (theo nghĩa đen là nhìn thấy) sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa các sự kiện đó và các đặc điểm cục bộ của vật thể tham chiếu.
Tham khảo
Thuyết tương đối hẹp
|
19831411
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%B0%E1%BB%9Bc%20v%C3%A0o%20%28kh%C3%A1i%20ni%E1%BB%87m%29
|
Bước vào (khái niệm)
|
Bước vào () là khái niệm New Age về một người có linh hồn ban đầu đã rời khỏi cơ thể của họ và được thay thế bằng một linh hồn mới trông khác biệt hơn. Ruth Montgomery đã phổ biến khái niệm này trong cuốn sách năm 1979 của bà có nhan đề Strangers Among Us (tạm dịch: Kẻ lạ mặt giữa chúng ta).
Định nghĩa
Những người tin tưởng vào khái niệm này cho rằng linh hồn nguyên thủy của con người có thể rời khỏi thể xác của một người và một linh hồn khác có thể "bước vào" nhằm thế chỗ người cũ. Trong tác phẩm của Montgomery, linh hồn được cho là "bước vào" trong suốt khoảng thời gian linh hồn đang trải qua những vấn đề cá nhân căng thẳng, hoặc do gặp phải một tai nạn hoặc chấn thương nào đó. Một số người bước vào khác mô tả sự tiếp nhận của họ diễn ra dựa trên thỏa thuận từ trước đó và khi linh hồn cũ đã hoàn thiện. Sinh vật/cá nhân bước vào vẫn giữ lại ký ức của nhân cách ban đầu, nhưng không có cảm xúc gắn liền với ký ức. Khi nhập thể, họ mang theo ý thức tinh thần, cảm xúc, tâm linh của riêng mình và phát triển kiếp sống này nhằm cộng hưởng với mục đích và ý định của họ. Việc nhập thể vào một cơ thể trưởng thành hoàn toàn cho phép linh hồn bước vào tham gia hóa kiếp mà không cần phải trải qua hai thập kỷ trưởng thành mà con người cần để đạt đến độ tuổi trưởng thành. Một linh hồn bước vào cũng không trải qua điều kiện trong độ tuổi ấu thơ và có mối quan hệ khác với kiếp sống này vì họ chưa được sinh ra đời.
Nhà ngoại cảm Robert Schwartz trong cuốn Kế hoạch của linh hồn đã giải thích về khái niệm này như sau: "Khi một linh hồn kết luận rằng mình đã học xong hoặc sẽ không bao giờ học được những điều mà mình tìm kiếm trong một kiếp sống cụ thể, linh hồn đó có thể "bước ra" khỏi cơ thể, có nghĩa là linh hồn đó sẽ rút năng lượng ra khỏi cơ thể vật lý. Thông thường, sự rút năng lượng sẽ có kết quả là cái chết của thể xác. Tuy nhiên, nếu một linh hồn khác cảm thấy việc học của mình sẽ hiệu quả nhất nếu bắt đầu từ một hóa thân ở chặng sau của một kiếp sống thay vì từ một đứa trẻ sơ sinh, linh hồn đó có thể chọn "bước vào" cơ thể nói trên. Theo cách này, một sự trao đổi xảy ra. Sau đó, người bước vào có mọi ký ức của linh hồn gốc, như thể họ đã chiếm giữ cơ thể này từ khi sinh ra. Mặc dù những ký ức ở lại, đôi khi có những thay đổi rõ rệt ở phàm ngã có thể gây ra những khó khăn với các mối quan hệ. Một vài người bước vào có ý thức về những gì đã xảy ra, số khác thì không. Rất nhiều người có nhận thức chọn không chia sẻ thông tin này vì nỗi sợ bị chế giễu."
Ảnh hưởng văn hóa
Bộ phim năm 1941 Here Comes Mr. Jordan và bản làm lại năm 1978 Heaven Can Wait miêu tả một linh hồn nọ thay thế linh hồn của một người đàn ông vừa qua đời và hồi sinh để sống trong cơ thể anh ta.
Bộ truyện tranh Hawkgirl, loạt sách và phim K-PAX, cũng như tập "The Last Rites of Jeff Myrtlebank" của bộ phim Twilight Zone đều có tất cả các tình huống đặc trưng tương tự hoặc giống hệt với trải nghiệm bước vào, mặc dù thuật ngữ "bước vào" không được sử dụng.
Trong chu kỳ câu chuyện Death of Superman, một số siêu anh hùng mới xuất hiện, trong số đó có John Henry Irons, kẻ tự xưng là "Man of Steel". Irons chưa bao giờ tự nhận mình là Siêu Nhân thực sự, nhưng Lois Lane suy đoán rằng nếu Siêu nhân thật đã chết, có lẽ linh hồn của anh ta đã di chuyển vào cơ thể của Irons khi bước vào, và cô ấy đã sử dụng từ đó.
Tập "Red Museum" của phim truyền hình The X-Files có thảo luận về hiện tượng bước vào, được Mulder mô tả là những linh hồn giác ngộ chiếm hữu cơ thể của những người đã mất hy vọng và muốn từ bỏ kiếp sống của họ. Khái niệm này được quay trở lại trong các tập "Sein Und Zeit" và "Closure".
Trong loạt phim truyền hình Ghost Whisperer, tập "Threshold" mùa 4 đã sử dụng thuật ngữ "bước vào" khi linh hồn của một trong những nhân vật chính loạt phim này, vốn đã chết ở tập trước, nhập vào cơ thể của một người đàn ông thiệt mạng trong một vụ tai nạn không mấy liên quan.
Stephen King nói về những người "bước vào" nhiều lần trong cuốn 6 và 7 của bộ tiểu thuyết The Dark Tower, nhưng người bước vào của King thường là nhà du hành thực tế, hoặc - khi họ sở hữu cơ thể của người khác - là khách nhiều hơn, chia sẻ thể xác với tâm trí chủ cũ như người xa lạ. John Callum có nhắc đến họ trong tập The Dark Tower VI: Song of Susannah. Thuật ngữ này cũng được sử dụng trong phần CODA của cuốn sách này. Trong The Talisman, do King đồng sáng tác, khái niệm "Twinner" được trình bày theo cách tương tự: Twinner là những cá thể riêng biệt nhưng về cơ bản giống nhau, sống tồn tại song song trên Trái Đất và trong Lãnh Giới. Nếu một trong hai hoặc cả hai nhận thức được Twinner của mình, họ có thể học cách chiếm giữ cơ thể của người kia trong thế giới tương ứng của họ theo kiểu bước vào.
Nhân vật chính Myne trong Honzuki no Gekokujō vốn là một người bước vào. Ban đầu chỉ là một cuốn light novel, mãi về sau câu chuyện này mới được phát hành dưới dạng anime vào tháng 10 năm 2019.
Tham khảo
New Age
Đầu thai
|
19831412
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A0ng%20th%C6%B0%20Akasha
|
Tàng thư Akasha
|
Tàng thư Akasha () theo thông thiên học và nhân trí học thì đây là một kho lưu trữ tất cả các sự kiện, suy nghĩ, lời nói, cảm xúc và ý định phổ quát từng xảy ra trong quá khứ, hiện tại hoặc tương lai đối với tất cả các thực thể và dạng sống, không chỉ con người. Các nhà thông thiên học tin rằng chúng được mã hóa trong một cõi giới tồn tại phi vật chất được gọi là cõi linh giới. Vì người ta tin rằng các bản ghi chép đều được mã hóa rung động vào kết cấu vốn có của không gian, nên một số người đã ví cơ chế này tương tự như cách tạo ra toàn ảnh ba chiều. Hiện tại không có bằng chứng khoa học nào cho sự tồn tại của tàng thư Akasha và nghiên cứu khoa học nghiêm ngặt trong lĩnh vực này không đưa lại kết quả khả quan nào.
Akasha ( ) là từ tiếng Phạn có nghĩa là "aether", "bầu trời" hoặc "khí quyển".
Lịch sử
Hội Thông thiên học
Thuật ngữ tiếng Phạn akasha được đưa vào ngôn ngữ thông thiên học là nhờ Helena Blavatsky (1831–1891), người đã mô tả nó như một loại sinh lực; bà ấy cũng đề cập đến "những viên tinh thể ánh sáng không thể phá hủy" ghi lại cả quá khứ và tương lai suy nghĩ và hành động của con người, nhưng Blavatsky không hề sử dụng thuật ngữ "akasha".
Khái niệm về tàng thư Akasha được Alfred Percy Sinnett phổ biến rộng rãi hơn trong cuốn sách mang tên Esoteric Buddhism (1883) khi ông trích dẫn cuốn A Buddhist Catechism (1881) của Henry Steel Olcott. Olcott đã viết rằng "Đức Phật đã dạy hai điều là vĩnh cửu, đó là 'Akasa' và 'Niết bàn': mọi thứ đều xuất phát từ Akasa tuân theo quy luật chuyển động vốn có trong đó và qua đi. Không có gì bắt nguồn từ hư vô cả".
Nhờ cuốn Clairvoyance (1899) của C. W. Leadbeater mà sự liên kết giữa thuật ngữ này với ý tưởng được hoàn tất, và ông đã xác định tên gọi của tàng thư Akasha là thứ mà một nhà thấu thị có thể đọc được.
Trong cuốn Man: Whence, How and Whither năm 1913, Leadbeater tuyên bố đã ghi lại lịch sử của Atlantis và các nền văn minh khác cũng như xã hội tương lai của Trái Đất vào thế kỷ 28.
Alice A. Bailey đã viết trong cuốn sách Light of the Soul từ bộ The Yoga Sutras of Patanjali – Book 3 – Union achieved and its Results (1927) như sau:
Rudolf Steiner
Nhà thông thiên học người Áo, và sau này là người sáng lập ngành Nhân trí học, Rudolf Steiner chủ yếu sử dụng khái niệm tàng thư Akasha qua một loạt bài viết đăng trên tạp chí Lucifer-Gnosis của ông từ năm 1904 đến năm 1908, nơi ông viết về Atlantis và Lemuria, các chủ đề liên quan đến lịch sử và nền văn minh của họ. Ngoài ra, ông còn sử dụng thuật ngữ này trong tiêu đề của các bài giảng về Fifth Gospel được tổ chức vào năm 1913 và 1914, ngay sau khi thành lập Hội Nhân trí học và việc Steiner bị loại khỏi Hội Thông thiên học Adyar.
Số khác
Edgar Cayce tuyên bố mình có thể tiếp cận Tàng thư Akasha.
Nhạc sĩ Prince đã sử dụng khái niệm liên quan đến Tàng thư Akasha như một phương tiện kể chuyện xuyên suốt album The Rainbow Children của mình, nhất là khi đề cập đến lịch sử chế độ nô lệ ở Mỹ.
Nhà thôi miên trị liệu người Mỹ Bruce Goldberg cho rằng: "Chuỗi kiếp sống trần thế của chúng ta chắc chắn không phải là thực tại tối hậu, mà chỉ là một trong nhiều khả năng xác suất. Chính tâm thức của chúng ta là yếu tố đi mãi qua mỗi kiếp tái sinh của chúng ta. Nó có ký ức của tất cả kiếp sống của chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai, bằng cách truy cập vào một khái niệm gọi là đại Tàng thư Akasha. Tàng thư này là dữ liệu ở chiều thứ năm trong vòng luân hồi hay nhân quả của chúng ta. Ngoài ra, tất cả các bài học và hành vi được lưu trong Tàng thư Akasha của mỗi linh thể, và được dùng để xác định mỗi kiếp sống mới".
Tác giả người Nga Anna Marianis thì diễn tả khái niệm này như sau: "Còn một 'nơi cư trú' của nghiệp nữa, ngoài hào quang của con người, đó là không gian cõi Tâm linh. Ở đó có một lớp vật chất vi tế đặc biệt mà triết học Ấn Độ gọi là Akasha, lưu giữ mọi thông tin về tất cả những gì đã từng xảy ra ở tất cả các cõi sống, bao gồm cả cõi Trần thế. Lớp không gian này, giống như một cuốn phim đầy cảm xúc, nắm bắt tất cả các chi tiết trong đời sống tự nhiên và xã hội, tất cả các ngôn từ, hành động và thậm chí cả suy nghĩ của con người".
Tham khảo
Nhân trí học
Thông thiên học
Vũ trụ học bí truyền
Khái niệm triết học thông thiên học
|
19831413
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20T%E1%BB%A9%20Duy
|
Hoàng Tứ Duy
|
Hoàng Tứ Duy (còn gọi là Duy "Dan" Hoang) là nhà hoạt động dân chủ người Mỹ gốc Việt. Ông hiện là Tổng Bí thư Việt Tân, một tổ chức chính trị không được thừa nhận ở Việt Nam. Trước khi trở thành nhà hoạt động dân chủ toàn thời gian, ông từng làm nhân viên ngân hàng đầu tư hơn 10 năm. Ông đã ra điều trần trước các ủy ban của Quốc hội Mỹ về vấn đề nhân quyền và viết bài cho tờ Wall Street Journal, Asia Times Online và các ấn phẩm tiếng Việt hàng đầu. Ông hiện đang sinh sống tại thủ đô Washington, D.C., Hoa Kỳ.
Thân thế và sự nghiệp
Quê quán Sài Gòn, ông rời khỏi Việt Nam vào tháng 4 năm 1975 khi mới lên ba tuổi. Ông lấy bằng Cử nhân từ Đại học California tại Davis và bằng MBA của Đại học Chicago.
Ông từng là giám đốc tài chính chính của Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC), chi nhánh khu vực tư nhân thuộc Ngân hàng Thế giới chịu trách nhiệm về các chương trình tài trợ bằng nội tệ của IFC ở châu Á và Đông Âu. Ông được tuyển mộ làm người đứng đầu các hoạt động ngân hàng đầu tư của Deutsche Bank tại Việt Nam vào năm 2007. Tuy vậy, chính quyền Việt Nam đã từ chối cho phép ông nhập cảnh. Ông có kinh nghiệm lâu năm trong việc tổ chức cho cộng đồng người Việt, tích cực đảm nhiệm vai trò thành viên hội đồng quản trị và người tổ chức.
Ông là người đồng sáng lập và cựu Đồng Chủ tịch Quốc gia của Gala Quốc gia người Mỹ gốc Việt (Vietnamese American National Gala, VANG), một lễ kỷ niệm quốc gia hàng năm về di sản và niềm tự hào của người Việt. Ông còn là người đồng sáng lập ra VOICE, một tổ chức phi lợi nhuận tập trung vào việc vận động bảo vệ dân tị nạn Việt Nam, cũng như giải quyết các vấn đề khác mà lương tâm cộng đồng người Việt đang phải đối mặt.
Ông cũng phục vụ trong Ủy ban Công vụ người Mỹ gốc Việt (VPAC), một tổ chức cấp cơ sở nhằm trao quyền cho người Mỹ gốc Việt thông qua sự tham gia của công dân. Với tư cách là thành viên VPAC, ông đã điều trần trước Ủy ban Cách thức và Phương tiện Hạ viện về quan hệ thương mại Mỹ-Việt.
Hoạt động ủng hộ dân chủ
Hoàng Tứ Duy quyết định bỏ nghề nhân viên ngân hàng đầu tư để gia nhập Việt Tân toàn thời gian vào năm 2007. Ông là thành viên ban lãnh đạo tổ chức này từ năm 2001, hiện giữ chức vụ người phát ngôn. Ông cũng tích cực nâng cao nhận thức về sự nguy hiểm của việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên tại Việt Nam. Ông đã ra điều trần trước các ủy ban của Quốc hội Mỹ về vấn đề nhân quyền, kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ cải cách dân chủ ở Việt Nam.
Khi số lượng người dùng Internet đạt đến mức đáng kể ở Việt Nam, Việt Tân đã phát động Chiến dịch Tự do Internet, khiến ông thẳng thắn lên tiếng ủng hộ cư dân mạng Việt Nam được quyền tiếp cận mạng Internet. Ông đã ra điều trần trước một cuộc họp báo của Quốc hội về Tự do Internet ở Việt Nam và phát biểu tại các hội nghị về chiến lược thúc đẩy khả năng tiếp cận này.
Ấn phẩm
May Vietnam Follow South Africa, Chicago Tribune, May 20, 1994.
A Damaged Brand, Wall Street Journal, November 15, 2007.
South China Seizure, Wall Street Journal, February 6, 2008.
Uncomfortable anniversary in Vietnam, Asia Times Online, September 10, 2008.
Mr. Obama, Set Vietnam Free, Wall Street Journal, January 30, 2009.
Vietnam bauxite plan opens pit of concern, Asia Times Online, March 17, 2009.
China rift opens in Vietnam, Asia Times Online, January 14, 2009.
Vietnam teeters towards a currency crisis, Asia Times Online, September 22, 2009.
Hanoi’s Problems Run Deeper Than The Dong, Wall Street Journal, February 11, 2010.
A Rights Agenda for Vietnam, Wall Street Journal, July 20, 2010.
A sinking ship in Vietnam, Asia Times Online, April 6, 2012.
Vietnam to target social media, The Diplomat, April 25, 2012.
Rights before weapons for Vietnam, Asia Times Online, August 20, 2014.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bài báo
Duy Hoang, Angelina Huynh, and Cuong Nguyen. Vietnam’s blogger movement: A virtual civil society in the midst of government repression. Viet Tan, April 1, 2009.
Michel Tran Duc and Duy Hoang. Denial of Service: Cyberattacks by the Vietnamese Government. Viet Tan, April 27, 2010.
Duy Hoang and Angelina Huynh. Rule by Law: How Communist Vietnam Suppresses Political Opposition. Viet Tan, November 18, 2010.
Duy Hoang and Trinh Nguyen. Facebook and Civil Disobedience in Vietnam. Viet Tan, March 4, 2011.
Tham luận
Speech at The 2006 Rafto Symposium – Bergen, Norway. November 3, 2006.
Congressional Briefing on Internet Freedom in Vietnam - Washington, D.C.. October 14, 2009.
USIP/ICNC 2010 Course, Democracy Promoters, Diasporas, and Diplomats - Washington, D.C.. November 23, 2010.
Wired for Change: Hacking Our Way Back to Democracy - New York City, February 16, 2011.
Keynote at the 6th International Vietnamese Youth Conference - Manila, Philippines. August 16, 2011.
Sinh năm 1971
Nhân vật còn sống
Người Mỹ gốc Việt
Người Việt di cư tới Mỹ
Người chống cộng Việt Nam
Nhà hoạt động dân chủ người Việt Nam
Đảng Việt Tân
|
19831432
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%27Tung%20Krau%20Nglau%20L%C4%83ch
|
N'Tung Krau Nglau Lăch
|
N’tung Krau Nglau Lăch (Đánh trộm cá Hồ Nglau Lăch) là bộ sử thi của dân tộc M’Nông. Sử thi có tổng số 5.025 câu thơ, kể lại hành trình của anh em chàng Tiăng và buôn làng đi đánh cá hồ Nglau Lăch (một hồ rộng lớn nhất Tây Nguyên trong trí tưởng tượng của người xưa). Cho đến năm 2013, sử thi được dịch hoàn chỉnh.
Lịch sử
Năm 2005, sử thi N'Tung Krau Nglau Lăch được nghệ nhân Điểu Klung (ở Buôn Đôn, Đắk Lắk) hát kể nhưng không đầy đủ và được nghệ nhân Điểu Kâu (sống ở buôn M'răng, xã Dak N'drung, huyện Dak Song, tỉnh Đắk Nông) dịch chỉ có 2700 câu. Đến năm 2012, nghệ nhân Điểu Klưk (Đắk Nông) tiếp tục hát kể sử thi đầy đủ hơn với độ dài 5025 câu.
Ngày 11 tháng 1 năm 2013, con gái ông Điểu Kâu là Thị Mai (ngụ tại ở buôn Bu Prâng, xã Đắk N’Drung, huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông) dịch tiếp nối hoàn chỉnh.
Nội dung
Nguồn:
Chàng Tiăng sinh ra từ quả trứng bằng đá, khi mà bà trời, bà đất mới có hai ngón tay (nghĩa là mới hình thành). Tiăng đã dùng tài năng và sức lực của mình để sáng tạo ra mọi vật trên trái đất. Sau đó, Tiăng tiếp tục đầu thai nhiều lần (7 lần chết đi, 7 lần sống lại) để trở lại thành người. Chàng giúp loài người có các loại giống bắp, lúa, đậu… các loài súc vật để mọi người sản xuất xây dựng buôn làng giàu mạnh: Lúa đầy kho, trâu bò, heo gà đầy bãi, cuộc sống sung túc:
Nhưng rồi một ngày kia, mọi thức ăn, đồ uống đã hết, chàng Tiăng cùng mọi người trong cộng đồng rủ nhau đi đánh cá. Họ bàn đi tính lại, cuối cùng chọn hồ Nglau Lăch (một hồ nước sâu rộng ở phía Đông Bắc, có nhiều cá) để đi đánh cá. Trước khi lên đường, họ chuẩn bị đầy đủ dụng cụ đánh bắt, các loại lưới, các loại lá thuốc và các lao phóng để bắt cá; đồng thời chuẩn bị các túi, rổ, bao để đựng cá và thông báo cho mọi người trong buôn, cùng các buôn láng giềng biết để cùng đi đánh cá. Họ dặn người già, trẻ con ở nhà trông coi nương rẫy, buôn làng để mọi người yên tâm đi đánh cá. Họ ăn mặc, trang điểm như đi lễ hội:
Sau đó, họ ngồi trên lưng voi, đi đến mời các vị thần đất, thần nước, thần lúa, thần cây … cùng đi.
Họ vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ, tiếng lục lạc trên cổ áo, tiếng vòng đồng bạc nơi cổ tay, cổ chân chạm vào nhau ngân vang như tiếng nhạc cồng chiêng làm náo động cả núi rừng.
Đi đến đâu, họ cũng mời các buôn làng bạn như người Êđê, J’rai, Xê Đăng, Ba Na,… cùng đi đánh cá hồ Nglau Lăch.
Sau nhiều ngày đường, vượt qua nhiều rừng rậm, núi cao, thác dữ, đoàn người đi đánh cá do chàng Tiăng dẫn đầu đã đến được hồ Nglau Lăch:
Đó là một hồ nước đẹp, có nhiều loại cá, tôm, lươn, ba ba, ếch… to nhỏ đủ màu sắc, bơi lội kín cả mặt hồ, trông thật thích mắt.
Đoàn người dừng lại bên hồ nhóm lửa, đưa rượu heo ra cúng thần và ăn uống no say, rồi phân công nhau mỗi người mỗi việc đi đánh từng loại cá, từng loại thủy sản khác nhau. Khi xuống hồ đánh cá họ phát hiện ra những con vật kỳ lạ, như lươn, ba ba, cá sấu, ếch khổng lồ:
Trước những con vật khổng lồ như vậy, các chàng Lêng, Yang, Yơng và những trai làng càng tỏ ra dũng cảm, ngoan cường, táo bạo, họ lao mình xuống nước để quyết bắt cho được những con vật quý này:
Nhờ tài trí thông minh và lòng dũng cảm các chàng trai đã bắt được con lươn khổng lồ hung dữ:
Sau một ngày đánh cá vui nhộn và vất vả, các chàng trai, cô gái lại quần tụ bên bờ hồ cùng nhau ăn cơm, cùng nhau thưởng thức những thức ăn đánh được từ hồ Nglau Lăch và bàn chuyện để ngày mai tiếp tục đánh cá. Ngày hôm sau anh em Tiăng cùng mọi người tổ chức lễ vật: Heo thiến béo quay, rượu hàng chục ché để cúng các vị thần, xin được đánh bắt những con vật quý hơn:
Cuộc vui của họ kéo dài suốt mấy ngày đêm. Niềm vui sướng của họ hòa với tiếng cồng chiêng bay xa khắp núi rừng, sông, suối, vọng lên trời cao, như thách thức với thiên nhiên, vũ trụ.
Tiếng chiêng đã làm thức giấc Kong Kon Băn, người chú của chàng Tiăng đang ở một buôn gần đó đang coi giữ hồ Nglau Lăch. Kong Kon Băn đến hồ Nglau Lăch khi mọi người đang vui, đang nhảy múa, ca hát và uống rượu. Thấy Kong Kon Băn đến, chàng Tiăng phải thưa:
Thế rồi cuộc đấu trí diễn ra giữa anh em Tiăng với Kong Kon Băn ngay tại bên hồ. Cuộc đấu trí diễn ra suốt ngày đêm, cuối cùng chàng Tiăng bị hình phạt là trở về làm nô lệ cho buôn làng của Kong Kon Băn để trông coi sông, suối và vùng đất cho họ. Trước khi thực hiện điều đó, Tiăng đề nghị với Kong Kon Băn hãy cùng đi theo mình trở về từ giã mẹ cha, buôn làng, và đã được Kong Kon Băn chấp nhận. Tại nhà Tiăng, cuộc đấu trí diễn ra vô cùng quyết liệt giữa Kong Kon Băn và gia đình Tiăng. Nhằm bảo vệ Tiăng gia đình của chàng đã mang những vật quý như chiêng thần, ché thần và voi quý, trâu bò hàng đàn… để đổi lấy Tiăng và được các vị thần đứng ra can thiệp. Nhưng tất cả đều chịu thua lý của Kong Kon Băn. Cuối cùng nhờ người em của Tiăng tên là Lêng Kon Rung, với sự giúp đỡ của thần Lết Kon Jri đã bày ra mưu mẹo cho Tiăng và Kong Kon Băn gọi mẹ Trời, mẹ Đất, mẹ Đá để hỏi về việc Tiăng có phải là cháu ruột của Kong Kon Băn không? Họ được mẹ Trời, mẹ Đất, mẹ Đá trả lời là Tiăng sinh rất sớm, Tiăng chỉ sinh sau trời và đất chứ không phải là cháu của Kong Kon Băn. Thế là Kong Kon Băn thất lý, đành phải lủi thủi quay về buôn làng mình. Còn gia đình và buôn làng của chàng Tiăng thì tổ chức lễ hội tạ ơn các vị thần, uống rượu, ăn uống vui say mừng sự thắng lợi và đoàn tụ của gia đình và của cộng đồng.
Chú thích và tham khảo
|
19831438
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vulkan
|
Vulkan
|
Vulkan là một API đa nền tảng, phí tổn thấp, tiêu chuẩn mở cho đồ hoạ 3D và tính toán. Ban đầu Vulkan được AMD phát triển với tên gọi Mantle, nhưng sau đó được giao cho Khronos Group. Vulkan được tạo ra để giải quyết những thiếu sót của OpenGL và cho phép các nhà phát triển kiểm soát GPU nhiều hơn.
Tổng quan
Vulkan nhắm đến các ứng dụng đồ hoạ 3D thời gian thực yêu cầu hiệu suất cao, như trò chơi video và phương tiện tương tác, cũng như tính toán song song mức độ cao. Vulkan được thiết kế để cung cấp hiệu suất cao hơn và sử dụng CPU và GPU hiệu quả hơn so với các API OpenGL và Direct3D 11 cũ. Điều này được thực hiện bằng cách cung cấp một API bậc thấp hơn nhiều cho ứng dụng, giống hơn với cách làm việc của các GPU hiện đại.
Vulkan tương tự như API Metal của Apple và Direct3D 12 của Microsoft, và khó sử dụng hơn so với các API OpenGL và Direct3D 11 bậc cao hơn. Ngoài việc sử dụng CPU ít hơn, thiết kế của Vulkan cho phép các nhà phát triển phân phối công việc tốt hơn trên nhiều nhân CPU.
Vulkan được công bố lần đầu bởi tổ chức phi lợi nhuận Khronos Group tại GDC 2015. Ban đầu, API Vulkan được gọi là "sáng kiến OpenGL thế hệ tiếp theo" hoặc "OpenGL next" bởi Khronos, nhưng việc sử dụng những tên này đã bị ngừng khi "Vulkan" được công bố.
Vulkan được phát triển và xây dựng dựa trên các thành phần của API Mantle của AMD, mà AMD đã đóng góp cho Khronos với ý định cung cấp cho Khronos một nền tảng để bắt đầu phát triển một API bậc thấp mà họ có thể tiêu chuẩn hóa trên cả ngành công nghiệp.
Tính năng
Vulkan được thiết kế để cung cấp nhiều lợi ích so với các API khác cũng như người tiền nhiệm của nó, OpenGL. Vulkan có phí tổn thấp hơn, cung cấp sự kiểm soát trực tiếp hơn đối với GPU và sử dụng CPU ít hơn. Tổng quan về khái niệm và tập tính năng của Vulkan tương tự với những khái niệm được thấy trong Mantle và sau đó được Microsoft áp dụng với Direct3D 12 cũng như Apple với Metal.
API thống nhất
Vulkan cung cấp một API duy nhất cho các thiết bị đồ hoạ để bàn và di động, trong khi trước đây từng có sự phân chia giữa OpenGL và OpenGL ES.
Đa nền tảng
Vulkan khả dụng trên nhiều hệ điều hành hiện đại. Tương tự như OpenGL và khác với Direct3D 12, Vulkan không bị ràng buộc bởi một hệ điều hành cụ thể hoặc một số thiết bị cụ thể. Vulkan chạy trên Android, Linux, BSD Unix, QNX, Haiku, Nintendo Switch, Raspberry Pi, Stadia, Fuchsia, Tizen, and Windows 7, 8, 10, and 11. MoltenVK cung cấp hỗ trợ từ bên thứ ba với giấy phép tự do cho macOS, iOS và tvOS thông qua API Metal của Apple.
Sử dụng CPU ít hơn
Vulkan giảm tải cho CPU thông qua việc sử dụng batching và các tối ưu hóa cấp thấp khác, do đó giảm tải công việc cho CPU và giúp CPU có thể thực hiện nhiều tính toán hoặc hiển thị hơn.
Thiết kế thân thiện với việc đa luồng
Direct3D 11 và OpenGL 4 ban đầu được thiết kế để sử dụng với CPU đơn nhân và sau đó mới được bổ sung để thực thi trên nhiều nhân. Ngay cả khi các nhà phát triển ứng dụng sử dụng các tính năng bổ sung, các API này thường không có khả năng mở rộng tốt trên nhiều nhân. Vulkan cung cấp tính khả thi tốt hơn trên CPU đa nhân nhờ kiến trúc đa luồng hiện đại.
Shader được biên dịch trước
OpenGL sử dụng ngôn ngữ bậc cao GLSL để viết shader, điều này đòi hỏi mỗi driver OpenGL phải triển khai một trình biên dịch riêng cho GLSL. Sau đó, trình biên dịch này thực tại thời điểm ứng dụng chạy để chuyển đổi mã nguồn shader của chương trình thành mã máy của GPU. Ngược lại, driver Vulkan được thiết kế để nhận các shader đã được chuyển đổi thành định dạng nhị phân trung gian gọi là SPIR-V, tương tự với định dạng nhị phân mà các shader HLSL được biên dịch thành trong Direct3D. Bằng việc cho phép tiền biên dịch shader, tốc độ khởi tạo ứng dụng được cải thiện và một loạt các shader khác nhau có thể được sử dụng trong mỗi cảnh. Một driver Vulkan chỉ cần thực hiện tối ưu hóa và tạo mã cụ thể cho GPU, dẫn đến việc bảo trì driver dễ dàng hơn và có thể tạo ra các gói driver nhỏ hơn. Các nhà phát triển ứng dụng có thể che giấu mã shader độc quyền dễ dàng hơn bây giờ, do các shader không được lưu trữ trực tiếp dưới dạng mã nguồn, tuy nhiên, các công cụ được cung cấp để giải mã SPIR-V thành mã nguồn bậc cao có thể đọc được bởi con người.
Những điều khác
Vulkan cung cấp sự quản lý thống nhất cho các kernel tính toán và shader đồ họa, loại bỏ sự cần thiết của việc sử dụng một API tính toán riêng biệt kết hợp với một API đồ họa.
Ray tracing được cung cấp thông qua một tập hợp các phần mở rộng được hỗ trợ bởi nhiều nhà sản xuất, cùng tổng hợp tạo ra một chức năng tương tự như các API Raytracing OptiX và DirectX Raytracing. Không có chức năng tương tự được tiết lộ trong OpenGL.
OpenGL so với Vulkan
NVIDIA đề cập rằng "OpenGL vẫn là một lựa chọn tốt cho nhiều trường hợp, vì nó có độ phức tạp và gánh nặng bảo trì thấp hơn nhiều so với Vulkan, trong khi nhiều trường hợp vẫn cung cấp hiệu suất tổng thể tốt."
AMD nói rằng "Vulkan hỗ trợ kiểm soát gần với phần cứng (close-to-metal), cho phép hiệu suất nhanh hơn và chất lượng hình ảnh tốt hơn trên Windows 7, Windows 8.1, Windows 10 và Linux. Không có API đồ họa nào khác cung cấp sự kết hợp mạnh mẽ giữa tính tương thích hệ điều hành, tính năng kết xuất và hiệu suất phần cứng như vậy."
Phiên bản
Vulkan 1.1
Tại SIGGRAPH 2016, Khronos công bố rằng Vulkan sẽ được hỗ trợ tính năng đa GPU tự động, tương tự như những gì được cung cấp bởi Direct3D 12. Hỗ trợ đa GPU trong API loại bỏ nhu cầu sử dụng SLI hoặc Crossfire, mà yêu cầu các card đồ họa phải cùng một mẫu mã. Thay vào đó, đa GPU trong API cho phép API chia công việc một cách thông minh giữa hai hoặc nhiều GPU hoàn toàn khác nhau. Ví dụ, các GPU tích hợp trong CPU có thể được sử dụng cùng với một GPU chuyên dụng cao cấp để tăng nhẹ hiệu suất.
Vào ngày 7 tháng 3 năm 2018, Khronos Group đã phát hành Vulkan 1.1. Bản cập nhật lớn đầu tiên cho API này đã tiêu chuẩn hóa một số phần mở rộng, chẳng hạn như multi-view, device groups, chia sẻ giữa quá trình và giữa các API khác nhau, tính năng tính toán nâng cao, hỗ trợ HLSL và hỗ trợ YCbCr. Đồng thời, nó cũng mang lại khả năng tương thích tốt hơn với DirectX 12, hỗ trợ đa GPU rõ ràng, hỗ trợ ray tracing, và đặt nền tảng cho thế hệ GPU tiếp theo. Cùng với Vulkan 1.1, SPIR-V đã được cập nhật lên phiên bản 1.3.
Vulkan 1.2
Vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, Khronos Group đã phát hành Vulkan 1.2. Đây là bản cập nhật chính thứ hai cho API này, tích hợp thêm 23 phần mở rộng Vulkan thường được sử dụng vào tiêu chuẩn cơ bản của Vulkan. Một số tính năng quan trọng bao gồm "timeline semaphores để quản lý đồng bộ hóa một cách dễ dàng", "một mô hình bộ nhớ chính thức để định rõ ngữ nghĩa của sự đồng bồ và các thao tác bộ nhớ trong các luồng khác nhau", và "mô hình chỉ mục để cho phép sử dụng lại bố cục chỉ mục bởi nhiều shader khác nhau". Các tính năng bổ sung của Vulkan 1.2 cải thiện tính linh hoạt khi triển khai các API đồ họa khác trên nền Vulkan, bao gồm "bố cục chuẩn của bộ đệm đồng nhất", "bố cục khối cố định" và "sử dụng stencil riêng biệt".
Vulkan 1.3
Vào ngày 25 tháng 1 năm 2022, Khronos Group đã phát hành Vulkan 1.3. Đây là bản cập nhật lớn thứ ba cho API này, tích hợp thêm 23 phần mở rộng Vulkan thường được sử dụng vào tiêu chuẩn cơ bản của Vulkan. Vulkan 1.3 tập trung vào việc giảm thiểu sự phân mảnh bằng cách làm cho các tính năng mới là bắt buộc để một thiết bị được coi là có hỗ trợ Vulkan 1.3. Các tính năng mới trong Vulkan 1.3 bao gồm kỹ thuật vẽ động, trạng thái động bổ sung, API đồng bộ hóa cải thiện và hồ sơ thiết bị.
Tính năng dự kiến
Khi phát hành OpenCL 2.2, Khronos Group đã thông báo rằng OpenCL sẽ kết hợp trong mức có thể với Vulkan để cho phép tính linh hoạt của việc triển khai phần mềm OpenCL qua cả hai API. Điều này đã được thể hiện bởi Adobe's Premiere Rush bằng cách sử dụng trình biên dịch mã nguồn mở clspv để biên dịch một lượng lớn mã nguồn kernel OpenCL C để chạy trên một phiên bản Vulkan để triển khai trên Android.
Lịch sử
Khronos Group đã bắt đầu dự án để tạo một API đồ họa thế hệ tiếp theo vào tháng 7 năm 2014 với cuộc họp tại Valve. Tại SIGGRAPH 2014, Tại SIGGRAPH 2014, dự án được công bố công khai với lời kêu gọi tham gia cho các bên tham dự.
Theo Cục Sở hữu Trí tuệ và Nhãn hiệu Hoa Kỳ, việc đăng ký thương hiệu cho Vulkan đã được thực hiện vào ngày 19 tháng 2 năm 2015.
Vulkan được đặt tên và công bố chính thức tại Game Developers Conference 2015, mặc dù đã có những đồn đoán và tin đồn xoay quanh một API mới tồn tại trước đó và được gọi là "glNext".
2015
Vào đầu năm 2015, LunarG (được tài trợ bởi Valve) đã phát triển và trình diễn một driver Linux cho Intel, cho phép sự tương thích với Vulkan trên các card đồ họa tích hợp dòng HD 4000, mặc dù driver Mesa nguồn mở không hoàn toàn tương thích với OpenGL 4.0 cho đến cuối năm đó. Vẫn còn khả năng hỗ trợ cho Sandy Bridge, vì nó hỗ trợ tính toán thông qua Direct3D11.
Vào ngày 10 tháng 8 năm 2015, Google đã công bố rằng các phiên bản tương lai của Android sẽ hỗ trợ Vulkan. Android 7.x "Nougat" đã hỗ trợ Vulkan vào ngày 22 tháng 8 năm 2016. Android 8.0 "Oreo" có sự hỗ trợ đầy đủ.
ào ngày 18 tháng 12 năm 2015, Khronos Group đã thông báo rằng phiên bản 1.0 của quy tắc Vulkan đã gần hoàn thiện và sẽ được phát hành khi các driver tuân thủ theo khả dụng.
2016
Toàn bộ bộ quy tắc Vulkan và SDK Vulkan nguồn mở đã được phát hành vào ngày 16 tháng 2 năm 2016.
2018
Vào ngày 26 tháng 2 năm 2018, Khronos Group công rằng API Vulkan đã khả dụng trên macOS và iOS thông qua thư viện MoltenVK, cho phép Vulkan chạy trên nền tảng Metal. Các sự phát triển mới khác đã được trình diễn tại SIGGRAPH 2018. Trước đây, MoltenVK là một giải pháp độc quyền và được cấp giấy phép thương mại, nhưng Valve đã thỏa thuận với nhà phát triển Brenwill Workshop Ltd để mở mã nguồn MoltenVK dưới giấy phép Apache 2.0 và như một kết quả, thư viện này hiện đã có sẵn trên GitHub.Valve cũng thông báo rằng tính đến ngày 26 tháng 2 năm 2018, trò chơi Dota 2 có thể chạy trên macOS bằng cách sử dụng API Vulkan, dựa trên MoltenVK.
2019
Vào ngày 25 tháng 2 năm 2019, nhóm làm việc Vulkan Safety Critical (SC) đã được công bố để đưa gia tốc GPU của Vulkan vào các ngành công nghiệp chú trọng an toàn.
Dịch vụ chơi game trực tuyến trên đám mây Stadia của Google sử dụng Vulkan trên các máy chủ Linux với GPU của AMD.
2020
Vào ngày 15 tháng 1 năm 2020, Vulkan 1.2 đã được phát hành.
Cùng với việc phát hành Vulkan 1.2, Khronos Group đã đăng một bài viết trên blog xem xét rằng hỗ trợ HLSL trong Vulkan đã đạt tình trạng "sẵn sàng cho môi trường production" do sự cải tiến trong trình biên dịch DXC của Microsoft và trình biên dịch glslang của Khronos, và các tính năng mới trong Vulkan 1.2 cải thiện hỗ trợ HLSL.
Vào ngày 3 tháng 2 năm 2020, Raspberry Pi Foundation đã thông báo rằng họ đang làm việc trên một driver Vulkan mã nguồn mở cho Raspberry Pi, một máy tính bo mạch đơn phổ biến. Vào ngày 20 tháng 6 năm 2020, một kỹ sư đồ họa tiết lộ rằng anh đã tạo ra driver sau hai năm làm việc, có khả năng chạy VkQuake3 với hơn 100 FPS trên máy tính nhỏ này.
Vào ngày 17 tháng 3 năm 2020, Khronos Group phát hành các phần mở rộng Ray Tracing, dựa trên phần mở rộng độc quyền của Nvidia, với một số phần mở rộng quan trọng và nhiều thay đổi nhỏ, dựa trên API OptiX của Nvidia. Vào ngày 23 tháng 11 năm 2020, các phần mở rộng Ray Tracing này đã được hoàn thiện.
Vào ngày 24 tháng 11 năm 2020, Raspberry Pi Foundation thông báo rằng driver cho Raspberry Pi 4 đã đạt chuẩn Vulkan 1.0.
2022
Ngày 25 tháng 1 năm 2022, Vulkan 1.3 đã được phát hành.
Ngày 1 tháng 3 năm 2022, Vulkan SC 1.0 đã được phát hành, mang đến khả năng đồ họa và tính toán của Vulkan cho ngành công nghiệp chú trọng an toàn, dựa trên tiêu chuẩn Vulkan 1.2.
Ngày 1 tháng 8 năm 2022, Raspberry Pi Foundation thông báo rằng driver cho Raspberry Pi 4 đã đạt chuẩn Vulkan 1.2.
Ngày 1 tháng 9 năm 2022, Mesh Shading cho Vulkan đã được phát hành.
Hỗ trợ giữa các nhà cung cấp
Các quy tắc ban đầu đã nêu rõ rằng driver Vulkan có thể được triển khai trên bất kỳ phần cứng nào hỗ trợ OpenGL ES 3.1 hoặc OpenGL 4.x trở lên. Tuy nhiên, việc hỗ trợ Vulkan đòi hỏi các driver đồ họa mới, vì vậy điều này không nhất thiết ngụ ý rằng tất cả các thiết bị hiện có hỗ trợ OpenGL ES 3.1 hoặc OpenGL 4.x sẽ có driver Vulkan khả dụng.
Intel
Vào tháng 3 năm 2023, Intel đã chia tách sự hỗ trợ Vulkan trên Windows và Linux. Tất cả driver được phát triển bởi Intel.
Trên Windows, Skylake đến Ice Lake hỗ trợ đến Vulkan 1.3, với sự hỗ trợ giới hạn sau tháng 7 năm 2022 vì các bản cập nhật tương lai sẽ chỉ bao gồm việc sửa lỗi bảo mật. Card đồ họa Iris và mới hơn đều được hỗ trợ hoàn toàn tính đến tháng 3 năm 2023.
Trên Linux, tính đến tháng 3 năm 2023, có sự hỗ trợ Vulkan chưa hoàn chỉnh cho Haswell vì nó không đạt chuẩn Vulkan 1.0. Ngoại trừ Haswell, Ivy Bridge và Broadwell cũng được hỗ trợ bởi một driver Vulkan cũ trong Mesa được gọi là HASVK. Skylake và mới hơn được hỗ trợ bởi một driver trong Mesa có tên ANV.
AMD
Trên Windows, Vulkan 1.2 được hỗ trợ từ GCN 1.0 đến GCN 3.0, và không có bản cập nhật nào được dự định từ tháng 6 năm 2021. GCN 4.0 và mới hơn hỗ trợ Vulkan 1.3.
Trên Linux, có nhiều driver Vulkan khác nhau hỗ trợ phần cứng khác nhau và trùng nhau. Có một driver Vulkan nguồn mở tên là AMDVLK, phát triển bởi AMD với sự hỗ trợ nhỏ cho Windows. Cũng có một driver độc quyền tên là AMDGPU-PRO, không được khuyến nghị sử dụng cho hầu hết người dùng tính đến tháng 3 năm 2023.
Ngoài ra còn có driver được khuyến nghị gọi là RADV trong Mesa, được phát triển bởi Valve, Red Hat, Google và những nhà phát triển khác. Driver này tính đến tháng 3 năm 2023 hỗ trợ tất cả các card GCN và RDNA. Hỗ trợ của driver RADV cho GCN 1.0 và GCN 2.0 yêu cầu phải bật chế độ hỗ trợ thử nghiệm trong mô-đun nhân amdgpu.
NVIDIA
Trên Windows và Linux, có driver Vulkan được phát triển bởi NVIDIA, hỗ trợ Vulkan 1.2 trên các card Kepler và không kế hoạch cập nhật nào sau tháng 9 năm 2021. Các card Maxwell và mới hơn hỗ trợ Vulkan 1.3.
Tính đến tháng 3 năm 2023, trên Linux có driver Vulkan nguồn mở thử nghiệm và chưa hoàn chỉnh được lên kế hoạch cho Mesa, gọi là NVK, với dự định hỗ trợ các card Turing và mới hơn.
GPU cho Android và thiết bị di động
Hầu hết các thiết bị Android hiện đại hỗ trợ Vulkan. Android 7.0 Nougat bao gồm hỗ trợ tùy chọn cho Vulkan 1.0, Android 9.0 Pie bao gồm hỗ trợ tùy chọn cho Vulkan 1.1, và Android 10 yêu cầu tất cả các thiết bị 64-bit hỗ trợ Vulkan 1.1. Trên Linux và một số thiết bị ChromeOS, driver nguồn mở Mesa cung cấp sự hỗ trợ cho phần cứng Arm Mali (Midgard và Bifrost), Qualcomm Adreno, và Broadcom VideoCore VI.
Apple
Tính đến tháng 6 năm 2022, các thiết bị của Apple vẫn không hỗ trợ API Vulkan. Hỗ trợ Vulkan khả dụng thông qua thư viện mã nguồn mở MoltenVK, cung cấp một bản triển khai Vulkan trên cơ sở API đồ họa Metal được cung cấp trên các thiết bị iOS và macOS, tuy nhiên, thư viện này có một số hạn chế đối với một số tính năng API nâng cao.
Vào tháng 6 năm 2022, phiên bản 1.3.217 của Vulkan đã thêm hỗ trợ cho các đối tượng Metal, giúp thuận tiện trong việc nhập và xuất giữa hai API này. Vào tháng 12 năm 2022, phiên bản Vulkan 1.3.236 đã sửa một số lỗi nhỏ liên quan đến tương tác với Apple Metal.
Tương thích ngược
Vulkan không tương thích ngược với OpenGL, mặc dù có một số dự án triển khai OpenGL trên cơ sở Vulkan, chẳng hạn như ANGLE của Google và Zink của Mesa.
Vulkan cũng không tương thích với các API đồ họa khác như Direct3D, Metal và Mantle, tuy nhiên, có một số bản triển khai của các API này trên cơ sở Vulkan:
Direct3D có một số bản triển khai, cụ thể là DXVK cho Direct3D 9, 10 và 11, và VKD3D-Proton cho hỗ trợ Direct3D 12. Các phiên bản Direct3D khác, cũ hơn, có thể khả dụng dưới dạng thư viện bên thứ ba, chẳng hạn như D8VK cho Direct3D 8.
Metal có một bản triển khai bên thứ ba đang trong quá trình phát triển được gọi là Indium, dự kiến được sử dụng với lớp tương thích Darling.
Mantle có một bản triển khai bên thứ ba đang trong quá trình phát triển được gọi là GRVK, để hỗ trợ các trò chơi Mantle cũ.
Các API đồ họa cụ thể cho từng nền tảng được triển khai trên cơ sở Vulkan có thể chạy trên các nền tảng thay thế. Ví dụ, DXVK cung cấp một thư viện chia sẻ thay thế dự kiến được sử dụng trên Linux một cách tự nhiên (không cần tới lớp tương thích Wine) để hỗ trợ việc chuyển game sang hệ điều hành Linux.
Xem thêm
Danh sách thư viện đồ hoạ 3D
Ghi chú
Tham khảo
Đọc tiếp
Vulkan Programming Guide: The Official Guide to Learning Vulkan (OpenGL), ngày 10 tháng 11 2016, bởi Graham Sellers và John Kessenich
Learning Vulkan, Dec 2016, bởi Parminder Singh
Introduction to Computer Graphics and the Vulkan API, ngày 1 tháng 7 năm 2017, bởi Kenwright
Vulkan Cookbook, ngày 28 tháng 4 năm 2017, bởi Pawel Lapinski
Liên kết ngoài
Phần mềm năm 2015
API đồ hoạ 3D
Phần mềm đa nền tảng
Thư viện đồ hoạ
Tiêu chuẩn đồ hoạ
Phần mềm sử dụng giấy phép Apache
Phát triển trò chơi điện tử
Thực tế ảo
|
19831449
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manchester%20United%20F.C.%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202001%E2%80%9302
|
Manchester United F.C. mùa giải 2001–02
|
Mùa giải 2001–02 là mùa giải thứ mười của Manchester United tại Premier League, mùa giải thứ 100 của họ ở hệ thống bóng đá Anh và là mùa giải thứ 27 liên tiếp của họ ở giải hạng cao nhất bóng đá Anh. Mùa giải thứ hai của thiên niên kỷ mới là một nỗi thất vọng lớn đối với Quỷ đỏ so với ba năm trước đó. Câu lạc bộ kết thúc ở vị trí thứ ba tại Premier League, thành tích thấp nhất trong lịch sử Premier League vào thời điểm đó, và họ bị loại khỏi FA Cup ở vòng thứ tư. Tại League Cup, đội hình hai của MU bị loại bởi Arsenal ở vòng thứ ba, một ngày sau khi cả hai đội thi đấu tại EPL. Thành công lớn nhất của United trong mùa giải 2001–02 là ở UEFA Champions League, nơi họ lọt vào bán kết trước khi bị Bayer Leverkusen loại vì luật bàn thắng sân khách. Cuối cùng, việc United không giành được bất cứ danh hiệu nào đã tạo nên phong độ tồi tệ trong tháng 11 và đầu tháng 12 khi họ phải chịu 5 trận thua trong 7 trận ở giải VĐQG, trong đó có 3 trận thua liên tiếp trước Arsenal, Chelsea và West Ham United vào tháng 12. Họ cũng thua sáu trận sân nhà ở Premier League, thành tích sân nhà tệ nhất kể từ mùa giải 1977–78. Họ chỉ thua thêm ba trận nữa trong cả mùa giải, nhưng phong độ khủng khiếp đó trước đó trong mùa giải đã khiến United phải đối mặt với phần còn lại của mùa giải và họ kém nhà vô địch Arsenal 10 điểm (đội đã giành chức vô địch bằng cách đánh bại United 1–0 tại Old Trafford ở trận áp chót của mùa giải) và kém đội á quân Liverpool 3 điểm.
Trước khi mùa giải bắt đầu, HLV Sir Alex Ferguson đã tuyên bố ý định từ giã sự nghiệp bóng đá vào cuối mùa giải, và câu lạc bộ đã bắt đầu quá trình cố gắng tìm kiếm người kế nhiệm vị huấn luyện viên thành công nhất trong lịch sử của họ. Tuy nhiên, Ferguson đã rút lại quyết định giải nghệ, lấy lý do là vợ và ba con trai của ông.
Huấn luyện viên trợ lý Steve McClaren rời câu lạc bộ trước khi mùa giải bắt đầu để trở thành huấn luyện viên của Middlesbrough. Huấn luyện viên đội trẻ và cựu cầu thủ Mike Phelan được thăng chức làm huấn luyện viên đội một và đảm nhận một số trách nhiệm huấn luyện viên trợ lý, nhưng McClaren không được thay thế cho đến mùa hè năm 2002, khi Carlos Queiroz được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trợ lý mới.
Cầu thủ chạy cánh Ryan Giggs đã được vinh danh trong trận đấu với Celtic, người đã gắn bó với United hơn một thập kỷ.
Tiền đạo trị giá 19 triệu bảng Ruud van Nistelrooy đã làm được những gì người ta mong đợi khi ghi 36 bàn trên mọi đấu trường và nhận giải Cầu thủ xuất sắc nhất năm của PFA, nhưng bản hợp đồng kỷ lục quốc gia trị giá 28,1 triệu bảng Juan Sebastián Verón là một nỗi thất vọng lớn ở hàng tiền vệ, mặc dù vậy. ở hàng phòng ngự nơi United đang ở thời điểm yếu nhất sau sự ra đi gây sốc của Jaap Stam tới Lazio ngay sau khi mùa giải bắt đầu và việc bất ngờ mua lại cầu thủ 35 tuổi người Pháp Laurent Blanc làm người thay thế.
2001–02 là mùa giải cuối cùng tại Old Trafford của các cầu thủ kỳ cựu Denis Irwin và Ronny Johnsen sau lần lượt 12 và sáu năm ở câu lạc bộ. Trên đường rời câu lạc bộ còn có thủ môn Raimond van der Gouw và tiền đạo Dwight Yorke. Tiền đạo Andy Cole rời United sau 7 năm khi anh ký hợp đồng chuyển nhượng tới Blackburn Rovers vào cuối tháng 12.
Giao hữu
Siêu cúp Anh
Ngoại Hạng Anh
FA Cup
Cúp liên đoàn
UEFA Champions League
Vòng bảng thứ nhất
Vòng bảng thứ hai
Vòng knock out
Thống kê đội hình
Chuyển nhượng
Mua
Bán
Mượn
Cho mượn
Tham khảo
|
19831463
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Takizawa%2C%20Iwate
|
Takizawa, Iwate
|
là một thành phố thuộc tỉnh Iwate, Nhật Bản. Tính đến tháng 9 năm 2020, dân số ước tính thành phố là 54.988 người và mật độ dân số là 300 người/km². Tổng diện tích thành phố là 182,46 km².
Lịch sử
Địa lý
Nhân khẩu
Kinh tế
Tham khảo
Thành phố tỉnh Iwate
|
19831474
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ishida%20Masatoshi%20%28ch%C3%ADnh%20kh%C3%A1ch%29
|
Ishida Masatoshi (chính khách)
|
(sinh ngày 11 tháng 4 năm 1952) là chính khách người Nhật Bản, thành viên của Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản. Trước đây, ông từng giữ chức vụ làm Bộ trưởng Nội vụ và Truyền thông từ ngày 2 tháng 10 năm 2018 đến ngày 11 tháng 9 năm 2019.
Tham khảo
Sinh năm 1952
|
19831480
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aoki%20Ryota%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Aoki Ryota (định hướng)
|
Aoki Ryota có thể là:
Aoki Ryota (s. 1984), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Aoki Ryota (s. 1996), cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
|
19831499
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20H%E1%BB%AFu%20Nghi%E1%BB%87p
|
Trần Hữu Nghiệp
|
Trần Hữu Nghiệp (1911-2006) là Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cán bộ Y tế Trung Ương (tiền thân của Trường Đại học Y tế Công Cộng).
Tiểu sử
Trần Hữu Nghiệp sinh năm 1911 tại Tân Thủy, H.Ba Tri, Bến Tre.Sau khi tốt nghiệp Trường Y khoa Đông Dương ở Hà Nội, ông đã sang Pháp tu nghiệp rồi về lại Mỹ Tho mở phòng mạch. Ông tham gia Cách mạng Tháng Tám.
Giữa năm 1947, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp cùng bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng bắt tay xây dựng ngành dân y, đào tạo cán bộ quản lý và nhân viên y tế. Ông được cử làm Phó Giám đốc Sở Y tế Quân dân Nam bộ, trực tiếp phụ trách các tỉnh thuộc khu 8.
Ông đã mở nhiều lớp đào tạo y tá, cứu thương, hộ sinh cho các tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, và các đơn vị bộ đội thuộc khu 8. Ngoài công tác huấn luyện dạy học, ông còn trực tiếp tham gia điều trị cứu chữa thương binh, bệnh binh ở Quân Y Viện Trung đoàn 99 và Quân Y viện II - khu 8.
Năm 1951, chiến trường Nam Bộ được phân chia lại thành 2 phân liên khu (miền Đông và miền Tây), ông được chuyển về miền Tây - phụ trách đào tạo cán bộ y sĩ cho ngành.
Khi kháng chiến Nam bộ bùng nổ, năm 1954 ông tập kết ra Bắc.
Năm 1955, ông được giao chức vụ Trưởng Ban Huấn luyện Bộ Y tế nước VNDCCH và ủy viên Ban biên tập tạp chí Y học thực hành.
Tháng 9/1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận.
Năm 1956, ông trở thành Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cán bộ Y tế trung ương .
Ông vừa là thầy giáo, bác sỹ, đồng thời lại là nhà văn, nhà báo.
Hồi ký “Thời gian trong mắt tôi” của ông được Nhà xuất bản Văn Nghệ in lần đầu vào năm 1993, Nhà xuất bản Tổng hợp TP.HCM tái bản 2023.
Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân năm 1988. Ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động. Ông mất năm 2006 tại TP.HCM.
Gia đình
Năm 1938, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp 27 tuổi cưới vợ, sinh ba người con là Trần Hữu Kim Dung, Trần Hữu Trí và Trần Hữu Dũng.
Khi 37 tuổi (1948), ông lập gia đình lần thứ hai, có thêm ba người con, sau đó ông tập kết ra Bắc năm 1954.
Chú thích
Nhà giáo Nhân dân
|
19831504
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20Hanja%20d%E1%BA%A1y%20%E1%BB%9F%20c%E1%BA%A5p%20trung%20h%E1%BB%8Dc%20H%C3%A0n%20Qu%E1%BB%91c
|
Danh sách Hanja dạy ở cấp trung học Hàn Quốc
|
Tại Hàn Quốc, danh sách các chữ Hán được dạy ở cấp trung học được Bộ Văn Giáo (문교부) (nay là Bộ Giáo dục 교육부) công bố lần đầu tiên vào ngày 16 tháng 8 năm 1972 (Hanja không còn được dạy ở cấp tiểu học từ năm 1971). Ở cấp trung học cơ sở (중학교) học sinh học 900 chữ, và cấp trung học phổ thông 고등학교 học 900 chữ. Đến 31 tháng 12 năm 2000 sự thay đổi đối với 44 chữ.
Các chữ Hán sau thay thế năm 2000
Trong đó:
Chuyển từ cấp trung học phổ thông xuống cấp trung học cơ sở: 李(리 - Lý), 朴(박 - Phác), 舌(설 - thiệt), 革(혁 - cách)
Các chữ thay mới trong chương trình trung học phổ thông: 憩 (게 - khế), 戈 (과 - qua), 瓜 (과 - qua), 鷗 (구 - âu), 閨 (규 - khuê), 濃 (농 - nồng), 潭 담 - đàm), 桐 (동 - đồng), 洛 (락 lạc- ), 爛 (란 - lạn), 藍 (람 - lam), 朗(랑 - lãng), 蠻 만 - man), 矛 (모 - mâu), 沐 (목 - mộc), 栢 (백 - bách), 汎 (범 - phiếm), 膚 (부 - phu), 弗 (불 - phất), 酸 (산 - toan), 森 (삼 - sâm), 盾 (순 - thuẫn), 升 (승 - thăng), 阿 (아 - a), 梧 (오 - ngô), 刃 (인 - nhận ), 雌(자 - thư), 蠶 (잠 - tàm), 笛 (적 - địch), 蹟 (적 - tích), 滄 (창 - thương), 悽 (처 - thê), 稚 (치 - trĩ), 琢 (탁 - trác), 兎 (토 - thố), 弦 (현 - huyền), 灰(회 - hôi), 喉(후 - hầu), 噫 (희 - ức), 熙 (희 - hi)
Các chữ thay mới trong chương trình trung học cơ sở: : 硯(연 - nghiễn), 貳(이 - nhị), 壹(일 - nhất), 楓(풍 - phong)
Danh sách Hanja dạy ở cấp trung học Hàn Quốc
Xem thêm
Kyōiku kanji (Hán tự dạy trong nhà trường ở Nhật Bản - 1.026 chữ)
Jōyō Kanji (Hán tự thường dùng trong tiếng Nhật - 2.136 chữ)
Bảng chữ Hán phổ thông tiêu chuẩn Trung Quốc (8.105 chữ)
Tham khảo
|
19831510
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ba%20H%C3%B2n
|
Ba Hòn
|
Ba Hòn là một cụm núi thấp, gồm 3 ngọn núi Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Quéo sát bờ biển, thuộc xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang. Tên gọi Ba Hòn được đặt bởi người dân địa phương để chỉ 3 ngọn núi nằm liền kề nhau. Khu vực này vẫn còn nguyên vẹn rừng và được phân loại là rừng phòng hộ. Hiện tại, chính quyền địa phương cấm khai thác đá tại khu vực này. Ba Hòn là Khu di tích lịch sử cấp quốc gia, với truyền thống cách mạng nổi bật qua cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ. Trong định hướng phát triển của địa phương, Ba Hòn sẽ phát triển kết hợp 3 loại hình du lịch đặc trưng: du lịch tâm linh, du lịch sinh thái và du lịch tham quan di tích văn hóa, lịch sử.
Địa lý chung
Cụm núi nằm cách thị trấn Hòn Đất 10 km về hướng nam, chệch hướng tây nam, nằm ngay sát bờ biển. Từ thị trấn Hòn Đất đi theo con đường nhựa nằm dọc kênh Hòn Sóc khoảng 5 km để đến Hòn Sóc, từ đó đi tiếp 5 km theo con đường bê tông để đến Ba Hòn.
Cụm gồm 3 ngọn núi:
Hòn Đất, cao 260 m
Hòn Me, cao 200 m
Hòn Quéo, cao 30 m
Trong ba ngọn núi thì Hòn Đất và Hòn Me có kích thước gần bằng nhau. Hòn Quéo nằm về phía tây bắc với kích thước rất nhỏ sát biển. Dưới chân núi Hòn Đất và Hòn Me là các cánh đồng lúa. Cánh đồng lúa nằm giữa hai núi vị trí trông ra biển có chiều rộng nhất khoảng 1 km. Có một tuyến đường nhựa chạy ngang phía ngoài hai ngọn núi dọc theo bờ biển, phía ngoài cùng tuyến đường là khu vực rộng khoảng 400–500 m là một vành đai ven biển, bao gồm đai rừng ngập mặn phòng hộ ven biển, xen kẽ là các khu vực nuôi trồng thủy sản của dân địa phương, chủ yếu là nuôi tôm sú.
Ban đầu, cả ba ngọn núi đều là các hòn đảo, về sau do phù sa bồi đắp xung quanh mà gắn với đất liền. Phân vị địa tầng của cụm núi thuộc Giới Cenozoi, hệ Đệ Tứ, thống Holocen. Thành phần trầm tích là cát bột, ít sạn và mảnh vỏ sò, màu xám vàng. Đá có tuổi Pecmi, chủ yếu là đá vôi, đôi nơi có thêm đá dolomit.
Cụm núi nằm trong vùng nhiệt đới, nhận không khí ẩm ướt từ vịnh Thái Lan ở phía tây thổi vào. Xung quanh chân núi người dân đào các kênh rạch chằng chịt. Phía tây bắc, phía đông bắc và hướng đông có kênh Hòn Me, phía đông xa hơn có kênh 9.
Sinh vật
Thực vật
Vào năm 2013, một nghiên cứu của Tổ chức bảo vệ động vật hoang dã Wildlife At Risk (WAR) nhằm phục vụ cho vận hành Trạm cứu hộ động vật hoang dã Hòn Me đã thống kê thực vật trong vùng Ba Hòn. Vùng có 154 loài thực vật hoang dã, 13 loài cây rừng được trồng bổ sung và 13 loài cây ăn quả. Các loài thực vật bao gồm:
Ráng nguyệt xỉ suốt (Adiantum diaphanum)
Ráng ất minh (Osmunda claytoniana)
Ráng đuôi phụng Fortune, Cốt toái (Drynaria fortunei)
Ráng đuôi phụng lá sồi (Drynaria quercifolia)
Bòng bòng dẻo (Lygodium flexuosum var. alta)
Nưa trồng (Amorphophallus konjac)
Ráy to (Pothos grandis)
Dây bá (Scindapsus officinalis)
Thốt lốt (Borassus flabellifer)
Mây tất, Mây sắt, May lá liễu (Calamus salicifolius)
Đủng đỉnh ngứa (Caryota urens)
Dừa nước, Dừa lá (Nypa fruticans)
Cát lồi, Mía dò (Costus speciosus)
Udu tia, Lác tia (Cyperus digitatus)
Udu to (Cyperus grandis)
Khoai dái, Khoai trời (Dioscorea bulbifera)
Từ nhám, Nần (Dioscorea triphylla var reticulata)
Ngót ngoẻo, Huệ lồng đèn (Gloriosa superba)
Huỳnh tinh rằn (Calathea cf clossoni)
Chuối rừng, Chuối hoang nhọn (Musa acuminata subsp siamea)
Sa nhân cóc, Đò ho (Amomum tsao-ko)
Gừng gió, Ngải xanh (Zingiber zerumbet)
Ô rô (Acanthus ebracteatus)
Trang đất, Xuân hoa thon (Pseuderanthemum crenulatum)
Xoài (Mangifera ssp)
Sưng có đuôi (Semecarpus caudata)
Cóc rừng (Spondias pinnata)
Mãng cầu Xiêm (Annona muricata)
Bình bát (Annona glabra)
Ngọc lan tây, Cây công chúa (Cananga odorata)
Bồ quả Đac (Uvaria dac)
Mò cua-Sữa ([[Alstonia scholaris]])
Lá Lức, Lức Ấn, Cúc tần (Pluchea indica)
Núc nác (Oroxylon indicum)
Gòn ta trăng trắng (Bombax albidum)
Gòn ta (Ceiba pentandra)
Sầu riêng (Durio zibethinus)
Cùm rụm (Carmone microphylla)
Trám nâu, Trám duyên hải (Canarium littorane var rufum)
Gõ đỏ, Gõ cà te (Afzelia xylocarpa)
Mấu đỏ, Gố (Bauhinia ornata var balansae)
Ô môi (Cassia grandis)
Me (Tamarindus indica)
Cáp gai nhỏ (Capparis micrantha subsp. korthalsiana)
Chưn bầu (Combretum quadrangulare)
Chiêu liêu nghệ (Terminalia triptera)
Trường sanh (Chevalier Kalanchoe integra var. chevalieri)
Dây bát (Coccinia grandis)
Dầu con rái (Dipterocarpus alatus)
Dầu song nàng (Dipterocarpus dyeri)
Sao xanh (Hopea helferi)
Sao đen (Hopea odorata)
Chò chỉ, Chò đen (Parashorea stellata)
Sến mủ, Sến cát, Sến đỏ (Shorea roxburghii)
Cẩm liên, Cà chấc xanh (Shorea siamensis)
Thị núi, Nhôn (Diospyros montana)
Thị lá đài rộng (Diospyros latisepala)
Côm đồng nai, Đước núi, Chan chan (Elaeocarpus tectorius)
Chòi mòi, Chua mòi (Antidesma ghaesembilla)
Sang sé, Cứt sát, Chòi mòi (Antidesma japonica)
Dâu ta (Baccaurea ramiflora)
Bồ lốt, Mọ trắng, Lộc mại (Claoxylon indicum)
Cơm gào, Mỏ chim, Đầu chó (Cleidion spiciflorum)
Gía, Trà mủ (Excoecaria agallocha)
Ruối không lông (Mallotus glabriusculus)
Ba chia, Rùm nao, Thuốc Sán (Mallotus philippensis)
Phèn đen (Phyllanthus reticulata)
Thầu dầu (Ricinus communis)
Bồ ngót lông (Sauropus villosus)
Cổ ngỗng, Kén (Suregada multiflora)
Bứa lá tròn dài (Garcinia oblongiflolia)
Cầy, Kơ nia (Irvingia malayana)
Bời lời nhớt (Litsea glutinosa)
Bơ (Persea americana)
Kháo mềm (Persea mollis)
.v.v...
Động vật
Năm 2014, theo thống kê Tổ chức bảo vệ động vật hoang dã Wildlife At Risk (WAR), họ đã thống kê động vật trong vùng Ba Hòn, vùng có 34 loài bò sát và lưỡng cư. Các loài động vật bao gồm:
Cóc nhà (Common Asian Toad)
Nhái bầu hoa (Microhyla fissipes)
Ễnh ương (Kaloula pulchra)
Nhái (Fejervarya limnocharis)
Ếch đồng (Hoplobatrachus rugulosus)
Cóc nước nhẫn (Occidozyga martensii)
Ếch cây mu tút (Polypedates mutus)
Nhông xanh (Calotes versicolor)
Thằn lằn bay đốm (Draco cf. maculatus)
Thạch sùng ngón đốm (Cyrtodactylus cf. paradoxus)
Thạch sùng lá xiêm (Dixonius siamensis)
Tắc kè (Gekko gecko)
Thạch sùng (Hemidactylus sp.)
Thạch sùng đuôi sần (Hemidactylus frenatus)
Tắc kè chân vàng (Cnemaspis auranticopes)
Thằn lằn bóng hoa (Eutropis multifasciatus)
Thằn lằn cổ (Scincella sp.)
Thằn lằn vạch (Lipinia vittigera)
Trăn gấm (Broghammerus reticulatus)
Rắn roi mõm nhọn (Ahaetulla nasutus)
Rắn rào đốm (Boiga multomaculata)
Rắn lục cườm (Chrysopelea ornata)
Rắn roi/rắn leo hoa (Dendrelaphis pictus)
Rắn snai-đơ (Cerberus schneiderii)
Rắn kiếm đuôi vòng (Oligodon cf. fasciolatus)
Rắn kiếm mau ho ti (Oligodon mouhoti)
Rắn hổ đất nâu (Psammodynostes pulverulentus)
Rắn de (Dryocalamus davidsonii)
Rắn khuyết thường (Lycodon capucinus)
Rắn hoa cổ vàng (Rhabdophis cf. chrysagos)
Cạp nia nam (Bungarus candidus)
Rắn cạp nong (Bungarus fasciatus)
Rắn hổ mang (Naja cf. kaouthia)
Rắn lục mép trắng (Trimeresurus albolabris)
Lịch sử
Khoảng từ đầu thế kỷ 19, vùng Hòn Đất được Xiêm La quốc lộ trình tập lục mô tả có rừng bao phủ cây cối sum suê, có nhiều thảo dược, dân trồng cây thuốc lá, làm dầu rái, đốt than, lấy tổ ong. Khu vực ven biển là rừng ngập mặn, dân cư làm nghề đánh cá và lấy tổ ong.
Theo ghi chép "Truyền thống cách mạng Đảng bộ và quân dân Thổ Sơn anh hùng" của Ban Thường vụ Huyện ủy Hòn Đất phát hành năm 2003, vùng có chiến lược quan trọng trong cả hai cuộc chiến đấu chống Pháp và chống Mỹ. Đây là nơi dừng chân của vận chuyển hàng quân sự, con đường chiến lược 1C từ kênh Vĩnh Tế về rừng U Minh Thượng. Thổ Sơn trong đó có Ba Hòn là vùng căn cứ cách mạng, là bàn đạp đánh vào trung tâm đầu não và các căn cứ quân sự của Việt Nam Cộng hòa ở Rạch Giá. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, vùng Ba Hòn là khu vực chiến sự ác liệt giữa quân Giải phóng và quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tháng 1 năm 1962, quân lực Việt Nam Cộng hòa huy động 2.000 quân đánh vào vùng trong một chiến dịch nhiều ngày. Ngày 9 tháng 1 năm 1962, Phan Thị Ràng, thường được biết đến là chị Sứ, một người chiến sĩ phe Giải phóng bị bắt và bị sát hại. Tên tuổi chị trở nên nổi tiếng ở vùng đất này cho đến tận ngày nay.
Theo dữ liệu ghi nhận của chính quyền cách mạng, quân kháng chiến trong vùng đã chiến đấu 300 trận trong thời kỳ 21 năm chiến tranh Việt Nam. Họ đã tiêu diệt 1.560 quân đối phương; phối hợp với quân kháng chiến chủ lực đánh hơn 250 trận, tiêu diệt 3.000 quân đối phương. Số người trong vùng tham gia quân kháng chiến của phe Giải phóng là 230 người. Tại vùng đất này có gần 1.000 quân kháng chiến thiệt mạng. Ngày nay, dưới chân núi Hòn Đất có khu tưởng niệm với tên gọi Khu di tích lịch sử Hòn Đất, phía trong có mộ và nơi thờ chị Sứ.
Ba Hòn ngày nay trở thành Khu di tích lịch sử cấp quốc gia, được công nhận vào năm 1989. Ngày 30 tháng 4 năm 2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng phu nhân, đại diện Bộ Tư lệnh Quân khu 9, lãnh đạo tỉnh Kiên Giang, hơn 250 cựu quân dân y, cựu thanh niên xung phong các tỉnh, thành trên khắp miền Tây Nam Bộ đã từng sống, chiến đấu tại vùng Ba Hòn về dự lễ khánh thành Bia lưu niệm Quân dân y tỉnh Kiên Giang. Công trình xây dựng trên diện tích hơn 1.000 m2, gồm có nhà bia, phù điêu, cổng–hàng rào, đường lên hang quân y, cây xanh,... Khu khuôn viên này nằm khá gần khu mộ chị Sứ.
Kinh tế
Ba Hòn ngày nay thuộc quyền quản lý của xã Thổ Sơn, huyện Hòn Đất. Dân cư trong vùng chủ yếu sống bằng nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Dọc theo chân núi là các khu vườn trồng xoài, các giống năng suất như xoài cát Hòa Lộc. Địa phương cũng đã thành lập Hợp tác xã xoài cát Hòa Lộc Hòn Đất. Diện tích trồng loại xoài này là 400 ha với năng suất 6 tấn/ha.
Cả ba ngọn núi Hòn Đất, Hòn Me, Hòn Sóc vẫn còn nhiều tiềm năng du lịch lớn. Hòn Đất có Khu di tích lịch sử và hàng loạt điểm tham quan cách mạng, có khu trưng bày tiếp nhận đá chủ quyền Trường Sa. Hòn Me có trạm cứu hộ động vật hoang dã đầu tiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hòn Quéo có ngôi chùa là địa điểm tham quan tâm linh. Vùng Ba Hòn có nhiều làng nghề truyền thống của người Khmer địa phương như đan đệm lát, làm nồi đất thủ công, xóm đánh lưới ghẹ, ghe câu cá biển gần bờ. Hoạt động du lịch tham quan gắn liền thưởng thức loại hải sản như ghẹ tươi sống, tôm tít, nghêu sò, cá tươi của vùng biển.
Chính quyền tỉnh Kiên Giang đã đầu tư 1.480 tỷ VND cho Dự án công trình xây dựng đường bộ ven biển Hòn Đất–Kiên Lương vào năm 2021. Trong đó, Hòn Me với đường vòng quanh núi sẽ là đầu tuyến của con đường. Tuyến đường có chiều dài 39,4 km, quy mô đường là đường cấp III đồng bằng, với 2 làn xe cơ giới, kết cấu mặt đường cấp cao A1. Mục đích dự án thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, trong đó khai thác tiềm năng du lịch địa phương tại nhiều nơi trong đó có Ba Hòn. Đồng thời, dự án giao thông này góp phần tăng cường năng lực quốc phòng.
Chính quyền đang lập quy hoạch phát triển vùng Ba Hòn trong thời gian tới, trong đó diện tích quy hoạch du lịch được xác định là 505 ha. Trong diện tích quy hoạch đó diện tích 100 ha đất bãi bồi ven biển Hòn Me và Hòn Đất sẽ xây dựng khu cảng biển du lịch, khu bãi tắm biển nhân tạo, khu nghỉ dưỡng ngắn ngày, khu resort, làng sinh thái, khu đô thị, khu vui chơi, giải trí,... Chính quyền địa phương sẽ thúc đẩy phát triển kết hợp 3 loại hình du lịch đặc trưng: du lịch tâm linh, du lịch sinh thái và du lịch tham quan di tích văn hóa, lịch sử.
Ghi chú
Tham khảo
Sách
Tài liệu
Núi tại Kiên Giang
Hòn Đất
|
19831512
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%AAnh%20Ba%20H%C3%B2n
|
Kênh Ba Hòn
|
Kênh Ba Hòn là kênh đào tại thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương tỉnh Kiên Giang. Kênh có chiều dài 8 km, chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam từ ngã ba giao nhau với kênh Rạch Giá – Hà Tiên kéo dài đến cửa kênh ở tây nam, kênh đổ vào vịnh Ba Hòn. Kênh có bề rộng khoảng 50 mét, cửa kênh không mở rộng, bên trái là một mảng rừng phòng hộ, bên phải là núi Ba Hòn. Ngoại trừ núi Ba Hòn, dọc theo hai bên bờ kênh có nhiều ngọn núi thấp, tất cả đều bị khai thác đá làm xi măng, đã bị san phẳng hoàn toàn.
Tả ngạn kênh là Quốc lộ 80. Trên con kênh từ nội địa đổ ra vịnh Thái Lan gồm có các công trình: cầu Hòa Điền, cầu qua kênh trước Nhà máy Xi măng Hà Tiên 2, cống ngăn mặn Ba Hòn, cầu Ba Hòn. Có một âu tàu rộng 22 ha cạnh Nhà máy Xi măng Hà Tiên 2.
Chú thích
Sách
Kênh đào Việt Nam
|
19831517
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manchester%20United%20F.C.%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202002-03
|
Manchester United F.C. mùa giải 2002-03
|
Mùa giải 2002–03 là mùa giải thứ 11 của Manchester United tại Premier League, và là mùa giải thứ 28 liên tiếp của họ ở giải hạng cao nhất bóng đá Anh. Mùa giải này chứng kiến câu lạc bộ đứng đầu bảng Premier League, sau khi có thành tích thấp nhất trong lịch sử Premier League mùa trước, khi họ đứng thứ ba. Manchester United giành chức vô địch dù kém Arsenal 8 điểm vào đầu tháng ba. United cũng kết thúc với vị trí á quân ở League Cup sau khi thua Liverpool ở chung kết. Câu lạc bộ cũng phá kỷ lục chuyển nhượng ở Anh lần thứ ba chỉ trong hơn một năm khi họ trả 29,1 triệu bảng cho Leeds United hậu vệ Rio Ferdinand.
Vào cuối mùa giải, tiền vệ United David Beckham chuyển đến Real Madrid với bản hợp đồng trị giá 25 triệu bảng, sau 12 năm thi đấu tại United. Trong khi đó, trung vệ 37 tuổi Laurent Blanc tuyên bố nghỉ thi đấu. Trung vệ đồng đội David May được chuyển nhượng tự do sau chín năm ở câu lạc bộ.
Giao hữu
Ngoại hạng Anh
FA Cup
Cúp liên đoàn
UEFA Champions League
Vòng loại thứ ba
Vòng bảng thứ nhất
Vòng bảng thứ hai
Vòng knock out
Thống kê đội hình
Chuyển nhượng
Người ra đi đầu tiên của United trong mùa giải 2002–03 là Nick Culkin, người được ra mắt vào ngày 7 tháng 7. Tiền đạo Dwight Yorke của Trinidad và Tobago rời United để đến Blackburn Rovers vào ngày 26 tháng 7 với giá 2 triệu bảng. Culkin và Yorke là những cầu thủ ra đi duy nhất trong mùa hè của United, nhưng họ không phải là những người rời đi duy nhất của United trong mùa giải 2002–03.
Tân binh duy nhất của United trong mùa giải 2002–03 là Rio Ferdinand, người gia nhập từ đối thủ truyền kiếp của Quỷ đỏ là Leeds United, và thủ môn người Tây Ban Nha Ricardo, người đã ký hợp đồng chỉ với 1,5 triệu Bảng.
Vào ngày 5 tháng 6, Lee Roche được giải phóng khỏi United theo dạng chuyển nhượng tự do. Vào ngày 30 tháng 6, hậu vệ Laurent Blanc tuyên bố giã từ sự nghiệp bóng đá. Cũng vào ngày 30 tháng 6, David May rời đi theo dạng tự do.
Mua
Bán
Cho mượn
Tham khảo
|
19831520
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20ph%E1%BA%A9m%20b%C3%A1t-nh%C3%A3%20kinh
|
Đại phẩm bát-nhã kinh
|
Đại phẩm bát-nhã kinh (zh. 大品般若經; sa. Pañcaviṃśatisāhasrikā Prajñāpāramitā), còn được gọi là Nhị vạn ngũ thiên tụng bát-nhã (二萬五千頌般若), Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật kinh (摩訶般若波羅蜜經), Đại phẩm kinh (大品經), Đại trí độ vô cực kinh (大智度無極經), là một kinh văn của Phật giáo Đại thừa. Phiên bản Hán ngữ phổ biến nhất được dịch vào thời Hậu Tần bởi do Cưu-ma-la-thập dịch. Đại Chính tân tu Đại tạng kinh phân loại kinh văn này trong phần Bát-nhã bộ.
Bộ kinh này chủ yếu nói về nguyên lý bát-nhã và tính không của Phật giáo, và thường được thể hiện trong tình tiết Xá-lợi-phất và Tu-bồ-đề nghiên cứu về tính không của nhau.
Phiên bản
[[Tập tin:Sutra_of_the_great_virtue_of_wisdom.jpg|trái|nhỏ|Các chương thứ 44 và 45 của Đại phẩm bát-nhã kinh'' được phát hiện trong hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng.]]
Một số bản dịch Hán ngữ còn tồn tại của kinh văn này có:
Quang tán Bát-nhã ba-la-mật kinh (光讚般若波羅蜜經), do Tây Tấn Trúc Pháp Hộ dịch, 10 quyển.
Phóng quang Bát-nhã ba-la-mật kinh (放光般若波羅蜜經), do Tây Tấn Vô-la-xoa (sa. Mokṣala, zh. 无罗叉) dịch, 20 quyển.
Ma-ha Bát-nhã-ba-la-mật kinh (摩訶般若波羅蜜經), do Diêu Tần Cưu-ma-la-thập dịch, 30 quyển, 90 phẩm. Theo Đại trí độ luận, bản gốc tiếng Phạn có 22.000 câu tụng.
Đại Bát-nhã kinh (大般若经), đệ nhị hội, do Đường Huyền Trang dịch, 78 quyển và 85 phẩm. Bản gốc tiếng Phạn có 25.000 câu tụng.
Đại Bát-nhã kinh (大般若经), đệ tam hội''', cũng do Đường Huyền Trang dịch, 59 quyển và 31 phẩm. Bản gốc tiếng Phạn có 18.000 câu tụng.
chú thích
Tham khảo
Kinh văn Phật giáo Đại thừa
|
19831521
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn%20B%C3%ACnh%20Ba
|
Trận Bình Ba
|
Trận Bình Ba (6–8 tháng 6 năm 1969), còn được gọi là Chiến dịch Hammer, là một trận chiến trong Chiến tranh Việt Nam. Sự kiện khởi đầu với việc Tiểu đoàn 5, Trung đoàn Hoàng gia Úc (5RAR) của Lục quân Úc chiến đấu với lực lượng tổng hợp của Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGP), bao gồm một đại đội từ Trung đoàn 33 và các đơn vị QGP từ Tiểu đoàn D440, ở làng Bình Ba, cách Trại Núi Đất, Phước Tuy về phía bắc. Trận chiến này là một điểm bất thường trong kinh nghiệm chiến đấu của Úc ở miền Nam Việt Nam vì nó bao gồm các cuộc giao tranh khốc liệt từng nhà, mặc dù phần lớn kẻ thù thiệt mạng là do pháo hạng nặng và oanh tạc trên không. Để đối phó với những nỗ lực đánh chiếm Bình Ba của quân cộng sản, quân Úc đã tấn công ngôi làng bằng trực thăng bộ binh, thiết giáp và trực thăng, đánh tan QGP và phá hủy phần lớn ngôi làng. Tuy nhiên, những trận chiến như vậy không xảy ra thường xuyên ở Phước Tuy, và những tổn thất nặng nề mà quân cộng sản phải gánh chịu buộc họ phải tạm thời rút khỏi tỉnh. Mặc dù quân Úc vẫn chạm trán với các đơn vị lực lượng chủ lực của QĐNDVN/QGP trong những năm tiếp theo, trận Bình Ba đã đánh dấu sự kết thúc của những cuộc đụng độ quy mô lớn như vậy và được coi là một trong những chiến thắng quan trọng của Úc trong Chiến tranh Việt Nam.
Bối cảnh
Làng Bình Ba nằm ở phía bắc căn cứ Trại Núi Đất của Lực lượng Đặc nhiệm Úc số 1 (1 ATF), ở phía tây Quốc lộ 2. Làng có dân số khoảng 3.000 người—chủ yếu là nông dân và công nhân trồng cao su. Bình Ba được người Úc biết đến nhiều với những căn nhà hình chữ nhật gọn gàng, chủ yếu được xây bằng gạch ngói đặc. Trong chuyến hành quân đầu tiên của 5RAR tại Việt Nam, một đại đội súng trường và một đơn vị súng cối đã đóng quân một thời gian ngắn trong chính ngôi làng này. Chiến lược này tỏ ra có tác dụng răn đe đơn vị thuế QGP và các đội ám sát đang nắm quyền kiểm soát ngôi làng. Tuy nhiên, lực lượng nhỏ của Úc tiêu hao nguồn tài nguyên hữu hạn quá nhiều, và ngôi làng được chuyển giao cho Địa phương quân và nghĩa quân bảo vệ.
Trong nỗ lực chứng minh rằng mình có thể di chuyển tự do trong tỉnh, một lực lượng tổng hợp bao gồm một đại đội của Trung đoàn 33 QĐNDVN, các đơn vị của Tiểu đoàn cơ động tỉnh D440 QGP, Đội du kích Bình Ba và Ngãi Giao và Đại đội huyện Châu Đốc đã chiếm Bình Ba vào tối ngày 5–6 tháng 6 năm 1969. Đáp trả lại, lực lượng Lục quân Việt Nam Cộng hòa (ARVN) đã được điều động từ Đức Thành vào sáng hôm sau.Thông tin tình báo ban đầu cho thấy một nhóm cỡ trung đội đã xâm nhập vào làng. Trong khi đó, trong một chiến dịch riêng biệt, 6 RAR cũng phải đối mặt với một cuộc đụng độ nặng nề cách căn cứ của đơn vị này vài km về phía bắc. Lúc 08:00 ngày 6 tháng 6, một chiếc xe tăng Centurion và một chiếc xe cứu hộ bọc thép của Úc di chuyển qua Bình Ba để đến hỗ trợ 6 RAR. Một quả RPG đã bắn trúng chiếc Centurion, xuyên qua tháp pháo, gây hư hỏng xe tăng và làm một thành viên tổ lái bị thương nặng. Huyện trưởng sau đó đã yêu cầu 1 ATF hỗ trợ giải vây Bình Ba.
Diễn biến
Lực lượng Phản ứng Khẩn cấp ATF số 1, dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Murray Blake, gồm Đại đội D 5 RAR yếu kém (chỉ 65 người), một đội xe tăng Centurion từ Trung đoàn Thiết giáp số 1 và một đội thiết giáp chở quân M-113 từ Trung đoàn Kỵ binh 3 đã tham gia xử lý vụ việc. Hỗ trợ trực tiếp là Khẩu đội 105, Pháo binh Hoàng gia Úc. Trong khi đó, các đơn vị của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 33 chiếm giữ các vị trí phòng thủ trong làng. Đến 10:30, quân Úc tiếp cận Bình Ba từ phía nam và bị tấn công bởi một loạt hỏa lực RPG từ một dãy nhà. Sau khi sơ tán phần lớn dân cư trong thị trấn, Đại đội D tấn công ngôi làng từ đông sang tây với sau loạt đạn yểm trợ từ trực thăng chiến đấu của Phi đội RAAF số 9. Lực lượng Địa phương quân và nghĩa quân được triển khai vào các vị trí chốt chặn. Bốn xe tăng dẫn đầu cuộc tấn công, với số bộ binh còn lại trên xe APC theo sau.
Quân Úc đến rìa làng lúc 11:20 dưới hỏa lực nhẹ. Ban đầu, xe tăng có hiệu quả để cận chiến, tuy nhiên vào thời điểm tiếp cận khu chợ ở trung tâm thị trấn, những khẩu RPG-7 giấu kín đã gây ra thiệt hại bên ngoài cho hai chiếc Centurion, trong khi một chiếc khác bị xuyên thủng. Trong vòng một giờ, ba trong số bốn xe tăng được sử dụng trong cuộc tấn công ban đầu đã bị vô hiệu hóa do hư hỏng và thương vong của kíp lái. Rõ ràng là những đánh giá ban đầu về sức mạnh của QĐNDVN/QGP là không chính xác, và có lẽ quy mô gần với một tiểu đoàn hơn là một trung đội. Ngoài ra, máy bay trực thăng trên không còn báo cáo một lực lượng địch lớn lên tới 60 người đang di chuyển về phía nam và phía tây. Ngoài ra, máy bay trực thăng trên không còn báo cáo một lực lượng địch lớn lên tới 60 người đang di chuyển về phía nam và phía tây. Khi di chuyển qua rừng cao su, thiết giáp Úc đụng độ với một đại đội đang chuẩn bị phản công, và gây thương vong nặng nề cho quân cộng sản trong sự kiện này.
Đến 14:00, quân Úc được tăng viện bởi quân bổ sung từ Đại đội B 5 RAR, dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Rein Harring. Lực lượng này chiếm các vị trí chốt chặn ở phía nam và phía đông. Sĩ quan chỉ huy của 5 RAR, Trung tá Colin Khan, đảm nhận quyền chỉ huy trận chiến. Với một đội xe tăng mới cùng sự hỗ trợ của APC, Đại đội D tiến hành cuộc tấn công thứ hai vào làng, lần này với bộ binh dẫn đầu. Một xe tăng và hai chiếc M113 đi cùng và hỗ trợ chặt chẽ mỗi trung đội. Trung đội dẫn đầu liên lạc ngay với địch và cuộc tiến công bị chậm lại do phải dọn sạch từng nhà. Quân cộng sản đang chiếm giữ các ngôi nhà đã bắn vào quân Úc từ cửa sổ và cửa ra vào trước khi rút vào đường hầm khi quân Úc đi qua. Binh nhì Úc Wayne Teeling đã thiệt mạng do một phát đạn xuyên cổ khi đội của anh ta tiếp cận dãy nhà đầu tiên. Một chiếc xe tăng bắn một loạt thuốc nổ vào tòa nhà do QĐNDVN/QGP chiếm giữ. Ngôi nhà nổ tung, và đội tiên phong tấn công ngay lập tức. Sáu người chết được tìm thấy trong đống đổ nát.
Kiểu hành động này được tiến hành dọc theo tuyến tấn công của Đại đội D và mỗi khi quân Úc bị tấn công từ một tòa nhà, xe tăng sẽ bắn thủng các bức tường và một đội bộ binh nhỏ sẽ quét sạch đối thủ cho đến khi mọi sự kháng cự bị dập tắt. Trong cuộc giao tranh, một số binh sĩ QĐNDVN/QGP đã cởi bỏ quân phục, vũ khí và cố gắng trà trộn vào các nhóm dân thường không thể rút lui. Sự hiện diện liên tục của dân thường trong làng buộc người Úc phải đối mặt với nguy hiểm tột độ khi cố gắng đưa những nhóm này ra khỏi khu vực chiến đấu. Những người khác cố gắng chạy trốn khỏi làng hoặc ẩn náu trong các hầm trú ẩn nhỏ dưới mọi ngôi nhà. Cuộc giao tranh tiếp tục kéo dài suốt buổi chiều và chỉ kết thúc vào lúc rạng sáng. Khi Bình Ba vẫn chưa được đảm bảo an toàn, Đại đội D và lực lượng thiết giáp yểm trợ sau đó đã chiếm giữ một bến cảng phòng thủ trong đêm, và kiệt sức vì giao tranh. Trong đêm Đại đội B đã tiêu diệt hai lính QGP đang cố gắng tiến về phía nam.
Lúc 6 giờ ngày 7 tháng 6, Đại đội B chặn được một đại đội QĐNDVN/QGP đang cố gắng tiến vào thị trấn, và buộc họ phải rút lui sau khi chặn các đường ra vào với hỗ trợ của thiết giáp. Vào ngày thứ hai, quân Úc tiếp tục dọn sạch cộng sản khỏi làng. Đại đội D, với một trung đội của Đại đội B trực thuộc, gặp phải sự kháng cự lẻ tẻ của một số nhóm nhỏ vẫn còn ẩn náu trong làng. Để dọn sạch hoàn toàn ngôi làng, mọi boongke, ngôi nhà và mọi khu vực có thể ẩn náu đều được khám xét. Vào cuối buổi sáng, lực lượng Việt Nam Cộng hòa ở thôn phía bắc Đức Trung bị tấn công, và Đại đội B và Trung đội xung phong được triển khai để hỗ trợ. Hầu hết các hoạt động lúc đấy đều tập trung vào Đức Trung, với một chiếc trực thăng báo cáo một lực lượng lên tới 80 quân QĐNDVN/QGP đang di chuyển giữa các tòa nhà. Với việc quân tiên phong chặn ở phía nam, một đại đội phản ứng của Địa phương quân và nghĩa quân vào dọn sạch làng, tuy nhiên quân cộng sản đã rút đi. Đến 13:00, giao tranh dữ dội lại nổ ra ở Đức Trung, khiến hơn 100 lính cộng sản nhanh chóng tràn lên quân cộng hòa. Tuy nhiên, hỏa lực pháo binh chính xác đã có tác dụng ổn định tình hình và Đại đội B với một đoàn xe tăng triển khai càn quét thôn. Trong buổi chiều, Đại đội D tiếp tục rà phá Bình Ba và giao tranh cận chiến trước khi quân Úc rút lui để quân Việt Nam Cộng hòa hoàn thành việc giải tỏa. Đến tối, ngôi làng đã được đảm bảo an ninh, các Đại đội B và D dựng các vị trí chốt chặn trong đêm.
Sau trận đánh
Trận Bình Ba kết thúc lúc 09:00 ngày 8 tháng 6 với một cuộc truy quét cuối cùng được thực hiện vào sáng hôm đó để đảm bảo Bình Ba sạch cộng sản. Vào thời điểm này, một lực lượng lớn của QĐNDVN/QGP đã bị quân Úc đánh bại và ngôi làng trên thực tế đã bị phá hủy. Quả thực, Bình Ba bị thiệt hại nặng nề đến mức nhiều dân làng mất nhà cửa sau đó đã được tái định cư với sự giúp đỡ của Đơn vị Nội vụ số 1 Úc. Bất chấp những nỗ lực nhằm giải tỏa dân thường trong làng trước trận chiến, một số lượng lớn dân thường chưa xác định chắc chắn đã thiệt mạng trong cuộc giao tranh. Hơn nữa, cùng với con số thương vong một chiều, đã dẫn đến những tuyên bố trên các phương tiện truyền thông về hành động tàn bạo của Úc. Một người Úc thiệt mạng và 10 người bị thương, trong khi tổn thất của QĐNDVN/GQP bao gồm ít nhất 107 người thiệt mạng, 6 người bị thương và 8 người bị bắt.
Trận Bình Ba là một trong những chiến thắng quan trọng của quân Úc ở miền Nam Việt Nam, và mặc dù quân Úc vẫn chạm trán với các đơn vị lực lượng chủ lực của quân cộng sản trong những năm tiếp theo, trận Bình Ba đã đánh dấu sự kết thúc của những cuộc đụng độ quy mô lớn như vậy. Thật vậy, do tổn thất nặng nề ở Bình Ba, QĐNDVN buộc phải tạm thời rút khỏi Phước Tuy và tiến vào tỉnh Long Khánh lân cận. Trung đoàn Hoàng gia Úc, Trung đoàn kỵ binh số 3/4 và Trung đoàn thiết giáp số 1 sau đó đã được trao tặng danh hiệu chiến đấu 'Bình Ba', một trong năm danh hiệu duy nhất được trao tặng cho các đơn vị Úc trong chiến tranh.
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Tài liệu tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Battle of Binh Ba: June 1969 – Úc và Chiến tranh Việt Nam
Xung đột năm 1969
Việt Nam năm 1969
Trận đánh liên quan tới Việt Nam
Trận đánh liên quan tới Úc
Lịch sử Bà Rịa – Vũng Tàu
|
19831523
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ji%C5%99%C3%AD%20Pavlenka
|
Jiří Pavlenka
|
Jiří Pavlenka (sinh ngày 14 tháng 4 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Séc hiện đang chơi ở vị trí thủ môn cho Werder Bremen và đội tuyển quốc gia Cộng hòa Séc.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Slavia Prague
Jiří Pavlenka đã gia nhập Slavia Prague từ Baník Ostrava vào tháng 1 năm 2016 với phí chuyển nhượng là 380.000 euro. Anh đã giành chức vô địch giải đấu với Slavia Prague trong mùa giải Czech First League 2016–17.
Werder Bremen
Vào tháng 6 năm 2017, Jiří Pavlenka đã gia nhập Werder Bremen với hợp đồng ba năm, có thể gia hạn thêm một năm. Phí chuyển nhượng ước tính là 3 triệu euro.
Vào tháng 8 năm 2018, sau mùa giải ra mắt ấn tượng tại Bundesliga, Pavlenka đã đồng ý gia hạn hợp đồng với câu lạc bộ.
Sự nghiệp quốc tế
Jiří Pavlenka đã chơi bóng đá quốc tế ở cấp độ U21 cho quê hương của mình.
Anh có lần được triệu tập đầu tiên vào đội tuyển quốc gia Cộng hòa Séc cho trận giao hữu gặp Slovakia vào tháng 3 năm 2015. Anh ra mắt đội tuyển quốc gia vào ngày 15 tháng 11 năm 2016 trong trận giao hữu gặp Đan Mạch.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Thành tích
Slavia Prague
Czech First League: 2016–17
Cộng hòa Séc
China Cup bronze: 2018
Chú thích
Liên kết ngoài
Sinh năm 1992
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ bóng đá FC Baník Ostrava
|
19831525
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ZeniMax%20Media
|
ZeniMax Media
|
ZeniMax Media Inc. là một tổng công ty trò chơi điện tử của Mỹ có trụ sở tại Rockville, Maryland, thành lập vào năm 1999.
Công ty sở hữu nhà phát hành Bethesda Softworks với đơn vị phát triển Bethesda Game Studios (nhà phát triển The Elder Scrolls, Fallout, and Starfield), cũng như các nhà phát triển id Software (Doom, Quake, và loạt Rage), Arkane Studios (Dishonored, Prey, và Redfall), MachineGames (loạt Wolfenstein), Tango Gameworks (The Evil Within, Ghostwire: Tokyo, và Hi-Fi Rush), và ZeniMax Online Studios (The Elder Scrolls Online).
Microsoft đã công bố ý định mua lại ZeniMax Media và tất cả các công ty con với giá 7,5 tỷ đô la Mỹ vào ngày 21 tháng 9 năm 2020. Việc mua lại hoàn tất vào ngày 9 tháng 3 năm 2021. ZeniMax Media là công ty con của Microsoft Gaming cùng với Xbox Game Studios và Activision Blizzard.
Tham khảo
Công ty thành lập năm 1999
|
19831526
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Armour-piercing%20ammunition
|
Armour-piercing ammunition
|
Armour-piercing ammunition (AP) hay là đạn xuyên giáp là một loại đạn được thiết kế để xuyên phá vỏ giáp bảo vệ trên thiết giáp hạm, giáp cá nhân, xe thiết giáp.
Ứng dụng chủ yếu của đạn xuyên giáp là dùng để xuyên thủng lớp giáp dày của các tàu chiến thiết giáp hạm và gây ra những tổn thất bên trong cho các tàu này. Từ những năm 1920s, vũ khí xuyên giáp được cho là bắt buộc trong chống tăng. Các đạn xuyên giáp có cỡ nhỏ hơn 20 mm được sử dụng để đối phó với các mục tiêu bọc thép hạng nhẹ, giáp cá nhân.
Do giáp xe tăng ngày càng được cải tiến trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2, các loại đạn xuyên giáp bắt đầu được thiết kế nhỏ hơn nhưng cường độ và độ cứng để xuyên thép lớn hơn, đồng thời sơ tốc đầu nòng cũng cao hơn. Các thanh xuyên hiện nay cấu tạo từ thanh dài vật liệu có tỉ trọng lớn như tungsten hay uranium nghèo (DU) giúp cải thiện hơn nữa đặc tính của đường đạn.
Lịch sử
Cuối những năm 1850s, Hải quân các nước bắt đầu đưa vào trang bị thiết giáp hạm, có lớp vỏ bọc thép dày. Lớp giáp này vô hiệu hóa các đạn bi sắt và cả đạn mang thuốc nổ mạnh.
Major Sir W. Palliser là người đầu tiên đưa ra giải pháp về đạn xuyên phá được lớp giáp dày, qua việc phát minh lý thuyết của tăng cứng đầu đạn bi sắt. Nhờ đúc các viên đạn theo chiều hướng xuống và tạo thành một đầu đạn, kim loại nóng chảy sẽ được tôi và trở nên cứng hơn, trong khi phần còn lại của vật đúc sẽ tạo thành trong khuôn làm bằng cát, giúp kim loại được làm nguội chậm dần và giúp thân viên đạn tạo thành tough.
Những viên đạn bi sắt sau khi được tôi có hiệu suất rất tốt chống lại giáp làm bằng sắt nhưng không có hiệu quả với giáp phức hợp và giáp thép, được đưa ra vào năm 1880s. Do đó các nhà thiết kế thay đổi hoàn toàn hướng thiết kế, và đạn thép với đầu đạn được dập và được làm cứng bởi nước đã được sử dụng trong súng Palliser. Ban đầu, những viên đạn được làm bằng thép các bon nhưng do giáp xe thiết giáp ngày càng tốt lên, nên đạn chống tăng cũng phải phát triển hơn.
Trong những năm 1890s và sau đó, giáp thép thấm các bon trở nên phổ biến, ban đầu chỉ để gia cố thêm cho tàu chiến. Để đối đầu với các mục tiêu như vậy, đạn pháo được làm từ thép-dập hoặc đúc-có pha thêm nickel và chromium. Một cải tiến nữa là sự ra đời của mũ kim loại mềm trên chóp đạn, còn gọi là "Makarov tips" được phát minh bởi Đô đốc người Nga Stepan Makarov. Mũ này làm tăng khả năng đâm xuyên của đạn do làm yếu đi va chạm và ngăn tổn hại đầu mũi xuyên giáp của đạn trước khi nó chạm tới bề mặt giáp. Đồng thời mũ kim loại mềm giúp tăng độ xyên ở góc nghiêng do ngăn viên đạn bị trượt đi khỏi bề mặt giáp.
Chiến tranh thế giới I
Đạn pháo được sử dụng trước và trong World War I thường được làm từ thép đúc chromium (không gỉ). Thép được dập tạo hình và sau đó được tôi, thép sẽ được khoan lỗ ở đầu và được xử lý trên máy tiện. Đạn pháo cũng được chế tạo tương tự như vậy. Ở bước cuối cùng là xử lý nhiệt, giúp cho đạn có đủ độ cứng cần thiết, công nghệ này là một yếu tố bí mật của các nước chế tạo vũ khí.
Lỗ phía sau của đạn pháo có khả năng nạp một lượng nhỏ thuốc phóng, khoảng 2% trọng lượng của đạn. Đạn được nạp thuốc nổ mạnh, có hoặc không có ngòi nổi, và sẽ nổ khi va vào vỏ giáp xuyên thủng vỏ giáp.
Chiến tranh thế giới II
Trong thời kỳ chiến tranh thế giới 2, đạn pháo sử dụng thép hợp kim có chứa nickel-chromi-molybden. Trong khi người Đức sử dụng thép hợp kim silicon-manganese-chromi do các nguồn cung kim loại bị hạn chế. Hợp kim thép của Đức, dù có khả năng đạt độ cứng tương đương nhưng giòn hơn và dễ bị gãy khi va chạm vào giáp thép nghiêng, giảm độ xuyên giáp, đối với đạn armour-piercing high-explosive (APHE), điều này có thể dẫn đến lượng nổ mạnh bị kích nổ sớm. Các giải pháp thay đổi độ cứng của đạn pháo nâng cao khả năng xuyên giáp của đạn pháo được các nước tiến hành trong suốt cuộc chiến tranh, đặc biệt là người Đức. Kết quả là đạ pháo thay đổi độ cứng từ độ cứng cao ở đầu đạn cho đến độ cứng thấp hơn ở đuôi đạn và đảm bảo phát đạn sao cho viên đạn pháo tiếp xúc tốt với vỏ giáp.
Đạn pháo tăng APHE, dù được sử dụng bởi phần lớn các bên tham chiến trong thời kỳ này, nhưng lại không được quân đội Anh sử dụng. Người Anh chỉ sử dụng một loại đạn APHE duy nhất trong thế chiến là đạn AP, Mk1 cho súng chống tăng Ordnance QF 2 pounder và sau đó nó bị loại bỏ do người Anh nhận thấy ngòi nổ có xu hướng bị tách khỏi thân đạn khi đang xuyên qua vỏ giáp. Kể cả khi kíp nổ không bị suy chuyển và toàn bộ hệ thống hoạt động đúng, thì hiệu quả của đạn pháo đối với kíp lái đối phương là quá nhỏ, không phù hợp để tiếp tục dành thời gian để phát triển. Quân đội Anh bắt đầu sử dụng đạn APHE từ sau khi phát minh ra đạn pháo Pallister 1,5% thuốc nổ mạnh từ những năm 1870s và 1880s, và cho rằng độ tin cậy và khả năng xuyên giáp là quan trọng nhất đối với pháo tăng. Các loại đạn pháo xuyên giáp nổ mạnh của Hải quân, có kích thước lớn hơn rất nhiều sử dụng lượng thuốc nổ mạnh vào khoảng 1 đến 3 % tổng trọng lượng đạn pháo, nhưng đối với đạn pháo chống tăng, có kích thước nhỏ hơn nhiều và cần tốc độ lớn hơn sẽ sử dụng chỉ khoảng 0.5% tổng trọng lượng pháo, ví dụ Panzergranate 39 chỉ chứa 0,2% thuốc nổ mạnh. Điều này là do đạn pháo tăng cần có độ xuyên giáp lớn hơn nhiều lần so với cỡ đạn (lấy ví dụ hơn 2,5 lần đối với đạn pháo chống tăng so với dưới 1 đối với đạn pháo Hải quân). Do đó phần lớn đạn xuyên giáp nổ mạnh được sử dụng trong chống tăng sử dụng ít thuốc nổ mạnh chỉ để tăng số lượng mảnh văng của đạn pháo sau khi xuyên vào xe thiết giáp, năng lượng của mảnh văng được lấy từ động năng của quả đạn sau khi bắn đi ở vận tốc cao khỏi nòng pháo. Trừ đạn pháo hàng hải sử dụng để phá bê tông và đạn xuyên giáp, dẫn cho khả năng xuyên giáp bị giảm đáng kể. Lượng nổ mạnh sử dụng trong đạn APHE phải có tính chống nhạy nổ cao với sóng chấn động để ngăn không bị kích nổ sớm. Quân đội Mỹ thông thường sẽ sử dụng thuốc nổ Explosive D, còn được biết là ammonium picrate.
Cấu trúc của một số loại đạn xuyên giáp
Các chữ viết tắt (C, BC, CBC) được sử dụng cho các loại đạn AP, SAP, APHE và SAPHE với , for example "APHEBC" (armour-piercing high explosive ballistic capped), đôi khi ký hiệu HE cũng được ghi trên cáp đạn pháo APHE và SAPHE. Nếu là đạn vạch đường sẽ có thêm ký tự "-T" (APC-T).
Xem thêm
Panzergranate 39
Raufoss Mk 211
Ghi chú
Tham khảo
Bibliography
Liên kết ngoài
|
19831527
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Deutsche%20Fu%C3%9Fball%20Liga
|
Deutsche Fußball Liga
|
DFL Deutsche Fußball Liga GmbH (hay đơn giản là Deutsche Fußball Liga; ; thường được viết tắt là DFL) là một công ty con thuộc sở hữu hoàn toàn của Die Liga – Fußballverband. DFL chịu trách nhiệm toàn bộ hoạt động kinh doanh của Ligaverband, bao gồm các giải đấu Bundesliga và 2. Bundesliga. Chủ tịch hội đồng giám sát của DFL là Reinhard Rauball. Christian Seifert là CEO của DFL.
Kể từ ngày 1 tháng 7 năm 2001, DFL đã tổ chức các giải Bundesliga và 2. Bundesliga. Từ năm 2005 đến năm 2007, họ cũng tổ chức DFL-Ligapokal. Từ năm 2010, DFL cũng tổ chức DFL-Supercup.
DFL thành lập vào ngày 19 tháng 12 năm 2000 dưới dạng một công ty GmbH độc lập. Kể từ đó, Ligaverband là cổ đông duy nhất của DFL, công ty đã cung cấp vốn cổ phần trị giá 1 triệu euro. Tổ chức này là công ty con của Ligaverband, đại diện cho 36 câu lạc bộ chuyên nghiệp ở hai giải đấu hàng đầu của bóng đá Đức. Ngày nay, Bundesliga và 2. Bundesliga được điều hành bởi DFL, nhưng được tổ chức chung bởi Hiệp hội bóng đá Đức (Deutscher Fußball-Bund, DFB) và Ligaverband.
Chú thích
Liên kết ngoài
Giải bóng đá Đức
Khởi đầu năm 2000 ở Đức
|
19831533
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Con%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20T%C6%A1%20l%E1%BB%A5a%3A%20H%C3%A0nh%20lang%20Zarafshan-Karakum
|
Con đường Tơ lụa: Hành lang Zarafshan-Karakum
|
Con đường Tơ lụa: Hành lang Zarafshan-Karakum là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm phần Con đường tơ lụa cổ đại và các di tích lịch sử dọc theo tuyến đường Hành lang Zarafshan-Karakum. Di sản này trải dài 886 km qua Tajikistan, Turkmenistan và Uzbekistan bao gồm 31 địa điểm.
Vị trí
Hàng lang Zarafshan-Karakum nằm ở Trung Á, đi qua 7 vùng địa lý gồm cao nguyên, chân núi, đồng bằng, vùng tưới tiêu nhân tạo, ốc đảo, thảo nguyên ngải tây và sa mạc.
Địa điểm
Di sản này bao gồm 31 địa điểm nằm tại 3 quốc gia:
Tajikistan
Khu định cư Khisorak
Lâu đài trên núi Mugh
Khu định cư Kum
Khu định cư Gardani Khisor
Pháo đài Tali Khamtuda
Lăng Khoja Mukhammad Bashoro
Hệ thống tưới tiêu Toksankoriz
Khu định cư Sanjarshakh
Tàn tích của Thị trấn cổ Penjikent
Uzbekistan
Đền Jartepa II
Suleimantepa
Khu định cư Kafirkala
Khu định cư Dabusiya
Tổ hợp kiến trúc Kasim Sheikh
Lăng Mir-Sayid Bakhrom
Nhà nghỉ lữ hành Rabati Malik
Nhà thờ Hồi giáo Deggaron
Chasma-i Ayub Khazira
Khu định cư Vardanze
Tháp giáo đường Vobkent
Tổ hợp kiến trúc Bahouddin Naqshband
Nghĩa địa Chor Bakr
Khu định cư Varakhsha
Khu định cư Paikend
Turkmenistan
Khu định cư Amul
Nhà nghỉ lữ hành Mansaf (a)
Nhà nghỉ lữ hành Mansaf (b)
Nhà nghỉ lữ hành Konegala
Tham khảo
Di sản thế giới tại Tajikistan
Di sản thế giới tại Turkmenistan
Di sản thế giới tại Uzbekistan
|
19831538
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu%20b%E1%BA%A3o%20t%E1%BB%93n%20thi%C3%AAn%20nhi%C3%AAn%20Tigrovaya%20Balka
|
Khu bảo tồn thiên nhiên Tigrovaya Balka
|
Khu bảo tồn Beshai Palangon (Бешаи Палангон) là một khu bảo tồn nằm tại Khatlon, Tajikistan, trên khu vực biên giới với Afghanistan, nơi sông Vakhsh và Panj hợp lưu tạo thành sông Amu Darya. Khu bảo tồn rộng 460 km2 trải dài hơn 40 km từ phía tây nam đến đông bắc.
Tổ chức Quốc tế về Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) mô tả đây là khu bảo tồn thiên nhiên quan trọng nhất ở Trung Á vì diện tích rộng lớn và sự đa dạng sinh thái. Ngoài ra, đây là khu vực cực kỳ quan trọng đối với các loài thực vật ống tràng quý hiếm hay hệ sinh thái rừng ven sông.
Độ cao cao nhất đạt khoảng 1.200 mét so với mực nước biển. Khí hậu lục địa và khô hạn, các môi trường sống khác nhau của Tigrovaya Balka bao gồm bán sa mạc, đồng cỏ giống xavan với cây hồ trăn và thảm thực vật ống tràng với cây dương, nhót lá hẹp và cỏ cao.
Khu vực này là một trong những thành trì cuối cùng của Hổ Caspi, dấu vết của chúng được nhìn thấy lần cuối trong khu bảo tồn vào năm 1953. Tính đến ngày nay, Tigrovaya Balka vẫn là nơi sinh sống của hươu Bukhara, con mồi ưa thích của Hổ Caspi. Một số loài đáng chú ý khác gồm chó rừng lông vàng, mèo ri, linh cẩu vằn, linh dương bướu giáp, hải ly, sói xám, cáo đỏ, cừu núi Trung Á.
Khu bảo tồn được BirdLife International xác định là vùng chim quan trọng vì nơi đây hỗ trợ một số lượng đáng kể quần thể các loài chim khác nhau. Một số loài đáng chú ý gồm vịt lặn mào đỏ, cốc lùn, cắt Saker, sếu cổ trắng, bồ câu mắt vàng, cú muỗi Ai Cập.
Tham khảo
Khu bảo tồn thiên nhiên Tajikistan
Di sản thế giới tại Tajikistan
Vùng chim quan trọng của Tajikistan
|
19831539
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%8Dc%20Lan%20%28di%E1%BB%85n%20vi%C3%AAn%20sinh%201942%29
|
Ngọc Lan (diễn viên sinh 1942)
|
Ngọc Lan tên đầy đủ là Phan Ngọc Lan (sinh năm 1942) là nữ diễn viên điện ảnh người Việt Nam, bà được biết đến qua vai Nhàn trong phim điện ảnh Lửa trung tuyến và vai Bà nội trong phim truyền hình Bánh đúc có xương. Ngọc Lan được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 2015.
Tiểu sử
Ngọc Lan sinh năm 1942 tại Bắc Giang, khi còn đi học bà đã bộc lộ khả năng ca hát, diễn kịch và ngâm thơ. Năm 1959, sau khi có dịp được xem bộ phim truyện Chung một dòng sông của đạo diễn Phạm Kỳ Nam, Ngọc Lan mơ ước sau này trở thành diễn viên.
Sự nghiệp
Điện ảnh
Năm 1959, Trường Điện ảnh Việt Nam được thành lập, bà ra Hà Nội dự thi tuyển và vượt qua được bốn vòng khảo sát. Ngọc Lan trở thành học viên khóa 1 của trường Điện ảnh Việt Nam cùng Trà Giang, Lâm Tới, Thế Anh, Kim Chi, Lịch Du...
Năm 1961, bà được đạo diễn Phạm Văn Khoa mời đóng vai chính trong phim Lửa trung tuyến, đây cũng là vai diễn đầu tiên và nổi tiếng nhất của bà, bộ phim sau đó được mời dự Liên hoan phim Quốc tế Moskva 1961. Là diễn viên chính của phim, Ngọc Lan vinh dự được thay mặt đoàn Điện ảnh Việt Nam cùng kéo cờ khai mạc Liên hoan phim cùng với Sergey Fyodorovich Bondarchuk. Sau sự kiện này Ngọc Lan quen biết với nữ diễn viên điện ảnh, Nghệ sĩ nhân dân Zinaida Kirienko.
Ngọc Lan tốt nghiệp năm 1962 và được phân công về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam, cũng vào cuối năm này bà kết hôn với họa sĩ, đạo diễn phim hoạt hình Ngô Mạnh Lân. Trong sự nghiệp của mình Ngọc Lan tham gia hơn 50 vai diễn.
Năm 2015, Ngọc Lan được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân. Sau bộ phim Nơi ẩn nấp bình yên năm 2017, bà tạm dừng các hoạt động phim ảnh và trở lại với bộ phim truyền hình 11 tháng 5 ngày vào năm 2021.
Văn học
Ngọc Lan đã phát hành 6 tập thơ, tập thơ thứ 6 có tựa đề Nặng tình phát hành năm 2020.
Một số bài thơ trong chùm thơ Mẹ và quê hương của bà tạo cảm hứng cho nhạc sĩ Đỗ Phương sáng tác ca khúc Nhớ mẹ.
Vai diễn
Phim điện ảnh
Truyền hình
Đời tư
Ngọc Lan gặp đạo diễn phim hoạt hình Ngô Mạnh Lân tại Moskva khi bà tham gia dự Liên hoan phim Quốc tế Moskva 1961, lúc này ông Lân là lưu học sinh tại trường VGIK. Hai ông bà kết hôn cuối năm 1962 và có được 4 người con mang tên Ngô Phương Lan, Ngô Phương Ly, Ngô Lê, Ngô Lâm. Con gái lớn của bà là Ngô Phương Lan – nguyên Cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam và cháu ngoại đầu của bà là đạo diễn Đinh Tuấn Vũ.
Tham khảo
Sinh năm 1942
Người Bắc Giang
Người họ Phan tại Việt Nam
Diễn viên Việt Nam
Nhân vật còn sống
N
|
19831540
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abdulrahman%20bin%20Hamad%20bin%20Jassim%20bin%20Hamad%20Al%20Thani
|
Abdulrahman bin Hamad bin Jassim bin Hamad Al Thani
|
Abdulrahman bin Hamad bin Jassim bin Hamad Al Thani là nhà chính trị Qatar. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Qatar kể từ ngày 19 tháng 10 năm 2021.
Tham khảo
Chính khách Qatar
|
19831553
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20Ch%E1%BB%91ng%20B%E1%BA%AFt%20n%E1%BA%A1t
|
Ngày Chống Bắt nạt
|
Ngày Chống Bắt nạt (hoặc Ngày Áo Hồng) là một sự kiện thường niên được tổ chức ở Canada và các nơi khác trên thế giới, nơi mọi người mặc áo sơ mi màu hồng để chống lại nạn bắt nạt. Sáng kiến này được bắt đầu ở Canada diễn ra vào thứ Tư cuối cùng của tháng 2 hàng năm. Ở New Zealand, Ngày Chống Bắt nạt được tổ chức vào tháng 5.
Lịch sử
Sự kiện này ban đầu do hai học sinh lớp 12 tên là David Shepherd và Travis Price ở Berwick, Nova Scotia tổ chức vào năm 2007, họ bỏ tiền ra mua và phân phát 50 chiếc áo sơ mi hồng sau khi một học sinh lớp 9 tên Chuck McNeill bị bắt nạt vì mặc áo polo màu hồng trong ngày đầu tiên đi học tại Trường Trung học Rural Central Kings ở Cambridge, Nova Scotia. Năm đó, Thủ hiến Nova Scotia Rodney MacDonald đã tuyên bố ngày thứ Năm thứ hai của tháng 9 (khớp với ngày bắt đầu mỗi năm học) là "Ngày Đứng lên Chống Bắt nạt" nhằm ghi nhận những sự kiện này.
Năm 2008, Thủ hiến British Columbia, Gordon Campbell tuyên bố ngày 27 tháng 2 là Ngày Chống Bắt nạt cấp tỉnh. Năm 2009, BGC Canada đã thiết kế những chiếc áo phông màu hồng có dòng chữ "Dừng Bắt nạt" và "Ngày Áo Hồng" cho Ngày Chống Bắt nạt.
Tháng 5 năm 2009, New Zealand làm lễ kỷ niệm Ngày Áo Hồng đầu tiên.
Năm 2012, Liên Hợp Quốc tuyên bố ngày 4 tháng 5 là Ngày Chống Bắt nạt của Liên Hợp Quốc. Tương tự, UNESCO đã công bố ngày thứ Năm đầu tiên của tháng 11 là Ngày Quốc tế Chống Bạo lực và Bắt nạt tại Trường học, bao gồm cả Bắt nạt qua Mạng.
Mục đích
Ngày Chống Bắt nạt được thành lập để ngăn chặn hành vi bắt nạt tiếp theo. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ cho thấy rằng cứ bốn đứa trẻ thì có một đứa sẽ bị bắt nạt trong thời niên thiếu.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Pink Shirt Day — Mục đích của Ngày Áo Hồng thuộc Quỹ Thiếu nhi CKNW là nâng cao nhận thức về nạn bắt nạt ở trường học, nơi làm việc, gia đình và trực tuyến. Tổ chức này cũng tìm cách gây quỹ để hỗ trợ các chương trình và cơ sở vật chất nhằm nuôi dưỡng lòng tự trọng về sức khỏe của trẻ em.
Pink T-Shirt Day Society
Stomp Out Bullying — Stomp Out Bullying là một tổ chức phi lợi nhuận nhằm thay đổi văn hóa hòa nhập cho tất cả học sinh, cả trẻ em và thanh thiếu niên. Tổ chức này nỗ lực hết mình để xóa bỏ nạn bắt nạt đối với mọi tầng lớp xã hội thông qua giáo dục về phân biệt chủng tộc, kỳ thị đồng tính, LGBTQ và phân biệt đối xử. Tổ chức này cung cấp trợ giúp cho những người có nguy cơ bị bắt nạt và tự tử thông qua các chương trình tiếp cận cộng đồng, các sự kiện và chương trình truyền thông xã hội chặt chẽ.
Bullying No Way
Erase Bullying — Erase Bullying nhằm mục đích củng cố cộng đồng trường học thông qua việc xây dựng môi trường an toàn hơn thông qua việc trao quyền cho những nhân vật chủ chốt trong cộng đồng như phụ huynh, học sinh và nhà giáo dục. Tổ chức này nhằm mục đích xóa bỏ, bắt nạt trên mạng đồng thời khuyến khích sức khỏe tâm thần và hạnh phúc.
Pacer's National Bullying Prevention Center — Trung tâm Phòng chống Bắt nạt Quốc gia của PACER được thành lập vào năm 2006. Mục đích của tổ chức là mang lại sự thay đổi xã hội bằng cách ngăn chặn nạn bắt nạt ở trẻ em, đảm bảo thanh thiếu niên được an toàn và liên quan đến sự hỗ trợ cần thiết trong trường học và cộng đồng.
Ngày lễ Canada
Ngày Liên Hợp Quốc
Ngày lễ New Zealand
Chiến dịch chống bắt nạt
Sự kiện mùa đông ở Canada
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Hai
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Năm
|
19831562
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Caleb%20Grimshaw
|
Caleb Grimshaw
|
Caleb Grimshaw là một chiếc thuyền buồm được đóng vào năm 1848 để vận chuyển hàng hóa qua Đại Tây Dương. Chiếc thuyền đã bốc cháy và chìm vào năm 1849, khiến 90-101 người thiệt mạng.
Đóng thuyền
Thuyền buồm Caleb Grimshaw được đóng vào đầu năm 1848 cho Công ty Caleb Grimshaw and Co. có trụ sở tại Liverpool tại Xưởng đóng thuyền của William H. Webb ở Thành phố New York với tư cách là một thuyền buồm đầy đủ trang bị. Thuyền dài 166 feet (51 m), rộng 36 feet 8 inch (11,18 m), cao 21 feet 8 inch (6,60 m) với trọng tải 988 tấn. Caleb Grimshaw and Co. chuyên về vận tải hành khách, phối hợp vận chuyển hàng hóa và hành khách di cư qua Đại Tây Dương. Chiếc thuyền được cho là đặt tên theo Caleb Grimshaw sau khi ông bất ngờ qua đời vào đầu năm 1847. Dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng William Hoxie, thuyền đã đi từ Liverpool đến Thành phố New York với tối đa 427 hành khách, chủ yếu là những người di cư từ Anh và Ireland. Thuyền buồm Caleb Grimshaw đã thực hiện thành công năm chuyến vượt Đại Tây Dương từ tháng 5 năm 1848 đến tháng 8 năm 1849.
Hỏa hoạn
Trong chuyến đi thứ sáu vào ngày 11 tháng 11 năm 1849, khi đang chở 100 tấn than và 427 hành khách, chiếc thuyền đã bốc cháy trên Đại Tây Dương, cách đảo Faial, Azores 16 hải lý (30 km; 18 dặm) về phía đông nam. Trên thuyền Caleb Grimshaw có 4 chiếc thuyền, nhưng chiếc thuyền đầu tiên được hạ xuống bởi những hành khách thiếu kinh nghiệm và đâm vào nước, khiến 12 hành khách bị cuốn trôi. Thuyền trưởng Hoxie lên chiếc thuyền thứ ba được triển khai vào ngày 12 tháng 11, bỏ lại hành khách và thủy thủ đoàn còn lại mà không có người lãnh đạo. Vì không có đủ chỗ trên những chiếc thuyền cho tất cả 457 hành khách và thủy thủ đoàn, nên một số bè đã được lắp ráp, nhưng hơn 250 hành khách vẫn ở trên boong thuyền đang cháy khi chiếc thuyền Sarah (Vương quốc Anh) đến hiện trường bốn ngày sau đó. Sarah đã thực hiện nhiều chuyến giải cứu những người bị mắc kẹt, nhưng nhiều hành khách vẫn ở trên thuyền cho đến khi chiếc thuyền cuối cùng bị chìm vào ngày 21 tháng 11. Các nguồn tin tức đưa tin có từ 90 đến 101 người chết.
Hậu quả
Ít nhất một bài báo đã nhấn mạnh đến việc thiếu thuyền cứu sinh và thiết bị an toàn thích hợp cũng như rủi ro khi vận chuyển hàng hóa dễ cháy cùng với hành khách. Mặc dù thường xuyên bị chỉ trích trên các bài xã luận của báo chí vì đã bỏ thuyền, Thuyền trưởng Hoxie không nhận được bất kỳ hình phạt chính thức nào. Năm 1851, Thuyền trưởng Hoxie được bổ nhiệm làm chỉ huy của một thuyền chở khách khác, chiếc Joseph Walker, chiếc thuyền này cũng đã bốc cháy và chìm vào năm 1853 cùng với chiếc Great Republic.
Chú thích
Sự cố hàng hải năm 1849
Thuyền 1848
|
19831563
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Claudia%20Goldin
|
Claudia Goldin
|
Claudia Dale Goldin (sinh ngày 14 tháng 5 năm 1946) là một nhà sử học kinh tế, nhà kinh tế học lao động người Mỹ và là Giáo sư Henry Lee về Kinh tế tại Đại học Harvard. Vào tháng 10 năm 2023, bà đã được trao giải Sveriges Riksbank về Khoa học Kinh tế trong Ký ức của Alfred Nobel (Giải Nobel) "vì đã nâng cao sự hiểu biết của chúng tôi về kết quả của phụ nữ trên thị trường lao động". Bà là người phụ nữ thứ ba giành được giải thưởng này và là người phụ nữ đầu tiên giành được giải thưởng này một mình.
Tác phẩm chọn lọc
Goldin, Claudia Dale. Understanding the Gender Gap: An Economic History of American Women. New York: Oxford University Press, 1990, .
Goldin, Claudia Dale et al. Strategic Factors in Nineteenth Century American Economic History: A Volume to Honor Robert W. Fogel. Chicago: University of Chicago Press, 1992, .
Goldin, Claudia Dale and Gary D. Libecap. Regulated Economy: A Historical Approach to Political Economy. Chicago: University of Chicago Press, 1994, .
Bordo, Michael D., Claudia Dale Goldin, and Eugene Nelson White. The Defining Moment: The Great Depression and the American Economy in the Twentieth Century. Chicago: University of Chicago Press, 1998, .
Glaeser, Edward L. and Claudia Dale Goldin. Corruption and Reform: Lessons from America's History. Chicago: University of Chicago Press, 2006, .
Goldin, Claudia Dale and Lawrence F. Katz. The Race Between Education and Technology. Cambridge, Mass.: Belknap Press of Harvard University Press, 2008, .
Goldin, Claudia and Alsan, M. "Watersheds in Child Mortality: The Role of Effective Water and Sewerage Infrastructure, 1880 to 1920", Journal of Political Economy 127(2, 2018), pp. 586–638
Goldin, Claudia and Lawrence F. Katz. Women Working Longer: Increased Employment at Older Ages. Chicago: University of Chicago Press, 2018.
Goldin, Claudia. Career & Family: Women's Century-Long Journey toward Equity. Princeton, NJ. Princeton University Press, 2021.
"A Grand Gender Convergence: Its Last Chapter," American Economic Review 104 (April 2014), pp. 1091–119.
Chú thích
Sinh 1946
Phụ nữ đoạt giải Nobel
Nhân vật còn sống
Người đoạt giải Nobel Kinh tế
Sinh năm 1946
Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel
Cựu sinh viên Đại học Cornell
Thành viên Học viện Mỹ thuật và Khoa học Mỹ
Giảng viên Đại học Harvard
Nhà kinh tế lao động
Cựu sinh viên Đại học Chicago
Nhà văn Thành phố New York
|
19831582
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20nh%C3%B3m%20t%E1%BB%95%20h%E1%BB%A3p
|
Lý thuyết nhóm tổ hợp
|
Trong toán học, lý thuyết nhóm tổ hợp nghiên cứu các nhóm tự do, và khái niệm của biểu diễn của nhóm bằng các phần tử sinh và các quan hệ. Nó được sử dụng trong tô pô hình học, nhóm nền tảng của phức đơn có biểu diễn tập hợp tự nhiên.
Một chủ đề rất gần gũi là lý thuyết nhóm hình học mà ngày nay thường bao trùm cả lý thuyết nhóm tổ hợp, sử dụng các kỹ thuật bên ngoài tổ hợp.
Đồng thời nó cũng chứa nhiều bài toán chưa giải được bằng thuật toán, nổi bật trong số đó là bài toán từ cho nhóm và bài toán Burnside.
Lịch sử
Xem để tìm hiểu rõ chi tiết lịch sử của lý thuyết nhóm tổ hợp.
Dạng ban đầu bắt nguồn từ vi tích phân icosian năm 1856 của William Rowan Hamilton, khi đó ông đang nghiên cứu nhóm đối xứng hai mươi mặt qua đồ thị cạnh của khối hai mươi mặt.
Nền tảng của lý thuyết nhóm tổ hợp được phát triển bởi Walther von Dyck, học trò của Felix Klein, trong đầu những năm 1880, ông là người đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống các nhóm bằng các phần tử sinh và quan hệ của nó.
Tham khảo
|
19831584
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20l%C3%BD%20Golod%E2%80%93Shafarevich
|
Định lý Golod–Shafarevich
|
Trong toán học, định lý Golod–Shafarevich được chứng minh trong 1964 bởi Evgeny Golod và Igor Shafarevich. Định lý này là kết quả trong đại số đồng điều không giao hoán giải bài toán tháp trường lớp, bằng cách chứng minh có một số tháp trường lớp có thể vô hạn.
Bất đẳng thức
Gọi A = K⟨x1, ..., xn⟩ là đại số tự do trên trường K trên n = d + 1 biến không giao hoán nhau xi.
Gọi J là ideal 2 phía của A được sinh bởi các phần tử thuần nhất fj của A với bậc dj cùng với
2 ≤ d1 ≤ d2 ≤ ...
trong đó dj tiến đến vô cùng. Tiếp đến, gọi ri là số các dj bằng i.
Đặt B=A/J, là đại số phân bậc. Lấy bj = dim Bj.
Bất đẳng thức nền tảng của Golod và Shafarevich phát biểu rằng
Hệ quả sau đó:
B vô hạn chiều nếu ri ≤ d2/4 với mọi i
Ứng dụng
Kết quả này có một số ứng dụng quan trọng trong lý thuyết nhóm tổ hợp:
Nếu G là p-nhóm hữu hạn không tầm thường, thì r > d2/4 khi d = dim H1(G,Z/pZ) và r = dim H2(G,Z/pZ) (các nhóm đối đồng điều mod p của G). Cụ thể hơn, nếu G là p-nhóm hữu hạn với tối thiểu số phần tử sinh d và có r quan hệ trong biểu diễn quan hệ, thì r > d2/4.
Với mỗi số nguyên tố p, tồn tại nhóm vô hạn G được sinh bởi ba phân tử trong đó mỗi phần tử có cấp là lũy thừa của p. Nhóm G này là ví dụ phản chứng cho giả thuyết Burnside tổng quát: nó là nhóm xoắn vô hạn và hữu hạn sinh, mặc dù không có cận chia đều trên các cấp của các phần tử của nhóm.
Trong lý thuyết trường lớp, tháp trường lớp của trường số K được tạo bằng cách lần lượt xây dựng tháp theo phương pháp xây dựng trường lớp Hilbert. Bài toán tháp trường lớp hỏi rằng liệu tháp này có luôn hữu hạn?; quy bài toán này cho Furtwangler, mặc dù Furtwangler nói ông nghe câu hỏi từ Schreier. Một hệ quả khác của định lý Golod–Shafarevich là các trường xây dựng như thế có thể vô hạn (nói cách khác, luôn không kết thúc thành trường bằng với trường lớp Hilbert của nó). Cụ thể,
Gọi K là trường toàn phương ảo có định thức có ít nhất 6 nhân tử nguyên tố. Khi đó 2-mở rộng tối đại không phân nhánh của K sẽ có bậc vô hạn.
Tổng quát hơn, một trường số với đủ nhân tử nguyên tố trong định thức sẽ có tháp vô hạn trường lớp.
Tham khảo
(in Russian)
(in Russian)
See Chapter 8.
Johnson, D.L. (1980). "Topics in the Theory of Group Presentations" (1st ed.). Cambridge University Press. . See chapter VI.
Serre, J.-P. (2002), "Galois Cohomology," Springer-Verlag. . See Appendix 2. (Translation of Cohomologie Galoisienne, Lecture Notes in Mathematics 5, 1973.)
Lý thuyết trường lớp (toán học)
Định lý trong lý thuyết nhóm
|
19831593
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20tr%E1%BA%ADn%20%C4%91%E1%BA%A5u%20trong%20%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20l%C3%AAn%20%C4%91%E1%BB%89nh%20Olympia%20n%C4%83m%20th%E1%BB%A9%2023
|
Các trận đấu trong Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 23
|
Dưới đây là chi tiết các trận đấu của cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 23, diễn ra từ ngày 9 tháng 10 năm 2022 đến ngày 8 tháng 10 năm 2023.
Quý 1
Trận 1: Tuần 1 - Tháng 1 - Quý 1
Trận 2: Tuần 2 - Tháng 1 - Quý 1
Trận 3: Tuần 3 - Tháng 1 - Quý 1
Ghi chú: Trận đầu tiên có thí sinh không giành được điểm ở cuối phần thi Về đích ở năm thứ 23.
Trận 4: Tháng 1 - Quý 1
Ghi chú: Trận thi tháng đầu tiên của năm 23 có 2 thí sinh đồng giải nhì với 135 điểm.
Trận 5: Tuần 1 - Tháng 2 - Quý 1
Trận 6: Tuần 2 - Tháng 2 - Quý 1
Trận 7: Tuần 3 - Tháng 2 - Quý 1
Trận 8: Tháng 2 - Quý 1
Trận 9: Tuần 1 - Tháng 3 - Quý 1
Trận 10: Tuần 2 - Tháng 3 - Quý 1
Trận 11: Tuần 3 - Tháng 3 - Quý 1
Trận thi đầu tiên của năm thứ 23 có 3 thí sinh cùng có số điểm nhì tuần cao nhất (165 điểm) và phải thi phần Câu hỏi phụ để chọn ra thí sinh cuối cùng bước vào cuộc thi Tháng 3 - Quý 1. Kết quả, Đỗ Lê Thanh Tùng là thí sinh chiến thắng phần thi Câu hỏi phụ.
Trận 12: Tháng 3 - Quý 1
Trận 13: Quý 1
Quý 2
Trận 14: Tuần 1 - Tháng 1 - Quý 2
Trận 15: Tuần 2 - Tháng 1 - Quý 2
Trận 16: Tuần 3 - Tháng 1 - Quý 2
Trận 17: Tháng 1 - Quý 2
Trận 18: Tuần 1 - Tháng 2 - Quý 2
Trận 19: Tuần 2 - Tháng 2 - Quý 2
Trận 20: Tuần 3 - Tháng 2 - Quý 2
Trận 21: Tháng 2 - Quý 2
Trận 22: Tuần 1 - Tháng 3 - Quý 2
Trận 23: Tuần 2 - Tháng 3 - Quý 2
Trận 24: Tuần 3 - Tháng 3 - Quý 2
Trận 25: Tháng 3 - Quý 2
Trận 26: Quý 2
Quý 3
Trận 27: Tuần 1 - Tháng 1 - Quý 3
Trận 28: Tuần 2 - Tháng 1 - Quý 3
Ghi chú: Trận đầu tiên của năm thứ 23 có thí sinh nữ giành được vòng nguyệt quế.
Trận 29: Tuần 3 - Tháng 1 - Quý 3
Trận 30: Tháng 1 - Quý 3
Trận 31: Tuần 1 - Tháng 2 - Quý 3
Trận 32: Tuần 2 - Tháng 2 - Quý 3
Trận 33: Tuần 3 - Tháng 2 - Quý 3
Trận 34: Tháng 2 - Quý 3
Trận 35: Tuần 1 - Tháng 3 - Quý 3
Trận 36: Tuần 2 - Tháng 3 - Quý 3
Trận 37: Tuần 3 - Tháng 3 - Quý 3
Trận 38: Tháng 3 - Quý 3
Trận 39: Quý 3
Quý 4
Trận 40: Tuần 1 - Tháng 1 - Quý 4
Trận 41: Tuần 2 - Tháng 1 - Quý 4
Trận 42: Tuần 3 - Tháng 1 - Quý 4
Trận 43: Tháng 1 - Quý 4
Trận 44: Tuần 1 - Tháng 2 - Quý 4
Trận 45: Tuần 2 - Tháng 2 - Quý 4
Trận 46: Tuần 3 - Tháng 2 - Quý 4
Trận 47: Tháng 2 - Quý 4
Trận 48: Tuần 1 - Tháng 3 - Quý 4
Trận 49: Tuần 2 - Tháng 3 - Quý 4
Trận 50: Tuần 3 - Tháng 3 - Quý 4
Trận 51: Tháng 3 - Quý 4
Trận 52: Quý 4
Chung kết
Trận 53: Chung kết năm
Dẫn chương trình tại các điểm cầu:
Điểm cầu Tượng đài Thánh Gióng (Hà Nội): Trần Hồng Ngọc
Điểm cầu Đài tưởng niệm Chiến Sĩ Trận Vong (Thừa Thiên Huế): Nguyễn Tuyết Ngân
Điểm cầu Quảng trường Lam Sơn (Thanh Hoá): Dương Sơn Lâm
Điểm cầu Đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng): Nguyễn Huyền Trang
Tổng kết
Số lượt thí sinh tham gia ở các tỉnh thành
Kỷ lục
Chú thích
Đường lên đỉnh Olympia
|
19831598
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mahek%20Chahal
|
Mahek Chahal
|
Mahek Chahal (tên khai sinh là Raspreet Kaur Chahal, sinh ngày 1 tháng 2 năm 1979 tại Oslo, Na Uy) là một nữ diễn viên, người mẫu và vũ công người Na Uy sinh sống và làm việc tại Ấn Độ. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 2002 với bộ phim Telugu Neetho. Năm 2011, cô tham gia chương trình truyền hình thực tế Bigg Boss (mùa 5) và giành được vị trí á quân của chương trình.
Năm 2021, cô tham gia chương trình Khatron Ke Khiladi 11. Cô còn được biết đến qua vai diễn Xà nữ Mahek trong bộ phim Nữ thần rắn báo thù.
Sự nghiệp
Vai diễn đầu tay (2002–2011)
Cô có vai diễn đầu tay trong bộ phim điện ảnh bằng tiếng Telugu Neetho với vai diễn Shalini vào năm 2002. Năm 2008, cô vào một vai nhỏ trong bộ phim bằng tiếng Hindi Wanted với vai diễn Shaina và Main Aurr Mrs Khanna. Ngoài ra, cô cũng tham gia một số bộ phim bằng tiếng Tamil, Telugu và Hindi. Cô có vai diễn đầu tay trong mảng phim truyền hình với vai diễn khách mời trong Đội đặc nhiệm CID vào năm 2009.
Bigg Boss và nhiều vai diễn khác (2011–2018)
Năm 2011, cô tham gia chương trình thực tế Bigg Boss mùa thứ 5 của Colors TV giành được vị trí á quân chung cuộc. Cô cũng tham gia chương trình truyền hình thực tế Frisset của Na Uy cùng năm đó.
Sau đó, cô đóng vai chính trong bộ phim hài mang tên Yamla Pagla Deewana (2011). Cô cũng đóng vai chính trong bộ phim Karar: The Deal vào năm 2014. Cô tiếp tục xuất hiện trong chương trình truyền hình thực tế Bigg Boss Halla Bol trên kênh Colors TV vào năm 2015, cô tham dự chương trình với tư cách là Người thách đấu.
Năm 2016, cô thủ vai diễn phản diện Manjulika trong bộ phim thuộc thể loại kinh dị, siêu nhiên Kavach. Năm 2018, cô vào vai Adah trong bộ phim kinh dị mang tên Nirdosh. Cô từng xác nhận sẽ thủ vai diễn khách mời trong bộ phim Ek Thi Rani Ek Tha Raavan, nhưng Sara Khan là người được chọn vào vai diễn này.
Tái xuất màn ảnh nhỏ và thành công nhờ vai diễn trong Nữ thần rắn báo thù (2021–nay)
Năm 2021, cô tham gia chương trình thực tế Fear Factor: Khatron Ke Khiladi 11, được ghi hình tại Cape Town, Nam Phi và bị loại, xếp ở vị trí thứ 11 chung cuộc.
Năm 2022, cô thủ vai phản diện Mahek Gujral trong phần 6 của bộ phim Tình người kiếp rắn. Với vai diễn này, cô được khán giả biết đến rộng rãi và đã giúp cô giành được Giải thưởng Truyền hình Ấn Độ cho Nữ diễn viên phản diện xuất sắc nhất.
Danh sách tác phẩm
Với tư cách là diễn viên
Phim điện ảnh
Phim và chương trình truyền hình
Vai diễn khách mời
Với tư cách là vũ công
Giải thưởng và đề cử
Xem thêm
Danh sách nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1979
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên điện ảnh Ấn Độ
Nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ
Nữ diễn viên Ấn Độ thế kỷ 21
|
19831615
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%B1%20%C3%A1n%20c%E1%BA%A7u%20C%E1%BA%A7n%20Th%C6%A1%202
|
Dự án cầu Cần Thơ 2
|
Cầu Cần Thơ 2 là một cây cầu bắc qua sông Hậu thuộc hệ thống đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông nối liền thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long.
Vị trí
Công trình có điểm đầu tại nút giao Chà Và (Km 130 + 337), kết nối với đường cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ và điểm cuối tại nút giao Quốc lộ 91B (Km 145), kết nối với đường cao tốc Cần Thơ – Cà Mau. Cầu đi song song và cách cầu Cần Thơ hiện hữu (nằm trên Quốc lộ 1) 5 km về phía hạ lưu.
Thông tin xây dựng
Hiện tại, Ban quản lý dự án Mỹ Thuận thuộc Bộ GTVT đang tổ chức lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư xây dựng cầu Cần Thơ 2 và đường dẫn hai đầu cầu, thời gian thực hiện từ năm 2023 – 2025. Dự án sẽ được triển khai trước năm 2030.
Lộ trình chi tiết
IC - Nút giao, JCT - Điểm lên xuống, SA - Khu vực dịch vụ (Trạm dừng nghỉ), TN - Hầm đường bộ, TG - Trạm thu phí, BR - Cầu
Đơn vị đo khoảng cách là km.
{| class="wikitable" style="font-size: 90%; text-align: center;"
|- style="border-bottom:solid 0.25em green;"
!Ký hiệu
!Tên
!Khoảng cáchtừ đầu tuyến
!Kết nối
!Ghi chú
! colspan="2" |Vị trí
|-
!colspan="7" style="text-align: center; background:#dff9f9;"|Kết nối với Đường cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ thông qua Quốc lộ 1
|-
!style="background-color: #BFB;"|1
|style="background-color: #ffdead;"|IC Chà Và
|style="background-color: #ffdead;"|0.0 (1960)
|style="background-color: #ffdead;"| Quốc lộ 1
|style="background-color: #ffdead;"|Chưa thi công
|Vĩnh Long
|Bình Minh
|-
!style="background-color: #BFB;"|BR
|style="background-color: #ffdead;"|Cầu Cần Thơ 2
|style="background-color: #ffdead;"|↓
|style="background-color: #ffdead;"|
|style="background-color: #ffdead;"|Vượt sông Hậu Chưa thi công
| colspan="2" |Ranh giới Vĩnh Long – Cần Thơ
|-
!style="background-color: #BFB;"|2
|style="background-color: #ffdead;"|IC Quốc lộ 91B
|style="background-color: #ffdead;"|15.4 (1975.4)
|style="background-color: #ffdead;"| Quốc lộ 91B (Nam Sông Hậu)
|style="background-color: #ffdead;"|Đang thi công
|Cần Thơ
|Cái Răng
|-
!colspan="7" style="text-align: center; background:#dff9f9;"|Kết nối trực tiếp với Đường cao tốc Cần Thơ – Cà Mau
Xem thêm
Đường cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ
Đường cao tốc Cần Thơ – Cà Mau
Cầu Cần Thơ
Tham khảo
Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông
Cần Thơ
Cần Thơ
|
19831624
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%8Ba%20danh%20c%E1%BB%A7a%20V%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20c%E1%BB%95%20Saba%2C%20Marib
|
Các địa danh của Vương quốc cổ Saba, Marib
|
Các địa danh của Vương quốc cổ Saba, Marib () là một di sản thế giới được UNESCO công nhận bao gồm 7 địa điểm khảo cổ nối tiếp nhau ở tỉnh Marib, miền trung đông Yemen. Nó được đưa vào danh sách di sản thế giới từ ngày 25 tháng 1 năm 2023 vì là minh chứng cho vương quốc Saba cổ đại thuộc nhóm dân tộc Nam Ả Rập cổ. Đồng thời, di sản này cũng ngay lập tức bị liệt vào danh sách di sản thế giới bị đe dọa do các mối đe dọa bởi cuộc Nội chiến Yemen.
Mô tả
Các địa danh của Vương quốc cổ đại Saba đại diện cho một giai đoạn lịch sử ở phía Nam bán đảo Ả Rập từ thiên niên kỷ thứ 1 TCN cho đến khi Hồi giáo đến khu vực này vào khoảng năm 630, khi các vương quốc Yemen cổ đại phát triển trong môi trường khắc nghiệt và khô cằn của Bán đảo Ả Rập và phát triển mạnh mẽ nhờ hoạt động buôn bán trên Con đường hương liệu nối Nam Ả Rập với Địa Trung Hải từ khoảng thế kỷ thứ 8 TCN đến thế kỷ thứ 3, trước khi người Himyar chế ngự.
Nằm tại tỉnh Marib ở miền trung đông Yemen, bảy địa điểm khảo cổ phản ánh sự giàu có của Vương quốc Saba nhờ sự kiểm soát của việc buôn bán hương liệu ở Nam Ả Rập qua những thành tựu kiến trúc, thẩm mỹ và công nghệ của nó minh chứng cho một xã hội rất phức tạp được quản lý và tổ chức tốt qua các bằng chứng là nhiều dòng chữ lịch sử trên tường.
Văn hóa và sự giàu có của người Saba được thể hiện rõ ràng tại hai thành phố Marib và Sirwah, các đền thờ và hệ thống tưới tiêu rộng khắp. Thủ đô Marib có tường bao quanh, từng là trung tâm hành chính, văn hóa và kinh tế của Vương quốc Saba, trong khi thành phố Sirwah cách đó khoảng 40 km về phía tây có thể đã đóng vai trò là thủ đô quân sự của vương quốc. Kiến thức công nghệ trong lĩnh vực kỹ thuật thủy văn đã cho phép người Saba tạo ra đập Marib, nơi cung cấp nước cho hệ thống tưới tiêu cải tiến của các kênh đào. Điều này cho phép họ canh tác trên một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài về phía bắc và phía nam Marib, khiến nó được coi là ốc đảo nhân tạo lớn nhất Ả Rập cổ đại.
Dưới đây là các thành phần của Di sản thế giới được UNESCO công nhận:
Tham khảo
Các địa danh của Vương quốc cổ Saba
Di sản thế giới tại Yemen
Di sản thế giới bị đe dọa
Địa điểm khảo cổ Yemen
|
19831625
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BA%BFn%20ph%C3%A1p%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20La%20M%C3%A3
|
Hiến pháp Cộng hòa La Mã
|
Hiến pháp Cộng hòa La Mã là một tập hợp các quy phạm xã hội và tập tục chưa được pháp điển hóa, cùng nhiều loại luật La Mã thành văn khác, tạo nên khung sườn pháp lý cho các chính phủ Cộng hòa La Mã hậu thế. Hiến pháp này bắt nguồn từ thời Vương quốc La Mã và đã biến hóa đáng kể — thậm chí tới độ không thể nhận ra — suốt 500 năm chiều dài lịch sử nền cộng hòa. Sự sụp đổ của chính phủ và quy phạm pháp luật thời kỳ cộng hòa bắt đầu từ năm 133 TCN đã dẫn đến sự trỗi dậy của Augustus và chế độ nguyên thủ do vị này lập ra.
Hiến pháp Cộng hòa có thể được chia thành ba nhánh chính:
Các hội đồng lập pháp, cấu thành bởi các tầng lớp nhân dân, đóng vai trò là cơ quan nắm giữ quyền lực chính trị tối cao, có quyền bầu cử quan tòa, chuẩn y hoặc khước từ luật pháp, thực thi công lý, tuyên chiến hoặc hòa bình;
Viện nguyên lão, đóng vai trò cố vấn cho các quan tòa, chủ yếu hành động mà không cần dựa trên quyền hạn pháp lý của chính nó, mà thường nhờ vào sức ảnh hưởng, và
Các quan tòa, được bầu ra bởi nhân dân để cai trị nền Cộng hòa thay mặt nhân dân, thi hành quyền lực tư pháp, quân sự và tôn giáo, và được phép chủ trì và triệu tập các hội đồng lập pháp.
Một hệ thống kiểm sát và cân bằng phức tạp đã phát triển giữa ba nhánh này. Ví dụ, tuy các hội đồng lập pháp nắm mọi quyền lực trên lý thuyết, trên thực tế thì các quan tòa có toàn quyền triệu tập và điều hành các hội đồng, đồng thời có thể kiểm soát thảo luận, thi hành sức ảnh hưởng thống trị lên các hội đồng đó. Các quan tòa khác cũng có khả năng phủ quyết (veto) ý kiến trước các hội đồng, tuy nhiên tới giai đoạn hậu kỳ cộng hòa thì điều này hiếm khi xảy ra. Tương tự, để kiểm soát quyền lực của quan tòa, mỗi quan tòa lại có khả năng phủ quyết một trong những người đồng cấp; đồng thời, các quan hộ dân do tầng lớp thường dân bầu ra cũng có thể can thiệp và phủ quyết ý kiến của quan tòa.
Hiến pháp phi pháp điển của Cộng hòa La Mã, tuy có thể dễ dàng bị sửa đổi và biến thiên theo từng thời kỳ, vẫn sở hữu một số quy phạm pháp luật được khắc ghi bởi phần lớn nhân dân. Các thiết chế như quan chấp chính, viện nguyên lão, và hộ quan biến hóa đáng kể trong giai đoạn sơ kỳ cộng hòa nhưng đã bắt đầu ổn định tương đối từ thế kỷ thứ 4 TCN. Với sự mở ra của thời kỳ thống trị của giới quý tộc La Mã, Xung đột Trật tự rốt cuộc đã ban cho giới bình dân các quyền lợi chính trị ngang bằng quý tộc, lập ra chế độ bảo dân để kiểm sát quyền lực quý tộc và dựng lên các hội đồng bình dân, một cơ quan do tầng lớp bình dân Roma điều hành, được toàn quyền lập pháp.
Giai đoạn cộng hòa hậu kỳ chứng kiến sự tập trung quyền bính vào tay các tổng đốc địa phương, sự vận dụng quân đội để ép buộc thay đổi chính trị (ví dụ như giai đoạn độc tài Sulla), sự vận dụng vũ lực và lợi dụng các hội đồng "toàn quyền" đã bị mua chuộc hoặc bị đe dọa nhằm ban bố quyền hành tối cao cho các chỉ huy quân đội đã lập được nhiều chiến tích. Sự hợp lý hóa gia tăng của bạo lực, sự tập trung hóa quyền hành vào tay thiểu số, và sự hao mòn niềm tin vào các thiết chế chính trị, đã đưa Cộng hòa La Mã vào quỹ đạo của một cuộc nội chiến, với kết cục sau cùng là sự biến tướng của nó thành một chế độ chuyên quyền khoác vẻ ngoài cộng hòa kể từ thời Augustus.
Quá trình phát triển
Tham khảo
Thư mục
Sách chuyên khảo
Bài đăng tạp chí
Lịch sử Cộng hòa La Mã
|
19831634
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20nguy%C3%AAn%20th%E1%BB%A7%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Sierra%20Leone
|
Danh sách nguyên thủ quốc gia Sierra Leone
|
Nguyên thủ quốc gia Sierra Leone là người đứng đầu Sierra Leone tính từ sau khi giành độc lập năm 1961, bao gồm cả nữ hoàng Anh, các thống đốc đại diện hoặc toàn quyền trong thời quân chủ, cho đến tổng thống được bầu sau tuyên bố thành lập nền cộng hòa năm 1971.
Hiện nay, người đứng đầu nhà nước, chính phủ và tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Sierra Leone là tổng thống được bầu cử trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Được thông qua theo trưng cầu dân ý tháng 8 năm 1991, hiến pháp hiện hành giành Chương V Phần I quy định chức vụ tổng thống.
Danh sách được chia thành các giai đoạn lịch sử đã được chấp nhận của Sierra Leon. Mỗi thời kỳ được mô tả phần đầu danh sách tương ứng nhằm giải thích những đặc điểm của đời sống chính trị quốc gia này khi đó.
Thời quân chủ (1961-1971)
Ngày 27 tháng 4 năm 1961, thuộc Anh (bán đảo gần Freetown rộng 557 km2 là thuộc địa từ năm 1808, xứ bảo hộ 71,2 nghìn km2 từ năm 1896) tuyên bố trở thành .
trị vì quốc gia mới là Elizabeth II. Đại diện cho nữ vương là Toàn quyền và Tổng tư lệnh Sierra Leone (, gọi tắt là Toàn quyền). Toàn quyền được bổ nhiệm theo đề nghị từ nội các Sierra Leone mà không cần chính phủ Anh can thiệp. Nữ vương và toàn quyền có địa vị pháp lý được quy định trong Tuyên ngôn độc lập và hiến pháp dựa trên Đạo luật Westminster 1931.
Ngày 17 tháng 3 năm 1967, Đảng Nhân dân Sierra Leone của Thủ tướng Albert Margai thất bại trong cuộc bầu cử Quốc hội Sierra Leone trước Đảng Đại hội Toàn dân do Siaka Stevens lãnh đạo. Vài ngày sau, Stevens được toàn quyền Henry Josiah Lightfoot Boston đưa lên làm người đứng đầu chính phủ. Cùng ngày, chuẩn tướng David Lansana ra lệnh bắt giữ Stevens và Boston, đồng thời ra thiết quân luật.. Tuy nhiên, sáng 23 tháng 3, một nhóm sĩ quan cao cấp bất đồng về việc duy trì quyền lực cho Margai đã bắt giữ và tước quyền chỉ huy của Lansana, tuyên bố thành lập , đình chỉ hiến pháp và chuyển giao quyền lực của Toàn quyền cho thủ lĩnh Hội đồng là Đại tá Andrew Juxon-Smith. Ngày 28 tháng 3, Juxon-Smith từ Luân Đôn bay về nước. Ngày 18 tháng 4 năm 1968, Phong trào Cách mạng Chống tham nhũng () gồm các sĩ quan và binh lính bất mãn tiến hành , bắt giữ toàn bộ sĩ quan cao cấp. Hôm sau, thủ lĩnh phong trào Patrick Conteh giao lại quyền lực cho Hội đồng Lâm thời Quốc gia () do chuẩn tướng John Amadu Bangura đứng đầu (người trước đó tham gia chống chế độ quân sự tại Guinée) đảm bảo nhanh chóng chuyển sang chế độ dân sự. Ngày 22 tháng 4, hiến pháp được khôi phục, theo đó Chánh án Banja Tejan-Sie giữ chức Quyền Toàn quyền. Ngày 26 tháng 4, chính phủ tái tuyên thệ trước Thủ tướng Siaka Stevens.
Tháng 4 năm 1971, Sierra Leone thực hiện chuyển đổi sang nước cộng hòa tổng thống chế. Ngày 31 tháng 3, dự luật có hiệu lực thay thế nguyên thủ quốc gia từ quốc vương đương nhiệm sang Chánh án Tối cao Pháp viện, Banja Tejan-Sie từ chức nhưng vẫn đảm nhận thẩm quyền Toàn quyền cho đến khi nền cộng hòa có hiệu lực từ ngày 19 tháng 4.
Elizabeth II đã có chuyến thăm duy nhất tới Sierra Leone từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12 năm 1961. Bà cùng chồng là Công tước Philip đi trên du thuyền hoàng gia Britannia, sử dụng hiệu kỳ cá nhân riêng của nữ vương Sierra Leone.
Danh sách Toàn quyền
Đệ Nhất Cộng hòa (1971-1992)
Tháng 3 năm 1971, Quốc hội Sierra Leone thông qua Luật sửa đổi hiến pháp 1961, quy định việc thay thế nguyên thủ quốc gia trong nghi lễ từ sang Chánh án , người sẽ đảm nhận chức vụ tổng thống. Ngày 19 tháng 4 năm 1971, Sierra Leone công bố thành lập nền cộng hòa và Chánh án Christopher Okoro Cole khi ấy là Quyền Toàn quyền. Trong vòng hai ngày tiếp theo, Quốc hội thông qua những điều chỉnh hiến pháp, chuyển chức vụ nghi lễ thành thành chức vụ hành pháp. Cole ngưng quyền tổng thống để quay về Tối cao Pháp viện và tuyên thệ trước Siaka Stevens (từng giữ chức Thủ tướng) được quốc hội bầu làm Tổng thống với nhiệm kỳ 4 năm. Năm 1976, Stevens tái đắc cử (phe đối lập tẩy chay bầu cử). Năm 1978, nhiệm kỳ mới nâng lên bảy năm theo trưng cầu dân ý về hiến pháp phê chuẩn hệ thống đơn đảng dưới sự lãnh đạo của Đảng Đại hội Toàn dân.
Năm 1985, Joseph Saidu Momoh kế nhiệm thông qua bỏ phiếu. Năm 1991, Mặt trận Liên minh Cách mạng Sierra Leone được những người ủng hộ Charles Taylor trong cuộc đấu tranh giành quyền kiểm soát Liberia hỗ trợ đã khởi đầu nội chiến. Tháng 8 cùng năm, để chấm dứt xung đột, Sierra Leone tiến hành trưng cầu dân ý chỉnh sửa hiến pháp, khôi phục hệ thống đa đảng. Quân số gia tăng khiến không đủ để kinh phí duy trì và trả lương. Ngày 29 tháng 4 năm 1992, Đại úy Valentine Strasser dẫn quân vào thủ đô, chiếm giữ các tòa nhà chính phủ, thông cáo phế truất Momoh trên đài phát thanh. Momoh phải chạy sang Guinée tị nạn.
Chế độ quân quản (1992—1996)
Sau cuộc phế truất ngày 29 tháng 4 năm 1992, Đại úy Yahya Kanu đại diện chính quyền đàm phán với nỗ lực thành lập Hội đồng lâm thời mới. Ngày 1 tháng 5, Kanu bị bắt. được thành lập với lãnh đạo là Đại úy Valentine Strasser 25 tuổi. Ngày 6 tháng 5, phe Strasser tôn ông là nguyên thủ quốc gia. Ngày 16 tháng 1 năm 1996, Chuẩn tướng Julius Bio lật đổ Strasser để khôi phục chế độ dân sự. Sierra Leone tiến hành bầu cử ứng viên Đảng Nhân dân Ahmad Tejan Kabbah giành chiến thắng ở vòng hai vào ngày 15 tháng 3 năm 1996. Ngày 29 tháng 3, Kabbah tuyên thệ nhậm chức tổng thống.
Đệ Nhị Cộng hòa (1996-1997)
Tổng thống Ahmad Tejan Kabbah thành lập chính phủ dân sự theo hệ thống đa đảng và ký thỏa thuận với Mặt trận Liên minh Cách mạng nhằm vãn hồi nội chiến. Tuy vậy, xung đột tiếp tục leo thang và tổng thống bị lật đổ vào ngày 25 tháng 5 năm 1997.
Chế độ quân quản (1997–1998)
Ngày 25 tháng 5 năm 1997, tổng thống Ahmed Tejan Kabbah mất quyền sau đảo chính quân sự. Ngày 26 tháng 5, được thành lập với người đứng đầu Trung tá Johnny Paul Koroma vốn đang bị tù vì âm mưu đảo chính bất thành trước đó. Ngày 17 tháng 6, Koroma được tuyên bố là nguyên thủ quốc gia. Các quốc gia thuộc Cộng đồng Kinh tế Tây Phi đã can thiệp vũ trang làm đảo ngược tình thế, Koroma lại bị lật đổ còn Kabbah được phục hồi.
Đệ Tam Cộng hòa (1998-)
Ngày 13 tháng 2 năm 1998, Hội đồng Cách mạng Quân lực bị lật đổ, tổng thống Ahmad Tejan Kabbah trở lại giữ ghế sau khi bị hất cẳng ngày 25 tháng 5 năm 1997. Ngày 18 tháng 1 năm 2002, ông tuyên bố chấm dứt nội chiến kéo dài từ năm 1991. Từ đó trở đi, thủ tục bầu cử nguyên thủ quốc gia theo đúng như quy định.
Ghi chú
Tham khảo
Tư liệu
Danh sách nguyên thủ quốc gia
Tổng thống Sierra Leone
Lịch sử Sierra Leone
|
19831637
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%97%20Th%E1%BB%8B%20Lan%20Anh
|
Đỗ Thị Lan Anh
|
Đỗ Thị Lan Anh (sinh ngày 6 tháng 3 năm 1997) là một hoa hậu, người mẫu người Việt Nam. Cô đăng quang ngôi vị Hoa hậu tại cuộc thi Miss Earth Vietnam 2023 và đại diện Việt Nam tham dự Hoa hậu Trái Đất 2023 và đạt danh hiệu Á hậu 2 Hoa hậu Trái Đất 2023.
Tiểu sử
Lan Anh sinh năm 1997 tại Hà Nội. Từ năm 1 tuổi, Lan Anh cùng gia đình sang châu Âu sinh sống, sau đó định cư ở Mỹ. Cô tốt nghiệp Đại học California State University Fullerton, chuyên ngành về kinh doanh.
Sự nghiệp
Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023
Khi biết cuộc thi Miss Earth Vietnam 2023 tổ chức, Lan Anh cho rằng đây là cơ hội để quay về với văn hóa quê hương cũng như hiểu hơn thiên nhiên, môi trường Việt Nam. Lần đầu tham gia một cuộc thi nhan sắc lớn, tuy còn nhiều bỡ ngỡ nhưng Lan Anh cố gắng học hỏi, trau dồi bản thân và nhanh chóng thể hiện sự tiến bộ. Ở các thử thách chụp ảnh hay catwalk, người đẹp luôn toát lên năng lượng tích cực, quyết tâm cao độ và luôn nằm trong top thí sinh xuất sắc. Đặc biệt, huấn luyện viên - Hoa hậu Nguyễn Trần Khánh Vân còn đánh giá cao Lan Anh ở khả năng thuyết trình với khả năng tiếng Anh lưu loát.
Trong chung kết diễn ra vào tối 14/10/2023, Lan Anh xuất sắc đăng quang ngôi vị Miss Earth Vietnam 2023 trong sự ủng hộ của ban giám khảo lẫn khán giả.
Hoa hậu Trái Đất 2023
Cô chính thức đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Trái Đất 2023 được tổ chức tại sân nhà và cô đã xuất sắc dành ngôi vị Á hậu 2/Hoa hậu Nước của Hoa hậu Trái Đất 2023.
Thành tích
Đăng quang Hoa hậu Trái Đất Việt Nam 2023
Á hậu 2 Hoa hậu Trái Đất 2023
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Người Hà Nội
Hoa hậu Việt Nam
Người mẫu Việt Nam
Nữ người mẫu Việt Nam
|
19831643
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%AD%20t%E1%BB%95n%20%28%C4%91i%E1%BB%87n%20to%C3%A1n%29
|
Phí tổn (điện toán)
|
Trong khoa học máy tính, phí tổn () là sự kết hợp bất kì của thời gian tính toán thừa hoặc gián tiếp, bộ nhớ, băng thông hoặc các tài nguyên khác cần thiết để thực hiện một tác vụ cụ thể. Đây là một trường hợp đặc biệt của phí tổn kỹ thuật. Phí tổn có thể là một yếu tố quyết định trong thiết kế phần mềm, liên quan đến cấu trúc, sửa lỗi và việc bổ sung các tính năng. Các ví dụ về phí tổn trong lĩnh vực máy tính có thể được tìm thấy trong lập trình hướng đối tượng (OOP), lập trình hàm, truyền dữ liệu và cấu trúc dữ liệu.
Thiết kế phần mềm
Lựa chọn cách triển khai
Một lập trình viên/kỹ sư phần mềm có thể phải lựa chọn giữa một số thuật toán, mã hóa, kiểu dữ liệu hoặc cấu trúc dữ liệu khác nhau, mỗi loại có các đặc điểm đã biết. Khi lựa chọn chúng, phí tổn tương ứng của chúng cũng nên được xem xét.
Sự đánh đổi
Trong kỹ thuật phần mềm, phí tổn có thể ảnh hưởng đến quyết định về việc bổ sung các tính năng trong sản phẩm mới, hoặc thậm chí quyết định liệu có nên sửa lỗi hay không. Một tính năng có phí tổn cao có thể không được thêm vào - hoặc cần một động cơ về tài chính lớn để làm như vậy. Thông thường, ngay cả khi nhà cung cấp phần mềm biết rõ về các lỗi trong sản phẩm của họ, lợi ích từ việc sửa chúng không đáng để thực hiện, do phí tổn.
Ví dụ, một cấu trúc dữ liệu ngầm định hoặc cấu trúc dữ liệu gọn có thể có phí tổn không gian thấp, nhưng đánh đổi bằng hiệu suất chậm (sự đánh đổi không/thời gian).
Độ phức tạp thời gian chạy của phần mềm
Độ phức tạp thuật toán thường được chỉ định bằng ký hiệu "Big O". Điều này không nói về việc một thuật toán chạy trong bao lâu hoặc sử dụng bao nhiêu bộ nhớ, mà nó chỉ thể hiện sự tăng của thuật toán phụ thuộc vào kích thước đầu vào. Phí tổn không được tính vào trong tính toán này một cách cố ý, vì nó thay đổi từ máy tính này sang máy tính khác, trong khi thời gian chạy cơ bản của một thuật toán thì không.
Điều này nên đối lập với hiệu quả thuật toán khi nó xem xét tất cả các loại tài nguyên - một sự kết hợp (mặc dù không phải là một sự kết hợp đơn giản) của độ phức tạp và phí tổn.
Ví dụ
Lập trình máy tính (thời gian chạy và phí tổn tính toán)
Việc một hàm tạo ra một phí tổn thời gian chạy nhỏ. Đôi khi, trình biên dịch có thể tối thiểu hóa phí tổn này bằng cách chèn nội dung của một số lời gọi hàm tại chỗ (hàm nội tuyến).
Bộ nhớ đệm CPU
Trong bộ nhớ đệm CPU, "kích thước bộ nhớ đệm" (hoặc dung lượng) đề cập đến lượng dữ liệu mà bộ nhớ đệm lưu trữ. Ví dụ, một "bộ nhớ đệm 4 KB" là một bộ nhớ đệm chứa 4 KB dữ liệu. Số "4 KB" trong ví dụ này không bao gồm các bit phí tổn như thông tin về khung hình, địa chỉ và thẻ (tag).
Giao tiếp (phí tổn truyền dữ liệu)
Việc gửi một gói dữ liệu một cách đáng tin cậy qua mạng truyền thông đòi hỏi việc gửi nhiều hơn là chỉ dữ liệu gốc. Nó còn liên quan đến việc gửi các dữ liệu điều khiển và tín hiệu khác nhau (TCP) cần thiết để đến đích. Điều này tạo ra một loại phí tổn giao thức (protocol overhead) vì các dữ liệu bổ sung này không đóng góp vào ý nghĩa cốt lõi của thông điệp.
Trong viễn thông, việc quay số và thời gian thiết lập cuộc gọi được xem là các phí tổn. Trong các hệ thống radio hai chiều (nhưng song công), việc dùng từ "kết thúc" và các tín hiệu khác cần thiết để tránh xung đột cũng là một loại phí tổn.
Phí tổn giao thức có thể được biểu thị dưới dạng phần trăm của các byte không phải dữ liệu ứng dụng (giao thức và đồng bộ khung) trong tổng số byte trong thông điệp.
Mã hóa và cấu trúc dữ liệu (phí tổn kích thước)
Việc mã hóa thông tin và dữ liệu cũng tạo ra phí tổn. Ngày và giờ "2011-07-12 07:18:47" có thể được biểu diễn dưới dạng thời gian Unix với số nguyên 32-bit có dấu 1310447927, chỉ tốn 4 byte. Biểu diễn dưới dạng chuỗi UTF-8 định dạng theo ISO 8601 2011-07-12 07:18:47 sẽ tốn 19 byte, tạo ra một phí tổn về kích thước là 375% so với biểu diễn số nguyên nhị phân. Dưới dạng XML, ngày này có thể được viết như sau với phí tổn 218 ký tự, đồng thời thêm ngữ cảnh ngữ nghĩa rằng đó là một CHANGEDATE có chỉ số 1.<?xml version="1.0" encoding="UTF-8"?>
<datetime qualifier="changedate" index="1">
<year>2011</year>
<month>07</month>
<day>12</day>
<hour>07</hour>
<minute>18</minute>
<second>47</second>
</datetime>349 byte, phát sinh từ XML được mã hóa bằng UTF-8, tương ứng với một phí tổn kích thước là 8625% so với biểu diễn ban đầu dưới dạng số nguyên.
Hệ thống tập tin
Ngoài bản thân tập, hệ thống tập tin máy tính còn sử dụng một phần không gian để lưu trữ tên thư mục và danh sách thư mục, tên tệp, vị trí các phân vùng tệp, các thuộc tính như thời gian sửa đổi và tạo, cách các tệp bị phân mảnh, được ghi và phần trống trong bộ nhớ, và nhật ký trên một số hệ thống tập tin.
Nhiều tập tin nhỏ tạo ra nhiều phí tổn hơn một ít tập tin lớn.
Xem thêm
Không gian chùng xuống
Quy tắc quyền lực tối thiểu
Máy Turing đa năng
Tham khảo
|
19831649
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pierre%20Lemaitre
|
Pierre Lemaitre
|
Pierre Lemaitre (sinh năm 1951) là nhà văn và nhà biên kịch người Pháp. Tốt nghiệp chuyên ngành tâm lý học, ông đã dành phần lớn sự nghiệp của mình vào công tác đào tạo nghề cho người trưởng thành, bằng cách hướng dẫn họ cách giao tiếp và dạy về văn hóa phổ quát, hay giảng dạy văn học cho các thủ thư. Sau đó ông chuyên tâm vào việc viết lách từ năm 2006. Với các thử nghiệm trong thể loại trinh thám xã hội hoặc trinh thám kinh dị, ông được Stephen King coi như “một cây viết trinh thám thực sự tuyệt vời”. Ông cũng đã giành giải Goncourt cho tác phẩm lấy đề tài Thế chiến I.
Tác phẩm
Tiểu thuyết
Série về Verhoeven:
Travail soigné (2006)
Alex (2012)
Sacrifices (Hy sinh, 2012)
Rosy & John (2014)
Bộ ba Les Enfants du désastre:
Au revoir là-haut (Hẹn gặp lại trên kia, 2013)
Couleurs de l'incendie (2018)
Miroir de nos peines (2020)
Série Les Années glorieuses:
Le Grand Monde (2022)
Le Silence et la colère (2023)
Các tiểu thuyết khác:
Robe de marié (2008)
Cadres noirs (2010)
Trois jours et une vie (Ba ngày và một đời, 2016)
Le Serpent majuscule (viết năm 1985, xuất bản năm 2021)
Kịch bản
Ông tham gia vào viết kịch bản cho các phim truyền hình sau:
Otages (2009)
Marion Mazzano (1 tập, 2010)
Boulevard du Palais (1 tập, 2010)
Injustice (1 tập, 2012)
Ông cũng tham gia vào quá trình chuyển thể các phim truyền hình và điện ảnh từ tiểu thuyết của mình:
Au revoir là-haut (chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết cùng tên, 2017)
Trois jours et une vie (chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết cùng tên, 2019)
Dérapages (chuyển thể série truyền hình từ Cadres noirs, 2020)
Couleurs de l'incendie (chuyển thể điện ảnh từ tiểu thuyết cùng tên, 2022)
Giải thưởng
Prix du premier roman du festival de Cognac, 2006 (Travail soigné)
Prix Sang d'encre et Prix des lecteurs Goutte de Sang d'encre, Vienne, 2009 (Robe de marié)
Prix du polar francophone de Montigny-lès-Cormeilles, 2009(Robe de marié)
Lọt vào chung khảo CWA International Dagger, 2014 (Travail soigné, bản dịch Irène của Frank Wynne)
Prix Le Point du polar européen, 2010 (Cadres noirs)
Prix des lecteurs policier du Livre de poche, 2012 (Alex)
Prix des libraires de Nancy Le Point, 2013 (Au revoir là-haut)
Roman français préféré des libraires à la rentrée, 2013 (Au revoir là-haut)
Meilleur roman français 2013 décerné par le magazine Lire (Au revoir là-haut)
Giải Goncourt 2013 (Au revoir là-haut)
Prix du roman France-Télévisions 2013 (Au revoir là-haut)
Prix Audiolib pour l'édition sonore (Au revoir là-haut)
Goncourt des étudiants de Serbie 2013 (Au revoir là-haut)
Coup de cœur 2014 de l'Académie Charles Cros pour l'enregistrement audio (Au revoir là-haut)
Prix Tulipe du meilleur roman français 2014 (Au revoir là-haut)
Premio Letterario Internazionale Raffaelo Brignetti 2014 (Au revoir là-haut)
CWA International Dagger, hạng mục Crime Fiction in Translation Dagger, 2015 (Sacrifices, bản dịch Camille của Frank Wynne)
Prix Attrap'cœur, 2016 (Rosy & John)
CWA International Dagger, hạng mục Crime Fiction in Translation Dagger, 2016 (Au revoir là-haut, bản dịch The Great Swindle của Frank Wynne)
César 2018 de la meilleure adaptation avec Albert Dupontel (Au revoir là-haut)
Liên kết ngoài
Các tác phẩm của Pierre Lemaitre đã xuất bản tại Việt Nam
Pierre Lemaitre tại IMDb
Tham khảo
Sinh năm 1951
Nhân vật còn sống
Tiểu thuyết gia Pháp
Nhà văn Pháp
Nhà biên kịch phim Pháp
|
19831650
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Asia%27s%20Next%20Top%20Model%20%28M%C3%B9a%207%29
|
Asia's Next Top Model (Mùa 7)
|
Asia's Next Top Model, Mùa 7 là mùa giải thứ bảy của chương trình Asia's Next Top Model, được công chiếu bắt đầu từ ngày 27/5/2019. Chủ đề của mùa giải thứ 7: Future Fashion (Thời Trang Tương Lai).
Mùa giải gồm 14 thí sinh đến từ Indonesia, Philippines, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và Việt Nam.
Giải thưởng mùa này bao gồm: 1 chiếc ô tô Subaru Impreza, xuất hiện trên trang bìa tạp chí Nylon Singapore và 1 hợp đồng với công ty quản lý người mẫu Storm Model Management ở Luân Đôn.
Quán quân của Asia's Next Top Model mùa 7 là Lilly Nguyễn, 25 tuổi đến từ Việt Nam.
Vòng sơ tuyển
Diễn ra tại 3 địa điểm:
22/10/2018 tại House Manila Club, Resorts World Manila, Manila, Philippines.
29/10/2018 tại Grand Caymans, Level 10, Sunway Resort Hotel and Spa, Kuala Lumpur, Malaysia.
5/11/2018 tại The Hermitage, A Tribute Portfolio Hotel, Jakarta, Indonesia.
Ngoài ra, còn có hình thức đăng kí và tuyển chọn trực tuyến nếu người dự thi không thể xuất hiện tại vòng sơ tuyển.
Thí sinh
(Tính theo tuổi khi còn trong cuộc thi)
Giám khảo chính
Cindy Bishop (Dẫn chương trình)
Yu Tsai (Giám đốc sáng tạo)
Cara G. McIlroy (Cố vấn người mẫu)
Thứ tự loại trừ
Thí sinh bị loại.
Thí sinh chiến thắng cuộc thi.
Thí sinh được miễn loại.
Thí sinh bị loại nhưng được cứu
Buổi chụp ảnh
Tập 1: Áo tắm ở bãi biển
Tập 2: Tác hại của khói thuốc
Tập 3: Leo núi cùng bộ cánh sặc sỡ
Tập 4: Thực vật
Tập 5: Thời trang trên nóc nhà
Tập 6: Nguyên liệu tái chế
Tập 7: Chụp hình với bò sát
Tập 8: Clip nhạc của Enrique Iglesias, "Tired of Being Sorry" – "Anh chán phải xin lỗi"
Tập 9: Xe bốc cháy trong sa mạc
Tập 10: Quảng cáo bộ mỹ phẩm Covergirl Queen Collection
Tập 11: Múa rồng và múa sư tử
Tập 12: Vạn lý trường thànhTập 13:''' Quảng cáo son nước làm từ rượu trái cây Covergirl Wetslicks Fruit Spritzers
Liên kết
Official website
Asia's Next Top Model on STAR World
Tham khảo
Asia's Next Top Model
|
19831652
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Firebrand%20Games
|
Firebrand Games
|
Firebrand Games Limited là nhà phát triển trò chơi điện tử của Anh có trụ sở tại Glasgow, Scotland. Công ty được thành lập bởi giám đốc điều hành Mark Greenshields vào năm 2006 và vận hành văn phòng thứ hai tại Merritt Island, Florida, kể từ tháng 9 năm 2007.
Lịch sử
Firebrand Games do Mark Greenshields thành lập vào năm 2006, sau khi liên doanh trước đó của ông là DC Studios bị đóng cửa hoạt động tại Vương quốc Anh vào đầu năm 2006. Ông trở thành giám đốc điều hành của công ty mới. Tháng 9 năm 2007, công ty thông báo mở văn phòng thứ hai tại Merritt Island, Florida. Văn phòng này thay thế studio duy nhất còn lại của DC Studios, có trụ sở tại Montreal. Vào tháng 9 năm 2009, trụ sở chính của Firebrand Games được chuyển đến không gian văn phòng mới, lớn hơn ở Glasgow. Đến tháng 8 năm 2010, chủ yếu do chi phí kinh doanh ở Scotland, văn phòng Meritt Island đã tăng số lượng nhân viên lớn hơn trụ sở chính ở Glasgow.
Firebrand Games chủ yếu hoạt động trên các phiên bản Nintendo DS thuộc sở hữu trí tuệ của bên thứ ba trong thể loại đua xe, như là TrackMania và Need for Speed. Một số trong số này sử dụng công cụ trò chơi nội bộ có tên 3D Octane. Tháng 5 năm 2011, công ty tuyên bố mong muốn phát triển một trò chơi thuộc dòng F-Zero. Firebrand Games đã công bố tài sản trí tuệ đầu tiên của mình, trò chơi giải đố Solar Flux, vào tháng 7 năm 2013.
Một số tựa trò chơi
Chú thích
Tham khảo
Công ty phát triển trò chơi điện tử
|
19831656
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gilles%20Leroy
|
Gilles Leroy
|
Gilles Leroy (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1958) là nhà văn người Pháp. Ông sinh ra tại Bagneux, Paris, và rời bỏ Paris vào năm 1995 để sống tại một làng nhỏ ở Perche. Các tác phẩm của ông nhận được nhiều giải thưởng, tiêu biểu nhất là giải Goncourt cho Alabama Song.
Tác phẩm
Tiểu thuyết
Habibi (1987)
Maman est morte (1990)
Madame X. (1992)
Les jardins publics (1994)
Les maîtres du monde (1996)
Machines à sous (1998)
Soleil noir (2000)
L'amant russe (2002)
Grandir (2004)
Champsecret (2005)
Alabama Song (2007)
Zola Jackson (2010)
Dormir avec ceux qu'on aime (2012)
Nina Simone (2013)
Le monde selon Billy Boy (2015)
Le château solitude (tự truyện, 2016)
Dans les westerns (2017)
Le diable emporte le fils rebelle (2019)
Requiem pour la jeune amie (2021)
Le fils errant (2023)
Truyện ngắn
Les derniers seront les premiers (1991)
White Party (2014)
Sân khấu
Le jour des fleurs (2004)
Ange Soleil (2011)
Giải thưởng
Prix des Lecteurs de Nanterre (Les derniers seront les premiers)
Prix Valery-Larbaud (Machines à sous)
Prix Millepages (Grandir)
Giải Goncourt 2007 (Alabama Song)
Prix Été du Livre – Marguerite Puhl-Demange (Zola Jackson)
Prix Livres & Musiques de la ville de Deauville (Nina Simone)
Prix Marcel Pagnol (Le monde selon Billy Boy)
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Điểm sách Alabama Song, bản dịch tiếng Việt của Bằng Nguyên
Tham khảo
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1958
Tiểu thuyết gia Pháp
Nhà văn Pháp
|
19831660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81%20nh%C3%A2n
|
Á nhân
|
Trong các câu chuyện thần thoại và các tác phẩm giả tưởng, Á nhân (tiếng Anh: demi-human) là danh từ chung chỉ những chủng loài vừa giống nhưng cũng vừa khác với con người. Các á nhân tuy có vẻ ngoài gần giống con người, nhưng vẫn có các đặc điểm riêng biệt nhất định, như các bộ phận trên cơ thể, huyết thống và có nền văn minh khác với loài người. Dưới đây liệt kê một số chủng loài được xếp vào lớp Á nhân:
Thú nhân
Người chim
Người cá (Mermen)
Nàng tiên cá
Người bò sát (Lizardman)
Long nhân (Dragonewt)
Ma sói
Ma cà rồng
Minotaur
Elf
Dwarf
Fairy
Gorgon
Người khổng lồ và người tí hon.
.v.v.
Xem thêm
Á thần
Á thánh
Á long
Á nhân (manga)
Người châu Á.
Kỳ ảo
Hư cấu
Thần thoại
Quái nhân
Sinh vật bí ẩn
|
19831663
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Santiniketan
|
Santiniketan
|
Shantiniketan là một khu phố nằm ở thành phố Bolpur thuộc huyện Birbhum, Tây Bengal, Ấn Độ. Nó nằm cách thành phố Kolkata khoảng 152 km về phía bắc. Được thành lập bởi Debendranath Tagore và sau đó được mở rộng bởi con trai ông là Rabindranath Tagore, người có tầm nhìn đưa nó trở thành thị trấn đại học ngày nay với ra đời của Visva-Bharati vào năm 1921. Shantiniketan được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào năm 2023.
Lịch sử
Năm 1863, Debendranath Tagore thuê lại khu đất vĩnh viễn từ Bhuban Mohan Sinha, quý tộc (Taluqdar) của Raipur, Birbhum với mức phí hàng năm là 5 Rupee. Ông đã trồng hai cây hoa sữa, xây một nhà khách ở đó và đặt tên là Shantiniketan (nơi ở của hòa bình). Dần dần, toàn bộ khu vực được gọi là Shantiniketan.
Nhà báo Binoy Ghosh nói rằng Bolpur vào giữa thế kỷ 19 là một khu dân cư nhỏ. Nó phát triển khi Shantiniketan phát triển. Một phần nhất định của Bolpur được cai trị bởi Zamindar của gia đình Sinha ở Raipur. Bhuban Mohan Sinha đã phát triển một ngôi làng nhỏ ở vùng Bolpur và đặt tên là Bhubandanga, nằm ngay đối diện Shantiniketan ngày đó.
Bhubandanga là hang ổ của một nhóm cướp có vũ trang khét tiếng, những kẻ không có lòng trắc ẩn trong việc giết người. Điều này dẫn đến tình trạng xung đột và đối đầu, nhưng cuối cùng thủ lĩnh của băng đảng đã đầu hàng. Debendranath và họ bắt đầu giúp Bhuban Mohan Sinha phát triển khu vực. Có một cây hoa sữa nơi Debendranath thường ngồi thiền. Lấy cảm hứng từ Cung điện Pha lê được xây dựng đầu tiên ở Công viên Hyde, Luân Đôn để tổ chức Đại Triển lãm năm 1851 và sau đó được chuyển đi, Debendranath đã xây dựng một hội trường rộng 30x60 feet để làm nơi cầu nguyện cho Brahmo Samaj. Mái nhà lợp ngói và sàn lát đá cẩm thạch trắng nhưng phần còn lại của công trình được làm bằng kính. Ngay từ những ngày đầu, công trình đã là một điểm thu hút lớn đối với mọi người từ khắp nơi.
Rabindranath Tagore lần đầu tiên đến thăm Shantiniketan vào ngày 27 tháng 1 năm 1878 khi ông mới 17 tuổi. Năm 1888, Debendranath dành toàn bộ tài sản để thành lập trường Brahma thông qua chứng thư ủy thác. Năm 1901, nó bắt đầu hoạt động và được biết đến với cái tên Patha Bhavana từ năm 1925. Năm 1913, Rabindranath Tagore đoạt Giải Nobel Văn học. Đó là một niềm tự hào của gia đình Tagore, những người góp phần làm phong phú thêm cuộc sống và xã hội ở Bengal trong nhiều lĩnh vực hoạt động trong một thời gian dài. Môi trường ở Jorasanko Thakur Bari, một trong những bất động sản của gia đình Tagore ở Kolkata là nơi tràn ngập văn học, âm nhạc, hội họa và kịch bản. Được thành lập vào năm 1921 bởi Rabindranath Tagore, Visva Bharati được tuyên bố là trường đại học trung tâm và học viện có tầm quan trọng quốc gia vào năm 1951.
Hình ảnh
Tham khảo
Đọc thêm
UNESCO: Santiniketan (on the Tentative List since 2010)
Places to visit in Santiniketan 2019
Di sản thế giới tại Ấn Độ
|
19831670
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kurosu%20Takeshi
|
Kurosu Takeshi
|
là một bóng chày người Nhật Bản dành được huy chương bạc tại Thế vận hội Mùa hè 1996.
Liên kết ngoài
Sinh năm 1968
Nhân vật còn sống
Huy chương Thế vận hội Mùa hè 1996
|
19831688
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%87t%20d%C6%B0%E1%BB%A3c%20%C4%91en
|
Biệt dược đen
|
Biệt dược đen (tên cũ: Phía sau sự thật) là một bộ phim truyền hình thuộc loạt phim Cảnh sát hình sự, được thực hiện bởi Trung tâm Phim Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Phạm Gia Phương và Trần Trọng Khôi làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 21h40 thứ 2, 3, 4 hàng tuần bắt đầu từ ngày 4 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 1 tháng 11 năm 2023 trên kênh VTV3.
Nội dung
Biệt dược đen xoay quanh câu chuyện của Nguyễn Thanh Tuấn (Huỳnh Anh), một cảnh sát thông minh, dũng cảm, có quá khứ đau buồn khi chứng kiến người mẹ của mình bị sát hại. Cú sốc quá lớn khiến anh bị mất trí nhớ hoàn toàn về thời thơ ấu. Vụ án đó còn để lại vết hằn trong tâm trí của một cảnh sát trẻ tuổi – Đỗ Thanh Tuyển (Phạm Bảo Anh). 20 năm sau vụ án đó, Tuấn về làm đội phó cho đội cảnh sát hình sự do chính Tuyển làm đội trưởng. Ngay trong những ngày đầu tiên, đội của Tuyển, Tuấn đã gặp một vụ án kỳ lạ. Nạn nhân là một tay ăn chơi khét tiếng: Đặng Quốc Vương (Phạm Tuấn Anh) – thủ lĩnh của Cityboy – một nhóm gồm các công tử, tiểu thư hư hỏng, được tổ chức từ thời mà Vương còn học cấp 3.
Diễn viên
Diễn viên chính
Diễn viên phụ
Cùng một số diễn viên khác...
Ca khúc trong phim
Tập cuối của bộ phim sử dụng bài hát của loạt phim Cảnh sát hình sự mang tên "Những bàn chân lặng lẽ" do Vũ Thảo sáng tác và Thùy Dung thể hiện.
Sản xuất
Biệt dược đen do bộ đôi Phạm Gia Phương và Trần Trọng Khôi đồng đạo diễn, kịch bản phim được nhóm biên kịch Phạm Đình Hải, Vũ Liêm và Nguyễn Trung Dũng chấp bút. Bộ phim chính thức khai máy từ tháng 5 năm 2023 và đóng máy vào tháng 10 cùng năm. Đoàn làm phim đã mất 2 năm thực hiện bộ phim, trong đó dành một năm rưỡi để viết kịch bản. Vai chính của phim lần lượt được giao cho Huỳnh Anh, Phạm Bảo Anh, Hoàng Long, Lương Thanh, Ngọc Quỳnh, Bình An, Đỗ Duy Nam và Phạm Tuấn Anh thủ vai. Tác phẩm đánh dấu sự trở lại của Huỳnh Anh sau bộ phim truyền hình năm 2020 Lựa chọn số phận. Để chuẩn bị cho vai diễn, Hoàng Anh Vũ cho biết anh đã cạo trọc đầu để phù hợp với vai diễn Lý Mạnh Cường. Đỗ Duy Nam thì tiết lộ rằng anh đã làm kiểu tóc bện thừng để làm mới mình với vai diễn Trần Thành Đạt, cũng như chuẩn bị tinh thần cho bố mẹ trước khi hoàn thành vai diễn này.
Buổi họp báo ra mắt bộ phim được tổ chức tại Hà Nội ngày 23 tháng 8 năm 2023. Bộ phim chính thức lên sóng từ ngày 4 tháng 9 và kết thúc vào ngày 1 tháng 11 cùng năm trên kênh VTV3, vào lúc 21h40 thứ 2 đến thứ 4 hàng tuần, sau khi Món quà của cha kết thúc.
Đón nhận
Trong tuần phát sóng từ ngày 18 tháng 9 đến 24 tháng 9 năm 2023, bộ phim đứng thứ 2 trong danh sách top 10 chương trình truyền hình được xem nhiều nhất cả nước với rating là 4,4%. Tỷ suất người xem trung bình của phim suốt thời gian phát sóng sau đó được ghi nhận ở mức 4.2%, nằm trong top 10 phim truyền hình Việt có rating cao nhất năm 2023.
Dù nhận về đa số các phản ứng tích cực từ người xem, tác phẩm đã gây ra nhiều tranh cãi. Những ý kiến cho rằng bộ phim không phù hợp để phát sóng giờ vàng trên sóng truyền hình quốc gia do có nhiều cảnh quay liên quan đến bạo lực, tình dục, cưỡng bức của nhóm Cityboy. Họ nhận định phim có những hình ảnh hở hang quá đà, lạm dụng yếu tố tình dục dễ gây ảnh hưởng tiêu cực đến giới trẻ.
Trong khi đó, diễn xuất của tuyến nhân vật chính diện bị chê diễn "dở" so với tuyến nhân vật phản diện của Cityboy. Thậm chí, một số khán giả tuyên bố "bỏ xem phim" vì màn thể hiện chính của Lương Thanh đã làm "phá hỏng bộ phim". Các trích đoạn có sự xuất hiện của nữ diễn viên được đăng tải trên mạng xã hội đã thu hút nhiều bình luận; tuy nhiên, chúng cũng chủ yếu là những lời chỉ trích và bức xúc. Trong tập 13 của phim, phát sóng vào ngày 2 tháng 10 năm 2023, phân cảnh truy bắt ông trùm ma túy bị ví như phim hài; nhiều khán giả để lại bình luận thất vọng khi bộ phim đã xây dựng tình huống này quá "đơn giản" và "vô lý". Kết thúc của bộ phim cũng bị một số khán giả cho rằng chưa đủ kịch tính, không xứng đáng với phần mở đầu được đầu tư công phu.
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Liên kết ngoài
Biệt dược đen trên VTVGo
Biệt dược đen trên Báo điện tử VTV
Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2023
Cảnh sát hình sự (loạt phim)
Chương trình truyền hình nhiều tập của VFC
Phim truyền hình Việt Nam phát sóng trên kênh VTV3
|
19831689
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gembong%20Warsono
|
Gembong Warsono
|
Gembong Warsono (8 tháng 6 năm 1963 – 14 tháng 10 năm 2023) là một chính trị gia người Indonesia của Đảng dân chủ đấu tranh Indonesia. Ông đã được bầu hai lần vào Hạ viện khu vực Jakarta, giữ chức vụ thành viên từ năm 2014 cho đến khi qua đời vào năm 2023. Ông đã lãnh đạo phe đảng của mình trong cơ quan lập pháp và là người chỉ trích thống đốc Anies Baswedan.
Thời thơ ấu và gia đình
Gembong sinh tại Wonogiri vào ngày 8 tháng 6 năm 1963. Ông có bằng quản lý từ trường ..Ông đã kết hôn với Asih Purwanti và có bốn người con.
Sự nghiệp
Theo Gembong, ông đã là thành viên của Đảng Dân chủ Indonesia (PDI) trong sự cố ngày 27 tháng 7 năm 1996, với tư cách là một quan chức đảng ở quận Kebayoran Lama. Sau khi PDI chia tách, ông gia nhập Đảng đấu tranh dân chủ Indonesia (PDI-P).Nỗ lực bầu cử đầu tiên của ông là trong cuộc bầu cử lập pháp Indonesia năm 1999, khi ông tranh cử không thành công vào ghế lập pháp tại Hạ viện khu vực Jakarta.Năm 2000, ông trở thành bí thư chi bộ Nam Jakarta của đảng, và năm 2003 ông được bầu vào hội đồng thành phố Nam Jakarta (cơ quan cố vấn). Gembong một lần nữa tranh cử và không giành được ghế ở Nam Jakarta, trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2004, khi ông đứng thứ ba trong số các ứng cử viên PDI-P tại khu vực bầu cử Nam Jakarta của ông trong khi đảng giành được hai ghế . Trong nỗ lực bầu cử thứ ba trong 2009, ông đã được lãnh đạo cấp tỉnh của đảng ra lệnh tranh cử ở Tây Jakarta, và một lần nữa không giành được ghế.
Warsono trở thành chủ tịch chi nhánh Nam Jakarta của PDI-P vào năm 2010, và ông đã giành được một ghế lập pháp trong lần nỗ lực thứ tư trong cuộc bầu cử năm 2014. Sworn in on 25 August 2014, Gembong đã trở thành lãnh đạo phe của PDI-P trong cơ quan lập pháp vào năm 2017. Ông đã giành được 17.739 phiếu bầu trong Bầu cử năm 2019, giữ được ghế và vị trí lãnh đạo phe phái của PDI-P.
Vị trí
Trong thời gian làm thống đốc Anies Baswedan, Gembong là người thường xuyên chỉ trích các chính sách của Baswedan. Gembong đã tấn công các chính sách của Baswedan liên quan đến các công ty thuộc sở hữu của chính quyền tỉnh mà ông gọi là "chính sách buôn lậu". Anh ta cũng đã tấn công Baswedan về kế hoạch năm 2019 cho phép những người bán hàng rong hoạt động trên vỉa hè của Jakarta, và vào năm 2018 về việc sử dụng thùng rác nhập khẩu từ Đức thay vì các sản phẩm nội địa. Tuy nhiên, ông ca ngợi nỗ lực của Baswedan trong việc tích hợp hệ thống giao thông công cộng Jakarta. Ông còn đặt câu hỏi thêm về việc Jakarta đăng cai tổ chức giải vô địch đua xe thể thao Công thức E, với lý do doanh thu bán vé kém và lãi suất thấp từ các nhà tài trợ.
Qua đời
Ông qua đời tại Bệnh viện trung tâm Pertamina ở Nam Jakarta, vào ngày 14 tháng 10 năm 2023, thọ 60 tuổi. Ông được chôn cất cùng ngày tại .
Tham khảo
Sinh năm 1963
Mất năm 2023
|
19831694
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tranh%20kh%E1%BA%AFc%20%C4%91%C3%A1%20c%E1%BB%A7a%20H%E1%BB%93%20Onega%20v%C3%A0%20Bi%E1%BB%83n%20Tr%E1%BA%AFng
|
Tranh khắc đá của Hồ Onega và Biển Trắng
|
Tranh khắc đá của Hồ Onega và Biển Trắng là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận nằm tại Cộng hòa Kareliya, Nga. Nó bao gồm 33 địa điểm khắc đá thuộc hai cụm là những chạm khắc đá được tạo ra từ cách 7 đến 4 thiên niên kỷ trước thể hiện cái nhìn thoáng qua về cuộc sống của các nền văn hóa thời đại đồ đá mới trên khu vực bán đảo Fennoscandia.
Cụm Hồ Onega nằm tại Pudozhsky bao gồm 22 địa điểm khắc đá với hơn 1200 hình vẽ. Chúng chủ yếu mô tả các loài chim, động vật, hình dáng nửa người nửa thú, cũng như các hình dạng hình học có thể là tượng trưng cho mặt Trăng và mặt Trời. Một trong những địa điểm được biết đến nhiều hơn cả là mũi Besov bên bờ đông của hồ Onega.
Cụm ở Biển Trắng nằm tại Belomorsky có 11 địa điểm với hơn 3400 hình vẽ và theo Phái đoàn thường trực của Liên bang Nga tại UNESCO, chúng rõ ràng hướng tới hoạt động săn bắn và thường mô tả chính người thợ săn. Ngoài ra, nó còn hiển thị cảnh thuyền buồm, cũng như dụng cụ săn bắn và lao động, dấu chân của động vật và con người.
Hình ảnh
Tham khảo
Di sản thế giới tại Nga
|
19831700
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Katayama%20Yoshihiro
|
Katayama Yoshihiro
|
(sinh ngày 29 tháng 7 năm 1951) là chính khách người Nhật Bản. Trước đây, ông đã từng giữ chức vụ Bộ trưởng Nội vụ và Truyền thông và làm thống đốc tỉnh Tottori nhiệm kỳ 1999–2007.
Tham khảo
Sinh năm 1951
Bộ trưởng Nhật Bản
Nhân vật còn sống
|
19831704
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0i%20thi%C3%AAn%20v%C4%83n%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Kazan
|
Đài thiên văn Đại học Kazan
|
Đài quan sát Thiên văn học của Đại học Liên bang Kazan (JSC KFU) bao gồm hai đài quan sát thiên văn học nằm tại thành phố Kazan, cộng hòa Tatarstan, Nga. Chúng hiện là cơ sở của Khoa Thiên văn học thuộc Đại học Liên bang Kazan được thành lập vào năm 1810 bởi nhà thiên văn học người Áo Joseph Johann von Littrow. Các đài quan sát thiên văn gồm Đài quan sát thiên văn Thành phố Kazan và Đài quan sát thiên văn Engelhardt đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ năm 2023.
Lịch sử
Năm 1811, Joseph Johann von Littrow đề xuất thành lập một đài quan sát tại Khoa Thiên văn học của Đại học Hoàng gia Kazan. Vào ngày 11 tháng 11 năm 1814, các cuộc quan sát bắt đầu tại một đài thiên văn nhỏ (đài thiên văn tạm thời) phía trên cổng đá trong vườn bách thảo của trường đại học. Năm 1822, đài quan sát tạm thời được đặt trong một phòng trưng bày bằng gỗ, một phần của căn nhà của giám đốc đài thiên văn bấy giờ là Ivan Mikhailovich Simonov. Năm 1827, sân trường đại học được chọn làm địa điểm đặt đài quan sát và đến năm 1833, việc xây dựng đài quan sát chính thức bắt đầu. Năm 1835, một kính khúc xạ 23 cm (9 in) được đặt hàng từ xưởng của Fraunhofer. Năm 1837, việc xây dựng tòa nhà được hoàn thành và những cuộc quan sát đầu tiên được thực hiện ở đó ngay trong tháng 6 cùng năm. Năm 1838, một kính khúc xạ 9 in được lắp đặt trong tháp chính và hoàn toàn có thể di chuyển được. Ngày khánh thành chính thức của đài quan sát thiên văn Đại học Kazan là ngày 13 tháng 4 năm 1838, khi việc quan sát bắt đầu được diễn ra thường xuyên trong tòa nhà đài quan sát mới (Vòng tròn kinh tuyến Viên).
Mô tả
Tài sản bao gồm hai phần: một đài quan sát ở trung tâm lịch sử của Kazan và phần còn lại là đài quan sát ở khu vực ngoại ô phía tây thành phố. Cả hai đài quan sát đã được bảo tồn hoàn chỉnh với các dụng cụ thiên văn và ngày nay chủ yếu thực hiện chức năng giáo dục.
Đài quan sát thiên văn thành phố Kazan được xây dựng vào năm 1837 nằm trong khuôn viên trường Đại học.
Mặt tiền của tòa nhà là một cấu trúc hình bán nguyệt, phía trên là ba tháp có mái vòm được xây dựng để chứa các dụng cụ thiên văn.
Đài quan sát thiên văn Engelhardt nằm ở ngoại ô bao gồm các công trình quan sát bầu trời và các tòa nhà dân cư nằm trong công viên.
Các dụng cụ cơ bản ở đây gồm có: Kính viễn vọng khúc xạ Merz do Fraunhofer sản xuất; máy đo nhiệt độ Johann Georg Repsold; kính viễn vọng cầm tay của George Dollond; Vòng tròn kinh tuyến Viên; Chân đế xích đạo; Dụng cụ chuyển tuyến; Đồng hồ chính xác thời gian (kể từ ngày 23 tháng 2 năm 1885).
Tham khảo
Di sản thế giới tại Nga
Đại học Liên bang Kazan
|
19831705
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishio%20Y%C5%ABji
|
Nishio Yūji
|
là cựu chính khách người Nhật Bản. Trước đây, ông từng làm chức vụ Thống đốc tỉnh Tottori từ ngày 13 tháng 4 năm 1983 đến ngày 11 tháng 4 năm 1999.
Tham khảo
Mất năm 2013
Sinh năm 1921
|
19831710
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manchester%20United%20F.C.%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202003-04
|
Manchester United F.C. mùa giải 2003-04
|
Mùa giải 2003–04 là mùa giải thứ 12 của Manchester United tại Premier League, và là mùa giải thứ 29 liên tiếp của họ ở giải đấu hàng đầu nước Anh.
United bắt đầu mùa giải bằng chức vô địch FA Community Shield năm 2003 và sau đó giành được kỷ lục FA Cup lần thứ 11 với chiến thắng 3–0 trước Millwall tại Millennium Stadium ở Cardiff. Tuy nhiên, câu lạc bộ đã bỏ lỡ chức vô địch Premier League vào tay nhà vô địch bất bại Arsenal, với phong độ sa sút ở giai đoạn hai trùng với thời điểm Rio Ferdinand bắt đầu bị cấm thi đấu 8 tháng do bỏ lỡ cuộc kiểm tra doping. Manchester United kết thúc mùa giải ở vị trí thứ ba. .
Tân binh đáng chú ý của MU là cầu thủ chạy cánh người Bồ Đào Nha Cristiano Ronaldo, tiền vệ người Brazil từng vô địch FIFA World Cup 2002 Kléberson, thủ môn người Mỹ Tim Howard, tiền vệ người Cameroon Eric Djemba-Djemba và tiền đạo người Pháp David Bellion.
Giấc mơ UEFA Champions League của United đã kết thúc ở vòng 16 đội, với việc bị loại bởi bàn thắng vào phút cuối của Porto đồng thời khiến Quỷ đỏ không thể lọt vào tứ kết Champions League lần thứ tám liên tiếp.
Giao hữu
Siêu cúp Anh
Ngoại hạng Anh
FA Cup
Cúp liên đoàn
UEFA Champions League
Vòng bảng
Vòng knock out
Thống kê đội hình
Tham khảo
|
19831711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B2ng%20b%E1%BA%A3ng%20UEFA%20Champions%20League%202004%E2%80%9305
|
Vòng bảng UEFA Champions League 2004–05
|
Các trận đấu thuộc vòng bảng UEFA Champions League 2004–05 diễn ra từ ngày 14 tháng 9 đến ngày 8 tháng 12 năm 2004. Vòng bảng có sự góp mặt của các đội vượt qua vòng loại theo vị trí ở giải quốc nội của họ và những đội vượt qua vòng loại khác.
Cấu trúc hạt giống
32 đội được chia làm 4 nhóm hạt giống. Nhóm hạt giống số 1 gồm có đội đương kim vô địch năm ngoái là Porto và 7 câu lạc bộ xếp đầu ở bảng xếp hạng đội bóng. Nhóm hạt giống số 2 có 8 câu lạc bộ kế tiếp trong bảng xếp hạng; nhóm hạt giống số 3 và 4 cũng chia tương tự. Mỗi nhóm chứa một đội từ mỗi nhóm hạt giống. Hạt giống của một đội do hệ số UEFA chỉ định.
Những câu lạc bộ từ cùng một hiệp hội (quốc gia) được ghép đôi để chia các ngày thi đấu giữa Thứ Ba và Thứ Tư. Những câu lạc bộ chung chữ cái ghép đôi sẽ thi đấu vào những ngày khác nhau, để đảm bảo rằng các đội từ cùng một thành phố (ví dụ: Milan và Internazionale là hai dùng chung sân vận động) không thi đấu trong cùng một ngày.
Thể thức
Ở vòng bảng, mỗi đội thi đấu hai lượt trận với ba đội cùng bảng còn lại (sân nhà và sân khách hoặc tại một địa điểm trung lập). Hai đội đầu bảng có nhiều điểm nhất hoặc đáp ứng các tiêu chí hòa sẽ giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp đầu tiên. Đội đứng thứ ba sẽ tham dự Cúp UEFA năm 2005.
Tiêu chí tính hệ số
Dựa trên đoạn 4.05 trong quy định của UEFA cho mùa giải hiện hành, nếu hai hoặc nhiều đội bằng điểm nhau sau khi hoàn thành các trận đấu vòng bảng, các tiêu chí sau sẽ được áp dụng để phân định thứ hạng:
Số điểm cao hơn đạt được trong các trận đấu vòng bảng giữa các độ được tính đến;
Hiệu số bàn thắng bại vượt trội so với các trận đấu vòng bảng giữa các đội được tính đến;
Số bàn thắng ghi được trên sân khách cao hơn trong các trận đấu vòng bảng giữa các đội được tính đến;
Hiệu số bàn thắng bại vượt trội so với tất cả các trận vòng bảng đã đá;
Số bàn thắng ghi được cao hơn trong tất cả các trận vòng bảng đã đá;
Số điểm hệ số cao hơn mà câu lạc bộ tích lũy được tính đến, cũng như hiệp hội của đội ở 5 mùa giải trước đó.
Bảng đấu
Thời gian là CET/CEST, theo như liệt kê của UEFA (giờ địa phương nằm trong ngoặc đơn).
Bảng A
Bảng B
Bảng C
Ghi chú
Bảng D
Bảng E
Bảng F
Ghi chú
Chú thích
Liên kết ngoài
Fixtures and results at UEFA.com
Vòng bảng UEFA Champions League
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.