id
stringlengths
1
8
url
stringlengths
31
389
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
5
274k
19830522
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20v%C3%A0%20s%C3%B3ng%20th%E1%BA%A7n%20Qu%E1%BA%A7n%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Solomon%202013
Động đất và sóng thần Quần đảo Solomon 2013
Động đất và sóng thần Quần đảo Solomon 2013 () là trận siêu động đất xảy ra vào lúc 12:12 (SBT), ngày 7 tháng 2 năm 2013. Trận động đất có cường độ 8.0 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 24 km. Động đất đã gây ra sóng thần lớn lên đến 11 m. Hậu quả trận động đất đã làm 10 người chết, 6 người mất tích, 15 người bị thương. Tham khảo Động đất năm 2013
19830525
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ivan%20Ignatyevich%20Nikitchuk
Ivan Ignatyevich Nikitchuk
Ivan Ignatyevich Nikitchuk (; 21 tháng 5 năm 1944 – 4 tháng 10 năm 2023) là một kỹ sư và chính trị gia người Nga. Là thành viên của Đảng Cộng sản Liên bang Nga, ông đã phục vụ trong Duma Quốc gia từ năm 1995 đến 2003 và một lần nữa từ năm 2011 đến năm 2016. Ông qua đời vào ngày 4 tháng 10 năm 2023, thọ 79 tuổi. Tiểu sử Ông sinh ngày 21 tháng 5 năm 1944 tại làng Triskini, vùng Rivne. Năm 1951, gia đình chuyển đến vùng Odessa (làng Makarovka, quận Tsebrikovsky) Ông tốt nghiệp trường cấp hai Ordzhonikidze với huy chương bạc, Cao đẳng khai thác mỏ Krivoy Rog, làm việc tại mỏ Yuzhnaya Cơ quan quản lý mỏ được đặt tên theo Đại hội Đảng lần thứ 20 (Krivoy Rog). Tốt nghiệp Học viện Hàng không Kharkov (1970). Bảo vệ luận án tiến sĩ và nghiên cứu sinh của mình. Làm việc tại VNIIEF (Arzamas-16) từ năm 1969, tham gia thử nghiệm và dự đoán thời gian bảo hành của vũ khí hạt nhân. 1984–1987: Phó Bí thư Đảng ủy VNIIEF. 1987–1991: Thứ hai, Bí thư thứ nhất của Ủy ban Nhà nước CPSU Arzamas-16. Năm 1995, ông được bầu vào Duma Quốc gia ở khu vực bầu cử ủy nhiệm duy nhất Arzamas số 118, và là thành viên của Ủy ban Chuyển đổi và Công nghệ cao. Năm 1999, ông lại được bầu vào Duma Quốc gia. Ông làm việc trong Ủy ban Duma Quốc gia về Công nghệ cao, về Tài sản, Quy định và Tổ chức Công tác của Duma Quốc gia, đại diện cho Duma Quốc gia trong Hội đồng Liên minh Tây Âu (AZEU), là điều phối viên của phe Đảng Cộng sản trong Duma Quốc gia, phó chủ tịch nhóm phó về quan hệ với quốc hội Ukraina, thành viên của nhóm nghị sĩ về quan hệ với nghị viện Cuba, Nam Phi, Thụy Điển và Pháp. Ông là tác giả (đồng tác giả) của một số luật và nghị quyết liên bang của Duma Quốc gia, nhiều yêu cầu của quốc hội và đơn kháng cáo lên các cơ quan chức năng khác nhau. Sau khi hoàn thành công việc tại Duma Quốc gia (2003), ông làm việc trong bộ máy của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang Nga (người đứng đầu ngành chính sách công nghiệp), cơ quan tham khảo chính của phe Đảng cộng sản. Năm 2007, ông được bầu làm phó của Hội đồng lập pháp Nizhny Novgorod. Năm 2011, ông được bầu vào Duma Quốc gia, một thành viên của Đảng Cộng sản. Tham khảo Sinh năm 1944 Mất năm 2023
19830529
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20t%E1%BA%BF%20c%C3%A0%20ph%C3%AA
Kinh tế cà phê
Kinh tế cà phê (Economics of coffee) hay thị trường cà phê hay ngành cà phê chỉ về vai trò, giá trị, giao dịch của cà phê trong nền kinh tế. Cà phê là một loại đồ uống phổ biến và là một mặt hàng quan trọng. Hàng chục triệu nhà sản xuất nhỏ ở các nước đang phát triển kiếm sống bằng nghề trồng cà phê. Hơn 2,25 tỷ tách cà phê được tiêu thụ trên thế giới mỗi ngày. Hơn 90% sản lượng cà phê diễn ra ở các nước đang phát triển - chủ yếu là Nam Mỹ - trong khi việc tiêu thụ chủ yếu diễn ra ở các nền kinh tế công nghiệp hóa. Có 25 triệu nhà sản xuất nhỏ sống dựa vào cà phê để kiếm sống trên toàn thế giới. Ở Brazil, nơi sản xuất gần 1/3 sản lượng cà phê của thế giới với hơn 5 triệu người làm công việc trồng trọt và thu hoạch hơn 3 tỷ cây cà phê. Ngành cà phê sử dụng nhiều lao động hơn so với các ngành như mía hoặc chăn nuôi, vì việc trồng trọt không được tự động hóa, đòi hỏi người trồng phải chú ý thường xuyên. Cà phê là mặt hàng xuất khẩu chủ lực và là mặt hàng nông sản xuất khẩu hàng đầu của 12 nước tính theo năm 2004, nước xuất khẩu nông sản hợp pháp lớn thứ bảy thế giới tính theo giá trị vào năm 2005 và "mặt hàng có giá trị thứ hai được xuất khẩu từ các nước đang phát triển" từ năm 1970 đến khoảng năm 2000. Hạt cà phê chưa rang hoặc còn xanh là một trong những mặt hàng nông sản được giao dịch nhiều nhất trên thế giới, mặt hàng này được giao dịch trong các hợp đồng tương lai trên nhiều sàn giao dịch như ở New York, Sàn giao dịch hàng hóa New York, Sàn giao dịch liên lục địa New York . Các trung tâm thương mại và chế biến cà phê quan trọng ở châu Âu là Hamburg và Trieste. Các quỹ đầu tư trong một thời gian khá dài, từ đầu năm đến nay đã chọn sàn robusta London làm một trong những nơi trú ẩn vốn Người Ethiopia đã mang cà phê trồng trên các dãy núi Yemen, cà phê đã là thức uống thiết yếu và phổ biến khắp Bán đảo Ả Rập, Ba Tư, Ai Cập, Ottoman, Bắc Phi, khiến cà phê thành một loại hàng hóa có giá trị sinh lợi. Giữa thế kỷ 16, đế chế Ottoman nhận ra tiềm năng kinh tế của cà phê và quá trình giao dịch cà phê trên quy mô toàn cầu chính thức bắt đầu. Nguồn lợi từ cà phê đã góp phần đưa đế chế Ottoman phát triển cực thịnh. Để kiểm soát thương mại cà phê, Ottoman cấm phân phối hạt sống hoặc cây giống, nhân cà phê phải luộc hoặc rang chín trước khi xuất khẩu. Đầu thế kỷ 18, Hà Lan trở thành chủ lực sản xuất và cung ứng cà phê lớn nhất toàn cầu. Đế chế Anh đến năm 1815 đã tiếp quản các đồn điền cà phê tại Tích Lan (Ceylon) của Hà Lan rồi nhanh chóng trở thành một thế lực lớn trong thương mại cà phê toàn cầu. Mặc dù cà phê không phải là ưu tiên của nền kinh tế thuộc địa Anh, nhưng Anh đã kiếm được rất nhiều tiền từ thương mại cà phê. Nửa sau của thế kỷ 18, sản lượng cà phê tại các nước thuộc địa Pháp tăng cao, Pháp và Hà Lan trực tiếp cạnh tranh vị thế. Sau này, Mỹ vừa là quốc gia tiêu thụ cà phê hàng đầu thế giới, vừa là trung tâm công nghệ hóa ngành cà phê. Việt Nam là quốc gia sản xuất cà phê Robusta lớn nhất thế giới, đứng thứ 2 về sản lượng xuất khẩu (sau Brazil). Với hương thơm đặc biệt, thể chất đậm từ nguồn nguyên liệu cà phê Robusta Buôn Ma Thuột nổi tiếng toàn cầu, cà phê Việt Nam ngày càng được thế giới biết đến và công nhận. Nhưng Việt Nam chưa có thương hiệu nào góp mặt trong danh sách 10 thương hiệu cà phê đắt nhất thế giới. Thế giới chuộng dòng cà phê chè Arabica nhưng Việt Nam lại có thế mạnh về cà phê vối Robusta. Việt Nam muốn định vị lại vị trí trên bản đồ cà phê thế giới phải xác định phát triển dòng Abarica hay vẫn theo Robusta, hay phối trộn hai dòng này lại. Thế giới tiếp cận cà phê không chỉ là một loại thức uống. Rất nhiều ngành kinh tế phát triển từ cây cà phê như mật ong hoa cà phê, phân bón từ bã cà phê hay thuốc nhộm vải, sợi, giày, từ cây cà phê, các nước chế ra được nhiều sản phẩm, nhưng Việt Nam thì vẫn đang sản xuất và xuất khẩu cà phê thô. Chú thích Cà phê Kinh tế Kinh tế nông nghiệp Thương mại quốc tế
19830531
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20H%E1%BA%A1ng%20Nh%C3%AC%20Qu%E1%BB%91c%20gia%201998
Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 1998
Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia 1998 là mùa giải thứ hai của Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia với tư cách là giải thi đấu bóng đá cấp câu lạc bộ cao thứ 2 trong hệ thống các giải bóng đá Việt Nam (sau giải Hạng Nhất quốc gia) do Liên đoàn bóng đá Việt Nam tổ chức và quản lý. Các đội bóng Vòng loại Vòng chung kết 10 đội bóng tham dự vòng chung kết được chia thành 2 bảng đá vòng tròn một lượt để chọn hai đội nhất mỗi bảng vào bán kết. Vòng bảng Bảng A Các trận đấu đều diễn ra tại sân vận động Tiền Giang, tỉnh Tiền Giang. Bảng B Các trận đấu đều diễn ra tại sân vận động Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Vòng đấu loại trực tiếp Đội thắng trong trận bán kết sẽ trực tiếp giành quyền thăng hạng giải vô địch quốc gia mùa bóng năm sau, đội thua sẽ tranh vé vớt với hai đội xếp thứ 13, 14 của giải Hạng Nhất quốc gia. Khác với mùa giải năm ngoái, giải lần này không có trận chung kết. Đấu play-off Lượt đi Lượt về Tổng tỷ số là 2– 2, Thừa Thiên Huế thắng nhờ luật bàn thắng sân khách. Long An thắng với tổng tỷ số 5–0. Tham khảo Xem thêm Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia 1998 Giải bóng đá Cúp Quốc gia 1998 Liên kết ngoài Công ty Cổ phần Bóng đá Chuyên nghiệp Việt Nam Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF)
19830534
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alan%20Grafite
Alan Grafite
Alan Sebastião Alexandre (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1998), hay còn gọi đơn giản là Alan Grafite, là một cầu thủ bóng đá người Brazil hiện đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Quy Nhơn Bình Định tại V.League 1. Thống kê sự nghiệp Danh hiệu Chapecoense Campeonato Catarinense: 2020 Campeonato Brasileiro Série B: 2020 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Brasil Tiền đạo bóng đá nam Cầu thủ giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam
19830543
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B3ng%20n%C3%A9m%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
Bóng ném tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Bóng ném tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Zhejiang Gongshang University Sports Centre và Zhejiang Normal University Xiaoshan Gymnasium, Hàng Châu, Trung Quốc, từ 24 tháng 9 đến 5 tháng 10 năm 2023. Tại giải đấu này, có 13 đội tham dự nội dung giải đấu nam và 9 đội tham dự nội dung giải đấu nữ. Lịch thi đấu Danh sách huy chương Bảng tổng sắp huy chương Bốc thăm Lễ bốc thăm của giải đấu được thực hiện vào ngày 27 tháng 7 năm 2023. Lễ bốc thăm được thực hiện bởi Ban tổ chức Đại hội Thể thao châu Á Hàng Châu (HAGOC) với sự có mặt của nhân viên sự kiện Liên đoàn bóng ném châu Á. Nam Bảng A (Nước chủ nhà) Bảng B Bảng C Bảng D Nữ Bảng A Bảng B (Nước chủ nhà) Bảng xếp hạng chung cuộc Nam Nữ Tham khảo Bóng ném tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 2022 Đại hội Thể thao châu Á Giải đấu bóng ném quốc tế tổ chức bởi Trung Quốc
19830551
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BA%A3n%20xu%E1%BA%A5t%20c%C3%A0%20ph%C3%AA%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Sản xuất cà phê tại Việt Nam
Sản xuất cà phê tại Việt Nam là nguồn thu nhập chính của Việt Nam kể từ đầu thế kỷ XX. Cà phê được người Pháp du nhập lần đầu tiên vào năm 1857, ngành cà phê Việt Nam phát triển thông qua hệ thống đồn điền, trở thành thế lực kinh tế lớn trong nước. Sau khi bị gián đoạn trong và ngay sau Chiến tranh Việt Nam, sản xuất cà phê đã tăng trở lại sau cải cách kinh tế Đổi mới nhất là khi được sự giúp đỡ chí tình của Đông Đức XHCN lúc còn tồn tại, khiến vai trò của cà phê chỉ đứng sau lúa gạo về giá trị nông sản xuất khẩu từ Việt Nam. Việt Nam là nước sản xuất lớn thứ hai trên thế giới sau Brazil, với cà phê Robusta chiếm tới 97% tổng sản lượng của Việt Nam. Tuy nhiên, ngành chế biến và sản xuất cà phê ở Việt Nam cũng gặp những vấn đề trong quản lý và điều hành ở tầm vĩ mô lẫn vi mô. Nông dân trồng cà phê ở Việt Nam luôn trải qua chu kỳ tăng trưởng nóng và tiêu điều phá sản kể từ những năm 1980, khiến ngành cà phê luôn có nhiều biến động bấp bênh. Bất chấp giá cà phê toàn cầu biến động, các nước nhập khẩu vẫn tiếp tục trả mức giá ổn định trong khi nông dân trồng cà phê từ các nước xuất khẩu phải chịu mức giá dao động hàng ngày. Mô thức này chứng kiến sản lượng cà phê ở Việt Nam đạt 29,3 triệu bao trong năm 2017, thấp hơn gần 600.000 bao so với ước tính của USDA trong năm đó, do thiệt hại do mưa đến muộn. Lịch sử Người ta tin rằng cây cà phê lần đầu tiên được du nhập vào Việt Nam vào năm 1857 thông qua các nhà truyền giáo Pháp, nhưng những đồn điền cà phê đầu tiên chỉ được thành lập vào năm 1888 tại Ninh Bình và Quảng Bình là những tỉnh thuộc Bắc Kỳ do người Pháp bảo hộ. Sản xuất dòng cà phê ban đầu chủ yếu là giống cà phê chè Arabica. Đỉnh điểm của sản xuất cà phê xảy ra vào đầu thế kỷ XX khi sản xuất quy mô nhỏ ngày càng chuyển sang trồng trọt thương mại. Vào những năm 1920, người Pháp quyết định mở các vùng sản xuất cà phê ở các vùng thuộc Tây Nguyên, chủ yếu ở tỉnh Đăk Lăk. Ước tính tổng cộng 1.500 tấn cà phê được sản xuất để xuất khẩu mỗi năm vào năm 1930 và con số đó tăng lên 2.000 tấn mỗi năm vào năm 1940. Nhà máy cà phê hòa tan đầu tiên, thuộc hãng Vinacafe, được thành lập tại Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai vào năm 1969, với công suất 80 tấn/năm. Cuộc chiến tranh Việt Nam đã làm gián đoạn sản xuất cà phê ở vùng Buôn Ma Thuột, cao nguyên nơi tập trung ngành công nghiệp này. Mặc dù hiếm khi xảy ra xung đột nhưng khu vực này là ngã tư giữa miền Bắc và miền Nam và phần lớn dân cư thưa thớt. Sau chiến thắng của phe Bắc Việt cộng sản trước Mỹ, ngành công nghiệp sản xuất và chế biến cà phê ở Việt Nam thống nhất, giống như hầu hết nông nghiệp, là theo cơ chế tập thể hóa, hạn chế doanh nghiệp tư nhân và dẫn đến sản lượng thấp. Sau cuộc cải cách Đổi mới năm 1986, thì các doanh nghiệp tư nhân một lần nữa được phép hoạt động, góp phần dẫn đến sự tăng trưởng đột biến trong ngành sản xuất và chế biến cà phê. Sự hợp tác sản xuất giữa người trồng cà phê, nhà sản xuất chế biến và chính quyền đã dẫn đến việc xây dựng thương hiệu cà phê thành phẩm và xuất khẩu sản phẩm để bán lẻ. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1970, cải cách kinh tế và xã hội đã dẫn đến tình trạng thiếu lao động ở Tây Nguyên, từ đó tạo cơ hội di cư đến những vùng ít dân cư này, so với tình trạng dân số quá đông và nghèo đói ở vùng đồng bằng, nên có thể có khoảng 4 đến 5 triệu người di cư lên Tây Nguyên sau năm 1975 để bổ sung nguồn lực cho sản xuất cà phê. Sự phát triển theo cấp số nhân của ngành cà phê cũng gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường do nạn phá rừng diễn tiến quá chóng vánh và lấn chiếm đất đai làm tăng cường biến đổi khí hậu, tác động trực tiếp đến toàn bộ khu vực. Mối quan hệ giữa Đông Đức XHCN và Việt Nam là quan hệ đặc biệt thân thiết. Sản xuất cà phê bắt đầu ở Việt Nam vào năm 1926 dưới thời Pháp thuộc và bắt đầu từ năm 1975, song song với cuộc khủng hoảng cà phê ở Đông Đức, việc sản xuất cà phê Robusta bắt đầu manh nha ở Việt Nam. Cây cà phê Robusta phát triển nhanh hơn, chứa nhiều caffeine hơn, phù hợp với khí hậu Tây Nguyên Việt Nam và dễ dàng thu hoạch bằng cơ giới hơn. Tuy nhiên, cà phê Robusta rẻ hơn và đắng hơn nhiều so với cà phê Arabica tiêu chuẩn vàng. Vào năm 1980 và 1986, có hai hiệp ước đã được ký kết giữa Đông Đức và Việt Nam, theo đó phía Đông Đức hỗ trợ cung cấp các thiết bị và máy móc cần thiết cho việc sản xuất, tăng diện tích trồng cà phê từ 600 lên 8.600 ha (1.500 đến 21.300 mẫu Anh) và đào tạo người dân địa phương về kỹ thuật canh tác. Đặc biệt, phía Đông Đức đã cung cấp xe tải, máy móc và hệ thống tưới tiêu cho liên danh Kombinat Việt-Đức mới thành lập, cũng như chi khoảng 20 triệu USD cho một kế hoạch hệ thống thủy năng (Hydropower plant). Đông Đức cũng xây dựng nhà ở, bệnh viện và cửa hàng cho 10.000 người phải di dời đến khu vực sản xuất cà phê. Ngược lại, về phần mình, với khoản đầu tư này, Đông Đức dự kiến sẽ nhận được một nửa sản lượng cà phê thu hoạch trong 20 năm tiếp theo. Tuy nhiên, cà phê phải mất 8 năm kể từ khi trồng cho đến vụ thu hoạch đầu tiên vào năm 1990 và trớ trêu thay vào thời điểm đó nhà nước Đông Đức đã không còn tồn tại. Bất chấp việc mất đi khách hàng ban đầu, sau năm 1990, Việt Nam vẫn có thể nhanh chóng khẳng định mình là nước sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới sau Brazil, đẩy phần lớn sản lượng cà phê truyền thống ở Châu Phi ra khỏi thị trường. Sản xuất xuất khẩu đặc biệt được thúc đẩy nhờ việc thiết lập lại quan hệ thương mại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Việc sản xuất quá mức này đã khiến giá cà phê thế giới rớt giá vào năm 2001. Ngoài ra, với truyền thống hợp tác đã được thiết lập thì tính đến năm 2016, nước Đức vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của cà phê Việt Nam. Chú thích Xem thêm Sản xuất cà phê tại Lào Sản xuất cà phê ở Thái Lan Kinh tế Việt Nam Sản xuất cà phê theo quốc gia
19830553
https://vi.wikipedia.org/wiki/Monica%20Helms
Monica Helms
Monica F. Helms là một người chuyển giới đồng tính nữ. Bà được biết đến nhiều nhất với vai trò là người tạo ra lá cờ tự hào của người chuyển giới. Bà còn là một cựu chiến binh Hải quân Hoa Kỳ, nhà hoạt động xã hội và tác giả sách. Bà đã trải qua hai cuộc hôn nhân và cùng với người vợ cũ có hai người con trai; họ đã ly dị vào 1998. Vào ngày 18 tháng 11 năm 2016, bà kết hôn với Darlene Darlington Wagner, một vị tiến sĩ ngành tin sinh học và đồng thời cũng là một người chuyển giới nữ. Cuốn tự truyện đầu tay của bà, More Than Just a Flag (tạm dịch: Không Chỉ Là Một Lá Cờ), được xuất bản năm 2019, kể lại hành trình bà đấu tranh tìm tiếng nói cho cộng đồng người chuyển giới. Monica Helms có một ước nguyện cuối cho lá cờ của bà, đó chính là được thấy lá cờ ấy có trên Trạm vũ trụ Quốc tế như một cách gửi gắm tình yêu vũ trụ từ khi còn bé. Học vấn Bà Helms được trao bằng đại học liên thông (Associate Degree) Tổng quát và bằng đại học liên thông về Công nghệ Truyền hình từ Cao đẳng Cộng đồng Glendale ở Arizona vào năm 1987; và tốt nghiệp Trường Cao đẳng Kỹ thuật Chattahoochee vào năm 2018 với bằng đại học liên thông về Công nghệ Sản xuất Truyền hình. Quá khứ với Hải quân Hoa Kỳ Monica Helms phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ từ năm 1970 đến năm 1978 và được bổ nhiệm điều khiển hai tàu ngầm: USS Francis Scott Key (1972–1976) và USS Flasher (1976–1978). Trong thời gian tại ngũ, Helms lần đầu ăn mặc như một người nữ khi đóng quân ở Charleston, South Carolina. Trong một cuộc phỏng vấn, bà chia sẻ rằng đó là "bí mật chôn sâu nhất, đen tối nhất trong suốt cuộc đời". Bà được điều đến khu vực Vùng Vịnh San Francisco vào năm 1976. Tại đây bà phần nào tiếp cần được với cộng đồng của mình và bà nói rằng: "Khi tôi mặc trang phục nữ và tới những hộp đêm đồng tính, tôi thấy như có thể bộc lộ mình trước đám đông." Khoảng thời gian ở đó, một trong những người bạn nam của bà đã kéo bà sang một bên và tiết lộ với Monica rằng anh sắp trở thành phụ nữ. Monica chia sẻ: "Tất cả những điều cậu ta đang nói đã sắp xếp những mảnh ghép trong tâm trí tôi lại với nhau. Như thể cậu ta đang nói về tôi vậy. Đó là một thời điểm xác định khó khăn nhất trong đời tôi khi tôi nhận ra mình cần phải chuyển đổi.""When I started cross-dressing and going to the gay clubs, I felt like I could be out in public as myself."Bà Helms rời Hải quân vào năm 1978 và về nơi quê nhà gia nhập nhóm chi nhánh Phoenix của Hiệp hội Cựu chiến binh Tàu ngầm Hoa Kỳ vào năm 1996. Sau khi chuyển đổi, bà Helms nộp đơn tham gia lại vào chi nhánh Phoenix dưới tên "Monica" vào năm 1998. Mong muốn của bà đã bị họ cân nhắc trả lại, xem xét lại bà vào trong một nhóm cựu chiến binh chung chung dành cho phụ nữ hơn là một nhóm cụ thể về tàu ngầm. Helms cuối cùng đã thắng thế sau vài tháng và là người phụ nữ đầu tiên tham gia tổ chức. Lá cờ ra đời và những đóng góp cho nhân quyền của người chuyển giới Giải thích của bà Helms cho lá cờ tự hào bà tạo ra: "Sọc trên và dưới có màu xanh nhạt, màu truyền thống dành cho bé trai. Các sọc kế tiếp có màu hồng, màu truyền thống dành cho bé gái. Sọc ở giữa có màu trắng, dành cho những ai là người liên giới tính, đang chuyển giới hoặc cho rằng bản thân có giới tính trung lập hoặc không xác định. Kiểu mẫu này dù bạn cho cờ bay theo cách nào thì vẫn sẽ không bao giờ sai, biểu thị rằng chúng ta đang nhận ra cái đúng của cuộc đời mình." Năm 1999, Monica Helms đã gặp mặt người tạo ra lá cờ tự hào của người song tính, Michael Page. Page nói với bà: "Bà biết đấy, người chuyển giới cũng cần có cờ riêng chứ!" Bà Helms đã đưa ra nhiều ý tưởng nhưng anh ta gợi ý càng thiết kế đơn giản càng tốt, vì sẽ càng đỡ tốn tiền gia công. Và thế là lá cờ tự hào của người chuyển giới ra đời. Lá cờ được treo lần đầu tiên tại buổi diễu hành tự hào ở Phoenix, Arizona vào năm 2000. Ngày 19 tháng 8 năm 2014, Helms đã tặng lại lá cờ tự hào chuyển giới nguyên bản cùng những kỷ vật thời phục vụ hải quân cho bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Hoa kỳ của viện Smithsonian. Bà Helms thành lập Hiệp hội Cựu chiến binh Hoa Kỳ chuyển giới (TAVA – Transgender American Veterans Association) vào năm 2003 và giữ chức chủ tịch cho đến năm 2013. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2004, TAVA đã tài trợ cho Cuộc tuần hành của Cựu chiến binh chuyển giới đến Bức tường dài. Năm mươi cựu chiến binh chuyển giới đã đến Washington, D.C. và thăm Đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam để tri ân những người mà họ biết có tên được khắc trên bức tường dài tưởng niệm. Họ cũng đã làm nên lịch sử khi trở thành những người chuyển giới công khai đầu tiên đến đặt vòng hoa tại Lăng mộ của những người khuyết danh. Năm 2005, họ cũng đã quay lại đó một lần nữa. Kể cả cho thên bây giờ, bà Helms vẫn tiếp tục vận động cho quyền lợi của các quân nhân và cựu chiến binh chuyển giới. Bà được bầu làm đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Dân chủ năm 2004 tại Boston, Massachusetts. Bà là người chuyển giới đầu tiên được Georgia bầu tham gia sự kiện này. Vào tháng 6 năm 2019, để đánh dấu kỷ niệm 50 năm cuộc bạo loạn Stonewall, một sự kiện được nhiều người coi là bước ngoặt trong phong trào đấu tranh cho quyền lợi của cộng đồng đa dạng giới và tính dục hiện đại, Queerty đã vinh danh bà là một trong 50 gương mặt tự hào (Pride50) với danh hiệu "cá nhân tiên phong tích cực đảm bảo xã hội luôn hướng tới bình đẳng, chấp nhận và nhân phẩm cho tất cả những người queer". Xem thêm Người chuyển giới Biểu tượng LGBT "Don't ask, don't tell" Tự hào Tham khảo Sinh năm 1951 Nhân vật còn sống Chuyển giới nữ Nhà hoạt động nhân quyền Hoa Kỳ
19830555
https://vi.wikipedia.org/wiki/IGG%20Inc.
IGG Inc.
IGG Inc. (I Got Games, trước đây còn được gọi là Internet Gaming Gate) là một nhà phát triển trò chơi điện tử và nhà phát hành tại Trung Quốc. Được thành lập năm 2006 tại Phúc Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. IGG hiện có trụ sở chính tại Singapore, có tên là "IGG Singapore Pte. Ltd." (trước đây là "Sky Union Pte. Ltd."), từ năm 2009 và có chi nhánh tại Trung Quốc, Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Belarus, Thái Lan, Philippines và Hồng Kông. IGG được biết đến nhiều nhất nhờ sự phát triển của trò chơi di động như Lords Mobile, Castle Clash, Clash of Lords và trước đây đã xuất bản nhiều trò chơi trò chơi trực tuyến nhiều người chơi ở Bắc Mỹ. IGG đã được App Annie liệt kê là một trong "52 nhà xuất bản hàng đầu" trong bảy năm liên tiếp. "Lords Mobile" ra mắt vào năm 2016, là trò chơi đa nền tảng, đa ngôn ngữ, thời gian thực đầu tiên của IGG được ra mắt trên toàn cầu. Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2020, nó có khoảng 320 triệu người dùng đã đăng ký trên toàn thế giới. Theo App Annie, "Lords Mobile" đã thống trị bảng xếp hạng toàn cầu với tư cách là game chiến thuật chiến tranh di động có doanh thu cao nhất trong hai năm liên tiếp kể từ khi ra mắt. Mô hình IGG chủ yếu tập trung vào nghiên cứu và phát triển trò chơi điện tử và phần mềm, nhưng cũng không giới hạn ở các chức năng kinh doanh khác như vận hành, quảng cáo sản phẩm và thương mại điện tử. Trò chơi di động cho đến nay là sản phẩm lớn nhất của IGG, bao gồm Lords Mobile. MMORPG bao gồm GodsWar Online, Voyage Century Online, Wonderland Online, Tales of Pirates, Myth War Online. IGG cũng đã phát triển nhiều nền tảng phát trực tuyến như WeGamers và Pocketlive. Vào ngày 18 tháng 10 năm 2013 IGG được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Hồng Kông, sau đó là sự chuyển giao chính thức vào ngày 7 tháng 7 năm 2015 từ vị trí trên bảng Thị trường doanh nghiệp tăng trưởng (GEM) sang bảng chính với số cổ phiếu hiện tại là 799.HK. Vào tháng 1 năm 2016, IGG đã được bình chọn là "Các công ty niêm yết HKEx triển vọng nhất" trong Giải thưởng Nhà vô địch Tài chính Thường niên của Trung Quốc lần thứ 13. Trong cuộc bình chọn Top 50 Công ty toàn cầu do Pocket Gamer tổ chức, IGG xếp thứ 17. Vào tháng 5, hãng ra mắt trò chơi mới Lords Mobile tại Bắc Mỹ, đứng TOP 2 trong danh sách iOS F2P của Hoa Kỳ. Lords Mobile cũng đã giành được giải thưởng "Trò chơi cạnh tranh hay nhất" và giải thưởng Android Excellence năm 2017. Năm 2013, IGG chuyển đổi từ một nhà sản xuất "hard-core" thành nhà điều hành "mid-core". IGG cũng thành lập các trung tâm phát triển ở 10 quốc gia và thuê các nhà phát triển từ các quốc gia khác nhau vào năm 2019. Mô hình Free-to-play Free-to-play, còn được gọi là F2P hoặc FtP, đề cập đến trò chơi điện tử cho phép người chơi truy cập vào một phần đáng kể nội dung của họ mà không phải trả tiền. Kể từ khi thành lập, các trò chơi của IGG theo truyền thống tuân theo mô hình freemium nơi người chơi có thể chơi miễn phí một trò chơi có đầy đủ chức năng nhưng cũng có cơ hội nâng cấp trải nghiệm chơi trò chơi của mình thông qua nhiều giao dịch vi mô. Trong khi những người ủng hộ lập luận rằng trò chơi F2P mang lại cho người chơi nhiều tự do tài chính hơn tùy theo số tiền mà mỗi người chơi muốn chơi, những người chỉ trích hệ thống này cho rằng mô hình F2P ưu ái một cách không công bằng những người chơi chi nhiều hơn cho mỗi trò chơi như được thể hiện trong tất cả các trò chơi thuộc loại này trên tất cả các nền tảng có sẵn. Sản phẩm khác WeGamers Là ứng dụng xã hội được ra mắt vào tháng 6 năm 2016 nhằm giúp người chơi trò chơi IGG kết nối nhiều hơn. Người chơi có thể sử dụng ứng dụng này như một cách để thảo luận về chiến lược trò chơi, kêu gọi người chơi khác khi tham chiến hoặc chỉ đơn giản là trò chuyện như bất kỳ ứng dụng xã hội nào khác. Link Messenger là ứng dụng nhắn tin được ra mắt vào tháng 12 năm 2015. Trái ngược với WeGamers, ứng dụng này tương tự như các ứng dụng nhắn tin khác và không nhắm mục tiêu cụ thể đến bất kỳ cộng đồng nào. Wegamers chính thức đóng cửa ngừng cung cấp vào ngày 22 tháng 7 năm 2022. Tham khảo Liên kết ngoài Công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Hồng Kông
19830557
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Anh%20To%C3%A0n
Nguyễn Anh Toàn
Nguyễn Anh Toàn (sinh năm 1982), là nam ca sĩ đã giành ngôi vị quán quân Chung kết cuộc thi Giọng ca vàng Bolero Việt Nam 2021. Tiểu sử Eric Toàn Nguyễn sinh ra ngày 10/10/1982 tại xã Xích Thổ, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Ngay từ khi còn học cấp 2, Anh Toàn đã rất đam mê ca hát và cũng từ đó, anh tự tìm cách học các nhạc cụ, và khi tốt nghiệp phổ thông, anh đã thi đỗ vào trường ĐH Sư phạm Nghệ thuật Trung ương, khoa Âm nhạc. Sau khi tốt nghiệp, con đường làm nghệ thuật của anh có nhiều giai đoạn rất khó khăn, do cuộc sống mưu sinh mà Eric Toàn Nguyễn phải dừng hoạt động nghệ thuật để làm kinh tế. Sau khi ổn định, Anh Toàn quay trở lại với âm nhạc và may mắn khi tham gia cuộc thi Giọng ca vàng Bolero Việt Nam 2021, Anh Toàn đã giành giải Quán quân. Ngoài vai trò ca sĩ, Anh Toàn là còn một người sáng tác rất nhiều các ca khúc đa dạng với thể loại từ hợp xướng, các ca khúc trữ tình, ca khúc quê hương đất nước, các ca khúc bolero và đã đạt những thành tựu nhất định. Nam nghệ sĩ gốc Ninh Bình đã sáng tác khoảng 40 ca khúc các thể loại từ hợp xướng, truyền thống, dân ca, bolero, nhạc nhẹ... Đặc biệt anh có giọng hát không giống ai rất riêng, đa phong cách, rất tâm hồn, cảm xúc và lúc ngọt ngào lúc lại mạnh mẽ.. nghe cuốn hút và khiến người nghe không thể không tập trung… Sự nghiệp Năm 2021 ca sỹ Erix Toàn Nguyễn đã gây ấn tượng mạnh với khản giả âm nhạc Việt Nam khi anh vinh dự đạt giải Quán quân Giọng ca vàng Bolero Việt Nam 2021. Không chỉ biểu diễn, Erix Toàn Nguyễn còn thể hiện sự đa năng của mình khi sáng tác rất nhiều các ca khúc với thể loại từ hợp xướng, các ca khúc trữ tình, ca khúc quê hương đất nước, các ca khúc bolero. Đây là một hành trang vững vàng giúp cho gương mặt âm nhạc trẻ Ninh Bình vững bước trên đường tiến vào thị trường âm nhạc chuyên nghiệp. Ca khúc Hãy Quên Anh Ninh Bình Quê Mẹ Hàn Mạc Tử Nhẫn Cỏ Cho Em Tham khảo Người Ninh Bình Ca sĩ nhạc đỏ Việt Nam Nhân vật còn sống Nam ca sĩ Việt Nam Sinh năm 1982 Ca sĩ nhạc trữ tình Việt Nam
19830563
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bicycle%20Playing%20Cards
Bicycle Playing Cards
Bicycle Playing Cards là một thương hiệu bài tây. Kể từ năm 1885, thương hiệu Bicycle đã được sản xuất bởi Công ty In ấn Hoa Kỳ vào năm 1894, công ty này trở thành Công ty Bài tây Hoa Kỳ (USPCC), hiện có trụ sở tại Erlanger, Kentucky. "Bicycle" là thương hiệu của công ty đó. Cái tên Bicycle được chọn để phản ánh sự phổ biến của xe đạp vào cuối thế kỷ 19. Thiết kế Các lá bài của Bicycle dựa theo bộ bài tây kiểu Pháp, bao gồm 52 lá bài (13 lá trong mỗi bộ gồm hai bộ màu đỏ và hai bộ màu đen), và bao gồm hai lá Joker (phăng teo). Logo Bicycle được in trên quân át bích. Bộ bài hiện nay cũng có hai lá bài thông tin/hướng dẫn. Bài tây Bicycle được bán với nhiều kiểu diện mạo khác nhau, phổ biến nhất là thiết kế Rider Back. Chúng có sẵn với các chỉ mục tiêu chuẩn ở kích thước cờ bài (3,5 x 2,5 inch [8,9 cm × 6,4 cm]), kích thước cầu (3,5 x 2,25 inch [8,9 cm × 5,7 cm]) và bộ bài pinochle, bộ bài poker "Jumbo Index" và bộ bài Lo Vision được thiết kế dành cho người khiếm thị. Các loại thẻ khác với mặt sau, kích thước, màu sắc và thiết kế tùy chỉnh khác nhau được sản xuất để thực hiện các trò ảo thuật cũng như đồ mới lạ và đồ sưu tập. Ý nghĩa trong các cuộc chiến tranh của Mỹ Vào cuối Thế chiến thứ nhất, Công ty Bài tây Hoa Kỳ đã sản xuất bốn bộ bài "War Series" dưới nhãn hiệu Bicycle để đại diện cho từng nhánh của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ: Flying Ace cho Bộ phận Hàng không của Quân đoàn Tín hiệu, Dreadnaught dành cho Hải quân, Invincible (còn gọi là Kẻ chinh phục) dành cho Thủy quân lục chiến và Big Gun dành cho Quân đội. Bộ bài được ra mắt vào năm 1917 và dường như chỉ được phát hành cực kỳ hạn chế trước khi bị rút khỏi lưu hành. Không rõ tại sao các bộ bài này không được lưu hành, nhưng một giả thuyết cho rằng chúng được dự định phân phối cho quân đội ở nước ngoài, và USPCC đã phá hủy kho Bộ bài Chiến tranh của họ khi Đình chiến được tuyên bố vào năm 1918. Chỉ một số ít bộ bài này tồn tại cho đến ngày nay. Trong Thế chiến thứ hai, những tấm thẻ được sản xuất có thể bóc ra khi ngâm trong nước. Các phần của một bản đồ lớn có thể được vẽ ở bề mặt bên trong, và các nửa sau đó được ghép lại để tạo thành một bộ bài trông vô hại. Những thẻ này được cung cấp cho tù binh để sử dụng trong các cuộc vượt ngục. Ít nhất một ví dụ về bộ bài như vậy được biết là còn tồn tại và được trưng bày tại Bảo tàng Điệp viên Quốc tế ở Washington, DC. Các bản sao hiện đại đã được bán với số lượng hạn chế. Công ty cung cấp các thùng thẻ Át bích cho lính Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam. Người ta đã lầm tưởng rằng Việt Nam Cộng Hòa coi lá bài đặc biệt này là biểu tượng của cái chết và sẽ bỏ chạy khi nhìn thấy nó. Trên thực tế, ban đầu nó chẳng có ý nghĩa gì đối với Việt Nam Cộng Hòa, nhưng niềm tin rằng kẻ thù sợ quân bài đã nâng cao tinh thần của lính Mỹ. Nguồn gốc của những lá bài này được cho là nhờ một lá thư do Trung úy Charles W. Brown viết vào đầu năm 1966 gửi Allison F. Stanley, Chủ tịch Công ty Thẻ chơi Hoa Kỳ. Brown đã đọc những nhận xét của Nghị sĩ Craig Hosmer của bang California rằng Việt Nam Cộng Hòa mê tín về sự xui xẻo với hình ảnh phụ nữ và quân Át bích. Thiết lá bài này của Bicycle có hình ảnh Nữ thần Tự do kết hợp với thuổng. Sau khi trao đổi với các trung úy khác, Brown yêu cầu 1.000 lá bài Át bích cho đại đội của mình để đi tìm kẻ thù, như một dấu hiệu cho thấy quân Mỹ đã có mặt trong khu vực. Stanley tỏ ra thông cảm với các chiến sĩ và rút thiệp từ dây chuyền sản xuất để gửi miễn phí. Câu chuyện đã được một số hãng tin đưa tin, bao gồm Stars and Stripes; kết quả là nhiều đơn vị bắt đầu yêu cầu thẻ. Biểu tượng này cuối cùng đã được đưa vào các hoạt động chiến tranh tâm lý chính thức và hàng nghìn bộ bài đặc biệt chỉ chứa lá Át bích đã được Công ty Bài tây Hoa Kỳ tặng cho những người lính cố tình phân tán chúng khắp rừng rậm và làng mạc trong các cuộc đột kích. Các thẻ tương tự đã được sản xuất trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, ngay trước khi lực lượng Hoa Kỳ xâm lược Iraq. Do xung đột diễn ra trong thời gian ngắn nên những lá bài này chưa bao giờ tham chiến. Tham khảo Liên kết ngoài
19830567
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%A5%20tr%C3%AC
Trụ trì
Trụ trì (tiếng Pali: Saṅghaṇāyaka, tiếng Trung Quốc: 住持/Zhùchí) là người đứng đầu một tu viện Phật giáo hoặc một ngôi chùa Phật giáo lớn. Trong các ni viện Phật giáo, ni cô giữ chức vụ tương đương được gọi là Ni trưởng. Trụ trì là một tu sĩ (Bhikkhu) giữ chức vụ quản trị coi sóc, cai quản của một tu viện hoặc một ngôi chùa lớn. Nhiệm vụ coi sóc của một vị trụ trì hoặc ni trưởng bao gồm cả việc giám sát hoạt động hàng ngày của tu viện. Trụ trì hoặc ni trưởng cũng chịu trách nhiệm lãnh đạo tinh thần đối với các tu sĩ do họ phụ trách và được yêu cầu tiếp xúc với các trụ trì hoặc ni trưởng của các tu viện khác. Trong các tu viện Thiền tông Trung Quốc, từ phổ biến để chỉ trụ trì là Phương trượng (方丈/Fāngzhàng). Một từ khác để chỉ trụ trì là '住持, tiếng Việt là trụ trì có nghĩa là "cư dân" và "người trụ lại". Các tăng ni thường được gọi là pháp sư (法師/Fǎshī) có nghĩa là "Pháp sư" hay Sư thầy dạy Phật pháp. Trong tiếng Hàn Quốc thì trụ trì được gọi là Juji (住持/주지). Tiếng Thái Lan thì gọi là Chaoawat (เจ้าอาวาส). Tiếng Tây Tạng thì gọi là Khenpo hay Khenchen. Ở các quốc gia nói tiếng Anh thì từ tiếng Anh “Abbot” được sử dụng thay vì tất cả các từ khác tồn tại trong ngôn ngữ của các quốc gia nơi Phật giáo đã có hoặc đã được thiết lập vững chắc trong lịch sử. Trong Phật giáo Nhật Bản, những từ được sử dụng phổ biến nhất để chỉ trụ trì của một ngôi chùa hoặc tu viện lớn là Jūji (住持), Jūjishoku (住持職), hoặc đơn giản là jūshoku (住職). Đôi khi từ Jishu (寺主) cũng được sử dụng, bắt nguồn từ từ tiếng Phạn Vihārasvāmin dùng để chỉ người giám sát vihāra có chứa bảo tháp. Ngôi chùa không có thầy tu được biểu thị bằng thuật ngữ mujū (無住). Thuật ngữ Oshō/和尚 có thể được phát âm theo nhiều cách, tùy thuộc vào truyền thống được đề cập. Nguồn gốc của nó là từ tiếng Phạn Upādhyāya ban đầu đề cập đến một người đã truyền giới cho người khác. Từ Hōin (法印) ban đầu là một danh hiệu được Nhật hoàng ban tặng cho một nhà sư. Từ Shōnin (上人) là danh hiệu tôn trọng người đã đạt được một mức độ giác ngộ nhất định. Từ Goin (御院) và Inke (院家) đề cập đến ngôi đền đúng nghĩa. Trong trường hợp bối cảnh Tịnh độ tông, vốn không nhấn mạnh đến kỷ luật mà thiên về cuộc sống tại gia, những từ chỉ sự trụ trì có xu hướng phản ánh thể chế hơn là người phụ trách. Ở vùng Kansai, Goingesan (ご院家さん), Goinsan (御院さん) và Goensan (ご縁さん) thường được sử dụng trong Jōdo Shinshū. Hōushu hoặc Hossu (法主) là danh hiệu được sử dụng dưới tay của Ekan Ikeguchi tại Saifuku-ji ở Kagoshima. Nó cũng được sử dụng trong Bảy ngôi đền đầu tiên của Jōdo-shū và Taiseki-ji của Nichiren Shōshū. Trong truyền thống Tendai, thuật ngữ Zasu 座主 là phổ biến. Trụ trì đôi khi còn được gọi là Yama no zasu (山の座主), có nghĩa là "Trụ trì của ngọn núi". Monzeki (門跡) là một thuật ngữ dành riêng cho các linh mục thuộc dòng dõi quý tộc hoặc hoàng gia, và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay tại Daikaku-ji của Shingon và Hongan-ji của Jōdo Shinshū. Chú thích Phật giáo
19830577
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manchester%20United%20F.C.%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202005%E2%80%9306
Manchester United F.C. mùa giải 2005–06
Mùa giải 2005–06 là mùa giải thứ 14 của Manchester United tại Premier League, và là mùa giải thứ 31 liên tiếp của họ ở giải đấu hàng đầu nước Anh. Sau khi cán đích ở vị trí thứ ba trong cả hai mùa giải trước, Quỷ đỏ đã cải thiện đôi chút để kết thúc mùa giải 2005–06 ở vị trí thứ hai, mặc dù kém đội vô địch 8 điểm. Tuy nhiên, bất chấp sự cải thiện về phong độ ở giải quốc nội, phong độ ở cúp châu Âu của United đã bị giáng một đòn nặng nề, khi câu lạc bộ không thể lọt vào vòng loại trực tiếp của UEFA Champions League lần đầu tiên kể từ 1994–95. Câu lạc bộ thi đấu tốt hơn ở FA Cup, lọt vào vòng thứ năm, nhưng thành công thực sự của họ đến ở League Cup, nơi họ đánh bại Wigan Athletic 4–0 trong trận chung kết. United trở thành câu lạc bộ đầu tiên trong lịch sử Premier League ghi được 1.000 bàn thắng, cột mốc đạt được vào ngày 29 tháng 10 trong trận thua 4–1 trước Middlesbrough tại Riverside, với bàn thắn duy nhất của Cristiano Ronaldo ghi. Mùa giải 2005–06 cũng chứng kiến ​​sự ra đi của đội trưởng câu lạc bộ Roy Keane, người đã ở Old Trafford từ năm 1993. Keane chơi trận cuối cùng cho câu lạc bộ vào ngày 18 tháng 9 năm 2005 trong trận hòa không bàn thắng với Liverpool, nhưng buộc phải rời sân chỉ diễn ra vài phút trước khi kết thúc trận đấu. Sau đó thông tin được tiết lộ rằng Keane đã dính chấn thương ở chân và cuối cùng anh ấy đã rời câu lạc bộ để đến với đội bóng thời thơ ấu Celtic vào ngày 18 tháng 11 năm 2005. Băng thủ quân sau đó được đảm nhiệm bởi đội phó Gary Neville. Vào ngày 25 tháng 11 năm 2005, chỉ bảy ngày sau khi Keane rời câu lạc bộ, người hâm mộ United đã vô cùng thương tiếc trước cái chết của cựu cầu thủ huyền thoại George Best, qua đời ở tuổi 59. Giao hữu tiền mùa giải Ngoại hạng Anh FA Cup League Cup UEFA Champions League Vòng loại thứ ba Vòng bảng Thống kê đội hình Tham khảo
19830579
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt%20t%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%91%E1%BB%91i%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Thuyết tương đối (định hướng)
Thuyết tương đối, lý thuyết vật lý Thuyết tương đối hẹp Thuyết tương đối rộng Thuyết tương đối (triết học) hay chủ nghĩa tương đối Thuyết tương đối văn hóa Thuyết tương đối ngôn ngữ
19830583
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91ua%20%C3%B4%20t%C3%B4%20C%C3%B4ng%20th%E1%BB%A9c%201%20Las%20Vegas
Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas
Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas là một chặng đua Công thức 1 đang được lên kế hoạch tổ chức tại Giải đua xe Công thức 1 2023 tại một trường đua đường phố tạm thời bao gồm Dải Las Vegas ở Las Vegas, Nevada. Lịch sử Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas sẽ là chặng đua Công thức 1 đầu tiên diễn ra ở Las Vegas kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Caesars Palace 1982. Chặng đua này dự kiến sẽ diễn ra xung quanh Dải Las Vegas trên một trường đua đường phố hoàn toàn mới. Đây sẽ là chặng đua Công thức 1 thứ ba được tổ chức ở Hoa Kỳ vào năm 2023 sau giải đua ô tô Công thức 1 Miami và giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, đồng thời đánh dấu lần đầu tiên kể từ năm 1982 sẽ có ba cuộc đua được tổ chức ở Hoa Kỳ trong một mùa giải Công thức 1. Trường đua Trường đua Las Vegas, địa điểm tổ chức của giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas, được thiết kế bởi công ty Tilke GmbH với dự án do Carsten Tilke, con trai của Hermann Tilke, dẫn đầu. Điều bất thường là Công thức 1 đã mua một mảnh đất để xây dựng các cơ sở vật chất và sân tập cố định được sử dụng trong các chặng đua cuối tuần. Trường đua này nằm ở trung tâm Las Vegas, có chiều dài 6,201 km, một đoạn đường thẳng dài 1,9 km dọc theo Dải Las Vegas cũng như hai đoạn thẳng khác, 17 góc cua với tổng chiều dài cuộc đua kéo dài 50 vòng và 309,958 km. Kết quả theo năm Tất cả các chặng đua đựoc diễn ra tại trường đua Las Vegas. Tham khảo Liên kết ngoài Trang web chính thức của Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas Giải đua ô tô Công thức 1 Chặng đua F1
19830587
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91ua%20xe%20C%C3%B4ng%20th%E1%BB%A9c%201%202024
Giải đua xe Công thức 1 2024
Giải đua xe Công thức 1 2024 sẽ là mùa giải Công thức 1 thứ 75 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Đây là mùa giải kỷ lục mà 24 chặng đua trên khắp thế giới được tổ chức. Trong suốt mùa giải này, các tay đua và đội đua tham gia sẽ lần lượt tranh giành chức vô địch hạng mục tay đua và hạng mục đội đua tại tất cả 24 chặng đua từ tháng 3 cho đến tháng 12. Max Verstappen là đuơng kim vô địch hạng mục tay đua của mùa giải này và đội đua của anh, Red Bull Racing, là đương kim vô địch hạng mục đội đua. Danh sách các tay đua và đội đua Các đội và tay đua sau đây đều tham gia Giải đua xe Công thức 1 2024 và tất cả các đội thi đấu đều sử dụng lốp xe do Pirelli cung cấp. Các đội đua sau đây được sắp xếp theo thứ tự của bảng xếp hạng các đội đua năm 2023 trong danh sách này. Thay đổi đội đua Alfa Romeo chấm dứt quan hệ đối tác với Sauber và rời Công thức 1 khi Sauber chuẩn bị trở thành đội đua Audi vào năm 2026. Đội được đổi tên cho mùa giải 2024 thành Stake F1 Team Kick Sauber. AlphaTauri được đổi tên thành Visa Cash App RB Formula One Team vào ngày 24 tháng 1 năm 2024 mặc dù ban đầu được chuyển tên thành AlphaTauri RB. Đội cũng chuyển đến Milton Keynes ở Vương quốc Anh trong bối cảnh tái cơ cấu quản lý. Aston Martin tham gia dưới tên gọi Aston Martin Aramco F1 Team vì Cognizant không còn là nhà tài trợ chính của đội nữa. Thay đổi tay đua Sự thay đổi duy nhất so với các tay đua đã ký hợp đồng vào đầu năm 2023 là Daniel Ricciardo, người đã thay thế Nyck de Vries ở đội AlphaTauri cũ từ Giải đua ô tô Công thức 1 Hungary 2023 trở đi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Công thức 1 không có vụ một chuyển nhượng nào giữa tất cả các tay đua và đội đua đã thi đấu ở chặng đua cuối cùng của mùa giải cũ trước khi mùa giải tiếp theo bắt đầu. Thay đổi tay đua trong suốt mùa giải Carlos Sainz Jr. phải rút lui khỏi Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út sau khi viêm ruột thừa. Anh được thay thế bởi Oliver Bearman, tay đua dự bị của Ferrari, từ buổi đua thử thứ ba. Bearman sẽ tham gia chặng đua Công thức 1 đầu tiên của mình. Lịch đua dự kiến Lịch đua của Giải đua xe Công thức 1 2024 đựoc công bố vào ngày 5 tháng 7 năm 2023 và bao gồm 24 chặng đua kỷ lục. Chặng đua nước rút sẽ được tổ chức tại Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc, Giải đua ô tô Công thức 1 Miami, Giải đua ô tô Công thức 1 Áo, Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Giải đua ô tô Công thức 1 São Paulo và Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar. Thay đổi và mở rộng lịch đua Hai chặng đua đầu tiên của mùa giải ở Bahrain và Ả Rập Xê Út sẽ được tổ chức vào thứ Bảy để phù hợp lịch trình tổ chức cuộc đua chính với tháng Ramadan. Cũng tuơng tự như năm 2023, Giải đua ô tô Công thức 1 Las Vegas sẽ được tổ chức vào thứ Bảy. Hai chặng đua ở Azerbaijan và Nhật Bản hoán đổi vị trí trên lịch so với năm ngoái. Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản sẽ được tổ chức ở giai đoạn đầu tiên của mùa giải và trước Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc. Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan được chuyển sang giai đoạn cuối mùa giải sau những chặng đua ở châu Âu để giúp giảm bớt những hành trình dài giữa các chặng đua cuối tuần và tiết kiệm lượng khí thải CO2. Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc dự kiến ​​sẽ quay trở lại lịch sau khi bị hủy hoãn bốn năm do những khó khăn vì đại dịch COVID-19 ở nước này gây ra. Giải đua ô tô Công thức 1 Emilia Romagna dự kiến sẽ quay trở lại lịch sau khi bị hủy vào năm 2023 do lũ lụt trong khu vực. Giải đua ô tô Công thức 1 Nga đã có hợp đồng xuất hiện trên lịch năm 2024. Tuy nhiên, hợp đồng với chặng đua này đã bị chấm dứt vào năm 2022 do Nga xâm lược Ukraina. Thay đổi quy định Quy định kỹ thuật Để giải quyết những lời phàn nàn của các tay đua do thời tiết quá nóng tại Giải đua ô tô Công thức 1 Qatar 2023, các đội đua sẽ được phép lắp một tấm chắn trên xe nhằm mục đích làm mát tay đua và buồng lái. Nắp chụp bánh xe sẽ được thử nghiệm thêm trong mùa giải. Các đội sẽ không được phép bắt đầu phát triển chiếc xe đua dành cho mùa giải 2026. Mùa giải này sẽ chứng kiến những thay đổi lớn về quy định kỹ thuật, cho đến ngày 1 tháng 1 năm 2025. Tuy nhiên, các đội đua vẫn có thể thực hiện các công việc nghiên cứu và phát triển sơ bộ khác không nằm trong phạm vi hạn chế này. Bộ lốp Việc "phân bổ lốp thay thế" được thử nghiệm tại các chặng đua ở Hungary và Ý vào năm 2023, trong đó các tay đua được cấp 11 bộ lốp nhằm nỗ lực cắt giảm chi phí trong môn thể thao này, sẽ không còn được thực hiện nữa. Do đó, mỗi tay đua và đội đua sẽ có sẵn 13 bộ lốp tại từng chặng đua. Bộ lốp C0 đã được giới thiệu nhưng không được sử dụng trong mùa giải 2023. Nó đã bị loại khỏi danh sách các bộ lốp. Bộ lốp này trước đây được gọi là C1 nhưng đã được đổi tên vào đầu mùa giải 2023 sau khi bộ lốp C1 mới được giới thiệu. Bộ lốp mới này nằm giữa bộ lốp C1 cũ và bộ lốp C2 hiện tại về độ cứng. Một thử nghiệm được đề xuất về lệnh cấm che lốp trong mùa giải này sau lệnh cấm hoàn toàn vào năm 2025 đã bị hủy bỏ. Quy định thể thao Những thay đổi về quy trình kháng cáo Quy trình kháng cáo quyết định đã được sửa đổi cho mùa giải 2024. Trước đây, các đội có tối đa mười bốn ngày để gửi quyền yêu cầu xem xét. Điều này bây giờ sẽ được giảm xuống còn bốn ngày. Trong nỗ lực ngăn chặn các nỗ lực kháng cáo phù phiếm tiềm ẩn, FIA cũng sẽ đưa ra một khoản phí cho quyền được xem xét quy trình. Những thay đổi cấu trúc chặng đua nước rút Cấu trúc của các chặng đua nước rút trong các chặng đua sẽ được thay đổi vào năm 2024 để hợp lý hóa hơn nữa thể thức chặng đua nước rút và tách chúng khỏi phần còn lại của chặng đua cuối tuần. Vòng phân hạng chặng đua nước rút (sprint shootout) xác định thứ tự vị trí xuất phát cho chặng đua nước rút đã được dời sang chiều thứ Sáu sau buổi tập duy nhất. Chặng đua nước rút tiếp theo sẽ là sự kiện đầu tiên diễn ra vào thứ Bảy, theo sau đó là vòng phân hạng cho cuộc đua chính. Bản thân cuộc đua chính vẫn diễn ra vào Chủ nhật. Sử dụng DRS Các quy tắc sử dụng DRS trong các chặng đua đã được điều chỉnh một chút. Trong mùa giải này, các tay đua sẽ được phép sử dụng DRS một vòng đua sau khi cuộc đua bắt đầu, một vòng sau khi khởi động lại sau giai đoạn xe an toàn hoặc một vòng đua sau khi khởi động lại sau giai đoạn gián đoạn cờ đỏ. Điều này có nghĩa là các tay đua sẽ được phép sử dụng DRS sớm hơn một vòng đua so với các mùa giải trước. Quy định này đã được thử nghiệm trong các chặng đua nước rút trong mùa giải năm 2023. Phân bổ đơn vị năng lượng Số lượng đơn vị năng lượng được phép sử dụng mỗi mùa được tăng từ ba lên bốn cho mỗi tay đua cho các mùa giải 2024 và 2025. Thời gian vòng chạy tối đa Trước hai buổi đua thử vào thứ Năm tại chặng đua mở màn mùa giải ở Bahrain, các quy tắc cập nhật đã được đưa ra để ngăn cản tay đua di chuyển quá chậm trong các vòng đua và vòng trinh sát trong suốt vòng loại. Ban đầu, tay đua được yêu cầu không được vượt quá thời gian tối đa để di chuyển qua từng khu vực tập trung. Đây là một sự thay đổi so với năm 2023, khi FIA đưa ra thời gian tối đa cho toàn bộ vòng đua. Tuy nhiên, trước buổi đua thử thứ ba và vòng phân hạng vào thứ Sáu, các quy tắc đã được hoàn nguyên về phương pháp toàn vòng năm 2023 mặc dù quy tắc hiện giờ được áp dụng cho cả in-lap lẫn out-lap. Án phạt Các án phạt tiêu chuẩn đối với một tay đua vượt qua tay đua khác khỏi đường đua và giành được lợi thế lâu dài đã được nâng cấp từ án phạt 5 giây lên 10 giây mặc dù án phạt 5 giây vẫn có thể được áp dụng. Sự thay đổi này được thực hiện vì hình phạt 5 giây được coi là không đủ, với việc tay đua thường xuyên bị phạt quá năm giây khi vượt trái phép những chiếc xe đua chạy chậm hơn. Diễn biến mùa giải Buổi thử nghiệm trước mùa giải Buổi thử nghiệm trước mùa giải diễn ra tại trường đua Bahrain International ở as-Sakhir từ ngày 21 đến ngày 23 tháng 2. Những chặng đua mở màn Max Verstappen giành vị trí pole tại chặng đua mở màn ở Bahrain với thời gian là 1:29,179 phút trước Charles Leclerc và George Russell. Max Verstappen đã giành chiến thắng tại cuộc đua chính trước đồng đội Sergio Pérez và Carlos Sainz Jr. Đồng thời, anh đạt được cú Grand Slam thứ năm trong sự nghiệp sau khi xuất phát ở vị trí pole, dẫn đầu mọi vòng đua và giành vòng đua nhanh nhất. Các tay đua còn lại ghi điểm tại Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain là Charles Leclerc, George Russell, Lando Norris, Lewis Hamilton, Oscar Piastri, Fernando Alonso và Lance Stroll. Sau khi Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain kết thúc, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 26 điểm trước đồng đội Sergio Pérez (18 điểm) và Carlos Sainz Jr. (15 điểm). Red Bull Racing đứng đầu bảng xếp hạng các đội đua với 44 điểm trước Ferrari (27 điểm) và Mercedes (16 điểm). Bên cạnh đó, Alpine có một màn trình diễn đầy thất vọng khi Esteban Ocon và Pierre Gasly vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 19 và thứ 20 và kết thúc lần lượt ở vị trí thứ 17 và 18 tại cuộc đua chính. Carlos Sainz Jr. phải rút lui khỏi Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út sau khi viêm ruột thừa và được thay thế bởi Oliver Bearman, tay đua dự bị của Ferrari. Bearman sẽ tham gia chặng đua Công thức 1 đầu tiên của mình. Max Verstappen giành vị trí pole tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út với thời gian là 1:27,472 phút trước Charles Leclerc và Sergio Pérez. Red Bull Racing tiếp tục thể hiện tốc độ của mình tại cuộc đua chính sau khi Verstappen giành chiến thắng tại cuộc đua chính trước đồng đội Pérez và Charles Leclerc. Bên cạnh đó, Verstappen lên bục trao giải lần thứ 100 trong sự nghiệp của mình. Verstappen dẫn đầu phần lớn cuộc đua chính cho dù Lando Norris dẫn đầu đoàn xe vài vòng vì giai đoạn chiếc xe an toàn do vụ va chạm của Lance Stroll. Pierre Gasly đã phải bỏ cuộc ngay sau vòng đua đầu tiên vì chiếc xe đua của anh gặp vấn đề về hộp số. Các tay đua còn lại ghi điểm tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út là Oscar Piastri, Fernando Alonso, George Russell, Oliver Bearman, Lando Norris, Lewis Hamilton và Nico Hülkenberg. Oliver Bearman ghi điểm ngay tại chặng đua Công thức 1 đầu tiên của anh kể từ thành tích tương tự của Nyck de Vries tại Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2022. Bên cạnh đó, Nico Hülkenberg ghi điểm đầu tiên cho Haas trong mùa giải này. Sau khi Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út kết thúc, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua với 51 điểm trước đồng đội Sergio Pérez (36 điểm) và Charles Leclerc (28 điểm). Red Bull Racing đứng đầu bảng xếp hạng các đội đua với 44 điểm trước Ferrari (27 điểm) và McLaren (28 điểm). McLaren vượt qua Mercedes để giành vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng các đội đua. Kết quả Bảng xếp hạng Hệ thống ghi điểm Điểm được trao cho mười tay đua đứng đầu sau cuộc đua chính, tay đua lập vòng đua nhanh nhất tại một cuộc đua chính (chỉ áp dụng cho một trong mười tay đua dẫn đầu) và tám tay đua dẫn đầu sau chặng đua nước rút. Hệ thống tính điểm countback được sử dụng trong trường hợp tay đua giành được nhiều chặng đua hơn sẽ được xếp hạng cao hơn. Nếu số lần chiến thắng bằng nhau thì xét các vị trí về đích thứ nhì, v.v. Số điểm được phân bố theo hệ thống như sau: Bảng xếp hạng các tay đua Bảng xếp hạng các đội đua Chú thích mở rộng cho các bảng trên Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Mùa giải Công thức 1 Công thức 1 năm 2024
19830592
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20Israel%E2%80%93Hamas
Chiến tranh Israel–Hamas
Ngày 7 tháng 10 năm 2023, các nhóm quân sự Palestine do Hamas lãnh đạo đã phát động một cuộc xâm lược và tấn công quy mô vào Israel từ Dải Gaza, vượt qua hàng rào Gaza–Israel và vượt qua các cửa khẩu biên giới Gaza, các thành phố lân cận của Israel, các cơ sở quân sự lân cận và các khu định cư dân sự. Hamas gọi chiến dịch này Chiến dịch Bão táp Al-Aqsa (Operation Al-Aqsa Storm) trong khi Israel gọi cuộc phản công của mình là Chiến dịch Những thanh gươm sắt (Operation Iron Swords). Đây là cuộc xung đột trực tiếp đầu tiên trong phạm vi ranh giới của Israel kể từ cuộc chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948. Sự thù địch bắt đầu vào sáng sớm với tấn công bằng tên lửa vào lãnh thổ của Israel và các cuộc xâm nhập bằng phương tiện vận chuyển vào lãnh thổ Israel, với một số cuộc tấn công vào các cộng đồng dân sự Israel xung quanh và các căn cứ quân sự của Israel. Một số nhà quan sát coi những sự kiện này là sự khởi đầu của một intifada của người Palestine thứ ba. Lần đầu tiên kể từ chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel chính thức tuyên chiến. Sau khi giải phóng lực lượng Hamas khỏi các khu vực bị ảnh hưởng, Israel đáp trả bằng các cuộc không kích vào Dải Gaza. Liên Hợp Quốc báo cáo rằng khoảng 423.000 người Palestine, hơn 1/5 dân số Gaza, đã phải di dời trong nước. Lo ngại về một cuộc khủng hoảng nhân đạo càng gia tăng sau khi Israel cắt nguồn cung cấp lương thực, nước, điện và nhiên liệu cho Dải Gaza, nơi vốn đã bị cả Ai Cập và Israel phong toả. Đã có nhiều thường dân thiệt mạng và có nhiều cáo buộc về tội ác chiến tranh. Trên bình diện quốc tế, các cuộc biểu tình xảy ra ở nhiều địa điểm và tội phạm căm thù ngày càng gia tăng. Thông tin sai lệch về chiến tranh đã được lan truyền trên mạng. Ít nhất 44 quốc gia đã lên án Hamas và coi các chiến lược của tổ chức này là khủng bố, tuy nhiên các chủ thể trong khu vực như Qatar, Ả Rập Xê Út, Kuwait, Syria, Iran và Iraq lại quy trách nhiệm cho Israel. Nhiều quốc gia kêu gọi giảm căng thẳng. Một cuộc xung đột đã được báo cáo giữa Hezbollah và các chiến binh Palestine ở Liban và lực lượng Israel vào ngày 8 và 9 tháng 10. Hoa Kỳ triển khai một nhóm tác chiến tàu sân bay đến Đông Địa Trung Hải, và Đức tuyên bố sẽ bắt đầu cung cấp viện trợ quân sự cho Israel. Danh pháp Các chiến binh Palestine đặt tên cho cuộc tấn công của họ là Chiến dịch lũ lụt Al-Aqsa (hay Đại hồng thủy), trong khi Israel đặt tên cho cuộc tấn công của họ là Chiến dịch Thanh kiếm sắt. Một số cơ quan thông tấn và nhà quan sát đã mô tả cuộc xung đột đang diễn ra như Intifada lần thứ ba, tiếp theo các cuộc nổi dậy trước đây của người Palestine trong Intifadas lần thứ nhất và thứ hai. Những người khác gọi nó là Chiến tranh Sukkot, sau lễ hội được tổ chức vào ngày cuộc tấn công bắt đầu. Nhiều nhà phân tích và quan chức đã mô tả vụ tấn công ban đầu là "vụ tấn công 11/9 của Israel". Đáp lại tuyên bố rằng đó là vụ tấn công 11/9 của Israel, ngoại trưởng Hoa Kỳ, Antony J. Blinken, cho rằng đây là một cuộc tấn công gấp 10 lần vụ tấn công 11/9. Bối cảnh Dải Gaza và Israel đã xảy ra xung đột kể từ khi Israel rút khỏi Dải Gaza năm 2005 và Hamas giành quyền kiểm soát Dải Gaza sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử của người Palestine năm 2006 và cuộc nội chiến với Fatah năm 2007. Dải Gaza đã và đang xảy ra xung đột, dưới sự phong tỏa của Ai Cập và Israel kể từ năm 2007, khiến Tổ chức Theo dõi Nhân quyền gọi đây là "nhà tù ngoài trời" và tuyên bố rằng "Israel nên chấm dứt lệnh cấm chung đối với việc đi lại đến và đi từ Gaza..." và cho phép "tự do đi lại rộng rãi" giữa Gaza và Israel. Việc phong tỏa đã gây ra khó khăn kinh tế đáng kể ở Gaza, và bạo lực của người định cư Israel được Hamas coi là một trong những lý do dẫn đến cuộc tấn công của họ. Israel nói rằng việc phong tỏa là cần thiết để bảo vệ công dân Israel khỏi " khủng bố, tấn công bằng tên lửa và bất kỳ hoạt động thù địch nào khác" và ngăn chặn hàng hóa có công dụng kép xâm nhập vào Gaza. Ở Ai Cập, Hamas được nhiều người coi là có liên hệ chặt chẽ với Tổ chức Anh em Hồi giáo, tổ chức mà họ coi là một tổ chức khủng bố. Theo New York Times, "Chính quyền Palestine đã không tổ chức bầu cử quốc gia kể từ năm 2006, một phần vì ông Abbas lo sợ thua Hamas..." Các cuộc đàm phán hòa bình với Israel chính thức kết thúc vào năm 2014. Tại Gaza và Bờ Tây, vào những năm 2020, Hamas đã nổi lên là "lực lượng chính trị thống trị" trên lãnh thổ Palestine. Chính quyền Giải phóng Palestine và Fatah trở nên không được lòng hầu hết người Palestine. Theo Eado Hech, cuộc thăm dò đã chỉ ra rằng phần lớn người Gaza ủng hộ chương trình nghị sự của Hamas, với đối thủ chính trị quan trọng duy nhất của nó hiện là tổ chức Jihad Hồi giáo Palestine. Phần lớn người dân ở Gaza bị phát hiện ủng hộ các cuộc tấn công khủng bố nhằm vào dân thường Israel dưới một số hình thức cũng như "Intifada thứ ba" chống lại Israel. Vào năm 2023, đã xảy ra một số vụ bạo lực bùng phát trong cuộc xung đột Israel–Palestine. Trước cuộc tấn công, bao gồm cả các chiến binh và dân thường của cả hai bên, ít nhất 247 người Palestine đã bị lực lượng Israel giết chết, trong khi 32 người Israel và hai người nước ngoài đã thiệt mạng trong các cuộc tấn công của người Palestine. Vào thời điểm xảy ra vụ tấn công, Israel và Ả Rập Xê Út đang tiến hành đàm phán để bình thường hóa quan hệ, với thái tử Ả Rập Xê Út Mohammed bin Salman gần đây tuyên bố rằng bình thường hóa là "lần đầu tiên là có thật". Bộ Ngoại giao Ả Rập Xê Út cho biết trong một tuyên bố rằng họ đã "liên tục cảnh báo rằng việc Israel tiếp tục chiếm đóng Gaza sẽ thúc đẩy thêm bạo lực." Diễn biến 7 tháng 10 Cuộc tấn công của người Palestine Rào chắn tên lửa Vào khoảng 06:30 sáng Giờ Mùa hè Israel (UTC+3) ngày 7 tháng 10 năm 2023, Hamas tuyên bố bắt đầu cái mà họ gọi là "Chiến dịch Lũ lụt Al-Aqsa", tuyên bố rằng họ đã bắn hơn 5.000 quả tên lửa từ Dải Gaza vào Israel trong vòng 20 phút. Các nguồn tin của Israel cho biết ít nhất 3.000 quả đạn đã được phóng từ Gaza. Ít nhất 5 người đã thiệt mạng trong vụ tấn công bằng tên lửa. Các vụ nổ đã được báo cáo ở các khu vực xung quanh Dải và tại các thành phố ở Đồng bằng Sharon bao gồm Gedera, Herzliyya, Tel Aviv và Ashkelon. Còi báo động không kích cũng được kích hoạt ở Beer Sheva, Jerusalem, Rehovot, Rishon Lezion và Căn cứ không quân Palmachim. Hamas đã đưa ra lời kêu gọi vũ trang, trong đó chỉ huy quân sự cấp cao Mohammad Deif kêu gọi "Người Hồi giáo ở khắp mọi nơi tiến hành một cuộc tấn công". Các chiến binh Palestine cũng nổ súng vào các tàu thuyền của Israel ngoài khơi Dải Gaza, trong khi các cuộc đụng độ nổ ra giữa người Palestine và Lực lượng Phòng vệ Israel ở khu vực phía đông của hàng rào vành đai Gaza. Vào buổi tối, Hamas phóng một loạt khoảng 150 quả tên lửa khác về phía Israel, với các vụ nổ được báo cáo ở Yavne, Givatayim, Bat Yam, Beit Dagan, Tel Aviv và Rishon Lezion. Cuộc xâm lược vào Israel Đồng thời, khoảng 2.500 chiến binh Palestine đã xâm nhập vào Israel từ Gaza bằng xe tải, xe bán tải, xe máy, máy ủi, tàu cao tốc và dù lượn. Họ chiếm trạm kiểm soát tại cửa khẩu Kerem Shalom, và tạo ra các lỗ hổng trên hàng rào biên giới ở 5 địa điểm khác, bao gồm cả cửa khẩu Erez. Các hình ảnh và video dường như cho thấy các chiến binh đeo mặt nạ và được trang bị vũ khí hạng nặng mặc quân phục màu đen đi xe bán tải và nổ súng ở Sderot, giết chết hàng chục thường dân và binh lính Israel. Các video khác xuất hiện cho thấy những người Israel bị bắt làm tù binh và một chiếc xe tăng của Israel đang bốc cháy, cũng như các chiến binh lái các phương tiện quân sự của Israel. Cùng buổi sáng, một vụ thảm sát xảy ra tại một lễ hội âm nhạc ngoài trời gần Re'im, khiến ít nhất 260 người thiệt mạng và nhiều người vẫn mất tích. Các nhân chứng kể lại việc các chiến binh đi xe máy nổ súng vào những người tham gia đang bỏ chạy, những người đã giải tán do hỏa lực khiến một số người tham dự bị thương; một số cũng bị bắt làm con tin. Dân quân đã giết hại thường dân tại Nir Oz, Be'eri và Netiv HaAsara, nơi họ bắt con tin và phóng hỏa các ngôi nhà, cũng như ở kibbutzim xung quanh Dải Gaza. 200 thường dân đã thiệt mạng trong vụ thảm sát Kfar Aza, 108 người trong vụ thảm sát Be'eri và 15 người trong vụ thảm sát Netiv HaAsara, trong vụ việc được mô tả là "vụ thảm sát trong một ngày tồi tệ nhất lịch sử nhân loại". – Người Do Thái kể từ Holocaust. Các con tin cũng được cho là đã bị bắt ở Ofakim, trong khi các ngôi nhà ở Sderot bị đốt cháy. Hamas cho biết họ đã bắt đủ tù nhân để buộc Israel thả các tù nhân Palestine của mình, đồng thời tuyên bố rằng họ đã bắt đủ tù nhân để đảm bảo thả tất cả những người Palestine bị cầm tù, bao gồm cả phụ nữ và trẻ vị thành niên. Các chiến binh Hamas đã thực hiện một cuộc đổ bộ vào Zikim. Các nguồn tin của Palestine cho rằng căn cứ quân sự địa phương của Israel đã bị tấn công. IDF cho biết họ đã tiêu diệt hai kẻ tấn công trên bãi biển và phá hủy bốn tàu, trong đó có hai thuyền cao su. Một căn cứ quân sự bên ngoài Nahal Oz cũng bị phiến quân chiếm giữ, khiến ít nhất 2 binh sĩ Israel thiệt mạng và ít nhất 6 người khác bị bắt. Giao tranh được báo cáo tại căn cứ quân sự Re'im, trụ sở của Sư đoàn Gaza. Sau đó có thông tin cho rằng Hamas đã nắm quyền kiểm soát căn cứ và bắt giữ một số binh sĩ Israel trước khi IDF giành lại quyền kiểm soát sau đó trong ngày. Đồn cảnh sát Sderot được cho là đã nằm dưới sự kiểm soát của Hamas, với các chiến binh đã giết chết 30 người Israel, bao gồm cả cảnh sát và dân thường. Một số nhóm Palestine đã lên tiếng ủng hộ hoạt động này. Lữ đoàn kháng chiến quốc gia, cánh vũ trang của Mặt trận Dân chủ xã hội chủ nghĩa thế tục vì Giải phóng Palestine (DFLP) đã xác nhận sự tham gia của họ vào chiến dịch thông qua người phát ngôn quân sự của họ Abu Khaled, cho biết họ đã mất ba chiến binh trong trận chiến với IDF. PFLP, một nhóm chiến binh xã hội chủ nghĩa khác của Palestine và nhóm Lions' Den đã lên tiếng ủng hộ chiến dịch này và tuyên bố sự cảnh giác và tổng động viên tối đa trong quân đội của họ, và Lữ đoàn Abu Ali Mustafa (cánh vũ trang của PFLP) đã công bố các video trong số đó nó đang tấn công các tháp canh của Israel. Một phát ngôn viên quân đội Israel tuyên bố rằng các chiến binh từ Gaza đã tiến vào Israel thông qua ít nhất bảy địa điểm và xâm chiếm bốn cộng đồng nông thôn nhỏ của Israel, thành phố biên giới Sderot, và hai căn cứ quân sự từ cả đất liền và biển. Truyền thông Israel đưa tin rằng bảy cộng đồng nằm dưới sự kiểm soát của Hamas, bao gồm Nahal Oz, Kfar Aza, Magen, Be'eri và Sufa. Giao lộ Erez được cho là đã nằm dưới sự kiểm soát của Hamas, tạo điều kiện cho các chiến binh tiến vào Israel từ Gaza. Ủy viên Cảnh sát Israel Kobi Shabtai cho biết có 21 địa điểm đang diễn ra tình trạng đối đầu cao ở miền nam Israel. Phản ứng của Israel Cuộc tấn công trùng với ngày lễ Simchat Torah của người Do Thái, dường như đã gây bất ngờ hoàn toàn cho người Israel. Hệ thống phòng không Iron Dome đã được kích hoạt. Thủ tướng Benjamin Netanyahu và Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant đã tiến hành đánh giá an ninh tại trụ sở Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF) ở Tel Aviv. Gallant sau đó đã chấp thuận việc huy động hàng chục nghìn quân dự bị và ban bố tình trạng khẩn cấp cho các khu vực trong phạm vi tính từ biên giới Gaza. Ông cũng nói rằng Hamas "đã phạm sai lầm nghiêm trọng" khi phát động cuộc tấn công và cam kết rằng "Israel sẽ chiến thắng". IDF tuyên bố "tình trạng sẵn sàng chiến tranh". Nó cũng nói rằng lực lượng dự bị sẽ được triển khai không chỉ ở Gaza, mà còn ở Bờ Tây và dọc biên giới với Lebanon và Syria. Cư dân ở các khu vực xung quanh Dải Gaza được yêu cầu ở trong nhà, trong khi dân thường ở miền nam và miền trung Israel "được yêu cầu ở cạnh những nơi trú ẩn". Các con đường xung quanh Dải Gaza đã bị IDF đóng cửa. Đường phố ở Tel Aviv cũng bị phong tỏa. Sau cuộc tấn công, Israel tuyên bố nâng cao tình trạng sẵn sàng cho xung đột tiềm tàng. IDF tuyên bố tình trạng sẵn sàng chiến tranh và Netanyahu đã triệu tập một cuộc họp khẩn cấp với các cơ quan an ninh. IDF cũng báo cáo thêm rằng họ đã bắt đầu các hành động có mục tiêu ở Dải Gaza theo cái mà họ gọi là Chiến dịch Swords of Iron. Ủy viên Cảnh sát Israel Kobi Shabtai tuyên bố rằng "tình trạng chiến tranh" đã tồn tại, sau cái mà ông gọi là "một cuộc tấn công lớn từ Dải Gaza". Ông cũng tuyên bố đóng cửa toàn bộ khu vực phía nam Israel đối với "phong trào dân sự" cũng như triển khai đơn vị chống khủng bố Yamam tới khu vực này. Người phát ngôn chính của IDF, Chuẩn đô đốc Daniel Hagari cho biết 4 sư đoàn đã được triển khai tới khu vực này, tăng cường cho 31 tiểu đoàn hiện có. Tổng thống Israel Isaac Herzog cho biết đất nước đang phải đối mặt với "thời điểm rất khó khăn", đồng thời gửi sức mạnh và động viên cho IDF, các lực lượng an ninh khác, dịch vụ cứu hộ và người dân đang bị tấn công. Trong một buổi phát sóng trên truyền hình, Netanyahu tuyên bố: "Chúng ta đang có chiến tranh." Ông cũng nói rằng IDF sẽ tăng cường triển khai ở biên giới để ngăn chặn những người khác 'phạm sai lầm khi tham gia cuộc chiến này'. Trong một bài phát biểu sau đó, ông đe dọa "biến Gaza thành một hòn đảo hoang" và kêu gọi cư dân ở đây "rời đi ngay". Cuộc không kích ở Dải Gaza IDF cho biết họ đã tấn công các mục tiêu ở Gaza bằng cách sử dụng máy bay chiến đấu, tuyên bố đã tấn công 17 khu quân sự của Hamas và 4 trung tâm chỉ huy tác chiến. Trong số các địa điểm bị tấn công có Tháp Palestine 11 tầng ở trung tâm thành phố Gaza, nơi đặt các đài phát thanh của Hamas trên sân thượng. Israel cũng tấn công hai bệnh viện, khiến một tài xế xe cứu thương và một y tá thiệt mạng. 8 tháng 10 Chỉ trong một đêm, Israel đã tấn công tới 426 mục tiêu ở Dải Gaza. Thị trấn Beit Hanoun gần như bị san bằng bởi các cuộc không kích, và Nhà thờ Hồi giáo Al-Amin Muhammad bị phá hủy. Các mục tiêu cũng bao gồm nhiều khu nhà ở, đường hầm, nhà của các quan chức Hamas và Tháp Watan, nơi từng là trung tâm cung cấp Internet trong khu vực. Một cuộc không kích của Israel đã giết chết 19 thành viên trong cùng một gia đình (bao gồm cả phụ nữ và trẻ em); Những người sống sót sau cuộc không kích cho biết không có chiến binh nào trong khu vực của họ và họ cũng không được cảnh báo. Một loạt tên lửa khác được phóng vào buổi sáng, trong đó một tên lửa bắn trúng Trung tâm Y tế Barzilai ở Ashkelon. Hamas cũng bắn 100 quả rocket vào Sderot. DFLP nói rằng họ đã giao chiến với lực lượng Israel ở Kfar Aza, Be'eri và Kissufim. Nội các an ninh chính thức đặt đất nước vào tình trạng chiến tranh lần đầu tiên kể từ Chiến tranh Yom Kippur 1973. IDF tuyên bố rằng hai tình huống bắt giữ con tin đã được "giải quyết". Sau khi quân tiếp viện của IDF đến, binh lính đã bao vây đồn cảnh sát Sderot và giành lại quyền kiểm soát nó, giết chết ít nhất 10 chiến binh Hamas. IDF cũng cho biết họ đã bảo vệ được 22 địa điểm khỏi tay lực lượng Palestine nhưng vẫn đang cố gắng giải tỏa 8 địa điểm khác bao gồm Sderot và Kfar Aza. Tại một cộng đồng, nó đã giải cứu được gần 50 con tin. Một số tay súng người Palestine đi trên chiếc ô tô đánh cắp đã bị lực lượng Israel tiêu diệt gần Ashkelon sau một cuộc đấu súng trên đường chính. Đồng thời, có tin cho rằng có thêm nhiều chiến binh Palestine đã tiến vào Magen, trong khi 70 quân tiếp viện của Palestine Be'eri. 9 tháng 10 IDF được cho là đã tấn công 500 mục tiêu ở Dải Gaza trong đêm, bao gồm cả trại tị nạn Jabalia đông dân cư, được cho là gây ra hàng chục thương vong, bao gồm cả trẻ em. IDF tuyên bố họ đã thiết lập toàn quyền kiểm soát các thị trấn của Israel xung quanh hàng rào chu vi Gaza. Các hoạt động chống lại phiến quân vẫn tiếp tục ở Sderot. Hamas nói rằng họ sẽ hành quyết các con tin Israel nếu Israel tiếp tục bắn phá "nhà dân mà không có cảnh báo trước." Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant tuyên bố phong tỏa "toàn bộ" Dải Gaza nhằm cắt điện và ngăn chặn việc đưa thực phẩm và nhiên liệu vào, đồng thời nói thêm rằng "Chúng tôi đang chiến đấu với động vật của con người và chúng tôi đang hành động tương ứng." Tổ chức Theo dõi Nhân quyền gọi lệnh này là "ghê tởm" và kêu gọi Tòa án Hình sự Quốc tế "lưu ý đến lời kêu gọi phạm tội ác chiến tranh này". IDF cho biết 15 cộng đồng xung quanh Dải Gaza đã được sơ tán. Lực lượng Không quân Israel đã triển khai các máy bay vận tải hạng nặng C-130 và C-130J trên khắp châu Âu để tập hợp hàng trăm nhân viên IDF ngoài nhiệm vụ sẽ được triển khai trong cuộc xung đột. Hamas bắn một loạt đạn khác về hướng Tel Aviv và Jerusalem, trong đó một tên lửa hạ cánh gần nhà ga của Sân bay Ben Guiron. 10 tháng 10 Lực lượng Israel đã tái chiếm Kfar Aza và bắt đầu thu thập những người chết, tìm thấy thi thể của các nạn nhân bị cắt xẻo, phụ nữ và trẻ sơ sinh bị chặt đầu và thiêu hủy tại nhà của họ. Thi thể của 40 trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đã được đưa ra ngoài trên cáng, trong số những gì một ước tính mô tả là có ít nhất 100 nạn nhân dân sự. IDF cho biết họ đã huy động tới 360.000 quân dự bị và tiến hành các cuộc không kích vào các khu dân cư al-Daraj và al-Furqan ở Gaza, cũng như Cảng Gaza. Nó cũng phá hủy phần lớn các khu dân cư al-Karama và Rimal của thành phố Gaza, nơi có các bộ của chính phủ Hamas, các trường đại học, tổ chức truyền thông và cơ quan viện trợ. Máy bay chiến đấu của Israel cũng tấn công cửa khẩu biên giới Rafah nối Gaza và Ai Cập. Nơi ở của gia đình Mohammed Deif ở Khan Younis cũng bị tấn công, giết chết cha, anh trai và ít nhất hai người thân khác. Bộ trưởng An ninh Quốc gia Itamar Ben-Gvir thông báo rằng Bộ đang mua 10.000 khẩu súng trường để trang bị cho các đội an ninh dân sự, đặc biệt là ở các cộng đồng biên giới, các thành phố hỗn hợp Do Thái-Ả Rập và các khu định cư ở Bờ Tây. Ông nói thêm rằng 4.000 khẩu súng trường tấn công, cũng như mũ bảo hiểm và áo chống đạn đã được mua từ một nhà sản xuất trong nước và sẽ được phân phối ngay lập tức. Các chiến binh Hamas thực hiện một cuộc tấn công khác vào khu công nghiệp ở Ashkelon, nơi ít nhất ba người trong số họ thiệt mạng trong các cuộc đụng độ với IDF. Tên lửa được bắn vào Tel Aviv và Ashkelon. 11 tháng 10 Máy bay chiến đấu của Israel đã tấn công và phá hủy một số tòa nhà của Đại học Hồi giáo Gaza, nói rằng nó đã bị biến thành nhà máy sản xuất vũ khí và nơi huấn luyện. Israel thành lập chính phủ chiến tranh khẩn cấp, với Thủ tướng Benjamin Netanyahu, Bộ trưởng Quốc phòng Yoav Gallant và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Benny Gantz đứng đầu nội các chiến tranh với Gadi Eizekot và Ron Dermer là quan sát viên. Tên lửa được bắn vào Ashkelon. Một cuộc tấn công tên lửa khác đã buộc Ngoại trưởng Anh James Cleverly, người đang đến thăm thị trấn Ofakim, phải chạy tìm chỗ ẩn nấp. Một người bị thương và bốn tòa nhà bị trúng đạn sau một vụ tấn công bằng tên lửa ở Sderot. Một cuộc không kích của Israel đã giết chết bốn nhân viên y tế IFRC bên trong xe cứu thương. Nhà máy điện duy nhất của Dải Gaza đã hết nhiên liệu và do Israel phong tỏa Dải Gaza, mọi nguồn cung cấp khí đốt và các loại nhiên liệu khác đều bị cắt. Cảng thành phố Gaza bị tấn công bằng đạn pháo phosphor trắng. 12 tháng 10 Israel cho biết họ đã ném bom lực lượng Nukhba tinh nhuệ của Hamas, các trung tâm chỉ huy của họ và nơi ở của một quan chức hải quân cấp cao của Hamas mà họ cho rằng được sử dụng để cất giữ những loại vũ khí không xác định. Các chỉ huy của hai nhóm chiến binh nhỏ hơn cũng được cho là đã thiệt mạng trong các cuộc không kích. Bốn người bị thương và bảy ngôi nhà bị tấn công sau một vụ tấn công bằng tên lửa ở Sderot. Khi IDF tiếp tục tấn công các tòa nhà và khu vực lân cận, Bộ Y tế Gaza thông báo rằng số người chết ở Gaza đã lên tới hơn 1.400 người, trong đó có 447 trẻ em và 248 phụ nữ. Bộ trưởng Bộ Năng lượng và Cơ sở hạ tầng Israel Israel Katz tuyên bố rằng việc dỡ bỏ lệnh phong tỏa Gaza sẽ không diễn ra cho đến khi các con tin bị Hamas bắt cóc được trở về quê hương an toàn. 13 tháng 10 Đầu ngày, IDF đã đưa ra cảnh báo sơ tán cho các cộng đồng phía bắc Wadi Gaza, bao gồm cả Thành phố Gaza, trong vòng 24 giờ, hướng dẫn người dân di chuyển về phía nam. Việc sơ tán khỏi miền bắc Gaza, liên quan đến việc di dời 1,1 triệu người Palestine, được Liên Hợp Quốc coi là không thể, tổ chức này trong một tuyên bố đã cảnh báo về "những hậu quả nhân đạo tàn khốc". Ngay sau khi lệnh sơ tán được ban hành, các cơ sở của Liên hợp quốc, bao gồm cả URNWA, đã được chỉ thị di chuyển đến Rafah. Cơ quan quản lý các vấn đề người tị nạn của Hamas đã phản ứng bằng cách yêu cầu người dân ở phía bắc Gaza "hãy kiên định trong nhà của mình và đứng vững khi đối mặt với cuộc chiến tâm lý kinh tởm do sự chiếm đóng gây ra." Tổ chức bác sĩ Không biên giới đã đưa ra một tuyên bố gọi lệnh sơ tán là "thái quá" và "một cuộc tấn công vào hệ thống chăm sóc y tế và nhân loại" đồng thời lên án lệnh của Israel "bằng những ngôn từ mạnh mẽ nhất có thể." Hamas tuyên bố ít nhất 70 người chạy trốn về phía nam đã thiệt mạng do các cuộc không kích của Israel. Vào buổi tối, IDF tuyên bố rằng lực lượng mặt đất của họ đã tiến hành các cuộc đột kích cục bộ vào Gaza, cho biết họ đang tấn công các chiến binh Hamas và tìm kiếm con tin bị bắt trong cuộc tấn công của họ. NBC News đưa tin về các tài liệu "tuyệt mật" của Hamas trong đó có kế hoạch chi tiết nhằm vào các trường tiểu học và trung tâm thanh thiếu niên ở Kfar Sa'ad , với mục tiêu là "giết càng nhiều người càng tốt", bắt con tin và chuyển họ vào Dải Gaza. 14 tháng 10 IDF cho biết họ đã tiêu diệt người đứng đầu các hoạt động trên không của Hamas là Murad Abu Murad trong một cuộc không kích qua đêm. Nó cũng công bố thời hạn sáu giờ kéo dài từ 10 giờ đến 16 giờ theo giờ địa phương để người tị nạn chạy trốn về phía nam dọc theo các tuyến đường cụ thể trong Dải Gaza. Một vụ nổ xảy ra lúc 17:30 trên một trong những tuyến đường an toàn do IDF chỉ định, khiến 70 người thiệt mạng, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em và trẻ sơ sinh. Một số nguồn tin cho rằng đây là một cuộc không kích của IDF trong khi CNN cho rằng nguyên nhân chưa rõ ràng. Tờ Financial Times đã tiến hành một cuộc điều tra và kết luận "Tuy nhiên, việc phân tích đoạn phim đã loại trừ hầu hết các lời giải thích ngoài cuộc tấn công của Israel" đồng thời nói rằng "rất khó để chứng minh một cách thuyết phục liệu những vụ nổ này có phải là một cuộc tấn công của IDF hay không, tên lửa bắn nhầm hay thậm chí là bom xe." Hamas lập các chốt chặn đường ngăn người dân Gaza sơ tán về phía nam. 15 tháng 10 Michael Herzog tuyên bố Israel "đang trong quá trình thành lập một khu nhân đạo, một khu nhân đạo lớn ở phía nam Gaza, với Liên hợp quốc", đồng thời tuyên bố rằng khu vực này sẽ có thể tiếp nhận hàng trăm nghìn người Gaza. 22 tháng 11 Chính phủ Israel và Hamas lần đầu tiên ra thông báo thỏa thuận ngừng bắn trong bốn ngày nhằm trao đổi con tin là phụ nữ và trẻ em nhưng vẫn chưa rõ thời điểm thực hiện. Thương vong Đối với Israel Ít nhất 1.300 người Israel thiệt mạng, bao gồm 220 binh sĩ và 45 cảnh sát, hơn 3.400 người bị thương, và 130–150 binh sĩ IDF và dân thường bị bắt làm con tin. Thương vong bao gồm khoảng 70 người Israel gốc Ả Rập, đặc biệt là Negev Bedouin. Vào ngày 7 tháng 10, hơn 100 thường dân đã thiệt mạng trong vụ thảm sát Be'eri, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em; và hơn 260 người tham dự đã bị giết tại lễ hội âm nhạc ở Re'im. Tính đến ngày 10 tháng 10, hơn 100 người được cho là đã thiệt mạng trong vụ thảm sát Kfar Aza, chưa rõ tổng số người chết. Chín người bị bắn chết tại một bến xe buýt ở Sderot. Ít nhất bốn người được cho là đã thiệt mạng ở Kuseife. Ít nhất 400 người thương vong được báo cáo ở Ashkelon, trong khi 280 người khác được báo cáo ở Beer Sheva, 60 người trong số đó đang trong tình trạng nghiêm trọng. Ở phía bắc, thương tích do các cuộc tấn công bằng tên lửa đã được báo cáo ở Tel Aviv. Cựu tiền đạo của Hapoel Tel Aviv FC Lior Asulin nằm trong số những người thiệt mạng trong vụ thảm sát lễ hội âm nhạc Re'im. Người đứng đầu Hội đồng khu vực Sha'ar HaNegev, , đã thiệt mạng trong cuộc đọ súng với phiến quân. Chỉ huy cảnh sát Rahat, Jayar Davidov, cũng bị giết. Izhar Peled, một sĩ quan cảnh sát, đã bị giết ở Kfar Aza. IDF xác nhận rằng 258 binh sĩ của họ đã thiệt mạng. Trong số những người được xác nhận thiệt mạng có Đại tá Yonatan Steinberg, chỉ huy Lữ đoàn Nahal, người đã thiệt mạng gần Kerem Shalom; Đại tá Roi Levy, chỉ huy đơn vị "Ghost" đa chiều, người bị giết gần Kibbutz Re'im; và Trung tá Eli Ginsberg, chỉ huy Trường Đơn vị Chống khủng bố LOTAR. Phó chỉ huy Druze của Lữ đoàn khu vực 300 "Baram", Trung tá Alim Abdallah, đã thiệt mạng trong trận chiến cùng với hai binh sĩ khác khi đáp trả một cuộc xâm nhập từ miền nam Liban vào ngày 9 tháng 10. Đối với Palestine Bộ Y tế ở Gaza báo cáo rằng, tính đến ngày 14 tháng 10, ít nhất 2.215 người Palestine, bao gồm 724 trẻ em và 458 phụ nữ đã thiệt mạng và 8.714 người khác bị thương. Tại Bờ Tây, bạo lực liên quan kể từ khi bắt đầu xung đột đã giết chết 53 người Palestine, trong đó riêng 16 người thiệt mạng được ghi nhận chỉ trong ngày 13 tháng 10 năm 2023. Bốn người Palestine thiệt mạng và năm người khác bị thương trong các cuộc đụng độ với IDF dọc theo hàng rào chu vi của Gaza. Lực lượng Phòng vệ Israel ước tính vào ngày 10 tháng 10 rằng thi thể của khoảng 1.000 chiến binh Palestine đã được tìm thấy bên trong Israel. Năm chiến binh Palestine được cho là đã thiệt mạng ở Sderot. Đối với các nước khác , tờ Washington Post đưa tin rằng có người từ 24 quốc gia đã thiệt mạng hoặc mất tích trong cuộc xung đột. Tác động Tác động chủ quan Gaza Liên Hợp Quốc cho biết cuộc giao tranh đã khiến hơn 423.000 người Palestine phải di dời, trong khi các cuộc không kích của Israel đã phá hủy 1.000 ngôi nhà và khiến 560 đơn vị nhà ở không thể ở được. Nó cũng cho biết hành động của Israel đã gây ra tình trạng thiếu nước ảnh hưởng đến 650.000 người. Bộ Y tế Gaza cho biết 15 xe cứu thương và 9 cơ sở y tế đã trở thành mục tiêu trong các cuộc tấn công của Israel, bao gồm trụ sở chính, Phòng khám Rimal và Trung tâm Mắt Quốc tế. Medecins Sans Frontieres cho biết họ đã đếm được 18 xe cứu thương bị phá hủy và 8 cơ sở y tế bị phá hủy hoặc hư hỏng. Sau khi nhà máy điện duy nhất của Dải Gaza đóng cửa do thiếu nhiên liệu do lệnh phong tỏa của Israel vào ngày 11 tháng 10, có thông tin cho rằng các bệnh viện ở Gaza sẽ hết nhiên liệu cho máy phát điện trong ba ngày. Tổng thư ký Liên hợp quốc António Guterres đã ra tuyên bố kêu gọi chuyển giao nhanh chóng và không bị cản trở các nhu yếu phẩm cứu sinh thiết yếu, như nhiên liệu, thực phẩm và nước sạch, vào Dải Gaza. Ai Cập đã đóng cửa biên giới với Gaza đối với dân thường chạy trốn khỏi nước này. Họ cũng nói rằng họ sẽ cho phép viện trợ được chuyển qua biên giới với Gaza và chỉ định Sân bay Quốc tế El Arish ở Bán đảo Sinai làm trung tâm viện trợ nhân đạo quốc tế cho Gaza. Vào ngày 12 tháng 10, Jordan xác nhận rằng họ sẽ gửi một máy bay viện trợ đến Gaza, chuyến bay đầu tiên như vậy kể từ khi bắt đầu chiến tranh; máy bay dự kiến ​​hạ cánh ở Ai Cập trước khi chuyển đồ dự trữ tới cửa khẩu biên giới Rafah. Viện trợ bao gồm vật tư y tế. Hussein Al-Shibli, tổng thư ký của Tổ chức từ thiện Jordan Hashemite, cho biết tổ chức này "nhằm mục đích cung cấp cho các bệnh viện và các tổ chức làm việc trong lĩnh vực này các vật tư y tế để hỗ trợ người dân Gaza". Israel Một chiếc xe cứu thương Magen David Adom được cho là đã được phiến quân Palestine đưa tới Gaza trong cuộc tấn công của họ vào ngày 7 tháng 10. Trung tâm Y tế Barzilai ở Ashkelon bị trúng tên lửa vào ngày 8 tháng 10. Tên lửa từ Gaza tấn công một bệnh viện ở Ashkelon vào ngày 11 tháng 10. Kinh tế học Bộ năng lượng Israel đã ra lệnh cho Chevron tạm thời đóng cửa mỏ khí đốt Tamar ngoài khơi. Vào ngày 8 tháng 10, chỉ số TA-35 của Israel giảm 6,47%, mức giảm lớn nhất kể từ năm 2020. Giá trị của đồng Shekel Israel mới giảm 1,63%, giao dịch ở mức 3,90 so với đồng đô la Mỹ, mức thấp nhất trong 7 năm. Đáp lại, Ngân hàng Israel đã công bố vào ngày 9 tháng 10 rằng họ sẽ bán tới 30 tỷ USD dự trữ ngoại hối để hỗ trợ và cung cấp thanh khoản lên tới 15 tỷ USD cho thị trường thông qua cơ chế SWAP. Đây là lần bán ngoại hối đầu tiên của ngân hàng trung ương Israel. Thông tin sai lệch Một bức ảnh được công bố cho thấy Thiếu tướng Nimrod Aloni, chỉ huy Quân đoàn sâu IDF, bị người Palestine bắt giữ trong những giờ đầu của cuộc tấn công. Hamas cũng tuyên bố đã bắt được anh ta. Một bài đăng bằng tiếng Ba Tư của IDF đã trích dẫn một bài đăng về việc bắt giữ anh ta từ Thông tấn xã Tasnim và viết "Tasnim: Những kẻ phân phối tin giả của IRGC" mà không phủ nhận hay xác nhận việc bắt giữ Aloni. Aloni sau đó được nhìn thấy vào ngày 8 tháng 10 khi tham dự một cuộc họp của các quan chức quân sự hàng đầu của Israel. Đài phát thanh Cộng hòa Hồi giáo Iran đăng tải những hình ảnh quân đội Azerbaijan bắt giữ các chỉ huy Nagorno-Karabakh vào tháng 9/2023 giống như việc Hamas bắt giữ các chỉ huy Israel. Tội ác chiến tranh Theo The Economist, có sự đồng thuận giữa các học giả về luật pháp quốc tế rằng hành động của các nhóm chiến binh Palestine cấu thành tội ác chiến tranh. Hiện vẫn chưa có sự đồng thuận về việc liệu hành vi của Israel có thực hiện được hay không. Họ viết rằng "Tuy nhiên, trên thực tế, luật pháp quốc tế và các quy tắc cụ thể chi phối chiến tranh—luật xung đột vũ trang (LOAC), còn được gọi là luật nhân đạo quốc tế (IHL)—cho Israel quyền tự do đáng kể để tấn công Hamas, theo cho các chuyên gia pháp lý." Tuy nhiên, một số học giả đã chỉ trích việc Israel phong tỏa Dải Gaza vào tháng 10 năm 2023 và "bảo 1,1 triệu thường dân sống ở phía bắc Gaza hãy di chuyển về phía nam. (Hamas kêu gọi dân thường bỏ qua lời kêu gọi.) Hậu quả nhân đạo nghiêm trọng của việc này, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa. Cơ sở hạ tầng của Gaza đang bị hủy hoại và có rất ít nơi cho nhiều người đến như vậy. Nhưng các khía cạnh pháp lý phức tạp hơn." Thông tin chưa được xác minh Thông tin chưa được xác minh đã nhanh chóng được công bố và lan truyền trong cuộc xung đột, thông qua mạng xã hội, các chính trị gia và các hãng tin tức chính thống. Mặc dù một số câu chuyện có thông tin tiếp theo giúp làm rõ hoặc bổ sung bối cảnh cho câu chuyện được đăng ban đầu, nhưng việc này sẽ mất thời gian do xung đột lan rộng và thiếu khán giả quay lại để đọc hoặc nghe thông tin bổ sung. Báo cáo về việc Hamas chặt đầu trẻ sơ sinh đã được một loạt tổ chức tin tức đưa tin vào ngày 10 tháng 10, sau khi một phóng viên của i24 News phỏng vấn các thành viên của Lực lượng Phòng vệ Israel, tại hiện trường vụ thảm sát Kfar Aza, những người cho biết họ đã nhìn thấy những đứa trẻ bị chặt đầu. CBS News sau đó đã phỏng vấn Yossi Landau, người đứng đầu khu vực của tổ chức phản ứng đầu tiên ZAKA, người tuyên bố rằng cả trẻ sơ sinh và trẻ vị thành niên đều bị chặt đầu cùng với xác của những người lớn bị chặt chân tay. IDF tuyên bố với Insider rằng họ sẽ không điều tra thêm về cáo buộc, với lý do rằng làm như vậy sẽ là "thiếu tôn trọng người chết". Chính phủ Israel sau đó đã đăng những bức ảnh về những đứa trẻ thiệt mạng mà họ cho rằng đã thiệt mạng trong vụ tấn công. Jerusalem Post tuyên bố rằng những hình ảnh này xác nhận rằng trẻ sơ sinh đã bị chặt đầu, trong khi NBC News tuyên bố rằng không có bằng chứng chụp ảnh nào cho thấy trẻ sơ sinh bị chặt đầu. Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nói rằng ông đã nhìn thấy bằng chứng chụp ảnh về những kẻ khủng bố chặt đầu trẻ em, mặc dù một phát ngôn viên của Nhà Trắng sau đó đã làm rõ rằng ông đang đề cập đến các báo cáo và tuyên bố truyền thông của Netanyahu. Các bình luận từ các quan chức và phương tiện truyền thông Israel đã phản đối hoặc giảm nhẹ các tuyên bố. CNN đưa tin rằng họ không thể xác nhận thông tin cho rằng trẻ em bị chặt đầu. Hiếp dâm và bạo lực tình dục đối với phụ nữ Israel đã được báo cáo, đặc biệt là trong vụ thảm sát lễ hội âm nhạc Re'im. Các báo cáo trên Tablet, Ynet, PBS NewsHour, India Today, the Hindustan Times, và Cơ quan Điện báo Do Thái được lấy nguồn từ các nhân chứng được nêu tên và ẩn danh có mặt tại vụ thảm sát. Một báo cáo ngày 8 tháng 10 của The Times of Israel đề cập đến các video mà họ cho biết "đã làm dấy lên lo ngại về tấn công tình dục đối với phụ nữ". Tuy nhiên, tính đến ngày 11 tháng 10, Yuval Shany viết rằng còn quá sớm để biết liệu có xảy ra kiểu tấn công tình dục hay không, vì vẫn chưa có thời gian để chính thức lấy lời khai từ nạn nhân và nhân chứng. Những báo cáo về bạo lực tình dục này đã được các quan chức Israel, Tổng thống Mỹ Biden và Bộ trưởng an ninh Anh Tom Tugendhat lặp lại. Tổ chức truyền thông tin tức người Mỹ gốc Do Thái The Forward cho biết vào ngày 11 tháng 10, "Biden, Netanyahu, những người nổi tiếng và những người phụ trách chuyên mục đã vội vã lên án hành vi hiếp dâm. Nhưng IDF vẫn chưa có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy điều đó đã xảy ra." FactCheck.org kết luận "không có ví dụ nào được xác nhận công khai về tấn công tình dục." Phân tích Cuộc tấn công ban đầu đánh dấu sự leo thang đáng chú ý trong cuộc xung đột đang diễn ra giữa Israel và Hamas, nổi bật về quy mô và tầm với của cả vụ bắn tên lửa và các cuộc tấn công biên giới xung quanh Gaza. Đây là một sự khác biệt đáng kể so với các cuộc xung đột trước đó, vốn thường diễn ra theo từng giai đoạn với sự leo thang căng thẳng dần dần. Nó được so sánh với Cuộc tấn công Trân Châu Cảng năm 1941, Cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, Chiến tranh Yom Kippur năm 1973, cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001, và Cuộc tấn công Ramadan năm 2003. Giống như sự kiện Tết Mậu Thân, cuộc tấn công của Hamas diễn ra vào buổi sáng ngày nghỉ lễ, dường như "ở khắp mọi nơi cùng một lúc", và thể hiện những khả năng mà một lực lượng du kích không thể tưởng tượng được. Phản ứng Phản ứng của Israel Sau cuộc tấn công của Hamas vào Israel, nhóm biểu tình Lực lượng Kaplan đã hủy bỏ cuộc phản đối cải cách tư pháp của Israel dự kiến ​​vào ngày 7 tháng 10, mở rộng hỗ trợ cho IDF trong bối cảnh khủng hoảng. Các nhóm biểu tình khác như Forum 555 và Brothers in Arms cũng kêu gọi quân dự bị phục vụ nếu được gọi nhập ngũ. Trong bối cảnh bạo lực leo thang, Magen David Adom đã khởi xướng chiến dịch hiến máu và Bộ Giáo dục đã đóng cửa các trường học vào ngày 7 tháng 10, chuyển sang học trực tuyến từ ngày 15 tháng 10. Nhiều sự kiện và buổi biểu diễn khác nhau đã bị hủy bỏ hoặc hoãn lại bao gồm Liên hoan phim quốc tế Haifa, buổi hòa nhạc của Bruno Mars và các trận đấu bóng đá do UEFA lên lịch. Phản ứng của Palestine Bộ Giáo dục Palestine cho biết các trường học ở Dải Gaza đã đóng cửa cho đến khi có thông báo mới. Bộ Y tế Palestine kêu gọi hiến máu. Một số con tin bị Hamas bắt giữ đã được trưng bày công khai ở Gaza để thể hiện sự ủng hộ của công chúng. Shani Louk, một công dân Đức bị bắt từ lễ hội âm nhạc Supernova, đã bị Hamas úp mặt xuống và lột đồ lót trên thùng xe tải. Những người trong đám đông ăn mừng đã hét lên "Allahu Akbar" và một số người, trong đó có một thanh niên, nhổ vào Louk. Trong một trường hợp khác, một phụ nữ 85 tuổi bị bắt làm con tin đã được chở qua đường trên một chiếc xe golf trong khi đám đông hò reo. Phó lãnh đạo Hamas Saleh al-Arouri nói với Al Jazeera rằng lực lượng của họ đã bắt đủ con tin Israel để đảm bảo thả các tù nhân Palestine ở Israel trong một cuộc trao đổi. Người phát ngôn của Hamas, Abu Obaida , cho biết họ đang giam giữ những người lính Israel bị bắt ở "những nơi an toàn" và trong đường hầm. Phản ứng quốc tế Các nhà lãnh đạo quốc tế, bao gồm từ Argentina, Ấn Độ, Hoa Kỳ và các nước châu Âu đã lên án các cuộc tấn công của Hamas, bày tỏ tình đoàn kết với Israel và cho biết Israel có quyền tự vệ trước các cuộc tấn công vũ trang và mô tả Chiến thuật của Hamas là khủng bố. Trong cuộc họp giao ban tại Nhà Trắng, Biden bày tỏ tình đoàn kết với Israel. Liên minh châu Âu tuyên bố sẽ xem xét viện trợ cho chính quyền Palestine để đảm bảo viện trợ không tài trợ cho khủng bố và không có kế hoạch thanh toán viện trợ hiện tại nào. Áo, Đức và Thụy Điển đã đình chỉ viện trợ nhân đạo cho Palestine để đáp lại cuộc tấn công của Hamas và nói rằng họ sẽ xem xét các dự án và viện trợ khác được đưa ra. Đại hội Duy Ngô Nhĩ Thế giới đã đưa ra một tuyên bố lên án "các cuộc tấn công khủng khiếp của Hamas nhằm vào thường dân Israel". Tổng thống Croatia Zoran Milanovic công khai tuyên bố rằng Israel đã mất thiện cảm với những tội ác nhân đạo và "hành động trả thù" ở Gaza. Nhiều quốc gia đã tổ chức các cuộc biểu tình để thể hiện tình đoàn kết với Israel cũng như tình đoàn kết với người dân Palestine. Argentina, Canada, Đức, Vương quốc Anh, Tây Ban Nha, Pháp và Uruguay tuyên bố rằng họ sẽ tăng cường an ninh tại các địa điểm liên quan đến người Do Thái để đối phó với cuộc tấn công. Chính quyền Pháp đã báo cáo hơn 100 vụ chống Do Thái trên khắp đất nước sau cuộc xung đột, đồng thời cung cấp thêm an ninh cho Chủ tịch Quốc hội Yaël Braun-Pivet và nghị sĩ Meyer Habib sau những lời đe dọa tử vong liên quan đến cuộc xung đột đã được thực hiện để chống lại họ. Pháp ban hành lệnh cấm tất cả các cuộc biểu tình ủng hộ Palestine với lý do lo ngại về an toàn công cộng. Bất chấp lệnh cấm, gần 3.000 người biểu tình ủng hộ Palestine đã biểu tình tại Place de la République ở Paris và cảnh sát đã bắt giữ 10 người và giải tán đám đông bằng vòi rồng. Những người ủng hộ cả Palestine và Israel đã đổ ra đường phố London để tổ chức các cuộc mít tinh và biểu tình. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Escalation in the Gaza Strip and Israel OCHA Flash Update #1 as of 18:00, 7 October 2023 OCHA Escalation in the Gaza Strip and Israel Flash Update #2 OCHA Escalation in the Gaza Strip and Israel Flash Update #3 Hostilities in the Gaza Strip and Israel | Flash Update #4 Hostilities in the Gaza Strip and Israel | Flash Update #5 Hostilities in the Gaza Strip and Israel | Flash Update #6 Hostilities in the Gaza Strip and Israel | Flash Update #7 UNRWA Gaza Situation Report #4 UNRWA Gaza Situation Report #5 Israel 2023 Chiến tranh liên quan đến Israel Chiến tranh liên quan đến Hezbollah Chiến tranh liên quan đến người Palestine Benjamin Netanyahu Xung đột Israel-Palestine Hamas
19830593
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chung%20th%C3%A2n%20li%C3%AAn%20ti%E1%BA%BFp
Chung thân liên tiếp
Chung thân liên tiếp là hai hoặc nhiều bản án chung thân nối tiếp nhau được tuyên cho người phạm tội, thường thấy trong tư pháp thực tiễn. Hình phạt này được dùng để giảm cơ hội được ra tù của người phạm tội. Tại các nước Mỹ Chung thân liên tiếp là hình phạt chung dành cho các bị cáo bị kết tội giết người nhiều lần ở Mỹ. Tùy vào khu vực xét xử của vụ án, bị cáo nhận bản án chung thân có thể đủ điều kiện để được ân xá sau khi chấp hành mức án tối thiểu từ 15 năm đến 25 năm. Nếu bị tuyên chung thân liên tiếp, bị cáo phải chấp hành mức án tối thiểu cho từng bản án chung thân rồi mới có thể được ân xá. Hình phạt này cũng đảm bảo nếu một bản án bị kháng cáo thì bị cáo vẫn phải chấp hành những bản án còn lại. Nga Ở Nga, chung thân liên tiếp được thi hành cùng lúc. Úc Ở Úc, thời gian tối thiểu của chung thân liên tiếp bằng thời gian tối thiểu mà ngắn nhất trong số các bản án. Canada Từ ngày 2 tháng 12 năm 2011 ở Canada, người bị kết tội giết người cấp độ một và không đủ điều kiện để được ân xá, sẽ có thể bị tuyên chung thân liên tiếp. Hình phạt bắt buộc dành cho người bị kết tội giết người cấp độ một là án tù chung thân và thời gian thi hành án tối thiểu 25 năm mới được xem xét âm xá. Thẩm phán sẽ thảo luận với bồi thẩm đoàn để đưa ra quyết định có cộng dồn thời gian tối thiểu này hay không. Bản án có thời gian tối thiểu dài nhất cho tới nay là 75 năm dành cho 4 phạm nhân Justin Bourque (đã được giảm còn 25 năm), John Paul Ostamas, Douglas Garland, và Derek Saretzky. Trong vụ xả súng tại nhà thờ Hồi giáo Thành phố Québec, Tòa Thượng thẩm Québec và Tòa phúc thẩm Québec cho rằng bản án chung thân liên tiếp dành cho bị cáo Alexandre Bissonnette là vi hiến. Tòa án Tối cao Canada cũng bác bỏ kháng cáo của quân chủ vào tháng 5 năm 2022, cho rằng bản án chung thân liên tiếp là vi hiến. Xem thêm Chung thân Chú thích Hình phạt Tội phạm Chung thân
19830598
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amara%20Diouf
Amara Diouf
Amara Diouf (sinh ngày 7 tháng 6 năm 2008) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Génération Foot và Đội tuyển bóng đá quốc gia Sénégal. Sự nghiệp thi đấu Génération Foot Sinh ra tại Pikine, vùng ngoại ô của thủ đô Dakar, Amara Diouf gia nhập học viện của câu lạc bộ Génération Foot vào năm 2017, sau khi gây được ấn tượng tại giải Danone Nations Cup. Năm 2023, anh là một cầu thủ nổi bật tại giải U-19 Mohammed VI tổ chức tại Maroc, nơi Génération Foot vô địch giải đấu sau khi đánh bại ứng cử viên nặng ký cho chức vô địch, Real Madrid. Có thông tin cho rằng Diouf sẽ gia nhập câu lạc bộ Metz khi anh đến độ tuổi phù hợp, tiếp bước người đồng hương Sadio Mané. Sự nghiệp quốc tế Trẻ Năm 2022, Diouf thi đấu cho U-17 Sénégal tại Vòng loại Cúp bóng đá U-17 châu Phi 2023. Anh lập một cú đúp trong trận gặp Cabo Verde và đóng góp 1 bàn thắng trong trận gặp Mali. Diouf có tên trong danh sách tham dự Cúp bóng đá U-17 châu Phi 2023. Anh lập một cú đúp trong trận gặp Algérie và đóng góp 1 bàn thắng trong trận gặp Somalia. Điều này đã giúp Sénégal vượt qua vòng bảng. Sau màn trình diễn tuyệt vời tại giải đấu, Diouf được bầu là cầu thủ xuất sắc nhất vòng bảng và nằm trong đội hình tiêu biểu của vòng bảng. Diouf tiếp tục lập một cú đúp trong trận gặp Nam Phi ở tứ kết, qua đó đủ điều kiện góp mặt tại Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2023 và nhận được giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất trận lần thứ 3. Ghi được bàn thắng thứ 5 trong giải đấu, anh đã vượt qua kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một giải đấu U-17 của Victor Osimhen. Ở trận bán kết gặp Burkina Faso, Diouf đá hỏng quả phạt đền khi đội của anh đang dẫn trước 1–0, nhưng cuối cùng đã thực hiện lượt sút luân lưu cuối cùng thành công, giúp họ tiến vào chung kết. Sénégal đánh bại Maroc ở trận đấu chung kết để giành chức vô địch lần đầu tiên trong lịch sử. Với 5 bàn thắng ghi được suốt cả giải đấu, Diouf đã giành danh hiệu Vua phá lưới. Đội tuyển quốc gia Tháng 8 năm 2023, Diouf được gọi triệu tập lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Sénégal để chuẩn bị cho trận gặp Rwanda tại Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi và một trận giao hữu gặp Algérie. Vào ngày 9 tháng 9, anh có trận ra mắt trong trận hòa 1-1 trước Rwanda, trở thành cầu thủ trẻ nhất từng ra mắt cho đội tuyển quốc gia ở 15 tuổi 94 ngày. Danh hiệu U-17 Sénégal Cúp bóng đá U-17 châu Phi: 2023 Cá nhân Vua phá lưới Cúp bóng đá U-17 châu Phi: 2023 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2008 Nhân vật còn sống Tiền đạo bóng đá nam Cầu thủ bóng đá Sénégal Cầu thủ bóng đá Génération Foot Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Sénégal Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Sénégal
19830602
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20%C4%90%C3%ACnh%20Tr%C3%AD
Nguyễn Đình Trí
Nguyễn Đình Trí (10 tháng 1 năm 1931 – 12 tháng 3 năm 2023) là Giáo sư, Tiến sĩ toán học, là nhà giáo, nhà khoa học và là người viết giáo trình toán học cho hệ đại học kỹ thuật. Ông từng giữ chức Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam. Ông được tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân vào năm 1998. Tiểu sử, sự nghiệp Ông sinh ngày 10 tháng 1 năm 1931, tại Lý Nhân, Hà Nam. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1956, ông về công tác tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội, khi đó vừa mới được thành lập và trở thành một trong nhũng người đầu tiên đặt nền móng xây dựng đội ngũ giảng viên Toán của nhà trường. Năm 1961, Ông là giảng viên Toán đầu tiên của Đại học Bách khoa Hà Nội được cử sang Liên Xô làm nghiên cửu sinh. Năm 1965, ông bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ Toán - Lý (nay là Tiến sĩ) tại Đại học Tổng hợp Lomonosov, trở thành Phó tiến sĩ Toán học đầu tiên của Đại học Bách khoa Hà Nội. Về nước ông được bổ nhiệm làm Trưởng ban Khoa học cơ bản từ năm 1966. Tới năm 1968, khi thành lập Khoa Toán Lý, Đại học Bách khoa Hà Nội, ông trở thành Chủ nhiệm Khoa đầu tiên và giữ cương vị này cho đến năm 1977. Từ năm 1977 đến năm 1994: Ông làm Phó Hiệu trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ông được bầu vào Ban chấp hành Hội Toán học Việt Nam ngay từ khi Hội được thành lập và được bầu làm Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam nhiệm kì 2 từ năm 1988 tới năm 1994. Năm 1984, Nguyền Đình Trí đã trở thành một trong số những nhà toán học đầu tiên được phong học hàm Giáo sư và năm 1988, ông cũng là một trong số những nhà giáo đầu tiên của Việt Nam được nhận danh hiệu  Nhà giáo Nhân dân. Ông đã dành nhiều tâm huyết cho việc xây dựng, phát triển, cập nhật những tri thức hiện đại cho các chương trình đào tạo, góp phần đưa Đại học Bách khoa Hà Nội trở thành trường đại học kỹ thuật hàng đầu của Việt Nam. Bộ giáo trình “Toán cao cấp” (3 tập) do ông chủ biên là bộ sách nổi tiếng từ những năm 1960, là tài liệu giáng dạy chính thức cho các trường đại học kỹ thuật ở Việt Nam. Ông là một trong những người đứng đầu trong việc thành lập Trung tâm đại học dân lập Thăng Long, đại học dân lập đầu tiên ở Việt Nam. Ông đã tham gia vào bản Kiến nghị “Chấn hưng giáo dục” của 24 trí thức gửi lên Trung ương năm 2004. Ông qua đời ngày 12 tháng 3 năm 2023 tại Hà Nội. Khen thưởng Huân chương Kháng chiến Hạng Nhì. Huân chương Lao động Hạng Ba, Hạng Nhất (1998). Đời tư Vợ ông là Trần Thị Thục Nga, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 5, cựu hiệu phó Đại học Sư phạm Hà Nội, con gái của Nguyễn Thị Thục Viên. Hai ông bà có một con gái và một con trai, con trai là PGS. TS. Nguyễn Việt Dũng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Toán học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Tham khảo Sinh năm 1931 Mất năm 2023 Người Hà Nam Sống tại Hà Nội Tiến sĩ Toán học Việt Nam Giáo sư Việt Nam Nhà giáo Nhân dân
19830612
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1%20t%C6%B0%E1%BB%9Bc%20x%E1%BB%A9%20Portland
Bá tước xứ Portland
Bá tước xứ Portland (tiếng Anh: Earl of Portland) là một tước hiệu quý tộc, đã được lập hai lần trong Đẳng cấp quý tộc Anh, lần lập ra đầu tiên vào năm 1633, dưới thời Vua Charles I, dành trao cho Richard Weston, Nam tước Weston thứ nhất, chỉ truyền được 4 đời thì tuyệt tự. Lần lập ra thứ hai vào năm 1689, dưới thời Vua William III, trao cho William Bentinck, đến thời bá tước thứ 2 là Henry Bentinck được phong thêm tước Hầu tước xứ Titchfield và Công tước xứ Portland thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh. Kể từ đó, tước hiệu Bá tước xứ Portland được nắm bởi Công tước xứ Portland, năm 1990, cái chết của Công tước thứ 9 không có người kế vị nam nên tước vị công tước và hầu tước bị thu hồi, ngôi vị bá tước được chuyển cho người anh em họ gần nhất (chỉ thuộc dòng dõi nam giới), cụ thể là một người thuộc cấp thứ 6. Lần lập ra đầu tiên Lần lập ra lần thứ hai Các thành viên khác của gia đình Cavendish-Bentinck Tham khảo Liên kết ngoài Biographies of the Earls and Dukes of Portland and their predecessors, with links to online catalogues, from Manuscripts and Special Collections at the University of Nottingham Bá tước thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh Portland Bá tước Anh
19830619
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spy%20%C3%97%20Family%20%28m%C3%B9a%202%29
Spy × Family (mùa 2)
Phần thứ hai của loạt phim truyền hình anime Spy × Family được sản xuất bởi Wit Studio và CloverWorks. Phần được công bố lần đầu cùng với một bộ phim hoạt hình chiếu rạp tại Jump Festa vào ngày 18 tháng 12 năm 2022. Ōkouchi Ichirō sẽ thay thế Furuhashi làm người viết kịch bản, các nhân viên và diễn viên còn lại vẫn sẽ đảm nhận vai trò của họ. Bộ phim tiếp tục kể về điệp viên bậc thầy Twilight, dưới bí danh của bác sĩ tâm thần Loid Forger, và gia đình giả của anh ta, bao gồm cô con gái Anya, một nhà ngoại cảm, vợ anh ta là Yor, một sát thủ có biệt danh là Công chúa Gai và chú chó Bond của gia đình với sức mạnh nhận thức trước được tương lai. Mùa thứ hai của bộ truyện sẽ bao gồm 12 tập, được công chiếu vào ngày 7 tháng 10 năm 2023 và kết thúc vào ngày 23 tháng 12 năm 2023. Ca khúc chủ đề mở đầu là bởi Ado và ca khúc chủ đề kết thúc là bởi Vaundy ft. Cory Wong. Phần thứ hai của bộ anime bao gồm 12 tập. Tiêu đề của các tập phim được viết là "Mật vụ" củng với một số (ví dụ: "Mật vụ 1", "Mật vụ 2", v.v.) và việc đếm liên tục qua các mùa; tập đầu tiên của mùa này là "Mật vụ 26". Quy ước đặt tên này tuân theo thông lệ của manga gốc, vốn cũng sử dụng "Sứ mệnh" cho tiêu đề chương. Mùa này phỏng theo 21 chương chính của manga, từ Sứ mệnh 39 đến Sứ mệnh 59, cùng với một số câu chuyện bên lề: Nhiệm vụ phụ 2 và Nhiệm vụ ngắn từ 6 đến 7. Mùa này được cấp phép bản quyền phát sóng trực tuyến bởi Crunchyroll bên ngoài khu vực Châu Á. Muse Communication sở hữu bản quyền phát hành tại Đài Loan, Nam Á và Đông Nam Á và phát sóng nó trên hệ thống kênh YouTube trực thuộc trong một khoảng thời gian nhất định trong khi Netflix, iQIYI, bilibili phát sóng trên các nền tảng trực tuyến. Các tập Băng đĩa Tham khảo Ghi chú Mùa truyền hình Nhật Bản năm 2023 Spy × Family
19830629
https://vi.wikipedia.org/wiki/Margarethe%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
Margarethe của Phổ
Margarethe của Phổ (tiếng Đức: Margarethe von Preußen; tên đầy đủ: Margarethe Beatrice Feodora; 22 tháng 4 năm 1872 – 22 tháng 1 năm 1954) là con út của Hoàng đế Friedrich III của Đức và Victoria của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất. Margarethe cũng là em gái của Hoàng đế Wilhelm II của Đức và là cháu ngoại của Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh. Margarethe kết hôn với Friedrich Karl xứ Hessen, người được bầu làm Quốc vương Phần Lan, khiến Margarethe trở thành Vương hậu Phần Lan nếu Friedrich Karl không quyết định từ bỏ ngai vàng vào ngày 14 tháng 12 năm 1918. Năm 1926, hai vợ chồng trở thành Phong địa Bá tước và Phong địa Bá tước phu nhân xứ Hessen trên danh nghĩa. Cặp đôi có sáu người con trai và lần lượt mất ba người trong Thế chiến thứ nhất và thứ hai. Những năm đầu đời Vương tôn nữ Margarethe của Phổ sinh vào ngày 22 tháng 4 năm 1872 tại Cung điện Mới của Vương tộc Hohenzollern ở Potsdam, là người con út trong số tám người con được sinh ra bởi Hoàng đế Friedrich III của Đức, bấy giờ là Thái tử của Đế quốc Đức, và Victoria của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất, con gái lớn của Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh. Vào thời điểm được làm lễ rửa tội, đầu của Margarethe được bao phủ bởi mái tóc ngắn như rêu, do đó Vương tôn nữ có biệt danh là "Mossy". Tên đầy đủ của Vương tôn nữ là Margarethe Beatrice Feodora. Thái tử phi Margherita của Ý và Hoàng đế Pedro II của Brasil là cha mẹ đỡ đầu của Margarethe.Margaret lớn lên trong một môi trường với nhiều đặc quyền và trọng tính lễ nghi. Cùng với các chị gái Viktoria và Sophie, Margaret rất gắn bó với cha mẹ, tạo thành một nhóm đối lập với nhóm anh chị lớn gồm có Wilhelm II, Charlotte và Heinrich. Margarethe vẫn gần gũi với mẹ sau khi cha qua đời và là người được yêu mến nhất trong số các chị em của Hoàng đế Wilhelm II. Margarethe cũng duy trì mối quan hệ tốt đẹp với nhiều thành viên trong gia đình. Margarethe còn là chị họ của Quốc vương George V của Liên hiệp Anh và Hoàng hậu Aleksandra của Nga (nhũ danh là Alix của Hessen và Rhein) và cả ba đều là cháu của Nữ vương Victoria. Khi trưởng thành, Margarethe được cho là giống người dì Alice. Hôn nhân Margarethe ban đầu đầu bị thu hút bởi Maximilian xứ Baden. Khi Maximilian không đáp lại tình cảm của Margarethe thì Margarethe đã chuyển sang lựa chọn thứ hai là bạn thân của Max Friedrich Karl xứ Hessen-Kassel, sau này là Gia chủ của gia tộc Hessen-Kassel và được bầu cử làm Quốc vương Phần Lan. Hai người kết hôn vào ngày 25 tháng 1 năm 1893 tại Hohenzollern Stadtschloss ở Berlin nhân kỷ niệm ngày cưới của cha mẹ Margarethe. Vào thời điểm tổ chức đám cưới, Friedrich Karl không phải là người đứng đầu Gia tộc Hessen-Kassel mà là người anh trai gần như mù lòa của Friedrich Karl là Alexander Friederich, người đã từ bỏ vị trí gia chủ vào giữa thập niên 1920 để kết hôn không đăng đối. Tại thời điểm kết hôn, Friedrich Karl sở hữu kính xưng Điện hạ (Highness) trong khi Margarethe sỏ hữu kính xưng bậc cao hơn là Vương thân Điện hạ (Royal Highness). Sự chênh lệch này chấm dứt vào năm 1925 khi Friedrich Karl trở thành Phong địa Bá tước xứ Hessen-Kassel và là Gia chủ của gia tộc Hessen-Kassel. Margarethe và chồng chính là chị em họ cùng chung ông cố là Friedrich Wilhelm III của Phổ. Trong đó Friedrich Karl có mối liên hệ với Quốc vương Frierich Wilhelm III qua mẹ là Maria Anna của Phổ, còn Margarethe thì thông qua cha là Friedrich III của Đức. Ban đầu, anh trai của Vương nữ là Wilhelm II phản đối mối hôn sự vì cảm thấy địa vị của Friedrich Karl quá "thấp" đối với em gái của Hoàng đế Đức. Tuy nhiên, sau đó Wilehelm II đã ban lời chúc lành cho hai người vì bản thân Margarethe "không quan trọng lắm". Cuộc hôn nhân rất hạnh phúc. Margarethe có cá tính mạnh mẽ; luôn có vẻ an toàn và vững vàng hơn chồng. Nơi ở chính của cặp đôi trong những năm đầu chung sống là Lâu đài Rumpenheim. Chồng của Margarethe là người con rể được mẹ Vương nữ yêu quý nhất. Năm 1901, Margarethe thừa kế Lâu đài Friedrichshof sau cái chết của mẹ. Việc một người chồng sống tại nhà vợ là một điều hết sức lạ ở thời điểm đó. Tuy nhiên, Margarethe cam kết gìn giữ ngôi nhà của mẹ, điều này đòi hỏi một khoản chi phí lớn và cả gia đình chuyển đến Friedrichshof. Năm 1918, chồng của Margarethe chấp nhận lời đề nghị trở thành Quốc vương của quốc gia Phần Lan mới độc lập, nhưng do những thất bại của Đức trong Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất nên đã từ bỏ vị trí này. Margarethe vì thế lẽ ra sẽ là Vương hậu Phần Lan. Người tiền nhiệm của Margarethe với tư cách là Đại Công tước phu nhân Phần Lan là người em họ Alix của Hessen và Rhein, Hoàng hậu Aleksandra Fyodorovna của Nga. Bi kịch gia đình Các con trai lớn của Margarethe là Friedrich Wilhelm và Maximilian đã thiệt mạng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Công tử Maximilian, người con trai thứ hai và là người con Margarethe yêu thương nhất, bấy giờ đang phục vụ gần Aisne thì bị thương nặng do đạn súng máy vào tháng 10 năm 1914 và qua đời ngay sau đó. Thi thể của Công tử được người dân địa phương bí mật chôn cất tại làng Caestre và người dân biết rằng Maximilian là cháu trai gọi bác của Hoàng đế Wilhelm II của Đức. Linh mục từ chối xác định vị trí của ngôi mộ cho đến khi quân Đức rời khỏi Bỉ và một khoản bồi thường đã được trả. Em trai của Max là Wolfgang đã kêu gọi chính quyền Anh giúp đỡ và cuối cùng, sau khi điều tra, thi thể của Maximilian đã được trả lại cho gia đình. Người con trai lớn của Margarethe là Friedrich Wilhelm đã qua đời vào ngày 12 tháng 9 năm 1916 tại Kara Orman ở România vì bị giết trong một trận cận chiến trong đó cổ họng của Friedrich Wilhelm bị cắt bởi lưỡi lê của bên đối địch. Hai người con trai khác của Margarethe là Philipp và Christoph theo chủ nghĩa của Đức Quốc xã và Margarethe đã mời Adolf Hitler đến uống trà và treo biểu tượng chữ Vạn từ nhà của mình ở Lâu đài Kronberg. Philipp kết hôn với Vương nữ Mafalda của Ý, con gái của Quốc vương Vittorio Emanuele III của Ý. Do có mối quan hệ gia đình với Quốc vương Ý, Philipp được bổ nhiệm vào đội ngũ nhân viên riêng của Hitler vào năm 1939, cũng là vì Philipp có thể là một đường dây liên lạc hữu dụng giữa Đức Quốc xã và Phát xít Ý. Tuy nhiên, sau này Hitler nghi ngờ Philipp có liên can đến sự thất thế của Thủ tướng Ý Benito Mussolini. Tháng 9 năm 1943, Philipp bị bắt giữ, bị tước bỏ hết tước hiệu và bị gửi đến Trại tập trung Flossenbürg. Mafalda bị đưa đến Buchenwald và qua đời vì xuất huyết do bị cắt cụt cánh tay trước đó bị gãy bởi một cuộc ném bom vào trại. Con trai thứ năm của Margarethe, tức Christoph, là người ủng hộ trung thành cho nỗ lực chiến tranh của Đức, nhưng sau Trận Stalingrad, Christoph thất vọng vì những hạn chế đặt ra cho mình trong cuộc xung đột và ngày càng chỉ trích giới lãnh đạo Đức. Phản ứng của Christoph trước vụ ám sát Heydrich, người mà Christoph gọi là "kẻ nguy hiểm và độc ác" vào năm 1942 chính là "tin tốt nhất mà tôi có được trong một thời gian dài". Chế độ Đức Quốc xã đã quay lưng lại với gia đình của Christoph vào thời điểm Christoph qua đời trong một vụ tai nạn máy bay gần Forli vào ngày 7 tháng 10 năm 1943. Christoph đã kết hôn với Sofia của Hy Lạp của Hy Lạp và Đan Mạch, chị gái của Filippos của Hy Lạp, chồng của Nữ vương Elizabeth II của Liên hiệp Anh. Margarethe cũng mất một người con dâu trong chiến tranh là Marie Alexandra xứ Baden, vợ của Wolfgang. Marie Alexandra và bảy nữ nhân viên cứu trợ khác đã thiệt mạng trong một vụ đánh bom ở Frankfurt vào ngày 29–30 tháng 1 năm 1944. Căn hầm nơi họ trú ẩn đã sụp đổ dưới sức nặng của tòa nhà dẫn đến thi thể của Marie Alexandra khó có thể nhận dạng được. Margarethe, với phong thái của một nữ chủ nhân trong ai đình, là nhân vật trung tâm của cả gia đình. Trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Margarethe đã chăm sóc cho các cháu của mình và cố gắng duy trì sinh hoạt chính ở Friedrichshof khi cha mẹ chúng phải đối mặt với nhiều khó khăn khác nhau. Những năm cuối đời Margarethe đã gặp nhiều khó khăn sau năm 1945; mọi thứ còn phức tạp hơn bởi vụ trộm đồ trang sức từ Lâu đài Friedrichshof vào tháng 11 năm 1945 có trị giá hơn 2.000.000 bảng Anh. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Friedrichshof được chính quyền quân sự sử dụng làm câu lạc bộ sĩ quan trong thời kỳ Mỹ chiếm đóng. Một người con trai của Hoàng nữ Margaret là Wolfgang, vì lo sợ sự an toàn của những món trang sức nên đã chôn chúng trong một tầng hầm của lâu đài. Vào ngày 5 tháng 11 năm 1945, người quản lý câu lạc bộ, Đại úy Kathleen Nash, đã phát hiện ra những món trang sức và cùng với người chồng tương lai là Đại tá Jack Durant và Thiếu tá David Watson đánh cắp trang sức và mang nó ra khỏi Đức. Đầu năm 1946, Hoàng nữ Margarethe phát hiện ra vụ trộm khi gia đình muốn dùng số trang sức đó cho đám cưới của Vương nữ Sofia của Hy Lạp và Đan Mạch, lúc bấy giờ chuẩn bị tái hôn với Vương tử Georg Wilhelm của Hannover. Sofia và Margarethe đã báo cáo sự việc với chính quyền Frankfurt và thủ phạm đã bị bỏ tù vào tháng 8 năm 1951. Tuy nhiên, gia đình nhà Hessen chỉ nhận lại được 10% giá trị tài sản bị đánh cắp. Margarethe, người con cuối cùng còn sống của Hoàng đế Friedrich III của Đức và là cháu nội cuối cùng của Hoàng đế Wilhelm I của Đức, đã trút hơi thở cuối cùng tại Kronberg vào ngày 22 tháng 1 năm 1954, 14 năm sau khi chồng và đúng 53 năm sau bà ngoại của Margarethe là Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh qua đời. Lúc ấy Margarethe thọ 81 tuổi. Con cái Margarethe của Phổ và Friedrich Karl xứ Hessen có với nhau sáu người con trai, trong đó có hai cặp sinh đôi: Friedrich Wilhelm của Hessen-Kassel (24 tháng 11 năm 1893 – 12 tháng 9 năm 1916), thiệt mạng trong Thế chiến thứ nhất. Maximilian Friedrich của Hessen-Kassel (20 tháng 10 năm 1894 – 13 tháng 10 năm 1914), thiệt mạng trong Thế chiến thứ nhất. Philipp của Hessen-Kassel (6 tháng 11 năm 1896 – 25 tháng 10 năm 1980 Roma), kết hôn vào ngày 23 tháng 9 năm 1925 với Mafalda của Ý (19 tháng 11 năm 1902 Roma – 28 tháng 8 năm 1944), có hậu duệ. Wolfgang của Hessen-Kassel (6 tháng 11 năm 1896 – 12 tháng 7 năm 1989), kết hôn với Marie Alexandra xứ Baden, không có hậu duệ. Richard của Hessen-Kassel (14 tháng 5 năm 1901 – 11 tháng 2 năm 1969). Christoph của Hessen-Kassel (14 tháng 5 năm 1901 – 7 tháng 10 năm 1943), kết hôn với Sofia của Hy Lạp và Đan Mạch (26 tháng 6 năm 1914 Mon Repos, Corfu – 24 tháng 11 năm 2001 Bayern) vào ngày 13 tháng 12 năm 1930 (dân sự) và ngày 15 tháng 12 năm 1930 (tôn giáo)), có hậu duệ. Thiệt mạng trong Thế chiến thứ hai. Lưu trữ Những giấy tờ cá nhân của Margarethe của Phổ (bao gồm cả thư từ của gia đình) được bảo quản trong Kho lưu trữ của Vương tộc Hessen, tại Cung điện Fasanerie ở Eichenzell, Đức. Huân chương : Bậc Dame của Huân chương Luise, Hạng 1 Huân chương Hồng Thập tự, Đẳng thứ 1 : Bậc Dame của Huân chương Sư tử Vàng, 25 tháng 1 năm 1893 : Huân chương Vương thất Victoria and Albert, Đẳng thứ 2 Gia phả Ghi chú Tham khảo Nguồn tài liệu Henri van Oene, Phả hệ Vương thất Phổ, ngày 13 tháng 5 năm 1998, ngày 18 tháng 9 năm 2011 < Phả hệ Vương thất Phổ >. Pakula, Hannah, An Uncommon Woman, Simon & Schuster, New York, 1995, Petropoulos, Jonathan, Royals and the Reich, Nhà xuất bản Đại học Oxford, New York, 2006, Van der Kiste, John, The Prussian Princesses: Sisters of Kaiser Wilhelm II, Fonthill, 2014 Liên kết ngoài Hoàng nữ Đức Vương nữ Phổ Vương tộc Hohenzollern Hoàng nữ Vương nữ Vương hậu Người từ Potsdam Sinh năm 1872 Mất năm 1954 Nguồn CS1 tiếng Đức (de) Bài viết có văn bản tiếng Đức
19830630
https://vi.wikipedia.org/wiki/Viktoria%20Luise%20c%E1%BB%A7a%20Ph%E1%BB%95
Viktoria Luise của Phổ
Vitoria Luise của Phổ (tiếng Đức: Viktoria Luise von Preußen; tên đầy đủ: Viktoria Luise Adelheid Mathilde Charlotte; 13 tháng 9 năm 1892 – 11 tháng 12 năm 1980) là con gái duy nhất và là người con cuối cùng của Hoàng đế Wilhelm II của Đức và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein. Thông qua cha, Viktoria Luise là cháu chắt của cả Hoàng đế Wilhelm I của Đức và Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh. Đám cưới năm 1913 của Viktoria Luise với Vương tử Ernst August của Hannover là dịp tụ họp lớn nhất của các vị quân chủ trị vì ở Đức kể từ khi nước Đức thống nhất vào năm 1871, và là một trong những sự kiện xã hội lớn cuối cùng của Vương thất châu Âu trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra vào mười bốn tháng sau đó. Không lâu sau đám cưới, Viktoria Luise trở thành Công tước phu nhân xứ Braunschweig. Thông qua con gái là Friederike Luise của Hannover, Vương hậu Hy Lạp, Viktoria Luise là bà ngoại của Sofia của Hy Lạp, Vương hậu Tây Ban Nha và Konstantinos II của Hy Lạp cũng như là tổ mẫu của Vương thất Tây Ban Nha hiện tại. Những năm đầu đời và giáo dục Hoàng nữ Viktoria Luise sinh vào ngày 13 tháng 9 năm 1892, là người con thứ bảy và là con gái duy nhất của Hoàng đế Wilhelm II của Đức và Auguste Viktoria xứ Schleswig-Holstein. "Sau sáu người con trai, Chúa đã ban cho chúng tôi đứa con thứ bảy, một cô con gái nhỏ nhưng rất mạnh mẽ", hoàng hậu Auguste Viktoria viết trong nhật ký ngay sau khi sinh. Hoàng nữ được làm lễ rửa tội vào ngày 22 tháng 10 và được đặt theo tên bà cố nội là Nữ vương Victoria I của Liên hiệp Anh và bà cố tổ nội là Luise xứ Mecklenburg-Strelitz. Trong một là thư gửi mẹ là Nữ vương Victoria, bà nội của Viktoria Luise, Victoria của Liên hiệp Anh, Vương nữ Vương thất và Hoàng hậu Đức, đã cố gắng tỏ ra ổn thỏa khi biết rằng Hoàng nữ không được đặt tên theo mình: Được biết đến với cái tên chính thức là Viktoria Luise nhưng trong gia đình, Hoàng nữ được gọi là "Sissy". Nhà sử học Justin C. Vovk viết rằng Viktoria Luise có sự thông minh giống bà nội là Thái hậu Victoria, trang nghiêm và tôn quý giống mẹ, nhưng độc đoán và ương ngạnh giống cha. Viktoria Luise thích trở thành trung tâm của sự chú ý và là người con yêu thích của Wilhelm II. Theo anh cả của Viktoria Luise, Thái tử Wilhelm của Đức, Viktoria Luise là "người duy nhất trong chúng tôi thời thơ ấu đã thành công trong việc giành được một vị trí ấm áp" trong trái tim của Hoàng đế Wilhelm II. Năm 1902, gia sư người Anh của Hoàng nữ là Anne Topham, đã nhận xét trong lần gặp đầu tiên rằng vị Hoàng nữ chín tuổi rất thân thiện, hoạt bát và luôn cãi vã với người anh thứ của mình làHoàng tử Joachim. Anne sau đó ghi nhận rằng vị hoàng đế "hiếu chiến" "tương đối không nhân nhượng cả khi với gia đình" và là "ảnh hưởng chủ yếu đến cuộc đời của con gái mình. Những suy nghĩ, quan điểm của Hoàng đế về đàn ông và mọi vật đều được cô ấy liên tục trích dẫn." Cả gia đình cư trú tại Lâu đài Homburg, và Viktoria Luise và Joachim thường đến thăm em họ là con của các Vương nữ Phổ Margarethe và Sophie - tại Lâu đài Kronberg gần đó. Năm 1905, Viktoria Luise học âm nhạc với nghệ sĩ piano Sandra Droucker. Trong một tuần vào tháng 5 năm 1911, Viktoria Luise đã đến Anh trên du thuyền vương thất Hohenzollern cùng với cha mẹ, nơi họ đến thăm người em họ George V của Wilhelm II để dự lễ khánh thành bức tượng của Nữ vương Victoria trước Cung điện Buckingham. Lễ Thêm Sức của Viktoria Luise diễn ra tại Friedenskirche ở Potsdam vào ngày 18 tháng 10 năm 1909. Hôn nhân Năm 1912, Ernst August của Hannover, người thừa kế giàu có của tước hiệu Công tước xứ Cumberland và Teviotdale, đã đến triều đình Berlin để cảm ơn Hoàng đế Wilhelm II vì đã cho Hoàng thái tử Wilhelm và Hoàng tử Eitel Friedrich đến dự tang lễ của anh trai mình là Vương tử Georg Wilhelm. Tại thời điểm đó, Vương tộc Hannover sống lưu vong tại Gmunden thuộc Áo. Khi ở Berlin, Ernst August đã gặp Viktoria Luise và hai người đã cảm mến nhau. Tuy nhiên, bất kỳ cuộc thảo luận về hôn nhân của hai người đều kéo dài hàng tháng trời do những lo ngại về chính trị; Ernst August cũng là người thừa kế của Vương quốc Hannover vốn đã bị Vương quốc Phổ đã sáp nhập sau Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866. Vương thái tử Phổ không hài lòng với mối hôn sự và mong muốn Ernst August sẽ từ bỏ quyền cai trị của mình đối với Hannover; trong một thỏa hiệp, Ernst August sẽ được thừa hưởng một lãnh địa nhỏ hơn là Công quốc Braunschweig, trong đó cha của Ernst August vốn là người thừa kế hợp pháp. Trước đó, gia đình của Ernst August đã bị cấm kế vị Công quốc Braunschweig do yêu sách kế vị của họ đối với Vương quốc Hannover. Ernst và Viktoria đính hôn tại Karlsruhe vào ngày 11 tháng 2 năm 1913 và đám cưới xa hoa của hai người được diễn ra vào ngày 24 tháng 5 năm 1913 tại Berlin. Báo chí đã ca ngợi đây chính là dấu chấm hết cho sự bất hòa giữa Vương tộc Hannover và Vương tộc Hohenzollern vốn đã tồn tại kể từ cuộc sáp nhập năm 1866. The Times mô tả sự kết hợp này giống như Romeo và Juliet nhưng kết thúc có hậu hơn. Mặc dù báo chí coi cuộc hôn nhân này là một kết quả của tình yêu, nhưng cuộc hôn nhân của hai người là vì tình yêu hay mang tính chính trị thì vẫn chưa rõ ràng; nhà sử học Eva Giloi tin rằng cuộc hôn nhân nhiều khả năng là kết quả của mong muốn chấm dứt rạn nứt của Phổ, mặc dù Viktoria Luise đã mô tả nó như một "cuộc tình" trong một bức thư của mình. Như một cử chỉ ngoại giao, Hoàng đế Wilhelm II đã mời gần như toàn bộ đại gia đình của mình tham dự đám cưới. Wilhelm II cũng ân xá và trả tự do cho hai điệp viên người Anh đang bị cầm tù là Đại úy Bertrand Stewart và Đại úy Bernard Frederick Trench, như một món quà dành cho Vương quốc Liên hiệp Anh. Đám cưới của Viktoria Luise và Ernst August đã trở thành sự kiện tụ họp lớn nhất của các vị quân chủ trị vì ở Đức kể từ khi nước Đức thống nhất vào năm 1871, và là một trong những sự kiện xã hội lớn cuối cùng của Vương thất châu Âu trước khi Thế chiến thứ nhất bùng nổ vào mười bốn tháng sau đó. Những người tham dự bao gồm hai người họ của Wilhelm II là Quốc vương George V và Sa hoàng Nikolai II, cũng chính là anh họ của Ernst August thông qua mẹ của họ . Tiệc cưới bao gồm 1.200 khách mời. Hoàng hậu Auguste Viktoria đã rất đau khổ và đã khóc khi phải chia tay cô con gái duy nhất của mình. Chồng và con cái Tân Công tước và tân Công tước phu nhân xứ Braunschweig chuyển đến Cung điện Braunschweig ở thủ đô Braunschweig và xây dựng gia đình của mình, trước là với sự ra đời của con trai cả là Ernst August Georg của Hannover, chưa đầy một năm kể từ khi hai vợ chồng kết hôn. Họ còn có thêm bốn người con nữa là Georg Wilhelm (sinh năm 1915), Friederike Luise (sinh năm 1917), Christian Oskar (sinh năm 1919) và Welf Heinrch (sinh năm 1923). Ngày 8 tháng 11 năm 1918, chồng của Viktoria Luise bị buộc phải thoái vị cùng với các vị quốc vương, đại công tước, công tước và thân vương khác của Đức, và công quốc Braunschweig sau đó bị bãi bỏ .đã không còn tồn tại. Năm tiếp theo, Ernst August bị tước bỏ các tước hiệu Anh theo Đạo luật Tước bỏ Tước hiệu năm 1917 do phục vụ trong quân đội Đức trong chiến tranh.<ref>{{Chú thích web|url=http://www.london-gazette.co.uk/issues/31255/pages/4000|tựa đề=At the Court at Buckingham Palace, the 28th day of March, 1919.|ngày=28 March 1919|website=London Gazette|nhà xuất bản=His Majesty's Stationery Office|trang=Issue 31255, Page 4000|ngày truy cập=28 November 2011|trích dẫn= Their Lordships do humbly report to Your Majesty that the persons hereinafter named have adhered to Your Majesty's enemies during the present war: —His Royal Highness Leopold Charles, Duke of Albany, Earl of Clarence and Baron Arklow; His Royal Highness Ernest Augustus, Duke of Cumberland and Teviotdale, Earl of Armagh; His Royal Highness Ernest Augustus (Duke of Brunswick), Prince of Great Britain and Ireland; Henry, Viscount Taaffe of Corren and Baron of Ballymote."}}</ref> Vì vậy, khi cha của Ernst August qua đời vào năm 1923, Ernst August đã không kế vị tước hiệu Công tước xứ Cumberland của cha. Trong ba mươi năm tiếp theo, Ernst August vẫn là Gia chủ Vương tộc Hannover, nghỉ hưu trên nhiều điền trang khác nhau cùng gia đình, chủ yếu là Lâu đài Blankenburg ở Đức và Lâu đài Cumberland ở Gmunden, Áo. Ernst August cũng sở hữu Lâu đài Marienburg gần Hannover; tuy nhiên, hai vợ chồng hiếm khi sống ở đó cho đến năm 1945. Chiến tranh Thế giới thứ 2 Một số người anh của Viktoria Luise là những thành viên đầu tiên của Đảng Quốc xã, trong đó có cựu Thái tử Wilhelm và Hoàng tử August Wilhelm. Mặc dù Ernst August chưa bao giờ chính thức gia nhập đảng nhưng đã quyên góp tiền và có quan hệ thân thiết với một số vị lãnh đạo. Với tư cách là cựu Vương tử Anh, Ernst August và Viktoria Luise mong muốn có được một mối quan hệ hợp tác giữa Anh và Đức. Tuy bề ngoài là mong muốn một liên minh với Anh, vào giữa những năm 1930, Adolf Hitler đã lợi dụng họ bằng cách yêu cầu hai vợ chồng sắp xếp một hôn sự giữa con gái của hai vợ chồng là Vương nữ Friederike Luise và Thân vương xứ Wales. Tuy nhiên, Công tước và Công tước phu nhân xứ Braunschweigtừ chối vì cho rằng chênh lệch tuổi tác giữa hai người quá lớn; Friederike Luise chỉ được khoảng 18 tuổi trong khi Edward đã hơn 22 tuổi. Sau triều đại ngắn ngủi của Edward với tư cách là Quốc vương Edward VIII vào năm 1936, sau khi trở thành Công tước xứ Windsor, Edward và vợ là Wallis đã đến thăm "Cumberlands" tại Lâu đài Cumberland ở Gmunden, Áo. Còn Friederike Luise đã kết hôn với Pavlos I của Hy Lạp vào năm 1938. Vào tháng 5 năm 1941, cựu hoàng Wilhelm II lâm bệnh vì tắc ruột, và Vitoria Luise đã đến Doorn để thăm cha, một số người anh Viktoria Luise cũng đến thăm Wilhelm II. Tình hình sức khỏe của Wilhelm II đã cỉ thiện đủ tốt để họ rời đi nhưng chóng tái phát. Viktoria Luise đã trở lại kịp thời để bên cha cùng với cháu trai gọi cô là Louis Ferdinand và mẹ kế Hermine khi Wilhelm II qua đời vào ngày 4 tháng 6 năm 1941 vì tắc mạch phổi. Vào thời điểm chiến tranh kết thúc ở châu Âu vào tháng 4 năm 1945, Viktoria Luise đang sống cùng chồng tại Lâu đài Blankenburg. Vài ngày trước khi Blankenburg được lực lượng Anh và Mỹ bàn giao cho Hồng quân vào cuối năm 1945 để trở thành một phần của Đông Đức, gia đình đã chuyển đến Lâu đài Marienburg, lúc bấy giờ nằm trong Vùng chiếm đóng của Anh, với tất cả đồ đạc của gia đình, được vận chuyển bằng xe tải của Quân đội Anh theo lệnh của Quốc vương George VI của Liên hiệp Anh. Cuộc sống sau này Sau chiến tranh, Viktoria Luise dành phần lớn thời gian tham dự các sự kiện công cộng ở Hạ Sachsen, hỗ trợ các dự án trùng tu cung điện, tham gia các bữa tiệc của giới thượng lưu, săn bắn và cưỡi ngựa. Bà Công tước cũng dành thời gian giúp đỡ các hoạt động từ thiện, chẳng hạn như hỗ trợ xây dựng khu nghỉ lễ cho trẻ em có điều kiện kinh tế thấp. Ngày 30 tháng 1 năm 1953, chồng của Viktoria Luise qua đời. Khi con trai cả của Viktoria Luise biến Marienburg thành bảo tàng vào năm 1954 và chuyển đến Calenberg Estate gần đó, Viktoria Luise trở nên mâu thuẫn với con trai, mặc dù con trai cả Ernst August Georg đã đề nghị cho mẹ số trang viên khác để sống. Giữa hai mẹ con cũng có sự cạnh tranh về mức độ được yêu mến và sự xuất hiện trước công chúng. Viktoria sau đó chuyển về Braunschweig, sống trong một ngôi nhà được trao tặng bởi một một nhà công nghiệp giàu có và một nhóm người mến mộ tên là "Braunschweiger Freundeskreis" (vòng tròn bạn bè Braunsweig) tặng cho cô. Cô sống ở đó cho đến khi qua đời và sống ở đó cho đến khi qua đời. Năm 1965, Viktoria Luise xuất bản cuốn tự truyện Life as Daughter of the Emperor, và sau đó là một số cuốn sách khác, bao gồm tiểu sử của mẹ Viktoria Luise và chị dâu Cecilie, Hoàng thái tử phi cuối cùng của nước Đức. Tuy nhiên nhiều người tin rằng nhà xuất bản Leonhard Schlüter của Viktoria Luise mới là người viết nên các cuốn sách. Viktoria Luise được chôn cất bên cạnh chồng mình trước Lăng mộ Vương thất ở Berggarten tại Vườn Herrenhausen ở Hannover, đây là nhà nguyện chôn cất Ernst August I của Hannover, và vợ là Friederike xứ Mecklenburg-Strelitz kể từ khi Ernst August I được cải táng sau Chiến tranh thế giới thứ hai và cũng là nơi an nghỉ của George I của Đại Anh. Ấn phẩm Các ấn phẩm của Viktoria Luise của Phổ:Ein Leben als Tochter des Kaisers ("Cuộc đời của Con gái Hoàng đế").Im Strom der Zeit ("Trong Dòng sông Thời gian").Bilder der Kaiserzeit ("Hình ảnh từ Thời kỳ Đế quốc").Vor 100 Jahren ("100 Năm Trước").Die Kronprinzessin ("Thái tử phi").Deutschlands letzte Kaiserin ("Hoàng hậu cuối cùng của nước Đức"). Di sản David Jones đã ghi lại trong bài thơ văn xuôi In Parenthesis một đoạn bài hát từ bài Mặt trận phía Tây"Tôi muốn cô con gái xinh xắn của Big Willie" ngụ ý (như Jones lưu ý) "rằng mục tiêu của Lực lượng Viễn chinh Anh vào Pháp là để chiêm ngưỡng nét quyến rũ của Hoàng nữ". Một số con tàu đã được đặt tên theo của Viktoria Luise: SMS Viktoria Luise, tàu tuần dương bảo vệ, hoạt động từ ngày 29 tháng 3 năm 1897, bị loại bỏ năm 1923. Prinzessin Victoria Luise, hoạt động từ ngày 29 tháng 6 năm 1900; bị đắm ở Jamaica ngày 16 tháng 12 năm 1906. Viktoria Luise, hoạt động từ 10 tháng 1 năm 1900, với tên gọi Deutschland; được tái trang bị và cải tên thành Viktoria Luise vào năm 1910; đổi tên thành Hansa năm 1921 sau đó đem bán lấy sắt vụn năm 1925. Tàu bay Zeppelin LZ 11 của Verkehrsluftschiff der Deutschen Luftschifffahrts Aktiengesellschaft (DELAG) (tạm dịch: Công ty Khí cầu Du lịch Đức) được đặt tên là Viktoria Luise. Huân chương Hiệp sĩ Đại bàng đen (Vương quốc Phổ) Bậc Dame, Hạng nhất, Huân chương Luise (Vương quốc Phổ) Bậc Dame của Huân chương Thánh George (Vương tộc Hannover) Bậc Dame Grand Cross của Huân chương Thánh Olga và Sofia ( Vương quốc Hy Lạp ) Bậc Dame của Huân chương Vương hậu María Luisa, ngày 24 tháng 5 năm 1913 (Tây Ban Nha) Huân chương Medjidie, Hạng đặc biệt dành cho Quý cô (Đế chế Ottoman) Bậc Dame Grand Cordon của Huân chương Từ thiện (Đế quốc Ottoman) Bậc Dame Grand Cross của Huân chương Elisabeth của Hoàng thất Áo, năm 1911 (Áo-Hungary) Chức vụ trung đoàn Regimentschefin (Trung đoàn Trưởng) và Oberst à la suite'' (Đại tá Danhh dự) của Trung đoàn Leib-Husaren thứ 2 của Vương hậu Viktoria của Phổ Nr. 2, khoảng năm 1909. Hậu duệ Gia phả Ghi chú Tham khảo Nguồn tài liệu - Total pages: 544 Liên kết ngoài Đoạn phim lịch sử về cuộc hôn nhân của Viktoria Luise vào tháng 5 năm 1913, filmportal.de |- Hoàng nữ Đức Vương nữ Phổ Vương tộc Hohenzollern Hoàng nữ Vương nữ Vương tức Liên hiệp Anh Vương tức Hannover Người từ Potsdam Người Đức thế kỷ 20 Người Đức thế kỷ 19 Sinh năm 1892 Mất năm 1980 Nguồn CS1 tiếng Đức (de) Bài viết có văn bản tiếng Đức
19830644
https://vi.wikipedia.org/wiki/E.%20Daniel%20Cherry
E. Daniel Cherry
Edward Daniel Cherry (sinh ngày 4 tháng 3 năm 1939) là một sĩ quan quân đội người Mỹ, ông mang quân hàm chuẩn tướng và phi công chiến đấu trong Không quân Hoa Kỳ. Cherry đã thực hiện tổng cộng 285 nhiệm vụ chiến đấu trên chiếc F-105 Thunderchief và F-4 Phantom trong Chiến tranh Việt Nam, và được công nhận đã bắn phá hủy 1 máy bay quân địch trong trận không chiến. Ông giải ngũ vào năm 1988 sau 29 năm phục vụ quân đội. Đầu đời Edward Daniel Cherry sinh ra tại Youngstown, Ohio, vào ngày 4 tháng 3 năm 1939 và chuyển đến Bowling Green, Kentucky khi còn nhỏ. Ông tốt nghiệp Trường trung học South Cobb ở Austell, Georgia, năm 1957. Binh nghiệp Cherry gia nhập Không quân Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 1959 khi là học viên trường sĩ quan hàng không và được sắc phong hàm thiếu úy vào tháng 7 năm 1960. Ông là hoa tiêu EC-121 của Không đoàn Kiểm soát Không quân số 552 tại Căn cứ Không quân McClellan ở California và Căn cứ Không quân McCoy ở Florida, từ tháng 2 năm 1961 đến tháng 3 năm 1964. Ông sau đó tham gia khóa huấn luyện phi công với Không đoàn Huấn luyện Phi công số 3615 tại Căn cứ Không quân Craig ở Alabama và tốt nghiệp hạng nhất trong khóa vào tháng 3 năm 1965. Ông nhận huấn luyện về F-105 Thunderchief tại Căn cứ Không quân Nellis ở Nevada và được phân công vào Phi đoàn Tiêm kích Chiến đấu số 8 tại Căn cứ Không quân Spangdahlem, Tây Đức, nơi ông điều khiển những chiếc F-105 từ tháng 10 năm 1965 đến tháng 1 năm 1967. Chiến tranh Việt Nam Vào tháng 2 năm 1967, Cherry được chuyển đến Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Korat, Thái Lan, tại đây ông phục vụ với tư cách là phi công F-105 cùng Phi đoàn Chiến đấu số 44 và 421, và thực hiện 100 nhiệm vụ chiến đấu khắp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Vào tháng 8 năm 1967, ông quay về Hoa Kỳ và trở thành huấn luyện viên phi công F-105 và người giám sát phi đội cùng với Không đoàn số 23 tại Căn cứ Không quân McConnell ở Kansas. Năm 1968, ông nhận bằng Cử nhân Khoa học về toán học từ Đại học Nam Florida. Vào tháng 6 năm 1971, ông trở lại Thái Lan, tại đây ông là phi công F-4D Phantom thuộc Phi đoàn Chiến đấu số 13 tại Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Udorn và thực hiện 185 nhiệm vụ chiến đấu. Trong cuộc nhiệm vụ này, Cherry giữ chức chỉ huy phi đội và trưởng lập trình kiểm soát không quân tiền phương F-4 của Không đoàn số 432 "Laredo". Vào ngày 15 tháng 4 năm 1972, trong một chuyến tuần tra không trung khắp Hà Nội, Cherry đã bắn hạ một chiếc MiG-21 của Không quân nhân dân Việt Nam, phi công nhảy dù xuống đất. Nhiệm vụ được giới thiệu trong phần thứ năm mùa đầu tiên của History Channel trong loạt chương trình Dogfights, với tựa đề "Hell Over Hanoi", tái hiện các chiến dịch không chiến lịch sử bằng công nghệ đồ họa máy tính hiện đại. Hậu chiến Vào tháng 6 năm 1972, Cherry được bổ nhiệm trở thành sĩ quan tác chiến của Phi đoàn Chiến đấu số 71 và 94 tại Căn cứ Không quân MacDill ở Florida. Từ tháng 1 năm 1975 đến tháng 8 năm 1976, ông giữ chức trưởng đội chỉ dẫn tác chiến Không quân tại Sở chỉ huy Không quân Hoa Kỳ tại Lầu Năm Góc ở Washington, D.C. Ông sau đó giữ chức tư lệnh và lãnh đạo phi đoàn bay biểu diễn Không quân, Thunderbirds, tại Căn cứ Không quân Nellis. Tháng 4 năm 1979, ông trở thành phó tư lệnh Liên đoàn Hỗ trợ Chiến đấu số 57 tại Nellis. Sau khi tốt nghiệp Học viện Chiến tranh Quốc gia vào tháng 6 năm 1980 và Đại học Nam California với tấm bằng Thạc sĩ Khoa học về quản lý hệ thống trong cùng năm, ông giữ chức tư lệnh Liên đoàn Hỗ trợ Chiến đấu số 347 tại Căn cứ Không quân Moody ở Georgia và vào tháng 7 năm 1981, ông được bổ nhiệm làm phó tư lệnh Không đoàn số 347 tại Moody. Tháng 11 năm 1982, ông chuyển đến Sở chỉ huy Không quân Thái Bình Dương tại Căn cứ Không quân Hickam ở Hawaii, giữ chức viên trưởng thanh tra và đến tháng 7 năm 1983, ông trở thành tổng thanh tra Không quân Thái Bình Dương. Cherry từng là tư lệnh của Không đoàn Chiến đấu số 8, được trang bị chiếc F-16 Fighting Falcon, tại Căn cứ Không quân Kunsan ở Hàn Quốc, từ tháng 5 năm 1984 đến tháng 6 năm 1985, khi ông trở lại sở chỉ huy Không quân Thái Bình Dương với tư cách là phó tham mưu trưởng về các kế hoạch. Ông được thăng quân hàm chuẩn tướng vào ngày 1 tháng 10 năm 1985. Vào tháng 8 năm 1987, Cherry được bổ nhiệm làm tư lệnh Cục Tuyển mộ Không quân và phó tham mưu trưởng về binh chủng tuyển mộ và nhiệm vụ lập trình tại Sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Huấn luyện Không quân tại Căn cứ Không quân Randolph ở Texas, cho đến khi ông giải ngũ vào tháng 12. Ông là phi công chỉ huy với hơn 4.000 giờ bay. Đời tư Cherry và vợ Sylvia có hai con và bốn người cháu. Sau khi giải ngũ khỏi quân đội, ông chuyển đến Bowling Green, Kentucky, ông làm thư ký của Nội các Tư pháp và An toàn Công cộng Kentucky trong Chính quyền Bang Kentucky và là chủ tịch của Cơ quan Vận tải Đa phương thức Quận Warren. Ông được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng Hàng không Kentucky năm 2000 và Đại sảnh Danh vọng Hàng không Georgia vào năm 2015. Ông được trao tặng Danh hiệu Cựu sinh viên Xuất sắc của Đại học Tây Kentucky vào năm 2013. Chiếc F-4D (66-7550) Cherry lái khi bắn hạ chiếc MiG được khôi phục và trưng bày tại Công viên Di sản Hàng không ở Bowling Green, Kentucky. Năm 2008, với sự giúp đỡ của một người bạn là luật sư có họ hàng ở châu Á, Cherry tìm kiếm phi công người Việt Nam điều khiển chiếc MiG-21 bị ông bắn rơi ngày 15 tháng 4 năm 1972. Một chương trình truyền hình Việt Nam có trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh chuyên về tái ngộ tìm kiếm, kết nối và đoàn tụ thân nhân mang tên Như chưa hề có cuộc chia ly đã tìm được phi công Nguyễn Hồng Mỹ, cư trú tại Hà Nội. Ngày 5 tháng 4 năm 2008, Cherry gặp ông Mỹ và bắt tay trên sóng truyền hình trực tiếp. Họ nhanh chóng trở thành bạn bè, Cherry và ông Mỹ sau đó đã đi du lịch khắp Hoa Kỳ, họ đến thăm nhiều triển lãm hàng không và sự kiện, tham gia nhiều buổi diễn thuyết, tại đây họ kể lại kinh nghiệm của mình trong trận không chiến và mối quan hệ của họ. Năm 2009, Cherry xuất bản cuốn sách với tựa đề My Enemy, My Friend: A Story of Reconcilation from the Vietnam War, thuật lại kinh nghiệm của ông trong trận không chiến và tình bạn với Nguyễn Hồng Mỹ. Ông hiện là phó chủ tịch điều hành của Công viên Di sản Hàng không, và hoạt động trong ban cố vấn của Đại học Tây Kentucky và tổ chức tài trợ nghiên cứu của trường cũng như Quỹ College Heights và Trung tâm Công nghệ Thông tin. Huy chương Trong sự nghiệp phục vụ quân đội, Cherry được trao nhiều huy chương bao gồm: Chú thích Chuẩn tướng Không quân Hoa Kỳ Phi công Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam Phi công từ Ohio Cựu sinh viên Đại học Nam California
19830645
https://vi.wikipedia.org/wiki/Janvi%20Chheda
Janvi Chheda
Janvi Chheda Gopalia (sinh ngày 29 tháng 2 năm 1984 tại Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ) là một nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình người Ấn Độ tham gia các bộ phim truyền hình bằng tiếng Hindi. Cô có vai chính đầu tay qua bộ phim Chhoona Hai Aasmaan với vai diễn Sameera Singh. Cô còn được biết đến qua vai diễn Sugna Shyam Singh trong bộ phin Cô dâu 8 tuổi và Thanh tra Shreya trong bộ phim Đội đặc nhiệm CID, hai vai diễn này đã giúp cô được công chúng biết đến rộng rãi. Tiểu sử Janvi Chheda sinh ngày 29 tháng 2 năm 1984 tại Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ. Cô là người Gurajat có quê quán tại Mandvi, quận Kachchh thuộc bang Gurajat. Cô từng tốt nghiệp Trường Cao đẳng Thương mại và Kinh tế Malini Kishor Sanghvi, Mumbai. Sự nghiệp Vai diễn đầu tay và sự đột phá trong diễn xuất (2005–2011) Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình với vở kịch Dr. Mukta ở Dubai. Cô có vai chính đầu tay trong bộ phim bằng tiếng Gujarat Toh Lagi Sharat với vai diễn Sanjana và từng làm việc tại Đài Truyền hình Gujarat với tư cách là người dẫn chương trình trong chương trình truyền hình Kem Cho và vai diễn Nidhi trong bộ phim Saubhagyavati. Cô có vai diễn trong bộ phim bằng tiếng Hindi đầu tiên mang tên Chhoona Hai Aasmaan với vai diễn Trung úy Sameera Singh và đóng chung với Mohammed Iqbal Khan từ năm 2007 đến năm 2008. Bộ phim này đã nhận được nhiều lời khen về cốt truyện. Vào năm 2009, cô vào vai phản diện Sandhya trong bộ phim Dhoop Mein Thandi Chaav...Maa và đóng chung với Vineet Raina. Cô cũng vào vai Simran trong bộ phin Maayka cùng năm đó. Từ năm 2010 đến năm 2011, cô vào vai chính Tashi Arjun Singh và đóng chung với Karan Hukku và Kunal Verma trong bộ phim Tera Mujhse Hai Pehle Ka Naata Koi. Những thành công nhất định và quyết định ngừng đóng phim (2012–2018) Từ năm 2011 đến năm 2013, cô vào vai Sugna Shyam Singh, đóng chung với Sachin Shroff trong bộ phim Cô dâu 8 tuổi, bộ phim cũng đánh dấu bước ngoặt lớn trong sự nghiệp diễn xuất của cô. Cô được biết đến nhiều hơn nhờ vai diễn Thanh tra Shreya trong loạt phim truyền hình dài nhất Ấn Độ Đội đặc nhiệm CID. Vai diễn này giúp cô được công chúng biết đến rộng rãi hơn. Cô thủ vai nhân vật này từ năm 2012 đến năm 2016. Cô cũng thủ vai diễn này trong các bộ phim Adaalat trong phần phim CID Viruddh Adaalat vào năm 2012 và Taarak Mehta Ka Ooltah Chashmah vào năm 2014. Năm 2018, cô tái xuất màn ảnh nhỏ khi tiếp tục vào vai Shreya trong 2 tập phim 1491 và 1492 của Đội đặc nhiệm CID, cũng đánh dấu là bộ phim cuối cùng trước khi cô quyết định nghỉ đóng phim vào cùng năm đó. Danh sách tác phẩm Phim truyền hình Phim điện ảnh Kịch Dr. Mukta in Dubai (2005) đóng chung với Jaya Bachchan Đời tư Janvi Chheda kết hôn với người bạn trai lâu năm Nishant Gopalia vào năm 2011. Năm 2017, cả hai người đã hạ sinh ra một cô con gái tên là Nirvi. Xem thêm Dayanand Shetty Ansha Sayed Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1984 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên điện ảnh Ấn Độ Nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ
19830646
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rinpoche
Rinpoche
Rinpoche hay còn gọi là Rimboche hoặc Rinboku (tiếng Tây Tạng: རིན་པོ་ཆེ, phiên âm: Rinpoché hay Rinboqê) là một thuật ngữ kính trọng tôn xưng được sử dụng trong ngôn ngữ Tây Tạng. Rinpoche có nghĩa đen là "thứ quý giá" và có thể ám chỉ một người, địa điểm hoặc đồ vật như các từ "đá quý" hoặc "viên ngọc" (tiếng Phạn: Ratna ). Từ này bao gồm thành tố Rin (giá trị) và Po (hậu tố danh nghĩa) và Chen (có nghĩa lớn). Từ Rinpoche này được sử dụng trong ngữ cảnh của Phật giáo Tây Tạng như một cách thể hiện sự thành kính tôn trọng khi xưng hô với những người được công nhận là đấng tái sinh, lớn tuổi hơn, được kính nể trọng vọng, hoặc nhân vật đáng chú ý, có học thức và/hoặc một vị Lạt ma đắc đạo hoặc những vị thầy dạy Pháp (đạo sư), có nghĩa là Tôn ông/Quý ngài. Tôn xưng Rinpoche cũng được dùng như một kính ngữ dành cho các vị trụ trì của các tu viện Phật giáo Tây Tạng. Chú thích Liên kết ngoài Rinpoche entry in Rangjung Yeshe wiki. Phật giáo Tây Tạng
19830649
https://vi.wikipedia.org/wiki/Moraya%20Wilson
Moraya Wilson
Moraya Wilson (sinh ngày 10 tháng 9 năm 2001) là người mẫu và hoa hậu Australia từng đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Úc 2023. Cô đại diện cho Úc tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2023 ở El Salvador và dành ngôi vị Á hậu 2. Tiểu sử Wilson sinh ngày 10 tháng 9 năm 2001 tại Melbourne. Cô bắt đầu làm việc tại Trường Ngữ pháp Caulfield với tư cách là huấn luyện viên thể thao ở ba môn là điền kinh, chạy việt dã và thể thao trên tuyết. Wilson sẽ tốt nghiệp Đại học RMIT với bằng cử nhân tiếp thị kinh doanh. Cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Hoàn vũ Úc 2023 Vào ngày 1 tháng 9 năm 2023, Wilson thi đấu với 23 thí sinh khác vào chung kết Hoa hậu Hoàn vũ Úc 2023 tại Sofitel Melbourne trên Collins ở Melbourne, nơi cô giành được danh hiệu và được kế vị bởi Monique Riley. Vào ngày 18 tháng 11 năm 2023, cô sẽ đại diện cho Úc tại Hoa hậu Hoàn vũ 2023 ở San Salvador, El Salvador. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2001 Hoa hậu Úc Người mẫu Úc Nhân vật còn sống Nữ giới Úc thế kỷ 21 Người Melbourne
19830652
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%A9y%20tr%E1%BA%AFng%20da
Tẩy trắng da
Blanqueamiento trong tiếng Tây Ban Nha hoặc Branqueamento trong tiếng Bồ Đào Nha (cả hai đều có nghĩa là làm trắng) là một hoạt động xã hội, chính trị và kinh tế được sử dụng ở nhiều quốc gia hậu thuộc địa ở Châu Mỹ và Châu Đại Dương để "cải thiện chủng tộc" (Mejorar la raza) hướng tới một lý tưởng được cho là về độ trắng của làn da. Thuật ngữ Blanqueamiento có nguồn gốc từ Châu Mỹ Latinh và được sử dụng ít nhiều đồng nghĩa với việc làm trắng da của chủng tộc. Tuy nhiên, Blancqueamiento có thể được xem xét theo cả nghĩa biểu tượng và sinh học. Về mặt biểu tượng, Blanqueamiento đại diện cho một hệ tư tưởng xuất hiện từ di sản của chủ nghĩa thực dân châu Âu, được mô tả từ lý thuyết về quyền lực thuộc địa của Anibal Quijano phục vụ cho sự thống trị của người da trắng trong hệ thống phân cấp xã hội Về mặt sinh học, Blanqueamiento là quá trình làm trắng da bằng cách kết hôn với một người có làn da sáng hơn để sinh ra những đứa con có làn da sáng hơn. Các hệ tư tưởng đằng sau Blancqueamiento đã thúc đẩy ý tưởng về hệ thống phân cấp xã hội, dựa trên các đặc điểm và màu da trắng của người Châu Âu. Các phương pháp làm trắng da ngày càng phổ biến, một phần là do Blancqueamiento ở Châu Mỹ Latinh. Peter Wade lập luận rằng Blancqueamiento là một quá trình lịch sử có thể gắn liền với chủ nghĩa dân tộc. Khi nghĩ về chủ nghĩa dân tộc, các hệ tư tưởng đằng sau nó bắt nguồn từ bản sắc dân tộc, mà theo Wade là "sự xây dựng của quá khứ và tương lai". Blanqueamiento được ban hành trong chính sách quốc gia của nhiều nước Mỹ Latinh vào đầu thế kỷ XX, những chính sách này đã thúc đẩy việc nhập cư từ châu Âu như một phương tiện để làm trắng da cho dân số đất nước. Trên thế giới Ở một số nước châu Phi, có từ 25 đến 80% phụ nữ thường xuyên sử dụng các sản phẩm làm trắng da. Ở châu Á, con số này là khoảng 40% Đặc biệt ở Ấn Độ, hơn một nửa số sản phẩm chăm sóc da được bán để làm trắng da Ở Pakistan, nơi các sản phẩm làm sáng da rất phổ biến, người ta phát hiện các loại kem có chứa hàm lượng Hydroquinone và thủy ngân độc hại. Những nỗ lực làm sáng da đã có từ ít nhất là vào thế kỷ XVI ở châu Á. Trong khi một số chất—chẳng hạn như axit kojic và axit alpha hydroxy—được phép sử dụng trong mỹ phẩm ở Châu Âu thì một số chất khác như Hydroquinone và tretinoin lại không được phép sử dụng. Trong khi một số quốc gia không cho phép sử dụng hợp chất thủy ngân trong mỹ phẩm thì những quốc gia khác vẫn cho phép và bạn có thể mua chúng trực tuyến. Tẩy trắng da (Skin whitening) hay làm trắng da (Skin lightening) là việc sử dụng các chất hóa học nhằm mục đích làm sáng da hoặc mang lại màu da đồng đều bằng cách giảm nồng độ Melanin trong da. Một số hóa chất đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc làm trắng da, trong khi một số hóa chất đã được chứng minh là độc hại hoặc có hồ sơ an toàn đáng nghi vấn. Điều này bao gồm các hợp chất thủy ngân có thể gây ra các vấn đề về thần kinh và gây ra vấn đề cho thận. Nỗ lực làm trắng vùng da lớn cũng có thể được thực hiện bởi một số nền văn hóa. Điều này có thể được thực hiện vì lý do ngoại hình, chính trị hoặc kinh tế. Ở nhiều quốc gia với tâm lý ám ảnh bởi tiêu chuẩn vẻ đẹp Âu châu với làn da sáng của người da trắng, ở Tanzania thì động cơ sử dụng các sản phẩm làm sáng da là để trông "giống Âu" hơn hay chứng cuồng da trắng ở Ấn Độ. Tại Ấn Độ, doanh số bán kem làm sáng da năm 2012 đạt khoảng 258 tấn và năm 2013 doanh số bán hàng đạt khoảng 300 triệu USD. Theo học giả Shirley Anne Tate thì chất làm trắng da ở Mỹ ban đầu chủ yếu được phụ nữ da trắng sử dụng. Những người nhập cư châu Âu đã giới thiệu các công thức làm sáng da bằng mỹ phẩm vào các thuộc địa của Mỹ, nơi cuối cùng họ đã phát triển để kết hợp các truyền thống thảo dược bản địa và Tây Phi. Tại Ấn Độ thì loại thuốc corticosteroid bị lạm dụng đến mức nguy hiểm để làm trắng da bởi ở Ấn Độ thì phụ nữ da ngăm đen khó lấy được chồng. Căn nguyên của việc lạm dụng rộng rãi các loại thuốc bôi ngoài da có chứa corticosteroid ở Ấn Độ là niềm tin sâu sắc rằng màu da sáng thì tốt hơn màu da sẫm, không nơi nào có thể thấy rõ điều này hơn trong văn hóa hôn nhân của Ấn Độ. Trong tình yêu và hôn nhân đều đòi hỏi làn da trắng. Nhà hoạt động nữ quyền và là một nhà nghiên cứu Reena Kukreja phát biểu: "Phần lớn người Ấn Độ mong muốn có làn da trắng là do mối liên hệ giữa làn da đen với lao động chân tay ngoài trời - làn da đen là biểu tượng của địa vị đẳng cấp thấp". Tại Ấn Độ, nếu càng da ngăm đen và càng nghèo, thì càng khó kiếm chồng, trong khi xã hội dành nhiều đặc quyền cho phụ nữ có gia đình. Betamethasone là một loại thuốc corticosteroid mạnh, bôi tại chỗ, thường được sử dụng để điều trị nhiều loại bệnh về da, bao gồm bệnh vẩy nến và bệnh chàm, nhưng một trong những tác dụng phụ tiềm ẩn là làm sáng da. Các loại kem có chứa Betamethasone chỉ nên được sử dụng theo lời khuyên của bác sĩ và thường được mua theo toa. Một khi da phụ thuộc vào kem steroid, thì rất khó để ngừng sử dụng. Nếu dừng lại sẽ dẫn đến việc nổi mụn, phát ban và mẩn đỏ. Nhưng ở Ấn Độ, Betamethasone và các loại kem corticosteroid khác lại thường xuyên bị lạm dụng như một chất làm sáng da chủ yếu là do phụ nữ Ấn Độ. Mặc dù nhiều tác dụng phụ gây đau đớn và có thể nhìn thấy là do lạm dụng corticosteroid tại chỗ, các bác sĩ da liễu cho hay phương pháp này vẫn đang được sử dụng tràn lan ở Ấn Độ, dù ở thành phố lớn hay nông thôn, những chất bị hạn chế này vẫn tiếp tục dễ dàng tiếp cận, được sử dụng như một chất làm sáng da chủ yếu là do phụ nữ. Chú thích Làn da Chăm sóc da
19830661
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ra%20v%E1%BA%BB%20da%20tr%E1%BA%AFng
Ra vẻ da trắng
Ra vẻ da trắng (Acting white) là một cụm từ mang tính miệt thị, thường được chỉ về một số người da đen ở Mỹ để ám chỉ sự phản bội của một người da màu đối với nền văn hóa và bản sắc của họ bằng cách giả định những kỳ vọng xã hội của xã hội người da trắng. Trong tiếng Việt thì từ ra vẻ hay bắt chước, học đòi, tỏ vẻ, làm bộ là một khẩu ngữ quen thuộc trong đời sống hàng ngày, dùng để chỉ hành vi cư xử, thể hiện những thứ bản thân không có. Cụm từ học đòi da trắng có thể được áp dụng để chỉ về những người da đen đạt được thành công trong giáo dục, nhưng quan điểm này còn gây nhiều tranh cãi. Năm 2020, có 93,6% người Mỹ gốc Phi từ 25 đến 39 tuổi có bằng tốt nghiệp trung học, ngang bằng với mức trung bình toàn quốc, mặc dù người Mỹ gốc Phi có xu hướng bỏ học đại học/cao đẳng cao hơn so với người da trắng. Cụm từ này đang gây tranh cãi và rất khó xác định ý nghĩa chính xác của nó. Có giả thuyết cho rằng một số học sinh dân tộc thiểu số không khuyến khích đạt được thành tích ở trường do những định kiến tiêu cực của các bạn cùng sắc tộc đồng trang lứa; quan điểm như vậy đã được thể hiện trong các bài báo trên tờ Thời báo Nữu Ước (The New York Times), tạp chí Thời Đại (Time) và The Wall Street Journal—cũng như đến từ các nhân vật của công chúng và các học giả trong lĩnh vực vũ đài chính trị. Câu hỏi liệu thái độ "điệu bộ da trắng" có phổ biến hay không đã được tranh luận trong tài liệu học thuật. Năm 1986, nhà xã hội học người Nigeria John Ogbu đồng tác giả với Signithia Fordham một nghiên cứu đã kết luận rằng các học sinh người Mỹ gốc Phi có thành tích cao ở một trường trung học ở Washington, D.C. đã vay mượn văn hóa da trắng bá quyền như một phần của chiến lược để đạt được thành tích, trong khi đấu tranh để duy trì bản sắc da đen và "lý thuyết hành động của người da trắng " đã ra đời. Diễn viên hài da đen vốn nhân vật truyền thông và tội phạm tình dục bị kết án sau đó Bill Cosby đã sử dụng thuật ngữ này trong một bài đã trở thành bài phát biểu tháng 5 năm 2004 khi anh ta thách thức cộng đồng da đen chống lại ý tưởng rằng học tập là "học đòi da trắng". Don Lemon cũng đã tuyên bố rằng các cộng đồng người Mỹ gốc Phi bị tổn hại khi coi việc sử dụng tiếng Anh phù hợp hoặc việc học xong là "phong thái của người da trắng". Người da đen bị buộc tội "hành động như người da trắng" đôi khi được gọi là gã Anglo-Saxon đen, một thuật ngữ do diễn viên hài Paul Mooney đặt ra. Năm 2008 trước cuộc bầu cử của Obama thì Ralph Nader, một nhà hoạt động lâu năm, đã mô tả thượng nghị sĩ này là "gã da trắng dạy đời". Trong Chiến thắng tổng thống của Obama trong cuộc bầu cử năm 2008 và hình ảnh công chúng của Obama đã thúc đẩy một cuộc thảo luận công khai về việc liệu ông có thay đổi lập trường của những người chỉ trích này hay không. Các nhà bình luận John McWhorter và Stephen J. Dubner đã nói rằng điều đó có thể xảy ra. Chú thích Tham khảo McWhorter, John. 2019 July 20. "The Origins of the ‘Acting White’ Charge." The Atlantic. Morin, Richard. 2005 June 5. "The Price of Acting White." The Washington Post. Ogbu, John U. 2004. "Collective Identity and the Burden of 'Acting White'." The Urban Review 36(1):1–35. . Pluviose, David. 2006 April 5. "Study: ‘Acting White’ Accusation." Diverse Education. Solomon, Nancy. 2009 October 31. "Facing Identity Conflicts, Black Students Fall Behind." National Public Radio. Phân biệt chủng tộc Người da trắng thượng đẳng
19830664
https://vi.wikipedia.org/wiki/Windows%20Mobile%206.0
Windows Mobile 6.0
Windows Mobile 6 với tên mã ban đầu "Crossbow" là một phiên bản của hệ điều hành Windows Mobile. WM6 được phát hành vào ngày 12 tháng 2 năm 2007 tại 3GSM World Congress 2007 và được phát triển dựa trên nhân Windows CE 5.2. WM6 có ba phiên bản khác nhau: "Windows Mobile 6 Standard" dành cho Smartphone (điện thoại không có màn hình cảm ứng), "Windows Mobile 6 Professional" dành cho Pocket PC có chức năng nghe gọi và "Windows Mobile 6 Classic" dành cho Pocket PC không có chức năng nghe gọi. Windows Mobile 6 được phát triển dựa trên Windows CE 5.0 (phiên bản 5.2). WM6 hỗ trợ các phần mềm mới của Microsoft như Windows Live hay Exchange 2007. Windows Mobile 6 Standard được sử dụng lần đầu trên SPV E650 của Orange, trong khi Windows Mobile 6 Professional là Xda Terra của O2. Windows Mobile 6 có thiết kế tương tự như Windows Vista. Các chức năng của WM6 tương đối giống với Windows Mobile 5 nhưng có độ ổn định tốt hơn nhiều. Cùng với việc công bố Office Mobile 6.1 hỗ trợ các định dạng tài liệu Office 2007 (pptx, docx, xlsx); OneNote Mobile, phiên bản Di động của Microsoft Office OneNote đã được thêm vào trong hầu hết các phiên bản WM6. Ngoài các chương trình mới được đưa vào, các cải tiến của Office Mobile cũng được thực hiện cho các ứng dụng hiện có, chẳng hạn như hỗ trợ email HTML trong Outlook Mobile. WM6 hướng tới đối tượng là doanh nghiệp (nhóm chiếm phần lớn lượng người dùng) Với Server Search trên Microsoft Exchange 2007, Out of Office Replies trên Microsoft Exchange 2007 và khả năng tìm kiếm các liên hệ trong Sổ Địa chỉ trên Exchange Serve. Để hỗ trợ phát triển cho các lập trình viên, NET Compact Framework v2 SP2 đã được cài đặt sẵn trong hệ điều hành. Các nhà phát triển và người dùng cũng có quyền truy cập vào Microsoft SQL Server 2005 Compact Edition để lưu trữ và truy xuất thông tin. Internet Explorer Mobile được cải tiến hỗ trợ AJAX, JavaScript và XMLDOM cùng với tính năng Chia sẻ Internet được cải thiện. Khả năng kết nối được nâng cao hơn nữa với Microsoft Bluetooth Stack, VoIP với khả năng khử tiếng vang và Bộ giải mã âm thanh MSRT . Để cải thiện tính bảo mật, tính năng Storage Card Encryption đã được thêm vào. Các khóa mã hóa bị xóa nếu thiết bị được khởi động nguội . Các bản cập nhật tiếp theo, cả về bảo mật và tính năng, giờ đây cũng được cung cấp bằng cách sử dụng Operating System Live Update. Một số cải tiến khác của WM6 bao gồm hỗ trợ độ phân giải màn hình 320x320 và 800x480 (WVGA) (S01SH hoặc "Em One" của Sharp là thiết bị đầu tiên và duy nhất có màn hình 800x480 trên WM5), cải thiện khả năng truy cập Remote Desktop (Chỉ có sẵn cho một số Pocket PC nhất định), tùy chọn Phản hồi của khách hàng, Smartfilter để tìm kiếm trong các chương trình và hỗ trợ Unlicensed Mobile Access (UMA) dành cho các nhà cung cấp được chọn. Xem thêm Tham khảo Windows Mobile
19830667
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20%E1%BA%A4t%20M%C3%B9i
Chiến tranh Ất Mùi
hay là trận chiến giữa Nhật Bản và các lực lượng vũ trang của Đài Loan Dân Chủ tồn tại trong thời gian ngắn sau khi Hiệp ước Mã Quan giữa Nhật Bản và Đại Thanh được ký kết quyết định nhượng lại Đài Loan cho Nhật Bản. Người Nhật bắt đầu , trong khi lực lượng Cộng hòa chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của Nhật Bản. Những người lính còn sót lại của nhà Thanh và một số cư dân Đài Loan đã chống lại cuộc đổ bộ của quân Nhật. Chính phủ Nhật Bản coi trận chiến này là một phần của Chiến tranh Nhật–Thanh, vì đây là cuộc chiến nhằm tiêu diệt những kẻ thù còn sót lại của cuộc chiến. Cái tên Chiến tranh Ất Mùi xuất phát từ lịch Can Chi, năm mà cuộc chiến xảy ra là năm Ất Mùi 1895. Tổng quan Ngày 17 tháng 4 năm 1895, Chiến tranh Nhật–Thanh kết thúc với Hiệp ước Mã Quan, Nhật Bản chính thức chiếm được Đài Loan từ tay nhà Thanh và hòa bình được lập lại giữa hai nước. Các sĩ quan quân đội nhà Thanh phản đối việc nhượng lại Đài Loan đã thực hiện các biện pháp ngăn chặn việc nhượng bộ, bao gồm cả kế hoạch cho Anh và Pháp thuê Đài Loan để lôi kéo các cường quốc can thiệp. Ngày 25 tháng 5, Đài Loan Dân Chủ Quốc được thành lập. Tuy nhiên, các cường quốc như Nga, Đức, Pháp hài lòng với kết quả của cuộc Can thiệp ba bên nên đã không công nhận nhà nước Đài Loan Dân Chủ, và Anh cũng không có động thái gì. Khi chính phủ Nhật Bản nhận được báo cáo về một cuộc nổi dậy vũ trang ở Đài Loan, họ đã áp dụng các biện pháp để bình định bằng vũ lực. Từ Liêu Đông, Sư đoàn Cận vệ do Thân vương Kitashirakawa Yoshihisa, một trung tướng lãnh đạo Quân đoàn 2 đã được phái đến Đài Loan. Sư đoàn Cận vệ đã phối hợp với tổng đốc Kabayama ở tỉnh Okinawa vào ngày 27 tháng 5. Bất chấp quyết định nhượng lại Đài Loan cho Nhật Bản, một số người ở Đại Thanh đã cố gắng ngăn cản Đài Loan tuyên bố độc lập, ngày 29 tháng 5, quân Nhật đổ bộ vào Tam Điêu Giác tại đông bắc đảo Đài Loan mà không cần chờ trao đổi với nhà Thanh nên các lãnh đạo của Đài Loan Dân Chủ đã bỏ trốn. Tuy nhiên, khi đặt chân lên Tam Điêu Giác, họ đã gặp một chút kháng cự nên đã tiến hành một cuộc càn quét. Ngày 2 tháng 6, Lý Kinh Phương và tổng đốc Kabayama tiến hành các thủ tục chuyển giao đảo Đài Loan, Nhật Bản chính thức chiếm hữu Đài Loan (Đài Loan dưới sự cai trị của Nhật Bản). Vào ngày 6 tháng 6, các lãnh đạo của Đài Loan Dân Chủ, trong đó có Tổng thống Đường Cảnh Tùng, đã chạy trốn vào đất liền. Lính đánh thuê người Quảng Đông do Đài Loan Dân Chủ thuê đã làm loạn tình hình trị an. Ngày 14 tháng 6, người dân Đài Bắc đã chào đón Cô Hiển Vinh làm đặc phái viên của quân đội Nhật Bản nhằm duy trì an ninh trật tự, Đài Bắc đã đầu hàng không đổ máu. Ngày 17 tháng 6, Nhật Bản tổ chức Lễ thành lập Đài Loan tổng đốc phủ tại Đài Bắc. Quân Nhật di chuyển xa hơn về phía nam, nhưng dân quân ở nhiều nơi đã chống cự nên Nhật bổ sung thêm Sư đoàn 2 và Lữ đoàn 4 liên hợp. Ngày 20 tháng 8, quân Nhật bao vây Đài Nam từ phía bắc và phía nam. Vào ngày 19 tháng 10, Tướng Lưu Vĩnh Phúc đã bí mật trốn sang Hạ Môn trên một tàu buôn của Đức, những người lính bại trận của ông ta đã chạy tán loạn. Ngày 22, quân Nhật tiến vào Đài Nam. Tới An Bình vào ngày 29, ngày 18 tháng 11, tổng đốc Kabayama ra tuyên bố bình định toàn bộ hòn đảo. Sau đó, các cuộc nổi dậy nổ ra ở miền Bắc vào cuối năm và ở miền Nam vào đầu năm sau, sự kháng cự kiểu du kích xảy ra ở nhiều khu vực cho đến năm 1902. Chú thích Lịch sử Đài Loan Xung đột năm 1895 Xâm lược của Nhật Bản Thời kỳ Minh Trị Đài Loan thuộc Nhật Chiến tranh liên quan tới Nhật Bản Đài Loan thế kỷ 19
19830668
https://vi.wikipedia.org/wiki/Flying%20Machines%20Which%20Do%20Not%20Fly
Flying Machines Which Do Not Fly
"Flying Machines Which Do Not Fly" là một bài xã luận đăng trên nhật báo New York Times vào ngày 9 tháng 10 năm 1903. Bài báo đã dự đoán sai lầm rằng nhân loại sẽ phải mất từ ​​một đến mười triệu năm mới phát triển được một cỗ máy bay có thể bay được. Nó được viết nhằm đáp lại thí nghiệm máy bay thất bại của Samuel Pierpont Langley hai ngày trước đó. 69 ngày sau khi bài báo được xuất bản, hai anh em người Mỹ Orville và Wilbur Wright thực hiện thành công chuyến bay của một khí cụ bay nặng hơn không khí đầu tiên vào ngày 17 tháng 12 năm 1903, tại Kitty Hawk, North Carolina. Bối cảnh Vào đầu thế kỷ 20, dư luận cho rằng con người không thể di chuyển bằng đường hàng không. Các kỹ sư và nhà khoa học đương thời cũng bi quan về chuyến bay. Các nhà phê bình đáng chú ý bao gồm Simon Newcomb, Lord Kelvin và kỹ sư trưởng của Hải quân Hoa Kỳ, George W. Melville. Trong đó, George W. Melville đã mô tả máy bay là "hoàn toàn không có cơ sở, nếu không muốn nói là vô lý". Sau 5 năm chuẩn bị, nhà tiên phong hàng không Samuel Langley đã sẵn sàng thử nghiệm chiếc Aerodrome của mình vào ngày 7 tháng 10 năm 1903. Chiếc máy bay, do Charles Manly lái, đã không bay được và rơi xuống sông Potomac ngay sau khi cất cánh. Bài xã luận Thất bại của Aerodrome khiến công chúng chế nhạo Langley. Hai ngày sau khi thí nghiệm thất bại, một bài xã luận đăng trên tờ New York Times đưa ra quan điểm: Tạm dịch: Cùng ngày với bài báo được xuất bản, Orville Wright viết trong nhật ký của mình: "We started assembly today" ("Hôm nay chúng tôi bắt đầu lắp ráp"), ám chỉ chiếc máy bay đầu tiên mà anh và anh trai mình, Wilbur, sẽ thử nghiệm bay ngay sau đó. Ngày 8 tháng 12 năm 1903, Langley nỗ lực lần cuối cùng để lái chiếc Aerodrome. Một lần nữa, thử nghiệm thất bại và sự ủng hộ chính thức dành cho dự án của Langley bị rút lại. Một bài xã luận khác của New York Times bình luận: Tạm dịch: Ngày 17 tháng 12 năm 1903, anh em nhà Wright đã bác bỏ quan điểm của tờ New York Times cùng nhiều nghi ngờ khác với chiếc Wright Flyer bay thành công của họ. Di sản Phi hành gia Dave Williams coi bài báo này "có lẽ là dự đoán tồi tệ khét tiếng nhất mọi thời đại". Nhà khoa học chính trị P.W. Singer coi bài báo này là ví dụ yêu thích của ông về một dự đoán "hoàn toàn sai lầm". Tổng thống Mỹ George W. Bush đã trích dẫn bài báo của New York Times trong lễ kỷ niệm 100 năm chuyến bay lịch sử của anh em nhà Wright vào tháng 12 năm 2003. Xem thêm Anh em nhà Wright Hàng không Tham khảo Liên kết ngoài FLYING MACHINES WHICH DO NOT FLY Lưu trữ tại New York Times New York Times ngày 9 tháng 10 năm 1903 (Tập 53 Số 16774) trên Internet Archive Dự đoán The New York Times Lịch sử hàng không Báo chí Hoa Kỳ Tác phẩm năm 1903
19830669
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A2n%20bi%E1%BB%87t%20ch%E1%BB%A7ng%20t%E1%BB%99c%20c%C3%B3%20h%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng
Phân biệt chủng tộc có hệ thống
Phân biệt chủng tộc có hệ thống (Systemic racism) hay thể chế phân biệt chủng tộc (Institutional racism) được định nghĩa là các chính sách và thực trạng trên bình diện xã hội hoặc ở khía cạnh tổ chức nhằm dẫn đến và hỗ trợ liên tục mang lại lợi ích không công bằng (đặc lợi) cho một số người và đối xử bất công hoặc có hại đối với những người khác dựa trên yếu tố chủng tộc. Nó biểu hiện bằng sự phân biệt đối xử trong các lĩnh vực như tư pháp hình sự, việc làm, nhà ở, y tế, giáo dục và đại biểu chính trị. Thuật ngữ thể chế phân biệt chủng tộc lần đầu tiên được đặt ra vào năm 1967 do tác giả Stokely Carmichael và Charles V. Hamilton trong tác phẩm: Quyền lực của người da đen: Chính trị giải phóng. Carmichael và Hamilton đã viết vào năm 1967 rằng, trong khi sự phân biệt chủng tộc ở góc độ cá nhân thường có thể nhận diện được vì bản chất công khai của nó, thì sự phân biệt chủng tộc về mặt thể chế lại ít được nhận biết hơn vì bản chất "ít công khai hơn, tinh vi hơn nhiều" của nó. Phân biệt chủng tộc thể chế "bắt nguồn từ hoạt động của các lực lượng được thành lập và tôn trọng trong xã hội, và do đó nhận được ít sự lên án của công chúng hơn nhiều so với phân biệt chủng tộc cá nhân". Đây là tình trạng phân biệt chủng tộc ở nhiều cấp độ và hệ thống trong xã hội. Khái niệm này được dùng lần đầu vào năm 1967 bởi hai nhà hoạt động nhân quyền Stokely Carmichael và Charles V. Hamilton. Họ chỉ rằng, khác với sự kỳ thị đơn thuần (tức người này ghét người kia), Hệ thống cơ chế này là một thế lực bao trùm lên cả xã hội khiến người da màu không thể thăng tiến. Phân biệt chủng tộc có hệ thống hiện diện ở một số khía cạnh như: Về khía cạnh kinh tế thì mức lương trung bình của người da màu thấp hơn người da trắng dù có cùng bằng cấp và ngành nghề. Về giáo dục thì người da màu có ít cơ hội tiếp cận và hoàn thành giáo dục hơn. Về Luật pháp thì người da màu không được thụ hưởng quá trình thi hành luật pháp công bằng (bị đàn áp bởi cảnh sát, bị khép án nhanh và chịu án nặng hơn) về mặt giải trí thì người da màu ít được xuất hiện trong vai chính của các bộ phim lớn hoặc nếu có thì chỉ được đóng vai phản diện. Phân biệt chủng tộc theo thể chế được Sir William Macpherson định nghĩa trong một báo cáo vào 1999 là: "Sự thất bại tập thể của một tổ chức trong việc cung cấp dịch vụ phù hợp và chuyên nghiệp cho mọi người vì màu da, văn hóa hoặc nguồn gốc dân tộc của họ. Nó có thể được nhìn thấy hoặc được phát hiện trong các quá trình, thái độ và hành vi dẫn tới sự phân biệt đối xử thông qua định kiến, sự thiếu hiểu biết, thiếu suy nghĩ và định kiến phân biệt chủng tộc gây bất lợi cho người dân tộc thiểu số.". Về cơ bản, phân biệt chủng tộc có hệ thống chưa bao giờ biến mất. Dạng phân biệt chủng tộc có hệ thống này vẫn đang còn tồn tại khắp nơi trên thế giới. Nạn nhân của nó thường là người thuộc chủng tộc thiểu số, ít có tiếng nói trong thể chế chính trị, ở nhiều nước phương Tây như Mỹ và Anh thì nạn nhân là người gốc Phi, Á, người thổ dân da dỏ. Ở Canada, nức sống của người dân bản da đỏ địa ở Canada thấp hơn nhiều so với những người không phải bản địa, và họ cùng với những nhóm thiểu số hữu hình khác vẫn là nhóm nghèo nhất ở Canada. Đây là vấn đề dai dẳng ở các xã hội đa chủng tộc, nhất là các xã hội có lịch sử đô hộ được xây dựng từ nền tảng bất bình đẳng, trao quyền cho một dân tộc áp bức dân tộc khác, ở Mỹ, cách đây chỉ 100 năm, người da màu còn không được xem là công dân, cho đến cách đây 50 năm, người da màu vẫn không được ở chung một khu phố, học chung một trường học với người da trắng và nay họ vẫn phải đấu tranh vì sự sống của mình, hệ thống phân biệt này chỉ lắng xuống rồi trồi lên khi có những vụ tai nạn, bạo hành người da màu vượt quá sức chịu đựng của cộng đồng. Ở Hoa Kỳ, bắt đầu với Chính sách kinh tế mới của Tổng thống Franklin D. Roosevelt vào những năm 1930 và trong suốt những năm 1960 đã đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của người da trắng bằng cách cung cấp các khoản bảo lãnh cho vay cho các ngân hàng, từ đó tài trợ cho việc sở hữu nhà của người da trắng và tạo điều kiện cho người da trắng di cư nhưng chính sách này lại không cung cấp các khoản vay dành cho người da đen. Chú thích Tham khảo Stokes, DaShanne. (In Press) Legalized Segregation and the Denial of Religious Freedom Institutional Racism and the Police Institutional Racism and the Police: Fact or Fiction?, Civitas thinktank pamphlet about the Macpherson Report Paying the Price: The Human Cost of Racial Profiling On causes and effects of institutional racism in the Canadian criminal justice system Canada Consolidation Indian Act R.S.C., 1985, c. I-5 Current to 9 June 2015. Last amended on 2 April 2015 and published by the Minister of Justice at the following address: "Justice Laws Website" / "Site Web de la législation (Justice)", Government of Canada John Komlos, “Covert Racism in Economics," FinanzArchiv/Public Finance Analysis, 77 (2021) 1: 83-115. Original text: Library of Congress Country Study of Algeria Aussaresses, Paul. The Battle of the Casbah: Terrorism and Counter-Terrorism in Algeria, 1955–1957. (New York: Enigma Books, 2010) . Bennoune, Mahfoud. The Making of Contemporary Algeria, 1830–1987 (Cambridge University Press, 2002) Gallois, William. A History of Violence in the Early Algerian Colony (2013), On French violence 1830–1847 online review Horne, Alistair. A Savage War of Peace: Algeria 1954–1962, (Viking Adult, 1978) Mohammed Lakhdar-Hamina The Battle of Algiers The 1961 massacre was referenced in Caché, a 2005 film by Michael Haneke. The 2005 French television drama-documentary Nuit noire, 17 octobre 1961 explores in detail the events of the massacre. It follows the lives of several people and also shows some of the divisions within the Paris police, with some openly arguing for more violence while others tried to uphold the rule of law. Drowning by Bullets, a television documentary in the British Secret History series, first shown on 13 July 1992. Phân biệt chủng tộc
19830676
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20Herat%202023
Động đất Herat 2023
Động đất Herat 2023 là hai trận động đất xảy ra vào ngày 7 tháng 10 năm 2023. Cả hai trận động đất đều có cường độ 6.3 richter, tâm chấn độ sâu lần lượt là 14 và 10.6 km. Động đất đã gây ra thiệt hại quy mô lớn về nhà cửa và tài sản. Hậu quả hai trận động đất đã làm hơn 2.445 người chết và hơn 2.000 người bị thương. Tham khảo Động đất năm 2023 Động đất tại Afghanistan Afghanistan năm 2023
19830678
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%B4%20l%E1%BB%87%20da%20tr%E1%BA%AFng
Nô lệ da trắng
Nô lệ da trắng hay Chế độ nô lệ da trắng (White slavery) còn gọi là Buôn bán nô lệ da trắng đề cập đến chế độ nô lệ của người châu Âu theo đó đối tượng buôn bán nô lệ là những người nô lệ người da trắng gốc Âu, dù những nô lệ da trắng này là đối tượng giao dịch của những người không phải châu Âu (chẳng hạn như người Tây Á và Bắc Phi) hay dưới tay những người châu Âu khác (ví dụ như nô lệ hải tặc hoặc nô lệ của người Viking). Việc buôn bán nô lệ gốc châu Âu hiện diện ở La Mã cổ đại và Đế chế Ottoman, cũng như một số lãnh thổ do người Hồi giáo cai trị. Nhiều loại người da trắng khác nhau đã bị bắt làm nô lệ. Ở lục địa châu Âu dưới chế độ phong kiến, có nhiều hình thức địa vị khác nhau áp dụng cho những người (chẳng hạn như nông nô, bần nông, kẻ lang thang và nô lệ) phải chịu giao kèo làm công không lương hoặc bị buộc phải lao động không lương. Dưới sự cai trị của người Hồi giáo được mở rộng ở vùng Trung Đông và một phần ở châu Âu, hoạt động buôn bán nô lệ của đế chế Ottoman bao gồm cả những người châu Âu bị bắt và giam giữ thường được gia tăng từ các cuộc đột kích vào các lãnh thổ châu Âu hoặc bị bắt khi còn nhỏ dưới hình thức thuế sinh mạng (Devshirme) đối với gia đình cư dân của các vùng lãnh thổ bị chinh phục để phục vụ đế chế cho nhiều việc tôi mọi khác. Vào giữa thế kỷ XIX, cụm từ nô lệ da trắng được sử dụng để mô tả những nô lệ Cơ đốc giáo bị bán cho hoạt động buôn bán nô lệ ở Barbary, cụ thể là cụm từ "nô lệ da trắng" được Charles Sumner sử dụng vào năm 1847 để mô tả chế độ buôn bán nô lệ của những người theo đạo Thiên chúa trên khắp lãnh thổ Barbary và chủ yếu ở Algieri, thủ đô của Ottoman Algeria cũng như bao hàm nhiều hình thức nô lệ, bao gồm cả các phi tần châu Âu (Cariye) thường thấy trong Hậu cung Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày nay, thuật ngữ pháp lý hiện đại áp dụng hẹp hơn đối với nô lệ tình dục, mại dâm cưỡng bức và buôn người mà ít tập trung vào chủng tộc của nạn nhân hoặc thủ phạm. Ở khu vực các nước nói tiếng Anh vào thời gian cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cụm từ "nô lệ da trắng" được dùng để chỉ sự nô lệ tình dục của những phụ nữ da trắng, gắn liền với những câu chuyện về những phụ nữ bị bắt làm nô lệ ở Trung Đông và đưa vào hầu hạ cho các Hồi vương trong các Hậu cung (Harem), chẳng hạn như những người được gọi là người đẹp xứ Circassia. Cụm từ này dần dần được sử dụng như một uyển ngữ chỉ về gái mại dâm. Cụm từ này đặc biệt phổ biến trong bối cảnh bóc lột trẻ vị thành niên, với hàm ý rằng trẻ em và thiếu nữ trong những hoàn cảnh như vậy không được tự do quyết định số phận của chính mình. Ở Vương quốc Anh và Ireland vào thời Victoria xảy ra sự việc một nhà báo vận động tranh cử William Thomas Stead là biên tập viên của Pall Mall Gazette đã bỏ tiền mua một một bé gái 13 tuổi với giá 5 bảng Anh, số tiền này tương đương với mức lương hàng tháng của một người lao động. Sự hoảng loạn về mặt đạo đức về "việc buôn bán phụ nữ" đã lên đến đỉnh điểm ở Anh vào những năm 1880, sau khi vụ việc gây chấn động quốc tế là Vụ buôn bán nô lệ da trắng bị vạch trần vào năm 1880. Vào thời điểm đó, những "nô lệ da trắng" là mục tiêu đương nhiên của những người bảo vệ đạo đức công cộng và các nhà báo. Sự phản đối kịch liệt sau đó đã dẫn đến việc Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật chống chế độ nô lệ. Quốc hội đã thông qua Đạo luật sửa đổi Luật Hình sự 1885, nâng tuổi đồng ý pháp lý từ 13 lên 16 tuổi ngay trong năm đó. Một nỗi lo lắng bao trùm tiếp theo xảy ra ở Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ XX, lên đến đỉnh điểm vào năm 1910, khi Luật sư nhà nước ở Chicago đã thông báo (không nêu chi tiết) rằng một đường dây tội phạm quốc tế đang bắt cóc các cô gái trẻ ở châu Âu, nhập cảnh họ vào Mỹ và ép họ phục vụ tại những nhà thổ ở Chicago. Những tuyên bố này và sự hoảng loạn mà chúng gây ra, đã dẫn đến việc thông qua Đạo luật buôn bán nô lệ da trắng của Hoa Kỳ năm 1910, thường được gọi là "Đạo luật Mann". Đạo luật này cũng cấm vận chuyển phụ nữ giữa các bang vì mục đích vô luân. Mục đích chính của nó là giải quyết vấn đề mại dâm và vô đạo đức. Các cuộc thanh tra việc nhập cư tại Đảo Ellis ở Thành phố New York chịu trách nhiệm thẩm vấn và sàng lọc gái mại dâm châu Âu từ các thanh tra viên nhập cư Hoa Kỳ bày tỏ sự thất vọng trước sự kém hiệu quả của việc thẩm vấn trong việc xác định xem một phụ nữ châu Âu có phải là gái mại dâm hay không và tuyên bố rằng nhiều người "nói dối" và "sắp đặt những câu trả lời khôn khéo" cho câu hỏi thẩm vấn của thanh tra viên. Họ cũng bị buộc tội sơ suất nếu chấp nhận một địa chỉ khống từ một người nhập cư hoặc chấp nhận những câu trả lời chưa thật trọn vẹn. Thanh tra Helen Bullis đã điều tra một số ngôi nhà được giao ở quận Tenderloin của New York và phát hiện ra các dạng nhà thổ tồn tại vào đầu thế kỷ XX ở Thành phố New York và cô lập danh sách những ngôi nhà của gái mại dâm, chủ sở hữu và "tù nhân" của họ là ai. Chú thích Tham khảo Donovan, Brian. White Slave Crusades: Race, Gender, and Anti-vice Activism, 1887-1917. United States: University of Illinois Press, 2010. The 1847 edition of . Người da trắng
19830679
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khinalug
Khinalug
Khinalug, Khynalyg, hoặc Khinalyg (; Khinalug: Kətş; cũng được dịch là Khanaluka, Khanalyk, Khinalykh, hoặc Khynalyk), là một đô thị và ngôi làng Kavkaz cổ có nguồn gốc từ thời kỳ Albania Kavkaz. Nó nằm tại vùng cao của quận Guba, phía bắc Azerbaijan. Đô thị Khinalug là một phần của Guba, bao gồm các làng Khinalug và Qalayxudat. Ngôi làng đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới từ tháng 9 năm 2023 với tên gọi Cảnh quan văn hoá của người Khinalig và đường gia súc “Köç Yolu” . Vị trí Nó nằm tại phía tây nam của quận Guba, giữa dãy núi Đại Kavkaz, phân chia Bắc Kavkaz ở Nga với Nam Kavkaz. Khinalug cũng là ngôi làng cao nhất, xa xôi và biệt lập nhất ở Azerbaijan và là một trong số những ngôi làng cao nhất ở vùng Kavkaz. Thời tiết thay đổi đáng kể giữa mùa hè và mùa đông, từ −20 °C cho tới 18 °C. Khinalug có dân số khoảng 2.000 người. Họ là những người nói tiếng Khinalug, một ngôn ngữ tách biệt của Ngữ hệ Đông Bắc Kavkaz, mặc dù nhiều trong số họ cũng sử dụng tiếng Azerbaijan. Lịch sử Vào ngày 7 tháng 10 năm 2006, Tổng thống Ilham Aliyev đã công bố kế hoạch hiện đại hóa các cơ sở giáo dục, hạ tầng, tòa nhà chính phủ cùng nhiều cơ sở khác ở Khinalug. Đến năm 2007, ông đã cho thành lập Khu bảo tồn lịch sử-kiến trúc và dân tộc học Nhà nước Khinalug theo sắc lệnh nhằm bảo tồn diện mạo, ngôn ngữ và phong tục độc đáo của ngôi làng. Địa điểm này được đưa vào danh sách theo dõi của Quỹ Di tích Thế giới từ năm 2008 như là một trong số 100 địa điểm có nguy cơ biến mất cao nhất, do lo ngại trước việc xây dựng con đường nối giữa Khinalug và Guba. Danh sách này không nhằm mục đích chỉ trích hoạt động thương mại và du lịch ở Khinalug, mà nó nhằm mục đích cảnh báo rằng sự phát triển không nên đánh đổi bằng giá trị lịch sử của địa điểm. Bộ Văn hóa và Du lịch đã trùng tu phần mái của gần một trăm ngôi nhà ở Khinaluq vào năm 2011, và nhà thờ Hồi giáo từ thế kỷ 9 đã được trùng tu vào năm 2012–2014. Ngôi làng và cảnh quan tuyến đường gia súc “Köç Yolu” đã được công nhận là Di sản thế giới trong phiên họp lần thứ 45 diễn ra vào tháng 9 năm 2023. Hình ảnh Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài Trang web văn hóa và ngôn ngữ Xinaliq Trang chính Xinaliq Trang du lịch Xinaliq.com Thông tin du lịch Xinaliq Danh sách theo dõi của Quỹ di tích thế giới 2008 đối với Khinalug Khu dân cư Guba Di sản thế giới tại Azerbaijan
19830689
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20ty%20B%C3%A0i%20t%C3%A2y%20Hoa%20K%E1%BB%B3
Công ty Bài tây Hoa Kỳ
Công ty Bài tây Hoa Kỳ (tiếng Anh: The United State Playing Card Company; viết tắt: USPC, mặc dù còn thường được gọi là USPCC) là nhà sản xuất và phân phối bài tây lớn của Mỹ. Nó được thành lập vào năm 1867 với tên Russell, Morgan & Co. và thành lập với hình thức hiện tại vào năm 1885. Nhiều thương hiệu của nó bao gồm Bicycle, Bee, Tally-Ho, Congress, Aviator, Aristocrat, Mohawk, Maverick, KEM, Hoyle và Fournier. Công ty cũng sản xuất các bộ bài tây mới và tùy chỉnh cũng như các phụ kiện chơi bài khác như chip. Trong nhiều thập kỷ, công ty có trụ sở tại Norwood, Ohio, nhưng tính đến năm 2009, USPC hiện có trụ sở chính tại vùng ngoại ô Cincinnati của Erlanger, Kentucky. Vào tháng 12 năm 2019, Công ty Bài tây Hoa Kỳ đã trở thành công ty con của Cartamundi - nhà sản xuất thẻ Bỉ. Lịch sử Công ty được thành lập tại Cincinnati vào năm 1867 với tên gọi Russell, Morgan & Co. và ban đầu chuyên in áp phích cho các rạp xiếc lưu động. Công ty lấy tên từ các đối tác A. O. Russell và Robert J. Morgan, những người cùng với James M. Armstrong và John F. Robinson Jr. đã mua bộ phận Enquirer Job Printing Rooms của tờ báo The Cincinnati Enquirer. Trong số các bản in thạch bản của họ có quảng cáo cho các buổi biểu diễn của Edward Owings Towne's Other People's Money. Bài tây Công ty bắt đầu in bốn nhãn hiệu bài tây vào năm 1881: Tigers ( 101), Sportsman's ( 202), Army and Navy (cả hai  303 và cũng được cung cấp ở phiên bản cao cấp có viền vàng là  505) và Congress ( 404 và có viền vàng là  606). Thương hiệu thứ năm của họ, được giới thiệu vào năm 1883, là Steamboat giá hời ( 999), cạnh tranh với các loại boong có chủ đề tàu hơi nước giá rẻ khác do các công ty khác cung cấp. Năm 1885, họ bắt đầu in thẻ Bicycle ( 808), đây sẽ trở thành dòng sản phẩm phổ biến nhất và là thương hiệu đầu tiên duy nhất của họ vẫn được sử dụng thường xuyên cho đến ngày nay. Bộ bài Euchre 32 lá có tên là Cabinet ( 707) được giới thiệu vào năm 1888, nhưng sẽ được đổi thành bộ bài 52 lá thông thường khi mức độ phổ biến của bộ bài Euchre suy yếu. Russell & Morgan sau đó bắt đầu lấp đầy danh mục của họ với các thương hiệu ở mức giá nằm giữa các dòng sản phẩm hiện có của họ. Những thương hiệu ban đầu này bao gồm Tourists ( 155) được bán trên thị trường về chất lượng giữa Tigers và Sportsman, Capitol ( 188) giữa Sportsman's và Bicycle, the casino-oriented Squared Faro ( 336), những lá bài không tên gọi là Texan ( 45), double-enameled Treasury ( 89) và the top-of-the-line Ivory ( 93). Một loạt bộ bài Skat cũng được cung cấp trong thời gian ngắn để thu hút những người Đức nhập cư, có hình mặt người Đức hoặc người Mỹ. Việc kinh doanh bùng nổ và vào năm 1891, Russell, Morgan & Co. đổi tên thành Công ty In ấn Hoa Kỳ. Việc kinh doanh bài tây đã thành công đến mức nó được tách ra thành một doanh nghiệp riêng biệt vào năm 1894, với tên gọi The United States Playing Card Company. Morgan chiêu mộ nhà phát minh trẻ tài năng đến từ New York tên là Samuel J. Murray, người có phát minh được cấp bằng sáng chế đã tăng sản lượng thẻ tại nhà máy Norwood, Ohio của công ty lên gấp bốn lần và cắt giảm chi phí lao động tới 66%. Murray cũng đã tạo ra một chiếc máy tráng men hai mặt. USPCC trong lịch sử đã hỗ trợ những người lính thời chiến, bắt đầu với nhãn hiệu thẻ Canteen rẻ tiền trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ và thương hiệu Pickett trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, USPCC đã sản xuất thẻ định vị để binh lính có thể xác định các đơn vị của kẻ thù và hợp tác với Chính phủ Hoa Kỳ trong việc tạo ra các bộ bài bí mật trao cho tù binh chiến tranh, những tấm thẻ này có thể được làm ẩm và bóc ra để lộ bản đồ trốn thoát. Vào tháng 5 năm 2011, Marc Hill được bổ nhiệm làm chủ tịch của Công ty Thẻ trò chơi Hoa Kỳ. Vào tháng 10 năm 2011, Công ty Thẻ trò chơi Hoa Kỳ hợp tác với Encore Software thông báo rằng họ sẽ ra mắt dòng sản phẩm Hoyle 2012 - Hoyle Card Games 2012, Hoyle Casino Games 2012 và Hoyle Puzzle & Board Games 2012. Mua lại Công ty đã mua lại nhiều nhà sản xuất bài tây nhỏ hơn, bắt đầu từ năm 1894 khi sáp nhập Công ty Bài tây tiêu chuẩn của Chicago, Công ty bài tây hoàn hảo của Philadelphia và Công ty bài tây hợp nhất New York. Sau này là nhà sản xuất thương hiệu Bee và là người đổi mới các chỉ số quân bài "ép" ở các góc, đã trở thành một yếu tố tiêu chuẩn của bài tây trên toàn thế giới. Các hoạt động mua lại tiếp tục vào năm 1907 với việc mua Andrew Dougherty, thêm thương hiệu Tally-Ho, và vào năm 1929 với Russell Playing Card Company, thêm thương hiệu Aristocrat. Năm 1930, New York Consolidated, Andrew Dougherty và Standard Playing Card Company được sáp nhập thành một công ty con duy nhất có tên Consolidated-Dougherty, tiếp tục sản xuất các thương hiệu từ cả ba công ty tiền nhiệm, bao gồm Aristocrat, Bee và Tally-Ho. Các thương vụ mua lại tiếp theo diễn ra vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, bao gồm cả việc mở rộng quốc tế với việc mua nhà sản xuất thẻ lâu năm Naipes Heraclio Fournier của Tây Ban Nha vào năm 1986, Arrco Playing Card Company năm 1987, Hoyle Products năm 2001 và bộ bài tây KEM năm 2004. USPCC đã được mua lại nhiều lần trong lịch sử của nó, bắt đầu với Diamond International vào năm 1969, Jessup & Lamont vào năm 1982 và Frontenac vào năm 1989. Sau một thời gian ngắn trở lại quyền sở hữu tự chủ từ năm 1994 đến năm 2004, nó sẽ được mua lại bởi Jarden, lần lượt được mua lại bởi Newell Brands. Vào tháng 6 năm 2019, Newell đã bán USPCC cho nhà sản xuất bài tây Cartamundi của Bỉ, bao gồm hai nhà máy của hãng này ở Hoa Kỳ và Tây Ban Nha. Sản xuất USPCC hiện sản xuất thẻ ở Erlanger, Kentucky và tại nhà máy Fournier ở Vitoria, Tây Ban Nha. Năm 2009, USPCC đóng cửa nhà máy lâu năm ở Norwood, Ohio và chuyển qua sông Ohio đến Erlanger. Các lá bài được sản xuất từ ​​năm 2009 đến năm 2012 tại nhà máy Erlanger có nhiều vấn đề về kiểm soát chất lượng, bao gồm cả việc đặt sai hình ảnh và chất lượng xử lý lá bài. Ví dụ: một số thẻ chơi được sản xuất năm 2010 bị "dính", nghĩa là chúng không tách rời, quạt và hoạt động tốt. Điều này tạo ra nhu cầu về thẻ chơi do Norwood sản xuất trên thị trường. Các lá bài được sản xuất ở Norwood thường có con dấu màu xanh lam, trong khi các lá bài ở Kentucky thường có con dấu màu đen và cho đến ngày nay, những lá bài do Norwood sản xuất vẫn được các nhà ảo thuật, người chơi bài, người chơi cờ bạc chuyên nghiệp và nhà sưu tập săn đón. Các dòng sản phẩm chính Công ty cung cấp một số thương hiệu bài tây, bao gồm: Aristocrat Thương hiệu Aristocrat được tạo ra vào năm 1915 bởi Russell Playing Card Company ở New York, được USPC mua lại vào năm 1929. Nó được biết đến nhiều nhất nhờ chất lượng kho thẻ cao hơn và công việc cuộn đa dạng nhưng luôn phức tạp, đặc biệt là "tiền giấy" trở lại, giống với thiết kế của tờ tiền Hoa Kỳ vào thời điểm nó được giới thiệu, vì Russell đã mua lại công việc kinh doanh thẻ chơi bài của ABCorp vào năm 1914. Trong khi các thẻ được bán cho công chúng mang theo tác phẩm cuộn độc đáo, Aristocrat cũng sản xuất dòng thẻ Aristocrat "Club Special" dành riêng cho sòng bạc. Chúng tương tự như thẻ Bee ở chỗ mặt sau của chúng không có viền với hoa văn kim cương và có thể tùy ý thêm biểu tượng sòng bạc vào mặt sau. Aristocrat đã ngừng hoạt động như một thương hiệu bán lẻ vào giữa những năm 1980 nhưng vẫn tiếp tục được bán trực tiếp cho các sòng bạc. Đã hết lần tái bản hơn ba mươi năm, những lá bài Aristocrat nguyên gốc đã được tái bản vào năm 2017 và hiện vẫn đang được sản xuất. Aviator Được giới thiệu vào năm 1927 để kỷ niệm chuyến bay xuyên Đại Tây Dương của Charles Lindbergh trong Spirit of St. Louis, bộ bài Aviator ( 914) có thiết kế mặt sau có viền, đơn sắc chủ yếu là các hình tròn. Thẻ Aviator rẻ hơn so với Bee và Bicycle vì bìa thẻ mỏng hơn và có bề mặt mịn, không giống như lớp hoàn thiện có kết cấu "đệm khí" được sử dụng trong nhiều thương hiệu cao cấp của công ty. Cho đến cuối những năm 1980, Aviator Ace of Spades và Joker không có thương hiệu cụ thể. Thẻ Aviator thường được sử dụng như một thương hiệu chung cho các bộ bài giới hạn, tặng quà hoặc quảng cáo. Chúng cũng được sử dụng để đựng các hộp thẻ chủ yếu được bán để xuất khẩu hoặc sử dụng cho mục đích quân sự hoặc tổ chức. Các thương hiệu bình dân như Caravan, Torpedo, Mohawk, Battle Axe, Uncle Sam và Tuxedo thường chứa đầy thẻ Aviator và một số thương hiệu này vẫn được bán ở các quốc gia khác. Bee Bee là một thương hiệu thẻ sòng bạc cũng được bán lẻ. Bài tây Bee được sản xuất lần đầu tiên bởi Công ty Thẻ Hợp nhất New York vào năm 1892, do đó có số "92" trên lá Át bích. USPC mua lại công ty này hai năm sau đó, nhưng nó vẫn tiếp tục hoạt động độc lập, ngay cả sau khi sáp nhập với Andrew Dougherty và Standard Playing Card Company để thành lập Consolidated-Dougherty. Các lá bài Bee tiêu chuẩn có mặt sau bằng kim cương, thường có màu xanh lam hoặc đỏ, mặc dù các sòng bạc thường sử dụng các lá bài Bee tùy chỉnh có logo được thêm vào các mặt sau có màu sắc khác nhau. Cho đến năm 2010, bộ bài Bee đôi khi cũng được in hoàn thiện mịn, với mặt sau được gọi là "Số 35", có các họa tiết nguệch ngoạc giống như con sâu. Không giống như các lá bài Bicycle, các lá bài Bee thường có mặt sau không viền, khiến cho mặt của bất kỳ lá bài nào bị lộ một phần đều có thể nhìn thấy rõ ràng. Tuy nhiên, mặt sau hình kim cương tiêu chuẩn của thẻ rất đều đặn và có cấu hình thấp so với các thiết kế mặt sau khác, giúp đơn giản hóa việc "xử lý đáy" và một số hình thức thủ công khác. Bicycle Bộ bài Bicycle ( 808) là thương hiệu thẻ hàng đầu của USPC, được giới thiệu vào năm 1885. Bộ bài Bicycle điển hình là một bộ bài tiêu chuẩn bao gồm 52 lá bài truyền thống kiểu Pháp, hai Joker và hai lá bài thông tin/hướng dẫn. Nhãn hiệu Bicycle được in trên quân Át bích. Số loại của bộ bài Bicycle có thể được tìm thấy ở cả đáy hộp đựng bộ bài và trên đá của tác phẩm nghệ thuật joker. Thẻ Bicycle có kết cấu 'đệm khí' để cải thiện khả năng xử lý. Bộ bài Bicycle được bán ở dạng poker và bridge, với các cấu hình bộ bài bổ sung để sử dụng trong các trò chơi khác như pinochle, rummy, euchre và canasta. Các thiết kế mặt sau bao gồm mặt sau 'Rider' tiêu chuẩn, mặt sau 'Vintage' được mô phỏng theo thiết kế thẻ gốc và nhiều thiết kế đặc biệt. Màu sắc mặt sau bao gồm đỏ và xanh truyền thống, cùng với các màu đen, bạc và pastel. Các thiết kế khuôn mặt bao gồm tiêu chuẩn, chỉ số jumbo, các lá bài có tầm nhìn kém dành cho người khiếm thị và thiết kế 'PokerPeek' trên các bộ bài chuyên nghiệp của họ giúp đơn giản hóa việc xem các quân bài tẩy. Thẻ 'Big Bicycle' mới lạ có kích thước gấp bốn lần thẻ bài cầu thông thường và thẻ cỡ nhỏ cũng có sẵn. Bộ bài Bicycle thường được các nhà ảo thuật sử dụng trong ảo thật bài tây và cardistry nhờ vẻ ngoài bình thường của chúng. USPCC đã phát hành các thiết kế thẻ trông giống nhau theo số kho 809 được gọi là Mandolin-backs và Maiden-backs để sử dụng trong việc sản xuất các bộ bài được đánh dấu. Ngoài các bộ bài đặc biệt được thiết kế đặc biệt cho ảo thuật, chơi bài hoặc vì lý do thẩm mỹ thuần túy, USPC còn tạo ra các loại bộ bài không chuẩn khác, chẳng hạn như bộ bài gaff (được đựng trong hộp nghệ thuật được nhân đôi) với nhiều loại bài được thay đổi bất thường. có thể được sử dụng với thẻ thông thường để thực hiện các thủ thuật. Bắt đầu từ năm 2019, Bicycle đã thành lập bộ phận "Games by Bicycle" để tham gia vào thị trường trò chơi dạng bảng theo sở thích, với trò chơi tiệc tùng và trò chơi chiến lược nhẹ sử dụng các thẻ có kích thước bằng quân bài. Chúng bao gồm Tatoo Stories, It's Blunderful và Shuffle Grand Prix. Theo một số nguyên tắc nhất định, thương hiệu Bicycle có thể được cấp phép từ USPC. Hoyle Thương hiệu Hoyle ban đầu được sản xuất bởi Công ty Brown & Bigelow vào năm 1927 và là đối thủ cạnh tranh chính với thương hiệu Bicycle của USPC trong hơn 70 năm. Những lá bài này đã chứng tỏ sự thành công đến mức bộ phận thẻ bài của Brown & Bigelow được đổi tên thành Hoyle Products vào năm 1975. Thiết kế mặt sau vỏ sò của Hoyle được nhiều người công nhận, nhưng nhân vật mang tính biểu tượng nhất của Hoyle chính là Joker: một gã hề đầy màu sắc có khuôn mặt (lặp đi lặp lại trên vương trượng) là một ảo ảnh quang học. USPC đã mua Sản phẩm Hoyle từ Brown & Bigelow vào năm 2001, và không giống như hầu hết các thương vụ mua lại công ty thẻ bài khác của mình, USPC đã giữ lại một số thương hiệu Hoyle nổi tiếng được in. Kể từ khi USPCC tiếp quản việc sản xuất, bài tây Hoyle cũng được sản xuất ở phiên bản hoàn toàn bằng nhựa. KEM Bộ bài KEM được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1935. Không giống như bộ bài thông thường được làm từ giấy tráng nhựa, bộ bài KEM được làm hoàn toàn từ cellulose acetate và không thấm nước. USPC đã mua thương hiệu này vào năm 2004. Sau hai năm gián đoạn, USPC đã khởi động lại hoạt động sản xuất bộ bài KEM và hoạt động này vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Bộ bài KEM có sẵn cho người tiêu dùng (thường là tại các cửa hàng trò chơi đặc biệt) với nhiều màu sắc và kiểu dáng mặt sau khác nhau ở cả kích cỡ poker và bridge. Năm 2007, bộ bài KEM (sử dụng hình ảnh của Bicycle) đã được sử dụng làm bộ bài tây chính thức của World Series of Poker. Maverick Maverick là thương hiệu bình dân của Hoyle khi nó được USPC mua lại cùng với phần còn lại của Hoyle Products vào năm 2001. Được giới thiệu vào năm 1959, trong thời gian chiếu loạt phim truyền hình nổi tiếng Maverick.  Không giống như hầu hết các dòng sản phẩm của USPC hiện nay, Maverick hiện đang được các nhà sản xuất gia công in. Streamline Streamline là một thương hiệu cấp thấp, tương tự như Maverick, với mặt lưng đơn sắc được viền viền và lớp hoàn thiện được phủ nhựa mịn. Streamline đến với USPCC từ Công ty Bài tây Arrco, nhà sản xuất lâu năm của nhiều loại thẻ cấp thấp và giá bình dân mà USPC mua lại vào năm 1987. Giống như Maverick, bộ bài Streamline được sản xuất bởi các nhà sản xuất bên ngoài. Tally-Ho Tally-Ho ban đầu là sản phẩm của Andrew Dougherty, một trong những nhà sản xuất bài tây sớm nhất của Mỹ, được giới thiệu vào năm 1885, cùng năm Bicycle được giới thiệu. Công ty của Dougherty được USPC mua lại vào năm 1907, đưa Tally-Ho vào danh mục sản phẩm của mình. Dougherty sau đó sẽ được sáp nhập với Công ty Bài tây Hợp nhất New York và Công ty Bài tây Tiêu chuẩn để thành lập Hợp nhất-Doughterty. Bộ bài Tally-Ho có hai thiết kế mặt sau, được gọi là mặt sau "quạt" và mặt sau "vòng tròn", thường có màu đỏ và xanh truyền thống. Do lớp hoàn thiện độc đáo, được gọi là "linoid" và các thiết kế khác biệt, chúng rất phổ biến để thiết kế thẻ bài. Dòng sản phẩm quốc tế Ngoài việc xuất khẩu bài tây được sản xuất tại Hoa Kỳ, USPCC còn có một số thương hiệu dành riêng cho thị trường quốc tế. 500 Thương hiệu 500 (Five Hundred) ban đầu được tạo ra bởi National Playing Card Company dưới dạng bộ bài rummy 60 lá "6 tay" bao gồm các lá bài 11 điểm và 12 điểm, cũng như một lá bài joker. Cuối cùng, bộ bài 500 còn bao gồm 2 lá bài 13 điểm dành cho trái tim và bộ đồ kim cương, nâng tổng số lá bài lên 62 (không bao gồm lá joker). Khi được giới thiệu, bộ bài 500 có lớp hoàn thiện Ivory hoặc Air-Cushion và có bốn thiết kế mặt sau - Bid, Full-House, Griffin và Swastika (có thể đã ngừng sản xuất do liên kết với Đảng Quốc xã). Ban đầu được cất giữ trong một chiếc hộp cứng được trang trí công phu với chữ vàng. Vào khoảng những năm 1970, những chiếc hộp đựng sang trọng hơn đã bị loại bỏ dần. Đôi khi trong những năm 1990, hình ảnh hộp độc đáo đã được thay đổi thành một thiết kế đơn giản hơn có nội dung "500 Playing Cards". Hiện nay nó được sản xuất và bán chủ yếu để xuất khẩu sang Úc. Aladdin Thương hiệu Aladdin lần đầu tiên được sản xuất bởi Công ty Bài tây Quốc gia Indianapolis vào những năm 1880. Số tồn kho là "1001", mặc dù cũng có phiên bản "1002", giống hệt ngoại trừ phiên bản 1002 có các cạnh mạ vàng. Ngoài ra còn có biến thể "1004", không có chỉ số ở các góc. Ít nhất bốn thiết kế mặt sau khác nhau đã được sản xuất, nhưng không biết có bao nhiêu chiếc được sản xuất hoặc trong bao lâu. Aladdin được USPCC giữ lại và tiếp thị sau khi USPCC mua lại NCC. Chúng được USPCC sản xuất ngày nay chủ yếu để xuất khẩu. Những tấm thẻ này được cho là được thiết kế để chịu được nhiệt độ và độ ẩm liên tục ở Singapore. Chúng được sản xuất với lớp hoàn thiện "mịn" và lớp hoàn thiện "đệm khí". Fournier Naipes Heraclio Fournier S.A. sản xuất nhiều bộ bài khác nhau, hầu hết được bán ở Châu Âu. Bộ bài Fournier cũng là lựa chọn phổ biến cho các sòng bạc trên toàn thế giới. Ngoài các lá bài Tây Ban Nha  1 đặc trưng của họ, họ còn sản xuất các lá bài poker (dòng  18), bài tarot và các lá bài đặc biệt. Kể từ khi được USPC mua lại, Fournier cũng đã sử dụng thương hiệu Bicycle để phân phối các bộ bài phiên bản đặc biệt có tác phẩm nghệ thuật độc đáo. Họ cũng đã lợi dụng việc USPC mua lại công nghệ thẻ nhựa của KEM để bán các phiên bản thẻ nhựa của họ ( 2100 là phiên bản hoàn toàn bằng nhựa của 1 của họ). Thương hiệu giới hạn hoặc đã ngừng sản xuất Arrco Công ty Bài tây Arrco bắt đầu hoạt động tại Chicago năm 1927 với tên Công ty Bài tây Arrow. Người sáng lập công ty, Theodore Regensteiner đã giúp phổ biến thương hiệu Arrco bằng cách triển khai lớp phủ nhựa mới dễ thao tác cho bộ bài của mình. Trong khi Arrco duy trì doanh số bán nhiều loại thẻ chơi bài bình dân và cấp thấp trong suốt nửa sau của thế kỷ 20, gia đình Regensteiner quyết định bán công ty cho USPC vào năm 1987. USPC tiếp tục in nhãn hiệu Arrco cho đến khi nó bị ngừng sản xuất vào năm 2011. Army & Navy Một trong năm nhãn hiệu thẻ đầu tiên được công ty giới thiệu vào năm 1881, khi nó vẫn còn được gọi là Russell & Morgan Co., Army & Navy ban đầu là hai nhãn hiệu riêng biệt mặc dù chúng có chung hai số chứng khoán: số tiêu chuẩn 303 và 505 cao cấp có viền vàng. Hai thương hiệu này sau đó được sáp nhập thành một thương hiệu Quân đội & Hải quân duy nhất vào năm 1884. Đúng như tên gọi, quân joker và Át bích của những thương hiệu này có xu hướng mô tả hình ảnh quân sự của Mỹ, hình ảnh này đã thay đổi qua nhiều năm sản xuất. Canteen & Picket 515, Canteen được phát hành trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Hoa Kỳ năm 1898. Chúng có chất lượng thấp nên binh lính không đắt và dễ dàng mua. Nó đã bị ngừng sản xuất ngay sau chiến tranh. Trong Thế chiến thứ nhất, số hàng tồn kho được sử dụng lại cho Picket, một nhãn hiệu rẻ tiền khác được in lại để bán cho binh lính. Việc in ấn Picket đã ngừng sau Hiệp định đình chiến. Congress Congress là thương hiệu đắt nhất trong số bốn nhãn hiệu đầu tiên được công ty giới thiệu vào năm 1881, khi nó vẫn còn được gọi là Russell & Morgan Co. Congress được in dưới hai loại số: số tiêu chuẩn 404 và 606 cao cấp có chữ viền vàng. Trong sử dụng hiện đại, thương hiệu Congress được sử dụng cho thẻ và phụ kiện contract bridge và canasta. Bộ bài có nhiều kiểu mặt sau khác nhau và thường được đựng trong hộp bọc nhung có khay kéo. Mỗi bộ bài Congress bao gồm 52 lá bài tiêu chuẩn, hai lá bài pha trò (có hình ảnh của United States Capitol) và một lá bài thông tin mô tả cách tính điểm cầu. Bộ bài Congress thường được bán theo bộ phối hợp gồm hai bộ bài để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hành bắc cầu thông thường bằng cách xen kẽ các bộ bài giữa các tay. Bộ bài Congress ban đầu có ba biến thể: kích thước Poker (1881-1922), kích thước Whist (đầu những năm 1900 đến 1922) và kích thước cầu 1922 trở đi). Từ năm 1881 đến khoảng năm 1900, bộ bài có hình Lord Dundreary là quân joker và mặt sau có viền màu đồng nhất với mực màu vàng (và đôi khi là đồng), được gọi một cách trìu mến là "mặt sau sơn mài". Năm 1899, mặt sau có hình ảnh đã trở thành tiêu chuẩn. Từ năm 1897 đến năm 1904, những lá joker là hình ảnh đen trắng ở mặt sau. Rambler Bộ bài Rambler ( 23) là một thương hiệu thẻ chơi khác ban đầu được sản xuất bởi National Card Company. Chúng có các cạnh mạ vàng và lớp phủ oxit nhôm mịn không thấm nước. Chúng chủ yếu được sản xuất để xuất khẩu cùng với bộ bài Aladdin, để sử dụng ở các vùng ẩm ướt ở châu Á. Việc sản xuất ban đầu bị dừng lại vào năm 2009 với việc đóng cửa nhà máy Norwood do vấn đề kiểm soát chất lượng tại nhà máy Kentucky và được tiếp tục không thường xuyên sau năm 2011. Sportsman's Một trong bốn nhãn hiệu bài tây đầu tiên được công ty giới thiệu vào năm 1881, khi đó vẫn còn được gọi là Russell & Morgan Co., Sportsman's ( 202) là thương hiệu thẻ bài cao cấp nhất được sản xuất ban đầu, có chủ đề săn bắn và câu cá. Mặt sau của lá bài có hình các động vật trong trò chơi, trong khi quân át bích và quân pha trò có hình thợ săn, súng và chó săn. Việc sản xuất những tấm thẻ này tiếp tục cho đến năm 1936. Steamboat 999 Thương hiệu thẻ thứ năm được USPC giới thiệu ( 999, được giới thiệu vào năm 1883), thương hiệu này được giới thiệu để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các loại bộ bài rẻ tiền (tại thời điểm giới thiệu, bộ bài Steamboat chỉ có giá 5 xu một bộ). Cho đến những năm 1990 khi các lá bài có sự thay đổi về bìa cứng, Steamboat là dòng bài rẻ nhất của công ty. Bộ bài đã tăng giá do kho 999 ban đầu được thay thế bằng kho Aviator và Bicycle 808. Bộ bài Steamboat được cung cấp với lớp hoàn thiện Air Cushion cho đến năm 2009 khi Công ty Thẻ trò chơi Hoa Kỳ chuyển đến Erlanger. Stud Stud là thương hiệu độc quyền của chuỗi cửa hàng Walgreens. Ban đầu chúng được sản xuất bởi công ty Arrco và sử dụng kho thẻ xuất khẩu sòng bạc chính của Arrco, Số 21. Khi được USPCC mua lại vào năm 1986, bộ bài Stud không còn được in trên kho Arrco và được in trên vải lanh hoàn thiện cổ phiếu Aristocrat. Chúng có hình một con ngựa "stud" trên hộp đựng, quân át bích và quân joker, cũng như cối xay gió ở mặt sau lá bài. Bộ bài có đặc điểm là các lá bài tòa án theo phong cách Arrco. Bộ bài stud được những người đam mê chơi bài và ảo thuật gia săn lùng rộng rãi do khả năng xử lý tuyệt vời của chúng. Tên Stud đã bị ngừng sử dụng trong thời gian ngắn và được thay thế bằng "Play Right", nhưng việc đổi tên không phổ biến. Thậm chí ít phổ biến hơn là cách lập chỉ mục bất thường (Bộ bài màu đỏ có kích thước tiêu chuẩn và bộ bài màu xanh lam có kích thước lớn) Vào năm 2019, Walgreens đã ngừng đặt hàng thẻ chơi Stud để chuyển sang sử dụng thẻ được thiết kế Theory11. Squeezers Thẻ thương hiệu Squeezer ban đầu được in bởi Công ty Thẻ Hợp nhất New York.  Công ty Thẻ Hợp nhất New York, Andrew Dougherty và Công ty Thẻ chơi Standard cuối cùng đều được mua lại và sáp nhập để tạo thành chi nhánh Hợp nhất-Doughterty của USPCC.  Thẻ chơi Squeezer được in bằng bộ bài Cambric Finish of Bee. Theo truyền thống, các lá bài Squeezer có nhiều thiết kế mặt sau, nhưng chỉ có hai loại phổ biến nhất (Bulldog và Angel Back nổi tiếng) vẫn được in. Không giống như hầu hết các bộ bài khác của USPCC, những bộ này chỉ thỉnh thoảng được sản xuất. Texan No. '45 Texan No. '45, ban đầu được in là '45 Texan, đã được in trong hơn 120 năm.  Những lá bài này, không giống như hầu hết các lá bài khác, không có đường viền và có hình những chiếc lá cọ Texas, với một ngôi sao ở giữa. Các lá bài cũng rất độc đáo vì chúng hơi bất đối xứng. Mặc dù ban đầu được in ở Hoa Kỳ, nhưng trong những năm sau đó, là một thương hiệu bài độc quyền của Canada. Không giống như một số thương hiệu khác, thương hiệu Texan vẫn được in sau khi chuyển đến Erlanger. 120 năm sau đó, việc sản xuất đã ngừng lại. Tigers Tigers ( 101) là thương hiệu đầu tiên được xuất bản vào năm 1881 và là thương hiệu rẻ nhất trong số bốn thương hiệu ra đời sớm nhất. Tên của nó xuất phát từ con hổ xuất hiện trên lá joker. Sau khi dòng Steamboat ra đời, tầm quan trọng của Tigers đã giảm đi và đã bị ngừng sản xuất vào khoảng năm 1930. Tham khảo Liên kết ngoài
19830695
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shivangi%20Joshi
Shivangi Joshi
Shivangi Joshi (sinh ngày 18 tháng 5 năm 1998 tại Pune, bang Maharashtra, Ấn Độ) là một nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình người Ấn Độ tham gia các bộ phim truyền hình bằng tiếng Hindi. Cô có vai diễn đầu tay trong bộ phim Khelti Hai Zindagi Aankh Micholi với vai diễn Trisha vào năm 2013. Cô được biết đến khi vào 2 vai diễn Naira Singhania Goenka và Sirat Shekhawat Goenka trong bộ phim Tình yêu diệu kỳ, đã giúp cô thu về nhiều giải thưởng. Cô còn được biết đến qua các vai diễn Aayat Haider trong bộ phim Beintehaa, Poonam Thakur trong bộ phim Begusarai và Anandi Chaturvedi trong bộ phim Cô dâu 8 tuổi 2. Năm 2022, cô tham gia chương trình Fear Factor: Khatron Ke Khiladi 12 và bị loại ở tập 8 với vị trí thứ 12 chung cuộc. Năm 2023, cô vào vai Aradhana Sahni trong bộ phim Barsatein – Mausam Pyaar Ka. Tiểu sử Shivangi Joshi sinh ngày 18 tháng 5 năm 1998 tại Pune, bang Maharashtra, Ấn Độ. Cô từng học ở Dehradun, Uttarakhand. Sự nghiệp Vai diễn đầu tay và sự đột phá trong diễn xuất (2013–2014) Cô có vai diễn đầu tay vào năm 2013 với vai diễn Trisha trong bộ phim Khelti Hai Zindagi Aankh Micholi phát sóng trên kênh Zee TV. Sau đó, cô thủ vai Aayat Haider trong bộ phim Beintehaa. Năm 2014, cô xuất hiện với vai diễn Vishy trong bộ phim Love by Chance. Cô vào vai Poonam Thakur trong bộ phim Begusarai và đóng chung với Vishal Aditya Singh. Bộ phim này cũng đánh dấu bước ngoặt lớn trong sự nghiệp diễn xuất của cô. Vai diễn này cũng giúp cô giành được giải thưởng Gương mặt mới nổi tại Giải thưởng Truyền hình Ấn Độ. Năm 2016, cô vào vai Meera trong phần 4 của bộ phim Yeh Hai Aashiqui và Jyoti trong bộ phim Pyaar Tune Kya Kiya. Thành công vững chắc với vai diễn trong bộ phim Tình yêu diệu kỳ (2016–2021) Năm 2016, cô vào vai Naira Singhania Goenka trong bộ phim Tình yêu diệu kỳ, giúp cô được nhiều khán giả tại Ấn Độ biết đến. Phản ứng hóa học của cô với Mohsin Khan được nhiều khán giả đánh giá cao và giúp cô trở thành một trong những nữ diễn viên hàng đầu Ấn Độ. Với vai diễn này, cô đã nhận được nhiều giải thưởng và đề cử, bao gồm Giải thưởng Truyền hình Ấn Độ, Giải thưởng Hàn lâm Truyền hình Ấn Độ, Giải Vàng, Giải Biểu tượng Vàng... Vào tháng 1 năm 2021, nhân vật của cô bị sát hại, nhưng cô vẫn tiếp tục tham gia với vai diễn rất giống Naira, Sirat Shekhawat Goenka. Cô đã chia tay đoàn làm phim vào tháng 10 năm 2021 và nhân vật Sirat cũng qua đời. Năm 2020, cô ra mắt tại Liên hoan phim Cannes với bộ phim điện ảnh Love X Society, nhưng do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, nên bộ phim sau đó đã được phát hành trên nền tảng OTT. Năm 2021 và 2022, cô vào vai Anandi Bhujaariya trong phần 2 của bộ phim Cô dâu 8 tuổi và đóng chung với Randeep Rai. Fear Factor: Khatron Ke Khiladi 12 và các công việc khác (2022–nay) Năm 2022, cô tham gia chương trình truyền hình thực tế Fear Factor: Khatron Ke Khiladi 12 được ghi hình tại Cape Town, Nam Phi, cô dừng bước từ tập 8 và kết thúc ở vị trí thứ 12. Năm 2023, cô vào vai Prachi trong bộ phim Jab We Matched. Tháng 3 cùng năm, cô xuất hiện chớp nhoáng với vai diễn Rajpari Devlakha trong bộ phim Bekaboo. Từ tháng 7 năm 2023, cô thủ vai Aradhna Sahni và đóng chung với Kushal Tandon cùng Simba Nagpal trong bộ phim Barsatein – Mausam Pyaar Ka. Một số công việc khác Shivangi Joshi là Đại sứ Thanh niên của Tổ chức phi chính phủ Khushii, do cầu thủ cricket Kapil Dev làm Giám đốc điều hành, với mục đích hỗ trợ trẻ em phát triển toàn diện. Sự nổi tiếng trong giới truyền thông Trong Danh sách 50 phụ nữ quyến rũ nhất châu Á do tạp chí Eastern Eye có trụ sở chính tại Anh công bố, Shivangi Joshi xếp vị trí thứ 5 vào năm 2018, còn năm 2019, cô xếp ở vị trí thứ 7. Trong Danh sách 50 người nổi tiếng của châu Á do Eastern Eye công bố, cô xếp ở vị trí thứ 26 vào năm 2020. Cô cũng được xếp hạng vào danh sách 30 ngôi sao nổi tiếng của châu Á dưới 30 tuổi cũng do Eastern Eye công bố vào năm 2022. Trong Danh sách 20 người phụ nữ được khao khát nhất trên sóng truyền hình Ấn Độ do tạp chí The Times of India, cô xếp ở vị trí thứ 7 vào năm 2019 và vị trí thứ 9 vào năm 2020. Danh sách tác phẩm Phim điện ảnh Phim và chương trình truyền hình Với tư cách là khách mời Phim chiếu mạng Phim ca nhạc Giải thưởng và đề cử Xem thêm Mohsin Khan Ghi chú Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1998 Nhân vật còn sống Nữ diễn viên điện ảnh Ấn Độ Nữ diễn viên truyền hình Ấn Độ Nữ diễn viên Ấn Độ thế kỷ 21
19830702
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hamada%20Seiji
Hamada Seiji
(sinh ngày 23 tháng 1, 1963) là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Kōchi kể từ ngày 7 tháng 12 năm 2019. Tham khảo Sinh năm 1963 Người Kōchi
19830708
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong%20tr%C3%A0o%20Rael
Phong trào Rael
Phong trào Rael (Raëlism) hay Giáo phái Raelian (Raëlianism) là một tôn giáo UFO được Claude Vorilhon (hiện được gọi là Raël) thành lập vào những năm 1970 tại Pháp và có trụ sở chính tại Geneva thuộc Thụy Sĩ. Các học giả về tôn giáo phân loại giáo phái Raëlism là một phong trào tôn giáo mới. Nhóm này được chính thức hóa với tên gọi Phong trào Raëlian Quốc tế (IRM) hay Giáo hội Raëlian một tổ chức có thứ bậc dưới sự lãnh đạo của Raël có liên hệ với ARAMIS. Phong trào Raëlian quốc tế được mô tả là "tôn giáo UFO lớn nhất trên thế giới". Claude Vorilhon là một người Pháp vốn giáo chủ giáo phái Raelian tin rằng con người được tạo ra bởi người ngoài hành tinh từ hàng nghìn năm trước. Cuối năm 2002, giáo phái Raelian gây rúng động khi vị giáo chủ của giáo phái Raelian cùng Công ty Clonaid chuyên cung cấp dịch vụ sinh sản vô tính do ông ta sáng lập tuyên bố đã cho ra đời những đứa trẻ vô tính đầu tiên trên thế giới. Giáo lý Giáo phái Raëlism dạy rằng một giống loài ngoài trái đất được gọi là Elohim đã tạo ra loài người bằng công nghệ tiên tiến của họ. Những tín đồ Raëlians tin rằng chính những người ngoài hành tinh có trình độ khoa học tiên tiến, được gọi là Elohim (đấng Chúa trời toàn năng), đã tạo ra sự sống trên Trái đất thông qua kỹ thuật di truyền và rằng sự kết hợp giữa nhân bản con người và "chuyển giao tâm trí" cuối cùng có thể mang lại sự sống đời đời. Giáo phái này dạy rằng khoảng 25.000 năm trước Elohim đã đến Trái đất và biến đổi nó để sự sống có thể phát triển, Elohim đã sử dụng công nghệ tiên tiến để thiết lập mọi sự sống trên hành tinh. Là một tôn giáo vô thần, người ta cho rằng Elohim trong lịch sử đã bị nhầm lẫn với các vị thần. Giáo phái này tuyên bố rằng trong suốt lịch sử, Elohim đã tạo ra 40 con lai Elohim/con người, những người đóng vai trò là nhà tiên tri chuẩn bị cho nhân loại những sứ điệp về nguồn gốc của người ngoài hành tinh. Trong số đó có Đức Phật, Chúa Giêsu và nhà tiên tri Muhammad, và nay là Raël (Claude Vorilhon) là nhà tiên tri thứ 40 và là nhà tiên tri cuối cùng do Elohim ban cho với nghĩa là Sứ điệp từ những người trên bầu trời. Những người theo giáo phái Raëlists tin rằng kể từ vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima năm 1945, nhân loại đã bước vào Thời đại khải huyền, trong đó nhân loại tự đe dọa mình bằng sự hủy diệt hạt nhân. Giáo phái Raëlism cho rằng nhân loại phải tìm cách khai thác sự phát triển khoa học và công nghệ mới cho mục đích hòa bình và khi đạt được điều này, Elohim sẽ quay trở lại Trái đất để chia sẻ công nghệ của họ với nhân loại và thiết lập một điều không tưởng. Để đạt được mục tiêu này, người Raëlians đã tìm cách xây dựng một đại sứ quán cho Elohim, nơi có bãi đáp cho tàu vũ trụ của họ. Những tín đồ Raëlians tham gia thiền định hàng ngày, hy vọng vào sự bất tử về thể chất thông qua nhân bản con người và thúc đẩy một hệ thống đạo đức tự do với sự nhấn mạnh vào trải nghiệm tình dục. Năm 2003, Raël công khai nhận mình là Di Lặc là vị bồ tát tương lai được tiên tri của Phật giáo Đại thừa. Ông khẳng định rằng mình tiếp tục liên lạc bằng thần giao cách cảm với Elohim, nghe thấy giọng nói của Đức Giê-hô-va hướng dẫn ông đến với giáo phái Raëlian. Trong văn hóa Cuốn tiểu thuyết đang bán chạy ở Pháp là quyển La possibilité d’une ile, tiếng Anh: The Possibility of an Island (tạm dịch: Một hòn đảo là điều có thể) của tác giả của nó là Michel Houellebecq, nhà văn gây tranh cãi ở Pháp hiện nay lấy bối cảnh là một giáo phái nhân bản giống với Raëlians trong thế giới thực. Theo nhà xuất bản Fayard - nơi in và phát hành cuốn sách vừa kể, trong năm ngày đầu đã bán được 210.000 quyển, một kỷ lục đáng nể cho một quyển tiểu thuyết Pháp. Không những thành công trong nước, cuốn tiểu thuyết đã được 15 nước khác mua bản quyền để dịch trước khi nó được xuất bản tại Pháp. Sách đã được phát hành tại Đức, Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Ý và Mỹ vào ngày 31/8 vừa qua, tức cùng một ngày ở Paris. Cốt truyện cuốn Một hòn đảo là điều có thể gồm có hai phần. Phần một nói về cuộc đời của Daniel, một tác giả chuyên viết hài kịch, truyện cười giàu có và thành đạt đương đại. Phần hai thuộc lĩnh vực viễn tưởng là lời bình của Daniel 24 và Daniel 25 - bản sao thứ 24 và 25 của Daniel theo phương pháp sinh sản vô tính mấy ngàn năm sau về cuộc đời của ông tổ Daniel 1. Trong phần một, Daniel là một người khát khao hạnh phúc và bị ám ảnh bởi tình dục. Cả hai thứ này đều nằm ngoài tầm tay mặc dù anh cố đi tìm chúng. Người vợ thứ nhất, Isabelle là tổng biên tập một tạp chí dành cho con gái tuổi mới lớn vốn là một người phụ nữ coi chuyện ái ân là một bản năng thấp hèn, một cản ngại cho trí tuệ. Daniel ly dị, lấy Esther là một diễn viên điện ảnh Tây Ban Nha gợi cảm. Nhưng Esther cũng không phải là người trong mộng của Daniel vì cô coi chuyện ấy như một trò giải trí chứ không phải là bằng chứng của tình yêu. Ngày sinh nhật của Esther diễn ra một cuộc truy hoan tập thể và ai cũng thỏa mãn nhục dục trừ Daniel, 50 tuổi, vì anh là người duy nhất trên 25 tuổi. Esther tuyên bố chia tay với Daniel ngay sau đó. Chán đời, Daniel muốn tự tử nhưng ý chí đi tìm sự bất tử đã thắng. Daniel tìm đến giáo phái Elohim. Tất cả môn đồ của giáo phái này đều được bảo đảm tái sinh bất tận trong vòng 24 đến 48 giờ sau khi chết nhờ công nghệ sinh sản vô tính. Daniel 24 và Daniel 25 chính là kiếp sau của Daniel 1 nhờ công nghệ này hai ngàn năm sau. Trong thực tế, Elohim chính là giáo phái Raelian mà giáo chủ là Claude Vorilhon một người Pháp là bạn thân của chính tác giả. Giáo phái này từng là đề tài thời sự quốc tế vào cuối năm 2002 khi tuyên bố đã cho ra đời một đứa bé đầu tiên theo phương pháp sinh sản vô tính nhưng hư thực ra sao cho đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Cách đây 10 năm Michel Houellebecq (tên thật là Michel Thomas) sinh năm 1958, tại đảo Réunion của Pháp vốn là một nhà văn vô danh và chỉ được để ý năm 1994 với tác phẩm Extension du domaine de la lutte (tạm dịch Phát triển phạm vi đấu tranh) sau khi gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi trên văn đàn Pháp. Năm 1998, ông cho in cuốn Les particules élémentaires (Những hạt cơ bản). Quyển tiểu thuyết thứ ba có nhan đề Plateforme (từ này có rất nhiều nghĩa – mặt bằng, nền, sàn xe, cương lĩnh, một kiểu đặt tựa quen thuộc của tác giả) xuất bản năm 2001 nói về du lịch tình dục của Thái Lan và khủng bố Hồi giáo đã thực sự gây cơn sốt ở Pháp với mức tiêu thụ 350.000 quyển. Một hòn đảo là điều có thể là quyển tiểu thuyết thứ tư thu hút sự chú ý của các nhà phê bình và độc giả Pháp cách đây ba tháng bằng một phương thức tiếp thị độc đáo của nhà xuất bản Fayard là gửi truyện cho 15 nhà phê bình “phe ta” đọc trước để viết bài ca tụng, thống lĩnh trận địa phê bình văn học Pháp. Tất cả những tác phẩm của Michel Houellebecq đều được xếp vào thể loại tiểu thuyết luận đề. Những chủ đề quen thuộc của nhà văn này là người nhập cư, đạo Hồi, quan hệ nam nữ, vị trí của người cao tuổi trong xã hội, nỗi cô đơn, sinh sản vô tính toàn những vấn đề nhạy cảm của xã hội phương Tây và Các nhà phê bình văn học Pháp vẫn đang cãi nhau về hiện tượng Houellebecq. Chú thích Tham khảo Alexander, Brian, Rapture: A Raucous Tour of Cloning, Transhumanism, and the New Era of Immortality Basic Books, 2005. . Bates, Gary, Alien Intrusion: UFOs and the Evolution Connection New Leaf Press, 2005. . Colavito, Jason, The Cult of Alien Gods: H. P. Lovecraft and Extraterrestrial Pop Culture. Prometheus, 2005. .] Edwards, Linda, A Brief Guide to Beliefs: Ideas, Theologies, Mysteries, and Movements. Westminster John Knox Press, 2001. . Genta, Giancarlo, Lonely Minds in the Universe: The Search for Extraterrestrial Intelligence. Springer, 2007. . Palmer, Susan J., Women in Controversial New Religions, in New Religious Movements and Religious Liberty in America, ed. Derek H. Davis & Barry Hankins, p. 66. Baylor University Press, 2004. Shanks, Pete, Human genetic engineering:a guide for activists, skeptics, and the very perplexed Nation Books, 2005. . Stock, Gregory, Redesigning Humans: Choosing our Genes, Changing our Future. Houghton Mifflin Books, 2002. . Tandy, Charles, Doctor Tandy's First Guide to Life Extension and Transhumanity Universal-Publishers.com, 2001. . United States Congress, Medical science and bioethics: attack of the clones? Hearing before the Subcommittee on Criminal Justice, Drug Policy, and Human Resources of the Committee on Government Reform, House of Representatives, One Hundred Seventh Congress, second session, 15 May 2002. Washington: U.S. G.P.O., 2003. Government Documents. Y 4.G 74/7:B 52/7. Raël, Intelligent Design. Nova Distribution, 2005. Raël, Geniocracy. The Raelian Foundation, 2004. Raël, Maitreya. The Raelian Foundation, 2003. Raël, Sensual Meditation. Tagman Press, 2002. Raël, Yes to Human Cloning: Immortality Thanks to Science. Tagman Press, 2001. . Liên kết ngoài Raelian Truth Network : Independent Information and Analysis of the Raelian Movement The Raëlian books compared to Jean Sendy's. Testimonies by ex-Raelians. RaëlianLeaks : Leaked documents of the International Raëlian Movement and fact-based background-check Raëlism Robert T. Carroll's skeptic dictionary entry Rael : The Masonic Messiah? Tôn giáo Cuồng giáo
19830723
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gia%20%C4%91%C3%ACnh%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF
Gia đình Quốc tế
Gia đình Quốc tế (The Family International, viết tắt TFI) là một phong trào tôn giáo mới của Mỹ được nhà thuyết giáo David Brandt Berg (1919–1994) thành lập vào năm 1968. Nhóm tôn giáo này đã có nhiều tên gọi khác nhau kể từ khi thành lập, bao gồm Thanh thiếu niên vì Chúa (Teens for Christ), Đứa con của Chúa (The Children of God, COG), Gia đình của Tình yêu thương (The Family of Love), hay đơn giản là Gia đình (The Family). Người sáng lập phong trào này David Brandt Berg vốn nguyên là mục sư Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp. Theo Tập đoàn truyền thông Canada (Canadian Broadcasting Corporation) vào lúc đương "ở đỉnh điểm" thì phong trào Gia đình Quốc tế đã có "hàng chục nghìn thành viên, bao gồm River Phoenix và Joaquin Phoenix, Rose McGowan và Jeremy Spencer". Sau này, một số cựu thành viên của nhóm đã cáo buộc TFI là một giáo phái độc tài chuyên lạm dụng thể chất và lạm dụng tình dục trẻ em một cách có hệ thống, dẫn đến tổn thương về lâu dài cho những người sống sót. Nhóm này cũng bị cáo buộc nhắm mục tiêu vào những người dễ bị tổn thương. Giáo lý TFI ban đầu truyền bá thông điệp về sự cứu rỗi, chủ nghĩa tận thế, tinh thần "cách mạng và hạnh phúc" và sự ngờ vực đối với thế giới bên ngoài, mà các thành viên gọi là Hệ thống. Giống như một số nhóm theo trào lưu chính thống khác, nó "báo trước sự xuất hiện của một nhà độc tài được gọi là kẻ phản Chúa, sự nổi lên của Chính phủ Một Thế giới tàn bạo và cuối cùng là sự lật đổ của nó dưới tay Chúa Giêsu Kitô, trong Ngày tái lâm". Năm 1976. Người sáng lập và lãnh đạo tiên tri của TFI là David Berg (người lần đầu tiên được gọi là "Moses David" và cũng được các hội viên gọi là "Cha David") tự phong cho mình các danh hiệu "Vua", "Nhà tiên tri cuối cùng của thời kỳ cuối cùng", "Moses" và "David". Những đứa con của Chúa bị giải thể vào tháng 2 năm 1978 và Berg đổi tên nhóm của mình thành "Gia đình tình yêu" trong cái mà Berg gọi là "Cuộc cách mạng quốc hữu hóa tái tổ chức" (hay RNR). David Berg rao giảng về sự kết hợp giữa truyền giáo Cơ đốc giáo truyền thống, với các yếu tố phổ biến với Văn hóa phản kháng của thập niên 1960. Giáo hội của Berg kết hợp việc thờ phụng chúa Jesus cùng với các trào lưu yêu đương tự do của thập niên 60. Có rất nhiều "hình ảnh về ngày tận thế" được tìm thấy trong Sách Khải Huyền của Tân Ước, rao giảng về sự diệt vong sắp xảy ra đối với nước Mỹ và sự kém hiệu quả của các Giáo hội và nhà thờ đã thiết lập. David Berg "thúc giục quay trở lại cộng đồng Cơ đốc giáo ban đầu được mô tả trong Sách Công vụ của Kinh thánh, trong đó các tín đồ sống cùng nhau và chia sẻ với nhau tất cả" giống như cuộc sống chung chạ vào cuối những năm 1960 của những người hippi. Giáo phái này có luận thuyết về "Người trợ giúp tinh thần" bao gồm các thiên thần, các nhân vật tôn giáo và thần thoại khác cũng như con người đã khuất, bao gồm cả những người nổi tiếng như nữ thần Aphrodite, Người tuyết, Merlin, Nhân sư, Elvis Presley, Marilyn Monroe, Audrey Hepburn, Richard Nixon và Winston Churchill. David Berg giao tiếp với những người theo ông qua "Thư Mo" là những lá thư hướng dẫn và tư vấn về vô số chủ đề tâm linh và thực tiễn cho đến khi ông qua đời vào cuối năm 1994. Sau khi ông qua đời, người vợ góa của ông Karen Zerby trở thành lãnh đạo của TFI và đảm nhận các danh hiệu "Nữ hoàng" và "Nữ tiên tri". Bà còn được gọi là Maria, Mama Maria, Maria David, Maria Fontaine và Nữ hoàng Maria. Karen Zerby kết hôn với Steve Kelly (còn được gọi là Peter Amsterdam) vốn là một trợ tá của David Berg, người mà David Berg đã cẩn thận chọn làm "người phối ngẫu" của vợ ông. Steve Kelly lấy danh hiệu "Vua Peter" và trở thành gương mặt đại diện của TFI, phát biểu trước công chúng thường xuyên hơn Berg hay Zerby. Đã có nhiều cáo buộc lạm dụng tình dục trẻ em do nhiều cựu thành viên đưa ra. Thành viên giáo phái còn coi hoạt động tình dục là một "truyền thống". Các cô gái sẽ phải quan hệ với bất kỳ ai họ gặp để thu nạp thêm người vào giáo phái nên năm 1979, đã có hơn 19.000 người gia nhập giáo phái này. Một số người trong giáo phái đã mở rộng chính sách "flirty fishing" sang cả trẻ em, tín đồ trong nhóm được khuyến khích lạm dụng trẻ em. Bản thân David Berg cũng đã bị buộc tội này với nhiều cô gái trẻ, gồm cả con gái nuôi và cháu gái ông ta. "Yêu Chúa Giêsu" (Loving Jesus) là thuật ngữ mà các thành viên TFI sử dụng để mô tả mối quan hệ tình dục thân mật của họ với Chúa Giêsu. TFI mô tả việc giảng dạy "Chúa Giêsu Yêu Thương" là một hình thức cấp tiến của thần học cô dâu (hôn nhân thần bí). Họ tin rằng giáo hội của những người theo đạo là cô dâu của Chúa Kitô, được ơn gọi yêu thương và phục vụ Người với lòng nhiệt thành và tấm thân đầy hiếu khách của một người vợ, tuy nhiên, thần học về hôn nhân thần bí này còn đi xa hơn, khuyến khích các thành viên tưởng tượng ra Chúa Giê-su đang tham gia cùng họ khi quan hệ tình dục và thủ dâm. Các thành viên nam được cảnh báo nên hình dung mình là phụ nữ để tránh mối quan hệ đồng giới với Chúa Giêsu. Nhiều ấn phẩm của TFI và các thông điệp linh hồn được cho là của chính Chúa Giê-su, trình bày chi tiết về mối quan hệ tình dục, sự thân mật này mà họ tin rằng Chúa Giê-su mong muốn và cần làm. TFI tự tưởng tượng mình là "cô dâu" đặc biệt của mình trong thơ đồ họa, hình ảnh trực quan có hướng dẫn, tác phẩm nghệ thuật và những bài hát. Một số tài liệu truyền giáo của TFI không được đưa vào lưu hành các nước bảo thủ vì sợ nó có thể bị hải quan phân loại là nội dung khiêu dâm Tài liệu phác thảo quan điểm này của Chúa Giêsu và mong muốn của Ngài về mối quan hệ tình dục với các tín đồ đã được biên tập cho thanh thiếu niên, sau đó được biên tập thêm cho trẻ em. Sau đó, phong trào này bắt đầu một phương pháp truyền giáo được gọi là Dụ cá cắn câu (Flirty Fishing) bằng cách sử dụng yếu tố tình dục để "thể hiện tình yêu và lòng thương xót của Chúa" và thu hút những người cải đạo, dẫn đến sự tranh cãi. Dụ cá cắn câu (FFing) là một hình thức truyền giáo bằng sự thân mật thể xác được thực hiện từ khoảng năm 1974 đến năm 1987 của giáo phái Đứa con của Chúa (Children of God) hiện được gọi là Gia đình Quốc tế (Family International/TFI). Thuật ngữ này bắt nguồn từ Ma-thi-ơ 4:19 trong Tân Ước: "Khi Ngài đang đi dọc theo mé biển Ga-li-lê, thấy hai anh em kia, là Si-môn, cũng gọi là Phi-e-rơ, với em là Anh-rê, đang thả lưới dưới biển, vì hai anh em vốn là người đánh cá. Ngài phán cùng hai người rằng: Các ngươi hãy theo ta, ta sẽ cho các ngươi nên tay đánh lưới người. Hai anh em liền bỏ lưới mà theo Ngài". Lãnh đạo giáo phái David Berg từ đó suy ra rằng phụ nữ trong giáo phái của ông nên là "những người dụ cá" (còn được gọi là "mồi nhử" hoặc "nữ ngư dân"). Những người đàn ông mục tiêu được gọi là "cá". Giáo phái đã xuất bản một số tài liệu với hướng dẫn chính xác và phương pháp Dụ cá cắn câu được định nghĩa là sử dụng sự hấp dẫn giới tính để truyền đạo. Người phát ngôn John Francis mô tả "con cá" (con mồi) chính là đối tượng những "doanh nhân du lịch cô đơn" lưu trú trong khách sạn. Các thành viên nữ của Children of God, hay "nữ ngư dân" (Fisherwomen), sẽ dùng sự hấp dẫn quyến rũ của thân thể họ đối với con "cá" chỉ về những người đàn ông ngoại đạo ngoài giáo phái (thường xuyên tán tỉnh nhưng không phải nhất thiết lúc nào cũng quan hệ tình dục) đồng thời nhân dịp này để truyền đạo vì Chúa Giê-su và tìm kiếm sự quyên góp. Nhóm Con cái Thiên Chúa đã bảo vệ biện pháp này như một cách “làm chứng” cho Chúa Giêsu trước những người không sẵn lòng đón nhận nó. Theo một số nguồn tin, hơn 200.0000 đàn ông đã bị "cắn câu" và hơn 10.000 trẻ sơ sinh được sinh ra để làm nguồn nhân sự cho giáo phái sùng bái phụ nữ từ năm 1971 đến năm 2001. Việc làm này sau đó bị hạn chế khi các bệnh lây truyền qua đường tình dục lây lan trong giáo phái và sau đó bị bãi bỏ vào năm 1987, được cho là do sự lây lan của bệnh AIDS. Nhà nghiên cứu Bill Bainbridge thu được dữ liệu từ TFI cho thấy rằng, từ năm 1974 đến năm 1987, các thành viên đã quan hệ tình dục với 223.989 người khi thực hành dụ cá cắn câu. Mặc dù giáo phái không có vấn đề gì khi bỏ qua các chuẩn mực của Cơ đốc giáo về tội gian dâm, nhưng nó vẫn tuân theo "nền tảng của những người theo trào lưu chính thống Cơ đốc giáo" khi nói đến việc kiểm soát sinh sản. Chú thích Tham khảo Chancellor, James (2000). Life in The Family: An Oral History of the Children of God. University of Syracuse Press, Syracuse, NY. Bainbridge, William Sims (2002). The Endtime Family: Children of God. State University of New York Press. . Bainbridge, William Sims (1996). The Sociology of Religious Movements. Routledge. . Barker, Eileen. (1989). New Religious Movements, A Practical Introduction. Her Majesty's Stationery Office. . Barker, Eileen. (2021). "Children of God/The Family International Armageddon" . In James Crossley and Alastair Lockhart (eds.) Critical Dictionary of Apocalyptic and Millenarian Movements. Barrett, DV (1996). Sects, Cults and Alternative Religions. Blandford A. Cassell. . Lewis, James R, and Melton, J. Gordon (eds). (1994). Sex, Slander, and Salvation: Investigating The Family/Children of God. Center for Academic Press, Stanford, CA. Lynch, Dalva, and Paul Carden (1990). "Inside the 'Heavenly Elite': The Children of God Today." . Christian Research Journal, pp 16. McFarland, Robert (1994). "The Children of God." The Journal of Psychohistory 4(21). Melton, J. Gordon (2004). The Children of God, "The Family" (Studies in Contemporary Religion vol. 7). Signature Books. . Melton, J. Gordon (2004). The Family International Britannica Article Melton, J. Gordon and Robert L. Moore (1982). The Cult Experience: Responding to the New Religious Pluralism. The Pilgrim Press, New York, USA. Palmer, Susan J. (1994). "Heaven's Children: The Children of God's Second Generation" in Sex, Slander, and Salvation, op. cit. Palmer, Susan J., and Charlotte Hardman eds. (1999). Children in New Religions (3rd ed.). Rutgers University Press. . Shepherd, Gary, and Lawrence Lilliston (1994). "Field Observations of Young People's Experience and Role in The Family" in Sex, Slander, and Salvation, op. cit. Shepherd, Gary, and Shepherd, Gordon (August 2005). "Accommodation and Reformation in The Family/Children of God" , Nova Religio (Journal of the University of California) Shepherd, Gary and Shepherd, Gordon (Spring 2000)."The Moral Career of a New Religious Movement" The Oakland Journal. Wilson, Bryan and Jamie Cresswell, eds. (1999). New Religious Movements: Challenge and Response. Routledge, London, UK. Wright, Stuart (1987). Leaving Cults: The Dynamics of Defection. Society for the Scientific Study of Religion. Washington, D.C., USA. (Contains interviews with ex-members of three groups, among others the Children of God) Van Zandt, David (1991). Living in the Children of God. Princeton University Press, Princeton, New Jersey. Young, Shawn David, Hippies, Jesus Freaks, and Music (Ann Arbor: Xanedu/Copley Original Works, 2005). . McManus, Una (1980). Not for a Million Dollars. Impact Books. . Williams, Miriam (1999). Heaven's Harlots: My Fifteen Years As a Sacred Prostitute in the Children of God Cult. Quill. . "30 Members of Children of God arrested" (September 2, 1993). Washington Post, pp. A05 "The Family" and Final Harvest" (June 2, 1993). Washington Post, pp. A01 Goodstein, Laurie (2005), "Murder and Suicide Reviving Claims of Child Abuse in Cult ", The New York Times, January 15, 2005, pg. A-1 Don Lattin: Jesus Freaks: A True Story of Murder and Madness on the Evangelical Edge. HarperOne. . Mahoney, Mary (2020). Abnormal Normal: My Life in the Children of God'' Jones, Faith (2021). "Sex Cult Nun". Harper Collins. Liên kết ngoài DavidBerg.org – Official website explaining David Brandt Berg's mission, vision and message. KarenZerby.org – Karen Zerby's official site. TFICharter.com – Official Governing Documents of The Family International. Children of God.com – Official history of the COG (pre-TFI). xFamily – Wiki detailing TFI; includes large collections of multimedia, press coverage, and internal TFI publications. xFamily PubsDB – a near-complete database of all writings by David Berg and Karen Zerby. exfamily.org – information, forums, links, etc. about TFI by former first-generation members. Cuồng giáo Phong trào Kitô giáo mới
19830730
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20ngh%E1%BB%89%20l%E1%BB%AF%20h%C3%A0nh%20Ba%20T%C6%B0
Nhà nghỉ lữ hành Ba Tư
Nhà nghỉ lữ hành Ba Tư là một Di sản thế giới được UNESCO công nhận từ năm 2023 tại Iran bao gồm 54 nhà nghỉ lữ hành. Chúng là những quán trọ ven đường, cung cấp thức ăn, nước uống và chỗ ở cho các đoàn lữ hành, những người hành hương và cả những du khách. Các tuyến đường và vị trí của các nhà nghỉ lữ hành đều là những nơi có sự hiện diện của nước, điều kiện địa lý và an ninh tốt. Trong số các nhà nghỉ lữ hành được công nhận này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số vô số các nhà nghỉ khác được xây dựng dọc theo những con đường cổ của Iran. Chúng được coi là những ví dụ có ảnh hưởng và có giá trị nhất về nhà nghỉ lữ hành ở Iran, thể hiện sự đa dạng về phong cách kiến ​​trúc, khả năng thích ứng với điều kiện khí hậu và vật liệu xây dựng, trải dài qua hàng nghìn kilômét và được xây dựng trong nhiều thế kỷ. Cùng nhau, chúng hình thành lên sự phát triển của mạng lưới các nhà nghỉ lữ hành ở Iran trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Danh sách Tham khảo Di sản thế giới tại Iran
19830736
https://vi.wikipedia.org/wiki/Maria%20Leopoldine%20c%E1%BB%A7a%20%C3%81o
Maria Leopoldine của Áo
Dona Maria Leopoldine của Áo (22 tháng 1 năm 1797 – 11 tháng 12 năm 1826) là Hoàng hậu đầu tiên của Đế quốc Brasil với tư cách là vợ của Hoàng đế Dom Pedro I từ ngày 12 tháng 10 năm 1822 cho đến khi bà qua đời. Bà cũng là Vương hậu của Bồ Đào Nha trong thời gian trị vì ngắn ngủi của chồng bà với tư cách là Vua Dom Pedro IV từ ngày 10 tháng 3 đến ngày 2 tháng 5 năm 1826. Bà sinh ra ở Viên, Đại công quốc Áo, là con gái của Hoàng đế La Mã Thần thánh Franz II và người vợ thứ hai, Maria Teresa của Napoli và Sicilia. Trong số nhiều anh chị em của bà có Hoàng đế Ferdinand I của Áo và Maria Ludovica, Nữ Công tước xứ Parma, vợ thứ 2 của Hoàng đế Napoléon Bonaparte. Nền giáo dục mà Maria Leopoldine nhận được trong thời thơ ấu và thanh thiếu niên rất rộng rãi và chiết trung, với trình độ văn hóa cao hơn và đào tạo chính trị nhất quán hơn. Việc giáo dục các hoàng tử và công chúa nhỏ của Vương tộc Habsburg như vậy dựa trên niềm tin giáo dục do ông nội của họ là Hoàng đế La Mã Thần thánh Leopold II khởi xướng, người tin rằng "trẻ em nên được truyền cảm hứng từ khi còn nhỏ để có những phẩm chất cao, chẳng hạn như tính nhân văn, lòng nhân ái, và mong muốn làm cho mọi người hạnh phúc". Với đức tin Kitô giáo sâu sắc và nền tảng văn hóa và khoa học vững chắc (bao gồm chính trị quốc tế và các quan niệm về chính phủ), Nữ đại công tước đã được chuẩn bị từ khi còn nhỏ để trở thành một phối ngẫu hoàng gia đúng nghĩa. Vào thế kỷ XXI, một số nhà sử học đã đề xuất rằng bà là một trong những khớp nối chính về quá trình Brasil độc lập diễn ra vào năm 1822. Người viết tiểu sử của bà, nhà sử học Paulo Rezzutti, khẳng định rằng phần lớn là nhờ bà mà Brasil đã trở thành một quốc gia. Theo ông, vợ của Dom Pedro "coi Brasil như đất nước của mình, người Braszil là dân tộc của cô ấy và Độc lập là chính nghĩa của cô ấy". Bà cũng là cố vấn cho chồng về các quyết định chính trị quan trọng phản ánh tương lai của đất nước, chẳng hạn như Dia do Fico và sự phản đối và bất tuân sau đó đối với triều đình Bồ Đào Nha liên quan đến việc cặp đôi trở về Vương quốc Bồ Đào Nha. Do đó, với việc cai trị đất nước trong chuyến công du của Dom Pedro qua các tỉnh của Brazil, bà được coi là người phụ nữ đầu tiên trở thành nguyên thủ quốc gia ở một quốc gia châu Mỹ độc lập. Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Article by Princess Michael of Kent about Leopoldine Retrieved 26 January 2006 Hoàng nữ Áo Vương tộc Habsburg-Lothringen Vương tộc Habsburg Vương nữ Hungary Vương nữ Bohemia Hoàng nữ Vương nữ Sinh năm 1797 Mất năm 1826 Hoàng hậu Brasil Vương hậu Bồ Đào Nha Phối ngẫu Vương thất Bồ Đào Nha Vương tộc Bragança Nhiếp chính Brasil Pedro I của Brasil Người Bồ Đào Nha thế kỷ 19 Sản phụ tử vong
19830755
https://vi.wikipedia.org/wiki/Y%20%C4%90%E1%BA%B1ng%20B%C3%A1c%20V%C4%83n%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Y Đằng Bác Văn (định hướng)
Y Đằng Bác Văn (伊藤博文) có thể là: Itō Hirobumi (1841 – 1909), chính khách người Nhật, Toàn quyền Triều Tiên Itō Hirofumi (bóng chày) (1942 – ), cầu thủ bóng chày Itō Hirofumi (đạo diễn) (1954 – ), đạo diễn bộ phim Itō Hirofumi (shogi) (1960 – ), người chơi shogi
19830757
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amara%20Bo
Amara Bo
Amara Bo (; sinh ngày 24 tháng 12 năm 1999) là người mẫu và hoa hậu người Myanmar từng đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Myanmar 2023. Cô sẽ đại diện cho Myanmar tại Hoa hậu Hoàn vũ 2023 ở San Salvador, El Salvador. Tiểu sử Amara Bo sinh ra ở Mandalay. Cô có bằng cử nhân về khoa học máy tính. Cô theo học tại Đại học Nghiên cứu Máy tính, Mandalay. Năm 2019, Bo tham gia cuộc thi người mẫu Myanmar The Model Academy mùa 3 và lọt vào Top 5. Cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Thế giới Myanmar 2019 Bo bắt đầu sự nghiệp thi sắc đẹp của mình vào năm 2019, khi cô tham gia cuộc thi Hoa hậu Thế giới Myanmar 2019 tại Trung tâm Hội nghị Myanmar ở Yangon, nơi cô giành vị trí Á hậu 1 và thua người chiến thắng cuối cùng là Khit Lin Latt Yoon. Hoa hậu Hoàn vũ Myanmar 2022 Vào ngày 1 tháng 10 năm 2022, Bo đại diện cho Mandalay tại Hoa hậu Hoàn vũ Myanmar 2022 và tranh tài với 14 thí sinh khác vào chung kết tại Grand Ballroom của khách sạn Novotel ở Yangon, nơi cô lọt vào Top 10. Hoa hậu Hoàn vũ Myanmar 2023 Vào ngày 14 tháng 9 năm 2023, Bo đại diện cho Keng Tung tại Hoa hậu Hoàn vũ Myanmar 2023 và tranh tài với 31 ứng cử viên khác tại khách sạn Novotel Max Yangon ở Yangon, nơi anh giành được danh hiệu và kế nhiệm là Zar Li Moe. Hoa hậu Hoàn vũ 2023 Vào ngày 18 tháng 11 năm 2023, cô sẽ đại diện cho Myanmar tham dự Hoa hậu Hoàn vũ 2023 tại San Salvador, El Salvador. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1999 Nữ người mẫu Myanmar Nữ giới Myanmar Hoa hậu Nhân vật còn sống
19830760
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nakamura%20Sh%C5%8Dzabur%C5%8D
Nakamura Shōzaburō
là cựu chính khách người Nhật Bản. Trước đây, ông từng giữ vụ làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nhật Bản từ ngày 30 tháng 7 năm 1998 đến ngày 8 tháng 3 năm 1999. Tham khảo Cựu sinh viên Đại học Keio Sinh năm 1934 Mất năm 2023
19830766
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishimoto%20Rimi
Nishimoto Rimi
là diễn viên lồng tiếng và nhạc sĩ người Nhật. Thuộc công ty quản lý tài năng HiBiKi, cô chơi guitar bass cho ban nhạc Poppin'Party của thương hiệu BanG Dream!, bao gồm nhập vai cho nhân vật Ushigome Rimi. Sự nghiệp Nishimoto có hứng thú đến công việc lồng tiếng sau khi xem anime Mirmo! hồi tiểu học. Cô bắt đầu chơi piano và Electone lúc ba tuổi và guitar lúc 14 tuổi, và từng chơi kèn tuba và saxophone trong câu lạc bộ ban nhạc trường cấp hai và cấp ba. Vào tháng 4 năm 2013, Nishimoto đã thử vai cho một vị trí trong thương hiệu Tantei Opera Milky Holmes của Bushiroad và được vào vòng cuối. Mặc dù Itō Ayasa đã thắng vai, màn chơi guitar của Nishimoto đã thu hút sự chú ý của chủ tịch Bushiroad Kidani Takaaki và sau đó cô được tuyển vào dự án âm nhạc mới của ông là BanG Dream! với vai trò người chơi bass; vào lúc đó, Nishimoto có ít kinh nghiệm chơi bass nhất so với guitar và piano. Nishimoto, cùng với Itō và Aimi, là dàn diễn đầu tiên cho buổi hòa nhạc BanG_Dream! đầu tiên vào ngày 18 tháng 4 năm 2015, và ba người sẽ lập ban nhạc Poppin'Party với Ōtsuka Sae và Ōhashi Ayaka. Ngoài trình diễn nhạc trực tiếp, vai trò của Nishimoto trong thương hiệu bao gồm nhập vai Ushigome Rimi trong anime và trò chơi di động BanG Dream! Girls Band Party!; vài khía cạnh tính cách của nhân vật cũng được lấy từ tính cách ngoài đời thật của cô. Ca khúc nhân vật dựa trên Rimi do Nishimoto trình bày có tựa đề "Chocolate no Teion Recipe" được phát hành vào ngày 21 tháng 6 năm 2017; đĩa đơn được xếp hạng 20 trên Bảng xếp hạng đĩa đơn hàng tuần Oricon. Năm 2016, Nishimoto lồng tiếng cho Sonosaki Unne trong phim ngắn của Bushiroad We Are the Luck & Logic Club!, sau đó là Amol trong Hina Logi: From Luck & Logic vào năm sau. Cô cũng vào vai Mikado Haru trong bộ phim năm 2018 Future Card Buddyfight Ace, có bài hát "Saa Ikō!" của Poppin'Party làm bài hát chủ đề mở đầu. Nishimoto đã lồng tiếng cho Futagawa Fumi trong anime năm 2020 Assault Lily Bouquet và bộ spin-off Assault Lily Fruits. Cô vào vai Lulune trong anime năm 2021 Shinka no Mi: Shiranai Uchi ni Kachigumi Jinsei. Đời tư Nishimoto đã tốt nghiệp trường đại học năm 2017. Trong năm đầu đại học của cô, cô đã nhận chứng chỉ Microsoft Office Specialist thứ hai trong Microsoft Word và Excel và cấp độ hai trong . Danh sách phim ảnh Anime Trò chơi điện tử Tham khảo Liên kết ngoài Hồ sơ công ty quản lý chính thức Nhân vật còn sống Sinh năm 1994 Người chơi guitar bass Nhật Bản Nữ diễn viên trò chơi điện tử Nhật Bản Nữ diễn viên lồng tiếng Nhật Bản Thành viên của Poppin'Party Nữ diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21 Ca sĩ Nhật Bản thế kỷ 21 Nữ ca sĩ Nhật Bản thế kỷ 21
19830804
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C5%8Chashi%20Ayaka
Ōhashi Ayaka
là Diễn viên lồng tiếng và ca sĩ Nhật Bản đến từ Tokyo. Cô thuộc công ty quản lý tài năng HoriPro International. Với vai trò ca sĩ, cô đã ký hợp đồng với Lantis. Khởi đầu là diễn viên nhí, cô đã xuất hiện trong nhiều quảng cáo, phim truyền hình, các chương trình NHK Educational TV, và các sân khấu kịch. Sau khi tham gia một buổi thử vai do Horipro tài trợ, cô được nhận vai chính đầu tiên là Fleur Blanc trong anime Eureka Seven AO năm 2012. Cô nổi tiếng với các vai Shibuki Ran trong Aikatsu!, Yamabuki Sāya trong BanG Dream!, và Shimamura Uzuki trong The Idolmaster Cinderella Girls; với vai Sāya, cô là thành viên của ban nhạc Poppin'Party làm người chơi trống. Cô cũng trình bày các ca khúc chủ đề cho anime như là Masamune-kun no Revenge, và Knight's & Magic. Tiểu sử Ōhashi sinh ra tại Urawa, Saitama vào ngày 13 tháng 9 năm 1994, và chuyển đến Tokyo khi cô 5 tuổi. Ở đó, cô đã gia nhập một đoàn kịch và xuất hiện trên quảng cáo truyền hình, phim truyền hình, các chương trình NHK Educational TV, và các sân khấu kịch. Cô được truyền cảm hứng để trở thành diễn viên lồng tiếng sau khi nhận các buổi học diễn lồng tiếng mà cô có với đoàn kịch. Năm 2011, cô đã tham gia Chiến dịch Chiêu mộ Tài năng Horipro lần thứ 36 nơi mà cô đã vào vòng cuối và gia nhập công ty quản lý tài năng Horipro. Cô đã ra mắt vai trò lồng tiếng năm 2012, vào một vai nhỏ trong Amagami SS+ plus. Vào tháng 4 cùng năm, cô được chọn vào vai Fleur Blanc trong Eureka Seven AO trở thành nhân vật chính đầu tiên của cô. Cùng năm đó, cô được chọn vào vai Shimamura Uzuki trong trò chơi di động The Idolmaster Cinderella Girls trở thành nhân vật chính thứ hai của cô. Sau này cô được vào lại vai trong nhiều phiên bản khác, bao gồm anime chuyển thể. Cô đã xuất hiện trên nhiều sự kiện sân khấu và chương trình radio. Năm 2014, cô chính thức ra mắt với vai trò ca sĩ cho Lantis được trình diễn bài hát chủ đề mở đầu của Sabagebu! -Survival Game Club!- "YES!!", cô cũng vào vai chính, Sonokawa Momoka. Cùng năm đó, cô lồng tiếng cho nhân vật Kurome trong Akame ga KILL!. Album đầu tiên của cô được phát hành vào ngày 18 tháng 5 năm 2016; album đạt thứ hạng 14 trên bảng xếp hạng hàng tuần Oricon. Năm 2015, cô được chọn vào nhân vật chơi trống, Yamabuki Sāya của ban nhạc Poppin'Party, trong thương hiệu BanG Dream! của Bushiroad. Cô tuyên bố rằng mặc dù cô có kỹ năng chơi trống trước khi gia nhập thương hiệu, cô chưa từng trình diễn trước công chúng. Năm 2017, cô vào vai nhân vật Adagaki Aki trong Masamune-kun no Revenge và cô cũng trình bày bài hát chủ đề mở đầu. Trong năm đó, cô được chọn vào vai Adeltroot Alter trong Knight's & Magic; cô cũng trình bày bài hát chủ đề kết thúc của phim. Năm sau, cô được chọn vào vai Vodka trong thương hiệu Uma Musume Pretty Derby của Cygames. Tháng 2 năm 2020, Anime Frontier thông báo rằng Ōhashi sẽ có buổi hòa nhạc đầu tiên tại Mỹ vào ngày 8 tháng 5 tại Fort Worth, Texas, nhưng sự kiện bị hủy do đại dịch COVID-19. Danh sách phim ảnh Anime Films Trò chơi điện tử Lồng tiếng nước ngoài Live-action Beautiful Love, Wonderful Life, Kim Cheong-ah (Seol In-ah) Chip 'n Dale: Rescue Rangers, thám tử Ellie Steckler (KiKi Layne) The Green Knight, Essel and the Lady (Alicia Vikander) Phim hoạt hình Mune: Guardian of the Moon, Mune Phi vụ hạt dẻ 2: Công viên đại chiến, Heather Muldoon Phim chuyển thể người đóng Anime Supremacy! (2022), Yūki (giọng nói) Khác There's No Way I Can Have A Lover! (*Or Maybe There Is?!), Amaori Renako (video quảng cáo) Danh sách đĩa nhạc Album phòng thu Đĩa đơn Tham khảo Liên kết ngoài Hồ sơ tài năng chính thức Ōhashi Ayaka tại Lantis Sinh năm 1994 Nhân vật còn sống Ca sĩ anime Nghệ sĩ từ Horipro Nữ diễn viên thiếu nhi Nhật Bản Nữ diễn viên trò chơi điện tử Nhật Bản Nữ diễn viên lồng tiếng Nhật Bản Nghệ sĩ từ Lantis (công ty) Thành viên của Poppin'Party Ca sĩ từ Saitama (thành phố) Nữ diễn viên lồng tiếng từ Saitama (thành phố) Ca sĩ từ Tokyo Nữ diễn viên lồng tiếng từ Tokyo Nữ diễn viên Nhật Bản thế kỷ 21 Ca sĩ Nhật Bản thế kỷ 21 Nữ ca sĩ Nhật Bản thế kỷ 21
19830810
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kelvin%20Kiptum
Kelvin Kiptum
Kelvin Kiptum Cheruiyot (2 tháng 12 năm 1999 11 tháng 2 năm 2024) là một vận động viên chạy bộ đường dài và đã phá kỷ lục chạy cự ly Marathon (thời gian hoàn thành là 2:00:35), là người duy nhất trong lịch sử chạy cự ly marathon dưới thời gian 2:01:00 trong một cuộc thi marathon được công nhận. Kiptum nắm giữ ba vị trí trong số sáu thành tích chạy marathon nhanh nhất. Anh đã chạy cự ly marathon lần đầu tiên nhanh nhất từ ​​trước đến nay tại giải Valencia Marathon năm 2022, trở thành nam vận động viên marathon thứ ba trong lịch sử đã vượt qua mốc qua hai giờ hai phút. Kiptum đã tham gia giải chạy World Marathon Major, giành chiến thắng tại Marathon London năm 2023 với thời gian nhanh thứ hai trong lịch sử là 2:01:25, chậm hơn 16 giây so với kỷ lục thế giới lúc bấy giờ do Eliud Kipchoge nắm giữ (2:01:09). Trong cuộc thi Marathon Chicago năm 2023, Kiptum đã lập kỷ lục thế giới cự ly marathon mới với thời gian 2:00:35. Kiptum qua đời ngày 11 tháng 2 năm 2024, trong một vụ tai nạn giao thông tại quê nhà Kenya, chỉ vài ngày sau khi kỷ lục của anh được Liên đoàn điền kinh thế giới chính thức phê chuẩn. Tham khảo Vận động viên marathon Kenya
19830824
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C4%83ng%20m%E1%BA%A1
Lăng mạ
Lăng mạ hay sỉ nhục là một biểu hiện, tuyên bố hoặc hành vi thường có chủ ý thiếu tôn trọng, xúc phạm, khinh thường hoặc hạ thấp một cá nhân hoặc một nhóm người. Lời lăng mạ có thể cố ý hoặc vô ý, và chúng thường nhằm mục đích hạ bệ, xúc phạm hoặc làm nhục mục tiêu. Mặc dù những lời lăng mạ cố ý đôi khi có thể bao gồm thông tin thực tế, nhưng chúng thường được trình bày theo cách hạ thấp, nhằm khơi dậy phản ứng cảm xúc tiêu cực hoặc có tác động phản ứng có hại khi được sử dụng một cách có hại. Lời lăng mạ cũng có thể được đưa ra một cách vô ý hoặc theo cách đùa cợt nhưng trong một số trường hợp cũng có thể có tác động và ảnh hưởng tiêu cực ngay cả khi chúng không có ý xúc phạm. Lời lăng mạ có thể có tác động, ảnh hưởng và ý nghĩa khác nhau tùy thuộc vào mục đích, cách sử dụng, sự hiểu biết của người nhận về ý nghĩa và mục đích đằng sau hành động hoặc lời nói, và bối cảnh xã hội và các chuẩn mực xã hội. Lịch sử Vào thời La Mã cổ đại, các bài phát biểu và tranh luận chính trị được biết đến là bao gồm những lời lẽ gay gắt và tấn công cá nhân. Các nhà sử học cho rằng những lời lăng mạ và tấn công bằng lời nói là phổ biến trong các cuộc thảo luận chính trị thời bấy giờ. Thực tiễn này phản ánh bản chất đối đầu cao độ của sự tham gia chính trị ở La Mã cổ đại. Nhiều văn bản và tín ngưỡng tôn giáo cũng đã góp phần vào quan điểm về những lời lăng mạ và những tác động của việc lăng mạ trong cơn tức giận. Trong Cơ đốc giáo, chẳng hạn, Bài giảng trên núi của Chúa Giê-su bao gồm những lời dạy về tầm quan trọng của cơn giận. Theo Chúa Giê-su, cơn giận giống như hành động giết người, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát cảm xúc và tránh nói những lời gây hại. Trong Phúc âm Matthew, cụ thể là Matthew 5:22, Chúa Giê-su nói: "Nhưng Ta nói cho các ngươi biết rằng bất cứ ai giận dữ với anh trai hay chị gái của mình sẽ bị phán xét. Một lần nữa, bất cứ ai nói với anh trai hay chị gái của mình, 'Raca,' sẽ bị đưa ra tòa. Và bất cứ ai nói, 'Mày ngu!' sẽ bị nguy hiểm bởi lửa địa ngục. " (Phiên bản quốc tế mới) Lời dạy này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiểm soát lời nói của mình và tránh lăng mạ người khác trong cơn tức giận vô cớ. Chú thích Đọc thêm Thomas Conley: Toward a rhetoric of insult. University of Chicago Press, 2010, . Liên kết ngoài Lạm dụng Bắt nạt Trạng thái cảm xúc
19830861
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%BAng%20tr%C6%B0%E1%BB%9Dng%20XM7
Súng trường XM7
Súng trường tấn công XM7, trước kia được gọi là XM5, là một phiên bản của súng trường SIG MCX Spear dành riêng cho quân đội Mỹ, sử dụng đạn cỡ 6,8×51mm (.277 in), nạp đạn bằng khí nén, tiếp đạn bằng băng đạn. Súng được thiết kế bởi SIG Sauer theo Chương trình vũ khí bộ binh thế hệ mới vào năm 2022 nhằm thay thế súng trường M4 Carbine. Lịch sử Tháng Một năm 2019, lục quân Mỹ United States Army bắt đầu chương trình vũ khí tương lai cho bộ binh, thay thế súng trường carbine M4 và súng máy hạng nhẹ M249. Tháng Chín năm 2019, nhà thầu SIG Sauer đưa ra bản thiết kế dự thầu. SIG Sauer MCX-SPEAR sử dụng đạn 6,8×51mm (.277 in) SIG Fury nhằm thích ứng với việc các loại giáp đang ngày một tốt hơn và khiến đạn 5.56×45mm NATO (sử dụng trong M4 và M249) và 7.62×51mm NATO không còn hiệu quả. Đạn đạo của đạn 6,8x51mm mới có độ hiệu quả lên mục tiêu tương tự như đạn 7,62x51mm NATO do chúng có áp suất buồng đạn, tốc độ và năng lượng lên mục tiêu cao hơn đạn 7.62×51 mm NATO. Ngày 19 tháng Tư năm 2022, Lục quân Hoa Kỳ đã ký kết hợp đồng 10 năm cho SIG Sauer chế tạo đạn và súng XM7, cùng với đó là súng máy hạng nhẹ XM250 mới. Lô đầu tiên gồm 25 khẩu XM7 dự kiến sẽ được bàn giao cuối năm 2023. Lục quân Mỹ có kế hoạch sản xuất tổng cộng 107.000 khẩu súng trường cho các đơn vị cận chiến như bộ binh, bộ binh cơ giới, công binh, trinh sát và lính cứu thương. Hợp đồng tính đến việc chế tạo vũ khí bổ sung cho lực lượng Hải quân đánh bộ và lực lượng đặc nhiệm trong trường hợp các đơn vị này cũng lựa chọn nó. Thiết kế Khẩu súng trường XM7 có trọng lượng , hay với nòng giảm thanh. Súng sử dụng băng đạn SR-25 với 20 viên và có thể tăng lên 25 viên nếu cần. Đề xuất lượng đạn mỗi người lính mang theo sẽ là 140 viên chia làm bảy băng đạn 20 viên, với tọng lượng tổng cộng . So sánh với tọng lượng khẩu M4A1 không có giảm thanh với khả năng mang cơ bản 210 viên đạn trong bảy băng đạn 30 viên, có tổng trọng lượng là , súng XM7 sẽ nặng hơn và mỗi người lính sẽ phải mang nặng hơn trong khi số lượng đạn ít đi 70 viên. Các thử nghiệm đánh giá với súng máy mới sẽ được tiến hành vào năm 2025. Tham khảo Link ngoài
19830876
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%B7ng%20S%C4%A9%20Vinh
Đặng Sĩ Vinh
Đặng Sĩ Vinh (1685 - 1770) đỗ Hoành từ, làm quan đến chức Tri phủ sau đó là Đô ngự sử đứng đầu Ngự sử đài, được phong tước Thiếu bảo, Liêu quận công. Tiểu sử Đặng Sĩ Vinh sinh năm Ất Sửu niên hiệu Chính Hoà thứ 6 đời vua Lê Hy Tông (1685), quê tại thôn Uy Viễn, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay là thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông thuộc dòng dõi Đặng Ma La (Thám hoa), Đặng Lộ (Hậu Nghi lang Thái sử cục lệnh), Đặng Bá Tĩnh (Thám hoa Tuấn Sĩ hầu), Đặng Tất (Quốc công), Đặng Dung (Đồng bình chương sự), Đặng Chủng (Hàn lâm viện thị giảng)... nên ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, sớm lầu thông kinh sử, lại là người có phẩm hạnh nên được mọi người xung quanh rất yêu mến. Năm 20 tuổi, ông thi Hương khoa Ất Dậu (1705) đậu ngay Cử nhân, năm sau năm Bính Tuất (1706), đậu tiếp Hoành từ (trên cấp thi Hương). Đây là khoa thi do triều đình mở trước kỳ thi Hội để chọn người học rộng tài cao giúp việc nhà vua. Tuy Hoành từ không phải là Tiến sĩ, nhưng do được yêu mến kính trọng nên ông đuợc nhân dân tôn gọi là quan Nghè như những người thì Hội chính thức đỗ Tiến sĩ (bởi thế xóm ông ở được gọi là xóm Quan Nghè hay xóm Làng Nghè, tồn tại mãi đến đầu thập kỷ 70 thế kỷ 20). Sau khi đỗ Hoành từ, ông được vua Lê Dụ Tông ban chiếu bổ dụng làm Nội thị văn chức, ba năm sau được cử làm Huấn đạo Trường Yên, năm Ất Mùi (1715) được sung Tả mạc Sơn Nam, năm Canh Tý (1720) được cử làm Tri huyện Đông Thành (nay là huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An), sáu năm sau, năm Bính Ngọ (1726), ông được thăng lên Tri phủ Thiệu Thiên, trông coi tám huyện ở trấn Thanh Hoa (tỉnh Thanh Hoá ngày nay) gồm Thụy Nguyên, Vĩnh Phúc, Đông Sơn, Lôi Dương, Yên Định, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành và Quảng Bình. Khi làm tri phủ Thiệu Thiên, vì trình bày công việc với quan trên không hợp ý, năm Giáp Dần (1734), tuy chưa đến tuổi 50, ông đã viện cớ sức khoẻ suy giảm, dâng sớ lên vua Lê Ý Tông và chúa Trịnh Giang xin được từ quan trở về quê ẩn cư dạy học lấy cảnh non nước thơ phú, văn chương làm vui. Tài nghệ, tiếng tăm văn chương, thơ phú của ông sánh cùng Đậu Minh Dương, được người đương thời tôn vinh “Nghệ An tứ hổ”. Trường ông dạy được nhân dân gọi là trường Quan Nghè. Học sinh của trường mỗi ngày mỗi đông, nhiều học trò đậu đạt cao, nên trường Quan Nghè tiếng tăm lan truyền ra khắp vùng. Con rể ông là Đặng Thái Bàng đỗ Hoành từ, con trai là Đặng Hữu Học, Đặng Duy Phiên, cháu nội là Đặng Truyền Lâm, Đặng Thái Tri, cháu ngoại là Nguyễn Công Tấn… đỗ Cử nhân đều là học trò của ông. Sự kiện Tể tướng Nguyễn Nghiễm cùng Hồng lô Thái bộc tự khanh Đặng Thái Bàng, Tri phủ Đặng Sĩ Vinh và con là Đặng Duy Phiên làm cầu được ghi chép trên bia cầu Tiên. Bia đá này đang được bảo tồn ở di tích đặc biệt quốc gia Khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đã cùng với các con rể là Nguyễn Nghiễm và Đặng Thái Bàng đứng ra quyên góp tiền bạc huy động nhân công mở rộng huyện lộ từ xã Thượng Thôn (nay là thị trấn Xuân An) đến huyện lỵ Nghi Xuân, rồi mở tiếp nối thông đến tận cửa biển Đan Nhai (nay là cửa Hội). Con đường này ngày nay là quốc lộ 8B đoạn đi qua huyện Nghi Xuân. Năm 1747, ông còn vận động nhân dân trong xã góp tiền góp công lập bến Giang Đình, đưa bến sông này thành một bến sông giao thương quan trọng và là một trong “Nghi Xuân bát cảnh” - tám cảnh đẹp nhất của huyện Nghi Xuân ngày trước. Để giúp cho nhân dân có nơi giao lưu mua bán, ông đã cùng với con rể Đặng Thái Bàng cho lập ra chợ Văn, sau này con rể ông là Nguyễn Nghiễm đổi tên chợ Giang Đình. Chợ hiện nay đã được di dời ra sát quốc lộ 8B và vẫn là trung tâm buôn bán tấp nập của huyện. Tại bến Giang Đình, ông đã cùng với Nguyễn Nghiễm thường cho mở hội Giang Đình tấp nập trên bến dưới thuyền hết sức đông vui, tạo nên nét đẹp văn hoá truyền thống của đất Nghi Xuân thuở trước. Vào năm 1752, đời vua Lê Cảnh Hưng, nhờ có con rể là Nguyễn Nghiễm bấy giờ đang làm Hữu thị lang Bộ Hình và các quan trấn trị ở Nghệ An tâu lên triều đình, ông lại được triều đình mời ra làm quan khi đã ở tuổi 67, phong làm Thừa chính sứ Lạng Sơn, tước Viễn Trạch bá. Sau ba năm trấn trị ở Lạng Sơn, năm 1755, ông được điều về kinh thăng lên Đô ngự sử tước Viễn Trạch hầu hàm Tòng nhị phẩm, đứng đầu Ngự sử đài, chuyên việc giám sát các quan và đàn tấu lên vua Lê chúa Trịnh những việc phải trái của triều đình. Sau 5 năm giữ chức Đô ngự sử, năm 1761, sang tuổi 75 ông được phong Thiếu bảo, Liêu Quận công, Kim tử Vinh lộc đại phu, Thượng trụ quốc thượng trật, ít lâu sau được ban về nghỉ hưu. Ngày 23 tháng hai năm Canh Dần (1770), ông mất tại quê, thọ 85 tuổi. Sau khi mất, ông được nhà vua truy phong Thái bảo, Thượng đẳng phúc thần, cho lập đền thờ, cấp lộc điền và giao huyện xã hàng năm cúng tế. Hậu duệ Hậu duệ của Đặng Sĩ Vinh hiện nay có nhiều người là chính trị gia, tướng lĩnh, có thể kể đến là Đặng Văn Duy, Đặng Duy Báu, Đặng Quốc Khánh… Tham khảo Sinh năm 1685 Mất năm 1770 Quan lại nhà Lê trung hưng Người Hà Tĩnh Người họ Đặng tại Việt Nam
19830879
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh%20X%C6%B0%C6%A1ng%20%28di%E1%BB%85n%20vi%C3%AAn%29
Vĩnh Xương (diễn viên)
Nguyễn Vĩnh Xương (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1975 tại Hà Nội) là một nam diễn viên người Việt Nam. Anh được biết đến qua các bộ phim Đầu bếp và đại gia, Hà Nội 12 ngày đêm, Sinh tử, Đấu trí. Tiểu sử Vĩnh Xương sinh năm 1975 tại Hà Nội. Anh từng giữ chức Trưởng đoàn 1 – Nhà hát Kịch Việt Nam, tuy nhiên, anh quyết định nghỉ việc để hoạt động kinh doanh để phụ giúp gia đình. Đời tư Vĩnh Xương là một người rất kín tiếng về đời tư. Năm 2009, anh kết hôn với Tăng Minh Nguyệt và cả hai người đã có hai cậu con trai sinh đôi. Danh sách tác phẩm Phim điện ảnh Phim truyền hình Kịch Giải thưởng và đề cử Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1975 Nhân vật còn sống Nam diễn viên truyền hình Việt Nam Người Hà Nội Phim và người giành giải Cánh diều
19830885
https://vi.wikipedia.org/wiki/EA%20Sports%20FC%20Mobile%2024
EA Sports FC Mobile 24
EA SPORTS FC Mobile 24 (tiền thân là FIFA Mobile), ngắn gọn hơn là FC Mobile, là một trò chơi mô phỏng bóng đá được phát triển bởi EA Mobile và EA Canada được phát hành bởi EA Sports cho iOS và Android. Đây là bản cập nhật mới nhất vào năm 2023, chính thức được đổi tên sau khi hợp đồng giữa EA Sports và FIFA kết thúc. Trò chơi đã được phát hành vào ngày 26 tháng 9 năm 2023, cho iOS, Android, và Microsoft Windows. Các chế độ chơi Đồ họa của trò chơi được đánh giá khá cao. Các cách điều khiển như sút, rê bóng chuyền đều rất dễ dàng. Chỉ số của đội được gọi là OVR (viết tắt của từ Overall). EA Sports có các chế độ chơi sau: - League: Tại chế độ này người chơi có thể đối đầu với các đội bóng khác nhau của các HLV khác nhau trên thế giới; hoặc giữa các League với nhau và nhận về những phần quà. - VS Attack (VSA): Người chơi sẽ đấu bằng những tình huống tấn công với đối thủ của mình. Lần lượt từng tình huống một. Nếu OVR của người chơi càng cao thì sẽ có càng nhiều cơ hội tốt (Great Chance). Đôi khi người chơi sẽ gặp những đợt phản công (Counter Attack). - Head to Head (H2H): Người chơi sẽ thi đấu trong 90 phút (trong game) với đối thủ. - Manager Mode: Người chơi sẽ thật sự trở thành huấn luyện viên, chỉnh sửa cách chơi đội bóng thông qua các Chiến thuật khác nhau (Tactic). Trong chế độ này người chơi phụ thuộc nhiều vào tính suy đoán để đưa ra chiến thuật hợp lý cùng chất lượng cầu thủ. - Live Events: EA SPORTS FC Mobile có rất nhiều sự kiện khác nhau theo thời gian thật. Qua mỗi sự kiện, người chơi có thể nhận được các cầu thủ tốt để có OVR cao hơn. - Challenge Mode: Trò chơi theo từng ngày sẽ mở ra các sự kiện khác nhau. Truy cập vào bất cứ phần nào để tham gia chinh phục các trận đấu H2H, Skill Challenge hay PVE Match để vượt qua vòng. Tùy mỗi phần mà người chơi tham gia sẽ có yêu cầu về phí tham gia hay phần thưởng khác nhau. Các tính năng khác của trò chơi - Market: Người chơi sẽ mua về hoặc là đấu giá hoặc bán cầu thủ trong Market. Tuy nhiên, người chơi sẽ không bán được những thẻ có gắn mác Untradeable. (thường là các thẻ cầu thủ được nhận miễn phí từ các sự kiện hoặc quà tặng của NPH). - Exchange: Trong các sự kiện được diễn ra trong trò chơi, người chơi được phép trao đổi một cầu thủ ngẫu nhiên trong phần đã chọn bằng những cầu thủ có sẵn trong kho. Ví dụ như đổi một cầu thủ bất kỳ có OVR cao hơn bằng một hay nhiều cầu thủ có OVR thấp hơn,... Từ phiên bản cập nhật năm 2023, một số tính năng mới được thêm vào có thể kể tới như: - Locker Room: cho phép người chơi tùy chỉnh câu lạc bộ của mình giống như một phòng thay đồ thật sự, cụ thể như: + Ball: Người chơi được phép tùy chỉnh loại bóng được sử dụng trong trận đấu. + Appearance: Người chơi được phép tùy chỉnh ngoạị hình của các cầu thủ khi bước vào trận đấu (áo dài tay, tất ngắn hay dài, ...). + Number: Người chơi được phép tùy chỉnh số áo của cầu thủ. + User logo: Tùy chỉnh logo của người chơi (có thể là logo của các sự kiện hay logo của đội bóng có trong game - Crest) + Emotes: Tùy chỉnh cảm xúc của người chơi trong trận đấu. + Kit: Tùy chỉnh bộ áo đấu của câu lạc bộ của người chơi.
19830898
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0i%20Ph%C3%A1t%20thanh%20%E2%80%93%20Truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%20B%E1%BB%93%20%C4%90%C3%A0o%20Nha
Đài Phát thanh – Truyền hình Bồ Đào Nha
Đài Phát thanh – Truyền hình Bồ Đào Nha (, viết tắt: RTP) là tổ chức phát sóng công cộng quốc gia có trụ sở tại Lisboa, Bồ Đào Nha. Thành lập vào năm 1935. RTP là thành viên đồng sáng lập của tổ chức Liên hiệp Phát sóng châu Âu. Tham khảo Đài truyền hình châu Âu
19830903
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%E1%BB%ABng%20thi%C3%AAng
Rừng thiêng
Rừng thiêng (Sacred grove hay Sacred woods) là những lùm cây/khóm cây trong khu rừng và có tầm quan trọng tôn giáo và tín ngưỡng đặc biệt trong một nền văn hóa cụ thể. Những khu rừng thiêng liêng đặc trưng ở nhiều nền văn hóa khác nhau trên khắp thế giới. Những khu rừng thiêng là những đặc điểm quan trọng của bối cảnh thần thoại và thực hành sùng bái cây cối, thờ cây thiêng của người Celtic, người Estonia, người Baltic, người Đức, người Hy Lạp cổ đại, cư dân cổ đại ở Cận Đông, La Mã và đa thần giáo Slav; rừng thiêng cũng xuất hiện ở các địa điểm tâm linh như tại Ấn Độ, Nhật Bản (đền thiêng trong rừng), Tây Phi và Ethiopia (rừng thờ cúng) và Lễ hội cúng thần rừng của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Dẫn luận Cây cối có ý nghĩa quan trọng trong nhiều thần thoại trên thế giới và mang ý nghĩa sâu sắc và thiêng liêng qua nhiều thời đại, người ta thường coi chúng là biểu tượng mạnh mẽ của sự phát triển (đại ngàn), cái chết và sự tái sinh. Rừng thường xanh, phần lớn vẫn xanh trong suốt các chu kỳ này, đôi khi được coi là biểu tượng của sự vĩnh cửu, sự bất tử hoặc khả năng sinh sản. Hình ảnh cây sự sống xuất hiện trong nhiều thần thoại. Sự hiện diện của cây cối trong thần thoại đôi khi xảy ra liên quan đến khái niệm cây thiêng và khu rừng thiêng. Ví dụ về các khu rừng thiêng bao gồm Temenos trong văn hóa Hy Lạp-La Mã, có nhiều từ tiếng Đức khác nhau để chỉ các khu rừng thiêng và Nemeton của người Celt, phần lớn nhưng không chỉ gắn liền với việc thực hành Druidic. Trong các cuộc Thập tự chinh phía Bắc thời Trung cổ, những người theo đạo Cơ đốc chinh phục thường xây dựng các nhà thờ trên địa điểm là những khu rừng thiêng. Người Lakota và nhiều bộ lạc da đỏ Bắc Mỹ khác coi những khu rừng cụ thể hoặc các địa danh tự nhiên khác là những nơi linh thiêng. Những cây đơn lẻ mà cộng đồng cho là có ý nghĩa tôn giáo được gọi là cây thiêng. Tại thị trấn Spoleto, Umbria đã phát hiện hai phiến đá từ cuối thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, được khắc bằng tiếng La tinh cổ xưa, đã ghi chép về các hình phạt cho hành vi xúc phạm khu rừng dành riêng, hiện chúng được bảo tồn tại Bảo tàng Khảo cổ Quốc gia Spoleto. Lần đầu tiên đề cập đến những khu rừng thiêng ở Baltic có từ năm 1075 khi Adam xứ Bremen ghi nhận có những khu rừng và dòng suối thiêng mà tính thiêng liêng của chúng được cho là bị ô nhiễm vì sự xâm nhập của những người theo đạo Cơ đốc và một vài khu rừng thiêng ở Bán đảo Sambian được đề cập trong các tài liệu thế kỷ XIV của Dòng tu Hiệp sĩ Teuton. Xem thêm Cây thiêng Cây sự sống Cây ước nguyện Cây Giáng sinh Cây nêu Cây ăn thịt người Cây di sản Cội Bồ-đề Nữ thần cây Chú thích Tham khảo Becker, Lore (2002). Die Mythologie der Bäume, Papyrus 1-2. Brosse, Jaques (1989). Mythologie des arbres, . Forlong, James (1883). Rivers of Life, London & Edinburgh. Vol I chapter 2 Tree Worship. Forsyth, James (1992). A History of the Peoples of Siberia: Russia's North Asian Colony 1581-1990. Cambridge University Press. . Gollwitzer, Gerda (1984). Botschaft der Bäume, DuMont Buchverlag Köln. Malla, Bansi Lal (2000). Trees in Indian Art, Mythology, and Folklore, . Ziffer, Irit. "WESTERN ASIATIC TREE-GODDESSES". In: Ägypten Und Levante [Egypt and the Levant] 20 (2010): 411-30. Accessed May 8, 2021. http://www.jstor.org/stable/23789949. Andersson, Gunnar. 2006. "Among trees, bones, and stones: The sacred grove at Lunda" in Andrén, Anders, Kristina Jennbert, and Catharina Raudvere. Old Norse Religion in Long-Term Perspectives: Origins, Changes, and Interactions. Nordic Academic Press. Birley, A. R. 1999. Trans. Tacitus, Germania. Oxford University Press. Hacken, Richard. 2022. Worship of the German Forest: An Historical Overview. Academia Letters. Hermann Pálsson. 2006 [1972]. Landnámabók: The Book of Settlements. University of Manitoba Press. Magnell, Ola; Iregren, Elisabeth. 2010. "Veitstu Hvé Blóta Skal : The Old Norse Blót in the Light of Osteological Remains from Frösö Church, Jämtland, Sweden". Current Swedish Archaeology. 18. Nordic Academic Press. Orel, Vladimir. 2003. A Handbook of Germanic Etymology. Brill. Ringe, Donald. 2006. From Proto-Indo-European to Proto-Germanic: A Linguistic History of English, 1. Oxford University Press. Simek, Rudolf. 2007. Translated by Angela Hall. Dictionary of Northern Mythology. D.S. Brewer. De Vries, Jan. 1970. Altgermanische Religionsgeschichte. Vol. 1. Grundriss der germanischen Philologie 12/I. 3rd ed (repr. 2nd ed [1956]). De Gruyter. . Thần thoại Tâm linh Thực vật trong văn hóa Rừng
19830913
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%81n%20Gia%20Th%E1%BB%A5y
Điền Gia Thụy
Điền Gia Thụy (; sinh ngày 4 tháng 12 năm 1998). Là nam diễn viên Trung Quốc đại lục. Tháng 1 năm 2023, ký hợp đồng với Văn hóa Tối Thế, từ đó gia nhập làng giải trí. Năm 2023, thông qua vai diễn Cung Viễn Chủy trong phim "Vân chi Vũ" được biết đến nhiều hơn.. Tên fandom là Gia Trúc Đào (嘉竹桃). Tiểu sử Ngày 4/12/1998, Điền Gia Thụy sinh ra ở thành phố Liêu Thành, tỉnh Sơn Đông, ở nơi ấy học tập và trưởng thành. Điền Gia Thụy từ nhỏ đã thích ca hát và biểu diễn, lúc học Tiểu học từng tham gia ban nhạc của trường, cũng từng học Guitar. Năm 2015, lúc học lớp 8 trường Trung học số 3 Liêu Thành, tham gia cuộc thi hùng biện học sinh Trung học tỉnh Sơn Đông và đạt giải nhất. Năm 2016, sau khi tốt nghiệp Trung học, được nhận vào Khoa Biểu diễn của Đại học Đông Hoa, thời gian ở trường từng đóng nhiều vở kịch nói, và tham diễn xuất kịch nói với Khai Tâm Ma Hoa. Kinh nghiệm diễn xuất Tháng 1 năm 2023, ký hợp đồng với Công ty TNHH Phát triển Văn hóa Tối Thế Thượng Hải, trở thành nghệ sĩ dưới trướng công ty của đạo diễn Quách Kính Minh. Ngày 5 tháng 6, phim cổ trang "Vân tú hành" đóng cùng với Lý Nhất Đồng, Tăng Thuấn Hy, v.v. khai máy, trong phim đóng vai Sử bộ thị lang Lý Giáng Du; Ngày 2 tháng 9, phim tình cảm điệp viên âm mưu giang hồ "Vân chi Vũ" hợp tác với Ngu Thư Hân, Trương Lăng Hách phát sóng trên IQiyi, trong phim đóng vai Cung Viễn Chủy tam công tử Cung Môn, sở trường dùng thuốc độc và chế tạo ám khí, là em trai của Cung Thượng Giác nhị công tử Cung Môn, cũng là Cung chủ chưa thành niên duy nhất của Cung Môn, đồng thời Điền Gia Thụy cũng đã hát bài nhạc đệm cho phim "Ca giả" (歌者); Ngày 15 tháng 9, tham gia chụp tạp chí; Ngày 19 tháng 9, tham gia chương trình phát thanh "Đài phát thanh chúc ngủ ngon của Lạc" (阿乐的晚安电台), trong chương trình ngâm thơ "Trước cửa" (门前) của Cố Thành. Tác phẩm truyền hình Phim truyền hình/ Phim chiếu mạng Tác phẩm âm nhạc Chương trình truyền hình Nguồn tham khảo Liên kết ngoài Họ Điền Sinh năm 1998 Diễn viên Trung Quốc Nam diễn viên Trung Quốc Nam diễn viên
19830914
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%B9n%20g%E1%BA%B7p%20anh%20%E1%BB%9F%20ki%E1%BA%BFp%20th%E1%BB%A9%2019
Hẹn gặp anh ở kiếp thứ 19
Hen gặp anh ở kiếp thứ 19 (; Tiếng Anh: See You in My 19th Life) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc năm 2023 với sự tham gia của Shin Hye-sun, Ahn Bo-hyun, Ha Yoon-kyung, và Ahn Dong-goo. Bộ phim được dựa trên bộ webtoon cùng tên của nhà văn Lee Hey xuất bản trên Naver Webtoon. Phim được phát sóng từ ngày 17 tháng 6 đến ngày 23 tháng 7 năm 2023 vào Thứ 7 và Chủ Nhật lúc 21:20 trên tvN Tóm tắt Ban Ji-eum (Shin Hye-sun) là một cô gái đã lặp lại cuộc sống của mình thông qua tái sinh trong gần một nghìn năm và có thể nhớ tất cả tiền kiếp của mình. Sau khi kiếp sống thứ 18 của cô bị cắt ngắn do một tai nạn thương tâm, cô quyết định kết nối lại với người đàn ông từ kiếp trước ở kiếp thứ 19. Diễn viên Chính Shin Hye-sun vai Ban Ji-eum: Một người phụ nữ có khả năng siêu nhiên là nhớ lại tất cả kiếp trước của mình. Cô là thành viên nhóm hoạch định chiến lược của MI Hotel . Park So-yi vai Ban Ji-eum khi còn nhỏ Ahn Bo-hyun vai Moon Seo-ha: Người thừa kế của một gia đình giàu có bị chấn thương tâm lý sau một vụ tai nạn xe hơi. Anh là giám đốc điều hành nhóm hoạch định chiến lược của MI Hotel. Jung Hyeon-jun vai Moon Seo-ha khi còn nhỏ Ha Yoon-kyung vai Yoon Cho-won: Em gái của Joo-won, là kiến ​​trúc sư cảnh quan. Ki So-yoo as young Yoon Cho-won Ahn Dong-goo Thư ký và là bạn thân của Seo-ha. Phụ Những người xung quanh Ji-eum Cha Chung-hwa vai Kim Ae-kyung: chủ nhà hàng Aekyung Kimchi-jjim và là cháu của Ji-eum ở kiếp thứ 17. Kang Myung-joo vai Jo Yoo-seon: Joo-won và mẹ của Cho-won. Kim Yoo-mi vai Jo Yoo-seon thời trẻ. Baek Seung-cheol vai Ban Hak-su: Cha của Ji-eum. Moon Dong-hyuk vai Ban Dong-woo: Anh trai của Ji-eum. Những người xung quanh Seo-ha Lee Bo-young trong vai Lee Sang-ah: Mẹ của Seo-ha, cựu CEO của khách sạn MI. Choi Jin-ho vai Moon Jeong-hun: Cha của Seo-ha, chủ tịch Tập đoàn MI. Lee Hae-young trong vai Lee Sang-hyeok: Chú ngoại của Seo-ha, giám đốc Tập đoàn MI. Kiếp trước của Ji-eum Kim Si-a trong vai Yoon Joo-won: kiếp thứ 18 của Ji-eum, sinh năm 1986, chị gái của Cho-won. Lee Jae-kyoon trong vai Kim Jung-ho: Ji-eum kiếp thứ 17, sinh năm 1956, chú của Ae-kyung qua đời vì bệnh lao. Tập đoàn MI Bae Hae-sun vai Jang Yeon-ok: Giám đốc điều hành của khách sạn MI. Bin Chan-wook vai Chan-hyuk: Con trai của Yeon-ok. Người khác Ryu Hae-joon trong vai Lee Ji-seok: con trai cả của Tập đoàn Daehwan, một tập đoàn hàng đầu. Lee Chae-min vai Kang Min-gi: nhân viên bán thời gian tại nhà hàng Aekyung Kimchi-jjim. Lee Han-na vai Han-na: Người quen của Min-gi là một vũ công. Lee Si-woo vai Ha Do-jin: Em trai của Do-yoon. Go Ha vai Go Soo-jin: thành viên nhóm hoạch định chiến lược của khách sạn MI. Kang Hyeon-oh vai Yang-sik: cấp dưới làm việc dưới quyền chủ tịch một công ty cho vay. Khách mời Chae Jong-hyeop vai Bok-dong: Ji-eum đời thứ 16, làm nghề kéo xe trong thời kỳ Nhật Bản đô hộ. Sản xuất Có thông tin cho rằng nữ diễn viên Lim Hyun-joo ban đầu đã được xác nhận sẽ đóng vai Yoon Cho-won, nhưng cô đã rút lui khỏi bộ phim do vấn đề về lịch trình. Nhạc phim 1 2 3 4 5 6 Người xem Ghi chú Liên kết ngoài
19830916
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%8Dc%20Ti%E1%BB%83u%20bang%20San%20Jose
Đại học Tiểu bang San Jose
Viện Đại học Tiểu bang San Jose hay Đại học Tiểu bang California tại San Jose (tiếng Anh: The San Jose State University, viết tắt San Jose State hay SJSU) là viện đại học nghiên cứu công lập ở San Jose, California, Hoa Kỳ. Viện đại học này được thành lập năm 1857 với tên gọi Trường Trung Cấp Đêm Minns'. Hiện nay, trường đại học này là một trong những viện đại học lớn nhất ở nước Mỹ xét về quy mô đào tạo. Tạp chí U.S. News & World Report hiện xếp SJSU ở hạng 12 trong số các viện đại học quốc gia ở Hoa Kỳ có chương trình đào tạo kĩ sư máy tính và công nghệ tốt nhất, hạng 3 trong danh sách các đại học công lập Hoa Kỳ, và hạng 4 trong các trường đại học ở khu vực phía tây. Học thuật Xếp hạng và danh tiếng US NEWS GLOBAL 1452 US NEWS TOP PUBLIC SCHOOL 3 US NEWS REGIONAL UNIVERSITY WEST 4 US NEWS BEST UNDERGRADUATE ENGINEERING PROGRAMS 12 Xem thêm California Master Plan for Higher Education Education in California List of American state universities Lưu ý Tham khảo Liên kết ngoài San José State University athletics website California State University campuses Public universities and colleges in California Universities and colleges in San Jose Universities and colleges established in 1857 1857 establishments in California Schools accredited by the Western Association of Schools and Colleges Tourist attractions in San Jose, California Aviation schools in the United States California Historical Landmarks
19830921
https://vi.wikipedia.org/wiki/Marina%20Machete
Marina Machete
Marina Machete Reis (sinh ngày 1 tháng 10 năm 1995) là người mẫu và hoa hậu người Bồ Đào Nha từng đăng quang cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Bồ Đào Nha 2023. Cô đại diện Bồ Đào Nha và lọt Top 20 chung cuộc Hoa hậu Hoàn vũ 2023 được tổ chức tại El Salvador. Machete sẽ là một trong hai phụ nữ người chuyển giới tranh tài tại Hoa hậu Hoàn vũ 2023, người còn lại là Rikkie Valerie Kollé, đến từ Hà Lan. Trước Machete và Kollé, chỉ có một phụ nữ chuyển giới từng tham gia Hoa hậu Hoàn vũ, cụ thể hơn là người Tây Ban Nha Ángela Ponce, vào năm 2018. Với việc lọt Top 20 chung cuộc, cô đã trở thành người chuyển giới đầu tiên lọt vào vòng trong của lịch sử Hoa hậu Hoàn vũ. Tiểu sử Machete sinh ngày 1 tháng 10 năm 1995 tại Palmela, quận Setúbal. Từ khi còn là thiếu niên, cô đã tham gia vào một số dự án xã hội ở Bồ Đào Nha. Năm 2018, Machete bắt đầu làm tiếp viên hàng không. Các cuộc thi sắc đẹp Hoa hậu Hoàn vũ Bồ Đào Nha 2023 Vào ngày 5 tháng 10 năm 2023, Machete đại diện cho Palmela tại Hoa hậu Hoàn vũ Bồ Đào Nha 2023 và tranh tài với 16 ứng cử viên khác tại Borba Events Pavilion. Anh ấy đã giành được danh hiệu, kế nhiệm Telma Madeira. Cô cũng là người phụ nữ người chuyển giới đầu tiên dự thi Hoa hậu Hoàn vũ Bồ Đào Nha. Cùng ngày, cô cũng giành được giải Hoa hậu tự tin xinh đẹp, giải thưởng được trao cho thí sinh tạo được nhiều hoạt động nhất trên mạng xã hội trước sự kiện. Hoa hậu Hoàn vũ 2023 Với tư cách là Hoa hậu Bồ Đào Nha, Machete đã đại diện cho Bồ Đào Nha tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2023 ở El Salvador và trở thành một trong 20 người đẹp lọt vào vòng chung kết. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1995 Nhân vật còn sống Người Bồ Đào Nha Nữ giới Bồ Đào Nha
19830922
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A1c%20ph%E1%BA%A9m%20%C4%91i%C3%AAu%20kh%E1%BA%AFc%20Samson%20v%C3%A0%20Hercules
Tác phẩm điêu khắc Samson và Hercules
Tác phẩm điêu khắc Samson và Hercules là một cặp tượng Atlantes bằng gỗ sồi của nhân vật Samson trong Kinh thánh và anh hùng Hercules của La Mã, được chạm khắc lần đầu vào năm 1657 và đặt tại Nhà Samson và Hercules ở Tombland, Norwich. Tượng Samson gốc hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Norwich tại Bridewell, và tượng Hercules gốc đã bị thất lạc. Lịch sử Hai bức tượng Samson và Hercules ban đầu được Thị trưởng Norwich Christopher Jay đặt hàng vào năm 1657 để đặt bên ngoài ngôi nhà mới của ông ở Tombland, Norwich. Tượng Samson được chạm khắc từ một thân cây sồi duy nhất. Hai bức tượng được chuyển đến sân sau của tòa nhà vào năm 1789, nhưng được đặt lại ở cửa trước vào năm 1890, thời điểm đó bức tượng Hercules gốc đã bị hư hỏng nặng và được thay thế bằng một bản sao. Từ năm 1934 đến năm 2003, tòa nhà được sử dụng làm phòng khiêu vũ và sau đó là hộp đêm. Nơi này được đặt tên là Nhà Samson và Hercules trong Thế chiến thứ hai, nhưng sau đó được đổi tên thành Ritzy's vào năm 1983. Vào mùa hè năm 1992, cánh tay phải của tượng Samson rơi ra, khiến Dịch vụ Bảo tàng Norfolk (NMS) phải gỡ bỏ hai bức tượng. Chúng được thay thế tại địa điểm tổ chức bằng các bản sao bằng sợi thủy tinh vào năm 1998. Những bản sao này đã được sơn màu đỏ khi ngôi nhà trở thành nhà hàng tôm hùm, và được sơn các màu khác trong những năm sau đó. Công ty bảo tồn Plowden & Smith được NMS ủy quyền vào năm 2014, và giám sát quá trình kéo dài 4 năm để loại bỏ 60 lớp sơn chì đã tích tụ trên tác phẩm điêu khắc, nặng 28 kilôgam (62 lb). Ngoài việc loại bỏ sơn, nấm mốc tích tụ trên đầu tác phẩm điêu khắc, cũng như "sự mục nát nghiêm trọng và lan rộng" và độ mềm của gỗ do thiệt hại do nước, đã được xử lý bằng chất kết dính dạng lỏng và một phần thân bị mất đã được lấp đầy bằng sợi cellulose. Chi phí xử lý là 32.000 bảng Anh và được đề cử cho hạng mục "dự án trùng tu tốt nhất của năm" tại Triển lãm Bảo tàng + Di sản sau khi hoàn thành vào năm 2019. Mặc dù đã được phục hồi, tác phẩm điêu khắc vẫn chưa thể trưng bày vì độ dễ vỡ của nó. Năm 2018, Bảo tàng Norwich tại Bridewell đã bắt đầu một chiến dịch gây quỹ có tên Saving Samson, để tài trợ cho một tủ trưng bày cho tác phẩm điêu khắc, và đã huy động được 15.000 bảng Anh cần thiết để mua một chiếc tủ kính điều khiển môi trường đặt làm riêng. Tác phẩm điêu khắc đã được ra mắt tại bảo tàng vào tháng 4 năm 2019. Chú thích tác phẩm điêu khắc ở Anh Tác phẩm điêu khắc
19830926
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mai%20Hoa%20H%E1%BB%93ng%20%C4%90%C3%A0o
Mai Hoa Hồng Đào
Mai Hoa Hồng Đào (tiếng Anh: Mr. & Mrs. Chen) là một bộ phim truyền hình hiện đại về chủ đề chiến tranh điệp viên được quay ở Trung Quốc đại lục vào năm 2022 , bộ phim do Tiêu Vinh Lượng đạo diễn, với Hải Phi là tổng biên, Nghê Học Lễ là biên kịch , với sự tham gia của Quan Hiểu Đồng và Hàn Đông Quân diễn chính, Điền Lôi, Lục Tứ Trinh, Tưởng Nghị, Vương Tú Trúc và Lưu Hải Khoan, với Đàm Khải, Trương Manh, Triệu Dịch Hoan cùng tham gia với vai trò khách mời , được phát sóng trên Đông Phương TV và Bắc Kinh TV ngày 11 tháng 10 năm 2023, đồng thời sẽ được phát sóng đồng thời trên Tencent Video và iQiyi . Bộ phim kể về đôi tình nhân cũ Tả Song Đào và Trần Gia Bình bất ngờ đoàn tụ, giành lại tình yêu và cùng theo đuổi niềm tin . Nội dung Năm 1940 tại Thượng Hải, trong nhiệm vụ mang mã "Mai Hoa Tứ" của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thành viên ngầm Trần Gia Bình đối mặt với nguy cơ tiết lộ bản thân khi đột nhiên gặp lại tình yêu đầu đời của mình, cô bạn gái ngày xưa Tả Song Đào. Lúc này, Tả Song Đào đã trở thành một đặc công của Quân đội Quốc dân Trung Quốc và đang cố gắng tìm cách thoát khỏi tình huống khó khăn sau khi thất bại trong một nhiệm vụ ám sát. Hai người không biết về danh tính đặc công của nhau và chỉ dựa vào sự hiểu biết sâu sắc từ quá khứ để đối phó với cuộc kiểm tra nghiêm ngặt của người Nhật, cuối cùng họ đã vượt qua khỏi tình huống gian nan dưới danh nghĩa là một cặp đôi tình nhân.Bất ngờ, người Nhật ép buộc họ kết hôn do nghi ngờ về mối quan hệ giả mạo giữa họ. Lúc này, Tả Song Đào cũng đã tự mình tiến vào làm việc tại một công ty thương mại. Từ đó, Trần Gia Bình phải vừa thực hiện nhiệm vụ vừa đối mặt với nguy cơ tiết lộ danh tính, đồng thời cố gắng tìm hiểu thêm về danh tính thật sự của Tả Song Đào. Cuộc chiến đấu trở nên ngày càng khốc liệt, và cuối cùng, Trần Gia Bình phát hiện ra rằng Tả Song Đào chính là đặc công của Quân đội Quốc dân Trung Quốc với biệt danh "Hồng Đào Ngữ", còn Tả Song Đào cũng khám phá ra rằng Trần Gia Bình là đặc công của Đảng Cộng sản Trung Quốc với biệt danh "Mai Hoa Tứ". Sau khi hiểu rõ hơn về tư tưởng và đóng góp của nhau trong cuộc chiến tranh chống Nhật Bản, dưới sự tác động của niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản, họ cuối cùng quyết định cùng nhau chiến đấu. Họ trải qua nhiều thử thách khó khăn dưới sự hướng dẫn của tổ chức Đảng và cùng nhau bắt đầu một hành trình mới . Diễn viên Diễn viên chính Diễn viên khác Rating Tham khảo Liên kết ngoài Phim truyền hình Trung Quốc
19830929
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brenda%20K.%20Starr
Brenda K. Starr
Brenda Joy Kaplan (sinh ngày 14 tháng 10 năm 1966), nghệ danh Brenda K. Starr, là một nghệ sĩ và ca sĩ người Mỹ. Ban đầu bà được biết đến nhiều vì sự nghiệp của mình trong dòng nhạc R&B, nhạc dance và nhạc pop, nhưng hiện nay thì bà nổi tiếng với các sản phẩm âm nhạc theo phong cách salsa. Bà còn nổi tiếng với tác phẩm thập niên 1980 của mình với phong cách freestyle Latinh. Thiếu thời Brenda Joy Kaplan sinh ra trong một gia đình có bố là một tín đồ Do Thái người Mỹ, nghệ sĩ đàn organ Harvey Kaplan (nghệ danh là Harvey Kaye khi ông chơi cho ban nhạc Spiral Starecase vào thập niên 1960) và mẹ là một tín hữu Công giáo người Puerto Rico. Tham khảo Sinh năm 1966 Nhân vật còn sống Nữ ca sĩ-người viết bài hát Mỹ Người Mỹ gốc Ý Ca sĩ Thành phố New York Nữ ca sĩ nhạc pop Mỹ Nữ giới Mỹ thế kỷ 21
19830934
https://vi.wikipedia.org/wiki/HeLa
HeLa
HeLa (; cũng được gọi là Hela hoặc hela) là một dòng tế bào bất tử được sử dụng trong nghiên cứu khoa học. Đây là dòng tế bào lâu đời nhất và được sử dụng phổ biến nhất ở người. Dòng này có nguồn gốc từ các tế bào ung thư cổ tử cung được lấy ra vào ngày 8 tháng 2 năm 1951, từ Henrietta Lacks, một bà mẹ 31 tuổi người Mỹ gốc Phi có 5 đứa con, qua đời vì bệnh ung thư vào ngày 4 tháng 10 năm 1951, và dòng tế bào này được đặt theo tên của Henrietta Lacks bằng cách lấy 2 ký tự đầu của tên riêng kết hợp với 2 ký tự đầu của họ mà tạo thành - HeLa. Dòng tế bào này được phát hiện là có độ bền và khả năng sinh sản đáng kể, cho phép nó được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu khoa học. Các tế bào từ khối u ung thư cổ tử cung của Lacks đã được lấy đi mà cô không hề hay biết, đây là thông lệ ở Hoa Kỳ vào thời điểm đó. Nhà sinh học tế bào George Otto Gey phát hiện ra rằng chúng có thể được giữ sống và phát triển thành một dòng tế bào nếu được nuôi trong môi trường thích hợp. Trước đây, các tế bào được nuôi cấy từ các tế bào khác của con người sẽ chỉ tồn tại được vài ngày, nhưng các tế bào từ khối u của Lacks lại có thể sống và sinh sản không ngừng. Lịch sử Nguồn gốc Năm 1951, một bệnh nhân tên Henrietta Lacks được đưa vào Bệnh viện Johns Hopkins với triệu chứng chảy máu âm đạo bất thường, và sau đó được điều trị ung thư cổ tử cung. Lần điều trị đầu tiên của cô được thực hiện bởi Lawrence Wharton Jr., người lúc này đã thu thập các mẫu mô từ cổ tử cung của cô mà không có sự đồng ý của cô. Sinh thiết cổ tử cung của cô đã cung cấp các mẫu mô để George Otto Gey, người đứng đầu Phòng thí nghiệm Nuôi cấy Mô, đánh giá và nghiên cứu lâm sàng. Trợ lý phòng thí nghiệm của Gey, Mary Kubicek, đã sử dụng kỹ thuật ống lăn để đặt tế bào vào nuôi cấy. Người ta quan sát thấy các tế bào phát triển mạnh mẽ, tăng gấp đôi sau mỗi 20–24 giờ, không giống như các mẫu vật trước đó đã chết. Các tế bào này được Gey nhân giống không lâu trước khi Lacks qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1951. Đây là dòng tế bào đầu tiên của con người được chứng minh là nuôi cấy thành công trong ống nghiệm, đây là một thành tựu khoa học mang lại lợi ích sâu sắc cho nghiên cứu y học trong tương lai. Gey đã tặng miễn phí những tế bào này cùng với các công cụ và quy trình mà phòng thí nghiệm của ông đã phát triển cho bất kỳ nhà khoa học nào muốn nghiên cứu vì lợi ích của khoa học. Cả Lacks và gia đình cô đều chưa được xin phép để thu hoạch tế bào. Các tế bào này sau đó đã được thương mại hóa, mặc dù chưa bao giờ được cấp bằng sáng chế ở dạng ban đầu. Vào thời điểm đó, không có yêu cầu phải thông báo cho bệnh nhân hoặc người thân của họ về những vấn đề đó vì các mẫu vật thải ra trong quá trình phẫu thuật, chẩn đoán hoặc điều trị là tài sản của bác sĩ hoặc cơ sở y tế. Theo thông lệ đối với trợ lý phòng thí nghiệm của Gey, tế bào nuôi cấy được đặt tên tuân thủ theo hai chữ cái đầu tiên trong họ và tên của Henrietta Lacks, vì thế dòng tế bào này được gọi là HeLa. Trước khi bị rò rỉ thông tin ra công chúng vào những năm 1970, tiết lộ tên thật của cô, dòng tế bào "HeLa" đã bị nhầm tưởng là được đặt theo tên của "Helen Lane" hoặc "Helen Larson". Các tế bào nuôi cấy khác đang bị các tế bào HeLa nghi ngờ xâm chiếm, vì vậy một nhóm nghiên cứu đã liên hệ với gia đình Lacks để tìm kiếm mẫu DNA nhằm giúp xác định các dòng tế bào gây ô nhiễm. Gia đình chưa bao giờ hiểu mục đích của chuyến thăm, nhưng họ rất đau khổ vì hiểu được những gì các nhà nghiên cứu đã nói với họ. Những tế bào này được coi là tế bào ung thư, vì chúng có nguồn gốc từ sinh thiết lấy từ một tổn thương có thể nhìn thấy trên cổ tử cung như một phần trong chẩn đoán ung thư của Lacks. Tế bào HeLa, giống như các dòng tế bào khác, được gọi là "bất tử" ở chỗ chúng có thể phân chia không giới hạn số lần trong đĩa nuôi cấy tế bào trong phòng thí nghiệm miễn là đáp ứng các điều kiện sống sót cơ bản của tế bào (tức là được duy trì trong môi trường thích hợp). Có nhiều chủng tế bào HeLa khi chúng tiếp tục biến đổi trong môi trường nuôi cấy tế bào, nhưng tất cả các tế bào HeLa đều có nguồn gốc từ cùng các tế bào khối u được loại bỏ khỏi Lacks. Tổng số tế bào HeLa được nhân lên trong nuôi cấy tế bào vượt xa tổng số tế bào có trong cơ thể Henrietta Lacks. Tranh cãi Trường hợp của Lacks là một trong nhiều ví dụ điển hình của thế kỷ XX về việc thiếu sự chấp thuận của bệnh nhân có hiểu biết trong y học khi cơ sở điều trị hoặc bác sĩ lấy đi từ cơ thể của họ một mẫu vật. Sự liên lạc giữa người hiến mô và bác sĩ hầu như không tồn tại – tế bào được lấy mà không có sự đồng ý của bệnh nhân và bệnh nhân không được cho biết tế bào sẽ được sử dụng để làm gì. Bệnh viện Johns Hopkins, nơi Lacks được điều trị và thu hoạch mô, là bệnh viện duy nhất ở khu vực Baltimore nơi bệnh nhân người Mỹ gốc Phi có thể được chăm sóc miễn phí. Những bệnh nhân được chăm sóc miễn phí từ khu vực tách biệt này của bệnh viện thường trở thành đối tượng nghiên cứu mà họ không hề hay biết. Gia đình của Lacks cũng không có quyền truy cập vào hồ sơ bệnh nhân của cô và không có quyền quyết định ai sẽ nhận tế bào HeLa hoặc chúng sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Ngoài ra, khi tế bào HeLa được phổ biến và sử dụng thường xuyên hơn trong cộng đồng khoa học, người thân của Lacks không nhận được lợi ích tài chính nào và tiếp tục sống với khả năng tiếp cận chăm sóc sức khỏe hạn chế. Vấn đề ai sở hữu các mẫu mô được lấy để nghiên cứu đã được đưa ra trong vụ kiện của Tối cao pháp viện California trong vụ Moore kiện Regents của Đại học California vào năm 1990. Tòa án đã phán quyết rằng mô và tế bào bị loại bỏ của một người không phải là tài sản của người đó và có thể được thương mại hóa. Trường hợp của Lacks đã ảnh hưởng đến việc thiết lập Quy tắc chung vào năm 1981. Quy tắc chung thực thi sự đồng ý bằng cách đảm bảo rằng các bác sĩ sẽ thông báo cho bệnh nhân nếu họ dự định sử dụng bất kỳ mẫu vật nào trên cơ thể của bệnh nhân trong nghiên cứu và cho họ lựa chọn tiết lộ chi tiết hay không. Các mô được kết nối với tên của người hiến tặng cũng được quản lý chặt chẽ theo quy tắc này và các mẫu không còn được đặt bằng tên viết tắt của người hiến tặng mà thay vào đó bằng mã số. Để giải quyết thêm vấn đề về quyền riêng tư của bệnh nhân, Johns Hopkins đã thành lập một ủy ban chung với NIH và một số thành viên gia đình của Lacks để xác định xem ai có quyền truy cập vào bộ gen của Henrietta Lacks. Vào năm 2021, gia đình của Henrietta Lacks khởi đơn kiện để đòi các khoản thanh toán trong quá khứ và tương lai cho việc bán tế bào HeLa được cho là trái phép và được biết đến rộng rãi bởi Thermo Fisher Scientific. Gia đình của Lacks đã thuê luật sư để đòi bồi thường từ hơn 100 công ty dược phẩm đã sử dụng và thu lợi từ tế bào HeLa. Việc giải quyết vụ kiện với Thermo Fisher Scientific được công bố vào tháng 8 năm 2023 với các điều khoản không được tiết lộ. Sau thỏa thuận dàn xếp, có thông báo rằng gia đình Lacks đang kiện công ty Ultragenyx. Sử dụng trong nghiên cứu Tế bào HeLa là tế bào đầu tiên của con người được nhân bản thành công vào năm 1953 bởi Theodore Puck và Philip I. Marcus tại Đại học Colorado, Denver. Kể từ thời điểm đó, tế bào HeLa đã "liên tục được sử dụng để nghiên cứu về bệnh ung thư, AIDS, tác động của bức xạ và các chất độc hại, lập bản đồ gen và vô số mục đích khoa học khác." Theo tác giả Rebecca Skloot, đến năm 2009, "nhiều hơn 60.000 bài báo khoa học đã được xuất bản về nghiên cứu được thực hiện trên HeLa, và con số đó đang tăng lên đều đặn với tốc độ hơn 300 bài báo mỗi tháng." Xóa bỏ bệnh bại liệt Tế bào HeLa được Jonas Salk sử dụng để thử nghiệm Vắc-xin bại liệt đầu tiên vào những năm 1950. Quan sát thấy chúng dễ bị nhiễm bệnh bại liệt, khiến các tế bào bị nhiễm bệnh chết. Điều này khiến tế bào HeLa rất được ưa chuộng để thử nghiệm vắc xin bại liệt vì có thể dễ dàng thu được kết quả. Cần một lượng lớn tế bào HeLa để thử nghiệm vắc xin bại liệt của Salk, khiến Tổ chức Quốc gia về Bệnh bại liệt ở trẻ sơ sinh (NFIP) phải tìm một cơ sở có khả năng sản xuất hàng loạt tế bào HeLa. Vào mùa xuân năm 1953, một nhà máy nuôi cấy tế bào được thành lập tại Đại học Tuskegee để cung cấp tế bào HeLa cho Salk và các phòng thí nghiệm khác. Chưa đầy một năm sau, vắc xin của Salk đã sẵn sàng để thử nghiệm trên người. Virus học Tế bào HeLa đã được sử dụng để kiểm tra xem parvovirus lây nhiễm vào tế bào của người, chó và mèo như thế nào. Những tế bào này cũng đã được sử dụng để nghiên cứu các loại virus như oropouche virus (OROV). OROV gây ra sự gián đoạn của các tế bào trong quá trình nuôi cấy, trong đó các tế bào bắt đầu thoái hóa ngay sau khi chúng bị nhiễm bệnh, gây ra hiện tượng virus chết tế bào theo chương trình. Tế bào HeLa đã được sử dụng để nghiên cứu sự biểu hiện của papillomavirus E2 và apoptosis. Tế bào HeLa cũng đã được sử dụng để nghiên cứu khả năng gây ra apoptosis của virus gây bệnh ở chó trong các dòng tế bào ung thư, có thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các phương pháp điều trị cho các tế bào khối u kháng lại bức xạ và hóa trị. Tế bào HeLa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển vắc xin ngừa Nhiễm virus papilloma ở người (HPV). Vào những năm 1980, Harald zur Hausen phát hiện ra rằng các tế bào của Lacks từ sinh thiết ban đầu có chứa HPV-18, loại vi rút này sau đó được phát hiện là nguyên nhân gây ra căn bệnh ung thư ác tính đã giết chết Henrietta Lacks. Công trình liên kết HPV với ung thư cổ tử cung của ông đã mang lại cho ông giải thưởng Nobel và dẫn đến sự phát triển các loại vắc xin HPV được dự đoán sẽ làm giảm 70% số ca tử vong do ung thư cổ tử cung. Trong những năm qua, các tế bào HeLa đã bị nhiễm nhiều loại vi-rút khác nhau bao gồm HIV, sốt rét, bệnh mụn rộp và quai bị để thử nghiệm và phát triển các loại vắc-xin và thuốc mới. Tiến sĩ Richard Axel phát hiện ra rằng bằng cách thêm protein CD4 vào tế bào HeLa, chúng có thể bị nhiễm HIV, cho phép nghiên cứu virus. Năm 1979, các nhà khoa học biết được virus sởi liên tục biến đổi khi lây nhiễm vào tế bào HeLa và vào năm 2019, họ phát hiện ra rằng vi rút sởi không thể nhân lên trong tế bào HeLa. Bệnh ung thư Tế bào HeLa đã được sử dụng trong một số nghiên cứu về ung thư, bao gồm cả những nghiên cứu liên quan đến hormone steroid sinh dục như estradiol, estrogen và thụ thể estrogen, cùng với các hợp chất giống estrogen như quercetin và đặc tính giảm ung thư của nó. Cũng đã có nghiên cứu về tế bào HeLa, tác dụng của flavonoid và chất chống oxy hóa với estradiol đối với sự tăng sinh tế bào ung thư. Vào năm 2011, tế bào HeLa đã được sử dụng trong các thử nghiệm thuốc nhuộm heptamethine mới IR-808 và các chất tương tự khác hiện đang được khám phá vì những ứng dụng độc đáo của chúng trong chẩn đoán y tế, phát triển liệu pháp trị liệu, điều trị cá nhân cho bệnh nhân ung thư với sự hỗ trợ của PDT, đồng thời-quản lý với các loại thuốc khác, và chiếu xạ. Tế bào HeLa đã được sử dụng trong nghiên cứu liên quan đến fullerene để gây ra apoptosis như một phần của liệu pháp quang động, cũng như trong nghiên cứu ung thư trong ống nghiệm sử dụng các dòng tế bào. Các tế bào HeLa khác cũng đã được sử dụng để xác định các dấu hiệu ung thư trong RNA và được sử dụng để thiết lập Hệ thống nhận dạng dựa trên RNAi và sự can thiệp của các tế bào ung thư cụ thể. HeLa đã được chứng minh vào năm 2014 là dòng tế bào khả thi để ghép xenograft khối u ở chuột trụi C57BL/6, và sau đó được sử dụng để kiểm tra tác dụng in vivo của fluoxetine và cisplatin đối với ung thư cổ tử cung. Di truyền học Năm 1953, một lỗi trong phòng thí nghiệm liên quan đến việc trộn nhầm tế bào HeLa với chất lỏng sai đã cho phép các nhà nghiên cứu nhìn và đếm rõ ràng từng nhiễm sắc thể trong tế bào HeLa mà họ đang làm việc cùng lần đầu tiên. Phát hiện tình cờ này đã khiến các nhà khoa học Joe Hin Tjio và Albert Levan phát triển các kỹ thuật nhuộm và đếm nhiễm sắc thể tốt hơn. Họ là những người đầu tiên mô tả chính xác rằng con người có 23 cặp nhiễm sắc thể thay vì 24 như người ta tin trước đây. Điều này rất quan trọng đối với việc nghiên cứu các rối loạn phát triển như hội chứng Down liên quan đến số lượng nhiễm sắc thể. Năm 1965, Henry Harris và John Watkins đã tạo ra giống lai giữa người và động vật đầu tiên bằng cách kết hợp tế bào HeLa với tế bào phôi chuột. Điều này cho phép tiến bộ trong việc lập bản đồ gen tới các nhiễm sắc thể cụ thể, cuối cùng dẫn đến Dự án Bộ gen Người. Vi sinh vật không gian Vào những năm 1960, tế bào HeLa đã được gửi lên vệ tinh Sputnik-6 của Liên Xô và các sứ mệnh không gian của con người để xác định tác động lâu dài của việc du hành vũ trụ lên tế bào và mô sống. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng tế bào HeLa thậm chí còn phân chia nhanh hơn trong môi trường không trọng lực. Phân tích Telomerase Dòng tế bào HeLa được tạo ra để sử dụng trong nghiên cứu ung thư. Những tế bào này sinh sôi nảy nở nhanh chóng một cách bất thường, thậm chí so với các tế bào ung thư khác. Giống như nhiều tế bào ung thư khác, tế bào HeLa có phiên bản hoạt động của telomerase trong quá trình phân chia tế bào, sao chép telomere nhiều lần. Điều này ngăn chặn sự rút ngắn ngày càng tăng của telomere có liên quan đến lão hóa và cuối cùng là chết tế bào. Bằng cách này, các tế bào sẽ phá vỡ giới hạn Hayflick, đó là số lần phân chia tế bào giới hạn mà hầu hết các tế bào bình thường có thể trải qua trước khi trở thành lão hóa. Kết quả là sự phân chia tế bào không giới hạn và sự bất tử. Số nhiễm sắc thể Việc chuyển gen ngang từ papillomavirus 18 (HPV18) ở người sang tế bào cổ tử cung của con người đã tạo ra bộ gen HeLa, khác với bộ gen của Henrietta Lacks về nhiều mặt, bao gồm cả số lượng nhiễm sắc thể. Tế bào HeLa là tế bào ung thư phân chia nhanh chóng và số lượng nhiễm sắc thể thay đổi trong quá trình hình thành ung thư và nuôi cấy tế bào. Ước tính hiện tại (không bao gồm các đoạn rất nhỏ) là "số lượng nhiễm sắc thể siêu tam bội (3n+)" có nghĩa là tổng số 76 đến 80 nhiễm sắc thể (chứ không phải số lượng lưỡng bội bình thường là 46) với 22–25 nhiễm sắc thể bất thường về dòng vô tính, được gọi là "nhiễm sắc thể đặc trưng HeLa". Các nhiễm sắc thể đặc trưng có thể được lấy từ nhiều nhiễm sắc thể ban đầu, tạo ra số lượng tóm tắt đầy thách thức dựa trên cách đánh số ban đầu. Các nhà nghiên cứu cũng đã lưu ý rằng những kiểu nhân bất thường này có thể ổn định đến mức nào. Các nghiên cứu kết hợp phương pháp phân tích nhiễm sắc thể quang phổ, FISH và các kỹ thuật tế bào học thông thường cho thấy những sai lệch nhiễm sắc thể được phát hiện có thể là đại diện của ung thư biểu mô cổ tử cung tiến triển và có thể đã hiện diện trong khối u nguyên phát, vì bộ gen HeLa vẫn ổn định ngay cả sau nhiều năm tiếp tục nuôi cấy. Trình tự bộ gen hoàn chỉnh Bộ gen hoàn chỉnh của tế bào HeLa đã được giải trình tự và công bố vào ngày 11 tháng 3 năm 2013 mà gia đình Lacks không hề hay biết. Gia đình đã nêu lên mối lo ngại nên các tác giả đã tự nguyện từ chối quyền truy cập vào dữ liệu trình tự. Jay Shendure đã dẫn đầu một dự án giải trình tự HeLa tại Đại học Washington, dự án này đã tạo ra một bài báo khoa học đã được chấp nhận xuất bản vào tháng 3 năm 2013 – nhưng bài báo đó cũng bị hoãn lại trong khi những lo ngại về quyền riêng tư của gia đình Lacks đang được giải quyết. Vào ngày 7 tháng 8 năm 2013, giám đốc NIH là Francis Collins đã công bố chính sách truy cập có kiểm soát vào bộ gen của dòng tế bào dựa trên thỏa thuận đạt được sau ba cuộc gặp với gia đình Lacks. Một ủy ban truy cập dữ liệu sẽ xem xét các yêu cầu của các nhà nghiên cứu về quyền truy cập vào trình tự bộ gen theo tiêu chí nghiên cứu dành cho nghiên cứu y học và người dùng sẽ tuân thủ các điều khoản trong Thỏa thuận sử dụng dữ liệu bộ gen HeLa, trong đó bao gồm tất cả các nhà nghiên cứu do NIH tài trợ sẽ gửi dữ liệu vào một cơ sở dữ liệu duy nhất để chia sẻ trong tương lai. Ủy ban bao gồm 6 thành viên bao gồm các đại diện từ các lĩnh vực y tế, khoa học và đạo đức sinh học, cũng như hai thành viên của gia đình Lacks. Trong một cuộc phỏng vấn, Collins ca ngợi sự sẵn lòng của gia đình Lacks khi tham gia vào tình huống buộc họ phải gánh chịu này. Ông mô tả toàn bộ trải nghiệm với họ là "mạnh mẽ", nói rằng nó tập hợp "khoa học, lịch sử khoa học và các mối quan tâm về đạo đức" theo một cách độc đáo. Sự ô nhiễm Tế bào HeLa đôi khi khó kiểm soát vì chúng thích nghi với sự phát triển trong đĩa nuôi cấy mô với khả năng xâm lấn và cạnh tranh với các dòng tế bào khác. Thông qua việc bảo trì không đúng cách, chúng đã làm ô nhiễm các tế bào nuôi cấy khác trong cùng phòng thí nghiệm, cản trở nghiên cứu sinh học và buộc các nhà nghiên cứu phải tuyên bố nhiều kết quả không đúng. Mức độ ô nhiễm tế bào HeLa giữa các loại tế bào khác vẫn chưa được biết rõ vì rất ít nhà nghiên cứu kiểm tra danh tính hoặc độ tinh khiết của các dòng tế bào đã được thiết lập. Người ta đã chứng minh rằng một phần đáng kể các dòng tế bào in vitro bị nhiễm tế bào HeLa; ước tính dao động từ 10% đến 20%. Quan sát này cho thấy rằng bất kỳ dòng tế bào nào cũng có thể dễ bị nhiễm bẩn ở một mức độ nào đó. Stanley Michael Gartler (1967) và Walter Nelson-Rees (1975) là những người đầu tiên công bố về sự lây nhiễm của các dòng tế bào khác nhau bởi HeLa. Gartler lưu ý rằng "Với sự mở rộng liên tục của công nghệ nuôi cấy tế bào, gần như chắc chắn rằng cả ô nhiễm giữa các loài và trong cùng loài sẽ xảy ra." Ô nhiễm tế bào HeLa đã trở thành một vấn đề phổ biến trên toàn thế giới - ảnh hưởng đến cả phòng thí nghiệm của nhiều bác sĩ, nhà khoa học và nhà nghiên cứu nổi tiếng, bao gồm cả Jonas Salk. Vấn đề ô nhiễm HeLa cũng góp phần gây ra căng thẳng trong Chiến tranh Lạnh. Liên Xô và Hoa Kỳ đã bắt đầu hợp tác trong cuộc chiến chống ung thư do Tổng thống Richard Nixon phát động, chỉ để phát hiện ra rằng các tế bào được trao đổi đã bị nhiễm HeLa. Thay vì tập trung vào cách giải quyết vấn đề ô nhiễm tế bào HeLa, nhiều nhà khoa học và tác giả khoa học tiếp tục ghi nhận vấn đề này đơn giản là vấn đề ô nhiễm - không phải do lỗi hoặc thiếu sót của con người mà do bản chất cứng rắn, sinh sôi nảy nở quá mạnh của HeLa. Dữ liệu gần đây cho thấy ô nhiễm chéo vẫn là một vấn đề lớn đang diễn ra với nuôi cấy tế bào hiện đại. Ủy ban Xác thực Dòng Tế bào Quốc tế (ICLAC) lưu ý rằng nhiều trường hợp xác định sai dòng tế bào là kết quả của sự lây nhiễm chéo môi trường nuôi cấy bởi một dòng tế bào phát triển nhanh hơn khác. Điều này đặt ra câu hỏi về giá trị của nghiên cứu được thực hiện bằng cách sử dụng các dòng tế bào bị ô nhiễm, vì một số thuộc tính nhất định của chất gây ô nhiễm, có thể đến từ một loài hoặc mô hoàn toàn khác, có thể được phân bổ sai cho dòng tế bào đang được điều tra. Đề xuất loài mới HeLa được nhà sinh vật học tiến hóa Leigh Van Valen mô tả như một ví dụ về việc tạo ra một loài mới đương thời, được đặt tên là "Helacyton gartleri", do khả năng sao chép vô thời hạn và số lượng nhiễm sắc thể không phải của con người. Loài này được đặt theo tên của nhà di truyền học Stanley Michael Gartler, người mà Van Valen cho rằng đã khám phá ra "sự thành công đáng chú ý của loài này". Lập luận của ông về sự hình thành loài phụ thuộc vào những điểm sau: Sự không tương thích nhiễm sắc thể của tế bào HeLa với con người. Ổ sinh thái của tế bào HeLa. Khả năng tồn tại và phát triển của chúng vượt xa mong muốn của người nuôi cấy. HeLa có thể được định nghĩa là một loài vì nó có kiểu nhân đồ riêng. Van Valen đề xuất họ mới là Helacytidae và chi Helacyton, cũng như đề xuất một loài mới cho tế bào HeLa trong cùng một bài báo. Tuy nhiên, đề xuất này chưa được các nhà sinh học tiến hóa nổi tiếng khác cũng như các nhà khoa học thuộc các ngành khác coi trọng. Lập luận của Van Valen về việc HeLa là một loài mới không đáp ứng các tiêu chí cho một loài sinh sản vô tính đơn bào độc lập vì sự bất ổn của kiểu nhân của HeLa và việc chúng thiếu một dòng dõi tổ tiên nghiêm ngặt. Hình ảnh Trong phương tiện truyền thông Bộ phim tài liệu "The Way of All Flesh" năm 1997 của Adam Curtis giải thích lịch sử của HeLa và ý nghĩa của nó trong y học và xã hội. Một tập phim Law & Order "Immortal" năm 2010 dựa chủ yếu vào câu chuyện của Henrietta Lacks và dòng HeLa, sử dụng các tế bào "NaRo" hư cấu làm thế thân. Câu chuyện về sự ra đời của dòng HeLa cũng là chủ đề của một tập podcast Radiolab năm 2010. HeLa là chủ đề trong cuốn sách xuất bản năm 2010 của Rebecca Skloot, Cuộc đời bất tử của Henrietta Lacks, điều tra bối cảnh lịch sử của dòng tế bào và cách gia đình Lacks tham gia vào việc sử dụng nó. Một bộ phim HBO năm 2017, Cuộc đời bất tử của Henrietta Lacks (phim) dựa trên cuốn sách cùng tên. Phim có sự tham gia của Oprah Winfrey, Sylvia Grace Crim, Rocky Carroll và Renée Elise Goldsberry trong vai Henrietta Lacks. Tác giả Rebecca Skloot cũng xuất hiện với tư cách là một nhân vật trong phim do Rose Byrne thể hiện. Tham khảo Đọc thêm Liên kết ngoài HeLa (CCL-2 Cells) in the ATCC database HeLa Transfection and Selection Data for HeLa Cells Rebecca Skloot, The Immortal Life of Henrietta Lacks book website with additional features (photo/video/audio) The Henrietta Lacks Foundation, a foundation established to, among other things, help provide scholarship funds and health insurance to Henrietta Lacks's family. Rebecca Skloot, Cells That Save Lives are a Mother's Legacy, New York Times "Wonder Woman: The Life, Death, and Life After Death of Henrietta Lacks, Unwitting Heroine of Modern Medical Science" by Van Smith "What's Left of Henrietta Lacks?" by Anne Enright "Culturing Life: How Cells Became Technologies" a book by Hannah Landecker about HeLa and the history of tissue culture. Discussion about the taxonomic effect of creating the new taxon Helacyton. Cell Centered Database – HeLa cell Audio Interview with Rebecca Skloot about her book "The Immortal Life of Henrietta Lacks" Cellosaurus entry for HeLa The Legacy of Henrietta Lacks Dòng tế bào người Đạo đức sinh học Bệnh viện Johns Hopkins Lão hóa tế bào Công nghệ sinh học năm 1951 Sinh vật mô hình Tế bào người Sinh học phát triển Sinh học tế bào Đại học Johns Hopkins Chăm sóc sức khỏe ở Hoa Kỳ Quá trình tế bào Lão hóa Sinh học năm 1951
19830939
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anna%20Burns
Anna Burns
Anna Burns (sinh ngày 7 tháng 3 năm 1962) là một nhà văn Bắc Ireland. Bà sinh ra tại Belfast, Bắc Ireland, và sống tại Đông Sussex, Anh. Tiểu thuyết Milkman của bà đã giành giải Booker năm 2018 và nhiều giải thưởng văn học quan trọng khác, trong đó có Giải thưởng Văn học Quốc tế Dublin năm 2020. Tác phẩm Tiểu thuyết No Bones (2001) Little Constructions (2007) Milkman (Người giao sữa, 2018) Love at Cafe Lompar (2021) Tiểu thuyết ngắn Mostly Hero (2014) Giải thưởng Winifred Holtby Memorial Prize, 2001 (No Bones) Lọt vào chung khảo Orange Prize for Fiction, 2002 (No Bones) Giải Man Booker, 2018 (Milkman) National Book Critics Circle Award for Fiction, 2018 (Milkman) Orwell Prize for Political Fiction, 2019 (Milkman) Christopher Ewart-Biggs Memorial Prize, 2018-2019 (Milkman) Lọt vào chung khảo Women's Prize for Fiction, 2019 (Milkman) International Dublin Literary Award, 2020 (Milkman) Tham khảo Sinh năm 1962 Tác giả giành giải Man Booker Nữ nhà văn thế kỷ 20 Nữ nhà văn thế kỷ 21 Nhân vật còn sống
19830942
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20Th%E1%BA%BF%20gi%E1%BB%9Bi%20ch%E1%BB%91ng%20l%E1%BA%A1i%20%C3%81n%20t%E1%BB%AD%20h%C3%ACnh
Ngày Thế giới chống lại Án tử hình
Ngày Thế giới chống án tử hình (ngày 10 tháng 10) là ngày vận động cho việc bãi bỏ án tử hình trên toàn cầu và chấm dứt tình trạng vi phạm nhân quyền liên quan đến việc hành quyết phạm nhân. Ngày này được tổ chức lần đầu tiên bởi Liên đoàn Thế giới Chống lại Án tử hình (WCADP – World Coalition Against the Death Penalty) vào năm 2003. Nhiều tổ chức phi chính phủ và chính phủ thế giới đứng ra hậu thuẫn cho ngày này, bao gồm Tổ chức Ân xá Quốc tế, Liên minh Châu Âu và Liên Hợp Quốc. Vào ngày 26 tháng 9 năm 2007, Hội đồng Châu Âu cũng tuyên bố ngày 10 tháng 10 là Ngày Châu Âu chống lại án tử hình. Tình hình án tử hình ở Việt Nam và Đông Nam Á Án tử hình là hình phạt cao nhất trong hệ thống hình phạt của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, xu hướng chung trên thế giới là giảm dần việc áp dụng án tử hình, và nhiều quốc gia đã hoàn toàn xóa bỏ hình phạt này. Việt Nam Trong những năm gần đây, phạm vi áp dụng án tử hình ở Việt Nam đã được thu hẹp đáng kể. Cụ thể, năm 2015, Quốc hội đã quyết định bãi bỏ án tử hình đối với tội cướp tài sản có tính chất nghiêm trọng, cướp tài sản có tính chất đồng phạm giản đơn. Hình phạt tử hình không áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Đông Nam Á Tình hình án tử hình ở Đông Nam Á cũng đang có những thay đổi tích cực. Tính đến năm 2023, đã có ba quốc gia ở khu vực này hoàn toàn xóa bỏ án tử hình, đó là Campuchia, Timor-Leste và Philippines. Ngoài ra, vào ngày 3 tháng 4 năm 2023, Malaysia đã thông qua cải cách xóa bỏ án tử hình bắt buộc, giảm số tội danh bị kết án tử hình và bãi bỏ án tù chung thân suốt đời (thời hạn cố định là 30 năm). Bên cạnh đó, Brunei, Lào đã tạm ngưng thực thi án tử hình trên thực tế (de facto). Xem thêm Tử hình Quyền được chết Luật cấm chết Xá tội Luật hình sự Việt Nam Hình phạt tử hình theo quốc gia Liên kết ngoài World Day Against the Death Penalty European Day against Death Penalty Số liệu án tử hình năm 2023 của Việt Nam Death Penalty Worldwide Chú thích Dịch từ bài :en:World Day Against the Death Penalty của Wikipedia tiếng Anh Tử hình
19830950
https://vi.wikipedia.org/wiki/VnExpress%20Marathon
VnExpress Marathon
VnExpress Marathon là giải đấu marathon do báo điện tử VnExpress tổ chức. Giải đấu lần đầu tiên được tổ chức tại thành phố Quy Nhơn vào năm 2019. Đến năm , VnExpress Marathon có 7 giải đấu ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Quy Nhơn, Nha Trang, Hạ Long, Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài cự ly full marathon (42km) thì giải đấu VnExpress Marathon còn tổ chức các cự ly bán marathon (21km), 10km và 5km. Các giải chạy đều đạt chuẩn để làm căn cứ cho các vận động viên nộp đơn tham dự các giải chạy lớn trên thế giới như Boston Marathon, Chicago Marathon, Marathon Thành phố New York v.v... Các giải chạy thuộc hệ thống Kết quả Tham khảo Ghi chú Chú thích Giải đấu marathon tổ chức bởi Việt Nam VnExpress Khởi đầu năm 2019 ở Việt Nam Thể thao Việt Nam năm 2019
19830951
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anh%20h%C3%B9ng%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
Anh hùng (định hướng)
Anh hùng có thể là: Anh hùng Anh hùng (phim 2002)
19830952
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ecocrop
Ecocrop
Ecocrop là một cơ sở dữ liệu về xác định sự thích hợp của cây trồng đối với một môi trường cụ thể. Cơ sở này do Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO) phát triển nhằm cung cấp thông tin dự đoán khả năng tồn tại của cây trồng ở các địa điểm và điều kiện khí hậu khác nhau. Nó cũng hoạt động như một danh mục các loài thực vật và đặc điểm sinh trưởng của thực vật. Lịch sử Ecocrop lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1991 sau khi bên xây dựng hoàn tất việc lập kế hoạch và tư vấn chuyên gia ban đầu liên quan đến việc phát triển cơ sở dữ liệu. Hệ thống này do Phòng Phát triển Đất và Nước của FAO (AGLL) phát triển và ra mắt vào năm 1992. Mục tiêu là tạo ra một công cụ có thể xác định các loài thực vật trong các môi trường và mục đích sử dụng nhất định, và đồng thời là một công cụ cung cấp hệ thống thông tin đóng góp vào khái niệm Land Use Planning (Quy hoạch sử dụng đất). Năm 1994, cơ sở dữ liệu Ecocrop đã cho phép xác định hơn 1.700 loại cây trồng và 12-20 yêu cầu về môi trường, gồm tất cả các môi trường sinh thái nông nghiệp trên thế giới. Thành công tái diễn của cơ sở dữ liệu những năm 1998-1999 chủ yếu liên quan đến việc cải tiến giao diện người dùng. Đến năm 2000, cơ sở dữ liệu chứa 2.000 loài và 10 mô tả bổ sung. Con số này sau đó tăng thêm với việc bổ sung thêm 300 loại cây trồng. Mô hình Ecocrop Mô hình Ecocrop xác định sự phù hợp của cây trồng với một địa điểm bằng cách đánh giá các biến số khác nhau. Cụ thể, các bộ mô tả thực vật bao gồm chủng loại, dạng sống, thói quen sinh trưởng và tuổi thọ, trong khi các bộ mô tả môi trường bao gồm nhiệt độ, lượng mưa, cường độ ánh sáng, phân loại khí hậu Köppen, quang chu kỳ, vĩ độ, cao độ và các đặc điểm đất khác. Cơ sở dữ liệu về cây trồng đặc biệt hữu ích nếu không có lựa chọn nào khác ngoài sử dụng phạm vi môi trường. Sau khi xác định được những đầu vào này, hệ thống sẽ tính toán ra chỉ số phù hợp dưới dạng phần trăm. Điểm chỉ số phù hợp được tính từ 0 đến 1, trong đó điểm 0 biểu thị hoàn toàn không phù hợp, còn điểm 1 biểu thị mức độ phù hợp tối ưu hoặc xuất sắc. Thông tin đầu ra cũng bao gồm các giá trị phù hợp riêng biệt về nhiệt độ và lượng mưa. Là một mô hình dự đoán, thuật toán Ecocrop mang lại dữ liệu chung hơn so với dữ liệu do các mô hình khác như DOMAIN và BIOCLIM tạo ra. Thông tin này mang tính chung chung về bản chất của các yêu cầu và được cho là do thiếu thông tin liên quan đến từng loại cây trồng cụ thể. Một hạn chế khác là kết quả chỉ phụ thuộc vào các yếu tố sinh khí hậu và loại bỏ các biến số khác như vùng đất yêu cầu, loài gây hại và dịch bệnh. Ecocrop đánh giá hàng tháng liệu điều kiện khí hậu có phù hợp về nhiệt độ và lượng mưa trong mùa sinh trưởng hay không. Nó liên quan đến việc tính toán mức độ phù hợp về khí hậu dựa trên lượng mưa, nhiệt độ cận biên và phạm vi tối ưu. Các mục đích sử dụng khác Ngoài chức năng nhận dạng thực vật, Ecocrop còn được sử dụng cho các mục đích khác. Ví dụ, nó có thể đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu trong tương lai đến sự thích hợp của cây trồng. Nó cũng có thể được sử dụng để dự đoán năng suất cây trồng bằng cách sử dụng thông tin trong cơ sở dữ liệu về các điều kiện trồng trọt tối ưu và tuyệt đối (nhiệt độ tối thiểu, nhiệt độ tối đa, giá trị lượng mưa, các giá trị nhiệt độ xác định và lượng mưa cực trị). Tham khảo Liên kết ngoài Cây trồng Cơ sở dữ liệu đa dạng sinh học Cơ sở dữ liệu thực vật học trực tuyến Phân loại thực vật
19830954
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nicholas%20Sparks
Nicholas Sparks
Nicholas Charles Sparks (sinh ngày 31 tháng 12 năm 1965) là nhà văn dòng sách lãng mạn, biên kịch và nhà sản xuất phim người Mỹ. Ông đã xuất bản 23 tiểu thuyết, đều thuộc danh sách bán chạy của New York Times, được dịch ra hơn 50 thứ tiếng với 105 triệu bản bán ra trên toàn cầu. Nicholas Sparks sống tại North Carolina, Mỹ, và nhiều tác phẩm của ông cũng lấy bối cảnh tại đây. Tác phẩm Tiểu thuyết The Notebook (Nhật ký, 1996) Message in a Bottle (Lá thư trong chai, 1998) A Walk to Remember (Đoạn đường để nhớ, 1999) The Rescue (2000) A Bend in the Road (2001) Nights in Rodanthe (Những đêm ở Rodanthe, 2002) The Guardian (2003) The Wedding (2003) True Believer (2005) At First Sight (2005) Dear John (John yêu dấu, 2006) The Choice (2007) The Lucky One (Kẻ may mắn, 2008) The Last Song (Bản tình ca cuối cùng, 2009) Safe Haven (Thiên đường bình yên, 2010) The Best of Me (Dành hết cho em, 2011) The Longest Ride (Đường đời bất tận, 2013) See Me (Kẻ giấu mặt, 2015) Two by Two (2016) Every Breath (2018) The Return (2020) The Wish (2021) Dreamland (2022) Phi hư cấu Wokini: A Lakota Journey to Happiness and Self-Understanding (1990) Three Weeks With My Brother (2004) Chuyển thể Phim Các phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Sparks mà ông cũng đóng vai trò nhà sản xuất: Safe Haven (2013) The Best of Me (2014) The Longest Ride (2015) The Choice (2016) The Notebook (bản truyền hình, 2021) Các phim khác chuyển thể từ tiểu thuyết của Sparks: Message in a Bottle (1999) A Walk to Remember (2002) The Notebook (bản điện ảnh, 2004) Dear John (2006) Nights in Rodanthe (2008) The Last Song (2009) The Lucky One (2012) Khác The Notebook cũng được chuyển thể thành nhạc kịch Broadway, nhạc và lời do Ingrid Michaelson viết. Vở nhạc kịch dự kiến được công diễn vào mùa xuân năm 2024. Liên kết ngoài Trang web cá nhân Các tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt Tham khảo Sinh năm 1965 Tiểu thuyết gia Mỹ Nam tiểu thuyết gia Mỹ Nhân vật còn sống Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 20 Nam nhà văn Mỹ thế kỷ 21 Tiểu thuyết gia Mỹ thế kỷ 20 Tiểu thuyết gia Mỹ thế kỷ 21
19830959
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9D%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
Cờ tướng tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Cờ tướng tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại toà nhà Trí Lực, Viện Cờ Hàng Châu, Hàng Châu, Trung Quốc, từ ngày 28 tháng 9 đến ngày 7 tháng 10 năm 2023. Quốc gia tham dự Có tổng cộng 39 vận động viên đến từ 9 quốc gia tham gia thi đấu môn Cờ tướng tại Đại hội Thể thao châu Á 2022: Lịch thi đấu Danh sách huy chương Bảng tổng sắp huy chương Liên kết ngoài Cờ tướng tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 Tham khảo Cờ tướng tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 2022
19830961
https://vi.wikipedia.org/wiki/Shakuntala
Shakuntala
Shakuntalaa (tiếng Phạn: Śakuntalāa, phát âm âm nhạc là Sơ-kun-ta-la) là vợ của vua Dushyanta và là mẹ của Hoàng đế Bharata. Câu chuyện của bà được kể trong tác phẩm Adi Parva, phần đầu tiên trong số mười tám phần của sử thi Ấn Độ cổ đại Mahabharata, sau này được nhiều nhà văn dựng kịch, bản chuyển thể nổi tiếng nhất là Vở kịch Abhijñānaśākuntala của Kalidasa. Có hai câu chuyện khác nhau về cuộc đời của Shakuntala. Phiên bản đầu tiên mô tả trong bộ sử thi Mahabharata, một trong hai sử thi lớn của Ấn Độ giáo theo truyền thống được cho là của nhà hiền triết Vyasa. Câu chuyện này đã được nhà thơ Kalidasa chuyển thể thành vở kịch vào thế kỷ thứ 4-5 CN. Câu chuyện Câu chuyện thần thoại này bắt đầu từ bối cảnh một lần, Vishvamitra bắt đầu thiền định để đạt được trạng thái Brahmarshi. Sự sám hối mãnh liệt khiến thần sét Indra kinh hãi vì sợ Vishvamitra nhòm ngó đến ngai vàng của mình. Để kết thúc việc đền tội, Indra đã cử Menaka là một vũ nữ Apsara, đến để dụ anh ta và đưa ra khỏi nơi cầu nguyện. Menaka đến chỗ thiền định của Vishwamitra và bắt đầu quyến rũ anh ta. Vishvamitra không thể kiểm soát được dục vọng và ham muốn của mình và đã trót nhỡ phá giới. Vishvamitra và Menaka sống với nhau được vài năm và họ ân ái sinh được một cô con gái khả ái. Sau này Vishvamitra nhận ra tất cả những điều đó đều là thủ đoạn của Indra và nhận ra rằng mình cần phải kiểm soát cảm xúc. Vishvamitra rời Menaka và Menaka để đứa bé gần nơi ẩn náu của Rishi Kanva trước khi trở về cõi trời. Rishi Kanva tìm thấy hai đứa trẻ xinh đẹp trong ẩn thất của mình được những con chim Shakunta (tiếng Phạn: शकुन्त, śakunta) vây quanh vì vậy, ông đặt tên cho bé gái là Shakuntala (tiếng Phạn: शकुन्तला) nghĩa là được hộ giá Shakunta. Sau này, Vua Dushyanta lần đầu chạm mặt Shakuntala khi dẫn quân đi vi hành xuyên rừng, lúc này nhà vua đang truy đuổi một con nai bị thương trong chuyến đi săn. Shakuntala và Dushyanta yêu nhau và kết hôn. Trước khi trở về vương quốc của mình, Dushyanta đã trao chiếc nhẫn hoàng gia cá nhân của mình cho Shakuntala như một biểu tượng cho lời hứa với vợ rằng sẽ đưa cô ấy về cung điện của mình với tư cách là nữ hoàng. Phim ảnh Chú thích Tham khảo Dorothy Matilda Figueira. Translating the Orient: The Reception of Sakuntala in Nineteenth-Century Europe. SUNY Press, 1991. Romila Thapar. Sakuntala: Texts, Readings, Histories. Columbia University Press, 2011. Vyasa. Mahabharata. Ấn Độ
19830968
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20th%E1%BB%9Di%20ti%E1%BB%81n%20s%E1%BB%AD
Tôn giáo thời tiền sử
Tôn giáo thời tiền sử (Prehistoric religion) hay Tôn giáo thời nguyên thủy là việc thực hành tôn giáo của các nền văn hóa loài người thời tiền sử. Vào thời kỳ trước khi có ghi chép bằng văn tự chiếm phần lớn trải nghiệm của con người với hơn phần lớn trải nghiệm của con người xảy ra chỉ trong thời kỳ thời kỳ đồ đá cũ. Các nền văn hóa thời tiền sử trải dài trên toàn cầu và tồn tại hơn hai triệu rưỡi năm. Việc thực hành tôn giáo của con người vào thời tiền sử rất nhiều và đa dạng, và việc nghiên cứu về chúng rất khó khăn do thiếu tài liệu mô tả chi tiết về tín ngưỡng của người tiền sử. Tiền sử là thời kỳ trong lịch sử loài người chưa có ghi chép bằng văn tự. Việc thiếu bằng chứng bằng văn tự đòi hỏi phải sử dụng bằng chứng khảo cổ học, điều này gây khó khăn cho việc ngoại suy các tuyên bố mang tính kết luận về niềm tin tôn giáo. Phần lớn nghiên cứu về tôn giáo thời tiền sử dựa trên những suy luận từ bằng chứng lịch sử (văn tự) và dân tộc học, ví dụ như sự tương tự giữa tôn giáo thời đồ đá cũ và xã hội săn bắt hái lượm hiện đại. Tính hữu ích của phép loại suy trong lý luận khảo cổ học rất phức tạp và gây tranh cãi về mặt lý thuyết, nhưng trong bối cảnh tôn giáo thời tiền sử có thể được củng cố bằng bằng chứng gián tiếp; ví dụ, người ta nhận thấy rằng đất son đỏ có ý nghĩa quan trọng đối với nhiều xã hội thời tiền sử và đối với những người săn bắn hái lượm hiện đại. Tôn giáo tồn tại trong mọi nền văn hóa của con người nhưng việc nghiên cứu tôn giáo thời tiền sử chỉ được phổ biến rộng rãi vào khoảng cuối thế kỷ 19. Một hiệu ứng nền tảng trong khảo cổ học tiền sử, một lĩnh vực được tiên phong từ các nhà nhân văn thế tục thế kỷ XIX, những người nhận thấy tôn giáo là mối đe dọa đối với lĩnh vực nghiên cứu dựa trên sự tiến hóa, có thể đã cản trở việc gán động cơ tôn giáo ban đầu cho con người thời tiền sử. Tôn giáo thời tiền sử khác với hình thức tôn giáo được hầu hết các nhà bình luận thế kỷ 21 biết đến, dựa trên niềm tin chính thống và nghiên cứu Kinh thánh. Đúng hơn, tôn giáo thời tiền sử, giống như tôn giáo của người săn bắt hái lượm sau này, có thể được rút tỉa ra từ Shaman giáo và trải nghiệm đê mê, cũng như thuyết vật linh, mặc dù các phân tích cho thấy thuyết vật linh có thể đã xuất hiện sớm hơn. Mặc dù bản chất của tôn giáo thời tiền sử là mang tính suy đoán nhưng bằng chứng để lại trong hồ sơ khảo cổ học gợi ý mạnh mẽ về một khuôn khổ có tầm nhìn xa nơi đức tin được thực hành thông qua việc đi vào trạng thái xuất thần, trải nghiệm cá nhân với các vị thần và các dấu hiệu nổi bật khác của Shaman giáo đến mức của một số tác giả gợi ý, theo lời của nhà khảo cổ học pháp sư Neil Price, rằng những xu hướng và kỹ thuật này theo một cách nào đó đã ăn sâu vào tâm trí con người. Chú thích Tôn giáo
19830969
https://vi.wikipedia.org/wiki/N-tv
N-tv
n-tv là kênh truyền hình tại Đức thuộc sở hữu của ntv Nachrichtenfernsehen GmbH và RTL Deutschland. Phát sóng lần đầu vào ngày 30 tháng 11 năm 1992. Tham khảo Đài truyền hình tiếng Đức
19830970
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4n%20gi%C3%A1o%20b%E1%BA%A3n%20%C4%91%E1%BB%8Ba
Tôn giáo bản địa
Tôn giáo bản địa (Indigenous religion) hay tín ngưỡng bản địa là một phạm trù được sử dụng trong ngành nghiên cứu tôn giáo để phân định hệ thống tín ngưỡng tôn giáo của các cộng đồng được mô tả là "bản địa". Thể loại này thường được đặt cạnh những thể loại khác như "tôn giáo toàn cầu" và " các phong trào tôn giáo mới". Thuật ngữ này thường được áp dụng cho một loạt các hệ thống tín ngưỡng khác nhau trên khắp Châu Mỹ (thổ dân da đỏ bản địa Mỹ), Châu Úc (thổ dân châu Úc), Châu Phi (thổ dân da đen châu Phi), Châu Á, và Bắc Âu, đặc biệt đối với những hệ thống tôn giáo tín ngưỡng dân gian được thực hành từ các cộng đồng sống dưới tác động của chủ nghĩa thực dân. Thuật ngữ "tôn giáo bản địa" thường được áp dụng cho các hệ thống tín ngưỡng địa phương hay tín ngưỡng truyền thống dân gian của các xã hội quy mô nhỏ. Những hệ thống tín ngưỡng này thường không tham gia vào việc truyền đạo mà chủ yếu là lưu truyền trong nội bộ của cộng đồng xã hội đó như trong thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Học giả tôn giáo Carole M. Cusack lưu ý rằng "các tôn giáo bản địa" đã bị loại khỏi danh mục "tôn giáo toàn cầu" bởi vì chúng "thường được truyền miệng bằng lời nói, không chú trọng truyền đạo, thiên về dân gian, được thể hiện bằng thần thoại và tập tục, và có tính đa nguyên" do đó phân biệt chúng với các phong trào truyền giáo như Cơ đốc giáo, Hồi giáo và Phật giáo vốn đều tìm kiếm những người cải đạo và thường được phân loại là "tôn giáo thế giới"; không giống như Do Thái giáo, mặc dù nó thường được gọi là "tôn giáo toàn cầu". Chúng cũng thường được coi là khác biệt với các "tôn giáo toàn cầu" vì chúng được truyền miệng, đan xen với lối sống theo nề nếp truyền thống và yếu tố hỗn dung đa nguyên. Về mặt số lượng, phần lớn các tôn giáo trên thế giới có thể được xếp vào loại "bản địa", mặc dù số lượng "tôn giáo bản địa" nhỏ hơn đáng kể so với số lượng cá nhân thực hành một trong những "tôn giáo thế giới". Trong nghiên cứu về tôn giáo, đã có nhiều cuộc tranh luận về phạm vi của phạm trù này, phần lớn phát sinh từ các cuộc tranh luận về thuật ngữ "bản địa" nên bao hàm tốt nhất. Ví dụ, như Thần đạo (Shinto) của Nhật Bản thường được gọi là "tôn giáo bản địa, mặc dù người Nhật không phải là một xã hội thuộc địa nhưng đã xâm chiếm các xã hội lân cận như của người Ainu, nên vẫn còn tranh luận về việc liệu họ có gặp nhau hay không. định nghĩa "bản địa". Trong một số trường hợp, những người thực hành các tôn giáo mới như Heathenry đã tìm cách thể hiện tôn giáo của họ là "tôn giáo bản địa" mặc dù phải đối mặt với sự hoài nghi từ các học giả tôn giáo. Một thuật ngữ khác là "tôn giáo thời nguyên thủy" được Andrew Walls của Đại học Aberdeen đặt ra vào những năm 1970 để tập trung vào các hình thức tôn giáo phi phương Tây như được ghi nhận thấy ở Châu Phi, Châu Á và Châu Đại Dương. Tuy nhiên, theo học giả tôn giáo Graham Harvey, những cách tiếp cận như vậy ưu tiên những người công nghiệp hóa phương Tây và quá trình văn hóa Khai sáng Tin lành. Tương tự như vậy, James Cox, sinh viên của Walls, lập luận rằng các thuật ngữ như "tôn giáo sơ khởi", "tôn giáo thời tiền sử" và "tôn giáo bộ lạc" gợi ý một tôn giáo chưa phát triển có thể được coi là sự chuẩn bị cho việc cải đạo sang Cơ đốc giáo. Graham Harvey tuyên bố rằng các tôn giáo bản địa chiếm đa số trong các tôn giáo trên thế giới, ông lưu ý rằng "những người theo tôn giáo bản địa" không chiếm đa số về số lượng người theo đạo. Một số tôn giáo bản địa đã đạt được tầm nhìn toàn cầu nhiều như một số "tôn giáo thế giới" như việc các nhạc sĩ bị ảnh hưởng từ hệ thống tín ngưỡng của người Māori, người Úc bản địa và các dân tộc bản địa Canada đã đưa tác phẩm của họ đến với khán giả quốc tế. Chú thích Tham khảo Tôn giáo
19830985
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20m%C3%B2n%20Sihanouk
Đường mòn Sihanouk
Đường mòn Sihanouk là một hệ thống cung cấp hậu cần ở Campuchia được Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và quân du kích Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN) sử dụng trong chiến tranh Việt Nam (1960–1975). Từ năm 1966 đến năm 1970, hệ thống này hoạt động theo cùng một cách và phục vụ các mục đích tương tự như đường mòn Hồ Chí Minh (mà quân Bắc Việt gọi chính thức là Đường Trường Sơn) được biết đến nhiều hơn, chạy qua phần đông nam của Vương quốc Lào. Cái tên này có nguồn gốc từ Mỹ, vì Bắc Việt coi hệ thống này là một phần không thể thiếu của tuyến đường tiếp tế nêu trên. Những nỗ lực của Mỹ nhằm ngăn chặn hệ thống này bắt đầu vào năm 1969. Kết nối Sihanoukville (1966–1968) Hoàng thân Norodom Sihanouk đã cai trị Campuchia kể từ khi ông giành được độc lập từ tay người Pháp vào ngày 9 tháng 11 năm 1953. Ông đã hoàn thành nhiệm vụ này bằng cách vận động chính trị giữa cả cánh tả và cánh hữu để đạt được điều mà không một nhà cai trị hay nhóm chính trị nào khác ở Đông Dương làm được, một quá trình chuyển đổi tương đối không đổ máu dẫn tới độc lập. Trong suốt mười năm tiếp theo, khi mà xung đột ở nước láng giềng Lào và Việt Nam Cộng hòa nóng lên, Sihanouk đã cố gắng duy trì sự cân bằng chính trị mong manh trong nước của mình đồng thời duy trì tính trung lập của quốc gia mình (được bảo đảm từ Hội nghị Geneva năm 1954 kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất). Sihanouk tin rằng chiến thắng của cộng sản ở Đông Nam Á là không thể tránh khỏi và quân đội Campuchia không có khả năng đánh bại Bắc Việt, ngay cả khi có sự hỗ trợ của Mỹ. Nếu Campuchia (và chế độ của ông) muốn sống sót, ông sẽ phải mặc cả với chính đối thủ tiềm tàng. Ngày 10 tháng 4 năm 1965, ông đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Mỹ và chuyển sang cánh tả về mặt chính trị. Động thái này không phải là không có lý do. Để có được sự ủng hộ của nước ngoài, cả về mặt kinh tế lẫn chính trị, Sihanouk bèn quay sang Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Một trong những điều khoản của thỏa thuận giữa Sihanouk và Thủ tướng Chu Ân Lai là Campuchia cho phép Bắc Việt sử dụng biên giới phía đông trong nỗ lực thống nhất hai nước Việt Nam. Vào những ngày đầu trong chiến tranh Việt Nam, Bắc Việt đã cung cấp cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở miền Nam bằng hai phương pháp. Đầu tiên là mở rộng Đường mòn Hồ Chí Minh về phía nam vào khu vực ngã ba biên giới Lào/Campuchia/Việt Nam Cộng hòa. Đường mòn này vốn là một mê cung gồm toàn những con đường bộ, hệ thống giao thông đường sông và trạm dừng, không ngừng được mở rộng và cải thiện. Nó phục vụ như một mạch máu hậu cần, về cả nhân lực và vật lực, dành cho nỗ lực chiến tranh của Bắc Việt chống lại Việt Nam Cộng hòa. Phương pháp thứ hai là vận chuyển vật tư bằng đường biển. Ước tính lưu lượng giao thông đường biển này lên tới 70%. Nó được thực hiện do khối lượng vật liệu có thể được vận chuyển bằng đường biển cao hơn so với đường bộ. Sau sự can thiệp trực tiếp của Mỹ vào năm 1965, sự hiện diện ngày càng tăng của các tàu hải quân Mỹ ở vùng biển ven bờ trong khuôn khổ Chiến dịch Market Time đã vô hiệu hóa tuyến đường biển vào miền Nam Việt Nam. Sau thỏa thuận giữa Sihanouk và phía Trung Quốc, một thỏa thuận cũng đã được ký kết giữa vị hoàng thân này với chính phủ Bắc Việt. Bước sang tháng 10 cùng năm, vật tư quân sự được vận chuyển trực tiếp từ miền Bắc Việt Nam trên đoàn tàu treo cờ cộng sản (đặc biệt là của khối phía Đông) đến cảng Sihanoukville của Campuchia, nơi sự trung lập của nước này đảm bảo việc giao nhận hàng hóa. Nguồn hàng tiếp tế được dỡ xuống rồi mới chuyển lên xe tải để chở đến các khu vực biên giới đóng vai trò là căn cứ địa của Quân đội Nhân dân Việt Nam/Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Trong suốt năm 1965, QĐNDVN đã bắt đầu xây dựng các tuyến tiếp tế mới để nối các đoạn của Đường mòn Hồ Chí Minh chạy qua miền nam Lào vào tận Campuchia. Năm sau, tình báo Mỹ phát hiện ra rằng một con đường mới (Đường 110), xuất phát từ Campuchia, hiện đã được nối với những con đường ở Lào. Việc phát hiện ra Đường 110 là nguồn gốc của thuật ngữ "Đường mòn Sihanouk", nhưng nó nhanh chóng bao trùm toàn bộ hệ thống hậu cần của Campuchia. Nỗ lực hậu cần trên bộ mới của QĐNDVN và hệ quả tất yếu trên đường biển của nó hiện được chỉ đạo bởi Đơn vị K-20 của QĐNDVN, đóng tại thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia. K-20 hoạt động dưới vỏ bọc một công ty thương mại do chủ người Việt nắm quyền sở hữu. Mặc dù giới chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn và các chính khách ở Washington ngày càng nhận thức được sự sắp xếp này trong giai đoạn 1966–1967, họ từ chối can thiệp một cách công khai do những hậu quả chính trị của việc tiến hành chiến dịch quân sự chống lại một quốc gia trung lập và tham vọng của Sihanouk. Washington vẫn còn hy vọng mở lại cuộc đối thoại với Sihanouk và kiềm chế bất kỳ hành động nào có thể khiến ông hoàng này xa lánh hơn nữa. Tuy nhiên, các hoạt động bí mật lại là một vấn đề khác. Một kết quả của nỗ lực xây dựng đường sá ngày càng tăng của Bắc Việt ở Campuchia là Hoa Kỳ cũng tăng cường chống lại hệ thống đường mòn ở Lào bằng cách tung ra cuộc tấn công B-52 Stratofortress đầu tiên vào hệ thống hậu cần vào ngày 12 tháng 12 năm 1965. Tháng 4 năm 1967, Tổng hành dinh quân đội Mỹ tại Sài Gòn cuối cùng đã nhận được sự ủy quyền cho triển khai Daniel Boone, chiến dịch thu thập thông tin tình báo do Đoàn Nghiên cứu và Quan sát Việt Nam, Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ (MACV-SOG) bí mật thực hiện. Những toán trinh sát "vượt rào" vào Campuchia tiếp nhận mệnh lệnh nghiêm ngặt không được tham chiến và bí mật thu thập thông tin tình báo về các căn cứ và hoạt động của QĐNDVN. Kết quả của nỗ lực này là Dự án Vesuvius, qua đó giới chỉ huy Mỹ đối chiếu thông tin tình báo thu thập được về hành vi của QĐNDVN/QGPMNVN đã vi phạm tính trung lập của Campuchia và trình bày cho Sihanouk với hy vọng thay đổi quan điểm của ông ta. Chiến dịch Menu (1969–1970) Kể từ lúc Tổng thống Richard M. Nixon đắc cử năm 1968 và việc Mỹ công bố chính sách mới về Việt Nam hóa năm 1969, quan hệ của Mỹ với Campuchia bắt đầu thay đổi. Mục tiêu của Mỹ bây giờ là câu giờ cho đồng minh Việt Nam Cộng hòa và yểm trợ cho việc rút quân của chính họ. Ngày 11 tháng 5 năm 1969, Sihanouk hoan nghênh việc quay trở lại quan hệ ngoại giao toàn diện với Hoa Kỳ. Ngày 18 tháng 3, Nixon, đã đoán trước được diễn biến này nên ra lệnh ném bom những nơi trú ẩn của Campuchia bằng máy bay B-52. Vào ngày đó, 48 máy bay ném bom, theo lệnh bí mật của tổng thống, đã bay vào không phận Campuchia và chuyển giao trọng tải trong Chiến dịch Breakfast. Trong 14 tháng tiếp theo, hoạt động này được tiếp nối bởi các Chiến dịch Lunch, Snack, Dinner, Dessert và Supper khi hàng loạt máy bay ném bom Mỹ đã thực hiện 3.630 phi vụ và tiêu tốn 100.000 tấn bom đạn trút xuống các căn cứ địa trong cái được gọi là Chiến dịch Menu. Trong khoảng thời gian này, toàn bộ chương trình được giữ bí mật với Quốc hội, người dân Mỹ và thật ngạc nhiên là với chính Không quân Mỹ. Sihanouk tỏ ra đồng ý một cách đáng ngạc nhiên về toàn bộ sự việc. Ông chịu áp lực từ phía Mỹ phải mở lại quan hệ ngoại giao và hành động quân sự chống lại mấy khu trú ẩn; từ phía Bắc Việt, hiện đã nhận được 80% quân nhu cho các hoạt động ở cực nam qua Sihanoukville; và từ Khmer Đỏ non trẻ được Trung Quốc yểm trợ (khoảng 4.000 người). Sihanouk cảm thấy rằng đây là thời điểm thuận lợi để quay trở lại cánh hữu. Vào mùa hè, ông thành lập Chính phủ Cứu quốc cánh hữu dưới sự chỉ huy của Tướng Lon Nol và đình chỉ những chuyến hàng chở vũ khí của Bắc Việt qua các cảng của ông. Tuy vậy, tình hình đã quá muộn. Đến tháng 12, hành động cân bằng chính trị mà vị hoàng thân này thực hiện trong suốt hai thập kỷ qua đã sụp đổ xung quanh ông. Tháng 3 năm 1970, Sihanouk mất quyền kiểm soát chính phủ. Ngược lại với mong đợi, nỗ lực ném bom của Mỹ đã không nghiền nát các khu căn cứ địa và chỉ có xu hướng đẩy Quân đội Nhân dân Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vào sâu hơn vùng nông thôn Campuchia. Chuỗi sự kiện này bắt đầu đặt ra những câu hỏi cho Hà Nội. Bắc Việt sẵn sàng duy trì hiện trạng ở Campuchia miễn là các tuyến tiếp tế và nơi trú ẩn của họ được đảm bảo. Nhưng với việc mở rộng chiến tranh xuyên biên giới, họ có thể phải thực hiện những bước tiếp theo để duy trì vị thế của mình. Đảo chính và xâm nhập (1970) Ngày 18 tháng 3 năm 1970, nhân chuyến thăm của Sihanouk tới Moskva và Bắc Kinh, hoàng thân bị Quốc hội phế truất và nhanh chóng tuyên bố thành lập Cộng hòa Khmer. Tuy nhiên, quyền lực thực sự rơi vào tay Lon Nol. Lon Nol nhanh chóng đưa tối hậu thư cho Bắc Việt, ra lệnh cho họ rời khỏi đất nước, nhưng kết quả thực sự duy nhất là Quân đội Hoàng gia Khmer (FARK) đã lãnh đạo một cuộc tàn sát đẫm máu nhắm vào người Việt ở các tỉnh miền đông. Sihanouk, tức giận trước diễn biến vụ việc, mau chóng đảm nhận vai trò lãnh đạo vắng mặt của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Campuchia (FUNK), một chính phủ lưu vong liền được Bắc Việt, Mặt trận, Pathet Lào và Khmer Đỏ công nhận và ủng hộ. Sau khi Sihanouk bị lật đổ, chính phủ Lon Nol đã chuyển giao hàng đống tài liệu thu được cho phía Mỹ tiết lộ toàn bộ mức độ tham gia của ông ta trong nỗ lực xâm nhập này. Từ tháng 12 năm 1966 đến tháng 4 năm 1969, Đơn vị K-20 đã tạo điều kiện cho 29.000 tấn hàng hóa xâm nhập vào Campuchia. Với sự ưng thuận của hoàng thân, đơn vị này đã mua 55.000 tấn gạo hàng năm từ chính phủ và 100.000 tấn khác trực tiếp từ nông dân Campuchia. Dưới sự lãnh đạo của Lon Nol (và với sự hỗ trợ của Mỹ), ANK đã được mở rộng và tổ chức lại thành Quân đội Quốc gia Khmer (FANK) và sau đó liền tung ra các cuộc tấn công chống lại QĐNDVN. Hà Nội phản ứng bằng cách phát động Chiến dịch X, một chiến dịch nhằm mở rộng các vùng đệm xung quanh các tuyến liên lạc của mình. John Shaw trong cuốn sách nhan đề The Cambodian Campaign chỉ nhắc đến Chiến dịch X trong bối cảnh các hoạt động quân sự ở Việt Nam Cộng hòa. Nhiều nguồn tin của Mỹ cho thấy (cũng như đối với giới lãnh đạo Mỹ vào thời điểm đó) rằng Campuchia chỉ có liên quan trong chừng mực nó ảnh hưởng đến cuộc xung đột ở miền Nam Việt Nam. Sử dụng biện pháp tiết kiệm vũ lực, chỉ khoảng 10.000 quân Bắc Việt đã đánh đuổi Quân đội Quốc gia Khmer ở phía tây và đông bắc Campuchia, chiếm lĩnh hoặc đe dọa 16 trong số 19 tỉnh lỵ của Campuchia và ngăn chặn, trong nhiều thời kỳ, tất cả các tuyến đường bộ và đường sắt đi đến thủ đô. Nixon sẵn sàng tận dụng lợi thế từ việc lật đổ Sihanouk và cơ hội tấn công các khu ẩn náu vùng biên giới như một phương tiện câu giờ cho cả Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Ngày 29 tháng 4 năm 1970, vụ đánh bom đầu tiên của Chiến dịch Patio diễn ra. Giống như Menu, các cuộc không kích chiến thuật này đều được giữ bí mật chặt chẽ. Dù ban đầu đây chỉ là một biện pháp chống xâm nhập, chiến dịch này nhanh chóng mở rộng khi các mục tiêu sâu hơn ở Campuchia trở thành đích nhắm. Chương trình này nhanh chóng bị Chiến dịch Freedom Deal thay thế, sự yểm trợ công khai của Quân đội Quốc gia Khmer bằng B-52 và các cuộc không kích chiến thuật của máy bay Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Cũng trong ngày 29 tháng 4, đội đặc nhiệm thiết giáp Việt Nam Cộng hòa đã vượt biên giới Campuchia vào khu vực gọi là Mỏ Vẹt, nằm về phía phía tây bắc Sài Gòn. Ngày hôm sau, lực lượng liên quân gồm nhiều sư đoàn Mỹ/Việt Nam Cộng hòa tràn qua biên giới và tiến vào khu vực được gọi là Lưỡi Câu, nằm về phía phía bắc Sài Gòn và đối diện với tỉnh Bình Long. Ngoại trừ trận giao tranh ác liệt ở Snuol, sự kháng cự của QĐNDVN/QGPMNVN rất yếu ớt vì hầu hết quân Bắc Việt đã rút khỏi vùng biên giới để hoạt động chống lại FANK. Washington và giới chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn coi chiến dịch này là một thành công lớn, vừa là phép thử đối với chính sách Việt Nam hóa mới của Mỹ vừa nhằm đẩy lùi bất kỳ cuộc tấn công nào của QĐNDVN/QGPMNVN được lên kế hoạch nhằm vào khu vực Sài Gòn trong năm tới. Lượng hàng hậu cần bị lực lượng đồng minh tràn ngập và chiếm giữ trong các khu căn cứ thực sự rất ấn tượng. Số hàng này bao gồm 20.000 vũ khí cá nhân và 2.500 vũ khí cho thủy thủ đoàn; 7.000 tấn gạo; 1.800 tấn đạn dược; 140.000 tên lửa và đạn pháo; 435 xe; 29 tấn thiết bị thông tin liên lạc; 55 tấn vật tư y tế; và 199.552 viên đạn phòng không. Nhiều nhà quan sát tỏ ra thận trọng hơn. Ngay từ tháng 10 năm 1969 (và có thể đoán trước được việc mất các tuyến đường ở Campuchia) QĐNDVN đã bắt đầu "nỗ lực hậu cần mạnh mẽ và lớn nhất của họ trong toàn bộ cuộc chiến" bằng cách xây dựng và mở rộng các tuyến đường của mình đến tây bắc Campuchia. CIA ước tính rằng việc thay thế các nguồn cung cấp bị mất trong cuộc tấn công sẽ chỉ mất 75 ngày để hoàn thành. Giai đoạn 1971–1975 Như đã xảy ra vào cuối cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, mạng lưới hậu cần của Bắc Việt đã được cải thiện và mở rộng sau đợt xâm nhập này. Do mất quyền tiếp cận các bến cảng của Campuchia, Hà Nội bèn thành lập Đoàn Vận tải 470 để nắm quyền kiểm soát và điều phối các hoạt động tiếp tế cho Campuchia. Tuyến đường mới rẽ về phía tây từ Mường Mây, cực nam nước Lào, song song với sông Kong vào Campuchia. Cuối cùng, mạng lưới này mở rộng qua Siem Prang và đến sông Mê Kông gần Stung Treng. Bước tiếp theo là chiếm thị trấn Kratié, ở phía đông miền trung Campuchia, vào ngày 5 tháng 5. Đoàn 470 đã dọn sạch dân cư khỏi thị trấn sông Mê Kông và biến nó thành trụ sở hành chính. Các căn cứ của QĐNDVN ở phía đông được Kratié tiếp tế trong khi nhân lực và quân nhu tiến đến vùng đồng bằng sông Cửu Long của miền Nam Việt Nam hiện đang vòng về phía tây, xung quanh Phnôm Pênh, qua chân đồi của Dãy núi Cardamom rồi lại về phía đông để vượt biên giới. Ngày 20 tháng 8 năm 1971, Tổng thống Lon Nol đã phát động Chiến dịch Chenla II trong nỗ lực mở rộng liên lạc giữa Phnôm Pênh và thành phố lớn thứ hai của đất nước là Kompong Thom. Hai thành phố này đã bị Khmer Đỏ cô lập trong hơn một năm. FANK ban đầu thành công, nhưng Khmer Đỏ được QĐNDVN hậu thuẫn đã phát động một cuộc phản công và tiêu diệt lực lượng chính phủ nơi đây. Đến năm 1972 FANK bị tổn thất rất nhiều quân, mạng lưới đường bộ và đường sắt bị phá hủy và lạm phát lan tràn. Sản lượng lúa thu hoạch giảm từ 3,8 triệu tấn năm 1969 xuống còn 493.000 tấn năm 1973. Sự ủng hộ của nhân dân Campuchia đối với cuộc chiến chống lại Bắc Việt và quân nổi dậy đã hoàn toàn tan biến. Người Mỹ, đang đàm phán với Bắc Việt, đã đề xuất một lệnh ngừng bắn trên toàn Đông Dương như một phần của giải pháp cuối cùng cho cuộc xung đột tại Việt Nam Cộng hòa. Ngày 28 tháng 1 năm 1973, ngày Hiệp định Hòa bình Paris có hiệu lực, Lon Nol tuyên bố ngừng bắn đơn phương, điều mà Khmer Đỏ đã nhanh chóng phớt lờ, cho rằng đó là "một sự lừa dối do Đế quốc Mỹ và các đồng minh của họ tạo ra." Sang tháng 4 cùng năm, chính Phnôm Pênh đã được cứu khỏi bị chiếm chỉ nhờ một nỗ lực ném bom lớn do máy bay Mỹ thực hiện. Đây là sự kết thúc của sự hỗ trợ trên không của Hoa Kỳ, chiếc máy bay Mỹ cuối cùng rời khỏi không phận Campuchia vào ngày 15 tháng 8. Từ đầu Chiến dịch Breakfast, Không quân Mỹ đã trút 539.129 tấn bom xuống Campuchia, trong đó 257.465 tấn đã được thả trong sáu tháng cuối cùng của chiến dịch. Vào ngày đầu năm mới 1975, Khmer Đỏ phát động cuộc tấn công cuối cùng chống lại Cộng hòa Khmer. Nỗi thống khổ của người dân Campuchia cũng như sự từ chức của Lon Nol đều không thể ngăn chặn hay làm chậm bước tiến công của Khmer Đỏ. Tham khảo Thư mục Văn kiện chính phủ chưa công bố U.S. Military Assistance Command, Vietnam Command History 1967, Appendix E. Saigon, 1968. U.S. Military Assistance Command, Vietnam Command History 1968, Appendix F. Saigon, 1969. Văn kiện chính phủ đã công bố MACV, The Joint Command in the Years of Escalation, 1962–1967 Nguồn tài liệu thứ cấp Kissinger, Henry A., White House Years. Morris, Virginia and Hills, Clive, A History of the Ho Chi Minh Trail: The Road to Freedom, Orchid Press, 2006. Morris, Virginia and Hills, Clive, Ho Chi Minh's Blueprint for Revolution: In the Words of Vietnamese Strategists and Operatives, McFarland & Co Inc, 2018. Nội chiến Lào Nội chiến Campuchia Chiến tranh Việt Nam Chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam Hậu cần quân sự trong Chiến tranh Việt Nam
19830986
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%B1c%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20H%E1%BA%A3i%20thuy%E1%BB%81n
Lực lượng Hải thuyền
Lực lượng Hải thuyền () tên gọi chính thức là Lực lượng Duyên hải là đơn vị an ninh hải quân của Việt Nam Cộng hòa, bao gồm thường dân được Hải quân huấn luyện và kết hợp cùng với Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng này được thành lập vào năm 1960, và sáp nhập vào Hải quân Việt Nam Cộng hòa (HQVNCH) năm 1965. Lịch sử Thành lập Sự hình thành của Lực lượng Hải thuyền bắt đầu từ tháng 4 năm 1960, khi Đô đốc Harry D. Felt, Tổng tư lệnh, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (CINCPAC), khuyến nghị rằng Hải quân Việt Nam Cộng hòa cần đảm nhận vai trò lớn hơn trong việc kiềm chế tuyến đường tiếp tế của địch từ ngoài biển vào miền Nam Việt Nam. Một phần vì đề nghị này, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã thành lập Lực lượng Hải thuyền, thường gọi là "hải đội thuyền mành", là đơn vị độc lập trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Ý tưởng về lực lượng ven biển đóng vai trò như một đơn vị bán quân sự rất phù hợp với niềm tin của chính quyền Kennedy rằng các đơn vị tự vệ đại diện cho một trong những phương tiện tốt nhất để chống lại cuộc nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Do đó, chính quyền đã ra lệnh cho Bộ Quốc phòng hỗ trợ lực lượng mới bằng cách tài trợ cho việc đóng 501 chiếc thuyền mành tại các xưởng đóng tàu của Việt Nam Cộng hòa. Kế hoạch ban đầu dành cho Lực lượng Hải thuyền do Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa Hồ Tấn Quyền soạn thảo, phải cần tới 420 thuyền mành và 63 thuyền cơ giới được đặt dưới sự điều khiển của 2.200 thường dân đến từ các làng chài địa phương, để tuần tra vùng nước ven bờ cách bờ biển tới 5 dặm (8,0 km). Hồ Tấn Quyền hy vọng lực lượng của ông sẽ hòa nhập một cách tự nhiên với mấy tàu đánh cá ven biển, cho phép các đơn vị này giữ được bí mật danh tính thực sự cho tới lúc họ tiếp cận một chiếc thuyền đáng ngờ để thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm và lên tàu. Kế hoạch này đưa ra đề nghị thành lập 21 sư đoàn thuyền mành (còn gọi là sư đoàn ven biển), từng sư đoàn có 23 chiếc thuyền mành. Mỗi sư đoàn sẽ tuần tra một đoạn bờ biển miền Nam Việt Nam dài 30 dặm (48 km) và các hoạt động của họ được điều phối bằng đài phát thanh từ các trung tâm giám sát chỉ huy ven biển. Các sư đoàn ven biển lần lượt báo cáo về một trong bốn vùng ven biển của HQVNCH. Các vùng này có trụ sở chính đóng tại Đà Nẵng (I), Nha Trang (II), Vũng Tàu (III) và An Thới (IV), và mỗi tư lệnh vùng kiểm soát tất cả lực lượng hải quân hoạt động trong vùng của mình. Ngày 16 tháng 10 năm 1963, đoàn cố vấn thuyết phục Hải quân Việt Nam Cộng hòa cho thành lập 4 Bộ tư lệnh vùng hải quân, từ Vùng 1 Hải quân ở phía bắc đến Vùng 4 Hải quân ở Vịnh Thái Lan. Sau đó, một vị tổng tư lệnh có phạm vi trách nhiệm tương ứng với trách nhiệm của tư lệnh quân đoàn, kiểm soát các hoạt động của Lực lượng Đường Biển, Lực lượng Đường Sông và Lực lượng Hải thuyền trong một khu vực cụ thể. Hoạt động Đến cuối năm 1963, lực lượng hải thuyền đã tăng lên 632 thuyền và 3.700 thủy thủ đoàn dân sự. Tuy nhiên, ngay từ khi thành lập, tổ chức còn non trẻ đã gặp nhiều vấn đề. Việc tuyển mộ thủy thủ cho lực lượng mới tỏ ra khó khăn hơn dự kiến. Ngư dân Việt Nam kiếm sống bằng nghề biển trong thời kỳ này và ít quan tâm đến việc gia nhập lực lượng hải thuyền. Thay vào đó, Hải quân Việt Nam Cộng hòa tuyển mộ nông dân thành thị và dân Bắc di cư. Không có truyền thống đi biển, những người miền Bắc này có xu hướng trốn tránh hoặc từ bỏ công việc ngay khi có cơ hội đầu tiên. Số lượng nhập ngũ hiếm khi theo kịp mức tiêu hao, trung bình có hơn 106 thủy thủ mỗi tháng trong thời gian 1963–1964. Tỷ lệ đào ngũ và vắng mặt không nghỉ phép cũng cao do điều kiện phục vụ tồi tệ của những người này. Một cuộc khảo sát vào tháng 2 năm 1963 với thủy thủ đoàn ở Vùng 4 Duyên hải cho thấy hơn 500 trong số 657 thuyền viên đang làm nhiệm vụ trong đơn vị đã không nhận được bất kỳ khoản lương nào trong sáu tháng qua và chưa có ai từng được huấn luyện chính thức. "Nhiều người trên tàu vào thời điểm này chưa bao giờ bắn súng hoặc bước chân lên thuyền mành trước đây ... Không cần phải nói, tinh thần không tồn tại và khoảng 50 thuyền viên đào ngũ mỗi tuần". Một nghiên cứu năm 1964 của Đoàn Cố vấn Hải quân Sài Gòn đã xác nhận những quan sát này, cho rằng nguyên nhân cốt lõi của vấn đề là lương thấp và phúc lợi kém dành cho thủy thủ lực lượng hải thuyền. Không chỉ những người này được trả mức lương ít ỏi mà các bộ tư lệnh cũng hiếm khi nhận được tiền để ăn chung với nhau trên tàu, neo đậu, và chăm sóc y tế cơ bản dành cho thủy thủ. Trong một cuộc khảo sát y tế của Sư đoàn Hải thuyền 33 vào năm 1963, một cố vấn phát hiện ra rằng hơn 50% số thuyền viên có một số loại bệnh có thể chữa được. Nhiều bệnh tật xảy ra do nguồn nước không đảm bảo vệ sinh vì đơn vị ven biển của ông thiếu kinh phí mua thuốc xử lý nước (i-ốt). Chỉ 30% số thuyền viên đã được tiêm phòng uốn ván và chỉ 15% được tiêm chloroquine liều thường xuyên, một loại thuốc dự phòng sốt rét. Những chiếc thuyền mành bằng gỗ cần được bảo trì nhiều hơn dự định vì chúng dễ bị sâu biển xâm nhập và mục nát. Một cuộc khảo sát của Hải quân Việt Nam Cộng hòa/Hải quân Mỹ được thực hiện vào tháng 5 năm 1964 cho thấy 174 chiếc thuyền mành đã phải chờ sửa chữa và 64 chiếc khác không thể sửa được. Tại Vùng 4 Duyên hải, 98 trong số 121 chiếc thuyền mành đã ngừng hoạt động vì vấn đề bảo dưỡng. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đáng bị đổ lỗi cho những vấn đề này vì họ có xu hướng tài trợ cho việc tiếp tục mở rộng lực lượng với chi phí bảo trì các đơn vị hiện có, nhưng việc những đơn vị hải quân thiếu sự bảo trì mang tính phòng ngừa thường xuyên cũng là một nguyên nhân. Tác chiến Về mặt tác chiến, công việc của lực lượng hải thuyền không chỉ tẻ nhạt mà còn nguy hiểm. Những chiếc thuyền buồm cơ giới của Quân Giải phóng thường ra khơi và bắn xa hơn nhiều thuyền mành của lực lượng này; thân tàu bằng gỗ của chúng có rất ít khả năng bảo vệ khỏi hỏa lực của Quân Giải phóng. Ở vùng nước nông của kênh và phụ lưu, thuyền mành thường không thể theo kịp các thuyền tam bản nhỏ hơn của Quân Giải phóng. Một số nỗ lực nhằm tăng cường tuần tra hải thuyền bằng máy bay giám sát của Không quân Việt Nam Cộng hòa (KQVNCH) đã thất bại do không có máy bay và khó khăn trong đường dây liên lạc giữa máy bay và tàu bè. Bất chấp nhiều vấn đề, lực lượng hải thuyền đã đưa ra những số liệu thống kê đầy ấn tượng. Chỉ riêng trong năm 1963, Lực lượng Hải thuyền và Lực lượng Đường Biển, một lực lượng nước sâu gồm các tàu lớn hơn, đã kiểm tra 127.000 thuyền mành và 353.000 ngư dân. Ngoài ra, Lực lượng Hải thuyền còn bắt giữ 2.500 nghi phạm Quân Giải phóng, và Lực lượng Đường Biển bắt giữ 500 người khác. Sau sự kiện Vịnh Vũng Rô vào tháng 2 năm 1965 khi một tàu chở hàng vỏ thép dài 130 feet (40 m) của Bắc Việt cố gắng vượt qua các cuộc tuần tra ven biển của Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Mỹ (với sự yểm trợ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) và Không quân Việt Nam Cộng hòa) đã phải mất hơn bốn ngày hòng bảo vệ khu vực này và thu giữ hàng hóa trên tàu, một báo cáo từ Hải quân Việt Nam Cộng hòa cho thấy nhân viên của Lực lượng Hải thuyền "nhìn chung bị mù chữ", hoạt động "trong điều kiện sống khó khăn nhất và trên cơ sở cực kỳ khắc khổ." Ngoài việc phải đối mặt với các vấn đề bảo trì gần như liên tục, các thuyền mành bằng gỗ không đủ của lực lượng này không thể đuổi theo các thuyền cơ giới nhanh hơn, chưa kể đến các tàu đánh cá bằng thép như Tàu 145. Nhiều căn cứ của Sư đoàn Hải thuyền cũng nằm trong các khu vực do Quân Giải phóng thống trị, có rất ít hoặc không có lực lượng an ninh địa phương. Đường dây liên lạc trong lực lượng này "gần như không đáng kể". Năm 1965, tình trạng của lực lượng hải thuyền ven biển còn tồi tệ hơn. Mặc dù lực lượng này tuần tra hàng rào quan trọng bên trong của cuộc phong tỏa mang tên Market Time và chịu trách nhiệm kiểm soát những dải bờ biển rộng lớn, nhưng về nhiều mặt, đây là mắt xích yếu nhất trong chuỗi. Trung bình, ít hơn 40% lực lượng đang tuần tra tại bất kỳ thời điểm nào và 60% còn lại đang được sửa chữa hoặc không hoạt động do thiếu nhân lực, nhu cầu phòng thủ căn cứ hoặc thiếu tính quyết liệt. Phía bắc Vũng Tàu, Quân Giải phóng kiểm soát khoảng 142 dặm (229 km) trên bờ biển dài 591 dặm (951 km) và phía nam thị xã này, 300 dặm (480 km) trên bờ biển dài 400 dặm (640 km). Trong nhiều trường hợp, các căn cứ của Lực lượng Hải thuyền chỉ hơn một chút so với các hòn đảo của chính phủ trong một vùng lãnh thổ thù địch. Vào đầu năm 1965, Lực lượng Hải thuyền gồm 526 thuyền mành được biên chế cho 28 sư đoàn Lực lượng Hải thuyền trải dọc theo toàn bộ bờ biển miền Nam Việt Nam. Lực lượng này bao gồm 81 thuyền chỉ huy, 90 thuyền mành chạy bằng động cơ, 121 thuyền mành một động cơ và 234 thuyền chỉ có buồm. Thuyền chỉ huy là những tàu có khả năng tương đối. Được trang bị một súng máy cỡ nòng 50 và hai súng máy cỡ nòng 30, những chiếc thuyền mành dài 54 foot (16 m) này có thể đạt tốc độ tối đa 12 hải lý/giờ — quá đủ để đánh chặn các tàu tương tự được Quân Giải phóng sử dụng. Mặt khác, những chiếc thuyền mành dài 31 foot (9,4 m) mang tính chất tiêu sản hơn là tài sản. Những toán nhỏ từ ba đến năm thuyền viên của lực lượng này không mang theo gì ngoài vũ khí nhỏ và không có hy vọng ngăn chặn những kẻ chạy trốn phong tỏa bằng cơ giới. Bắt đầu từ năm 1964, Đoàn Cố vấn Hải quân đã khuyến nghị loại bỏ tất cả các tàu này khỏi hạm đội; 134 chiếc được cho nghỉ hưu trong năm 1965, số còn lại dự kiến sẽ xuất xưởng vào đầu năm 1966. Nhằm thay thế chúng, Công xưởng Hải quân Sài Gòn đã chế tạo 90 chiếc thuyền mành "Yabuta" trong năm 1965. Ông Yabuta, một kỹ sư người Nhật tại Công xưởng Hải quân Sài Gòn năm 1961, ban đầu đã thiết kế ra chiếc thuyền mành dài 57 foot (17 m). Được trang bị một khẩu súng máy cỡ nòng 30, nó có động cơ diesel công suất 110 mã lực có khả năng tạo ra tốc độ 10 hải lý/giờ và được chế tạo hoàn toàn bằng sợi thủy tinh, giúp loại bỏ nhu cầu xử lý vỏ tàu khỏi sâu Teredo đục gỗ. Ngược lại, những chiếc thuyền mành bằng gỗ cần phải cạo sạch vỏ tàu, đốt cháy thân tàu và đóng lại ba tháng một lần. Chương trình Viện trợ Quân sự của Mỹ cung cấp kinh phí cho vật liệu xây dựng và động cơ, và người Việt Nam trả lương cho những công nhân đóng tàu. Sau khi chiếc Yabuta đầu tiên được hoàn thành, sản lượng chậm lại đáng kể. Năm 1966, Công xưởng Hải quân Sài Gòn chỉ đóng được chín chiếc thuyền và năm 1967, chỉ có 15 chiếc. Sản lượng tăng từ ba chiếc một tuần vào năm 1965 lên một chiếc mỗi năm tuần vào năm 1967 khi các công ty xây dựng tư nhân thu hút công nhân xưởng đóng tàu với mức lương trung bình cao hơn ba lần số tiền chính phủ đã trả cho họ. Từ ngày 28 tháng 3 đến ngày 17 tháng 4 năm 1965 Lực lượng Đặc nhiệm 71 báo cáo có 14.962 chiếc thuyền mành trong khu vực hoạt động của mình. Bốn mươi phần trăm trong số này nằm trong phạm vi 3 dặm (4,8 km) của bờ biển miền Nam Việt Nam và 60 phần trăm còn lại nằm trong khoảng từ 3 đến 40 dặm (64 km) tính từ bờ biển. Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã kiểm tra 2,5% số liên hệ trước đây và 7% số liên hệ sau. Rõ ràng, Lực lượng Hải thuyền không thể theo kịp luồng liên lạc theo báo cáo của đơn vị TF 71. Trong số 530 chiếc thuyền mành mà Lực lượng Hải thuyền bàn giao cho Market Time, chỉ có 33,7% được sử dụng trong các cuộc tuần tra vào cùng thời gian này và chỉ một nửa trong số 44 tàu của Lực lượng Đường Biển được phân công tham gia mà thôi. Trong báo cáo gửi tới Tư lệnh Tác chiến Hải quân, Phó Đô đốc Paul P. Blackburn, Tư lệnh Hạm đội 7 Hoa Kỳ, đã tóm tắt tình hình như sau: "Nỗ lực của Lực lượng Hải quân và Duyên hải Việt Nam trong Chiến dịch Market Time đã suy thoái đến mức thực tế là không tồn tại nổi... Chúng ta phải thừa nhận rằng chuỗi chống xâm nhập này của Hải quân Mỹ/Việt Nam Cộng hòa không mạnh hơn mắt xích yếu nhất của nó". Cuối cùng, một số vấn đề với Lực lượng Hải thuyền đã được giảm bớt bằng cách sáp nhập lực lượng này vào lực lượng hải quân chính quy vào tháng 7 năm 1965, nhưng tình trạng tồi tệ của lực lượng này nói chung vẫn tiếp diễn trong suốt năm 1965. Đến năm 1967, Lực lượng Hải thuyền bao gồm 27 hải đội ven biển đóng tại 22 địa điểm trải dài dọc bờ biển miền Nam Việt Nam. Mỗi căn cứ bao gồm khoảng 10 thuyền mành và 148 thủy thủ. Hầu hết thuyền viên chỉ mới học hành có vài năm, sống trong điều kiện thô sơ, xa cách những tiện nghi thoải mái của các thị xã hoặc thành phố lớn. Tham khảo Chiến tranh Việt Nam Hải quân Việt Nam Cộng hòa Khởi đầu năm 1960 ở Việt Nam Đơn vị quân sự thành lập năm 1960
19830987
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%E1%BB%B7%20nguy%C3%AAn%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Kỷ nguyên Việt Nam
Kỷ nguyên Việt Nam () là một thuật ngữ được Bộ Cựu chiến binh Hoa Kỳ (VA) sử dụng để phân loại những cựu chiến binh từng tham gia chiến tranh Việt Nam. Nhiều cơ quan khác nhau của chính quyền liên bang, tiểu bang và địa phương cũng như các nhà tuyển dụng tư nhân thường dành sự quan tâm đặc biệt cho các cựu chiến binh Kỷ nguyên Việt Nam về việc làm và đôi khi được cộng thêm điểm xét tuyển. Vì mục đích của VA, theo Bộ luật Quy định Liên bang Chương 38 Đoạn 3.2 (f), Kỷ nguyên Việt Nam là "Giai đoạn bắt đầu từ ngày 1 tháng 11 năm 1955 và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1975, trong trường hợp cựu chiến binh từng tham chiến tại Việt Nam Cộng hòa vào thời gian đó. Giai đoạn này bắt đầu từ ngày 5 tháng 8 năm 1964 và kết thúc vào ngày 7 tháng 5 năm 1975, bao gồm tất cả các trường hợp khác". Ngày 5 tháng 8 năm 1964 rất có ý nghĩa vì đó là ngày Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam tại Vịnh Bắc Bộ. Hai ngày sau, ngày 7 tháng 8 năm 1964, Quốc hội thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, trao quyền lực đáng kể cho Chính quyền Johnson hòng tiến hành chiến tranh ở Việt Nam. Trận chiến Vịnh Bắc Bộ được coi là khởi đầu cho sự leo thang mạnh mẽ trong hoạt động của Mỹ tại Việt Nam. Ngày kết thúc chiến tranh được ghi nhận là ngày 7 tháng 5 năm 1975, vì Tổng thống Gerald R. Ford tuyên bố kết thúc chiến tranh vào ngày hôm đó. Tham khảo Chiến tranh Việt Nam Vấn đề cựu chiến binh Hoa Kỳ
19830999
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20%C4%91%E1%BB%93n%20%C4%91i%E1%BB%81n%20ch%C3%A8%20c%E1%BB%95%20tr%C3%AAn%20d%C3%A3y%20n%C3%BAi%20V%C3%A2n%20H%E1%BA%A3i%20t%E1%BA%A1i%20Ph%E1%BB%95%20Nh%C4%A9
Các đồn điền chè cổ trên dãy núi Vân Hải tại Phổ Nhĩ
Các đồn điền chè cổ trên dãy núi Vân Hải tại Phổ Nhĩ nằm ở phía đông nam của huyện tự trị Lan Thương, thuộc Phổ Nhĩ, Vân Nam, Trung Quốc. Đây là đại diện tiêu biểu của rừng chè nhân tạo gồm 5 khu vực rừng chè cổ thụ, 9 làng cổ và 3 rừng phòng hộ. Năm 2013, các đồn điền chè cổ trên dãy núi Vân Hải được xếp hạng là Di tích văn hóa lịch sử trọng điểm được bảo vệ cấp quốc gia (đợt 7). Ngày 17 tháng 9 năm 2023, nó đã chính thức được UNESCO công nhận là Di sản thế giới trong phiên họp lần thứ 45.。 Tổng quan Các đồn điền chè cổ trên dãy núi Vân Hải là mô hình về quá trình phát triển nhân tạo của tổ tiên người Thái và Bố Lãng trồng trà lá to ở Vân Nam (trà Phổ Nhĩ). Đây là đồn điền chè được bảo tồn tốt nhất trên thế giới, đồng thời là đồn điền chè lâu đời nhất và lớn nhất. Từ thế kỷ 10 đến 14, khi tổ tiên của người Bố Lãng và người Thái di cư lên núi Vân Hải, họ phát hiện ra một vùng rộng lớn các cây chè hoang nên đã xây dựng làng trong rừng và trồng chè xung quanh các làng, hình thành truyền thống trồng chè trong rừng. Trong thời nhà Minh và Thanh, do hoạt động buôn bán chè bùng nổ, quy mô trồng cây chè ở núi Vân Hải được mở rộng và rừng chè cổ trở thành nguồn thu nhập quan trọng của các nhóm dân tộc địa phương. Quần thể cảnh quan này gồm 5 rừng chè cổ thụ với quy mô lớn, 5 làng cổ của người Bố Lãng, 4 làng của người Thái cùng 3 khu rừng phòng hộ riêng biệt. Tổng diện tích khu di sản là 19.095,74 ha, bao gồm 7.167,89 ha diện tích vùng lõi và 11.927,85 ha vùng đệm. Khu di sản thuộc địa phận hành chính của Cảnh Mại thôn và Mang Cảnh Thôn thuộc Huệ Dân trấn tổng cộng có 10 làng (trong đó có 9 làng cổ) với 1.231 hộ gia đình và 5.088 nhân khẩu. Ước tính số lượng cây chè cổ thụ trong khu di sản là trên 1,2 triệu cây. Tham khảo Di tích lịch sử và văn hóa quốc gia trọng điểm ở Vân Nam Di sản thế giới tại Trung Quốc Văn hóa trà Trung Quốc Lịch sử nông nghiệp Trung Quốc
19831014
https://vi.wikipedia.org/wiki/Con%20m%E1%BA%AFt%20Shinjuku
Con mắt Shinjuku
là tác phẩm điêu khắc do dựng nên vào năm 1969 và được lắp đặt tại Ga Shinjuku ở Tokyo, Nhật Bản. Tác phẩm điêu khắc này nằm bên dưới Tòa nhà Subaru và từng được mô tả là "tác phẩm nghệ thuật công cộng bắt mắt nhất trong thành phố". Theo tác giả, con mắt này tượng trưng cho những hoài niệm về một thời của Shinjuku và dõi theo tất cả những thay đổi của khu phố tấp nập này. Tham khảo Tác phẩm điêu khắc Nhật Bản Tác phẩm điêu khắc năm 1969 Công trình kiến trúc ở Shinjuku Nghệ thuật công cộng Nhật Bản Khởi đầu năm 1969 ở Nhật Bản
19831031
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gen.G%20%28Li%C3%AAn%20Minh%20Huy%E1%BB%81n%20Tho%E1%BA%A1i%29
Gen.G (Liên Minh Huyền Thoại)
Gen.G (), còn gọi là Gen.G Esports, là một đội tuyển thể thao điện tử chuyên nghiệp bộ môn Liên Minh Huyền Thoại thuộc sở hữu của tổ chức Gen.G Esports, hiện đang thi đấu tại giải LCK của Hàn Quốc. Gen.G là một trong những đội tuyển lâu đời nhất tại giải đấu. Lối đánh kiểm soát được kế thừa từ tiền thân là Samsung Galaxy đã trở thành đặc trưng của đội tuyển này. Lịch sử đội tuyển bắt đầu vào ngày 7 tháng 9 năm 2013. Lúc này tổ chức Samsung đã mua lại suất thi đấu từ hai đội Liên Minh Huyền Thoại của MVP là MVP Blue và MVP Ozone. Họ lập ra hai đội mới lấy tên là Samsung Blue và Samsung Ozone, với các tuyển thủ thuộc hai đội cũ tương ứng của MVP. Đến ngày 11 tháng 6 năm 2014, Samsung Ozone đổi tên thành Samsung White. Sau Chung kết thế giới 2014, Samsung hợp nhất hai đội thành Samsung Galaxy theo quy định của Riot và chia tay toàn bộ thành viên. Sau chức vô địch thế giới năm 2017, đội tuyển được bán lại cho KSV eSports. Đến ngày 3 tháng 5 năm 2018, đội được đổi tên thành Gen.G như ngày nay. Trong suốt hơn 10 năm tồn tại, Gen.G đã giành được 4 danh hiệu quốc nội và 2 chiếc cúp vô địch thế giới các năm 2014, 2017 với hai đội hình hoàn toàn khác nhau. Gen.G cũng có lịch sử đối đầu đầy duyên nợ với đối thủ đồng hương T1. Những trận đấu diễn ra giữa hai đội luôn thu hút được đông đảo người theo dõi và bàn luận. Giai đoạn hai đội chị em (2013–2014) Mùa 3 (2013) Sau khi LCK Mùa hè 2013 kết thúc, tập đoàn Samsung Electronics đã lấn sân sang bộ môn Liên Minh Huyền Thoại bằng thương vụ mua lại hai đội MVP Ozone và MVP Blue của tổ chức MVP. Hai đội được đổi tên tương ứng là Samsung Ozone và Samsung Blue. Vì MVP Ozone đã có suất tham dự Chung kết thế giới 2013, Samsung Ozone nghiễm nhiên được tham dự giải này. Trong lần đầu tiên ra mắt tại sân chơi Liên Minh Huyền Thoại lớn nhất hành tinh, họ được xếp vào bảng B cùng với Fnatic, Gambit Gaming, Team Vulcun và Mineski. Có cùng tỉ số 5-3 với Gambit, Samsung Ozone buộc phải đánh tie-break để tranh vé vào tứ kết. Tuy nhiên, họ đã thất bại. Mùa 4 (2014) Sau kết quả đáng quên tại kỳ Chung kết thế giới 2013, Ozone đã có sự tiến bộ tại LCK Mùa đông khi họ đứng hạng hai vòng bảng chỉ sau SKT T1 K. Về phía Samsung Blue, đội đã tham dự vòng loại World Cyber Game 2013 khu vực Hàn Quốc và đã tiến đến trận chung kết trước khi bị CJ Entus đánh bại. Samsung Blue cũng tham gia vòng thăng hạng và đã giành được quyền tham dự LCK Mùa đông 2013-14. Sau khi giải mùa đông kết thúc, đã có sự trao đổi đường giữa giữa hai đội: PawN từ Blue gia nhập Ozone, còn dade rời Ozone để sang Blue. Việc trao đổi đã mang đến những hiệu quả tích cực cho cả hai đội khi Samsung Blue đoạt quán quân và á quân của hai giải Xuân–Hè, còn Ozone đều đứng top 3 trong cả hai mùa giải. Ngày 11 tháng 6, Samsung Ozone đổi tên thành Samsung White. Cùng có 525 điểm tích lũy với SKT T1 K sau giải Mùa hè, Samsung White đã đánh bại SKT để giành lấy vị trí hạt giống số hai tại Chung kết thế giới 2014. Tại đó, hai đội Samsung đã chạm mặt nhau ở bán kết và phần thắng đã nghiêng về Samsung White sau 3 ván đấu dù họ là đội bị đánh giá yếu hơn. Tiến vào chung kết, SSW cũng thể hiện một lối chơi hủy diệt khi họ đánh bại Star Horn Royal Club với tỉ số 3-1 một cách dễ dàng. Đội hình vô địch năm 2014 của SSW vẫn đã và đang được đánh giá là một trong những đội hình mạnh nhất lịch sử các kỳ Chung kết thế giới. Giai đoạn Samsung Galaxy (2015–2017) Mùa 5 (2015) Khi Riot Games đưa ra quy định cấm một tổ chức sở hữu nhiều hơn một đội, Samsung đã nói lời chia tay với tất cả tuyển thủ thuộc hai đội Blue, White. Ngày 28 tháng 11 năm 2014, Samsung Galaxy ra đời trên cơ sở sáp nhập hai đội tuyển cũ. Đội hình mới của Samsung đã có một năm thi đấu không mấy thuận lợi khi họ nằm trong nhóm phải đánh trụ hạng ở LCK Mùa xuân và chỉ đứng hạng 7 ở giải Mùa hè. Trong giai đoạn tiền mùa giải 2016, Samsung tham gia KeSPA Cup và chạm mặt ESC Ever ngay vòng đầu tiên. Trái với kỳ vọng, họ bị Ever đánh bại sau hai ván chóng vánh, kết thúc một năm 2015 với thành tích không mấy khả quan. Mùa 6 (2016) Hoàn thành vòng bảng LCK Mùa xuân 2016 với tỉ số 10-8, SSG đã thất bại trong loạt tie-break tranh hạng 5 trước Afreeca Freecs và không được tham dự play-off. Trong giai đoạn giữa mùa, SSG mang về xạ thủ Ruler và đưa CoreJJ xuống vị trí hỗ trợ, mở ra một chương mới trong lịch sử đội tuyển. Họ đứng thứ 4 tại LCK Mùa hè và giành được tấm vé vào chơi Chung kết thế giới 2016 sau khi đánh bại KT Rolster một cách đầy bất ngờ ở vòng loại khu vực. SSG lần lượt đứng nhất bảng D, đánh bại C9 3-0 ở tứ kết, H2K 3-0 ở bán kết để đối đầu với SKT ở chung kết. Sau khi thua 2 ván đầu trong loạt Bo5, Samsung đã chiến đấu để cân bằng tỉ số thành 2-2. Đến ván 5, trong một pha mắc lỗi di chuyển của xạ thủ Ruler, hỗ trợ CoreJJ đã bị SKT hạ gục và họ cũng dần mất đi lợi thế trong ván đấu, dẫn đến chức vô địch thuộc về tay đối thủ. Mùa 7 (2017) Sau thất bại đáng tiếc trước SKT năm 2016, con đường đến với Chung kết thế giới 2017 của SSG cũng không kém phần khó khăn. Họ dừng bước ở bán kết của LCK Mùa xuân và phải tranh vé dự Chung kết thế giới với Afreeca Freecs và KT Rolster ở Mùa hè. Sau khi lội ngược dòng trước Afreeca trong loạt Bo5 căng thẳng, SSG đã gây bất ngờ khi đánh bại đội hình nhiều siêu sao của KT Rolster với tỉ số 3-0, qua đó giúp họ giành được tấm vé thứ ba của khu vực tham dự chung kết thế giới được tổ chức tại quê nhà Hàn Quốc. Samsung đã đứng vị trí thứ 2 bảng C và gặp Longzhu Gaming ở tứ kết. Trái với suy nghĩ của nhiều người, Samsung đã đánh bại đương kim vô địch LCK với tỉ số 3-0 đầy thuyết phục. Sau đó họ đã đụng độ Team WE của LPL ở bán kết và cũng giành chiến thắng với tỉ số 3-1 dù bị dẫn trước 1 ván. Đến trận chung kết, Samsung đã thể hiện một màn trình diễn xuất sắc để đánh bại đương kim vô địch thế giới là SKT với tỉ số 3-0, chấm dứt triều đại kéo dài 2 năm của đội tuyển này. Sau khi lên ngôi tại Chung kết thế giới, KSV đã mua lại đội tuyển vào ngày 30 tháng 11 năm 2017. Tất cả thành viên ban huấn luyện và tuyển thủ của SSG đều được giữ lại. Đội tuyển mới được đặt tên là KSV eSports và kế thừa toàn bộ thành tích trong quá khứ của Samsung. Giai đoạn KSV – Gen.G (2018–nay) Những khó khăn ban đầu (2018-2021) Sau thương vụ mua lại Samsung Galaxy, KSV eSports đã thi đấu tại LCK Mùa xuân 2018 và chỉ đứng hạng 5 chung cuộc. Sau giải đấu, đội tuyển được đổi tên thành Gen.G vào ngày 3 tháng 5 năm 2018. Cũng như năm 2017, Gen.G lại phải tranh tấm vé cuối dự Chung kết thế giới ở vòng loại khu vực khi họ chỉ đứng hạng 5 vòng play-off LCK Mùa hè. Kịch bản như được lặp lại, họ đánh bại đối thủ Kingzone DragonX 3-0 và tiến đến Chung kết thế giới với vị thế đương kim vô địch. Tuy sở hữu đội hình vừa vô địch thế giới, Gen.G lại gây thất vọng khi bị loại từ vòng bảng với tỉ số 1-5, xếp dưới cả Cloud9 hay Team Vitality. Cuối năm ấy, Ambition giải nghệ còn Crown chuyển sang Bắc Mỹ thi đấu. Giai đoạn 2018-2021 là giai đoạn sa sút nhất của Gen.G khi họ không thể chinh phục bất cứ danh hiệu nào. Thành tích tốt nhất mà họ đoạt được chỉ là 2 chức á quân LCK và top 4 Chung kết thế giới (vào năm 2021) dù đã đưa về rất nhiều ngôi sao như Peanut, Bdd hay Clid. Họ thậm chí còn vắng mặt tại Chung kết thế giới năm 2019 do thành tích yếu kém. Khởi sắc dưới thời huấn luyện viên Score (2021-2023) Sau thành tích bết bát trong các năm vừa qua, Gen.G đã cải tổ lại đội hình bằng những bản hợp đồng đắt giá. Họ đưa Peanut quay lại từ Nongshim. Họ chiêu mộ Chovy và Lehends cùng Doran, 3 nhân tố trong đội hình Griffin từng gây tiếng vang tại LCK. Về ban huấn luyện, họ chọn Score làm huấn luyện viên trưởng. Thành công đầu tiên đã đến khi họ giành được chức á quân LCK Mùa xuân 2022. Sau đó đến Mùa hè, Gen.G đánh bại T1 sau 3 ván đấu ở chung kết tổng để có lần đầu tiên nâng cao chiếc cúp quốc nội kể từ khi đổi tên. Tiến đến Chung kết thế giới với vị thế hạt giống số 1, Gen.G đã giành được vị trí đầu bảng D sau trận tie-break trước RNG. Đối đầu với đối thủ được đánh giá yếu hơn là DRX ở bán kết, Gen.G đã bất ngờ bị đánh bại với tỉ số 1-3 và phải rời giải dù đang là ứng cử viên số 1 cho chức vô địch. Trước khi bắt đầu mùa giải 2023, Gen.G đã nói lời chia tay với xạ thủ huyền thoại Ruler cùng hỗ trợ Lehends. Họ đưa Peyz lên từ đội Challengers và chiêu mộ hỗ trợ Delight. Cặp đôi đường dưới mới của Gen.G, dưới áp lực từ cái bóng lớn của Ruler, vẫn thi đấu xuất sắc và giành được chức vô địch LCK Mùa xuân 2023 sau khi đi lên từ nhánh thua. Có được tấm vé tham dự MSI, Gen.G đã thi đấu không tốt trước đối thủ cũ T1 ở nhánh thắng và hạt giống số 2 của LPL, Bilibili Gaming ở nhánh thua và phải nhận thất bại không gỡ sau 3 ván đấu trước đội tuyển này. Sang Mùa hè, Gen.G lại một lần nữa đoạt được chức vô địch quốc nội sau khi đánh bại T1 3-0 ở chung kết tổng. Dù mang đến Chung kết thế giới một đội hình được xem là ứng cử viên sáng giá cho chức vô địch, Gen.G tiếp tục để thua trước Bilibili Gaming sau 5 ván đấu và phải dừng chân sớm ở tứ kết. Tổng quan mùa giải Danh sách thống kê chỉ bao gồm các giải thường niên, gồm LCK, MSI và Chung kết thế giới. Samsung Ozone – Samsung White Samsung Blue Samsung Galaxy KSV – Gen.G Thành tích Danh hiệu quốc nội League of Legends Champions Korea: 4 Mùa xuân 2014, Mùa hè 2022, Mùa xuân 2023, Mùa hè 2023 Danh hiệu quốc tế Giải vô địch thế giới Liên Minh Huyền Thoại: 2 2014, 2017 Danh hiệu khác LoL Masters: 1 2014 Intel Extreme Masters: 1 Gyeonggi 2016 Thành viên hiện tại Đội hình chính Đội Global Academy Cựu thành viên Đội hình Samsung Blue tại Chung kết thế giới 2014 Đội hình Samsung White vô địch thế giới 2014 Đội hình Samsung Galaxy vô địch thế giới 2017 Tham khảo Các đội thể thao điện tử có trụ sở tại Hàn Quốc Thể thao điện tử
19831032
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20l%E1%BB%99i%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022
Bơi lội tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Bơi lội tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Trung tâm thể thao dưới nước của Công viên thể thao Olympic Hàng Châu trong Sân vận động Công viên Thể thao Hàng Châu, Hàng Châu, Trung Quốc, từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 9 năm 2023. Lịch thi đấu Danh sách huy chương Nguồn: Nam Swimmers who participated in the heats only and received medals. Nữ Swimmers who participated in the heats only and received medals. Mixed Swimmers who participated in the heats only and received medals. Bảng tổng sắp huy chương Nguồn: Quốc gia tham dự 37 quốc gia tranh tài tại Đại hội Thể thao châu Á 2022: Tham khảo Liên kết ngoài Kỷ lục môn Bơi lội tại Đại hội Thể thao châu Á Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 Đại hội Thể thao châu Á 2022 Bơi lội tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 International aquatics competitions hosted by China
19831036
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90inh%20Tr%E1%BB%8Bnh%20Ch%C3%ADnh
Đinh Trịnh Chính
Đinh Trịnh Chính (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1927) là luật sư, quan chức và nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, ông từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin, Ủy viên Tâm lý chiến Việt Nam Cộng hòa, Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan. Tiểu sử Đinh Trịnh Chính sinh ngày 17 tháng 12 năm 1927 tại Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, ông là thành viên của đội du kích Việt Minh. Năm 1945, ông theo học tại Trường Chính trị Quân sự Cách mạng Vĩnh Yên (tiền thân của Trường Lục quân Yên Bái). Năm 1946, ông học tại Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn ở Yên Bái, miền Bắc Việt Nam. Năm 1949, ông sang Hồng Kông nhập học một trường kinh doanh. Ông tốt nghiệp Trường Luật Hà Nội năm 1955 rồi vào Đại học Missouri để học chuyên ngành báo chí, phát thanh và truyền hình cùng năm. Từ năm 1959 đến năm 1962, ông sang Lào làm cố vấn cho Bộ Thông tin và Ngoại giao của Chính phủ Hoàng gia Lào. Năm 1965, ông giữ chức Bộ trưởng Thông tin trong nội các Phan Huy Quát. Năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Ủy viên Tâm lý chiến trong nội các Nguyễn Cao Kỳ. Cùng năm đó, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng tại Phủ Thủ tướng cho đến năm 1967. Từ tháng 2 năm 1967 đến năm 1970, ông giữ chức Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Vương quốc Thái Lan. Từ năm 1970 đến năm 1971, ông làm giảng viên Khoa Báo chí Viện Đại học Đà Lạt và sau đó làm luật sư tại Tòa phúc thẩm Sài Gòn. Đời tư Theo cuốn Who's who in Vietnam xuất bản năm 1974 cho biết Đinh Trịnh Chính đã kết hôn và có 6 người con. Tham khảo Sinh năm 1927 Nhân vật còn sống Họ Đinh Người Hà Nội Luật sư Việt Nam Đại sứ Việt Nam Cộng hòa Cựu sinh viên Đại học Missouri Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa Chính khách Việt Nam Cộng hòa Nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa
19831037
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m%20Kim%20Ng%E1%BB%8Dc
Phạm Kim Ngọc
Phạm Kim Ngọc (ngày 17 tháng 3 năm 1928 — ngày 14 tháng 12 năm 2019) là nhà kinh tế học Việt Nam Cộng hòa từng giữ chức Tổng trưởng Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa từ năm 1969 đến năm 1973. Ông là Tổng trưởng Kinh tế tại vị lâu nhất của đất nước. Ông di cư sang Mỹ từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 và mất tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam vào năm 2019. Tiểu sử Thân thế Phạm Kim Ngọc sinh ra trong một gia đình khá giả tại Hà Nội vào ngày 17 tháng 3 năm 1928 (có thuyết nói là năm 1929). Ông được gia đình cho đi học trung học tại Hồng Kông, rồi về sau ông sang Anh du học vào năm 1949. Năm 1952, ông thi đậu bằng Cử nhân Khoa học Kinh tế tại Đại học London (Đại học Southampton), Từ năm 1952 đến năm 1955, ông theo học tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn. Sự nghiệp Sau khi tốt nghiệp, trong suốt thời gian thực tập tại Ngân hàng Standard Chartered, ông hay tin miền Nam Việt Nam giành độc lập khỏi thực dân Pháp, đồng thời được biết rằng Giáo sư Vũ Quốc Thúc, tân Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, muốn thành lập một ngân hàng thương tín ở Sài Gòn. Ông liền giã từ cuộc sống thoải mái tại Luân Đôn, và trở về Sài Gòn mà không thông báo cho bạn hữu. Ông vừa về đến Sài Gòn liền xin yết kiến Giáo sư Vũ Quốc Thúc mà ông chưa hề quen biết. Giáo sư Thúc rất vui khi gặp ông và tuyển dụng ngay vì ông thông thạo Anh ngữ và hiểu biết nhiều về dịch vụ ngân hàng thương mại tân thời so với chế độ của Pháp trước đây. Ông giữ chức Phó Giám đốc Ngân hàng Việt Nam Thương tín từ năm 1955 đến năm 1967. Giữa năm 1966 (có thuyết nói là năm 1967), ông vào làm trong Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa và giữ chức Thứ trưởng trong sáu tháng. Năm 1967, ông bỏ Ngân hàng Việt Nam Thương tín để thành lập công ty đầu tư. Từ năm 1968 đến năm 1969, ông giữ chức vụ Tổng Giám đốc Công ty Đầu tư Sài Gòn. Năm 1969, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu mời cựu Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Nguyễn Hữu Hanh làm Tổng trưởng Bộ Kinh tế, nhưng ông Hanh từ chối và vì muốn giữ chức vụ Chánh Đại diện Việt Nam Cộng hòa tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế ở Washington, D.C, cho nên đề nghị Thủ tướng Khiêm chọn Phạm Kim Ngọc thay thế mình. Trong suốt thời gian làm Tổng trưởng Kinh tế, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã yêu cầu ông thực hiện kế hoạch “khắc khổ” nhằm chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa từ tình trạng suy thoái phải phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ thành một nền kinh tế độc lập và tự chủ. Cùng với Tổng trưởng Tài chánh Nguyễn Bích Huệ, ông đã soạn thảo hơn 200 loại thuế bao gồm mọi thứ, từ nhu yếu phẩm như đường, xăng và dầu diesel đến những thứ xa xỉ như rượu vang và rượu mạnh. Tại một hội nghị chuyên đề năm 2016 về chế độ Việt Nam Cộng hòa tại Berkeley, California ông đành phải thừa nhận rằng kế hoạch “khắc khổ” của mình đã thất bại do thiếu tính thực tế. Tháng 8 năm 1973, ông được chuyển sang làm Tổng trưởng Bộ Kế hoạch. Cùng năm, ông rời bỏ chính trường, và đứng ra lập nên Ngân hàng Nông Doanh vào tháng 3 năm sau, hoạt động cho đến khi xảy ra biến cố 30 tháng 4 năm 1975. Lưu vong Sau năm 1975, ông di cư sang Mỹ và sống ẩn dật ở bang Virginia. Về sau, ông tham dự các cuộc hội thảo về chính sách kinh tế của mình dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Tháng 10 năm 2016, tại hội thảo về Việt Nam Cộng hòa tại Đại học California, Berkeley, ông đã giới thiệu nỗ lực của nhóm mình nhằm tránh thảm họa tài chính sau khi người Mỹ bắt đầu rút viện trợ vào năm 1969. Nội dung bài phát biểu này được đưa vào trong cuốn sách nhan đề Việt Nam Cộng hòa, 1955–1975: Quan điểm của người Việt về xây dựng đất nước () xuất bản năm 2019. Ông qua đời ngày 14 tháng 12 năm 2019 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, hưởng thọ 91 tuổi. Dầu hỏa Một nhiệm vụ quan trọng trong nhiệm kỳ làm Tổng trưởng Bộ Kinh tế của Phạm Kim Ngọc là khởi động kế hoạch tìm kiếm dầu hỏa ở Biển Đông. Ngày 1 tháng 12 năm 1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ban hành Đạo luật Dầu hỏa VNCH số 011/70. Ngày 7 tháng 1 năm 1971, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã ký Nghị định số 003-SL/KT thành lập Ủy ban Dầu hỏa, do Tổng trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc làm Chủ tịch Ủy ban. Tháng 6 cùng năm, ông tuyên bố sẽ cấp phép tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu hỏa trên thềm lục địa dưới hình thức đấu thầu. Đời tư Phạm Kim Ngọc tin theo tín ngưỡng Phật giáo. Theo cuốn Who's who in Vietnam xuất bản năm 1974, ông đã lập gia đình và có 4 người con với vợ. Vinh danh Huân chương Cảnh tinh Đại thụ Trung Hoa Dân Quốc. Tham khảo Sinh năm 1928 Mất năm 2019 Họ Phạm Người Hà Nội Phật tử Việt Nam Nhà kinh tế học Việt Nam Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa Chính khách Việt Nam Cộng hòa Bộ Thương mại Việt Nam Cộng hòa Cựu sinh viên Trường Kinh tế Luân Đôn
19831038
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2u%20Kim%20Nh%C3%A2n
Châu Kim Nhân
Châu Kim Nhân (ngày 1 tháng 10 năm 1928 – ngày 29 tháng 6 năm 2018) là quan chức Việt Nam Cộng hòa và nguyên Tổng trưởng Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng hòa. Ông được kính trọng vì là một quan chức lương thiện và làm việc cần cù. Tiểu sử Châu Kim Nhân sinh ngày 1 tháng 10 năm 1928 tại làng Uyên Hưng, huyện Tân Uyên, tỉnh Biên Hòa. Ông tốt nghiệp khóa Đốc sự 2, ban Kinh tế Tài chánh tại Học viện Quốc gia Hành chánh ở Sài Gòn năm 1958, sau đó sang Anh du học và tốt nghiệp Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị Luân Đôn, chuyên ngành chính trị và kinh tế. Từ năm 1966 đến 1967, ông vào làm Đổng lý Văn phòng Bộ Tài chánh trong nội các Nguyễn Cao Kỳ. Năm 1972, ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc Cơ quan Tiếp vận Trung ương trực thuộc Phủ Thủ tướng, chịu trách nhiệm quản lý các nguồn viện trợ nước ngoài và tài trợ dân sự cung cấp cho Việt Nam Cộng hòa. Cùng với Đỗ Hải Minh, Phó Tổng Giám đốc cũng tốt nghiệp Học viện Quốc gia Hành chánh, ông đã cân đối các nguồn tài chính của đất nước, viện trợ nước ngoài và quỹ chiến tranh. Đóng góp lớn nhất của ông là điều tra và ngăn chặn nhiều vụ tham ô, lạm dụng công quỹ trong nước. Từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 7 năm 1973, ông giữ chức vụ Tổng Giám đốc Tổng nha Tài chính và Thanh tra Quân phí Bộ Quốc phòng. Từ tháng 7 đến tháng 11 năm 1973, ông làm Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng cho Đại tướng Trần Thiện Khiêm. Từ năm 1973 đến 1974, ông lên làm Tổng trưởng Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng hòa. Từ năm 1974 đến năm 1975, ông là Phụ tá Thủ tướng đặc trách Kinh tế và Tài chính. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông muốn ở lại chịu nạn cùng đồng bào nhưng sau cùng vì nghe lời thuyết phục của bạn bè nên đã kịp lên chiếc tàu của Hàn Quốc rời khỏi Việt Nam vào ngày 1 tháng 5 năm 1975. Sau khi định cư ở Maryland, Mỹ, ông sống cùng gia đình trong một ngôi nhà nhỏ đơn sơ và đảm nhận một công việc kín đáo tại Đại học Maryland. Ông sống một cuộc đời gần như ẩn dật ở Mỹ, ngoại trừ việc thỉnh thoảng viết thư cho Tổng thống Mỹ George H. W. Bush về tình hình thế giới và Việt Nam. Ông qua đời tại nước Mỹ vào ngày 29 tháng 6 năm 2018. Giai thoại Châu Kim Nhân nổi tiếng là vị quan chức liêm chính trong thời gian làm tổng trưởng chế độ cũ.Theo bài báo của Huỳnh Bá Thành thì Châu Kim Nhân là tổng trưởng đầu tiên có ô tô không có điều hòa. Ngoài ra, ông thích nói chuyện thoải mái với các phóng viên, ông là vị tổng trưởng giải thích nhiều nhất với giới truyền thông, bất cứ ai muốn đặt câu hỏi gì về thuế má và tài chính thì cứ quay điện thoại số "94381" sẽ được trả lời liền. Tham khảo Sinh năm 1928 Mất năm 2018 Người Biên Hòa Người Mỹ gốc Việt Người Việt di cư tới Mỹ Bộ trưởng Việt Nam Cộng hòa Chính khách Việt Nam Cộng hòa Bộ Tài chánh Việt Nam Cộng hòa
19831043
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%91ng%20rocket%2C%20%C4%91%E1%BA%A1n%20ph%C3%A1o%2C%20%C4%91%E1%BA%A1n%20c%E1%BB%91i
Chống rocket, đạn pháo, đạn cối
Chống rocket, đạn pháo, đạn cối, viết tắt là C-RAM hoặc counter-RAM (Counter rocket, artillery, and mortar), là tập hợp các hệ thống phát hiện, tiêu diệt hỏa tiễn, đạn pháo, đạn cối đang bay tới trước khi chúng bắn trúng mục tiêu mặt đất, hoặc chỉ cung cấp cảnh báo sớm. Phân loại Hoa Kỳ: Hệ thống vũ khí Phalanx trên bộ Hệ thống vũ khí Phalanx trên bộ 20 ly (còn gọi là C-RAM) là biến thể trên bộ của hệ thống vũ khí đánh gần Phalanx của Hải quân Hoa Kỳ, một loại súng bắn nhanh điều khiển bằng radar để bảo vệ chiến hạm ở cự li gần khỏi tên lửa. Cả hai đều sử dụng camera hồng ngoại nhìn về phía trước (FLIR) để cho phép người điều khiển xác định trực quan hỏa lực đang bay tới trước khi khai hỏa. Nếu như các hệ thống Phalanx của hải quân bắn đạn xuyên giáp vonfram thì C-RAM lại sử dụng loại đạn 20 ly HEIT-SD (chất đánh dấu gây cháy cao, tự hủy được), ban đầu được phát triển cho hệ thống phòng không M163 Vulcan. Những viên đạn này phát nổ khi va chạm với mục tiêu hoặc khi hết chất đánh dấu, qua đó làm giảm đáng kể nguy cơ thiệt hại phụ do những viên đạn bắn trượt mục tiêu. Israel: Vòm Sắt Vòm Sắt là hệ thống tên lửa của Israel có tính năng theo dõi đa mục tiêu và đánh chặn tên lửa tự dẫn đường. Do phạm vi giao tranh ngày càng tăng cũng như nhiều cải tiến mới về hỏa tiễn và đánh chặn, cộng với khả năng tên lửa đất đối không, nó đã phát triển thành một hệ thống phòng không hoàn chỉnh. Đến tháng 11 năm 2012, hệ thống này đã chặn được hơn 400 quả tên lửa do phiến quân Dải Gaza bắn vào Israel. Dựa trên những thành công trong quá trình hoạt động, phóng viên quốc phòng Mark Thompson ước tính rằng Vòm Sắt hiện là hệ thống chống tên lửa hiệu quả nhất và được thử nghiệm nhiều nhất hiện có. Đức: Nächstbereichschutzsystem MANTIS Nächstbereichschutzsystem MANTIS là hệ thống C-RAM hoàn toàn tự động 35 ly, do Rheinmetall sản xuất dựa trên hệ thống Skyshield của Oerlikon. Hệ thống này đã được Luftwaffe (Không quân Đức) sử dụng từ năm 2011. Ý: Porcupine Đội hình Porcupine điển hình của Lục quân Ý gồm có bốn đơn vị hỏa lực, một trạm điều khiển trung tâm để chỉ định mục tiêu và kiểm soát vũ khí và một hệ thống radar 3D "theo dõi trong khi quét" để giám sát và theo dõi mục tiêu. Mỗi thiết bị bắn từ xa bao gồm một khẩu pháo Gatling M61A1 20 ly, hệ thống xử lí đạn dược và hệ thống theo dõi quang học hồng ngoại (IR) ổn định. Ý: DRACO DRACO là trạm vũ khí đa năng hoạt động chống lại các mục tiêu trên không và trên bộ được thiết kế cho Lục quân Ý bởi OTO-Melara, sử dụng khung gầm xe bọc thép bánh Centauro 8x8. Vũ khí chính gồm: pháo 76mm/62 tốc độ bắn cao, nạp đạn tự động; súng 76mm/62 điều khiển bằng điện để nâng và di chuyển ngang, đồng thời được ổn định ở độ cao. DRACO lắp đặt được trên các bệ có bánh xe 8x8, dành cho các hoạt động hỗ trợ chiến đấu, phòng thủ đoàn, cũng như trên các phương tiện bánh xích hoặc nơi trú ẩn để phòng thủ điểm. Pháo chính 76mm/62 nạp đạn tự động hoàn toàn tương thích với mọi loại đạn 76 ly đang được sử dụng cũng như đạn dẫn đường 76mm DART. DRACO có thể được điều khiển hoàn toàn bởi hai người (Chỉ huy và Xạ thủ) từ xa, nằm bên trong thân tàu để lắp đặt di động hoặc bên trong hầm chỉ huy kiên cố để lắp đặt cố định. Trung Quốc: LD-2000 LD-2000 là hệ thống vũ khí tầm gần trên bộ do Trung Quốc phát triển. LD-2000 dựa trên Kiểu 730 CIWS của Hải quân Trung Quốc. Khi hoạt động, nó kết hợp với radar phản pháo kích. Hà Lan: Goalkeeper Hệ thống vũ khí tầm gần Goalkeeper của Hà Lan được giới thiệu vào năm 1979. Đây là hệ thống vũ khí tự động bảo vệ tàu tầm ngắn chống lại tên lửa, máy bay và tàu mặt nước cơ động nhanh. Sau khi kích hoạt, hệ thống sẽ tự động thực hiện toàn bộ quy trình phòng không từ giám sát, phát hiện đến tiêu diệt, bao gồm cả việc lựa chọn mục tiêu ưu tiên tiếp theo. Nga: AK-630 AK-630 là hệ thống vũ khí tầm gần hoàn toàn tự động của hải quân Liên Xô và Nga dựa trên pháo xoay 30 ly sáu nòng, được gắn trong tháp pháo tự động đi kèm, điều khiển bởi radar MR-123, phát hiện và theo dõi truyền hình. Mục đích chính của hệ thống này là phòng thủ trước tên lửa chống hạm và các loại vũ khí dẫn đường chính xác khác của địch. Tuy nhiên, hệ thống cũng có thể được dùng để chống máy bay cánh cố định hoặc cánh quay, chiến hạm và các loại tàu nhỏ, mục tiêu ven biển và mìn nổi. Nghiên cứu năng lượng định hướng Hoa Kỳ đã và đang tăng cường khả năng vũ khí năng lượng định hướng nhằm chống lại các mối đe dọa do hỏa tiễn gây ra. Vũ khí năng lượng định hướng là một hệ thống vũ khí tầm xa gây sát thương lên mục tiêu bằng cách phát ra năng lượng tập trung cao độ, gồm tia laser, vi ba và tia hạt. Lục quân Hoa Kỳ đã trao một hợp đồng trị giá 29 triệu đô la vào năm 2016 cho Kratos Defense & Security Solutions để tạo nguyên mẫu cho các hệ thống như vậy. Nhà thầu quốc phòng Hoa Kỳ Raytheon đang phát triển một biến thể dựa trên tia laser, trong đó tia laser tập trung chi phí thấp sẽ giúp tăng tầm bắn và giảm thời gian đánh chặn súng. Một bằng chứng về khái niệm này đã được chứng minh trên đạn súng cối 60 ly vào năm 2006. Iron Beam là hệ thống phòng không được phát triển bởi nhà thầu quốc phòng Rafael Advanced Defense Systems của Israel. Ra mắt tại Triển lãm hàng không Singapore năm 2014 vào ngày 11 tháng 2, hệ thống này được thiết kế để tiêu diệt rocket, đạn pháo và đạn cối tầm ngắn với tầm bắn lên tới 7 km (4,3 dặm), quá nhỏ để hệ thống Vòm Sắt có thể đánh chặn hiệu quả. Ngoài ra, hệ thống này còn đánh chặn được các máy bay không người lái. Iron Beam sẽ sử dụng "chùm laser năng lượng cao được định hướng" để tiêu diệt địch với phạm vi lên tới 7 km (4,3 dặm). Iron Beam sẽ là thành phần thứ năm trong hệ thống phòng không tích hợp của Israel, bên cạnh Arrow 2, Arrow 3, David's Sling và Vòm Sắt. Tuy nhiên, Iron Beam cũng là một hệ thống độc lập. Tham khảo Phòng thủ tên lửa Hệ thống vũ khí đánh gần Robot quân sự
19831046
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anton%20I%20c%E1%BB%A7a%20Sachsen
Anton I của Sachsen
Anton I của Sachsen (tiếng Đức: Anton I. von Sachsen; 27 tháng 12 năm 1755 – 6 tháng 6 năm 1836) là Quốc vương Sachsen từ Vương tộc Wettin. Anton I được biết đến với cái tên Anton der Gütige ("Anton Tốt bụng"). Anton I là con trai thứ năm của Friedrich Christian I, Tuyển hầu tước xứ Sachsen và Maria Antonia xứ Bayern. Trước khi lên ngôi Với rất ít cơ hội tham gia vào các hoạt động chính trị của Tuyển hầu quốc Sachsen hoặc nhận được bất kỳ vùng lãnh thổ nào từ người anh Friedrich August III, Anton đã sống một cách thầm lặng. Không có Tuyển hầu tước Sachsen kể từ Johann Georg I trao tước vị cho những người con trai thứ của mình. Trong những năm đầu tiên dưới triều đại của anh trai với tư cách là Tuyển hầu, Anton đứng thứ ba trong hàng ngũ thừa kế. Với cái chết của người anh trai thứ ba là Joseph (25 tháng 3 năm 1763) và của người anh thứ hai là Karl (8 tháng 9 năm 1781), Anton trở thành người thừa kế hàng đầu. Nguyên nhân là do Tuyển hầu phu nhân Amalie chỉ sinh được một người con gái khỏe mạnh. Dì của Anton, Maria Josepha của Ba Lan và Sachsen, Trữ phi nước Pháp, muốn gả con gái Marie Zéphyrine của Pháp cho Anton tuy nhiên kế hoạc đã thất bại vì Marie Zéphyrine đã qua đời vào năm 1755. Một ứng cử viên người Pháp khác là em gái của Marie Zéphyrine, Marie Clotide của Pháp (sau này là Vương hậu Sardegna) nhưng không thành. Tại Torino, vào ngày 29 tháng 9 năm 1781 (ủy nhiệm) và một lần nữa ở Dresden vào ngày 24 tháng 10 năm 1781 (trực tiếp), Anton kết hôn với Maria Carolina của Sardegna, con gái của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha. Maria Carolina qua đời chỉ sau một năm chung sống vào ngày 28 tháng 12 năm 1782 vì bệnh đậu mùa và hai vợ chồng không có con với nhau. Tại Firenze, vào ngày 8 tháng 9 năm 1787 (ủy nhiệm) và một lần nữa ở Dresden vào ngày 18 tháng 10 năm 1787 (trực tiếp), Anton tái hôn với Nữ Đại vương công Maria Theresia Josepha của Áo (Maria Theresia Josepha Charlotte Johanna), con gái của Đại Công tước Leopold I xứ Toscana (sau này là Hoàng đế Leopold II của Thánh chế La Mã) và María Luisa của Tây Ban Nha. Vở opera Don Giovanni của Mozart ban đầu được dự định trình diễn để vinh danh cô dâu của Anton trong chuyến thăm Praha vào ngày 14 tháng 10 năm 1787, khi Maria Theresia Josepha di chuyển từ Viên sang Dresden để dự buổi lễ mừng, và các bản librettos đã được in ra, trong đó đều có tên của cả Anton và Maria Theresia Josepha. Tuy nhiên, buổi ra mắt không thể được sắp xếp kịp thời nên vở opera Đám cưới của Figaro đã được thay thế theo lệnh cấp tốc của người bác bên nội của cô dâu là Hoàng đế Joseph II của Thánh chế La Mã. Nhiều người tham dự cho rằng việc lựa chọn Cuộc hôn nhân của Figaro là không phù hợp đối với một tân nương, và Nữ Đại vương công Maria Theresia đã rời nhà hát opera sớm mà không xem hết buổi trình diễn tác phẩm. Mozart đã than phiền về những âm mưu xoay quanh sự cố này trong một bức thư gửi cho bạn là Gottfried von Jacquin, được viết trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 đến ngày 25 tháng 10 năm 1787. Anton đã có mặt tại Praha vào tháng 9 năm 1791 để tham dự buổi biểu diễn đầu tiên vở opera La clemenza di Tito của Mozart, được viết như một phần của lễ đăng quang của cha vợ Anton là Hoàng đế Leopold II của Thánh chế La Mã với tư cách là Quốc vương Bohemia. Hai vợ chồng có với nhau bốn người con, ba gái và một trai, nhưng không người con nào có thể sống đến hai tuổi: Maria Ludovika Auguste Fredericka Therese Franziska Johanna Aloysia Nepomucena Ignatia Anna Josepha Xaveria Franziska de Paula Barbara (Dresden, 14 tháng 3 năm 1795 – Dresden, 25 tháng 4 năm 1796) Friedrich August (sinh và mất tại Dresden, 5 tháng 4 năm 1796) Maria Johanna Ludovica Anna Amalia Nepomucena Aloysia Ignatia Xaveria Josepha Franziska de Chantal Eva Apollonia Magdalena Crescentia Vincentia (Dresden, 5 tháng 4 năm 1798 – Dresden, 30 tháng 10 năm 1799) Maria Theresia (sinh và mất tại Dresden, 15 tháng 10 năm 1799) Trong khoảng thời gian này, Bà Tuyển hầu Amalie sinh một ra một đứa trẻ chết lưu lần cuối cùng vào năm 1799. Sau đó, Anton được coi như sẽ kế vị Tuyển hầu quốc Sachsen mà được nâng lên thành vương quốc vào năm 1806. Quốc vương Sachsen Anton kế vị anh trai Friedrich August I trở thành Quốc vương Sachsen sau cái chết của anh trai vào ngày 5 tháng 5 năm 1827. Tân vương 71 tuổi hoàn toàn thiếu kinh nghiệm trong chính quyền và do đó không có ý định khởi xướng những thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại và đối nội của mình. Các nhà ngoại giao Phổ đã thảo luận về việc trao tỉnh Rhineland của Phổ (người ở đây chủ yếu là tín hữu Công giáo) cho Anton I (một người Công giáo) để đổi lấy Vương quốc Sachsen chủ yếu theo Luther vào năm 1827, nhưng những cuộc đàm phán này không mang lại kết quả gì. Sau Cách mạng Tháng Bảy ở Pháp năm 1830, tình trạng hỗn loạn ở Sachsen xảy ra vào mùa thu, chủ yếu nhằm chống lại Hiến pháp cũ. Vì vậy, vào ngày 13 tháng 9, bên nội các đã cách chức Bá tước Detlev von Einsiedel, tiếp theo là Bernhard von Lindenau. Vì người dân mong muốn có một nhiếp chính trẻ tuổi hơn nên Aton I đã đồng ý bổ nhiệm cháu trai Friedrich August trở thành Đồng Vương tử Nhiếp chính (Prinz-Mitregenten). Một hiến pháp mới đã được thông qua vào năm 1831 và có hiệu lực vào ngày 4 tháng 9 cùng năm Với hiến pháp mới, Sachsen đã trở thành một Vương quốc theo chế độ quân chủ lập hiến và có được cơ quan lập pháp lưỡng viện và chính phủ nội các chịu trách nhiệm, thay thế các địa chủ phong kiến cũ. Hiến pháp có tính bảo thủ hơn so với các hiến pháp khác hiện có ở Liên minh Đức lúc bấy giờ. Tuy nhiên, hiến pháp có hiệu lực ở Sachsen cho đến năm 1918. Quốc vương vẫn nắm giữ quyền lực tối cao nhưng bị ràng buộc bởi Công việc Chính phủ và phải hợp tác với các Bộ trưởng và các quyết định của cuộc họp của cả hai Viện (de: Kammern der Ständeversammlung ). Việc Sachsen gia nhập Liên minh quan thuế Đức Zollverein vào năm 1833 đã giúp thương mại, công nghiệp và giao thông phát triển hơn nữa. Với việc không có nam duệ, Anton I được cháu trai là Friedrich August II kế vị. Gia phả Tham khảo Nguồn tài liệu Vua Sachsen Vương tộc Wettin Người nhận Huân chương Đại bàng trắng (Ba Lan) Sinh năm 1755 Mất năm 1836 Hiệp sĩ Lông cừu vàng Áo Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr) Bài viết có văn bản tiếng Đức
19831047
https://vi.wikipedia.org/wiki/Johann%20I%20c%E1%BB%A7a%20Sachsen
Johann I của Sachsen
Johann I của Sachsen (tiếng Đức: Johann I. von Sachsen; 12 tháng 12 năm 1801 – 29 tháng 10 năm 1873) là Quốc vương Sachsen từ ngày 9 tháng 8 năm 1854 cho đến khi qua đời năm 1873. Johann I là một thành viên của Vương tộc Wettin. Trong triều đại của mình, Sachsen đã trở thành một phần của Đế quốc Đức. Trước khi kế vị Johann ra đời ở Dresden, là con trai thứ ba của Maximilian, Trữ quân Sachsen — con trai của Tuyển hầu tước Friedrich Christian I xứ Sachsen — với người vợ đầu là Carolina của Parma. Trong phần lớn cuộc đời, Johann có rất ít cơ hội thừa kế Ngai vàng Sachsen: trước Johann là cha và hai người anh trai Friedrich August và Clement. Tuy nhiên, vào năm 1822, Clement qua đời khi chưa lập gia đình ở Ý, và Johann lúc này chỉ đứng sau anh trai Friedrich August. Khi bác của Johann là Anton kế vị anh trai trở thành Quốc vương Sachsen (1827), Johann đứng hàng thứ ba trong danh sách kế vị, và sau khi cha là Maximilian từ bỏ quyền kế vị vào năm 1830, Johann được nâng lên vị trí thứ hai. Khi anh trai của Johann trở thành Quốc vương Friedrich August II vào năm 1836, Johann trở thành người thừa kế hàng đầu. Vì Friedrich August II không có con, Johann vẫn là người thừa kế lâm thời của nhà vua. Quốc vương Sachsen John trở thành tân vương của Sachsen sau khi anh trai Friedrich August II qua đời vào ngày 9 tháng 8 năm 1854. Tổ chức Tư pháp năm 1855, mở rộng mạng lưới đường sắt, đưa ra quyền tự do thương mại chủ yếu là do Johann I đề xuất và thúc đẩy. Dưới thời trị vì của mình, Johann I đã chấp nhận Hiệp ước Thương mại Pháp (1862) và một thỏa thuận với Ý. Quốc vương đã nỗ lực dưới ảnh hưởng của Bộ trưởng Friedrich Ferdinand von Beust cho Giải pháp Nước Đức vĩ đại (Großdeutsche Lösung) trong sự sắp xếp của đế quốc (bao gồm cả Áo). Năm 1866, Sachsen chiến đấu bên phía Áo trong Chiến tranh Áo-Phổ. Cuối cùng, sau thất bại trong trận Königgrätz, Sachsen đã gia nhập Liên bang Bắc Đức và vào năm 1871 là Đế quốc Đức dưới quyền bá chủ của Vương quốc Phổ. Johann I qua đời hai năm sau đó, thọ 71 tuổi. Ngoài khía cạnh chính trị, Johann I còn bận rộn với văn chương. Dưới bút danh Philalethes, Quốc vương đã dịch Thần khúc của Dante sang tiếng Đức; một số phần của tác phẩm này đã được đặt ở Schloss Weesenstein. Quận Johannstadt ở Dresden được đặt theo tên của nhà vua. Hôn nhân và con cái Tại München vào ngày 10 tháng 11 năm 1822 (ủy nhiệm) và một lần nữa tại Dresden vào ngày 21 tháng 11 năm 1822 (trực tiếp), Johann kết hôn với Vương nữ Amalie Auguste của Bayern, con gái của Quốc vương Maximilian I Joseph của Bayern. Hai vợ chồng có chín người con: Maria Augusta Fredericka Karoline Ludovike Amalie Maximiliane Franziska Nepomucena Xaveria (Dresden, 22 tháng 1 năm 1827 – Dresden, 8 tháng 10 năm 1857), được gọi là Maria. Friedrich August Albert Anton Ferdinand Joseph Karl Maria Baptist Nepomuk Wilhelm Xaver Georg Fidelis (Dresden, 23 tháng 4 năm 1828 – Schloss Sibyllenort, 19 tháng 6 năm 1902), Quốc vương Albert I của Sachsen. Maria Elisabeth Maximiliana Ludovika Amalie Franziska Sophia Leopoldine Anna Baptista Xaveria Nepomucena (Dresden, 4 tháng 2 năm 1830 – Stresa, 14 tháng 8 năm 1912), được gọi là Elisabeth; kết hôn lần đầu vào ngày 22 tháng 4 năm 1850 với Ferdinando Maria, Vương tử Savoia và Sardegna và là Công tước thứ 1 xứ Genoa, và lần thứ hai vào ngày 4 tháng 10 năm 1856 với Niccolò, Hầu tước Rapallo. Friedrich August Ernst Ferdinand Wilhelm Ludwig Anton Nepomuk Maria Baptist Xaver Vincenz (Dresden, 5 tháng 4 năm 1831 – Schloss Weesenstein, 12 tháng 5 năm 1847), được gọi là Ernst. Friedrich August Georg Ludwig Wilhelm Maximilian Karl Maria Nepomuk Baptist Xaver Cyriacus Romanus (Pillnitz, 8 tháng 8 năm 1832 – Pillnitz, 15 tháng 10 năm 1904), Quốc vương Georg I của Sachsen (1902). Maria Sidonia Ludovica Mathilde Wilhelmine Auguste Xaveria Baptista Nepomucena Veronica Hyacinthia Deodata (Pillnitz, 16 tháng 8 năm 1834 – Dresden, 1 tháng 3 năm 1862), được gọi là Sidonia. Anna Maria Maximiliane Stephania Karoline Johanna Luisa Xaveria Nepomucena Aloysia Benedicta, (Dresden, 4 tháng 1 năm 1836 – Napoli, 10 tháng 2 năm 1859), được gọi là Anna; kết hôn vào ngày 24 tháng 11 năm 1856 với Ferdinando IV xứ Toscana. Margarete Karoline Fredericka Cecilie Auguste Amalie Josephine Elisabeth Maria Johanna (Dresden, 24 tháng 5 năm 1840 – Monza, 15 tháng 9 năm 1858), được gọi là Margarete; kết hôn vào ngày 4 tháng 11 năm 1856 với Đại vương công Karl Ludwig của Áo, em họ của mình. Sophie Maria Friederike Auguste Leopoldine Alexandrine Ernestine Albertine Elisabeth (Dresden, 15 tháng 3 năm 1845 – München, 9 tháng 3 năm 1867), được gọi là Sophie; kết hôn vào ngày 11 tháng 2 năm 1865 với Karl Theodor xứ Bayern, em họ và là em trai của Hoàng hậu Elisabeth của Áo. Quốc vương Johann I của Sachsen qua đời tại Pillnitz. Huân chương : Bậc Knight của Huân chương Vương miện Kim Cương, năm 1807 Bậc Grand Cross của Huân chương Công đức, năm 1815 Bậc Grand Cross của Huân chương Allbrecht : Bậc Knight của Huân chương Thánh Hubert, năm 1822 : Bậc Knight của Huân chương Lông cừu Vàng, 18 tháng 3 năm 1825 Công quốc thuộc Ernst: Bậc Grand Cross của Huân chương Gia tộc Sachsen-Ernst, tháng 2 năm 1838 : Bậc Knight của Huân chương Thánh Andreya, 5 tháng 4 năm 1840 Vương quốc Phổ: Bậc Knight của Huân chương Đại bàng Đen, 3 tháng 9 năm 1840 Pour le Mérite (civil), 21 tháng 1 năm 1869 : Bậc Grand Cross Huân chương Thánh István của Hungary, năm 1841 Vương quốc Sardegna: Bậc Knight của Huân chương Truyền tin Cực Thánh, 12 tháng 3 năm 1850 Công quốc thuộc Ascania: Bậc Grand Cross của Huân chương Albrecht der Bär, 28 tháng 4 năm 1853 : Bậc Grand Cordon Huân chương Léopold, 25 tháng 5 năm 1853 : Bậc Knight Huân chương Trung thành Gia tộc, năm 1853 Bậc Grand Cross của Huân chương Sư tử Zähringer, năm 1853 : Bậc Grand Cross của Huân chương Ludwig, 10 tháng 8 năm 1854 : Bậc Grand Cross của Huân chương Gia tộc và Công đức Pêtr Friedrich Ludwig, với Vương miện Vàng, 31 tháng 8 năm 1854 : Bậc Grand Cross của Huân chương Vương quyền Württemberg, năm 1854 : Bậc Knight của Huân chương Sư tử Vàng của Vương tộc Nassau, tháng 2 năm 1860 : Bậc Knight của Huân chương Thánh Georg, năm 1860 Bậc Grand Cross của Huân chương Vương thất Welfen Gia phả Tham khảo Liên kết ngoài Vua Sachsen Vương tử Sachsen Vương tộc Wettin Người được nhận Huân chương lông cừu vàng Tây Ban Nha Sinh năm 1801 Mất năm 1873 Nguồn CS1 tiếng Pháp (fr) Nguồn CS1 tiếng Ý (it) Bản mẫu webarchive dùng liên kết wayback Nguồn CS1 tiếng Đức (de) Nguồn CS1 tiếng Tây Ban Nha (es) Bài viết có văn bản tiếng Đức
19831058
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20Philippines
Thủ tướng Philippines
Thủ tướng Philippines là người đứng đầu chính phủ của Philippines từ năm 1978 đến năm 1986. Trong thời kỳ thiết quân luật, thủ tướng là tổng tư lệnh của Quân đội Philippines. Tiền thân của chức vụ thủ tướng là chủ tịch Hội đồng Chính phủ của nền Đệ nhất Cộng hòa Philippines. Lịch sử Đệ nhất Cộng hòa Hiến pháp Philippines năm 1899 thành lập Hội đồng Chính phủ gồm chủ tịch Hội đồng Chính phủ và bảy bộ trưởng. Apolinario Mabini là chủ tịch Hội đồng Chính phủ đầu tiên, do Tổng thống Emilio Aguinaldo bổ nhiệm vào ngày 2 tháng 1 năm 1899. Mabini kiêm bộ trưởng bộ tài chính của chính phủ cách mạng. Ngày 10 tháng 12 năm 1898, Tây Ban Nha ký Hiệp định Paris với Hoa Kỳ, từ bỏ chủ quyền đối với Cuba và nhường lại Philippines, Guam và Puerto Rico cho Hoa Kỳ. Hai ngày sau, Aguinaldo chỉ đạo luật sư Felipe Agoncillo vận động quốc tế công nhận Philippines là một nước độc lập kể từ khi Tuyên ngôn Độc lập được ban hành vào ngày 12 tháng 6 năm 1898 nhưng Hoa Kỳ không thừa nhận chủ quyền của Philippines. Ngày 23 tháng 1 năm 1899, Đệ nhất Cộng hòa Philippines được thành lập tại Malolos. Ngày 30 tháng 1, Aguinaldo cử Agoncillo đến Hoa Kỳ vận động Thượng viện công nhận nền độc lập của Philippines. Mabini nỗ lực đàm phán ngừng bắn giữa quân Philippines và quân Mỹ trú tại Philippines sau Hiệp định Paris nhưng bất thành. Chiến tranh Hoa Kỳ - Philippines nổ ra vào ngày 4 tháng 2 năm 1899. Chính phủ cách mạng buộc phải rút khỏi thủ đô Malolos. Mabini từ chức và đầu hàng quân Mỹ vào ngày 7 tháng 5 năm 1899 trước tình hình chiến sự du kích ngày càng gia tăng và sức ép của những đối thủ chính trị. Một trong những địch thủ của Mabini là Pedro A. Paterno, chủ tịch Quốc hội từ ngày 15 tháng 9 năm 1898. Paterno phản đối kế hoạch phản công của Mabini và đề nghị Aguinaldo cầu hòa với Hoa Kỳ, chấp nhận chế độ bảo hộ của Hoa Kỳ với quyền tự trị địa phương. Mabini phản đối kế hoạch của Paterno nhưng ông thuyết phục được Aguinaldo giải tán chính phủ của Mabini. Ngày 8 tháng 5, Aguinaldo bổ nhiệm Paterno làm chủ tịch Hội đồng Chính phủ. Việc đầu tiên ông làm là gửi một bản sao của "Phương án tự trị" đến Ủy ban Schurman của Hoa Kỳ, tuyên bố chấp nhận chủ quyền của Hoa Kỳ đối với Philippines nếu Hoa Kỳ trao quyền tự trị địa phương cho Philippines. Hành vi của Paterno gây bức xúc với Antonio Luna, tư lệnh của Lục quân Philippines. Luna phát động binh biến, ra lệnh bắt giữ Paterno và những thành viên khác của Nội các nhưng không bỏ tù được ông. Paterno buộc phải ra tuyên bố chiến tranh với Hoa Kỳ vào ngày 2 tháng 6 năm 1899. Ngày 5 tháng 6, Luna bị ám sát ở Nueva Ecija, một phần vì hiềm khích với Paterno. Trong thời kỳ chiến tranh, chính phủ cách mạng phải di dời nhiều lần nhằm tránh sự truy lùng của quân Mỹ. Paterno bị quân Mỹ bắt làm tù binh tại Benguet vào ngày 13 tháng 11 năm 1899. Tuy nhiên, Aguinaldo không bổ nhiệm một chủ tịch Hội đồng Chính phủ khác do đã tháo chạy. Ngày 21 tháng 6 năm 1900, Paterno chấp nhận lệnh đặc xá của tổng đốc Philippines Arthur MacArthur Jr. và tuyên thệ trung thành với Hoa Kỳ cùng với những thành viên khác của chính phủ cách mạng. Từ năm 1899 đến năm 1901, Philippines chịu sự quản lý của quân đội Hoa Kỳ. Ngày 23 tháng 3 năm 1901, Aguinaldo bị Tướng Frederick Funston bắt giữ tại Palanan. Từ năm 1901, Philippines chịu sự lãnh đạo của thống đốc. Ngày 15 tháng 11 năm 1935, Hoa Kỳ ban hành hiến pháp cho Philippines, trao quyền tự trị địa phương nhưng không tái lập chức vụ chủ tịch Hội đồng Chính phủ hay thành lập một chức vụ tương tự. Thời kỳ thiết quân luật Trong cuộc trưng cầu ý dân về hiến pháp vào ngày 16 tháng 10 năm 1976 do Marcos tổ chức, cử tri bỏ phiếu tán thành gia hạn lệnh thiết quân luật và phê chuẩn Tu chính án 6. Tu chính án 6 quy định tổng thống thực hiện quyền hành pháp và quyền lập pháp, tái lập chức vụ thủ tướng và giải tán quốc hội cũ, thành lập Quốc hội lâm thời gồm một viện. Marcos tiếp tục làm tổng thống và được thực hiện quyền lập pháp cho đến khi lệnh thiết quân luật bị bãi bỏ. Bầu cử quốc hội mới được tổ chức vào ngày 7 tháng 4 năm 1978. 150 trong số 165 nghị sĩ thuộc về Phong trào Xã hội Mới, đảng cầm quyền của Marcos. Quốc hội khai mạc kỳ họp đầu tiên vào ngày 12 tháng 6 và phê chuẩn bổ nhiệm Marcos làm thủ tướng. Marcos từ chức thủ tướng sau khi nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ thứ ba vào ngày 30 tháng 6 năm 1981. Ông bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Tài chính Cesar Virata, cháu của cựu tổng thống Emilio Aguinaldo, làm thủ tướng vào ngày 27 tháng 7 năm 1981. Virata từng đại diện cho Philippines ở Ngân hàng Thế giới và giữ chức thủ tướng cho đến cuộc Cách mạng Quyền lực Nhân dân năm 1986. Bãi bỏ Sau Cách mạng Quyền lực Nhân dân, Corazon Aquino bổ nhiệm Phó Tổng thống Salvador Laurel làm thủ tướng của chính phủ cách mạng. Tháng 3 năm 1986, Aquino ban hành Thông cáo số 3, bãi bỏ chức vụ thủ tướng. Hiến pháp Philippines hiện hành quy định tổng thống là nguyên thủ quốc gia kiêm người đứng đầu chính phủ. Nhiệm vụ và quyền hạn Nhiệm vụ, quyền hạn của chức vụ thủ tướng được quy định tại Hiến pháp Philippines năm 1973. Thủ tướng do Quốc hội lâm thời bầu ra trong số thành viên của Quốc hội lâm thời. Quốc hội lâm thời quyết định bãi nhiệm thủ tướng nếu đa số thành viên biểu quyết tán thành. Thủ tướng lãnh đạo Nội các và có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm thành viên Nội các. Thủ tướng có những nhiệm vụ, quyền hạn khác sau đây: bổ nhiệm phó thủ tướng; báo cáo trước Quốc hội về chương trình nghị sự của chính phủ vào đầu mỗi kỳ họp; phân công, kiểm soát các bộ; thống lĩnh Quân đội Philippines; bổ nhiệm thủ trưởng cơ quan nhà nước, quyết định thăng quân hàm cấp thiếu tướng, chuẩn đô đốc; quyết định hoãn thi hành án, ân giảm hình phạt, đặc xá; miễn thi hành phạt tiền, tước tài sản; và công bố quyết định đại xá với sự đồng ý của Quốc hội lâm thời, trừ phi đã bị đàn hặc; và bảo đảm khoản nợ nước ngoài, nội địa của Philippines. Hiến pháp năm 1973 cũng quy định thủ tướng thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn được hiến pháp năm 1935 giao cho tổng thống, trừ phi Quốc hội lâm thời quy định khác, bao gồm ký điều ước quốc tế và bổ nhiệm đại sứ, lãnh sự với sự phê chuẩn của Ủy ban Bổ nhiệm. Hiến pháp năm 1973 được sửa đổi vào năm 1981, giao lại nhiều quyền hành của thủ tướng cho tổng thống. Tu chính án quy định tổng thống do dân cử, bổ nhiệm bộ trưởng, quyết định chính sách đối nội, đối ngoại của Philippines và thống lĩnh quân đội. Tổng thống có quyền ban hành sắc luật. Thủ tướng do Quốc hội bầu ra theo đề nghị của tổng thống và tiếp tục lãnh đạo Nội các nhưng chỉ có vai trò giám sát các bộ. Thủ tướng và Nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội về chương trình nghị sự của chính phủ do tổng thống phê duyệt. Ngày 27 tháng 7 năm 1981, Marcos ban hành Sắc lệnh 708, mở rộng quyền hạn của thủ tướng, đặc biệt là đối với các bộ. Thủ tướng được gia nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý công việc thường nhật của chính phủ, phối hợp hoạt động của các bộ và giải quyết những vấn đề được tổng thống giao phó. Năm 1984, thủ tướng làm chủ tịch Ủy ban thường vụ Nội các, có nhiệm vụ giúp tổng thống thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Danh sách thủ tướng Xem thêm Tổng thống Philippines Phó tổng thống Philippines Ghi chú Tham khảo Thư mục tham khảo Văn bản nhà nước Hiến pháp Philippines năm 1899 Hiến pháp Philippines năm 1935 Hiến pháp Philippines năm 1973 Sách báo Digitally archived and reproduced at the University of Michigan Library, Ann Arbor, Michigan, United States since 2005. Danh sách thủ tướng theo quốc gia Bài viết có văn bản tiếng Tây Ban Nha
19831061
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n%20v%E1%BA%ADt%20ph%E1%BB%A5
Nhân vật phụ
Nhân vật phụ là các nhân vật không phải là trọng tâm của một câu chuyện, nhưng có vai trò ảnh hưởng tới cốt truyện. Họ thường xuất hiện (hoặc được nhắc đến) trong câu chuyện không đơn giản, qua loa như các nhân vật quần chúng, mà vai trò của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến các nhân vật chính. Thuật ngữ nhân vật phụ thường bị ngộ nhận với nhân vật phó chính và nhân vật thứ chính, tuy nhiên nhân vật phụ không có vai trò quan trọng như hai nhóm nhân vật này. Nhân vật phụ có thể phát triển một cốt truyện phức tạp của riêng họ, nhưng điều này thường liên quan đến nhân vật chính thay vì là câu chuyện riêng biệt trong cốt truyện. Trong nhiều tác phẩm, các nhân vật phụ có thể nhận được sự yêu thích từ người hâm mộ nhiều hơn cả nhân vật chính, nhân vật phó chính và nhân vật thứ chính, có lẽ là do cách xây dựng của họ rất đa dạng mà không bị rập khuôn như các nhân vật chính. Một số nhân vật phụ nổi tiếng, chẳng hạn như Neville Longbottom (Harry Potter), Picollo (trong Dragon Ball) hay Uchiha Itachi (trong Naruto). Xem thêm Nhân vật chính Nhân vật phản diện Thuật ngữ
19831096
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i%20Xu%C3%A2n%20H%E1%BA%A1nh
Bùi Xuân Hạnh
Bùi Xuân Hạnh tên đầy đủ là Bùi Thị Xuân Hạnh (sinh ngày 21 tháng 10 năm 2001) là một hoa hậu và một nữ người mẫu Việt Nam. Cô từng tham gia cuộc thi The Face Vietnam 2023 thuộc đội của huấn luyện viên Vũ Thu Phương và đạt danh hiệu Á quân của cuộc thi. Sau đó, cô bắt đầu tham gia đường đua nhan sắc với việc ghi danh vào cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2023 và xuất sắc đăng quang ngôi vị cao nhất. Với danh hiệu trên, cô sẽ là đại diện đầu tiên của Việt Nam tại Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế 2024. Tiểu sử Bùi Xuân Hạnh sinh năm 2001 tại Ninh Bình, cô từng theo học tại trường THPT Chuyên Lương Văn Tụy (chuyên Hóa Học) và tốt nghiệp trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Sự nghiệp The Face Vietnam 2023 Xuân Hạnh chính thức ghi danh tại The Face Vietnam 2023 với tư cách là thí sinh của đội huấn luyện viên Vũ Thu Phương. Vào đêm chung kết của cuộc thi, qua các vòng thi xuất sắc, cô đạt được vị trí Á quân chung cuộc với Quán quân là Huỳnh Tú Anh thuộc đội huấn luyện viên Anh Thư. Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2023 Xuân Hạnh tiếp tục tham gia vào đấu trường nhan sắc với việc ghi danh tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2023 và cũng là cuộc thi nhan sắc đầu tiên mà cô tham gia. Cô đã giành chiến thắng tại cuộc thi này. Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế 2024 Với danh hiệu Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2023, cô đã chính thức trở thành đại diện Việt Nam tại Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế - Miss Cosmo 2024 được tổ chức vào tháng 9 năm 2024 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Thành tích Á quân The Face Vietnam Giải phụ Người đẹp Thời trang Chiến thắng thử thách "Cosmo Look" Đăng quang Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2023 Tham dự Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế 2024 Chiến thắng Top 5 kênh người nổi tiếng đáng xem nhất Tiktok Tết Fest 2024 Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 2001 Hoa hậu Việt Nam Nhân vật còn sống Người Ninh Bình Người họ Bùi tại Việt Nam Nữ người mẫu Việt Nam
19831097
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A1ch%20d%E1%BA%A1%20h%C3%A0nh
Bạch dạ hành
Bạch dạ hành (tiếng Nhật: 白夜行 Byakuyakō) là một tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Nhật Bản Keigo Higashino, được đăng nhiều kỳ trên tạp chí tiểu thuyết hàng tháng Subaru của Shueisha từ tháng 1 năm 1997 đến tháng 1 năm 1999, sau đó được xuất bản thành sách hoàn chỉnh vào tháng 8 năm 1999 và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất của Keigo. Tính đến tháng 11 năm 2005 cuốn sách đã bán được 550.000 bản. Sau khi phim truyền hình chuyển thể được phát sóng, doanh số bán sách tăng nhanh chóng và đến tháng 1 năm 2006, đã vượt mốc 1 triệu bản. Tác phẩm đã được chuyển thể thành kịch sân khấu năm 2005, phim truyền hình năm 2006, phim điện ảnh năm 2009 (Hàn Quốc) và năm 2010 (Nhật Bản). Tác phẩm được dịch và xuất bản lần đầu tại Việt Nam bởi Nhã Nam năm 2014. Nội dung Kosuke, chủ một tiệm cầm đồ bị sát hại tại một ngôi nhà chưa hoàn công, một triệu yên mang theo người cũng bị cướp mất. Sau đó một tháng, nghi can Fumiyo được cho rằng có quan hệ tình ái với nạn nhân và đã sát hại ông để cướp một triệu yên, cũng chết tại nhà riêng vì ngộ độc khí ga. Vụ án mạng ông chủ tiệm cầm đồ rơi vào bế tắc và bị bỏ xó. Nhưng với hai đứa trẻ mười một tuổi, con trai nạn nhân và con gái nghi can, vụ án mạng năm ấy chưa bao giờ kết thúc. Sinh tồn và trưởng thành dưới bóng đen cái chết của bố mẹ, cho đến cuối đời, Ryoji vẫn luôn khao khát được một lần đi dưới ánh mặt trời, còn Yukiho cứ ra sức vẫy vùng rồi mãi mãi chìm vào đêm trắng. Tác phẩm không đi sâu phá án mà chủ yếu xoay quanh hai nhân vật chính là Ryoji và Yukiho, sử dụng ngôi kể thứ ba để tránh trực tiếp tiết lộ suy nghĩ của cả hai cho người đọc đồng thời khéo léo hé lộ dần những thông tin gián tiếp thông qua góc nhìn của nhiều nhân vật phụ khác có cuộc sống giao nhau để tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh về các sự kiện của câu chuyện. Nhân vật Ryoji Kirihara (桐原亮司, Kirihara Ryōji) Con trai của chủ tiệm cầm đồ bị sát hại trong vụ án giết người năm 1973. Từ nhỏ Ryoji đã lầm lì khép kín và ít hòa đồng. Sau cái chết của bố, Ryoji phải vật lộn trưởng thành và dần dần dính líu tới các đường dây tội phạm như bán dâm, lừa đảo, ăn cắp và thậm chí giết người. Yukiho Karasawa (Nishimoto) (唐沢(西本)雪穂, Karasawa (Nishimoto) Yukiho) Con gái của nghi phạm trong vụ án mạng sát hại chủ tiệm cầm đồ năm 1973. Yukiho từ nhỏ đã rất xinh đẹp. Cô sống cuộc sống nghèo khổ với mẹ. Sau khi bà mẹ chết vì ngộ độc khí ga, Yukiho được gia đình Karasawa nhận nuôi, cô được cho ăn học tử tế và trở thành một tiểu thư thượng lưu xinh đẹp, không chỉ có phong cách nhã nhặn, lịch thiệp mà thành tích học tập cũng rất xuất sắc. Tuy nhiên những người thân thiết với cô thường rơi vào cảnh bất hạnh. Junzo Sasagaki (笹垣潤三, Sasagaki Junzō ) Cảnh sát thuộc Đội điều tra số 1, Cảnh sát Osaka. Sau vụ án sát hại chủ tiệm cầm đồ năm 1973, ông nghi ngờ Ryoji và Yukiho và tiếp tục âm thầm điều tra về họ. Hisashi Koga (古賀久志, Koga Hisashi ) Cảnh sát thuộc Đơn vị Điều tra Tội phạm, Cảnh sát Osaka. Hisashi là đồng nghiệp của Junzo và cũng từng tham gia điều tra vụ án sát hại chủ tiệm cầm đồ. Yosuke Kirihara (桐原洋介, Kirihara Yōsuke ) Chủ tiệm cầm đồ Kirihara và là cha của Ryoji, nạn nhân vụ án năm 1973. Ông ta quan tâm đến con trai mình tuy nhiên kín đáo có một số sở thích tình dục khác thường... Yaeko Kirihara (桐原弥生子, Kirihara Yaeko ) Mẹ của Ryoji. Yaeko trở thành chủ tiệm cầm đồ sau khi chồng bà qua đời. Sau khi hiệu cầm đồ đóng cửa do quản lý yếu kém, bà mở một quán ăn tự phục vụ nhỏ. Yaeko biết mình không phải là người mẹ có trách nhiệm với Ryoji. Isamu Matsuura (松浦勇, Matsuura Isamu ) Quản lý tiệm cầm đồ Kirihara, Isamu biết rất nhiều bí mật về gia đình Kirihara. Sau đó, anh ta tiếp cận Ryoji với tư cách là nhà môi giới phần mềm trò chơi trái phép. Fumiyo Nishimoto (西本文代, Nishimoto Fumiyo ) Mẹ của Yukiho, Fumiyo bị cảnh sát coi là nghi phạm trong vụ án sát hại chủ tiệm cầm đồ. Ngay sau vụ án mạng, bà chết vì rò rỉ khí gas tại nhà. Reiko Karasawa (唐沢礼子, Karasawa Reiko ) Họ hàng xa của Yukiho, Reiko đã nhận nuôi Yukiho sau khi mẹ cô qua đời. Bà rất nghiêm khắc trong việc dạy Yukiho cư xử như một quý cô. Yuichi Akiyoshi (秋吉雄一, Akiyoshi Yūichi ) Bạn học cấp hai của Ryoji, từng bí mật chụp ảnh Yukiho. Fumihiko Kikuchi (菊池文彦, Kikuchi Fumihiko ) Bạn học cấp hai của Ryoji. Fumihiko có những bức ảnh về bí mật của Yaeko, mẹ của Ryoji. Sau đó anh ta bị gài bẫy và trở thành nghi phạm của một tội ác khác. Eriko Kawashima (川島江利子, Kawashima Eriko ) Bạn cùng trường đại học của Yukiho. Cô tôn trọng và phụ thuộc vào Yukiho rất nhiều thời đại học nhưng sau đó trở nên xa cách. Cô có thái độ phức tạp và nghi ngờ đối với Yukiho. Chuyển thể Bạch dạ hành (phim truyền hình Nhật Bản, 2006) Đêm Trắng (phim điện ảnh Hàn Quốc, 2009) Vào đêm trắng (phim điện ảnh Nhật Bản, 2011) Tham khảo
19831106
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3n%20th%C3%A2n
Bản thân
Bản thân (Self) trong triết học chỉ về mối quan hệ giữa bản thể (cái tôi), kiến thức và giá trị của một cá nhân. Bản thân kể lại những trải nghiệm về cuộc sống bên trong và bên ngoài của một người khi hiện diện. Góc nhìn ngôi thứ nhất phân biệt cái tôi với bản sắc cá nhân. Trong khi "bản sắc" là sự giống nhau (theo nghĩa đen) và có thể liên quan đến việc phân loại và quy kết thì bản thân ngụ ý quan điểm ngôi thứ nhất và gợi ý tính độc đáo tiềm tàng. Ngược lại, "người" được sử dụng để tham chiếu đến người thứ ba. Bản sắc cá nhân có thể bị suy giảm khi người ta mắc bệnh Alzheimer giai đoạn cuối và các bệnh thoái hóa thần kinh khác. Cuối cùng, cái tôi có thể được phân biệt với "người khác"/kẻ khác. Bao gồm sự phân biệt giữa cái giống nhau và cái khác, cái tôi so với cái khác là một chủ đề nghiên cứu trong triết học đương đại và hiện tượng học đương đại, tâm lý học, tâm thần học, thần kinh học và khoa học thần kinh. Mặc dù trải nghiệm chủ quan là trung tâm của bản thân, nhưng tính riêng tư của trải nghiệm này chỉ là một trong nhiều vấn đề trong Triết học về bản thân và nghiên cứu khoa học về ý thức. Tâm lý học về bản thân là nghiên cứu về sự thể hiện nhận thức và tình cảm về bản sắc của một người hoặc chủ đề của trải nghiệm. Công thức sớm nhất về cái tôi trong tâm lý học hiện đại đã tạo nên sự khác biệt giữa hai yếu tố tôi (I) và chính tôi (me). Cái tôi, với tư cách là tôi, là người biết chủ quan. Trong khi, cái chính tôi với tư cách là Tôi, là chủ thể được biết đến. Các quan điểm hiện tại về bản thân trong tâm lý học coi bản thân đóng vai trò không thể thiếu trong động cơ, nhận thức, ảnh hưởng và bản sắc xã hội của con người Bản thân tuân theo ý tưởng của John Locke, được coi là sản phẩm của trí nhớ phân đoạn nhưng nghiên cứu về những người mắc chứng mất trí nhớ cho thấy rằng họ có ý thức mạch lạc về bản thân dựa trên kiến thức tự truyện mang tính khái niệm được bảo tồn. Do đó, có thể tương quan giữa trải nghiệm nhận thức và tình cảm của bản thân với các quá trình thần kinh. Mục tiêu của nghiên cứu đang diễn ra này là cung cấp cái nhìn sâu sắc có căn cứ về các yếu tố cấu thành nên bản thể con người đa dạng phức tạp. Chứng tâm lý "Rối loạn bản thân" cũng đã được các bác sĩ tâm thần nghiên cứu rộng rãi. Chú thích Tham khảo Anthony Elliott, Concepts of the Self Anthony Giddens, Modernity and self-identity: self and society in the late modern age Ben Morgan (2013). On Becoming God: Late Medieval Mysticism and the Modern Western Self. New York: Fordham UP Bernadette Roberts, What is Self? A Research Paper Charalambos Tsekeris, Contextualising the self in contemporary social science Charles Taylor, Sources of the Self: the making of the modern identity Clark Moustakas, The self: explorations in personal growth Fernando Andacht, Mariela Michel, A Semiotic Reflection on Selfinterpretation and Identity Jean Dalby Clift, Core Images of the Self: A Symbolic Approach to Healing and Wholeness Richard Sorabji, Self: ancient and modern insights about individuality, life, and death Robert Kegan, The evolving self: problem and process in human development Thomas M. Brinthaupt, Richard P. Lipka, The Self: definitional and methodological issues 1910–1999., Eknath, Easwaran, (2019). The Bhagavad Gita. Nilgiri Press. ISBN 1-58638-130-X. OCLC 1043425057 Tâm lý học
19831108
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stefan%20Bajcetic
Stefan Bajcetic
Stefan Bajčetić Maquieira (; sinh ngày 22 tháng 10 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha, hiện đang chơi ở vị trí tiền vệ phòng ngự hoặc trung vệ cho câu lạc bộ Liverpool tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Sự nghiệp quốc tế Bajčetić có đủ điều kiện để đại diện cho Tây Ban Nha và Serbia ở cấp độ quốc tế. Năm 2021, anh được huấn luyện viên Pablo Amo triệu tập vào đội U18 Tây Ban Nha tham dự giải đấu Lafarge Foot Avenir, và đã ra sân trong tất cả 3 trận đấu khi Tây Ban Nha vô địch giải đấu. Thời gian của anh ấy với đội trẻ đã bị gián đoạn bởi chấn thương vào năm 2023, trong bối cảnh anh sắp được triệu tập vào đội U21 và có tin đồn rằng anh cũng sẽ được triệu tập vào đội tuyển quốc gia. Bajčetić đã có trận ra mắt đội U21 Tây Ban Nha vào ngày 8 tháng 9 năm 2023, khi vào sân thay người trong chiến thắng 6-0 trước Malta. Thống kê sự nghiệp Chú thích Liên kết ngoài Profile at the Liverpool F.C. website Sinh 2004 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha Hậu vệ bóng đá nam Tiền vệ bóng đá nam
19831110
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ben%20Doak
Ben Doak
Ben Gannon Doak (sinh ngày 11 tháng 11 năm 2005) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Scotland thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Liverpool tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Sự nghiệp câu lạc bộ Liverpool Doak ký hợp đồng với Liverpool vào tháng 3 năm 2022, với số tiền bồi thường đào tạo khoảng 600.000 bảng mà Celtic sẽ nhận được. Vào ngày 9 tháng 11 năm 2022, Doak ra mắt Liverpool khi vào sân thay người ở phút thứ 74 trong chiến thắng 3-2 trên chấm phạt đền trước Derby County ở vòng 3 EFL Cup 2022-23 tại Anfield. Năm ngày sau, anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Liverpool, sau khi tròn 17 tuổi. Doak ra mắt giải đấu cho Liverpool vào ngày 26 tháng 12 trong chiến thắng 3-1 trước Aston Villa, và trở thành cầu thủ Scotland trẻ nhất xuất hiện tại Premier League. Vào ngày 30 tháng 7 năm 2023, Doak ghi bàn thắng đầu tiên cho đội một của Liverpool trong trận giao hữu tiền mùa giải gặp Leicester City, với chiến thắng 4-0 của đội anh tại Sân vận động Quốc gia Singapore. Sự nghiệp quốc tế Vào ngày 2 tháng 9 năm 2021, sau khi từng khoác áo đội tuyển U16, Doak đã ra mắt đội tuyển U17 Scotland, ghi bàn trong trận hòa 1-1 với Xứ Wales. Anh đã giúp đội U17 lọt vào vòng chung kết Giải vô địch bóng đá U17 châu Âu 2022, nhưng đã bỏ lỡ giải đấu do chấn thương. Doak được triệu tập vào đội tuyển U21 lần đầu tiên vào tháng 9 năm 2022, khi mới 16 tuổi. Anh ra mắt với tư cách là người thay thế vào ngày 22 tháng 9 năm 2022 trước Bắc Ireland và ghi bàn trong vòng 7 phút; khi làm vậy, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ghi bàn cho đội tuyển U21 Scotland. Thống kê sự nghiệp Tham khảo Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C. Cầu thủ bóng đá Premier League Sinh năm 2005
19831114
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jarell%20Quansah
Jarell Quansah
Jarell Amorin Quansah (sinh ngày 29 tháng 1 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Liverpool tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Quansah gia nhập Liverpool ở tuổi lên 5, từ Woolston Rovers ở quê nhà Warrington. Sự nghiệp câu lạc bộ Quansah ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Liverpool vào ngày 4 tháng 2 năm 2021. Trong mùa giải 2020–21, anh là đội trưởng của đội U18 Liverpool tham dự trận chung kết FA Youth Cup, cùng với các cầu thủ như Billy Koumetio, Melkamu Frauendorf, Max Woltman, Conor Bradley và Luke Chambers. Mùa giải tiếp theo, anh là đội trưởng của đội U19 Liverpool tham dự UEFA Youth League, đồng thời chơi cho đội dự bị ở Premier League 2 và đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng của đội tại Lancashire Senior Cup. Quansah sau đó đã có lần đầu tiên xuất hiện trong danh sách đội hình chính của Liverpool ở Premier League và EFL Cup, tuy nhiên không được vào sân trong cả hai trận chung kết cúp quốc nội khi Liverpool giành chiến thắng. Vào ngày 20 tháng 1 năm 2023, Quansah gia nhập câu lạc bộ Bristol Rovers của League One theo dạng cho mượn đến hết mùa giải. Anh ra mắt đội một vào ngày 28 tháng 1, chơi trọn vẹn trận thua 5-1 trước Morecambe, gây ấn tượng mặc dù kết quả không tốt. Sau màn trình diễn ấn tượng trong trận hòa 0-0 với Ipswich Town, huấn luyện viên Joey Barton của Rovers dự đoán Quansah sẽ tiến đến cấp cao nhất của trò chơi, đồng thời ca ngợi khả năng chơi bóng của anh là một tài sản quan trọng. Vào ngày 18 tháng 3, anh đã nhận thẻ đỏ đầu tiên trong sự nghiệp vì hành vi bạo lực trong những phút cuối trận thua 2-0 trên sân nhà trước Portsmouth. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2023, Quansah đã có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Liverpool, vào sân thay người cho Joël Matip trong chiến thắng 2-1 trước Newcastle United. Vào ngày 16 tháng 9 năm 2023, anh có trận đá chính đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 1-3 trước Wolverhampton Wanderers, sau đó anh có đường kiến tạo đầu tiên cho Diogo Jota trong trận đấu tại Carabao Cup gặp Leicester City vào ngày 27 tháng 9 năm 2023. Sự nghiệp quốc tế Quansah đủ điều kiện chơi cho cả Anh, Scotland, Ghana và Barbados thông qua ông bà của mình. Lần đầu tiên anh chơi cho các đội trẻ của Anh, từ cấp độ U16 đến U19. Vào tháng 6 năm 2022, Quansah được triệu tập vào đội tuyển U19 Anh tham dự Giải vô địch U19 châu Âu 2022. Ra sân ở tất cả các trận đấu với tư cách là một trung vệ trong giải đấu ở Slovakia, anh đã đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch thành công của Anh. Đáng chú ý nhất là anh đã ghi bàn thắng quyết định trong chiến thắng 2-1 ở bán kết trước Ý. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2022, Quansah đá chính trong trận chung kết và có pha kiến tạo cho Callum Doyle ghi bàn gỡ hòa, giúp Anh đánh bại Israel 3-1 trong hiệp phụ để giành chức vô địch. Màn trình diễn của anh trong giải đấu đã giúp anh được đưa vào đội hình tiêu biểu của giải đấu do UEFA lựa chọn. Quansah đã có trận ra mắt đội tuyển U20 Anh trong chiến thắng 2-0 trước Đức tại Manchester vào ngày 22 tháng 3 năm 2023. Vào ngày 10 tháng 5 năm 2023, Quansah được triệu tập vào đội tuyển U20 Anh tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023. Thống kê sự nghiệp Honours Đội trẻ Liverpool Lancashire Senior Cup: 2022 Liverpool EFL Cup: 2023–24 U-19 Anh UEFA European Under-19 Championship: 2022 Chú thích Liên kết ngoài Jarell Quansah at the Liverpool F.C. website Sinh 2003 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C. Cầu thủ bóng đá Premier League
19831118
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pierre%20Lamothe
Pierre Lamothe
Pierre Lamothe (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Canada thi đấu ở vị trí tiền vệ cho đội bóng Pacific FC ở Canadian Premier League. Đầu đời Pierre Lamothe sinh tại Greenfield Park, Québec với bố là người Canada và mẹ là người Việt gốc Huế. Anh bắt đầu chơi bóng đá trẻ từ năm 4 tuổi với câu lạc bộ địa phương CS Longueuil. Tháng 9 năm 2011, anh gia nhập Montreal Impact Academy, khi được thành lập. Anh từng chơi cho đội tuyển tỉnh Québec ở cấp độ U14 và U15. Sự nghiệp đại học Năm 2018, anh bắt đầu theo học tại Đại học Montréal, nơi anh chơi cho Montreal Carabins. Tháng 12/2018, anh nhận được học bổng của Quỹ hỗ trợ vận động viên xuất sắc. Anh cùng toàn đội đã giành chức vô địch U Sports men's soccer championship vào năm 2018, kết thúc với vị trí á quân năm 2019. Trong trận chung kết giải vô địch quốc gia năm 2019, anh được vinh danh là cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu mặc dù đội thua UQTR Patriotes. Năm 2018, anh được vinh danh là Tân binh của năm bởi RSEQ và được ghi tên vào Đội tuyển tân binh toàn năng, cũng như được đặt tên vào U Sports Đội tuyển tân binh toàn quốc. Anh ấy đã được vinh danh là Đội hạng nhất All-Star của RSEQ trong cả năm 2018 và 2019. Anh được ghi tên vào Đội tuyển toàn giải thể thao U năm 2019. Sự nghiệp câu lạc bộ Vào tháng 7 năm 2016, anh gia nhập đội 2 của Impact, FC Montreal của USL, theo hợp đồng với học viện. Sau mùa giải, anh thử việc ở đội dự bị của câu lạc bộ Pháp FC Lorient. Năm 2017, anh trở lại câu lạc bộ trẻ cũ CS Longueuil, tham gia vào đội 1 thi đấu tại Première ligue de soccer du Québec (nay là Ligue1 Québec). Năm 2019, anh được bổ nhiệm làm đội trưởng. Trong thời gian này, anh cũng thi đấu futsal ở cấp câu lạc bộ với Longueuil và đội vào chung kết Giải vô địch Futsal Canada 2019 Sporting Montreal. Trước mùa giải 2020, anh đã tìm cách ký hợp đồng với câu lạc bộ ở Canadian Premier League, tuy nhiên, cuối cùng anh ấy đã gia nhập phe PLSQ AS Blainville. Anh chỉ xuất hiện một lần trong mùa giải đó và bị gián đoạn do đại dịch COVID-19, khi anh ấy bị thương. Tháng 1 năm 2021, anh gia nhập HFX Wanderers FC của Canadian Premier League theo hợp đồng một năm, với tùy chọn câu lạc bộ cho năm 2022. Lamothe ghi bàn thắng đầu tiên cho Wanderers vào ngày 24 tháng 7 năm 2021 trước Valour FC,ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1-0. Vào tháng 1 năm 2022, HFX thông báo họ đã thực hiện tùy chọn hợp đồng với Lamothe, giữ anh ấy ở lại cho đến hết mùa giải 2022. Vào tháng 8 năm 2022, anh ghi hai bàn thắng trong các trận đối đầu, trong đó có bàn thắng nổi bật vào ngày 20 tháng 8 giúp đội Wanderers giành chiến thắng 1-0 trước Pacific FC. Sau hai mùa giải gắn bó với đội, anh rời câu lạc bộ sau mùa giải 2022. Trong hai mùa giải gắn bó với câu lạc bộ, anh ấy đã ghi ba bàn thắng và có thêm hai đường kiến ​​​​tạo sau 48 lần ra sân trên mọi đấu trường.. Vào tháng 11 năm 2022, anh ký hợp đồng với Pacific FC cho mùa giải 2023. Tháng 1 năm 2023 anh thử việc cùng câu lạc bộ SHB Đà Nẵng, thi đấu tại Giải giao hữu Cúp Thiên Long 2023. Tháng 9 năm 2023, anh được Thành phố Hồ Chí Minh cho mượn ở V.League 1 cho đến tháng 3 năm 2024. Tuy nhiên, Lamothe đã không được Thành phố Hồ Chí Minh ký hợp đồng trước mùa giải khi họ đã lấp đầy chỗ trống cho cầu thủ nước ngoài và Patrik Lê Giang được cho mượn từ Công an Hà Nội cũng chưa có quốc tịch Việt Nam. Ngày 6 tháng 10 năm 2023, Lamothe gia nhập câu lạc bộ Quảng Nam theo dạng cho mượn. Sau trận đấu với Hà Nội, anh trở về câu lạc bộ Pacific FC sau khi hết hợp đồng cho mượn 6 tháng. Sự nghiệp quốc tế Vào tháng 9 năm 2015, Lamothe đã tham gia trại phát triển dành cho U20 Canada được lãnh đạo bởi Rob Gale. Năm 2017, anh có tên cho đội Quebec U20 của 2017 Jeux de la Francophonie. Thống kê sự nghiệp Tham khảo Liên kết ngoài Cầu thủ bóng đá Việt lai
19831119
https://vi.wikipedia.org/wiki/Conor%20Bradley
Conor Bradley
Conor Bradley (sinh ngày 9 tháng 7 năm 2003) là một cầu thủ bóng đá người Bắc Ireland thi đấu ở vị trí hậu vệ phải cho Liverpool và đội tuyển quốc gia Bắc Ireland. Sự nghiệp câu lạc bộ Bradley bắt đầu sự nghiệp trẻ của mình với câu lạc bộ quê nhà St. Patrick's F.C. khi mới 9 tuổi. Anh tiếp tục chơi cho Dungannon United Youth và Dungannon Swifts, trước khi gia nhập học viện trẻ của câu lạc bộ Anh Liverpool vào năm 2019 theo chương trình học bổng hai năm. Tuy nhiên, sau một năm tại câu lạc bộ, anh đã ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Liverpool, có thời hạn ba năm cho đến năm 2023. Anh đã có trận ra mắt đội một Liverpool trong trận giao hữu tiền mùa giải với VfB Stuttgart vào tháng 7 năm 2021, chơi trọn vẹn 30 phút của trận đấu. Anh cũng vào sân thay người ở phút thứ 80 trong trận giao hữu tiền mùa giải cuối cùng của đội gặp CA Osasuna vào ngày 9 tháng 8. Anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho Liverpool trong trận đấu Carabao Cup gặp Norwich City vào tháng 9 năm 2021, trở thành cầu thủ Bắc Ireland đầu tiên ra sân trong một trận đấu chính thức cho Liverpool kể từ Sammy Smyth vào năm 1954. Vào ngày 21 tháng 6 năm 2022, Bradley ký hợp đồng cho mượn một mùa giải với Bolton Wanderers, một câu lạc bộ ở League One và ra mắt vào ngày 30 tháng 7 trong trận hòa 1-1 trước Ipswich Town. Anh ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 5-1 ở EFL Cup trước Salford City vào ngày 9 tháng 8. Một tuần sau, anh ghi bàn thắng đầu tiên ở giải đấu, bàn thắng duy nhất của trận đấu trong chiến thắng 1-0 trước Morecambe Vào ngày 2 tháng 4, anh đá chính trong trận chung kết EFL Trophy 2023, nơi Bolton đánh bại Plymouth Argyle 4-0. Vào ngày 29 tháng 4, anh đá chính trong chiến thắng 2-0 trước Fleetwood Town giúp Bolton lọt vào vòng play-off League One 2023. Cùng ngày, anh được bình chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Bolton Wanderers cho mùa giải 2022–23, đồng thời nhận được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm do cầu thủ bình chọn và giải thưởng Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm, giải thưởng sau cùng anh chia sẻ với James Trafford. Sự nghiệp quốc tế Bradley đã chơi cho đội tuyển U16 Bắc Ireland vào năm 2018, và là đội trưởng dẫn dắt đội giành chức vô địch Victory Shield. Năm sau, anh xuất hiện trong đội U17, bao gồm cả vòng loại Giải vô địch bóng đá U17 châu Âu 2019. Vào tháng 5 năm 2021, Bradley được triệu tập lên đội tuyển quốc gia tham dự các trận giao hữu gặp Malta và Ukraine. Anh đã có trận ra mắt quốc tế vào ngày 30 tháng 5 gặp Malta, vào sân thay người ở phút thứ 85 cho Stuart Dallas. Trận đấu tại Klagenfurt kết thúc với chiến thắng 3-0 cho Bắc Ireland. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Quốc tế Danh hiệu Câu lạc bộ Bolton Wanderers EFL Trophy: 2022–23 Liverpool EFL Cup: 2023–24 Chú thích Liên kết ngoài Conor Bradley at Liverpool F.C. Sinh 2003 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C. Cầu thủ bóng đá Premier League
19831124
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bobby%20Clark
Bobby Clark
Bobby Lamont Clark (sinh ngày 7 tháng 2 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Liverpool tại Premier League. Sự nghiệp Clark chuyển đến học viện của Liverpool từ Newcastle United vào tháng 8 năm 2021. Phí chuyển nhượng được cho là khoảng 1,5 triệu bảng Anh, bao gồm cả các khoản phụ phí. Anh đã ký hợp đồng chuyên nghiệp với câu lạc bộ ngay sau sinh nhật lần thứ 17 của mình vào tháng 2 năm 2022. Hợp đồng có thời hạn 5 năm và huấn luyện viên trưởng đội một của Liverpool, Jurgen Klopp, đã cam kết cá nhân rằng sẽ có một con đường dẫn đến đội một dành cho Clark. Trong mùa giải 2021-22, Clark đã ghi 13 bàn thắng trong 23 trận đấu cho đội U18 Liverpool. Anh cũng có trận ra mắt cho đội dự Liverpool, tham dự giải đấu Premier League 2. Mùa hè năm 2022, Clark đã cùng đội một Liverpool tham gia chuyến du đấu châu Á với các trận đấu tại Thái Lan và Singapore. Clark đã được BBC Sport xếp vào danh sách Wonderkids (Những tài năng trẻ xuất sắc), avà được trang web này xác định là một trong "5 cầu thủ bóng đá trẻ người Anh đáng chú ý" vào tháng 8 năm 2022. Clark đã ngồi dự bị trong trận đấu trên sân nhà đầu tiên của Liverpool ở mùa giải Premier League 2022-23, gặp Crystal Palace F.C. tại Anfield. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2022, Clark đã có trận ra mắt chuyên nghiệp khi vào sân thay người cho Liverpool trong chiến thắng 9-0 trên sân nhà trước AFC Bournemouth tại Anfield. Vào ngày 9 tháng 11 năm 2022, Clark đã đá chính trận đấu đầu tiên cho Liverpool trong chiến thắng trước Derby County ở vòng 3 EFL Cup tại Anfield. Vào ngày 30 tháng 7 năm 2023, Clark đã ghi bàn thắng đầu tiên cho Liverpool trong trận giao hữu trước mùa giải gặp Leicester City, với kết quả chung cuộc là 4-0 nghiêng về Liverpool tại Sân vận động Quốc gia Singapore. Sự nghiệp quốc tế Clark có trận ra mắt đội tuyển quốc gia U16 Anh trong trận đấu với U16 Wales vào tháng 4 năm 2021. Vào ngày 21 tháng 9 năm 2022, Clark có trận ra mắt đội tuyển U18 Anh trong chiến thắng 1-0 trước Hà Lan ở Pinatar. Vào ngày 6 tháng 9 năm 2023, Clark có trận ra mắt đội tuyển U19 Anh trong trận thua 1-0 trước Đức ở Oliva. Thống kê sự nghiệp Chú thích Liên kết ngoài Sinh 2003 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá Liverpool F.C. Cầu thủ bóng đá Premier League