text
stringlengths 82
354k
|
---|
Winton Whittier Marshall (9 tháng 7 năm 1919 – 19 tháng 9 năm 2015) là một trung tướng Không quân Hoa Kỳ và là phi công ách. Ông là phó tổng tư lệnh, Bộ Tư lệnh Chiến đấu Hoa Kỳ, sở chỉ huy tại Căn cứ Không quân MacDill ở Florida trước khi giải ngũ vào năm 1977.
Marshall bắt đầu sự nghiệp quân sự khi là học viên trường sĩ quan hàng không vào năm 1942. Ông hoàn thành huấn luyện bay tại Căn cứ Không quân Lục quân Yuma ở Arizona, và nhận phù hiệu phi công và được sắc phong hàm thiếu úy vào tháng 4 năm 1943. Được phân công đến Không trường Lục quân Las Vegas ở Nevada, ông ban đầu là phi công của Liên đoàn Huấn luyện Pháo binh Chiến đấu số 326 trước khi trở thành trưởng ban huấn luyện Bell P-39 Airacobra. Vào tháng 2 năm 1945, ông đến Vùng kênh đào Panama khi là phi công của Phi đoàn Chiến đấu số 28 và là sĩ quan tác chiến của Phi đoàn Chiến đấu số 32, sau này là Phi đoàn Chiến đấu số 23, Liên đoàn Tác chiến số 36.
Vào tháng 7 năm 1947, ông được chuyển đến Không trường Dow, Maine, làm sĩ quan tác chiến của Phi đoàn Chiến đấu số 48, Liên đoàn Chiến đấu số 14, phi đoàn đầu tiên được trang bị F-84 Thunderjet, và tham gia khóa thử nghiệm F-84 tại Căn cứ Không quân Edwards ở California.
Marshall vào Trung tâm Chiến thuật Không lực Lục quân tại Căn cứ Không quân Tyndall ở Florida vào tháng 8 năm 1948 và bốn tháng sau trở thành sĩ quan tác chiến của Phi đoàn Chiến đấu số 84 tại Căn cứ Không quân Hamilton ở California.
Chiến tranh Triều Tiên.
Vào tháng 5 năm 1951, Marshall được bổ nhiệm trở thành tư lệnh Phi đoàn Chiến đấu số 335 trong Chiến tranh Triều Tiên. Đóng quân tại Căn cứ Không quân Kimpo ở Hàn Quốc, ông thực hiện các nhiệm vụ trên chiếc F-86 Sabre. Marshall lần lượt bắn hạ chiếc MiG-15 đầu tiên và thứ hai vào ngày 1 và 2 tháng 9 năm 1951 trên bầu trời Sinanju.
Marshall bắn hạ thêm hai chiếc MiG-15, trong đó một chiếc là chiến công chung, vào ngày 28 tháng 11. Một trong những máy bay tiêm kích này do German Shatalov, một phi công ách của Liên Xô với 5 chiến công trên không bắn hạ máy bay Mỹ. Vào ngày 30 tháng 11 năm 1951, Phi đoàn Chiến đấu số 335 và các phi đoàn khác trong Không đoàn Chiến đấu số 4 đã chặn một đội hình trên không của Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc gồm 9 máy bay ném bom Tupolev Tu-2 và 16 chiếc Lavochkin La-11 đang cố gắng không kích vào đảo Cho'do. Marshall bắn hạ một chiếc Tu-2 và một chiếc La-11, lập chiến công thứ tư và thứ năm và được trao huy hiệu phi công ách. Trong lúc ông cố gắng bắn một chiếc La-11 khác do phi công người Trung Quốc Vương Thiên Bảo điều khiển, Marshall bắn quá đà khi chiếc La-11 rẽ mạnh sang trái, kết quả chiếc La-11 thực hiện một phát súng chệch hướng dài trúng cánh trái của chiếc F-86 của Marshall. Vương thấy chiếc F-86 xoay tròn rồi rơi xuống và khẳng định phá hủy chiếc F-86 sau khi ông quay trở lại căn cứ ở Đông Bắc Trung Quốc. Dù vậy, Marshall cố gắng lấy lại ý thức và kiểm soát chiếc F-86 đang xoay tròn. Ông điều khiển chiếc máy bay bị hỏng đến Căn cứ Không quân Suwon, tại đây chiếc máy bay được sửa chữa và
chữa trị vết thương cho Marshall. Vì sự dũng cảm của mình trong trận không chiến ngày 30 tháng 11, ông được trao Ngôi sao Bạc.
Sau khi bình phục, Marshall tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu. Ông bắn hạ chiếc MiG-15 thứ tư và nâng tổng chiến công thứ sáu vào ngày 5 tháng 12 năm 1951. Marshall trở thành phi công máy bay phản lực thứ năm trong Chiến tranh Triều Tiên, được công nhận đã bắn phá hủy 6 1/2 máy bay quân địch, bảy chiếc có khả năng xảy ra và sáu chiếc bị hư hại, trong khi thực hiện 100 nhiệm vụ. Vào tháng 1 năm 1952, ông trở về Hoa Kỳ chỉ huy Phi đoàn Máy bay tiêm kích đánh chặn số 93 tại Căn cứ Không quân Kirtland ở New Mexico.
Marshall được bổ nhiệm trở thành tư lệnh Phi đoàn Tiêm kích Đánh chặn số 15 tại Căn cứ Không quân Davis–Monthan ở Arizona vào tháng 7 năm 1953. Tại đây, Marshall được công nhận khi thổi tắt một máy bay ném bom B-47 của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược đang bốc cháy ở cuối đường băng. Vì không va chạm hay thiết bị chữa cháy và phi hành đoàn thoát ra, ông lái chiếc F-86 của mình đến chiếc máy bay đang bốc cháy và thổi tắt đám cháy bằng ống xả máy bay phản lực. Vì việc này, Marshall được bổ nhiệm vào Đoàn Cảnh báo của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược. Ông đã bay trong cuộc đua hàng không xuyên lục địa Bendix năm 1953 và là trưởng phi hành đoàn Đội Lực lượng Phòng không Trung ương của Bộ Tư lệnh Phòng không năm 1953 và 1954.
Tháng 7 năm 1954, Marshall trở thành trưởng Ban Đánh giá Chiến thuật của Lực lượng Phòng không Trung ương tại Căn cứ Không quân Richards-Gebaur ở Missouri, ông thiết lập hệ thống đánh giá chiến thuật đầu tiên trong Bộ Tư lệnh Phòng không; phát triển hệ thống nhằm vào cuộn dây kéo hoạt động bằng sức gió đầu tiên; và đứng đầu một nhóm kỹ thuật viên quân sự và dân sự mở rộng khả năng tìm kiếm radar (sau đó là Marshall fix) của máy bay tiêm kích đánh chặn từ . Năm 1957, ông là trưởng Đội đua Bendix Trophy của Lực lượng Phòng không Trung ương điều khiển chiếc F-102 Delta Dagger, đội của ông đứng vị trí thứ nhất và thứ hai.
Marshall vào Học viện Chiến tranh Không quân tại Căn cứ Không quân Maxwell ở Alabama, vào năm 1958, và khi tốt nghiệp được phân công vào Không đoàn số 49 ở Pháp với tư cách là phó tư lệnh về tác chiến. Không đoàn được chuyển đến Spangdahlem, Tây Đức, ông đóng vai trò quan trọng trong việc đưa hệ thống hạ cánh phát ánh sáng đầu tiên vào một căn cứ quân sự đang hoạt động ở Châu Âu. Marshall đảm nhận cương vị chỉ huy Khu vực Phòng thủ Đồng minh của NATO trong Sư đoàn Không quân số 86 tại Căn cứ Không quân Ramstein ở Tây Đức vào tháng 1 năm 1961. Tại đây, ông được công nhận là người có công phát triển vòng hở mạng lưới thông tin liên lạc phòng không chiến đấu cung cấp thông tin liên lạc trực tiếp hệ thống phản ứng để đối phó với mối đe dọa MiG của Đông Đức và Tiệp Khắc. Ông còn đóng vai trò chủ chốt trong việc lập trình và lắp đặt Hệ thống phòng không tự động 412-L liên kết Sư đoàn không quân 86 và hệ thống tên lửa đất đối không của Lục quân Hoa Kỳ. Ông đến Sở chỉ huy Không quân Hoa Kỳ ở Lầu Năm Góc tại Washington, D.C., vào tháng 6 năm 1964, để phục vụ trong Tổng cục Tác chiến với chức vụ liên tiếp là phó trưởng và trưởng Sư đoàn Phòng không, rồi phó viên trưởng các lực lượng. Từ tháng 6 năm 1966 đến tháng 7 năm 1967, ông phục vụ trong Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ với tư cách là phó viên trưởng tác chiến, J-3 tại Trung tâm Chỉ huy Quân sự Quốc gia, và Sư đoàn Châu Âu, Tổng cục Kế hoạch, J-5.
Vào tháng 5 năm 1968, Marshall được bổ nhiệm giữ chức tham mưu trưởng Không quân Đồng minh Nam Âu tại Napoli, Ý, đến tháng 9 năm 1969 trở thành viên trưởng kế hoạch của J-5, Bộ Tư lệnh Châu Âu Hoa Kỳ, tại Vaihingen, Tây Đức. Trong Chiến tranh Việt Nam, ông được bổ nhiệm trở thành phó tư lệnh Không quân thứ 7 tại Căn cứ không quân Tân Sơn Nhất thời Việt Nam Cộng hòa vào tháng 9 năm 1971. Vào thời điểm này, ông thực hiện 88 nhiệm vụ chiến đấu trên nhiều loại máy bay tiêm kích và cường kích. Tháng 9 năm sau, ông chuyển đến Sở chỉ huy Không quân Thái Bình Dương tại Căn cứ Không quân Hickam ở Hawaii, giữ chức phó tham mưu trưởng, kế hoạch và tác chiến.
Marshall được thăng quân hàm trung tướng có hiệu lực từ ngày 1 tháng 9 năm 1974. Ông được bổ nhiệm giữ chức phó tổng tư lệnh Không quân Thái Bình Dương vào tháng 9 năm 1974. Nhiệm vụ cuối cùng của ông là Phó tổng tư lệnh thuộc Bộ Tư lệnh Sẵn sàng Hoa Kỳ tại Căn cứ Không quân MacDill ở Florida, từ tháng 6 năm 1975 cho đến khi giải ngũ vào ngày 1 tháng 9 năm 1977.
Marshall qua đời tại Trung tâm Y tế Lục quân Tripler ở Hawaii, vào ngày 19 tháng 9 năm 2015. Ông được an táng tại Nghĩa trang quốc gia Arlington.
Các huy chương quân sự của ông bao gồm Huy chương Phục vụ Xuất sắc Không quân với cụm lá sồi; Ngôi sao Bạc; Legion of Merit với ba cụm lá sồi; Huy chương Chữ thập Xuất sắc với hai cụm lá sồi; Huân chương Ngôi sao Đồng; Huy chương Không quân với năm cụm lá sồi; Trái tim Tím; của Hàn Quốc: Huân chương Quân công, Huân chương Chungmu sao vàng và Huy chương Bảo quốc; và từ Việt Nam Cộng hòa: Bảo quốc Huân chương hạng 5, và Anh Dũng Bội Tinh với nhành dương liễu.
Marshall, Winton W. Đại tá, Không quân Hoa Kỳ
Phi đoàn tiêm kích đánh chặn số 335,
Không đoàn tiêm kích đánh chặn số 4, Không quân số 5
Ngày hành động: 30 tháng 11 năm 1951 |
Aberdeen Bestiary (Thư viện Đại học Aberdeen, Univ Lib. MS 24) là một kho lưu trữ bản thảo được viết bằng tiếng Anh thế kỷ 12, lần đầu tiên được liệt kê vào năm 1542 trong kho của Thư viện Hoàng gia Cũ tại Cung điện Westminster. Do những điểm tương đồng nên nó thường được coi là bản thảo "chị em" của Ashmole Bestiary. Mối liên hệ giữa văn bản giáo khoa Physiologus của Hy Lạp cổ đại và các bản thảo viết về thú vật tương tự cũng thường được ghi nhận. Thông tin về nguồn gốc và người bảo trợ của bản thảo chỉ là gián tiếp, mặc dù bản thảo rất có thể có nguồn gốc từ thế kỷ 13 và thuộc sở hữu của một người bảo trợ giáo hội giàu có từ miền bắc hoặc miền nam nước Anh. Hiện tại, Aberdeen Bestiary đang nằm trong Thư viện Đại học Aberdeen ở Scotland.
Aberdeen Bestiary và Ashmole Bestiary được Xenia Muratova, giáo sư lịch sử nghệ thuật, coi là "tác phẩm của các nghệ sĩ khác nhau thuộc cùng một môi trường nghệ thuật." Do "những điểm tương đồng nổi bật" nên chúng thường được các học giả so sánh và mô tả là "các bản thảo chị em". Học giả theo chủ nghĩa thời trung cổ M. R. James coi Aberdeen Bestiary là " bản sao của Ashmole 1511 ", một quan điểm được nhiều nhà sử học nghệ thuật khác lặp lại. |
Vũ Nghiêu Tá (?-?) là một Tể tướng trong lịch sử Việt Nam.
Ông là con trưởng của danh tướng Vũ Nạp, có quê hương ở Mộ Trạch, Hải Dương.
Năm 1304 khoa Giáp Thìn, Vũ Nghiêu Tá cùng em ruột là Vũ Minh Nông thi đậu Thái học sinh (tên khác của Tiến sĩ Nho học). Vũ Nghiêu Tá làm đến chức Nhập nội Hành khiển môn Hạ hữu Thị Lang (Tể tướng). Sau đó giữ chức Phụ chính cho nhà vua. |
Vũ Nạp (?-?) là một danh tướng trong lịch sử Việt Nam, người đã có công lớn trong chiến thắng Bạch Đằng trước những cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông. Ông là người bắt được hai danh tướng Nguyên-Mông là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp trong lần xâm lược thứ hai 1288.
Vũ Nạp sinh ra ở làng Mộ Trạch, huyện Đường An, phủ Hồng Châu, trấn Hải Đông (nay là làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, tỉnh Hải Dương.
Thủa nhỏ Vũ Nạp ham học nên tinh thông cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Năm 1247 thời vua Trần Thái Tông thứ 19 mở khoa thi Tam giáo, ông đỗ Ất khoa với tên gọi "Vũ Vị Phủ", ông được bổ nhiệm làm quan với chức Tăng thống Hàn lâm viện (1247-1258). Được triều đình trọng dụng, Vũ Nạp tham gia cả 3 lần đánh quân Nguyên-Mông.
Được vua giao chức Phó tướng làm nhiệm vụ phòng thủ ven biển hướng Đông Bắc khu trú quân áng Lạc, áng Hồ, dãy núi Gia Minh và Tràng Kênh.
Tháng 2 năm 1288 Vũ Nạp kéo quân sang Yên Hưng ứng viện cho Trần Khánh Dư đang giao chiến quyết liệt với Ô Mã Nhi. Sau trận này Vũ Nạp được vua giao làm Chủ tướng chỉ huy quân sĩ và nhân dân tiếp tục chiến đấu và đắp đường từ làng Giang Minh về Tràng Kênh.
Đặc biệt vào ngày 9 tháng 4 năm1288 (tức ngày 8 tháng 3 năm Mậu Tý), Vũ Nạp đã chỉ huy quân sĩ tổ chức tập kích, đón thời cơ tiêu diệt giặc. Ông chỉ huy đạo quân của mình tham gia vào trận đánh thuỷ công hoả chiến trên sông Bạch Đằng lịch sử như Trương Hán Siêu đã mô tả trong bài Bạch Đằng giang phú. Toàn bộ chiến thuyền giặc bị tiêu diệt và thu được hơn 400 chiếc, bắt sống nhiều tù binh trong đó có hai danh tướng Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp. Sau chiến công ông được vua phong với tước "Đồng Giang hầu Vũ tướng quân". Được vua cho gọi về kinh đô, nhưng ông đã làm sớ trình tâu, xin vua cho ở lại đất Tràng Kênh và mất tại đó (ngày 4 tháng Giêng âm lịch). Nhân dân địa phương lập miếu thờ để tưởng nhớ công lao to lớn của ông.
Ông có con trưởng là Vũ Nghiêu Tá thi đậu Thái học sinh (tên gọi khác của Tiến sĩ Nho học) giữ chức Hành khiển (Tể tướng). Người con trai thứ hai là Vũ Minh Nông cũng đậu Thái học sinh làm Thượng thư.
Tên danh nhân Vũ Nạp được đặt cho một con phố tại Thành phố Hải Dương.
Theo Thủ khoa hiện đại-Nghệ sĩ thị giác Vũ Tú, dòng họ Vũ ở xã Xuân Lan, huyện Lương Tài (nay là thôn Ngọc Quan) có những người làm rạng danh xứ Kinh Bắc như Vũ Miên, Vũ Trinh, (thông gia với Nguyễn Thiện Thuật, đã có công lao trong Khởi nghĩa Bãi Sậy), Vũ Quyền (nhà giáo dục nổi tiếng thời Nguyễn), Nghệ sĩ-Thủ khoa Vũ Tú, dòng Tể tướng Vũ Nghiêu Tá. Ngọc Quan do có nét đặc sắc về khoa cử được vinh dự mang tên "Làng Khôi nguyên xứ Bắc". |
Android Go, hay chính thức là Android (Go edition), là một phiên bản rút gọn của hệ điều hành Android, được thiết kế cho các điện thoại thông minh giá rẻ và siêu bình dân (nhưng cũng được sử dụng cho một số máy tính bảng). Tuy nhiên, Hệ điều hành này được dành riêng cho các điện thoại thông minh có 2 GB RAM trở xuống và lần đầu tiên được phát hành cho Android Oreo. Chế độ này có các tối ưu hóa nền tảng được thiết kế để giảm sử dụng dữ liệu di động (bao gồm bật chế độ Trình tiết kiệm dữ liệu theo mặc định) và một bộ dịch vụ Google Mobile đặc biệt được thiết kế để sử dụng ít tài nguyên và băng thông hơn. Gói Google Play Services cũng được chia thành các mô-đun để giảm dung lượng bộ nhớ của nó. Google Play Store sẽ làm nổi bật các ứng dụng nhẹ hơn phù hợp với các thiết bị này.
Giao diện của hệ điều hành Android Go khác với giao diện của Android chính. Một số dịch vụ hệ thống bị vô hiệu hóa để cải thiện hiệu suất. Hầu hết các thiết bị chạy Android Go đều sử dụng GUI Android "nguyên bản" của Google, mặc dù có một số nhà sản xuất vẫn sử dụng GUI tùy chỉnh. |
Đỗ Thúy Hằng là nữ diễn viên truyền hình, cựu người mẫu và doanh nhân Việt Nam. Cô được biết đến qua các phim dài tập "Mưa bóng mây, Bí mật Eva", và từng dành giải Nữ diễn viên xuất sắc hạng mục phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19 với bộ phim "Cuộc đời của Yến".
Đỗ Thúy Hằng sinh năm 1982, trong gia đình có 5 anh chị em tại Kim Sơn, Ninh Bình, sau này gia đình cô chuyển vào Vinh, Nghệ An, Khi học khoa Quản trị doanh nghiệp của Đại học Đông Đô, Thúy Hằng từng tham gia một cuộc thi hoa hậu nhưng chỉ vào top các người đẹp của vòng loại tổ chức tại Hà Nội. Cô được cặp người mẫu Thúy Hằng - Thúy Hạnh chỉ dẫn và trở thành người mẫu độc quyền của Công ty Elite. Tại SEA Games 22, Thúy Hằng được chị là người dẫn chương trình đọc kết quả các trận chung kết. Sau sự kiện này, cô trở thành người dẫn dắt các chương trình của VTV và VTC như "Sức sống mới", "Lợi ích cộng đồng" và "Đẹp cùng thể thao".
Năm 2009, cô nhận lời làm người tuyển diễn viên đóng vai Hoài Anh cho bộ phim "Bí mật Eva". Nhưng đến ngày thử vai thì những người được cô chọn lại không đến, Thúy Hằng bất đắc dĩ thử vai thay thế và bất ngờ được nhận. Sau khi hoàn thành bộ phim "Bí mật Eva", cô chuyển sang Nhật Bản sống cùng chồng, nhưng môi trường sống mới không phù hợp nên Thúy Hằng quay về Việt Nam và bắt đầu kinh doanh các sản phẩm liên quan đến golf.
Năm 2014, cô được đạo diễn Trần Lực mời vào vai chính trong bộ phim truyền hình "Làm chồng đại gia"; tiếp đến, cô được đạo diễn Trọng Trinh mời tham gia phim truyền hình "Mưa bóng mây". Ban đầu Trọng Trinh muốn cô đóng vai Huệ nhưng cuối cùng vị đạo diễn đã đổi cho cô đóng nhân vật Nga. Qua bộ phim này, Thúy Hằng được Trung Hiếu giới thiệu đến đạo diễn Nguyễn Đức Việt, lúc này đang tìm diễn viên nữ chính cho bộ phim điện ảnh "Những đứa con của làng". Năm 2015, Thúy Hằng nhận vai Yến, nhân vật chính trong bộ phim điện ảnh "Cuộc đời của Yến" của đạo diễn Đinh Tuấn Vũ. Để tập trung vào công việc và gia đình, Thúy Hằng đã từ chối một vai diễn trong dự án phim "Bến tình" của Lưu Trọng Ninh và vai cô giáo Linh trong "Nàng dâu Order".
Năm 2015, Thúy Hằng có hai đề cử cho Nữ diễn viên chính xuất sắc hạng mục Phim truyện điện ảnh tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19. Tại kỳ liên hoan phim này cô bất ngờ dành giải dù trước đấy dự luận dự đoán giải thưởng sẽ thuộc về Lã Thanh Huyền. Năm 2018, Thúy Hằng được đạo diễn Mai Hồng Phong mời vào vai Lan Cave trong phim "Quỳnh búp bê", nhưng cô từ chối; vai diễn sau này giúp diễn viên Thanh Hương có bước tiến lớn trong sự nghiệp.
Năm 2019, cô được đạo diễn Đinh Tuấn Vũ mời vào vai Mùi, nữ chính trong phim điện ảnh "Truyền thuyết về Quán Tiên", đây là bộ phim thứ hai họ hợp tác. Năm 2020, cô trở lại với dòng phim truyền hình với vai diễn Thủy trong phim "Lửa ấm", để có thời gian tham gia bộ phim này, Thúy Hằng đã phải từ chối hai bộ phim điện ảnh khác, một trong số đó là dự án "Viên đạn cuối cùng" của Đinh Tuấn Vũ. Sau thời gian nghỉ ngơi, năm 2022, Thúy Hằng tiếp tục có vai diễn chính trong bộ phim truyền hình "Chồng cũ, vợ cũ, người yêu cũ" của đạo diễn Vũ Trường Khoa.
Thúy Hằng kết hôn với một doanh nhân mang hai dòng máu Nhật Bản và Việt Nam, họ quen biết nhau từ năm 2003 trong dịp Thúy Hằng dự sự kiện văn hóa tại Osaka, hiện tại, có hai con trai. Thúy Hằng tham gia đóng phim dù chồng cô không muốn cô tham gia lĩnh vực nghệ thuật. |
Thuộc địa Virginia (tiếng Anh: "Colony of Virginia") là một khu định cư thuộc địa của Anh, sau này là của Đế quốc Anh, ở Bắc Mỹ, tồn tại từ năm 1606 đến 1776.
Nỗ lực đầu tiên nhằm tạo ra một khu định cư của người Anh trong khu vực được ban hành vào năm 1584 và được thành lập vào năm 1585; Kết quả là Thuộc địa Roanoke được tái lập 3 lần, tồn tại tổng cộng được 6 năm. Năm 1590 thuộc địa bị bỏ hoang. Nhưng gần 20 năm sau, thuộc địa được tái định cư tại Jamestown, cách địa điểm ban đầu không xa về phía Bắc. Điều lệ thứ 2 được ban hành năm 1606 và được giải quyết vào năm 1607, trở thành thuộc địa lâu dài đầu tiên của Anh ở Bắc Mỹ. Nó diễn ra sau những nỗ lực thất bại trong việc định cư ở Newfoundland của Ngài Humphrey Gilbert vào năm 1583 và Thuộc địa Roanoke (ở miền Đông của Bắc Carolina hiện đại) của Ngài Walter Raleigh vào cuối những năm 1580.
Sáng lập thuộc địa thứ 2 là Công ty Virginia, do Vua James I ủy quyền, với hai khu định cư đầu tiên ở Jamestown trên bờ bắc sông James và Thuộc địa Popham trên sông Kennebec ở Maine ngày nay, cả hai đều là thuộc địa, vào năm 1607. Thuộc địa Popham nhanh chóng thất bại vì nạn đói, bệnh tật và xung đột với các bộ lạc người Mỹ bản địa ở địa phương trong 2 năm đầu. Jamestown chiếm đất thuộc Liên minh Powhatan và cũng đứng trên bờ vực thất bại trước khi có sự xuất hiện của một nhóm người định cư mới và cung cấp hàng hóa bằng tàu vào năm 1610. Thuốc lá trở thành mặt hàng xuất khẩu có lợi nhuận đầu tiên của Virginia, việc sản xuất mặt hàng này có tác động đáng kể đến xã hội và mô hình định cư.
Năm 1624, hiến chương hoàng gia của Công ty Virginia bị Vua James I thu hồi và Thuộc địa Virginia được chuyển giao cho hoàng gia với tư cách là thuộc địa vương thất. Sau Nội chiến Anh vào những năm 1640 và 1650, thuộc địa Virginia được vua Charles II đặt biệt danh là "The Old Dominion" vì lòng trung thành với chế độ quân chủ Anh trong thời kỳ Bảo hộ và Thịnh vượng chung Anh.
Từ năm 1619 đến 1775/1776, cơ quan lập pháp thuộc địa của Virginia là Đại hội đồng, cơ quan điều hành cùng với một thống đốc thuộc địa. Jamestown vẫn là thủ đô của Thuộc địa Virginia cho đến năm 1699; từ năm 1699 cho đến khi giải thể, thủ đô đặt ở Williamsburg. Thuộc địa này trải qua tình trạng hỗn loạn chính trị lớn đầu tiên với Cuộc nổi dậy Bacon năm 1676.
Sau khi tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Đại Anh vào năm 1775, trước khi Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ được chính thức thông qua, Thuộc địa Virginia trở thành Thịnh vượng chung Virginia, một trong 13 bang đầu tiên của Hoa Kỳ, lấy khẩu hiệu chính thức là "The Old Dominion". Toàn bộ các bang hiện đại như Tây Virginia, Kentucky, Indiana và Illinois, cũng như các phần của bang Ohio và Tây Pennsylvania sau đó được thành lập từ lãnh thổ được bao trùm hoặc thuộc địa Virginia tuyên bố chủ quyền vào thời điểm Hoa Kỳ giành được độc lập vào tháng 7 năm 1776. |
Đồng bảng Virginia (tiếng Anh: Virginia pound) là tiền tệ của Thuộc địa Virginia cho đến năm 1793. Ban đầu, đồng bảng Anh được lưu hành cùng với ngoại tệ, được bổ sung từ năm 1755 bằng tiền giấy địa phương. Mặc dù những tờ tiền này có mệnh giá bằng £sd, nhưng chúng có giá trị thấp hơn đồng bảng Anh, vì vậy 1 shilling Virginia bằng 9d bảng Anh.
Pháp luật thuộc địa.
Năm 1645, cơ quan lập pháp của Thuộc địa Virginia cấm trao đổi hàng hóa và định giá đồng đô la Tây Ban Nha hoặc đồng mãnh tám ở mức 6/–. Cơ quan lập pháp năm 1655 chính thức phá giá đồng đô la Tây Ban Nha xuống 5/-.
Đồng tiền "chính thức" đầu tiên ở Bắc Mỹ thuộc Anh được Thuộc địa Virginia phát hành vào năm 1775, mặc dù chúng có niên đại là năm 1773. Lý do là Viện Burgesses Virginia đã yêu cầu đúc tiền trong vài năm và Vua George III cuối cùng đã đồng ý vào năm đó.
Năm tấn tiền xu đã được gửi đến thuộc địa trên con tàu kéo Virginia và hầu hết số tiền xu này đã được phân phối ngay trước khi Cách mạng Hoa Kỳ bùng nổ vào tháng 4 năm 1775. Chúng được coi là loại tiền đúc của Thuộc địa Mỹ có giá cả phải chăng nhất.
Tiền tệ lục địa.
Bang Virginia đã phát hành tiền lục địa có mệnh giá bằng £sd và đô la Tây Ban Nha, với 1 đô la = 6/–. Đồng tiền lục địa được thay thế bằng đồng đô la Mỹ với tỷ giá 1000 đô la lục địa = 1 đô la Mỹ. |
Thuộc địa độc quyền
Thuộc địa độc quyền (tiếng Anh: "Proprietary colony") là một loại hình chính quyền thuộc địa ở Châu Mỹ thuộc Anh trong thế kỷ XVII và ở Đông Ấn cho đến những năm 1850. Tại các vùng đất thuộc sở hữu hải ngoại của Anh, tất cả đất đai đều thuộc về Vương quyền, cơ quan nắm quyền quản lý tối cao. Tất cả các lãnh thổ thuộc địa của Anh đều được Vương quyền phân chia thông qua các hiến chương hoàng gia thành một trong ba loại: độc quyền, vương thất hoặc giao ước. Theo hệ thống độc quyền, các cá nhân hoặc công ty (thường là công ty cổ phần) được Nhà vua cấp các điều lệ thương mại để thành lập các thuộc địa ở nước ngoài. Những chủ sở hữu này sau đó được trao quyền lựa chọn các thống đốc và các quan chức khác ở thuộc địa.
Kiểu cai trị gián tiếp này cuối cùng không còn được ưa chuộng khi tình hình chính trị xã hội ở các thuộc địa Mỹ của Anh dần dần ổn định và những khó khăn hành chính được giảm bớt, hoặc do sự thất bại về mặt hành chính hoặc kinh tế của công ty độc quyền. Các vị quân chủ kế tiếp của Anh tìm cách củng cố quyền lực và thẩm quyền của mình, đồng thời dần dần chuyển đổi tất cả các thuộc địa độc quyền thành Thuộc địa Vương thất, được quản lý bởi các quan chức thuộc địa do chính phủ ở London bổ nhiệm. Đến thế kỷ XVIII, hầu hết các thuộc địa độc quyền trước đây đã được chuyển đổi thành thuộc địa vương thất. |
Người Palestin (phát âm tiếng Việt như là: người "Pa-le-xtin" hay "Pa-lét-xtin"; tiếng Ả rập: الفلسطينيون, "al-Filasṭīniyyūn" hay الشعب الفلسطيني, "ash-sha'b al-Filasṭīnī"; tiếng Do Thái: פָלַסְטִינִים, "Fālasṭīnīm" hay còn gọi là người Palestin Ả rập/ العرب الفلسطينيون, al-ʿArab al-Filasṭīniyyūn) là một nhóm người Ả Rập có nguồn gốc từ những người đã sinh sống lâu đời ở vùng Palestine trong nhiều thiên niên kỷ. Bất chấp nhiều cuộc chiến tranh và cuộc di cư khác nhau, khoảng một nửa dân số Palestine trên thế giới vẫn tiếp tục cư trú trên lãnh thổ của Palestine trước đây, hiện bao gồm Bờ Tây và Dải Gaza (các lãnh thổ của người Palestine) cũng như ở Israel. Năm 1919, người Hồi giáo Palestine và người Cơ đốc giáo Palestine chiếm 90% dân số Palestine, ngay trước làn sóng nhập cư Do Thái thứ ba dưới sự ủy trị của Anh sau Thế chiến thứ nhất. Sự phản đối việc nhập cư của người Do Thái đã thúc đẩy việc củng cố bản sắc dân tộc thống nhất, mặc dù xã hội Palestine vẫn bị chia rẽ từ những khác biệt về khu vực, giai cấp, tôn giáo và gia đình.
Lịch sử bản sắc dân tộc Palestine là một vấn đề gây tranh cãi giữa các học giả, thuật ngữ ""Palestin" được người Ả Rập Palestine sử dụng để chỉ khái niệm dân tộc chủ nghĩa về một dân tộc Palestine từ cuối thế kỷ 19 và trước Thời kỳ Thế chiến thứ nhất. Sự giải thể của Đế chế Ottoman và sau đó là việc thành lập một chính quyền ủy trị của Anh cho khu vực đã thay thế quốc tịch Ottoman bằng quốc tịch Palestine, củng cố bản sắc dân tộc. Sau Tuyên ngôn Độc lập của Israel, việc trục xuất người Palestine năm 1948, và hơn thế nữa sau cuộc di cư của người Palestine năm 1967, thuật ngữ "Palestin"" đã phát triển thành ý nghĩa về một tương lai chung dưới hình thức khát vọng về một nhà nước Palestine Ngày nay, bản sắc Palestine bao gồm di sản của mọi thời đại từ thời Kinh thánh cho đến thời kỳ Ottoman.
Được thành lập vào năm 1964, Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) là một tổ chức bảo trợ cho các nhóm đại diện cho người dân Palestine trước các quốc gia trên trường quốc tế. Chính quyền Quốc gia Palestine chính thức được thành lập vào năm 1994 theo Hiệp định Oslo, là một cơ quan hành chính lâm thời chịu trách nhiệm quản lý trên danh nghĩa các trung tâm dân cư Palestine ở Bờ Tây và Dải Gaza. Kể từ năm 1978, Liên hợp quốc đã tổ chức Ngày Quốc tế đoàn kết hàng năm với nhân dân Palestine. Theo nhà sử học người Anh Perry Anderson, người ta ước tính rằng một nửa dân số ở các vùng lãnh thổ Palestine là người tị nạn Palestine, và họ đã phải chịu thiệt hại chung về tài sản khoảng 300 tỷ USD do sự tịch thu tài sản từ phía Israel, tính theo thời giá năm 2008–2009. |
"Đừng nhầm lẫn với Sekhemkare, một Pharaon thuộc Vương triều thứ Mười Ba của Ai Cập
Sekhemkare là một vương tử dưới thời Vương triều thứ Tư, đồng thời là một wazir (tương đương chức tể tướng ở nền phong kiến Á Đông) dưới thời Vương triều thứ 5 của Ai Cập cổ đại.
Theo những dòng văn tự khắc trên tường mastaba G 8154, nơi chôn cất của Sekhemkare, thì ông là con trai của Pharaon Khafre với vương hậu Hekenuhedjet (một bà vợ thứ của Khafre). Sekhemkare có ít nhất 4 người con trai, là Sekhemkare, Safkhafra, Herkhaf, Khafre-ankh. Phu nhân của ông bị mất tên, chỉ còn sót lại phần Khufu[..]t.
Sekhemkare, cũng như những người anh em khác mẹ của ông, được ban những danh hiệu mà các vương tử thường có, như "Đại vương tử, Trữ quân, Bá tước, Tể tướng, Chánh án, Quản đốc những Người ghi chép của Phụ vương, Quản khố của Đức vua Hạ Ai Cập, Người tâm sự của Phụ vương, Người trông coi lễ nghi cho Phụ vương, Người giữ bí mật cho Phụ vương, Tư tế ướp xác của thần Anubis" (tạm dịch từ "Eldest King's Son of His Body, Hereditary Prince, Count, Vizier, Chief Justice, Director of the Scribes of the Book of His Father, Treasurer of the King of Lower Egypt, Sole Confidant of His Father, Chief Eitualist of His Father, Master of the Secrets of His Father, Embalmer-priest of Anubis").
Trong nhà nguyện phía trong, Sekhemkare được biết là đã nhận nhiều ân sủng từ vua cha cũng như 4 vua kế vị sau đó là Menkaure, Shepseskaf, Userkaf và Sahure. Mỗi vua trong số đó dường như đã ban thêm của cải cho ông, mặc dù ông đã thừa hưởng một khối tài sản đáng kể từ vua cha Khafre, như được mô tả trong bích họa trên bức tường phía đông của nhà nguyện phía ngoài. Sau đó, Sekhemkare trở thành wazir đầu tiên của Vương triều thứ Năm dưới thời Pharaon Sahure.
Sekhemkare là chủ nhân của mastaba G 8154, tọa lạc phía đông nam của Kim tự tháp Khafre, cha ông. Lăng mộ của Sekhemkare được trang trí dưới triều đại của Sahure, do đó ông có lẽ đã mất dưới thời vị vua này.
Lăng mộ được xây dựng ngay trên vách đá, gồm có hai nhà nguyện, mái được sơn giả màu đá hoa cương đỏ. Lối vào lăng quay về hướng nam, rộng 1 m, cao 2,57 m. Ở bức tường phía tây của nhà nguyện ngoài có một hành lang dẫn xuống phòng chôn cất, dài khoảng 3,85 m và rộng gần 1 m. Phòng chôn cất có kích thước 3,40 x 2,25 x 2,3 m, có một hốc lớn trên sản để đặt quách nhưng quách đã bị trộn mất hoàn toàn và chỉ còn lại một số mảnh xương. |
Người Philistin hay Philistines (tiếng Do Thái: פְּלִשְׁתִּים,/"Pəlīštīm"; tiếng Hy Lạp: Φυλιστιείμ/"Phulistieím") là một dân tộc cổ xưa sống ở bờ biển phía nam Canaan trong Thời đại đồ sắt. Người Philistin có nguồn gốc là một nhóm người nhập cư từ eo biển Aegean định cư ở Canaan vào khoảng năm 1175 trước Công nguyên. Theo thời gian, họ dần dần đồng hóa các yếu tố của xã hội Levant địa phương trong khi vẫn bảo tồn nền văn hóa độc đáo của riêng mình. Vào năm 604 trước Công nguyên, chính thể Philistin sau khi bị Đế quốc Tân Assyria chinh phục trong nhiều thế kỷ rồi cuối cùng đã bị Vua Nebuchadnezzar II của Đế quốc Tân Babylon tiêu diệt. Sau khi trở thành một phần của đế chế của ông và Đế chế Ba Tư kế vị thì người Philistin đã mất đi bản sắc dân tộc riêng biệt và biến mất khỏi hồ sơ lịch sử và khảo cổ vào cuối thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên.
Trong các cổ thư thì Người Philistines được biết đến với cuộc xung đột trong thời đại Kinh thánh với người Do Thái (Israel). Mặc dù nguồn thông tin chính về người Philistin là Kinh thánh tiếng Do Thái, nhưng họ lần đầu tiên được chứng thực trong các bức phù điêu tại Đền thờ Ramesses III tại Medinet Habu, trong đó họ được gọi là Peleset[a] (được chấp nhận là cùng nguồn gốc với Peleshet trong tiếng Do Thái) thuật ngữ song song của người Assyria là "Palastu" (chữ nêm: 𒉺𒆷𒀸𒌓) "Pilišti" (𒉿𒇷𒅖𒋾) hoặc "Pilistu" (𒉿𒇷𒅖𒌓). Họ cũng để lại đằng sau sự hiện diện của mình là cả một nền văn hóa vật chất đặc biệt. Thuật ngữ người Palestin (Palestine) có cùng nguồn gốc, tên đồng nghĩa của người bản địa Philistin vẫn chưa được biết. Kinh Torah không ghi chép về người Philistin là một trong những giống dân phải di dời khỏi Canaan trong Sáng thế ký đoạn 15:18-21.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Tia Sáng (tạp chí năm 1991)
Tia Sáng là một tạp chí về khoa học và công nghệ của Việt Nam được thành lập vào năm 1991 trực thuộc báo VnExpress, cơ quan của Bộ Khoa học và Công nghệ. Đây được coi là nền tảng để giới trí thức lên tiếng về các quyết định hoạch định chính sách ở Việt Nam.
"Tia Sáng" được thành lập vào tháng 4 năm 1991.
Nhiều bài viết đăng trên "Tia Sáng" được giới thiệu và thảo luận trên BBC (bản tiếng Việt) như bài viết của Hoàng Tụy về thái độ của giới trí thức đối với các vấn đề xã hội ở Việt Nam. Website của "Tia Sáng" đã bị chính phủ Việt Nam buộc phải ngừng hoạt động vào năm 2009 trong vài tháng vì những bài viết 'nhạy cảm'. Một số người đóng góp cho "Tia Sáng" đã hoặc đang là tù nhân lương tâm như Phạm Đoan Trang, Lê Công Định.
Kể từ cuối những năm 2000, "Tia Sáng" ít chỉ trích chính phủ hơn. Người đóng góp đáng chú ý và thường xuyên của "Tia Sáng" hiện nay là Pierre Darriulat, cựu giám đốc nghiên cứu của CERN.
"Tia Sáng" đã hợp nhất với báo Khoa học và Phát triển vào năm 2017.
Vào năm 2021, báo Khoa học và Phát triển (trong đó có "Tia Sáng") đã hợp nhất với báo VnExpress.
Sự ủng hộ của "Tia Sáng" về tính liêm chính và minh bạch trong khoa học đã dẫn đến việc thành lập Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED). NAFOSTED là một cơ chế tài trợ khoa học ở Việt Nam giúp các nhà khoa học có nhiều tự do hơn trong nghiên cứu nhưng đòi hỏi chất lượng cao hơn trong sản phẩm khoa học của họ. "Tia Sáng" còn đồng sáng lập giải thưởng Tạ Quang Bửu vinh danh các nhà khoa học về khoa học cơ bản. |
Aum Shinrikyo (tiếng Nhật: オウム/真理教, "Oumu Shinrikyō" có nghĩa là Chân lý Tối thượng) hay còn gọi là Aleph (アレフ/"Arefu") hay còn được gọi tên tiếng Việt thông dụng là Giáo phái Aum là một phong trào tôn giáo mới của Nhật Bản và giáo phái Ngày tận thế do Shoko Asahara thành lập vào năm 1987. Giáo phái Aum đã thực hiện Vụ tấn công bằng khí sarin trên tàu điện ngầm Tokyo vào năm 1995 và được phát hiện là thủ phạm gây ra vụ tấn công sarin ở Matsumoto vào năm trước đó, những người thực hiện các cuộc tấn công đã hành sự bí mật, không được các tín đồ bình thường biết đến. Shoko Asahara khẳng định mình vô tội trong một chương trình phát thanh được chuyển tiếp từ Nga và hướng tới Nhật Bản.
Aum Shinrikyo được tách thành "Aleph" và Hikari no Wa vào năm 2007 và đã chính thức bị một số quốc gia coi là tổ chức khủng bố, bao gồm Nga, Canada, Nhật Bản, Kazakhstan, cũng như Liên minh Châu Âu. Trước đây nhóm này bị Hoa Kỳ liệt vào danh sách tổ chức khủng bố cho đến năm 2022 khi Bộ Ngoại giao Mỹ xác định nhóm này phần lớn không còn tồn tại như một tổ chức khủng bố. Cơ quan Công an Điều tra Nhật Bản (PSIA) xác định Aleph và Hikari no Wa là các nhánh của một "tôn giáo nguy hiểm". Giáo lý của giáo phái này kết hợp cách giải thích cực đoan của nhiều tôn giáo, từ Phật giáo đến Thiên chúa giáo, Aum Shinrikyo gây tranh cãi về những lời tiên tri của ngày tận thế, liên quan đến Thế chiến III do Mỹ khởi xướng. Sau đó, mọi thứ dần trở nên bạo lực, nhóm tham gia vào các hoạt động nguy hiểm và giết hại những thành viên cố gắng rời khỏi tổ chức. Giáo phái Aum chính thức được xác định là một nhóm khủng bố, chịu trách nhiệm về vụ tấn công bằng khí sarin trên năm chuyến tàu trong hệ thống tàu điện ngầm ở Tokyo, giết chết 13 người và ảnh hưởng đến hơn 1.000 hành khách khác vào năm 1995.
Vào năm 1992, Shoko Asahara vốn người sáng lập Aum Shinrikyo đã xuất bản một cuốn sách mà trong đó Asahara tuyên bố mình là ""Giê-su", bậc giác ngộ duy nhất của Nhật Bản, và được xác định là "Chiên Thiên Chúa"". Giáo chủ Asahara đưa ra một lời tiên tri tận thế, bao gồm chiến tranh thế giới thứ ba và mô tả một cuộc xung đột cuối cùng lên đến đỉnh điểm trong một vụ đua hạt nhân Armageddon, lấy thuật ngữ này từ Sách Khải Huyền. Sứ mệnh nhầm lẫn của Asahara là tự cho rằng bản thân ông đang gánh tội lỗi của cả thế giới, và ông tuyên bố ông có thể chuyển giao quyền lực tinh thần cho những người đi theo và giúp loại bỏ những tội lỗi của họ. Asahara cũng thấy những âm mưu đen tối ở khắp mọi nơi của người Do Thái, Hội Tam Điểm, người Hà Lan, Hoàng gia Anh, và các tôn giáo khác của Nhật Bản đang có âm mưu tranh đoạt.
Ban đầu, cảnh sát Nhật Bản đã báo cáo cuộc tấn công này như là cách của giáo phái này nhằm tăng tốc tới ngày tận thế. Bên công tố nói rằng đây là một nỗ lực để hạ bệ chính phủ và đưa Asahara thành "Nhật hoàng" của Nhật Bản. Nhóm bảo vệ Asahara tuyên bố rằng một số thành viên cấp cao của nhóm đã lên kế hoạch tấn công một cách độc lập, nhưng không giải thích động cơ của mình. Aum Shinrikyo bắt đầu cuộc tấn công vào ngày 27 tháng 6 năm 1994 tại Matsumoto, Nhật Bản. Với sự giúp đỡ của một chiếc xe tải lạnh, các thành viên của giáo phái đã xả ra một đám mây khí sarin ở gần nhà của thẩm phán đang xử lý một vụ kiện liên quan đến một vụ tranh chấp về bất động sản, dự đoán sẽ có kết quả chống lại giáo phái này. Do sự kiện này, có tới 500 người bị thương và 8 người đã chết. Sau vụ tấn công tầu điện ngầm bằng khí độc thì Naoko Kikuchi, người đã từng tham gia sản xuất khí sarin, đã bị bắt sau khi bị chỉ điểm vào tháng 6 năm 2012, và Katsuya Takahashi ngay sau đó.
Vào ngày 6 tháng 7 năm 2018, sau khi hết mọi kháng cáo, Asahara và sáu người tử tù đã bị xử tử như hình phạt cho vụ tấn công năm 1995 và các tội ác khác. Sáu tín đồ khác bị xử tử vào ngày 26 tháng 7 năm 2018. Vào lúc 12h10, ngày đầu năm mới 2019, ít nhất 9 người bị thương (một người bị thương nặng) khi một chiếc ô tô cố tình lao vào đám đông đang đón năm mới trên phố Takeshita ở Tokyo. Cảnh sát địa phương đưa tin về việc bắt giữ Kazuhiro Kusakabe, nghi phạm lái xe, người được cho là đã thừa nhận cố tình đâm xe của mình vào đám đông để phản đối việc phản đối án tử hình, cụ thể là để trả thù việc hành quyết các thành viên giáo phái Aum. PSIA đã thông báo vào tháng 01 năm 2015 rằng họ sẽ bị giám sát giáo phái này thêm ba năm nữa. Tòa án quận Tokyo đã hủy bỏ việc gia hạn giám sát Hikari no Wa vào năm 2017 sau những thách thức pháp lý từ nhóm này, nhưng vẫn tiếp tục theo dõi Aleph. Chính phủ đã kháng cáo việc hủy bỏ và vào tháng 2 năm 2019, Tòa án tối cao Tokyo đã lật lại quyết định của tòa án cấp dưới, khôi phục hoạt động giám sát, với lý do không có thay đổi lớn nào giữa Aum Shinrikyo và Hikari no Wa. |
Giáo phái Ngày tận thế
Giáo phái Ngày tận thế ("Doomsday cult") là một giáo phái tin vào thuyết khải huyền ngày tận thế và Thuyết nghìn năm (cho rằng Chúa cứu thế sẽ xuất hiện trên thế gian và trị vì một nghìn năm), bao gồm cả những giáo phái dự đoán thảm họa và những giáo phái cố gắng hủy diệt toàn bộ vũ trụ. Nhà xã hội học John Lofland đã đặt ra thuật ngữ giáo phái ngày tận thế trong nghiên cứu năm 1966 của ông về một nhóm thành viên của Nhà thờ Thống nhất Hoa Kỳ ("Unification Church of the United States"): "Giáo phái Ngày tận thế: Nghiên cứu về Cải đạo, đổi đạo và Duy trì Đức tin". Năm 1958, Leon Festinger xuất bản một nghiên cứu về một nhóm có những dự đoán về thảm họa: "Khi lời tiên tri thất bại: Một nghiên cứu tâm lý và xã hội về một nhóm hiện đại dự đoán sự hủy diệt của thế giới".
Leon Festinger và các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng giải thích sự cam kết của các thành viên đối với giáo phái ngày tận thế của họ sau khi những lời tiên tri của người lãnh đạo tinh thần được chứng minh là sai. Leon Festinger cho rằng hiện tượng này là do phương pháp đối phó nhằm giảm thiểu sự bất hòa, một hình thức hợp lý hóa. Các thành viên thường cống hiến hết mình với nghị lực mới cho sự nghiệp của nhóm sau khi một lời tiên tri thất bại mà được hợp lý hóa bằng những lời giải thích như niềm tin rằng hành động của họ đã giúp ngăn chặn được thảm họa hoặc tiếp tục tin tưởng vào người lãnh đạo khi ngày xảy ra thảm họa bị tạm hoãn lại. Một số nhà nghiên cứu tin rằng việc chính phủ và giới truyền thông sử dụng thuật ngữ này có thể dẫn đến một lời tiên tri tự ứng nghiệm, trong đó hành động của chính quyền củng cố niềm tin về ngày tận thế của nhóm, từ đó có thể truyền cảm hứng cho những hành động gây tranh cãi hơn nữa. Bản thân các nhà lãnh đạo nhóm cũng phản đối việc so sánh giữa nhóm này với nhóm khác, và đã rút ra sự tương đồng giữa khái niệm lời tiên tri tự ứng nghiệm và lý thuyết về vòng xoáy khuếch đại sai lệch. Tử tự tập thế là một dạng nghi thức tôn giáo bắt buộc mà rất nhiều giáo phái tà độc thường kêu gọi tín đồ của chúng thực hiện, gây ra rất nhiều vụ tự tử tập thể rất thương tâm do niềm tin vào ngày tận thế.
Cuồng giáo về ngày tận thế là một từ dùng để mô tả các nhóm tin vào thuyết Apocalypticism (thuyết Khải huyền) và Millenarianism (Thuyết nghìn năm) và nó cũng có thể được sử dụng để chỉ cả các nhóm tiên đoán thiên tai, và các nhóm mà cố gắng nhắc đến nó. Một nghiên cứu tâm lý năm 1997 của Festinger, Riecken và Schachter nhận thấy rằng mọi người đã chuyển sang cách nghĩ về một thế giới toàn cảnh thảm khốc sau khi họ liên tục thất bại trong việc tìm kiếm ý nghĩa từ các phong trào chính thống. Leon Festinger và các cộng sự của ông đã quan sát các thành viên của "tôn giáo UFO" (gọi là Những người tìm kiếm) trong nhiều tháng và ghi lại các cuộc nói chuyện của họ trước và sau một lời tiên tri sai từ nhà lãnh đạo của nhóm. Nghiên cứu của họ sau này được xuất bản trong cuốn sách "When Prophecy Fails: A Social and Psychological Study of a Modern Group that Predicted the Destruction of the World ("Khi Lời tiên tri thất bại: Một nghiên cứu xã hội và tâm lý học của một nhóm tôn giáo ngày nay khi dự đoán về sự hủy diệt của thế giới). Vào cuối những năm 1980, các nhóm cuồng giáo về ngày tận thế là chủ đề chính của các bản tin, với một số phóng viên và nhà bình luận cho rằng đây là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với xã hội. |
Sự tự điện ly của nước
Quá trình tự điện ly của nước, còn được gọi là quá trình tự ion hóa của nước, quá trình tự phân ly của nước (tiếng Anh: self-ionization of water (còn được gọi là autoionization of water, và autodissociation of water)), là một phản ứng điện ly trong nước tinh khiết hoặc trong dung dịch nước, trong đó phân tử nước, H2O, bị khử proton (phân tử nước bị mất đi hạt nhân của một trong hai nguyên tử hydro của nó) trở thành ion hydroxide, OH−. Hạt nhân hydro, H+, ngay lập tức protonate một phân tử nước khác để tạo thành cation hydroni, H3O+. Đây là một ví dụ về quá trình autoprotolysis và thể hiện tính chất lưỡng tính của nước.
Ảnh hưởng của đồng vị.
Nước nặng (D2O) tự điện ly ít hơn nước thường (H2O).
D2O + D2O D3O+ + OD−.
Điều này là do hiệu ứng đồng vị cân bằng, một hiệu ứng cơ học lượng tử do oxy hình thành liên kết mạnh hơn một chút với deuteri (D) vì khối lượng deuteri lớn hơn dẫn đến năng lượng điểm không thấp hơn.
Được biểu thị bằng hoạt độ (activity) "a", thay vì nồng độ, hằng số cân bằng nhiệt động (thermodynamic equilibrium constant) của phản ứng điện ly nước nặng là:
Giả sử hoạt độ của D2O là 1 và giả sử rằng hoạt độ của D3O+ và OD− gần đúng với nồng độ của chúng
Bảng sau đây so sánh các giá trị của p"K"w đối với H2O và D2O:
Tốc độ phản ứng của phản ứng điện ly
2 H2O → H3O+ + OH−
phụ thuộc vào năng lượng hoạt hóa Δ"E"‡. Theo phân phối Boltzmann, tỷ lệ các phân tử nước có đủ năng lượng, nhờ mật độ nhiệt (thermal population), được cho bởi:
Trong đó "k" là hằng số Boltzmann. Do đó, một số sự phân ly có thể xảy ra vì có đủ năng lượng nhiệt. Chuỗi sự kiện (event) sau đây đã được đề xuất trên cơ sở thăng giáng điện trường trong nước lỏng. Thỉnh thoảng có những dao động (fluctuation) ngẫu nhiên trong chuyển động phân tử (khoảng 10 giờ một lần trên mỗi phân tử nước) tạo ra một điện trường đủ mạnh để phá vỡ liên kết oxy–hydro, tạo ra ion hydroxide (OH−) và ion hydroni (H3O+); hạt nhân hydro của ion hydroni di chuyển dọc theo các phân tử nước theo cơ chế Grotthuss và sự thay đổi mạng lưới liên kết hydro (hydrogen bond network) trong dung môi sẽ cô lập hai ion, được ổn định bằng quá trình solvation. Tuy nhiên, trong vòng 1 picogiây, sự tái tổ chức lần thứ hai của mạng lưới liên kết hydro cho phép chuyển đổi proton nhanh (rapid proton) xuống mức chênh lệch điện thế và subsequent recombination của các ion. Khoảng thời gian này phù hợp với thời gian cần thiết để các liên kết hydro tự định hướng lại trong nước.
Phản ứng inverse recombination
H3O+ + OH− → 2 H2O
là một trong những phản ứng hóa học nhanh nhất được biết đến, với hằng số tốc độ phản ứng là #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
ở nhiệt độ phòng. Tốc độ nhanh như vậy là đặc trưng của phản ứng diffusion-controlled, trong đó tốc độ bị giới hạn bởi tốc độ khuếch tán phân tử. |
Danh sách tập phim Spy × Family
Spy × Family là một bộ phim truyền hình anime dựa trên bộ truyện tranh cùng tên của tác giả Tatsuya Endo. Được sản xuất bởi Wit Studio và CloverWorks, bộ phim được đạo diễn bởi , thiết kế nhân vật bởi Kazuaki Shimada trong khi Kazuaki Shimada và Kyoji Asano là giám đốc hoạt hình chính. được sáng tác và sản xuất bởi . Nó được công bố lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2021.
Loạt phim kể về điệp viên bậc thầy Twilight, người phải cải trang thành bác sĩ tâm thần Loid Forger và xây dựng một gia đình giả để điều tra, theo dõi nhà lãnh đạo chính trị Donovan Desmond. Anh ta không hề biết rằng vợ anh ta, Yor, thực chất là một sát thủ được biết đến với cái tên Công chúa Gai, trong khi con gái anh ta, Anya, có khả năng ngoại cảm.
Mùa đầu tiên của bộ phim bao gồm 25 tập được chia thành 2 phần. Phần đầu tiên gồm 12 tập, được phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 9 tháng 4 đến ngày 25 tháng 6 năm 2022, trên kênh TV Tokyo và các nền tảng khác. Phần thứ hai gồm 13 tập, được phát sóng tại Nhật Bản từ ngày 1 tháng 10 đến ngày 24 tháng 12 năm 2022. Vào ngày 18 tháng 12 năm 2022, mùa thứ hai và một bộ phim chiếu rạp đã được công bố tại sự kiện . Ichirō Ōkouchi sẽ thay thế Furuhashi làm người viết kịch bản, các nhân viên và diễn viên còn lại sẽ đảm nhận vai trò của họ. Phần thứ hai gồm 12 tập, khởi chiếu vào ngày 7 tháng 10 năm 2023.
Tổng quan về loạt phim. |
Tejasswi Prakash Wayangankar (sinh ngày 10 tháng 6 năm 1993 tại Jeddah, Ả Rập Xê Út) là một nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình người Ấn Độ tham gia các bộ phim bằng tiếng Hindi và tiếng Marathi. Cô được biết đến qua vai diễn Ragini Maheshwari trong bộ phim "Tình yêu và thù hận" cùng với bộ ba vai diễn Pratha Gulraj, Prathna Gulraj và Pragati Iyer trong phần 6 của "Tình người kiếp rắn".
Năm 2020, cô tham gia chương trình truyền hình thực tế "" trên kênh Colors TV. Năm 2021, cô tham gia chương trình truyền hình thực tế "Bigg Boss 15" và giành ngôi vị quán quân của chương trình. Cô cũng có vai diễn đầu tay trong bộ phim bằng tiếng Marathi mang tên "Mann Kasturi Re", giúp cô giành được giải thưởng "Nữ diễn viên có vai diễn đầu tay xuất sắc nhất" tại Giải thưởng Filmfare tiếng Marathi.
Tiểu sử và học vấn.
Tejasswi Prakash sinh ngày 10 tháng 6 năm 1993 tại Jeddah, Ả Rập Xê Út, lớn lên trong một gia đình nói tiếng Marathi. Cô từng là một kỹ sư và tốt nghiệp Khoa Kỹ thuật Điện tử và Viễn thông tại Đại học Mumbai.
Vai diễn đầu tay (2012–2018).
Tejasswi Prakash bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 2012, với vai diễn Rashmi Bhargava trong bộ phim kinh dị "2612". Năm 2013, cô vào vai Dhara Vaishnav trong bộ phim truyền hình dài tập của Colors TV mang tên "Sanskaar - Dharohar Apnon Ki" và đóng chung với Jay Soni.
Từ năm 2015 đến năm 2016, cô vào vai chính Ragini Maheshwari trong bộ phim truyền hình "Tình yêu và thù hận" trên kênh Colors TV, vai diễn này đã giúp cô nhận được đề cử tại Giải thưởng Truyền hình Ấn Độ và Giải Cánh hoa vàng.
Năm 2017, cô vào vai Diya Singh trong bộ phim kinh dị "Pehredaar Piya Ki" trên kênh Sony TV. Sau khi bộ phim này kết thúc, cô tiếp tục vào vai diễn này trong bộ phim "Rishta Likhenge Hum Naya".
Năm 2018, cô thủ vai Uruvi trong bộ phim thần thoại mang tên "Karn Sangini" và đóng chung với với Aashim Gulati.
Thành công nhờ vai diễn trong "Nữ thần rắn báo thù" và một số công việc khác (2019–nay).
Năm 2019, cô vào vai Mishti Khanna trong phần 2 của bộ phim "Silsila Badalte Rishton Ka" và đóng chung với Kunal Jaisingh và Aneri Vajani.
Năm 2020, cô tham gia chương trình truyền hình thực tế "" trên kênh Colors TV. Mặc dù là một trong những ứng cử viên nặng ký cho ngôi vị quán quân của chương trình, tuy nhiên cô đã phải bỏ cuộc giữa chừng do gặp phải chấn thương nặng ở mắt, kết thúc ở vị trí thứ 6 chung cuộc.
Năm 2021, cô tham gia chương trình "Bigg Boss (mùa thứ 15)", giành ngôi vị quán quân của chương trình và nhận được số tiền 40 lakh, tương đương với số tiền 48 nghìn USD.
Ngay sau khi "Bigg Boss (mùa thứ 15(" kết thúc, vào tháng 2 năm 2022, cô vào hai vai diễn là hai mẹ con, đó là Pratha Gujral và Prathna Gujral trong bộ phim "Nữ thần rắn báo thù", là phần 6 của bộ phim siêu nhiên nổi tiếng "Tình người kiếp rắn".
Vào tháng 11 năm 2022, cô có vai chính đầu tay trong bộ phim lãng mạn bằng tiếng Marathi mang tên "Mann Kasturi Re" do Sanket Mane làm đạo diễn và đóng chung với Abhinay Berde. Vai diễn của cô trong bộ phim đã giúp cô mang về đề cử với hạng mục "Nữ diễn viên có vai diễn đầu tay xuất sắc nhất" tại lễ trao giải thưởng Filmfare tiếng Marathi năm 2022.
Tejasswi Prakash hiện đang hẹn hò với nam diễn viên kiêm người mẫu Karan Kundrra. Cả hai người đều tham dự mùa thứ 15 của chương trình "Bigg Boss" và chính thức hẹn hò ngay sau khi chương trình kết thúc.
Sự nổi tiếng trong giới truyền thông.
Tejasswi Prakash được tạp chí "Femina India" đưa vào danh sách "Những người phụ nữ Ấn Độ xinh đẹp nhất năm 2022" cho hạng mục "Người nổi tiếng với những việc làm tốt", nhờ những đóng góp thiết thực của cô vào các dự án phúc lợi xã hội cho các loài động vật hoang dã cũng như giúp đỡ những người gặp nhiều khó khăn, thách thức trong cuộc sống.
Cô cũng được tạp chí "HT City" đưa vào Danh sách "30 Under 30" năm 2022 trong lĩnh vực truyền hình. Cô cũng nhận được giải thưởng "Cảm giác kỹ thuật số của năm" tại lễ trao giải thưởng Filmfare Trung Đông năm 2022 được tổ chức tại Dubai, UAE.
Cô cũng xếp ở vị trí thứ 8 trong "danh sách 50 người nổi tiếng hàng đầu châu Á" của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland do tạp chí "Eastern Eye" bình chọn vào năm 2022.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Wieger Martin Frisco Sietsma (sinh ngày 11 tháng 7 năm 1995) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan chơi ở vị trí thủ môn. Trong suốt cả sự nghiệp, anh thi đấu cho Hoàng Anh Gia Lai, Milton Keynes Dons, Emmen và Heerenveen.
Sự nghiệp thi đấu.
Anh ra mắt chuyên nghiệp tại Eerste Divisie cho Emmen vào ngày 10 tháng 9 năm 2016 trong trận thua 2-1 trước Helmond Sport.
Vào ngày 7 tháng 7 năm 2017, Sietsma gia nhập câu lạc bộ Milton Keynes Dons tại EFL League One lúc bấy giờ, theo dạng chuyển nhượng tự do, ký bản hợp đồng hai năm với tùy chọn thêm một năm.
Sau chấn thương của thủ môn số 1, Lee Nicholls, Sietsma đã có trận ra mắt giải đấu cho câu lạc bộ vào ngày 14 tháng 4 năm 2018 trong trận thua 1–2 trên sân nhà trước Doncaster Rovers. Trở thành thủ môn thứ ba sau khi đội bóng ký hợp đồng với Stuart Moore, Sietsma rời câu lạc bộ theo sự đồng ý của cả hai bên vào ngày 3 tháng 1 năm 2019. Anh đã có tổng cộng 10 lần ra sân trên mọi đấu trường cho câu lạc bộ.
Hoàng Anh Gia Lai.
Vào ngày 16 tháng 1 năm 2019, Sietsma gia nhập câu lạc bộ Hoàng Anh Gia Lai tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam theo dạng chuyển nhượng tự do. Tháng 9 năm 2020, anh quyết định giải nghệ để tập trung vào công việc kinh doanh của mình. |
Daniel Roy Gilchrist Noboa Azín (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1987) là một doanh nhân, chính trị gia và chủ doanh nghiệp người Ecuador trong ngành chuối. Ông là tổng thống đắc cử của Ecuador sau khi chiến thắng trong cuộc tổng tuyển cử năm 2023. Ở tuổi 35, ông sẽ là tổng thống trẻ nhất trong lịch sử của quốc gia này.
Ông là thành viên của Quốc hội Ecuador từ năm 2021 đến năm 2023, khi Quốc hội bị giải tán sau khi Tổng thống Guillermo Lasso áp dụng cơ chế muerte cruzada. Trước khi bắt đầu sự nghiệp chính trị, Noboa đã giữ một số vị trí tại Noboa Corporation, một công ty xuất khẩu do cha ông là Álvaro Noboa thành lập. Álvaro Noboa đã 5 lần tranh cử tổng thống Ecuador nhưng không thành công. Noboa được coi là người thừa kế công ty và tài sản của cha mình.
Tháng 5 năm 2023, Noboa tuyên bố ứng cử tổng thống trong cuộc bầu cử tổng thống bất ngờ năm 2023, với tư cách là ứng cử viên của đảng Hành động Dân chủ Quốc gia. Ông đã lọt vào vòng hai vào tháng 10, đối đầu với Luisa González, điều mà nhiều người coi là điều bất ngờ vì tỷ lệ ủng hộ thấp của ông trong những ngày dẫn đến cuộc bầu cử. Noboa đã giành được gần 52% số phiếu bầu trong vòng hai, đánh bại González vào ngày 15 tháng 10 năm 2023. |
Đường sắt Bình Hồ–Nam Sơn
Đường sắt Bình Nam hay Đường sắt Bình Hồ – Nam Sơn là một tuyến đường sắt ở Thâm Quyến nối Bình Hồ với Nam Sơn. Các chuyến tàu hàng và tàu khách đường dài đều hoạt động trên tuyến.
Tuyến đường sắt này có chiều dài là dài với 8 nhà ga, từ Ga Bình Hồ, đoạn nối với đường sắt Quảng Châu – Thâm Quyến, đến Ga Tây Xà Khẩu hoặc Ga Mawan (nằm trên hai nhánh khác nhau). Toàn bộ tuyến đường sắt đều chạy đường đơn và sử dụng khổ ray . Tốc độ tối đa trên tuyến đường sắt là 75 km/h (47 mph). Toàn tuyến đường sắt chưa được điện khí hóa, vì vậy chỉ đầu máy diesel mới được sử dụng trên tuyến.
Tuyến đường sắt này đã được lên kế hoạch vào cuối những năm 1980 để cung cấp dịch vụ đường sắt đến Cảng Thâm Quyến. Đây là tuyến đường sắt đầu tiên ở Trung Quốc được xây dựng bằng cả vốn trong và ngoài nước. Kế hoạch xây dựng tuyến đường sắt Bình Nam được Chính phủ Trung Quốc phê duyệt vào năm 1991 và khởi công vào tháng 9 cùng năm. Vào tháng 3 năm 1993, một phần của tuyến đường sắt đã được đưa vào vận hành thử nghiệm. Sau đó, toàn bộ tuyến đã khánh thành vào tháng 9 năm 1994 và trở thành một phần của mạng lưới đường sắt Trung Quốc. |
Tổng thống Ecuador (), chính thức được gọi là Tổng thống Hợp hiến của Cộng hòa Ecuador (), vừa là nguyên thủ quốc gia vừa là thủ tướng của Ecuador. Đây là chức vụ chính trị cao nhất trong nước với tư cách là người đứng đầu nhánh hành pháp của chính phủ. Theo hiến pháp hiện hành, tổng thống có thể phục vụ hai nhiệm kỳ bốn năm. Trước đó, tổng thống chỉ có thể phục vụ một nhiệm kỳ bốn năm.
Tổng thống đắc cử hiện tại của Ecuador là Daniel Noboa, người sẽ kế nhiệm Guillermo Lasso vào ngày 25 tháng 11 năm 2023. Ông được bầu vào năm 2023. |
Danh sách dị giáo phái theo quan điểm của Chính quyền
Danh sách dị giáo phái theo quan điểm của Chính quyền ("Governmental lists of cults and sects") là việc phân loại các tôn giáo, giáo phái, các hội nhóm tôn giáo, tín ngưỡng được Chính quyền xem là cần phải bị quản lý, kiểm soát, giám sát, giải tán hay bài trừ. Việc gán nhãn ""giáo phái" hoặc "tà giáo" cho các phong trào tôn giáo mới trong các văn bản của Chính quyền thường biểu thị việc sử dụng phổ biến và tiêu cực thuật ngữ "dị giáo"/"cuồng giáo" ("Cult"/"Sect") trong tiếng Anh và cách sử dụng tương tự về mặt chức năng của các từ được dịch là "giáo phái"" trong một số ngôn ngữ châu Âu. Cụm từ "dị giáo" (異教) hay "ngoại đạo" (外道) trong cụm từ "tà ma ngoại đạo", hay "ngoại giáo" (異教) thường được sử dụng để miêu tả sự vi phạm các giáo lý quan trọng của Tôn giáo, nhưng cũng được sử dụng cho các quan điểm phản đối mạnh mẽ bất kỳ ý tưởng nào thường được chấp nhận Một người ủng hộ tà giáo được gọi là "kẻ dị giáo". hoặc những cụm từ như ""tà giáo" hay "tà đạo" (邪教) hay "tả đạo" (trong cụm từ "bàng môn tả đạo"") chỉ về các hội nhóm cuồng giáo (狂教) là một nhóm xã hội với những niềm tin và thực tiễn mới, thường lệch lạc về mặt xã hội, mặc dù điều này thường không phải lúc nào cũng rõ ràng.
Dị giáo phái là tên gọi chỉ chung cho một số tổ chức, hội nhóm có biểu hiện thực hành niềm tin u mê đi lệch chuẩn mực xã hội hoặc chuẩn mực tôn giáo chính thống hoặc có yếu tố mê tín dị đoan, huyễn hoặc, dẫn dắt mù quáng và thông thường được lan truyền ngấm ngầm mà chưa được chính quyền chấp thuận hoặc công chúng đón nhận, thuật ngữ ""giáo phái"/"môn phái" thường áp dụng cho các hội nhóm sùng bái mới hình thành dưới sự dẫn dắt của một giáo chủ cầm đầu, đa số thành viên giáo phái đều ít nhiều có những điểm dễ bị lợi dụng. Các giáo phái cực đoan thường lợi dụng những điểm yếu của con người, đó có thể là bất kỳ ai nhưng nếu ai đó trải qua khoảng thời gian khó khăn trong cuộc đời mình, mất việc, có kết quả không tốt ở trường học hoặc gặp khó khăn về tài chính, họ sẽ cảm thấy chán nản, khi đó, một nhóm như vậy sẽ xuất hiện và trở nên rất cám dỗ. Các nhà nghiên cứu khác miêu tả các giáo phái cuồng giáo hình thành trên cơ sở tự phát sinh xung quanh các niềm tin và thực hành mới (phong trào tôn giáo mới hay còn gọi là "đạo lạ"). Theo quan điểm của Việt Nam thì "tà đạo" là một loại "đạo lạ" (so với tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống) nhưng khuynh hướng hoạt động mê tín dị đoan, phản văn hóa, vi phạm pháp luật. Theo nhà nghiên cứu Hy Văn của Trung Quốc thì: "Tà giáo cũng là một loại của hiện tượng tôn giáo mới, nhưng nó là cực đoan, tàn ác, tà độc"". Theo Ủy ban Nghị viện về Giáo phái ở Pháp ("Parliamentary Commission on Cults in France") đã định nghĩa về tà giáo xuất phát từ những mối nguy hại tiềm tàng của chúng trong một bản Báo cáo năm 1995 gồm:
Các nhà xã hội học phê bình về việc sử dụng từ "cuồng giáo" tiêu cực này, cho rằng nó có thể ảnh hưởng bất lợi đến việc tự do tôn giáo. Vào năm 1995, một Ủy ban quốc hội của Quốc hội Pháp về các giáo phái đã đưa ra "Danh sách dị giáo phái". Báo cáo bao gồm một danh sách các giáo phái có mục đích dựa trên thông tin có thể được cung cấp từ các cựu thành viên và thông tin theo dõi được từ cảnh sát Pháp. Các tiêu chí do "Renseignements généraux" của Pháp lựa chọn để xác định mối nguy hiểm tiềm ẩn của một phong trào đã bị chỉ trích vì chúng được coi là mơ hồ và có thể bao gồm nhiều tổ chức, tôn giáo hoặc không tôn giáo. Một trong những lời chỉ trích đầu tiên đến từ giám mục Jean Vernette-thư ký quốc gia của giám mục Pháp về việc nghiên cứu các giáo phái và các phong trào tôn giáo mới, người đã nhấn mạnh rằng những tiêu chí này có thể được áp dụng cho hầu hết tất cả các tôn giáo. Hơn nữa, các nhà xã hội học như Bruno Étienne nhấn mạnh rằng cảnh báo của "Renseignements généraux" không nên định nghĩa hành vi thao túng tinh thần. Danh sách các giáo phái được dựa trên các tiêu chí do "Renseignements généraux" xác định, nhưng không nêu rõ thực hành nào của họ bị cáo buộc một cách cụ thể. Ngoài ra, việc giữ bí mật công việc của RG đã dẫn đến nghi vấn về sự hiện diện hay vắng mặt của một số tổ chức nhất định trong danh sách. Étienne đặt câu hỏi về sự hiện diện của công ty CEDIPAC SA, trước đây gọi là Nhóm chuyên gia tiếp thị châu Âu (GEPM), vì hoạt động của công ty này không thuộc lĩnh vực tôn giáo.
Quan điểm chính thức của Chính quyền một số nước như Việt Nam đã mô tả một số đặc điểm nhận dạng của các tổ chức, nhóm dị giáo phái mà họ cho rằng là "tà đạo" theo đó, một số tà đạo bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng kích động hoạt động chống chính quyền nhân dân; thuyết giảng "kinh sách" có nội dung phê phán, đi ngược lại với văn hóa truyền thống, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, có tư tưởng cực đoan, chống lại hiện thực xã hội, thực hành lối sống phi pháp, quyên góp, bóp nặn tiền của người dân. Các cá nhân này còn lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, lợi dụng niềm tin của tín đồ để kích động và tiến hành các hoạt động chống chính quyền, chống chế độ dưới chiêu bài đấu tranh cho tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền và biến mình thành những quân cờ dưới sự hà hơi tiếp sức của các tổ chức ở nước ngoài như Human Rights Watch, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), các tà đạo lôi kéo người theo bằng những hoạt động chống lại quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước và địa phương, nói xấu chế độ, nói xấu cán bộ, có thái độ ngăn cản chính quyền triển khai "xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", xây dựng nông thôn mới. Tựu trung lại thì một số đặc điểm chủ yếu như sau:
Vào thời đỉnh cao của phong trào chống lại cuồng giáo và việc lạm dụng các nghi thức trong những năm 1990, một số chính phủ đã công bố danh sách các nhóm cuồng giáo. Mặc dù các tài liệu này sử dụng các thuật ngữ tương tự, chúng không nhất thiết phải bao gồm các nhóm tương tự nhau và cũng không phải là đánh giá của họ đối với các nhóm này dựa trên các tiêu chí đã thỏa thuận. Các chính phủ khác và các tổ chức quốc tế cũng báo cáo về các phong trào tôn giáo mới nhưng không sử dụng các thuật ngữ này để mô tả các nhóm. Từ những năm 2000, một số chính phủ lại một lần nữa có sự khác nhau trong việc phân loại các phong trào tôn giáo như vậy. Trong khi sự phản ứng chính thức trên thế giới đối với các nhóm tôn giáo mới đã bị lẫn lộn, một số chính phủ đã đi theo những người chỉ trích các nhóm này trong phạm vi phân biệt giữa tôn giáo ""hợp pháp" và "nguy hiểm", những "cuồng giáo không mong muốn"" trong chính sách chung.
Các bản báo cáo của Chính phủ đã sử dụng những danh sách dị giáo phái này bao gồm các báo cáo từ Áo, Bỉ, Canada, Trung Quốc, Pháp, Đức, Nga và Việt Nam, cùng các nước khác. Mặc dù các tài liệu này sử dụng thuật ngữ tương tự nhưng chúng không nhất thiết phải bao gồm các nhóm giống nhau và việc đánh giá các nhóm này không dựa trên các tiêu chí đã thống nhất. Các chính phủ và cơ quan thế giới khác cũng báo cáo về các phong trào tôn giáo mới nhưng không sử dụng những thuật ngữ này để mô tả chúng. Các nhóm được cho là những giáo phái cuồng giáo có quy mô rất khác nhau, từ các nhóm nhỏ địa phương với một số thành viên cho đến các tổ chức quốc tế với hàng triệu thành viên.
Ở Pháp và Bỉ đã có những quan điểm chính sách chấp nhận các lý thuyết "tẩy não" một cách không phê phán, trong khi các nước châu Âu khác, như Thụy Điển và Ý thì có sự thận trọng hơn về các phương pháp tẩy não và đã có những phản ứng trung lập hơn đối với các tôn giáo mới. Các nhà nghiên cứu đã gợi ý rằng sự phẫn nộ sau vụ giết người hàng loạt và tự sát tập thể do Solar Temple gây ra cũng như những thái độ bài ngoại và thái độ chống đối văn hóa Mỹ khác đã góp phần đáng kể vào phong trào bài trừ cuồng giáo ở châu Âu. Trong những năm 1980, các nhà hoạt động và các quan chức của chính phủ Pháp đã bày tỏ lo ngại rằng một số điều luật và các nhóm khác trong Giáo hội Công giáo La Mã sẽ bị ảnh hưởng xấu từ luật bài trừ tôn giáo. Vào tháng 5 năm 2005, Thủ tướng Pháp đã ra một chỉ thị nhấn mạnh rằng chính phủ phải cảnh giác liên quan đến hiện tượng sùng bái và cho rằng rằng danh sách các phong trào tôn giáo mới kèm theo "Báo cáo của Nghị viện năm 1995" đã trở nên ít thích hợp hơn, dựa trên quan sát rằng nhiều nhóm nhỏ đã hình thành: phân tán, linh động hơn và khó nhận dạng hơn và rằng chính phủ cần cân bằng mối quan tâm của mình với các giáo phái tôn trọng quyền tự do công cộng và laïcité (chủ nghĩa thế tục).
Vào những năm 1970, nghiên cứu khoa học về "lý thuyết tẩy não" đã trở thành một chủ đề trung tâm trong các vụ kiện tòa án ở Hoa Kỳ, nơi lý thuyết đã được sử dụng để đánh giá cho việc chèn ép tư duy mang tính ép buộc. Trong khi đó, một số nhà xã hội học phê bình lý thuyết này, ủng hộ việc tự do tôn giáo nhằm bảo vệ tính hợp pháp của các phong trào tôn giáo mới tại tòa án. Ở Hoa Kỳ các hoạt động tôn giáo của các nhóm cuồng giáo không bị cấm theo Điều bổ sung sửa đổi Hiến pháp Hoa Kỳ (điều này cấm việc chính phủ thành lập tôn giáo mới và bảo vệ tự do tôn giáo), miễn là các hoạt động đó không vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, không có thành viên tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào được miễn trừ việc bị pháp luật trừng phạt nếu họ phạm phải các tội hình sự.
Một báo cáo của Cơ quan Tình báo An ninh Canada năm 1999 đã thảo luận về ""Các phong trào tôn giáo Ngày tận thế tán thành niềm tin thù địch và có khả năng gây ra bạo lực".." Các nhóm được phân loại là "Phong trào tôn giáo Ngày tận thế" bao gồm:
Trong năm 2008 Bộ Nội vụ Nga đã chuẩn bị một danh sách "các nhóm cực đoan". Ở đầu danh sách là các nhóm Hồi giáo bên ngoài "Hồi giáo truyền thống", được chính phủ Nga giám sát. Tiếp theo "các nhóm cuồng dị" (Pagan cults). Trong năm 2009, Bộ Tư pháp Nga đã thành lập một hội đồng có tên là ""Hội đồng các chuyên gia tiến hành phân tích về Tôn giáo"." Hội đồng mới đã liệt kê 80 giáo phái lớn có khả năng nguy hiểm cho xã hội Nga, và nói rằng có hàng ngàn những nhóm nhỏ hơn. Các nhóm dị giáo phái lớn được liệt kê bao gồm:
Trong hàng thế kỷ, chính quyền Trung Quốc đã xếp loại một số nhóm tôn giáo là "Tà giáo" (邪教/xiéjiào) – có thể dịch là "tà đạo" hay "dị giáo". Trong thời kỳ phong kiến, việc gọi "tà giáo" không nhất thiết ngụ ý giáo điều của nhóm tôn giáo là sai hay phi chính thống, mà thường là chỉ các nhóm tôn giáo không được chính quyền cho phép, hoặc được coi là thách thức tính hợp pháp của chính quyền. Ở Trung Quốc hiện đại, thuật ngữ "tà giáo" tiếp tục được sử dụng để biểu thị giáo lý mà chính phủ không chấp nhận và gọi là "tà thuyết", và các nhóm này phải đối mặt với sự đàn áp và trừng phạt của các nhà chức trách. Mười bốn nhóm khác nhau ở Trung Quốc đã được Bộ An ninh liệt kê là tà giáo". Tổng cục Bộ Công an Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đưa ra danh sách ""các giáo lý không chính thống" (邪教) có tựa đề "Thông tin về các tổ chức được xác định là tà giáo, ví dụ như Bạch Liên giáo và Hồng Đăng giáo (红灯照)"." Vào năm 1999, chính quyền Trung Quốc lên án Pháp Luân Công như là một tà giáo, và họ đã phát động nhiều chiến dịch để loại bỏ nó. Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, cuộc trấn áp Pháp Luân Công bao gồm những chiến dịch tuyên truyền trên nhiều mặt, một chương trình giáo dục ý thức hệ và giáo dục có tính cưỡng bức, cũng như các biện pháp cưỡng ép khác, chẳng hạn như bắt giam, lao động cưỡng bức và tra tấn
Theo nghiên cứu của Rick Ross trình bày tại Diễn đàn Quốc tế về Nghiên cứu Tôn giáo tháng 1 năm 2009, những tuyên bố của giáo chủ Lý Hồng Chí, được các học viên Pháp Luân công mặc nhiên chấp nhận mà không có nghi ngờ, là nguyên tắc xác định đây thực sự là một cuồng giáo. Ông Lý tuyên bố mình nắm rõ "bí mật tối thương của vũ trụ" và nói "không có tôn giáo nào có thể cứu con người ngoài Đại Pháp (tức Pháp luân công)", mà ông là giáo chủ duy nhất. Do đó, về cơ bản, ông tự tuyên bố mình là vị cứu tinh của con người. Tiểu sử trong cuốn sách "Chuyển Pháp Luân" của ông kể rằng ông lần đầu nhận ra "năng lực đặc biệt" của mình vào năm 8 tuổi. Những người theo Pháp Luân công tin rằng Lý Hồng Chí là bậc thánh nhân "không thể sai lầm" và họ không được phép nghi vấn về những tuyên bố liên quan đến sức mạnh siêu nhiên, và giáo lý của ông ta, bao gồm cả những nội dung phân biệt chủng tộc và chống lại ngành y khoa.
Lòng sùng mộ mãnh liệt với Lý Hồng Chí đã tạo ra một mạng lưới truyền hình và một tờ báo có tên "Đại Kỷ Nguyên" đều do các học viên Pháp Luân Công điều hành. Các cuộc biểu tình và sự kiện công khai thường xuyên được Pháp Luân công tổ chức trên khắp thế giới cũng phản ánh sự tôn sùng mãnh liệt của những người đi theo tôn giáo của ông ta. Trong khi Lý Hồng Chí luôn nói về "Chân-Thiện-Nhẫn", cả ông và những tín đồ của ông đều không thực sự thể hiện bất kỳ sự khoan dung nào đối với những người đi ngược giáo lý của họ. Trong nội bộ Pháp Luân Công, các tín đồ không được phép đặt câu hỏi về các giáo lý cơ bản, và những lời chỉ trích từ người ngoài thường được coi là "sự bức hại". Chuyên gia nghiên cứu sự sùng bái và nhà tâm lý học lâm sàng Margaret Singer ghi nhận rằng khi gặp một câu hỏi khó về giáo lý, một học viên Pháp Luân công sùng đạo luôn nói "Đừng suy nghĩ. Chỉ cần đọc lại lời dạy của Sư phụ." Margaret Singer đã tóm tắt ngắn gọn: "Nếu bạn muốn tìm sự mô tả tốt về một cuồng giáo, tất cả những gì bạn phải làm là đọc những gì [mà những người theo Pháp Luân Công] nói về họ."
Hội Thánh Đức Chúa Trời Toàn Năng là một phong trào tôn giáo mới được thành lập tại Trung Quốc vào năm 1991, mà các nguồn chính phủ Trung Quốc ước tính có ba đến bốn triệu thành viên, mặc dù các học giả cho rằng những con số ước tính này là hơi cao so với thực tế Tên gọi "Tia Chớp Phương Đông" ("Eastern Lightning") được rút ra từ Tân Ước, Phúc âm Matthew 24:27: "Vì như tia chớp phát ra từ phương đông lòe sáng đến tận phương tây thể nào, thì sự quang lâm của Con Người cũng sẽ như thế." Giáo lý cốt lõi của nó là Chúa Giêsu Kitô trở lại Trái Đất trong thời của họ với tư cách là Đức Chúa Trời Toàn Năng nhập thể, lần này không phải là một người đàn ông mà là một phụ nữ Trung Quốc. Phong trào này được chính quyền Trung Quốc coi là tà giáo và nó bị buộc tội đã thực hiện nhiều tội ác khác nhau, bao gồm cả vụ giết người sùng bái Chiêu Viễn McDonald khét tiếng. Các nhóm Kitô giáo và truyền thông quốc tế cũng lần lượt mô tả nó như một cuồng giáo và thậm chí là một "tổ chức khủng bố".. Giáo hội phong trào này phủ nhận tất cả các cáo buộc, và có những học giả đã kết luận rằng một số cáo buộc mà họ đã điều tra cho đến nay thực sự là sai hoặc cường điệu.
Ngoài ra, các nhánh của phong trào tôn giáo mới của Cơ đốc giáo Hàn Quốc cũng bị liệt kê là tà giáo như: The Unification Church of Rev. Moon, Dami Evangelism Association, và World Elijah Association (世界以利亚福音宣教会). Các giáo phái bị cấm có giáo lý được cải biên từ Phật giáo bao gồm Lư Thắng Ngạn được biết đến với danh hiệu Liên Sanh Hoạt Phật (蓮生活佛, Liansheng Huófó) với môn phái Liên Sanh Chân Phật Tông (真佛宗) và "Pháp hội Thời Luân Kim Cang" tại Đài Loan, ngoài ra còn có nhóm Quán Âm Pháp môn (觀音法門) của Thanh Hải Vô Thượng sư với pháp thiền Yoga của phái Sant Mat hay còn có tên gọi khác là Surat Shabd Yoga và vị thầy truyền cho Thanh Hải là Sant Thakar Singh được biết đến với cái tên là Sant Mat Master. bị Chính phủ Trung Quốc tuyên bố rằng niềm tin và hoạt động của tổ chức này về cơ bản là "chống cộng" và gọi tổ chức của Thanh Hải là "tổ chức tôn giáo phản động".
Giáo phái Gào thét (呼喊 派) bị Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) gắn cho một nhóm tôn giáo vô định hình ở Trung Quốc, bị chính phủ Trung Quốc đầu tiên coi là là lực lượng phản cách mạng và sau đó coi là một giáo phái tội phạm sau sự cố tại các quận Đông Dương và Nghĩa Ô thuộc tỉnh Chiết Giang vào tháng 2 năm 1982. Một số ấn phẩm năm 1983 có liên quan đến "Phong trào Yêu nước Ba Tự" (TSPM) đã buộc tội giáo viên Cơ đốc Trung Quốc quá cố Nhân chứng Lee (Li Changshou) là người lãnh đạo "giáo phái Gào thét" và xúi giục các vụ nổi loạn. Tên gọi ""giáo phái Gào thét" đã được áp dụng rộng rãi hơn cho nhiều nhóm cầu nguyện công khai và rõ ràng và/hoặc không đăng ký hoặc hợp tác với phong trào TSPM. Có nhiều lý do để nghi ngờ tính chính xác của các báo cáo dẫn đến sự lên án của "giáo phái Gào thét"" và sự liên kết của chúng với Witness Lee hoặc các nhà thờ địa phương, và các nhà thờ địa phương mà tự tránh xa các tín đồ Gào thét.
Đạo Hà Mòn còn gọi là "tà đạo Hà Mòn", "tà đạo Y Gyin" hay "Công giáo Đề-ga" là tên gọi để chỉ một hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện từ cuối năm 1999 tại các làng thuộc xã Hà Mòn, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum. Phong trào này xuất hiện do một số người dân tộc thiểu số như Y Gyin, Y Kách, A Níp dựa trên niềm tin về cứu thế của Thiên chúa giáo, tung tin ""Đức Mẹ hiện hình". Vào cuối năm 1999, bà Y Gyin, sinh năm 1942, dân tộc Ba Na Rơ Ngao tại làng Kơ Tu, xã Hơ Moong (Hà Mòn), huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, là tín đồ Thiên chúa giáo nhưng lại chuyên hành nghề thầy cúng, thầy mo đã nghĩ ra chuyện mình được "Đức Mẹ hiển linh trao cho sứ mệnh truyền giáo" để lôi kéo người dân địa phương đi theo. Y Gyin tuyên bố nhìn thấy "Đức mẹ Maria hiện hình"" trên nóc nhà vào lúc 12 giờ đêm ngày 20 tháng 12 năm 1999 và mình được chọn làm sứ giả để phán truyền cho loài người. Có nhiều nơi người theo đạo còn tự nhận là "Công giáo Đêga" tương tự như trước đây FULRO đã dựng lên Tin lành Đêga để tập hợp lực lượng thực hiện mục đích ly khai vùng Tây Nguyên. Chính quyền Việt Nam coi đây là tà giáo, lợi dụng hoạt động tôn giáo để lồng ghép âm mưu chống phá chính quyền, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. |
Trong chính trị Ecuador, ([ˈmweɾte kɾuˈsaða]) là thuật ngữ chỉ một cơ chế luận tội tổng thống và giải tán Quốc hội được quy định trong Điều 130 và Điều 148 của Hiến pháp năm 2008.
Theo Điều 148, tổng thống có quyền giải thể Quốc hội, nhưng phải trả giá bằng việc cho cử tri cơ hội bỏ phiếu bầu tổng thống ra khỏi nhiệm sở. Cơ chế này yêu cầu tổ chức một cuộc bầu cử đặc biệt sau khi giải thể, trong đó sẽ bầu ra tổng thống và phó tổng thống mới, cũng như Quốc hội mới. Các ứng cử viên đắc cử - vào cả hai nhánh hành pháp và lập pháp - sẽ phục vụ hết phần còn lại của nhiệm kỳ tổng thống và lập pháp hiện tại. Sau đó, một cuộc bầu cử thường kỳ cho nhiệm kỳ bốn năm đầy đủ sẽ được tổ chức theo lịch bầu cử thông thường.
Điều 130 cũng quy định tương tự trong trường hợp tổng thống bị luận tội thành công: tổng thống đương nhiệm có thể bị bãi nhiệm bởi hai phần ba số thành viên của Quốc hội (92/137 phiếu), nhưng nếu tổng thống bị bãi nhiệm theo cách này, phải tổ chức bầu cử mới để bầu ra tổng thống mới và Quốc hội mới để phục vụ hết phần còn lại của nhiệm kỳ hiện tại.
Vì vậy, khía cạnh "tử vong chéo" của các quy định này phát sinh từ một yếu tố chính: "khi giải thể một nhánh của chính phủ, nhánh kia sẽ cho cử tri quyết định về việc tiếp tục giữ chức vụ của mình: nói cách khác, các cuộc bầu cử được tổ chức đối với cả nhánh chính phủ bị giải thể và nhánh yêu cầu giải thể."
Quy định muerte cruzada được đưa ra nhằm tránh tình trạng bế tắc chính trị kéo dài đã từng đặc trưng cho Ecuador dưới các hiến pháp trước đây. Nó được coi là một cách giải quyết khủng hoảng hiến pháp nhưng nó cũng bị chỉ trích là có thể dẫn đến bất ổn chính trị và suy yếu thể chế. Một phán quyết của Tòa án Hiến pháp vào tháng 9 năm 2010 mô tả muerte cruzada là "một công cụ kiểm tra và cân bằng nhằm cân bằng một nhánh của chính phủ với một nhánh khác". |
Alhaji Ahmad Tejan Kabbah (16 tháng 2 năm 1932 – 13 tháng 3 năm 2014) là chính trị gia Sierra Leone, Tổng thống thứ 3 của Sierra Leone trong hai giai đoạn 1996-1997 và 1998-2007. Ông cũng là nhà kinh tế và luật sư chuyên nghiệp, nhiều năm làm việc cho Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc. Năm 1992, ông nghỉ hưu ở Liên Hợp Quốc và trở về Sierra Leone.
Đầu năm 1996, Kabbah được bầu làm lãnh đạo Đảng Nhân dân Sierra Leone (SLPP) và đại diện cho đảng tranh cử trong cuộc bầu cử tổng thống tự do đầu tiên tại Sierra Leone vào cuối năm. Ông đắc cử với 59% phiếu bầu, đánh bại đối thủ John Karefa-Smart của Đảng Nhân dân Toàn quốc Thống nhất (UNPP): Karefa-Smart thừa nhận thất bại với 40% phiếu vòng hai. Cuộc bầu cử được các quan sát viên quốc tế đánh giá là tự do và công bằng. Kabbah vận động tranh cử với lời hứa sẽ chấm dứt nội chiến nếu được bầu làm tổng thống và đã lặp lại trong phát biểu nhậm chức.
Là người Mandingo sùng đạo Hồi, Kabbah sinh tại Pendembu, Quận Kailahun miền Đông Sierra Leone, nhưng lớn lên ở thủ đô Freetown. Kabbah là người Hồi giáo đầu tiên làm nguyên thủ quốc gia và tính đến năm 2023 vẫn là người Hồi giáo duy nhất giữ chức vị này của Sierra Leone.
Năm 1965, Kabbah kết hôn lần đầu với Patricia Tucker là Kitô hữu người Sherbro gốc Quận Bonthe miền Nam Sierra Leone. Cả hai có năm người con. Trước khi làm tổng thống, cả hai vợ chồng vẫn thường xuyên xuất hiện trước công chúng. Bà có ảnh hưởng rất lớn trong nhiệm kỳ tổng thống của chồng, tập trung chủ yếu vào các vấn đề nhân đạo và quyết liệt yêu cầu phải chấm dứt nội chiến. Năm 1998, Tucker qua đời vì bạo bệnh.
Năm 2008, Kabbah tái hôn với Isata Jabbie Kabbah cũng là người Mandingo theo đạo Hồi.
Phần lớn thời gian Kabbah tại vị là giai đoạn nội chiến với Mặt trận Liên minh Cách mạng do Foday Sankoh cầm đầu. Ông tạm thời mất ghế từ tháng 5 năm 1997 đến tháng 3 năm 1998 do bị Hội đồng Cách mạng Quân lực lật đổ. Cộng đồng Kinh tế Tây Phi (ECOWAS) do Nigeria đứng đầu can thiệp quân sự vào Sierra Leone, Kabbah nhanh chóng trở lại nắm quyền.
Tổng thống Kabbah tiến hành đàm phán trực tiếp với phiến quân RUF để chấm dứt nội chiến. Ông ký một số hòa ước với Foday Sankoh, trong đó có Hiệp định hòa bình Lomé năm 1999 khi phe nổi dậy lần đầu tiên đồng ý ngừng bắn tạm thời với chính phủ. Khi thỏa thuận ngừng bắn sụp đổ, Kabbah vận động quốc tế như Anh, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Liên minh châu Phi và Cộng đồng Kinh tế Tây Phi hỗ trợ đánh bại quân nổi dậy và khôi phục hòa bình, trật tự ở Sierra Leone.
Tháng 1 năm 2002, Kabbah tuyên bố nội chiến chính thức kết thúc, chấm dứt chiến tranh. Cùng năm, Kabbah tiếp tục dễ dàng giành chiến thắng trong nhiệm kỳ 5 năm đánh bại đối thủ chính Ernest Bai Koroma của Đảng Đại hội Toàn dân (APC) đối lập với 70,1% phiếu bầu.
Kabbah qua đời ngày 13 tháng 3 năm 2014, thọ 82 tuổi, an táng tại Freetown. |
Công tước xứ Manchester
Công tước xứ Manchester (tiếng Anh: "Duke of Manchester") là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Đại Anh và là tước hiệu cao cấp nhất hiện nay của Nhà Montagu. Nó được tạo ra vào năm 1719 cho chính trị gia Charles Montagu, Bá tước thứ 4 xứ Manchester. Giáo xứ Manchester ở Jamaica được đặt theo tên của vị Công tước thứ 5, trong khi thủ phủ Mandeville của giáo sứ được đặt theo tên con trai và người thừa kế của ông. Công tước hiện tại là Alexander Montagu, Công tước thứ 13 xứ Manchester, một công dân Anh và Úc gây tranh cãi, sống ở Hoa Kỳ và đã thụ án nhiều lần. Ông kế vị tước hiệu vào năm 2002 sau cái chết của cha mình là Angus Montagu, Công tước thứ 12 xứ Manchester, vị công tước cuối cùng giữ một ghế trong Viện Quý tộc.
Người thừa kế hợp pháp của Công tước sẽ được nhận tước hiệu Bá tước xứ Manchester, ngoài ra, công tước còn được kèm theo 2 tước hiệu phụ là Tử tước Mandeville và Nam tước Montagu xứ Kimbolton.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Công tước xứ Northumberland
Công tước Northumberland (tiếng Anh: "Duke of Northumberland") là một tước hiệu đã được tạo ra ba lần trong lịch sử của Anh, hai lần thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh và một lần trong Đẳng cấp quý tộc Đại Anh. Người nắm giữ tước hiệu này hiện nay là Ralph Percy, Công tước thứ 12 xứ Northumberland.
Lần tạo ra gần đây nhất là vào năm 1766, khi vua George III của Anh trao cho Hugh Percy, Bá tước thứ 2 xứ Northumberland. Người thừa kế hợp pháp của Công tước được nhận tước hiệu Bá tước xứ Percy.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Little Saigon, Quận Cam
Quận Little Saigon ở các thành phố Garden Grove và Westminster ở Quận Cam, California là Tiểu Sài Gòn lớn nhất ở Hoa Kỳ. Saigon là tên cũ của thủ đô Việt Nam Cộng hòa, nơi mà một phần lớn các nhập cư đời đầu ở đây bắt nguồn.
Từ năm 1975, người Việt tị nạn đầu tiên đến Westminster từ trại Pendleton, nằm cách Westminster 50 dặm về phía Nam và từ các tiểu bang khác như Pennsylvania, Arkansas, Florida. Những cơ sở thương mại đầu tiên được lập ra là tiệm Phở Hoà và chợ Đà Lạt gần ngã tư đường First và Fairview thuộc thành phố Santa Ana. Khu này sau có thêm trung tâm sinh hoạt Nguyễn Khoa Nam do Đặng Giang Sơn thành lập. Nơi đó trở thành nơi tụ tập của cộng đồng tỵ nạn. Sau đó lui về phía tây cũng trên cùng tuyến đường First nhưng có tên là Bolsa Avenue thuộc hai thành phố Garden Grove và Westminster, khoảng năm 1978 xuất hiện chợ Hòa Bình, nhà sách Tú Quỳnh, và nhà hàng Thành Mỹ. Cùng năm đó, "Nhật báo Người Việt" góp mặt với văn phòng phát hành đặt tại thành phố Garden Grove. Những người Việt tỵ nạn dần tập trung ở quãng đường đó mua lại các cơ sở thương mại của người địa phương và lập nên một khu phố thương mại phảng phất hình bóng Việt Nam. Năm 1982 thì hình thành "Hiệp hội Thương gia Tiểu Sài Gòn". Sách báo tiếng Việt từ đó bắt đầu dùng danh từ "Phố Sài Gòn" nhất là khi hãng Bridgecreek cho xây thương xá hai tầng 1986-88. Địa bàn cộng đồng người Việt từ đó lan rộng tràn ra những thành phố lân cận như Stanton, Fountain Valley và Anaheim.
Năm 1986, Ủy ban Thành lập Danh xưng Little Saigon, sau đổi thành Ủy ban Phát triển Little Saigon bầu lên 15 ủy viên, xúc tiến họp với hội đồng thành phố Westminster chính thức công nhận danh xưng Little Saigon. Chính ủy ban đã được 18 vị dân biểu và nghị sĩ tiểu bang giúp đỡ để đưa đề nghị thành lập Đặc khu Tiểu Sài Gòn lên thống đốc tiểu bang. Ngày 1 tháng 6 năm 1986, trước Viện Lập pháp tiểu bang, Thống đốc George Deukmejian đã chấp thuận. Nha lộ vận California theo đó cho dựng 13 bảng tên "Little Saigon" chỉ lối cho xe rẽ từ xa lộ 22 và 405 vào.
Ngày 17 tháng 6 năm 1986, thị trưởng Westminster Chuck Smith đã làm lễ ra mắt Đặc khu Little Saigon trước thương xá Phước Lộc Thọ. Buổi lễ được đặt dưới sự chủ toạ của thống đốc tiểu bang và có sự hiện diện của đông đảo người Việt Nam trong vùng.
Bố trí và các dịch vụ.
Little Saigon tại Quận Cam có diện tích rộng lớn, với nhiều khu thương xá của người Việt và người Hoa và nằm giữa xa lộ California 22 và xa lộ Liên bang 405.
Ngoài các khu thương xá còn có siêu thị và nhà hàng bán các món ăn Việt Nam như cơm tấm, phở, bánh mì, bánh cuốn.
Năm 2016, một dịch vụ xe buýt miễn phí tên Little Saigon Shuttle được khánh thành để đưa đón hành khách mua sắm trong khu vực và phục vụ 22 trạm dừng. Tuy nhiên dịch tạm dừng sau 6 tháng do chi phí cao. Xe đò Hoàng, một dịch vụ xe đò đường dài, nối liền Little Saigon ở Quận Cam với cộng đồng ở San Jose và nhiều thành phố khác ở California và Arizona có đông người Việt sinh sống.
Little Saigon, đặc biệt là ở tại Westminster, thường được xem là trung tâm của ngành truyền thông Việt ngữ tại hải ngoại. Hầu hết các chương trình ca nhạc hải ngoại đều được phát hành tại đây, trong đó có "trung tâm Thúy Nga", "trung tâm Asia", "trung tâm Vân Sơn", , rất nhiều ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại cư ngụ tại khu vực này.
Có hai đài phát thanh phát sóng tiếng Việt 24 giờ mỗi ngày là Little Saigon Radio (trên KVNR 1480 AM) và Radio Bolsa (KALI 106.3 FM). Một đài khác thỉnh thoảng có chương trình tiếng Việt (KXMX-AM 1190). Nội dung phát sóng bao gồm tin tức, thời sự, âm nhạc, talk show, tôn giáo, đọc truyện, , mỗi ngày hai lần. Gần đây đài Little Saigon Radio cũng có nỗ lực phát thanh về Việt Nam.
Có 4 đài truyền hình phát sóng suốt ngày bằng Việt ngữ tại miền nam California. Hai đài truyền hình vệ tinh, Saigon Broadcasting Television Network và Hồn Việt TV cũng có trụ sở tại đây và có thể xem được trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ.
Tại đây có hàng chục tờ báo tiếng Việt được bán bên cạnh các báo tiếng Anh, có tiếng nhất trong số đó là "Báo Người Việt". Những tờ nhật báo lớn khác có thể nói đến là "Việt Báo", "Viễn Đông", , nguyệt san và báo phục vụ giới trẻ cũng được phát hành như "Việt Tide" (song ngữ) và Người Việt 2 (bằng tiếng Anh).
Little Saigon là một địa phương chống cộng mãnh liệt. Sự kiện Trần Trường đầu năm 1999 được xem là điểm mốc quan trọng trong hoạt động chính trị của người Việt tại Little Saigon nói riêng và Hoa Kỳ nói chung. Sự kiện xảy ra sau khi một người làm nghề cho thuê băng video tên là Trần Văn Trường treo cờ đỏ sao vàng và hình Hồ Chí Minh trên cửa tiệm. Sau khi ông không được chú ý, ông đã gửi fax đến một số cơ quan truyền thông cộng đồng để loan báo về hành động của mình. Trong gần 2 tháng sau đó, hàng nghìn người Việt biểu tình hằng ngày phản đối ông Trường và chính phủ Việt Nam, với điểm cao là một cuộc thắp nến được tổ chức bởi các đoàn thể sinh viên Mỹ gốc Việt, với sự tham dự của hơn 15.000 người, và được báo chí toàn quốc và quốc tế theo dõi. Sự việc kết thúc sau khi ông Trường bị kết án cho thuê băng lậu, và bị buộc phải đóng cửa tiệm. Ông Trường cho biết mình bị đánh 5 lần và phải vào bệnh viện, ông đã mất hết gia sản, khoảng 1 triệu đôla, và vợ ông, sau những biến cố, đã 'mắc bệnh tâm thần; đồng thời khẳng định đây là án sai, rằng 'ông không sang băng lậu, mà có hợp đồng kinh doanh với các công ty của Tàu. "Sự kiện đã đưa ra nhiều vấn đề về tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ, một số người ra đại diện làm trung gian với báo chí để phát biểu quan điểm của những người biểu tình. Nhiều người lãnh đạo trong cuộc biểu tình cảm thấy tự tin hơn và bắt đầu tham gia chính trường và vận động cộng đồng như trong Chiến dịch Cờ Vàng.
Người Mỹ gốc Việt, dựa vào số đông, đã và đang nắm giữ quyền lực chính trị đáng kể tại 2 thành phố Westminster và Garden Grove. Nhiều người tham gia vào các hoạt động chính trị tại địa phương và được bầu vào các chức vụ công. Ví dụ như Janet Nguyễn, vào năm 2007 trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên lên làm giám sát viên quận trên toàn quốc. Ông Trần Thái Văn đắc cử dân biểu tiểu bang California từ năm 2004 và trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên được bầu vào ngành lập pháp tiểu bang.
Sinh hoạt cộng đồng.
Năm 2003, "Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ" (tiếng Anh: "Vietnam War Memorial") đã được xây dựng tại Westminster để tưởng niệm những người lính Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam hồi thế kỷ trước.
Ngày 12 Tháng 8 năm 2009, Hội đồng thành phố Westminster, California lại thông qua nghị quyết 4257 công nhận ngày Thứ 7 cuối cùng mỗi Tháng Tư sẽ là "Ngày Thuyền nhân Việt Nam".
Trường Bolsa Grande High School tại Garden Grove là nơi tổ chức Hội Tết Việt Nam hàng năm do Tổng hội sinh viên Việt Nam Nam Cali UVSA tổ chức cho hàng trăm ngàn người tham dự. Hàng năm, từ năm 1997, vào ngày Tết Nguyên Đán, Little Saigon tại San Jose cũng có cuộc diễn hành Tết hoành tráng do Hội Diễn Hành Tết ("Vietnamese Spring Festival", VSF) tổ chức, với sự kết hợp của nhiều hội đoàn, tổ chức. Từ năm 2003, Đại hội Điện ảnh Việt Nam quốc tế (Vietnamese International Film Festival hay ViFF) là một đại hội điện ảnh diễn ra 2 năm 1 lần tại Đại học California tại Irvine và nhiều địa điểm quanh vùng Little Saigon, Quận Cam, Hoa Kỳ. |
Tsujii Honoka (, Tsujii Honoka 15 tháng 11 năm 1995 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti T-Powers.
Cô sinh ra tại tỉnh Okayama.
Tháng 3/2019 cô ra mắt ngành phim khiêu dâm với hình tượng là một nữ diễn viên kyonyū cao (172 cm).
Tháng 10/2020, cô xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm hàng tháng của sàn bán hàng qua bưu điện của FANZA. Cô cũng đã xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên khiêu dâm FANZA dựa trên cuộc điều tra của tạp chí FANZA hàng tháng.
2/2/2023, có tin tức rằng cô đã gặp tai nạn khiễn mũi bị gãy, vỡ xương sọ ngoài và phải khâu 15 mũi ở vùng trên mí mắt.
22/5/2023, phim của cô "BAZOOKA khuyến mãi lớn phim hay với ngực lớn và gay cấn nhất bản giới hạn không cắt của mùa đông dành cho người hâm mộ dài 2749 phút" (BAZOOKA 冬の大感謝セール コスパ最強ノーカットベスト爆乳限定2749分) (BAZOOKA) đã xếp thứ nhất trên bảng xếp hạng sàn video FANZA hàng tuần.
Sở thích của cô là xem phim còn kĩ năng đặc biệt của cô là chơi bóng rổ. |
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Aladdin là một khách sạn và sòng bạc nằm trên Las Vegas Strip ở Paradise, Nevada. Nhà sản xuất đồ chơi Edwin S. Lowe đã khai trương Khách sạn Tallyho 450 phòng trên khu đất này vào năm 1962. Tallyho là khách sạn lớn duy nhất ở Nevada không có sòng bạc; nó đóng cửa vào cuối năm và được bán cho Kings Crown Inns of America, một chuỗi khách sạn đã mở lại khách sạn một tháng sau với tên King's Crown Tallyho. Công ty đã bổ sung thêm sòng bạc và phòng trưng bày nhưng kế hoạch mở sòng bạc đã bị dừng lại khi Ủy ban Kiểm soát Trò chơi Nevada từ chối cấp giấy phép đánh bạc vì lo ngại khu nghỉ dưỡng không được tài trợ đầy đủ.
Milton Prell đã mua khách sạn và bắt đầu một cuộc cải tạo rộng rãi trị giá 3 triệu đô la trước khi mở lại khách sạn với tên Aladdin vào ngày 1 tháng 4 năm 1966. Một tòa tháp khách sạn 19 tầng đã được thêm vào năm 1976. Sau nhiều lần thay đổi chủ sở hữu, Aladdin đã bị đóng cửa vào năm 1997 và bị phá hủy vào năm sau để nhường chỗ cho một khu nghỉ dưỡng Aladdin mới khai trương vào năm 2000.
Khách sạn Tallyho theo phong cách kiến trúc Tudor của Anh được hình thành bởi chủ sở hữu Edwin S. Lowe, một nhà sản xuất đồ chơi ở New York, người cũng kiêm nhiệm chức vụ chủ tịch khách sạn. Lowe, người tin rằng có một số khách du lịch Las Vegas không quan tâm đến cờ bạc, đã chọn không thêm sòng bạc vào Tallyho. Khách sạn được xây dựng trên Las Vegas Strip, đối diện với khu nghỉ dưỡng Dunes. Việc xây dựng Tallyho đã được tiến hành vào tháng 3 năm 1962, với kế hoạch khai trương vào tháng 7. Vào tháng 5 năm 1962, Hội đồng Nước ngầm Quận Clark đã từ chối đơn xin cấp giấy phép giếng nước sẽ được sử dụng cho sân golf pitch and putt chín lỗ, mà Lowe dự định xây dựng ở phía sau khu đất. Một sân golf chín lỗ cuối cùng đã được thêm vào các kế hoạch cuối cùng.
Vào tháng 6 năm 1962, việc khai trương khách sạn đã bị trì hoãn đến ngày 1 tháng 10 năm 1962. Đồng thời, các quan chức quận phát hiện ra rằng khách sạn ba tầng bằng vữa có thể vi phạm quy tắc phòng cháy chữa cháy. Chủ sở hữu được yêu cầu đề xuất kế hoạch chống cháy cho mái nhà và gác mái bằng gỗ của khách sạn. Các quan chức quận đề xuất lắp đặt hệ thống phun nước hoặc vách thạch cao ở gác mái, cũng như bổ sung các vật liệu chống cháy trên mái của các cấu trúc khách sạn. Vào tháng 11 năm 1962, các vị trí quan trọng trong khu nghỉ dưỡng đã được công bố và ngày khai trương vào tuần Giáng sinh đang được lên kế hoạch.
Khách sạn Tallyho và Country Club khai trương vào ngày 24 tháng 12 năm 1962, với chi phí 12 triệu đô la. Lễ khai trương hoành tráng được tổ chức vào tháng 2 năm 1963. Đây là khu nghỉ dưỡng lớn duy nhất ở Nevada không có sòng bạc. Khách sạn có 450 phòng, 32 biệt thự, 6 nhà hàng, khu vực cưỡi ngựa và đi xe đạp, và dịch vụ trực thăng đưa đón khách đến các điểm tham quan gần đó như Núi Charleston và Hồ Mead. Mặc dù không có sòng bạc, nhưng khách sạn đã hoạt động thành công vào thời điểm khai trương. Tuy nhiên, Tallyho đã đóng cửa vào ngày 10 tháng 10 năm 1963 do doanh thu thấp gây ra bởi việc thiếu sòng bạc. Việc đóng cửa đã ảnh hưởng đến 100 nhân viên, và Lowe thừa nhận rằng đó là một sai lầm khi không mở khách sạn với một sòng bạc liền kề.
King's Crown Tallyho (1963–1966).
Chuỗi khách sạn Kings Crown Inns of America đã mua lại Tallyho với giá 7 triệu đô la Mỹ và mở cửa lại với tên King's Crown Tallyho vào ngày 5 tháng 11 năm 1963. Kings Crown dự định sẽ sớm bổ sung thêm sòng bạc và phòng trưng bày. Tallyho là khách sạn đầu tiên của Kings Crown ở miền tây Hoa Kỳ.
Hệ thống ánh sáng và âm thanh cho phòng trưng bày được hoàn thiện vào tháng 3 năm 1964, trong khi Kings Crown dự định khai trương phòng trưng bày vào mùa hè. Những người thiết kế âm thanh cho phòng trưng bày đã tham khảo ý kiến của các kỹ sư âm thanh tại Đại học California, Los Angeles. Nhà sản xuất phim Steve Parker, chồng của nữ diễn viên Shirley MacLaine, được bổ nhiệm làm giám đốc phòng trưng bày của khách sạn, với tên gọi Crown Room Theater-Restaurant. Ngoài ra, Parker cũng được bổ nhiệm làm đồng sở hữu khu nghỉ dưỡng. Vào tháng 4 năm 1964, một đám cháy đã xảy ra tại một trong những phòng khách sạn và gây thiệt hại do khói cho một phần của khách sạn. Đám cháy được cho là do một điếu thuốc lá gây ra.
Lễ khởi công xây dựng sòng bạc và phòng trưng bày được lên kế hoạch vào cuối tuần ngày 11-12 tháng 4 năm 1964. Các nhân vật nổi tiếng, bao gồm MacLaine, dự kiến sẽ tham dự buổi lễ. Các hạng mục bổ sung khác trong dự án mở rộng trị giá 3 triệu đô la sẽ bao gồm một hội nghị và một nhà hàng khác. Kế hoạch tương lai bao gồm việc bổ sung một tòa nhà khách sạn 15 tầng với 500 phòng. Việc xây dựng sòng bạc và phòng trưng bày đã được tiến hành vào tháng 5 năm 1964. Trong khi đó, Parker đang lên kế hoạch cho một chương trình sẽ có sự tham gia của các cô gái biểu diễn không hở ngực, một khái niệm không có trong các chương trình biểu diễn của các cô gái biểu diễn khác ở Las Vegas.
Đến cuối năm 1964, một tập đoàn gồm 6 công ty, với tổng số 17 cổ đông, đã nộp đơn xin giấy phép kinh doanh cờ bạc để mở sòng bạc như một phần của khoản đầu tư 500.000 đô la Mỹ. Vào ngày 22 tháng 12 năm 1964, Ủy ban Kiểm soát Trò chơi Nevada đã hoãn việc phê duyệt giấy phép kinh doanh cờ bạc cho đến tháng sau để có thời gian điều tra tình hình tài chính của tập đoàn. Ngày khai trương sòng bạc đã được lên kế hoạch vào đêm giao thừa, trong khi vẫn có khả năng phòng trưng bày và hai nhà hàng mới sẽ mở cửa vào thời điểm đó, nhưng cuối cùng chúng đã không mở cửa. Dự kiến sẽ có tổng cộng 500 người được tuyển dụng tại các cơ sở mới của khu nghỉ dưỡng. Vào tháng 1 năm 1965, Hội đồng Kiểm soát Trò chơi đã xem xét yêu cầu cấp giấy phép kinh doanh cờ bạc, nhưng đồng ý với yêu cầu của khách sạn về việc trì hoãn việc phê duyệt thêm 30 ngày để các thành viên trong tập đoàn có thể giải quyết các thỏa thuận tài chính. Vào thời điểm đó, tập đoàn bao gồm 18 người với tổng số vốn đầu tư là 800.000 đô la Mỹ.
Vào tháng 2 năm 1965, khi Hội đồng Kiểm soát Trò chơi đang xem xét việc cấp giấy phép kinh doanh cờ bạc, khách sạn đã đệ trình nhiều thay đổi về tập đoàn, bao gồm việc tăng tỷ lệ sở hữu của Parker từ 8% lên 20%. Hội đồng Kiểm soát Trò chơi đã hoãn việc phê duyệt giấy phép kinh doanh cờ bạc cho đến tháng sau.
Yêu cầu cấp giấy phép kinh doanh cờ bạc đã được rút lại vào tháng 3 năm 1965 để có thêm thời gian tổ chức lại tập đoàn. Cuối tháng đó, Kings Crown Tallyho Inn Incorporated, Equitable Real Estate Investment Trust và Fidelity Real Estate Investment Trust đã đệ đơn kiện yêu cầu loại bỏ những người thuê hiện tại của khách sạn vì đã không trả 632.000 đô la tiền thuê và các khoản thanh toán khác. Các công ty tuyên bố rằng các nhóm khác quan tâm đến việc tiếp quản khu nghỉ dưỡng ngay khi những người thuê, bao gồm Chuck Luftig và Edward Nealis, có thể bị loại bỏ.
Dịch vụ điện thoại đến khách sạn đã bị cắt vào tháng 4 năm 1965 do các hóa đơn điện thoại chưa thanh toán từ tháng 1. Tất cả 50 khách không thường trú được yêu cầu rời khách sạn. Luftig và Nealis đã bị loại bỏ khỏi vị trí người thuê vào cuối tháng, sau khi một thẩm phán ra phán quyết rằng khách sạn phải được trả lại cho Kings Crown. Tháng sau, Luftig và Nealis yêu cầu bồi thường 3,3 triệu đô la, cáo buộc Kings Crown đã không hoàn thành các cải thiện cần thiết cho khách sạn trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1964 đến tháng 1 năm 1965, dẫn đến thiệt hại tài chính.
Vào ngày 1 tháng 1 năm 1966, Milton Prell đã đồng ý mua lại King's Crown Tallyho, thuộc sở hữu của ba quỹ tín thác do anh em nhà Cook ở Indiana giám sát. Prell đồng ý mua khu nghỉ dưỡng với giá 10 triệu đô la Mỹ, sẽ được trả theo từng tháng.
Milton Prell đã công bố kế hoạch loại bỏ chủ đề Anh cũ và mở lại khu nghỉ dưỡng với tên gọi Aladdin theo chủ đề phương Đông vào ngày 16 tháng 4 sau một cuộc cải tạo rộng rãi trị giá 3 triệu đô la Mỹ. Prell cũng có kế hoạch xây dựng một tòa khách sạn bổ sung 40 tầng trị giá 20 triệu đô la Mỹ với 600 phòng. Việc xây dựng tòa nhà cao tầng dự kiến sẽ bắt đầu vào cuối năm. Martin Stern Jr. là kiến trúc sư cho dự án Aladdin, trong khi R. C. Johnson and Associates là nhà thầu và được thuê để xây dựng các cơ sở mới và cải tạo các cấu trúc hiện có. Kế hoạch cải tạo bao gồm việc tu sửa phòng trưng bày và phòng chờ, cũng như sòng bạc và mặt tiền của khách sạn. Thang máy và thang cuốn cũng được lắp đặt tại hai lối vào chính phía trước của khách sạn. Các cánh phòng theo chủ đề Anh ban đầu được giữ lại, nhưng được nhận chủ đề Nghìn lẻ một đêm cùng với phần còn lại của khu nghỉ dưỡng. Aladdin được đặt tên theo nhân vật cùng tên.
Hai tuần sau khi Prell tiếp quản khách sạn, ngày khai trương mới là ngày 1 tháng 4 đã được công bố do quá trình cải tạo diễn ra nhanh chóng, trong khi việc xây dựng tòa nhà cao tầng dự kiến sẽ bắt đầu vào mùa thu. Cuối tháng đó, Prell đã yêu cầu cấp giấy phép cờ bạc để vận hành 27 trò chơi trên bàn và 350 máy đánh bạc, với hoạt động của sòng bạc được tài trợ với chi phí 400.000 đô la thông qua Prell và các đối tác của ông, Gil Gilbert và Sidney Krystal. Prell sở hữu 20% cổ phần trong công ty khách sạn, trong khi Gilberts, phó chủ tịch công ty, nắm giữ 5% và Krystal, thư ký kiêm thủ quỹ, sở hữu 7%. Một nhóm lớn các nhà đầu tư sở hữu số cổ phiếu còn lại. Prell đã bổ nhiệm Joe Rollo và Bernie Richards, cả hai đều đến từ Beverly Hills, làm giám đốc giải trí và giám đốc dàn nhạc tương ứng. Ủy ban Cờ bạc đã khuyến nghị phê duyệt yêu cầu cấp giấy phép cờ bạc của Prell vào tháng 2 năm 1966. Prell đã được phê duyệt vào tháng sau cho giấy phép cờ bạc và rượu, với sự chấp thuận vận hành 351 máy đánh bạc và 29 trò chơi trên bàn.
Mở cửa và thay đổi quyền sở hữu.
Khu nghỉ dưỡng đã khai trương với tên Milton Prell's Aladdin vào nửa đêm ngày 1 tháng 4 năm 1966, trở thành khu nghỉ dưỡng lớn đầu tiên mở cửa trên Las Vegas Strip trong vòng chín năm. Aladdin bao gồm sòng bạc lớn nhất trên Las Vegas Strip và rạp hát Bagdad 500 chỗ. Những người có mặt tại lễ khai trương bao gồm Prell và vợ ông, cũng như Chủ tịch Ủy ban Quận William H. Briare, Thị trưởng Las Vegas Oran K. Gragson, và nhà xuất bản Las Vegas Sun Hank Greenspun. Aladdin, tọa lạc trên diện tích 35 mẫu Anh (14 ha), bao gồm một sân golf và năm nhà hàng. Một tuần sau khi khai trương, biển hiệu cho sòng bạc Dunes đã chào đón Aladdin và chúc khu nghỉ dưỡng mới "may mắn". Aladdin được coi là một trong những khu nghỉ dưỡng sang trọng nhất trên Las Vegas Strip, mặc dù lợi nhuận thường thấp. Xây dựng phần thêm của khách sạn cao tầng được lên lịch bắt đầu vào tháng 10 năm 1966.
Tháng 9 năm 1966, chín người, bao gồm con gái của Prell, Sheila, đã được chấp thuận đầu tư 287.500 đô la để sở hữu 11,5% cổ phần của Aladdin. Vào cuối năm 1966, Prell ngừng thanh toán cho các quỹ tín thác, nói rằng ông không đủ khả năng chi trả giá bán tổng thể 10 triệu đô la. Các quỹ tín thác đã đồng ý giảm giá bán xuống còn 5 triệu đô la, và việc Prell mua tài sản này đã hoàn thành vào ngày 9 tháng 2 năm 1967. Prell Hotel Corporation là chủ sở hữu mới. Tháng 5 năm 1967, Aladdin đã tổ chức đám cưới của Elvis và Priscilla Presley. Năm 1968, MK Investment Corporation đã đưa ra một lời đề nghị mua lại Aladdin không thành công. Việc cải tạo trị giá tổng cộng 750.000 đô la đã được hoàn thành vào tháng 8 năm 1969, bao gồm việc biến Sinbad Lounge thành một không gian kín và được san phẳng trên sàn sòng bạc với họa tiết Ả Rập.
Năm 1969, Parvin Dohrmann Corporation tiếp quản Aladdin và công ty được đổi tên thành Recrion Corporation. Vào tháng 2 năm 1971, một nhóm do cư dân Las Vegas Walter Gardner dẫn đầu đã đồng ý mua lại Aladdin với giá 16,5 triệu đô la. Việc bán hàng sẽ được hoàn thành khi chủ sở hữu mới nhận được giấy phép hoạt động sòng bạc của Aladdin. Thỏa thuận giữa Recrion và Gardner yêu cầu việc bán hàng phải được hoàn thành trước ngày 15 tháng 5 năm 1971. Gardner là cựu giám đốc điều hành của Binion's Horseshoe ở trung tâm Las Vegas, và nhóm của ông bao gồm sáu nhà đầu tư không được tiết lộ danh tính. Vào tháng 5 năm 1971, Recrion đã gia hạn thời hạn cho nhóm để huy động tiền để hoàn thành việc mua lại. Thỏa thuận đã bị hủy bỏ sau đó trong tháng sau khi Gardner không thể thực hiện việc mua lại, dẫn đến việc Recrion đệ đơn kiện Gardner đòi bồi thường 250.000 đô la.
Đến cuối năm 1971, Recrion đang lên kế hoạch bán Aladdin với giá 5 triệu đô la, nhằm giúp trả nợ cho khu nghỉ dưỡng. Aladdin đã được bán cho Sam Diamond, các chính trị gia ở St. Louis là Peter Webbe và Sorkis Webbe, và luật sư Richard L. Daly ở St. Louis với giá 5 triệu đô la. Các chủ sở hữu mới đã công bố kế hoạch xây dựng Regency Tower, tòa tháp 24 tầng, 800 phòng trị giá 25 triệu đô la, liền kề với Aladdin và dự kiến sẽ mở cửa vào cuối năm 1973. Dưới thời chủ sở hữu mới, một cuộc cải tạo trị giá 60 triệu đô la đã được thực hiện, bao gồm việc bổ sung một tòa tháp 17 tầng và Trung tâm Biểu diễn Nghệ thuật 7.500 chỗ ngồi mới thay thế sân golf, vốn vượt ngân sách 4 triệu đô la.
Việc xây dựng "Tháp Hoàng gia" 19 tầng bắt đầu vào tháng 5 năm 1975. Tòa tháp được thiết kế bởi Lee Linton và được xây dựng bởi Tập đoàn Del E. Webb. Tòa tháp mở cửa vào ngày 1 tháng 6 năm 1976.
Tháng 8 năm 1979, một số cá nhân đã bị bồi thẩm đoàn liên bang Detroit kết tội âm mưu cho phép các chủ sở hữu ẩn danh kiểm soát khu nghỉ dưỡng, và sau đó Ủy ban Trò chơi Nevada đã đóng cửa khách sạn.
Khu nghỉ dưỡng đã được bán cho Wayne Newton và Ed Torres vào năm 1980 với giá 85 triệu đô la, từ chối lời đề nghị của diễn viên hài Johnny Carson. Newton đã bán cổ phần của mình cho Torres 21 tháng sau đó. Newton đã kiện NBC, người đã tuyên bố trong các chương trình phát sóng rằng việc mua lại Aladdin của ông có liên quan đến mafia. Ông đã thắng một phán quyết trị giá 22,8 triệu đô la, nhưng đã bị hủy bỏ khi kháng cáo. Vào tháng 2 năm 1984, Aladdin đã nộp đơn xin phá sản theo Chương 11.
Năm 1986, doanh nhân Nhật Bản Yasuda Ginji đã mua lại Aladdin từ tình trạng phá sản với giá 54 triệu đô la. Yasuda đã chi thêm 35 triệu đô la để cải tạo khu nghỉ dưỡng. Yasuda đã bị các cơ quan quản lý của tiểu bang loại bỏ tư cách điều hành sòng bạc vào tháng 9 năm 1988. Yasuda đã nộp đơn xin phá sản theo Chương 11 cho khu nghỉ dưỡng vào tháng 10 năm 1989 và qua đời hai tháng sau đó. Tòa nhà đã được công khai rao bán vào năm 1990, sau nhiều tháng cố gắng tìm kiếm người mua tư nhân không thành công.
Tập đoàn Bell Atlantic-Tricon Leasing Corporation có trụ sở tại New Jersey đã mua lại khu nghỉ dưỡng từ Ginji Corporation sau khi phá sản vào năm 1991. Cùng năm đó, Bell Atlantic-Tricon đã rao bán tài sản này với giá tối thiểu là 44 triệu đô la. Vào tháng 1 năm 1994, doanh nhân Donald Trump đã cân nhắc việc mua lại Aladdin với giá 51 triệu đô la, mặc dù Bell Atlantic-Tricon đã từ chối bán tài sản này với giá dưới 60 triệu đô la. Trump quyết định không mua lại Aladdin vì ông cảm thấy giá quá cao. Sự quan tâm đến tài sản này đã tăng lên sau thông tin về việc Trump có khả năng mua lại, với sự xuất hiện của một số người mua tiềm năng. Tại thời điểm đó, khu nghỉ dưỡng bao gồm một khách sạn 1.000 phòng và một sòng bạc rộng 37.000 feet vuông. Cuối năm 1994, Jack Sommer, một nhà phát triển bất động sản ở Las Vegas và Sommer Family Trust đã mua lại khách sạn. Sommer Family Trust sở hữu Aladdin thông qua Aladdin Gaming Corporation - công ty cũng điều hành khu nghỉ dưỡng - và Aladdin Holdings LLC. Một cặp chim ưng peregrine nguy cấp đã làm tổ trên tháp khách sạn vào giữa những năm 1990.
Vào tháng 5 năm 1996, Ủy ban Quận Clark đã phê duyệt kế hoạch cải tạo và mở rộng trị giá 600 triệu đô la cho Aladdin, khi đó có 1.100 phòng khách sạn. Sommer và quận đã dành sáu tháng để làm việc trên thiết kế của dự án, dự án sẽ giữ lại tháp khách sạn và nhà hát ban đầu. Việc mở rộng sẽ bao gồm bốn tháp khách sạn mới, trong đó có tòa tháp trung tâm hình chữ nhật cao 400 feet. Các bổ sung khác sẽ bao gồm một khu chung cư nghỉ dưỡng có 256 phòng, một khách sạn-sòng bạc có 300 phòng và một trung tâm mua sắm sẽ được đồng quản lý bởi Eddie DeBartolo. Khách sạn sẽ tiếp tục hoạt động trong thời gian dự án mở rộng, dự kiến sẽ kéo dài từ 24 đến 30 tháng. Vào ngày 6 tháng 12 năm 1996, ban nhạc rock psychedelic Mỹ Phish đã biểu diễn tại Aladdin, đánh dấu sự xuất hiện lần đầu tiên ở Las Vegas của ban nhạc. Buổi biểu diễn cuối cùng đã được phát hành dưới dạng CD/DVD có tựa đề "Vegas 96". Buổi hòa nhạc có sự xuất hiện của khách mời là các thành viên của ban nhạc Primus và một nhóm người giả dạng Elvis.
Vào tháng 1 năm 1997, Aladdin Gaming Corporation đã thông báo rằng London Clubs International sẽ đầu tư 50 triệu đô la để sở hữu 25% cổ phần của khu nghỉ dưỡng Aladdin. London Clubs có kế hoạch bổ sung một cơ sở chơi game sang trọng cho Aladdin, nhằm thu hút những người chơi có số tiền đặt cược lớn. Cơ sở mới sẽ bao gồm 30 bàn chơi game và 100 máy đánh bạc. Nó sẽ là một phần của dự án cải tạo và mở rộng hai năm, dự kiến sẽ có chi phí 750 triệu đô la và được lên kế hoạch bắt đầu vào cuối năm 1997. Cơ sở chơi game mới sẽ có thiết kế theo phong cách châu Âu. Aladdin đã gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các khu nghỉ dưỡng lớn hơn trên Las Vegas Strip.
Vào tháng 3 năm 1997, Aladdin Holdings đã thông báo rằng khu nghỉ dưỡng sẽ bổ sung một trung tâm mua sắm rộng 450.000 feet vuông (42.000 m2) như một phần của dự án mở rộng. Nó sẽ có chủ đề Ả Rập của Aladdin và dự kiến sẽ mở cửa vào năm 1999, với TrizecHahn Corporation phụ trách việc xây dựng, cho thuê và vận hành. Trung tâm mua sắm, được gọi là Desert Passage, dự kiến sẽ có chi phí 210 triệu đô la. Đối với dự án mở rộng, Jack Sommer đã cân nhắc nhiều lựa chọn khác nhau, bao gồm việc đóng cửa khu nghỉ dưỡng để cải tạo và phá bỏ hoàn toàn khu nghỉ dưỡng để xây dựng một khu nghỉ dưỡng mới.
Đóng cửa và phá hủy.
Vào ngày 25 tháng 9 năm 1997, có thông báo rằng khách sạn Aladdin sẽ đóng cửa sau hai tháng và cuối cùng sẽ bị phá hủy để nhường chỗ cho một khu nghỉ dưỡng Aladdin mới lớn gấp ba lần khu nghỉ dưỡng ban đầu và sẽ bao gồm trung tâm thương mại Desert Passage. Khách sạn Aladdin có 1.485 nhân viên, trong khi khu nghỉ dưỡng mới sẽ sử dụng hơn 7.000 người. Nhà hát Aladdin dành cho Nghệ thuật Biểu diễn với 7.000 chỗ ngồi sẽ được giữ lại và hiện đại hóa cho khu nghỉ dưỡng mới. Một trong những buổi biểu diễn cuối cùng tại nhà hát Aladdin là Jane's Addiction.
Khách sạn Aladdin đóng cửa lúc 6:00 chiều ngày 25 tháng 11 năm 1997. Ít khách hàng sòng bạc tỏ ra buồn bã về việc đóng cửa. Nhà hát Aladdin đã tổ chức buổi biểu diễn cuối cùng vào tối hôm đó, với một chương trình của Mötley Crüe. Buổi biểu diễn trở nên hỗn loạn khi ban nhạc khuyến khích khán giả đứng dậy, khi một người cố gắng lấy chiếc mũ của tay guitar Mick Mars, vô tình đánh ngã anh ta. Việc phá dỡ dự kiến bắt đầu vào tháng 12 năm 1997, và việc đánh sập tòa tháp khách sạn dự kiến diễn ra vào tháng 2 năm 1998. Porte cochere của Aladdin có 9.230 bóng đèn, tổng chi phí thắp sáng trong năm 1997 là 23.499 đô la. Vào tháng 2 năm 1998, Aladdin Gaming tuyên bố rằng họ đã tài trợ cho kế hoạch xây dựng khu nghỉ dưỡng Aladdin mới, dự kiến chi phí 826 triệu đô la. National Content Liquidators đã tiến hành bán thanh lý tại chỗ khách sạn Aladdin bắt đầu từ ngày 6 tháng 3 năm 1998.
Vào ngày 27 tháng 4 năm 1998, tòa tháp khách sạn đã bị phá hủy bằng thuốc nổ lúc 7:27 chiều để nhường chỗ cho việc xây dựng khu nghỉ dưỡng Aladdin mới. Đây là khu nghỉ dưỡng thứ năm ở Las Vegas bị phá hủy bằng thuốc nổ.
Ước tính có khoảng 20.000 người đã đến xem vụ nổ từ các khu vực gần đó. Các giám đốc của Aladdin đã dựng một chiếc lều 1.000 người gần khách sạn Aladdin và tính phí 250 đô la một vé để mọi người xem vụ phá hủy bằng thuốc nổ từ bên trong lều, với số tiền thu được được quyên góp cho Quỹ Make-A-Wish của miền nam Nevada. Biển hiệu của khu nghỉ dưỡng cũ có dòng chữ: "Từ tro bụi, Aladdin trỗi dậy một lần nữa. Gặp lại bạn vào năm 2000."
Khu nghỉ dưỡng mới (2000-nay).
Khu nghỉ dưỡng Aladdin mới khai trương vào tháng 8 năm 2000. Khu nghỉ dưỡng gặp phải các vấn đề tài chính và nộp đơn xin bảo hộ phá sản theo Chương 11 vào tháng 9 năm 2001. Vào tháng 2 năm 2002, Aladdin Gaming đang tìm kiếm những người mua tiềm năng. Khu nghỉ dưỡng đã được bán trong thủ tục phá sản vào ngày 20 tháng 6 năm 2003 cho một tập đoàn của Planet Hollywood và Starwood. Sau khi được cải tạo, khu nghỉ dưỡng bắt đầu hoạt động vào năm 2007 dưới tên "Planet Hollywood".
Lịch sử điện ảnh.
Robert Hirsch, một nhà tư vấn địa điểm ở Las Vegas và cựu giám đốc của Phòng Phân phối Điện ảnh Nevada, cho biết các đoàn làm phim và truyền hình "luôn yêu thích cổng chính" của Aladdin, nhưng họ "không thích phần còn lại của nơi này." Sòng bạc của Aladdin được giới thiệu đáng kể trong bộ phim "Going in Style" năm 1979 và bộ phim "Heat" năm 1986. Cổng chính và sòng bạc xuất hiện trong bộ phim "Best of the Best II" năm 1993, trong khi nhà hát xuất hiện trong bộ phim tài liệu "Dancing for Dollars" năm 1997. "Behind Closed Doors", một loạt phim tài liệu, đã quay cảnh chuẩn bị phá dỡ tòa tháp khách sạn trước khi nó bị đánh sập. Loạt phim cũng đặt máy quay bên trong tòa tháp để cung cấp một cái nhìn bên trong tòa nhà trong quá trình đánh sập. Aladdin cũng xuất hiện trong một tập phim năm 1998 của "Ohh Nooo! Mr. Bill Presents", trong đó nhân vật ông Bill biểu diễn tại khu nghỉ mát. Cảnh quay vụ đánh sập được sử dụng trong "Gambling, Gods and LSD" (2002), trong phần kết thúc của bộ phim "The Cooler" năm 2003 và trong bộ phim "The Misfits" năm 2021. |
Nhà hàng xoay thường là không gian ăn uống của nhà hàng dạng tháp được thiết kế nằm trên đỉnh một bệ xoay hình tròn rộng hoạt động như một bàn xoay lớn. Tòa nhà vẫn đứng yên và thực khách được đưa lên sàn quay. Tốc độ quay thay đổi từ một đến ba lần mỗi giờ và cho phép khách hàng có thể ngắm nhìn toàn cảnh mà không cần rời khỏi chỗ ngồi. Những nhà hàng như vậy thường nằm ở tầng trên của khách sạn, tháp truyền thông và tòa nhà chọc trời.
Nhà hàng xoay được thiết kế theo dạng cấu trúc hình tròn, với một bệ xoay quanh lõi ở trung tâm. Lõi trung tâm chứa thang máy, nhà bếp hoặc các tính năng khác của tòa nhà. Bản thân nhà hàng nằm trên một bệ thép mỏng, với bệ nằm trên hàng loạt bánh xe nối với sàn của công trình. Ngoài ra, một số thiết kế, chẳng hạn như thiết kế ở Memphis, Tennessee, có bệ gắn trên lốp xe. Một động cơ làm quay nhà hàng với tốc độ dưới một mã lực. Tốc độ quay được ghi nhận là khác nhau, tùy thuộc vào sở thích.
Người ta tin rằng Hoàng đế Nero có một phòng ăn xoay bên trong cung điện Domus Aurea của ông trên Đồi Palatine với tầm nhìn tuyệt đẹp ra Công trường La Mã và Đấu trường La Mã. Giới khảo cổ đã khai quật được thứ mà họ tin là bằng chứng về phòng ăn như vậy vào năm 2009. |
Kem tuyết () có thể là một trong hai món tráng miệng riêng biệt.
Món tráng miệng làm từ kem.
Kem tươi có hoặc không có hương liệu được gọi là "kem tuyết" hoặc "tuyết sữa" ("neve di latte, neige de lait") cho đến thế kỷ 17. Lòng trắng trứng đánh bông đôi khi cũng được thêm vào. Có những công thức nấu ăn kiểu Anh và lục địa châu Âu có niên đại từ thế kỷ 16.
Món tráng miệng làm từ tuyết.
Kỹ thuật sử dụng tuyết làm nguyên liệu chính trong món tráng miệng đã rất cũ. Các thành phần phổ biến cho loại này là thành phần có nguồn gốc từ sữa, đường và chất tạo hương vị. Khi thêm một lượng nhỏ chất lỏng làm từ sữa và chất tạo hương vị (tương tự như thành phần kem) vào tuyết sạch, tuyết sẽ tan chảy và đông lại thành một loại kem thay thế đơn giản.
Công thức nấu món "tuyết" khác.
Táo tuyết, với táo xay nhuyễn được thêm vào công thức cơ bản, được dùng nóng phổ biến vào thế kỷ 17 trong khi phiên bản hiện đại hơn được ăn nguội. Thành phần nước ép trái cây cũng được sử dụng trong tuyết chanh và cam. Có một phiên bản tiếng Nga được gọi là "air pie", gồm có lòng trắng trứng, đường và trái cây xay nhuyễn, đánh bông và dùng nóng.
Tuyết mùa hè nổi tiếng dưới dạng có thành phần trái cây, lòng trắng trứng và rượu.
Quả cầu tuyết có thể là một loạt các món tráng miệng. Chúng thường không liên quan đến món tráng miệng kem tuyết. Một trong số đó, thường được gọi là slush, được làm từ đá và sirô trái cây, có thể được coi là có liên quan đến kem tuyết.
Tuyết ốc quế là một món tráng miệng đông lạnh được làm từ đá nghiền hoặc đá bào, có hương vị sirô có màu sắc rực rỡ, thường có hương vị trái cây, ăn kèm vỏ ốc quế hoặc cốc giấy. |
Kem hàu () là một loại kem có hương vị thơm ngon. Sau khi được ghi lại trong một cuốn sách dạy nấu ăn thế kỷ 19, để rồi bị lãng quên trong hai thế kỷ tiếp theo, hương vị kem này mới được xuất đầu lộ diện tại một số lễ hội về hàu thế kỷ 21.
Nguồn tư liệu lịch sử duy nhất viết về kem hàu được tìm thấy trong cuốn sách dạy nấu ăn của Mary Randolph có nhan đề "The Virginia Housewife", xuất bản năm 1824.
Trái ngược với nhiều nguồn tin khác nhau trong thế kỷ 21, kem hàu không được phục vụ trong Lễ Tạ ơn đầu tiên, cũng không phải là món ăn yêu thích của George Washington, cũng như không được Dolley Madison thưởng thức trong Nhà Trắng và còn không được Mark Twain nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết "Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer" của ông.
Theo đầu bếp kiêm chủ nhà hàng José Andrés, kem hàu được làm bằng cách "làm nóng nhẹ hàu và kem", trước khi đông lạnh sản phẩm. Nhà sử học thực phẩm Robert Brantley mô tả món kem hàu của thập niên 1800 là “[v]ề cơ bả" Kem hàu có hương vị thơm ngon trái ngược với vị ngọt. Lorraine Eaton của tờ "The Virginian-Pilot" đã viết rằng một trong những đồng nghiệp của cô tại nơi làm việc "gần như nôn nao" sau khi nếm thử món kem hàu tự làm của Eaton; những người khác lại có những lời chỉ trích tích cực về hương vị kem này.
Hai loại kem hàu đã được giới thiệu tại Lễ hội Hàu Colchester ở Colchester, Essex vào tháng 9 năm 2012. Kem "hàu và gừng" được phục vụ tại Lễ hội Hàu lần thứ 23 ở Phố Chính Arcata vào tháng 6 năm 2013. |
Fujimori Riho ( (Đằng-Sâm Lý-Tuệ), Fujimori Riho 3 tháng 12 năm 1996 –) là một nữ diễn viên khiêu dâm người Nhật Bản. Cô thuộc về công ti NAX Promotion (New Actor eXperience).
Cô ra mắt ngành phim khiêu dâm vào năm 2014. Sau khi tạm dừng hoạt động một thời gian, cô đã hoàn toàn trở lại làm nữ diễn viên khiêu dâm. Cô đã trở lại ngành dưới tên Fujimori Riho vào năm 2019. Công ti chủ quản tại thời điểm đó là All Pro.
30/11/2021, cô đã được đề cử bởi AV King và đã nhận giải Valuable Actress of AV King của Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV!.
2/5/2022, cô trở thành nữ diễn viên độc quyền của nhãn phim SOD Rei của SOD Create.
9/5/2023, cô đã trở nên nổi tiếng khi phát biểu về các sản phẩm với chữ kí của chính cô được bán lại rằng "Những người bán chúng là đồ ngốc" và "Những người mua chúng là đồ ngốc".
1/9/2023, cô trở thành nữ diễn viên độc quyền của hãng Honnaka và OPPAI với công ti chủ quản là NAX Promotion (New Actor eXperience).
4/10/2023, số người theo dõi cô trên chỉ trên 1 tài khoản mạng xã hội đạt 700 nghìn. |
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên ("Nature worship"/"Naturism"/"Physiolatry") là bất kỳ thực hành tôn giáo, tâm linh, tín ngưỡng và sùng đạo nào tập trung vào việc thờ cúng các linh hồn thiên nhiên được coi là thế lực đứng đằng sau các hiện tượng tự nhiên có thể nhìn thấy được trong thiên nhiên. Một vị thần tự nhiên có thể là đấng cai quản về thiên nhiên, một địa điểm, một sinh cảnh, sinh quyển, thiên hà hoặc vũ trụ. Sự sùng bái tự nhiên thường được coi là nguồn gốc nguyên thủy của tín ngưỡng tôn giáo hiện đại và có thể được nhận thấy trong thuyết phiếm thần, thuyết toàn thần, thuyết thần linh, thuyết đa thần, thuyết vật linh, Đạo giáo, thuyết vật tổ (Tôtem giáo), Ấn Độ giáo, Shaman giáo (pháp sư), một số thuyết hữu thần và ngoại giáo bao gồm cả Wicca. Điểm chung của hầu hết các hình thức tôn thờ tự nhiên là sự tập trung tinh thần vào sự kết nối và ảnh hưởng của cá nhân đối với một số khía cạnh của thế giới tự nhiên và sự tôn kính đối với thiên nhiên. Do sự ngưỡng mộ thiên nhiên bao la bất tận, các tác phẩm của Edmund Spenser, Anthony Ashley-Cooper và Carl Linnaeus được coi là sự sùng bái tự nhiên.
Nhà sử học người Anh là Ronald Hutton đã chỉ trích sự cổ hủ của việc thờ cúng thiên nhiên ít nhất là từ năm 1998 cho đến nay. Ông đã lập luận rằng các vị thần của vùng Địa Trung Hải Cổ đại không phải là các vị thần Thiên nhiên dưới bất kỳ hình thức nào; đúng hơn, họ là những vị thần của "nền văn minh và hoạt động của con người", trong khi "nữ thần Mẹ Trái đất" được ông mô tả chỉ là những nhân vật văn học chứ không phải các vị thần, bởi vì ông tin rằng họ không có bất kỳ ngôi đền nào dành riêng cho họ hoặc một chức tư tế để phụng vụ họ. Ông phản đối mạnh mẽ quan điểm này bằng cách phân biệt những người ngoại giáo cổ đại với những người theo Neopagan và người theo tôn giáo Wicca, những người tự nhận là những người tôn thờ thiên nhiên như một thành phần thiết yếu trong đức tin của họ, điều mà ông tin là không giống bất kỳ điều gì khác trong lịch sử được ghi chép lại. Mặc dù Ben Whitmore đã bị những người phái Wicca ở New Zealand buộc tội vì đã tước quyền bầu cử của những người Neopagan ""những người cảm thấy có mối quan hệ họ hàng và mối liên hệ" với các vị thần và những người ngoại đạo của Thế giới Cổ đại. Giáo sư Hutton đã trình bày lại những quan điểm này (hầu như nguyên văn) trong ấn bản thứ hai của cuốn sách của ông có tựa đề "Chiến thắng của thần trăng" (Triumph of the Moon).
Trong bối cảnh phương Tây, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên sau này đã được tôn giáo hóa cao độ với các khái niệm như Tôn giáo tự nhiên ("Natural religion") thường có nghĩa là "tôn giáo của tự nhiên" trong đó Thiên Chúa, tâm hồn, các linh hồn và mọi vật thể siêu nhiên được coi là một phần của tự nhiên và không tách rời khỏi nó. Ngược lại, nó cũng được sử dụng trong triết học để mô tả một số khía cạnh của tôn giáo được cho là có thể biết được ngoài sự mặc khải thiêng liêng chỉ thông qua logic và lý trí, ví dụ, sự tồn tại của Thần thông qua động cơ vô động lực, tác nhân đầu tiên của vũ trụ. Tôn giáo tự nhiên không chỉ là nền tảng của các tôn giáo độc thần như Do Thái giáo, Cơ đốc giáo và Hồi giáo mà còn khác biệt với chúng, các khía cạnh của tôn giáo tự nhiên được tìm thấy phổ biến ở tất cả các dân tộc, thường dưới những hình thức như đạo Shaman giáo và thuyết vật linh. Chúng vẫn được thực hành ở nhiều nơi trên thế giới, như các tôn giáo trong xã hội người Mỹ bản địa được coi là sở hữu một số khía cạnh của tôn giáo tự nhiên.
Phong trào Tôn giáo tự nhiên ("Nature religion") là một phong trào tôn giáo tin rằng thiên nhiên và thế giới tự nhiên là hiện thân của thần thánh, sự thiêng liêng hoặc sức mạnh tâm linh. Tôn giáo tự nhiên bao gồm các tôn giáo bản địa được thực hành ở nhiều nơi trên thế giới trong các nền văn hóa coi môi trường là nơi chứa đựng các linh hồn và các thực thể thiêng liêng khác. Nó cũng bao gồm các tín ngưỡng Pagan hiện đại, chủ yếu tập trung ở Châu Âu và Bắc Mỹ. Thuật ngữ "tôn giáo tự nhiên" lần đầu tiên được học giả nghiên cứu tôn giáo người Mỹ là Catherine Albanese đặt ra, bà này đã sử dụng nó trong tác phẩm xuất bản năm 1991 có tựa đề: "Tôn giáo tự nhiên ở Mỹ: Từ người da đỏ Algonkian đến thời đại mới" (Nature Religion in America: From the Algonkian Indians to the New Age) và sau đó bà tiếp tục sử dụng nó trong môn học khác. Sau khi Albanese phát triển thuật ngữ này, nó đã được các học giả khác làm việc trong lĩnh vực này sử dụng.
Chủ nghĩa tự nhiên tôn giáo ("Religious naturalism") là một khuôn khổ cho định hướng tôn giáo trong đó thế giới quan theo chủ nghĩa tự nhiên được sử dụng để giải đáp các loại câu hỏi và nguyện vọng vốn là một phần của nhiều tôn giáo. Nó được mô tả là ""một góc nhìn tìm thấy ý nghĩa tôn giáo trong thế giới tự nhiên". Chủ nghĩa tự nhiên tôn giáo có thể được coi là một triết lý, về mặt trí tuệ, và nó có thể được coi là một phần hoặc là trọng tâm của một định hướng tôn giáo cá nhân. Những người ủng hộ đã tuyên bố rằng nó có thể là một lựa chọn quan trọng cho những người không thể theo đuổi các truyền thống tôn giáo trong đó các sự hiện diện hoặc sự kiện siêu nhiên đóng vai trò nổi bật và nó cung cấp "một tầm nhìn tôn giáo mang tính tinh thần sâu sắc và đầy cảm hứng"" đặc biệt phù hợp trong thời đại này thời kỳ khủng hoảng sinh thái. Chủ nghĩa tự nhiên là quan điểm cho rằng thế giới tự nhiên là tất cả những gì tồn tại và các thành phần, nguyên tắc và mối quan hệ của nó là thực tế duy nhất. Tất cả những gì xảy ra đều được coi là do quá trình tự nhiên, không có gì liên quan đến siêu nhiên. Nguyên tắc chính của chủ nghĩa tự nhiên tôn giáo là thế giới quan theo chủ nghĩa tự nhiên có thể đóng vai trò là nền tảng cho định hướng tôn giáo. |
Area no Kishi (エリアの騎士, Eria no Kishi, "Kỵ sĩ trong Vòng cấm") là một series manga Nhật Bản được viết bởi Igano Hiroaki và minh họa bởi Tsukiyama Kaya. Bộ truyện đã được phát hành trên tạp chí Shōnen của Kodansha, Weekly Shōnen Magazine, từ tháng 4 năm 2006 đến tháng 3 năm 2017, với 57 tập trong các tuyển tập tankōbon. Một phiên bản truyền hình anime gồm 37 tập phim do Shin-Ei Animation sản xuất đã được phát sóng trên TV Asahi từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2012.
Aizawa Kakeru là em trai của Aizawa Suguru, một thần đồng bóng đá thuộc đội tuyển U-15 Nhật Bản. Trước đó, Kakeru từ bỏ vị trí tiền đạo sau một sự cố khiến anh không thể thi đấu bằng chân trái và chuyển sang vị trí quản lý. Sau khi cả hai bị xe tải đâm, Suguru chết và trái tim của anh được ghép cho Kakeru. Với trái tim đó, Kakeru trở lại với bóng đá để thực hiện ước mơ vô địch World Cup của anh trai mình.
Aizawa Kakeru (逢沢 駆)
Lồng tiếng bởi: Yūko Sanpei
Em trai của Suguru. Cậu ấy chơi ở vị trí tiền đạo. Khi còn là học sinh lớp sáu, và sau khi gây thương tích cho người bạn và đồng đội Hibino bằng cách sút bóng mạnh bằng chân trái, anh ấy trở nên cảnh giác khi sử dụng nó, điều này cản trở nghiêm trọng khả năng ghi bàn và đặc biệt là sự tự tin của anh ấy, đến mức anh ấy dường như không thể ghi bàn. Kết quả là, anh ấy bắt đầu chơi ngày càng ít thường xuyên hơn và bắt đầu làm việc nhiều hơn với tư cách trợ lý giám đốc, trước sự bực tức của anh trai anh ấy, át chủ bài Suguru. Tuy nhiên, anh ấy vẫn bí mật tập luyện bóng đá trong công viên hàng đêm.Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi người bạn thời thơ ấu của anh, Mishima Nana, trở lại Nhật Bản vào một ngày nọ và trở thành quản lý của đội. Hơn nữa, một người đeo mặt nạ bí ẩn xuất hiện vào một đêm tại công viên và thách anh ta chơi, điều mà họ vẫn làm hàng đêm. Điều này thúc đẩy Kakeru cố gắng một lần nữa với đội, và trong một trận đấu tập, anh ấy là tiền đạo duy nhất có thể theo kịp những đường chuyền bất ngờ và mạnh mẽ của Suguru, nhưng anh ấy không ghi bàn vì sợ sử dụng chân trái. Cảm thấy thất vọng, anh nói với anh trai rằng anh sẽ từ bỏ bóng đá chỉ vài phút trước khi cả hai bị một chiếc xe tải đâm. Sau khi hồi phục sau vụ tai nạn và từ ca ghép tim mà anh ấy nhận được từ anh trai mình như "đường chuyền cuối cùng", Kakeru phát hiện ra rằng anh ấy dường như đã thừa hưởng một số kỹ năng và tính khí của Suguru, và rằng anh ấy có thể sử dụng lại chân trái của mình.Người đeo mặt nạ được tiết lộ là Nana, người đã được Suguru yêu cầu giúp đỡ Kakeru, và cô tiết lộ với anh rằng ca cấy ghép của anh đến từ anh trai anh. Sau khi biết được điều đó và biết được ước mơ của anh trai mình là cả hai đều vô địch World Cup, anh quyết định quay trở lại với bóng đá và biến giấc mơ của anh trai mình thành hiện thực.
Aizawa Suguru (逢沢 傑)
Lồng tiếng bởi: Fukuyama Jun, Kumai Motoko (lúc nhỏ)
Anh trai của Kakeru. Suguru là một tiền vệ thiên tài và là đội trưởng đội bóng đá của trường, thậm chí còn góp mặt trong đội U-15 của Nhật Bản. Anh được nhiều người kỳ vọng sẽ gánh vác tương lai của bóng đá thế giới Nhật Bản. Anh nhận thức được tài năng cầu thủ bóng đá của em trai mình và cảm thấy khó chịu vì sự thiếu động lực của Kakeru. Trong manga gợi ý rằng Suguru có thể bằng cách nào đó đã đoán trước được cái chết của chính mình, khi anh ấy bắt đầu gặp ác mộng thường xuyên, kết thúc vào ngày anh ấy qua đời. Sau khi nghe tin anh trai quyết định từ bỏ bóng đá, anh định kể cho anh nghe về giấc mơ tuyệt vời mà anh có vào sáng hôm đó, khi cả hai bị một chiếc xe tải mà tài xế ngủ quên điều khiển. Suguru còn có phần tệ hơn, và rõ ràng là anh ấy không thể giúp được gì nữa. Biết được điều này và Kakeru cũng sẽ cần được ghép tim để sống, các bác sĩ và gia đình quyết định ghép tim của anh ấy cho Kakeru, người theo đó mơ thấy Suguru sẽ cho anh ấy một đường chuyền cuối cùng. Trao trái tim mình cho Kakeru, anh cũng trao cho cậu ước mơ vô địch cúp thế giới.
Mishima Nana (美島 奈々)
Lồng tiếng bởi: Itō Shizuka
Bạn thời thơ ấu của Suguru và Kakeru, biệt danh là Seven. Kể từ khi trở về từ Los Angeles, cô ấy đã trở thành người quản lý, giống như Kakeru. Cô ấy giỏi bóng đá và có quan hệ họ hàng với Kakeru.
Nakatsuka Kota (中塚 公太)
Lồng tiếng bởi: Shiraishi Minoru
Saeki Yusuke (佐伯 祐介)
Lồng tiếng bởi: Shingaki Tarusuke
Aizawa Mito (逢沢 美都)
Lồng tiếng bởi: Shindō Kei
Lồng tiếng bởi: Tahara Aruno
Lồng tiếng bởi: Sakuma Rei
Được viết bởi Igano Hiroaki và minh họa bởi Tsukiyama Kaya, The Knight in the Area được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Shōnen Weekly Shōnen Magazine của Kodansha từ ngày 26 tháng 4 năm 2006 đến ngày 29 tháng 3 năm 2017. Kodansha sưu tầm các chương của nó gồm 57 tập tankōbon, phát hành từ ngày 17 tháng 8 năm 2006 đến ngày 17 tháng 5 năm 2017.
Một bộ anime truyền hình dài 37 tập , do Shin-Ei Animation sản xuất và Ogura Hirofumi làm đạo diễn, được phát sóng trên TV Asahi từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 29 tháng 9 năm 2012. Bài hát chủ đề mở đầu là "Higher Ground" ("ハイヤーグラウンド", "Haiyā Gurundo" ) của "SRS".
Bộ phim được Crunchyroll phát sóng đồng thời tại Hoa Kỳ, Canada, Anh Quốc, Ireland, Nam Phi, Úc và New Zealand.
Tới tháng 8 năm 2021, manga đã có hơn 13 triệu bản được lưu hành. |
Tôn giáo của người Mỹ bản địa
Tôn giáo của người Mỹ bản địa ("Native American religions") hay tôn giáo của thổ dân da đỏ hay tôn giáo của người Anh-Điêng là những thực hành tâm linh của người Mỹ bản địa (người da đỏ) ở Hoa Kỳ và châu Mỹ nói chung. Các cách nghi lễ tôn giáo bản địa của người da đỏ có thể rất khác nhau và dựa trên lịch sử và tín ngưỡng khác nhau của từng cộng đồng, bộ lạc và nhóm thổ dân. Những nhà thám hiểm châu Âu ban đầu mô tả các bộ lạc người Mỹ bản địa riêng lẻ và thậm chí cả các nhóm nhỏ đều có những thực hành tôn giáo riêng. Về mặt thần học thì hệ thống thần linh của người da đỏ có thể là độc thần, đa thần, theo thuyết vật linh, Shaman giáo (pháp sư), phiếm thần hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng, trong số những thứ khác. Niềm tin truyền thống thường được truyền lại dưới hình thức lịch sử truyền miệng, câu chuyện, ngụ ngôn và nguyên tắc sống.
Bắt đầu từ những năm 1600, những Cơ đốc nhân ở Châu Âu, và cả Công giáo cùng những người thuộc các giáo phái Tin lành khác nhau, đã tìm cách chuyển đổi cải đạo các bộ lạc người Mỹ bản địa từ niềm tin tổ tiên của họ sang Cơ đốc giáo. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập vào cuối những năm 1700, chính phủ của nước này tiếp tục đàn áp các tập tục của người bản địa và thúc đẩy việc cưỡng bức cải đạo. Các cơ quan chính phủ và các tổ chức tôn giáo thường hợp tác trong các nỗ lực cưỡng bức cải đạo này. Trong nhiều trường hợp, bạo lực được sử dụng như một công cụ đàn áp, chẳng hạn như việc chính phủ dùng bạo lực tiêu diệt những người trình diễn Vũ điệu ma vào năm 1890.
Vào đầu thế kỷ XX, chính phủ Mỹ bắt đầu chuyển sang các biện pháp ít bạo lực hơn để đàn áp niềm tin tôn giáo của người Mỹ bản địa. Một loạt luật liên bang đã được thông qua cấm các tập tục truyền thống của Người bản địa như các bữa tiệc, nghi lễ Múa mặt trời và việc sử dụng lều nghi lễ, cùng những điều khác. Cuộc đàn áp và truy tố này của chính phủ chính thức tiếp tục cho đến năm 1978 với việc thông qua Đạo luật Tự do Tôn giáo của người Mỹ bản địa (AIRFA), mặc dù có ý kiến cho rằng AIRFA có rất ít tác dụng thực sự trong việc bảo vệ tín ngưỡng dân gian, tôn giáo bản địa. Một hệ thống đàn áp tôn giáo quan trọng khác là tách trẻ em người Mỹ bản địa khỏi gia đình của chúng để chuyển sang hệ thống trường nội trú dành cho người Mỹ bản địa do chính phủ tài trợ và điều hành (còn được gọi là trường dân cư). Tại những trường học này, trẻ em bản địa bị ép buộc bằng bạo lực và áp bức để học tín ngưỡng Cơ đốc giáo châu Âu, các giá trị của nền văn hóa da trắng chính thống và tiếng Anh, đồng thời bị cấm nói ngôn ngữ riêng và thực hành tín ngưỡng văn hóa của riêng họ. Hệ thống cưỡng bức chuyển đổi và đàn áp ngôn ngữ và văn hóa bản địa này tiếp tục diễn ra trong suốt những năm 1970.
Một số nhà nhân chủng học không phải người bản địa ước tính số thành viên trong các tôn giáo truyền thống của người Mỹ bản địa trong thế kỷ 21 là khoảng 9000 người. Vì người Mỹ bản địa thực hành các nghi lễ truyền thống thường không có các tổ chức công cộng hoặc danh sách thành viên nên những ước tính về ""thành viên" này có thể thấp hơn đáng kể so với số lượng người thực tế tham gia các nghi lễ truyền thống. Các nhà lãnh đạo tinh thần của người Mỹ bản địa cũng lưu ý rằng những ước tính mang tính học thuật này đã đánh giá thấp đáng kể số lượng người tham gia vì một thế kỷ chính phủ Liên bang Hoa Kỳ đàn áp và truy tố các nghi lễ truyền thống đã khiến các tín đồ thực hành tôn giáo của họ một cách bí mật. Nhiều người theo đường lối tâm linh truyền thống cũng tham dự các buổi lễ của Cơ đốc giáo, ít nhất là đôi khi, điều này cũng có thể ảnh hưởng đến số liệu thống kê. Kể từ khi 80 năm các cuộc đàn áp pháp lý trước đó kết thúc với AIRFA, một số địa điểm linh thiêng ở Hoa Kỳ hiện là khu vực được bảo vệ theo luật
Mexicayotl (tiếng Nahuatl từ có nghĩa là "Bản chất của người Mexico" - "Bản sắc Mễ", bao gồm cụm từ "Mexico""; tiếng Tây Ban Nha: "Mexicanidad" và hậu tố "-yotl") là một phong trào phục hồi tôn giáo, triết học và truyền thống bản địa của Mexico cổ đại (tôn giáo Aztec và triết học Aztec) của người Mễ. Phong trào này được công khai lộ diện vào những năm 1950, do các trí thức thành phố Mexico lãnh đạo, nhưng chỉ phát triển đáng kể ở cấp độ cơ sở trong thời gian gần đây, cũng lan sang người Mỹ gốc Mexico (Chicanos) ở Bắc Mỹ. Nghi lễ của họ liên quan đến thực hành Mitotiliztli. Những người sùng mộ được gọi là "Mexicatl" (số ít) và "Mexicah" (số nhiều), hoặc đơn giản là "Mexica", hầu hết đều là dân thành thị và ngoại ô.
Phong trào Mexicayotl bắt đầu vào những năm 1950 với việc thành lập nhóm Nueva Mexicanidad do Antonio Velasco Piña sáng lập. Cùng năm đó, Rodolfo Nieva López đã thành lập "Phong trào Liên minh nhằm Khôi phục Văn hóa Anáhuac" cùng với người đồng sáng lập là Francisco Jimenez Sanchez, người trong những thập kỷ sau đó đã trở thành nhà lãnh đạo tinh thần của phong trào Mexicayotl, được ban cho danh xưng "Tlacaelel". Ông có ảnh hưởng sâu sắc trong việc định hình phong trào, thành lập In Kaltonal ("Ngôi nhà của Mặt trời", còn gọi là "Nhà thờ Bản địa Mễ Tây Cơ") vào những năm 1970. Từ những năm 1970 trở đi, Mexcayotl đã phát triển trên một mạng lưới các nhóm cộng đồng và thờ cúng địa phương (được gọi là "calpulli" hoặc "kalpulli") và lan sang Người Mỹ gốc Mễ hoặc Chicanos ở Hoa Kỳ. Phong trào cũng đã phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các phong trào bản sắc dân tộc Mexico và chủ nghĩa dân tộc Chicano. Nhà thờ bản địa Mexico của Sanchez (là một liên minh của các Calpullis) đã được chính phủ Mexico chính thức công nhận vào năm 2007. |
Thuyết hữu thần Satan
Thuyết hữu thần Satan ("Theistic Satanism") còn được gọi là tôn giáo thờ Satan là một thuật ngữ chung để chỉ các nhóm tôn giáo coi Satan, Ác quỷ hoặc Lucifer tồn tại một cách khách quan như một vị thần, thực thể siêu nhiên hoặc linh hồn xứng đáng thờ phượng hoặc tôn kính, những người mà các cá nhân có thể tiếp xúc và triệu hồi, trái ngược với nguyên mẫu, ẩn dụ hoặc biểu tượng vô thần được tìm thấy trong thuyết Satan LaVeyan. Các hội nhóm ủng hộ niềm tin hữu thần của tôn giáo Satan thường có ít tín đồ, liên hệ lỏng lẻo hoặc tự coi mình là các nhóm và nhóm độc lập, phần lớn tự đặt mình ra ngoài lề xã hội. Một đặc điểm nổi bật khác của thuyết Satan hữu thần là việc sử dụng nhiều loại phép thuật khác nhau. Hầu hết các nhóm theo thuyết Satan hữu thần đều tồn tại trong những mô hình và hệ tư tưởng tương đối mới, nhiều nhóm trong số đó độc lập với các tôn giáo Áp-ra-ham.
Thuyết hữu thần Satan bao gồm nhiều tôn giáo liên quan đến việc thờ phượng một hình tượng được gọi là Satan hay là có liên quan đến Satan. Ngược lại với LaVeyan Satanism, giáo phái Satan chỉ coi Satan như một biểu tượng cho triết lý của họ, còn "Theistic Satanism" là những giáo phái coi Satan như một vị thần, một thực thể có thật. Satan giáo là một tôn giáo phát triển phần lớn trong thế kỷ XX. Người theo đạo Satan hữu thần thường được gọi là ""giáo đồ Satan truyền thống" hoặc "Satanist thuộc linh". Thuật ngữ "thờ phụng quỷ dữ"" là chủ đề gây tranh cãi nhất trong giới Satan cả hữu thần lẫn vô thần và cả những nhà thần học Satan. Nhiều tín đồ Satan đã được biết đến Satan giáo qua cuốn "Kinh Satan" của Anton LaVey đã được xuất bản vào năm 1966. Lúc đó chỉ có một vài nhóm nhỏ thực hành pháp môn Satan giáo
Sau đó, Satan giáo mới chỉ phát triển mạnh khi Internet bắt đầu phổ cập, điều này dẫn tới sự mở rộng tín đồ vì việc truyền bá thông tin đã trở nên dễ dàng hơn dẫn đến việc phát tán dễ hơn. Những người theo Satan giáo hữu thần thừa nhận Satan là một vị thần mà họ tôn thờ. Tuy nhiên, nó không giống như Satan được mô tả theo đạo Thiên chúa. Trái với quan niệm sai lầm thông thường, Satan giáo không cổ xúy việc giết người, hãm hiếp, làm điều ác thay vào đó, vị thần Satan là vị thần của sự tự do, tình dục, sức mạnh, sự sáng tạo, chủ nghĩa khoái lạc và sự thành công.
Satan giáo hữu thần không có một tổ chức đầu cơ, mà chỉ là những hội nhóm nhỏ lẻ hoạt động độc lập với nhau. Một số hội nhóm này thờ phượng một vị thần Satan, một số nhóm khác thì sử dụng cái tên khác thay cho Satan, một số nhóm thờ Satan hữu thần như:
Quan điểm thần học giữa các nhóm có thể khác nhau rất nhiều. Một số vay mượn quan điểm của LaVeyan trong khi đó một số khác thì ảnh hưởng từ triết lý của Michael Aquino, giáo chủ của Temple of Set, trước đây đã từng là một tín đồ Satan giáo vô thần. Tương tự, tín đồ Lucfier cũng có nhiều nguyên tắc giống như tín đồ Satan hữu thần. Họ thừa nhận một thực thể có tên là Lucifer, nhưng họ không tự gọi mình là tín đồ Satan. Trong một số giáo phái Satan hữu thần, tín đồ có niềm tin vào Thượng Đế Satan như là vũ trụ. Trong đó, Satan được xem như là "Cái Toàn Thể". Các hội nhóm khác gây dựng hình ảnh Satan như là đại diện của vũ trụ. The First Church of Satan là Độc thần giáo. Các giáo phái Satan hữu thần khác thì tôn thờ Satan như một vị thần trong số nhiều vị thần khác, nhiều trong số đó đến từ những tôn giáo cổ trước khi Abraham xuất hiện như Nhà thờ Azazel. Năm 1999, triết gia René Girard người Pháp cho xuất bản cuốn sách tựa đề “"Đã thấy Satan từ trời rơi xuống như ánh chớp"”, trong đó ông áp dụng cho Belzebul “"lý thuyết vật hiến tế"”, dựa trên hiến tế của người vô tội để chuộc sự dữ, sau đó, một trong những môn sinh của ông là triết gia Claudio Tardini, đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề “"Ma qủy, có lẽ thế. Suy tư trở lại Satan ngày nay"” với mục đích là thử thành lập một “"khoa ma qủy học hữu lý"” và trao ban trở lại quyền công dân cho Satan trong tư tưởng ngày nay, bằng cách trốn chạy chủ trương nghi hoặc duy lý cũng như các lo sợ của thuyết duy tín. |
Posh và Becks (tiếng Anh: "Posh and Becks") là một biệt danh của cặp đôi người Anh rất nổi tiếng Victoria Beckham (họ thời con gái "Adams", thành viên "Posh Spice" của nhóm nhạc nữ Spice Girls) và David Beckham (nam danh thủ bóng đá và cựu đội trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Anh). "Posh Becks" cũng là tựa đề quyển sách nói về cặp đôi của tác giả Andrew Morton.
Adams và Beckham bắt đầu hẹn hò vào năm 1997, từ đó dẫn tới sự hình thành thuật ngữ kể trên nhờ vào hiệu ứng truyền thông rộng rãi. Đám cưới của cặp đôi nổi tiếng diễn ra vào ngày 4 tháng 7 năm 1999, và căn nhà chung của hai người họ tại Hertfordshire, Anh Quốc rất nhanh được truyền thông đặt biệt danh là "Beckingham Palace" (cách nói ghép từ giữa cung điện Buckingham và họ Beckham). Vợ chồng Beckham có ba người con trai: Brooklyn, Romeo và Cruz; và một người con gái út: Harper.
"Posh và Becks" được chính thức đưa vào trong từ điển Collins "Concise English Dictionary" vào năm 2001. Thuật ngữ này được sử dụng nhiều trên báo chí và những phương tiện truyền thông khác, và trở nên phổ biến rộng rãi ở nền văn hoá nước Anh. Tuy nhiên, "Posh và Becks" cũng từ đó bị biến thành từ lóng, ý chỉ "tình dục". |
Tổng tuyển cử Serbia 1989
Cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại Serbia vào ngày 12 tháng 11 năm 1989 để bầu ra Tổng thống Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia và các đại biểu Quốc hội CHXHCN Serbia. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu cũng diễn ra vào ngày 10 và 30 tháng 11 năm 1989. Ngoài cuộc tổng tuyển cử, các cuộc bầu cử địa phương cũng được tổ chức đồng thời. Đây là cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên tại Serbia kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuộc bầu cử diễn ra trước sự nổi lên của Slobodan Milošević, sau khi ông được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn những người Cộng sản Serbia (SKS) năm 1986, và lật đổ cố vấn của mình, Ivan Stambolić, và các đồng minh của Stambolić ra khỏi các vị trí chủ chốt vào năm 1987. Milošević bắt đầu cuộc cách mạng chống quan liêu và sửa đổi Hiến pháp Serbia năm 1988. Sau khi Milošević được bổ nhiệm vào vị trí Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia vào tháng 5 năm 1989, các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội được công bố vào tháng 11 năm 1989.
Milošević, Mihalj Kertes, Zoran Pjanić và Miroslav Đorđević là các ứng cử viên trong cuộc bầu cử tổng thống. Milošević cuối cùng đã giành chiến thắng long trời lở đất. SKS giành được 303 ghế, giảm 20 ghế so với cuộc bầu cử năm 1986, và 37 cá nhân phi đảng phái khác giành được số ghế còn lại trong Quốc hội. Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư giải tán vào tháng 1 năm 1990, và sau cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 7 năm 1990, Serbia đã thông qua hiến pháp mới thực hiện chế độ đa đảng và giảm bớt quyền lực của các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina. Cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên sau đó được tổ chức vào tháng 12 năm 1990.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản củng cố quyền lực ở Nam Tư, biến đất nước này thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mỗi nước cộng hòa cấu thành đều có Đảng Cộng sản riêng, trong đó Serbia có Đảng Cộng sản Serbia. Đảng Cộng sản liên bang đổi tên thành Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư (SKJ) tại Đại hội thứ 6 năm 1952. Các chi bộ cũng làm theo, và Đảng Cộng sản Serbia đổi tên thành Liên đoàn những người Cộng sản Serbia (SKS). Josip Broz Tito là chủ tịch của SKJ cho đến khi ông chết năm 1980.
Sau cái chết của Tito, Nam Tư phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến kinh tế, các vấn đề về hiến pháp và nguy cơ chủ nghĩa dân tộc sắc tộc trỗi dậy. Nam Tư ban đầu thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng để giảm nợ. Dù vậy, nợ, lạm phát và thất nghiệp vẫn gia tăng mạnh vào những năm 1980. Theo nhà báo Zlatoje Martinov, các nước cộng hòa cấu thành đã "mạnh mẽ hơn và trên thực tế trở thành các quốc gia có lực lượng vũ trang của riêng họ" ("sve više jačaju i predstavljaju faktičke države sa sopstvenim oružanim snagama") vì các cuộc khủng hoảng. Martinov cũng nói rằng quá trình giải thể dần dần Nam Tư đang diễn ra. Sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1986, Desimir Jevtić được bầu làm Thủ tướng Serbia.
Sự nổi lên của Slobodan Milošević.
Ivan Stambolić, Chủ tịch Ủy ban Thành phố của Liên đoàn những người Cộng sản Beograd, được bầu làm Chủ tịch SKS năm 1984. Stambolić được coi là một người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cải lương trong SKS. Ông là cố vấn của Slobodan Milošević, và là đồng nghiệp tại Khoa Luật, Đại học Beograd. Sau khi trở thành Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương SKS vào năm 1984, Stambolić bổ nhiệm Milošević làm người kế nhiệm chức vụ trước đây của ông, bất chấp sự phản đối của các quan chức cộng sản lớn tuổi. Milošević sau đó bắt đầu thành lập một nhóm quan chức trung thành với ông.
Trước cuộc bầu cử quốc hội năm 1986, Stambolić tuyên bố sẽ từ chức người đứng đầu SKS. Mặc dù nhận được sự ủng hộ từ 84 hội đồng thành phố của SKS, Milošević vẫn vấp phải sự phản đối mạnh mẽ trong nội bộ đảng. Một số đề xuất chọn một số ứng cử viên trong cuộc bầu cử lãnh đạo đã được đưa ra. Mặc dù vậy, nhóm tổng thống đã bỏ phiếu với tỷ lệ 12–8 để đề xuất Milošević làm ứng cử viên duy nhất cho chức Chủ tịch Ủy ban Trung ương SKS. Milošević được bầu thành công làm chủ tịch SKS vào tháng 5 năm 1986, trong khi Stambolić cũng bắt đầu giữ chức Tổng thống Serbia. Dragiša Pavlović, một người theo chủ nghĩa tự do và là đồng minh của Stambolić, cũng trở thành chủ tịch Ủy ban Thành phố của Liên đoàn những người Cộng sản Beograd.
Milošević đổi sang chủ nghĩa dân túy vào tháng 4 năm 1987. Ông bắt đầu ủng hộ người Serbia ở Kosovo, và trong một lần đến thăm Kosovo, ông đã nói với người Serb rằng "sẽ không ai dám tấn công các bạn" ("ne sme niko da vas bije"). Trong cùng thời gian đó, ông cũng bắt đầu chỉ trích Stambolić và Pavlović nhiều hơn, đặc biệt là do lập trường ôn hòa của họ đối với Kosovo. Milošević triệu tập một phiên họp Ủy ban Trung ương SKS vào tháng 9 năm 1987. Tại phiên họp, Stambolić cố gắng hòa giải Pavlović và Milošević, nhưng thay vào đó Milošević lại chỉ trích Stambolić và Pavlović. Pavlović và các đồng minh khác của Stambolić sau đó bị cách chức. Một số nhà khoa học chính trị đã mô tả phiên họp này như một cuộc đảo chính. Stambolić bị cô lập sau phiên họp và bị cách chức tổng thống Serbia vào tháng 12 năm 1987. Sau đó ông rút lui khỏi chính trường.
Bắt đầu từ năm 1988, các cuộc biểu tình, được gọi là cuộc cách mạng chống quan liêu, khởi đầu ở Serbia và Montenegro nhằm ủng hộ chương trình tập trung hóa của Milošević. Mặc dù Milošević phủ nhận rằng ông trực tiếp tham gia vào các cuộc biểu tình, trên thực tế ông có liên hệ trực tiếp với bên tổ chức. Ở Montenegro, giới lãnh đạo buộc phải từ chức, và được thay thế bởi phe ủng hộ Milošević, do Momir Bulatović lãnh đạo. Điều này cũng nhanh chóng xảy ra ở Vojvodina và Kosovo. Ở Vojvodina, Mihalj Kertes đặc biệt trở thành một nhân vật nổi bật nhờ tuyên bố của ông: "Làm sao người Serbia các bạn có thể sợ Serbia, khi tôi, một người Hungary, không sợ Serbia?". Liên minh Nhân dân lao động Xã hội chủ nghĩa Nam Tư (SSRNS), một tổ chức bình dân trực thuộc SKS, đề xuất Milošević vào vị trí Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia. Ông được bổ nhiệm thành công vào ngày 8 tháng 5 năm 1989.
Sửa đổi hiến pháp.
Hậu quả của cuộc cách mạng chống quan liêu 1988–1989 là sửa đổi Hiến pháp Nam Tư 1974. Là một phần của hiến pháp năm 1974, Kosovo được trao quyền tự trị toàn diện và quyền bầu cử bình đẳng như sáu nước cộng hòa cấu thành khác. Sau các cuộc biểu tình vào tháng 3 năm 1989, Milošević đề xuất những sửa đổi, và được Quốc hội Cộng hòa Kosovo và Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia chấp thuận. Đề xuất này thu hồi quyền lực mà các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina nhận được trong hiến pháp năm 1974.
Hệ thống bầu cử.
Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử năm 1989, hệ thống bầu cử của Serbia tuân theo hiến pháp năm 1974. Thay vì trực tiếp bầu các nghị sĩ quốc hội, người dân bỏ phiếu bầu chọn thành viên của các cơ quan đại biểu. Thành viên của các cơ quan này sau đó bầu ra các đại biểu tham gia Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia. Hệ thống bỏ phiếu rất phức tạp. Nó kết hợp các yếu tố của hệ thống bỏ phiếu đa số trực tiếp, gián tiếp và một người thắng. Những người từ 15 tuổi trở lên có quyền bầu cử, và những người phục vụ trong quân đội vào thời điểm bầu cử có thể bỏ phiếu tại đồn quân sự của họ. Phiếu bầu không hợp lệ được đưa ra từ cuộc bầu cử năm 1989. Phiếu trống hoặc phiếu không xác định được ai bầu cho sẽ bị coi là không hợp lệ.
Quốc hội được chia thành ba hội đồng. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 160 đại biểu, còn Hội đồng Thành phố và Hội đồng Chính trị - Xã hội mỗi cơ quan có 90 đại biểu. Sau đó, các đại biểu bầu Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia, Hội đồng Cộng hòa và Tổng thống Cộng hòa Liên bang XHCN Nam Tư. Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử năm 1989, Serbia vẫn là quốc gia đơn đảng. Nhưng cuộc bầu cử năm 1989 là cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên được tổ chức kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Cuộc bầu cử quốc hội được tiến hành trong ba ngày riêng biệt: 10, 12 và 30 tháng 11 năm 1989. Bầu cử địa phương được tiến hành cùng ngày với bầu cử quốc hội. Cuộc bầu cử tổng thống chỉ được tổ chức vào ngày 12 tháng 11. Các điểm bỏ phiếu được mở từ 07:00 () đến 19:00.
Đảng phái chính trị.
Bảng dưới đây liệt kê các đảng phái chính trị có trong Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1986. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 148 đại biểu SKS, Hội đồng Thành phố có 88 và Hội đồng Chính trị - Xã hội có 87. Hầu hết các đại biểu đều từ 50 tuổi trở xuống.
Sau khi Milošević được bổ nhiệm làm Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia, các cuộc bầu cử được tiến hành nhằm bác bỏ mọi nguy cơ chỉ trích về việc liệu việc bổ nhiệm Milošević có phải là "mong muốn của người dân" ("želja čitavog naroda") hay không. Do đó, cuộc bầu cử tổng thống được coi là một cuộc trưng cầu dân ý về việc liệu Milošević có nên giữ chức tổng thống hay không. SKS tuyên bố rằng "cuộc bầu cử này sẽ cho thấy rằng chúng ta tin tưởng vào các chính sách của ban lãnh đạo của chúng ta" ("izbori treba da pokažu da verujemo u politiku svog rukovodstva"). Vào thời điểm bầu cử, Bogdan Trifunović là Chủ tịch Ủy ban Trung ương SKS. Hơn 10.000 hội nghị đại biểu đã được tổ chức ở Serbia, như một phần của chiến dịch trước bầu cử. Có 19.478 cơ quan đại biểu với tổng số 346.518 thành viên.
Các ứng cử viên tổng thống.
Tại phiên họp SSRNS ngày 1 tháng 11 năm 1989, Milošević chính thức được đề cử làm ứng cử viên tổng thống. Để cuộc bầu cử tổng thống danh chính ngôn thuận được cho là mang tính dân chủ, SSRNS đã đề cử nhiều ứng cử viên khác. Tuy nhiên, ban đầu không có ứng cử viên nào muốn mạo hiểm tranh cử với Milošević. SSRNS sau đó đề xuất bốn ứng cử viên cuối cùng, đó là Milošević, Kertes, và các giáo sư Zoran Pjanić và Miroslav Đorđević.
Theo báo cáo của "Politika" tháng 11 năm 1989, 14.855 điểm bỏ phiếu đã được mở trong cuộc bầu cử. Kết quả bầu cử được công bố vào ngày 20 tháng 11, tám ngày sau khi cuộc bầu cử được tổ chức.
Bầu cử tổng thống.
Bắt đầu từ ngày 13 tháng 11, Đài Phát thanh - Truyền hình Serbia và "Politika" báo cáo số lượng cử tri đi bỏ phiếu và kết quả. Có thông tin cho rằng 99% cử tri Kuršumlija bỏ phiếu cho Milošević, và ở một số ngôi làng thuộc khu tự quản Kraljevo, Milošević giành được tất cả phiếu bầu. Kết quả tương tự cũng được báo cáo ở Kačanik. Trong khi đó, ở Vučitrn, Kertes giành được đa số phiếu bầu. Ở vùng Sandžak, Milošević giành được đa số phiếu bầu. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu sau đó được báo cáo là 83%, và Milošević đã giành được 80% tổng số phiếu bầu. Milošević giành được đa số phiếu bầu ở Trung Serbia, theo sau là Vojvodina. Ở Kosovo, ông chỉ giành được 25% số phiếu phổ thông. Ở Beograd, Milošević giành được 93% số phiếu phổ thông. Pjanić đứng thứ hai với 4%, Kertes thứ ba với 3,3% và Đorđević thứ tư với 2,7%. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở Beograd là 80,3%.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử quốc hội.
Đối với cuộc bầu cử quốc hội, tổng cộng có 6.640.675 cử tri có quyền bầu cử. Trong đó, 82% cử tri đã tham gia bầu cử. Kết quả, SKS giành được 303 ghế trong Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia, giảm 20 ghế so với cuộc bầu cử quốc hội năm 1986. 37 đại biểu trong số những người ngoài SKS đã được bầu chọn trong cuộc bầu cử. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 134 đại biểu SKS được bầu, Hội đồng Thành phố có 84 đại biểu SKS và Hội đồng Chính trị - Xã hội có 85 đại biểu SKS.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sau tổng tuyển cử.
Lãnh đạo quốc hội.
Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia được thành lập vào ngày 5 tháng 12 năm 1989. Zoran Sokolović được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Vukašin Jokanović, Slobodan Janjić và Đorđe Šćepančević được bầu làm Phó chủ tịch Quốc hội. Stanko Radmilović, một người trung thành với Milošević, được bầu làm thủ tướng Serbia. Ngày 6 tháng 12, Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia chính thức tuyên bố Milošević là tổng thống.
Milošević đề xuất cải cách Quốc hội Liên bang Nam Tư vào năm 1989. Những đề xuất này bị Liên đoàn những người Cộng sản Slovenia phản đối, khi tổ chức này vốn ủng hộ giữ nguyên cơ cấu phù hợp với hiến pháp năm 1974. Do xảy ra tranh chấp, đại hội bất thường đầu tiên và duy nhất được tổ chức vào năm 1990. Đại hội lần thứ 14 được tổ chức tại Sava Centar, Beograd, vào ngày 20–23 tháng 1 năm 1990. Đại hội do Milan Pančevski chủ trì, và có hơn 1.600 đại biểu tham dự từ tất cả sáu nước cộng hòa cấu thành và hai tỉnh tự trị.
Đại hội bắt đầu bằng cuộc tranh luận giữa Borut Pahor và Milomir Minić, và sau đó tiếp tục với việc Milan Kučan cho biết Slovenia bác bỏ các chính sách tập trung hóa do Serbia đề xuất. Ciril Ribičič và phái đoàn Slovenia bày tỏ sự thất vọng với phiên họp toàn thể đầu tiên của Đại hội lần thứ 14. Trưởng phái đoàn Serbia, Milošević, đề xuất hệ thống "một người-một phiếu bầu", nhưng điều này cũng bị phái đoàn Slovenia phản đối. Thay vào đó, họ ủng hộ tái thiết SKJ và Nam Tư thành một hệ thống bang liên. Với sự ủng hộ của các đại biểu Kosovo, Vojvodina, Montenegro và Quân đội Nhân dân Nam Tư, mọi đề xuất của phái đoàn Slovenia và Bosnia đều bị bác bỏ, trong khi đề xuất của Serbia được chấp thuận.
Tại phiên họp toàn thể thứ hai, phái đoàn Slovenia rời Quốc hội, tuyên bố rằng họ không muốn chịu trách nhiệm "về nỗi thống khổ của Quốc hội Nam Tư về áp đặt ý chí hiện tại, và những người chịu những áp đặt đó đang lãnh đạo nó" ("ne žele biti suodgovorni za agoniju SK Jugoslavije u koju je vode sadašnja nametanja volje i nosioci tih nametanja"). Mặc dù Milošević muốn tiếp tục đại hội mà không có phái đoàn Slovenia, phái đoàn Croatia, do Ivica Račan dẫn đầu, phản đối điều này. Phái đoàn Croatia, cùng với các phái đoàn Macedonia, Bosnia và Herzegovinian, rời đại hội ngay sau đó. Pančevski hoãn phiên họp đến 3 giờ sáng ngày 23 tháng 1. Ngày 23 tháng 1, phần còn lại trong đề xuất của Serbia đã được chấp nhận. Phiên họp toàn thể lần thứ 3 của Đại hội 14 không bao giờ diễn ra, và SKJ chính thức giải thể.
Trưng cầu dân ý về hiến pháp năm 1990.
Trong khi Serbia vẫn còn là một quốc gia đơn đảng, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 7 năm 1990 về việc nên thông qua hiến pháp mới hay nên tổ chức bầu cử đa đảng trước. Đa số cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ việc thông qua hiến pháp mới, mặc dù người Albania ở Kosovo tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý. Hiến pháp được thông qua vào tháng 9 năm 1990. Cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên được tổ chức vào tháng 12 năm 1990.
Theo hiến pháp năm 1990, các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina lần lượt đổi tên thành Tỉnh tự trị Kosovo và Metohija và Tỉnh tự trị Vojvodina, trong khi Cộng hòa XHCN Serbia đổi tên thành Cộng hòa Serbia. Quyền lực của các tỉnh bị giảm đi rất nhiều. Hệ thống bầu cử của Serbia cũng được thay đổi: hệ thống đại biểu bị bãi bỏ, Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia được đổi tên thành Quốc hội ("National Assembly"), và số ghế giảm xuống còn 250. Chủ tịch Quốc hội cũng là người sắp xếp các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống.
Serbia cũng trở thành một quốc gia đa đảng, nghĩa là theo Luật Tổ chức chính trị, các đảng phái chính trị có thể đăng ký tham gia các cuộc bầu cử trong tương lai. SKS sáp nhập với SSRNS thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Serbia (SPS), trong khi các đảng đối lập như Đảng Dân chủ, Phong trào Đổi mới Serbia (SPO), Đảng Nhân dân Cấp tiến và Đảng Tá điền Nhân dân (NSS) cũng đăng ký trở thành đảng phái chính trị. |
iChat (trước đây là iChat AV) là một ứng dụng nhắn tin tức thời đã ngừng phát triển được Apple Inc. phát triển cho hệ điều hành Mac OS X.
Trong OS X 10.8 Mountain Lion, iChat đã được thay thế bằng Messages để trò chuyện và FaceTime để gọi video.
Các giao thức được hỗ trợ.
Hỗ trợ AIM của iChat được AOL hoàn toàn chứng thực và sử dụng triển khai chính thức của giao thức AIM OSCAR. Sử dụng một luồng vận tải XMPP, iChat có thể đóng vai trò là máy khách cho AOL Instant Messenger, Yahoo! Messenger, MobileMe, ICQ và XMPP. iChat cũng có thể tích hợp danh bạ Google Talk vào ngăn XMPP. |
Alan David "Bud" Yorkin (22 tháng 2 năm 1926 – 18 tháng 8 năm 2015) là một nhà sản xuất, đạo diễn, nhà biên kịch và diễn viên phim điện ảnh và truyền hình người Mỹ. Sinh ra tại Washington, Pennsylvania, Yorkin có bằng kỹ sư từ trường Carnegie Tech, nay là Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh. Một số tác phẩm đáng chú ý của ông bao gồm "Start the Revolution Without Me" (1970) và "Blade Runner" (1982).
Yorkin sinh ra với tên đầy đủ là Alan David Yorkin vào ngày 22 tháng 2 năm 1926 tại Washington, Pennsylvania. Năm 16 tuổi, anh gia nhập Hải quân Hoa Kỳ và phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Yorkin có bằng kỹ sư từ trường Carnegie Tech, nay là Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh.
Năm 1954, Yorkin trở thành nhà sản xuất cho chương trình "The Tony Martin Show" của NBC – một chương trình tạp kỹ có thời lượng 15 phút phát trước bản tin hàng đêm vào tối thứ Hai. Năm 1955, ông sản xuất và đạo diễn bộ phim hài quân sự trực tiếp dài 11 tập mang tựa đề "The Soldiers", với sự tham gia diễn xuất của Hal March, Tom D'Andrea và John Dehner. Năm 1956, ông trở thành nhà sản xuất và đạo diễn của chương trình hài kịch/tạp kỹ "The Ford Show" của NBC, chương trình này do Tennessee Ernie Ford đạo diễn. Năm 1958, Yorkin cùng với cây viết/nhà sản xuất Norman Lear thành lập Tandem Productions, công ty chuyên hợp tác sản xuất một số phim điện ảnh và chương trình truyền hình đặc biệt trong những năm 1960 đến 1971 với các hãng phim lớn như United Artists và Warner Bros. Yorkin đạo diễn và sản xuất chương trình truyền hình đặc biệt năm 1958 mang tên "An Evening with Fred Astaire," và tập truyền hình này đem về 9 giải Emmy. Sau đó ông tham gia sản xuất nhiều bộ phim sitcom ăn khách của thập niên 1970, bao gồm "All in the Family", "Maude", "Good Times" và "Sanford and Son".
Sau khi tách ra khỏi Lear, Yorkin tiếp tục thành lập Bud Yorkin Productions. Bộ phim sitcom đầu tiên của ông sau khi tách ra là bộ phim sitcom ăn theo "Sanford and Son" lấy tựa đề "Grady" – tác phẩm này không gặt hái được nhiều thành công. Năm 1976, ông thành lập TOY Productions cùng với Saul Turteltaub và Bernie Orenstein (nhà sản xuất của "Sanford và Son" từ năm 1974 đến năm 1977) và hai bản thành công lớn nhất của họ là "What's Happening!!" và "Carter Country". TOY Productions sau đó được Columbia Pictures Television mua lại vào năm 1979. Năm 1963, Yorkin đạo diễn "Come Blow Your Horn", với sự tham gia diễn xuất của Frank Sinatra và Lee J. Cobb. Yorkin tiếp tục đạo diễn và sản xuất bộ phim "Start the Revolution Without Me" với hai diễn viên chính Gene Wilder và Donald Sutherland vào năm 1970 đã trở thành một tác phẩm kinh điển đình đám. Ông cũng đạo diễn bộ phim "Twice in a Lifetime" năm 1985, với sự tham gia diễn xuất của Gene Hackman. Năm 1999, ông và Lear được trao Giải Lucy cho Phụ nữ trong điện ảnh để ghi nhận sự xuất sắc và đổi mới trong các tác phẩm sáng tạo nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ thông qua phương tiện truyền hình. Năm 2002, Yorkin được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Truyền hình.
Yorkin qua đời vào ngày 18 tháng 8 năm 2015, thọ 89 tuổi. Ông đã kết hôn với nữ diễn viên Cynthia Sikes Yorkin. Ông là cha của cây viết kiêm nhà sản xuất truyền hình Nicole Yorkin từ cuộc hôn nhân đầu tiên kéo dài ba mươi năm của ông với Peg Yorkin, đồng sáng lập và chủ tịch của Feminist Majority Foundation. Ông là thành viên của Chùa Wilshire Boulevard. |
Matthew Tolmach (sinh năm 1964) là nhà sản xuất phim người Mỹ và cựu đồng chủ tịch khối sản xuất điện ảnh tại Sony Pictures Entertainment.
Tolmach lần đầu tiên quan tâm đến điện ảnh sau khi nghe những câu chuyện từ ông nội, nhà sản xuất và giám đốc điện ảnh Sam Jaffe. Ông là người gốc Do Thái. Sau khi chuyển đến Los Angeles, ông làm việc với Frank Marshall để làm một bộ phim tài liệu về Lance Armstrong do Alex Gibney đạo diễn. Năm 2008, ông được bổ nhiệm làm đồng chủ tịch sản xuất tại Sony Pictures Entertainment cùng với Doug Belgrad (người mà ông đã làm việc cùng từ năm 2003), nơi ông quản lý thương hiệu Người Nhện. Năm 2010, ông rời Sony Pictures Entertainment để sản xuất phần tiếp theo của Người Nhện. Belgrad được bổ nhiệm làm chủ tịch duy nhất của hãng phim và Hanna Minghella được bổ nhiệm làm chủ tịch sản xuất.
Tolmach kết hôn với nữ đạo diễn Paige Goldberg. Họ có một đứa con.
Giám đốc sản xuất
Cảm ơn đặc biệt |
Mixed Nuts (bài hát)
"Mixed Nuts" (ミックスナッツ, Mikkusu Nattsu) là bài hát do ban nhạc Nhật Bản Official Hige Dandism thu âm, phát hành dưới định dạng kỹ thuật số vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, thông qua hãng đĩa Irori Records. Bài hát được chọn làm bài hát chủ đề mở đầu mùa đầu tiên cho bộ anime "Spy × Family". Bài hát đã đạt trên bảng xếp hạng Japan Hot 100 và vị trí thứ 61 trên bảng xếp Billboard Global 200. "Mixed Nuts" EP được phát hành vào ngày 22 tháng 6 năm 2022.
Sáng tác và lời bài hát.
"Mixed Nuts" là một bài hát nhạc jazz và pop rock. Nó được sáng tác và viết bởi ca sĩ Satoshi Fujihara cho anime "Spy × Family", với chủ đề gia đình, cũng như tình yêu của nhân vật chính Anya dành cho đậu phộng. "Tôi từng nghe Anya nói rằng cô bé rất thích đậu phộng. Tôi chợt nghĩ đến đậu phộng trong các loại hạt hỗn hợp mà tôi thường ăn và tra cứu chúng, tôi phát hiện ra rằng tuy trông giống nhau nhưng quả hạch mọc trên cây và đậu phộng mọc dưới đất, được phân thành hai loại khác nhau và đậu phộng thực sự là một loại khác, bất chấp vẻ ngoài của chúng." Sau đó anh ấy tuyên bố, "Tôi cảm thấy đây chính là chủ đề của tác phẩm này, có điều gì đó thú vị khi đóng vai một gia đình giả trong khi che giấu danh tính thực sự của mình và đối đầu với thứ gì đó giống như một gia đình thực sự, và rằng hạnh phúc và niềm vui đến với bạn mới là điều quan trọng, chứ không phải là nó có thật hay không. Tôi đã tạo ra tác phẩm này với ý nghĩ của mình."
Video âm nhạc cho "Mixed Nuts" được phát hành vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, cùng ngày với đĩa đơn được phát hành và do Takuto Shimpo đạo diễn.
Các nhạc sĩ bổ sung |
Apple A14 Bionic là một bộ vi xử lý 64-bit ARMv8.5-A được thiết kế bởi công ty Apple Inc. Con chip này xuất hiện trên các dòng iPad Air thế hệ 4 và iPad thế hệ 10, iPhone 12 Mini, iPhone 12, iPhone 12 Pro, và iPhone 12 Pro Max.
Apple A14 Bionic gồm một CPU sáu nhân 64-bit của Apple kiến trúc ARMv8, trong đó gồm có hai nhân hiệu suất cao có tên gọi là Firestorm và bốn nhân tiết kiệm điện được gọi là Icestorm.
Apple công bố rằng Apple A14 Bionic có hiệu suất CPU nhanh hơn 40% so với A12, trong khi hiệu suất GPU nhanh hơn 30% so với A12. Nó được trang bị bộ xử lý thần kinh 16 nhân nhanh gấp 2 lần. Neural Engine có thể xử lý lên đến 11 nghìn tỷ phép mỗi giây. Ngoài Neural Engine riêng biệt, CPU A14 còn có bộ tăng tốc nhân vô hướng ma trận học máy thế hệ thứ hai (mà Apple gọi là khối AMX) nhanh gấp 10 lần. A14 còn được trang bị hệ thống xử lý ảnh giúp tăng cường và cải thiện khả năng chụp hình quay phim số.
A14 được sản xuất bởi TSMC với tiến trình 5 nm, N5. Đồng thời, A14 đã trở thành sản phẩm thương mại chạy trên tiến trình 5 nm đầu tiên. Số bóng bán dẫn được tăng lên 11.8 tỷ, nhiều hơn 38.8% so với A13 là 8.5 tỷ. Theo Semianalysis, kích thước khuôn của bộ xử lý A14 là 88 mm2, với mật độ bóng bán dẫn là 134 triệu bóng bán dẫn trên mỗi mm2. Apple A14 được sản xuất bao gói đi kèm với 4 GB RAM LPDDR4X trên dòng iPhone 12 và 6 GB RAM LPDDR4X trên dòng iPhone 12 Pro.
A14 hỗ trợ khả năng nén video định dạng HEVC và H.264. Nó cũng hỗ trợ giải mã HEVC, H.264, MPEG‑4 Part 2, và Motion JPEG.
A14 về sau được sử dụng làm nền tảng cho dòng chip M1, dùng trên nhiều mẫu máy Macbook và iPad.
Bảng bên dưới hiển thị các biến thể chip khác nhau dựa trên vi kiến trúc "Firestorm" và "Icestorm". |
Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan
Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan (, thường gọi là Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan và viết tắt là MSUG) là một chương trình hỗ trợ kỹ thuật được cung cấp cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa trong nỗ lực xây dựng nhà nước của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Từ năm 1955 đến năm 1962, theo hợp đồng với Cơ quan Hợp tác Quốc tế ở Washington và chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn, nhóm giảng viên và nhân viên của Đại học Tiểu bang Michigan đã tư vấn cho các cơ quan của chế độ Ngô Đình Diệm. Nhóm này giúp tư vấn và đào tạo nhân sự người Việt Nam về các lĩnh vực hành chính công, hành chính cảnh sát và kinh tế. MSUG làm việc độc lập với hầu hết các cơ quan chính phủ Mỹ, có quyền tiếp cận tổng thống chưa từng có và thậm chí còn hỗ trợ soạn thảo bản hiến pháp mới của đất nước. Một số đề xuất của MSUG được Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thực hiện và mang lại kết quả tích cực cho người dân Việt Nam. Tuy nhiên, nhóm có ảnh hưởng hạn chế đến việc ra quyết định của Tổng thống Diệm và diễn biến các sự kiện ở Việt Nam, và các ấn phẩm của những giảng viên bất mãn đã dẫn đến việc Tổng thống Diệm chấm dứt hợp đồng.
Sau đó, khi nảy sinh những ám chỉ rằng CIA đã thâm nhập vào MSUG như một bình phong cho các hoạt động bí mật của cơ quan, chương trình hỗ trợ kỹ thuật đã trở thành một nguyên nhân gây xôn xao dư luận trong những năm đầu của phong trào phản chiến về sau.
Khởi động và triển khai dự án.
Trong thời gian tự lưu vong vào đầu thập niên 1950, Ngô Đình Diệm đã gặp mặt và kết bạn với Wesley R. Fishel, một cựu chuyên gia ngôn ngữ quân sự có bằng tiến sĩ về quan hệ quốc tế tại Đại học Chicago. Fishel "bị ấn tượng [với] quan điểm chống cộng và cải cách chính trị xã hội của Diệm, và hai người thường xuyên trao đổi thư từ". Khi Fishel được tuyển mộ vào năm 1951 với tư cách là trợ lý giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Tiểu bang Michigan, ông đã mời Diệm tham gia cùng mình. Hai năm sau, trên cương vị là trợ lý giám đốc Cục Nghiên cứu Chính phủ của trường đại học, Fishel bèn bổ nhiệm Diệm làm cố vấn về Đông Nam Á của cơ quan này.
Kết quả mang tính cộng sinh: chuyến thăm nước Mỹ của Diệm đã giúp ông xây dựng được sự ủng hộ chính trị cần thiết để được bổ nhiệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam vào tháng 7 năm 1954; đến lượt Fishel trở thành một trong những cố vấn và người bạn tâm giao thân cận nhất của Diệm. Theo gợi ý của Fishel và đã biết rõ về khả năng của MSU, Diệm đề nghị một phần gói viện trợ của mình từ Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hoa Kỳ bao gồm bản hợp đồng "hỗ trợ kỹ thuật" với Đại học Tiểu bang Michigan. Do đó, MSU được yêu cầu sử dụng chuyên môn hòng giúp ổn định nền kinh tế Việt Nam, cải thiện bộ máy quan liêu của chính phủ và kiểm soát cuộc nổi dậy của cộng sản đang diễn ra.
Đại học Tiểu bang Michigan, thuộc loại đại học tiên phong được cấp đất, ngay từ khi thành lập đã tin tưởng vào việc biến lý thuyết thành thực tiễn; ví dụ, dịch vụ khuyến nông của họ giúp cung cấp kết quả nghiên cứu của mình cho nông dân trên khắp bang Michigan để họ sử dụng trong thực tế. Vì sự nhấn mạnh vào giáo dục thực tế và sự tham gia của cộng đồng, nhà trường đã tuyên bố một cách chính đáng rằng "đây mới là cơ sở của chúng tôi". Hiệu trưởng Đại học John A. Hannah nói riêng là người đề xuất chính cho cái gọi là tổ chức định hướng dịch vụ; đối với ông, đó là bước đi hợp lý tiếp theo để mở rộng vai trò đó trên phạm vi quốc tế và tuyên bố không hề cường điệu rằng "thế giới là cơ sở của chúng tôi".
Khi đề nghị hỗ trợ được gửi qua các kênh của chính phủ Mỹ, Hannah, người chống cộng kiên quyết, rất quan tâm đến việc theo đuổi bản hợp đồng này. Ông cử một nhóm đánh giá nhỏ tới Việt Nam, bao gồm ba chủ nhiệm khoa tham gia—Edward W. Weidner (khoa học chính trị), Arthur F. Brandstatter (hành chính cảnh sát) và Charles C. Killingsworth (kinh tế)—cùng với James H. Dennison, trưởng phòng quan hệ công chúng của trường đại học và trợ lý hành chính của Hannah. Sau chuyến thăm ngắn kéo dài hai tuần, bốn thành viên nêu trên đã báo cáo vào tháng 10 năm 1954 rằng tình trạng khẩn cấp đang tồn tại ở Việt Nam và khuyến nghị nên thực hiện dự án này ngay lập tức. Báo cáo nêu rõ rằng mặc dù thời gian chuẩn bị ngắn có thể dẫn đến sai sót, nhưng "điều quan trọng là... phải thực hiện một chương trình theo cách có ít nhất cơ hội thành công hợp lý". Hannah đã phê duyệt bản hợp đồng này, thành lập Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan, sẽ hoạt động dưới sự ủy quyền của Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ (USOM) thuộc Đại sứ quán Mỹ. Hannah cũng xác nhận đề nghị của Weidner rằng Fishel được bổ nhiệm làm người đứng đầu dự án, chức vụ mà Fishel từng nắm giữ từ khi bắt đầu dự án cho đến đầu năm 1958.
Nhân viên MSUG có nhiều lý do để tình nguyện tham gia công tác ở nước ngoài này, mỗi lý do đều phản ánh động lực của trường đại học đối với toàn bộ dự án MSUG: như một nghĩa vụ đạo đức, hỗ trợ một quốc gia non trẻ đang gặp khó khăn; dưới dạng công cụ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nhằm ngăn chặn sự phát triển của “chủ nghĩa đế quốc cộng sản”; và kiểu như bài tập học thuật, để kiểm tra các khái niệm lý thuyết của họ trong một "phòng thí nghiệm" của thế giới thực. Khuyến khích trả lương "gay go" và các khoản phụ cấp khác gần gấp đôi lương của giáo sư (miễn thuế), cùng với triển vọng thăng tiến cá nhân trong hàng ngũ học viện, cũng rất thuyết phục.
Giai đoạn thứ nhất: 1955–1957.
Hợp đồng hai năm đầu tiên bắt đầu khi đội ngũ giáo sư và nhân viên đầu tiên đến Sài Gòn vào ngày 20 tháng 5 năm 1955. Họ phát hiện ra cả thành phố này đang bị lôi kéo vào một cuộc nổi dậy phản kháng chính phủ quốc gia của phe Bình Xuyên, với pháo kích và giao tranh trên đường phố đe dọa không chỉ nơi ở chính thức của Diệm mà còn cả khách sạn nơi nhân viên MSUG đang tạm trú. Vào lúc sự xáo trộn này lên đến cao điểm, các phòng khách sạn thường bị lục soát và cướp bóc, và một số giáo sư bị mất hết tài sản. Những chương trình học tập dự định của MSUG đã bị tạm dừng và trọng tâm của họ nhanh chóng chuyển sang cải thiện dịch vụ cảnh sát và quản lý chính quyền khu vực.
Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn.
Mối quan tâm trước mắt của Diệm là biến động xã hội do khoảng 900.000 người chạy trốn khỏi miền Bắc cộng sản trong thời gian 300 ngày "di chuyển tự do" theo Hiệp định Genève năm 1954. Dòng người khổng lồ đòi hỏi cả dịch vụ tái định cư và xây dựng cơ sở hạ tầng, do cơ quan chính phủ có tên Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn ("COMIGAL") cung cấp. MSUG đã tư vấn cho Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn đến mức trong những tháng đầu tiên của chương trình, các hoạt động theo đuổi khác đều bị gạt sang một bên.
Một trong những đề xuất của MSUG có kết quả tích cực là ý tưởng phân cấp bộ máy quan liêu cho Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn. Bằng cách phân bổ các cơ quan nhỏ khắp các làng xã, Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn đã có thể cải thiện khả năng đáp ứng của các cơ quan đó. Nguồn tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng thường được Sài Gòn phê duyệt trong vòng chưa đầy hai tuần, và những cơ quan này có thể làm việc trực tiếp với giới lãnh đạo địa phương khiến họ cảm thấy rằng ý kiến đóng góp và sự tham gia của họ là quan trọng.
Mặt khác, MSUG đã không thể thuyết phục Diệm về tính hợp lệ của các yêu sách đất đai của người Thượng, bộ lạc bản địa ở Tây Nguyên của Việt Nam. Hàng nghìn di dân tị nạn, với sự chấp thuận và khuyến khích của chính phủ, trở thành những người chiếm đất lâu dài trên những vùng đất "đã được dân chúng vùng cao nguyên khai phá để trồng trọt". Một phần mục đích của Diệm hòng tạo ra một "bức tường nhân đạo" gồm những người định cư có thiện cảm, chủ yếu là dân Công giáo, chống lại sự xâm nhập của cộng sản từ miền Bắc Việt Nam và Campuchia gần đó. Tuy vậy, cả người Thượng và đa số Phật tử đều phẫn nộ trước việc bị chế độ Công giáo cai trị, vốn chỉ là một nhóm tôn giáo thiểu số mà họ coi là tàn dư không hề nao núng dưới thời Pháp thuộc. Phe đối lập và sự đàn áp tàn nhẫn của Diệm đã đẩy các nhóm này tới chỗ nổi dậy hơn nữa và kết cục cuối cùng là sự cai trị của cộng sản.
Học viện Quốc gia Hành chánh.
Ngay cả khoảng thời gian của MSU bị hoạt động hỗ trợ dân tị nạn độc chiếm, nhóm vẫn theo đuổi một phần mục tiêu học thuật của mình. Với tư cách là khía cạnh "hành chính công" trong bản hợp đồng, MSUG đã thiết kế, tài trợ và thực hiện việc mở rộng Học viện Quốc gia Hành chánh (NIA), một trường đào tạo công chức. Học viện Quốc gia Hành chánh khởi đầu là một trường đào tạo hai năm tại thành phố nghỉ dưỡng Đà Lạt vào tháng 1 năm 1953. Theo đề nghị của MSUG, trường được chuyển đến Sài Gòn và dần dần mở rộng thành chương trình bốn năm.
Cùng với sự hỗ trợ trong việc phát triển cơ sở mới ở Sài Gòn và các lớp giảng dạy, MSUG đã góp phần mở rộng đáng kể thư viện NIA, mà cho đến năm 1962 chứa tới hơn 22.000 cuốn sách và tài liệu khác. Thư viện này được coi là một trong những thành công lớn nhất của MSUG và mối quan hệ liên kết với NIA là dự án tồn tại lâu nhất trong số các dự án MSUG. Tuy vậy, tính hữu dụng của thư viện bị ảnh hưởng bởi một thực tế đơn giản là hầu hết các tài liệu của nó đều viết bằng tiếng Anh, thay vì tiếng Việt hoặc tiếng Pháp, và khi kết thúc hợp đồng MSUG, thư viện đang bị đe dọa bởi khả năng tiếp cận hạn chế, bảo trì kém và thiếu nhân sự người Việt có trình độ để vào làm nhân viên tại đây.
Bộ máy hành chính cảnh sát.
Khía cạnh có ảnh hưởng nhất và gây tranh cãi nhất về hỗ trợ kỹ thuật của MSUG là trong lĩnh vực quản lý hành chính cảnh sát. Nhóm này không chỉ cung cấp dịch vụ tư vấn và đào tạo mà còn cung cấp hỗ trợ vật chất. Nhìn chung, MSUG chịu trách nhiệm phân phối viện trợ của Hoa Kỳ thông qua USOM cho đến năm 1959, khi USOM thành lập đội ngũ cảnh sát của riêng mình. Nhân viên của MSUG đóng vai trò là nhà tư vấn để xác định nhu cầu của các nhóm cảnh sát và sau đó tự mình thực hiện việc mua sắm. Trang thiết bị bao gồm "súng ngắn ổ xoay, súng chống bạo động, đạn dược, hơi cay, xe jeep và các phương tiện khác, còng tay, thiết bị văn phòng, đèn giao thông và thiết bị liên lạc".
MSUG về sau ra sức đào tạo nhân viên Việt Nam cách sử dụng và bảo trì thiết bị. Nói chung, MSUG đã đào tạo đội ngũ giảng viên để sau này họ có thể chỉ dạy những người khác; chỉ dẫn trực tiếp, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như huấn luyện súng ngắn ổ xoay cho lực lượng bảo vệ tổng thống, "chỉ được thực hiện như một biện pháp tạm thời". Dự án quản lý cảnh sát phần lớn đã thành công vì việc đào tạo dựa trên màn trình diễn khâu thực hành nên mang tính tức thời và hữu hình hơn nhiều. Ngoài ra, các giảng viên Việt Nam do MSUG giảng dạy cũng nhanh chóng tự mình đào tạo. Đồng thời, các buổi học về nguyên tắc thủ tục và lý thuyết của cảnh sát gặp phải một số vấn đề đã hạn chế sự thành công của chúng. Rất ít giáo sư của MSUG nói được tiếng Việt hoặc tiếng Pháp, dẫn đến công việc dịch thuật bị chậm trễ và thiếu sót thông tin. Ngoài ra, các bài giảng kiểu Mỹ còn là nguyên nhân gây bất hòa cho sinh viên, tạo ra sự mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật của Pháp. (Đó cũng là một vấn đề trong các lớp NIA do nhân viên MSUG giảng dạy.)
Hoạt động tư vấn và đào tạo về hành chính của cảnh sát đạt hiệu quả cao nhất với Sở Mật thám, cơ quan thực thi pháp luật quốc gia của Việt Nam, một phần vì hầu hết thiết bị đã được chuyển giao cho cơ quan này. Tương tự như vậy, các sở cảnh sát thành phố nhận được ít trang thiết bị hơn thì ít bị ảnh hưởng hơn. Sự cải thiện lớn nhất ở địa phương là việc kiểm soát giao thông ở Sài Gòn. Về phía dân vệ thì hầu như không có tác dụng gì.
Dân vệ là một tổ chức bán quân sự gồm 60.000 người mà MSUG hy vọng sẽ cải tổ thành một tổ chức giống với trang phục của cảnh sát tiểu bang Hoa Kỳ, một tổ chức quen thuộc với nhóm giáo sư. Điều đó sẽ kéo theo một tổ chức chủ yếu ở nông thôn mà các thành viên sẽ sống trong cộng đồng mà họ phục vụ. Tuy nhiên, Sài Gòn và Đoàn Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ ưu tiên dân vệ là lực lượng bán quân sự được trang bị vũ khí mạnh hơn, được tổ chức thành các trung đoàn và sống trong các khu đồn trú, có thể thực hiện nhiệm vụ cảnh sát quốc gia và hỗ trợ quân đội quốc gia. Do sự bế tắc, rất ít trang thiết bị mà MSUG lên kế hoạch cho dân vệ được phân phối cho đến tận năm 1959, khiến lực lượng này không được chuẩn bị khi hành động nổi dậy lớn của cộng sản bắt đầu cùng năm.
Vấn đề nhân sự của MSUG.
Một trong những hạn chế của MSUG là trong nhiều trường hợp, trường đại học thiếu nhân lực để bố trí nhân sự cho dự án và tiếp tục các lớp học theo lịch trình ở East Lansing. Đó là trường hợp của MSUG, và nhóm buộc phải tuyển dụng rộng rãi bên ngoài trường đại học để hoàn thành hợp đồng với phía Việt Nam, thường cấp cho nhân viên mới cấp bậc học thuật (thường là trợ lý giáo sư hoặc giảng viên). Vấn đề nhân sự có lẽ có sự phân nhánh đáng kể nhất trong bộ phận quản lý cảnh sát. Mặc dù Trường Quản lý Cảnh sát và An toàn Công cộng Tiểu bang Michigan đã "được quốc tế công nhận trong thời kỳ chiến tranh lạnh", nhưng trường này thiếu kinh nghiệm trong các lĩnh vực rất cần thiết là phản gián và chống nổi dậy, và trưởng khoa Arthur Brandstatter đã phải thuê mướn nhân sự mới cho phù hợp. Vào lúc đạt đỉnh cao của dự án quản lý cảnh sát, chỉ có 4 trong số 33 cố vấn trường này từng là nhân viên của Đại học Tiểu bang Michigan trước MSUG, và nhiều người thậm chí chưa từng đến thăm cơ sở East Lansing.
Hóa ra, một số cố vấn cảnh sát này cũng từng làm việc cho Cơ quan Tình báo Trung ương. Họ thành lập một nhóm riêng, gầy dựng văn phòng riêng ngoài các nhân viên hành chính cảnh sát còn lại tại trụ sở MSUG ở Sài Gòn, "và chỉ chịu trách nhiệm trước Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn". Các thành viên CIA đã làm việc chặt chẽ với một đơn vị an ninh đặc biệt của Sở Mật vụ từ năm 1955 đến năm 1959. Mặc dù trên danh nghĩa họ nằm dưới sự bảo trợ của MSUG, nhưng MSUG vẫn chưa biết cụ thể về các hoạt động của họ. (Hồ sơ MSUG "ủng hộ [sự] tranh luận rằng các đặc vụ không phải là gián điệp," nhưng hồ sơ của CIA vẫn được xếp loại mật.)
Sự tồn tại của nhóm CIA không bị nhân viên MSUG che giấu; ngược lại, đó là kiến thức phổ biến đối với nhóm giáo sư nếu không được thảo luận một cách cởi mở. Tổng quan về dự án năm 1965 khá thực tế về nó. Khi MSUG "buộc USOM thành lập một bộ phận an toàn công cộng của riêng mình vào tháng 7 năm 1959[,] USOM cũng đã tiếp thu vào thời điểm này đơn vị CIA đang hoạt động trong MSUG". Tuyên bố gần như trong ngoặc đơn đó sau này sẽ cung cấp thông tin động lực cho sự phơi bày mang tính giật gân.
Giai đoạn thứ hai: 1957–1959.
Hợp đồng hai năm được gia hạn vào năm 1957. Giai đoạn thứ hai của MSUG được đánh dấu bằng việc mở rộng phạm vi hoạt động, đặc biệt là trong chương trình giáo dục, đồng thời các cam kết an ninh của MSUG cũng tăng lên. "Đây là thời kỳ của những nhân viên Michigan có mặt khắp nơi." Tuy nhiên, ngay cả khi hoạt động của nhóm tăng lên, với đội ngũ nhân viên bao gồm đỉnh điểm toàn dự án là 52 người Mỹ và khoảng 150 người Việt Nam, MSUG hoạt động ở mức độ ảnh hưởng giảm. Đầu năm 1958, Wesley Fishel kết thúc nhiệm kỳ trưởng chương trình và trở về Mỹ. Với sự ra đi của Fishel, bữa sáng ba tuần một lần tại nhà tổng thống mà ông thưởng thức với Diệm đã kết thúc; nếu không được tiếp cận trực tiếp với tổng thống như vậy, ảnh hưởng của MSUG với chính quyền bị hạn chế một cách đáng kể. Cùng lúc đó, chính phủ Việt Nam Cộng hòa dần dần bắt đầu củng cố quyền lực trên toàn quốc và do đó "mất đi nhiều nhiệt huyết đổi mới."
Sau năm 1958, vai trò quản lý của cảnh sát gần như hoàn toàn là cố vấn, vì các giảng viên người Việt do MSUG đào tạo "lúc đó đang thực hiện chương trình riêng của họ." Trên cương vị là cố vấn, MSUG đã giúp Sở Mật thám, cơ quan này được đổi tên thành Cục Điều tra Việt Nam trong một nỗ lực nhằm giảm bớt hình ảnh tiêu cực của công chúng về cơ quan cảnh sát đặc biệt đó, nhằm thiết lập thẻ căn cước quốc gia, một chương trình được phát động vào năm 1959.
Giai đoạn thứ ba: 1959–1962.
Hợp đồng thứ ba bao gồm một phần nhỏ các hợp đồng trước đó; Công việc của MSUG hầu như chỉ liên quan đến NIA và các hoạt động học thuật. Một phần, đó là do USOM đã thành lập đơn vị cố vấn cảnh sát của riêng mình và đảm nhận vai trò này từ MSUG, đặc biệt là công việc với dân vệ, lực lượng đang trực tiếp chiến đấu với quân du kích cộng sản.
Việc gia hạn hợp đồng năm 1959 cũng có một điều khoản cho thấy Diệm ngày càng nhạy cảm với những lời chỉ trích: nó tuyên bố rằng hồ sơ và ghi chú cá nhân của nhân viên MSUG sẽ không được sử dụng "chống lại an ninh hoặc lợi ích của Việt Nam." Quy định đó đi ngược lại với điều khoản khái niệm về tự do học thuật, và một số giáo sư đã chọn cách phớt lờ nó. Ví dụ, nhà khoa học chính trị của MSU tên Robert Scigliano từng là trợ lý giám đốc dự án vào năm 1957–1959, từng viết một bài báo vào năm 1960 về các đảng phái chính trị ở miền Nam Việt Nam, kêu gọi sự chú ý đến việc Diệm đàn áp phe đối lập. Tổng thống Diệm cảm thấy khó chịu với bài báo này đến mức ông thấy phù hợp khi đề cập đến nó với Chủ tịch MSU Hannah lúc ông này đến thăm Việt Nam vào đầu năm 1961 và nói rằng đó "không phải là thứ mà ông thích thấy nhân viên MSU viết".
NIA, vào đầu năm 1961, đã đưa ra yêu cầu chính thức về việc gia hạn thêm ba năm cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1962, ngày kết thúc hợp đồng MSUG thứ ba. MSU bày tỏ sự sẵn sàng theo đuổi một dự án nhỏ chỉ tập trung vào thể chế, nhưng điều đó đã không xảy ra.
Bất đồng quan điểm và sa thải.
Khi dự án tiến triển, sự lạc quan ban đầu của các giáo sư đã nhường chỗ cho những cân nhắc thực tế thường khiến họ thất vọng và vỡ mộng. MSUG thường xuyên nhận thấy những lời khuyên có thiện chí của mình bị bỏ qua hoàn toàn hoặc đồng ý trong thực tế; trong một ví dụ trong số nhiều ví dụ khác, Diệm đã sử dụng cơ quan đăng ký thẻ căn cước quốc gia của Sở Mật vụ hòng đàn áp những người bất đồng chính kiến với mình. Kết quả là, một số giáo sư trở về nhà sau chuyến công tác và bắt đầu viết các bài báo chỉ trích chế độ Diệm và sự can dự của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Hai lần xuất hiện trên tạp chí "The New Republic" năm 1961 và dẫn đến sự kết thúc của MSUG.
Bài đầu tiên của Adrian Jaffe, giáo sư thỉnh giảng tiếng Anh tại Viện Đại học Sài Gòn, và Milton C. Taylor, nhà kinh tế học của MSUG, có tựa đề "A Crumbling Bastion: Flattery and Lies Won't Save Vietnam" và xuất hiện vào tháng 6 năm 1961. Đó là một bản cáo trạng gay gắt đối với chế độ Diệm. Mặc dù Jaffe và Taylor tỏ ra bẽn lẽn trong bài báo khi không nêu tên Fishel hay MSU, như thể mối liên kết học thuật của họ như được nêu trong dòng tít bên trang đầu tiên không phải là một sự hiển nhiên, nhưng họ không hề chỉ trích khi nói đến Diệm và gia đình ông: "Chính phủ Việt Nam là một chế độ độc tài tuyệt đối, hoàn toàn do Tổng thống nắm quyền điều hành, với sự trợ giúp của gia đình ông [Nó] ghi nhận chế độ gia đình trị thời hiện đại".
Sau đó, Frank C. Child, một nhà kinh tế học của MSUG, người đã dành hai năm làm cố vấn cho dự án khi đi du lịch khắp miền Nam Việt Nam, đã viết cuốn "Vietnam—The Eleventh Hour", xuất bản vào tháng 12 năm 1961. Tác phẩm này đi một bước xa hơn so với Jaffe và Taylor khi công khai gợi ý rằng "một cuộc đảo chính quân sự có thể là biện pháp duy nhất" để cứu vãn đất nước Việt Nam.
Các bài báo nêu trên đã khiến Diệm tức giận đến mức ông phải đề nghị Đại học Tiểu bang Michigan kiểm duyệt mấy vị giáo sư này. Ban quản lý trường đại học tỏ ra miễn cưỡng vì làm như vậy sẽ vi phạm quyền tự do học thuật. Mặt khác, MSU không muốn đánh mất bản hợp đồng béo bở với Việt Nam Cộng hòa nên đề nghị thận trọng hơn trong việc lựa chọn nhân sự, chỉ chọn những người hứa tuân thủ các điều khoản của hợp đồng và "viết các nghiên cứu khoa học, mang tính học thuật chứ không phải là những bài báo giật gân".
Tuy vậy, Diệm tỏ ra không bị dao động và đòi chấm dứt dự án này. Cả nhóm phải rời khỏi Việt Nam vào tháng 6 năm 1962.
Bốn năm sau khi MSUG giải thể, một bài báo có tựa đề "The University on the Make", đã xuất hiện trên tạp chí "Ramparts". Các biên tập viên Warren Hinckle, Robert Scheer và Sol Stern đã viết bài báo này với sự cộng tác của nhà kinh tế học Stanley K. Sheinbaum, từng là điều phối viên dự án cơ sở chính của MSUG từ năm 1957 cho đến khi ông rời trường đại học này "vì nhiều lý do" vào năm 1959. Rút ra từ các bài báo của Jaffe–Taylor và sự bất mãn của Sheinbaum với dự án, bài báo đã vẽ nên một bức chân dung sống động về Fishel như một "nhà điều hành" đầy tham vọng, có nhiều quyền lực và ảnh hưởng với Diệm hơn là Đại sứ Hoa Kỳ, MSU với tư cách là một "tổ chức mới phất lên" sẵn sàng đánh đổi tính liêm chính trong học thuật để có được vai trò nổi bật trên trường thế giới, và MSUG với tư cách là kẻ âm mưu hiểu biết và sẵn lòng với CIA.
Bài viết của "Ramparts" chủ yếu dựa vào cuốn sách "Technical Assistance in Vietnam" xuất bản năm 1965, nhưng phần lớn đã bỏ qua các khía cạnh nghiên cứu học thuật và đào tạo giảng viên của dự án quản lý cảnh sát. Thay vì đề cập đến việc thành lập Học viện Cảnh sát Quốc gia và trường chỉ huy cấp cao Sở Mật thám, nơi nhân viên MSUG "lên kế hoạch chương trình giảng dạy và làm giảng viên trên lớp", thì có ngụ ý rằng dự án này không đòi hỏi nhiều điều gì hơn ngoài việc huấn luyện sử dụng súng và giải ngân mấy cái còng tay. Nó cũng tập trung chặt chẽ vào mối liên hệ của CIA và ngoại suy câu "nhóm Đại học từ chối cung cấp vỏ bọc cho đơn vị này [sau năm 1959]" có nghĩa là MSUG trước đó đã cung cấp vỏ bọc cho công việc "áo choàng và dao găm". Trong phần kết luận, bài báo đã hạ thấp toàn bộ dự án MSUG xuống thành một dòng duy nhất có tính chất kích động: "Dù sao thì một trường đại học đang mua súng làm cái quái gì vậy?"
Bài báo của "Ramparts" đã cố tình bới móc, xuyên tạc và kịch tính hóa nhiều "sự thật" của nó; một số trong đó sau đó đã được thừa nhận là không đúng sự thật. Tuy nhiên, nó đã tiếp cận được đối tượng mục tiêu và cung cấp nguồn sinh lực mạnh mẽ cho phong trào phản chiến non trẻ. Cùng với vấn đề rõ ràng về việc CIA hoạt động dưới vỏ bọc một trường đại học, ngày càng nhiều sinh viên và giảng viên Mỹ bắt đầu đặt câu hỏi về việc sử dụng các viện giáo dục bậc cao làm công cụ cho chính sách đối ngoại của Mỹ.
Đại học Tiểu bang Michigan, giống như nhiều trường đại học Mỹ, tiếp tục ký hợp đồng cho các chương trình hỗ trợ kỹ thuật ở nước ngoài nhưng chẳng bao giờ đạt được quy mô như Đoàn Cố vấn Đại học Tiểu bang Michigan nữa. Cuối cùng, MSU nhận được rất ít lợi ích học thuật từ "chuyến phiêu lưu ở Việt Nam" của mình. Không có khóa học mới hoặc chương trình nghiên cứu đặc biệt nào được bắt đầu tại cơ sở nhà trường, và trong số 18 giáo sư được bổ nhiệm từ East Lansing, 5 người đã không quay lại trường và 4 người khác đã rời đi trong vòng hai năm kể từ khi họ trở về. Một kết quả gián tiếp là Phòng Nghiên cứu và Chương trình Quốc tế, được thành lập vào năm 1956 để cung cấp sự điều phối và hỗ trợ hành chính cho dự án Việt Nam (cũng như các dự án ở Colombia, Brasil và Okinawa). Năm 1964, cơ quan này nhận được cả một trụ sở mới mà ngày nay gọi là Trung tâm Quốc tế; tòa nhà trị giá khoảng 1,2 triệu USD và được tài trợ một phần từ số tiền thu được từ 25 triệu USD mà MSUG nhận được từ chính phủ Mỹ trong hợp đồng 7 năm tại Việt Nam (phần lớn trong số đó dùng để trang trải trang thiết bị, tiền lương, chi phí thực địa và chi phí hành chính).
Trong bối cảnh phong trào phản đối chiến tranh ngày càng gia tăng, Chủ tịch John Hannah đành rời bỏ MSU vào năm 1969 để đứng đầu Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, cơ quan kế nhiệm Cơ quan Hợp tác Quốc tế đã khởi xướng nên bản hợp đồng MSUG. Mặc dù việc ông đột ngột rời bỏ MSU có thể gợi ý điều ngược lại, nhưng Hannah không nghi ngờ tính đúng đắn của dự án này. Nhiều năm sau, ông tuyên bố, "Chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy trường Đại học cần phải xin lỗ, họ có thể đồng ý hỗ trợ Chính phủ Mỹ như chúng tôi đã làm lúc đó". Người thay thế tạm thời cho Hannah trên cương vị chủ tịch là giáo sư kinh tế Walter Adams, vốn từ lâu nghi vấn về tính hiệu quả của các chương trình hỗ trợ kỹ thuật của trường đại học này và vào năm 1961, đã khuyến khích Jaffe và Taylor xuất bản cuốn "A Crumbling Bastion".
Giáo sư Wesley Fishel đã bị MSU coi thường vì vai trò của ông trong dự án. Mặc dù đến năm 1962, ông đã trở nên "vỡ mộng trước các chính sách độc tài của Diệm," Fishel không thể chấp nhận một bài báo ủng hộ Diệm mạnh mẽ mà ông đã viết vào năm 1959 có nhan đề "Vietnam's Democratic One-Man Rule". Những người phản đối cơ sở trường đại học này đều lên tiếng chỉ trích ông qua các tấm biểu ngữ và khẩu hiệu của họ và làm gián đoạn các lớp học của ông ấy. Tai tiếng của Fishel và sự căng thẳng khi liên tục bảo vệ hành động của mình được cho là đã góp phần gây ra các vấn đề về sức khỏe, và ông qua đời vào tháng 4 năm 1977, ở tuổi 57. |
Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (, viết tắt "CSDC") cũng được người Pháp gọi là Police de Campagne và có nhiều tên gọi khác nhau là Cảnh sát Dã chiến Quốc gia (NPFF), người Mỹ gọi tắt là Field Police hay Field Force, là một nhánh cảnh sát bán quân sự tinh nhuệ trực thuộc Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (CSQGVNCH). Hoạt động tích cực trong chiến tranh Việt Nam, CSDC hoạt động chặt chẽ với Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) và Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) từ năm 1966 đến năm 1975.
Cảnh sát Dã chiến được chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập vào tháng 1 năm 1966 đóng vai trò là đơn vị hỗ trợ vũ trang cho Cảnh sát Quốc gia.
Nhiệm vụ do CSDC thực hiện đã vượt xa nhiệm vụ thông thường của lực lượng cảnh sát dân sự, có chức năng phục vụ như một nhánh khác thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, được tổ chức và huấn luyện cho các hoạt động bán quân sự trên chiến trường ở cả nông thôn và thành thị. Chủ yếu họ được giao nhiệm vụ chống du kích, chống nổi dậy, công tác thu thập tin tình báo. Các đại đội và tiểu đoàn CSDC cũng được tuyển mộ vào nhiều nhiệm vụ khác như bảo vệ công trình công cộng quan trọng, bảo vệ VIP, an ninh công cộng, phản gián, kiểm soát bạo loạn, khoanh vùng và tìm kiếm, hành quân tác chiến trong rừng, núi và đô thị.
Từ năm 1967 đến năm 1972, CSDC đã tham gia sâu vào Chiến dịch Phượng Hoàng () do CIA điều hành gây nhiều tranh cãi, tham gia tích cực vào quá trình "vô hiệu hóa" – thường bao gồm các vụ bắt giữ tùy tiện mà không bị buộc tội, tra tấn thường xuyên, và hành quyết phi pháp – những thành viên bị nghi ngờ thuộc cơ sở hạ tầng dân sự hoặc "chính quyền ngầm" của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN).
Thành viên CSDC thường là Cảnh sát Quốc gia tình nguyện tham gia lực lượng dã chiến, mặc dù đơn vị này cũng tiếp nhận quân nhân được thuyên chuyển hoặc giải ngũ khỏi Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Về sau CSDC còn tiếp nhận cả các cựu thành viên của Lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa (LLDBVNCH) sau khi bị giải thể vào tháng 12 năm 1970.
Cơ cấu và tổ chức.
Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến báo cáo trực tiếp lệnh hành quân cho Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia và được bố trí về Tổng nha CSQG tại Sài Gòn. Với tên gọi Đơn vị Hỗ trợ Vũ trang, đến năm 1969, Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến phụ trách các đơn vị Cảnh sát dã chiến và Cảnh sát Sông ngòi và Ven biển. Đổi tên thành Đơn vị Phản ứng năm 1972, Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến sáp nhập Lực lượng Điều tra Tỉnh và đến năm 1973 lại đổi tên thành Phòng Điều hành Di động.
Đơn vị cơ bản của Cảnh sát Dã chiến là đại đội được biên chế thành ban chỉ huy đại đội gồm 24 người và một số trung đội chiến đấu 40 người, mỗi trung đội bao gồm những tiểu đội 10 người. Cho đến năm 1968, một đại đội được phân công phụ trách từng tỉnh, thành phố chính và bố trí một số trung đội từ hai đến 13 trung đội tùy theo số quận, huyện. Ví dụ: có thể chỉ định tối đa năm huyện cho một đại đội, nhưng nếu một tỉnh hoặc thị xã có hơn sáu huyện thì có thể triển khai hai đại đội. Sau năm 1969, một cuộc tái tổ chức lớn được thực hiện, với các đại đội cấp tỉnh được mở rộng thành các tiểu đoàn. Đến tháng 8 năm 1971, lực lượng Cảnh sát Dã chiến có tổng cộng 16.500 sĩ quan và quân nhân được biên chế thành 44 tiểu đoàn cấp tỉnh gồm khoảng 90 đại đội, 242 trung đội cấp huyện và một trung đội kỵ binh độc lập. Hai đại đội độc lập gồm bốn trung đội, mỗi đại đội lần lượt đóng tại Vũng Tàu và Đà Nẵng, hai thành phố cảng tự trị có lực lượng cảnh sát thành phố riêng biệt với tỉnh nơi họ đóng trụ sở.
Để cung cấp sự giám sát và hỗ trợ cho tất cả các đơn vị Cảnh sát Dã chiến cấp tỉnh và thị xã này, Ban Chỉ huy Đại đội đều được đặt tại mỗi Quân đoàn trong số bốn Quân đoàn trên toàn quốc. Một đại đội Cảnh sát Dã chiến thường được một Thanh tra viên (Đại úy sau năm 1971) chỉ huy, viên chức này lại chịu sự chỉ huy tác chiến của Trưởng Công an Tỉnh trong khi các trung đội được phân công về các huyện đều nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Trưởng Công an Huyện trực tiếp chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng Chính trị Huyện.
Là lực lượng chủ yếu là bộ binh hạng nhẹ, Cảnh sát Dã chiến vận hành một trung đội kỵ binh độc lập duy nhất được cung cấp 8 chiếc xe bọc thép hạng nhẹ M8 Greyhound cổ điển của Mỹ trong Thế chiến thứ hai. Đóng quân ngay tại thủ đô Sài Gòn, đơn vị này phụ trách an ninh tòa nhà Ngân hàng Quốc gia và an ninh vòng đai Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia gần đó cũng như các khu vực xung quanh. Đơn vị này chuyên tuần tra trong khu vực đô thị và tác chiến cơ động.
Ngoài ra, Cảnh sát Dã chiến còn duy trì hai Biệt đoàn với tổng số 5.000 người bao gồm Biệt đoàn 5 CSDC và Biệt đoàn 222 CSDC, giúp Cảnh sát Quốc gia đủ khả năng tham gia độc lập vào các hành động phòng thủ hoặc tấn công tùy theo nhiệm vụ phòng thủ tác chiến của lực lượng này.
Đóng quân ngay tại thủ đô Sài Gòn, Biệt đoàn 5 trên thực tế là một tiểu đoàn mở rộng kể từ khi được tung ra chiến trường, ngoài một ban chỉ huy đại đội, 12 đến 14 đại đội chiến đấu, mỗi đại đội gồm bốn trung đội. Tiểu đoàn hoạt động trên địa bàn rộng lớn hơn là vùng Sài Gòn-Gia Định, được giao trực thuộc Tổng nha Cảnh sát Thành phố Sài Gòn đảm trách nhiệm vụ nội an, phòng vệ thủ đô. Trong trận Tết Mậu Thân tháng 1 năm 1968, đơn vị đã cam kết bảo vệ Phủ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Dinh Độc Lập cùng với các đơn vị Cảnh sát Quốc gia và QLVNCH khác, nổi bật trong các trận đánh giành lại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt, Chợ Lớn, Trường đua Phú Thọ và Nhà thờ Cha Tam, khiến cho các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải chịu tổn thất nặng nề khi tấn công vào đây.
Cũng đóng quân tại Sài Gòn, Biệt đoàn 222, một tiểu đoàn nhỏ hơn chỉ có sáu đại đội chiến đấu, lần lượt được giao cho Tổng dự trữ của Cảnh sát Quốc gia như một đơn vị phản ứng nhanh có thể được triển khai trên toàn quốc, được giao nhiệm vụ cụ thể và nhiệm vụ tăng cường. Tiến vào Sài Gòn trong dịp Tết Mậu Thân 1968, Cảnh sát Dã chiến thuộc Biệt đoàn 222 đã đánh đuổi thành công toán đặc công Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang cố thủ trong tòa nhà Đài Phát thanh Quốc gia, nằm cách Đại sứ quán Mỹ vài trăm mét mà còn chiến đấu ở nơi khác. Từ năm 1968 đến năm 1975, các đại đội chiến đấu của Tiểu đoàn được triển khai tại nhiều thời điểm và địa điểm khác nhau trên khắp cả nước, tham gia hoạt động phòng thủ và tấn công cùng với những đơn vị Cảnh sát Quốc gia hoặc Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Tuyên Đức, Gia Định, Long An, Biên Hòa và đảo Phú Quốc. Khi thị xã An Lộc bị ba sư đoàn thiết giáp của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) bao vây vào tháng 4 năm 1972 trong Chiến dịch Lễ Phục Sinh, Biệt đoàn 222 đã được điều động đến để tăng cường phòng thủ thành phố và trụ vững thành công trước những đợt tấn công liên tục của xe tăng địch.
Trinh sát Đặc biệt.
Nhiệm vụ trinh sát và thám báo do các toán viên chiến đấu thuộc đội Trinh sát Đặc biệt thực hiện. Được tuyển mộ từ các dân tộc thiểu số như Khmer Krom, Chăm, Nùng hoặc Thượng, họ được tổ chức thành các đơn vị cỡ trung đội trực thuộc mỗi đại đội Cảnh sát Dã chiến. Họ chuyên về leo dốc, chống phục kích, xuất kích bằng máy bay, bắn chiến thuật nhanh, quan sát phía trước, ra hiệu bằng tay và cánh tay, chiến đấu tay đôi, xâm nhập khu vực bằng trực thăng vận, chiến tranh rừng rậm và núi non, sống ngoài rừng rậm và núi non, thám báo tầm xa, chiến thuật tác chiến do thám, chiến thuật tác chiến đơn vị nhỏ, y tế khẩn cấp chiến thuật, liên lạc vô tuyến chiến thuật, chiến thuật theo dõi, chiến thuật tác chiến phi chính quy và sử dụng bản đồ cùng la bàn.
Nhân viên Cảnh sát Quốc gia tình nguyện tham gia Cảnh sát Dã chiến, ngoài việc được hướng dẫn cơ bản về nghiệp vụ cảnh sát, còn được đào tạo nâng cao về bán quân sự. Sĩ quan tập sự vừa tốt nghiệp Học viện Cảnh sát Quốc gia hoặc Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt phải trải qua một khóa hướng dẫn toàn diện về chiến thuật tác chiến tại Trường Bộ binh Thủ Ðức, trong khi nhân viên cảnh sát sắc phục đã hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản tại Rạch Dừa cũng tham dự một chương trình tương tự tại Trung tâm Huấn luyện Chiến đấu của QLVNCH và Trường Hạ sĩ quan cùng đặt tại Đà Lạt. Trong giai đoạn này, tất cả các khóa huấn luyện chiến đấu đều được thực hiện ở cấp tiểu đội và trung đội, giúp các tân binh có được khả năng cơ động chiến thuật tốt trên thực địa.
Sau đó, Cảnh sát Dã chiến tương lai – bao gồm cả sĩ quan và hạ sĩ quan – đã trải qua thêm 8 tuần huấn luyện về kỹ năng bán quân sự Cảnh sát Dã chiến tại Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát Quốc gia Mã Lai Á và Phi Luật Tân. Hướng dẫn bao gồm các chủ đề như kỹ thuật bảo vệ tầm gần, chiến đấu và tuần tra trong khu vực đô thị, chống phục kích, kiểm soát đám đông, sơ tán, sơ cứu, tín hiệu tay và cánh tay, chiến đấu tay đôi, xâm nhập khu vực bằng trực thăng vận, thu thập thông tin tình báo, hoạt động thu thập thông tin tình báo, chiến thuật chiến đấu trong rừng núi, thực thi pháp luật, sống ngoài rừng rậm, liên lạc vô tuyến, chiến thuật chiến đấu đột kích và trinh sát, kỹ thuật kiểm soát bạo động, chiến thuật theo dõi và sử dụng bản đồ cùng la bàn. Để nâng cấp khả năng của mình, các tiểu đội và trung đội được định kỳ đưa trở lại các trung tâm huấn luyện này để tham gia khóa huấn luyện bồi dưỡng đơn vị trong sáu tuần, nhưng đối với hầu hết đại đội và tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến đóng tại các tỉnh thành, khóa bồi dưỡng của họ thực sự diễn ra tại những trung tâm huấn luyện khu vực. Huấn luyện quân sự "tại chỗ" bổ sung được Đội Huấn luyện Cơ động Mỹ cung cấp cho các đơn vị Cảnh sát Dã chiến trên chiến trường hoặc do các cố vấn Úc từ Đội Huấn luyện Quân đội Úc tại Việt Nam (AATTV) phụ trách.
Học viên sĩ quan được tuyển chọn còn sang tham dự các khóa học nâng cao về giảng dạy chuyên ngành cảnh sát ở Trung tâm Huấn luyện Đặc biệt Cảnh sát Dã chiến thuộc Cảnh sát Hoàng gia Malaysia () tại Kentonmen, Ulu Kinta, Perak, Malaysia; sau khi tốt nghiệp, một số sĩ quan Cảnh sát Quốc gia mới này khi trở về nước đều được bổ nhiệm làm giảng viên Cảnh sát Dã chiến tại các trung tâm huấn luyện cảnh sát để truyền thụ kỹ năng cho tân binh Cảnh sát Dã chiến.
Vũ khí và trang bị.
Cảnh sát Dã chiến được trang bị vũ khí hạng nhẹ theo tiêu chuẩn quân sự, nhưng trang bị vũ khí hạng nặng lại theo tiêu chuẩn cảnh sát thông thường. Ban đầu, hầu hết vũ khí của lực lượng này đều là đồ cũ lấy từ Thế chiến thứ hai/Chiến tranh Triều Tiên – vũ khí tiêu chuẩn là súng trường bán tự động hạng nặng M1 Garand, được bổ sung thêm súng carbine M1/M2, súng tiểu liên M3 và Thompson cùng súng máy hạng nhẹ BAR. Từ năm 1969, súng trường, súng carbine và súng tiểu liên bắt đầu được thay thế bằng súng trường M16 và mặc dù loại súng này trở thành vũ khí chính của Cảnh sát Dã chiến nhưng nó chưa bao giờ thay thế hoàn toàn các loại vũ khí trước đó. Ngoài ra, mỗi trung đội còn có một khẩu súng phóng lựu M79 và một súng máy hạng trung cỡ nòng 0,30. 24 khẩu súng shotgun đã có sẵn trong kho vũ khí của đại đội. Cảnh sát Dã chiến không có hệ thống vũ khí do tổ đội vận hành như súng cối hoặc bất kỳ vũ khí hỏa lực gián tiếp nào khác.
Quân phục và phù hiệu.
Nhân viên Cảnh sát Dã chiến ban đầu được cấp quân phục màu xanh ô liu tiêu chuẩn giống như các ngành Cảnh sát Quốc gia khác, nhưng từ năm 1967, họ bắt đầu nhận được trang phục ngụy trang 'Con Báo' mới, được người Việt mệnh danh là đồng phục 'hoa màu đất'. Đây là bản sao được sản xuất tại địa phương của mẫu ngụy trang Mitchell 'Clouds' do người Mỹ thiết kế, kết hợp các đốm hình đám mây màu nâu sẫm, màu nâu đỏ, màu be, màu nâu nhạt và màu đất son chồng lên nhau trên nền màu rám nắng.
Áo khoác dã chiến M-1951 của Mỹ màu xanh ô liu hoặc bản sao trong nước bằng vải ngụy trang được cấp cho các đại đội Cảnh sát Dã chiến hoạt động trong môi trường miền núi lạnh lẽo vùng Tây Nguyên.
Cảnh sát Dã chiến được phân biệt với phần còn lại của Cảnh sát Quốc gia bằng một chiếc mũ nồi đen làm từ một mảnh len duy nhất gắn với một dải vành bằng da màu đen có hai dây buộc ở phía sau. Mũ nồi thường được đúc cẩn thận để có hình dạng nhọn hoặc 'mào hình tổ ong', rất nhiều quân nhân Việt Nam Cộng hòa chịu ảnh hưởng loại mũ này vì nó được cho là mang lại cho người đội một dáng người oai phong hơn và sự quyến rũ của 'lính xung kích' hay 'biệt kích' hung hãn. Nó được đeo kiểu Pháp kéo sang trái, với huy hiệu mũ Cảnh sát Quốc gia đặt phía trên mắt phải. Ban đầu dự định được mặc cùng với đồng phục cảnh sát quốc gia theo quy định trong những dịp trang trọng, mũ nồi đôi khi được nhìn thấy trên thực địa nhưng nó thường được thay thế bằng mũ rừng rằn ri và mũ bảo hiểm thép M-1 kiểu 1964 của Mỹ, chiếc mũ sau được đội cùng với lớp vỏ ngụy trang hình 'Mây'. Một chiếc mũ bảo hiểm M-1 của Mỹ được sơn màu đen bóng, có sọc trắng đỏ ở hai bên và có chữ "TC" ("Tuấn Tra") mà Cảnh sát Dã chiến đội vào khi phụ trách tuần tra hoặc kiểm soát bạo động ở khu vực thành thị.
Giày trận bằng da màu đen được cung cấp bởi người Mỹ đã phát hành cả mẫu M-1962 'McNamara' đầu tiên của Quân đội Mỹ và mẫu M-1967 với đế cao su hoa văn 'gợn sóng', sản phẩm tiêu chuẩn của QLVNCH. Trên chiến trường, cảnh sát dã chiến thường mang loại ủng đi rừng được đánh giá cao của Quân đội Mỹ và ủng nhiệt đới Bata bằng vải bạt màu đen hoặc xanh lá cây do Việt Nam sản xuất, được thay thế bằng dép da hoặc nhựa thương mại và cao su khi ở trong đồn. Một số cá nhân có khóa kéo bên trong đôi bốt đi rừng của họ để có thể buộc cố định theo kiểu 'trên không' lạ mắt, trong khi người mang có thể xỏ đôi bốt vào một cách nhanh chóng và dễ dàng bằng cách sử dụng khóa kéo.
Về việc đặt phù hiệu, Cảnh sát Dã chiến có một hệ thống riêng, ban đầu được điều chỉnh từ đồng phục của họ. Hầu hết Cảnh sát Dã chiến đều không đeo phù hiệu trên đồng phục ngụy trang dã chiến khi đang lâm trận, hoặc đôi khi chỉ có phù hiệu đại đội của họ bằng phiên bản vải hoặc kim loại trong móc treo túi theo kiểu Pháp treo ở túi áo sơ mi bên phải.
Đội Trinh sát Đặc biệt được cấp một miếng vá tròn thêu màu đen viền đỏ, với chữ "CSQG" và "TSDB" màu đỏ và lưỡi lê hình thanh kiếm có cánh chĩa xuống. |
Thirteen Lives là một bộ phim tiểu sử của Mỹ được ra mắt năm 2022, dựa trên cuộc giải cứu hang Tham Luang, do Ron Howard đạo diễn và sản xuất và được viết bởi William Nicholson. Phim có sự tham gia của Viggo Mortensen, Colin Farrell, Joel Edgerton và Tom Bateman.
"Thirteen Lives" được phát hành tại một số rạp chọn lọc vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, bởi United Artists Releasing, và bắt đầu phát trực tuyến trên nền tảng Amazon Prime Video vào ngày 5 tháng 8 năm 2022. Phim nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình.
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2018, một nhóm mười hai cậu bé, từ 11 đến 16 tuổi, từ một đội bóng đá, cùng với huấn luyện viên của họ, bị mắc kẹt trong hang Tham Luang Nang Non ở tỉnh Chiang Rai của Thái Lan, sau khi mưa lớn làm ngập một phần hang động trong chuyến tham quan của họ. Khi cả nhóm không đến dự bữa tiệc sinh nhật do cha mẹ tổ chức, gia đình họ đi đến hang động, chỉ để thấy chúng bị ngập lụt và các cậu bé mất tích, xe đạp của họ bị bỏ lại ở lối vào. Cha mẹ ngay lập tức báo cho dịch vụ khẩn cấp.
Hải quân Thái Lan, do Arnont dẫn đầu, đến để tìm kiếm những cậu bé mất tích, nhưng việc lặn quá khó để xác định vị trí của đội. Vernon Unsworth, một thợ hang động địa phương người Anh, chia sẻ kiến thức sâu rộng của mình về hang động phức tạp và nguy hiểm, đồng thời đề nghị chính quyền liên hệ với Hội đồng cứu hộ hang động Anh. Các nhà thám hiểm người Anh Rick Stanton và John Volanthen tới Thái Lan và cố gắng lặn, tìm thấy các cậu bé và huấn luyện viên cách lối vào 4km. Trong nỗ lực cung cấp bình dưỡng khí cho các cậu bé để giữ họ sống sót chuẩn bị cho cuộc giải cứu, Saman Kunan đã tử vong.
Trong khi đó, khi hàng trăm tình nguyện viên cố gắng giảm thiểu điều kiện thời tiết xấu, một kỹ thuật viên cấp nước từ Bangkok đã được nông dân địa phương cho phép chuyển nước từ trên núi xuống ruộng của họ, phá hủy mùa màng của họ.
Nhận thấy các cậu bé sẽ phải được đưa ra khỏi hang động sau chuyến lặn kéo dài 6 giờ, biết được những rủi ro là gì, Stanton và Volanthen liên lạc với tiến sĩ Richard Harris, cộng với việc hỗ trợ của các thợ lặn Chris Jewell và Jason Mallinson. Với sự cho phép của thống đốc và bộ trưởng khu vực, các thợ lặn sẽ dùng thuốc an thần cho các cậu bé và mỗi cậu bé sẽ có một thợ lặn khiêng từng thành viên ra khỏi hang một cách an toàn. Huấn luyện viên được giải cứu cuối cùng. Được đưa đến bệnh viện, bố mẹ được đoàn tụ với đội. Cảnh cuối là cảnh các chàng trai tổ chức bữa tiệc sinh nhật được cho là sẽ diễn ra vào ngày họ vào hang. Cuối phim đã tiết lộ rằng huấn luyện viên và ba cậu bé, tất cả đều không có quốc tịch, được cấp quốc tịch Thái Lan. Bộ phim dành tặng Saman Kunan, Đặc nhiệm Hải quân Thái Lan, người đã chết vào ngày 6 tháng 7 năm 2018, trong chiến dịch giải cứu và Beirut Pakbara, một Đặc nhiệm Hải quân Thái Lan sau đó đã chết vì nhiễm trùng máu.
Vào tháng 4 năm 2020, đã có thông báo rằng Ron Howard sẽ đạo diễn bộ phim, với William Nicholson viết kịch bản. Metro-Goldwyn-Mayer acquired the rights to the film the following month. Vào tháng 3 năm 2021, Viggo Mortensen, Colin Farrell và Joel Edgerton nằm trong số dàn diễn viên được công bố sẽ đóng vai chính trong phim. Quá trình quay phim bắt đầu vào ngày 29 tháng 3 năm 2021, tại Úc, và cũng bao gồm những cảnh quay ở Thái Lan. Nhạc gốc của phim được sáng tác bởi Benjamin Wallfisch.
"Thirteen Lives" được ra mắt bởi United Artists Releasing tại một số rạp chọn lọc vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, trước khi phát trực tuyến trên Amazon Prime Video vào ngày 5 tháng 8. Ban đầu bộ phim được lên kế hoạch phát hành đầy đủ tại rạp bởi United Artists Releasing vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, và sau đó được hoãn lại đến ngày 18 tháng 11 để đáp lại buổi chiếu thử tốt nhất trong lịch sử của MGM. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 2022, bộ phim đã được dời đến ngày phát hành hiện tại do việc Amazon mua lại MGM vào tháng 3.
Khi Howard tiếp cận người cộng tác quen thuộc của anh, Hans Zimmer để ghi điểm, người sau đã đặc biệt đề cử người bảo trợ của anh Benjamin Wallfisch cho công việc này. Wallfisch đã chuẩn bị sẵn một bộ phim dài 20 phút trước khi Howard bắt đầu quay ở Thái Lan.
Trên trang website của Rotten Tomatoes, phim có tỷ lệ tán thành là 86% dựa trên 178 bài phê bình, với điểm trung bình là 7,3/10. Sự đồng thuận của trang web cho biết, "Được sự chỉ đạo ổn định bởi đạo diễn Ron Howard, Thirteen Lives mang đến một vở kịch chưa hoàn chỉnh nhưng vẫn hấp dẫn về một câu chuyện có thật đáng kinh ngạc." Còn trên Metacritic, bộ phim có điểm trung bình là 66/100 dựa trên 40 nhà phê bình, cho thấy "các bài đánh giá nhìn chung là thuận lợi". |
Tôn giáo ở Venezuela
Tôn giáo ở Venezuela chỉ về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng tại Venezuela. Venezuela không có một tôn giáo chính thức do là một quốc gia thế tục và Hiến pháp Venezuela quy định đảm bảo quyền tự do tôn giáo. Về cơ cấu thì Cơ đốc giáo nói chung là tôn giáo lớn nhất ở Venezuela, trong đó Công giáo có nhiều tín đồ nhất. Công giáo La Mã là đức tin thống trị và có sức lan tỏa sâu rộng về mặt văn hóa và xã hội. Trước khi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đến, người da đỏ bản địa cư trú trên lãnh thổ Venezuela ngày nay đã thực hành nhiều tín ngưỡng truyền thống khác nhau. Giáo hội Công giáo ở Venezuela tập trung chủ yếu vào việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria, điều này được minh họa bằng những nhân vật như Đức Mẹ Coromoto ở bang Portuguesa, Virgen del Valle ở Nueva Esparta và Đức mẹ Mân Côi Chiquinquirá ở phần phía tây Venezuela.
Tôn giáo ở Venezuela (2022)
templatestyles src="Legend/" / Công giáo
(64.2%)templatestyles src="Legend/" / Anh giáo
(8.3%)templatestyles src="Legend/" / Khác (1.6%)
Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần. Các ước tính của Hội đồng Tin Lành Venezuela cho rằng Giáo hội Tin Lành chiếm 10% dân số. Có những cộng đồng Hồi giáo và Do Thái giáo nhỏ nhưng có ảnh hưởng. Các cộng đồng Hồi giáo của hơn 100.000 người tập trung ở những người gốc Lebanon và Syria hiện sống ở các khu vực như Nueva Esparta, Punto Fijo và khu vực Caracas. Các con số thuộc cộng đồng Do Thái giáo là khoảng 13.000 tín đồ và chủ yếu tập trung ở Caracas. Hiện nay có khoảng 153.000 tín đồ Mormon phần lớn ở tại Caracas.
Tôn giáo tại Venezuela (2011)
Theo điều tra dân số quốc gia năm 2011, ước tính có khoảng 71% dân số được xác định là Công giáo. Hơn 17% người Venezuela được xác định là theo đạo Tin lành và 9% được xác định là không liên kết với bất kỳ tôn giáo nào. Phần còn lại của dân số xác định với một số tôn giáo khác (bao gồm cả tín ngưỡng dân gian khoảng 1%), mặc dù nhiều Cơ đốc nhân tự nhận mình cũng có thể thực hành các nghi lễ dựa trên tín ngưỡng dân gian. Các ước tính chỉ ra rằng sự liên kết tôn giáo với Nhà thờ Công giáo đang giảm dần khi tỷ lệ người Venezuela theo đạo Tin lành hoặc không theo tôn giáo nào tăng lên mỗi năm. Nhìn chung, thế hệ trẻ của người Venezuela có xu hướng ít tôn giáo hơn những thế hệ lớn tuổi hơn. Tôn giáo và Cơ đốc giáo không phải là một chủ đề quá nhạy cảm ở Venezuela. Tuy nhiên, nói chung là không thích hợp để công khai hỏi về tín ngưỡng dân gian vì mức độ mê tín thận trọng có thể bao quanh những chủ đề này.
Đạo Công giáo du nhập vào Venezuela bởi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ XVI, cụ thể là vào năm 1515 ở Nueva Toledo). Giáo hội Công giáo đã từng là một tổ chức có sức mạnh lịch sử về văn hóa và chính trị của nước này. Bản chất ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo trong nền chính trị Venezuela đã thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, nhiều người Venezuela coi Công giáo là một phần không thể thiếu trong bản sắc văn hóa, được truyền qua gia đình và quốc gia như một phần di sản. Mọi người nói chung tổ chức các ngày lễ và lễ hội Công giáo vì văn hóa và lịch của đất nước phản ánh tôn giáo. Hầu hết người Venezuela ăn mừng lễ Phục sinh và Giáng sinh. Hơn nữa, lời chào thông thường giữa hầu hết người Venezuela và gia đình của họ là ""Bendición" bắt nguồn từ truyền thống Công giáo và được dịch một cách lỏng lẻo thành "phước lành"". Sự tuân thủ các thực hành và tín ngưỡng Công giáo và mức độ bảo thủ khác nhau trên khắp đất nước. Công giáo có xu hướng mạnh nhất ở vùng Andean.
Theo The World Factbook, năm 2009, 96% dân số là người Công giáo La Mã, năm 2018, Latinobarómetro ước tính 66% dân số là người Công giáo La Mã. Một cuộc thăm dò năm 2014 do Trung tâm Nghiên cứu Pew thực hiện cho biết chỉ 10% người Venezuela xác định là Công giáo nói rằng tôn giáo rất quan trọng đối với cuộc sống của họ, và họ cầu nguyện hàng ngày cũng như đi lễ hàng tuần. Hơn nữa, nhiều ý kiến xã hội đương thời của mọi người đã khác xa với các giáo lý chính thức của Giáo hội Công giáo. Điều này cho thấy rằng phần lớn người Venezuela đang thế tục trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày của họ. Hơn nữa, sự phát triển của các tôn giáo Tin lành truyền đạo trong những năm gần đây đã làm cho Giáo hội Công giáo mất đi sự ủng hộ. Tuy nhiên, nhiều người Venezuela vẫn sùng đạo, cầu nguyện hàng ngày và thường xuyên đi lễ. Dưới thời của Hugo Chávez rất xem nhẹ vai trò của các giám mục của Giáo hội Công giáo trong xã hội Venezuela. Tiếp theo đó, Giáo hội Công giáo Venezuela đã lên tiếng phản đối chính quyền Maduro nhưng Giáo hoàng Francis đã lên tiếng trung lập trong cuộc khủng hoảng tổng thống Venezuela năm 2019.
Đạo Tin lành đã trở nên phổ biến trong Công giáo Mỹ La-tinh. Tính đến năm 2011, đã có 17% người Venezuela được xác định là theo đạo Tin lành. Các cuộc chuyển đổi từ Công giáo sang các truyền thống Tin lành đã xảy ra trong thế hệ gần đây nhất. Sự gia tăng này có thể là do một số yếu tố, chẳng hạn như sự mất lòng tin ngày càng tăng đối với Giáo hội Công giáo, cũng như sự thành công của các nhóm truyền giáo Ngũ tuần (đặc biệt là những nhóm tiếp cận với người Venezuela bản địa và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội), nhiều người dân nông thôn Venezuela trở nên bất bình với Giáo hội Công giáo khi chuyển đến các cộng đồng đô thị mới bên ngoài. Đạo Tin lành (đặc biệt là truyền thống Ngũ tuần) đã có thể thu hẹp khoảng cách đối với một số người trong các cộng đồng mới đô thị hóa này. Do đó, nó đặc biệt phổ biến ở Barrios (khu ổ chuột ngoài đô thị). Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su Christ (Mormon) tuyên bố có 173.125 thành viên (tháng 4 năm 2022) chủ yếu ở trong và xung quanh Caracas. Nhân Chứng Giê-hô-va cho biết có 136.542 người công bố đang hoạt động, hợp nhất trong 1.734 hội thánh; có 319.962 người tham dự Bữa Tiệc Thánh hàng năm của Chúa vào năm 2020.
Trước khi chịu sự đô hộ của Đế chế Tây Ban Nha và sự ảnh hưởng của Cơ Đốc giáo thì người da đỏ bản địa ở đây cũng có hệ thống tôn giáo bản địa truyền thống. Hiện nay, một số tín ngưỡng dân gian đang trở nên phổ biến ở Venezuela trong tất cả các tầng lớp xã hội. Những điều này thường kết hợp các yếu tố của ma thuật, ma thuật và tâm linh Thời đại Mới (New Age) với các truyền thống Công giáo chẳng hạn như việc thờ cúng các vị thánh. Vì chúng có những điểm tương đồng với các thực hành của Cơ đốc giáo, chúng thường thu hút những người Công giáo suốt đời tin rằng họ đang tham gia vào một biến thể của cùng một đức tin với các nghi lễ khác nhau.
Những người theo đạo thường thực hành các truyền thống như vậy cùng với Cơ đốc giáo và tiếp tục tự nhận mình là Công giáo hoặc Tin lành, chẵng hạn như trước tiên họ có thể thực hiện một lời cầu nguyện Cơ đốc, sau đó là một hình thức thờ phượng khác. Giáo hội Công giáo đã tuyên bố họ mong muốn duy trì sự phân biệt giữa các tôn giáo dân gian và Công giáo. Những tín ngưỡng dân gian được biết đến nhiều nhất là Santería và Espiritismo. Một số người tin rằng những người theo Santería và Espiitismo chiếm tới 30% dân số Venezuela. Tuy nhiên, rất khó xác định số lượng người theo dõi vì nhiều người giữ bí mật về việc thực hành của họ, đôi khi giấu kín với gia đình. |
Kem thịt lợn muối xông khói
Kem thịt lợn muối xông khói (hoặc kem thịt lợn muối xông khói và trứng) là một loại kem thường được tạo ra bằng cách thêm thịt lợn muối xông khói vào sữa trứng và làm đông lạnh hỗn hợp. Khái niệm kem thịt lợn muối xông khói bắt nguồn từ một bản phác thảo năm 1973 trên loạt phim hài "The Two Ronnies" của Anh dưới dạng trò đùa cợt; sau cùng món này được một tiệm kem ở New York tạo ra dành cho ngày Cá tháng Tư năm 1982. Vào thập niên 2000, đầu bếp người Anh Heston Blumenthal đã thử nghiệm kem, làm một loại sữa trứng tương tự như trứng bác và thêm thịt lợn muối xông khói để tạo ra một trong những món ăn đặc trưng của ông. Bây giờ nó xuất hiện trên thực đơn tráng miệng ở các nhà hàng khác.
Kem thường được coi là một loại thực phẩm ngọt và dùng làm món tráng miệng, mặc dù có bằng chứng về việc ăn kem mặn vào thời Victoria. Kem thịt lợn muối xông khói có nguồn gốc là trò đùa cợt, một hương vị mà không ai muốn ăn, trong "Ice Cream Parlour Sketch" của "The Two Ronnies" năm 1973, khách hàng đòi món kem có hương vị phô mai và hành tây, sau đó là thịt ba rọi xông khói.
Năm 1992, kem thịt lợn muối xông khói và trứng được tạo ra như một thử nghiệm cho Ngày Cá tháng Tư tại Aldrich's Beef and Ice Cream Parlor ở Fredonia, New York. Mười năm trước, người đồng sở hữu Scott Aldrich đã bị một nhân viên bán nước thịt thách thức làm kem nước sốt thịt bò, mà anh ta đã làm ra vào Ngày Cá tháng Tư năm 1982. Mặc dù đây được cho là sáng tạo "kinh tởm nhất" của họ, nhưng Aldrich's vẫn tiếp tục cho ra mắt những hương vị kem dị thường khác vào Ngày Cá tháng Tư, chẳng hạn như "kem spaghetti sô-cô-la" (đóng góp đầu tiên của Julia Aldrich), "xốt cà chua và mù tạt", "thịt lợn và đậu" hay "dưa cải bắp và vani" vào năm 1991. Năm 1992, họ đã làm ra 15 kem thịt lợn muối xông khói và trứng mà ông tặng miễn phí cho bất kỳ ai dùng thử. Nhìn chung các loại kem đều nhận được đánh giá tích cực. Năm 1992, tờ "The Victoria Advocate" đưa tin,Ông nói, bất chấp những cái tên kinh tởm, hầu hết các hương vị chơi khăm của [Aldrich] đều ngon. Thịt lợn muối xông khói và trứng có vị hơi giống mùi vani hạt dẻ, mặc dù đôi khi vẫn có vị thoang thoảng của lòng đỏ trứng bong tróc.
Năm 2003, một tiệm kem mang tên "Udder Delight", mở ở Bãi biển Rehoboth, Delaware, chuyên về những hương vị kem "kỳ lạ". Trong số các hương vị khác, chẳng hạn như kem bơ đậu phộng và thạch từng đoạt giải thưởng, họ đã tạo ra một loại kem thịt lợn muối xông khói có vị giống như bơ hồ đào. Người chủ tiệm là Chip Hearn, đã đưa hương vị này cùng với 17 loại khác vào một nhóm tập trung chỉ dành cho những ai được mời đến, cho phép họ nếm thử rồi đề xuất những thay đổi và nêu lên ý kiến về hương vị này. |
Atalanta (tiếng Hy Lạp: Ἀταλάντη, "Atalántē") là một nữ anh hùng trong thần thoại Hy Lạp. Có hai cốt truyện về nữ thợ săn Atalanta, đó là cốt truyện thứ nhất có nguồn gốc từ Arcadia, theo đó, cô có cha mẹ là Iasus và Clymene và người nữ anh hùng này nổi danh từ những câu chuyện về cuộc săn lợn rừng Calydonian và với các anh hùng Argonaut và một cốt truyện khác đến từ Boeotia, theo dó, cô là con gái của Vua Schoeneus và chủ yếu được chú ý nhờ kỹ năng chạy bộ điêu luyện. Trong cả hai phiên bản, nữ anh hùng Atalanta là một cư dân địa phương đã liên minh với nữ thần Artemis trong những câu chuyện truyền miệng như vậy, các nhân vật phụ thường được đặt những cái tên khác nhau, dẫn đến những khác biệt nhỏ trong cách gọi tên từng khu vực.
Khi sinh ra, Atalanta được đưa đến Núi Parthenion để làm phép tiếp xúc vì cha cô mong muốn có một đứa con trai.. Một con gấu cái vốn một trong những biểu tượng của Artemis khi những đàn con của cô gần đây đã bị thợ săn giết chết đã đến đưa Atalanta đi và chăm sóc cô cho đến khi chính những người thợ săn đó phát hiện ra cô và tự mình nuôi cô trên núi. Nàng Atalanta sau đó lớn lên trở thành một trinh nữ nhanh nhẹn, tránh xa đàn ông và cống hiến hết mình cho nữ thợ săn Artemis. Cô nàng Atalanta tự bắt chước theo Artemis, cô thường mặc một chiếc áo dài cộc tay dài đến đầu gối và sống ở vùng hoang dã. Khi sống ở nơi hoang dã, nàng Atalanta đã từng giết chết hai nhân mã, Rhoecus và Hylaios, bằng cây cung của mình sau khi vẻ đẹp của cô thu hút sự chú ý của chúng và chúng định cưỡng hiếp cô.
Nữ anh hùng Atalanta thỉnh thoảng chỉ được nhắc đến trong truyền thuyết về các anh hùng Argonaut, tuy nhiên, sự tham gia của cô được ghi nhận trong lời kể của Pseudo-Apollodorus, kể rằng trong quá trình tìm kiếm Bộ lông cừu vàng thì nàng Atalanta người đã được mời và kêu gọi sự bảo vệ của Artemis cũng đi thuyền cùng nhóm Argonaut với tư cách là nữ nhân duy nhất trong số họ. Theo lời kể của Diodorus Siculus thì Atalanta không chỉ được ghi nhận là đã đi thuyền cùng những người Argonaut mà còn chiến đấu bên cạnh họ trong trận chiến ở Colchis, nơi cô cùng với Jason, Laertes và các con trai của Thesipae bị thương và sau đó được Medea chữa lành. Theo lời kể của Apollonius của Rhodes, thì Jason đã ngăn cản Atalanta tham gia không phải vì cô thiếu kỹ năng mà vì là phụ nữ, cô có khả năng gây ra hiềm tỵ giữa những người đàn ông trên tàu. Sau cái chết của Vua Pelias ở Iolcus thì Atalanta đã đánh bại Peleus trong một trận đấu vật. Trận đấu này đã trở thành một chủ đề phổ biến trong nghệ thuật Hy Lạp. |
Giải Cánh diều 2015
Giải Cánh Diều 2015 là lần thứ 14 giải Cánh Diều được tổ chức; lễ trao giải diễn ra tối 20 tháng 4 năm 2016 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, được đạo diễn bởi Trịnh Lê Văn.
Đây là lần đầu tiên Giải Cánh diều có 3 bộ phim nhận giải Bạc hạng mục phim truyện điện ảnh. Giải thưởng năm này có thêm đề cử cho Nam diễn viên phụ và nữ diễn viên phụ xuất sắc. Tiêu chí của Giải lần này là "Đề cao các tác phẩm điện ảnh, truyền hình có dấu ấn sáng tạo trong thể hiện, mang đậm bản sắc dân tộc, giàu giá trị nhân văn và đạt hiệu quả xã hội tích cực".
Trưởng ban giám khảo các hạng mục gồm Phim truyện điện ảnh đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh cùng các thành viên như Phạm Nhuệ Giang, đạo diễn Lê Lâm, diễn viên Mai Thu Huyề, phim tài liệu - khoa học là đạo diễn Lê Hồng Chương, công trình nghiên cứu, lý luận phê bình là PGS-TS Trần Thanh Hiệp và hạnh mục phim ngắn NSƯT Phan Thị Bích Hà.
Hãng phim truyện Đài Truyền hình Việt Nam chiến thắng nhiều giải thưởng của hạng mục phim truyền hình, nên để tránh các tranh cãi về sau, ban tổ chức Giải Cánh diều đã loại bỏ giám đốc của Hãng là đạo diễn Đỗ Thanh Hải khỏi ban giám khảo.
Sự kiện liên quan.
18 bộ phim truyện điện ảnh tham gia tranh giải Cánh diều 2015 được trình chiếu miễn phí tại 4 địa điểm ở Hà Nội bắt đầu từ ngày 13 đến 17 tháng 4 năm 2006. Có khoảng 100 - 200 vé mời miễn phí được phát trong mỗi suất chiếu.
Buổi lễ trao giải thay vì tổ chức vào ngày 15 tháng 3 như hằng năm thì lần này được lui về ngày 20 tháng 4, thời hạn đăng ký đề cử cũng được kéo dài hơn, từ đầu tháng 1 đến 20 tháng 2 năm 2016. Công việc chấm điểm diễn ra trong tháng 3 năm 2016.
Trong 143 phim và 6 công trình nghiên cứu của hơn 50 hãng sản xuất tranh giải tại Cánh diều 2015, hạng mục phim truyền hình có 16 phim dài tập, 8 phim ngắn tập; phim hoạt hình có 14 phim; 37 phim tài liệu, 12 phim khoa học và hạng mục phim ngắn có 33 phim. Phim truyện điện ảnh có 18 phim trong tổng số 37 phim được sản xuất trong năm 2015.
Với mục đích bảo vệ phim Việt, Ban tổ chức của Cánh diều không cấp nhận những bộ phim được làm lại của nước ngoài. Vì thế, ngay từ cuối tháng 1 năm 2006, một cái tên khá nổi bật đã không có tên trong danh sách đề cử là "Em là bà nội của anh".
Tri ân / tôn vinh.
Giải Cánh diều 2015 có phần tôn vinh cống hiến của nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ và Nhà giáo Nhân dân Lê Đăng Thực với nền điện ảnh Việt Nam.
Công trình nghiên cứu, lý luận, phê bình.
Công bố kết quả: Tiến sĩ Trần Thanh Hiệp và nghệ sĩ Chiều Xuân
Có hai giải Cánh diều Vàng: |
Tiếng Chatino cao nguyên
Tiếng Chatino cao nguyên là một trong những ngôn ngữ Trung bộ châu Mỹ bản địa nằm trong nhóm Chatino thuộc ngữ hệ Oto-Mangue. Phương ngữ của ngôn ngữ này khá đa dạng; "Ethnologue" 16 đếm ra ba nhóm phương ngữ như sau:
Các phương ngữ lân cận giữa ba nhóm này có thể được hiểu biết lẫn nhau khoảng 80%; sự đa dạng giữa ba phương ngữ của tiếng Chatino Tây gần lớn như nhau.
Rasch (2002) phân tích mười thanh điệu: bốn thanh điệu cấp cao /˥/, giữa /˦/, thấp-giữa /˨/, và thấp /˩/; hai thanh điệu cao dần /˦˥/ và /˨˦/; và ba thanh điệu thấp dần /˥˦/, /˦˨/, /˨˩/, cũng như thanh /˦˩/ (thanh này hạn chế sử dụng), tìm thấy trong một số từ vựng và dạng động từ hoàn chỉnh.
Có nhiều bảng chữ cái thực tế cho tiếng Chatino, hầu như dựa trên bảng chữ cái tiếng Tây Ban Nha. Tiêu biểu là #đổi = /ʃ/, #đổi = /tʃ/, và /k/ được phát âm là #đổi trước nguyên âm sau và #đổi trước nguyên âm trước.
Trong tiếng Chatino Quiahije, và có lẽ hầu hết các phương ngữ tiếng Chatino cao nguyên, các chữ hoa hướng lên A–L được dùng làm thanh điệu trong từ vựng: , với các chữ cái bổ sung (M và S hướng lên trên) cho biến điệu.#đổi |
Tế bào dẫn nước (hydroid)
Tế bào dẫn nước (hydroid) là một loại tế bào dẫn có ở một số loại rêu, tế bào này "có thể coi là tiền thân của quản bào (tracheid) ở thực vật có mạch".
Trong một số loại rêu thực như thành viên của họ "Polytrichaceae", các tế bào này hình thành nên lớp tế bào trong cùng của thân. Khi trưởng thành chúng là các tế bào dài, không màu, có thành mỏng với đường kính nhỏ, chứa nước nhưng không chứa chất nguyên sinh (tế bào chất). Các tế bào dẫn nước này tập hợp cùng hoạt động như một mô dẫn gọi là "hydrome", có chức năng vận chuyển nước và chất khoáng từ đất. Chúng được bao quanh bởi các bó tế bào sống gọi là leptoid có chức năng vận chuyển đường và các chất tan, leptoid là tiền thân của mạch rây - ploem.
Các tế bào dẫn nước tương tự như quản bào (tracheid) của thực vật có mạch, nhưng "không có lignin trong thành tế bào" để cung cấp sự chống đỡ cho cấu trúc.
Các tế bào dẫn nước đã được tìm thấy ở một vài loại thực vật hoá thạch ở phiến đá Rhynie như là "Aglaophyton". Lúc đầu người ta nhầm các tế bào này với các quản bào của mạch gỗ, sau đó chúng được xác định lại và do vậy "Aglaophyton" được phân loại lại từ "thực vật có quản bào" sang thực vật có tế bào dẫn nước. |
Lưu Doãn Bân (; 1925 – 21 tháng 11 năm 1967) là một nhà hóa học hạt nhân người Trung Quốc và là con trai của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ.
Lưu Doãn Bân sinh năm 1925 tại quận An Nguyên, thành phố Bình Hương. Cha mẹ là Lưu Thiếu Kỳ và Hà Bảo Trân. Khi Doãn Bân được hai tuổi, ông được đưa về quê nội ở Ninh Hương, Hồ Nam để chăm sóc. Năm 1934, mẹ ông bị Quốc dân Đảng xử tử trong khi bị giam cầm.
Tháng 7 năm 1938, Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa Doãn Bân đến Diên An để đoàn tụ với cha. Mùa thu năm này, Doãn Bân bắt đầu theo học tại Trường Tiểu học Sư phạm Diên An ở tuổi 13.
Sự nghiệp giáo dục và khoa học.
Năm 1939, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định cử một số người con của các nhà cách mạng trong đảng đi du học ở Liên Xô. Vào tháng 11 năm 1939, Doãn Bân và em gái đến nhà trẻ ở Monino, nơi các con của Mao Trạch Đông là Mao Ngạn Anh và Mao Ngạn Thanh sinh sống. Lúc ở Liên Xô, Doãn Bân được biết với tên tiếng Nga 'Klim' (Клим).
Sau một học kỳ, Lưu Doãn Bân chuyển đến Trường nội trú Ivanovo, cách Moskva 300 km, tại thành phố Ivanovo và được Tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế của Liên Xô bảo trợ. Trong thời gian ở trường, ông học rất siêng năng và vào tháng 6 năm 1941, sau khi Đức xâm lược Liên Xô, Doãn Bân đã tích cực tham gia các tổ chức lao động do Viện Nhi đồng Quốc tế tổ chức như khai hoang, khai thác gỗ và vận chuyển củi. Ông còn tình nguyện hiến máu cho các binh sĩ Hồng quân đang chiến đấu ở tiền tuyến. Ông được bầu chọn là một trong những nhà lãnh đạo hội sinh viên Học viện Trẻ em Quốc tế, và gia nhập Komsomol và đứng đầu tổ chức Học viện Trẻ em Quốc tế.
Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1945, Doãn Bân được nhận vào Học viện Sắt và Thép Moskva, ông theo học chuyên ngành luyện kim. Trong thời gian ở học viện, ông gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô và sau khi tốt nghiệp, ông được nhận vào Khoa Hóa học của Đại học Quốc gia Moskva với bằng danh dự và là nghiên cứu sinh chuyên ngành hóa học phóng xạ. Ông tốt nghiệp năm 1955 với bằng phó tiến sĩ và vào Học viện Hóa học của Đại học Moskva với tư cách là nhà nghiên cứu. Trong một bức thư gửi đến Lưu Doãn Bân vào năm 1955, Lưu Thiếu Kỳ viết:
Khi lợi ích cá nhân của con đối lập với lợi ích của Đảng, cha tin tưởng con có thể hy sinh vì lợi ích của mình đối với Đảng và nhân dân."
Năm 1957, ông trở về Trung Quốc, ông ở tại nơi cha mình cư trú tại Trung Nam Hải trong vài ngày, trước khi chuyển đến Phương Sơn, Sơn Tây, cách thủ đô Bắc Kinh 50 km, để làm việc tại Viện Năng lượng Nguyên tử Trung Quốc (Viện 401), đây là một trong những viện nghiên cứu vũ khí hạt nhân sớm nhất ở Trung Quốc. Ông có những đóng góp xuất sắc về nghiên cứu năng lượng hạt nhân và được trao chứng chỉ nghiên cứu.
Năm 1959, khi quan hệ Trung–Xô chia rẽ, Liên Xô từ chối cung cấp cho Trung Quốc những vật liệu kỹ thuật quan trọng để phát triển vũ khí hạt nhân. Năm 1961, các nhà nghiên cứu từ Viện 1 thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Trung Quốc được chuyển đến Nhà máy Linh kiện Nhiên liệu Hạt nhân Trung Quốc (Nhà máy 202) tại Bao Đầu, Khu tự trị Nội Mông, nơi họ thành lập phòng thí nghiệm thứ hai, chịu trách nhiệm nghiên cứu vật liệu nhiệt hạch.
Mùa đông năm 1962, Lưu Doãn Bân đến Nhà máy 202, ông được cấp trên bổ nhiệm trở thành giám đốc Văn phòng Nghiên cứu Số 2. Văn phòng dưới sự lãnh đạo của ông bắt đầu nghiên cứu và tổ chức hoạt động đối với đề án bom nguyên tử và vào ngày 16 tháng 10 năm 1964, quả bom nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc được kích nổ thành công tại địa điểm thử nghiệm Lop Nur, khiến Trung Quốc trở thành cường quốc hạt nhân thứ năm trên thế giới và là quốc gia châu Á đầu tiên sở hữu năng lực hạt nhân.
Năm 1966, Đại Cách mạng Văn hóa diễn ra và Lưu Doãn Bân được sai đi làm việc, ông được giao công việc dọn dẹp và đào mương chất thải và các công việc không chuyên khác. Tháng 7 năm 1966, Lưu Thiếu Kỳ bị tố cáo là "" và "kẻ phản quốc", đồng thời bị Lâm Bưu cách chức Phó Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Hậu quả từ sự sụp đổ của cha mình, Lưu Doãn Bân còn bị lên án là "gián điệp" và "tẩu tư phái". Doãn Bân bị Hồng vệ binh tra tấn và ngược đãi, họ đưa ông đến một vùng đô thị ở Bao Đầu, tại đây ông bị làm nhục công khai tại một đại hội phê đấu. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1967, Doãn Bân tự sát bằng cách nằm trên đường ray tàu hỏa phía bắc khu dân cư nơi gia đình ông sinh sống.
Lưu Thiếu Kỳ qua đời vào ngày 12 tháng 11 năm 1969 tại Khai Phong, Hà Nam, do bị ngược đãi và tra tấn trong lúc giam giữ. Sau khi Đại Cách mạng Văn hóa kết thúc năm 1976 với việc Mao Trạch Đông qua đời, Lưu Doãn Bân được phục hồi danh tiếng sau khi qua đời vào năm 1978. Cùng năm, một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội Nhà máy 202. Lưu Thiếu Kỳ được phục hồi danh dự sau khi qua đời vào năm 1980.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 2015, Đại sứ Nga tại Trung Quốc Andrey Ivanovich Denisov đã trao cho 32 công dân Trung Quốc, trong đó truy tặng huân chương cho Lưu Doãn Bân.
Lúc ở Liên Xô, Lưu Doãn Bân kết hôn với một phụ nữ Nga tên là Mara Fedotova. Cả hai có hai người con; con trai tên (tiếng Nga: Алексей Климович Федото, "Alexei Klimovich Fedotov") và con gái tên Sonya.
Sau khi Doãn Bân quay về Trung Quốc vào năm 1957, Mara chuyển đến Trung Quốc cùng các con vào năm 1959, đây là lần cuối hai vợ chồng gặp nhau. Vì căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mara ly hôn với Doãn Bân và quay về Moskva cùng hai con. Doãn Bân sau đó tái hôn với Lý Diệu Tú, họ có hai con trai, Lưu Vệ Đông và Lưu Vĩ Trạch.
Lưu Duy Ninh còn được biết với biệt danh Alyosha, đã không công khai tiết lộ thân phận mình là cháu nội của Lưu Thiếu Kỳ do lo sợ bị KGB do thám khi quan hệ Trung–Xô dần xấu đi. Sau khi tốt nghiệp Đại học Hàng không Moskva, ông làm việc tại trung tâm hàng không vũ trụ quốc gia Liên Xô và Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga trong vài năm nhưng không tiết lộ lai lịch cho đến khi được Chính phủ Trung Quốc mời tham dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lưu Thiếu Kỳ vào năm 1998.
Yêu cầu đến Trung Quốc của ông bị bác bỏ vì công việc liên quan đến bí mật quân sự. Việc từ chối yêu cầu khiến ông càng nôn nóng muốn đến Trung Quốc và vì vậy sớm rút khỏi quân đội Nga. Khi yêu cầu đi đến Trung Quốc của ông tiếp tục bị từ chối, ông đã đệ đơn kiện và năm 2003, ông đến thăm Trung Quốc lần đầu tiên, tại đây ông gặp các thành viên trong gia đình của Lưu Thiếu Kỳ, bao gồm vợ ông là Vương Quang Mỹ.
Duy Ninh muốn định cư ở Trung Quốc, ông điều hành một tổ chức mang tên "Hiệp hội các nhà công nghiệp và doanh nhân Nga–Châu Á" nhằm tạo điều kiện thuận lợi thương mại giữa Trung Quốc và Nga tại Quảng Châu. Vợ chồng Lưu Duy Ninh có hai người con, người con gái tên Margarita giữ chức phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Công nghiệp Nga-Châu Á và Hội đồng Doanh nghiệp Nga-Philippines.
Con gái của Lưu Doãn Bân là Sonya kết hôn với một người Mỹ gốc Nga và định cư ở Hoa Kỳ. |
Thần El ("ʼĒl" hay còn gọi là "Il", tiếng Ugarit: 𐎛𐎍 ʾīlu; tiếng Phoenicia: 𐤀𐤋 "ʾīl" tiếng Do Thái: אֵל ʾ"ēl"; tiếng Syria: ܐܺܝܠ ʾ"īyl"; tiếng Ả rập: إل ʾ"īl" hay إله ʾ"ilāh"; tiếng Akkadia: 𒀭, "ilu") là một từ Semitic Tây Bắc có nghĩa là ""thần" hoặc "vị thần" hoặc đề cập đến (như một tên riêng) cho bất kỳ một trong nhiều vị thần Cận Đông thời cổ đại. Một dạng hiếm hơn là "ila" đại diện cho dạng vị ngữ trong tiếng Akkad cổ và trong Amorite. Từ này có nguồn gốc từ Proto-Semitic ʾil hay *ʔil, có nghĩa là "thần". Các vị thần cụ thể được gọi là "El", "Al" hoặc "Il" bao gồm vị thần tối cao của tôn giáo Canaan cổ đại và vị thần tối cao của người nói tiếng Semit Đông trong Tiền triều đại Lưỡng Hà. Trong số ngôn ngữ Hitti thì El được biết đến với cái tên "Elkunirsa" (𒂖𒆪𒉌𒅕𒊭/ "Elkunīrša").
Chúa cha Jehovah hay Yahweh, thánh Allah của Hồi giáo đều có cùng một nguồn gốc từ "Thần Bò IL" của dân Babylon và du nhập vào dân tộc Do Thái khoảng năm 2000 TCN và đổi tên thành thần bò EL. Thần EL thường hiện hình thành một con bò mộng (The Bull EL hoặc EL the Bull). Trong tài liệu cổ sử Ai cập, được viết dưới triều đại Pharaoh Merneptah có nói đến nước Do Thái dưới quốc hiệu ISRAEL, theo đó ISRA là cai trị, EL là thần bò EL. Do đó, ISRAEL có nghĩa là một quốc gia được cai trị bởi thần bò EL. Người Do Thái có tục thờ thần bò EL từ lâu đời, cho nên EL có nghĩa là "Thiên Chúa của Do Thái" ("EL is God of IsraEL"). Ngôn ngữ Do Thái (Hebrew) gọi Thiên Chúa EL bằng nhiều danh từ: "EL", "ELoah", "ELim", "ELohim", họ tin Thiên Chúa EL thường hay xuất hiện ở các núi đá tiếng Do Thái là Shaddai, nên họ cũng gọi Thiên Chúa EL là "El Shaddai". Các danh từ để gọi Thiên Chúa EL nói trên đã được nhắc lại trong các bộ sách Kinh Thánh của đạo Do Thái.
Trước khi đặt tên nước là Do Thái là IsraEL thì Jacob đã đến thị trấn Luz của xứ Canaan, Jacob nằm mơ được thiên thần cho một cái thang. Jacob đã leo thang lên tới thiên đàng và được gặp "Thiên Chúa EL" mặt đối mặt. Khi tỉnh dậy, Jacob đã đổi tên thị trấn Luz thành "Beth-EL", có nghĩa là "Nhà của Chúa" (House of EL), vâu chuyện về giấc mơ của Jacob được kể lại trong Cựu ước (Genesis 28:12). Do Thái không phải là nước duy nhất thờ thần EL. Hầu hết các dân tộc quanh vùng Canaan đều thờ thần EL và rất nhiều thần khác, họ quan niệm đồng nhất tất cả đều coi thần EL là vị thần cao nhất. Mặc dầu tục thờ bò El đã phát sinh ở Babylon từ rất lâu đời, nhưng nó được chính thức du nhập vào dân tộc Do Thái từ thời Abraham khoảng năm 2000 TCN. Abraham và dân tộc Do Thái coi El là vị thần duy nhất để tôn thờ, trong khi các dân tộc chung quanh tôn thờ thần El cùng với các vị thần khác như Baal, Anath, Ashtaroh, Ashera.
Dân Do Thái được coi là dân tộc được Chúa chọn vì nước này là quốc gia đầu tiên mang tên thần bò El (Isra-El). Người Canaanites và Semites thờ thần El dưới tượng của một con bò đực. Đối với họ, con bò đực là biểu tượng của sức mạnh. Cũng vì vậy, mỗi khi nói đến thần El họ thường gọi Ngài là "Bò Thần El" (Bull-El). Tại các thành phố thuộc xứ Babylon người ta thường làm lễ tế thần El với những lời ca tụng là "Thiên Chúa hiện thân thành Con Bò". Theo niềm tin của người Babylon, thần El là vị chủ tọa các hội đồng thần thánh ("Divine Council") ở trên trời, là đấng tạo hóa đã sinh ra vũ trụ vạn vật và là đấng đã tạo dựng nên con người. El là danh hiệu lâu đời nhất để gọi Thiên Chúa. Sách Sáng Thế ký (sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh Cựu ước) 28:10-22, 33:20, 49:25 đã đồng nhất hóa El với Elohim và Yaweh (Jehovah). Ý nghĩa chữ El (theo tiếng Hebrew) cũng đồng nghĩa với chữ "Ilu" theo ngôn ngữ cổ ở Babylon là Akkadian. Tất cả đều do ngôn ngữ Semistic "Yl", có nghĩa là "hùng mạnh"". Trong các đền thờ của người Phoenicians, thần El được tôn thờ như Thiên Chúa Tối cao, Đấng sinh ra các vị thần và là Chúa của thiên đàng. Trong ngôn ngữ Ả rập, người ta không gọi "Thiên Chúa IL" (tức El) một cách trống không mà thường thêm mạo tự ah ở sau danh từ Il. Do đó, tên của Thiên Chúa Il trở thành "Illah" (Il + mạo từ 'ah'). |
Tadai Mahiro (, Tadai Mahiro 4 tháng 3 năm 2000 (năm Bình Thành thứ 12) –) là một người mẫu khỏa thân, nữ diễn viên khiêu dâm và YouTuber người Nhật Bản. Tên cũ của cô là Mahiro (まひろ). Cô sinh ra tại Tokyo.
Cô thuộc về công ti Mine's.
16/4/2018, ảnh khỏa thân lông mu của cô lần đầu được đăng tải dưới tên Mahiro trong số thứ 18 (bản ngày 30/4) của tạp chí Playboy hàng tuần của Shūeisha. Cô đã được ban biên tập tạp chí săn tìm, và đã được chọn làm người mẫu khỏa thân mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực. Cô đã lập tài khoản Twitter vào cùng ngày tạp chí được phát hành.
14/5/2018, cô thông báo ra mắt ngành phim khiêu dâm dưới tên Tadai Mahiro. Phim ra mắt ngành của cô cũng được phát hành dưới dạng đĩa Blu-ray, cũng là đĩa Blu-ray đầu tiên SOD phát hành kể từ tháng 9/2014 không kể các phim tổng hợp. Sau khi ra mắt ngành, ảnh áo tắm của cô cũng đã được đăng trong trong số thứ 26 (bản ngày 25/6) của tạp chí Playboy hàng tuần.
Cô đã được đề cử cho giải Nữ diễn viên mới tại Giải thưởng truyền hình phim khiêu dâm Sky PerfecTV! 2019, và đã nhận giải vào ngày 12/3/2019. Vào ngày 21/3, cô cũng đã nhận giải Người mới đến xuất sắc nhất tại SOD AWARD2019 Ngoài ra, cô cũng được đề cử tại Giải thưởng phim ngưòi lớn FANZA 2019, và đã nhận giải Chủ đề vào ngày 12/5.
20/6/2019, cô đã mở kênh YouTube "まひろにあ帝国" (Mahironia Teikoku/Đế quốc Mahironia), và bắt đầu các hoạt động YouTuber với số lượt xem trung bình là 100 nghìn.
Tháng 10/2019, cô được đề cử cho GeoTV×Men's Cyzo ADULT AWARD 2019 trong hạng mục Nữ hoàng giáng trần. Cô thường được gọi với tên thứ hai là "Một cô gái xinh đẹp siêu nhạy cảm". Vào ngày 1/10, cô đã nhận giải từ Men's Cyzo.
Tháng 4/2021, cô xếp thứ 30 trong bảng "bầu cử nữ diễn viên phim khiêu dâm SEXY đang hoạt động 2021" của Asahi Geinō. Cô cũng đã xếp thứ 9 trong bảng xếp hạng nữ diễn viên gợi cảm năm 2021 của tạp chí Kobunsha FLASH. Tháng 5/2022, cô xếp thứ 42 trong bảng "bầu cử nữ diễn viên phim khiêu dâm SEXY đang hoạt động 2022" của Asahi Geinō.
Vào năm 2022, ảnh áo tắm của cô được đăng trên số thứ 22 của tap chí Young Animal (Hakusensha) như một sự hợp tác với manga "Futari Ecchi".
26/12/2022, trong bảng xếp hạng bán hàng qua bưu điện của FANZA hàng tuần, phim của cô "Kỉ niệm 15 năm SOD star! Tổng hợp SEX ra mắt ngành của 18 nữ diễn viên ngôi sao được tuyển chọn kĩ càng!" (SODstar15周年記念!厳選した人気スター女優18名 デビューSEX集めました!) đã xếp thứ nhất.。Tháng 5/2023, cô xếp thứ 43 trong cuộc "bầu cử nữ diễn viên khiêu dâm SEXY năng động năm 2023" của Asahi Geinō.
Cô cùng Ogura Yuna đã được chọn làm người mẫu được đăng ảnh trên bìa tạp chí "Shūkan Gendai Phụ lục ảnh áo tắm WGLuxury Vol.1" số ngày 25/4/2023 của Kōdansha.
10/6/2023, Sự kiện kỉ niệm 5 năm ra mắt ngành "Sự kiện Tadai Mahiro kỉ niệm 5 năm ra mắt ngành - Đừng lo! Tôi sẽ quan hệ với bạn! Cùng thử thách với một vở kịch" được tổ chức tại Asagaya Loft A ở Tokyo.
23/10/2023, cô đã thông báo trên kênh YouTube rằng sẽ mở bán sữa dưỡng thể. Cô nói rằng "Nó có thể dùng cho cả SEX và thủ dâm".
Khẩu hiện của cô là "Sinh ra vào năm 2000". Cô chưa từng để ý đến năm sinh của mình trước khi vào ngành, nên cô đã cảm thấy bất ngờ khi nói chuyện với những người trong ngành và nhận ra tầm quan trọng của năm sinh trong ngành.
Cô từng ngưỡng mộ các thần tượng và đã học hát và nhảy múa khi học trung học (Công ti chủ quản của cô cũng là công ti quản lí các thần tượng).
Mahiro đã cho rằng vẻ ngoài các thần tượng thông thường là không phù hợp nên đã tìm hiểu về các nhóm Ebisu☆Muscats, SEXY-J và bắt đầu có hững thú với ngành phim khiêu dâm. Các nhóm thần tượng thường có hình ảnh rập khuôn với tóc đen tết thành kiểu tóc hai bím, nên cô đã cảm thấy "sốc" bởi sự phóng khoáng trong phong cách của các nữ diễn viên khiêu dâm.
Cô là kiểu người không thích đứng trước đám đông, tuy nhiên như đã nhắc đến ở trên cô ngưỡng mộ những người thấy tự hào khi đứng trước đám đông như các thần tượng và nữ diễn viên, nên cô có quyết tâm thay đổi bản thân và đã nói trong một cuộc phỏng vấn với ban biên tập tạp chí Playboy rằng "Tôi không ngại cởi hết quần áo".
Nữ diễn viên yêu thích của cô là Sakura Mana, một đàn chị cùng công ti, và kiểu tóc shortcut của cô khi ra mắt ngành với là lấy cảm hứng từ Mana (Mặc dù cô đã từng làm việc với Mana trước đây, cô vẫn thấy hồi hộp mỗi lần gặp lại). Món ăn yêu thích của cô là dứa và kiwi. Cô cũng là bạn tốt với Ogura Yuna, người cũng công ti chủ quản và hãng phim độc quyền, và cô cùng Yuna đã trình diễn tại sự kiện Last Live Tokyo Dome của BiSH vào ngày 29/6/2023.
Ikuta Machi, một đàn em cùng công ti chủ quản do ngưỡng mộ cô nên đã trở thành nữ diễn viên khiêu dâm, nộp đơn và được nhận vào cùng công ti với cô (họ cũng đã nói chuyên với nhau trên kênh YouTube của Mahiro).
Lần đầu cô quan hệ tình dục là trong chuyến du lịch hè khi cô học năm ba trung học, cùng với một dōtei mà cô đã hẹn hò trong 3 tháng. Kiểu người cô thích là một "ông chú", và bạn trai hiện tại của cô cũng là người có bụng phệ.
Về sở thích, cô đã nói rằng cô thường dōtankyohi. Ví dụ như trong tác phẩm yêu thích của cô "Sword Art Online", cô có tình cảm với nhân vật chính Kirito đến mức cô thấy ghen tị với nữ anh hùng Asuna và các nhân vật khác, nên cô không thể đọc nó nữa (Phát biểu khi cô xuất hiện trên Sanshimai Radio ngày 3/6/2022). Mục tiêu của cô trong năm 2022 là "trở thành chủ tịch".
Trước khi ra mắt ngành, cô đã từng nuốt tinh dịch của bạn trai, tuy nhiên cô đã thấy ghê tởm về nó nên cô đã từ chối thực hiện hành động này nên cô đã từ chối nuốt tinh dịch trong các phim khiêu dâm. Xuất tinh vào miệng đối với cô thì chấp nhận được, tuy nhiên cô từng 1 lần bị tinh dịch bắn thẳng xuống họng do nam diễn viên xuất tinh quá mạnh.
Khi xuất hiện trên tạp chí Playboy hàng tuần, cô đã lấy tên Mahiro theo các thần tượng yêu thích của cô bao gồm Hayashida Mahiro của nhóm Fairies và Hoshino Mahiro của nhóm Akishibu Project. Phần họ của cô được thêm vào bởi SOD và công ti chủ quản để tên cô trở nên dễ nhận biết hơn khi ra mắt ngành phim khiêu dâm. |
Kumenan (久米南町, Kumenan-chō) là thị trấn thuộc , tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.530 người và mật độ dân số là 58 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 78,65 km².
Theo dữ liệu điều tra dân số của Nhật Bản, dân số thị trấn Kumenan đạt đỉnh vào năm 1950. Từ năm 1960 đến nay, dân số có xu hướng giảm dần. |
Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố Mexico 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố Mexico 2023 (tên chính thức là Formula 1 Gran Premio de la Ciudad de México 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 29 tháng 10 năm 2023 tại trường đua Anh em Rodríguez, Thành phố México, México và là chặng đua thứ 19 của giải đua xe Công thức 1 2023.
Tại chặng đua này, Nico Hülkenberg sẽ tham gia chặng đua Công thức 1 thứ 200 của anh.
Bảng xếp hạng trước cuộc đua.
Sau giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (240 điểm) và Lewis Hamilton (201 điểm) với 466 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (344 điểm) và Ferrari (322 điểm) với 706 điểm.
Lựa chọn bộ lốp.
Nhà cung cấp lốp xe Pirelli sẽ cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.
Trong buổi tập đầu tiên, năm đội sẽ thay thế một trong những tay đua chính của đội với một tay đua dự bị của đội: Théo Pourchaire thay cho Valtteri Bottas tại Alfa Romeo, Frederik Vesti thay cho George Russell tại Mercedes, Jack Doohan thay cho Pierre Gasly tại Alpine, Oliver Bearman thay cho Kevin Magnussen tại Haas và Isack Hadjar thay cho Yuki Tsunoda tại AlphaTauri. Ngoài ra, đây sẽ là lần đầu tiên Bearman, Vesti và Hadjar tham gia một buổi tập Công thức 1. Sau khi buổi tập đầu tiên kết thúc, Max Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:19,718 phút trước Alexander Albon và Sergio Pérez.
Trong buổi tập thứ hai, Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:18,686 phút trước Lando Norris và Charles Leclerc.
Trong buổi tập thứ ba, Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:17,887 phút trước Albon và Pérez.
Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, Esteban Ocon, Magnussen, Lance Stroll, Norris và Logan Sargeant đều bị loại.
Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Verstappen là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Gasly, Nico Hülkenberg, Fernando Alonso, Albon và Tsunoda bị loại.
Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Leclerc giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:17,723 phút trước Carlos Sainz Jr. và Verstappen. Đó là vị trí pole thứ 22 trong sự nghiệp của Leclerc.
Ngay sau khi cuộc đua bắt đầu, Pérez va chạm với Leclerc khiến Pérez phải bỏ cuộc và tấm cuối của mũi xe của Leclerc bị hư hại. Tại vòng đua thứ 31, Kevin Magnussen tông mạnh vào rào chắn đường đua khiến hệ thống lốp treo sau bên trái bị hỏng và cũng khiến chiếc xe của anh cháy âm ỉ. Vụ tai nạn này khiến cuộc đua bị gián đoạn. Tại vòng đua thứ 47, Alonso bỏ cuộc do chiếc xe của anh bị hỏng. Đồng đội Lance Stroll của anh tại Aston Martin sau đó cũng buộc phải bỏ cuộc sau một pha va chạm với Bottas. Sargeant gặp vấn đề với máy bơm nhiên liệu và anh buộc phải bỏ cuộc tại vòng đua cuối cùng.
Verstappen giành chiến thắng trước Hamilton và Leclerc sau khi cuộc đua kết thúc. Đây là chiến thắng thứ 16 trong mùa giải của anh và cũng là chiến thắng thứ 51 trong sự nghiệp của anh. Hơn nữa, anh đã chính thức phá kỷ lục số lần chiến thắng nhiều nhất của anh vào mùa giải 2022. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Sainz Jr., Norris, Russell, Daniel Ricciardo, Oscar Piastri, Albon và Ocon. |
Spy × Family (mùa 1)
Mùa đầu tiên của loạt phim anime truyền hình Spy × Family được sản xuất bởi Wit Studio và CloverWorks, do Kazuhiro Furuhashi đạo diễn, với thiết kế nhân vật của Kazuaki Shimada trong khi Kazuaki Shimada và Kyoji Asano là giám đốc hoạt hình. được sáng tác và sản xuất bởi . Bộ anime này được công bố lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2021. Bộ phim kể về điệp viên bậc thầy Twilight, dưới bí danh của bác sĩ tâm thần Loid Forger, và xây dựng một gia đình giả nhằm điều tra nhà lãnh đạo chính trị Donovan Desmond, gia đình của anh bao gồm cô con gái Anya, một nhà ngoại cảm, vợ anh ta là Yor, một sát thủ có biệt danh là Công chúa Gai. |
Billie Holiday (tên khai sinh Eleanora Fagan; 7 tháng 4 năm 1915 – 17 tháng 7 năm 1959) là ca sĩ nhạc jazz và swing người Mỹ. Được đồng nghiệp và nhạc sĩ nổi tiếng Lester Young đặt biệt danh là "Lady Day", Holiday đã tạo nên nhiều cải tiến trong lối hát nhạc jazz và pop. Cách hát của cô được lấy cảm hứng từ nhạc jazz, tạo nên nhiều cách trình bày mới trong việc nhả chữ và nhịp. Cô nổi tiếng với cách thay đổi tông giọng và kỹ năng ứng tác của mình.
Holiday lớn lên với một tuổi thơ cơ cực và khởi nghiệp với việc đi hát tại các hộp đêm quanh khu Harlem rồi được nhà sản xuất John Hammond phát hiện. Cô ký hợp đồng thu âm với hãng đĩa Brunswick Records vào năm 1935, sau đó hợp tác với Teddy Wilson sản xuất giai điệu "What a Little Moonlight Can Do", một trong những bản nhạc jazz kinh điển nhất mọi thời đại. Trong suốt các thập niên 1930 và 1940, Holiday có nhiều thành công với các hãng đĩa Columbia và Decca. Cuối những năm 1940, cô bắt đầu gặp nhiều rắc rối liên quan tới luật pháp và sử dụng ma túy. Cô trở lại sau án tù với buổi diễn tại Carnegie Hall. Danh tiếng cô khôi phục với nhiều buổi diễn thành công trong thập niên 1950, đặc biệt là 2 buổi diễn cháy vé tại Carnegie Hall. Tuy nhiên, những sản phẩm thu âm cuối cùng của cô không được đánh giá cao do chất giọng bị hủy hoại cùng những rắc rối cá nhân bên lề. Album phòng thu cuối cùng của Holiday, "Lady in Satin", được phát hành vào năm 1958. Cô qua đời vì xơ gan vào năm 1959 ở tuổi 44.
Holiday giành được 4 giải Grammy, tất cả đều được trao sau khi cô qua đời, trong đó có giải "Album có tính lịch sử nhất". Cô được xứng danh tại Đại sảnh Danh vọng Grammy và Đại sảnh Danh vọng RB. Năm 2000, Holiday có tên trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll với dòng ghi chú "Billie Holiday thay đổi nhạc jazz mãi mãi". Cô được vinh danh trong "50 giọng ca vĩ đại nhất" của đài phát thanh NPR và đứng thứ 4 trong danh sách "500 ca sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại" (2003) của tạp chí "Rolling Stone". Holiday cũng là chủ đề của nhiều bộ phim điện ảnh và tài liệu, gần đây nhất có thể kể tới "The United States vs. Billie Holiday" (2021).
Danh sách đĩa nhạc. |
Ngô Vi Liễn (吳為璉, 1894-1945) là quan lại cuối thời Nguyễn và là tác giả nhiều bộ sách quý về địa chí, tiêu biểu là cuốn "Tên làng xã và Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ" chi tiết về các làng xã miền Bắc Việt Nam.
Ngô Vi Liễn sinh ngày 05 tháng 11 năm 1894 trong một gia đình Nho học tại xã Tả Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Ông tốt nghiệp trung học trường Bưởi, trường Thông ngôn rồi thi vào trường Cao đẳng, ban Luật học. Ra trường ông làm Tham tá ở Sở Thư viện và Lưu trữ Trung ương Hà Nội từ năm 1923 tới 1929. Thời kỳ này, ông hoạt động trong hội Trí Tri, tham gia dạy các lớp trung học buổi tối và ngày chủ nhật, cũng như viết một số sách.
Từ năm 1928 đến năm 1939, ông làm Tri huyện ở các huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), Quỳnh Côi (Thái Bình), Bình Lục (Hà Nam) và Võ Giàng (Bắc Ninh). Năm 1939, trong một cuộc tranh luận với viên công sứ Bắc Ninh, ông xin từ chức Tri huyện (có người nói là bị cách chức) và chuyển về làm việc ở Cục Lưu trữ Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.
Ông bị xuất huyết não năm 1941, liệt nửa người nhưng vẫn cố gắng biên soạn sách bằng tay trái. Ông mất ngày 14 tháng 5 năm 1945.
Tên ông được đặt cho một con phố tại phường Lam Hạ, Thành phố Phủ Lý, Hà Nam, chạy song song với phố Ngô Thì Nhậm. |
Stéphanie Frappart (]; sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983 tại Le Plessis-Bouchard, Pháp) là một nữ trọng tài bóng đá người Pháp. Bà trở thành trọng tài cấp FIFA kể từ năm 2009 và đã từng điều hành một số trận đấu đỉnh cao. Bà cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều khiển các trận đấu của các câu lạc bộ nam hàng đầu châu Âu và các trận đấu tại Ligue 1, và cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại UEFA Champions League kể từ năm 2020. Vào năm 2021, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại vòng loại của một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam. Năm 2022, bà cùng với Yamashita Yoshimi của Nhật Bản và Salima Mugansanka của Rwanda trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, đồng thời cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên làm trọng tài chính điều hành một trận đấu tại World Cup dành cho nam.
Tiểu sử và sự nghiệp.
Stéphanie Frappart sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983 tại Le Plessis-Bouchard, Pháp. Bà lớn lên ở Herblay và bắt đầu sự nghiệp cầm còi từ năm 13 tuổi. Năm 18 tuổi, bà trở thành trọng tài và điều hành các trận đấu ở cấp độ U-19 của Pháp. Năm 2011, bà bắt đầu sự nghiệp cầm còi của mình tại Championnat National, giải đấu hạng ba của Pháp. Năm 2014, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại Ligue 2, giải đấu hạng hai của bóng đá chuyên nghiệp Pháp. Bà cũng được lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2015 được tổ chức tại Canada.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 2018, bà tiếp tục được lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 được tổ chức ngay tại quê nhà. Bà cũng được lựa chọn để trở thành trọng tài chính điều hành trận chung kết của giải đấu giữa Hoa Kỳ và Hà Lan.
Năm 2019, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại Ligue 1, với trận đấu đầu tiên bà cầm còi vào ngày 29 tháng 4 năm 2019, giữa Amiens và Strasbourg. Vào ngày 2 tháng 8 năm 2019, bà được lựa chọn để điều hành trận Siêu cúp châu Âu 2019 giữa Liverpool và Chelsea, đồng thời cũng đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử một nữ trọng tài cầm còi trong một chung kết của một giải đấu dành cho nam do UEFA tổ chức. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2019, bà được chọn làm trọng tài chính điều khiển trận chung kết lượt về tại giải Champions Cup, giữa nhà vô địch của Giải bóng đá Ngoại hạng Cộng hòa Ireland và NIFL Premiership. Bà trở thành trọng tài chính điều khiển trận đấu mà nhà vô địch Cộng hòa Ireland Dundalk hủy diệt nhà vô địch Bắc Ireland Linfield với tỷ số 6–0, trong trận đấu mà bà đã rút ra 2 thẻ vàng.
Vào ngày 2 tháng 12 năm 2020, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành một trận đấu tại UEFA Champions League, đó là trận đấu Juventus (Ý) và Dynamo Kyiv (Ukraina). Tháng 3 năm 2021, bà điều khiển trận lượt về thuộc vòng 16 đội tại UEFA Women's Champions League giữa nữ Atlético Madrid và nữ Chelsea. Vài tháng sau, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại vòng loại của một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, giữa Hà Lan và Latvia.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2022, bà điều hành trận chung kết Cúp quốc gia Pháp 2022 giữa Nice và Nantes.
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2022, bà được FIFA lựa chọn là một trong 36 trọng tài làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 được tổ chức tại Qatar, và cũng trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam cùng với Yoshimi Yamashita của Nhật Bản và Salima Mukansanga của Rwanda. Vào ngày 1 tháng 12 năm 2022, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử khi điều hành một trận đấu thuộc một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, khi bà trở thành trọng tài chính điều hành trận đấu giữa Costa Rica và Đức thuộc lượt trận cuối bảng E của giải đấu.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 2023, bà tiếp tục được FIFA lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 được tổ chức tại Úc và New Zealand. |
Dự án 596 () là tín hiệu, Chic-1 của cơ quan tình báo Hoa Kỳ) là vụ thử vũ khí hạt nhân đầu tiên do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành, phát nổ vào ngày 16 tháng 10 năm 1964, tại địa điểm thử nghiệm Lop Nur. Đó là một thiết bị phân hạch nổ urani-235 được chế tạo từ urani cấp độ vũ khí (U-235) trong một nhà máy khuếch tán khí ở Lan Châu.
Bom nguyên tử là một phần của chương trình "Hai quả bom, một vệ tinh" của Trung Quốc. Với sức công phá 22 kiloton, tương đương với quả bom hạt nhân đầu tiên RDS-1 của Liên Xô năm 1949 và quả bom Fat Man của Mỹ thả xuống Nagasaki, Nhật Bản năm 1945. Với cuộc thử nghiệm, Trung Quốc trở thành cường quốc hạt nhân thứ năm trên thế giới và là quốc gia châu Á đầu tiên sở hữu năng lực hạt nhân. Đây là vụ thử hạt nhân đầu tiên trong số 45 vụ thử hạt nhân thành công mà Trung Quốc tiến hành từ năm 1964 đến năm 1996, tất cả đều diễn ra tại bãi thử Lop Nur. |
Leimen (Nam Franconia: "Lååme") là thị trấn lớn thứ ba của huyện Rhein-Neckar, tây bắc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg về phía nam.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Aero Vodochody (thường được gọi tắt là Aero) là một công ty chuyên về hàng không của Cộng hòa Séc. Công ty có cơ sở chính đặt tại sân bay Vodochody, Praha Đông (huyện), thuộc Vodochody và Odolena Voda.
Trong thời kỳ diễn ra Chiến tranh Lạnh, Aeoro Vodochody nổi tiếng với các dòng máy bay phản lực huấn luyện, như L-29 Delfin và L-39 Albatros. Công ty cũng phát triển nhiều biến thể của L-39, như máy bay chiến đấu hạng nhẹ L-59 Super Albatros và L-159 Alca. Aero Vodochody được coi là doanh nghiệp sản xuất máy bay lớn nhất nằm bên ngoài khối các nước Council for Mutual Economic Assistance (COMECON) trừ Liên Xô. Sau khi chính quyền Xô Viết sụp đổ ở Tiệp Khắc vào năm 1989, Aero Vodochody đánh mất vị trí nhà cung cấp máy bay huấn luyện cho khối các nước xã hội chủ nghĩa. Doanh thu của công ty qua đó bị tụt giảm trong những năm 1990s tương tự như tại các nước NATO do chiến tranh Lạnh kết thúc.
Từ năm 1998 đến 2004, Aero Vodochody được vận hành bởi công ty hàng không Boeing. Tháng Mười năm 2006, công ty được tư nhân hóa, mua lại bởi quỹ đầu tư Czech-Slovak Penta Investments với giá trị khoảng 3 tỉ Koruna Séc. Aero Vodochody tiếp tục tiến hành sản xuất máy bay và các bộ phận công nghiệp hàng không. Trong sự kiện Farnborough Airshow 2014, công ty đã đưa ra phiên bản Aero L-39NG, bản hiện đại hóa của L-39.
Aero Vodochody có lịch sử bắt đầu từ năm 1919. Từ năm 1929 đến 1951, công ty con của nó là Aero, đã sản xuất các xe ô tô động cơ hai thì cỡ nhỏ và cỡ trung, và còn sản xuất xe tải Škoda 150 từ năm 1946 đến năm 1947 theo li xăng.#đổi
Những năm 1950s, Aero Vodochody phá triển dòng máy bay huấn luyện L-29 Delfin trainer aircraft; đây là công ty đầu tiên của Tiệp Khắc có khả năng thiết kế máy bay phản lực. L-29 là chương trình phát triển máy bay công nghiệp lớn nhất từng được thực hiện trong các nước Council for Mutual Economic Assistance (COMECON) ngoại trừ Liên Xô. Đã có 3.000 chiếc L-29 được sản xuất trong đó khoảng 2.000 chiếc được cung cấp làm máy bay huấn luyện cơ bản cho Không quân Liên Xô. Còn lại, cả ở phiên bản có và không có vũ khí được cung cấp cho các nước COMECON và xuất khẩu sang các nước khác ngoài khối như Ai Cập, Syria, Indonesia, Nigeria và Uganda. L-29 đã được sử dụng trong nội chiến Nigeria cuối những năm 1960s và trong biên chế của Không quân Ai Cập đối đầu với xe tăng Israel trong chiến tranh Yom Kippur năm 1973.
Máy bay L-39 Albatros được thiết kế vào những năm 1960s để thay thế cho Aero L-29 Delfín. Một vài phiên bản thiết kế dựa trên L-39 cũng nhanh chóng được giới thiệu. Năm 1972, phiên bản kéo theo mục tiêu bay L-39V, thực hiện chuyến bay thử đầu tiên. Đến năm 1975, công ty tiếp tục đưa ra thị trường mẫu máy bay chiến đấu/huấn luyện "L-39ZO", trang bị bốn mấu cứng cũng như cánh máy bay được tăng độ cứng và càng hạ cánh được thiết kế lại. Năm 1977, mẫu máy bay tiêm kích hạng nhẹ "L-39ZA" ra đời, được trang bị thêm một khẩu GSh-23 gắn dưới thân, còn lại tương tự như L-39 ZO. Có khoảng 200 chiếc L-39 đã được bán làm máy bay huấn luyện cho không quân các nước cuối những năm 1980s. Công ty ngừng bán ra L-39 kể từ những năm 1990s do mất các đơn đặt hàng truyền thống từ các nước khối Warsaw. Đến năm 1996, việc sản xuất L-39 kết thúc.
Aero Vodochody cũng phát triển các phiên bản khác nhau của L-39, đồng thời tiến hành bảo trì, nâng cấp và kéo dài tuổi thọ máy bay cho các nước có trang bị L-39. Nổi tiếng nhất trong các phiên bản của L-39 là L-59 Super Albatros, ban đầu có mã hiệu là "L-39MS". Aero chỉ sản xuất số lượng ít máy bay L-59 rồi ngừng sản xuất. Một phiên bản khác của L-39 Albatros là L-159 Alca, phiên bản máy bay chiến đấu được hiện đại hóa.
Những năm 2010s, Aero Vodochody chế tạo máy bay L-159 cao cấp và máy bay trực thăng Sikorsky S-76. Công ty cũng tham gia sản xuất thân máy bay Alenia C-27J Spartan, lắp ráp cửa máy bay Embraer 170 và Embraer 190, buồng lái máy bay trực thăng Sikorsky UH-60 Black Hawk, Boeing F/A-18E/F Super Hornet, sản xuất các bộ phận của Airbus A320, mép trước cánh của Boeing 767. Công ty cũng dadng tiến hành nâng cấp sân bay Vodochody để chở khách và hàng hóa giá rẻ cho khu vực thủ đô Prague.
Tháng Bảy năm 2014, Aero Vodochody giới thiệu chiếc L-39NG tại Farnborough Airshow. Tháng Tư năm 2015, công ty ký hợp đồng liên kết với nhà thầu quốc phòng của Mỹ là Draken International và công ty sản xuất động cơ Williams International để thực hiện chương trình sản xuất L-39NG cho thị trường Bắc Mỹ. Theo đó L-39NG được phát triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1 (Stage 1), các kỹ sư sẽ lắp đặt động cơ FJ44-4M và giai đoạn 2 sẽ lắp đặt các thiết bị điện tử lên các máy bay L-39 Albatros vẫn còn trong biên chế. Giai đoạn hai sẽ bắt đầu chế tạo mới hoàn toàn L-39NG với các bộ phận nhiều khả năng đã được sử dụng để nâng cấp ở giai đoạn 1, khi thân vỏ đã đạt đến mức tối đa có thể sử dụng. Giai đoạn nâng cấp 1 đã hoàn thành vào ngày 14 tháng Chín năm 2015 với chuyến bay thử đầu tiên của L-39NG (bay trình diễn công nghệ (L-39CW)). Ngày 20 tháng Mười một năm 2017, Aero Vodochody tuyên bố đã hoàn tất việc phát triển L-39CW; ngày 14 tháng Ba năm 2018, L-39CW, được trang bị động cơ và hệ thống điện tử mới đã nhận được giấy chứng nhận để đổi tên hiệu thành L-39NG. Máy bay L-39NG mới thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 22 tháng Mười hai năm 2018. Tháng Chín năm 2020 chưa đầy hai năm sau đó, máy bay đã được chứng chỉ do Cục hàng không Bộ quốc phòng CH Séc cấp. |
Marie-Galante (tiếng Antilles Creole: "Mawigalant") là một trong những hòn đảo hình thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp. Marie-Galante có diện tích đất là 158,1 km2 (61,0 dặm vuông). Nó có 11.528 cư dân vào đầu năm 2013, nhưng đến đầu năm 2018, tổng dân số được ước tính chính thức là 10.655, với mật độ dân số là 62,5/km2 (162/sq mi).
Marie-Galante được chia thành 3 xã (với dân số tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2013):
Ba xã này đã thành lập một thực thể liên xã vào năm 1994: Cộng đồng các xã Marie-Galante (tiếng Pháp: communauté de Communis de Marie-Galante). Đây là cơ cấu liên xã lâu đời nhất của các Vùng hải ngoại của Pháp. |
La Désirade (]; tiếng Antiles creole: "Dézirad" hoặc "Déziwad") là một hòn đảo cấu thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp ở vùng Caribe, nó là một trong sáu hòn đảo có người ở của Guadeloupe.
Bằng chứng khảo cổ học đã được phát hiện cho thấy rằng người Mỹ bản địa đã sống ở La Désirade từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ 16.
Đảo dài 11 km, rộng 2 km; phần bên trong hòn đảo tạo thành một cao nguyên trung tâm. Nó có diện tích 20,64 km2 (7,97 dặm vuông) và dân số 1.595 người vào năm 2006, với mật độ dân số 77 người/km2 vào năm 2006. Hầu hết cư dân sống ở khu định cư Beauséjour (trước đây gọi là Grande-Anse). |
Îles des Saintes (]; ), còn được gọi là Les Saintes (tiếng Antilles Creole: "Lésent", #đổi ), là một nhóm đảo nhỏ cấu thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp. Nó là một phần của Tổng Trois-Rivières và được chia thành hai xã: Terre-de-Haut và Terre-de-Bas. Nó nằm ở quận Basse-Terre và khu vực bầu cử thứ 4 của Guadeloupe.
Les Saintes là một quần đảo núi lửa được bao quanh hoàn toàn bởi các rạn san hô nông. Nó phát sinh từ vành đai núi lửa gần đây của Tiểu Antilles từ Thế Pliocen. Nó bao gồm các loại đá xuất hiện vào Phân đại Đệ Tam giữa (4,7 đến 2 triệu năm trước). Về nguồn gốc, đây là một hòn đảo độc đáo được tách ra từ các trận động đất kiến tạo và động đất núi lửa để tạo thành một quần đảo do đới hút chìm giữa mảng Nam Mỹ, mảng Bắc Mỹ và mảng Caribe. Tổng diện tích là 12,8 km2 (4,9 dặm vuông). Quần đảo có bờ biển dài khoảng 22 km (14 mi) và địa điểm cao nhất của nó là Chameau ("Lạc đà") trên đảo
Terre-de-Haut, đạt tới độ cao khoảng 309 mét (1.014 ft).
Bán đảo Pain de sucre, với chiều cao (53 mét (174 ft)) được nối với Terre-de-Haut bằng một eo đất. Nó nằm giữa hai bãi biển nhỏ. Nó được hình thành bởi sự liên kết của bazan cột. |
Magnesi sulfat (dùng trong y tế)
Magnesi sulfat như một loại thuốc được sử dụng để điều trị và ngăn ngừa chứng magiê máu thấp và co giật ở phụ nữ bị sản giật. Nó cũng được sử dụng trong điều trị xoắn đỉnh, hen suyễn nặng, táo bón và ngộ độc bari. Nó được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm cơ bắp cũng như qua miệng. Là muối epsom, nó cũng được sử dụng cho phòng tắm khoáng.
Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm huyết áp thấp, đỏ da và calci máu thấp. Các tác dụng phụ khác có thể bao gồm nôn mửa, yếu cơ và giảm nhịp thở. Mặc dù có bằng chứng cho thấy sử dụng trong khi mang thai có thể gây hại cho em bé, nhưng lợi ích trong một số điều kiện nhất định lớn hơn rủi ro. Việc sử dụng nó trong thời gian cho con bú được coi là an toàn. Magnesi sulfat cho sử dụng y tế là muối heptahydrat magnesi sulfat. Cách thức hoạt động của nó không được hiểu đầy đủ, nhưng được cho là liên quan đến việc làm giảm hoạt động của các tế bào thần kinh.
Magnesi sulfat được sử dụng trong y tế ít nhất là sớm nhất là vào năm 1618. Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần có trong hệ thống y tế. Chi phí bán buôn ở các nước đang phát triển là khoảng 0,35 USD8,73 mỗi 10 ml dung dịch 50%. Ở Vương quốc Anh 4ml dung dịch 20% có giá khoảng 10,23 pound. Ở Hoa Kỳ, một liều đầy đủ của thuốc này thường có giá dưới 25 đô la. |
Nền tảng đóng, vườn tường hoặc hệ sinh thái đóng là một hệ thống phần mềm trong đó nhà cung cấp dịch vụ truyền dẫn hoặc nhà cung cấp dịch vụ có quyền kiểm soát các ứng dụng, nội dung và/hoặc phương tiện và hạn chế quyền truy cập thuận tiện đối với những người đăng ký hoặc nội dung không được phê duyệt. Điều này trái ngược với một nền tảng mở, trong đó người tiêu dùng thường có quyền truy cập không hạn chế vào các ứng dụng và nội dung.
Ví dụ, trong lĩnh vực viễn thông, các dịch vụ và ứng dụng có thể truy cập trên điện thoại di động trên bất kỳ thiết bị không dây nào trước đây đều được các nhà khai thác mạng di động kiểm soát chặt chẽ. Các nhà khai thác hạn chế các ứng dụng và nhà phát triển có sẵn trên cổng thông tin và trang chủ của người dùng. Do đó, nhà cung cấp dịch vụ có thể hạn chế quyền truy cập của người dùng đối với những người dùng đã hết tiền trả trước trong tài khoản của họ. Đây từ lâu đã là vấn đề trọng tâm cản trở lĩnh vực viễn thông, vì các nhà phát triển phải đối mặt với những rào cản lớn trong việc đưa các ứng dụng của họ cho người dùng cuối.
Trong một ví dụ điển hình hơn, hệ thống điện thoại Mỹ được kiểm soát chặt chẽ vào những năm 1970, Bell, sở hữu tất cả phần cứng (bao gồm tất cả điện thoại) và có quyền kiểm soát gián tiếp đối với thông tin được gửi qua cơ sở hạ tầng của họ. Đó là một kiểu độc quyền tự nhiên được chính phủ phê chuẩn và được điều chỉnh bởi Đạo luật Truyền thông năm 1934. Tuy nhiên, trong vụ kiện mang tính bước ngoặt "Hush-A-Phone v. United States", Bell đã kiện không thành công một công ty sản xuất phụ kiện điện thoại bằng nhựa.
Nói chung, một vườn tường có thể được hiểu là một tập hợp các dịch vụ thông tin đóng hoặc độc quyền được cung cấp cho người dùng. Giống như một vườn tường thực sự, người dùng không thể thoát khỏi môi trường đóng này trừ khi thông qua các điểm ra/vào được chỉ định hoặc nếu bức tường bị loại bỏ.
Một bài báo nghiên cứu của Trường Kinh doanh Harvard năm 2008, có tựa đề "Nền tảng mở: Bằng cách nào, Khi nào và Tại sao?", đã phân biệt tính mở/đóng của một nền tảng theo bốn khía cạnh và đưa ra các nền tảng ví dụ:
Một số ví dụ về vườn tường bao gồm: |
Luciana Fuster (sinh ngày 14 tháng 1 năm 1999) là hoa hậu, người mẫu Peru đã đăng quang Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2023. Cô là thí sinh đến từ Peru mang về chiến thắng lần hai cho đất nước của mình và cũng là quốc gia đầu tiên có hai chiếc vương miện trong cuộc thi sắc đẹp này. Đây là chiến thắng lặp lại đầu tiên của một quốc gia trong lịch sử của cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Quốc tế, theo đó Peru đã chiến thắng vào năm 2017 cũng diễn ra tại Việt Nam.
Thời thơ ấu và giáo dục.
Cô sinh ra ở Callao, vào ngày 14 tháng 1 năm 1999, trong một gia đình trung lưu. Cô học tiểu học và trung học tại Trường Lyceum Hải quân Almirante Guise, nằm ở quận San Borja . Từ khi còn là một thiếu niên, cô đã cống hiến hết mình để trở thành một vận động viên bóng chuyền và bóng rổ trong các giải vô địch địa phương trong hạng mục của mình, với sự tham gia nhỏ trên sân.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. |
Thùng rác là loại thùng chứa rác, thường được làm bằng kim loại, nhựa, gỗ hoặc bằng mây. Thùng rác đạp chân được Lillian Moller Gilbreth, một kỹ sư công nghiệp phát minh vào những năm 1920 để xử lý rác thải nhà bếp. Trong những năm 2010, một số loại thùng rác đã bắt đầu có các cơ chế tự động như nắp có cảm biến hồng ngoại trên đầu thùng và được cấp nguồn pin để mở thay vì bàn đạp, giải phóng người dùng khỏi việc chạm vào thùng rác.
Ngày nay, hầu hết mỗi hộ gia đình hầu điều có ít nhất 1 thùng rác để chứa rác thải sinh hoạt. Ở các khu vực công cộng như công viên thường có những thùng rác để cải thiện môi trường và khuyến khích mọi người không xả rác. Những thùng rác này được đặt ngoài trời hoặc các khu vực đông đúc. Ở các khu đô thị đông đúc, rác thường được chôn dưới lòng đất bên dưới thùng chứa. |
Bồn tiểu nam (tiếng Anh: urinal) (, ) là một thiết bị vệ sinh được sử dụng để đi tiểu. Bồn tiểu thường được lắp đặt trong nhà vệ sinh công cộng dành cho nam giới. Bồn tiểu có thể xả bằng tay, xả tự động hoặc không xả như trường hợp bồn tiểu không dùng nước. Bồn tiểu dành cho phụ nữ ("bồn tiểu nữ") cũng tồn tại nhưng rất hiếm. Phụ nữ có thể sử dụng bồn tiểu đứng bằng cách sử dụng thiết bị đi tiểu nữ. |
Trung Sa Đảo Tiêu, Tây Sa
Trung Sa Đảo Tiêu (tiếng Trung: 中沙岛礁虛擬鎮, bính âm: "Zhōngshā Dǎojiāo Xūnǐzhèn") là một hư nghĩ trấn (tương đương cấp thôn, tổ dân phố ở Việt Nam) thuộc quận Tây Sa, thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Đơn vị cư dân này có mã phân chia hành chính ban đầu là 469039 và mã phân chia hành chính hiện tại là 460323.
Khu vực của hư nghĩ trấn gồm toàn bộ các đảo, đá của quần đảo Trung Sa. Trụ sở của hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu nằm trên đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough theo cách gọi của Trung Quốc).
Hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu không có dân cư sinh sống thường xuyên và lâu dài, vì phần đất nổi thuộc đảo Hoàng Nham là quá nhỏ.
Phân khu hành chính.
Hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu thuộc thẩm quyền của Ủy ban Cư dân Quần đảo Trung Sa, với đảo Hoàng Nham là trụ sở của chính quyền hư nghĩ trấn. |
Andrea Valentina Rubio Armas (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1998) là một người mẫu, nhà báo đến từ Venezuela. Cô đăng quang Hoa hậu Quốc tế 2023 và trở thành Hoa hậu Venezuela thứ 9 đăng quang tại đấu trường nhan sắc này.
Cuộc đời và sự nghiệp.
Cuộc sống và giáo dục sớm.
Rubio sinh ra và lớn lên ở Caracas, Venezuela. Cha mẹ cô là Felipe Rubio và Marisela Armas. Ở tuổi 18, sau khi hoàn thành chương trình học cấp hai, cô chuyển đến Bogotá, Colombia do Cuộc khủng hoảng tại Venezuela. Rubio là một nhà báo và tốt nghiệp Đại học La Sabana ở Chía, Colombia với bằng về Truyền thông nghe nhìn và Đa phương tiện với trọng tâm là Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Cô nói được cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Chiều cao của cô là 1.71 mét.
Các cuộc thi sắc đẹp.
Năm 2019, sự nghiệp người mẫu của cô được củng cố khi giành chiến thắng trong chương trình thực tế, , do mạng Caracol Televisión sản xuất và phát sóng ở Medellín.
Hoa hậu Venezuela 2022.
Cuối năm 2022, Rubio trở lại Venezuela để tham gia Hoa hậu Venezuela 2022, với tư cách là một trong 24 thí sinh.
Rubio thi đấu với tư cách Hoa hậu Portuguesa và giành chiến thắng Hoa hậu Venezuela 2022, được tổ chức vào ngày 16 tháng 11 năm 2022, tại Poliedro de Caracas. Rubio đã kế vị Hoa hậu Venezuela 2020, Isbel Parra của Vùng Guayana.
Trong thời gian đương nhiệm, cô là người dẫn chương trình khách mời cho tạp chí buổi sáng Portadas al Día của Venevisión và là người đồng dẫn chương trình tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ Latin năm 2023 cho Venezuela như một phần trong quá trình chuẩn bị cho cuộc thi Hoa hậu Quốc tế. Ngoài ra, cô còn có một số cuộc gặp gỡ và hoạt động văn hóa với các thành viên của đại sứ quán Nhật Bản tại Caracas.
Hoa hậu Quốc tế 2023.
Cô tham gia và xuất sắc đăng quang ngôi vị cao nhất, mang chiếc vương miện thứ 9 về cho Venezuela. |
Sofía Osío Luna (sinh ngày 27 tháng 5 năm 2000) là một người mẫu, nhà giao tiếp xã hội và Hoa hậu, người đã đăng quang Hoa hậu Colombia 2022. Cô đại diện cho Colombia tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế 2023.
Sofía sinh ra ở Barranquilla, Atlántico, Colombia. Cô là con gái của Fernán Osío và Susana Luna, đồng thời có ba anh chị em. Cô học trung học tại Colegio Hebreo Unión (Trường tiếng Do Thái Union) một tổ chức song ngữ đặt tại thành phố xuất xứ của cô, trong khi quá trình đào tạo học thuật tiếp theo của cô diễn ra tại Istituto Europeo di Design, đặt tại Barcelona, Tây Ban Nha, nơi cô tốt nghiệp chuyên ngành tiếp thị và truyền thông thời trang. Ngoài tiếng mẹ đẻ, cô còn thông thạo tiếng Anh. Từ khi còn trẻ, cô đã làm người mẫu cho nhiều thương hiệu khác nhau trên toàn quốc.
Cuộc thi sắc đẹp.
Hoa hậu Atlántico 2022.
Sự nghiệp tham gia các cuộc thi sắc đẹp của Sofía Osío bắt đầu vào tháng 6 năm 2022, khi cô được chỉ định là Miss Atlántico mới cho phiên bản tiếp theo của cuộc thi Miss Colombia (Concurso Nacional de Belleza), cuộc thi đó sẽ được tổ chức ra mắt vào tháng 11 cùng năm.
Hoa hậu Colombia 2022.
Trong cuộc thi, cô nổi bật là một trong những ứng cử viên được yêu thích nhất để giành được danh hiệu Hoa hậu Colombia mà Valentina Espinosa nắm giữ vào thời điểm đó. Màn trình diễn của cô trong suốt cuộc thi đã giúp cô trở thành người chiến thắng vào đêm ngày 13 tháng 11 năm 2022 tại thành phố Cartagena như thông lệ truyền thống của cuộc thi sắc đẹp.
Chiến thắng của cô đã mang lại cho khoa của mình danh hiệu thứ 12 trong lịch sử của cuộc thi Hoa hậu Colombia, một danh hiệu mà khoa chưa có được kể từ Paulina Vega đăng quang Hoa hậu Colombia 2013.
Hoa hậu Quốc tế 2023.
Cô đại diện cho Colombia tại Hoa hậu Quốc tế 2023 ở Nhật Bản và giành vị trí Á hậu 1. |
Thiết bị viễn thông
Thiết bị viễn thông (còn gọi là thiết bị thông tin liên lạc) là các thiết bị phần cứng được sử dụng cho mục đích viễn thông. Kể từ những năm 1990, ranh giới giữa thiết bị viễn thông và phần cứng IT đã trở nên mờ nhạt do sự phát triển của internet và vai trò ngày càng tăng của nó trong việc truyền dữ liệu viễn thông.
Hầu hết các thành phần thiết yếu của viễn thông hiện đại được xây dựng từ MOSFETs (metal–oxide–semiconductor field-effect transistors), bao gồm các thiết bị di động, bộ thu phát, mô-đun trạm gốc, bộ định tuyến, bộ khuếch đại công suất RF, bộ vi xử lý, chip nhớ và mạch viễn thông. Tính đến năm 2005, thiết bị viễn thông chiếm 16,5% thị trường bộ vi xử lý hàng năm. |
Rolex Shanghai Masters 2023
Rolex Shanghai Masters 2023 là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 12 giải Shanghai ATP Masters 1000 được tổ chức, một giải đấu ATP Tour Masters 1000 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Qizhong Forest Sports City Arena ở Shanghai, Trung Quốc từ ngày 4 đến ngày 15 tháng 10 năm 2023. Giải đấu được tổ chức trở lại kể từ năm 2019, sau khi giải đấu năm 2020, 2021 và 2022 bị hủy do đại dịch COVID-19 tại Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên vòng đấu chính nội dung đơn có 96 tay vợt tham dự.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 25 tháng 9 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 2 tháng 10 năm 2023.
Tay vợt rút lui khỏi giải đấu.
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu.
Vận động viên khác.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vượt qua vòng loại:
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Roberto Bautista Agut → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Matteo Berrettini → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Alexander Bublik → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Borna Ćorić → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Novak Djokovic → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Dominik Koepfer → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Kei Nishikori → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Milos Raonic → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Emil Ruusuvuori → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Denis Shapovalov → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vận động viên khác.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Gonzalo Escobar / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Li Zhe / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Jannik Sinner / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Alexei Popyrin / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hubert Hurkacz / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Mate Pavić → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hubert Hurkacz / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Adrian Mannarino / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Fabrice Martin → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Ugo Humbert / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Marcelo Melo / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Alexander Zverev → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Rafael Matos / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Jannik Sinner / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Zhang Zhizhen → thay thế bởi #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Alexei Popyrin / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hubert Hurkacz đánh bại #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Andrey Rublev, 6–3, 3–6, 7–6(10–8)
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Marcel Granollers / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Horacio Zeballos đánh bại #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Rohan Bopanna / #đổi
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Matthew Ebden, 5–7, 6–2, [10–7] |
Ác là phao câu đen ("danh pháp hai phần: "Pica bottanensis") là một loài" ác là "trong họ Corvidae."
Loài này phân bố ở trung bộ Bhutan đến tây trung bộ Trung Quốc. Trước đây loài này được xem là một phân loài của Ác là ("Pica pica").
Một nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử được công bố vào năm 2018 cho thấy ác là phao câu đen là một phân loại chị em với ác là Asir từ tây nam Ả Rập Saudi. |
Yamashita Yoshimi (山下良美 (Sơn Hạ Lương Mỹ), Yamashita Yoshimi) sinh ngày 20 tháng 2 năm 1986 tại Tokyo, Nhật Bản, là một nữ trọng tài bóng đá người Nhật Bản. Bà từng làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 diễn ra trên đất Pháp, và bà cũng điều hành trận đấu vòng bảng môn bóng đá nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2020 giữa Thụy Điển và Hoa Kỳ.
Vào năm 2022, bà trở thành một trong 6 trọng tài nữ làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 diễn ra tại Qatar, đồng thời cũng trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam cùng với Stéphanie Frappart của Pháp và Salima Mukansanga của Rwanda. Bà ra mắt giải đấu với tư cách là trọng tài thứ tư trong trận đấu giữa giữa Bỉ và Canada tại lượt trận đầu tiên của bảng F, và làm trọng tài thứ tư trong 6 trận đấu tại giải đấu.
Cũng trong năm 2022, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại AFC Champions League và J1 League, đó là các trận đấu mà Melbourne City (Úc) giành chiến thắng trước Jeonnam Dragons (Hàn Quốc) với tỷ số 2–1, và trận đấu mà FC Tokyo giành chiến thắng với tỷ số 2–0 trước Kyoto Sanga.
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, bà bắt chính trận khai mạc Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 giữa giữa New Zealand và Na Uy tại lượt trận đầu tiên của bảng A. Trong trận đấu này, sau khi tham khảo ý kiến của các trợ lý trong phòng VAR, bà quyết định cho đội New Zealand hưởng một quả phạt đền. Tuy nhiên, cầu thủ Ria Percival đã không thể tận dụng thành công. |
Cabal Online (, cách điệu: CABAL Online) là tựa game nhập vai trực tuyến nhiều người chơi 3D dưới dạng free-to-play được công ty ESTsoft của Hàn Quốc phát triển. những phiên bản bản địa hóa khác nhau của game tồn tại ở nhiều quốc gia và khu vực khác nhau. Mặc dù là free-to-play, trò chơi sử dụng mô hình kinh doanh freemium bằng cách triển khai "Item Shop" (cửa hàng vật phẩm), cả trong game và thông qua trang web, cho phép người chơi mua những đồng xu cao cấp đặc biệt bằng tiền thật, để có được các tính năng và cải tiến độc quyền của trò chơi, những vật phẩm hữu ích và các loại nội dung hư ảo.
"Cabal Online" diễn ra trong một thế giới hư cấu có tên là Nevareth, gần một nghìn năm sau khi bị một nhóm người có lý tưởng mạnh mẽ gọi là CABAL tàn phá. Với hy vọng biến đổi thế giới của mình thành một utopia, họ đã vô tình thúc đẩy các thế lực và quy luật tự nhiên nổi dậy chống lại mình, gây ra sự kiện được gọi là Ngày Tận Thế. Sau sự hủy diệt, chỉ có tám thành viên của CABAL sống sót, bao gồm cả thủ lĩnh của họ tên gọi Faust. Khi tiên tri về tương lai, Faust đã nhìn thấy sự trỗi dậy của một thế lực tà ác một lần nữa sẽ hủy hoại vùng đất Nevareth. Trong thời đại ngày nay, thế lực hắc ám đó đã đến đây rồi. Giờ đây người chơi phải đối mặt với làn sóng tay sai xâm chiếm thế giới và khám phá sự thật đằng sau đó.
"Cabal Online" được phát hành lần đầu tiên tại Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2005. Trò chơi sau đó được phát hành từ giai đoạn thử nghiệm closed beta ở châu Âu vào tháng 7 năm 2006, và vào tháng 12 năm 2006, có thông báo rằng tựa game này và tất cả các phiên bản tiếp theo đã trở thành free-to-play. Ở Bắc Mỹ, OGPlanet đã nhận được giấy phép dành cho game và thử nghiệm open beta bắt đầu vào ngày 1 tháng 2 năm 2008. Người ta cũng tuyên bố rằng bản phát hành đầy đủ rất có thể sẽ ra mắt vào cuối tháng 2. Ngày 28 tháng 2 năm 2008, phiên bản chính thức ra mắt tại Bắc Mỹ, trong lúc bản closed beta bắt đầu ở Đông Nam Á. Gameforge phát hành "Cabal Online" ở Đức vào ngày 3 tháng 12 năm 2009. Dịch vụ ở Bắc Mỹ do OGPlanet cung cấp đã bị ngừng vào ngày 31 tháng 3 năm 2010 do công ty không đạt được thỏa thuận với ESTsoft, trong khi ESTsoft sau đó đã thiết lập lại dịch vụ trực tiếp ở Bắc Mỹ.
Là một MMORPG điển hình, lối chơi trong "Cabal Online" chứa đựng các yếu tố của cả PvP và PvE, cũng như việc giết người chơi. Các yếu tố PvE bao gồm cày game và làm nhiệm vụ thưởng cho người chơi các loại vật phẩm và điểm kinh nghiệm, cũng như phó bản để nhận được các loại kho báu và "Alz", đơn vị tiền tệ trong game. Các yếu tố PvP bao gồm tiêu diệt người chơi trong các kênh đặc biệt (có hình phạt nếu giết hàng loạt), sắp xếp các cuộc đấu tay đôi giữa hai người chơi mà không có hình phạt nào cho bên nào, hệ thống "Mission War", chia người chơi thành hai quốc gia, "Capella" và "Procyon", cũng như phe Trung lập và yêu cầu họ tiến hành chiến tranh với nhau trong các sự kiện "Tierra Gloriosa", các kênh chiến tranh cụ thể và tất cả các màn chơi cấp cao hơn (luôn kích hoạt chiến tranh) và cuối cùng là hệ thống Bang hội đấu với Bang hội, cho phép các cuộc chiến tranh nhỏ được sắp xếp giữa hai bang hội. Người chơi có thể liên kết với nhau để thành lập một nhóm với tối đa sáu nhân vật. Điểm kinh nghiệm thưởng được trao cho các thành viên trong nhóm dựa trên sự đóng góp của họ.
Trò chơi được chia thành các máy chủ hoặc thế giới trò chơi, mỗi máy chủ có tên riêng và tập hợp các phân khu - kênh tiếp theo. Mặc dù người chơi từ các máy chủ khác nhau không thể tương tác với nhau trừ khi họ chuyển sang cùng một máy chủ bằng các vật phẩm cao cấp đặc biệt, họ có thể tự do chuyển đổi qua tất cả các kênh có sẵn trên một máy chủ, bao gồm cả kênh Premium nếu họ đã mua gói Premium. Tuy nhiên, các nhân vật ở các kênh khác nhau không thể hỗ trợ trực tiếp lẫn nhau; chỉ những nhân vật trong cùng một kênh mới có thể tương tác. Trò chuyện bỏ qua hạn chế này đối với các chế độ trò chuyện như nhắn tin riêng tư (thì thầm), trò chuyện bang hội, trò chuyện nhóm hoặc phòng trò chuyện cá nhân. Tất cả các máy chủ ở mỗi phiên bản bản địa hóa đều có nội dung như nhau, ngoại trừ cơ sở người chơi và nền kinh tế. Tuy vậy, các phiên bản khu vực khác nhau của "Cabal Online" có thể có nội dung khác nhau, đặc biệt là bản địa hóa tiếng Hàn, luôn cập nhật hơn các phiên bản còn lại. Mỗi tài khoản cho phép sáu nhân vật trên mỗi máy chủ, nhưng chỉ cần một tài khoản để truy cập tất cả các máy chủ.
Các kênh sử dụng các cơ chế khác nhau tùy thuộc vào mục đích của chúng. Những kênh được gắn nhãn màu xanh lá cây thân thiện với người mới và vô hiệu hóa tính năng giết người chơi (mặc dù cơ chế chiến tranh vẫn được áp dụng, ngay cả trong những màn chơi tiêu chuẩn cấp cao hơn), trái ngược với các kênh màu trắng không cấm điều đó. Kênh Thương mại được thiết kế đặc biệt để mua và bán vật phẩm trong game, áp dụng các hạn chế đối với lối chơi thông thường, chẳng hạn như xóa quyền tiếp cận dungeon phó bản và hình nộm luyện tập, cũng như loại bỏ tất cả kẻ thù trong môi trường. Giao dịch trên kênh này có thể được thực hiện thông qua các kênh phát sóng toàn kênh hoặc các quầy hàng ở chợ cá nhân, trong đó các mặt hàng có thể được bày bán và định giá để mọi người có thể tiếp cận. Chỉ những người dùng đã mua gói Premium hoặc gói tương đương từ Item Shop mới có thể truy cập bất kỳ kênh nào được gắn thẻ Premium.
Các kỹ năng đặc biệt trong game được mở khóa tại một số điểm nhất định trong quá trình phát triển của nhân vật bằng cách hoàn thành các nhiệm vụ "xếp hạng" cụ thể. Những kỹ năng này bao gồm Combo Mode, cho phép sử dụng liên tiếp một số kỹ năng khi đồng hồ kết hợp được nhấn đúng thời điểm, cũng như một số Battle Mode cung cấp phần thưởng thuộc tính tạm thời cho nhân vật hoặc thậm chí là chế độ chiến đấu đặc biệt.
Thế giới của "Cabal Online" được chia thành các khu vực khác nhau, cụ thể là màn chơi và dungeon. Những người chơi bắt đầu sẽ chỉ có thể tiếp cận ba màn chơi và một khu vực "Warp Gate", nơi cung cấp quyền tiếp cận đi bộ vào cả ba màn chơi ban đầu. Khi tiến vào trò chơi và đạt được cấp độ nhân vật, họ sẽ được cấp quyền tiếp cận các màn chơi mới và ngày càng khó, cũng như các dungeon phó bản. Mỗi màn chơi có bối cảnh và thời tiết khác nhau; ví dụ trong số này bao gồm sa mạc, rừng rậm, băng tuyết và thậm chí cả cảnh quan thành phố tương lai hoặc địa ngục. Mỗi màn chơi có một nhóm NPC riêng, chẳng hạn như nhân vật nhiệm vụ và cửa hàng, cũng như nhiều quái vật để chiến đấu và nhận kinh nghiệm cũng như kho báu. Việc di chuyển từ màn chơi này sang màn chơi khác được thực hiện bằng cách đi qua các liên kết Warp Gate hoặc bằng cách sử dụng Premium GPS Warp để chuyển ngay sang một màn chơi cụ thể. Khi hỗ trợ di chuyển bằng cách đi bộ, người chơi có thể sở hửu các loại phương tiện đặc biệt, cụ thể là Astral Boards và Bikes, mang lại tốc độ cao hơn hoặc sử dụng các kỹ năng tăng cường chuyển động đặc biệt "Dash" và "Blink", những kỹ năng sau chỉ dành riêng cho lớp nhân vật Wizard.
Có chín lớp nhân vật trong "Cabal Online". Khi một nhân vật được tạo thành, người chơi phải chọn lớp nhân vật mà nhân vật đó sẽ đảm nhận. 9 lớp nhân vật này bao gồm Warrior, Blader, Wizard, Force Blader, Force Shielder, Force Archer, Gladiator, Force Gunner và Dark Mage. Các lớp nhân vật khác nhau cung cấp các chiến lược, thư viện kỹ năng, kho vũ khí và thậm chí cả địa điểm xuất phát khác nhau.
Bằng cách lên cấp, người chơi sẽ nhận được điểm mà họ có thể áp dụng trong ba thuộc tính khác nhau sẽ định hình tính cách của họ, đó là Strength hoặc STR, Intelligence hoặc INT và Dexterity hoặc DEX. Các thuộc tính này ảnh hưởng đến một số thuộc tính phụ sẽ xác định điểm mạnh và điểm yếu của nhân vật một cách hiệu quả. Các thuộc tính phụ này là Attack, sức mạnh thể chất của kỹ năng Kiếm, Magic, sức mạnh phép thuật của kỹ năng Phép thuật, Defense, khả năng chống lại các cuộc tấn công của kẻ thù, Hit hoặc Attack Rate, độ chính xác của tất cả các đòn tấn công của người chơi và Defense Rate, tốc độ các đòn tấn công của kẻ thù được né tránh hoàn toàn.
Warrior là người rèn luyện sức của cơ thể một cách thuần túy và phát triển dựa trên nền tảng cơ bản, tạo nên một sức mạnh nổi trội hơn những người theo Force khác. Họ cần sức mạnh hơn là tốc độ và kỹ xảo. Những cuộc giao chiến giữa các Warrior luôn "kinh thiên, động địa". Tuy nhiên, hạn chế của lớp nhân vật này là tốc độ ra đòn chậm, đối phương có thể dễ dàng khống chế, nên họ đã linh hoạt bỏ bớt trí năng trong các bài tập luyện và dồn hết vào sức mạnh cơ bắp. Những Warrior từng trải có khả năng bộc phát những sức mạnh tiềm ẩn bằng cách sử dụng lực để trở thành những Berserk Warrior và sử dụng Astral Weapons bằng ý thức tinh thần.
Đặc tính của Blader là thông qua năng lực của cơ thể cực đại hóa tốc độ chiến đấu tinh xảo và chuẩn xác. Ban đầu, lớp nhân vật này không phải dùng song kiếm mà sử dụng rất nhiều vũ khí đa dạng. Blader có thể sử dụng 1 hoặc 2 kiếm, họ thường mặc trang phục phòng ngự nhẹ, nhằm tăng sự linh hoạt, như Martial Suit Set ở lục địa Huan. Khí lực và sự nhanh nhẹn là yếu tố cơ bản của lớp nhân vật này. Blader sử dụng thành thục sẽ phát huy hết khả năng nhanh chóng để có thể công kích hiệu quả nhờ tạo nên những ảo ảnh. Thêm vào đó, có khả năng triệu hồi Astral Weapons linh hoạt và tung đòn chí tử dễ dàng kết liễu đối phương.
Wizard là người sử dụng sức mạnh được gọi là ma thuật điều khiển cơ thể. Ma pháp cũng như kiếm pháp, được truyền ngược dòng thời gian qua thời đại Honorable Age đến thời đại Lost Age. Ma pháp mà các lính chiến sử dụng được phát triển dựa theo những quan đểm của thế hệ Seven-Sages đều tiên. Nếu kiếm thuật sử dụng năng lực cơ thể để cực đại hóa lực phá hoại vật lý thì ma pháp là kỹ thuật chiến đấu làm phát sinh nội lực cơ thể nhằm điều khiển thế lực thiên nhiên bên ngoài. Để điều khiển ma thuật hiệu quả, Wizard phải tăng cường trí năng mà không cần nhiều sức mạnh vật lý và sự nhanh nhẹn. Theo kinh nghiệm, họ không mặc áo giáp bằng kim loại vì nó hạn chế khả năng cảm nhận thế lực của tự nhiên. Wizard dày dạn kinh nghiệm có thể thi triển ma thuật một cách dễ dàng với sức công phá lớn.
Force Archer được phát triển từ một nhánh của Wizard. Họ nhận thức được tiềm năng tấn công từ xa của ma thuật và học cách tăng cường phép thuật. Kiến thức căn bản cần nắm là tính đối nghịch giữa "khoảng cách với không gian" và "không gian với sức mạnh". Những người sáng tạo ra Force Archer chú trọng đến "tốc độ và khoảng cách" hơn "không gian và sức mạnh". Force Archer được phát triển kỹ năng công kích tầm xa cực mạnh vì thế thiết bị chuyên dùng cho họ là Crystal, một phiên bản cao cấp hơn từ Orb của Wizard. Song song, Astral Bow giúp giảm thiểu nguy cơ mất sức mạnh khi tấn công tầm xa và cải thiện lực điều khiển, tốc độ tấn công.
Phát minh về Crystal đã tạo ra những khả năng khác trong việc điều khiển lực. Force Shielder nhận thấy Astral Bow của Force Archer có thể hỗ trợ điều khiển lực tầm xa, vì thế họ đã học cách sử dụng uy lực có trong Crystal để lực không bị phân tán khi tấn công và đã hình thành khả năng sử dụng Astral Shield. Warrior và Blader không có công cụ phòng ngự tốt nhưng người chơi dễ dàng nhận thấy sức chịu đòn của Force Shielder. Họ đã chọn trang bị giáp nặng cộng với Astral Shield làm công cụ phòng vệ.
Force Blader được sinh ra cùng thời với Force Shielder nên lớp nhân vật này chịu nhiều ảnh hưởng từ Force Shielder. Lúc đầu, cũng giống như Force Shielder, Force Blader một tay cầm kiếm một tay điều khiển ma thuật. Điểm khác là họ thiên về tấn công và dựa vào yếu tố nhanh nhẹn, chính vì thế nên họ sử dụng giáp nhẹ Battle Suit Set. Do lớp nhân vật này chủ yếu dùng vào việc đột kích nên thường dùng Orb hơn là Crystal. Nhờ thế, Force Blader dễ dàng đạt được thành quả cao trong việc tạo ra ma thuật kiếm pháp.
Là một phong cách chiến đấu do lực lượng đặc biệt điều khiển được tạo ra trong bí mật, Force Gunner chuyên về các kỹ năng bắn tỉa tầm xa và sát thương diện rộng Area of Effect mạnh mẽ. Tập trung vào tốc độ tấn công cao hơn và các đòn tấn công chí mạng, Force Gunners kết hợp các đòn tấn công vật lý và phép thuật để tiêu diệt kẻ thù của họ từ xa. Force Gunner mặc áo giáp trung bình và được hưởng lợi từ chỉ số Intelligence và Dexterity.
Gladiator là lớp nhân vật cận chiến mạnh mẽ dựa vào tài nguyên Rage để gây sát thương tầm gần và tầm xa. Rage được tích lũy thông qua việc liên tục sử dụng các kỹ năng, khiến Gladiator trở nên điên cuồng. Gladiator xuất sắc trong việc gây sát thương diện rộng Area of Effect và sử dụng vũ khí Chakram độc đáo, mặc áo giáp hạng nặng và được hưởng lợi rất nhiều từ chỉ số Strength.
Dark Mage là lớp nhân vật cuối cùng được game giới thiệu. Trên trang web chính thức, nó được mô tả là một nhóm pháp sư đối phó với Force và khao khát sức mạnh vượt xa phép thuật trần tục. Sau nhiều thập kỷ nghiên cứu, họ đã có thể hợp nhất linh hồn của người chết với Force, tạo ra phép thuật có thể triệu hồi cả bóng tối và ánh sáng của sinh vật. Lớp nhân vật này sử dụng Orbs và chỉ số chính của họ là Intelligence.
Khi người chơi đã đạt đến cấp 52 và hoàn thành nhiệm vụ chọn Quốc gia, trong thời gian đó họ sẽ chọn phe "Capella" hoặc "Procyon", một sự kiện mới sẽ được kích hoạt cho người chơi. Đây là Nation War, diễn ra nhiều lần mỗi ngày và cho phép các quốc gia đối lập chiến đấu với nhau và nhận được điểm kinh nghiệm chiến tranh, sau đó có thể chuyển đổi thành điểm kinh nghiệm, kinh nghiệm kỹ năng hoặc điểm danh dự, cũng như thành phần thưởng đặc biệt ở mỗi phe trong cuộc chiến này. Tùy thuộc vào cấp độ của nhân vật, người chơi sẽ có thể truy cập các kênh Nation War khác nahu. Trong Chiến tranh, người chơi đấu tranh để vượt qua các địa điểm quan trọng được kiểm soát bởi những quái vật hộ mệnh hùng mạnh gọi là "Legacy Guardians", chống đỡ người chơi đối phương và sau cùng chiếm quyền kiểm soát căn cứ chính của kẻ thù, giành chiến thắng một cách hiệu quả trên chiến trường.
"Cabal Online" nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình. Tháng 12 năm 2006, "PC Gamer UK" đã chấm cho game 6,4 điểm, nhận xét rằng trò chơi này "chung chung đến mức đáng kinh ngạc". Tạp chí cũng đã chỉ trích "Cabal Online" vì chia sẻ nhiều tính năng như các tựa game MMORPG Hàn Quốc khác. Bất chấp những đánh giá tiêu cực từ PC Gamer UK, trò chơi vẫn được bình chọn là một trong "9 Game MMO Miễn Phí Đáng Chơi Nhất" trong số tháng 6 của tạp chí này.
"Cabal Online 2" được quảng bá tại Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2010 trước khi bắt đầu G-Star 2010, tại Busan. Trò chơi khuyến khích sự thay đổi từ chủ đề "techno-punk" ban đầu thành chủ đề hoàng gia, một tựa game siêu hành động với sáu lớp nhân vật có sẵn. Tuy nhiên, thay đổi này bao gồm việc loại bỏ lớp nhân vật "Blader" khỏi bản game gốc, thay thế bằng lớp nhân vật "Priest" mới. Phần tiếp theo của "Cabal Online" sử dụng CryEngine 3 làm game engine đồ họa chính. Phần tiếp theo đã ngừng hoạt động vào ngày 8 tháng 4 năm 2018. |
Mousa Mohammad Mousa Sulaiman (; sinh ngày 10 tháng 6 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Jordan hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh phải cho câu lạc bộ Montpellier tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan.
Sự nghiệp thi đấu.
Al-Tamari bắt đầu sự nghiệp của mình ở Shabab Al-Ordon, anh nổi tiếng với sự nhanh nhẹn, kỹ năng tuyệt vời và động tác chân tuyệt vời. Vì thế, anh đã được gọi vào đội tuyển quốc gia sau sáu trận đấu đầu tiên. Bên cạnh đó, anh còn đạt được Jordan FA Shield 2016.
Vào tháng 9 năm 2017, anh được cho mượn tại Al-Jazeera, Anh thi đấu tại Cúp AFC 2018 và ghi 6 bàn sau 10 trận cho đội bóng của mình, dành được Cúp FA Jordan 2017–18.
Vào ngày 28 tháng 5 năm 2018, Al-Tamari ký hợp đồng 3 năm với mức phí 400 nghìn euro với câu lạc bộ APOEL. Anh cùng đội bóng vô địch Siêu cúp bóng đá Síp 2019, Giải bóng đá hạng nhất Síp 2018–19 và được biết đến như một trong những cầu thủ giỏi nhất ở Síp. Anh cũng đã giành được MVP (Cầu thủ đắt giá nhất) của giải đấu.
Vào ngày 5 tháng 10 năm 2020, Al-Tamari gia nhập câu lạc bộ OH Leuven tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm, với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 1,1 triệu euro.
Vào ngày 11 tháng 5 năm 2023, Al-Tamari ký hợp đồng 3 năm theo dạng chuyển nhượng tự do với câu lạc bộ Montpellier. Anh trở thành cầu thủ Jordan đầu tiên ký hợp đồng với câu lạc bộ Ligue 1. Trước đây, anh cũng nhận được lời mời từ Levante, Blackburn, Fenerbahçe, cũng như từ MLS và các giải đấu vùng Vịnh, trước khi chấp nhận lời đề nghị đến Montpellier.
Anh ra mắt Ligue 1 vào ngày 13 tháng 8, trong trận hòa 2–2 trước Le Havre. Vào ngày thi đấu tiếp theo, Al-Taamari ghi hai bàn vào lưới Lyon trong chiến thắng 4-1, trở thành cầu thủ Jordan đầu tiên ghi bàn ở Ligue 1, cũng như có tên trong Đội hình xuất sắc nhất tuần do L'Équipe bình chọn.
Sự nghiệp quốc tế.
Al-Tamari đã từng thi đấu ở cấp độ U-23. Anh ra mắt quốc tế cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan vào ngày 31 tháng 8 năm 2016 trong trận giao hữu quốc tế với Liban, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1-1. Al-Tamari lúc đó chỉ mới 19 tuổi. Anh tiếp tục có thêm sáu lần ra sân quốc tế trong năm 2016. Năm 2017, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Jordan trong trận giao hữu với Hồng Kông. Al-Tamari có tên trong đội hình tuyển Jordan tham dự Cúp bóng đá châu Á 2019, chơi ba trận, ghi một bàn và có hai pha kiến tạo tại giải đấu.
Phong cách thi đấu.
Là một cầu thủ chạy cánh phải thuận chân trái, Al-Tamari có xu hướng chung là cắt vào trong và tiếp cận cầu thủ bằng khả năng rê bóng của mình. Khả năng giữ bóng gần chân ngay cả trong không gian hẹp là điều khiến anh trở nên rất nguy hiểm khi tấn công hàng phòng ngự. Tốc độ, sự lắt léo và phong cách chơi chung của Al-Tamari đã khiến anh được so sánh với cầu thủ chạy cánh của Liverpool, Mohamed Salah.
"Tính đến 29 tháng 10 năm 2023"
"Tính đến 19 tháng 6 năm 2023"
"Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Jordan, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Al-Taamari." |
Phấn rôm (tiếng Anh: baby powder) là một loại phấn vệ sinh dạng bột mịn dành cho trẻ nhỏ, có tác dụng làm săn da, tránh tình trạng hăm tã. Phấn có thành phần chính là bột talc hoặc tinh bột ngô kèm huơng nước hoa. Ngoài sử dụng cho trẻ em, phấn cũng được dùng trong ngành mỹ phẩm, làm dầu gội đầu khô hoặc chất tẩy, xịt phòng.
Phấn rôm có thành phần là khoáng vật talc nghiền nhỏ, hít phải chất này với một lượng nhất định có thể gây viêm phổi, nặng hơn có thể gây bệnh hô hấp mãn tính và tử vong.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra liên hệ giữa việc bôi bột talc lên tầng sinh môn và ung thư buồng trứng, tuy nhiên hiện vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng. Năm 2016, hơn 1.000 phụ nữ ở Mỹ đã gửi đơn kiện hãng Johnson Johnson vì che giấu nguy cơ bị ung thư liên quan đến phấn rôm. Công ty sau đó dừng bán các sản phẩm làm từ bột talc ở Mỹ và Canada vào năm 2020 và cho biết sẽ dừng trên toàn thế giới trong năm 2023, cũng như thay thế thành phần bằng tinh bột ngô. Mặc dù vậy, Johnson Johnson vẫn khẳng định phấn bột talc là an toàn và không chứa amiăng. |
Vụ trật bánh tuyến đường sắt cao tốc Tōhoku Shinkansen 2022
Vụ trật bánh tuyến đường sắt cao tốc Tōhoku Shinkansen 2022 (東北新幹線脱線事故, Vụ trật bánh tuyến đường sắt cao tốc Tōhoku Shinkansen 2022) xảy ra vào lúc 23:36, ngày 16 tháng 3 năm 2022. Vụ việc diễn ra trùng thời điểm động đất mạnh 7.4 richter ở ngoài khơi Fukushima. Có khoảng 78 hành khách trên tàu mang số hiệu Yamabiko 223. Hậu quả vụ đã làm 6 người bị thương. |
Warren Zaïre-Emery (sinh ngày 8 tháng 3 năm 2006) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Paris Saint-Germain tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp.
Warren Zaïre-Emery sinh ra ở Montreuil và lớn lên ở Île-de-France. Cha anh là một cựu cầu thủ bóng đá từng chơi cho Red Star ở Seine-Saint-Denis.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Zaïre-Emery bắt đầu chơi cho Aubervilliers khi mới 4 tuổi, nhưng anh đã phải đợi đủ năm tuổi để lấy bằng đầu tiên ở đó.
Sự nghiệp cầu thủ trẻ.
Vốn là một cầu thủ nổi bật của Aubervilliers, Zaïre-Emery nhanh chóng được Paris Saint-Germain (PSG) săn đón và anh đã ký hợp đồng với câu lạc bộ từ thủ đô vào năm 2014. Trong hệ thống trẻ của PSG, Zaïre-Emery luôn chơi ở những lứa tuổi trên và gây ấn tượng với các huấn luyện viên ở mọi cấp độ. Trong mùa giải 2021–22, anh là cầu thủ trẻ nhất của đội U19 khi mới bước sang tuổi 15. Dù tuổi còn trẻ nhưng Zaïre-Emery đã trở thành cầu thủ chủ chốt của đội U19, đáng chú ý nhất là vào tháng 12 năm 2021, khi anh là cầu thủ có màn trình diễn nổi bật của PSG tại UEFA Youth League. Trong trận đấu cuối cùng ở vòng bảng, anh đã giúp PSG dẫn trước 3–2 để giành chiến thắng trên sân nhà trước Club Brugge với một bàn thắng và một pha kiến tạo và đồng thời giúp PSG lọt thẳng vào vòng 16 đội. Ở tuổi 15, Zaïre-Emery được Mauricio Pochettino gọi lên đội một mùa giải đó. Sau khi một số câu lạc bộ lớn ở châu Âu thu hút sự chú ý đến anh khi anh vẫn chưa ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên, anh đã gia nhập công ty của Jorge Mendes vào tháng 3 năm 2022.
2022–2023: Mùa giải đầu tiên với đội một.
Vào tháng 7 năm 2022, Zaïre-Emery ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với PSG với thời hạn 3 năm cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2025. Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên mới Christophe Galtier, anh đã ra mắt cho đội ở trận giao hữu thắng 2–0 trước Quevilly-Rouen. Sau đó, anh tham gia chuyến du đấu trước mùa giải của PSG tại Nhật Bản, nơi anh có mặt trong đội hình xuất phát trong chiến thắng 3–0 trước Urawa Red Diamonds. Vào ngày 6 tháng 8 năm 2022, Zaïre-Emery ra mắt chính thức cho PSG với tư cách là cầu thủ dự bị trong chiến thắng 5–0 trước Clermont và tại trận này, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân trong một trận đấu chính thức cho PSG khi mới 16 và 151 ngày. Anh đã chính thức phá được kỷ lục trước đó do El Chadaille Bitshiabu nắm giữ. Vào ngày 25 tháng 10, Zaïre-Emery ra mắt UEFA Champions League với tư cách là cầu thủ dự bị trong chiến thắng 7–2 trên sân nhà trước Maccabi Haifa. Điều này khiến anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân ở Champions League cho PSG. Vào ngày 7 tháng 1 năm 2023, anh ra mắt lần đầu tiên tại Coupe de France trong chiến thắng 3–1 trước Châteauroux và đồng thời trở thành cầu thủ đá chính trẻ nhất trong lịch sử câu lạc bộ khi mới 16 tuổi 10 tháng. Tám ngày sau, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân tại Ligue 1 trong trận thua 0–1 trước Rennes. Vào ngày 1 tháng 2, Zaïre-Emery ghi bàn thắng đầu tiên cho đội một khi vào sân từ ghế dự bị ấn định chiến thắng 3-1 trước Montpellier. Anh trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất từ trước đến nay của PSG khi mới 16 tuổi 330 ngày. Vào ngày 14 tháng 2, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất tham gia một trận đấu loại trực tiếp Champions League khi mới 16 tuổi 343 ngày trong trận thua 0-1 trước Bayern Munich. Vào cuối mùa giải 2022–23, Zaïre-Emery giành được chức vô địch Ligue 1 đầu tiên.
2023–2024: Xác lập vai trò cầu thủ chính.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2023, Zaïre-Emery lập pha kiến tạo đầu tiên cho PSG sau khi chuyền cho Marco Asensio trong chiến thắng 3–1 trước Lens. Anh trở thành cầu thủ PSG trẻ nhất ghi được một pha kiến tạo ở Ligue 1 kể từ khi Opta bắt đầu phân tích dữ liệu này vào năm 2006. Vào ngày 4 tháng 10, Zaïre-Emery lập pha kiến tạo cho Lucas Hernandez trong trận thua 4–1 ở Champions League trước Newcastle United. Anh trở thành cầu thủ Pháp và PSG trẻ nhất lập pha kiến tạo trong giải đấu này. Vào ngày 11 tháng 10, anh được tờ báo Anh "The Guardian" vinh danh là một trong những cầu thủ sinh năm 2006 xuất sắc nhất thế giới. Hai tuần sau, anh lập hai pha kiến tạo trong chiến thắng 3–0 tại Champions League trước A.C. Milan và trở thành cầu thủ trẻ nhất lập được ba đường kiến tạo trong giải đấu. Ngoài ra, anh giành giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu đêm đó và cũng trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân 20 lần cho PSG. Vào ngày 29 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải với một cú "rocket" vào góc cao từ ngoài vòng cấm để giúp PSG giành chiến thắng 3–2 trên sân khách trước Brest. Trong trận đấu tiếp theo với Montpellier, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại sân nhà Parc des Princes (Sân vận động Công viên các Hoàng tử) để giúp PSG giành chiến thắng 3–0.
Sự nghiệp quốc tế.
Là người gốc Martinique, Zaïre-Emery là một tuyển thủ trẻ của Pháp. Vào tháng 4 năm 2022, anh đã được chọn cùng đội tuyển U-17 quốc gia Pháp tham dự U-17 châu Âu. So với các đồng đội vào thế hệ sinh năm 2005, anh là cầu thủ sinh năm 2006 duy nhất của đội. Tại giải U-17 châu Âu, Pháp giành chức vô địch khi Zaïre-Emery ghi được hai bàn thắng.
Vào tháng 9 năm 2023, Zaïre-Emery lần đầu tiên được triệu tập lên đội tuyển U-21 quốc gia Pháp bởi huấn luyện viên mới được bổ nhiệm Thierry Henry. Anh trở thành đội trưởng trẻ nhất của "Les Espoirs" sau ba mươi năm khi Henry đã chọn anh làm đội trưởng trong trận đấu với Đan Mạch và Slovenia.
Đội tuyển quốc gia.
Vào ngày 9 tháng 11 năm 2023, Zaïre-Emery lần đầu tiên được triệu tập lên đội tuyển quốc gia Pháp để tham dự vòng loại Euro 2024 gặp Gibraltar và Hy Lạp. Anh trở thành cầu thủ trẻ nhất được triệu tập cho "Les Bleus" kể từ Maurice Gastiger vào năm 1914. Anh ra mắt cho đội tuyển quốc gia vào ngày 18 tháng 11 trước Gibraltar, ghi một bàn trong chiến thắng chung cuộc 14–0 cho Pháp và giúp Pháp lập chiến thắng đậm nhất trong lịch sử đội. Bàn thắng của anh giúp anh trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ thứ hai trong lịch sử nước Pháp chỉ sau Gastiger. Tuy nhiên, trong quá trình ghi bàn, Zaïre-Emery đã phải nhận một pha cản của hậu vệ Gibraltar Ethan Santos, người đã phải nhận thẻ đỏ sau khi bị kiểm tra. Zaïre-Emery sau đó ra sân vì chấn thương và anh đã bị "bong gân mắt cá chân nghiêm trọng" khiến anh phải nghỉ thi đấu cho đến cuối năm 2023.
Phong cách thi đấu.
Là một tiền vệ phòng ngự có thể hình tốt và khả năng kỹ thuật vượt trội, Zaïre-Emery vừa giỏi giành bóng vừa phát động lối chơi, mang lại cấu trúc cho lối chơi của đồng đội và tạo sự cân bằng cho hàng tiền vệ.
Anh còn được coi là một cầu thủ giỏi đọc trận đấu, có tính cách rất trưởng thành trên sân khi vẫn còn ở độ tuổi thiếu niên và có thể thường xuyên đảm nhận trách nhiệm nhưng vẫn giữ thái độ bình tĩnh và kỷ luật.
"Tính đến 11 tháng 11 năm 2023"
"Tính đến 18 tháng 11 năm 2023"
"Tỷ số của Pháp được liệt kê đầu tiên, cột tỷ số cho biết tỷ số sau mỗi bàn thắng của Zaïre-Emery." |
Chuyến bay số 113 của Indian Airlines
Chuyến bay số 113 của Indian Airlines được khai thác bởi chiếc Boeing 737-200, khởi hành từ Bombay (nay là Mumbai) đến Admedabad, Ấn Độ vào thứ Tư ngày 19 tháng 10 năm 1988. Chiếc máy bay mang số đăng ký VT-EAH, 17 năm tuổi, và đã tích 42750 giờ bay. Cơ trưởng của chuyến bay là O.M. Dallaya
Diễn biến chuyến bay.
6:05: Chuyến bay cất cánh tại Bombay.
6:25: Hệ thống dự báo thời tiết METAR thông báo với phi công do sương mù, tầm nhìn sẽ giảm xuống từ 6 đến 3 ki lô mét.
6:31: Tầm nhìn chỉ còn 2 ki lô mét.
6:47: Phi công chuẩn bị tiếp cận đường băng số 3 bằng phương pháp DME.
6:50: Phi công báo bay vòng vì đã vượt quá đường băng. Đây là tín hiệu cuối cùng đến từ chuyến bay.
Cả phi hành đoàn đều đi tìm đường băng, thay vì chú ý vào máy đo độ cao.
6:53: Máy bay đâm vào cây cối và một cột truyền tải điện cao áp và rơi xuống một cánh đồng tại làng Chiloda Kotarpur.
Cả 6 thành viên phi hành đoàn và 124 hành khách đều thiệt mạng, duy nhất có 5 người sống sót và được chuyển đến bệnh viện, nhưng 3 người trong số đó đã không qua khỏi vì vết thương quá nặng.
Kết luận cuối cùng của tòa án điều tra: Do lỗi phán đoán từ phía cơ trưởng và cơ phó vì đã không tuân thủ theo các quy định trong điều kiện tầm nhìn kém.
Năm 1989, Indian Airlines đề nghị bồi thường 200.000 rupee cho gia đình nạn nhân. Toà án thành phố đưa ra phán quyết cuối cùng như sau:
- Chúng tôi có quan điểm rằng đối với vụ tai nạn được đề cập, tức là vụ tai nạn máy bay Boeing 737 của hãng hàng không Indian Airlines máy bay VT-EAH trên chuyến bay theo lịch trình hàng ngày IC 113 từ Bombay đến Ahmedabad lúc 06 giờ 50 phút vào sáng ngày 19 tháng 10 năm 1988 ở khoảng cách 2540 mét từ đầu đường băng 23 tại Sân bay Ahmedabad trong điều kiện tầm nhìn kém, phần lớn lỗi thuộc về cơ trưởng và cơ phó của Indian Airlines. Họ đã hành động liều lĩnh với kiến thức về thiệt hại có thể xảy ra về hậu quả của hành vi và thiếu sót của họ. Vụ tai nạn được đề cập là do sự liều lĩnh của hãng hàng không Ấn Độ và các nhân viên của họ, đặc biệt là cơ trưởng cũng như cơ phó, với kiến thức về hậu quả có thể xảy ra khi cố gắng hạ cánh mà không có bất kỳ sự cho phép nào từ Kiểm soát không lưu, Ahmedabad. |
Monyreak "Monty" Oum ( ; 22 tháng 6 năm 1981 – 1 tháng 2 năm 2015) là họa sĩ diễn hoạt và nhà biên kịch người Mỹ.
Oum đã thu hút sự chú ý trong cộng đồng game thủ sau khi phát hành một video hoạt hình vào năm 2007, có tựa đề "Haloid", khi mà các nhân vật trong dòng game "Halo" và "Metroid" giao chiến lẫn nhau lan truyền rộng rãi trên mạng Internet. Vào tháng 10 cùng năm, anh phát hành phần tiếp theo mang tên "Dead Fantasy". Oum bắt đầu làm việc cho hãng Rooster Teeth, đóng vai trò là nhà làm phim hoạt hình chính cho "Red vs. Blue", và tạo ra loạt phim hoạt hình gốc "RWBY".
Oum bị phản ứng dị ứng nghiêm trọng và hôn mê vào tháng 1 năm 2015. Anh qua đời ngày 1 tháng 2 năm 2015 tại Austin, Texas.
Oum chào đời tại Providence, Rhode Island vào năm 1981. Anh là người gốc Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản. Anh có bốn anh trai (bao gồm Neath, người đảm nhận lồng tiếng cho nhân vật RWBY Lie Ren sau cái chết của Oum) và hai chị gái. Hồi còn tuổi thiếu niên, Oum từng là sinh viên tại New Urban Arts, một studio nghệ thuật cộng đồng dành cho học sinh trung học ở Providence.
Công việc độc lập.
Oum bỏ học cấp ba và bắt đầu tổng hợp các video dành cho người hâm mộ chơi game vào đầu năm 2002. Tháng 1 năm 2007, anh phát hiện ra một số kỹ thuật đảo ngược trực tuyến cho phép anh trích xuất các mô hình từ "Halo 2" và sử dụng nội dung từ "Super Smash Bros. Melee" tạo ra "cuộc đối đầu cuối cùng" giữa SPARTAN ("Halo") và Samus Aran ("Metroid") trong "Haloid", một từ ghép của hai dòng game này. Các video nêu trên đã thu hút được số lượt xem trực tuyến đáng kể. Sau đó vào năm 2007, Oum sản xuất một loạt phim mang tên "Dead Fantasy" có sự góp mặt của các nhân vật trong "Final Fantasy" và "Dead or Alive" giao chiến lẫn nhau.
Công việc ngành nghề.
Hai tháng sau khi "Haloid" ra mắt, nhiều công ty game đã tìm kiếm Oum, và cuối cùng anh đã được Midway Games thuê làm nhà thiết kế cảnh chiến đấu. Năm 2008, anh được Namco Bandai Games thuê làm nhà thiết kế cảnh chiến đấu và họa sĩ diễn hoạt cho tựa game "Afro Samurai". Trải nghiệm ngắn ngủi trong ngành công nghiệp game khiến Oum nản lòng, và vào năm 2009, anh gặp nhà đồng sáng lập Rooster Teeth Burnie Burns tại một hội thảo ở San Diego Comic-Con International và hai người đã thảo luận về khả năng Monty làm việc cho công ty này. Mãi đến PAX East 2010, người ta mới thông báo rằng Oum đã được thuê làm họa sĩ diễn hoạt cho loạt web dài tập của công ty mang tên "Red vs. Blue".
Tác phẩm tiếp theo của anh, loạt phim hoạt hình "RWBY", có các cảnh chiến đấu kỳ ảo và hấp dẫn giữa các nhân vật siêu năng lực thu hút được lượng người theo dõi trực tuyến. "RWBY" là một thành công về mặt thương mại của hãng Rooster Teeth, và các bài phê bình đã nêu bật chất lượng cao của những cảnh chiến đấu hoạt hình trong phim. Hai mùa của chương trình đã được sản xuất, với phần thứ ba được sản xuất vào thời điểm Oum qua đời vào đầu năm 2015. Hiện chương trình đã chiếu được chín mùa.
Ngày 22 tháng 1 năm 2015, Oum bị phản ứng dị ứng nghiêm trọng không xác định trong một "thủ tục y tế đơn giản". Ngày 30 tháng 1, nhà đồng sáng lập Rooster Teeth Burnie Burns cho biết Oum "đang được chăm sóc đặc biệt và không biết liệu anh ấy có bình phục nổi hay không". Một trang quyên góp được thiết lập để chi trả chi phí y tế trên GoFundMe, và nhận được hơn 210.000 USD. Ngày 1 tháng 2 năm 2015, lúc 4 giờ 34 phút buổi chiều, Oum qua đời do phản ứng dị ứng nói trên. |
Cetiya (tiếng Phạn: Caitya, có nghĩa là ""lời nhắc nhở" hay "đài tưởng niệm"", dịch nghĩa tiếng Việt có nghĩa là "bảo tháp") là những di vật và di chỉ, địa điểm được các Phật tử sử dụng để tưởng nhớ Đức Phật Cồ Đàm (Gautama). Theo Damrong Rajanubhab thì có bốn loại được phân biệt trong Kinh điển Pāli: "Xá lợi (Dhatu), Tưởng niệm (Paribhoga), Phật Pháp (Dhamma) và Tháp thờ cúng (Udesaka). Trong cộng đồng Phật giáo thế giới, có sáu loại tháp căn bản gồm Tháp xá lợi ("Dhātu cetiya"), Tháp tưởng niệm ("Paribhoga cetiya"), Tháp thờ vật dụng, Tháp giáo pháp ("Dhamma cetiya"), Tháp thờ cúng ("Udesaka cetiya") và Tháp biểu tượng.
Ngược lại, Griswold nói rằng ba loại là truyền thống và loại thứ tư là Phật Pháp, được thêm vào sau này để nhắc nhở các nhà sư rằng ký ức thực sự về Đức Phật Cồ Đàm có thể được nhận ra trong những lời dạy của ngài. Mặc dù những điều này có thể được hiểu một cách rộng rãi là biểu tượng Phật giáo, nhưng sự nhấn mạnh có xu hướng là mối liên hệ lịch sử với Đức Phật chứ không phải là yếu tố siêu hình. Ở Ấn Độ thời kỳ tiền Phật giáo thì Caitya là thuật ngữ chỉ một ngôi đền hoặc thánh địa trong cảnh quan, nói chung là ở ngoài trời, nơi sinh sống hoặc linh thiêng của một vị thần cụ thể. Trong Kinh điển Mahāyāna Mahāparinirvāṇa Sūtra, vào lúc gần cuối đời, Đức Phật nhận xét Ananda rằng các loại vỏ khác nhau quanh Vaishali thật đẹp làm sao. |
Dị giáo phái trong văn hóa đại chúng
Dị giáo phái trong văn hóa đại chúng ("New religious movements and cults in popular culture") là những phản ánh trong văn hóa đại chúng về dị giáo phái (dị giáo, tà giáo, các giáo phái cuồng giáo). Các phong trào và giáo phái tôn giáo mới (""đạo lạ") đã xuất hiện như những chủ đề hoặc đề tài, cảm hứng trong văn học và văn hóa đại chúng, trong khi những đại diện đáng chú ý của những nhóm giáo phái đó đã tự mình tạo ra, xuất bản ra một khối lượng lớn các tác phẩm văn học. Bắt đầu từ những năm 1700, các tác giả ở thế giới Anh ngữ bắt đầu giới thiệu các thành viên của "giáo phái"" là những kẻ phản diện. Những người theo Satan giáo, các môn phái của phong trào Thánh hữu Ngày sau, Yakuza, Hội Tam Hoàng và nhóm Thuggee là những lựa chọn phổ biến cho vai phản diện. Trong thế kỷ XX, mối quan tâm về quyền lợi và cảm xúc của các nhóm tôn giáo thiểu số đã khiến các tác giả sáng tạo ra những giáo phái hư cấu để những kẻ phản diện của họ thuộc về nhóm ấy. Các giáo phái hư cấu tiếp tục phổ biến trên phim ảnh, truyền hình và trò chơi điện tử theo cách tương tự.
Phong trào tôn giáo mới ("NRM") là một cộng đồng tôn giáo hoặc nhóm đạo đức, tâm linh hoặc triết học có nguồn gốc hiện đại, chúng có một vị trí ngoại vi trong nền văn hóa tôn giáo thống trị của quốc gia đó. NRM có thể có nguồn gốc mới lạ hoặc chúng có thể là một phần của một tôn giáo rộng hơn, trong trường hợp đó, chúng sẽ khác biệt với các giáo phái đã tồn tại từ trước. Các học giả tiếp tục cố gắng đạt đến các định nghĩa và xác định ranh giới. NRM có thể là một trong nhiều phong trào khác nhau, từ những phong trào có liên kết lỏng lẻo dựa trên các cách tiếp cận mới về tâm linh hoặc tôn giáo đến các doanh nghiệp cộng đồng yêu cầu mức độ tuân thủ nhóm đáng kể và một bản sắc xã hội tách biệt những người theo họ rời khỏi xã hội chính thống. Các học giả đã ước tính rằng số lượng NRM hiện nay lên tới hàng chục nghìn hội viên trên toàn thế giới. Hầu hết chỉ có một vài thành viên, một số có hàng nghìn và chỉ rất ít có hơn một triệu. Từ cuồng giáo trong cách sử dụng hiện nay là một thuật ngữ miệt thị để chỉ một phong trào tôn giáo mới hoặc nhóm khác có niềm tin hoặc thực hành bị cộng đồng xã hội coi là bất thường, lập dị, hoặc kỳ quái (dị giáo, dị đoan), thường không có định nghĩa rõ ràng hoặc nhất quán.
Tác giả Dashiell Hammett có tác phẩm "The Dain Curse" (1929) có nội dung phần lớn câu đố bí ẩn xoay quanh Đền thờ Chén Thánh, một vòng tròn hư cấu ở California mà các nhân vật của Hammett liên tục mô tả là ""dị giáo phái". Tác giả Hammett mô tả nó bắt đầu như một trò lừa đảo, mặc dù người lãnh đạo giả định bắt đầu tin vào những tuyên bố gian lận của chính mình. Tác giả A.E.W. Mason trong cuốn"The Prisoner in the Opal" (1928) đã viết về một trong những bí ẩn Inspector Hanaud của ông, mô tả việc vạch mặt một giáo phái thờ Satan. Tiểu thuyết gia người Ý Sibilla Aleramo trong tác phẩm "Amo, dunque sono" ("Tôi yêu, vì vậy, tôi") (1927) đã miêu tả UR Group của Julius Evola là một nhóm kín và phong trào trí tuệ-bị ảnh hưởng mạnh mẽ từ thuyết Anthroposophy đã cố gắng hướng đạo cho Benito Mussolini. Aleramo mô tả nhân vật dựa trên người tình cũ Evola của cô là "vô nhân đạo, một kiến trúc sư băng giá với những lý thuyết lộn tùng phèo, viển vông, hung ác và đồi trụy" Aleramo dựa trên nhân vật anh hùng của mình là Giulio Parise người đã cố gắng lật đổ Evola ủng hộ Phát xít làm thủ lĩnh của vòng kết nối vào năm 1928 không thành công, dẫn đến Evola bố cáo rằng từ đó anh ta sẽ phát huy "sự thống nhất tuyệt đối về chỉ đạo"" đối với các ấn phẩm trong vòng kết nối.
Nhà văn khoa học viễn tưởng Robert A. Heinlein đã viết hai cuốn tiểu thuyết đề cập đến các nhóm sùng bái hư cấu. Một nhân vật hàng đầu trong bộ truyện "Lịch sử tương lai" đầu tiên của ông ("If This Goes On--", một tiểu thuyết ngắn xuất bản trong tuyển tập "Cuộc nổi dậy năm 2100") kể về Nehemiah Scudder, một ""nhà tiên tri" tôn giáo, trở thành nhà độc tài của Hoa Kỳ. Bằng sự thừa nhận của chính mình trong lời bạt, Heinlein đã bộc lộ vào cuốn sách này sự ngờ vực của mình đối với mọi hình thức tôn giáo chủ nghĩa chính thống, Ku Klux Klan, Đảng Cộng sản Mỹ và các phong trào khác ông coi là độc tài. Heinlein cũng nói trong lời bạt rằng ông đã nghĩ ra cốt truyện của những cuốn sách khác về Scudder, nhưng quyết định không viết chúng, một phần vì ông thấy Scudder quá khó chịu. Cuốn tiểu thuyết Người lạ ở vùng đất xa lạ của Heinlein có hai giáo phái: "Giáo hội Tân Khải Huyền của Dionysian, Fosterite" và "Giáo hội của mọi thế giới"" của nhân vật chính Valentine Michael Smith. Heinlein đề cập đến động cơ và phương pháp của các nhà lãnh đạo tôn giáo một cách chi tiết.
Trong tác phẩm "Sức mạnh ghê tởm đó" thì C.S. Lewis mô tả "Viện Thí nghiệm Phối hợp Quốc gia" hay còn gọi là "NICE", một mặt trận gần như được chính phủ che giấu một loại giáo phái Ngày tận thế tôn thờ một cái đầu quái gở được giữ sống bằng phương tiện khoa học. Cuốn tiểu thuyết của Lewis đáng chú ý vì đã xây dựng bài diễn văn năm 1944 của ông ""The Inner Ring". Tác phẩm thứ hai chỉ trích ham muốn thuộc về một bè phái hùng mạnh - một thất bại phổ biến của con người mà Lewis tin rằng đó là cơ sở khiến mọi người bị dụ dỗ vào các phong trào ham muốn quyền lực và lươn lẹo về mặt tinh thần. Trong tác phẩm Sweet Wild Wench của William Campbell Gault thì thám tử tư LA Joe Puma điều tra "Những đứa trẻ của Proton"", một giáo phái hư cấu đã thu hút sự ủng hộ của con gái một doanh nhân giàu có. Gore Vidal đã viết cuốn "Messiah" mô tả sự trỗi dậy của Cavism, một tôn giáo mới phi thần học về việc chấp nhận cái chết triệt để, từ nguồn gốc của nó như một giáo phái bên lề cho đến sự tiếp quản cuối cùng của nó trật tự thế giới đã được thiết lập. Tiểu thuyết "Kalki" của Vidal, một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, kể lại việc một giáo phái nhỏ nhưng thông thạo về mặt khoa học đã giết chết toàn bộ loài người bằng chiến tranh vi trùng như thế nào.
Cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng người Pháp Michel Houellebecq năm 2005, "The Possibility of an Island", mô tả một nhóm nhân bản giống với giáo phái Raëlism. Robert Muchamore đã viết một cuốn sách dành cho thanh thiếu niên có tựa đề "Divine Madness", kể về một giáo phái tôn giáo có số lượng thành viên đông đảo: các nhân vật chính của cuốn sách phải thâm nhập giáo phái phát hiện ra một âm mưu nham hiểm hắc ám. Cuốn tiểu thuyết Godless xoay quanh một thiếu niên thành lập một giáo phái tôn giáo thờ tháp nước của quê hương mình. Nhà thông thiên học người Nga là Helena Blavatsky người đã sáng lập Thông Thiên giáo, đã viết cuốn "Isis Unveiled" (1887) và "The Secret Doctrine"/Học thuyết bí mật (1888), và có ảnh hưởng văn hóa và trí tuệ to lớn vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giúp kích thích phong trào dân tộc chủ nghĩa Ấn Độ, cận tâm lý học, thể loại văn học giả tưởng và phong trào Thời đại mới. Bách khoa toàn thư về tưởng tượng mô tả hai cuốn sách lớn của bà là "những kho tàng khổng lồ, hấp dẫn về thần thoại, truyện cổ tích, suy đoán, bịa đặt và lường gạt". Rudolf Steiner (1861–1925) người sáng lập Anthroposophy đã viết lách trong nhiều lĩnh vực khác nhau (tác phẩm sưu tầm của ông tổng cộng 350 tập) và ảnh hưởng đến những nhân vật như tiểu thuyết gia Herman Hesse và triết gia Owen Barfield. Nhật Bản thì có loạt truyện tranh Nijū-seiki Shōnen.
Với sự ảnh hưởng trong văn hóa đại chúng, đặc biệt là lĩnh vực phim ảnh, phim truyền hình, điện ảnh, đề tài dị giáo phái đã có nhiều bộ phim về đề tài dị giáo phái hoặc liên quan đến dị giáo phái như: |
Ultrabook là một thuật ngữ tiếp thị do Intel sáng tạo và bảo hộ, ám chỉ dòng máy tính xách tay cao cấp. Khi mới ra mắt, Ultrabook nổi bật với thiết kế siêu mỏng, trọng lượng nhẹ nhưng vẫn đảm bảo tuổi thọ pin và hiệu suất hoạt động. Kích thước của chúng thường nhỏ hơn so với các mẫu laptop thông thường, đủ nhỏ để được phân loại là máy tính xách tay kích thước nhỏ.
Khi các đặc điểm của Ultrabook trở nên thông dụng hơn vào giữa và cuối thập kỷ 2010, việc gắn mác các mẫu laptop là Ultrabook đã trở nên ít hơn rất nhiều. Đến năm 2021, dù Intel vẫn giữ bản quyền Ultrabook, nhưng thuật ngữ này hiếm khi được sử dụng cho các mẫu mới và đã bị thay thế trong chiến lược tiếp thị của chính Intel bởi thương hiệu Intel Evo. |
Maqluba hay Maqlooba () là một món ăn truyền thống của Iraq, Liban, Palestine, Jordan, và Syria được phục vụ khắp nơi ở khu vực Levant. Nó bao gồm thịt, cơm và rau củ chiên được đặt trong một cái nồi được lộn ngược khi phục vụ, do đó có tên " maqluba", dịch theo nghĩa đen là "lộn ngược". Món ăn này đã có từ nhiều thế kỷ trước và được tìm thấy trong Kitab al-Tabikh, một bộ sưu tập các công thức nấu ăn từ thế kỷ 13.
Maqluba có thể bao gồm nhiều loại rau, chẳng hạn như cà chua chiên, khoai tây, súp lơ và cà tím, kèm theo thịt gà hoặc thịt cừu. Tuy nhiên, 2 loại rau phổ biến nhất là súp lơ và cà tím. Tất cả các nguyên liệu được xếp cẩn thận vào nồi theo từng lớp để khi úp nồi xuống để phục vụ, món ăn trông giống như một chiếc bánh nhiều lớp.
Maqluba thường được trang trí bằng hạt thông và rau mùi tây tươi cắt nhỏ. Nó đôi khi được phục vụ với salad và sữa chua tươi, và thường được chuẩn bị cho các bữa tiệc và các buổi họp mặt đông người.
Kể từ sau âm mưu đảo chính bất thành ở Thổ Nhĩ Kỳ, năm 2016, món ăn này được coi là "món ngon kiểu Gülen". Nó được đánh giá là bằng chứng mạnh mẽ về tư cách thành viên của Phong trào Gülen. |
Quốc kỳ Đảo Giáng Sinh
Quốc kỳ Đảo Giáng Sinh được chấp thuận không chính thức vào năm 1986 sau khi chiến thắng trong cuộc thi thiết kế cờ cho lãnh thổ. Lá cờ này do Tony Couch ở Sydney, Úc thiết kế. Lá cờ được công nhận chính thức vào Ngày Quốc khánh Úc năm 2002 khi quản trị viên lãnh thổ, Bill Taylor, trao lá cờ cho Quận Đảo Giáng sinh.
Quốc kỳ Đảo Giáng Sinh có nền màu xanh lá cây và xanh lam, được chia từ góc trên bên trái xuống góc dưới bên phải. Màu xanh lá cây tượng trưng cho đất, màu xanh lam tượng trưng cho biển. Chòm sao Nam Thập Tự xuất hiện ở phía dưới bên trái của lá cờ, tương tự như quốc kỳ Úc. Ở phía trên bên phải có loài chim "golden bosun" ("Phaethon fulvus", một trong sáu phân loài của chim nhiệt đới đuôi trắng) màu vàng. Loài chim này được coi là biểu tượng của Đảo Giáng Sinh. Ở giữa lá cờ có một hình tròn vàng với bản đồ hòn đảo màu xanh lá cây. Bản thân hình tròn ban đầu được đưa vào chỉ để bù lại màu xanh lục của bản đồ, nhưng dần nó đã trở thành biểu tượng của ngành khai thác mỏ.
Năm 1986, Hội đồng Đảo Giáng Sinh công bố một cuộc thi thiết kế quốc kỳ và quốc huy cho lãnh thổ. Cuộc thi có một quỹ giải thưởng trị giá 100 đô la và khoảng 69 bài dự thi đã được gửi. Bài dự thi chiến thắng được tạo ra bởi Tony Couch, một cư dân Sydney từng làm việc trên Đảo Giáng Sinh. Quốc kỳ mới được Hội đồng Đảo Giáng Sinh công bố vào ngày 14 tháng 4 năm 1986.
Bộ trưởng Quần đảo là người đầu tiên nỗ lực biến lá cờ thành quốc kỳ chính thức. Năm 1995, người này đưa ra quan điểm rằng việc công nhận có thể diễn ra vào Ngày Quốc khánh Úc 1996, thông qua một thông báo chính thức của Quản trị viên thay vì sửa đổi "Đạo luật Đảo Giáng Sinh 1958". Mặc dù điều này đã được chấp thuận, nhưng tuyên bố chính thức chưa bao giờ được đưa ra.
Sau đó, quan chức Đảo Giáng Sinh Gary Dunt mở lại vấn đề này vào năm 2001, và lá cờ được quản trị viên lãnh thổ, Bill Taylor, tuyên bố chính thức là quốc kỳ của Đảo Giáng Sinh vào Ngày Quốc khánh Úc 26 tháng 1 năm 2002. Ủy viên Hội đồng Mariam Kawi tiếp nhận lá cờ với tư cách là đại diện của Quận Đảo Giáng sinh. |
Chuyến bay 541 của Air Philippines
Chuyến bay 541 của Air Philippines, một chiếc Boeing 737-200, cất cánh từ Manila lúc 5 giờ 21 phút sáng và dự kiến hạ cánh ở Davao, Philippines vào khoảng 6 giờ 45 phút. Chỉ huy chuyến bay là cơ trưởng Estraton Catipay - phi công trẻ nhất từng phục vụ cho Philippine Airlines trong những năm 1960. Ông cũng làm việc cho các hãng hàng không ở Hoa Kỳ như Pan Am, Delta, TWA và Eastern Airlines, và tại các hãng hàng không lớn khác ở châu Á và London như Malaysia Air. Đóng vai trò là sĩ quan đầu tiên cho chuyến đi là Đại úy Don Sardalla, 22 tuổi.
Chiếc máy bay đang được bay để kiểm tra lộ trình cho một cơ trưởng. Một cơ trưởng khác đóng vai trò là phi công giám sát trên chuyến bay. Trong khi đang bay, chuyến bay không xảy ra biến cố. Máy bay chuyển sang phương pháp tiếp cận ILS để tiếp cận đường băng số 5 và người điều khiển đã báo cáo rằng họ sẽ làm vậy đằng sau chuyến bay 809 của Philippines Airlines, một chiếc Airbus A319.
Sau khi chuyến bay 541 thoát ra khỏi những đám mây, phi hành đoàn quan sát được đường băng số 5 chưa trống hoàn toàn, nên đã liên hệ với đài kiểm soát không lưu để hoàn tất quá trình bay vòng và lại bay vào những đám mây. Quy trình đúng phải là bay lên độ cao 4000 feet. Nhưng thay vào đó, các phi công lại bay ở độ cao thấp hơn. Chuyến bay sau đó đã đâm phải một cây dừa ở độ cao 500 feet và sau đó va chạm cách sân bay quốc tế Francisco Bangoy vài dặm về phía đông. Chuyến bay sau đó bốc cháy và không có ai sống sót.
Những người dân trên đảo nói rằng chiếc máy bay va vào một cây dừa và đứt một phần cánh. Họ còn nói thêm máy bay cố gắng bay lên với công suất tối đa, nhưng không thành và va chạm. Máy bay bắt đầu bốc cháy khi lao xuống một rừng. Người điều hành sân bay nói rằng có sương mù vào thời điểm xảy ra tai nạn. 21 nạn nhân trên chuyến bay không thể xác định được danh tính nên đã được chôn trong một ngôi mộ tập thể.
Sân bay quốc tế Francisco Bangoy không có đầy đủ thiết bị để hạ cánh vào thời điểm đó, và việc hạ cánh trực quan đã bị đình chỉ vài phút trước khi vụ tai nạn xảy ra. |
Phong trào Thánh hữu Ngày sau
Phong trào Thánh hữu Ngày sau ("Latter Day Saint movement") còn gọi là phong trào LDS hay phong trào phục hồi LDS hoặc phong trào Smith–Rigdon) là tập hợp các nhóm giáo hội độc lập có nguồn gốc từ phong trào Phục hồi Cơ Đốc giáo do Joseph Smith thành lập vào cuối những năm 1820. Nhìn chung, các giáo hội này có hơn 16 triệu hội viên với khoảng 98% thuộc về Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô (Giáo hội LDS). Thần học chiếm ưu thế của các giáo hội trong phong trào là Đạo Mặc Môn vốn tự coi mình đang khôi phục lại giáo hội Cơ Đốc giáo sơ khai trên Trái đất, một học thuyết bổ sung của giáo hội cho phép các nhà tiên tri tiếp nhận và công bố những điều mặc khải thời hiện đại.
Một số ít tín đồ của hội Thánh Hữu Ngày Sau, chẳng hạn như các thành viên là tín nhân của Cộng đồng Chúa Kitô, đã bị ảnh hưởng từ thần học Tin lành trong khi vẫn duy trì một số niềm tin và thực hành đặc biệt bao gồm tiếp tục mặc khải, kinh điển mở và xây dựng đền thờ. Các nhóm khác bao gồm giáo hội còn sót lại của Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su, ủng hộ sự kế thừa quyền lãnh đạo trực tiếp từ con cháu của Smith và Giáo hội Chính thống gây nhiều tranh cãi hơn của Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su vốn ủng hộ việc thực hành chế độ đa thê.
Người sáng lập phong trào Thánh hữu Ngày sau là Joseph Smith và Oliver Cowdery. Phong trào này bắt đầu ở tây New York trong sự kiện Sự thức tỉnh vĩ đại thứ hai ("Second Great Awakening") khi Smith nói rằng ông đã nhận được những khải tượng tiết lộ một văn bản thiêng liêng mới gọi là Sách Mặc Môn mà ông đã xuất bản vào năm 1830 như là phần bổ sung cho Kinh thánh. Dựa trên những lời dạy của cuốn sách này và những điều mặc khải khác, Smith đã thành lập một giáo hội Cơ đốc giáo nguyên thủy được gọi là Giáo hội của Chúa Kitô. Sách Mặc Môn đã thu hút hàng trăm người theo dõi ban đầu, những người sau này được gọi là ""Người Mặc Môn", "Các Thánh Hữu Ngày Sau" hay chỉ là "Các Thánh"". Năm 1831, Smith chuyển trụ sở nhà thờ đến Kirtland, Ohio, và đến năm 1838 đổi tên thành "Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô".
Sau khi hội thánh ở Ohio sụp đổ do khủng hoảng tài chính và bất đồng quan điểm thì vào năm 1838, Smith và toàn bộ Hội thánh chuyển đến Missouri. Tuy nhiên, họ bị ngược đãi và Các Thánh Hữu Ngày Sau phải chạy trốn đến Illinois. Sau khi Joseph Smith bị giết vào năm 1844, một cuộc khủng hoảng kế vị đã dẫn đến việc tổ chức bị chia tách thành nhiều nhóm. Giáo hội lớn nhất trong số này là Giáo hội LDS dưới sự lãnh đạo của Brigham Young đã tổ chức cuộc di cư đến Great Basin (nay là Utah) và được biết đến với việc thực hành Đạo Mặc Môn và đạo Hồi vào thế kỷ XIX. Chế độ đa thê của Giáo hội LDS đã được chính thức từ bỏ thực hành này vào năm 1890 và dần dần ngừng thực hiện nó, dẫn đến việc Lãnh thổ Utah trở thành Lãnh thổ Hoa Kỳ. Sự thay đổi này dẫn đến sự hình thành của một số giáo phái nhỏ tìm cách duy trì chế độ đa thê cũng như các học thuyết và thực hành khác của thế kỷ XIX, ngày nay được gọi là ""Thuyết Mặc Môn chính thống" ("Mormon Fundamentalism"). Các nhóm khác bắt nguồn từ phong trào Thánh hữu Ngày sau đã đi theo những con đường khác nhau ở Missouri, Illinois, Michigan và Pennsylvania. Phần lớn, những nhóm này bác bỏ tục đa thê và một số lời dạy sau này của Smith. Cộng đồng lớn nhất trong số này, Cộng đồng Chúa Kitô (trước đây được gọi là "Giáo hội được tổ chức lại của các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô"") được thành lập ở Illinois vào năm 1860 do một số nhóm đoàn kết xung quanh con trai của Smith là Joseph Smith III. |
Mick LaSalle (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1959) là nhà phê bình điện ảnh người Mỹ và là tác giả của hai cuốn sách về thời kỳ Pre-Code Hollywood. Tính đến tháng 3 năm 2008, ông đã viết hơn 1.550 bài đánh giá cho tờ "San Francisco Chronicle", đồng thời cũng chuyển thể các bài viết này thành dạng podcast từ tháng 9 năm 2005.
LaSalle là tác giả của cuốn "Complicated Women: Sex and Power in Pre-Code Hollywood", một nghiên cứu lịch sử/phê bình về các nữ diễn viên làm việc trong ngành công nghiệp điện ảnh từ năm 1929 đến năm 1934. Tác phẩm do nhà xuất bản Thomas Dunne Books ấn hành vào năm 2000. Trong một bài đánh giá trên tờ "The New York Times", Andy Webster gọi đây là "một bài kiểm tra quá hạn về cuộc xung đột lịch sử giữa Hollywood và những thanh tra đạo đức" và nói thêm rằng LaSalle đã "đưa ra quan điểm của bản thân giữa một nền kinh tế thoải mái." Nhà báo iz Smith gọi đây là "một tác phẩm xuất sắc." Cuốn sách là nền tảng cho bộ phim tài liệu "Complicated Women", do Hugh Munro Neely đạo diễn và Jane Fonda tường thuật, bộ phim ban đầu được Turner Classic Movies phát sóng vào tháng 5 năm 2003. Trong tác phẩm, LaSalle đảm nhiệm vai trò sản xuất cũng như đưa ra một số lời bình luận trong nội dung phim.
Sau "Complicated Women", tác phẩm tiếp theo của LaSalle là "Dangerous Men: Pre-Code Hollywood and the Birth of the Modern Man", do Thomas Dunne Books xuất bản năm 2002. LaSalle có các bài thuyết giảng về chủ đề điện ảnh tại nhiều liên hoan phim khác nhau, bao gồm các liên hoan phim ở Hamptons. Denver, Las Vegas, Mill Valley và Film Forum ở Thành phố New York cũng như Rạp Castro ở San Francisco. Cuốn sách thứ ba của ông mang tên "The Beauty of the Real: What Hollywood Can Learn From Contemporary French Actresses" được xuất bản vào năm 2012. Cuốn sách thứ tư là "Dream State: California in the Movies" (Heyday Books) được xuất bản vào năm 2021.
Vào cuối những năm 1990, LaSalle là nhà phê bình phim trực tuyến cho KGO-TV. Ông từng là tham luận viên tại Liên hoan phim Venezia các năm 2006, 2007, 2008, 2011, 2012, 2013, 2014, 2016, 2018 và 2019. cũng như tại Liên hoan phim quốc tế Berlin 2009. Với tư cách là nhà phê bình phim chính của "Chronicle", các bài phê bình của LaSalle xuất hiện trên tất cả các báo chị em của "Chronicle" thuộc chuỗi Hearst, bao gồm tờ "Connecticut Post", tờ "Albany Times-Union", tờ "San Antonio Express-News" và tờ "Houston Chronicle".
LaSalle lập gia đình voi nhà viết kịch Amy Freed. Ông nuôi một chú mèo xám tên Sandrine, đặt theo nữ diễn viên người Pháp Sandrine Bonnaire. |
Hội Aetherius ("Aetherius Society") là một phong trào tôn giáo mới do George King thành lập vào giữa những năm 1950 từ kết quả của những gì mà George King tuyên bố là đã có sự liên hệ với những trí tuệ ngoài Trái đất, người mà ông gọi là "Bậc thầy vũ trụ" ("Cosmic Masters"). Mục tiêu chính của tín đồ là hợp tác với các Bậc thầy vũ trụ này để giúp nhân loại giải quyết các vấn đề hiện tại trên Trái đất và tiến tới Thời đại mới. Được thành lập vào giữa những năm 1950 dưới tay một cựu tài xế taxi người Anh, đây là một tôn giáo thời đại mới với hệ thống niềm tin được xây dựng xung quanh ý tưởng rằng một loạt ""Bậc thầy vũ trụ" (chủ yếu từ Sao Kim và Sao Thổ) điều khiển số phận của loài người. Ngoài ra, họ tập trung rất nhiều vào việc cầu nguyện và "bổ sung năng lượng tinh thần" cho Trái Đất, nhằm dọn đường cho "Next Master"” một siêu nhân vật sẽ đáp xuống Trái Đất trong chiếc đĩa bay được trang bị “"ma thuật"” mạnh hơn “"sức mạnh vật chất của tất cả quân đội trên thế giới"”.
Đó là một tôn giáo hỗn hợp, chủ yếu dựa trên Thông thiên học và kết hợp các khía cạnh tôn giáo theo Thuyết nghìn năm, Thời đại mới và tôn giáo UFO. Điểm nhấn của tôn giáo bao gồm lòng vị tha, phục vụ cộng đồng, tôn thờ thiên nhiên, chữa lành tinh thần và tập thể dục. Các thành viên gặp nhau trong các hội thánh giống như giáo hội. John A. Saliba nói rằng, không giống như nhiều tôn giáo Thời đại mới hoặc UFO khác thì Hội Aetherius phần lớn được coi là không gây tranh cãi, mặc dù các khía cạnh thuyết bí truyền và thuyết nghìn năm của đạo này đôi khi bị chế giễu. Tôn giáo này có thể được coi là có một thực hành tương đối truyền thống, thu hút các thành viên, các tín nhân từ xã hội chính thống. Thành viên của hiệp hội, mặc dù mang tính quốc tế, nhưng tương đối nhỏ. David V. Barrett đề xuất vào năm 2011 rằng số hội viên trên toàn thế giới lên tới hàng nghìn, với số lượng lớn nhất ở Vương quốc Anh, Hoa Kỳ (đặc biệt là Nam California) và New Zealand. |
Đơn hay Đan () là một tiểu quốc chư hầu thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Theo "Nguyên thư" và "Nguyên Hòa tính toản", Chu Thành vương đã phong cho tước Hầu cho con trai út Sơn Bá Chân và quyền cai trị vùng. Tuy nhiên trong sách "Lộ Sử", "Thống chí gia phả" và "Sử dịch" cho rằng Chu Thành vương không coi trọng gia tộc Sơn. Sách "姓源" phân tích rằng Đan Mi chính là Sơn Bá Chân, con trai út của Chu Thành vương. Đây là một nước chư hầu trong Chu Tấn và có quan hệ họ hàng với hoàng tộc nhà Chu.
Năm 2003, một loạt đồ đồng được khai quật ở làng Dương Gia, My huyện, Thiểm Tây. Theo cách giải thích của những dòng chữ trên di vật, dòng họ Đan đã tồn tại ngay từ thời Văn vương và Vũ vương nhà Chu. |
Agustín Alberto Martegani (sinh ngày 20 tháng 5 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A, cho mượn từ San Lorenzo.
Sự nghiệp thi đấu.
Martegani gia nhập San Lorenzo vào năm 2017 khi thi đấu khi còn là một cầu thủ trẻ cho câu lạc bộ Club Atlético Argentino de Rojas. Anh có màn ra mắt cho San Lorenzo ở Cúp bóng đá Argentina gặp Club Sportivo Estudiantes vào ngày 22 tháng 5 năm 2019. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2021, Martegani ghi bàn thắng đầu tiên ở giải đấu bằng chân trái trong chiến thắng 2-1 trước Club Atlético Colón.
Martegiani đã chơi 18 trận và ghi 3 bàn trong mùa giải 2022 khi anh bị huấn luyện viên Rubén Darío Insúa loại khỏi trận đấu gặp Tigre vào tháng 6 năm 2022 sau một lời đề nghị chuyển nhượng được cho là trong khu vực trị giá 4 triệu đô la từ Flamengo. San Lorenzo cũng cho biết một lời đề nghị trị giá 4 triệu euro đến từ Hellas Verona cho sự phục vụ của anh nhưng đã bị từ chối vì không đủ. Tuy nhiên, sau khi không có vụ chuyển nhượng nào được đồng ý, Insua cho biết anh hoan nghênh Martegani trở lại đội của mình trong thời gian còn lại của năm 2022.
Cho mượn tại Salernitana.
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2023, Martegiani gia nhập câu lạc bộ Salernitana tại Serie A, dưới dạng cho mượn kèm quyền chọn mua.
Phong cách thi đấu.
Là một tiền vệ thuận chân trái, Martegani đã được khen ngợi vì khả năng rê bóng, chuyền bóng và khả năng sút xa. |
Steregushchiy (lớp tàu corvette)
Lớp Steregushchiy (), là một lớp tàu hộ tống của Hải quân Nga, ký hiệu Project 20380. Tàu được thiết kế tại Cục thiết kế hàng hải trung ương Almaz, chế tạo dựa trên lớp tàu Project 20381, với sự bổ sung hệ thống phòng không Zaslon-Redut. Lớp tàu 20381 đã được thay đổi, theo đó thiết kế mới lớn hơn và do đó được NATO xếp vào loại tàu hộ tống theo NATO. Tàu lớp "Steregushchiy" sau đó tiếp tục được nâng cấp và phát triển thành Lớp "Gremyashchiy" (Project 20385) và Project 20386. Phiên bản xuất khẩu của nó là Project 20382 "Tigr".
Tàu hộ tống "Steregushchiy" là một lớp tàu đa năng, thiết kế để thay thế cho lớp tàu Grisha. Tàu có thể được triển khai trong các chiến dịch cận duyên hải, tác chiến chống ngầm và chống tàu mặt nước, tác chiến đổ bộ.☃Loạt đầu tiên gồm bốn chiếc được đóng tại ☃ Severnaya Ve,in St. Petersburg. Loạt thứ hai sẽ được đóng tại Komsomolsk-on-Amur. Tàu đầu tiên trong loạt thứ hai được đặt tên là "Sovershennyy".
Hải quân Nga dự kiến sẽ đóng ít nhất 30 tàu để trang bị cho cả bốn hạm đội.
Theo Jane's Naval Forces News, tàu đầu tiên được đưa vào biên chế ngày 14 tháng Mười một năm 2007.
Loạt đóng bổ sung 8 tàu project 20380 (và thêm 2 tàu thuộc project 20385) được ký kết vào tháng Tám năm 2020. Một số tàu sẽ được đóng tại nhà máy đóng tàu Amur để trang bị cho Hạm đội Thái Bình Dương, trong khi những tàu còn lại sẽ được đóng tại nhà máy đóng tàu Severnaya Verf. Tháng Mười hai năm 2020, có thông tin cho rằng nhà máy đóng tàu Amur sẽ đóng sáu con tàu mới cho Hạm đội Thái Bình Dương gồm 2 chiếc Project 20380 và 4 chiếc Project 20385 với kế hoạch đưa vào hoạt động giữa năm 2024 và 2028. Việc đóng mới được bắt đầu vào năm 2021.
Lớp tàu hộ tống "Steregushchiy" có vỏ thép và vật liệu composite. Tàu được trang bị tám tên lửa SS-N-25. Tàu có thiết kế tàng hình, cùng với hệ thống máy tính mới.
Tàu đầu tiên được trang bị hệ thống phòng thủ tầm gần Kashtan CIWS nhưng sau đó đã được thay thế bởi ống phóng tên lửa phòng không tầm trung 9M96E của hệ thống Redut trên các con tàu đóng sau đó. Hệ thống tên lửa SS-N-27 (Kalibr) được trang bị trên phiên bản Project 20385. Vũ khí chống ngầm của tàu là bốn ống phóng Paket-NK.
Phiên bản xuất khẩu Project 20382 "Tigr" được trang bị tám tên lửa chống tàu siêu âm SS-N-26 (P-800 Oniks) hoặc mười sáu tên lửa chống tàu cận âm SS-N-25 'Switchblade' (Kh-35E Uran). Nó cũng có ống phóng kép mang ngư lôi hạng nặng 533 mm thay cho Paket-NK. Pháo hạm A-190E 100 mm lần đầu tiên được sử dụng trên tàu lớp Talwars được điều khiển bằng hệ thống 5P-10E có khả năng bám theo bốn mục tiêu đồng thời. Phòng không tầm cực gần có hệ thống Kashtan CIWS và tám ống phóng tên lửa SA-N-10 'Grouse' (9K38 Igla) SAM.
Kể từ tàu "Aldar Tsydenzhapov", các tàu được đóng mới sẽ được nâng cấp cảm biến bao gồm radar , mới được lắp lần đầu trên tàu Project 20385 Gremyashchiy.
Năm 2007 Hải quân Indonesia đã đặt hàng bốn tàu hộ tống Stereguschiy để thay thế cho các tàu hộ tống cũ lớp "Fatahillah" mà nước này mua của Hà Lan. Tuy nhiên thỏa thuận có vẻ chỉ là tin đồn và năm 2011 Indonesia đã ký hợp đồng mua hai tàu hộ tống lớp Ada từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Hải quân Algeria là khách hàng đầu tiên của tàu Project 20382 "Tigr." Tháng Bảy năm 2011, hợp đồng đã được ký kết tại Triển lãm Hải quân lần thứ Năm diễn ra tại St. Petersburg, theo đó Hải quân Algeria đặt mua hai tàu. Giá thành mỗi tàu là từ 120 đến 150 triệu đô la. Một chiếc đã được chuyển giao cho Hải quân nước này vào năm 2014 và một chiếc vào năm 2015. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.