text
stringlengths
82
354k
Dwarf (số nhiều trong tiếng Anh: Dwarves) còn gọi là người lùn là một chủng loại sinh vật siêu nhiên trong văn hóa dân gian Đức. Có nhiều sự giai thoại về dwarf trong suốt lịch sử, họ thường được miêu tả là những sinh vật giống con người nhưng rất thấp bé thường sống trên núi và là những người thợ thủ công lành nghề. Trong các tác phẩm văn học thời kỳ đầu, chỉ có nam giới mới được gọi là dwarf. Tuy nhiên họ vẫn được mô tả là có chị và con gái, trong khi khái niệm về các dwarf nam và nữ chỉ xuất hiện trong văn học và văn hóa dân thời kỳ sau này. Dwarf tiếp tục xuất hiện trong nền văn hóa đại chúng hiện đại, chẳng hạn như trong các tác phẩm của JRR Tolkien và Terry Pratchett, loài dwarf thường có mối quan hệ gần guĩ nhưng khác biệt với loài elf.
Nebuchadnezzar (trò chơi điện tử) Nebuchadnezzar là tựa game xây dựng thành phố được Nepos Games phát triển và phát hành cho Windows và Linux vào ngày 3 tháng 12 năm 2020. Game lấy bối cảnh diễn ra ở Lưỡng Hà cổ đại. Trò chơi này đã được so sánh với dòng game "City Building" của hãng Impressions Games, đặc biệt là phần thứ tư "Pharaoh". phần chơi chiến dịch của game này giao nhiệm vụ cho người chơi xây dựng một số thành phố ở Lưỡng Hà cổ đại như Ur, Nineveh và Babylon. "Nebuchadnezzar" được công bố vào ngày 2 tháng 11 năm 2019 và phát hành vào năm 2020. Ngày 19 tháng 11 năm 2020, trò chơi bị trì hoãn đến ngày 17 tháng 2 năm 2021. Một chiến dịch DLC mang tên "The Adventures of Sargon" được phát hành vào ngày 7 tháng 2 năm 2023. "Nebuchadnezzar" nhận được đánh giá "trái chiều hoặc trung bình" theo trang web tổng hợp đánh giá Metacritic. Rick Lane của PC Gamer tóm lược như sau: "Tôi thích rất nhiều thứ mà "Nebuchadnezzar" làm, từ cách trình bày tuyệt vời đến mô phỏng thành phố rất năng động. Nhưng các hệ thống cốt lõi hiện quá nghiêm khắc và khắc khổ so với lợi ích của việc xây dựng thành công thành phố của bạn. Những game tương tự như "Anno 1800" và "Dyson Sphere Program" mang lại những phần thưởng hoành tráng hơn, ngoạn mục hơn với ít sự thất vọng hơn. "Nebuchadnezzar" không thiếu đẳng cấp nhưng cần tăng cường yếu tố vui nhộn". Nate Crowley của Rock Paper Shotgun chỉ trích việc thiếu nội dung: "Có đền thờ, nhưng không có tôn giáo. Không có giải trí. Không có chiến tranh. Không có bệnh tật. Thậm chí không có cả thuế nữa. Phải thừa nhận rằng cũng không có hỏa hoạn hay tội phạm, và tôi cũng không bỏ lỡ yêu cầu spam các tòa nhà không có mục đích để ngăn chặn những thảm họa nhỏ bé, liên tục. Nhưng nhìn chung, điều đó khiến bạn càng vui hơn khi có tượng đài để tùy chỉnh, bởi vì ngoài điều đó ra, tất cả chỉ là việc lập kế hoạch kho hàng mà thôi". Matt Wales của Eurogamer đã mô tả phần chơi chiến dịch trong game: "Sau đó, có sự lặp lại vốn có của mỗi nhiệm vụ trong phần chơi chiến dịch, yêu cầu người chơi thực hiện các bước cũ và nhiều hơn một chút mỗi lần để đạt được mục tiêu của mình. Tuy nhiên, đối với tôi, đó là một phần của sự hấp dẫn, và tôi đã phải đấu tranh để thoát khỏi những chu kỳ quen thuộc nhẹ nhàng của "Nebuchadnezzar" và sự mày mò về hậu cần trong tuần này, vui vẻ mất hàng giờ để theo nhịp mở rộng nhẹ nhàng của nó." Tại Lễ trao Giải Trò chơi của năm ở Séc năm 2021, "Nebuchadnezzar" đã giành được giải thưởng Giải pháp Công nghệ Hay nhất.
Pharaoh (trò chơi điện tử) Pharaoh là tựa game xây dựng thành phố đồ họa isometric được phát hành vào ngày 5 tháng 11 năm 1999. Game này được hãng Impressions Games tạo ra và do Sierra Studios phát hành dành cho Microsoft Windows. Sử dụng cùng một game engine và các nguyên tắc của "Caesar III" (cũng của hãng Sierra Entertainment), đây là trò chơi đầu tiên như vậy trong dòng game "City Building" của Sierra tập trung vào một nền văn minh khác của thời cổ đại. Người chơi giám sát việc xây dựng và quản lý các thành phố cũng như khu định cư ở Ai Cập cổ đại, quản lý vi mô mọi khía cạnh của thành phố để đảm bảo người dân được cung cấp thức ăn, việc làm, sức khỏe và được bảo vệ khỏi bệnh tật, thiên tai và chiến tranh. Bản mở rộng mang tên "Cleopatra: Queen of the Nile" được phát hành năm 2000 do hãng BreakAway Games phát triển. Năm 2001, cả trò chơi này và bản mở rộng đều được gộp lại thành "Pharaoh Gold". Bản làm lại có tựa đề "" được Triskell Interactive và Dotemu phát hành vào năm 2023. "Pharaoh" được chơi từ góc nhìn isometric 2D; mức độ phóng đại được cố định nhưng góc nhìn có thể được thay đổi ở góc 90 độ, ngược chiều kim đồng hồ hoặc theo chiều kim đồng hồ. Phần lớn việc điều khiển được quản lý thông qua phím tắt chuột và bàn phím, trong hệ thống giao diện tương tự như "Caesar III". Có nhiều nút dành cho các loại công trình khác nhau như nhà ở và đường sá, xem thông điệp, sửa lỗi, xoay vòng theo chu kỳ qua các điểm rắc rối, bản đồ Ai Cập cổ đại và các khu vực xung quanh, một nhóm cố vấn (được gọi là Giám sát viên) cung cấp thông tin về sự phát triển của thành phố và bất kỳ vấn đề nào gặp phải và các lớp phủ trong game trình bày chi tiết các vấn đề và việc đáp ứng nhu cầu về nhà ở. Tất cả các khía cạnh của đời sống thành phố, chẳng hạn như nhà ở, tôn giáo, chiến tranh và thương mại, đều được thiết kế cẩn thận hòng phản ánh gần gũi nhất với các thành phố Ai Cập cổ đại thực tế vào thời đó, bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ sẵn có. Tên của nhiều pharaoh khác nhau được sử dụng cùng với sự xuất hiện của các nhân vật lịch sử trong lịch sử cổ đại của Ai Cập và thông tin bách khoa hạn chế về phong tục tập quán của người Ai Cập cổ đại được cung cấp trong menu trợ giúp và tập sách hướng dẫn của trò chơi. Mặc dù trò chơi sử dụng deben làm tiền tệ, nhưng không có loại tiền kim loại tiêu chuẩn nào được biết là đã được sử dụng ở Ai Cập cổ đại. Mặc dù khía cạnh giống như giải đố của "Pharaoh" khiến mô phỏng không thực tế, trò chơi vẫn giữ đúng trình tự thời gian và niên biểu các sự kiện lớn trong lịch sử Ai Cập, bao gồm việc xây dựng tượng đài, chiến tranh và thảm họa quốc gia, sự sinh thành và cái chết của các nhà lãnh đạo nổi tiếng, cùng sự hưng vong của các thành phố cổ đại. Trò chơi có hai phần chơi – chiến dịch (Campaign) và xây dựng tự do (Free-build). Trong phần chơi chiến dịch, người chơi tập trung vào việc gầy dựng những thành phố qua các thời kỳ khác nhau của Ai Cập cổ đại, ban đầu xoay quanh các khu định cư du mục, trước khi được giao nhiệm vụ xây dựng các trung tâm thương mại, thành phố lớn và tượng đài cho các nhà lãnh đạo Ai Cập cổ đại khác nhau. Khi mục chơi chiến dịch tiến triển, người chơi sẽ được thăng hạng cho đến khi chính họ trở thành Pharaoh. Người chơi hoạt động trong năm thời kỳ lịch sử của Ai Cập cổ đại (sáu thời kỳ bao gồm Cleopatra), với thời kỳ đầu tiên đóng vai trò là phần hướng dẫn cơ bản. Trong các giai đoạn sau, người chơi có quyền lựa chọn giữa hai nhiệm vụ, thường là các lựa chọn thay thế về hòa bình và quân sự, nhưng chỉ cần hoàn thành một trong hai nhiệm vụ để tiếp tục phần chơi chiến dịch. Trong phần chơi xây dựng tự do, người chơi được lựa chọn khoảng hàng chục kịch bản độc lập. Một số không có điều kiện giành chiến thắng, cho phép xây dựng thành phố theo kiểu chơi "sandbox" có kết thúc mở, trong khi số khác đưa ra các mục tiêu cần đạt được. Trò chơi cung cấp công cụ tạo màn để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo các kịch bản do người dùng thiết kế cho phần chơi này. "Pharaoh" chủ yếu nhận được những đánh giá tích cực, với xếp hạng trung bình là 82,45% trên GameRankings. Daniel Erickson đã đánh giá phiên bản PC của trò chơi dành cho tạp chí "Next Generation", xếp hạng 4 trên 5 sao và tuyên bố rằng "Xây dựng kim tự tháp và quản lý vùng ngập lũ kết hợp với nhau để tạo nên một công cụ xây dựng thành phố xuất sắc". Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Tương tác đã vinh danh "Pharaoh" là người lọt vào vòng chung kết "Thành tựu Chỉ đạo Nghệ thuật Xuất sắc" cho Giải thưởng Thành tựu Tương tác Thường niên lần thứ 3, giải thưởng cuối cùng được trao cho "Final Fantasy VIII". Tại thị trường Đức, "Pharaoh" ra mắt ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng doanh số bán game máy tính của Media Control vào nửa cuối tháng 11 năm 1999. Nó đã có sáu tuần đứng đầu bảng xếp hạng tính đến cuối năm, với vị trí thứ năm vào tháng 12. Năm sau, "Pharaoh" tiếp tục ở vị trí thứ 5 trong tháng 1 và đứng thứ 6 trong tháng 2. Tháng 4 năm 2000, Verband der Unterhaltungssoftware Deutschland (VUD) đã trao giải "Vàng" cho tựa game này, cho thấy doanh số bán được ít nhất 100.000 bản trên khắp Đức, Áo và Thụy Sĩ. Nó vẫn nằm trong top 10 của Media Control cho đến tháng 8 năm 2000, và trong top 20 cho đến tháng 11. Vào thời điểm đó, "Pharaoh" đã giữ vững vị trí trong top 30 của công ty trong suốt 13 tháng liền. "Pharaoh" đã trở thành một cú hit trên toàn thế giới. Theo MeriStation, doanh số toàn cầu kết hợp của nó với "Caesar III" đã vượt qua 1 triệu bản vào tháng 7 năm 2000. Game được bổ sung thêm một bản mở rộng mang tên "Cleopatra: Queen of the Nile", do hãng BreakAway Games phát triển vào năm sau, mở rộng phần chơi chiến dịch chính của trò chơi sang thời kỳ Hy Lạp hóa. Cả bản gốc và bản mở rộng đều được nhắc đến phổ biến và có thể được mua dưới dạng một tựa game chung với tên gọi "Pharaoh and Cleopatra". Tựa game tiếp theo trong dòng "City Building" là ' được phát hành vào năm 2000. Trò chơi có một số thay đổi, bao gồm lấy bối cảnh ở Hy Lạp cổ đại cũng như những thay đổi đối với một số cơ chế về mặt lối chơi; thế nhưng về hầu hết các khía cạnh, nó được coi là rất giống với "Pharaoh". Năm 2004, một trò chơi khác trong dòng game này vẫn lấy bối cảnh ở Ai Cập cổ đại: '. Bản làm lại mang tên "" được Triskell Interactive và Dotemu công bố vào tháng 8 năm 2020. Quá trình phát triển ban đầu dự kiến sẽ có mã mới cho các hệ thống máy tính hiện đại và giao diện người dùng được cập nhật, đồng thời bao gồm phần chơi chiến dịch từ cả "Pharaoh" và bản mở rộng "Cleopatra: Queen of the Nile". Bản làm lại được phát hành vào ngày 15 tháng 2 năm 2023. Trò chơi tương tự. "Nebuchadnezzar" (2021) và "Builders of Egypt" (TBA) được so sánh với "Pharaoh" vì có lối chơi và bối cảnh tương tự nhau.
Scamander (; còn gọi là Skamandros () hay Xanthos () là một thần sông trong thần thoại Hy Lạp. Sông Scamander được đặt theo tên của thần sông Scamander. Sông Scamander là một dòng sông bao quanh thành Troy. Thần Scamander đứng về phía những người thành Troy trong chiến tranh thành Troy. Theo Hesiod, Scamander là con trai của Oceanus và Tethys. Có khi ông được mô tả là con trai của Zeus. Ông có với nymph Idaea một người con trai là vua Teucer. Ông cũng được đề cập là cha của Glaucia, người tình của Deimachus và Eurythemista, người có với Tantalus hai người con là Pelops và Niobe. Strymo hay Rhoeo, vợ của vua Laomedon cai trị thành Troy cũng được coi là con gái của ông. Scamander đứng về phía những người thành Troy trong chiến tranh thành Troy (quyển thứ XX "Iliad", 73/74; XXI), sau khi người anh hùng Hy Lạp Achilles xúc phạm đến ông. Scamander được cho là đã cố gắng giết chết Achilles ba lần, và người anh hùng chỉ được cứu sống nhờ sự can thiệp của Hera, Athena và Hephaestus. Ở đây, ông được nhân cách hóa từ hình ảnh sông Scamander chảy từ núi Ida qua vùng đồng bằng dưới thành Troy, rồi nhập vào eo biển Hellespont ở phía bắc của thành. Theo Homer, những người Hy Lạp dựng trại gần cửa sông, và những trận đánh của họ với người Troy xảy ra trên đồng bằng sông Scamander. Trong quyển XXII của Iliad (149ff), Homer khẳng định dòng sông Scamander có hai con suối: một con suối là dòng nước ấm, con suối còn lại là dòng nước lạnh vào bất kể mùa nào. Cũng theo Homer, Scamander được các vị thần gọi là Xanthos, còn con người gọi ông là Scamander, cái tên chỉ ra rằng cái tên trước ám chỉ vị thần và tên sau ám chỉ chính dòng sông. Trong một câu chuyện của Pseudo-Plutarch, Scamander tức giận vì những điều bí mật của nữ thần Rhea. Ông tự trầm mình xuống dòng sông Xanthus nên sau này dòng sông được đổi tên thành Scamander.
Hiệp ước Tilsit (tiếng Pháp: "Traités de Tilsit", tiếng Đức: "Friede von Tilsit", tiếng Nga: "Тильзитский мир", chuyển tự Tilzitski mir) là hai hiệp định được Hoàng đế Pháp Napoléon I ký tại thị trấn Tilsit vào tháng 7 năm 1807, sau chiến thắng của ông tại Friedland. Thỏa thuận đầu tiên được ký kết vào ngày 7 tháng 7, giữa Napoléon và Hoàng đế Nga Alexander, khi họ gặp nhau trên một chiếc bè ở giữa sông Neman. Thỏa thuận thứ hai được ký với Vương quốc Phổ vào ngày 9 tháng 7. Các hiệp ước được thực hiện với cái giá phải trả là Vua Frederick William III của Phổ đồng ý đình chiến vào ngày 25 tháng 6 sau khi "Grande Armée" chiếm được Berlin và truy đuổi ông ta đến biên giới cực Đông của Phổ. Ở Tilsit, ông đã nhượng lại khoảng một nửa lãnh thổ của mình. Từ những vùng lãnh thổ đó, Hoàng đế Napoléon đã tạo ra các nước cộng hòa chị em với Đế chế Pháp, được chính thức hóa và công nhận tại Tilsit, gồm có: Vương quốc Westphalia, Công quốc Warsaw và Thành bang Tự do Danzig; các lãnh thổ khác được trao cho các quốc gia phụ thuộc của Pháp và Nga. Napoléon không chỉ củng cố quyền kiểm soát Trung Âu mà còn có Nga và đồng minh Phổ cùng ông chống lại 2 kẻ thù còn lại là Vương quốc Anh và Thụy Điển, gây ra các cuộc chiến tranh Anh-Nga và Chiến tranh Phần Lan. Thông qua Hiệp ước Tilsit cũng đã giúp giải phóng lực lượng Pháp ở mặt trận phía Đông cho Chiến tranh Bán đảo ở mặt trận phía Tây. Trung Âu lại trở thành chiến trường vào năm 1809 khi Đế quốc Áo và Anh giao chiến với Pháp trong Chiến tranh Liên minh thứ Năm. Hiệp ước Pháp-Nga (7 tháng 7). Hiệp ước đã chấm dứt chiến tranh giữa Đế quốc Nga và Đế quốc Pháp, 2 nhà nước bắt đầu một liên minh khiến phần còn lại của lục địa châu Âu gần như bất lực. Hai nước bí mật đồng ý hỗ trợ lẫn nhau trong các tranh chấp. Pháp cam kết hỗ trợ Nga chống lại Đế quốc Ottoman trong khi đó Nga đồng ý tham gia Hệ thống phong tỏa Lục địa chống lại Đế quốc Anh. Napoléon cũng thuyết phục Alexander tấn công người Anh và xúi giục gây hấn với Phần Lan chống lại Thụy Điển để buộc Thụy Điển gia nhập Hệ thống phong tỏa Lục địa. Cụ thể hơn, Sa hoàng đã đồng ý sơ tán Wallachia và Moldavia, những nơi đã bị quân Nga chiếm đóng trong Chiến tranh Nga – Thổ Nhĩ Kỳ (1806–1812). Quần đảo Ionian và Cattaro (Kotor), đã bị các đô đốc Nga Ushakov và Senyavin chiếm giữ, sẽ được giao lại cho người Pháp. Đổi lại, Napoléon đảm bảo chủ quyền và giữ nguyên hiện trạng của Công quốc Oldenburg và một số nhà nước nhỏ khác do họ hàng người Đức của Sa hoàng cai trị. Hiệp ước Pháp-Phổ (9 tháng 7). Hiệp ước với Phổ đã tước bỏ khoảng một nửa lãnh thổ của nước này, bao gồm: Cottbus được chuyển cho Sachsen, tả ngạn sông Elbe được trao cho Vương quốc Westphalia mới thành lập, Białystok được trao cho Đế quốc Nga (dẫn đến việc thành lập Tỉnh Belostok), và hầu hết đất đai của Ba Lan thuộc quyền sở hữu của Phổ kể từ Cuộc phân chia thứ hai và thứ ba đã trở thành Công quốc Warsaw gần như độc lập. Phổ phải giảm quân đội xuống còn 43.000 người và vào ngày 9 tháng 3 năm 1808, Pháp ấn định mức cống nạp từ Phổ là 154.500.000 franc (= 41,73 thaler Phổ), trừ đi 53.500.000 franc đã được quyên góp trong thời kỳ Pháp chiếm đóng đang diễn ra. Số tiền này đã được hạ xuống còn 120 triệu franc vào ngày 1 tháng 11 năm 1808. Charles-Maurice de Talleyrand-Périgord đã khuyên Hoàng đế Napoléon theo đuổi những điều khoản nhẹ nhàng hơn; các hiệp ước đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong sự ghẻ lạnh của ông với hoàng đế. Cho đến năm 1812, những người chiếm đóng Pháp đã trưng dụng tiền bạc và hiện vật từ nhiều công ty và cá nhân khác nhau, đặc biệt là bằng cách gửi lính đến các thành phố, những khoản đóng góp bổ sung lên tới từ 146 đến 309 triệu franc, theo các tính toán khác nhau. Nợ của chính phủ Phổ tăng vọt từ năm 1806 đến năm 1815 với 200 triệu thaler, tổng cộng là 180,09 triệu khoản nợ chịu lãi, 11,24 triệu trái phiếu kho bạc không hợp nhất không chịu lãi và 25,9 triệu khoản nợ cấp tỉnh trước đây do chính phủ hoàng gia đảm nhận. Các khoản nợ của các thành phố, đặc biệt là các khoản nợ của Berlin thường được thanh toán, không được chính phủ Phổ gánh chịu. Kể từ khi các chủ nợ cho rằng Phổ mắc nợ quá mức vào năm 1817, trái phiếu chính phủ lãi suất 4% đã được giao dịch trên thị trường chứng khoán với tỷ lệ chênh lệch từ 27 đến 29%, vào năm 1818 thậm chí với mức chiết khấu 35%, khiến lãi suất thực tăng lên. đến 6,15%. Khi tái cơ cấu một phần các khoản nợ vào năm 1818 bằng khoản vay 5 triệu bảng Anh (= 30 triệu bảng Anh) với lãi suất 5% tại thị trường tài chính Luân Đôn, chính phủ Phổ đã phải chấp nhận mức chênh lệch 28⅓%, do đó phải trả lãi suất hiệu dụng hàng năm là 6,98%. Khi Hiệp ước đang được xây dựng, một nhà quan sát đã lưu ý rằng vua Phổ đang đi lại trên bờ sông Neman; Napoléon "giơ tay, và Phổ sẽ không còn tồn tại" (McKay). Do đó, nhiều nhà quan sát ở Phổ và Nga coi hiệp ước này là bất bình đẳng và là một sự sỉ nhục quốc gia. Những người lính Nga từ chối tuân theo mệnh lệnh của Napoléon, như Sự cố Lisbon đã chứng minh cho toàn bộ châu Âu. Kế hoạch kết hôn với em gái sa hoàng của Napoléon đã bị hoàng gia Nga cản trở. Sự hợp tác giữa Nga và Pháp cuối cùng đã tan vỡ vào năm 1810 khi sa hoàng bắt đầu cho phép các tàu trung lập cập bến các cảng của Nga. Năm 1812, Napoléon vượt sông Neman và xâm lược Nga, chấm dứt mọi dấu vết của liên minh. Những tổn thất về lãnh thổ và dân số của Phổ. Lãnh thổ của Vương quốc Phổ bị thu hẹp hơn một nửa theo các điều khoản của hiệp ước Tilsit, từ 5.700 xuống còn 2.800 dặm vuông của Phổ (323.408,4 đến 158.867,28 km2 (124.868,68 đến 61.339,00 dặm vuông)). So với 9,75 triệu dân mà đất nước này có trước hiệp ước, lãnh thổ còn lại của Phổ không còn quá 4,5 triệu dân. Nguồn thu của nhà nước, trước đây lên tới 40 triệu thaler mỗi năm, nay đã giảm với tỷ lệ còn lớn hơn; các tỉnh được nhượng lại khá giàu có và màu mỡ, và hàng triệu thaler đã được chi vào việc cải thiện chúng. Hầu như tất cả những gì Phổ có được nhờ sự chia cắt Ba Lan (1772–1795) đều bị lấy đi. Sachsen, cựu liên minh của Phổ, là nơi tiếp nhận các tỉnh; và Nga, đồng minh hùng mạnh hơn trước đây, đã giành được lãnh thổ với dân số 200.000 người. Sau đây là bảng liệt kê những tổn thất về lãnh thổ và dân số mà Phổ phải gánh chịu (không có sự mua lại của Phổ kể từ năm 1772) theo các điều khoản của hiệp ước Tilsit: Chiến tranh Liên minh thứ Tư đã kết thúc. Chiến tranh Bán đảo bắt đầu vào ngày 19 tháng 11 năm 1807 và Chiến tranh Liên minh thứ năm bắt đầu vào năm 1809. Sông Neman đã bị vượt qua ngay từ đầu cuộc xâm lược của Pháp vào Nga năm 1812. Sau khi kết thúc Chiến tranh Napoléon năm 1815, Đại hội Viên sẽ khôi phục nhiều lãnh thổ của Phổ. Bằng cách ký kết các hiệp ước này, Pháp đã bỏ mặt Ba Tư và Ottoman, trong khi các nhà cai trị của những nước này trước đây đã hy vọng vào sự giúp đỡ của Pháp theo các hiệp ước với Pháp (bao gồm Hiệp ước Finckenstein), trước sự xâm lược của Nga, và dẫn đến việc mất một phần của Ba Tư ở vùng Kavkaz, chẳng hạn như các nước cộng hòa ngày nay là Azerbaijan, Gruzia và Armenia.
Simoeis hay Simois ( "Simóeis") là một dòng sông ở đồng bằng thành Troy, ngày nay được gọi là Dümruk Su (Dümrek Çayı), và tên của vị thần cai quản nó trong thần thoại Hy Lạp. Simoeis là một dòng sông nhỏ bắt nguồn từ núi Ida hoặc chính xác hơn là núi Cotylus, chảy qua thành Troy, nhập vào sông Scamander chảy dưới thành. Dòng sông này thường xuyên được nhắc đến trong "Iliad", và được đề cập là một dòng sông chảy xiết trên núi. Nó cũng được nhà địa lý cổ đại Strabo, Ptolemy, Stephanus của Byzantium Pomponius Mela, và Pliny Lớn ghi chú lại. Ngày nay, dòng chảy của nó đã bị thay đổi đến mức nó không còn là phụ lưu của sông Scamander mà chảy thẳng vào eo biển Hellespont. Như các thần sông khác, Simoeis là con trai của Oceanus và Tethys. Simoeis có hai người con gái được gả vào hoàng tộc thành Troy. Một người con gái là Astyoche lấy Erichthonius, và người con gái khác là Hieromneme lấy Assaracus. Khi các vị thần tham gia chiến tranh thành Troy, Simoeis hỗ trợ cho quân Troy. Scamander, một thần sông khác cũng đứng về phía quân Troy kêu gọi Simoeis trợ giúp ông chiến đấu lại với Achilles ("Iliad", 21.311-15). Trước khi Simoeis kịp đáp ứng yêu cầu trợ giúp của Scamander, Hephaestus đã cứu được Achilles bằng việc dùng lửa khuất phục Scamander.
Ngồi là một động tác và tư thế nghỉ ngơi cơ bản trong đó trọng lượng cơ thể được trợ lực chủ yếu từ các đốt xương chậu với mông tiếp xúc với mặt đất hoặc một bề mặt nằm ngang như mặt ghế thay vì bằng chi dưới như khi đứng hoặc ngồi xổm, hoặc quỳ gối. Khi ngồi, toàn thân ít nhiều thẳng đứng, mặc dù đôi khi nó có thể dựa vào các vật thể khác để có tư thế thoải mái hơn. Ngồi quá nhiều trong ngày có thể gây ra những rủi ro đáng kể cho sức khỏe, với một nghiên cứu cho thấy những người ngồi thường xuyên trong thời gian dài có thể có tỷ lệ tử vong cao hơn những người không thường xuyên ngồi lì. Theo một đánh giá toàn cầu, một người trung bình ngồi 4,7 giờ mỗi ngày, đại diện cho 47% dân số trưởng thành trên toàn cầu. Hiệp hội Chiropractic Anh cho biết vào năm 2006 rằng 32% dân số nước Anh dành hơn 10 giờ mỗi ngày để ngồi. Tư thế bắt chéo chân phổ biến là phần dưới của cả hai chân gập về phía cơ thể, bắt chéo nhau ở mắt cá chân hoặc bắp chân, đặt cả hai mắt cá chân xuống sàn, đôi khi bàn chân đặt dưới đầu gối hoặc đùi. Tư thế này được gọi là tư thế của thợ may từ tư thế làm việc truyền thống của thợ may. Trong thần thoại và ma thuật dân gian khác nhau, ngồi là một hành động khi làm phép mà kết nối người ngồi với những người khác hay trạng thái hoặc địa điểm khác. Quyền được ngồi chỉ về luật pháp hoặc chính sách trao cho người lao động quyền được bố trí chỗ ngồi phù hợp tại nơi làm việc. Nhân viên thu ngân thường ngồi khi làm việc ở nhiều nước châu Âu. Điều này một phần là do nhiều chuỗi bán lẻ lớn ở châu Âu cho phép khách hàng tự đóng gói hàng tạp hóa thay vì nhờ nhân viên thu ngân đóng gói. Ở phần lớn Châu Âu, nhân viên thu ngân phải ngồi khi làm việc, trong khi đứng lâu trong khi làm việc là tiêu chuẩn ở hầu hết Bắc Mỹ, Châu Á và Úc.
Tóc vàng hoặc tóc vàng óng (Blond/blonde) hay tóc vàng hoe là màu tóc của con người với đặc trưng là hàm lượng sắc tố đen eumelanin thấp. Màu sắc thấy được thu được phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, nhưng luôn có một chút màu hơi vàng. Màu sắc của mái tóc có thể từ màu vàng rất nhạt (do sự phân bố sắc tố không đều) đến màu vàng ""dâu" hơi đỏ hoặc màu vàng nâu (màu "cát""). Đôi khi, tình trạng tóc vàng và đặc biệt là sự xuất hiện của các đặc điểm tóc vàng trong trong cộng đồng chủ yếu là người da đen hoặc da màu. Vì màu tóc có xu hướng tối dần theo độ tuổi nên tóc vàng tự nhiên ít phổ biến hơn ở tuổi trưởng thành. Tóc vàng tự nhiên chủ yếu được tìm thấy ở những người sống trong hoặc có nguồn gốc từ những người sống ở nửa phía bắc châu Âu và có thể đã tiến hóa cùng với sự phát triển của làn da sáng giúp tổng hợp vitamin D hiệu quả hơn do mức độ ánh sáng mặt trời ở Bắc Âu thấp hơn những nơi khác. Tóc vàng cũng đã phát triển ở những cộng đồng khác, mặc dù nó thường không phổ biến và có thể được tìm thấy ở những người bản địa ở Quần đảo Solomon, Vanuatu và Fiji, chúng cũng xuất hiện trong số những người Berber ở Bắc Phi và một số người châu Á. Trong văn hóa phương Tây, mái tóc vàng từ lâu đã gắn liền với vẻ đẹp và sức sống. Aphrodite là nữ thần tình yêu và sắc đẹp của Hy Lạp được miêu tả là có mái tóc vàng óng ả. Ở Hy Lạp và La Mã cổ đại, tóc vàng thường gắn liền với gái mại dâm, những người nhuộm tóc bằng thuốc nhuộm nghệ tây để thu hút khách làng chơi. Người Hy Lạp coi người Thracia và nô lệ là tóc vàng và người La Mã gắn tóc vàng với người Celt và người Đức ở phía bắc. Trong thế giới Hy Lạp cổ đại, Iliad của Homer đã miêu tả Achilles như một nam chiến binh lý tưởng đẹp trai, cao lớn, khỏe mạnh và tóc vàng. Ở Tây Âu trong thời Trung cổ, mái tóc dài màu vàng được lý tưởng hóa như một hình mẫu vẻ đẹp của phụ nữ. Nữ thần Bắc Âu Sif và nữ anh hùng thời trung cổ Iseult đều được miêu tả là có mái tóc vàng và trong tác phẩm nghệ thuật thời trung cổ thì các nhân vật như Eve, Mary Magdalene và mẹ Maria thường có mái tóc vàng. Trong văn hóa phương Tây đương đại, phụ nữ tóc vàng thường bị coi là hấp dẫn quyến rũ nhưng không được thông minh. Trong phần lớn nền văn hóa đại chúng phương Tây đương đại, phụ nữ tóc vàng được coi là hấp dẫn tình dục (gợi cảm, quyến rũ, hấp dẫn) đối với đàn ông hơn những phụ nữ có màu tóc khác. Ví dụ, Anita Loos đã phổ biến ý tưởng này trong cuốn tiểu thuyết Gentlemen Prefer Blondes xuất bản năm 1925 của bà. Một số phụ nữ cho biết họ cảm thấy người khác mong đợi họ trở nên vui vẻ hơn sau khi làm sáng màu tóc của họ. Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Madonna đã phổ biến kiểu tóc ngắn nhuộm vàng sau khi phát hành album phòng thu năm 1986, và ảnh hưởng đến cả nền thời trang những năm 1980 cũng như nhiều nữ nhạc sĩ tương lai như Christina Aguilera, Lady Gaga và Miley Cyrus. Tương tự như vậy ở nhiều nền văn hóa phương Đông (Châu Á, Trung Đông) đàn ông tóc vàng thường được coi là biểu tượng cho sự nam tính của phương Tây như nam tính quá mức, tán tỉnh và hấp dẫn tình dục. Những mô tả về mối quan hệ giữa đàn ông châu Âu tóc vàng và phụ nữ Ả Rập tóc đen thậm chí còn được sử dụng như một câu chuyện ngụ ngôn về chủ nghĩa thực dân châu Âu, đặc biệt là liên quan đến Algeria thuộc Pháp.
Làng trong phố (tên khác: Phố trong làng 2) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do NSƯT Nguyễn Mai Hiền làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 21h00 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần bắt đầu từ ngày 31 tháng 7 năm 2023 và kết thúc vào ngày 8 tháng 9 năm 2023 trên kênh VTV1. Chuyện phim bắt đầu từ việc hồ nuôi cá của Mến và Hiếu bị xã thu lại để chuẩn bị mặt bằng xây dựng một nhà máy. Trong khi Mến tiếp tục ở lại quê thì Hiếu quyết định sẽ lên thành phố cùng Hoài. Hoài đang là công nhân may trên thành phố. Hiếu suy nghĩ đơn giản rằng sẽ nhanh chóng kiếm được việc làm rồi cả gia đình cũng sớm ổn định. Cùng một số diễn viên khá Bộ phim do NSƯT Nguyễn Mai Hiền làm đạo diễn, kịch bản do Nguyễn Mạnh Cường và Lê Anh Thúy thực hiện. Đây là phiên bản nối tiếp "Phố trong làng" và là dự án mới nhất của Nguyễn Mai Hiền sau thành công của tác phẩm trước đó là "Hành trình công lý." Duy Hưng và Doãn Quốc Đam là hai diễn viên đảm nhận vai chính trong phim, ngoài ra bộ phim còn có sự góp mặt của Trần Vân, Ngô Lệ Quyên, Tiến Lộ Buổi họp báo ra mắt bộ phim được tổ chức vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, tác phẩm chính thức lên sóng VTV1 (nối sóng "Nơi giấc mơ tìm về") từ ngày 31 tháng 7 cùng năm, vào lúc 21h00 thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần, với số tập là 30. Vì một số lí do cá nhân, diễn viên Duy Hưng, người đảm nhận vai diễn Hiếu trong phim, vắng mặt khỏi buổi họp báo.
Don Stephen Senanayake (; ; 21 tháng 10 năm 1884 – 22 tháng 3 năm 1952) là một chính khánh người Tích Lan. Ông là Thủ tướng đầu tiên của Tích Lan và đã nổi lên như là một nhà lãnh đạo cho phong trào giành độc lập của Sri Lanka dẫn đến việc thiết lập chế độ tự trị ở Tích Lan. Ông được xem như là "Quốc phụ" của đất nước Sri Lanka. Sinh ra trong một gia đình doanh nhân ở làng Botale, Senanayake được đào tạo tại S. Thomas' College, Mutwal trước khi có thời gian ngắn làm thư ký tại Tổng cục Khảo sát. Tham gia công việc kinh doanh của gia đình, ông quản lý tài sản riêng của gia đình và Mỏ than chì Kahatagaha. Cùng với các anh trai của mình, Senanayake trở nên tích cực trong phong trào ôn hòa phát triển thành phong trào độc lập sau bạo loạn Sinhalese-Hồi giáo năm 1915, trong đó anh em nhà Senanayake bị bỏ tù 46 ngày mà không bị buộc tội. Năm 1924, ông được bầu vào Hội đồng Lập pháp Tích Lan từ Negombo mà không có đối thủ, trở thành Thư ký của nhóm thành viên không chính thức của Hội đồng Lập pháp. Năm 1931, ông được bầu vào Hội đồng Nhà nước Tích Lan, nơi ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Đất đai. Ông được bầu vào Quốc hội Tích Lan đầu tiên thành lập chính phủ và giữ chức Thủ tướng đầu tiên của Tích Lan từ năm 1947 cho đến khi ông qua đời năm 1952. Tuổi thiếu thời và giáo dục. Ông sinh ra tại làng Botale ở Hapitigam Korale (hiện được gọi là Mirigama) vào ngày 21 tháng 10 năm 1884 với Don Spater Senanayake (1847–1907) và Dona Catherina Elizabeth Perera Gunasekera Senanayake (1852–1949). Spater Senanayake đã kiếm được nhiều tiền từ graphite khai thác và vào thời điểm đó, ông đang mở rộng sang các đồn điền và đầu tư vào nhượng quyền cho thuê arrack, sau này ông được trao danh hiệu Mudaliyar vì hoạt động từ thiện của mình. Stephen Senanayake có hai anh trai, Don Charles "D.C." Senanayake và Fredrick Richard "F. R." Senanayake; và một chị gái, Maria Frances Senanayake, người đã kết hôn với F. H. Dias Bandaranaike. Sự nghiệp ban đầu. Sau khi học xong, ông làm thư ký tại Tổng cục Khảo sát, nhưng đã rời đi sau một thời gian học việc. Ông đã cùng với anh trai mình là D. C. Senanayake điều hành công việc kinh doanh rộng lớn của cha mình. Ông làm việc với tư cách là người trồng trọt, giới thiệu loại cây cao su thương mại mới cho các đồn điền của gia đình. Anh ta quản lý Mỏ than chì Kahatagaha thuộc sở hữu của gia đình vợ anh trai anh ta là F. R. Senanayake. F. R. Senanayake đã kết hôn với con gái út của Mudaliyar Don Charles Gemoris Attygalle. Ông là thành viên của Hiệp hội Sản phẩm Vùng thấp và của Câu lạc bộ Phương Đông. Năm 1914, ông được bổ nhiệm làm thành viên ủy ban chính phủ được cử đến Madagascar để nghiên cứu và báo cáo về ngành khai thác than chì của họ. Thủ tướng đầu tiên (1947-1952). Với sự gia nhập của mình, Senanayake bắt đầu quá trình thành lập các thể chế cần thiết cho một quốc gia độc lập. Trong khi hầu hết các thể chế trong nước đều tồn tại, Ceylon vẫn phụ thuộc vào Anh về thương mại, quốc phòng và các vấn đề đối ngoại. Ông từ chối chức hiệp sĩ, nhưng vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Anh và là người Tích Lan đầu tiên được bổ nhiệm vào Hội đồng Cơ mật vào năm 1950.
Cung thiên văn Eise Eisinga Cung thiên văn Hoàng gia Eise Eisinga () là một công trình kiến ​​trúc có từ thế kỷ 18 ở Franeker, Friesland, Hà Lan. Nó hiện là một bảo tàng và mở cửa cho công chúng tham quan. Mô hình vũ trụ cơ học này nằm trong Top 100 Di sản Hà Lan kể từ năm 1990 và là một Di sản thế giới dự kiến từ tháng 12 năm 2011. Vào tháng 9 năm 2023, nó đã chính thức trở thành một Di sản thế giới của UNESCO. Đây là mô hình vũ trụ cơ học hoạt động lâu đời nhất trên thế giới. Mô hình vũ trụ này được xây dựng từ năm 1774 đến năm 1781 bởi Eise Eisinga, một thợ chải len và nhà thiên văn học nghiệp dư. Cung thiên văn cơ khí của Eise Eisinga được xây dựng trên trần gỗ tại phòng khách trong ngôi nhà lịch sử của ông nằm ven con kênh. Willem I của Hà Lan đã rất ấn tượng với cung thiên văn nên đã mua lại ngôi nhà và nó trở thành Cung thiên văn của hoàng gia. Bảo tàng bao gồm phòng thiên văn, phòng chiếu nơi phim tài liệu được trình chiếu và các triển lãm đặc biệt dựa trên thiên văn học hiện đại. Các phần khác được trưng bày thường xuyên là cơ sở chải len trước đây của Eisinga và bộ sưu tập các dụng cụ thiên văn lịch sử. Những thiết bị trong bộ sưu tập bao gồm kính thiên văn Georgia, octan đo độ thế kỷ 18 và Teluri, một mô hình giáo dục về Mặt trời, Trái đất và Mặt trăng. Bảo tàng cũng là một quán cà phê và là nhà rang cà phê Van Balen trước đây. Năm 2018, Cung thiên văn đã kỷ niệm 250 năm ngày Eisinga chuyển đến thành phố Franeker vào năm 1768, sáu năm trước khi ông bắt đầu làm việc tại Cung thiên văn. Công trình được liệt vào danh sách Tượng đài Hà Lan và nhờ những nỗ lực không ngừng trong việc bảo tồn nó đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới vào tháng 9 năm 2023. Mô hình vũ trụ cơ học là một cung thiên văn, mô hình hoạt động của Hệ Mặt trời. Mô hình được sơn màu xanh hoàng gia lấp lánh và được viền bằng sơn vàng sáng bóng. Giữa trần nhà là Mặt trời, còn Trái Đất được tượng trưng bằng một quả cầu vàng treo lơ lửng bằng một sợi dây. Các cung Hoàng đạo cũng được mô tả. Cung thiên văn cơ học giống như kim đồng hồ di chuyển giống như trong thực tế nhưng ở quy mô thu nhỏ. Nó chính xác nhưng không hoàn hảo. Ví dụ, con lắc được làm từ một loại kim loại duy nhất nên sự dao động của nó chịu ảnh hưởng của nhiệt độ. Dưới trần nhà là phòng khách với hầu hết các công trình cơ khí tại đây. Nó được điều khiển bởi một đồng hồ quả lắc, có 9 quả cân hoặc ao
Trong thần thoại Hy Lạp, Nessus () là một nhân mã nổi tiếng bị Heracles giết chết, và máu độc trong cơ thể anh ta đã giết chết lại Heracles. Anh ta là con trai của Centauros. Anh ta tham chiến trong trận đánh với những người Lapith và trở thành người lái đò sông Euenos. Nessus được biết đến trong câu chuyện Cái áo của Nessus. Sau khi chở Deianeira, vợ của người anh hùng Heracles qua sông, anh ta cố gắng cưỡng hiếp cô. Heracles thấy được khi đi qua sông và bắn một mũi tên tẩm máu độc của mãng xà Hydra vào ngực Nessus. Trong lúc hấp hối, Nessus làm một điều ác ý là nói với Deianeira rằng máu từ cơ thể anh ta sẽ giúp Heracles chung thủy với cô mãi mãi, mặc dù anh ta biết máu của mình đã bị nhiễm độc từ máu mãng xà Hydra. Deianeira không biết gì nên tin lời của Nessus. Sau này, khi Heracles có tình cảm với Iole, Deianira bôi máu nhân mã lên chiếc áo choàng lông sư tử rồi đưa nó cho chồng. Heracles đến dự một cuộc tụ họp của những người anh hùng. Trong khi đó, Deianeira bất cẩn làm đổ mất một phần máu nhân mã xuống sàn. Trước sự kinh hoàng của cô, nó bắt đầu bốc cháy từ ánh sáng mặt trời mọc. Cô ingay lập tức nhận ra đó là chất độc và cho người tới đưa tin cảnh báo Heracles, nhưng đã quá muộn. Heracles nằm chết dần trong đau đớn khi ngọn lửa từ sức nóng của chất độc trên chiếc áo choàng đang thiêu rụi da anh. Anh chết đi trên giàn hỏa thiêu làm bằng cành sồi. Heracles sau đó được Zeus, cha anh đưa lên đỉnh núi Olympus và được các vị thần chào đón nồng nhiệt vì những chiến công anh hùng của anh. Một chủ đề tương tự cũng xuất hiện trong một số dị bản nhất định của câu chuyện về Medea. Vở kịch "Trachiniae" ("Những người phụ nữ Trachis") chủ yếu được dựa trên câu chuyện thần thoại này.
Đỗ Tiến Tuấn (sinh ngày 3 tháng 9 năm 1967 tại phường Đằng Giang, Ngô Quyền, Hải Phòng - mất năm 2020 tại Hải Phòng) là một võ sĩ quyền anh người Việt Nam. Tiến Tuấn là một trong hai vận động viên lịch sử của quyền anh Việt Nam có mặt thi đấu tại Thế vận hội Olympics Mùa hè Seul 1988. Dù đạt đỉnh cao trong thể thao nhưng Tiến Tuấn có một đời tư bất hảo. Năm 1999, sau nhiều vụ việc, Tuấn chính thức bị kết án giết người và bị tù chung thân. Năm 2020, Tiến Tuấn bị bạn tù đánh chết trong tù, hưởng dương 53 tuổi.
Jules Michelet (]; 21 tháng 8 năm 1798 - 9 tháng 2 năm 1874) là một nhà sử học và nhà văn người Pháp. Ông được biết đến nhiều nhất với tác phẩm đa tập Histoire de France (Lịch sử Pháp), theo dõi lịch sử Pháp từ thời kỳ đầu tiên cho đến Cách mạng Pháp. Ông được coi là một trong những người sáng lập nền sử học hiện đại. Michelet chịu ảnh hưởng của Giambattista Vico. Ông ngưỡng mộ sự nhấn mạnh của Vico về vai trò của con người và phong tục của họ trong việc định hình lịch sử, đây là một sự thay đổi lớn so với sự nhấn mạnh vào các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự.
Trung tá Vương Văn Đông (ngày 5 tháng 3 năm 1930 – ngày 21 tháng 4 năm 2018) là sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng với Đại tá Nguyễn Chánh Thi lãnh đạo cuộc đảo chính năm 1960 nhằm lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Nỗ lực đảo chính thất bại nên ông cùng Đại tá Thi và Trung tá Phạm Văn Liễu lên chiếc C-47 trốn sang Campuchia và sau đó được Cựu hoàng Norodom Sihanouk cho phép tị nạn tại đây. Ông từng theo học khóa sĩ quan ở Fort Leavenworth, bang Kansas nước Mỹ. Lưu vong tại Campuchia được ít lâu ông bèn chạy sang Pháp vào tháng 4 năm 1963. Sau khi hay tin nhóm tướng lĩnh dưới quyền Dương Văn Minh đã phát động đảo chính thành công giết chết Diệm vào đầu tháng 11 năm 1963, ông mới quyết định hồi hương. Mặc dù vậy, Hội đồng Quân nhân Cách mạng không trao cho ông bất kỳ chức vụ chính thức nào trong tân chính phủ, thay vào đó họ lại muốn bắt giữ ông vì nghi ngờ ý định đảo chính. Đúng lúc đó, một tổ chức thuộc Đảng Cộng sản tại Sài Gòn đã lén giúp ông tìm cách trốn sang Pháp định cư và chẳng bao giờ quay trở lại Việt Nam nữa. Sang đây rồi, ông âm thầm sinh sống ở Paris cho đến khi qua đời ngày 21 tháng 4 năm 2018 vì bệnh tật ở tuổi 88, sau một tháng điều trị tại Bệnh viện Deauville ở Normandy.
Vũ Quốc Thông (ngày 22 tháng 11 năm 1916 – 1987) là giáo sư, chính khách người Việt Nam, từng giữ chức Bộ trưởng Bộ Xã hội và Y tế Việt Nam Cộng hòa. Vũ Quốc Thông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1916 tại tỉnh Nam Định, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương. Năm 1951, ông rời bỏ ngành tư pháp và chuyển sang giảng dạy tại Đại học Hà Nội với chức danh giáo sư luật. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Xã hội và Y tế từ tháng 5 năm 1955 đến tháng 11 năm 1956. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông bị chính quyền cộng sản bắt giam trong trại cải tạo mãi cho đến năm 1980 mới được trả tự do. Vũ Quốc Thông qua đời vì bạo bệnh vào năm 1987. Vũ Quốc Thông là anh trai của Giáo sư Vũ Quốc Thúc, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Việt Nam Cộng hòa. Vợ ông là bà Lâm Thị Tính qua đời ngày 22 tháng 9 năm 2013 tại Olympia, Washington, Mỹ.
Võ Văn Ba (1923 – ngày 8 tháng 6 năm 1975), tên thường gọi là Năm Huỳnh, là một điệp viên Việt Nam Cộng hòa và CIA trong Chiến tranh Việt Nam. Võ Văn Ba sinh năm 1923 tại tỉnh Long An, Nam Kỳ, Liên bang Đông Dương, thời Việt Nam Cộng hòa thuộc tỉnh Kiến Tường. Ban đầu, Võ Văn Ba gia nhập đội du kích địa phương ở Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (VC). Theo tài liệu phía Việt Nam, qua một thời gian, Võ Văn Ba trốn khỏi địa phương lên làm ăn ở chợ Long Hoa (Tây Ninh). Qua một quá trình điều tra, tháng 2 năm 1960, Võ Văn Ba được Trưởng chi Cảnh sát Quốc gia quận Phú Khương Nguyễn Văn Yên tuyển mộ. Tháng 12 năm 1962, Võ Văn Ba cộng tác trực tiếp với Nguyễn Văn Phước (Năm Giáng) thuộc Ty Cảnh sát Tây Ninh, và đến tháng 4 năm 1963, nhờ hoạt động hiệu quả nên được CIA tuyển mộ, gia nhập Cục Cảnh sát Đặc biệt phụ trách, giúp đỡ để nằm vùng trong lực lượng MTDTGPMNVN tỉnh Tây Ninh. Giữa năm 1963, chỉ sau ba tháng "xin trở lại phục vụ Cách mạng", Võ Văn Ba được trở lại sinh hoạt Đảng trong Đảng bộ Tây Ninh. Cuối năm 1965, Võ Văn Ba trở thành Bí thư Chi bộ. Cuối năm 1968, được bầu làm Huyện ủy viên dự khuyết Huyện ủy Hòa Thành. Năm 1970, Huyện ủy viên Huyện ủy Hòa Thành. Nguồn tin phương Tây còn cho biết khoảng trước 1975, Võ Văn Ba giữ chức Bí thư Huyện ủy Phú Khương (Tây Ninh), chịu trách nhiệm tuyển mộ thành viên của đạo Cao Đài. Dù chỉ nằm vùng trong cấp huyện, nhưng do Tây Ninh là nơi Trung ương Cục miền Nam đóng giữ, nên Võ Văn Ba có thể tìm hiểu được nhiều thông tin quan trọng thông qua nhiều con đường khác nhau, không chỉ qua các văn bản gửi từ trên xuống. Trong khoảng thời gian này, Võ Văn Ba làm gián điệp cho cả CIA và Việt Nam Cộng hòa, cung cấp thông tin thông qua thư từ. Từ những thông tin do Võ Văn Ba cung cấp, quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã mở nhiều cuộc tấn công vào địa bàn của MTDTGPMNVN ở Tây Ninh, gây ra những thiệt hại đáng kể. Tình báo quan trọng nhất được cung cấp là dự thảo kế hoạch phục vụ cho việc đàm phán và ký kết Hiệp định Paris (1973). Bị bắt và cái chết. Trước năm 1975, phía MTDTGPMNVN từng có sự nghi ngờ về việc tồn tại gián điệp trong nội bộ, Võ Văn Ba đã tận dụng việc bản thân trùng tên với hai người thuộc Thường vụ Tỉnh ủy Tây Ninh để tạo bằng chứng giả khiến hai người đó bị bắt oan. Ngày 12 tháng 3 năm 1975, trong Chiến dịch Tây Nguyên, Chỉ huy CIA ở Cao nguyên Trung phần Jame Lewis cùng đặc vụ Nguyễn Sĩ Phong (hay Nguyễn Văn Phong, một số nguồn ghi là Phương) bị bắt giữ, sự tồn tại của X92 bị phát hiện. Dưới sự chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Công an Viễn Chi, ngày 30 tháng 4, Thiếu tá Phan Tấn Ngưu (Trưởng F đặc biệt Cao nguyên Trung phần) và Nguyễn Tấn Danh, người trực tiếp phụ trách X92 ở Tây Ninh, bị bắt. Từ hồ sơ và lời khai, Võ Văn Ba bị xác định danh tính và bị lực lượng điều tra dưới quyền Cục trưởng Cục Chấp pháp Cao Phòng bắt giữ. Võ Văn Ba bị giam giữ ở Tổng nha Cảnh sát Việt Nam Cộng hòa cũ và được dự định bàn giao cho An ninh Trung ương Cục miền Nam xét xử. Ngày 8 tháng 6, Võ Văn Ba rút dây quần tự ải trong tù. Frank Snepp, người từng là nhân viên CIA tại Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn từ năm 1969 đến khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975, mô tả Võ Văn Ba là tài sản tình báo quan trọng nhất của cuộc chiến, nói rằng ông ấy tương đương với việc có một điệp viên trong hầm trú ẩn của Hitler.
Milli Bus (Pashto/Ba Tư: ملي بس, "Xe buýt Quốc gia"), còn được đánh vần thành Millie Bus, là dịch vụ xe buýt liên tỉnh do chính phủ điều hành hoạt động trên khắp Afghanistan. Hoạt động này nằm dưới sự quản lý của Bộ Giao thông Vận tải và Hàng không Dân dụng Afghanistan. Hãng "Milli Bus Enterprise" là đơn vị chuyên vận hành dịch vụ xe buýt chủ yếu ở Kabul, cùng với các dịch vụ ở những nơi khác bao gồm tỉnh Panjshir, Parwan, Kandahar và Maidan Wardak. Xe buýt Milli là một trong những phương tiện giao thông rẻ nhất ở Kabul, thường dẫn đến tình trạng quá tải trong giờ cao điểm. Milli Bus có từ cuối thập niên 1920. Năm 1979, công ty cũng vận hành hệ thống xe điện bánh hơi. Cơ sở hạ tầng của Millie Bus bao gồm bãi đậu xe, nhà xưởng và khu hành chính đã bị phá hủy sau năm 1992 do cuộc nội chiến bùng nổ ở Kabul. Có thông tin cho rằng vào năm 2001, sau khi chế độ Taliban kết thúc, chỉ có 50 xe buýt vẫn còn hoạt động ở Kabul. Khoảng 1.000 xe buýt nhận được dưới dạng hàng viện trợ từ Ấn Độ, Iran, Nhật Bản và Pakistan trong khoảng thời gian một thập kỷ sau sự sụp đổ của chính phủ Taliban trước đây. Năm 2014, có thông tin cho rằng nhiều xe buýt loại này đều không hoạt động do hỏng hóc và hầu hết chúng đều được nhập khẩu nên việc thiếu phụ tùng thay thế đã cản trở hoạt động sửa chữa. Trong khuôn khổ "Dự án Xây dựng Thể chế Quốc gia" của Quỹ Phát triển Liên Hợp Quốc, một bộ phận bảo dưỡng được thành lập và nhóm nhân viên, kỹ sư phải trải qua khóa đào tạo về bảo trì xe buýt cũng như các lĩnh vực khác như sát hạch lái xe từ hãng ô tô lớn Tata Motors của Ấn Độ. Năm 2015, hoạt động của Millie Bus ở Kabul là chủ đề của một bộ phim tài liệu từ hãng Ariana Television Network.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Nghiến răng là tình trạng nghiến răng hoặc cắn chặt hàm quá mức. Đây là một hoạt động không bình thường của miệng, không liên quan đến chức năng bình thường như ăn hoặc nói. Nghiến răng là một hành vi phổ biến, với tỷ lệ mắc bệnh từ 8% đến 31% trong dân số nói chung. Có một số triệu chứng thường liên quan đến nghiến răng, bao gồm đau cơ hàm, nhức đầu, răng nhạy cảm, mòn răng và hư hỏng các phục hồi răng. Các triệu chứng có thể rất nhẹ và người bệnh không nhận thức được tình trạng của mình. Nếu không được điều trị, theo thời gian, nhiều răng sẽ bắt đầu mòn đi cho đến khi toàn bộ răng bị mất.
Vợ quan (tên cũ: Lưới tình) là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Mega GS do NSƯT Nhâm Minh Hiền làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của tác giả Ðường Ðạt Thiên. Phim phát sóng vào lúc 19h45 hàng ngày bắt đầu từ ngày 12 tháng 6 năm 2022 và kết thúc vào ngày 28 tháng 7 năm 2022 trên kênh SCTV14. "Vợ quan" xoay quanh cặp vợ chồng Thiếu Phong (NSƯT Trương Minh Quốc Thái) - Phó Giám đốc Sở Xây dựng thành phố Nam Đông và Thùy Như (Thân Thúy Hà) - một bác sĩ giỏi chuyên môn, lại khéo ứng xử, giao tiếp, giúp chồng chu toàn các mối quan hệ xã hội. Cụg một số diễn viên khá Ca khúc trong phim. Bài hát trong phim là ca khúc "Yêu hay dừng lại" do Minh Đăng sáng tác và Mandy Thanh Trúc thể hiện.
V. I. Lenin tại Razliv vào năm 1917 V. I. Lenin tại Razliv vào năm 1917, nhan đề gốc tiếng Nga là В. И. Ленин в Разливе в 1917 году, là một bức tranh sơn dầu được sáng tác bởi họa sĩ người Nga A. A. Rylov vào năm 1934. Tới năm 1959, Viện Bảo tàng Nga ở Sankt-Peterburg còn lưu giữ hai phiên bản khác nhau của bức tranh này. Thời Liên Xô, tác phẩm này trở thành chủ đề được giảng dạy trong các buổi học tiếng Nga trên lớp. Nhà sử học nghệ thuật Alexey Fedorov-Davydov cho rằng bức tranh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai dòng tranh lịch sử và phong cảnh, với phong cách trữ tình và kỷ niệm, và có thể được coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất buổi cuối sự nghiệp hội họa của Rylov. Lịch sử sáng tác và số phận của bức tranh. Khoảng thời gian nương náu ngoài vòng pháp luật của V. I. Lenin tại Razliv vào mùa hè năm 1917 là một trong những chủ đề nổi bật của nền hội họa Liên Xô. Các tác phẩm như "Lenin và Stalin ở Razliv" [Ленин и Сталин в Разливе] (1940) bởi N. N. Zhukov, "Lenin ở Razliv" [Ленин в Разливе] (1948) bởi А. А. Plastov, "Lenin ở Razliv" [Ленин в Разливе] (1949) bởi nhóm Kukryniksy, "Y. M. Sverdlov và V. I. Lenin ở Razliv" [Я. М. Свердлов у В. И. Ленина в Разливе] (1937) bởi А. М. Lyubimov, "S. K. Ordzhonikidze và V. I. Lenin ở Razliv" [Г. К. Орджоникидзе у В. И. Ленина в Разливе] (1953) bởi V. А. Serov, "Lenin ở Razliv" [Ленин в Разливе] (1953) bởi E. S. Shcherbakov và "V. I. Lenin ở Razliv" [B. И. Ленин в Разливе] (1950) bởi G. V. Kiyanchenko, cùng nhiều tác phẩm khác, được chính quyền Xô viết bảo trợ và khuyến khích nhằm xây dựng hình tượng hoàn mỹ về vị lãnh tụ Đảng, nhà cách mạng và nhà tư tưởng vang danh toàn cầu. Bối cảnh lịch sử và đặc điểm nghệ thuật. Nội dung bức tranh dựa trên một sự kiện lịch sử có thật vào năm 1917. Sau cuộc biểu tình bất thành vào những ngày Tháng Bảy 1917 ở Petrograd, Chính phủ Lâm thời Nga ban lệnh truy nã gắt gao các nhà lãnh đạo Đảng Bolshevik. Theo một số sử liệu, tư lệnh Quân khu Petrograd lúc bấy giờ, Tướng Pyotr Polovtsev, đã cho phép chỉ huy tiểu đoàn truy bắt có quyền được xử bắn Lenin ngay tại chỗ. Với tình hình đó, Lenin nhanh chóng chạy khỏi Petrograd để tìm nơi trú ẩn an toàn hơn.
Làn da sáng ("Light skin") hay làn da trắng là màu da của con người có mức sắc tố eumelanin cơ bản đã thích nghi với môi trường có bức xạ tia cực tím thấp. Làn da trắng sáng thường được tìm thấy nhiều nhất ở các nhóm dân cư bản địa ở Châu Âu, Trung Á và Đông Bắc Á được đo thông qua độ phản xạ của da. Những người có sắc tố da sáng thường được gọi là "da trắng" dù rằng cách sử dụng này có thể mơ hồ ở một số quốc gia nơi chúng được dùng để chỉ cụ thể đến các nhóm dân tộc hoặc cộng đồng người nhất định mang đặc điểm này. Làn da trắng sáng cùng với đặc điểm tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ là những đặc trưng về nhân chủng học của người da trắng thuộc đại chủng Âu. Những người có sắc tố da sáng có làn da có lượng eumelanin thấp và có ít melanosome hơn những người có sắc tố da sẫm màu. Làn da sáng mang lại khả năng hấp thụ tia cực tím tốt hơn, giúp cơ thể tổng hợp lượng vitamin D cao hơn cho các quá trình của cơ thể như phát triển canxi. Mặt khác, những người da sáng sống gần xích đạo, nơi có nhiều ánh sáng mặt trời, có nguy cơ bị suy giảm folate cao hơn. Do hậu quả của sự suy giảm folate, họ có nguy cơ bị tổn thương DNA, dị tật bẩm sinh và nhiều loại ung thư, đặc biệt là ung thư da. Những người có làn da sẫm màu sống xa vùng nhiệt đới có lượng vitamin D thấp, điều này cũng có thể dẫn đến các biến chứng về sức khỏe, cả về thể chất và tinh thần, bao gồm nguy cơ mắc bệnh tâm thần phân liệt cao hơn. Hai quan sát này hình thành nên "giả thuyết vitamin D–folate", cố gắng giải thích lý do tại sao các cộng đồng người di cư khỏi vùng nhiệt đới đến các khu vực có bức xạ tia cực tím thấp lại tiến hóa để có sắc tố làn da sáng. Sắc tố da là sự thích nghi mang tính tiến hóa với các mức độ bức xạ UV khác nhau trên khắp thế giới. Những người có làn da sáng sống trong môi trường có bức xạ tia cực tím cao có những ảnh hưởng tới sức khỏe. Các tập quán văn hóa khác nhau làm tăng các vấn đề liên quan đến tình trạng sức khỏe của làn da sáng, ví dụ như tắm nắng ở những người da sáng. Sự phân bố của các cộng đồng người có làn da sáng có mối tương quan chặt chẽ với mức độ bức xạ cực tím thấp ở các khu vực nơi họ sinh sống. Trong lịch sử, những người có làn da sáng hầu như chỉ sống xa xích đạo, ở những vùng vĩ độ cao với cường độ ánh sáng mặt trời thấp. Lịch sử sắc tố của con người ở châu Âu cho thấy những người săn bắt hái lượm tại bán đảo Scandinavia có mức độ biến đổi sắc tố ánh sáng cao hơn so với tổ tiên của họ đến từ các khu vực khác ở Châu Âu cho thấy sự thích nghi với điều kiện ánh sáng yếu. Một số nhà nghiên cứu đã bày tỏ sự thận trọng về những dự đoán về sắc tố da. Do quá trình thuộc địa hóa, chủ nghĩa đế quốc và sự di cư ngày càng tăng của người dân giữa các khu vực địa lý trong những thế kỷ gần đây, dân số mang làn da sáng ngày nay được tìm thấy trên khắp thế giới.
Ethan Mbappé Lottin (sinh ngày 29 tháng 12 năm 2006) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Paris Saint-Germain tại Ligue 1. Sinh ra tại Montreuil, Seine-Saint-Denis, Mbappé lớn lên trong một gia đình có truyền thống thể thao, với anh trai Kylian và anh trai nuôi Jirès Kembo Ekoko đều trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Cha của họ là người gốc Cameroon và mẹ của họ là người gốc Algérie. Sự nghiệp thi đấu. Ethan tiếp bước cả hai người anh trai của mình khi gia nhập đội bóng địa phương, AS Bondy vào năm 2015. Sau hai năm gắn bó với AS Bondy, Mbappé gia nhập gã khổng lồ nước Pháp, Paris Saint-Germain vào năm 2017, cùng thời điểm đội bóng mang về anh trai Kylian theo dạng cho mượn. Anh ghi bàn trong trận ra mắt cho đội U-12. Mbappé ký hợp đồng mới có thời hạn 3 năm với PSG vào tháng 6 năm 2021. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2022, ở tuổi 15, anh có trận ra mắt với đội 1 của câu lạc bộ trong trận thắng 2-1 trước Paris FC. Trước mùa giải 2023–24, anh được triệu tập để tham gia chuyến du đấu ở châu Á và có trận đầu tiên cho PSG trong trận thắng 3–0 trước Jeonbuk Hyundai Motors vào ngày 3 tháng 8. Anh được điền tên vào đội hình thi đấu của PSG lần đầu tiên vào ngày 15 tháng 9 năm 2023 trên băng ghế dự bị không được sử dụng trong trận thua 2-3 trên sân nhà trước Nice. Ngày 21 tháng 12 năm 2023, Mbappé có trận ra mắt ở đội một ở tuổi 16. Sự nghiệp quốc tế. Mbappé được gọi triệu tập lên đội tuyển U-16 Pháp vào tháng 11 năm 2021. Phong cách thi đấu. Không giống như anh trai Kylian, một tiền đạo nổi tiếng với tốc độ nhanh như chớp, Ethan là một tiền vệ thuận chân trái, có kỹ thuật. Vào tháng 1 năm 2022, Mbappé dính vào một vụ tai nạn giao thông nhỏ, sau khi chiếc xe anh đang lái bị một người lái xe say rượu đâm phải. Sau khi vụ tai nạn này xảy ra, anh không hề gặp phải chấn thương nghiêm trọng nào.
Noelia Victoria Voigt (sinh ngày 1 tháng 11 năm 1999) là một người mẫu và hoa hậu người Mỹ từng đăng quang Hoa hậu Mỹ 2023. Cô sẽ đại diện cho Hoa Kỳ tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2023 vào ngày 18 tháng 11 năm 2023 tại El Salvador. Cô sinh ra ở Sarasota, Florida với mẹ là người Venezuela, Jackeline Coromoto Briceño đến từ Zulia, và cha là người Mỹ, Jack David Voigt, một cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp. Voigt vào Đại học Alabama ở Tuscaloosa, Alabama để theo đuổi bằng cử nhân về thiết kế nội thất. Cuộc thi sắc đẹp. Hoa hậu Mỹ 2023. Sau khi giành vị trí Á hậu 1 tại Hoa hậu Alabama Hoa Kỳ lần thứ hai liên tiếp, cô chuyển đến Thành phố Salt Lake, Utah vào tháng 4 năm 2023 và tranh danh hiệu Hoa hậu Utah Hoa Kỳ 2023. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc thi ở bang nhận nuôi, cô đã giành được danh hiệu Hoa hậu. quyền đại diện cho Utah tại Hoa hậu Mỹ 2023 vào ngày 29 tháng 9 năm 2023 tại Reno, Nevada, trở thành chủ nhân danh hiệu tiểu bang người Mỹ gốc Venezuela đầu tiên của họ. Tại cuộc thi, sau khi vượt qua Top 20 ở phần thi áo tắm và trang phục dạ hội, cô đã lọt vào Top 5 cùng các đại diện đến từ Hawaii, Pennsylvania, Texas và Wisconsin. Ở vòng hỏi đáp cuối cùng, Noelia được hỏi: “Là đại sứ thương hiệu cho Hoa hậu Mỹ, bạn sẽ đóng góp gì cho tổ chức?” mà cô ấy đã trả lời: "Tôi tin rằng khả năng kết nối với mọi người là tài sản cực kỳ quan trọng mà một Hoa hậu Mỹ nên có. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một quốc gia vô cùng đa dạng, có lẽ là một trong những quốc gia đa dạng nhất trên toàn thế giới. Vì vậy, việc có thể kết nối với mọi người là điều quan trọng. Là một phụ nữ Mỹ gốc Venezuela song ngữ, tôi dự định kết nối với cộng đồng người đó vì Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là một quốc gia đa dạng và Hoa hậu Hoa Kỳ cần có khả năng đại diện cho mọi cộng đồng bất kể xuất thân, chủng tộc, dân tộc của họ, bất cứ điều gì và tôi muốn trở thành Hoa hậu Mỹ." Noelia cuối cùng đã được trao vương miện bởi đương kim sắp mãn nhiệm Morgan Romano của North Carolina với tư cách là Hoa hậu Hoa Kỳ 2023, trở thành người chiến thắng người Mỹ gốc Venezuela đầu tiên và người chiến thắng người gốc Tây Ban Nha thứ năm sau Laura Harring năm 1985, Lynnette Cole năm 2000, Susie Castillo năm 2003 và Nia Sanchez năm 2014. Cô trở thành người phụ nữ thứ ba từ Utah đăng quang Hoa hậu Mỹ sau 63 năm. Chiến thắng của cô đã giúp cô có quyền đại diện cho Hoa Kỳ tại cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2023, được tổ chức tại El Salvador vào ngày 18 tháng 11.
Đặc quyền da trắng Đặc quyền da trắng ("White privilege") hay gọi đầy đủ là đặc quyền của người da trắng là đặc quyền xã hội mang lại đặc lợi cho người da trắng so với những người không phải da trắng ở một số xã hội và quốc gia, đặc biệt nếu họ ở cùng hoàn cảnh xã hội, bối cảnh chính trị hoặc cùng hoàn cảnh kinh tế. Đặc quyền đặc lợi của người da trắng bắt nguồn từ chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc châu Âu, và việc buôn bán nô lệ Đại Tây Dương, đặc quyền của người da trắng đã phát triển trong những hoàn cảnh mà các thể chế xã hội luôn tìm cách bảo vệ các đặc quyền của chủng tộc da trắng, các quyền công dân khác và các quyền hoặc lợi ích đặc biệt khác. Đặc quyền của người da trắng được tiếp cận là một hiện tượng xã hội đan xen với yếu tố chủng tộc và sự phân biệt chủng tộc. Thuật ngữ này được sử dụng trong các thảo luận với tâm điểm là những lợi ích tiềm ẩn nhất mà người da trắng sẽ có được trong một xã hội nơi sự phân biệt chủng tộc là phổ biến và người da trắng được coi là bình thường, thay vì gây bất lợi cho những người là đối tượng của sự phân biệt chủng tộc. Chủ nghĩa thực dân châu Âu, liên quan đến một số mối liên hệ quan trọng sớm nhất của người châu Âu với người bản địa, có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển đặc quyền của người da trắng. Trong nghiên cứu về đặc quyền của người da trắng và lĩnh vực nghiên cứu rộng hơn về người da trắng, cả hai đều đi tiên phong ở Hoa Kỳ, các quan điểm học thuật như lý thuyết phê phán chủng tộc sử dụng khái niệm này để phân tích cách phân biệt chủng tộc và xã hội phân biệt chủng tộc ảnh hưởng đến cuộc sống của người da trắng hoặc da trắng Ví dụ, học giả người Mỹ Peggy McIntosh đã mô tả những lợi thế mà người da trắng ở các xã hội phương Tây được hưởng và những người không phải da trắng không được trải nghiệm là "một gói tài sản vô hình không thể kiếm được". Đặc quyền của người da trắng biểu thị cả những lợi thế thụ động rõ ràng và ít rõ ràng hơn mà người da trắng có thể không nhận ra rằng họ có, điều này giúp phân biệt nó với những thành kiến hoặc thành kiến công khai. Chúng bao gồm những khẳng định mang tính văn hóa về giá trị của chính mình, được cho là có địa vị xã hội cao hơn, và sự tự do đi lại, mua sắm, làm việc, vui chơi và ngôn luận một cách tự do. Những tác động này có thể được thấy được trong bối cảnh nghề nghiệp, giáo dục và góc độ cá nhân. Khái niệm đặc quyền của người da trắng cũng bao hàm quyền thừa nhận tính phổ quát trong trải nghiệm của bản thân, đánh giá người khác là khác biệt hoặc đặc biệt trong khi coi bản thân là bình thường. Một số học giả cho rằng thuật ngữ này sử dụng khái niệm "da trắng" để thay thế cho giai cấp hoặc các đặc quyền xã hội khác hoặc để đánh lạc hướng khỏi những vấn đề sâu xa hơn về sự bất bình đẳng. Những người khác nói rằng không phải người da trắng là người thay thế mà nhiều đặc quyền xã hội khác tự động có mối liên hệ với nó, đòi hỏi sự phân tích phức tạp và cẩn thận để xác định xem người da trắng góp phần tạo nên đặc quyền như thế nào. Các nhà bình luận khác đề xuất các định nghĩa thay thế về người da trắng và các ngoại lệ đối với hoặc giới hạn bản sắc da trắng, cho rằng khái niệm đặc quyền của người da trắng bỏ qua những khác biệt quan trọng giữa các nhóm dân cư và cá nhân da trắng và cho rằng khái niệm về người da trắng không thể bao gồm tất cả người da trắng. Họ lưu ý vấn đề thừa nhận sự đa dạng của người da màu và sắc tộc trong các nhóm này. Một số nhà bình luận người da trắng đã nhận thấy rằng "khái niệm nghe có vẻ học thuật về đặc quyền của người da trắng" đôi khi gợi lên sự thủ thế và hiểu lầm ở người da trắng, họ đổ lỗi một phần là do khái niệm đặc quyền của người da trắng nhanh chóng được đưa vào tâm điểm chú ý thông qua các chiến dịch truyền thông xã hội của người da màu như phong trào Black Lives Matter. Là một khái niệm học thuật mới được đưa vào phổ biến gần đây, khái niệm đặc quyền của người da trắng thường bị những người không phải là học giả hiểu sai, một số học giả, sau khi nghiên cứu đặc quyền của người da trắng trong nhiều thập kỷ, đã rất ngạc nhiên trước sự phản đối gần đây của các nhà phê bình cánh hữu kể từ khoảng năm 2014.
Người tí hon là một nhóm sinh vật trong văn hóa dân gian của nhiều nền văn hóa trong lịch sử nhân loại như Ireland, Hy Lạp, Philippines, Quần đảo Hawaii, New Zealand, Đảo Flores, Indonesia và người Mỹ bản địa. Trong thế giới giả tưởng, người tí hon giống như là sinh vật đối lập với người khổng lồ. Văn hóa dân gian của thổ dân châu Mỹ. Truyền thuyết kể về một chủng tộc "người tí hon" sống trong rừng gần những ngọn đồi đầy cát, đôi khi gần những tảng đá nằm dọc theo những vùng nước lớn, chẳng hạn như Ngũ Hồ. Họ thường được mô tả là "những người lùn tịt có khuôn mặt đầy lông" trong các câu chuyện, các hình minh họa khắc đá cho thấy họ có sừng trên đầu và đi theo nhóm từ 5 đến 7 người trên mỗi chiếc ca nô. Những người tí hon thường chơi khăm mọi người, chẳng hạn như ca hát rồi trốn khi có người tò mò tìm kiếm bản nhạc. Người ta cho rằng những người tí hon rất yêu thương trẻ em và sẽ đưa chúng đi nếu chúng bị cha mẹ ngược đãi, nếu đứa trẻ đó mồ côi hoặc bị bỏ rơi trong rừng. Các truyền thuyết khác nói rằng người tí hon nếu bị người lớn phát hiện thì họ sẽ cầu xin đừng tiết lộ về sự tồn tại của họ, họ sẽ khen thưởng những người giữ lời bằng cách giúp đỡ khi người đó cần. Có những miêu tả khác nhau về người tí hon là người tốt hay xấu tùy vào văn hóa từng vùng.
Hobgoblin là một sinh vật sống trong nhà của con người, xuất hiện trong văn hóa dân gian Anh. Hobgoblin từng được coi là hữu ích nhưng với sự truyền bá của Kito giáo thì chúng lại bị coi là tinh quái. Shakespeare xác định nhân vật Puck trong tác phẩm Giấc mộng đêm hè của ông là một hobgoblin. Thuật ngữ "hobgoblin" xuất phát từ "hob" (elf). Từ này được biết đến có thể bắt nguồn từ khoảng năm 1530, mặc dù nó có thể đã được sử dụng một thời gian trước đó. Văn hóa dân gian. Hobgoblin trông giống họ hàng thân thiết của chúng là brownie. Chúng có vẻ ngoài nhỏ bé, người đầy lông, thường được tìm thấy trong nhà của con người, chúng làm những công việc lặt vặt quanh nhà, ví dụ như lau bụi và ủi đồ. Thông thường, phần thưởng duy nhất để đổi lấy những việc chúng làm là thức ăn. Trong khi brownie là những sinh vật hiền lành, thì hobgoblin lại tinh nghịch hơn. Chúng dường như cũng có thể thay đổi hình dạng, như đã thấy trong một trong những đoạn độc thoại của Puck trong Giấc mộng đêm hè. Robin Goodfellow có lẽ là kẻ tinh nghịch và khét tiếng nhất trong đồng loại, chúng có thể tinh nghịch, đáng sợ và thậm chí nguy hiểm.
Esther Supreeleela (, sinh ngày 18 tháng 5 năm 1994) là một nữ diễn viên trẻ nổi tiếng ở Thái Lan. Cô từng là một net idol trước khi đến với con đường diễn xuất. Sau đó, cô đã ký hợp đồng với Channel 3. Mặc dù cô tham gia diễn xuất đã nhiều lần nhưng phía bên công ty lại không đầu tư quảng bá cho cô, cái tên "Esther" hoàn toàn chìm nghỉm giữa bầu trời sao CH3 nên sau ba năm hoạt động dưới sự quản lý của công ty, gia đình "Est" đã huỷ hợp đồng với CH3. "Esther" từ đó nổi lên như "Diều gặp gió" và đang là một diễn viên trẻ tự do rất nổi tiếng, thành công. Hiện nay "Est" đã tốt nghiệp tại trường đại học Bangkok Thonburi. Est là nữ diễn viên gốc Thái – Malaysia sinh sống tại Thái Lan, bố là người Thái và mẹ là người Malaysia. "Est sinh ngày 18 tháng 5 năm 1994", là chị cả trong gia đình, em trai tên Timothy Supreeleela và cô gái út tên là Abigail Supreeleela. Tên của cô – Esther, có nghĩa là ngôi sao trong tiếng Hebrew. Trước khi học đại học, cô đã từng tốt nghiệp tại "trường Quốc tế Heathfield". Est bắt đầu các công việc trong ngành giải trí khi mới 12 tuổi, phần lớn công việc là người mẫu ảnh cho các tờ báo tuổi teen và nhãn hàng quảng cáo. Năm 15 tuổi, Est tham gia cuộc thi MISS CAWAII 2009, mã số 31. Đến năm 17 tuổi, Est bắt đầu tham gia diễn xuất trong bộ sitcom "Mắt Công Hoàng Gia / หลวงตามหาชน (Luang Dtam Ha Chon)" và được mọi người biết đến là một nữ diễn viên tân binh. Sau bộ phim này cô còn tham gia nhiều phim khác như "บ่วง / Buang (đóng với Tanawat Wattanaputi), สุภาพบุรุษจุฑาเทพ / Soo Pha Bu Rus Ju Tha Taep (tập คุณชายรณพีร์ / Khun Chai Ronapee)..." đều thuộc CH3. Sau khi "huỷ hợp đồng với CH3", Est càng nổi bật hơn khi là "một diễn viên tự do". Est lần đầu tiên tham gia bộ phim "Giao dịch tình yêu / เล่ห์รตี (Leh Ratree)" dưới danh nghĩa diễn viên tự do cùng với Sean Jindachot, bộ phim nhận được phản hồi tốt từ phía người xem. Sau đó, Est tiếp tục tham gia bộ phim "Bุงเทพ..มหานครซ้อนรัก (Kroong T)" đảm nhận vai Summer. Năm 2016, cô kết hợp với nam diễn viên Puttichai Kasetsin qua hai bộ phim là "Puer Tur (Vì em)" – một bộ phim đầy bi kịch và bộ phim "Series Chàng hoàng tử trong mơ" cô thủ vai phần một – trong Series này, phần này được nhận được phản hồi tích cực từ giới trẻ và cộng đồng mạng. Cùng lúc đó, cô tiếp tục tái ngộ với Sean Jindachot trong "Series Cô vịt xấu xí phần 4: Thiên đường mỹ nam" và phim "Yêu dùm cô chủ" phiên bản 2016 – phim từng thành công phiên bản 2008 trước đó. Năm 2017, cô đóng phim với ca sỹ kiêm diễn viên Sukrit Wisedkaew trong phim tình cảm hài "Em là định mệnh của anh" – bộ phim là phiên bản chuyển thể từ phim truyền hình ăn khách Đài Loan "Định mệnh anh yêu em" do Trần Kiều Ân và Nguyễn Kinh Thiên thể hiện. Bộ phim này gây thu hút sự chú ý không chỉ ở Thái Lan mà còn lan rộng các quốc gia khác trong đó có Việt Nam, nhờ sự ăn ý của cặp diễn viên chính này khiến khán giả mong muốn cả hai nhận dự án tiếp theo. Cuối năm, cô tiếp tục tái ngộ với "Puttichai" qua phim "Series My Dear Loser Series: Happy Ever After". Năm 2018, cô tái hợp với Bie qua phim Chẳng phải định mệnh của nhau cũng nhận được phản hồi tốt. Năm 2019, Esther trở lại phim điện ảnh qua vai Jeed trong phim Thách yêu hai năm với Prama Imanothai, qua đó Esther tới Việt Nam vào tháng 9 để quảng bá bộ phim công chiếu tại Việt Nam. Cuộc sống cá nhân. Từng có quan hệ tình cảm với "Ken Phupoom" - "Phupoom Pongpanupak"
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đôi nữ trẻ Mara Gae và Anastasiia Gureva là nhà vô địch, đánh bại Sara Saito và Nanaka Sato trong trận chung kết, 1–6, 7–5, [10–8]. Lucie Havlíčková và Diana Shnaider là đương kim vô địch, nhưng Shnaider không đủ điều kiện tham dự giải trẻ và Havličková chọn không tham dự. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đơn nam xe lăn Alfie Hewett là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Gordon Reid trong trận chung kết, 6–4, 6–3. Đây là danh hiệu đơn Mỹ Mở rộng thứ 4 và danh hiệu đơn Grand Slam thứ 8 của Hewett. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đơn nữ xe lăn Diede de Groot là đương kim vô địch và bảo vệ thành công danh hiệu, đánh bại Yui Kamiji trong trận chung kết, 6–2, 6–2. Với chức vô địch, de Groot đã hoàn thành Grand Slam năm thứ ba liên tiếp, và giành 12 danh hiệu đơn Grand Slam liên tiếp (một kỷ lục mọi thời đại ở môn quần vợt). Đây là năm thứ bảy liên tiếp de Groot và Kamiji vào trận chung kết. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đơn xe lăn quad Niels Vink là đương kim vô địch, nhưng thua trong trận chung kết trước Sam Schröder, 3–6, 5–7. Đây là danh hiệu đơn Grand Slam thứ 5 của Schröder. Năm nay, nội dung đơn xe lăn quad được mở rộng từ 8 lên 16 vận động viên tham dự. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đôi nam xe lăn Stéphane Houdet và Takashi Sanada là nhà vô địch, đánh bại Takuya Miki và Tokito Oda trong trận chung kết, 6–4, 6–4. Martín de la Puente và Nicolas Peifer là đương kim vô địch, nhưng Peifer không tham dự giải đấu. De la Puente đánh cặp với Gustavo Fernández, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Miki và Oda. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Đôi nữ xe lăn Yui Kamiji và Kgothatso Montjane là nhà vô địch sau khi đương kim vô địch Diede de Groot và Jiske Griffioen rút lui trước trận chung kết. Diede de Groot và Aniek van Koot là đương kim vô địch, nhưng chọn không đánh cặp cùng nhau. Van Koot đánh cặp với Momoko Ohtani, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Dana Mathewson và Manami Tanaka. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Lãnh thổ da trắng Lãnh thổ da trắng ("White ethnostate") hay lãnh địa da trắng hay Nhà nước da trắng/Quốc gia da trắng/Tiểu bang da trắng trắng là một khu vực bang/tiểu bang/nhà nước/lãnh thổ được đề xuất thiết lập, nơi mà những người cư trú tại đó hoặc quyền công dân của lãnh thổ này sẽ chỉ giới hạn dành cho người da trắng và những người còn lại không phải người da trắng như người da đen, người châu Á, người Do Thái, người Trung Đông, người Bắc Phi và người gốc Tây Ban Nha sẽ bị loại khỏi quyền công dân. Những nỗ lực trong lịch sử nhằm thiết lập một vùng lãnh thổ quốc gia dân tộc của người da trắng bao gồm ở Nam Phi vào thời kỳ Apartheid nơi mà người dân da đen bị đẩy vào các biệt khu Bantustan thông qua nhiều cách thức thủ đoạn khác nhau, bao gồm việc trục xuất và phân biệt chủng tộc, với mục đích thành lập các quốc gia riêng biệt sau khi được thanh lọc sắc tộc cục bộ trong khu vực, trong đó khu vực lớn nhất sẽ chuyển sang lãnh thổ của người da trắng. Trong Vùng văn hóa tiếng Anh (Anglosphere) thì người bản địa ở các quốc gia tương ứng của họ cũng sẽ bị loại khỏi quyền công dân, chẳng hạn như người da đỏ bản địa của Hoa Kỳ, Canada, Úc và New Zealand. Tại Hoa Kỳ, những đề xuất thành lập một nhà nước như vậy được đưa ra từ các phe phái theo chủ nghĩa Da trắng thượng đẳng và Chủ nghĩa dân tộc da trắng như Ku Klux Klan và Tân Quốc xã (Neo-Nazis). Một số phe phái này cho rằng một phần nhất định của đất nước nên có đa số là người da trắng và các phe phái khác cho rằng toàn bộ đất nước nên có đa số là người da trắng. Hầu hết các phong trào sắc tộc da trắng đều hình dung ra một nhà nước sẽ chỉ có người theo đạo Tin lành Anglo-Saxon da trắng và/hoặc những người gốc Bắc Âu được sinh sống tại nơi đây. Trong lịch sử cũng như thời hiện đại thì ở vùng Tây Bắc Hoa Kỳ (Bang Washington, Oregon, Idaho và một phần của Montana) đã được nhiều người theo chủ nghĩa người da trắng thượng đẳng đề xuất làm địa điểm thành lập một quốc gia dân tộc da trắng. Sứ mệnh Lãnh thổ Tây Bắc này được quảng bá nhiệt thành từ các nhân vật như Richard Girnt Butler, Robert Miles, Robert Jay Mathews, David Lane và Harold Covington, cùng với tổ chức khủng bố người da trắng thượng đẳng The Order, tổ chức Neo-Nazi, Christian Identity, Nhà nước Aryan, nhóm đầu trọc quyền lực da trắng Volksfront và Mặt trận Tây Bắc, cùng những nhóm khác. Lãnh thổ Tây Bắc cũng có sự chồng chéo lỏng lẻo với Phong trào độc lập Cascadia khi cũng tìm cách tạo ra một nước cộng hòa độc lập giữa Tây Bắc và các vùng của Bắc California ở Hoa Kỳ và British Columbia ở Canada. Một số người có tư tưởng cực hữu sử dụng cụm từ American Redoubt để mô tả một cuộc di cư tương tự đến Tây Bắc Hoa Kỳ. Các khu vực khác đã được một số nhóm nhất định coi là địa điểm cho một quốc gia dân tộc da trắng tiềm năng, đáng chú ý nhất là miền Nam Hoa Kỳ đã được đề xuất là một quốc gia dân tộc da trắng từ những "Người theo chủ nghĩa dân tộc miền Nam" tự xưng Liên đoàn các quốc gia dân tộc da trắng miền Nam (LS), do lịch sử chủ nghĩa ly khai của khu vực và do khu vực này từng là một quốc gia độc lập được gọi là Liên minh miền Nam Hoa Kỳ (1861–1865) Ngược lại, Ozarks từng là "điểm nóng" của những người theo phong trào Bản sắc Cơ đốc giáo, bao gồm Giáo hội Israel và nhiều thành viên khác nhau của phong trào Ái quốc Cơ đốc giáo, những người đã thành lập các trại huấn luyện bán quân sự để chuẩn bị cho trận Armageddon sắp tới. Từ 1901 đến 1973, Nước Úc duy trì một loạt chính sách, gọi chung là Chính sách nước Úc trắng ("White Australia policy") nhằm tích cực hạn chế việc nhập cư của những người di cư không phải da trắng. Chính sách này bắt nguồn sau khi Úc thông qua "Đạo luật hạn chế nhập cư 1901" nhằm cấm những người không phải người châu Âu di cư vào nước này. Những chính sách này dần dần bị bãi bỏ trong những năm sau đó, và "Đạo luật hạn chế nhập cư 1901" bị bãi bỏ vào năm 1958 và được thay thế bằng "Đạo luật di cư 1958". Chính sách Nước Úc trắng chấm dứt triệt để vào năm 1973, sau khi chính phủ Whitlam thông qua đạo luật coi việc lựa chọn người di cư trên cơ sở chủng tộc là bất hợp pháp. Tương tự như "Chính sách của người Úc da trắng" thì "Chính sách của người da trắng New Zealand" ("White New Zealand Policy") bao gồm luật cấm người châu Á và những người không phải người châu Âu nhập cư vào nước này. Sau Thế chiến thứ hai, một bản ghi nhớ do Bộ Ngoại giao New Zealand công bố năm 1953 đã mô tả mục đích của chính sách này một cách rõ ràng hơn. Luật pháp không được nới lỏng cho đến những năm 1970 và 1980. Bộ Văn hóa và Di sản New Zealand đã mô tả chính sách này như sau: "Việc nhập cư của chúng tôi dựa trên nguyên tắc rằng chúng tôi đang và có ý định duy trì là một quốc gia phát triển của châu Âu. Đó chắc chắn là sự phân biệt đối xử đối với người châu Á - thực tế là đối với tất cả những người không thuộc châu Âu hoàn toàn thuộc chủng tộc và màu da châu Âu. Trong khi chúng tôi đã làm nhiều việc để khuyến khích nhập cư từ châu Âu, chúng tôi làm mọi cách để ngăn cản dòng người nhập cư từ châu Á". Ở Nam Phi, sau khi chế độ Apartheid chấm dứt thì một số tổ chức dân tộc chủ nghĩa Afrikaner, bao gồm Afrikaner Weerstandsbeweging bắt đầu thúc đẩy ý tưởng về một "Volkstaat" sẽ được thành lập ở khu vực Miền Tây Hảo Vọng. Vào tháng 1 năm 2010, "Beeld", một tờ báo tiếng Nam Phi, đã tổ chức một cuộc khảo sát trực tuyến. Trong số 11.019 người được hỏi, có 56% (6.178 người) cho biết họ sẽ chuyển đến Volkstaat nếu khu vực này được thiết lập, hơn 17% (1.908 người) cho biết họ sẽ cân nhắc việc chuyển đến nó và 27% (2.933 người) cho biết họ sẽ không xem xét đến việc chuyển sang đó cư trú vì họ không tin rằng đó là một lựa chọn khả thi. Vào tháng 11 năm 1965, Thủ tướng Nam Rhodesia Ian Smith tuyên bố nền độc lập của Nam Rhodesia trong nỗ lực bảo tồn văn hóa da trắng bằng cách ngăn chặn người châu Phi da đen cai trị đất nước.
Quái nhân (Kaijin (quái nhân), Quái nhân) là thuật ngữ tiếng Nhật dùng để chỉ những ác nhân phi nhân loại sở hữu siêu năng lưc, tương đương với thuật ngữ supervillain trong tiếng Anh. Thuật ngữ này thường xuyên xuất hiện trong các tác phẩm kỳ ảo như anime, manga, light novel và đặc biệt là trong dòng phim tokusatsu của Nhật Bản. Quái nhân là những sinh vật kì lạ có siêu năng lực nhưng vẫn có đặc tính giống con người, như ngoại hình và tiếng nói. Ngược lại sinh vật kì lạ nhưng không có đặc tính của con người thì gọi là Quái vật (Kaibutsu (quái vật), Quái vật) hoặc Quái thú (Kaiju (quái thú), Quái thú).
Cục Chấp pháp và Quản lý Hành chính Đô thị Cục Chấp pháp và Quản lý Hành chính Đô thị, thường được viết tắt là Thành Quản (), là một cơ quan chính quyền địa phương được thành lập ở mọi thành phố tại Trung Quốc đại lục. Cơ quan này thường là một phần của Cục Quản lý Đô thị trực thuộc thành phố (). Nó chịu trách nhiệm thực thi công tác quản lý đô thị của thành phố. Điều này bao gồm các quy định của địa phương, quy định về diện mạo thành phố, môi trường, vệ sinh, an toàn lao động, kiểm soát ô nhiễm, sức khỏe và có thể liên quan đến việc thực thi quy hoạch, phủ xanh, công nghiệp và thương mại, bảo vệ môi trường, các vấn đề đô thị và nước ở các thành phố lớn. Cục Chấp pháp và Quản lý Hành chính Đô thị được thành lập vào năm 2001/2002 cho tất cả các thành phố lớn ở Trung Quốc đại lục nhằm cải thiện quản trị thành phố khi các thành phố trở nên đông đúc hơn và các vấn đề đô thị trở nên phức tạp hơn. Nhân viên của Cục là công chức không có quyền hành như cảnh sát. Các quan chức của cơ quan này có trách nhiệm trấn áp những người bán hàng rong không có giấy phép. Theo BBC, "Kể từ khi cơ quan này ra đời cách đây 10 năm, đã nhiều lần bị dư luận chỉ trích về việc họ sử dụng vũ lực quá mức. Lực lượng cảnh sát bán chuyên trách này, được trang bị mũ bảo hiểm bằng thép và áo chống đâm, thường được giới quan chức địa phương sử dụng làm người giải quyết vấn đề". Nhìn chung, Thành Quản đóng vai trò là cơ quan chính thức được các thành phố trên khắp Trung Quốc tuyển dụng "để giải quyết tội phạm cấp độ thấp". Tuy nhiên, cơ quan này bị người dân Trung Quốc không ưa vì thói lạm dụng quyền lực của họ. Dư luận chỉ trích. Hầu hết các vấn đề liên quan đến thói côn đồ của chính quyền không phải do lực lượng cảnh sát thông thường - lực lượng công an, vốn chịu trách nhiệm về an ninh công cộng - mà là lực lượng Thành Quản. Họ được huấn luyện kém, là những nhân viên thực thi pháp luật cấp thấp nhất, thường là những người vốn thất nghiệp. Chính quyền cho họ công việc thực thi những điều luật thông thường, như dọn dẹp các hàng quán đường phố không giấy phép. Thành Quản từng tham gia vào một số vụ án cấp cao làm nổi bật sự bất bình của công chúng đối với hành vi lạm dụng quyền lực của họ. Một vụ án cấp cao liên quan đến Thôi Anh Kiệt đã giết một người thuộc đội Thành Quản vào năm 2006 sau một cuộc đối đầu ở Bắc Kinh. Sự ủng hộ của công chúng đối với Thôi Anh Kiệt trước và trong phiên tòa có thể đã ảnh hưởng đến sự khoan hồng dành cho Thôi với bản án tử hình giảm nhẹ.#đổi Sau một vụ việc ở thành phố Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc vào tháng 1 năm 2008, trong đó giám đốc một công ty xây dựng tên là Ngụy Văn Hoa bị đánh chết vì quay phim hành động của Thành Quản trong một vụ tranh chấp địa phương về việc đổ rác, các cuộc kêu gọi trên toàn quốc đã được đưa ra. bãi bỏ đơn vị. Hàng nghìn tin nhắn được đăng tải trên Internet và các cuộc biểu tình đã diễn ra ở tỉnh Hồ Bắc. Cũng có một số quan chức Thành Quản cấu kết với tội phạm có tổ chức. Một báo cáo năm 2012 của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền ghi lại các hành vi lạm dụng của Thành Quản, "bao gồm hành hung những người bị nghi ngờ vi phạm luật hành chính, một số trong đó dẫn đến thương tích nghiêm trọng hoặc tử vong, giam giữ bất hợp pháp và tịch thu tài sản một cách bất hợp pháp". Có nhiều trường hợp vào năm 2011 và 2012 trên khắp Trung Quốc khi các sĩ quan cảnh sát bị các nhóm nhân viên Thành Quản tấn công khi ứng phó với các vụ việc Thành Quản sử dụng bạo lực và lạm dụng. Năm 2012, cơ quan Thành Quản ở Vũ Hán tuyên bố thành lập một sư đoàn nội bộ kiểu 'dân quân' hoặc bán quân sự. Năm 2013, người bán dưa hấu Đặng Chính Gia được cho là đã bị Thành Quản đánh chết bằng chính chiếc cân của mình. Thi thể của anh được người dân trên đường bảo vệ để ngăn chặn cơ quan chức năng thu giữ và "bảo quản bằng chứng". Bạo lực xảy ra sau đó. Các tiểu blog nổi tiếng đã kêu gọi chấm dứt cái được gọi là tổ chức "côn đồ" này. Năm 2014, một người đàn ông đang quay phim Thành Quản bạo hành một người phụ nữ bán hàng rong thì bị đánh đập dã man bằng búa cho đến khi nôn ra máu. Anh ta được tuyên bố đã chết trên đường đến bệnh viện. Năm sĩ quan Thành Quản bị người dân quây đánh dữ dội, và bốn người được xác nhận đã chết sau đó, kèm theo những bức ảnh được đăng trên Sina Weibo. Ảnh hưởng văn hóa. Do tiếng xấu này mà Thành Quản đã trở thành mục tiêu phổ biến của các trò đùa và meme trên mạng của công chúng Trung Quốc. Tạp chí "Time" đưa tin rằng việc đánh đập các viên chức Thành Quản đã trở thành tin tức phổ biến đến mức từ "Thành Quản" thậm chí còn mang một nghĩa khác trong tiếng Trung. "Đừng quá Thành Quản" là một lời kêu gọi không bắt nạt hoặc khủng bố. Nói cách khác từ, "Thành Quản" theo nghĩa đen đã trở thành đồng nghĩa với "bạo lực"."Thành Quản đến kìa!", một cụm từ thường được những người bán hàng rong bất hợp pháp hét lên để cảnh báo người khác bỏ chạy trong trường hợp có cuộc kiểm tra của Thành Quản, đã trở thành một điểm nhấn nổi tiếng trên mạng Internet của Trung Quốc. Ngoài ra còn có những câu nói đùa châm biếm rằng Thành Quản thực chất là lực lượng dự bị chiến lược bí mật của Trung Quốc, "chi nhánh thứ năm của Quân Giải phóng", vì khả năng gây ra "sự hủy diệt hàng loạt" của họ. Những câu nói như "Hãy cho tôi 300 Thành Quản, tôi sẽ chinh phụ" và "Trung Quốc cam kết không là nước đầu tiên sử dụng Thành Quản vào bất kỳ lúc nào hoặc trong bất kỳ trường hợp nào nhằm gìn giữ hòa bình và ổn định thế giới" đã lan truyền rộng rãi trong cộng đồng mạng Trung Quốc trong những năm gần đây. Cơ cấu hành chính. Cục này thường được cơ cấu thành hai văn phòng và sáu phòng ban.
Giải vô địch bóng rổ thế giới 2027 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Giải vô địch bóng rổ thế giới 2027 (tiếng Anh: "2027 FIBA Basketball World Cup", tiếng Ả Rập: كأس العالم لكرة السلة 2027) là giải đấu thứ 20 của Giải vô địch bóng rổ thế giới dành cho các đội tuyển bóng rổ nam do Liên đoàn Bóng rổ Quốc tế tổ chức. Giải đấu do Qatar đăng cai tổ chức và là giải đấu thứ 3 có 32 đội tham dự. Giải đấu này cũng đánh dấu lần đầu tiên Giải vô địch bóng rổ thế giới được tổ chức tại một quốc gia nằm trong khối Ả Rập, và cũng đánh dấu lần thứ 3 liên tiếp giải đấu được tổ chức tại châu Á sau Trung Quốc tại giải đấu năm 2019 cùng với liên minh Philippines, Nhật Bản và Indonesia tại giải đấu năm 2023. Qatar cũng trở thành quốc gia Hồi giáo thứ ba giành quyền đăng cai một Giải vô địch bóng rổ thế giới sau Thổ Nhĩ Kỳ tại giải đấu năm 2010 và Indonesia tại giải đấu năm 2023. Giải đấu được đánh dấu là vòng loại cho Thế vận hội Mùa hè 2024, với 2 đội xuất sắc nhất đến từ châu Mỹ và châu Âu, và đội tuyển xuất sắc nhất đến từ châu Âu, châu Á và châu Đại Dương, vượt qua vòng loại cùng với đội chủ nhà Hoa Kỳ. Đức là nhà đương kim vô địch của giải đấu, sau khi đánh bại Serbia với tỷ số 83–77 tại trận chung kết của giải đấu năm 2023. Lựa chọn chủ nhà. Trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương FIBA tại Khu vực Đại đô thị Manila, Philippines diễn ra vào ngày 28 tháng 4 năm 2023, FIBA ​​​​đã thông báo rằng Qatar sẽ giành quyền đăng cai giải đấu vào năm 2027. Quốc gia chủ nhà được lựa chọn thông qua một cuộc bỏ phiếu nhất trí. Với tư cách là đội chủ nhà của giải đấu, Qatar được đặc cách tham dự giải đấu. 80 đội tuyển thuộc 4 khu vực của FIBA tham dự vòng loại của giải đấu sau khi đã vượt qua vòng loại của các giải đấu thuộc các cấp độ châu lục (Giải vô địch bóng rổ châu Phi 2025, Giải vô địch bóng rổ châu Mỹ 2025, Giải vô địch bóng rổ châu Á 2025, Giải vô địch bóng rổ châu Âu 2025). Đối với khu vực châu Âu và châu Mỹ, các đội không vượt qua vòng loại châu lục sẽ phải tham dự vòng sơ loại tại các khu vực nói trên. Đối với khu vực châu Á/châu Đại Dương và châu Phi, các đội tuyển tham dự Giải vô địch bóng rổ châu Phi và Giải vô địch bóng rổ châu Á sẽ tham dự vòng loại ở cả hai châu lục này. Vòng loại thứ nhất của vòng loại các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương sẽ có 16 đội, trong khi châu Âu có 32 đội tham dự. Các đội thi đấu ở nhóm A được chia thành các bảng đấu có 4 đội, thi đấu theo thể thức thể thức vòng tròn một lượt tính điểm, thi đấu trên sân nhà – sân khách. 3 đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé vào vòng loại thứ hai, các đội được chia thành 10 bảng, bao gồm 4 bảng đấu thuộc khu vực châu Âu và các khu vực châu Phi, châu Mỹ và châu Á/châu Đại Dương, mỗi khu vực 2 bảng đấu. Các đội vẫn sẽ giữ nguyên số điểm mình có được từ vòng 1 và sẽ gặp 3 đội tuyển còn lại ở trong các bảng đấu khác vẫn theo thể thức thi đấu trên sân nhà – sân khách. 31 đội tuyển xuất sắc nhất sẽ giành vé tham dự Giải vô địch bóng rổ thế giới 2027, cùng với đội chủ nhà Qatar. Địa điểm thi đấu. Trong một đoạn video chính thức về việc đấu thầu đăng cai cho giải đấu, Qatar đề xuất 4 địa điểm để tổ chức giải đấu. Theo FIBA, Qatar được lựa chọn là quốc gia đăng cai giải đấu do cả 4 địa điểm được đề xuất đều nằm "ở cùng một thành phố" và di chuyển cách nhau 30 phút. Có 3 trong số 4 địa điểm trên, bao gồm Nhà thi đấu Thể thao Lusail, Nhà thi đấu Ali Bin Hamad al-Attiyah và Nhà thi đấu bóng ném Duhail, nơi đã từng tổ chức thành công Giải vô địch bóng ném nam thế giới 2015. Aspire Dome là một nhà thi đấu đa năng được xây dựng để tổ chức nhiều môn thể thao trong cùng một sự kiện. Nhà thi đấu này đã từng tổ chức thành công Đại hội Thể thao châu Á 2006, Giải vô địch điền kinh trong nhà thế giới 2010 và Giải vô địch thể dục nghệ thuật thế giới 2018. Cả 4 địa điểm này đều sẽ tiếp tục được sử dụng cho Đại hội Thể thao châu Á 2030. Sự chuẩn bị của Qatar trước giải đấu. Buổi lễ bàn giao diễn ra trong thời gian nghỉ giữa giờ ở trận chung kết của giải đấu năm 2023 giữa Đức và Serbia tại Nhà thi đấu SM Mall of Asia Arena, Pasay, Philippines chính thức bàn giao quyền đăng cai giải đấu từ ba nước chủ nhà – Philippines, Nhật Bản và Indonesia sang Qatar. Các thành viên của Hội đồng Trung ương FIBA là Manuel V. Pangilinan (người Philippines), Yuko Mitsuya (người Nhật Bản) và thành viên của Hội đồng Đại diện Nhân dân Budi Djiwandono (người Indonesia) đã chuyền bóng cho Chủ tịch của FIBA ​​​​lúc đó là Hamane Niang (người Mali), sau đó chuyền cho Chủ tịch Liên đoàn bóng rổ Qatar kiêm Giám đốc Tiếp thị và Truyền thông của ​​​​Ủy ban Olympic Qatar Mohammed Saad Al Sheikha Asma Al Thani. Thể thức thi đấu. Tương tự như 2 giải đấu vào năm 2019 và 2023, giải đấu sẽ thi đấu với 3 giai đoạn - giai đoạn vòng bảng, vòng 2 và vòng cuối cùng. Ở giai đoạn vòng bảng, 32 đội tuyển sẽ được chia thành 8 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội (A–H), các đội cùng bảng sẽ thi đấu theo thể thức vòng tròn một lượt tính điểm. Hai đội đầu bảng sẽ giành vé vào vòng 2, còn hai đội cuối bảng sẽ phải thi đấu vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí từ 17 đến 32. Ở vòng 2, sẽ có 4 bảng đấu (I–L) mỗi bảng 4 đội đi tiếp từ giai đoạn vòng bảng, 2 đội cùng bảng ở giai đoạn vòng bảng không gặp nhau ở vòng này, họ sẽ gặp 2 đội tuyển xuất sắc nhất ở bảng đấu khác (ví dụ như 2 đội ở bảng A gặp 2 đội ở bảng B) và gặp nhau một lần. Hai đội đứng đầu mỗi bảng sẽ giành vé tham dự vào vòng cuối cùng. Các đội bị loại ở tứ kết sẽ gặp nhau tại vòng phân hạng để xác định các đội xếp vị trí thứ 5 đến thứ 8.
templatestyles src="Infobox road/" /#đổi Giao lộ Hagui (Tiếng Hàn: 학의 분기점, 학의JC) còn được gọi là Hagui JC là giao lộ nơi Đường cao tốc vành đai 1 vùng thủ đô và Bongdamgwacheon-ro, được xây dựng trên Cheonggye-dong, Hagui-dong, Naeson-dong và Poil-dong, Uiwang-si, Gyeonggi-do. Trong trường hợp Đường cao tốc vành đai 1 cùng thủ đô, nó nằm trên Cầu Hagui. Thông tin cấu trúc. Nó có dạng cụm cỏ ba lá, với các đoạn dốc theo hướng ra khỏi Bongdamgwacheon-ro cuộn tròn thành vòng tròn, công trình đi qua Anyangpangyo-ro.
Hãnh diện da trắng Hãnh diện da trắng ("White pride") là niềm kiêu hãnh của người da trắng và quyền lực của người da trắng với những biểu hiện chủ yếu được các tổ chức theo thuyết người da trắng thượng đẳng, chủ nghĩa dân tộc da trắng, chủ nghĩa phát xít, Chủ nghĩa Tân quốc xã và chủ nghĩa thượng đẳng của người da trắng sử dụng nhằm kêu gọi quan điểm phân biệt chủng tộc hoặc nghiên cứu về phân biệt chủng tộc. Nó cũng là khẩu hiệu được nhóm Stormfront nổi tiếng hậu Ku Klux Klan sử dụng và là một thuật ngữ được sử dụng để làm cho quan điểm phân biệt chủng tộc/chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trở nên dễ chấp nhận hơn đối với công chúng, những người có thể có tiền sử liên hệ đến các hành vi lạm dụng với các thuật ngữ chủ nghĩa dân tộc da trắng, chủ nghĩa phát xít mới và người theo chủ nghĩa da trắng thượng đẳng. Một số người ủng hộ luận điểm quyền lực thuộc về người da trắng đã cam kết lật đổ chính phủ Hoa Kỳ và thành lập một quốc gia dân tộc da trắng bằng cách sử dụng các chiến thuật bán quân sự. Phong trào quyền lực của người da trắng ("White power movement") nổi lên từ thời kỳ Việt Nam có chung một số đặc điểm chung với các phong trào phân biệt chủng tộc trước đó ở Hoa Kỳ, nhưng nó không chỉ đơn thuần là gây tiếng vang. Không giống như các lần lặp lại trước đây của Ku Klux Klan và chủ nghĩa thượng đẳng của người da trắng, phong trào quyền lực của người da trắng không tuyên bố phục vụ chính quyền nhà nước, thay vào đó, quyền lực của người da trắng coi chính quyền nhà nước là mục tiêu tranh đấu của mình, tuyên chiến chống lại chính phủ liên bang vào năm 1983. Các nhà xã hội học Betty A. Dobratz và Stephanie L. Shanks-Meile đã xác định tuyên ngôn tranh đấu "Quyền lực của người da trắng! Niềm hãnh diện của người da trắng!" ("White Power! White Pride!") là "một câu khẩu hiệu được sử dụng nhiều của những người ủng hộ phong trào thượng đẳng da trắng". Các nhà khoa học chính trị và xã hội thường lập luận rằng ý tưởng về "niềm hãnh diện của người da trắng" là một nỗ lực nhằm mang lại một bộ mặt công chúng trong sạch hoặc dễ chấp nhận hơn cho quyền lực tối cao của người da trắng hoặc chủ nghĩa thượng tôn của người da trắng và đó là lời kêu gọi đối tượng rộng rãi hơn với hy vọng kích động bạo lực chủng tộc lan rộng hơn.
Salamander (sinh vật thần thoại) Salamander là một sinh vật thần thoại có hình dạng giống thằn lằn và được cho là có ái lực với lửa, đặc biệt là nguyên tố hỏa. Salamander thường đi cùng với Undine, Gnome và Sylph là bốn tinh linh đại diện cho bốn nguyên tố cổ điển. Truyền thuyết thời Trung cổ và Phục hưng. Loài sinh vật thần thoại này có những phẩm chất tuyệt vời mà các nhà phê bình thời cổ đại, trung cổ gán cho loài kỳ nhông ngoài tự nhiên. Nhiều phẩm chất trong số này bắt nguồn từ những đặc điểm có thể kiểm chứng được của sinh vật tự nhiên nhưng thường bị phóng đại. Một số lượng lớn truyện thần thoại, thần thoại và biểu tượng đã kể về loài sinh vật này qua nhiều thế kỷ. Trong văn hóa Châu Âu, Salamander thường được miêu tả là một con thằn lằn (hoặc rồng) được bao bọc bởi một ngọn lửa hừng hực. Francis I của Pháp đã sử dụng Salamander làm biểu tượng cá nhân của mình.
2 ngày 1 đêm (mùa 2) Mùa thứ hai của chương trình trải nghiệm thực tế 2 ngày 1 đêm do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Đông Tây Promotion phối hợp thực hiện, được phát sóng trên kênh HTV7 và ứng dụng VieON với các thành viên chính là Trường Giang, Kiều Minh Tuấn, Ngô Kiến Huy, Lê Dương Bảo Lâm, Cris Phan và HIEUTHUHAI. Tập đầu tiên của mùa thứ hai lên sóng vào ngày 1 tháng 10 năm 2023. Bên cạnh khẩu hiệu "Tự do tự lo" như mùa đầu tiên, mùa thứ hai được thực hiện với 3 tiêu chí: "Nhân đôi khổ đau, nhân đôi bất ngờ và nhân đôi niềm vui". Sáu thành viên của mùa đầu tiên đều được xác nhận trở lại trong mùa thứ hai.
Sylph (còn gọi là Sylphid) là tinh linh gió bắt nguồn từ các tác phẩm thế kỷ 16 của Paracelsus, Sylph được mô tả là những sinh vật vô hình và là đại diện của nguyên tố không khí. Các tác phẩm văn học và kỳ ảo đã lấy cảm hứng từ khái niệm của Paracelsus. Sylph được nhắc đến trong cuốn tiểu thuyết tiếng Đức Simplicius Simplicissimus năm 1668, mặc dù tác giả dường như coi họ là những tinh linh nước. Một trong những cuộc thảo luận nổi tiếng nhất về Sylpj đến từ Alexander Pope. Trong bài thơ của Pope, nhân vật nữ chính Belinda được một đội quân sylph bé nhỏ theo dõi, họ chăm sóc và bảo vệ vẻ đẹp của cô. Sự tương đồng với Tiên tộc. Sylph được kết hợp với tiên tộc trong trong vở ballet La Sylphide, cũng như sự đồng nhất của họ với tiên tộc trong truyền thuyết thời trung cổ về xứ sở thần tiên. "Sylph" đã được sử dụng trong ngôn ngữ chung như một thuật ngữ để chỉ các linh bé nhỏ, tinh linh nguyên tố hoặc biểu tượng của không khí. Các tác phẩm kỳ ảo đôi khi nhắc đến Sylph trong tác phẩm của họ.
Undine (cũng gọi là Ondine) là một tinh linh gắn liền với nguyên tố thủy, xuất phát từ các tác phẩm về giả kim thuật của Paracelsus. Các nhà văn sau này đã miêu tả Undine thành một thủy tinh linh đúng nghĩa, họ liên tục được nhắc đến trong văn học và nghệ thuật hiện đại, cũng như các tác phẩm kỳ ảo. Thuật ngữ Undine lần đầu tiên xuất hiện trong các tác phẩm giả kim của Paracelsus, một nhà giả kim và bác sĩ thời Phục hưng. Tinh linh nguyên tố. Paracelsus tin rằng mỗi nguyên tố trong số bốn nguyên tố cổ điển gồm thổ, thủy, phong, hỏa đều là nơi sinh sống của các tinh linh khác nhau. Bao gồm Undine của nước, Salamander của lửa, Gnome của đất, Sylph của gió. Ông mô tả những tinh linh nguyên tố là "những thực thể tâm linh, vô hình của thiên nhiê, con người không thể biết đến tinh linh vì các giác quan của con người không có khả năng hoạt động vượt quá giới hạn của nhân giới."
Mặc Kỳ Lân ( Phồn thể: 穿獨角獸 ; Giản thể: 穿独角兽 ; Bính âm: "Chuān dú jiǎo shòu") hay còn gọi là Hắc Kỳ Lân là con Kỳ Lân mà Thái Sư Văn Trọng cưỡi trong truyện Phong Thần Diễn Nghĩa. Con Hắc Kỳ Lân trước kia là của bà Kim Linh Thánh Mẫu, là sư phụ của Thái Sư Văn Trọng. Sau khi từ biệt Văn Trọng, Kim Linh Thánh Mẫu đã để lại con Hắc Kỳ Lân cho Văn Trọng cưỡi, con kỳ lân này có thể bay 59 dặm không biết mệt, còn biết phun lửa thần ( loại lửa có thể đốt mọi thứ, gọi là lửa tam muội ) Trong Phong Thần Diễn Nghĩa. Hắc Kỳ Lân luôn đi theo Văn Trọng mọi nơi, và đã giúp Văn Trọng đánh bại rất nhiều kẻ địch như Dao Cách, Ngụy Bô, hình tượng của Văn Trọng là một người đàn ông 3 con mắt, cưỡi một con Kỳ Lân Đen. Về sau khi Văn Trọng trốn khỏi thành Tây Kỳ, Hắc Kỳ Lân đã chết cùng chủ ở núi Ngũ Long.
Âu tâm luận ("Eurocentrism") hay chủ nghĩa trọng Âu ("Eurocentricity") là thuyết lấy châu Âu làm trung tâm hoặc chủ nghĩa lấy phương Tây làm trung tâm ("Western-centrism"), đây là một thế giới quan tâm điểm vào nền văn minh phương Tây hoặc một quan điểm thiên vị và ủng hộ văn minh phương Tây vượt trội hơn các nền văn minh phi phương Tây. Phạm vi chính xác của Âu tâm luận thay đổi từ toàn bộ thế giới phương Tây đến lục địa Châu Âu hoặc thậm chí hẹp hơn là Tây Âu (đặc biệt là trong Chiến tranh Lạnh). Khi thuật ngữ này được áp dụng trong lịch sử, nó có thể được sử dụng để chỉ quan điểm đối với chủ nghĩa thực dân châu Âu và các hình thức chủ nghĩa đế quốc khác. Thuật ngữ "Châu Âu là trung tâm" có từ cuối những năm 1970 nhưng nó không trở nên phổ biến cho đến những năm 1990, khi nó thường được áp dụng trong bối cảnh phi thực dân hóa và phát triển cũng như viện trợ nhân đạo mà các nước công nghiệp hóa cung cấp cho các nước đang phát triển. Thuật ngữ này kể từ đó đã được sử dụng để phê bình các câu chuyện về sự tiến bộ, phồn vinh và vượt trội của phương Tây, đồng thời, các học giả phương Tây đã hạ thấp và phớt lờ, phủ nhận những giá trị, đóng góp không phải của phương Tây và để đối chiếu các nhận thức luận phương Tây với tri thức, cách hiểu biết của người bản địa (kiến thức và văn hóa truyền thống). Xuất phát từ thiên hướng bẩm sinh của chủ nghĩa trọng Âu hay Âu tâm luận đối với nền văn minh phương Tây đã dẫn đến việc tạo ra khái niệm ""Xã hội Châu Âu" ủng hộ các thành phần (chủ yếu là Cơ đốc giáo) của nền văn minh Châu Âu và cho phép những người theo chủ nghĩa trọng Âu gọi các xã hội và nền văn hóa khác nhau là "không văn minh"". Âu tâm luận vẫn để lại di chứng, với thói duy khoa học và cái nhìn Âu tâm luận thì người ta coi phương Đông mà phần lớn là thuộc địa của người châu Âu, là một xứ sở lạc hậu, cần được khai phá văn minh (sứ mệnh khai hóa văn minh) nên mọi tiếp xúc, nghiên cứu học hỏi nền văn hóa thấp kém bản địa đều bị coi là kỳ dị, thậm chí là xúc phạm. Chủ nghĩa trọng Âu đã ăn sâu vào tâm khảm trên nhiều mặt. Một thí nghiệm trên trẻ em Mexico năm 2012 cho thấy chủ nghĩa trọng Âu đã ăn sâu vào các nền văn hóa khác nhau, bao gồm cả các nền văn hóa Mỹ Latinh. Bất chấp thời đại thực dân kiểu cũ đã trở thành lịch sử, khi ta nhắc đến từ quốc tế, trong nhiều trường hợp nó đơn giản nhằm ám chỉ phương Tây chẳng hạn Luật quốc tế trong quá khứ, nó được đặt ra bởi người phương Tây để hợp pháp hóa công cuộc khai thác thuộc địa. Ở thời hiện đại, nó cũng không có nhiều tác dụng với thế giới thứ ba, nó hướng tới chống khủng bố, bảo vệ quyền lợi của những siêu tập đoàn và chế độ nhân quyền quốc tế chỉ là sự bày vẽ của phương Tây, một hình thức mới của chủ nghĩa đế quốc mà lần này là trên phương diện đạo đức được dùng để xuất khẩu gói văn hóa phương Tây. Các nhà báo đã phát hiện ra tâm lý Âu tâm luận trong các phản ứng trước cuộc xâm lược Ukraina của Nga vào tháng 2 năm 2022, khi tần suất, tâm điểm và phạm vi đưa tin cũng như mối quan ngại về cuộc chiến này tương phản với các cuộc chiến tranh đương đại kéo dài hơn, đẫm máu hơn và tàn khốc hơn bên ngoài châu Âu như ở Syria và ở Yemen. Nhiều người Việt sính ngoại, sùng Tây cũng không sớm nhận ra sai lầm của tư tưởng Âu tâm luận từng khá phổ biến trong nghiên cứu ngôn ngữ học nói riêng và nghiên cứu khoa học nói chung ở Việt Nam. Cũng có những chế giễu về thói "chuộng tây", "sính ngoại" như một kiểu me tây dẫn đến thói lai căng. Ngày nay, sự bùng nổ của trường quốc tế hay mang danh quốc tế tại châu Á dường như phản ảnh khao khát bắt kịp châu Âu trong một thế giới theo chủ nghĩa trọng Âu vì văn minh châu Âu với những trào lưu triết học khai phóng con người đã đẩy lục địa này đi trước một quãng dài. Hệ thống giáo dục quốc tế lấy giáo dục phương Tây làm tiêu chuẩn không chỉ bởi phần lớn hoặc toàn bộ các môn học được học bằng tiếng Anh và cốt lõi giáo dục của nó đậm đặc tư tưởng phương Tây từ thời Socrates, Plato, coi tri thức không đến từ việc dạy mà đến từ việc hỏi, khác xa so với truyền thống giáo dục Đông Á và bản chất trường quốc tế buộc nó phải bứt mình ra khỏi những giá trị bản địa vì người ta học trường quốc tế là để tạo bước đà học lên cao hơn ở các trường đại học Mỹ hay châu Âu. Giáo sư Lịch sử và Khảo cổ học tại Đại học Stanford là Ian Morris có tác phẩm ""Tại sao Phương Tây vượt trội"?", Morris đã đặt câu hỏi: Thế nào là sự vượt trội? Morris đã xây dựng bốn tiêu chí để đánh giá về trình độ phát triển xã hội của các nền văn minh gồm: khả năng hấp thu năng lượng, trình độ quy hoạch đô thị, khả năng truyền đạt thông tin và khả năng gây chiến tranh. Điểm đặc biệt của Morris là ông đã áp dụng những phương pháp của thống kê toán học để lượng định chúng và thể hiện các kết quả trên các biểu đồ. Nhìn vào các biểu đồ đều thấy sự vượt trội của Phương Tây so với Phương Đông xuyên suốt chiều dài lịch sử theo biểu đồ khoảng thời gian từ năm 14000TCN - 2000SCN, một khoảng thời gian dài đến 16000 năm). Ian Morris đã đứng trên lập trường tư tưởng bất định để giải quyết vấn đề, ông đã tuyên bố rằng vấn đề Phương Tây thống lĩnh thế giới trong năm 2000 đơn giản chỉ là một vấn đề xác suất chứ không phải ngẫu nhiên hay tất định, vấn đề Phương Tây thống lĩnh thế giới trong năm 2000 chỉ là là vấn đề mang tính xác suất. Tiêu chuẩn vẻ đẹp. Phân biệt chủng tộc giả khoa học đôi khi được gọi là sinh lý học chủng tộc là lòng tin rằng có các bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho sự phân biệt chủng tộc, để kết luận rằng có các chủng tộc thấp kém và chủng tộc siêu việt. Phân biệt chủng tộc giả khoa học cũng viện tới nhân chủng học (đáng kể nhất là nhân chủng học hình thể), nhân trắc học (khoa học về phép đo đạc cơ thể người-Anthropometry), dân tộc học, tiến hóa học và một số ngành khoa học khác, để đưa ra các phân loại nhân chủng chia con người thành những loại riêng rẽ hoặc ưu việt hơn, hoặc thấp kém hơn. Thứ giả khoa học này đã rất phổ biến trong giai đoạn từ những năm 1600 cho tới khi Thế chiến II bắt đầu. Nhưng trong nửa sau thế kỷ 20, lòng tin đó đã bị bác bỏ dứt khoát là lỗi thời và không có cơ sở khoa học. Lòng tin về sự hơn kém giữa các chủng tộc đó được hỗ trợ bằng một thứ giả khoa học (pseudoscience) đã bị bác bỏ từ lâu. Do ảnh hưởng chủ nghĩa thực dân, chuẩn mực vẻ đẹp lý tưởng của Châu Âu đã có mức độ ảnh hưởng khác nhau đến nền văn hóa của các quốc gia không thuộc phương Tây. Ảnh hưởng đến chuẩn mực sắc đẹp trên toàn cầu thay đổi tùy theo khu vực, trong đó lý tưởng lấy châu Âu làm trung tâm có tác động tương đối mạnh ở Nam Á nhưng ít hoặc không có tác động ở Đông Á. Tuy vậy, tiêu chuẩn sắc đẹp châu Âu cũng đang giảm bớt ở Hoa Kỳ, đặc biệt là với sự thành công của các người mẫu nữ châu Á, điều này có thể báo hiệu sự thoái trào trong vai trò bá chủ của tiêu chuẩn sắc đẹp lý tưởng của người Mỹ da trắng. Ở Việt Nam, tiêu chuẩn về vẻ đẹp Châu Âu lý tưởng đã bị công khai chối bỏ vì phụ nữ địa phương coi tiêu chuẩn về vẻ đẹp của phụ nữ phương Tây (mấy bà Đầm) là thừa cân, to xác, nảy nở, phốp pháp là không duyên dáng, yểu điệu. Ở Đông Á, tác động của Âu tâm luận trong các quảng cáo làm đẹp là không đáng kể, thậm chí còn có xu hướng các quảng cáo địa phương cho các sản phẩm dành cho phụ nữ còn người mẫu châu Âu được thuê thực hiện cho khoảng một nửa số quảng cáo cho các thương hiệu châu Âu như Estee Lauder và L'Oreal, trong khi các thương hiệu mỹ phẩm địa phương của Nhật Bản có xu hướng chỉ sử dụng người mẫu nữ Đông Á. Việc sử dụng người mẫu nữ châu Âu thực sự đã giảm ở Nhật Bản và một số công ty chăm sóc da của Nhật Bản đã ngừng hoàn toàn việc sử dụng người mẫu nữ phương Tây, trong khi những công ty khác thậm chí còn quan niệm phụ nữ da trắng rõ ràng là thua kém so với phụ nữ châu Á. Người Nhật có niềm tin rằng làn da của phụ nữ Nhật nuột nà nõn nường hơn phụ nữ da trắng và việc người mẫu nữ châu Âu xuất hiện trong các quảng cáo địa phương không phản ánh bất kỳ địa vị đặc biệt nào của phụ nữ da trắng ở Nhật Bản. Làm sáng da đã trở thành một thói quen phổ biến ở một số quốc gia. Một nghiên cứu cho thấy, ở Tanzania thì động cơ sử dụng các sản phẩm làm sáng da là để trông "giống Âu" hơn hay chứng cuồng da trắng ở Ấn Độ. Tuy nhiên, ở Đông Á thì tục lệ này đã bắt đầu từ rất lâu trước khi tiếp xúc với người châu Âu đó là quan niệm làn da rám nắng có liên quan đến công việc của tầng lớp thấp hơn và do đó thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, trong khi có làn da lợt nhợt nhạt biểu thị thuộc về tầng lớp thượng lưu (""nắng không tới mặt, mưa không tới đầu", "trắng da dài tóc"). Phẫu thuật thẩm mỹ rất phổ biến ở Hàn Quốc được mệnh danh là "thủ đô phẫu thuật thẩm mỹ của thế giới"" tại đây, tỷ lệ phẫu thuật thẩm mỹ ở Hàn Quốc không bắt nguồn từ tiêu chuẩn sắc đẹp phương Tây mà thay vào đó chủ yếu là do các yếu tố khác, chẳng hạn như sự không hài lòng nói chung về ngoại hình và cơ hội tốt hơn trên thị trường việc làm. Theo Hiệp hội Phẫu thuật Thẩm mỹ Quốc tế, Hàn Quốc có tỷ lệ phẫu thuật thẩm mỹ bình quân đầu người cao nhất năm 2014 và các thủ thuật được yêu cầu nhiều nhất là phẫu thuật tạo hình mí mắt và nâng mũi, một thủ thuật khác được thực hiện ở Hàn Quốc là phẫu thuật cắt bỏ cơ dưới lưỡi nối với đáy miệng mà cha mẹ cho con phẫu thuật để phát âm tiếng Anh tốt hơn.
Vào tháng 9 năm 2022, Carboni được "The Guardian" đưa vào danh sách 60 tài năng xuất sắc nhất thế giới sinh năm 2005. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sinh ra ở Buenos Aires, thời thơ ấu Carboni đã chơi futsal tại đội cơ sở Club Lafuente ở Lanús; năm 2013, khi mới 8 tuổi, anh bắt đầu chơi bóng khi gia nhập học viện trẻ của Lanús. Vào tháng 7 năm 2019, Carboni gia nhập đội trẻ của đội bóng nước Ý Catania, cùng với anh trai Franco và cha Ezequiel, người vừa đảm nhận cả hai vai trò huấn luyện viên đội trẻ và trưởng bộ phận phát triển đội trẻ của câu lạc bộ. Một năm sau, sau khi thu hút được sự quan tâm của một số câu lạc bộ nổi tiếng ở châu Âu, tiền vệ này và anh trai đều gia nhập câu lạc bộ Serie A Inter Milan với mức phí chuyển nhượng ước tính 300.000 euro. Carboni nhanh chóng vượt qua cấp độ trẻ "Nerazzurri", trở thành một phần của đội U-19 kể từ đầu mùa giải 2021–22 và giúp đội giành chức vô địch U-19 quốc gia vào năm 2022. Khi bắt đầu mùa giải 2022–23, trong khi tiếp tục góp mặt cho đội Primavera ở giải quốc gia và UEFA Youth League, Carboni bắt đầu tập luyện với đội một của Inter Milan dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên trưởng Simone Inzaghi. Tiền vệ này sau đó đã ra mắt đội chuyên nghiệp vào ngày 1 tháng 10 năm 2022, lúc 17 tuổi 206 ngày, vào sân thay cho Federico Dimarco ở phút thứ 88 trong trận thua 2–1 trước Roma. Sau đó, vào ngày 1 tháng 11, anh có trận ra mắt UEFA Champions League, thay thế Joaquín Correa ở phút thứ 76 trong trận thua 2–0 ở vòng bảng trước Bayern Munich. Vào tháng 7 năm 2023, Carboni ký hợp đồng mới dài hạn với Inter Milan. Cho mượn đến Monza. Vào ngày 15 tháng 7 năm 2023, Carboni chính thức gia nhập câu lạc bộ Serie A Monza theo dạng cho mượn kéo dài một mùa giải. Sự nghiệp quốc tế. Nhờ có hai quốc tịch, Carboni đủ điều kiện đại diện cho cả Ý và Argentina ở cấp độ quốc tế. Năm 2019, anh tham gia một số trại huấn luyện cùng đội tuyển U-15 quốc gia Ý; sau đó, anh tiếp tục chơi cho đội tuyển U-17 quốc gia Ý từ năm 2021 đến năm 2022. Vào tháng 3 năm sau, anh chuyển sang thi đấu cho Argentina và được triệu tập chính thức lần đầu lên đội tuyển quốc gia Argentina cùng anh trai, sau khi được đưa vào danh sách sơ bộ cho các trận đấu vòng loại FIFA World Cup 2022 với Venezuela và Ecuador. Vào tháng 5 năm 2022, anh được huấn luyện viên trưởng Javier Mascherano đưa vào đội tuyển U-20 Argentina tham dự Giải Maurice Revello ở Pháp, khi "Albiceleste" cuối cùng cán đích ở vị trí thứ năm, sau khi giành chiến thắng trong trận play-off với Nhật Bản. Vào tháng 10 năm 2022, anh được huấn luyện viên trưởng Lionel Scaloni đưa vào đội hình sơ bộ của Argentina tham dự FIFA World Cup 2022 tại Qatar, dù không lọt vào danh sách 26 người cuối cùng. Vào tháng 3 năm 2023, anh lại được gọi vào đội tuyển quốc gia Argentina để thi đấu hai trận giao hữu với Panama và Curaçao. Vào tháng 5 cùng năm, anh được đưa vào đội hình cuối cùng tham dự Giải vô địch bóng đá U-20 thế giới 2023 tại Argentina. Trong trận ra mắt vào ngày 20 tháng 5, anh ghi bàn mở tỷ số trong chiến thắng 2-1 trước Uzbekistan. Phong cách thi đấu. Carboni là một tiền vệ tấn công thuận chân trái, chủ yếu hoạt động ở vai trò số 10, nhưng cũng có thể chơi ở vị trí tiền đạo trung tâm, tiền vệ cánh lùi ở cánh phải hoặc tiền vệ trung tâm ("mezzala"). Là một cầu thủ thanh lịch, điềm tĩnh và sáng tạo, anh thường xuyên di chuyển giữa các tuyến tấn công của đội mình, bất kể khi đang giữ quyền kiểm soát bóng, tìm kiếm đồng đội qua những đường chuyền hoặc pha phối hợp chạm đầu tiên, hoặc trực tiếp thực hiện cú sút từ cự ly ngắn hoặc xa. Mặc dù chủ yếu được đánh giá cao nhờ những đóng góp trong tấn công, nhờ tầm nhìn, kỹ thuật cá nhân và kỹ năng rê bóng, Carboni cũng đã chứng tỏ được hiệu quả trong khía cạnh phòng thủ, đặc biệt là nhờ tốc độ thi đấu của anh. Anh coi người đồng hương Lionel Messi là nguồn cảm hứng lớn nhất của mình. Tháng 9 năm 2022, Carboni được "The Guardian" đưa vào danh sách 60 tài năng xuất sắc nhất thế giới sinh năm 2005. Carboni là con trai của cựu cầu thủ bóng đá người Argentina Ezequiel Carboni. Anh trai Franco của anh (sinh năm 2003) cũng là một cầu thủ bóng đá: cả hai đã thi đấu cùng nhau ở đội trẻ Lanús, Catania và Inter Milan. Anh còn có hai người em là Cristiano (sinh năm 2009) và Alma (sinh năm 2016). "Tính đến 19 tháng 8 năm 2023"
Chủ nghĩa đa dân tộc Chủ nghĩa đa dân tộc là sự cùng tồn tại của hai hay nhiều nhóm dân tộc (cộng đồng) cùng sống trong một chính thể. Khái niệm này nhằm chỉ đến quốc gia có nhiều cộng đồng, mà mỗi cộng đồng có văn hóa, ngôn ngữ, nguồn gốc, lịch sử riêng; phân biệt với quốc gia có nhiều sắc tộc. Từ khái niệm này, nhà nước đa dân tộc tồn tại khi một quốc gia có nhiều nhóm dân tộc mà không nhóm nào chiếm ưu thế hơn hẳn. Nền dân chủ đa dân tộc công nhận các cơ quan cầm quyền của những cộng đồng khác nhau, thậm chí là một nhóm người tự quản. Nhà nước đa dân tộc giúp tránh sự chia rẽ trong xã hội vì quan điểm chính trị. Trong nhà nước đa dân tộc, công dân có thể mang quốc tịch theo nhóm dân tộc của mình bên cạnh quốc tịch truyền thống. Thuật ngữ này được ghi nhận lần đầu vào thập niên 1980, xuất phát từ phong trào chính trị của những người bản địa ở Bolivia. Tính đến năm 2022, Bolivia và Ecuador là nhà nước đa dân tộc được hiến định. Năm 2009, Quốc hội Bolivia thông qua hiến pháp mới và đổi tên nước thành Nhà nước Đa dân tộc Bolivia, xuất phát từ thực tế nước này có nhiều sắc dân bản địa, các nhóm người bản địa có quyền tự quyết từ lâu trong lịch sử; và các nhóm này cần được trao thêm quyền. Hiến pháp năm 2009 công nhận nhiều quyền tự chủ ở cấp địa phương và ở các vùng, kêu gọi phát triển một nền kinh tế hỗn hợp giữa sở hữu nhà nước, tư nhân, và các cộng đồng bản địa. Chủ nghĩa đa dân tộc vẫn là một chủ đề được tranh cãi gay gắt ở Chile. Chính quyền của tổng thống Michelle Bachelet (2014–2018) đề xuất cải cách hiến pháp nhưng không xem xét tính đa dân tộc theo yêu cầu của các nhóm người bản địa. Năm 2022, dự thảo hiến pháp Chile được công bố để người dân tham gia thảo luận, nhưng đề xuất về tính đa dân tộc đã bị bác bỏ và không xuất hiện trong bản thảo này. Trước khi đề xuất thành lập một nước Chile đa dân tộc bị bác bỏ, đây là một vấn đề thu hút sự quan tâm của dư luận, đặc biệt là khi những người bản địa muốn lập một vùng tự quản ở miền nam Chile nhằm giải quyết xung đột giữa người Mapuche với chính quyền Chile. Cựu đại sứ Chile ở Israel José Rodríguez Elizondo chỉ trích đề xuất này, cho rằng đây là một nước đi của Bolivia nhằm chống lại quyền tiếp cận chủ chủ quyền Thái Bình Dương của Chile.
Triều đại Shunga (IAST: Śuṅga) là triều đại thứ 7 của Magadha và kiểm soát hầu hết phía Bắc của tiểu lục địa Ấn Độ từ khoảng năm 185 đến 73 trước Công nguyên. Vương triều được thành lập bởi Pushyamitra Shunga, sau khi giành lấy ngai vàng của Magadha từ tay Đế quốc Maurya. Kinh đô của Đế quốc Shunga là Pataliputra, nhưng các hoàng đế sau này như Bhagabhadra cũng cai trị tại Besnagar (Vidisha hiện đại) ở phía Đông Malwa. Pushyamitra cai trị trong 36 năm và được kế vị bởi con trai ông là Agnimitra. Có mười người cai trị Shunga. Tuy nhiên, sau cái chết của Agnimitra, vị vua thứ 2 của triều đại, đế chế nhanh chóng tan rã: các chữ khắc và tiền xu cho thấy rằng phần lớn miền Bắc và miền Trung Ấn Độ bao gồm các vương quốc nhỏ và các thành bang độc lập với bất kỳ quyền bá chủ nào của Shunga. Triều đại này nổi tiếng với nhiều cuộc chiến tranh với cả thế lực nước ngoài và bản địa. Họ đã chiến đấu với Kalinga, triều đại Satavahana, Vương quốc Ấn-Hy Lạp và có thể cả Pañcāla và triều đại Mitras (Mathura). Nghệ thuật, giáo dục, triết học và các hình thức học tập khác nở rộ trong thời kỳ này, bao gồm các tượng nhỏ bằng đất nung, các tác phẩm điêu khắc bằng đá lớn hơn và các di tích kiến trúc như phù đồ ở Bharhut và Đại phù đồ nổi tiếng ở Sanchi. Những người cai trị Shunga đã giúp thiết lập truyền thống tài trợ của hoàng gia cho việc học tập và nghệ thuật. Chữ viết được đế quốc sử dụng là một biến thể của chữ Brahmi và được dùng để viết tiếng Phạn. Người Shunga là những người bảo trợ quan trọng cho nền văn hóa vào thời điểm mà một số bước phát triển quan trọng nhất trong tư tưởng Ấn Độ giáo đang diễn ra. Mahabhashya của Patanjali được sáng tác trong thời kỳ này. Nghệ thuật cũng phát triển cùng với sự nổi lên của phong cách nghệ thuật Mathura. Hoàng đế Shunga cuối cùng là Devabhuti (83–73 TCN). Ông đã bị ám sát bởi tể tướng Vasudeva Kanva và được cho là rất thích bầu bạn với phụ nữ. Triều đại Shunga được thay thế bởi Triều đại Kanva kế vị Shunga vào khoảng năm 73 trước Công nguyên.
Sự áp đặt tiếng Hindi Sự áp đặt tiếng Hindi (tiếng Anh: Hindi imposition) là một hình thức của chủ nghĩa đế quốc ngôn ngữ, trong đó áp đặt sử dụng tiếng Hindi tại các tiểu bang ở Ấn Độ không sử dụng hoặc không muốn sử dụng tiếng Hindi làm ngôn ngữ khu vực. Thuật ngữ này bắt nguồn từ sự chống đối tiếng Hindi ở Tamil Nadu, nơi đề xuất dạy tiếng Hindi trong các trường học ở tỉnh Madras. Ý tưởng áp đặt tiếng Hindi hiện đại đã phát triển từ khi tiếng Hindi và tiếng Anh được hiến pháp năm 1950 chỉ định là ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ, với lộ trình trong vòng 15 năm sẽ loại bỏ tiếng Anh và tiếng Hindi sẽ là ngôn ngữ chính thức duy nhất. Tuy nhiên, đến nay, điều đó vẫn chưa được thực hiện. Ở Ấn Độ vào năm 1951, có khoảng 1.652 ngôn ngữ được sử dụng làm tiếng mẹ đẻ, trong đó 14 ngôn ngữ mẹ đẻ chiếm 87% dân số cả nước (khoảng 450 triệu người lúc đó). Phổ biến nhất là tiếng Hindi, được khoảng 30% dân số Ấn Độ sử dụng. Jawaharlal Nehru – thủ tướng Ấn Độ vào thời điểm đó – coi ngôn ngữ chung là cần thiết do tính đa dạng của ngôn ngữ trên khắp Ấn Độ. Ông cho rằng tiếng Hindustan là lựa chọn tốt nhất, vì nó dễ học và đã được đa số người dân sử dụng, và được cho là có khả năng tạo nên sự thống nhất giữa cộng đồng Hindu và Hồi giáo, trong khi tiếng Anh không phải là một ngôn ngữ khả thi vì các khó khăn trong việc dạy ngoại ngữ này cho hàng triệu người. Do đó, Hiến pháp Ấn Độ đã chỉ định tiếng Hindi và tiếng Anh là ngôn ngữ đồng chính thức, sau đó sẽ loại bỏ dần tiếng Anh trong vòng 15 năm. Hiến pháp Ấn Độ cũng quy định phải nỗ lực thúc đẩy việc sử dụng tiếng Hindi trong công thức ba ngôn ngữ đã được đề xuất. Trong đó, ngôn ngữ đầu tiên của học sinh sẽ là tiếng mẹ đẻ của họ, ngôn ngữ thứ hai sẽ là tiếng Hindi và ngôn ngữ thứ ba sẽ là tiếng Anh. Đây được mô tả là một gánh nặng học tập khi những người nói tiếng Hindi sẽ chỉ phải học hai ngôn ngữ, trong khi những người khác sẽ phải học ba hoặc có thể bốn ngôn ngữ nếu tiếng mẹ đẻ của họ không phải là ngôn ngữ chính thức ở bang đó. Nehru cũng gợi ý rằng cần nỗ lực đơn giản hóa số lượng ngôn ngữ được sử dụng bằng cách tích hợp các biến thể của tiếng Hindi thành một ngôn ngữ duy nhất và tạo một hệ thống chữ viết cho tiếng Kannada, tiếng Malayalam, tiếng Tamil và tiếng Telugu. Sự áp đặt tiếng Hindi hiện đại đã được sử dụng như một công cụ chính trị, nhiều người ủng hộ việc sử dụng tiếng Hindi như ngôn ngữ duy nhất của Ấn Độ với những lập luận khác nhau, trong khi nhiều người khác phản đối điều này. Thuật ngữ "Một quốc gia, Một ngôn ngữ" đã nhiều lần được sử dụng để biện minh cho việc áp đặt tiếng Hindi. Có ý kiến cho rằng việc sử dụng tiếng Hindi làm ngôn ngữ quốc gia có thể đoàn kết toàn dân và có thể được sử dụng làm phương tiện liên lạc chính thức ở Ấn Độ. Người dân các tiểu bang miền Nam cho rằng việc sử dụng hai ngôn ngữ khác nhau làm ngôn ngữ chính thức là không cần thiết khi chỉ có thể sử dụng một ngôn ngữ. Các chính trị gia nỗ lực thực hiện việc áp đặt tiếng Hindi đã bị chỉ trích mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông, đề xuất của họ bị đánh giá là xem những người không nói tiếng Hindi là công dân hạng hai. Để phản đối những nỗ lực áp đặt tiếng Hindi này, một nông dân 85 tuổi ở Salem, Tamil Nadu đã tự sát, phản đối việc ép buộc học tiếng Hindi sẽ gây bất lợi nặng nề cho học sinh. Biện pháp đề xuất. M. K. Stalin - Thủ hiến bang Tamil Nadu và Pinarayi Vijayan - Thủ hiến bang Kerala, đều yêu cầu tất cả các ngôn ngữ được liệt kê trong Phụ lục thứ tám của Hiến pháp phải được đối xử bình đẳng. Vijayan đã tuyên bố cụ thể rằng bài thi cho các kỳ thi tiêu chuẩn phải được chuẩn bị bằng tất cả các ngôn ngữ, trong khi Stalin thúc giục chính phủ Ấn Độ thúc đẩy tất cả các ngôn ngữ và duy trì cơ hội giáo dục cũng như việc làm bình đẳng cho người dân nói tất cả các ngôn ngữ khác nhau.
Vị cứu tinh da trắng Vị cứu tinh da trắng ("White savior") là mô tả mang tính phê phán về một người da trắng được miêu tả là người giải phóng, vị cứu tinh giải cứu hoặc là chỗ dựa tinh thần, khích lệ ý chí, truyền cảm hứng cho những người không phải da trắng, điều này quan trọng ở chỗ nó mô tả một mô típ khuôn mẫu trong đó người da màu ở các quốc gia kém phát triển về kinh tế mà phần lớn là người không phải da trắng bị tước bỏ quyền tự quyết và bị coi là những người thụ động, đáng thương sẽ đón nhận lòng nhân từ của một người da trắng cũng là cách thể hiện của kiểu người da trắng thượng đẳng. Vai diễn này được coi là phiên bản hiện đại của những gì được thể hiện trong bài thơ có tựa đề: "Bổn phận của Người Da trắng"-"The White Man's Burden" (1899) của Rudyard Kipling. Thuật ngữ Vị cứu tinh da trắng này gắn liền với Châu Phi và một số nhân vật trong phim và truyền hình đã bị phê bình là những nhân vật cứu tinh da trắng cũng là một trong những biểu hiện của việc phân biệt chủng tộc khi trong nhiều bộ phim thì các nam anh hùng và nữ anh hùng đều là người da trắng mặc dù câu chuyện kể về những điều xảy ra với các nhân vật da đen. Cách sử dụng ban đầu của nó là trong bối cảnh Philippines, nhưng thuật ngữ này kể từ đó chủ yếu gắn liền với Châu Phi cũng như với các khu vực khác trên thế giới. Châu Phi có lịch sử nô lệ và thuộc địa hóa. Damian Zane của BBC News cho biết do lịch sử, người châu Phi tìm thấy thái độ ""vị cứu tinh da trắng" để giúp họ "bảo trợ sâu sắc và xúc phạm". Zane nói, "Một số người cho rằng viện trợ có thể phản tác dụng, vì điều đó có nghĩa là các nước châu Phi sẽ tiếp tục dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngoài".". Bhakti Shringarpure viết cho "The Guardian" rằng, ""Những người phương Tây cố gắng giúp đỡ các quốc gia nghèo khổ, đau khổ thường bị cáo buộc là trở thành vị cứu tinh da trắng' vốn là một thuật ngữ gắn liền với chế độ thuộc địa trong lịch sử nơi người châu Âu chiếu cố đến để khai sáng văn minh cho lục địa châu Phi".". Thuật ngữ này đã được sử dụng để chỉ người Mỹ da trắng và người châu Âu độc lập tham gia hoặc hỗ trợ trong các cuộc chiến ở Trung Đông. T. E. Lawrence còn biết đến với tên gọi "Lawrence ông hoàng xứ Ả rập" có thể được coi là nguyên mẫu của vị cứu tinh da trắng. Những cáo buộc tương tự cũng đã được nêu ra đối với những người đàn ông châu Âu da trắng đã tham gia chiến đấu cùng với quân nổi dậy ủng hộ dân chủ trong cuộc nội chiến Syria. Vị cứu tinh da trắng là những kịch bản, cốt chuyện điện ảnh trong đó nhân vật chính là người da trắng giải cứu những nhân vật không phải da trắng (thường ít nổi bật hơn) khỏi những hoàn cảnh nguy nan, nghịch cảnh. Điều này tái diễn trong một loạt thể loại trong điện ảnh Mỹ, trong đó nhân vật chính người da trắng được miêu tả như một nhân vật thiên sai với vai trò Đấng cứu thế Messiah, người thường có được một số hiểu biết sâu sắc hoặc nội tâm trong quá trình giải cứu các nhân vật không phải da trắng (hoặc đôi khi là các chủng tộc ngoài hành tinh không phải con người thay thế như những người không phải là người da trắng hoặc không thuộc nền văn minh da trắng) khỏi hoàn cảnh khó khăn của họ. Câu chuyện kể về vị cứu tinh da trắng là một cách mà phương tiện truyền thông đại chúng thông qua điện ảnh thể hiện xã hội học về chủng tộc và quan hệ sắc tộc, bằng cách trình bày các khái niệm trừu tượng như đạo đức như những đặc điểm bẩm sinh, chủng tộc và văn hóa đối với người da trắng, không thể tìm thấy ở những người không phải da trắng so với người da trắng. Vị cứu tinh da trắng này thường được miêu tả là một người đàn ông lạc lõng trong xã hội của chính mình, cho đến khi anh ta đảm nhận gánh nặng lãnh đạo chủng tộc để giải cứu những người thiểu số không phải da trắng và người nước ngoài khỏi đau khổ của họ. Vì vậy, những câu chuyện về vị cứu tinh của người da trắng được mô tả là những tưởng tượng "về cơ bản là hoành tráng, phô trương và tự ái" về sự an ủi trong nội tâm. Một số bộ phim có hình tượng Vị cứu tinh da trắng như:
Trong thần thoại Hy Lạp, Megara (; tiếng Hy Lạp cổ: Μεγάρα) là một công chúa người thành Thebes và là người vợ đầu của anh hùng Heracles. Megara là con gái cả của vua Creon cai trị thành Thebes, người có khả năng là anh em với Jocasta và là chú của Oedipus. Nếu đó là cùng một người (Creon) thì mẹ của Megara có khả năng là Eurydice, vợ vua Creon và những người anh chị em của Megara là Menoeceus (Megareus), Lycomedes, Haemon và Pyrrha. Lời kể về tên và số lượng con của Megara với Heracles khác nhau theo từng tác giả. Theo nhà thần thoại học Apollodorus, Megara có với Heracles ba người con trai là Therimachus, Creontiades và Deicoon. Dinias cũng đề cập tới ba người con kể trên được Apollodorus đặt tên, tuy nhiên ông lại bổ sung thêm một người con thứ tư tên là Deion. Nhà thơ người Thebes Pindar khẳng định Megara sinh với Heracles tám người con trai. Ngoài ra, nhà thần thoại học người La Mã Hyginus đặt tên cho những con trai của của họ là Therimachus và Ophites. Megara được vua cha gả cho Heracles như là phần thưởng dành cho người anh hùng sau khi anh giúp đỡ quân Thebes chống lại những người Minyae đến từ Orchomenus, hai người có với nhau một vài người con trai. Hera, vì căm thù Heracles nên bà đã dùng phép khiến anh tạm thời bị mất trí. Trong cơn điên loạn, Heracles giết chết con mình bằng cách bắn mũi tên vào người các con hoặc bằng cách ném các con vào lửa. Megara có qua đời vì cuộc tấn công của Heracles hay không là tùy thuộc vào các tác giả khác nhau. Theo vài nguồn, sau khi Heracles hoàn thành mười hai chiến công của mình, Megara cưới cháu trai của Heracles là Iolaus và trở thành mẹ của Leipephilene. Heracles sau khi thức tỉnh đã vô cùng hối hận, việc anh muốn chuộc tội giết vợ con mình thường được coi là nguyên nhân để anh trở thành nô lệ của người anh họ Eurystheus và hoàn thành mười hai chiến công. Euripides lại trình bày một trình tự khác về các sự kiện trong vở bi kịch "Heracles". Việc Heracles hoàn thành chiến công thứ mười hai (bắt chó ngao Cerberus của Hades) đã bắt đầu cuộc xung đột. Vở bi kịch bắt đầu với cảnh Megara, những người con của cô và Amphitryon đã cầu xin các vị thần sự bảo hộ khỏi bạo chúa Lykos đang đe dọa họ khi Heracles còn ở dưới âm phủ. Heracles quay trở lại để cứu gia đình mình, nhưng Iris vong hồn điên loạn Lyssa, đã làm phép khiến anh phát điên và giết chết Megara cùng các con mình trong khi anh tưởng rằng mình đang tấn công. Nhà viết kịch người La Mã Seneca Bé kể lại một câu chuyện có nét tương đồng trong vở kịch "Hercules tức giận" của ông. Trong tác phẩm "Odyssey" của Homer, khi ở dưới âm phủ, Odysseus nhìn thấy Megara. Nhưng Homer không đề cập chi tiết về câu chuyện của cô ngoài việc nói rằng cô là con gái của Creon và là vợ cũ của Heracles. Bài thơ "Megara" được Hy Lạp hóa (không rõ tác giả), có nói về cuộc đối thoại ở thành Tiryns giữa Megara và Alcmene, mẹ của Heracles khi Megara đang cảm thấy buồn bã về những người con mình và về sự vắng mặt của Heracles vì anh phải đi hoàn thành những chiến công. Giáo phái dành riêng để tôn sùng những người con của Megara. Các con trai của Heracles dường như đã được sáp nhập vào giáo phái anh hùng Heracles ở thành Thebes. Họ được vinh danh tại một lễ hội gọi là "Herakleia". Tại đây, một bữa tiệc được chuẩn bị nhằm tôn vinh Heracles phía trên "Cổng Elektran" và các lễ hiến tế được thực hiện.. Ngôi mộ những người con của Heracles và Megara ở Thebes được tôn là "Chalkoarai".
PGS.TS Trịnh Doãn Chính là một nhà giáo và nhà nghiên cứu Triết học hàng đầu của Việt Nam. Ông từng là Trưởng khoa Triết học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM và đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá. Ông có đóng góp quan trọng trong lĩnh vực Triết học và đã viết nhiều tác phẩm về lịch sử triết học, tư tưởng Việt Nam và triết học phương Tây hiện đại. Ông cũng đã được vinh danh bằng nhiều huân chương và giải thưởng, gồm Huân chương Chiến sĩ Giải phóng, Huân chương Kháng chiến, Huân chương Lao động, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và Huy chương Vì Sự nghiệp Giáo dục. Ông sinh năm 1952 tại làng Ngọc Tiên, xã Xuân Hồng huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định PSG.TS Trịnh Doãn Chính
Công quốc Castro (tiếng Ý: "Ducato di Castro"; tiếng Anh: "Duchy of Castro") là một thái ấp ở miền trung Bán đảo Ý được thành lập vào năm 1537 từ một dải đất nhỏ mà ngày nay là biên giới của Lazio với Toscana, trung tâm là Castro, một thành phố kiên cố trên vách đá tufa nhìn ra Sông Fiora vốn là thủ đô và là nơi ở của công tước. Mặc dù về mặt kỹ thuật là một quốc gia chư hầu của Lãnh địa Giáo hoàng, nhưng trên thực tế nó được hưởng nền độc lập dưới sự cai trị của Nhà Farnese cho đến năm 1649, khi nó được sáp nhập trở lại vào Lãnh địa Giáo hoàng và được quản lý bởi Nhà Stampa di Ferentino. Lãnh thổ được tạo ra như một công quốc bởi Giáo hoàng Paul III (1534–1549) trong sắc lệnh "Videlicet immeriti" vào ngày 31 tháng 10 năm 1537, và trao lại con trai ông là Pier Luigi Farnese cai trị. Nó tồn tại khoảng 112 năm và bị lu mờ bởi tài sản của người Nhà Farnese ở Công quốc Parma. Nó trải dài từ Biển Tyrrhenian đến Hồ Bolsena, trên dải đất được bao bọc bởi sông Marta và sông Fiora, kéo dài đến tận suối Olpeta và Hồ Mezzano, nơi sông Olpeta chảy qua. Công quốc Latera và Bá quốc Ronciglione được sáp nhập vào đó. Tước hiệu Công tước xứ Castro đã được nắm giữ từ cuối những năm 1860 bởi người đứng đầu Vương tộc Borbone-Hai Sicilie, kể từ khi Vương quốc Hai Sicilie được sáp nhập vào Vương quốc Ý mới thành lập. Thân vương Carlo, Công tước xứ Castro hiện đang giữ tước vị này.
Ṭāriq ibn Ziyād (tiếng Ả Rập: طارق بن زياد), còn được gọi đơn giản là Tarik trong tiếng Anh, là một chỉ huy người Berber, người đã phục vụ Caliphate Umayyad và khởi xướng Người Hồi giáo chinh phục Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay) vào năm 711–718 sau Công nguyên. Ông dẫn đầu một đội quân vượt qua Eo biển Gibraltar từ bờ biển Bắc Phi, củng cố quân đội của mình tại nơi mà ngày nay được gọi là Núi Gibraltar. Cái tên "Gibraltar" là bắt nguồn từ tiếng Tây Ban Nha của tên tiếng Ả Rập Jabal Ṭāriq (جبل طارق), có nghĩa là "núi Ṭāriq", được đặt theo tên ông. Các nhà sử học Ả Rập thời trung cổ đưa ra những dữ liệu trái ngược nhau về nguồn gốc và quốc tịch của Ṭāriq. Một số kết luận về tính cách và hoàn cảnh ông khi xâm nhập al-Andalus vẫn còn chưa chắc chắn. Phần lớn các nguồn hiện đại đều nói rằng Ṭāriq là "mawla" người Berber của Musa ibn Nusayr, thống đốc Umayyad của Ifriqiya. Theo Ibn Khaldun, Tariq Ibn Ziyad đến từ bộ tộc Berber ở vùng đất mà ngày nay thuộc Algeria. Heinrich Barth đề cập rằng Tariq Ibn Ziyad là người Berber đến từ bộ tộc Ulhassa, một bộ tộc bản địa của Tafna[7] hiện đang sinh sống ở vùng Béni Saf ở Algeria. Theo David Nicolle, Tariq Ibn Ziyad lần đầu tiên được nhắc đến trong các ghi chép lịch sử với tư cách là thống đốc Tangier. Ngoài ra, theo David Nicolle, theo truyền thống người ta tin rằng ông sinh ra ở Wadi Tafna (một vùng thuộc Tlemcen ngày nay). [9] Ông cũng đã sống ở đó với vợ trước khi cai trị Tangier. He had also lived there with his wife prior to his governance of Tangier. Theo Ibn Abd al-Hakam (803–871), Musa ibn Nusayr đã bổ nhiệm Ṭāriq làm thống đốc của Tangier sau cuộc chinh phục vào năm 710–711 nhưng một tiền đồn Visigothic chưa bị chinh phục vẫn ở gần đó tại Ceuta, một thành trì được cai trị bởi nhà quý tộc tên là Julian, Bá tước xứ Ceuta. Sau khi Roderic lên nắm quyền ở Tây Ban Nha, Julian, theo thông lệ, đã gửi con gái của mình là Florinda la Cava, đến triều đình của vua Visigothic để học tập. Người ta nói rằng Roderic đã cưỡng hiếp cô, và Julian quá tức giận nên quyết tâm nhờ người Hồi giáo lật đổ Vương quốc Visigothic. Theo đó, ông đã ký một hiệp ước với Ṭāriq (Mūsā đã trở về Kairouan) để bí mật hộ tống quân đội Hồi giáo qua Eo biển Gibraltar, vì ông sở hữu một số tàu buôn và có pháo đài riêng trên đất liền Tây Ban Nha. Vào khoảng ngày 26 tháng 4 năm 711, quân đội của Ṭāriq Bin Ziyad, bao gồm những người Berber gần đây mới chuyển sang đạo Hồi, đã được Julian đưa đổ bộ lên bán đảo Iberia (thuộc Tây Ban Nha ngày nay). Họ đổ bộ xuống chân đồi của một ngọn núi từ đó được đặt theo tên ông, Gibraltar (Jabal Tariq). Quân đội của Ṭāriq có khoảng 7.000 binh sĩ, bao gồm phần lớn là người Berber và cả quân Ả Rập. Roderic, để đối phó với mối đe dọa từ Umayyads, đã tập hợp một đội quân được cho là lên tới 100.000 người, mặc dù con số thực tế có thể thấp hơn nhiều. Phần lớn quân đội được chỉ huy và trung thành với các con trai của Wittiza, người mà Roderic đã phế truất một cách tàn nhẫn. Ṭāriq đã giành được chiến thắng quyết định khi Roderic bị đánh bại và bị giết vào ngày 19 tháng 7 trong Trận Guadalete. Ṭāriq Bin Ziyad chia quân đội của mình thành 4 sư đoàn, tiếp tục đánh chiếm Córdoba dưới sự chỉ huy của Mughith al-Rumi, Granada và những nơi khác, trong khi ông vẫn đứng đầu sư đoàn đã chiếm được Toledo. Sau đó, ông tiếp tục tiến về phía Bắc, tới Guadalajara và Astorga. Ṭāriq trên thực tế là thống đốc của Hispania cho đến khi Mūsā đến một năm sau đó. Thành công của Ṭāriq khiến Musa tập hợp 12.000 quân (chủ yếu là người Ả Rập) để lên kế hoạch cho cuộc xâm lược lần thứ hai, và trong vòng vài năm, Ṭāriq và Musa đã chiếm được 2/3 bán đảo Iberia từ tay người Visigoth. Cả Ṭāriq và Musa đều được Umayyad Caliph Al-Walid I ra lệnh quay trở lại Damascus vào năm 714, nơi họ đã sống phần đời còn lại của mình. Con trai của Musa là Abd al-Aziz, người chỉ huy quân đội của al-Andalus, bị ám sát vào năm 716. Trong nhiều lịch sử Ả Rập viết về cuộc chinh phục miền Nam Tây Ban Nha, có sự phân chia quan điểm rõ ràng về mối quan hệ giữa Ṭāriq và Musa bin Nusayr. Một số kể lại những giai đoạn tức giận và ghen tị của Mūsā khi người của ông ta đã chinh phục cả một đất nước. Mặt khác, một nhà sử học thời kỳ đầu khác, al-Baladhuri, viết vào thế kỷ thứ IX, chỉ nói rằng Mūsā đã viết cho Ṭāriq một "bức thư nghiêm khắc" và sau đó hai người đã hòa giải. Nhà sử học thế kỷ XVI là Ahmed Mohammed al-Maqqari, trong "The Breath of Perfume", cho rằng Ṭāriq đã đọc một bài diễn văn dài trước quân đội của ông trước Trận Guadalete.
Onagawa (女川町, Onagawa-chō) là thị trấn thuộc huyện Oshika, tỉnh Miyagi, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 6.430 người và mật độ dân số là 98 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 65,35 km2. Theo dữ liệu điều tra dân số tại Nhật Bản, dân số thị trấn Onagawa đạt đỉnh vào năm 1960. Kể từ năm 1970, dân số đang có xu hướng giảm dần.
Racing Club de Strasbourg Alsace (thường được gọi là RC Strasbourg, Racing Straßburg, RCSA, RCS, hoặc đơn giản là Strasbourg; tiếng Alsace: "Füeßbàllmànnschàft Vu Stroßburri") là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Pháp được thành lập vào năm 1906, có trụ sở tại thành phố Strasbourg, Alsace. Đội bóng đã có tư cách chuyên nghiệp từ năm 1933 và hiện đang chơi ở Ligue 1, giải đấu hàng đầu của bóng đá Pháp, kể từ khi vô địch Ligue 2 2016–17. Câu lạc bộ bị giáng xuống hạng năm của bóng đá Pháp vào cuối mùa giải Championnat National 2010–11 sau khi thanh lý tài chính. Đổi tên thành "RC Strasbourg Alsace", họ đã giành chức vô địch CFA mùa giải 2012–13 và cuối cùng trở thành nhà vô địch Championnat National mùa giải 2015–16. Sân vận động của câu lạc bộ, kể từ năm 1914, là sân vận động Meinau. Câu lạc bộ là một trong sáu câu lạc bộ đã giành được cả ba danh hiệu lớn của Pháp: Vô địch quốc gia năm 1979, Cúp bóng đá Pháp năm 1951, 1966, 2001 và Cúp Liên đoàn bóng đá Pháp năm 1964, 1997, 2005 và 2019. Strasbourg cũng nằm trong số sáu đội đã thi đấu hơn 2.000 trận ở giải đấu hàng đầu nước Pháp (kéo dài 56 mùa giải) và đã tham gia 52 trận đấu ở châu Âu kể từ năm 1961. Bất chấp những thành tựu này, câu lạc bộ chưa bao giờ thực sự khẳng định được mình là một trong những câu lạc bộ hàng đầu của Pháp, phải xuống hạng ít nhất mỗi thập kỷ một lần kể từ đầu những năm 1950. "Racing" đã thay đổi người quản lý 52 lần trong 75 năm thi đấu chuyên nghiệp, thường xuyên chịu áp lực từ người hâm mộ. Số phận của câu lạc bộ luôn gắn liền với lịch sử của Alsace. Giống như khu vực, "Racing" đã thay đổi quốc tịch ba lần và có một lịch sử đầy rắc rối. Được thành lập ở nơi khi đó là một phần của Đế quốc Đức, câu lạc bộ ngay từ đầu đã nhấn mạnh vào nguồn gốc Alsace của mình, đối lập với các câu lạc bộ có trụ sở tại Strasbourg đầu tiên đến từ giai cấp tư sản gốc Đức. Khi Alsace được trả lại cho Pháp vào năm 1919, câu lạc bộ đã đổi tên từ "1. FC Neudorf" thành "Racing Club de Strasbourg" hiện tại để bắt chước Racing Club de France của Pierre de Coubertin, một cử chỉ rõ ràng của người Pháp. Những cầu thủ "Racing" sống sót qua Thế chiến thứ hai như hầu hết người Alsace đã làm: sơ tán vào năm 1939, sáp nhập vào năm 1940 và cố gắng tránh sự phát xít hóa và sáp nhập vào Wehrmacht trong khoảng thời gian từ 1942 đến 1944. Khi Alsace dứt khoát được trở về Pháp, bản sắc của "Racing" chuyển sang chủ nghĩa Jacobin, chẳng hạn như những chiến thắng đầy cảm xúc ở cúp quốc gia vào năm 1951 và 1966 trong bối cảnh tranh cãi giữa Pháp-Alsace. Gần đây hơn, câu lạc bộ đã mong muốn thúc đẩy vị thế châu Âu của mình cùng với mối quan hệ chặt chẽ với địa phương. "Tính đến ngày 8/8/2023"
Trong toán học, số nhựa "ρ" (hay còn gọi là hằng số nhựa, tỷ lệ nhựa, số Pisot tối thiểu, số platin, số của Siegel hoặc trong tiếng Pháp, ) là hằng số toán học là nghiệm thực duy nhất của phương trình bậc ba: Giá trị chính xác của nó là Khai triển thập phân của nó bắt đầu từ . Các lũy thừa của số nhựa "A"("n") = "ρ""n" thỏa mãn công thức hồi quy tuyến tính bậc ba "A"("n") = "A"("n" − 2) + "A"("n" − 3) với "n" 2. Do đó hằng số nhựa là tỷ lệ giới hạn giữa hai phần tử liên tiếp trong bất kỳ dãy số nguyên (khác không) thỏa mãn quan hệ hồi quy, chẳng hạn như dãy Padovan (hay còn gọi là các số Cordonnier), dãy số Perrin và dãy số Van der Laan, và có mối quan hệ với các dãy này tương tự với quan hệ của tỷ lệ vàng với dãy số Fibonacci bậc hai và dãy số Lucas, và tương tự với quan hệ giữa tỷ lệ bạc và dãy số Pell. Số nhựa có thể viết dưới dạng căn lồng nhau như sau Bởi số nhựa có đa thức tối tiểu "x"3 − "x" − 1 = 0, nó còn là nghiệm của phương trình đa thức "p"("x") = 0 với mọi đa thức "p" là bội của "x"3 − "x" − 1, nhưng không cho các đa thức có hệ số nguyên. Bởi định thức của đa thức tối tiểu là −23, trường phân rã của nó trên các số hữu tỉ là formula_4 Trường này còn là trường lớp Hilbert của formula_5 Bởi vậy, nó có thể viết bằng hàm eta Dedekind formula_6 với tham số formula_7, và căn đơn vị formula_9. Tương tự như vậy cho tỷ lệ siêu vàng với tham số formula_10, Bên cạnh đó, số nhựa là số Pisot–Vijayaraghavan nhỏ nhất. Liên hợp đại số của nó là với giá trị tuyệt đối ≈ 0.868837 (dãy số trong bảng OEIS). Giá trị này còn là formula_13 bởi tích của ba nghiệm của đa thức tối tiểu bằng 1. Số nhựa có thể viết bằng hàm cos hyperbol (cosh) và nghịch đảo của nó: Có chính xác ba cách để phân hoạch hình vuông thành các hình chữ nhật đồng dạng: Việc mà hình chữ nhật có tỷ lệ "ρ"2 có thể dùng để chia một hình vuông thành ba hình chữ nhật đồng dạng, tương đương với tính chất đại số của số "ρ"2 liên hệ với định lý Routh–Hurwitz: tất cả các liên hợp của nó đều có phần thực dương. Lịch sử và tên gọi. Kiến trúc sư người Ha Lan và tu sĩ Benedictine Dom Hans van der Laan đưa cái tên "số nhựa" () cho số này vào năm 1928. Trong 1924, bốn năm trước khi van der Laan đặt tên, kỹ sư người Pháp #đổi đã phát hiện ra số này trước và gọi là "số radiant" (). Không như tên của tỷ lệ vàng và tỷ lệ bạc, từ "nhựa" dùng bởi van der Laan không phải để nhắc đến một chất cụ thể, mà để lấy theo nghĩa tính từ, nghĩa là một vật nào đó có thể cho vào một hình ba chiều. Ở đây, dựa theo Richard Padovan, lý do là bởi tỷ lệ đặc trưng của con số và có liên hệ với giới hạn mà tri giác con ngưới có thể liên hệ một kích thước vật lý này so với một kích thước vật lý khác. Van der Laan đã thiết kế nhà thờ St. Benedictusberg Abbey năm 1967 theo tỷ lệ của số nhựa. Số nhựa còn đôi khi được gọi là số bạc, cái tên được đưa bởi Midhat J. Gazalé và sau được dùng bởi Martin Gardner, nhưng cái tên đó lại dùng để gọi cho tỷ lệ bạc formula_15 một trong họ các tỷ lệ lấy từ "trung bình kim loại" (metallic mean) lần đầu được mô tả bởi Vera W. de Spinadel trong 1998. Martin Gardner đề cập gọi formula_16 là "phi cao", và Donald Knuth tạo mã typography đặc biệt riêng cho tên này, một phiên bản của chữ Hy Lạp phi ("φ") với hình tròn tâm của nó được nâng lên, giống với chữ Georgia pari ("Ⴔ").
Khoa học về phân biệt chủng tộc Khoa học về phân biệt chủng tộc ("Scientific racism") đôi khi được gọi là Sinh lý học chủng tộc ("Biological racism") là niềm tin ngụy khoa học rằng loài người có thể được chia thành các đơn vị phân loại riêng biệt về mặt sinh học được gọi là "chủng tộc" và tin về những bằng chứng thực nghiệm tồn tại để hỗ trợ hoặc biện minh cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc (phân biệt chủng tộc), sự thấp kém về chủng tộc hoặc chủng tộc vượt trội. Trước giữa thế kỷ 20, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong khoa học đã được chấp nhận rộng rãi trong toàn bộ cộng đồng khoa học, nhưng nó không còn được coi là khoa học nữa. Việc phân chia loài người thành các nhóm riêng biệt về mặt sinh học, cùng với việc gán các đặc điểm thể chất và tinh thần cụ thể cho các nhóm này thông qua việc xây dựng và áp dụng các mô hình giải thích tương ứng, được những người ủng hộ những ý tưởng này gọi là chủ nghĩa chủng tộc, chủ nghĩa hiện thực chủng tộc hoặc khoa học chủng tộc. Sự đồng thuận khoa học hiện đại bác bỏ quan điểm này vì cho rằng nó không phù hợp với nghiên cứu di truyền hiện đại. Phân biệt chủng tộc giả khoa học đôi khi được gọi là sinh lý học chủng tộc là lòng tin rằng có các bằng chứng thực nghiệm ủng hộ cho sự phân biệt chủng tộc, để kết luận rằng có các chủng tộc thấp kém và chủng tộc siêu việt. Phân biệt chủng tộc giả khoa học cũng viện tới nhân chủng học (đáng kể nhất là nhân chủng học hình thể), nhân trắc học (khoa học về phép đo đạc cơ thể người-Anthropometry), dân tộc học, tiến hóa học và một số ngành khoa học khác, để đưa ra các phân loại nhân chủng chia con người thành những loại riêng rẽ hoặc ưu việt hơn, hoặc thấp kém hơn. Thứ giả khoa học này đã rất phổ biến trong giai đoạn từ những năm 1600 cho tới khi Thế chiến II bắt đầu. Nhưng trong nửa sau thế kỷ 20, lòng tin đó đã bị bác bỏ dứt khoát là lỗi thời và không có cơ sở khoa học. Lòng tin về sự hơn kém giữa các chủng tộc đó được hỗ trợ bằng một thứ giả khoa học (pseudoscience) đã bị bác bỏ từ lâu. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong khoa học đã áp dụng sai, hiểu sai hoặc bóp méo nhân chủng học (đặc biệt là nhân chủng học vật lý), phép đo sọ não, sinh học tiến hóa và các ngành hoặc giả ngành khác thông qua việc đề xuất các loại hình nhân học để phân loại quần thể người thành các chủng tộc người riêng biệt về mặt vật lý, một số chủng tộc trong số đó có thể được khẳng định là ưu việt hơn hoặc thua kém người khác. Chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong khoa học phổ biến trong khoảng thời gian từ những năm 1600 đến cuối Thế chiến thứ hai, và đặc biệt nổi bật trong các tác phẩm học thuật của châu Âu và Mỹ từ giữa thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Kể từ nửa sau thế kỷ 20, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong khoa học đã bị mất uy tín và bị chỉ trích là lỗi thời, nhưng vẫn liên tục được sử dụng để ủng hộ hoặc xác nhận các quan điểm phân biệt chủng tộc dựa trên niềm tin vào sự tồn tại và tầm quan trọng của các phân loại chủng tộc cũng như hệ thống phân cấp. Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong lý thuyết và hành động đã chính thức bị lên án, đặc biệt là trong tuyên bố của UNESCO ( 1950): "Cần phân biệt thực tế sinh học về chủng tộc và huyền thoại về 'chủng tộc'. Đối với tất cả các mục đích xã hội thực tế, 'chủng tộc' không hẳn là một hiện tượng sinh học mà là một huyền thoại xã hội. Huyền thoại về 'chủng tộc' đã tạo ra một thiệt hại to lớn về con người và xã hội. Trong những năm gần đây, nó đã gây thiệt hại nặng nề cho cuộc sống con người và gây ra những đau khổ không thể kể xiết"." Kể từ thời điểm đó, sự phát triển về di truyền học tiến hóa của con người và nhân học vật lý đã dẫn đến sự đồng thuận mới giữa các nhà nhân chủng học rằng chủng tộc con người là một hiện tượng chính trị xã hội chứ không phải là một hiện tượng sinh học. Trong Thời đại Khai sáng (thời kỳ từ những năm 1650 đến những năm 1780), những khái niệm về thuyết đồng chủng và chủ nghĩa đa chủng tộc đã trở nên phổ biến, mặc dù chúng chỉ được hệ thống hóa về mặt nhận thức luận trong thế kỷ 19. Chủ nghĩa độc chủng cho rằng tất cả các chủng tộc đều có một nguồn gốc duy nhất, trong khi chủ nghĩa đa chủng tộc cho rằng mỗi chủng tộc có một nguồn gốc riêng biệt. Cho đến thế kỷ 18, từ ""chủng tộc" và "loài"" vẫn có thể thay thế cho nhau.
Tỉnh tự trị Kalmyk Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Tỉnh tự trị Kalmyk (; tiếng Kalmyk: Хальмг Автономн Таңhч, "Xaľmg Awtonomn Tañhç") là một tỉnh tự trị của người Kalmyk thuộc Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga tồn tại ở hai thời kỳ riêng biệt. Nó được thành lập lần đầu tiên vào tháng 11 năm 1920, với trung tâm hành chính là Astrakhan. Vào tháng 6 năm 1928, tỉnh tự trị được sáp nhập vào vùng Hạ Volga. Vào tháng 1 năm 1934, Hạ Volga được chia thành vùng Saratov và vùng Stalingrad, trong đó TTT Kalmyk trở thành một phần của vùng Stalingrad. Vào tháng 10 năm 1935, TTT Kalmyk được nâng cấp thành CHXHCNXVTT Kalmyk (bị bãi bỏ vào năm 1943). Tỉnh tự trị Kalmyk được tái lập vào tháng 1 năm 1957, lần này là một phần của vùng Stavropol. Năm 1958, nó lại được nâng lên cấp CHXHCNXVTT Kalmyk và tách khỏi vùng Stavropol. Theo điều tra dân số năm 1920, có 126.256 người sống trong khu vực, bao gồm 124.501 cư dân nông thôn và 1.655 cư dân thành thị. Đồng thời, dân tộc Kalmyk chiếm đa số với 84.950 người, người Nga có 40.034 người, còn lại là người Ukraina, Tatar, Kyrgyz, Theo điều tra dân số năm 1924, có 164.017 người sống trong vùng. Theo điều tra dân số năm 1926:
Muối acid (tiếng Anh: acid salt) là loại muối tạo ra dung dịch có tính acid sau khi hòa tan trong dung môi. Một dung dịch có tính acid được hình thành bởi muối acid được tạo ra trong quá trình trung hòa (neutralization) một phần acid diprotic hoặc polyprotic. Một "half-neutralization" xảy ra bởi phần còn lại của các nguyên tử hydro có thể thay thế được chưa phản ứng với các ion hydroxide () để tạo ra các phân tử nước, từ sự phân ly một phần của các acid yếu. Dung dịch có tính acid và ví dụ về muối acid. Tính chất acid–base của dung dịch thu được sau phản ứng trung hòa phụ thuộc vào sản phẩm muối còn lại. Một muối chứa các cation phản ứng trải qua quá trình thủy phân trong đó chúng phản ứng với các phân tử nước, gây ra sự khử proton của acid liên hợp. Ví dụ, muối acid amoni chloride là loại chính được hình thành khi half-neutralization amonia trong dung dịch acid hydrochloric: chemNH3_{(aq)}\ +\ HCl_{(aq)} - NH4Cl_{(aq)}/chem
Ōtsuka Sae (大塚 紗英, Ōtsuka Sae, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1995) là diễn viên lồng tiếng người Nhật. Cô chơi guitar cho Poppin'Party của thương hiệu "BanG Dream!", bao gồm vào vai nhân vật Hanazono Tae. Ōtsuka lớn lên chơi với piano đồ chơi mà mẹ cô mua cho cô, trong khi cô đã viết bài hát đầu tiên khi cô năm tuổi sau khi nghe một bài hát ru. Cô từng tham gia ban âm nhạc trường tiểu học của cô, bao gồm chơi nhạc trong lúc tập trung buổi sáng, và từng trong câu lạc bộ ban nhạc trường cấp hai chơi kèn trôm-bon. Đến tuổi 15, Ōtsuka bắt đầu biểu diễn trên đường phố với cây guitar acoustic, cô đã diễn bốn năm. Tháng 12 năm 2014, Ōtsuka được tuyển dụng để tham gia thương hiệu âm nhạc của Bushiroad tên "BanG Dream!" trong vai người chơi guitar Hanazono Tae; vào lúc đó, cô không có kinh nghiệm lồng tiếng hay chơi guitar điện. Cô chính thức được giới thiệu vào ban nhạc Poppin'Party của thương hiệu trong buổi hòa nhạc trực tiếp thứ hai vào ngày 14 tháng 6 năm 2015. Nhiều khía cạnh của nhân vật Tae được lấy cảm hứng từ Ōtsuka, như là Tae biểu diễn đường phố trong anime mùa hai. Tình bạn của Tae với Wakana Rei của Raise A Suilen cũng dựa trên mối quan hệ của Ōtsuka với diễn viên lồng tiếng của Rei và đồng nghiệp tại Ace Crew Raychell. Ōtsuka đã diễn với RAS từ hồi ban nhạc còn là ban nhạc dự bị năm 2018 và là khách mời tại buổi hòa nhạc ra mắt của họ; cô cũng làm khách mời tại buổi diễn Heaven and Earth năm 2019 và nhạc kịch của ban nhạc vào năm 2020. Cuối năm 2021, Ōtsuka và thành viên trong Poppin'Party Aimi thực hiện một chuỗi buổi diễn guitar acoustic, gọi là Kasumi and Tae's Stay After School Tour, diễn tại các hội trường âm nhạc của Zepp ở Namba, Nagoya, và Yokohama. Với vai trò ca sĩ, bài hát đầu tiên của Ōtsuka "What's your Identity?" được dùng là bài hát mở đầu cho chương trình hoạt hình tiếng Trung "Egg Car" năm 2019. "Avant-title", mini-album đầu tay của cô, được phát hành vào ngày 26 tháng 2 năm 2020. Ōtsuka có nhiều thú cưng như thỏ và chim, trong đó thỏ được đưa vào đặc điểm nhân vật của Tae.
Tào Khê tông (zh. 曹溪宗 c"aóxī zōng", ko. "chogye chong", ja. "sōkei-shū", en. "Jogye Order"), tên chính thức là Đại Hàn Phật Giáo Tào Khê Tông (zh. 大韓佛敎 曹溪宗, ko. 대한불교조계종), là tông phái Thiền quan trọng nhất của Phật giáo Hàn Quốc, do Quốc sư Phổ Chiếu Trí Nột sáng lập vào đầu thế kỷ 13 dựa trên sự hợp nhất 9 phái Thiền (zh. 禪門九山, Cửu Sơn Thiền Môn) đã có từ trước ở bán đảo Triều Tiên với tông chỉ là "Thiền-giáo song tu", "Đốn ngộ tiệm tu". Vị Thiền sư đời sau Trí Nột là Thái Cổ Phổ Ngu đã hoàn thiện việc hợp nhất và thành lập tông phái này. Theo thống kê năm 2015, Tào Khê tông là tông phái Phật giáo lớn nhất tại Hàn Quốc với 1.900 ngôi chùa đang hoạt động, hơn 13.000 tăng ni và khoảng 7 triệu tín đồ khắp Hàn Quốc. Vị tông trưởng (lãnh đạo tinh thần tối cao) hiện nay của Thiền phái này là Hòa thượng Seongpa (sinh năm 1939), được bổ nhiệm vào năm 2021, nhiệm kỳ là 5 năm. Chủ tịch tông Tào Khê hiện tại là Hòa thượng Jinwoo (sinh năm 1961), được bổ nhiệm vào tháng 9 năm 2022. Trước khi Tào Khê tông ra đời, tại bán đảo Triều Tiên đã tồn tại 9 trường phái Thiền (Cửu Sơn Thiền Môn) do các vị tăng người Triều Tiên sang Trung Quốc tham học và đem về truyền bá vào đầu giữa triều đại Cao Ly - một vương triều rất ủng hộ Phật giáo. 9 trường phái Thiền này là: Tuy nhiên, giáo đoàn riêng của Thiền tông lúc này vẫn chưa được thành lập. Đến cuối thế kỷ thứ 11 có xảy ra một sự kiện là Quốc sư Đại Giác Nghĩa Thiên (1055-1101) của Thiên Thai tông vì không thích Thiền tông nên cố tình sáp nhập Thiền tông vào Thiên Thai tông và bị các tăng sĩ của Cửu Sơn Thiền Môn đoàn kết phản đối. Điều đó cho thấy ý thức về tông phái đã bắt đầu phát triển trong các tăng sĩ Thiền tông. Đây là cơ sở để Thiền sư Trí Nột hợp nhất các phái kể trên thành một giáo đoàn Thiền tông thống nhất và độc lập vào cuối thế kỷ 12 và đầu thế kỷ 13. Về Trí Nột (1158-1210), ông kế thừa tư tưởng "Thiền-giáo song tu" và "Kiến tính khởi tu" của Đại sư Khuê Phong Tông Mật (vị tổ đời thứ 4 của phái Hà Trạch Thần Hội và đồng thời cũng là tổ thứ 5 của Hoa Nghiêm tông Trung Quốc) cũng như tư tưởng "Thiền công án, thoại đầu" của Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo (vị tổ sáng lập dòng Đại Huệ của tông Lâm Tế). Ông đã vận dụng các tư tưởng trên làm tông chỉ và thống nhất Cửu Sơn Thiền Môn thành Tào Khê tông. Tên gọi "Tào Khê tông" được mượn từ ngọn núi Tào Khê – nơi Lục tổ Huệ Năng từng hoằng pháp, nhằm biển thị tông Tào Khê là Thiền chính tông được chân truyền từ Lục tổ Huệ Năng. Văn bia tại chùa Tùng Quảng (ko. "Songgwangsa") do Triệu Tông Trứ soạn vào năm 1679 có kể về sự tích truyền thừa tông Tào Khê này. Bên cạnh Trí Nột, Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu (tông Lâm Tế) cũng là người có đóng góp không nhỏ đối với sự ra đời của tông Tào Khê. Sau khi nhận ấn khả từ Thiền sư Thạch Ốc Thanh Củng, năm 1348, Phổ Ngu quay trở lại bán đảo Triều Tiên và truyền bá Thiền Lâm Tế. Phổ Ngu đã thành lập một tổ chức liên hiệp để hoàn thiện việc thống nhất Cửu Sơn Thiền Môn, trụ sở đặt tại Quảng Minh Tự (ko. 광명사, zh. 廣明寺). Bên cạnh đó, Phổ Ngu cũng có công lao trong việc giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn đã có từ trước giữa các trường phái Phật giáo Triều Tiên. Dưới triều đại Joseon (1392-1910), Tân Nho giáo rất phát triển do triều đình này rất ủng hộ Tân Nho giáo và còn tôn Tân Nho giáo làm quốc giáo. Phía Phật giáo khá ảm đạm do bị triều đình đưa ra nhiều chính sách cấm đoán như tăng ni không được bén mảng đến thành thị, tất cả các chùa đều phải dời lên nú, tất cả các tông phái Phật giáo Triều Tiên bị hợp thành hai phái là Thiền tông (gộp từ Tào Khê tông, Thiên Thai tông, Từ Nam tông) và Giáo tông (gộp từ Hoa Nghiêm tông, Từ Ân tông, Trung Thần tông, Thủy Hưng tông, Nam Sơn tông) để triều đình dễ dàng quản lý Phật giáo. Tuy nhiên, đến đời của Vua Yonsangun thì hai phái trên tạm thời bị bãi bỏ khiến cho Phật giáo Triều Tiên rơi vào hỗn loạn. Mặc dù bị cấm đoán, trong thời gian diễn ra Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên (1592–1598), Phật giáo vẫn đứng về phía triều đình chống quân Nhật. Điển hình nhất là hoạt động của vị tổ Tào Khê tông là Thiền sư Thanh Hư Đường Tập (cũng được gọi là Đại sư Tây Sơn) và đệ tử là Đại sư Tứ Minh (ko. "Samyeong, Yujeong"). Mặc dù đã 72 tuổi nhưng Đại sư Tây Sơn vẫn lãnh đạo một đội quân "tu sĩ Phật giáo" hợp sức cùng với quân Minh thành công tái chiếm Bình Nhưỡng từ tay Nhật Bản. Vì tuổi già sức yếu, Đại sư Tây Sơn giao lại cho đệ tử là Đại sư Tứ Minh tiếp tục lãnh đạo các vị tăng chiến đấu chống quân Nhật. Chính Tứ Minh chính là người được Vua Seonjo giao trọng trách sang Nhật đàm phán hoà bình với Tokugawa Leyasu. Những điều trên đã góp phần cải thiện quan hệ giữa triều đình và Phật giáo, tuy nhiên phải đến năm 1895 thì tăng ni mới được cho phép vào thành thị. Đến cuối thế kỷ 19, tông Tào Khê được trùng hưng thông qua sự hoằng hóa Thiền sư Cảnh Hư Tinh Ngưu. Ông kế thừa tinh thần "Định - huệ song tu" của Quốc sư Trí Nột và tích cực truyền bá "Thiền thoại đầu" – vốn là phương pháp tu chính yếu của Thiền tông Đại Hàn. Tại Hải Ấn tự (ko. "Haeinsa"), ông thành lập đạo tràng Thiền Xã vận động (1889) để quảng bá tinh thần tu tập Thiền học đến quần chúng Phật giáo. Ông có 5 đệ tử nối pháp nổi danh là: Huệ Nguyệt Huệ Minh (1861-1937), Mãn Không Nguyệt Diện (1871-1946), Thủy Nguyệt Âm Quán (1855-1928), Long Thành Thần Chung (1864-1940) và Hán Nham Trùng Viễn (1876-1951). Hầu như tất cả các dòng truyền Tào Khê hiện nay tại Hàn Quốc đều thuộc pháp hệ của các vị này. Trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Triều Tiên (1910-1945), Phật giáo Triều Tiên bị lai tạp với các nghi lễ, hình thức sinh hoạt của Phật giáo Nhật Bản do người Nhật du nhập sang. Thậm chí, nhà cầm quyền Nhật Bản còn thay đổi quy tắc tăng đoàn của các sơn môn, điển hình là việc hợp pháp hóa việc tăng sĩ có thể kết hôn sinh con và điều này đã gây ra sự bức xúc trong giới Phật giáo Triều Tiên. Năm 1937, các vị cao tăng Thiền phái Tào Khê họp và quyết định lấy chùa Tào Khê (ko. "Jogyesa") ở trung tâm Seoul làm trụ sở hoạt động chính của tông phái. Từ năm 1947-1949, một số vị Thiền sư tông Tào Khê tổ chức phong trào cải cách "Sống trên tinh thần lời dạy của Đức Phật" (Living According to the Teachings of the Buddha), mục tiêu là khôi phục lại giới luật và truyền thống tu tập của Thiền tông Đại Hàn đã bị suy đồi trong thời gian Nhật Bản chiếm đóng. Trong số 20 thành viên của phong trào này, có 4 người về sau trở thành tông trưởng và 5 người trở thành chủ tịch tông Tào Khê.Từ năm 1954-1962, các vị trưởng lão độc thân của Thiền phái Tào Khê thực hiện Phong trào Thanh lọc Phật giáo, kêu gọi sự tách biệt giữa các vị tu sĩ độc thân và các vị tu sĩ có gia đình trong tông Tào Khê. Hoạt động này được chính quyền Lý Thừa Vãn ủng hộ. Kết quả, 300 vị tăng độc thân tách riêng ra thành một phái và sử dụng tên cũ là Thiền phái Tào Khê. Phía các vị tu sĩ có gia đình và các vị tu sĩ độc thân còn lại hợp thành Thiền phái Thái Cổ (en. "Taego Order", được thành lập năm 1970, tên gọi lấy theo pháp danh của Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu). Về sự giống nhau, cả hai Thiền phái này đều bắt nguồn từ Thiền phái Tào Khê do Quốc sư Trí Nột sáng lập và đều có nguồn gốc truyền thừa từ Thiền sư Thái Cổ Phổ Ngu. Điểm khác biệt là một bên chỉ toàn các vị tu sĩ độc thân và hoàn toàn cấm việc tu sĩ kết hôn, bên còn lại thì chủ yếu là các tu sĩ đã có gia đình và cho phép tu sĩ kết hôn (mặc dù không phải tất cả các vị sư của Thiền phái Thái Cổ đều kết hôn, có một số vị chọn sống độc thân). Về màu y cà sa, các vị tu sĩ của phái Tào Khê sử dụng y cà sa màu nâu còn các vị tu sĩ của phái Thái Cổ sử dụng màu y truyền thống của Phật giáo Đại Hàn truyền thống là màu đỏ, xanh đậm hoặc gần như đen. Hiện nay, Thiền phái Thái Cổ là tông phái Phật giáo lớn thứ 2 Hàn Quốc, sau Thiền phái Tào Khê. Vào ngày 11 tháng 4 năm 1962, Tổ chức Đại Hàn Phật Giáo Tào Khê Tông (bắt nguồn từ 300 vị tu sĩ độc thân nói trên) chính thức được thành lập tại Hàn Quốc với 3 mục tiêu chính: "Đào tạo và" "Giáo dục" (Training and Education), "Phiên dịch kinh điển từ Hán văn sang tiếng Hàn" (Translation of sutras from traditional Chinese into modern Korean) và "Hoằng pháp" (Dharma propagation). Các mục tiêu kể trên là kim chỉ nam hoạt động của Thiền phái Tào Khê cho đến ngày nay. Vị tông trưởng đầu tiên là Thiền sư Hiểu Phong Học Nột (ko. "Hyobong Hangnul", 1888-1966). Người đầu tiên truyền bá Thiền phái Tào Khê sang nước ngoài là Thiền sư Sùng Sơn Hạnh Nguyện (Seungsahn, 1927-2004). Trước khi qua Mỹ, Thiền sư Sùng Sơn đã có nhiều năm truyền bá Thiền tông tại Hàn Quốc. Ngoài ra, ông còn vân du sang Nhật Bản và Hồng Kông để dạy Thiền và lập ra một số đạo tràng Thiền tông tại những nơi này. Năm 1972, ông đặt chân đến Mỹ, lúc đầu chưa có nhiều người biết đến ông. Ông có làm một số công việc chân tay như giặt giũ và sửa chữa máy móc cho một tiệm giặt gốc Châu Á để mưu sinh. Bên cạnh đó ông cũng dành thời gian học tiếng Anh để dễ truyền đạo. Dần dần có nhiều người biết ông là Thiền sư và theo ông học Thiền, các đệ tử đầu tiên của ông là một số sinh viên đang theo học tại Đại học Brown. Sau này khi đã đủ điều kiện, ông sáng lập Trung tâm Thiền Providence (Providence Zen Center) tại thành phố Providence thuộc tiểu bang Rhode Island để làm nơi tu tập, sinh hoạt cho các đệ tử. Dòng Thiền của ông được biết đến tại phương Tây với tên gọi chính thức là Kwan Um school of Zen (Thiền Quán Âm, được thành lập năm 1983), là một chi phái của tông Tào Khê. Phương pháp truyền đạo của Thiền sư Sùng Sơn tại phương Tây có phần dễ thở hơn so với các vị Thiền sư khác tại Hàn Quốc như cho phép cư sĩ mặc áo cà sa và không đặt nặng về vấn đề sống độc thâ, tương tự như truyền thống Thiền Đại Hàn, các Thiền sinh được dạy tham cứu công án để đạt được giác ngộ. Ngoài ra họ cũng được dạy niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và nghiên cứu tư tưởng Kinh Hoa Nghiêm. Tính đến thời điểm Thiền sư Sùng Sơn viên tịch (2004), ông đã sáng lập được gần 40 trung tâm Thiền trên khắp thế giới. Hiện nay, dòng Thiền này có gần 100 đạo tràng và tổ chức tu Thiền ở khắp thế giới (đa dạng ở nhiều khu vực như Châu Mỹ-Latinh, Châu Á, Úc, Châu Âu, Israel). Theo James Ishmael Ford, trường phái Thiền Quán Âm (Kwan Um School of Zen) là trường phái Phật giáo lớn nhất tại phương Tây. Bên cạnh Sùng Sơn, một nhân vật khác có vai trò quan trọng trong việc truyền bá Thiền phái Tào Khê ra thế giới là Thiền sư Cửu Sơn Tú Liên (ko. "Kusan Sunim"). Năm 1969, Thiền sư Cửu Sơn trở thành trụ trì của tổ đình Quảng Tùng tự (ko. "Songgwangsa") và ông đã mở một chương trình dạy Thiền căn bản tại đây. Ngoài các vị tăng người Hàn Quốc, nhiều tu sĩ từ Mỹ, Châu Âu và các châu lục khác cũng đến tham dự khoá Thiền này và họ đã hành Thiền rất miên mật. Năm 1973, Thiền sư Cửu Sơn sang Mỹ dự lễ khánh thành chùa Sambosa (ngôi chùa gốc Hàn Quốc) tại Carmel, California. Không lâu sau, ông trở về Hàn Quốc và cùng đi với ông có các môn đệ người nước ngoài mà ông đã thu nhận được trong thời gian lưu trú ở Mỹ. Thiền sư Cửu Sơn cùng với các đệ tử này đã sáng lập Trung Tâm Thiền Quốc Tế Bulil (Bulil Internation Seon Center) tại Hàn Quốc để dạy Thiền cho những người nước ngoài đến Hàn Quốc. Ngoài ra ông cũng sáng lập một số đạo tràng ở nước ngoài để truyền bá Thiền tông như chùa Goryesa ở Los Angeles, Mỹ vào năm 1980, chùa Bulseungsa ở Geneva, Thụy Điển và chùa Daegaksa gần Carmel, Mỹ vào năm 1982. Chương trình giáo dục và tu tập. Xuất gia và thọ giới. Trong tông Tào Khê, trước khi xuất gia, người ta cần phải đi tìm một vị thầy phù hợp với mình. Sau khi đã tìm được vị thầy ưng ý, người này sẽ cạo tóc với vị thầy và tập sự ở chùa trong khoảng 5 tháng để kiểm tra xem có thực sự có ý chí tu tập hay không. Nếu đáp ứng được, người này sẽ được tham gia lễ thọ giới và trở thành một vị Sa-di/Sa-di ni. Theo thường lệ, vị Sa-di sẽ học các giáo lý Phật giáo cơ bản tại chùa hoặc Viện Phật học trong 4 năm và tham gia kỳ thi để kiểm tra các kiến thức đã học được. Nếu vượt qua được kỳ thi, vị này sẽ được thọ đại giới và trở thành Tỳ-khưu (bhikkhu) hoặc Tỳ-khưu ni (bhikkuni). Sau khi thọ đại giới, người Tỳ-khưu/ Tỳ-khưu ni chính thức được tham dự vào các hoạt động sinh hoạt Thiền môn như tụng niệm, hành thiền, nghiên cứu kinh sách. Một số cũng có thể đóng góp vào công tác quản lý hành chính của chùa hoặc thuyết pháp, hướng dẫn phật tử tu tập. Sinh hoạt thường nhật. Một ngày trong các chùa Tào Khê tông bắt đầu từ lúc 3 giờ sáng, sau khi ba tiếng mõ (ko. "moktak") vang lên, theo sau là tiếng chuông trống. Lúc này các vị tăng/ni thức dậy, vệ sinh cá nhân và vân tập vào Đại Hùng Bảo Điện để tụng kinh sáng rồi ngồi Thiền hoặc học Kinh cho đến giờ điểm tâm sáng (6 giờ). Sau khi thọ thực xong, các vị sư sẽ cùng nhau lao động, dọn dẹp khuôn viên chùa. Kế đến là giờ tọa Thiền hoặc học Kinh. Đến 10:30 sáng, họ lại vân tập đến Đại Hùng Bảo Điện để tụng kinh và sau đó đi thọ thực trưa. Sau khi dùng xong bữa trưa, họ có một khoảng thời gian rảnh để nghỉ trưa rồi tiếp tục thực hiện các hoạt động tương tự như lúc sáng. Đến khoảng 5 giờ chiều (tùy theo mùa), các vị tăng ni thọ thực, sau khi đã tụng kinh chiều xong. Rồi họ lại tiếp tục tọa Thiền hoặc học Kinh và đi ngủ vào lúc 9 giờ tối. Chương trình giáo dục và đào tạo. Hệ thống giáo dục và đào tạo của tông Tào Khê gồm ba cấp là "Sơ cấp" (Preliminary), "Cơ bản" (Basis) và "Chuyên nghiệp" (Specialized), lưu ý không phải tất cả các bậc này đều bắt buộc. Theo yêu cầu, tất cả các vị tỳ khưu và tỳ khưu ni đã thọ đại giới phải hoàn thành chương trình giáo dục ở mức thứ hai là Cơ bản. Đối vói bậc Chuyên nghiệp, tuy không bắt buộc nhưng là điều kiện căn bản cho những ai mong muốn trở thành trụ trì của một ngôi chùa. Chương trình đào tạo của bậc này kéo dài liên tục đến 10 năm và có một kỳ kiểm tra quyết định đậu hay rớt vào cuối khóa. Truyền thống tu tập Thiền tông. Mỗi năm tại các chùa Tào Khê tông có hai kỳ kiết chế (tạm dịch là an cư kiết hạ) vào mùa hè và mùa đông, mỗi kỳ kéo dài 3 tháng. Trong ba tháng của mỗi kỳ kiết chế, các vị tăng ni hạn chế giao tiếp với thế giới bên ngoài và nỗ lực tập trung toàn bộ tinh thần vào việc thực hành Thiền thoại đầu, tham cứu công án Thiền. Mục đích của việc tham thoại đầu này là để đạt được giác ngộ, nhận ra được bản lai diện mục xưa nay của chính mình. Ở giữa hai kỳ kiết chế, các Thiền sinh có ba tháng để đi hành cước khắp nơi tìm gặp các vị Thiền sư đã giác ngộ để xin chỉ dẫn tu tập, kiểm tra mức độ giác ngộ hoặc ấn chứng kinh nghiệm giác ngộ của mình, họ được gọi là tăng vân thủy. Ngoài các kỳ kiết chế, Thiền sinh cũng được khuyến khích phải tham cứu thoại đầu, giữ nghi tình mọi lúc mọi nơi cho đến khi đạt được đại ngộ thật sự. Các hoạt động nổi bật hiện nay. Trong lĩnh vực văn hóa. Chương trình "Temple Stay". Tông Tào Khê bắt đầu triển khai chương trình "Temple Stay" từ năm 2002, cho phép các du khách nội địa và quốc tế trú qua đêm tại các ngôi chùa của Thiền phái và trải nghiệm các hoạt động tu tập, sinh hoạt hàng ngày trong Thiền môn như hành Thiền, tụng kinh, nghe pháp, in , du khách cũng được tìm hiểu về văn hóa truyền thống của Hàn Quốc như học cách làm lồng đèn giấy, kim chi, học tiếng Hà Mô hình này được thực hiện khá thành công và ngày càng thu hút nhiều du khách đến trải nghiệm. Nó được chính phủ Hàn Quốc đánh giá là một trong những loại hình du lịch trọng điểm. Theo thống kê, 20% trong số 100.000 du khách nước ngoài đến Hàn Quốc vào năm 2008 đã chọn tham gia chương trình Temple Stay. Trong lĩnh vực an sinh xã hội. Từ tháng 9 năm 2013, tổ chức gây quỹ của tông Tào Khê mang tên Dreaminus đã tài trợ và thực hiện dự án xây dựng Trường Đại học Kỹ thuật Nông Nghiệp Borigaram tại Tanzania, Châu Phi. Đến ngày 5 tháng 9 năm 2016, trường được khánh thành và chính thức đi vào hoạt động. Mục tiêu của đại học này là đào tạo, giúp các thế hệ trẻ tại đây có cơ hội học tập, tìm hiểu về các quy trình, kỹ thuật liên quan đến nông nghiệp như trồng trọt, nhân giống, chăn nuô, họ có thể cải thiện được tình trạng đói nghèo, thiếu thốn về lương thực và trở thành những thế hệ lãnh đạo đầu tiên tại Tanzania trong lĩnh vực nông nghiệp. Tất cả các học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên ở khu vực lân cận trường và các vùng khác tại Tanzania đều được chào đón khi đến học tại trường này. Một số vụ Scandal nổi tiếng. Một video được quay vào tháng 4/2012 đã gây sốc đối với quần chúng Phật giáo Hàn Quốc khi cho thấy tám vị sư đang uống rượu, hút thuốc và đánh bạc với các mệnh giá tiền 10.000 won, 50.000 won trong một căn phòng tại khách sạn Baegyang ở quận Jangseong, Nam Jeolla. Sự việc này diễn ra sau khi tám vị sư kể trên thực hiện xong buổi lễ cầu siêu cho Hòa thượng Susan (cựu trụ trì chùa Baekyangsa, mất vào hồi tháng 3/2012). Phía ban lãnh đạo Thiền phái Tào Khê là Thượng tọa Jaseung - Giám đốc điều hành của Văn phòng Điều hành tông Tào Khê đã xin lỗi quần chúng và bày tỏ sự sám hối sâu sắc vì đã gây ra sự lo lắng cho những người ủng hộ Phật giáo. Tông trưởng đương nhiệm là Thiền sư Chân Tế Pháp Viễn (ko. "Jinje") cũng bày tỏ sự xin lỗi về những hành vi không đúng đắn của các vị sư kể trên trong một cuộc họp chuẩn bị cho lễ Phật đản. Ông cũng chỉ trích các nhà sư "“bị cám dỗ bởi lòng tham, tiền bạc và dục lạc”" và đưa ra bình luận: "Có nhiều người dù đã xuất gia nhưng vẫn chưa diệt trừ được thói quen xấu ngày trước.", ông cũng cam kết: "Văn phòng điều hành của Thiền phái sẽ xử lý nghiêm vấn đề này." Sáu lãnh đạo cấp cao, bao gồm giám đốc hành chính và giám đốc tài chính của Văn phòng Điều hành tông Tào Khê đã từ chức sau đó để chịu trách nhiệm vì không quản lý tốt tăng sự. Vào năm 2018, Chủ tịch Thiền phái Tào Khê thứ 35 - Hòa thượng Tuyết Tịnh (ko. "Seoljeong") đã bị cáo buộc với nhiều hành vi không đúng đắn trong một chương trình của đài truyền hình MBC công chiếu vào hồi tháng 5/2018. Theo đó, Hòa thượng Tuyết Tịnh từng viết trong cuốn tự truyện của mình rằng ông tốt nghiệp Đại học Quốc gia Seoul danh tiếng, tuy nhiên phía trường đại học đã phủ nhận thông tin này. Bênh cạnh đó, ông cũng bị cáo buộc có một cô con gái riêng với một người phụ nữ họ Kim và sở hữu nhiều tài sản dưới danh nghĩa của anh chị em mình dù ông đã phát nguyện sống độc thân theo giới luật và tu tập khổ hạnh. Hòa thượng Tuyết Tịnh sau đó đã thừa nhận việc mình không tốt nghiệp Đại học Quốc gia Seoul nhưng phủ nhận thông tin ông có con gái riêng và sở hữu nhiều tài sản riêng là không đúng sự thật. Thiền sư Chân Tế Pháp Viễn (ko. "Jinje"), tông trưởng đương nhiệm, kêu gọi đuổi Hòa thượng Tuyết Tịnh ra khỏi Thiền phái Tào Khê. Nhiều vị trưởng lão cấp cao trong Thiền phái Tào Khê và các tín đồ cũng biểu tình xung quanh Tào Khê tự, Soeul để kêu gọi cải cách nội bộ. Nổi bật nhất trong số này là Hòa thượng Seoljo vì muốn gây áp lực buộc Hòa thượng Tuyết Tịnh từ chức nên đã nhịn ăn 41 ngày trước chùa Tào Khê và sau đó phải nhập viện vì kiệt sức. Về phía Hòa thượng Tuyết Tịnh, ông cho rằng lực lượng lãnh đạo "bảo thủ", "già nua" của Thiền phái đang cố tình phá hoại công cuộc cải tông phái của ông bằng cách đổ tội. Sau khi từ chức, Hòa thượng Tuyết Tịnh quay trở lại trụ trì tại Công Đức tự (ko. "sudeoksa") - nơi ông từng làm trụ trì trước khi được bổ nhiệm chức Chủ tịch Thiền phái vào năm 2017. Các ngôi Thiền viện và tự viện của Thiền phái Tào Khê đều trực thuộc quản lý của 1 trong 24 chùa chính (theo cấp độ quận). Danh sách 24 ngôi chùa chính:
Quan hệ Philippines – Việt Nam Cộng hòa Quan hệ Philippines – Việt Nam Cộng hòa đề cập đến mối quan hệ song phương của Cộng hòa Philippines và Việt Nam Cộng hòa hiện không còn tồn tại. Philippines là đồng minh của Việt Nam Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam chuyên cung cấp viện trợ nhân đạo. Người dân Philippines và Việt Nam có lịch sử giao thương hàng hải trước khi cả hai nước bị các cường quốc phương Tây đô hộ. Sau khi cả hai nước giành được độc lập, Philippines dưới thời Tổng thống Ramon Magsaysay thiết lập mối liên hệ chính thức với Quốc gia Việt Nam vào năm 1954. Vào nửa cuối thập niên 1950, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra sức vận động hành lang để được sự công nhận về mặt ngoại giao của các quốc gia châu Á trong đó có Philippines trong khi Magsaysay đang tập trung về việc xây dựng mối quan hệ với "Thế giới Tự do" bao gồm các quốc gia dân chủ ở châu Á và Hoa Kỳ. Thượng nghị sĩ Claro M. Recto khuyên Philippines không nên chính thức công nhận Việt Nam Cộng hòa vì tin rằng điều đó sẽ mang lại sự bối rối cho đất nước vì ông kết luận rằng miền Nam chắc chắn sẽ thua miền Bắc Cộng sản cũng như lo ngại rằng Philippines đang bị lợi dụng trước lợi ích của Mỹ. Magsaysay sau đó bèn gia hạn sự công nhận chính thức của Philippines đối với Quốc gia Việt Nam vào ngày 14 tháng 7 năm 1955. Năm 1959, Tổng thống Philippines Carlos P. Garcia ký Hiệp ước Hữu nghị với Việt Nam Cộng hòa. Sự tham gia của Philippines trong chiến tranh Việt Nam. Một số bác sĩ Philippines đã đến miền Nam Việt Nam để viện trợ nhân đạo trong chiến tranh Việt Nam, với sự chấp thuận của Magsaysay vào năm 1954. Nỗ lực này mang tên Chiến dịch Brotherhood nhận được sự ủng hộ của quốc tế nhằm giúp đạt được mục tiêu của chiến dịch là hỗ trợ người tị nạn Việt Nam. Tháng 7 năm 1964, Việt Nam Cộng hòa đề nghị phía Philippines hỗ trợ chống lại những kẻ hiếu chiến ở miền Bắc Việt Nam khi Thủ tướng Nguyễn Khánh gửi công hàm tới Tổng thống Diosdado Macapagal yêu cầu viện trợ trong chiến tranh Việt Nam. Tháng 8 năm 1964, đội quân Philippines đầu tiên (PHILCON I) được gửi đến miền Nam Việt Nam vào năm 1965 sau khi Macapagal nhận được sự đồng ý của Quốc hội. Đội quân này ban đầu bao gồm 16 cá nhân là bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên và nhân viên hành động dân sự thuộc Lực lượng Vũ trang Philippines. Ngoài viện trợ nhân đạo, đội quân này còn tham gia vào chiến tranh tâm lý theo hồ sơ chính thức của Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam. Ngày 14 tháng 4 năm 1965, Thủ tướng Phan Huy Quát gửi thư cho Tổng thống Philippines nêu rõ Việt Nam Cộng hòa rất cần được viện trợ quân sự. Cũng trong lá thư này, Thủ tướng Quát hy vọng sẽ thấy khoảng 2.000 lính Philippines được đưa sang miền Nam Việt Nam. Tổng thống Macapagal đã đề nghị Quốc hội thực hiện yêu cầu của Việt Nam Cộng hòa nhưng không thể cử toán thứ hai gọi là Nhóm Hành động Dân sự Philippine (PHILCAG) do tranh chấp liên quan đến việc ông này đòi phía Mỹ phải tài trợ cho đội quân này. Tính đến tháng 6 năm 1966, có 73 người Philippines tham gia chiến tranh. Macapagal được Ferdinand Marcos kế nhiệm, vốn ban đầu không ủng hộ việc gửi đội quân thứ hai, sau cuộc bầu cử tổng thống Philippines năm 1965. Mỹ đã thành công một phần trong việc thuyết phục Marcos rút lại lập trường sau 5 phái đoàn ngoại giao. Trong khi ông vẫn kiên quyết không gửi quân chiến đấu vào miền Nam Việt Nam, ông đã mở ra khả năng gửi thêm quân để cung cấp viện trợ nhân đạo. Kế hoạch gửi đạo quân thứ hai vào miền Nam Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 7 năm 1966 theo Đạo luật Cộng hòa số 4664. Dưới thời Marcos, ông không cho phép Hoa Kỳ tài trợ toàn bộ cho việc thành lập đội quân này vì ông tin rằng người Philippines sẽ bị người Mỹ coi như lính đánh thuê nếu họ làm như vậy. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa chấp nhận lời đề nghị của Philippines về đội quân thứ hai vào ngày 15 tháng 8 năm 1966 trong khi chỉ huy PHILCAG, Tướng Gaudencio V. Tobias nhận lệnh từ Marcos bí mật thiết lập liên lạc với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam để Philippines có thể đóng vai trò trung gian cho đàm phán hòa bình vì trong nước có niềm tin rằng Bắc Việt không bày tỏ thái đổ thù địch với ý tưởng này do vai trò phi chiến đấu của PHILCAG trong chiến tranh Việt Nam. Philippines đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Manila thuộc Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á vào tháng 10 năm 1966, nơi bảy thành viên hứa viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có một số ý kiến phản đối liên quan đến việc triển khai Nhóm Hành động Dân sự Philippines tới miền Nam Việt Nam từ giới học giả, sinh viên và người lao động đã tổ chức các cuộc biểu tình trong hội nghị thượng đỉnh. Dự luật Viện trợ Việt Nam tại Quốc hội Philippines cũng bị một thiểu số nghị sĩ lên tiếng phản đối. Nhóm Hành động Dân sự Philippines trong khi chủ yếu tham gia vào việc xây dựng lại đường sá và cung cấp viện trợ nhân đạo đôi lúc cũng tham gia vào các hoạt động phòng thủ. Nhóm này từng tham gia vào Chiến dịch Attleboro khiến 4 nhân viên của họ bị thương. Đến cuối năm 1966, Philippines có 2.063 quân nhân ở miền Nam Việt Nam. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã ngăn chặn kế hoạch bí mật của Marcos nhằm thiết lập quan hệ với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Tobias lý luận rằng Philippines đang đàm phán về một thỏa thuận dẫn đến việc Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam "để yên cho toán PHILCAG". Năm 1968, Marcos bày tỏ sự cởi mở trong việc thiết lập quan hệ với các nước thuộc khối Đông Âu và bắt đầu quá trình đảo ngược chính sách chống cộng của đất nước. Năm 1969, Philippines bắt đầu rút quân và đến năm 1973 thì hoàn tất việc này. Từ năm 1964 đến năm 1973, 9 quân nhân Philippines đã tử trận cùng 4 người khác vì những nguyên nhân khác. Đại sứ quán Philippines tại Sài Gòn đóng cửa ngày 29 tháng 4 năm 1975. Quan hệ chính thức được thiết lập với Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 1976. Giải cứu người tị nạn được hộ tống trên tàu USS "Kirk". Năm 1975, Philippines tiếp nhận 30.000 người tị nạn Việt Nam lên tàu hải quân của Hải quân Việt Nam Cộng hòa được tàu USS "Kirk" hộ tống. Chính phủ Marcos ban đầu không chấp nhận người tị nạn để tránh tạo ra căng thẳng với chính quyền Cộng sản hiện đã thống nhất ở Việt Nam. Người Mỹ bèn tráo cờ Việt Nam Cộng hòa trên các tàu bằng cờ Hoa Kỳ để thuyết phục chính phủ Philippines nhận số tàu này. Đoàn tàu Hải quân Việt Nam Cộng hòa cuối cùng đã được chuyển giao cho Hải quân Philippines. Những chiếc tàu sau đây của Hải quân Việt Nam Cộng hòa trốn sang Philippines vào tháng 4 năm 1975 được tái hoạt động như các tàu Hải quân Philippines. Quan hệ kinh tế. Các doanh nhân Philippines thành lập các liên doanh để hỗ trợ nền kinh tế thời chiến của Việt Nam Cộng hòa. Công nhân nhập cư Philippines cũng được tuyển dụng ở miền Nam Việt Nam, với hàng nghìn người làm việc trong các công ty xây dựng của Mỹ có mặt ở khu vực Đông Dương bao gồm cả Việt Nam Cộng hòa. Một số làm việc trong các câu lạc bộ đêm và quán bar, nơi lính Mỹ đóng quân ở miền Nam Việt Nam thường lui tới. Phái đoàn ngoại giao và các chuyến viếng thăm. Philippines đặt đại sứ quán ở Sài Gòn trong khi Việt Nam Cộng hòa đặt đại sứ quán tại Manila. Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm đã có chuyến thăm Philippines vào cuối thập niên 1950 trong khi Tổng thống Philippines Carlos P. Garcia có chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam Cộng hòa từ ngày 22 đến ngày 26 tháng 4 năm 1959. Tranh chấp lãnh thổ. Việt Nam Cộng hòa cũng là một bên có yêu sách đối với quần đảo Trường Sa mà Philippines cũng tuyên bố chủ quyền. Cả hai nước đều có quyền kiểm soát một số đảo trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa tồn tại. Mặc dù là đồng minh trong chiến tranh Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa đã giành quyền kiểm soát Đảo Song Tử Tây vào năm 1975, nơi trước đây do người Philippines kiểm soát. Những người lính Philippines canh gác Đảo Song Tử Tây đã đến Đảo Song Tử Đông để tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật cho sĩ quan chỉ huy của họ nhưng một cơn bão buộc họ phải trì hoãn việc quay trở lại Đảo Song Tử Tây. Việt Nam Cộng hòa nhân cơ hội này bèn thiết lập quyền kiểm soát và treo quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa thay cho quốc kỳ Philippines được treo trên đảo. Có tin phía Việt Nam Cộng hòa cử gái điếm đến chỗ toán sĩ quan chỉ huy quân đội Philippines để dụ họ ra khỏi Đảo Song Tử Tây. Hòn đảo này nằm dưới sự kiểm soát của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi Việt Nam Cộng hòa bị giải thể từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975.
Phat kaphrao (, ]; dịch : thịt xào lá húng quế), cũng được đọc là "pad krapow", "kaprao", là một trong những món ăn phổ biển của nền ẩm thực Thái Lan. Lịch sử ra đời. Theo một số tài khoản, " phat kaphrao " đã được đưa vào với tư cách là một phần của nhiệm vụ văn hóa Thái Lan của thống chế Plaek Phibunsongkhram trong Chiến tranh thế giới thứ hai. "Phat kaphrao", cũng như "Pad Thái", là một trong những món ăn được quảng bá trong các cuộc thi ẩm thực địa phương của Thái Lan. "Phat kaphrao" được truyền cảm hứng bởi phương pháp xào trong nền ẩm thực Trung Quốc. Phat Kraphao là một ví dụ hoàn hảo về sự cân bằng giữa các hương vị trong nền ẩm thực Thái Lan, bao gồm vị ngọt, mặn và cay. Một trong số 4 người sống sót đầu tiên sau cuộc giải cứu hang Tham Luang đã yêu cầu món "phat kaphrao" như một bữa ăn hoàn hảo đầu tiên sau hai tuần bị mắc kẹt trong hang. "Phat kaphrao" bao gồm các loại thịt như thịt lợn, thịt gà, thịt bò và hải sản xào với húng quế và tỏi. Nó được ăn kèm với cơm và phủ lên trên bằng trứng ốp la (tùy chọn) hoặc "khai dao" (). Các loại gia vị chính bao gồm nước tương, nước mắm, dầu hào (tùy theo khẩu vị), đường mía và ớt hiểm. Theo thời gian, "phat kaphrao" đã phát triển với việc bổ sung các nguyên liệu khác như trứng vịt bắc thảo và các loại rau địa phương của Thái Lan, cụ thể là đậu đũa, ngô bao tử, hành tây, cà rốt, ớt chuối, nấm, cải rổ, măng và măng dừa. Tuy nhiên, việc thêm rau vào phat kaphrao cũng được coi là một nỗ lực nhằm giảm giá thành của thịt và tăng tỷ suất lợi nhuận của các nhà cung cấp thực phẩm. Các biến thể phổ biển của món Phat kaphrao bao gồm:
Kobayashi Kenji ( (Tiểu Lâm Kiện Nhị), Kobayashi Kenji sinh ngày 31 tháng 3 năm 1957 (Chiêu Hòa thứ 32) tại thành phố Takamatsu, tỉnh Kagawa)) là một cựu kỳ thủ shogi chuyên nghiệp đạt cấp độ Cửu đẳng người Nhật Bản. Ông có số hiệu kỳ thủ là 123, và là môn hạ của Itaya Susumu Cửu đẳng. Ông đạt tổng cộng 1 kỳ ở Tổ 1 Long Vương Chiến và 4 kỳ ở Hạng A Thuận Vị Chiến. Năm 1972, khi ông mới 14 tuổi, ông trở thành môn đệ của Itaya Susumu. Vào tháng 4 cùng năm, ông trở thành học viên tại Hội quán Shogi Tokyo, nhưng sau một thời gian ông đổ bệnh và phải chuyển về Nagoya sống cùng với sư phụ (đệ tử tại gia). Vào tháng 12 năm 1975, ông thăng lên Tứ đẳng, trở thành kỳ thủ chuyên nghiệp. Vào năm 1977 khi vẫn còn là kỳ thủ Tứ đẳng, ông đã lọt vào Vòng Xác định Khiêu chiến giả Vương Vị Chiến kỳ 18. Ông đánh bại Ariyoshi Michio Bát đẳng (đương thời) và tất cả các đối thủ khác để xếp nhất Bạch tổ với thành tích 5-0 và tiến vào Trận Xác định Khiêu chiến giả. Đối đầu với Yonenaga Kunio Bát đẳng (đương thời) - người đứng nhất Hồng tổ, dư luận cho rằng có khả năng ông sẽ trở thành kỳ thủ Tứ đẳng đầu tiên trong lịch sử giành quyền khiêu chiến danh hiệu. Ở ván đấu này, ông đã giành được lợi thế ở giai đoạn đầu, tuy nhiên ông đã để thua ngược ở tàn cuộc và bỏ lỡ cơ hội khiêu chiến danh hiệu. Sư phụ Itaya Bát đẳng (đương thời) đã nói với ông rằng "nếu thua tôi sẽ bắt cậu làm người ghi chép kỳ phổ", và Kobayashi đúng là đã được phân công làm người ghi chép kỳ phổ cho ván 3 loạt tranh ngôi Vương Vị Chiến kỳ 18 giữa Nakahara Makoto Vương Vị và Yonenaga Kunio Bát đẳng. Vào năm 1985 tại Thuận Vị Chiến kỳ 45, ông cùng sư phụ Itaya của mình cạnh tranh suất thăng lên hạng A, tuy nhiên chung cuộc Kobayashi xếp hạng 2 và lần đầu được thăng lên hạng A, còn Itaya chỉ xếp thứ 4 và không được thăng hạng. Tại Giải vô địch shogi truyền hình Cúp NHK lần thứ 46 - Vòng 3 (phát sóng ngày 3 tháng 1 năm 1997), ông đã để thua do hết giờ trong ván đấu với Yashiki Nobuyuki. Ở Thuận Vị Chiến kỳ 65 (2006), trong ván đấu với Ogura Hisashi, ông đã thả Tốt vào 92 khi vẫn đang có Tốt ở 94 và để thua do phạm luật Hai Tốt. Vào ngày 9 tháng 6 năm 2009, tại Vòng 1 - Hạng C tổ 1 - Thuận Vị Chiến kỳ 68, ông giành chiến thắng trước Tanaka Kaishū để trở thành người thứ 40 trong lịch sử đạt tổng cộng 600 ván thắng (Giải thưởng Danh dự Shogi). Ông liên tiếp nhận 2 điểm giáng hạng tại Hạng C tổ 2 ở Thuận Vị Chiến các kỳ 75 và 76 (2016-17), do đó ông tuyên bố xuống Free Class và từ bỏ quyền thi đấu tại Thuận Vị Chiến từ kỳ 77 (2018) trở đi. Vào ngày sinh nhật 65 tuổi của ông - 31 tháng 3 năm 2022, cũng là năm cuối cùng ông được phép ở lại Free Class, ông đã để thua trước đối thủ cùng tên Kanzaki Kenji ở Vòng Thăng tổ - Tổ 6 - Long Vương Chiến kỳ 35. Đây cũng là ván đấu chính thức cuối cùng trước khi ông chính thức giải nghệ vào cùng ngày. Tổng thành tích của ông là 699 thắng - 775 thua, chỉ thiếu 1 ván thắng để đạt 700 ván thắng. Phong cách thi đấu. Khi còn trẻ, ông là một kỳ thủ toàn diện với sở trường Yagura, nhưng vào khoảng năm 1989 ông chuyển sang chơi Chấn Phi Xa. Ông bắt đầu thích chơi Tứ gian Phi Xa, và vào năm 1991 đã dùng chiến pháp này để quay trở lại hạng A Thuận Vị Chiến. Ông cũng thường xuyên chơi shogi trên Internet và thường hoạt động trên nền tảng "Kindai Shogi". Ở trang web này người chơi bắt buộc phải đăng ký bằng tên thật. Khi ông chuyển sang chơi Chấn Phi Xa, lối chơi Tứ gian bài bản của ông được mệnh danh là "Siêu Tứ gian Phi Xa". Ông cũng đã xuất bản một cuốn sách và giảng về chủ đề này trên chương trình "Giờ Shogi" (将棋の時間 "Shōgi no Jikan") phát sóng trên kênh NHK Giáo dục. Ông cùng với kỳ thủ mới lên chuyên khoảng thời gian này là Sugimoto Masataka đã đóng góp rất nhiều trong việc phát triển các định thức của Tứ gian Phi Xa trước khi Hệ thống Fujii ra đời. Sau này khi Tứ gian Phi Xa kiểu Tateshi trở nên nổi tiếng, ông bắt đầu sử dụng chiến pháp này và Tứ gian Phi Xa Anaguma trong nhiều ván đấu của mình. Ông cũng giỏi chơi Vua bên Trái trong các ván Đôi Chấn Phi Xa. Sau thời kỳ này, ông quay về với lối chơi toàn diện. "Chi tiết về hạng/tổ của kỳ thủ vui lòng xem các bài Thuận Vị Chiến và Long Vương Chiến."
Rượu vang vàng (tiếng Pháp: "Vin jaune)" là một loại rượu vang trắng đặc biệt và đặc trưng được sản xuất ở vùng Jura ở miền đông nước Pháp. Nó tương tự như rượu Fino Sherry khô và có được đặc tính của mình nhờ được ủ trong thùng dưới một lớp màng men, được gọi là voile, trên bề mặt của rượu. Rượu vang vàng có nhiều điểm tương đồng với Sherry, bao gồm một số hương thơm, nhưng không giống như Sherry, nó không phải là một loại rượu vang cường hóa. Rượu được làm từ nho Savagnin, với một số ví dụ cao cấp nhất đến từ các vườn nho marl ở Château-Chalon AOC. Ở các vùng sản xuất rượu vang khác của Pháp, đã có những thử nghiệm trong việc sản xuất các loại rượu vang có phong cách tương tự từ Chardonnay và các giống nho địa phương khác bằng cách sử dụng men nuôi cấy như rượu vin de voile được sản xuất ở Gaillac.
Hầm rượu vang là một căn phòng để cất trữ rượu vang, thường là trong chai hoặc thùng. Một số hầm rượu vang cũng cất trữ rượu vang trong bình thủy tinh lớn, bình amphorae hoặc thùng nhựa. Hầm rượu vang có thể được chia thành hai loại chính: hầm rượu vang hoạt động và hầm rượu vang thụ động. Hầm rượu vang hoạt động có hệ thống kiểm soát khí hậu để duy trì nhiệt độ và độ ẩm thích hợp cho việc bảo quản rượu vang. Ngược lại, hầm rượu vang thụ động không có hệ thống kiểm soát khí hậu và thường được xây dựng dưới lòng đất để giảm sự thay đổi nhiệt độ. Hầm rượu vang trên mặt đất thường được gọi là phòng rượu, trong khi hầm rượu vang nhỏ (dưới 500 chai) đôi khi được gọi là tủ rượu. Hầm rượu vang đã có từ hơn 3.700 năm trước.
Hà Văn Quyết (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1953, tại Hà Tĩnh) là một Giáo sư, Tiến sĩ Y khoa về nội soi tiêu hóa và phẫu thuật nội soi ở Việt Nam. Ông được tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân vào năm 2017. Hà Văn Quyết sinh ngày 28 tháng 8 năm 1953, tại xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tại Tiên Điền, các dòng họ Nguyễn, họ Đặng, họ Hà, họ Trần là những dòng họ có nhiều người đỗ đạt. Năm 1971, sau khi tổt nghiệp cấp 3, Hà Văn Quyết thi đỗ vào Đại học Y Hà Nội. Sau đó ông học tiếp bác sĩ nội trú. Năm 1980, ông là giảng viên bộ môn Ngoại Đại học Y Hà Nội và được phân công làm phẫu thuật viên ở Bệnh viện Việt Đức. Năm 1990, ông làm nghiên cứu sinh ngành Ngoại khoa tại Đại học Y Hà Nội. Năm 1995, Hà Văn Quyết đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ với để tài "Góp phẩn nghiên cứu ứng dụng nội soi trong cấp cứu ngoại khoa chảy máu ống tiêu hoá trên". Từ năm 1992 đến năm 1998, ông là Giảng viên chính Bộ môn Ngoại Đại học Y Hà Nội, Phẫu thuật viên Bệnh viện Việt Đức. Từ năm 1998 đến năm 2004, ông là Phó Trưởng bộ môn Ngoại, Đại học Y Hà Nội. Từ năm 2004 đến năm 2012, ông là Trưởng bộ môn Ngoại Đại học Y Hà Nội, Phó Giám đốc Bệnh viện Việt Đức. Từ năm 2013 đến tháng 4, 2014, ông là Trưởng bộ môn Ngoại Đại học Y Hà Nội, Phó Giám đốc Bệnh viện Vỉệt Đức kiêm Giám đốc Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Từ tháng 5 năm 2014 đến tháng 2 năm 2016, ông là giảng viên cao cấp bộ môn Ngoại Đại học Y Hà Nội. Từ tháng 3/2016 tới nay, ông là giảng viên cao cấp bộ môn Ngoại, Đại học Y Dược Hải Phòng. Ông là ủy viên Hội đồng chức danh Giáo sư ngành Y. Hoạt động khoa học và đào tạo. Ngay từ những năm 1980, khi kỹ thuật nội soi còn khá mới mẻ trong nển y học Việt Nam, tại khoa cấp cứu bụng Bệnh viện Việt Đức, ông là người đầu tiên đã tiến hành và sử dụng ống soi mềm (Fibroscopie) để nội soi cấp cứu vào năm 1988 và triển khai ra một phòng Nội soi tiêu hóa, để từ đó phát triển nhanh chóng Nội soi chẩn đoán và nội soi can thiệp. Từ đề tài luận án tiến sĩ vào năm 1995, Hà Văn Quyết đã phát triển, ứng dụng các phương pháp tiêm sơ, cầm máu cho giãn tĩnh mạch thực quản trong cấp cứu. Đây là một bước ngoặt mới cho y học Việt Nam về lĩnh vực can thiệp bằng nội soi không cần phẫu thuật, làm rút ngắn quá trình điều trị tại các bệnh viện. Bên cạnh đó, ông còn tiến hành nghiên cứu về chẩn đoán sớm, đi sâu nghiên cứu và xác định hình ảnh nội soi các thương tổn ung thư sớm, nhất là thương tổn ung thư dạ dày. Từ năm 1995-2017, ông đã làm Chủ nhiệm của 3 để tài khoa học cấp Bộ, 1 đề tài cấp Thành phố và nhiều đề tài cấp Trường. Trong đó, tiêu biểu là “"Nghiên cứu chẩn đoán và điểu trị loét miệng nỗi sau phẫu thuật cắt đoạn dạ dày"" (2002); “"Nghiên cứu áp dụng dao mổ điện sản xuất trong nước phục vụ cho phẫu thuật trong phòng thí nghiệm"” (2006); “"Nghiên cứu một số phương pháp điêu trị phẫu thuật điểu trị chảy máu do tăng áp lực tĩnh mạch cửa"” (2006); “"Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi một lỗ cắt ruột thừa"” (2013); “"Đánh giá kết quả nội soi đường mật và tán sỏi thủy điện lực trong mổ sỏi mật"” (2016), “"Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi một lỗ cắt túi mật"” (2017). Trong hơn 35 năm nghiên cứu, Hà Văn Quyết đã cho ra đời 91 bài báo khoa học đăng trên các tạp chí y học trong nước và quốc tế (Y học thực hành, Y học Việt Nam, Ngoại khoa, Thông tin Y - Dược, Y - Dược Hà Nội, Y học lâm sàng, Hậu môn trực tràng, Phẫu thuật nội soi và nội soi Việt Nam, Fellowship Reseach Report, Asian Pacific Journal of cancer Prevention). Ông còn tích cực tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học, là tác giả của nhiều tham luận, báo cáo khoa học đang trên các kỷ yếu trong và ngoài nước. Ông tham gia biên soạn, biên tập, làm chủ biên 18 đầu sách y học, tài liệu tham khảo và giảng dạy do Nhà xuất bản Ỵ học ấn hành như: "Ngoại cơ sở" (1999), "Thây thuốc tại nhà" (2000), "Bài giảng cấp cứu Ngoại khoa" (1996), "Cấp cứu Ngoại khoa tiêu hóa" (2005), "Bệnh lý viêm tụy" (2006), "Bài giảng Dạy - Học lâm sàng qua tình huống" (2013)... Trong lĩnh vực đào tạo, Hà Văn Quyết tham gia giảng dạy cho nhiều thế hệ sinh viên của các trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược Huế, Đại học Y Dược Hải Phòng, Đại học Y Thái Bình, Học viện Quân , 26 bác sĩ chuyên khoa II và 20 thạc sĩ hoàn thành luận văn. Ông là thành viên Hiệp hội Phẫu thuật tiêu hóa và ung thư thế giới; nguyên Phó Chủ tịch Hội Ngoại khoa Việt Nam, Ông được phong học hàm Phó Giáo sư năm 2002 và Giáo sư năm 2007.
Trong thần thoại Hy Lạp, Lichas ( ; ) là người hầu của anh hùng Heracles. Nhậm nhiệm vụ mà Deianira, vợ Heracles giao cho, Lichas mang chiếc áo tẩm độc của Nessus đưa tới tay Heracles vì cơn ghen của Deianira đối với Iole, người mà Heracles đang có cảm tình. Tin lời Nessus nói dối, Deianira tưởng rằng máu của Nessus sẽ giúp cho chồng cô mãi mãi chung thủy với cô. Thế nhưng, máu độc của nhân mã trong chiếc áo đã giết chết Heracles. Lichas mang đến cho chủ nhân của mình chiếc áo choàng lông sư tử Nemean đã bị tẩm độc. Chiếc áo đốt chát da thịt của Heracles, dày vò anh trong nỗi đau đớn khủng khiếp. Tìm thấy Lichas đang sợ hãi trốn sau một tảng đá, Heracles đã nổi điên trừng phạt Lichas bằng cách ném anh ta xuống biển, nơi có quần đảo Lichadian, giữa biển Euboea và bờ biển Locris. Quần đảo này được cho là đặt tên theo tên của Lichas. Câu chuyện này được kể lại trong vở bi kịch "Những người phụ nữ thành Trachis" của Sophocles và tác phẩm Metamorphoses của Ovid.
Khu bảo tồn ‘Uruq Bani Ma’arid Khu bảo tồn 'Uruq Bani Ma'arid () là một khu vực được bảo vệ ở miền nam Ả Rập Xê Út, nằm ở rìa phía tây của Rub' al Khali, sa mạc cát lớn nhất thế giới. Khu bảo vệ được chia thành ba phần với vùng lõi là khu bảo tồn thiên nhiên, khu vực được phép chăn thả có kiểm soát và một khu săn bắn. Khu bảo tồn này nằm trong khu vực mà loài Linh dương sừng thẳng Ả Rập từng sinh sống trước khi bị tuyệt chủng trong tự nhiên. Hiện nó được chọn làm nơi để thả loài linh dương sừng thẳng Ả Rập đã được nhân giống theo chương trình nhân giống trong môi trường nuôi nhốt và được đánh giá là nơi thích hợp để tái lập các đàn Linh dương bướu giáp, Linh dương núi đá Ả Rập, đà điểu, tất cả chúng đã từng có mặt tại đây. Ngày 20 tháng 9 năm 2023, khu bảo tồn này đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, và đây là di sản thiên nhiên đầu tiên được công nhận tại Ả Rập Xê Út. Tổng diện tích của khu vực này là , khu bảo tồn bao gồm cao nguyên đá vôi bị chia cắt bởi các cồn cát, các vách đứng "Tuwaiq", thung lũng "Wadi" và đồng sỏi. Các sa mạc cát đỏ song song với nhau có thể cao tới 150 mét được ngăn cách bởi các hành lang nền cát hoặc sỏi. Khí hậu ở đây rất khô cằn và nóng, lượng mưa rất ít, chỉ khoảng mỗi năm. Những trận mưa như trút nước trên các vách đá khiến cho dòng nước chảy vào những nền trũng và được giữ lại. Đây được coi là vùng thực vật quan trọng nhờ sự phong phú của nó so với các nơi khác của Rub' al Khali, cùng với sự hiện diện của các loài đặc hữu của bán đảo Ả Rập. Vách đá vôi có ít thảm thực vật nhưng các wadi tạo thành các cạnh của vách đá là nơi hỗ trợ nhiều loại cây bụi phát triển bao gồm keo, cỏ và các loài cây bụi, cây họ đậu. Trong các hành lang giữa các cồn cát như "Haloxylon persicum", "Moringa peregrina", "một dược". Ở đây có rất ít cây mới mọc lên, nhưng sau những trận mưa, chồi non của các cây cũ lại phát triển. Tổng cộng có 106 loài thực vật đã được ghi nhận trong khu bảo tồn. Về động vật, đây hiện là nơi trú ẩn của khoảng 500 cá thể linh dương sừng thẳng Ả Rập và hiện là nơi duy nhất có quần thể hoang dã đang sinh sống. Linh dương bướu giáp, Linh dương núi đá Ả Rập cũng đã được đưa về tự nhiên từ năm 1995. Khu bảo tồn cũng là nơi trú ẩn của cáo Rüppell, mèo cát, cáo đỏ, thỏ sa mạc, nhím sa mạc, chuột nhảy Cheesman, Chuột nhảy Jerboa Tiểu Ai Cập, kỳ đà sa mạc, chó hoang, rắn. Khu bảo tồn cũng ghi nhận là nơi có sự xuất hiện của 104 loài chim, nhưng chỉ có 16 loài cư trú tại đây gồm Ô tác Houbara, kền kền cổ yếm, Diều ngón ngắn.
Swordfish Studios Limited là một công ty phát triển trò chơi điện tử của Anh thành lập bởi Trevor Williams và Joan Finnegan (vợ của Paul Finnegan, cựu giám đốc điều hành của Rage Software Limited) vào tháng 9 năm 2002 Swordfish Studios được thành lập bởi Trevor Williams và Jean Finnegan vào tháng 9 năm 2002, có trụ sở ở Birmingham. Các tựa game của công ty bao gồm tựa game bán chạy nhất là World Championship Rugby, còn lại là Brian Lara International Cricket 2005 và Cold Winter. Năm 2004, Swordfish Studios đã được trao tặng danh hiệu "Nhà phát triển game của năm" bởi Hiệp hội các nhà phát triển trò chơi độc lập (TIGA) Swordfish Studios đã được mua lại bởi Vivendi Universal Games vào tháng 6 năm 2005, và được sở hữu hoàn toàn bởi Sierra Entertainment. Vào ngày 12/11/2008, studio của công ty có chi nhánh ở Manchester đã được bán lại cho Monumental Games. Studio chính của công ty ở Birmingham đã được mua lại bởi Codemasters vào ngày 15/11/2008 sau một thỏa thuận với Activision Blizzard. Nay còn được biết đến với cái tên Codemasters Birmingham. Studio sau đó bị đóng cửa vào năm 2010. Nhiều cựu nhân viên của Swordfish Studios đã đựoc tuyển vào Crytek UK.
Drew Weissman (sinh ngày 7 tháng 9 năm 1959) là một bác sĩ-nhà khoa học người Mỹ và được trao giải Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 2023 nổi tiếng vì những đóng góp của ông cho ngành sinh học RNA. Công trình nghiên cứu của ông được sử dụng để phát triển vắc xin mRNA, trong đó công trình nổi tiếng nhất của ông là vắc xin phòng ngừa COVID-19 được sản xuất bởi BioNTech/Pfizer và Moderna. Weissman là giáo sư đầu tiên của Roberts Family Professor trong nghiên cứu vắc xin, giám đốc Viện đổi mới RNA của Penn và là giáo sư y khoa tại Trường Y khoa Perelman tại Đại học Pennsylvania (Penn). Ông và đồng nghiệp nghiên cứu của mình Katalin Karikó đã nhận được nhiều giải thưởng bao gồm giải nghiên cứu y học Lâm sàng Lasker-DeBakey danh giá). Ông đã nhận được giải Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 2023 cùng với Karikó "cho những khám phá của họ liên quan đến việc chỉnh sửa gốc nucleoside cho phép phát triển vắc xin mRNA hiệu quả chống lại COVID-19". Weissman sinh ra ở Lexington, Massachusetts vào ngày 7/9/1959, cha của Drew Weissman là người Do Thái còn mẹ của Drew Weissman là người Ý. Trong khi mẹ của Weissman không chuyển sang Do Thái giáo, từ nhỏ cậu đã tham gia tất cả các ngày lễ của người Do Thái. Drew Weissman lớn lên ở Lexington, Massachusetts và theo học tại trường trung học Lexington, tốt nghiệp năm 1977. Drew Weissman đã nhận được bằng cử nhân và thạc sĩ của Đại học Brandeis năm 1981, nơi anh theo học chuyên ngành hóa sinh và enzyme và làm việc trong phòng thí nghiệm của Gerald Fasman. Anh đã nghiên cứu đề tài miễn dịch học và vi sinh học để nhận bằng thạc sĩ và tiến sĩ vào năm 1987 tại Đại học Boston Sau đó, Weissman thực tập nội trú tại Trung tâm Y tế Beth Israel Deaconess, sau đó nhận học bổng tại Viện Y tế Quốc gia (NIH), dưới sự hướng dẫn của Anthony Fauci, lúc đó là giám đốc Viện Dị ứng và Bệnh Truyền nhiễm Quốc gia.
Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ năm Máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ năm là một phân loại thế hệ máy bay tiêm kích phản lực trang bị phần lớn các công nghệ được phát triển trong giai đoạn đầu thế kỷ 21. Tính đến năm 2023, đây là thế hệ máy bay chiến đấu tiên tiến hiện đại nhất đang hoạt động. Các đặc điểm của máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm không được thống nhất rộng rãi và không phải loại máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm nào cũng nhất thiết phải có tất cả các đặc điểm đó; tuy nhiên, các đặc điểm này thường bao gồm: radar có xác suất can thiệp thấp (LPIR), tàng hình, khung máy bay cơ động với hiệu suất bay hành trình siêu thanh, các tính năng điện tử hàng không tiên tiến, hệ thống máy tính tích hợp cao có khả năng liên kết mạng lưới với nhiều yếu tố khác trong chiến trường để nhận thức tình huống và duy trì năng lực chỉ huy, kiểm soát, liên lạc. ính đến năm 2023[ [cập nhật]], các máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm sẵn sàng cho chiến đấu gồm có Lockheed Martin F-22 Raptor được đưa vào sử dụng trong Không quân Hoa Kỳ (USAF) vào tháng 12 năm 2005; Lockheed Martin F-35 Lightning II được đưa vào biên chế trong Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (USMC) vào tháng 7 năm 2015; Chengdu J-20 phục vụ trong Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAAF) vào tháng 3 năm 2017; và Sukhoi Su-57 đưa vào sử dụng trong Không quân Nga (VVS) vào ngày 25 tháng 12 năm 2020. Ngoài ra, các dự án quốc gia và dự án quốc tế khác đang trong những giai đoạn phát triển khác nhau. Thế hệ máy bay tiêm kích tiên tiến mới nổi lên trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 được gọi là thế hệ thứ năm. Các đặc điểm xác định của máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm không được thống nhất rộng rãi và không phải loại máy bay thế hệ thứ năm nào cũng nhất thiết phải có tất cả các đặc điểm đó. Trong khi máy bay tiêm kích thế hệ thứ tư tập trung nhiều vào khả năng cơ động và không chiến tầm gần, thì thế hệ thứ năm có các đặc điểm điển hình như sau: Để giảm thiểu bề mặt chắn sóng radar (RCS), hầu hết máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm đều sử dụng mép cánh nhọn chạy dọc theo thân máy bay (chine) thay vì sử dụng phần mở rộng mép cánh trước tiêu chuẩn (standard leading edge extension) và không có cánh mũi (canard), mặc dù Sukhoi Su-57 có phần mở rộng phía trên cổng hút gió động cơ có vẻ hoạt động hơi giống cánh mũi, còn Chengdu J-20 vẫn được các nhà thiết kế sử dụng cánh mũi nhưng có cải tiến về tính linh hoạt, bất chấp đặc tính tàng hình kém của nó. Tất cả máy bay thế hệ này đều có đuôi đôi nghiêng (tương tự như đuôi chữ V) để giảm thiểu RCS và hầu hết đều đạt được khả năng siêu cơ động thông qua vector đẩy. Tất cả máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm đều có khoang vũ khí bên trong, vì khi gắn vũ khí trên các giá treo bên ngoài sẽ làm tăng bề mặt chắn sóng radar dẫn đến dễ bị radar phát hiện, nhưng nó vẫn có các giá treo bên ngoài ở dưới cánh để sử dụng cho các nhiệm vụ không cần tàng hình, ví dụ như F-22 có thể mang theo thùng nhiên liệu phụ bên ngoài khi được triển khai đến một chiến trường mới. Máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm có tỷ lệ vật liệu composite cao, nhằm giảm bề mặt chắn sóng radar và giảm trọng lượng. Máy bay định nghĩa bằng phần mềm. Tất cả máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm được tiết lộ đều sử dụng bộ xử lý chính thuộc hàng thương mại có sẵn để điều khiển trực tiếp toàn bộ các cảm biến, nhằm tạo sẵn cho phi công một cái nhìn tổng hợp về chiến trường bằng cách kết hợp cả cảm biến trên máy bay và cảm biến liên kết mạng lưới, trong khi máy bay tiêm kích thế hệ trước sử dụng hệ thống trong đó mỗi cảm biến hiển thị thông tin riêng lẻ để phi công tự kết hợp trong đầu họ một cái nhìn về chiến trường. F-22A khi được giao hàng đã không có radar khẩu độ tổng hợp (SAR) hoặc tính năng tìm kiếm và theo dõi bằng tia hồng ngoại nhận thức tình huống, sau này nó sẽ có SAR thông qua nâng cấp phần mềm. Tuy nhiên, bất kỳ thiếu sót nào trong hệ thống phần mềm phức tạp này đều có thể vô hiệu hóa các hệ thống không liên quan khác của máy bay, và sự phức tạp của một máy bay định nghĩa bằng phần mềm có thể dẫn đến vấn đề khủng hoảng phần mềm làm tăng chi phí và chậm tiến độ. Cuối năm 2013, mối quan tâm lớn nhất đối với chương trình F-35 chính là hệ thống phần mềm, đặc biệt là phần mềm cần thiết cho việc tổng hợp dữ liệu trên nhiều cảm biến. Nhà sản xuất Sukhoi gọi hệ chuyên gia kết hợp cảm biến của họ là trí tuệ nhân tạo của Su-57. Các chuyến bay thử nghiệm trang bị hệ thống điện tử hàng không mô-đun tích hợp bắt đầu vào năm 2017 trên hệ thống bộ xử lý đa lõi đã được liên kết mạng lưới bằng sợi quang học. Hệ thống này không phải là hoàn toàn không gặp lỗi, vào tháng 12 năm 2020, sự cố xảy ra trong hệ thống kiểm soát bay bằng máy tính đã khiến chiếc Su-57 đầu tiên trong đợt sản xuất gặp tai nạn. Phản ứng tự động của phần mềm đối với tình trạng nhiệt độ quá nóng rõ ràng là đã góp phần gây ra sự cố cho chiếc F-22. Các vấn đề trục trặc xảy ra trên hệ thống điện tử cũng góp phần gây ra vụ tai nạn F-35A vào năm 2020. F-35 sử dụng hệ thống vô tuyến định nghĩa bằng phần mềm, trong đó phần mềm trung gian điều khiển các mảng cổng lập trình trường. Đại tá Arthur Tomassetti từng nói F-35 là "máy bay chuyên sâu về phần mềm và phần mềm của nó rất dễ nâng cấp, trái ngược với phần cứng." Để dễ dàng bổ sung thêm các tính năng phần mềm mới, F-35 được áp dụng trách nhiệm bảo mật tách biệt giữa nhân hệ điều hành và ứng dụng. Steve O'Bryan của tập đoàn Lockheed Martin cho biết F-35 có khả năng điều khiển và vận hành máy bay không người lái thông qua nâng cấp phần mềm trong tương lai. Hải quân Mỹ đã lên kế hoạch đặt hệ thống máy bay chiến đấu không người lái hoạt động trên tàu sân bay (UCLASS) dưới sự điều khiển của máy bay có người lái, hoạt động giống như một kho chứa tên lửa bay. Nhận thức tình huống. Sự kết hợp giữa khung máy bay tàng hình, cảm biến tàng hình và thông tin liên lạc tàng hình cho phép máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm tấn công máy bay đối phương trước khi kẻ thù kịp nhận ra sự hiện diện của nó. Trung tá Gene McFalls của Không quân Mỹ nói rằng việc kết hợp cảm biến sẽ đưa dữ liệu thu thập được vào cơ sở dữ liệu kiểm kê để xác định chính xác máy bay ở khoảng cách xa. Sự kết hợp cảm biến và theo dõi mục tiêu tự động mang lại cho phi công máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm có cái nhìn về chiến trường một cách vượt trội so với máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm trên không truyền thống, vì loại máy bay này có thể bị buộc phải rút lui khỏi tiền tuyến do các mối đe dọa ngày càng tăng. Do đó, quyền kiểm soát chiến thuật sẽ được chuyển qua cho các phi công máy bay tiêm kích. Cựu Bộ trưởng Không quân Mỹ Michael Wynne từng đề nghị loại bỏ Boeing E-3 Sentry và Northrop Grumman E-8 Joint STARS để chuyển sang sử dụng nhiều F-35 hơn, đơn giản là vì Nga và Trung Quốc đang cố gắng tập trung rất nhiều vào những nền tảng được xây dựng dựa theo tiêu chuẩn máy bay thương mại này. Tuy nhiên, các cảm biến mạnh hơn, ví dụ như radar mảng quét điện tử chủ động AESA có thể hoạt động ở nhiều chế độ cùng lúc, dẫn đến cung cấp quá nhiều thông tin để một phi công trên F-22, F-35 và Su-57 có thể sử dụng hết một cách đầy đủ. Vì vậy, máy bay Sukhoi/HAL FGFA từng được đề nghị cho quay trở lại cấu hình hai chỗ ngồi phổ biến trên máy bay tiêm kích cường kích thế hệ thứ tư, nhưng đề nghị này đã bị từ chối vì lo ngại về vấn đề chi phí. Hiện đang có nghiên cứu áp dụng tính năng theo dõi-trước khi-phát hiện thông qua kết hợp cảm biến trong lõi CPU cho phép máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm tấn công các mục tiêu mà không có cảm biến đơn lẻ nào tự phát hiện được. Tính năng này sử dụng lý thuyết xác suất để xác định "nên tin vào dữ liệu nào, tin khi nào và tin ở mức độ bao nhiêu". Các cảm biến tạo ra quá nhiều dữ liệu làm cho máy tính trên bo mạch khó xử lý đầy đủ, vì vậy sự kết hợp cảm biến sẽ đạt được bằng cách so sánh những dữ liệu nó quan sát được với dữ liệu về mối đe dọa được lưu sẵn trong thư viện máy tính. Dữ liệu mối đe dọa là dữ liệu có chứa thông tin khả năng về kẻ thù đã được biết đến trong một khu vực nhất định. Những dữ liệu quan sát nào được xem là không phù hợp với mối đe dọa thậm chí sẽ không được hiển thị. Đám mây chiến đấu. Tướng bốn sao Gilmary M. Hostage III của Không quân Mỹ đưa ra ý tưởng rằng trong tương lai, các máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm sẽ hoạt động chung với máy bay chiến đấu không người lái, tất cả sẽ tạo thành một "đám mây chiến đấu", còn Michael Manazir đề xuất ý tưởng về một chiếc UCLASS trang bị tên lửa AIM-120 AMRAAM và cất cánh theo lệnh của một chiếc F-35. Những máy bay trình diễn công nghệ của Mỹ gồm có: Lockheed YF-22 – năm 1990 (2 chiếc được chế tạo), Northrop YF-23 – năm 1990 (2 chiếc được chế tạo), Boeing Bird of Prey – năm 1996 (1 chiếc được chế tạo), McDonnell Douglas X-36 – năm 1997 (2 chiếc), Lockheed Martin X-35 – năm 2000 (2 chiếc), Boeing X-32 – năm 2001 (1 chiếc). Máy bay có khả năng quan sát thấp bằng radar (LO) thế hệ trước, còn gọi là máy bay tàng hình, ví dụ như máy bay ném bom B-2 Spirit và máy bay tấn công mặt đất F-117 Nighthawk, bị thiếu radar mảng quét điện tử chủ động (AESA), thiếu mạng lưới dữ liệu xác suất can thiệp thấp (LPI), thiếu hiệu suất bay và vũ khí không đối không cần thiết để giao chiến với máy bay khác. Do đó, đầu thập niên 1970, nhiều dự án thiết kế khác nhau của Mỹ đã xác định khả năng tàng hình, tốc độ và cơ động là những đặc điểm chính của máy bay chiến đấu không đối không thế hệ tiếp theo. Từ đó dẫn đến khởi xướng chương trình Advanced Tactical Fighter (Máy bay tiêm kích Chiến thuật Tiên tiến) vào tháng 5 năm 1981, kết quả là F-22 ra đời. Thủy quân lục chiến Mỹ đang tận dụng kinh nghiệm của Không quân Mỹ về "tác chiến trên không thế hệ thứ năm" trên F-22, để phát triển chiến thuật của riêng mình trên F-35. Theo tập đoàn Lockheed Martin, vào năm 2004, máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm duy nhất được đưa vào sử dụng là F-22 Raptor. Lockheed Martin sử dụng thuật ngữ "máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm" để mô tả F-22 và F-35, họ định nghĩa thuật ngữ này là: "tàng hình tiên tiến", "hiệu suất cực cao", "tích hợp thông tin" và "khả năng chịu đựng tiên tiến". Không rõ vì lý do gì, định nghĩa của họ lại không có khả năng bay hành trình siêu thanh - vốn thường gắn liền với các máy bay tiêm kích hiện đại tiên tiến, nhưng F-35 lại thiếu. Lockheed Martin đã cố gắng đăng ký nhãn hiệu "máy bay tiêm kích thế hệ thứ 5" đối với máy bay phản lực và các bộ phận cấu trúc của nó, cuối cùng họ cũng có nhãn hiệu và logo cho thuật ngữ này. Định nghĩa về "máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm" của Lockheed Martin đã bị chỉ trích bởi các công ty có sản phẩm không tuân theo thông số kỹ thuật trong định nghĩa này, chẳng hạn như Boeing và Eurofighter, cũng như bởi các nhà bình luận khác như Bill Sweetman. Hải quân Mỹ và Boeing xếp F/A-18E/F Super Hornet vào loại máy bay tiêm kích "thế hệ tiếp theo" cùng với F-22 và F-35, bởi vì Super Hornet có radar AESA, bề mặt chắn sóng radar thấp (RCS) và kết hợp cảm biến. Một phi công cấp cao của USAF đã phàn nàn về việc xếp Super Hornet vào máy bay thế hệ thứ năm như sau: "Điểm mấu chốt của thế hệ thứ năm là sức mạnh tổng hợp tạo nên từ khả năng tàng hình, sự kết hợp và nhận thức tình huống hoàn hảo. Nó có thể thực hiện nhiệm vụ ở bất cứ đâu, ngay cả trong môi trường phòng không tích hợp phức tạp [IADS]. Nếu bạn bay vào môi trường IADS, cho dù máy bay của bạn có sự kết hợp giữa radar và cảm biến tuyệt vời nhưng lại không có khả năng tàng hình, bạn sẽ hoàn toàn nhận thức được tình huống của kẻ giết bạn." Michael "Ponch" Garcia của tập đoàn Raytheon nói việc bổ sung radar AESA cho Super Hornet mang lại "90% khả năng thế hệ thứ năm với mức chi phí chỉ bằng một nửa." Một quan chức hàng đầu của Boeing đã gọi máy bay tiêm kích thế hệ 4,5 mới nhất của họ là "sát thủ tàng hình". Cuối thập niên 1990, một số chương trình máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm của Trung Quốc được cơ quan tình báo phương Tây xác định và đặt tên mã định danh là J-XX hoặc XXJ. Các quan chức Không quân Trung Quốc đã thừa nhận sự tồn tại của một chương trình như vậy, và họ ước tính sẽ đưa vào sử dụng máy bay mới từ năm 2017 đến năm 2019. Cuối năm 2010, hai nguyên mẫu của Chengdu J-20 được chế tạo và đang trải qua quá trình thử nghiệm trên đường lăn tốc độ cao, sau đó thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 11 tháng 1 năm 2011. Ngày 26 tháng 12 năm 2015, một chiếc J-20 mới với số hiệu 2101 được nhìn thấy đang rời khỏi nhà máy của Tập đoàn Hàng không Thành Đô (Chengdu Aviation Corporation). Nó thực hiện chuyến bay lần đầu vào ngày 18 tháng 1 năm 2016, và được cho là chiếc đầu tiên trong đợt sản xuất ban đầu với số lượng nhỏ (LRIP). J-20 chính thức được đưa vào huấn luyện trong quân đội từ tháng 3 năm 2017, trở thành máy bay tiêm kích tàng hình đầu tiên hoạt động bên ngoài Hoa Kỳ và ở châu Á. J-20 trải qua quá trình thử nghiệm và tập trận vào cuối năm 2017, rồi được biên chế vào các đơn vị chiến đấu của Không quân Trung Quốc vào năm 2018. Một thiết kế máy bay tiêm kích tàng hình khác của Tập đoàn Máy bay Thẩm Dương (Shenyang Aircraft Corporation) bắt đầu lan truyền trên internet vào tháng 9 năm 2011. Tháng 6 năm 2012, những bức ảnh về một nguyên mẫu có thể là F-60 đang được vận chuyển trên đường cao tốc xuất hiện trên internet. Máy bay này sau đó được đặt tên là Shenyang FC-31, thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 31 tháng 10 năm 2012. Một phiên bản tinh tế hơn của FC-31 đã được gán cho cái tên là "J-35". Máy bay trình diễn công nghệ của Nga gồm có Mikoyan đề án 1.44 – năm 1998 (1 chiếc) và Sukhoi Su-47 – năm 1997 (1 chiếc). Cuối thập niên 1980, Liên Xô có nhu cầu sở hữu máy bay thế hệ tiếp theo để thay thế máy bay tiêm kích thế hệ thứ tư là Mikoyan MiG-29 và Sukhoi Su-27 đang hoạt động ở tiền tuyến. Để đáp ứng các yêu cầu của máy bay thế hệ tiếp theo, hai dự án đã được phát triển gồm: dự án máy bay cánh tam giác hai động cơ Sukhoi Su-47 có cánh ngược hướng về phía trước và Mikoyan đề án 1.44. Tuy nhiên, do Liên Xô tan rã và thiếu vốn nên cả hai dự án đều bị hủy bỏ, các nguyên mẫu của hai dự án chỉ dùng để thử nghiệm và trình diễn công nghệ. Sau năm 2000, Bộ Quốc phòng Nga tổ chức một cuộc thi thiết kế máy bay chiến đấu mới mang tên "PAK FA" (tiếng Nga: ПАК ФА, là từ viết tắt của: Перспективный авиационный комплекс фронтовой авиации, chuyển tự Latinh: "Perspektivny Aviatsionny Kompleks Frontovoy Aviatsii", dịch nghĩa: "Tổ hợp hàng không triển vọng của lực lượng không quân tiền tuyến") để phát triển máy bay tiêm kích thế hệ tiếp theo cho Không quân Nga, với các đối thủ cạnh tranh chính trong cuộc thi là Sukhoi và MiG. Sukhoi đưa ra đề xuất mẫu Sukhoi T-50 hai động cơ (nay là Sukhoi Su-57) trong khi Mikoyan đề xuất mẫu Mikoyan LMFS một động cơ nhẹ hơn, dựa trên dự án MiG-1.44 trước đây. Sukhoi đã giành chiến thắng trong cuộc thi, và vào năm 2002, hãng được chọn để dẫn đầu quá trình phát triển máy bay tiêm kích thế hệ tiếp theo của Nga dựa trên thiết kế T-50. Còn mẫu LMFS đa năng vẫn được tiếp tục phát triển từ nguồn tài trợ của Mikoyan. Tuy nhiên, sau này chương trình LMFS cũng bị hủy bỏ và thay thế bằng chương trình Sukhoi Su-75 Checkmate tương tự. Máy bay thế hệ thứ năm đầu tiên của Nga là Sukhoi Su-57 sẽ thay thế MiG-29 và Su-27 đã trở nên già cỗi. Su-57 bay lần đầu vào ngày 29 tháng 1 năm 2010 và chiếc đầu tiên bàn giao cho Không quân Nga vào ngày 25 tháng 12 năm 2020. Một máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm khác được đề xuất là Mikoyan PAK DP, được phát triển để thay thế MiG-31. Dự án bắt đầu vào năm 2010, theo báo cáo trên tin tức của Nga, MiG-41 sẽ trang bị công nghệ tàng hình, đạt tốc độ từ Mach 4 đến 4,3, mang theo tên lửa chống vệ tinh, có thể thực hiện các nhiệm vụ ở Bắc Cực và môi trường cận không gian. Nga đã công bố nguyên mẫu của Máy bay Chiến thuật Hạng nhẹ Sukhoi Su-75 Checkmate một động cơ tại triển lãm hàng không MAKS vào tháng 7 năm 2021, mẫu máy bay này ban đầu dự định thực hiện chuyến bay đầu tiên vào năm 2023 (sau đó bị trì hoãn ít nhất là đến năm 2024). Su-75 chủ yếu được thiết kế để xuất khẩu và dự kiến sẽ có giá rẻ hơn so với đối thủ cạnh tranh là các máy bay 2 động cơ. Ấn Độ đang phát triển máy bay tiêm kích đa năng tàng hình siêu cơ động thế hệ thứ năm hai động cơ là HAL AMCA (AMCA là từ viết tắt của Advanced Medium Combat Aircraft - Máy bay Chiến đấu Hạng trung Tiên tiến). Máy bay này được Cơ quan Phát triển Hàng không (Aeronautical Development Agency) (ADA) thiết kế, và công ty Hindustan Aeronautics Limited (HAL) sản xuất nguyên mẫu. Tính đến năm 2022, nguyên mẫu AMCA vẫn đang được chế tạo, chuyến bay đầu tiên dự kiến diễn ra vào năm 2025. Đầu năm 2018, Ấn Độ rút khỏi dự án Sukhoi/HAL FGFA, đây là dự án hợp tác giữa HAL và Sukhoi. FGFA là phiên bản thế hệ thứ năm phát triển dựa trên Sukhoi Su-57, nhưng Ấn Độ cho rằng nó không đáp ứng các yêu cầu về khả năng tàng hình, hệ thống điện tử chiến đấu, radar và cảm biến vào thời điểm đó. FGFA sẽ có 43 cải tiến mới so với Su-57, bao gồm khả năng tàng hình, bay hành trình siêu thanh, cảm biến hiện đại, kết nối mạng lưới và hệ thống điện tử hàng không chiến đấu. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích nghi ngờ về khả năng tự phát triển máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm của Ấn Độ, bởi vì nước này thiếu cơ sở công nghiệp và năng lực kỹ thuật, đặc biệt là thiếu chuyên môn nghiên cứu và thiết kế, cũng như thiếu cơ sở công nghiệp quân sự mạnh mẽ để sản xuất máy bay với số lượng lớn. TAI TF-X Kaan, có tên gọi khác là TF (viết tắt của Turkish Fighter - Máy bay tiêm kích Thổ Nhĩ Kỳ), hoặc trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ là "Milli Muharip Uçak" (Máy bay Chiến đấu Quốc gia), viết tắt là MMU, là một loại máy bay tiêm kích chiếm ưu thế trên không tàng hình thế hệ thứ năm hai động cơ hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết, được phát triển bởi Turkish Aerospace Industries (Công nghiệp Hàng không vũ trụ Thổ Nhĩ Kỳ) (TAI) và BAE Systems làm nhà thầu phụ. TF-X dự kiến sẽ thay thế F-16 Fighting Falcon đang hoạt động trong Không quân Thổ Nhĩ Kỳ và xuất khẩu ra nước ngoài. Đã có thông tin chính thức về việc nguyên mẫu TF-X được tung ra thị trường vào ngày 18 tháng 3 năm 2023, thực hiện chuyến bay đầu tiên vào cuối năm 2023. Các cuộc thử nghiệm chạy trên mặt đất bắt đầu vào ngày 16 tháng 3 năm 2023 - hai ngày trước ngày ra mắt công chúng. Mẫu máy bay này chính thức được đặt tên là "Kaan" vào ngày 1 tháng 5 năm 2023. Tháng 5 năm 2023, trong một triển lãm hàng không ở Thổ Nhĩ Kỳ, giám đốc điều hành của TAI là Temel Kotil cảnh báo số tiền mua TF Kaan có thể cao hơn một chút so với lời hứa 100 triệu USD mỗi chiếc của ông hồi năm 2021. Ông kỳ vọng TAI sẽ giao 20 chiếc Block 10 cho Không quân Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2028, dự kiến tăng tốc bàn giao 2 chiếc mỗi tháng vào năm 2029, mang về doanh thu hàng năm là 2,4 tỷ USD. Thụy Điển phát triển chương trình máy bay tiêm kích thế hệ thứ năm là Flygsystem 2020 của công ty Saab AB. Nhật Bản đã phát triển nguyên mẫu máy bay tiêm kích phản lực tàng hình có tên là Mitsubishi X-2 Shinshin, trước đây gọi là ATD-X. Đầu thế kỷ XXI, Nhật Bản tìm cách thay thế phi đội máy bay chiến đấu cũ kỹ và bắt đầu đề nghị Mỹ bán máy bay F-22 để trang bị cho Lực lượng Phòng vệ Trên không Nhật Bản (JASDF). Tuy nhiên, Quốc hội Mỹ cấm xuất khẩu F-22 để bảo vệ bí mật công nghệ; sự từ chối này buộc Nhật phải tự phát triển máy bay chiến đấu hiện đại của riêng mình, trang bị các tính năng tàng hình cùng nhiều hệ thống tiên tiến khác. Một mô hình của X-2 Shinshin đã được chế tạo và sử dụng để nghiên cứu bề mặt chắn sóng radar ở Pháp vào năm 2009. Nguyên mẫu được giới thiệu vào tháng 7 năm 2014, thực hiện chuyến bay đầu tiên ngày 22 tháng 4 năm 2016. Đến tháng 7 năm 2018, Nhật Bản quyết định mời gọi các đối tác quốc tế tham gia hoàn thành dự án này, trong đó một số công ty đã có phản hồi. Nhật Bản đã ký hợp đồng với tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries (Công nghiệp nặng Mitsubishi) để phát triển máy bay tiêm kích thế hệ thứ sáu mang tên Mitsubishi F-X.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. The Mirage là một khu nghỉ dưỡng sòng bạc nằm trên Las Vegas Strip ở Paradise, Nevada, Hoa Kỳ. Nó thuộc sở hữu của Vici Properties và được vận hành bởi Hard Rock International. Khu nghỉ dưỡng rộng 65 mẫu Anh này bao gồm một sòng bạc rộng 90.548 foot vuông (8.412,2 m2) và 3.044 phòng. The Mirage khai trương vào năm 1989 với tư cách là khu nghỉ dưỡng đắt giá nhất thế giới. Nó cũng là một trong những khách sạn lớn nhất thế giới. The Mirage là khu nghỉ dưỡng lớn đầu tiên mở cửa trên Strip và thành công của nó đã thúc đẩy một làn sóng xây dựng vào những năm 1990 cho các khu nghỉ dưỡng lớn khác dọc theo Strip. Nổi tiếng với ngọn núi lửa nhân tạo phun trào hàng đêm, The Mirage cũng có một số điểm thu hút không truyền thống cho một sòng bạc ở Las Vegas, bao gồm môi trường sống của động vật và màn trình diễn rừng nhiệt đới trong nhà. Năm 1990, The Mirage đã ra mắt chương trình ảo thuật của Siegfried Roy, những người đã biểu diễn tại đây gần 14 năm. Năm 2022, Hard Rock International đã tiếp quản hoạt động của The Mirage, trở thành nhà điều hành trò chơi bộ lạc đầu tiên trên Las Vegas Strip. Công ty dự định đổi thương hiệu khu nghỉ dưỡng thành Hard Rock Las Vegas và cải tạo hoàn toàn, bao gồm cả một tòa tháp khách sạn hình cây đàn guitar mới. Dự án đổi thương hiệu dự kiến ​​sẽ bắt đầu vào năm 2024 và hoàn thành trong vòng hai năm. Một phần của khu đất Mirage từng là một hộp đêm có tên là Red Rooster. Nó mở cửa vào năm 1930, trên khu đất sau này sẽ trở thành Las Vegas Strip. Năm sau, nó trở thành doanh nghiệp đầu tiên trên Strip được cấp giấy phép hoạt động trò chơi. Sau đó, nó được nữ diễn viên Grace Hayes mua lại vào năm 1947 và trở thành Grace Hayes Lodge. Nó bị phá hủy vào năm 1959, mặc dù Hayes vẫn tiếp tục sống trong một ngôi nhà nằm trên khu đất. Một phần khác của khu đất bị chiếm đóng bởi một khách sạn-sòng bạc có tên Castaways. Chủ sòng bạc Steve Wynn đã cân nhắc xây dựng một khu nghỉ dưỡng trên Strip có tên Victoria Bay, nhưng dự án đã bị hủy bỏ vào năm 1981 do chi phí cao. Ba năm sau, ông nghĩ đến việc xây dựng một khu nghỉ dưỡng ở trung tâm Las Vegas, trên 50 mẫu đất đường sắt sau này sẽ trở thành địa điểm của Trung tâm Chính phủ Quận Clark. Kế hoạch xây dựng ở trung tâm thành phố của Wynn đã bị hủy bỏ sau khi đường sắt từ chối lời đề nghị 50 triệu đô la của ông cho khu đất, yêu cầu gấp đôi số tiền đó. Wynn cuối cùng đã mua lại Castaways và các khu vực gần đó vào tháng 10 năm 1986. Việc mua lại của Wynn bao gồm ngôi nhà của Hayes, ngôi nhà này đã được dọn dẹp và phá bỏ cùng với Castaways để nhường chỗ cho một khu nghỉ dưỡng sòng bạc mới. Wynn đã bán khu nghỉ dưỡng Golden Nugget Atlantic City của mình và sử dụng số tiền thu được để tài trợ cho dự án mới của mình. Nhiều cái tên đã được cân nhắc cho dự án của Wynn, bao gồm Bombay và Bombay Club, những cái tên đã bị loại bỏ vào cuối năm 1986. "Wynn" được coi là một cái tên, và sau này sẽ được sử dụng cho khu nghỉ dưỡng Wynn Las Vegas. Wynn đã công bố kế hoạch cho khu nghỉ dưỡng theo chủ đề nhiệt đới, tạm thời được gọi là Golden Nugget, vào tháng 6 năm 1987. Ông nói rằng dự án sẽ được đổi tên sau đó để phù hợp với chủ đề Biển Nam của mình. Tên hoạt động của dự án xuất phát từ sòng bạc-khách sạn Golden Nugget của Wynn ở trung tâm Las Vegas. Wynn không có ý định có hai Golden Nuggets ở Las Vegas, tin rằng chúng sẽ được gọi là "cái cũ" và "cái mới", cái trước mà ông thấy không mong muốn cho khu trung tâm thành phố. Cái tên cuối cùng được công bố vào tháng 12 năm 1988: The Mirage. Cái tên này nhấn mạnh khu nghỉ dưỡng như một ốc đảo giữa sa mạc Nevada. Để tránh nhầm lẫn, Wynn đã mua lại quyền đối với tên Mirage từ hai doanh nghiệp địa phương, La Mirage Casino và Mirage Motel. Cả hai đều nhận được 250.000 đô la để đổi tên. Việc xây dựng bắt đầu vào tháng 11 năm 1987. Các nhà thầu chính bao gồm MarCor Development Company và Sierra Construction Corporation, công ty sau này làm việc trên tòa tháp khách sạn. Dự án có chi phí ban đầu là 550 triệu đô la, mặc dù nó đã vượt quá ngân sách. Với chi phí cuối cùng là 630 triệu đô la, Mirage là khách sạn-sòng bạc đắt nhất thế giới từng được xây dựng, cho đến khi Trump Taj Mahal mở cửa vài tháng sau đó ở Atlantic City. Một phần lớn dự án Mirage được tài trợ bởi Drexel Burnham Lambert. Nhà tài chính Michael Milken, một giám đốc điều hành của công ty, đã giúp tài trợ cho dự án bằng cách bán 525 triệu đô la trái phiếu thế chấp. Mirage là khu nghỉ dưỡng đầu tiên được xây dựng bằng tiền của Phố Wall thông qua việc sử dụng trái phiếu rác. Bobby Baldwin đã giám sát các khía cạnh chính của dự án với Wynn, và sau đó sẽ giữ chức chủ tịch của Mirage, sau khi trước đó giữ chức vụ tương tự tại Las Vegas Golden Nugget. Để chuẩn bị cho việc khai trương, Baldwin và những người khác đã dành gần một năm đến thăm 250 công ty – trong các lĩnh vực như khách sạn và ăn uống – để thu thập thông tin và tư vấn. Không hài lòng với công ty quan hệ công chúng hiện tại, Wynn đã thuê Hill Knowlton tám tuần trước khi khai trương. Mặc dù công ty phản đối, Wynn đã từ chối cho phép các chuyến tham quan của giới truyền thông và phát hành hình ảnh sớm, muốn giữ cho khu nghỉ dưỡng trở thành một bất ngờ cho việc khai trương. Mirage đã thuê gần 6.400 nhân viên. Wynn nhấn mạnh dịch vụ khách hàng cho các công nhân, những người đã trải qua một tháng đào tạo công việc trước khi khai trương. The Mirage khai trương lúc 12:00 , Wynn đã lên kế hoạch khai trương vào ngày 26 tháng 12, nhưng đã thay đổi kế hoạch này sau khi đảm bảo trận đấu quyền Anh Sugar Ray Leonard vs. Roberto Durán III tại khu nghỉ dưỡng vào ngày 7 tháng 12. Ông dự định biến Mirage thành một địa điểm tổ chức các trận đấu quyền Anh phổ biến, cạnh tranh với các khu nghỉ dưỡng khác ở Las Vegas. Trong vòng vài giờ sau khi khai trương, một khách hàng sòng bạc đã trúng giải độc đắc 4,6 triệu USD trên máy đánh bạc 1 đô la. Khu nghỉ dưỡng có các đặc điểm không truyền thống đối với một cơ sở kinh doanh trò chơi ở Las Vegas, và Wynn coi chúng là những điểm thu hút chính, nói rằng Mirage sẽ không phụ thuộc vào sòng bạc của nó như các cơ sở khác. Điểm thu hút đặc trưng của nó là một ngọn núi lửa nhân tạo phun trào, cung cấp giải trí miễn phí cho người đi bộ phía trước khu nghỉ dưỡng. Các điểm thu hút khác bao gồm môi trường sống của cá heo và màn trình diễn rừng rậm tươi tốt nằm bên dưới một trung tâm có mái vòm. Ngoài ra, khu nghỉ dưỡng còn có chương trình biểu diễn ảo thuật của Siegfried Roy, và những chú hổ trắng của bộ đôi này được trưng bày trong khu nghỉ dưỡng khi không biểu diễn. Các nhà phân tích tài chính và giám đốc điều hành trò chơi tỏ ra nghi ngờ về Mirage, vốn cần kiếm được 1 triệu đô la mỗi ngày chưa từng có để trang trải chi phí. Khu nghỉ dưỡng cuối cùng đã vượt quá mong đợi. Mirage là khu nghỉ dưỡng mới đầu tiên được xây dựng trên Las Vegas Strip sau 16 năm, sau MGM Grand (nay là của Bally) hoàn thành vào năm 1973. Mirage cũng là khu nghỉ dưỡng lớn đầu tiên mở cửa trên Strip, và là khách sạn thứ hai ở Las Vegas Valley sau khi International Hotel khai trương vào năm 1969. Thành công của Mirage đã thúc đẩy sự bùng nổ xây dựng các khu nghỉ dưỡng lớn khác ở Strip trong những năm 1990. Trước khi Mirage khai trương, thành phố đã trải qua sự suy giảm về du lịch, đặc biệt là sau Hợp pháp hóa cờ bạc của New Jersey ở thành phố Atlantic. Do thành công của mình, Wynn đã vay thêm 100 triệu đô la vào năm 1990 để bổ sung thêm các tính năng, bao gồm bãi đậu xe, nhiều biệt thự cao cấp hơn và mở rộng khu vực hồ bơi. Wynn cũng đã hợp tác với ca sĩ Michael Jackson để thiết kế một điểm tham quan núi và nước tại Mirage. Nó sẽ giống như Diamond Head, Hawaii, và sẽ bao gồm các hồ bơi, một đường trượt nước và các biệt thự cao cấp. Nó sẽ có giá lên tới 15 triệu đô la và sẽ được xây dựng phía sau khu nghỉ mát. Nó được lên kế hoạch mở cửa vào cuối năm 1990, nhưng cuối cùng đã không được xây dựng. Wynn sở hữu khu nghỉ mát thông qua công ty của mình, Golden Nugget Inc., mà ông đổi tên thành Mirage Resorts vào năm 1991. Một cuộc cải tạo trị giá 55 triệu đô la đã diễn ra vào năm 1995. Tính đến năm 1997, đây là khu nghỉ mát có lợi nhuận cao nhất trên Strip. Wynn rời khu nghỉ mát và Mirage Resorts vào năm 2000, khi công ty được MGM Grand Inc. mua lại, sau đó được đổi tên thành MGM Mirage. Các phòng khách sạn đã được cải tạo vào năm 2002 và một cuộc cải tạo lớn đã diễn ra từ năm 2005 đến năm 2006, nhằm giúp Mirage cạnh tranh với các khu nghỉ mát mới hơn. Dự án bao gồm một số nhà hàng và câu lạc bộ đêm mới, cùng với những thay đổi khác. Đây là cuộc cải tạo lớn nhất kể từ khi khu nghỉ mát mở cửa. Một cuộc cải tạo trị giá 100 triệu đô la đã diễn ra vào năm 2008, nâng cấp sòng bạc và phòng khách sạn, đồng thời bổ sung thêm một số nhà hàng. Năm 2009, Phil Ruffin đã mua lại khách sạn và sòng bạc Treasure Island liền kề từ MGM Mirage. Sau đó, ông đã đưa ra lời đề nghị mua khách sạn Mirage rộng 65 mẫu Anh, nhưng bị từ chối. MGM Mirage được đổi tên thành MGM Resorts International vào năm 2010. Hai mươi năm sau khi mở cửa, Mirage vẫn được ưa chuộng mặc dù bị lu mờ bởi các khu nghỉ mát mới hơn và sang trọng hơn. Quyền sở hữu Mirage, cùng với nhiều tài sản khác của MGM, đã được chuyển giao vào năm 2016 cho MGM Growth Properties, trong khi MGM Resorts tiếp tục vận hành nó theo hợp đồng thuê. Vici Properties sau đó đã mua lại MGM Growth, bao gồm Mirage, vào năm 2022. Đề xuất đổi thương hiệu. Năm 2019, Hard Rock International đã bày tỏ sự quan tâm đến việc mua bất động sản trên Las Vegas Strip cho một khu nghỉ dưỡng Hard Rock mới, sau khi bán và đề xuất đổi thương hiệu khách sạn Hard Rock ban đầu ở Las Vegas năm 2018. Vào tháng 11 năm 2021, MGM Resorts đã thông báo rằng họ đang trong quá trình bán hoạt động sòng bạc của Mirage. Công ty đã vận hành chín khu nghỉ mát khác và đang trong quá trình bổ sung thêm một khu nghỉ mát thứ mười. Giám đốc điều hành William Hornbuckle, người đã giúp giám sát việc khai trương Mirage, cho biết khu nghỉ mát "vừa giảm mạnh trong bảng xếp hạng về số vốn mà chúng tôi sẽ phân bổ cho nó trong bất kỳ khoảng thời gian nào trong tương lai gần. Vì vậy, chúng tôi chỉ đưa ra quyết định chiến lược bán nó". Vào tháng 12 năm 2021, Hard Rock International đã đồng ý mua lại hoạt động kinh doanh của Mirage từ MGM Resorts với giá 1,075 tỷ USD. Theo thỏa thuận, Hard Rock sẽ ký hợp đồng thuê dài hạn với Vici và sẽ đổi thương hiệu Mirage thành Hard Rock Las Vegas. MGM sẽ giữ lại tên "Mirage" và cấp phép cho Hard Rock sử dụng trong tối đa ba năm, cho đến khi việc đổi thương hiệu có hiệu lực. Mirage sẽ được cải tạo hoàn toàn như một phần của việc đổi thương hiệu, với các phòng được tân trang lại hoàn toàn. Hard Rock International cũng có ý định xây dựng một tòa tháp khách sạn hình cây đàn guitar trên khu đất, giống như Seminole Hard Rock ở Florida. Tòa tháp mới sẽ thay thế ngọn núi lửa của Mirage, dẫn đến một bản kiến nghị trên C Việc mua lại của Hard Rock được hoàn tất vào ngày 19 tháng 12 năm 2022, biến đây thành nhà điều hành trò chơi trib đầu tiên trên Las Vegas Strip. Mirage sẽ tiếp tục hoạt động trong suốt quá trình cải tạo và mở rộng dự án, dự kiến sẽ bắt đầu vào năm 2024. Hard Rock Las Vegas dự kiến sẽ khai trương vào năm 2025 hoặc 2026. Với 3.049 phòng, Mirage là một trong những khách sạn lớn nhất thế giới khi mở cửa, chỉ đứng sau Las Vegas Hilton (3.174) và Khách sạn Rossiya ở Moscow (3.200). Tòa tháp khách sạn cao 29 tầng được xây dựng với bố cục hình chữ Y, sao chép thiết kế được sử dụng tại Las Vegas Hilton. Mirage đã phổ biến thiết kế hình chữ Y, sau đó được các khu nghỉ dưỡng Treasure Island, Monte Carlo và Mandalay Bay của Las Vegas sao chép. Năm tầng trên cùng của khách sạn được sử dụng cho các phòng dành cho người chơi cao cấp và các dãy phòng áp mái. Các cửa sổ bên ngoài được làm bằng vàng 18 karat, và các tầng dãy phòng được phân biệt bằng các tấm kính không gián đoạn, trong khi các tầng thấp hơn có các đường màu trắng giữa chúng. Sắc thái màu trắng và vàng trước đây đã được sử dụng tại Golden Nugget. Kể từ khi khai trương, khách sạn đã có một bể thủy sinh trị giá 1,2 triệu đô la, được xây dựng phía sau quầy check-in. Bể thủy sinh được Conversano hình thành để đánh lạc hướng và thư giãn cho khách hàng trong khi chờ đợi để check-in. Nó có chứa hàng trăm con cá và là một điểm thu hút phổ biến.. Sòng bạc Mirage có diện tích 90.548 feet vuông (8.412,2 mét vuông). Nó được mở cửa với 2.300 máy đánh bạc và 115 trò chơi trên bàn. Một khu vực giới hạn cao đã được thêm vào vào phút cuối, trước đó đã bị bỏ qua. Mirage là sòng bạc đầu tiên ở Las Vegas sử dụng camera an ninh toàn thời gian trên tất cả các trò chơi trên bàn. Năm 1997, Mirage Resorts đã chi 150 triệu đô la cho các tác phẩm nghệ thuật được trưng bày trong khu vực chơi game có tiền cược cao của khu nghỉ mát. Sòng bạc đã bổ sung thêm một khu vực chơi game có tiền cược cao mới vào năm 2004, với thiết kế của nghệ sĩ Dale Chihuly. Mirage cũng có 300.000 feet vuông (28.000 mét vuông) không gian hội nghị. Các tiện ích khác của khu nghỉ mát bao gồm một tiệm xăm, và một cửa hàng quần áo của gia đình Kardashian. Câu lạc bộ đêm Jet đã được mở vào năm 2005, được điều hành bởi The Light Group. Câu lạc bộ rộng 16.500 feet vuông (1.530 mét vuông) được chia thành ba phòng. Nó được trang bị hình ảnh chiếu và 120 tấm trần LED. Câu lạc bộ hoạt động cho đến năm 2011, khi nó được đổi tên thành 1 OAK, nghĩa là "one of a kind" (độc nhất vô nhị). Câu lạc bộ có các tác phẩm nghệ thuật của Roy Nachum. Nó đã đóng cửa vào đầu năm 2020. Revolution, một câu lạc bộ đêm trị giá 11 triệu đô la lấy chủ đề về ban nhạc The Beatles, đã được mở vào năm 2006, cùng với việc khu nghỉ mát mở màn biểu diễn Love by Cirque du Soleil lấy chủ đề về The Beatles. Đây là một liên doanh giữa Apple Corps và Cirque du Soleil, đánh dấu câu lạc bộ đêm đầu tiên ở Las Vegas của Cirque du Soleil. Câu lạc bộ rộng 7.000 feet vuông (650 mét vuông) có thể chứa tối đa 400 người. Lối vào được đánh dấu bằng những chữ cái viết hoa cao 10 feet đánh vần tên câu lạc bộ, với "EVOL" được viết ngược để tạo thành từ "LOVE". Câu lạc bộ đã đóng cửa vào năm 2015. Khu nghỉ mát có một khu vực bể bơi topless được gọi là Bare Pool Lounge, được mở vào năm 2007. Nó cũng được điều hành bởi The Light Group. Khu vực này có nhạc DJ và rất phổ biến trong cư dân địa phương, cũng như những người nổi tiếng. Trong văn hóa đại chúng. Chương trình đặc biệt của CBS năm 1991 của Cher, Cher Extravaganza: Live at the Mirage, được quay trong các buổi dừng chân của Tour diễn Heart of Stone năm 1990 của nữ ca sĩ. Nhà hát của Mirage đã được sử dụng cho một cảnh trong bộ phim Pure Country năm 1992. Mirage được giới thiệu nổi bật ở phần cuối của City Slickers II: The Legend of Curly's Gold. Khu nghỉ dưỡng cũng được xuất hiện trong bộ phim Sgt. Bilko năm 1996. Wynn đã cho phép đóng cửa một phần Mirage để sản xuất bộ phim Vegas Vacation năm 1997, bộ phim này có sự góp mặt nổi bật của khu nghỉ dưỡng, bao gồm khu vực hồ bơi, và chương trình Siegfried Roy. Năm 2000, bộ phim truyền hình Nash Bridges đã quay tập cuối mùa thứ năm tại đây. Mirage cũng là một trong ba sòng bạc ở Las Vegas bị cướp trong bộ phim Ocean's Eleven năm 2001, và xuất hiện trong trò chơi điện tử "", , dưới cái tên "The Visage". Năm 2009, nhà hát Love đã được giới thiệu trong tập cuối của The Amazing Race 15. Nhiều khu vực khác nhau của khu nghỉ dưỡng, bao gồm biển báo ven đường, cũng được giới thiệu trong tập cuối của The Amazing Race 24, được phát sóng vào năm 2014. Nhóm nhạc The Killers đã đặt tên cho album năm 2020 của họ, Imploding the Mirage, theo tên của khu nghỉ dưỡng này.
Hội đồng Lập pháp Đa dân tộc Quốc hội Bolivia có hai viện, bao gồm Viện Dân biểu (hạ viện hay "Cámara de Diputados") và Viện Thượng nghị sĩ (thượng viện hay "Cámara de Senadores"). Phó Tổng thống Bolivia đương nhiên giữ chức Chủ tịch Hội đồng Lập pháp Đa dân tộc theo cơ chế nghị viên dựa chức. Mỗi viện tự bầu ra những lãnh đạo riêng gồm một chủ tịch, các phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai, và ba hoặc bốn thư ký (sao cho tương ứng giữa thượng viện và hạ viện). Mỗi đảng sẽ luôn có một ghế ("bancada") dành cho nhà lập pháp của mình. Mỗi nhóm người như vậy được gọi là "brigada". Mỗi viện sẽ tự đề xuất và xem xét những ý kiến lập pháp qua ủy ban thuộc viện của mình. Thượng viện có 36 ghế. Mỗi bộ trong 9 bộ của chính phủ sẽ có 4 thượng nghị sĩ được bầu theo cơ chế đại diện tỷ lệ (bằng phương pháp d'Hondt). (Từ năm 1985 đến năm 2009, thượng viện có 27 ghế gồm 3 ghế cho mỗi khu vực: 2 ghế từ đảng hoặc người có nhiều phiếu bầu nhất, 1 ghế cho đảng đứng thứ hai.) Các thượng nghị sĩ được bầu từ danh sách ứng cử và sẽ giữ chức trong 5 năm. Độ tuổi tối thiểu để ngồi ghế ở thượng viện là 35. Hạ viện có 130 ghế, được bầu theo cơ chế đầu phiếu đa số tương đối nhưng có thể được bổ sung: 70 dân biểu được bầu để đại diện cho các khu vực bầu cử chỉ có một ứng viên, 7 trong số đó là ghế của người bản địa hoặc người Campesino được bầu bởi các nhóm dân tộc thiểu số, 60 ghế được bầu theo cơ chế đại diện tỷ lệ từ danh sách ứng viên của các đảng, tương ứng với vị trí ở các bộ. Các dân biểu cũng có nhiệm kỳ 5 năm và phải ít nhất 25 tuổi vào ngày bầu cử. Danh sách ứng viên từ đảng phải có luân phiên giữa nam và nữ, ở các khu vực chỉ có một đại biểu thì nam phải tranh cử với nữ dự khuyết và ngược lại. Ít nhất 50% số đại biểu từ các khu vực một thành viên phải là nữ. Thượng nghị sĩ và các dân biểu được bầu theo vị trí ở từng bộ đều được chọn ra dựa trên kết quả bầu cử tổng thống, các dân biểu còn lại được chọn từ kết quả bầu cử theo từng khu vực. Cơ quan lập pháp trước đây có tên là Đại hội Toàn quốc ().
Viện Thượng nghị sĩ Bolivia Thượng viện có 36 ghế. Mỗi bộ trong 9 bộ của chính phủ sẽ có 4 thượng nghị sĩ được bầu theo cơ chế đại diện tỷ lệ (bằng phương pháp d'Hondt). (Từ năm 1985 đến năm 2009, thượng viện có 27 ghế gồm 3 ghế cho mỗi khu vực: 2 ghế từ đảng hoặc người có nhiều phiếu bầu nhất, 1 ghế cho đảng đứng thứ hai.) Các thượng nghị sĩ được bầu từ danh sách ứng cử và sẽ giữ chức trong 5 năm. Độ tuổi tối thiểu để ngồi ghế ở thượng viện là 35. Thượng viện được thành lập vào năm 1831, sau đó bị giải thể và được tái lập vào năm 1878. Trước khi Hiến pháp năm 2009 được thông qua, cơ quan này có tên là Thượng viện Quốc gia ().
Viện Dân biểu Bolivia Hạ viện có 130 ghế, được bầu theo cơ chế đầu phiếu đa số tương đối nhưng có thể được bổ sung: 70 dân biểu được bầu để đại diện cho các khu vực bầu cử chỉ có một ứng viên, 7 trong số đó là ghế của người bản địa hoặc người Campesino được bầu bởi các nhóm dân tộc thiểu số, 60 ghế được bầu theo cơ chế đại diện tỷ lệ từ danh sách ứng viên của các đảng, tương ứng với vị trí ở các bộ. Các dân biểu có nhiệm kỳ 5 năm và phải ít nhất 25 tuổi vào ngày bầu cử. Danh sách ứng viên từ đảng phải có luân phiên giữa nam và nữ, ở các khu vực chỉ có một đại biểu thì nam phải tranh cử với nữ dự khuyết và ngược lại. Ít nhất 50% số đại biểu từ các khu vực một thành viên phải là nữ. Thượng nghị sĩ và các dân biểu được bầu theo vị trí ở từng bộ đều được chọn ra dựa trên kết quả bầu cử tổng thống, các dân biểu còn lại được chọn từ kết quả bầu cử theo từng khu vực.
Cumania là một từ đồng nghĩa và ngoại danh trong tiếng La Tinh dùng để chỉ Liên minh Cuman–Kipchak, là một bang liên bộ lạc ở phía Tây của Thảo nguyên Á-Âu, giữa thế kỷ X và XIII. Liên minh này bị thống trị bởi hai bộ lạc du mục gốc Turk: người Cuman (còn được gọi là người Polovtsian hoặc Folban) và người Kipchak. Cumania được biết đến trong các nguồn Hồi giáo với cái tên Desht-i Qipchaq, có nghĩa là "Thảo nguyên của Kipchak"; hoặc "đất lạ che chở cho người Kipchak", trong tiếng Ba Tư và al-Qumāniyīn trong tiếng Ả Rập. Các nguồn tài liệu của Nga gọi Cumania là "Thảo nguyên Polovtsian" ("Polovetskaia Step"), hay "Đồng bằng Polovtsian" ("Pole Polovetskoe"). Một thực thể khác, có tổ chức hơn mà sau này được gọi là Hãn quốc Kim Trướng cũng được biên niên sử người Armenia Hethum (Hayton) xứ Korykos gọi là "Comania".:38 "Cumania" cũng là nguồn gốc của các tên hoặc tên thay thế, đối với một số khu vực nhỏ hơn - một số trong số đó không có mối liên hệ về mặt địa lý với khu vực liên minh - nơi người Cuman và/hoặc người Kipchak định cư, chẳng hạn như khu vực lịch sử Kunság ở Hungary và Giáo phận Công giáo La Mã Cumania cũ (ở Romania và Hungary). Hethum xứ Korykos mô tả Cumania là "hoàn toàn bằng phẳng và không có cây cối".:38 Ibn Battuta nói về Cumania, "Vùng hoang dã này xanh tươi và đầy cỏ, không có cây cối, cũng không có đồi núi, cao hay thấp ... không có phương tiện du hành trong sa mạc này ngoại trừ đi bằng xe ngựa." Người cùng thời với Battuta là Hamdallah Mustawfi, đã trình bày chi tiết như sau:
Kaesang Pangarep (sinh ngày 25 tháng 12 năm 1994) là một chính trị gia và nhà kinh doanh người Indonesia. Anh là con trai út của Tổng thống Indonesia Joko Widodo. Vào tháng 9 năm 2023, anh được bổ nhiệm trở thành chủ tịch Đảng Đoàn kết Indonesia (PSI). Anh tốt nghiệp ACS International tại Singapore với văn bằng đại học quốc tế, và Đại học Khoa học Xã hội Singapore. Anh hiện là chủ của câu lạc bộ bóng đá Liga 1 Persis Solo cùng với Erick Thohir. Sự nghiệp giải trí. Kaesang trở nên nổi tiếng khi là một blogger với tên 'diary anak kampung' hoặc 'mister kacang' vào năm 2011. Phong cách của anh được coi là sáng tạo và ngộ nghĩnh, khám phá cuộc sống cá nhân và mối quan hệ của anh với gia đình. Từ năm 2016, Kaesang hoạt động trên YouTube và nhiều video đã lan truyền nhờ khiếu hài hước của mình. Các vlog YouTube của anh trở nên phổ biến; kể từ tháng 5 năm 2017, kênh có hơn 270.000 người đăng ký. Vì ảnh hưởng của Kaesang, Jokowi đã tạo vlog YouTube mang tên #JKWVLOG, vlog này trở nên nổi tiếng sau khi đăng tải bữa trưa của Jokowi với Vua Salman. Kaesang còn xuất hiện trong chương trình truyền hình Indonesia "Mata Najwa" để chia sẻ về cuộc sống của mình khi là con trai tổng thống Indonesia. Năm 2017, Kaesang phát hành một bài hát mang tên "Bersatulah" nhằm thúc đẩy sự thống nhất và tha thứ giữa công dân Indonesia. Kaesang Pangarep tham gia với vai trò khách mời trong bộ phim Indonesia "Cek Toko Sebelah". Sự nghiệp kinh doanh. Kaesang hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh ẩm thực, sở hữu một chuỗi cửa hàng tập trung vào chuỗi hoạt động tại một số thành phố ở Indonesia. Anh còn sáng tạo ra mặt hàng quần áo trông giống những con nòng nọc. Ngoài ra, anh còn hoạt động với vai trò marketing trong một công ty khởi nghiệp thành lập năm 2017 mang tên Madhang, hợp tác với các hộ gia đình và doanh nghiệp vừa và nhỏ về ẩm thực. Năm 2019, anh đồng sáng lập GK HEBAT, một vườn ươm doanh nghiệp tập trung vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực ẩm thực. Anh trở thành CEO của công ty. Trong số các khoản đầu tư khác, công ty này đã mua 8% cổ phần của một công ty sản xuất tôm đông lạnh được niêm yết công khai với giá 92 tỷ Rupiah (~ 6,5 triệu USD). Sự nghiệp chính trị. Năm 2023, Kaesang phát biểu ý định tranh cử chức vụ thị trưởng Depok. Đảng Đoàn kết Indonesia (PSI) và Đảng Gerindra đã kêu gọi ủng hộ Kaesang. Kaesang chính thức là thành viên PSI vào ngày 23 tháng 9 năm 2023, và được bổ nhiệm giữ chức chủ tịch đảng này hai ngày sau vào ngày 25 tháng 9 năm 2023. Kaesang Pangarep từng tham gia 2 phim: Sau khi tạo một video đáp lại việc trẻ em reo hò 'giết chết Ahok' trong tháng lễ Ramadan, Kaesang bị tố cáo đến cảnh sát vì tội báng bổ và phát ngôn thù hận. Tuy nhiên, cảnh sát không tìm thấy chứng cứ cho việc báng bổ và hủy bỏ vụ án. Kaesang kết hôn với nữ người mẫu ở Yogyakarta, vào ngày 10 tháng 12 năm 2022.
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2012 – Vòng loại nam khu vực châu Á Vòng loại khu vực châu Á môn Bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2012 là giải đấu vòng loại của Liên đoàn bóng đá châu Á cho giải bóng đá nam Thế vận hội Mùa hè 2012 ở London. Ba mươi lăm đội đã tham dự vòng loại để cạnh tranh cho ba suất tham dự chính thức và một suất tham dự trận play-off liên lục địa với đội đứng thứ tư của giải đấu tiền Olympic khu vực Châu Phi. Quá trình vòng loại bắt đầu từ tháng 2 năm 2011 và kết thúc vào tháng 3 năm 2012. Thể thức thi đấu. Cấu trúc vòng loại như sau: Tổng cộng 35 đội đã tham dự vòng loại. 13 đội đứng đầu dựa trên kết quả thi đấu ở vòng loại và vòng chung kết của kỳ Thế vận hội trước đã được miễn thi đấu vòng đầu tiên. Các trận đấu diễn ra vào các ngày 23 tháng 2 và ngày 9 tháng 3 năm 2011. Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 20 tháng 10 năm 2010. 1 Palestine được xử thắng 3–0 ở trận lượt đi sau khi Thái Lan đã sử dụng một cầu thủ không đủ điều kiện trên sân. Tỷ số ban đầu là 0–1 nghiêng về Thái Lan. Các trận đấu diễn ra vào các ngày 19 và 23 tháng 6 năm 2011. Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 30 tháng 3 năm 2011 tại trụ sở AFC ở Kuala Lumpur, Malaysia. 1 Iraq được xử thắng 3 – 0 ở trận lượt đi sau khi Iran đã sử dụng một cầu thủ bị treo giò. Kết quả ban đầu là 1–0 cho Iran. 12 đội thắng ở vòng 2 được chia thành 3 bảng 4 đội. Đội nhất mỗi bảng giành vé đến Thế vận hội trong khi đội nhì bảng lọt vào vòng play-off. Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 năm 2011 tại trụ sở AFC ở Kuala Lumpur, Malaysia. Các trận đấu lượt đi diễn ra vào các ngày 21 tháng 9, 23 tháng 11 và 27 tháng 11 năm 2011 và lượt về diễn ra vào các ngày 5 tháng 2, 22 tháng 2 và 14 tháng 3 năm 2012. Ba đội nhì bảng từ vòng loại thứ ba thi đấu với nhau tại một địa điểm trung lập vào các ngày 25, 27 và 29 tháng 3 năm 2012. Malaysia ban đầu được lựa chọn để diễn ra loạt trận play-off, tuy nhiên do địa điểm thi đấu tại đây vẫn đang trong quá trình cải tạo và không có sẵn các địa điểm khác thay thế, AFC quyết định dời vòng loại sang Việt Nam, với các trận đấu diễn ra trên sân vận động quốc gia Mỹ Đình tại Hà Nội. Oman là đội đã đứng thứ nhất ở vòng này và sẽ gặp Senegal trong trận play-off để xác định một suất tham dự Thế vận hội. Play-off liên lục địa. Trận play-off liên lục địa diễn ra vào ngày 23 tháng 4 năm 2012 tại thành phố Coventry, Anh quốc. Các đội vượt qua vòng loại. Ba đội tuyển sau đây từ AFC đã đủ điều kiện tham dự vòng chung kết môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2012. 1 "In" "nghiêng" chỉ ra chủ nhà của năm đó. Thống kê bao gồm tất cả các thể thức Olympic (thể thức hiện tại dành cho lứa tuổi U-23 bắt đầu vào năm 1992). Cầu thủ ghi bàn. Về những cầu thủ ghi nhiều bàn nhất ở mỗi vòng, xem mục tương ứng trong mỗi bài viết:templatestyles src="Div col/"/ Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà Vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà là một trong số 8 di sản thế giới tại Việt Nam. Đây là di sản thế giới liên tỉnh đầu tiên với địa bàn thuộc tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng. Di sản thiên nhiên thế giới này được công nhận lần đầu tiên cho vịnh Hạ Long vào năm 1994 với tiêu chí nổi bật toàn cầu về cảnh quan; tới lần thứ hai vào năm 2000, di sản được bổ sung thêm theo tiêu chí địa chất và đến lần thứ 3 năm 2023 thì được mở rộng thêm sang quần đảo Cát Bà. Di sản vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà được xác định nằm ở phía đông bắc Việt Nam với các khu vực tự nhiên có diện tích vùng lõi đạt 65.650 ha, vùng đệm có diện tích 34.140 ha. Di sản thiên nhiên mới có tổng cộng 1.133 hòn đảo đá vôi (bao gồm 775 đảo đá vôi thuộc vịnh Hạ Long và 358 đảo đá vôi thuộc quần đảo Cát Bà). Vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà được UNESCO công nhận là di sản thế giới, bởi nơi đây chứa đựng các khu vực có vẻ đẹp thiên nhiên bao gồm các đảo đá vôi có thảm thực vật che phủ và các đỉnh nhọn núi đá vôi nhô lên trên mặt biển cùng với các đặc điểm karst (núi đá vôi) liên quan như các mái vòm và hang động. Theo UNESCO, vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà được xem là bảo tàng địa chất, chứa đựng những di sản với giá trị nổi bật toàn cầu, nơi chứng kiến những thay đổi đặc trưng trong lịch sử phát triển của Trái Đất. Việc tổ chức thành hồ sơ di sản liên tỉnh thành phố vịnh Hạ Long – quần đảo Cát Bà được thực hiện dựa trên khuyến nghị của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) vào năm 2014. Khi đó, vịnh Hạ Long đã 2 lần được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới (năm 1994 và năm 2000), còn Cát Bà đang gửi hồ sơ đề cử. Sau khi thẩm định, IUCN khuyến nghị Việt Nam xem xét khả năng đề xuất gộp vịnh Hạ Long và quần đảo Cát Bà thành một hồ sơ di sản thế giới mới. Vịnh Hạ Long là một vịnh thuộc khu vực biển đông bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo của thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh. Là trung tâm của một khu vực có những yếu tố ít nhiều tương đồng về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn hóa, với vịnh Bái Tử Long phía đông bắc và quần đảo Cát Bà phía tây nam, vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553 km² bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó vùng lõi của vịnh có diện tích 335 km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo. Lịch sử kiến tạo địa chất đá vôi của vịnh đã trải qua khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau; và quá trình tiến hóa karst đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm với sự kết hợp các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và tiến trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Sự kết hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển và ven bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái. 17 loài thực vật đặc hữu và khoảng 60 loài động vật đặc hữu đã được phát hiện trong số hàng ngàn động, thực vật quần cư tại vịnh. Những kết quả nghiên cứu, thám sát khảo cổ học và văn hóa học cho thấy sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau bao gồm văn hóa Soi Nhụ trong khoảng 18.000–7.000 năm trước Công Nguyên, văn hóa Cái Bèo trong 7.000–5.000 năm trước Công Nguyên và văn hóa Hạ Long cách ngày nay khoảng từ 3.500–5.000 năm. Năm 1962, Bộ Văn hóa – Thông tin đã xếp hạng vịnh Hạ Long là di tích danh thắng cấp quốc gia đồng thời quy hoạch vùng bảo vệ. Năm 1994, vùng lõi của vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới với giá trị thẩm mỹ (tiêu chuẩn vii), và được tái công nhận lần thứ 2 với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất–địa mạo (tiêu chuẩn viii) vào năm 2000. Cùng với vịnh Nha Trang và vịnh Lăng Cô của Việt Nam, vịnh Hạ Long là một trong số 29 vịnh được Câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới xếp hạng và chính thức công nhận vào tháng 7 năm 2003. Quần đảo Cát Bà. Quần đảo Cát Bà là một quần đảo gồm 367 đảo, trong đó có đảo Cát Bà ở phía nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Quần đảo này gồm 367 hòn đảo nằm trên diện rộng khoảng 300 km². Đảo Cát Bà lớn nhất có diện tích 153 km², là đảo lớn thứ ba ở Việt Nam sau Phú Quốc và Cái Bầu, có đỉnh cao nhất 331 m. Các đảo còn lại ít khi độ cao đạt 100–250m, phần nhiều là đảo nhỏ có độ cao dưới 100m và các hòn rất nhỏ thường chỉ cao 20–50m. Đây là một khu vực địa hình karst nhiệt đới bị ngập chìm do biển tiến Holocen. Các hòn đảo là các chóp hoặc tháp kart đơn lẻ hoặc thành cụm, vách bờ dốc đứng nổi trên mặt nước biển. Nhiều tên đảo gọi theo hình dáng của các vật như Ớt, Chuông, Mai Rùa, Lã Vọng, Đuôi Rồng, Báo và Sư Tử... Ăn mòn sinh hóa và cơ học của nước biển do sóng và thủy triều tạo nên rìa bờ lõm vòng quanh đảo. Trên đảo Cát Bà có các thung lũng karst như Trung Trang, Gia Luận, Tai Lai và Việt Hải. Chúng có độ cao 5–8m, chiều rộng 100–600m, có nơi rộng tới 1 km, kéo dài một vài tới chục km, được lấp đầy bằng các trầm tích sông–biển Pleistocen muộn. Quần đảo Cát Bà có nhiều hang động thuộc ba nhóm: hang ngầm cổ, hang nền và hang hàm ếch biển. Các hang ngầm cổ như động Hùng Sơn, động Hoa, hang Trung T, hang Thủ, rạn san hô, đồng bằng đáy vịnh và luồng lạch. Tùng, áng là các thung lũng hoặc phễu karst bị biển ngập chìm. Tùng có 26 chiếc với hình dạng kéo dài (tùng Gấu, tùng Chà). Áng có 33 chiếc với hình dạng đẳng thước (áng Thảm, áng Vẹm và áng Kê...). Về cấu trúc địa chất, quần đảo nằm trên bể đông bắc Bắc Bộ, ưu thế các đá trầm tích carbonat Paleozoi và trầm tích bở rời Đệ Tứ. Biểu hiện magma ở quần đảo Cát Bà không đáng kể với vài thể đá magma xâm nhập dạng mạch đã được xác định là spesartit và minet tại Hùng Sơn và Bến Bèo. Hệ tầng Phố Hàn ("D3-C1 ph") có tuổi Devon muộn–Carbon sớm, phân bố chủ yếu ở phía tây nam và giữa đảo Cát Bà, lộ ít hơn ở phía bắc đảo, dày khoảng 400–650 m, gồm đá vôi xám đen phân lớp xen các đá lục nguyên và đá silic. Ở bờ vụng Cát Bà lộ ra mặt cắt địa tầng chuyển tiếp giữa Devon và Carbon rất có giá trị khoa học và di sản địa chất. Hệ tầng Bắc Sơn ("C1-P2 bs") ("C1-P2 bs"), tuổi Carbon sớm–Permi muộn, phân bố rộng khắp, dày khoảng 700–1000 m, chủ yếu gồm đá vôi màu xám, xám sáng, phân lớp dày và dạng khối. Các trầm tích Đệ Tứ gồm trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc ("Q13 vp") tuổi Pleistocen muộn, thành phần cát, cuội cấu tạo nên bậc thềm biển cao 5–8m ở Ao Cối và các trầm tích sông–biển ở các thung lũng Gia Luận, Trung Trang; trầm tích hệ tầng Hải Hưng ("Q11-2 hh"), tuổi Holocen sớm–giữa và trầm tích hệ tầng Thái Bình ("Q22-3 tb"). Các trầm tích hiện đại gồm có trầm tích bãi biển, bãi triều, bãi lầy sú vẹt và trầm tích đáy biển nông, thành phần từ sét, bột đến cát sạn. Biển tiến sau băng hà lần cuối cùng bắt đầu từ 17–18 nghìn năm trước, khi mực nước biển thấp hơn hiện nay 100–120m, đến khoảng 7.000–8.000 năm trước bắt đầu tràn ngập khu vực Cát Bà, mở rộng nhất vào 5.000–6.000 năm trước chính thức biến nơi này thành quần đảo.
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2012 – Vòng loại nam khu vực châu Á (Vòng 1) Vòng thứ nhất của vòng loại môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2012 khu vực châu Á được tổ chức từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 21 tháng 3 năm 2011. 22 đội tham dự thi đấu theo thể thức loại trực tiếp hai lượt trận, chọn ra 11 đội thắng vào vòng kế tiếp cùng với 13 đội xếp hạng cao hơn được miễn đấu ở vòng loại này. 11 trong số 22 đội được xếp hạt giống trên cơ sở thứ hạng tại vòng loại khu vực và vòng chung kết của môn bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè Bắc Kinh 2008. Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 20 tháng 10 năm 2010. Chủ nhà Thái Lan thắng 1–0 nhưng đã bị phát hiện sử dụng một cầu thủ không đủ điều kiện thi đấu, Sujarit Jantakul (đã bị treo giò ở giải U-19 châu Á 2008 và án phạt vẫn còn hiệu lực). Kết quả của trận đấu bị hủy bỏ và Palestine được xử thắng 3–0, qua đó đi tiếp tại vòng loại. "Tổng tỷ số là 1–1." "Thái Lan thắng sau loạt sút luân lưu, nhưng Palestine sẽ thay thế họ ở vòng hai." "Kuwait thắng với tổng tỷ số 5–0." "Jordan thắng với tổng tỷ số 3–0." "Hồng Kông thắng với tổng tỷ số 7–0." "Iran thắng với tổng tỷ số 1–0." "Turkmenistan thắng với tổng tỉ số 4–1." "Oman thắng với tổng tỷ số 7–2." "Ấn Độ thắng với tổng tỷ số 3–2." "Malaysia thắng với tổng tỷ số 2–0." "UAE thắng với tổng tỷ số 10–1." "Yemen thắng với tổng tỷ số 3–0." Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2012 – Vòng loại nam khu vực châu Á (Vòng 4) Ba đội nhì bảng ở vòng loại thứ ba sẽ thi đấu vòng tròn một lượt tại một địa điểm trung lập vào các ngày 25, 27 và 29 tháng 3 năm 2012. Trong trường hợp có hai đội bằng điểm và các chỉ số sau khi kết thúc loạt trận, sẽ có một trận play-off bổ sung vào ngày 31 tháng 3 để xác định thứ hạng. Đội đứng thứ nhất ở vòng này sẽ gặp đội xếp thứ 4 của vòng loại châu Phi trong trận play-off để giành một suất tham dự Thế vận hội Mùa hè. Dưới đây là các trọng tài được phân công cho vòng đấu. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2012 – Vòng loại nam (Play-off AFC–CAF) Đối với vòng loại bóng đá nam tại Thế vận hội Mùa hè 2012, có một trận play-off liên lục địa duy nhất để xác định suất cuối cùng đến với vòng chung kết tại Luân Đôn. Trận đấu play-off này diễn ra giữa đại diện của Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và đại diện của Liên đoàn bóng đá châu Phi (CAF), và được tổ chức tại Sân vận động Thành phố Coventry ở Vương quốc Anh vào ngày 23 tháng 4 năm 2012. Sénégal đủ điều kiện tham dự vòng chung kết Thế vận hội Mùa hè 2012 . Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Tư liệu được biết đến về tên gọi Litva () nằm trong câu chuyện về Thánh Bruno ngày 9 tháng 3 năm 1009 được ghi lại trong Biên niên sử Quedlinburg (). Biên niên sử đã ghi lại một dạng Latin hóa của từ tiếng Slav Giáo hội Cổ cho Litva là , Latin hóa là "Litva" (phát âm là [litua]). Mặc dù rõ ràng cái tên này có nguồn gốc từ một ngôn ngữ Baltic, các học giả vẫn tranh luận về ý nghĩa của từ này. Cách sử dụng trong lịch sử. Trong thế kỷ 13, Công quốc Litva được thành lập giáp với vùng đất Slav. Người Slav không sáng tạo ra cái tên này; họ đã sử dụng tên dân tộc Litva hiện có. Nguyên âm đôi tiếng Litva -"ie"-, trong các ngôn ngữ Slav, đã chuyển sang nguyên âm - "i" - (), và âm tiết -"u"- trở thành âm cực ngắn (rút gọn) -"ŭ"- (), và không được đánh trọng âm, nên sau đó biến mất khỏi tiếng Slav Đông, do đó hình thành nên từ "Litva". Đây là bằng chứng cho thấy người Slav đã mượn tên dân tộc này từ người Litva từ lâu. Trong thế kỷ tiếp theo, tên của Litva được ghi bằng các ngôn ngữ khác, bao gồm cả tiếng Đức và tiếng Ba Lan. Trong biên niên sử đầu tiên của Đức, họ gọi Litva là "Lettowen". Ở dạng này, chữ cái tiếng Đức -"e"- được dùng để biểu thị nguyên âm đôi tiếng Litva -"ie"-, trong khi "-owen" biểu thị hậu tố hydronymic tiếng Litva -"uva" (-"ava"). Từ gốc tiếng Litva -"liet"- được sử dụng trong nhiều thuật ngữ tiếng Đức thời đó, chẳng hạn như "Lettowen", và trong tiếng Latin như "Lethovia", "Lettovia", "Lettavia", , sau khi trở thành người cai trị Litva, Đại công tước Algirdas xuất hiện với tư cách là Vua Litva () trong Biên niên sử Livonia. Trong biên niên sử của người Rus', Litva được viết là , có thể là ("Litva" ). Âm -"i-" () đã thay thế cho nguyên âm đôi -"ie". Tất cả những cái tên này rõ ràng có nguồn gốc từ *"Lētuvā Lietuva", từ được người Litva sử dụng để xác định vùng đất của họ. Hình thức hiện tại của cái tên "Lietuva" được cho là đã được người Litva sử dụng từ thế kỷ 12 hoặc 13, nhưng không có tư liệu nào về thời điểm đó, vì bản thảo lâu đời nhất bằng tiếng Litva có niên đại từ thế kỷ 16. Mặc dù có nhiều bằng chứng lịch sử và ngôn ngữ liên quan đến việc sử dụng tên này trong các ngôn ngữ khác nhau, vẫn có tranh luận nhất định về từ nguyên của tên này. Biểu tượng đích thực của Đại Công tước Gediminas đã không còn tồn tại; tuy nhiên, người ta biết rằng vào năm 1323 Gediminas đã gửi 7 bức thư từ lâu đài của ông ở Vilnius nhưng những lá thư này cũng sớm bị thất lạc. Vì vậy, cùng với họ, Ấn chương Gediminas cũng bị mất. Tuy nhiên, nội dung của bức thư được biết đến từ một bản ghi chép vào ngày 1 tháng 7 năm 1323, công chứng viên (John xứ Bremen) ở thành phố Lübeck đã xác nhận bản ghi chép của bức thư ngày 26 tháng 5 năm 1323 của Gediminas và cũng mô tả chi tiết về con dấu sáp hình bầu dục được gắn vào lá thư. Theo biên bản của công chứng viên, Con dấu hình bầu dục của Gediminas có viền mười hai góc, ở giữa viền có hình một người đàn ông có mái tóc dài, ngồi trên ngai vàng và đội một chiếc vương miện (hoặc một vòng hoa) trên đầu. tay phải và quyền trượng ở tay trái, hơn nữa, xung quanh người đàn ông có khắc một cây thánh giá cùng với dòng chữ Latinh : /link ( , tạm dịch: Gedimnas', nhờ ân đức của Chúa, vua của người Litva và người Rus', đóng dấu). Ấn chương đích thực của Jogaila từ năm 1382 có dòng chữ Latinh: " ia ‚ gal – dey gracia r – ex – in lettow" (, tạm dịch: Jogaila, nhờ ân đức của Chúa, vua của Litva). Sau Liên minh Lublin, người Litva và Đại công tước Litva cũng gọi Đại công quốc Litva là Cộng hòa Litva và coi đây là một thực thể riêng biệt với . Trong một bài tán tụng bằng tiếng Litva gửi Sigismund III Vasa năm 1589, dạng sở hữu cách của Đại công quốc Litva là . Đại công quốc Litva được gọi là bằng tiếng Litva trong một cuốn sách tôn giáo của Cơ đốc giáo từ năm 1653. "" Đã có một số nỗ lực để liên kết nguồn gốc của từ "Lietuva" với các địa danh tiếng Celt, tiếng Latin hoặc tiếng Ý, song đều không có cơ sở ngôn ngữ học rõ ràng. Theo quan điểm thông thường, từ "Lietuva" (Lithuania) chung gốc với các từ tiếng Litva như "lyti" (mưa) và "lietus" (cơn mưa). Tuy nhiên, không có bằng chứng khoa học vững chãi nào cho lý thuyết này. Vì từ "Lietuva" có hậu tố -"uva," từ nguyên bản chắc hẳn sẽ không có hậu tố. Một từ có khả năng khác là "Lietā". Bởi vì nhiều tộc danh trong các thứ tiếng Baltic bắt nguồn từ các thủy danh, một số nhà ngôn ngữ học đã tìm kiếm nguồn gốc của cái tên Litva trong số các tên sông hồ địa phương. Thông thường những tên như vậy phát triển thông qua quá trình sau: thủy danh → địa danh → tộc danh. Một con sông nhỏ không xa Kernavė, vốn là khu vực cốt lõi của nhà nước Litva thời kỳ đầu và cũng có thể là thủ đô đầu tiên của Đại công quốc Litva, thường được coi là ngọn nguồn của cái tên Litva. Tên ban đầu của con sông là Lietava. Qua quá trình lịch sử, hậu tố -"ava" đã biến đổi thành -"uva", vì cả hai đều thuộc cùng một nhánh hậu tố. Con sông chảy ở vùng đất thấp và dễ dàng tràn bờ, do đó dạng "liet" của tiếng Litva cổ rất có thể có nguồn gốc từ "lietis" (tràn), vốn bắt nguồn từ âm tố *"leyǝ-" của tiếng Tiền Ấn-Âu. Tuy nhiên, con sông rất nhỏ và một số người cho rằng không thể nào một vật thể nhỏ và mang tính địa phương như vậy lại có thể là nguồn gốc của tên gọi của một quốc gia rộng lớn như thế. Tuy nhiên, sự việc như vậy không phải là chưa từng có trong lịch sử thế giới. Trong khi từ nguyên của từ này tiếp tục được tranh luận, các nhà khoa học đồng ý rằng nguồn gốc chính của từ dân tộc này là các dạng tiếng Litva như "*Lētuvā/Lietuva", sau đó được sử dụng bởi các ngôn ngữ khác nhau, bao gồm cả các ngôn ngữ Slav. Rất khó có khả năng cái tên này bắt nguồn từ một ngôn ngữ Slav, vì âm tiết Slav -"i"- (и) không thể được phiên âm sang nguyên âm đôi tiếng Litva -"ie"-. Trong số các từ nguyên khác của tên Litva là giả thuyết của Artūras Dubonis, rằng Lietuva có liên quan đến từ *"leičiai" (số nhiều của "leitis", một nhóm xã hội ở thời kỳ đầu của Đại công quốc Litva). Từ "leičiai" vẫn được sử dụng như một từ dân tộc cho người Litva, thường được sử dụng trong thơ ca hoặc trong bối cảnh lịch sử, trong tiếng Latvia, vốn cũng gốc Baltic với tiếng Litva .
Anne Geneviève L'Huillier (]; sinh ngày 16 tháng 8 năm 1958) là một nhà vật lý học người Thụy Điển-Pháp. và giáo sư về vật lý nguyên tử tại Đại học Lund ở Thụy Điển. Bà là trưởng nhóm vật lý atto giây nghiên cứu chuyển động của electron trong thời gian thực, được sử dụng để hiểu các phản ứng hóa học ở cấp độ nguyên tử. Năm 2003, bà và nhóm của mình đã lập kỷ lục thế giới về xung laser nhỏ nhất 170 atto giây. Bà đã được trao nhiều giải thưởng vật lý uy tín khác nhau bao gồm giải Wolf Vật lý năm 2022 và giải Nobel Vật lý năm 2023 cùng với Pierre Agostini và Ferenc Krausz.
Siêu cúp Anh 2021 Siêu cúp Anh 2021 (còn được biết là The FA Community Shield được tài trợ bởi McDonald's vì lý do tài trợ) là trận Siêu cúp Anh thứ 99, một trận đấu bóng đá thường niên diễn ra giữa đội vô địch Premier League, Manchester City và đội vô địch FA Cup 2020-21 của mùa giải trước, Leicester City.. Đây là lần tham dự FA Community Shield đầu tiên của Manchester City kể từ 2019 khi họ đánh bại Liverpool 5–4 ở các quả phạt đền sau trận hòa 1-1 và là trận đầu tiên của Leicester kể từ trận thua 2-1 trước Manchester United trong phiên bản 2016. Trận đấu diễn ra vào ngày 7 tháng 8 năm 2021 tại Sân vận động Wembley ở Wembley, London, khi Leicester đánh bại Manchester City 1–0 bằng quả phạt đền ở phút 89 do Kelechi Iheanacho thực hiện.. Bối cảnh trước trận đấu. Leicester City đã giành được danh hiệu cúp FA đầu tiên sau khi đánh bại Chelsea 1–0 trong chung kết. Họ xuất hiện trong trận đấu Siêu cúp Anh thứ ba, thắng một (1971) và thua một (2016). Manchester City thắng danh hiệu Premier League trong bốn năm dưới sự quản lý của Pep Guardiola, sau trận debry Manchester Manchester United thua 2–1 trước Leicester City tại Old Trafford vào ngày 11 tháng 5 năm 2021. Họ đã xuất hiện ở 13 trận đấu, thắng 6 lần (1937, 1968, 1972, 2012, 2018, 2019), và thua sáu (1934, 1956, 1969, 1973, 2011, 2014). Trong hiệp một, Steffen đã cản phá được cú sút của Vardy bằng chân phải trong khi lao sang bên trái, bóng đi chệch cột dọc bên trái. Ở phút cuối cùng của trận đấu, Leicester được hưởng một quả phạt đền khi Aké vấp ngã Kelechi Iheanacho trong vòng cấm sau khi anh không cản phá được đường chuyền của Rodri. Iheanacho thực hiện quả phạt đền bằng chân trái vào bên phải lưới để giành chiến thắng với tỷ số 1–0. Đây là lần đầu tiên một đội từ bên ngoài cái gọi là Big Six giành được Charity/Community Shield kể từ năm 1995, khi Everton đánh bại Blackburn Rovers.. Chi tiết trận đấu.
Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Ý Đội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Ý là một đội tuyển được quản lý bởi Liên đoàn bóng chuyền Ý đại diện cho Ý tham dự các giải đấu và trận đấu giao hữu bóng chuyền trên đấu trường quốc tế. Đội từng vô địch thế giới vào năm 2002 diễn ra trên đất Đức, cũng là đội đầu tiên đã phá vỡ sự thống trị của Nga, Cuba, Trung Quốc và Nhật Bản. Kết quả các giải đấu. Thế vận hội Mùa hè. Vô địch       Á quân       Hạng ba       Hạng tư Giải vô địch bóng chuyền nữ thế giới. Vô địch       Á quân       Hạng ba       Hạng tư Cúp bóng chuyền nữ vô địch thế giới. Vô địch       Á quân       Hạng ba       Hạng tư Vô địch       Á quân       Hạng ba       Hạng tư Vô địch       Á quân       Hạng ba       Hạng tư Giải vô địch bóng chuyền nữ châu Âu. Vô địch       Á quân       Hạng ba       Hạng tư Đội hình hiện tại. Dưới đây là danh sách các cầu thủ tham dự Giải vô địch bóng chuyền nữ châu Âu 2022. Huấn luyện viên trưởng: Davide Mazzanti Đội hình trước đây. Dưới đây là danh sách các cầu thủ tham dự Giải vô địch bóng chuyền nữ thế giới 2018. Huấn luyện viên trưởng: Davide Mazzanti
Akseli Gallen-Kallela (]), tên khai sinh là Axel Waldemar Gallén (26 tháng 4 năm 1865 – 7 tháng 3 năm 1931), là một họa sĩ người Phần Lan. Ông được biết đến với các tác phẩm tranh minh họa cho hợp tuyển sử thi . Ông khởi đầu sự nghiệp hội họa của mình bằng các tác phẩm tranh hiện thực dân gian, rồi chuyển sang chủ đề Kalevala và Karelia theo trào lưu dân tộc lãng mạn. Vào thập niên 1890, ông sán tác một số họa phẩm nổi bật theo cả hai trường phái tượng trưng và hiện thực. Cuối thập niên 1900, các tác phẩm của ông dần mang đặc điểm của trào lưu biểu hiện, đặc biệt là các tác phẩm do ông thực hiện trong chuyến thăm châu Phi. Ông đổi họ của mình thành Gallen-Kallela vào năm 1907. Cuộc đời và sự nghiệp. Ông Akseli Gallen-Kallela được sinh ra tại thành phố Pori, Phần Lan trong một gia đình có cha mẹ là người nói tiếng Thụy Điển. Cha ông là Peter Gallén là một viên cảnh sát trưởng kiêm luật gia. Tuy được sinh ra tại Pori, ông lại dành nhiều thời gian sinh sống với gia đình tại huyện Tyrvää. Năm 11 tuổi, ông buộc phải lên thành phố Helsinki để học trường trung học vì cha ông không đồng tình với ước mơ của ông là trở thành một họa sĩ. Sau cái chết của cha mình vào năm 1879, ông bắt đầu theo học môn vẽ tại Hội Mỹ thuật Phần Lan (từ năm 1881 đến năm 1884) cũng như với thầy của mình là Adolf von Becker tại một trường vẽ tư thục. Năm 1884, ông chuyển về sống tại thành phố Paris để học trường mỹ thuật Académie Julian. Tại đây, ông kết giao với Albert Edelfelt – một họa sĩ người Phần Lan, họa sĩ người Na-uy Carl Dørnberger và nhà văn người Thụy Điển August Strindberg. Trong thời gian sống tại Paris, ông cũng có vài lần về thăm Phần Lan và rồi lại quay trở lại Paris. Ông Gallen-Kallela lấy bà Mary Slöör làm vợ vào năm 1890. Họ có với nhau ba người con, trong đó có hai người con gái là Impi Marjatta, Kirsti và một người con trai là Jorma. Khi đang hưởng tuần trăng mật tại vùng Đông Karelia (Nga), họa sĩ Gallen-Kallela bắt đầu thu thập các chất liệu để phục vụ cho dự án tranh minh họa hợp tuyển sử thi "Kalevala". Thời kỳ này các tác phẩm của ông thiên về chủ nghĩa lãng mạn, bao gồm các tác phẩm minh họa sử thi Kalevala (chẳng hạn như bức "Truyền thuyết về Aino") và một số bức họa phong cảnh. Tuy vậy từ năm 1894, các tác phảm của ông chịu ảnh hưởng đáng kể bởi chủ nghĩa tượng trưng.
Danh sách giải thưởng và đề cử của Lisa Vào năm 2018, Lisa ra mắt kênh YouTube của riêng mình, "Lilifilm Official". Tính đến tháng 10 năm 2023, kênh YouTube cô đã có hơn 11 triệu người đăng ký cùng với hơn 550 triệu lượt xem và đã nhận Nút Play Bạc, Nút Play Vàng và Nút Play Kim Cương của YouTube. Lisa ra mắt solo với album đĩa đơn "Lalisa" vào tháng 9 năm 2021, với đĩa đơn chủ đề cùng tên. Album đã bán được hơn 736.000 bản trong tuần phát hành tại Hàn Quốc, khiến cô trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên làm được điều này. Video âm nhạc cho đĩa đơn chủ đề cùng tên đã thu về 73,6 triệu lượt xem trên YouTube trong 24 giờ đầu tiên phát hành và trở thành video âm nhạc được xem nhiều nhất trong 24 giờ đầu tiên trên nền tảng này của một nghệ sĩ solo. Bài hát đã mang về cho Lisa hai kỉ lục Guinness thế giới và Giải Video âm nhạc của MTV đầu tiên của một nghệ sĩ solo K-pop trong lịch sử. Lisa được vinh danh trong danh sách A100 người châu Á có ảnh hưởng nhất năm 2022 của Gold House với tư cách là một trong những người đi đầu trong ngành Giải trí với tư cách là Nghệ sĩ âm nhạc. Vào tháng 8 năm 2023, Lisa được trao tặng giải thưởng Biểu tượng văn hóa tại lễ trao giải "Asian Hall of Fame 2023" để vinh danh những đóng góp của cô đối với văn hóa xã hội Châu Á trong thời gian vừa qua. Cô đã giành thêm Kỷ lục Guinness Thế giới cho ca khúc K-pop đầu tiên của nghệ sĩ solo đạt 1 tỷ lượt phát trực tuyến trên Spotify với "Money". Bộ Văn hoá Thái Lan trao tặng Lisa giải thưởng "Wathanakhunathorn" danh dự (Lãnh đạo dẫn đầu hoạt động quảng bá văn hoá) sau những đóng góp đưa hình ảnh của Thái Lan đến gần hơn với bạn bè quốc tế.Từ việc Lisa thường chọn mặc đồ truyền thống, đăng ảnh khi tham quan di tích lịch sử quê nhà, tích cực giới thiệu các món Thái và địa điểm ăn uống, giải trí... Điều này đã tạo ra xu hướng kéo lượng lớn người hâm mộ đến Thái Lan và thu hút khách du lịch, góp phần tăng thu nhập cho cộng đồng.Ảnh Lisa mặc sarong truyền thống đến cố đô Ayutthaya đã được in ra tại địa điểm để quảng bá du lịch và còn xuất hiện trên chương trình TV của Nhật Bản. Ngày 22 tháng 11 năm 2023, Lisa cùng các thành viên được Vua Charles III công nhận tư cách thành viên danh dự của Huân chương Đế quốc Anh (MBE) theo khuyến nghị của chính phủ Vương quốc Anh, vì những đóng góp của họ trong việc truyền thông điệp bảo vệ môi trường, cảnh báo biến đổi khí hậu Giải thưởng và đề cử.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Vòng loại đơn nam trẻ Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2023 - Vòng loại đơn nữ trẻ Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Vượt qua vòng loại. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Thua cuộc may mắn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vương quốc Hungary (1000–1301) Vương quốc Hungary (tiếng La Tinh: "Regnum Hungariae", tiếng Hungary: "Magyar Királyság") là một nhà nước ở Trung Âu, ra đời khi Stephen I, Đại thân vương Hungary, lên ngôi vua vào năm 1000 hoặc 1001. Ông củng cố quyền lực trung ương và buộc thần dân của mình phải chấp nhận Cơ đốc giáo. Mặc dù tất cả các nguồn văn bản chỉ nhấn mạnh vai trò của các hiệp sĩ và giáo sĩ người Đức và người Ý trong quá trình này, một phần đáng kể từ vựng tiếng Hungary về nông nghiệp, tôn giáo và các vấn đề nhà nước được lấy từ các Ngữ tộc Slav. Các cuộc nội chiến và các cuộc nổi dậy của người ngoại giáo, cùng với những nỗ lực của các Hoàng đế La Mã Thần thánh nhằm mở rộng quyền lực của họ đến Hungary, đã gây nguy hiểm cho chế độ quân chủ mới. Chế độ quân chủ ổn định dưới thời trị vì của Ladislaus I (1077–1095) và Coloman (1095–1116). Những người cai trị này đã chiếm đóng Croatia và Dalmatia với sự hỗ trợ của một bộ phận người dân bản địa. Cả hai vương quốc đều giữ được vị trí tự trị của mình. Những người kế vị Ladislaus và Coloman—đặc biệt là Béla II (1131–1141), Béla III (1176–1196), Andrew II (1205–1235) và Béla IV (1235–1270)—tiếp tục chính sách bành trướng về phía Bán đảo Balkan và vùng đất phía Đông Dãy núi Carpathian, biến vương quốc của họ thành một trong những cường quốc của châu Âu thời trung cổ. Những vùng đất hoang hoá của họ rất giàu có với nhiều trữ lượng bạc, vàng và muối, Hungary trở thành điểm đến ưa thích của thực dân chủ yếu là người Đức, Ý và Pháp. Những người nhập cư này chủ yếu là nông dân định cư ở các làng mạc, nhưng một số là thợ thủ công và thương gia, những người đã thành lập hầu hết các đô thị trong Vương quốc. Sự xuất hiện của họ đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành lối sống, thói quen và văn hóa đô thị ở Hungary thời trung cổ. Vị trí của vương quốc ở ngã tư các tuyến đường thương mại quốc tế tạo điều kiện cho nhiều nền văn hóa cùng tồn tại. Các tòa nhà và tác phẩm văn học theo phong cách Kiến trúc Romanesque, Gothic và Phục hưng được viết bằng tiếng La Tinh chứng tỏ đặc điểm văn hóa chủ yếu là Công giáo La Mã; nhưng các cộng đồng dân tộc thiểu số theo Chính thống giáo và thậm chí không theo đạo Thiên chúa cũng tồn tại. Tiếng La Tinh là ngôn ngữ của pháp luật, hành chính và tư pháp, nhưng "đa nguyên ngôn ngữ" đã góp phần vào sự tồn tại của nhiều ngôn ngữ, bao gồm rất nhiều phương ngữ Slav. Sự chiếm ưu thế của các điền trang hoàng gia ban đầu đảm bảo vị trí ưu việt của chủ quyền, nhưng sự chuyển nhượng đất đai hoàng gia đã dẫn đến sự xuất hiện của một nhóm địa chủ nhỏ hơn có ý thức tự giác, được gọi là "những người hầu của hoàng gia" ("szerviens"). Họ buộc Andrew II ban hành Golden Bull 1222, "một trong những ví dụ đầu tiên về giới hạn hiến pháp được đặt lên quyền lực của một vị vua châu Âu" (Francis Fukuyama). Vương quốc đã hứng chịu một đòn nặng nề từ cuộc xâm lược của người Mông Cổ năm 1241–1242. Sau đó, các nhóm người Cuman và Jassic định cư ở vùng đất thấp miền trung, và những người thực dân đến từ Moravia, Ba Lan và các quốc gia lân cận khác. Việc địa chủ xây dựng các pháo đài, được các quốc vương khích lệ sau khi quân Mông Cổ rút lui, đã dẫn đến sự phát triển của các "tỉnh" bán tự trị do các "Oligarch" quyền lực thống trị. Một số oligarch này thậm chí còn thách thức quyền lực của Andrew III (1290–1301), hậu duệ nam cuối cùng của triều đại Árpád bản địa. Sau cái chết của ông là một thời kỳ hỗn loạn và vô chính phủ. Quyền lực trung ương chỉ được tái lập vào đầu những năm 1320. Người Magyar, hay người Hungary, đã chinh phục lưu vực Carpathian vào đầu thế kỷ IX và X. Ở đây họ tìm thấy dân cư chủ yếu nói tiếng Slav. Từ quê hương mới, họ tiến hành các cuộc tấn công cướp bóc nhằm vào Đông Francia, Bán đảo Ý và các khu vực khác ở Châu Âu. Các cuộc đột kích của họ đã bị chặn lại bởi Hoàng đế La Mã Thần thánh tương lai Otto I, người đã đánh bại họ trong Trận Lechfeld năm 955. Người Hungary sống trong các gia đình phụ hệ, được tổ chức thành các thị tộc hình thành nên các bộ lạc. Liên minh bộ lạc được lãnh đạo bởi một Đại thân vương, luôn là thành viên của gia đình xuất thân từ Nhà Árpád, thủ lĩnh của người Hungary vào khoảng thời gian họ "chiếm đất". Các tác giả đương thời mô tả người Hungary là dân du mục, nhưng Ibn Rusta và những người khác nói thêm rằng họ cũng canh tác đất trồng trọt. The great number of borrowings from Slavic languages Số lượng lớn các khoản vay mượn từ các ngôn ngữ Slav[b] chứng tỏ rằng người Hungary đã áp dụng các kỹ thuật mới và lối sống ổn định hơn ở Trung Âu. Sự chung sống của người Hungary và các nhóm dân tộc địa phương cũng được phản ánh trong tập hợp "văn hóa Bijelo Brdo", xuất hiện vào giữa thế kỷ thứ X. Các phát hiện khảo cổ học—một số đồ vật có dòng chữ ngắn—cho thấy việc sử dụng chữ runiform đặc biệt ở Hungary thời trung cổ. Các chữ khắc vẫn chưa được giải mã, và chữ viết có lẽ chưa bao giờ được sử dụng cho mục đích hành chính hoặc lập pháp. Mặc dù là người ngoại giáo, nhưng người Hungary đã thể hiện thái độ khoan dung đối với người theo đạo Cơ đốc, người Do Thái và người Hồi giáo. Các thương gia Hồi giáo, Do Thái và Hungary từ Hungary thường xuyên đến thăm các hội chợ ở Praha, đổi vàng và đồng tiền vàng Byzantine lấy nô lệ, thiếc và lông thú. Đến Pereyaslavets, một trung tâm thương mại quan trọng ở Hạ Danube, người Hungary mang theo ngựa và bạc. Nhà thờ Byzantine là nhà thờ đầu tiên truyền đạo thành công trong số các nhà lãnh đạo của họ: vào năm 948, "horka", và khoảng năm 952, gyula, được rửa tội ở Constantinople. Ngược lại, Đại thân vương Géza, người trị vì từ đầu những năm 970, lại nhận lễ rửa tội theo nghi thức Latinh. Ông đã xây dựng các pháo đài và mời các chiến binh nước ngoài đến phát triển một đội quân mới dựa trên kỵ binh hạng nặng. Géza cũng sắp xếp cuộc hôn nhân của con trai ông là Thân vương tử Stephen, với Giselle xứ Bayern, một công chúa thuộc gia đình các Hoàng đế La Mã Thần thánh. Khi Géza qua đời vào năm 997, con trai ông phải tranh giành quyền kế vị với Koppány, thành viên lớn tuổi nhất của Nhà Árpád. Được hỗ trợ bởi kỵ binh hạng nặng của Đức, Stephen đã trở thành người chiến thắng trong trận chiến quyết định của cuộc xung đột năm 998. Ông đã nộp đơn xin trao vương miện hoàng gia cho Giáo hoàng Sylvester II (r. 999–1003), người đã chấp nhận yêu cầu của ông với sự đồng ý của Hoàng đế Otto III của Thánh chế La Mã. Vua St Stephen (1000-1038). Stephen lên ngôi và trở thành vị vua đầu tiên của Hungary vào ngày 25 tháng 12 năm 1000 hoặc ngày 1 tháng 1 năm 1001. Ông củng cố sự cai trị của mình thông qua một loạt cuộc chiến tranh chống lại những người cai trị địa phương bán độc lập, bao gồm cả chú ngoại của ông là Gyula III, và thủ lĩnh bộ lạc đầy quyền lực, Ajtony. Ông đã chứng tỏ sức mạnh quân sự của vương quốc mình khi đẩy lùi cuộc xâm lược của Conrad II của Thánh chế La Mã, vào năm 1030. Các vùng đầm lầy, các chướng ngại vật tự nhiên khác và các chướng ngại vật làm bằng đá, đất hoặc gỗ giúp bảo vệ biên giới của vương quốc. Một khu vực rộng lớn được gọi là "gyepü" đã được cố tình bỏ hoang nhằm mục đích phòng thủ dọc biên giới. Stephen đã phát triển một nhà nước tương tự như các chế độ quân chủ ở Tây Âu đương đại. Các Bá quốc, đơn vị hành chính cơ bản, là các bá quốc được tổ chức xung quanh các pháo đài và đứng đầu là các quan chức hoàng gia được gọi là "ispán", hay bá tước. Hầu hết các pháo đài thời trung cổ đều được làm bằng đất và gỗ. Stephen thành lập các giáo phận và ít nhất một tổng giáo phận, đồng thời thành lập các tu viện Biển Đức. Ông quy định rằng mỗi 10 làng phải xây dựng một nhà thờ giáo xứ. Những nhà thờ đầu tiên được xây dựng bằng gỗ đơn giản, nhưng vương cung thánh đường hoàng gia ở Székesfehérvár được xây dựng theo phong cách La Mã. Với sự ra đời của hệ thống cấp bậc của nhà thờ Công giáo, tiếng La Tinh nổi lên như ngôn ngữ thống trị trong đời sống giáo hội và quản lý nhà nước, mặc dù một số hiến chương hoàng gia có thể được viết bằng tiếng Hy Lạp. Các giám mục được yêu cầu cung cấp cho các giáo sĩ địa phương các sách phụng vụ, các vị vua thường xuyên tặng "Codex" cho các tu viện. Các tác phẩm văn học còn tồn tại sớm nhất được sáng tác bằng tiếng La Tinh dưới triều đại của Stephen. Giám mục Gerard xứ Csanád, người đến từ Venice, đã hoàn thành phần bình luận bằng tiếng La Tinh về một chương trong Sách Đa-ni-ên ở Hungary. Quan điểm của Stephen về quản lý nhà nước được tóm tắt vào khoảng năm 1015 trong tác phẩm "specula principum" (Những tấm gương dành cho các hoàng tử) được gọi là Lời khuyên răn. Cho rằng "đất nước chỉ có một ngôn ngữ và một phong tục là yếu đuối và mong manh", ông nhấn mạnh lợi thế của sự xuất hiện của người nước ngoài, hay còn gọi là "khách". Luật pháp của ông nhằm vào việc chấp nhận, thậm chí bằng vũ lực, lối sống Kitô giáo. Ông đặc biệt bảo vệ hôn nhân Kitô giáo chống lại chế độ đa thê và các phong tục truyền thống khác. Những chiếc thắt lưng trang trí và những món đồ thời trang ngoại đạo khác cũng biến mất. Người dân thường bắt đầu mặc áo khoác len dài, nhưng những người đàn ông giàu có vẫn kiên trì mặc những chiếc kaftan bằng lụa được trang trí bằng lông thú. Sắc lệnh của Vua Stephen về việc bắt cóc các cô gái Nếu chiến binh nào sa đọa vì dâm đãng, bắt cóc một cô gái về làm vợ mà không có sự đồng ý của cha mẹ cô ấy,chúng tôi quyết định rằng cô gái phải được trả lại cho bố mẹ cô ấy, ngay cả khi anh ta dùng vũ lực làm bất cứ điều gì với cô ấy, và kẻ bắt cóc sẽ phải trả mười steer cho vụ bắt cóc, mặc dù sau đó anh ta có thể đã làm hòa với cha mẹ của cô gái. Từ góc độ pháp lý, xã hội Hungary được chia thành những người tự do và nông nô, nhưng các nhóm trung gian cũng tồn tại. Tất cả những người tự do đều có năng lực pháp lý để sở hữu tài sản, khởi kiện và bị kiện. Hầu hết họ đều bị ràng buộc với quốc vương hoặc với một địa chủ giàu có hơn, và chỉ có "khách" mới có thể tự do di chuyển. Trong số những người tự do sống ở vùng đất gắn liền với pháo đài, các chiến binh trong lâu đài phục vụ trong quân đội, còn người dân trong lâu đài canh tác đất đai, rèn vũ khí hoặc thực hiện các dịch vụ khác. Tất cả những người tự do phải nộp một khoản thuế đặc biệt được gọi là "liberi denarii" (denarii của những người tự do)—tám denar mỗi người một năm— đóng vào ngân khố của quốc vương. Những người nông dân được gọi là "udvornici" được miễn thuế này, họ có vị trí tạm thời đứng giữa những người tự do và nông nô. Về mặt lý thuyết, nông nô không có địa vị pháp lý như những người tự do, nhưng trên thực tế, họ có tài sản riêng: họ canh tác trên đất của chủ bằng các công cụ của riêng mình và giữ 50–66% thu hoạch cho riêng mình. Luật pháp và hiến chương của Stephen cho thấy hầu hết dân thường sống trong các cộng đồng ít vận động hình thành nên các làng. Một ngôi làng trung bình chỉ có không quá 40 túp lều gỗ nửa chìm với một lò sưởi ở góc. Những túp lều được bao quanh bởi những khoảng sân rộng. Những con mương ngăn cách họ, xua đuổi động vật và tạo điều kiện cho việc trồng ngũ cốc và rau quả. Nhiều ngôi làng được đặt tên theo một nghề nghiệp, ngụ ý rằng dân làng được yêu cầu phải phục vụ lãnh chúa của họ một sản phẩm cụ thể.
Bóng đá tại Thế vận hội Mùa hè 2012 – Vòng loại nam khu vực châu Á (Vòng 2) 12 trong số 24 đội được xếp hạt giống trên cơ sở thứ hạng tại vòng loại và vòng chung kết bóng đá nam tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 30 tháng 3 năm 2011 tại trụ sở AFC ở Kuala Lumpur, Malaysia. Iraq được xử thắng 3–0 sau khi Iran bị phát hiện đã sử dụng một cầu thủ bị treo giò trong trận đấu. Tỷ số ban đầu là 1–0 cho Iran. "Qatar thắng với tổng tỷ số 4–2." "Iraq thắng với tổng tỷ số 5–0." "Tổng tỷ số là 2–2." "Bahrain thắng nhờ luật bàn thắng sân khách." "Úc thắng với tổng tỷ số 7–0." "Nhật Bản thắng với tổng tỷ số 4–3." "Syria thắng với tổng tỷ số 6–2." "UAE thắng với tổng tỷ số 2-1." "Hàn Quốc thắng với tổng tỷ số 4–2." "Uzbekistan thắng với tổng tỷ số 3–0." "Ả Rập Saudi thắng với tổng tỷ số 6–1." "Oman thắng với tổng tỷ số 4–1." "Malaysia thắng với tổng tỷ số 2-1." Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Phong trào chống hạt nhân Phong trào chống hạt nhân là phong trào xã hội phản đối các loại công nghệ hạt nhân khác nhau. Một số nhóm hành động trực tiếp, phong trào môi trường và tổ chức nghề nghiệp đã tự nhận mình là bên tham gia phong trào ở cấp địa phương, quốc gia hoặc quốc tế. Các tổ chức chống hạt nhân lớn bao gồm Chiến dịch giải trừ vũ khí hạt nhân (CND), Friends of the Earth, Hòa bình xanh, Hiệp hội Y sĩ Quốc tế Phòng ngừa Chiến tranh hạt nhân (IPPNW), Peace Action, Trại phụ nữ Seneca vì một tương lai hòa bình và công lý và Dịch vụ Tài nguyên và Thông tin Hạt nhân (NIRS). Mục tiêu ban đầu của phong trào là giải trừ hạt nhân, và kể từ cuối những năm 1960, phong trào đã mở rộng sang phản đối cả việc sử dụng năng lượng hạt nhân. Nhiều nhóm chống hạt nhân phản đối cả năng lượng hạt nhân và vũ khí hạt nhân. Sự hình thành các Đảng Xanh trong những năm 1970 và 1980 được coi là kết quả trực tiếp của nền chính trị chống hạt nhân. Các nhà khoa học và nhà ngoại giao đã tranh luận về chính sách vũ khí hạt nhân kể từ trước vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki năm 1945. Công chúng bắt đầu lo ngại về thử nghiệm vũ khí hạt nhân từ khoảng năm 1954, sau vụ thử nghiệm hạt nhân rộng khắp Thái Bình Dương. Năm 1963, nhiều quốc gia đã phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân một phần nhằm cấm thử nghiệm hạt nhân trong khí quyển. Một số ý kiến phản đối vũ khí hạt nhân ở địa phương xuất hiện vào đầu những năm 1960, và vào cuối những năm 1960, một số thành viên giới khoa học bắt đầu bày tỏ mối quan ngại của họ. Đầu những năm 1970, nhiều cuộc biểu tình được tiến hành nhằm phản đối đề xuất xây dựng một nhà máy điện hạt nhân ở Wyhl am Kaiserstuhl, Tây Đức. Dự án bị hủy bỏ vào năm 1975 và thành công chống hạt nhân ở Wyhl đã truyền cảm hứng cho làn sóng phản đối năng lượng hạt nhân ở các khu vực khác của châu Âu và Bắc Mỹ. Năng lượng hạt nhân đã trở thành một vấn đề gây phản đối lớn của công chúng vào những năm 1970, và trong khi sự phản đối năng lượng hạt nhân vẫn tiếp tục, sự ủng hộ năng lượng hạt nhân ngày càng tăng của công chúng đã xuất hiện trở lại trong thập kỷ qua do nhận thức ngày càng tăng về sự nóng lên toàn cầu và mối quan tâm mới đến tất cả các loại năng lượng sạch. Một cuộc biểu tình phản đối năng lượng hạt nhân diễn ra vào tháng 7 năm 1977 tại Bilbao, Tây Ban Nha, với hơn 200.000 người tham gia. Sau Sự cố Three Mile Island năm 1979, một cuộc biểu tình chống hạt nhân đã được tổ chức tại thành phố New York với 200.000 người tham gia. Năm 1981, cuộc biểu tình chống năng lượng hạt nhân lớn nhất nước Đức diễn ra nhằm phản đối Nhà máy điện hạt nhân Brokdorf ở phía tây Hamburg, với khoảng 100.000 người đã chống lại 10.000 cảnh sát. Cuộc biểu tình lớn nhất được tổ chức ở Thành phố New York ngày 12 tháng 6 năm 1982, với một triệu người tham gia. Cuộc biểu tình về vũ khí hạt nhân năm 1983 ở Tây Berlin có khoảng 600.000 người tham gia. Tháng 5 năm 1986, sau Thảm họa Chernobyl, ước tính có khoảng 150.000 đến 200.000 người tuần hành ở Rome để phản đối chương trình hạt nhân của Ý. Tại các công đoàn ở Úc, các nhà hoạt động vì hòa bình và các nhà bảo vệ môi trường đã phản đối việc khai thác urani từ những năm 1970 trở đi, và các cuộc biểu tình quy tụ hàng trăm nghìn người phản đối vũ khí hạt nhân lên đến đỉnh điểm vào giữa những năm 1980. Tại Hoa Kỳ, làn sóng phản đối của công chúng đã diễn ra trước khi đóng cửa Shoreham, Yankee Rowe, Millstone 1, Rancho Seco, Maine Yankee và nhiều nhà máy điện hạt nhân khác. Nhiều năm sau thảm họa Chernobyl năm 1986, năng lượng hạt nhân vẫn nằm ngoài chương trình nghị sự chính sách ở hầu hết các quốc gia, và phong trào chống năng lượng hạt nhân dường như đã giành chiến thắng nên một số nhóm chống hạt nhân đã giải tán. Tuy nhiên, vào thập niên 2000, sau các hoạt động quan hệ công chúng của ngành công nghiệp hạt nhân, cùng những tiến bộ trong thiết kế lò phản ứng hạt nhân và quan ngại về ấm lên toàn cầu, các vấn đề về điện hạt nhân đã quay trở lại các cuộc thảo luận chính sách năng lượng ở một số nước. Sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima I sau đó đã đạp đổ nỗ lực phục hưng hạt nhân và làm tái bùng nổ làn sóng phản đối hạt nhân trên toàn thế giới, khiến các chính phủ rơi vào thế bị động. Tính đến năm 2016, các quốc gia như Úc, Áo, Đan Mạch, Hy Lạp, Malaysia, New Zealand và Na Uy không có nhà máy điện hạt nhân và vẫn phản đối điện hạt nhân. Đức, Ý, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ đang dần loại bỏ năng lượng hạt nhân. Thụy Điển trước đây có chính sách loại bỏ hạt nhân, nhằm chấm dứt sản xuất điện hạt nhân ở nước này trước năm 2010. Ngày 5 tháng 2 năm 2009, Chính phủ Thụy Điển đã công bố một thỏa thuận cho phép thay thế các lò phản ứng hiện có, chấm dứt chính sách loại bỏ dần. Trên toàn cầu, số lượng lò phản ứng có thể hoạt động vẫn gần như giữ nguyên trong 30 năm qua, và sản lượng điện hạt nhân đang tăng trưởng đều đặn sau thảm họa Fukushima.
Nguyễn Trung Thiên (11 tháng 6 năm 1906 - 11 tháng 2 năm 1931) là nhà cách mạng của Việt Nam. Ông là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh, bị chính quyền thực dân Pháp xử bắn vào ngày 11-2-1931. Thân thế, sự nghiệp. Nguyễn Trung Thiên tên thật là Trần Hữu Thiều, sinh ngày 11-6-1906 tại làng Dương Xuân (nay thuộc xã Lĩnh Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An). Năm 21 tuổi (1927) Trần Hữu Thiều đã là một trong 7 hội viên Hội thanh niên ở Dương Xuân. Năm 1929, ông trở thành một trong những đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên ở quê nhà; ông được chỉ định làm ủy viên Ban Chấp hành Tổng Nông hội tỉnh Nghệ An. Đầu tháng 1-1930, Kỳ bộ Đông Dương Cộng sản Đảng ở Trung Kỳ phái Nguyễn Trung Thiên vào công tác tại Hà Tĩnh. Vào Hà Tĩnh, Nguyễn Trung Thiên đã thành lập chi bộ Đảng, làm hạt nhân mở rộng các tổ chức ra các phủ huyện trong tỉnh. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Nguyễn Trung Thiên đã phối hợp với các đồng chí trong nhóm Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ở Hà Tĩnh mở hội nghị thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hà Tĩnh vào cuối tháng 3-1930. Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành lâm thời do Nguyễn Trung Thiên làm Bí thư. Là một người hoạt động cách mạng sôi nổi, nhiệt tình, Nguyễn Trung Thiên thường tâm sự với bạn bè cùng hoạt động: “Làm cách mạng là không sợ chết, sợ chết thì không làm được; giao việc gì cũng phải làm đến nơi đến chốn”. Cuộc biểu tình lịch sử ngày 1-8-1930 của hơn 500 nông dân huyện Can Lộc cùng hàng loạt cuộc đấu tranh khác tại Hà Tĩnh nổ ra nhờ có sự lãnh đạo và tổ chức của Tỉnh ủy lâm thời Hà Tĩnh do Nguyễn Trung Thiên đứng đầu. Ông đã có công lao đáng kể đối với cao trào cách mạng ở Hà Tĩnh từ những cuộc đấu tranh bước đầu. Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Hà Tĩnh lần thứ nhất (9-1930), Nguyễn Trung Thiên đã đề cử Nguyễn Thiếp (quê Phù Việt, Thạch Hà) làm Bí thư Tỉnh ủy còn mình xin được trực tiếp chỉ đạo phong trào đấu tranh ở huyện Can Lộc. Với cương vị là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Nguyễn Trung Thiên đã cùng với Ban Chấp hành Đảng bộ dồn mọi sức lực vào công tác xây dựng Đảng về tư tưởng và tổ chức, làm hạt nhân lãnh đạo phong trào quần chúng. Ngày 22-11-1930, trong khi đang làm nhiệm vụ ở Can Lộc, Nguyễn Trung Thiên sa vào lưới địch. Vào tù, mặc dù bị tra tấn dã man, ông đã tỏ rõ khí phách kiên cường không khuất phục trước kẻ thù. Vào ngày 11-2-1931, chính quyền thực dân đã ngầm đưa ông về xử bắn tại thôn Phù Minh (Can Lộc). Ông đã hy sinh ở tuổi 27 trong niềm tiếc thương vô hạn của đồng chí, đồng bào, những hạt giống cách mạng mà ông và các đồng chí đã gieo xuống trên đất Hà Tĩnh vẫn phát triển rộng khắp từ đồng bằng ven biển đến trung du và miền núi. Từ cuối năm 1930, đầu năm 1931, khắp các phù huyện liên tiếp nổ ra các cuộc biểu tình với quy mô rộng khắp, thu hút hàng vạn người tham gia, làm nên một cao trào Xô- viết Nghệ Tĩnh.
Vật lý atto giây Vật lý atto giây, còn gọi là vật lý atto, hay nói tổng quát hơn là khoa học atto giây, là một nhánh vật lý có liên quan đến hiện tượng tương tác vật chất-ánh sáng, trong đó các xung photon atto giây (10−18) được dùng để giải các khúc mắc trong những quá trình động học của vật chất với độ phân giải thời gian, tinh vi chưa bao giờ thấy. Một trong những mục tiêu chính của khoa học atto giây là nâng cao sự hiểu biết sâu sắc hơn về động lực học lượng tử của các electron trong nguyên tử, phân tử, và chất rắn mà thách thức lâu dài vẫn là làm sao đạt được sự điều khiển thời gian thực của các chuyển động electron trong vật chất. Hiện nay trên thế giới, kỷ lục cho xung ánh sáng ngắn nhất tạo ra bởi công nghệ loài người là 43 as. Năm 2023, Anne L'Huillier, Paul Corkum, Ferenc Krausz đã được trao giải Wolf về vật lý vì những đóng góp tiên phong của họ cho ngành khoa học laser cực nhanh và vật lý atto giây. Tiếp theo là Giải Nobel Vật lý năm 2023, trong đó L'Huillier, Krausz và Pierre Agostini được khen thưởng "vì các phương pháp thí nghiệm đã tạo ra xung ánh sáng atto giây phục vụ cho cuộc nghiên cứu động lực học điện tử trong vật chất".
Rừng nguyên sinh Xà Bang Rừng nguyên sinh Xà Bang hay còn gọi là rừng nguyên sinh Bàu Sen, là một mảng rừng nguyên sinh nhỏ nằm ở cực bắc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Vị trí rừng thuộc xã Xà Bang, huyện Châu Đức. Địa hình của rừng là vùng trũng thấp ngập nước, nhiều suối. Hiện tại rừng đã bị suy kiệt nặng nề, chủ yếu do dân địa phương khai phá. Từ năm 1975, diện tích rừng 120 ha ban đầu ngày càng bị thu hẹp, hiện chỉ còn 63 ha. Bao quanh rừng là các phần đất sình lầy và rừng cao su rộng lớn. Về phía nam khu rừng có hồ Bảy Mẫu và hồ Bàu Sen. Dân tộc địa phương. Khu vực là nơi có dân tộc Chơ Ro sinh sống. Người dân địa phương sinh sống, xây nhà và đường giao thông bao quanh toàn bộ khu rừng nguyên sinh nhỏ bé này. Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam, từ năm 1965 khu rừng là nơi cung cấp hậu cần quan trọng cho quân Giải phóng miền Nam, được dùng phục vụ trận Bình Giã và trận Tầm Bó. Căn cứ do tỉnh đội Bà Rịa-Long Khánh, du kích xã Ngãi Giao, Cẩm Mỹ lập nên. Tại đây có các trạm quân y tiền phương, công binh xưởng, trung tâm liên lạc hợp đồng tác chiến, và cả hầm ngầm. Nơi đây cũng diễn ra hàng loạt trận đánh giữa quân Mỹ và quân Giải phóng miền Nam, trong đó chiến sự ác liệt nhất diễn ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1966, ngày 18 và 19 tháng 6 năm 1967. Ngày 28 tháng 7 năm 1983, khu rừng đã được công nhận là di tích lịch sử - cách mạng cấp tỉnh, với tên gọi "Di tích lịch sử cách mạng khu căn cứ Bàu Sen". Phía nam khu rừng là Khu văn hóa Bàu Sen, một khu du lịch địa phương. Năm 2007, Sở Văn hóa Thể thao Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu cho xây dựng tượng đài chiến thắng Tầm Bó nằm bên trong khu di tích lịch sử Bàu Sen. Tượng đài cao 11,2 m, trong đó nhóm tượng cao 8,2 m, mảng phù điêu thể hiện nội dung 3 chiến dịch Kim Long, Tầm Bó, Chòi Đồng với diện tích khoảng 70 m2 và sân lễ, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, sân vườn, cây
Pierre Agostini (sinh ngày 23 tháng 7 năm 1941) là một nhà vật lý thực nghiệm người Pháp, và giáo sư danh dự tại Đại học bang Ohio, nổi tiếng với công trình nghiên cứu tiên phong về vật lý laser trường mạnh và khoa học atto giây. Ông đặc biệt được biết đến với việc quan sát sự ion hóa trên ngưỡng và phát minh ra kỹ thuật RABBITT (tái tạo nhịp đập atto giây bằng sự giao thoa của các chuyển đổi hai photon) để mô tả các xung ánh sáng atto giây.. Năm 2001, Pierre Agostini thành công trong việc sản xuất và nghiên cứu một chuỗi xung ánh sáng liên tục, trong đó mỗi xung kéo dài chỉ 250 atto giây. Đóng góp của ông cùng 2 nhà khoa học khác Ferenc Krausz và Anne L'Huillier cho phép nghiên cứu những quá trình diễn ra nhanh đến mức trước đó không thể theo dõi. Ông đã cùng 2 nhà khoa học khác Ferenc Krausz và Anne L'Huillier được trao giải Nobel Vật lý năm 2023. Học vấn và sự nghiệp. Pierre Agostini sinh ra ở Tunis, thuộc Tunisia thuộc Pháp, vào ngày 23 tháng 7 năm 1941. Ông nhận bằng "baccalauréat" tại trường Quân đội Quốc gia Prytanée năm 1959 ở La Flèche, Pháp.