text
stringlengths
82
354k
Thung lũng Langdale Nhỏ Thung lũng Langdale Nhỏ là một thung lũng nằm ở quận Lake, Anh, bao gồm hồ Langdale Nhỏ và ngôi làng cùng tên. Hồ thứ hai, hồ Blea, nằm trong một thung lũng nằm giữa Langdale Nhỏ và Langdale Lớn ở phía Bắc. Langdale Nhỏ giáp Wetherlam và Swirl How lần lượt ở phía Nam và Tây Nam, giáp núi Lingmoor và Pike của Blisco ở phía Bắc và Tây Bắc. Thung lũng trên được nối liền theo chiều đi xuống với Langdale Lớn, ngay bên trên hồ Elter. Trước đây, Langdale được nhiều người biết đến với tên gọi "Langdene" có nghĩa là "thung lũng rừng rậm ở vùng sâu, vùng xa" như là một cách thức để ám chỉ độ dài của một đường tàu hỏa nối từ nó đến vịnh Whitley. Trong lịch sử, Langdale Nhỏ là một điểm giao của các tuyến đường ngựa thồ đi Ravenglass, Whitehaven, Keswick, Penrith Carlisle, Ambleside, Hawkshead và Coniston, Ulverston, Broughton-trong-Furness và Barrow trong Furness. Cầu Slater, được xây dựng từ thế kỉ XVI, là một cây cầu bắc qua sông Brathay. Nó được chia thành ba nhịp được "đỡ" bởi một tảng đá lớn ở giữa dòng và các con đường đều được đắp bằng đá. Đó chính là cây cầu cũ được xây dựng bằng những tảng đá phiến trên một trong những tuyến đường ngựa thồ này. Ngày nay, những con đường được rải kim loại nối Langdale Nhỏ qua đèo Wrynose và đèo Hardknott về phía Eskdale ở phía Tây, qua hồ Blea đến Langdale Lớn ở phía Tây Bắc, đến làng Elterwater ở phía Đông Bắc và đến cầu Skelwith nằm trên đường Coniston ở phía Đông. Tuyến đường Khu vực 37 của Mạng lưới Xe đạp Quốc gia Anh đoạn nối giữa Ambleside và Ulverston, được cho là có chạy qua thung lũng này. Quỹ Niềm tin Quốc gia Anh sở hữu nhiều trang trại và diện tích đất ở thung lũng này. Rất nhiều trang trại trong số đó có niên đại từ thế kỷ XVII. Ngoài ra, trong làng còn có các quán trọ. Nhà trọ Ba Shires đã được xậy dựng từ năm 1872 và được đặt theo tên của hòn đá Ba Shires cách đó hai dặm (khoảng 3,2 km). Quán trọ là địa điểm chính được sử dụng để tổ chức Cuộc đua ngã ba Shires. Lượng mưa trung bình hàng năm của thung lũng Langdale Nhỏ là 2408mm, cao hơn mức trung bình của cả quận Lake, địa điểm vốn có lương mưa trung bình lớn hơn đáng kể so với phần còn lại của Vương quốc Anh. Đa số diện tích đất ở Langdale Nhỏ hiện nay chủ yếu được sử dụng để chăn nuôi một số gia súc (như cừu, bò...), mặc dù cho đến năm 1940, ít nhất một phần đất nông nghiệp đã được sử dụng cho một số mục đích khác. Vào tháng 3 năm 2006, thung lũng này từng là địa điểm bị chọn làm mục tiêu trong một kế hoạch tấn công của một nhóm "chiến binh biệt kích mujahidin" tự xưng. Sau đó, một trong số chúng đã bị kết án vì các tội liên quan đến khủng bố. Langdale Nhỏ cũng từng là một trong những địa điểm quay phim của bộ phim điện ảnh "Bạch Tuyết và Người thợ săn", một bộ phim ra mắt hồi năm 2012. Khoáng sản và các hoạt động khai thác mỏ. Các mỏ khoáng sản ở Langdale Nhỏ đã được khai thác rất nhiều trong vài trăm năm qua, đặc biệt là đồng và đá phiến mặc dù hiện tại ở đó có rất ít hoạt động khai thác. Các công trình ở các vùng lân cận bao gồm các mỏ đá phiến lớn tại Hodge Close, Tilberthwaite và các mỏ tại sườn phía nam của Wetherlam. Một mỏ nằm tại Hawk Rigg, một nơi cách không xa "vùng lân cận" trên, có thể đã có niên đại từ thời Elizabeth Đệ Nhất. và có báo cáo cho rằng quặng sắt đầu tiên đã được khai thác trong khu vực này vào năm 1709. Việc khai thác đá phiến ở khu vực này bắt đầu đạt mức "cực thịnh" vào Thời đại Victoria, nhất là sau sự ra đời của máy khoan khí nén để tạo ra các lỗ nổ, và tiếp diễn cho đến khi gạch xây dựng chất lượng cao được phát minh. Các loại đá trong thung lũng này nói chung là đá thô Borrowdale và Rhyolite trên nền andesit với các khu vực đá phiến, đặc biệt là ở phía Nam. Mỏ đá Cathedral (Mã tham chiếu Quốc gia Anh: NY308028) là một tập hợp các mỏ đá phiến xanh chưa được khai thác liên kết với nhau, nằm ở phía trên một thung lũng trong Atkinson Coppice. Hiện nay, mỏ đá trên được quản lý bởi Quỹ Niềm tin Quốc gia Anh và bất kỳ ai cũng có thể vào tham quan. Nó có nhiều phòng và đường hầm khác nhau, trong đó có một phòng dài 400 feet (khoảng 120m). Điểm thu hút nhiều sự chú ý nhất của mỏ đá là một phòng thờ cao 40 feet (khoảng 12m), được chiếu sáng từ hai cửa sổ với một cột đá đỡ mái nhà khổng lồ. Một số khoang nhỏ hơn của mỏ đá đã được đóng cửa để đảm bảo an toàn hoặc đã bị phá hủy. Mỏ đá này có ít nhất 25 tuyến đường leo núi được đặt tên và được xếp vào loại "cực kỳ nguy hiểm" và dài từ 30–40m. Những chất thải từ các mỏ này đã hợp lại với nhau, hình thành nên những bờ lớn, nơi mà các loài cây bạch dương bạc và thông tùng hiện đã và đang mọc lên. Mỏ Greenburn (còn được biết đến với tên gọi khác là Mỏ Coniston Mới), là một mỏ đồng gần Greenburn Beck và hồ chứa Greenburn - một hồ chứa đã bị ngừng sử dụng. Nó được nhiều người cho là mỏ đồng được bảo vệ tốt nhất ở quận Lake. Các hoạt động khai thác ở mỏ này đạt đến cường độ "cực đại" vào giữa thế kỷ XIX nhưng có thể nó đã bắt đầu được vận hành từ cuối thế kỷ XVII. Mỏ đá đóng cửa vào năm 1865 nhưng đã được mở cửa trở lại với "nhịp độ vừa phải" cho đến khi nó đóng cửa một lần nữa vào năm 1940. Các trục chính của mỏ Greenburn nằm ở độ sâu lên tới 700 ft (210m) so với mặt đất. Hoạt động khai thác của mỏ có sự tham gia của một trục động cơ lớn cùng với một thiết bị cuộn dây và bơm được dẫn động bởi một bánh xe có đường kính 9,8m, cùng với nhiều trục và đường dẫn khác, một sàn đập, một máy nghiền chạy bằng bánh xe nước số hai, một đường xe điện nghiêng và hai bể chứa kết tủa. Phần còn lại của các tòa nhà trong khu mỏ bao gồm lò rèn, văn phòng, khu nhà ở hai tầng, kho để đồ đã được phơi khô, nhà thay đồ của thợ mỏ và kho thuốc nổ. Ít nhất năm mỏ đồng đã được khai thác, lần lượt có tên là Sump, Pave York, Low Gill và Gossan Veins. Năm 1906, mỏ được điều hành bởi công ty Greenburn Tilberthwaite Syndicate, nhưng đến năm 1912 thì công ty bạc, chì và đồng Langdale đã mua lại mỏ này. Hồ chứa (khi được xây dựng vào thế kỷ 19) có diện tích khoảng 1,6ha và chiều cao khoảng 7,5m. Tuy nhiên, một cơn bão tuyết vào mùa đông hồi năm 1979-1980 đã khiến con đập bị vỡ và nổ tung, giảm chiều cao của hồ chứa ấy xuống còn 6m như hiện tại.. Tác động của vụ nổ đập trên có thể nhìn thấy rõ trong các lõi trầm tích từ hạ lưu của hồ Langdale Nhỏ.
Cộng hòa Xô viết Ukraina Cộng hòa Xô viết Ukraina ( ) là một một nước cộng hòa Xô viết do những người Bolshevik Ukraina thành lập. Sau Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần thứ hai, họ tuyên bố Ukraina Xô viết độc lập vào tháng 3 năm 1918, và sáp nhập Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina, Cộng hòa Xô viết Odessa, và Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog thành một quốc gia. Lịch sử của nền cộng hòa Ukraina với tư cách là Cộng hòa Xô viết Ukraina và chính phủ của nó bắt đầu từ ngày 24-25 tháng 12 năm 1917. Khi đó tại Kharkov, Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần đầu tiên được tiến hành, họ tuyên bố Ukraina là một nước Cộng hòa Ukraina, Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina. Đại hội quyết định liên minh chặt chẽ với Cộng hòa Nga (cũng là Xô viết) và bầu ra Ban Chấp hành Trung ương (). Cộng hoà được cải tổ vào ngày 19 tháng 3 năm 1918, tại Đại hội Xô viết toàn Ukraina lần thứ hai ở Yekaterinoslav, sau khi Nga Xô viết ký kết Hiệp ước Brest-Litovsk vào ngày 3 tháng 3. Chính phủ Xô viết và những cư dân ủng hộ họ đã liên minh chặt chẽ với Cộng hoà Xô viết Nga. Sau chiến thắng của chính phủ Xô viết tại Ukraina, Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina chính thức được đổi tên thành Cộng hòa Xô viết Ukraina và sau đó là Cộng hòa Xô viết Xã hội chủ nghĩa Ukraina, trở thành một trong những nước đồng sáng lập Liên Xô. Lực lượng quân sự của chính phủ Xô viết Ukraina thời đó được gọi là Quân đội Cossack Đỏ, sau này là một phần hợp nhất của Hồng quân Liên Xô. Nước cộng hòa thống nhất Cộng hòa Nhân dân Xô viết Ukraina, Cộng hòa Xô viết Donetsk–Krivoy Rog và Cộng hòa Xô viết Odessa thành một phần của Nga Xô viết. Tuy nhiên, các lực lượng của Liên minh Trung tâm và Cộng hòa Nhân dân Ukraina nhanh chóng tràn qua khu vực. Vào ngày 18 tháng 4 năm 1918, tại Taganrog, phiên họp tiếp theo của Ban Chấp hành Trung ương Xô viết thông báo rằng chính phủ Ukraina Xô viết, Ban Chấp hành Trung ương Ukraina và Ban Bí thư Nhân dân giờ đây được hợp nhất thành "Cục Ukraina" để chỉ đạo cuộc đấu tranh nổi dậy chống lại quân Đức chiếm đóng.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1900 Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1900 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 29, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 6 tháng 11 năm 1900. Là trận tái đấu của cuộc bầu cử năm 1896, Tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa William McKinley đã đánh bại đối thủ từ Đảng Dân chủ của ông, William Jennings Bryan. Chiến thắng của McKinley khiến ông trở thành Tổng thống đầu tiên thắng cử 2 cuộc bầu cử liên tiếp kể từ Ulysses S. Grant vào năm 1872. Cho đến năm 1956, đây sẽ là lần cuối cùng một Tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa tái đắc cử sau khi phục vụ đủ một nhiệm kỳ. Cuộc bầu cử này là trận tái đấu thứ 5 trong lịch sử bầu cử Tổng thống, một điều sẽ không xảy ra một lần nữa cho đến năm 1956. Đây cũng là trận tái đấu đầu tiên mà có cùng một người thắng trong cả 2 lần bầu cử. McKinley và Bryan đều gặp phải ít sự phản đối trong đảng của họ. Mặc dù một số đảng viên Đảng Dân chủ Vàng có ý định đề cử Đô đốc hạm đội George Dewey, nhưng Bryan vẫn dễ dàng giành được đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1900 sau khi Dewey rút lui. McKinley sau đó đã được nhất trí tái đề cử tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1900. Vì Phó Tổng thống Garret Hobart qua đời vào năm 1899, đại hội Đảng Cộng hòa đã chọn Thống đốc New York Theodore Roosevelt làm đồng tranh cử mới cùng McKinley. Kinh tế trở nên thịnh vượng trở lại cũng như chiến thắng gần đây trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ đã giúp McKinley giành được chiến thắng một cách dễ dàng, trong khi lập trường chống chủ nghĩa đế quốc và ủng hộ bản vị lưỡng kim của Bryan chỉ thu hút được ít sự ủng hộ. McKinley đã chiến thắng hầu hết các bang bên ngoài miền Nam và giành được 51,6% số phiếu phổ thông. Kết quả bầu cử gần giống như năm 1896, mặc dù McKinley thắng thêm một số bang miền Tây và Bryan thắng thêm Kentucky. 6 tháng sau khi nhậm chức nhiệm kỳ thứ 2, McKinley bị ám sát và Phó Tổng thống Theodore Roosevelt lên kế nhiệm và trở thành Tổng thống. Đề cử của Đảng Cộng hòa. 926 đại biểu tham dự đại hội Đảng Cộng hòa được triệu tập tại Philadelphia từ ngày 19 đến 21 tháng 6, đã nhất trí tái đề cử Tổng thống William McKinley. Thomas C. Platt, "ông trùm chính trị" của Đảng Cộng hòa bang New York, không ưa gì Theodore Roosevelt, Thống đốc nổi tiếng của New York, dù ông cũng là một thành viên Đảng Cộng hòa. Những nỗ lực của Roosevelt nhằm cải cách nền chính trị New York - bao gồm cả cải cách Đảng Cộng hòa - đã khiến Platt và giới thượng tầng Đảng Cộng hòa ở đây đã gây áp lực buộc Tổng thống McKinley phải chấp nhận Roosevelt làm ứng cử viên Phó Tổng thống mới của ông, lấp đầy chỗ trống mà Phó Tổng thống Garret Hobart để lại sau khi qua đời năm 1899. Bằng cách bầu Roosevelt làm Phó Tổng thống, Platt sẽ loại Roosevelt khỏi chính trường bang New York. Mặc dù Roosevelt miễn cưỡng chấp nhận đề cử làm Phó Tổng thống, chức vụ mà ông coi là một chức vụ tương đối tầm thường và yếu kém, nhưng sự nổi tiếng rộng rãi của ông đối với hầu hết các đại biểu Đảng Cộng hòa đã khiến McKinley chọn ông làm đồng tranh cử mới của mình. Trớ trêu thay, vào tháng 9 năm 1901, McKinley bị ám sát và qua đời ở Buffalo, New York, Roosevelt lập tức kế nhiệm và trở thành Tổng thống - chức vụ quyền lực nhất và tất nhiên có ảnh hưởng tới chính trường tất cả các bang, gồm cả ở New York. Đề cử của Đảng Dân chủ. Ứng cử viên khác. Sau khi Đô đốc hạm đội George Dewey trở về từ Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, nhiều người đề nghị ông tranh cử Tổng thống đại diện Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, Dewey lại chót chọc giận một số người theo đạo Tin lành khi kết hôn với Mildred McLean Hazen theo Công giáo (vợ góa của Tướng William Babcock Hazen và con gái của Washington McLean, chủ báo "The Washington Post") vào tháng 11 năm 1899 và tặng cho bà ngôi nhà mà đất nước đã trao thưởng cho ông nhờ công lao trong chiến tranh của mình. Việc ứng cử của ông gần như ngay lập tức bị phản đối bởi một số lời vạ miệng. Báo chí bắt đầu tấn công ông ngay lập tức sau khi ông nói rằng công việc của Tổng thống vô cùng dễ dàng, chỉ đơn thuần thi hành luật do Quốc hội ban hành và rằng ông sẽ "thực thi luật của Quốc hội một cách trung thực nhất có thể như cách ông tuân lệnh cấp trên của mình." Ngay sau đó, ông thừa nhận chưa bao giờ bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử Tổng thống trước đây, đồng thời đề cập rằng người duy nhất mà ông sẽ bỏ phiếu nếu được sẽ là Grover Cleveland. Ông thậm chí còn bị chỉ trích nhiều hơn khi nói thẳng thắn (và sau này trở thành sự thật) với một phóng viên tờ báo rằng, "Cuộc chiến tiếp theo của chúng ta sẽ là với Đức." Chiến dịch của Dewey sau đó còn vấp phải sự phản đối của Đảng Dân chủ Vàng (ủng hộ vàng), những người mà ban đầu ủng hộ chiến dịch của ông. Một số thậm chí còn ủng hộ Bryan (ủng hộ bạc) vì họ tin rằng ông là ứng cử viên có uy tín hơn. Ngay sau 3 ngày ứng cử, chiến dịch tranh cử của ông đã gặp trắc trở bởi những sai lầm nói trên, đã có rất nhiều tin đồn về việc Dewey sắp rút lui. Tuy nhiên, trắc trở lớn hơn hết đã xảy ra khi có thông tin giới thượng tầng Đảng Dân chủ Vermont phản đối Dewey và hoàn toàn ủng hộ Bryan. Ohio cũng ủng hộ Bryan, mặc dù có cảnh báo rằng giới thượng tầng sẽ loại bỏ vấn đề bạc ra khỏi cương lĩnh đảng. Đến ngày 5 tháng 5, John Roll McLean, anh rể và quản lý chiến dịch của Dewey, đã rút khỏi chiến dịch và được nhiều người cho là âm thầm ủng hộ Bryan. Đến ngày 17 tháng 5, Dewey nhận ra rằng có rất ít cơ hội để ông có được đủ số đại biểu ủng hộ tại các bang miền Tây và miền Nam để ngăn Bryan đạt được 2/3 số đại biểu tại đại hội đến mức nói rằng ông thậm chí còn không biết tại sao mình lại quyết định tranh cử Tổng thống; ông sau đó rút lui. Sau đó đã có đề nghị ủng hộ ông tranh đề cử làm Phó Tổng thống cùng với Bryan; tuy nhiên Dewey kiên quyết từ chối đề nghị này. William Jennings Bryan gặp phải rất ít sự phản đối lớn sau khi Dewey rút lui. Bryan giành chiến thắng tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1900 được tổ chức tại Thành phố Kansas, Missouri, từ ngày 4 đến 6 tháng 7, giành được 936 phiếu đại biểu để giành được đề cử. Các ứng cử viên chính thức hoặc được suy đoán tranh đề cử Phó Tổng thống: Đề cử của Đảng Nhân dân (Đảng Dân túy). Là đảng lớn thứ ba trên toàn quốc, Đảng Dân túy đã đưa ra quyết định vào năm 1896 để từng bước "liên minh" với Đảng Dân chủ ở cấp quốc gia bằng cách ủng hộ ứng cử viên Tổng thống của Đảng Dân chủ - dù sẽ giữ ảnh hưởng của mình bằng cách đề cử một ứng cử viên của riêng mình cho vị trí Phó Tổng thống. Ở cấp tiểu bang, các Đảng Dân túy cấp địa phương được tự do hoạt động theo cách của riêng họ. Ở các bang vùng Bình nguyên, Đảng Dân túy liên minh với Đảng Dân chủ, và ở một số bang thì đã hoàn toàn sáp nhập vào đảng này. Ở miền Nam, Đảng Dân túy liên minh với Đảng Cộng hòa. Kết quả, mặc dù Bryan thất cử, Đảng Dân túy đã có thêm nhiều Dân biểu thắng cử vào Quốc hội, từ 10 lên 26. Tuy nhiên, ở một số bang miền Nam, cơ quan lập pháp do Đảng Dân chủ kiểm soát bắt đầu thông qua một loạt luật nhằm tước quyền bầu cử của cử tri da đen - khối cử tri lớn ủng hộ Đảng Dân túy. Động thái này đã gây ra nhiều hậu quả, như trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1898, số Dân biểu của Đảng Dân túy tại Hạ viện đã giảm xuống còn 9, mức thấp nhất kể từ khi thành lập đảng. Cách Đảng Dân chủ đối xử với Đảng Dân túy đã dẫn đến sự chia rẽ trong nội bộ đảng này. Vào ngày 17 tháng 5 năm 1899, giới thượng tầng Đảng Dân túy đã gặp nhau tại St. Louis và đưa ra một bài phát biểu thành lập phái "Trung lộ", ngăn chặn nỗ lực hợp nhất 2 đảng. Tuyên bố chủ yếu nhắm vào chủ tịch toàn quốc của đảng, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Marion Butler từ Bắc Carolina, người được bầu vào Thượng viện thông qua liên minh với Đảng Cộng hòa Bắc Carolina, và đang nỗ lực vận động Đảng Dân túy tái ủng hộ đề cử của William J. Bryan trong cuộc bầu cử này. Trong khi đó, phái "Liên minh" bắt đầu phản công từ đầu năm 1900. Nơi đầu tiên xuất hiện biểu hiện của sự chia rẽ là ở Đảng Dân túy Nebraska trong đại hội cấp bang vào ngày 19 tháng 3. Cả 2 phái đều cử đại biểu tham dự đại hội toàn quốc, dự kiến diễn ra ở Cincinnati. Cuối cùng, phái "Liên minh" đã quyết định tổ chức riêng một đại hội toàn quốc khi rõ rằng Đảng Dân túy Ohio không ủng hộ phái "Liên minh" và đang nỗ lực tổ chức một đại hội nhằm không ủng hộ đề cử của Bryan mà là đề cử một liên danh riêng của mình. Đề cử của Đảng Nhân dân phái "Liên minh". Đại hội toàn quốc của phái "Liên minh" được triệu tập ở ngay phía tây Sioux Falls, Nam Dakota vào ngày 9 tháng 5 và nhất trí đề cử Bryan làm Tổng thống. Charles Towne, lãnh đạo của Đảng Cộng hòa Bạc, gần như được nhất trí ủng hộ đề cử làm đồng tranh cử của ông, chỉ vấp phải sự phản đối nhỏ từ Dân biểu John Lentz từ Ohio. Tuy nhiên, cuối cùng thì Adlai Stevenson lại giành được đề cử Phó Tổng thống của Đảng Dân chủ thay vì Towne, Towne sau đó rút lui, và sau đó phái "Liên minh" quyết định ủng hộ Stevenson. Đề cử của Đảng Nhân dân phái "Trung lộ". Gặp nhau tại Cincinnati, Ohio, phe "Trung lộ" đã thông qua một cương lĩnh kêu gọi tạo ra tiền định danh, gia tăng quyền sở hữu của chính phủ đối với các ngành công nghiệp chủ chốt và thành lập các vùng đặc quyền kinh tế. Doanh nhân Wharton Barker được đề cử làm Tổng thống, trong khi Dân biểu Ignatius Donnelly được chọn đồng tranh cử cùng ông. Đề cử của Đảng Dân chủ Xã hội. Tổ chức Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ được thành lập vào tháng 6 năm 1897 và sau đó được đổi tên thành Đảng Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ vào năm 1898 khi Đảng Lao động Xã hội Hoa Kỳ đang gặp lục đục nội bộ. James F. Carey, thành viên của hội đồng thành phố Haverhill, Massachusetts, đã bị khai trừ khỏi Đảng Lao động Xã hội. Sau đó, Eugene V. Debs, Carey và Sylvester Keliher thành lập Đảng Dân chủ Xã hội. Carey và Louis M. Scates được bầu vào Hạ viện Massachusetts trong khi John C. Chase được bầu làm thị trưởng Haverhill. Victor L. Berger, lãnh đạo đảng ở Milwaukee, Wisconsin, và một nhóm ứng cử viên của đảng đã nhận được gần 6% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử năm 1898. 20 thành viên đã đắc cử vào các văn phòng vào năm 1900. Morris Hillquit và các thành viên phe cánh của ông, được gọi là phái Kangaroo trong Đảng Lao động Xã hội đang cố gắng lật đổ Daniel De Leon khỏi vị trí lãnh đạo đảng tại đại hội năm 1899. Phái Kangaroo đã thất bại cay đắng trước De Leon và bị khai trừ khỏi đảng nên họ đã tự thành lập một Đảng Lao động Xã hội của riêng họ. Họ đề cử Job Harriman làm Tổng thống và Max S. Hayes làm Phó Tổng thống mặc dù họ không có ý định tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1900 và thay vào đó chỉ dùng nó như một cách thỏa hiệp với Đảng Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ. Đảng Dân chủ Xã hội ban đầu được mời tham dự đại hội của phái Kangaroo, nhưng họ từ chối dù Đảng Dân chủ Xã hội ủng hộ sự hợp nhất của 2 đảng. Dẫu vậy, Ban Chấp hành Đảng Dân chủ Xã hội vẫn cho phép phái Kangaroo cử đại biểu tham dự đại hội toàn quốc của họ. Phái Kangaroo đã thông qua một nghị quyết ủng hộ sự hợp nhất và thành lập một ủy ban thống nhất. 67 đại biểu từ 32 bang được triệu tập tại đại hội năm 1900 và bỏ phiếu ủng hộ Debs làm Tổng thống. Hayes và Harriman đều tranh đề cử Phó Tổng thống và Harriman đã giành được nó. Ban Chấp hành tuyên bố vào ngày 12 tháng 5 năm 1900 rằng họ sẽ không ủng hộ việc hợp nhất với phái Kangaroo sau khi cáo buộc họ quá giáo điều và cản trở một cuộc bỏ phiếu về vấn đề hợp nhất. Dẫu vậy, khi Ủy ban Thống nhất phái Kangaroo đã gửi phiếu bầu cho các thành viên của cả 2 đảng thì cả 2 đều bỏ phiếu ủng hộ sự hợp nhất. Phái Kangaroo đồng ý đề cử Debs và Harriman làm liên danh của họ và Debs đã chấp nhận vào ngày 31 tháng 7. Debs và George D. Herron bắt đầu chiến dịch tranh cử cho đảng vào ngày 29 tháng 9, tại Music Hall ở Chicago. Debs đã nhận được 87.945 phiếu bầu với số phiếu ủng hộ lớn nhất đến từ New York và Illinois. Số phiếu bầu Debs nhận được ở Chicago nhiều gấp 10 lần số phiếu của Đảng Lao động Xã hội nhận được trong cuộc bầu cử năm 1896. Debs đã nhận được nhiều phiếu bầu hơn bất kỳ liên danh Tổng thống nào từ Đảng Lao động Xã hội. Phái Kangaroo và Đảng Dân chủ Xã hội sau đó hợp nhất và trở thành Đảng Xã hội Hoa Kỳ vào năm 1901. Đề cử của Đảng Cấm rượu. Ứng cử viên khác. Đảng Cấm rượu đã họp tại Chicago, Illinois vào ngày 28 tháng 6 để đề cử liên danh của họ. Hale Johnson, người từng là ứng cử viên Phó Tổng thống của đảng vào năm 1896, đã rút lui ngay trước khi cuộc bỏ phiếu bắt đầu. John G. Woolley đã được đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên, với Henry B. Metcalf từ Rhode Island được đề cử làm đồng tranh cử cùng ông thời gian ngắn sau đó. Đề cử của Đảng Cộng hòa Lincoln. Đảng Cộng hòa Lincoln, trước đây có tên là Đảng Cộng hòa Bạc, đến năm 1900 đã nhận ra rằng vấn đề bản vị lưỡng kim đã hạ nhiệt và vấn đề chủ nghĩa đế quốc đang ngày càng nóng lên, và họ hy vọng rằng một cương lĩnh đa dạng phù hợp với các giáo lý mà Abraham Lincoln ủng hộ sẽ giúp Đảng phát triển mạnh hơn chỉ là một vấn đề bạc tự do. Đảng Cộng hòa Lincoln triệu tập tại Thành phố Kansas, Missouri, cùng lúc và cùng nơi với Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ. Cam kết ủng hộ William Jennings Bryan tranh cử Tổng thống, mục đích chính của nhiều đại biểu tham dự là thúc đẩy Đảng Dân chủ đề cử Chủ tịch toàn quốc Charles Towne cho chức Phó Tổng thống, một nỗ lực ban đầu được Đảng Dân túy phái "Liên minh" ủng hộ. Thật không may cho những người ủng hộ Towne, những nỗ lực này có thể đã không có tác dụng, khi khối đại biểu từ miền Nam không ủng hộ ông. Cuối cùng, trong lần bỏ phiếu quyết định, Towne đứng thứ 3, với Adlai Stevenson giành chiến thắng. Việc Stevenson, người trước đây từng giữ chức Phó Tổng thống dưới thời Grover Cleveland, được đề cử, đã khiến nhiều thành viên Đảng Cộng hòa Lincoln tham dự phẫn nộ, và nhiều nỗ lực vô cùng sau đó nhằm đề cử Charles Towne tranh cử Phó Tổng thống đã xuất hiện. Chỉ cho đến khi chính Charles Towne phát biểu tại đại hội thì sự hỗn loạn mới nguôi ngoai. Từ chối tranh cử, Towne cầu xin các đại biểu có mặt chấp nhận và ủng hộ liên danh của Đảng Dân chủ, ngụ ý rằng Bryan mới làn nhân tố chính và phần lớn Cương lĩnh Đảng Dân chủ phù hợp với Đảng Cộng hòa Lincoln. Những người khác, chẳng hạn như Thượng nghị sĩ Fred Dubois, Thượng nghị sĩ Henry Teller và John Shafroth đã có những bài phát biểu tương tự kêu gọi ủng hộ Bryan và Stevenson. Sau cùng, một ủy ban được chọn lọc thành viên đã chính thức tán thành đề cử Phó Tổng thống của Adlai Stevenson. Đề cử của Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc. Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1898 để phản đối thương vụ mua Quần đảo Philippine, coi thương vụ này vi phạm quy tắc "sự đồng ý của người bị trị". Mặc dù không chính thức là một đảng phái chính trị, nhưng đã tồn tại một phong trào trong Liên đoàn nhằm đề cử một liên danh riêng biệt trên cương lĩnh tập trung vào vấn đề chống chủ nghĩa đế quốc hoặc ít nhất là ủng hộ một ứng cử viên tổng thống từ Đảng Cộng hòa hoặc Đảng Dân chủ mà bản thân họ chống lại chủ nghĩa đế quốc. Tuy nhiên, sau khi McKinley và Bryan được đề cử, tranh luận đã bùng nổ về việc có nên tán thành Bryan và Cương lĩnh Đảng Dân chủ hay không; trong khi đó, nhiều đảng viên Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ Vàng lại cảm thấy với các triết lý chính trị của Liên đoàn rất phù hợp với triết lý của họ (trừ việc tố cáo chủ nghĩa đế quốc); đến tháng 7, một số người thậm chí còn có ý định ủng hộ McKinley vào tháng 11. Cuối tháng đó, Đại hội toàn quốc được triệu tập ở Indianapolis vào ngày 15 tháng 8 đẻ quyết định ủng hộ hoặc tự đề cử một liên danh riêng cho cuộc tổng tuyển cử. Các cuộc tranh luận đã bùng nổ với sự tham gia Đảng Dân chủ Quốc gia về khả năng liên minh đề cử một liên danh duy nhất, nhưng điều này đã bị ủy ban toàn quốc của đảng bác bỏ. Sau đó, những cái tên được thảo luận cho đề cử Tổng thống bào gồm cựu Chủ tịch Hạ viện Thomas Reed, cựu Ngoại trưởng Richard Olney, cựu Thống đốc bang Massachusetts George Boutwell, và cựu Thượng nghị sĩ John Henderson. Ngay từ đầu, những xu hướng này có lợi cho Bryan, với việc Chủ tịch thường trực George Boutwell phát biểu tại đại hội và kêu gọi ủng hộ Đảng Dân chủ, sau đó là các bài phát biểu của cựu Tướng John Beatty, Edgar Bancroft và Gamaliel Bradford. Tuy nhiên, nghị quyết tán thành Bryan đã vấp phải tranh cãi kéo dài với phe cánh ủng hộ đề cử một liên danh riêng do Thomas Osborne lãnh đạo. Osborne và phe cánh của ông nói rằng nhiều người chống chủ nghĩa đế quốc sẽ không sẵn sàng bỏ phiếu cho Bryan hoặc ủng hộ Cương lĩnh Đảng Dân chủ, và Đảng sẽ thu hút được nhiều phiếu bầu hơn nếu họ đề cử một ứng cử viên của riêng họ. Charles Codman, tác giả của nghị quyết, và Edwin Burritt Smith phản đối rằng cử tri sẽ ít để ý tới các vấn đề ngoài vấn đề chủ nghĩa đế quốc, và nên tận dụng mọi cơ hội để đưa một người chống chủ nghĩa đế quốc lên nắm quyền. Trong một lần bỏ phiếu, Cương lĩnh của Liên đoàn được thông qua, ủng hộ liên danh Bryan/Stevenson. Osborne và những người muốn đề cử một liên danh riêng sau đó rời đảng và gia nhập Đảng Quốc gia, đang chuẩn bị tổ chức đại hội gần đó. Đề cử của Đảng Quốc gia. Đảng Quốc gia được hình thành từ phong trào ủng hộ đề cử một liên danh riêng trong Liên đoàn Chống Chủ nghĩa đế quốc. Giai đoạn đầu của sự hình thành đảng xuất phát từ thất bại của đảng viên Liên đoàn, do Thomas Osborne và John Jay Chapman lãnh đạo, trong việc thuyết phục Đảng Dân chủ Quốc gia đề cử hoặc ủng hộ một liên danh. Một tuyên bố sau đó được các đại biểu Liên đoàn từ New York đưa ra, tố cáo cả hai đảng Cộng hòa và Dân chủ, ủng hộ nền độc lập của Philippines và Porto Rico, ủng hộ chế độ bản vị vàng và một hệ thống ngân hàng lớn mạnh, kêu gọi bãi bỏ những đặc quyền đặc biệt và yêu cầu cải cách dịch vụ công. Họ cũng tổ chức một đại hội toàn quốc từ ngày 14 đến ngày 15 tháng 8, gần Đại hội toàn quốc Liên đoàn được tổ chức từ ngày 15 tháng 8 đến ngày 16 tháng 8. Khi các đại biểu đến Indianapolis, mọi người dự định rằng Liên đoàn sẽ đề cử một liên danh riêng và Đảng Quốc gia sẽ ủng hộ liên danh của Liên đoàn. Tuy nhiên, vấn đề trở nên rõ ràng khi Liên đoàn có ý ủng hộ Bryan và đang chuẩn bị quyết định ủng hộ ông. Những đại biểu của Liên đoàn liên minh với Đảng Quốc gia sau đó đã rời khỏi đảng và tiến hành bầu Thomas Osborne làm Chủ tịch Thường trực của Đại hội, kêu gọi tổ chức một đại hội toàn quốc mới vào ngày 5 tháng 9. Người ta tuyên bố rằng vào thời điểm đó, các đại biểu có ý mời Moorfield Storey chấp nhận đề cử Tổng thống của Đảng Quốc gia, nhưng Storey đã từ chối và cuối cùng đã chọn tranh cử tại khu 11, Massachusetts; trong khi đó, William Jackson Palmer ban đầu được gợi ý cho vị trí đề cử Phó Tổng thống nhưng ông cũng từ chối lời gợi ý này. Đại hội triệu tập tại Carnegie Hall (sau đó là Chamber Music Hall) vào ngày 5 tháng 9, Đảng Quốc gia chính thức được thành lập, ứng cử viên Thượng nghị sĩ Donelson Caffery từ Louisiana được đề cử làm Tổng thống và nhà sử học Archibald Howe của Massachusetts cho Phó Tổng thống. Mặc dù có một số lo ngại về việc liệu Caffery có chấp nhận đề cử nếu được đề nghị hay không, Osborne tuyên bố rằng ông đã liên lạc với Caffrey và rằng ông vừa có thiện cảm với Đảng Quốc gia vừa sẵn sàng trở thành ứng cử viên cho chức Tổng thống của họ. Cương lĩnh của đảng gần như giống với cương lĩnh do ủy ban Liên đoàn soạn hồi tháng 7. Mục đích duy nhất của đảng chỉ dừng lại ở việc chia phiếu bầu của McKinley và Bryan. Thật không may cho Đảng Quốc gia, Thượng nghị sĩ Cafferty từ chối tranh cử chỉ vài tuần sau đó, dẫn đến một cuộc tranh luận mà Arthur Briggs Farquhar, chủ sở hữu của Công trình Nông nghiệp Pennsylvania, được coi là người có thể thay thế ông. Một ngày sau, ngày 21 tháng 9, chi ủy Đảng ở Massachusetts bỏ phiếu giải tán đảng. Đảng Cải cách Liên minh đã đề cử Seth H. Ellis của Ohio làm Tổng thống và Samuel T. Nicholson làm Phó Tổng thống. Đảng Cơ đốc Thống nhất đã đề cử Jonah FR Leonard làm Tổng thống và David H. Martin làm Phó Tổng thống. Ban đầu, đảng đã đề cử Silas C. Swallow làm Tổng thống và John G. Woolley làm Phó Tổng thống, nhưng cả hai người đều từ chối, thay vào đó họ chọn tranh đề cử của Đảng Cấm rượu "(mà Woolley là người chiến thắng)". Nền kinh tế đang phát triển thịnh vượng vào năm 1900, vì vậy khẩu hiệu của Đảng Cộng hòa là "Bốn năm nữa với một bữa tối đầy đủ", kết hợp với chiến thắng trong của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898, đã hấp dẫn cử tri hơn bao giờ hết. Teddy Roosevelt đã trở thành một anh hùng dân tộc khi từng chiến đấu ở Cuba, hơn nữa ông còn là một phát ngôn viên nổi tiếng đại diện đảng Cộng hòa. Roosevelt tỏ ra rất năng nổ và là đối thủ xứng tầm với phong cách vận động tranh cử sôi nổi của William Jennings Bryan. Roosevelt phát biểu nhiều nơi, miêu tả là McKinley là người đã mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước và xứng đáng được tái đắc cử. Trong một chiến dịch vận động tranh cử thần tốc, Roosevelt đã có 480 điểm dừng để phát biểu ở 23 bang. Trong các bài phát biểu của mình, ông liên tục lập luận rằng cuộc chiến là chính đáng, đã giải phóng người Cuba và người Philippines khỏi chế độ chuyên chế của Tây Ban Nha: Cả 2 ứng cử viên đều tái sử dụng kỹ thuật tranh cử vào năm 1896, với việc McKinley một lần nữa vận động "trước hiên nhà" từ Canton, Ohio. Vào đỉnh điểm của chiến dịch, ông đã chào đón 16 phái đoàn và 30.000 người ủng hộ cổ vũ trong 1 ngày. Trong khi đó, Bryan lại bắt đầu hành trình, di chuyển 18.000 dặm tới hàng trăm cuộc biểu tình khắp miền Trung Tây và Đông. Lần này, ông còn có đối thủ hùng biện khác là Theodore Roosevelt, người đã vận động hăng hái không kém ở 24 bang, với quãng đường 21.000 dặm bằng tàu hỏa. Chiến thắng của quân đội và hải quân Mỹ trong cuộc chiến chống Tây Ban Nha là yếu tố quyết định trong việc gây dựng sự ủng hộ của Đảng Cộng hòa. Đảng Dân chủ cố gắng lập luận rằng chiến tranh chưa kết thúc vì cuộc nổi dậy ở Philippines; điều này đã trở thành vấn đề chính của họ. Nhận thức rằng Chiến tranh Hoa Kỳ-Philippines sắp kết thúc sẽ là một kho báu "màu mỡ" cho Đảng Cộng hòa, và chính quyền McKinley tuyên bố rằng quân đội sẽ được cắt giảm khi chiến tranh kết thúc. Đảng Cộng hòa cam kết rằng các cuộc giao tranh ở Philippines sẽ tự lắng xuống trong vòng 60 ngày kể từ khi McKinley tái đắc cử. Tuy nhiên, như một trung úy đã viết trong một bức thư gửi cho vợ mình, "Trên giấy tờ thì có vẻ ổn, nhưng thực sự ở đây không hề có sự cắt giảm lực lượng nào cả. Những tiểu đoàn [được hồi hương] này gồm toàn những ngườ" Ngoài ra, Bộ trưởng Chiến tranh Elihu Root còn nhận được một báo cáo từ MacArthur vào tháng 9 năm 1900 rằng ông ta sẽ không cắt giảm lực lượng cho đến sau cuộc bầu cử. Tướng Arthur MacArthur, Jr., nắm quyền chỉ huy Philippines được 4 tháng, cảnh báo Washington rằng cuộc chiến không những không hạ nhiệt mà thậm chí còn chưa định hình được kết quả. MacArthur tin rằng giai đoạn du kích của cuộc chiến chỉ mới bắt đầu và người Philippines đang hoàn thiện kỹ thuật của mình thông qua kinh nghiệm của mình. Hơn nữa, chiến lược của nhà lãnh đạo Philippines Emilio Aguinaldo đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, phần lớn binh lính ở Philippines không ủng hộ Bryan. Hầu hết những lời nhắn đề cập đến cuộc bầu cử năm 1900 trong thư và nhật ký của những người lính đều bày tỏ sự ủng hộ rất lớn đối với Đảng Cộng hòa của McKinley và Roosevelt. Theo Trung sĩ Beverly Daley, ngay cả "đảng Dân chủ hú hét" cũng ủng hộ McKinley. Binh nhì Hambleton viết: "Tất nhiên, có một số chàng trai cho rằng Bryan là kẻ toàn diện, nhưng số lượng những chàng trai như vậy rất ít". Bất chấp những nỗ lực đầy nghị lực của Bryan, sự thịnh vượng mới dưới thời McKinley, kết hợp với sự ủng hộ của công chúng đối với Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ, đã giúp McKinley giành được chiến thắng dễ dàng. Theodore Roosevelt, ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hòa, đã thu hút được sự ủng hộ bất ngờ trong chiến dịch tranh cử, và người ta khẳng định rằng ông đã giúp mang lại một lượng phiếu bầu rất lớn cho Đảng Cộng hòa. McKinley đã giành được khoảng 7.200.000 phiếu bầu. Ông đã thắng ở 28 bang với tổng số 292 phiếu đại cử tri (65,32%). Tỷ lệ phần trăm phiếu phổ thông của ông trên toàn quốc tăng nhẹ (51,60%), với nhiều hơn 120.000 phiếu bầu so với năm 1896. Sự thay đổi này được phản ánh qua số quận mà ông thắng; McKinley thắng nhiều hơn 222 quận so với số quận ông thắng vào năm 1896, do đó giành chiến thắng ở đa số quận vào năm 1900. Trong số 2.729 quận, McKinley giành chiến thắng với 1.385 (50,75%) trong khi Bryan giành được 1.340 (49,10%). 2 quận (0,07%) chia đều cho McKinley và Bryan, trong 2 hai quận (0,07%) ở Texas ghi nhận phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" nhiều hơn 1 trong 2 ứng cử viên của 2 đảng lớn. McKinley chiếm đa số ở 1.288 quận trong khi Bryan chiếm đa số ở 1.253 quận. Soi xét kỹ hơn kết quả, trong số 2.729 quận, 2.286 quận có người thắng giống hệt cuộc bầu cử 4 năm trước; 113 thay đổi từ đảng Cộng hòa sang đảng Dân chủ; và 328 thay đổi từ Đảng Dân chủ sang Đảng Cộng hòa. Một điểm đáng chú ý nữa là mức tăng tỷ lệ phiếu của Bryan ở khu vực New England và (Đông Bắc) Trung Đại Tây Dương, cùng với mức tăng nhẹ ở khu vực Trung Đông Bắc. Bryan thậm chí còn thắng ở thành phố New York với cách biệt gần 30.000 phiếu bầu, nơi ông thua với cách biệt 60.000 phiếu bầu chỉ 4 năm trước đó. Trong tất cả các vùng khác khác, số phiếu bầu của Bryan ít hơn năm 1896, và trên toàn quốc tổng số phiếu bầu của ông ít hơn 23.000 so với năm 1896. Tỷ lệ phần trăm tổng số phiếu bầu là 45,52%, giảm nhẹ. Kentucky, nơi ông mang thắng lần này, có mức tăng phiếu cho ông là 17.005. Ở 16 bang, số phiếu bầu của đảng Dân chủ tăng lên, nhưng ở 29 bang, tỷ lệ phiếu ít hơn năm 1896. Bryan chỉ thắng 17 tiểu bang. Đây là lần duy nhất trong 3 lần ứng cử mà ông không thắng Nebraska, quê hương của mình. Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà đảng Cộng hòa giành được đa số phiếu đại cử tri ở Maryland cho đến năm 1920. Đây cũng là cuộc bầu cử cuối cùng mà một đảng viên Cộng hòa thắng cử Tổng thống mà không thắng được Idaho và Montana. Ngoài ra, đây cũng sẽ là cuộc bầu cử cuối cùng sau 100 năm mà ứng cử viên Đảng Cộng hòa giành chiến thắng mà không giành được tối thiểu 300 phiếu đại cử tri. Điều này sẽ không xảy ra lần nữa cho đến khi George W. Bush đánh bại Al Gore trong cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2000. Tiểu bang sít sao. Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (42 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (150 phiếu đại cử tri): Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa cao nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân chủ cao nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" cao nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa thấp nhất Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân chủ thấp nhất Các quận với số phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa cao nhất Các quận với số phiếu bầu cho Đảng Dân chủ cao nhất Các quận với số phiếu bầu cho ứng cử viên "Khác" cao nhất Các quận Đảng Cộng hòa thắng với tỷ lệ phiếu bầu thấp nhất Các quận Đảng Dân chủ thắng với tỷ lệ phiếu bầu thấp nhất
La Plus Belle pour aller danser "La Plus Belle pour aller danser" (tạm dịch: "Khiêu vũ với tuyệt sắc giai nhân") là bài hát tiếng Pháp do Georges Garvarentz soạn nhạc và Charles Aznavour viết lời, được nữ ca sĩ Sylvie Vartan biểu diễn vào năm 1964 trong phim "Cherchez l'idole". Phiên bản tiếng Việt do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với nhan đề "Em đẹp nhất đêm nay". Thành công thương mại. Bài "La Plus Belle pour aller danser" xếp quán quân đĩa đơn tại Pháp trong suốt 11 tuần. Tại vùng Wallonia (Bỉ), đĩa đơn này duy trì 24 tuần trong bảng xếp hạng và đạt thứ hạng cao nhất là thứ 3. Bài này cũng từng đoạt ngôi quán quân đĩa đơn tại Nhật Bản. EP 7 inch RCA 86046 (Tháng 3 năm 1964; Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha) A1. "La Plus Belle pour aller danser" (2:29) A2. "Un air de fête" (2:13) B1. "He Understands Me" (1:54) B2. "Ne l'imite pas" (2:48) Phiên bản tiếng Việt do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời với nhan đề "Em đẹp nhất đêm nay", được đưa đến người nghe nhạc qua giọng ca của nữ ca sĩ Thanh Lan.
Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế (Tiếng Anh: International Brotherhood of Electrical Workers, viết tắt là hay IBEW) là một Công đoàn đại diện cho khoảng 775 nghìn công nhân đang làm việc hoặc đã nghỉ hưu trong các ngành công nghiệp điện năng, với quy mô trên khắp Hoa Kỳ, Canada, Guam, Panama, Puerto Rico, và Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Đặc biệt là thợ điện trong các ngành xây dựng và hệ thống điện công cộng. Công đoàn này cũng đại diện cho lực lượng lao động trong ngành công nghiệp máy tính, viễn thông, truyền hình cũng như lực lượng lao động trong tất cả các ngành khác liên quan đến điện năng. Tổ chức mà sau này là Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế được thành lập vào năm 1891, hai năm trước khi George Westinghouse giành chiến thắng trong Cuộc chiến dòng điện bằng cách thắp sáng Triển lãm Thế giới Columbia ở Chicago bằng dòng điện xoay chiều, và trước khi các gia đình và cơ sở kinh doanh ở Hoa Kỳ bắt đầu nhận được điện . Đây là một tổ chức quốc tế, dựa trên nguyên tắc thương lượng tập thể. Chủ tịch quốc tế của nó là Kenneth W. Cooper. Ban đầu IBEW thuộc "Công đoàn Thợ dây và Thợ sửa Điện", sáng lập tại St. Louis, bang Missouri vào năm 1890. Cho tới năm 1891, sau khi ý tưởng về việc thành lập một công đoàn toàn quốc đã được hưởng ứng rộng rãi, một hội nghị được tổ chức vào ngày 21 tháng 11 năm 1891 tại St. Louis. Tại hội nghị, IBEW khi đó là Hội anh em Công nhân Điện Quốc gia (Tiếng Anh: National Brotherhood of Electrical Workers, NBEW), đã chính thức được thành lập. Liên đoàn Lao động Hoa Kỳ đã trao cho NBEW điều lệ cùng tư cách thành viên vào ngày 7 tháng 12, 1891. Tạp chí chính thức của công đoàn, "The Electrical Worker", được xuất bản lần đầu vào ngày 15 tháng 1 năm 1893 và vẫn được phát hành cho đến nay. Tại hội nghị năm 1899 ở Pittsburgh, bang Pennsylvania, công đoàn đã chính thức đổi tên thành "Hội đồng nghiệp Công nhân Điện Quốc tế" cho đến nay. Công đoàn đã trải qua thời kỳ khó khăn trong những năm đầu thành lập, sau đó phải vật lộn trải qua sáu năm phân ly nôi bộ trong thập niên 1910, khi có hai phe đối địch nhau đều cho rằng bản thân được bầu ra làm lãnh đạo Công đoàn một cách hợp lệ. Vào năm 1919, nhiều công ty sử dụng lao động đã thực hiện một chiến dịch nhằm cố gắng tách các công đoàn lao động ra khỏi môi trường làm việc, công đoàn nhất trí thành lập "Hội đồng Quan hệ Lao động", một cơ quan lưỡng đảng bao gồm số lượng ngang nhau các đại diện bộ phận quản lý và bộ phận công đoàn có quyền giải quyết mọi tranh chấp thương lượng tập thể. Cơ quan đó vẫn hoạt động cho đến ngày nay và đã giải quyết phần lớn các cuộc đình công thuộc thẩm quyền của IBEW trong ngành xây dựng. Vào tháng 9 năm 1941, IBEW, Hiệp hội Nhà thầu điện Quốc gia và Ủy ban Liên bang về Đào tạo nghề đã chung tay lập nên "Tiêu chuẩn Đào tạo nghề Quốc gia cho Ngành xây dựng Điện lực". IBEW cũng đã bổ sung thêm các chương trình và khóa đào tạo bổ sung khi cần thiết cho các công nhân cần theo kịp các công nghệ mới, bao gồm ngành công nghiệp điện tử vào năm 1959 và một khóa học vê năng lượng hạt nhân vào năm 1966. Hiện nay, IBEW vẫn tổ chức các khóa dạy nghề thợ điện, thợ đi dây và công nhân VDV (thoại, dữ liệu và video) (những người lắp đặt hệ thống dây điện hạ thế như mạng máy tính), phối hợp với Hiệp hội Nhà thầu Điện Quốc gia, dưới sự bảo trợ của Ủy ban Liên hợp Dạy nghề và Đào tạo Quốc gia (NJATC), cho phép người học việc có thu nhập khi "vừa làm vừa học."Tại các khu vực pháp lý của Canada, IBEW không cung cấp chương trình đào tạo học nghề nhưng tiến hành đào tạo bổ sung cho những người học nghề do chính phủ đào tạo, thường với chi phí thấp hoặc miễn phí hoàn toàn. Điều lệ 353 IBEW Toronto yêu cầu tất cả người học việc phải đăng ký với JAC (Hội đồng Dạy nghề Chung) cho một số khóa học về an toàn, huấn luyện trước khi học nghề, các khóa học dự bị tại trường dạy nghề, huấn luyện bổ sung và các khóa học trước kỳ thi. Số thành viên của IBEW đạt đỉnh điểm vào năm 1972 với khoảng 1 triệu thành viên. Số lượng thành viên giảm dần trong suốt thập niên 1970 và 1980, nhưng sau đó đã ổn định. Một sự kiện khiến số lượng thành viên IBEW sụt giảm nghiêm trọng là khi tòa án yêu cầu giải thể các bộ phận Công đoàn tại ATT (Tập đoàn Điện thoại Điện báo Hoa Kỳ) vào cuối năm 1982, khi đó IBEW được tổ chức chặt chẽ trong nội bộ nhân viên và trong các cơ sở sản xuất của ATT. Năm 1988, 30% công trình xây dựng ở Mỹ được tổ chức theo công đoàn và IBEW chiếm 40% công trình xây dựng liên quan đến điện. Theo trang web chính thức của Công đoàn, số thành viên tính đến năm 2020 là khoảng 775.000. IBEW cũng hỗ trợ việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân mới ở Hoa Kỳ.
Beatriz của Tây Ban Nha Beatriz sinh ra tại Cung điện Vương thất La Granja, San Ildefonso gần Segovia, Tây Ban Nha vào ngày 22 tháng 6 năm 1909. Beatriz là người con thứ ba của Alfonso XIII của Tây Ban Nha và Victoria Eugenie của Battenberg. Vương nữ được đặt tên là Beatriz theo tên bà ngoại của là Beatrice của Liên hiệp Anh, con gái út của Victoria I của Liên hiệp Anh; Isabel theo tên của bà bác cố bên nội là Isabel của Tây Ban Nha; Federica theo tên của Friederike của Hannover, người sở hữu ngôi nhà mà cha mẹ Vương nữ đã đính hôn; Alfonsa theo tên của cha và Eugenia theo tên củaHoàng hậu Eugenia của Pháp, mẹ đỡ đầu của mẹ Vương nữ, Cristina và Maria dành cho Maria Christina Heniriette của Áo, bà nội cuaBeatriz, Teresa theo tên của Maria Theresia của Áo và Ladislaa theo tên của Ladislaus I của Áo. Vương nữ Beatriz được giáo dục bởi các bảo mẫu người Anh trong Cung điện phía Đông. Beatriz được dạy về tiếng Anh và tiếng Pháp cùng với tiếng Tây Ban Nha. Beatriz cùng các anh chị em nói tiếng Anh với mẹ và tiếng Tây Ban Nha với bố. Giống với em gái María Cristina kém hai tuổi, Beatriz cũng mong muốn được học ở các trường tư thục giống như những cô con gái của giới quý tộc thường lui tới cung điện với để chơi với Vương nữ, nhưng theo truyền thống Tây Ban Nha, hai chị em phải được giáo dục bởi các phó mẫu và gia sư riêng. Họ học về ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, piano và khiêu vũ. Alfonso XIII và Victoria Eugenie rất coi trọng việc tập thể dục ngoài trời và Beatriz cũng trở nên hứng thú với thể thao. Vương nữ bơi rất giỏi, có thể chơi quần vợt, chơi golf và thích cưỡi ngựa. Khi ở Madrid, Beatriz thường chơi đùa trong vườn của cung điện và thực hiện các chuyến du ngoạn trên lưng ngựa. Vào mùa hè, khi gia đình chuyển đến Cung điện Magdalena, gần Santander, Beatriz và María Cristina luyện tập các môn thể thao dưới nước. Hai chị em cũng thực hiện vài chuyến thăm Anh để ở với bà ngoại tại Cung điện Kensington. Cuối thập niên 1920s, Infanta Beatriz và em gái Infanta María Cristina đã chủ trì một số sự kiện chính thức đồng thời đứng đầu các tổ chức và tài trợ cho các sự kiện khác nhau. Hai chị em còn dành sự quan tâm đến vấn đề bảo vệ động vật. Beatriz và em gái dành thời gian tham gia các lớp điều dưỡng và hỗ trợ Hội Chữ Thập Đỏ ở Madrid hai lần một tuần từ 9 giờ sáng đến 1 giờ chiều và từ 3 đến 7 giờ tối. Beatriz còn là là chủ tịch Hội chữ thập đỏ ở San Sebastián và làm việc tại đó trong kỳ nghỉ hè của vương thất. Hai vị vương nữ luôn ăn mặc sang trọng, có vẻ ngoài trái ngược nhau: một người có mái tóc vàng và người kia có tóc màu sẫm. Beatriz có ngoại hình tương đồng với những người họ hàng Tây Ban Nha với mái tóc nâu, dáng người cao và gầy giống cha. Vương nữ chính thức ra mắt vào năm 1927 bằng một buổi vũ hội tại cung điện vương thất. Trong số bạn bè của Beatriz có Công tước xứ Alba, Fernán Núñez và Aveyro. Ám ảnh về bệnh máu khó đông đã tác động lớn đến cuộc đời vương nữ: Anh cả Alfonso và em út Gonzalo của đều mắc bệnh máu khó đông. Người anh thứ hai Jaime bị điếc và chỉ có người em trai Juan là hoàn toàn khỏe mạnh. Năm 1929, Beatriz tròn hai mươi tuổi. Vương nữ đem lòng yêu Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia, con trai út của Miguel Primo de Rivera, người từng giữ chức Thủ tướng Tây Ban Nha từ năm 1923 đến tháng 1 năm 1930 với quyền lực độc tài. Beatriz và Miguel Primo de Rivera y Sáenz de Heredia được nhìn thấy cưỡi ngựa cùng nhau, nhưng hôn nhân giữa hai người là điều không thể xảy ra. Khi ngài Thủ tướng phát hiện ra mối qua hệ giữa hai nguòi, ông đã đưa con trai ra nước ngoài. Vì Beatriz và em gái có thể mang gene bệnh máu khó đông giống mẹ, Alfonso XIII đành miễn cưỡng tuân theo truyền thống tìm chồng có xuất thân là những vị vương tử Công giáo cho hai chị em. Những người bạn của hai chị em là ba người em họ Álvaro, Alfonso và Ataúlfo của Orleans, ba con trai của Vương tằng tôn Alfonso của Orléans. Có những mong đợi rằng Beatriz sẽ kết hôn với Alfonso và María Cristina sẽ kết hôn với Álvaro, thế nhưng nhưng tình hình chính trị hỗn loạn ở Tây Ban Nha đã khiến cuộc sống của ai chị em bị chệch hướng. Sự ủng hộ mà Alfonso XIII dành cho chế độ độc tài vốn không được lòng dân của Primo de Rivera đã làm mất uy tín của quốc vương. Các cuộc bầu cử thành phố được tổ chức vào ngày 12 tháng 4 năm 1931 không có lợi cho chế độ quân chủ. Hai ngày sau đó, Đệ Nhị Cộng hòa Tây Ban Nha được thiết lập. Thiếu sự hậu thuẫn về mặt quân sự, Alfonso XIII cảm thấy buộc phải rời khỏi đất nước ngay trong ngày, nhưng không thoái vị với hy vọng được trở lại ngai vàng Tây Ban Nha. Beatriz các anh chị em và Vương hậu Victoria Eugenie, ngoại trừ Vương tử Juan đang công tác trong hải quân Tây Ban Nha, đã bị bỏ lại ở Madrid. Theo lời khuyên của những người ủng hộ, Vương hậu và 5 người con rời Cung điện Vương hậu bằng ô tô đến El Escorial, rồi từ đó họ bắt tàu đến Pháp. Vương thất ban đầu sống lưu vong tại Khách sạn Meurice ở Paris, sau đó nhanh chóng chuyển đến khách sạn Savoie ở Fontainebleau. Cùng với mẹ, Beatriz và María Cristina đến thăm Paris hai lần một tuần bằng ô tô hoặc cùng với một thị nữ bằng tàu hỏa. Khi ở Paris, họ dành thời gian cưỡi ngựa ở trường dạy hoặc chơi quần vợt với bạn bè. Cuộc hôn nhân của cha mẹ hai chị em vốn không hạnh phúc và ngay cả ở Tây Ban Nha, Quốc vương và Vương hậu cũng sống tách biệt. Sau khi lâm vào cảnh sống lưu vong thì hai vợ chồng đã sống ly thân hoàn toàn. Victoria Eugenie chuyển đến Luân Đôn, sau đó đến Lausanne, Thụy Sĩ và hai chị em sống với mẹ trong một thời gian. Năm 1933, Alfonso XIII chuyển đến Rapallo và vì cuộc sống quá tách biệt ở Lausanne, Beatriz cùng em gái cùng cha chuyển đến Ý. Trước sự nài nỉ của hai con gái, Alfonso XIII chuyển đến Roma và thuê một căn nhà cho hai chị em ở. Beatriz và María Cristina trở thành bạn của các thành viên Vương thất Ý và nhanh chóng thích nghi với cuộc sống ở Roma. Năm 1934, một bi kịch ập đến với cả gia đình. Beatriz, bấy giờ đang trải qua kỳ nghỉ hè ở Pörtschach am Wörthersee ở Áo, lái một chiếc ô tô và ngồi cạnh là em trai Gonzalo. Vì cố gắng tránh một người đi xe đạp băng qua đường của hai người, Vương nữ đã đâm xe vào tường. Vụ tai nạn ban đầu có vẻ không nghiêm trọng, nhưng Gonzalo vì mắc bệnh máu khó đông nên bị xuất huyết trong và qua đời vào rạng sáng ngày hôm sau là ngày 13 tháng 8 năm 1934. Hôn nhân và hậu duệ. Vào thời điểm em trai qua đời, Beatriz đang mong chờ đến ngày cưới của mình. Khi đến thăm Ostia, Vương nữ được giới thiệu với một quý tộc người Ý là Alessandro Torlonia, Thân vương thứ 5 xứ Civitella-Cesi. Alessandro Torlonia được thừa kế khối tài sản lớn từ cha mình vào năm 1933, là con trai của Marino, Thân vương thứ 4 xứ Civitella-Cesi và Mary Elsie Moore, một nữ thừa kế người Mỹ. Gia đình của Alessandro có được khối tài sản lớn vào thế kỷ 18 và 19 nhờ việc quản lý tài chính của Vatican và được nhận tước hiệu Thân vương xứ Civitella-Cesi vào năm 1803 từ Giáo hoàng Piô VII . Mặc dù Alessandro là một thân vương nhưng vì không thuộc về một gia tộc đang hoặc từng trị vì, vì vậy cuộc hôn nhân giữa Beatriz và Alessandro bị xem là bất đăng đối và Beatriz phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng. Alfonso XIII, nhận ra rằng mối nguy về căn bệnh máu khó đông và tình cảnh sống lưu vong của gia đình sẽ khiến các con gái của ông khó tìm được người chồng có dòng dõi vương giả nên đã đồng ý cho mối hôn sự này. Đám cưới diễn ra vào ngày 14 tháng 1 năm 1935 tại Nhà thờ Gesù. Tại đám cưới, Beatriz mặc một chiếc đầm cưới có phần đuôi váy dài 20 foot, đội một coronet hình hoa cam để cố định mạng che mặt. Hôn lễ ghi nhận sự có mặt của Quốc vương Alfonso XIII, Quốc vương và Vương hậu Ý và khoảng 52 vị vương tử mang dòng máu vương giả. Hàng nghìn người Tây Ban Nha đã đến từ Tây Ban Nha để ủng hộ vương thất lưu vong đã khiến sự kiện mang tính chính trị. Tuy nhiên, Vương hậu Victoria Eugenie và người anh cả Alfonso Pío, Bá tước xứ Covadonga, những người có quan hệ không tốt với Nhà vua, đều không tham dự lễ cưới. Sau buổi lễ, cặp đôi trẻ được Đức Giáo Hoàng Piô XI tiếp đón. Vương nữ Beatriz của Tây Ban Nha và Alessandro Torlonia có bốn người con, 11 cháu và 19 chắt: Cuộc sống sau này. Infanta Beatriz sống cùng chồng tại Palazzo Torlonia, một ngôi nhà phố thời kỳ Phục hưng đầu thế kỷ 16 trên Via della Conciliazione ở Roma. Khi Quốc vương Alfonso XIII qua đời năm 1941 và tình hình ở Ý trở nên xấu đi trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Vương nữ Beatriz Isabel và gia đình cùng các anh chị em của Vương nữ đến Lausanne và trải qua phần còn lại của cuộc chiến gần bên mẹ của họ là Vương hậu Victoria Eugenie. Sau chiến tranh, Beatriz trở về Ý và sống tại đây cho đến cuối đời. Năm 1950, khi đang ở cùng em trai Juan ở Estoril, Bồ Đào Nha, Beatriz được Francisco Franco cho phép đến thăm Tây Ban Nha. Ngày 25 thàng 8 năm 1950, Beatriz trở lại Tây Ban Nha lần đầu tiên kể từ khi rời đi gần hai mươi năm trước đó. Vương nữ đến Tây Ban Nha đến cùng chồng và con gái Sandra từ Lisboa và ở tại khách sạn Ritz thuộc Madrid để thăm Cung điện la Granja, nơi Vương nữ được sinh ra, và Nhà thờ-Thánh đường Đức Mẹ Cột Trụ ở Zaragoza. Infanta Beatriz được tiếp đón với sự ủng hộ chế độ quân chủ mạnh mẽ đến nỗi chỉ sau một tuần, trong chuyến thăm dài hơn ban đầu, chính phủ chỉ cho Vương nữ 24 giờ để rời khỏi đất nước. Mặc dù gia đình đã cố gắng dàn xếp một cuộc hôn nhân cho con gái của Beatriz là Sandra với Baudouin của Bỉ, nhưng Sandra lại kết hôn với Clemente Lequio, một quan phu có một con trai vào năm 1958. Clemente Lequio sau đó được phong tước hiệu "Bá tước Lequio di Assaba" vào năm 1963 bởi Umberto II của Ý. Sandra có một con trai và một con gái với Lequio, tuy nhiên cô con gái đã qua đời sau cú ngã từ tầng trên trong nhà của Lequio ở Torino vào năm 1971. Con trai của Sandra và Clemente Lequio là Alesandro Lequio chuyển đến Tây Ban Nha vào năm 1991 và ban đầu làm việc cho Fiat. Kết hôn với người mẫu Ý Antonia Dell'Atte, nàng thơ của Giorgio Armani vào cuối thập niên 1980s, Alessandro Lequio nhanh chóng trở thành nhân vật được chú ý trong giới "jet set" và báo lá cải Tây Ban Nha. sau khi ly hôn với Antonia, Alesssandro Lequio bắt đầu mối quan hệ với Ana Obregón, một nữ diễn viên và người dẫn chương trình truyền hình người Tây Ban Nha. Con trai cả của Infanta Beatriz là Marco kết hôn ba lần và có ba người con, mỗi ngưởi con là từ mỗi một cuộc hôn nhân. Con trai cả của Marco là Giovanni Torlonia là một nhà thiết kế nổi tiếng. Con trai thứ hai của Infanta Beatriz là Marino đã qua đời vào năm 1995 vì các bệnh liên quan đến HIV. Người con út là Olimpia kết hôn với Paul-Annick Weiller (1933–1998), con trai đầu của phi công Paul-Louis Weiller thuộc gia tộc Javal vào năm 1965 . Trong số sáu người con của hai vợ chồng có Sibilla là Đại Công tử phu nhân của Luxembourg với tư cách là vợ của Đại Công tử Guillaume Marie của Luxembourg. Infanta Beatriz vẫn hướng lòng về Tây Ban Nha và ủng hộ quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha của em trai Juan. Năm 1962, Beatriz cùng Vương thất dự lễ cưới của cháu trai Juan Carlos với Sophia của Hy Lạp ở Athens. Vết gãy xương đùi vào năm 1973 của Vương nữ không bao giờ lành hoàn toàn nên ảnh hưởng đến khả năng vận động của Vương nữ trong suốt quãng đời còn lại. Sức khỏe yếu ớt của Beatriz không cho phép Vương nữ cùng gia đình tham dự lễ lên ngôi của Quốc vương Juan Carlos I, đám cưới của Vương nữ Elena và Cristina hay các nghi lễ đưa hài cốt của cha mẹ và anh em Vương nữ về Tây Ban Nha. Tuy nhiên, Infanta Beatriz không chỉ sống lâu hơn các anh em của mình mà còn đến thăm Tây Ban Nha một lần nữa vào năm 1998 để thăm viếng Cung điện la Granja. Năm 1999, khi được phỏng vấn bởi Tạp chí "¡Hola!", Beatriz đã nói về cuộc đời của mình và khoảng thời gian Vương thất lưu vong khỏi Tây Ban Nha. Vương nữ đến thăm Tây Ban Nha lần cuối vào năm 2001 để đến với em dâu María de las Mercedes của Hai Sicilie và quay trở lại Cung điện Magdalena, gần Santander, nơi 70 năm trước Beatriz đã trải qua kỳ nghỉ hè 17 năm liên tiếp cho đến năm 1930. Vương nữ qua đời tại nhà riêng ở Palazzo Torlonia, Roma vào ngày 22 tháng 11 năm 2002, thọ 93 tuổi 5 tháng. Beatriz là người con hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XIII và Victoria Eugenie của Battenberg cũng như là người cháu hợp pháp cuối cùng còn sống của Alfonso XII của Tây Ban Nha.
María Cristina của Tây Ban Nha María Cristina sinh ra tại Cung điện Vương thất ở Madrid, Tây Ban Nha. Vương thất Tây Ban Nha đã rời đất nước vào năm 1931, trước các cuộc biểu tình của Đảng Cộng hòa, định cư ở Paris, trước khi chuyển đến Fontainebleau. Hôn nhân và hậu duệ. María Cristina từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha và vào ngày 10 tháng 6 năm 1940, Vương nữ kết hôn với Enrico Eugenio Marone-Cinzano (15 tháng 3 năm 1895 Torino – 23 tháng 10 năm 1968 Geneva), con trai của Alberto Marone và Paola Cinzano. tại Roma. Enrico được phong làm Bá tước thứ 1 vào ngày 13 tháng 5 năm 1940 bởi Victtorio Emanuele III của Ý. Enrico còn có một người con riêng từ cuộc hôn nhân trước của với Noemí Rosa de Alcorta y García-Mansilla (1907-1929): María Cristina và Enrico Eugenio có với nhau bốn cô con gái: María Cristina trở lại Tây Ban Nha và dành một khoảng thời gian ở đó, nhưng chưa bao giờ sống lâu dài tại đây. Vương nữ qua đời ở Madrid vì một cơn đau tim vào ngày 23 tháng 12 năm 1996 trong cuộc đoàn tụ Giáng sinh của Vương thất tại "Villa Giralda", nơi ở của họ hàng và chị dâu của María Cristina là Bá tước phu nhân xứ Barcelona. Lễ tang của Vương nữ được tổ chức tại nhà nguyện của Cung điện Vương thất Madrid vào ngày 24 tháng 12 và lễ an táng được tổ chức vào ngày 26 tháng 12 tại Đền thờ Marone-Cinzano ở Torino.
Muhammad Ade Surapriatna (sinh ngày 7 tháng 11 năm 1951) là một chính trị gia người Indonesia, ông là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân từ năm 2009 đến năm 2014. Ông còn là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân Khu vực Jakarta từ năm 1992 đến năm 2009, giữ chức chủ tọa của hội đồng từ 2004 đến 2009 và phó chủ tọa từ năm 1997 đến 2004. Đầu đời và nghề nghiệp. Muhammad Ade Surapriatna sinh ngày 7 tháng 11 năm 1951 tại Jakarta. Ông học ở Jakarta và tốt nghiệp Học viện Hàng hải Quốc gia năm 1969. Sau đó ông làm việc tại một vài công ty. Trong quá trình học, ông gia nhập trung đoàn sinh viên vào năm 1971, kết nạp vào đảng Golkar mới thành lập. Sự nghiệp chính trị. Ông được bầu vào cơ quan lập pháp của Jakarta lần đầu vào năm 1992, và ông được bầu lại vào các năm 1997, 1999 và 2004. Ông là phó chủ tọa cơ quan lập pháp từ năm 1997 đến năm 2004. Ông còn là phó chủ tịch đảng Golkar chi nhánh Jakarta từ năm 1992 đến năm 2001, và được bầu làm chủ tịch năm 2001. Trong nhiệm kỳ 2004–2009, Ade được bầu giữ chức chủ tọa cơ quan lập pháp, nhậm chức vào ngày 4 tháng 10 năm 2004. Cùng năm 2004, Ade tái cử chức chủ tịch đảng Golkar chi nhánh Jakarta cho đến năm 2009. Trong cuộc bầu cử thống đốc Jakarta năm 2007, Ade được coi là một trong hai ứng cử viên độc lập dẫn đầu đại diện đảng Golkar, cạnh tranh cùng Fauzi Bowo. Tuy nhiên, Ade bất ngờ từ bỏ việc ứng cử trong cuộc họp đảng Golkar vào tháng 2 năm 2007, khiến Fauzi Bowo được ứng cử. Cuối năm 2008/đầu năm 2009, một vài phe cánh trong cơ quan lập pháp mở cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm phản đối Ade, dẫn chứng ngân sách tỉnh năm 2009 mà theo các phe cánh là chi tiêu quá mức. Đáp lại, Ade bác bỏ các yêu cầu từ chức. Ade tranh cử với tư cách là ứng cử viên cho cơ quan lập pháp quốc gia trong cuộc bầu cử lập pháp Indonesia năm 2009 đại diện khu vực bầu cử Jakarta III và được bầu với 20.378 phiếu. Ông tái tranh cử trong cuộc bầu cử lập pháp năm 2014, nhưng không giành được vị trí nào. Trong lần đi vận động cho cuộc bầu cử năm 2014, một số người ủng hộ đảng Golkar trong một cuộc tập hợp đã bị phạt do vi phạm luật giao thông. Ade chống đối với sĩ quan cảnh sát tại đó, bảo vệ những người vận động và kêu gọi cho họ được miễn phạt.
Aditya Srivastava (sinh ngày 21 tháng 7 năm 1968 tại Prayagraj, Uttar Pradesh, Ấn Độ) là một nam diễn viên và nhà sản xuất người Ấn Độ. Ông được biết đến qua vai diễn Thanh tra phó Abhijeet trong loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID". Ông cũng đã từng có nhiều vai diễn nổi bật trong các bộ phim Bollywood như "Satya", "Gulaal", "Lakshya", "Paanch", "Black Friday", "Kaalo", "Super 30" và "Dil Se Pooch Kidhar Jana Hai". Tiểu sử và sự nghiệp. Aditya Srivastava sinh ngày 21 tháng 7 năm 1968 tại Prayagraj, Uttar Pradesh, Ấn Độ. Trong khi đang theo đuổi việc tốt nghiệp Đại học Allahabad, ông đã tham gia vào đoàn kịch Sangeet Samiti. Để trau dồi kỹ năng diễn xuất, vào năm 1989, ông quyết định chuyển sang Delhi sinh sống và tham gia diễn xuất tại Trung tâm biểu diễn nghệ thuật Sri Ram. Được đạo diễn Shekhar Kapoor phát hiện, ông đã tham gia bộ phim đầu tiên là "Bandit Queen" với vai diễn Puttilal. Sau đó, ông chuyển đến sinh sống ở Mumbai vào năm 1995. Ông từng tham gia lồng tiếng cho các bộ phim quảng cáo. Năm 1999, ông được khán giả biết đến nhờ vai diễn "Thanh tra phó Abhijeet" trong "Đội đặc nhiệm CID" do B. P. Singh làm đạo diễn. Trước đó, ông từng thủ vai tên tội phạm Paresh trong loạt phim này. Ông, Shivaji Satam và Dayanand Shetty là bộ ba diễn viên chính của loạt phim này. Ông cũng được ghi danh vào Sách Kỷ lục Guinness do đã tham gia một số cảnh quay mà không bị cắt một cảnh nào trong bộ phim điện ảnh "The Inheritance" (tạm dịch là: "Quyền thừa kế") thuộc loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID". Năm 2014, ông cùng với Shivaji Satam, Dayanand Shetty và Narendra Gupta đã từng tham gia chương trình "Kaun Banega Crorepati" (Ai là triệu phú phiên bản tiếng Hindi) và quyên góp tiền vào các hoạt động từ thiện. Ông từng kết hôn với Manasi Srivastava vào năm 2003. Cả hai người đã có với nhau 2 người con gái, người con gái lớn tên là Arushi Srivastava, sinh năm 2005 và người con gái út tên là Adwika Srivastava, sinh năm 2007.
Terbi(III) iodide (công thức hóa học: TbI3) là một hợp chất vô cơ. Terbi(III) iodide có thể được tạo ra bằng cách cho terbi phản ứng với iod. Một phương pháp khác là cho terbi và thủy ngân(II) iodide phản ứng ở nhiệt độ 500 °C. Terbi(III) iodide có cấu trúc tinh thể giống bismuth(III) iodide (BiI3), với sự phối trí bát diện của mỗi ion Tb3+ bởi 6 ion iodide.
Cửa sổ Sash hoặc cửa sổ đóng mở được tạo từ một hoặc nhiều tấm cửa có thể di chuyển, gọi là "sashes". Các sashes thường là cửa sổ có khung được chia thành tấm kính nhỏ, nhưng cũng có thể là một tấm kính duy nhất (hoặc nhiều tấm kính trong trường hợp của cửa kính đôi). Cửa sổ sash cổ nhất được lắp đặt tại Anh vào những năm 1670, ví dụ như tại Ham House. Người ta cho rằng việc phát minh cửa sổ sash có thể là của Robert Hooke hoặc là một phát minh của Hà Lan. Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng cụ thể về người phát minh cụ thể. Cửa sổ sash thường xuất hiện trong các ngôi nhà kiến trúc kiến trúc Georgian và kiến trúc Victorian, với sắp xếp cổ điển là ba tấm kính ngang và hai tấm kính dọc trên mỗi cửa sash, tạo thành cửa sổ "sáu trên sáu". Tuy nhiên, điều này không phải là quy tắc cố định. Nhiều ngôi nhà ngày nay vẫn sử dụng cửa sổ sash kích thước tiêu chuẩn khoảng 4 feet (1.2 m), nhưng cửa sổ cổ hơn có thể có kích thước khác nhau. Cửa sổ sash bằng gỗ thường gặp vấn đề về mục nát, sưng hoặc biến dạng của khung gỗ, cũng như tiếng động khi gió thổi. Những vấn đề này có thể được khắc phục thông qua sửa chữa cẩn thận và lắp đặt cách nhiệt chống gió. Cửa sổ sash cũng đòi hỏi bảo trì thường xuyên hơn so với cửa sổ gập, nhưng lại mang lại nhiều ưu điểm về thẩm mỹ, phong cách và tuân thủ luật pháp. Tuy nhiên, khi được bảo quản tốt, cửa sổ sash có thể tồn tại qua nhiều thế hệ mà không cần thay thế bộ phận. Một ưu điểm khác là có thể lau chùi kính từ bên trong tòa nhà bằng cách di chuyển hai tấm kính vào các vị trí khác nhau. Cửa sổ sash bằng nhựa vinyl (uPVC) đã xuất hiện kể từ khi khung cửa sổ PVC đầu tiên được giới thiệu tại Đức vào những năm 1960. Các cửa sổ này đã chiếm ưu thế trong ngành công nghiệp cửa sổ, với hơn 50% cửa sổ được làm bằng nhựa vinyl tại Hoa Kỳ tính đến năm 2017. Những ưu điểm của nhựa vinyl bao gồm khả năng chống nước và dễ dàng trong việc lắp đặt. Tuy nhiên, cũng có nhược điểm về độ bền và tác động đến môi trường. Theo thời gian, các hợp chất tạo độ dẻo cho nhựa vinyl bay hơi, làm cho vật liệu trở nên giòn và dễ gãy. Nhựa vinyl cũng yếu hơn gỗ và nhôm, cần hỗ trợ thêm khi sử dụng trong cửa sổ lớn. Nhựa vinyl cũng được sử dụng để bảo vệ gỗ khỏi thời tiết trong các cửa sổ gỗ. Tuy nhiên, nhựa vinyl có giới hạn trong việc sử dụng thương mại và nhà ở thấp tầng do tính cháy và khói độc hại khi cháy. Trong tương lai, có thể sẽ có phiên bản nhựa vinyl chống cháy dành cho xây dựng cao tầng, nhưng hiện tại vẫn còn nhiều vấn đề về tính cháy và khói độc hại.
Vòng loại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 Vòng loại Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023 là quá trình để xác định 30 trong tổng số 32 đội tuyển giành vé tham dự Giải vô địch bóng rổ thế giới 2023. Với tư cách là hai đội chủ nhà của giải đấu, Philippines và Nhật Bản được đặc cách tham dự giải đấu khi họ được trao quyền đăng cai chung với Indonesia. Lịch thi đấu các giai đoạn vòng loại. Tương tự như vòng loại của giải đấu năm 2019, các trận đấu sẽ diễn ra qua 6 giai đoạn vòng loại, trong khoảng thời gian 15 tháng trên tất cả các liên đoàn khu vực của FIBA. 80 đội tuyển đến từ 4 liên đoàn sẽ tranh tài trong quá trình diễn ra vòng loại. Lịch thi đấu cho 6 giai đoạn của vòng loại như sau: Các đội tuyển vượt qua vòng loại. Đồng chủ nhà Indonesia không được đặc cách tham dự giải đấu, họ chỉ có thể tham dự nếu vào đến tứ kết Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022 ngay trên sân nhà, mới có thể tham dự giải đấu. Vào ngày 18 tháng 7 năm 2022, Indonesia không thể vào đến tứ kết giải châu Á, qua đó trở thành đội chủ nhà đầu tiên trong lịch sử mà không vượt qua vòng loại. Thể thức vòng loại của giải đấu không thay đổi, với 6 giai đoạn diễn ra trong khoảng 15 tháng diễn ra trên khắp 4 khu vực châu Phi, châu Mỹ, châu Á (tính cả châu Đại Dương) và châu Âu. Vòng loại diễn ra từ tháng 11 năm 2021 và kết thúc vào tháng 2 năm 2023 với 80 đội tham dự để tranh vé tham dự giải đấu Quá trình vòng loại diễn ra từ tháng 2 năm 2020, bắt đầu từ vòng sơ loại khu vực châu Âu, kết thúc vào tháng 8 năm 2021. Lễ bốc thăm chia bảng vòng loại diễn ra vào ngày 31 tháng 8 năm 2021 tại Mies, Thụy Sĩ. Vòng loại các khu vực. Châu Á/châu Đại Dương. Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022 - Vòng loại dành cho Indonesia. Indonesia, tuy là một trong 3 quốc gia chủ nhà cùng với Philippines và Nhật Bản giành quyền đăng cai giải đấu nhưng họ lại không được đặc cách tham dự giải đấu do thứ hạng của họ trên bảng xếp hạng FIBA của họ là rất thấp. Suất đặc cách của Indonesia chỉ có thể được thực hiện nếu họ vào đến tứ kết của Giải vô địch bóng rổ châu Á 2022. Nhưng họ đã để thua Trung Quốc 58–108 ở vòng 12 đội, qua đó tan giấc mộng ra mắt đấu trường thế giới của họ trên sân nhà. "Tính đến 27 tháng 2 năm 2023"
Trong thần thoại Hy Lạp, Graeae (tiếng Hy Lạp cổ đại: Γραῖαι; , có nghĩa là "bà già"), là ba chị em nữ thần có mái tóc bạc từ khi sinh ra và dùng chung một con mắt và một cái răng. Có nguồn gốc từ biển cả, các Graeae là nhân cách hóa của bọt trắng trên những ngọn sóng. Graeae đều là những người con gái của hai vị thần biển nguyên thủy, Phorcys và Ceto, do đó, Graeae cũng là chị em với các nữ quái tóc rắn Gorgon, nổi bật nhất là Medusa. Do là con của thần biển Phorcys nên các Graeae còn được gọi là Phorcides ("những đứa con của Phorcys"). Trong tác phẩm "Thần hệ", nhà thơ Hēsíodos chỉ đề cập đến hai Graeae là Pemphredo (Πεμφρηδώ) (đôi khi được viết là Pephredo (Πεφρηδώ)) và Enyo (Ἐνυώ). Hēsíodos đã mô tả Graeae như sau: Nhà soạn kịch Aeschylus đã nâng Graeae lên 3 người, khi ông thêm vào đó là Deino (Δεινώ, còn phiên âm là Dino). Trong vở "Prometheus Bound", Aeschylus mô tả các Graeae có đầu và tay của một bà già, còn thân mình là của thiên nga. Pseudo-Apollodorus cũng đã thêm Dino vào nhóm Graeae này. Hyginus cũng ghi chú rằng, Dino cũng được gọi là Persis (Περσίς). Bộ ba Graeae được cho là sống bên ngoài Hy Lạp, có thể là dưới dãy núi Atlas hoặc ở "dòng nước ngăn chia hai lục địa" (có thể là Biển Đỏ), có nhiệm vụ là canh giữ những người chị em Gorgon. Ba chị em Graeae sử dụng chung một con mắt và một cái răng. Nhân lúc các Graeae đang truyền nhau con mắt, Perseus đã lấy trộm mắt và ép họ phải nói ra nơi trú ngụ của các Gorgon, mục đích để giết Medusa. Ý nghĩa tên gọi. Theo Kerenyi, Enyo là một nữ thần chiến tranh, đại diện cho sự hỗn loạn trong chiến trận, thường đồng hành cùng Ares trong các trận đánh. Pemphredo thường gắn với những loài ong, tuy nhiên cái tên này có ý nghĩa là "người chỉ đường; thủ lĩnh", do bà ta là người đã dẫn đường cho anh hùng Perseus đến hang ổ của Medusa. Còn tên gọi của Deino lại mang hàm ý là "ghê sợ, kinh hãi".
Eleonora Cecchini (sinh ngày 27 tháng 9 năm 2003) là một nữ cầu thủ bóng đá người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ St. Catharines Roma Wolves tại League1 Ontario. Sự nghiệp thi đấu. Cecchini dành cả sự nghiệp cầu thủ trẻ cho câu lạc bộ San Marino Academy. Vào tháng 3 năm 2022, cô bắt đầu cam kết theo học tại Đại học D'Youville ở Hoa Kỳ, nơi cô chơi cho đội bóng đá nữ của trường. Vào ngày 5 tháng 9 năm 2022, cô ghi bàn thắng đầu tiên cho đội bóng đá vào lưới Bluefield State Big Blue. Sau khi ghi bàn trong trận đấu tiếp theo, cô được mệnh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất tuần của East Coast Conference. Cô dẫn đầu đội bóng về thành tích ghi bàn trong mùa giải với 4 bàn thắng. Vào cuối năm sinh viên năm nhất, cô có tên trong ECC All-Conference Second Team và USCAA Second Team All-American. Tháng 12 năm 2018, cô ra mắt cho đội 1 của San Marino Academy trong trận gặp Pontedera tại Serie C. Vào ngày 5 tháng 5 năm 2021, cô ra mắt cho đội bóng tại Serie A. Cô vẫn ở lại đội bóng trong mùa giải 2021–22 tại Serie B. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2022, cô ghi bàn thắng chuyên nghiệp đầu tiên cho đội bóng, vào lưới Roma C.F.. St. Catharines Roma Wolves. Năm 2023, cô gia nhập câu lạc bộ St. Catharines Roma Wolves tại League1 Ontario. Do San Marino không có một đội tuyển quốc gia dành riêng cho bóng đá nữ nên vào tháng 1 năm 2018, cô đã tham gia trại huấn luyện với đội tuyển U-15 Ý. Cô tiếp tục được gọi lên một trại huấn luyện khác vào tháng 7.
Dệt là phương pháp sản xuất vải bằng cách xen kẽ hai bộ sợi tạo thành một mảnh vải. Sợi dọc gọi là sợi chữ, sợi ngang gọi là sợi trái. Cách xen kẽ này tạo thành các kết cấu khác nhau trong vải. Việc dệt thường thực hiện trên máy dệt, có thể thực hiện bằng cách khác như dệt bằng viên nang hoặc dệt không máy. Có ba loại kết cấu phổ biến: dệt bình thường, dệt satin và dệt twill. Vải có thể đơn giản hoặc trang trí theo thiết kế nghệ thuật. Có dấu vết cho thấy dệt đã biết đến từ thời Kỷ đá thượng cổ, khoảng 27,000 năm trước. Tại di chỉ Dolní Věstonice, tìm thấy dấu vết về vải mờ mờ. Những người dệt thời Kỷ đá thượng cổ chế tạo nhiều loại dây, đan rổ và dệt vải bằng kỹ thuật đan và dệt đơn giản. Những hiện vật gồm dấu in trên đất sét và mảnh vải còn lại sau khi đốt. Ở châu Mỹ, những tàn dư vải cổ nhất tìm thấy ở Hang Guitarrero, Peru. Được làm từ sợi cây, những sản phẩm này có niên đại từ 10,100 đến 9,080 TCN. Năm 2013, tại di chỉ Çatalhöyük, tìm thấy mảng vải từ cây gai có niên đại khoảng 7,000 TCN. Tại Ai Cập cổ đại, năm 2013 còn tìm thấy mảng vải từ cây gai có niên đại khoảng 7,000 TCN. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
A Bảo (; ? – 1739) là một vương công Mông Cổ thời nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, người thừa kế tước vị Trát Tát Khắc Đa La Bối lặc của A Lạp Thiện Ách Lỗ Đặc kỳ thuộc Tây Sáo Mông Cổ. Đồng thời, ông còn là ngạch phò của nhà Thanh khi thành hôn với Đạo Khắc Hân Quận chúa. A Bảo là con trai thứ 3 của #đổi – một hậu duệ của Chuyết Xích Cáp Tát Nhi, em trai ruột của Thành Cát Tư Hãn. Năm 1697, Hòa La Lý được Khang Hi phong làm Trát Tát Khắc Đa La Bối lặc, ban cho vùng đất A Lạp Thiện. Năm 1704, Khang Hi lệnh cho A Bảo đến kinh thành, phong làm Ngự tiền Thị vệ. Cùng năm đó, ông được ban hôn với Đạo Khắc Hân Quận chúa, con gái của Trang Thân vương Bác Quả Đạc được Khang Hi nuôi dưỡng trong cung, trở thành Hòa Thạc Ngạch phò của nhà Thanh. Hòa La Lý cũng từ đó mà toàn toàn quy thuận nhà Thanh. Sau khi A Bảo thành hôn, Khang Hi đã lệnh Tuần phủ Cam Túc xây dựng phủ đệ cho quận chúa và ngạch phò ở địa phận Mông Cổ. Năm 1707, Hòa La Lý qua đời. Đến năm 1709 thì A Bảo quay về A Lạp Thiện kế thừa tước vị của cha. Năm 1723, A Bảo được thăng làm Quận vương, nhưng sau đó vì phạm tội mà lại bị giáng làm Bối lặc vào năm 1729. Hai năm sau, A Bảo được khôi phục tước vị Quận vương. Cũng trong năm 1731, triều đình nhà Thanh thưởng Định Viễn Doanh () cho A Bảo làm nơi ở và đồn trú, nơi hiện nay là thị trấn Bayanhot, kỳ A Lạp Thiện Tả thuộc minh A Lạp Thiện của khu tự trị Nội Mông. Trong khoảng thời gian tại vị, A Bảo từng phụng lệnh triều đình nhà Thanh xuất quân chinh phạt Chuẩn Cát Nhĩ, đóng quân tại các khu vực có nhiều người Hồi như Kumul, Barkol, Thanh Hải. Sau khi bình định phản loạn, Thanh Hải bộ được quy vào quyền sở hữu của A Lạp Thiện kỳ, người dân bản địa cũng theo A Bảo trở về A Lạp Thiện kỳ. Theo nhiều sử liệu, một bộ phận người Hồi ở Mông Cổ chính là do A Bảo mang về A Lạp Thiện trong lần này, nhân số khoảng 100 người. Thêm vào đó, trong những năm dưới triều Càn Long, người Duy Ngô Nhĩ thường xuyên đến A Lạp Thiện kỳ để buôn bán làm ăn, trong số những người ở lại A Lạp Thiện kỳ có một số người theo đạo Hồi. Đây được xem là khởi đầu của sự truyền bá đạo Hồi vào khu vực A Lạp Thiện. Năm 1739, A Bảo qua đời. Theo ghi chép của Di Thân vương Hoằng Hiểu chịu trách nhiệm quản lý sự vụ Lý phiên viện về tấu thỉnh của Đạo Khắc Hân Quận chúa dâng lên Càn Long sau khi chồng qua đời, hai người vốn có 3 người con nhưng con trưởng lại mất sớm, hiện chỉ còn người con thứ mới 6 tuổi và người con út mới 5 tuổi. Trừ hai người con trai này, A Bảo không còn người con trai nào khác. Vì vậy Đạo Khắc Hân Quận chúa tấu thỉnh xin cho phép người trai thứ được thừa kế tước Vương. Sau khi triều đình nhà Thanh cho phép, người con trai thứ là La Bặc Tàng Đa Nhĩ Tế thừa kế tước vị. Theo quy định tập tước của nhà Thanh, vì tước vị không phải thiết mạo tử vương nên khi thừa kế sẽ bị giảm xuống một bậc. La Bặc Tàng Đa Nhĩ Tế được phong làm Bối lặc.
An toàn cháy nổ An toàn cháy nổ là tập hợp các biện pháp nhằm giảm thiểu thiệt hại do hỏa hoạn gây ra. Các biện pháp an toàn phòng cháy chữa cháy bao gồm những biện pháp nhằm ngăn chặn sự bùng phát của đám cháy không được kiểm soát và những biện pháp được sử dụng để hạn chế sự lan rộng và tác động của đám cháy. Các biện pháp an toàn phòng cháy chữa cháy gồm những biện pháp được lên kế hoạch trong quá trình xây dựng một tòa nhà và những biện pháp cung cấp kiến thức phòng cháy chữa cháy cho cư dân trong tòa nhà đó. Các mối đe dọa đối với an toàn cháy nổ được gọi là nguy cơ hỏa hoạn. Nguy cơ hỏa hoạn là các tình huống làm tăng khả năng xảy ra hỏa hoạn hoặc có thể cản trở quá trình thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn xảy ra. An toàn cháy nổ là một phần của an toàn xây dựng. Thanh tra có nhiệm vụ đến các tòa nhà để theo dõi các vi phạm Luật Phòng cháy chữa cháy và đến trường học để giáo dục trẻ em về các chủ đề an toàn phòng cháy chữa cháy. Trưởng phòng Phòng cháy chữa cháy làn người đào tạo những người mới làm việc tại phòng Phòng cháy chữa cháy và cũng có thể tiến hành thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Kinh chiều Sicilia (tiếng Ý: "Vespri siciliani"; tiếng Sicilia: "Vespiri siciliani") là một cuộc nổi dậy thành công trên đảo Sicily nổ ra vào Lễ Phục sinh năm 1282, chống lại sự cai trị của vị vua gốc Pháp Charles I xứ Anjou, người đã cai trị Vương quốc Sicilia kể từ năm 1266. Cuộc nổi dậy diễn ra sau 20 năm triều đại Angevin cai trị Sicily, nơi có những chính sách không được lòng dân chúng Sicily. Gây ra bởi một sự cố ở Palermo, cuộc nổi dậy nhanh chóng lan rộng đến phần lớn Sicily. Trong vòng 6 tuần, khoảng 13.000 đàn ông và phụ nữ Pháp đã bị quân nổi dậy giết chết và chính phủ của Charles mất quyền kiểm soát hòn đảo. Tìm kiếm sự hỗ trợ cho cuộc nổi dậy, người Sicily đã dâng ngai vàng cho Peter III của Aragon, người đã thay mặt vợ ông, Costanza II của Sicilia, tuyên bố ngai vàng. Sự can thiệp của người Aragon vào cuộc nổi dậy đã dẫn đến việc mở rộng xung đột thành Chiến tranh Kinh chiều Sicilia. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Atalanta Bergamasca Calcio, thường được biết đến là Atalanta, là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở ở Bergamo, Lombardia, Ý. Câu lạc bộ thi đấu ở Serie A sau khi được thăng hạng từ Serie B vào mùa giải 2010–11. Atalanta được thành lập vào năm 1907 bởi các học sinh trường Liceo Classico Paolo Sarpi và có biệt danh là "La Dea", "Nerazzurri" và "Orobici". Câu lạc bộ thi đấu trong màu áo sọc dọc xanh đen, quần đùi đen và tất đen. Câu lạc bộ thi đấu các trận đấu sân nhà tại Sân vận động Gewiss có sức chứa 21.747 chỗ ngồi. Ở Ý, Atalanta đôi khi được gọi là "Regina delle provinciali" (nữ hoàng của các câu lạc bộ cấp tỉnh) để thể hiện rằng câu lạc bộ này có sự ổn định nhất trong số các câu lạc bộ Ý không có trụ sở ở thủ phủ vùng, đã thi đấu 62 mùa giải ở Serie A, 28 mùa ở Serie B và chỉ có 1 mùa ở Serie C. Atalanta có mối kình địch lâu đời với câu lạc bộ Brescia. Câu lạc bộ đã giành được Coppa Italia vào năm 1963 và lọt đến bán kết Cup Winners' Cup vào năm 1988, khi đội vẫn thi đấu ở Serie B. Đây vẫn là thành tích tốt nhất từ trước đến nay bởi một câu lạc bộ không thi đấu ở hạng đấu cao nhất ở một giải đấu lớn của UEFA (cùng với Cardiff City). Atalanta cũng đã tham gia vào 5 mùa của UEFA Europa League (trước đây được biết đến là Cúp UEFA), lọt đến tứ kết ở mùa giải 1990–91. Atalanta còn có ba lần lọt vào UEFA Champions League, lọt đến tứ kết vào năm 2020. "Tính đến ngày 1 tháng 9 năm 2023" "Tính đến ngày 1 tháng 9 năm 2023" 12 – Dành tặng cho người hâm mộ, cụ thể là cho những Curva Pisani Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Federico Pisani, tiền đạo (1991–97) – vinh danh sau khi qua đời 80 – #đổi , phóng viên đài phát thanh.
Vòng bảng UEFA Europa League 2023–24 Vòng bảng UEFA Europa League 2023–24 bắt đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 trong số 24 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Europa League 2023–24. Aris Limassol, Brighton Hove Albion, BK Häcken, Raków Częstochowa, Servette và TSC có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Tất cả 6 câu lạc bộ cũng có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Hơn nữa, Brighton giành quyền tham dự bóng đá châu Âu lần đầu tiên trong lịch sử của họ. Có tổng cộng 21 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng. Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo. Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm: Lịch thi đấu được công bố vào ngày 2 tháng 9 năm 2023, một ngày sau lễ bốc thăm. Các trận đấu được diễn ra vào ngày 21 tháng 9, 5 tháng 10, 26 tháng 10, 9 tháng 11, 30 tháng 11 và 14 tháng 12 năm 2023. Thời gian bắt đầu trận đấu được lên lịch là 18:45 và 21:00 CET/CEST. Thời gian là CET/CEST, do UEFA liệt kê (giờ địa phương nếu khác nhau thì được hiển thị trong ngoặc đơn).
Vòng bảng UEFA Europa Conference League 2023–24 Vòng bảng UEFA Europa Conference League 2023–24 bắt đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 2023 và kết thúc vào ngày 14 tháng 12 năm 2023. Có tổng cộng 32 đội thi đấu ở vòng bảng để xác định 16 trong số 24 suất vào vòng đấu loại trực tiếp của UEFA Europa Conference League 2023–24. Tất cả các đội bóng ngoài AZ, Ballkani, Bodø/Glimt, Fiorentina, Gent, HJK, Maccabi Tel Aviv, PAOK, Slovan Bratislava và Zorya Luhansk có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng. Breiðablik, Čukarički, KÍ, Olimpija Ljubljana và Zrinjski Mostar có lần đầu tiên ra mắt ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Breiðablik, KÍ và Zrinjski Mostar là những đội bóng đầu tiên lần lượt từ Iceland, Quần đảo Faroe và Bosnia và Herzegovina thi đấu ở vòng bảng một giải đấu UEFA. Có tổng cộng 28 hiệp hội quốc gia được đại diện ở vòng bảng. Đây là mùa giải cuối cùng với thể thức vòng bảng, được thay thế bởi thể thức vòng đấu hạng bắt đầu từ mùa giải tiếp theo. Dưới đây là các đội tham dự (với hệ số câu lạc bộ UEFA năm 2023), được xếp theo nhóm hạt giống của họ. Họ bao gồm: Lịch thi đấu được công bố vào ngày 2 tháng 9 năm 2023, một ngày sau lễ bốc thăm. Các trận đấu được diễn ra vào ngày 20–21 tháng 9, 5 tháng 10, 26 tháng 10, 9 tháng 11, 30 tháng 11 và 14 tháng 12 2023. Thời gian bắt đầu trận đấu được lên lịch là 18:45 và 21:00 CET/CEST, với ngoại lệ có thể xảy ra lúc 16:30 CET/CEST vì lý do địa lý. Thời gian là CET/CEST, do UEFA liệt kê (giờ địa phương nếu khác nhau thì được hiển thị trong ngoặc đơn).
Pero III của Aragón Pero III của Aragon (tiếng Aragón: Pero III d'Aragón; tiếng Tây Ban Nha: "Pedro III de Aragón";khoảng  1239 – tháng 11 năm 1285) là Vua của Aragón, Vua của Valencia (với vương hiệu Peter I), và Bá tước xứ Barcelona (với bá hiệu Peter II) từ năm 1276 cho đến khi ông qua đời. Theo lời thỉnh cầu của giới lãnh đạo cuộc nổi dậy Kinh chiều Sicilia, ông đã chinh phục Vương quốc Sicilia và trở thành Vua của Sicily vào năm 1282, thúc đẩy yêu sách của vợ ông, Costanza II của Sicilia, thống nhất vương quốc với Vương quyền Aragón. Cuộc sống đầu đời. Pero III là con trai cả của Chaime I của Aragón và người vợ thứ hai của ông là Violant của Hungary. Vào ngày 13 tháng 6 năm 1262, Peter kết hôn với Constanza II của Sicilia, con gái và là nữ thừa kế của Manfred, Vua của Sicily. Trong thời trẻ và những năm đầu trưởng thành, Peter đã thu được rất nhiều kinh nghiệm quân sự trong các cuộc chiến tranh "Reconquista" chống lại người Moor của cha mình. Vào tháng 6 năm 1275, Peter bao vây, bắt giữ và hành quyết người anh cùng cha khác mẹ nổi loạn Fernando Sánchez de Castro tại Pomar de Cinca. Sau cái chết của cha ông vào năm 1276, các vùng đất của Vương quyền Aragón được chia cho hai con trai. Vương quốc Aragon, Vương quốc Valencia và các bá quốc Catalan thuộc về Peter III với tư cách là con trai cả; trong khi Vương quốc Majorca và các bá quốc Catalan ngoài dãy Pyrenees thuộc về con trai thứ hai, người trở thành James II của Majorca. Pero III và Constanza II được tổng giám mục Tarragona làm lễ đăng quang tại Zaragoza vào tháng 11 năm 1276.
Phòng gia đình là một phòng không chính thức, có nhiều mục đích trong một ngôi nhà. Phòng gia đình được thiết kế để là nơi gia đình và khách mời tụ họp để tham gia vào các hoạt động nhóm như trò chuyện, đọc sách, xem TV và các hoạt động gia đình khác. Thường, phòng gia đình được đặt bên cạnh nhà bếp và đôi khi có thể liên thông mà không có sự cắt quãng hình ảnh. Phòng gia đình thường có cửa dẫn ra sân sau và các khu vực sống ngoài trời cụ thể như một deck, vườn, hoặc terrace. Thuật ngữ "phòng gia đình" được định nghĩa trong cuốn sách năm 1945 "Tomorrow's House" của George Nelson và Henry Wright. Chương 7, có tiêu đề "Phòng không có tên", nói về sự cần thiết trong cuộc sống hiện đại cho một "phòng lớn nhất trong nhà" mới, mà sẽ phục vụ nhu cầu xã hội và giải trí của toàn bộ gia đình, cho phép các hoạt động mà không được phép trong phòng khách. Phòng lớn này sẽ có nội thất và vật liệu "chắc chắn", cho việc sử dụng khó khăn, và nó nên dễ dàng để lau chùi. Khác với các "phòng ồn ào" hiện tại, nó đôi khi sẽ phục vụ cho giải trí hơi trang trọng hơn, vì vậy nó nên là một căn phòng đẹp mắt và nên có tủ để đồ chơi, dụng cụ, vv. có thể được giấu đi. Sự phân biệt giữa phòng gia đình, phòng khách và phòng giải trí là linh hoạt, nhưng có thể được phân loại theo ba đặc điểm: vị trí, chức năng và thiết kế. Trận bóng đá trên các TV màu lớn đã làm cho phòng gia đình đủ lớn cho cha mẹ và con cái trở nên phổ biến hơn trong những năm 1970. Trong những ngôi nhà có nhiều hơn một phòng như vậy, phòng gia đình không chính thức hơn, cả về chức năng và nội thất, và nó được đặt xa khỏi cửa chính, trong khi phòng khách thường trang trọng hơn, dành cho khách, các dịp đặc biệt và trưng bày các vật phẩm như đồ cổ hoặc nghệ thuật. Nó thường nằm ở phần trung tâm của ngôi nhà hướng về mặt trước. Phòng giải trí thường ở tầng hầm và được sử dụng cho các trò chơi và thời gian chơi. Trong những ngôi nhà chỉ có một phòng như vậy, các thuật ngữ thường được sử dụng thay thế cho nhau. Trong các bản vẽ mặt bằng, một "phòng lớn" là nơi phòng khách và phòng gia đình được kết hợp thành một phòng cao trần kế bên nhà bếp.
Kính thông minh (tiếng Anh: "Smart glass") là một loại kính có khả năng thay đổi tính chất phản xạ để hạn chế ánh nắng mặt trời và nhiệt độ từ việc xâm nhập vào tòa nhà và bảo vệ quyền riêng tư. Mục tiêu của kính thông minh trong kiến trúc là tạo ra tòa nhà tiết kiệm năng lượng hơn bằng cách giảm lượng nhiệt từ ánh nắng mặt trời đi qua cửa kính. Có hai loại chính của kính thông minh: hoạt động và không hoạt động. Các công nghệ kính hoạt động phổ biến nhất hiện nay bao gồm điều biến màu điện tử, lỏng kristal và thiết bị hạt bám (SPD). Các công nghệ không hoạt động bao gồm biến màu nhiệt và biến màu ánh sáng. Khi được lắp đặt trong vỏ bọc của tòa nhà, kính thông minh giúp tạo ra các lớp vỏ kiến trúc phù hợp với khí hậu, với lợi ích bao gồm điều chỉnh ánh sáng tự nhiên, tạo sự thoải mái trong việc nhìn, chặn tia tử ngoại và tia hồng ngoại, tiết kiệm năng lượng, cung cấp sự thoải mái về nhiệt, khả năng chống đối mặt với điều kiện thời tiết khắc nghiệt và bảo vệ quyền riêng tư. Một số cửa sổ thông minh có thể tự điều chỉnh nhiệt hoặc làm mát để tiết kiệm năng lượng trong tòa nhà. Các cửa sổ thông minh có thể thay thế việc sử dụng rèm cửa, mành hoặc trang trí cửa sổ. Các hiệu ứng cũng có thể được đạt bằng cách bám bộ phim thông minh hoặc bộ phim chuyển đổi lên bề mặt phẳng sử dụng lớp kính, acrylic hoặc polycarbonate laminates. Một số loại bộ phim thông minh có thể được áp dụng lên cửa kính hiện có bằng cách sử dụng bộ phim thông minh tự dính hoặc keo đặc biệt. Phương pháp phun sương để áp dụng lớp phủ trong suốt để chặn nhiệt và dẫn điện cũng đang được phát triển. Thuật ngữ "cửa sổ thông minh" được xuất phát từ những năm 1980. Nó được giới thiệu bởi nhà vật lý vật liệu Thụy Điển Claes-Göran Granqvist từ Trường Đại học Công nghệ Chalmers. Ông đưa ra ý tưởng để tạo vật liệu xây dựng tiết kiệm năng lượng hơn cùng với các nhà khoa học từ Trung tâm Quốc gia Lawrence Berkeley ở California. Thuật ngữ này được sử dụng để mô tả một cửa sổ phản hồi có khả năng thay đổi độ tối.
Cục Điều tra Hiện tượng Không trung Bất thường Cục Điều tra Hiện tượng Không trung Bất thường (), viết tắt DIFAA, là một cơ quan trực thuộc Không quân Peru chuyên điều tra hiện tượng kỳ lạ trên không có liên quan tới UFO. DIFAA được thành lập lần đầu tiên vào năm 2001 rồi về sau bị đóng cửa vào năm 2008 do "các vấn đề hành chính". Năm 2013, do thường xuyên nhìn thấy UFO, Không quân Peru đã khởi động lại cơ quan này, tập hợp chuyên gia đến từ đủ mọi tầng lớp xã hội như nhà xã hội học, nhà khảo cổ học, nhà thiên văn học và nhân viên không quân để phân tích những trường hợp chứng kiến UFO. Các cơ quan tương tự cũng đã được thành lập ở các nước xung quanh Peru như Brasil, Argentina và Chile.
Phòng vẽ là một phòng trong nhà dùng để tiếp đón khách và cũng là tên thay thế cho phòng khách. Thuật ngữ này xuất phát từ các thuật ngữ "phòng rút lui" và "phòng rút lui thứ" vào thế kỷ 16 và tiếp tục sử dụng trong thế kỷ 17, lần đầu được ghi nhận vào năm 1642. Trong những ngôi nhà lớn ở Anh từ thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18, phòng rút lui là nơi chủ nhà, vợ chồng ông hoặc khách quý ở trong căn phòng chính của ngôi nhà có thể "rút lui" để có thêm sự riêng tư. Thường nó nằm gần phòng lớn (hoặc phiên bản hiện đại của phòng lớn, phòng nhà nước) và thường dẫn đến phòng ngủ hoặc "phòng hoàng gia". Ngày nay, trong những ngôi nhà hiện đại, nó có thể được dùng như tên gọi tiện lợi cho một phòng tiếp thứ hai hoặc nhiều hơn, nhưng không có chức năng cụ thể liên kết với tên gọi này. Lịch sử và phát triển. Vào thế kỷ 18 ở Luân Đôn, buổi tiếp đón sáng sớm của hoàng gia mà người Pháp gọi là "levée" được gọi là "phòng vẽ", với ý ban đầu là các thành viên ưu tú của triều đình sẽ tụ tập trong phòng vẽ ngoài phòng ngủ của vua, nơi ông xuất hiện công khai lần đầu tiên trong ngày. Trong thời kỳ Nội chiến Hoa Kỳ, ở Nhà Trắng của Liên minh miền Nam ở Richmond, Virginia, phòng vẽ nằm ngoài phòng tiếp khách nơi Tổng thống CSA Jefferson Davis đón khách. Sau khi chào hỏi, nam giới ở lại trong phòng khách để thảo luận chính trị và phụ nữ rút lui vào phòng vẽ trò chuyện riêng. Điều này thường thực hiện trong gia đình giàu có ở miền Nam Hoa Kỳ. Năm 1865, một sách hướng dẫn kiến trúc tại Anh định nghĩa "phòng vẽ" như sau: Vào giữa thế kỷ 20, sau bữa tối, phụ nữ của một bữa tiệc tối rút lui vào phòng vẽ, để đàn ông ở bàn ăn, nơi màn bàn ăn được gỡ bỏ. Sau một thời gian trò chuyện, thường kèm theo rượu brandy hoặc port và đôi khi xì gà, đàn ông trở lại phòng vẽ để hòa nhập cùng phụ nữ. Thuật ngữ "phòng vẽ" không được sử dụng rộng rãi như trước đây và thường chỉ được dùng tại Anh bởi những người có nhiều phòng tiếp đãi khác như phòng sáng, một thuật ngữ từ thế kỷ 19 chỉ phòng để thư giãn ban ngày, hoặc phòng tiếp khách cho tầng lớp trung lưu, một thuật ngữ từ cuối thế kỷ 19 chỉ phòng thư giãn. Do đó, phòng vẽ thường là căn phòng thông minh nhất trong ngôi nhà, thường được người lớn sử dụng khi tiếp khách. Thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ và Pakistan, có lẽ bắt đầu từ thời thuộc địa, trong các ngôi nhà lớn ở thành phố nơi có nhiều phòng. Thuật ngữ phòng khách ban đầu chỉ định các phòng tiếp đãi khiêm tốn của tầng lớp trung lưu, nhưng cách sử dụng thay đổi tại Vương quốc Anh khi chủ nhà cố gắng tương thích với ngôi nhà lớn của người giàu. Thuật ngữ "phòng khách" tiếp tục sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ cho đến đầu thế kỷ 20. Tại Pháp, từ "salon", trước đây chỉ định phòng tiếp đãi nhà nước, bắt đầu được dùng cho phòng vẽ từ đầu thế kỷ 19, phản ánh sự tụ tập xã hội "salon" đã trở nên phổ biến trong những thập kỷ trước đó.
Mark McDowell là một doanh nhân. McDowell là người đồng sáng lập và Giám đốc điều hành của Primal Digital Agency và Syndatrace. McDowell sinh ra ở Bangkok, Thái Lan, nơi anh theo học tại trường Bangkok Patana. Anh đã hoàn thành chương trình giáo dục đại học tại Đại học Otago ở New Zealand, tốt nghiệp với bằng cử nhân thương mại và quản trị kinh doanh. Mark McDowell bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là nhà phát triển trang web, hoạt động tự do và xây dựng trang web cho nhiều doanh nghiệp khác nhau khi còn là sinh viên. Sau khi trở về Bangkok, anh nhận được vai trò giám đốc tiếp thị tại một cơ sở kinh doanh thịt nướng nhỏ. Năm 2013, McDowell chuyển đến Melbourne, Úc, nơi ông giữ chức vụ quản lý tài khoản tiếp thị hiệu suất tại WME. Khi trở về Thái Lan vào năm 2015, anh đồng sáng lập Primal Digital Agency, một công ty tiếp thị kỹ thuật số có trụ sở tại Thái Lan và Malaysia. Năm 2020, anh được đưa vào danh sách Forbes 30 under 30. Năm 2022, McDowell đồng sáng lập Syndatrace, công ty cung cấp các dịch vụ tiếp thị kỹ thuật số và các công cụ phân tích được hỗ trợ bởi AI. McDowell cũng là cố vấn tại Talent First, một công ty tư vấn tuyển dụng, vị trí mà ông đảm nhận vào tháng 11 năm 2022. Ngoài ra, ông còn là người đứng đầu bộ phận thăng cấp tại Superist.
Câu lạc bộ bóng đá Hoàng gia Antwerp , thường được gọi là Royal Antwerp hoặc đơn giản Antwerp , là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Bỉ . RAFC có trụ sở tại thành phố Antwerp và hiện là nhà vô địch Belgian Pro League của Bỉ. Được thành lập vào khoảng năm 1880 với tên Câu lạc bộ cricket Antwerp bởi các sinh viên người Anh cư trú tại Antwerp, 15 năm trước khi thành lập Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Bỉ , Antwerp được coi là câu lạc bộ lâu đời nhất ở Bỉ. Lúc đầu, không có môn bóng đá có tổ chức nào được tổ chức bởi các thành viên, cho đến năm 1887 khi bộ phận bóng đá được thành lập với một hội đồng riêng, lấy tên là Câu lạc bộ bóng đá Antwerp.. Là câu lạc bộ hoạt động lâu đời nhất vào thời điểm đó, đây là câu lạc bộ đầu tiên đăng ký tham gia Hiệp hội vào năm 1895. Do đó, khi số điểm trúng tuyển được đưa ra vào năm 1926, câu lạc bộ đã nhận được điểm trúng tuyển số một. Đội đã 5 lần vô địch giải VĐQG Bỉ và 4 lần Cúp bóng đá Bỉ , trong đó có cú đúp vào mùa giải 2022–23. Ở các giải đấu châu Âu, đội đã lọt vào trận chung kết Cúp các nhà vô địch UEFA Cup năm 1992–93 . "Tính đến 22 August 2023"
Matteo Giampaolo Vitaioli (sinh ngày 27 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người San Marino hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ La Fiorita tại Campionato Sammarinese di Calcio. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại Fiorentino, San Marino, Vitaioli đã thi đấu cho 4 câu lạc bộ: San Marino Calcio, F.C. Fiorentino, Sammaurese và Tropical Coriano và đã chơi cho 4 câu lạc bộ dưới dạng cho mượn: Empoli (mặc dù anh không thể ra sân một trận nào trong nửa sau của Serie A 2005–06), ASD Cagliese, Real Montecchio và P.D. Castellarano. Anh được coi là một trong những tài năng trẻ triển vọng nhất của Đội tuyển bóng đá quốc gia San Marino, thường được coi là cầu thủ chủ chốt của đội, đá cặp với Andy Selva và Nicola Ciacci trên hàng công của đội bóng. Anh đã có 85 lần khoác áo đội tuyển cho đến nay và ghi bàn thắng đầu tiên vào ngày 8 tháng 9 năm 2015, trong trận thua 2-1 tại Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2016 trên sân khách trước Litva. Đó là bàn thắng sân khách đầu tiên của San Marino sau 14 năm. Anh mang áo số 11 ở cả cấp độ câu lạc bộ và đội tuyển quốc gia. "Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của San Marino, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Vitaioli."
Giáo phận Nakhon Sawan Giáo phận Nakhon Sawan (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Thái Lan. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Bangkok. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Thánh Anna của giáo phận được đặt tại thành phố Nakhon Sawan. Giáo phận được chia thành 51 giáo xứ. Giáo phận được thành lập vào ngày 9/2/1967 theo tông sắc "Officii Nostri" của Giáo hoàng Phaolô VI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Tổng giáo phận Bangkok. Vào ngày 2/7/1969 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại theo nghị định "Cum Excellentissimus" của Bộ Truyền giáo. Vào ngày 20/6/1970 tỉnh Uttaradit đã được Giáo phận Chiang Mai trao cho giáo phận quản lí theo nghị định "Cum ad disciplinae" của Bộ Truyền giáo. Giám mục quản nhiệm. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Đến năm 2021, giáo phận có 18.565 giáo dân trên dân số tổng cộng 8.959.045, chiếm 0,2%.
Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng F) Bảng F của Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 là một trong 10 bảng để quyết định đội sẽ vượt qua vòng loại cho vòng chung kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 diễn ra tại Đức. Bảng F bao gồm 5 đội: Áo, Azerbaijan, Bỉ, Estonia và Thụy Điển. Các đội tuyển sẽ thi đấu với nhau mỗi trận khác trên sân nhà và sân khách với thể thức đấu vòng tròn. Hai đội tuyển đứng nhất và nhì bảng sẽ vượt qua vòng loại trực tiếp cho trận chung kết. Các đội tham gia vòng play-off sẽ được quyết định dựa trên thành tích của họ trong UEFA Nations League 2022–23. Lịch thi đấu đã được xác nhận bởi UEFA vào ngày 10 tháng 10 năm 2022, sau lễ bốc thăm một ngày. Thời gian là CET/CEST, như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau, nằm trong dấu ngoặc đơn). Một cầu thủ sẽ bị đình chỉ tự động trong trận đấu tiếp theo cho các hành vi phạm lỗi sau đây: Các đình chỉ sau đây sẽ được thực hiện xuyên suốt các trận đấu vòng loại:
Dục vọng () là những trạng thái tinh thần được thể hiện bằng những thuật ngữ như "ham muốn", "ao ước" hay "khao khát". Có rất nhiều đặc điểm gắn liền với dục vọng. Dục vọng là nhằm mục đích thay đổi thế giới bằng cách biến thế giới thành ra như thế nào, khác với niềm tin chỉ nhằm mục đích thể hiện thế giới thực tế ra sao. Dục vọng có liên quan chặt chẽ với tác nhân: chúng thúc đẩy hiện thực hóa tác nhân. Để làm được điều này, dục vọng phải được gắn kết cùng niềm tin để thống nhất hành động ra sao nhằm hiện thực hóa điều gì đó. Dục vọng biểu đạt đối tượng của chúng dưới một góc nhìn ưu ái, như thể đó là một điều gì đó tốt đẹp. Dục vọng khi được thỏa mãn thường tạo ra những trải nghiệm mang tính chất dễ chịu, tích cực; ngược lại, nếu không thỏa mãn được dục vọng thì sẽ tạo ra những trải nghiệm tiêu cực. Các loại dục vọng có ý thức thường đi kèm với một số dạng phản ứng mang tính chất cảm xúc. Dẫu nhiều nhà nghiên cứu nhìn chung có quan điểm giống nhau về những đặc điểm chung này, nhưng vẫn tồn tại không ít bất đồng về cách định nghĩa dục vọng, ví dụ đặc điểm nào trong số này là thiết yếu còn đặc điểm nào chỉ là ngẫu nhiên. "Các lý thuyết dựa trên hành động" định nghĩa dục vọng là những cấu trúc thúc đẩy con người hành động. "Các lý thuyết dựa trên niềm vui" nhấn mạnh vào xu hướng của dục vọng là tạo ra niềm vui cho con người khi được thỏa mãn. "Các lý thuyết dựa trên giá trị" thì nhận diện dục vọng đi kèm với thái độ đối với từng loại giá trị, ví dụ phán xét hoặc sở hữu một bề ngoài có vẻ tốt. Có thể phân nhóm dục vọng thành nhiều loại khác nhau tùy theo một số điểm khác biệt cơ bản của chúng. "Dục vọng nội tại" là những gì chủ thể mong muốn vì lợi ích của chính mình, còn "dục vọng công cụ" là những gì chủ thể mong muốn không vì lợi ích của chính mình. "Dục vọng nhất thời" có thể là loại dục vọng có ý thức hoặc có tính nhân quả, trái ngược với "dục vọng thường trực" là loại dục vọng cố hữu ở đâu đó trong tâm trí một người. "Dục vọng mệnh đề" hướng đến các trạng thái có thể xảy ra của sự việc trong khi "dục vọng đối tượng" lại hướng trực tiếp về đối tượng. Nhiều tác giả phân biệt giữa dục vọng bậc cao (liên quan đến mục tiêu tinh thần hoặc tôn giáo) và dục vọng bậc thấp (liên quan thú vui thể xác hoặc giác quan). Dục vọng có vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Chưa có sự nhất trí trong vấn đề nên hiểu dục vọng là những lý do mang tính thực dụng hay là liệu con người có thể theo đuổi những lý do thực dụng mà không cần gắn liền chúng với dục vọng hay không. Theo "lý thuyết về giá trị của thái độ phù hợp", thì một đồ vật được xem là có giá trị nếu nó phù hợp để khao khát hoặc nếu chúng ta phải khao khát nó. "Lý thuyết về phúc lợi của sự thỏa mãn dục vọng" cho rằng phúc lợi của một người được quyết định bởi việc dục vọng của người đó có được thỏa mãn hay không. Phật giáo xem dục vọng (xem thêm: Ái (Phật giáo)) là căn nguyên của mọi thứ Khổ trong cuộc sống của con người. Việc xóa bỏ dục vọng là cách để đạt được hạnh phúc vĩnh hằng, tức Niết-bàn. Tuy nhiên, đối với hàng tín đồ tu tại gia thì Phật xem dục vọng không hẳn là điều quá xấu xa, tội lỗi bởi họ vẫn được phép sống chung với các dục theo những chuẩn mực nhân bản, nhân văn. Kitô giáo xem dục vọng là thứ có thể dẫn một người đến với Chúa hoặc xa rời Chúa. Dục vọng không tự thân nó là xấu mà nó là một lực tác động mạnh mẽ lên loài người, mà một khi con người đó đã dâng mình lên Chúa thì dục vọng là một công cụ để tiến bộ, để sống sung túc. Theo Ấn Độ giáo, thần thoại sáng thế Nasadiya Sukta trong kinh Rigveda có đoạn: "Vào buổi ban sơ, có một kama (dục vọng) đóng vai trò hạt giống đầu tiên của tâm hồn. Người tìm thấy mối ràng buộc giữa tồn tại và không tồn tại trong suy nghĩ thâm sâu". Các doanh nghiệp trong ngành tiếp thị và quảng cáo sử dụng các nghiên cứu tâm lý về kích thích dục vọng để tìm ra những cách thức hiệu quả hơn nhằm thuyết phục người tiêu dùng mua một sản phẩm hoặc dịch vụ nhất định. Một số chiêu bài là tạo ra cảm giác thiếu thốn cho khách tiềm năng hoặc liên kết sản phẩm với các thuộc tính mang tính dục vọng. Dục vọng còn đóng một vai trò quan trọng trong nghệ thuật. Chủ đề về dục vọng là nội dung cốt lõi của tiểu thuyết lãng mạn, thường tạo kịch tính bằng cách miêu tả những trường hợp dục vọng của con người bị cản trở bởi các quy ước xã hội, giai cấp hoặc rào cản văn hóa. Thể loại kịch tâm lý tình cảm sử dụng cốt truyện khơi dậy cảm xúc dâng trào của khán giả qua lối diễn xuất về "những khủng hoảng về cảm xúc của con người, những câu chuyện tình lãng mạn hoặc tình bạn thất bại", trong đó dục vọng bị cản trở hoặc không được đáp lại.
Rồi hoa sẽ nở Rồi Hoa Sẽ Nở (やがて君になる, Yagate Kimi ni Naru) là bộ manga yuri Nhật Bản được viết và minh họa bởi Nakatani Nio. Bộ manga bắt đầu xuất bản định kỳ trên tạp chí shōnen manga hàng tháng "Dengeki Daioh" vào ngày , và kết thúc vào ngày . Câu chuyện giữa hai nữ sinh cấp ba, Koito Yu và Nanami Toko, và mối quan hệ phát triển giữa họ khi họ hiểu thêm về bản thân trong suốt thời gian ở bên nhau. Trước khi viết "Rồi Hoa Sẽ Nở", Nakatani đã tự xuất bản vài tác phẩm "dōjinshi" có các cặp nữ-nữ về các nhân vật trong "Touhou". Mặc dù cô không có ý định cho các tác phẩm đó thuộc về thể loại "yuri", nhưng chúng được nhiều người đọc đón nhận. Điều này làm cô có hứng thú tạo ra một câu chuyện lãng mạn về tình yêu giữa các cô gái. Một biên tập viên trên "Dengeki Daioh" đã tiếp cận Nakatani tại một hội chợ dōjinshi, đề xuất cô vẽ bộ truyện yuri cho tạp chí, và cô đã đồng ý. Bộ manga được tổng hợp trong tám cuốn "tankōbon" được xuất bản lần đầu tại Nhật từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 11 năm 2019 bởi ASCII Media Works dưới nhãn hiệu Dengeki Comics NEXT. Bộ manga được cấp phép xuất bản tiếng Anh ở Bắc Mỹ cho Seven Seas Entertainment, và được phát hành từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 8 năm 2020. Tại Việt Nam, bộ manga được cấp phép xuất bản cho IPM và được phát hành từ ngày 24 tháng 4 đến ngày 22 tháng 8 năm 2023. Bộ anime truyền hình được Troyca chuyển thể năm tập đầu của bộ manga được phát sóng từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2018. Anime được cấp phép phát hành tại Bắc Mỹ cho Sentai Filmworks. Nữ sinh lớp 10 Koito Yu nhận lời tỏ tình bất ngờ từ một bạn học cấp hai. Cảm thấy cô ấy không hiểu tình yêu, cô ấy từ chối cậu ấy. Sau đó cô ấy thấy thành viên hội học sinh lớp 11 Nanami Toko từ chối lời tỏ tình, và trở nên thuyết phục rằng Toko có cảm giác tương tự về điều lãng mạn. Cô ấy tiếp cận Toko và hai người bắt đầu gắn bó, trước khi Toko đột ngột tỏ tình Yu, làm cô ấy ngạc nhiên. Mặc dù Yu không có cảm giác về khả năng đáp lại, Toko không bận tâm bởi điều này và nói cô ấy sẽ rất vui nếu Yu không đáp lại cảm xúc của cô ấy. Toko tranh cử cho vị trí hội trưởng hội học sinh và nhờ Yu làm người đề cử. Trước nỗi bất an của bạn thân Toko, Saeki Sayaka, Yu chấp nhận đề nghị. Toko giải bày rằng cô ấy có cảm giác nhờ cậy vào Yu về cảm xúc, như thể cô ấy là người duy nhất mà Toko có thể tỏ ra yếu đuối. Yu quyết định gia nhập hội học sinh để hỗ trợ Toko, người thắng cử. Là hội trưởng, Toko lên kế hoạch hồi sinh vở kịch của hội học sinh, mà đã không diễn trong bảy năm. Yu chống đối ý tưởng đó, và không đề xuất người bạn mê tiểu thuyết Kano Koyomi khi các thành viên khác hỏi ai có thể viết nó. Sayaka nói Yu xin Koyomi tham gia, và tìm hiểu hội trưởng hội học sinh bảy năm trước. Yu sau đó biết rằng chị của Toko, Mio, từng là hội trưởng hội học sinh tại thời điểm đó, và đang thực hiện một vở kịch, nhưng đã qua đời trong một vụ tai nạn giao thông trước khi vở kịch được mở màn. Yu nhận ra rằng Toko đang nhập vai chị mình và muốn thực hiện vở kịch trong vị trí của người chị. Cô cố thuyết phục Toko rằng đây là điều không cần thiết, nhưng Toko phủ nhận trong lạnh nhạt. Koyomi hoàn thành bản phác thảo đầu tiên cho vở kịch. Cốt truyện là về một cô gái bị mất trí nhớ phải chọn hình ảnh của bản thân mà người khác mô tả là bản chất thật của cô ấy, kết thúc ban đầu là cho cô gái chọn hình ảnh theo góc nhìn của người yêu. Khi hội học sinh tổ chức trại tập huấn để tập kịch, diễn viên Ichigaya Tomoyuki, bạn học cũ của Mio, được mời đến trợ giúp. Từ anh ấy, Toko biết rằng Mio từng là một người rất khác so với cô ấy lúc bây giờ, làm cô ấy giằng xé. Cảm thấy lo lắng, Yu cho Koyomi đổi cái kết mà nhân vật chính chọn làm chính mình thay vì chọn theo góc nhìn của một người cụ thể, tin rằng điều này sẽ giúp Toko chấp nhận bản thân. Khi vở kịch được diễn tại lễ hội văn hóa, cốt truyện của nó và màn trình diễn của Toko được khán giả hoan nghênh, và đạo diễn đoàn kịch địa phương tiếp cận Toko, hỏi cô gia nhập và trở thành diễn viên. Ban đầu cô từ chối, nhưng đã cân nhắc lại và đồng ý. Toko cảm ơn Yu vì đã hỗ trợ và nhắc lại mong muốn của cô rằng Yu ở lại bên cô như trước. Tuy nhiên, Yu đã phát triển tình cảm cho Toko, và bất ngờ tỏ tình. Cô hiểu sai phản ứng bị sốc của Toko như là từ chối và bỏ chạy, làm cho Toko nhận ra rằng cô ấy đang lợi dụng Yu. Trong khi đó, Sayaka nói chuyện với chủ quán café Kodama Miyako, cô kể bí mật về tình cảm dành cho Toko. Khi lớp 11 đi tham quan ở Kyoto, Sayaka chính thức tỏ tình cho Toko. Toko từ chối Sayaka, thừa nhận tình cảm của cô ấy dành cho Yu. Mặc dù bị từ chối, Sayaka chấp nhận điều đó. Tại nơi khác, Yu nhận ra rằng cô đang chạy trốn khỏi vấn đề của chính mình. Hai người hòa giải và Yu cuối cùng đã mở lòng đáp lại tình cảm của Toko. Qua thời gian, Yuu và Toko trở nên thân mật về cảm xúc và thể xác hơn. Điều này đạt đến cực điểm khi họ đi chơi bowling, với thỏa thuận người thua sẽ đáp ứng mọi yêu cầu của người thắng. Yu thắng và yêu cầu qua đêm tại nhà Toko. Toko đồng ý, thú nhận cô ấy cũng muốn làm điều đó. Họ đã qua đêm tại nhà của Toko, và quan hệ tình dục. Ba năm sau, Yu và Toko đã tốt nghiệp cấp ba, vào đại học, và đang đeo nhẫn trên ngón tay. Họ tái hợp với hội học sinh cũ để tham dự lễ hội văn hóa tại trường cũ của họ. Khi Yu và Toko hồi tưởng về cách mối quan hệ của họ bắt đầu và suy nghĩ về cuộc sống người lớn mới của họ, họ bước đi vào màn đêm. Yu là một nữ sinh 15 tuổi tại trường cấp ba Toomi Higashi có khó khăn trải nghiệm cảm giác yêu thương. Cô là loại người thấy khó từ chối bất kì yêu cầu nào nhờ đến cô. Toko là nữ sinh 16 tuổi và hội trưởng hội học sinh. Cô có khó khăn trải nghiệm cảm giác yêu thương cho đến khi cô gặp Yu. Khi ở bề ngoài cô có vẻ đáng tin cậy và không thể lay chuyển, ở bên trong cô đang giấu nỗi sợ và khát khao đặc biệt khi người khác so sánh cô với người chị đã mất. Chỉ có Yu suy luận ra điều này và thấy được mặt dễ tổn thương của cô. Sayaka là bạn thân nhất của Touko từ năm lớp 10, và cảm thấy cô ấy biết Toko rõ nhất. Cô là nữ sinh lớp 11 và hội phó hội học sinh. Cô thầm yêu Toko, nhưng cô giữ nó cho bản thân, không muốn hủy hoại mối quan hệ đang tồn tại của họ. Cô quyết định rằng cô chỉ cần hỗ trợ bạn mình hết lòng là được. Seiji là nam sinh lớp 10 và thành viên của hội học sinh. Cậu lớn lên xung quanh hai người chị và một em gái, nên cậu dễ bắt chuyện với các nữ sinh. Dojima là nam sinh lớp 10 và thành viên của hội học sinh. Koyomi là bạn cùng lớp của Yu và bạn từ cấp 2. Cô muốn trở thành nhà văn. Akari là bạn cùng lớp của Yu và bạn từ cấp 2. Cô là thành viên của câu lạc bộ bóng rổ. Hakozaki là giáo viên ngữ văn và cố vấn của hội học sinh. Miyako là chủ quán café mà các thành viên hội học sinh thường đến. Cô đang có mối quan hệ với Hakozaki Riko và hai người sống chung trong một căn hộ. Rei là chị của Yu đang học đại học. Cô có bạn trai, Hiro, thường đến nhà chơi. Cô thích làm bánh. Cô cũng nhận ra có gì đó giữa Yu và Toko. Tomoyuki là diễn viên chuyên nghiệp từng là bạn cùng lớp của Nanami Mio bảy năm trước. lồng tiếng bởi: Senbongi Sayaka (tiếng Nhật) Senpai và bạn gái cũ của Sayaka từ cấp hai, người chủ động tỏ tình và hình thành một mối quan hệ sau này đổ vỡ, nói rằng "chưa suy nghĩ sáng suốt" và rằng cả hai đều là con gái. Trong manga và anime, Chie không được đặt tên, chỉ được đề cập là "senpai" bởi Sayaka, nhưng được đặt tên trong tiểu thuyết "Regarding Saeki Sayaka". Quá trình sản xuất. Trước khi tạo ra bộ truyện, Nakatani Nio chủ yếu được biết đến qua tác phẩm "dōjinshi", đặc biệt các tác phẩm dựa trên "Touhou Project". Vì tác phẩm của cô chủ yếu về mối quan hệ giữa các cô gái (Nakatani đã sáng tác từ đa số dàn nhân vật nữ của "Touhou"), cô có được danh tiếng tác giả của manga "yuri". Điều này làm Nakatani ngạc nhiên, khi cô không có ý định viết thể loại yuri hay coi tác phẩm của mình thuộc thể loại đó, nói rằng cô chủ yếu cố miêu tả các mối quan hệ con người phức tạp mà làm cô hứng thú. Tuy nhiên, dù sao cô cũng có hứng với thể loại yuri, cô trở nên hứng thú với việc vẽ một chuyện tình rõ ràng giữa các cô gái. Khi Kusunoki Tatsuya, một biên tập viên của tạp chí manga "Dengeki Daioh" (Nakatani đã ra mắt chuyên nghiệp với nhà xuất bản của họ về truyện ngắn tự xuất bản trước đây của cô "Farewell to My Alter") tiếp cận Nakatani tại hội chợ dōjinshi, hỏi cô có muốn vẽ một bộ truyện yuri cho tạp chí không, Nakatani đã chấp nhận đề nghị. Kusunoki phát biểu rằng anh luôn thích đọc manga yuri và muốn sản xuất một bộ. Anh nói rằng "Dengeki Daioh" chưa từng có truyện tình cảm giữa nữ tương tự, một lời đề nghị như vậy không chắc được chấp nhận. Tổng biên tập cuối cùng đã phê chuẩn ý tưởng, Kusunoki đã đóng góp vào văn hóa "cởi mở" của nhà xuất bản, cũng như nguồn tài chính của tạp chí. Trong thảo luận về cách tiếp cận thể loại "yuri", Nakatani bày tỏ rằng cô thích các câu chuyện lãng mạn, nhưng cô thất vọng về cốt truyện vẽ một mối quan hệ cần thiết để hoàn thiện chính nó về mặt cảm xúc, nó làm cô cảm thấy như thể "có gì đó sai với tôi." Nakatani cảm thấy rằng các mối quan hệ đồng giới thường né tránh sự phân chia này, và khi cô cố gắng viết một mối quan hệ lãng mạn khác giới có sức thuyết phục, cô càng muốn tạo ra manga về các cặp đồng giới. Trong khi Nakatani cũng từng vẽ manga yaoi, cô kết luận rằng yuri thú vị hơn với cô, cô muốn vẽ các cô gái dễ thương. Trong một bài phỏng vấn, cô nói rằng yuri khó được định nghĩa, nhưng "một khi người đọc nghĩ nó là yuri, thì tại thời điểm đó nó trở thành yuri." Trong một cuộc trò chuyện với các nhà sáng tạo của "Akuma no Riddle" Kōga Yun và Minakata Sunao, cô đồng tình với ý kiến của Kōga rằng yuri là về "cô gái có mối quan hệ với cô gái khác," thêm vào đó là "cảm xúc giữa các cô gái." Cô cũng dẫn chứng anime chuyển thể của "Sound! Euphonium" là một nguồn cảm hứng, nói rằng nó thể hiện "mọi thứ tôi muốn làm trong yuri." Phát triển ban đầu. Ngoài việc nó thuộc thể loại yuri, Nakatani không có quyết định gì về chi tiết câu chuyện trước khi chấp nhận đề nghị của Kusunoki. Cô đã phát triển nhiều ý tưởng cho các cốt truyện và nhân vật khác nhau, hầu hết tất cả bị loại bỏ, trừ thiết kế nhân vật của Toko. Tổng biên tập đề nghị một "tình yêu bí mật," mà Nakatani để ý nó thường thấy trong thể loại yuri có các nhân vật phải giữ bí mật mối quan hệ đồng giới của họ do họ đều là con gái. Nakatani không muốn tập trung sự chú ý cốt truyện vào mặt thách thức xã hội về mối quan hệ giữa gái với gái, cô cảm thấy nó sẽ quá đơn giản và có hứng thú hơn trong việc khám phá thiếu sót cá nhân của các nhân vật. Do đó, cô nghĩ về một biến thể trong ý tưởng, thay vì giữ bí mật tình yêu của họ khỏi những người khác, điểm kịch tính sẽ là hai cô gái giữ bí mật tình yêu của họ với nhau. Điều này trở thành sự thúc đẩy cho cái sẽ trở thành câu chuyện lãng mạn của Yu và Toko. Kusunoki đề xuất một câu chuyện yuri "sáng và tối" cho Nakatani, trong đó một nhân vật "tối" sẽ được nhân vật "sáng" cứu bằng cách nào đó, như là một động lực được thấy trong các manga yuri khác mà anh đã xem. Toko được tạo ra trước làm phần "tối" của cặp, trong khi Yu được tạo ra để lắp vào vai trò "sáng". Nakatani muốn Toko là người hấp dẫn nhưng "phiền hà," và thiết kế cho cô ấy có vẻ hoàn hảo bề ngoài, nhưng trong thực tế là một người cố chấp thiếu tự tin về cảm xúc sâu sắc và ghét bản thân, người sẽ tỏ tình nhưng không muốn được đáp lại. Từ đó, Nakatani đã phát triển Yu là cô gái mà theo cô tưởng tượng sẽ có thể giúp và đến cuối cùng đem lòng yêu Toko. Yu được dự tính là tương phản với Toko về hình ảnh và tính khí, như một cô gái dễ thương một cách cẩn trọng có một mặt "điềm tĩnh" sâu sắc hơn. Tính cách của cô ấy được viết là một người sẽ không cảm thấy hạnh phúc về tình yêu của Toko nhưng cũng không từ chối cô ấy, mà dẫn đến việc cô ấy được tạo ra như một cô gái ao ước cảm xúc lãng mạn nhưng không hiểu nó. Khi họ lên ý tưởng về nhân vật, Kusunoki và Nakatani hỏi những người khác quanh họ những câu chuyện về trải nghiệm lãng mạn của họ. Một cô gái nói rằng cô không hiểu cảm xúc lãng mạn, và Nakatani đã miêu tả cảm xúc của Yu trong manga dựa trên câu chuyện của cô ấy. Khi vai của Toko là hội trưởng hội học sinh được quyết định, Nakatani nghĩ ra Sayaka, bạn của Toko trong hội học sinh, người có tình cảm không được đáp lại với Toko. Nakatani muốn Sayaka xuất hiện như là người "cực kỳ điềm đạm," và cô ấy được thiết kế để tương phản với hình ảnh "đáng yêu" của Toko khi đứng bên cạnh cô ấy với vai trò hội phó hội học sinh và đối thủ trong học tập. Lúc vạch ra bối cảnh, Nakatani chọn đặt "Rồi Hoa Sẽ Nở" trong một môi trường nam nữ học chung, nó đối lặp với các manga yuri khác thường chọn bối cảnh trường học nữ sinh. Đó là do cô cảm thấy rằng việc thêm nhân vật nam mà Toko không có hứng thú đáp ứng vào việc hình thành tính cách thu hút vào nữ giới của Toko như một đặc điểm cá nhân độc đáo tách biệt cô khỏi các cô gái khác có trong câu chuyện. Nakatani lý giải người đọc có khả năng mong đợi Yu hay Toko sau này sẽ có mối quan hệ khác giới, và do đó giới thiệu nhân vật nam như là một cách ngăn chặn khả năng này (như là họ đã có bạn gái). Maki, một nhân vật nam phụ lớn có hứng thú với mối quan hệ của Yu với Toko và cho cô ấy lời khuyên, được mô tả là không có hứng thú đến mối quan hệ cho bản thân. Cậu ấy được dự định là một nhân vật làm nền cho Yu, mặc cho cậu ấy không cảm nhận cảm xúc lãng mạn, cậu ấy vui vẻ với điều đó. Khía cạnh này của nhân vật cũng là để ngăn cậu ấy là một người có tình cảm lãng mạn cho Yu hay Toko. Nakatani đã thêm Maki để cho thấy người ta có thể được thỏa mãn mà không cần mối quan hệ lãng mạn. Nhà thiết kế nhân vật của anime, Gōda Hiroaki, cảm thấy trong khi cậu ấy không thể có mối quan hệ trực tiếp với dàn nữ của câu chuyện, anh đồng cảm với mong muốn được xem mối quan hệ của Yu và Toko phát triển của Maki. Cặp người lớn đồng tính nữ Riko và Miyako được giới thiệu để gợi ý rằng mối quan hệ của Yu và Toko là có khả thi trong tương lai. Các thiết kế của nhiều nhân vật trung tâm được quyết định trước khi manga bắt đầu xuất bản định kỳ. Xuất bản định kỳ. Nakatani và Kusunoki muốn làm cảm xúc của nhân vật dễ hiểu với người đọc mà có thể không đồng cảm với họ. Điều này quan trọng nhiều cho nhân vật nữ của câu chuyện để được yêu thích đối với đối tượng "shōnen" của "Dengeki Daioh." Họ cố không né tránh nhân vật có cảm xúc phức tạp, tin rằng nếu nó được mô tả thành công, nó sẽ dẫn đến một câu chuyện vừa ý hơn. Kusunoki nói đây là một thử thách, nhưng có cảm giác Nakatani có khả năng hoàn thành nó. Lúc dựng câu chuyện của "Rồi Hoa Sẽ Nở", Nakatani giữ tiến độ bộ truyện theo kiểu luôn có một plot twist kịch tính quan trọng ở cuối mỗi tập. Ví dụ, cô cố tình tránh thể hiện quan điểm của Toko cho đến chương 10 của manga, nó được đặt vào cuối tập hai của "tankōbon". Cô cảm thấy nó như là một đỉnh điểm lý tưởng cho kết thúc của tập đó, làm một điểm then chốt khi mà bản chất mối quan hệ của cô ấy với Yu đã vững chắc. Trong phản hồi cho biên tập của "Happy Sugar Life" Sasaki Katsuyuki nói rằng điều này đã "làm đảo lộn câu chuyện," Kusunoki bình luận rằng nó cho phép người đọc đọc lại các chương trước trên phương diện mới, và nói rằng câu chuyện "thật sự bắt đầu" từ thời điểm đó. Theo Nakatani cảm thấy quan trọng là không cho các nhân vật thay đổi quá nhanh, cô cố giữ trong đầu điều cô cảm nhận rằng họ sẽ làm như thế tại thời điểm mà cô đã phát triển họ. Tiểu thuyết ăn theo, tập trung vào tính cách của Sayaka như nhân vật chính trung tâm, được viết bởi Iruma Hitoma, người mà Nakatani đã từng hợp tác trong tiểu thuyết trước đây của anh "Shoujo Mousouchuu". Mặc dù cô ban đầu thấy lo sợ khi cho người khác viết về nhân vật của cô, khi có quyết định Iruma sẽ là người viết, cô đồng ý. Nakatani cung cấp cho Iruma nhiều chi tiết cô ấy dự định thêm vào bộ truyện. Cùng với những chi tiết đó, Nakatani đã viết hội thoại cho cuộc trò chuyện lúc Yu và Toko biết Sayaka có bạn gái, mà sau này được thêm vào chương cuối của manga. Iruma đã chọn bắt đầu tiểu thuyết với Sayaka ở trường tiểu học, do anh không cảm thấy tự tin rằng trải nghiệm thời học cấp hai của cô sẽ là đủ cho một tiểu thuyết đầy đủ, và do đó đã tưởng tượng một lịch sử cho cô ấy dựa trên số ít chi tiết được đưa ra về quá khứ của cô ấy trong manga. Anh nói rằng trong khi Nakatani là nhà sáng tạo gốc, anh cảm thấy vai trò của anh trong việc sáng tạo tiểu thuyết là "người đóng góp câu chữ." Sau khi phát hành tiểu thuyết, Nakatani nói rằng cách viết của Iruma đã ảnh hưởng cách cô đã viết Sayaka, cụ thể đoạn tỏ tình Toko của cô ấy trong chương 37. Cô nói rằng cô không loại bỏ hiểu biết của cô về nhân vật do ảnh hưởng của Iruma, mà cái cách mô tả nhân vật của anh ấy đã định hướng cho tầm nhìn của cô. Mặc dù dự định trước đó là Sayaka sẽ tỏ tình và bị từ chối, tính cách của cô ấy đã phát triển chi tiết hơn khi từ khi bộ truyện tiếp diễn, và cô ấy đã ảnh hưởng vào cốt truyện hơn Nakatani đã dự định. Trong lúc viết cái kết cho cốt truyện phụ của cô ấy, Nakatani muốn tránh ngụ ý sự từ chối của cô ấy có nghĩa là cô ấy đã "thất bại", nói rằng Toko có thể đã không bao giờ chấp nhận lời tỏ tình của cô ấy ngay cả khi cô ấy đã tỏ tình sớm hơn trong câu chuyện. Cô đã viết lại hội thoại cảnh tỏ tình của Sayaka nhiều lần. Trong ấn bản cuối, Nakatani muốn viết một cái kết hoàn chỉnh cho câu chuyện mà sẽ cho người đọc cảm giác họ đã xem tất cả những gì cần được xem, làm cho bản chất cảm xúc của Yu và Toko trở nên rõ ràng, và đảm bảo mối quan hệ của họ sẽ lâu dài. Cô muốn tránh việc gây ấn tượng rằng Yu và Toko được định mệnh sắp đặt bên nhau, thay vì nhấn mạnh điều đó họ được tự do lựa chọn một mối quan hệ sau khi họ đã thay đổi và có thể yêu nhau. Chương 44, có cảnh Yu và Toko quan hệ tình dục, được xem xét là cần thiết, Nakatani cảm thấy tốt nhất là không bỏ sót khía cạnh cảm xúc cho nhau của họ. Trong lời bạt chương cuối bối cảnh ba năm sau chương trước, mối quan hệ của họ không còn là bí mật với đa số bạn bè của họ, Nakatani nghĩ nó tốt hơn do cô muốn họ được hạnh phúc ở cuối câu chuyện. Toko cũng tiếp tục theo đuổi nghiệp diễn, Nakatani quyết định điều đó do cô "không muốn loại bỏ" giai đoạn trong cuộc sống của Toko cái lúc cô ấy bắt chước chị mình. Nakatani trích dẫn tác phẩm của Mizukami Satoshi, và cụ thể là manga "Lucifer and the Biscuit Hammer", là cảm hứng cho chương cuối. Trước khi anime chuyển thể được bật đèn xanh, Kadokawa gửi cho đạo diễn Kato Makoto vài tựa đề mà họ đang xuất bản, hỏi anh có hứng thú đạo diễn một phiên bản anime của bất kì tác phẩm nào trong đó không. Trong số đó có "Rồi Hoa Sẽ Nở", đã thu hút chú ý của Kato hơn các tác phẩm khác, và do đó anh đã xin anime được xem xét. Trong khi Kato thường không đọc manga trừ lúc được yêu cầu trong công việc, anh bị thu hút vào khung vẽ của Nakatani, theo anh nói là "rất tương đồng với cách làm trong phim ảnh". Kato cảm thấy rằng bản chuyển thể sẽ được đáp ứng tốt bởi phong cách đạo diễn của anh. Anh thừa nhận rằng anh không có am hiểu thể loại yuri, nhưng bị hấp dẫn bởi câu chuyện và thấy tiềm năng trong nó vì sự hấp dẫn phóng khoáng, thậm chí với những người không là fan của thể loại yuri. Kato tin việc đem vào quan điểm của anh với tư cách là người ngoài làm cho anime thú vị hơn, theo anh tưởng tượng rằng ai đó quen thuộc hơn với thể loại này sẽ sản xuất thứ gì đó có sự hấp dẫn giới hạn hơn. Kato từng làm trợ lý đạo diễn cho ', và ra mắt trong vai trò chỉ đạo chính trong anime chuyển thể của ', mà Nakatani đã xem trước. Như nguồn tư liệu của "Beautiful Bones" là tiểu thuyết dài kì, Kato không cần phải bám chặt vào hình ảnh đã tồn tại trước, và anh mô tả làm việc với manga chuyển thể là một thử thách vì lý do này. Trong khi Nakatani tự tin vào kỹ năng đạo diễn của Kato, cô lo lắng việc để cho người khác xử lý câu chuyện của cô, cô không chắc cô có được tham gia không. Kato đảm bảo Nakatani rằng anh quan tâm đến manga gốc và muốn tạo ra một bản chuyển thể bám sát, an ủi được lo lắng của cô ấy. Nakatani được hỏi ý kiến nhiều trong quá trình sản xuất anime, tham gia các buổi thu âm và họp kịch bản, và giám sát hình ảnh, thiết kế nhân vật, và storyboard. Kato coi ý kiến của cô ấy là quan trọng, do độ phức tạp của câu chuyện. Nakatani đã giải thích ý định của cô trong vài cảnh và nhân vật để đảm bảo nó chính xác, và cung cấp trình tự xảy ra được mường tượng về các sự kiện của câu chuyện. Cô cũng đóng góp các chi tiết mới không trực tiếp thể hiện trong manga, như là bản nháp ban đầu của vở kịch hội học sinh trước khi yêu cầu của Yu cho Koyomi duyệt lại nó. Nakatani cảm thấy dữ liệu đầu vào của cô đã giúp anime phản ánh kỹ hơn tác phẩm gốc của cô, cô đánh giá là vượt trội. Nhà biên kịch Hanada Jukki tham gia dự án sau khi được một nhà sản xuất hỏi anh có hứng thú không. Lúc đọc manga, Hanada cảm thấy nó sẽ khó chuyển thể, nhưng quyết định chấp nhận lời mời do anh cảm thấy anime sẽ đáng bỏ công. Nakatani đã là fan của tác phẩm của Hanada, và nhanh chóng đặt niềm tin vào anh. Trước khi viết kịch bản, anh đã thảo luận diễn giải câu chuyện với Nakatani, nói rằng anh đọc nó như là "một câu chuyện tình yêu đơn giản" giữa các cô gái với trọng tâm tối thiểu vào gợi dục đồng giới, và nó không đề cập đến việc né tránh "sự liên kết với 'điều trái đạo đức'" thường thấy trong các tác phẩm yuri khác. Hanada nói rằng hiểu biết của anh "không đi quá xa" khỏi quan điểm của Nakatani. Hanada cảm thấy có kết nối đến Toko nhất, anh đồng cảm với cảm xúc ghét bản thân của cô ấy, trong khi Kato đồng cảm với Yu. Hanada cảm thấy rằng điều này đóng góp vào sự thành công cộng tác của họ, rằng họ không mâu thuẫn với nhau vì cách mô tả nhân vật. Trong lúc viết kịch bản, có vài thay đổi nhỏ, như là thay đổi vài câu thoại cụ thể và thứ tự trong vài cảnh được trình bày, để có nhịp độ câu chuyện tốt hơn cho anime truyền hình. Cũng có vài thứ thêm vào, như là mở rộng đoạn phát biểu hội học sinh của Yu, được Hanada viết. Tuy nhiên, không có đổi mới lớn nào, như Hanada và Kato mong muốn cho anime phù hợp trong phạm vi tính liên tục đã được thiết lập của manga. Có lúc Nakatani đề xuất cái kết gốc cho anime, nhưng điều này được quyết định là chống đối lại việc cho phép người xem chuyển tiếp vào manga và để cánh cửa mở cho việc làm tiếp. Anime ban đầu dự tính kết thúc với các sự kiện của tập bốn. Hanada và Kato cân nhắc kết thúc nó sau vở kịch hội học sinh, nhưng cảm thấy làm như thế thì sẽ làm cho anime "chỉ nói về Toko," và họ muốn cả Yu và Toko là trọng tâm. Tại thời điểm viết kịch bản, chương Yu và Toko đi thủy cung chưa được phát hành, nhưng Nakatani trình bày kế hoạch cho chương đó cho Hanada, và họ đồng ý làm nó là cái kết của anime. Phiên bản hẹn hò thủy cung của anime được mở rộng đáng kể từ bản manga, gồm các chi tiết thêm vào do Nakatani đóng góp. Trước khi phần nhạc mở màn được đặt, Kato đã hình dung rõ ràng hình ảnh các đoạn mở màn và kết thúc. Với sự chấp thuận của nhà sản xuất Yamashita Shinpei, Kato bắt đầu vẽ storyboard cho phần nhạc mở màn trước khi nhận bài hát. Kato dự kiến phần mở màn, mà anh mô tả là phản chiếu "bản chất đôi" của các nhân vật, có cảm giác tương tự như video âm nhạc, cụ thể trong cách anh giới hạn bối cảnh của nó trong một địa điểm duy nhất. Anh đã chọn hình ảnh hoa nở trong trường học theo anh cảm thấy điều này sẽ tạo ra hình tượng ảnh hưởng lớn, và thiết lập cơ hội để thêm nhiều hình tượng tượng trưng quan trọng, cụ thể trong việc sử dụng ngôn ngữ của các loài hoa. Phần kết thúc, theo Kato mô tả là đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, được dựa trên một bức họa từ vỏ điện thoại di động được bán làm hàng hóa cho manga. Giai điệu lạc quan của bài nhạc kết thúc "hectopascal" được chọn để "khởi động lại cảm xúc [của người xem]", để cho họ vui vẻ và háo hức muốn xem tập tiếp theo thay vì lo lắng về sự phát triển của cốt truyện, và giai điệu nặng nề và cảm xúc hơn của bài hát mở màn được chọn để làm tương phản lựa chọn này. Trong lúc tạo thiết kế nhân vật anime, Gōda Hiroaki đã mô tả khơi gợi tranh của Nakatani là một thử thách đáng kể. Kato khuyên anh "tránh vẽ giống nhau như khuôn". Khi anh không thông thạo "phong cách nghệ thuật hiện đại", anh đã dành nhiều tháng mài dũa phiên bản nhân vật của anh, nhưng cảm thấy chúng vẫn không đạt được cái chi tiết được thấy trong tranh của Nakatani. Khi vẽ các phân đoạn hoạt họa, anh không tham khảo bảng thiết kế nhân vật của anh, thay vào đó luôn tham khảo tranh gốc của Nakatani. Gōda cảm thấy rằng trong khi vẽ Yu thì "dễ làm", cách biểu lộ cảm xúc của Toko thì thử thách hơn do tính "hai mặt" của cô ấy. Anh bình luận rằng các cảnh "khi họ đang nghĩ về cái gì đó, nhưng không được để điều đó hiện lên mặt họ" là cực kỳ khó vẽ trong khi nó là cần thiết để truyền tải cảm xúc khát khao mà không dùng biểu lộ cảm xúc của họ để mô tả một cách rõ ràng. Sayaka cũng được cân nhắc là khó, như Gōda cảm thấy anh thường "không vẽ được cô ấy với bầu không khí hoàng tộc thích hợp". Tuy nhiên, anh ghi chú các biểu cảm của Sayaka trong hai cảnh cụ thể, khi cô ấy chất vấn Yu trong tập 6, và khi cô ấy gạt bỏ bạn gái cũ trong tập 8, là nó "thật sự vui". Phần nhạc cho anime, được soạn bởi Ōshima Michiru, được viết với ý định chung về việc tạo ra "cái gì đó lắp lánh." Biên khúc bị giới hạn sử dụng trong nhạc cụ piano, bộ dây, và bộ gỗ, và tương tự, Ōshima đã quyết định soạn nhạc thính phòng. Phần nhạc được thu âm tại một phòng thu ở New York, để tạo ra âm thanh "tươi mới và cao". Mặc dù cô muốn gợi ra một "phản ứng tâm lý" trong người xem, Ōshima không muốn diễn đạt tâm trạng "ảm đạm" quá mạnh. 35 bài được đặt cho phần nhạc. Ảnh hưởng của phim. Có nhiều phần thêm vào trong anime mà Nakatani thích, như là bài phát biểu bầu cử hội học sinh của Yu. Anime có nhiều cảnh Yu ở dưới nước như là một ẩn dụ trực quan, bao gồm một cảnh cụ thể từ đoạn mở đầu tập một lúc cô ấy vươn tay ra xuyên màn nước. Nakatani đặc biệt thích hình ảnh này, cô vẽ một ảnh tương tự làm trang đầu cho của chương 34 trong manga. Ngoài ra, chương 39 được lấy cảm hứng từ lời bài hát kết thúc của anime. Các loại hình truyền thông. Manga được viết và minh họa bởi Nakatani Nio. Bắt đầu xuất bản định kỳ trên tạp chí hàng tháng của ASCII Media Works, "Dengeki Daioh" vào ngày và kết thúc vào ngày . "Tankōbon" tập tám và cuối của manga được phát hành vào tháng 11 năm 2019. Mô tả bộ truyện là có “…ảnh dễ thương và [một] chuyện tình đẹp,” Seven Seas Entertainment thông báo bản quyền manga phát hành tiếng Anh tại Bắc Mỹ vào ngày . Manga hiện được phát hành bằng tiếng Nhật, tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Trung phồn thể, tiếng Trung giản thể, tiếng Thái, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Việt. Tại Việt Nam, manga được IPM công bố bản quyền vào ngày 11 tháng 6 năm 2022 trên Facebook, và phát hành từ ngày 24 tháng 4 đến ngày 22 tháng 8 năm 2023. Trong bản tiếng Việt, cảnh quan hệ tình dục của Yu và Toko đã bị cắt. Manga được tái phát hành bản màu webtoon bởi ấn hiệu Tatesuku Comic của Kadokawa Future Publishing. Bắt đầu phát hành định kỳ trên BookWalker ngày . Một vở kịch nói chuyển thể từ manga đã trình diễn tại Nhật vào tháng 5 năm 2019. Vở kịch thứ hai, chuyển thể các sự kiện trong tiểu thuyết "Regarding Saeki Sayaka", trình diễn từ tháng 10 đến tháng 11 năm 2020. Một buổi diễn lại của vở kịch, với kịch bản được sửa lại để thêm các sự kiện của phần kết trong manga, được thông báo vào tháng 10 năm 2019 như là một phần của dự án "Curtain Call" sau khi kết thúc phát hành định kỳ manga. Nó được lên kế hoạch diễn trong mùa thu năm 2020, tuy nhiên, nó bị hoãn do đại dịch COVID-19. Vào tháng 7 năm 2022, buổi diễn lại được lên lịch trình diễn từ ngày 25 tháng 11 đến ngày 4 tháng 12 năm 2022, với dàn diễn viên cũ trở lại với vai của họ. Tính đến năm 2019, 1.000.000 bản được in tại Nhật. Nó đứng thứ 4 trên Next Manga Awards năm 2017 của Niconico và Da Vinci. Manga cũng được xếp hạng trên bảng xếp hạng manga hàng tuần của Oricon, với tập 4 được hạng 30 và tập 5 được hạng 21. Manga được xếp hạng 3 trong khảo sát "Manga được mong đợi làm Anime do người hâm mộ bình chọn" năm 2018 của AnimeJapan. Nhà sáng tạo "Sword Art Online" Kawahara Reki đã bày tỏ trong một cuộc trò chuyện với Nakatani và Kayano Ai (lồng tiếng cho Sayaka trong anime) rằng ông là fan của tác phẩm. Trong một khảo sát diễn ra vào tháng 4 năm 2022 bởi trang "Anime Anime", "Rồi Hoa Sẽ Nở" đứng thứ 3 về bộ anime mà người đọc muốn được tiếp tục. Erica Friedman, đánh giá "Rồi Hoa Sẽ Nở" trên cơ sở mỗi tập truyện, là người bình phẩm đầu tiên của bộ truyện. Friedman khen hình ảnh, tính đa dạng giới tính trong dàn nhân vật, và thiếu sự tin cậy vào fanservice, nhưng bày tỏ sự lo lắng với cách biểu đạt sốt sắng cảm xúc của Toko, và nhận thấy sự hồ nghi trong các cảnh hôn. Friedman cũng không thích cốt truyện lãng mạn dễ hiểu, cảm thấy rằng khả năng Yu là người vô tính hay vô ái không được xem xét. Tuy nhiên, Friedman khen tính cách của Sayaka và cốt truyện phụ của cô ấy trong manga, và việc bao gồm Riko và Miyako như tấm gương về một mối quan hệ đúng đắn. Cô mô tả nó là "hấp dẫn, hơn là giải trí" và hi vọng cốt truyện sau này giải được những phê bình của cô. Friedman sau này khen một cảnh trong tập 5 khi thấy Yu trở thành "một nhân vật chủ động trong câu chuyện" trong cảnh Yu thuyết phục Toko không phụ thuộc vào cô ấy để đáp ứng cho bản thân. Mặc dù vẫn thất vọng Yu không phải là "một nhân vật chính trong manga vô ái hiếm hoi," cô cuối cùng đã khen sự phát triển nhân vật của bộ truyện và cái kết. Michelle Smith của "Manga Bookshelf" đã viết rằng cô ban đầu coi lời tỏ tình đầu tiên của Toko là "không xứng đáng" nhưng những phát triển sau trong phần còn lại của tập đầu tiên đã thu hút được cô. Sean Gaffney cảm nhận rằng chân dung của Yu là một "sự hoán vị thú vị" và cho rằng tính cách của cô ấy giúp manga được phổ biến, nhưng cũng khen câu chuyện và dàn nhân vật nói chung, nói anh "ngạc nhiên vài lần từ đầu đến cuối." Rebecca Silverman của "Anime News Network" cho đánh giá tích cực tập đầu manga, nói rằng khả năng Yu là vô tính làm cho câu chuyện thú vị hơn, "nó cung cấp thứ gì đó như kiểu người đại diện có thể nhận diện cho một nhóm người được miêu tả không đúng cách và đặt tựa truyện này tách rời với thể loại của nó." Silverman suy xét rằng thử nghiệm giới tính của Yu với Toko suốt câu chuyện là hình ảnh phản chiếu của Nakatani viết bộ yuri đầu tiên của cô cũng như bộ truyện ra mắt của cô sau khi chủ yếu viết "dōjinshi", nói, "Cái chúng ta có thể đang xem là một tác giả đang thử nghiệm một thể loại mà cô ấy chưa hoàn toàn thoải mái". Cô cũng khen ngợi lựa chọn đặt câu chuyện trong một trường nam nữ học chung như là một "thay đổi tốt" từ các câu chuyện yuri khác, và nói rằng nó "không có trope 'mạnh mẽ'" (như trong "Citrus" hay ""). Tuy nhiên, Silverman gọi tranh và thiết kế nhân vật của Nakatani là đơn giản và "hơi chung chung", mặc dù cô khen nó "dễ đọc". Trong một bài viết cho tạp chí "Neo", Alex Jones khen anime chuyển thể là sự thám hiểm "xa rộng" về chủ đề của nó, trong sự tương phản với cách tiếp cận tập trung fan service của "Citrus" (bộ anime chuyển thể đã phát sóng cùng năm với "Rồi Hoa Sẽ Nở"). Jones đã khen việc thêm nhân vật Sayaka và cách bộ phim khám phá quá khứ của cô ấy, nói rằng nó nâng cao tính cách của cô vượt xa trope "phải lòng bạn thân không được đáp lại" thông thường, và cũng khen vai trò của Riko và Miyako trong việc giúp cô ấy thấy tự tin vào nhân dạng của cô. Đánh giá anime trong cùng ấn bản, Jones cảm thấy rằng đề tài vô ái chưa bao giờ "được tôn kính," và khen chủ đề nội quan của câu chuyện cũng như chất lượng của tác phẩm và cách diễn đạt nhân vật, nói anime "không bao giờ phụ thuộc vào việc cố ra vẻ 'dễ thương' trong hàm ý thông thường". Ghi chú phê bình duy nhất của Jones là anime chỉ cung cấp một "câu chuyện chưa hoàn chỉnh" không chuyển thể phần còn lại của manga. Các cây viết cho trang "Anime Feminist" cũng đánh giá anime chuyển thể. Trong một bài đánh giá của tập đầu, Vrai Kaiser nói tập đầu có "tất cả phẩm chất của một loại kịch tâm lý tình cảm lãng mạn tốt", mô tả là "nhịp điệu hơi chậm", và khen bộ lọc màu "nhấn mạnh vào thực vật và sự thay đổi của mùa." Tuy nhiên, họ nói rằng những người coi Yu là thuộc phổ vô tính/vô ái sẽ "thất vọng hoặc thậm chí tổn thương", nhưng khen bộ phim về hình ảnh, và hi vọng nó sẽ mở cửa cho "nhiều anime yuri dành cho khán giả đồng tính nữ." Trong bài đánh giá sau này, họ mô tả anime chuyển thể là "khá đẹp", mặc dù bày tỏ thích manga hơn. Alex Henderson, cây viết khác cho trang, thì tích cực hơn, nói rằng bộ phim có các trope thông thường trong yuri, đưa ra "đại diện đồng tính quan trọng" trong thế giới hư cấu, và mô tả bộ phim là có "đại diện cặp đôi đồng tính người lớn" không như các tựa đề yuri khác. Chủ đề và phân tích. Vô tính và vô ái. Nhiều nhà phê bình nói tiếng Anh đánh giá cả manga và anime đã làm sáng tỏ tính cách của Koito Yu, và việc bày tỏ sự thiếu hấp dẫn với Toko của cô ấy ở đầu câu chuyện, như gợi ý rằng cô ấy là vô tính hoặc vô ái (hoặc một số biến thể của chúng). Các bài đánh giá hoặc khen bộ truyện vì nhận thức đại diện của các nhân dạng vô tính luyến ái, hoặc chỉ trích nó là một miêu tả không thỏa đáng hay thất vọng. Natasha H., trong một bài viết cho "Crunchyroll", nói rằng câu chuyện né tránh mô tả Yu là "người đau khổ" và thể hiện cô ấy như một cá thể vô tính mà vẫn có khả năng đem lại mối quan hệ thỏa mãn với Toko. Trong "Neo", Alex Jones đã viết rằng trong khi cảm xúc của Yu ban đầu có thể hiện ra là vô ái, sự phát triển sau này trong cốt truyện gợi ý rằng cô ấy là á tính. Jones công nhận rằng điều này có thể "làm nản lòng" người đọc vô tính, nhưng nói rằng với sự thêm vào của Maki, bộ truyện đã tránh ngụ ý người vô ái là "đóa hoa nở muộn". Bauman đánh giá làn sóng đọc tác phẩm tăng lên là do anime chuyển thể đã không chuyển thể phần cốt truyện sau, đoạn mà Yu phát triển sự hấp dẫn giới tính dứt khoát vào Toko. Trong khi Bauman nói nó là "một lý lẽ hợp lý và dễ hiểu" nếu chỉ dựa trên anime, cô phủ nhận xu hướng đọc này, trích dẫn việc quảng bá tác phẩm là một chuyện tình thông thường và mô tả rõ ràng về sự hấp dẫn lãng mạn và tình dục ở cả hai mặt. Bauman cảm thấy rằng thất bại trong việc đáp lại sức hút của Toko ban đầu của Yu được quy cho là một "lỗi nhân vật" hơn là một biểu cảm của bất kì xu hướng cảm xúc không đúng tiểu chuẩn nào. Thêm vào đó, cô đã chỉ trích tính cách của Maki là tấm gương xấu của đại diện vô tính, nói rằng bộ truyện không công nhận tính thực tế của người vô tính và vô ái, những người "có thể có cuộc sống đầy ý nghĩa và những câu chuyện của riêng họ mà không nhất thiết liên quan đến tán tỉnh." Việc sử dụng các trope "yuri". Viết cho "Anime News Network", Nicki "YuriMother" Bauman gọi "Rồi Hoa Sẽ Nở" là "một trong những tác phẩm yuri thành công nhất," lưu ý vào thành công thương mại của nó và sự phổ biến với người đọc, cô nói nó "xứng đáng từng chút một". Mặc cho sự công nhận này, Bauman cũng chỉ trích bộ truyện. Trong khi cô nói nó thoát ra khỏi nhiều trope thường gắn liền với yuri, cô nói nó có nhiều trope yuri thông thường, mô tả nó là "một ví dụ về cấu trúc 'gái-gặp-gái' gần như theo sách vở". Bauman đã chỉ ra nhiều yếu tố cốt truyện, như là cốt truyện trường học và sự thu hút vào Toko của Sayaka, cũng bắt chước các câu chuyện khác ví dụ như "Maria-sama ga Miteru" và "Strawberry Panic!". Ý kiến chỉ trích khác là biểu cảm mạnh mẽ về tình cảm dành cho Yu của Toko, mô tả nó là một ví dụ về trope "nhân vật nữ đồng tính tà tâm", mà Bauman gọi là "một trong những trope có hại nhất của yuri". Mặc dù vậy, cô khen cách Nakatani thoát khỏi truyền thống "tình yêu đồng giới nhất thời" do những câu chuyện Class S lập ra trong việc mô tả Yu và Toko quan hệ tình dục và trở thành một cặp đôi khi đã trưởng thành (mặc dù cô ghi chú rằng "Kisses, Sighs, and Cherry Blossom Pink" và "Kase-san" đã phá vỡ các quy tắc này rồi). Trong bài viết cho "Anime Feminist", Alex Henderson cũng khen phần phát triển tính cách của Sayaka, sự mô tả mối quan hệ của Riko và Miyako, và vai trò của họ trong câu chuyện của cô ấy, cũng lo lắng cấu trúc "chỉ là nhất thời" của các trope Class S. Bauman đồng tình với Henderson, thêm vào việc khen câu chuyện của Sayaka trong bộ tiểu thuyết ăn theo, và mô tả Riko và Miyako là "hình tượng người lớn đồng tính dẫn lối cho thế hệ tiếp theo".
Lục quân Nhân dân Triều Tiên Lục quân Nhân dân Triều Tiên (KPAGF; Tiếng Triều Tiên: ; Hancha: ; Romaja: "#đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. ") là nhánh chính của Quân đội Nhân dân Triều Tiên, chịu trách nhiệm về hoạt động quân sự trên đất liền.
Núi Chư Đang Ya Chư Đang Ya là một tổ hợp 3 ngọn núi lửa nhỏ nằm sát nhau ở Chư Đang Ya, thuộc địa phận làng Ploi lagri, xã Chư Đang Ya, huyện Chư Păh, Gia Lai. Tổ hợp núi lửa này nằm trong Tổ hợp núi lửa Tây Nguyên, có độ cao cao nhất là khoảng 500m. Khoảng hơn 200tr năm trước, dung nham ở khu vực này đã tìm phun trao lên qua nhiều nơi, một trong số đó là núi Chư Đang Ya. Núi lửa hình thàng trong khoảng 10.000 năm, lấn phun trào gần nhất là khoảng 10,000 năm trước. Có ba miệng chính, cao nhất là miệng số 1 (975m so với mục nước biển). Núi lửa này là tổ hợp của phun nổ và phun trào, hình thành nhiều bom dung nham và đá dung nham.
Bãi chôn lấp, còn được gọi là bãi đổ chất thải, bãi chứa chất thải, bãi thải hay chung chung là bãi rác, () là một địa điểm xử lý chất thải bằng cách chôn lấp. Bãi chôn lấp là hình thức xử lý chất thải lâu đời nhất và phổ biến nhất, mặc dù việc chôn lấp chất thải có hệ thống bằng các lớp phủ hàng ngày, lớp trung gian và lớp phủ cuối cùng chỉ mới xuất hiện từ những năm 1940. Trước đó, rác thải bị chất thành đống hoặc vứt xuống hố. Một số bãi chôn lấp được sử dụng trong quy trình quản lý chất thải lớn hơn, chẳng hạn dùng để chứa tạm thời chất thải, hoặc là để tập trung một chỗ rồi vận chuyển đi, hoặc là để tiến hành các giai đoạn xử lý chất thải khác nhau, chẳng hạn như phân loại rác, xử lý rác hoặc tái chế rác. Các bãi chôn lấp có thể bị rung chuyển nghiêm trọng hoặc đất bị hóa lỏng nếu xảy ra động đất mà không có các công nghệ để ổn định bãi. Khi bãi đã đầy thì phần diện tích bên trên bãi chôn lấp có thể được thu hồi để sử dụng cho mục đích khác. Tác động xã hội và môi trường. Các bãi chôn lấp có nguy cơ gây ra một số vấn đề cho xã hội và môi trường. Xe tải hạng nặng chở chất thải có thể gây hư hỏng đường sá và từ đó gây gián đoạn cơ sở hạ tầng. Nạn ô nhiễm đường sá và nguồn nước địa phương do chất bẩn dính trên bánh xe của các phương tiện chở chất thải khi chúng rời khỏi bãi chôn lấp có thể hết sức nghiêm trọng nhưng có thể được giảm thiểu bằng hệ thống rửa bánh xe. Ô nhiễm môi trường nơi có bãi chôn lấp có thể ở nhiều hình thức như ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm tầng ngậm nước hoặc ô nhiễm đất. Khi có mưa tại các bãi chôn lấp lộ thiên, nước sẽ thấm qua chất thải và bị nhiễm bẩn bởi các chất lơ lửng và hòa tan, tạo thành một thứ gọi là nước rỉ rác. Nếu không được ngăn chặn, nước rỉ rác thấm xuống có thể làm ô nhiễm nguồn nước ngầm. Các bãi chôn lấp được xem là hiện đại đều phải được xây dựng ở những nơi ổn định về mặt địa chất, sử dụng kết hợp các lớp lót không thấm nước dày đến vài mét, kết hợp với hệ thống thu gom để chứa và thu giữ nước rỉ rác này. Sau đó, tiếp tục xử lý nước rỉ rác hoặc để bay hơi. Khi bãi chôn lấp đã đầy, người ta sẽ bịt kín bãi để ngăn chặn nước mưa gây hình thành nước rỉ rác mới. Tuy nhiên, lớp lót phải đạt độ bền từ vài trăm năm trở lên. Cuối cùng, vì bất kỳ lớp lót bãi chôn lấp nào cũng có thể bị rò rỉ, nên mặt đất xung quanh bãi chôn lấp phải được kiểm tra nước rỉ rác để ngăn chặn các chất ô nhiễm làm ô nhiễm nước ngầm. Thức ăn nói riêng cũng như các chất thải hữu cơ nói chung khi phân hủy sẽ tạo ra nhiều loại khí phân hủy, đặc biệt là CO2 và CH4 từ quá trình phân hủy hiếu khí và kỵ khí. Cả hai quá trình này xảy ra đồng thời ở các địa điểm khác nhau trong cùng một bãi chôn lấp. Ngoài lượng O2 sẵn có, tỷ lệ thành phần khí sẽ khác nhau, tùy thuộc vào thời gian chôn lấp, loại chất thải, độ ẩm và các yếu tố khác. Ví dụ, lượng khí bãi rác tối đa được tạo ra có thể được minh họa bằng phản ứng ròng đơn giản hóa sau đây của diethyl oxalate, nhằm giải thích cho các phản ứng đồng thời này: 4 C6 H10 O4 + 6 H2O → 13 CH4 + 11 CO2 Tính trung bình thì khoảng một nửa nồng độ thể tích của khí phân hủy là CH4 và gần một nửa còn lại là CO2 . Khí này cũng chứa khoảng 5% nitơ phân tử (N2), dưới 1% hydro sunfua (H2S) và một nồng độ thấp các hợp chất hữu cơ không chứa metan (NMOC), cỡ khoảng 2700 ppmv. Khí phân hủy có thể thoát ly khỏi bãi rác rồi hòa vào không khí và đất xung quanh. Khí mê-tan là một loại khí nhà kính, dễ cháy và có khả năng gây nổ ở nồng độ nhất định, điều này khiến nó trở nên hoàn hảo để đốt nhằm tạo ra nguồn điện sạch. Vì quá trình phân hủy thực vật và chất thải thực phẩm chỉ giải phóng lượng carbon vốn dĩ đã được thu giữ từ khí quyển thông qua quá trình quang hợp trước đó nên không có carbon mới nào đi vào chu trình carbon và nồng độ CO2 trong khí quyển không bị ảnh hưởng. Carbon dioxide giữ nhiệt trong khí quyển, góp phần gây ra biến đổi khí hậu. Tại các bãi chôn lấp được quản lý hợp lý thì người ta thu các loại khí phân hủy và đốt hoặc thu hồi để dùng vào việc khác. Sinh vật trung gian truyền bệnh. Các bãi chôn lấp vận hành kém có thể trở thành cứ điểm của các sinh vật trung gian truyền bệnh như chuột và ruồi, và chúng có thể lây lan nhiều bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Một cách để giảm bớt sinh vật trung gian là sử dụng lớp phủ hàng ngày . Các nguy cơ khác. Ở những nơi mà con người chiếm giữ dần môi trường sống của động vật hoang dã, sức khỏe của một số loài động vật có thể bị ảnh hưởng do chúng chuyển sang tiêu thụ chất thải từ các bãi chôn lấp. Ngoài ra, bãi chôn lấp còn có thể gây ra tình trạng bụi, mùi hôi thối, ô nhiễm tiếng ồn và làm giảm giá trị bất động sản khu vực xung quanh.
Chuồng ngựa () là một công trình xây dựng dùng để nuôi nhốt ngựa. Hàm ý của từ "stable" này thường là để chỉ một khu chuồng trại được phân chia thành từng ô nuôi nhốt riêng biệt, mỗi ô nhốt một con ngựa. Ngày nay có nhiều loại chuồng ngựa khác nhau, ví dụ: chuồng ngựa kiểu Mỹ là khu chuồng lớn có cửa ở mỗi đầu của khu, bên trong là các ô riêng lẻ. Thiết kế ngoại thất của chuồng ngựa rất đa dạng tùy theo khí hậu, vật liệu xây dựng, giai đoạn lịch sử và văn hóa. Có nhiều loại vật liệu xây dựng dùng để xây chuồng ngựa, bao gồm gạch xây, đá xây, gỗ và thép. Quy mô cũng rất đa dạng, từ một chuồng ngựa chỉ một hay hai con đến các khu chuồng trại to lớn thuộc về các khu triển lãm nông nghiệp hoặc khu đường đua ngựa, nơi có sức chứa có thể lên đến hàng trăm con. Chuồng ngựa thường là một phần của khu phức hợp lớn hơn bao gồm khu ở của người huấn luyện ngựa, khu ở của người nuôi ngựa và trạm thú y. Trong lịch sử, chuồng ngựa thường được xem là loại công trình xây dựng lâu đời thứ hai, chỉ xếp sau công trình trang trại. Chuồng ngựa lâu đời nhất thế giới là tại thành cổ Pi-Ramesses ở Qantir, Ai Cập cổ đại, được lập ra dưới triều vua Ramesses II (khoảng 1304–1213 trước Công nguyên). Những chuồng ngựa này có diện tích khoảng gần 17.000 mét vuông, có sàn dốc để thoát nước và có thể chứa khoảng 480 con ngựa. Chuồng thả ngựa tự do bắt đầu xuất hiện từ thế kỷ 16. Loại chuồng này hay đặt gần nhà ở vì thời này ngựa được coi là loài vật có giá trị cao và được chăm sóc cẩn thận.Chuồn ngựa từng giữ vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thời cổ và là thước đo địa vị xã hội của chủ sở hữu chúng trong cộng đồng dân cư. Ngày nay còn sót lại tương đối ít các chuồng ngựa giữ được nội thất hoàn chỉnh (tức là có chuồng, máng ăn và giá đựng thức ăn) từ giữa thế kỷ 19 hoặc sớm hơn.
Triển khai của ngôn ngữ lập trình Trong lập trình máy tính, một triển khai của ngôn ngữ lập trình là một hệ thống để thực thi chương trình máy tính. Có hai cách tiếp cận chung để triển khai một ngôn ngữ lập trình: Một trình thông dịch gồm hai phần: một trình phân tích cú pháp và một trình đánh giá. Sau khi chương trình được đọc bởi trình thông dịch, nó được xử lý bởi trình phân tích cú pháp. Trình phân tích cú pháp chia chương trình thành các thành phần ngôn ngữ để tạo thành cây phân tích cú pháp. Trình đánh giá sau đó sử dụng cây phân tích cú pháp để thực thi chương trình. Một máy ảo là một loại trình thông dịch đặc biệt để thực thi bytecode. Bytecode là một mã di động cấp thấp tương tự như mã máy, mặc dù nó thường được thực thi bởi máy ảo thay vì một máy vật lý. Để cải thiện độ hiệu quả, nhiều ngôn ngữ lập trình như Java, Python, và C# được biên dịch thành bytecode trước khi được thông dịch. Trình biên dịch just-in-time. Một số máy ảo bao gồm trình biên dịch just-in-time (JIT) để cải thiện hiệu quả thực thi bytecode. Trong khi bytecode đang được thực thi bởi máy ảo, nếu trình biên dịch JIT xác định rằng một phần bytecode sẽ được sử dụng nhiều lần thì nó sẽ biên dịch phần cụ thể đó thành mã máy. Sau đó, trình biên dịch JIT lưu mã máy vào bộ nhớ để máy ảo có thể sử dụng. Trình biên dịch JIT cố gắng đạt được sự cân bằng giữa thời gian biên dịch dài hơn và thời gian thực thi nhanh hơn. Một trình biên dịch dịch một chương trình được viết bằng một ngôn ngữ sang ngôn ngữ khác. Hầu hết các trình biên dịch được tổ chức thành ba giai đoạn: phần front-end, trình tối ưu hóa và phần back-end. Phần front-end chịu trách nhiệm hiểu chương trình. Nó đảm bảo chương trình hợp lệ và biến nó thành một biểu diễn trung gian (intermediate representation), một cấu trúc dữ liệu được trình biên dịch sử dụng để biểu diễn chương trình. Trình tối ưu hóa cải thiện cách biểu diễn trung gian để tăng tốc độ hoặc giảm kích thước của tệp thực thi mà trình biên dịch tạo ra sau cùng. Phần back-end chuyển đổi biểu diễn trung gian đã được tối ưu hóa thành ngôn ngữ đầu ra của trình biên dịch. Nếu trình biên dịch của một ngôn ngữ bậc cao nhất định tạo ra một ngôn ngữ bậc cao khác thì nó được gọi là trình chuyển mã. Trình chuyển mã có thể được sử dụng để mở rộng các ngôn ngữ hiện có hoặc để đơn giản hóa việc phát triển trình biên dịch bằng cách khai thác các triển khai di động và được tối ưu hóa tốt của các ngôn ngữ khác (chẳng hạn như C). Có thể có nhiều sự kết hợp giữa thông dịch và biên dịch và nhiều cách triển khai ngôn ngữ lập trình hiện đại bao gồm các đặc điểm của cả hai. Ví dụ: ngôn ngữ lập trình Smalltalk được triển khai theo quy ước bằng cách biên dịch thành bytecode, sau đó được thông dịch hoặc biên dịch bởi một máy ảo. Vì bytecode Smalltalk được chạy trên máy ảo nên nó có thể được thực thi trên các nền tảng phần cứng khác nhau. Ngôn ngữ lập trình có thể có nhiều triển khai. Các triển khai khác nhau có thể được viết bằng những ngôn ngữ khác nhau và có thể sử dụng nhiều phương thức để biên dịch hoặc thông dịch mã. VÍ dụ, các triển khai của Python bao gồm: = Liên kết ngoài =
Lòng tin, còn gọi là sự tín thác, sự tin cậy (), là sự sẵn lòng của một bên (gọi là người tín thác) để trở nên dễ bị tổn thương trước một bên khác (gọi là người được tín thác) dựa trên giả định rằng người được tín thác sẽ hành động theo cách có lợi cho người tín thác. Ngoài ra, người tín thác không có quyền kiểm soát hành động của người được tín thác. Các học giả phân biệt giữa lòng tin tổng quát (còn được gọi là lòng tin xã hội, là sự mở rộng lòng tin ra một phạm vi nhóm người tương đối lớn gồm những người không quen biết) với niềm tin cụ thể, tùy thuộc vào một tình huống cụ thể hoặc một mối quan hệ cụ thể. Do người tín thác không biết chắc chắn về kết quả hành động của người được tín thác, nên người tín thác chỉ có thể vun đắp và đánh giá các kỳ vọng. Những kỳ vọng như vậy được hình thành dựa trên động cơ của người được tín thác, tùy thuộc vào đặc điểm, tình huống và sự tương tác của họ. Tính không chắc chắn bắt nguồn từ nguy cơ thất bại hoặc nguy cơ gây tổn hại cho người tín thác nếu người được tín thác không hành xử như kỳ vọng hay mong đợi của người tín thác. Trong khoa học xã hội, sự tinh tế của lòng tin là một chủ đề được nghiên cứu liên tục. Trong xã hội học và tâm lý học, mức độ mà một bên tin tưởng bên kia chính là thước đo niềm tin vào sự trung thực, sự công bằng hoặc lòng nhân từ của bên kia. Sự sứt mẻ lòng tin có thể dễ được người ta tha thứ hơn nếu nguyên nhân của việc đó xuất phát từ sự thất bại về năng lực, hơn là xuất phát từ sự lừa dối (thiếu trung thực) hay thiếu nhân từ. Trong kinh tế học, lòng tin thường được khái niệm hóa là mức độ tin cậy trong giao dịch. Trong mọi trường hợp, lòng tin là một quy tắc quyết định dựa theo kinh nghiệm, cho phép một người đối phó với những vấn đề phức tạp đòi hỏi nỗ lực phi thực tế trong lý luận hợp lý. Lòng tin xã hội. Có bốn loại lòng tin xã hội được công nhận:
Chạy vượt rào () là môn thể thao trong đó vận động viên nhảy qua chướng ngại vật ở tốc độ cao hoặc trong một chặng chạy nước rút. Vào đầu thế kỷ 19, vận động viên chạy vượt rào chạy nhảy qua từng chướng ngại vật, tiếp đất bằng cả hai chân và kiểm tra chuyển động hướng về phía trước của họ. Ngày nay, bước chạy phổ biến là 3 bước cho rào cản cao, 7 bước cho rào cản thấp và 15 bước cho rào cản trung bình. Chạy vượt rào là một hình thức đua vượt chướng ngại vật mang tính chuyên môn cao và là một phần của bộ môn điền kinh. Trong các cuộc thi chạy vượt rào, vấn đề độ cao cũng như khoảng cách giữa các chướng ngại vật (rào cản) được người ta lưu tâm chính xác. Mỗi vận động viên phải nhảy qua các chướng ngại vật; nếu luồn bên dưới hoặc cố tình làm đổ rào thì sẽ bị loại. Trên các chặng đường đua, độ cao của rào thường là , tùy thuộc vào độ tuổi và giới tính của vận động viên. Các nội dung thi đấu từ 50 đến 110 mét về mặt kỹ thuật được gọi là cuộc đua vượt rào cao, trong khi các cuộc thi dài hơn là cuộc đua vượt rào thấp. Chạy vượt rào diễn ra trong các cuộc thi chạy nước rút. Kỹ thuật vượt rào cũng có trong môn , dù rằng với môn này thì các vận động viên lại được phép giẫm lên chướng ngại vật để vượt qua. Tương tự, vận động viên chạy việt dã cũng có thể vượt qua nhiều chướng ngại vật tự nhiên khác nhau trong suốt chặng thi của họ, chẳng hạn như khúc gỗ, gò đất và suối nhỏ. Đua ngựa có một biến thể là môn đua ngựa vượt rào với nguyên tắc tương tự môn chạy vượt rào.
Schlierach là một con suối ở Bayern, Đức. Nước chảy vào suối này là từ Hồ Schliersee, nó chảy vào Mangfall gần Weyarn. Suối chảy từ hồ Schliersee ở Schliersee từ phía bắc của bán đảo Freudenberg và chảy về phía bắc qua Hausham, Agatharied und Miesbach vào sông Mangfall, ở cây số 45,72 của sông này. Nó chảy được 1 quảng đường dài 13,1 km.
Đại Lâm Linh (hay Đại – Lâm – Linh với dấu gạch nối giữa các tên) là một nhóm nhạc Việt Nam thành lập vào năm 2006, với ba thành viên gồm nhạc sĩ Ngọc Đại, hai ca sĩ Thanh Lâm và Linh Dung. Theo đuổi dòng nhạc thể nghiệm dựa trên chất liệu dân gian, nhóm nhạc từng là tâm điểm của những tranh cãi xoay quanh các bài hát cùng lối biểu diễn của nhóm, trong đó đáng chú ý là lần biểu diễn trên sân khấu chương trình "Bài hát Việt". Một bộ phim tài liệu về nhóm đã được đạo diễn người Đức Barley Norton thực hiện và công chiếu vào năm 2010. 2006–2009: Hình thành và phát triển. Cả đêm diễn là một thứ âm nhạc mới lạ, đan cài thêm nhiều ưu thế của các nghệ thuật khác tạo ra một không khí có phần hoang mang, sợ hãi. Nhưng liệu những gì mà nhóm Đại - Lâm - Linh cống hiến hôm nay có được coi là những đột phá trong âm nhạc hay chỉ là cách xa rời công chúng? Liệu có đọng lại được gì trong tâm khảm người xem, người nghe và có được chấp nhận hay không - xem ra vẫn là con đường chông gai phía trước. Thanh Mai, viết trên báo "Công an nhân dân" năm 2008 về đêm hội "Mùa xuân nước Pháp" Nhóm ban đầu thành lập vào năm 2006 bởi nhạc sĩ Ngọc Đại. Trước đó, ông từng được biết đến với phong cách thể nghiệm qua hai dự án "Nhật thực 1" (2002) và "Nhật thực 2" (2004). Hai ca sĩ Thanh Lâm và Linh Dung đã được ông chọn làm thành viên của nhóm. Linh Dung là một ca sĩ được đào tạo bài bản về âm nhạc, từng trình diễn tại SEA Games 2003. Còn Thanh Lâm là một giáo viên hóa quê ở Bắc Ninh, đã tự sáng tác một số nhạc phẩm theo phong cách của Ngọc Đại và học nhạc với ông từ năm 2001. Tên nhóm Đại Lâm Linh được sáng tạo ra bằng việc ghép tên cuối hoặc đầu của các thành viên lại với nhau. Số tiền để nhóm hoạt động đều bắt nguồn từ 60.000 Euro của Ngọc Đại mà ông được vợ hai là người Bỉ đưa cho để làm vốn khởi nghiệp. Lần đầu tiên nhóm ra mắt trước khán giả là vào đầu năm 2008, trong buổi biểu diễn Ngày Thơ Việt Nam Xuân Đinh Hợi ở khuôn viên Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Tới tháng 5 năm 2008, nhóm tiếp tục góp mặt tại khai mạc chương trình "Mùa xuân nước Pháp", tổ chức bởi Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội. Màn trình diễn của Đại Lâm Linh ngay từ ở "Mùa xuân nước Pháp" đã nhanh chóng trở thành tâm điểm của những chú ý, với "cách hát, cách diễn đã… điên loạn hơn [so với lần biểu diễn trước]. Ánh đèn sân khấu được sử dụng đầy ý đồ, khi thì nhấp nháy, khi thì phụt tắt. Những tiếng hú hét, than khóc, những lời thì thầm, những câu nhấm nhẳng vô nghĩa được hai ca sĩ thể hiện ở nhiều âm độ". Được sự ủng hộ của Trung tâm Văn hóa Pháp, ngày 18 tháng 4 năm 2009, Đại Lâm Linh đã tổ chức buổi công diễn đầu tiên tại Nhà hát Lớn Hà Nội trước sự tham dự của khoảng 500 khán giả theo dõi, phần đáng kể là những người nước ngoài, giới trí thức, văn nghệ sĩ. Chương trình kéo dài trong hai giờ không nghỉ, với tổng cộng 13 sáng tác của Ngọc Đại được biểu diễn. Buổi công diễn đã thành công nhận được tràng vỗ tay "bùng nổ" của khán giả, nhưng không ít trong số đó vẫn hoài nghi về một lối chơi quá "mới mẻ, quái lạ" của nhóm. Một album đầu tay của nhóm mang tên "Đại Lâm Linh" cũng được phát hành dưới dạng đĩa CD song song thời điểm diễn ra sự kiện. Đây được xem là nhóm nhạc đương đại đầu tiên phát hành album và tổ chức chương trình riêng. 2010–2013: Xuất hiện tại "Bài hát Việt" và những tranh cãi xung quanh. Vào ngày 27 tháng 6 năm 2010, nhóm đã góp mặt trong live show quý "Bài hát Việt" của Đài Truyền hình Việt Nam, phát sóng trên kênh VTV3. 4 bài hát được chọn để biểu diễn gồm "Dệt tầm gai", "Nuối tiếc", "Mùa đông" và "Cây nữ tu". Live show của nhóm lên sóng trực tiếp từ Nhà hát Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã ngay lập tức gây nên một làn sóng dư luận gay gắt. Chỉ ngay tại khán đài, nhiều khán giả được ghi nhận đã bỏ về trước cả khi chương trình hết. Nhưng có những nguồn ghi nhận khán giả vẫn ngồi xem đến hết tiết mục của Đại Lâm Linh và ra về sau khi kết thúc. Sau buổi lên sóng này, hàng loạt tờ báo đã đưa tin về chương trình, trong đó nhấn mạnh "ấn tượng quá mạnh" mà Đại Lâm Linh để lại. Có bài viết đã liệt hẳn nhóm vào hàng "thảm họa" của showbiz Việt. Các nhà quản lý và người trong nhà đài cũng lần lượt lên tiếng với thái độ trái chiều nhau trước màn trình diễn của nhóm nhạc. Vô số người dùng trên mạng xã hội thì lập hội và đăng tải các bài viết phản đối nhóm kịch liệt, dùng những bình luận công kích nhóm nhạc như "Thất kinh với Đại Âm binh" hay "Người điên hát nhạc âm phủ". Câu hỏi xoay quanh trách nhiệm của nhà đài khi cho phát sóng live show của Đại Lâm Linh đã thu hút nhiều ý kiến khác nhau. Nhìn chung, họ cho rằng VTV đã không cân nhắc chọn lựa một thể loại âm nhạc phù hợp với số đông đại chúng để phát sóng trên truyền hình. Một ca khúc có lời nhạc nhạy cảm về phụ nữ cũng được chỉ ra, cho thấy sự thiếu kỹ lưỡng ở khâu kiểm duyệt chương trình. Vấn đề thu thanh trên sân khấu đồng thời được coi là nguyên nhân khiến việc truyền tải ca khúc gây những phản ứng tiêu cực cho người xem. Nhưng với các ý kiến ủng hộ Đại Lâm Linh, họ nhận xét màn trình diễn của nhóm là "sáng tạo rất "đã"" và khen ngợi nhóm nhạc trong nỗ lực làm mới âm nhạc Việt, đồng thời kêu gọi khán giả Việt tôn trọng thể nghiệm của nghệ sĩ. Số còn lại thì phân vân giữa việc nên coi nhóm là "Tiên phong hay tội đồ", là "Thảm họa hay luồng gió mới" của nền âm nhạc trong nước. Chỉ hai ngày sau buổi biểu diễn đầu tiên, nhóm đã tiếp tục trình diễn 3 buổi tại Trung tâm Văn hóa Pháp Hà Nội từ ngày 29 tháng 6. Các buổi diễn đã ghi nhận thu hút rất đông người xem, đa số là vì tò mò. Tới ngày 22 tháng 12 năm 2010, Đại Lâm Linh được Đại sứ quán Đan Mạch mời biểu diễn trong chương trình âm nhạc mở "Thực nghiệm nhạc hát đương đại Việt Nam – Đan Mạch 2010", với sự tài trợ từ Quỹ Giao lưu và phát triển văn hóa Đan Mạch (CDEF). Một số nghệ sĩ từ Đan Mạch và từ Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam đã tham gia cộng tác với nhóm tại đêm diễn tại Nhà hát Chèo Việt Nam. Sau những dự án này, một thời gian sau đó nhóm ít hoạt động và dần khá im ắng. Tính đến đầu năm 2013, trong một cuộc phỏng vấn, nhạc sĩ Ngọc Đại cho biết nhóm "gần như chấm dứt" vì đã không còn tiền làm dự án và cơ hội để tiếp tục biểu diễn. Thể loại nhạc chủ đạo mà nhóm theo đuổi là Thể nghiệm, với âm hưởng nhạc dân tộc pha trộn cách biểu diễn đương đại phương Tây. Những chất liệu dân gian Việt Nam như tuồng, chèo, ca trù cùng nhạc cụ là đàn tranh, đàn đáy được kết hợp với các nhạc cụ phương Tây gồm guitar điện, contrebasse. Các thành viên trong nhóm đều cạo trọc đầu khi biểu diễn. Cả ba hoạt động hát, múa, nhảy được kết hợp lại thành một và hai ca sĩ Thanh Lâm – Dung Linh sẽ biểu diễn trước người xem, còn Ngọc Đại đứng sau đảm trách phần âm nhạc và hòa âm phối khí. Theo báo "Tuổi Trẻ", âm nhạc của nhóm mang hơi hướm của "tôn giáo, thổn thức nhịp đập siêu thực, mời gọi tình yêu thương và dẫn dắt đến sự hồi sinh". Tất cả các tác phẩm của nhóm đều rất cũ và lấy từ album trước đó của Ngọc Đại, với bài sáng tác gần nhất là vào 1998. Hầu hết những bài hát này đều phổ thơ từ các nhà thơ nổi tiếng khác nhau như Vi Thùy Linh, Nguyễn Trọng Tạo và nhạc sĩ chỉ phối lại nó theo hướng "chát chúa" hơn. Tiêu chí của nhóm nhạc là "phá vỡ" sự ổn định nhằm đem lại những năng lượng mới cho khán giả. Mỗi đêm diễn khác nhau sẽ là những lần thể nghiệm với nhac cụ mới như saxophone hay tiếng động thực như tiếng tụng kinh gõ mõ, tiếng hét, hú... vì vậy ngoài cách thể hiện, lối diễn của hai ca sĩ là một hệ thống dày đặc các chất liệu âm nhạc mang tính ngẫu hứng và gần như độc lập với lời hát trên sân khấu. Nhận định và di sản. Đại Lâm Linh đã trở thành nhóm nhạc tiên phong và thu hút một bộ phận đại chúng tiếp cận dòng nhạc thể nghiệm đương đại tại Việt Nam. Với hướng đi "Phá vỡ những định kiến thẩm mỹ – Chế giễu những điều cấm kỵ – Không thụ động tiếp thu những yếu tố ngoại lai", nhóm đã nhiều lần gây "sốc" cho không chỉ cho giới trẻ và khán giả đại chúng mà còn cả những người trong ngành và quản lý văn hóa, văn nghệ Việt Nam. Nhưng dù gây tranh cãi với lối biểu diễn, nhiều người vẫn công nhận sự công phu và đầu tư của nhóm trong các khâu từ giọng hát đến những lớp âm nhạc phức tạp đan xen vào nhau. Nhận xét về nhóm, giới phê bình đã có những quan điểm trái chiều. Cây bút Trí Minh viết cho tờ "Công an nhân dân" nhìn nhận Đại Lâm Linh đã thành công "chạm được tới khoảng giữa tinh tế nhất của những khối âm thanh" và coi đây là bước nối dài của nhạc sĩ Ngọc Đại sau các thể nghiệm đơn lẻ "thất bại" trước đó vì sự không phù hợp trong định hướng phong cách với các nghệ sĩ cộng tác. Người viết cho rằng những khối âm thanh cùng ca từ vượt ra khỏi những định nghĩa và phân loại thông thường của một ca khúc, được tạo ra từ những thử nghiệm đặc sắc với thang âm và sự tự nhiên trong hình thể, đã khiến "sự sáng tạo đắm đuối [của Đại Lâm Linh] đáng được trân trọng, đáng được thưởng thức". Nhưng trong một nhận xét tiêu cực, Tân Thanh của "Sức khỏe và Đời sống" lại xem Đại Lâm Linh là một "thất bại", trái ngược hoàn toàn với thành công trước đó trong "Nhật thực". Tác giả so sánh nhóm như một "món đồ hộp phương Tây [...] dán nhãn cách tân khá lòe loẹt, nhưng thiếu hương vị như trong "Nhật thực""; nhận định sự thiếu hài hòa giữa cảm xúc trình diễn và cảm xúc âm nhạc đã làm tiêu tán tinh thần âm nhạc chủ đạo mà Ngọc Đại đang hướng tới. Ăn theo sự nổi tiếng của nhóm nhạc qua những vụ lùm xùm, một vài tờ báo, nhân sự kiện Giải thưởng Cống hiến lần thứ 5 sắp diễn ra năm 2011, đã tung tin rằng Đại Lâm Linh sẽ đoạt giải Công hiến đặc biệt – được lập ra lần đầu tiên dành cho nghệ sĩ hoặc nhóm nhạc để lại dấu ấn mạnh nhất với môi trường âm nhạc. Tin tức này đã gây ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ từ nhiều người, chỉ trích cách trao giải của ban tổ chức. Đại diện đơn vị tổ chức giải sau đó phủ nhận thông tin trên và nhấn mạnh rằng đây chỉ là trò đùa ngày Cá tháng Tư. Trước đó, nhóm từng bị nhại lại nhằm chế giễu trong chương trình "Táo quân 2011", với màn biểu diễn của nhiều nghệ sĩ khác nhau. Vào năm 2010, đạo diễn và nhà nghiên cứu người Đức Barley Norton đã phát hành bộ phim tài liệu về nhóm nhạc mang tên "Hanoi Eclipse: The Music of Dai Lam Linh" (tiếng Việt: "Hà nội Nhật thực: Nhạc của Đại Lâm Linh"). Với thời lượng dài 56 phút, phim kể lại hành trình sáng tạo của nhóm ở dòng âm nhạc thể nghiệm và những cản trở vấp phải trên con đường tiếp cận tới khán giả Việt Nam. Tác phẩm đã ra mắt tại nhiều liên hoan phim trên thế giới, đồng thời nhận về phần lớn lời tán dương từ các cây bút nghiên cứu quốc tế.
Thuốc gây mê dạng hít Thuốc gây mê dạng hít hay thuốc gây mê qua đường hô hấp là một hợp chất hóa học có đặc tính gây mê toàn thân được đưa vào cơ thể đường hô hấp thông qua mask thanh quản hoặc ống nội khí quản nối với bình bốc hơi thuốc mê và hệ thống phân phối thuốc gây mê. Các thuốc hay dùng là các chất gây mê dễ bay hơi như isoflurane, sevoflurane và desflurane, và một số loại khí gây mê như dinitơ monoxide và xenon. Danh sách thuốc gây mê dạng hít. Các dược chất đã sử dụng trước đây. Mặc dù một vài dược chất vẫn được sử dụng trong thực hành lâm sàng và nghiên cứu, các chất gây mê sau đây đã từng chủ yếu được sử dụng ở các nước phát triển: Thuốc gây mê dễ bay hơi. Các chất gây mê dễ bay hơi có đặc tính là chất lỏng ở nhiệt độ phòng, nhưng dễ bay hơi khi sử dụng qua đường hô hấp. Các loại thuốc gây mê dễ bay hơi được sử dụng ở các nước phát triển hiện nay bao gồm: Desflurane, isoflurane và sevoflurane. Các thuốc mê khác được sử dụng rộng rãi trước đây là ether, chloroform, enflurane, halothane, methoxyflurane. Tất cả các thuốc này đều có chung đặc tính là kỵ nước (nghĩa là ở dạng chất lỏng, chúng không thể hòa tan hoàn toàn với nước và ở dạng khí, chúng hòa tan trong dầu tốt hơn trong nước). Thuốc mê dễ bay hơi lý tưởng là thuốc gây mê khả năng khởi mê và duy trì quá trình gây mê toàn thân một cách nhẹ nhàng và tác động của thuốc mê lên các hệ cơ quan không phải mục tiêu của cuộc gây mê là tối thiểu. Ngoài ra, thuốc không có mùi hoặc dễ chịu khi hít vào; an toàn cho mọi lứa tuổi và trong thai kỳ; không bị chuyển hóa; khởi mê và thoát mê nhanh chóng; tác dụng mạnh mẽ; an toàn khi tiếp xúc với nhân viên phòng mổ; và có thời hạn bảo quản lâu dài. Thuốc mê cũng phải rẻ; dễ dàng vận chuyển và lưu trữ; dễ quản lý và giám sát với trang thiết bị phòng mổ tiêu chuẩn; ổn định với ánh sáng, nhựa, kim loại, cao su và vôi soda; không cháy và an toàn với môi trường. Do đó, không có bất cứ thuốc mê nào hiện đang được sử dụng là thuốc mê lý tưởng, mặc dù nhiều thuốc đã có một số đặc điểm mong muốn. Ví dụ, Sevoflurane dễ chịu khi hít vào và khởi mê cũng như thoát mê nhanh chóng. Thuốc cũng an toàn cho mọi lứa tuổi. Tuy nhiên, thuốc rất đắt tiền (đắt hơn khoảng 3 đến 5 lần so với isoflurane) và độ mạnh bằng khoảng một nửa so với isoflurane. Các loại khí hoặc hơi khác gây mê toàn thân bằng cách hít phải bao gồm dinitơ oxide, cyclopropan và xenon. Thuốc được lưu trữ trong bình chứa khí và được kiểm soát bằng lưu lượng kế thay vì thiết bị bốc hơi thuốc mê. Cyclopropane dễ nổ và không còn được sử dụng vì lý do an toàn, mặc dù đây được coi là một loại thuốc gây mê tuyệt vời. Xenon không mùi và khởi mê nhanh, nhưng đắt tiền và cần có thiết bị chuyên dụng để quản lý và giám sát. Dinitơ oxide ở nồng độ 80% vẫn không thể gây mê ở mức độ phẫu thuật ở áp suất khí quyển tiêu chuẩn, do đó thường được sử dụng làm thuốc gây mê phụ trợ cho các thuốc mê khác. Gây mê cao áp. Trong điều kiện cao áp (áp suất trên áp suất khí quyển bình thường), các loại khí khác như nitơ và các khí hiếm như argon, krypton và xenon trở thành chất gây mê. Khi hít vào ở áp suất riêng phần cao (hơn khoảng 4 bar, tương đương áp suất ở độ sâu dưới khoảng 30 mét khi đi lặn biển), nitơ bắt đầu hoạt động như một chất gây mê, gây nên hiện tượng gọi là say nitơ ("Nitrogen narcosis", tựa như những thợ lặn sâu dưới biển). Tuy nhiên, nồng độ phế nang tối thiểu (MAC) của nitơ không đạt được cho đến khi đạt được áp suất khoảng 20 đến 30 atm (bar). Argon có tác dụng gây mê cao hơn gấp đôi so với nitơ khi tính trên một đơn vị áp suất riêng phần (xem argox). Xenon là thuốc gây mê có thể sử dụng được ở nồng độ 80% và áp suất khí quyển bình thường. Lý thuyết thần kinh. Cơ chế hoạt động đầy đủ của các chất gây mê dễ bay hơi vẫn chưa được biết rõ và là chủ đề tranh luận gay gắt. Nhà gây mê James Sonner thuộc Đại học California, San Francisco cho biết: “Thuốc gây mê đã được sử dụng trong 160 năm và cách thức chúng hoạt động là một trong những bí ẩn lớn của khoa học thần kinh”. Neil L. Harrison của Đại học Cornell lưu ý: Nghiên cứu về gây mê “từ lâu đã là một ngành khoa học về những giả thuyết không thể kiểm chứng”. Paracelsus đã phát triển một loại thuốc gây mê dạng hít vào năm 1540. Ông đã sử dụng dầu ngọt vitriol (do Valerius Cordus điều chế và được Frobenius đặt tên là "Aether"): dùng để cho gia cầm ăn. Ông viết: “ngay cả gà cũng ăn nó và ngủ quên một lát nhưng sau đó chúng thức dậy mà không hề hấn gì”. Sau đó, khoảng 40 năm sau, vào năm 1581, Giambattista Delia Porta chứng minh tác dụng của ether trên người, mặc dù thời điểm này ether không được sử dụng cho bất kỳ loại gây mê phẫu thuật nào. William TG Morton được ghi nhận là người đầu tiên chứng minh thành công phương pháp gây mê phẫu thuật vào ngày 16 tháng 10 năm 1846 tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts (MGH). Sau sự kiện này, việc sử dụng ether và các thuốc gây mê dễ bay hơi khác trở nên phổ biến trong y học phương Tây.
Courante uyt Italien, Duytslandt, c. Courante uyt Italien, Duytslandt, c. ("Sự kiện hiện tại từ Ý, Đức, ") là tờ báo đầu tiên của Hà Lan. Nó bắt đầu xuất hiện ở Amsterdam vào tháng 6 năm 1618 thuộc dạng ấn phẩm xuất bản hàng tuần. Tờ "Courante" có thể được gọi là báo khổ rộng đầu tiên vì nó được phát hành dưới dạng khổ giấy. Trước đó, các tạp chí tin tức định kỳ là những tập sách nhỏ khổ một phần tư. Bài báo đăng trên "Courante" không có ấn hiệu của nhà in hay nhà xuất bản. Các bài báo tương tự được xuất bản về sau cho thấy rằng có khả năng là do Joris Veseler ấn hành và được Caspar van Hilten xuất bản và biên tập. Giới nghiên cứu không biết chính xác niên đại xuất bản tờ báo này nhưng ngày tháng các bản tin cho thấy nó có thể được in trong khoảng thời gian từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 6 năm 1618. Từ "Courante" trong tiêu đề của ấn phẩm này và các ấn phẩm tin tức khác tiếp tục cung cấp từ "krant" trong tiếng Hà Lan cho tờ báo này (trước đây được đánh vần là "courant", một cách viết vẫn được sử dụng trong tiêu đề của nhiều tờ báo Hà Lan). Bản sao duy nhất còn sót lại của số đầu tiên tờ "Courante" là ở Thư viện Kungliga Biblioteket của Thụy Điển tại Stockholm. Các số sau này từ năm 1628 đến năm 1664 đều có thể được tìm thấy tại Thư viện Koninklijke Bibliotheek ở The Hague. Tờ "Courante" xuất hiện cho đến khoảng năm 1672 và sau đó được sáp nhập với "Ordinarisse Middel-Weeckse Courant" và "Ordinaris Dingsdaegse Courant" thành tờ "Amsterdam Courant", cuối cùng sáp nhập với tờ "De Telegraaf" vào năm 1903.
Acid cysteic, hay 3-sulfo-#Đổi -alanine là một hợp chất hữu cơ với công thức HO3SCH2CH(NH2)CO2H. Chất này thường được gọi là cysteat. Khi nồng độ pH đạt mức độ gần trung tính, chất sẽ tồn tại dưới dạng −O3SCH2CH(NH3+)CO2−. Acid cysteic là một amino acid được sinh ra từ cystein oxy hóa, Theo đó, gốc thiol hoàn toàn được oxy hoá thành gốc acid sulfonic/sulfonat. Chất được chuyển hoá sinh học thông qua 3-sulfolactat thành pyruvat và sulfit/bisulfit. Enzym L-cysteate sulfo-lyase làm xúc tác cho sự chuyển đổi này. Cysteate là một hợp chất tiền tố sinh tổng hợp của taurin trong loài vi tảo. Đối lập với nó, hầu hết các taurine trong động vật được sản sinh từ cystein sulfinat.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Mũi Hafun (chữ Somali: "Ras Xaafuun", chữ Ả Rập: رأس حافون, chữ Ý: "Capo Hafun"), nằm ở trong lãnh thổ Somalia, là điểm cực đông của châu Phi, phía đông giáp Ấn Độ Dương, thực tế hiện nay thuộc quyền kiểm soát và quản lí của bang Puntland - bang này tuyên bố tự trị vào tháng 7 năm 1998. Mũi Hafun nằm gần mũi Guardafui (điểm cực đông thứ hai của châu Phi), vùng nước nằm giữa mũi Hafun hoặc mũi Guardafui với đảo Socotra (Yemen) là eo biển Guardafui. Mũi Hafun nối liền với lục địa châu Phi bằng một bãi cát dài đến 20 kilômét, rộng 1 - 3 kilômét, cao 5 mét so với mặt nước biển. Trên mũi Hafun có một làng đánh cá Hafun, cách bãi cát 2 kilômét về phía đông. Năm 1930, người Ý đến mũi Hafun, đã xây dựng nhà máy chế biến muối quy mô lớn nhất thế giới lúc đó tại thị trấn Hafun. Năm 1933 hoặc 1934, sản lượng muối của nhà máy muối Hafun vượt hơn 200.000 tấn, trong đó phần lớn muối được chở đến Ấn Độ và khu vực Viễn Đông. Năm 1941, quân đội Anh đã phá huỷ nhà máy trong quá trình chinh phục Somalia. Sản lượng của nhà máy muối vì nguyên do đó mà sụt giảm cấp tốc. Nhà máy muối Hafun cuối cùng chấm dứt kinh doanh vào niên đại 1950. Di chỉ của nhà máy muối hiện nay vẫn dựng đứng ở ngoại vi của làng Hafun. Vào những năm 1970, một đội ngũ gồm người Somalia và người Anh do nhà khảo cổ học Anh Neville Chittick dẫn đầu đã khai quật rất nhiều công trình kiến trúc và di vật ở mũi Hafun, bao gồm đồ gốm La Mã cổ đại, đồng xu cổ... Một số di vật cỡ nhỏ được đội khảo cổ mang về Viện bảo tàng Anh, trở thành vật sưu tập của bảo tàng. Những năm 1980, một đội khảo cổ khác đã phát hiện đồ gốm từ thời đại Parthia đến Sasan, tức là từ thế kỉ I TCN đến thế kỉ II đến V, ở mũi Hafun. Ngoài ra, địa điểm khảo cổ ở phía tây Hafun đã khai quật đồ gốm đến từ lưu vực sông Nin, Cận Đông, Ba Tư và Mesopotamia, có từ thế kỉ I TCN đến đầu thế kỉ I, trong đó bao gồm miểng đèn của thời đại Vương quốc Ptolemy. Hafun cũng có phát hiện một nghĩa địa cổ đại. Công trình kiến trúc lịch sử tương tự cũng có phân bố ở khu vực khác của Somalia. Bắt đầu khoảng năm 1800, mũi Hafun do Sultan quốc Majeerteen () thống trị. Vào niên đại 1880, mũi Hafun và khu vực khác của Somalia thông qua nhiều hiệp ước dần dần trở thành một bộ phận của Somaliland thuộc Ý. Ngày 1 tháng 7 năm 1960, Somaliland thuộc Ý độc lập, hơn nữa sáp nhập với Somaliland thuộc Anh thành Somalia. Mũi Hafun đặt dưới quyền kiểm soát của quận Hafun, bang Bari. Đại động đất Ấn Độ Dương năm 2004 đã gây ra sóng thần quy mô lớn vào ngày 26 tháng 12 năm 2004. Mũi Hafun và bờ biển Somalia lân cận đã trở thành khu vực gặp nạn nghiêm trọng nhất trong lục địa châu Phi. Tháng 2 năm 2005, chính phủ Hoa Kì đã chi 1 triệu USD làm viện trợ cho khu vực gặp nạn ở Somalia.
Món quà của cha Món quà của cha là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Trung tâm Phim Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam do Vũ Minh Trí làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 21h40 thứ 2, 3, 4 hàng tuần bắt đầu từ ngày 17 tháng 7 năm 2023 và kết thúc vào ngày 30 tháng 8 năm 2023 trên kênh VTV3. "Món quà của cha" kể về cuộc sống của ông Nhân (NSƯT Võ Hoài Nam) và ba người con của ông là Trọng Nghĩa (Tuấn Tú), Diệu Thảo (Nguyễn Ngọc Huyền) và Trọng Hiếu (Lưu Duy Khánh). Ông Nhân làm nghề đóng quan tài, vớt xác chết đuối ở vùng quê, một mình nuôi các con khôn lớn. Sau này, con trai cả là Trọng Nghĩa lập gia đình, con gái út là Diệu Thảo học năm cuối thanh nhạc trên thành phố, ông Nhân sống ở quê cùng con trai út. Mỗi người con của ông Nhân đều có những lúc không thể hiểu hết được tấm lòng của cha gây phiền muộn cho đấng sinh thành, nhưng cuối cùng, trong hành trình trưởng thành, trải qua bao khó khăn, họ đã nhận ra được tình yêu vô bờ của cha, sự hy sinh không đòi hỏi đáp đền. Cùng một số diễn viên khá Sáng tác: Trần Quang DuybrThể hiện: Lan Quỳnh Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. brThể hiện: Lan Quỳnh Thể hiện: Lan Quỳnh Sáng tác: Nguyễn Văn ChungbrThể hiện: Lan Quỳnh Sáng tác: Trần Quang DuybrThể hiện: Minh Vương M4U Bộ phim do Vũ Minh Trí làm đạo diễn, kịch bản được chấp bút bởi Đặng Thu Hà, Nguyễn Ngọc Quỳnh Chi và Hiểu Anh. Đây là dự án thứ hai trong năm 2023 của Vũ Minh Trí, sau "Đừng làm mẹ cáu". Quá trình ghi hình tác phẩm diễn ra từ ngày 25 tháng 4 năm 2023 và kết thúc vào ngày 23 tháng 8 cùng năm, với bối cảnh chủ yếu ở Hà Nội. Vai chính lần lượt do NSƯT Võ Hoài Nam, Tuấn Tú, Nguyễn Ngọc Huyền và Lưu Duy Khánh đảm nhận. Ngoài ra, bộ phim còn có sự tham gia của NSND Minh Hòa, Hương Giang, Thanh Tú... Với vai diễn mới nhất này, "Món quà của cha" đã đánh dấu sự trở lại của NSƯT Võ Hoài Nam kể từ phim "Hương vị tình thân" (2021). Nói về việc chuẩn bị cho vai diễn, Ngọc Huyền cho biết cô phải học thanh nhạc dưới sự chỉ đạo của ca sĩ Lan Quỳnh để phù hợp với vai Diệu Thảo. NSND Minh Hòa thì tiết lộ bà đã đưa hình mẫu cô hàng xóm ngoài đời để phù hợp với vai bà Thủy trong bộ phim. Buổi họp báo ra mắt phim đã được tổ chức vào ngày 10 tháng 7 năm 2023. Tác phẩm chính thức lên sóng VTV3 vào ngày 17 tháng 7 cùng năm, sau khi bộ phim "Cuộc đời vẫn đẹp sao" kết thúc, với tổng số tập là 21. Trong những tập cuối, bộ phim đã đứng đầu top 10 chương trình được xem nhiều nhất trên phạm vi cả nước dựa trên bảng xếp hạng từ ngày 14 tháng 8 đến ngày 20 tháng 8 năm 2023 với con số 4.7 – mức cao nhất kể từ khi bộ phim lên sóng. Tuy nhiên, diễn xuất của diễn viên Nguyễn Ngọc Huyền còn gây ra nhiều tranh cãi, thậm chí bị chê "diễn dở" vì tính cách hậu đậu, làm nảy sinh nhiều rắc rối. Trong tập 5 của bộ phim, câu thoại "ăn thịt chó" của nhân vật bà Thủy (NSND Minh Hòa) đã gây ra nhiều tranh cãi trên mạng xã hội.
Barleeiidae (thường cũng được viết là Barleeidae) là một họ ốc biển nhỏ trong nhánh Littorinimorpha. Số lượng các loài ốc này rất phong phú. Chúng thường sống ở vùng nước cận duyên hải và bãi triều trên nền đá. Vỏ của chúng có các dạng từ hình nón đến hình chóp cao. Lớp tráng vỏ bên trong của các loài này là loại chitinous . Chúng được đặc trưng thêm bởi phần chân đôi khi có tuyến nhầy phía sau. Cơ quan khứu giác của chúng, osphradium, được mở rộng. Ở một số loài có túi thực quản. Bộ phận sinh dục đực của chúng đôi khi được cung cấp mô tuyến tiền liệt. Các tuyến ống dẫn trứng của chúng có mô học đơn giản. Hiện nay có rất ít nhà nhuyễn thể học đang nghiên cứu về động vật thân mềm. Vì chúng rất nhỏ (kích thước chỉ vài mm) nên rất khó nghiên cứu và phân loại. Vì vậy, những loài nhuyễn thể nhỏ này ít được biết đến hơn so với những loài lớn hơn.
Helicostea là một chi ốc nước ngọt trong nhánh Littorinimorpha. Chi này chỉ chứa một loài Helicostea sinensis. "Helicostea sinensis" trước đây được đặt tạm thời trong liên họ Rissooidea. Trước đó, nó được đặt vào liên họ Vermetoidea. "Helicostea sinensis" chỉ được tìm thấy ở Trung Quốc, cụ thể hơn là ở vùng sông Dương Tử. Loài ốc nước ngọt này sống gắn hoặc bám vào các khối đá vôi.
Lauren Elizabeth James (sinh ngày 29 tháng 9 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Chelsea tại FA Women's Super League và Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Anh. Lauren Elizabeth James được sinh ra vào ngày 29 tháng 9 năm 2001 tại Luân Đôn. Cô là người gốc Grenada và Dominica thông qua cha, và gốc Anh thông qua mẹ. Cô theo học tại Whitton School ở Whitton, Luân Đôn. Sự nghiệp thi đấu. James là mục tiêu tìm kiếm của câu lạc bộ Arsenal khi mới 13 tuổi và được tập luyện cùng đội nam, nhưng trong vòng hai năm, cô bắt đầu tập luyện với đội một. Vào ngày 29 tháng 10 năm 2017, James trở thành cầu thủ trẻ thứ hai từng ra mắt trong lịch sử Arsenal, khi vào sân ở phút 67 để thay thế cho Lisa Evans trong chiến thắng 2–0 trước Everton ở mùa giải 2017–18. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2018, có thông báo rằng James sẽ là thành viên của đội Manchester United chuyên nghiệp đầu tiên do thi đấu ở đội bóng mới được tái cơ cấu tại FA Women's Championship 2018–19. Cô có trận ra mắt cho Manchester United trong chiến thắng 1–0 tại League Cup trước Liverpool, vào ngày 19 tháng 8. Cô đã ghi hai bàn thắng mở tỷ số trong trận đấu đầu tiên của United ở mùa giải 2018–19, chiến thắng 12–0 trước Aston Villa. James đã được bầu chọn là cầu thủ xuất sắc nhất tháng của FA Women's Championship vào tháng 9 sau ba bàn thắng của cô trong tháng bất bại của Manchester United. Vào ngày 20 tháng 4 năm 2019, James ghi bốn bàn trong chiến thắng 7–0 trước Crystal Palace. James ghi bàn thắng đầu tiên cho United tại WSL, ghi bàn ở phút 71 trong chiến thắng 2–0 trước Liverpool vào ngày 28 tháng 9 năm 2019. Hai tuần sau, James bị đuổi khỏi sân trong trận thắng 3–0 của United trước Tottenham Hotspur sau khi nhận hai thẻ vàng. James ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ vào ngày 16 tháng 12. Cuối mùa giải 2019–20, James kết thúc với tư cách là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất cho United và có tên trong danh sách rút gọn 4 cầu thủ cho giải thưởng Cầu thủ trẻ nữ xuất sắc nhất mùa của PFA. Vào ngày 27 tháng 3 năm 2021, James mở tỷ số trong chiến thắng 2–0 trước West Ham United. Trận đấu này là trận FA WSL đầu tiên được diễn ra tại Old Trafford. Vào ngày 23 tháng 7 năm 2021, James ký hợp đồng 4 năm với câu lạc bộ Chelsea. Cô ghi bàn thắng đầu tiên cho câu lạc bộ trong chiến thắng 9–0 trên sân khách trước Leicester City vào ngày 27 tháng 3 năm 2022. Trong mùa giải thứ hai tại Chelsea, James ra sân 33 trận trên mọi đấu trường, ghi được 8 bàn thắng, bao gồm 5 bàn trong WSL. Màn trình diễn của cô ở mùa giải 2022–23 đã giúp cô giành được Giải thưởng Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm tại Women's Football Awards, cũng như Giải thưởng Cầu thủ trẻ nữ xuất sắc nhất mùa của PFA. Vào tháng 6 năm 2023, có thông báo rằng James đã ký hợp đồng ở lại Chelsea cho đến năm 2027. Sự nghiệp quốc tế. Vào tháng 4 năm 2017, James ra mắt cho U-17 Anh trong trận thua 2–0 trước Hoa Kỳ. Vào ngày 14 tháng 10 năm 2017, cô đeo băng đội trưởng đội tuyển Anh trong chiến thắng 10–0 trước Latvia trong khuôn khổ Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ U-17 châu Âu 2018, ghi được 4 bàn thắng. Vào tháng 1 năm 2019, James được gọi triệu tập lên đội tuyển U-19 Anh chuẩn bị cho Algarve Tournament. Vào tháng 7 năm 2019, James được điền tên vào danh sách cầu thủ đội tuyển Anh tham dự Giải vô địch bóng đá nữ U-19 châu Âu 2019 ở Scotland. Vào tháng 11 năm 2020, James lần đầu tiên được gọi vào đội tuyển quốc gia trong khuôn khổ trại huấn luyện 29 cầu thủ tại St George's Park. James ra mắt cấp cao vào ngày 3 tháng 9 năm 2022, vào sân thay người ở phút thứ 79 trong trận đấu thuộc khuôn khổ Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 gặp Áo. Cô ghi bàn thắng quốc tế đầu tiên vào ngày 16 tháng 2 năm 2023 trong chiến thắng 4–0 của Anh trước Hàn Quốc tại Cúp Arnold Clark 2023. Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, James được điền tên vào danh sách tham dự 2023 FIFA Women's World Cup vào tháng 7 năm 2023. Cô ghi bàn thắng duy nhất trong chiến thắng 1–0 của Anh trước Đan Mạch tại bảng D Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023, tiếp theo là hai bàn thắng, ba đường kiến ​​tạo và một cầu thủ có thành tích tốt nhất trong trận đấu với Trung Quốc. Ở trận đầu tiên của vòng loại trực tiếp, gặp Nigeria, James đã bị đuổi khỏi sân và bị cấm thi đấu hai trận vì đạp vào lưng tiền đạo Nigeria Michelle Alozie, chính thức bị coi là "hành vi bạo lực". Đội tuyển Anh giành chiến thắng trên loạt sút luân lưu và tiến vào tứ kết. Lauren là em gái của Reece James, hậu vệ của câu lạc bộ Chelsea và Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh. Họ là cặp anh em đầu tiên đại diện cho Anh ở cấp độ quốc tế trong kỷ nguyên hiện đại. Cô đã trích dẫn cha mình là Nigel, một huấn luyện viên bóng đá được UEFA cấp phép, làm nguồn cảm hứng: "[Ông ấy] đã giúp đỡ tôi từng bước. Tôi lớn lên chơi bóng đá với các anh trai của mình và muốn chơi giống họ; tôi luôn yêu thích trò chơi này." Tôi biết ơn bố tôi vì đã dành tất cả thời gian, công sức và tình yêu thương cho môn bóng đá của tôi bằng cách huấn luyện tôi để tôi đạt đến trình độ tốt nhất." "Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 27 tháng 5 năm 2023" "Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 20 tháng 8 năm 2023" "Tỷ số và kết quả liệt kê bàn ​​thắng đầu tiên của Anh, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của James."
Phan Công Thắng (tiếng Trung giản thể: 潘功胜; bính âm Hán ngữ: "Pān Gōngshèng"; sinh ngày 8 tháng 7 năm 1963), là người Hán, chuyên gia kinh tế, chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông hiện là Bí thư Đảng ủy, Hành trưởng Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Ông là Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX, từng là Phó Hành trưởng Ngân hàng Nhân dân kiêm Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối Quốc gia; Phó Hành trưởng, Đồng sự chấp hành Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc. Phan Công Thắng là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Tiến sĩ Kinh tế học, học hàm Nghiên cứu viên ngành Kinh tế. Ông từng là đảng viên của một đảng phái nhỏ là Đồng minh dân chủ Trung Quốc, sau đó gia nhập Đảng Cộng sản, có 20 năm công tác ở các ngân hàng gồm Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng Nông nghiệp trước khi được điều tới Ngân hàng Nhân dân, tham gia lãnh đạo ngành ngân hàng Trung Quốc. Xuất thân và giáo dục. Phan Công Thắng sinh ngày 8 tháng 7 năm 1963 tại An Khánh, nay là địa cấp thị của tỉnh An Huy, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông lớn lên và tốt nghiệp cao trung ở An Khánh, vào tháng 9 năm 1980 thì bắt đầu theo học Khoa Kế toán, hệ giảng viên kinh tế của Trường chuyên khoa Kinh tế luyện kim tỉnh Chiết Giang, tốt nghiệp vào tháng 7 năm 1983 và ở lại trường tham gia giảng dạy kinh tế. Vào tháng 7 năm 1987, ông tới Bắc Kinh, nhập học Học viện Nhân sự lao động của Đại học Nhân dân Trung Quốc, bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ đề tài "So sánh thị trường lao động quốc tế" với sự hướng dẫn của Giáo sư Triệu Lý Khoan, Dương Thể Nhân, nhận bằng Thạc sĩ Kinh tế vào tháng 6 năm 1990. Sau đó, ông là nghiên cứu sinh của trường, bảo vệ thành công luận án tiến sĩ đề tài "Luận thị trường lực lao động — Đánh giá lý thuyết, so sánh hệ thống và tư duy về thị trường hóa phân bổ lực lượng lao động của Trung Quốc" với sự hướng dẫn của Giáo sư Lý Tông Chính, trở thành Tiến sĩ Kinh tế vào tháng 6 năm 1993. Từ tháng 10 năm 1997 đến tháng 9 năm 1998, ông từng sang Vương quốc Anh, tham gia khóa nghiên cứu sau tiến sĩ ở Trường Kinh doanh của Đại học Cambridge. Phan Công Thắng sau khi hoàn thành 13 năm học đại học, sau đại học thì gia nhập đảng phái Đồng minh dân chủ Trung Quốc vào tháng 5 năm 1993. Sau đó 6 năm, ông rời đảng phái này, được kết nạp Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 4 năm 1999 và bắt đầu hoạt động ở tổ chức đảng lãnh đạo Trung Quốc này. Ông cũng từ tham gia khóa bồi dưỡng chính trị nửa năm 2009 ở Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, bồi dưỡng nửa năm 2011 theo chương trình quốc tế tại Trường Kenedy của Đại học Harvard. Sau đại học, tháng 9 năm 1993, Phan Công Thắng được tuyển vào Ngân hàng Công Thương Trung Quốc (ICBC), công tác tổng bộ nhậm chức Phó Trưởng phòng Tín dụng nhà ở. Sau đó 1 năm, ông giữ chức Trưởng phòng Kế hoạch – Tài vụ từ tháng 9 năm 1999, rồi là Phó Trưởng bộ phận Tổ chức, Phó Tổng giám đốc bộ phận Tài nguyên nhân lực ở tổng bộ từ tháng 3 năm 2000. Tháng 6 năm 2003, ông được phân về thành phố Thâm Quyến, nhậm chức Phó Hành trưởng ICBC chi nhánh Thâm Quyến, sau đó 1 năm thì được điều trở lại tổng bộ, giữ vị trí Tổng giám đốc Kế hoạch – Tài vụ, Chủ nhiệm Văn phòng cải cách cổ phần ICBC, kiêm nhiệm làm Chủ nhiệm Văn phòng Hội Đồng sự, Thư ký Hội Đồng sự ICBC. Tháng 1 năm 2007, ông được miễn nhiệm các vị trí, giữ chức Thư ký Hội đồng sự kiêm Tổng giám đốc bộ phận Quan hệ đầu tư và quản lý chiến lược ICBC. Tháng 4 năm 2008, sau 15 năm ở ICBC, Phan Công Thắng được điều tới Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc (ABC), được chỉ định làm Ủy viên Đảng ủy, Phó Hành trưởng ABC. Sang đầu năm 2009, ông là Ủy viên Đảng ủy Công ty hữu hạn cổ phần ABC, Phó Hành trưởng, sau đó là Đồng sự chấp hành của ngân hàng này từ tháng 4 năm 2010. Trong gần 20 năm 1993–2012 ông tác ở ICBC–ABC, Phan Công Thắng được biết đến là người đóng vai trò quan trọng trong việc tái cơ cấu và niêm yết ICBC (601398.SS) và ABC (601288.SS) trước khi trở thành Phó Hành trưởng Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, nơi ông trở nên nổi tiếng nhờ hạn chế dòng vốn chảy ra ngoài. Ông có lập trường cứng rắn chống lại những kẻ đầu cơ tiền tệ và đã tham gia vào các cuộc cải cách ngân hàng quốc gia, thắt chặt thị trường nhà đất, quy định về fintech và cấm tiền điện tử. Tháng 6 năm 2012, Phan Công Thắng được điều lên Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC), nhậm chức Ủy viên Đảng ủy, Phó Hành trưởng cấp phó bộ trưởng. Tới cuối năm 2015, đầu năm 2016 ông kiêm nhiệm làm Bí thư Đảng tổ, Cục trưởng Cục Quản lý ngoại hối Quốc gia, kế nhiệm Hành trưởng Dịch Cương. Tháng 10 năm 2017, ông tham gia đại hội đại biểu toàn quốc, được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XIX. Ngày 25 tháng 7 năm 2023, ông tiếp tục kế nhiệm Dịch Cương, được Tổng lý Lý Cường giới thiệu, Nhân Đại phê chuẩn nhậm chức Hành trưởng Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, đồng thời là Bí thư Đảng ủy, cấp bộ trưởng. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #bebebe;" | Chức vụ nhà nước
Ansha Sayed (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1988 tại Bandra, Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ) là một nữ diễn viên và người mẫu người Ấn Độ. Cô được biết đến qua vai diễn "Thanh tra Purvi" trong loạt phim truyền hình "Đội đặc nhiệm CID". Ngoài ra, cô từng đảm nhận một số vai diễn như Leelavati trong bộ phim "Chuyện tình nàng Lọ Lem" và Jenny trong bộ phim "Rang Badalti Odhani." Tiểu sử và sự nghiệp. Ansha Sayed sinh ngày 16 tháng 7 năm 1988 tại Bandra, Mumbai, bang Maharashtra, Ấn Độ. Cô từng tốt nghiệp Trường Cao đẳng Thương mại và Kinh tế Shrimati Mithibai Mothiram Kundnani. Ban đầu, cô từng có ước mơ trở thành một nhà báo. Tuy nhiên, cô quyết định rẽ sang con đường diễn xuất và đã có một số vai diễn nổi bật. Cô từng tham gia một số tập phim trong "Aahat" và "Laagi Tujhse Lagan", nhưng cô được biết đến với vai diễn "Thanh tra Purvi" trong "Đội đặc nhiệm CID".
Kopa Trophy là một giải thưởng bóng đá được trao cho cầu thủ có màn trình diễn xuất sắc ở dưới độ tuổi 21. Nó được tổ chức bởi "France Football." Giải thưởng được đặt tên theo cựu cầu thủ bóng đá người Pháp Raymond Kopa và giải thưởng được chọn ra bởi những người đã từng đạt dành hiệu Quả bóng vàng. Không giống như giải thưởng Golden Boy (Cậu bé vàng), giải Kopa Trophy, ngay cả khi kém uy tín hơn , nó cũng được mở rộng đến các cầu thủ ở ngoài châu Âu.
Bộ Nhà ở và Sự vụ đô thị Bộ Nhà ở và Sự vụ đô thị (, MoHUA) là một bộ trong Chính phủ Ấn Độ, có thẩm quyền điều hành hoạt động xây dựng cũng như quản lý các quy tắc, quy định và pháp luật liên quan đến nhà ở và phát triển đô thị tại Ấn Độ. Bộ này tách từ Bộ Nhà ở và Giảm nghèo đô thị vào năm 2004 nhưng sau đó tái sáp nhập vào năm 2017. Bộ này là cơ quan công bố Bảng xếp hạng thành phố quốc gia tại Ấn Độ. Đây là một danh sách xếp hạng Thành phố sạch nhất Ấn Độ, trong đó Indore được đánh giá là sạch nhất. Bộ cũng công bố danh sách Thành phố thông minh Ấn Độ vào ngày 27 tháng 8 năm 2015. Tháng 7 năm 2019, Bộ công bố thông số kỹ thuật của hệ thống giao thông công cộng Metrolite. Đây là một hệ thống tàu điện ngầm giá thành rẻ hơn mặc dù nhỏ hơn và chậm hơn. Bộ Nhà ở và Sự vụ đô thị là Cơ quan Kiểm soát Cán bộ (CCA) của ba đơn vị thuộc Cục Công trình công cộng Trung ương ("Central Public Works Department"): Đây là các Dịch vụ Dân sự Nhóm A của Ấn Độ.
Quốc huy Ấn Độ Quốc huy Ấn Độ chỉ quốc huy của Cộng hòa Ấn Độ, được sử dụng bởi Chính phủ liên bang Ấn Độ, chính quyền bang và các cơ quan chính phủ khác. Biểu tượng này trở thành biểu tượng chính thức của Lãnh thổ tự trị Ấn Độ vào tháng 12 năm 1947, và sau đó trở thành quốc huy của Cộng hòa Ấn Độ. Quốc huy Ấn Độ cũng là con dấu chính thức của Chính phủ Ấn Độ. Nó xuất hiện trên tài liệu chính thức của nhà nước, tiền tệ và giấy thông hành. Quốc huy này được Chính phủ Ấn Độ thông qua vào ngày 26 tháng 1 năm 1950, ngay trong ngày Ấn Độ trở thành một nước cộng hòa. Thiết kế được chuyển thể từ Đầu trụ sư tử Ashoka, vốn là một tác phẩm điêu khắc cổ của Ấn Độ, có niên đại từ năm 280 trước Công nguyên dưới thời Đế chế Maurya; ngược về lịch sử là một tác phẩm điêu khắc ban đầu được dựng lên tại Sarnath, nơi Đức Phật Gautama lần đầu tiên giảng dạy Pháp, hiện nay thuộc bang Uttar Pradesh, Ấn Độ. Đầu trụ này gồm bốn con sư tử châu Á đứng quay lưng vào nhau, tượng trưng cho sức mạnh, lòng dũng cảm, sự tự tin và sự tin tưởng. Những con sư tử được gắn trên một mũ cột tròn và mũ cột được gắn trên một bông sen. Bánh xe Pháp luân Dharmachakra nằm ở trung tâm của mũ cột. Bánh xe có 24 nan hoa tượng trưng cho sự tiến bộ và tiến hóa của nền văn minh nhân loại. Tiêu ngữ "Satyameva Jayate" (tạm dịch: "chỉ sự thật chiến thắng") được khắc bên dưới mũ cột bằng chữ Devanagari, viết từ trái sang phải. Quốc huy Ấn Độ được sử dụng bởi Chính phủ Ấn Độ và tất cả cơ quan trực thuộc, cũng như bởi tất cả các chính quyền bang và chính quyền lãnh thổ liên minh ở Ấn Độ. Quốc huy cũng được công dân Ấn Độ sử dụng trên tiêu đề thư, danh thiếp và các mục đích sử dụng cá nhân khác nhưng chịu một số hạn chế nhất định. Việc sử dụng quốc huy này được điều chỉnh bởi Đạo luật về Biểu tượng Nhà nước Ấn Độ (Cấm sử dụng sai cách) năm 2005 và Quy tắc về Biểu tượng Nhà nước Ấn Độ (Quy định sử dụng) năm 2007. Việc sử dụng sai thẩm quyền phù hợp sẽ bị trừng trị theo luật
Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng G) Bảng G của Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 là một trong 10 bảng để quyết định đội sẽ vượt qua vòng loại cho vòng chung kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 diễn ra tại Đức. Bảng G bao gồm 5 đội: Bulgaria, Hungary, Litva, Montenegro và Serbia. Các đội tuyển sẽ thi đấu với nhau mỗi trận khác trên sân nhà và sân khách với thể thức đấu vòng tròn. Hai đội tuyển đứng nhất và nhì bảng sẽ vượt qua vòng loại trực tiếp cho trận chung kết. Các đội tham gia vòng play-off sẽ được quyết định dựa trên thành tích của họ trong UEFA Nations League 2022–23. Lịch thi đấu đã được xác nhận bởi UEFA vào ngày 10 tháng 10 năm 2022, sau lễ bốc thăm một ngày. Thời gian là CET/CEST, như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau, nằm trong dấu ngoặc đơn). Một cầu thủ sẽ bị đình chỉ tự động trong trận đấu tiếp theo cho các hành vi phạm lỗi sau đây: Các đình chỉ sau đây sẽ được thực hiện xuyên suốt các trận đấu vòng loại:
Đầu trụ (; tiếng Latinh: "caput", nghĩa là "đầu") là một thành phần kiến trúc có công năng trang trí được xây trên cùng của một cột trụ. Đầu trụ mở rộng diện tích bề mặt đỡ của cột, đóng vai trò là trung gian giữa cột và tải trọng ép xuống của phần kiến trúc bên trên. Đầu trụ tỏa ra ở các bên đỡ lấy mũ cột, kết nối phần mũ cột (thường có tiết diện là hình vuông) với phần thân cột (thường có tiết diện hình tròn). Đầu trụ rất đa dạng về hình thức, có khi lồi (thức cột Doric); có khi lõm, như trong đầu trụ hình cái chuông ngược của thức cột Corinth; hoặc cuộn ra ngoài, như trong thức cột Ionic. Tuy nhiên, đây là ba loại đầu trụ chính mà tất cả đầu trụ khác trong kiến trúc cổ điển đều dựa vào. Với công năng trang trí, đầu trụ luôn hiện diện trong các công trình tòa nhà vĩ đại có nhiều hàng cột, ở những vị trí dễ thấy, qua đó thể hiện một cách rõ ràng nhất về thức trụ () của công trình. Hoa văn của đầu trụ còn cho người ta biết về niên đại của tòa nhà đó.
Mũ cột, còn gọi là đỉnh cột (, xuất phát từ tiếng Hy Lạp "abax" hay tiếng Pháp "abaque") là một thành phần kiến trúc được xây trên đỉnh của một cột trụ. Mũ cột có dạng tấm phẳng, tạo thành phần trên cùng của cột trụ ngay bên trên đầu trụ. Chức năng chính của mũ cột là tạo ra một tiết diện đỡ lớn hơn đầu trụ để gánh sức nặng của phần vòm hay phần kiến trúc bên trên. Trong kiến trúc cổ điển, hình dạng của mũ cột cũng như các cạnh tùy thuộc từng loại thức trụ "()" khác nhau. Theo thức cột Doric của Hy Lạp thì mũ cột có dạng phiến, tiết diện hình vuông đơn giản không có đường gờ Theo thức cột Doric của La Mã và Phục Hưng thì mũ cột được viền quanh bằng một khuôn đúc (được gọi là "đúc vương miện" ). Trong thức cột Ionic của Hy Lạp cổ xưa, do chiều rộng của phần đầu trụ lớn hơn phần mũ cột, nên phần mũ cột có dạng bằng phẳng tiết diện hình chữ nhật và bao gồm một khuôn hình trứng ("") chạm khắc.
Đục () là một dụng cụ được đặc trưng bởi lưỡi cắt gắn ở phần đầu, được dùng để chạm khắc hoặc cắt các vật liệu cứng như gỗ, đá hoặc kim loại bằng tay, bằng vồ hoặc bằng sức mạnh cơ học của máy móc. Tay cầm và lưỡi đục được chế tạo từ kim loại hoặc gỗ với một cạnh sắc. Đây là dụng cụ rất quan trọng trong ngành mộc, điêu khắc đá hay gia công cơ khí. Người ta sử dụng đục bằng cách tác động lực vào một số vật liệu bằng lưỡi đục nhằm cắt vật liệu đó. Lực truyền động này có thể là từ tay người, từ cái vồ hoặc từ cái búa. Trong môi trường công nghiệp, người ta còn dùng thanh nén thủy lực "(") hoặc vật nặng rơi ("búa vấp" ) để dẫn động qua đục vào vật liệu. "Gouge" là một loại đục dùng để khắc các mảnh nhỏ từ vật liệu; đặc biệt là trong hoạt động chế biến gỗ và điêu khắc. "Gouge" thường tạo ra bề mặt lõm và có mặt cắt hình chữ U.
Avisa Relation oder Zeitung Avisa Relation oder Zeitung là một trong những tạp chí tin tức định kỳ đầu tiên trên thế giới. Ấn phẩm này được xuất bản ở Wolfenbüttel, Đức vào năm 1609. Nhà in/nhà xuất bản là Lucas Schulte. Số đầu tiên cho biết tin tức được thu thập từ nhiều quốc gia khác nhau trước ngày 15 tháng Giêng. Người ta cho rằng số tạp chí này từng được in vào hoặc khoảng ngày đó. Một số cuốn sách đề cập đến "Avisa" là tờ báo đầu tiên trên thế giới. Trước năm 2005 đã có tranh cãi về việc "Avisa" hay "Relation aller Fürnemmen und gedenckwürdigen Historien", được Johann Carolus đem in ở Strassburg là cuốn đầu tiên. Người ta tin rằng cả hai đều bắt đầu vào năm 1609. Tuy vậy, bằng chứng mới được tìm thấy vào năm 2005 cho thấy rằng "Relation" đã bắt đầu sớm nhất là vào năm 1605. Cũng có một quan điểm khác, không coi một trong hai ấn phẩm này là báo chí theo nghĩa chính thức. Các tác giả như Stanley Morison tạo ra sự khác biệt giữa sách tin tức (xuất bản tin tức hàng tuần ở định dạng tứ phương) và các tờ báo khổ giấy in sau này.
Charles I xứ Anjou Charles I (đầu 1226/1227 – 7 tháng 1 năm 1285), thường được gọi là Charles xứ Anjou hoặc Charles d'Anjou, là thành viên của Vương triều Capet và là người sáng lập Nhà Anjou thứ hai. Ông là Bá tước xứ Provence (1246–1285) và Forcalquier (1246–1248, 1256–1285) trong Đế chế La Mã Thần thánh, Bá tước xứ Anjou và Maine (1246–1285) ở Vương quốc Pháp; ông cũng là Vua của Sicilia (1266–1285) và Thân vương xứ Achaea (1278–1285). Năm 1272, ông được tuyên bố là Vua của Albania, và vào năm 1277, ông mua được quyền sở hữu Vương quốc Jerusalem. Là con trai út của Vua Louis VIII của Pháp và Blanca của Castilla, Charles đã được định sẵn là sẽ gia nhập Giáo hội Công giáo cho đến đầu những năm 1240. Ông ấy có được Provence và Forcalquier thông qua cuộc hôn nhân với người thừa kế của 2 lãnh thổ này là Beatrice. Những nỗ lực nhằm khôi phục quyền lực trung ương đã khiến ông xung đột với mẹ vợ, Beatrice xứ Savoy và giới quý tộc bản địa. Charles nhận xứ Anjou và Maine từ anh trai mình là vua Louis IX của Pháp, làm quản lý. Ông đã đồng hành cùng Louis trong cuộc Thập tự chinh thứ bảy tới Ai Cập. Ngay sau khi trở lại Provence vào năm 1250, Charles đã buộc ba thành phố tự trị giàu có là Marseille, Arles và Avignon phải thừa nhận quyền thống trị của mình. Charles ủng hộ Margaret II, Nữ bá tước xứ Flanders và Hainaut, chống lại con trai cả của bà là John I, Bá tước xứ Hainaut, để đổi lấy Bá quốc Hainaut vào năm 1253. Hai năm sau, Louis IX thuyết phục ông từ bỏ bá quốc này, nhưng đền bù cho ông bằng cách yêu cầu Margaret trả cho ông 160.000 mark. Charles buộc các quý tộc và thị trấn Provençal nổi loạn phải phục tùng và mở rộng quyền thống trị của mình trên hàng chục thị trấn và lãnh địa ở Vương quốc Arles. Năm 1263, sau nhiều năm đàm phán, ông chấp nhận lời đề nghị của Lãnh địa Giáo hoàng để chiếm lấy Vương quốc Sicilia từ tay của Nhà Hohenstaufen. Vương quốc này bao gồm, ngoài đảo Sicilia, miền Nam Bán đảo Ý đến phía Bắc Napoli và được gọi là Regno. Giáo hoàng Urban IV tuyên bố một chiến dịch chống lại Manfred, Vua của Sicily đương nhiệm và hỗ trợ Charles gây quỹ cho chiến dịch quân sự. Charles lên ngôi vua ở Rome vào ngày 5 tháng 1 năm 1266. Ông tiêu diệt quân đội của Manfred và chiếm đóng Regno gần như không gặp phải sự kháng cự nào. Chiến thắng của ông trước cháu trai nhỏ của Manfred là Conradin, trong Trận Tagliacozzo năm 1268 đã củng cố quyền cai trị của ông. Năm 1270, ông tham gia Cuộc thập tự chinh thứ tám do Vua Louis IX tổ chức và buộc Hafsid Caliph của Tunis phải cống nạp hàng năm cho mình. Những chiến thắng của Charles đã đảm bảo quyền lãnh đạo không thể tranh cãi của ông trong số những người theo đảng phái người Ý của Giáo hoàng (được gọi là Guelph), nhưng ảnh hưởng của ông đối với các cuộc bầu cử Giáo hoàng và sự hiện diện quân sự mạnh mẽ của ông ở Ý đã khiến các Giáo hoàng lo lắng. Họ cố gắng hướng tham vọng của ông tới các vùng lãnh thổ khác và hỗ trợ ông giành được các yêu sách đối với Achaea, Jerusalem và Arles thông qua các hiệp ước. Năm 1281, Giáo hoàng Martin IV ủy quyền cho Charles phát động chiến dịch chống lại Đế quốc Byzantine. Các tàu chiến của Charles đang tập trung tại Messina, sẵn sàng bắt đầu chiến dịch thì cuộc nổi dậy Kinh chiều Sicilia nổ ra vào ngày 30 tháng 3 năm 1282, chấm dứt sự cai trị của Charles trên đảo Sicily. Ông đã có thể bảo vệ các vùng lãnh thổ đại lục (Vương quốc Napoli) với sự hỗ trợ của Vương quốc Pháp và Lãnh địa Giáo hoàng. Charles chết khi đang chuẩn bị cho cuộc tái chiếm đảo Sicily. Cuộc sống đầu đời. Charles là con út của Vua Louis VIII của Pháp và Blanca của Castilla. Ngày sinh của ông không rõ ràng, nhưng có lẽ ông được sinh ra sau khi cha ông vừa qua đời vào đầu năm 1227. Charles là người con trai duy nhất còn sống của Louis được "sinh ra trong màu tím/Born in the purple" (sau lễ đăng quang của cha ông) , một sự thật mà ông thường nhấn mạnh khi còn trẻ, như nhà biên niên sử đương thời Matthew Paris đã ghi lại trong "Chronica Majora". Ông là người nhà Capet đầu tiên được đặt tên theo Charlemagne. Louis VIII qua đời vào tháng 11 năm 1226 và con trai cả của ông, Thái tử Louis lên kế vị. Vị vua quá cố mong muốn rằng con trai út của ông sẽ được gia nhập Giáo hội Công giáo. Chi tiết về nội dung giáo dục dành Vương tử Charles vẫn chưa được biết, nhưng ông đã nhận được một nền giáo dục tốt. Ông hiểu các giáo lý chính của Công giáo và có thể xác định những sai sót trong các văn bản tiếng La Tinh. Niềm đam mê thơ ca, khoa học y-sinh và luật pháp của ông đã được ghi chép rõ ràng. Charles sau đó nói rằng mẹ ông có tác động mạnh mẽ đến việc học tập của các con; trên thực tế, Blanche hoàn toàn tham gia vào công việc quản lý nhà nước và có thể dành ít thời gian cho đứa con út. Charles sống tại triều đình của một người anh là Robert I, Bá tước xứ Artois, từ năm 1237. Khoảng 4 năm sau, ông được giao cho Alphonse, Bá tước xứ Poitiers, chăm sóc. Việc ông tham gia vào chiến dịch quân sự của các anh trai mình chống lại Hugh X xứ Lusignan, Bá tước La Marche, vào năm 1242 cho thấy ông không còn có ý định theo đuổi sự nghiệp trong Giáo hội nữa. Raymond Berengar V, Bá tước xứ Provence qua đời vào tháng 8 năm 1245, để lại di sản Provence và Forcalquier cho con gái út của ông là Bá nữ Beatrice, vì trước đó ông đã tặng của hồi môn hậu hĩnh cho ba chị gái của cô. Của hồi môn thực tế không được chuyển hết, khiến hai chị gái của bà, Bá nữ Margaret (vợ Louis IX của Pháp) và Bá nữ Eleanor (vợ của Henry III của Anh), tin rằng họ đã bị tước quyền thừa kế một cách bất hợp pháp. Mẹ của họ, Beatrice xứ Savoia, tuyên bố rằng Bá tước Raymond Berengar đã để lại quyền sở hữu Provence cho bà. Hoàng đế Friedrich II của Thánh chế La Mã (người mà Giáo hoàng Innocent IV gần đây đã rút phép thông công vì bị cáo buộc là "tội ác chống lại Giáo hội"), Bá tước Raymond VII xứ Toulouse và các nhà cai trị lân cận khác đã tự đề nghị họ hoặc con trai của họ kết hôn chính trị với nữ bá tước trẻ. Mẹ cô đặt cô dưới sự bảo vệ của Lãnh địa Giáo hoàng. Louis IX và Margaret đề nghị gả Beatrice cho Vương tử Charles. Để đảm bảo sự ủng hộ của Pháp chống lại Frederick II, Giáo hoàng Innocent IV đã tán thành đề nghị của họ. Charles vội vã đến Aix-en-Provence với tư cách là người đứng đầu một đội quân để ngăn chặn những người cầu hôn khác bước vào Provence, và kết hôn với Beatrice vào ngày 31 tháng 1 năm 1246. Provence là một phần của Vương quốc Arles thuộc về Đế chế La Mã Thần thánh, nhưng Charles chưa bao giờ thề trung thành với Hoàng đế La Mã Thần thánh. Ông ra lệnh điều tra quyền lợi và thu nhập của các bá tước, khiến cả thần dân và mẹ vợ ông phẫn nộ, những người coi hành động này là một cuộc tấn công chống lại quyền lợi của bà. Là con trai út của một vị vua, có số mệnh theo đuổi sự nghiệp ở nhà thờ, Charles không nhận được quyền quản lý (một bá quốc hoặc công quốc được cha truyền con nối). Louis VIII đã muốn rằng con trai thứ tư của ông là Vương tử John, sẽ nhận Bá quốc Anjou và Maine khi đến tuổi thành niên, nhưng John đã qua đời vào năm 1232. Louis IX phong tước hiệp sĩ cho Charles tại Melun vào tháng 5 năm 1246 và 3 tháng sau phong Bá tước xứ Anjou và Maine cho ông. Charles hiếm khi đến thăm hai bá quốc của mình và bổ nhiệm nhiếp chính để quản lý chúng. Trong khi Charles vắng mặt ở Provence, Marseille, Arles và Avignon—ba thành phố giàu có, trực thuộc Hoàng đế La Mã Thần thánh—đã thành lập một liên minh và bổ nhiệm một nhà quý tộc Provençal là Barral xứ Baux, làm chỉ huy quân đội liên hợp của họ. Mẹ vợ của Charles đặt những người Provençal không vâng lời dưới sự bảo vệ của bà. Charles không thể đối phó với quân nổi dậy khi ông chuẩn bị tham gia cuộc thập tự chinh của anh trai mình. Để xoa dịu mẹ vợ, ông thừa nhận quyền cai trị Forcalquier của bà và cấp cho bà một phần ba doanh thu từ Bá quốc Provence.
Abraham Verhoeven (1575 – 1652) là nhà xuất bản tờ báo đầu tiên của miền Nam Hà Lan (nay là nước Bỉ). Năm 1605, ông nhận được giấy phép in tin tức về chiến thắng quân sự trên bản khắc gỗ hoặc bản đồng. Sau đó, ông không chỉ sản xuất các bản in mà còn với tần suất ngày càng tăng các tập sách nhỏ chuyên đăng tin tức có tranh minh họa. Từ đầu năm 1620, ông đã gia hạn giấy phép với những điều khoản rộng hơn và bắt đầu in các tập sách tin tức của mình thành một bộ duy nhất. Là một tờ báo được in thường xuyên, đây là tờ báo đầu tiên của miền Nam Hà Lan. Đây cũng là tờ báo đầu tiên có tranh minh họa thường xuyên và là tờ báo đầu tiên in tiêu đề trên trang nhất. Tờ báo này không có tên hoặc tiêu đề nhất quán và được biết đến với cái tên "Nieuwe Tijdinghen", một danh hiệu có hiệu lực hồi tố do giới sử học và nhà viết thư mục đặt tên cho nó. Tuy nhiên, Thư viện Anh lại liệt kê bộ sách được lưu giữ dưới cái tên "Antwerp Gazette". Việc xuất bản "Nieuwe Tijdinghen" chấm dứt vào năm 1629, ngay sau đó là tờ "Wekelijcke Tijdinghen", một tờ báo không minh họa với định dạng rút gọn tồn tại cho đến năm 1632. Các tờ báo của Verhoeven đều ghi lại thập kỷ đầu tiên của Chiến tranh Ba mươi năm và giai đoạn thứ hai của Chiến tranh Tám mươi năm từ góc độ biên tập thân Công giáo và thân Habsburg.
Caspar van Hilten (kh. 1583 – 1623) là biên tập viên và nhà xuất bản tờ báo Hà Lan đầu tiên "Courante uyt Italien, Duytslandt, c." được in ở Amsterdam từ ngày 14 tháng 6 năm 1618. Trên thực tế, ông là một sĩ quan báo chí của quân đội Maurice xứ Nassau trước khi trở thành nhà xuất bản. Con trai của ông là Jan van Hilten (kh. 1603 – 1655) sinh ra ở Hamburg, có lẽ là khi Caspar ở đó trên cương vị là sĩ quan báo chí. Van Hilten vừa là một người bán sách kiêm nhà xuất bản sách báo. Sau khi ông qua đời vào năm 1622 hoặc 1623, công việc kinh doanh được Jan kế tục và còn bắt đầu xuất bản tờ báo hàng tuần vào một ngày bình thường (Thứ Bảy). Năm 1649, hiệu sách của Jan van Hilten nằm trên đường trong một ngôi nhà tên là "(In) de geborduuerde Handtschoen" (nghĩa là "(In) Găng Tay Thêu").
Trận Austerlitz, 2 tháng 12 năm 1805 (Gérard) Trận Austerlitz, 2 tháng 12 năm 1805 là một bức tranh sơn dầu trên canvas của họa sĩ người Pháp François Gérard, sáng tác năm 1810. Nó mô tả một cảnh trong Trận chiến Austerlitz năm 1805, nơi quân đội Pháp đánh bại quân đội Nga và quân đội Áo. Nó là một trong những bức tranh được trưng bày trong Phòng trưng bày các trận chiến, tại Cung điện Versailles. Lịch sử và mô tả. Gérard được giao nhiệm vụ tạo ra bức tranh lớn vào năm 1810. Nó được trưng bày lần đầu tiên tại Salon năm 1810. Bức tranh ban đầu được dùng để vẽ trần của căn phòng của Hội đồng Nhà nước Pháp. Nó nhằm tôn vinh chiến thắng quân sự của Napoleon, và nó mô tả khoảnh khắc sau khi quân Pháp giành chiến thắng trong trận chiến khi tướng Jean Rapp cưỡi ngựa trình bày Napoleon, ở bên phải ông , được bao quanh bởi các tướng lĩnh của ông ta, Hoàng tử Nga bại trận Nikolai Repnin-Volkonsky, các tù nhân khác và các tiêu chuẩn được đưa cho kẻ thù làm chiến lợi phẩm. Từ góc bên trái của bức tranh, "mặt trời Austerlitz" thần thoại dường như chiếu sáng khung cảnh, như một phần khác của truyền thuyết Napoleon. Trên chiến trường có nhiều binh sĩ bị thương hoặc tử vong. Năm 1833, Vua Louis-Philippe I của Pháp quyết định chuyển Cung điện Versailles thành bảo tàng lịch sử của Pháp. Galerie des Batailles được khánh thành vào năm 1837. Trong phòng trưng bày, 33 bức tranh hoành tráng được trưng bày, mô tả các giai đoạn quân sự trong lịch sử Pháp. Bức tranh của Gérard đã được trưng bày ở đó kể từ đó.
Élisabeth của Pháp hay Isabelle của Bourbon (22 tháng 11 năm 1602 – 6 tháng 10 năm 1644) là con gái của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici cũng như là Vương hậu Tây Ban Nha từ năm 1621 cho đến khi qua đời và là Vương hậu Bồ Đào Nha từ năm 1621 đến 1640. Élisabeth từng đảm nhận vai trò nhiếp chính của Tây Ban Nha trong Cuộc nổi dậy Catalunya trong giai đoạn từ 1640–1642 và 1643–1644. Élisabeth sinh ra tại Lâu đài Fontainebleau vào ngày 22 tháng 11 năm 1602, là con gái lớn của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici. Theo thông tin từ triều đình, Vương hậu Maria đã tỏ ra thờ ơ một cách tàn nhẫn với Élisabeth vì Vương hậu đã tin vào lời tiên tri của một nữ tu đảm bảo rằng Maria sẽ sinh ba đứa con trai liên tiếp. Không lâu sau khi sinh, Élisabeth được đính hôn với Filippo Emanuele của Savoia, Thân vương xứ Piemonte, con trai và người thừa kế của Carlo Emanuele I của Savoia và hạ sinh bởi Catalina Micaela của Tây Ban Nha, con gái của Felipe II của Tây Ban Nha (con trai của Carlos I của Tây Ban Nha và Isabel của Bồ Đào Nha) và Élisabeth của Pháp (con gái của Henri II của Pháp và Caterina de' Medici). Tuy nhiên, Filippo Emanuele đã qua đời vì bệnh đậu mùa vào năm 1605. Là con gái của Quốc vương Pháp, Élisabeth được gọi là Fille de France ("con gái nước Pháp"). Và với tư cách là con gái đầu lòng, Élisabeth được biết đến trong triều đình với danh hiệu là Madame Royale ("Bà chúa Vương thất"). "Madame Royale" trải qua những năm đầu đời dưới sự giám sát của nữ gia sư vương thất Françoise de Montglat tại Lâu đài Saint-Germain-en-Laye, một nơi yên tĩnh cách xa triều đình Paris, nơi Vương nữ chia sẻ việc học tập và chơi đùa với các anh chị em hợp pháp cũng như anh chị em cùng cha khác mẹ ngoại hôn vốn là kết quả của những cuộc ngoại tình của Henri IV. Ngoài Dauphin Louis, "các" Enfants de France ("Người con nước Pháp") khác (con hợp pháp của Henri IV) là Christine Marie, sau này là Công tước phu nhân xứ Savoia; Đức ngài xứ Orléans qua đời khi còn nhỏ; Gaston, Công tước xứ Orleans; và Henriette Marie, sau này là Vương hậu Anh. Khi Henri IV bị ám sát bên ngoài Cung điện Louvre ở Paris vào ngày 14 tháng 5 năm 1610, anh trai Élisabeth là ngài Dauphin (người mà Elisabeth có mối quan hệ rất thân thiết) đã kế vị ngai vàng với tên hiệu là Louis XIII dưới sự nhiếp chính của mẹ là Maria de' Medici. Năm 1612, khi Elisabeth được mười tuổi, thảo luận về cuộc hôn nhân kép giữa Vương thất Pháp và Tây Ban Nha đã bàn luận; theo đó thì Élisabeth sẽ kết hôn với Thân vương xứ Asturias (Felipe IV của Tây Ban Nha) và anh trai Louis sẽ kết hôn với chị gái của Felipe là Infanta Ana của Tây Ban Nha. Sau khi Louis và Élisabeth tiến hành kết hôn ủy nhiệm cô với Felipe và Ana, Élisabeth và anh trai Louis gặp Felipe và chị gái Ana lần đầu tiên vào ngày 25 tháng 11 năm 1615 trên Đảo Pheasant, một hòn đảo nhỏ trên sông Bidassoa phân chia Pháp và Tây Ban Nha giữa thành phố Hendaye của Pháp và thành phố Fuenterrabía của Tây Ban Nha. Đây chính là lần cuối cùng Louis gặp em gái mình. Ở Tây Ban Nha, tên tiếng Pháp của Élisabeth được chuyển sang tiếng Tây Ban Nha là "Isabel". Buổi lễ kết hôn diễn ra tại Nhà thờ Thánh María ở Burgos. Vào thời điểm kết hôn, Vương nữ Élisabeth mười ba tuổi đã trở thành tân Thân vương phi xứ Asturias. Cuộc hôn nhân của Élisabeth thuận theo truyền thống củng cố các liên minh quân sự và chính trị giữa các cường quốc Công giáo của Pháp và Tây Ban Nha bằng các cuộc hôn nhân vương thất, bắt nguồn từ năm 1559 với cuộc hôn nhân của Felipe II của Tây Ban Nha với Élisabeth của Pháp, con gái của Henri II của Pháp, như một phần của Hiệp ước Cateau-Cambrésis. Bức tranh "Exchange of the Princesses at the Spanish Border" ("Sự Trao đổi Các nàng Vương nữ tại Biên giới Tây Ban Nha") được họa bởi Peter Paul Rubens là một phần trong bộ tranh Maria de' Medici của ông. Élisabeth trở nên nổi tiếng với vẻ đẹp, trí thông minh và phẩm chất cao quý, điều này khiến Élisabeth rất được yêu mến ở Tây Ban Nha. Năm 1621, hai vợ chồng trở thành tân vương và tân hậu của Tây Ban Nha với sự qua đời của Felipe III của Tây Ban Nha. Tân vương hậu Tây Ban Nha ý thức rõ rằng chồng mình có nhân tình. Bản thân Élisabeth cũng là chủ đề của những tin đồn về mối quan hệ của Vương hậu với nhà thơ nổi tiếng Peralta (Juan de Tassis, Bá tước thứ 2 xứ Villamediana ), một thị tùng nam của Vương hậu. Vào ngày 14 tháng 5 năm 1622, một đám cháy bùng phát khi lễ hội hóa trang Peralta "La Gloria de Niquea" đang được đưa tổ chức tại triều đình. Peralta đã bế Vương hậu đến nơi an toàn, điều này khiến mối nghi ngờ về mối quan hệ của hai người trở nên ngày càng sâu sắc. Peralta đã bỏ qua một cảnh báo quan trọng rằng mạng sống của mình đang gặp nguy hiểm và "ngài ấy đã bị sát hại khi bước ra khỏi xe ngựa. Trách nhiệm về cái chết của ông bị tranh cãi là thuộc về Felipe IV và Olivares" (vào thời điểm đó là người được thủ tướng và quốc vương yêu thích). Élisabeth đảm nhận vai trò nhiếp chính của Tây Ban Nha trong Cuộc nổi dậy ở Catalunya và ủng hộ Công tước xứ Nochera chống lại Bá-Công tước xứ Olivares để nổi dậy ở Catalunya rút lui trong danh dự. Trước năm 1640, Élisabeth dường như không có nhiều ảnh hưởng đến chính sự và phần lớn được giao cho Olivares. Élisabeth không hòa hợp với Olivares, người được cho là đã giúp Felipe IV ngoại tình và ngăn cản Vương hậu đạt được bất kỳ ảnh hưởng chính trị nào và từng có một nhận xét nổi tiếng, khi Vương hậu trình bày quan điểm chính trị với Quốc vương, rằng các linh mục tồn tại để cầu nguyện cũng như các Vương hậu tồn tại để sanh nở con cái. Từ năm 1640 đến năm 1642, Élisabeth giữ chức nhiếp chính thay mặt Felipe IV khi Quốc vương vắng mặt trong thời kỳ diễn ra cuộc nổi dậy ở Catalunya và Vương hậu được đánh giá rất cao cho những nỗ lực của mình. Élisabeth được cho là có ảnh hưởng đến sự thất thế của Olivares như một phần của "âm mưu của phụ nữ" cùng với Công tước phu nhân xứ Mantova, Ana de Guevara, María de Ágreda và nự thị tùng trưởng là Luisa Manrique de Lara, Bá tước phu nhân xứ Paredes de Nava. Sự thất thế của Olivares khiến Felipe IV coi bà là đối tác chính trị duy nhất của mình, và khi nhà vua lại ra trận vào năm 1643, Élisabeth một lần nữa được bổ nhiệm làm nhiếp chính với sự hỗ trợ của Juan Chumacero Carrillo y Sotomayor. Lần nhiếp chính thứ hai của Élisabeth cũng được đánh giá cao và Vương hậu được nhà vua ghi nhận nỗ lực cung cấp nhu yếu phẩm quan trọng cho quân đội cũng như đàm phán với các ngân hàng để cung cấp tài chính cho quân đội và thế chấp bằng trang sức của mình. Có tin đồn rằng Vương hậu Élisabeth có ý định noi gương theo nữ vương Isabel Công giáo lừng danh và sẽ dẫn quân để chiếm lại Badajoz. Vương hậu Élisabeth qua đời tại Madrid vào ngày 6 tháng 10 năm 1644 ở tuổi 41, để lại hai người con là Baltasar Carlos và María Teresa của Tây Ban Nha. Sau khi Élisabeth qua đời, Felipe IV tái hôn với cháu gái Maria Anna của Áo. Đứa con cuối cùng của Élisabeth, María Teresa của Tây Ban Nha, sau này trở thành Vương hậu nước Pháp với tư cách là vợ của cháu trai gọi cô của mình là Louis XIV của Pháp. Không giống như chồng và chị chồng cũng như là chị dâu Ana, Élisabeth không được chứng kiến đám cưới củng cố hòa bình giữa quê hương Pháp và đất nước Tây Ban Nha, các quốc gia sẽ có chiến tranh cho đến năm 1659. Một trong những chắt của Élisabeth là Philippe, Công tước Anjou trở thành Quốc vương Felipe V của Tây Ban Nha, và thông qua Felipe V, Élisabeth là tổ tiên của các Vương thất Tây Ban Nha hiện tại. Élisabeth cũng bị sảy thai ít nhất ba lần:
Christine Marie của Pháp Christine Marie của Pháp (10 tháng 2 năm 1606 – 27 tháng 12 năm 1663) là em gái của Louis XIII của Pháp và là Công tước phu nhân xứ Savoia. Sau cái chết của chồng là Vittorio Amadeo I vào năm 1637, Christine đảm nhận vai trò nhiếp chính của Savoia từ năm 1637 đến 1648. Vương nữ nước Pháp. Christine Marie được sinh ra tại Cung điện Louvre ở Paris, là con thứ ba và con gái thứ hai của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici. Là con gái của Quốc vương Pháp, Christine được gọi là Fille de France ("Con gái nước Pháp"). Christine Marie là em gái của Louis XIII và Élisabeth của Pháp và là chị gái của Đức ngài xứ Orléans, Gaston và Henriette Marie của Pháp. Christine còn là em vợ của Felipe IV của Tây Ban Nha thông qua chị gái Élisabeth và là chị vợ của Charles I của Anh thông qua em gái Henriette Marie. Khi còn nhỏ, Vương nữ được nuôi dưỡng dưới sự giám sát của nữ gia sư Françoise de Montglat. Sau cuộc hôn nhân của chị gái Élisabeth vào năm 1615 với Felipe của Tây Ban Nha, Christine được kế thừa danh hiệu "Madame Royale" ("Bà chúa Vương thất") của chị gái, biểu thị thân phận của Christine Marie là Vương nữ lớn nhất chưa kết hôn trong triều đình của Henri IV của Pháp. Sau khi Christine kết hôn, danh hiệu này được kế thừa bởi em gái Christine là Henriette Marie. Thân vương phi xứ Piemonte. Christine Marie kết hôn với Vittorio Amadeo I của Savoia vào ngày 10 tháng 2 năm 1619 tại Louvre ở Paris. Từ năm 1619 cho đến khi chồng lên ngôi, Christine được biết đến là Thân vương phi xứ Piemonte. Vittorio Amadeo là con trai của Carlo Emanuele I của Savoia và Catalina Micaela của Tây Ban Nha. Thân vương phi bị cho là người dễ thay đổi và phù phiếm. Với nền giáo dục được thừa hưởng từ triều đình Pháp, Christine Marie đã phổ biến văn hóa Pháp tới triều đình Savoia. Nơi ở của Christine bao gồm "Palazzo Madama" mà Thân vương phi đã cho xây dựng lại và Christine cũng là người thúc đẩy việc tái thiết Lâu đài Valentino cũng như cho mở rộng Cung điện Vương thất Torino. Sau này Christine cũng sở hữu Villa Abegg, nơi ở cũ của Maurizio của Savoia, em chồng cũng như là con rể của Christine Marie. Christine Marie đã nỗ lực hết mức có thể để đảm bảo rằng triều đình của mình có thể sánh ngang với em gái Henriette Marie, vợ của Charles I của Anh. Mặc dù vậy, hai chị em vẫn duy trì mối quan hệ thư từ gần gũi trong suốt cuộc đời, cho thấy hai chị em có mối quan hệ thân thiết. Christine cũng là tâm phúc của Henriette Marie trong thời gian sống lưu vong khỏi nước Anh và Henriette Marie cũng thường viết thư cho chị gái kể về những trải nghiệm của mình trong Nội chiến Anh và sự phục vị của con trai Vương hậu. Christine khuyến khích chồng mình đòi quyền sở hữu tước hiệu Quốc vương Síp và Jerusalem, một 'vương quốc' khiến Vittorio Amadeo I bị gắn mác là "một quốc vương không có vương miện". Christine Marie cũng không che giấu mong muốn trở thành một Vương hậu hơn là một Công tước phu nhân hay muốn biến Công quốc Savoia thành nước Pháp phiên bản nhỏ hơn. Công tước phu nhân và nhiếp chính xứ Savoia. Victtorio Amadeo trở thành Công tước xứ Savoia sau cái chết của cha vào ngày 26 tháng 7 năm 1630. Khi chồng của Christine qua đời vào năm 1637, bà Thái Công tước được phong làm nhiếp chính thay mặt con trai là Francesco Giacinto I. Sau khi Francesco Giacinto I qua đời vào năm 1638, Christine tiếp tục nắm quyền nhiếp chính thay mặt con trai Carlo Emanuele II. Cả Công tử Maurizio và em trai là Công tử Tomasso Francesco của Savoia đều tranh chấp quyền lực với chị dâu và đoàn thị tùng người Pháp của Thái Công tước phu nhân. Khi người thừa kế đầu tiên Francesco Giacinto I qua đời vào năm 1638, cả hai anh em bắt đầu Nội chiến Piemonte với sự hỗ trợ của Tây Ban Nha. Hai phe đối địch được gọi là ""principisti" " (những người ủng hộ các Công tử) và ""madamisti" " (những người ủng hộ Madama Reale). Sau bốn năm tranh giành quyền lực, Christine Marie giành thắng lợi nhờ sự hỗ trợ của quân đội Pháp. Christine không chỉ bảo toàn được Công quốc Savoia cho con trai mà còn ngăn cản việc Pháp có được quá nhiều quyền lực trong Công quốc. Khi hòa bình được thiết lập vào năm 1642, Maurizio kết hôn với con gái mười bốn tuổi Luisa Cristina của Christine Marie, từ bỏ tước vị hồng y và xin Giáo hoàng Phaolô V miễn trừ. Maurizio trở thành thống đốc xứ Nice. Christine vẫn nắm quyền kiểm soát vững chắc Công quốc Savoia cho đến khi con trai bà có thể cai trị nối bước mình. Quyền nhiếp chính của Christine Maria kết thúc vào năm 1648, nhưng Christine vẫn chịu trách nhiệm theo dõi theo lời mời của con trai cho đến khi qua đời. Christine Marie sống một cuộc sống riêng tư thoải mái và có quan hệ với Đại sứ Pháp, Marini, em chồng Maurizio, và Bá tước Filippo d'Aglié, một người đàn ông đẹp trai, học thức và gan dạ và luôn trung thành với Christine suốt cuộc đời. Cuộc sống sau này. Christine Marie khuyến khích con trai Carlo Emanuele II kết hôn với cháu gái gọi bác của mình là Françoise Madeleine của Orléans, con gái út còn sống của Gaston của Pháp, Công tước xứ Orléans, em trai út của Christine. Hai người kết hôn vào ngày 3 tháng 4 năm 1663. Christine qua đời tại Cung điện Madama ở Torino vào ngày 27 tháng 12 năm 1663 ở tuổi 57 và được chôn cất tại Vương cung thánh đường Thánh Andrea. Christine Marie đã sống lâu hơn 4 trong số 7 người con của mình. Diễn biến sau này và di sản. Françoise Madeleine qua đời vào tháng 1 năm 1664 và Carlo Emanuele II sau đó tái hôn với một người em họ xa là Marie Jeanne Baptiste xứ Savoie-Nemours. Marie Jeanne Baptiste sinh ra Victtorio Amadeo II của Sardegna, người sau này kết hôn với một Vương tôn nữ Pháp (và là thành viên của Vương tộc Orléans) là Anne Marie của Orléans. 17 năm sau khi Christine Marie qua đời, vào năm 1680, cháu ngoại của Christine là Maria Anna Victoria xứ Bayern thông qua con gái thứ ba là Enrichetta Adelaide của Savoia, kết hôn với cháu trai của anh trai Christine là Louis của Pháp, được gọi là 'Người béo'. Christine do đó đã trở thành tổ mẫu của nhánh Tây Ban Nha của Vương tộc Bourbon thông qua con trai thứ hai của Maria Anna Victoria là Felipe V của Tây Ban Nha. Năm 2010, trên chương trình "Who Do You Think You Are?" của NBC, người mẫu/diễn viên Brooke Shields được tiết lộ là một hậu duệ của Christine Marie. Marie Christine von Reibnitz, Vương phi Michael xứ Kent cũng là hậu duệ của Christine thông qua con trai Carlo Emanuele II.
Kevin Van Den Kerkhof Kevin Daniel Van Den Kerkhof Guitoun (; sinh ngày 14 tháng 3 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cánh phải cho câu lạc bộ Metz tại Ligue 1. Sinh ra tại Pháp, anh thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie. Sự nghiệp thi đấu. Là một sản phẩm của lò đào tạo Valenciennes, Van Den Kerkhof bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Aulnoye vào năm 2014, trước khi chuyển sang đội dự bị của Lorient vào năm 2015. Sau một chấn thương nặng, anh trở lại Feignies Aulnoye, trước khi chuyển đến Bỉ, tại câu lạc bộ La Louvière vào năm 2017. Năm 2019, anh chuyển đến Olympic Charleroi tại Giải bóng đá Hạng Nhất quốc gia Bỉ. Sau một mùa giải ở đó, anh chuyển đến câu lạc bộ F91 Dudelange, nơi anh ghi 17 bàn thắng và có 13 pha kiến ​​tạo trong hai mùa giải. Vào ngày 12 tháng 5 năm 2022, anh trở lại Pháp với câu lạc bộ Bastia tại Ligue 2. Anh ra mắt chuyên nghiệp cho đội bóng trong trận thua 2–0 tại Ligue 2 trước Laval vào ngày 30 tháng 7 năm 2022. Sự nghiệp quốc tế. Sinh ra tại Maubeuge, Van Den Kerkhof có cha là người Algérie và mẹ là người Pháp. Anh đã được gọi lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie vào tháng 3 năm 2023 cho 2 trận đấu tại vòng loại Cúp bóng đá châu Phi gặp Niger. Van Den Kerkhof sử dụng tên Kevin Guitoun ở Algérie. Anh là bạn thân của tuyển thủ người Pháp, Benjamin Pavard. Anh được sinh ra trước 2 tuần tại cùng một thị trấn nhỏ của Maubeuge.
CGT48 viết tắt của CHENGTU48 là một nhóm nhạc nữ thần tượng lớn của Trung Quốc được thành lập tại Thành Đô vào năm 2023. Đây là nhóm chị em thứ 5 của SNH48 và trực thuộc Chi nhánh Thành Đô của Shanghai Siba Culture Media Group Co., Ltd. Định vị cơ bản của CGT48 cũng bám sát định vị cơ bản của SNH48, dựa trên khái niệm tạo sao là "thần tượng trực diện", một nhóm nhạc nữ thần tượng quy mô lớn có tư duy Internet và tinh thần tham gia, tiếp thu hoàn toàn mô hình đặc điểm và kinh nghiệm hoạt động của SNH48, đồng thời thực hiện chuyển đổi khu vực. 1.Trong nhóm SNH48, CKG48 từng thành lập Team C, và GNZ48 thành lập Team G 2.Thực ra việc sa thải đã được đơn phương công bố vào ngày 24 tháng 7 năm 2023 Pocket48 Official YouTube Channel
Giáo phận Surat Thani Giáo phận Surat Thani (; ) là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Thái Lan. Lãnh đạo đương nhiệm của giáo phận là Giám mục Giuse Prathan Sridarunsil. Địa giới giáo phận bao gồm tỉnh Prachuap Khiri Khan và các tỉnh nằm tại phía nam tỉnh này ở Thái Lan. Tòa giám mục và Nhà thờ chính tòa Thánh Raphaen của giáo phận được đặt tại thành phố Surat Thani. Giáo phận được chia thành 40 giáo xứ. Giáo phận được thành lập vào ngày 26/6/1969 theo tông sắc "Qui Regno Christi" của Giáo hoàng Phaolô VI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Giáo phận Ratburi (hiện là Giáo phận Ratchaburi). Giám mục quản nhiệm. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Đến năm 2020, giáo phận có 8.191 giáo dân trên dân số tổng cộng 10.593.352, chiếm 0,1%.
Mary Alexandra Earps (sinh ngày 7 tháng 3 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Manchester United tại FA Women's Super League và Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Anh. Tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023, cô là đội phó của đội tuyển Anh, và giành giải thưởng Găng tay Vàng cho thủ môn xuất sắc nhất của giải đấu. Trước đây, cô đã từng chơi cho các câu lạc bộ Bristol Academy, Birmingham City, Doncaster Belles, và Reading tại FA WSL, VfL Wolfsburg ở Đức. Earps đã đại diện cho Anh ở các cấp độ U-17, U-19 và U-23 và ra mắt quốc tế vào năm 2017. Sự nghiệp thi đấu. Mùa giải 2009–10, Earps được đôn lên đội 1 của Leicester City, để tạo sự cạnh tranh cho thủ môn số 1 Leanne Hall. Ở mùa giải tiếp theo, Earps đã ký hợp đồng với Nottingham Forest. Cô ngồi trên băng ghế dự bị trong trận thua của Forest trên loạt sút luân lưu trước Barnet tại chung kết FA Women's Premier League Cup. Doncaster Rovers Belles đã ký hợp đồng với thủ môn Earps 18 tuổi ngay trước khi bắt đầu mùa giải 2011. Huấn luyện viên John Buckley rất vui khi được đảm bảo dịch vụ của mình: "Cô ấy có tiềm năng vượt trội và một tương lai rất tươi sáng phía trước." Earps bắt đầu thi đấu thường xuyên ở nửa sau của mùa giải 2011, sau đó gia nhập Coventry City theo dạng cho mượn. Sau khi dành mùa giải 2012 với Doncaster, Earps gia nhập Birmingham City trước mùa giải 2013. Vào tháng 11 năm 2013, cô có trận ra mắt UEFA Women's Champions League trong chiến thắng 5–2 trước FC Zorky trên sân vận động St Andrew's. Sự hiện diện của Rebecca Spencer đã làm giảm cơ hội thi đấu của Earps tại Birmingham, vì vậy cô đã chuyển tới Bristol Academy. Tại Bristol, Earps đã chơi tất cả trừ một trận của đội trong suốt mùa giải 2014 và 2015. Khi Bristol xuống hạng, Earps gia nhập câu lạc bộ Reading. Trong mùa giải đầu tiên với Reading, Earps đã có tên trong giải thưởng PFA Team of the Year. Vào tháng 6 năm 2018, Earps gia nhập nhà đương kim vô địch Bundesliga, VfL Wolfsburg. Cô ra mắt vào ngày 8 tháng 9 năm 2018 trong chiến thắng 11–0 trước Hannover 96 tại DFB-Pokal Frauen. Đội đã giành được cú đúp quốc nội thứ ba liên tiếp trong mùa giải 2018–19. Vào ngày 12 tháng 7 năm 2019, sau một mùa giải ở Đức, Earps trở lại Anh để ký hợp đồng với đội bóng mới được thăng hạng, Manchester United trước mùa giải 2019–20. Earps ra mắt cho đội bóng trong trận thua 1–0 trước Manchester City tại FA WSL vào ngày 7 tháng 9 năm 2019. Cô giữ sạch lưới trận đầu tiên cho câu lạc bộ vào ngày 28 tháng 9 năm 2019 trong chiến thắng 2–0 trước Liverpool, chiến thắng đầu tiên của câu lạc bộ tại FA WSL. Vào ngày 26 tháng 2 năm 2021, Earps ký hợp đồng mới với Manchester United có thời hạn đến năm 2023 với tùy chọn gia hạn thêm một năm. Earps đã giữ sạch lưới 14 trận ở giải VĐQG, một kỷ lục mới của WSL, trong suốt mùa giải 2022–23. Điều đó đã giúp cô giành được giải thưởng Găng tay Vàng và Manchester United kết thúc ở vị trí thứ 2, vị trí tốt kỷ lục câu lạc bộ, đủ điều kiện tham dự UEFA Women's Champions League lần đầu tiên. Sự nghiệp quốc tế. Earps thi đấu cho U-19 Anh tại Giải vô địch bóng đá nữ U-19 châu Âu 2012 ở Thổ Nhĩ Kỳ. Cô đã giành được nhiều lời khen ngợi cho màn trình diễn của mình dù đội tuyển Anh đã bị loại ngay từ vòng bảng. Tháng 7 năm 2013, học sinh của trường Đại học Loughborough, Earps giúp Vương quốc Anh giành huy chương vàng tại Đại hội Thể thao Sinh viên Thế giới 2013 ở Kazan, Nga. Sau khi Karen Bardsley và Rachel Brown-Finnis dính chấn thương, Earps được gọi lên đội tuyển Anh vào tháng 4 năm 2014 chuẩn bị cho trận đấu tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2015 gặp Montenegro trên sân vận động Falmer, Brighton and Hove. Cô trở lại đội tuyển quốc gia vào tháng 9 năm 2015 trong trận thắng 8–0 của Anh tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2017 trước Estonia. Vào tháng 6 năm 2017, Earps được gọi vào trại huấn luyện của đội tuyển Anh để thi đấu tại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2017 như sự lựa chọn thứ 4 trong khung gỗ. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2017, cô ra mắt quốc tế trong chiến thắng 4–0 trước Thụy Sĩ. Cô có trận đấu đầu tiên vào tháng 9 năm 2018, trong chiến thắng 6–0 trước Kazakhstan. Vào ngày 8 tháng 5 năm 2019, cô có tên trong danh sách tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019. Vào ngày 17 tháng 9 năm 2021, Earps được chỉ định là thủ môn xuất phát trong trận đấu đầu tiên của Sarina Wiegman với tư cách là huấn luyện viên đội tuyển Anh, lần xuất hiện đầu tiên của cô với Lionesses kể từ tháng 11 năm 2019. Anh đánh bại Bắc Macedonia 8–0 tại Vòng loại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023. Vẫn là thủ môn được lựa chọn đầu tiên của Wiegman từ 8 trong số 11 trận đấu đầu tiên của cô, Earps được đưa vào đội tuyển Anh thi đấu tại Giải vô địch bóng đá nữ châu Âu 2022 vào tháng 6 năm 2022. Cô chơi cả sáu trận khi đội tuyển Anh lần đầu tiên vô địch giải đấu. Earps để thủng lưới hai lần, giữ sạch lưới bốn trận, cùng thành tích với Merle Frohms của đội tuyển Đức, và có tên trong Đội hình tiêu biểu của giải đấu. Earps đã được phân bổ số 198 khi FA công bố sơ đồ số kế thừa của họ để tôn vinh lễ kỷ niệm 50 năm ngày đội tuyển Anh khai mạc giải đấu quốc tế. Vào ngày 6 tháng 4 năm 2023, Earps cản phá được một quả phạt đền trong loạt sút luân lưu với Brasil để giúp đội tuyển Anh giành chức vô địch Siêu cúp nữ Liên lục địa CONMEBOL–UEFA. Vào ngày 31 tháng 5 năm 2023, Earps có tên trong danh sách tham dự Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 vào tháng 7 năm 2023. Ngày 21 tháng 7 năm 2023, Earps phàn nàn rằng người hâm mộ tại World Cup không thể mua một chiếc áo đấu có tên cô vì nhà cung cấp Nike đã quyết định không sản xuất một chiếc áo nào. Trong thời gian diễn ra World Cup, cô chơi cả bảy trận đấu, để thủng lưới bốn bàn, ba bàn từ trận đấu mở màn và giữ sạch lưới ba trận. Tại trận chung kết thua 1–0 trước Tây Ban Nha vào ngày 20 tháng 8, Earps cản phá một cú phạt đền của Jennifer Hermoso ở phút thứ 68. Cô nhận giải thưởng Găng tay vàng của giải đấu. Vào tháng 6 năm 2023, Earps thành lập công ty kinh doanh quần áo và may mặc của riêng mình mang tên MAE27. Từ năm 2012 đến năm 2016, Earps đã lấy được bằng Quản lý Thông tin và Nghiên cứu Kinh doanh của trường Đại học Loughborough. Là một phần của chiến dịch "Where Greatness Is Made", một tấm bảng vinh danh Earps đã được lắp đặt tại West Bridgford F.C. ở Nottingham. "Tính đến trận đấu diễn ra vào 27 tháng 5 năm 2023" "Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 31 tháng 10 năm 2023."
Danh sách câu lạc bộ bóng đá ở Trung Quốc Dưới đây là danh sách câu lạc bộ bóng đá nam ở Trung Quốc tham gia vào các giải đấu và hạng đấu trong hệ thống chuyên nghiệp và bán chuyên do Hiệp hội bóng đá Trung Quốc tổ chức. Các hạng đấu được cập nhật chính xác cho tới mùa giải 2023. Các câu lạc bộ sẽ được liệt kê kèm với tỉnh/thành phố/khu tự trị nơi mà câu lạc bộ đó trực thuộc. "Lưu ý:" Trong đề mục "Hiện tại", tất cả danh sách được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái dựa trên tên gọi chứ không phụ thuộc vào thứ hạng cũng như trình độ của các câu lạc bộ, trong đó từng câu lạc bộ đều sẽ được liệt kê bằng tên theo phiên âm Hán–Việt kèm với tên theo tiếng Anh để tiện cho việc tra cứu.
Hành quân Trần Hưng Đạo 48 Hành quân Trần Hưng Đạo 48 là một chiến dịch do Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiến hành vào tháng 2 năm 1974 đưa quân lên đồn trú các đảo chưa bị chiếm đóng để khẳng định chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa sau sự kiện Hải chiến Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974. Thất bại trong Hải chiến Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 mà không có hỗ trợ từ phía Hoa Kỳ, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lo ngại Trung Quốc sẽ chiếm quần đảo Trường Sa. Cho đến tháng 1 năm 1974, ngoài Việt Nam Cộng hòa còn có Đài Loan và Philippines đã chiếm đóng một số đảo sau đây trong quần đảo Trường Sa: Ngày 30 tháng 1 năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tiến hành Hành quân Trần Hưng Đạo 48 đưa 136 quân (thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 371, tiểu khu Phước Tuy) ra đồn trú tại 5 đảo tại quần đảo Trường Sa bao gồm đảo Sinh Tồn (Sin Cowe island), đảo Trường Sa (Spratly island), đảo An Bang (Amboyna Cay), đảo Song Tử Tây (Southwest Cay) và đảo Sơn Ca (Sand Cay). Mục đích của cuộc hành quân là thiết lập sự hiện diện của Việt Nam Cộng Hòa trên các hòn đảo chưa bị chiếm đóng và không tiến hành các hoạt động thù địch nào ở các đảo đã bị đối phương chiếm đóng. Đội tàu tham gia chiến dịch này dưới sự chỉ huy của Đại tá hải quân Nguyễn Văn May gồm có Hộ tống hạm Đống Đa HQ 07 (tàu có bộ chỉ huy Hành quân Trần Hưng Đạo 48), Hải vận hạm Tiền Giang HQ 405, Khu trục hạm Trần Hưng Đạo HQ 01, Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ 05, Tuần dương hạm Phạm Ngũ Lão HQ 15, Tuần dương hạm Ngô Quyền HQ 17 và Yểm trợ hạm Mỹ Tho HQ 800. Điện văn từ Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn gởi về Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 31/01/1974 báo cáo: "Nguồn tin từ Hãng Thông tấn UPI trong ngày 31/01/1974 đã tường thuật về việc một lực lượng hải quân Việt Nam [Cộng hòa] gồm Khu trục hạm Trần Hưng Đạo, Tuần dương hạm HQ 5 và 1 chiếc Dương vận hạm mang theo một đại đội Địa phương quân thuộc tỉnh Phước Tuy rời Vũng Tàu ngày hôm qua 30/01/1974 trên đường đến 5 đảo không người ngoài Trường Sa. Những đảo này là: đảo Sinh Tồn, đảo Trường Sa, đảo An Bang, đảo Song Tử Tây và đảo Sơn Ca. UPI nhấn mạnh là đảo Sơn Ca nằm gần đảo Ba Bình, trên đó có quân đội trú phòng của Đài Loan" Lực lượng tham gia chiến dịch ban đầu gồm hai tàu HQ 07 và HQ 405 do đại tá Nguyễn Văn May chỉ huy xuất phát từ Vũng Tàu sáng ngày 30 tháng 1 năm 1974. Theo kế hoạch, trên mỗi đảo sẽ có một trung đội khoảng chừng 20-30 Địa Phương Quân độ bổ và đồn trú do một chuẩn úy hay thiếu úy chỉ huy. Ngày 1 tháng 2 năm 1974, hải quân Việt Nam Cộng hòa đổ bộ lên đảo Song Tử Tây. Do đảo Song Tử Tây rất gần với đảo Song Tử Đông đang do quân đội Philippines chiếm đóng, nên lực lượng Việt Nam Cộng hòa được lệnh không để xảy ra xung đột với quân đội Philippines. Ngày 2 tháng 2 năm 1974 hai tàu HQ 07 and HQ 405 đưa quân đổ bộ lên đảo Sơn Ca thành công mà không xảy đụng độ với lực lượng Đài Loan tại đảo Ba Bình gần đó. Cũng đầu tháng 2 năm 1974, Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ 05 sau khi tham gia cuộc chiến với Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa cũng được điều động tham gia cuộc hành quân Trần Hưng Đạo 48 với tàu Hải vận hạm HQ 405 và Hộ tống hạm HQ 07 bảo vệ quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên do có trục trặc về máy móc trên hải trình từ đảo Sơn Ca đến đảo Sinh Tồn, HQ 405 được HQ 05 đưa về Vũng Tàu sửa chữa. Tuần dương hạm Phạm Ngũ Lão HQ 15 được điều động thay thế HQ 405 tiếp tục bảo vệ cho việc đổ quân lên các đảo còn lại ở quần đảo Trường Sa. Ngày 03 tháng 2 năm 1974, hải quân Việt Nam Cộng hòa đổ bộ lên đảo Sinh Tồn và trong cùng ngày là đảo Trường Sa. Riêng đảo An Bang do diện tích nhỏ và độ cao hơn mặt biển chỉ chừng 1m nên lực lượng hành quân không cho quân đồn trú. Khoảng giữa tháng 2 năm 1974, Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã gửi thêm một số chiến hạm gồm có Tuần dương hạm Ngô Quyền HQ 17 và Yểm trợ hạm Mỹ Tho HQ 800 chở lực lượng Công binh và 500 tấn vật liệu, cùng các kỹ sư để lo việc xây cất doanh trại và nhà ở kiến cố cho các toán địa phương quân trú đóng trên các đảo ở quần đảo Trường Sa.
Balltze, còn được biết đến với tên gọi Ball Ball, là một chú chó Shiba Inu đến từ Hồng Kông. Balltze được biết đến như là chủ đề ở nhiều meme nơi cậu có biệt danh là Cheems. Balltze sinh vào ngày 9 tháng 1 năm 2011. Cậu đã được nhận nuôi lúc một tuổi bởi một người di cư, nhà thiết kế thời trang Kathy đến từ Cửu Long. Em trai của Kathy đã đặt tên cậu là Balltze dựa trên một loại đồ uống Nhật Bản gọi là Ramune, trong đó một viên bi bên trong chai được nhấn xuống để cho nước chảy ra. Chủ của cậu gọi cậu là Ball Ball. Vào tháng 5 năm 2022, Balltze được chẩn đoán mắc bệnh viêm tụy. Cậu đã phục hồi vào tháng 6. Vào tháng 5 năm 2023, chủ của cậu thông tin rằng cậu gặp vấn đề về hô hấp nghiêm trọng. Cậu mắc bệnh ung thư và đang trải qua quá trình thực hiện chọc dịch màng phổi khi cậu qua đời vào ngày 18 tháng 8 năm 2023, ở tuổi 12. Trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2020 với trang "Know Your Meme", Kathy nói rằng Balltze muốn di sản mình để lại là "Meme là phù du, [đồng nghiệp meme Shiba Inu] Doge là vĩnh cửu. Hãy nhớ tôi là 'Balltze', không phải 'Cheems' hay 'cheemsburger', tôi chỉ là Balltze". Balltze xuất hiện với tư cách nhân vật meme Internet Cheems, tên này xuất phát từ sự yêu thích của cậu đối với "cheemsburgers" ["sic"]. Nhân vật này thêm chữ "m" vào các từ khi cậu nói. Meme này được đăng lần đầu trên subreddit r/dogelore trên Reddit vào tháng 6 năm 2019. Hình ảnh được sử dụng cho meme ban đầu đã được tải lên tài khoản Instagram của Balltze vào năm 2017, cho thấy cậu đang ngồi trên sàn nhà. Cheems cũng xuất hiện trong meme "Swole Doge vs Cheems", trong đó phiên bản cơ bắp của Doge đại diện cho điều gì đó được xem là tốt hơn trong quá khứ và Cheems đại diện cho trạng thái hiện tại kém hơn của nó. Meme này trở nên phổ biến vào giữa năm 2020, trong thời kỳ đại dịch COVID-19. Trong một định dạng meme khác, Godzilla và King Kong đại diện cho hai phe đối đầu với nhau, trong khi Cheems với gậy bóng chày là phe thứ ba chiến thắng, đuổi hai phe còn lại đi. Năm 2020, một meme khác lưu hành, trong đó Cheems đánh một chú chó khác bằng cây gậy bóng chày, tạo ra tiếng "bonk", trong khi cậu nói "go to horny jail" ("đi vào nhà giam"); meme này được đăng để đáp trả các tin nhắn khiêu gợi tình dục. Nhà báo Caleb Quinley của "The Guardian" đã chú ý đến hình ảnh này trong các cuộc biểu tình chống đảo chính tại Myanmar năm 2021. Cheems xuất hiện ở nhiều meme khác trong tiếng Tây Ban Nha, bao gồm việc nói "no puede ser" ("Nó là không thể") và "me da amsiedad" ("Nó làm tôi lo lmắng" ["sic"]). Năm 2021, đài phát thanh công cộng của Tây Ban Nha RTVE viết rằng "Rõ ràng rằng một meme có giá trị hơn nghìn từ và Cheems với Doge hiện nay là một phần của văn hóa phổ biến trên Internet, liên tục sáng tạo lại chính mình để làm rực rỡ ngày tháng của chúng ta hoặc đặt chúng ta vào vị trí của mình". Meme Cheems ưa thích của chủ nhân Balltze, Kathy, là một phiên bản bằng tiếng Tây Ban Nha, trong đó cậu tắm và nói "Bạn có thể tiếp tục lướt xuống không? Chỉ là tôi đang tmắm ["sic"]". Ban đầu, Kathy không hiểu những meme Cheems vì tính chất kỳ quặc của chúng. Sau này, cô đã ký kết hợp đồng với một công ty quản lý và một công ty đồ chơi Mỹ, cũng như sản xuất áo thun mang lại lợi ích cho các tổ chức từ thiện địa phương. Cheems đã truyền cảm hứng cho các loại tiền kỹ thuật số như Cheems Inu và Cheemscoin. Parth Dubey của "International Business Times" viết rằng chúng là một phần của "một loạt các đồng tiền có chủ đề về chó" cạnh tranh với tiền kỹ thuật số Dogecoin và Shiba Inu.
Muhammad Saleh Arifin (23 tháng 11 năm 1926 –?) là một sĩ quan quân đội và chính trị gia người Indonesia, ông giữ chức thị trưởng Medan từ năm 1974 đến năm 1980 và là đại biểu của Hội đồng Đại diện Nhân dân. Arifin sinh ra ở Medan vào ngày 23 tháng 11 năm 1926. Ông học bảy năm tại trường Taman Siswa và dành một năm học kinh tế ở Kayutanam, Tây Sumatra. Sau khi làm việc tại một hiệu sách ở Medan và đồn điền ở Binjai trong thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng, ông gia nhập Lục quân Indonesia trong Cách mạng Dân tộc Indonesia. Sau đó ông hoàn thành trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Medan, trước khi tuyển vào trường sĩ quan bộ binh ở Bandung. Ông sau đó đóng quân ở Bắc Sumatra đến năm 1963 rồi được tái bổ nhiệm đến Quân khu Siliwangi trong một năm. Ông được phân công đến Bắc Sumatra và trở thành phụ tá cho tư lệnh quân sự khu vực tại Quân khu Bukit Barisan. Sau đó ông được bổ nhiệm trở thành chủ tịch đảng cấp tỉnh đại diện Golkar ở Bắc Sumatra. Ông giữ chức vụ này đến năm 1973. Năm 1971, ông được bầu vào Hội nghị Hiệp thương Nhân dân mới thành lập với tư cách là người đại diện lục quân với quân hàm thượng tá. Đến năm 2004, một khối ghế trong Hội nghị dành riêng cho cảnh sát và sĩ quan quân đội. Sau đó ông giữ chức thị trưởng Medan, giữ quyền thị trưởng bắt đầu từ ngày 27 tháng 7 năm 1974 kế nhiệm Sjoerkani. Ông chính thức được bổ nhiệm giữ chức thị trưởng vào ngày 31 tháng 7 năm 1975, và nhiệm kỳ kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 1980. Trong nhiệm kỳ thị trưởng, một khu cờ bạc có tiếng hoạt động ở Medan với sự cho phép của thành phố, Arifin đã biện hộ chống lại sự chỉ trích của giới truyền thông. Arifin cho biết, những người tổ chức đánh bạc đồng ý trả số tiền 15 triệu Rupiah (~36.000 USD theo tỷ giá thập niên 1970) mỗi tháng cho chính quyền thành phố và chỉ mở cửa trong ba tháng. Ông cho biết số tiền này sẽ được dùng để xây dựng một khu phố mới. Ông được an táng tại Nghĩa trang Anh hùng Bukit Barisan ở Medan.
Định luật eponymy của Stigler Định luật eponymy của Stigler (tiếng Anh: "Stigler's law of eponymy"), do giáo sư thống kê Stephen Stigler của Đại học Chicago đề xuất trong ấn phẩm "Stigler's law of eponymy" năm 1980 của ông, tuyên bố rằng không có khám phá khoa học nào được đặt theo tên của người phát hiện ra nó. Các ví dụ bao gồm Định luật Hubble, được Georges Lemaître đưa ra 2 năm trước khi Edwin Hubble tuyên bố nó; Định lý Pythagoras, được các nhà toán học Babylon biết đến trước Pythagoras; và Sao chổi Halley, được các nhà thiên văn học quan sát ít nhất từ năm 240 trước Công nguyên (mặc dù tên gọi chính thức của nó là do dự đoán toán học đầu tiên về hiện tượng thiên văn như vậy trên bầu trời, chứ không phải do phát hiện ra nó). Chính Stigler đã cho rằng nhà xã hội học Robert K. Merton mới chính là người phát hiện ra "định luật Stigler" để chứng tỏ rằng nó tuân theo quy luật riêng của nó, mặc dù hiện tượng này trước đó đã được những người khác ghi nhận. Sự ca ngợi trong lịch sử đối với những khám phá thường được trao cho những người nổi tiếng quan tâm đến một ý tưởng chưa được biết đến rộng rãi, cho dù người đó có phải là người phát minh ra nó hay không - các lý thuyết có thể được đặt tên rất lâu sau khi khám phá ra chúng. Trong trường hợp dùng eponym, ý tưởng sẽ được đặt theo tên của người đó, ngay cả khi người đó được các nhà lịch sử khoa học thừa nhận không phải là người đã phát hiện ra nó. Thông thường, nhiều người sẽ nảy ra một ý tưởng mới trong cùng một thời điểm, như trong trường hợp vi tích phân. Việc tên tuổi của nhà khoa học có gắn liền với lịch sử hay không có thể phụ thuộc vào mức độ phổ biến của tác phẩm mới và danh tiếng của nhà xuất bản.
Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế (tiếng Anh: Vienna Convention on the Law of Treaties, viết tắt: VCLT) là một thỏa thuận quốc tế quy định các điều ước quốc tế giữa các quốc gia có chủ quyền, hệ thống hóa luật tập quán quốc tế và thông lệ quốc gia liên quan đến các điều ước quốc tế. Được biết đến như là "hiệp ước về các hiệp ước", VCLT thiết lập các hướng dẫn, quy tắc và thủ tục toàn diện về cách thức các hiệp ước được soạn thảo, xác định, sửa đổi và giải thích. Điều ước quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản giữa các quốc gia tuân theo luật pháp quốc tế, trong đó quy định đồng thuận của các bên tham gia đối với việc tạo lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định trong điều ước. Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế được thông qua và mở cho ký kết vào ngày 23 tháng 5 năm 1969, có hiệu lực từ ngày 27 tháng 1 năm 1980, và đã được 116 quốc gia có chủ quyền phê chuẩn tính đến tháng 1 năm 2018. Các bên không phê chuẩn, chẳng hạn như Hoa Kỳ, đã công nhận các phần của VCLT là cách trình bày lại luật tập quán quốc tế. Trong luật điều ước, VCLT là bên giải quyết tranh chấp về việc giải thích điều ước. Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế (VCLT) do Ủy ban Pháp luật Quốc tế (ILC) của Liên Hợp Quốc soạn thảo và bắt đầu xây dựng công ước này từ năm 1949. Trong suốt 20 năm chuẩn bị, một số phiên bản dự thảo của Công ước do các báo cáo viên đặc biệt của ILC chuẩn bị, bao gồm các học giả luật quốc tế nổi tiếng James Brierly, Hersch Lauterpacht, Gerald Fitzmaurice và Humphrey Waldock. INăm 1966, ILC đã thông qua 75 điều khoản dự thảo, mở đường cho thực hiện quy trình cuối cùng. Trải qua hai phiên họp năm 1968 và 1969, Hội nghị Viên đã hoàn thành và thông qua công ước vào ngày 22 tháng 5 năm 1969. Công ước được mở cho ký kết vào ngày hôm sau. Nội dung và ảnh hưởng. Trong thực tiễn luật pháp quốc tế, Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế là bên pháp lý về quy trình hình thành và hiệu lực của một điều ước. Vị thế pháp lý của VCLT được các quốc gia không ký kết (chẳng hạn như Hoa Kỳ và Ấn Độ) công nhận là có tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với tất cả các quốc gia có chủ quyền đã công nhận vị thế tập quán quốc tế của Công ước Viên. VCLT định nghĩa hiệp ước là "một thỏa thuận quốc tế được ký kết giữa các quốc gia [có chủ quyền] dưới dạng văn bản và được điều chỉnh bằng luật pháp quốc tế", đồng thời khẳng định "mọi quốc gia đều có khả năng ký kết các hiệp ước". Điều 1 của VCLT hạn chế việc áp dụng công ước đối với các điều ước bằng văn bản giữa các quốc gia, không bao gồm các điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia với các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế. Điều 26 quy định "pacta sunt servanda", rằng các thỏa thuận phải được tuân thủ. Điều 53 định nghĩa "jus cogens", quy phạm bắt buộc. Điều 62 định nghĩa "Clausula rebus sic stantibus", xác định tình trạng có hiệu lực hay vô hiệu của điều ước quốc tế. Điều 77 định nghĩa cơ quan lưu giữ ("dpositary"), tổ chức hoặc cá nhân ký kết điều ước quốc tế nhiều bên. Công ước Viên chỉ áp dụng cho các điều ước được thỏa thuận sau khi VCLT được phê chuẩn, và áp dụng cho các điều ước được thỏa thuận giữa các quốc gia có chủ quyền, nhưng không hiệu chỉnh các thỏa thuận khác giữa các quốc gia có chủ quyền với các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế, nếu bất kỳ quy tắc VCLT nào có tính ràng buộc độc lập với các quốc gia có chủ quyền đó. Trên thực tế, Điều 2 và Điều 5 của Công ước Viên áp dụng cho các hiệp ước giữa các quốc gia có chủ quyền và một tổ chức liên chính phủ. Tuy nhiên, các thỏa thuận giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế sẽ tuân theo Công ước Viên về Luật điều ước giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế năm 1986 nếu Công ước này có hiệu lực. Hơn nữa, trong các điều ước quốc tế giữa các quốc gia và các tổ chức quốc tế, các điều khoản của Công ước vẫn được áp dụng giữa các quốc gia thành viên. Công ước không áp dụng cho các thỏa thuận bất thành văn. Các bên tham gia. Tính đến tháng 1 năm 2018, có 116 quốc gia thành viên đã phê chuẩn công ước và 15 quốc gia khác đã ký nhưng chưa phê chuẩn. Ngoài ra, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), hiện chỉ được 12 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc công nhận, đã ký Công ước vào năm 1970, trước khi Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc tiến hành cuộc bỏ phiếu năm 1971 về chuyển giao ghế của Đài Loan cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, quốc gia sau đó đã gia nhập công ước. Có 66 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc chưa ký cũng như phê chuẩn công ước. Ký kết, phê chuẩn và gia nhập. Các hiệp ước và công ước quốc tế có các quy định về những thực thể nào có thể tham gia ký, phê chuẩn hoặc gia nhập. Một số điều ước chỉ giới hạn ở các quốc gia là thành viên Liên Hợp Quốc hoặc các bên tham gia Quy chế của Tòa án Công lý Quốc tế. Trong một số trường hợp hiếm hoi, có một danh sách hạn chế rõ ràng về các bên tham gia hiệp ước. Thường thì mục đích của các quốc gia đàm phán (hầu hết hoặc tất cả thường trở thành các bên ký kết sáng lập) là hiệp ước không bị hạn chế ở các quốc gia cụ thể và do đó có thể sử dụng cách diễn đạt như "hiệp ước này được mở cho "các quốc gia ký kết" sẵn sàng chấp nhận các điều khoản của nó" (còn gọi là "all states formula"). Trong trường hợp các tổ chức khu vực, chẳng hạn như Ủy hội châu Âu hoặc Tổ chức các quốc gia châu Mỹ, nhóm các quốc gia đàm phán mà một khi đã nhất trí có thể ký và phê chuẩn hiệp ước thì thường được giới hạn ở các quốc gia thành viên của chính họ. Các quốc gia không phải là thành viên có thể gia nhập tổ chức sau. Tuy nhiên, đôi khi một nhóm cụ thể gồm các quốc gia phi thành viên hoặc các chủ thể phi nhà nước có thể được mời tham gia đàm phán. Ví dụ, Ủy hội châu Âu từng mời "các quốc gia phi thành viên" Canada, Tòa Thánh (Thành Vatican), Nhật Bản, México và Hoa Kỳ "tham gia xây dựng" Công ước Istanbul 2011 và đặc biệt cho phép Liên minh châu Âu (được mô tả là "Tổ chức quốc tế" chứ không phải là "Nhà nước") ký và phê chuẩn công ước, thay vì gia nhập, và "các quốc gia phi thành viên khác" chỉ có thể gia nhập. Việc ký kết và phê chuẩn một hiệp ước với tư cách là một quốc gia đàm phán có tác dụng tương tự như việc gia nhập một hiệp ước của một quốc gia không tham gia vào quá trình đàm phán. Thông thường, việc gia nhập chỉ diễn ra sau khi điều ước đã có hiệu lực, nhưng Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc cũng từng chấp nhận việc gia nhập ngay cả trước khi hiệp ước có hiệu lực. Nhược điểm duy nhất của việc không phải là quốc gia đàm phán là không thể tác động đến nội dung của điều ước, nhưng vẫn được phép tuyên bố bảo lưu đối với các quy định cụ thể của điều ước mà mình mong muốn gia nhập (Điều 19). Câu hỏi về tư cách quốc gia. Khi một điều ước được mở cho các "Quốc gia", cơ quan lưu chiểu có thể khó hoặc không thể xác định thực thể nào là "Quốc gia". Nếu hiệp ước chỉ giới hạn cho các thành viên Liên Hợp Quốc hoặc các bên tham gia Quy chế của Tòa án Công lý Quốc tế thì vấn đề tư cách sẽ không mơ hồ như vậy. Tuy nhiên, điều này lại làm nảy sinh một khó khăn liên quan đến khả năng tham gia vào các hiệp ước, đó là các thực thể có vẻ phi Quốc gia lại không được phép gia nhập Liên Hợp Quốc hoặc trở thành bên tham gia Quy chế của Tòa án Công lý Quốc tế. Bởi lẽ, có sự phản đối vì lý do chính trị của thành viên thường trực Hội đồng Bảo an hoặc chưa nộp đơn xin làm thành viên ICJ hoặc Liên Hợp Quốc. Vì khó khăn đó không phát sinh liên quan đến tư cách thành viên trong các cơ quan chuyên môn, nơi không có quy trình "phủ quyết", một số Quốc gia trong số đó đã trở thành thành viên của các cơ quan chuyên môn và do đó về bản chất được cộng đồng quốc tế công nhận là "Quốc gia". Theo đó, để việc cho phép tham gia càng rộng rãi càng tốt, một số công ước sau đó đã quy định rằng chúng cũng được mở cho các quốc gia thành viên của các cơ quan chuyên môn tham gia. Loại điều khoản entry-into-force (có hiệu lực) được sử dụng trong Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế sau này được gọi là "Vienna formula" (công thức Viên) và cách diễn đạt của nó đã được nhiều hiệp ước, công ước và tổ chức khác nhau sử dụng. Một số hiệp ước sử dụng nó bao gồm các điều khoản rằng ngoài các quốc gia thành viên này, bất kỳ Quốc gia nào khác do bởi một cơ quan hoặc tổ chức cụ thể mời tham gia (thường là Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc hoặc một tổ chức do hiệp ước đang đề cập thành lập) cũng có thể tham gia, do đó làm cho phạm vi của các bên ký kết tiềm năng thậm chí còn rộng hơn. Diễn giải các điều ước. Các điều 31-33 của VCLT nói về các nguyên tắc diễn giải các công ước, hiệp ướ(ILC) công nhận là đại diện cho luật tập quán quốc tế. Các nguyên tắc diễn giải được quy định tại Điều 31 phải được tiến hành trước khi áp dụng các nguyên tắc của Điều 32, trong đó nêu rõ rằng nó đưa ra các phương thức diễn giải bổ sung. Tòa án Công lý Châu Âu cũng đã áp dụng quy định diễn giải của VCLT trong các vụ án khác nhau, trong đó có "Vụ Bosphorus Queen" (2018), khi tòa diễn giải phạm vi của thuật ngữ "any resources" ("bất kỳ nguồn lực nào") tại Điều 220(6) của UNCLOS. VCLT thường được sử dụng trong các vụ kiện trọng tài đầu tư.
Vương Hậu Bân (tiếng Trung giản thể: 王厚斌, bính âm Hán ngữ: "Wáng Hòubīn", sinh năm 1961, người Hán) là tướng lĩnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông là Thượng tướng, hiện là Tư lệnh Quân chủng Tên lửa. Ông từng là Phó Tư lệnh Hải quân; Phó Tham mưu trưởng Hải quân cũng như Tham mưu trưởng Hạm đội Nam Hải. Vương Hậu Bân là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Cử nhân Quân sự. Ông có sự nghiệp từng công tác ở hai lực lượng hải quân lớn nhất của Quân đội Trung Quốc là Hạm đội Đông Hải, Hạm đội Nam Hải, gần 45 năm phục vụ quân đội trước khi trở thành Tư lệnh Quân chủng Tên lửa. Vương Hậu Bân sinh năm 1961 tại huyện Nãng Sơn, nay thuộc địa cấp thị Túc Châu, tỉnh An Huy, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông lớn lên ở Nãng Sơn trong thời kỳ Đại cách mạng văn hóa vô sản, vào năm 1979 khi 18 tuổi thì nhập ngũ Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Ông có nhiều năm công tác ở Bộ Tổng tham mưu, từng là Chủ nhiệm Phòng nghiên cứu Tổng hợp của Bộ Tổng tham mưu. Sau đó, ông được điều đến Hạm đội Đông Hải những năm 2010 làm Phó Tham mưu trưởng kiêm Phó Tư lệnh Căn cứ địa Chu Sơn của Hải quân, thăng quân hàm Thiếu tướng vào tháng 12 năm 2014. Tháng 1 năm 2016, ông được điều tới Hạm đội Nam Hải, nhậm chức Tham mưu trưởng của Hạm đội này, đến tháng 4 năm 2018 thì được điều trở về tổng bộ, giữ vị trí Phó Tham mưu trưởng Hải quân. Tháng 12 năm 2018, Vương Hậu Bân được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Hải quân, sau đó tròn 1 năm thì được thăng quân hàm Trung tướng Hải quân vào ngày 12 tháng 12 năm 2019. Tháng 7 năm 2023, ông được nhà lãnh đạo Tập Cận Bình phong quân hàm cao nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là Thượng tướng, được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân chủng Tên lửa, thay thế Ủy viên Trung ương Đảng, Thượng tướng Lý Ngọc Siêu – người bị miễn chức và điều tra các tội phạm về tham nhũng, bí mật quân sự. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #CF9C65;" | Chức vụ quân sự
([naˈtiʎas]) là một thuật ngữ trong tiếng Tây Ban Nha dùng để chỉ nhiều loại biến thể của món sữa trứng và những món ngon tương tự trong thế giới nói tiếng Tây Ban Nha. Ở Tây Ban Nha, thuật ngữ này dùng để chỉ một món sữa trứng làm từ sữa và trứng, tương tự như các loại kem ở châu Âu khác như . Còn ở Colombia, món ăn này không bao gồm trứng và được gọi là . là một từ viết gọn của từ (tạm dịch là "kem" trong tiếng Việt), "crema de leche" (kem sữa) thì đề cập đến tính nhất quán của món ăn. Ở Tây Ban Nha, là một loại sữa trứng làm từ sữa, đường, vani, trứng, và quế. Món ăn được chế biến bằng cách đun sôi sữa nhẹ nhàng và từ từ cho trứng vào (thường chỉ là lòng đỏ) và các nguyên liệu khác để tạo thành món sữa trứng ngọt. Sự khác biệt giữa , "custard" và rất mơ hồ, chủ yếu liên quan đến độ dày của chúng. Loại custard này là một loại kem rót mỏng chứ không phải sữa trứng đông đặc, tương tự như flan nhưng thường đậm đà hơn, bao gồm quế và không bao gồm caramel. Natillas phiên bản New Mexico có nguồn gốc trực tiếp từ công thức nấu ăn của Tây Ban Nha do cuộc chinh phục của Tây Ban Nha và hậu duệ Tây Ban Nha hiện có. Những loại bánh natillas này có độ đặc giống như sữa trứng và trong một số công thức nấu ăn, có thể có bột mì ngoài lòng trắng trứng, vì vậy đừng nhầm lẫn chúng với natillas của México. Ở Colombia, là một món ăn phổ biến trong dịp lễ Giáng sinh và được ăn cùng với và , và nó giống như một chiếc bánh flan hoặc bánh pudding. Một số thành phần bao gồm sữa, (khối đường nâu), thanh quế và bột mì hoặc bột ngô. Thỉnh thoảng người ta thích thêm dừa nạo hoặc nho khô nhưng đây là những nguyên liệu tùy chọn. Để trang trí, bột quế được phết lên trên món Natilla đã hoàn thành. Natilla được tìm thấy trong suốt mùa Giáng sinh và thường các cửa hàng bán Natilla làm sẵn; nhưng một trong những truyền thống Giáng sinh nổi tiếng nhất ở Colombia là làm món natilla trong lửa trại ngẫu hứng trên đường phố hoặc sân nhà. Thuật ngữ này được sử dụng ở Peru, đặc biệt là ở thành phố Piura, một món phết làm từ sữa và chancaca được đun sôi cho đến khi đặc lại và đường đã caramel thành màu nâu đậm. Bánh kẹo Peru được cho là giống bánh Natilla của Tây Ban Nha hơn ngoại trừ việc nó hơi đặc hơn và không có trứng. Ở México, Natillas cũng được tìm thấy và giống phiên bản đặc hơn của đồ uống tráng miệng có tên "Atole". Ở Costa Rica, thuật ngữ này được sử dụng cho một sản phẩm sữa giống như kem chua được dùng làm gia vị cho nhiều món ăn. Sản phẩm là sữa đồng nhất và tiệt trùng với hàm lượng chất béo thấp hơn (khoảng 12%) so với kem chua thông thường, một số nhãn hiệu còn thêm muối vào kem. Natilla ở Cuba được xếp vào loại món tráng miệng sữa trứng lạnh. Natilla được làm từ bột ngô, vani, đường, trứng, vỏ chanh, quế và sữa bay hơi. Chúng thường được phục vụ vào dịp lễ Giáng sinh trong những chiếc cốc nhỏ có rắc quế lên trên. Có hai phiên bản của món tráng miệng này tồn tại trên các hòn đảo: - Một phiên bản được phục vụ cho bữa sáng và nấu trên bếp trong nồi. Dùng lạnh hoặc nóng, có ít hoặc không có đường vì thường dùng kèm với mật ong, trái cây và các loại hạt. - Một phiên bản khác sử dụng nguyên liệu tương tự được phục vụ vào dịp lễ Giáng sinh và nướng theo kiểu tương tự như crème brûlée. Cả hai phiên bản đều bao gồm sữa, kem dừa, đường, một lượng lớn lòng đỏ trứng, bột ngô, quế, vani, vỏ và nước hương hoa cam. Natilla phiên bản Puerto Rico có thể được mua quanh năm tại các siêu thị và cửa hàng tiện lợi dưới dạng bột đóng gói sẵn chỉ với yêu cầu đun nóng với sữa. Ở Guam, món ăn này thường được gọi là latiya và có thể được giới thiệu lần đầu tiên vào thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Nó thường được làm bằng sữa bay hơi hoặc sữa đặc đóng lon.
Christophe Hérelle (sinh ngày 22 tháng 8 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện tại đang thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Metz tại Ligue 1. Sự nghiệp thi đấu. Christophe Hérelle rời Martinique để gia nhập học viện của câu lạc bộ F.C. Sochaux-Montbéliard vào năm 2010, thi đấu cùng đội U-19 chỉ vài ngày trước sinh nhật tuổi 18. Anh đã ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ F.C. Sochaux-Montbéliard vào năm 2013, trước khi được cho mượn tại SR Colmar. Vào tháng 6 năm 2015, anh gia nhập câu lạc bộ US Créteil-Lusitanos trong 2 mùa giải. Sau khi đội bóng xuống hạng và sau khi chơi 34 trận cho câu lạc bộ, anh quyết định gia nhập câu lạc bộ ES Troyes AC. Trong mùa giải 2016-2017 tại Ligue 2, Troyes đã kết thúc ở vị trí thứ ba và do đó phải đá trận play-off với FC Lorient. Là cầu thủ góp mặt trong mùa giải tốt đẹp của đội nhà, Hérelle đã tham gia vào hai trận đấu này, cuối cùng Troyes đã giành quyền thăng hạng lên Ligue 1. Vào ngày 5 tháng 8 năm 2017, trong cuộc tiếp đón Stade Rennais F.C., anh đã chơi trận đầu tiên tại Ligue 1, trận đấu kết thúc với tỷ số 1-1. Đôi khi được kết hợp với Vizcarrondo hoặc Giraudon, anh đá chính 18 trong số 19 trận ở lượt đi; màn trình diễn của anh đặc biệt thu hút sự chú ý của FC Girondins de Bordeaux từ kỳ chuyển nhượng mùa đông. Vào ngày 25 tháng 6 năm 2018, anh gia nhập câu lạc bộ OGC Nice, quê hương của anh, sau một mùa giải thi đấu cho Troyes. Vào ngày 11 tháng 8 năm 2020, Hérelle gia nhập Brest tại Ligue 1 bằng bản hợp đồng kéo dài 4 năm. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2023, anh chính thức chuyển đến câu lạc bộ Metz tại Ligue 1 bằng bản hợp đồng kéo dài 2 năm. Sinh ra tại Nice, Pháp, Hérelle là người gốc Martinique.
Mộc cầu là một môn thể thao dùng cái vồ để chuyền quả bóng qua các cổng. Trò chơi này có thể chơi trên mặt cỏ, trên cát hoặc trong nhà. Bộ môn thể thao này nằm trong chương trình Đại hội thể thao bãi biển châu Á và được tích hợp lần đầu tiên vào năm 2008. Liên đoàn mộc cầu quốc tế có trụ sở tại Đài Bắc, Đài Loan. Bộ môn này được phát minh tại Đài Loan bởi Uông Minh Huy (汪明輝; 1985 - 2021) và Kuang-chu Young năm 1990. Hội đồng Olympic châu Á đã tiếp nhận môn thể thao này làm một phần của Đại hội thể thao bãi biển châu Á vào năm 2008. Ahris Surmariyanto tham dự giải Đại hội thể thao bãi biển châu Á tại Đà Nẵng năm 2016 cùng các đồng đội Indonesia của mình. Anh về đích đầu tiên và được trao huy chương vàng. Anh chỉ hoàn thành một cú đánh trước Jetsada Cheenkurd của Thái Lan, người đã về nhì cùng với huy chương bạc ở vị trí thứ hai. Kim Pyo Hwan đến từ Hàn Quốc giành huy chương đồng và đứng thứ ba.
The Killing Vote (tiếng Hàn: ) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc đang diễn ra với sự tham gia của Park Hae-jin, Park Sung-woong và Lim Ji-yeon. Nó dựa trên một webtoon tiếng cùng tên tiếng Hàn được đăng nhiều kỳ trên Kakao Webtoon và KakaoPage. Phim được khởi chiếu vào ngày 10 tháng 8 năm 2023 và phát sóng trên SBS TV lúc 21:00 thứ Năm hàng tuần (KST). Nó cũng có sẵn để phát trực tuyến trên Amazon Prime Video ở các khu vực được chọn. Loạt phim kể về một nhân vật bí ẩn tên là Gaetal, người thực hiện các cuộc khảo sát qua tin nhắn văn bản để quyết định xem có nên xử tử một số tội phạm hung ác nhất định hay không, sau đó giết họ nếu hơn 50% những người trả lời ủng hộ bản án tử hình. Vào tháng 3 năm 2023, công ty sản xuất Pan Entertainment thông báo đã ký hợp đồng cung cấp với Studio S để sản xuất bộ phim trị giá 15,36 tỷ won. Ban đầu, bộ phim dự kiến ​​phát sóng liên tiếp hai tập đầu tiên vào ngày 10 tháng 8 năm 2023 từ 21:00 (KST). Tuy nhiên, việc phát sóng tập đầu tiên đã bị hoãn lại đến 22h10 (KST) do bản tin đặc biệt về bão Khanun. Do đó, tập thứ hai được phát sóng vào ngày 17 tháng 8. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 (Bảng H) Bảng H của Vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 là một trong 10 bảng để quyết định đội sẽ vượt qua vòng loại cho vòng chung kết Giải vô địch bóng đá châu Âu 2024 diễn ra tại Đức. Bảng H bao gồm 6 đội: Đan Mạch, Phần Lan, Kazakhstan, Bắc Ireland, San Marino và Slovenia. Các đội tuyển sẽ thi đấu với nhau mỗi trận khác trên sân nhà và sân khách với thể thức đấu vòng tròn. Hai đội tuyển đứng nhất và nhì bảng sẽ vượt qua vòng loại trực tiếp cho trận chung kết. Các đội tham gia vòng play-off sẽ được quyết định dựa trên thành tích của họ trong UEFA Nations League 2022–23. Lịch thi đấu đã được xác nhận bởi UEFA vào ngày 10 tháng 10 năm 2022, sau lễ bốc thăm một ngày. Thời gian là CET/CEST, như được liệt kê bởi UEFA (giờ địa phương, nếu khác nhau, nằm trong dấu ngoặc đơn). Một cầu thủ sẽ bị đình chỉ tự động trong trận đấu tiếp theo cho các hành vi phạm lỗi sau đây: Các đình chỉ sau đây sẽ được thực hiện xuyên suốt các trận đấu vòng loại:
Oladapo Joshua Afolayan (sinh ngày 11 tháng 9 năm 1997) là cầu thủ bóng đá người Anh, chơi ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền đạo trung tâm cho câu lạc bộ FC St. Pauli ở giải 2. Bundesliga. Anh trải qua giai đoạn học việc ở nhiều câu lạc bộ như Harrow St Marys, Chelsea, Toronto FC, Barnet, Tooting Mitcham United và Toronto Varsity Blues. Anh rời Chelsea để tập trung vào kỳ thi GCSE. Sau đó, anh sang Canada cùng gia đình và trở lại Anh để học ngành kỹ thuật xây dựng tại Đại học Loughborough. Anh gia nhập Solihull Moors vào tháng 2 năm 2017 và ghi 15 bàn trong 50 trận, từ đó chuyển đến câu lạc bộ Premier League West Ham United sau 12 tháng; anh cũng được gọi vào đội tuyển Đội tuyển Anh C. Anh cho mượn tại Oldham Athletic trong nửa cuối mùa giải 2018–19 và ở mượn tại Mansfield Town trong nửa đầu mùa giải 2019–20. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sự nghiệp ban đầu. Afolayan gia nhập Harrow St Marys khi mới 5 tuổi và từ 9 tuổi, anh gia nhập hệ thống trẻ của Chelsea, dù từ chối lời đề nghị cạnh tranh từ Arsenal. Anh gặp khó khăn với chiều cao khi còn thiếu niên và chỉ được thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh. Anh rời Chelsea khi 14 tuổi để tập trung vào học tập, tại Trường Merchant Taylors. 15 tuổi, Afolayan chuyển đến Canada và gia nhập đội dự bị của Toronto FC ở giải League1 Ontario và Premier Development League. Anh sau đó cho biết mặc dù mới 16 tuổi, anh đã "tập luyện cùng đội một và thi đấu cùng các ngôi sao như Jermain Defoe, Michael Bradley, Jozy Altidore và Sebastian Giovinco". Vào cuối mùa giải 2015, anh thi đấu cho ANB Futbol ở giải League1 Ontario. Anh cũng chơi cho Đội bóng đá nam Đại học Toronto, trong thời gian ở Canada. Afolayan trở về Anh khi 18 tuổi để theo học ngành kỹ thuật xây dựng tại Đại học Loughborough. Anh tiếp tục thi đấu bóng đá trẻ ở Barnet và Tooting Mitcham United. Anh cũng chơi cho Đội bóng đá Đại học Loughborough, ghi ba bàn trong 11 trận đấu cho câu lạc bộ ở Midland League. Ngày 7 tháng 2 năm 2017, Afolayan gia nhập câu lạc bộ Solihull Moors ở giải National League, trước đó anh đã thử việc tại Rochdale. Bốn ngày sau khi gia nhập, Afolayan ghi bàn ra mắt trong chiến thắng 3-0 trước Sutton United tại Damson Park. Trong mùa giải 2016–17, anh ghi 4 bàn trong 15 trận và chuyển từ học kỹ thuật tại Đại học Loughborough sang học trực tuyến khi trở thành cầu thủ chuyên nghiệp tại câu lạc bộ. Anh cũng tham gia V9 Academy của Jamie Vardy. Ngày 27 tháng 1 năm 2018, Afolayan ghi bàn cuối cùng cho câu lạc bộ trong trận thắng 3-1 trước Dagenham Redbridge. Mặc dù rời câu lạc bộ giữa mùa giải, anh vẫn là cầu thủ ghi nhiều bàn nhất của Solihull trong mùa 2017–18 với 11 bàn trong 35 trận; Solihull kết thúc mùa ở vị trí thứ 18 dưới sự dẫn dắt của Mark Yates. Vào ngày 1 tháng 2 năm 2018, Afolayan ký hợp đồng ba năm rưỡi với câu lạc bộ West Ham United ở giải Premier League. Ngày 31 tháng 1 năm 2019, anh được cho mượn cho câu lạc bộ Oldham Athletic ở giải League Two đến cuối mùa mùa giải 2018–19. Anh ra sân lần đầu trong giải Football League cho "Latics" trong trận thua 1-3 trước Bury ngày 23 tháng 2; anh vào sân thay người ở phút 76 thay cho Zak Dearnley. Trong tổng cộng, anh có 4 trận đá chính và 6 lần thay người ở Boundary Park và cho biết anh học được nhiều từ việc làm việc dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Paul Scholes. Anh trở lại League Two dưới dạng cho mượn vào mùa giải nửa sau với Mansfield Town vào ngày 29 tháng 8 năm 2019. Anh ghi bàn đầu tiên trong giải Football League vào ngày 12 tháng 10, trong chiến thắng 6-1 trước câu lạc bộ cũ Oldham Athletic tại Field Mill; anh cũng giành quả phạt đền trong trận đấu. Huấn luyện viên John Dempster nói "ấn tượng ở chỗ anh chạy xa. Anh áp sát khắp sân. Anh đã chơi hết sức mình". Ngày 23 tháng 1 năm 2021, Afolayan ra sân lần đầu cho West Ham, vào sân từ ghế dự bị và ghi bàn trong chiến thắng 4-0 trước Doncaster Rovers tại giải FA Cup. Ngày 1 tháng 2 năm 2021, Afolayan được cho mượn đến Bolton Wanderers. Bolton có tùy chọn mua đứt vào cuối thời gian cho mượn. Afolayan ra mắt cho Bolton ngày 9 tháng 2, vào sân thay cho Lloyd Isgrove trong trận hòa 1-1 với Morecambe. Trận đấu đầu tiên anh ra sân từ đầu diễn ra bốn ngày sau, góp công vào chiến thắng 1-0 trước Stevenage. Anh lập công trong trận cuối mùa, ghi bàn thứ hai trong chiến thắng 4-1 trước Crawley Town, giúp Bolton thăng hạng lên League One. Ngày 27 tháng 5 năm 2021, Afolayan chính thức ký hợp đồng ba năm với Bolton sau khi họ kích hoạt điều khoản mua đứt trong hợp đồng cho mượn. Mùa giải 2021–22 EFL League One, anh ghi 14 bàn, trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất của Bolton và giành danh hiệu Cầu thủ của năm của câu lạc bộ. Mùa giải 2022–2023, Afolayan gặp khó khăn trong việc giành thời gian ra sân do thay đổi hệ thống chiến thuật của Bolton và cố gắng sử dụng anh ở nhiều vị trí khác nhau. Trong tháng 1 năm 2023, anh nhận nhiều lời đề nghị chuyển nhượng từ các câu lạc bộ khác và cuối cùng rời Bolton. Ngày 19 tháng 1 năm 2023, Afolayan chuyển đến CLB FC St. Pauli ở giải 2. Bundesliga sau khi ba lần đề nghị trước của Bolton Wanderers bị từ chối, lần thứ tư cuối cùng đã đáp ứng được giá trị định giá của Bolton. Số tiền chuyển nhượng không được tiết lộ, tuy nhiên, "The Bolton News" đưa tin số tiền này khoảng £500,000. Sự nghiệp quốc tế. Afolayan đã đại diện cho Đội tuyển Anh C dưới sự dẫn dắt của Paul Fairclough vào ngày 8 tháng 11 năm 2017, khi anh vào sân thay người ở phút thứ 76 trong trận thua 4-0 trước Đội trẻ bóng đá Slovakia. Vào tháng 4 năm 2021, trong chương trình ngày thi đấu của Bolton Wanderers, Afolayan được hỏi về khả năng thi đấu cho đội tuyển Nigeria, và anh nói "Vâng, tôi sẽ. Đó là điều tôi đã nghĩ đến và hy vọng tôi có thể tiếp tục thi đấu tốt để được gọi vào đội." Afolayan có thể đá ở vị trí cánh hoặc tiền đạo trung tâm. Giám đốc Học viện West Ham Terry Westley nói anh là một cầu thủ "thú vị" với "tính quyết tâm, tốc độ xuất sắc và khả năng ghi bàn". Các CĐV của Bolton Wanderers so sánh anh với Jay-Jay Okocha vì những kỹ thuật mượt mà mà anh thể hiện, và Afolayan thậm chí đã thực hiện bàn thắng đặc trưng của Okocha sau khi ghi bàn vào lưới AFC Wimbledon. "Tính đến trận đấu diễn ra vào ngày 30 tháng 12 năm 2022"
TM 31-210 Improvised Munitions Handbook TM 31-210 Improvised Munitions Handbook (Cẩm nang hướng dẫn về vũ khí tự chế TM 31-210) là một cuốn sách hướng dẫn kỹ thuật của Quân đội Hoa Kỳ gồm 256 trang, dành cho Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ. Cuốn sách lần đầu được xuất bản năm 1969 bởi Bộ Lục quân Hoa Kỳ. Tương tự như nhiều cuốn sách hướng dẫn quân sự khác của Hoa Kỳ liên quan đến các thiết bị nổ tự chế (IEDs) và chiến tranh bất quy ước, cuốn sách này đã được giải mật và công khai, đưa vào làm tài liệu công cộng bởi một số các quy định ví dụ như Đạo luật tự do thông tin Hoa Kỳ (FOIA), và hiện nay tự do sử dụng trong công chúng cộng đồng một cách công khai ở cả hai dạng, điện tử và in ấn. Cuốn sách hướng dẫn mô tả cách chế tạo nhiều loại vũ khí tự chế từ các vật liệu, đồ vật dễ dàng tìm kiếm được, từ đống rác, hóa chất gia dụng trong hộ gia đình và nguyên liệu mua từ các cửa hàng thông thường. Đây là một trong những tài liệu tham khảo chính thức tốt nhất về việc chế tạo thiết bị nổ tự chế (IEDs). Một số vũ khí tự chế mô tả trong đó từng được các binh sĩ nước ngoài sử dụng nhằm chống lại binh sĩ Hoa Kỳ. Ví dụ, cách sử dụng bẫy lựu đạn trong chiếc lon đã qua sử dụng từng được dùng để chống lại binh sĩ Hoa Kỳ tại Việt Nam, và bộ đếm thời gian bằng nước trong một chiếc xô đã được một số lực lượng nổi dậy Afghanistan sử dụng để phóng hoả tiễn vào các căn cứ quân sự Hoa Kỳ. Cẩm nang TM 31-210 bao gồm bảy phần mục chính: Phần "Các đầu mục khác" đề cập đến việc sản xuất các loại cơ chế kích hoạt khác nhau (áp suất, giải phóng áp suất, lực kéo, ), cân bằng chính xác tạm thời, pin điện, rào chắn chống đạn tạm thời, , trình bày một cách ngắn gọn các đặc tính của một số chất nổ sơ cấp và thứ cấp. Văn hoá đại chúng. Sách cẩm nang TM 31-210 xuất hiện dưới dạng "quả trứng Phục sinh" trong bộ phim hoạt hình CGI sản xuất năm 1995, "Toy Story". Trong cảnh Woody bị mắc kẹt dưới chiếc hộp nhựa màu xanh lam trong phòng ngủ của Sid, có thể thấy đằng sau anh ta có một tài liệu mang tựa đề "Sổ tay thẩm vấn cải tiến TM 31-210", một tham chiếu gợi ý rõ ràng đến cuốn tài liệu thực sự.
Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Qatar Đội tuyển bóng chuyền nam quốc gia Qatar là đội tuyển đại diện cho Qatar tại các giải đấu và các trận đấu giao hữu bóng chuyền nam trên phạm vi thế giới. Qatar lần đầu tiên tham dự Giải vô địch bóng chuyền nam châu Á vào năm 1989 tại Hàn Quốc. Họ cũng từng giành vị trí thứ tư tại Đại hội Thể thao châu Á 2006 ngay trên sân nhà. Họ cũng từng thiết lập một kỷ lục thế giới về điểm số của một set thắng khi đè bẹp Venezuela với tỷ số 45–43 vào năm 2017. Thành tích tại các giải đấu. Giải vô địch thế giới. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2018 – Không tham dự hoặc Không vượt qua vòng loại Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2022 – Hạng 21 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2025 – Vượt qua vòng loại Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2009 – Không tham dự Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2015 – Không vượt qua vòng loại Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2016 – Hạng 31 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2017 – Hạng 32 Giải Thách thức Thế giới. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2018 – Không vượt qua vòng loại Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2019 – Không vượt qua vòng loại Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2022 – Hạng 7 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2023 – Á quân Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1987 – Không tham dự Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1989 – Hạng 19 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1991 – Không tham dự Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1993 – Hạng 12 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1995 – Hạng 10 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1997 – Hạng 8 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1999 – Hạng 13 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2001 – Hạng 11 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2003 – Hạng 11 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2005 – Hạng 7 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2007 – Hạng 11 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2009 – Hạng 14 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2011 – Hạng 12 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2013 – Hạng 11 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2015 – Hạng 4 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2017 – Hang 9 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2019 – Hạng 9 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2021 – Hạng 5 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2023 – Hạng 3 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2014 – Không vượt qua vòng loại Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2016 – Vượt qua vòng loại nhưng sau đó rút lui Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2018 – Vô địch Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2022 – Vượt qua vòng loại nhưng sau đó rút lui Đại hội Thể thao châu Á. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1978 – Không tham dự Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1982 – Hạng 8 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1994 – Không tham dự Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 1998 – Hạng 10 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2002 – Hạng 8 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2006 – Hạng 4 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2010 – Hạng 8 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2014 – Hạng 6 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2018 – Hạng 4 Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. 2022 – Hạng 4 Danh sách cầu thủ. Dưới đây là danh sách các cầu thủ của Qatar tham dự Giải vô địch bóng chuyền nam thế giới 2022. Huấn luyện viên trưởng: Camilo Andres Soto
Quần thể đền thờ đảo Philae Ban đầu đảo Philae nằm gần ghềnh thứ nhất của sông Nin, Thượng Ai Cập và là một khu di tích quần thể đền thờ Ai Cập cổ đại. Từ sau giai đoạn đầu xây dựng đập Aswan cũ vào năm 1902, mặt ghềnh cũng như vùng lân cận đảo Philae thường xuyên bị ngập lụt. Sau đó, trong chiến dịch Nubia của UNESCO, một dự án bảo tồn các di tích đền thờ tại Ai Cập, quần thể đền thờ trên đảo đã được di dời qua đảo Agilkia trước khi khánh thành đập Aswan mới vào năm 1970. Những bức chạm khắc chứ tượng hình Ai Cập cổ đại trong đền đang được nghiên cứu và công bố bởi dự án nghiên cứu văn bản cổ trong đền Philae thuộc Viện hàn lâm Khoa học Áo (Institute OREA) có trụ sở tại thủ đô Viên. Philae từng được nhắc tới trong tác phẩm của một số nhà văn thời cổ đại như Strabo, Diodorus Siculus, Ptolemy, Seneca và Pliny the Elder. Khi xưa, "Philae" là tên gọi chung cho 2 hòn đảo ở vĩ độ 24°B, gần mặt ghềnh thứ nhất và thành phố Aswan (tiếng Ai Cập: "Swenet" "giao thương"; ). Groskurd từng đo được khoảng cách từ hai hòn đảo này tới thành phố Aswan là 100 km. Mặc dù là hòn đảo nhỏ nhất trong số hai hòn đảo nhưng Philae là một địa điểm thú vị hơn với vô số tàn tích đẹp như tranh vẽ từng tồn tại trên đảo. Trước mỗi trận lụt, hòn đảo có chiều dài gần 380m và rộng 120m. Đảo được cấu tạo chủ yếu bằng đá syenit và có các vách quanh đảo cao và dốc đứng. Quanh bề mặt đảo người xưa còn dựng một bức tường cao và kiên cố. Người dân Ai Cập cũng như Nubia (hay Ethiopia theo cách gọi trong tiếng Hy Lạp) thời cổ đại rất tôn kính hòn đảo này vì đây là một trong những nơi chôn cất thi hài của thần Osiris. Bất kỳ ai (ngoại trừ các quan tư tế) ăn ở trên hòn đảo này đều sẽ làm ô uế sự linh thiêng của nó và do đó hòn đảo này bị cô lập và được mệnh danh là "nơi không thể tiếp cận" ( ). Người ta còn nói rằng không một loài chim nào bay trên đảo và không một loài cá nào bơi tới ven đảo. Thực ra đây từng là một tục lệ có từ rất xa xưa. Vào thời vương triều Ptolemaios, những người hành hương tới đền tới đền thờ Osiris và những người trần tục thường lui tới và sống nhờ trên đảo Philae. Để đề phòng sự linh thiêng cũng như cảnh quan của đền thờ bị vấy bẩn, các vị quan tư tế đã dâng sớ lên pharaon Ptolemy VIII (170-117 TCN) nhằm cấm các hoạt động bình dân như thăm viếng hay sinh hoạt ở trên đảo. Vào thế kỷ XIX, nhà thám hiểm William John Bankes đã mang khối đá obelisk của đảo Philae cùng với bài sớ cổ được khắc trên bề mặt của nó về Anh Quốc để nghiên cứu. Kết quả khi so sánh chữ tượng hình Ai Cập cổ đại trên khối đá obelisk đảo Philae với trên phiến đá Rosetta đã làm rõ được một số vấn đề liên quan tới các ký tự Ai Cập cổ đại. Cụm đảo Philae không chỉ đơn thuần là nơi ở của các thầy tu mà còn là trung tâm giao thương giữa 2 thị trấn và . Vì bản chất các mặt ghềnh thường rất khó qua lại quanh năm nên các tàu thuyền trao đổi hàng hóa thường neo đậu tại đây hoặc là Syene (nay là Aswan). Các mỏ đá granit gần đó cũng thu hút rất nhiều thợ mỏ và thợ xây tới và để thuận tiện cho việc vận chuyển cũng như giao thông, các con đường bằng đá đã được hình thành từ lâu ở bờ đông sông Nin. Hiện nay ta vẫn có thể thấy một số đoạn đường lót đá còn sót lại. Do Philae nằm tại vị trí gần Bắc chí tuyến nên thường xảy ra những hiệu ứng ít gặp về bóng râm. Khi ánh nắng mặt trời chiếu thẳng xuống mặt đất tại chí tuyến, bóng râm dưới các họa tiết trên tường và các mái hiên của đền thờ tạo thành những bức tường bóng râm che phủ tương phản với cảnh quan xung quanh do ánh sáng mặt trời gay gắt chiếu sáng. Các công trình trên đảo. Hiện nay trên khắp hai hòn đảo này vẫn còn tồn tại các di tích kiến trúc thuộc nhiều triều đại cổ xưa, từ thời kỳ Pharaon tới thời kỳ hoàng đế La Mã trị vì Ai Cập, trong đó hầu hết các công trình kiến trúc mang tầm quan trọng về tâm linh tập trung tại phía cực Nam của hòn đảo Philae. Công trình tồn tại lâu đời nhất là đền thờ nữ thần Isis, được khởi công vào triều Pharaon Nectanebo I (380-362 TCN). Đền được xây dựng với thế quay lưng lại với dòng sông, 2 bên đền là hai dãy cột cao ráo theo nhiều thức cột. Pharaon Nectanebo I lấy vương hiệu Nekhtnebef và là vị vua mở ra vương triều thứ Ba mươi, vương triều cuối cùng do Pharaon Ai Cập trị vì, sau khi ông lật đổ và sát hại Pharaon Nepherites II mới nắm quyền được 4 tháng. Phần lớn, các tàn tích khác có niên đại từ Vương quốc Ptolemaic, đặc biệt hơn là với các triều đại của Ptolemy II Philadelphus, Ptolemy V Epiphanes và Ptolemy VI Philometor (282-145 TCN), với nhiều dấu vết của công việc La Mã ở Philae dành riêng cho Ammon - Osiris . Ở phía trước của propyla là hai con sư tử khổng lồ bằng đá granit, phía sau là một đôi tượng đài, mỗi cái cao. Các propyla có hình dạng kim tự tháp và kích thước khổng lồ. Một cái đứng giữa dromos và pronaos, một cái khác giữa pronaos và portico, trong khi một cái nhỏ hơn dẫn vào sekos hoặc adyton . Ở mỗi góc của ngôi đền là một ngôi đền bằng đá nguyên khối, lồng của một con diều hâu linh thiêng. Trong số những ngôi đền này hiện đang ở Louvre, ngôi còn lại ở Bảo tàng ở Florence .
Tổ hợp núi lửa Tây Nguyên Tổ hợp núi lửa Tây Nguyên là một tổ hợp núi lửa lớn trải dài từ Gia Lai đến Lâm Đồng. Có diện tích 5000km vuông, tổ hợp này có nhiều núi lửa nổi bật như Hệ thông hang động núi lửa Chư Blúk, núi lửa Chư Đăng Y Lịch sử hình thành. Tổ hợp này bắt nguồn từ khoảng 200 triệu năm về trước, khi nơi đây còn là một phần của đại dương rộng lớn với các dấu tích được tìm thấy như đá trầm tích, hóa thạch cúc đá và các loại hóa thạch khác. Do các vận động kiến tạo của lớp vỏ Trái đất, khu vực này được nâng lên và xuất hiện núi lửa. Chính hoạt động phun trào núi lửa đã che phủ đến một nửa diện tích khu vực này bởi các lớp dung nham bazan. Từ đó, dung nham bất đầu di chuyển lên xâm nhập lên mặt đất và phun trào, tạo nên nhiều núi lửa và các dòng dung nham lớn. Chính việc dung chảy kiến cho mặt đất được mở rộng. Những núi lửa này được khám phá vào khoảng giữa thế kỷ 20 đến nay. Đặc biệt là sự khám phá của hệ thông hang động núi lửa Chư Blúk (Knông Nô) được thực hiện bởi Việt Nam và các nhà khoa học Nhật Bản, với hang C7 hang dung nham núi lửa dài và lớn nhất Đông Nam Á. Số núi lửa hiện nay. Có khoảng hơn 50 miệng núi lửa có thể nhìn thấy từ vệ tinh (con số này có thể nhiều hoặc ít hơn), cộng thêm nhiều miệng núi lửa âm. Núi lửa nổi bật. Xem thêm: "Danh sách núi lửa tại Tây Nguyên" Hang động núi lửa Chư Blúk. Hệ thống hang có nhiều cấu tạo đặc trưng cho quá trình phun trào của núi lửa như các ngấn dung nham, hốc sụt. Hầu hết hang động ở đây có hình ống, và còn có ngã rẽ nối với nhau thành những vòng tròn. Nhiều miệng hang sâu tới cả chục mét, phải dùng thiết bị chuyên dụng mới có thể leo xuống. Khác với bên trong hang chỉ có loài dương xỉ cư trú, phía bên ngoài có thảm thực vật khá phong phú. Hệ thống hang động núi lửa Krông Nô đến nay vẫn còn khá nguyên vẹn.
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1904 Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1904 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 30, được tổ chức vào thứ Ba, ngày 8 tháng 11 năm 1904. Tổng thống đương nhiệm của Đảng Cộng hòa Theodore Roosevelt đã đánh bại ứng cử viên có lập trường bảo thủ của Đảng Dân chủ Alton B. Parker. Chiến thắng của Roosevelt đã đưa ông trở thành Tổng thống đầu tiên tái đắc cử sau một nhiệm kỳ nắm quyền nhờ kế nhiệm người tiền nhiệm qua đời khi tại chức. Roosevelt chỉ mới 46 tuổi khi thắng cử và lễ nhậm chức lần thứ hai của ông diễn ra vào ngày 4 tháng 3 năm 1905. Roosevelt nhậm chức vào tháng 9 năm 1901 sau vụ ám sát người tiền nhiệm William McKinley. Sau cái chết của đồng minh của McKinley, Thượng nghị sĩ Mark Hanna vào tháng 2 năm 1904, Roosevelt vấp phải rất ít phản đối tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1904 để giành được đề cử. Đảng Dân chủ phái Bourbon theo lập trường bảo thủ của cựu Tổng thống Grover Cleveland đã tạm thời giành lại quyền kiểm soát Đảng Dân chủ từ tay phe cánh của William Jennings Bryan, và Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1904 đã đề cử Alton B. Parker, Chánh án Tòa án Phúc thẩm New York, làm Tổng thống. Parker đã chiến thắng trong lần bỏ phiếu đầu tiên tại đại hội, đánh bại trùm báo chí William Randolph Hearst. Vì có rất ít sự khác biệt giữa lập trường chính trị của các ứng cử viên nên chiến dịch chủ yếu tập trung vào tính cách cá nhân của họ; Đảng Dân chủ cho rằng nhiệm kỳ tổng thống của Roosevelt là "tùy tiện" và "thất thường". Đảng Cộng hòa thì lại nhấn mạnh sự thành công của Roosevelt trong lĩnh vực đối ngoại và nỗ lực không ngừng nghỉ trong cuộc chiến chống lại độc quyền kinh tế của ông. Roosevelt dễ dàng đánh bại Parker, thắng tất cả mọi khu vực của Hoa Kỳ ngoại trừ miền Nam, trong khi Parker thua nhiều bang mà Bryan thắng vào năm 1900, gồm cả bang New York, quê hương ông. Cách biệt phiếu phổ thông của Roosevelt là 18,8%, lớn nhất kể từ chiến thắng của James Monroe trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1820 và sẽ là cách biệt phiếu phổ thông lớn nhất trong 100 năm từ năm 1820 đến cách biệt của Warren Harding vào năm 1920. Với chiến thắng vang dội của Roosevelt, ông trở thành ứng cử viên Tổng thống đầu tiên giành được hơn 300 phiếu đại cử tri trong một cuộc bầu cử Tổng thống. Đây là lần đầu tiên Missouri bỏ phiếu cho Đảng Cộng hòa kể từ năm 1868. Đề cử của Đảng Cộng hòa. Các ứng cử viên của Đảng Cộng hòa:Khi Đại hội Đảng Cộng hòa triệu tập tại Chicago từ ngày 21 đến 23 tháng 6 năm 1904, Theodore Roosevelt dường như chắc chắn giành được đề cử. Ông đã vận động sôi nổi trong suốt các năm 1902 và 1903 với mục đích giành quyền kiểm soát đảng nhằm đảm bảo mình sẽ giành được đề cử. Một phong trào phản đối đề cử Roosevelt do Thượng nghị sĩ có lập trường bảo thủ Mark Hanna từ Ohio lãnh đạo, nhưng cái chết của Hanna vào tháng 2 năm 1904 đã khiến phong trào bị giải tán. Bài phát biểu đề cử Roosevelt do cựu thống đốc Frank S. Black từ New York trình bày và được Thượng nghị sĩ Albert J. Beveridge từ Indiana ủng hộ. Roosevelt được nhất trí đề cử ở lần bỏ phiếu đầu tiên với 994 phiếu bầu. Vì những đảng viên bảo thủ trong Đảng Cộng hòa cho rằng Theodore Roosevelt là người cấp tiến nên sau nhiều nỗ lực, họ giành được quyền chọn ứng cử viên Phó Tổng thống. Thượng nghị sĩ Charles W. Fairbanks từ Indiana là lựa chọn hàng đầu trong giới bảo thủ dù bản thân ông luôn cố phải tỏ ra trung lập để không động chạm đến các đảng viên cấp tiến trong đảng. Roosevelt không hề thích ý tưởng chọn Fairbanks làm Phó Tổng thống. Bản thân ông ấy thích Dân biểu Robert R. Hitt từ Illinois hơn, nhưng dù sao ông cũng không coi chức Phó Tổng thống là đáng để tranh giành. Với sự ủng hộ vững chắc từ New York, Pennsylvania và Indiana, Fairbanks dễ dàng được đề cử trong liên danh Đảng Cộng hòa năm 1904. Cương lĩnh của Đảng Cộng hòa nhất quyết duy trì thuế quan bảo hộ, kêu gọi tăng cường ngoại thương, cam kết duy trì tiêu chuẩn vàng, ủng hộ việc mở rộng tàu buôn, thúc đẩy lực lượng hải quân hùng mạnh và ca ngợi chi tiết chính sách đối nội và đối ngoại của Roosevelt. : 86 Đề cử của Đảng Dân chủ. Các ứng cử viên của Đảng Dân chủ:Năm 1904, cả William Jennings Bryan và cựu Tổng thống Grover Cleveland đều từ chối ra tranh cử Tổng thống. Vì 2 ứng cử viên của Đảng Dân chủ trong các cuộc bầu cử trước đây không giành đề cử Tổng thống nên Alton B. Parker, một đảng viên Đảng Dân chủ phái Bourbon từ New York, nổi lên trở thành ứng cử viên hàng đầu của đảng. Parker là Chánh án Tòa án Phúc thẩm New York, được cả Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa ở bang tôn trọng. Thậm chí, Đảng Cộng hòa nhiều lúc còn không chống lại Parker khi ông tranh cử vào các vị trí chính trị khác nhau. Parker không muốn được đề cử, nhưng ông không có cách nào để kiềm chế sự ủng hộ từ những đảng viên bảo thủ trong đảng, đặc biệt là sự ủng hộ từ nhóm Tammany Hall. Cựu Tổng thống Grover Cleveland sau đó tuyên bố ủng hộ Parker. Các đại biểu từ Florida được chọn thông qua một cuộc bầu cử sơ bộ, đây là lần đầu tiên một cuộc bầu cử sơ bộ được tổ chức để chọn các đại biểu tham dự một đại hội đảng đề cử Tổng thống. Đại hội của Đảng Dân chủ được triệu tập tại St. Louis, Missouri, từ ngày 6 đến 9 tháng 7 năm 1904, được coi là "một trong những đại hội thú vị và giật gân nhất trong lịch sử của Đảng Dân chủ." Cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng Dân chủ về người được đề cử gây tranh cãi cũng như chính cuộc bầu cử sơ bộ. Mặc dù Parker, đã ngừng hoạt động chính trị trong 20 năm, không có bất kỳ kẻ thù hay sai sót nào có thể khiến ông không giành được đề cử, vậy mà lại có một trận chiến gay gắt đã diễn ra nhằm chống lại Parker từ các đảng viên cấp tiến trong đảng từ những tháng trước đại hội. Mặc dù thực tế là Parker đã ủng hộ Bryan vào các năm 1896 và 1900, Bryan vẫn rất ghét ông ta vì Parker là một trong những đảng viên ủng hộ vàng trong Đảng Dân chủ. Bryan muốn đảng đề cử người có ít uy tín nhất, người mà không thể giành quyền kiểm soát đảng khỏi tay ông. Ông tố cáo Chánh án Parker là công cụ của Phố Wall trước khi Parker giành được đề cử và tuyên bố rằng không một đảng viên Đảng Dân chủ có lòng tự trọng nào có thể bỏ phiếu cho ông ta. William Randolph Hearst từ New York luôn cố tỏ ra là người "tiêu chuẩn" trong mắt Bryan với tư cách là nhà xuất bản và hiện là nghị sĩ. Hearst sở hữu 8 tờ báo, tất cả đều ủng hộ người lao động, tích cực hoạt động chống phá lòng tin, đấu tranh vì chính nghĩa của "những người lao động mưu sinh". Vì chủ nghĩa tự do này của mình, Hearst được phái đoàn Illinois cam kết ủng hộ và lời hứa ủng hộ từ một số bang khác. Mặc dù tờ báo của Hearst là tờ báo lớn duy nhất ở miền Đông ủng hộ William Jennings Bryan và bản vị lưỡng kim vào năm 1896, nhưng éo le thay, sự ủng hộ của ông dành cho Bryan không được đền đáp khi Bryan ủng hộ đề cử Francis Cockrell. Viễn cảnh Hearst được đề cử khiến các đảng viên Đảng Dân chủ có lập trường bảo thủ sợ hãi đến mức họ phải gia tăng nỗ lực để Parker được đề cử trong lần bỏ phiếu đầu tiên. Parker nhận được 658 phiếu trong lần bỏ phiếu đầu tiên, thiếu 9 phiếu so với 2/3 tổng số phiếu bầu ủng hộ cần thiết. Tuy nhiên, trước khi kết quả được công bố, 21 phiếu nữa được chuyển cho Parker. Kết quả là Parker đã dễ dàng giành được đề cử ở lần bỏ phiếu đầu tiên với 679 phiếu, 181 phiếu cho Hearst và số còn lại rải rác cho các ứng cử viên khác. Sau khi Parker được đề cử, Bryan cáo buộc rằng Parker được chống lưng bởi các quỹ tín thác và rằng ông được đảm bảo sẽ giành được đề cử nhờ gian lận. Bryan cũng nói rằng người lao động đã bị phản bội tại đại hội. Thật vậy, Parker là một trong những thẩm phán của Tòa án Phúc thẩm New York đã tuyên bố ngày làm việc 8 giờ là vi hiến. Trước khi một ứng cử viên Phó Tổng thống được đề cử, Parker đã ngay lập tức hành động khi biết rằng cương lĩnh của Đảng Dân chủ sẽ làm ngơ các vấn đề tiền tệ. Để làm rõ quan điểm của mình, Parker, sau khi được đề cử, đã thông báo với đại hội qua thư rằng ông ủng hộ chế độ bản vị vàng và đe dọa sẽ rút lui nếu các vấn đề tiền tệ bị đa số các đại biểu phản đối. Đây là lần đầu tiên một ứng cử viên dám làm như vậy. Đó là một hành động táo bạo có thể khiến ông không được đề cử và khiến ông bị khai trừ khỏi đảng, nơi mà ông đã phục vụ và tin tưởng suốt đời mình. Sau cùng, cựu Thượng nghị sĩ Henry G. Davis từ Tây Virginia được đề cử làm Phó Tổng thống; ở tuổi 80, là ứng cử viên lớn tuổi nhất từ 1 trong 2 đảng lớn từng được đề cử vào một chức vụ cấp quốc gia. Davis giành được đề cử vì giới thượng tầng tin rằng với tư cách là một triệu phú, chủ mỏ, ông trùm đường sắt và chủ ngân hàng, ông có thể hỗ trợ tài chính cho chiến dịch. Hy vọng của họ đã tiêu tan khi Davis không đóng góp đáng kể tiền vào quỹ chiến dịch của đảng. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ cam kết cắt giảm chi tiêu của chính phủ và tiến hành một cuộc điều tra của quốc hội đối với các cơ quan hành pháp "vốn là nơi có nạn tham nhũng tràn lan"; lên án sự độc quyền kinh tế; cam kết chấm dứt hợp đồng của chính phủ với các công ty vi phạm luật chống độc quyền; chống chủ nghĩa đế quốc; kiên quyết đòi độc lập cho Philippines ; và phản đối thuế quan bảo hộ mậu dịch. Nó ủng hộ ngày làm việc 8 giờ; xây dựng kênh đào Panama; bầu trực tiếp các thượng nghị sĩ; kết nạp các lãnh thổ miền Tây; ủng hộ xóa bỏ chế độ đa thê; các hiệp định thương mại song phương; cắt giảm quân số trong quân đội; và thực hiện luật công vụ. Nó lên án chính quyền Roosevelt là "đột biến, thất thường, giật gân, ngoạn mục và độc đoán." Đề cử của Đảng Xã hội. Đảng Xã hội Hoa Kỳ được thành lập từ sự hợp nhất của Đảng Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ và phái Kangaroo của Đảng Lao động Xã hội Hoa Kỳ tại đại hội năm 1901 ở Indianapolis. Đảng Xã hội nhận được hơn 227.000 phiếu trong cuộc bầu cử Hạ viện Hoa Kỳ năm 1902, gấp đôi số phiếu bầu mà Eugene V. Debs nhận được vào năm 1900. 9 đảng viên Đảng Xã hội đã được bầu vào hội đồng thành phố của Milwaukee, Wisconsin trong cuộc bầu cử năm 1904. Vào ngày 5 tháng 5 năm 1904, George D. Herron đề cử Debs làm Tổng thống trong khi Hermon F. Titus đề cử Ben Hanford làm Phó Tổng thống. 183 đại biểu tham dự đại hội đã bỏ phiếu nhất trí đề cử Debs và Hanford làm liên danh của Đảng Xã hội. Debs chấp nhận đề cử vào ngày 6 tháng 5, và chủ tịch Seymour Stedman gọi Debs là "Ferdinand Lassalle của thế kỷ 20". Đảng Xã hội đã vận động được 32.700 đô la cho chiến dịch. Debs nhận được 402.810 phiếu, gấp hơn 4 lần số phiếu mà ông nhận được vào năm 1900 và ông đã nhận được nhiều phiếu nhất từ Illinois. Debs nhận được nhiều phiếu bầu hơn Parker ở các quận như Rock Island ở Illinois và Skamania ở Washington, đồng thời vượt qua Roosevelt ở một số quận miền Nam. Đề cử của Đảng Lục địa. Đảng Lục địa họp ở Chicago vào ngày 31 tháng 8 năm 1904. Họ đề cử Austin Holcomb làm ứng cử viên Tổng thống của họ. Ban đầu, George H. Shibley được đề cử làm Phó Tổng thống. Tuy nhiên, ông ấy từ chối tranh cử và A. King đã được đề cử thay cho ông. Đề cử của Đảng Nhân dân (Đảng Dân túy). Đảng Dân túy tổ chức đại hội toàn quốc ở Springfield, Illinois từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 7 năm 1904. Không hài lòng với việc Đảng Dân chủ đề cử Alton Parker làm Tổng thống, họ đã tự đề cử một liên danh tranh cử. Sau 2 lần bỏ phiếu, Thomas Watson được đề cử làm Tổng thống và Thomas Tibbles được chọn làm người đồng tranh cử cùng ông. Đề cử của Đảng Cấm rượu. Đảng Cấm rượu họp ở Indianapolis từ ngày 29 tháng 6 đến ngày 1 tháng 7. Đại hội có sự tham dự của 758 đại biểu từ 39 bang. Silas C. Swallow được chọn làm ứng cử viên Tổng thống của đảng và George W. Carrol được chọn làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Đề cử của Đảng Lao động Xã hội. Đảng Lao động Xã hội họp tại Đại Cung điện Trung tâm ở thành phố New York từ ngày 2 đến ngày 8 tháng 7. Đại hội của họ có sự tham dự của 38 đại biểu từ 18 bang. Các đại biểu lần lượt đề cử Charles H. Corregan và William W. Cox làm Tổng thống và Phó Tổng thống. Đề cử của Đảng Tự do Quốc gia. Đảng Tự do Quốc gia họp tại St. Louis, Missouri từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 7 để đề cử Tổng thống. Trong khi 28 đại biểu tham dự đại hội đã bầu chọn Stanley P. Mitchell và William C. Payne làm liên danh của họ, đảng cuối cùng đã không tham gia tranh cử sau khi Mitchell từ chối tranh cử. Chiến dịch vận động tranh cử của 2 đảng kém sôi nổi hơn nhiều so với các năm 1896 và 1900. 2 ứng cử viên có lập trường chính trị giống nhau đến mức khó có thể phát hiện ra được sự khác biệt. Cả 2 người đều ủng hộ bản vị vàng; dù Đảng Dân chủ chống lại chủ nghĩa đế quốc một cách cứng rắn hơn nhưng cả 2 đều ủng hộ đối xử công bằng với người Philippines và ủng hộ họ được giải phóng vào phút cuối; và cả 2 đều tin rằng các liên đoàn lao động có quyền bình đẳng như các cá nhân trước tòa án. Phần tử cấp tiến trong Đảng Dân chủ tố cáo Parker là người bảo thủ; phần tử bảo thủ trong Đảng Cộng hòa tố cáo Theodore Roosevelt là người cấp tiến. Trong chiến dịch tranh cử, có một số lúc Roosevelt bị coi là yếu thế hơn so với Parker. Đầu tiên, tờ "New York World" của Joseph Pulitzer đã đăng một bài báo cáo buộc nạn tham nhũng trong Cục Doanh nghiệp. Tổng thống Roosevelt thừa nhận một số khoản "thanh toán" nhất định đã được thực hiện nhưng phủ nhận bất kỳ hành vi "tống tiền" nào. Thứ hai, ông cố tình bổ nhiệm George B. Cortelyou, cựu Bộ trưởng Thương mại và Lao động, làm quản lý chiến dịch tranh cử của mình. Điều này rất quan trọng vì Cortelyou, người biết nhiều bí mật của các tập đoàn, có thể gây áp lực nhằm thu được nhiều khoản tiền đóng góp từ họ. Năm 1907, người ta tiết lộ rằng các công ty bảo hiểm đã đóng góp khá lớn cho chiến dịch của Roosevelt. Chỉ 1 tuần trước cuộc bầu cử, đích thân Roosevelt đã gọi EH Harriman, trùm đường sắt, đến Washington, DC, với mục đích gây quỹ nhằm thắng New York. Tuy nhiên, không chỉ Roosevelt mà Parker cũng nhận được được các khoản tiền từ các tập đoàn. Parker nhận được hỗ trợ tài chính từ hệ thống ngân hàng của Morgan, giống như điều mà Cleveland, đảng viên phái Bourbon, đã làm trước đây. Thomas W. Lawson, một triệu phú ở Boston, cáo buộc Thượng nghị sĩ Bang New York Patrick Henry McCarren, một người ủng hộ nổi tiếng cho Parker, đã tống tiền Standard Oil 20.000 đô la một năm. Lawson còn khẳng định sẽ gửi Thượng nghị sĩ McCarren 100.000 USD (tương đương triệu USD ngày nay) nếu ông có thể chứng minh mình đúng. Theo nhiều nguồn tin, McCarren chưa bao giờ có thể phủ nhận cáo buộc này. Một tờ báo thậm chí còn gọi McCarren là "con rắn Standard Oil của nền chính trị Brooklyn." Theodore Roosevelt đã giành chiến thắng vang dội, thắng hết tất cả các bang miền Bắc và miền Tây. Ông là đảng viên Đảng Cộng hòa đầu tiên thắng Missouri kể từ Ulysses S. Grant vào năm 1868. Khi bỏ phiếu cho đảng Cộng hòa, Missouri từ là một phần của khối bỏ phiếu miền Nam "vững chắc" đã trở thành một "bang dao động" trong suốt thế kỷ 20. Kết quả ở Maryland vô cùng sát sao. Lần đầu tiên trong lịch sử của bang, những lá phiếu được bang cung cấp và không có bất kỳ biểu tượng chính trị của bất kỳ đảng nào, được phát cho mỗi cử tri. Các ứng cử viên đại cử tri được liệt kê theo ứng cử viên Tổng thống và Phó Tổng thống của mỗi đảng; có 4 đảng được công nhận trong cuộc bầu cử: Dân chủ, Cộng hòa, Cấm rượu và Xã hội. Cử tri được tự do bỏ lá phiếu của mình cho tối đa 8 ứng cử viên của bất kỳ đảng nào. Trong khi chiến thắng trên toàn quốc của Roosevelt nhanh chóng được công nhận thì kết quả ở Maryland vẫn không được công bố trong vài tuần. Vào ngày 30 tháng 11, Roosevelt được tuyên bố là người chiến thắng trên toàn tiểu bang với cách biệt chỉ 51 phiếu bầu. Tuy nhiên, vì lá phiếu của cử tri cho đại cử tri tổng thống khác với lá phiếu bầu cho Tổng thống nên dù thắng, chỉ có một đại cử tri Đảng Cộng hòa duy nhất (Charles Bonaparte) được bầu. 7 người còn lại bỏ phiếu cho đảng Dân chủ. Roosevelt thắng cử với cách biệt hơn 2,5 triệu phiếu phổ thông, khiến ông trở thành Tổng thống đầu tiên giành thắng cử trong cuộc đua chủ yếu tập trung vào 2 người với cách biệt nhiều hơn 1 triệu phiếu bầu. Roosevelt giành được 56,4% số phiếu phổ thông; điều đó, cùng với cách biệt phiếu phổ thông của ông là 18,8%, là mức lớn nhất được ghi nhận giữa chiến dịch tái tranh cử không đối thủ của James Monroe vào năm 1820 và chiến dịch tranh cử của Warren G. Harding vào năm 1920. Trong số 2.754 quận, Roosevelt thắng 1.611 (58,50%) và giành được đa số quá bán phiếu bầu trong 1.538; ông và Parker hòa nhau ở 1 quận (0,04%). Thomas Watson, ứng cử viên Đảng Dân túy, nhận được 117.183 phiếu bầu và thắng được 9 quận (0,33%) tại Georgia, quê hương ông. Ông thắng đa số ở 5 quận, và tổng số phiếu bầu của ông cao gấp đôi số phiếu của Đảng Dân túy nhận được vào năm 1900 nhưng chưa bằng 1/8 tổng số phiếu của đảng vào năm 1892. Parker đã thắng 1.133 quận (41,14%) và giành được đa số ở 1.057. Sự phân bổ phiếu bầu theo quận cho thấy ông là ứng cử viên yếu hơn William Jennings Bryan, ứng cử viên của đảng bốn năm trước đó, ở mọi khu vực trên toàn quốc, ngoại trừ vùng Thâm Nam, nơi mà sự thống trị của đảng Dân chủ vẫn mạnh mẽ, phần lớn là do sự tước quyền bầu cử của người da đen. Ở 17 tiểu bang, liên danh Parker – Davis không thắng được một quận nào, và bên ngoài miền Nam họ chỉ thắng 84. Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà đảng Cộng hòa giành chiến thắng ở Colorado, Nebraska và Nevada cho đến năm 1920. Tiểu bang sít sao. Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (8 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 5% (31 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (3 phiếu đại cử tri): Tiểu bang quyết định Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Cộng hòa cao nhất: Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân chủ cao nhất: Các quận với tỷ lệ phiếu bầu cho Đảng Dân túy cao nhất:
Đường cao tốc Hồng Ngự – Trà Vinh Đường cao tốc Hồng Ngự – Trà Vinh (ký hiệu toàn tuyến là CT.36) là tuyến đường cao tốc đường bộ thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long với tổng chiều dài 188 km, đi qua địa bàn bốn tỉnh Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh. Thông tin tuyến đường. Đoạn Hồng Ngự – Cao Lãnh. Tuyến đường có chiều dài 68 km, điểm đầu tại cửa khẩu Dinh Bà thuộc huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp, điểm cuối tiếp giáp đoạn Cao Lãnh – An Hữu tại huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Tuyến cao tốc này dự kiến được khởi công xây dựng sau năm 2030. Đoạn Cao Lãnh – An Hữu. Tuyến đường có chiều dài 27,4 km, điểm đầu tại huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp và điểm cuối tại nút giao An Hữu thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang nằm trên đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông. Trong đó đoạn qua Đồng Tháp dài khoảng 18,2 km và đoạn qua tỉnh Tiền Giang dài khoảng 9,23 km, Quy mô mặt cắt ngang giai đoạn hoàn chỉnh đạt tiêu chuẩn đường cao tốc 4 làn xe. Mặt cắt ngang giai đoạn 1 phân kỳ đầu tư quy mô 4 làn xe không có làn dừng khẩn cấp, bố trí điểm dừng khẩn cấp cách nhau từ 4 – 5 km/1 điểm; bề rộng nền đường 17m, vận tốc khai thác 80km/h. Dự án có tổng mức đầu tư 5.886 tỉ đồng và được chia làm 2 dự án thành phần, dự án thành phần 1 có chiều dài 16km đi qua địa bàn Đồng Tháp, có tổng mức đầu tư hơn 3.600 tỉ đồng. Dự án thành phần 2 dài 11,4km nằm trên địa phận các tỉnh Tiền Giang và Đồng Tháp với mức đầu tư trên 2.200 tỉ đồng. Tuyến cao tốc Cao Lãnh – An Hữu chính thức khởi công xây dựng vào ngày 25 tháng 6 năm 2023 và dự kiến hoàn thành vào tháng 12 năm 2025. Đoạn An Hữu – Định An. Tuyến đường có chiều dài 90 km, điểm đầu tại nút giao An Hữu thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, điểm cuối tiếp giáp quốc lộ 53 tại huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Trong đó đoạn đi qua Tiền Giang dài 6 km, đoạn đi qua Đồng Tháp dài 2 km, đoạn đi qua Vĩnh Long dài 35 km và đoạn đi qua Trà Vinh dài 47 km. Tuyến đi trùng với đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông qua cầu Mỹ Thuận 2. Tuyến cao tốc này dự kiến được khởi công xây dựng sau năm 2030. Lộ trình chi tiết. Đoạn Cao Lãnh – An Hữu. !Khoảng cáchbrtừ đầu tuyến ! colspan="2" |Vị trí !colspan="7" style="text-align: center; background:#dff9f9;"|Kết nối trực tiếp với #đổi  Đường cao tốc Hồng Ngự – Cao Lãnh !colspan="7" style="text-align: center; background:#dff9f9;"|Kết nối trực tiếp với #đổi Đường cao tốc An Hữu – Định An thông qua #đổi #đổi Cầu Mỹ Thuận 2
Đường cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang Đường cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang (ký hiệu toàn tuyến là CT.15) là một đoạn đường cao tốc thuộc khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ đi qua địa bàn hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Dự án đường cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang hoàn thành sẽ tạo hành lang phát triển kinh tế từ trung tâm thủ đô Hà Nội theo đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai, đường cao tốc Tuyên Quang – Phú Thọ đến Hà Giang và đáp ứng nhu cầu đi lại, vận tải hàng hóa ngày càng tăng cao. Đồng thời, giải quyết điểm nghẽn về giao thông liên kết vùng, nội vùng giữa 2 tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Tuyến cao tốc có chiều dài 165 km, trong đó đoạn đi qua Tuyên Quang dài 77 km và đoạn đi qua Hà Giang dài 88 km. Điểm đầu dự án ở xã Nhữ Khê, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang; điểm cuối giai đoạn 1 tại xã Tân Quang, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Quy mô giai đoạn 1 gồm 2 làn xe, nhưng giải phóng mặt bằng bốn làn. Vốn đầu tư công từ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội. Những năm tới, cao tốc sẽ được nâng lên 4 làn xe và kéo dài đến cửa khẩu quốc tế Thanh Thủy (Hà Giang) với tổng chiều dài 165 km. Vận tốc thiết kế từ 80 – 100 km/h. Đường cao tốc chính thức được khởi công xây dựng vào ngày 28 tháng 5 năm 2023 (đoạn qua tỉnh Hà Giang) và vào ngày 21 tháng 10 năm 2023 (đoạn qua tỉnh Tuyên Quang), dự kiến hoàn thành vào năm 2025.
Cột nguyên khối (hay cột đơn mảnh) là loại cột lớn có thân cột được làm từ một khối đá nguyên khối duy nhất, thay vì được chồng bằng nhiều khối thẳng đứng lên nhau. Các cột nhỏ hơn thường được làm từ những tảng đá đơn lẻ, nhưng ít được mô tả là cột nguyên khối, vì thuật ngữ này thường được dành cho các cột lớn hơn, ít phổ biến hơn, được làm ra theo cách này. Việc lựa chọn sử dụng các cột nguyên khối sẽ tạo ra những khó khăn đáng kể trong việc khai thác và vận chuyển, có thể được xem như là sự thể hiện hùng vĩ và tầm quan trọng của một tòa nhà. Để làm ví dụ về mức độ lựa chọn này, Shoghi Effendi đã gửi điện cho những người Bahá'í trên toàn thế giới vào năm 1948 về Đền thờ Báb vào ngày 10 tháng 12 năm 1948: Truyền đạt cho các tín đồ tin mừng về việc vận chuyển một cách an toàn trên Núi Carmel một lô hàng gồm 32 cột đá granite nguyên khối, một phần của lô hàng vật liệu nguyên sơ được đặt hàng để xây dựng mái vòm khu Mộ Báb, được thiết kế để bao bọc và bảo tồn cấu trúc thiêng liêng trước đây do 'Abdu'l-Bahá bảo tồn. Hoạt động xây dựng sẽ sớm được bắt đầu, bất chấp những khó khăn của tình hình hiện tại. Tôi cầu xin sự hướng dẫn của Đấng Toàn năng và ân sủng để duy trì các giai đoạn tiếp theo của dự án, được "Đức Bahá'u'llah" dự tính từ cách đây sáu mươi năm, khởi xướng từ Trọng tâm Giao ước của Ngài, được thiết kế để đạt đến đỉnh cao như Ngài đã tiên kiến trong việc khởi dựng một siêu kiến trúc thượng tầng được tôn vinh bởi Ngài. Một mái vòm bằng vàng để đánh dấu sự hoàn thiện ở trung tâm Núi của Chúa đối với công việc quan trọng được sản sinh nhờ ảnh hưởng phát sinh Ý chí của Nhà sáng lập Đức tin yêu dấu của chúng ta, vô cùng yêu quý tận trái tim Con Thánh của Ngài, và được hiến dâng để tưởng nhớ các Nhà tiên tri-Tử đạo, Sứ giả bất tử của Giáo kỳ Bahá'í.Các cột nguyên khối của Đền thờ Báb được làm bằng đá granit hồng từ Baveno. Các cột nguyên khối là đặc trưng của các ngôi đền Ai Cập cổ đại, và các mẫu vật ở mái cổng portico của đền Pantheon ở Rome cũng được vận chuyển từ Ai Cập. Các nhà thờ Byzantine dưới triều đại Theodosian (379-457 sau Công Nguyên) cũng cho thấy việc sử dụng các cột nguyên khối. Ví dụ về các cột đơn khối cũng được tìm thấy trong kiến trúc từ bán đảo Yucatán. Trong kiến trúc hiện đại sử dụng bê tông, tình huống lại khác biệt và thuật ngữ này ít được sử dụng hơn trong bối cảnh này.
Tratna pri Grobelnem ( ] ) là một khu định cư ở phía nam Grobelno thuộc đô thị tự trị Šentjur, miền đông Slovenia. Tuyến đường sắt chính từ Ljubljana đến Maribor chạy dọc theo rìa phía bắc của khu định cư. Khu định cư, cũng như toàn bộ đô thị này, được bao gồm trong vùng thống kê Savinja, mà nó nằm trong phân vùng Slovenia của Công quốc lịch sử Styria. Tên gọi của khu định cư được đổi từ "Tratna" thành "Tratna pri Grobelnem" vào năm 1953.
Bezovje pri Šentjurju (] or ];) là một khu định cư ở khu đô thị tự trị Šentjur, miền đông Slovenia. Nó nằm ngay bên ngoài thị trấn Šentjur, phía bắc của con đường khu vực dẫn về phía đông tới Šmarje pri Jelšah. Khu định cư, và toàn bộ khu đô thị, được bao gồm trong vùng thống kê Savinja, mà nó nằm trong phân vùng Slovenia của Công quốc lịch sử Styria. Tên gọi của khu định cư được đổi từ "Bezovje" thành "Bezovje pri Šentjurju" vào năm 1953.
Đông Slovenia () là một trong hai Vùng NUTS-2 của Slovenia. Khu vực này tạo thành phần phía đông của đất nước và bao gồm các thành phố Maribor, Celje và Velenje. Đây là vùng nghèo hơn trong số hai vùng của Slovenia. Đông Slovenia (SI01) được phân chia thành các vùng thống kê sau đây:
Bobovo pri Ponikvi ] là một khu định cư ở khu đô thị tự trị Šentjur, miền đông Slovenia. Tuyến đường sắt chính từ Ljubljana đến Maribor chạy dọc theo rìa phía bắc của khu vực định cư. Khu định cư, cũng như toàn bộ đô thị này, được bao gồm trong vùng thống kê Savinja, mà nó nằm trong phân vùng Slovenia của Công quốc lịch sử Styria. Tên gọi của khu định cư được đổi từ "Bobovo" thành "Bobovo pri Ponikvi" vào năm 1953.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Boletina là một chi nấm muỗi trong họ Mycetophilidae. Có ít nhất 30 loài được mô tả trong chi "Boletina".
Tiếng Hebrew Kinh Thánh Tiếng Hebrew Kinh Thánh (, hay , ), cũng gọi là tiếng Hebrew cổ điển, là dạng thái cổ của tiếng Hebrew, một ngôn ngữ thuộc nhánh Canaan của ngữ tộc Semit. Thứ tiếng này được nói bởi người Israel cổ đại tại "Vùng đất của Israel", tọa lạc ở phía tây sông Jordan và phía đông Địa Trung Hải. Từ "Hebrew" ("ivrit") không được sử dụng để chỉ ngôn ngữ trong Kinh Thánh, mà thay vào đó là những từ như ("sefat kena'an"; nghĩa là 'ngôn ngữ của Canaan') hay ("Yehudit"; nghĩa là 'tiếng Judea'). Trái lại, các văn thư tiếng Hy Lạp cổ đại và tiếng Hebrew Mishna sử dụng danh ngữ "Hebrew". Tiếng Hebrew đã được chứng thực trong các bản ký có niên đại về thế kỷ thứ 10 TCN, khi nó chưa tách biệt hoàn toàn với tiếng Phoenicia và các ngôn ngữ Canaan khác. Người Israel lưu truyền tiếng mẹ đẻ của mình suốt thời kỳ Đền thờ Thứ hai và cho tới khi thành Jerusalem thất thủ trước người La Mã vào năm 70. Nó rốt cuộc diễn biến thành tiếng Hebrew Mishna, được truyền khẩu đến thế kỷ thứ 5. Tiếng Hebrew Kinh Thánh là một ngôn ngữ Tây Bắc Semit thuộc tiểu nhóm Canaan. Trong quá trình hình thành và phát triển của tiếng Hebrew Kinh Thánh từ gốc tiền ngữ Semit song song với các ngôn ngữ Canaan, nhiều phụ âm của nó đã bị hòa lẫn với nhau. Không có bằng chứng nào cho thấy sự chập phụ âm diễn ra sau khi bảng chữ cái Hebrew được tiếp nhận.
Botričnica (]) là một khu định cư ở khu đô thị Šentjur, miền đông Slovenia. Nó nằm ở phía bắc thị trấn Šentjur. Khu định cư, cũng như toàn bộ đô thị này, được bao gồm trong vùng thống kê Savinja, mà nó nằm trong phân vùng Slovenia của Công quốc lịch sử Styria. Nhà thờ địa phương được dâng hiến cho Đức Mẹ với Bảy sự thương khó và thuộc về giáo xứ xứ Šentjur. Nó được xây dựng năm 1736.
Bukovje pri Slivnici (]) là một ngôi làng trong khu đô thị Šentjur, miền đông Slovenia. Khu định cư, cũng như toàn bộ đô thị này, được bao gồm trong vùng thống kê Savinja, mà nó nằm trong phân vùng Slovenia của Công quốc lịch sử Styria. Tên gọi của khu định cư từng được thay đổi từ "Bukovje" thành "Bukovje pri Slivnici" vào năm 1953. Nhà thờ địa phương được dâng hiến cho Thánh Nicôla và thuộc về giáo xứ Slivnica pri Celju. Nó có niên đại vào cuối thế kỷ thứ 17.
Cerovec (]) là một khu định cư ở trong đô thị tự trị Šentjur, miền đông Slovenia. Nó nằm 10 km về phía đông của Celje và đường cao tốc A1 chạy xuyên qua lãnh thổ của khu định cư. Khu định cư, cũng như toàn bộ đô thị này, được bao gồm trong vùng thống kê Savinja, mà nó nằm trong phân vùng Slovenia của Công quốc lịch sử Styria. Một cấu trúc ẩn giấu dưới lòng đất trong rừng gỗ Šohta gần khu định cư, được xây dựng năm 1944, từng được sử dụng làm một bệnh viện chiến binh bí mật ().