text
stringlengths
1
101k
Còn lại 7 người nhất thiết phải ngoài chính phủ và không được liên quan đến các ngân hàng thương mại (trong HĐQT hay là nhân viên).
Thường trong 7 người này có ít nhất một người là giáo sư kinh tế trong một trường đại học hàng đầu và 6 người còn lại là directors của các doanh nghiệp lớn.
Như vậy chính sách tiền tệ của Úc có ảnh hưởng rất nhiều từ nền kinh tế thực.Trong trường hợp FOMC, mặc dù không có thành viên nào trực tiếp từ giới doanh nhân và giáo sư đại học, 7 thành viên thường trực của FOMC (là 7 thành viên của Federal Reserve Board) thường xuất thân từ giới doanh nhân (Greenspan, Warsh) và giáo sư kinh tế (Bernanke, Miskin).
Bản thân Richard Fisher cũng cho biết ông thường xuyên liên hệ với khoảng 50 CEO hàng đầu của Mỹ và thế giới trước mỗi cuộc họp của FOMC để có thông tin về tình hình kinh tế thực.
Như vậy cũng có thể nói các chính sách tiền tệ của Mỹ có rất nhiều đầu vào từ giới doanh nhân cũng như giới học thuật.Ở VN trong NHNN có Vụ Chính sách tiền tệ, chắc chắn là nơi tham mưu cho thống đốc đưa ra các quyết định về chính sách tiền tệ.
Rất có thể vụ này và cả bản thân thống đốc Nguyễn Văn Giàu cũng tham khảo thông tin và ý kiến của giới doanh nhân và học thuật trước khi đưa ra những quyết định về tiền tệ.
NHNN còn có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia IMF, WB, ADB có trụ sở ở VN và các đồng nghiệp ở các ngân hàng trung ương khác.
Tuy nhiên tôi vẫn rất mong luật NH sẽ được sửa đổi để NHNN thành lập một hội đồng quyết định các chính sách tiền tệ giống như của Úc.
Nghĩa là nhất khoát hội đồng này phải bao gồm cách thành viên bên ngoài chính phủ và có sự tham gia của giới doanh nhân và học thuật trong nước.
Tôi cũng mong chi nhánh NHNN tại TPHCM có tiếng nói quan trọng trong hội đồng này, có thể là một ghế thường trực như trường hợp Fed NY.Sự độc lập của ngân hàng trung ương, hay chính xác hơn độc lập trong việc ra quyết định về chính sách tiền tệ cần được thể chế hóa.
Đây là một việc cần làm cho sự bền vững và tăng trưởng lâu dài của nền kinh tế.Update (01/06): Đọc bài này của David Altig mới biết CB independence bắt nguồn từ một Accord giữa US Treasury và Fed năm 1951, chấm dứt cam kết của Fed giữ lãi suất thấp để US Treasury finance cho WW II.Update (07/06): Felix Salmon cho rằng independence của Fed còn tùy thuộc vào cá nhân của người đứng đầu Fed và các thành viên của FOMC.Update (17/06): MPC của BOE có 4 thành viên bên ngoài (external members) và cũng thường có 1 người từ giới academic.
Điều đáng nói là thành viên từ giới academic này không nhất thiết phải là người Anh.
Adam Posen, một nhà kinh tế Mỹ vừa được chỉ định vào MPC.
Trước đây, Adrian Pagan, giáo sư ANU (Úc), cũng đã từng là thành viên MPC.
SGTT dựa vào đồ thị dưới đây cho rằng mặc dù VNĐ đã mất giá gần 25% so với RMB trong 5 năm vừa qua nhưng trade balance giữa VN và TQ vẫn tiếp tục xấu đi, chứng tỏ sức cạnh tranh của hàng VN càng ngày cang kém hơn hàng TQ.Vấn đề là lý thuyết ngoại thương cho rằng sức cạnh tranh của hàng hóa phụ thuộc vào tỷ giá thực chứ không phải tỷ giá danh nghĩa.
Với những nước có tốc độ lạm phát cao như VN, phân biệt giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa khi nói về sức cạnh tranh rất quan trọng.
Nhớ lại tỷ giá thực được định nghĩa là z=eP*/P, trong đó e là tỷ giá danh nghĩa, P* là mức giá nước ngoài, P là mức giá trong nước.
Cũng dùng nguồn số liệu từ Asian Development Outlook 2009 của ADB, tôi tạm tính tỷ giá thực RMBVND dùng số liệu CPI của VN và TQ để hiệu chỉnh tỷ giá danh nghĩa.
Sau đây là đồ thị so sánh tỷ giá thực với tỷ giá danh nghĩa trong cùng giai đoạn:Có thể thấy trong giai đoạn 2004-2008 mặc dù tỷ giá danh nghĩa RMBVND tăng gần 25%, tỷ giá thực giảm khoảng 8%.
Nghĩa là hàng hóa VN đã bị giảm sức cạnh tranh so với hàng TQ vì tác dụng của tỷ giá.Update (25/05): Tôi viết entry trên đây vì tình cờ nhìn thấy đồ thị tỷ giá NDTVNĐ trên SGTT nhưng tiếc là lúc đó chưa đọc loạt bài về hàng TQ trên báo này, đặc biệt là bài của chị Kim Hạnh.
Tất cả những gì SGTT và chị Kim Hạnh đã nêu ra đều ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của hàng hóa VN so với hàng TQ ngay trên thị trường nội địa.
Những ảnh hưởng này có tính chất vi mô (micro) vì nó tác động trực tiếp đến incentives của người tiêu dùng (hàng rẻ, chất lượng tốt), incentives của giới kinh doanh (dịch vụ "đánh hàng" dễ dàng, an toàn do chính sách biên mậu tốt của TQ), và thậm chí là incentives của những người quản lý và làm chính sách (...
đọc bài chị KH).
Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi hàng VN bị lép vế ngay trên sân nhà.Về mặt vĩ mô (macro), vấn đề tỷ giá như đã nói ở trên cho thấy trên thực tế hàng VN còn chịu thêm thiệt thòi nữa bên cạnh các phân tích vi mô mà SGTT đã nêu ra.
Đồng tiền VN, dù trên danh nghĩa mất giá so với NDT, nhưng khi tính đến tác dụng của lạm phát đã không mất giá đủ mạnh để giúp hàng VN tăng sức cạnh tranh với hàng TQ.
Nước Mỹ, trong suốt 3 đời tổng thống (từ Clinton đến Obama), đã tìm mọi cách ép TQ tăng giá đồng NDT để giải quyết vấn đề thâm hụt thương mại.
Nghĩa là đồng NDT đã undervalued so với USD trong một thời gian dài (theo quan điểm của nhiều nhà kinh tế), trong khi VNĐ lại overvalued so với NDT.
Như vậy không chỉ hàng TQ có sức cạnh tranh mạnh hơn hàng VN trên thị trường VN mà hàng VN còn khó khăn hơn khi xuất sang các nước khác ngoài TQ.Lý do căn bản đằng sau việc overvalued (real exchange rate) của VNĐ so với NDT, USD, và đa số các đồng tiền khác là lạm phát của VN quá cao trong khi nominal exchange rate lại được giữ tương đối ổn định.
Lạm phát cao là hệ quả của việc nền kinh tế phát triển quá nóng song song với chính sách tiền tệ đã quá nới lỏng.
Kinh tế phát triển nóng trong giai đoạn 2002-2007 biểu hiện rất rõ không chỉ qua các chỉ số kinh tế như tăng trưởng GDP, giá bất động sản, chứng khoán, mà còn qua tình trạng thiếu điện, kẹt xe tràn lan.
Dòng vốn nước ngoài, trong đó có cả kiều hối, lũ lượt chảy vào VN vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của kinh tế phát triển nóng.
Thêm vào đó, lượng vốn nước ngoài đổ vào là tiền đề cho chính sách nới lỏng tiền tệ khi NHNN mua ngoại tệ cho quĩ dự trữ quốc gia nhưng không hoặc thiếu khả năng sterilize.
(Thực ra nếu NHNN có thể fully sterilize số ngoại tệ mua vào quĩ dự trữ thì cũng chưa chắc đã ngăn được lạm phát (nên nhớ kinh tế đang phát triển nóng), nhưng đây là chủ đề khác ngoài entry này).Cũng chính dòng chảy vốn nước ngoài vào VN trong thời gian đó giúp cho VN có khả năng duy trì nominal exchange rate tương đối ổn định dù nhập siêu ngày càng lớn.
Ngoài lý do khách quan này, về mặt chủ quan NHNN cũng có thể lưỡng lự không muốn phá giá VNĐ mạnh hơn vì lý do original sin và cũng chính vì mối lo lạm phát (nếu có các lý do chính trị nào khác thì chắc chỉ có chị Kim Hạnh mới biết).
Tuy vậy, vấn đề original sin có thể không quá lớn vì private sector của VN chắc không nợ nước ngoài nhiều (tôi đoán vậy chứ không có số liệu, doanh nghiệp VN trừ những "ông kẹ" như Vietnam Airlines, Petrovietnam có chính phủ đứng đằng sau, vay trong nước còn khó ra ngoài ai dám cho vay), còn nợ chính phủ có lẽ đa phần còn trong giai đoạn ân hạn nên chưa phải trả nhiều lãi suất (trừ $750 triệu phát hành ở NY năm 2005).Lo ngại về lạm phát là một lo ngại chính đáng, tuy nhiên cần phải phân tích kỹ hơn về ảnh hưởng của phá giá VNĐ vào lạm phát (exchange rate pass through).
Nếu một phần lớn hàng nhập khẩu là nguyên liệu đầu vào để sản xuất hàng xuất khẩu, việc phá giá VNĐ sẽ không có nhiều hiệu quả kích thích xuất khẩu ở những ngành công nghiệp này.
Tuy nhiên ảnh hưởng của phá giá vào lạm phát trong nước sẽ không nhiều (pass through thấp) vì rổ hàng hóa của người tiêu dùng trong nước có tỷ lệ hàng nhập khẩu không cao.
Có lẽ ảnh hưởng lớn nhất vào lạm phát và tính cạnh tranh của hàng nội địa sau khi phá giá sẽ thông qua giá xăng dầu nhập khẩu.
Trong một bài viết trước đây của tôi về ảnh hưởng của vụ tăng giá xăng 30% tháng 7/2008, chỉ số CPI sẽ tăng mạnh nhưng chỉ khoảng 1.47% trong tháng đầu tiên.
Ngay cả nếu tốc độ tăng giá này kéo dài trong cả năm sau đó thì mức độ cạnh tranh của hàng VN nếu chỉ xét về giá vẫn được cải thiện.
Do vậy, xét về khía cạnh tính cạnh tranh của hàng VN ngay trên thị trường nội địa, việc phá giá sẽ có tác dụng tích cực kể cả nếu các mặt hàng này dùng một phần nguyên liệu, bán thành phẩm ngoại nhập.
Một hệ quả quan trọng của việc phá giá đồng nội tệ hoặc thả lỏng cơ chế quản lý tỷ giá để VNĐ tự điều chỉnh dần dần là dòng vốn nước ngoài chảy vào sẽ giảm sút.
Trên quan điểm vĩ mô thì điều này tốt vì nó làm nền kinh tế cân bằng hơn và giảm bớt sức ép lạm phát.
Nền kinh tế VN sẽ phát triển chậm lại, về đúng tốc độ tăng trưởng tự nhiên và bền vững của nó chứ không phải quá nóng như vài năm vừa rồi.
Điều này có thể làm buồn lòng một số quan chức muốn chạy theo các con số tăng trưởng hoành tráng, nhưng sẽ đem lại một nền kinh tế ổn định và phồn vinh hơn cho VN trong dài hạn.
Đây là điều tôi hoàn toàn đồng ý với anh Nguyễn Vạn Phú.
Theo Alea, Shanghai Stock Exchange đã vượt qua London SE trở thành thị trường chứng khoán lớn thứ 5 trên thế giới tính theo market capitalization.
Đây là danh sách 7 SE lớn nhất (billion $):1.
NYSE: $ 8,9172.
Tokyo SE: $2,7823.
NASDAQ OMX: $2,5884.
NYSE Euronext (Europe): $2,0175.
Shanghai SE: $1,9486.
London SE: $1,9467.
Hong Kong Exchanges: $1,478 Tình cờ đọc bài này của 2 nhà kinh tế thuộc ECB mới biết Euribor (Euro Interbank Offered Rate) có một điểm khác biệt rất quan trọng so với Libor (London Interbank Offered Rate).
Cả hai chỉ số này đều là trung bình (trimmed mean) của lãi suất vay interbank do các ngân hàng trong một panel report hàng ngày.
Tuy nhiên với Libor các ngân hàng report lãi suất mà họ được các ngân hàng khác offer, trong khi đó với Euribor thì các ngân hàng report lãi suất thấp nhất mà họ nghĩ rằng một prime bank (không nhất thiết là họ) có thể vay từ một prime bank khác.
Do vậy trong trường hợp Libor các ngân hàng có thể vay interbank thấp hơn hoặc cao hơn Libor được công bố nhưng Euribor luôn là lãi suất sàn mà các ngân hàng châu Âu có thể vay được trên interbank market.Một lãi suất quan trọng nữa ở châu Âu là Eonia (Euro Overnight Index Average) cũng được các ngân hàng trong panel report cho Euribor thông báo cho ECB.
Nhưng Eonia là lãi suất trung bình (volumn weighted) của các khoản vay interbank đã thực sự xảy ra.
Do đó Eonia giống với Libor ở chỗ nó là trung bình của lãi suất mà các ngân hàng phải chấp nhận khi vay interbank.
Nhưng khác với Libor, Eonia là lãi suất trung bình của các khoản vay đã thực sự diễn ra chứ không phải là lãi suất mà các ngân hàng được offer.
Một số bạn (sinh viên) hỏi tôi trong phần comment của entry này, tôi nghĩ có lẽ viết trả lời thành một entry mới dưới dạng Q&A sẽ giúp các bạn khác tiện theo dõi.
Sau đây là câu hỏi:"Chú cho chúng cháu hỏi Quantitative easing thì khác gì thực hiện open market operation bằng cách mua vào gov securities ạ?
Thêm nữa, Qualitative easing là một cách easing bất bình thường, nhưng khi chúng cháu tìm đọc các bài nói về liquidity trap thì tác giả chỉ đưa ra cách giải quyết bằng Quantitative easing, sao họ không đề cập về Qualitative easing chú nhỉ.
Cháu đã cố gắng tìm câu trả lời nhưng không được, phải nhờ đến sự giúp đỡ của chú ạ."Trả lời:Trong hầu hết các texbooks, chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương (CB) được giải thích là sự điều chỉnh money supply thông qua OMO, nghĩa là khi CB muốn tăng money supply thì sẽ mua vào bonds và bán bonds ra nếu muốn giảm money supply.
Tuy nhiên đây chỉ là nguyên lý, trên thực tế, ít nhất là đối với đa số các CB ở các nước phát triển, chính sách tiền tệ được thực hiện thông qua lãi suất cơ bản và OMO là công cụ để CB đảm bảo lãi suất thị trường gần với lãi suất cơ bản mà mình công bố.Một chi tiết rất quan trọng của việc thực thi các chính sách tiền tệ trên thực tế là lãi suất cơ bản mà CB công bố thường là lãi suất (rất) ngắn hạn, trong đa số trường hợp là lãi suất qua đêm.
Để bảo vệ mức lãi suất này OMO mua/bán các loại trái phiếu chính phủ ngắn hạn (1-3 tháng) vì "lãi suất" (yield) của các loại trái phiếu này phản ánh chính xác nhất lãi suất ngắn hạn mà CB muốn bảo vệ.
Vấn đề là nếu lãi suất cơ bản mà CB công bố rất gần 0% thì cash và bonds sẽ tương đương nhau và các nhà đầu tư (bond holders) sẽ mua bonds thông qua OMO chỉ để giữ cash trong tài khoản của mình chứ không đem đi đầu tư hay tiêu dùng nữa.
Đây chính là hiện tượng liquidity trap mà các textbook đã đề cập đến.
Về mặt lý thuyết đó là khi đường LM (trong mô hình IS-LM) nằm ngang như trong đồ thị dưới đây và các hoạt động OMO dịch chuyển LM sang phải sẽ không có tác dụng thay đổi lãi suất và output nữa:(Nguồn: Krugman)Ngay từ năm 1999, Krugman (bài trong đường link ở trên) đã chỉ ra rằng đối mặt với tình trạng liquidity trap này CB phải thực hiện unconventional OMO qua 2 hình thức: mua bonds dài hạn hoặc can thiệp vào thị trường ngoại tệ (mua vào ngoại tệ).
Đây chính là ý tưởng quantitative easing (QE) mà Bank of Japan đã làm 2 năm sau đó và Fed và một số CB lớn đang thực hiện từ đầu năm 2009.
Như vậy khác biệt quan trọng nhất giữa OMO và QE là biện phát thứ nhất mua/bán trái phiếu chính phủ ngắn hạn, biện pháp thứ hai mua trái phiếu dài hạn.Bên cạnh mua trái phiếu chính phủ dài hạn, Fed đã có sáng kiến đổi trái phiếu chính phủ lấy trái phiếu của các công ty và một số loại giấy tờ có giá khác không phải do chính phủ phát hành.
Đây là hình thức qualitative easing vì nó không làm balance sheet của CB tăng lên nhưng làm tăng thêm mức độ rủi ro của các assets mà CB nắm giữ, và ngược lại làm giảm rủi ro cho các ngân hàng thương mại.
Biện pháp này không nhằm vào money supply như OMO hay QE mà chỉ để giải tỏa stress trong hệ thống ngân hàng.
Mặc dù không phải chính sách tiền tệ chính thống theo sách giáo khoa nó cũng có tác dụng kích thích các hoạt động kinh tế vì khi các ngân hàng bớt rủi ro hơn sẽ cho vay nhiều hơn.
Qualitative easing mới chỉ xuất hiện từ cuối năm 2007 và cũng chỉ được các nhà kinh tế phân tích rõ bản chất trong thời gian gần đây nên nó chưa đi vào texbook, đó là lý do các bạn chưa tìm thấy sách vở nói về vấn đề này.Update (22/05): Theo Greg Mankiw, một số nhà kinh tế đã bắt đầu phát triển các mô hình macro thay money supply bằng interest rate rule (IS-MP model) để phản ánh đúng cách thực hiện chính sách tiền tệ của các CB trên thực tế.
Mankiw cho rằng IS-LM và IS-MP tương đương nhau và việc các textbook vẫn tiếp tục dùng money supply (IS-LM) chỉ đơn thuần vì lịch sử và tính sư phạm của nó.Update (22/05): Như tôi đã từng đề cập trước đây, việc Fed và nhiều CB khác trả lãi suất cho reserves của các commercial banks sẽ mở ra một hướng mới thực thi chính sách tiền tệ.
John Robertson (Fed Atlanta) có 2 bài rất quan trọng về chính sách mới này.
Một ý cần lưu ý trong lập luận của Goodfriend mà Robertson trích dẫn là với việc trả lãi suất cho reserves, các CB có thể tách chính sách lãi suất (có tác động lên nền kinh tế) ra khỏi chính sách điều hành reserves (liquidity) có ảnh hưởng lên hệ thống tài chính.
Nếu xếp thứ tự các thành phố của một quốc gia (bất kỳ) theo dân số, thành phố lớn nhất sẽ có dân số xấp xỉ gấp đôi thành phố thứ nhì, gấp ba thành phố thứ ba,...
Đấy là một quan sát của George Zipf từ năm 1949 và theo Steven Strogatz (qua Mark Thoma) vẫn đúng cho đến ngày nay (dân số SG hình như khoảng 8 triệu, còn HN trước khi mở rộng khoảng 4 triệu).
Còn một số qui luật khác rất thú vị liên quan đến các thành phố, ai quan tâm chịu khó đọc bài của Strogatz.Update (21/4/10): Ed Glaeser đưa ra một giả thuyết giải thích Zipf's law: nếu một người hiện đang sống tại một thành phố có "sức hút" với n-người khác đến đó sống thì dân số sẽ tăng theo Zipf's law.
Gần đây giới policy makers lẫn market players rất "phấn khởi" khi thấy Libor-OIS spread và Ted spread giảm xuống đáng kể, gần về mức pre-crisis.
Tuy nhiên Rebecca Wilder có một quan sát rất thú vị: đó chỉ là kết quả của các chính sách can thiệp của Fed.
Bằng chứng là trong khi credit spread trong interbank và commercial papers đã giảm đáng kể, spread trong corporate bond markets tuy có giảm nhưng vẫn còn rất cao so với trước đây (xem đồ thị bên dưới).
Điều này chứng tỏ chỉ có những markets mà Fed can thiệp trực tiếp mới có spread giảm (gần) về mức bình thường.
Hệ quả: (i) chính sách của Fed rất effective, (ii) nền kinh tế (hay ít nhất thị trường tài chính) không phản ứng lại các chính sách của Fed.
Câu hỏi đặt ra: effectiveness của Fed sẽ kéo dài đến bao giờ?
Liệu green shoots có kịp mọc thành big trees trước khi Fed buộc phải rút các chính sách trợ giúp vì balance sheet quá lớn hay market bắt đầu nghi ngờ credit spread trong các market mà Fed can thiệp trực tiếp?
Báo chí VN gần đây nhắc nhiều đến tính hiệu quả của gói kích cầu mà chính phủ đã thực hiện.
Hoàn toàn không phải tình cờ, điều này cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh tế Mỹ với các chính sách kích cầu của chính phủ Obama.
Đáng tiếc là, theo Greg Mankiw, những nỗ lực đo đạc tính hiệu quả của các biện pháp kích cầu không đáng tin.
Makiw lấy ví dụ từ đồ thị sau:Đường xanh đậm là dự báo tỷ lệ thất nghiệp được các chuyên gia kinh tế của Obama tính hồi tháng 1/2009 với giả định gói kích cầu $780b được thông qua.
Đường xanh nhạt là baseline, nghĩa là tỷ lệ thất nghiệp dự báo nếu không có kích cầu.
Hai chấm nâu rất gần với đường baseline là số liệu thực tế tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 3 và 4/09.Những người phản đối kích cầu có thể dựa vào đồ thị này để nói các biện pháp kích cầu đã không có tác dụng.
Ngược lại những người bảo vệ cho kích cầu sẽ lập luận rằng thực ra đường baseline cao hơn đường mầu xanh nhạt rất nhiều, nghĩa là kích cầu vẫn có hiệu quả chỉ có điều dự báo hồi tháng 1/09 đã sai (underestimate).
Nhưng dù trường hợp nào xảy ra, những đo lường về tính hiệu quả của kích cầu đã không chính xác.
Nếu kích cầu không hiệu quả, hẵn nhiên dự báo về tính hiệu quả đã sai vì nếu đúng người ta đã không kích cầu.
Nếu kích cầu có hiệu quả, sai số trong trường hợp này có lẽ quá lớn (từ đường xanh đậm đến 2 chấm mầu nâu).Vậy nếu không hoặc khó có thể đánh giá tính hiệu quả của kích cầu, liệu chúng ta có thể chấp nhận rủi ro đường baseline sẽ cao hơn rất nhiều nếu không kích cầu?
Đây là câu hỏi mà policy maker phải trả lời, nhưng tôi nghĩ tốt hơn là nên bỏ tiền kích cầu vào những lĩnh vực hoặc project có thể nhìn rõ tính hiệu quả như transfer money cho người nghèo, đầu tư vào giáo dục và y tế (thay vì tìm cách cổ phần hóa), có thể đầu tư vào một số dự án infrastructure quan trọng (ví dụ xây cầu thay cho những con đò nguy hiểm ở các vùng sâu vùng xa).