text
stringlengths 93
20.7k
|
---|
Vụn bánh mì hay bột bánh mì, cốm bánh mì, bột chiên xù là các hạt vụn nhỏ của bánh mì khô (thường làm từ bột mì), được cọ xát hoặc nghiền, cạo, xay ra từ bánh mì, và được sử dụng để trộn thực phẩm hay để nhồi gia cầm, thịt viên và các loại thực phẩm tương tự hay để phủ bên ngoài, làm giòn cá chiên, vịt quay, các món chiên hoặc để làm chất dính. Được ghi trong sách dạy nấu ăn từ năm 1716.Tuy nhiên, vụn bánh mì đôi khi cũng được dùng như là một thuật ngữ dùng để chỉ các kết cấu của phần mềm bên trong (ruột bánh mì) của một ổ bánh mì, để phân biệt với lớp vỏ, hoặc "da". Vụn bánh mì khô được làm từ bánh mì đã được nướng hoặc chiên rất khô để loại bỏ độ ẩm còn lại, và có thể có một kết cấu giống như cát hoặc bột. Vụn bánh mì có thể dễ dàng sản xuất bằng cách xay bột lát bánh mì trong một máy xay, hay cạo bằng một lưỡi dao mỏng.
Vụn bánh mì có thể được rang vàng với nhiều bơ trộn với nước ngọt, và được dùng như một thành phần phục vụ món ăn truyền thống của Ba Lan (Polonaise) như bổ sung phủ ngoài cho rau. Hoặc có thể làm từ cốm (Panko) như trong các nhà bếp Nhật Bản. Vụn bánh mì cũng được cung cấp như một sản phẩm hoàn thành được làm từ bột mì, muối, bột nổi, có thể thêm men, đậu nành và bột bắp, gia vị, hương vị hoặc các chất tăng cường hương vị. |
Với bờ biển dài 3.260 km (2.030 mi) và vùng đặc quyền kinh tế 1 triệu km², Việt Nam có tiềm năng cho một nghề nuôi trồng hải sản lớn. Một trong những hoạt động nuôi trồng thủy sản ven biển có giá trị nhất là nuôi các loài tôm hùm gai, đặc biệt là tôm hùm bông, một loài có giá trị cao trong ngành thủy sản, đặc biệt là ở châu Á, châu Âu và châu Mỹ. Nuôi tôm hùm gai trong lồng biển được phát triển lần đầu tiên ở tỉnh Khánh Hòa của Việt Nam vào năm 1992, và từ đó đã mở rộng lên 35.000 lồng tôm hùm chỉ trong hơn một thập kỷ, và từ đó trở thành ngành kinh tế trị giá 100 triệu USD.
Bệnh sữa tôm hùm được phát triển ở Việt Nam vào cuối năm 2006, và được cho là kết quả của việc xử lý tôm hùm chất lượng kém và kỹ thuật nuôi trồng thủy sản. Bệnh có khả năng gây ra do căng thẳng trong quá trình xử lý và do điều kiện chất lượng nước không đủ thông qua vận chuyển đường dài từ đánh bắt đến các địa điểm nuôi. Các triệu chứng tương tự được nhìn thấy trong các crustacean khác chẳng hạn như nuôi cấy tôm và cũng được gây ra bởi các vấn đề liên quan đến căng thẳng. Các triệu chứng căng thẳng tương tự gây ra bởi điều kiện nước chất lượng thấp được cho là gây ra căn bệnh này cũng như gây ra một số mầm bệnh cơ hội do hệ thống miễn dịch của tôm hùm bị tổn thương do căng thẳng. Tuy nhiên, sữa tan máu đã được truyền qua thực nghiệm giữa những con tôm hùm bằng cách sống thử và nhiễm trùng huyết tán không được lọc từ tôm hùm bị bệnh sang tôm hùm khỏe mạnh. Lọc máu từ bộ lọc 0,45 m không lây nhiễm, điều này có thể cho thấy sự liên quan của một thực thể bệnh lý được truyền qua nước hoặc thực phẩm. Các triệu chứng thường thấy khi có quá nhiều lồng nuôi tôm hùm trong một khu vực. Bệnh sữa tôm gây ra sự sụt giảm lớn trong sản xuất tôm hùm hàng năm ở Việt Nam từ 1.900 tấn năm 2006 xuống còn 1.400 tấn năm 2007. Trong một hệ thống nuôi khép kín, bệnh sữa ít khi được quan sát, nhưng tôm hùm có thể bị nhiễm một số bệnh khác, làm giảm tỷ lệ sống. Đầu tiên, vỏ của những con tôm hùm bị bệnh từ từ chuyển từ màu xanh tự nhiên sang màu nâu và cuối cùng chết mà không cho ăn trong nhiều tuần. Thứ hai, ở chân của chân bò cũng như các phần bụng, màu cam xuất hiện và một tuần sau, chân có thể bị gãy và tôm hùm chết. Người ta cũng phát hiện ra rằng một vài con tôm hùm 10-30 g có triệu chứng đặc biệt trong đó hình que màu trắng trông giống như khung lá trên các múi bụng và tôm hùm sẽ chết hàng loạt rất sớm. Những quan sát này được báo cáo từ tôm hùm nuôi trong hệ thống tuần hoàn ở Việt Nam và chưa được công bố.
Hạt tôm hùm đầu tiên được vận chuyển đến các trang trại, trung bình mất tới 12 giờ. Vận chuyển từ các trang trại nuôi tôm hùm, chẳng hạn như các trang trại ở Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận đến các trung tâm thương mại ở Hà Nội hoặc Thành phố Hồ Chí Minh, xảy ra trong các bể nước biển mở, có ga trên xe tải và thường mất từ 7 đến 20 giờ. Tôm hùm sống sau đó được xuất khẩu ra nước ngoài một khi chúng được đóng gói trong hộp polystyrene có độ dày lên đến 20 mm, cùng với túi nhựa chứa nước và nước đá để giúp tôm hùm mát. Các lỗ nhỏ cũng được cung cấp trong các hộp để thông gió.
Nuôi tôm hùm gai là một ngành kinh tế lớn ở Việt Nam, với các thị trường chính ở Trung Quốc và Đài Loan, Việt Nam cạnh tranh trong một thị trường bị chi phối bởi các nhà sản xuất như Úc, New Zealand và Indonesia, tất cả cùng xuất khẩu tới 10.000 tấn hàng năm, so với 1.500 tấn do các trang trại Việt Nam sản xuất. Tuy nhiên, tôm hùm nuôi cho phép cung cấp và xuất khẩu quanh năm đáp ứng nhu cầu cao trong mùa vụ, và do đó Việt Nam có thể bán với giá cao hơn thị trường.
Công nghiệp nuôi tôm hùm 100 triệu USD mỗi năm này đã cung cấp nguồn thu nhập cho hơn 400 gia đình ở Việt Nam và tạo ra hơn 100 việc làm mỗi năm, từ người thu gom tôm hùm cho đến người nuôi tôm hùm. Tuy nhiên, là một ngành công nghiệp phụ thuộc nhiều vào bộ sưu tập tôm hùm hoang dã, nó rất không ổn định. Phát triển trại giống tôm hùm là cần thiết để đảm bảo một ngành công nghiệp ổn định. |
Cà ra, tại Trung Quốc gọi là 大閘蟹 (bính âm: dà zhá xiè, đại áp giải, cua cửa cống lớn), danh pháp khoa học: Eriocheir sinensis) là một loài cua nước ngọt thuộc hệ cua đồng có nguồn gốc từ Trung Quốc từ tỉnh Phúc Kiến và được du nhập vào châu Âu, Bắc Mỹ, nơi chúng được xem là một loài xâm lấn. Loài cua này cũng du nhập vào Việt Nam. Trong Công văn số 961/BKHCN-XHTN năm 2011 gửi Bộ Tài nguyên-Môi trường, Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam đã đề nghị coi nó là loài có nguy cơ xâm hại, nhưng trong các thông tư gần nhất thì Bộ Tài nguyên-Môi trường không xếp nó vào phạm trù loài xâm hại hay loài có nguy cơ xâm hại.
Cà ra được mô tả có hình dáng kỳ lạ, chúng có càng màu xanh, đỏ, mai có màu xanh nhạt, hoặc xám xanh, hai càng bằng nhau rất đều và chạy rất nhanh, đặc biệt chúng rất to và phần bụng cua có màu vàng cáu, hai gọng màu xanh, mai cua có màu xám. Về ngoại hình, cua đồng Trung Quốc không khác nhiều so với cua đồng nhưng đặc điểm sinh học của chúng khác hoàn toàn với cua đồng. Cua đồng sống trong các hang, lỗ tại các bờ ruộng, bờ kênh, rạch, thường bò ra khỏi hang kiếm ăn, xong lại trốn vào hang, trong khi đó cua Trung Quốc không có thói quen trốn trong hang mà chúng bò đầy khu vực sinh sống.
Ở Trung Quốc, khu vực đông trung bộ Trung Quốc là nơi nuôi trồng giống cua lông màu vàng, cua được nuôi ở hồ Dương Trừng, gần Thượng Hải. Cua Dương Trừng chủ yếu được dùng để đi biếu. Hàng năm, mùa thu đến cũng là lúc vụ thu hoạch cua ở Trung Quốc bắt đầu. Tuy nhiên gần đây hàng trăm hộ nông nuôi cua và các lái buôn bị ảnh hưởng nặng nề. Giá cua tại nhiều thành phố lớn ở Trung Quốc giảm tới hơn 20%, có khi chỉ còn khoảng 850.000/kg. Cua Trung Quốc được du nhập vào châu Âu, ở Anh, chúng có mặt tại sông Thame, ở Mỹ chúng có mặt tại nhiều vùng trong đó có Ngũ Hồ.
Ở Việt Nam, những con cua này có mai màu xanh đen và 2 càng bằng nhau khiến người dân nghi ngại. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng giống cua mai to, yếm to thực chất là cua đồng nuôi theo mô hình trang trại từ miền Nam chuyển ra. |
E. Wedel ( phát âm: Veh-del) là một công ty chế biến mứt kẹo Ba Lan sản xuất nhiều loại sô-cô-la, bánh ngọt và đồ ăn nhẹ từ năm 1851. Wedel cũng là một nhãn hiệu kẹo nổi tiếng ở Ba Lan, được xem là "nhãn hiệu sô-cô-la quốc gia của Ba Lan" trên thị trường này và là một nhãn hiệu kẹo hàng đầu trong số các nhà sản xuất với khoảng 14% thị phần ở Ba Lan vào năm 2005 và chiếm 11.7% vào năm 2007.Tháng 6 năm 2010 Kraft Foods Inc đã bán Wedel cho Lotte, một tập đoàn của Nhật Bản - Hàn Quốc, như một phần trong chương trình thoái vốn bắt buộc của họ đối với một phần của Cadbury mà tập đoàn này đã mua lại hồi tháng 3 năm 2010.
Được thành lập năm 1851 bởi Karl Ernst (Karol Ernest) Wedel (1813-1902), công ty và sản phẩm của công ty được biết đến rộng rãi ở Trung và Đông Âu. Logo của công ty là chữ ký của Karol Wedel. Con trai của ông là Emil Albert Fryderyk Wedel (1841-1919) đã học nghề trong các nhà máy sản xuất kẹo và sô-cô-la ở Tây Âu trước khi thừa kế và mở rộng kinh doanh của cha mình. Hậu duệ của ông - Jan Wedel (mất năm 1960) là thành viên cuối cùng của gia đình Wedel sở hữu công ty, được xem là "Willy Wonka" thời tiền chiến của Ba Lan. Năm 1894, công ty chuyển nhà máy từ đường Szpitalna ở Warszawa. Năm 1930, trong thời thời gian Đại khủng hoảng, Jan Wedel đã mở công ty thứ hai tại Praga, một trong những công ty hiện đại của Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan. Công ty cũng được biết đến với các chính sách phúc lợi xã hội rất hào phóng của mình. Là một trong những người tiên phong ở Châu Âu, công ty có nhà trẻ, mẫu giáo, bệnh viện và quán cà phê riêng của mình, và thưởng cho các nhân viên xuất sắc nhất của mình bằng khoản vay mua nhà không lãi suất; mô hình này đã được Đảng Xã hội Ba Lan đánh giá cao. Vì vậy mà trước Chiến tranh thế giới thứ hai, Wedel là một công ty tư nhân thành công với các cửa hàng ở Luân Đôn và Paris.
Jan Wedel đã lập kế hoạch cho Chiến tranh thế giới thứ II, và công ty đã tiếp tục sản xuất trong những năm đầu của cuộc chiến; công ty cũng bắt đầu sản xuất các thực phẩm cơ bản như bánh mì vì nạn đói ở Warszawa, và là địa điểm của giảng dạy bí mật. Mặc dù có tổ tiên là người Đức nhưng Wedel đã từ chối hợp tác với người Đức và đã không ký Volksliste; điều này dẫn đến việc ông và nhân viên của mình bị bức hại bởi phát xít Đức. Chiến tranh đã tàn phá Ba Lan và công ty; các tòa nhà ở Warszawa đã bị phá hủy trong Khởi nghĩa Warszawa. Sau chiến tranh, Wedel xây dựng lại nhà máy, chỉ để chính phủ cộng sản quốc hữu hóa công ty. Bản thân nhà máy Wedel đã được đổi tên thành '22 Lipca' (22 tháng 7) sau 'Ngày Quốc Khánh' của Cộng sản (Bản tuyên ngôn PKWN Manifesto), mặc dù ngay cả những người cộng sản chọn giữ lại tên thương hiệu Wedel với các sản phẩm có cả logo cũ và mới (đặc biệt là sau 10 năm không dùng logo, mọi nỗ lực xuất khẩu đều vô ích). Công ty được tái tư nhân hóa vào năm 1989 sau khi chế độ cộng sảnsụp đổ ở Ba Lan. Năm 1991, công ty được PepsiCo mua lại, lúc đó doanh thu đạt khoảng 50–60 triệu Đô la Mỹ. Năm 1995, doanh thu đã vượt 200 triệu Đô la Mỹ. Khoảng 10% các sản phẩm được xuất khẩu, chủ yếu sang Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Hoa Kỳ và Canada. Nhà máy ở Warszawa có 1,100 công nhân tại thời điểm năm 1998.
Cadbury Schweppes đầu tư vào Ba Lan lần đầu tiên là năm 1993, xây dựng nhà máy sô-cô-la cho các sản phẩm của riêng mình tại Bielany Wrocławskie.
Năm 1999, Cadbury đã mua E.Wedel và nhà máy ở Praga từ PepsiCo với giá 76.5 triệu Đô la Mỹ. Nhà máy ở Praga được hiện đại hóa năm 2007, với việc đầu tư vào các phòng thí nghiệm mới và không gian làm việc cũng như một dây chuyền sản xuất mới dành cho sản phẩm chủ đạo của nhãn hiệu Ptasie mleczko, một loại kẹo sô-cô-la với marshmallow là tâm.Năm 2007, là một phần của Đặc Khu Kinh tế Wałbrzych, Cadbury-Wedel Polska bắt đầu xây dựng một nhà máy kẹo cao su trị giá 100 triệu bảng ở Skarbimierz, Opole Voivodeship. Nhà máy này hiện sản xuất các nhãn hiệu như Trident, Stimorol, V6 và Hollywood. Công ty cũng mua lại các quyền đối với khu đất bổ sung 60 mẫu Anh (0,24 km2), một nhà máy sô-cô-la mới đã được triển khai tại đây năm 2009 để có thể tiếp quản việc sản xuất các nhãn hiệu trước đây được sản xuất tại Nhà máy Somerdale ở Keynsham, Bristol từ năm 2011. Năm 2008, Cadbury được Cơ quan Đầu tư và Thương mại Ba Lan vinh danh là “Nhà đầu tư quan trọng nhất Ba Lan".Trong những năm gần đây, công ty cũng đã mở rộng, khai trương một loạt các cửa hàng sô-cô-la dựa trên truyền thống đã có trước chiến tranh.
Tháng 3 năm 2010 Kraft Foods Inc đã mua lại Cadbury. Ủy ban Châu Âu nhấn mạnh rằng Wedel được bán nhằm tiếp quản để tiến lên phía trước vì việc kết hợp Kraft/Cadbury-Wedel sẽ có thị phần quá lớn trên thị trường chế biến mứt kẹo của Ba Lan. Để đáp ứng được yêu cầu này, Wedel đã được bán cho Lotte Hàn Quốc hồi tháng 6 năm 2010. Đây là thương vụ đầu tư đầu tiên của Lotte vào Châu Âu mặc dù họ là công ty sản xuất kẹo cao su lớn thứ 3 trên thế giới và là ông lớn trên thị trường chế biến mứt kẹo Châu Á. Kraft Foods nắm quyền đối với Cadbury, Halls và các nhãn hiệu khác cùng với hai nhà máy sản xuất các sản phẩm Cadbury ở Skarbimierz, Opole Voivodeship.
Ptasie mleczko - kẹo dẻo phủ sô-cô-la
Mieszanka Wedlowska - kẹo phủ sô-cô-la với nhiều loại nhân
Torcik Wedlowski - bánh xốp tròn lớn phủ sô-cô-la với các chi tiết trang trí bằng tay
Pawełek - thanh sô-cô-la với nhân thơm có chứa một lượng rượu nhỏ
Krowka - kẹo mềm kem sữa được gói riêng từng cái
Delicje Szampańskie - bánh quy tròn với đế xốp, nhân mứt và phủ sô-cô-la |
Chè bánh lọt là một món chè ngọt ăn lạnh. Món chè này phổ biến khắp Đông Nam Á và có ý kiến cho rằng xuất xứ từ Indonesia.
Nguồn gốc của bánh lọt (cendol) không rõ ràng, và thức uống ngọt này được lan truyền rộng rãi trên khắp Đông Nam Á. Tuy nhiên, một gợi ý là cendol có nguồn gốc từ Java, Indonesia là dawet. Kỷ lục lâu đời nhất được đề cập về đồ uống ngọt dawet là bản thảo Kresnayana, có niên đại từ Vương quốc Kediri vào khoảng thế kỷ thứ 12 của Java. Nhà sử học cho rằng việc sử dụng sagoo hoặc bột gạo làm thành phần nước giải khát ngọt có thể xảy ra sớm trong xã hội nông nghiệp lúa gạo của Java cổ đại. Thật vậy, thạch cendol và các biến thể của nó là sản phẩm nông nghiệp nông thôn, vẫn được sản xuất theo truyền thống ở các làng Java. Ở Banjarnegara, Trung Java, dawet được phục vụ theo truyền thống mà không có đá. Ngày nay, tuy nhiên các viên đá hoặc đá bào bổ sung thường được thêm vào thức uống tráng miệng này. Điều này có thể gợi ý rằng ở Java nhiệt đới, dawet là một thức uống tráng miệng ngọt truyền thống có từ trước khi áp dụng công nghệ làm lạnh, vào đầu thế kỷ thứ 12.
Cendol thường được phục vụ với đá, và được phát triển khi nước đá có sẵn. Nó có thể có nguồn gốc từ các thành phố cảng của Malaysia như Malacca và Penang, nơi công nghệ tàu lạnh của Anh sẽ cung cấp đá cần thiết.
Theo truyền thống của người Java, dawet hoặc cendol là một phần của lễ cưới truyền thống của người Java. Dodol dawet (tiếng Java cho cụm từ "bán dawet") được thực hiện trong lễ Midodareni, một ngày trước đám cưới. Sau khi tắm cô dâu siraman, cha mẹ sẽ bán dawet cho khách tham dự và người thân. Vị khách đã trả tiền cho dawet bằng cách sử dụng những đồng xu bằng đất nung sẽ được trao cho cô dâu như một biểu tượng cho thu nhập của gia đình. Ý nghĩa biểu tượng là hy vọng của cha mẹ rằng đám cưới ngày mai sẽ có rất nhiều khách tham dự, "nhiều như các loại thạch cendol được bán." Ở Dutch East Indies Java, những người bán hàng rong trên đường phố sử dụng pikulan (giỏ mang theo thanh cân bằng) thường được tìm thấy ở các thành phố của người Java, như có thể thấy trong bức ảnh cũ có niên đại từ khoảng năm 1935.
Cendol đã được Cục Di sản quốc gia Malaysia tuyên bố là thực phẩm di sản của Malaysia.
Từ "chendol" được đề cập lần đầu tiên vào năm 1932 như là một trong những thực phẩm có sẵn ở Kuala Lumpur như được ghi lại trong Dự án Hợp nhất Malay thu thập các tác phẩm của Malay. Dawet được tuyên bố là nguồn gốc của cendol; tên tiếng Java của "dawet" đã được ghi lại trong bản thảo tiếng Java đầu thế kỷ 19 của Serat Centhini, được sáng tác giữa năm 1814, 18181818 ở Surakarta, Trung Java. Trong tiếng Java, dawet đề cập đến toàn bộ hỗn hợp thạch xanh cendol, thường được làm từ aren sagoo hoặc bột gạo, nước cốt dừa và gula jawa lỏng (xi-rô đường cọ), đôi khi có thể thêm mít thái lát.
Có một niềm tin phổ biến rằng cái tên "cendol" có liên quan đến, hoặc có nguồn gốc từ từ jendol, liên quan đến thạch bột gạo giống như giun xanh sưng; trong tiếng Java, tiếng Sundan, tiếng Indonesia và tiếng Malay, jendol có nghĩa là "vết sưng", "phình", hoặc "sưng". Ở hầu hết các vùng của Indonesia, cendol đề cập đến thạch bột gạo xanh; trong khi pha chế của bột gạo xanh với nước cốt dừa, đá bào, đường cau và đôi khi mít thái hạt lựu được gọi là es cendol hoặc dawet (ở Trung và Đông Java).
Từ điển Indonesia mô tả cendol là một món ăn nhẹ làm từ bột gạo và các thành phần khác được hình thành bởi các bộ lọc, sau đó trộn với đường cọ và nước cốt dừa (cho nước giải khát). Từ điển tiếng Mã Lai Kamus Dewan định nghĩa tương tự nó là một thức uống giống như cháo với những sợi dài làm từ bột gạo trong nước cốt dừa và xi-rô đường.
Ở Việt Nam, loại bột gạo giống như giun này được gọi là bánh lọt hay "bánh qua". Bánh lọt là một thành phần phổ biến trong một thức uống tráng miệng của người Việt Nam gọi là chè, hay phổ biến hơn là ba màu. Ở Thái Lan, nó được gọi là lot chong (tiếng Thái:, phát âm là [lɔ̂ːt t͡ɕʰɔ̂ŋ]) có thể được dịch là "đi qua một lỗ", chỉ ra cách nó được tạo ra bằng cách ấn bột ấm qua rây vào một thùng chứa nước lạnh. Ở Miến Điện, nó được gọi là mont let saung hoặc မု န့ ် လက်. Ở Campuchia, nó được gọi là lot (ល ត / lɔːt /), bang-aem lot (បង្អែម ល ត / bɑŋʔaɛm lɔːt /), nom lot (នំលត / nɷm lɔːt /), và banh lot (បាញ់លត /baɲ lɔːt/). Người Thái đã mang món ăn này vào Việt Nam từ thế kỷ 18.
Thành phần chủ yếu là bánh lọt, làm bằng bột gạo pha bột năng. Bánh lọt thường thêm phẩm màu xanh và hương vị của lá dứa. Chè khi ăn chan thêm nước cốt dừa và đá bào.
Một số biến thể cho thêm đậu đỏ, cơm nếp, và bắp ngô.Ở Việt Nam, đậu xanh, đậu đỏ và bánh lọt là ba thành phần của chè ba màu trong khi ở Singapore chè bánh lọt cendol có khi thêm cả kem vani và sầu riêng.
Cendol đã trở thành một phần tinh túy của ẩm thực ở Đông Nam Á và thường được bán bởi các nhà cung cấp tại các con đường, trung tâm bán hàng rong và các khu ẩm thực. Các nhà cung cấp Cendol gần như có mặt ở các thành phố của Indonesia, đặc biệt là Jakarta, Bandung và Yogyakarta. Ban đầu cendol hoặc dawet trong Java được phục vụ mà không có đá, nhưng sau khi giới thiệu công nghệ làm lạnh, cendol lạnh với đá bào (es serut) đã có sẵn và phổ biến rộng rãi.
Ở Indonesia và Malaysia, cendol thường được các nhà cung cấp bán bên vỉa hè. Nó thậm chí là món tráng miệng ở Singapore, được tìm thấy trong các quầy hàng tráng miệng, trung tâm thực phẩm, quán cà phê và khu ẩm thực.
== Chú thích == |
Pizza quattro formaggi tiếng Ý: [ˈkwattro forˈmaddʒi] (pizza bốn pho mát) là một loại pizza trong ẩm thực Ý được phủ lên trên với sự kết hợp của bốn loại pho mát, thường được nấu chảy cùng với sốt cà chua. Pizza quattro formaggi hiện phổ biến trên toàn thế giới bao gồm cả ở Ý, và là một trong những món mang tính biểu tượng trong thực đơn của các tiệm bánh pizza.
Theo truyền thống, phô mai bao gồm Mozzarella, là thành phần cơ bản, giúp duy trì độ ẩm trong khi nấu, bảo vệ một phần các loại phô mai khác khỏi sức nóng của lò nướng. Gorgonzola gần như có mặt một cách có hệ thống và là bộ đôi hoàn chỉnh với các loại phô mai địa phương khác, tùy thuộc vào khu vực, với Fontina và Parmigiano-Reggiano là những sự bổ sung điển hình, nhưng các biến thể khác bao gồm Pecorino, Ricotta, Stracchino, Robiola, Taleggio, Provola hun khói hoặc Caciocavallo. Bên cạnh Mozzarella, pizza sản xuất hàng loạt thường sử dụng các loại phô mai Parmesan, Romano, Asiago và các loại phô mai kiểu Ý khác, mặc dù một số loại sử dụng các loại phô mai không phải của Ý như phô mai Edam, Emmental và phô mai xanh. Việc lựa chọn pho mai không phải là ngẫu nhiên, chúng phải là loại nguyên béo hoặc ít béo và có nhiều hương vị khác nhau. Bên cạnh Mozzarella, quattro formaggi thường kết hợp giữa phô mai xanh hoặc phô mai chín, phô mai mềm (chẳng hạn như Emmental hoặc Gruyère) hoặc phô mai kem (chẳng hạn như Robiola hoặc Stracchino) và phô mai cứng (phô mai parmesan, phô mai pecorino hoặc phô mai bào).
Không giống như các loại pizza khác có lịch sử lâu đời, phong phú và được ghi chép lại, Quattro Formaggi, mặc dù nổi tiếng và chiếm ưu thế hơn nhưng có nguồn gốc kém rõ ràng hơn, do thành phần của nó quá rõ ràng. Pizza được cho là có nguồn gốc từ vùng Lazio vào đầu thế kỷ 18. Có những phiên bản ít rõ ràng hơn và gần đây hơn của nó, chẳng hạn như bánh pizza Quattro Latti có thể đi ngược lại với lịch sử ẩm thực.
== Tham khảo == |
Bánh tôm Hồ Tây là một trong các món ăn nổi tiếng của Hà Nội. Chúng được làm từ nguyên liệu là những con tôm càng sông hay tôm càng Hồ Tây đặc trưng.
Tôm (nước ngọt) hồ Tây bọc bột mì cho vào chảo mỡ nóng già ngập bánh cho chín tới. Khi bánh phồng lên và ngả màu vàng có bốc mùi thơm ngậy. Gắp bánh gác lên hai que đũa xếp ngang chảo cho ráo mỡ.
Ăn bánh nóng cùng với nước chấm vị chua, ngọt và cay, thêm chút dưa góp (đu đủ và cà rốt thái nhỏ ngâm giấm).
Bánh tôm giòn, mềm và ngọt, ăn cùng xà lách hoặc rau thơm, có thể thêm bún rối và rất hợp với bia.
Hà Nội những năm 1970-1980 đã có hàng bán bánh tôm của quốc doanh nằm trên đường Thanh Niên, phía bên hồ Trúc Bạch. Lúc đó nơi đây là địa điểm vui chơi giải trí, bánh tôm Hồ Tây đã đi vào ký ức nhiều thế hệ.
Sang cuối những năm 1980, đời sống được nâng lên đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của các loại hình dịch vụ khác. Hàng bánh tôm Hồ Tây đã không còn chiếm vị trí độc tôn nữa trong lựa chọn của thực khách.
Hiện nay, rất nhiều quán quanh Hồ Tây cũng làm và bán bánh tôm |
Bún bò là một trong những đặc sản của xứ Huế, mặc dù món bún này phổ biến trên cả ba miền ở Việt Nam và cả người Việt tại hải ngoại. Tại Huế, món này được gọi đơn giản là "bún bò" hoặc gọi cụ thể hơn là "bún bò thịt bò". Các địa phương khác gọi là "bún bò Huế", "bún bò gốc Huế" để chỉ xuất xứ của món ăn này. Món ăn có nguyên liệu chính là bún, thịt bắp bò, giò heo, cùng nước dùng có màu đỏ đặc trưng và vị sả và ruốc. Đôi khi tô bún còn được thêm vào thịt bò tái, chả cua, và các loại nguyên liệu khác tùy theo sở thích của người nấu.Trong nước dùng của bún, người Huế thường nêm vào một ít mắm ruốc, góp phần làm nên hương vị rất riêng của nồi bún bò Huế. Sau khi xương bò được hầm chín tới, người ta thường thêm vào một ít chả heo hay chả cua được quết nhuyễn. Thịt bò có thể được cắt mỏng, nhúng vào nước dùng đang sôi trước khi cho vào tô bún (gọi là thịt bò tái). Người ta cũng thường cho thêm một ít ớt bột và gia vị vào tô bún rồi ăn với rau sống gồm giá, rau thơm, xà lách, rau cải con, bắp chuối cắt nhỏ.
Ngày 25 tháng 11 năm 2016, Cục sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu chứng nhận số 4-0272400-000 cho dấu hiệu Bún Bò Huế.
Cách nấu này theo hướng dẫn của Knorr Việt Nam. Bước 5 và 6 được gộp thành bước 5 cho dễ dàng. |
Dame blanche (tiếng Pháp: quý cô da trắng) là tên được sử dụng ở Bỉ và Hà Lan dành cho món tráng miệng ngọt bao gồm kem vani với kem tươi và sô-cô-la nóng chảy. Ở Đức và Thụy Sĩ, món tráng miệng tương tự được gọi là Coupe Dänemark. Món tráng miệng này tương tự như sundae của Mỹ. Dame blanche ban đầu do đầu bếp Auguste Escoffier tạo ra thực sự bao gồm kem sữa hạnh nhân, đào luộc, sorbet chanh và quả phúc bồn tử trắng.
== Tham khảo == |
Kem trăng xanh (tiếng Anh: blue moon ice cream) là một hương vị kem với màu xanh sáng, được bán ở Thượng Trung Tây của Hoa Kỳ, nguồn gốc có thể là từ Milwaukee, Wisconsin. Chicago Tribune đã mô tả kem là "có màu xanh như Xì Trum, có vị ngọt của marshmallow và nếm rõ rệt như Froot Loops và Fruity Pebbles". Kem trăng xanh là một trong những hương vị tạo nên kem lạnh Superman ở một số bang của Mỹ.
== Tham khảo == |
Chè bà ba hoặc chè thưng là một món chè thập cẩm đặc trưng của vùng Nam bộ, Việt Nam.
Nguồn gốc của món chè này chưa rõ ràng, chỉ là những lời tương truyền: Chè bà ba là món chè được chế biến lại từ chè bột khoai đường cát của bà Ba bán chè nổi tiếng ở chợ Bình Tây (thuộc quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh) cách đây khoảng nửa thế kỉ. Từ món chè bột khoai công thức chỉ gồm có nước cốt dừa, đậu xanh cà, bột khoai, khoai lang... bà đã thêm vào đó phổ tai, táo tàu, hạt sen, mộc nhĩ… tổng cộng tất cả từ 9, 10 thứ nguyên liệu mới trong một chén chè tạo nên món chè bà ba.
Còn theo một lời kể khác thì tên gọi chè bà ba là vì "món chè này ngon độc đáo, giống như người con gái đẹp miền Tây mặc chiếc áo bà ba mộc mạc mà hấp dẫn vô song."
Nguyên liệu500g sắn (khoai mì)
300g khoai lang
150g bột năng
500g dừa nạo, lá dứa màu xanh
200g đậu xanh
800g đường cátCách làm
Công đoạn 1
Ngâm đậu xanh nở mềm rồi đãi sạch
Lột vỏ sắn rồi mài nhuyễn, nhồi sơ với nước lạnh rồi vắt khô
Gọt vỏ khoai lang rồi sau đó ngâm nước
Lá dứa cắt thành khúc, đem rửa sạch rồi thái nhỏ, vắt lấy nước
Dừa lấy 1 chén nước cốt và 1 lít nước dão
Bột năng nhồi với nước sôi thành một khối dẻo rồi cán mỏngCông đoạn 2Hấp chín đậu xanh
Cán mỏng bột năng thành lớp dày 0,3 cm, cắt từng sợi dài 5 cm
Sắn đem nhồi với nước lá dứa có pha màu xanh cho thật đều, vo viên thành từng viên tròn đường kính chừng 2 cm
Luộc chín trong nước sôi rồi vớt ra, thả vào nước lạnh
Khoai lang cắt từng miếng vuông, cạnh 2 cm hoặc có thể tỉa hoaCông đoạn 3
Cho vào xoong 2 lít nước dão và chút muối, đun sôi sau đó cho khoai lang vào nấu chín vừa. Tiếp đến, cho thêm sắn, bột năng, đường, đậu xanh vào.
"Ở chè bà ba còn một nét độc đáo khác mà ít có món chè nào có được, đó là sự tương hợp của nhiều chất liệu một cách thuần nhuyễn, tinh tế mà có thời món này được ví như món chè của nhà giàu..."
Đây là một món chè bình dân của Nam bộ phải ăn ở khác khu vực bình dân, ngõ hẻm thì mới thấy hết cái ngon của nó.
Món ngon từ dân dã đến thời trân - Nhà xuất bản Tổng Hợp Đồng Nai
== Liên kết ngoài == |
Súp rùa (Turtle soup) là tên gọi chỉ về các món xúp hay món hầm với nguyên liệu từ thịt rùa, các món súp rùa đa dạng trong các nền ẩm thực khác nhau nhưng đều xem nó như một món mỹ vị. Súp rùa là một món ăn truyền thống trong truyền thống ẩm thực của nhiều người Viễn Đông, nó không chỉ phổ biến ở phương Đông mà còn được coi là món ăn rất hữu ích và là món ăn ngon cao cấp. Trong bài "Turtle Soup: From Class to Mass to Aghast" (tạm dịch Súp rùa: Từ đẳng cấp đến đại chúng đến kinh hãi), tác giả Matthew Wills viết rằng các dân tộc bản địa ở quần đảo Tây Ấn (vùng Caribê và bắc Đại Tây Dương) là những người đầu tiên ăn thịt rùa, giới chiếm hữu nô lệ ở Tây Ấn sáng tạo nên món súp rùa như một biểu trưng cho đặc quyền của họ sau đó, nền ẩm thực thượng lưu ở Anh-Mỹ góp phần đẩy cả hai loài rùa chuyên làm súp vào danh sách động vật có nguy cơ tuyệt chủng.
Món rùa hầm trong Đông y còn dùng làm thức ăn bổ dưỡng cho người cao tuổi, phụ nữ trước, sau sinh con, lao phổi khái huyết, viêm khí phế quản mạn tái phát, sốt nóng sốt rét, còn Rùa hầm sa sâm trùng thảo dùng cho các bệnh nhân thiếu máu, suy tủy, bệnh nhân sau khi bị sốt nhiễm khuẩn dài ngày suy nhược thiếu máu, hen phế quản mạn, lao phổi khái huyết, món Gà trống hầm thịt rùa dành cho người cao tuổi suy thận tiểu nhiều, món Súp rùa bách hợp đại táo dành cho các trường hợp âm hư, huyết hư, hồi hộp đánh trống ngực, mất ngủ, Rùa hầm bắp nếp thì cho các trường hợp tiểu đường, tăng huyết áp.
Súp rùa cơ bản là sử dụng nước luộc gà nấu với thịt, mai và nội tạng rùa cùng một số loại thảo dược trong vài giờ. Về mặt dinh dưỡng, món ăn đặc trưng Trung Quốc này được coi là thứ cao lương mỹ vị vì nó ít calo nhiều hơn các món khác như súp thịt cừu, thậm chí canh tom yum của Thái. Một bát súp rùa cung cấp khoảng 150kcal, 25g protein, 2g chất béo, 1.000 mg natri và 5g sắt. Giới đàn ông Trung Quốc, Singapore còn coi súp rùa không chỉ là món ăn đại bổ mà còn giúp họ cải thiện chất lượng đời sống tình dục nhờ lượng dinh dưỡng dồi dào, có tác dụng bổ thận, tráng dương, tăng cường sinh lực.
== Tham khảo == |
Cơm khô là một món ăn có từ xưa của người dân Việt Nam, được phơi khô từ cơm nguội sau mỗi bữa ăn. Trước khi ăn thường được rang với mỡ (chất béo từ lợn) hoặc dầu thực vật. Ngày nay người ta còn cho thêm dăm bông và hành lá để tăng hương vị.
Ngày xưa, khi đời sống của người dân còn đói kém, người dân không đủ ăn, sau mỗi bữa cơm luôn còn lại phần cơm thừa. Thường những phần cơm dư thừa để bữa sau hấp lại ăn thì không được ngon. Do đó, nhiều gia đình đem cơm nguội, bóp cho tơi, trải lên những tờ báo, tờ giấy hoặc dần, sàng để đem phơi khô. Phơi một đến hai nắng cho đến khi cơm khô hoàn toàn, sau đó để nguội, dùng chày giã nhẹ để các hạt cơm rời nhau ra, cuối cùng cho vào túi, hoặc lọ sành đậy kín tránh ẩm, mốc.Hiện nay, không còn nhiều nhà mang cơm đi phơi nắng, đa số người phơi cơm thường ở vùng quê nhưng thế hệ 7X, 8X sẽ biết.
Cơm khô thường được rang chín để làm đồ ăn vặt. Quy trình chế biến cơm khô cơ bản như sau:
Dùng chảo sạch, đun khô chảo sau đó cho dầu thực vật (hoặc mỡ) vào cho đến khi dầu (hoặc mỡ) sôi.
Khi dầu sôi (có bọt khí nổi lên), cho cơm khô đã được dã tơi vào chảo dầu nóng và dùng đũa đảo liên tục, tránh để cơm cháy, đảo cho đến khi cơm phồng đều và chuyển sang màu vàng đậm.
Khi cơm phồng đều và chuyển sang màu vàng, tắt bếp, cho một chút đường hoặc gia vị vào và trộn đều.Cơm mới rang xong thường rất nóng, có thể gây bỏng miệng, tay khi chạm phải. Do đó, khi muốn thưởng thức cần để khoảng 10 phút cho nguội.
Cơm khô được xuất hiện trong câu tục ngữ của ông cha ta xưa
Cơm khô là cơm thảo,
Cơm nhão là cơm hà tiệnDị bản:
Cơm sống là cơm thảo,
Cơm nhão là cơm hà tiện
== Chú thích == |
Dê núi Ninh Bình là giống vật nuôi và đặc sản ẩm thực được chế biến từ thịt dê sống ở miền núi đá vôi của người Ninh Bình như tái dê, lẩu dê, dê xào, dê nướng, dê né, dê hấp, dê hầm... Cùng với cơm cháy Ninh Bình, dê núi Ninh Bình có mặt trong "Top 50 món ăn đặc sản người Việt Nam" do Trung tâm kỷ lục Việt Nam xác lập ngày 7.9.2012. Từ năm 2014, Sở Khoa học và Công nghệ Ninh Bình đã triển khai Dự án "ứng dụng tiến bộ kỹ thuật sản xuất con giống dê núi Ninh Bình" với mục đích duy trì và phát triển giống dê đặc trưng của địa phương.
Loại đặc sản ẩm thực này phát triển khá mạnh ở Ninh Bình và là một trong những đặc sản tiêu biểu của địa phương. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hạ Long, Đồng Nai cũng có nhiều các nhà hàng chuyên kinh doanh đặc sản với thương hiệu "dê núi Ninh Bình".Thịt dê núi Ninh Bình có đặc trưng săn chắc, ít mỡ và có vị thơm. Người ta cho rằng sở dĩ như vậy vì ở Ninh Bình có nhiều núi đá, dê chạy nhảy nhiều nên cơ thịt săn chắc, ít mỡ hơn hẳn dê chăn thả trên đồi. Mặt khác, với địa hình đặc trưng của núi đá vôi ngập nước có rất nhiều các loại rau, cỏ, thảo dược thích hợp là thức ăn cho dê như bách bộ, ô rô, lim xẹt, móng bò, dướng, bầu trích, mộc sông, mõm chuột, xoan dù, cà gai leo, tạo nên chất lượng và vị ngon của thịt dê. Một số nguyên liệu và đặc sản sở tại khác cũng góp phần làm nổi bật các món thịt dê Ninh Bình phải kể đến các loại rau ăn kèm đặc trưng địa hình núi đá, rượu Kim Sơn, rượu cần Nho Quan và cơm cháy Ninh Bình. Ở Ninh Bình có rất nhiều những nhà hàng chuyên về thịt dê với những bí quyết chế biến "gia truyền". Đây cũng là món đặc sản được địa phương xây dựng thành thương hiệu ẩm thực của mình.
Do dê đực là con vật có khả năng giao phối nhiều lần trong ngày, thế nên dân gian quan niệm dê là loại thức ăn tăng cường sức khoẻ; đặc biệt là khả năng tình dục:
Tái dê chấm với tương Bần
Ăn vào nó cứ tần mần như dê
Đêm về vợ lại tỉ tê
Tối mai ta lại tái dê tương bần!?Hay:
Tái dê chấm với tương gừng
Ăn vào cứ thấy phừng phừng như dê.Đặc biệt, nhiều bộ phận của dê có thể làm thuốc: dái dê và thận dê có tính bổ dương. Cao dê chữa bệnh đau lưng, tiết dê pha rượu giúp bổ huyết, chữa đau đầu, choáng váng. Trong dân gian, món ăn bồi bổ từ thịt dê có tác dụng chữa trị các chứng bệnh đau lưng mỏi gối, bổ thận tráng dương, ít tinh trùng, hoa mắt ù tai, lưng gối yếu, yếu sinh lý.Tinh hoàn dê (ngọc dương) có tác dụng trị thận suy, liệt dương, hoạt tinh. Dạ dày dê chữa gầy yếu, tiêu hoá kém, buồn nôn sau bữa ăn. Gan dê có thể điều trị những trường hợp mờ mắt sau khi ốm. Tiết dê pha với rượu trắng 40 độ chữa bổ huyết, đau đầu, chóng mặt, đau lưng. Các món ăn chế biến từ cật dê có tác dụng trị suy nhược, lãng tai, đổ mồ hôi. Cao dê toàn tính làm thuốc bổ.
Tuy nhiên có ý kiến cho rằng thịt dê có tác dụng tăng cường sức khoẻ tình dục cũng đơn thuần vì nó chứa nhiều chất đạm như các loại thịt khác. Những tác dụng mang lại của nó có thể xuất phát từ nguyên nhân tâm lý. |
Tsukune (つくね、捏、捏ね, Tsukune) là một món gà viên Nhật Bản thường được nấu theo kiểu yakitori (nhưng cũng có thể được rán hay nướng) và thường được phủ một lớp sốt yakitori tare hay xì dầu, mà thường bị nhầm lẫn với sốt teriyaki.
Chất làm đặc được thêm vào nguyên liệu xay như thịt bò, thịt lợn hoặc thịt gà, và đôi khi là cá. Hỗn hợp này sau đó được nhào và nặn thành sủi cảo hoặc xiên que.
Nó cũng đề cập đến một viên thịt cá, được thêm vào súp nóng và được gọi là tsumire-jiru (つみれ汁, tsumire-jiru), hoặc cánh cá cá. Tsukune còn được thưởng thức trong tsukune nabe, một món ăn trên tàu hơi nước của Nhật Bản với các loại địa phương được tìm thấy ở các vùng ở Nhật Bản.
Theo truyền thống, phi lê cá được giã bằng suribachi (すり鉢(すりばち or 擂鉢), suribachi) ở Nhật Bản, nhưng máy xay hiện nay thường được sử dụng.
Các chất làm đặc như trứng, khoai mỡ nghiền và vụn bánh mì được thêm vào sau khi thịt được nghiền hoặc băm nhuyễn, cùng với gia vị như gừng xay, muối và nước tương. Hỗn hợp được tạo hình thành bánh bao hoặc que thịt.
Rau vườn thái nhỏ cho vào thịt xay cho vừa ăn. Các loại rau và rau thơm như hành hoa, tía tô, đôi khi có thể cho thêm sụn gà băm nhỏ để tạo độ giòn dai.
Thông thường, tsukune được tìm thấy trong oden (おでん or 田楽(でんがく), oden), một món hầm của Nhật Bản bao gồm một số thành phần trong nước dashi (出汁(だし), dashi).
Luộc: Nabe (鍋物, Nabe), một món ăn được nấu tại bàn
Quay: Yakimono (焼き物, Yakimono), các món nướng hoặc nướng than, bao gồm cả thịt viên nướng
Chiên: Agemono (揚げ物, Agemono) hoặc chiên giòn
Tsuyumono (汁物(つゆもの) hay 団子汁(だんごじる), Tsuyumono) hầm: Tsuyumono (汁物(つゆもの) hay 団子汁(だんごじる), Tsuyumono), hầm với rau và thảo mộc |
Dango (団子, Đoàn tử) là một loại bánh trôi của ẩm thực Nhật Bản được làm từ bột nếp (mochiko), tương tự như bánh dày Nhật Bản mochi (餅, bính). Bánh này thường được ăn với trà xanh. Dango được ăn quanh năm, tuy nhiên theo truyền thống mỗi giai đoạn nhất định trong năm sẽ ăn một loại dango khác nhau. Người ta thường ghim 3, 4 viên dango vào que tre.
Có nhiều loại dango khác nhau, thường được đặt tên theo mùa, hay lễ hội nào mà người ta ăn nó. [1] Lưu trữ 2011-11-20 tại Wayback Machine
Anko (餡子, Hãm tử): Bánh đậu đỏ ngọt, chỉ thỉnh thoảng mới dùng các nguyên liệu khác.
Chadango: Bánh dango vị trà xanh.
Bocchan dango: Dango 3 màu. Một màu làm từ đậu đỏ, một làm từ trứng và màu thứ ba từ trà xanh.
Denpun dango: Loại dango đến từ Hokkaidō làm từ bột khoai tây và nướng với đậu ngọt luộc.
Kuri dango: Dango được bọc ngoài bởi hạt dẻ nghiền nhuyễn.
Chichi dango: Loại bánh ngọt nhẹ làm món tráng miệng.
Hanami dango (花見 団子, Hoa kiến đoàn tử): Cũng có 3 màu, Hanami dango theo truyền thống thường được làm vào dịp lễ hội hoa anh đào. Cho nên, trong tên mới có chữ hoa kiến (Hanami) nghĩa "ngắm hoa".
Goma: hạt mè. Loại bánh này vừa mặn vừa ngọt.
Kibi dango: Dango làm từ bột kê.
Kinako (黄粉, Hoàng phấn): Bột đậu nành nướng.
Kushi dango: Dango xiên que.
Mitarashi dango (御手洗団子, Ngự thủ tẩy đoàn tử): Được bao phủ bởi một loại siro làm từ nước tương, đường và tinh bột. Bánh này được đặt tên theo những bọt bong bóng của "ngự thủ tẩy" (Mitarashi), một loại "nước thánh" ở trước cổng Hạ Áp Thần xã (Shimogamo jinja), một ngôi đền thần đạo nổi tiếng ở cố đô Bình An kinh.
Nikudango (肉団子, Nhục đoàn tử): Một loại thịt viên.[2]
Teppanyaki (鉄板焼き): Dango ghim vào que tre có vị cay của món nướng teppanyaki.
Sasa dango: Loại dango được làm và thưởng thức chủ yếu tại vùng Niigata. Sasa dango có hai loại: "Onna Dango" và "Otoko Dango." Onna Dango (nghĩa đen là "Dango Nữ") có nhân là đậu đỏ, trong khi đó, otoko dango (nghĩa đen là "Dango Nam") có nhân là kinpira, một món ăn được nấu từ rễ củ của các loại rau với rong biển, đậu phụ và thịt. Loại này được gói trong lá sậy Nhật Bản sasa (笹) để bảo quản.
Tsukimi dango (月見団子, Nguyệt Kiến Đoàn Tử): loại dango thường ăn trong dịp Trung thu.
Có một thành ngữ Nhật Bản phổ biến là "Hana yori dango" (花より団子), có nghĩa đen là "dango tuyệt hơn hoa", muốn nói rằng những thứ thực tế thì tốt hơn là những thứ chỉ có vẻ đẹp bên ngoài.
Dango được các vận động viên cờ vây dùng với nghĩa xúc phạm chỉ những nhóm quân cờ đi không hiệu quả, trông chẳng khác gì mấy cái bánh dango. Dango cũng là tên của trò chơi go variant Lưu trữ 2004-12-05 tại Wayback Machine ra đời năm 1991.
Kiểu tóc với những búi tóc hình dango ở về một phía của đầu thường được gọi là "odango".
Bánh hòn là một đặc sản của Phan Thiết, được chế biến từ bột năng, dừa, lạc rang, muối và đường. Khi chế biến xong, nó được lăn qua lớp dừa bào sợi và xiên que giống như dango. Do nguyên liệu đơn giản và cách chế biến nhanh gọn nên nhiều người thường chọn bánh hòn là món ăn vặt quen thuộc cho cả nhà, nhất là những gia đình có trẻ nhỏ. |
Xương sông (còn gọi là xang sông, hoạt lộc thảo, rau húng ăn gỏi; danh pháp khoa học: Blumea lanceolaria) là loài cây dùng làm gia vị và thuốc trong họ Cúc (Asteraceae).
Cây thảo, cao hơn 0,6–2 m, sống 2 năm. Thân thẳng đứng, có rãnh dọc, gần nhẵn. Lá trứng thuôn dài, mép có răng cưa, những lá phía trên nhỏ hơn. Cụm hoa hình đầu, mọc 2 - bốn cái ở nách các lá bắc. Cụm hoa hình đầu màu vàng nhạt, thành chùy dài ở ngọn, mào lông màu trắng. Tràng hoa cái rất mảnh, 3 răng; tràng hoa lưỡng tính 5 răng, nhị 5. Bao phấn có tai. Bầu có lông. Quả bế hình trụ, 5 cạnh.
Xương sông mọc dại hoặc được trồng nhiều nơi ở các vùng Nam Á và Đông Nam Á, Hoa Nam, Đài Loan... Cây thường mọc tự nhiên trong vườn hoặc trong rừng ở cao độ thấp do gió thổi các quả bế có lông đi khắp nơi.
Lá có mùi hơi hăng của dầu, khá đặc trưng không giống các loại rau thơm khác, nên được dùng chủ yếu làm gia vị, nấu canh. Lá non hoặc lá bánh tẻ dùng để làm gia vị trộn trong chả và cuốn chả nướng, ăn với gỏi cá. Có thể dùng để nấu, nêm nếm trong một số món thịt, cá. Thân và lá làm thuốc trị ho, giải nhiệt, kích thích tiết mồ hôi. Lưu ý, khi bắt đầu mùa heo may ở miền Bắc và bắt đầu mùa khô ở miền Nam xương sông chậm phát triển lá giòn hơn, khi nấu canh nước tạo thành bị đen ít cảm quan. |
Ổi Thanh Hà gồm những giống ổi Bo xù, ổi Bo trắng và ổi Thái được trồng trên địa bàn huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Nhờ điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, ổi Thanh Hà đã trở thành đặc sản, cho hiệu quả kinh tế cao nhất trong nhóm cây ăn quả. Thanh Hà là một trong những số ít các địa phương có diện tích trồng ổi lớn nhất Việt Nam; so với các giống cây ăn quả khác, diện tích trồng ổi đứng thứ hai (sau vải thiều) không những của huyện mà còn đứng thứ hai toàn tỉnh Hải Dương. Sản phẩm chủ yếu là quả trái vụ, chiếm gần 70% (18.000 tấn ổi trái vụ/26.000 nghìn tấn ổi cả năm) sản lượng ổi quả của cả năm.
Ngày 30/6/2015, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang đã thăm mô hình trồng ổi tập trung tại xã Liên Mạc, huyện Thanh Hà.
Trên địa bàn tỉnh Hải Dương, vải, ổi, na là ba loại cây ăn quả chủ lực, có giá trị kinh tế cao, với tổng diện tích trên 15.050 ha, chiếm 68% tổng diện tích cây ăn quả toàn tỉnh. Trong đó, diện tích trồng ổi là 1.450 ha (đứng thứ hai sau vải thiều – 11.000 ha) với năng suất đạt 23 tấn/ha, sản lượng 33.000 tấn/năm.
Ổi được trồng chủ yếu tại huyện Thanh Hà. Năm 2015, diện tích ổi gần 1.200 ha. Sản lượng ổi toàn huyện đạt trên 26 nghìn tấn, giá trị sản xuất đạt 150-200 triệu đồng/ha/năm, gấp 3 – 4 lần sản xuất lúa. Ổi được trồng tập trung ở những vùng chuyên canh tại các xã: Liên Mạc, Tân Việt, Cẩm Chế, Thanh An, Thanh Lang, Thanh Xuân, Việt Hồng. Trồng ổi cho thu nhập 10 triệu đồng/sào/năm, cao hơn hẳn vải thiều.Xã Liên Mạc có 480,19 ha ổi, chiếm hơn 90% diện tích đất nông nghiệp toàn xã (480 ha). Đây là xã có diện tích trồng ổi lớn nhất và là vùng cây ăn quả mang lại thu nhập cao nhất huyện và tỉnh. Hàng năm, xã Liên Mạc thu được hơn 8.000 tấn ổi, doanh thu hơn 64 tỷ đồng.Thanh Xuân cũng là một trong những xã có diện tích trồng lớn của huyện Thanh Hà, với 270 ha. Mỗi năm cung cấp cho thị trường 3.000 tấn ổi, doanh thu khoảng 25 tỷ đồng.Ngoài các vùng sản xuất tập trung, các xã, thị trấn thuộc huyện Thanh Hà đều trồng ổi. Xã An Phượng trồng 42,8 ha ổi.
Giống ổi được trồng tại Thanh Hà gồm các giống ổi Bo xù, ổi Bo trắng và ổi Thái. Các giống rất phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu trên vùng Thanh Hà, nhất là địa bàn các xã ven sông Hương.
Đây là đối tượng cây trồng nhanh cho thu hoạch, năm đầu tiên ổi bói quả và cho thu rộ vào năm thứ 2, thứ 3. Thời gian thu hoạch khoảng 4 năm/cây. Mật độ trồng 100 cây/sào, năng suất 0,8 tấn quả/sào/năm.Ổi rất dễ điều khiển ra hoa trái vụ, trồng lách vụ, do đó ra trái quanh năm. Chất lượng tốt nhất vào mùa đông, hay khi có gió heo may. Chính vì vậy, sản phẩm ổi quả ở Thanh Hà chủ yếu là ổi trái vụ. Ổi trái vụ cho thu hoạch từ tháng Chín năm trước đến tháng Tư năm sau. Sản lượng trung bình hàng năm khoảng 18.000 tấn quả, doanh thu đạt khoảng 120 tỷ đồng.Tỷ lệ ổi thiệt hại do ruồi hại quả gây ra khoảng 52 - 62%.
Người dân Thanh Hà trồng ổi theo phương thức thâm canh; áp dụng trồng trái vụ, lách vụ, xen canh nên cho thu hoạch quanh năm. Áp dụng kỹ thuật ngắt ngọn, tuốt lá, sử dụng kỹ thuật bón phù hợp tạo ổi trái vụ.
Áp dụng kỹ thuật chăm bón, để quả phù hợp với sức cây (thường 2 – 3 quả/cành) nhằm nâng cao chất lượng và kéo dài tuổi thọ của cây. Trước đây, quả ổi thường bị sâu, cây ổi chỉ được 2 năm là phải chặt bỏ. Thời gian thu hoạch khoảng 4 năm.
Các hộ nông dân hiện nay sử dụng màng bọc nilong để phòng và hạn chế sâu, ròi, ruồi vàng, ong châm hại quả.
Năm 2014, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP (Vietnammese Good Agricultural Pracetices) vào sản xuất 6 ha ổi tại xã Liên Mạc với 34 hộ trồng, chất lượng sản phẩm được nâng cao.
Người trồng ổi chủ yếu tiêu thụ ngay tại vườn cho các thương lái. 100% ổi được sử dụng cho ăn tươi và tiêu thụ chính tại thị trường nội địa, gồm các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Bắc Giang, Hà Nội…Sản phẩm ổi Thanh Hà được Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương cấp chỉ dẫn địa lý để đăng ký bảo hộ nhãn hiệu tập thể. Hiện nay, tỉnh Hải Dương đã tiến hành xây dựng thương hiệu ổi Thanh Hà.Ở Hà Nội, những tháng cuối năm có một điểm bán ổi Thanh Hà mang thương hiệu "Lệ Rơi". Sự kiện bán ổi Lệ Rơi đã trở thành một tâm điểm chú ý của nhiều người tiêu dùng Hà Nội, giới truyền thông...Thời gian tới tỉnh giữ ổn định diện tích 1.500 ha ổi, để đảm bảo sản lượng 30.000 - 32.000 tấn quat cung cấp cho thị trường. Mở rộng diện tích vải sản xuất an toàn theo quy trình VietGAP, GlobalGAP… đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm ổi Thanh Hà nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. |
Chè hột gà nấu đường hay Chè trứng gà nấu đường là một loại chè của người Tiều, thường được do chính tay của người trong gia đình nấu trong các bữa tiệc sinh nhật hay tiệc mừng thọ. Món chè này cũng được xem là một món ăn truyền thống của người Tiều, vì nó hiếm khi được phục vụ tại bất kỳ nhà hàng nào. Hằng năm con cháu trong nhà có thể nấu để mừng thọ cho ông bà, cha mẹ, còn người nấu thì sẽ được nhận những bao lì xì may mắn từ ông bà, cha mẹ.
Chè hột gà nấu đường với vị thơm của gừng kết hợp với vị ngọt thanh của đường phèn khi ăn nóng sẽ rất ngon và ấm bụng, mang lại sức khỏe cho người lớn tuổi. Còn có một số gia đình sẽ ăn chè kèm với mì sụa với ý nghĩa là khi ăn vào sẽ có sức khỏe dẻo dai, sống lâu trăm tuổi.
Trứng gà
Đường phèn
Gừng |
Bánh khúc hay xôi khúc, xôi cúc là loại bánh có nguồn gốc từ vùng đồng bằng Bắc Bộ, làm từ lá rau khúc (có hai loại là rau khúc tẻ và rau khúc nếp có khi còn được gọi là khúc Ông và khúc Bà, nhưng khi làm bánh, người ta thường chọn lá rau khúc nếp, bởi lá khúc nếp thơm ngon hơn nhiều), gạo nếp, nhân đậu xanh, thịt lợn mỡ. Bánh thường được làm vào mùa rau khúc - dịp tháng 2, tháng 3 Âm lịch.Ở Hà Nội, bánh thường được rao bán vào các buổi tối, người bán (thường là nam) đội thúng bánh trên đầu đi dọc các phố và rao "Xôi nóng bánh khúc đê, xôi nóng bánh khúc nào..." hay "Ai bánh khúc nóng đây!" cùng rất nhiều cách rao khác nhau với một âm điệu rất đặc biệt trở thành nét đặc trưng của người Hà Nội.
Cây rau khúc có tên khoa học là Gnaphalium affine D. Don (Gnaphalium multiceps Wall.), thuộc họ Cúc (Asteraceae) còn có tên là "khúc nếp", "thử khúc thảo", "thử nhĩ", "hoàng hoa bạch ngải", "phật nhĩ thảo", "thanh minh thảo", "hài nhi thảo"... Rau khúc vốn là loài cây mọc dại trên bờ ruộng, bờ cát, bãi đất...
Rau khúc có hai loại: khúc tẻ và khúc nếp. Cây khúc tẻ có lá to hơn khúc nếp, nhưng khi làm bánh không ngon bằng. Rau khúc thường có ở miền Bắc bắt đầu mọc vào cuối mùa xuân. Vào mùa không có rau khúc, có người dùng lá su hào, bó xôi hoặc cải cúc để thay rau khúc, nhưng bánh làm từ lá su hào không có được hương thơm đặc trưng của bánh làm từ rau khúc.
Rau khúc còn có thể luộc, nấu canh hoặc làm vị thuốc dân dã chữa một số bệnh.Ngoài ra, rau khúc có thể hái về phơi khô, sau muốn làm bánh cũng mang ngâm (như làm bánh gai), giã nhỏ. Bốn mùa đều có bánh khúc là nhờ vậy.
Nguyên liệu chủ đạo làm nên hương vị của món bánh này là rau khúc. rau khúc tươi non, hái từ buổi sớm, hấp lên rồi đem giã nhuyễn, trộn với bột gạo làm vỏ bánh.
Nhân bánh được làm từ đậu xanh bỏ vỏ, ngâm nước cho bở, đồ chín tới, giã thật mịn, trộn cùng với thịt ba chỉ thái hạt lựu, rắc thêm chút hạt tiêu cho dậy mùi rồi vo viên lại bằng quả trứng gà
Dàn mỏng lớp vỏ bao kín nhân bánh, xếp từng lượt bánh vào nồi hấp như đồ xôi, mỗi lớp bánh lại rắc một lượt gạo nếp ngon đã ngâm kỹ làm áo để cho bánh không bị dính vào nhau. Còn 1 kiểu khác là gói bánh khúc trong lá chuối để hấp nhưng cách dùng xôi thông dụng và được nhiều người biết đến hơn
Thời gian từ khi nước sôi đến lúc bánh chín chừng tàn một que hương (khoảng 45 phút).
Bánh khúc là món bánh quê dân dã. Mùa hái rau khúc là mùa thu sang mùa đông lúc đó cây đã trưởng thành. Từ độ cuối đông lá khúc già, thân cứng và xơ. Muốn làm bánh khúc ở thời điểm khác thì người ta thường nhặt sạch rau khúc rồi phơi khô bảo quản. Bánh khúc là thứ đặc sản dễ thấy ở nhiều vùng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nhất là độ cuối thu đến Tết nguyên đán vì đây là mùa rau khúc trưởng thành, nguyên liệu sẵn. Món bánh quê dân dã này đã được nâng tầm lên thành đặc sản địa phương được nhiều người biết đến như: bánh khúc làng Diềm (Bắc Ninh), bánh khúc Song An (Thái Bình), bánh khúc Văn Giang (Hưng Yên), bánh khúc Việt Trì (Phú Thọ).
== Tham khảo == |
Bingsu (tiếng Triều Tiên: 빙수), đôi khi được viết là bingsoo, là một món tráng miệng đá bào phổ biến ở Triều Tiên, đặc biệt là vào thời tiết nóng ẩm. Nó có xuất xứ từ món đá bào kakigori (かき氷) của Nhật Bản.
Ban đầu patbingsu được làm từ đá bào và đậu đỏ (pat, 팥) và được bán ở các quán hàng rong. Ngày nay nó đã trở thành một món tráng miệng công phu với kem lạnh, sữa chua đông lạnh, sữa đặc có đường hoặc siro và nhiều loại hoa quả như dâu tây, kiwi, chuối, cũng như bánh tteok, thạch và ngũ cốc.
Bingsu có nhiều vị khác nhau mà phổ biến hơn cả là trà xanh và cà phê. Mùa hè năm 2007, Starbucks Hàn Quốc đã cho ra mắt một loại frappuccino lấy cảm hứng từ patbingsu.
Patbingsu là một món mùa hè trong thực đơn của hầu hết các nhà hàng đồ ăn nhanh tại Hàn Quốc. KFC, McDonald's, Lotteria, và Burger King thường phục vụ patbingsu từ tháng 5 đến tháng 9. Patbingsu còn rất phổ biến ở các jjimjilbang.
Patbingsu cũng xuất hiện ở các tiệm cà phê tại phố người Hàn của New York, Los Angeles và Atlanta.Patbingsu xuất hiện nhiều tại Hà Nội và Hồ Chí Minh, chủ yếu theo mô hình nhượng quyền như Okbingsul, brobingsu, snow island hoặc các quán do người Hàn sống tại Việt Nam lập ra. |
Mắm ruốc là một dạng mắm làm từ ruốc (một loài tôm nhỏ thuộc chi Acetes thuộc họ Sergestidae, bộ Decapoda). Tuy nhiên, màu sắc và mùi vị của mắm ruốc không giống với mắm tôm. Mắm ruốc không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước khi làm nước chấm và có thể dùng làm gia vị khi nấu canh rau tại các nước Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc.
Ấn Độ và Nhật Bản cũng có loại "mắm ruốc" gọi là "jawla" (tiếng Marathi) và "aki ami/hon ami" (tiếng Nhật).
Mắm ruốc: được chọn từ ruốc tươi, to con đem xào sơ với một ít muối hạt. Để vài giờ cho ruốc ngấm muối rồi rải đều ra nong nia, sân xi măng thật sạch, phơi tãi chừng một giờ rồi cho vào cối đá quết thật nhuyễn với muối trắng mịn theo công thức 3 ruốc 1 muối. Xong, cho ra rổ rá, bên dưới có thau, chậu, xoong, nồi hứng nước ruốc rong xuống. Dặt dẽ cho bằng, rắc thêm một lớp mỏng muối bột, đậy vải, ni lông cho kín kẻo ruồi muỗi đẻ vào.
Để chừng mươi ngày, mắm lên men chua, thấy ruốc từ màu tím bầm chuyển sang màu đỏ tươi và dậy mùi thơm là mắm đã chín, ăn được. Muốn ruốc thật thơm ngon cần thêm gia vị. Gia vị chủ yếu của mắm ruốc là gừng, riềng giã nhỏ, vắt một ít nước chanh là vừa. Mắm ruốc để ăn không với cơm cũng ngon. Muốn chấm rau, cho thêm ít nước sôi hoặc nước cơm cho loãng ra là có một thứ nước chấm rất đặc trưng của vùng biển. |
Trứng Phục sinh, còn được gọi là trứng Paschal, là những quả trứng được trang trí thường được sử dụng làm quà tặng vào dịp lễ Phục sinh. Vì vậy, trứng Phục sinh là phổ biến trong mùa của Mùa Phục Sinh. Truyền thống lâu đời nhất là sử dụng trứng gà nhuộm và sơn, nhưng một phong tục hiện đại là thay thế trứng sô cô la bọc trong giấy bạc màu, trứng gỗ chạm khắc bằng tay hoặc trứng nhựa chứa đầy bánh kẹo như sô cô la. Tuy nhiên, trứng thật vẫn tiếp tục được sử dụng trong truyền thống Trung và Đông Âu. Mặc dù trứng, nói chung, là một biểu tượng truyền thống về khả năng sinh sản và tái sinh, trong Kitô giáo, để cử hành lễ Phục sinh, trứng Phục sinh tượng trưng cho ngôi mộ trống của Giêsu, từ đó Giêsu phục sinh. Ngoài ra, một truyền thống cổ xưa là nhuộm trứng Phục sinh với màu đỏ "để tưởng nhớ đến máu của Giêsu đã chảy ra vào thời điểm bị đóng đinh". Phong tục về trứng Phục sinh này có thể được bắt nguồn từ các Kitô hữu đầu tiên của vùng Lưỡng Hà, và từ đó nó lan sang Nga và Siberia thông qua các Giáo hội Chính thống giáo, và sau đó vào Châu Âu thông qua các Giáo hội Công giáo và Tin lành. Việc sử dụng trứng của Cơ đốc giáo này có thể đã bị ảnh hưởng bởi các thực hành trong "thời kỳ tiền triều đại ở Ai Cập, cũng như giữa các nền văn hóa sơ khai của Lưỡng Hà và Crete".
Việc thực hành trang trí vỏ trứng như một phần của nghi lễ mùa xuân là cổ xưa, với những quả trứng đà điểu được trang trí, chạm khắc được tìm thấy ở châu Phi đã 60.000 năm tuổi. Trong thời kỳ tiền triều đại của Ai Cập và các nền văn hóa đầu tiên của Lưỡng Hà và Crete, trứng có liên quan đến cái chết và tái sinh, cũng như với vương quyền. Các trứng đà điểu được trang trí và việc trưng bày các trứng đà điểu bọc vàng và bạc, thường được đặt trong mộ của người Sumer và Ai Cập cổ đại sớm nhất là 5.000 năm trước. Những mối quan hệ văn hóa này có thể đã ảnh hưởng đến các nền văn hóa Kitô giáo và Hồi giáo thời kỳ đầu ở các khu vực đó, cũng như thông qua các liên kết chính trị, tôn giáo và chính trị từ các khu vực xung quanh Địa Trung Hải.
Phong tục trứng Phục sinh của Kitô giáo cụ thể bắt đầu từ những người Kitô hữu đầu tiên của Lưỡng Hà, những người đã nhuộm trứng với màu đỏ (để tưởng nhớ đến máu của Chúa Kitô vì sự đóng đinh của Ngài). Giáo hội Kitô giáo chính thức chấp nhận phong tục này, những quả trứng phục sinh được coi là biểu tượng cho Sự phục sinh của Giêsu, với Nghi lễ La Mã, là phiên bản đầu tiên diễn ra vào năm 1610 nhưng về sau có các niên đại lâu đời hơn, trong đó có các phước lành Phục sinh, được ban cho trứng, thịt cừu, bánh mì và sản phẩm mới. Các phước lành này là để tiêu thụ (như một thực phẩm), chứ không phải là để trang trí.Giáo sư xã hội học, ông Kenneth Thompson, thảo luận về sự lây lan của trứng Phục sinh trên khắp Christendom, viết rằng "việc sử dụng trứng vào lễ Phục sinh dường như đến từ Ba Tư vào các Giáo hội Kitô giáo Hy Lạp ở Mesopotamia, từ đó đến Nga và Siberia thông qua phương tiện của Chính thống giáo. Từ Giáo hội Hy Lạp, phong tục được người Công giáo La Mã hoặc Tin lành chấp nhận và sau đó lan rộng khắp châu Âu. " Cả Thompson, cũng như nhà nghiên cứu phương Đông Thomas Hyde của Anh, ngoài việc nhuộm trứng đỏ, các Kitô hữu đầu tiên của Mesopotamia còn nhuộm trứng Phục sinh màu xanh lá cây và màu vàng.Nhà văn hóa và nhà triết học dân gian có ảnh hưởng của thế kỷ 19 - Jacob Grimm - suy đoán, trong tập thứ hai của Deutsche Mythologie, rằng phong tục dân gian về trứng Phục sinh giữa các dân tộc Đức trong lục địa có thể bắt nguồn từ các lễ hội mùa xuân của một nữ thần người Đức được biết đến trong tiếng Anh cổ là Ēostre, Phục sinh trong tiếng Anh hiện đại) và có thể được biết đến trong tiếng Đức cổ là *Ostara (và sau đó thành tên của tiếng Đức hiện đại Ostern 'Easter'):
Mặc dù một trong những truyền thống Kitô giáo là sử dụng trứng gà nhuộm hoặc sơn, một phong tục hiện đại là thay thế bằng trứng sô cô la, hoặc trứng nhựa chứa đầy kẹo như đậu thạch. Những quả trứng này có thể được giấu cho trẻ em tìm thấy vào buổi sáng Phục sinh, có thể do chú thỏ Phục sinh để lại. Chúng cũng có thể được đặt trong một giỏ chứa đầy rơm thật hoặc nhân tạo để giống với tổ chim. |
Tartufo (, tiếng Ý: [tarˈtuːfo]; nghĩa là "nấm cục") là món tráng miệng của Ý gồm có gelato (một loại kem) bắt nguồn từ Pizzo, Calabria. Món này có dạng quả bóng gồm hai hoặc nhiều hương vị gelato, thường chứa sô-cô-la nóng chảy được chèn ngay giữa (theo công thức ban đầu) hoặc làm theo cách khác với sirô trái cây hay trái cây đông lạnh — thường là quả mâm xôi, dâu tây, hoặc anh đào — ở chính giữa. Thông thường, món này được phủ lớp vỏ làm từ sô-cô-la hoặc ca-cao, nhưng đôi khi cũng sử dụng thêm quế hoặc các loại hạt khác nữa.
Tartufo di Pizzo được bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Ý, vì Pizzo là địa điểm lịch sử hình thành nên "món tráng miệng gồm có sô-cô-la và những viên gelato hạt phỉ phủ đầy sốt sô-cô-la nóng chảy và phủ bột ca-cao". |
Motsunabe (もつ鍋, Motsunabe) là một biến thể của món nabemono trong ẩm thực Nhật Bản, được chế biến từ lòng lợn, lòng bò và các loại nội tạng khác. Đây là một trong những món hầm nội tạng phổ biến, thường được phục vụ kèm loại bếp lẩu nabe truyền thống của Nhật. Đầu tiên, xúp dùng sẽ được chế vào nồi, sau đó cho nội tạng lợn hoặc bò đã chuẩn bị từ trước vào đun; kèm theo những món rau như cải bắp và hẹ. Món ăn thường được dùng với nước sốt đậu nành cùng các gia vị tỏi, ớt chuông và miso. Mỳ Champon đôi khi cũng được thêm vào nồi nấu. Ruột động vật là nguyên liệu chủ yếu của Motsunabe, song những bộ phận khác cũng được dùng để chế biến.
Ban đầu, motsunabe là một món ăn của Fukuoka, nhưng kể từ khi một số nhà hàng đã du nhập vào Tokyo vào những năm 1990 cộng với việc lan truyền bởi các phương tiện thông tin đại chúng, món ăn này đã được phổ biến trên toàn quốc. Sau đó, khi dịch bệnh BSE lan tới Nhật Bản cũng như sự phổ biến nhất thời của món ăn, các nhà hàng Motsunabe dần giảm sức hút ở những vùng Kantō và Tokyo. Tại khu vực Kansai, horumonyaki rất phổ biến; đây cũng là một món ăn địa phương được làm từ thịt bò hoặc nội tạng tương tự Motsunabe. Ở Fukuoka, Motsunabe vẫn là món ăn được yêu thích vì giá thành rẻ và thường được thưởng thức với rượu. |
Súp rau củ (Vegetable soup) là một món súp phổ biến được chế biến bằng rau củ và lá rau làm nguyên liệu chính. Súp rau củ có từ lịch sử cổ đại và là một sản phẩm thực phẩm được sản xuất hàng loạt trong thời hiện đại. Súp rau được chế biến bằng rau, lá xanh, nấm và rễ (củ) làm nguyên liệu chính. Một số loại trái cây, chẳng hạn như cà chua và bí được coi là rau trong bối cảnh này. Súp rau củ có thể được chế biến dưới dạng súp làm từ nước dùng hoặc súp kem sệt.
Các thành phần cơ bản ngoài rau thì còn có thể bao gồm đậu và các loại đậu, ngũ cốc, đậu phụ, mì và mì ống, nước luộc rau hoặcnước dùng, sữa, kem, nước, dầu ô liu hoặc dầu thực vật, gia vị, muối và hạt tiêu, cùng vô số thứ khác. Một số loại súp rau củ được xay nhuyễn và lọc qua rây, người ra lọc chúng để tạo ra kết cấu mịn. Món súp rau củ thường được dùng ngay khi còn nóng, mặc dù một số, chẳng hạn như gazpacho, thường được dùng lạnh. Súp rau củ đôi khi được phục vụ như món tráng miệng hoặc món khai vị. Súp rau được sản xuất hàng loạt dưới dạng đóng hộp, đông lạnh, sấy khô, dạng bột và súp ăn liền
Súp rau có từ lịch sử cổ đại. Một cuốn sách dạy nấu ăn của người La Mã thế kỷ thứ V bao gồm một công thức được cho là "tiền thân của món súp hành tây". Broth được nhắc đến vào khoảng năm 1000 và potage được đề cập vào những năm 1400.. Clifford Wright đã tuyên bố rằng súp bắp cải có vai trò rất quan trọng trong ẩm thực Ý thời trung cổ. Ở trung tâm Appalachia thì súp rau củ, còn được gọi là súp rau mùa đông và súp đồng quê, là thực phẩm truyền thống chủ yếu và là món ăn phổ biến trong các tháng từ tháng 12 đến tháng 2 của người dân vùng cao Appalachia.
== Chú thích == |
Karaage (唐揚げ (Đường Dương)/ からあげ/ カラアゲ, Karaage hay được dùng rộng rãi hơn là から揚げ) là một kĩ năng nấu ăn Nhật Bản trong nhiều món ăn—thường là gà, những cũng có các loại thịt khác và cá—được chiên ngập dầu. Quy trình này cần phủ nhẹ các miếng nhỏ thịt hay cá với bột mì, hay tinh bột khoai tây hoắc ngô, và chiên trong dầu ít béo. Thực phẩm được ướp trước khi phủ bột. Quy trình này khác quy trình tương tự của tempura, vì nó không được ướp và dùng bột trộn để phủ. Karaage thường được phục vụ không hay với cơm và bắp cải bào sợi. Mới đây, ăn Karaage được bọc lá tía tô và xá lách trở nên nổi tiếng.
Karaage thường được trích dẫn là đã được phổ biến vào những năm 1920 bởi nhà hàng Toyoken ở Beppu, Nhật Bản. Phương pháp này được phổ biến vì tình trạng thiếu lương thực ở Nhật Bản sau Thế chiến 2, đặc biệt là thịt gà. Thịt gà đã là một bữa ăn phổ biến, nhưng sử dụng phương pháp Karaage giúp nấu ăn dễ dàng hơn và cung cấp một cách khác để ăn thịt gà.
Nguồn gốc của phong cách nấu ăn cũng có thể được tìm thấy trong nấu ăn Trung Quốc, nó rất giống với cách họ chiên đậu phụ cho các món ăn chay. Phương pháp chiên, tuy nhiên, đã có từ thời tempura trong thời Edo của Nhật Bản. Họ sử dụng nước tương và rượu gạo, một quy trình tương tự như phong cách nấu ăn Karaage của Nhật Bản.Kể từ những năm 1920, món ăn đã lan rộng khắp Nhật Bản. Karaage chủ yếu liên quan đến gà rán, vì gà rán đã trở thành phiên bản phổ biến nhất của phong cách nấu ăn. Phiên bản gà Karaage, phiên bản gà thường có sẵn trong các cửa hàng tiện lợi như Lawson, Family Mart và 7/11 như một mặt hàng thức ăn nhanh. Nó cũng có sẵn trong thực phẩm trên khắp Nhật Bản.
Karaage cũng có mặt rộng rãi trong các lễ hội và quầy hàng thực phẩm trên khắp Nhật Bản. Một lễ hội như vậy là Lễ hội Karaage hàng năm của Oita, nơi có hơn 60 cửa hàng khác nhau tham gia để cung cấp các phiên bản độc đáo của món ngon Nhật Bản.
Karaage đã được đưa vào ẩm thực Nhật Bản và đã xuất hiện nhiều lần trên TV. Có lẽ sự xuất hiện đáng chú ý nhất là trong bộ anime / manga Shokugeki no Souma, một chương trình về một đầu bếp trẻ đầy khao khát bám vào cội nguồn của anh ta trong quán ăn / nhà hàng gia đình.Một đề cập đáng chú ý khác là Anthony Bourdain. Bourdain đã ca ngợi món ăn chiên của Nhật Bản trong một cuộc phỏng vấn, nói rằng anh luôn dừng lại ở Lawson để mua karaage khi anh đến thăm Nhật Bản.
Kể từ khi Karaage lan rộng khắp Nhật Bản, đã có nhiều khu vực đảm nhận món ăn này. Dưới đây là những cái đáng chú ý nhất :
Phiên bản karaage của quận Zangi- Hokkaido, được làm bằng nước ướp và ăn kèm với nước chấm cay.
Tebasaki- phiên bản karaage của Nagoya, được làm bằng xương ở cánh gà, rắc hạt vừng và nướng với nước sốt đặc biệt.Toriten- phiên bản karaage của tỉnh Oita, được phủ trong bột mì và thường được sử dụng làm topping cho mì udon.
Gà nanban - phiên bản karaage của quận Miyazaki, nhúng giấm ngọt và phủ xốt tartar.
Gurukun no kara-age- phiên bản karaage của quận Okinawa. Gurukun là loại cá chính thức và phổ biến nhất của Okinawa, thường được gọi là cá chuối chuối, nó là một loại cá chiên nguyên con và ăn kèm với chanh.
Dakgangjeong - Hàn Quốc có món gà rán, rất giống với Karaage, nhưng thường được làm bằng sữa và một loại nước sốt ngọt / cay bao gồm nước tương, rượu gạo, tương ớt đỏ, mật ong và gia vị.
Hiệp hội Karaage Nhật Bản (tiếng Nhật)
Karaage JP (tiếng Nhật)
Hình ảnh và thông tin thêm về karaage (tiếng Anh)
C ông thức gà Karaage (bằng tiếng Anh) |
Trứng cá muối là trứng của nhiều loại cá khác nhau được chế biến bằng cách ướp muối, mà nổi tiếng nhất là từ trứng cá tầm. Nó được buôn bán trên thị trường thế giới như là đồ cao lương mỹ vị và được ăn chủ yếu trong dạng đồ phết trên các đồ nguội khai vị hay ăn với sushi.
Trong tiếng Anh, nó được gọi là caviar, có nguồn gốc từ خاگآ (Khag-avar) trong tiếng Ba Tư, có nghĩa là "vật sinh trứng". Trên thực tế, trong tiếng Ba Tư, tên gọi này được dùng để chỉ chính cá tầm và sản phẩm của nó là trứng cá tầm.
Hiện nay, trứng cá muối tốt nhất có được là từ cá tầm được Nga và Iran đánh bắt ở biển Caspi. Các loại trứng cá muối đắt nhất là các loại Beluga, Ossetra, and Sevruga (lưu ý rằng trứng cá muối Beluga thu được từ cá tầm trắng, tiếng Nga: Белуга-Beluga, mà không phải từ cá voi trắng cũng có tên bằng tiếng Nga là Белуга-Beluga).
Loại trứng cá muối màu vàng từ cá tầm sông Danube đã từng là món ăn khoái khẩu của các vị vua chúa phương Tây nhưng ngày nay loài cá này đã gần như tuyệt chủng.
Việc đánh bắt và khai thác quá tải cũng như sự ô nhiễm nguồn nước đã làm cho người ta phải tìm các nguồn thay thế rẻ tiền hơn, được chế biến từ trứng cá hồi trắng và cá hồi Bắc Đại Tây Dương và làm cho chúng trở nên phổ biến hơn.
Đây cũng là lý do tại sao ngày nay trong một số văn bản thì người ta dịch caviar thành trứng cá hồi. Từ "malossol" trên tem mác các loại trứng cá muối trong tiếng Nga có nghĩa là "ít muối", và nó chỉ ra rằng các loại trứng cá này được chế biến với một lượng tối thiểu muối ăn.
Trong những năm gần đây, việc nuôi cá tầm đã tăng lên, đặc biệt là tại Pháp, Uruguay và miền nam California của Hoa Kỳ và trứng cá tầm thìa đã được phổ biến trên thị trường.
Các loại trứng cá muối giá rẻ này cũng thu được từ các loại cá thuộc họ cá tầm. Gần đây thì lượng cá cho phép khai thác tự nhiên đã giảm xuống và nó là lý do của sự tăng giá các loại trứng cá muối.
Do giá cả rất cao của nó, nên trong văn hóa phương Tây thì các loại trứng cá muối đồng nghĩa với sự xa xỉ và giàu có giống như máy bay, du thuyền và lâu đài của cá nhân. Tại Nga và một số nền văn hóa khác, mặc dù là món ăn xa xỉ, nhưng trứng cá muối là một phần phổ biến trong các ngày lễ hay đám cưới.
Trứng cá muối được đựng trong các đồ dùng nhà bếp bằng sừng, gỗ hay vàng (xà cừ và nhựa cũng rất phổ biến), chứ ít khi trong các đồ bằng bạc hay thép không rỉ, là các đồ dùng có thể có ảnh hưởng đến hương vị và màu sắc của trứng cá muối.
Sản xuất trứng cá muối thương mại bao gồm việc đánh bắt, xẻ thịt cá (thông thường với thân và đầu) và tách ổ trứng ra, mặc dù hiện nay một số nông dân đang thử nghiệm việc tách ổ trứng bằng phẫu thuật từ cá tầm sống và điều này cho phép cá tầm cái có thể tạo ra nhiều trứng hơn trong thời gian sinh sống của chúng.
Trứng cá muối là một sản phẩm từ động vật vì thế nó không thể coi là món ăn chay. Tuy vậy, hiện nay trên thị trường cũng có loại "trứng cá muối" làm từ đậu tương và nó là một đồ ăn chay thực thụ.
Đầu thập niên 1900, cả Canada và Hoa Kỳ là các nhà cung cấp chính trứng cá muối vào châu Âu bằng cách khai thác trứng của cá tầm hồ ở miền trung phía tây các quốc gia này, cũng như từ cá tầm mũi ngắn và cá tầm Đại Tây Dương khi chúng vào các con sông ở bờ biển phía đông vào mùa sinh đẻ.
Tuy nhiên vậy nhưng hiện nay thì cá tầm mũi ngắn đã được liệt kê như là dễ tổn thương trong sách đỏ của IUCN về các loài đang ở tình trạng nguy cấp và là nguy cấp trong Luật về các loài đang nguy cấp của Hoa Kỳ.
Dịch vụ cá và động vật hoang dã Hoa Kỳ đã chính thức cấm việc nhập khẩu trứng cá muối Beluga được đánh bắt từ biển Caspi vào tháng 9 năm 2005 trong cố gắng nhằm bảo vệ loài cá tầm trắng đang gặp nguy hiểm tuyệt chủng này. Một tháng sau, lệnh cấm này đã được mở rộng cho trứng cá tầm muối được đánh bắt từ biển Đen vì các lý do tương tự.
Tháng một năm 2006, CITES- công ước về buôn bán các loài đang nguy cấp, đã thông báo rằng họ "không thể cấp hạn ngạch xuất khẩu" năm 2006 cho các loại trứng cá muối khai thác từ các nguồn hoang dã. Nếu điều này không được giải quyết thì việc buôn bán trứng cá muối sẽ bị giới hạn cho các loại cá tầm được nuôi nhân tạo.
== Chú thích == |
Sương sáo, thạch đen hay thạch sương sáo là một món tráng miệng được làm từ lá cây sương sáo (thạch đen).
Thạch đen không đường chứa 2,5 gam protein và khoảng 15 gam carbohydrate, trong đó 0,5 gam là từ chất xơ. Thạch đen không có chất béo, vitamin, khoáng chất.
Thạch sương sáo được làm bằng cách đun sôi thân và lá của cây Platostoma palustre trong vài giờ với một ít tinh bột và sau đó làm lạnh chất lỏng để có độ sệt như thạch. Loại thạch này có thể được cắt thành hình khối hoặc các dạng khác, sau đó trộn với xi-rô để tạo ra đồ uống hoặc món tráng miệng được cho là có đặc tính giải nhiệt, khiến nó thường được ăn khi thời tiết nóng bức. Bản thân thạch có mùi thơm, với tông màu khói , và có màu nâu sẫm mờ, đôi khi được cho là màu đen. Màu thực phẩm đôi khi có thể được thêm vào để làm cho nó đậm hơn.
Việc chuẩn bị các biến thể khác, được gọi là thạch cỏ xanh, không cần quá trình nấu hoặc đun nóng, chỉ cần một hỗn hợp chiết xuất từ lá và nước. Thạch được sản xuất theo cách này đã được mô tả là có hương vị lá trung tính
Tên tiếng Việt cho món này: sương sáo, có lẽ bắt nguồn từ âm tiếng Hoa, vốn viết là 仙草. Âm Hán Việt đọc hai chữ này là tiên thảo, tức "cỏ tiên". Khi du nhập Việt Nam, người Việt có lẽ nghe người Hoa phát âm và gọi theo và tạo ra sương sáo.
Khai thác như sương sâm, nhưng lá sương sáo chỉ chế biến được sau khi phơi khô. Thân và lá sương sáo được thu hoạch (phơi khô để tồn trữ), xay nát, nấu trong nước, lược và thêm bột (sắn, gạo). Sản phẩm để nguội sẽ đông lại, có màu đen tuyền được ăn với nước đường và tinh dầu (thường là tinh dầu chuối được tổng hợp) hoặc có thể ăn trực tiếp.
Sương sáo được cho là có tính mát, giúp hạ huyết áp, trị cảm mạo, đau khớp.
Sưong sáo thường được trộn với các nguyên liệu khác tạo thành món chè. |
Bánh tầm bì là đặc sản Rạch Giá, Kiên Giang. Ở đó cả xóm làm và bán bánh tằm người ta gọi thành xóm bánh tằm. Xóm thuộc phường Vĩnh Bảo.
Bánh tầm bì gồm các nguyên liệu chính như sau:Bột nếp và bột gạo.
Da heo.
Thịt nạc.
Nước cốt dừa.
Dưa leo, rau thơm, tỏi, ớt, chanh.
Nước nắm.
Trước kia, bánh tầm được làm thủ công bằng tay nên còn được gọi là "bánh tầm se tay". Ngày nay người ta dùng bột được ép bằng khuôn để tiết kiệm thời gian nhưng vẫn giữ được vị ngon truyền thống của nó.
Thịt được ướp gia vị và chiên giòn, còn da heo thì luộc mềm và xắt lát mỏng. Thịt và da được xắt thành từng sợi mỏng và trộn chung với nhau cùng với thính gạo, thêm vào đó là tỏi tươi bầm nhuyễn, tỏi mỡ phi vàng, đường muối..
Dừa lấy nước cốt và nước dảo dừa. Với nước dảo thì đun lửa riu riu thêm muối, đường pha, một ít bột gạo và nấu đến khi nào nó sánh lại, cuối cùng mới cho nước cốt dừa vào.
Pha chế nước mắm tỏi ớt. |
Gà cay Trùng Khánh (giản thể: 辣子鸡; phồn thể: 辣子雞; bính âm: làzijī) là một món ăn của ẩm thực Tứ Xuyên. Đây là một món xào, bao gồm những miếng thịt gà được tẩm ướp sau đó chiên giòn và xào cùng với ớt khô Tứ Xuyên, tương đậu cay, ớt Tứ Xuyên, tỏi và gừng.Hạt mè nướng và hành lá cắt lát thường được dùng để trang trí món ăn. Thực khách dùng đũa gắp từng miếng gà ra bát, để riêng phần ớt.Đặc trưng của món ăn này là thịt gà chiên với rất nhiều ớt, có vị thơm và tê nhẹ của tiêu Tứ Xuyên (hay còn gọi là hoa tiêu). Chính xác món này phải ớt nhiều hơn thịt gà, bạn vừa ăn vừa dùng đũa xới để tìm miếng gà ẩn trong 1 đống ớt.
Gà cay Trùng Khánh có nguồn gốc gần Ca Lạc Sơn ở Trùng Khánh, nơi các chủ nhà hàng sử dụng gà thả rông nhỏ từ các trang trại gần đó. Gia cầm này đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu đặc trưng cho Ca Lạc Sơn. |
Tương Nam Đàn là một loại tương truyền thống của huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Nó là một loại nước chấm, nước chan được nấu từ hạt đậu đen và thính gạo làm mốc dùng trong sinh hoạt ăn uống giống như các loại mắm (nước mắm) ở miền Nam như: mắm cái, mắm nêm, mắm ruốc … và các loại tương ở miền Bắc như: Tương Bần (Bần Yên Nhân - Hưng Yên), Tương Cự Đà (Thanh Oai – Hà Nội)… |
Okara là một thứ bột màu vàng chứa các phần không hòa tan trong nước của đậu tương, thường để lại trong bộ lọc khi bột đậu tương được lọc để làm sữa đậu nành. Nó chứa ít chất béo, nhiều protein, sắt, calci, và riboflavin.
Okara chủ yếu được dùng để chế biến thức ăn cho heo và gia súc. Nó cũng được dùng để làm trung hòa vị cho bánh mỳ hay bột nhào bánh ngọt. Giống như mọi sản phẩm của đậu tương, nó chỉ được hấp thụ dễ dàng trong hệ tiêu hóa sau khi được đun kỹ, ít nhất khoảng một giờ đồng hồ.
Từ Okara có nguồn gốc từ tiếng Nhật Bản. |
Bún mọc, là món ăn có nguồn gốc miền Bắc Việt Nam, món bún này đặc trưng với nguyên liệu là một viên mọc (thịt bằm nhuyễn vo tròn) trong tô bún.
Món này xuất phát từ làng Mọc (làng Nhân Mục), Nhân Chính, nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Món này có thành phần là giò sống, còn gọi là mọc, nên được gọi là bún mọc.
Những nguyên liệu thường dùng để làm bún mọc: sườn non, chả quế thái miếng, giò sống, thịt nạc băm, nấm mèo, nước mắm, đường, bún, rau sống, rau muống, chuối, mắm tôm, ớt thái lát, sa tế, hành, ngò, chanh..
Hầm xương heo với khoảng 3 lít nước, cho thêm hành tím và khoảng 2 muỗng cà phê muối. Sau đó chỉ cần lấy khoảng 2/3 nước hầm xương (nước dùng). Có thể bỏ thịt gà, sườn non vào hầm chung với xương heo sau đó vớt ra, không được để rục chung với xương. Thịt gà chín xong, để nguội, tùy ý chặt miếng hay xé sợi.
Cho bún ra tô, chan nước dùng vừa đủ, cho tiếp sườn non chặt miếng, chả viên, chả quế vào, rải hành ngò, hành phi, tiêu lên trên tô bún cho đậm đà và cũng là để trang trí bát bún.
Có thể ăn kèm với ớt, mắm tôm, satế, rau sống, chanh. |
Dầu giấm là một loại nước trộn salad của các nền ẩm thực châu Âu, có thành phần cơ bản là dầu ô liu và giấm (là một loại nhũ tương của dầu và giấm), ngoài ra còn có các gia vị và thảo mộc khác. Dầu giấm cũng có thể được dùng như một loại xốt cho các món nguội hoặc các món ướp.
Tên phỏ biến của dầu giấm trên thế giới bắt nguồn từ tiếng Pháp: "vinaigre" có nghĩa là "giấm".
Tỷ lệ trộn dầu giấm thường là 3 phần dầu, một phần giấm, đánh cho đến khi hỗn hợp kết thành nhũ tương. Sau đó thêm muối tiêu vào. Các loại rau thơm và thảo mộc cũng được thêm vào, đặc biệt là khi nó được dùng làm nước xốt cho món rau, ngũ cốc và các tương tự. Thỉnh thoảng, mù tạt được dùng như một chất tạo nhũ tương.
Dầu giấm có nhiều loại tùy vào loại dầu và giấm dùng để trộn. Dầu ô liu và giấm rau vị trung tính được dùng thường xuyên nhất.
Ở miền bắc nước Pháp, người ta có thể dùng dầu hạt óc chó và loại giấm làm từ nước táo lên men, sử dụng cho món salad rau diếp kiểu Bỉ.
Ở Mỹ, dầu giấm thường được cho thêm nhiều nguyên liệu mới mẻ như nước chanh, nấm truffle, trái mâm xôi, lòng trắng trứng, đường, tỏi và các loại trái anh đào. Phô mai, thường là phô mai xanh, cũng được cho vào. Các loại dầu giấm thương mại thường có các chất tạo nhũ tương như lecithin.
Ở Đông Nam Á, dầu cám gạo và giấm trắng thường được dùng, ngoài ra còn có các loại rau thơm tươi ngon, ớt, các loại hạt và nước chanh.
Các loại giấm khác nhau, ví dụ như giấm trái mâm xôi, tạo ra các hương vị khác nhau. Nước chanh hay các loại nước có chứa cồn khác như rượu nâng độ Sherry có thể được dùng để thay thế giấm. Giấm Balsamic cũng có thể được thêm vào hỗn hợp dầu ô liu và giấm rượu vang để tạo thành hỗn hợp dầu giấm Balsamic.
Trong ẩm thực Pháp truyền thống, dầu giấm được dùng làm một loại nước trộn salad, và nếu để làm nước chấm cho món nguội thì sẽ bao gồm có atisô, măng tây và tỏi tây.
Dầu giấm, tiếng Nga là Винегрет, cũng là tên cho món salad có trộn dầu giấm. Món này gồm dầu giấm, củ dền, dưa chuột muối, khoai tây, cà rốt và hành tây. Các nguyên liệu khác gồm có: hạt đậu Hà Lan, bắp cải muối chua sauerkraut.Dù món này phổ biến khắp nước Nga, nguồn gốc của nó có lẽ là từ Đức hoặc các nền ẩm thực Scandinavi khác. Ví dụ như, trong một cuốn sách nấu ăn của Anh, xuất bản năm 1845, có công thức một loại salad cá trích gồm có cá trích, củ dền, khoai tây, lòng trắng trứng, táo với loại nước xốt làm từ dầu, giấm và kem chua.
== Tham khảo == |
Bảo tàng nước mắm Làng chài xưa là một bảo tàng có vị trí ở Phan Thiết, Bình Thuận. Bảo tàng này trưng bày những sản phẩm, quá trình và lịch sử hình thành nước mắm, cũng như mục đích quảng bá văn hóa những làng chài biển làm mắm tại Phan Thiết. Đây cũng là bảo tàng nước mắm đầu tiên tại Việt Nam.
Khi bảo tàng được hoàn thành, bảo tàng Làng chài xưa trưng bày hàng trăm cổ vật, vật dụng truyền thống, tư liệu lịch sử của nghề nước mắm Phan Thiết. Bộ sưu tập của bảo tàng nước mắm cũng có từng chi tiết nhỏ như chiếc thùng, lều, vại, tĩn, gầu, ly, búa, que… đến những căn nhà của những hàm hộ xưa được đưa về trưng bày nguyên bản. Trước khi bước vào hành trình tham quan, du khách được xem đoạn phim ngắn giới thiệu về lịch sử của làng chài, bắt đầu từ khi mới thành lập cho tới thời kỳ ngày nay.Du khách tới đây có thể đóng vai làm dân chài lưới, làm muối, thăm phố cổ Phan Thiết, ghé nhà hàm hộ (đại gia nước mắm), khám phá cách người dân làng chài phát hiện ra mắm nước từ việc ướp giữ cá, tìm hiểu tên gọi nước mắm ngày xưa, tìm hiểu lý do có tên gọi “nước mắm” như ngày nay. Vì là bảo tàng nước mắm nên để tránh tạo mùi khó chịu, quá trình làm mắm được quay lại và phát trên màn hình LED để du khách có thể tìm hiểu. Bảo tàng còn có nhà hàng, nhà hát để truyền tải những câu chuyện về nghề làm mắm. Bảo tàng cũng lưu giữ rất nhiều hiện vật về cuộc sống làng chài. Ngoài ra, du khách còn được học cách “cẩn” nước mắm, được coi là một cách xác định nước mắm ngon của người xưa dựa vào màu, mùi, vị dưới ánh sáng.Một trong những hiện vật quan trọng nhất ở bảo tàng là bản gốc hai tấm sắc phong của vua triều Nguyễn ban cho làng biển Bình Thuận. Tấm sắc phong đầu tiên được vua Đồng Khánh ban cho những người dân ở Đàng Ngoài đã vào khai hoang, lập ấp tại làng chài Hòa An, Phan Thiết. Tấm sắc phong còn lại do vua Khải Định ban cho thần Ông Nam Hải (cá voi) vì có công cứu giúp nhiều ngư dân chài thoát nạn.
Đây là bảo tàng về nước mắm đầu tiên của Việt Nam, và cũng là bảo tàng đầu tiên về nghề nước mắm được xây dựng và đưa vào hoạt động phục vụ khách tham quan, nhà nghiên cứu. Ông Nguyễn Anh, nhà sưu tầm và nghiên cứu về Phan Thiết xưa cho biết: “Có thể nói, đây không chỉ là một công trình nghệ thuật mà còn như một "bảo tàng" cung cấp nhiều thông tin và hình ảnh xưa quý giá về lịch sử hình thành làng chài Phan Thiết - Mũi Né xưa, giúp cho giới trẻ hiểu hơn về lịch sử đáng tự hào của quê hương Phan Thiết”. Báo điện tử của thông tấn xã Việt Nam cho biết "dự án vừa bảo tồn được bản sắc văn hóa truyền thống, vừa khuyến khích các làng nghề phát triển; tạo không gian phù hợp cho giới trẻ vừa tham quan tìm hiểu, vừa học được nhiều điều bổ ích về những giá trị tốt đẹp của con người và làng nghề nơi đây."Hầu hết du khách tới xem vở diễn và đến thăm bảo tàng đều đánh giá mức 4,5/5. Trong hai năm 2017 và 2018, lượng du khách đến Bảo tàng nước mắm Làng Chài Xưa tăng từ 200.000 đến 400.000 lượt khách. Theo thống kê trung bình, bảo tàng đón từ 400.000 đến 500.000 khách tham quan mỗi năm. Tuy vậy, khi dịch COVID-19 bùng phát, lượng khách ghé thăm bảo tàng đã giảm hẳn. Ông Trần Ngọc Dũng đã chuyển đổi, đưa sản phẩm nước mắm Tĩn lên sàn thương mại điện tử. |
Hủ tiếu sa tế nai là món ăn đặc trưng được lưu truyền trong cộng đồng người Hoa ở miền Nam Việt Nam nên nó không được phổ biến và nổi tiếng như hủ tiếu Nam Vang, hủ tiếu gõ hay hủ tiếu mì.
Không rõ nguồn gốc món ăn ở đâu, có nhiều người bảo do người Hoa ở khu vực Chợ Lớn sáng tạo nên, nhưng cũng có người lại nói rằng món này do người Hoa và người Java (ở miền Nam thường gọi là "người Chà") kết hợp tạo thành.
Ở Sài Gòn, món này thường tập trung ở những nơi người Hoa sinh sống như khu vực quận 5, quận 6, quận 8 và quận 11.
Loại bánh hủ tiếu được sử dụng tương đối giống với loại bánh phở của món phở Việt Nam, chỉ có nước dùng là khác, nước dùng có màu vàng đặc trưng và vị béo cay, có mùi thơm đặc trưng.
Trước tiên, hầm xương bò để lấy nước lèo, sau đó pha sa tế với các nguyên liệu như tỏi, hành tím, gừng, sả, đại hồi, tiểu hồi, quế, ớt khô, ớt bột, đậu phộng rang giã nhuyễn, mè rang. Tiếp theo, trộn tất cả các nguyên liệu lại và cho vào nước hầm xương, nêm nếm cho vừa vị. Một nguyên liệu không kém phần quan trọng đó là thịt nai, thịt nai có độ dai vừa phải và không quá ngậy mùi như thịt bò sẽ không làm lấn át mùi vị đặc trưng của nước dùng. Để giúp món ăn tăng thêm hương vị và giúp các bạn đỡ ngán thì chúng ta có thể cho dưa leo thái sợi, giá, ngò gai và húng quế.
== Tham khảo == |
Falafel hay felafel là món bánh dạng viên hoặc dạng doughnut được rán ngập dầu, làm từ đậu gà hay đậu răng ngựa. Ở Alexandria, món này được gọi là falafel. Đây là một trong những món ăn truyền thống vùng Trung Đông, nhiều khả năng có xuất xứ từ Ai Cập. |
Mắm tôm chua là một món ăn của Nam Bộ và miền Trung Việt Nam, đặc biệt là tại Gò Công và Huế, làm từ tôm bạc đất ủ chua. Gò Công và Huế là hai nơi làm mắm tôm chua nổi tiếng, tuy nhiên ở Huế thì nhiều cơ sở sản xuất hơn. Món này bắt nguồn từ Huế, được Nam Phương Hoàng hậu mang vào Gò Công. Ngày nay tại Gò Công vẫn còn rất nhiều hộ gia đình vẫn giữ nghề và bán trên thị trường.
Khác với mắm tôm mặn có màu nâu và con tôm đã bị giã nhuyễn, mắm tôm chua có màu đỏ và con tôm còn nguyên hình. Khi làm mắm tôm chua phải chọn con tôm còn sống, rửa sạch bằng nước muối (nếu rửa bằng nước ngọt thì tôm sẽ bị tanh). Tôm rửa sạch được làm chín bằng cách ngâm vào rượu trắng mạnh. Tôm chín màu đỏ rực. Đem tôm trộn đều với thính gạo, ớt, riềng, gừng và tỏi đã thái chỉ. Cuối cùng cho tất cả vào một cái hũ bằng sành hoặc đất nung, phía trên xếp một lớp lá chùm ruột hay ổi rửa sạch và vẩy cho hết nước, đậy kín lại. Sau 5-7 ngày là thành mắm tôm chua.
== Tham khảo == |
Ikan bakar là một món ăn của Indonesia và Malaysia, được chế biến từ cá nướng than hoặc các loại hải sản khác. Ikan bakar có nghĩa đen là "cá nướng" trong tiếng Indonesia và Malay. Ikan bakar khác với các món cá nướng khác ở chỗ nó thường chứa các hương liệu như bumbu, kecap manis, sambal, được gói trong lá chuối và nướng trên bếp than hồng.
Nướng là một trong những phương pháp nấu ăn lâu đời nhất và sớm nhất để chế biến cá. Cá nước ngọt và hải sản là một trong những nguồn cung cấp protein chính cho cư dân trên quần đảo Indonesia, và phương pháp nướng cá vô cùng phổ biến trong lãnh thổ hàng hải của quần đảo Indonesia. Cá nướng-hun khói được xem là món ăn cổ truyền trong ẩm thực Indonesia.Là một quốc gia quần đảo, ikan bakar rất phổ biến ở Indonesia, thường xuất hiện ở nhiều nơi, từ bãi biển Aceh, một nhà hàng nằm trên bến cảng Kupang ở Đông Nusa Tenggara, đến trung tâm quận thương mại của Jakarta. Nhiều phiên bản đặc thù khác nhau tồn tại, gồm có ikan bakar Cianjur trong ẩm thực Sunda, chủ yếu là nướng cá nước ngọt, chẳng hạn cá chép và cá tai tượng, và ikan bakar Jimbaran trong ẩm thực Bali, cá biển tươi nướng tại các cụm warung gần biển Jimbaran và chợ cá ở Bali. Tuy nhiên, hải sản nướng đặc biệt phổ biến ở khu vực phía đông Indonesia; Sulawesi và Maluku nơi có hầu hết người dân làm nghề đánh cá và cả hai khu vực đều có biển rộng lớn đem đến nhiều loại hải sản khác nhau. Thông thường, cá được ướp với hỗn hợp bột nhão gia vị và đôi khi với belacan hoặc kecap manis (nước tương ngọt) rồi đem nướng sau đó; đôi khi được bọc lót bằng một tấm lá chuối đặt giữa hải sản và vỉ nướng để tránh cá bị dính vào vỉ nướng và vỡ ra từng mảnh.
Cá thường được ướp với hỗn hợp nước tương ngọt và dầu dừa hoặc bơ thực vật, dùng cọ quét lên khi nướng. Hỗn hợp gia vị có thể khác nhau tùy theo vùng miền và địa điểm, nhưng thông thường nó gồm có sự kết hợp của hành tím xay, tỏi, ớt, rau mùi, nước me, quả lai, nghệ, riềng và muối. Ở Java và hầu khắp Indonesia, ikan bakar thường có vị khá ngọt do lượng nước tương ngọt dồi dào cho cả ướp hoặc xốt nhúng. Món thường được dùng với cơm hấp và nước tương dẻo ngọt rưới lên trên ớt xanh và hành tím thái nhỏ. Trong khi món ikan bakar của Minangkabau (Padang), hầu khắp Sumatra và cả bán đảo Mã Lai, thường cay hơn và có màu vàng đỏ do lượng ớt, nghệ và các loại gia vị khác, không có nước tương ngọt.Ikan bakar thường được phục vụ với sambal belacan (ớt với mắm tôm) hoặc sambal kecap (ớt thái lát và hành tím pha cùng nước tương ngọt) làm nước chấm hoặc gia vị và lát chanh để trang trí. Ikan bakar tại Manado và Maluku ở Đông Indonesia thường sử dụng bột nêm rica-rica, dabu-dabu hoặc colo-colo.
Có rất nhiều biến thể của ikan bakar, khác nhau từ công thức chế biến gia vị ướp, xốt chấm hoặc sambal, cho đến các loài cá được nướng. Hầu như tất cả các loại cá nước ngọt và cá biển đều có thể được chế biến thành ikan bakar, phổ biến nhất là cá tai tượng nước ngọt, patin (cá tra) và ikan mas (cá chép), đến hải sản tongkol hay cakalang (cá ngừ vằn), bawal (cá vền biển), tenggiri (cá thu ngàng), kuwe (cá khế), baronang (cá dìa), kerapu (cá mú), kakap merah (cá hồng) và pari (cá đuối). Một số dạng hải sản phổ biến ngoài cá bao gồm sotong (mực) và udang (tôm).
Thưởng thức ikan bakar trên bãi biển là một trải nghiệm nấu nướng phổ biến trong chuyến thăm đến điểm du lịch nổi tiếng của Indonesia; chẳng hạn như bãi biển Jimbaran ở Bali, bãi biển Losari ở Makassar, và bến cảng Muara Karang ở Jakarta.
Ở Indonesia, ikan bakar có thể được thưởng thức bất cứ ngày nào trong năm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nướng cá và nướng ngô xiên đã trở thành một truyền thống vào dịp giao thừa. Ikan bakar và jagung bakar đã trở thành một bữa tiệc nướng hun khói đầu năm mới của người Indonesia. |
Potage (, tên khác UK: , tiếng Pháp: [pɔtaʒ] ( nghe);từ tiếng Pháp cổ pottage 'thực phẩm được nấu trong nồi' là một loại súp, món hầm, hoặc cháo, trong đó thịt, rau, ngũ cốc, hoa quả, hoặc sự kết hợp của những thành phần được đun sôi cùng với nước, nước dùng, hoặc các chất lỏng khác.
Potage có nguồn gốc từ các món ăn thời trung cổ của miền bắc nước Pháp và ngày càng phổ biến từ thời Trung kỳ Trung cổ trở đi. Một bữa ăn trong bữa tiệc thời trung cổ thường bắt đầu với một hoặc hai món potage, sau đó là thịt nướng.
Các khu vườn kiểu châu Âu thường chứa nhiều loại cây trồng cùng nhau. Người Pháp gọi đây là những khu vườn trồng cây cho potage, vì thu hoạch từ khu vườn đó được dùng để làm potage.Bản thảo nấu ăn sớm nhất được biết đến bằng tiếng Anh, The Forme of Cury, được viết bởi các đầu bếp triều đình của Vua Richard II vào năm 1390, chứa một số công thức nấu lẩu bao gồm một công thức làm từ bắp cải, giăm bông, hành tây và tỏi tây. Một bản thảo muộn hơn một chút từ những năm 1430 được gọi là Potage Dyvers ("Các loại potage khác nhau"). Từ "pottage" được sử dụng trong các bản dịch Kinh Thánh tiếng Anh sớm nhất, liên quan đến món súp đậu lăng mà Esau trao đổi quyền khai sinh của mình trong Genesis 25:29-34; từ câu chuyện này, cụm từ " mess of pottage " có nghĩa là một cái gì đó hấp dẫn nhưng có giá trị nhỏ được đánh đổi cho một cái gì đó quan trọng hơn nhiều. Trong thời kỳ Tudor, một chế độ ăn uống tốt của nhiều nông dân Anh hầu như chỉ bao gồm potage nước. Một số người thời Tudor ăn các loại rau tự trồng như bắp cải và cà rốt và một số ít có thể bổ sung chất này từ những vườn cây ăn quả với những cây gần đó.
Một số loại potage đặc trưng của ẩm thực thời trung cổ là trái cây, aspic (aspic trong thịt hoặc cá), mawmenny (một món gà thiến hoặc các loại gà tương tự hầm đậm đặc), và lê trong xi-rô. Cũng có nhiều loại potage làm bằng chất lỏng đặc (như sữa và sữa hạnh nhân) với hoa nghiền hoặc trái cây nghiền.
Theo phong tục tôn giáo Catalạn, nếu một ngày hội doble (một "lễ đôi" trong nhà thờ) rơi vào ngày ăn thịt liên tiếp hai bữa potaje được phục vụ, một trong số đó sẽ là một món cơm phủ pho mát hoặc mì, các món thịt hầm khác (tiếng Catalunya: guisado) được nấu trong " salsa " làm từ rượu, giấm, mùi tây, lá lách, gan, nghệ tây, lòng đỏ trứng và các loại gia vị. Hai món potaje cũng được phục vụ cho những ngày ăn cá, đầu tiên là rau bina chất lượng cao từ các khu vườn của tu viện, rồi được phủ ớt hoặc bắp cải hoặc rau diếp (nếu không tìm thấy rau bina), tiếp theo là một bát semolina hoặc mì hoặc cơm nấu với hạnh nhân. sữa, hoặc một bát ngũ cốc groat semolina nêm gia vị với quế.
Potage à la Reine, một biến thể của Potage của Hà Lan
Cách làm Potage bằng cơm nấu chín
Niềm đam mê thực sự của Paris đang bùng phát |
Sủi cảo (tiếng Trung: 水餃; Hán-Việt: thủy giáo; nghĩa đen: "(bánh) bột nước"), còn gọi là bánh tai hay bánh chẻo ("chẻo" bắt nguồn từ tiếng phổ thông Trung Quốc "餃子" jiǎozǐ, âm Hán Việt: giáo tử) là một loại bánh hấp của Trung Quốc phổ biến ở khu vực Đông Á. Đây là một trong những món ăn chính trong dịp Tết nguyên đán cũng như là món ăn quanh năm tại các tỉnh phía Bắc Trung Quốc. Được coi là một phần của ẩm thực Trung Hoa, sủi cảo còn phổ biến ở nhiều khu vực khác của Châu Á và các nước phương Tây. Sủi cảo thường bao gồm thịt lợn xay hoặc rau băm nhuyễn làm nhân và cuốn trong một miếng bột bánh mỏng,sau đó được ép chặt lại bằng cách nhấn mạnh các góc bánh vào nhau hoặc xếp thành nếp.
Tại Trung Quốc có nhiều câu chuyện dân gian khác nhau giải thích về nguồn gốc của sủi cảo và tên gọi của nó.
Theo truyền thống, sủi cảo được cho là phát minh vào thời nhà Hán (năm 25-220 sau Công Nguyên) bởi Trương Trọng Cảnh, một thầy thuốc y học cổ truyền nối tiếng của Trung Quốc lúc bấy giờ. Sủi cảo ban đầu được gọi là "tai mềm" (tiếng Trung: 嬌耳; Hán-Việt: kiều nhĩ; bính âm: jiāo'ěr) bởi nó được sử dụng để chữa chứng tê buốt tai. Trên đường về nhà vào mùa đông, Trương Trọng Cảnh thấy rất nhiều người bị chứng ê buốt tai bởi họ không có quần áo ấm và thực phẩm đầy đủ. Ông đã chữa trị cho những người nghèo này bằng cách hầm thịt cừu, ớt và một vài loại thuốc làm ấm người trong một chiếc nồi, băm nhỏ chúng và gói lại bằng lớp vỏ bột. Tiếp đến ông luộc chín những chiếc bánh này và đưa cho người bệnh dùng kèm với nước dùng. Để đón mừng năm mới cũng như sự hồi phục sau chứng ê buốt tai, mọi người đã học công thức của vị thầy thuốc họ Trương để làm tai mềm.
Bánh bao Trung Quốc (Sủi cảo) được chia làm bốn loại khác nhau tùy thuộc vào cách nấu bánh:
Sủi cảo luộc (tiếng Trung: 水餃; bính âm: shuǐjiǎo; nghĩa đen: "thủy giáo")
Sủi cảo hấp (tiếng Trung: 蒸餃; bính âm: zhēngjiǎo; nghĩa đen: "chưng giáo")
Sủi cảo chiên trong nồi (tiếng Trung: 鍋貼; bính âm: guōtiē; nghĩa đen: "oa thiếp", hay còn được gọi là sủi cảo chiên khô (tiếng Trung: 煎餃; bính âm: jiānjiǎo).Sủi cảo sử dụng trứng thay cho bột để bọc bánh được gọi là "Sủi cảo trứng".
== Tham khảo == |
Liên Thành Thương Quán, tên đăng ký tiếng Pháp: Société de Lien Thanh, hay được biết với tên thông dụng là Công ty Liên Thành, là một tổ chức kinh doanh do các sĩ phu yêu nước ở Bình Thuận sáng lập vào năm 1906 để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ. Tên Liên Thành được lựa chọn với ngụ ý bảo tồn truyền thống, có ý nghĩa là thành hoa sen, nguyên là tên cũ của tỉnh Bình Thuận, xuất phát từ một hồ sen nằm ở quận Hoà Đa.
Trên phương diện lịch sử, Công ty Liên Thành đánh dấu sự hình thành của chủ nghĩa tư sản dân tộc ở Việt Nam, khởi nguồn từ tinh thần dân tộc rồi sau đó chuyển đổi sang tinh thần thực nghiệp Tây phương. Đây cũng là công ty Việt Nam có lịch sử tồn tại dài trên 100 năm và vẫn còn hoạt động cho đến tận ngày nay.
Liên Thành Thương Quán ban đầu được Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh (là hai con trai nhà thơ yêu nước Nguyễn Thông), Ngô Văn Nhượng, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất lập nên, nguyên đặt trụ sở Tổng cuộc ở làng Thành Đức, nay là di tích số 306 Trần Hưng Đạo, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Tương ứng với cương lĩnh hành động 3 điểm "Khai dân trí - Chấn dân khí - Hậu dân sinh" của phong trào Duy Tân hồi bấy giờ, Liên Thành Thương Quán là một trong 3 tổ chức có các chức năng văn hoá - chính trị - kinh tế gắn liền nhau:
Dục Thanh Học hiệu: được thành lập năm 1907, dạy cho con em người yêu nước và lao động nghèo theo nội dung yêu nước và tiến bộ.
Liên Thành Thư xã: được thành lập năm 1905 để truyền bá các sách báo có nội dung yêu nước.
Liên Thành Thương quán: được thành lập ngày 6 tháng 6 năm 1906 để làm kinh tế gây quỹ hoạt động, đồng thời tạo công ăn việc làm cho nhân dân.Vào lúc đó, do các ngành nghề chính trong nền công nghiệp và nền thương mại của Đông Dương đều do tư bản Pháp và Hoa kiều lũng đoạn, nên Liên Thành Thương Quán lựa chọn sản xuất và kinh doanh nước mắm - là ngành nghề kinh doanh nhỏ, chưa nằm trong tay tư bản nước ngoài. Ngoài nước mắm, Liên Thành Thương Quán còn kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ khách sạn, buôn bán thuốc bắc, vải vóc ở thời gian trước năm 1922.
Trong thời gian ban đầu mới thành lập, nhờ có sự ủng hộ của những người có cảm tình với phong trào Duy Tân, cũng như viên công sứ Pháp tại Bình Thuận là Claude Leon Lucien Garnier có tư tưởng Dân quyền, nên Liên Thành có điều kiện phát triển trong vài năm đầu tiên. Năm 1909, Liên Thành Thương Quán thuê ngôi nhà số 1/2/3 Quai Testard và mở phân cuộc kinh doanh ở Sài Gòn. Năm 1911, Nguyễn Trọng Lợi qua đời, Hồ Tá Bang thay thế ở chức vụ Tổng lý - tức Giám đốc. Ông đã khéo léo xoay xở để đưa công ty vượt qua quãng thời gian khó khăn, lúc phong trào Duy Tân bị đàn áp và Liên Thành bị liên tục gây khó dễ.
Năm 1917, Nguyễn Quý Anh được bầu làm Tổng lý, còn Hồ Tá Bang đảm nhiệm Nghị trưởng (Chủ tịch Hội đồng Quản trị) và chính thức dời Tổng cuộc vào Chợ Lớn, lại mua thêm một lô đất ở Khánh Hội xây vựa chứa nước mắm. Lúc này, vốn của Công ty đã lên đến 93'200 đồng bạc Đông Dương. Đến năm 1919, Nguyễn Quý Anh giao lại trách nhiệm Tổng lý cho Trần Lệ Chất, và Trần Lệ Chất đã tiếp tục đưa Liên Thành sang một thời kỳ phát triển rực rỡ.
Năm 1922, công ty xây dựng trụ sở ở Khánh Hội và dời Tổng cuộc từ Chợ Lớn về đây. Trong cùng năm, nước mắm Liên Thành tham gia đấu xảo ở Marseille, Pháp và tạo ra tiếng vang lớn. Từ sau đó, công ty Liên Thành dần mở rộng mạng lưới gồm các phân cuộc ở tỉnh lỵ Phan Thiết, Phú Hài (Phan Thiết), Mũi Né, Hưng Long (Phan Thiết), Phan Rí, Hội An, với địa bàn phân phối nước mắm ở nhiều tỉnh miền Trung và miền Nam, phủ qua cả Campuchia và cả ở châu Âu.
Năm 1960, Liên Thành xây dựng một nhà máy sản xuất phân bón không mùi từ xác cá tại Phú Hài, Phan Thiết. Trong ngành sản xuất nước mắm, đây là một phát kiến quan trọng để tận thu phế phẩm. Sản phẩm phân bón Phú Hài nhanh chóng được các nhà vườn Đà Lạt chấp nhận tiêu thụ.
Sau khi Trần Lệ Chất mất năm 1969, ông Huỳnh Văn Dậu giữ trách nhiệm Chủ tịch Hội đồng Quản trị cho đến khi ông đồng ý hiến công ty cho Nhà nước vào năm 1979 với điều kiện là giữ lại tên Liên Thành cùng với bàn thờ 6 cụ tổ sáng lập. Công ty cũng thực hiện việc chi trả cổ tức và cổ phần cho các cổ đông cũ trước khi chuyển sang sở hữu nhà nước.Sau khi được quốc hữu hoá, các phân cuộc của Liên Thành ở các tỉnh được chuyển đổi thành các cơ sở nước mắm quốc doanh ở địa phương, nhà máy phân bón Phú Hài chuyển thành Xí Nghiệp Quốc doanh Phân bón Phú Hài, còn cơ sở chính của Liên Thành ở Sài Gòn được gộp chung với 9 doanh nghiệp sản xuất nước mắm tư nhân trên địa bàn thành Xí nghiệp Quốc doanh nước mắm Liên Thành, đến năm 1990 thì đổi thành Xí nghiệp Chế biến Thủy hải sản Liên Thành. Năm 2001, theo chủ trương của Nhà nước, Xí nghiệp Chế biến Thủy hải sản Liên Thành được cổ phần hoá và sau đó đổi tên thành Công ty Cổ phần Chế biến Thủy hải sản Liên Thành cho đến ngày nay.
Liên Thành Thương Quán đã giúp đỡ Nguyễn Tất Thành - tức Chủ tịch Hồ Chí Minh - trong quá trình từ Phan Thiết vào Sài Gòn và lên tàu ra nước ngoài. Năm 1911, Nguyễn Tất Thành được ông Hồ Tá Bang, Trần Lệ Chất giúp đỡ từ Phan Thiết vào Sài Gòn với giấy thông hành tên Văn Ba, đồng thời bố trí cho Nguyễn Tất Thành ở lại ở trụ sở phân cuộc Chợ Lớn ở 1/2/3 Quai Testard. Ngôi nhà này nay là Di tích Lịch sử Nguyễn Tất Thành ở số 5 Châu Văn Liêm, Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, Liên Thành Thương Quán còn hỗ trợ tài chính cho Nguyễn Tất Thành trước khi lên tàu sang Pháp.
Trong thời gian từ khi sáng lập đến năm 1975, Công ty Liên Thành được ghi nhận đã có nhiều đóng góp tài chính cho phong trào Duy Tân, phong trào Đông Du, Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Minh) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. |
Bánh mì nướng Ogura (小倉トースト, ogura tōsuto) là một món thường được phục vụ trong các quán cà phê ở Nagoya và tỉnh Aichi xung quanh ở miền Trung Nhật Bản. Nó là một món ví dụ thường có trong Ẩm thực Nagoya.
Bánh mì nướng Ogura bao gồm bánh mì nướng cắt lát dày, phủ mứt ogura, một loại nhân hoặc nhân ngọt phổ biến ở Nhật Bản. Bánh ogura thường được kết hợp với bơ hoặc bơ thực vật. Đôi khi, ogura và bơ có thể được phục vụ bên cạnh, hoặc một lát bánh mì nướng khác được đặt lên trên để tạo ra một chiếc bánh sandwich ogura. Một biến thể khác, bánh mì nướng, sử dụng anko, có nghĩa là đậu được nghiền hoàn toàn thành hỗn hợp sền sệt. Bánh mì nướng Ogura cũng có thể được phục vụ với một lát pho mát đun chảy bên trên.
Bánh mì nướng Ogura có nguồn gốc tại quán cà phê Mitsu Ha ở khu Sakae, Nagoya vào năm 1921 (Taishō 10). Vào cuối thời kỳ Minh Trị, Nhật Bản bắt đầu tiếp nhận các yếu tố của văn hóa phương Tây. Vào thời kỳ đầu của Taishō, nền văn hóa phụ 'cột cao' (ハ イ カ ラ), tương tự như chủ nghĩa công tử ở Vương quốc Anh, đã chứng kiến sự bùng nổ khi đàn ông Nhật Bản thành thị chấp nhận thời trang và lối sống Âu hóa. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, phong trào này, kết hợp với việc giá gạo tăng gấp bốn lần, đã khuyến khích các quán cà phê Nhật Bản thêm bánh mì nướng, được coi là món sang trọng của phương Tây, vào thực đơn của họ. Một người bán hàng tại Mitsu Ha nhận thấy khách hàng nhúng bánh mì nướng trong zenzai (cháo ogura) và quyết định tạo ra bánh mì nướng ogura để đáp lại. Sau đó, món ăn này lan rộng khắp Aichi và trở thành một mặt hàng chủ lực của quán cà phê. Ngày nay, bánh mì nướng Ogura là biểu tượng của Nagoya và tỉnh Aichi, và một món quà lưu niệm phổ biến trong vùng là bánh mì nướng ogura langue de chat.
Joanna Lumley của ITV đã mô tả bánh mì nướng ogura là " loại đậu ngon nhất trên bánh mì nướng ở phía đông Kênh tiếng Anh" , và tại London Japan Matsuri 2017, Nagoya đã được trao tặng "Giải thưởng Alan MacMasters " cho sự đổi mới của bánh mì nướng.
Các quán cà phê Nhật Bản thường cung cấp "phục vụ buổi sáng" (モ ー ニ ン グ サ ー ビ ス) hoặc "set buổi sáng" (モ ー ニ ン グ セ ッ ト), đây là thực đơn bữa sáng giá rẻ chỉ có trong một số giờ sáng nhất định. Đây thường là bữa sáng nhẹ với cà phê hoặc trà sữa chỉ với giá đồ uống. Khái niệm này bắt nguồn từ tỉnh Aichi. Bữa sáng kiểu Aichi truyền thống bao gồm bánh mì nướng ogura và một quả trứng luộc.
Bánh mì nướng Ogura gần đây đã lan rộng ra ngoài Aichi đến các vùng khác của Nhật Bản. Chuỗi cửa hàng tiện lợi Circle K Sunkus bán bánh mì nướng ogura tại một số địa điểm trên toàn quốc. Ngoài ra, nó còn được phục vụ tại các nhà hàng và chuỗi quán cà phê có nguồn gốc ở Nagoya, nổi bật nhất là Komeda.
== Tham khảo == |
Bảo tàng Bánh mì Warsaw (tiếng Ba Lan: Warszawskie Muzeum Chleba) là một bảo tàng tọa lạc tại số 2 Phố Jadowska, Warsaw, Ba Lan. Phương châm hoạt động của Bảo tàng là thu thập và giới thiệu các hiện vật có liên quan đến lịch sử của nghề làm bánh mì và các loại bánh kẹo.
Bảo tàng Bánh mì Warsaw được thành lập vào năm 2000 theo khởi xướng của Marian Pozorek - một thợ làm bánh từ năm 1959 và là thành viên của Hội thợ làm bánh. Ông bắt đầu thu thập các hiện vật từ thập niên 1980. Ông qua đời vào ngày 7 tháng 12 năm 2015.
Bảo tàng Bánh mì Warsaw là một trong những bảo tàng nhỏ nhất ở Warsaw. Các bộ sưu tập của Bảo tàng hiện chiếm ba phòng tòa nhà nơi đặt tiệm bánh của Marian Pozorek.Các vật triển lãm tiêu biểu bao gồm:
máy mài ngũ cốc được sản xuất vào năm 1890 (Anh)
một máy rây bột được sản xuất vào năm 1902
máy làm bánh sừng bò được sản xuất vào năm 1916 (Áo-Hungary)
máy cắt bánh mì
máy ép bánh mì gừng
khuôn để nướng bánh mì, bánh mì gừng và bánh xốp
chén đựng trái cây
bằng cấp, lịch làm bánh, ảnh, hình ảnh của Thánh Clement Mary Hofbauer - vị thánh bảo trợ của những người thợ làm bánh, và các thứ khác
Vì Bảo tàng Bánh mì Warsaw nằm trong tòa nhà của một tiệm bánh đang hoạt động, du khách có thể tham quan Bảo tàng sau khi hẹn trước qua điện thoại.
== Tham khảo == |
Mít trộn là một món ăn đặc sản của hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng. Mít trộn là mít non được luộc chín vừa tới, xé tơi để trộn với gỏi thịt ba rọi hoặc tôm thẻ hay da heo cắt sợi. Mít trộn làm ngon nhất là vào mùa mít non (Tháng 2 đến tháng 4 Âm lịch). Mít trộn là món ăn không thể bỏ qua ở Đà Nẵng vì ở đây trái mít có vị rất thơm và đậm mùi. Nhưng muốn cho món Mít Trộn chân chất Xứ Quảng thì phải thêm đậu phộng giã dập, hành phi, nước mắm chua ngọt với ít rau răm và húng lủi. |
Rươi biển (Tylorrhynchus heterochaetus) là một loài động vật không xương sống trong Họ Rươi, lớp Polychaeta, ngành Giun đốt. Chúng thường sống trên các nền cát sỏi, mép khe đá hay đáy bùn cát. Chúng là một nguồn lợi thủy sản phong phú ở Việt Nam, nơi chúng còn được chỉ gọi đơn giản là rươi.
Rươi có cá thể phân tính đực cái, nhưng rất khó phân biệt nếu không dùng kính hiển vi có độ phóng đại cao.
Ngoài tự nhiên, rươi vận động gần bề mặt đáy. Thức ăn của rươi là mùn bã hữu cơ, xác động vật và sinh vật phù du trôi nổi trong nước. Rươi ít di chuyển từ nơi này sang nơi khác và thường bị tác động rất nhiều của chế độ thủy triều cũng như môi trường vùng cửa sông ven biển.
Chúng có vai trò to lớn trong việc chuyển hoá các chất mùn bã hữu cơ và xác động vật chết trong chu trình chu chuyển vật chất của hệ sinh thái vùng triều, xử lý chất thải hữu cơ, tạo nên độ phì nhiêu, tơi xốp và thông thoáng cho các vùng đất ngập nước. Chính nhờ khả năng tự làm sạch thủy vực nên rươi biển còn được xem như là các sinh vật chỉ thị mức ô nhiễm môi trường (bằng cách xác định mật độ quần thể, sản lượng và tần suất xuất hiện tại một vùng cửa sông nào đó). |
Tart bơ (tiếng Pháp: tarte au beurre) là một loại bánh tart được đánh giá cao trong ẩm thực Canada. Bánh tart ngọt bao gồm nhân bơ, đường, siro và trứng, được nướng trong vỏ bánh pastry cho đến khi nhân ở dạng bán rắn với phần trên giòn. Bánh tart bơ không nên nhầm lẫn với bánh bơ (một chiếc bánh mặn từ Preston, Lancashire, Anh) hoặc bánh mì và bánh pudding bơ.
Công thức làm bánh tart bơ khác nhau tùy theo gia đình. Do đó, hình thức bên ngoài và các đặc tính vật lý của bánh tart bơ - độ cứng của bánh ngọt hoặc độ đặc của nhân - cũng khác nhau.Theo truyền hình, bánh tart Anh-Canada bao gồm vỏ bánh nướng, bơ, đường, siro, trứng, giống với phiên bản bánh đường của Pháp-Canada, hoặc phiên bản bánh hồ đào pêcan của Hoa Kỳ mà không có phần quả kiên. Tart bơ khác với bánh đường vì nhân bánh không có bột. Tart bơ cũng khác với bánh hồ đào pêcan ở chỗ nó có chất làm đầy "chảy nước dãi" do bỏ qua bột ngô. Thông thường nho khô, hạt óc chó hoặc hồ đào pêcan được thêm vào bánh tart bơ truyền thống, mặc dù khả năng chấp nhận của những bổ sung như vậy là một vấn đề tranh luận quốc gia. Là một món ăn mang tính biểu tượng của Canada và là một trong những món tráng miệng phổ biến nhất ở quốc gia này, câu hỏi có hay không có nho khô có thể gây ra cuộc tranh luận trái chiều.Nhiều hương vị kỳ lạ hơn cũng được sản xuất bởi một số thợ làm bánh. Ví dụ như siro phong, thịt lợn muối xông khói, bí ngô, ớt, và hương vị caramel muối với hạt bạch đậu khấu đã được thực hiện cho các cuộc thi.
Bánh tart bơ phổ biến trong cách nấu ăn tiên phong của người Canada, và chúng vẫn là một loại bánh ngọt đặc trưng của Canada, được coi là một công thức có nguồn gốc thực sự từ Canada. Nó chủ yếu được ăn và liên kết với các tỉnh nói tiếng Anh của Canada.
Bánh tart bơ là dẫn xuất của một hoặc nhiều biến thể sau:
Border tart: một chiếc bánh tương tự bao gồm trái cây sấy khô từ vùng biên giới Anh-Scotland,
Bánh đường (tarte au sucre): điều này có thể xảy ra cùng với sự xuất hiện của "King's Daughters" ở Quebec trong những năm 1600, nơi các cô dâu nhập khẩu sử dụng siro phong, bơ và trái cây sấy khô để tạo tiền thân khả thi cho các ví dụ hiện đại về bánh tart bơ.
Bánh hồ đào pêcan: có thể đến phía bắc từ phía nam Hoa Kỳ.
Backwoods Pie: được tìm thấy ở Maritimes và miền tây Canada và được làm bằng siro ngô,
Shoofly pie: được làm bằng mật đường và đến từ cộng đồng người Hà Lan ở Pennsylvania.
Tart Treacle: đó là một loại bánh ngọt của Anh được làm bằng siro vàng hoặc treacle.Công thức Canada được xuất bản sớm nhất là từ Barrie, Ontario, có niên đại từ năm 1900 và có thể được tìm thấy trong The Women's Auxiliary of the Royal Victoria Hospital Cookbook, mà bà Mary Ethel MacLeod đã gửi công thức làm nhân bánh tart bơ. Cuốn sách nấu ăn và công thức ban đầu được lưu trữ tại Kho lưu trữ Quận Simcoe. Một ấn phẩm ban đầu khác về công thức làm bánh tart bơ được tìm thấy trong một cuốn sách dạy nấu ăn làm bánh năm 1915. Món ăn là một phần không thể thiếu trong ẩm thực Canada thời kỳ đầu và thường được coi là nguồn tự hào.Các loại bánh tart tương tự được làm ở Scotland, nơi chúng thường được gọi là bánh tart bơ Ecclefechan từ thị trấn Ecclefechan. Ở Pháp, chúng có liên quan đến tarte à la frangipane, khác với công thức cơ bản của Canada chỉ bằng cách thêm hạnh nhân xay.
Bánh tart bơ là một phần không thể thiếu của ẩm thực miền Trung Canada và là niềm tự hào văn hóa của nhiều cộng đồng trên khắp Ontario và các tỉnh khác ở miền trung Canada. Mối liên hệ văn hóa và cộng đồng với bánh tart này đã tạo ra du lịch theo chủ đề bánh tart bơ như lễ hội Tart bơ tại Muskoka Lakes, Ontario, "Butter Tart Trail" đã được đăng ký nhãn hiệu tại Wellington North, Ontario và "Butter Tart Tour" ở Kawarthas Northumberland, Ontario. Kể từ đó, hai hiệp hội cạnh tranh đã giải quyết tranh chấp của họ, được gọi là "The Butter Tart Wars" của Canadian Living,
thông qua thỏa thuận chung để sửa đổi "The Butter Tart Tour" thành "Kawarthas Northumberland Butter Tart Tour". Tour Taste-Off Tour Tart bơ Kawarthas Northumberland đầu tiên đã được ra mắt tại Lễ hội hương vị ở Peterborough vào Chủ nhật, ngày 28 tháng 4 năm 2013, nơi bốn tiệm bánh đã được trao vương miện chiến thắng bởi một hội đồng giám khảo gồm những người nổi tiếng.
Cuộc thi và Lễ hội Tart bơ ngon nhất Ontario là một sự kiện thường niên được tổ chức tại Midland, Ontario. Phần thi của lễ hội thu hút các thợ làm bánh từ khắp Ontario và là lễ kỷ niệm theo chủ đề bánh tart bơ lớn nhất của Canada, với hơn 50.000 bánh tart được bán tại thị trường lễ hội vào năm 2014.National Geographic đã nhận ra tầm quan trọng của bánh tart bơ trong một bài báo trên Georgian Bay, Ontario. Vào tháng 10 năm 2013, khi đề cập đến một quầy hàng ở Bãi biển Wasaga, họ tuyên bố rằng "Chính món bánh bơ Canada tự làm - lớp vỏ xốp với nhân hồ đào béo ngậy - đã khiến nơi này trở nên khác biệt với những quầy bán kem ven hồ khác."Việc sản xuất bánh tart bơ ở Canada bị chậm lại sau trận lũ lụt ở Quebec vào tháng 4 năm 2019, tấn công một trung tâm sản xuất lớn. Global News đưa tin tiệm bánh Vachon ở Sainte-Marie-de-Beauce đã phải sơ tán sau đợt lũ kéo dài. Vào tháng 7, Global News đưa tin tiệm bánh đang dần hoạt động trở lại.Là một phần của sê-ri "Sweet Canada", một tem bưu chính kỷ niệm đã được Bưu điện Canada phát hành vào tháng 4 năm 2019 để kỷ niệm món bánh tart bơ.Ban nhạc rock Canada Len đề cập đến bánh bơ trong bản hit quốc tế năm 1999 của họ, Steal My Sunshine, khiến một số thính giả không phải người Canada bối rối. |
Creme de papaya là một món tráng miệng của Brazil. Đó là một mốt ẩm thực ở Brazil vào giữa những năm 1990. Ngày nay, sự phổ biến của nó đã giảm đi phần nào.
Nó bao gồm đu đủ trộn với kem vani. Crème de ceneer cũng thường được thêm vào món này, xi rô Lý chua đen cũng có thể được thay thế. Người ta thường trộn đu đủ và kem, sau đó cho vào đĩa phục vụ và đổ khoảng một ít creme de ceneer lên trên cùng. |
Bánh mì que (còn gọi là bánh mì gậy) là một loại bánh mì Pháp xuất xứ từ nước Pháp (nhưng nguồn gốc nguyên thủy là ở vùng Torino của Ý), nó lần đầu được ra mắt tại một cửa hàng bánh mì tại Lanzo Torinese (Đông Bắc Italy) vào năm 1679. Ngoài ra, bánh mì que còn là món ăn rất phổ biến ở Tây Ban Nha, đồng thời cũng rất được ưa chuộng tại châu Mỹ, châu Âu, châu Á và châu Úc.
Bánh mì này có hình dáng thon dài giống một dạng que dài (kích cỡ có nhiều loại, ở Việt Nam thông dụng loại cỡ 2 ngón tay, dài khoảng 30 cm), bên trong bánh mì có quét patê, xịt tương ớt, nhồi thịt chà bông nên khi ăn vào thì giòn mềm và vị bùi của patê, cảm giác nóng giòn và có vị cay. Bánh mì que nổi tiếng bởi loại bột bánh mì và công thức làm bánh đặc biệt có độ giòn xốp đặc trưng. Bánh có hương vị pate thơm lừng và béo. Loại pate này được làm thủ công, khi ăn, vị cay của ớt quyện cùng pate làm nức mũi người ăn.
Ở Việt Nam, bánh mì này là một trong những món ăn được liệt vào hàng đặc sản của thành phố Hải Phòng nhưng bình dân. Ở Hải Phòng, nó có xuất xứ ở ngõ Khánh Lạp, phố Hàng Kênh. Thương hiệu bánh mì cay dường như đã nổi tiếng với người dân Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh...bánh mì vừa ngon, vừa lạ miệng và tương đối rẻ. Không như các loại bánh mì thông thường ở Sài Gòn, Hà Nội... bánh mì cay Hải Phòng chỉ lớn hơn chiếc đũa, với chiều dài khoảng 20 cm, nhưng gói ghém trong nó là những hương vị đặc trưng như vị cay của ớt, vị béo của patê, giòn của dưa chuột. |
Ốc đắng là một loại ốc nước ngọt cỡ nhỏ phân bố nhiều ở Đồng bằng sông Cửu Long thuộc Việt Nam. Đây là một loại ốc rất phổ biến ở vùng sông nước miền Tây Nam Bộ. Người miền Tây Nam Bộ thường có câu: “Đã là dân miền Tây, không ai không biết đến Ốc Đắng”. Câu nói này hoàn toàn đúng, bởi đây là loại ốc rất phổ biến ở vùng sông nước đồng bằng Cửu Long, trở thành món ăn dân dã quen thuộc của người dân nơi đây. Ốc đắng tuy không ngon bằng ốc gạo nhưng thịt nhiều hơn và rẻ, lại có quanh năm.
Ốc đắng là loài nhuyễn thể, mình tròn, to cỡ đầu ngón trỏ (cũng có khi lớn hơn), màu nâu thẫm, đuôi nhọn, trôn ốc xoắn nhặt (tương tự như ốc gạo) thường xuất hiện quanh năm nơi các ao, hồ, sông, rạch nơi đồng bằng miền Tây Tuy không lớn con nhiều thịt như ốc bươu, ốc lác, nhưng khi nhắc đến ẩm thực miệt đồng quê thì người ta lại nghĩ ngay về loài ốc đắngỐc đắng sinh sống khắp nơi, kênh rạch, ao hồ, đồng ruộng. Ốc bám trên các thân cây mục dưới nước, dạ cầu và hiện diện ở các con mương dẫn nước vào ruộng. Loài thân mềm nhỏ bé nhưng lại có một sức sống khá mãnh liệt. Ốc đắng đúng mùa thì khá nhiều và mập ú. Mùa mưa nhiều ốc đắng nhưng không ngon vì ốc đắng đẻ vào mùa mưa nên ruột teo nhỏ. Còn cuối mùa nắng ốc đắng mang trứng luộc ăn nghe sực sực, người ta cũng chê. Ốc đắng ngon nhất, mập nhất là bắt vào tháng ba, nhiều nơi con ốc đắng vốn sống thiên nhiên hoang dã cũng được ăn ké thức ăn của cá, nên lúc nào nó cũng mậpỐc đắng nhìn gần giống với ốc gạo, hay ốc bắt dưới đồng ở vùng Hải Dương, Quảng Ninh, nhưng con nhỏ hơn một chút. Tuy vậy, phần thịt ốc rất đầy, có vị hơi ngăm ngăm, nhưng càng nhai, sẽ thấy vị ốc rất ngọt, thơm
.
Ốc đắng sau khi bắt ở ngoài đồng về thường bị dính rất nhiều bùn đất nên cần phải được rửa sạch. Sau đó đem gọng vài giờ cho ốc nhả hết bùn và chất nhớt. Dân gian thường dùng nước vo gạo để ngâm ốc (vì như thế ốc sẽ mau nhả sình hơn). Nếu không có nước vo gạo thì có thể thay thế bằng những lát ớt sừng trâu. Ốc bị cay sẽ mau chóng nhả hết những chất dơ.
Ốc đắng phổ biến và nhiều đến mức ở miền Tây, người ta chỉ cần xuống sông, dùng rổ thưa xúc phía dưới những giề lục bình, hay mò dưới mương vườn nơi ốc thường bám vào những gốc dừa, chà tre mục, những trái dừa bị sóc ăn rụng lâu ngày là đã có ốc ăn. Vào những ngày mát trời, đi bắt ốc khoảng một giờ có thể thu hoạch được cả ký ốc đắng.
Chỉ cần dùng bao dựng lúa hay bao thức ăn chăn nuôi cột vào sợi dây gân rồi đem thả xuống các tuyến kênh, đến hôm sau là người dân có thể thu hoạch ốc đắng. Bằng phương pháp này mà nhiều hộ dân của huyện Tháp Mười cải thiện được thu nhập, nâng cao hiệu quả kinh tế gia đình. Nghề bắt ốc đắng bằng phương pháp này chi phí đầu tư thấp, chủ yếu phụ thuộc vào số lượng dây gân và số lượng bao, trung bình chi phí đầu tư khoảng 2.000m dây gân và 1.000 cái bao tốn khoảng 2,5 triệu đồng, nhưng mỗi ngày thu hoạch trên 200.000đ, công việc này người dân làm quanh năm chỉ trừ 3 tháng mùa lũ. Rất nhiều người dân trong huyện bắt ốc đắng bằng phương pháp này do có thu nhập tương đối ổn định.
Ngoài việc sử dụng bao để bắt ốc đắng, người dân còn sử dụng tàu dừa để bắt ốc, tàu dừa có ưu điểm là dính nhiều ốc hơn do ốc bám vào các lá, nhưng nhược điểm là bị ngâm trong nước lâu ngày dễ bị mục nát và hư hỏng, nên đa số người dân đều chọn bao đựng lúa hay bao thức ăn chăn nuôi để bắt ốc. Nghề bắt ốc đắng này không chỉ có những hộ làm chuyên làm thuê làm mướn bắt, mà cả những hộ gia đình có ruộng đất, kinh tế ổn định cũng tham gia vào cuộc mưu sinh này để kiếm tiền trang trải chi phí hàng ngày trong gia đình. Người dân làm nghề bắt ốc đắng nên nâng cao nhận thức, nên bắt ốc lớn, thả ốc nhỏ để tránh nguy cơ tận diệt loài ốc đắng.
Ốc đắng gắn liền trong ký ức của những cư dân đồng bằng sông Cửu Long qua các món ăn dân dã, trong đó có những món như Gỏi ốc đắng trộn bắp chuối, chả ốc đắng, và ốc đắng chiên trứng. Dân miền Tây không ai không biết đến cái tên Ốc đắng. Ốc đắng có thể làm các món dân dã như: ốc đắng luộc chấm nước nước mắm chanh sả ớt (hay cơm mẻ sả ớt), ốc đắng kho sả ớt, ốc đắng kho dừa, gỏi ốc đắng trộn bắp chuối và chả ốc đắng, đều rất ngon. Ốc đắng luộc là món ăn dân dã vừa ngon, vừa dễ chế biến lại không tốn tiền.
Cách chế biến ốc đắng đơn giản. Ốc sau khi ngâm 5-6 tiếng là có thể đem luộc. Trước khi luộc đem ốc rửa thật sạch một lần nữa. Sau đó cho ốc vào nồi và đổ xâm xấp nước (không nên cho nhiều nước vì vừa phí nước vừa lâu chín ốc). Cho vào nồi một ít lá ổi hay cọng sả đập dập để khử mùi tanh của ốc. Canh chừng khi nào nước sôi thì vớt bọt dơ ra. Nồi ốc sôi khoảng 5-10 phút hoặc khi nào ốc tróc mài là có thể tắt bếp. Hình ảnh con ốc, cọng rau không chỉ đi vào tiềm thức về tuổi thơ của nhiều người mà còn để lại những dư vị khó quên trong làng ẩm thực của vùng sông nước Nam bộ – đặc biệt là các món ốc đắng mộc mạc, chân quê.
Gỏi là món ngon được chế biến từ cá, tôm, thịt… kết hợp với nhiều loại rau, củ, trái như chuối cây, bắp chuối, bắp cải, đu đủ thái nhỏ, trộn thêm chất chua, cay nồng. Gần đây nhiều nhà hàng, quán ăn lại biến tấu thêm nhiều món gỏi còn hấp dẫn hơn, độc đáo nhất là gỏi ốc đắng trộn với bưởi và cơm dừa nạo
== Tham khảo == |
Bánh da lợn là một loại bánh dùng để tráng miệng của Việt Nam, đặc biệt là ở Nam Bộ (loại bánh tương tự với nhiều lớp màu sắc gọi là Bánh chín tầng mây ở Miền Bắc). Bánh được làm từ bột năng, đường trắng, dừa nạo, va ni hay lá dứa và một số gia vị khác. Nhân bánh được làm từ đậu xanh, khoai môn nghiền mịn hoặc bào sợi hấp chín và bột gạo, đường.Khi làm bánh những người thợ khéo tay còn xay sầu riêng trộn chung với nhân bánh để tạo mùi vị hấp dẫn hơn. Bánh được hấp trong những khuôn nhỏ hình tim, hoa lá hoặc trong khuôn lớn rồi cắt nhỏ thành miếng khi ăn. |
Penny lick là một loại ly nhỏ dùng để ăn kem, khá phổ biến ở thủ đô Luân Đôn nước Anh và các nơi khác vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Những người bán hàng rong sẽ bán thứ bên trong ly với giá một xu. Ly thường được làm bằng loại đế thủy tinh dày và một chỗ lõm nông ở trên để đặt kem. Khách hàng sẽ liếm sạch cả ly và đem trả lại cho nhà cung cấp để họ tái sử dụng loại ly này.Độ dày của Penny lick làm cho vật chứa bên trong có vẻ lớn hơn so nhiều lần thường khiến khách hàng thất vọng và loại ly này thường dễ bị vỡ hoặc bị đánh cắp.Penny lick đã bị cấm ở Luân Đôn vào năm 1898 do giới chức trách lo ngại về việc lây lan dịch bệnh, đặc biệt là bệnh tả và bệnh lao, vì ly thủy tinh thường không được rửa sạch cứ mỗi lần phục vụ khách hàng. Những câu hỏi về vấn đề vệ sinh đã khiến Italo Marchiony giới thiệu loại cốc bánh ngọt ở Thành phố New York vào năm 1896, nhờ đó mà ông được cấp bằng sáng chế vào năm 1903. |
Tsukudani (佃煮 (Điền chử), Tsukudani) là một món ăn bao gồm hải sản, thịt hoặc rong biển được ninh trong nước sốt đậu nành và rượu mirin. Là một món ăn kèm với cơm, tsukudani có vị không quá mặn, với các nguyên liệu chịu áp suất thẩm thấu cao giúp cho vi sinh vật có thể hoạt động trong điều kiện khí hậu ẩm của Nhật Bản. Tên món ăn bắt nguồn từ một hòn đảo tên là Tsukudajima (nay là Chūō, Tokyo), lần đầu được biết đến vào thời kỳ Edo. Hiện nay, có rất nhiều loại tsukudani được bán trên thị trường. Loại tsukudani nấu theo kiểu truyền thống vẫn được bảo tồn và được ưa chuộng như một món ăn có thể tích trữ được trong mọi căn bếp của Nhật Bản kể từ thời Edo đến nay.
Tsukudani có thể được làm từ rong biển kombu hoặc wakame. Thông thường, món ăn này được làm để tái sử dụng các nguyên liệu thừa khi làm món dashi. Món ăn thường được dùng với cơm trắng như một chất điều vị, với hương vị rất đậm (khoảng 1 muỗng canh cho một bát cơm). Tsukudani đã nấu xong có thể được mang đi ướp lạnh để cho ra kết cấu sền sệt, sau đó đem phục vụ cho các thực khách.
Asari no Tsukudani (あさりの佃煮, Asari no Tsukudani), được làm từ ngao cổ nhỏ – món ăn của tỉnh Chiba
Ikanago no Kugini (いかなごのくぎ煮, Ikanago no Kugini)– tỉnh Hyōgo
Inago no Tsukudani (いなごの佃煮, Inago no Tsukudani), được làm từ châu chấu – tỉnh Fukushima và Nagano
Zazamushi no Tsukudani (ざざむしの佃煮, Zazamushi no Tsukudani), được làm từ ấu trùng như ruồi đá và chuồn chuồn – vùng Ina, Nagano.
== Tham khảo == |
Một quả trứng Scotch bao gồm cả một quả trứng mềm hoặc cứng được bọc trong xúc xích, bọc trong vụn bánh mì và nướng hoặc chiên ngập dầu.
Có một số lý thuyết khác nhau về nguồn gốc và từ nguyên học của trứng Scotch, và không có kết luận chắc chắn. OED đưa ra ví dụ đầu tiên của tên là 1809, trong một phiên bản của Một hệ thống nấu ăn phổ thông mới của Maria Rundell . Đối với cô, như với hầu hết các nhà văn khác cùng thời, họ là một món ăn tối, được phục vụ nóng với nước thịt. Vào thời điểm đó, họ không có lớp bánh mì, mặc dù vào năm 1861, Isabella Beeton đã gợi ý điều này như một lựa chọn. Oxford đồng hành với thực phẩm suy đoán rằng nguồn gốc có thể là koftas Ấn Độ.Là một mặt hàng lạnh, cửa hàng bách hóa London Fortnum & Mason tuyên bố đã phát minh ra trứng Scotch vào năm 1738, như một món ăn nhẹ của khách du lịch, nhưng dựa trên tài liệu lưu trữ này đã bị mất. Họ chắc chắn đã phổ biến chúng, bao gồm cả chúng như là một phần của những cản trở khác nhau của chúng. Người ta thường tin rằng họ lần lượt có nguồn gốc từ thức ăn người Anh trong Raj, bao gồm một món ăn Mughlai gọi là nargisi kofta ("thịt viên Narcissus").Các yêu cầu khác bao gồm tên đến từ một biệt danh được sử dụng bởi những người London sống quanh Wellington Barracks sau khi các sĩ quan của đội Scots Guards đóng quân ở đó, và họ đã phát triển một hương vị cho món ăn nhẹ. Theo Culinary Delights of Yorkshire, chúng có nguồn gốc từ Whitby, Yorkshire, Anh, vào thế kỷ 19, và ban đầu được bao phủ trong bột cá chứ không phải thịt xúc xích. Chúng được cho là được đặt theo tên của William J. Scott & Sons, một quán ăn nổi tiếng đã bán chúng. Tuy nhiên, ngày không phù hợp với việc sử dụng thuật ngữ đã biết ít nhất 75 năm trước đó. Người ta cũng cho rằng ban đầu chúng được gọi là trứng "cháy xém", vì chúng được nấu trên ngọn lửa mở, mặc dù theo các công thức nấu ăn còn sót lại, chúng được chiên ngập trong mỡ lợn. Scotch như là một quá trình ẩm thực đôi khi cũng được trích dẫn là nguồn gốc, mặc dù những gì scotging là mở để giải thích, từ việc bao gồm cá cơm, chỉ đơn giản là băm thịt. Sự nhầm lẫn thêm được thêm vào bởi thương mại lớn trứng từ Scotland trong thế kỷ 19, và đôi khi liên quan đến việc nhúng trứng vào bột vôi - một quá trình (có thể) còn được gọi là 'đánh vần'.
Trứng Scotch là một thực phẩm dã ngoại phổ biến. Tại Vương quốc Anh, trứng Scotch đóng gói có sẵn trong các siêu thị, cửa hàng ở góc và trạm dịch vụ đường cao tốc. Các phiên bản thu nhỏ cũng được phổ biến rộng rãi, được bán dưới dạng "trứng mini scotch" "trứng mặn", "trứng dã ngoại", "trứng tiệc", "trứng ăn nhẹ", "trứng cắn" hoặc tương tự. Chúng chứa trứng băm hoặc trứng cút, chứ không phải trứng gà nguyên con, và đôi khi có chứa mayonnaise hoặc thịt xông khói xắt nhỏ.
Tại Hoa Kỳ, nhiều quán rượu và quán ăn "kiểu Anh" phục vụ trứng Scotch, thường được phục vụ nóng với các loại nước chấm như nước sốt trang trại, sốt nóng hoặc sốt mù tạt nóng. Tại hội chợ bang Scotch, trứng được phục vụ trên một cây gậy. Trứng Scotch có sẵn tại hầu hết các Lễ hội Phục hưng trên khắp Hoa Kỳ.Ở Hà Lan và Bỉ, trứng Scotch cũng có thể được gọi là vogelnestje ("tổ chim nhỏ"), vì chúng có chứa một quả trứng, hoặc eierbal ("quả bóng trứng"). Một công thức Scotland năm 1880 cũng gọi chúng là chim yến.
Một số biến thể địa phương tồn tại. Trứng Manchester sử dụng trứng ngâm trong hỗn hợp thịt lợn và bánh pudding đen Lancashire, và Trứng Worcester sử dụng trứng ngâm trong nước sốt Worcestershire và phủ trong hỗn hợp thịt xúc xích địa phương và bánh pudding trắng. |
Kolache (hay còn được gọi là kolace /kəˈlɑːtʃi/ hoặc kolacky/kəˈlɑː tʃki/), là một loại bánh ngọt đến từ Séc. Bánh kolache thường có phần mứt trái cây được bao quanh bởi một lớp bột xốp giòn. Để làm nên một chiếc kolache thơm ngon, không thể thiếu phần bột và men nở, thêm pho mát tươi Quark, cùng mứt hoa quả và hạt anh túc trộn với mứt mận Powidl.
Ban đầu, kolache là một món bánh có vị ngọt nhẹ, dùng để ăn tráng miệng ở Trung Âu. Sau đó, kolache trở thành một món bánh ăn sáng ở Nam Luân Đôn. Không dừng lại ở đó, món bánh này đã xuất hiện trên đất Mỹ và nhanh chóng trở nên nổi tiếng, đặc biệt là ở bang Texas. Cái tên "kolache" bắt nguồn từ tiếng Séc, và trong tiếng Slav cổ, từ kolo có nghĩa là "vòng tròn", hoặc "bánh xe".
Một phiên bản bánh mặn của kolache là klobásník, bên trong có chứa xúc xích hoặc các loại thịt, cũng được gọi là kolache ở một số nơi tại Mỹ, do phần công thức bột của hai loại bánh này được làm giống nhau. Điểm khác nhau giữa bánh kolache và bánh klobásníky, đó là: kolache xuất hiện trước trên đất Mỹ và do cộng đồng người Séc di cư mang tới, còn klobásníky được sáng tạo ra sau đó bởi người Texas gốc Séc. Tuy nhiên, bánh kolache truyền thống của người Séc thì luôn được xếp vào món bánh ngọt, chứ không có thịt như bánh mặn klobásník.Kolache thường làm người ta nhớ đến thành phố Cedar Rapids và Pocahontas bang Iowa, đây cũng là nơi mà cộng đồng người Séc lần đầu giới thiệu chiếc bánh vào những năm 1870. Bánh kolache thường được phục vụ trong những bữa tối tại nhà thờ và trong những dịp lễ, đồng thời cũng là một món ăn vặt hàng ngày. Công thức bí truyền để làm ra bánh Kaloche thường có nhục đậu khấu. Ngoài ra, bánh cũng được kết hợp với hương vị của mận khô, quả mơ, kem phô-mai và hạt anh túc.
Làng Bujanov là nơi diễn ra lễ hội kolache thường niên (Koláčové slavnosti) và giải chạy marathon kolache (Koláčové běhy).Một số nơi tại Hoa Kỳ bao gồm: thị trấn Tabor, bang Nam Dakota; làng Verdigre, bang Nebraska; thành phố Wilber, bang Nebraska; làng Prague, bang Nebraska; thành phố Caldwell, bang Texas; thành phố East Bernard, bang Texas; Crosby, bang Texas; thành phố Hallettsville, bang Texas; thành phố Prague, bang Oklahoma; thành phố Kewaunee, bang Wisconsin; Nhà thờ Thánh Ludmila ở Cedar Rapids, bang Iowa; cũng đều tổ chức ngày hội kolache hàng năm.
Riêng làng Verdigre, tại bang Nebraska và thành phố Montgomery, Minnesota đều tự cho mình là "kinh đô kolache của thế giới". Còn làng Prague ở bang Nebraska, được biết đến là nơi sản xuất bánh kolache có kích cỡ lớn nhất thế giới. Ngoài ra, còn có hai thành phố Caldwell và West đều tự nhận là "Tổ nghề bánh kolache" của bang Texas. Có thể nói bánh kolache rất nổi tiếng ở miền Trung và Đông Texas. Từ những năm 1880, đã có hẳn một số cộng đồng ở Texas do người Séc thành lập chuyên bán các loại bánh kolache.Trong khi đó, tại tiểu bang Wisconsin, làng Haugen lại là nơi nổi tiếng bán bánh kolache. Hàng năm, cũng chính tại ngôi làng này, người Séc tổ chức ngày hội Haugen Fun Days. Trong đó, bánh kolache là "linh hồn" của lễ hội với các hoạt động như: làm bánh, bán bánh và nếm thử vị bánh. Ngoài ra, bánh kolache cũng có thể dễ dàng được tìm thấy trong bất kỳ lễ hội nào của người Séc sống tại Mỹ.
Năm 2007, bánh kolache còn được vinh dự chọn làm hình ảnh quảng bá cho Cộng hòa Séc trong ngày hội văn hóa Café Europe, trong chuỗi sự kiện kỷ niệm Ngày Châu Âu (Europe Day).
Như đã đề cập ở trên, một món có liên quan đến kolache chính là klobásníky, rất phổ biến ở miền Trung và Đông Nam bang Texas, đặc biệt là tại thành phố Houston. Phần bột của bánh klobásníky được làm giống với bánh kolache, nhưng nhân bánh sẽ là xúc xích hoặc thịt xào. Một số người vẫn gọi loại bánh này là kolache, số khác thì coi nó như bánh "bé heo đắp chăn" (pig in a blanket). Bánh klobásníky có thể thêm các loại nhân như: giăm bông, pho mát, ớt Jalapeño, trứng, thịt xông khói, xúc xích, khoai tây, v.v. Chính những người Séc khi đến định cư tại Texas đã sáng tạo ra chiếc bánh này. |
Tôm rồng Nhật Bản (イセエビ(伊勢蝦/伊勢海老), ise-ebi), Panulirus japonicus là một loài tôm rồng thuộc chi Panulirus. Loài này phát triển lên đến 30 cm và sinh sống ở Thái Bình Dương xung quanh Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. P. japonicus là hải sản thương mại tại Nhật Bản. Loài tôm này là một mặt hàng phổ biến trong ẩm thực cao cấp của Nhật Bản. Loaik tôm này được chế biến các món ăn bao gồm sashimi, nướng, chiên, rang và ăn sống (残酷焼, zankoku-yaki). |
Nem nướng là món thịt heo nướng hoặc thịt viên nướng của Việt Nam, và là một món ăn phổ biến ở quốc gia này, đôi khi được dùng như một món khai vị hoặc món ăn nhẹ riêng lẻ, hoặc ăn kèm bún (hoặc cơm) như một món chính. Nem nướng là đặc sản của tỉnh Khánh Hòa (Nha Trang).
Nem nướng được làm từ thịt lợn xay nhuyễn với 1/3 và 1/2 mỡ lợn. Thịt có hương vị đặc trưng với hành tím băm nhỏ, tỏi nghiền, nước mắm, đường và hạt tiêu đen. Sau đó, thịt được chia thành từng miếng lớn, nướng dưới vỉ sắt và than hoa.
Nem nướng có thể được ăn riêng như một món khai vị hoặc món ăn nhẹ, và chấm với nước chấm, hoặc với nước chấm đậu phộng. Nước chấm là nước mắm được pha loãng với nước và pha với đường, nước cốt chanh, tỏi sống băm nhỏ, ớt hiểm băm nhỏ (ớt Thái)/ớt cayenne, và đôi khi ăn với giấm. Nước chấm đậu phộng được làm từ bơ đậu phộng và sốt hoisin, có hương vị của nước mắm và tỏi giã nhỏ, phía trên là đậu phộng rang giã nhỏ. Nó được phục vụ với những loại rau tươi như rau diếp, rau củ thái dài như cà rốt và củ cải trắng, hay các loại thảo mộc tươi như bạc hà và húng quế. Khi ăn, thực khách có thể vắt thêm quất và sa tế cho phù hợp với khẩu vị.Nem nướng có thể được phục vụ như một món chính trên bún, ví dụ: Bún thịt nướng và cơm, ví dụ như cơm tấm. Nem nướng cũng là một loại nhân thường thấy trong cuốn gỏi cuốn.Theo đại diện của Cục An toàn thực phẩm thuộc Bộ Y tế Việt Nam, các loại đồ ăn vỉa hè như nem nướng tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người tiêu dùng, có thể bị ô nhiễm, tẩm hóa chất. |
Y miến (tiếng Trung: 伊麵; bính âm: yī miàn; Yale Quảng Đông: yī mihn) là một loại mì trứng dẹt ở Quảng Đông được làm từ bột mì. Chúng được biết đến với màu vàng và đặc tính dai. Sợi mì hơi và hơi xốp là do nước soda dùng để nhào bột, sau đó được chiên và sấy khô thành những viên gạch khô phẳng như miếng chả.
Y miến có sẵn tại các cửa hàng tạp hóa được làm chín trước bằng máy giống như cách làm mì ăn liền hiện đại.Mì có thể được nấu theo một số cách. Trước tiên, chúng được luộc chín, sau đó có thể được xào hoặc dùng trong súp hoặc salad. Sợi mì tốt sẽ duy trì độ đàn hồi, giúp sợi mì kéo dài và vẫn dai.
Khi y miến được tiêu thụ vào ngày sinh nhật, nó thường được gọi là mì trường thọ hoặc sau mein (壽麵/寿面). Chữ Hán của "long" (長壽 麵 / 长寿 面) cũng được thêm vào như một tiền tố để đại diện cho "thọ". Thông thường nó được tiêu thụ với bánh trường thọ vào những dịp như vậy. |
Chuối Foster là một món tráng miệng của Mỹ bắt nguồn từ New Orleans bao gồm nguyên liệu làm từ chuối và kem vani, với nước sốt làm từ bơ, đường nâu, quế, rượu rum đen và rượu mùi chuối. Bơ, đường và chuối được nấu chín, sau đó đổ thêm rượu vào và đốt cháy theo kiểu flambé của Pháp. Chuối và hỗn hợp sốt này sau cùng được bày biện trên kem. Lớp phủ phổ biến cũng bao gồm kem tươi và các loại hạt khác nhau (quả hồ đào, quả óc chó, v.v...). Món này thường được chế biến sẵn tại bàn dưới dạng flambé phục vụ thực khách.
Món tráng miệng này có thể ăn kèm với kem vani hoặc làm nhân bánh crêpe nhưng cũng có thể ăn riêng. Bên cạnh đó, đầu bếp có thể cho thêm chút quế và nhục đậu khấu vào làm gia vị.Dù nhiều người nghĩ rằng món ăn này được tạo ra tại nhà hàng Brennan's ở New Orleans, Louisiana, nhưng thực tế món ăn này đã bắt đầu từ vài năm trước đó tại nhà hàng Vieux Carré của Owen Brennan. Năm 1951, Ella Brennan và đầu bếp Paul Blangé của nhà hàng đã cùng nhau bắt tay vào việc sửa đổi một món ăn do mẹ của Ella làm tại nhà của gia đình Brennan. Vào lúc đấy, New Orleans là một trung tâm chính cho việc nhập khẩu chuối từ Nam Mỹ. Tên gọi của món này được đặt dựa theo tên của Richard Foster, Chủ tịch Ủy ban Tội phạm New Orleans và là bạn của chủ nhà hàng Owen Brennan.
== Tham khảo == |
Kẹo nougat là một loại kẹo làm từ đường hoặc mật ong, thêm các loại hạt nướng chín (như hạnh đào, óc chó, hồ trăn, hạt phỉ hay mắc ca), lòng trắng trứng đánh đều, đôi khi có thêm hoa quả ướp đường thái nhỏ. Nó dẻo và thường được thêm vào làm thành phần phụ trong nhiều loại kẹo, sô-cô-la khác nhau. |
Bánh bao (chữ Hán: 包子; bính âm: bāozi, Hán Việt: bao tử) là một loại bánh làm bằng bột mì có nhân và hấp chín, chiên hoặc nướng trước khi ăn trong ẩm thực Trung Hoa. Nó khá giống với loại bánh màn thầu truyền thống cũng của Trung Quốc nhưng hai loại bánh này hoàn toàn không liên quan gì đến nhau. Nhân bánh bao được làm bằng thịt hoặc rau củ tùy theo vùng miền khác nhau ở Trung Quốc .
Bánh bao thường được dùng trong bất cứ bữa ăn nào trong ngày trong văn hóa Trung Hoa nhưng thường được người Trung Quốc dùng làm bữa sáng là nhiều nhất.
Món bánh bao được Gia Cát Lượng phát minh ra vào thời kỳ Tam Quốc sau chuỗi sự kiện “thất cầm thất thả” Nam Man Vương Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng đã hoàn toàn thu phục được vị Man Vương này. Tuy nhiên trên đường quay về Thành Đô, quân đội của nhà Thục đã không thể vượt qua được sông Lô Thủy, vì đây là một con sông lớn, nước sông chảy xiết. Sau đó Mạch Hoạch đã cho Gia Cát Lượng biết rằng, muốn vượt sông phải có vật hiến tế ném xuống sông, đó là thủ cấp của 50 nam giới. Tuy nhiên Gia Cát Lượng lại không muốn mất đi bất kỳ tính mạng nào nữa, sau đó ông đã nghĩ ra một loại bánh có vỏ làm bằng bột gạo và tròn tròn như đầu người thu nhỏ, bên trong độn nhân thịt, và sau đó ném xuống sông. Ông gọi chúng là “bánh đầu người Mọi” (Man đầu). Bánh "Man đầu" bây giờ được người Việt Nam gọi bằng bánh bao. Món bánh bao hiện nay được rất nhiều người ở các quốc gia Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản (gọi bằng Nikuman), Hàn Quốc, Thái Lan (gọi là salapao), Myanmar (gọi là Pauk-si) ưa thích.
Bánh bao xá xíu (giản thể: 叉烧包; phồn thể: 叉燒包; Hán-Việt: xoa thiêu bao; bính âm: chāshāobāo; tiếng Hawaii: manapua): có nhân xá xíu.
Cẩu bất lý bao tử (tiếng Trung: 狗不理包子; bính âm: gǒubulǐ bāozi): bánh bao nhân thịt ở Thiên Tân; tên nó có nghĩa là, "bánh bao chó không thèm".
Tiểu long bao (giản thể: 小笼包; phồn thể: 小籠包; bính âm: xiǎolóngbāo): một loại bánh bao nhỏ nhân thịt từ Thượng Hải chứa nước làm từ da lợn đông.
Sanh tiên man đầu (giản thể: 生煎馒头; phồn thể: 生煎饅頭; bính âm: shēngjiān mántóu): một loại bánh bao nhỏ chiên, nhân thịt từ Thượng Hải.
Thang bao (giản thể: 汤包; phồn thể: 湯包; bính âm: tāngbao): một loại bánh bao lớn, có súp từ Dương Châu, chứa súp trong nhân khi ăn phải uống nước nhân trước sau đó ăn vỏ.
Đậu sa bao (tiếng Trung: 豆沙包; bính âm: dòushābāo; Mân Nam hay Tiếng Đài Loan: taosa bau) là một loại bánh bao có nhân đậu đỏ nhừ.
Liên dong bao (tiếng Trung: 莲蓉包; bính âm: liánróngbāo): một loại bánh bao có nhân hạt sen.
Nãi hoàng bao (tiếng Trung: 奶黃包; bính âm: nǎihuángbāo): nhân sữa trứng ngọt màu vàng. Nó còn được gọi là bánh bao kim sa (tiếng Trung: 流沙包; bính âm: Liúshā bāo).
Bánh bao chỉ (tiếng Trung: 芝麻包; Hán-Việt: chi ma bao; bính âm: zhīmabāo): loại bánh bao nhân mè đen nhừ.
Đại Bao (tiếng Trung: 大包; bính âm: dàbāo): loại bánh bao lớn có nhân trong suất dimsum của Đài Loan. Nhân bao gồm thịt lợn hoặc thịt gà băm và trứng luộc.
Bánh bao nướng (tiếng Trung: 烤包子; bính âm: kǎo bāozi, Hán Việt: khảo bao tử): Bánh bao nướng với hình dáng nhỏ xinh đã theo chân người Triều Châu đến Việt Nam từ rất lâu. Chiếc bánh giản dị, trông qua giống một chiếc bánh bao chiên nhưng nhân như bánh nướng và vỏ ngoài tựa bánh pía Sóc Trăng. Màu vàng cánh gián của vỏ thơm và nhân thịt đậm đà, bùi của trứng cút và ngũ vị hương. Từ "xíu páo" được xem như phiên âm tiếng Quảng Đông hoặc tiếng Phúc Kiến mà nó cũng du nhập vào phố người Hoa ở Malaysia và gọi là siew pau.
Bánh bao kẹp thịt (tiếng Trung: 刈包; bính âm: guàbāo): bánh bao kẹp thịt nổi tiếng của Đài Loan này là phiên bản châu Á của món bánh hamburger trứ danh của các nước phương Tây.
Thọ đào bao (tiếng Trung: 寿桃包; bính âm: Shòutáo bāo): bánh bao hình trái đào tiên. Loại bánh này sử dụng cho tiệc cưới, sinh nhật và mừng thọ người cao tuổi.
Già ly ngưu nhục bao (tiếng Trung: 咖喱牛肉包; bính âm: Gālí niúròu bāo): Bánh bao nướng nhân cà ri thịt bò
Kê tử bao (tiếng Trung: 鸡仔包; bính âm: Jī zǐ bāo): Nó là một loại bánh bao trong điểm tâm Quảng Đông. Kích thước và hình thức của bánh bao này tương tự như bánh bao xá xíu nhưng nhân chính là thịt gà, và có một số nhân phụ đi kèm như nấm hương, tôm, rau mùi, v.v.
Món bánh bao cũng trở nên phổ biến ở khắp các khu vực Đông Nam Á do người Hoa di cư.
Do lịch sử lâu đời. Cộng đồng người Hoa hải ngoại ở Malaysia, người Mã Lai đã sử dụng những chiếc bánh bao này biến tấu lại thành khẩu vị của riêng họ. Một dạng bánh bao đặc biệt của người Mã Lai (được gọi là "pau" trong tiếng Mã Lai) được làm từ cà ri khoai tây, cà ri gà hoặc cà ri bò tương tự như nhân của món cà ri Mã Lai. Một số biến thể có thêm trứng cút ở giữa, thêm vào đó là cà ri. Do tín ngưỡng Hồi giáo của hầu hết người Mã Lai, những chiếc bánh này là halal và không chứa thịt lợn. Người ta có thể tìm thấy các quầy hàng Mã Lai bán bánh bên đường, tại pasar malams (chợ đêm), trạm dừng nghỉ trên đường cao tốc và pasar Ramadans (chợ thực phẩm Ramadan).
Tương tự, ở Indonesia, món ăn này đã được tiếp nhận vào ẩm thực Indonesia thông qua sự hội nhập của văn hóa Trung Quốc. Nó đã được sử dụng thông qua tên Hokkien của bakpau. Ngoài nhân thịt, các biến thể địa phương bao gồm nhân ngọt như: sô cô la, khoai lang và mứt cam.
Do ảnh hưởng thuộc địa từ Indonesia, tại các siêu thị ở Hà Lan, người ta có thể dễ dàng tìm thấy "bapao" hoặc "bakpao" đông lạnh được bọc trong nhựa, làm sẵn để hâm nóng bên trong lò vi sóng. Nhân phổ biến nhất là thịt gà, mặc dù cũng có các biến thể thịt lợn và thịt bò. Thực phẩm này được phân loại theo văn hóa là một món ăn nhanh hoặc một món ăn nhanh. Hình thức tươi mới của món bún hấp này không được xuất hiện bên ngoài cộng đồng người Hoa trong nước.
Ở Philippines, phiên bản bánh bao của họ được gọi là "siopao" do những người nhập cư từ Trung Quốc (Sangleys) mang đến trước thời thuộc địa Tây Ban Nha với nhân bao gồm thịt viên, Adobo kiểu Philippines, cá ngừ và thịt lợn, đôi khi là sô cô la và phô mai.
Tại Thái Lan, bánh bao được biết với tên gọi là "salapao (tiếng Thái: ซาลาเปา) còn tại Campuchia bánh bao được gọi là numbao trong tiếng Khmer. Đây là một món ăn nhẹ phổ biến ở Campuchia và thường được tự làm hoặc bán ở các chợ đường phố.
Người Mông Cổ có một loại bánh bao với tên gọi là buuz. Nhân bánh được làm từ thịt cừu băm nhuyễn hay thịt bò được trộn cùng gia vị như hành tây, tỏi cùng một số thảo mộc khác. Người ta sử dụng thịt cừu là nguyên liệu chính, thay vì thịt heo hay hải sản. Loại thịt cừu này được lựa chọn tươi ngon để lúc hấp bánh tỏa mùi thơm. Nhân được trộn đều với gia vị rồi nhào vào lớp vỏ nhỏ đã được cán mỏng, nhân bánh Buuz đầy được nhồi đầy vào vỏ sau khi hấp chín. Vỏ bánh được làm từ bột, nhào kỹ theo kỹ thuật Mông Cổ rồi cán dẹp thành từng phần nhỏ. Khi ăn bánh Buuz, nên ăn lúc còn nóng là ngon và thơm nhất. Bánh Buuz thường được ăn với nước xốt cà chua.
Bánh bao tuy xuất phát từ Trung Hoa nhưng đã biến thể khi du nhập Việt Nam. Bánh bao của người Việt thường nhỏ hơn bánh bao Trung Quốc. Thành phần nhân cũng khác, thông thường thì có thịt heo xay, mộc nhĩ, nấm hương, miến, lạp xưởng, trứng chim cút hoặc trứng gà; đôi khi cũng sử dụng trứng muối. Ngoài ra, hiện nay bánh bao chỉ cũng là một món ăn bình dân và ngon. Với người Việt Nam, bánh bao là món điểm tâm sáng rất tiện lợi. Người ta có thể mua bánh bao ở nhiều nơi trên các vỉa hè, chợ hay quán dọc đường. Vẻ ngoài, bánh bao của người Việt có nhiều nét tương đối giống với bánh bao Trung Quốc nhưng kích cỡ nhỏ hơn và phần nhân thì khác.Thông thường thì phần nhân của bánh sẽ được làm từ thịt heo cả nạc lẫn mỡ xay nhỏ, nấm mèo, miến và còn có cả thêm trứng cút.
== Ghi chú == |
Cua bùn (danh pháp khoa học: Scylla serrata) là một loài cua có giá trị kinh tế cao sinh sống ở các khu vực thực vật ngập mặn. Loài này phân bố ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, được tìm thấy ở Nam Phi, xung quanh bờ biển của Ấn Độ Dương đến quần đảo Malay, cũng như từ miền nam Nhật Bản đến đông nam nước Úc, và tại miền đông Fiji và Samoa. Chúng chọn những gốc cây đước sú vẹt làm hang. Loài cua này thường được chọn làm nguyên liệu món cua sốt ớt nổi tiếng trong ẩm thực Singapore. |
Plombières là một loại kem của Pháp có thành phần gồm quả hạnh nhân được bóc vỏ, quả kirsch và kẹo.
Nguồn gốc của kem plombières còn đang gây tranh cãi. Không rõ liệu tên của nó có liên quan đến xã Plombières-les-Bains hay không. Một từ nguyên dân gian cho rằng món ăn lần đầu tiên được phục vụ cho Napoleon III khi ký Hiệp ước Plombières vào năm 1858; nhưng Marie-Antoine Carême đã cung cấp công thức nấu món "kem plombière" trong cuốn sách năm 1815 nhan đề Pâtissier royal parisien. Công thức nấu ăn tương tự có thể được tìm thấy trong các sách dạy nấu ăn khác của Pháp từ thế kỷ 19.Theo Pierre Lacam vào năm 1893, "kem plombière" lấy tên từ một dụng cụ được sử dụng để làm ra ra món này. Một lý thuyết từ nguyên tương tự từng được Joseph Favre đề xuất trong cuốn sách Dictionnaire universel de cuisine của ông, trong đó nói rằng "plombière là một từ đồng nghĩa với bombe, được sử dụng để nghiền các thành phần của món ăn". Các học giả khác cho rằng món tráng miệng này lấy tên từ cái khuôn dùng để ép kem.Kem Plombières còn được đề cập trong cuốn tiểu thuyết Splendeurs et misères des courtisanes do Honoré de Balzac xuất bản vào năm 1844.Không nên nhầm lẫn Plombières với kem Malaga, một loại kem vani ăn kèm với nho khô ngâm trong rượu Malaga hoặc rượu rum.Ở Liên Xô, plombir (tiếng Nga: пломбир) đã trở thành một món ăn phổ biến mà ngày nay vẫn còn thấy ở các quốc gia hậu Xô Viết. |
Mousse (tiếng Pháp nghĩa là 'bọt' ) là thực phẩm chế biến có cấu trúc với nhiều bọt khí kết hợp cho món mousse cấu trúc nhẹ, mịn, xốp. Mousse có thể thanh mịn hoặc béo đặc, tuỳ kỹ thuật chế biến. Mousse có thể là món mặn hoặc món ngọt. Mousses tráng miệng tiêu biểu thường làm với lòng trắng trứng đánh hoặc kem bông tuyết với hương vị chocolate hoặc trái cây nghiền nhuyễn. Mousse mặn có thể làm từ trứng luộc kỹ, cá hoặc gan. |
Baye-Baye (phát âm tiếng Tagalog: [ˈbaje ˈbaje]) là một món ăn của người Philippines được làm từ dừa non nạo trộn với gạo mới thu hoạch (pinipig) hoặc ngô và tạo hình thành những miếng chả. Nó là một đặc sản của Pavia, Iloilo.
== Tham khảo == |
Bún ốc là một đặc sản ẩm thực của người Hà Nội. Bún ốc có thể ăn nóng, chấm hoặc chan. Bún ốc nguội ăn chấm phù hợp vào mùa hè.
Không ai biết bún ốc có từ bao giờ, nhưng có điều chính xác rằng đó là một món thuần Việt nhất trong các món ăn thuần Việt. Bún ốc xuất xứ từ một vùng quê nào đó, rồi theo bước chân của những người dân tản cư lên kinh thành Thăng Long mà thành đặc sản.Người Hà Nội thường chọn những con ốc nhỏ hơn và dai hơn so với những loại ốc nước ngọt khác. Để làm một bát bún ngon, không thể thiếu những con ốc béo và tươi, không ngâm trong nước quá lâu. Họ chọn loại bún tốt ngon có sợi mì mỏng và trong. Bún ốc không chỉ có nước dùng, ốc và đậu phụ là những thành phần cơ bản mà còn gồm nhiều loại rau sống kèm.Mắm tôm và ớt là tùy chọn, mặc dù những người theo chủ nghĩa thuần túy như nhà văn Vũ Bằng vẫn khăng khăng thêm những thứ đó để có hương vị đậm đà hơn. Trong tác phẩm Món ngon Hà Nội ông có nhận định
"Đó là một thứ quà, có thể bảo là đã đạt được tới cái đích nghệ thuật ăn ngon của người Hà Nội. Ờ, ta cứ thử ngồi mà nghĩ thì có thứ quà gì lại lạ lùng đến như thế bao giờ? Chỉ mới trông thấy người đàn bà gánh hàng đi qua trước mắt, ấy thế mà ta đã bắt thèm rồi, bao nhiêu thóa tuyến đều như muốn làm loạn, không ngớt tăng cường nước miếng của ta…"Bún ốc Tây Hồ được biết đến từ lâu đã thành thương hiệu. Theo các bậc cao niên trong xóm Quảng Khánh (Quảng An, Tây Hồ) là nhờ vào những con ốc chất lượng được vớt từ Hồ Tây. Ốc phải thật béo và không được ngâm quá lâu. Bún được chọn từ làng Phú Đô ở huyện Từ Liêm, bởi lẽ sợi bún rất nhỏ, săn, không nhão và khi chan nước vẫn dai và dẻo mà lại không nát.
Nguyên tắc đầu tiên khi chọn các loại ốc nói chung là phải chọn ốc sống. Ốc mua về thường chưa thể ăn ngay, nên ngâm ốc qua đêm để nhả hết nhớt và chất bẩn ra nước ngâm dưới dạng vụn nhầy.
Ốc được luộc lên sau đó khều lấy thịt, bỏ vào xào săn cùng mỡ và gia vị, mắm, mì chính. Nước ốc làm nước dùng chan bún sau khi đã được ninh sôi, bỏ cà chua và các gia vị đặc trưng của món nước dùng bún ốc. Trong nước dùng chan bún ốc có bỏ xương ống lợn ninh cùng để nước thêm ngọt.
== Chú thích == |
Kaeng som hay gaeng som (tiếng Thái: แกงส้ม, Phát âm tiếng Thái: [keng xổm]) hay cà ri chua Thái là một món cà ri cá chua cay hay món súp với rau phổ biến tại miền Trung Thái Lan. Món cà ri này có hương vị chua đặc trưng, với hương vị của me (makham). Công thức nấu dùng đường thốt nốt (tiếng Thái: น้ำตาลปี๊บ, namtan pip) để nêm ngọt cà ri.
Một loại bột nhão gọi là nam phrik kaeng som được chuẩn bị làm cốt cho cà ri, nước và các thành phần được thêm vào. Chuẩn bị loại bột nhão này còn bao gồm mắm ruốc, hẹ tây và tất cả thành phần được nghiền với chày cối. Hỗn hợp này có thể được làm từ ớt đỏ khô và một loại làm từ ớt đỏ tươi. Một số công thức nấu cho rằng cần phải sử dụng loại ớt lớn, một số khác thì thích ớt hiểm.
Cá và tôm có thể được dùng như thành phần cơ bản. Loại cá ưa thích là loại cá vẫn giữ được độ chắc thịt sau khi nấu sôi, chẳng hạn cá lóc đồng hay các loại cá biển tương tự khác tại vùng duyên hải. Biến thể nguyên liệu dùng trứng cá. Kaeng som thường ăn kèm cơm nóng.
Các loại rau truyền thống được dùng gồm có chùm ngây (marum), đu đủ xanh, hoa so đũa (dok khae), bao gồm cả hoa so đũa đỏ biến thể trong kaeng som dok khae daeng. Cá loại rau địa phương khác dùng trong các phiên bản truyền thống chẳng hạn rau muống (phak bung) và rau rút (phak krachet).
Sau khi món ăn phổ biến hóa, hiện nay loại rau được ưa thích bao gồm bông cải trắng, củ cải trắng, cải bắp, cải thảo, cà rốt, đậu đũa và măng tây, cũng như cha om omelet.
Phiên bản sử dụng tôm thay thế cá phổ biến hơn; kaeng som với tôm và cha-om omelet hiện nay là món ăn tiêu chuẩn ở Thái Lan. Các loại khác có thể bao gồm dứa hoặc hải sản. Tuy nhiên, điểm chung là sữa dừa không được sử dụng trong món cà ri chua này.
Miền Nam Thái Lan sở hữu loại cà ri chua riêng, có tên địa phương kaeng som, nhưng ở những vùng khác tại Thái Lan gọi là kaeng lueang ("cà ri vàng") hay kaeng som phak tai ("kaeng som miền nam Thái") để phân biệt với miền trung Thái kaeng som. Khác biệt với miền trung Thái khi sử dụng bột me, trái assam (som kaek) và nước ép chanh để đạt được vị chua, nghệ vàng, tỏi, hẹ tây. Đặc điểm chính của biến thể miền Nam là sử dụng nghệ và có vị rất cay, chua và mặn.
Tại Kelantan, tiểu bang Malaysia gần kề Thái Lan, món Kelantanese-Thái 'kaeng som no mai dong là một phiên bản kaeng som với tre ngâm chua.
Ẩm thực Lào có món kaeng som với nguyên liệu khác biệt; một phiên bản có thịt lợn và kaeng som pla là món súp cá chứa sả và nấm.
Tại tỉnh Chonburi một phiên bản của kaeng som sử dụng chanh Thái để tạo vị chua và cà tím Solanum aculeatissimum (tiếng Thái: มะเขือเปราะ; makhuea pro).
Tại tỉnh Prachuap Khiri Khan, biến thể món ăn sử dụng ớt tươi và hương nhu tía (กะเพรา), một loại lá húng quế.
Kaeng som kai wan giống như kaeng som với thịt gà thay thế cá. |
Đây là danh sách các thương hiệu kem đáng chú ý. Kem lạnh là một món tráng miệng đông lạnh, thường được làm từ các sản phẩm sữa như sữa và kem, và thường được kết hợp với trái cây hoặc các thành phần và hương vị khác. Tuy nhiên, không phải tất cả các món tráng miệng đông lạnh có thể được gọi là kem.
Abbott's Frozen Custard (Mỹ)
Amul (Ấn Độ)
Australian Homemade (Hà Lan)
Arun Icecreams (Chennai, Ấn Độ) |
Macaron ( mak-ə-RON; tiếng Pháp: [makaʁɔ̃])
hay bánh macaroon Pháp ( mak-ə-ROON)
là một loại bánh ngọt dựa trên bánh trứng đường. Macaron được làm từ lòng trắng trứng, đường bột, đường hạt, bột hạnh nhân, và màu thực phẩm.
Theo truyền thuyết, macaron được tổ chức đã được giới thiệu ở Pháp bởi đầu bếp người Ý của nữ hoàng Catherine De Medici trong thời Phục hưng. Từ thế kỷ 19, một chiếc bánh macaron kiểu Paris điển hình được trình bày với ganache, bơ hoặc mứt được kẹp giữa hai bánh như vậy, gần giống với bánh quy sandwich. Loại bánh này có đặc trưng là gồm hai miếng bánh tròn kẹp lại, vỏ bánh gợn nhám và phần đế phẳng. Bánh có độ ẩm nhẹ và dễ dàng tan chảy trong miệng. Macarons có thể được tìm thấy với nhiều loại hương vị khác nhau, từ truyền thống (quả mâm xôi, sô cô la) đến khác thường (gan béo, matcha).
Có một số biến thể trong việc sử dụng thuật ngữ macaron hay macaroon, và macaroon dừa (bánh dừa giòn) có liên quan thường bị nhầm lẫn với macaron. Ở Bắc Mỹ, hầu hết các thợ làm bánh đã sử dụng cách đánh vần macaron từ tiếng Pháp cho thực phẩm dựa trên bánh trứng đường để phân biệt hai loại này.
Giáo sư ngôn ngữ học của Đại học Stanford là Daniel Jurafsky mô tả làm thế nào hai bánh kẹo có một lịch sử chung với từ macaroni (maccheroni của Ý, từ tiếng Hy Lạp μακαρία). Jurafsky lưu ý rằng các từ tiếng Pháp kết thúc bằng "-on" được mượn sang tiếng Anh trong thế kỷ 16 và 17 thường được đánh vần là "-oon" (ví dụ: balloon, cartoon, platoon). Ở Anh, nhiều tiệm bánh vẫn còn sử dụng từ "macaroon".
Bánh macaron đã được sản xuất trong các tu viện tại Venice từ thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên trong thời Phục hưng. Đầu bếp bánh ngọt Pháp của Nữ hoàng Pháp Catherine de' Medici làm món này cho Nữ hoàng khi bà sang kết hôn với vua Henry II của Pháp.Theo Larousse Gastronomique, macaron được tạo ra vào năm 1791 trong một tu viện gần Cormery. Năm 1792, macarons bắt đầu nổi tiếng khi hai nữ tu Carmel, đã nướng và bán bánh quy macaron để trả tiền nhà khi tìm kiếm nơi tị nạn ở Nancy trong Cách mạng Pháp. Những nữ tu này được gọi là "Những người chị em Macaron". Trong những giai đoạn đầu này, những chiếc bánh macaron được phục vụ mà không có phần nhân hay hương vị đặc biệt.Mãi đến những năm 1930, macaron mới bắt đầu được làm thành hai miếng kẹp vào nhau, được cho thêm mứt, rượu mùi và hương liệu. Macaron như được biết đến ngày nay, bao gồm hai miếng bánh trứng đường tròn làm từ bột hạnh nhân, một lớp bơ dày, mứt quả hoặc ganache, ban đầu được gọi là "Gerbet" hoặc "macaron Paris" Pierre Desfontaines, từ cửa hiệu bánh ngọt Pháp Ladurée, thường được ghi nhận là người đã sáng tạo ra phiên bản macaron thời nay vào đầu thế kỷ 20, nhưng một thợ làm bánh khác, Claude Gerbet, cũng tuyên bố đã sáng tạo ra kiểu mới này. Tiệm bánh macaron của Pháp trở thành xu hướng ở Bắc Mỹ vào những năm 2010.
Nhiều sách dạy nấu ăn của Ý thế kỷ 16 đề cập đến bánh quy hạnh nhân gần giống với macarons, mặc dù dưới những tên khác nhau. Công thức được biết đến sớm nhất có từ đầu thế kỷ 17 và dường như được lấy cảm hứng từ một phiên bản tiếng Pháp của công thức.
Để làm những chiếc bánh macaron của Pháp
Rửa một pound hạnh nhân Jordan tươi nhất và ngon nhất từ 3 đến 4 nước, để loại phần đỏ của vỏ ngoài, ngâm qua đêm trong châu nước ấm, ngày hôm sau đem chần qua, lau khô bằng khăn bông, giã bằng cối đá cho đến khi mịn vừa, cho vào một nửa pound đường xay mịn, sau đó đập bẹt thành một khối bột nhão hoàn hảo. Sau đó cho vào một nửa tá nước hoa hồng Damaske tốt, ba hạt Ambergreece, khi bạn đã đập tất cả những thứ này lại với nhau, làm khô hỗn hợp trên một đống than bùn cho đến khi nó trắng và cứng lại, sau đó tắt lửa, cho lòng trắng của hai quả trứng đánh thành bọt, vì vậy hãy khuấy cho thật quyện với nhau. Sau đó trải bánh thật mỏng theo kiểu hàng dài nhỏ, và nướng trong Lò nóng như đối với Manchet, nhưng trước tiên phải để cho Lò nướng nóng lên trước khi bạn đặt bánh vào. Khi bánh chuyển sang màu trắng và sáng, hãy lấy ra khỏi Lò và đặt vào một đĩa ấm, và đặt bánh một lần nữa vào Lò nướng ấm và vì vậy hãy để bánh khoảng 4 đến 5 giờ, sau đó bánh sẽ được làm khô hoàn toàn, nhưng nếu thích bánh ẩm hơn, thì hãy làm khô bánh nhưng không phải sau lần nướng đầu tiên.
Có hai phương pháp chính để làm macaron - phương pháp "Pháp" và phương pháp "Ý". Sự khác biệt giữa hai kiểu là cách làm hỗn hợp lòng trắng trứng với đường.
Theo cách làm của người Pháp, lòng trắng trứng được đánh cho đến khi có hỗn hợp trứng đường bông cứng. Sau đó, rây, hạnh nhân nghiền và đường bột được gấp lại từ từ cho đến khi đạt được trạng thái bánh mong muốn. Quá trình loại bỏ không khí và gấp lại được gọi là macaronage.Phương pháp của Ý liên quan đến việc đánh bông lòng trắng trứng với một xi-rô đường nóng để tạo thành một meringue. Hạnh nhân rây và đường bột cũng được trộn với lòng trắng trứng sống để tạo thành một hỗn hợp sệt. Hỗn hợp dường trứng và bột hạnh nhân được trộn với nhau để tạo thành hỗn hợp macaron. Phương pháp này thường có cấu trúc nhẵn mịn hơn nhưng cũng ngọt ngào hơn và cũng cần một nhiệt kế kẹo dùng bơm xi-rô đường.
Hỗn hợp đường trứng của Ý hay Pháp có thể được kết hợp với hạnh nhân nghiền.Một chiếc bánh macaron được làm bằng cách kết hợp đường bột và hạnh nhân nghiền thành một hỗn hợp mịn. Trong một bát riêng, lòng trắng trứng được đánh thành một lớp đặc giống như meringue. Hai phần sau đó được gấp lại với nhau cho đến khi tạo thành trạng thái "bọt cạo râu", và sau đó được thổi, còn lại để tạo thành lớp vỏ đem nướng. Đôi khi, một loại nhân được thêm vào.
Ở Paris, cửa hàng bánh ngọt Pháp Ladurée nổi tiếng là nơi làm ra những chiếc bánh macaron chất lượng với cả những hương vị mới hay truyền thống. Có những cửa hàng nổi tiếng khác cũng làm macaron như Pierre Hermé và Fauchon. Ở Pháp và Úc, McDonald's cũng bán macaron trong McCafés.
Bên ngoài châu Âu, bánh còn có sức hấp dẫn ở Mỹ, Canada và Nhật Bản. Gần đây New York và Toronto đã chứng kiến sự tràn ngập của những cửa hàng macaron.
Macaron theo phong cách "Laduree" có thể được tìm thấy ở những nhà hàng, quán cà phê nổi tiếng tại Los Angeles Bottega Louie or Napoleon's Macarons.
Ở Úc, Adriano Zumbo và chương trình truyền hình Vua Đầu bếp Úc của ông đã góp phần đưa macaron trở nên phổ biến, và bánh của ông hiện được bán tại quầy McCafe trong cửa hàng McDonald's ở Úc. |
Tôm trắng Trung Quốc (Danh pháp khoa học: Fenneropenaeus chinensis) loài này trước đây còn được gọi là tôm đôi vì chúng thường vẫn bám từng đôi một, hay tôm trong do thân chúng trông trong suốt đây là một loài tôm trong họ Penaeidae, đây là loài giáp xác chân đốt, là một trong những nguồn hải sản quan trọng của Trung Quốc, vùng Hoàng Hải, Bột Hải.
Tôm Trung Quốc có đôi râu dài gầp đôi thân của nó dùng để cảm nhận tình hình chung quanh. Cơ ngực của nó rất khỏe, có khả năng bơi ra xa. Đuôi có hình quạt, dùng để giữ cân bằng cơ thể và để bật mạnh lao đi lúc tránh kẻ thù. Màu sắc của tôm có thể thay đổi theo tế bào sắc tố trong cơ thể chúng. Sắc tố này có màu đỏ khi gặp nhiệt độ cao, nên vào mùa nóng tôm có màu đỏ.
Chúng ngon thịt, giàu chất dinh dưỡng, là mặt hàng có giá trị kinh tế cao ở nhiều thị trường. Những con tôm con đến tháng 9 mới trưởng thành. Trong quá trình lớn lên, tôm con phải trải qua hơn 20 lần lột xác. Những con tôm đực trưởng thành trong năm đó sẽ giao phối với tôm cái và đến năm sau tôm cái mới mang thai và đẻ trứng.
Chúng có nguồn gốc từ vùng biển nóng. Vào mùa thu và mùa thu, nhiệt độ vịnh Bột Hải nóng ấm, tôm đến sống và sinh sản ở đó. Đến mùa đông, khi nhiệt độ xuống thấp dưới 10 độ C, cuộc sống bị đe dọa chúng đều di cư xuống vùng Hoàng Hải phía Nam để trú đông.
Tôm he di cư rất phân tán, thường không kiếm mồi, khả năng hoạt động không hảo.
Trong hơn 2 tháng sống dưới đáy biển mùa đông, khi nước ấm dần lên, sức hoạt động của tôm tăng lên, tuyến sinh dục phát triển. Vào cuối tháng 3, những con tôm di cư phân tán bắt đầu tập trung lại thành đàn lớn tiến quân về phương Bắc. Hành trình gần 1000 km, phải bơi mất 2 tháng trời, đến vùng biển nông sẽ phân tán ra đẻ trứng. Sau khi đẻ tôm cái vì phải trải qua một hành trình dài, phần lớn đều chết, chỉnh những con khỏe mới sống sót được.
Loại tôm này có thời vụ nuôi dài, có thể nuôi quanh năm ở vùng biển. Trung Quốc cũng xuất khẩu loại tôm này đến một số nước như Indonesia khiến đang e ngại sự tràn ngập của tôm đến từ Trung Quốc khiến giá sản phẩm trong nước giảm mạnh, phần lớn tôm he trắng trên thị trường nội địa đều được nhập từ Trung Quốc. |
Máy bán khoai tây chiên là một loại máy bán hàng tự động phục vụ khoai tây chiên kiểu Pháp, hay gọi ngắn gọn là khoai tây chiên. Chiếc máy bán khoai tây chiên đầu tiên được phát triển vào khoảng năm 1982 bởi công ty Precision Fry Foods Pty Ltd. ở Úc. Một số công ty sau đó đã phát triển và sản xuất các mẫu và máy bán khoai chiên. Một chiếc máy nguyên mẫu cũng được phát triển tại Đại học Wageningen ở Hà Lan.
“Shuttle insulation keeps machine cool, too”. Volume 67, Issues 11-15 (bằng tiếng Anh). Machine Design. 1995. tr. 50. A new french-fry vending machine works more like a hot-air corn popper than a deep fryer. One of the biggest challenges in designing the machine was insulating the oven ... [Một máy bán khoai tây chiên kiểu Pháp mới hoạt động trông giống như một chiếc máy nướng ngô bằng khí nóng hơn là nồi chiên ngập dầu. Một trong những khó khăn lớn nhất trong việc thiết kế máy là cách nhiệt lò ...] (cần đăng ký mua) |
Khoai tây lát mỏng (tiếng Anh: chips) là những miếng khoai tây thái mỏng đã được chiên giòn hoặc nướng cho đến khi giòn. Khoai tây lát mỏng thường được phục vụ như một món ăn nhẹ, món ăn phụ hoặc món khai vị. Những miếng khoai cơ bản được chế biến và tẩm ướp muối; những loại khác thêm vào được sản xuất bằng cách sử dụng các hương liệu và thành phần khác nhau bao gồm các loại thảo mộc, gia vị, pho mát, hương vị tự nhiên khác, hương vị nhân tạo và phụ gia. Khoai tây chiên chiếm thị phầnn lớn trong thị trường đồ ăn nhẹ và thực phẩm tiện lợi ở các nước phương Tây. Thị trường khoai tây chiên toàn cầu tạo ra tổng doanh thu 16,49 tỷ USD vào năm 2005. Con số thực tế chiếm 35,5% tổng thị trường đồ ăn nhẹ mặn trong năm đó (46,1 tỷ USD).
Vào thế kỷ 20, khoai tây chiên đã lan rộng ra ngoài các món ăn nhà hàng do đầu bếp nấu và bắt đầu được sản xuất hàng loạt để tiêu thụ tại nhà. Dayton, Công ty khoai tây chiên Mikesell có trụ sở tại Ohio, được thành lập vào năm 1910, được xác định là "công ty khoai tây chiên lâu đời nhất ở Hoa Kỳ".Thương hiệu Tri-Sum có trụ sở tại New England, được thành lập vào năm 1908 với tên gọi Leominster Potato Chip Company, tại Leominster, Massachusetts, tuyên bố là nhà sản xuất khoai tây chiên đầu tiên của Mỹ. |
Tôm hùm đá (Danh pháp khoa học: Panulirus homarus) là một loài trong Họ Tôm rồng phân bố tại Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Đây là loài tôm có giá trị kinh tế và được khai thác, đánh bắt.
Đây là một loài tôm cỡ lớn. Cá thể trưởng thành có chiều dài từ 20–25 cm, một số cá thể có thể đạt đến 31 cm và nặng từ 1,4 - 1,5 kg. Phiến gốc râu thứ nhất có 04 gai lớn nhất bằng nhau xếp thành hình vuông với 04 gai nhỏ và nhóm lông cứng ở giữa. Mặt lưng các đốt bụng có một rãnh, gờ trước có các rãnh ngang dạng khía tròn.
Tôm hùm đá sống phổ biến ở đáy cát pha bùn, ẩn trong các hốc đá vùng nước ven bờ, độ sâu từ 1 – 5m, có sóng đập. Loài này thường sống thành bầy khoảng 3 - bốn con và hoạt động mạnh về ban đêm. Mùa sinh sản khoảng tháng 4 đến tháng 6. tôm con thường tập trung ở các ghềnh đá ven bờ, ven các đảo. |
Sekihan (cơm đậu đỏ) là, gạo nếp trộn với đậu đỏ và đậu đũa rồi đem hấp .
Ở Hàn Quốc, món cơm này được gọi là Patbap (팥밥), trong khi tại Việt Nam nó gọi là xôi đậu đỏ .
Bên cạnh việc được sử dụng như một món ăn vào ngày lễ,vì giá trị dinh dưỡng cao, các sản phẩm cơm đỏ đóng hộp và đông lạnh chân không cũng rất phổ biến, cơm đỏ cũng được sử dụng trong khẩu phần khẩn cấp. Ngoài ra, "cơm nắm bằng cơm đỏ", "cơm trưa bằng cơm đỏ" thường được bán trong các cửa hàng tiện lợi, siêu thị và cửa hàng trong nhà ga như một loại thức ăn hàng ngày.
Ví dụ nấu cơm đỏ (khẩu phần cho 4 người = 3 bát gạo nếp, 60 g đậu đỏ, 5 cốc nước, lượng muối mè thích hợp)
Đậu đỏ được rửa qua và đun sôi một lần. Đun khoảng 30 phút cho đến khi mềm ra trong nồi với một lượng nước. Chắt nước đi và để nguội.
Rửa gạo nếp, cho vào rổ để ráo nước. Ngâm gạo nếp trong nước đun đậu đỏ trong khoảng 8 giờ.
Khi nồi hấp đã có hơi nước, dùng vải hoặc lưới phủ lên, vớt gạo nếp ra, cho vào giữa, dàn rộng ra. Thêm đậu đỏ vào rìa, đậy nắp và hấp trên lửa lớn.
Sau khoảng 10 phút, đổ nước đun đậu đỏ lên. Lặp lại quy trình này 3-4 lần. Hấp trên lửa cao trong khoảng 40 phút.
Chuyển cơm đỏ đã hấp sang mâm,lấy muôi trộn lại, bày lên đĩa, rắc muối mè lên.
== Chú thích == |
Hamburger pho mát hay Burger phô mai (tên tiếng Anh: Cheeseburger) là một loại hamburger với topping là pho mát. Theo truyền thống, miếng pho mát thường được đặt bên trên miếng thịt. Người ta thường cho thêm pho mát vào miếng thịt bò xay đang nấu trong thời gian ngắn (trước khi phục vụ), điều này tạo điều kiện cho pho mát tan chảy. Ngoài ra, hamburger pho mát cũng có những biến tấu khác nhau về kết cấu, thành phần hoặc là cách bố trí. Cũng giống như nhiều loại hamburger khác, một chiếc bánh hamburger pho mát có thể bao gồm các topping như xà lách, cà chua, hành tây, dưa chuột muối chua, thịt xông khói, sốt mayonnaise, tương cà và mù tạt.
Trong các nhà hàng thức ăn nhanh, pho mát sử dụng trong hamburger pho mát thường là loại pho mát đã qua chế biến. Các loại pho mát dễ tan chảy khác có thể được sử dụng để thay thế, đơn cử như cheddar, Thụy Sĩ, mozzarella, pho mát xanh, hay pepper jack.
Vào cuối thế kỷ 19, những đồng cỏ rộng lớn của Đại Bình nguyên Bắc Mỹ đã được mở ra để chăn thả gia súc. Điều này tạo điều kiện cho nhiều người Mỹ có thể tiêu thụ thịt bò gần như hàng ngày. Đến nay, bánh hamburger vẫn là một trong những nguồn thịt bò rẻ nhất ở Mỹ.Việc cho thêm pho mát vào bánh hamburger đã trở nên phổ biến vào cuối những năm 1920 đến giữa những năm 1930. Có một số tuyên bố cạnh tranh về việc ai đã tạo ra chiếc hamburger đầu tiên. Lionel Sternberger nổi tiếng là người giới thiệu món hamburger pho mát vào năm 1926, khi ông 16 tuổi. Ông đang làm đầu bếp chiên rán tại cửa hàng bánh sandwich ở Pasadena, California của cha mình, "The Rite Spot", và "đã thử nghiệm thả một miếng pho mát Mỹ lên bánh hamburger đang kêu xèo xèo." Thực đơn năm 1928 của nhà hàng O'Dell's ở Los Angeles là một trong những ví dụ đầu tiên về việc món bánh này xuất hiện trên thực đơn, trong đó họ bán một chiếc bánh hamburger pho mát tẩm ớt với mức giá 25 xu.Các nhà hàng khác cũng tuyên bố phát minh ra món hamburger kẹp pho mát. Ví dụ, Nhà hàng của Kaelin's ở Louisville, Kentucky, cho biết họ tạo ra món này vào năm 1934. Một năm sau, nhãn hiệu cho cái tên "hamburger pho mát" được cấp cho Louis Ballast của Humpty Dumpty Drive-In ở Denver, Colorado. Theo tài liệu lưu trữ của Steak'n Shake, thì người sáng lập ra nhà hàng, Gus Belt, đã đăng ký nhãn hiệu cho từ này vào những năm 1930.Bánh hamburger pho mát hấp, một biến tấu hầu như chỉ xuất hiện tại trung tâm Connecticut, được cho là đã ra đời tại một nhà hàng có tên Jack's Lunch ở Middletown, Connecticut, vào những năm 1930.Chiếc bánh hamburger pho mát lớn nhất từng được tạo ra nặng tới 2.014 pound (tương đương 914 kg). Nó được cho là chứa đến "60 pound (27 kg) thịt xông khói, 50 pound (23 kg) xà lách, 50 pound (23 kg) hành tây cắt lát, 40 pound (18 kg) dưa chuột muối chua cùng 40 pound (18 kg) pho mát." Kỷ lục này do Sòng bạc Gấu đen ở Minnesota thiết lập vào năm 2012, phá vỡ kỷ lục trước đó là 881 pound (400 kg).Tại Hoa Kỳ, Ngày Bánh hamburger pho mát quốc gia được tổ chức hàng năm vào ngày 18 tháng 9.
Các thành phần chế biến hamburger pho mát cũng giống như những biến tấu (theo vùng miền) khác của bánh hamburger, dù hầu hết đều bắt đầu bằng thịt bò xay. Các loại pho mát phổ biến mà người ta sử dụng để phủ trên món bánh là pho mát Mỹ, Thụy Sĩ hoặc các loại pho mát dễ tan chảy khác. Những topping phổ biến bao gồm xà lách, cà chua, hành tây, dưa chuột muối chua, thịt xông khói, bơ hoặc guacamole, nấm hoặc hành tây áp chảo, xốt pho mát hoặc ớt, và thậm chí còn nhiều hơn cả thế.
Một chiếc hamburger pho mát có thể chứa nhiều hơn một miếng thịt hoặc nhiều hơn một lát pho mát — điều này khá phổ biến (nhưng không phải tự dưng mà có), nhằm tăng số lượng theo cùng một tỉ lệ giữa pho mát và thịt. Loại bánh có hai miếng thịt sẽ được gọi là hamburger pho mát đôi; một cái hamburger pho mát tam có ba miếng, và một cái hamburger pho mát tứ có bốn miếng (dù loại này ít phổ biến hơn nhiều).Thỉnh thoảng, hamburger pho mát được chế biến với phần pho mát nằm bên trong thịt bò xay chứ không nằm ở phía trên. Đôi khi người ta gọi kiểu này là Jucy Lucy.
Theo truyền thống, món ăn này vi phạm luật kosher (tiếng Hebrew: כַּשְׁרוּת; kashrut) của Do Thái giáo vì kết hợp thịt bò xay và pho mát. Hỗn hợp sữa và thịt (tiếng Hebrew: בשר בחלב, basar bechalav, nghĩa đen là "thịt trong sữa") bị cấm theo luật tôn giáo Do Thái (tiếng Hebrew: הלכה; halakha), theo một câu trong Sách Xuất Hành, trong đó người Do Thái bị cấm "luộc dê [con] trong sữa mẹ" (Xuất Ê-díp-tô Ký. 34:26). Điều cấm kỵ này lại xuất hiện trong Sách Đệ Nhị Luật. Luật ăn kiêng này đã gây ra tranh cãi ở Jerusalem khi McDonald's bắt đầu mở cửa hàng nhượng quyền ở đó và bán bánh hamburger kẹp pho mát. Kể từ thời điểm đó, McDonald's đã mở cả nhà hàng ăn chay lẫn phi kosher ở Israel.Trong nỗ lực cung cấp món "hamburger kẹp pho mát kosher", một nhà hàng kosher ở thành phố New York đã tạo ra một biến thể hamburger pho mát gây tranh cãi khi thay thế pho mát bằng pho mát đậu nành.
Ngay từ năm 1937, chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh Big Boy đã lấy cảm hứng từ món bánh này để tạo ra một loại hamburger hai "tầng" mới. Mỗi "tầng" gồm có một miếng thịt bò, một lát pho mát cùng một vài loại rau sống. Sau đó, vào năm 1968, chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh McDonald's cũng lấy cảm hứng từ những ý tưởng của Big Boy để áp dụng lên loại bánh Big Mac của họ.
Henerson, Evan (ngày 23 tháng 6 năm 1999). “The Tale of the Cheeseburger”. San Gabriel Valley Tribune. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2003.
Nosowitz, Dan (ngày 6 tháng 7 năm 2018). “The Price of Cheeseburgers Has Gone Up”. Modern Farmer. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2019.
Gilad, Elon (ngày 16 tháng 8 năm 2018). “Can Jews eat cheeseburgers after all?”. Haaretz. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2019. |
Kẹo mè xửng là loại kẹo ngọt dẻo, được làm từ bột năng, mạch nha pha trộn lẫn với dầu lạc (dầu đậu phộng), có mè bao phủ xung quanh kẹo, được cắt từng miếng vuông nhỏ (bao giấy bóng nhỏ) gói trong hộp. Ở Huế, kẹo mè xửng là một trong những đặc sản mà người Tiều mang theo khi họ đến định cư tại khu vực Gia Hội vào thế kỉ 19, nay đã trở thành biểu tượng văn hóa của cố đô Huế.
Kẹo mè xửng có tên gọi theo nghĩa đen là kẹo da bò (tiếng Trung: 牛皮糖; Hán-Việt: ngưu bì đường; bính âm: Niúpí táng).
Nguồn gốc của loại kẹo này từ Dương Châu, Trung Quốc và đã theo chân người Hoa di cư tỏa đi khắp châu Á. Kẹo da bò được cho là có từ thời Càn Long nhà Thanh , phương thức sản xuất bị thất truyền do chiến tranh. Sau đó, nó được phát triển bởi các chuyên gia ẩm thực Dương Châu và các bậc thầy của triều đại nhà Đường để tìm ra phương pháp sản xuất kẹo da bò đã mất một thời, không chỉ để duy trì các công thức chế biến ban đầu mà còn để thực hiện những nỗ lực đổi mới trên cơ sở này. Sở dĩ gọi là kẹo da bò bởi khi trộn bột năng nhào dẻo cùng mạch nha thành kẹo và lúc cắt miếng kẹo rồi bẻ đôi, nó có độ dai và đàn hồi như da bò.
Khi du nhập vào Việt Nam, nhất là ở Huế vào thời nhà Nguyễn, kẹo được gọi là mè xửng. Đáng chú ý nhất, có một biến thể gọi là kẹo mè xửng giòn.
Từ mè xửng được cắt nghĩa gồm từ mè (vừng), xửng (cách hoán đường). Đây là sự suy diễn sai lầm do mấy luận văn, bài nghiên cứu đưa ra. Từ đó được phổ biến rồi coi là chân lí bởi được viết bởi một số nghiên cứu sinh. Xửng ở đây là cái xửng, nguyên nghĩa tiếng Nôm là cái vỉ tre. Xửng được bỏ vào nồi dùng để hấp xôi hay củ quả, rau đậu. Trong quá trình làm kẹo mè xửng, sau khi nấu (mạch nha, mật mía hay đường trộn với lạc rang bóc vỏ tách đôi) ra thành kẹo lỏng còn nóng, thì người ta đổ vào xửng tre đã có rải lớp dày những hạt mè rang chín lên trên. Mè xửng là món quà dân giã của xứ Huế, kinh đô phong kiến cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn ở Việt Nam.
Từ điển Tiếng Huế của tác giả Bùi Minh Đức (in lần thứ 3, 2009) mục "mè xửng" có ghi kẹo mè xửng có thể đã được bà Từ Dũ mang từ miền Nam ra với tên là "kẹo mè láu". Một cách lý giải khác cũng trong sách này nói "mè xửng" do biến âm của "mè thửng" mà nên. Thửng là một cách rang mè trộn đều để không bị cháy.
Tên gọi của kẹo mè xửng do hai yếu tố tạo thành bao gồm mè (vừng) và xửng (cách hoán đường thành chất dẻo cô đặc). Ngoài vừng còn có bột đậu, mạch nha, bánh đa..... Hoán đường cộng với gia giảm nguyên vật liệu là khâu quan trọng nhất. Nó làm nên các loại mè xửng khác nhau.
Mè xửng có độ dẻo đến mức có thể cuộn tròn hoặc bẻ gập thanh kẹo, nhưng bỏ tay ra nó lại trở về trạng thái ban đầu. Mè xửng giòn, thành phần bột đậu nhiều hơn, đường ít hơn, được bọc ngoài một lớp bánh đa nướng, ăn giòn tan trong miệng. Mè xửng gương, giơ lên ngắm thấy trong suốt như gương. Mè xửng đen gồm toàn vừng đen bùi và bổ.
Người dân xứ Huế có thói quen uống trà và ăn nhâm nhi thanh mè xửng, vừa thưởng thức vừa đọc sách.... Đây là một nét văn hóa rất Huế. Mè xửng đã trở thành một trong những biểu tượng văn hóa Huế. Kẹo này cũng thường đựợc dùng là quà biếu khi du khách đến Huế.
== Chú thích == |
Rượu chuối hột là loại rượu Việt Nam ngâm quả của loài chuối (gọi là "chuối hột" hay "chuối chát") có danh pháp khoa học được cho là Musa barjoo. Một số người sử dụng loại rượu này như thuốc chữa bệnh.
Để có được rượu chuối hột ngon thì trước tiên phải lựa chon loại chuối phải thật chín, thái mỏng rồi đem phơi nắng cho thật khô. Rượu ngâm phải dùng loại rượu cốt nguyên chất, cứ 1 kg chuối hột thì ngâm khoảng 2-2,5 lít rượu nguyên chất. Đồ ngâm rượu phải là dùng lọ thủy tinh, rửa sạch. Bỏ chuối vào,chuôi chiếm 1/3 lọ, rượu chiếm 2/3 lọ rồi đậy nắp kỹ, ngâm 100 ngày sau là sử dụng được.
Rượu chuối hột trong dân gian được dùng để trị bệnh sỏi thận, đau dạ dày.Uống rượu chuối hột giúp kích thích tiêu hóa, bổ thận lợi tiểu, chữa đau lưng mệt mỏi, trị biếng ăn, mất ngủ. Ngoài ra rượu chuối hột kết hợp với các vị thuốc khác có công dụng chữa được các loại bệnh như cảm sốt, táo bón, hắc lào... còn có tác dụng tăng cường sinh lý.
== Chú thích == |
S'more là một loại bánh kẹo bao gồm marshmallow và sô-cô-la nướng kẹp giữa hai miếng bánh quy giòn Graham. S'more rất phổ biến ở Hoa Kỳ và Canada, được nấu theo cách truyền thống trên lửa trại.
S'more là một sự nói ríu của cụm từ "some more". Một công thức S'more xuất hiện trong sách dạy nấu ăn Campfire Marshmallows vào đầu những năm 1920, nơi nó được gọi là "Graham Cracker Sandwich". Văn bản chỉ ra rằng món ăn này đã phổ biến với cả Hội Nam Hướng đạo và Hội Nữ Hướng đạo. Năm 1927, một công thức cho "Some More" đã được xuất bản trong Tramping and Trailing with the Girl Scouts. Các công thức nấu ăn trên báo bắt đầu xuất hiện vào đầu năm 1925.Thuật ngữ hợp đồng "s'mores" xuất hiện cùng với công thức trong một ấn phẩm năm 1938 nhằm vào các trại hè. Một công thức năm 1956 sử dụng tên "S'Mores" và liệt kê các thành phần là "một chiếc bánh sandwich gồm hai bánh quy giòn graham, kẹo dẻo nướng và ½ thanh sô-cô-la". Cuốn sách dạy nấu ăn Betty Crocker năm 1957 chứa một công thức tương tự với tên "s'mores".Ấn phẩm Intramural and Recreational Sports for High School and College năm 1958 đề cập đến "bánh mì nướng marshmallow" và "đi bộ đường dài" cũng như ấn phẩm tiền nhiệm có liên quan tới nó, Intramural and Recreational Sports for Men and Women, xuất bản năm 1949.
Theo truyền thống, S'more được nấu trên lửa trại, mặc dù chúng cũng có thể được làm tại nhà trên ngọn lửa của lò sưởi đốt củi, trong lò nướng, trên ngọn lửa của bếp lò, trong lò vi sóng, với bộ dụng cụ làm s'mores, hoặc trong máy ép panini. Marshmallow thường được giữ bằng xiên kim loại hoặc gỗ, được đun trên lửa cho đến khi có màu vàng nâu. Theo truyền thống, marshmallow dẻo nhưng không bị cháy, tuy nhiên, tùy thuộc vào sở thích của từng người và thời gian nấu, marshmallow có thể từ hơi ấm đến cháy thành than. Marshmallow nướng sau đó được kẹp giữa hai nửa chiếc bánh quy giòn graham và một miếng sô cô la (hoặc có sô cô la ở cả mặt trên và mặt dưới), giữa những chiếc bánh quy giòn Graham. Có thể thực hiện thêm một bước bổ sung, trong đó toàn bộ bánh sandwich được bọc trong giấy bạc và đun nóng để sô cô la tan chảy một phần.Các biến thể khác nhau có chứa bánh quy giòn Graham, sô-cô-la và kẹo dẻo thường được bán dưới dạng một số dẫn xuất của bánh s'more, nhưng chúng không nhất thiết phải được làm nóng hoặc phục vụ theo hình dạng giống như bánh s'more truyền thống. Thanh Hershey's S'mores là một ví dụ. Kellogg's Pop-Tarts cũng có nhiều loại s'mores. Ở Vương quốc Anh, thiếu bánh quy giòn Graham có thể dễ dàng ứng biến với bánh quy hỗ trợ tiêu hóa với một thanh sô cô la Cadbury. Thuốc tiêu hóa sô-cô-la có lợi thế lớn khi thiếu một miếng sô cô la. Các công thức nấu ăn hiện đại có thể thay thế các loại thực phẩm khác, chẳng hạn như khoai tây chiên, Nutella và Peeps, cho các nguyên liệu cổ điển. |
Ngày Kem làm Bữa ăn sáng (tiếng Anh: Ice Cream For Breakfast Day) là một ngày lễ không chính thức được cử hành vào ngày thứ Bảy đầu tiên trong tháng Hai khi một số người cố tình dùng kem làm bữa ăn sáng.
Ngày lễ này được Florence Rappaport phát minh ra vào một ngày mùa đông đầy tuyết trong thập niên 1960 ở Rochester, New York. Bản thân là một người mẹ có sáu đứa con, hai đứa con út của bà tên là Ruth (nay là Kristal) và Joe Rappaport chính là người đã truyền cảm hứng cho Florence vào một buổi sáng tháng Hai lạnh giá và đầy tuyết. Nhằm khiến chúng thích thú, Florence tuyên bố đây là Ngày Kem làm Bữa ăn sáng. Bà giải thích, "Trời lạnh và có tuyết và lũ trẻ phàn nàn rằng quá lạnh để làm bất cứ điều gì. Vì vậy, tôi chỉ nói, 'Hãy dùng kem làm bữa ăn sáng.'" Năm sau, chúng nhắc bà nhớ về ngày này và từ đó mở đầu truyền thống mới. Năm chính xác của ICFBD đầu tiên không được ghi lại, nhưng nhiều người suy đoán đó là năm 1966, khi một trận bão tuyết lớn ập đến Rochester vào cuối tháng Giêng, làm đổ nhiều lớp tuyết xuống Rochester và các trường học buộc phải đóng cửa. Khi anh chị em nhà Rappaport dần trưởng thành, họ cho tổ chức tiệc tùng và giới thiệu truyền thống này với bạn bè khi còn học đại học, và Ngày Kem làm Bữa ăn sáng bắt đầu lan rộng ra toàn nước Mỹ.
Ngày lễ này bắt đầu lan rộng khắp thế giới nhờ vào sự quảng bá của mấy đứa cháu nhà Florence vốn từng đi du lịch rất nhiều nơi. Lễ kỷ niệm đã được ghi nhận ở Nepal, Namibia, Đức, New Zealand và Honduras. Một số chỉ là lễ kỷ niệm gia đình nhỏ và số khác là các bữa tiệc lớn hơn. Ngày lễ này thậm chí còn được tổ chức ở Trung Quốc từ năm 2003 và được đăng trên ấn bản tiếng Trung của tạp chí Cosmopolitan và các tạp chí địa phương ở Hàng Châu, Trung Quốc.Ngày Kem làm Bữa ăn sáng đặc biệt phổ biến ở Israel. Tờ báo Haaretz của Israel lần đầu tiên đưa tin về ICFBD vào năm 2013 bằng tiếng Do Thái và sau đó là bằng tiếng Anh vào năm 2014. Năm 2020, tờ The Jerusalem Post đưa tin rằng khoảng 100.000 người ở Israel dự kiến sẽ tổ chức lễ kỷ niệm này.
Florence Rappaport và các con của bà không bao giờ tưởng tượng được ảnh hưởng của ngày lễ do họ tự làm sẽ lan rộng đến mức nào. Trong những năm gần đây, một số cửa hàng kem trên khắp nước Mỹ đã bắt đầu sử dụng Ngày Kem làm Bữa ăn sáng để gây quỹ từ thiện (và để thu hút một số khách hàng dưới thời tiết lạnh giá). Xem các liên kết để biết thông tin mô tả về các sự kiện gây quỹ cho các tổ chức từ thiện.
== Tham khảo == |
Bánh quy kẹp là một loại bánh quy được làm từ hai bánh quy mỏng hoặc bánh quy vừa với nhân ở giữa. Nhiều loại nhân được sử dụng, chẳng hạn như kem, ganache, kem bơ, sô cô la, pho mát kem, mứt, bơ đậu phộng, sữa đông chanh hoặc kem. |
Tteok (떡) (phát âm tiếng Hàn: [t ͈ ʌk]); cũng đánh vần ddeock, dduk, ddeog hoặc thuck chỉ một thể loại bánh truyền thống của người Hàn Quốc làm từ bột gạo nếp (tiếng Hàn Quốc gọi gạo này là chapssal). Một số loại tteok có thể làm từ bột gạo thường. Có hàng trăm loại khác nhau của tteok ăn quanh năm với vô số màu sắc, hương vị, hình dạng và nguyên liệu. Ở Hàn Quốc có tập quán ăn tteok guk (canh bánh tteok mặn) vào ngày Tết, tteok ngọt vào trong lễ cưới về lễ mừng sinh nhật. Một số nguyên liệu hay được dùng để chế biến tteok là đỗ xanh, kê, ngải cứu Triều Tiên, táo tàu và hoa quả khô khác, vừng, dầu ăn, đường, và hạt thông.
Tteok thường được chia ra làm 4 loại là bánh hấp (찌는 떡), bánh giã (치는 떡), bánh nhồi nặn và bánh rán. Loại bánh hấp dùng bột sống tạo hình xong sau đó đem hấp chín bằng nồi và chõ mà tiêu biểu là loại nồi siru (시루) nên đôi khi bánh tteok hấp còn gọi Sirutteok (시루떡). Bánh Tteok giã thường dùng gạo đồ chín rồi giã nhuyễn. Bánh Tteok nhồi nặn thì hấp chín bột sau đó mới nhồi nặn và tạo hình. Bánh tteok rán thì rán bằng chảo và dầu.
Bánh tteok hấp Sirutteok (시루떡):
Duteop tteok (두텁떡)
Baekseolgi (백설기)
Kongtteok (콩떡)
Jeungpyeon (증편)
Mujigae tteok (무지개떡)Bánh tteok giã:
Injeolmi (인절미): Pat injeolmi (팥인절미), Kkaeinjeolmi (깨인절미), Kkaeinjeolmi (깨인절미), Kkaeinjeolmi (깨인절미)
Garaetteok (가래떡; còn gọi hwin tteok, 흰떡)Bánh tteok bột nhồi nặn:
Kkul tteok (꿀떡)
Songpyeon (송편)
Gochitteok (고치떡)
Ssamtteok (쌈떡)
Dalgal tteok (닭알떡)
Gyeongdan (경단)
Bupyeon (부편)Bánh tteok rán:
Hwajeon (화전)
Bukkumi (부꾸미)
Juak (주악)Loại khác
Ssuk tteok (쑥떡)
Gaksaek pyeon (각색편)
== Tham khảo == |
Bánh flan hay gọi thẳng theo tiếng Việt là bánh lăng hay caramen (tiếng Pháp: crème caramel và flan au caramel) là loại bánh được hấp chín từ các nguyên liệu chính là trứng và sữa, caramel (đường thắng). Đây là một loại bánh xuất xứ từ nền ẩm thực châu Âu tuy hiện nay đã phổ biến tại nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, bánh flan thịnh hành tại các vùng đô thị như một đồ ăn tráng miệng, một thức quà được các bạn trẻ ưa thích.
Nguyên liệu để làm sản phẩm bánh flan chủ yếu bao gồm trứng (thường dùng trứng gà cho sản phẩm không bị tanh, trứng chủ yếu lấy lòng đỏ), sữa (có thể là sữa đặc có đường, sữa tươi, sữa bột), đường kính được thắng chuyển hóa thành caramen. Ngoài ra, nhiều địa phương, vùng miền còn sử dụng các nguyên liệu khác như bột mì, nước cốt dừa, dừa nạo, nước thạch trắng làm từ rau câu, kem lạnh, nước ép hoa quả; các phụ gia khác như nước cốt chanh, vani; và các loại hoa quả trang trí như thanh long, dâu tây, dứa v.v.
Thường không có một công thức cố định cho tỷ lệ sữa-trứng, dù tỷ lệ đó có tính quyết định đến chất lượng bánh (độ đặc mịn, không bị rỗ mặt, không vữa v.v.) phụ thuộc vào chất lượng trứng, loại sữa tươi, sữa bột hay sữa đặc có đường. Một số người nội trợ có thể sử dụng một công thức sữa đặc có đường được đong bằng một thể tích tương đương lượng trứng, hoặc nếu là sữa tươi thì tỷ lệ sữa và trứng là 3/1. Sữa đặc có đường cũng có thể được pha không chỉ với nước sôi mà còn có thể kết hợp với cả sữa tươi, sữa bột. Dưới đây là một công thức phổ thông:
Sữa đặc có đường loại hộp 380 gam: 1 hộp, được pha với 2 hộp nước sôi,
Trứng gà: 8 quả, lấy lòng đỏ của khoảng 5 quả và phần còn lại lấy cả lòng trắng và lòng đỏ,
3 thìa cà phê đường kính trắng để chưng caramen.
Sữa đặc có đường trút ra bát to và dùng luôn hộp đó đong 2 hộp nước nóng để pha sữa. Nếu dùng sữa tươi làm nguyên liệu chính thì 1 hộp trứng tương đương 3 hộp sữa, tuy rằng sữa tươi có thể còn phải được bổ sung thêm sữa bột để cho thành phẩm đặc hơn, và đường được gia cho đủ độ ngọt nếu đó là sữa tươi không đường. Một số người nội trợ phối trộn luôn kem, nước cốt dừa, nước ép hoa quả các loại, vani, nước thạch rau câu v.v. vào sữa ngay ở công đoạn này và khi đó có thể giảm lượng sữa. Nếu muốn sản phẩm ngọt hơn có thể cho thêm đường vào sữa đã pha.
Toàn bộ trứng gà được đập ra lấy lòng đỏ, hoặc để tiết kiệm và thành phẩm đặc mịn hơn, có thể để lại vài quả dùng cả lòng trắng. Dùng dụng cụ đánh tan trứng nhẹ tay để hạn chế bọt. Lọc trứng qua rây để lược bỏ các sợi, phôi có bên trong trứng. Thật nhẹ tay trút tô trứng đã đánh tan vào sữa để cho sản phẩm không bị nổi nhiều bọt, dùng thìa khuấy trộn nhẹ nhàng.
Thắng đường: Đun đường trong chảo cho đường sôi chảy, bốc khói xanh và ngả màu cánh gián thì cho chút ít nước nóng, có thể vắt tí nước cốt chanh, tắt bếp, trút nhanh caramen vào khay kim loại sẽ đựng bánh, láng caramen tạo một lớp mỏng dưới đáy khay và đợi một chút cho caramen đông kết.
Trút toàn bộ hỗn hợp đã phối trộn ở trên vào các khay kim loại thật nhẹ nhàng để tránh cho caramen tan hòa vào sữa. Cho khay nguyên liệu vào hấp cách thủy hoặc sử dụng lò vi sóng để làm chín sản phẩm. Nếu nguyên liệu được hấp cách thủy, người nội trợ phải thường xuyên lau vung nồi sau khoảng 10-15 giây để hơi nước ngưng tụ trên nắp vung không nhỏ giọt vào khay khiến bánh bị đọng nước, rỗ mặt. Sau một thời gian hấp, thường 15-40 phút tùy độ dày của hỗn hợp trong khay, kiểm tra thấy bề mặt hỗn hợp trơn láng, không loãng, dùng que xiên sâu vào bề mặt thấy hỗn hợp không dính que là thành phẩm đã chín.
Đôi khi, đường thắng được thay bằng nước cà phê, tạo cho sản phẩm một sắc thái và hương vị mới khá đặc biệt.
Bánh flan cũng còn có biến thể đồ chay không dùng trứng.
Crème brûlée - bánh flan với caramen được đốt hơi cứng và có thêm vị đắng của đường khi đốt
Crema catalana - Crème brûlée của ẩm thực Tây Ban Nha
Bánh flan thường được ăn nguội bằng cách để lạnh trong tủ lạnh trước khi ăn. Bánh được trút lên đĩa để phần có đường thắng màu cánh gián trên miếng bánh quay lên trên. Người nội trợ có thể trang trí sản phẩm bằng vài lát hoa quả và dùng thìa xúc ăn. Sản phẩm ngon nhất khi có độ đặc mịn, không khô, không bị rỗ mặt và không bị vữa.
Alan Davidson, The Oxford Companion to Food, 1999. ISBN 0-19-211579-0. |
Melonpan (メロンパン, meronpan) (còn được gọi là bánh mì dưa lưới hoặc bánh ngọt dưa lưới, bánh dưa lưới) là một loại Bánh ngọt phổ biến từ Nhật Bản. Chúng được làm từ một loại bột được phủ trong một lớp bột bánh quy giòn. Ngoại hình của chúng giống như một quả dưa, chẳng hạn như dưa lưới (dưa đỏ). Chúng không có hương vị dưa truyền thống, nhưng trong thời gian gần đây, nó đã trở nên phổ biến đối với các nhà sản xuất để thêm dưa vào bánh mì dưa. Có nhiều biến thể khác nhau, bao gồm bánh melon với một ít sô cô la vụn giữa lớp bánh quy và lớp bột nhào được làm giàu, và các phiên bản không phải dưa có hương vị caramel, xi-rô phong, sô cô la, hoặc các hương vị khác, đôi khi với xi-rô, kem hoặc kem có hương vị, hoặc sữa trứng nhưng phổ biến nhất vẫn là kem custard dưa lưới. Trong trường hợp có các biến thể như vậy, tên có thể bỏ từ "dưa lưới hoặc có thể giữ nó mặc dù thiếu hương vị dưa ("pan dưa sô cô la").
Tên này có một từ nguyên học song ngữ, vì dưa là một từ mượn từ tiếng Anh, trong khi pan là từ tiếng Bồ Đào Nha cho bánh mì.
Ở các khu vực của vùng Kinki, Chūgoku và Shikoku, một biến thể với mô hình vạch phát xạ được gọi là "mặt trời mọc", và nhiều cư dân của các vùng này gọi cả chảo dưa chéo là "mặt trời mọc".
Một thời gian sau năm 1917, Okura Kihachiro đã mang một thợ làm bánh người Armenia, Hovhannes (Ivan) Ghevenian Sagoyan đến Tokyo từ Cáp Nhĩ Tân. Sagoyan làm việc tại khách sạn Imperial ở Tokyo và phát minh ra melonpan .
Tại Hàn Quốc, soboro-ppang (소보로 빵), hoặc Gombo-ppang (곰보 빵), thường được dịch là bánh mì soboro , bánh ngọt soboro, soboro bun được coi là biến thể từ melon pan Nhật Bản với một lớp vỏ trên giống như streusel (thuật ngữ ám chỉ lớp hỗn hợp vụn thường là các loại hạt (nuts) trộn với bơ, và bột rồi rắc lên, khi nướng sẽ rất thơm) phổ biến ở Hàn Quốc. Bánh được làm từ bột mì, đường, trứng, bột năng và được nướng giòn với bề mặt sần sật bên trên. Từ "soboro" là một từ tiếng Nhật dùng để chỉ phần trên cùng của bánh mì, thường được làm với bơ đậu phộngnhư một thành phần chính. Soboro dùng để chỉ thịt hoặc cá được chiên và băm trong tiếng Nhật (そぼろ), giống như phần nhân trên bánh mì.
Công thức Melon Pan |
Fromage blanc (UK: ; phát âm tiếng Pháp: [fʁɔmaʒ blɑ̃]; hay còn được biết đến với cái tên maquée) là một loại pho mát tươi có nguồn gốc xuất xứ từ phía Bắc nước Pháp và phía Nam nước Bỉ. Cái tên này có nghĩa là "pho mát trắng" trong tiếng Pháp. Fromage frais ("pho mát tươi") khác so với fromage blanc
trong đó, theo pháp luật của Pháp, fromage frais phải chứa vi khuẩn sống khi bán, trong khi với fromage blanc, quá trình lên men đã bị ngưng lại.Fromage blanc là một loại phô mai mềm được làm từ sữa nguyên chất hoặc tách béo và kem. Đây là một chất bán lỏng, dạng kem, sệt. Fromage blanc nguyên chất hầu như không chứa chất béo, nhưng kem thường được thêm vào để tăng thêm hương vị, điều này cũng làm tăng thêm hàm lượng chất béo, lên tới 8% tổng trọng lượng.Fromage blanc có thể được phục vụ như món tráng miệng tương tự như sữa chua, thường được thêm trái cây, phết lên bánh mì, làm mứt hoặc dùng trong các món mặn. Ở nhiều nước phương Tây, fromage blanc được bán trong siêu thị cùng với sữa chua. |
Thô miến là một loại mì Trung Quốc thường được sử dụng trong các nhà bếp ở miền Bắc Trung Quốc. Nó cũng có thể được tìm thấy ở Hồng Kông cũng như trong các nhà hàng ở các vùng khác của Trung Quốc chuyên về ẩm thực của miền Bắc đất nước này.
Những sợi mì này được làm bằng bột mì và nước. Một biến thể nổi tiếng là Thô miến Thượng Hải (tiếng Trung: 上海粗麵; bính âm: Shànghǎi Cu Mian). |
Granita (phát âm [ɡraˈniːta]; trong tiếng Ý cũng có nghĩa là granita siciliana [ɡraˈniːta sitʃiˈljaːna]) là một món tráng miệng bán đông lạnh được làm từ đường, nước và các loại hương liệu khác nhau. Ban đầu xuất phát từ Sicilia, món này hiện diện trên khắp nước Ý dưới nhiều hình thức khác nhau. Các thành phần hương liệu thông thường và truyền thống bao gồm nước chanh, cam quýt, hoa nhài, cà phê, hạnh nhân, bạc hà, và khi vào mùa dâu rừng và dâu tằm đen.
Granita vốn có liên quan đến sorbet và kem Ý; thế nhưng ở hầu hết vùng Sicilia, món này sở hữu kết cấu mịn hơn, kết tinh hơn. Nhà văn chuyên về ẩm thực Jeffrey Steingarten nói rằng "kết cấu mong muốn có vẻ khác nhau giữa các thành phố" trên đảo; ở bờ biển phía tây và ở Palermo có mức cao nhất, và ở phía đông thì kết cấu của món này gần bóng láng y như sorbet.Đây phần lớn là kết quả của những kỹ thuật đông lạnh khác nhau: loại mịn hơn được sản xuất trong máy làm gelato, trong khi loại thô hơn được đông lạnh chỉ thỉnh thoảng khuấy đều rồi đem cạo hoặc bào sơ để tạo ra các tinh thể tách rời. Mặc dù kết cấu của món này thay đổi từ thô đến mịn, nhưng luôn khác với kem ở chỗ là kem đặc hơn và so với sorbet thì có phần nhỏ hơn; điều này làm cho granita trở nên khác biệt và độc đáo.
== Tham khảo == |
Xa lát theo kiểu Nice (tiếng Pháp: salade niçoise) là một món xà lát gồm cà chua, cá ngừ, trứng luộc già, ô liu vùng Nice và cá cơm biển, trộn với dầu giấm. Nó thường được bày vào đĩa, bát, có hoặc không có xà lách lót bên dưới. Cá ngừ có thể được nấu hoặc dùng loại đóng hộp.
Ngoài các thành phần kể trên, món xa lát này có thể có thêm ớt chuông, hành khô và hoa atisô sống. Trái ngược với những gì được phục vụ ở các quán ăn, theo một số nguồn thì ngoại trừ đậu xanh và khoai tây, món xa lát này không gồm rau củ nấu chín, cơm, đậu đũa. Tuy nhiên món ăn không có một công thức chính thức, do vậy mỗi đầu bếp có thể quyết định công thức riêng của mình.
Món xa lát này theo truyền thống thường được khuyên dùng với vang hồng, vang trắng hoặc vang đỏ.
== Chú thích == |
Bánh bò là một loại bánh có xuất xứ và phổ biến tại Việt Nam. Bánh bò là một loại bánh xốp làm từ: bột gạo, nước, đường và men. Mặt bánh có rất nhiều bong bóng nhỏ do có nhiều lỗ khí trong bánh. Loại bánh bò ở Trung Quốc được gọi là bạch đường cao (tiếng Trung: 白糖糕; bính âm: Báitáng gāo) - nghĩa là "bánh đường trắng" hoặc bánh Phát Tài (tiếng Trung: 芙蓉糕; bính âm: Fācái gāo); loại bánh bò này hơi chua và bỏ qua thành phần dừa - một thành phần không thể thiếu trong bánh bò ở Việt Nam. Bánh bò nói chung được ăn như món tráng miệng hoặc ăn với chả,...
Theo tự điển Đại Nam quốc âm tự vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của, bánh này có tên "bánh bò" là vì nó "giống cái vú con bò". Tuy nhiên, có người giải thích rằng, trong quá trình ủ bột với men, bột sẽ "bò" lên trên vành tô bột.
Bánh bò nướng: loại bánh được thực hiện bằng phương pháp nướng từ bột nhào len mên dạng rắn, thường được làm với kích thước lớn, và khi ăn được cắt thành miếng tam giác. Bên trong hơi vàng hoặc trắng, phần mặt và rìa có màu vàng (nâu) do nước cốt dừa cháy, giòn. Loại bánh này được ăn riêng.
Bánh bò hấp: là loại bánh hấp không có thành phần nước cốt dừa trong bột lỏng. Những chiếc bánh loại này thường có dạng tròn nhỏ với nhiều màu trắng (không pha màu), vàng (từ đường thốt nốt), hồng hoặc tím (màu từ lá cẩm), xanh lá (từ lá dứa). Đôi khi, loại bánh hấp này cũng được làm thành mảng lớn và cắt nhỏ thành miếng tam giác hoặc chữ nhật như bánh bò nướng. Loại bánh này có thể được ăn riêng hoặc ăn kẹp với bánh tiêu hoặc ăn trong dĩa với nước cốt dừa rắc muối mè.
Bánh bò sữa (nướng) là một dạng bánh mới, xuất hiện từ khoảng thập niên 2000. Thành phần nước cốt dừa truyền thống được thay bằng sữa. Cũng như bánh bò hấp, bột bánh ở dạng lỏng. Bánh được làm chín bằng phương pháp nướng chảo.
Bánh bò dừa là dạng bánh mới nhất được ghi nhận cuối thập niên 2000, có xuất xứ không rõ. Loại bánh này khác biệt hẳn so với các loại trên ở điểm bánh không còn tơi xốp với nhiều bóng khí. Bánh này khá dai, có khi chai cứng trong một lớp vỏ nhẵn mịn. Khác biệt lớn nhất so với bánh truyền thống là phần bột bánh dạng lỏng được làm từ bột mì, bột nổi và trứng gà. Bánh được nướng bằng một loại khuôn đặc trưng gọi là khuôn chuồn chuồn để được dạng trụ rỗng. Khi lớp vỏ trụ chín, người làm cho vào lòng khuôn dừa sợi đã sao với đường và đậu xanh rồi đổ bột tiếp lên mặt trên và lật khuôn nướng tiếp. Thành phẩm là có dạng trụ tròn hoặc tròn dẹp như bánh crêpe.
Trong ẩm thực Nam Ấn có loại bánh idli có cách làm tương tự nhưng idli không có vị ngọt. |
Chuối nướng hay còn gọi là chè chuối nướng, là một món ăn bắt nguồn từ tỉnh Bến Tre lan ra khắp các tỉnh miền Tây rồi đến Sài Gòn.
Đây là một món ăn đường phố có vị ngọt của chuối thêm vị béo của nước dừa nướng trên bếp than đỏ hồng toả ra mùi thơm đánh thức vị giác của người đi đường.
Ờ Sài Gòn, rất ít nơi bán chuối nướng cố định vì chuối nướng thường được bán trên các xe đẩy đi khắp ngỏ ngách, đường phố Sài Gòn.
Nguyên liệu làm món chuối nướng rất đơn giản: chuối sứ chín, gạo nếp, trái dừa khô lớn, bột báng, đậu phộng rang vàng giã nhỏ, lá chuối hoặc giấy bạc.
Nấu nước dừa bột báng:
Bột báng đem ngâm nước, cho lên bếp nấu với chút nước cho bột hơi nở mềm là vừa, trút ra rổ. Vắt lấy nước cốt dừa, hòa sẵn nước với bột năng sền sệt, cho nước cốt dừa lên bếp nêm muối muối,đường, nước dừa sôi nhẹ cho chén bột vào khuấy đều, cho tiếp bột báng vào sôi nhẹ bắc xuống, cho vào chút bột vani, bạn chú ý chế biến nồi nước dừa này sao cho hơi sền sệt, bột báng không nở to quá, có vị hơi mặn một chút và không ngọt lắm mới thấy đựợc vị béo ngậy, mới đúng là nước dừa của chuối nướng
Chuối bóc vỏ gỡ sạch lụa, cắt đầu đen.
Vo nếp rồi nấu, cơm nếp chín để nguội, lấy dừa nạo cho vào nếp.
Trái chuối sau khi lột vỏ, cắt gọt những chỗ thâm đen thì được gói lại trong lớp nếp mỏng, bọc bên ngoài là lá chuối. Sau đó, đem thành phẩm này nướng trên bếp than. Sau vài phút, trái chuối bọc nếp sẽ chín vàng. Gỡ lớp lá chuối bị cháy ra, bỏ trái chuối vào dĩa, cắt thành từng lát rồi rưới lên đó lớp nước dừa cho mềm môi, và đừng quên những hạt đậu phộng giòn tan béo bùi.
== Tham khảo == |
Kem Đường Đá (tiếng Anh là Rocky road ice cream) là một loại kem có hương vị sô cô la. Mặc dù có các biến thể từ hương vị ban đầu, nhưng theo truyền thống, nó bao gồm kem sô cô la, các loại hạt, và kẹo dẻo nguyên hạt hoặc hạt lựu. Theo một nguồn tin, hương vị được tạo ra vào tháng 3 năm 1929 bởi William Dreyer ở Oakland, California khi ông cắt quả óc chó và kẹo dẻo bằng kéo cắt của vợ và thêm chúng vào kem sô cô la của mình theo cách giống như bạn ông là ông Joseph Edy kết hợp quả óc chó và miếng kẹo dẻo. Sau đó, quả óc chó sẽ được thay thế bằng những miếng hạnh nhân nướng. Sau vụ sụp đổ ở Phố Wall năm 1929, Dreyer và Edy đã cho hương vị này tên hiện tại của nó: "để mang đến cho mọi người một nụ cười về cuộc đại khủng hoảng." Ngoài ra, Fentons Creamery ở Oakland tuyên bố rằng William Dreyer với công thức của mình dựa trên hương vị kem theo phong cách Rocky Road được phát minh bởi người bạn của ông, George Farren, người đã pha trộn thanh kẹo theo phong cách Rocky Road của riêng mình vào kem. Tuy nhiên, Dreyer đã thay thế hạnh nhân cho quả óc chó.Kem Đường Đá ban đầu sử dụng kem sô cô la không có mảnh sô cô la nhỏ.
Recipe |
Măng chua hay măng muối chua là sản phẩm muối chua từ măng của các loài tre như tre mỡ (danh pháp khoa học: Bambusa vulgaris) cùng với một số nguyên liệu khác như ớt, tỏi, hạt dổi...
Măng chua là sản phẩm ẩm thực đặc trưng ở miền Bắc Việt Nam.Măng chua chủ yếu được làm từ măng tre. Ngoài ra, các loại măng bương, nứa, sặt, trúc cũng có thể là nguyên liệu để chế biến măng chua. Để làm măng chua thì tốt nhất là dùng măng củ, nhưng cũng có thể dùng măng dóng.Hệ vi sinh vật có trong măng chua rất đa dạng, bao gồm Lactobacillus chiếm ưu thế (L. cellubiosus, L. plantarum, L. fermentum, L. brevis, L. mesenteroides), bên cạnh đó là rất nhiều loài vi khuẩn lactic (LAB) khác như Pediococcuspentasaceous, , Lactococcus lactis, Enterococcus faecium... Các vi sinh vật này ngoài việc giúp cung cấp dinh dưỡng, còn giúp khôi phục sự cân bằng hệ vi sinh tự nhiên trong cơ thể người. Nhóm LAB có vai trò thiết yếu trong khả năng lên men và bảo quản sinh học của măng chua.
Đầu tiên, măng được rửa sạch, nếu là măng dóng thì rửa sạch cả lớp phấn trong lòng cây măng và để ráo nước rồi thái mỏng hoặc đập dập, cũng có thể nạo thành sợi nhỏ. . Sau đó măng được lèn kỹ vào các chum và bịt kín, để nơi thoáng mát, tránh ánh nắng mặt trời. Khoảng 2 đến 3 ngày giở ra lèn kỹ lại. Sau khoảng môt tuần, măng có mùi thơm và vị chua là ăn được.
== Tham khảo == |
Salad trứng là một phần của món truyền thống là salad trộn có chứa protein trộn với gia vị là các loại rau thơm, gia vị, và các thực phẩm khác, và bắt buộc phải có sốt mayonnaise. Các món tương tự bao gồm salad gà, salad cua, salad thịt heo, salad tôm hùm, và salad cá ngừ.Salad Trứng thường được dùng làm nhân bánh sandwich, thông thường được làm bởi trứng luộc sắt lát, mayonnaise, mù tạt, cần tây bằm và củ hành, muối, tiêu đen, và ớt bột. Nó cũng thường được dùng làm topping cho các món salad.
Salad Trứng có thể được thực hiện sáng tạo bằng cách thêm vào bất kì loại thức ăn lạnh nào. Thịt xông khói, ớt, bạch hoa, pho mát, dưa chuột, hành tây, rau diếp, dưa ướp da vị, và dưa muối là các nguyên liệu bổ sung tường dùng.Một món gia vị liên quan mật thiết đến món này là sốt mayonnaise, trong đó trứng luộc sắt lát được trộn chung với mayonnaise.Một biến thể phổ biến tại Nga và nước Xô viết là Salad Olivier. |
Halo-halo hoặc Haluhalo (Tagalog: [haluˈhaloʔ], có nghĩa là "trộn cùng nhau") là một món tráng miệng phổ biến của Philippines, bao gồm sữa, sữa đặc trộn với hoa quả, rau củ và đá bào ướp lạnh. Halo-halo được coi là món tráng miệng không chính thức của Philippines. Thuật ngữ "halo-halo" theo nghĩa đen có nghĩa là "hỗn hợp" trong tiếng Anh. Cách gọi này dùng để mô tả bất kỳ đồ vật hoặc tình huống nào được tạo thành từ một nhóm nguyên liệu đầy màu sắc.
Nguồn gốc của halo-halo bắt nguồn từ những người Philippines gốc Nhật trước chiến tranh và món tráng miệng kakigōri của Nhật Bản. Một trong những phiên bản đầu tiên của halo-halo là mongo-ya (trong tiếng Nhật) chỉ bao gồm đậu xanh (tiếng Tagalog: monggo hoặc munggo, được sử dụng thay cho đậu azuki của Nhật Bản), luộc và nấu trong xi-rô (minatamis na monggo), được đặt trên đá bào với sữa và đường. Theo thời gian, nhiều công thức địa phương đã được thêm vào, dẫn đến việc phát triển halo-halo. Một điểm khác biệt giữa halo-halo và món gốc của nó ở Nhật Bản là vị trí các nguyên liệu chủ yếu nằm dưới lớp đá bào thay vì ở trên. Bản gốc monggo con hielo loại này vẫn có thể được tìm thấy hiện nay cùng với các biến thể tương tự như sử dụng ngô ngọt (maiz con hielo) hoặc chuối saba (saba con hielo).
Một số tác giả đặc biệt cho rằng halo-halo là do những người Nhật Bản di cư mang vào những năm 1920 hoặc 1930 ở chợ Quinta của Quiapo, Manila, do nó nằm gần Nhà máy nước đá Insular, là nguồn cung cấp đá bào chính của Quiapo.Nhãn hàng được xem là lâu đời nhất vẫn còn buôn bán đến nay là Aling Taleng’s Halo-halo từ năm 1933. Ngoài cách làm halo-halo truyền thống, công thức của họ kết hợp các thành phần khác như: báng, leche flan, đậu mongo, dừa sáp, mía đường,...Nhãn hàng nổi tiếng khác là Razon từ cuối những năm 1960, với công thức chính dừa sáp, bánh flan, chuối saba.
Nguyên liệu của món ăn này đa dạng, bao gồm sữa, sữa đặc, và các loại hoa quả, rau củ khác nhau, như: báng, dừa sáp, chuối saba, chuối táo quạ nấu với xi ro minatamis na saging, mít, thạch dừa, bột sắn, khoai lang, các loại đậu, pho mát, gạo,...Và thêm kem khoai mỡ tím, một loại kem yêu thích của người Philippines, thành phần quan trọng của món này.Không có công thức chung tiêu chuẩn, thành phần được thêm tùy chọn nhưng sữa, sữa đặc, đá bào là thành phần không thể thiếu. Lấy các nguyên liệu để vào tô hoặc ly theo số lượng tùy thích, đổ đá bào lên trên, thêm sữa, kem, cốm,...
Halo-halo đã được xuất hiện trong một tập của Anthony Bourdain: Parts Unknown khi người dẫn chương trình Anthony Bourdain đến thăm một chi nhánh của Jollibee ở Los Angeles. Bourdain đã khen ngợi món tráng miệng và đăng một bức ảnh về món trên tài khoản Twitter của mình, và anh chú thích là "đẹp một cách kỳ lạ."Halo-halo cũng được giới thiệu như một món ăn Quickfire Challenge trong tập 7, Mùa 4 của loạt phim truyền hình thực tế Mỹ, Top Chef. Thí sinh người Mỹ gốc Philippines Dale Talde đã chuẩn bị món tráng miệng gồm bơ, xoài, quả kiwi và các loại hạt. Talde sau đó đã được giám khảo khách mời Johnny Iuzzinni của Jean Georges vinh danh là một trong ba món ăn hàng đầu của Thử thách Quickfire. Talde cũng đã thực hiện làm món ăn này trong một tập phim sau đó.Món tráng miệng này đã được giới thiệu trong một tập ấn bản Delicious Destination của Bizarre Foods.
Connelly, Michael Alan (ngày 18 tháng 12 năm 2014). “20 Must-Try Street Foods Around the World”. Fodor's. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2016. |
Chuối tiêu hồng Khoái Châu là nhãn hiệu chứng nhận được Cục Sở hữu trí tuệ cấp cho sản phẩm chuối tiêu hồng được trồng trên địa bàn huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, theo Quyết định số 70428/QĐ-SHTT ngày 15/12/2015.
Huyện Khoái Châu có vùng trồng chuối tiêu hồng lớn của tỉnh Hưng Yên với diện tích hơn 500 ha, trồng tập trung tại các xã: Tứ Dân, Tân Châu, Đông Ninh, Đại Tập, Hàm Tử... Hàng năm, sản lượng chuối tiêu hồng tại Khoái Châu đạt khoảng hơn 30.000 tấn cho trị giá trên 200 tỷ đồng.
Quả chuối tiêu hồng có trọng lượng 180 - 200 g/quả, khi ăn có vị ngọt, thơm. Năng suất chuối tiêu hồng đạt 35 - 50 tấn/ha/năm.
Chuối được tiêu thụ mạnh ở thị trường trong nước và là sản phẩm đang xuất khẩu ra nhiều nước như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga, Ả Rập… |
Món khai vị (tiếng Pháp phân biệt hors d'œuvre và entrée, tiếng Anh: appetizer hoặc starter) là một món ăn nhỏ dùng trước bữa ăn. Một số món khai vị là lạnh, một số món khác lại nóng. Các món ăn khai vị có thể được phục vụ tại bàn ăn tối như một phần của bữa ăn, hoặc chúng có thể được phục vụ trước khi ngồi. Trước đây, các món khai vị cũng được phục vụ giữa các món ăn chính.Thông thường là món ăn nhỏ hơn món ăn chính, món khai vị thường được thiết kế để được ăn bằng tay (với sử dụng dao kéo ở mức tối thiểu).
Món khai vị
Cracknell, H.L.; Kaufmann, R.J. (1999). “Chapter 6: Hors-d'oeuvre”. Practical Professional Cookery. Cengage Learning. tr. 87–108. ISBN 978-1-86152-873-5. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2015.
Davidson, Alan (ngày 21 tháng 9 năm 2006). The Oxford Companion to Food. Oxford University Press. ISBN 978-0-19-280681-9.
Dunham, J. R. (tháng 4 năm 2004). Two Women in Africa: The Ultimate Adventure. iUniverse. ISBN 978-0-595-31232-0.
Foskett, David; Paskins, Patricia; Rippington, Neil; Thorpe, Steve (ngày 29 tháng 8 năm 2014). Practical Cookery for the Level 3 NVQ and VRQ Diploma, 6th edition. Hodder Education. ISBN 978-1-4718-0671-1.
Louis, Regis St; D'Arcy, Jayne; Gilbert, Sarah; Harding, Paul; Le Nevez, Catherine; Maxwell, Virginia; Pozzan, Olivia; Watson, Penny (ngày 1 tháng 5 năm 2012). Lonely Planet East Coast Australia 4. Lonely Planet. ISBN 978-1-74220-660-8.
Romero, Pedro (2007). Night+Day Mexico City. ASDavis Media Group. ISBN 978-0-9776245-6-0.
Rombauer, Irma S.; Becker, Marion Rombauer; Becker, Ethan; Guarnaschelli, Maria (ngày 5 tháng 11 năm 1997). JOC All New Rev. – 1997. Simon and Schuster. ISBN 978-0-684-81870-2.
Smith, Dennis Edwin (2003). From Symposium to Eucharist: The Banquet in the Early Christian World. Fortress Press. ISBN 978-1-4514-0653-5.
Willan, Anne (ngày 23 tháng 3 năm 2012). The Country Cooking of France. Chronicle Books. ISBN 978-1-4521-0767-7.
Wright, Clifford A. (ngày 1 tháng 1 năm 2003). Little Foods of the Mediterranean: 500 Fabulous Recipes for Antipasti, Tapas, Hors D'Oeuvre, Meze, and More. Harvard Common Press. ISBN 978-1-55832-227-1.
Wyk, Magdaleen Van; Barton, Pat (2007). Traditional South African Cooking. Struik. ISBN 978-1-77007-407-1.
“Bon Appetit's Guide to Modern Hors d'Oeuvres”. Bon Appétit. ngày 4 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015. |
Cao lầu là một món mì ở Quảng Nam, Việt Nam. Đây được xem là món ăn đặc sản của thành phố Hội An. Món mì này có sợi mì màu vàng, được dùng với tôm, thịt heo, các loại rau sống và rất ít nước dùng. Sợi mì màu vàng là do được trộn với tro từ một loại cây ở địa phương.
Theo lịch sử ghi chép, cao lầu đã xuất hiện từ thế kỷ 17. Trong khoảng thời gian này, các thương nhân Trung Quốc và Nhật Bản thường xuyên lui tới cảng Hội An. Họ đã mang theo văn hóa ẩm thực riêng của nước họ, rồi dần dần tạo điều kiện cho món cao lầu ra đời - có thể được xem là sự pha trộn giữa nền ẩm thực Trung và Nhật.
Chưa dừng lại ở đó, món cao lầu còn được biến tấu theo thời gian để hợp khẩu vị hơn đối với người Việt, rồi trở thành món ăn đặc sản của người dân miền Trung.
Tên gọi “cao lầu” có nghĩa là món ăn cao lương mỹ vị và được thưởng thức ở trên lầu cao. Nói một cách khác, thực khách có thể vừa dùng món ăn, vừa ngắm được toàn bộ cảnh đẹp của phố phường Hội An ngay từ trên lầu cao. |
Dalgona (Tiếng Hàn: 달고나) hay ppopgi (Tiếng Hàn: 뽑기) là một loại kẹo Hàn Quốc được làm bằng đường nóng chảy và muối nở. Từng là một món ăn đường phố nổi tiếng trong thập niên 70 và 80, ngày nay dalgona vẫn được coi là một món ăn vặt truyền thống. Khi một ít muối nở được trộn vào đường chảy, chúng sẽ phân hủy nhiệt thành cacbon dioxit, làm cho đường chảy phồng lên và trở thành kẹo giòn và có vị nhạt khi để nguội và cứng lại. Thông thường, dung dịch đường được đổ lên một bề mặt phẳng sau đó ép phẳng xuống và tạo khuôn với nhiều hình mẫu khác nhau. Thực khách sẽ thử chọc xung quanh viền hình đã được ép khuôn mà không làm vỡ nó. Nếu có thể tách được hình ra mà không làm vỡ kẹo, người mua nhận được một cây Dalgona miễn phí khác.Các quán cà phê hiện đại ở Hàn Quốc thường có các đồ uống khác lạ như cà phê hay trà có đá được phủ lên kem được gọi là cà phê Dalgona cùng nhiều món bánh ngọt khác. Vài quán cà phê cũng có thêm các món huơng vị dalgona như bingsu và souffle.Dalgona là một thành phần nổi bật trong series phim Trò chơi con mực của Netfilx, dẫn đến sự nổi tiếng trở lại của món kẹo này ở Hàn Quốc và thế giới. Gian hàng cung cấp kẹo cho bộ phim đã tăng gấp đôi lượng hàng bán. Mọi người cũng đã đăng các thử thách làm món kẹo này tại nhà trên mạng xã hội.
Dalgona ban đầu là một thuật ngữ dùng để chỉ các món kẹo đắt tiền dùng glucose không có khuôn, trong khi ppopgi ban đầu là các loại kẹo làm từ đường và có thể ép khuôn thành ngôi sao và hình tròn. Vì kẹo dalgona rất ít khi làm bằng khuôn, từ dalgona bắt đầu đựoc dùng để chỉ ppopgi. Nó thường được gọi là 뽑기 (ppopgi) ở tỉnh Gyeonggi bao gồm Seoul và Incheon, nhưng nó tên khác nhau ở mỗi vùng.
띠기 (ttigi): Tên này được sử dụng nhiều nhất ở Daejeon, và nó cũng được dùng ở đa số tỉnh Chungcheong ngoại trừ Cheongju và đa số tỉnh Jeolla ngoại trừ Gwangju. '띠기(ttigi)' thể hiện đặc điểm giọng địa phuơng của Chungcheong và Jeolla trong đó nguyên âm'ㅔ(e)' được chuyển thành 'ㅣ(i)', và khi chuyển nó thành tiếng Hàn tiêu chuẩn, nó trở thành '떼기(ttegi)'.
국자 (gukja): Tên này thường được sử dụng ở Daegu và tỉnh Gyeongsang Bắc, và tên này được lấy cảm hứng từ từ '국자 (muôi)' vì nó được làm văn ăn trong cái muôi (vá). Thêm vào đó, nó cũng được gọi là '파짜꿍 (pajjakkung)', nhưng từ đó không phổ biến bằng '국자 (muôi).
쪽자 (jjokja): Từ này thường được dùng ở tỉnh Gyeongsang Nam, và có thể nó bắt nguồn từ tiếng địa phương của cái muôi, nhưng điều đó chưa được kiểm chứng.
오리떼기/오리띠기 (orittegi/orittigi): Từ này thường được dùng ở Masan và bắt nguồn từ tiếng địa phương của từ '오려서 떼기 (cắt và kéo ra)'.
똥과자 (ttonggwaja): Ở Busan, cũng có thể gọi nó là '똥과자 (ttonggwaja)' thay vì '쪽자 (jjokja)'. Nghĩa của tên đó là '똥과자 (bánh quy phân)' vì nó trông giống phân.
떼기 (ttegi): Ở Đảo Jeju, như Chungcheong và Jeolla, nó được gọi là '떼기 (ttegi)' bằng cách dùng tiếng Hàn tiêu chuẩn thay vì '띠기 (ttigi)', một phương ngữ. Ngoài ra, nó còn được gọi là '띠까 (tikka)' ở vài vùng của Seogwipo.Từ thập niên 70-80 đến đầu những năm 2000, khi sự nổi tiếng của '뽑기 (ppopgi)' đang rất cao, truyền thông không có ảnh hưởng lớn, nên tên thường khác biệt tùy vùng. Tuy nhiên, trong các thế hệ sau, sự phổ biến của điện thoại thông minh và sự ảnh hưởng của truyền thông tăng lên, và ảnh hưởng của vùng Seoul/Gyeonggi, nơi có nhiều phương tiện truyền thông từ trước, đã tăng lên. Từ đó, tên địa phương mất dần ảnh hưởng, và đa số học sinh cấp hai và cấp ba Hàn Quốc giờ gọi chúng là dalgona.
== Tham khảo == |
Kem mùa đông (tiếng Hungary: téli fagylalt [ˈteːli ˈfɒɟlɒlt] hoặc téli fagyi [ˈteːli ˈfɒɟi]) là một loại mứt kẹo Hungary có bề ngoài tương tự như vỏ kem ốc quế, nhưng theo truyền thống có ganache hoặc một loại nhân kem ngọt tương tự thường là cacao sô-cô-la. Món này trở nên phổ biến vào thập niên 1970 ở nước Hungary dưới thời cộng sản, được sản xuất như một loại kem thay thế cho mùa đông thay cho kem "mùa hè", vốn được coi là quá lạnh đối với đồ ngọt mùa đông. Ngoài các cửa hàng tạp hóa, người ta thường bán món này như một phần của dịch vụ ăn uống đường sắt quốc gia (utasellátó). Sự thịnh hành của món mứt kẹo này mất dần vào đầu thập niên 1990, sau khi chủ nghĩa cộng sản ở nước này chấm dứt, các nhà sản xuất kẹo nước ngoài và các sản phẩm của họ xuất hiện tràn ngập thị trường Hungary. Tuy vậy, cùng với một số đồ ăn nhẹ và nước giải khát khác của Hungary thời cộng sản, kem mùa đông đã thu hút được sự quan tâm trở lại vào cuối thập niên 2000 và 2010.
Kem mùa đông thường bao gồm một vỏ ốc quế làm bằng bánh xốp với nhân ganache bên trong, kèm thêm lớp phủ sô-cô-la đen ở trên mặt phẳng của nhân. Những công thức chế biến rẻ hơn có thể sử dụng kem bơ có hương cacao thay vì ganache để làm nhân và sô-cô-la hỗn hợp thay vì phủ bằng lớp sô-cô-la đen. Món này ban đầu được sản xuất hàng loạt để bày bán trong các cửa hàng, nhưng giờ đây cũng có sẵn trong các tiệm bánh ngọt và dễ làm tại nhà với nhiều loại hương vị mới lạ khác nhau. Theo truyền thống, các hương vị có sẵn bao gồm cacao (kakaós), vani (vaníliás), chanh (citromos) và dừa (kókuszos).Các biến thể sản xuất hàng loạt không cần làm lạnh trong khi vẫn có thời hạn sử dụng tương đối dài (khoảng 2–4 tháng). Ban đầu món này có trọng lượng khoảng 40 g trở lên, các loại kem mùa đông sản xuất hàng loạt hiện nay có trọng lượng khoảng 20–30 g. |
Bánh giầy (thường viết sai thành: bánh dầy, bánh dày) là một loại bánh truyền thống của người Việt Nam nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với tổ tiên và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng gạo nếp đồ/hấp chín bằng hơi và giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn. Bánh thường được làm vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày Giỗ tổ Hùng Vương).
Cùng với bánh chưng, bánh giầy tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Nó có màu trắng, hình tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt.
Người Nhật Bản cũng có một loại bánh nhân ngọt tương tự như bánh giầy, được làm từ gạo nếp, gọi là mochi. Người dân ở bán đảo Triều Tiên có bánh tteok, gyeongdan, gaepi-tteok và songpyeon.
Tiếng Việt cổ gọi loại bánh này là "bánh chì", về sau "ch" biến âm thành "gi", "i" biến âm thành "ây". Có người nhầm lẫn "dầy" tức là dày, mỏng nên viết là "bánh dầy". Tuy nhiên, chỉ có cách viết "bánh giầy" là đúng quy tắc chính tả.Bánh giầy gắn với truyền thuyết về hoàng tử Lang Liêu, tương truyền xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6 của nước Văn Lang. Theo đó, Lang Liêu đã được báo mộng để làm ra chiếc bánh giầy hình tròn, tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất; hai thứ này được dùng để dâng lên vua cha trong ngày đầu xuân. Ngoài việc lý giải nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy, sự tích trên nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc và tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn minh lúa nước.
Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như Tày, Mường cũng làm bánh giầy nhưng không gói bánh chưng. Sử gia Trần Quốc Vượng nêu quan điểm rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. Một số vùng miền gói bánh ú hay bánh tét, loại bánh hình tròn dài, để thay cho bánh chưng, mà theo giải thích của Trần Quốc Vượng là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.
Người ta chọn loại gạo nếp ngon, đồ kỹ (có thể đồ hai lượt), rồi giã trong cối tới khi có được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc, thường chỉ nam thanh niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể dùng chút mỡ lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính, nhưng óc lợn hấp chín được sử dụng cho mục đích này nhiều hơn.
Loại bánh giầy phổ biến nhất là loại trắng không nhân, nhỏ bằng lòng bàn tay, được nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ hai cái bánh thì thành một cặp. Người mua có thể chọn mua một cái hay cả cặp và thường kẹp ăn chung với giò lụa, giò bò, chả quế, ruốc,...
Có một địa danh gắn liền với bánh giầy, đó là bánh giầy Quán Gánh (Thường Tín, Hà Nội). Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh giầy Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm năm bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong lá chuối tươi.
Ngoài địa danh Quán Gánh (Hà Nội), các địa phương nổi tiếng với sản phẩm bánh giầy được nhiều người biết có thể kể đến như bánh giầy làng Gàu (Hưng Yên), bánh giầy Gia Lộc (Hải Dương), bánh giầy Hà Nam (Quảng Yên, Quảng Ninh), bánh giầy Lạc Đạo (Hưng Yên), bánh giầy Mông ở vùng núi phía Bắc,...
Các loại bánh của nông thôn miền Bắc Việt Nam kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc lại gạo, hoặc ôi thiu.
Với loại bánh giầy của người miền núi thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như bánh đa. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than tương tự cách người Nhật nướng bánh giầy mochi. Canh (súp) zōni (雑煮) là tên gọi của món canh mà người Nhật thường ăn vào ngày đầu năm mới. Nguyên liệu để nấu món canh này khác nhau tùy theo từng vùng. Ngay cả trong cùng một vùng thì cách nấu của mỗi gia đình nhiều khi cũng khác nhau. Dù vậy, những nguyên liệu có thể nói là không thể thiếu trong món canh này là: bánh giầy mochi không nhân (kirinmochi), đậu phụ, khoai, thịt gà, rau xanh, và các loại rau củ màu sắc khác. |
Subsets and Splits