text
stringlengths 93
20.7k
|
---|
Bơ hồ đào là hương vị khá nổi bật ở nước Mỹ được dùng làm kem, bánh ngọt và bánh quy. Hồ đào nướng, bơ và hương vani cùng kết hợp làm ra loại bánh nướng bơ hồ đào. Kem bơ hồ đào là loại kem vani mịn, có vị bơ nhẹ và thêm hồ đào vào. Bơ hồ đào được rất nhiều thương hiệu kem lớn sản xuất. Hương vị này còn có biến thể khác mang tên bơ hạnh nhân chỉ là thay thế hồ đào bằng quả hạnh nhân mà thôi.
Bơ hồ đào là loại hương vị kem phổ biến do nhiều công ty sản xuất và cũng là một trong 31 hương vị của chuỗi cửa hàng kem lạnh bán lẻ lớn nhất thế giới Baskin Robbins. |
Kateh là một món cơm của vùng Caspi, không giống như món Polo/Cholo, món này hơi dẻo và không có Tahdig (lớp cháy, bánh mì hoặc khoai tây ở đáy nồi, một món ăn truyền thống ở Iran). Nói chung, kateh cần một nửa thời gian nấu so với cơm kiểu Polo/Cholo và có một hương vị đặc hơn do thêm bơ hoặc dầu trong quá trình nấu ăn.
Kateh nói chung được coi là món cơm Iran đơn giản nhất tốc độ nấu nhanh, khiến nó là món phổ biến dành cho bữa tối bình thường. Đây cũng là món ăn truyền thống của Gilan và Mazandaran. Cơm Damy là loại cơm nấu giống Kateh song nêm thêm phụ gia, các loại hạt như đậu lăng vào nấu cùng.
Khi nấu Kateh và Damy phải vặn lửa nhỏ vì nếu để lửa to sẽ tạo ra cháy Tah-deeg màu vàng. Riêng từ Damy có nghĩa là hấp. Một loại Damy đặc sản là bánh nhân Tah-chin được làm nhờ trộn gạo với sữa chua, nghệ, lòng đỏ trứng và nhân thịt gà, thịt cừu. |
Bánh xốp, bánh wafer (tiếng Anh: wafer) là một loại bánh quy giòn, thường ngọt, rất mỏng, phẳng, nhẹ và khô,, thường được dùng để trang trí kem lạnh và cũng được dùng để trang trí một số món ngọt. Bánh xốp thường có một lớp kem kẹp giữa những thanh xốp mỏng, thường có hoa văn ô lưới như bánh tổ ong trên bề mặt nhưng cũng có thể có hoa văn phù hiệu của nhà sản xuất hoặc có thể không có hoa văn. |
Nước mắm theo cách hiểu thông thường là chắt phần nước rỉ được từ cá, tôm và xác động vật nhuyễn thể khác được ướp muối lâu ngày. Nó được sử dụng rộng rãi trong ẩm thực của các quốc gia Đông Nam Á như Việt Nam và Thái Lan, để chấm hoặc gia vị chế biến các món ăn khác.Tại miền nam Trung Quốc, nước mắm cũng được sử dụng, nhưng chỉ dùng để làm dầu hay gia vị trong các món súp và thịt hầm.Trên phương diện khoa học, nước mắm là hỗn hợp muối với các amino acid được chuyển thể từ protein trong thịt cá qua một quá trình thủy phân có tác nhân là các hệ enzyme có sẵn trong ruột cá cùng với một loại vi khuẩn kỵ khí chịu mặn.
Có thể nói Việt Nam từ thời xa xưa đã là xứ sở của các loại mắm. Từ mắm nêm, mắm phệt, mắm cáy, mắm ruốc, mắm tôm đến các loại mắm lóc, mắm sặt, khô mắm, khô mặn v.v... cho đến loại mắm đặc biệt là mắm nước thường được gọi là nước mắm. Nước mắm có thể làm từ cá sống, cá khô; hoặc từ cả các loại sò hến, tôm cua hoặc trái cây như quả điều khi làm nước mắm chay. Một số loại nước mắm được làm từ cá nguyên con, một số khác thì chỉ được từ tiết hay nội tạng cá. Một số loại nước mắm chỉ có cá và muối, một số khác có thể có thêm dược thảo và gia vị. Nước mắm lên men ngắn ngày có mùi tanh đặc trưng của cá. Quá trình lên men dài ngày sẽ giảm được mùi tanh và tạo ra hương vị mùi quả hạch và béo hơn.
Tại Việt Nam, suốt miền duyên hải đều làm nước mắm. Nước mắm thường chủ yếu làm từ các loại cá biển (cá cơm, cá thu, cá nục v.v.) và rút chiết ra dưới dạng nước. Tùy theo độ đạm trong nước mắm mà người ta phân cấp độ (nước mắm cốt, nước mắm loại 1, nước mắm loại 2). Chén nước mắm dùng chung giữa mâm cơm được coi là nét đặc trưng cho văn hoá chia sẻ trong ẩm thực Việt Nam.
Cuốn Việt sử đầu tiên có đề cập đến nước mắm có lẽ là cuốn Đại Việt sử ký toàn thư, khắc in vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Trong Kỷ nhà Lê, phần viết về Đại Hành hoàng đế, sách này có ghi lại sự kiện: "Đinh Dậu, Ứng Thiên năm thứ 4 (997)… Mùa hạ, tháng 4, nhà Tống phong vua làm Nam Bình Vương. Vua sai sứ sang nước Tống đáp lễ. Vua Tống ban chiếu thư khen ngợi. Trước kia, sứ Tống sang thường mượn cớ đòi cống nước mắm, nhân thế bắt đóng góp. Đến đây, Tống Chân Tông nghe biết chuyện ấy, chỉ sai quan giữ biên giới gọi đến nhận mệnh, không sai sứ sang nữa." Đoạn sử liệu này cho thấy muộn nhất là vào trước năm 997, người Việt đã biết làm và dùng nước mắm và nước mắm đã được lưu vào sử sách. Bấy giờ, nước mắm do người Việt làm ra hẳn phải là một loại đặc sản có tiếng, khiến vua chúa Trung Hoa tuy ở xa vạn dặm, cũng "ngửi thấy" mùi thơm của nước mắm, nên mới đòi triều đình Đại Việt phải triều cống nước mắm cho họ. Khi đọc đến đoạn ghi chép này trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã nêu một câu hỏi rất thú vị: "Người Trung Hoa không có truyền thống ăn nước mắm, mà họ ăn nước tương, sao lại đòi cống nước mắm? Hay là thời Tiền Lê, nước mắm Việt hiếm hoi trân quý đến mức người ta phải lấy nó để bắt chẹt nhau?" Quả đúng như vậy, vì người Tàu ăn xì dầu, coi món nước chấm làm từ đậu nành này là thứ gia vị căn cốt của họ, khiến cho món ăn Tàu nhìn bên ngoài có vẻ giống với món ăn Việt, kỳ thực lại khác nhau một trời một vực, như nhận xét của M. Coughlin rằng: "Mặc dù người Việt Nam ăn bằng đũa và thức ăn của họ thì khó phân biệt được với đồ ăn của Trung Hoa đối với một người Tây phương bình thường, đã có nhiều sự khác biệt và các sự biến cải theo khẩu vị địa phương. Nước chấm căn bản – nước mắm, món gia vị trong mọi bữa ăn, thì đặc biệt là của người Việt Nam và hoàn toàn khác với nước tương, nước chấm gia vị tiêu chuẩn của Trung Hoa."Nhà hàng hải người Anh William Dampier trong chuyến ghé Đàng Ngoài năm 1688 có ghi lại cách sản xuất nước mắm khi ngư dân trộn cá và tôm với muối và nước rồi nén trong hũ đậy kín. Sau một thời gian xác tôm cá nhừ nát ra thì người Việt gạn ra phần nước dùng, gọi là nuke-mum. Người nghèo thì ăn phần bã mắm với cơm. Phần nước màu nâu nhạt, ngả màu xám nhưng trong suốt được mọi người ưa chuộng, ăn với thịt gà, thịt vịt rất ngon.Thống kê của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (2016) cho biết khoảng gần 2.800 doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nước mắm truyền thống. Việt Nam sản xuất 200 triệu lít nước mắm mỗi năm, trong đó 75% là nước mắm công nghiệp (nước mắm pha loãng với hóa chất). Chỉ riêng công ty Masan chiếm 65% thị phần toàn ngành nước mắm. |
Khao kha mu (tiếng Thái: ข้าวขาหมู, phát âm tiếng Thái: [kʰâːw kʰǎː mǔː], n.đ. 'pork-leg rice'; tiếng Trung: 猪脚饭, bính âm: zhū jiǎo fàn), đôi khi gọi đơn giản là kha mu (ขาหมู), là một món ăn Thái nổi tiếng. Nó ảnh hưởng bởi ẩm thực Trung Quốc, đặc biệt là ẩm thực Triều Châu.Khao kha mu là một món ăn bao gồm chân giò hầm trong nước lẩu cô đặc gia vị (một vài gia vị được trộn với bột cacao hoặc nấu với đậu phộng ), sau đó được thái thành lát mỏng và đặt lên trên cơm nóng. Món ăn được phục vụ với nửa quả trứng, một vài miếng dưa cải muối chua và cải rổ trụng cùng với ớt mắt chim tươi và vài tép tỏi đặt bên cạnh. Đôi khi thường dùng bữa với nước lèo. Nước chấm đi kèm thường được làm từ ớt chuông vàng, tỏi, muối hột, nước chanh và giấm.
Khao kha mu là món ăn có thể tìm thấy trên đường phố, khu ăn uống trong khu mua sắm đến nhà hàng sang trọng.
Tại Bangkok, có nhiều nhà hàng khao kha mu nổi tiếng tại các khu vực như Bang Wa, Phlapphla Chai, Mo Mi, Sam Yan, ... Một vài nhà hàng ở Bang Rak nhận được giải Bib Gourmand hai lần tại đánh giá Michelin năm 2018 và 2019.
== Tham khảo == |
Pie là cách gọi các loại bánh nướng với vỏ bánh phủ một phần hay bao toàn bộ phần nhân làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau từ ngọt đến mặn. Từ pie thường liên tưởng đến các loại bánh có lớp vỏ cứng được tạo thành khi nướng. Nhân bánh có thể bỏ vào trước hoặc sau khi nướng tuỳ công thức. Ngoài sở thích thông thường về ẩm thực còn có một số lý do để làm loại bánh này là nó dùng ít bột hơn bánh mì và không đòi hỏi thứ gì cầu kỳ phức tạp để nấu như việc phải có một cái lò nướng vì nó có thể nướng trực tiếp trên lửa.
Loại bánh này được phát hiện có từ thời Ai Cập cổ đại với công thức một loại pie nhân thịt gà có tuổi 2000 năm trước công nguyên được tìm thấy trên một tấm bảng tại khu vực Sumer thuộc vùng Mesopotamia còn trong mộ của Ramses II thì có ghi công thức làm pie với trái cây, các loại hạt và mật ong. Nó có thể đã được biết đến từ trước đó trong thời đại đồ đá mới khoảng 9500 năm trước công nguyên. Những người Hy Lạp đã biết về nó sau đó lan sang đến La Mã. Người La Mã đã nói và mang loại bánh đi khắp châu Âu với công thức đầu tiên của mình là với lúa mạch đen nghiền cùng pho mát sữa dê hay mật ong. Cách gọi pie trở nên phổ biến tại châu Âu từ thế kỷ 14.
Theo một số nhà sử học thì trên thực tế loại "bánh" này từng thường được dùng như một loại đồ đựng thức ăn thượng hạng hơn là một loại bánh với lớp vỏ thường quá cứng để có thể thật sự ăn được. Chính lớp vỏ cũng là một loại công cụ dùng để nấu nướng thường được làm rất dày để chịu được nhiều giờ nướng trong lò để hầm những thứ mà nó chứa khi không có nồi, lớp vỏ bột này sau đó sẽ được phát cho những người hầu ở cấp thấp hay người nghèo và họ sẽ tự xoay xở để tìm cách có thể ăn được nó. Trong thời trung cổ nhiều đầu bếp đã dùng pie như một cái nồi có thể đóng mở để nấu ăn. |
Torta Tre Monti (tiếng Ý: “ Bánh của Ba ngọn núi/tháp”) là một món bánh nhiều lớp truyền thống của San Marino. Món ăn này được làm từ bánh quy, hạt dẻ, sô cô la, kem và cà phê. Món bánh được lấy cảm hứng từ ba ngọn tháp của San Marino.
Ở San Marino, món bánh này đã được La Serenissima sản xuất từ năm 1942. Các tiệm bánh bán cả bánh cỡ lớn và phiên bản snack, ngoài ra còn có một biến thể bao gồm cà phê. |
Squilla mantis là một loài tôm tít chủ yếu được tìm thấy và đánh bắt ở vùng Địa Trung Hải. Nó phát triển lên đến chiều dài 200 mm (8 in) dài, và thuộc loại 'spearer.. Nhìn có màu nâu mờ và có hai điểm mắt giả màu nâu, vòng tròn trắng, tại chân của telson Các loài khác cũng được bán trong thị trường cá cảnh là Squilla mantis..
Loài này đào hang trong đáy bùn và cát gần bờ biển của biển Địa Trung Hải và các khu vực ấm liền kề phía đông Đại Tây Dương, chúng ở trong hang vào ban ngày và đi kiếm ăn vào ban đêm, và chúng giao phố vào mùa.
Nó được tìm thấy xung quanh toàn bộ bờ biển của Địa Trung Hải và Đại Tây Dương về phía nam từ Vịnh Cádiz đến Angola, cũng như xung quanh quần đảo Canary, và Madeira. Trong lịch sử, nó từng có mặt ở Vịnh Biscay và quần đảo Anh, nhưng nay không còn ở đó nữa. |
Astacus astacus, Tôm hùm đất châu Âu, là một loài tôm hùm đất ở châu Âu, và là một nguồn thực phẩm truyền thống. Giống như các loài tôm hùm đất khác, Astacus astacus chỉ giới hạn ở vùng nước ngọt, chỉ sinh sống trong các con suối, sông và hồ không bị ô nhiễm. Loài này được tìm thấy từ nước Pháp qua Trung Âu, đến bán đảo Balkan, và về phía bắc tận các khu vực British Isles, Scandinavia, và Đông Âu. Tôm đực có chiều dài đến 16 cm còn tôm cái dài đến 12 cm.
A. astacus là động vật sinh hoạt về đêm và ăn giun, côn trùng thủy sinh, động vật thân mềm, và cây cối, và dành cả ngày để nghỉ ngơi. Chúng trở nên trưởng thành về sinh dục sau ba đến bốn năm và một loạt các đợt lột xác. Mùa sinh sản là vào tháng 10 và tháng 11. Trứng được con cái mang theo, gắn vào yếm. Trứng được giữ ở đó cho đến tháng 5 sau, khi trứng nở và phân tán. Các loài săn mồi bắt loài tôm này (cả con nhỏ và con trưởng thành) là chồn nâu, cá chình, cá rô, cá chó, rái cá và chuột xạ hương.
== Tham khảo == |
Năn bộp hay năn là một loại thực phẩm lấy từ cỏ năn ngọt mọc hoang trên những cánh đồng ngập mặn, thuộc chi Cỏ năn (Eleocharis), họ Cói (Cyperaceae), được thu hái và sử dụng như một loại rau ăn sống hoặc chế biến nhiều món ăn trong ẩm thực miền Tây Việt Nam, xứ Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau.
Không ai xác định năn bộp được sử dụng làm thức ăn từ khi nào, nhưng có những lão nông tri điền Bạc Liêu, trong lúc trà dư tửu hậu, đã ngồi bàn xem ai là người phát hiện ra vị ngon của món ăn này. Theo các cụ, trẻ chăn trâu trên những cánh đồng ngập nước là người có công đầu, kế đó là những người dân nghèo bứt đọt năn ăn cho qua bữa. Trong những năm kháng chiến, những cán bộ cách mạng hoạt động sâu trong bưng biền đã chế thêm những món ăn mới từ năn. Cuối cùng, giới sành ăn miền Tây Nam Bộ đã lưu truyền món ăn này và nâng cấp nó trở thành món rau thời trân. |
Bánh tai heo là một loại bánh mặn của Việt Nam. Bánh có dạng lát mỏng, tròn, hình thù giống cái tai của con heo và có những đường sọc xoáy tròn đan xen giữa màu trắng sữa và màu nâu nhạt và có rắc những hạt mè. Bánh được làm từ nguyên liệu chính gồm: bột mì, đường cát, mè trắng, sữa đặc, trứng gà, bơ, vanila (để tạo mùi vị thơm ngon), dầu ăn, muối, nước... và được chế biến theo phương pháp chiên giòn. Bánh có vị mặn, vị bùi ngọt và rất dòn, khô.
Bánh được chế biến bằng phương pháp chiên. Theo đó, các thành phần như lòng trắng trứng gà, đường, bột mì sẽ được trộn đều để tạo thành một miếng bánh có màu trắng và sẽ được trộn lẫn, nhồi đều rồi cán mỏng. Các thành phần còn lại là lòng đỏ trứng gà, đường, sửa đánh nổi, bột mì, vani, bơ sẽ dùng để tạo thành miếng bánh có màu nâu, các thành phần này sẽ được trộn lẫn, nhồi đều rồi cán mỏng. Tiếp đến đặt chồng hai miếng bột (màu trắng và màu vàng) lên nhau, cuốn tròn lại xắt lát mỏng và chấm một chút mè rồi bỏ vào dầu chiên vàng.
== Tham khảo == |
Tháng Pizza Quốc gia (tiếng Anh: National Pizza Month) là ngày lễ kỷ niệm của người Mỹ diễn ra vào tháng 10 hàng năm.
Lễ kỷ niệm này bắt đầu vào tháng 10 năm 1984, và do nhà xuất bản tạp chí Pizza Today là Gerry Durnell tạo ra. Một số người cử hành ngày lễ tháng pizza quốc gia bằng cách tiêu thụ nhiều loại bánh pizza hoặc lát bánh pizza riêng biệt, hoặc đi đến các tiệm bánh pizza khác nhau. Trong tháng, một số tiệm bánh pizza sẽ tặng pizza hoặc lát pizza miễn phí cho khách hàng hoặc tung ra các chương trình khuyến mãi giảm giá. Một số doanh nghiệp thực hiện các đợt gây quỹ, quyên góp tiền bán bánh pizza nhằm mang lại lợi ích cho các tổ chức hoặc hội từ thiện khác nhau. Một số tiệm bánh pizza tạo ra những chiếc bánh pizza độc đáo mà họ không thường xuyên cung cấp. Ví dụ, quán Mamma Mia! Pizza Kitchen ở Levelland, Texas đã tạo ra loại bánh pizza được chế biến từ thịt rắn đuôi chuông vào năm 2009 để kỷ niệm tháng này.
== Tham khảo == |
Kat kyi kaik (tiếng Miến Điện: ကတ်ကြေးကိုက်; phát âm [kaʔt͡ɕíkaɪʔ]), còn được gọi cụ thể là Myeik kat kyi kaik (မြိတ်ကတ်ကြေးကိုက်), là một món mì xào cay của Myanmar gắn liền với thị trấn ven biển Myeik (tên gọi cũ là Mergui) ở miền Nam Myanmar.Thành phần chính bao gồm mì gạo rộng, dẹt chiên với mực cắt lát, giá đỗ, tôm, đậu vườn hấp (pe byok), hành lá, hạt tiêu và nước tương đen. Món này khá phổ biến ở địa phương mà xuất xứ của nó được tìm thấy tại vùng duyên hải phía Nam của Myanmar và ở Yangon.
Món này được đặt tên là kat kyi kaik (n.đ. 'cắt bằng kéo') vì trong khi chiên mì và các nguyên liệu trong chảo, người đầu bếp sẽ dùng kéo để cắt sợi mì giúp cho việc nấu nướng được thuận lợi hơn và thực khách dễ ăn hơn.
Một món khác có thể đem ra so sánh với kat kyi kaik là char kway teow khá phổ biến ở Singapore và Malaysia. Beik kut kyee kaik chỉ sử dụng tôm và mực làm nguyên liệu chính. |
Bánh nhãn là loại bánh chế biến từ bột gạo nếp hoặc gạo tẻ rán giòn, hình dáng tương tự quả nhãn. Đây là món ăn đặc sản của một số địa phương phía Bắc Việt Nam như Nam Định, Thanh Hoá, ở Nghệ An cũng có loại bánh này, rất ngon.
Bánh nhãn Hải Hậu là loại bánh đặc sản của huyện ven biển Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Bánh có tên là bánh nhãn, do dân gian đặt, nó không phải được làm từ long nhãn hay có hương thơm của nhãn mà chỉ bởi những chiếc bánh này giống hệt như quả nhãn về hình dáng và có màu sắc gần giống với màu quả nhãn.
Ở một số vùng của Thanh Hóa, bánh nhãn được làm từ bột gạo tẻ. Gạo tẻ được ngâm rồi xay nhuyễn và đem đồ lên. Sau khi đồ, bột gạo được đánh đều rồi vo thành những viên nhỏ, sau đó có thể dính vừng đen để tạo màu. Những viên bánh được rán giòn, sau đó tẩm mật mía hoặc tẩm đường. |
Sung muối là sản phẩm từ quả sung (danh pháp khoa học: Ficus racemosa) cùng với một số nguyên liệu khác như ớt, tỏi, riềng...
Sung muối là sản phẩm ẩm thực đặc trưng của Việt Nam.
Sung muối có thể được chế biến theo phương pháp muối xổi hoặc muối chua. Thông thường sử dụng sung nếp.
Thái mỏng quả sung nhưng không nên mỏng quá để khi ăn sung vẫn giữ độ giòn. Sung thái xong cho ngay vào bát nước pha dấm và muối để sung ra bớt nhựa và đỡ thâm. Vớt ra, cho lượng thích hợp đường, bột canh, nước mắm, trộn thêm các gia vị khác như lá chanh thái sợi, rau mùi thái nhỏ, tỏi và ớt băm nhỏ, riềng thái mỏng, gừng, xả băm nhỏ...
Sung bỏ cuống, ể cả quả hoặc bổ đôi, ngâm vào nước muối pha loãng cho hết nhựa và bớt thâm, rửa sạch và để thật ráo nước. Xếp sung vào hũ, xen kẽ tỏi, ớt, riềng đã thái mỏng. Đổ ngập với nước muối đường đun sôi để nguội, dùng vật nặng chèn xuống. Sung muối ăn được là khi chuyển sang màu vàng úa.
== Tham khảo == |
Dưới đây là danh sách món bánh mì kẹp. Bánh mì kẹp là một món ăn bao gồm một hoặc nhiều lát bánh mì với một hoặc nhiều nhân nằm ở giữa chúng, hoặc cũng có thể chỉ có một lát bánh đối với loại bánh mì kẹp trần. Bánh mì kẹp là một loại thức ăn trưa phổ biến thường được dùng như một phần của bữa trưa đóng hộp. Có rất nhiều loại bánh mì kẹp được làm từ nhiều loại nguyên liệu khác nhau. Nó được đặt tên theo John Montagu, Bá tước thứ tư của Sandwich, một chính khách người Anh.
Các loại bánh mì kẹp chính bao gồm:
Hai lát bánh mì với các thành phần khác giữa
Hai nửa bánh mì hoặc bánh cuộn với các nguyên liệu khác ở giữa
Bánh mì kẹp Club
Bánh mì kẹp tàu ngầm hoặc Hero, hoagie
Bánh mì kẹp trần
Bánh mì kẹp bỏ túiBánh quy kẹp và bánh mì kẹp kem nói chung không được coi là bánh mì kẹp theo nghĩa là một loại thực phẩm chứa bánh mì, thay vào đó chúng được đặt tên theo cách tương tự. |
Xa lát Nga là một món xa lát với thành phần chính là các loại rau, củ, quả xắt hạt lựu, thịt hun khói, giò trộn với sốt mayonnaise. Thường dùng để ăn với bánh mì hoặc ăn khai vị trong các bữa tiệc. |
Tôm hùm sen (tên khoa học Panulirus versicolor) là một loài tôm rồng sống ở rạn san hô nhiệt đới. P. versicolor là một trong ba loại tôm hùm phổ biến nhất tại Sri Lanka, cùng với Panulirus homarus và Panulirus ornatus. P. versicolor phát triển đến 40 cm (16 in), nhưng thường là không quá 30 cm (12 in).
P. versicolor sống về đêm và đơn độc. Vào ban ngày chúng ẩn trong các hang động nhỏ và khe hở trong các rạn san hô ở độ sâu tới 15 mét (49 ft). Chúng là động vật ăn thịt, ăn cả động vật chân đốt xác thối và tươi, động vật giáp xác khác và thỉnh thoảng là cá nhỏ. |
Bánh cưới là loại bánh được phục vụ trong lễ cưới theo truyền thống theo sau bữa ăn tối. Một số vùng ở Anh, bánh cưới được phục vụ tại bữa ăn sáng đám cưới, vào buổi sáng sau lễ cưới. Ở văn hóa phương Tây hiện đại, bánh dùng để trình diễn và phục vụ đón tiếp khách mời. Theo truyền thống, bánh cưới mang may mắn cho toàn bộ khách khứa tham dự và cặp đôi cô dâu và chú rể. Bánh cưới còn được đặt làm và trang trí theo ý thích và nhu cầu phù hợp của cặp đôi cô dâu chú rể. |
Dưa cải muối hay còn gọi là dưa cải muối chua, dưa cải món là một món ăn dân dã, quen thuộc ở Việt Nam và Trung Quốc được chế biến theo cách thức làm dưa muối bằng nguyên liệu chính là rau cải (cải bẹ xanh hay cải bẹ trắng hay lá cải củ). Dưa cải chua là một món ăn quen thuộc của mỗi nhà trên đất nước này và được bài bán khá thông dụng trong các tiệm cơm bụi, quán ăn, nhà hàng. Ở Trung Quốc, món dưa cải muối này gọi là "toan cải" (tiếng Trung: 酸菜; bính âm: suān cài; Việt bính: syun1 coi3).
Món ăn này vào ngày Tết dùng với món thịt heo kho hoặc thịt kho măng, cải chua có thể dùng kèm thịt luộc, thịt đông…. Trong trường hợp trời nắng nóng, ăn canh dưa nấu sườn, nấu thịt bò hay dùng dưa kho cá ngừ, cá đối hoặc om cùng cá chép đều dễ ăn. Món này có thể ăn kèm thịt chân giò luộc hay canh dưa bò… ngoài ra còn có thể chế biến thành món thịt kho dưa cải, cá hố kho dưa cải.
Đây là món ăn kèm, giải ngán cho những món quá nhiều dầu mỡ. Dưa cải muối chua thường kích thích vị giác (do có vị chua), nên tạo sự ngon miệng và thèm ăn. Tuy nhiên, loại thực phẩm này được làm chủ yếu từ các loại rau củ quả đã qua quá trình lên men và mất đi lượng vitamin cần thiết.
Ở Trung Quốc, ghi chép sớm nhất về việc sản xuất dưa cải truyền thống của Trung Quốc là trong Kinh Thi, có niên đại từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 7 trước Công nguyên. Trong khoảng thời gian đó, rau lên men được dùng làm vật tế trong lễ cúng gia tiên. Trong bài thơ "Tín Nam Sơn" (tiếng Trung: 信南山; bính âm: Xìn nánshān), có miêu tả cách người Trung Quốc thời xưa chế biến dưa muối bằng cách ngâm những quả bầu:
—Trích Kinh Thi
Vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, những công nhân xây dựng Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc sống bằng cải bắp và gạo. Để bảo quản rau trong mùa đông, họ bắt đầu thêm rượu gạo vào cải, do đó cải lên men và làm cho thực phẩm có vị chua. Một cuốn sách nông nghiệp của triều đại Bắc Ngụy (386-534 sau Công Nguyên), trong cuốn "Tề dân yêu thuật" (齐民要术) minh họa quy trình chi tiết sản xuất 18 loại rau muối chua bằng cách sử dụng các loại rau khác nhau. Một số loại rau là loại bình thường trong khi những loại khác thêm muối như toan cải. Điều này cho thấy toan cải (tức dưa cải bẹ muối) được người Trung Quốc chấp nhận và ăn rộng rãi trong thời gian đó.
Món dưa cải bẹ muối truyền sang Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc.
Để làm món này phải có hũ muối dưa bằng sành, sứ hay thủy tinh và các loại cải bẹ to hành lá, ớt, muối, đường… Loại cải để muối dưa là loại cải mà cả lá và cuống đều dày, cứng chắc, có thể cay, nồng rất mạnh, hơn cải bẹ xanh lá và cuống đều xốp, nhẹ.
Dưa cải làm dưa phải chọn từ cây cải (mustard) già, không bón phân và tưới ít nhất đã nửa tháng rồi. Có giống cải làm dưa rất cay nồng, như mùi vị cải cay horseradish. Ngày nay nhiều người thích giống cải bẹ to và không cay nồng.
Nửa kilôgram dưa cải, 1 thìa muối đầy, hơn 3 phần tư lít nước ấm chừng 40 độ C, chừng 50cc sữa chua (yogurt) hay 100cc nước dưa chua làm giống, có thể thêm 5 cây hành lá. Cải và hành rửa sạch, cắt miếng không quá 2 centimet rưỡi mỗi chiều. Các số trên có thể coi bằng cách sau khi pha chế và cho cải vào hũ, nếm nước thấy hơi mặn hơn canh rau ta vẫn nấu ăn, và rau cải vừa ngập trong nước là đủ. Nếu không có Vi khuẩn Lactic trong sữa chua hay dưa chua (yogurt cultures) làm giống, thi cần thêm chút muối nữa. Nêu cải làm dưa còn non, tưới bón nhiều, cho nhạt muối, không có vi khuẩn Lactic làm giống, lại bị lạnh, thì cải rất dễ bị thối, gọi là dưa bị khú. Vì thế, phơi nhẹ nắng dưa trước khi muối cho bớt độ ẩm trong dưa cũng làm dưa đỡ bị khú.
Khi làm dưa, cắt bỏ ngọn cải và lá cải non cũng làm dưa đỡ bị khú. Có thể để hũ muối dưa thủy tinh ra phơi nắng, làm nhiệt độ ở 40 độ C (hiệu ứng nhà kính - green house effect), hay ngâm hũ muối dưa trong nước ấm và thay nước ấm luôn sao cho dưa muối trong hũ ở 40 độ C chừng 10 giờ, rồi để trong nhà nhiệt độ 25 độ C hay 30 độ C thì sau 1 ngày màu lá xanh của cải đổi sang màu vàng nhạt, và nước dưa đã chua ăn ngon. Sau 2 ngày thì dưa càng chua, nhưng có người thích ăn chua như vậy. Sau 3 ngày thì dưa chua quá, hơi nhũn, mất chất đường, và chớm mốc trên mặt nước, ăn không tốt nữa. Nếu không có giống vi khuẩn, thì phải để lâu hơn mới chua được, và dưa ăn không ngon vì rau ngấm quá nhiều nước muối, và đường trong rau cải phai lạt mất. Làm không có giống vi khuẩn Lactic, và không ủ ấm 30 đến 40 độ C, thì có thể lâu đến 4 ngày hay lâu hơn mới chua ăn được.
Khi ăn thì vớt dưa cải ra khỏi hũ, để róc nước dưa ra, có thể cho lên đĩa, bày bàn ăn luôn, thường chấm với nước mắm. Cũng có thể vắt thêm chanh, cho thêm đường, cho thêm ớt, thêm hành lá, chút nước mắm ngon, để ăn dần trong tủ lạnh thêm vài ngày nữa. Nước dưa chua cho vào nấu cá nấu thịt cũng là những món cổ truyền và vẫn phổ biến khắp nơi. Người Trung Quốc hay muối cải bẹ phải cho thêm hạt tiêu. Ở Côn Minh, món ăn truyền thống này được chế biến đơn giản thường được làm vào mùa đông hoặc mùa xuân, chỉ cần lấy cải bẹ đem phơi khô, rồi cắt nhỏ, sau đó thêm gia vị như muối, ớt,tiêu, gừng, thì là, hoa hồi giã và một ít rượu ngon đem ủ trong chum vại khoảng 1 đến 2 tháng là có thể dùng được, món dưa cải chua Côn Minh là món ăn truyền thống gia đình, có hương vị chua cay rất thích hợp chế biến cùng các món ăn như súp, salad, xào hay ăn lạnh.
Có một số lưu ý khi ăn món này để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và dinh dưỡng:
Trước khi ăn nên rửa, vắt sạch dưa để loại bỏ vi khuẩn, giúp xả bớt vị mặn và vị chua gay gắt trong dưa.
Không ăn dưa cải muối quá nhiều, lượng dưa muối ăn vào mỗi lần chỉ nên khoảng 50g và không nên ăn thường xuyên vì trong dưa muối chua có chứa rất nhiều axit oxalic và calci sẽ gây sỏi thận. Mặt khác vì rất mặn nên ăn nhiều không tốt cho sức khỏe, dễ dẫn đến cao huyết áp.
Không ăn dưa muối chưa chín do nó thường chứa nhiều muối nitograt, dễ gây ngộ độc thực phẩm, làm tim mệt, thở dốc, tức ngực. Ngoài ra, hợp chất này khi tích tụ lâu trong cơ thể cũng dễ gây ung thư.
Không nêm bột ngọt vì trong môi trường kiềm, bột ngọt sẽ làm cho mùi vị món ăn giảm đi, còn trong môi trường axit hay nhiệt độ cao, bột ngọt dễ biến thành chất gây hại cho sức khỏe. |
Thịt côn trùng hay côn trùng ăn được là những loại côn trùng được con người tiêu thụ như một loại thực phẩm và là thành phần của quy trình chế biến thực phẩm cho những món ăn khác như hamburger, mì ống hay thức ăn nhẹ. Văn hóa và quá trình sinh học của việc ăn côn trùng (con người cũng như động vật) được mô tả bằng khái niệm ăn côn trùng. |
Bacon sundae là một loại sundae được chế biến bằng các nguyên liệu đặc trưng của sundae và thịt lợn muối xông khói.
Bacon sundae là một sản phẩm do hãng Denny's ở Mỹ cung cấp vào năm 2011, hãng này đã tung ra món Bacon sundae bằng lá phong vào năm 2011, một phần trong thực đơn "Baconalia!: A Celebration of Bacon" trong thời gian giới hạn.Bacon sundae cũng là một sản phẩm do Burger King ra mắt vào mùa hè năm 2012 tại Mỹ. Bacon sundae của Burger King được làm từ kem vani mềm và phủ bên trên là kẹo mềm nóng, caramel, vụn thịt xông khói và một miếng thịt xông khói. Món ăn này chứa 510 calo, 18 gam chất béo và 61 gam đường. Bacon sundae được giới thiệu lần đầu tiên ở Nashville, Tennessee và tung ra thị trường cùng với nhiều loại bánh mì BBQ, khoai lang chiên và nước vị chanh đông lạnh.
== Tham khảo == |
Bánh ngọt hay bánh ga-tô (phương ngữ miền Bắc, bắt nguồn từ gâteux trong tiếng Pháp) là một thuật ngữ chung cho bánh có nguồn gốc từ phương Tây. Bánh một dạng thức ăn ngọt làm từ bột mì, đường và các thành phần khác, thường được nướng. Trong các hình thức lâu đời nhất của họ, bánh là sửa đổi từ bánh mì, nhưng hiện bao gồm một loạt các chế phẩm có thể đơn giản hoặc phức tạp, và chia sẻ các tính năng với các món tráng miệng khác như bánh pastry, bánh trứng đường, bánh trứng, bánh bông lan và bánh nướng.
Các thành phần bánh được sử dụng phổ biến nhất bao gồm bột, đường, trứng, bơ hoặc dầu hoặc bơ thực vật, một chất lỏng và các chất men, như baking soda hoặc bột nở. Các thành phần bổ sung và hương liệu phổ biến bao gồm đồ khô, kẹo, hoặc trái cây tươi, các loại hạt, ca cao và chiết xuất như vani, với nhiều thay thế cho các thành phần chính. Bánh cũng có thể được làm đầy với chất bảo quản trái cây, các loại hạt hoặc các loại sốt tráng miệng (như kem bánh ngọt), đá lạnh với kem bơ hoặc các loại kem khác, và được trang trí với bánh hạnh nhân (marzipan), đường viền trang trí bánh (piped borders) hoặc kẹo trái cây.
Các loại bánh kẹo phương Tây được phân loại theo truyền thống là bánh pastry (tiếng Pháp: pâtisserie), mứt kẹo (tiếng Pháp: confiserie), kem nước đá (tiếng Pháp: glacerie).
Patisserie là loại bánh bột nhào làm từ bột mì, trứng, sữa, đường, v.v. làm nguyên liệu chính và được làm thành bột bằng nhiều phương pháp sản xuất khác nhau, và sau đó được hoàn thành bằng cách thêm kem, mứt, v.v. Ví dụ cụ thể bao gồm bánh gatô, bánh pie, bánh tart, bánh pudding, bánh crepe, bánh su kem và bánh quy. Mặc dù không sử dụng bột mì, bánh macaron làm bột từ hạnh nhân và quả phỉ, bánh trứng đường từ bột lòng trắng trứng, mousse cũng được gọi là bánh kẹo làm món tráng miệng, thạch, bavarois, bánh pudding và các món tráng miệng đông lạnh khác cũng được coi là patisserie.Mứt kẹo bao hàm loại bánh kẹo đường, và nó là một loại bánh kẹo sử dụng đường làm thành phần chính của nó, và bánh kẹo được làm bằng cách sử dụng các đặc tính của đường. Cụ thể là các loại bánh kẹo như drops, nougat, caramel, marshmallow, kẹo cao su, sô cô la, các loại hạt bọc kẹo, gồm kẹo hoa quả như marron glacé (kẹo bọc hạt dẻ đươc tráng lớp xi-rô đường bên ngoài, có nguồn gốc ở miền bắc Ý và miền Nam nước Pháp) và hầu hết trong số chúng được sản xuất tại nhà máy trong thời đại hiện nay. Sô cô la (tiếng Pháp: chocolaterie) trở thành là một bộ phận độc lập. Grasley là món tráng miệng, bánh kẹo đông lạnh như kem lạnh và sorbet.Các thuật ngữ "patisserie" và "confiserie" cũng là các thuật ngữ tương tự tên của các cửa hàng bánh kẹo bày bán các loại bánh kẹo này. Ở châu Âu, "confiserie" tách khỏi "patisserie" vào thế kỷ 18 và trở thành một ngành công nghiệp độc lập. Ngoài ra, đồ ngọt phương Tây thuộc về đồ ăn nhẹ được phát triển chủ yếu ở Mỹ (tiếng Anh: snack). Một bữa ăn nhẹ thay thế bằng đồ ăn vặt với muối làm nguyên liệu thô như khoai tây chiên, bắp rang bơ, v.v.Tại Nhật Bản, tiêu chuẩn phân loại tương tự như bánh kẹo Nhật Bản là bánh kẹo thô, bánh nướng chưa chín hẳn hoặc bánh kẹo khô theo quan điểm về thời hạn sử dụng, độ ẩm của bánh kẹo. Bánh kẹo thô không phải là bánh kẹo không qua nhiệt, mà là bánh kẹo có hàm lượng nước cao, nói chung là bánh kẹo có hàm lượng nước từ 30% trở lên. Phần lớn các loại bánh patisserie như shortcake, pound cake, bánh su kem, thạch và bavarois là "fresh sweets", còn "patisserie" đôi khi được sử dụng để chỉ đồ ngọt phương Tây nói chung. Bánh kẹo khô thường có hàm lượng nước từ 10% trở xuống, và bao gồm các loại bánh kẹo như sô cô la, kẹo và kẹo cao su, cũng gồm các loại bánh nướng như bánh quy và "leaf pies". Các loại bánh nướng chưa chín hẳn thuộc nhóm giữa, một số loại bánh bông lan và "candied cake" được xếp vào bánh kẹo phương Tây.
Thuật ngữ "cake" có một lịch sử lâu dài. Bản thân từ này có nguồn gốc từ người Viking, từ chữ "kaka" trong tiếng Bắc Âu cổ. Có thể nói, người Ai Cập cổ chính là Ông tổ của ngành bánh vì có nhiều bằng chứng khoa học chứng minh về kỹ năng nướng bánh của họ có từ rất sớm. Bánh lúc đầu được dùng bột nhào nặn nên, sau đó được làm ẩm bằng phương pháp thiên nhiên, nén lại và nướng trên đá nóng – lúc này bánh ngọt có thể gọi nôm na là bánh mì không lên men.
Đến giữa thế kỷ 17 thì tiền thân của những chiếc bánh ngày nay mới chính thức xuất hiện ở Châu Âu. Ban đầu, để làm bánh không có nhiều khuôn như bây giờ. Bột được dàn lên mặt phẳng và để vào lò nướng là phương pháp thông dụng nhất. Sau đó, khuôn bánh ra đời, ban đầu được làm bằng giấy, kim loại hay gỗ... Mãi sau này, thì khuôn bánh với đủ hình dạng, chất liệu như hiện nay mới xuất hiện.
Bánh ngọt thời gian đầu hao hao với bánh mì, bánh không bông xốp nhiều. Nhưng đến giữa thế kỷ 19, sự phát minh của bột nổi đã làm thay đổi quan niệm của cả thế giới về bánh ngọt. Bánh ngọt bông xốp hơn, làm ra cũng dễ dàng hơn. Hơn nữa, bánh ngọt còn có thêm nhiều lớp, có thêm kem đường, kem tươi... trang trí như ngày nay, mà đỉnh cao chính là những chiếc bánh sinh nhật mà chúng ta thường thấy.
Từ "cake" của bánh ngọt và đơn cử là bánh Âu có lịch sử rất lâu dài, từ thời Viking. "Cake" dùng để gọi một loại thức ăn được làm ra từ bột, và nhất định là phải ngọt (bằng đường hay mật ong), được trộn với trứng, có thêm chất béo (như bơ, sữa..) và chắc chắn phải nở lên trong quá trình nướng.
Ở các nước Châu Á, bánh ngọt truyền thống kiểu phương Tây cũng được du nhập nhưng trễ hơn (bên cạnh các loại bánh ngọt truyền thống của từng nước). Ví dụ như bánh sponge cake của Nhật chính là sự kết hợp cách làm Gateaux của phương Tây, nhưng gia giảm các nguyên vật liệu béo đi để thích hợp với khẩu vị người Á Đông.
Người Hy Lạp cổ đại gọi là bánh πλκ (plakous), có nguồn gốc từ chữ "phẳng", πλακόεις (plakoeis). Nó được nướng bằng bột trộn với trứng, sữa, các loại hạt và mật ong. Họ cũng có một chiếc bánh gọi là "satura", đó là một chiếc bánh nặng bằng phẳng. Trong thời kỳ La Mã, tên của bánh trở thành "nhau thai" bắt nguồn từ thuật ngữ Hy Lạp. Một nhau thai được nướng trên một cơ sở bánh ngọt hoặc bên trong một bánh ngọt. Người Hy Lạp đã phát minh ra bia như một loại men, chiên rán trong dầu ô liu và bánh phô mai sử dụng sữa dê. Ở Rome cổ đại, bột bánh mì cơ bản đôi khi được làm giàu với bơ, trứng và mật ong, tạo ra một loại bánh ngọt và giống như bánh nướng. Nhà thơ Latinh Ovid nói đến bữa tiệc sinh nhật và chiếc bánh của anh trai mình trong cuốn sách lưu vong đầu tiên, Tristia.
Những chiếc bánh đầu tiên ở Anh cũng chủ yếu là bánh mì: sự khác biệt rõ ràng nhất giữa "bánh" và "bánh mì" là hình dạng tròn, phẳng của bánh và phương pháp nấu, lật bánh một lần trong khi nấu, trong khi bánh mì được đặt thẳng đứng trong suốt quá trình nướng.
Bánh bông lan với nguyên liệu từ bột mì, bột nở với trứng đánh, có nguồn gốc từ thời Phục hưng, có thể nó ra đời ở Tây Ban Nha. Bánh bông lan được phủ trong kem tươi rất phổ biến trong ẩm thực Mỹ trong những năm 1920 và 1930. Kết cấu tinh tế của bánh bông lan và bánh thực phẩm thiên thần, và sự khó khăn trong quá trình chuẩn bị, có nghĩa là những chiếc bánh này đắt hơn bánh nướng hàng ngày. Tại phòng trà Frances Virginia lịch sử ở Atlanta, bánh bông lan có nhân kem chanh được phục vụ, trong khi Crumperie của thành phố New York không chỉ phục vụ cả bánh mà còn cả bánh xốp nướng.
Biến thể về chủ đề của một chiếc bánh dỡ bỏ, một phần hoặc toàn bộ, bằng đường hàng không bị mắc kẹt trong các tồn tại bột trong hầu hết các nơi châu Âu patisserie có lây lan, trong đó có "plava" Anglo-Do Thái, Ý génoise, người Bồ Đào Nha Pao-de- ló, và pan di Spagna của Ý có thể là tổ tiên ("bánh mì Tây Ban Nha").
Về món tráng miệng thì uy tín nhất như Ý có tiramisu và kem gelato cũng có tầm nhìn mạnh mẽ, và bánh kiểu phương Tây còn lại trong Đức có bánh Black Forest, Hoa Kỳ có cupcakes, Nhật Bản quả nước ngoài nước đánh giá cao cá nhân Đặc điểm. Theo truyền thống ở Anh, bánh được phục vụ với đồ uống nóng như trà đen, trà với sữa và cà phê, và được phục vụ trong bữa trà chiều.
Vì đường là một sản phẩm xa xỉ trong xã hội phương tây trước thế kỷ 19, nó chỉ là bằng sáng chế của giới thượng lưu. Món tráng miệng sẽ được coi là biểu tượng của giới quý tộc, vì vậy món tráng miệng có một vị thế nhất định trong thực phẩm phương Tây, phần còn lại của bánh ngọt là thực phẩm của người dân thường; Vì đường sau này được sử dụng rộng rãi, món tráng miệng cũng được phổ biến và phát triển nhiều đặc điểm khác nhau. |
Kem trà xanh (tiếng Nhật: ア イ ス リ ーMatcha aisu Kurīmu) hoặc Matcha Đá lạnh (ア イ Matcha aisu) là một hương vị kem của Nhật Bản. Hương vị này cực kỳ phổ biến ở Nhật Bản và các khu vực khác của Đông Á. Kem trà xanh cũng được bán ở dạng monaka. Nó đã có sẵn ở Hoa Kỳ từ cuối những năm 1970, chủ yếu ở các nhà hàng, chợ hay siêu thị Nhật Bản, nhưng hiện đang được chuyển sang sử dụng rộng rãi. |
Tôm khô là tôm tươi được phơi khô tự nhiên dưới ánh nắng mặt trời hoặc sấy khô thủ công. Con tôm tươi sau khi thành tôm khô sẽ có kích thước nhỏ hơn lúc còn tươi.
Các nhà dinh dưỡng học đã định lượng cụ thể là cứ 100 gam tôm tươi (chỉ tính phần ăn được) sẽ cho 82 calori, 79,2gam nước, 17,9gam đạm, 0,9gam béo, 0,9gam đường chung, 1,4gam xơ tro, 79 mg calci, 184 mg phospho, 1,6 mg sắt, 20 mg vitamin A, 0,04 mg vitamin B1, 0,08 mg vitamin B2, 2,3 mg vitamin PP.Theo kinh nghiệm của người làm tôm thì khoảng 5 hoặc 6 kilogram tôm tươi sẽ cho ra 1 kilogram tôm khô. Từ xa xưa, tôm khô là một thành phần không thể thiếu trong một số các món ăn của cư dân châu Á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước Đông Nam Á, một vài nước ở Châu Phi và một vài tiểu bang của Hoa Kỳ. Mùi và vị của tôm khô luôn làm cho món ăn độc đáo và rất khác so với các món ăn từ tôm tươi.Ở miền Nam và miền Trung Việt Nam, tôm khô đặc biệt ngon và có thể xem là nơi tạo ra thương hiệu cho con tôm khô. Với khí hậu đặc trưng nhiệt đới, có bờ biển dài, sông ngòi dày đặc, Các địa danh ở Việt Nam nổi tiếng với nghề tôm khô như: Phan Rang, Khánh Hòa, Bạc Liêu, Cà Mau, Hà Tiên,... |
Kem khoai mỡ tím (tiếng Anh: Ube ice cream) là một hương vị kem của người Philippines được chế biến bằng cách sử dụng khoai mỡ tím làm nguyên liệu chính. Đây là hương vị kem yêu thích nhất của người Philippines và được dùng như một thành phần để làm món tráng miệng halo-halo, món tráng miệng nổi tiếng nhất của họ.
Do khoai mỡ tím có màu tím tự nhiên mà không cần dùng màu thực phẩm, cùng với vị ngọt nhẹ và thơm, nó đã trở thành một món tráng miệng ưa thích của người Philippines, nổi bật nhất là món ube halaya, một món khoai mỡ tím nghiền.Việc sử dụng khoai mỡ tím để làm kem sớm nhất được ghi nhận là trong một công thức từ năm 1922, trong thời kỳ thuộc địa của Mỹ, thời điểm này kem du nhập vào văn hóa Philippines dẫn đến những hương vị mới cho kem làm từ các thành phần khác như xoài, pinipig và dưa. Trong thời điểm đó, kem được khuấy bằng tay trong một garapinyera, là một máy trộn kem vận hành bằng tay.
Kem khoai mỡ tím đã trở nên phổ biến bên ngoài đất nước Philippines, do nó được người nhập cư Philippines ở nhiều nước sử dụng trong các nhà hàng (thường dùng để làm món halo-halo), và nhờ màu tím sặc sỡ hình ảnh của nó đã lan truyền trên phương tiện truyền thông xã hội.Nhà hàng Philippines Manila Social Club được xem là đơn vị kinh doanh đầu tiên giới thiệu món kem này vào Mỹ vào năm 2016. Món ăn này được tiếp nhận nhanh chóng, nhiều đơn vị kinh doanh thực phẩm khác ở Mỹ đua nhau tạo ra các hương vị kem bằng đủ loại củ quả ngoài khoai mỡ tím. Chuỗi siêu thị Ralphs cũng bắt đầu bán sản phẩm kem Ube ice cream bên cạnh các sản phẩm thực phẩm khác của Philippines.
Kem khoai mỡ tím là một thành phần phổ biến trong halo-halo, một món tráng miệng ưa thích của người Philippines bao gồm sự kết hợp của nhiều nguyên liệu khác nhau, chẳng hạn như dừa, cao lương, đậu ngọt, các lát trái cây như mít, xoài, cùng với bánh flan leche, thạch dừa và khoai mỡ tím ở dạng bánh ube halaya. Món kem được xem như một thành phần thiết yếu của halo-halo do nó tạo nên hương vị và màu tím đặc biệt. Vì vậy, kem khoai mỡ tím có thể được sử dụng thay thế hoặc cùng với ube halaya. Vì sữa bay hơi là một thành phần thiết yếu khác của halo-halo, nên việc sử dụng kem khoai mỡ tím cũng tạo ra một công thức kem ngon hơn.
Món kem "Ube ice cream" được bày bán rộng rãi ở Mỹ không có ghi chú nguồn gốc món ăn truyền thống của Philippines đã khiến nhiều người Philippines bất bình, họ cho rằng điều đó là chiếm đoạt văn hóa. Như một số tranh cãi nhằm vào Trader Joe's, chuỗi cửa hàng tạp hóa ở Mỹ. Nhưng một bộ phận người bán hàng và kinh doanh khác thì không quan tâm, họ cho rằng món kem nên tập trung vào sự tiếp nhận của công chúng, và không công bố về nguồn gốc có thể giúp họ bán hàng thuận lợi hơn. |
Bánh thiên thần là một loại bánh bông lan được làm từ lòng trắng trứng, bột mì và đường. Một số loại kem đánh bông, chẳng hạn như kem tartar cũng thường được thêm vào món ăn. Nó khác với các loại bánh ngọt khác ở chỗ không sử dụng bơ. Kết cấu tạo bọt của bánh đến từ lòng trắng trứng được đánh bông. Bánh thiên thần có nguồn gốc từ Hoa Kỳ và bắt đầu trở nên phổ biến vào cuối thế kỷ 19, đạt đến đỉnh cao "danh vọng" vào đầu những năm 2000.
Lòng trắng trứng làm bánh thiên thần bắt buộc phải đánh bông cho đến khi đặc quánh lại. Kem tartar được thêm vào hỗn hợp để làm ổn định lòng trắng trứng. Các nguyên liệu còn lại được cho vào hỗn hợp lòng trắng trứng một cách nhẹ nhàng.
Để quy trình làm nở bột diễn ra suôn sẻ, sẽ rất hữu ích khi có bột mì được làm từ lúa mì mềm. Bột mì thường được sử dụng vì kết cấu nhẹ của nó. Lúa mì mềm và không có chất béo làm cho bánh thiên thần có kết cấu và hương vị rất nhẹ.
Nên cắt bánh thiên thần bằng dao có răng cưa, vì lưỡi dao thẳng thường làm nén bánh hơn là cắt nó thành từng miếng. Thay vào đó, nên sử dụng nĩa, dao răng cưa điện hoặc máy cắt mài đặc biệt.
Bánh thiên thần thường được nướng trong chảo dạng ống, một chiếc chảo cao, tròn, có ống hướng lên ở chính giữa nhằm để lại một cái lỗ ở giữa bánh. Cũng có thể sử dụng chảo bundt, nhưng các rãnh chảo có thể khiến việc lấy bánh ra trở nên khó khăn hơn. Phần ống ở giữa làm cho bột bánh nổi lên cao hơn bằng cách 'bám' vào tất cả các mặt của chảo. Không giống như các loại chảo dùng để chế biến các loại bánh khác, chảo nướng bánh thiên thần không được dính dầu mỡ. Điều này tạo điều kiện cho bánh trồi lên, giúp bánh nở ra. Sau khi nướng, úp chảo bánh xuống trong lúc làm nguội để tránh bánh tự xẹp. Bánh thiên thần đôi khi được phủ topping bằng kem phủ, nhưng thường có một số loại nước sốt, chẳng hạn như nước sốt trái cây ngọt, rưới lên trên nó. Một loại glaze đơn giản cũng được ưa chuộng. Gần đây, nhiều đầu bếp (đặc biệt là Alton Brown) đã phổ biến ý tưởng thêm các loại gia vị thơm như vỏ nhục đậu khấu và đinh hương vào bánh.
Bánh thiên thần là một loại bánh bông lan màu trắng được làm từ lòng trắng trứng được đánh bông đến khi quánh lại (lòng đỏ sẽ làm cho nó có màu vàng và cản trở sự đặc quánh của lòng trắng) và không có bơ. Công thức chế biến bánh bông lăn trắng đầu tiên trong sách dạy nấu ăn là trong cuốn sách The Kentucky Housewife of 1839 của Lettice Bryan năm 1839.
Home Messenger Book of Tested Recipes, ấn bản 2d., 1878, của Isabella Stewart có chứa công thức đầu tiên cho món Bánh thiên thần. Công thức chi tiết của Stewart bao gồm 11 lòng trắng trứng, đường, bột mì, chiết xuất vani và kem tartar.
== Tham khảo == |
Gimchijeon hoặc Jeon gimchi (phát âm tiếng Hàn: [kimtɕ ʰ i dʑʌn]) là một biến thể của món Jeon (tiên), là món bánh xèo của Triều Tiên, chủ yếu được làm bằng kim chi thái lát, bột nhão (nấu ăn) và đôi khi là các loại rau khác. Kim chi - món dưa muối chua cay, là một thực phẩm chính trong ẩm thực Triều Tiên. Món ăn này phù hợp với việc sử dụng kim chi chín. Gimchijeon thường được công nhận trong văn hóa Hàn Quốc như là một món ăn dân dã mà bất cứ ai cũng có thể làm dễ dàng ở nhà với giá rẻ.
Nó được dùng như là một món khai vị, món ăn nhẹ hoặc (phạn soạn), tức món ăn phụ kèm theo.
Khi nấu, thường người ta thêm nước dư từ kim chi, đặc biệt là từ món kim chi làm từ được làm từ cải thảo (baechu kimchi). Nước dư tiết ra từ kimchi khiến cho bột nhão có màu đỏ nhưng ít cay. Cùng với món kim chi, món này được dùng như đồ nhậu (Anchu (thực phẩm), án tửu) với rượu, bia và các đồ uống có cồn khác như makgeolli hoặc dongdongchu. |
Homarus gammarus, còn được gọi là Tôm hùm châu Âu hay Tôm hùm Tây, là một loài tôm hùm sinh sống ở đông Đại Tây Dương, Địa Trung Hải và một số nơi ở Biển Đen. Nó có quan hệ gần với tôm hùm châu Mỹ, H. americanus. Nó có thể dài 60 cm (24 in) và nặng 6 kilôgam (13 lb), và có đôi càng đáng chú ý. Lúc đang sống nó có màu xanh và khi nấu chín có màu đỏ. Mùa giao phối và sinh sản vào mùa hè, con cái mang bụng trứng trong một năm trước khi nở thành ấu trùng. Đây là một thực phẩm rất quý, người ta đánh bắt bằng lưới và bẫy tôm, chủ yếu xung quanh British Isles. |
Gỏi đu đủ Thái có tên là Som tam hoặc som tum, phiên âm tiếng Việt là xổm tam (ส้มตำ hoặc ส้มตำ), tên trong tiếng Isan là tam bak hung (ตำบักหุ่ง- tam bàk hùŋ) là một loại gỏi cay với nguyên liệu chính là đu đủ xanh bào sợi. Som tam tương tự như món gỏi tam mak hung của Lào và gỏi bok l'hong của Campuchia. Món gỏi đu đủ Thái được Google tôn vinh trên trang chính ngày 14/12/2021.
Món gỏi này cũng được bán trong khu tự trị Tây Song Bản Nạp ở Trung Quốc.
Món này có đầy đủ các vị cơ bản của ẩm thực Thái Lan: vị chua của chanh, vị cay của ớt, vị mặn của nước mắm và vị ngọt của đường thốt nốt. Món này được trộn bằng cách giã trong cối, vì thế nên mới có tên là som tam có nghĩa là "món giã (trong cối) có vị chua".
Ở Thái, thường thì thực khách sẽ yêu cầu đầu bếp nấu món này theo vị mà họ thích. Phiên bản Lào hay Isan của món này có tên là som tam lao (ส้มตำลาว) hay đơn giản gọi là tam lao. Phiên bản Tây Song Bản Nạp (Trung Quốc), người Thái Lặc sử dụng dầu hào và xì dầu thay thế nước mắm và thêm đá viên để giữ cho rau trong gỏi luôn tươi và giòn.
Các biến thể của món ăn này được tìm thấy khắp đất nước Thái Lan cũng như ở các nước phương Tây (món này giữ nguyên tên tiếng Thái ở nước ngoài). Món ăn tương tự như món này ở Campuchia là gỏi đu đủ Campuchia- bok l'hong.
Ở miền Trung Thái Lan, người ta làm món này ngọt và dịu hơn; thường bao gồm đậu phộng giã, có ít mắm cá Lào (padaek) hoặc cua muối hơn. Món này thường được ăn sống và chính phủ Thái Lan thường khuyến cáo người dân giữ gìn vệ sinh thực phẩm khi ăn món này vì nguy cơ bị viêm gan. Tôm khô muối mặn cũng được dùng ở miền Trung Thái Lan, khi đó, món này được gọi là som tam rama- ส้มตำรามา. Cũng có cách trộn gỏi khác dùng xoài xanh, táo, dưa chuột, cà rốt và các loại rau trái còn xanh khác. Đây là cách chế biến do sinh viên Thái du học ở Hoa Kỳ nghĩ ra vì ở Mỹ rất khó tìm được đu đủ xanh.
Cummings, Joe. (2000). World Food: Thailand. UK: Lonely Planet Publishers. pp. 157–8. ISBN 1864500263
Williams, China ‘’et al.’’. (). ‘’Southeast Asia on a Shoestring: Big Trips on Small Budgets.’’ Lonely Planet. p. 31. ISBN 1741041643
Brissenden, Rosemary. (2007). Southeast Asian food: Classic and Modern Dishes from Indonesia, Malaysia,.. Tuttle Publishing. pp. 434 – 439. ISBN 0794604889
McDermoot, Nancie. (1992). Real Thai: The Best of Thailand’s Regional Cooking. Chronicle Books. pp. 121 – 146. ISBN 0811800172 |
Cháo Tiều là một món ăn phổ biến của người Triều Châu (người Tiều) theo dòng người di dân vào Việt Nam vào khoảng thời giản thế kỉ 20. Một món ăn không khác biết biệt gì nhiều nếu so sánh với những món cháo thông thường nhưng nó vẫn có những nét riêng để tạo nên sức hút với thực khách khi thưởng thức. Thành phần chính của món ăn là bao gồm cháo trắng và ăn cùng với lòng heo.
Cháo Tiều theo chân người Triều Châu di dân từ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc vào Việt Nam từ những năm 50.
Thoạt nhìn qua, món cháo Tiều không có gì khác so với món cháo lòng của người Việt, cũng đầy đủ các thành phần như cháo trắng, phèo, tim, gan, cật... Tuy vậy, nó cũng có nhiều điểm khác biệt làm nên hương vị riêng cho món ăn này. Điểm khác biệt đầu tiên là các thành phần ăn kèm như: gan, tim, cật... Tất cả không được luộc chín trước như món cháo lòng mà lại để riêng thành từng phần. Khi có người ăn, chủ quán mới luộc chín nên khi ăn vừa nóng, vừa dai mềm và có vị ngọt nhẹ của thịt. Bên cạnh đó, trong bát cháo Tiều còn có thêm nấm rơm và mực tươi vừa làm phong phú vừa đem lại vị ngọt tự nhiên cho món ăn.Ngoài ra, cháo còn được cho thêm nhiều hành lá, tiêu và gừng thái sợi. Tất cả hòa quyện vào nhau đem lại hương vị cay nồng ấm bụng cho người ăn trong những ngày mưa. Không chỉ có món cháo thập cẩm, ở đây còn có nhiều loại cháo cho bạn chọn lựa như cháo thịt bằm; cháo nấm; cháo thập cẩm; cháo mực... với nhiều hương vị thơm ngon khác nhau.
== Tham khảo == |
Gỏi mít là một trong những món ăn nổi tiếng của miền Trung, được nhiều nhà hàng sang trọng đưa vào thực đơn và được rất nhiều thực khách yêu thích, thường được ăn kèm với bánh tráng mè. Trong các dịp cỗ bàn, món gỏi mít giòn ngon với vị chua ngọt hài hòa là một sự lựa chọn tuyệt vời để giảm bớt cái ngán của mâm cỗ nhiều chất đạm.
200 gr tôm
200 gr thịt ba rọi
500 gr mít non, bào mỏng
Đậu phộng và mè rang vàng
Rau răm, tỏi, ớt, chanh hoặc tắc
Đường, nước mắm, bột ngọt
Nấu nước sôi bỏ muối, trụn sơ mít, vớt ra, vắt ráo
Tôm và thịt luộc chín
Tôm bóc vỏ-Thịt xắt sợi
Pha nước mắm chua ngọt trộn gỏi: Pha nước mắm trộn gỏi: 2 muỗng canh nước cốt chanh, 3 muỗng canh nước, 3 muỗng canh nước mắm, 3 muỗng canh đường, 1 muỗng café bột ngọt, 1 muỗng café muối, thêm ớt bằm nếu thích.
Trộn đều mít, tôm, thịt với nước mắm chua ngọt. Sau đó, rau răm băm nhuyễn cho vào cùng đậu phộng và mè rang vàng.
Trưng bày ra đĩa,trang trí đẹp mắt.
Gỏi mít thường được dùng chung với bánh đa.
== Tham khảo == |
Kompot là một đồ uống ngọt không cồn, có thể được dùng nóng hay lạnh, tùy thuộc vào truyền thống và thời tiết. Nó được làm ra bằng cách nấu dâu tây, mơ, đào, táo, đại hoàng, lựu, hoặc anh đào chua trong nước, thường thêm đường hay nho khô để tăng độ ngọt, vani và quế đôi khi được cho vào, đặc biệt vào mùa đông khi kompot được uống nóng.
Kompot là một phần của văn hóa ẩm thực của nhiều nước Trung, Đông, và Nam Âu như Armenia, Azerbaijan, Belarus, Cộng hòa Czech, Ukraina, Nga, Ba Lan, Bulgari, Bosnia và Herzegovina, Litva, Latvia, Estonia, Hungary, Slovenia, Croatia, Macedonia, Serbia,Montenegro, Slovakia, Moldova, Tajikistan, Áo và Romania. Kompot ("компот" trong tiếng Macedonia, Bulgari, Nga, và Ukrainia) còn là một cách được dùng rộng rãi để bảo quản trái cây trong mùa đông tại Bulgari, Bosnia và Herzegovina và có lẽ cả các quốc gia Balkan khác. Năm 1885, Lucyna Ćwierczakiewiczowa viết trong một cuốn sách nấu ăn rằng kompot bảo quản trái cây tốt đến nổi trong chúng còn tươi. Nó còn rất phổ biến tại các nước Trung Á như Uzbekistan và Kyrgyzstan. Hàng tá công thức xuất hiện trong quyển sách Kuchnia Polska.
== Chú thích == |
Gà Barberton, còn được gọi là Gà rán Serbia, là một kiểu gà rán có nguồn gốc từ thành phố Barberton ở Hạt Summit, Ohio. Đây là một món đặc trưng của người Mỹ gốc Serbia được phục vụ tại một số nhà hàng chủ yếu do người Serbia làm chủ ở Barberton và Norton, và xuất hiện ngày càng nhiều trong các cộng đồng lân cận. Kiểu gà rán này đã giúp cho thị trấn được công nhận trên toàn quốc, với một số tuyên bố cho rằng Barberton là "Thủ đô gà của thế giới" hoặc "Thủ đô gà rán của Mỹ."
Món gà Barberton khởi đầu khi Milchael và Smilka Topalsky, những người Serbia nhập cư đến Mỹ vào đầu thế kỷ 20. Giống như nhiều người trong thời kỳ Đại suy thoái, họ trở nên nợ nần chồng chất và buộc phải bán trang trại của gia đình. Rồi họ mở một nhà hàng tên Belgrade Gardens vào năm 1933 để bán gà rán theo phong cách đặc biệt, cùng với món xà lách coleslaw làm từ giấm, cơm và món ăn kèm sốt cà chua với ớt (thường được gọi là "tương ớt" hoặc" cơm cay", cũng có thể được dùng làm nước chấm hoặc món ăn kèm), và khoai tây chiên mới cắt. Truyền thuyết của Barberton cho rằng đây là những bản sao chính xác của những món ăn mà Topalskys đã từng biết đến ở Serbia với cái tên pohovana piletina, kupus salata, djuvec, và pomfrit.Ngay sau đó các nhà hàng khác nổi lên bắt chước kiểu gà rán đặc biệt này. Helen DeVore, người từng làm việc cho Belgrade Gardens, đã mở Hopocan Gardens vào năm 1946. Gia đình Pavkov thành lập White House Chicken Dinners vào năm 1950, và sở hữu nhà hàng cho đến cuối những năm 1980 trước khi bán nó cho gia đình DeVore. Gia đình Milich là người Mỹ gốc Serbia đã mở Milich's Village Inn vào năm 1955. Tháng 7 năm 2014, gia đình Milich thông báo rằng họ sẽ đóng cửa nhà hàng của mình từ ngày 31 tháng 12. Một tháng sau, địa điểm này mở cửa lại dưới quyền sở hữu mới cùng với tên gọi Village Inn Chicken, nhưng vẫn phục vụ món gà rán đặc trưng.Ngày nay, bốn nhà hàng đã phục vụ hơn bảy tấn rưỡi gà mỗi tuần. Món ăn này đã trở nên phổ biến đến nỗi nó thường được vận chuyển đến khắp các nơi trong nước Mỹ, thường là đến những người Ohio di cư. Gần đây, White House Chicken đã mở rộng sang một số địa điểm ở đông bắc Ohio, và chuyển sang mô hình thức ăn nhanh.
Các quy tắc chế biến cơ bản của gà Barberton rất đơn giản nhưng được các nhà hàng tuân thủ nghiêm ngặt như sau:
Gà Barberton "đúng nghĩa" là gà tươi, không dùng gà đông lạnh.
Gà và bánh mì đều không tẩm gia vị.
Gà được chiên bằng mỡ lợn.
Cách cắt gà cũng khác với thông thường. Gà được cắt thành nhiều miếng, cụ thể là ức, đùi, chân, cánh, âu cánh và lưng. Điều này có lẽ bắt nguồn từ cuộc Đại suy thoái, khi việc cắt gà thành nhiều mảnh nhất có thể mà không bỏ bất kỳ bộ phận nào đã trở nên cần thiết. Phần lưng chứa ít thịt, và đôi khi được bán trên thị trường với tên gọi "sườn gà" vì trông nó giống sườn bò hoặc sườn lợn.
Koltnow, Ronald (2018). Barberton Fried Chicken: An Ohio Original. American Palate. Arcadia Publishing. ISBN 1467139726. |
Gạch là từ thông dụng trong đời sống (đặc biệt trong ẩm thực) dùng để chỉ chất mềm, màu vàng trong khoang cơ thể của cá thể các loài họ Tôm hùm càng. Ngoài ra, nó còn chỉ chất kết tủa màu nâu nhạt sinh ra khi đun nước cua giã để nấu canh.
Theo tên gọi thì gạch có hai loại. Với cua đồng nước ngọt thì phần lớn gạch là khối gan và tụy dưới mai, trong khi ở vùng biển gạch dùng để chỉ phần trứng non của cua biển.
Chính xác về mặt khoa học thì gạch cua chính là nơi chứa các tế bào sinh dục của loài này. Đối với cua đực thì đó là hệ thống các tế bào sinh tinh còn ở cua cái thì đó là buồng trứng của nó.
Khi bắt đầu vào sinh sản, những trứng chín được chuyển xuống yếm của con cua cái, ở đó nó được thụ tinh, con cua cái giữ ở đó cho tới khi nở ra thành cua con một thời gian thì cua con mới phân tán vào trong môi trường nước. Giữ cua con trong yếm của cua cái là biện pháp tốt nhất giữ cho tỷ lệ sống sót của những con cua con là cao nhất.
Với tôm thì gạch đóng thành một dọc vàng ươm ở sống lưng hoặc là một mảng lớn ở đầu tôm.
Gạch cua có bản chất là protein. Khi đun sôi nước các phân tử protein liên kết với nhau tạo thành những mảng cũng gọi là gạch. Những mảng này có cấu trúc là những khoang xốp rỗng nhẹ và nổi lên trên mặt nước. Khi những mảng này bị đánh tan cấu trúc liên kết bị phá vỡ, nước tràn vào các khoang xốp nên gạch cua lắng xuống.
Nhờ vào đặc tính này và hàm lượng dinh dưỡng cao, người Việt Nam đã đưa gạch cua vào ẩm thực Việt Nam vô cùng tinh tế, đa dạng. |
Acquacotta hay xúp acquacotta (phát âm [ˌakkwaˈkɔtta]; trong tiếng Ý có nghĩa là "nước nấu chín") là một loại xúp bánh mì làm từ nước dùng nóng trong ẩm thực Ý, vốn là món ăn dân dã, có nguồn gốc từ thời kỳ cổ đại, bắt nguồn từ vùng ven biển có tên là Maremma ở phía nam Toscana và phía bắc Lazio. Món xúp này ra đời với mục đích giúp cho bánh mì cũ, khô và cứng trở nên dễ ăn hơn. Trong thời hiện đại, người nấu có thể sử dụng những thành phần khác nhau hoặc bổ sung thêm nguyên liệu tùy mục đích chế biến. Món ăn này gồm hai biến tấu chính là aquacotta con funghi cùng với aquacotta con peperoni.
Acquacotta là một món ăn truyền thống, đơn giản có nguồn gốc từ vùng ven biển nước Ý – vùng đất được biết đến với tên gọi Maremma. Vùng đất này trải dài từ nửa bờ nam của Toscana đến phía bắc Lazio. Trong tiếng Ý, "acquacotta" có nghĩa là "nước nấu chín". Đây là một món ăn cổ xưa, có nguồn gốc từ những người nông dân ở đất nước hình chiếc ủng. Công thức của acquacotta phần nào được tạo ra bởi những cư dân khai thác than sống trong các khu rừng ở Toscana, những người thuộc loại rất bần cùng, "những người nghèo nhất". Ngoài ra, những nông dân và người chăn cừu trong khu vực Maremma cũng chế biến và đưa món ăn này vào thực đơn của họ. Về phương diện lịch sử, món xúp này đôi khi còn đóng vai trò là một món antipasto, món khai vị trong bữa ăn của người Ý. Về mặt địa lý, acquacotta vẫn là một món ăn phổ biến ở Maremma và trên khắp nước Ý.Người xưa chế ra acquacotta với mục đích làm cho bánh mì cũ và cứng trở nên dễ ăn. Vì khi làm việc xa nhà trong một khoảng thời gian đáng kể, một số người (chẳng hạn như tiều phu cũng như nông dân chăn cừu) sẽ mang theo bánh mì cùng các loại nhu yếu phẩm khác (có thể là pancetta hoặc cá tuyết ướp muối) để cầm cự. Khi ướp với xúp acquacotta, bánh mì cũ, khô, lâu ngày sẽ trở nên tơi và mềm hơn.Trong truyền thuyết dân gian Ý cũng đề cập tới một món ăn gọi là xúp đá. Nội dung câu chuyện kể về một vị khách du lịch nghèo đến một ngôi làng, trên người chỉ mang theo mỗi một hòn đá. Vị khách nọ đã thuyết phục dân làng thêm các thành phần, gia vị vào món xúp đá của anh ta, cuối cùng tạo ra acquacotta. Câu chuyện này cũng có nhiều dị bản.
Ngày nay, người chế biến có thể sử dụng đa dạng bánh mì cũ, tươi hoặc nướng, kết hợp cùng những gia vị khác nhau như nước dùng, trứng, pho mát Parmesan hoặc pecorino Toscano tùy loại, cần tây, tỏi, húng tây, đậu thận, bắp cải, cải xoăn, nước chanh, muối, tiêu, khoai tây cùng nhiều thành phần khác để tạo ra món acquacotta hoàn chỉnh. Vài người thích sử dụng nấm thông, thảo mộc hoang dã hay các loại rau sống hoặc rau xanh như cải lông, diếp quăn, bạc hà, cải cầu vồng, ô rô, lá bồ công anh, cải xoong, nữ lang cùng một số loại rau củ quả khác. Ngoài ra, việc làm chín rau xanh sẽ góp phần tạo nên hương vị đậm đà cho nước dùng. Khi nấu, nếu cần trang trí thì đặt lên trên món xúp một quả trứng chần. Bên cạnh đó, món ăn này cũng có thể được chế biến trước từ vài giờ đến một ngày, đem ướp lạnh hoặc cho vào trong tủ lạnh sau đó hâm nóng lại trước khi dùng. Xúp acquacotta còn được bảo quản bằng cách đông lạnh.
Acquacotta con funghi là một biến thể của xúp aquacotta, trong đó nấm thông là nguyên liệu chính. Các thành phần đi kèm bao gồm bánh mì, nước hầm hoặc nước lọc, conserva cà chua, pho mát Parmesan, trứng, cau phong luân nhỏ, bạc hà dại, tỏi, dầu ô liu, muối và tiêu. Hương vị và hương thơm của biến thể này đến từ chính nguyên liệu là nấm thông. Ngoài ra, có thể dùng thêm rau mùi tây tùy người chế biến.Acquacotta con peperoni là một biến thể khác của xúp aquacotta bao gồm cần tây, ớt đỏ và tỏi. |
Kem que (tiếng Anh: Ice pop) là một món ăn nhẹ đông lạnh dựa trên nước hoặc sữa trên một cái que. Không giống như kem lạnh hay sorbet, được đánh bông trong khi đông lạnh để ngăn chặn sự hình thành tinh thể băng, một tảng băng được "đông lạnh" đóng băng, trong khi nghỉ ngơi và trở thành một khối băng cứng. Que được sử dụng như một tay cầm để giữ nó. Không có cây gậy, sản phẩm đông lạnh được gọi là một thứ khác (ví dụ như một freezie).
Kem que (Ice pop) có thể được gọi là popsicle (Canada, Hoa Kỳ), freezer pop (Hoa Kỳ), ice lolly, ice pop (Vương quốc Anh, Ấn Độ, Ireland, Nam Phi), khối băng (ice block) (Úc, New Zealand) hoặc băng rơi (ice drop) (Philippines).
"Cho đến năm 1872, hai người đàn ông làm kinh doanh như Ross và Robbins, đã bán một loại bánh kẹo trái cây đông lạnh trên một cái que, mà họ gọi là Hokey-Pokey." Francis William "Frank" Epperson (11 tháng 8 năm 1894, Willows, California - 22 tháng 10 năm 1983, Fremont, California) ở Oakland hoặc San Francisco, California, phổ biến băng sau khi phát minh ra khái niệm này của "băng đông lạnh trên một cái que" vào năm 1923.Epperson tuyên bố lần đầu tiên tạo ra một chiếc kem que vào năm 1905, vào năm 11 tuổi, khi anh vô tình để lại một cốc nước chanh bột và nước với một que trộn trên hiên nhà trong một đêm lạnh lẽo, đến sáng hôm sau thì nó đã đóng băng thành que kem, một câu chuyện vẫn còn in ở mặt sau của hộp kem que.
Epperson sống ở Oakland và làm nhân viên bán nước chanh.Vào năm 1922, Epperson, một nhà môi giới của Công ty Syndicate ở Oakland, giới thiệu Popsicle tại một quả bóng của lính cứu hỏa. Đó là một cảm giác, ở tuổi 29, Epperson đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế vào năm 1923 cho một thứ "băng đông lạnh gắn trên que" được gọi là kem que Epsicle, và đến năm 1924, ông đã được cấp bằng sáng chế một loại bánh kẹo được xử lý, đông lạnh hoặc băng kẹo mút. Ban đầu ông gọi nó là Epsicle. Epperson đã ra mắt, và bắt đầu bán Epsicles, với bảy hương vị trái cây tại công viên giải trí Bãi biển Hải Vương, được mô tả là "kẹo mút đông lạnh" hoặc "nước uống trên cái que".Vài năm sau, Epperson bán quyền phát minh và nhãn hiệu Popsicle cho Công ty Joe Lowe tại thành phố New York.
Ở Hoa Kỳ và Canada băng đông lạnh trên một cây gậy được gọi chung là popsicle do sự phổ biến ban đầu của thương hiệu Popsicle, và từ này đã trở thành một nhãn hiệu chung để có nghĩa là bất kỳ kem que (ice pop) hoặc freezer pop nào, bất kể thương hiệu hay định dạng. Chúng còn được gọi là kem que (ice pop) hoặc freezer pop ở Hoa Kỳ. Ở quần đảo Caicos, nó được gọi là một trình tiết kiệm băng. Ở Vương quốc Anh và Ireland, thuật ngữ ice lolly và kem que (ice pop) được sử dụng, mặc dù pop pop phổ biến hơn nhiều ở Ireland. Chihiro được sử dụng như một thuật ngữ tiếng lóng ở Quần đảo Cayman, một phần có nguồn gốc từ lạnh. Các khu vực khác nhau của Úc sử dụng từ khối băng hoặc cực băng, và New Zealand sử dụng khối băng.
Một thay thế cho kem que mua ở cửa hàng là tự làm kem ở nhà bằng cách sử dụng nước trái cây, đồ uống hoặc bất kỳ đồ uống có thể đóng băng. Một phương pháp cổ điển liên quan đến việc sử dụng khay đá và tăm xỉa răng, mặc dù các khuôn tủ đông đá khác nhau cũng có sẵn.
Ở Anh, ngày càng có nhiều người thực hiện các loại kem que có cồn tại nhà bằng cách cho đồ uống có cồn vào trong khuôn. Buckfast, Kopparberg và Strongbow Dark Fruit là những lựa chọn phổ biến được sử dụng.
Năm 2018, công ty thiết kế tập trung vào thực phẩm ở Anh có tên Bompas & Parr tuyên bố rằng họ đã tạo ra pop pop 'không tan chảy' đầu tiên trên thế giới. Kem que loại này vẫn tan chảy nhưng không nhanh như các kem que khác. Điều này là do các sợi của trái cây bên trong tảng băng làm cho chúng dày hơn so với các tảng băng thông thường. Băng càng dày thì nó càng tan chậm. Thiết kế này được lấy cảm hứng từ vật liệu gọi là pykrete, được phát minh bởi Geoffrey Pyke.
Vào ngày 22 tháng 6 năm 2005, Snapple đã cố gắng đánh bại kỷ lục Guinness thế giới hiện tại của người Hà Lan về việc làm kem que cao 21 foot (6,4 m) bằng cách cố gắng dựng lên một que kem 25 foot (7,6 m) ở thành phố New York. 17,5 tấn Mỹ (15,9 t) nước ép đông lạnh được mang từ Edison, New Jersey, trong một chiếc xe tải đông lạnh nhưng nó tan nhanh hơn dự kiến, phá vỡ hi vọng tạo thành một kỷ lục thế giới mới. Khán giả chạy trốn lên vùng đất cao hơn trong khi lính cứu hỏa hút nước trái cây tan chảy ra.
Andrew F. Smith biên tập (2007). “Popsicle”. The Oxford Companion to American Food and Drink. Oxford University Press. tr. 471.
laverrán, Virginia González. "Historia del Helado en México của Martin González de la Vara." Lịch sử Mexicana 40.2 (1990): 350-354. [1]
Ortiz, Laura Velasco. "La Michoacana. Historia de Paleteros de Tocombu của Martin González de la Vara." Lịch sử Mexicana 58.1 (2008): 509-516. [2]
Zuñiga, Ricardo Miranda. "Vagamundo: Câu chuyện của người di cư." (thứ). http://dl.acm.org/citation.cfm?id=1027762&bnc=1 [3]
Làm thế nào để mọi người đề cập đến điều trị đông lạnh trong hình? Lưu trữ 2020-10-03 tại Wayback Machine - Đại học Manchester |
Rượu táo (tiếng Anh: apple cider) là tên mà nước Mỹ và một số vùng khác ở Canada đặt cho loại thức uống không cồn làm từ táo tây. Dù đôi khi rượu táo cũng được gọi tắt là cider, nhưng nên tránh nhầm lẫn với loại đồ uống có cồn cùng tên là cider (hay hard cider). Apple cider là đồ uống chính thức của bang New Hampshire. |
Acarajé là một món ăn trong ẩm thực Brasil và ẩm thực Nigeria. Đậu trắng được nghiền nhỏ sau đó nặn thành hình cầu với phần nhân bên trong làm từ tôm và dầu giấm sau đó đem chiên trong dầu cọ. Bánh Acarje thường được ăn với salad làm bằng cà chua, tương ớt và tôm chiên. Ở Brasil người ta còn chế biến món Acaraje chay với thành phần làm từ ớt và cà chua.
== Tham khảo == |
Ảnh hưởng sức khỏe của sô-cô-la là những ảnh hưởng có lợi hoặc bất lợi của việc ăn vào sô-cô-la đối với sức khỏe.
Tiêu thụ không giới hạn lượng lớn bất kỳ thực phẩm giàu năng lượng nào, chẳng hạn như sô-cô-la, mà không có sự gia tăng tương ứng trong hoạt động, cũng sẽ làm tăng nguy cơ béo phì. sô-cô-la thô giàu bơ ca cao, chất béo được loại ra trong quá trình tinh chế sô-cô-la, nhưng sau đó lại được thêm vào với tỷ lệ nhất định trong quá trình sản xuất. Và chất béo, đường, sữa bột khác cũng có thể được thêm vào.
Dù nhiều nghiên cứu đã được tiến hành để đánh giá những lợi ích mang lại cho sức khỏe của việc tiêu thụ sô-cô-la, nhưng vẫn chưa thể xác nhận được bất kỳ ảnh hưởng nào, cũng như không có cơ quan y tế hay quy định nào chứng nhận những ảnh hưởng sức khỏe đó. |
Xúc xích Viên (tiếng Đức: Wiener Würstchen, Wiener; Tiếng Đức Viên/Áo: Frankfurter Würstel hay Würstl; Tiếng Đức Thụy Sĩ: Wienerli; Swabia: Wienerle hay Saitenwurst) là một loại xúc xích mỏng đun sôi nửa chừng (hay nói cách khác là "luộc sơ") truyền thống làm từ thịt heo và thịt bò, được nhồi trong lớp vỏ ruột cừu, sau đó đem đi hun khói ở nhiệt độ thấp. Wiener là một từ tiếng Đức, có nghĩa là ngôn ngữ Viên. Ở Áo, thuật ngữ "Wiener" không phổ biến đối với mặt hàng thực phẩm này, thay vào đó chúng thường được gọi là Frankfurter Würstl.Nguyên liệu, cách chế biến, kích cỡ và hương vị có thể khác nhau tùy theo nhà sản xuất hoặc khu vực bán.
Tại một số quốc gia châu Âu, xúc xích wiener nấu chín thường được hun khói, mua tươi từ siêu thị, cửa hàng bán đồ ăn nhanh hay cửa hàng bán thịt có thể được gọi bằng một cái tên (chẳng hạn như bằng tiếng Đức hoặc tiếng Pháp) mà dịch ra là "xúc xích Viên". Theo truyền thống, chúng được làm từ giăm bông tẩm gia vị, nhưng ở Đông và Nam Âu, thịt gà hoặc gà tây nhồi frankfurter được sử dụng phổ biến hơn. Loại xúc xích wiener bày bán dưới dạng xúc xích Viên ở châu Âu có hương vị và kết cấu rất giống món "hot dog" (hoặc "frankfurter") ở Bắc Mỹ, nhưng thường dài và mỏng hơn, với lớp vỏ rất nhẹ, có thể ăn được. Xúc xích Viên kiểu Âu cho vào trong một chiếc bánh mì dài (kipfel) cùng với gia vị thường được gọi là "hot dog" (ám chỉ đến toàn bộ món bánh chứ không đề cập đến loại xúc xích mà bánh sử dụng). Còn ở Na Uy, người ta nhồi xúc xích wiener vào trong một chiếc bánh lompe lefse rồi thưởng thức.
Sau khi được những người nhập cư châu Âu mang đến Bắc Mỹ, từ "xúc xích Viên" chỉ đơn thuần là ám chỉ đến các loại xúc xích wiener hun khói và đóng hộp nhỏ hơn và ngắn hơn nhiều, chứ không có nghĩa là xúc xích kiểu xâu chuỗi (bắt đầu từ năm 1903). Tuy nhiên, xúc xích ở mỗi bang không có tính đồng nhất với nhau. Xúc xích Viên ở Bắc Mỹ có cách chế biến tương tự như xúc xích wiener thịt heo, được nghiền mịn thành hỗn hợp sệt rồi trộn với muối cùng các loại gia vị khác nhau, chẳng hạn như đinh hương, rau mùi, nhục đậu khấu, bột tỏi, bột hành và ớt đỏ khô nghiền mịn. Xúc xích được nhồi vào trong một lớp vỏ dài (đôi khi được hun khói), luôn được nấu nhừ và sau những năm 1950, những chiếc vỏ này dần được loại bỏ. Xúc xích sau đó được cắt thành các đoạn ngắn để đóng hộp và nấu thêm. Người ta có thể tìm thấy món ăn ở hình thức chế biến sẵn đơn giản (ở dạng gelatin, tương tự như aspic) hoặc với nhiều loại hương liệu, chẳng hạn như chất lỏng xông khói, mù tạt, ớt hoặc nước sốt thịt nướng. Hoạt động tiêu thụ xúc xích Viên đạt đến đỉnh điểm vào thập niên 1940-1970, nhưng đã giảm dần kể từ đó. |
Muối chua là quy trình bảo quản hay kéo dài thời gian sử dụng của thực phẩm bằng cách lên men yếm khí trong nước muối hoặc trong dấm. Muối chua thường sẽ ảnh hưởng đến kết cấu và hương vị của thực phẩm. Sản phẩm cuối cùng sẽ được gọi là dưa, hoặc để phân biệt rõ hơn thì thêm từ muối hay muối chua sau tên loại thực phẩm được sử dụng. Thực phẩm được muối chua có thể kể đến rau, hoa quả, thịt, cá, sữa và trứng.
Một đặc điểm của việc muối chua đó là độ pH ở mức 4,6 hoặc thấp hơn, nên vô cùng hiệu quả trong việc tiêu diệt các loại vi khuẩn. Muối chua có thể bảo quản thực phẩm dễ hỏng trong vòng vài tháng. Các loại rau thơm và gia vị kháng vi sinh vật, như hạt mù tạc, tỏi, quế hay đinh hương thường được thêm vào. Nếu thực phẩm có độ ẩm cao, có thể làm ra nước muối chua đơn giản bằng cách thêm muối khô. Ví dụ, sauerkraut và kimchi được làm ra bằng cách sát muối rau để hút nước ra ngoài. Việc lên men tự nhiên ở nhiệt độ phòng, bằng vi khuẩn acid lactic, sẽ tạo ra độ chua cần thiết. Một số kiểu muối chua khác đó là ngâm rau củ trong dấm. Như quá trình đóng hộp, muối chua (bao gồm cả lên men) không yêu cầu thực phẩm phải được tiệt trùng trước khi đóng. Tính acid hay mặn của dung dịch, nhiệt độ lên men, và sự có mặt của khí oxi sẽ xác định loại vi sinh vật nào sẽ sinh sôi, từ đó quyết định hương vị của sản phẩm cuối cùng.Khi nồng độ muối và nhiệt độ thấp, Leuconostoc mesenteroides sẽ sinh sôi, tạo ra hỗn hợp các acid, cồn, và các hợp chất mùi hương. Ở nhiệt độ cao hơn, Lactobacillus plantarum sẽ sinh sôi, chủ yếu tạo ra acid lactic. Nhiều thực phẩm muối chua bắt đầu với Leuconostoc, và sau đó chuyển thành Lactobacillus với tính acid lớn hơn.Những yếu tố địa lý và văn hóa, như xứ nhiệt đới nóng ẩm, đã tạo nên nền ẩm thực đặc trưng của cộng đồng người Việt trên đất nước Việt Nam ưa thích những món ăn chua, mát ít nhiều có tác dụng giải nhiệt, trong đó có những món như dưa muối hay canh chua. Có hàng trăm kiểu loại dưa muối chua, tùy thuộc nguyên liệu chính và cách chế biến, nhưng xét về phương thức muối, dưa muối thường được làm theo hai dạng chính là dưa muối xổi (dưa góp) thời gian ngắn, tương đối ít chua thậm chí vẫn còn cay, hăng, thường được sử dụng ngay trong ngày; và loại dưa muối mặn (dưa ghém hay dưa muối nén) có thời gian muối lâu hơn và sử dụng dài hạn hơn.
Nguyên liệu chính là các loại rau củ quả: rau cải bẹ, cải thảo, lá và củ của cải củ, su hào, cà rốt, đu đủ xanh, quả sung, cà bát, cà tím, cà pháo, hành củ, củ kiệu, dọc mùng, ngó sen, bông súng, súp lơ, bông điên điển, dưa chuột, dưa gang, dưa hồng, giá đỗ, hành tây, tỏi tây, rau cần nước, rau muống, măng, ớt ngọt v.v.
Muối ăn, đường, dấm thanh (có thể không cần).
Các loại rau gia vị khác: tùy theo loại nguyên liệu chính là gì người nội trợ có thể phối trộn với hành hoa, hẹ xắt khúc, rau răm xắt nhỏ, gừng, riềng thái lát mỏng hoặc thái chỉ, tỏi, ớt đập dập hoặc thái vát v.v.
Dưa muối sử dụng rất đa dạng các loại rau, củ, quả được trồng hoặc mọc hoang dại, phối trộn với muối theo một tỉ lệ nhất định theo kinh nghiệm của người ẩm thực không quá mặn (khiến dưa bị khú hỏng, không chua), cũng không quá nhạt (khiến sản phẩm bị chua quá nhanh và chóng hỏng). Tùy theo nguyên liệu và cách chế biến, có thể có nhiều cách làm sản phẩm dưa chua khác nhau nhưng thường tập trung thành hai dạng: dưa muối xổi và dưa muối chua
Dưa muối chua có thể được ăn như một trong những món rau trên mâm cơm thường nhật. Ngoài ra, nhiều loại dưa chua được sử dụng ăn kèm với một món ăn khác hoặc sử dụng trong những ngày lễ đặc biệt: tết nguyên đán thường có dưa hành củ; các loại cà rốt, xu hào tỉa hoa muối xổi. Cà pháo muối chua ăn kèm với canh riêu cua, canh rau ngót hay rau muống luộc chấm tương. Dưa kiệu ăn với thịt quay. Dưa sung ăn với ốc luộc. Xu hào, đu đủ xắt lát thật nhỏ trộn chua là thành phần không thể thiếu của món bún chả Hà Nội. Bông điên điển muối chua nấu canh cá lóc, dưa chua cải bẹ hầm thịt bò v.v.
Khi một số loại dưa muối bị chớm hỏng, đóng váng trắng trên bề mặt nước dưa, cần hớt bỏ đi để tránh dưa bị khú, hỏng. Một số loại dưa muối để quá lâu nên rất chua, thường người sử dụng có thể rửa sạch và trộn với một ít đường, tỏi, ớt để giảm độ chua khi ăn, hoặc sử dụng để làm món cơm rang thập cẩm, món dưa muối kho tương, nấu canh chua với rau thì là và một số loại cá, đặc biệt là kho với cá trê ăn rất ngon.
Một số vùng miền Trung Việt Nam (như Nghệ An) còn sử dụng xơ và múi mít xanh để làm món nhút, một sản phẩm dạng dưa muối chua, nổi tiếng là nhút Thanh Chương. Ẩm thực Miền Nam Việt Nam lại rất thịnh hành các loại quả chua (như xoài xanh, cóc xanh) bằm, trộn với ớt bột hoặc ớt tươi, đường, tỏi v.v. Để tạo món tương tự như dưa chua, dùng rất ngon trong các bữa ăn như một đồ nhắm rượu.
Ngoài ra, một số vùng miền ở Việt Nam còn làm các loại mắm với sự kết hợp của các nguyên liệu là hải sản (như tôm sú, cua, ghẹ) với củ kiệu hoặc đu đủ xanh xắt lát mỏng, trút vào lu, hũ để tạo chua. Món kim chi cải thảo, một trong số hàng trăm món kim chi của nền ẩm thực Triều Tiên cũng được làm theo kiểu Việt để trở thành một biến thể của dưa muối chua.
Dưa cải muối là biến tấu của thể loại dưa muối, trong đó nguyên liệu chủ đạo là dưa cải (cả bẹ), đây là một trong những món dưa muối đặc sản và phổ biến của Việt Nam.
Tương cà là gia bản: món tương, cà pháo muối chua và rau muống luộc là ba món ăn rất phổ thông đối với người dân nghèo vùng nông thôn Việt Nam. Hũ tương và lọ cà muối được coi là "gia bản", bởi những món ăn này thịnh hành, phổ thông, dễ kiếm, tiện bảo quản cất trữ và sử dụng dài hạn, gia đình nào vùng thôn quê ngày xưa cũng có sẵn trong nhà phòng lúc không đi chợ được.
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ: các sản phẩm đặc trưng của ngày tết Nguyên đán cổ truyền thường không thể thiếu món dưa hành.
Ăn xổi ở thì: chỉ những người có sinh hoạt, ăn ở không kiên định, thủy chung, lâu bền, như loại dưa muối xổi thường làm qua loa và sử dụng ngay.
Nguyễn Khuyến có nhắc đến dưa muối trong câu thơ:
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu chè chả dám mua Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu khoảng thập niên 1920 có bài thơ rằng:
Muốn ăn rau sắng chùa Hương
Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
Mình đi ta ở lại nhà
Cái dưa thì khú cái cà thì thâm.Nữ sĩ Song Khê đọc qua có hoạ lại rằng:
Kính dâng rau sắng chùa Hương
Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa
Không đi thời gửi lại nhà
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm. |
Cua sốt ớt là một món ăn đặc sản của Singapore. Cua sốt ớt có mặt hầu hết trong thực đơn các quán ăn, nhà hàng hải sản ở Singapore. Cua sốt ớt thu hút thực khách ở hương vị cay nồng, thơm ngon, hòa quyện theo đó là thứ nước sốt sánh mịn, hương thơm dịu nhẹ. Với món này có thể dùng kèm với bánh bao chiên Singapore hoặc có thể dùng với bánh mì, chấm vào nước sốt. Cua dùng chế biến món này là cua bùn.
Món này được xếp thứ 35 trong danh sách 50 món ăn ngon nhất thế giới năm 2011 của CNN Go.
Để chế biến món ăn này cần có các nguyên liệu sau:Hai con cua lớn
Một củ hành tây
Năm tép tỏi
Một củ gừng
Năm củ hành tím
Ba trái ớt sừng, ba trái ớt hiểm
Hai muỗng canh tương ớt, nửa chén sốt cà, hai muỗng canh tương đậu
Một quả trứng gà
Dầu ăn, đường, giấm gạo, nước tương, nước dùng, bột bắp, hành, ngò.
Tỏi, gừng, hành tím bóc vỏ, ớt bỏ cuống. Tất cả đem xay hoặc giã nhuyễn.
Cua rửa sạch, chặt miếng vừa ăn.
Hành tây bóc vỏ, thái hạt lựu. Cho dầu vào chảo, dầu nóng cho hành tây vài xào mềm. Sau đó, cho hỗn hợp ớt, tỏi đã xay nhuyễn, cho thêm tương ớt, tương cà, tương đậu, nước tương, đường, giấm gạo vào. Đảo đều, nấu hỗn hợp khoảng 5 phút.
Để nước sốt sánh lại, cho ít bột bắp hòa tan với nước vào hỗn hợp. Cho trứng vào sốt, đảo đều.
Cho cua vào hỗn hợp, đảo đều cho sốt thấm vào cua.
Cua chín, thấm sốt. Tắt bếp, bày ra dĩa. Rắc ít gừng sợi, hành ngò.
Món ăn dùng kèm với bánh bao chiên hoặc bánh mì. |
Ngâu Tàu (danh pháp hai phần Aglaia odorata), là loại cây mộc dạng bụi nhỏ thuộc chi Gội (Aglaia), họ Xoan (Meliaceae). Rất dễ nhầm với cây Ngâu Việt (Aglaia duperreana). Nhìn chung 2 loài này hiện tại có vùng phân bổ và công dụng tương tự như nhau. Loài ngâu tàu nguyên xuất từ vùng Nam Trung Hoa, nhưng hiện nay thì lan rộng xuất hiện khắp vùng Đông Nam Á.
Cây ngâu tàu là loài bụi nhỏ, mọc cao khoảng 2 m, rậm cành, tán tròn. Lá ngâu tàu nhỏ hình trái xoan bề ngang chỉ khoảng 1 cm. Đầu lá nhọn hoặc hình nêm. Hoa nhỏ màu vàng, hoa tự bông dạng chùm. Hoa cho hương thơm thanh khiết. Cây Ngâu Tàu cũng có yêu cầu sinh thái về đất và ánh sáng khá rộng, nên dễ trồng và chăm sóc.
Ngâu Tàu được sử dụng tương tự Ngâu ta. Sử dụng làm cảnh quan tạo hình khối (tròn hoặc vuông vắn) cho các công trình từ kiến trúc cổ xưa phương đông đến kiến trúc hiện đại. Dùng hoa thơm ướp quần áo, ướp trà cho cách thưởng Trà hương phong cách Việt hay để làm hoa cúng. Cây Ngâu Tàu cũng được dùng nhiều trong các vị thuốc Đông y. |
Goulash (tiếng Hungary: gulyás phát âm tiếng Hungary: [ˈɡujaːʃ]) là một món súp hoặc món hầm từ thịt và rau, nêm với paprika và các gia vị khác. Bắt nguồn từ Vương quốc Hungary thời Trung Cổ, goulash cũng là một món phổ biến ở Trung Âu, Đông Âu, Hà Lan, Bỉ, Thụy Sĩ, Scandinavia và Nam Âu.
Nguồn gốc của nó có dấu vết từ món hầm của những mục đồng người Hungary ở thế kỷ thứ 9. Lúc đó, thịt đã ướp được làm khô bởi mặt trời và gói vào túi từ dạ dày cừu, chỉ cần thêm nước để biến nó thành một món ăn. Nó là một trong những món ăn quốc gia của Hungary và là một biểu tượng của nước này.
Tên món này bắt nguồn từ chữ "gulyás" trong tiếng Hungary phát âm tiếng Hungary: [ˈɡujaːʃ] ( nghe). Từ "gulya" có nghĩa là "đàn gia súc" trong tiếng Hungary, và "gulyás" có nghĩa là "anh chăn bò" hoặc "cao bồi". |
Xôi lá cẩm món xôi ăn dân dã của người Việt Nam và Thái Lan được nấu với nguyên liệu chính là lá cẩm. Lá cẩm tạo ra màu tím tự nhiên nên thường được dùng tạo màu cho các món ăn. Xôi lá cẩm thường được các bà nội trợ nấu cho gia đình vì hương vị ngon và nhìn bắt mắt của nó.Tại Thái Lan, ngoài xôi trắng ăn kèm xoài,người ta thường nấu xôi lá cẩm để ăn kèm với xoài cùng nước cốt dừa.
Nguyên liệu món ăn bao gồm đậu phộng, lá cẩm và gạo nếp.
Riêng khẩu vị Thái Lan, ta có gạo nếp, lá cẩm, xoài và nước cốt dừa.
Lá cẩm rửa sạch, bỏ cọng sau đó bắt lên bếp nấu cho ra nước có màu tím đặc trưng. Tiếp theo ngâm gạo nếp với nước lá cẩm trong 1 đêm. Qua ngày đổ ráo nước và cho vào hấp cho đến khi thấy nếp dẻo và mềm là xôi chín. Xôi được dùng với đậu phộng, vừng giã nhuyễn, đường và muối.
Riêng cách của người Thái, xôi được đồ cho mềm dẻo sau đó cắt vài lát xoài chín ăn kèm nước cốt dừa có vị ngọt, bùi, béo.
== Chú thích == |
Bánh hành tây là một loại bánh mặn hoặc ngọt được chế biến bằng hành tây như một thành phần chính. Các loại bánh hành tây khác nhau được tiêu thụ tại Trung Quốc, Đức, Hàn Quốc, Thụy Sĩ, xứ Wales và các quốc gia khác. Một số biến thể của bánh hành tây bao gồm laobing, pajeon, bánh kếp hành lá, teisen nionod và zwiebelkuchen.
Bánh hành tây được làm bằng cách sử dụng hành tây như một thành phần chính cùng với các thành phần khác. Việc sử dụng hành tây luộc có thể làm giảm độ sắc nét của hành tây trong bánh hành tây. Khoai tây hoặc thịt xông khói cũng có thể được sử dụng như một thành phần chính trong bánh hành tây. Các thành phần bổ sung có thể bao gồm phô mai và kem chua. Bánh sô-cô-la có thể được làm bằng hành tây. Một số loại bánh hành tây khác nhau được tiêu thụ tại Trung Quốc, Đức, Hàn Quốc, Thụy Sĩ, xứ Wales và các quốc gia khác.Trong ẩm thực Trung Quốc, bánh hành tây có thể được làm từ hành lá. Một chiếc bánh hành tây cơ bản của Trung Quốc có thể bao gồm bột, mỡ lợn, hành lá và muối. |
Cơm cháy là một lớp vỏ mỏng của gạo hơi nâu ở đáy nồi nấu. Nó được sản xuất trong quá trình nấu cơm qua nhiệt trực tiếp từ ngọn lửa và khi phục vụ thường là lớp cơm bị cháy xém và giòn. |
Bánh gai là một loại bánh ngọt truyền thống của Việt Nam, bắt nguồn vùng Đồng bằng Bắc bộ ở Việt Nam. Bánh có dạng hình vuông, màu đen màu của Lá Gai, mùi thơm đặc trưng của đỗ xanh và gạo nếp.
Một loại bánh tương tự, đặc sản của tỉnh Bình Định ở Nam Trung bộ là bánh ít lá gai, được gói bằng lá chuối tươi thành hình chóp như bánh ít.
Bánh gai về cơ bản gồm vỏ và nhân. Nguyên liệu thường dùng có lá gai, gạo nếp, đỗ xanh, mứt bí, thị mỡ tẩm đường, dầu chuối vali, đường kính, vừng.
Vỏ bánh gồm:
bột gạo nếp (sau khi phơi khô, giã nhuyễn)
lá cây gai (hay còn gọi là cây trữ ma - Boehmeria nivea thuộc họ Tầm ma/Gai (Urticaceae)) phơi khô và luộc kỹ, giã để lấy xác của lá trộn chung với bột để làm vỏ bánh.Nguyên liệu làm nhân bánh:
mỡ lợn thái nhỏ, trộn đường đem ủ cho miếng mỡ trong mới dùng cùng với:
tinh dầu thực vật như tinh dầu chuối v.v.
dừa thái miếng nhỏ
đỗ xanh nấu hoặc hấp chín, giã nhuyễn..
bí đao thái miếng, bỏ vỏ và ruột. nấu chín bằng đường trắng, gọi là mứt bí
hạt vừng. Rang chín
hạt sen. Nấu chín bằng ĐườngSau khi đã chuẩn bị nhân và vỏ, gói bằng lá chuối khô, sau đó hấp chín.
Bánh gai có thể được thưởng thức như đồ tráng miệng sau bữa ăn chính. Bánh có vị ngọt, bùi, thơm ngậy do nhân bánh mang lại và dẻo, mát nhờ vào vỏ bánh.
Là sản phẩm đặc trưng của vùng, có thể làm quà tặng. |
Ajvar ([ǎj.ʋaːr], tiếng Kirin Serbia: ajвар; tiếng Bulgaria: aйвар; tiếng Macedonia: aјвар) là một loại sốt rau quả, làm chủ yếu từ ớt chuông đỏ. Nó cũng có thể có tỏi, cà tím và ớt. Ajvar bắt nguồn trong ẩm thực Serbia và được biết đến từ lâu như là "món salad Serbia" hay "trứng cá rau quả Serbia". Nó würde một món ăn phổ biến khắp Nam Tư sau Thế chiến thứ hai và là hiện nay phổ biến ở khu vực Balkan.
Ajvar tự chế ở nhà được làm từ ớt rang, trong khi một số nhà sản xuất công nghiệp sử dụng ớt nấu chín, nào dẫn đến chất lượng thấp hơn. Tùy thuộc vào chất lượng capsaicin trong ớt chuông và số lượng ớt thêm vào, nó có thể trở nên ngọt ngào (truyền thống), cay (phổ thông nhất), hoặc rất cay. Ajvar có thể được sử dụng như quét lên bánh mì hoặc như một món ăn phụ.
== Chú thích == |
Nhện chiên là một món ăn nhẹ của vùng miền Campuchia. Ở thị trấn Skuon của Campuchia (Cheung Prey, tỉnh Kampong Cham), việc bán nhện chiên như một món ăn vặt đặc sản là một điểm thu hút đông đảo du khách khi đến thị trấn này. Nhện cũng có ở những nơi khác Campuchia – ví dụ như ở Phnôm Pênh – nhưng Skuon, một thị trấn trên đường cao tốc cách thủ đô 75 kilômét (47 mi), là trung tâm phổ biến của chúng. Những con nhện được nuôi trong các lỗ trên mặt đất ở các ngôi làng phía bắc Skuon, hoặc được săn bắt ở đất rừng gần đó, rồi chiên trong dầu. Không rõ phong tục này bắt đầu như thế nào, nhưng một số người cho rằng người dân có thể đã bắt đầu ăn nhện vì tuyệt vọng trong những năm Khmer Đỏ cai trị, trong điều kiện thực phẩm thiếu thốn.Nhện được sử dụng chế biến là loài tarantula được gọi là "a-ping" trong tiếng Khmer, có kích thước bằng lòng bàn tay. Mỗi món có giá khoảng 300 riel vào năm 2002, tương đương khoảng 0,08 đô la Mỹ. Một cuốn sách du lịch xác định chúng thuộc loài Haplopelma albostriatum, được biết đến một cách thông tục là nhện tarantula chân vằn Thái Lan, và lưu ý rằng tên chung của loài này đã là "nhện ăn được" trong hơn một trăm năm. Tuy nhiên, sự phổ biến của món ăn này chỉ là một hiện tượng gần đây, bắt đầu từ cuối những năm 1990. Cuốn sách này cũng nêu chi tiết về một công thức: những con nhện được trộn với hỗn hợp bột ngọt, đường và muối; tỏi băm nhỏ chiên trong dầu cho đến khi có mùi thơm, sau đó cho nhện vào chiên cùng với tỏi cho đến khi "chân gần như cứng hoàn toàn, lúc đó chất dịch trong bụng không chảy ra nhiều."Hương vị được mô tả là nhạt nhẽo, "giống như sự kết hợp giữa thịt gà và cá tuyết", với sự tương phản về kết cấu từ bên ngoài giòn đến phần giữa mềm. Chân chứa ít thịt, trong khi đầu và thân có "phần thịt trắng mỏng bên trong". Tuy nhiên, phần bụng thường không được sử dụng vì nó chứa một chất sệt màu nâu bao gồm các cơ quan, có thể là trứng và phân. Một số người gọi nó là đặc sản trong khi những người khác lại khuyên không nên ăn.Tại México, nhện tarantula được cung cấp trong bánh taco, với một khẩu phần guacamole. Tuy nhiên, luật pháp México cấm bán loài nhện tarantula cho con người, những nhà cung cấp món ăn này đã bị chính quyền đóng cửa. |
Rượu trắng, rượu đế, rượu ngang, rượu gạo, rượu chưng, rượu cuốc lủi hay rượu quốc lủi đều là cách gọi của loại rượu chưng cất từ ngũ cốc lên men được làm một cách thủ công trong dân gian, rất thịnh hành trong ẩm thực Việt Nam.
Nguyên liệu để làm rượu cuốc lủi, rượu đế rất đơn giản gồm nguyên liệu chính là các loại ngũ cốc có hàm lượng tinh bột cao thông dụng như gạo tẻ, gạo nếp, gạo lứt, gạo nương lúa mạch, ngô hạt, mầm thóc, sắn, hạt mít, hạt dẻ, hạt bo bo v.v. Tuy một số vùng miền có những nguyên liệu đặc trưng (như mầm thóc, ngô, hạt mít, hạt dẻ v.v.), nhưng nói chung các loại gạo nếp cho thành phẩm rượu được ưa chuộng nhất trong cộng đồng tại khắp các vùng miền do gạo rất thơm và rượu có độ ngọt nhất định. Các loại gạo nếp như nếp cái hoa vàng, nếp bông chát, nếp ruồi, nếp mỡ, nếp mường, nếp sáp, nếp thơm, nếp hương, nếp ngự, nếp quạ, nếp cái, nếp tiêu, nếp sột soạt, nếp ba tháng v.v. được sử dụng nấu rượu cho thấy sự đa dạng và đôi khi, là sự kén chọn hết sức cầu kỳ tại các gia đình nghệ nhân làm rượu. Rượu nấu bằng các loại gạo tẻ thường mang tính phổ thông, vùng miền nào cũng có thể sản xuất và tiêu thụ được, tuy có một số loại gạo tẻ ngon được lựa chọn nấu rượu như gạo cúc, gạo co, gạo trì, gạo ba trăng, gạo trăng biển, gạo tứ quý, gạo nhe, gạo bắc thơm, gạo tám, gạo nàng hương v.v. vẫn cho những chén rượu quý ngọt ngào hương vị.
Men rượu được chế từ nhiều loại thảo dược (thuốc Nam, thuốc Bắc) như cam thảo, quế chi, gừng, hồi, thạch xương bồ, bạch chỉ, xuyên khung, rễ ớt v.v. theo những bí quyết, công thức riêng của từng gia đình. Những công thức này cùng với kỹ thuật ủ men nhiều khi không truyền cho người ngoài nhằm giữ bí quyết chất lượng rượu của nghệ nhân độc nhất vô nhị. Nhào trộn hỗn hợp với bột gạo, thậm chí cả bồ hóng và ủ cho bột hơi nở ra sau đó vo, nắm từng viên quả nhỏ để lên khay trấu cho khỏi dính. Đem phơi thật khô và cất dùng dần.
Men rượu và kháp rượu quyết định chất lượng thành phẩm rượu. Tuy nhiên, quy trình ủ men, nấu rượu cũng hết sức quan trọng vì liên quan đến tay nghề, kinh nghiệm và công phu của người thực hiện. Ở một phương diện khác, nguồn nước được sử dụng khi đồ nguyên liệu, ủ men và khuấy trộn trong nồi chưng rượu cũng đặc biệt quan trọng để cho chất lượng rượu từng địa phương khác nhau, như rượu Bình Khương Thôn, rượu Mẫu Sơn, rượu Bàu Đá, rượu Làng Vân đều được quảng cáo là chất lượng quyết định bởi nguồn nước.
Nguyên liệu chính được nấu, đồ chín, đánh tơi và trộn với men rượu tán thật nhỏ mịn cho đều khi nguyên liệu vẫn còn ấm. Đem ủ kín trong chỗ ấm một thời gian nhất định tùy theo thời tiết, loại nguyên liệu, loại men, vùng miền và kinh nghiệm người nấu rượu khoảng vài ngày cho sản phẩm lên men chuyển hóa tinh bột thành rượu. Sau đó cho sản phẩm đã lên men vào nồi chưng cất đun lửa đều để rượu (cồn) bay hơi. Trên miệng nồi có một ống nhỏ để dẫn hơi rượu và một phần hơi nước trong quá trình nấu ra ngoài. Ống dẫn dài và một phần lớn độ dài của ống được ngâm trong bồn nước lạnh để hơi rượu ngưng tụ thành giọt lỏng chảy vào bình/chai đựng rượu. Nếu lấy ít rượu ta sẽ được "rượu nước đầu" hay rượu bọt, có nồng độ cao nhất (thường 15 lít gạo cho được khoảng 5 lít rượu có nồng độ cao đến 64-65 độ). Tuy nhiên, hiếm khi người sản xuất rượu chỉ lấy nước đầu, thường người ta còn chế thêm nước vào nồi, khuấy kỹ và tiếp tục chưng cất cho các nước 2, nước 3, sau đó đem phối trộn với nước đầu để cho loại rượu có nồng độ vừa phải.
Sản phẩm của quy trình chưng cất sẽ là rượu có nồng độ cồn tùy theo yêu cầu và dụng ý của người chưng rượu. Nếu muốn độ rượu thật cao cho một mục đích nào đó (như dùng để ngâm rượu thuốc) có thể đem rượu chưng tiếp lần 2, nếu muốn nồng độ thấp thì người ta phối trộn các nước rượu đậm nhạt vào nhau.
Những nước rượu cuối rất nhạt do độ cồn thấp, nhiều nước và đục màu nước vo gạo, sẽ được sử dụng làm dấm hay nước bỗng rượu, một loại gia vị dùng để nấu canh chua như canh cá, canh hến, canh riêu, hoặc một số món lẩu.
Hèm rượu (có nơi gọi là bỗng rượu hay bã rượu) là sản phẩm còn lại của nguyên liệu sau khi đã chưng cất, có thể sử dụng chăn nuôi và là một thức ăn gia súc, nhất là cho lợn ăn rất tốt. Các gia đình nấu rượu thường kiêm chăn nuôi gia súc để cải thiện thu nhập.
Khắp trên đất nước Việt Nam đều có rượu ngon. Nhiều loại rượu gắn với tên địa phương nếu cả vùng nấu rượu và có chất lượng tương đối đồng đều, có thể kể ra một loạt tên rượu địa phương như
Ô Lâu Phong Chương ở Phong Chương, Phong Điền, Thừa Thiên Huế Làng Vọc, Kim Sơn, Làng Vân, Mẫu Sơn, Thổ Hà, Tạnh Xá, Nga Sơn, Kim Long, Làng Chuồn, Đá Bạc, Bồng Sơn, Bàu Đá, Gò Đen, Phú Lễ, Xuân Thạnh, Tân Lộc, Văn Điển, Bó Nặm, Trương Xá, Phú Lộc, Đại Lâm, Lạc Đạo v.v. và danh sách có thể kéo dài đến vô tận. Tuy nhiên, một số nơi khác thì tên gọi rượu ngon hẹp hơn, gắn với tên người nấu rượu, lò rượu hoặc là sản phẩm của một nghệ nhân nhất định. Ngay cả tại những địa phương rượu nổi danh vẫn có những nghệ nhân mà sản phẩm rượu của họ có chất lượng hơn hẳn người khác trong vùng. Dưới đây là danh sách một số loại rượu đế ít nhiều nổi tiếng Việt Nam:
Rượu Kim Long: Quảng Trị
Rượu làng Vân: còn gọi là Vân hương mĩ tửu, trước kia thường dùng sắn tươi, sắn khô, nay chủ yếu dùng gạo, là loại rượu nổi danh miền Bắc. Làng Vân thuộc, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Rượu Kim Sơn: Nổi tiếng vùng đất Ninh Bình (Vùng Sơn Nam Hạ ngày xưa), được làm bởi men thuốc Bắc của một số dòng họ lâu đời tại Kim Sơn, cộng với nguồn nước đặc biệt đã làm cho rượu có hương vị không lẫn vào đâu được so với các vùng miền khác.
Rượu Bầu Đá: nổi tiếng đất Bình Định với nguồn nước Bầu Đá, đại diện mỹ tửu của miền Trung Việt Nam.
Rượu Gò Đen: thuộc Long An, nổi tiếng Nam Bộ.
Rượu San Lùng: ở một số vùng núi phía Bắc như Lào Cai, Hà Giang, thường dùng gạo nương và một số loại lá thuốc. Có hai loại màu trắng trong hoặc màu nâu đen nhạt.
Rượu ngô Bắc Hà: nấu bằng ngô, màu trắng hơi ngả vàng.
Rượu Thanh Kim: thuộc phường Thanh Bình, Sapa, dùng mầm thóc nếp.
Rượu Xuân Thạnh: nổi tiếng Trà Vinh.
Rượu Vọc: nổi tiếng ở Hà Nam.
Rượu Mẫu Sơn: rượu nấu bằng nguồn nước suối của vùng núi Mẫu Sơn, Lạng Sơn v.v.
Rượu Đá Bạc: Thừa Thiên Huế.
Rượu Hồng Đào: Quảng Nam.
Rượu Bó Nặm: rượu nấu từ ngô và nguồn nước vùng cao Bắc Kạn.
Rượu Ba Trăng Đa Bút: rượu nấu từ gạo nếp, men gia truyền và nước giếng khơi tự nhiên Đa Bút. Ba trăng nghĩa là 3 tháng, nhiều nơi gọi là rượu Bách Nhật.
Rượu Kiên Lao: rượu nấu từ nếp Hải Hậu và men ta. Làng Kiên Lao bao gồm hai xã là Xuân Kiên, Xuân Tiến, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Rượu Lạc Đạo: nổi tiếng ở khu vực Văn Lâm, Hưng Yên. Rượu được nấu từ men thuốc bắc và cac loại gạo như nếp mộc tuyền, nếp thơm... có nồng độ rất cao từ 45-50 độ; rất được ưa chuộng ở khu vực Hà Nội và các tỉnh lân cận.
Rượu Võ Xá ở xã Võ Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình.
Rượu khoai hà: Nấu bằng khoai lang bị hà, có mùi khoai hà đặc trưng. Rượu của huyện Đầm Hà, Quảng Ninh.
Đây là dạng rượu vodka, được pha chế từ cồn thực phẩm và nước tinh khiết. Nguyên liệu sản xuất cồn thực phẩm có thể là gạo, ngô, sắn, rỉ đường..., được lên men sau đó qua hệ thống tháp chưng cất. Loại rượu này khác với các dòng rượu truyền thống.
Rượu đế được đánh giá là ngon nhất khi có độ tinh khiết cao, trong vắt, sủi tăm lăn tăn, uống có mùi vị thơm, ngọt, cay, có độ cồn tương đối cao (từ 39 đến hơn 45 độ) nhưng êm dịu và không gây đau đầu. Theo truyền thống dân gian ngày xưa rượu có thể được cho vào chai nút lá chuối hoặc cho vào quả bầu nậm. Một số nơi cầu kỳ sau khi chưng cất xong còn đem rượu hạ thổ (chôn xuống đất) một thời gian để làm cho rượu "chín", uống vào có độ êm và thơm dịu.
Rượu đế thường được sử dụng rộng rãi nhất là uống trực tiếp, dùng ngâm các loại rượu thuốc và ngoài ra có thể làm gia vị cho một số thực phẩm cần chút rượu để ướp, tẩy.
Các loại rượu Làng Vân,Kim Long, Bầu Đá và Gò Đen đại diện xuất sắc của rượu ngon ba miền. Theo những người đi tận nơi để nếm rượu thì rượu Làng Vân đằm, sâu. Rượu Kim Long êm và mềm mại, rượu Bàu Đá mạnh, rộng. Rượu Gò Đen đậm đà, phóng khoáng. Tuy nhiên, việc hướng tới có một "quốc tửu" chung cho mọi vùng miền của đất nước vẫn là câu hỏi chưa có lời giải đáp.
Từ những thập niên 80 của thế kỷ 20, rượu đế được sản xuất tự do tại các địa phương và hầu hết đều nấu bằng phương pháp thủ công. Nhiều người nấu, nhiều cách nấu và nguyên liệu mỗi nơi mỗi khác nên chất lượng rượu không đồng đều. Trong thành phần rượu thường có nồng độ aldehyde cao hơn ngưỡng cho phép, vì vậy người ta thường khuyến cáo tránh lạm dụng. Để giảm nồng độ chất độc hại này người ta thường dùng cách cổ truyền là hạ thổ, để lâu. Việc nút lá chuối hoặc đựng trong những trái bầu khô cũng có kết quả tương tự vì quan niệm là nó không nút quá kín, rượu trong chai vẫn có thể thở được.
Đặc biệt hiện nay tại Việt Nam một số dòng rượu tại một số địa phương đã bắt đầu áp dụng công nghệ tiên tiến để loại bỏ các chất độc có trong rượu như Anđêhít, Este, Furfurol, Metanol...để đưa dòng rượu nấu tại Việt Nam lên tầm cao mới, đạt chỉ tiêu là rượu Sạch và An toàn: Đạt Tiêu chuẩn Việt Nam. Điển hình là rượu Kim Sơn (Ninh Bình) với thương hiệu Kim Dương. Rượu Mỹ Tho (Tiền Giang) với thương hiệu Rượu Mỹ Tho. Rượu Xuân thạnh (Trà Vinh) với thương hiệu Vĩnh Trường, Rượu ngô Sùng Phài (Lai Châu) với thương hiệu Mông Kê.
Trên khắp các địa phương trong cả nước rượu nấu thủ công có giá thành rất rẻ do không phải đóng thuế, phục vụ cộng đồng theo kiểu tự cung tự cấp, có thể nấu kết hợp lấy hèm nuôi lợn nên sản phẩm chiếm phần lớn thị trường rượu. Tuy nhiên đó cũng chính là mặt tiêu cực vì rất khó quản lý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm và giám sát nghiêm ngặt chất lượng rượu. Thống kê của Bộ Y tế Việt Nam, mỗi năm cả nước tiêu thụ khoảng 350 triệu lít rượu, trong đó 90% sản lượng là rượu nấu thủ công. Theo tiến sĩ Đàm Viết Cương, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách y tế khẳng định, rượu tự nấu giá rẻ, được 95,7% dân nhậu lựa chọn, ẩn chứa rất nhiều nguy cơ cho sức khoẻ. Nồng độ các chất độc trong rượu tự nấu cao hơn từ 30–80 lần so với các loại rượu do nhà máy sản xuất. Đó là còn chưa kể đến những thủ thuật khác cũng hết sức phổ biến từ phía những người nấu rượu hám lợi: dùng chút phân đạm để ủ dậy men nhanh hơn, dùng thuốc trừ sâu chấm vào để tăng nồng độ, lấy mật ủ tiếp vào hèm rượu để chưng cất tiếp, thậm chí còn có cả "công nghệ sản xuất" rượu đế kinh hoàng bằng cách dùng cồn khô công nghiệp methynol pha vào nước có ngay rượu để bán cho người tiêu dùng với giá rẻ. Đã có rất nhiều vụ ngộ độc rượu gây chết người liên quan đến loại rượu đáng sợ này, nhiều người nghiện rượu có thể nhiễm các bệnh về gan, loét dạ dày, rối loạn tiêu hóa, thần kinh, suy giảm trí nhớ v.v. và nhiều làng rượu cổ truyền có tiếng tự lâu đời đang tự đánh mất chính mình. Một số gia đình, tổ hợp sản xuất rượu đã mạnh dạn tìm lối thoát bằng các công đoạn sản xuất, kiểm định chất lượng và đóng chai theo quy trình công nghiệp với nhãn mác đăng ký, bảo hộ sản phẩm độc quyền (như rượu Kim Long, rượu Làng Vân v.v.), ít nhiều thể hiện được những chú trọng bước đầu đến vấn đề thương hiệu.
Ở đời chẳng biết sợ ai
Sợ người say rượu nói dai nói khùng(Ca dao Việt Nam)
Đua chi chén rượu câu thơThuốc lào ngon nhạt, nước cờ thấp cao
(Nguyễn Trãi, Gia huấn ca)Nam vô tửu như kỳ vô phong
(Thành ngữ Việt Nam)
Nguồn sâu lai láng vơi đầy, Giải phiền hoạ có rượu này làm vui!
(Tào Tháo, Đoản ca hành)Nhân vật văn học nổi tiếng về tửu lượng là Lưu Linh, nên còn có thành ngữ "đệ tử của Lưu Linh" chỉ những người uống rượu như nước lã. |
Moules-frites hoặc moules et frites (phát âm tiếng Pháp: [mul.fʁit]]; tiếng Hà Lan: mosselen-friet) là một món ăn được làm từ trai và khoai tây chiên có nguồn gốc xuất xứ từ Bỉ. Món ăn được đặt tên theo một từ trong tiếng Pháp, trong đó, moules có nghĩa là con trai và frites mang nghĩa là khoai tây chiên, với tên tiếng Hà Lan cho món ăn có nghĩa giống nhau. Nó được coi là món ăn quốc gia của Bỉ.
Mặc dù moules-frites phổ biến ở nhiều quốc gia, người ta cho rằng món ăn có nguồn gốc từ Bỉ. Có khả năng ban đầu nó được tạo ra bằng cách kết hợp trai, một loại thực phẩm phổ biến và rẻ tiền, được ăn xung quanh vùng bờ biển Vlaanderen, và khoai tây chiên, thường được ăn trên khắp đất nước vào mùa đông khi không có cá hoặc thức ăn có sẵn khác.Ở cả Bỉ và Pháp, moules-frites có sẵn ở hầu hết các nhà hàng, tùy theo mùa. Theo một cuộc khảo sát được thực hiện bởi TNS, moules-frites được xác định là món ăn yêu thích thứ hai ở Pháp, nhận được 20% bình chọn, thua magret de canard, món ăn với 21% bình chọn.Trung bình, từ 25 đến 30 tấn trai được tiêu thụ ở Bỉ cho món moules-frites. Phần lớn trai tiêu thụ ở Bỉ đến từ các trang trại nuôi trai ở gần tỉnh Zeeland của Hà Lan.
Trai và khoai tây chiên được bán ở khắp mọi nơi trên đất nước Bỉ, từ bờ biển Bỉ đến đáy Ardennes. Ở Pháp, món ăn này phổ biến ở Nord-Pas-de-Calais. Đây là món ăn đặc trưng của quán rượu Lille. Năm 2009, 500 tấn trai và 30 tấn khoai tây chiên đã được tiêu thụ trong sự kiện này. Trong những ngày cuối tuần này, các chủ nhà hàng chất đống trai đã ăn trước cửa hàng của họ; hầu hết thời gian, nhà hàng Aux moules (rue de Béthune) và La Chicorée (Rihour) có số lượng lớn nhất.Năm 2008, TNS Sofres đã thực hiện một cuộc khảo sát đối với người dân miền Bắc. Trai và khoai tây chiên đứng ở vị trí thứ hai với tỷ lệ 25%. Món ăn này bị bít tết và khoai tây chiên bỏ xa với 33%. Tại Pháp, theo cuộc thăm dò tương tự của TNS-Sofres, moules-frites đứng ở vị trí thứ hai trong số các món ăn được người Pháp yêu thích với 20%. Nó chỉ kém ức vịt đúng 1 điểm.
Món ăn có thể dùng kèm với abbey lager hoặc rượu vang trắng khô; rượu vang đỏ nên tránh vì tanin của nó. Về nước xốt, ngoài xốt marinière ăn kèm trai, có thể thêm xốt mayonnaise ăn kèm với khoai tây chiên. Trai và khoai tây chiên cũng là đặc sản của chuỗi nhà hàng Bỉ, Chez Léon.
== Liên kết ngoài == |
Ghẹ chấm, ghẹ đốm hay ghẹ cát (danh pháp hai phần: Portunus trituberculatus) là loài ghẹ được đánh bắt nhiều nhất trên toàn thế giới, với trên 300.000 tấn đánh bắt mỗi năm, 98% trong số này đánh bắt ngoài khơi của Trung Quốc.
P. trituberculatus được tìm thấy trong vùng biển từ Hokkaidō tới miền nam Ấn Độ, xuyên qua khu vực quần đảo Mã Lai và xa về phía nam tới Australia. Nó sống trên nền đáy nông nhiều cát hay bùn, với độ sâu nhỏ hơn 50 mét, thức ăn chủ yếu của nó là các loại rong biển và cả các loài cá nhỏ, giun và động vật hai mảnh vỏ.
Mai của nó có thể rộng tới 15 cm (6 inch) và 7 cm (2,75 inch) tính từ phần trước ra phần sau của lưng. P. trituberculatus có thể phân biệt với loài ghẹ xanh có họ hàng gần (và cũng được đánh bắt nhiều) P. pelagicus bằng một loạt các khía răng cưa rộng trên phần trước của mai (3 ở P. trituberculatus, 4 ở P. pelagicus) và trên mép trong của còng (4 ở P. trituberculatus, 3 ở P. pelagicus). Các loài ghẹ khác có họ hàng gần còn có P. sanguinolentus và các loài nhỏ hơn như P. haani và P. nipponensis. |
Đậu phụ là một món ăn bình dân, được làm từ đậu tương. Một miếng đậu truyền thống thường có màu trắng, sờ tay thấy mềm, trọng lượng xấp xỉ nửa lạng (~0,05 kg) dạng khối chữ nhật kích thước vào khoảng rộng 4 cm, dài 7 cm và dày hơn 2 cm. Mỗi địa phương tại Việt Nam lại có cách làm đậu phụ riêng, tuy nhiên đậu Mơ được làm tại làng Mai Động, nay thuộc quận Hoàng Mai, Hà Nội được cho là ngon hơn cả.
Tuy đậu được làm tại làng Mai Động nhưng vốn làng này thuộc Kẻ Mơ (gồm: Hoàng Mai, Hồng Mai, Tương Mai, Bạch Mai, Mai Động) nên đậu được gọi là đậu Mơ. Xuất xứ tên gọi này cũng giống với món cà Mơ nổi tiếng trong ẩm thực Hà thành (nay đã thất truyền) vốn là giống cà được trồng ở làng Hoàng Mai cũng thuộc Kẻ Mơ và nằm ngay sát làng Mai Động. Dấu vết của đơn vị hành chính Kẻ Mơ cũng lưu lại với tên gọi Chợ Mơ là một chợ nhỏ nằm trên ngã tư giao 2 phố Bạch Mai và Minh Khai tại Hà Nội cho đến ngày nay.
Quy trình làm đậu Mơ tại làng Mai Động được truyền từ đời này qua đời khác và phổ biến với tất cả các gia đình trong làng. Nhà ai cũng biết quy trình làm đậu phụ và trước đây có rất nhiều gia đình sống bằng nghề này. Người làm đậu thường dậy từ rất sớm, khoảng 3h sáng để bắt đầu công việc của mình theo trình tự:
Đậu tương vàng ngâm từ hôm trước được vo tróc lớp vỏ bên ngoài
Đậu vo xong được đưa vào xay trong cối đá để lấy nước cốt đậu. Quá trình xay đậu tương luôn được bổ sung thêm nước nên sau khi xay xong người ta thường thu được một lượng nước cốt đậu lớn.
Nước cốt đậu được cho vào một túi vải thô, thưa sợi dài khoảng 1 m có miệng rộng với đường kính khoảng 30 cm và vắt để lọc bớt chất xơ.
Sau quá trình vắt lọc bằng túi vải ta thu được bã đậu và nước đậu sống. Bã đậu là chất xơ thừa còn trong túi được vo thành khối tròn lớn, to bằng quả bưởi, dùng làm thức ăn cho lợn.
Nước đậu sống sau đó được đưa vào nấu chín bằng một chiếc chảo lớn, đường kính khoảng 1.2 m, đun bằng bếp than đá. Quá trình nấu đậu này là một trong những khâu then chốt quyết định chất lượng đậu phụ có ngon hay không. Nếu đậu chín non ăn sẽ không ngọt, nếu quá lửa đậu ăn sẽ có mùi khê, khét cũng không ngon.
Sau khi nước đậu được nấu chín tới, người ta đổ ra một cái chum đất lớn và để nguội bớt đến nhiệt độ khoảng 80 °C.
Nước đậu nóng được cho thêm nước chua làm kết tủa đậu tương thành dạng bánh mà dân làng làm đậu vẫn thường gọi là "óc đậu". Dạng kết tủa này trông khá giống với món óc lợn. Nước đậu từ màu trắng sữa sau quá trình kết tủa chuyển trong và có ánh vàng nhạt với từng đám óc đậu lơ lửng.
Người ta vớt óc đậu nhẹ nhàng theo kiểu hớt từng lớp mỏng 1 cm bằng một chiếc thìa kim loại có dạng hình tròn, đáy lõm (giống phần cắt ra từ đáy mặt cầu) cho vào một chiếc khăn xô nhỏ để gói với khuôn gỗ. Khăn gói đậu là loại vải xô mềm, có nhiều lỗ cho phép nước thấm qua, khăn được đặt trên khuôn gói bằng gỗ dạng hộp đứng dài khoảng 45 cm, rộng 4 cm, cao 40 cm.
Khăn gói đậu thường được thấm ướt để dễ gói, người ta để khăn chéo, cho óc đậu vào, nâng lên đặt xuống cho óc đậu cân đều giữa khăn và vắt đầu khăn qua lại khuôn gỗ để gói đậu. Loại khuôn này vừa dùng để gói vừa dùng để ép (nén) đậu, nhìn bề ngoài giống 2 miếng gỗ hình chữ nhật được gắn vào nhau và để hở một khoảng đúng bằng chiều rộng của miếng đậu, khuôn có thể tháo lắp từng phần để thuận lợi cho quá trình nén và dỡ đậu ra.
Sau khi gói xong đậu được cho vào lòng khuôn. Một khuôn thường đặt được vào trong lòng khuôn 20 chiếc đậu một mẻ. Cách xếp đậu là theo 5 hàng, 4 chiếc một hàng từ cao xuống thấp, giữa các hàng là các thanh gỗ chèn nhỏ có dạng hình khối chữ nhật rộng 4 cm, dài 15 cm, dày 4 cm.
Đậu vào khuôn xong sẽ chuyển sang ép đậu. Cả khuôn được đặt lên một chiếc bàn gỗ nhỏ dài giống bàn là quần áo nhưng có xẻ 2 rãnh thoát nước nhỏ dọc 2 mép bàn và chụm vào giữa ở đầu bàn. Người ta bổ sung thêm một số thanh gỗ vào lòng khuôn và đè nặng lên những thanh gỗ để ép những chiếc đậu cho chảy hết nước chua ra. Lúc này từng chiếc đậu vẫn còn rất nóng. Thời gian ép đậu vào khoảng 30 phút để có được miếng đậu chắc bánh, thơm ngon.
Đậu ép xong được dỡ ra để nguội và bóc lớp "áo" vải xô. Quá trình này được gọi là lột đậu. Chiếc đậu thành phẩm vừa lột ra vẫn còn nóng hổi, được xếp lên sàng. Nếu bán ngay người ta sẽ mang thẳng ra chợ, còn để đến chiều bán thì đậu sẽ được thả vào nước lạnh để bảo quản. Người bán đậu thời kỳ những năm 80, 90 của thế kỷ 20 ở Hà nội thường gánh những thùng giống như thùng nước ra chợ là vậy.Chế biến công phu, nhưng món đậu phụ xưa nay vẫn là một trong những món ăn bình dân nhất, cho dù trong thời kỳ nào thì người ta cũng chỉ cần dùng những đơn vị tiền nhỏ như "trăm đồng" ngày nay (2006) để mua một bìa đậu (cách gọi dân gian của miếng đậu).
Đậu phụ nóng, mới có thể ăn luôn không cần chế biến, thường được chấm với mắm tôm, mắm tép hoặc nước mắm tỏi. Tuy nhiên, cách ăn phổ biến nhất vẫn là đậu rán, người ta rán đậu trong mỡ sôi già để có miếng đậu với lớp vỏ vàng, ròn và ngậy. Đậu rán có thể ăn với cơm hoặc bún. Món bún đậu mắm tôm với rau kinh giới là món ăn rẻ, ngon và hấp dẫn rất nhiều người. |
Rượu mơ là một loại rượu phổ biến trong dân gian, được được chế biến bằng phương pháp ngâm ủ quả mơ tươi với rượu gạo trắng sản xuất theo phương pháp truyền thống và đôi khi là ngâm mật ong hoặc đường với quả mơ theo tỷ lệ khoảng 2 mơ 1 đường sau khoảng 30 - 90 ngày mới ngâm lẫn với rượu. Cũng có thể phối hợp 2 phương pháp trên.
Theo dân gian thì rượu mơ đã trở thành đồ uống quen thuộc với những tác dụng đối sức khỏe như: kích thích tiêu hóa giúp ăn ngon miệng, điều trị bệnh đường ruột, cung cấp chất dinh dưỡng cho hệ thần kinh, có tác dụng giảm bệnh lo âu và tinh thần căng thẳng, bệnh mất ngủ, với hàm lượng axit acitric hữu cơ và amino acid giúp tăng cường sức đề kháng cho cơ thể giảm mệt mỏi suy nhược,...
Tại Việt Nam có một số dòng rượu nhẹ nổi tiếng như: Rượu mơ Núi Tản, Rượu mơ Yên Tử, Rượu mơ Hương Tích,...
Cứ vào tháng 3 và tháng 4 hàng năm, mơ lại được ngâm nhưng tùy vùng mà công thức pha chế rượu mơ thành phẩm khác nhau vì vậy rượu mơ cũng có những hương vị khác nhau, nhưng vẫn luôn giữ được mùi mơ tự nhiên vốn có và vị ngọt của mật ong.
== Chú thích == |
Giấm là một chất lỏng (dung dịch) có vị chua, được hình thành từ sự lên men của rượu etylic. Thành phần chính của giấm là dung dịch acid acetic (CH3COOH) có nồng độ khoảng 2%-5%. Từ xưa, giấm đã là một thành tố quan trọng và được sử dụng nhiều trong các nền ẩm thực châu Á, châu Âu.
Loài người đã biết chế tạo và sử dụng giấm từ nhiều ngàn năm trước. Khoảng 5000 năm trước Công Nguyên, người Babylon đã biết dùng quả chà là để làm rượu và giấm. Vết tích của giấm đã được tìm thấy ở Ai Cập cổ đại từ 3000 năm trước Công Nguyên. Theo sự tích Thần Nông, giấm cũng được tìm thấy ở Trung Quốc từ đời nhà Hạ, 2000 năm trước Công Nguyên. 500 năm trước Công Nguyên, ở Hy Lạp, Hippocrates, vị cha đẻ của ngành y học hiện đại, đã dùng giấm làm từ nước táo hòa với mật ong để trị những bệnh ho và cảm lạnh.
Trong Thánh kinh Công giáo, giấm được miêu tả như là thứ gì đó không "vui", nhưng Boaz cũng cho phép Ruth được chấm mẩu bánh mì của cô ấy vào giấm. Chúa Giê Su khi bị đóng đinh trên thập tự giá 2000 năm trước cũng được dâng giấm (Matthew 27:48; Mark 15:36). Trong truyền thống Hồi giáo cũng được kể giấm là một trong 4 gia vị thích nhất của tiên tri Muhammad, ông gọi đó là gia vị được ban phước ("blessed seasoning").Năm 1864, Louis Pasteur đã chứng minh giấm là kết quả từ một quá trình lên men tự nhiên.
Sự chuyển hoá ethanol (CH3CH2OH) và oxy (O2) thành axít axetic (CH3COOH) xảy ra theo phản ứng hóa học sau:
CH3CH2OH + O2 → CH3COOH + H2O
Giấm thường được phân loại bằng nguyên liệu và màu sắc.
Giấm được dùng nhiều trong ẩm thực. Giấm được gia vào thức ăn, nước chấm để tạo vị chua. Giấm còn được dùng để muối chua rau quả (ví dụ như kimchi) nhằm để tồn trữ được lâu hơn. Ngoài ra, tính sát trùng nhẹ của giấm được sử dụng trong việc tẩy rửa.
Ngoài ra, giấm cũng được dùng nhiều trong y học với công dụng làm giảm mức độ đau rát của những vết bỏng hay vết rộp do tiếp xúc với nước sôi, những chất gây bỏng và nắng nóng .
Một số người uống giấm để giảm cân nhưng đó là điều vô cùng dại dột. Đây được coi như giết chết bản thân mình, gây loét và ung thư dạ dày.
Theo lương y Vũ Quốc Trung, "giảm cân bằng giấm chỉ là đồn đại", phi khoa học và đang tự giết mình. Ông Trung phân tích, bình thường giấm là một gia vị, kích thích ngon miệng khi ăn với một lượng nhỏ. Nhưng những người lạm dụng nó, sử dụng để giảm cân thì giấm rất độc.
Giấm ăn là axit acetic, khi đưa vào cơ thể một lượng lớn, đều đặn sẽ khiến dạ dày, đường ruột bị bào mòn. Nó cũng giết chết các men tiêu hóa, làm người không còn muốn ăn. Tùy theo người uống nhiều hay uống ít mà sẽ có mức độ ngộ độc khác nhau. Lương y Trung khẳng định nếu uống nhiều sẽ làm cho độ pH trong cơ thể giảm, sẽ tác động xấu lên hệ thần kinh, làm hại dạ dày, phổi, thận... |
Bánh tổ/ tàn ong, bánh waffle (tiếng Anh: waffle), hay bánh kẹp là một món ăn với nguyên liệu bột nhão hoặc bột nhào sử dụng khuôn điện nướng chín giữa hai mặt để tạo ra một kích thước, hình dạng và bề mặt đặc trưng. Có nhiều biến thể tuỷ theo loại khuôn bánh waffle và công thức được sử dụng. Bánh waffle là món ăn phổ biến trên khắp thế giới với nhiều hình dáng và biến tấu khác nhau tùy vào văn hóa in trên khuôn bánh waffle, đặc biệt là ở Bỉ, nơi có hàng tá loại mang phong cách của từng vùng. Bánh waffle có thể được làm tươi hoặc đơn giản là được làm nóng sau khi được nướng chín và bảo quản lạnh.
Từ "waffle" xuất hiện lần đầu tiên trong tiếng Anh vào năm 1725, bắt nguồn từ wafel trong tiếng Hà Lan, vốn có nguồn gốc sâu xa từ wafele thời Trung Đại của nước này.Trong khi từ wafele của Hà Lan xuất hiện trong thời Trung Đại cuối thế kỷ 13, từ walfre của Pháp đã tồn tại từ năm 1185. Cả hai thuật ngữ đều được coi là có cùng gốc từ wafla (nghĩa là "tổ ong" hay "cái bánh") trong tiếng Frank (Chi ngôn ngữ German phía Tây của người Frank). |
Bologna sandwich là một loại bánh sandwich phổ biến ở Hoa Kỳ và Canada. Món ăn cũng được biết đến với cái tên Baloney sandwich, bắt nguồn từ món truyền thống xúc xích bologna xắt lát kẹp giữa hai lát bánh mì trắng cùng với gia vị, như mayonnaise, mù tạt, hoặc sốt cà chua. Bologna sandwich có nhiều biến tấu khác nhau, kể cả kiểu chiên thịt đầu tiên và thêm các món ăn kèm như pho mát cắt lát, dưa chuột muối, cà chua, và củ hành. Đó là một sự lựa chọn khá phổ biến; Oscar Mayer báo cáo rằng 2.19 tỷ bánh mì được làm từ thương hiệu Balogna mỗi năm.Bologna sandwich có rất nhiều chất béo bão hòa (thậm chí nhiều hơn thế nếu thêm pho mát) và chất sodium.
Bologna sandwich chiên hay không chiên, đã được nâng lên đến một tầm đặc biệt ở vùng Trung Tây, núi Appalachia, và phía Nam. Đó là món sandwich phục vụ ở quầy ăn trưa của các cửa hàng gia đình nơi được bao quanh bởi Great Smoky Mountains, và bánh mì bologna rán có thể được tìm thấy trên thực đơn của các nhà hàng ở phía Nam. Phiên bản chiên cũng tương tự như vậy đôi khi được bán nhượng bộ ở sân vận động, giống như Cincinnati Reds. Ở Pittsburgh, Pennsylvania, nó được gọi là "jumbo sammich". |
Mứt gừng là một loại mứt được làm từ gừng bánh tẻ bao gồm gừng và bao ngoài một ít đường, vị hơi cay và ngọt. Mứt gừng có màu vàng chanh, vị ít cay. Mứt gừng là một loại mứt không thể thiếu trong dịp Tết Nguyên đán, khi tiết trời vẫn còn lạnh giá. Gừng là một thực phẩm hàng đầu; Vị cay thơm của gừng sẽ giúp làm ấm cơ thể, chữa được nhiều chứng bệnh mùa đông. Mứt gừng có hai loại, gừng khô (miếng) và gừng dẻo (sợi).
Cách làm cũng giống như nhiều loại mứt khác, chi tiết như sau:
Mứt khô: Mứt khô thì sên đường kết tinh;
Mứt dẻo: Mứt dẻo thì dùng chút chanh vắt.
== Tham khảo == |
Gà cay (Hot chicken) hay còn gọi là Gà rán nóng Nashville (Nashville hot chicken) là một món gà rán đặc sản địa phương của thành phố Nashville, Tennessee của Hoa Kỳ.
Trong cách chế biến điển hình của nó, món gà cay này có nguyên liệu chính là một phần ức, đùi tỏi, má đùi (chicken thigh), hoặc cánh gà được ướp trong hỗn hợp gia vị dạng nước sệt, bột, chiên lên và cuối cùng phủ một lớp bột nhão (áo bột) hoặc nước sốt có gia vị ớt cayenne có vị giòn tan của lớp vỏ dày và được chiên trên chảo bằng mỡ lợn. Rán/chiên ngập dầu là phương pháp phổ biến, đơn giản nhất để có được miếng gà chín, giòn đều ngoài ra rán áp suất hay rán xoay đều tốn ít thời gian hơn so với rán ngập dầu.
Món gà cay được phục vụ trên cùng một lát bánh mì trắng với dưa chuột muối (pickle). Việc sử dụng hỗn hợp cay và cách trình bày đã giúp phân biệt nó với các món ăn tương tự, chẳng hạn như gà rán thông thường. Trước khi rán thì miếng gà được tẩm ướp trong một xô dầu ngâm ớt từ đó khiến hàm lượng calo của món ăn này cao. Nó có thể được xem trong bối cảnh tương tự như các loại thực phẩm khác đã được tinh chỉnh và biến tấu để trở nên độc đáo theo cách của khu vực, chẳng hạn như đồng bằng Mississippi. Có rất nhiều nhà hàng ở Nashville phục vụ các biến tấu của món ăn và có một lễ hội và cuộc thi trên toàn thành phố để kỷ niệm. Sự nổi tiếng của món gà này đã lan rộng ra ngoài miền Nam Hoa Kỳ do ảnh hưởng của ngành công nghiệp âm nhạc của Nashville. |
Bánh mì là một loại thực phẩm thông dụng, thường làm bằng bột mì, nhưng cũng có thể làm bằng bột gạo, bột bắp, bột khoai tây,... hoặc các loại bột khác.
Dưới đây là danh sách một số loại bánh mì phổ biến (bao gồm theo kết cấu không nhân và một số các loại bánh mì kẹp) |
Bữa ăn kết hợp xúp và bánh mì là một bữa ăn bao gồm xúp kèm theo bánh mì sandwich (bánh mì kẹp). Bữa ăn đã trở nên phổ biến ở Hoa Kỳ từ những năm 1920. Một số chuỗi nhà hàng ở Mỹ cũng chuyên kinh doanh bữa ăn này, đồng thời những thức ăn trong bữa cũng đã được sản xuất hàng loạt như đồ ăn đông lạnh chế biến sẵn.
Bữa ăn kết hợp xúp và bánh mì kẹp đã trở nên phổ biến tại Hoa Kỳ. Tùy thuộc vào khẩu phần dự định của bữa ăn, bánh mì có thể là nửa cái hoặc cả ổ, và xúp có thể được đựng trong chén hoặc bát. Sự kết hợp giữa bánh mì sandwich phô mai nướng với xúp cà chua là một ví dụ phổ biến trong ẩm thực Mỹ và đã được mô tả như một comfort food.
Sự kết hợp giữa xúp và bánh mì sandwich đã trở thành món ăn trưa phổ biến ở Hoa Kỳ vào những năm 1920, và vẫn là một món ăn phổ biến trong các quầy ăn và quán ăn của người Mỹ. Đây cũng là một món ăn trưa phổ biến ở một số cửa hàng bách hóa thuở sơ khai của Hoa Kỳ có tích hợp quầy ăn. Thời nay, kiểu bữa ăn này đôi khi được dùng như một bữa tối nhẹ. Một số nhà hàng xúp, các tổ chức tiếp cận cộng đồng và nhà thờ thường xuyên cung cấp món ăn này cho người nghèo.
Một số nhà hàng Mỹ chuyên phục vụ các bữa ăn có xúp và sandwich, chẳng hạn như Panera Bread Company, Hale and Hearty hay chuỗi nhà hàng Zoup!. Tính đến tháng 9 năm 2016, nhà hàng đồ ăn nhanh bình dân Panera Bread đã có tổng cộng 2.024 cửa hàng tại các địa điểm ở Bắc Mỹ, với một số cửa hàng mang tên công ty khác nhau. Panera bắt đầu có kế hoạch mở rộng khả năng cung ứng sản phẩm vào đầu năm 2016, bao gồm 35% đến 40% vị trí cửa hàng vào cuối năm 2017. Vào tháng 10 năm 2016, Zoup! có tổng cộng 96 cửa hàng tại Hoa Kỳ, với 93 cửa hàng nhượng quyền và ba cửa hàng thuộc sở hữu của công ty.
Sự kết hợp giữa xúp và bánh sandwich đã được đưa vào sản xuất hàng loạt ở Hoa Kỳ và cung cấp cho người tiêu dùng ở cấp quốc gia, một ví dụ điển hình là món xúp đông lạnh Campbell's Souper Combo và bánh mì sandwich. Ban đầu, sản phẩm tiếp nhận một doanh thu bán hàng "đầy hứa hẹn", nhưng sự quan tâm của người tiêu dùng sau đó giảm dần, và lý do doanh thu cao và số tiền lãi ban đầu này được cho là do sự tò mò của người tiêu dùng về sản phẩm mới và cảm giác muốn thử "một lần". Souper Combo chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn sau đó và cuối cùng đã bị ngừng sản xuất.The Corner Bistro là một dòng sản phẩm xúp và bánh mì sandwich được sản xuất hàng loạt và bán trên thị trường dưới thương hiệu Stouffer. Bánh mì được sản xuất dưới dạng bánh mì nhồi nhân phô mai tan chảy. |
Pacifastacus leniusculus là một loài tôm hùm đất của Bắc Mỹ. Người ta từng mang nó đến châu Âu vào thập niên 1960 để làm nguồn cung thay loài Astacus astacus, khi dịch tôm hùm đất đang hoành hành, nhưng nó lại trở thành vật mang mầm bệnh. P. leniusculus nay được xem là loài xâm lấn tại châu Âu và Nhật Bản, lấn lướt các loài bản địa tại đây.
Con trưởng thành thường dài 6–9 xentimét (2,4–3,5 in), dù đạt đến 16–20,32 cm (6,30–8,00 in) là điều có thể. Chúng có màu từ nâu xanh tới nâu đỏ với càng lớn và khỏe. Chúng có một mảng vá màu trắng hay xanh lá-lam cạnh khớp càng..
Vòng đời của loài này điển hình cho toàn họ Astacidae. Sau khi giao phối, con cái đẻ ra 200–400 trứng vào mùa thu và mang theo trứng trên phần đuôi cho đến khi chúng nở vào mùa xuân năm sau. Trứng nở ra những con non, mà sẽ trải qua ba lần lột xác trước khi rời mẹ. Chúng thành thục giới tính sau hai hoặc ba năm, và có tuổi thọ lên đến 20 năm.Đây là động vật ăn tạp.
P. leniusculus bản địa phần Bắc Mỹ phía tây của dãy núi Rocky, bao gồm tỉnh British Columbia của Canada, và các tiểu bang Hoa Kỳ Washington, Oregon, và Idaho. Nó được du nhập vào sông San Lorenzo, California năm 1912 và từ đó lan nhanh chóng ra toàn bang. Loài tôm hùm đất bản địa duy nhất của California là Pacifastacus fortis - đang bị lấn át bởi P. leniusculus. Tại Bắc Mỹ, chúng cũng đã được mang đến Nevada, và quần thể ở Utah cũng có thể là kết quả của tác động của con người. Chúng cũng được bắt gặp ở Alaska, nhất là đảo Kodiak, tại sông Buskin và hồ Buskin. IUCN xem đây là một loài ít quan tâm.
Từ năm 1907, dịch tôm hùm đất, một bệnh dịch gây ra bởi mốc nước Aphanomyces astaci, đã gây thiệt hại cho loài tôm hùm đất bản địa Astacus astacus. Vì P. leniusculus có hốc sinh thái tương tự, chúng được mang đến Thụy Điển và Phần Lan để làm một loài thủy sản thương mại thay thế. Người ta chưa nhận ra vào thời điểm đó là loài này mang mầm bệnh. Tất cả các loài tôm hùm đất Bắc Mỹ đều mang mầm bệnh dịch tôm hùm đất, nhưng dịch này chỉ gây hại cho những cá thể yếu; với các loài châu Âu, bệnh này càng nhanh chóng lan ra.P. leniusculus nay là loài tôm hùm đất ngoại lai phổ biến nhất châu Âu, xuất hiện ở 25 quốc gia, từ Phần Lan tới Vương quốc Liên hiệp Anh và từ Tây Ban Nha đến Hy Lạp. Chúng được mang đến đảo Anh vào năm 1976, và nay đã tràn đến tận Moray Firth. Chúng cũng xuất hiện ở đảo Man, nhưng chưa thấy ở Ireland.Ở Thụy Điển và Phần Lan (nơi chúng bị đánh bắt làm thức ăn), sản lượng P. leniusculus đã vượt qua Astacus astacus và được bán với giá bằng khoảng một nửa so với A. astacus. |
Họ Tôm hùm không càng hay còn gọi họ Tôm hùm gai, hay là họ Tôm rồng (danh pháp khoa học: Palinuridae) là một họ tôm ở biển gồm có hơn 60 loài trong đó có nhiều loài có giá trị kinh tế cao. Tên gọi tôm rồng đôi khi dễ nhầm lẫn với loại tôm hùm đất, cũng được gọi là tôm rồng. Các loài tôm hùm có ở vùng biển Việt Nam thuộc họ này. Đây là loài tôm có giá trị kinh tế cao và được khai thác nhiều cùng với loài họ hàng của nó là tôm hùm càng.
Jasus Parker, 1883
Justitia Holthuis, 1946
Linuparus White, 1847
Nupalirus Kubo, 1955
Palibythus Davie, 1990
Palinurellus De Man, 1881
Palinurus Weber, 1795
Palinustus A. Milne-Edwards, 1880
Panulirus White, 1847
Projasus George and Grindley, 1964
Puerulus Ortmann, 1897
Sagmariasus Holthuis, 1991Ở Việt Nam có 7 loài tôm hùm gồm:
Tôm hùm bông là loài có kích thước lớn nhất, tăng trưởng nhanh nhất và có giá trị cao nhất trong các loài tôm rồng.
Tôm hùm đá
Tôm hùm sỏi
Tôm hùm đỏ
Tôm hùm ma
Tôm hùm sen
Tôm hùm bùn
Thịt tôm hùm đã được xem là vua của các loài hải sản, là đặc sản của vùng biển vào mùa đông lúc tôm hùm còn nặng những tảng gạch son. Gạch đóng thành một dọc vàng ươm ở sống lưng con tôm, gạch là một mảng lớn đóng nơi đầu tôm. Tôm hùm là món ăn thường được bán tại các nhà hàng. Ở Việt Nam, tôm hùm chủ yếu xuất bán sang Trung Quốc. Ở Việt Nam, tôm hùm phân bố tự nhiên và được nuôi nhiều ở các tỉnh ven biển miền Trung như Phú Yên, Bình Định, Khánh Hòa… Mùa khai thác con giống chủ yếu từ tháng 11 năm trước đến tháng 4, 5 năm sau.
Harold W. Sims Jr. (1965). "Let's call the spiny lobster "spiny lobster"". Crustaceana 8 (1): 109–110. doi:10.1163/156854065X00613. JSTOR 20102626.
Ferran Palero, Keith A. Crandall, Pere Abelló, Enrique Macpherson & Marta Pascual (2009). "Phylogenetic relationships between spiny, slipper and coral lobsters (Crustacea, Decapoda, Achelata)" (PDF). Molecular Phylogenetics and Evolution 50: 152–162.
R. N. Lipcius & D. B. Eggleston (2000). "Introduction: Eecology and fishery biology of spiny lobsters". In Bruce F. Phillips & J. Kittaka. Spiny Lobsters: Fisheries and Culture (2nd ed.). John Wiley & Sons. pp. 1–42. ISBN 978-0-85238-264-6.
Shane T. Ahyong, James K. Lowry, Miguel Alonso, Roger N. Bamber, Geoffrey A. Boxshall, Peter Castro, Sarah Gerken, Gordan S. Karaman, Joseph W. Goy, Diana S. Jones, Kenneth Meland, D. Christopher Rogers & Jörundur Svavarsson (2011). Subphylum Crustacea Brünnich, 1772 (PDF). In Z.-Q. Zhang. "Animal biodiversity: an outline of higher-level classification and survey of taxonomic richness". Zootaxa 3148: 165–191.
Michael Türkay (2011). "Palinuridae". World Register of Marine Species. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2012.
Victoria Jaggard (ngày 3 tháng 5 năm 2007). "Photo in the news: oldest lobster fossil found in Mexico". National Geographic.
Sue Wesson (2005). "Murni Dhungang Jirrar Living in the Illawarra - Aboriginal people and wild resource use" (PDF). Department of Environment, Climate Change and Water. p. 22.
John D. Cutnell & Kenneth W. Johnson (2007). Physics (7th ed.). p. 1088. ISBN 978-0-471-66315-7.
The Miles Kelly Book of Life. Great Bardfield, Essex: Miles Kelly Publishing. 2006.
John Roach (ngày 28 tháng 7 năm 2004). "Decoding spiny lobsters' violin-like screech". National Geographic News.
== Liên kết ngoài == |
Bánh mì Adobe hay còn gọi là bánh mì bỏ lò, là một loại bánh mì đặc trưng của các dân tộc Pueblo, Tây Nam Hoa Kỳ. Bánh mì thường có hình các con vật đặc trưng của vùng. Bột thường chứa thịt, rau, hạt hoặc quả hạch. Bánh mì được nướng trong lò nung ngoài trời hình tổ ong được gọi là bánh sừng bò. Bột nhào cơ bản được làm bằng men, bột mì, muối, nước ấm và chất tạo ngọt như mật ong hoặc đường.
== Tham khảo == |
Kem bia là một loại kem có thành phần là bia. Bia được sử dụng thường là những loại bia sẫm màu, tạo ra hương vị đặc trưng hơn so với kem sử dụng các loại bia nhẹ hơn. Cồn trong bia đôi khi xuất hiện trong kem thành phẩm, trong khi các cách chế biến khác bao gồm cả việc nấu có thể làm bay hơi cồn. Soda kem cũng có thể được làm từ bia.
Kem bia được làm từ thành phần của loại kem thông thường với bia. Hương vị của kem bia phụ thuộc vào loại bia sử dụng để chế biến. Ví dụ, việc sử dụng bia đen có thể tạo ra hương vị malty và caramel, và việc sử dụng pilsner, bia nhạt, bia nhạt Ấn Độ tạo ra vị đắng Bia Ấn Độ cũng có thể làm tăng hương vị malty. Bia lúa mì và bia lager cũng có thể sử dụng như một thành phần trong món kem. Bia nhẹ như lagers không có vị đậm bằng bia sẫm màu hơn và các loại bia có lượng mạch nha và hoa bia cao hơn, mang lại hương vị khác biệt hơn.Các thành phần bổ sung khác nhau có thể được sử dụng, giống như trong các loại kem khác chẳng hạn như sô cô la, anh đào, caramel, hồ đào, kẹo dẻo và các loại tương tự. Chuẩn bị món kem có thể bao gồm việc truyền bia vào kem làm sẵn, hoặc làm kem với bia từ đầu.Một số cửa hàng kem ở Hoa Kỳ chế biến và cung cấp kem bia, và món kem đã được phục vụ tại Great American Beer Festival (Lễ hội bia lớn của Mỹ). Ben & Jerry hợp tác với Công ty bia New Bỉ vào năm 2015 để tạo ra hai loại kem bia phiên bản hạn chế được chế biến từ loại bia New Belgium Brown Ale.
Kem bia đôi khi vẫn giữ được chất cồn có trong bia, và kem bia được pha với bia có độ cồn cao theo thể tích có thể không bị đóng băng hoàn toàn khi sử dụng máy làm kem. Một số chế phẩm của món ăn liên quan đến nấu ăn có thể làm bay hơi rượu.
== Tham khảo == |
Bánh xèo là một loại bánh phổ biến ở châu Á, phiên bản bánh xèo của Nhật Bản và Triều Tiên có bột bên ngoài, bên trong có nhân là tôm, thịt, giá đỗ, kim chi, khoai tây, hẹ, (bánh xèo Triều Tiên); tôm, thịt, cải thảo (Nhật Bản) được rán màu vàng, đúc thành hình tròn hoặc gấp lại thành hình bán nguyệt. Tuỳ theo từng địa phương tại Việt Nam mà bánh được thưởng thức với nét đặc trưng riêng. Thường có 2 phương pháp chính: đổ bánh xèo giòn và bánh xèo dai. Ăn bằng hai cách: ăn bốc hoặc ăn bằng đũa.
Bánh xèo ăn bằng cách cuốn với rau bẹ rộng, thêm rau sống và chấm với nước chấm tùy vùng miền.
Bánh xèo hẹ ăn chung với kim chi, chấm nước tương. Pha 2 muỗng canh nước tương, nửa muỗng cà phê giấm, nửa muỗng cà phê đường, ít bột ớt, ít củ hành tây, ớt sừng và hành lá xắt nhuyễn.
Bánh chín, cho ra đĩa, tưới sốt okonomiyaki và sốt mayonnaise lên, cuối cùng cho cá ngừ bào vào là có thể dùng được.
Bánh khoái là một loại bánh xèo, có bột gạo bên ngoài, bên trong có nhân là tôm, chả, giá đỗ, được nặn hình bán nguyệt. Bánh khoái đổ bằng bột gạo xay đánh sệt với nước và lòng đỏ trứng, sau đó thêm tiêu, hành, mắm, muối, tôm, thịt bò (hoặc chim) nướng thái lát, mỡ thái lát nhỏ, giá sống.
Tên gọi "bánh khoái" được nhiều người lý giải theo các cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng nguyên gốc ban đầu là "bánh khói". Để làm bánh khoái, người ta tráng lớp dầu rất mỏng lên chảo và đun nóng sau đó thì đổ bột vào và tráng đều. Tại thời điểm này có luồng khói bốc lên từ bánh. Người Huế phát âm từ khói tựa như khoái. Bánh khoái chỉ có ở Huế và rất khó làm vì bánh mà chả có luồng khói thì chẳng qua cũng là bánh xèo. Bí quyết đề có luồng khói là lớp dầu mỏng chỉ đủ làm một cái bánh cho một lần chêm dầu.
Tại Huế nổi tiếng với món bánh khoái Thượng Tứ, vùng đất phía Đông Nam kinh thành Huế.
Thực tế theo truyền thống Bánh xèo được làm từ bột gạo, được pha trộn với gia vị vừa phải, và có nhân là thịt heo hoặc tôm và được dùng với nước chấm là mắm với một ít chanh làm tăng theo thêm khẩu vị, để không bị ngán ta dùng thêm lá cải hoặc lá lốt rồi thưởng thức nhớ mãi không quên, đó chính là bánh xèo truyền thống... |
Cá là nguồn thực phẩm quan trọng được tiêu thụ bởi nhiều loài động thực vật, trong đó có con người. Cá là nguồn cung cấp protein cho con người thông qua các ghi chép lịch sử.
Hơn 32,000 loài cá được miêu tả, và cá là nhóm động vật có xương sống đa dạng nhất. Tuy nhiên, chỉ có số lượng nhỏ các loài cá được con người dùng làm thực phẩm. |
Lutefisk (tiếng Na Uy) hoặc lutfisk (tiếng Thụy Điển) hoặc ludfisk (tiếng Đan Mạch) (phát âm [lʉːtfesk] ở Bắc Na Uy, [lʉːtəfɪsk] ở Trung bộ và Nam bộ Na Uy, [lʉːtfɪsk] ở Thụy Điển, ở Đan Mạch [luð̞ˠfesk] và ở Phần Lan (tiếng Phần Lan: lipeäkala)) là một món ăn truyền thống ở Các nước Bắc Âu. Món này làm từ cá tuyết khô được ngâm giấm: một món cá truyền thống với vị chua cay cùng với phần nước sốt sền sệt thường được ăn vào những ngày trước lễ Giáng sinh. Cá hồi địa phương, cá trích hay cá tuyết tươi và tôm cũng là những loại thực phẩm được ưa chuộng tại các quốc gia này. |
Cà phê G7 là một thương hiệu cà phê hòa tan của Tập đoàn Trung Nguyên, bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau như G7 3in1, 2in1, G7 hòa tan đen,... ra mắt thị trường Việt Nam lần đầu tiên vào cuối năm 2003.
Cà phê hòa tan G7 ra đời vào tháng 11 năm 2003, chia sẻ thị phần cà phê trong nước với Vinacafe và Nescafe. Sự kiện thử mùi vị (blind taste test) tại Dinh Độc Lập Thành phố Hồ Chí Minh trong ngày giới thiệu sản phẩm đầu tiên", thu hút hơn 35.000 người tham gia.Giai đoạn đầu, G7 được sản xuất tại hai nhà máy cà phê hòa tan ở Buôn Ma Thuột, sau mở rộng với nhà máy cà phê hòa tan tại Bình Dương. Công suất chế biến giai đoạn này khoảng 150-200 tấn mỗi tháng. Liên tục trong vòng chưa đầy 10 năm sau đó, Trung Nguyên đầu tư xây dựng hệ thống 5 nhà máy cà phê lớn nhất châu Á, trong đó riêng G7 chiếm 2 nhà máy.
Các sản phẩm của nhãn hiệu cà phê G7 bao gồm:
Cà phê G7 3in1
Cà phê G7 2in1
Cà phê G7 hòa tan đen
Cà phê G7 Gu mạnh X2
Cà phê G7 Passiona 4in1 - Cà phê dành cho phái đẹp
Cà phê G7 Cappuccino: gồm G7 Cappuccino Halzenut, G7 Cappuccino Coconut và G7 Cappuccino Mocha có vị của sữa và kem.
Tổ chức họp báo ngày 4 tháng 7 năm 2012, Trung Nguyên công bố kết quả nghiên cứu thị trường thực hiện bởi công ty Nielsen và Kantar Worldpanel, và thông cáo tới báo chí, rằng Theo số liệu cung cấp bởi Nielsen: trong năm 2011, sản phẩm cafe hòa tan G7 đã dẫn đầu thị trường cà phê hòa tan 3in1 Việt Nam về thị phần (38%). Cũng trong thông cáo, Trung Nguyên trích số liệu của Nielsen để khẳng định thị phần G7 tiếp tục tăng lên trên thị trường cà phê hòa tan. Theo đó, trong quý 1 năm 2012, G7 dẫn đầu về thị phần (40%) và sản lượng (35%) của ngành cà phê hòa tan, đồng thời trích dẫn phần xác nhận được cho là của Nielsen vào thông cáo báo chí của mình rằng với đà tăng trưởng này, dự đoán G7 sẽ tiếp tục duy trì vị trí số một tại Việt Nam.Tuy nhiên, hai ngày sau, chiều 6 tháng 7 năm 2012 tập đoàn cà phê của Việt Nam này bị chính Nielsen phản bác, cho rằng Nielsen chưa từng cung cấp văn bản xác nhận nào để chứng thực công bố của Trung Nguyên. Đồng thời, Nielsen cũng công bố thông tin khẳng định thực chất cà phê hòa tan Nestlé mới là sản phẩm dẫn đầu thị trường này, theo sau đó là G7 của Trung Nguyên và Vinacafe Biên Hòa. Trong thị trường cà phê hòa tan gồm có 3 dòng sản phẩm chính là cà phê 2in1, 3in1 và cà phê bột, thì G7 của Trung Nguyên chỉ dẫn đầu nhóm sản phẩm 3in1 mà thôi.
== Tham khảo == |
Bhaji là một món ăn rán (món chiên) có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ. Nó được làm từ các loại rau cay, phổ biến là hành, và có một số biến thể. Nó là một món ăn vặt phổ biến ở Ấn Độ. Ngoài ra, nó còn rất phổ biến ở Pakistan và nó có thể được bày bán ở các quầy hàng ven đường, đặc biệt là ở tapris (tiếng Marathi: टपरी) (trên đường phố) và dhabas (tiếng Punjab: ਢਾਬਾ) (trên đường cao tốc). Nó cũng là món khai vị phổ biến trong Ẩm thực Anh-Ấn trên khắp Vương quốc Anh.
Kỷ lục Guinness về chiếc onion bhaji lớn nhất được ghi nhận vào ngày 4 tháng 2 năm 2020, nặng 175,48 kilôgam (386 lb 13+3⁄4 oz) do Oli Khan và Nhóm Surma Takeaway Stevenage thực hiện.
Bên ngoài khu vực Nam và Tây Ấn Độ, những chế phẩm như vậy thường được gọi là pakora. Các biến thể của nó bao gồm chili bajji, potato bajji, onion bajji, banana bajji và bread bajji (hoặc bread pakoda). Một phiên bản khác được gọi là bonda (ở khu vực Nam Ấn Độ), vada (ở Maharashtra) và Gota (ở Gujarat). Bonda có nhân khoai tây hoặc rau trộn trong khi Gota được làm bằng lá cỏ cà ri xanh.
Bhaji là một thành phần của ẩm thực Pakistan và Gujarati Marathi, Tamil, Kannada và ẩm thực Telugu của người Ba Tư truyền thống, được phục vụ vào những dịp đặc biệt và tại các lễ hội. Chúng thường được phục vụ với một tách cà phê, trà, hoặc một khẩu phần yameen truyền thống. Họ sử dụng ớt chuối để làm mirchi bhajji.
Onion bhaji thường được ăn như món khai vị trong các nhà hàng Anh-Ấn trước món chính, cùng với poppadoms và các món ăn nhẹ khác của Ấn Độ. Chúng có thể được phục vụ với một phần salad và lát chanh, hoặc với tương ớt xoài, và được chế biến theo cách truyền thống để có hương vị nhẹ. |
Sữa đậu nành (tiếng Anh: soy milk) là một thức uống có nguồn gốc thực vật được sản xuất bằng cách ngâm và nghiền hạt đậu nành với nước, chắt lọc lấy nước rồi bỏ bã. Đun sôi hỗn hợp và lọc các hạt còn lại. Thức uống ở dạng nhũ tương ổn định của dầu, nước và protein. Hình thức ban đầu là sản phẩm phụ tự nhiên của quá trình sản xuất đậu phụ. Có nguồn gốc từ Đông Á, nó đã trở thành một loại đồ uống phổ biến ở Châu Âu và Bắc Mỹ vào nửa cuối thế kỷ 20, đặc biệt là khi các kỹ thuật sản xuất đã được phát triển để mang lại cho nó một hương vị và gần giống với sữa động vật. Cùng với những loại sữa có nguồn gốc từ thực vật tương tự như sữa hạnh nhân, sữa gạo..., sữa đậu nành có thể được những người ăn chay hoặc dị ứng lactose sử dụng thay thế cho sữa động vật, trong khi những người khác có thể sử dụng nó vì lý do môi trường hoặc sức khỏe.
Ở Trung Quốc, thuật ngữ thường dùng đậu tương (nghĩa là "nước đậu") được sử dụng làm nước giải khát có nước và đậu truyền thống được sản xuất như một sản phẩm phụ của quy trình làm đậu phụ, trong khi các sản phẩm mua tại cửa hàng được thiết kế để bắt chước hương vị và tính nhất quán của sữa bò thường được gọi là sữa đậu ("đậu nãi"). Ở các quốc gia khác, đôi khi có những trở ngại pháp lý đối với tương đương của tên "sữa đậu nành". Trong các khu vực pháp lý như vậy, các nhà sản xuất sữa thực vật thường dán nhãn sản phẩm của họ tương đương với "nước giải khát đậu nành" hoặc "nước đậu nành".
Cây đậu nành có nguồn gốc ở phía đông bắc Trung Quốc và dường như đã được thuần hóa vào khoảng thế kỷ 11 TCN nhưng việc sử dụng nó trong súp và đồ uống chỉ được chứng thực vào những thời kỳ sau đó. Sữa đậu nành được ghi nhận lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, "rượu" đậu nành vào thế kỷ thứ 4, và nước đậu phụ (doufujiang) k. 1365 vào giai đoạn diễn ra sự sụp đổ của nhà Nguyên.Như đậu tương, thức uống này vẫn là một dạng sữa đậu nành phổ biến ở Trung Quốc, thường được chế biến từ đậu nành tươi. Mức độ phổ biến của nó tăng lên trong triều đại nhà Thanh, rõ ràng là do phát hiện ra rằng đun vừa đậu tương trong ít nhất 90 phút đã thủy phân raffinose và stachyose, oligosacarit tránh gây gây đầy hơi và đau tiêu hóa ở người lớn không dung nạp đường sữa. Đến thế kỷ 18, thức uống này trở nên phỏ biến đến những hàng bán rong cũng bán; vào thế kỷ 19, người ta có thói quen tới cửa hàng đậu phụ mua cốc sữa đậu nành tươi nóng hổi cho bữa sáng. Khi ăn sáng người Trung Quốc ăn kèm quẩy và chấm vào sữa đậu nành. Quá trình này được công nghiệp hóa vào đầu thời Dân quốc. Đến năm 1929, hai nhà máy ở Thượng Hải đã bán được hơn 1000 chai mỗi ngày và một nhà máy khác ở Bắc Kinh gần như tự sản xuất. Sau sự gián đoạn từ Chiến tranh thế giới thứ hai và Nội chiến Trung Quốc, sữa đậu nành bắt đầu được tiếp thị như thức uống giải khát thời thượng ở Hồng Kông, Singapore và Nhật Bản vào những năm 1950.
Chế biến sữa đậu nành không quá khó. Cách đơn giản nhất mà ai cũng có thể làm được là xay hạt đậu tương (bằng máy xay sinh tố chẳng hạn) với tỉ lệ 200 g đậu trên 0.5 lít nước. Lọc phần đã xay qua khăn hay rây thật nhỏ để thu lấy nước. Đun sôi nước này lên là có sữa đậu nành
Hạt đậu tương cũng có thể được rang chín lên, (tới lúc giòn và ăn vã ngay được) rồi mới xay, cách này làm cho các sản phẩm thu được thơm ngon hơn, và dễ hấp thụ hơn. Sữa đậu nành thường là một trong các sản phẩm có chung một quá trình chế biến từ hỗn hợp bột đậu tương và nước. Từ mỗi công đoạn, người ta thu được một sản phẩm khác nhau như:
Sữa đậu nành: phần nước của hỗn hợp, được lọc qua lưới mịn
Tào phớ: phần chất béo và chất rắn mịn nổi bên trên thu được sau khi lọc sữa đậu nành
Đậu phụ: phần chất rắn và chất béo thu được sau khi lọc vớt tào phớ và ép chặt
Bã đậu: phần chất rắn thô nhất trong hỗn hợpHiện nay đã xuất hiện máy làm sữa đậu nành trong các gia đình ở phương Tây, khiến đồ uống này ngày càng trở nên thông dụng.
Thành phần dinh dưỡng của sữa đậu thành có nhiều điểm tương tự với sữa bò. Sữa đậu nành có lượng protein cao gần bằng sữa bò, nhưng ít calci hơn sữa bò. Sữa đậu nành có ưu điểm là không có lactose, có thể thay thế sữa bò cho những người bị dễ bị đau bụng do lactose. Sữa đậu nành cũng chứa ít chất béo bão hòa hơn sữa bò, có thể có lợi cho tim mạch hơn. Nó không có casein, một protein của sữa bò có thể tạo ra histamine và tăng sản xuất chất nhầy trong cơ thể.
Một số nhà sản xuất công nghiệp ở phương Tây cho thêm vitamin ví dụ như vitamin B12 và calci vào sữa đậu nành.
Sữa đậu nành có thể dùng thay thế sữa bò trong hầu hết các công thức nấu ăn. Do có nguồn gốc hoàn toàn thực vật, sữa đậu nành thích hợp cho nhiều người ăn chay. |
Bánh tẻ, có nơi gọi là bánh lá hoặc bánh răng bừa vì có hình dáng giống cái răng bừa, là thứ bánh truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và Thanh Hóa, Việt Nam. Bánh được làm từ bột gạo tẻ, gói ngoài bằng lá dong và được luộc cho chín. Mỗi địa phương có cách làm bánh tẻ riêng, ít nhiều khác nhau.
Có thể kể ra một số loại bánh tẻ nổi tiếng như:
Bánh tẻ làng Phú Nhi (phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, Hà Nội)
Bánh tẻ làng Chờ (Yên Phong, Bắc Ninh)
Bánh tẻ Phụng Công (Văn Giang, Hưng Yên) - hay còn gọi là bánh răng bừa
Bánh lá ở Khoái Châu, Hưng Yên.Ở Mỹ Đức, Hà Nội cũng có bánh tẻ nhưng ít nổi tiếng hơn.
Nguyên liệu để làm bánh tẻ truyền thống nhân thịt bao gồm gạo tẻ, thịt lợn vai, mộc nhĩ, lá dong (ở Sơn Tây dùng lá chuối). Nhân bánh tẻ y chang với bánh giò.
Một số địa phương có thể cho thêm lạc, nấm hương. Ngoài ra hiện nay, ngoài bánh nhân thịt tại Phụng Công - Hưng Yên còn có thêm bánh nhân đỗ cho người không ăn được bánh nhân thịt lợn. Bánh được làm từ gạo tám thơm thì sẽ thơm, mềm, dẻo chắc bánh hơn.
Chuẩn bị nguyên liệu:
Lá dong (ở Sơn Tây người ta dùng lá chuối): rửa sạch để ráo nước. Lá dong để gói bánh phải là loại lá không quá non mà cũng không được quá già, lá phải xanh, bóng mỡ.
Gạo: Vo sạch, để ráo nước.
Thịt lợn, mộc nhĩ: rửa sạch bằng nước.Sau khi chuẩn bị xong nguyên liệu. Bắt tay vào chế biến. Mỗi địa phương đều phương pháp chế biến nguyên liệu và những phụ gia, bí quyết đặc biệt tạo ra đặc trưng riêng có, song đều phải chuẩn qua 2 công đoạn chính là làm nhân bánh và làm vỏ bánh.
Công đoạn làm vỏ bánh:
Đầu tiên tiến hành xay gạo tẻ theo cách xay ướt thành bột nước loãng. Bánh ăn sẽ có cảm giác sượng và cứng nếu hạt bột to, vì thế người nghệ nhân luôn cẩn thận kiểm tra thật kỹ trước khi sơ chế bột. Ở Phụng Công - Hưng Yên, trong khi xay, người ta có thêm một chút nước vôi trong hòa cùng bột loãng để vỏ bánh bắt màu lá dong hơn, xanh đẹp mắt hơn. Nước vôi phải là nước được ngâm thật kỹ, để tránh sau này làm ra bị nồng vôi.Tiếp đó là sơ chế bột: Ở Sơn Tây và Mỹ Đức sau khi xay thành bột nước, thêm nước với tỷ lệ 1/1, khuấy đều và ngâm, ngâm bột khoảng thời gian 3-4 ngày vào mùa hè; 4-5 ngày vào mùa đông, thời gian ngâm phải thay nước hàng ngày, mỗi lần thay nước phải khuấy đều bột, khi đủ thời gian ngâm, bột được múc ra rồi cho thêm vài thìa cà phê muối, thêm nước khuấy đều sau đó gạn nước để khử chua. Ở Văn Giang và một số địa phương khác, sau khi xay bột thì đem bột cho vào nồi quấy chín 50% rồi lại cho vào máy đánh nhuyễn thêm cho mẻ bột vừa sánh, vừa dẻo lại dai tấm bánh. Sau đó, thứ bột nước này phải được đun lên để cho đặc lại và có độ dính như keo. Ở thôn quê người ta xay bột bằng cối đá, bột nước được đun nhỏ lửa, vừa đun vừa phải liên tục khuấy đảo bằng cả hai tay cho bột mềm, mịn, tránh vón cục và đặc biệt là bột không được chín hoặc khê, công đoạn này người ta gọi là "giáo bột". Khâu giáo bột cực kỳ quan trọng trong quá trình làm bánh, bánh có ngon hay không là nhờ vào chất lượng bột được giáo, và mỗi vùng lại có những bí quyết khác nhau để giáo bột, do đó mùi vị bánh cũng khác nhau giữa các vùng.
Sau khi bột đã được, tiếp đến là công đoạn làm nhân bánh: Thịt lợn được băm nhỏ cùng với hành khô. Mộc nhĩ (nấm hương) cũng được thái chỉ, ướp gia vị trộn đều với nhau rồi đem xào chín để làm nhân bánh. Cũng có thể cho thêm lạc để mùi vị bánh bùi hơn.Tiếp theo, người ta lấy một lượng vừa phải (tùy theo từng vùng) thứ bột cô đặc đó đặt lên một hoặc hai tờ lá dong công đoạn này gọi là "ra bột". Lấy hỗn hợp thịt đặt lên lớp bột và ấn sâu xuống để bột phủ lên thịt. Sau đó, cuốn lá ngoài bánh, thường là theo hình thuôn dài. Tại Sơn Tây người ta dùng cả lá chuối để gói bánh nên bánh có màu nâu của lá chuối, các vùng còn lại chỉ dùng lá dong gói bánh nên bánh có màu xanh. Thường bánh chỉ nhỉnh hơn hai ngón tay (ở Mỹ Đức và Văn Giang), nhưng bánh tẻ ở Sơn Tây lại dài đến 30 cm và khá lớn, bánh tẻ ở Văn Giang thì nhỏ hơn bánh tẻ Sơn Tây một chút. Bánh được buộc vừa phải không chặt quá bằng lạt xé nhỏ. Ở vùng Mỹ Đức, Sơn Tây (Hà Nội) người ta kẹp một đầu sợi lạt vào trong lá gói bánh phía một đầu của bánh rồi cuốn lạt chặt vòng quanh bánh xuống tới đầu còn lại. Trước đây, khi vùng bãi ven sông Hồng tại Hưng Yên còn trồng nhiều cây đay, cây chuối thì người ta còn buộc bánh bằng sợi đay hay dây chuối khô tước nhỏ. Nhưng nay ở Văn Giang họ buộc bằng dây ni lông cho nhanh và tiện. Còn các vùng khác vẫn giữ nguyên cách buộc bánh bằng lạt.
Công đoạn cuối cùng của làm bánh tẻ là luộc bánh. Nước sạch đun đến sôi thì cho bánh vào luộc tiếp ở độ sôi vừa phải trong vòng 20 phút thì bánh sẽ chín. Ở một số vùng khác người ta không luộc bánh mà hấp bánh tới chín, xếp bánh vào một cái chõ, xếp đều và tạo khe hở cho hơi nóng luồn qua được rồi đem đun sôi, hơi nóng của nước sôi sẽ làm chín bánh. Ngoài ra, có thể đem bánh tẻ sau khi luộc chín, để nguội ráo nước đem tẩm với bột, sau đó đem chiên ít dầu cho lớp vỏ ngoài giòn là được.
Bánh tẻ chấm với nước mắm rắc hạt tiêu xay với chanh, tỏi, ớt hoặc chấm với tương ớt. Ở một số nơi thực khách còn dùng thêm món chả gà và một ít dầu cà cuống cho vào nước mắm để tăng thêm hương vị của món bánh.
Ngày trước, chỉ vào dịp ngày rằm, ngày giỗ và Tết Nguyên đán người ta mới làm bánh tẻ để cúng. Ngày nay, có vùng làm bánh tẻ bán quanh năm. Cũng có vùng chỉ làm nếu được người ta đến đặt làm. |
Thịt lợn kho (tiếng Trung: 红烧肉; bính âm: Hóngshāo ròu) là một món ăn mặn dùng với cơm, có nguồn gốc từ Trung Quốc và cũng là món ăn truyền thống trong ẩm thực Việt Nam vì Việt Nam từng bị đô hộ 1000 năm bởi ách thống trị nhà Hán, người Tàu đã đem các món thịt kho hay cá kho vào Việt Nam nên rất phổ biến trong ẩm thực Việt Nam như là món truyền thống thường ngày của người Việt trong các bữa ăn từ Bắc và Nam. Đối với thịt kho của Trung Quốc tuyệt đối phải kho với xì dầu chứ không như Việt Nam dùng nước mắm hay có cả nước cốt dừa hay nước dừa tươi của người Nam Bộ. Người miền Bắc cũng như người Hoa quen gọi là thịt kho tàu.
Nguyên liệu chính của món ăn này là thịt lợn (thịt ba chỉ là ngon nhất,các gia vị gồm hành, tiêu, muối, đường, nước hàng. Tùy theo từng địa phương hay sở thích của từng người mà khi kho thịt người ta còn có thể kho kèm với cùi dừa, củ cải, su hào, măng tre, đậu phụ. Tại Trung Quốc có món thịt kho Đông Pha nổi tiếng để ăn trong dịp Tết Nguyên Đán hay những ngày đông giá rét.Thịt kho Đông Pha có tên gọi bắt nguồn từ tên của nhà thơ,học giả nổi tiếng Tô Đông Pha của triều đại Bắc Tống,Trung Quốc. Ông cũng là người rất yêu thích việc nấu nướng và món thịt kho mang tên ông chính là minh chứng cho điều này.
Riêng với món thịt kho hột vịt được du nhập từ Phúc Kiến vào Việt Nam thời Trung Hoa Dân Quốc vào miền Nam, nhất là khu vực có người Hoa sinh sống. Nguyên gốc của món thịt kho này có tên Hán Việt là đậu du nhục' (tiếng Trung: 豆油肉; bính âm: Dòuyóu ròu; Việt bính: dau6 jau4 juk6) , với gia vị bao gồm xì dầu, ớt Tứ Xuyên, [[đường phèn] để chưng thành màu caramel, dầu hào, gừng, hoa hồi và quế. Đôi khi, thịt kho kiểu Phúc Kiến này còn có một chút rượu Thiệu Hưng. |
Kem sữa đá là món tráng miệng đông lạnh, chứa ít hơn 10% sữa béo và có hàm lượng chất ngọt như kem sữa. Đôi khi kem sữa đá còn có giá thấp hơn cả kem sữa.
Có một sự thay đổi vào năm 1994, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược Hoa Kỳ đã cho phép kem sữa đá được mang nhãn hiệu là kem ít béo tại Mỹ.
== Chú thích == |
Xốt béchamel (tiếng Pháp: [beʃamɛl]), còn được gọi là xốt trắng, được làm từ bột trắng (bơ và bột mì) và sữa. Mặc dù nó lần đầu tiên xuất hiện trong các cuốn sách nấu nướng của Ý (là một trong những loại nước sốt đơn giản nhất của ẩm thực Ý), ngày nay nó được xem là một trong những loại nước sốt mẹ của các món ăn Pháp. Nó được sử dụng làm cơ sở cho các loại nước sốt khác (như nước sốt Mornay, tức Béchamel với phô mai). |
Kabuli palaw (Dari: قابلی پلو) là một loại pilaf có xuất xứ từ Afghanistan. Món này bao gồm cơm trộn với nho khô, cà rốt và thịt bò hoặc thịt cừu. Tồn tại các biến thể khác nhau tùy thuộc vào khu vực.
Kabuli palaw được coi là món ăn lễ hội và quan trọng là do giá cả và chất lượng của nguyên liệu cũng như là món ăn truyền thống của Afghanistan. Theo truyền thống, món này được đặt ở trung tâm của bữa ăn cùng với món khác tạo nên phần còn lại ngoài lề. |
Soda sữa hột gà (tiếng Khmer: សូដាក្រឡុកពងមាន់, lsau da kralok pongmean) là một thức uống có nguồn gốc ở miền Nam Việt Nam, mặc dù cũng phổ biến ở Campuchia. Đây là đồ uống ngọt được làm từ lòng đỏ trứng gà, sữa đặc có đường và nước soda. Có nhiều biến thể của thức uống này, được làm từ các loại trứng khác nhau nhưng được sử dụng phổ biến nhất là trứng cút. Vì nước ngọt câu lạc bộ có tính axit, thêm chất này vào lòng đỏ trứng sẽ làm protein đông lại. Kết cấu của đồ uống có thể được mô tả giống như sữa trứng.Loại thức uống này thường được bán tại các siêu thị Việt Nam, hoặc các chợ châu Á khác và được đóng trong lon. Nó cũng có thể được tìm thấy mới làm tại một số nhà hàng Việt Nam. Thức uống cũng có thể được gọi là ""Soda Egg Milk" ("Soda trứng sữa") trong tiếng Anh tại các nhà hàng như vậy.
== Tham khảo == |
Chả cua là một loại chả được làm từ nguyên liệu là thịt cua giã nhuyễn và được quết, vắt thành viên. Ở Việt Nam, chả cua là nguyên liệu cho món bún bò Huế, bún chả cua, miến chả cua và nhiều món ăn khác, loại cua được dùng làm nguyên liệu cho món chả cua là các loại cua đồng. Ngày nay, chả cua thông thường được bán tương đối nhiều ở các khu chợ và siêu thị của Việt Nam, đây là loại chả mà các khu công nghiệp chế biến và đóng gói hàng loạt.
Ở Mỹ, chả cua (Crab cake) là một loại chả cá (fishcake) rất phổ biến trong ẩm thực Hoa Kỳ, nó bao gồm thịt cua và nhiều thành phần khác, chẳng hạn như vụn bánh mì, sốt mayonnaise, mù tạt (thường là mù tạt được chế biến sẵn, nhưng đôi khi là bột mù tạt), trứng và gia vị, đặc biệt là bánh sau đó được áp chảo, rán, nướng, chiên giòn, hoặc nướng chín. Chả cua ở Mỹ gắn với các bang giáp với biển Đại Tây Dương, trong đó nổi tiếng với thương hiệu chả cua kiểu Maryland.
Ở Mỹ, các loại chả cua có truyền thống gắn liền với khu vực xung quanh Vịnh Chesapeake, đặc biệt là các bang Maryland và Virginia. Chả cua đặc biệt phổ biến dọc theo bờ biển của các bang Trung Đại Tây Dương và Nam Đại Tây Dương, nơi ngành công nghiệp làm chả thịt cua phát triển mạnh. Chúng cũng có thể thường được tìm thấy ở New England, Bờ Vịnh, Tây Bắc Thái Bình Dương và bờ biển Bắc California. Trong khi thịt từ bất kỳ loài cua nào có thể được sử dụng, thì loại Cua xanh Đại Tây Dương hiện diện trong môi trường sống bản địa bao gồm Vịnh Chesapeake là lựa chọn truyền thống và thường được coi là ngon nhất.
Ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Bắc California, Cua Dungeness là một nguyên liệu phổ biến cho món chả cua, và món bánh thịt cua này được chế biến tại nhiều nhà hàng trong khu vực. Nhiều nhà hàng và chợ cá quảng cáo sản phẩm bánh cua của họ là "Maryland Crab Cake" hoặc "Maryland-Style", ngụ ý phần thịt cua là Cua xanh có nguồn gốc trong nước tuy nhiên, việc thay thế bằng loại ghẹ xanh rẻ hơn là một thực tế phổ biến vì chúng được nhập khẩu, thường là từ Châu Á. Sản phẩm nước ngoài thường được thu hoạch bằng các phương pháp và thực hành được coi là không bền vững ở Hoa Kỳ, nơi ngành công nghiệp đánh bắt cua được quản lý cẩn thận để đảm bảo tính bền vững. |
Honmei choco (本命チョコ (Bản mệnh Choco), Honmei choko, sô-cô-la yêu thương) là loại sô-cô-la mà phụ nữ Nhật Bản chỉ dành tặng cho đàn ông mà họ thực sự yêu thương nhân dịp lễ tình nhân. Honmei choco là loại sô cô la đặc biệt, thông thường do chính phụ nữ tự làm, có giá trị hơn hay là mắc hơn giri choco (loại sô cô la chỉ dành tặng cho những người đàn ông và bạn bè có mối quan hệ bình thường).Để đáp lễ, vào ngày Trắng, 14 tháng 3, nam giới tặng lại nữ giới những món quà như sô cô la hoặc bánh kẹo.
Vài thí dụ về Honmei choko
== Chú thích == |
Cocktail trứng sữa hay eggnog , còn được gọi là milk punch hoặc egg milk punch (nếu được pha với đồ uống có cồn) là một loại đồ uống được làm từ sữa, kem, lòng đỏ và lòng trắng trứng được đánh tan (làm cho mặt trên nổi bọt, tên của nó cũng bắt nguồn từ điều này). Trong một số trường hợp, một vài loại rượu mạnh được chưng cất như rượu brandy, rượu rum, whisky hoặc bourbon cũng có thể được cho vào cùng Eggnog.
Ở Hoa Kỳ và Canada, Cocktail trứng sữa thường được sử dụng trong dịp Giáng sinh, từ cuối tháng 11 cho đến hết mùa lễ. Một loại kem có tên Ponche Crema đã được sản xuất và tiêu thụ ở Venezuela và Trinidad từ những năm 1900, cũng là một phần của kỳ lễ. Trong thời gian này, nó thường được bán tại những cửa hàng tạp hoá tại các nước đó.
Người ta có thể tự làm cocktail trứng sữa bằng những nguyên liệu như sữa, trứng, đường và hương liệu, đồng thời ăn kèm với quế hoặc hạt nhục đậu khấu. Nó thường được chế biến lạnh, nhưng trong một số trường hợp, nó lại được làm nóng, đặc biệt là vào những ngày giá rét (tương tự như rượu vang). Cocktail trứng sữa cũng có thể được sử dụng làm hương liệu cho những loại đồ uống khác, chẳng hạn như cà phê (ví dụ như "eggnog latte" espresso) và trà, hoặc ăn tráng miệng kèm với các món ăn như bánh pudding sữa trứng.
The Modern Bartender's Guide (Sách hướng dẫn của Bartender) vào năm 1878 đã liệt kê nhiều tên biến thể của đồ uống. Nó phân biệt điểm khác nhau của ba biến thể "plain egg nog", "egg milk punch" và "milk punch". Ngoài ra, một số biến thể như "Baltimore egg nog", "General Jackson egg nog", "Imperial egg nog", hai loại "sherry cobbler egg nog", cũng như "sherry cobbler with egg", "mulled with egg ", "egg sour" và "Saratoga egg lemonade" (còn được gọi là "sea breeze") cũng xuất hiện trong cuốn sách.
== Tham khảo == |
Phở cuốn là một món ăn có nguồn gốc từ món phở, lần đầu tiên xuất hiện ở ngã tư phố Ngũ Xã và đường Nguyễn Khắc Hiếu tại thành phố Hà Nội.
Cũng là các nguyên liệu của món phở nhưng phở cuốn đã được thay đổi mới lạ: dưới bàn tay của người bán hàng. Bánh phở được tráng mỏng, khổ vuông, được cuộn lẫn thịt bò chín với rau thơm và trứng. Một số nơi còn sử dụng xà lách và rau mùi. Nước chấm ăn kèm với phở cuốn có vị tương tự như nước mắm của bún chả (Hà Nội) nhưng ít ngọt hơn và mặn dịu. Nếu đúng vị thì phở cuốn thường ăn kèm tương ớt Hà Nội chua cay và không có vị ngọt.
Ngoài ra, do thịt bò chín hơi khô và ngấy nên có lúc nó được thay đổi bằng thịt bò tái, vị mềm và béo, không ngấy. Qua nhiều công thức, giai đoạn tẩm ướp để hoàn thiện thành một món ăn đặc sắc, phù hợp khẩu vị, phở cuốn đã gây sức hút với thực khách bốn phương.
Món ăn xuất hiện cùng thời với phở cuốn là phở rán. Trong món này thì bánh phở được cắt nhỏ tráng với lớp trứng và được rán phồng, có thể thêm thịt bò xào để tăng sức hấp dẫn. |
Odori ebi (chữ Nhật: 踊り海老/躍り海老, tạm dịch: "tôm nhảy") là một món Sushi của Nhật Bản và cũng là một loại sashimi. Sushi chứa tôm non (Pandalus borealis hoặc Marsupenaeus japonicus) vẫn còn sống và có thể động đậy những cái chân và râu trong khi ăn. Bữa ăn được chuẩn bị một cách nhanh chóng để giữ cho tôm còn sống, và khi ăn thì tôm thường được nhúng vào sake để làm tôm say (Drunken shrimp), sau đó là nước chấm đặc biệt, và cuối cùng cũng nhai thật nhanh để giết nó. Tôm có thể được phục vụ toàn bộ hoặc với đầu cắt bỏ; đầu và vỏ đôi khi nhanh chóng chiên và phục vụ bên cạnh. Việc tiêu thụ động vật có vỏ không nấu chín có thể là một mối nguy hiểm sức khỏe nghiêm trọng do nguy cơ bị bệnh nhồi máu cơ tim.
Một biến thể của món này là gỏi tép sống (Goong Ten, chữ Thái: กุ้งเต้น) là món ăn độc đáo của người Thái Lan với những con tép còn tươi nguyên, vẫn còn nhảy trong miệng thực khách khi vừa nếm thử, đó là những con tép sống, trộn cùng rau thơm, sả, đường, hành tím, chanh ớt và gia vị. Cách chế biến món ăn không quá cầu kỳ khi người ta để tép tươi sống vào chậu nhôm nhỏ rồi cho thêm ớt tươi, rau thơm kèm gia vị và vắt cốt chanh lên cùng. Những con tép sống sẽ nhảy tanh tách trong chậu nên gọi là “tép nhảy”. Khi nguyên liệu ngấm gia vị, người bán hàng sẽ đổ món ăn ra ngoài để thực khách thưởng thức. |
Cháo đặc là món ăn chế biến từ ngũ cốc nghiền, xay hay đập nhỏ nấu nhừ trong nước hoặc sữa hoặc cả hai và có thể nêm nếm tùy thích các hương vị khác. Món này thường ăn nóng. Cháo đặc có thể nấu ngọt với nhiều đường hay nấu mặn đều được. Tại phương Tây, cháo đặc thường là cháo yến mạch và là món ăn truyền thống tại nhiều nước Bắc Âu thường dùng ăn sáng. Ở Việt Nam, cháo đặc là cháo nấu bằng gạo tẻ với nhiều gạo ít nước, có độ sệt cao, nấu với bò hoặc thịt gà và thường nêm thêm nước mắm và ăn kèm gừng tươi xắt sợi, hành ta, rau ghém và giò cháo quẩy.
Cháo đặc là món ăn truyền thống cho tù nhân. Trong tiếng Anh "doing porridge" (ăn cháo đặc) nghĩa bóng là "ở tù". Người bệnh cũng thường được cho ăn cháo đặc vì nó bổ và dễ ăn. |
Kẹo tổ ong,cinder toffee hay hokey pokey là một loại kẹo toffee đường với kết cấu dễ nhai, vỡ vụn giống bọt biển. Nguyên liệu chính của nó thường là Đường nâu, si rô ngô (hay rỉ đường,nước đường kẹo) và muối nở, đôi khi với một loại axit như giấm. Muối nở và axit phản ứng với nhau tạo ra cacbon dioxit được giữ trong hỗn hợp rất nhớt. Khi không dùng axit, sự phân hủy nhiệt của muối nở tạo ra cacbon dioxit. Kết cấu bọt biển được tạo ra khi đường ở dạng lỏng, sau đó kẹo cứng lại. Kẹo có nhiều tên và phiên bản địa phương khác nhau.
== Tham khảo == |
Blooming onion, hay còn được gọi là onion bloom, onion blossom, onion flower, bloomin' onion, Australian onion hoặc onion mum, là một món ăn bao gồm một củ hành tây lớn, được cắt giống như một bông hoa (sau khi nó nở ra khi ngâm trong nước đá), tẩm bột, rồi chiên ngập dầu, và thường được ăn kèm với xốt chấm. Nó được phục vụ như một món khai vị tại một số nhà hàng.
Các tài liệu tham khảo về món "onion mum" bao gồm một củ hành tây được cắt thành hình bông hoa đã có từ năm 1947, mặc dù món ăn này không được chiên hoặc nấu hành tây. Phiên bản chiên phổ biến hơn của món ăn có thể được phát minh vào năm 1985 tại nhà hàng ở New Orleans, Russell's Marina Grill, nơi người sáng lập Outback Steakhouse tương lai, Tim Gannon làm việc vào thời điểm đó.Món ăn đã rất phổ biến ở Hoa Kỳ khi nó xuất hiện với tên gọi "Bloomin' Onion", một đặc điểm đặc trưng của Outback Steakhouse khi chuỗi quốc gia đó mở cửa vào năm 1988. Nó thường được phục vụ với xốt chấm đặc trưng của nhà hàng.Từ ngày 21 tháng 6 năm 2016, Outback Steakhouse bắt đầu phục vụ một biến thể duy nhất trong thời gian giới hạn của Bloomin' Onion, Loaded Bloomin' Onion.
Quá trình chuẩn bị trứng và chiên ngập dầu của món ăn có nghĩa là nó chứa nhiều calo; một củ hành tây nở với nước xốt chứa khoảng 1.660 calo và 87g chất béo. Vào năm 2007, một nghiên cứu của Trung tâm Khoa học vì Lợi ích Công cộng đã tìm thấy hàm lượng chất béo là 116g, bao gồm 44g chất béo bão hòa và chất béo chuyển hóa kết hợp.Khi nó tồn tại, Awesome Blossom có phong cách tương tự tại Chili's đã được tạp chí Men's Health liệt kê trong bảng xếp hạng "20 món khai vị tệ nhất ở Mỹ" vào năm 2008 vì lượng calo và chất béo cao, với 2.710 calo, 203g (1.827 calo) chất béo, 194g carbohydrate và 6.360 miligam natri, với lượng chất béo tương đương với 67 lát thịt lợn muối xông khói. Để tham khảo, Lượng tiêu thụ hàng ngày tham khảo của Hoa Kỳ đối với chất béo là 65g và đối với natri là 2.300 mg, giả sử chế độ ăn tối đa là 2.000 calo, trong khi khuyến nghị về năng lượng thực phẩm hàng ngày điển hình nằm trong khoảng từ 1.600 đến 3.000 calo. |
Polish Boy là một chiếc bánh mì kẹp xúc xích có nguồn gốc từ Cleveland, Ohio. Nó bao gồm liên kết của kielbasa được đặt trong một cái bánh, và được phủ một lớp khoai tây chiên, một lớp nước sốt thịt nướng hoặc nước sốt nóng, và một lớp xà lách trộn. Trong khi xúc xích thường được nướng, một số cơ sở sẽ nhanh chóng chiên ngập dầu xúc xích sau khi nướng và trước khi cho vào bánh sandwich.Trong khi Polish Boy có thể được tìm thấy tại các cơ sở khác nhau trên khắp Cleveland, một địa điểm nổi tiếng là Nhà sườn kiểu Nam của Freddie, được biết đến với nước sốt thịt nướng kiểu miền Nam. Esquire đặt tên cho chúng là một trong những loại bánh sandwich ngon nhất ở Mỹ, gọi nó là "linh hồn trên bánh mì trắng".Đầu bếp Michael Symon đã trích dẫn Polish Boy là "Món ngon nhất mà tôi từng ăn" trên Mạng ẩm thực, nơi ông giới thiệu Polish Boy của Seti trong chương trình. Phiên bản của Seti là duy nhất vì ớt và phô mai tùy chọn có thể được thêm vào bánh sandwich.
Đầu bếp Gregby Camp từ nhóm Mickey Wings Flickey của Amazing Mickey Flickey đã xuất hiện trên chương trình The Wendy Williams Show để dạy khán giả cách làm một chiếc bánh Polish Boy ở Cleveland. Chef Camp gợi ý nướng bánh mì để cho hương vị tốt hơn và giữ bánh sandwich cùng nhau. Bánh sandwich của ông có đủ xà lách trộn để nếm, khoai tây chiên tự làm và nước sốt thịt nướng tuyệt vời của họ.
Hot Sauce Williams, một nhà hàng ở East Side của Cleveland, có một biến thể bao gồm thêm thịt lợn hun khói và thịt nướng vào bánh sandwich và được giới thiệu vào tháng 6 năm 2010 trên Man v. Food trên Travel Channel. Người dẫn chương trình và người đam mê ẩm thực Adam Richman đã thử Polish Boy, đặc trưng với nước sốt nóng đặc trưng của nhà hàng. Kể từ khi phát sóng tập phim, Hot-Sauce Williams đã thay đổi loại khoai tây chiên được sử dụng trong bánh sandwich và loại bỏ thịt vai lợn khỏi các thành phần của nó. B&M BBQ, một chuỗi BBQ ở Cleveland, gọi biến thể này của Polish Boy với thịt lợn vai là "Polish Girl".
The Daily Meal đã đánh giá Polish Boy với "nó là một chiếc bánh sandwich nghiêm túc; hãy giữ Tums của bạn sẵn sàng" trong bài viết "12 chiếc bánh sandwich thay đổi cuộc sống mà bạn chưa từng nghe". |
Bò bảy món là thịt bò dọn thành bảy món trong ẩm thực Việt Nam, thường có tại Sài Gòn.
Lối làm bảy món thịt bò tương truyền xuất phát ở trong Nam vào khoảng đầu thế kỷ 20. Lối nấu thịt bò này sau thịnh hành ở Sài Gòn ở một số tiệm ăn, trong đó có tiệm Au Pagolac, trước tiên ở Tân Hiệp (Tiền Giang), sau lên Gò Vấp và Sài Gòn.
Bảy món truyền thống là:
Bò nhúng giấm,
Chả đùm
Bò cuốn mỡ chài
Bò lá lốt
Bò sa tế
Bò bít-tết
Cháo bò.Tuy nhiên bảy món ở những nơi khác cũng thay đổi món và thứ tự, như gỏi bò, bò tái chanh, bò nướng sả, bò nướng vỉ, bò lụi. Ăn kèm với một số món là bánh tráng dùng để cuốn phần thịt ăn với rau sống, rau thơm cùng các gia vị như đồ chua, chuối chát, khế xanh, gừng già, chấm nước mắm hay đúng ra là chấm mắm nêm pha với khóm. Lối làm bảy món thịt bò sau năm 1975 cũng đã ra nước ngoài. Những nhà hàng dọn bò bảy món có mặt ở Mỹ, Canada, Úc, Pháp.
== Chú thích == |
Nam khao (tiếng Lào: ແໜມເຂົ້າ), Nem Thadeua (tiếng Lào: ແຫນມ ທ່າ ເດືອ), Yam Naem (tiếng Thái: ยำแหนม), Yam Naem Khao Thot (tiếng Thái: ยำแหนมข้าวทอด) hay Naem Khluk (tiếng Thái: แหนมคลุก) còn gọi là gỏi cơm giòn Lào, gỏi cơm nắm chiên Lào, Nam khao Tod, Yam Naem Khao Tod, Naem Khao, Nem Khao, Nam Khun hay Naem Khao là một món gỏi khai vị rất phổ biến của Lào có nguồn gốc từ Tha Deua, một làng cảng nhỏ, ở Viêng Chăn, Lào.
== Tham khảo == |
Rượu nếp cẩm là một loại rượu truyền thống của Việt Nam, xuất xứ từ vùng Tây Bắc, được làm từ nguyên liệu gạo nếp cẩm lên men và được đem đi chưng cất để lấy rượu.
Rượu nếp cẩm được làm theo một quá trình công phu và chau chuốt, cũng như rượu nếp.
Theo các nhà nghiên cứu của Đại học Louisiana University, trong nếp cẩm chứa hàm lượng rất cao chất chống oxy hóa anthocyanin - một chất có tiềm năng chống lại bệnh ung thư, tim mạch và nhiều bệnh khác. Anthocyanin tạo ra màu đen sẫm cho nhiều loại rau, quả như việt quất, ớt... Các nhà nghiên cứu cho rằng chất chống oxy hóa màu đen này giúp bảo vệ thành mạch và ngăn ngừa sự phá hủy DNA - yếu tố dẫn đến ung thư. Theo UPI, nếp cẩm có màu đen sẫm, khi nấu lên sẽ chuyển thành màu tím sẫm. Nó chứa nhiều khoáng chất và một vài loại amino acid.
== Tham khảo == |
Tutti frutti (từ tiếng Ý tutti i frutti có nghĩa là "toàn bộ các loại trái cây"; còn mang dấu gạch ngang là tutti-frutti) là món mứt kẹo có chứa nhiều loại trái cây cắt nhỏ thường là kẹo trái cây, hoặc mang hương vị nhân tạo hay tự nhiên mô phỏng hương vị kết hợp của nhiều loại trái cây khác nhau. Món này nổi bật nhất ở các nước phương Tây bên ngoài nước Ý dưới dạng kem.
Trái cây được sử dụng để làm kem tutti frutti gồm anh đào, dưa hấu, nho khô và dứa, thường kèm thêm các loại hạt. Ở Hà Lan, tutti-frutti (còn gọi là "tutti frutti", "tuttifrutti") là mứt trái cây gồm toàn trái cây sấy khô được dùng làm món tráng miệng hoặc làm món phụ ăn kèm với thịt. Ở Bỉ, tutti-frutti thường được xem là món tráng miệng. Thông thường, món này bao gồm sự kết hợp của nho khô, nho, mơ, mận khô, chà là và sung.
Ngay ở nước Mỹ, tutti frutti cũng có thể dùng để chỉ các loại trái cây ngâm rượu brandy hoặc rượu mạnh khác, hoặc thậm chí trái cây được lên men trong chất lỏng có chứa đường và men.Tại Luxembourg, tutti fruitty dùng để chỉ salad trái cây, chủ yếu là salad trái cây đóng hộp được đóng gói sẵn từ siêu thị.
Kem tutti frutti từng được dùng trong ít nhất 160 năm, khi món này xuất hiện trên hóa đơn thanh toán cho bữa tối năm 1860 ở nước Anh.Công thức làm kem tutti frutti được tìm thấy trong sách dạy nấu ăn vào cuối thế kỷ 19. Công thức làm kem tutti frutti được đưa vào sách dạy nấu ăn năm 1874 có nhan đề Common Sense in the Household: A Manual of Practical Housewifery (Thường thức gia đình: Sổ tay hướng dẫn về người nội trợ thiết thực). Công thức này gọi là tutti frutti thực sự và không được đặt tên một cách cầu kỳ như vậy. Trong sách dạy nấu ăn năm 1883 có nhan đề The Chicago Herald Cooking School (Trường dạy nấu ăn của tờ Chicago Herald) cũng có một công thức làm kem tutti frutti thế này.Năm 1888, một trong những hương vị kẹo cao su đầu tiên được bày bán trong máy bán hàng tự động, do Công ty Kẹo Cao su Adams New York tạo ra, là tutti frutti.Nhiều thực đơn nhà hàng vào khoảng năm 1900 trong bộ sưu tập của Thư viện Công cộng New York cũng liệt kê nhiều loại kem này.Ít nhất một cuốn sách dạy nấu ăn đầu thế kỷ 20 của Mỹ có gợi ý rằng kem tutti frutti rất phổ biến ở nước này. The Italian Cookbook (Sách dạy nấu ăn món Ý) có ghi công thức chế biến Tutti Frutti Ice và nói, "Đây không phải là món kem tutti frutti mà ai cũng biết đến ở Mỹ".
Cuốn sách dạy nấu ăn năm 1928 có nhan đề Seven Hundred Sandwiches (Bảy trăm loại bánh kẹp) của Florence A. Cowles (xuất bản ở Boston) bao gồm công thức làm bánh kẹp gọi là Tutti Frutti Sandwich với phần nhân làm từ kem đánh, quả chà là, nho khô, quả sung, quả óc chó và đường.
== Tham khảo == |
Brezel hay Pretzel (ở Bayern và Áo còn gọi là Breze, tiếng Bayern Brezn; ở Thụy Sĩ và Oberschwaben được gọi là Bretzel), là một loại bánh mì hình nút vòng xoắn đặc biệt phổ biến ở miền Nam nước Đức, Áo và Alsace. Nó được làm từ một dây bột nhồi xoắn lại. Tên nó bắt nguồn từ chữ Latinh Brachium có nghĩa "cánh tay", vì nó có hình dáng cánh tay khoanh lại.
Brezel bắt nguồn từ một từ vay mượn từ tiếng Latinh brachium trong thời phát triển của nền văn hóa tu viện Karolinger. nó là tên gọi một loại bánh dâng hiến. Dưới thời tiếng Đức Cổ nó được gọi là brezzila, bây giờ là Brezel. Một tên gọi ngắn tiếng Đức Cổ brezza dẫn tới tên gọi ngày nay ở Áo, Bayern Breze hay Brezn.
Các nhà làm bánh Bayern đã làm đơn lên EU để bảo vệ từ "bayerische Breze". Họ cho thấy sự khác biệt với "schwäbischen Brezel". Qua đó họ cho thấy cánh bánh Breze dày hơn của Brezel. Breze có ít chất béo hơn 1,5 tới 4) trong khi Brezel từ 4-8. Bánh Brezen không có cắt dọc ở giữa.
Có ít nhất hai phiên bản về nguồn gốc pretzel:
Phiên bản đầu tiên, theo cuốn The History of Science and Technology (Lịch sử Khoa học và Công nghệ), pretzel ra đời năm 610 sau công nguyên, do một tu sĩ người Ý sáng chế ra để làm phần thưởng cho các trẻ thuộc lời cầu nguyện. Ông gọi những que bột nhão đã nướng, gấp lại thành những cánh tay khoanh trước ngực là pretiola, nghĩa là "những phần thưởng nhỏ".
Phiên bản thứ hai, pretzel ra đời từ một tu viện ở miền nam nước Pháp.
Ngoài ra, bánh pretzel hình nút vòng có thể có nguồn gốc từ bánh mì nhẫn Hy Lạp. Loại bánh mì nhẫn Hy Lạp thì xuất phát từ bánh mì dùng phổ biến trong các tu viện.
Trong nhà thờ Giáo hội Công giáo Rôma, pretzel mang ý nghĩa tôn giáo cả về công thức và hình dạng. Các vòng thắt nút của pretzel có mục đích rất thực tế: để các thợ làm bánh có thể treo chúng lên các móc nằm dọc theo cây phơi bánh như trong bức họa The Baker của Job Berckheyde năm 1681.
Pretzel được các công dân Hà Lan di cư đến Pennsylvania giới thiệu ở vùng đất Bắc Mỹ vào thế kỷ 19. Đến thế kỷ 20, pretzel mềm rất phổ biến ở các khu vực như Philadelphia, Chicago, New York. Ở Philadelphia thậm chí còn có một bảo tàng cho loại bánh này mang tên "Pretzel Museum". Năm 2003, thống đốc bang Pennsylvania - Ed Rendell đã tuyên bố ngày 26 tháng 4 hàng năm là ngày Pretzel quốc gia (National Pretzel Day) để công nhận tầm quan trọng của bánh pretzel đối với lịch sử và kinh tế Hoa Kỳ. Từ đó, ngày 26 tháng 4 là ngày Pretzel quốc gia ở Hoa Kỳ.Google Doodle cũng vinh danh Pretzel vào ngày 21 tháng 9 năm 2019 nhân ngày bắt đầu Lễ hội tháng Mười.
Pretzel lớn nhất thế giới đã được nướng vào năm 2015 tại El Salvador, nặng hơn 780 kg với chiều dài khoảng 9 mét. |
Bánh nướng Alaska còn gọi là Bombe Alaska, omelette norvégienne, omelette surprise, hoặc omelette sibérienne tùy thuộc vào quốc gia, là món tráng miệng bao gồm kem và bánh phủ loại bánh trứng đường nâu. Món ăn này được làm bằng kem đặt trong đĩa bánh, lót những lát bánh bông lan hoặc bánh pudding Giáng Sinh, và phủ trên bề mặt là bánh trứng đường. Sau đó người ta đem toàn bộ món tráng miệng này đặt vào trong lò nướng cực nóng trong một thời gian ngắn, đủ lâu để làm chắc và caramel hóa bánh trứng đường nhưng không đủ lâu khiến cho kem bắt đầu tan chảy.
Cái tên "Bánh nướng Alaska" được cho là do vị bếp trưởng Antoine Alciatore làm việc tại nhà hàng Antoine's ở New Orleans, Louisiana nước Mỹ tự đặt ra vào năm 1867 nhằm vinh danh việc Hoa Kỳ mua lại Alaska từ tay Đế quốc Nga vào ngày 10 tháng 3 năm đó.Món này còn có tên gọi khác nữa là omelette à la norvégienne hoặc Trứng tráng kiểu Na Uy dùng để ám chỉ khí hậu lạnh giá của Na Uy. Thật vậy, trong Hội chợ Thế giới Paris năm 1867, đầu bếp của khách sạn Grand Hôtel đã quyết định tạo ra một món "tráng miệng khoa học" bằng cách sử dụng khám phá của Benjamin Thompson về tính dẫn nhiệt thấp của lòng trắng trứng. Thompson từng sinh sống ở xứ Bavaria vào lúc ông khám phá ra hiện tượng này, và vì người đầu bếp nghĩ rằng Bavaria thuộc Na Uy nên mới quyết định đặt tên món này là "Trứng tráng kiểu Na Uy".
Năm 1969, lò vi sóng được phát minh gần đây đã cho phép nhà điều trị dạ dày người Hungary Nicholas Kurti tạo ra món bánh nướng Alaska đảo ngược (còn gọi là "Frozen Florida")—lớp vỏ đông lạnh món bánh trứng đường chứa đầy rượu chưng cất nóng.Một biến thể có tên Bombe Alaska kêu gọi một ít rượu rum đen được rưới lên bánh nướng Alaska. Toàn bộ món tráng miệng đều nấu theo kỹ thuật đốt cồn trong lúc phục vụ thực khách.Flame on the iceberg là món tráng miệng phổ biến ở Hồng Kông tương tự như món bánh nướng Alaska . Thành phần nguyên liệu bao gồm kem lạnh, bánh bông lan, kem, xi-rô và rượu whisky. Nhiều thập kỷ trước, món này chỉ được phục vụ trong các khách sạn cao cấp, nhưng ngày nay trở nên phổ biến ở nhiều nhà hàng phương Tây và thậm chí ở một số cha chaan teng.
Ayto, John (2002). “Baked Alaska”. An A–Z of Food and Drink . Oxford: Oxford University Press.
Olver, Lynne (8 tháng 2 năm 2015). “Baked Alaska”. The Food Timeline. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2016. |
Bánh bơ giòn (tiếng Anh: Shortcake) thường dùng để chỉ một loại bánh ngọt hoặc bánh quy vụn theo nghĩa của người Mỹ. Bánh quy ngắn, đặc biệt với nhiều lớp với dâu tây và kem đánh bông, hiện được bán trên khắp thế giới, nhưng thường được coi là có nguồn gốc từ Bắc Mỹ.
Phần "ngắn" của tên "bánh bơ giòn" chỉ một thứ gì đó vụn hoặc giòn, nói chung là thông qua việc thêm chất béo như bơ hoặc mỡ lợn.Lần đầu tiên nhắc đến thuật ngữ shortcake là vào năm 1588, trong cuốn sách dạy nấu ăn tiếng Anh thứ hai được in, The Good Huswifes Handmaid for Cookerie in her Kitchen (London, 1588). Nó mô tả một chiếc bánh quy hoặc bánh quy theo nghĩa tiếng Anh, được làm bằng bột mì, kem, đường, lòng đỏ trứng và gia vị.Nó tương tự như bánh mì ngắn nhưng ít đặc hơn và giòn và khô hơn bánh mì ngắn.
Dâu tây lần đầu tiên được đưa vào công thức chế biến "Bánh dâu tây" xuất hiện trên tạp chí The Ohio Cultivator (Columbus) ngày 1 tháng 6 năm 1845 (trang 86). Công thức này đã được phổ biến bởi Eliza Leslie ở Philadelphia, Pennsylvania trong cuốn sách biên nhận của quý bà (1847). "Những chiếc bánh dâu tây" này được làm từ một loại bánh quy dày không men gồm bột mì, bơ, trứng và đường, được tách ra, phủ lớp dâu tây tươi và phủ một lớp đường cứng và lòng trắng trứng.Sự ra đời của muối nở và bột nở ở Bắc Mỹ vào những năm 1800 đã cách mạng hóa cách làm bánh và biến món bánh quy kiểu bánh quy trở nên khả thi. Vào những năm 1850, bánh nướng nhỏ có men là loại bánh ngọt phổ biến cho bánh dâu tây của Mỹ, và thuật ngữ bánh ngắn dâu tây được thành lập.Vào những năm 1860, kem đã được đổ lên bánh ngắn và dâu tây. Một số tháng 6 năm 1862 của Genesse Farmer (Rochester) đã mô tả một “Strawberry Shortcake” được tạo thành từ các lớp bánh quy soda, quả mọng tươi, đường và kem. Một công thức tương tự đã xuất hiện trong Sách nấu ăn Mỹ của Jennie June (1866) của Jane Cunningham Croly. Cuốn sách dạy nấu ăn đầu tiên được biết đến của một phụ nữ da đen ở Hoa Kỳ, Sách dạy nấu ăn trong nhà (1866) của Malinda Russell, cũng chứa một công thức.
Bánh bơ giòn thường được làm bằng bột mì, đường, bột nở hoặc soda, muối, bơ, sữa hoặc kem, và đôi khi là trứng. Các nguyên liệu khô được trộn đều, sau đó cắt bơ cho đến khi hỗn hợp giống bột ngô. Các thành phần lỏng sau đó được trộn chỉ cho đến khi được làm ẩm, tạo ra một khối bột nhào ngắn. Bột sau đó được thả từng thìa lên khay nướng, cán mỏng và cắt như bánh quy bột nở, hoặc đổ vào chảo bánh, tùy thuộc vào độ ướt của bột và sở thích của người làm bánh. Sau đó, nó được nướng ở nhiệt độ tương đối cao cho đến khi thiết lập.Bánh bơ giòn dâu tây là một món tráng miệng được biết đến rộng rãi được làm từ bánh ngắn. Dâu tây cắt lát được trộn với đường và để trong một giờ hoặc lâu hơn, cho đến khi dâu tây tiết ra rất nhiều nước ngọt. Những chiếc bánh nướng nhỏ được tách ra và phần đáy được bao phủ bởi một lớp dâu tây, nước trái cây và kem đánh bông , có hương vị đặc trưng của đường và vani . Phần trên được thay thế, và thêm dâu tây và kem đánh bông lên trên. Một số phiên bản tiện lợi của bánh bơ giòn hoàn toàn không được làm bằng bánh bơ giòn (tức là bánh quy), mà thay vào đó sử dụng đế bánh bông lan hoặc đôi khi là bánh muffin ngô.Mặc dù dâu tây là món tráng miệng ngắn được biết đến rộng rãi nhất, nhưng bánh bơ giòn đào, bánh bơ giòn việt quất, bánh bơ giòn sô cô la và các món tráng miệng tương tự khác đều được làm theo những đường tương tự. Trong một số công thức, bản thân bánh bơ giòn đã có hương vị; dừa là một trong những bổ sung.
Tại Hoa Kỳ, tiệc bánh bơ giòn dâu tây được tổ chức như lễ kỷ niệm vụ thu hoạch trái cây mùa hè. Truyền thống này vẫn được duy trì ở một số vùng của Hoa Kỳ vào ngày 14 tháng 6, là Ngày Bánh Bơ Giòn Dâu Tây.
Bánh bơ giòn dâu tây lớn nhất từng được làm ở thị trấn La Trinidad, Benguet, Philippines vào ngày 20 tháng 3 năm 2004. Nó nặng 21.213,40 lb (9622,23 kg).
== Tham khảo == |
Sinangag (phát âm tiếng Tagalog: [sinɐˈŋag]), còn được gọi là cơm chiên tỏi hoặc cơm tỏi, là một món cơm chiên của Philippines được nấu bằng cách xào cơm trước với tỏi. Cơm được sử dụng tốt nhất là cơm thừa, thường là cơm nấu còn sót lại từ ngày hôm trước, vì nó sẽ giúp cơm lên men nhẹ và cứng hơn. Món cơm được trang trí với tỏi nướng, thạch diêm, hạt tiêu và hành lá cắt nhỏ. Các hạt cơm ngon thì sẽ tơi xốp và không bị dính vào nhau.Món cơm này ít khi được ăn riêng, nhưng thường kết hợp với một món thịt "khô" như tocino (thịt xông khói), longganisa (xúc xích), tapa (thịt khô hoặc thịt đã được chế biến), Spam, hoặc daing (cá khô), kèm thêm trứng bác hoặc trứng chiên. Không giống như các loại cơm chiên khác, món cơm chiên này thường không sử dụng các nguyên liệu khác ngoài tỏi, để không làm mất đi hương vị của món ăn chính. Ở các vùng Visayas của Philippines, sinangag theo truyền thống được nêm với asín tibuok.Sinangag là món ăn phổ biến trong bữa sáng truyền thống của người Philippines và thường được chế biến bằng cơm thừa từ bữa tối hôm trước. Đôi khi, nó được nấu trong nước sốt và dầu còn sót lại từ các adobo kiểu Philippines, làm giảm chất thải thực phẩm. Chuẩn bị sinangag từ gạo mới nấu được coi là điều cấm kỵ trong văn hóa Philippines. Nó là một trong những thành phần của bữa sáng tapsilog và silog.
== Tham khảo == |
Cà muối là sản phẩm từ quả cà pháo (danh pháp khoa học: Solanum macrocarpon) hoặc cà bát cùng với một số nguyên liệu khác như ớt, tỏi, riềng...
Cà muối là sản phẩm ẩm thực đặc trưng của Việt Nam.
Cà muối có thể được chế biến theo phương pháp muối xổi hoặc muối chua.
== Tham khảo == |
Qatiq là một sản phẩm sữa lên men có nguồn gốc từ các quốc gia Turk. Nó được coi là một dạng sữa chua rắn hơn ayran.Để làm qatiq, sữa đun sôi được lên men trong 6–10 giờ ở nơi có nhiệt độ ấm áp. Đôi khi củ cải đỏ hoặc quả anh đào được sử dụng. Sản phẩm có thể được giữ ở nơi mát mẻ trong hai hoặc ba ngày. Nếu để lâu sẽ bị chua. Tuy nhiên, nó vẫn có thể được thêm vào súp có nhiều chất béo. Súp chalop được làm từ qatiq ở Uzbekistan.
Khi sữa chua được lọc trong túi vải, sản phẩm thu được gọi là suzma. Suzma khô, hay còn được gọi là kurut, thường được cuộn thành những quả bóng có kích thước bằng đá cẩm thạch.
Một số tên địa phương bao gồm: катык ở Nga, katık ở Thổ Nhĩ Kỳ, qatıq ở Azerbaijan, qatiq tại Uzbekistan, қатық ở Kazakhstan, gatyk ở Turkmenistan. Nó được gọi là къатыкъ thuộc về Người Tatar Krym và қатиқ thuộc về người Người Duy Ngô Nhĩ. Ở Bulgaria, катък là một loại phết có độ đặc của mayonnaise. |
Cơm nị một món ăn thường nhật lâu đời của người Chăm, cách chế biến chủ yếu là nấu gạo với sữa và gia vị.
1 kg gạo
50 gr bơ mặn
10 hột Bội (Yalanda)
5 nụ đinh hương
2 tai hồi
1 miếng quế (khoảng chừng ngón tay trõ)
3 ts muối
1 ts (vung) đường
1 ts bột ngọt
2 Ts cà ri dầu
1.5 lít nước ấm (thêm bớt nếu cần)
100 gr hột điều (cashew)
150 gr nước cốt dừa (hay 200 gr sữa Carnation)
Vò 1 kg gạo ngon chung với chút xíu muối rồi xả sạch. Đổ ra rổ lớn, lắc cho bớt nước, tải gạo đều theo thành rổ rồi để đó khoảng 1 tiếng rưỡi cho gạo ráo.
Bỏ 50 gr bơ mặn vào chảo, chảo bắt đầu nóng bỏ khoảng 10 hột Bội vô. 5 nụ Đinh Hương, đảo mấy cái cho thơm rồi thêm 2 tai Hồi và 1 miếng Quế (khoảng chừng ngón tay trỏ) bếp hơi nhỏ. Đảo thêm mấy cái cho dậy mùi rồi đổ gạo vào xào bằng lửa vừa, xào khoảng 5 phút (tùy theo lò mạnh yếu, bếp điện hay bếp gaz), thấy gạo hơi trong và săn hột là được.
Nêm 3 gạt cà phê muối, 1 cà phê vun đường, 1 cà phê bột ngọt, 2 súp cà ri dầu vô khoảng 1,3 lít hay 1,5 lít nước ấm, quậy đều cho tan. Lấy 100 gr hột điều loại rang sẵn, chẻ đôi, phủi muối, đem trộn đều với gạo. Bỏ gạo vô nồi rồi đổ phần nước đã nêm vô. Bắt đầu nấu.
Lúc cơm gần chín mới rưới đều 150 gr nước cốt dừa lên rồi đậy lại nấu tiếp cho tới lúc vừa chín cơm nhắc ra liền. Nước dừa không đổ vào từ đầu vì sẽ làm cơm dưới đáy nồi dễ bị cháy khét, mất ngon. |
Đại học Gelato là ngôi trường tọa lạc ở Anzola dell'Emilia nằm gần Bologna, Ý. Trường này được nhà sản xuất máy làm kem Carpigiani thành lập vào năm 2003, với mục đích dạy cho sinh viên trên khắp thế giới cách làm ra loại kem gelato.
Sau thành công từ khi phát minh ra cỗ máy làm gelato tự động đầu tiên của anh em nhà Carpigiani mang tên "Autogelatiera" vào năm 1944, Tập đoàn Carpigiani được thành lập vào năm 1946. Nhiều năm sau, họ quyết định khởi động giảng dạy nghệ thuật chế biến kem gelato. Do vậy, Đại học Carpigiani Gelato bắt đầu đi vào hoạt động năm 2003.
Cơ sở chính của Đại học Carpigiani Gelato nằm ở trung tâm nước Ý. Nhiều người từ khắp nơi trên thế giới đặt chân đến Đại học Gelato mang theo nhiều kỹ năng và kiến thức văn hóa khác nhau vào các lớp học và phòng thí nghiệm. Do tỷ lệ thành công và danh tiếng từ khắp nơi trên thế giới, trường đại học này cung cấp các khóa học tại 12 địa điểm khác nhau như "Dubai, São Paulo và Kuala Lumpur". Kế hoạch cung cấp khóa học cũng đang được tiến hành ở các quốc gia khác và cả thêm khóa học trực tuyến nữa. Do số sinh viên quốc tế ngày càng tăng tại trường đại học này, các lớp học đều được giảng dạy bằng "tiếng Ý, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức".
Đại học Gelato cung cấp hơn 500 khóa học, học phí khoảng €800 ($1,138) và kéo dài từ vài ngày đến năm tuần (tùy thuộc vào khóa học). Khóa học có sẵn dành cho người mới bắt đầu và chuyên gia. Nhiều khóa học khác nhau được giảng dạy tại Đại học Gelato cung cấp duy nhất phạm vi giáo dục; từ thao tác kỹ thuật trong công việc đến các viện hàn lâm khoa học thực phẩm. Ví dụ, sinh viên sẽ nghiên cứu các loại đường và thành phần khác nhau, do đó tạo ra công thức và sáng tạo mới. Sinh viên còn được học hỏi về những chủ đề cụ thể như đo lường hàm lượng "bơ-chất béo-đường". |
Subsets and Splits