title
stringlengths 1
228
| content
stringlengths 1
2k
| source
stringclasses 4
values |
---|---|---|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
1.200 người. Ước tính, cho đến hết năm 1941, số người bị Pháp bắt lên đến hàng vạn, trong đó có 158 án từ hình gồm nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Xứ uỳ Nam Kỳ, rồi các đồng chí lãnh đạo Đảng cấp tinh, huyện, xã; 180 án chung thân và 1.920 án khổ sai các loại, tổng cộng 2.258 người3. Người bị bắt không có chồ giam, Pháp xâu dây thép gai vào tay, vào cổ chân rồi giam vào một chỗ hoặc ném xuống sông. Các nhà tù. nhà giam chật ních, số người bị bệnh, nhất là bệnh hoại thư và số người bị chết trong tù ngày một tăng lên. Do có liên quan đến các tù nhân Khám lớn Sài Gòn nên các đồng chí uỷ viên Trung ương đang bị giam tại đây như Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và những cán bộ cao cấp như 1. Báo Dân hiệp, ngày 28/12/1940. Dần theo: Trần Giang, Nam Kỳ khởi nghĩa ngày 23 tháng mười một năm 1940, Sđd, tr. 290. 2. Dần theo: Trần Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 62. 3. Trần Giang, Nam Kỳ khởi nghĩa ngày 23 tháng mười một năm 1940, Sđd, tr. 292-293 Đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai (1910-1941) Nguồn: Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Lịch sử Đàng Cộng sản Việt Nam sơ thảo, tập 1, 1920 - 1954, Nxb. Sự thật, 1982, tr. 218. Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Thị Minh Khai... cũng bị Pháp xử từ. Một số nghĩa quân còn lại rút về các căn cứ Thủ Dầu Một, Đồng Tháp, u Minh ẩn náu, củng cố lực lượng, chờ thời cơ mới. Mặc dù chu trương hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, nhưng khi biết cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra và bị địch đàn áp, Trung ương Đảng đã tiến hành những hoạt động
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
ẩn náu, củng cố lực lượng, chờ thời cơ mới. Mặc dù chu trương hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, nhưng khi biết cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra và bị địch đàn áp, Trung ương Đảng đã tiến hành những hoạt động thiết thực biểu dương tinh thần đấu tranh của Đảng và nhân dân Nam Kỳ, đồng thời kêu gọi cả nước hưởng ứng, hồ trợ cuộc khởi nghĩa. Khởi nghĩa Nam Kỳ cuối cùng bị thất bại, nhưng sự kiện lịch sử này là minh chứng sinh động cho ý chí và quyết tâm của toàn thể nhân dân ta trong cuộc đấu ữanh giải phóng dân tộc. Cuộc khởi nghĩa cũng còn là sự kiểm nghiệm tính sáng tạo và đúng đắn của chủ trương giương cao ngọn cờ dân tộc của Đảng trong thời kỳ chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trên phạm vi cả nước. c. Cuộc nối dậy của binh lính Đô Lương (ngày 13/1/1941)' Khi ảnh hường cùa các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ còn đang vang dội thì một cuộc khời nghĩa khác mà lực lượng là binh lính trong quân đội Pháp đã diễn ra, đó là cuộc khởi nghĩa Đô Lương (hay còn gọi là cuộc binh biến Đô Lương). Cuộc khởi nghĩa Đô Lương nổ ra ngày 13/1/1941, không do Đảng Cộng sản Đông Dircmg trực tiếp lãnh đạo, nhimg lại chịu ảnh hirõmg của chù tnrorng khởi nghĩa vũ trang của Đảng. Theo tác giả Trần Huy Liệu, một số binh lính người Việt dưới quyền điều khiển cùa Đội trưởng Nguyễn Văn Cung đóng ờ đồn Chợ Rạng, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, sau khi được đọc truyền đơn kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã kiên quyết đứng dậy khởi nghĩa2. Cuộc khởi nghĩa được chuẩn bị nhanh chóng, 1.
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
đóng ờ đồn Chợ Rạng, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, sau khi được đọc truyền đơn kêu gọi của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã kiên quyết đứng dậy khởi nghĩa2. Cuộc khởi nghĩa được chuẩn bị nhanh chóng, 1. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử..., Sđd, tr. 324. 2. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chong Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 66. chi 5 ngày sau khi Đội Cung về nhậm chức tại đồn này. Ke hoạch khởi nghĩa được vạch ra chớp nhoáng và ừiển khai ngay nên tạo ra được yếu tố bất ngờ. Nghĩa quân định sẽ chiếm đồn Chợ Rạng, rồi kéo về Vinh chiếm trại khố xanh, đánh chiếm tinh lỵ, dùng Nghệ An làm căn cứ để mở rộng phạm vi hoạt động sang Hà Tĩnh và Thanh Hóa. Thực hiện kế hoạch này, tối ngày 13/1/1941, nghĩa quân từ chợ Rạng đi ôtô lên Đô Lương chiếm đồn binh, nhà bưu điện, sở thương chính, rồi tập hợp thêm lực lượng được tổng cộng 36 người dùng ba chiếc ô tô kéo về Vinh, về tới Vinh, nghĩa quân định chiếm đồn binh, giết giám binh Desjroux nhưng bị lộ. Cuộc khời nghĩa nhanh chóng bị thất bại. Tòa án quân sự của Pháp họp từ ngày 18 đến 20/2/1941, tại Hà Nội kết án từ hình 10 chiến sĩ, 12 án khổ sai chung thân, 24 án khổ sai tò 5 đến 20 năm. Đội Cung và các đồng chí của ông như Cai Vy (Lê Văn Vy), Lê Văn Chương, Nguyễn Văn Khiết, Nguyễn Bạt, Cao Văn Tuấn, Nguyễn Văn Ba, Võ Viết Thọt, Nguyễn Văn Khôi, Bùi Tinh và Huỳnh Văn Coi đã bị Pháp đưa về hành hình tại Chợ Rạng ngày 25/4/19411. về cuộc khởi nghĩa này, để biểu dương phong trào đấu
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta, Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sàn Đông Dương (tháng 5/1941) viết: “Ngày 13/1/1941, Đội Cung với 50 anh em binh lính Đô Lương ở Chợ Rạng nối dậy bạo động cướp đồn. Một tên quan một và hai vợ chồng anh kiếm lâm bị Tây giết, toán quân ấy liền kéo về lấy thành Vinh. Nhưng công việc chưa thành thì cả toán quân đểu bị bắt vào 14/1. Cuộc này do Đội Cung và 50 anh em binh lính tự động, không có Đảng chi huy''2. 1. Tiếng dân, số ra ngày 1/3/1941. Dần theo: Dương Trang Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sứ..., Sđd, tr. 325. 2. Dần theo: Dương Trung Quốc, Việt Nam nhũng sự kiện lịch sử..., Sđd, tr. 324. Cuộc khởi nghĩa bị thất bại nhanh chóng nhưng đã trở thành tấm gương về lòng quả cảm, bất khuất trước kẻ thù dân tộc của nhân dân ta. Tác giả Trần Huy Liệu viết: "Cuộc khởi nghĩa Đô Lương lại một lân nữa tỏ rõ sự khủng hoảng đến cao độ trong hàng ngũ quân đội Pháp và tinh thân khởi nghĩa đang sôi sục trong binh lính, cũng như trong các tang lớp nhân dân khác, tin theo tiếng gọi cùa Đảng Cộng sàn Đông Dương, chờ đợi ngày tong khởi nghĩa giải phóng dân tộc”'. Phong trào khởi nghĩa cuối năm 1940 đầu năm 1941 không thành công nhưng đã biểu dương tinh thần phản kháng của nhân dân ta đối với kè thù dân tộc. Mặt khác, những cuộc khởi nghĩa liên tiếp diễn ra trong phong trào đó cũng chứng tỏ thời cơ của một cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền đang dần dần bộc lộ và hứa hẹn chín muồi là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
tiếp diễn ra trong phong trào đó cũng chứng tỏ thời cơ của một cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền đang dần dần bộc lộ và hứa hẹn chín muồi là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đau bằng võ lực cùa các dân tộc ở một nước Đông Dương''2. Những kinh nghiệm xương máu được rút ra từ sự thất bại của những cuộc khởi nghĩa đó đã giúp Đảng Cộng sản Đông Dương hoàn chỉnh thêm đường lối chiến lược và sách lược cho cách mạng Việt Nam trong các kỳ hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần VII và VIII, với tinh thần đưa nhiệm vụ dân tộc lên trên hết, chuẩn bị lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, chọn thời cơ, tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa toàn quốc. 3. Hội nghị Trung ương lần thứ VII (tháng 11/1940) Tháng 9/1940, Nhật nhảy vào Đông Dương, Pháp- Nhật cùng đặt ách đô hộ lên nhân dân Đông Dương, nhiều tổ chức, đảng phái thân Nhật và thân Pháp thi nhau ra đời, phá hoại cách mạng. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc khỏi hai tên phát xít Pháp- Nhật trở nên] Trần Huy Liệu, Tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 67. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, 1940-1945, Sđd, tr. 109. khẩn thiết hom bao giờ hết. Cũng lúc đó, các cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp- Nhật của nhân dân ta đã nổ ra ở Bắc Sơn hoặc đang được chuẩn bị ráo riết ở Nam Kỳ báo hiệu một thời kỳ đấu tranh vũ trang, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa. Trước những diễn biến đó, Ban Chấp hành
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
được chuẩn bị ráo riết ở Nam Kỳ báo hiệu một thời kỳ đấu tranh vũ trang, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến tới tổng khởi nghĩa. Trước những diễn biến đó, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệu tập Hội nghị lần thứ VII từ ngày 6 đến ngày 9/11/1940 tại làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, với sự tham dự của các đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh. Sau khi phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị nêu rõ nguy cơ các dân tộc Đông Dương một cổ đôi tròng dưới ách Pháp- Nhật. Điều đặc biệt là Hội nghị đặt hẳn vấn đề khởi nghĩa vũ trang vào chương trình nghị sự. Hội nghị khẳng định: “Mộ/ cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đàng phải chuân bị để gánh lấy cái sứ mạng thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”'. Hội nghị khẳng định sự đúng đắn của việc chuyển hướng chiến lược, nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị tháng 11/1939. Khi chi rõ kẻ thù chù yếu lúc này là phát xít Pháp- Nhật, Hội nghị đã quyết định đổi Mặt trận Thống nhất phản đế Đông Dirơng thành Mặt trận Chống phát xít Pháp- Nhật ở Đông Dương, với thành phần được mở rộng hơn, trong đó "giai cấp vô sản liên lạc mật thiết với bần nông, liên minh với trung nông và tiểu tư sản thành thị, bắt tay tư sản bản xứ và địa chù phàn đế, liên hiệp với Hoa kiều kháng Nhật và những người Pháp
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
đó "giai cấp vô sản liên lạc mật thiết với bần nông, liên minh với trung nông và tiểu tư sản thành thị, bắt tay tư sản bản xứ và địa chù phàn đế, liên hiệp với Hoa kiều kháng Nhật và những người Pháp chong phát xít, chống đầu hàng và có những xu hướng dân chù, tán thành cho Đông Dương độc lập"2. Hội nghị 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, 1940-1945, Sđd, tr. 58. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, 1940-1945, Sđd, tr. 77. còn nhấn mạnh liên hiệp mặt trận phản đế Đông Dương với mặt trận kháng Nhật ở Trung Quốc. Điều đặc biệt đáng lưu ý là ở Hội nghị lần này, vấn đề khởi nghĩa vũ trang đã được đưa vào chương trình nghị sự của cách mạng Đông Dương trong hoàn cảnh mới. Hội nghị nhận định rằng, Đông Dương "chưa đúng trước tình thế trực tiếp cách mạng"', nhưng trong tình hình lúc đó, cuộc cách mạng có thể nổ ra bằng những cuộc khởi nghĩa địa phương ở những nơi có điều kiện, tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. về tổ chức lực lượng vũ trang, Hội nghị chỉ rõ sự cần thiết "phải lựa chọn người trong các đoàn thê mặt trận đê mở rộng các đội tự vệ"2. Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn "làm von đầu tiên cho khởi nghĩa vũ trang sau này"3; thành lập những tiểu tổ du kích vừa chiến đấu vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập căn cứ du kích lấy Bắc Sơn- Võ Nhai làm trung tâm do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo và giao cho Hoàng Văn Thụ tổ chức thực hiện; hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì điều kiện
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
mạng, tiến tới thành lập căn cứ du kích lấy Bắc Sơn- Võ Nhai làm trung tâm do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo và giao cho Hoàng Văn Thụ tổ chức thực hiện; hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vì điều kiện thắng lợi của cuộc khởi nghTa trong cả nước, cũng như ở Nam Kỳ đều chưa chín muồi. Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo, Hội nghị cử ra Ban Chấp hành trung ương lâm thời và phân công đồng chí Trường Chinh làm quyền Tống Bí thư, đồng thời quyết định nối liên lạc với
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ờ nước ngoài. Đường lối chiến lược cùa cách mạng Việt Nam còn tiếp tục được Đảng Cộng sản Đông Dương hoàn chỉnh qua Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII, tháng 5/1941. 1. Dảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Dàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 58. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 81. 3. Viện Lịch sử quân sự, Lịch sứ quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, tr. 46. Đồng chí Trường Chinh Nguồn: Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Lịch sứ Đảng Cộng sản Việt Nam sơ thảo, tập 1, 1920 - 1954, Nxb. Sự thật, 1982, tr. 338. Đồng chí Hoàng Văn Thụ Nguồn. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ưcmg, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam sơ thảo, tập 1, 1920 - 1954, Nxb. Sự thật, 1982, tr. 326. Đồng chí Phan Đăng Lưu Nguồn: Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Lịch sử Đàng Cộng sản Việt Nam sơ thào, tập 1, 1920 - 1954, Nxb. Sự thật, 1982, tr. 314. Đồng chí Hoàng Quốc Việt Nguồn: http://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng_Qu%E1%BB%91c Vi%EI%BB%77t. 4. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII (tháng 5/1941) a. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước Vào cuối năm 1938, khi cuộc chiến tranh đế quốc đang chờ bùng nổ, bằng sự nhạy bén tư duy chính trị của mình, Nguyễn Ái Quốc quyết định rời Liên Xô về Trung Quốc để tiện theo dõi tình hình cách mạng Việt Nam. Tại Trung Quốc, Người dừng lại hoạt động một thời gian ngắn ở Tây An và Diên An. Sau đó, theo một đom vị Bát Lộ
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
quyết định rời Liên Xô về Trung Quốc để tiện theo dõi tình hình cách mạng Việt Nam. Tại Trung Quốc, Người dừng lại hoạt động một thời gian ngắn ở Tây An và Diên An. Sau đó, theo một đom vị Bát Lộ quân, Nguyễn Ái Quốc đến Quế Lâm tìm cách bắt liên lạc với các đồng chí trong nước. Năm 1939, qua đường dây liên lạc, Người viết một số bài báo gừi về nước để đăng trên tờ báo công khai của Đảng là tờ Tiếng nói chúng ta (Notre Voix) và chăm chú theo dõi tình hình cách mạng Việt Nam. Rồi, khi chiến tranh thế giới chính thức nổ ra, thấm nhuần lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, Người thấy đây là một thời cơ thuận lợi để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc. Người quyết định trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Đầu nãm 1940, với bí danh là Hồ Quang, Trần Vương, Người đến Côn Minh, một địa điểm không xa biên giới Việt- Trung và bắt liên lạc với cơ sở của Đảng ờ đây là Chi bộ Vân Quý- một chi bộ đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập ở Vân Nam từ năm 1930 và Hải ngoại bộ do Phùng Chí Kiên phụ trách'. Tại Côn Minh, Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ, bàn bạc với Phùng Chí Kiên, Uỷ viên Trung ương Đảng, được Trung ương ủy nhiệm sang Trung Quốc đón Người từ tháng 9/1939 và sau đó là với Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp mới từ trong nước sang. Tháng 6/1940, được tin Pháp đầu hàng Đức, Nguyễn Ái Quốc triệu tập một cuộc họp tại Cơ quan ở ngoài nước của Đảng (còn gọi là Hải ngoại Bộ) ở Côn Minh để phân tích tình hình và chuẩn bị kế hoạch
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Tháng 6/1940, được tin Pháp đầu hàng Đức, Nguyễn Ái Quốc triệu tập một cuộc họp tại Cơ quan ở ngoài nước của Đảng (còn gọi là Hải ngoại Bộ) ở Côn Minh để phân tích tình hình và chuẩn bị kế hoạch hành động. Người nhận định: 1. Trần Hữu Đính, Lê Trung Dũng, Cách mạng tháng Tám 1945 -Những sự kiện, Sđd, tr. 76. "Việc Pháp mất nước là một cơ hội thuận lợi cho cách mạng Việt Nam", do đó, "Ta phải tìm mọi cách vê nước ngay đê tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng"'. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc đã bàn bạc với các đồng chí về kế hoạch thành lập khu căn cứ cách mạng ở Cao Bằng. Sau đỏ, Người đến Trùng Khánh để bàn bạc với Đảng Cộng sản Trung Quốc về việc phối hợp đấu tranh cách mạng giữa hai nước2. Từ Trùng Khánh, Nguyễn Ái Quốc trở về Quế Lâm, rồi đến Tĩnh Tây. Tại đây, Người chi đạo các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tổ chức ra "Việt Nam độc lập đồng minh hội, hài ngoại biện xứ”, mở các lớp huấn luyện cho cán bộ từ ừong nước sang. Tháng 12/1940, đồng chí Hoàng Văn Thụ thay mặt Trung ương Đảng tới Tĩnh Tây (Trung Quốc) báo cáo với Người về tình hình cách mạng trong nước. Người quyết định phải khẩn trương trở về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng và chù trương xây dựng căn cứ địa cho cách mạng Việt Nam. Cao Bằng chính là cứ điểm đầu tiên được Người lựa chọn để xây dựng thành căn cứ địa. Phải nói rằng sự lựa chọn sáng suốt này cùa Người đã trở thành tiền đề tối quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
để xây dựng thành căn cứ địa. Phải nói rằng sự lựa chọn sáng suốt này cùa Người đã trở thành tiền đề tối quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lê Ọuảng Ba vượt qua cột mốc 108 biên giới Việt- Trung trở về Tổ quốc sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Người đặt cơ quan lãnh đạo tại hang Cốc Bó, thuộc bản Pắc Bó, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng và tiến hành ngay công tác tuyên truyền, giáo dục cách mạng cũng như trực tiếp chi đạo công tác thí điểm thành lập Mặt trận Việt Minh ở Cao Bằng. Người mờ các lớp huấn luyện cán bộ cách mạng với các tài liệu do Người biên soạn mà sau đó được in thành tập sách "Con đường giải phóng". Đe khơi dậy 1. Trần Hữu Đính, Lẽ Trung Dũng, Cách mạng tháng Tám 1945 -Những sự kiện, Sđd, tr. 76. 2. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sứ..., Sđd, tr. 326. truyền thống yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất của nhân dân ta, Người soạn "Lịch sử Việt Nam" bằng thơ. Người còn dịch "Lịch sử Đảng Cộng sản (b) Liên Xô" để huấn luyện lý luận và thực hành cách mạng cho cán bộ. Người cũng biên soạn những tài liệu về chiến thuật du kích để đào tạo cán bộ chính trị và quân sự cho phong trào cách mạng. Đồng thời, Người quyết định ra một tờ báo lấy tên là Việt Nam độc lập (gọi tắt là Việt lập), có nội dung dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo, phù hợp với trình độ của mọi người để đoàn kết mọi người và dạy mọi người làm cách mạng, như Người mong muốn một cách nôm na
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
(gọi tắt là Việt lập), có nội dung dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo, phù hợp với trình độ của mọi người để đoàn kết mọi người và dạy mọi người làm cách mạng, như Người mong muốn một cách nôm na nhưng thật sâu sắc là: "Việt Nam độc lập" thoi kèn loa Kêu gọi dân ta trẻ lan già Đoàn két
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
vững bền như khối sắt Đe cùng nhau cứu nước Nam ta"' Việt Nam độc lập có 2 trang, in trên đá, khổ nhỏ, mỗi tháng 1 kỳ, mỗi kỳ khoảng 400 bàn2, số đầu tiên (101) phát hành vào ngày 1/8/1941 và cho đến ngày tổng khởi nghĩa tháng 8/1945, báo ra được 126 số, trong đó "đoàn kết" trở thành chủ đề thường xuyên của tờ báo. Các bài báo đã nêu một cách ngắn gọn, súc tích nội dung "đoàn kết" trong tất cả các tầng lớp nhân dân, từ công nhân, nông dân đến đồng bào các dân tộc thiểu số, phụ nữ, thanh niên, phụ lão, thiếu nhi. Cùng với sự mả rộng của căn cứ địa cách mạng, tờ báo mở rộng dần phạm vi ảnh hưởng, từ chỗ chi là báo của Tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng (từ số 1 đến sổ 33), từ số 34 (6/1942), Việt Nam độc lập trở thành báo của Liên tỉnh bộ Việt Minh Cao Bằng- Bắc Cạn, rồi từ tháng 1/1944 trờ đi đã trờ thành cơ quan ngôn luận của Liên tinh bộ ba tỉnh Cao- Bắc- Lạng3. Hay cũng có thể nói ngược lại, tờ báo đóng vai trò rất lớn trong việc vận động cách mạng, xây dựng và mở rộng căn cứ địa cho cách mạng, tập hợp dân chúng trong mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc. 1. HỒ Chí Minh toàn tập, tập 3, Sđd, tr. 200. 2, 3. Nguyễn Thành, Báo chí cách mạng Việt Nam..., Sđd, tr. 267-268. Nhờ những hoạt động đó của Người, phong trào cách mạng dần phát triển, mặt trận đoàn kết dân tộc được mở rộng, lực lượng vũ trang cách mạng từng bước trưởng thành. Giữa năm 1941, trước những diễn biến mau lẹ của tình hình, sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, với tư cách đại biểu Quốc tế Cộng sản, Người đã
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
lực lượng vũ trang cách mạng từng bước trưởng thành. Giữa năm 1941, trước những diễn biến mau lẹ của tình hình, sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương, với tư cách đại biểu Quốc tế Cộng sản, Người đã triệu tập Hội Nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII và thành lập ra Mặt trận Việt Minh, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng Việt Nam phát triển, tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. b. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5/1941) -Mặt trận Việt Minh Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, tại khu rừng Khuổi Nậm, bản Pắc Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Tham gia hội nghị là những cán bộ chủ chốt cùa Đảng như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt cùng một số đại biểu cùa Xứ ùy Bắc Kỳ và Trung Kỳ cùng đại biểu tổ chức Đàng hoạt động ở hải ngoại. Phân tích tình hình thế giới và xu thế của thời đại, Hội nghị nhận định Liên Xô nhất định sê thắng, phong trào cách mạng thế giới sê phát triển nhanh chóng, cách mạng nhiều nước sẽ thành công và một loạt nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra đời. Nghi quyết Hội nghị khẳng định: "Neu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lằn này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chù nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”'. Đảng luôn xem cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới nên đã đề ra nhiệm vụ phải tích cực ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc. 1. Đảng
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”'. Đảng luôn xem cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới nên đã đề ra nhiệm vụ phải tích cực ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 100. về tình hình trong nước, trên cơ sở phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, Hội nghị nêu rõ: ở nước ta, mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với phát xít Pháp- Nhật để giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu. Nghị quyết Hội nghị ghi: “Pháp -Nhật ngày nay không phải chi là kẻ thù cùa công nông mà là kẻ thù cùa cả dân tộc Đông Dương. Trong lúc này, khau hiệu của Đảng ta là trước hét phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp- Nhật”'. Mà “muốn là trong nhiệm vụ ấy, trước hét phải tập trung cho được lực lưcmg cách mạng toàn cõi Đông Dương, không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư bản bàn xứ, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhắt mặt trận thu góp toàn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, đánh tan giặc Pháp- Nhật xâm chiếm nước ta. Sự liên minh tất cả các lực lượng cùa tất cà các giai cắp, đảng phái, các nhóm cách mạng cứu nước, tôn giáo, các dân tộc kháng Nhật đó là cốt yếu cùa Đảng ta. Nói như thế không phải Đàng ta thủ tiêu vấn đề giai cấp đau tranh trong cuộc cách mạng Đông Dương. Không van đề giai cấp đau tranh vẫn tồn tại mãi. Nhưng trong giai
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Nhật đó là cốt yếu cùa Đảng ta. Nói như thế không phải Đàng ta thủ tiêu vấn đề giai cấp đau tranh trong cuộc cách mạng Đông Dương. Không van đề giai cấp đau tranh vẫn tồn tại mãi. Nhưng trong giai đoạn hiện nay, quốc gia trước hét, thì tat củ những yêu sách của bộ phận mà có lợi đền quyèn lợi cùa giai cấp, có hại đến quyền lợi của dân tộc thì phải gác lại để giải quyết sau. Trong lúc này, quyển lợi cùa bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử tồn vong cùa quốc gia, dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn để dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”2. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 112. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 112-113. Hội nghị xác định lại nhiệm vụ chiến lược cũng tức là tính chất của cuộc cách mạng Việt Nam lúc này là: “Cuộc cách mạng Đông Dưcmg hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyển, cuộc cách mạng giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa mà là cuộc cách mạng chì giải quyết một vấn để cần kíp là "dân tộc giải phóng". Vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”'. Đe thực hiện đường lối đó, nhiều biện pháp về tư tường, tổ chúc đã được đề ra để vận động cách mạng. Một vấn đề hết sức quan trọng được quyết định trong hội nghị lần này, khác
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
dân tộc giải phóng”'. Đe thực hiện đường lối đó, nhiều biện pháp về tư tường, tổ chúc đã được đề ra để vận động cách mạng. Một vấn đề hết sức quan trọng được quyết định trong hội nghị lần này, khác hẳn so với ở những hội nghị lần trước, đó chính là quyết định vấn đề xây dựng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Căn cứ vào hoàn cảnh mới của thế giới và Đông Dương, dựa
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
vào lý luận về quyền dân tộc tự quyết của Lênin, hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước của Liên bang Đông Dương, trao lại quyền tự chủ cho nhân dân mỗi nước trong việc giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc và quyền lựa chọn thể chế chính trị tương lai của dân tộc mình cho nhân dân mỗi nước. Sau khi đánh đuổi Pháp- Nhật, các dân tộc trên cõi Đông Dương sẽ tùy theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hoà dân chủ hay đứng riêng thành lập một quốc gia. Riêng đối với Việt Nam, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, chọn thể chế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho nước Việt Nam sau khi giành được độc lập và chọn lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm quốc kỳ cho riêng nước Việt Nam. Như vậy, tiếp tục tinh thần uốn nắn, bổ sung, điều chinh khuynh hướng đấu tranh giai cấp giáo điều "tả khuynh" trong Luận cương chính trị tháng 10/1930 cũng như tiếp tục chủ trương "thay đổi 1. Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 119. chính sách" cho cách mạng Việt Nam của các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương VI và VII được trình bày ở trên, Hội nghị Trung ương VIII dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dứt khoát thực hiện triệt để hơn việc chuyển hướng chiến lược cách mạng. Điều này thể hiện sự dũng cảm, đổi mới tư duy chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương, sự sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng chù nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, được Người trình bày
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
cảm, đổi mới tư duy chiến lược của Đảng Cộng sản Đông Dương, sự sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong việc vận dụng chù nghĩa Mác- Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, được Người trình bày trước hết trong Chánh cương, Sách lược vắn tắt cho Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930 và sau đó, trong Hội nghị Trung ương lần thứ VIII do Người trực tiếp chi đạo. Đe tiến tới giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Hội nghị xác định cụ thể các hình thức tổ chức, vận động, huấn luyện quần chúng và tranh đấu của Việt Minh. Các đoàn thể hợp thành Mặt trận Việt Minh là các tổ chức cứu quốc các loại, trong đó nòng cốt là công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ cứu quốc hội... về phương pháp vận động quần chúng, Hội nghị chủ trương “hạ thấp điều lệ xuống cho dễ thu phục hội viên và cho các đoàn thế phát triển hơn. Trong khi đi to chức một đoàn thế cứu quốc, điều cốt yếu là không phải những hội viên phải hiếu chù nghĩa cộng sản, mà điều cốt yếu hơn hết là họ có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đau cứu quốc Dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng để phân tích tình hình ừong nước và quốc tế, Hội nghị đưa ra những phán đoán táo bạo và hết sức quan trọng về thời cơ của một cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Đông Dương2. Đó chính là: kết cục của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai sẽ là sự thắng lợi tất yếu của phe Đồng minh và sự thất bại không tránh khỏi của phát xít Nhật và phe Trục. Trên cơ sở nhận thức rằng: ''Cuộc cách mạng ở Đông
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
của cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai sẽ là sự thắng lợi tất yếu của phe Đồng minh và sự thất bại không tránh khỏi của phát xít Nhật và phe Trục. Trên cơ sở nhận thức rằng: ''Cuộc cách mạng ở Đông Dương phải két liễu 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 124-125. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 129. bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang...” ,Hội nghị quyết định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghTa vũ trang giành chính quyền và coi đây là nhiệm vụ trung tâm cùa Đàng, của nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện tại. Đe đưa cuộc khởi nghĩa đó đến thắng lợi, Hội nghị chỉ ra việc cần phải phát triển lực lượng cách mạng và hình thức tổ chức thích hợp, tiến hành xây dựng căn cứ địa cách mạng và trong hoàn cảnh cho phép có thể đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên phạm vi cả nước. Nghị quyết hội nghị ghi: “với lực lượng săn có ta có thề lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong tùng địa phương, cũng có thể giành sự thang lợi mà mở đường cho một cuộc tống khởi nghĩa to lớn"1. Điều này tránh diễn ra những cuộc khởi nghĩa non, tổn hại đến lực lượng cách mạng, đồng thời cũng tránh tinh trạng ỳ nại, thiếu chủ động, bỏ 15 thời cơ giành chính quyền. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong hoàn cảnh mới mà nhiệm vụ ngày càng nặng nề, Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo cùa Đàng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. Hội nghị chính
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
trong hoàn cảnh mới mà nhiệm vụ ngày càng nặng nề, Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo cùa Đàng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. Hội nghị chính thức bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư và một Ban thường vụ Trung ương gồm các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt3. Ngày 19/5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII bế mạc. Sau Hội nghị, Hổ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết xung quanh Mặt trận Việt Minh đánh Pháp, đuổi Nhật. Nhắc lại tinh thần Hội nghị VIII, Người viết: “Trong lúc này, quyền lợi dân tộc giải phóng cao hcm hết thảy. Chúng ta phải đoàn két lại đánh đo bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giong nòi ra khỏi nước sâu lửa nóng”4. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 129. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ván kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, ữ. 131-132. 3. Dần theo: Viện Lịch sừ Đảng, Cách mạng tháng Tám..., Sđd, tr. 45. 4. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, Sđd, tr. 198 và Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 167. Mặt trận Việt Minh Một trong những nội dung quan trọng của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII là vấn đề thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất chống đế quốc. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, ngày 19/5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tát là Việt Minh, thay cho Mặt trận Dân tộc
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
nghị của Nguyễn Ái Quốc, ngày 19/5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh, gọi tát là Việt Minh, thay cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương. Mục đích của việc thành lập Việt Minh được nêu rõ trong Chương trình Việt Minh là: Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, các đoàn thế cách mạng, các dân tộc bị áp bức đoàn két lại, chiến đấu đánh đố chù nghĩa đế quốc phát xít Nhật, giành quyền độc lập cho nước Việt Nam... lập
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
chính phù nhân dân cùa nước Việt Nam dân chù cộng hoà, do Quốc dân Đại hội cừ lên, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc cờ...”'. Việt Minh như tên gọi của nó là một mặt trận riêng của nước Việt Nam, mang tính dân tộc đậm nét, nhưng trong Chương trình của mình, Việt Minh khẳng định là sẽ "hết sức giúp đỡ Ai Lao Độc lập Đồng minh và Cao Miên Độc lập Đồng minh đế cùng thành lập Đông Dương Độc lập Đồng minh hay là mặt trận thong nhất dân tộc phản đc toàn Dông Duxmg"2. Như vậy, vừa đảm bảo quyền dân tộc tự quyết, vừa đảm bảo tính quốc tế của phong trào cộng sản. Mặt trận Việt Minh tự tuyên bố "là một đoàn thể cách mạng chân chính có chù trương cứu nước đúng đắn và lập trường chính trị rõ ràng'ú. Theo tinh thần của Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, Việt Minh là một tổ chức quần chúng hết sức rộng rãi tập hợp các 1. Đảng Cộng sàn Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 149-150. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 149. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 457 (Lời tựa Tuyên ngôn Việt Nam độc lập đồng minh). thành viên là các tổ chức quần chúng yêu nước, chống đế quốc, mang tên là các Cứu quốc hội mà "điều cốt yếu không phải là hội viên phải hiêu chù nghĩa cộng sản, mà cốt yếu hơn hêt là họ có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đau cứu nước...”', bao gồm: Công nhân cứu quốc hội; Nông dân cứu quốc hội; Quân nhân cứu quốc hội; Văn hóa cứu quốc hội; Phụ nữ cứu quốc hội; Thanh niên cứu quốc hội; Phật giáo cứu quốc hội;
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
tranh đau cứu nước...”', bao gồm: Công nhân cứu quốc hội; Nông dân cứu quốc hội; Quân nhân cứu quốc hội; Văn hóa cứu quốc hội; Phụ nữ cứu quốc hội; Thanh niên cứu quốc hội; Phật giáo cứu quốc hội; Việt kiều cứu quốc hội... Bản Tuyên ngôn của Việt Minh được công bố vào ngày 25/10/1941 nói rõ hơn ràng: "Việt Minh chù trương liên hiệp hết thảy các giới đong bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mini cuộc dân tộc giải phóng và sinh tôn.... Coi quyền lợi cùa dân tộc cao hom hết thày, Việt Minh sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chù nghĩa quốc tế hay quốc gia, miên thành thực đánh đuôi Nhật, Pháp để dựng lên nước Việt Nam tự do và độc lập''2. Nội dung Chương trình cứu nước 44 điểm của Việt Minh là hệ thông các chính sách căn bản về đối nội và đối ngoại. về chính trị: thi hành phổ thông đầu phiếu; ban bố các quyền tự do dân chủ; thành lập đội quân cách mạng, trừng trị bọn phản quốc, giữ vững chính quyền cách mạng; bình đẳng giới và thực hiện quyền dân tộc tự quyết. về ngoại giao: hủy bỏ những hiệp ước Pháp ký với bất cứ nước nào; ký kết những hiệp ước giao hảo và bình đẳng với mọi nước về các phương diện; chủ trương các dân tộc bình đẳng; hết sức giữ gìn hòa bình; kiên quyết chống những sự xâm phạm đến quyền tự do độc lập của nước Việt Nam; liên hiệp với tất cả nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới. 1. Trung ương Hội nghị lần thứ tám Đảng Cộng sán Đông
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
kiên quyết chống những sự xâm phạm đến quyền tự do độc lập của nước Việt Nam; liên hiệp với tất cả nhân dân các dân tộc bị áp bức trên thế giới. 1. Trung ương Hội nghị lần thứ tám Đảng Cộng sán Đông Dương. Đảng Cộng sàn Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 125. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 461. về kinh tế: bò thuế thân và các thứ thuế do đế quốc đặt ra. Đặt thuế mới nhẹ và công bằng. Quốc hữu hóa các ngân hàng của đế quốc. Mở mang các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông vận tải. Chia lại công điền, phát triển thủy lợi, khai hoang, mở mang giao thông vận tải. về văn hóa- giáo dục: bài trừ văn hóa phản động, phát triển nền văn hóa dân tộc; mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đè dạy trong các trường học của mình; phổ cập tiểu học, thành lập các trường chuyên môn, huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật đào tạo nhân tài. Khuyến khích và giúp đỡ trí thức phát triển tài năng. Lập các cơ sở hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao. về xã hội: thi hành luật lao động; lập các nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão; xây dựng các nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thu viện để nâng cao trình độ trí dục cho nhân dân. Chương trình Việt Minh còn công bố những điểm cơ bản trong chính sách đối với tất cả các tầng lớp nhân dân: công nhân, nông dân, binh lính, học sinh, phụ nữ, thương nhân và các nhà kinh doanh, viên chức, người già, người tàn tật, nhi đồng, Hoa kiều... Từ đó có thể nhận thấy rằng, Mặt trận Việt Minh ra đời
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
công nhân, nông dân, binh lính, học sinh, phụ nữ, thương nhân và các nhà kinh doanh, viên chức, người già, người tàn tật, nhi đồng, Hoa kiều... Từ đó có thể nhận thấy rằng, Mặt trận Việt Minh ra đời là để hướng tới mục tiêu thỏa mãn mong ước của mọi người dân là: "1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập 2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do"'. Sau khi Mặt trận Việt Minh ra đời, ngày 6/6/1941, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết "Kính cáo đồng bào" để nói rõ hơn về Mặt trận Việt Minh và kêu gọi đồng bào ủng hộ Mặt trận này2. Rồi, để làm tốt công tác tuyên truyền, vận động cách mạng, Tổng bộ Việt Minh quyết định thành lập cơ quan ngôn luận lấy tên là Cứu quốc 1. “Việt Nam độc lập đồng minh. II”. Chương trình. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, ừ. 470. 2. Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 166, 168. do Ban tuyên truyền cổ động Trung ương phụ trách (sau này do Xứ ùy Bắc Kỳ chi đạo) và ngày 25/1/1942, Báo Cứu quốc đã ra số đầu tiên trong điều kiện bí mật. Các xứ bộ Việt Minh, tỉnh bộ Việt Minh, các tổ chức cứu quốc, theo gương tờ Việt lập của Việt Minh Cao Bằng ở trên cũng đều ra báo riêng làm cơ quan hướng dẫn việc thực hiện chủ trương, đường lối của Việt Minh ở từng địa phương, từng đơn vị cụ thể1. Nhờ vậy, Việt Minh đã phát triển một cách nhanh chóng, tạo thuận lợi cho sự phát triển cùa phong trào chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trên phạm vi toàn quốc. Tóm lại, với những tư tưởng và đường lối trên đây, quá trình
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
đã phát triển một cách nhanh chóng, tạo thuận lợi cho sự phát triển cùa phong trào chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trên phạm vi toàn quốc. Tóm lại, với những tư tưởng và đường lối trên đây, quá trình chuyển hướng chiến lược và sách lược (tóc là "thay đổi chính sách" theo cách gọi của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương VII) của cách mạng Việt Nam từ khi Chiến tranh thế giới thứ
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
hai chuẩn bị nổ ra, thông qua các kỳ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương VI (11/1939), VII (11/1940) và VIII (5/1941) đến đây coi như đã hoàn thành. Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng, xây dựng cân cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị thời cơ đi từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, xây dựng một nhà nước dân chủ cộng hòa đã trở thành ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này. II. PHONG TRÀO ĐẨU TRANH VÀ XÂY DựNG Lực LƯỢNG TỪ THÁNG 5/1941 ĐÉN NGÀY 9/3/1945 1. Xây dựng căn cứ cách mạng Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII, đúng như dự đoán, tình hình đã diễn biến mau lẹ. Ngày 22/6/1941, Đức 1. Dương Trung Quốc, Việt Nam nhũng sự kiện lịch sử..., Sđd, tr. 35. xâm lược Liên Xô. Ngày 8/12/1941, Nhật tấn công Anh, Mỹ, cuộc chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Cuộc chiến tranh giữa các nước đế quốc chuyển thành cuộc chiến giữa hai phe: phe trục phát xít Đức- Ý- Nhật và phe dân chủ, đứng đầu là Liên Xô, Anh, Mỹ và Pháp De Gaulle cùng với phong trào chống phát xít ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng gấp rút chi đạo triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII.
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
De Gaulle cùng với phong trào chống phát xít ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam. Trước tình hình đó, Đảng gấp rút chi đạo triển khai Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII. Tháng 12/1941, Trung ương ra chỉ thị về công tác tổ chức, tăng cường kiện toàn các tổ chức Đảng và phát triển tổ chức quần chúng bằng nhiều hình thức thích hợp. Cũng trong tháng 12/1941, trong "Thông cáo Cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng", Trung ương chi thị cho các địa phương phải vận động nhân dân đấu tranh chống địch đòi những quyền lợi hằng ngày, củng cố và mở rộng các đội tự vệ cứu quốc, thành lập các tiểu tổ đu kích tiến lên thành lập đội du kích chính thức, mở rộng cơ sở quần chúng và lực lượng vũ trang ở các khu du kích tiến lên phát động khởi nghĩa giành chính quyền. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII và những Chỉ thị này, các cơ sờ Đảng được mờ rộng, các tổ chức cứu quốc của quần chúng phát triển ở cả nông thôn và thành thị, việc xây dựng các căn cứ địa và lực lượng vũ trang quần chúng được đẩy mạnh. a. Khu căn cử Bắc Sơn- Vũ Nhai và việc thành lập đội cứu quốc quân Sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, ngày 13, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VII tháng 11/1940 quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, lập những đội du kích dùng hình thức vũ trang công tác, khi cần thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ sứ mệnh tài sản của nhân dân, phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thiết lập căn cứ địa du kích, lấy vùng Bắc
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
du kích dùng hình thức vũ trang công tác, khi cần thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ sứ mệnh tài sản của nhân dân, phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thiết lập căn cứ địa du kích, lấy vùng Bắc Sơn- Vũ Nhai làm trung tâm do Trung ương chi đạo và đồng chí Hoàng Văn Thụ phụ trách. Việc đào tạo cán bộ quân sự cho Đội du kích Bắc Sơn đã được tiến hành khẩn trương bàng hai khóa huấn luyện ở Đức Thắng (Bắc Giang) do Lương Văn Tri (tốt nghiệp trường Hoàng Phố) phụ trách1. Một số cán bộ từ đồng bằng cũng được tăng cường cho Bắc Sơn. Trung ương cử Trần Đăng Ninh và Hoàng Văn Thụ trực tiếp chỉ huy việc xây dựng khu căn cứ địa Bắc Sơn. Ngày 14/2/1941, Đội du kích Bắc Sơn với 32 chiến sĩ chính thức được thành lập tại khu rừng Khuổi Nọi, xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn, tỉnh Lạng Sơn do Chu Văn Tấn và Lương Văn Tri chỉ huy2. Trong buổi lễ, đồng chí Hoàng Văn Thụ- ủy viên Trung ương Đảng đã trao cho toàn đội lá cờ đỏ sao vàng và thông báo chủ trương của Trung ương phát triển du kích Băc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn- Võ Nhai3. Sau Hội nghị Trung ương VIII, đội du kích Bắc Sơn được đổi thành Trung đội cứu quốc quân thứ nhất, có nhiệm vụ vừa huấn luyện vừa bảo vệ căn cứ địa và phát triển lực lượng. Điên cuồng trước sự phát triển cùa phong trào, thực dân Pháp tăng cường càn quét, khủng bố, lùng bắt các đồng chí Trung ương từ Pắc Bó về xuôi và tiêu diệt quân du kích Bắc Sơn. Tháng 6/1941, chúng điều động một lực lượng lớn binh lính thực hiện
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
thực dân Pháp tăng cường càn quét, khủng bố, lùng bắt các đồng chí Trung ương từ Pắc Bó về xuôi và tiêu diệt quân du kích Bắc Sơn. Tháng 6/1941, chúng điều động một lực lượng lớn binh lính thực hiện vây ráp khu vực Bắc Sơn- Võ Nhai, từ Thái Nguyên lên Đình Cả, từ Lạng Sơn xuống Bình Gia, Bắc Sơn và từ Bắc Giang vào Hữu Lũng, Yên Thế4. Trước tình hỉnh đó, để duy trì lực lượng vũ trang làm hạt nhân nòng cốt sau này, đồng chí Phùng Chí Kiên- người được Trung ương ủy nhiệm phụ trách căn cứ từ tháng 6/1941 đã cùng toàn đội quyết định chi đế lại một bộ phận ở Tràng Xá, số đông còn lại tìm đường rút lui qua biên giới Việt- Trung. Ngày 27/7/1941, quân du kích được chia thành hai bộ phận rút lên Cao Bằng và Nam Quan (Lạng Sơn). Trên đường rút lui, số du 1. Trần Huy Liệu, Lịch sữ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, 1961, tr. 86. 2. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sú:.., Sđd, tr. 327. 3. Trần Hữu Đính, Lê Trung Dũng, Cách mạng tháng Tám 1945 -Những sự kiện, Sđd, tr. 83. 4. Trần Huy Liệu, Tám mirơi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 87. kích do Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri chi huy bị địch chặn đánh và bị thiệt hại nghiêm trọng. Chi huy trưởng Phùng Chí Kiên bị hy sinh. Chính trị viên Lương Văn Tri bị bắt và sau đó hy sinh tại Cao Bằng. Nhóm thứ hai do Hoàng Văn Thái, Khai Lạc chi huy đã rút sang Trung Quốc an toàn1. Bộ phận bám trụ tại địa bàn Tràng Xá do đồng chí Chu Văn Tấn chi huy, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng đã kiên trì tiến hành
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Văn Thái, Khai Lạc chi huy đã rút sang Trung Quốc an toàn1. Bộ phận bám trụ tại địa bàn Tràng Xá do đồng chí Chu Văn Tấn chi huy, mặc dù gặp nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng đã kiên trì tiến hành công tác vũ trang tuyên truyền, thực hiện du kích chiến, duy trì lực lượng, đồng thời gây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân. Trên cơ sở đó, ngày
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
15/9/1941, Trung đội du kích thứ hai gồm 47 chiến sĩ được thành lập tại rừng Khuôn Méng, thôn Ngọc Mỹ, Tràng Xá (Thái Nguyên)2. Từ sau Hội nghị cán bộ của Uỷ ban quân chính Bắc Sơn- Võ Nhai vào tháng 10/1941, đơn vị này đổi tên là Trung đội Cứu quốc quân thứ hai, với nhiệm vụ chính là "thực hiện việc giải phóng do Mặt trận Việt Minh đề ra"3. Mặc dù được trang bị thô sơ nhưng ngay sau khi thành lập, trung đội này đã trờ thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào quần chúng, bảo vệ và mở rộng khu căn cứ, hỗ trợ tích cực cho những cuộc đấu tranh chính trị cũng như làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ở các địa phương. Ke từ thời điểm này, Cứu quốc quân không ngừng lớn mạnh về mọi mặt. Các chiến sĩ được học tập cả về chính trị và quân sự, đường lối của Đảng, Chương trình, Điều lệ của Việt Minh, Mười điều kỷ luật, chiến thuật du kích và kỹ thuật chiến đấu. Tháng 10/1941, nhằm tăng cường chỉ đạo cho phong trào Bắc Sơn- Võ Nhai, Trung ương Đảng cử thêm một số cán bộ lên khu căn cứ và quyết định thành lập Uỷ ban quân sự chính trị tại đây. Với lực lượng ngày một đông hơn, có tổ chức chặt chẽ hơn, cứu quốc quân tiến hành chống sự khủng bố của địch và xây dựng lực lượng trên các mặt trận chính trị, quân sự và binh vận với phương châm: quân sự và chính trị đi đôi; mờ rộng khu du kích nhằm mục đích vận động chính trị, duy tri cơ sở quần chúng. Với phương 1. Trần Huy Liệu, Tám mươi năm chổng Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, ừ. 87. 2, 3. Trần Huy Liệu, Tám mươi năm chong Pháp,
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
du kích nhằm mục đích vận động chính trị, duy tri cơ sở quần chúng. Với phương 1. Trần Huy Liệu, Tám mươi năm chổng Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, ừ. 87. 2, 3. Trần Huy Liệu, Tám mươi năm chong Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 88. châm hoạt động đúng đắn đó cùng với những phương pháp tuyên truyền hiệu quả "từ gia đình tới gia đình"\ cũng như bằng phương tiện báo chí (tờ báo Bắc Sơn viết bằng chữ quốc ngừ, chữ Tày, chữ Hán), chỉ ừong một thời gian ngắn, cho đến cuối năm 1941, đầu 1942, địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân đã được mở rộng ra các hướng: Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên); Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang). Lối đánh du kích của Cứu quốc quân đã làm tiêu hao một bộ phận lực lượng của địch, điển hình như các trận Khuôn Rã (5/10/1941), Lâu Hạ (17/1/1942), Suối Bùn (11/1/1942), đồn lính lê dương ở Tràng Xá (đêm 31/12/1941)... Công tác binh vận cũng thu được nhiều kết quả, Cứu quốc quân không chỉ vận động được nhiều binh lính là người Việt mà ngay cả lính Âu- Phi cũng chạy sang hàng ngũ cách mạng. Lực lượng cứu quốc quân không ngừng phát triển. Tuy vậy, so sánh lực lượng giữa địch và Cứu quốc quân vào lúc này còn quá chênh lệch, hơn nữa, địch tăng cường biện pháp trả thù thâm độc cũng như điều kiện để bảo tồn lực lượng du kích quá khó khăn, đường liên lạc giữa căn cứ Võ Nhai và Trung ương bị phong tỏa, vì vậy, ngày 23/1/1942, Uỷ ban quân chính Bắc Sơn- Võ Nhai quyết định "tạm đình cuộc tấn công bằng quân sự, tăng cường cuộc tấn công về chính trị"2 và cuối cùng, ngày
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Nhai và Trung ương bị phong tỏa, vì vậy, ngày 23/1/1942, Uỷ ban quân chính Bắc Sơn- Võ Nhai quyết định "tạm đình cuộc tấn công bằng quân sự, tăng cường cuộc tấn công về chính trị"2 và cuối cùng, ngày 12/3/1942 toàn thể 42 chiến sỹ Trung đội Cứu quốc quân thứ hai đã lên đường rút sang Trung Quốc an toàn. Một bộ phận còn lại ở vùng Đồng Hỷ phân tán vào dân để tiép tục công tác vũ trang tuyên truyền, gây dựng cơ sở quần chúng ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Tám tháng (từ tháng 7/1941 đến tháng 2/1942) hoạt động chống địch khủng bố, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn- Võ Nhai, "Cứu quốc quân đã nêu một tấm gương sáng chói về tinh than chiến đau kiên cường, bất khuất, tinh than tự lực cánh sinh, vượt khó khăn gian 1. Viện Lịch sử quân sự, Lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr. 63. 2. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chong Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 94. khổ cùa một đội quân cách mạng”'. Không những giữ gìn, phát triển được lực lượng, tiêu hao sinh lực địch, Cứu quốc quân còn bảo vệ, giữ vững cơ sở cách mạng, mở rộng căn cứ địa, duy trì được tinh thần khởi nghĩa Bắc Sơn và phong trào cách mạng ờ khu căn cứ Bắc Sơn- Võ Nhai cổ vũ phong trào toàn quốc, tạo chỗ dựa để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng ở các tinh Việt Bắc trong thời kỳ mới. b. Căn cứ địa Cao Bằng- Bắc Cạn- Lạng Sơn Tháng 6/1940, khi vừa về tới biên giới Việt- Trung, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chăm lo ngay tới việc xây dựng chỗ đứng chân cho cách mạng Việt Nam. Nơi được
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
b. Căn cứ địa Cao Bằng- Bắc Cạn- Lạng Sơn Tháng 6/1940, khi vừa về tới biên giới Việt- Trung, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chăm lo ngay tới việc xây dựng chỗ đứng chân cho cách mạng Việt Nam. Nơi được Người lựa chọn đầu tiên chính là Cao Bằng, bời vì Người cho rằng: "Căn cứ địa Cao Bằng sẽ mở ra triển vọng lớn cho cách mạng ta. Cao Bằng có phong trào tốt từ trước, lại kề sát biên giới, lay đó làm cơ sở liên lạc quốc té rắt thuận lợi. Nhưng từ Cao Bằng còn phải phát triển ve Thái Nguyên và thông xuống nữa mới có thể tiếp xúc được với Thái Nguyên và toàn quốc thì khỉ phát động đau tranh vũ trang, lúc thuận lợi có thể tấn công, lúc khó khăn có thể giữ"2. Rồi do được Người trực tiếp chi đạo, mặc dù bị địch khủng bố dữ dội, phong trào cách mạng ờ Cao Bằng vẫn ngày càng phát triển và vững chắc. Sau khoảng 3 tháng huấn luyện và vận động quần chúng tích cực ở ba châu Hòa An, Hà Quảng và Nguyên Binh, đến cuối tháng 4/1941, các hội cứu quốc đã phát triển tưưng đối tốt, thu hút được khoảng 2.000 hội viên gồm đủ các tầng lớp, lứa tuổi, thuộc đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Hmông, Kinh3. Sau Hội nghị Trung ương VIII, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc, Cao Bằng đã trở thành một trong những tinh đi đầu trong 1. Viện Lịch sử quân sự, Lịch sứ quân đội nhân dân Việt Nam, tập 1, Sđd, tr. 66. 2. Võ Nguyên Giáp, Từ nhân dân mà ra, Nxb. Quân đội, Hà Nội, 1969, tr. 33. 3. Viện Lịch sử Đàng, Lịch sử cách mạng tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 37. cuộc vận động giải
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
2. Võ Nguyên Giáp, Từ nhân dân mà ra, Nxb. Quân đội, Hà Nội, 1969, tr. 33. 3. Viện Lịch sử Đàng, Lịch sử cách mạng tháng Tám 1945, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 37. cuộc vận động giải phóng dân tộc, nơi thí điểm đầu tiên của Mặt trận
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Việt Minh, số cán bộ được Nguyễn Ái Quốc huấn luyện ờ Quảng Tây về nước, trờ thành lực lượng nòng cốt của phong trào. Nhờ công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nên đến cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã xuất hiện nhiều xã "hoàn toàn" của Việt Minh. Đen đầu năm 1942, "ba châu trong chín châu của Cao Bằng đã hoàn toàn nằm trong các xã, tống của Việt Minh"'. Phần lớn quần chúng nhân dân trong các xã, tổng của địa phương đều tham gia vào các hội cứu quốc. Trong các xã "hoàn toàn", Ban Việt Minh xã làm chức năng chính quyền cơ sở. Trong các tổng và châu "hoàn toàn", các Ban Việt Minh đều do bầu cử dân chủ từ dưới lên. Tờ Việt Nam độc lập vừa tuyên truyền giải thích đường lối chính trị, vừa chi đạo công tác, được phổ biến trong các thôn, xóm. Các hội cứu quốc được như: Nông dân cứu quốc hội; Phụ nữ cứu quốc hội; Thanh niên cứu quốc hội; Phụ lão cứu quốc hội; Nhi đồng cứu vong hội... nhanh chóng được thành lập và phát triển một cách rầm rộ, đầu tiên là ở vùng các dân tộc Tày, Nùng, Thổ, Kinh cư trú, dần dần được mờ rộng tới địa bàn các dân tộc ít người như Dao, Hmông. Sự tham gia tích cực của đồng bào các dân tộc vào phong trào cứu quốc không những góp phần đẩy mạnh tiến trình vận động cách mạng tại địa phương, cùng cố khối đoàn kết toàn dân tộc mà còn gây ảnh hưởng ten cư dân của nhiều nơi khác trong cả nước. Cùng với việc mở rộng phong trào Việt Minh, theo phương châm do Nguyễn Ái Quốc đưa ra: Việt Minh phát triển tới đâu là phát triển tự vệ tới đó, nên ở những nơi có phong trào
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
nơi khác trong cả nước. Cùng với việc mở rộng phong trào Việt Minh, theo phương châm do Nguyễn Ái Quốc đưa ra: Việt Minh phát triển tới đâu là phát triển tự vệ tới đó, nên ở những nơi có phong trào Việt Minh đều đã tổ chức được các đội tự vệ chiến đấu. Trên cơ sở các tổ chức cứu quốc và lực lượng tự vệ cứu quốc, tháng 10/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã ra chi thị thành lập Đội du kích Pắc Bó- đội du kích thoát ly đầu tiên ở Cao Bằng, gồm 12 chiến sĩ làm hạt nhân cho hoạt động >ôi trang của căn cứ Cao Bằng do đồng chí Lê Quảng 1. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 99. Ba chi huy. Đồng thời, Việt Minh đã mở nhiều lớp học tập quân sự cấp tốc cho cán bộ để họ về địa phương huấn luyện cho các đội tự vệ. Đích thân lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã giảng dạy cho học viên của một số lớp học này. Đầu năm 1942, trước tình hình mới, Nguyễn Ái Quốc chỉ thị phân tán đơn vị, đưa các chiến sĩ về làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang ở các địa phương. Tháng 4/1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chuyển tò Pắc Bó về khu Lam Sơn, huyện Hòa An và Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, trong khoảng thời gian tháng 5 và 6/1942, Người đã mở hai lớp huấn luyện về lý luận và công tác Đàng cho cán bộ chủ chốt của địa phương, chuẩn bị lực lượng cán bộ cho khu giải phóng sau này. Nhờ sự cố gắng chung đó, đến giữa năm 1942, ờ phần lớn các địa phương cùa Cao Bằng đã thành lập được các tổ đội vũ trang. Sang năm 1943, theo tác giả Trần Huy Liệu, tại Cao Bằng đã tổ chức
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
sau này. Nhờ sự cố gắng chung đó, đến giữa năm 1942, ờ phần lớn các địa phương cùa Cao Bằng đã thành lập được các tổ đội vũ trang. Sang năm 1943, theo tác giả Trần Huy Liệu, tại Cao Bằng đã tổ chức được "những cuộc tập trận giả huy động hàng mấy trăm tự vệ của mấy tống"'. Không những thế, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc còn chi đạo tiến hành tuyển chọn một số cán bộ, chiến sĩ gửi sang Trung Quốc để được đào tạo về quân sự2. về vũ khí, lúc đầu, các đội du kích phần nhiều chỉ được trang bị các loại thô sơ, tự tạo như súng săn, gươm, giáo mác, gậy gộc... Dần dần, Việt Minh đã lập được các công binh xưởng ở vùng núi Lam Sơn (Cao Bằng) để chế lựu đạn, địa lôi, rèn đúc súng đạn, gươm giáo3. Trong giai đoạn đầu, nhiệm vụ chủ yếu của các đội vũ trang là bảo vệ khu căn cứ cách mạng, khuếch trương ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh bằng hình thức vũ trang tuyên truyền, đào tạo và huấn luyện cán bộ, chuẩn bị cho việc thành lập lực lượng vũ trang chính quy. 1. Trần Huy Liệu, Lịch sừ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 100. 2. Viện Lịch sứ Đảng, Lịch sừ Cách mạng tháng Tám..., Sđd, tr. 83. 3. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Sđd, tr. 58, 61. Cũng trong thời điểm này, tại Bắc Cạn, Lạng Sơn, cũng như ờ nhiều địa phương khác của các tinh Tuyên Quang, Hà Giang, phong trào Việt Minh đã phát triển nhanh chóng, lôi cuốn sự tham gia của đông đảo đồng bào các dân tộc. Từ cuối năm 1941 sang đầu năm 1942, phong trào Việt Minh lan rộng ở khu vực phía Bắc Chợ Rã. Từ cơ sở Việt Minh Cao
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
đã phát triển nhanh chóng, lôi cuốn sự tham gia của đông đảo đồng bào các dân tộc. Từ cuối năm 1941 sang đầu năm 1942, phong trào Việt Minh lan rộng ở khu vực phía Bắc Chợ Rã. Từ cơ sở Việt Minh Cao Tân (Chợ Rã), phong trào được nhen nhóm tại cổ Linh, Cao Thượng. Cuối năm 1942, Ban Việt Minh liên xã Cao Minh (Cao Tân, Cao Thượng, cổ Linh) được thành lập, trờ thành tổ chức cách mạng đầu tiên của tình Bấc Cạn. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Việt Minh ở các tỉnh trên đã cho phép Trung ương quyết định thành lập Liên tỉnh ủy Cao- Bắc- Lạng vào cuối năm 1942, đầu năm 1943. Trước sự lớn mạnh rộng khắp cùa phong trào cách mạng, kè địch ráo riết tăng cường khủng bố, lùng sục tìm kiếm cán bộ, rào làng để ngăn chặn sự xâm nhập của Việt Minh, tung mật thám, gián điệp dò la tin tức... Đe đối phó, Uỷ ban liên tinh Cao- Bắc- Lạng đã chủ trương thành lập các Tiểu tổ bí mật, gồm những cán bộ đã thoát ly ở các địa phương, hoạt động bí mật "theo một quy cách nhất định... và bám sát nhăn dân"'. Các tiểu tổ này "chưa phải là đội vũ trang và đau tranh vũ trang" cho nên "nhiệm vụ chù yếu là bảo toàn cán bộ và giữ liên hệ với nhân dân"2. Từ bước đi ban đầu đó, Uỳ ban liên lỉnh da quyél định tién tới "thành lập những đội vũ trang chuyên môn tuyển lựa trong đám tự vệ chiến đấu'0. Nhiệm vụ chính của các đội vũ trang này là tiễu trừ Việt gian, phục kích các đội quân tuần tiễu hoạt động đom tuyến của địch, ngăn chặn các hành động của các nhóm thổ phỉ lợi dụng tình hình bất ổn để cướp bóc của cải
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
các đội vũ trang này là tiễu trừ Việt gian, phục kích các đội quân tuần tiễu hoạt động đom tuyến của địch, ngăn chặn các hành động của các nhóm thổ phỉ lợi dụng tình hình bất ổn để cướp bóc của cải của nhân dân. 1, 2. Trần Huy Liệu, Lịch
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
sử tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 100. 3. Trần Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 100-101. Sự phát triển của phong trào Việt Minh, sự lớn mạnh cùa lực lượng vũ trang cách mạng tại các tinh căn cứ địa Việt Bắc trên đây chứng tỏ sự vận động đúng hướng cùa cách mạng Việt Nam, trờ thành chỗ dựa vững chắc cho phong trào Việt Minh của cả nước. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng lúc này phong trào cách mạng Việt Nam, mặc dù đã là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế, nhưng chưa thiết lập được mối liên hệ với bên ngoài và điều đáng nói là khu căn cứ địa Cao- Bắc- Lạng vẫn đang trong tình trạng khá khu biệt, chưa liên thông được với phong trào toàn quốc. Nhiệm vụ đặt ra cho Việt Minh là vừa phải phát triển phong trào ở bên trong, vừa phải tìm cách liên lạc được với phong trào cộng sản quốc tế cũng như phong trào chống phát xít ở bên ngoài. Nhận thức rõ tính bức thiết của vấn đề, ngày 13/8/1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (mang tên mới là Hồ Chí Minh), với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam Độc lập Đồng minh và phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam đã rời căn cứ Cao Bằng sang Trung Quốc với mục đích liên hệ với cách mạng Trung Quốc cũng như với đại diện của quân Đồng minh ở mặt trận Hoa Nam. Thế nhưng, ngày 29/8/1942, vừa mới tới phố Túc Vinh, thị trấn Đô Quan, thuộc tỉnh Quảng Tây, Nguyễn Ái Quốc đã bị nhà cầm quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giữ và giam cầm qua 30 nhà tà của 13 huyện của tinh Quảng Tây. Mãi tới
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
tới phố Túc Vinh, thị trấn Đô Quan, thuộc tỉnh Quảng Tây, Nguyễn Ái Quốc đã bị nhà cầm quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giữ và giam cầm qua 30 nhà tà của 13 huyện của tinh Quảng Tây. Mãi tới ngày 13/9/1943, Người mới được thả tự do ờ Liễu Châu. Ngay sau đó, Người đã liên lạc được với Hội Giải phóng Việt Nam- một bộ phận cũa Việt Minh tại Vân Nam (Trung Quốc) và với một số tổ chức chống Nhật- Pháp ở đây. 2. Đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa Từ cuối năm 1942, đầu 1943, cục diện chiến tranh thế giới có nhiều chuyển biến quan trọng. Chiến thắng tại Stalingrad (ngày 2/2/1943), Hồng quân Liên Xô đẩy lùi tất cả các cuộc tấn công của phát xít Đức, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở ra thời kỳ tổng tấn công của Hồng quân Liên Xô trên mặt trận phía đông, tạo ra một bước ngoặt quan trọng làm thay đổi căn bản chiến cục của Chiến tranh thế giới thứ hai, ảnh hường rất lớn đến phong trào chống phát xít trên lãnh thổ các nước bị chiếm đóng. Ngày 10/7/1943, với một lực lượng lớn quân lực và vật lực, quân Đồng minh đổ bộ lên đảo Sicine cùa Ý và nhanh chóng chiếm lại đảo này. Ngày 6/6/1944, mặt trận thứ hai cũng đã được quân Đồng minh mở màn lên Normandie -Bắc Pháp. Tại mặt trận châu Á- Thái Bình Dương, quân Nhật đã phải chịu những thất bại nặng nề trước sự tấn công cùa Mỹ. Tại Đông Dương, quân Đồng minh đã thực hiện nhiều vụ ném bom oanh tạc các mục tiêu cùa Nhật và Pháp. Từ tháng 9/1943, máy bay ném bom B24 cùa Mỹ, xuất phát từ căn cứ ở Quảng Tây đã tiến hành những trận oanh kích liên
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Đồng minh đã thực hiện nhiều vụ ném bom oanh tạc các mục tiêu cùa Nhật và Pháp. Từ tháng 9/1943, máy bay ném bom B24 cùa Mỹ, xuất phát từ căn cứ ở Quảng Tây đã tiến hành những trận oanh kích liên tiếp xuống cảng Hải Phòng và những mục tiêu "ưu tiên" khác ở Bắc Kỳ'. Phong trào cách mạng trong nước phát triển mạnh mẽ, trước hết là tại vùng rừng núi phía Bắc. Trước tình hình đó, khoảng tháng 7/1942, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra Chỉ thị mở rộng cân cứ địa Cao Bằng2. Theo tinh thần cùa Chỉ thị, các Đội xung phong công tác được thành lập, bằng phương pháp vũ trang tuyên truyền mở rộng căn cứ: Đông tiến về phía Lạng Sơn; Tây tiến về phía Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái; Nam tiến về phía Thái Nguyên. Đặc biệt, hướng công tác thứ hai là tiến xuống miền xuôi, được coi là mục tiêu chính, là hướng chủ đạo của Việt Minh nhằm phá sự tách biệt của căn cứ địa, nối liền khu căn cứ với đồng bằng, mở rộng ánh hưởng của Việt Minh. Trên hướng công tác này, lực lượng của Đội xung phong công tác được phân chia thành hai mũi: thứ nhất, xuất phát từ Đông Khê (Lạng Sơn) tiến xuống Đình Cả (Thái Nguyên); thứ hai, xuất phát tò Nguyên Bình (Cao Bằng), tiến qua Ngân Sơn (Bắc Cạn) tiến xuống Chợ Chu, Đại Từ (Thái Nguyên). Đồng thời, một bộ phận cứu quốc quân trước đây rút lên biên giới, sau khi được huấn luyện, bổ sung và được trang bị đã trở 1. David Marr, Viet Nam 1945. The Quest for power. University of California Press. Berkley Los Angeles London, 1995, tr. 38. 2. Dương Trung Quốc, Việt Nam
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
huấn luyện, bổ sung và được trang bị đã trở 1. David Marr, Viet Nam 1945. The Quest for power. University of California Press. Berkley Los Angeles London, 1995, tr. 38. 2. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử..., Sđd, tr. 355. về Bắc Sơn- Võ Nhai bổ sung cho lực lượng tại chỗ1. Tháng 11/1942, Cứu quốc quân đã phát triển cơ sở tại Chợ Chu, Sơn Dương, Chiêm Hóa và Đại Từ, và tháng 1/1943, mờ rộng địa bàn tại vùng Thượng Yên Thế, Đồng Hỷ, tạo điều kiện liên lạc với Trung ương Đảng2. Từ cuối tháng 1/1943, Cứu quốc quân đã bắt liên lạc được với Đội xung phong công tác theo hướng Nam tiến tại Cao Bằng, và ngày 7/2/1943, toàn bộ Cứu quốc quân do Chu Văn Tấn chi huy đã trở về nước hoạt động3. Trong lúc đó, theo sự chỉ đạo của Trung ương, từ căn cứ Bắc Sơn- Vũ Nhai, Cứu quốc quân cũng khẩn trương tiến hành triển khai công tác vũ trang tuyên truyền theo hướng Bắc tiến để khai thông với căn cứ Cao Bằng, chuẩn bị thành lập Khu giải phóng. Phương pháp hành động của các đội xung phong công tác là đi đến đâu, tổ chức tuyên truyền, vận động quần chúng và xây dựng cơ sở Việt Minh tại chỗ đến đó, để trên cơ sở đó thành lập ra các Đội xung phong công tác khác, nhân rộng phong trào cách mạng. Nhờ có những thành quả của công tác tuyên truyền, vận động đó cho nên đến tháng 8/1943, hai đoàn công tác Bắc tiến và Nam tiến đã hội tụ tại xã Nghĩa Tá, Chợ Đồn, Bắc Cạn4. Như vậy có thể nói, từ thời điểm này, các khu căn cứ cách mạng đã được khai thông, các tuyến liên lạc từ Cao Bằng đã được
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
công tác Bắc tiến và Nam tiến đã hội tụ tại xã Nghĩa Tá, Chợ Đồn, Bắc Cạn4. Như vậy có thể nói, từ thời điểm này, các khu căn cứ cách mạng đã được khai thông, các tuyến liên lạc từ Cao Bằng đã được hình thành thông suốt với Cứu quốc quân và với Trung ương Đảng (đang đóng ờ đồng bàng) và quan trọng hơn là nhờ đó đã hình thành những điều kiện thuận lợi cho việc thành lập khu giái phóng sau này. Trong bối cảnh cao trào cách mạng
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
ngày một dâng cao, từ ngày 25 đến ngày 28/2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp tại Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) với sự tham dự của các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt... để 1, 4. Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên), Lịch sứ Việt Nam, tập 2, 1858-1945, Sđd, tr. 428. 2, 3. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 95. đánh giá tình hình và đề ra những nhiệm vụ cấp thiết cần thực hiện nhằm"... mau hoàn thành nhiệm vụ giải phóng"'. Trên cơ sờ những bài học được rút ra từ các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, Đô Lương, Hội nghị xác định:"... toàn bộ công tác cùa Đàng lúc này phải nham vào chỗ chuấn bị khởi nghĩa để một khi cơ hội đến kịp thời đưa quần chúng nhân dân ra chiến đấu"1. Hội nghị chù trương mở rộng hơn nữa Mặt trận Dân tộc thống nhất lấy Việt Minh làm nòng cốt, thành lập Mặt trận Dân chủ chống Nhật ở Đông Dương, gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa theo những nội đung liên quan đến các vấn đề là: về tuyên truyền (phổ biến chiến thuật du kích); về tổ chức (lập các đội tự vệ và tiểu tổ du kích và tiến hành huấn luyện quân sự); về phương pháp đấu tranh(... đưa quần chúng ra tranh đấu bằng nhiều hình thức, từ thinh nguyện, mít tinh, bãi thị đến khi "tình thế biến đổi thuận lợi, phải lập tức đưa quần chúng ra tranh đau theo hình thức cao hơn như biểu tình, thị uy, bãi công chính trị, phá phách, v.v... đặng đưa quần chúng tiến tới khởi nghĩa"', về công tác vận động quần chúng (vận động các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
thức cao hơn như biểu tình, thị uy, bãi công chính trị, phá phách, v.v... đặng đưa quần chúng tiến tới khởi nghĩa"', về công tác vận động quần chúng (vận động các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo... ở mọi vùng nòng thôn, thành thị, miền núi, đồng bằng...)3. Nhũng chủ trương đúng đắn và sáng suốt của Hội nghị Ban Thường vụ đã góp phần mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lên một tâm cao mói cùa cao trào cách mạng trong cả mrác. Cũng thời điểm này, cùng với việc Cứu quốc quân trờ lại địa bàn chiến lược Bắc Sơn- Võ Nhai, phong trào cách mạng tại căn cứ này cũng được đẩy lên một bước. Ngoài nhiệm vụ Bắc tiến mở thông lên Cao Bằng, bộ phận còn lại thực hiện nhiệm vụ bí mật gây cơ sở ở vùng Phú Lương nhằm nối liền hai địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân. Theo tác giả Trần Huy Liệu, trong một thời gian 1 Đáng Cộng sản Việt Nam, Vãn kiện tìàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 273. 2 Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 298. 3 Đảng Cộng sàn Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 298- 300. ngắn, "khu căn cứ đã bao gồm 7 huyện là Bắc Som (Lạng Son), Võ Nhai (Thái Nguyên), Yên Thế (Bắc Giang), sang Phú Lương, Đại Từ, Chợ Chu (Thái Nguyên) và Sơn Dương. Cơ sở hoạt động cùa nó một mặt liên lạc với Cao Bằng, một mặt tràn xuống Yên Sơn (Vĩnh Yên)"'. Đe thuận lợi cho việc chi đạo, khu căn cứ tạm thời được chia thành phân khuA (gồm các vùng thuộc Lạng Sơn và Bắc Giang) và phân khu B (gồm các địa phương thuộc Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Đe thuận lợi cho việc chi đạo, khu căn cứ tạm thời được chia thành phân khuA (gồm các vùng thuộc Lạng Sơn và Bắc Giang) và phân khu B (gồm các địa phương thuộc Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên và Vĩnh Yên). Trong bối cảnh đó, ngày 25/2/1944, Trung đội Cứu quốc quân thứ ba được thành lập ở Khuổi Kịch, châu Sơn Dương (Tuyên Quang), gồm 24 chiến sĩ do Chu Văn Tấn chi huy, hoạt động ở Nam Đại Từ, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Vĩnh Yên. Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng làm lễ công nhận đơn vị này2. Sự lớn mạnh về mọi mặt của các khu căn cứ cách mạng đã làm cho thực dân Pháp điên cuồng tập trung mọi lực lượng tiến hành khủng bố, vây ráp, hòng dập tắt cao trào cách mạng đang lan rộng khắp nơi. Đối với khu Bắc Sơn- Võ Nhai, vào tháng 10/1944, Pháp điều động cả lính khố xanh, khố đỏ, lính Pháp, lính Âu Phi với cả vũ khí hạng nặng bao vây châu Võ Nhai đàn áp cực kỳ tàn khốc3, nhân dân phải chạy vào rừng với Cứu quốc quân. Trước tình hình đó, Cứu quốc quân đã "quyết định vũ trang khởi nghĩa đoạt chính quyền”4. Tuy nhiên, ở vào tình thế lúc này, các cuộc chiến đấu của Cứu quốc quân mới chi nằm trong khuôn khổ của các cuộc chiến đấu tự vệ với các trận phục kích và bảo vệ nhân dân. Do vậy, Trung ircmg đã quyết định cho cứu quốc quân một lần nữa tạm thời rút vào hoạt động bí mật để bảo toàn lực lượng. Với đội ngũ khoảng hom 200 chiến sĩ, Cứu quốc quân được chia nhỏ "phân tán đi các ngà thượng Yên Thế, Bắc Sơn, Phú Lương, Đại Từ, Chợ Chu, Sơn Dương, chi để một số ít ở lại địa phương, liên
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
lượng. Với đội ngũ khoảng hom 200 chiến sĩ, Cứu quốc quân được chia nhỏ "phân tán đi các ngà thượng Yên Thế, Bắc Sơn, Phú Lương, Đại Từ, Chợ Chu, Sơn Dương, chi để một số ít ở lại địa phương, liên lạc với quần chúng'0. 1, 3, 4. Trần Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd„ tr. 96. 2. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử..., Sđd, tr. 373. 5. Trần Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 98. Đối với khu căn cứ địa Cao- Bắc- Lạng, từ cuối năm 1943, Pháp đã điều động một lực lượng lớn quân đội kết hợp với bộ máy chính quyền tay sai ờ địa phương tiến hành bao vây, lục soát, băt bớ, giết hại cán bộ, nhân dân. Trước tình hình đó và khí thế sôi sục cách mạng của quần chúng, tháng 7/1944, Liên tỉnh ủy Cao- Bắc- Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích và gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa với tinh thần là "phát động du kích chiến trong liên tinh", với mục đích mới chỉ là "tiến tới vù trang hành động, phát động du kích chiến, đánh lùi những cuộc tiến công cùa địch, làm chù các vùng rùng núi''. Tháng 9/1944, HÒ Chí Minh có mặt ở biên giới Việt- Trung. Sau khi nghe báo cáo và nghiên cứu tình hình, Người chi thị hoãn việc thực hiện chủ trương trên, bời vì Người nhận định điều kiện chưa chín muồi để phát động chiến tranh du kích và phân tích: "Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triên đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Neu bây giờ chúng ta van chi hoạt động trong vòng chính trị thì gặp nhũng lúc gay go
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
và phân tích: "Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triên đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Neu bây giờ chúng ta van chi hoạt động trong vòng chính trị thì gặp nhũng lúc gay go quyết liệt không đù để đây cho phong trào tiên lên. Trái
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
lại, nêu nôi lên bạo động thì càng làm mồi cho địch khùng bố. Do đó, hình thức đấu tranh lúc ấy phải từ thuần túy chính trị sang quân sự mà chính trị vẫn trọng hơn quân sự"2. Điều đó tránh tổn thất cho cách mạng, đồng thời vạch ra hướng đi đúng đán cho cách mạng irong thời điểm nhạy cầm này. Trên quan điểm đó và đứng trước yêu cầu thực tiễn của cách mạng, tháng 12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chi thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Trên thực tế, bản Chỉ thị chính là cương lĩnh quân sự cùa Đảng, đề cập một cách toàn diện đến đường 1. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 101. 2. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr 130. lối, phương châm, tổ chức và hoạt động của lực lượng vũ trang cách mạng. Nội dung của nó là': "Tên đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền...". Thành phần Đội được "chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao- Bắc- Lạng so cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất". Đội "...có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí... làm cho các đội này trường thành mãi lên”. Chiến thuật của Đội là: "vận dụng loi đánh du kích bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ánh khứ vô tung". Đó"... là khởi điểm cùa giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta". Ngày 22/12/1944, tại
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
nhanh chóng, tích cực, nay đông mai tây, lai vô ánh khứ vô tung". Đó"... là khởi điểm cùa giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam chúng ta". Ngày 22/12/1944, tại khu rừng Sau Cao, nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám, huyện Nguyên Bình, tinh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã chính thức được thành lập gồm 3 tiểu đội với 34 chiến sĩ được chọn từ những chiến sĩ du kích Cao- Bắc- Lạng, thuộc nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Tại buổi lễ, đồng chí Võ Nguyên Giáp tuyên bố thành lập và nêu rõ nhiệm vụ của Đội. Trước lá cờ đỏ sao vàng, toàn thể các chiến sĩ đa tuycn thệ 10 lời thồ danh dự. Thực hiện huấn thị "phải đánh thang trận đầu" của lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngay sau lễ thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chi huy vào 17 giờ ngày 24/12/1944 đã tấn công đánh chiếm đồn Phay Khắt, đóng tại xã Cam Lộng, huyện Nguyên Bình, tinh Cao Bằng, bắn chết tên Đồn trưởng Pháp, bắt sống toàn bộ binh lính đồn trú. Đen 7 giờ sáng hôm sau, ngày 25/12, cũng bằng cách đánh táo bạo và mưu trí, đội lại tấn công đồn Nà Ngần (cách Phai Khắt 15km), tiêu diệt tên Đồn 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 356-357. trường, tiêu diệt 22 lính khố đỏ, tịch thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Chiến thắng Phay Khắt- Nà Ngần là chiến công đầu tiên cùa đơn vị chủ lực đầu tiên cùa lực lượng vũ trang cách mạng. Chiến thắng này đã gây được tiếng vang trong cả nước và mở đầu
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
trang, quân dụng. Chiến thắng Phay Khắt- Nà Ngần là chiến công đầu tiên cùa đơn vị chủ lực đầu tiên cùa lực lượng vũ trang cách mạng. Chiến thắng này đã gây được tiếng vang trong cả nước và mở đầu cho truyền thống quyết chiến, quyết thắng cùa Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ thang lợi quân sự đầu tiên này, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã tăng cường mở rộng phạm vi hoạt động, đặc biệt là mở rộng công tác tuyên truyền vận động cách mạng, bám sát lấy nhân dân để xây dựng cơ sở và đồng thời xúc tiến việc thành lập mới các đội tuyên truyền vũ trang, mở rộng và củng cố vững chắc khu căn cứ cách mạng cũng như gây ảnh hưởng ra bên ngoài. Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại khu rừng Trần Hưng Đạo, Nguyên Bình (Cao Bằng), ngày 22/12/1944 Nguồn: Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Lịch sư Đang Cộng sán Việt Nam sơ thào, tập 1, 1920-1954, Nxb. Sự thật, 1982, tr. 374. 3. Phong trào đấu tranh ở vùng đồng bằng Bắc Kỳ, ở các xứ Trung Kỳ và Nam Kỳ Sau Hội nghị Trung ương VIII, Nghị quyết của hội nghị đã được các cán bộ lãnh đạo Đảng khẩn trương đem triển khai tới các cơ sở Đảng trên toàn quốc. Tuy nhiên, sau khi các cuộc khởi nghĩa nổ ra vào cuối năm 1940, đầu năm 1941, thực dân Pháp đã ráo riết tăng cường khủng bố, làm tổn hại lớn đến việc vận động cách mạng. Hệ thống cơ sở Đảng bị tổn thất, chậm phát triển. Tỉnh hình vào tháng 12/1941 được ghi nhận là:"... nhiều đảng bộ bị đứt mối rời rạc (nhất là Đảng bộ Nam Kỳ)";"... Đảng ta không những ít chi bộ, mà
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Hệ thống cơ sở Đảng bị tổn thất, chậm phát triển. Tỉnh hình vào tháng 12/1941 được ghi nhận là:"... nhiều đảng bộ bị đứt mối rời rạc (nhất là Đảng bộ Nam Kỳ)";"... Đảng ta không những ít chi bộ, mà có nhiều chi bộ eo hẹp, song một cách thoi thóp"', "Đảng vổ các tổ chức quần chúng nhiều nơi còn lộn xộn, không được ngăn nắp... Nơi thì to chức đảng và hội quần chúng quá hẹp hòi, cô độc khiến cho phong trào chậm phát triển, nơi thì tổ chức quá cấu thả, khiến cho bọn phản động có thể chui vào"1. Trước tình hình đó, ngày 1/12/1941, Trung ương Đảng đã ra Chi thị về công tác tổ chức2, trong đó đề xuất những biện pháp linh hoạt để khôi phục cơ sở Đảng, triển khai và vận dụng một cách mềm dẻo tinh thần Hội nghị Trung ương VIII về vận động quần chúng để nhanh chóng phát triển các hội cứu quốc. Trên cơ sở đó tiến lên thành lập các Uỷ ban vận động Việt Minh để lập ra Mặt trận Việt Minh ở các địa phuơng. Với bản Chỉ thị này và với quyết tâm của các cán bộ Đảng, nhiều cơ sở Đảng ở các địa phương đã được củng cố, nhiều tổ chúc cứu quốc đã ra đời, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển trên khắp cả nước, tuy mức độ có khác nhau giữa các địa phương. Cùng với làn sóng cách mạng dâng lên mạnh mẽ tại các khu căn cứ cách mạng ờ các tinh miền núi phía bắc, ảnh hường của Mặt trận 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 207-209. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 206-230. Việt Minh đã ngày càng lan rộng. Với khí thế chuẩn bị vũ trang
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 207-209. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 206-230. Việt Minh đã ngày càng lan rộng. Với khí thế chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền, tại nhiều địa phương đã liên tiếp nổ ra các cuộc mít tinh, biểu tỉnh, tuần hành, đình công tại các nhà máy, hầm mỏ,
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
đòi chia lại ruộng đất ở nông thôn, chống bắt lính, đòi thả người nhà bị giam giữ. Hầu hết tại các tỉnh trên cả nước đều nổ ra các cuộc đấu tranh chống Pháp- Nhật, ùng hộ Việt Minh với những yêu sách khác nhau. Các cuộc đấu tranh cùa nông dân ở nông thôn thường được phát động với những khẩu hiệu: "chổng nho lúa trồng đay, nho ngô trồng thầu dầu", ''chống cướp đất", "chong thu thóc tạ", "chống bắt lính, bắt phu"... Đối với công nhân và cư dân thành thị thì các cuộc bãi công, biểu tình đều đưa yêu sách đòi tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện đời sống, đòi bán gạo, vải, diêm, xà phòng, phản đối chế độ ngược đãi của nhà cầm quyền'. Trong các cuộc đấu tranh đó, ngoài mục tiêu kinh tế, đời sống, những mục tiêu chính trị, cách mạng cũng đã xuất hiện với việc rải truyền đơn, biểu ngữ chống Pháp- Nhật, ủng hộ Việt Minh, tuyên truyền cách mạng, quyên góp mua sắm vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa... Như vậy, có thể thấy việc triển khai tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần VIII, Chương trình, Điều lệ cùa Mặt trận Việt Minh cũng như Chỉ thị về công tác tổ chức của Trung ương đã mang lại kết quả là không những hệ thống tổ chúc Đảng ờ nhiều địa phương trong cả nước được tăng cường và củng cố thêm một bước mà tiến trinh vận động thành lộp Mặt trận việt Minh cũng ngày càng đưực đẩy mạnh và phát triển. Ở Bắc Kỳ, tuy chưa rộng khắp nhưng đến đầu năm 1942, ở các địa phương như Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái Nguyên, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình... đã thấy xuất hiện các Hội cứu quốc của
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Kỳ, tuy chưa rộng khắp nhưng đến đầu năm 1942, ở các địa phương như Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Thái Nguyên, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Đông, Hà Nam, Thái Bình... đã thấy xuất hiện các Hội cứu quốc của các tầng lớp xã hội khác nhau. Đồng thời, một mạng lưới các cơ sở cách mạng, theo sự chi đạo của Trung ương Đảng đã được xây dựng nằm bao bọc xung quanh Hà 1. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 81-84. Nội có vai trò là An toàn khu, là cầu nối trực tiếp từ căn cứ Việt Bắc với đồng bằng và là trung tâm chỉ đạo của cách mạng để đối phó kịp thời với tình hình thực tiễn của cà nước. Cũng tò vành đai này của cách mạng, các cơ quan ngôn luận của Đảng đã kịp thời ra mắt và đã có những đóng góp không nhò vào việc tuyên truyền đường lối cứu nước của Mặt trận Việt Minh như tờ Cứu quốc', là "cơ quan ngôn luận co động cùa Việt Nam Độc lập Đồng minh", ra mắt bạn đọc từ ngày 25/1/1942, với mục đích kịp thời tuyên truyền phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng. Một tờ báo khác là Cờ giải phóng cũng được Trung ương quyết định xuất bản vào ngày 10/10/1942 để phục vụ yêu cầu cấp thiết của thực tiễn đấu tranh cách mạng lúc bấy giờ. Đen đầu năm 1944, ảnh hường của Việt Minh đã lan rộng đến hầu khắp các tinh của Bắc Kỳ2. Nhờ có những hoạt động tích cực của Việt Minh nên một làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng nhân dân đã bùng lên mạnh mẽ. Tại các thành phố và thị xã ở Bắc Kỳ, từ tháng 3 đến tháng 6/1943 đã nổ ra cuộc đấu tranh của công nhân và viên
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Minh nên một làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của quần chúng nhân dân đã bùng lên mạnh mẽ. Tại các thành phố và thị xã ở Bắc Kỳ, từ tháng 3 đến tháng 6/1943 đã nổ ra cuộc đấu tranh của công nhân và viên chức thuộc các xí nghiệp của Hà Nội, Việt Trì, Đáp cầu, Đông Anh, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Phòng, Uông Bí, Kiến An, Nam Định3. Theo Cờ giải phóng, chi riêng tại Hà Nội từ năm 1943 đến 1944 đã có tới 18 cuộc đình công, bãi công của công nhân4. Tại các vùng nông thôn, nhiều cuộc đấu tranh của nông dân cũng đã nổ ra. Có thể lấy làm ví dụ như các cuộc đấu tranh cùa nông dân Tiền Hải (Thái Bình) đòi chia lại công điền (tháng 6/1942); nông dân Gia Lâm biểu tình phản đối Nhật phá lúa trồng đay (1943); nông dân Hà Đông, Ninh Bình đấu tranh chống thu thóc (1943); nông dân Bắc Ninh tẩy chay 1. Xem: Đỗ Quang Hưng, Lịch sứ báo chí Việt Nam, Sđd, tr. 196-198 và Nguyễn Thành, Báo chí cách mạng Việt Nam, Sđd, tr. 285. 2. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chong Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 84. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, tr. 287-288. 4. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 62-63. việc trồng đay cho Nhật (1944)'...; đặc biệt là có những nơi nông dân đã đánh nhau với lính Nhật để bảo vệ tài sản như ở làng Đông Sơn, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) ngày 14/6/19432. Đối với Trung Kỳ, hệ thống tổ chức Đảng ờ đây bị Pháp phá vỡ nhiều lần, việc phục hồi chậm do luôn bị mật thám Pháp theo dõi, đánh phá. Cho đến
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Đông Sơn, huyện Tiên Du (Bắc Ninh) ngày 14/6/19432. Đối với Trung Kỳ, hệ thống tổ chức Đảng ờ đây bị Pháp phá vỡ nhiều lần, việc phục hồi chậm do luôn bị mật thám Pháp theo dõi, đánh phá. Cho đến giữa năm 1942 chỉ còn một số ít cơ sở Đảng nằm rải rác ở các địa phương như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tinh, Huế, Quảng Ngãi... Việc tuyên truyền, vận động của Việt Minh gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đến những 1943-1944, phong trào ở nhiều tỉnh đã được phục hồi nhanh chóng, nhất là ở Thanh Hóa, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quàng Nam, Quảng Ngãi3. Trong khí thế cách mạng chung của cả nước, một lòng căm thù Pháp- Nhật nên nhân dân đã nổi lên tranh đấu. Chẳng hạn như: nông dân Quảng Nam, Đà Nang đấu tranh chống thu thóc (1/1942); binh lính Hội An bãi gác (cuối nám 1941); nhân dân Quảng Nam mít tinh ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (3/1942)4. Đặc biệt nhất trong số các cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Kỷ lúc đó là cuộc đấu tranh của nông dân các làng Kim Liên, Ngọc Liên, Ngọc Long, Hóa Lộc, tổng Bái Trạch, huyện Hoang Hóa cũng như của các làng Tam Khê, Vân Thọ, thuộc phủ Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa chống khủng bố, chống chiếm đất, đấu tranh chống bắt phu làm sân bay cho Nhật ở Lai Thành vào tháng 2/19445. Ớ Nam Kỹ, sau khi cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, hệ thống cơ sở Đảng cũng bị triệt phá, lực lượng của Đảng bị thiệt hại nặng 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, ừ. 287-288 và Tran Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyền 2, tập hạ, Sđd, tr. 81-84. 2, 3. Ban
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
của Đảng bị thiệt hại nặng 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, ừ. 287-288 và Tran Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyền 2, tập hạ, Sđd, tr. 81-84. 2, 3. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung iromg, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, tr. 76. 4.
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 287. 5. Trần Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chong Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 83. nề. Đầu năm 1941, Xứ ủy mới được tái lập nhưng đến tháng 8/1941, phần lớn các ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ lại bị thực dân Pháp bắt, và như vậy trên thực tế, Xứ ủy Nam Kỳ không còn tồn tại. Nhìn chung, cho đến giữa năm 1942, công tác tuyên truyền vận động cùa Việt Minh vẫn chưa mấy tiến triển ở Nam Kỳ. Tuy nhiên, phong trào đấu tranh của quần chúng cũng đã nổ ra, bao gồm nhiều giai tầng xã hội, đặc biệt là phong trào của công nhân, viên chức, dân nghèo thành thị, thanh niên sinh viên... Có thể thấy phong trào này qua những cuộc đấu tranh của đội ngũ công nhân như: công nhân bến tàu Sài Gòn đình công đòi tăng luơng, cải thiện điều kiện làm việc (trong các năm 1941, 1942, 1943, 1944); công nhân Long Xuyên, Rạch Giá biểu tình đòi tảng lương (1944)'. Theo Niên giám thống kê Đông Dương 1939-1946, ờ Nam Kỳ, từ tháng 5/1942 đến tháng 6/1943, có 24 cuộc đấu tranh của công nhân2. Chỉ riêng tại khu vực Sài Gòn- Chợ Lớn vào cuối năm 1944 đã có 50 cơ sở xí nghiệp có Công hội và đã bắt đầu tổ chức công nhân lẻ tè theo từng khu phố như Xóm Chiếu, Bàn Cờ, Tân Định, Đất Hộ, Phú Nhuận, Gò vấp, Xóm Củi, Bình Tây,... Như vậy, nhìn chung từ sau khi Mặt trận Việt Minh ra đời cho tới trước sự kiện ngày 9/3/1945, phong trào cách mạng đã có những bước phát triển đáng kể trên phạm vi cả nước. Nếu không tính tới phong trào cách mạng tại hai khu căn cứ địa thì
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Việt Minh ra đời cho tới trước sự kiện ngày 9/3/1945, phong trào cách mạng đã có những bước phát triển đáng kể trên phạm vi cả nước. Nếu không tính tới phong trào cách mạng tại hai khu căn cứ địa thì phong trào đấu tranh của nhân dân ở đòng bàng Bác Kỳ cũng như ở hai xứ Trung và Nam Kỳ đã dần chuyển hướng từ mục tiêu dân chủ, kinh tế sang "những cuộc đấu tranh chính trị", dọn đường cho một cuộc đấu tranh tổng lực là khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Tuy nhiên, vì những điều kiện khách và chủ quan khác nhau nên phong trào diễn ra không đồng đều giữa các địa phương và các vùng miền. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, 1940-1945, Sđd, tr. 287-288 và Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chong Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 81-84. 2. Annuaire statistique de L’lndochineỷranẹaise 1939-1946. Phong trào ở miền Bắc phát triển hom nhiều so với miền Nam. Đặc biệt là tại các vùng nông thôn miền Nam vẫn chưa có những cuộc đấu tranh như ở nông thôn miền Bắc. 4. Cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa- tư tưởng Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cả hai tên phát xít Pháp- Nhật đều đã lợi dụng lĩnh vực văn hóa- xã hội để tranh giành cảm tình cùa người bản xứ, lôi kéo họ về phía mình nhằm vào những mục đích to lớn về chính trị, kinh tế, loại bỏ ảnh hường của nhau và cao hơn hết là chống phá ảnh hưởng cùa cách mạng. Mỗi tên phát xít đều đưa ra những chủ thuyết mị dân và đều dựa vào các thế lực tay sai phản động trong nước để thực hiện những hoạt động "văn hóa" của
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
hơn hết là chống phá ảnh hưởng cùa cách mạng. Mỗi tên phát xít đều đưa ra những chủ thuyết mị dân và đều dựa vào các thế lực tay sai phản động trong nước để thực hiện những hoạt động "văn hóa" của mình. Điều này làm cho đời sống văn hóa- xã hội của Việt Nam đã phức tạp lại càng trở nên hỗn loạn hơn. Nhiều xu hướng văn hóa, nhiều luồng tư tưởng mang màu sắc khác nhau xuất hiện, từ những loại hình văn hóa tư sản phản động phục vụ cho lợi ích của Pháp, khuyến khích phổ biến những phong tục lạc hậu, tha hóa hoặc đi theo con đường tuyên truyền cho chủ nghĩa phát xít Nhật Bản đến các xu hướng cải lương tư sản, phong kiến hay cả theo tư tưởng của các nhóm Troskit. Nhận thức rõ sự nguy hại của các trào lưu tư tường và những khuynh hướng văn hóa phản động đó, Đảng Cộng sản Đông Dương đã rất chú trọng đến việc đấu tranh trên mặt trận này. Nhiều loại hình sách, báo, tài liệu, truycn đcrn của Dàng, nhât là các tờ Việt Nam độc lập, Cờ giải phóng, Cứu quốc của Việt Minh từ trung uơng đến các địa phương cũng như của các tổ chức quần chúng đều đã nhất loạt được phát hành và chưa bao giờ phong phú như lúc đó đã góp phần vạch trần âm mưu, thủ đoạn tàn bạo, xảo quyệt của kẻ thù, đòng thời tuyên truyền cho đường lối cứu nước của Đảng, hướng dẫn, giáo dục quần chúng, lôi cuốn họ vào các hoạt động cách mạng, hưởng ứng Việt Minh. Cùng với sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nền văn hóa mới ngày càng khẳng định chỗ đứng và vai trò trong sự nghiệp cách mạng nói chung, ờ chiều kia, nền văn hóa nô
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
mạng, hưởng ứng Việt Minh. Cùng với sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, nền văn hóa mới ngày càng khẳng định chỗ đứng và vai trò trong sự nghiệp cách mạng nói chung, ờ chiều kia, nền văn hóa nô dịch của Pháp, Nhật đã dần dần bị quần chúng chán ghét, khinh thị, xa lánh. Một số truyền đơn của Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh thời kỳ 1941-1945 Nguồn'. Trưng bày chuyên đề Một số sưu tập hiện vật về Cách mạng tháng Tám 1945 chào mừng kỳ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2005), mờ cửa ngày 16/8/2005 tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, tr. 6. 1 . f»A« ‘íòsí w r - -TMii-tT M*' h ■ s - ! • / : ? J in Ĩ mSt 1 - n ■ f f c ..... [ : ^ M ..Báo Việt Nam độc lặp Nguồn: Trưng bày chuyên đề Một số sưu tập hiện vật về Cách mạng tháng Tám 1945 chào mừng kỷ niệm 60 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2005), mờ cứa ngày 16/8/2005 tại Bào tàng Cách mạng Việt Nam, tr. 6. Năm 1943, Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng (tháng 2/1943) đã nêu rõ tầm quan trọng cùa công tác "vận động văn hóa" trong vấn đề "chuẩn bị khởi nghĩa". Nghị quyết hội nghị nhấn mạnh: ''Đảng cần phải phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hóa, đặng gây ra một phong trào vãn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc, chong lại văn hóa phát xít thụt lùi. Ở những đô thị văn hóa như Hà Nội, Sài Gòn, Huê... phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai đặng đoàn
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
kết các nhà văn hóa và trí thức (ví dụ có thế tố chức nhũng nhóm "văn hóa tiền phong", "nhóm nghiên cứu chù nghĩa Mác", "nhóm nghiên cứu lịch sừ Việt .Trên tinh thần đó, năm 1943, để vũ trang cho toàn Đảng, trước hết là cho những cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa- tư tưởng, những lý luận cơ bản để chống lại văn hóa phong kiến, thực dân, phát xít và khẳng định địa vị độc tôn của văn hóa mác-xít (văn hóa dân chủ mới), Đảng đưa ra bản Đe cương Văn hóa Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ván kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, ừ. 301. Bản Đe cương Văn hóa Việt Nam khẳng định tầm quan trọng của cuộc cách mạng văn hóa ừong mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng văn hóa và cách mạng chính trị là: "a. Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh té, chính trị, văn hóa) mà người cộng sản phải hoạt động. b. Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa. c. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ánh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền cùa Đảng mới có hiệu quà"'. Bản Đe cương nêu rõ nhiệm vụ của các nhà văn hóa yêu nước Việt Nam là phải chống lại các trào lưu văn hóa phi vô sản, xây dựng một nền văn hóa dân chủ mới dựa trên ba tính chất là: "ứ. Dân tộc hóa (chong lại mọi ảnh hướng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập). b. Đại chúng hóa (chong mọi chù trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa quan chúng). c. Khoa học hóa (chống lại tất cả nhũng gì làm
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
văn hóa Việt Nam phát triển độc lập). b. Đại chúng hóa (chong mọi chù trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa quan chúng). c. Khoa học hóa (chống lại tất cả nhũng gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ)"2. Đe thực hiện có kết quả những nguyên tác nêu trên, bản Đề cương yêu cầu "phải kịch liệt chong những xu hướng văn hóa bào thù. chiết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm... Nhưng đồng thời cũng phải chong xu hướng văn hóa quá trớn cùa bọn Troskit". Chỉ có như vậy thì "văn hóa mới Việt Nam" mới bảo đảm thật sự "là một thứ văn hóa có tính chắt dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung"3. Phần cuối bản Đe cương Văn hóa đề ra những nhiệm vụ cấp thiết trước mắt trên lĩnh vực hoạt động văn hóa. 1. Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 316. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Vân kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tì-. 319. 3. Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 319-320. Vậy là từ khi ra đời, đây là lần đầu tiên Đảng công khai công bố một bản Đề cương Văn hóa để vũ trang cho Đảng, cho các cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn hóa một cương lĩnh cách mạng văn hóa dân chủ mới chống lại các trào lưu văn hóa- tư tưởng phản động, phi vô sản khác, đồng thời vạch ra một phương châm đúng đắn để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cho nước nhà. Vì vậy, bàn Đe cương đã ngay lập tức nhận được sự đồng tình của đông đảo các tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ cũng như đội ngũ thanh niên, sinh viên trong cả
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cho nước nhà. Vì vậy, bàn Đe cương đã ngay lập tức nhận được sự đồng tình của đông đảo các tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ cũng như đội ngũ thanh niên, sinh viên trong cả nước. Sau khi bản Đề cương Văn hóa ra đời, Đảng xúc tiến thành lập Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam và ra tờ Tiền phong để thu hút giới trí thức, văn nghệ sĩ vào Mặt trận Việt Minh. Giữa năm 1943, Hội Văn hóa cứu quốc ra đời với những người hoạt động ữên lĩnh vực văn hóa nổi tiếng như Nguyễn Đình Thi, Đặng Thai Mai, Như Phong (Nguyễn Đỉnh Thạc), Xuân Trường (Hà Nghệ), Học Phi (Chu Văn Tập), Nguyên Hồng (Nguyễn Nguyên Hồng), Nam Cao (Trần Hữu Trí), Nguyễn Huy Tường... Trong không khí đó, nhiều tác phẩm văn học được sáng tác theo quan điểm Mác xít ra đời, chẳng hạn như: Đặng Thai Mai với "Văn học khái luận", "Lỗ Tấn"-, Đào Duy Anh với" Việt Nam văn hóa sừ cương", "Khống giáo phê bình tiếu luận"', Hoài Thanh, Hoài Chân với "Thi nhân Việt Nam"', Vũ Ngọc Phan với "Nhà vãn hiện đại"... Cũng như vậy, dòng thơ ca cách mạng tiếp tục nở rộ, với những nhà thơ nổi tiếng "dùng bút làm đÒTì chn\pn xnny chế <ỉộ" nhir Sóng Hồng, To Hữu, Lê Đức Thọ, Trần Huy Liệu, Xuân Thủy...; nhiều nhạc phẩm cách mạng vang lên cổ vũ tinh thần yêu nước, động viên quần chúng nhân dân trong thời khác quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, với những nhạc sĩ lớn như Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Đỗ Nhuận... Dưới ánh hường của Việt Minh, đội ngũ trí thức cách mạng còn tích cực tham gia các phong trào yêu
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
sử cách mạng Việt Nam, với những nhạc sĩ lớn như Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Nguyễn Đình Thi, Đỗ Nhuận... Dưới ánh hường của Việt Minh, đội ngũ trí thức cách mạng còn tích cực tham gia các phong trào yêu nước như Phong trào do Hội truyền bá chữ quốc ngữ khởi xướng1. Ngày 30/6/1944, Đảng Dân 1. Hội truyền bá quốc ngữ do các đảng viên cộng sản chủ trương lập ra năm 1938. chủ Việt Nam do Dương Đức Hiền làm Tổng Thư ký được thành lập ở Hà Nội. Trong xu thế chung, các nhóm trí thức khác tập trung xung quanh tạp chí Thanh Nghị1 và Tổng hội sinh viên Việt Nam cũng ngày càng thể hiện rõ tinh thần ái quốc, thiện cảm với đường lối đấu tranh của Việt Minh vì độc lập dân tộc và quyền tự do của mỗi con người. III. CAO TRÀO CÁCH MẠNG TIỀN KHỞI NGHĨA 1. Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945 Năm 1940, chiếm Đông Dương, Nhật muốn thay chân Pháp ở đây, nhưng chưa thể ngay lập tức vì Nhật chưa đủ cả thế và lực để làm việc này nên đành bằng lòng với một chế độ cộng trị với Pháp, thông qua bộ máy chính quyền Pháp để cai trị Đông Dương. Tuy nhiên, vào cuối năm 1944, đầu năm 1945, tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi quan trọng. Chiến tranh thế giới thứ hai bước tới hồi kết thúc. Ở mặt trận châu Âu, Hồng quân Liên Xô tổng phản công trên mặt trận phía Đông, giải phóng nhiều lãnh thổ, thẳng tiến đến tả ngạn sông Rhin, phát xít Đức đã đến giờ tận số. Tháng 8/1944, Paris -thủ đô của Pháp được giải phóng. Tướng De Gaulle lên cầm quyền. Ngày 23/10/1944, các nước Đồng minh chính thức công nhận chính phủ De
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
sông Rhin, phát xít Đức đã đến giờ tận số. Tháng 8/1944, Paris -thủ đô của Pháp được giải phóng. Tướng De Gaulle lên cầm quyền. Ngày 23/10/1944, các nước Đồng minh chính thức công nhận chính phủ De Gaulle. Ở châu Á- Thái Bình Dương, quân Đồng minh tấn công như vũ bão nên Nhật phài lùi trên khắp các mặt trận. Trên đất Đông Dương,
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
ngay từ cuối năm 1942, quân Anh, Mỹ đã cho máy bay ném bom bắn phá các tuyến đường giao thông huyết mạch Bắc Nam, ngăn chặn sự di chuyển của quân đội Nhật trên các vùng miền, dọn đường cho một cuộc đổ bộ vào Đông Dương. Cũng lúc đó, trong những người Pháp ở Đông Dương, nhóm trung thành với De Gaulle đứng đầu là tướng Mordant, mâu thuẫn nhau kịch liệt với nhóm Decoux, đã bắt đầu hoạt động ráo riết, chuẩn bị kế hoạch chiếm lại Đông Dương. Thế nhưng, mọi động 1. Xem Đỗ Quang Hưng, Lịch sử báo chí Việt Nam (1865-1945), Sđd, tr. 172-173. thái này đã không lọt qua được tai mắt của Nhật. Vì vậy, Nhật phải tính đến khả năng thanh toán Pháp, nắm trọn quyền cai trị Đông Dương, rành tay đối phó với Đồng minh khi lực lượng này tiến vào. Mưu đồ này được thực hiện bằng một loạt các sự kiện như: ngày 7/9/1944, Thủ tướng Nhật Koiso tuyên bố trước Quốc hội là phải lật đổ chế độ Decoux ở Đông Dương; ngày 14/9/1944, Hội đồng chỉ đạo chiến tranh Nhật đưa ra 3 đề án về Đông Dương; ngày 29/12/1944, Thủ tướng Nhật đề nghị xúc tiến kế hoạch lật đổ Decoux; ngày 1/2/1945, Hội đồng chi đạo chiến tranh Nhật quyết định nắm trọn quyền chỉ huy ờ Đông Dương, với thời điểm chính xác và chiến thuật sẽ được quyết định sau1. Đúng như Đảng Cộng sản Đông Dương đã dự đoán, tình trạng tạm thời hòa hoãn giữa hai tên phát xít đã chấm dứt, mâu thuẫn giữa chúng gay gắt đến mức giống như "cái nhọt bọc phải vỡ mù". Nhật quyết định đưa thêm quân vào Đông Dương và quyết định hành động trước để tiêu diệt Pháp bằng một cuộc
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
xít đã chấm dứt, mâu thuẫn giữa chúng gay gắt đến mức giống như "cái nhọt bọc phải vỡ mù". Nhật quyết định đưa thêm quân vào Đông Dương và quyết định hành động trước để tiêu diệt Pháp bằng một cuộc đảo chính. Mặc dù Pháp đã biết được kế hoạch của Nhật2 và lúc này đang nắm trong tay gần như nguyên vẹn lực lượng vũ trang, gồm 6 vạn lính chính quy và hai vạn lính khố xanh, trong khi Nhật chi có hơn 6 vạn quân3, nhưng với tâm lý thất bại và hèn nhát, Pháp đã không có phản ứng nào trước những hành động của Nhật. Cuộc đảo chính cùa Nliậl đa diễn ra mau lẹ. Vào lúc 16 giờ ngày 9/3, tại Phủ Toàn quyền ở Sài Gòn, Pháp phải ký với Nhật một hiệp ước, trong đó quy định việc Pháp phải cung cấp gạo cho Nhật trong năm 1945. Sau đó, lúc 18 giờ, Đại sứ Nhật Matsumoto trao cho Toàn quyền Đông Dương Decoux tối hậu 1. David G. Marr, Viet Nam 1945. The Quest for power, tr. 43, 88. 2. Stein Tonnesson, The Vietnamese Revolution of 1945, Roosevelr, Ho Chi Minh et De Gaulle in a world ad war, London, 1995, tr. 242. 3. Tran Huy Liệu, Lịch sứ tám muơi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 118. thư buộc Pháp phải chấp nhận sự chi huy duy nhất của Nhật trong việc phòng thủ Đông Dương và buộc Pháp phải trả lời trước 21 giờ cùng ngày. Pháp xin hoãn thời gian trả lời với lý do phải hỏi ý kiến Bộ Tư lệnh quân Pháp ở Hà Nội. Nhật cho đó là sự từ chối nên 21 giờ 30 phút đã hạ lệnh đồng loạt tấn công Pháp trên toàn Đông Dương và về căn bản nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của đối phương. Toàn quyền Decoux
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
quân Pháp ở Hà Nội. Nhật cho đó là sự từ chối nên 21 giờ 30 phút đã hạ lệnh đồng loạt tấn công Pháp trên toàn Đông Dương và về căn bản nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của đối phương. Toàn quyền Decoux và số lớn sĩ quan cao cấp Pháp ở Sài Gòn bị Nhật bắt ngay tại Phủ Toàn quyền và giam giữ tại đó cho đến đêm 7/5/1945. Theo thống kê của Trần Huy Liệu, không kể số lính lê dương và lính khố đỏ, riêng số binh lính Pháp bị giết trong thời điểm Nhật đảo chính đã lên tới 1.662 người, chưa kể hàng nghìn người Pháp khác bị Nhật bắt giam1. Đến chiều ngày 10/3, quân Pháp đầu hàng Nhật, Nhật làm chủ các vùng đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Sài Gòn và nhiều tỉnh lỵ. Những đơn vị quân Pháp còn cố thủ ở Cà Mau, Biển Hồ và trên một số vùng Bắc Đông Dương cũng lần lượt bị loại, chi còn một ít tàn quân chạy qua biên giới Việt- Trung. Với sự kiện này, lực lượng quân sự Pháp hoàn toàn tan rã, chính phủ thuộc địa đầu hàng, bị cầm tù hoặc làm tay sai cho Nhật. 2. Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng từ ngày 9 đến 12/3/1945. Chỉ thị "Nhật- Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" Trước những diễn biến vừa nêu ở trên, Đảng ta đã theo dõi sát tình hình. Ngay đêm Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mờ rộng đã họp ở Đình Bảng, do đồng chí Trường Chính chủ trì, với sự tham gia của các đồng chí Nguyễn Lưcmg Bằng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị. Hội nghị khẳng định "chính biến ngày 9/3/1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyển Pháp, tước khí giới cùa Pháp, 1.
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
đồng chí Nguyễn Lưcmg Bằng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Lê Thanh Nghị. Hội nghị khẳng định "chính biến ngày 9/3/1945 là một cuộc đảo chính, mục đích là truất quyển Pháp, tước khí giới cùa Pháp, 1. Trần Huy Liệu, Lịch sử tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 120. chiêm hân lây Đông Dương làm thuộc địa riêng cùa chù nghĩa đế quốc Nhật"'. Ngày 12/3/1945, Hội nghị ra bản Chi thị "Nhật- Pháp bắn nhau và hành động cùa chúng ta". Bản Chi thị đã phân tích nguyên nhân, mục đích và diễn biến của cuộc đảo chính và chỉ ra rằng sự kiện này đã gây ra "một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc” với những biểu hiện là: "1. Hai quân cướp nirớc cắn xé nhau chí tử. 2. Chính quyền Pháp tan rã. 3. Chính quyền Nhật chưa ổn định. 4. Các tâng lớp trung gian hoang mang. 5. Quần chúng cách mạng muốn hành động"2. Tuy nhiên, dựa vào lý luận Mác- Lênin về khởi nghĩa vũ trang và cách mạng, cân nhắc kỹ tình hình, Ban Thường vụ Trung ương cho rằng: "mặc dầu tình hình chính trị khùng hoảng sâu sắc, nhưng điêu kiện khởi nghĩa ở Đông Dương chưa thực sự chín muồi". Lý do được đưa ra là: lực lượng của Nhật tổn hại chưa đáng kể; lực lượng trung gian chưa thực sự ngà hẳn về phe cách mạng; lực lượng cách mạng vẫn còn chưa được chuẩn bị đầy đủ, chưa sẵn sàng cho một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền1. Mặt khác, Ban Thường vụ Trung ương cũng dự liệu tới "những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi" và "một cao trào cách mạng sẽ noi dậy": "a. Chính trị khủng hoàng (quân thù
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
khác, Ban Thường vụ Trung ương cũng dự liệu tới "những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi" và "một cao trào cách mạng sẽ noi dậy": "a. Chính trị khủng hoàng (quân thù không rành tay đối phó với cách mạng), b. Nạn đói ghê gớm (quần chúng chán ghét quân cướp nước), c. Chiến tranh đến giai đoạn
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
quyết liệt (Đổng minh sẽ đo bộ vào Đông Dương đánh Nhật) "4. 1. Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, 1940-1945, Sđd, tr. 364. 2, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 1940-1945, Sđd, tr. 365. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, 1940-1945, Sđd, tr. 366. Những nhận định quan trọng này có ý nghĩa quan trọng đối với việc vận động cách mạng, vừa ngăn ngừa tình trạng nóng vội, nổi dậy non, vừa tránh tình trạng lúng túng chờ thời. Hom nữa, đó cũng là cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương thêm một lần nữa điều chinh một cách cụ thể chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam. Trước hết, Hội nghị cho rằng: "hàng ngũ kẻ thù và Đồng minh quân có chỗ thay đổi", "Sau cuộc đảo chính này, để quốc phát xít Nhật là kẻ thù chính- kẻ thù cụ thế trước mắt duy nhất cùa nhân dân Đông Dương"'. Hệ quả được Hội nghị rút ra là "khẩu hiệu chính và toàn bộ chiến thuật cách mạng cũng phải thay đối", rằng phải "cương quyết tay trừ những khẩu hiệu và hình thức đau tranh cũ, chuyển qua những hình thức tuyên truyền, to chức và tranh đau mới"2. Trên cơ sở đó, Đảng cho rằng lúc này cách mạng nước ta đang ờ trong "thời kỳ tiền khới nghĩa" và "đem khấu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật" thay cho khấu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp'"' với nhiệm vụ trung tâm là "Phát động một phong trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tống khởi nghĩa" và "sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đù điều kiện"3. Với chủ trương đó, bản Chi thị ngày
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
một phong trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc tống khởi nghĩa" và "sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi đã đù điều kiện"3. Với chủ trương đó, bản Chi thị ngày 12/3/1945 nêu rõ phương hướng tổ chức và hoạt động vôi trang như sau: về tuyên truyền: cần "chuyển qua những hình thức tuyên truyền mạnh bạo hom", ''thành lập các đội tuyên truyền xung phong", 'Vô trang công khai diên thuyêt" với khâu hiệu "Chông chính quyển của Nhật và của bọn Việt gian thân Nhật''. Nêu khẩu hiệu "Chính quyền cách mạng cùa nhân dân". 2. về tranh đấu: "Chuyển qua nhũng hình thức đấu tranh cao hom"', "Phát động du kích ở những nơi có địa hình địa thế"; "Huy động đội tự vệ tước võ khí cùa binh lính bại trận, đào ngũ, dao động, mất tinh thần"; 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 366. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn Idện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 366-367. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 367. "gán khẩu hiệu đòi cơm áo, chống thu thóc thuế, phá kho thóc cùa Nhật chia cho dân nghèo với khẩu hiệu Chính quyển cách mạng cùa nhân dân”. 3. về tổ chức: cùng với việc mở rộng cơ sở Việt Minh, tổ chức thêm nhiều tự vệ, du kích và tiểu tổ du kích; thành lập những căn cứ địa mới; thống nhất các chiến khu và phát triển "Việt Nam giải phóng quân”; Tổ chức "Ợý ban quân sự cách mạng" (tức Uỷ ban khởi nghĩa); thành lập "Uỳ ban nhân dân cách mạng Việt Nam" theo hình thức một "Chính phù lâm thời cách mạng Việt Nam'' với
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
"Việt Nam giải phóng quân”; Tổ chức "Ợý ban quân sự cách mạng" (tức Uỷ ban khởi nghĩa); thành lập "Uỳ ban nhân dân cách mạng Việt Nam" theo hình thức một "Chính phù lâm thời cách mạng Việt Nam'' với hệ thống các cấp, ở từng địa phương, cơ sở1. Dự tính khả năng quân Đồng minh có thể sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật, bản Chi thị cho ràng, đây có thể là một cơ hội để phát động một cuộc tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước nhưng không thể ỷ nại, chờ đợi mà phải chủ động, tích cực chuẩn bị để nắm bắt thời cơ giành thắng lợi. Bản Chi thị đề xuất những biện pháp cần làm là: "Ngay bây giờ phát động du kích, chiếm căn cứ, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai trò chù động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật Bàn ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng úng quân Đồng minh một cách tích cực"2. Hưn nữa, bản Chỉ Ihị cũng chu ràng, kliông phải ngay khi quân Đồng minh vừa vào là đã có thể phát động khởi nghĩa mà phải đợi khi quân Đồng minh đã bám chắc và tiến lên được, Nhật phải kéo quân cản quân Đồng minh để hở mặt sau thì lúc đó mới có thể phát động khởi nghĩa. Ngoài ra, bản Chi thị cũng còn dự báo những khả năng xuất hiện thời cơ của cách mạng Việt Nam nếu như "cách mạng Nhật bùng no và chính quyền cách mạng cùa nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mắt nước như Pháp năm 1940 và quân 1. Đảng Cộng sàn Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 369-371. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ván kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 372. đội
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
giặc Nhật mắt nước như Pháp năm 1940 và quân 1. Đảng Cộng sàn Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 369-371. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ván kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 372. đội viễn chinh Nhật mất tinh thần, thì khi ấy dù quân Đồng minh chưa đố bộ, cuộc tong khởi nghĩa vẫn có thể bùng no và thắng lợi". Bản Chỉ thị "Nhật- Pháp bắn nhau và hành động cùa chúng ta" của Ban Thường vụ Trung ương Đảng là một văn kiện cực kỳ quan trọng, được đưa ra vào một thời điểm mang tính bước ngoặt lịch sử. Những chi dẫn trong bản chỉ thị lịch sử này được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn đã góp phần mở đường cho thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám sau này. Ngay sau Hội nghị, Đảng đã phân công cán bộ về các địa phương để truyền đạt tinh thần và nội dung của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tới các cấp bộ Đảng trong cả nước. Đồng thời, ngày 15/3/1945, Tổng bộ Việt minh đã phát hịch Kháng Nhật cứu nước với nội dung kêu gọi toàn thể quốc dân đồng bào đứng lên "nham theo lá cờ đò sao vàng 5 cánh cùa Việt Minh", "Đánh đuổi giặc Nhật! Tiễu trừ Pháp gian và Hán gianl”, "Dựng lên một nước Việt Nam hùng cường, tự do và độc lập"2. Tờ hịch được in thành 15 vạn tờ truyền đơn và nhanh chóng được phân phát tại các tinh Bắc Kỳ3. 3. Cao trào cách mạng tiền khởi nghĩa a. Tại Bắc Kỳ Từ thời điểm Nhật đảo chính Pháp và nhất là sau khi có Chỉ thị ngày 12/3/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, một phong trào đấu tranh đã dâng lên mạnh mẽ trên khắp đất nước và thực sự đã trở thành cao trào
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Nhật đảo chính Pháp và nhất là sau khi có Chỉ thị ngày 12/3/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, một phong trào đấu tranh đã dâng lên mạnh mẽ trên khắp đất nước và thực sự đã trở thành cao trào cách mạng có sự kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa từng phần. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
tập, tập 7, Sđd, tr. 373. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 532-534. 3. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử..., Sđd, tr. 389 và Tran Hữu Đính, Lê Trung Dũng, Cách mạng tháng Tám 1945 -Những sự kiện, Sđd, tr. 197. Ở vùng căn cứ Việt Bắc, trên tinh thần phát triển và củng cố căn cứ địa cách mạng, các lực lượng cùa Giải phóng quân và Cứu quốc quân đã nhanh chóng khai thác điều kiện thuận lợi này để đẩy mạnh chiến tranh du kích, không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động, phát triển lực lượng. Ngày 10/3/1945, tại Cao Bằng, Hội nghị liên tinh ủy Cao- Bắc- Lạng được tổ chức đã quyết định: "ỉ. Lập tức đánh đổ chế độ thống trị cùa Pháp ở nông thôn, rồi tùy nơi lập chính quyển nhân dân câp xã, châu, huyện, phú hay đen cấp tỉnh. 2. Phân phoi cán bộ của đội tuyên truyền về cùng với các đội vũ trang cùa địa phương tổ chức thêm những đơn vị Giải phóng quân trực tiếp đánh Nhật. 3. Đoi với quân Pháp, chù trương không tập kích lúc họ rút lui, trái lại tích cực kêu gọi họ cùng nhau tổ chức chống Nhật"'. Thực hiện chủ trương này, các đội vũ trang cùa Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tòa đi các cơ sở, tăng cường lực lượng cho các địa phương trong khu căn cứ. Các bộ phận của Giải phóng quân tiến theo nhiều hướng khác nhau, vừa phục kích tiêu hao sinh lực địch vừa tuyên truyền cách mạng, tiến tới phát động nhân dân đứng lên khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền địch, thành lập chính quyền của nhân dân. Những địa bàn đầu tiên có các mũi tiến công của Giải
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
địch vừa tuyên truyền cách mạng, tiến tới phát động nhân dân đứng lên khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền địch, thành lập chính quyền của nhân dân. Những địa bàn đầu tiên có các mũi tiến công của Giải phóng quân là Bảo Lạc (Cao Bằng) hướng sang Thất Khê, Bình Gia (Lạng Sơn); dọc biên giới Việt- Trung (châu Hà Quảng) tiến sang Bắc Quang (Hà Giang). Một bộ phận của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về phía châu Ngân Sơn, bao vây và bức hàng đồn Ngân Sơn, sau đó tiến về giải phóng Chợ Rã, Chợ Đồn, Na Rì (Bắc Cạn). Trên các mũi tiến công, Giải phóng quân đã tiêu diệt nhiều đom vị địch, thu hàng nghìn vũ khí của tàn binh Pháp chạy trốn. Quân giải phóng đi tới 1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, tr 94. đâu cũng được quần chúng nhân dân mang theo cờ đỏ sao vàng và vũ khí thô sơ tiếp đón nồng nhiệt. Một cao trào khởi nghĩa thực sự đã bắt đầu. Ở nhiều địa phương, Giải phóng quân nhanh chóng tiến hành giải tán chính quyền địch, tịch thu bằng, triện của bọn Tổng lý, vũ khí của bọn bảo an binh, trừng trị Việt gian, thành lập chính quyền mới. Mặt khác, các hội cứu quốc của Việt Minh cũng nhanh chóng được thành lập và củng cố tại các địa phương này, làm chỗ dựa cho chính quyền. Ở Bắc Cạn, ta định liên hệ với những tàn binh Pháp để lập Uỷ ban Việt- Pháp chống Nhật với các điều kiện là: Pháp phải tôn trọng chù quyển của ta; Binh lính cùa họ không được nhũng nhiễu dân; Ta đế cho nhân dân bán lương thực cho họ1. Nhưng do
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Pháp để lập Uỷ ban Việt- Pháp chống Nhật với các điều kiện là: Pháp phải tôn trọng chù quyển của ta; Binh lính cùa họ không được nhũng nhiễu dân; Ta đế cho nhân dân bán lương thực cho họ1. Nhưng do chủ nghĩa thất bại của phía Pháp, chủ trương này đã không thực hiện được. Còn ở Cao Bằng, một số đom vị Pháp còn chống lại Việt Minh đã bị quân và dân ta đánh bại, tước tất cả vũ khí. Ờ hai tỉnh Cao Bằng và Bắc Cạn, chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều xã và châu. Trên những vùng hoạt động của Cứu quốc quân lúc này phong trào nổi dậy giành chính quyền cũng được đẩy mạnh. Tại Tuyên Quang và Thái Nguyên, ban lãnh đạo Phân Khu B của chiến khu Hoàng Hoa Thám đã lãnh đạo nhân dân đứng dậy lật đổ ách thống trị thực dân, làm chủ tại các địa phương và ngày 13/3/1945 đưa du kích đánh châu lỵ Sơn Dương. Ngày 26/3 và 29/3/1945, Cứu quốc quân hợp lực với phong trào quần chúng phát động khởi nghĩa thắng lợi ờ Chợ Chu và Đại Từ (Thái Nguyên) và ngày 1/4 lật đổ chính quyền địch tại Yên Sơn và 18/5 tại Yên Bình (Tuyên Quang). Tại phân khuA, trong năm 1945 Cứu quốc quân đã phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở các địa phương ở Thái Nguyên và Lạng Sơn như Võ Nhai (21/3), Đình Cả (10/4), Vũ Lễ (16/4), Nam Nhi (17/4), Bắc Sơn (18/4), Bình Gia (29/4), Bằng Mạc 1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, trĩ 94. (2/5). Đồng thời, Cứu quốc quân còn phối hợp với Giải phóng quân từ Cao Bằng tiến xuống giải phóng Tràng Định, Điềm He, Thoát Lãng (Lạng Sơn).
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, trĩ 94. (2/5). Đồng thời, Cứu quốc quân còn phối hợp với Giải phóng quân từ Cao Bằng tiến xuống giải phóng Tràng Định, Điềm He, Thoát Lãng (Lạng Sơn). Một bộ phận Cứu quốc quân còn phối hợp với tự vệ chiến đấu của Bắc Giang đánh Yên Thế lần thứ nhất (1/4), Hữu Lũng (15/4), Bố Hạ (18/4), Mỏ sắt (19/4), Lục Ngạn (30/5) và Đồn Chã (3/6). Tri châu Hữu Lũng, Lục Ngạn đầu hàng Việt Minh. Ở nhiều nơi, nhân dân phá kho thóc của Nhật chia cho nhân dân. Tại một bộ phận của Khu an toàn dự bị của Trung ương ở Bắc Giang, trong tháng 3/1945, ủy ban dân tộc giải phóng đã được thành lập ở phần lớn các xã. Xuân Biều và Xuân Định (huyện Hiệp Hòa) là những xã đàu tiên lập ủy ban ngay sau khi Chi thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động cùa chúng ta" phát ra. Quần chúng họp mít tinh tước bằng triện của hào lý và lập chính quyền. Cuộc mít tinh đã được biến thành cuộc biểu tình thị uy có vũ trang của quần chúng vây đồn điền của chù Pháp. Lính đồn khiếp sợ. Việt Minh tổ chức cho quần chúng xúc hàng trăm tấn thóc. Đây là cuộc phá kho thóc đầu tiên của nông dân Bắc Giang. Tiếp đó, một bộ phận Cứu quốc quân tiến về Bắc Giang, kết hợp với phong trào nổi dậy của nhân dân địa phương, bức hàng chính quyền địch ở Hiệp Hòa và Yên Thế, thành lập chính quyền nhân dân. Tại vùng đồng bằng sông Hồng đã xuất hiện những cuộc đấu tranh vù trang mặc dù hlnh thức đáu tranh này ớ dãy chưa phái là nhiều. Tiêu biểu lúc bấy giờ là cuộc đánh đồn Bần Yên Nhân ngày 11/3/1945 của du
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
vùng đồng bằng sông Hồng đã xuất hiện những cuộc đấu tranh vù trang mặc dù hlnh thức đáu tranh này ớ dãy chưa phái là nhiều. Tiêu biểu lúc bấy giờ là cuộc đánh đồn Bần Yên Nhân ngày 11/3/1945 của du kích Việt Minh tinh Hưng Yên. Lợi dụng lúc Nhật chưa kịp đến, quân ta đã đánh đồn, thu toàn bộ vũ khí, tên đồn trưởng
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
phải bỏ chạy'. Điểm đặc biệt của cao trào đấu tranh cách mạng đang sôi sục ở khắp các tỉnh trong vùng là làn sóng biểu tinh của nông dân phá kho thóc của Nhật, cứu đói. Trong hoàn cảnh lúc đó, khi nạn đói đang hoành hành, hàng triệu nông 1. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ircmg, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, tr 99. dân vùng trung châu bị chết vì đói thì khẩu hiệu "Phá kho thóc Nhật giải quyết nạn đói” lập tức trở thành lời hiệu triệu, thành mệnh lệnh khởi nghĩa, thôi thúc toàn dân xông lên diệt giặc, giành quyền sống cho mình và giải phóng dân tộc khỏi ách phát xít. Tại các tinh như Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Yên, Hòn Gai, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa..., phong trào phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo đã liên tiếp nổ ra. Đặc biệt là nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân đi phá kho thóc đã "mang tính chất vũ trang", "nông dân vừa tịch thu thóc lúa vừa tịch thu súng đạn của địch''1. Để đẩy mạnh hom nữa phong trào cách mạng trong cả nước, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, Ban Thường vụ Trung ương đã triệu tập Hội nghị quân sự Bắc Kỳ từ ngày 15 đến ngày 20/4/1945 tại huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang), dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh để giải quyết những vấn đề quân sự được nêu ra tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương tháng 3/1945. Phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị nhận định: "Tình thế đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và can kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị nhận định: "Tình thế đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và can kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật, đế chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ"2. Nhằm đẩy mạnh và phát triển cuộc đấu tranh cách mạng lên một tầm cao mới trên phạm vi cả nước, cũng như tăng cường các hoạt động vũ trang, Hội nghị cho rằng cần phải thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có như Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, Việt Nam Cứu quốc quân... thành Việt Nam Giải phóng quân. Ngày 15/5/1945, lễ thành lập Việt Nam Giải phóng quân được tổ 1. Trần Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 135. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Vân kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 391. chức tại Định Hóa (Thái Nguyên)1. Đồng thời, Hội nghị cũng quyết định xây dựng 7 chiến khu cách mạng: ở Bắc Kỳ là các chiến khu Lê Lợi, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo; Trung Kỳ là các chiến khu Trưng Trắc và Phan Đình Phùng; Nam Kỳ là chiến khu Nguyễn Tri Phương. Đặc biệt, Hội nghị còn nhấn mạnh: "Cắn phải đánh thông liên lạc giữa các chiến khu Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ"2. Hội nghị đã cừ ra Uỷ ban Quân sự cách mạng Bắc Kỳ đứng đầu là Võ Nguyên Giáp và các ủy viên là Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh...3. Uỷ ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ là "Bộ tư lệnh Việt Nam giải phóng quân miền Bắc Đông Dương", chịu trách nhiệm "chi huy các chiến
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
là Chu Văn Tấn, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh...3. Uỷ ban quân sự cách mạng Bắc Kỳ là "Bộ tư lệnh Việt Nam giải phóng quân miền Bắc Đông Dương", chịu trách nhiệm "chi huy các chiến khu miền Bắc Đông Dương, đồng thời có nhiệm vụ giúp đỡ cho toàn quốc về quân sự',A. Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã bàn những biện pháp cụ thể để thực hiện chỉ thị "Nhật Pháp ban nhau và hành động của chúng ta". Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh là "nhiệm vụ phát triển cao trào kháng Nhật cứu nước ra toàn quốc" và "mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất", "phát động chiến tranh du kích trong các chiến khu", còn ở những nơi chưa có điều kiện phát động du kích thì sử dụng các hình thức vũ trang tuyên truyền, "tô chức các đội tự vệ, tự vệ chiến đấu, bộ đội địa phuưng", "bám vùu nạn dôi" đẻ "dưa nhún dân ra đường tranh đấu''5. Hội nghị yêu cẩu "cần phải nhanh chóng tổ chức ra chính quyền cách mạng hay những hình thức quá độ". Đối với những khu căn cứ cách mạng thì tổ chức ra Uỷ ban nhân dân cách mạng các cấp 1. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sứ..., Sđd, ừ. 396. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 392. 3. Dương Trung Quốc, Việt Nam những sự kiện lịch sử..., Sđd, tr. 393. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Sđd, ừ. 398-399. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 395. bàng phổ thông đầu phiếu, còn ở những nơi "chưa đánh đổ được chính quyền của địch thì tổ chức ra Uỳ ban dân tộc giải phóng". Trên
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 395. bàng phổ thông đầu phiếu, còn ở những nơi "chưa đánh đổ được chính quyền của địch thì tổ chức ra Uỳ ban dân tộc giải phóng". Trên phạm vi toàn quốc, Hội nghị đề nghị triệu tập một cuộc Đại hội Đại biểu gồm các giới, các đảng phái, các thân sĩ toàn quốc để thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam và tiến tới thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam'. Trên tinh thần đó, ngày 16/4/1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức "Uỷ ban dân tộc giải phóng'' các cấp và nhấn mạnh đó là ''hình thức tiền chính phù, trong đó nhân dân học tập để tiến lên giữ chính quyển cách mạng"2. Ngoài ra, Hội nghị cũng đề cập đến vấn đề thời cơ của cuộc tổng khởi nghĩa, về khả năng quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương, về mâu thuẫn giữa Mỹ- Trung Quốc với Anh- Pháp, cũng như về những biện pháp cụ thể để đối phó với tình hình thực tiễn... Như vậy, có thể nói Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã tập trung giải quyết những vấn đề cụ thể được Chi thị "Nhật- Pháp bắn nhau và hành động cùa chúng ta'' nêu ra, nhất là cụ thể hóa những nhiệm vụ quân sự để tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trên phạm vi toàn quốc. Cùng lúc ấy, sau một thời gian ở Trung Quốc, vào cuối tháng 4/1945, Hồ Chí Minh trờ lại Pắc Bó và đến đầu tháng 5/1945, Người đến chiến khu Hoàng Hoa Thám và chọn Tân Trào (thuộc huyện Sơn Dương, Tuyên Quang) làm căn cứ để chi đạo phong trào cách mạng trong cả nước và chuẩn bị Đại hội Quốc dân. Sau khi nắm bắt đầy
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Người đến chiến khu Hoàng Hoa Thám và chọn Tân Trào (thuộc huyện Sơn Dương, Tuyên Quang) làm căn cứ để chi đạo phong trào cách mạng trong cả nước và chuẩn bị Đại hội Quốc dân. Sau khi nắm bắt đầy đủ tình hình trong nước và tinh thần Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, Người đã chi thị nhanh chóng lập một khu căn cứ cách mạng rộng lớn lấy tên là Khu Giải phóng. Khu Giải phóng bao gồm hầu hết địa bàn các tinh Cao Bằng,
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và một số vùng phụ cận của các tinh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. 1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đàng toàn tập, tập 7, Sđd, ừ. 395-396. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đáng toàn tập, tập 7, Sđd, tr. 396. Trên tinh thần đó, ngày 4/6/1945, Tổng bộ Việt Minh triệu tập Hội nghị cán bộ Việt Minh tuyên bố chính thức thành lập Khu Giải phóng do ư ỷ ban chi huy lâm thời "phụ trách lãnh đạo toàn khu về các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội" và thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh. Như vậy, việc thành lập và xây dựng Khu Giải phóng cũng như quá trình thực hiện một cách hiệu quả Mười chính sách lớn cùa Việt Minh tại đây đã làm cho Khu Giải phóng chẳng những là căn cứ địa kháng Nhật mà còn là hình ảnh phôi thai của nước Việt Nam Dân chù Cộng hòa sắp ra đời. Ngay sau khi thành lập K.hu Giải phóng, một cao trào kháng Nhật đã phát triển mạnh mẽ khắp các vùng nông thôn và thành thị Bắc Kỳ. Ngoài những chiến khu lập trước, tại các tinh, các vùng cũng đều đã lập ra được các khu căn cứ: chiến khu Hiền Lương (Hạ Hòa, Phú Thọ) (6/1945); chiến khu vần (Lương Ca, Trấn Yên, Yên Bái) (6/1945); chiến khu Quỳnh Lun (Nho Quan, Ninh Bình) thuộc chiến khu Quang Trung, những địa phương giáp ranh 3 tỉnh Hòa Bình- Ninh Binh- Thanh Hóa (6/1945); chiến khu Trần Hưng Đạo (Đông Triều, Hải Dương) (6/1945)1... và các căn cứ như Yên Thế (Bắc Giang); Lập Thạch (Vĩnh Yên); Bãi Sậy (Hưng Yên); Trầm Lộng (Hà Đông);
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Bình- Ninh Binh- Thanh Hóa (6/1945); chiến khu Trần Hưng Đạo (Đông Triều, Hải Dương) (6/1945)1... và các căn cứ như Yên Thế (Bắc Giang); Lập Thạch (Vĩnh Yên); Bãi Sậy (Hưng Yên); Trầm Lộng (Hà Đông); Đông An (Hà Nam); Phương Quả (Thái Bình). An toàn khu cùa Trung ương Đảng và Xứ ủy Bắc Kỳ cũng đã được xây dựng tại vùng ngoại thánh HàN ội’. Cùng với việc xây dụng các khu căn cứ là việc đẩy mạnh các hoạt động quân sự tại các địa bàn này. Hoảng sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của cao trào cách mạng, quân đội Nhật đã tiến hành những đợt càn quét, vượt sông Lô thọc sâu vào vùng giải phóng. Nhung các đợt tiến công của chúng đã bị Giải phóng quân kết hợp 1. Trần Huy Liệu, Lịch sứ tám mươi năm chống Pháp, quyển 2, tập hạ, Sđd, tr. 129. 2. Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên), Lịch sử Việt Nam, tập 2 1858-1945, Sđd, tr. 444. với dân quân tự vệ địa phương phục kích đẩy lùi. Đó là các trận đánh diễn ra tại Phủ Thông (Bắc Cạn), Tĩnh Túc (Cao Bằng), Văn Lãng (Thái Nguyên) và trên các tuyến đường Thái Nguyên- Chợ Chu- Đại Từ, Bắc Cạn- Phủ Thông1. Trong tháng 6 và tháng 7/1945, Giải phóng quân đã tấn công và lần lượt chiếm các đồn, phủ, huyện như: đồn Chã (Thái Nguyên); Ngân Sơn (Băc Cạn); châu Lục Yên, đồn Nghĩa Lộ (Yên Bái); phủ Yên Bình (Tuyên Quang); đồn Bắc Quang (Hà Giang); phố Bình Gia (Lạng Sơn); huyện Yên Thế, đồn Bố Hạ (Bắc Giang); đồn Tam Đảo (Vĩnh Yên)...2. Tại vùng Đông Bắc, sau Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, công tác vận động quần chúng và xây dựng các đội vũ trang được triển khai một
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Sơn); huyện Yên Thế, đồn Bố Hạ (Bắc Giang); đồn Tam Đảo (Vĩnh Yên)...2. Tại vùng Đông Bắc, sau Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, công tác vận động quần chúng và xây dựng các đội vũ trang được triển khai một cách khẩn trương. Ngày 8/6, nhân dân cùng lực lượng du kích đã tiến hành khởi nghĩa, đánh chiếm các đồn Đông Triều, Tràng Bạch, Mạo Khê, Chí Linh (Hải Dương) lập Đệ tó chiến khu (tức Chiến khu Trần Hưng Đạo hay còn gọi là Chiến khu Đông Triều) và lập ra Uỳ ban cách mạng3. Trước những đợt hành quân càn quét hòng tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng của Nhật, quân du kích không những đã bảo vệ được lực lượng cách mạng mà còn làm cho lực lượng vũ trang của chiến khu phát triển nhanh chóng, uy tín cùa Việt Minh được nâng cao hơn bao giờ hết, phong trào cứu quốc từ đó đã phát triển rầm rộ và rộng khắp tại các tinh Bắc Ninh, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên... Lực lượng vũ trang cách mạng đã tấn công các đồn Uông Bí, Bí Chợ, lập chính quyền nhân dân ở các huyện Kinh Môn, Thanh Hà (Hải Dương)'4, bức 1. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sứ quân sự Việt Nam, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 339-340 và Ban Nghiên cứu lịch sứ Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, tr. 112. 2. Viện Lịch sứ Quân sự Việt Nam, Lịch sứ quân sự Việt Nam, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 342-343 và Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, trĩ 132. 3. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, trT
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
gia, Hà Nội, 2000, tr. 342-343 và Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, trĩ 132. 3. Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, trT 114. 4. Viện Lịch sừ Quân sự Việt Nam, Lịch sử quân sự Việt Nam, tập 9, Sđd, tr. 360-362. hàng quân địch ở đồn Cát Hải (Quảng Yên). Ngày 20/7/1945, quân du kích của chiến khu đã đánh chiếm thị xã Quảng Yên và huyện Yên Hưng, buộc bọn chi huy và binh lính địch đầu hàng, thu toàn bộ vũ khí gồm 500 khẩu súng'. Tại vùng giáp ranh các tinh Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, chiến khu Quang Trung được thành lập vào tháng 5/1945. Ngày 20/6/1945, trung đội Giải phóng quân đầu tiên của chiến khu đã ra đời2 và nhanh chóng tiến hành các hoạt động vũ tong trong chiến khu. Ảnh hưởng của Việt Minh nhanh chóng lan rộng cả một vùng phía Bắc Trung Kỳ và Nam Bắc Kỳ. Trong chiến khu, ngoài căn cứ Quỳnh Lưu là trung tâm chi đạo cùa Giải phóng quân còn có các căn cứ khác cũng được xây dựng và tập hợp lại thành một mạng lưới liên hoàn, hỗ trợ lẫn nhau như Ngọc Trạo (Thanh Hóa), Diễm Tu Lý, Mường Khói, Cao Phong, Thạch Yên (Hòa Bình). Bên cạnh những hoạt động vũ trang, lập chính quyền ở những khu giải phóng cũng như tại các vùng căn cứ cách mạng thì tại nhiều vùng nông thôn và thành phố, thị xã, thị trấn ở Bắc Kỳ lúc đó cũng đã lan rộng làn sóng cách mạng dưới ngọn cờ Việt Minh. Nhiều cuộc đấu tranh phá kho thóc của Nhật cứu đói, nhiều cuộc biểu tình, mít tinh, diễn thuyết tuyên truyền Việt Minh kêu gọi
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Kỳ lúc đó cũng đã lan rộng làn sóng cách mạng dưới ngọn cờ Việt Minh. Nhiều cuộc đấu tranh phá kho thóc của Nhật cứu đói, nhiều cuộc biểu tình, mít tinh, diễn thuyết tuyên truyền Việt Minh kêu gọi quần chúng đấu tranh, vạch trần tội ác cùa phát
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
xít Nhật, cảnh cáo bọn tay sai theo Nhật đã diễn ra ở nhiều nơi. Tại các thành phố, phong trào cùa công nhân, trí thức, học sinh, sinh viẽn cùng dàng lẻn mạnh mẽ, lôi cuốn hầu hết các tầng lớp xã hội ở thị thành, tranh thủ được sự ủng hộ của báo chí. Nhiều tờ báo công khai ở Hà Nội như các tờ Thanh Nghị và Tri tân, nhờ sự giác ngộ của cách mạng đã trở thành nơi tập hợp của giới trí thức tiến bộ và nhiều nhân vật chính trị3. Các số báo thường đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc, đồng loạt đăng tải các bài tố cáo tội ác của giặc, 1. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, Lịch sứ quân sự Việt Nam, tập 9, Sđd, tr. 363. 2. Ban Nghiên cứu lịch sử Đàng Trung ương, Cách mạng tháng Tám (1945), Sđd, tr 113. 3. ĐỎQuangHưng,LịchsửbáochíViệtNam(1865-I945), Sđd, tr. 173,209-210. kêu gọi quần chúng nhân dân vùng lên tranh đấu dưới ngọn cờ Việt Minh. Trong xu thế chung của phong trào, một số đông sinh viên, học sinh cũng như nhiều học giả, nhiều văn nghệ sĩ tiến bộ từ chỗ giác ngộ cách mạng đã đứng hẳn về phía Việt Minh và trở thành lực lượng cách mạng nòng cốt trong cuộc vận động tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội cũng như tại các thị xã, thị trấn ở Bắc Kỳ. b. Tại Trung Kỳ Sau những đợt khủng bố của thực dân Pháp vào cuối năm 1939, hệ thống tổ chức Đảng tại phần lớn các tinh ở Trung Kỳ đã bị mất liên lạc với Trung ương, một số lớn đảng viên hoặc bị bắt, hoặc phải trốn tránh sự lùng sục của địch. Vì vậy, nói chung phong trào ở xứ này chưa thực sự phát triển rộng khắp như ở Bắc Kỳ.
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
đã bị mất liên lạc với Trung ương, một số lớn đảng viên hoặc bị bắt, hoặc phải trốn tránh sự lùng sục của địch. Vì vậy, nói chung phong trào ở xứ này chưa thực sự phát triển rộng khắp như ở Bắc Kỳ. Thế nhưng, sau cuộc đảo chính Nhật- Pháp, với bản Chi thị ngày 12/3/1945 của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, các tầng lớp nhân dân ở Trung Kỳ đã sẵn sàng đón nhận thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa. Tại nhiều địa phương, công tác khôi phục hệ thống cơ sở Đảng và xây dựng Mặt trận Việt Minh lúc này cũng được tiến hành khẩn trương. Lợi dụng tình hình sau cuộc đảo chính, nhiều đảng viên đang bị giam cầm tại các nhà tù đã vượt ngục trở về hoạt động cách mạng. Mặt khác, Trung ương cũng điều động thêm cán bộ về tăng cường cho Xứ ủy Trung Kỳ. Nhờ vậy, phong trào chuẩn bị khởi nghĩa đã nhanh chóng phát triển rộng kháp tại các tinh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tũih, Quảng Bình, Thừa Thiên... Tại Thanh Hóa, ngay từ tháng 7/1941, chiến khu Ngọc Trạo (Thạch Thành) ra đời1. Sau khi Tinh bộ Việt Minh Thanh Hóa ra đời, một phong trào chuẩn bị khởi nghĩa lan rộng ra các địa phương trong tỉnh. Từ tháng 4 đến tháng 7/1945, Ban Việt Minh các huyện Đông Sơn, Thạch Thành, Nông cống, Tĩnh Gia, cẩm Thủy, thành phố Thanh Hóa đã được thành lập2. 1. Ban Nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa, Lịch sứ Thanh Hóa, tập 5 (1930- 1945), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 141-144. 2. Ban Nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa, Lịch sử Thanh Hóa, tập 5 (1930-1945), Sđd, trĩ 196. Tại Nghệ An và Hà Tĩnh, Ban Chấp hành Việt Minh liên tinh
|
history book
|
Đoạn trích từ một cuốn sách về tri thức lịch sử Việt Nam.
|
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tr. 141-144. 2. Ban Nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa, Lịch sử Thanh Hóa, tập 5 (1930-1945), Sđd, trĩ 196. Tại Nghệ An và Hà Tĩnh, Ban Chấp hành Việt Minh liên tinh được tổ chức vào tháng 5/1945. Cũng vào thời gian này, căn cứ Đá Bạc (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) cũng được thành lập1. Tháng 7/1945, Hội nghị liên tỉnh Nghệ Tĩnh quyết định gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền2. Phong trào cách mạng cũng lan rộng tại Quảng Bình từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp. Tháng 7/1945, Hội nghị cán bộ Đảng tinh Quảng Bình (tại chùa An Xá, Lệ Thủy) đã lập Tinh ủy lâm thời. Sau đó, Hội nghị Việt Minh toàn tinh quyết định chuẩn bị tổng khởi nghĩa3 và nhanh chóng thành lập hai căn cứ là Trung Thuần và Võ Xá4. Sau khi bắt liên lạc được với Trung ương cùng với số đảng viên từ nhà tà trở về, tại Thừa Thiên đã chính thức thành lập Tinh ủy vào ngày 24/5/1945 và bắt tay vào công tác chuẩn bị khởi nghĩa. Từ đó, Việt Minh của các địa phương (tổng, huyện) được thành lập, các đội du kích, các tổ tự vệ nhanh chóng ra đèn. Tại Quảng Nam, các đoàn thể cách mạng cũng được thành lập trong nhiều làng xã. Khu căn cứ hai huyện Tam Kỳ và Quế Sơn được thành lập. Tháng 7/1945, Thành ủy Việt Minh thành phố Đà Năng được thành lập. Rồi từ tháng 5 đến tháng 7/1945, tổ chức Việt Minh đã được thành lập tại các tinh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và sau đó nhanh chóng lan rộng sang các tình Tây Nguyên: Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng..., nhất là ở Quảng Ngãi với cuộc khởi
|
history book
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.